|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 17:01:30 GMT 9
5. Hồ Hữu Tường (1910-1980)
Ông sanh tại làng Trường Thạnh, quận Châu thành tỉnh Cần Thơ ngày 8-5-1910 trong một gia đình nông dân tá điền. Học trường làng rồi trường tỉnh. Năm 1926 tham gia vào cuộc tranh đấu với thực dân Pháp nhân dịp tang lễ Phan Chu Trinh, và lãnh đạo cuộc bãi khóa tại trường Cần Thơ để chống bản án Nguyễn An Ninh, nên bị đuổi học. Sau nhờ bà con cho tiền sang Pháp học (19). Năm 1930, chuẩn bị thi thạc sĩ Toán thì phong trào cách mạng ở Việt Nam bùng nổ, được kiều bào đưa ra lãnh đạo cuộc chống đối bản án tử hình 13 liệt sĩ ở Yên Bái. Ðầu năm 1931 về Việt Nam, dạy học, viết báo, tham gia vào phong trào cách mạng cùng những bạn học cũ bị trục xuất trước khi ông về nước. Sáng lập tả phái đối lập ở Ðông dương, và làm lý thuyết gia cho tổ chức ấy. Năm 1932, bị bắt và bị kết án ba năm tù treo.
Năm 1933, cùng với Phan Văn Hùm chủ trương tạp chí Ðồng Nai. Năm 1934, cùng với nhiều nhà cách mạng như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm ... sáng lập nhóm La Lutte. Năm 1936 chủ trương Phong Trào Ðông Dương Ðại Hội. Năm 1938, tách ra khỏi nhóm La Lutte, thành lập tờ báo Militant, tạp chí Tháng Mười và chủ trương tuần báo Tia Sáng (sau thành nhật báo). Giữa năm 1939 ly khai Ðệ tứ Quốc tế Cộng Sản và rời bỏ chủ nghĩ Marx. Tháng 9 năm ấy bị bắt và bị án tù 4 năm, bị đày ra Côn đảo, đến năm 1944 mới được thả về.
Khi bị an trí tại Cần thơ, có gặp giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, bàn luận về tiền đồ dân tộc, Sau đó ra Hà nội, Việt minh cướp chính quyền, bị kẹt ở đó đến cuối năm 1947, mới trốn đượvc về Sàigòn, trong thời gian ở Hà nội, ông có sáng tác một loạt tác phẩm, sau mang về xuất bản ở miền Nam. Trong đó có Tương lai văn hóa Việt Nam, Tương lai kinh tế Việt Nam, Muốn hiểu chánh trị, Phi lạc sang Tàu (Ngàn năm một thuở, tựa in lần đầu năm 1949). Năm 1948 gia nhập vào làng báo Việt Nam, sát cánh với thi sĩ Ðông Hồ, viết cho nhiều tờ báo ở Sàigòn, cộng tác với nhóm Sống Chung, gồm có Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc, Lý Văn Sâm... xuất bản Thu Hương, Chị Tập, Ngàn Năm Một Thuở.
Năm 1949 sang Pháp, ra tờ Cảo thơm, mở lớp làm báo hàm thụ, xuất bản tạp chí song ngữ Anh, Pháp Pacific theo chủ trương thuyết đã gẫm trong tù " Ðường lối thứ ba ". Năm 1954, nhơn có hội nghị Genève, đứng ra chủ trương nhật báo Phương Ðông ở Sàigòn để phổ biến " Trung lập chế ".
Năm 1955 muốn ngăn sự Nam Bắc tương tranh sang Bình Xuyên (20) giải hòa giữa Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia gồm : Cao Ðài, Hòa Hảo và Bình Xuyên với Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, bị mắc kẹt trong binh lửa giữa mặt trận Quốc Gia với Bình Xuyên, rồi bị bắt. Năm 1957 bị kết án tử hình, án chưa thi hành nên bị giam ở Côn Ðảo. Cuộc Cách Mạng 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm, ông và một số tù chánh trị được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng đưa về Sàigòn, đến năm 1964, án tử hình giảm xuống còn án tù 13 năm.
Năm 1965, giữ chức Phó Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh, dạy môn Xã hội học tại Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, nơi đây ông cũng chủ trương phổ biến khoa EOMIR.
Thời gian nầy ông cho tái bản một số tiểu thuyết cũ như Phi Lạc Sang Tàu và cho xuất bản một số tác phẩm mới viết như Nói Chuyện uân, Thằng Thuộc Con Nhà Nông, Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, Kế Thế, Hồi Ký 41 Năm Làm Báo ...
Năm 1967, án tử hình của ông được ân xá. Ðắc cử Dân Biểu tại Sàigòn, năm 1970, xuống tóc tu tại gia theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương của đức Phật Thầy Tây An, từ năm nầy trở đi, ông chuyên hoạt động về văn hóa, đề tài ông thường diễn thuyết để đề cao nền Văn hóa Dân tộc. Ông có trí nhớ, hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực, do đó ông được nhiều người tôn trọng là một học giả.
Sau ngày 30-4-1975, ông bị Học Tập Cải Tạo, được thả ra rồi mất tại Sàigòn năm 1980.
Cuộc đời của ông lúc còn nhỏ con nhà nghèo, học giỏi, được giúp đỡ sang Pháp du học, ông có bằng Cao Học Toán, suốt đời hoạt động chánh trị và văn hóa, ông dùng văn chương chỉ là phương tiện để hổ trợ cho hoạt động chánh trị và văn hóa của, ông chủ trương dùng văn hóa để dành chiến thắng trong chiến tranh Quốc Cộng.
Một loạt tiểu thuyết Ngàn Năm Một Thuở, Phi Lạc Sang Tàu, Phi Lạc Ðại Náo Hoa Kỳ, Phi Lạc Bởn Nga nói lên những suy tư chánh trị của ông.
Ông cũng muốn làm sáng tỏ huyết thống của mình, dòng dõi của Hồ Thơm Nguyễn Huệ, con cháu của Hồ Quí Ly của Ðế Thuấn. Chỉ cần đọc lại đoạn cuối của Phi Lạc Sang Tàu chúng ta cũng thấy rõ điểm nầy.
Số là mấy tháng trước đây, khi bom nguyên tử chưa nổ làm cho Nhật đầu hàng, thì có một người quê quán ở Nam bộ, đi ra Bắc, định vượt biên giới sang Nam kinh, Trùng Khánh mà du thuyết. Ðến Hà Nội thì bị Nhật bắt, vì Nhật biết người ấy là tay lợi hại. Người ấy chạy trốn nơi làng Phù Ninh, nhờ tôi cứu và giấu dùm trong làng. Vì muốn trả ơn cho tôi và thấy tôi ưa nói khoác, người ấy mới bày ra chuyện trào phúng, du thuyết mà nói cho tôi nghe chơi cách du thuyết bên Tàu, phải làm gì, nói gì cho các nhân vật bên Tàu phục. Ðến đây, tôi chỉ nhai lại tràng lý luận trào phúng ấy chơi, chớ tôi nào có phải là tay du thuyết gì đâu ?
Còn như tôi lỡ làm cho chú, ủa quên ... làm cho ngài lầm mà nhìn bà con, thì tôi xin nhận lỗị Mà nghĩ cho kỳ cùng lý đã, dầu tôi có thiệt là họ Hồ hay chăng điều đó có quan hệ chi?
Giả danh họ Hồ, mà làm cho rạng danh họ Hồ thì là một điều đáng cho Ngài mang ơn vậy ... Cũng như ai họ Nguyễn, phải mang ơn người Tây Sơn áo vải là Hồ Thơm đã làm rạng danh họ mình với cái tên Nguyễn Huệ.
Ðoạn chót của truyện ngắn Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Hồ Hữu Tường cho chúng ta thấy phần nào lý thuyết văn nghệ ông chủ trương :
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự ‘đắc đạo’ của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người...
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Văn nghiệp của ông gồm có :
. Thu Hương, . Chị Tập. . Phi Lạc Sang Tàu (còn có tên là Ngàn Năm Một Thuở, in lần đầu tiên năm 1949) . Phi Lạc Ðại Náo Hoa Kỳ. . Phi Lạc Bởn Nga. . Thằng Thuộc Con Nhà Nông. . Hồn Bướm Mơ Hoa. . Kế Thế. . Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình. . Hồi Ký 41 Năm Làm Báo. . Nói Chuyện Tại Phú Xuân.
Trích văn : Truyện ngắn
Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp
Giữa một con đường truông thăm thẳm, vắng vẻ âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất; củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lao trưởng giả chăm nom.
Một hôm trời đa tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới doi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
- Mô Phật. Cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi nầy, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước...
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng, ví như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra... Và từ ấy tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
- Mô Phật. Chỉ có lời nói, mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời! Vậy tôi xin vui lòng mà nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai nghìn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi li: Ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần, cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay kể cũng gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy cho nên tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
- Ðã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ cần lần thứ một nghìn, lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy.
Ðến đây, bữa cơm chay đã mãn, khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước lại trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đằng đẵng...
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đỗi vài câu:
- Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát xiển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sinh ra môn, ra phái, ấy là nguồn gốc của sự chi li. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn nghìn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho cao kịp với sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong mỏi của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm nầy là một con thằn lằn, đến ở am, khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đa giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên dàn hỏa mà tự thiêu... Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân thì làm sao nhập được Niết Bàn. Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người giác, rồi sẽ hay.
Rồi con thằn lằn quyết định: phải ngăn ngừa, đừng để cho nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: ấy là bò lên bàn Phật, đến đĩa đèn dầu, rán mà uống cạn đĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đa giúp con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà đĩa dầu đa cạn; bộ kinh chỉ mới tụng quá nửa mà thôi. Ðèn tắt, nhà sư ngạc nhiên nhưng nghĩ: hay là hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình? Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh đọc chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần nầy vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại rằng khi xưa đa có lời nguyện tụng kinh vào khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn đĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, mà mắng rằng:
- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vở lòng của Pháp ta là thế nào! Pháp ta đa dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là THAM; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn ấy là SÂN; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là SI. Có đủ THAM, SÂN, SI, tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời cũng chưa bù được.
‘Tội của ngươi lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt hết đống tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi hột tro đó sẽ hóa sanh làm một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được qui nguyên, trở lại hiệp thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả’
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được nghe lời hai người khách, được giác một phần rồi, mà làm tội, tội ấy đáng kể là mười.
Hồn con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người? Ðã đành rằng tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Coi Phật vốn là coi tự tại, nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi để dắt người vào, thì làm sao cho được? Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào coi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
- Xin Phật Tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
- Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
- Xin Phật Tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật đáp:
- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào coi tự tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế.
Một hôm, trong hồi xiêu bạt, nó trông thấy bóng của hai ông khách khi xưa đã đến ngủ ở am. Vội va, nó bay theo, vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
- Hai ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Ðã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
- Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bòng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự ‘đắc đạo’ của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thời tốt; bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người...
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ nầy được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu người... Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên...
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
- Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật Tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
III .- Kết luận
Những nhà viết tiểu thuyết miền Nam còn có Lý Văn Sâm với Kòn-Trô, Vita với Mây Ngàn, Phan Văn Hùm với Ngồi Tù Khám Lớn, Việt Tha với Tôi Bị Ðày Ði Bà Rá, Sơn Khanh Nguyễn Văn Lộc với Tàn Binh, văn nghiệp của họ không đáng kể so với những nhà văn đã trình bày trong chương nầy, sau nầy còn có Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, văn nghiệp của hai nhà văn nầy rất đáng kể, tuy nhiên tác phẩm của họ xuất bản hầu hết sau 1954, vì vậy chúng tôi không đưa vào phần những nhà viết tiểu thuyết miền Nam, theo như mục đích trình bày của quyển sách nầy.
Nhìn lại tiểu thuyết miền Nam, chúng ta thấy rõ, trước tiên chịu ảnh hưởng truyện Tàu, sau ảnh hưởng tiểu thuyết của các nhà văn Pháp, dần dần mới có hướng đi trở về với đồng quê, đất nước và phong tục tạp quán của người Việt chúng ta. Nhờ đó mang lại cho người thưởng ngoạn thích thú vì nội dung gần gủi với chúng ta hơn. Ðó là bước tiến trên con đường dài hơn nữa thế kỷ tiểu thuyết miền Nam.
Ghi chú :
( 1 ) Ðường Catinat : Ðường Tự Do sau 1975 đổi ra Ðồng Khởi. ( 2) Trích theo Bùi Ðức Tịnh Phần Ðóng Góp của văn học miền Nam. ( 3 ) Nhà thờ nhà nước : Là nhà thờ Ðức Bà hay Vương Cung Thánh Ðường Sàigòn ( 4 ) Thời Pháp, toà tỉnh trưởng gọi là Tòa Bố, quan đứng đầu tỉnh gọi là Chánh Tham Biện hay Ông Chánh. ( 5 ) Thời Pháp thuộc, tổ chức hành chánh trong Nam Kỳ có chứcThống Ðốc, đứng đầu Nam Kỳ, dưới có Chánh Tham Biện, đứng đầu một tỉnh, dưới có quận truởng, đứng đầu một quận, dưới có Chánh Tổng đứng đầu một số làng, dưới có Ban Hội Tề của làng, gồm có : Hương Cả hay Ðại Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Thân, Xã Trưởng, Hương Quản, Hương Hào, Hương Thôn, Chánh Lục Bộ. Ban Hội Tề thì Hương Cả là chức vị lớn nhất trong làng khi hội họp, nhưng Xã Trưởng là người thừa hành, có nhiều quyền hạn, kế đó hương Quản là người trông nom về an ninh trật tự, có quyền bắt bớ, giam cầm điều tra. Những người giúp việc ghi chép gọi là Biện (Thư ký), không có chân trong Ban Hội Tề. ( 6 ) Tín Ðức Thư Xã in quyển nầy vào năm 1927 hay 1928, Sơn Nam có sưu tầm và cho in lại trong Nhân Loại Tạp San bộ mới năm 1960 ( 7 ) Có thể ông sáng tác năm 1917 hay 1918 ( 8 ) Phần đóng góp của văn học miền Nam của Bùi Ðức Tịnh ( 9 ) Danh từ người Cam pu chia gọi người Việt Nam. ( 10 ) Nguyễn Văn Của chủ nhà in Imprimerie de l’Union và chủ báo Lục Tỉnh Tân Văn. ( 11 ) Tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn. ( 12 ) Nhân Loại, Bộ mới, số 4, phát hành ngày 22 tháng 8 năm 1958 ( 13 ) Trong Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Huỳnh Văn Tòng cho là Hồ Biểu Chánh làm Chủ bút Ðại Việt Tạp Chí của Hội Khuyến Học Long Xuyên, thật ra Ðốc Phủ Liêm làm chủ bút, Phạm Quỳnh có viết bài hồi ký Một Tháng Ở Nam Kỳ, có đăng cả ảnh trong Nam Phong Tạp Chí năm 1918-1919, trong đó có ghi lại chuyến đi thăm Tạp Chí Ðại Việt ở Long Xuyên. ( 14 ) Chữ nghiêng là tên tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. ( 15 ) Chép nguyên văn bản in năm 1954 ( 16 ) Tính đến năm 1975 ( 17 ) Thập niên 90, nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam, như Thanh Niên, Ðồng Nai, Ðồng Tháp ... cho in lại nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, và có in những tác phẩm đã đăng báo hay chưa in trước kia. ( 18 ) Trong làng báo Sàigòn, có hai ông Nguyễn Ðức Nhuận : Phúc Ðức Nguyễn Ðức Nhuận, và ông Nguyễn Ðức Nhuận chồng bà Bút Trà chủ nhiệm Nhật báo Sàigòn Mới. ( 19 ) Theo lời ông thuật lại, trong thời gian ở Pháp, ông có gia nhập đảng Cộng sản và cùng với Hồ Chí Minh, Nguyễn Thế Truyền ... viết trên tờ Le Paria lấy chung bút hiệu những bài báo là Nguyễn Ái Quốc. ( 20 ) Lực lượng quân sự do Bảy Viễn lãnh đạo, Tổng hành dinh đặt ở bên kia cầu chữ Y, Sàigòn.
Tài liệu tham khảo
Hồ Biểu Chánh, Nhân Tình Ấm Lạnh, Trí Ðức thư xã, Sàigòn, 1928 Nhân Loại Tạp San Bộ mới, Sàigòn, 1958 Vương Hồng Sễn, Saigòn Năm Xưa, Khai Trí, Sàigòn, 1960 Phi Vân, Ðồng Quê, Lửa Thiêng xuất bản lần IV, Sàigòn, 1970 Bùi Ðức Tịnh, Phần Ðóng Góp Của Văn Học Miền Nam, Lửa Thiêng, 1975 Tập Truyện Ảo Tưởng, Lá Bối, Sàigòn, 1966 Hồ Hữu Tường, Phi Lạc Sang Tàu, Trí Ðăng, Sàigòn, 1972 Huỳnh Văn Tòng, Lịch Sử Báo Chí Việt Nam, Trí Ðăng, Sàigòn. 1973
( * ) Trở về Mục Lục
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 10, 2010 2:49:49 GMT 9
Ngôn Ngữ, Cái Mới và Sáng Tạo ______________________________________ Nguyễn Bảo Hưng Trong một bài viết có đăng trên diễn đàn này (1), chúng tôi có nêu vấn đề khả năng diễn đạt của tiếng Việt với chủ ý chứng minh rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đầy đủ khả năng đáp ứng cho mọi nỗ lực tìm tòi sáng tạo. Chúng ta cũng biết một nhà văn muốn đi tìm cái mới thường ngập ngừng đắn đo mỗi khi cầm bút viết. Ngập ngừng đắn đo bởi vì ông ta đang tìm cách xua đi âm vang của những sáo ngữ thời thượng, những nhịp điệu ru êm, những lập luận công thức đang vo ve khuyến dụ ông, tìm cách lôi kéo ông lại sa vào vũng lầy của những cảm xúc tiền chế, những suy tư đã xếp nếp. Có xua đuổi những vo ve ấy, ông mới lắng nghe được những vang vọng, những thì thầm nho nhỏ đang muốn cố nhoi lên tự thăm thẳm đáy lòng. Những thì thầm, những vang vọng ấy chính là tín hiệu của những cảm xúc mới lạ, những cảm nghĩ mới mẻ nảy sinh từ một trạng huống đặc biệt hoặc do phát hiện được một khác lạ ở những cái mà ta cứ tưởng rằng chẳng còn gì để nói thêm được nữa. Từ những cảm nghĩ, những cảm xúc vừa hiện lên, hãy còn phảng phất mơ hồ ấy, ông mới đi tìm chữ nghĩa để tìm cách nắm giữ chúng, bắt chúng phải hóa thân thành lời. Với một người viết yêu chữ nghĩa, trọng chữ nghĩa, tìm đến sáng tạo với tấm lòng như vậy, ông ta có thể an tâm tìm thấy ở tiếng Việt một người bạn đồng hành tâm đầu ý hợp. Trong bài viết nêu trên chúng tôi đã tìm cách phân tích để chứng minh rằng dưới hình thức một câu chuyện kể dân gian mộc mạc bằng văn vần, Chân Quê thực ra là một bài thơ mang ý nghĩa sáng tạo. Và nếu Nguyễn Bính, chỉ với hai chữ " Chân quê " chọn làm tựa cho bài thơ, đã nói lên được cái nhìn sáng tạo của mình bằng thứ ngôn ngữ hầu như đại chúng chính vì ông đã nắm được bí quyết sử dụng điều mà người ta vẫn gọi là thiên tài của ngôn ngữ (le génie de la langue), tức là khả năng diên tả đặc thù của mỗi ngôn ngữ một. Cái làm nên thiên tài của ngôn ngữ Việt hay, nói khác đi, cái đem lại cho tiếng Việt một khả năng diễn tả ưu việt đặc thù, theo tôi, trước hết là do tiếng Việt là thứ tiếng đơn âm nhưng lại có cấu trúc câu được tạo nên bởi các từ ghép do một, hai hoặc ba từ khác nhau ghép lại thành. Thứ đến, tiếng Việt là sự hội nhập của nhiều tiếng gốc khác nhau : tiếng Hán, tiếng Pháp (với gốc la tinh) và tiếng Việt chính gốc. Nhờ vào đặc tính này của tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm lại gồm các từ vựng được cấu tạo bởi các từ ghép, nên ta có thể, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân vật, tùy theo tâm trạng, tùy theo cảm nghĩ..., tạo ra những từ mới bằng cách hoặc hoán đổi vị trí của chữ trong một từ, hoặc thay thế một chữ nào đó bằng một chữ khác trong một từ để làm cho ý tưởng được sáng tỏ hơn hoặc để làm nổi bật cái sắc thái, cái âm hưởng, cái ý vị của điều ta muốn diễn tả. Để dẫn chứng tôi xin tạm liệt kê sau đây danh sách các từ vựng được tạo thành với từ tưởng chọn làm gốc tôi sưu tầm được : tư tưởng, ý tưởng, suy tưởng, lý tưởng, tưởng tượng, tưởng nhớ, tưởng niệm, tin tưởng, hồi tưởng, hoài tưởng, mơ tưởng, tơ tưởng, vọng tưởng, đồng tưởng, giả tưởng, ảo tưởng, không tưởng, hư tưởng, hoang tưởng, bệnh tưởng, cuồng tưởng, huyễn tưởng... Bây giờ tôi xin nhờ các vị soạn từ điển hay các nhà lý luận phê bình văn học định nghĩa dùm tôi các từ trên và, nếu có thể được, cho một câu thí dụ kèm theo để giúp tôi nắm được cách sử dụng thích đáng các từ đó. Giả dụ công tác này thực hiện, giờ tôi lại có ý nhờ các nhà ngôn ngữ học tìm kiếm dùm tôi một vài ngôn ngữ trên thế giới cũng có được những từ vựng tương đương để diễn tả đầy đủ các sắc thái, âm hưởng đa dạng như trường hợp các từ Việt nêu trên. Bởi thế tôi tin rằng, nếu chịu khó tìm hiểu tới nơi tới chốn và chịu khó chọn từ, chọn nghĩa một cách ý thức, bất cứ người viết nào cũng có thể đem lại cho văn bản một ý vị khả dĩ làm vừa lòng được khách đọc khó tính muốn đi tìm sự thích thú trong đọc sách. Bù lại, nếu ta chấp nhận kiên trì trong chọn lựa từ ngữ để diễn tả chính xác, thích đáng điều ta muốn nói lên, ta sẽ có cơ hội để phát hiện rằng tiếng Việt quả là một ngôn ngữ dồi dào sức sống, với tiềm năng tự tạo và tái tạo thần thông biến hóa không thua gì ông Tề thiên đại thánh dám đánh cả Trời luôn. Nhưng dù có là công cụ sắc bén đến mấy, ngôn ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền đạt mà thôi. Với nó và nhờ nó, một nhà văn hay nhà thơ tài hoa có thể diễn đạt chính xác, cụ thể tư duy của mình hay truyền đạt trọn vẹn những rung cảm với âm hưởng sắc thái tinh tế nhất. Nhưng công cụ bao giờ cũng chỉ là công cụ, bản thân ngôn ngữ không hề chất chứa mầm mống sáng tạo nên không phải là nguồn gốc sáng tạo. Bởi vậy một nhà văn, nhà thơ nếu chỉ biết tìm tòi vận dụng khả năng diễn đạt của ngôn ngữ nhằm mục đích thể nghiệm một bút pháp mới, một hình thức diễn đạt mới nhưng rút cục vẫn chỉ lập lại có ngần ấy chủ đề nội dung quen thuộc, thì nỗ lực cách tân của ông ta cũng chỉ là một sự cách tân trong sáng tác mà thôi. Mà sáng tác không hẳn đồng nghĩa vói sáng tạo. Sáng tạo, theo tôi, chủ yếu nằm trong cái nhìn khai phá nghĩa là cần hướng sự tìm kiếm vào việc phát hiện những sự kiện, chi tiết còn ẩn dấu một một ý nghĩa mới ở những cái mà mọi người tưởng như đều đã " biết rồi, khổ lắm, nói mãi ". Để làm sáng tỏ sự khác biệt giữa sáng tác là dùng thủ thuật, bút pháp để nói mới mẻ, nói khác đi, nói cao siêu bí hiểm, nói tối tăm hũ nút, nói không giống ai để rồi cũng chỉ nói lên những điều mà mọi người có nghe nói hoặc cũng có thê nói lên được, với sáng tạo là đưa ra được cái nhìn mới mẻ khả dĩ đem lại một ý nghĩa mới làm biến đổi nội dung ở những cái ta vẫn cho là quen thuộc, tôi đề nghị một trường hợp khảo sát cụ thể : vai trò của Caligula trong vở " CALIGULA " ( Gallimard - coll. Folio-Théâtre -1944) của A . Camus. Là một hoàng đế ở đầu công nguyên (12-41) và tuy chết trẻ, mới 29 tuổi, nhưng Caligula lại khét tiếng là bạo chúa do các tội ác ngông cuồng quỷ quyệt của y : loạn luân với em ruột, đòi triều đình kiếm cho được mặt trăng về làm đồ chơi, bắt cận thần phải hiến vợ và làm tình ngay trước mắt họ, tùy tiện ra lệnh giết người không theo một lô gích nào. Tuy nhiên khi mới đăng quang, Caligula đã có một vài cử chỉ quảng đại báo hiệu có thể trở thành một đấng minh quân. Chỉ sau cái chết đột ngột của Drusilla, em gái và cũng là người tình yêu quí nhất, Caligula mới đổi tâm tính và trở thành bạo chúa. Đối với cuộc đời của một nhân vật như Caligula chi tiết này tưởng không có gì đáng kể ; nhưng nó lại đập vào mắt Camus khiến ông quyết định chọn Caligula làm chủ đề cho vở kịch của ông. Nếu chỉ xét về mặt nghệ thuật sân khấu, vở Caligula tưởng như không có gì mới lạ so với những vở kịch hay tác phẩm hư cấu khác cũng nói về nhân vật này. Trong vở kịch ta cũng thấy một Caligula lộ diện nguyên hình là một bạo chúa với những tội ác tầy trời theo lịch sử ghi chép. Điều được coi mới mẻ hay đúng ra được gọi là sáng tạo ở Camus, chính là vì ông đã biết dùng ánh sáng nhận thức của thời đại mình đem rọi chiếu vào lịch sử làm thay đổi chân tướng Caligula, biến một nhân vật vốn được biết như một bạo chúa bỉ ổi thành một nạn nhân biểu tượng của sự phi lý ở đời. Và nhờ óc sáng tạo này ông đã lôi ra được ánh sáng cái ý thức về phi lý vốn là mối ưu tư hàng đầu của thế hệ ông. Đây là một chủ đề sâu sắc mà nội dung thông điệp không dễ gì phổ bién được sâu rộng. Bởi vậy Camus mới chọn kịch như là thể loại giúp ông tiết kiệm được ngôn từ mà lại có khả năng truyền đạt tối đa. Vở kịch mở màn với cảnh triều đình nhớn nhác đi tìm Caligula biệt tăm đã ba ngày. Khi tái xuất hiện, Caligula chỉ còn là một thân hình tiều tụy, mặt mày lem luốc, miệng lảm nhảm như một anh khùng. Phải chờ tới khi gặp lại tâm phúc là Helicon, Caligula mới thốt ra một câu giúp ta hiểu được sự thay đổi đột ngột của y : " Mọi người đều phải chết và không có hạnh phúc. " (" Les hommes meurent et ne sont pas heureux " (CALIGULA, acte I, sc.4, p. 49). Bằng câu này Caligula muốn thố lộ rằng y đang phải sống một thảm kịch lớn, không phải do cái chết của Drusilla mà vì cái chết đó khiến y phát hiện ra một sư thật khủng khiếp : đời người là hữu hạn và hạnh phúc chỉ là ảo ảnh. Với Hélicon, sống chết là chuyện ở đời và điều này không khiến " thiên hạ phải bỏ bữa ăn trưa " (" Ce n'est pas cela qui les empêche de déjeuner " Sdd, tr. 49). Nhưng với Caligula đây lại là biểu hiện của định mệnh phi lý dành cho kiếp người. Điều này làm hắn bất bình nổi loạn vì thấy không thể chấp nhận sống giả dối, sống cam phận với một hạnh phúc ảo ảnh như vậy. Sẵn có quyền bính trong tay, hắn quyết định thực hiện điều được coi như bất khả thi trước con mắt người đời : thay đổi thân phận phi lý con người. Ý muốn bắt nhốt mặt trăng làm đồ chơi chính là hành vi biểu tượng cho quyết tâm thực hiện sự bất khả thi đó. Nhưng trước mắt, Caligula tự cho mình nhiệm vụ thức tỉnh mọi người, bắt họ phải mở mắt nhìn ra thân phận phi lý của mình. Để thực hiện sứ mạng, Caligula ra quyết định tất cả phú hộ bất kỳ lớn nhỏ đều phải lập chúc thư tước bỏ quyền thừa hưởng gia tài của con cái để nạp cho nhà nước. Sau đó y ra lệnh cho quản thủ công khố thiết lập một danh sách không theo một qui tắc thứ tự nào để tùy tiện lôi những người có tên trong danh sách ra chặt đầu mỗi khi nhà nước cần tới tài sản của họ. Caligula gọi đó là một " phương pháp sư phạm nhằm biến cái bất khả hữu thành khả hữu. (" C'est de la pédagogie... Il s'agit de rendre possible ce qui ne l'est pas. " Sdd, tr. 58). Phương pháp sư phạm của giáo sư Caligula (" Il leur manque un professeur qui sache ce dont il parle " Sdd. tr. 49) là đẩy lý luận phi lý tới tận cùng giới hạn để biện minh cho các quyết định phi lý của mình : nếu phi lý là luật chơi ở đời, tại sao có những điều lại được coi là phi lý ? Bắng cách lý luận này Caligula muốn dồn mọi người tới chỗ phải bất bình nổi loạn trước các quyết định độc đoán phi lý của y và, qua đó, bất bình nổi loạn trước sự chết như là thân phận phi lý con người. Nhưng bài học siêu hình sâu sắc ấy lại vượt quá tầm hiểu biết của đám cận thần, nên họ mới coi Caligula là một hiểm họa và quyết định phải trừ khử y. Ý nghĩa nhân bản mà Camus muốn gán cho Caligula đằng sau khuôn mặt bạo chúa sadique theo lịch sử, còn được soi tỏ hơn nhờ vào hai nhân vật trong vở kịch là Scipion và Cherea. Scipion là một thiếu niên mười bảy tuổi tâm hồn thi sĩ, cha ruột bị chính Caligula sát hại. Lúc đầu Scipion rất căm thù Caligula và nuôi ý định giết Caligula để trả thù cha. (II, 12 - Sdd. tr.95-98). Nhưng sau một cuộc trao đổi với Caligula, Scipion hiểu rõ hơn con người thật Caligula, thông cảm được với khát vọng u uẩn của y nên từ bỏ ý định trả thù. (II,14 -Sdd. tr.99- 106). Là cận thần, Cherea cũng hiểu được Caligula như Scipion. Nhưng chính vì thế hắn càng thấy lý do phải trừ khử Caligula. Bởi vì, theo hắn, " có toi mạng cũng chẳng nhằm nhò gì... Nhưng làm tiêu tan lẽ sống, làm mất đi lý do tồn tại, đó mới là điều không thể chịu dựng được. Ta không thể sống vô cớ. " (" Perdre la vie est peu de chose... Mais voir dissiper le sens de cette vie, disparaỵtre notre raison d'exister, voilà ce qui est insupportable. On ne peut vivre sans raison. " Sdd. tr. 73). Ta có thể nói Cherea là biểu tượng cho điều mà chủ nghĩa hiện sinh gọi là sự sự ngụy tín (la mauvaise foi) tức là thái đọ sống giả dối, sống cầu an, sống ẩn núp dưới một lẽ sống giả tạo để có thể kéo dài sự tồn tại. Cũng vì muốn được sống cam phận như vậy nên, dù được Caligula ân sá sau khi âm mưu bị bại lộ, Cherea vẫn tham dự vào cuộc sát hại Caligula. Duy có điều khác biệt với đám cận thần già nua là Cherea đã ra tay hành động mặt đối mặt chứ không chịu làm kẻ đâm sau lưng chiến sĩ như đám cận thần đồng lõa. Vở kịch kết thúc với cảnh Caligula trước khi thở hắt ra còn cười sằng sặc và rống lên : " Ta vẫn sống đây " (" Je suis encore vivant ! " Sdd. tr.172). Bằng câu trăn trối này Caligula muốn nhắn nhủ đám cận thần rằng, cho dù có hủy hại được thân xác y, nhưng từ nay họ sẽ phải sống mãi với ám ảnh về thân phận phi lý mà Caligula đã gieo rắc trong đầu họ. Kịch bản CALIGULA trong bộ Folio-Théâtre của nhà xuất bản Gallimard, Paris dày 209 trang. Nếu tính số trang dành cho phần từ khi từ khi mở màn (tr.37) tới lúc hạ màn (tr.172) thì toàn bộ vở kịch chỉ chiếm có 135 trang. Nếu ta lại tính thêm rằng trên những trang này một số trang chỉ có độc một chữ mang tên nhân vật, và một số trang khác được vài dòng với mẩu đối thoại đôi ba chữ thì tổng số chữ dành cho vở kịch giỏi lắm chỉ lấp đầy ngót trăm trang sách khổ bỏ túi là cùng. Vậy mà với ngần ấy chữ nghĩa và chỉ dựa vào một thể loại cổ điển vời những lời lẽ thuộc về ngôn ngữ đời sống hàng ngày, Camus vẫn giúp cho độc giả không phải chuyên môn nhận thức được một vài khái niệm then chốt của chủ nghĩa hiện sinh. Điều này cho phép tôi nghĩ rằng, trong sáng tạo, một khi ta có được cái nhìn khai phá và nắm vững chất liệu ta vẫn nói lên được cái mới ; chứ không nhất thiết phải ưu tiên tìm kiếm ( ?) một thủ thuật, một bút pháp mới lạ ta mới tiến hành được cuộc cách mạng cách tân văn học. Không coi nhẹ vai trò quan trọng của kỹ năng biểu thị nhưng tôi cho rằng mọi công trình sáng tạo đều cần có chất liệu tốt. Mà chất liệu quí báu nhất, trong văn học nghệ thuật, vẫn là vốn sống. Vốn sống càng dồi dào, chất liệu càng đa dạng phong phú. Những hoàn cảnh đặc biệt, những tình huống bất đắc dĩ mới là nguồn cung cấp chất liệu hiếm hoi. Chúng là điều kiện làm nảy sinh những cảm xúc mới, những ấn tượng mới, những suy tư mới. Và chỉ những cảm xúc, ấn tượng suy tư được nảy sinh từ những trạng huống ngoại lệ ấy mới giúp ta tạo dựng nên được những tác phẩm có xương có thịt. Những năm tháng dài sống trên quê hương phải trải qua biết bao thảm họa chiến tranh, nghèo đói, chậm tiến biết đâu, nhìn lại, ta đã chẳng tích lũy được một vốn sống quí báu. Tới khi được đặt chân lên những nước văn minh tiền tiến nhìn thấy người ta giàu sang của cải ê hề, sinh hoạt tự do thả dàn, không bằng lòng điều gì tha hồ quạc miệng chửi tưới hột sen, ta ngỡ ngàng tự hỏi phải chăng thiên đường hạ giới nơi đây. Nhưng sau những choáng ngợp ban đầu, ta lại phát hiện ra rằng cuộc sống những chốn này cũng có cái gì không được ổn lắm. Gia đình nhà nào cũng hai ba chiếc xe, TV, dàn xen mỗi phòng đều có. Vậy mà ra đường ai nấy cũng hớt ha hớt hải có đường còn tất bật hơn cả dân nghèo phải lo chạy gạo ở quê nhà. Mà cũng ít gặp được ai ra chiều hả hê cả. Mặt mũi người nào cũng lầm lì khó đăm đăm như mắc bịnh táo bón kinh niên. Đụng nhau mà như không ngó thấy nhau, chẳng thèm chào hỏi thì chớ lại chỉ chực kiếm chuyện sinh sự để xả sú bắp, có khi còn định rút súng để xơi tái nhau luôn. Được ra hải ngoại, do đó, có thể còn là cơ hội giúp ta có thêm điều kiện so sánh, đối chiếu, đưa ra cái nhìn mới mẻ để dặt lại vấn đề một số giá trị được coi là tiêu biểu cho ý nghĩa đời sống văn minh kỹ thuật vật chất. Tôi cho răng chỉ bằng con đường khai thác vốn sống và vị thế đặc biệt riêng tư ấy mới thực sự dẫn ta tới con đường sáng tạo. Còn như chỉ đặt nặng vấn đề thẩm mỹ hình thức tôi e rằng khó mà đem lại sinh khí cho một nền văn học có chiều hướng đang xuống cấp và ngày càng bị đe dọa bởi sự tràn ngập của những sản phẩm thuộc loại văn hóa tiêu dùng (2). Và cũng chi bằng con đường sáng tạo ta mới mong thoát khỏi nền văn chương tầm gửi sống nhờ vay mượn văn học nước ngoài và, nhờ đó làm nên những tác phẩm lớn (3) có tầm vóc quốc tế. Hay, ít ra cũng một vài tác phẩm giá trị vượt thắng được thử thách thời gian như " Nỗi buồn chiến tranh " của Bảo Ninh (4). Một nỗi buồn nhân bản ray rứt mà, ngày nay, càng đọc lại ta càng thấm thía ý nghĩa chua cay. Nhìn ra nước ngoài, nhà văn mang Pháp tịch gốc Trung Hoa Cao Hành Kiện được trao giải văn học Nobel là nhờ cuốn "Linh Sơn", (bản dịch tiếng Pháp " La montagne de l'âme ", Editions de l'Aube-2000). Ta có thể coi "Linh Sơn" như là tập ký sự của Cao Hành Kiện trong suốt cuộc hành trình xuyên Hoa lục để tìm đường lẩn trốn ra nước ngoài. Trong cuộc hành trình ấy ông đã nhiều lần len lỏi tới nhiều vùng thâm sơn cùng cốc và được tiếp xúc với những thổ dân bộ tộc vẫn bảo tồn được phong tục tập quấn cổ truyền mặc dù bị chính quyền Bắc Kinh xếp vào loại hủ hóa và tìm mọi cách xóa bỏ. Bằng một văn phong và một một kỹ thuật diễn đạt thuộc về riêng ông chưa hề thấy được đem giảng dạy trên các đại học, " Linh Sơn " còn là một tài liệu nhân chủng học phong phú, một thiên phóng sự linh động về con người, về cuộc sống. Về những con người trong cuộc sống : những khuôn mặt tầm thường mờ nhạt trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ cũng tầm thường mờ nhạt, nhưng lại phảng phất một mùi hương thấm đậm tâm hồn các sắc tộc cổ đại Trung Hoa vẫn được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bất chấp mọi thăng trầm thế cuộc. Có lẽ nhờ vậy mà tác phẩm " Linh Sơn " đã lọt vào mắt xanh của ban giám khảo Hàn Lâm Viện Stockholm chăng ? Nguyễn Bảo Hưng (1) " Có nên đặt vấn đề về khả năng diễn đạt của tiếng Việt ",N.B. Hưng - (2) Bốn chữ văn hóa tiêu dùng là tựa cuốn sách của Nhà Xuất Bản Thông Tin Văn Hóa Hà Nội 1998, do một nhóm nhà nghiên cứu biên soạn. Tôi đã mượn bốn chữ " văn hoá tiêu dùng " này không hẳn theo ý nghĩa nội dung và mục đích của nhóm chủ trương, mà chỉ muốn nói đến những bài viết được quan niệm thực hiện như sản phẩm hàng hóa, chủ yếu chạy theo thị hiếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của thị trường. (3) Chu Văn Sơn : "Tác phẩm lớn, tại sao chưa ? " Talawas, mục " Văn Học Việt Nam ", 16-11-2006. (4) Bảo Ninh : " Nỗi buồn chiến tranh ", Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn - 1991.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:20:23 GMT 9
Vẻ đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt Võ Hưng Thanh Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học đúng nghĩa, tức không phải chuyên ngành. Nhưng tôi lâu lâu có làm thơ và thỉnh thoảng hay viết lách. Chính cái "lâu lâu" và "thỉnh thoảng" đó khiến tôi vẫn thường khám phá ra cái đẹp của chữ viết, của ngôn ngữ, mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ tiếng Việt. Cho nên, tôi chợt nghĩ nhà ngôn ngữ học không phải chỉ thuần túy chuyên môn, mà cũng có thể là con người tài tử, tức bất kỳ ai yêu cái đẹp của ngôn ngữ, cảm thức, hay "khui" ra được cái đẹp về ngôn ngữ, ở trong những trường hợp nào đó. Đó cũng chính là lý do của bài viết này, bài viết phát sinh ra trong một nỗi bức xúc nhất định, nỗi bức xúc chẳng thể nào chịu đựng được khi ngày hôm nay "bị" đọc thấy trên tờ Tuổi trẻ (10/8/11) bài viết "F,J,W,Z không thể nằm ngoài bản chữ cái (tiếng Việt)". Chắc mọi người quan tâm đều đã đọc đủ hết chi tiết của bài viết nên không cần phải nói thêm. Tôi chỉ muốn nói đến vài khía cạnh riêng biệt khác. Trước hết, bảo rằng các mẫu tự F,J,W,Z "không thể" nằm ngoài bản chữ cái là hoàn toàn ngô nghê và trịch thượng. Căn cứ vào đâu hay điều nào, để bảo là "không thể", hay ai có quyền gì để phát ngôn chính thức cho điều này? Bởi vì bản mẫu tự tiếng Việt ta đã có từ 100 năm nay, nó đã ổn định và hoàn chỉnh, biết bao thế hệ tiếp nhau đã kinh qua nó, đã góp phần hoàn thiện nó. Lấy lý do gì để ngày nay lại được tùy tiện thêm vào các mẫu tự không cần thiết và dư thừa khác? Đúng ra, bốn chữ cái F,J,W,Z là hoàn toàn không cần thiết và dư thừa. Bởi vì, tuy nó cũng là chữ của bảng chữ cái La tinh, nhưng là của bảng mẫu tự của các nước Âu Mỹ, không phải thuần túy tiếng Việt ngay từ ban đầu. Bảng mẫu tự tiếng Việt thuần chủng vốn từ xưa nay đã thật sự ổn định rồi, nếu cần thêm hẵn đã phải thêm ngay từ đầu, không phải đợi đến ngày nay. Chữ song tiết ph của ta của ta, hoàn toàn đã có giá trị của chữ f , không hà cớ gì phải thay thế hay thêm vào bằng chữ này. Còn các chữ J,W,Z là hoàn toàn giả tạo, lai căng, vô nghĩa, trái khoáy, xa lạ và hoàn toàn vô bổ. Các trường hợp người ta đưa các chữ này vào, chỉ là kiểu tiện lợi nhất thời nào đó, không mang tính cách chính thức, truyền thống, chuẩn mực, trang trọng, hay hoàn toàn nghiêm túc. Các văn bản chính thức nào đó mà viết như vậy là sai, không còn tính đúng đắn hay đứng đắn nữa. Trong văn bản chính thức về ngoại giao, không thể viết là nhân dzân, ngoại dzao, Trung wng ... Còn chữ TW để viết tắt thay chữ T/Ư, chỉ là cách viết không chính thức, mặc dầu nội dung của từ cứ cho là chính thức, là chỉ theo thói quen của những người nào thường dùng nó. Có nghĩa, không nên nhầm lẫn kiểu dùng tùy tiện này ngoài đời, cho dù ở phương diện nào, phương vị ra sao, cũng cần với cách dùng ngôn ngữ mang tính chính thức, đúng quy tắc nghiêm chỉnh, bình thường, hay có tính chất chính thống. Bởi vậy, cũng không thể viết viễn dzu, ngao dzu ... một cách hoàn toàn tùy tiện. Cũng không thể nại công nghệ thông tin, hay kỹ thuật in ấn nào đó. Bởi vì cách đánh máy chữ kiểu telex hiện nay hoàn toàn thuận tiện đối với bản mẫu tự thuần Việt, không cần bất kỳ sự tu chỉnh vô lối, ngờ nghệch nào cả. Những chữ nào tuy cũng là La tinh, nhưng không có trong bản nguyên thủy mẫu tự Việt, không có quyền thêm vào cách chính thức, bởi nó hoàn toàn âm tiết nước ngoài, không thể có trong tiếng Việt. Cho nên, khi cần chép lại âm tiết tiếng nước ngoài trong nguyên văn của nó, người ta chỉ cần đưa vào nhất thời khi đó, và ai cũng biết đó là tiếng nước ngoài chua vào, không chuyện gì chỉ vì thế mà cần phải đổi đi tiếng Việt, và đồng hóa chúng thành tiếng Việt. Tính cách lai căng, tính cách pha trộn tùy tiện, thật tình là làm mờ đục đi tiếng Việt, làm phiền toái tiếng Việt, là phản lại tiếng Việt, phá hoại tiếng Việt, có nghĩa phá hoại ngôn ngữ dân tộc, phá hoại tài sản quan trọng và cốt yếu của dân tộc, của đất nước. Điểm kế đến tôi muốn nói là khi nào dùng i (ngắn), khi nào dùng y (dài). Đây không những là truyền thống, là thói quen, mà cũng còn là sự hợp lý, tính chất khoa học nhiều mặt về diễn âm, ngữ nghĩa. Có nghĩa chữ i chỉ thuần túy âm tiết, còn chữ ytheo tôi mang tính chất ngữ nghĩa và thói quen truyền thống hơn. Chẳng hạn : nói năng lí nhí , tiếng cười hi hí , con mắt ti hí , cho nhau chút tí , bị kí vào đầu, tô mì , ngã quị , một kí lô, con qui ... nhưng phải viết : lý do, chữ ký , người Mỹ , kỹ lưỡng, kỹ thuật, quỵ lụy, quy y, tùy ý ... Hay chỉ có thể viết khui ra, mà không thể viết khuy ra, hoặc ngược lại cái khuy mà không thể viết cái khui. Có nghĩa, nguyên tắc của cách viết luôn phải là : thói quen + truyền thống + ngữ nghĩa + hữu lý + từ nguyên + phù hợp + dễ nhìn + khoa học, thẩm mỹ, nhưng không thể tùy tiện, xé rào, bất chấp chuẩn mực. Đúng ra phải có một sự sàn lọc lại chính thức để có nguyên tắc khoa học, sáng sủa, hữu lý, được tất cả mọi người đều bị thuyết phục và chấp nhận. Một điểm khác không kém phần quan trọng, là các dấu thanh huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã nên đánh trên ký tự nào nếu có song trùng nguyên âm cho được hợp lý. Tất nhiên theo nguyên tắc cân đối về thẩm mỹ học , phải đánh (bỏ dấu) ở trên nguyên âm đi sau (khi sau chót còn phụ âm khác) là hoàn hảo nhất. chẳng hạn : hoàn toàn, huy hoàng, hoặc nguyên âm đi giữa (không còn phụ âm nào đi sau) trong cộng hòa, hội họa, họa hoằng, chỉ có luật cân đối là trội vượt hay chủ đạo nhất. Nói chung lại, sự việc chỉ đơn giản có thế, mặc dầu khoa ngữ học như tính cách là một khoa học còn có nhiều điều sâu xa, phức tạp hơn. Những gì đơn giản thì chẳng nên làm chúng thành phức tạp một cách hoàn toàn không cần thiết. Bảo vệ ngôn ngữ là cần giữ tính chất thuần nhất của nó, nội dung cũng như hình thức, không thể chỉ nặng mặt nào mà lơ là mặt nào. Mặt nội dung là chất liệu, là bản thân, bản chất ngôn ngữ. Nhưng mặt hình thức là cách nhìn của mọi người về nó, vẻ thẩm mỹ tự nhiên mà nó mang lại cho các cách nhìn đó. Đó chính là sự khoái cảm, hấp dẫn, thỏa mãn, giống như khi ta nhìn một người đẹp, một bông hoa xinh, một cảnh trí hay hình ảnh hấp dẫn, thu hút. Vẻ đẹp của ngôn ngữ trước hết là sự cân đối, hài hòa trong hình tượng của nó, tức chữ viết, sau nữa đến phần phản ảnh về ngữ nghĩa, nội dung ý tứ của nó. Không thể coi thường bất kỳ khía cạnh tự nhiên hay thiết yếu nào. Cho nên thêm vào cái không đáng thêm thật sự là điều "dở hơi" hay vớ vẩn. Còn bớt đi điều vốn cần thiết đã có là sự vô lối hay ngu ngơ. Mọi sự viết tắt, ký âm theo cách nước ngoài, chỉ thuần túy là sự bắt buộc, hay nếu cho là cần thiết, hoặc muốn có, tùy theo tình huống, tuy có thể chấp nhận được, nhưng không thể trở nên thay thế chính thức, hoặc vĩnh viễn, những cái gì vốn đã ổn định, mang tính truyền thống, chính thức, có tính chính danh, hay kể cả có ý nghĩa chính thống nhất, mà vốn nó đã trở thành chuẩn mực, cổ điển, khiến chỉ có thể bổ sung thêm, với giá trị ngang hàng, cân xứng, mà không thể thay thế bằng cái gì bọt bèo, lai căng, hay mang tính chất phá bĩnh, cũng như có yếu tố phá hoại mang tính cách bản chất, có tính hệ thống, và lâu dài được. Võ Hưng Thanh (10/8/11)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:22:59 GMT 9
Cái hệ lụy Tàu Việt Bác sĩ Nguyễn hy Vọng M.D. Tôi muốn nói đến cái nợ ba đời ta gánh chịu khi Tàu nó đô hộ mình suốt ngàn năm. Phải hiểu là, dân Tàu có đến sáu tiếng nói khác nhau mà đến nay vẫn còn khác nhau ! Mà nếu không có cái chữ viết nó ràng buộc lại thì kể như đi đong. Mỗi tiếng một ngả.. vì vậy mà tiếng nói nào trong thế giới cũng có chữ đánh vần kiểu a b c trừ ra tiếng Tàu duy nhất hiện nay phải vừa vẽ vừa viết [sic] chấp nhận khoảng 7500 cái hình vẽ là 7500 cái âm [sic] nếu không thế thì nước Tàu sẽ tan rã rất nhanh không phải là một nước nữa, đó là lý do tại sao Tàu không dám viết theo a b c . Cái chữ Tàu thật ra là cái nợ ba đời cho chúng nó « a mill stone around their neck » theo lời của các học giả Tây phương nhận xét ! Thật ra chỉ có 214 bộ [hình vẽ dễ viết] mà họ ghép lại thành ra khoảng 7500 hình vẽ [tự] rồi ghép qua ghép lại nhiều lần nữa thành ra khoảng 40000 chữ mà chỉ chừng 4000 / 8000 hay dùng mà thôi ! Cũng như tiếng Việt có 26 chữ cái ghép thành khoảng 10000 chữ, khoảng 10000 từ [âm có nghĩa] rồi ghép qua lại thành ra chừng 40000 từ cả đơn lẫn kép [riêng tiếng / lòng/ đã có 256 cách nói (xem một trang đính kèm của cuốn Tự Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt sắp ra mắt); và ông Đỗ Thông Minh bên Nhật tìm ra được 360 tiếng ghép với /cười. Trở lại tiếng Tàu , vì vẽ để mà viết, nên có những cái vớ vẩn sau đây : Con ngựa cái, họ vẻ hình chữ/ mẹ. Trời đất ! (母馬) Còn hình ba người đàn bà nằm chồng lên nhau thì họ bắt phải hiểu là /Gian/ hiếp dâm ! (姦 ) Chữ Nữ 女 [đàn bà] được dùng cho những hình / chữ gợi ý dâm dục hay những tính xấu của con người, chưa hề có tiếng nói nào kỳ thị đàn bà con gái cho bằng tiếng Tàu! thí dụ như : Gian 奸 [có người đàn bà đứng một bên(sic), làm như thể chỉ có đàn bà là gian dối mà thôi ! Yêu 妖 có nghĩa là quái gở , lại cũng người đàn bà đứng bên trái ! vậy chứ đàn ông không có ai quái gở cả sao ? Đố 妒 là ghen ghét, ganh tị với ai, Tàu nó cũng để người con gái đứng ngay bên cạnh, vậy trên đời này đàn ông cao thượng cả sao, không biết ghen ghét ai hà ? Nỗ 努 là gắng sức thì các chú con trời lại bắt đàn bà con gái có mặt trong chữ này luôn , ý là muốn để riêng cho đàn ông tha hồ chạy rong chơi sao? Phanh 姘 là dan díu, là cái hình đàn bà con gái đứng đó mà chịu trận. Nộ 怒 là nổi giận, đâu phải chỉ có đàn bà nổi giận ? vậy mà cũng bắt một người đàn bà đứng đó mà chịu trận thêm cái nữa !Cái hệ lụy Tàu Việt 2 Vĩ Vĩ 娓娓 là nói chẹt chẹt , nói cho đúng ra người Tàu nào mà chả nói chẹt chẹt, mà lại nói to mồm nữa [ hồi xưa tôi có mê một cô Tàu cũng khá đẹp mà lại buôn bán đảm đang, chỉ có cái là nói chuyện chơi mà cũng quá to mồm nên đành phải “ de” !] Xướng 娼 là con hát/ con đĩ ! nên nhớ là đĩ đực thiếu gì, đâu chả có ! Nhứ 絮 là nói lải nhải, lại đổ hô cho đàn bà. Mị 媚 là nịnh hót cũng đổ hô cho đàn bà độc quyền. Hiềm 嫌 là nghi ngờ ai lại cũng đàn bà lãnh đủ. Tật 嫉 là ghen ghét ! đàn ông cũng ghen chứ bộ ! Lãn 嬾 là lười biếng oan cho các bà quá, từ thuở có loài người, đàn bà mà lười biếng thì bây giờ làm gì còn nhân loại ! Viết đến đây tôi muốn lộn máu, đành tạm ngưng. Tôi thách mấy ông Hán Việt nô lệ chữ Tàu cho quá năm 2002 , hãy công khai tranh luận với tôi về điểm này, độc giả sẽ là người làm trọng tài. Ngoài ra có cả một đống homonymes [ phát ra một âm mà có cả 15, 16 nghĩa khác nhau là chuyện thường ] ! Đó là cái nợ ba đời của ba Tàu; kể cũng tội, vì cái lưỡi của Tàu nó ngắn ngủn nên chỉ nói và phát âm ra chưa tới 4000 âm thôi , biết làm sao được ! Trong khi người Việt phát ra được 27000 âm khác nhau và người Thái Lào cũng nhiều bằng ấy, còn người Miên thì vô địch luôn ! Khoảng 40000 cách phát âm ! [ chả thế mà mấy ông ngôn ngữ học Pháp phải tấm tắc khen : “ l’oreille cambodgienne est tellement sensitive aux moindres nuances de prononctiation et d’intonation que la moindre différence ne saurait être tolérée”....] Trong khi đó thì Tàu nó đọc sáu cách cho nhân là người: lên, nên, diên, nyin, yên mà chỉ viết 1 cách nếu viết theo a b c thì sẽ loạn cào cào ngay lập tức. Hồi còn mồ mả ông Nghiêu ông Thuấn thì chỉ là những hình vẽ rất dễ biết , như Khẩu 口 miệng/ Ao 凹 [lõm xuống] / Đột 凸 [lồi/trồi lên] / Mã 馬 ngựa / Ngư 魚 cá Sau này khá hơn, các hình vẽ ấy có thêm chút máu mặt , /nhàn 閒 / relaxation là nhìn trăng dưới khung cửa , nhưng, bạn hỡi, nếu trong lúc đó ta bị đau bụng thì không biết cái nhàn của ta kéo dài được bao lâu ! cho nêm tóm lại , cách viết chữ lạ lùng đó ảnh hưởng đến cái nhân tính của Tàu suốt chiều dài của tiền sử và lịch sử là áp đặt, chuyên chế, độc tài/ mình nghĩ sao, viết sao bắt người ta phải theo như vậy !Cái hệ lụy Tàu Việt 3 Cao- ly và Việt nam ta không bị vậy , họ có chữ viết đánh vần từ thế kỷ 15 và ta có chữ a b c đánh vần từ 1651. Còn Nhật bản vẫn mang 60% gánh nặng chữ Tàu , nhưng đã trả nợ sòng phẳng và trả lời xứng đáng cho Tàu ; vì trong 150 năm qua, họ văn minh hớn Tàu nhiều nên đã đặt ra rất nhiều tiếng mới về kỹ thuật cho họ rồi các cụ Lương khải Siêu và Khang hữu Vi, trong khi lao đao bên Nhật, cùng sau này cụ Hồ Thích chỉ việc khuân về Tàu xài bằng thích, ai cũng tưởng là các cụ ấy đặt ra, mà các cụ Việt mình cũng tưởng thế nên vẫn lẩm cẩm vọng ngoại một cách đáng buồn cười. Thật là bé cái lầm / hay là cầm lầm, cũng không sao, vì của thiên thì trả địa , đâu có mất đi đâu, bốn bể một nhà mà lị ! Tuy nhiên mấy ông ba Tàu không mấy khi chịu nhận là họ có mượn những dân xung quanh họ khá nhiều về ngôn ngữ và văn hóa, họ khi nào cũng tự cao tự đại là chỉ có cho mà không có mượn của ai cả theo kiểu quân tử Tàu. Sự thật là họ mượn như điên, sau đây chỉ là vài thí dụ [ lúa, trà ], xin chứng tỏ ngay là chính Khổng tử, ông sư tổ của họ cũng nói như sau : “Ta không biết Tế sạ * là gì, nghe đâu là tên gọi ngày lễ giao mùa đầu năm của dân Man, họ nhảy múa, dựng nêu, đánh đu, uống rượu say mèm ! chú ý: đọc theo âm TẾT / Ta không biết trà là gì, nghe đâu là một thứ lá trong rừng mà bọn người Man nấu mà uống cho giải nhiệt / Ta không biết lúa là gì, nghe đâu là một thứ cốc loại [sic] mà bọn người Man trồng trên những cánh đồng ngập nước gọi là ló* ta chỉ biết ăn kê và lõa mạch thôi ! chú ý: ló* là tên lúc đầu của lúa, Tàu bắt chước gọi theo y hệt là ló , nhưng Hán Việt đọc là lạc ! [lạc điền]. Và nhà Đông phương học nổi tiếng khắp Âu châu là ông Shafer đã nói như sau: “ much of the spiritual and imaginative part of their civilization, much of what the world now think of as typically “chinese”, was originated among the proto Thái people south of the Yang tse kiang, among the proto Tibetan people of the west, and, among the proto Mongolian people of their Northern region/ but it was less easy for the Chinese to acknowledge, or even to realize that they do borrow ideas and things made and life style of the foreigners, yes, in fact they did and at length. Bác sĩ Nguyễn hy Vọng M.D.Cái hệ lụy Tàu Việt 4 LÒNG [cái -, bộ -, - ruột, - heo / - đỏ, - trắng trứng gà / - chão, - sông, - núi, - đất, - trời, - bàn tay, - bàn chân / - súng]. [ - dạ, - ngay, - thành, - thương, - tốt - xấu, - riêng, - thật, - chung thủy, - tự nhủ -]. [tấm -, mảnh -, chút -, chuyện -, đáy -, một -, hai -, có -, hết -, yên -, đành -, hài -, chịu -, vừa -, vui -, xiêu -, động - , đau -, phật -, trào -, nẻo -, nỗi -, tiếng -, tơ -, tấc -, nén hương -]. Một vài thành ngữ : - được lời như cởi tấm lòng, - lòng son dạ sắt, - thay lòng đổi dạ, - một lòng một dạ, - trời cũng chiều lòng, - lòng chim dạ cá, - lòng gang dạ sắt, - một dạ hai lòng, - năm con chưa hết lòng chồng. Lòng : - bộ phận tiêu hóa gồm có ruột non và ruột già [bộ lòng, cháo lòng, lòng ruột] - bụng dạ, tình cảm, cảm xúc, cảm giác, cảm nghĩ, cảm nhận / tâm địa, tâm hồn, tâm tính, tâm tình, tâm linh, tâm trí, tâm thức / chí khí, ý chí, ý thức, nghị lực, tinh thần [lòng người, lòng dạ...] - cái để chứa đựng hay bao bọc [lòng sông, lòng súng, lòng đất, lòng trời] Eng : bowels, intestines / abdomen, belly, the inside, interior, internal part, internal space, middle part, the hollow part, the bottom, content / canal, channel // heart, heart of, feeling, sentiment, sense, sensibility, sensitivity, emotion, passion, devotion, inclination, dedication, spirit (classifer word for most notions of feeling and sentiments...) Fr : intestins, tripes, boyau, entrailles / l’intérieur, le dedans, partie interne, espace interne, creux de, bas-fonds, milieu, contenu, ventre // coulée, couloir, canal, canalisation // sein / cœur / sentiment, affection, [les] sens, sensibilité, sensitivité, émotion, passion, dévotion, inclinaison, envie, penchant, tendance, dédication, esprit (mot classificateur pour exprimer divers sentiments, émotions humaines) Mường : lòng / lằng lòng lòng không lòng sông lòng khủng lòng súng lòng khon lòng son lòng ngăl lòng ngay lòng thốt lòng tốt lòng tỏ lòng đỏ lòng dầm lòng đen lòng tlẳng tlửng lòng trắng trứng (A. de Rhodes 1651) tlòng tlắng tlứng pất lằng mất lòng Hmong : k-lòng lòng / bụng / ruột Thái : a-lòng tình bạn k-lòng hộp đựng k-lóng hộp đựng k-long hộp đựng kh-lòng hố sâu p-lòng chỗ sâu p-lóng chỗ đáy p-lóng cái đũng chr-lòng dòng chảy Mon : ơ-long cái phía trong p-long cái nòng, cái tròng p-long snat nòng súng h-lòng bằng lòng Khm : kh-lòng thuộc lòng chàm lòng học, nhớ, nghe thuộc lòng pr-lòng tròng, ống, nòng, lòng Chàm : gh-long lòng Malay : palung lòng Indonesia : palung lòng, đáy [sông] Saora : a-long lòng, ruột chú ý : cũng như “lòng”, các tiếng đồng nguyên với nó cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng. Sau đây là bảng kê những tiếng ghép với lòng sẽ cho bạn thấy cái dồi dào của tấm lòng người Việt chúng ta [sic]... Trang 151, 152 TĐNGTV
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:18:06 GMT 9
Khảo luận về nền học chính tại Nam Kỳ (Etude sur l'instruction publique en Cochinchine ) Tác giả : E.Roucoules (20/10/1889) ------ Người dịch : Lại Như Bằng [Lời người dịch (nd): Emile Roucoules từng là Giáo sư Cố vấn ( Professeur-conseil ), hiệu trưởng trường Trung học Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn (1887, ...), phó chủ tịch Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des Etudes Indo-Chinoises de Saigon) và của Ủy ban địa phương Hội Pháp-văn Liên-hiệp (Alliance Française). Bài này được Roucoules đọc tại buổi họp này 23/10/1889 của Hội nghiên cứu Đông Dương , và được trích từ : Bulletin de la Société des Etudes Indo-Chinoise de Saigon .- Année 1889 - 2e semestre / Séance du 23 octobre 1889 / Société des Etudes Indo-Chinoises de Saigon. Cám ơn chị Nguyễn Thị Chân Quỳnh và chị Bùi Thụy Đào Nguyên đã góp những ý kiến quý báu] * Tổ chức nền học chính Nam kỳ trước thời chinh phục chính là tổ chức hiện nay tại phần nước An Nam do chúng ta bảo hộ [1]. Các ông Luro và Vial đã nghiên cứu vấn đề này qua nhiều tác phẩm được phổ biến rộng rãi. Trong tài liệu giản lược này, chúng ta chỉ lược qua mấy nét chính. Thời đó, mỗi làng có một trường tư (école libre) có thể mở ra không cần xin phép và do một nhiêu-học [2] điều hành. Tại trường, học sinh học lễ giáo và văn học Trung quốc, các phép tính sơ đẳng và các loại chữ viết, gọi là chữ-nho và chữ-nôm, chữ-nho là chữ Trung quốc thực thụ, và chữ-nôm là chữ Trung quốc được dùng để phiên âm tiếng An Nam phổ thông (annamite vulgaire). Tại mỗi huyện [3] hay mỗi phủ có một trường trung học, chương trình học cũng giống như chương trình cấp một, nhưng nới rộng hơn. Trường được giao cho công chức, hay giáo viên tư chịu sự kiểm tra của đại diện chính quyền. Đốc học điều hành trường phải có bằng tấn sĩ hay ít ra cũng tú tài. [4] Các viên chức theo dõi kiểm tra họ là quan lại thuộc ngành học chính, thanh tra tỉnh, do nhà vua bổ nhiệm. Thường thường ba tháng một lần, tất cả các trường học lại tổ chức luận văn (composition) theo lệnh quan tổng đốc. Sáu tháng một lần tổ chức sát hạch thi cử do viên chức được chỉ định tại mỗi tỉnh chủ tọa. Mục đích sát hạch là để giữ vững trình độ học vấn và lòng tôn kính văn học; cũng như để lựa chọn sĩ tử trong tỉnh gửi di dự các kỳ thi tú tài hay cử nhân, tổ chức mỗi ba năm. Đề mục thi là một bài diễn giải kinh nghĩa (maxime) và một bài luận văn (composition littéraire). Học sinh trúng tuyển có thể được thâu nhận vào các trường đại tập tại kinh đô, được cấp dưỡng, theo học, nhắm mục đích tối hậu dành được bằng cấp tiến sĩ. Chắc cũng cần phải nhắc lại rằng những kẻ thi đỗ khi trở về quê quán sẽ được rất trọng vọng. Sau cùng, đỉnh cao của hệ thống này là Quốc tử giám (Académie nationale), đặt dưới quyền quan Thượng thư Bộ Lễ, với chức năng ghi chép biên niên sử (annales), điều hành ngành học chính. Ở lớp cao, chương trình học chỉ quy vào văn học và lễ giáo Trung Quốc. Phép tính toán và khoa học bị loại bỏ. Quan lại nếu cần sẽ học các môn này ngoài vòng thi cử. Việc học của hoàng tộc được tổ chức theo một hệ thống riêng. Ngay khi đặt chân lên đất An Nam, để tiện việc truyền đạo, các giáo sĩ đã dùng chữ viết La-tinh ghi lại âm điệu tiếng nói bản xứ. Họ tạo ra chữ quốc ngữ và dựng trường học gần nhà cha sứ (presbytère) của họ. Do đó ngày 17 tháng 2 năm 1859, khi đô đốc Rigault de Genouilly chiếm Sài Gòn, ông đã gặp sẵn tại chỗ một trường chủng viện và một trường học lấy tên trường Bá Đa Lộc (école d'Adran) do các giáo sĩ Hội truyền giáo nước ngoài (Missions étrangères) thành lập, Bá Đa Lộc là tên của vị giám mục tạo dựng ra trường . Tại đây, dân bản xứ theo đạo Ca-tô học đọc và viết tiếng nói An Nam bằng chữ mẫu La-tinh; họ được học tiếng La-tinh đủ dùng để có thể giúp các giáo sĩ trong giáo sự, và ngay cả trở thành giáo sĩ bản xứ để truyền đạo Ki-tô. Người học đạo được học đôi ba chữ tiếng Pháp là chuyện hiếm. Các đô đốc, tư lệnh tối cao quân đội viễn chinh, phải nhờ Hội truyền giáo để có những thông ngôn đầu tiên cho quân đội chiếm đóng. Trong giai đoạn chiến tranh chinh phục, các vị tư lệnh không thể nghĩ đến việc tổ chức giáo dục, và chỉ cấp một số học bổng, trích từ quỹ quân đội, cho hai trường để đào tạo những phụ tá cần thiết, những người, hầu hết, chỉ nói được một thứ tiếng La-tinh bập bẹ. Năm 1861, đô đốc Bonnard tăng số học bổng cho trường Bá Đa Lộc . Thí sinh vào ngạch thông ngôn phải qua một kỳ sát hạch do nghị định ngày 1 tháng 12 năm 1861 ấn định . Vì nhân số thông ngôn bản xứ không đáp ứng nhu cầu, một trường dạy tiếng An Nam cho thông ngôn Pháp được thành lập tại Sài Gòn, những người này sau đó trở thành các giáo sư đầu tiên của trường. Nghị định ngày 8 tháng 5 năm 1862 của đô đốc Bonnard, ấn định quy chế của trường, theo đó trường sẽ phải đào tạo các thông ngôn gốc Âu xuất thân từ quân đội hay hải quân. Sau chín tháng đào tạo, các học viên thông ngôn phải qua một kỳ thi tuyển, nếu đỗ sẽ được bổ nhiệm làm thông ngôn phụ (aide-interprète), còn không sẽ được trả về quân ngũ. Trường học này tổ chức chủ yếu vì lý do hành chính, không có mục tiêu giáo dục. Đào tạo chỉ nhắm vài người theo đạo Ca-tô, các trường học xưa đã bị đóng cửa từ hơn ba năm, dân bản xứ không còn phương tiện nào để trau dồi đời sống văn hóa, tinh thần cũng như đạo đức. Đô đốc Bonnard, sau một năm tại chỗ, đã sáng suốt nhận định được những lợi ích có thể tạm thời rút ra từ hệ thống hành chính bản xứ cũ, cho khôi phục hệ thống này dưới quyền điều khiển của các sĩ quan quân đội chiếm đóng với chức vụ chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes)[5], và bao gồm việc tổ chức học chính (enseignement publique). Nghị định ngày 31 tháng 3 năm 1863 tái lập lại cách phân phối trường học cũ và các chức đốc học, giáo thọ, huấn đạo, phân định cấp bậc: học sanh, tú tài, cử nhơn [6], thiết lập lại các khóa thi ba năm, khóa đầu tiên sẽ được tổ chức vào năm 1864, và bổ nhiệm, bên cạnh viên chức học chính bản xứ, các thông ngôn để dạy chữ quốc ngữ (chữ viết La-tinh áp dụng vào tiếng An Nam). Thông thạo loại chữ viết này không bắt buộc, tuy nhiên trong các kỳ thi, ưu tiên vẫn được dành cho các thí sinh biết thứ chữ đó. Chi phí cho hệ thống tổ chức này được tài trợ, phần do lợi tức của tỉnh , phần do lợi tức hàng tổng. Cách tổ chức này chỉ có thể dành cho những người bản xứ muốn tham dự các kỳ thi; nó không giúp bao nhiêu cho việc phổ biến thứ chữ viết bằng chữ mẫu Âu tây. Ngày 18 tháng 7 năm 1864, đô đốc Lagrandière mở ra, tại các trung tâm tỉnh lị chính, các trường tiểu học dùng chữ mẫu Âu tây, và giao cho các thông ngôn, các thư ký đảm nhiệm dạy học, hai giờ mỗi ngày. Những người này được lãnh lương phụ trội thêm một franc mỗi ngày dạy học, và cứ mỗi học sinh biết đọc và biết viết thì được thưởng thêm 1 franc, 0,50 franc nếu chỉ biết đọc. Tiền học miễn phí; sách vở dụng cụ thông thường do nhà nước cấp; trường học được đặt dưới sự kiểm soát của các thanh tra, và phí tổn quản trị hoàn toàn do ngân sách địa phương tài trợ (chương 1 điều 3). Kết quả không phải chờ lâu, và sau Hội chợ Triển lãm năm 1866 tại Sài Gòn, nghị định ngày 21 tháng 3 trao tặng ba mươi hai bằng khen thưởng danh dự cho những học sinh có công trình được trưng bày, cùng với tiền thưởng từ 5 đến 15 francs. Cách viết chữ theo Âu tây bắt đầu được biết tới phần nào, nhưng tiếng Pháp không vì thế mà được phổ biến. Đô đốc Lagrandière quyết định thành lập một trường Pháp tại Sài Gòn, giao cho các tu sĩ theo đạo Ki-tô điều hành, và với sự đồng thuận của Hội truyền giáo, được tổ chức ngay trong trường Bá-đa-lộc. Nghị định ngày 1 tháng 2 năm 1866 chỉ định Ông Jaime, cha bề trên, làm hiệu trưởng trường Pháp, và năm tu sĩ làm phụ tá. Lương bổng được quy định trong ngân sách địa phương; số học bổng gia tăng; thể thức xin học bổng được quy định qua nghị định ngày 31 tháng 7 năm 1866. Kể từ nay, việc dạy tiếng Pháp cho dân bản xứ bắt đầu bắt rễ tại thuộc địa; nhưng hoàn toàn nằm trong tay các nhà truyền giáo và tu sĩ đạo Ki-tô. Những vị này mau chóng mở thêm các trường khác tại các trung tâm tỉnh lị quan trọng nhất, Mỹ Tho, Chợ Lớn và Vĩnh Long. Học bổng thuộc địa được cấp cho mỗi trường; tiền tài trợ sách vở dụng cụ thông thường, tính mỗi đầu học sinh, được cấp 0,5 rồi 1 franc. (Các nghị định ngày 31 tháng 9 năm 1867, 6 tháng 11 năm 1868, 23 tháng 8 năm 1870, 28 tháng 4 năm 1871). Trong năm năm, trường học do tu sĩ điều hành và được chính quyền thuộc địa tài trợ phát triển mạnh. Vào khoản thời gian đó, hội đồng tư vấn được thành lập để giúp ý kiến về các vấn đề giáo dục. Qua nghị quyết ngày 9 tháng 5 năm 1868 của hội đồng, trường chủng viện Sài Gòn sẽ dạy tiếng Pháp tại các lớp cao đẳng, do đó sẽ nhận mỗi năm một khoản tài trợ là 10 000 francs và việc điều hành quản trị và giáo dục của trường sẽ chịu sự kiểm tra của một ủy ban quản trị. Qua nghị định ngày 13 tháng 5, bổ túc ngày 3 tháng 6, đô đốc Ohier cho thi hành nghị quyết trên và chỉ định một ủy ban gồm năm người trong đó chỉ có hai người của chính quyến không phải là tu sĩ. Ủy ban có trách nhiệm thanh tra chủng viện ít nhất ba tháng một lần, và phúc trình kết quả lên quan toàn quyền. Kể từ ngày 28 tháng sáu, trường Bá đa lộc (collège d'Adran) được phép thu nhận học sinh trước đó đã bắt đầu theo học tại trường các tu sĩ dòng Seyne ( frères de la Seyne). Những học sinh này, được đào tạo để trong tương lai điều hành các trường học dưới quyền các bề trên của họ, lãnh mỗi ngày 1 franc tài trợ tiền chi phí ăn mặc. Trường La Sainte-Enfance, là trường duy nhất, từ ngày chiếm đóng, được giao phó dạy dỗ nữ sinh và đã được cấp nhiều học bổng, nay được tăng thêm một trăm học bổng. Hệ thống giáo dục bản xứ đã thành hình. Cùng lúc đó, dân số người Âu tăng rất nhiều, các gia đình mỗi ngày một thêm đông. Hội đồng tỉnh , vừa được tổ chức lại năm 1867, trong một thỉnh cầu, xin mở một trường riêng phi tôn giáo (laïque) cho con em những người Âu. Đô đốc Lagrandière, ngày 10 tháng 2 năm 1868, ký một nghị định thành lập một trường học tỉnh (école municipale)[7] gồm học sinh ngoại trú, đặt dưới sự kiểm tra của Chánh nội vụ (Directeur de l'intérieur), và sự kiểm tra trực tiếp của chánh công an tỉnh (commissaire municipal). Đây là bước đầu của nền học chính phi tôn giáo (enseignement laïque). Trường học có ba phân ban: 1-Trường tiểu học Âu châu (école primaire européenne) với một lớp sơ đẳng (cours élémentaire) miễn phí và một lớp cao đẳng (cours supérieur) có học phí. Chương trình học là chương trình các trường tiểu học tại Pháp, cộng thêm những khái niệm về lịch sử cổ đại và hiện đại, về khoa học tự nhiên (sciences naturelles). Cha mẹ học sinh các lớp cao đẳng có thể trả thêm tiền để cho con em học thêm ngoại ngữ, tiếng La-tinh, Hy-lạp , v.v...; 2-Trường thông ngôn Âu châu, trước đây mang tên trường trung học An Nam (collège annamite): Trường này tiếp tục điều hành như trước, nhưng được đặt dưới sự kiểm tra của hiệu trưởng trường học tỉnh (directeur de l'institution municipale) , vị này có trách nhiệm dạy tiếng Pháp cho học viên thông ngôn. Các học viên được thâu nhận không phân biệt quốc tịch; 3-Một trường cho những người thành niên (adulte) bản xứ. Mọi người sống tại địa phương (résident) [8] cũng như mọi người bản xứ có thể theo học. Trường cấp mười hai học bổng cho học viên ngoại trú. Chi phí trường được tài trợ , phần do ngân sách địa phương, phần do ngân sách tỉnh. Chính quyền cũng không quên quyền lợi quần chúng, cố gắng tối đa tìm cách thay chữ nho bằng chữ viết Âu. Đây là một tiến bộ thực sự, vào thời đó. Hệ thống giáo dục khởi đầu năm 1864 mỗi ngày mỗi phát triển. Sắc lệnh ngày 22 tháng 3 năm 1867 giao cho ông Luro, chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes), thanh tra các trường tiểu học, đang nhanh chóng gia tăng số lượng, và mười lăm ngày sau (7 tháng 5), một sắc lệnh mới quy định một kỳ thi cho những người An Nam muốn vào ngạch giáo dục. Học viên có lương bổng , chia làm hai hạng, và sau một khoá thực tập được lĩnh chứng chỉ dạy học; áp dụng biện pháp chuyển tiếp, những người đương tại chức phải dự thi trong thời hạn hai tháng. Chương trình rất đơn giản, cho học viên hạng nhì ( 2e classe ) chỉ gồm có biết đọc và viết chữ quốc ngữ, bốn phép tính và vài khái niệm đo lường. Cho hạng nhất ( 1e classe ) phải làm thêm một bài dịch.. Các trường cho người thành niên, với chương trình học gồm học viết với chữ mẫu Âu tây, học những khái niệm cơ bản của tiếng Pháp, lần lượt được mở ra tại Cần Thơ, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, Ích Thạnh (đô đốc Ohier 17 thàng 2 năm 1869), học sinh trường tiểu học có thể tham dự. Các trung tâm Long Hưng, Mỹ Thuận, Cù lao Mây , Bò Hút, v.v... [9] cũng mở trường tương tự trong tháng 11 cùng năm. Có trường dĩ nhiên cần phải có phương tiện điều hành. Ngày 5 tháng 6 năm 1868, một ủy ban do Đức Ông Miche chủ toạ, trong đó có Ông Philastre đại diện chính quyền và là người duy nhất không phải tu sĩ, được thành lập với chức năng soạn thảo một quyển văn phạm và một quyển từ điển giúp học sinh học tiếng Pháp. Việc soạn thảo đã khởi công, và ngày 25 tháng 9 năm 1869 Ông Poteaux, thông ngôn hạng nhất, được giao phó độc quyền phổ biến sách cho các trường bản xứ. Trước đó một tháng, để khuyến khích tinh thần thi đua giữa các trường học, chính quyến quyết định tổ chức ba tháng một lần, trong mỗi sở tham biện (inspection), một kỳ thi giữa học sinh trường tiểu học và học sinh các trường đạo. Các giải thưởng bằng tiền bạc được trao cho những học sinh giỏi nhất. Phần thưởng được tăng gấp đôi nếu người lãnh thưởng có thể dịch một bài tiếng An Nam sang tiếng Pháp và ngược lại. Đó là tình trạng nền học chính tại Nam Kỳ cho tới cuối năm 1870. Năm 1871, Sau khi chính phủ cộng hòa được thành lập , và hòa bình trở lại [tại Pháp] [10], guồng máy hành chính và học chính tại Nam kỳ có xu hướng tự do chủ nghĩa hơn (libéral). Chính quyền địa phương không muốn lệ thuộc vào hệ thống giáo dục của giáo hội nữa, muốn tự mình tuyển chọn và đào tạo giáo viên. Hệ thống học chính phi tôn giáo bắt đầu triển khai. Ngày 10 tháng 7 năm 1871, đô đốc Dupré lấy ba quyết định quan trọng. Ông thành lập một trường sư phạm thuộc địa. Một trường tiểu học được cho tùy thuộc trường này [11]. Hiệu trường và ba giáo sư phải có bằng cấp đại học, một bằng nghiệp vụ (brevet de capacité) hay chức vụ thông ngôn. Ba người phụ giáo bản xứ là giáo viên tiểu học hạng nhất (instituteur de 1 ère classe). Hạn tuổi để thâu nhận vào trường là 16 tuổi tối thiểu , 25 tuổi tối đa. 60 học sinh của trường theo quy chế nội trú và hoàn toàn được chính quyền thuộc địa chu cấp nuôi dưỡng ăn mặc. Chùa Barbet [12] được giao cho trường làm cơ sở; mỗi thí sinh được nhận vào trường lãnh 25 franc làm chi phí nhập trường. Cùng ngày, quan toàn quyền ký một nghị định thành lập một ủy ban với trách nhiệm soạn thảo chương trình học cho trường mới và soạn một quyển sách cho giáo viên. Một ủy ban kiểm tra cũng được thành lập, trong đó đại diện giáo hội chỉ gồm có một tu sĩ bề trên của các trường đạo. Sau hết, cùng ngày hôm đó, các giáo viên được chia thành ba hạng; lương bổng cao hơn trước và cứ mỗi ngày dạy học giáo viên được thêm 1 franc. Ngược lại, trình độ thi tốt nghiệp được nâng lên khá cao, và chương trình thi nặng hơn (nghị định ngày 31 tháng 7 năm 1871). Hai bằng cấp bản xứ được quy định. Bằng sơ đẳng bắt buộc cho giáo viên hai hạng thấp , và bằng cao đẳng cho giáo viên hạng 1. Nhiều biện pháp, khích lệ và tài chính, được dành cho học viên của trường sư phạm mới mở ( 22 tháng 8 năm 1872) với sĩ số tăng thêm 20 người (1 tháng 10 năm 1872) , và để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản trị trường, một phần ngân sách được ứng trước cho hiệu trưởng trường ( 3 tháng 5 năm 1873). Tổ chức dạy tiếng Pháp chưa được chú trọng đồng đều cho dân chúng mọi địa hạt (arrondissement). Các thanh tra là những người đầu tiên lên tiếng báo động tình trạng này và xin cải tổ toàn bộ hệ thống. Dù hết lòng hết sức cố gắng, các thư ký và thông ngôn được chỉ định điều hành trường , vì quá nhiều việc, không thể chăm sóc đầy đủ cho học sinh. Ngày 13 tháng 1 năm 1873, để thống nhất tất cả các cơ cấu hiện hành, đô đốc Dupré chỉ định một ủy ban đặc biệt với trách nhiệm soạn thảo một đề án tổ chức hệ thống giáo dục cho Nam kỳ, nhất là cho các trường các tỉnh miền trong, chương trình học, sách học và phương pháp dạy áp dụng chung cho mọi trường. Ủy ban đã bỏ thỉ giờ nghiên cứu đế án khá lâu, và phải chờ mưới tám tháng sau, ngày 17 tháng 11 năm 1874, đô đốc Dupré mới ký nghị định tổ chức lại toàn bộ hệ thống học chính . Nghị định công bố giáo dục công hoàn toàn miễn phí và tự do, được quy định bởi những điều lệ tổng quát hiện hành tại Pháp, được giao cho các giáo sư có đầy đủ điều kiện về chức vị, bằng cấp và bảo đảm khả năng theo điều luật năm 1850. Nền học chính được đặt dưới quyền trực tiếp của Chánh nội vụ (Directeur de l'intérieur), và sự kiểm tra trường trại trong địa hạt thuộc trách nhiệm của viên chức cai trị hạt (administrateur). Thêm váo đó, một ủy ban thường trực gồm đại diện chính quyền, đại diện trường công phi tôn giáo, và đại diện trường đạo, có nhiệm vụ theo dõi sự điều hành của hệ thống học chính , nghiên cứu cách cải thiện hay những sửa đổi cần thiết, và đề nghị lên cấp chính quyền cao hơn. Các trường học chữ nho tại các làng bị hủy bỏ, hay đúng hơn bị gom về các thị xã để biến thành các trường học chữ mẫu La-tinh. Tại sáu trung tâm thị xã lớn nhất Nam kỳ , Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre và Sóc Trăng, mỗi nơi có một trường Pháp. Nhân viên các trường này gồm một hiệu trưởng người Pháp, nếu có thể có bằng cấp đại học, và biết nói tiếng An Nam, và các giáo viên biết nói tiếng Pháp. Học sinh theo quy chế nội trú, phí tổn ăn mặc được chính quyền thuộc địa tài trợ 10 francs một người mỗi tháng. Trường có thể thu nhận, không giới hạn , các học sinh tự do ngoại trú. Một bản điều lệ giản lược được áp đặt cho các trường; nó quy định một hệ thống kỷ luật, một bảng danh dự , v.v... Sau ba năm học, học sinh phải qua một kỳ thi ra trường. Những học sinh trung bình, được công nhận đủ khả năng lãnh một chức vụ thấp trong cơ quan hành chánh, có thể được thu nhận vào làm việc , với lương bổng 360 francs một năm. Những học sinh xềp hạng cao tiếp tục theo học tại trường trung học bản xứ (collège indigène) được thành lập thay thế trường sư phạm bản xứ (école normale indigène). Trường này sẽ phải đón nhận 120 học sinh nội trú, có học bổng thuộc địa, mỗi người được lãnh 20 francs khi nhập trường, dành cho phí tổn ăn ở. Nhân viên trường gồm một hiệu trưởng và nhiều giáo sư người Âu, và nhiều giáo viên bản xứ hạng nhất phụ tá. Chương trình học ba năm, mỗi cuối năm có một kỳ thi, ai không đủ sức thì bị đuổi. Chương trình dạy tiếng Pháp khá cao và nhắm luyện thi bằng cao đẳng tiểu học (brevet supérieur) là bằng bắt buộc phải có để làm việc trong hành chính hay ra dạy học. Dù thành phần đại diện giáo hội khá đông trong ủy ban , nhưng các tu sĩ trong hội truyền giáo không thỏa mãn với giải pháp được đề ra, đưa đến tranh cãi gay gắt giữa họ và nhân viên chính quyền, và khiến thống sứ phải can thiệp. Khoản chi phí dành cho giáo dục được ghi vào ngân sách 1875 là khoảng 200 000 francs (Số tiền này bao gồm hai học bổng cho trường Taberd, do giáo sĩ Kerlan của Hội truyền giáo điều hành. Học bổng này, lần đầu tiên được nói tới, dành cho con em công chức người Pháp). Hai năm sau, trường trung học bản xứ rời sang cơ sở vừa được xây dựng và lấy tên là trường trung học Chasseloup-Laubat. Nghị định ngày 6 tháng 1 năm 1876 ấn định cho học sinh một số tiền nhập trường là 15 francs và mỗi tháng một số tiền tương tự để chi tiêu ăn mặc. Những biện pháp này đã nâng trình độ trường lên; khả năng nghề nghiệp nhân viên bản xứ cũng cần được nâng cao hơn và để khiến họ phải cố gắng đạt mục tiêu đó, một quy chế mới về xếp hạng, thăng cấp cần được quy định. Chức vụ giáo sư bản xứ được quy định (7 tháng 2 năm 1876), với những thể lệ thi cử mới. Những thể lệ thi cử này đòi hỏi một một kiến thức khá toàn diện, một cố gắng học hỏi nặng hơn, nhưng để đền bù người bản xứ được hưởng những quyền lợi tương xứng. Thanh tra các trường học được giao cho một ủy viên cấp cao nha học chính. Vị này được miễn mọi bưu phí, thư từ và điện tín, cho các trao đổi liên quan đến nhiệm vụ này. Mỗi ba tháng, vị này phải nhận được các tài liệu phúc trình. Khởi đầu triển khai tổ chức tất cả mọi cơ cấu điều hành vật chất kỹ thuật liên quan đến trường học còn nằm trong tay các viên chức hành chính được giao lại cho thanh tra học chính. Chẳng bao lâu, những biện pháp này không đáp ứng nổi nhu cầu tổ chức hành chính ngày mỗi nặng. Số học sinh của trường trung học gia tăng rất cao, các trường tiểu học do người Pháp điều hành cũng nhân lên theo tỷ lệ. Cần phải có những biện pháp mới. Vấn đề được đưa lên ủy ban cấp cao, và, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng , ủy ban trình lên Thống sứ chuẩn đô đốc Laffont một bản sơ thảo để ký , trở thành nghị định tổ chức (arrêté organique) 17 tháng 3 năm 1879. Nghị định này bắt đầu được áp dụng vào năm 1880, và , trừ vài sửa đổi nhỏ, quy định cho đến ngày hôm nay tổ chức học chính . Hệ thống học chính được chia làm ba cấp, gần tương đương với hệ thống các trường sơ đẳng tiểu học, và các trường cao đẳng tiểu học với chương trình nới rộng. Ở cấp thứ nhất, chỉ có chương trình sơ học tiếng Pháp, nghĩa là sau ba năm học trẻ em phải nghe và viết được vài câu đơn giản, trả lời những câu hỏi thông thường bằng tiếng Pháp, đọc được một trang sách sơ đẳng, và biết bốn phép tính. Cấp thứ hai nới rộng chương trình chủ yếu về tiếng Pháp, và các bộ môn áp dụng của số học và hình học. Cuối cùng, cấp thứ ba nới rộng hơn nữa chương trình học tiếng Pháp và thêm các khái niệm cơ bản của khoa học vật lý, khoa toán và khoa học tự nhiên; trong chương trình không có sử học, ngay cả sử xứ Nam kỳ. Khuôn khổ tổ chức (cadre), cấp bậc (hiérarchie), phương thức thăng chức của nhân viên Âu và bản xứ được quy định. Tổ chức học chính được giao cho một giám đốc nha học chính đặt dưới quyền quản trị của Chánh nội vụ, và nếu cần lấy một biện pháp nào thì phải trình lên một ủy ban thường trực cấp cao. Từ đây, nền giáo dục công bắt đầu phát triển. Các trường Pháp mỗi ngày một đông học sinh, phạm vi hoạt động của nhân viên mở rộng theo đà phát triển. Trường Trung học Mỹ Tho được thành lập qua nghị định của Ông Le Myre de Vilers (1880). Các trường tổng (écoles cantonales) được mở ra để phổ biến nhanh chóng chữ viết An Nam bằng mẫu chữ Pháp. Việc thanh tra các trường này được giao cho một viên chánh thông ngôn người Âu. Các trường của tu sĩ đạo ki-tô, dù còn được chính quyền thuộc địa trợ giúp qua các học bổng cấp phát rộng rãi cho học sinh, vẫn theo nhau đóng cửa tại Mỹ Tho và Vĩnh Long (1881). Năm 1883, các tu sĩ từ bỏ luôn cả trường Trung học Bá đa lộc. Giáo dục thuộc địa cho trẻ em phái nam hoàn toàn trở nên phi tôn giáo (laïque) và việc thanh tra tất cả các trường được giao cho một nhân viên nhà nước người Âu đã qua một kỳ thi tốt nghiệp. Ba trường trung học cấp hai được đặt dưới quyền trực tiếp của giám đốc nha học chính, ba trường đạo giữ quy chế độc lập : trường Taberd tại Sài Gòn, các chủng viện tại Cù lao Giêng và Sài Gòn. Cũng cần phải nhắc đến các trường sơ đẳng do Hội truyền giáo mở trong các giáo xứ, gần nơi cư trú của giáo sĩ. Trong các trường này, trẻ em chỉ học đọc và đọc kinh. Không đầy một phần mười học được dăm ba chữ tiếng Pháp. Trợ cấp cho trẻ em phái nam các trường đạo hầu hết bị bãi bỏ. Chỉ có học bổng cho học sinh trường Taberd còn được cấp, và phải đợi hai năm sau, để trả công cho trường đạo nhỏ các tỉnh phía trong, về việc truyền bá chữ viết theo chữ mẫu La-tinh, một số tiền trợ cấp khoảng từ 5000 tới 6000 francs được tái lập lại cho Hội truyền giáo. Nền giáo dục thuộc địa phát triển; số học sinh ghi tên học tăng rất cao. Nhiều trường phụ được thiết lập bên cạnh ba trường trung học lớn. Thí sinh ghi tên thi các bằng cấp bản xứ càng ngày càng đông. Sự tăng trưởng này được khuyến khích qua những biện pháp hạ thấp trình độ thi cử và giới hạn tuổi, xu hướng chú trọng lượng hơn là phẩm. Cũng phải công nhận là việc phát triển hệ thống đường làng xã, các công ty độc quyền (régie), chính sách thuế trực thu (contributions directes) và những yêu cầu dồn dập của cơ quan hành chính Bắc kỳ, khiến phải đào tạo nhiều và nhanh. Trong năm 1884 và 1885, nhiều trường mới được giao cho người Âu. Năm 1885, Tây Ninh và Gò Công có được trường ngoại trú. Năm 1886, Sa Đéc mở trường. Năm 1887, ba thanh tra thay phiên nhau đi các trường và số giáo sư Âu được định là 80 người. Con số này bị giảm đi ngay sau đó. Vào kỳ nhập học 1888, Thủ Đầu Một, Bà Rịa, Cần Thơ mở trường tiểu học do giáo sư Pháp điều hành. Mỗi trường có khoảng một trăm học sinh, tám phần mười theo học chăm chỉ. hai trường khác, Châu Đốc và Cái Bè, được mở tháng 1 năm 1889, và hai trường nữa nằm trong dự án xây cất của ngân sách cùng năm. Dù có nhiều mò mẫm và do dự, việc truyền bá chữ Pháp phát triển trong chiếu hướng tốt. Kết quả có lẽ sẽ còn cao hơn rất nhiều nếu ngay từ đầu và trong thời gian vừa qua, kinh nghiệm hiểu biết về bản xứ được xem trọng trong công cuộc tổ chức hệ thống học chính. Đánh giá những biện pháp thời tạo dựng Đông Dương không phải là việc của chúng ta; chúng ta chỉ có thể liệt kê và nhận định các kết quả, đứng về mặt học chính. Đầu tháng 1 năm 1888, nha học chính (direction de l'enseignement) bị bãi bỏ, quyền hạn của giám đốc được phân phối cho nhiều người, nhưng trong thực tế sự phân định không được rõ rệt chính xác. Nghị định ngày 15 tháng 1 năm 1888 đặt các trường các tỉnh dưới quyền điều khiển trực tiếp của viên chức cai trị địa phương, và các trường trung học tại Sài Gòn dưới quyền Chánh thư ký (Secrétaire général) Nam kỳ. Ít lâu sau, một nghị định bổ nhiệm hiệu trưởng trường Chasseloup Laubat làm giáo sư-cố vấn (professeur conseil); sau cùng, một nghị định quy định tiền phụ cấp cho trưởng phòng 3 của cơ quan địa phương tổ chức việc học chính. Không có một tài liệu nào phối hợp tất cả các biện pháp kể trên, do đó nhiều điều luật chủ yếu của nghị định tổ chức ngày 17 thàng 5 năm 1879 xem như bị hủy bỏ. Phòng 3 (3e bureau) điều hành hầu hết guồng máy tổ chức học chính, đề nghị thăng thưởng nhân viên và quyết định phân phối một phần những vật dụng thông thường; về mặt vật chất và hành chính như vậy tạm xem là hoàn tất. Phần chuyên môn lẽ ra thuộc quyền hạn của giáo sư cố vấn (professeur-conseil). Nhưng những quyền hạn này chưa bao giờ được quy định rõ ràng, do đó viên chức này không thể lấy bất cứ một sáng kiến nào. Vị này không có quyền liên lạc trực tiếp với các giáo sư phái về các tỉnh, cũng như các viên chức cai trị hành chính. Quyền lực không đủ rõ rệt để được thông tin về những biện pháp được áp dụng tại các trường tỉnh, vị này không thể ra lệnh, và ngay cả cho ý kiến cố vấn về chuyên môn, cho các hiệu trưởng các trường. Ông ta chỉ có thể cho ý kiến khi chính quyền trung ương đưa ra câu hỏi. Ngoài ra, ông ta cũng còn trách nhiệm phân phối một phần các dụng cụ thông thường của nhà trường, đặc biệt là sách học. Chức vị thanh tra các trường đã bị bãi năm 1888, cùng lúc với chức vị giám đốc nha học chính. Nghị định ngày 17 tháng 3 năm 1879 đã quy định một ủy ban cấp cao học chính. Thành phần ủy ban được quy định lại nhiều lần. Ủy ban do Chánh nội vụ (Directeur de l'intérieur) chủ tọa. Từ hơn hai năm nay ủy ban không được triệu tập. Nhân số người Âu đã bị giảm nhiều đợt; thay vì 72 nhân viên, nhân số bây giờ chỉ còn 61, trong đó 21 đang nghỉ phép bên Pháp và 5 được biệt phái đi các cơ quan khác. Tất cả chỉ còn 34 nhân viên học chính lo điều hành và giảng dạy tại các trường thuộc địa. Việc điều hành học chính không còn được đảm bảo. Trong năm 1888 và 1889, các trường 200 học sinh chỉ được một giáo sư; các trường có hơn 200 học sinh chỉ được 2 giáo sư, và trường trung học Mỹ Tho, bao gồm cả trường phụ thuộc, chỉ có được một hiệu trưởng và 3 giáo sư. Hai trường do người Pháp điều hành phải chuyển lại cho giáo viên An Nam. Các nhân viên phụ tá bản xứ tìm cách rời bỏ ngành học chính vì tình trạng thăng thưởng, trước đây vốn rất chậm và rất khó, giờ lại còn chậm hơn khi cấp trên trực tiếp và chuyên môn của họ, người có thể đề nghị việc thăng thưởng, có khả năng chuyên môn để bảo vệ quyền lợi họ, bị bãi chức. Họ tìm trong các cơ quan hành chính địa phương hay ở Bắc kỳ những công việc lương cao hơn. Những kẻ thành công tìm được đường ra đi không phải là những người yếu kém nhất, vì trong nghề nghiệp thông ngôn hay thư ký, họ là những người có nhiều khả năng giúp việc hơn là những kẻ tầm thường. Hiệu trưởng các trường trung học hay tiểu học, không hướng dẫn chuyên môn, không thanh tra học chính, vẫn làm tròn nhiệm vụ và lôi cuốn được đông đảo học sinh tới trường. Chương trình học không còn được rõ ràng chính xác nữa. Những chương trình quy định năm 1879, theo lẽ còn hiệu lực, đã bị bãi bỏ theo lệnh các giám đốc nha học chính vì các chương trình này bao gồm một phần đầu sơ học chủ yều dạy bằng chữ quốc ngữ, nhưng chúng cũng chưa dứt khoát được thay thế. Những chương trình do các giám đốc học chính soạn ra và được áp dụng khi các vị này còn tại chức, nay bị rơi vào quên lãng tại nhiều trường, vì chúng chưa bao giờ thực sự trở nên bắt buộc bằng biện pháp hành chính. Gần đây, hiệu trưởng một trong những trường quan trọng đã nêu lên tình trạng này và có một điều chắc chắn là, dù có nhiệt tình, nhiều hiệu trưởng chỉ chú tâm lo cho các lớp đạt kết quả dễ thấy, bỏ bê các lớp khác, và như vậy đi ngược lại mục đích chính của giáo dục, hy sinh tương lai lâu dài cho kết quả nhất thời. Nhắc đi nhắc lại tình trạng này chẳng được gì hơn, ai cũng thấy mọi điều bất lợi. Lần tìm ra manh mối đích thực chẳng khó khăn gì; vì, tuy tình trạng của nền học chính trước năm 1888 có vẻ tốt đẹp , điều chắc chắn là kết quả , dù xuất sắc về lượng, vẫn còn có thể tốt đẹp hơn nhiều. Những nguyên do chính của tình trạng này là vì việc điều hành học chính được giao cho hai nhân vật tên tuổi thuộc hai địa hạt chuyên môn khác xa nhau trong tổ chức hành chính tại Pháp, một vị của học chính cấp đại học, một của cấp tiểu học. Cả hai vị từ Pháp qua mang theo một chương trình soạn sẵn, không đếm xỉa gì đến bối cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán, đến cá tính của người An Nam, đến nhu cầu của địa phương. Cả hai đã gặp nhau và đồng thuận cấm dùng tiếng bản xứ trong trường học, ngay cả cho trẻ em mới cắp sách đến trường. Khó có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp, không biết một chữ tiếng An Nam, bị buộc phải giảng dạy cho 40 hay 50 trẻ em không biết một chữ tiếng Pháp, lại còn cấm không được nhờ một ai làm trung gian trợ giúp. Phương thức này có thể giúp thu lượm được vài kết quả cá nhân hiếm hoi nhưng lại làm mất thì giờ cho cả lớp. Mục tiêu của giáo dục như vậy là thất bại.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:19:25 GMT 9
Với hệ thống này, để cho số thí sinh không bị sút so với những năm trước, trình độ thi cử đã phải hạ thấp cho dễ hơn, và hậu quả là phải nhận cho đỗ bằng cao đẳng (brevet) những học sinh chỉ vừa xít xoát đủ sức làm bài luận văn trình độ năm thứ nhất lớp cao đẳng bản xứ.
Nhìn từ khía cạnh nào đi nữa, điều chắc chắn là nha học chính phải được thành lập lại và giao cho một người , vừa có khả năng chuyên môn, vừa có kinh nghiệm sống điạ phương, hiểu biết người An Nam, phong tục tập quán và cá tính của họ. Kinh nghiệm trên đã chứng minh rằng một vị giáo sư tu từ học (professeur de rhétorique) hay giáo sư đại học xuất sắc bên Pháp và một hiệu trưởng giỏi của trường sư phạm, không thể điều hành một cơ quan trong một xứ hoàn toàn khác biệt về phong tục và tiếng nói. Đó là kết luận của Hội đồng thuộc địa (Conseil colonial) và Ông Chánh thanh tra Bideault qua lần thanh tra thuộc địa cuối. Các cơ quan cấp cao của Chính quyền , thấy rõ tình trạng yếu kém của hệ thống học chính, trong khi chuẩn bị ngân sách, đã dự liệu bổ nhiệm lại một Giám đốc nha học chính.
Có lẽ cũng nên tái lập lại ủy ban cấp cao học chính và mời vào ủy ban các người đại diện chính quyền trung ương, đại diện chính quyền tỉnh, những nhân viên thuộc ngành giáo dục, những nhân vật tên tuổi người Pháp và vài cựu công chức bản xứ. Ủy ban này, gồm những người biết rõ nhu cầu bản xứ, có thể giúp ý kiến cho giám đốc nha học chính.
Ngay từ đầu, giám đốc nha học chính cũng như ủy ban cấp cao cần phải lưu tâm đến nền móng của hệ thống, là tổ chức các trường học gần các gia đình , tức là các trường hàng tổng (écoles cantonales). Được thành lập từ năm 1881, các trường hàng tổng đã phát triển mạnh về cơ sở vật chất nhưng về chuyên môn giáo dục vẫn còn chưa được chú trọng. Phải làm cho chúng trở nên thực sự là trường cấp 1 (1er degré) theo quy định của nghị định 1879.
Phải soạn cho các trường một chương trình học với mục đích truyền cho người bản xứ, qua ngôn ngữ của họ, những khái niệm cơ bản cần thiết để sống và tuân theo thể chế do mục tiêu đã được vạch ra và bắt họ phải theo từ ngày chiếm đóng, mục tiêu do nhà nước Cộng Hòa Pháp định ra: văn hóa của dân tộc bị thống trị và sự truyền bá của tư tưởng và tiếng Pháp. Chương trình này có thể sẽ phải như sau :
1. Tập đọc và tập viết ( quốc ngữ, và tập phát âm tiếng Pháp). Ám tả bằng chữ quốc ngữ. Giảng văn bằng chữ quốc ngữ, dịch những chữ thường dùng sang tiếng Pháp, các chữ đã dịch được đọc lên, rồi viết lên bảng và viết lại dưới hình thức ám tả;
2. Tính nhẩm bằng quốc ngữ, tập đếm bằng tiếng An Nam và bằng tiếng Pháp, các phép cộng, trừ, nhân, chia bằng tiếng An Nam và bằng tiếng Pháp. Khái niệm hệ thống đo lường mét bằng quốc ngữ và bằng tiếng Pháp, đo chiều dài, đo diện tích, đo khối lượng đơn giản bằng tiếng An Nam và bằng tiến Pháp. Các bài toán áp dụng , trình độ dễ. So sánh hệ thống đo lường bản xứ và hệ thống đo lường Pháp. Các bài tính lãi xuất đơn giản.
3. Khoa học tự nhiên trên những đề tài thực tiễn và phù hợp với bản xứ , bằng tiếng An Nam. Những chữ thường dùng quan trọng sẽ được dịch sang tiếng Pháp để cho trẻ em thu tập, chậm nhưng chắc chắn, một vốn từ ngữ rất thực tiễn.
4. Vài khái niệm về sử xứ An Nam
5. Địa dư xứ Đông Dương
6. Chữ Nho.
Thời gian học là 3 hay 4 năm, tùy theo tuổi trẻ em (từ 8 đến 12 tuổi).
Hiệu trưởng trường địa hạt (école d'arrondissement), luôn luôn phải là người Âu, sẽ thanh tra các trường này. Vị này lựa chọn trong số những học trò giỏi nhất thuộc lớp năm thứ 3 và năm thứ 4 của trường hàng tổng, để mỗi năm có thể lập thành lớp đầu tiên của trường Pháp tại thị xã của địa hạt, 20 tới 25 học sinh chẳng hạn. Những học sinh xem ra không đủ sức tiếp tục học lên phải đem trả về gia đình một khi đã biết đọc, biết viết, biết tính toán bằng tiếng bản xứ và có một vốn nhỏ các từ ngữ thực tiễn bằng tiếng Pháp.
Các trường cấp 1 này thuộc quyền quản trị trực tiếp của chánh tham biện (chef d'arrondissement). Hệ thống này đã được nhiều chánh tham biện tán thành; nó vẫn còn được áp dụng trong vài địa hạt , và nói chung cho đến ngày hôm nay không thấy cơ quan hành chính tỉnh có điều gì phiền trách.
Một mối lo duy nhất: đó là sức hiểu biết quá non nớt của số đông giáo viên trường hàng tổng. Lo như vậy có vẻ có căn cứ, chỉ vì ta cứ nghĩ trường hàng tổng hay trường làng phải là trường Pháp giống như các trường địa hạt. Thực ra, vẫn có thể tính rằng, trong giới hạn vai trò dành cho giáo viên trường hàng tổng, một giáo viên kém, được hướng dẫn khéo, được kiểm soát chặt chẽ và được thanh tra đều đặn có thể đạt được kết quả mong đợi.
Cao hơn các trường hàng tổng là trường địa hạt, được giao cho giáo sư người Pháp, như đã nói ở trên . Chương trình của các trường này phải là chương trình do nghị định 1879 quy định cho các trường cấp 2 (2e degré). Bàn vào chi tiết sợ quá dài trong khuôn khổ bài viết này, việc phân chia chương trình trong ba năm học là việc của giám đốc nha học chính và ủy ban cấp cao. Ngày nay, số học sinh các trường này đã giảm đi khá nhiều do hệ thống tổ chức và các biện pháp về giáo dục sơ học đã được nói tới ở trên. Hơn nữa, cấp học này kết thúc bằng một kỳ thi lấy chứng chỉ học lực (certificat d'études) .
Có lẽ cũng phải xét xem có nên đưa vào chương trình một số kiến thức sơ khởi của ngành học nghề và nghề nông . Tại xứ này, thành kiến với công việc tay chân còn sâu đậm hơn bên Âu châu và một học sinh khi bước chân ra khỏi làng là suy tính phải trở thành công chức và ngay cả cha mẹ cũng chỉ mong có vậy ; trở về để cày ruộng hay làm nghề tay chân là một cái nhục. Ngay từ tuổi ấu thơ, phải cho trẻ em hiểu rằng cuốc đất hay đục đẽo cũng chẳng hèn kém gì hơn cầm bút.
Hơn nữa , ta cũng có thể tìm hiểu rõ hơn năng khiếu của mỗi trẻ em vào cỡ tuổi 12 hay 13, và hướng dẫn chúng về một trong những ngành học nghề chuyên môn, hệ thống học nghề này có thể là kết cục hoàn mãn cho hệ thống giáo dục dịa phương của chúng ta.
Những ngành học này, tùy theo nhu cầu của ngân khố, có thể tập trung vào một cơ sở duy nhất, hoặc rải ra các trường trại chuyên môn khác nhau. Giải pháp thứ nhất có lẽ hay hơn, nhất là đứng về mặt ngân sách, vì nhiều ngành khác nhau có thể cùng học chung một số bài giảng, và có chung nhiều giáo sư. Các ngành nghề chuyên môn có thể là
1. lớp dạy kỹ thuật chuyên môn hay nghề nông,
2. lớp chuẩn bị cho ngành nghề giáo dục;
3. lớp chuẩn bị trở thành nhân viên hành chính tại Nam kỳ và ngay cả cho toàn cõi Đông Dương vốn sẽ còn cần sự trợ giúp của chúng ta về nhân sự trong thời gian khá lâu nữa.
Để đạt mục tiêu này, chỉ cần sửa đổi nhẹ bớt chương trình cấp 3 (3e degré) của nghị định 1879, và thí sinh phải qua một kỳ thi rất nghiêm túc. Số học viên được thu nhận phải rất giới hạn. Ủy ban cấp cao sẽ nghiên cứu trong chi tiết phương cách áp dụng dựa trên các đề án được trình lên sau này.
Có thể tổ chức ngay trong trường cấp 3 một phân ban đặc biệt cho con em người Pháp và trẻ em lai, giống như tại trường trung học Alger (lycée) và các trường trung học (collège) bên Algérie, Tunisie, Ấn độ v.v... Con em dân thuộc địa có thể theo học dễ dàng các lớp Pháp văn; chỉ có nhà ngủ, nhà ăn, phòng học là riêng rẽ. Chuyện này chẳng có gì để bàn cãi nhiều, vì thực ra đã được áp dụng tại thuộc địa, con em người Âu trước nay vẫn theo học trường Sài Gòn và trường Taberd trong đó đa số học sinh là người lai hay người An Nam. Những trường này lại còn được cơ quan hành chính sở tại tài trợ hậu hĩnh qua việc cấp học bổng. Với phương thức trên, học phí có thể bớt đi (nên nhớ - Một học bổng cho trẻ em lai tốn 720 francs nếu theo học tại trường Taberd, khoảng 250 francs tại trường trung học thuộc địa.)
Trong bài khảo luận nhỏ này, ta không thể đi quá sâu vào chi tiết; kinh nghiệm ngành học chính nhắc lại ở đầu bài giúp ta chuẩn bị tương lai; chính lịch sử và kinh nghiệm đã đưa đến hệ thống vừa được trình bày ngắn gọn ở trên. Hệ thống này có gây tốn kém hơn cho ngân sách hay không ? có lẽ không, và ngược lại chi phí có khả năng giảm đi vì số học bổng sẽ dần dà bớt đi. Hiện nay, số học bổng cấp cho sang Pháp hay cho theo học tại các trường công hay tư quá nhiều, tiền học bổng cho trẻ em chưa biết đọc ngang với tiền học bổng cho học sinh sắp ra trường, không khác biệt. Các lớp học sơ đẳng đã được đưa đến gần các gia đình, số học bổng sẽ giảm đi nhiều tại các trường địa hạt, đa số là trường ngoại trú.
Cũng cần lưu ý là học sinh các trường này không ở lại học lâu trong trường, và một phần lớn các chi tiêu sẽ không đưa đến kết quả mong đợi, rất nhiều học sinh rời trường ngay sau khi biết đọc, biết viết và biết đếm.
Nhân viên người Âu hiện nay đủ dùng về số lượng cũng như khả năng.
Nhân viên bản xứ, khéo hướng dẫn, sẽ giúp việc đắc lực, nhất là một khi ta cho họ , về mặt chức tước, lương bồng, thăng thưởng, những điều kiện in hệt với nhân viên hành chính trung ương hay các tỉnh.
Sài gòn ngày 20 tháng 10 / 1889 E. Roucoules Giáo sư-cố vấn ---------------------------- Lại Như Bằng dịch 13/07/2010 Chú thích của người dịch [1] - Nam kỳ là thuộc địa của Pháp. Trung kỳ và Bắc kỳ trực thuộc Pháp theo chế độ bảo hộ. [2] - Các chữ "nhiêu học, tấn sĩ, tú tài, chữ -nho, chữ-nôm, phủ, huyện, quốc ngữ" được viết trong bài bằng tiếng Việt.
[3] - Bên cạnh chữ arrondissement, Roucoules ghi chữ quốc ngữ "(huyện)", và bên cạnh chữ département, ghi là "(phủ)", tuy nhiên những chữ arrondissement trong bài sẽ xin dịch là "địa hạt" để phân biệt với các "huyện" thời trước.
[4] - Dưới triều Nguyễn, quan huyện phải có bằng cử nhân, hay tú tài nếu là người xuất sắc; quan phủ phải có bắng tiến sĩ, hay cử nhân xuất sắc.
[5] - a ) trích dịch: " Theo thông lệ, tại Nam Kỳ, các tỉnh vẫn được phân như thời còn chính quyền An Nam, nhưng tên tỉnh không còn bất kỳ một ý nghĩa hành chính đặc biệt nào . Tất cả mọi quyết định hành chính đều xuất phát từ Sài Gòn. (...) Việc cai trị bản xứ được giao cho các chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes) và khu vực cai trị của chánh tham biện được gọi là "sở tham biện" (inspection)".
"L'usage a conservé à la Cochinchine française la division des provinces comme sous le régime annamite, mais cette désignation n'implique plus aucune administration spéciale ou particulière à chaque province. L'administration émane tout entière de Saigon. (...) L'administration indigène est confiée à des inspecteurs des affaires indigènes. On donne le nom d'inspection à l'étendue du terrain qu'ils administrent. " (Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1871, page 126: )
Thí dụ : Tỉnh Sài Gòn (province de Saigon) bao gồm 7 sở tham biện (7 Inspections) : 1. Sài Gòn - 2. Chợ lớn - 3. Cần Giuộc - 4. Gò Công - 5. Tân An - 6. Tây Ninh - 7. Trảng Bàng
b ) trích dịch: "Việc cai trị bản xứ được giao cho các chánh tham biện và khu vực cai trị của chánh tham biện được gọi là "địa hạt" ( arrondissement). "
"L'administration indigène est confiée à des inspecteurs des affaires indigènes. On donne le nom d'arrondissement à l'étendue du terrain qu'ils administrent. " (Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1874 : page 139)
. Như vậy, sau năm 1871, người ta dùng từ arrondissement thay thế Inspection.
. Một Arrondissement bao gồm nhiều tổng (canton). Arrondissement Sài Gòn chia làm 17 tổng và 231 làng. Một địa hạt thời thuộc địa (arrondissement) có thể bao gồm nhiều huyện thời trước (tt). Hạt Sài Gòn (hay địa hạt Sài Gòn) gồm huyện Bình Dương (tt), huyện Bình Long (tt), huyện Ngay An (tt).
. Cho đến năm 1875, Nam Kỳ chia ra làm 6 tỉnh (province) như thời trước: Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên. Nhưng một tỉnh chỉ có tên gọi, không có thực chất hành chính.
. Kể từ 5 Janvier 1876, Nam Kỳ được phân lại thành 4 phân khu hành chính (circonscription): Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac. Khác với tỉnh, trước đây, một phân khu có thực chất hành chính. (Annuaire de la Cochinchine Française, 1879 Page 183)
. Nghị định ngày 20 tháng 12 1899 đổi các "arrondissement" (địa hạt) tại Nam Kỳ thành "province" (tỉnh).
[6] - Các chữ "đốc học, giáo thọ, huấn đạo, học sanh, tú tài, cử nhơn, tấn sĩ, quôc-ngữ" được viết trong bài bằng tiếng Việt. "Chữ quốc ngữ" còn được tác giả gọi là "chữ viết theo chữ mẫu Âu tây", "chữ viết La-tinh áp dụng vào tiếng An Nam"
[7] - được gọi là : " Institution municipale de Saigon "
[8] - Năm 1879, tại địa hạt Sài Gòn , thành phần sống tại địa phương ("résident") gồm có: Âu Châu (sống ngoài thành phố : 48, Trung quôc : 10 000, Tagals: 30, Mã Lai : 202, Malabares (Ấn) : 450, bản xứ : 232700, tổng cộng : 243 430 (Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1879 : page 186)
[9] - Trong bài, tác giả viết tên các tỉnh không bỏ dấu : cantho, soctrang, gocong, tanan, Rachgia, Cangioc, Ich-Thanh, Long-nhung, My-thuan, Cu-lao-mai, bo-hut, - Bò Hút, trong Aubaret còn viết là Bao Hot, dân gian gọi là Bàu Ót hay Bò Ót ( tên gốc Khmer, chỉ 1 một loại mắm), nay thuộc quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ (Tự vị tiếng nói miền Nam,Vương Hồng Sển, NXB Trẻ, TPHCM, 1999, tr. 75). - Long-nhung, là Long Hưng (thuộc Bến Tre, Tự vị tiếng nói miền Nam, tr. 133). - My-Thuan là Mỹ Thuận (làng Mỹ Thuận (Cái Vồn), tổng An Trường, sau thuộc Cần Thơ. Trước 1897, nơi đây đã có trường học, sách trên, tr. 166). - Cù lao Mai là Cù lao Mây trên sông Hậu, ở khoảng giữa kể từ Cần Thơ xuống Kế Sách ( sách trên, tr. 247). - Ích Thạnh : quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định xưa. - Bắc Trang, xưa là một quận của Trà Vinh. Trước 1897, nơi đây đã có trường học ( Tự vị tiếng nói miền Nam. tr. 69 và 221).
[10] - Vào năm 1870, Hoàng đế Napoléon III (cháu gọi Napoléon I bằng bác) trị vì nước Pháp. Ngày 19 tháng 7 năm 1870, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ. Ngày 2 tháng 9 năm 1870, Thành Sedan thất thủ. Napoléon III, đang ở trong, thành bị bắt cầm tù. Tại Paris, ngày 4 tháng 9 năm 1870, Quốc hội tuyền bố chấm dứt thể chế quân chủ, thành lập nền Cộng Hòa thứ III. Ngày 19 tháng 9 năm1870, Paris bị vây hãm. Ngày 19 tháng 1 năm 1871 , tướng Trochu, thủ tướng chính phủ lâm thời cố gắng phá vòng vậy nhưng thất bại. Trochu từ chức. Ngày 28 tháng 1 năm 1871, Paris thất thủ. Ngày 17 tháng 2 năm 1871, Thiers được bầu làm thủ tướng và ký hòa ước với Đức. Pháp mất vùng Alsace (ngoại trừ tỉnh Belfort), và một phần vùng Lorraine, và bồi thường cho Đức 5 tỷ Francs vàng.
[11] - trích dịch: " Nghị định ngày 25-2-1886 - Điều 3 : Một giáo viên, dưới quyền hiệu trưởng trường sư phạm, sẽ điều hành một trường tiểu học phụ thuộc gồm 50 học sinh ngoại trú. Trong trường này, các học viên sư phạm có thể thực tập dạy học. "
"A.G. 25 février 1886 - Art 3 : Un instituteur dirigera, sous l'autorité du directeur de l'école normale, l'école primaire annexe et formée de 50 élèves externes, dans laquelle des élèves-maỵtres seront exercés à la pratique de l'enseignement." ( Répertoire Alphabétique de Législation et de Règlementation de la Cochinchine arrêté au Premier Janvier 1889 - Tome IV P. 519)
[12] - Chùa Barbet trước thời thuộc Pháp là Chùa Khải Tường.
Chùa Khải Tường được xây dựng vào thế kỷ 18, thuộc ấp Tân Lộc, huyện Bình Dương, thành Gia Định (khu chợ Đũi, quận 3 ngày nay.)
Năm 1859 quân Pháp tấn công Gia Định (Phó đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy), Pháp chia quân đóng rải rác tại Trường Thi, đền Hiển Trung (Pagode aux Mares) và các chùa: Khải Tường (Pagode Barbet), Kiểng Phước (Pagode des Clochetons), Cây Mai v.v...
Riêng chùa Khải Tường, viên quan ba Pháp tên Barbet nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ chùa, đuổi sư sãi đi. Khi ấy, quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào Nam lập đại đồn Chí Hòa (người Pháp đọc là Kỳ Hòa) chống Pháp, và đêm 7 tháng 12 năm 1860, quân Việt phục kích giết chết Barbet.
Sau này, trên nền chùa, Pháp cho xây cất một dinh thự dành cho quan chức trong bộ máy cai trị. Trước năm 1963, dinh thự được dùng làm Trường Đại học Y dược, và sau 1975, trở thành Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (số 28 Võ Văn Tần, quận 3, TpHCM ).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:20:58 GMT 9
Phụ lục(do người dịch bổ túc) 1 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1871 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1871) 2 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1874 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1874) 3 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1887 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1887) 4 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1888 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1888) 5 - Dân số Nam Kỳ năm 1887 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1887) 6 - Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1886 / năm 1889 (trích : Les débuts de l'enseignement français au Tonkin, par M.G.Dumoutier, Organisateur et Inspecteur des écoles franco-annamites và Annuaire de l'Indochine pour l'année 1889 - IIe Partie Annam et Tonkin trang 270) 7 - Các tỉnh (province) và địa hạt Nam kỳ 8 - Các phân khu hành chính (circonscription) và địa hạt Nam kỳ 9- Bảng nhật sự (Ephémérides) <<< đầu trang >>> 1 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1871 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1871) Số trường Số học sinh Trường tỉnh Sài Gòn (Institution municipale de Saigon) 1 131 Trường Bá Đa Lộc tại Sài Gòn (Ecole d'Adran à Saigon) (Nam) 1 117 Do các tu sĩ đạo Ki-tô điều hành Trường La Ste Enfance (Nữ) 1 102 Do các nữ tu dòng Saint-Paul de Chartres điều hành Trường La Ste Enfance (Nam) 1 53 - nt - Chủng Viện Saigon 1 131 Do các giáo sĩ Hội truyền giáo nước ngoài điều hành Tỉnh Sài Gòn (Province de Saigon) Sở tham biện (Inspections) - Sài gòn 18 649 - Chợ Quán 1 25 - Chợ Lớn 8 197 Do các tu sĩ đạo Ki-tô điều hành - Cần Giuộc 3 177 - Gò Công 2 98 - Tân An 4 125 - Tây Ninh 1 22 - Trảng Bàng 3 92 Tỉnh Mỹ Tho (Province de Mỹ Tho) Địa hạt (Inspections) - Mỹ Tho 9 181 Do các tu sĩ đạo Ki-tô điều hành - Mỹ Tho Ste- Enfance (Nữ) 1 153 Do các nữ tu dòng Saint-Paul de Chartres điều hành - Cái Bè 7 249 Tỉnh Biên Hòa (Province de Bien-Hoa) Sở tham biện (Inspections) - Biên Hòa 5 99 - Bà Rịa 3 108 - Long Thành 7 190 37 học sinh thành niên theo học một lớp do chính quyền tổ chức - Thủ Đầu Một 6 161 Tỉnh Vĩnh Long (Province de Vinh-Long) Địa hạt (Inspections) - Vĩnh Long 10 428 - Bắc Trang (Nam) 2 78 Một trường 61 học sinh, điều hành bời các tu sĩ đạo Ki-tô - Bắc Trang (Nữ) 2 156 - Bến Tre 3 165 130 dân vệ theo một lớp học đặc biệt dành cho họ - Mỏ Cày (Nam) 6 420 - Mỏ Cày (Nữ) 2 278 - Trà Vinh 3 97 Tỉnh Châu Đốc (Province de Châu Đốc) Sở tham biện (Inspections) - Châu Đốc 2 67 - Cần Thơ 9 317 28 dân vệ theo một lớp học đặc biệt dành cho họ - Long Xuyên 5 180 - Sa Đéc 5 187 - Sóc Trăng 4 99 Tỉnh Hà Tiên (Province de Hà Tiên ) Sở tham biện (Inspections) - Hà Tiên 1 8 - Rạch Giá 2 38 Tổng cộng 139 5 578 <<< phụ lục>>> 2 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1874 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1874) Số trường Số học sinh Trường sư phạm Sài Gòn (Ecole normale de Saigon) 1 80 Trường tỉnh Sài Gòn (Institution municipale de Saigon) 1 131 Trường Bá Đa Lộc tại Sài Gòn (Nam) 1 128 Trường La Ste Enfance (Nữ) 1 113 Trường La Ste Enfance (Nam) 1 52 Trường La Ste Enfance,Mỹ Tho (Nữ) 1 50 Trường La Ste Enfance,Mỹ Tho (Nam) 1 25 Chủng Viện Saigon 1 127 Tỉnh Sài Gòn (Province de Saigon) Địa hạt (Arrondissements) - Sài gòn 5 98 - Chợ Quán (Nữ) 1 28 - Chợ Lớn 11 285 - Tân An 1 108 - Tây Ninh 3 108 - Gò Công 6 220 Tỉnh Mỹ Tho (Province de Mỹ Tho) Địa hạt (Arrondissements) - Mỹ Tho (trường phi tôn giáo) 1 250 - Mỹ Tho (trương dòng) 1 90 Tỉnh Biên Hòa (Province de Bien-Hoa) Địa hạt (Arrondissements) - Biên Hòa 8 203 - Bà Rịa 1 110 - Thủ Đầu Một 1 120 Tỉnh Vĩnh Long (Province de Vinh-Long) Địa hạt (Arrondissements) - Vĩnh Long 18 625 - Bến Tre 13 158 - Trà Vinh 3 152 Tỉnh Châu Đốc (Province de Châu Đốc ) Địa hạt (Arrondissements) - Châu Đốc 2 80 - Trà Ôn 9 158 - Long Xuyên 1 50 - Sa Đéc 7 247 - Sóc Trăng 3 90 Tỉnh Hà Tiên (Province de Hà Tiên ) Địa hạt (Arrondissements) - Hà Tiên 2 60 - Rạch Giá 2 60 Tổng cộng 107 4006 <<< phụ lục>>> 3 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1887 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1887) A. Trường Pháp Địa hạt (Arrondissements) Số trường Số Giáo sư Pháp Số Giáo sư An Nam Số học sinh Học sinh Nam Sài Gòn : Trường tỉnh (École municipale) 1 3 1 122 Sài Gòn : Trường trung học (collège) Chasseloup-Laubat 1 12 19 400 Sài Gòn : Trường trung học Adran 1 9 19 262 Sài Gòn : Trường Taberd (trường đạo) 1 2 1 117 Trường Gia Định 1 3 7 200 Trường trung học (collège) Mỹ Tho 1 8 16 260 Trường Vĩnh Long 1 2 5 132 Trường Biên Hòa 1 3 5 147 Trường Sóc Trăng 1 2 4 78 Trường Bến Tre 1 3 8 277 Trường Chợ Lớn 1 2 3 218 Trường Gò Công 1 1 4 133 Trường Tây Ninh 1 1 4 96 Trường Sa Đéc 1 1 3 127 Tổng cộng 14 52 99 2578 Học sinh Nữ Sài Gòn : Trường tỉnh (École municipale) 1 3 " 65 Sài Gòn : Trường Sainte-Enfance (Nội trú và mồ côi) 1 10 8 389 Sài Gòn : Trường Tân Định (điều hành bởi nữ tu dòng Saint-Paul de Chartres) 1 3 2 210 Trường Chợ Lớn 1 2 2 48 Trường Mỹ Tho 1 4 3 161 Trường Vĩnh Long 1 4 3 127 Trường Biên Hòa 1 2 1 55 Tổng cộng 7 28 19 1055 B. Trường bản xứ Trường huyện điều hành nhờ quỹ thuộc địa tài trợ, các trường hàng tổng điều hành dựa vào ngân sách các tỉnh; các trường khác sống nhờ trợ cấp của các làng xã hay các tư nhân. Địa hạt (Arrondissements) Số trường Số Giáo sư Âu Số Giáo sư bản xứ Số học sinh Bạc Liêu Trường tổng 5 9 262 Trường làng 12 12 405 Trường chữ nho 4 4 75 Bà Rịa Trường tổng 4 4 164 Trường chữ nho 4 4 164 Trường đạo 4 4 150 Bến Tre Trường địa hạt 1 3 7 228 Trường tổng 20 40 1000 Trường đạo 6 10 500 Biên Hòa Trường địa hạt 1 2 5 149 Trường tổng 10 24 438 Trường chữ nho 11 11 252 Trường đạo 9 11 433 Cần Thơ Trường tổng 12 12 670 Trường chữ nho 40 40 800 Trường đạo 1 1 40 Châu Đốc Trường tổng 10 10 470 Trường làng 6 6 130 Trường chữ nho 11 11 126 Trường chữ Căm-bốt 32 32 297 Trường đạo 3 4 4 338 Chợ Lớn Trường tổng 14 14 456 Trường chữ nho 47 47 630 Trường đạo 4 5 151 Gò Công Trường địa hạt 1 1 4 96 Trường tổng 4 8 150 Trường làng 32 64 2065 Hà Tiên Trường địa hạt 1 2 28 Trường tổng 2 4 55 Trường chữ nho 2 2 38 Long Xuyên Trường địa hạt 1 2 47 Trường tổng 7 14 234 Trường chữ nho 38 38 531 Trường đạo 3 3 2 192 Mỹ Tho Trường trung học cấp 2 1 2 90 Trường trung học địa hạt 1 4 15 190 Trường tổng 15 16 774 Trường làng 29 29 513 Trường chữ nho 9 9 259 Trường đạo 7 15 286 Rạch Giá Trường địa hạt 1 2 20 Trường tổng 5 6 176 Trường làng 1 1 15 Trường chữ nho 5 5 90 Trường chữ Căm-bốt 17 17 170 Sa Đéc Trường địa hạt 1 1 2 122 Trường tổng 12 12 835 Trường chữ nho 70 70 890 Trường đạo 1 1 59 Sài Gòn (Gia Định) Trường địa hạt 1 3 6 210 Trường tổng 17 20 1150 Trường chữ nho 50 50 707 Trường đạo 7 7 658 Sóc Trăng Trường địa hạt 1 1 4 57 Trường tổng 11 11 390 Trường chữ nho 34 34 1110 Trường chữ Căm-bốt 29 29 263 Trường đạo 2 2 50 Tân An Trường địa hạt 1 3 63 Trường tổng 14 24 673 Tây Ninh Trường địa hạt 1 1 44 102 Trường tổng 10 10 232 Trường chữ nho 1 1 34 Trường đạo 2 2 150 Thủ Đầu Một Trường địa hạt 1 2 53 Trường tổng 6 13 430 Trường chữ nho 18 18 380 Trường đạo 8 8 470 Trà Vinh Trường địa hạt 1 2 30 Trường tổng 14 15 849 Trường chữ nho 75 75 700 Trường đạo 3 3 3 340 Vĩnh long Trường địa hạt 1 2 5 130 Trường tổng 16 16 614 Trường chữ nho 25 25 375 Trường đạo 2 2 106 Huyện 20 Trường tổng 2 3 165 Trường chữ nho 5 5 133 Trường đạo 4 4 379 Tổng cộng 899 35 1065 27256 C. Tổng kết Số trường Số Giáo sư Âu Số Giáo sư bản xứ Số học sinh Trường địa hạt 16 20 65 1615 Trường tổng 210 285 10187 Trường làng 80 112 3128 Trường chữ nho 527 527 8024 Trường đạo 66 15 76 4302 Tổng cộng 899 35 1065 27256 <<< phụ lục>>> 3 - Các trường học tại Nam Kỳ năm 1888 (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1888) A. Trường Pháp Địa hạt (Arrondissements) Số trường Số Giáo sư Pháp Số Giáo sư An Nam Số học sinh Học sinh Nam Sài Gòn : Trường tỉnh (École municipale) 1 3 1 122 Sài Gòn : Trường trung học (collège) Chasseloup-Laubat 1 12 19 400 Sài Gòn : Trường trung học Adran 1 9 19 262 Sài Gòn : Trường Taberd (trường đạo) 1 2 1 117 Trường Gia Định 1 3 7 200 Trường trung học (collège) Mỹ Tho 1 8 16 260 Trường Vĩnh Long 1 2 5 132 Trường Biên Hòa 1 3 5 147 Trường Sóc Trăng 1 2 4 78 Trường Bến Tre 1 3 8 277 Trường Chợ Lớn 1 2 3 218 Trường Gò Công 1 1 4 133 Trường Tây Ninh 1 1 4 96 Trường Sa Đéc 1 1 3 127 Tổng cộng 14 52 99 2578 Học sinh Nữ Sài Gòn : Trường tỉnh (École municipale) 1 3 " 65 Sài Gòn : Trường Sainte-Enfance (Nội trú và mồ côi) 1 10 8 389 Sài Gòn : Trường Tân Định (điều hành bởi nữ tu dòng Saint-Paul de Chartres) 1 3 2 210 Trường Chợ Lớn 1 2 2 48 Trường Mỹ Tho 1 4 3 161 Trường Vĩnh Long 1 4 3 127 Trường Biên Hòa 1 2 1 55 Tổng cộng 7 28 19 1055 B. Trường bản xứ Trường địa hạt điều hành nhờ quỹ thuộc địa tài trợ, các trường tổng điều hành dựa vào ngân sách các tỉnh; các trường khác sống nhờ trợ cấp của các làng hay các tư nhân. Địa hạt (Arrondissements) Số trường Số Giáo sư Âu Số Giáo sư bản xứ Số học sinh Bạc Liêu Trường tổng và làng 17 1 24 572 Trường đạo 1 1 16 Trường chữ nho 3 3 70 Trường địa hạt 1 1 20 Bà Rịa Trường tổng 4 4 217 Trường chữ nho 4 4 217 Trường đạo 4 4 200 Bến Tre Trường địa hạt 1 5 9 297 Trường tổng 20 40 1000 Trường đạo 6 10 600 Biên Hòa Trường địa hạt 1 4 5 151 Trường tổng 10 20 634 Trường chữ nho 18 18 348 Trường đạo 8 12 456 Cần Thơ Trường tổng 12 12 680 Trường chữ nho 2 2 81 Trường đạo 1 1 43 Châu Đốc Trường tổng 8 18 425 Trường làng 2 2 42 Trường chữ nho 11 11 160 Trường chữ Căm-bốt Trường đạo 1 2 25 Chợ Lớn Trường tổng 13 30 495 Trường chữ nho 54 54 787 Trường đạo 3 5 122 Gò Công Trường địa hạt 1 1 4 113 Trường tổng 4 8 157 Trường làng 34 60 1408 Hà Tiên Trường địa hạt 1 2 34 Trường tổng 2 4 55 Trường chữ nho 2 2 38 Long Xuyên Trường địa hạt 1 3 86 Trường tổng 7 14 273 Trường chữ nho 38 38 533 Trường đạo 3 2 195 Mỹ Tho Trường trung học cấp 2 1 3 95 Trường trung học địa hạt 1 6 190 Trường tổng 15 16 829 Trường làng 25 25 442 Trường chữ nho 10 10 240 Trường đạo 7 16 298 Rạch Giá Trường địa hạt 1 2 35 Trường tổng 6 6 205 Trường làng 1 1 12 Trường chữ nho 6 6 115 Trường chữ Căm-bốt 17 17 170 Sa Đéc Trường địa hạt 1 1 4 125 Trường tổng 12 13 766 Trường chữ nho 32 32 237 Trường đạo 2 3 65 Sài Gòn (Gia Định) Trường địa hạt 1 3 7 180 Trường tổng 17 20 510 Trường chữ nho 50 50 705 Trường đạo 6 2 4 593 Sóc Trăng Trường địa hạt 1 2 4 92 Trường tổng 11 11 593 Trường chữ nho 31 31 998 Trường chữ Căm-bốt 29 29 275 Trường đạo 2 2 67 Tân An Trường địa hạt 1 2 3 110 Trường tổng 14 14 612 Tây Ninh Trường địa hạt 1 1 4 118 Trường tổng 10 10 302 Trường chữ nho 1 1 33 Trường đạo 2 2 163 Thủ Đầu Một Trường địa hạt 1 2 40 Trường tổng 6 13 389 Trường chữ nho 18 18 175 Trường đạo 8 250 Trà Vinh Trường địa hạt 1 2 40 Trường tổng 14 15 850 Trường chữ nho 75 75 700 Trường đạo 3 4 3 350 Vĩnh long Trường địa hạt 1 2 5 148 Trường tổng 16 16 568 Trường chữ nho 19 19 307 Trường đạo 4 6 5 220 Địa hạt 20 Trường tổng 2 3 125 Trường chữ nho 6 121 Trường đạo 5 793 Tổng cộng 791 50 931 24801 C - Tổng kết Số trường Số Giáo sư Âu Số Giáo sư bản xứ Số học sinh Trường địa hạt 17 31 57 1874 Trường tổng 208 286 9945 Trường làng 80 103 2337 Trường chữ nho 420 420 6189 Trường đạo 66 19 65 4456 Tổng cộng 791 50 931 24801 <<< phụ lục>>> 5 - Dân số Nam Kỳ (1887) (trích : Annuaire de la Cochinchine Française, 1887) p 488 Địa hạt (Arrondissements) Pháp An Nam Căm-bốt (Cb) Mọi (Mo) Chàm (Ch) Hoa Malabar (Ấn) Mã Lai (Ma) Tồng Cộng Bạc Liêu 18 41 454 8 648(Cb) 351(Mo) 2 332 3 (Ấn) 52 806 Bà Rịa 50 8 801 316 9 167 Bến Tre 30 161 441 1 270 6 (Ấn) 162 747 Biên Hòa 33 61 428 940 62 401 Cần Thơ 20 80 000 10 630(Cb) 2 035 7 (Ấn) 92 692 Châu Đốc 28 70 660 15 090(Cb) 4 385(Ch) 1 500 30 (Ấn) 91 693 Chợ Lớn (ville) 74 17 034 14 559 68 (Ấn) 24 (Ma) 31 759 Chợ Lớn (inspection) 2 121 236 994 122 232 Gò Công 13 64 170 588 14 (Ấn) 64 785 Hà Tiên 8 6 299 1 633(Cb) 908 3 (Ấn) 8 851 Long Xuyên 16 76 462 2 194(Cb) 781 1 (Ấn) 79 454 Mỹ Tho 70 250 120 2 093 45 (Ấn) 252 328 Rạch Giá 10 8 850 10 350(Cb) 870 5 (Ấn) 20 085 Sa Đéc 29 125 040 1 644 4 (Ấn) 1 (Ma) 126 718 Sài Gòn (Gia Định) 29 161 944 883 162 856 Sóc Trăngà 32 25 327 20 161(Cb) 4 159 18 (Ấn) 49 697 Tân An 15 67 787 409 2 (Ấn) 68 213 Tây Ninh 27 25 933 2 650(Cb) 338(Ch) 339 29 287 Thủ Đầu Một 22 63 248 5 920(Mo) 379 2 (Ấn) 69 580 Trà Vinh 28 45 500 40 160(Cb) 4 114 4 (Ấn) 89 896 Vĩnh long 35 101 480 1 391 7 (Ấn) 102 913 Huyện 20 191 13 532 13(Cb) 830 68 (Ấn) 7 (Ma) 14 641 Côn Đảo 13 127 190 4 (Ấn) 334 Tổng cộng 793 1 597 963 111 520(Cb) 6 280(Mo) 4 728(Ch) 43 524 291 (Ấn) 32 (Ma) 1 765 135 <<< phụ lục>>> 6 - Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1886 / năm 1889 a/ Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1886 "Khi Paul Bert tới Bắc Kỳ, khắp xứ chỉ có 3 trường Pháp. Trong vòng chưa tới một năm, ngày hội chợ (exposition), ta tính được : 1 trường thông ngôn 9 trường tiểu học (nam) 4 trường tiểu học (nữ) 1 trường tư dạy vẽ 117 trường tư dạy chữ quốc ngữ." (Les débuts de l'enseignement français au Tonkin, par M.G.Dumoutier, Organisateur et Inspecteur des écoles franco-annamites.) Paul Bert được cử làm Thống sứ An Nam Bắc Kỳ ngày 8 tháng 4 năm 1886 b/ Các trường học tại Bắc Kỳ năm 1889 trích dịch : "Tiểu dẫn về nền học chính tiểu học tại Bắc Kỳ "Số trường được ngân sách Chính quyền Bảo hộ tài trợ tại Bắc Kỳ và An Nam là mười sáu, gồm có một trường thông ngôn tại Hà Nội, mười hai trường Pháp-Annam cho nam học sinh tại các địa điểm sau đây: Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hải Dương, Sơn Tây, Tuyên Quang, Bình Định và Qui Nhơn; Ba trường nữ (écoles de filles), quy tụ các học sinh người Âu hai phái nam và nữ, và các nữ sinh người An Nam, tại Hà Nội, Nam Định và Hải Phòng. Ngoài ra, tại Hà Nội còn có thêm: Một trường dạy tiếng An Nam cho công chức, Một trường Pháp, do các giáo sĩ của Hội truyền giáo nước ngoài điều hành; Và tại Hải Phòng, một trường nữ do các nữ tu sĩ điều hành. Các giáo sĩ Hội truyền giáo nước ngoài và các giáo sĩ Tây Ba Nha còn có một số trường riêng, quan trọng nhất là trường Phúc Nhạc. Ngoài các trường của Chính quyền Bảo hộ, chữ Quốc ngữ và vài khái niệm sơ đẳng tiếng Pháp còn được dạy tại khoảng hai mươi trường tư của người An Nam. vào các năm 1886 và 1887 , số trường tư lên rất cao; có 42 trường gửi công trình trưng bày tới Hội chợ triển lãm tại Hà Nội." (trích : Annuaire de l'Indochine pour l'année 1889 - IIe Partie - Annam et Tonkin. trang 270) 7 - Các tỉnh (province) và địa hạt Nam kỳ (Cho đến 1876) Tỉnh Sài Gòn - Địa hạt : Sài Gòn, Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Tây Ninh Tỉnh Mỹ Tho - Địa hạt : Mỹ Tho Tỉnh Biên Hoà - Địa hạt : Biên Hoà, Bà rịa, Thủ đầu Một Tỉnh Vĩnh Long - Địa hạt : Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Trà Ôn Tỉnh Châu Đốc - Địa hạt : Châu Đôc, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long Xuyên Tỉnh Hà Tiên - Địa hạt : Hà Tiên, Rạch Giá (Annuaire de la Cochinchine Française, 1874, p 139 - p 172 ) "Theo thông lệ, tại Nam Kỳ, các tỉnh vẫn được phân như thời còn chính quyền An Nam, nhưng tên tỉnh không còn bất kỳ một ý nghĩa hành chính đặc biệt nào . Tất cả mọi quyết định hành chính đều xuất phát từ Sài Gòn. (...) Việc cai trị bản xứ được giao cho các chánh tham biện (inspecteur des affaires indigènes) và khu vực cai trị của một chánh tham biện được gọi là sở tham biện (inspection)." (Annuaire de la Cochinchine Française, năm1871, page 126 ) Năm 1874: "Việc cai trị bản xứ được giao cho các chánh tham biện và khu vực cai trị của chánh tham biện được gọi là "địa hạt" ( arrondissement). " (Annuaire de la Cochinchine Française, năm 1874 : page 139) 8-Các phân khu hành chính (circonscription) và địa hạt Nam kỳ (kể từ 5 Janvier 1876) Phân khu Sài Gòn - Địa hạt : Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Đầu Một, Biên Hoà, Bà rịa Phân khu Mỹ Tho - Địa hạt : Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Chợ Lớn Phân khu Vĩnh Long - Địa hạt : Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc Phân khu Bassac - Địa hạt : Châu Đôc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng (Annuaire de la Cochinchine Française, 1878, p 171) 9- Bảng nhật sự (Ephémérides) (Annuaire de la Cochinchine Française, 1874, p 58) dịch : (Vice-amiral /Phó đô đốc) ; (Contre-amiral/Chuẩn đô đốc) ; (Capitaine de vaisseau/Đại tá Hải quân) ; (Capitaine de frégate/Trung tá Hải quân) 1/9/1858 - Chiếm Tourane (Phó đô đốc Rigault de Genouilly). 11/2/1859 - Chiếm các chiến lũy cửa sông Đồng Nai (Phó đô đốc Rigault de Genouilly). 17/2/1859 - Chiếm Sài Gòn (Phó đô đốc Rigault de Genouilly). 7 và 8/5/1859 - Đánh bại quân An Nam và chiếm chiến lũy trước cửa Tourane (Phó đô đốc Rigault de Genouilly). 25/2/1861 - Chiếm dãy thành lũy Kỳ Hòa ( Phó đô đốc Charner ; Đại tá Tây Ba Nha Palanca). 10/4/1861 - Chiếm giữ Kinh Bưu Điện (Arroyo de la Poste) ( Đại tá Hải quân Le Couriault du Quilio) - Cái chết vinh quang của Trung tá Hải quân Bourdais. 12/4/1861 - Chiếm Mỹ Tho (Chuẩn đô đốc Page). 9/12/1861 - Chiếm Biên Hòa (Chuẩn đô đốc Bonard). 28/3/1862 - Chiếm Vĩnh Long (Chuẩn đô đốc Bonard). 5/6/1862 - Hiệp ước Sài Gòn (Chuẩn đô đốc Bonard). 25/2/1863 - Chiếm Gò Công (Phó đô đốc Bonard). 11/8/1863 - Vua Cam-bốt, Phara-Norodom ký hiệp ước với đô đốc De la Grandière, chịu sự đô hộ của người Pháp và hiến cho nước Pháp vị trí quan trọng Quatre-bras ( tên cam-bốt : chakdomuk) trên sông lớn của Cam-bốt. 22,23 và 24/6/1864 - Chiến dịch Sông Rẫy. 27/1/1865 - Chiếm Gia Phụ. 25/2/1866 - Hội chợ Triển lãm đầu tiên về nông nghiệp và công nghiệp Nam kỳ. 17/4/1866 - Chiếm Tháp Mười ( Chiến dịch Đồng Tháp Mười). 20/6/1867 - Chiếm giữ thành và tỉnh Vĩnh Long (Phó đô đốc de la Grandière). 22/6/1867 - Chiếm giữ thành và tỉnh Châu Đốc (Phó đô đốc de la Grandière). 24/6/1867 - Chiếm giữ thành và tỉnh Hà Tiên (Phó đô đốc de la Grandière). 12/3/1868 - Trung tá Hải quân Doudart de Lagrée, trưởng đoàn thám hiểm khoa học sông Cửu Long, lìa đời. 21/6/1868 - Chiếm lại thành Rạch Giá từ tay quân nổi loạn, ngày 21/6/1868 lúc 3 giờ chiều. 8/11/1868 - Chiến dịch Ti-tinh và đánh tan quân nổi loạn phía Bắc. 24/1/1869 - 26/9/1869 - Các ông d'Arfeuille và Rheinart, thanh tra chánh sự vụ bản xứ, thăm dò xứ Lào Tháng 4/1870 - Vạch biên giới giữa Cam-bốt và Nam kỳ 6/4/1870 - Chiến dịch dẹp loạn Stiengs 1/7/1870 - Một phái đoàn ngoại giao Xiêm tới Sài Gòn để điều đình các điểu kiện đánh cá trên Biển Hồ. 21/10/1870 - Tuyên ngôn thành lập thể chế cộng hòa. 25/7/1871 - Thiết lập hộ tịch người bản xứ 15/9/1871 - Nghị định bắt buộc tiêm chủng
|
|