|
Post by Can Tho on Apr 18, 2024 16:36:41 GMT 9
Đi Tìm Xác Em Tôi -Kim Chi Tác giả tên thật là Nông Thị Ngọc Diệp. Khi còn ở Sài Gòn, từng là diễn viên ca vũ kịch. Vượt biển năm 1985, là thuyền nhân tại Galang, Indonesia. Định cư tại Canada năm 1986, sống ở thành phố Toronto. Từ 2005, di dân qua Úc, hiện sống ở thành phố Melbourne. ***** Em trai tôi đi vượt biển vào tháng 12/1980. Có ai ngờ được em đi mãi mãi không về... Chuyến tàu của một người quen tổ chức, khởi hành ở cửa Cần Giờ. Tàu thì nhỏ, chở quá đông người, một số đã bỏ về. Nhưng em tôi, Út Trị và anh bạn trai của tôi, anh H. vẫn ngồi trên con tàu định mệnh đó mà không chịu trở về nhà... Nhà có bốn chị em gái và hai anh em trai. Anh Ba tôi vừa trầy vi tróc vảy mới lấy được mảnh bằng Bác Sĩ Thú Y giữa những duyệt xét lý lịch khắt khe những năm ấy.. Còn Trị, là em út, tuy học giỏi nhất nhà, ngoan hiền nhất nhà, nhưng lại bị bọn Cộng Sản ngành Giáo Dục gạt tên em ra, giống như tôi và Sáu, không cho vào Đại Học vì lý lịch của gia đình tôi quá tồi tệ! Anh H. đã tốt nghiệp Đại Học rồi, nhưng vì thấy tôi muốn đi vượt biên quá đổi, nên anh đặt hai chỗ ngồi cho tôi và anh lên tàu. Vào những ngày giờ, tôi bỗng muốn nhường cho Út đi. Em không muốn đi vượt biên, nhưng chúng tôi khuyên lơn, năn nỉ em, hầu như nài ép em phải đi để có một tương lai ở ngoại quốc, vì em là con trai, em cần đi hơn tôi. Nào ngờ... Sau bao nhiêu năm chờ tin trong vô vọng, chúng tôi lấy ngày đi của hai anh em làm ngày giỗ. Cho đến 1985, tất cả anh chị em chúng tôi đều lần lượt đến bến bờ tự do. Sau bao nhiêu năm khổ nhục trong trại học tập, ba tôi cũng được bảo lãnh qua Úc sống cuộc sống tràn đầy hạnh phúc và tự do. Nhưng, càng ấm êm, chúng tôi càng đau xót cho em tôi đang ở đâu đó chắc rất lạnh lẽo... Chúng tôi luôn khoắc khoải nhớ thương Út. Riêng tôi, nỗi đau, nỗi cắn rứt này của tôi kéo dài có lẽ cho đến ngày tôi nhắm mắt.... Vô tình, người kiến trúc sư VN, anh L. ở Melbourne đang vẽ họa đồ cho nhà của chị Tư của tôi, kể cho chúng tôi nghe chuyến đi tìm cái... đầu ông ngoại của anh! Ông ngoại của anh bị đấu tố trước năm 1954 ở miền Bắc. Gia đình lúc ấy đem cái xác ông ngoại của anh đi chôn mà thiếu cái đầu! Trong nhà làm ăn không trôi chảy, cứ có toàn những chuyện kỳ lạ xảy ra. Rồi có người chỉ anh L. về VN nhờ một người có giác quan thứ sáu, chuyên tìm xác chết thất lạc lâu năm. Anh L đã về VN, theo từng chỉ dẫn của nhà ngoại cảm tên Dũng. Anh đi xe đò đến thành phố Hà Tây, xuống xe ở một ngã ba, tìm đến một căn nhà có trồng nhiều cây hoa giấy được cắt tỉa hình dáng các con thú vật. Vào trong ấy và hỏi tên ông Cang, ông Cang sẽ chỉ dẫn tiếp.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 18, 2024 16:40:36 GMT 9
NHÂN PHẨM BỊ LỢI DỤNG Anh bạn người Việt gốc Hoa kể lại cho tôi nghe chuyến đi “bán chính thức” kinh hoàng của anh vào đầu năm 1980. Dù nhiều năm định cư và thành đạt ở Pháp, ký ức như chưa hề mờ nhạt trong lời kể của anh. Những năm tháng đó, người Việt gốc Hoa giật mình khi thấy mình không thuộc về nơi đâu trên thế giới này. Bắc Kinh mở chiến dịch nạn kiều để tạo làn sóng bất ổn trong Việt Nam. Còn Hà Nội thì cũng muốn tống khứ bớt đạo quân thứ năm của Trung Quốc – theo quan điểm của nhà cầm quyền – đồng thời cũng kiếm được không ít tiền của từ người bỏ ra đi. Người Hoa không thể quay về quê quán bởi nơi đó cộng sản là bạo quyền, và họ ra đi, vì nơi chốn hiện tại, cộng sản cũng đang cầm quyền. Nhưng trong lời kể của anh bạn Việt kiều gốc Hoa đó, điều anh cay đắng, là con người luôn bị lợi dụng. Đặc biệt trong chế độ độc tài, con người luôn bị biến thành đinh ốc, biến thành bánh răng để chở đẩy cho cỗ máy phi nhân tính. Nhưng ghê tởm nhất, họ luôn tự gọi mình là chính quyền nhân dân. Năm 1979, thế kỷ 20, Hà Nội kêu gào, buộc nhân dân phải đứng lên ngồi xuống, gọi Trung Quốc là kẻ thù. Thậm chí viết vào sách giáo khoa, lập bảo tàng tội ác… nhưng rồi đến thập niên 90, họ tự xé sách, tổ chức vui tình hữu nghị với Trung Quốc, buộc nhân dân phải gọi hai đảng cộng sản là “bạn vàng,” buộc các bà mẹ liệt sĩ phải im lặng, ngay khi nén nhang cho liệt sĩ 6 tỉnh phía Bắc còn chưa tàn. Đầu thế kỷ 21, khi cuộc sống của người dân Việt Nam không còn là một cái nồi đóng nắp kín, tin tức về âm mưu lấn chiếm Việt Nam và ngư dân chết trên biển xuất hiện mỗi lúc càng nhiều. Trung Quốc hiện nguyên hình là một con ác quỷ và không có bạn bè keo sơn nào trên thế giới này, ngoài trừ Việt Nam. Như một câu chuyện cổ tích về những loài thủy quái trên đại dương, nhưng khác biệt ở đây cả thế giới đều biết rõ con thủy quái đó là gì. Thế nhưng Hà Nội chưa bao giờ dừng lại việc hiến tế ngư dân của mình trên biển, cho con thủy quái đó, bằng cách luôn luôn đẩy họ ra biển để chứng minh “chủ quyền Việt Nam.” Như một loại bùa mê áp đặt, Hà Nội phát cho ngư dân những lá cờ, và để mặc cho công dân của đất nước mình bị đâm tàu trên biển, bị bắt, bị cướp, thậm chí bị giết. Trong khi ngư dân sợ hãi và cố gắng đi xa hơn vào vùng biển của những nơi khác để kiếm sống, thì Hà Nội lại ra những đạo luật phạt nặng tất cả những ai bỏ chạy, không đi vào vùng biển có cái chết chờ sẵn đó. Những năm tháng nguy nan nhất, đau đớn nhất cho ngư dân, truyền thông tay sai của Hà Nội đẩy mạnh việc lợi dụng con người bằng việc ca ngợi những gương sáng liều chết như anh Mai Phụng Lưu – con sói biển – đi vào Hoàng Sa. Yêu nước như một đơn thuốc liều chết, được phát một cách rộng rãi cho ngư dân, trong chính sách ngoại giao giữ gìn Hòa Bình của Hà Nội với Bắc Kinh. “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không?…”, ngày 8 Tháng Mười Hai năm 2015, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói như vậy, trong cuộc tiếp xúc cử tri quận Ba Đình, Hoàn Kiếm (Hà Nội), tổ bầu cử số 1, để báo cáo kết quả kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII. Năm 2015, cũng là một trong những năm cao điểm mà tàu của Trung Quốc hành hạ ngư dân Việt Nam trên Biển Đông. Hơn 20 tàu chính thức báo cáo là đã bị đâm, bắn, cướp… dã man hơn năm trước. Mộ gió của miền Trung Việt Nam cũng nhiều hơn. Máu của ngư dân nhuộm đỏ nỗi uất hận của người Việt, đỏ như phông màn của đại hội. Giờ thì đến anh Mai Phụng Lưu cũng đã quá mệt mỏi và sợ hãi, để có thể liên tục đi vào vùng biển đầy chết chóc đó, cho dù có được phát nhiều lá cờ, và các loại bằng cấp tán dương của bọn cầm quyền thích ngồi trên bờ. Ai rồi cũng nhận ra rằng mình đang bị lợi dụng, lòng yêu nước của mình đang bị lợi dụng. Cái bánh vẽ khổng lồ được chia đều cho khắp mọi nơi, nhưng nhồm nhoàm thật, chỉ có một ít người. Thạc Sĩ Hoàng Việt, thành viên Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông có kể rằng, ông nghe nói mỗi khi có những hành động lấn lướt của Bắc Kinh thì Hà Nội hay triệu tập những thành phần cơ bản để hội ý về vấn đề đối phó. Năm 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam, những người được hội ý, bí thế, nên chọn giải pháp đưa thông tin đến người dân và bật đèn xanh cho những cuộc biểu tình lớn nhằm gây áp lực quốc tế với Trung Quốc. Nhưng cũng với tinh thần tương tự đối với quê hương, Tổ Quốc được khơi dậy như vậy, hàng ngàn người Việt bị Hà Nội cho đánh đập, kết án, bỏ tù, sách nhiễu… từ năm 2015, cho đến nay. Năm 2019, khi nhóm tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc tiến vào thềm lục địa Việt Nam, Hà Nội cũng đã hội ý và dường như sớm nhận ra rằng, cần phải kìm giữ thông tin và không thể bật đèn xanh biểu tình mạnh mẽ như năm 2014. Bởi họ nhận ra rằng sự phản bội với thực tế, chà đạp lên lòng yêu nước qua việc níu kéo mối quan hệ của hai đảng, bất chấp dân tộc và Tổ Quốc, có thể khiến mọi thứ bùng nổ – không phải với chỉ Bắc Kinh – mà với cả Hà Nội. Tôi hỏi anh bạn Việt kiều gốc Hoa, là vì sao bây giờ đã là một công dân của quốc gia khác, thong dong hơn, sao anh không về ở Việt Nam sống. Anh không giải thích nhiều, mà chỉ cười, nói đơn giản rằng “về cũng chỉ để bị lợi dụng mà thôi.” Anh chỉ là một con người bình thường và yêu thương nơi mình đã được sinh ra, đã lớn lên. Nhưng phẩm giá tối thiểu của một con người bình thường, vẫn là không muốn bị lợi dụng. Chỉ là biết trước hoặc biết sau. Chỉ là biết khi đang còn sống hoặc đang nằm dưới những nấm mồ được gắn huy chương. Tất cả chúng ta rồi cũng nhận ra rằng trong một chế độ độc tài, nhân dân mãi mãi là phía bị lợi dụng với những ngôn ngữ mỹ miều. Chế độ độc tài có thể hy sinh xương máu con người, tài nguyên, đất đai… Thậm chí có thể buộc cả dân tộc trở thành một loại con tin để duy trì sinh mệnh chính trị, mà họ tự sơn phết lên hai chữ nhân dân. Cũng có thể rồi ngày nào đó, sẽ có những cuộc biểu tình rầm rộ do nhà nước phát động để chống Trung Quốc. Báo chí và truyền hình sôi động đã không khác gì như một ngày hội theo nghị quyết. Vào lúc ấy bạn cũng đừng quên lắng nghe, để thấy trong sự ồn ào ấy, là cả không gian chết lặng âm thầm của phẩm giá một dân tộc bị lợi dụng đến tận cùng. Thật bối rối, nhưng rồi chúng ta, một dân tộc phải làm sao? Chúng ta vẫn sẽ không từ chối bổn phận làm người Việt Nam. Bởi đất nước này, quê hương này của người Việt chứ không phải của đảng Cộng Sản, nên chúng ta sẽ không tha thứ cho bất kỳ kẻ xâm lược nào. Và bên cạnh đó, chúng ta cũng không bao giờ ngủ quên trước sự lợi dụng của bọn độc tài đối với con người và đất nước này. Đó là phẩm giá của một người Việt tự do, không nô lệ cho bất kỳ ai, bất kỳ âm mưu chính trị nào. (Tuấn Khanh)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 18, 2024 16:52:42 GMT 9
Lý do gì, mà phải vượt biên đầy gian khổ ?
Có nhiều em du học sinh việt tại Đức 🇩🇪 cũng như các cháu ở 🇻🇳 VN, đặc biệt nhất là thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên nơi xứ người, có hỏi tôi vì lý do gì, mà phải vượt biên đầy gian khổ, "thập tử nhất sinh"? Vì sao và vì sao...? Để trả lời câu hỏi này, xin các em (cháu) đọc bài viết sau đây của Bác Sĩ Phú nhá! ---------------------------------------------- Câu hỏi khó trả lời: Tuần nay nhân ngày quốc tế phụ nữ, một cô bn du học sinh tuổi 20 đến khám bịnh. Trò chuyện hỏi thăm quê nhà đất nước xong; cô hỏi chú đi du học qua đây bao lâu rồi. Trả lời “không chú đi vượt biên cách đây 40 năm rồi”. Cô tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên hỏi: -Vượt biên là gì vậy chú? -Là trốn khỏi nước bằng ghe hay đi bộ qua Thái ngã Kampuchia. -Sao không xin visa vậy chú. Con xin có 3 tháng là được! -Thời đó người ta không cho nên phải trốn. -Đi ghe có vui không chú chắc biển ngoài đẹp lắm. Con đi tàu du lịch sướng lắm. -Không như con tưởng đâu; thật ra biển rất đẹp nhưng đã là mồ chôn hàng trăm ngàn người bạc mệnh trong đó. -Sao người ta không sợ chết mà bỏ trốn đi vậy?. Việt Nam giàu có lắm mà; cái gì cũng có; ban đêm vui lắm tụi con nghe nhạc ăn uống tới khuya. Đi tiệc tùng nhảy đầm cuối tuần,. ngày lễ gia đình đi du lịch khắp nơi. Qua đây buồn quá ai cũng đi làm suốt ngày. Ban đêm phố xá đóng cửa hết. Con ơi làm sao chú giải thích hết cho con hiểu đây. Nếu con được sống sung sướng tự do, ăn no, mặc ấm, không bị kỳ thị lý lịch, tù đày thì con có bỏ nhà cửa quê hương để leo lên con thuyền bé bỏng chở hàng trăm người, bất chấp những rình rập nguy hiểm mọi thứ từ công an bắt bớ, những lừa đảo lật lọng, mất tiền tù tội và chết chóc ngoài biển không. Con chắc chưa hình dung được những con tàu bé bỏng phải chịu đựng bao thịnh nộ của biển cả, những đợt sóng cao chục thước muốn nuốt trọn. Những đói khát kinh hoàng trong những ngày tàu hết nhiên liệu, thức ăn, nước uống trôi vô định giữa đại dương. Con đã có dịp vào thánh đường hay chùa chiền nghe lời kinh cầu thật hay nhưng không thể nào so sánh bằng những lời cầu kinh tuyệt vọng của mọi tôn giáo vang vọng trong suốt chuyến hải hành. Nếu có dịp con hãy nghe bài “Lời Kinh Đêm” để hiểu tâm trạng của những người cận kề nỗi chết. Trời mong manh ôi đời lênh đênh. Thuyền bấp bênh cuộc sống mơ hồ.. Lời kinh cầu từng ngày quen thuộc Lời mẹ buồn giữa tiếng Nam-mô. Hay là Trời chơ vơ ôi người bơ vơ. Người vẫn ôm mảnh ván rũ mục. Lời kinh cầu từng hồi nấc nghẹn. Lời mẹ buồn giữa tiếng Amen. Người buông xuôi về nơi đáy nước Người có mộng một nấm mộ xanh. Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ. Con có nghe người ta ăn thịt người lẫn nhau vì chết đói không. Con chắc chưa phải nghe tiếng thét hãi hùng “Mẹ ơi cứu con” của những cô gái hồn nhiên, cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng. Họ trẻ hơn hay bằng tuổi con khi bị bọn hải tặc Thái hãm hiếp ngay trước mặt mẹ mình và bắt đi không bao giờ găp lại người thân. Có cô chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân trong 21 ngày chỉ còn lại 2 ống xương. Con có nghe câu chuyện Tha Sala và 11 Cô Gái Việt không. Đó là chuyện 11 cô gái Việt, không một mảnh áo quần, sau khi bị hãm hiếp bị trói cổ vào nhau, thả xuống biển sau khi bọn dã thú hải tặc Thái thỏa mãn thú tính. Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ Một sớm theo nhau bước xuống thuyền Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng Thả vào lòng biển máu oan khiên Biển gọi em hay em gọi biển Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn. Nghe em gào khóc nỗi oan khiên. Con có nghe những em bé cả gia đình mấy chục người chết hết chỉ còn 1 mình sống sót không. Nước mắt nào rửa được mối oan khuyên này. Còn nhiều và nhiều nữa; con đường lưu vong còn bao hổ tủi nhưng không biết nói làm sao cho em hiểu. Tôi xin mượn bài thơ của cố nhạc sĩ Phạm Duy tặng em. DẤU CHÂN TRÊN TUYẾT Dấu chân trên tuyết của một người lữ thứ Như mồ chôn một quá khứ nặng nề Dấu chân sâu đậm giữ nguyên niềm hờn tủi Của một người xa nơi miền ấm, nắng vui Dấu chân be bé của mẹ già xứ nóng Sao buồn hơn một vệt bước trong bùn Dấu chân khô lạnh chứa muôn vàn khổ nhục Của mẹ lìa con hay vợ lỡ xa chồng Dấu chân tung toé, lũ trẻ thơ đùa rỡn Dấu chân êm ái của vài lứa tình nhân Cũng không che lấp nỗi sầu xa tổ quốc Dấu chân bạc phước của người vắng quê hương Dấu chân trên tuyết của bao người xa xứ Tan dần khi làn nắng ấm Xuân về Nếu trên con đường đã mọc loài cỏ dại Thì còn hằn in một vài dấu chân người Thì còn trong tim ta, đậm dấu chân người. (Quang Phu Ho)
|
|