|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:51:51 GMT 9
LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN
Đặng Trần Huân
NÓI THÊM VỀ CUỐN CHIẾN TRANH VIỆT NAM TOÀN TẬP.
Kỳ trước chúng tôi đã nói về cuốn Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương khi mới đọc mấy chương quan trọng. Đọc thêm nhiều chương vẫn thấy cuốn sách giá trị, đáng lưu giữ làm tài liệu kê cứu. Có điều Nguyễn Đức Phương chỉ cô đọng tài liệu từ các phía để độc giả tự đánh giá. Khác với Cornelius Ryan khi viết cuốn Ngày Dài Nhất (The Longest Day) kể về trận đổ bộ Normandie (Pháp) trong thế chiến II đã không lấy con số tử vong trong trận này từ Mỹ, hay Pháp... mà ông đã theo tài liệu của các nước đồâng minh và cả của địch rồi cân nhắc để đưa ra một con số thương vong khả tín.
Bởi vì viết chiến tranh Việt Nam mà quá tin vào tài liệu của Việt cộng, của những tác giả nước ngoài thiếu vô tư thì thật là nguy hiểm. Chẳng hạn khi Nguyễn Đức Phương tham chiếu Vietnam, a History cua Stanley Karnow hay Việt Nam Máu Lửa, Quê Hương Tôi của Hoành Linh Đỗ Mậu (Nguyễn Đức Phương ghi sai tên là Hoàng Linh Đỗ Mậu và gọi ông là một học giả... tr. 54, 75, 135, 139, 425...) phải vô cùng thận trọng. Hai cuốn sách kể trên không phải là không có những dữ kiện lịch sử chính xác nhưng hãy coi chừng những chi tiết vì cuốn Vietnam, a History thân cộng đến nỗi sách của ông được quay thành phim nhiều tập, phỏng vấn nhiều nhân vật cao cấp cộng sản và được chiếu trong các trại tù cải tạo cho tù nhân quốc gia xem. Còn Hoành Linh Đỗ Mậu thì ai cũng đều biết ông đã viết sách đả kích cờ vàng ba sọc đỏ, ca tụng cờ máu cộng sản, ca tụng Hồ Chí Minh là anh hùng cứu nước.
Cuối năm 2001 nhà sư phản chiến Thích Nhất Hạnh thuyết pháp ở Nữu Ước bịa đặt chuyện phi cơ Mỹ thả bom hủy diệt 300.000 căn nhà ở Bến Tre đã gây nên làn sóng phẫn nộ của người Việt tỵ nạn khắp thế giới. Về sau một nguồn tin từ giới truyền hình Mỹ cho biết tin sai đó do ký giả Mỹ Peter Arnett. Đó cũng là cái nguy hiểm của sự tham chiếu chi tiết của một tin sai. Nhưng điều đáng nói là khi có người đính chính giùm ông, thì nhà sư Nhất Hạnh vẫn im lặng chẳng thèm có một lời xin lỗi về sựï hồ đồ của ông.
Chiếân Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương dày 960 trang, bìa các tông cứng, giá bán 45 mỹ kim. Liên lạc: Nxb Làng Văn * PO box 218 * Station "U" * Toronto, Ontario M8Z 5P1 * Canada.
TIỂU THUYẾT MỚI CỦA VĂN PHAN
Cuốn tiểu thuyết thứ nhì của Văn Phan có cái tên khá cầu kỳ: Tâm Hồn Và Nụ Môi với tấm bìa hai mầu đơn giản chỉ có chữ xanh và tên sách chữ đỏ bao vây bởi những tranh nhỏ vẽ ba trái tim và ba cặp môi diễn tả đúng ý nội dung tiểu thuyết.
Ngay trong lời Mở Truyện, Văn Phan đã bày tỏ ý kiến của ông là đề tài viết về trại tù cải tạo đã quá nhiềâu từ những tác giả đầu tiên ở hải ngoại tới cuốn mới nhất của Bùi Ngọc Tấn từ trong nước nên không còn lôi cuốn nữa. Tuy vậy chính ông cũng viết hai cuốn về đời tù là Tình Xuân Địa Trung Hải (1997) và Người Lữ hành Không Đơn Độc (1999). Và bây giờ thì ông thật sự quay sang đề tài mới hơn là "tuổi trẻ tha phương không quên quê hương và nguồn gốc của mình") (trang 7)
Quả vậy, hai nhân vật chính của Tâm Hồn Và Nụ Hôn là đôi thanh niên nam nữ chưa tới hai mươi tuổi chỉ mới quen nhau trong một chuyến xe đò. Mặt trận Sài Gòn thu hẹp vào cuối tháng tư 1975 đôi trai gái trẻ tuổi không thể về Bà Rịa như thường lệ, để rồi cả hai tình cờ vượt biên bất đắc dĩ sang định cư tại Mỹ. Tại xứ lạ Cúc đi làm nuôi Tín đi học trung học, rồi đại học. Sống chung 9 năm rồi Tín mới tỏ tình nhưng vẫn chỉ là mối tình trong sạch. Hai người chỉ hôn nhau vì Cúc muốn Tin thành tài.
Chuyện tình của cặp tình nhân Tín, Cúc đẹp như thơ, đọc gần nửa cuốn khiến ta nhớ tới bốn câu thơ (hình như của Bàng Bá Lân) về chuyện tình Lưu Bình Dương Lễ với nàng Châu Long.
Vách mỏng ngăn đôi chàng với nàng.
Gần nhau mà cách mấy quan san.
Đêm nay trăng gió đìu hiu quá.
Ghé vách chàng run khẽ gọi: Nàng!
Cho tới một ngày Tín bỏ nhà ra đi, gian díu một nữ sinh viên ngổ ngáo, dễ dãi. Lý do bỏ đi của Tín là khi ngà ngà say đòi làm tình nhưng Cúc vẫn cự tuyệt. Sóng gió nổi lên thêm làm vẩn đục mối tình lý tưởng, khi Linda Nguyệt Nga người tình mới của Tín loan tin đã mang bầu. Nhưng cuối cùng tác giả - rất hiền - đã giải quyết mọi rắc rối cuộc đời bằng cách kết thúc câu chuyên rất đẹp và có hậu như chuyện thần tiên.
Tâm Hồn Và Nụ Môi do tác giả xuất bản. Dày 250 trang, giá 15 mỹ kim. Liên lạc tác giả: Van Nguyên * 10082 Central Ave * Garden Grove CA 92843.
PHÓNG SỰ HAY TIỂU THUYẾT?
Trở Lại Mật Khu Sình Lầy của Nguyễn Bửu Thoại chúng tôi có dưới tay là ấn bản lần thứ nhì tháng 12. 2000, có hiệu đính và bổ sung. Tác giả không minh định cuốn sách dầy dặn này thuộc loại truyện ngắn hay truyện dài mà cũng không xác định là truyện thật hay chuyện bịa (trang thứ 11, nếu đếm từ đầu vì đoạn đầâu không ghi số). Sử dụng tất cảù thể loại hồi ký, tiểu thuyết, phóng sự chiến trường trong hơn 400 trang giấy, Nguyễn Bửu Thoại đã tung hoành phô diễn tài năng mình để vẽ những bức tranh linh động khi đau thương, bi thảm lúc tình cảm dạt dào.
Những điều cay đắng trong trận chiến được Nguyễn Bửu Thoại kể lại như khi 20 chiến sĩ thương vong không phải là do địch mà do khu trục của ta bỏ bom lầm (tr.161), cái chết của người bạn thân thiết của tác giả là chuẩn úy Đinh Đình Chiến cùng 13 quân nhân khác thương vong cũng lại vì hỏa tiễn bắn từ phi cơ Mỹ (tr. 96). Cũng như cái chết của người bạn khác, chuẩn úy Nguyễn Văn Quang, người rất tin tưởng vào chiếc áo giáp như thần hộÏ mạng thì khi hy sinh đang mang trên người chiếc áo ấy có đủ hai lỗ đạn vào và ra (tr. 88).
Cái chết của một chiến sĩ bậc thấp nhất trong quân đội cộng hòa, điển hình cho những chiến sĩ vô danh làm nên chiến thắng được mô tả sinh động. Chuẩn úy Thọ đang ngơ ngác tìm binh nhất Hùng, vẫn phóng qua phóng lại giữa những mồ mả khi địch ngưng bắn tới, bỗng bặt đi không thấy.
"... bỗng có tiếng gọi:
- Ông thầy!
Tôi quay nhanh qua chỗ người phát ra chỗ tiếng gọi... Hùng đang ở mô mả cao nhất, chỗ toán tiền sát! Thì ra Hùng đã bò vòng sang bên phải, để từ đó lèo lách từ từ đến được điểm gần mục tiêu nhất này! Hắn lại nổi cơn "Vô, vô! Ông thầy" nữa rồi đây!
Một tay ngoắc một tay tôi che miệng, gọi nho nhỏ:
- Hùng! Cẩn thận, tụi nó gần lắm đó!
Qùy hai chân ở một phía của mô mả với khẩu carbine của An trên tay, Hùng nhăn cái răng sún, cười với tôi:
- Nó làm gì được em? Em vô đây, ông thầy!
Nói xong, Hùng trút hết một băng trái me về phía địch. Bấm cái băng hết đạn cho văng ra rồi lấy một băng đầy đạn lắp vào súng. Bàn tay Hùng vừa đóng cái băng đạn vào nghe cái "cách" thì một loạt súng nổ chát chúa và Hùng té quay ngang vào lòng mấy người bạn tiền sát! (tr 97, 98).
Những cái chết đau thương nhưng anh dũng đó không thiếu trong cuốn sách. Có rất nhiều nhân vật có thật với đầy đủ cấp bậc, chức vụ và các trận đánh độc giả dễ tưởng là một thiên phóng sự chiến trường. Nhưng đọc kỹ thấy có nhiều tưởng tượng. Vì vậy nên coi là một tiểu thuyết. Tiểu thuyết TLMKSL có những đoạn tình tứ, những đoạn mô tả sự chiến đấu anh dũng của chiến sĩ ta, nhưng cũng có những đoạn tưởng tượng quá sức, kể những chuyện làm thương tổn tới QLVNCH. Chẳng hạn những đoạn hành hạ xác chết việt công, hành lạc trong vòng lửa đạn, hiếp dâm gái vị thành niên (các trang 46, 47,158, 400 tới 404). Nhiều nhân vật trong các đoạn này không được nêu tên. Họ là những nhân vật vô danh. Vậy là phóng sự hay hư cấu? Và có ích lợi gì cho một cuốn tiểu thuyết. Để cho thêm phần hấp dẫn chăng?
Cuốn sách cũng có nhiều lỗi về phiên âm và chính tả. Kể làm ví dụ như lắp đạn thay vì lấp, tần số thay vì tầng (tr 98, 426 ) v.v... mà tác giả cần lưu tâm hơn. (Cũng có những tác giả khi thấy cụm từ "phát hình trên băng tần số 120” đã không để ý rằng “băng” và "tần số" là hai danh từø riêng rẽ mà lộn “băng tần” là một danh từ kép. Nhưng trong lịch sử ngôn ngữ đã có nhiều trường hợp cái sai trở thành đúng khi nhiều người dùng và quen tai.)
Để kết luận TLMKSL chỉ nên coi là một tiểu thuyết, nghĩa là một truyện hư cấu có những chương hấp dẫn, nhiều chương hay làm vui lòng chiến sĩ nhưng cũng có đôi đoạn làm buồn lòng họ.
Trở Lại Mật Khu Sình Lầy dày 456 trang, tác giả xuất bản, giá 20 mỹ kim. Liên lạc: PO Box 330872 * Houston, TX 77233 - 0872.
TAI NẠN THƯ ĐIỆN TỬ
Công dụng của com puy tơ quả thật vạn năng, nhưng cũng có nhược điểm là bài và thư quá nhiều, vàng thau lẫn lộn nên nhiều khi cũng mệt. Để tránh sự mệt mỏi đó thường thường mỗi ngày tôi chỉ mở com puy tơ một lần để chỉ để coi thư và những trang nhà đứng đắn. Dù chẳng quảng giao mà mỗi ngày danh sách người gửi thư cho tôi hiện trên màn hình cũng khoảng ngót 100 dù đã từ chối (block) nhiều địa chỉ rồi. Trong số thư hiện ra có khá nhiều quảng cáo chẳng ăn nhằm gì đến mình, có những tham luậïn vô danh, những bài lăng mạ nhau vô tội vạ, nhưng hình ảnh mời chào kèm ảnh màu gái tơ khêu gợi. Để tránh mất nhiều thì giờø và tránh nạn virus trước tiên bấm dấu xóa bỏ (delete) vào những email mà tên người gửi hay đề tài xa lạ mà tôi coi như nặc danh, rồi mới mở đọc phần còn lại
Có thể gọi là một "tai nạn" được không khi ta xóa lộn một thư điện tử đang chờ đợi. Có thể, hay ít ra nếu không là trường hợp của nhiều người, cũng là trường hợp của riêng tôi. Tình cờ đọc được một cuốn sách khá hay của một tác giả mới tôi viết bài giới thiệu nhưng có một câu của tác giả khiến tôi thắc mắc liền phôn hỏi thì đươc tác giả cho biết vì phải chứng minh dài dòng nên sẽ gửi cho tôi lời giải thích qua email. Chờ đợi mấy ngày không thấy, tôi hỏi lại bằng điện thoại thì người bạn mới trả lời đã email cho tôi rồi.
Thì ra email của anh bạn, tôi đã xóa không đọc vì trên cột tên người gửi anh không để bút hiệu quen thuộc ký trên cuốn sách mà để tên thật là TNK (cũng có thể là tên của con anh) và ở cột subject cũng không ghi rõ gửi cho ai mà chỉ ghi "tra loi thac mac".
SÁCH NHẬN ĐƯỢC
Trong thời gian qua chúng tôi đã nhận được:
TẠ TỴ. Tuyển Tập, văn, thơ, họa. Dày 636 trang, giá 22 mỹ kim. Liên lạc: Nxb Thằng Mõ * 918 S. First St * San Jose CA 95110.
NGÔ THẾ VINH. Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậïy Sóng. Dữ kiện tiểu thuyết. Nxb Văn Nghệ tái bản lần thứ nhất. 730 trang, giá 25 mỹ kim. Đc Nxb: 9351 Bolsa Ave * Westminster CA 92683.
CAO MỴ NHÂN. Lãng Đãng Vào Thu. Thơ, dày 130 trang. Liên lạc tác giả: (310) 679 - 7965 * 14918, Gerkin Ave * Hawthorne CA 90250.
NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG. Một Thoáng Mây Bay. Tập truyện. Dày 260 trang, giá 12 mỹ kim. Liên lạc: Cơ sở Cỏ Thơm * 205 East Broad St * Falls Church VA 22046.
TÂM MINH. Mưa Xuân. Thơ dịch, 2001. Nxb Diệu Phương, VA. USA.
NGUYỄN PHƯỚC ĐÁNG. Tiếng Việt Chữ Việt. Đề nghị cải cách tiếng Việt. Dày 338 trang, bán 14 mỹ kim. Tác giả xuất bản 2001. Liên lạc: 1406 Sierraville Ave * San Jose CA 95132.
TRẦN GIA PHỤNG. Aùn Tích Cộâng Sản Việt Nam. Biên khảo, 464 trang, giá 22 mỹ kim. Nxb Non Nước tái bản năm 2001. Đia chỉ tác giả: TGP, PO Box 63015 * 1655 Dufferin St * Toronto, Ont M6H 4H8 , Canada.
DƯ THỊ DIỄM BUỒN. Chân Trời Hạnh Phúc Truyện dài. 212 trang, giá 15 mỹ kim. Địa chỉ tác giả: 1250 Army Trail Rd * Addison IL 60101.
TRẦN VẤN LỆ. Ta Nhớ Người Xa Cách Núi Sông Thơ, dày 178 trang. Dù mới cuối năm 2001, bìa đã ghi Người Dưng xuất bản 2002, không có địa chỉ và giá bán.
Trân trọng cám ơn các tác giả.
Đặng Trần Huân PO Box 3022 Industry, CA 91744
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 8:20:11 GMT 9
Juda lại đi vào Châu Á_ Tháng 8 năm 1966. Tướng một mắt Moshe Dayan của Do Thái đến Việt Nam, sau khi đi tham quan một vòng khắp chiến trường Việt Nam trở về Do Thái y tuyên bố “Muốn thắng cs phải cho cs thắng trước”. _ Năm 1971 một người Do Thái khác là Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia Hoa kỳ, đến Bắc Kinh và sau đó vào tháng 2 năm 1972 y cùng tổng thống Richard Nixon đến Thượng Hải dự tiệc cùng Mao Trạch Đông. Y đã mở lời nói trước ý của y khi vừa mới gặp Thủ Tướng Trung Cọng Chu Ân Lai “ Tôi không muốn chính quyền Miền Nam Việt Nam sụp đổ trong vòng sáu tháng mà chỉ đồng ý để chính quyền Miền Nam sụp đổ trong vòng 2 năm sau khi hiệp định (Paris) được ký kết”. Trong những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được giải mã cho thấy không có một cuộc họp nào của nội các chính phủ Hoa Kỳ vào lúc đó xác nhận sự đồng thuận của cho phép Henry Kissinger có quyền bán đứng Miền Nam Việt Nam cho Trung Cọng nên chúng ta có thể cho rằng lời của Henry Kissinger là do y tự đặt ra. Vì còn nhiều tài liệu có liên quan đến Henry Kissinger chỉ được phép giải mã sau khi y chết nên chúng ta chưa có điểm nào xác nhận được Hạ Sĩ tình báo Henry Kissinger thuộc sư đoàn 84 infantry có liên hệ với Tình Báo Do Thái và đã được chỉ thị từ Do Thái về việc giải quyết cuộc chiến Việt Nam hay không nhưng Phương thức giải quyết chiến tranh tranh Việt Nam bằng cách bán đứng Miền Nam Việt Nam cho Bắc Kinh có thể đến từ Do Thái do : _ Do Thái nhận được thêm tiền viện trợ từ Hoa Kỳ sau khi Hoa Kỳ phủi tay với cuộc chiến Việt Nam. _ Do Thái chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc nơi anh nông dân Mao đang gây nạn đói chết đến 37 triệu người. Có thể nói là Hoa Kỳ chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc nhưng trong nước Hoa Kỳ các chủ nhân ông đang kiểm soát nền kinh tế Hoa Kỳ Phần đông đều là người Do Thái nên nói Do Thái chiếm được thị trường béo bở Trung Quốc thì đúng hơn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 nước Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ tạo ra thảm cảnh _ 196.000 viên chức Việt Nam chết thêm trong trại tù cs. Một triệu người dân Miền Nam Việt Nam chết trên biển khi tìm cách đào thoát vùng cs cai trị. _ Một nước Hoa Kỳ đầy chia rẽ, bị cả thế giới lên án là đã bán đứng phản bội đồng minh với một đoàn quân mang tiếng bại trận. Trong tuần nay thủ tướng Do Thái Netanyahu đến Trung Quốc hội đàm cùng các viên chức cao cấp của Trung Quốc. Ý đồ của Do Thái trong những ngày sắp đến có thể gom lại qua những điểm sau đây : _ Thương lượng để tìm hậu thuẫn của Trung Quốc khi Do Thái tấn công Iran _ Bật đèn xanh cho phép Trung Quốc tiếp tục làm căng thẳng toàn bộ Châu Á và lấn chiếm những vùng có thể lấn chiếm được để những tên những lái súng đang ở Hoa Kỳ bán vũ khí kiếm tiền. _Ngoài hai điểm trên chúng ta cũng có thể nghĩ thêm một điểm khác là Do Thái đang phân vùng chia ảnh hưởng toàn thế giới qua con cờ Hoa Kỳ vì nền kinh tế của Hoa Kỳ và phần đông người trong quốc hội và cả trong guồng máy cai trị của Hoa kỳ đang chịu ảnh hưởng hay bị kiểm soát người Mỹ gốc Do Thái. Thủ tướng Netanyahu đang nắm trong tay con bài tẩy gì để làm cho Trung Quốc phải nghe lời y điều khiển ? Đó là tâm điểm của bài viết này : Con bài tẩy này được tạo ra trong tình cờ vào giữa năm 2007 khi chính quyền Trung Quốc tìm cách mở đầu ra cho thị trường chứng khoán Thượng Hải thông thương với thị trường chứng khoán thế giới bằng cách : _ngày 21-5-2007 chính quyền Trung Quốc tuyên bố đầu tư vào nhóm BlackStone Group của thị trường chứng khoán New York 4 tỉ đô la để đầu tư vào lãnh vực bất động sản như mua nhóm khách sạn Hilton v.v… _Hai ngày sau chính quyền Trung Quốc thừa thắng xông lên tuyên bố bỏ ra 60 tỷ đô để đầu tư vào thị trường chứng khoán ngoại quốc. _Một tháng sau vào ngày 29-6-2007 quốc hội Trung Quốc chuẩn chi 200 tỉ đô để thành lập công ty kinh doanh ngoại hối nay là cơ quan giao dịch hối đoái nhà nước (SAFE) State Administrative Of Foreign Exchange do Dịch Cương, phó chủ tịch ngân hàng trung ương, đứng đầu. Theo tài liệu công bố vào ngày 15-4-2013 vừa qua thì Trung Quốc đang sở hữu 1220 tỷ đô la trái phiếu của Hoa Kỳ. Đó là lá bài tẩy của thủ tướng Netanyahu đang nắm trong tay buộc Trung Quốc thực hiện những gì y yêu cầu vì Trung Quốc hiện là chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ. Theo lệ thường thì con nợ luôn luôn sợ chủ nợ nhưng theo luật chơi của các nhà tư bản tài chánh hay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay thì chủ nợ phải sợ con nợ, lý do : _ Nếu chủ nợ (Trung Quốc) bán tháo số trái phiếu Hoa Kỳ đang sở hữu ra thị trường thì đồng đô la sẽ xuống giá, như thế hàng hóa Hoa Kỳ trở nên rẻ làm lợi cho Hoa Kỳ và mình lại mất thâu lợi nhuận từ số trái phiếu. đang sở hữu. _Quỹ dự trữ ngoại tệ cũa Trung Quốc hiện nay là 3.197 tỷ đô la mà trong đó 2/3 quỷ là đồng đô la. Khi đô la xuống giá thì chủ nợ Trung Quốc là người thiệt hại nhiều nhất. _Lá bài tẩy của thủ tướng Netanyahu có thể làm cho Trung Quốc cúi đầu là Hoa kỳ có quyền in thêm tiền để phá giá đồng bạc của mình và những người có đủ quyền hạn để làm việc này là các nhà tư bản tài chánh Hoa Kỳ gốc Do Thái. Sau thế chiến thứ II, các nhà tư bản tài chánh tại Wall Street đầu tư vào hai quốc gia bị tan nát nhiều nhất là Đức và Nhật. Sau một thời gian dài thâu lợi nhuận hã hê các nhà tư bản tài chánh rút tiền từ hai quốc gia ấy về rồi bán đứng Miền Nam Việt Nam làm món quà để chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Nay Trung Quốc không còn là điểm hấp dẫn để đầu tư các nhà tư bản tài chánh đang bắt tay với Trung Quốc tạo căng thẳng khắp Châu Á để bán vủ khí kiếm thêm chút tiền còm. Tương lai của Châu Á là phải chạy đua vũ trang và người thâu lợi trong cuôc chạy đua vũ trang là người Hoa Kỳ gốc Do Thái. Mỗi năm cứ đến ngày oan trái thắp nén hương lòng để nhớ thương Ngày oan trái 30 tháng 4 năm nào cũng được cộng đồng Nguời Việt Hải Ngoại làm lễ tưởng niệm Ngảy Quốc Hận. Họ quên một điều : tên gây ra ngày oan trái đó cháu ngàn đời của Juda đã từng vì vài đồng xu mà bán thầy nó là chúa Jesus Christ. Hy vọng những năm tới vào ngày oan trái trong buồi lễ ngày quốc hận của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại cần có thêm hình nộm hạ sĩ Henry Kissinger đang bị treo cổ. Ít nhất cũng cần cho hắn biết hắn phải chịu trách nhiệm của về cái chết hơn triệu người Miền Nam Việt Nam, những người mà hắn đã từng gọi là đồng minh là bạn. © Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 15:50:45 GMT 9
Bạn Thật, Bạn GiảLê Hữu August 17, 2013 “Bạn giả cũng tựa như bạc giả, đã không xài được mà để trong túi có khi mang họa.”Nhiều người vẫn cho rằng một trong những hạnh phúc trên đời này là tình bạn. Điều này thì ai cũng dễ dàng đồng ý thôi. Thế nhưng, để có tình bạn thực sự thì cần có những người bạn thực sự. Như thế nào gọi là một người bạn? Liệu có phải những ai ta vẫn giao du đều là bạn cả? Không đâu, số người ấy gồm cả “bạn” lẫn “bè”, và phần nhiều là bè hơn là bạn. “Bạn bè” không phải là lối nói cho xuôi tai, cũng không phải là “từ láy”, “từ đệm” này nọ như nhiều người tưởng mà là “từ ghép” của hai chữ “bạn” và “bè”. Bạn, nói đơn giản, là người đồng hành cùng chia vui sẻ buồn với ta trên những chặng đường đời. Bè là những kẻ tạt ngang qua đời ta trong chốc lát, rồi đường ai nấy đi mà không chút vấn vương. Tình bạn và tình bè Bè là một dạng “bạn qua loa”. Bè trong những chữ “bè phái”, “kết bè, kết đảng” gợi lên ý tưởng không lấy gì làm hay ho cho lắm. Kết bè luôn luôn dễ dàng hơn kết bạn, như ta dễ dàng “cụng ly” với người mới tiếp xúc lần đầu trong một bàn tiệc. Bạn nhậu là một trong những dạng “bè” khá phổ biến. Bàn nhậu và cuộc nhậu mở ra những cơ hội thuận tiện cho những ai có nhu cầu kết bè. “Bè” dễ đến, dễ đi. Những lúc ta sảng khoái thì bè xăng xái “tấp” vào, những khi ta phiền muộn thì bè lặng lẽ “trôi” đi. Những kẻ ở quanh ta trong những cuộc vui ồn ào mà ta tưởng là “bạn” thường chỉ là “bè”. Như những cuộc vui chóng tàn, những người “bạn” dễ dãi ấy cũng nhanh chóng biến mất khỏi đời sống chúng ta. Những con người ta dễ lầm tưởng là “bạn” ấy, nhiều lắm chỉ đi với ta một đoạn đường ngắn ngủi, cũng không khác mấy những anh chàng, những cô nàng vớ vẩn mà ta có lần “đụng” phải, có lần gặp gỡ phất phơ đâu đó trong đời này, nói dăm ba câu chuyện nắng mưa rồi chia tay, đường ai nấy đi và chẳng bao giờ còn gặp lại lần thứ hai. “Bè” cũng hay “đổi bè”, khi thì hát “bè” này, khi thì đổi sang “bè” khác. Tình bè khó mà bền chặt vì thiếu sự hiểu biết và tin cậy. Bè có khi hóa thành bạn, tình bè có khi đổi sang tình bạn nếu chung sống được với nhau lâu dài. Thường thì bè chỉ là bè. “Có hoạn nạn mới biết bạn, bè”, câu ấy không mới nhưng chẳng bao giờ cũ, chẳng bao giờ sai, và cũng cho thấy một trong những “đức tính” nổi bật của bè: những lúc “bạn” khốn đốn thì “bè” chẳng thấy đâu và thường viện những lý do chính đáng để không phải ra tay nghĩa hiệp với bạn mình. Hầu như ai cũng có ít nhiều bè, là những người ta vẫn tiếp xúc vì nhu cầu giao tế hoặc cùng môi trường sinh hoạt (hội hè, làm việc, giải trí…), nhưng không kể là bạn nên họ phải là bè. Ngược lại, ta cũng là bè của nhiều người, những người không thực sự xem ta là bạn. Cuộc sống là vậy. Thường thì bè cũng vô thưởng vô phạt, nếu ta chẳng trông cậy gì ở họ thì cũng không phải thất vọng vì họ. Bạn cũng có bạn thân, bạn sơ. “Bạn sơ” có điểm giống “bè” là ta không biết gì nhiều về họ nên không đủ độ tin cậy. Bạn thân thường là bạn quen biết và gắn bó lâu năm, là người biết rõ cả tính tốt lẫn thói hư tật xấu của ta. Bạn thân là người từng chia sớt cùng ta những vui buồn, sướng khổ, và là người ta tin cậy được để chia sẻ những nỗi niềm. Bạn thân không hẳn là tri kỷ hoặc gần nhau về tính cách, sở thích, quan niệm. Bạn thân cũng không hẳn là người thật tốt. Có những người thật tốt với ta, có khi tốt hơn cả những bạn thân, nhưng ta vẫn không cảm thấy gần gũi, thân mật, vì thế không gọi là bạn thân. Tình bạn thường “tĩnh” hơn là “động”, lắng đọng hơn là sôi nổi. Ở giữa hai người bạn thân là sự đồng cảm. Tận cùng của đồng cảm là thinh lặng. Tình bạn cần có một bề dày của sự gắn bó, hiểu biết, cảm thông và tin cậy. Đến một tuổi nào đó người ta thật khó mà có thêm được những người bạn mới, trong lúc những người bạn cũ thì cứ mất đi lần lần. Càng lớn tuổi người ta càng cảm thấy cô đơn là vậy, và chẳng còn cách nào khác hơn là cố mà giữ lấy và yêu lấy những tình bạn cũ kỹ, hiếm hoi còn sót lại. Những người tưởng rằng mình có nhiều bạn, thực ra là những người không có hoặc có rất ít bạn, và không biết phân biệt đâu là bạn, đâu là bè; hơn thế nữa, đâu là bạn thật, đâu là bạn giả. Bạn thật tình thật, bạn giả tình giả Bạn lại có “bạn thật” và “bạn giả”. Bạn thật là khuôn mặt thật, không điểm phấn tô son. Bạn giả là chiếc mặt nạ, với nhiều lớp phấn dày. Như cuộc sống có hai mặt, con người vừa có bạn thật lại vừa có bạn giả. Rủi thay, bạn giả lúc nào cũng nhiều hơn bạn thật. Bạn giả thì tình cũng giả, đến với ta vì cái gì đó khác hơn là tình thật. Bạn giả là người đóng giả vai người bạn, ngoài mặt tỏ ra thân thiết nhưng có thể bất ngờ tặng cho ta những nhát dao trí mạng từ phía sau lưng, hoặc phun ra những nọc độc của lòng đố kỵ. Đôi lúc có kẻ thù còn dễ chịu hơn là có những người bạn giả. Bạn giả cũng tựa như bạc giả vậy, đã không xài được mà để trong túi có khi mang họa. Bạn giả cải trang rất khéo, ra vẻ tình nghĩa thắm thiết, nói năng toàn những lời hay lẽ phải. Thường thì người ta phát giác ra bạn giả khá muộn màng, đành tự an ủi là học được bài học quý giá (với chút vị đắng cay) về những tình bạn… giả. Bạn giả như rượu giả, uống vào mới ngã ngửa ra. Bạn thật và bạn giả đều là những “bạn” ta quen biết khá lâu. Làm sao nhận biết được bạn nào là thật, bạn nào là giả? Bạn thật là người thực tâm mong muốn những điều tốt lành cho người bạn mình, là người vui sướng thấy bạn mình hạnh phúc, may mắn và thành công trong cuộc sống, như là hạnh phúc, may mắn và thành công của chính mình vậy (dẫu có “qua mặt” mình đi nữa). Bạn thật không bỏ qua cơ hội nào giúp bạn mình thăng tiến trên đường đời. Bạn thật không ngại tán thưởng về tài năng hoặc thành công của bạn mình để giúp bạn thêm tự tin trong cuộc sống, và không ngại nói thẳng nói thật về những sai trái của bạn mình để giúp bạn cải thiện bản thân. Bạn thật không ngại nói tốt về bạn mình sau lưng bạn, và sẵn sàng bẻ gãy những mũi tên ác ý nhắm vào bạn mình. Bạn thật là bàn tay chìa ra cho bạn mình nắm lấy lúc sa cơ thất thế, là đôi nạng cho bạn mình tựa vào lúc chông chênh, nghiêng ngả giữa dòng đời xuôi ngược. Bạn thật là người đến với ta trong những thời kỳ đen tối nhất của đời ta, trong những lúc ta trần trụi, và cũng là người ta có thể đến gõ cửa mà không cảm thấy ngại ngùng khi cần sự giúp đỡ. Bạn giả là người có những “đức tính” trái ngược hoặc không giống như trên. Những người bạn thật như thế làm sao mà có nhiều được, thường chỉ đếm được trên những đầu ngón tay của một bàn tay (và ít khi đếm hết được). Con số này lại hao hụt dần và không kiếm đâu ra được để mà thay thế khi ta bước vào buổi hoàng hôn của đời người. Những con người ta gặp gỡ vào tuổi xế chiều, khi mà quỹ thời gian đã gần cạn, làm sao mà có đủ bề dày của một tình bạn. Làm sao để có được những người bạn thật? Tôi chắc câu trả lời được nhiều người tán đồng là: “Bạn hãy tỏ ra là người bạn thật.” Chẳng ai có hứng thú gì để “giao lưu tình cảm” với những người bạn giả, trừ khi ta cũng là… bạn giả. Lúc nào rảnh rỗi, bạn thử làm việc này: với cây bút và tờ giấy, vẽ ra hai cột “Bạn” và “Bè” và ghi xuống tên những người ta vẫn giao du vào mỗi cột tương ứng. Từ cột “Bạn”, ta có thể di chuyển một ít tên sang cột thứ ba là cột “Bạn giả”, sau khi xem xét cẩn thận để đi đến kết luận rằng những “bạn” ấy không phải là bạn thật. “Bảng phân loại” này giúp ta có được cách xử sự phù hợp với từng đối tượng. Với những người tôi thực lòng quý mến, tôi vẫn nói: “Tôi mong cho anh/chị không có bạn hơn là có những người ‘bạn giả’. Có được chừng vài ba người ‘bạn thật’ thì anh/chị là người may mắn và hạnh phúc.” Lê Hữu www.vietthuc.org
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 15:57:03 GMT 9
Chúng Ta Đã và Đang Thực Sự Mất NướcPhạm Cao Dương, TS August 17, 20130 “Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.” Vua Lê Thánh Tông dụ bọn Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy, năm 1473 “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô- Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.” “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất.” Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1959 Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất Nước”. Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta. Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp. Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại. Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ. Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại. Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta. Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc. Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng. Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp… Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không? Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long. Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này. Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua. Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều người khác … sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá” , là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu. Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa. Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả lời là có. Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau: Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.” Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công uớc này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước. Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000. Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán. Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây. Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?” Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau: “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.” Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới . Lãnh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.” Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước. Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này. Xin kính chào Quý Vị. Phạm Cao Dương Chú thích:
Đây là nguyên văn bài thuyết trình tác giả đọc tại buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coatline Community College, Thành Phố Westminster, California.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2015 3:30:39 GMT 9
7 Điềm Mộng của Tôn Giả A NanTrong một đêm nằm mộng thấy 7 điềm quái lạ, A Nan cảm thấy lo sợ hoang mang. Sáng sớm thức dậy A Nan đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và kể lại 7 điềm mộng xin Đức Phật giải thích: 1. Khắp nơi các ao ngòi sông hồ biển cả dều bị lửa dữ rực cháy, khô cạn tất cả. 2. Mặt trời rơi rụng, thế giới tối đen, không có một ánh sao, đầu con vượn lao lên chín tầng mây. 3. Các Tỳ kheo không tuân giữ giới luật treo áo cà sa. 4. Trong cảnh chông gai lao lý Tỳ kheo khốn khổ, pháp y tơi bời. 5. Cây chiên đàn xanh tươi bị các đàn heo rừng đến bới gốc, trốc rễ. 6. Không nghe lời voi mẹ, vo con tung tăng chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói chết, khát ngổn ngang. 7. Sư tử chết, các loài điểu thú côn trùng không dám đến gần, dòi từ trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xuơng sư tử. Khi nghe A Nan kể, biết đó là điềm chẳng lành Phật giải thích: · Này A Nan! Đã là mộng nên làm gì có thực, tất cả đều do tâm thức biến hiện, chắc lòng ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy nhiên giữa cái có và cái không vốn không tách biệt, bởi thế giấc mộng của ông là điềm báo trước giáo pháp của ta trong tương lai. · Này A Nan! Điềm thứ nhất: Lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn, biểu hiện tương lai các vị Tỳ kheo được hưởng đầy đủ mọi sự cúng dường nhưng lại không giữ giới pháp thanh tịnh, khởi xướng nhiều việc đấu tranh gây gỗ. · Điềm thứ hai: Sau khi ta Niết Bàn giống như trời đất mù tối, để chánh pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương giáo Pháp. · Điềm thứ ba: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông không lo tu hành. · Điềm thứ tư: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo không lo tu giới, định, tuệ, xuôi theo thế tục có vợ con đùm đề. · Điềm thứ năm: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo chỉ chuyên buôn Phật, bán thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu lợi dưỡng. · Điềm thứ sáu: Trong tương lai có hạng Tỳ kheo trẻ tuổi không chịu học tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin nhân quả tội phước, chết đọa vào địa ngục. · Diều thứ bảy: Trong tương lai chính đệ tử Phật phá hoại giáo pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá hoại chánh pháp. Trong 7 điềm mộng, ngay sau khi Phật Niết Bàn 3 tháng, điềm thứ hai đã xảy ra tại núi Kỳ Xà Quật. Tôn giả Ca Diếp mở cuộc Kiết tập kinh điển, Tôn giả A Nan được yêu cầu tuyên đọc tạng kinh. Nguồn: thuvienhoasen.org/.../05-ton-gia-a-nan-da-da-van... ************************** Những pho tượng bằng gỗ"Lý Căn Nguyên: Những pho tượng bằng gỗ, bằng đất này dùng để làm gì? Lãng phí tiền của vô ích”. Hư Vân nói: “Đó là mượn đất nặn, điêu khắc gỗ để biểu thị sự trang nghiêm từ bi của Thần Phật, khiến chúng sinh sinh lòng kính sợ. Con người nếu không có lòng kính sợ thì sẽ không việc ác gì không làm, sẽ gây nên đại họa đại loạn. Bất kể là tượng gỗ tượng đất của Trung Quốc hay tượng đồng của các nước bên ngoài, đều là để cho con người trông thấy mà sinh thiện niệm, tâm trở về với thiện lương”. Trích: Biên Niên Tự Thuật - Hư Vân Thiền sư" Thuộc lòng "Thiên Kinh vạn quyển" có ích gì, chẳng hơn cái máy ghi âm... nếu mà ko hiểu cái "Đạo lý" bên trong những lời Kinh Kệ đó. Ngày nay, các hội nhóm như group Tỉnh Thức này vô số kể... toàn lấy lời Kinh Kệ ra phỉ báng Pháp Như lúc trước, có một cậu nhỏ trong xóm... khoái nghiên cứu khoa "chỉ tay" thuộc làu làu các sách... - tui hỏi: Cái đạo lý bên trong nó là gì?... - cậu ta tự cao trả lời: biết được số mạng con người... - thế biết số mạng con người để làm gì...? Ngần ngừ chút rồi cậu ta giảng bao nhiêu điều cao siêu... mà trong sách điều ghi cả... nghe lùng bùng lổ tai. Đúng là con người ta ngày nay "Ngã mạn" cao quá. Những người vậy, khó nói cho họ "thông", nên đành tóm gọn vài câu, hiểu hay ko thì "Tuỳ Duyên" vậy - Đạo lý nó đơn giản vầy: tướng tay cho ta biết số mạng, tức số mạng nằm trong tay ta, chứ ko do ai nắm cả, tướng tuỳ tâm sinh, Xấu Tốt do Tâm ta mà ra. Tay làm việc tốt thì mạng tốt, việc xấu mạng xấu. Nếu "ngộ" được, cần gì tốn thời gian tìm hiểu rồi lo lắng xấu tốt... Đức Phật truyền "Kinh Vô Tự", còn thuộc lòng Kinh Kệ như cháo mà chẳng hiểu "Đạo Lý" bên trong thì chẳng ít gì. Máy ghi âm làm tốt hơn. *************************** Nhà sư khoa học giaMathieu Ricard "Nhà sư - khoa học gia", tôi xin giới thiệu đến quý độc giả thân mến danh từ kép này kiểu như "nhà sư - tiểu thuyết gia" Thích Nhất Hạnh bên Việt Nam ta vậy vì họ đã chứng tỏ khả năng "nghề nghiệp" trong cả hai lãnh vực. Về thầy Thích Nhất Hạnh, đã có rất nhiều tài liệu giới thiệu về ông trong khi Matthieu R. thì còn mới hơn chút ít nên tôi đã chọn vị này để hầu như tiếp tục loạt bài đã viết về giáo sư vũ trụ học Trịnh Xuân Thuận. Đúng là vậy, vì thầy Nhất Hạnh sinh năm 1926, còn nhà sư khoa học xứ Pháp sinh năm 1946 lớn hơn GS Thuận 2 tuổi (1948). Giữa hai thế hệ là 20 năm cách khoảng. Thời buổi này, quốc tế nhiễu nhương, chiến tranh loạn lạc còn tiếp tục, chúng ta còn le lói hy vọng nào khôngđể nghĩđến một tương lai "chết hai còn một mới ra thái bình"? Trên mạng, hình ảnh mới nhất của cựu TT Nga là ông Gorbachev hiện ra với vết bớt đỏ độc đáo trên da đầu sói tóc cho lời tuyên bố “sẽ có chiến tranh nguyên tử xảy ra cầm chắc” làm chúng ta thấy câu sấm truyền Việt Nam có lẽ sẽ ứng nghiệm. Tuy nhiên, Phật giáo lại không bao giờ nóiđến những lời tiên tri hay sấm truyền gì cả, mà chỉ nhắc nhở mãi mãi con người trong thế giới hiện đại "vừa có vừa không" này cách thức tu hànhđể giác ngộ ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Ông Ricard có cha là một nhân tài đa dạng: ký giả kiêm tiểu thuyết gia, triết gia, có chân trong Hàn Lâm Viện (Hội các nhà học giả về văn chương, triết học, nghệ thuật, khoa học... của nước Pháp) và mẹ là một nữ họa sĩ. Hiện nay, ông cư trú tại tỉnh lỵ Shéchèn, thuộc nước Népal. Thật ra, địa danh này là của một trong những ngôi đền đầu tiên xây dựng vào thế kỷ thứ 17 (1695) thờ Phật tại nước Tibet đã bị Trung Cộng xâm chiếm và phá hủy vào năm 1950. Trong số 160 ngôi đền bị tàn phá, khoảng 30 cái được trùng tu kiến thiết lại; và tu viện mà nhà sư Ricard đang ở là thuộc về nước Népal láng giềng với xứ Tibet. Ngôi đền này được xây dựng vào năm 1980, thuộc hệ thống đa dạng các ngôi chùa chiền nói trên nay “di cư” sang Katmandou, một tỉnh lớn của xứ Népal, đồng thời là thủ đô hành chính. Sự có mặt của nhà sư khoa học Pháp càng làm cho chùa ở Shéchèn trở thành nổi tiếng hơn nữa, từ khi ông được xem như cánh tay mặt của đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay. Nước Népal là một quốc gia đặc sắc thuộc Châu Á. Népal lại là chữ gốc gác Tibet, có nghĩa là xứ thương mại về len (buôn bán lông cừu làm len may áo lạnh). Họ có đến 8 ngọn núi trong số 10 ngọn cao nhất thế giới với đỉnh Everest trứ danh (8848 mét) và nổi tiếng nhờ bộ môn leo núi cao dành cho du khách xứ ngoài cũng như các địa danh thờ phụng tôn giáo thu hút sự thăm viếng, tìm hiểu. Diện tích nước là 147.181 cây số vuông (nước nhỏ) theo chế độ liên bang cộng hòa với hơn 60 sắc dân thiểu số và đa số hợp lại thành khoảng 30 triệu người. Ấn độ giáo chiếm 80% dân số và Phật giáo là 9%. Lá cờ xứ họ là một trong những thứ kỳ lạ không có hình chữ nhật mà cắt khúc do hai tam giác vuông nhỏ và lớn chồng lên nhau theo cạnh thẳngđứng (xem ảnh kèm theo: ông Mathieu Ricard và xứ Népal với lá cờ lạ). Hình tam giác nhỏ nằm trên có hình trăng lưỡi liềm mang theo bánh xe nhiều răng cưa tượng trưng cho vương quốc bền vững mãi mãi theo thời gian. Hình tam giác lớn bên dưới có mặt trời sáng chói là gia đình Rana đã cung cấp các vị Thủ Tướng đầu tiên cho nhà nước Népal. Trên thực tế, chế độ vua chúa bị bãi bỏ mất hẳn từ năm 2008, thay vào đó là cộng hòa liên bang cho đến nay. Népal thuộc về mười nước nghèo nhất thế giới (số liệu năm 2007), hơn 80% dân chúng sống ở vùng nông thôn. Đất đai họ có hình thang lọt thỏm vào giữa 2 nước lớn là Trung Cộng và Ấn Độ, với khoảng 20% diện tích trồng trọt được mà thôi trong 3 vùng khí hậu khô lạnh nơi vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, ôn hòa nơi có nhiều thung lũng đồi núi, và cận nhiệt đới nơi có 3 con sông lớn nhất cùng với đồng bằng phì nhiêu. Trở lại với nhà sư Pháp nổi tiếng hiện nay trên thế giới sau khi chúng ta có cái nhìn sơ khởi về xứ Népal mà ông đang sống không cùng chỗ với đức Đạt Lai Lạt Ma. Bốn chữ chỉ định tên vị sư trong 1 trên 4 trường dạy học rường cột về đạo phật ở Tây Tạng có hai nguồn gốc: hai chữ Đạt Lai thuộc Mông Cổ có nghĩa là “biển” (la mer) đồng thời chỉ danh tính vị sư đầu tiên mang chức này. Hai tiếng Lạt Ma là gốc Tibet chỉ định ông thầy tâm linh. Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là "Biển Khôn" của bậc thầy trong đạo Phật. Vị đương nhiệm thứ 14 mang tên Tenzin Gyatso là người Tibet được quốc tế công nhận cư ngụ ở Dharamsala. Ngài đã được thủ tướng Ấn Độ lúc ấy là Nê Ru cho phép thành lập chính phủ Tây Tạng lưu vong trên đất Ấn kể từ năm 1960 đến hiện giờ. Dharamsala là một tỉnh nhỏ có khoảng 20.000 dân đa số theo đạo Phật nhưng hiện nay đã có đạo Hồi, đạo Phạm Thiên xuất hiện. Tỉnh còn mang tên là “tiểu Lhassa” tựa như tiểu Sài Gòn của Việt Nam ta, nhắc đến thủ đô cũ của xứ Tibet. Tiểu Lhassa hiện nay sống nhờ 400.000 khách du lịch đến thăm viếng hàng năm với hơn 10.000 dân xứ Tibet lánh nạn Trung Cộng đàn áp người bản xứ bị cướp nước nên phải mang danh công dân xứ Tàu. Do một viên đại úy người Anh thống lĩnh binh lính chiếm đóng Dharamsala lúc đó mà sau này phần đất thuộc vùng cao nguyên của tỉnh lỵ nơi có đức Lạt Ma 14 cư ngụ còn có tên là McLeod Ganj. Năm 1905, vốn là vùng núi nên 1 cuộc động đất kinh khủng đã chôn vùi 20.000 người sinh sống nơi đây. Hiện giờ, Dharamsala vẫn còn thỉnh thoảng “nghe” đất đai rung động nhẹ dưới chân mình. Sauđây là một trong những tài liệu ghi nhận được các kết quả về sự tìm hiểu của giới khoa học trong lúc nhà sư ngồi thiền. Công trình này được thực hiện năm 2012, vào tháng 9, cách đây gần 4 năm, tại đại học Wisconsin, Hoa Kỳ. Chuyên gia khoa học về não bộ Richard Davidson đã gắn 256 cái máy tí hon - điện cực - thu nhận số liệu trên đầu ông; theo nguyên tắc còn lại khoảng vài trăm người cũng sẽ được chuẩn bị y vậy để công trình có ý nghĩa. Những vị này toàn là những chuyên gia "ngồi thiền cao cấp" tình nguyện tham gia công trình nghiên cứu khoa học. sóng não khi chưa có hiện tượng thiền định (thiếu phần gamma). Nhà sư phát biểu: "Đây là một chương trình nghiên cứu tuyệt diệu vì nó sẽ chứng minh cho ta biết rằng ngồi thiền không phải chỉ là một trạng tháiđạtđạo tĩnh lặng dưới gốc thông già, mà nó làm thayđổi bộóc vàđưa chúng ta đạt đến "hạnh phúc". Hạnh phúc này thật đơn giản, ai cũng có thể với tới nếu muốn và chịu khó tập luyện. Lúc ông ngồi thiền, điện não đồ (bản ghi đường biểu diễn trạng thái của bộ óc qua làn sóng thay đổi) ghi nhận được loại “gamma” liên quan đến một sự thức tỉnh đặc biệt. Người chủ động thực hành cho hay khoa học về não bộ chưa từng làm thí nghiệm về các trạng thái tinh thần như sự chú ý, sự học hỏi, trí nhớ... Sóng não thật ra là hoạt động của bộ óc khi chúng ta tỉnh táo, đơn vị là Hertz (làn sóng điện do não bộ phát ra rất yếu ớt đều đặn trong 1 giây, viết tắt là Hz) được ghi nhận bởi máy móc. Nếu điện não đồ (giống như điện tâm đồ) mà bằng phẳng điều đó có nghĩa là bộ óc (hay tim) ngừng hoạt động. Có 5 loại sóng não khác nhau theo các khoa học gia chuyên môn. Nói chung, đây là đường biểu diễn của số lần lập đi lập lại của một hiện tượng sinh - vật lý học trong thời gian dài 1 giây (tỷ lệ nghịch giữa vận tốc và chiều dài sóng). 1. Sóng alpha: từ 8 đến 13 Hz ; hoạt động thư giãn nhẹ và yên tĩnh như khi chúng ta ngồi xem đài truyền hình hoặc nghe truyền thanh. 2. Sóng bêta: 14 Hz trở lên ; sinh hoạt thường ngày và lúc ta có giấc ngủ ngắn cùng với mộng mị. Đó cũng có thể là lúc ngồi đọc sách hay chơi sudoku (trò chơi thể thao trí óc). 3. Sóng gamma: từ 30 Hz đến 40 khi chúng ta đang có một việc làm lớn lao như sáng tạo hay giải quyết vấn đề khó khăn (đây cũng là lúc thiền định sâu...). 4. Sóng delta: từ 0,5 đến 4 Hz; lúc ngủ sâu, ngủ thật ngon không mơ. 5. Sóng thêta: từ 4 đến 7 Hz, không gặp nơi người thường, ấn định tình trạng thiền cao siêu nhất mà cơ thể vẫn hoàn toàn tỉnh táo không phải là ngủ. Theo báo cáo khoa học nói trên, nhà sư Ricard và các vị đồng môn đạt tới sóng gamma. Điều này có ý nghĩa tương ứng với trạng thái thiền định lớn lao vì sức vận dụng rất mạnh . Các vị sư có nội lực thâm sâu đã chứng tỏ được họ có khả năng điều khiển được bộ óc bằng cách đạt tới sóng não thứ 3. Khoa học chỉ ghi nhận được điều này gần đây mà thôi, hoặc trong vài trường hợp bị ngất xỉu vì chứng kinh phong bại giật. Ngày nay, điều này chứng tỏ các lợi điểm đưa đến trạng thái "hạnh phúc" vì nó làm biến mất sự căng thẳng hay khủng hoảng tâm thần, làm người ta vui vẻ hơn ; và cuối cùng là sống lâu hơn trong sự sáng suốt và xử thế tốt đẹp. Trong nhóm nhân chứng không phải là các vị tu hành được làm thí nghiệm cùng lúc, các khoa học gia nhận ra rằng họ cũng đạt tới trạng thái thiền định trung gian giữa sóng gamma và cận kề. Vì vậy, nếu chúng ta không tu hành nhưng chịu khó tập ngồi thiền cũng sẽđạt tới kết quả khả quanđể có thể tầm sư họcđạo thêm nữa. Ngoài điện não đồ (electro-encéphalo-gramme, EEG) ; các hình ảnh cung cấp bởi máy scanner (tomodensitométrie, máy chụp từng phần cơ thể dùng tia quang tuyến X cho kết quả tốt nhất hơn cả loại X thường) cho thấy lớp vỏ não trái ở trước trán có nhiều dấu hiệu sinh động hơn là phần tương ứng bên phải của đầu. Điều này có nghĩa là nó giúp choóc cảm thấy hạnh phúc và không bị hướng dẫn vào tình trạngâm tính ngược lại làđau khổ, xuống tinh thần. Nhà sư Matthieu đã góp phần vào công việc nghiên cứu phần “mềm dẻo của não bộ “ (plasticité neuronale) còn đang chập chững những bước đi đầu tiên nhưng thật quan trọng trong việc tìm kiếm và đạt tới hạnh phúc tinh thần con người. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phòng ngừa, tránh né hay chữa trị các chứng bệnh về tâm thần thật sự hiệu quả. Bộ óc con người chia ra làm 2 phần đối xứng nhau theo một lằn rảnh đi từ trước ra sau. Nhiều vết kẽ khác lại chia 2 phần nói trên ra thành nhiều mảnh nhỏ hơn. Bên trong, dưới lớp vỏ não cứng cáp che chở là các chất xám và chất trắng. Chất xám (còn gọi là trí thông minh, nhân tài) nằm bên ngoài gần lớp vỏ não nhất và chính nó là hệ thống các tế bào thần kinh (neurones) dày đặc với các nhánh dây chi chít giao thông nhau bao bọc bởi lớp mỡ đặc biệt (hỗn hợp chất đạm và dầu, la gaine de myéline) bảo vệ cẩn mật cho làn sóng điện ghi nhận được qua máy móc sáng chế từ năm 1924-1929 (Hans Berger, bác sĩ chuyên môn về tâm thần, người Đức). Từ năm 2000, nhà sư là một thành viên trong Hội Tinh Thần và Đời Sống nhằm giúp ích cho sự gặp gỡ với nhau giữa Khoa Học và Phật Giáo. Trong một cuộc phỏng vấn khi ông ở Upper Dolpa (1 phố thị nhỏ thuộc vùng hẻo lánh ở Népal) tham dự buổi lễ tôn giáo, ông nói như sau : “Chúng tôi tham gia công việc nghiên cứu khoa học não bộ trong tình trạng thiền sâu đậm ít ngày hay dài lâu từ 12 năm nay để tìm hiểu về sự chú ý, lòng từ bi, sự cân bằng tâm lý. Chúng tôi tìm thấy nhiều kết quả kỳ diệu từ những người tham thiền rất lâu năm, đồng thời điều đáng ngạc nhiên và phấn khởi hơn nữa là kể cả những vị chỉ ngồi có 20 phút từ 3 tuần lễ đều đặn mà thôi. Điều này vừa lạ lùng vừa hợp lý với nhịp sống quá bận rộn hiện nay của thế kỷ thứ 21.” Cuộc đời quá khứ trí thức gia của nhà sư là một bằng chứng đặc biệt về hành trình tiến về Giác Ngộ. Ông thuộc giới con nhà lành và học hành đến nơi đến chốn. Bà mẹ là một nữ họa sĩ vẽ tranh màu nước theo trường phái tưởng tượng (aquarelle abstraite) thật tuyệt vời. Ông kể họ đã từng ăn trưa chung với những vị đã lãnh giải Nobel về khoa học, có người thật vĩ đại, có người thật khó tính. Thật tuyệt !
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2015 3:38:57 GMT 9
Nhà sư khoa học gia (Tiep theo).
Vì sao một khoa học gia tương lai sáng chói như vậy lại từ bỏ tất cả để đi tu? Ngày xưa, trong xã hội Việt Nam Cộng Hòa chúng ta không ai là không có dịp nghe thấy nhiều điều đồn đại thông thường trong dân gian về đạo Phật. Một thí dụ đơn giản nhất là cải lương phát thanh ra rã hàng ngày câu chuyện tình... Lan vàĐiệp. Vì một lý do nào đó, yêu nhau không được, một trong 2 người phải bỏ đi tu cho đời đỡ khổ. Chùa chiền từ bi hằng dung nạp những người muốn thoát thân khỏi các tai ách gây nên bao nhiêu nỗi khổ. Đây chỉ là bề ngoài của tảng băng khổng lồ vốn là cõi thế gian lạnh lẽo, giá buốt; chúng ta chỉ nhìn thấy một khía cạnh. Điều này áp dụng khá đúng với nhà sư Pháp lúc ông vào cuộc hành trình đi về phương Đông khi bắt đầu... chán đời. Lúc ông vừa trình xong luận án Tiến sĩ cấp một (bằng cấp tương đương với Ph.D. của Mỹ, 8 năm sau đại học trước khi lấy TS cấp 2 cao nhất nước Pháp do chính Tổng Thống ký tên (đã đổi tên mới) về bộ môn Di truyền học tế bào (Génétique cellulaire) năm 1972 thì ông bắt đầu sinh ra chán ngán những buổi ngồi họp bàn cãi quanh bàn tròn với các đồng nghiệp. Lúc đó, ông mới 26 tuổi mà thôi. Viện Pasteur, nơi đào tạo ra ông là một đại học tư nhân không doanh lợi chuyên sản xuất ra các nghiên cứu gia lừng danh quốc tế trong đó bác sĩ Pasteur là người sáng lập năm 1888. Vị BS này chế ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại năm 1885. Từ năm 1908 đến nay, có 10 vị chuyên gia đào tạo nơi đây lãnh thưởng giải Nobel về y học hay sinh lý học (sinh hoạt và tác dụng cơ thể của sinh vật, physiologie). Thật ra, Matthieu đã đến thăm Ấn Độ lần đầu tiên năm 1967 khi ông 21 tuổi và gặp gỡ vài vị thầy tu cao cấp người xứ Tây Tạng sẽ trở thành sư phụ sau này. Đó là từ năm 1972 ông chính thức bước vào giới tu hành và thành nhà sư năm 1979. Năm 1980 ông gặp gỡ đức Đạt Lai Lạt Ma và trở thành người phiên dịch tiếng Pháp cho ngài từ năm 1989. Ông trở thành nổi tiếng bất ngờ khi quyển sách “Triết Gia Và Nhà Sư” do ông viết ra mắt, nói về cuộc chuyện trò giữa hai cha con lúc ông đã 52 tuổi. Ông nói “Thế là tôi hết được yên thân vì quyển sách biến thành một sản phẩm bán chạy nhất, best-seller, tôi thật bất ngờ bị hất vào trong thế hệ danh nhân phương Tây. Vậy nên tôi được đà viết tiếp các quyển khác cũng dựa trên sự đối thoại, chuyện trò với các khoa học gia khác ngoài cha tôi và điều này thành công rộng lớn dần dần." Quyển sách mới nhất của ông cũng bán rất chạy - ngay trong các siêu thị - là “Biện hộ cho thú vật” ra mắt vào cuối năm 2014. Vì quyển sách rất phong phú với phần tham khảo tài liệu rộng lớn mênh mông nên tôi xin được ghi lại nhiềuđiềuđặc sắc trong chủý của tác giả nhằm giúp chúng ta có thể góp thêm suy luận vềđề tài cực kỳ quan trọng này. Văn minh con người sẽ tiến triển mãi chứ khôngđi ngược chiều một cách phi lý. "Chúng ta phải nới rộng sự chú ý vào toàn thể các sinh vật biết đau đớn, thống khổ ; dĩ nhiên cho lợi ích của chúng và cả lợi ích của con người. Hàng năm, 60 triệu con vật sống trên đất liền và 1 tỷ con vật sống trong nước biển bị giết chết để cung cấp thức ăn cho loài người. Một cuộc thảm sát không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại và nó rất có hại vì gây nên nhiều hậu quả xấu : nhiều sinh vật bị diệt chủng khiến vòng sinh thái lệch lạc, gây nên nạn đói càng trầm trọng, kết quả chung là toàn thế giới sẽ nhận lãnh tác dụng dây chuyền tệ hại. Ngoài thức ăn để nuôi thú, chúng ta còn biến chúng nó thành những dụng cụ để làm nghiên cứu khoa học, làm cho vui vẻ (gánh xiệc, nơi đấu bò, vườn thú), tất cả chỉ vì lợi lộc tiền bạc. Thời đại này có lẽ đã đến lúc nên xem thú vật như những "công dân" cùng sống chung với chúng ta trong trái đất mà không là loài yếu kém bên dưới. Nếu chúng ta am hiểu luật tương ứng lẫn nhau trong thiên nhiên thì sẽ thấy rằng tất cả mọi thứ đều ảnh hưởng đến nhau mật thiết, cái này cần cái kia để sống còn, để phát triển hài hòa trong chuỗi hệ sinh thái. Chúng ta sẽ được biết về loài thú với những kiến thức mới nhất hiện nay và cách thức đối xử của con người với chúng. Quyển sách sẽ gọi mời thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta với thú vật và cách cư xử luôn thể. Năm vừa rồi, tháng Giêng 2014, một anh chàng trẻ tuổi người tỉnh Marseille ở miền Nam nước Pháp lấy bí danh Farid bị bắt quả tang đang hành hạ chú mèo con và vui cười trên xác thân bất động của nó sau khi bị liệng mạnh vào tường hay quẳng cao trên không rớt xuống đất. 13.000 chữ ký thu được trong vài ngày và cuối cùng tội phạm bị phanh phui qua mạng xã hội Facebook, lãnh án tù giam thật thụ là 1 năm. Sự phẫn nộ rất hợp lý và đúng lúc để tội ác không nên lập lại nữa, ai cũng thấy đây là điều phải làm. Thế nhưng cũng trong ngày đó, lúc đó, khi chú mèo con bị hành hạ dã man như vậy thì có 500.000 con thú khác đang bị giết chết trong các lò thịt mà không ai nói gì cả. Thật là một hành vi kỳ lạ đến mâu thuẫn thật sự về tinh thần. Chúng ta bị bịnh điên loạn đạo đức rồi sao khi cư xử khác nhau trong cùng một sự việc có kết quả rất xấu về tinh thần? Không có nguyên nhân hợp lý nào cả để giải thích được 2 thái độ khác nhau cho cùng một sự việc là giết chóc lạnh nhạt loài thú. Khi các con lợn sữa quá nhỏ xíu bị lọt giữa những cái răng cưa của máy giết chúng còn sống sót thì người ta quăng luôn chúng vào lửa thiêu luôn cho tiện việc. Vài triết gia hiện đại dùng cách giãi bày ngôn ngoan dựa trên sự vô lý như sau : có ai dám lấy con người bị đưa xuống tình trạng thực vật (không còn cảm xúc vì bị hư hại bộ thần kinh) làm thí nghiệm y học hay không ? Dĩ nhiên là không, trong lúc con người lại lấy con thú gần giống như vậy (yếu đuối vì thần kinh kém phát triển hơn người)để tha hồ làm mưa làm gió trên chúng nó!
"Các con thú vật là bạn tôi ...và tôi không ăn thịt bạn tôi." (1) “Người ta không có 2 trái tim, một cho các con thú và một cho các con người. Người ta chỉ có một trái tim mà thôi hoặc không có trái nào cả." (2). Hai câu văn này được ghi lại ở đầu trang 10 trước khi vào phần mở đầu dài 3 trang của nhà sư kiêm văn sĩ Matthieu Ricard (ông còn là một nhiếp ảnh gia có tài với những tấm ảnh chụp rất có “thần”). Câu thứ nhất là của đại văn hào người Ăng Lê gốc gác Ái Nhĩ Lan George Bernad Shaw với giải Nobel văn chương năm 1925 và câu thứ nhì là của nhà thơ lừng danh Pháp Alphonse de Lamartine. Đại văn hào người xứ Anh quốc thay đổi cách ăn uống và trở thành dân chay tịnh năm 25 tuổi. Thật khá hiếm hoi vì ông sinh năm 1856 cộng thêm 25 là năm 1881, vào thế kỷ thứ 19 nhân loại còn chưa tiến bộ như hiện nay và ông mất năm 1950, thượng thọ 94 tuổi có lẽ nhờ sự kiêng ăn mặn (ăn “mạng”, ăn thịt thú vật nói chung). Chỉ trong một lần duy nhất, sau khi nghe cuộc hội thảo, thuyết trình về đề tài này do tác giả H.F. Lester chủ chốt; ông đã theo ngay vì ông đồng ý quá và cho rằng “Một người có sức mạnh tâm linh cường tráng như tôi không ăn xác chết thú vật. Tôi đã ăn thịt trong vòng 25 năm, phần còn lại của đời tôi, tôi là người ăn chay thanh tịnh”. Ông bày tỏ quan điểm chống đối cực kỳ những trò chơi độc ác dựa trên sự giết chóc như môn đấu bò và những cuộc mổ xẻ thú vật đang còn sống. Ông là nhà văn duy nhất lãnh thêm giải Oscar cho cuốn phim chuyển tiếp từ vở kịch Pygmalion do ông soạn thảo trong số 50 kịch bản khác. Đến nay chưa có ai đạt được thành tích huy hoàng như vậy. Lamartine là nhà thơ vĩ đại vào thế kỷ thứ 19 của Pháp. Ông là ngườiăn chay trường từ nhỏđến lớn nhờ bà mẹ nuôi dạy con trong tinh thần tôn trọng mạng sống thú vật. Hai cuốn sách thơ dài do ông viết "Thiên thần mất ngôi" và "Tâm sự riêng" vẫn được các tổ chức cổ xúy cho sự ăn chay dựa vào đó làm lý lẽ chính đáng để không ăn thịt. Đây chỉ là 2 thí dụ về người xưa danh tiếng đã có lòng từ bi bảo vệ thú vật, ngày nay kể từ Darwin (cha đẻ của thuyết tiến hóa muôn loài vật sinh sống trong quả đất kể cả loài người cũng đồng ý rằng con người vẫn giữ y tình trạng cơ thể thích hợp nhất cho sự “ăn chay”) cho đến năm 1975 với các tác giả mới mẻ thuộc thế kỷ 20 và 21, nhiều tổ chức phi chính phủ hay hội bảo vệ súc vật đã ra đời. Nhờ sự phát triển của những chương trình máy điện toán trên thế giới, nhất là qua các phim ảnh trên Youtube, chúng ta càng ngày càng thêm chú ý đến sự giải phóng loài thú ra khỏi tầm giết hại của loài người. Đó là điểm son của mạng ảo đã đem con người tới gần hơn với các con thú vì đúng là thật sự như nhà sư viết trong sách "Xa mặt cách lòng", không ai thương xót thú vật bị giết trong lò thịt vì chúng quá xa lạ với chúng ta! Trừ các con thú nhà thật gần gũi như mèo chó, các con thú khác như heo, bò, cừu... không bao giờ được thân cận với những người sẽ ăn thịt chúng. Nông gia nuôi nấng thú sẽ giao cho người khác ra tay. Tất cả mọi người đều mất mát vì kỹ nghệ chăn nuôi gia súc hiện nay gây nên nhiều hậu quả xấu như khí hậu thay đổi, thức ăn cho gia súc quá nhiều cho xứ giàu làm dân xứ nghèo không có mà ăn, nguồn nước sẽ thiếu dần, ô nhiễm môi trường từ uế chất do thú thải ra, con người ăn thịt lâu năm bị đủ thứ bệnh hoạn, biển cả sẽ hết cá chỉ còn rong rêu và sứa hay các loài có hại... Trong các lò thịt hiện đại (chúng “bị” có ít đi nhưng khổ thay càng lớn rộng hơn nhiều để có thể tiêu diệt cả vài trăm con trong vòng 1 phút đồng hồ...) cảnh tượng giết chóc đã làm những ai trông thấy được đều mủi lòng và không chịu nổi trừ các tay sát sinh đã hóa đá. Những ai lang thang trên mạng chắc hẳn đã biết các ký giả tò mò hay người trong Hội bảo vệ súc vật đều bị cấm đoán hay hăm dọa giết chết nếu họ phát hành các đoạn phim ngắn quay được những hình ảnh rùng rợn nói trên. Có những kẻ "đồ tể" người Âu Châu khét tiếng chuyên môn giết thú đến đỗi nhìn một con bò, con heo hay con gà nào đó họ biết ngay chúng nó nặng bao nhiêu ký, giống tốt hay trung bình, bao nhiêu tháng tuổi rồi và giá cả ra sao...! Con người không thể đưa ra một lý do nào cả để bào chữa cho hành động tàn ác này dưới bất kỳ hình thức nào. Ăn thịt để có sức khỏe, ăn thịt mới khôn ngoan, ăn thịt vì... ngon miệng quá, ăn thịt vì truyền thống gia đình và đất nước, ăn thịt vì súc vật ra đời để con người ăn nó. Biết bao lực sĩ hiện đại (chạy đua marathon, quần vợt, điền kinh..) là người ăn chay ? Biết bao công trình khoa học nghiên cứu đã chứng minh người ăn chay có sức khỏe tốt hơn người ăn thịt? Nhiều người đang tập ăn chay trường từ nhiều năm đến nay đều nhận thấy điều khiến họ sửng sốt nhất là áp huyết xuống ngay 1 đơn vị và rơi vào vùng lý tưởng thật bất ngờ rồi ổn định luôn khiến họ thêm an tâm tiếp tục tập luyện thay đổi cách thức ăn uống và có thêm lòng từ bi càng lớn mạnh hơn nữa. Danh từ mới “spécisme” (speciesism) tạm dịch là “kỳ thị giống loài” xuất hiện năm 1985 trong quyển Oxford English Dictionary cập nhật năm 1994 định nghĩa đây là sự phân biệt giữa giống người và các giống thú khác còn lại. Nó là gì? Là sự từ chối tôn trọng sinh mạng của loài vật, là cư xử bạo hành, là kẻ mạnh giết loài yếu hơn mà thôi. Là sự phân biệt đối xử giữa các loài thú với nhau, như trong bài đầu tiên có nhắc tới mèo chó được bảo vệ vì là bạn thân thiết của người; còn lại như heo, bò, trâu, ngựa vì xa mặt nên cách lòng chẳng ai thèm bảo vệ chúng nó thoát khỏi lò thịt và vì pháp luật cho phép. Tuy nhiên, nước Đức lại là nước văn minh đầu tiên trong khối Châu Âu khẳng định năm 2002 trong Hiến Pháp là nhà nước có bổn phận “bảo vệ nhân phẩm và thú phẩm”, phần cuối câu được thêm vào cho loài thú yếu đuối như trẻ con và người già hay người bị bệnh tâm thần khờ ngốc. Nhiều nước khác theo chân họ ngay, chẳng hạn như Anh quốc ra luật năm 2006 Animal Welfare Act (luật bảo vệ thú sống hạnh phúc). Nước Pháp chậm trễ hơn, đến năm rồi 2014, họ mới chịu công nhận thú vật cũng là loài có tình cảm hay điều kiện sinh sống như người chứ không phải là “món hàng” như gỗ đá. Thật ra, cácđạo luật tiến bộ này còn nằm trên... giấy tờ. Ngoài đời, tại Pháp nó vẫn còn mâu thuẫn giữa luật bảo tồn thiên nhiên, luật nông nghiệp và luật hình sự (tàn ác với người và thú). Vì con người cầnăn thịtđể sống nên súc vật vẫnđược chăn nuôi chính thức, nghề nông vẫn có đó, nghề đánh bắt khai thác cá biển cũng vậy. Gánh xiệc hay vườn thú, phòng thí nghiệm dùng chuột bọ chó mèo làm vật thí nghiệm vẫn chưa bị cấm, đấu bò cũng không hề hấn gì. Thật quá khó khănđể tiến bộ thêm về sự kiện này ! Phần kết luận của sách viết như sau: nên kêu gọi lòng từ tâm và quay về lẽ phải của khối đông quần chúngđể từ từđưađến sự bãi bỏ những lò thịt khủng khiếp. Giống như ngày xưa không ai dám nghĩ tới sự bãi bỏ chế độ nô lệ, sự kỳ thị đen trắng ở Nam Phi; nhưng với sự tranh đấu bền bỉ và kiên quyết của những người dám nhìn ra “sự thật” ngày nay là loài thú vật cũng đau khổ như người, cũng có đời sống bình thường, cũng ham muốn được yên thân mạnh khỏe, sống trọn vòng sinh thái thiên nhiên cho đến khi già rồi chết; thì ngày đó tuy còn rất xa nhưng các lò thịt sẽ biến mất hoàn toàn trên quả đất này. Con cháu chúng ta sau này khi đọc lại sử sách sẽ rất lấy làm vui sướng : - Các em, thú vật là những con gì nào ? - Thưa, đó là trâu, bò, gà, vịt, mèo, chó, heo, ngựa ... - Chúng là bạn hay là kẻ thù của người ta ? - Dạ, là bạn. - Có ai ăn thịt bạn mình không ? - Không, không, không (cả đám nhao nhao lên bất mãn)! Ntnd (hết)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 16, 2016 1:48:32 GMT 9
Đạo và đời qua hình tượng con khỉMột khi hình tượng con khỉ đã đi vào đời sống con người thì nó cũng đi vào trong đạo bởi có con người mới có tôn giáo Khỉ là tên gọi chỉ về những loài động vật thuộc lớp thú, bộ linh trưởng. Trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc có nhiều câu nói về khỉ. Trong nghệ thuật xiếc, người ta thấy khỉ đi xe đạp, giã gạo, gánh nước… Trong võ thuật có “hầu quyền”. Người xưa dựa vào các tư thế của con khỉ đang leo trèo, nhảy nhót, đánh nhau… để sáng tạo nên bộ quyền này. “Tâm như khỉ vượn” Trong hội họa, từ xưa, con khỉ cũng được các họa sư chọn đưa vào danh tác của mình. Khỉ còn gọi là “hầu” nên theo quan niệm dân gian, những bức tranh vẽ khỉ thường ví như lời chúc tụng phong tước phong hầu. Vẽ con khỉ trèo lên cây phong có ý mừng phong hầu phong ấn - chữ “phong” này ngoài nghĩa “vua phong đất đai và bổng lộc cho bầy tôi” còn có nghĩa “đóng kín lại (niêm phong)” nên có những hưu quan trí sĩ được tặng bức tranh cũng ngầm nói theo ngôn ngữ hiện đại là mừng cho việc “hạ cánh an toàn”. Nếu bức tranh vẽ con khỉ trèo lên cây tùng mà có khỉ con trên lưng khỉ mẹ là lời chúc đời đời phong hầu; vẽ con khỉ trên lưng ngựa, bên cạnh có con ong là lời chúc “mã thượng phong hầu” (phong hầu ngay lập tức)… Một khi hình tượng con khỉ đã đi vào đời sống con người thì nó cũng đi vào trong đạo bởi có con người mới có tôn giáo. Với đạo Phật, như chúng ta đã biết, khoảng thế kỷ thứ VI, Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của đạo Phật từ Ấn Độ vào Trung Hoa và ngài trở thành Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Từng bước, Thiền tông có mặt ở nhiều quốc gia. Thiền tông quan tâm đến kinh nghiệm chứng ngộ, đả phá mạnh nhất mọi nghi thức tôn giáo và mọi lý luận về giáo pháp. Thiền tông chỉ khuyên hành giả tọa thiền (ja. zazen) để kiến tính, được coi là con đường ngắn nhất, đồng thời cũng là con đường khó nhất. Những nét đặc trưng của Thiền tông có thể tóm tắt như sau: 教 外 別 傳 (Giáo ngoại biệt truyền - truyền giáo pháp ngoài kinh điển) 不 立 文 字 (Bất lập văn tự - không lập văn tự) 直 指 人 心 (Trực chỉ nhân tâm - chỉ thẳng tâm người) 見 性 成 佛 (Kiến tính thành Phật - thấy chân tính thành Phật). Theo quan niệm của đạo Phật, con người vốn có thân và tâm. Thân tâm an lạc là mong ước của con người nhưng hầu như ai sống trên đời cũng quan tâm tới thân mà ít nhớ tới tâm. Có lẽ đời là thế nên dường như tôn giáo nào, triết thuyết nào cũng có nhắc tới chữ “tâm” (Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài - Kiều). Đạo và đời qua hình tượng con khỉ Các bậc đại giác ví “tâm như khỉ vượn” rất khó chế ngự, “giống như một con khỉ bay nhảy trong rừng sâu…”Ảnh: Kỳ Nam Theo bài kệ trên thì yếu chỉ của Đạt Ma tổ sư nhấn mạnh tới chữ “tâm” (Trực chỉ nhân tâm) nhưng làm sao nhận biết được tâm mình? Người ta ví tâm như viên ngọc còn thân như chiếc hộp đựng ngọc, nếu càng chăm sóc chiếc hộp (thân) thì sẽ không thấy sự lấp lánh của viên ngọc (tâm); ngược lại, ai biết tâm và chăm sóc tâm thì tâm sẽ phát sáng. Và khi nói tới thiền, tới tâm, các bậc đại giác thường nhắc tới hình tượng con khỉ bởi người sống trong cõi Ta bà nhận biết tâm trong cuộc sống đã khó, giữ được tâm trong Thiền định càng khó gấp vạn lần hơn. Các bậc đại giác ví “tâm như khỉ vượn” rất khó chế ngự, “giống như một con khỉ bay nhảy trong rừng sâu, khi thì chụp cành này rồi buông bỏ lại chụp cành khác, rồi chạy chụp cành khác nữa” (kinh Anguttara Nikayà). Trong Tam bộ nhất bái, Hư Vân thiền sư (1840-1959) tự thuyết lúc trẻ, ông cũng “tâm nhiều tham cầu như khỉ vượn nhảy nhót hái trái cây”… Nói chung, với đạo Phật, “xuất gia là để trị cái tâm lăng xăng như khỉ” như ngài Quảng Khâm (1892-1986) từng nghiệm ra trong quãng đời tu tập của mình. Qua một số công án Thiền, ta thấy không dễ gì “thuần hóa” được cái tâm của mình khi tâm đã động. Một khi “tâm như khỉ vượn” thì con người chỉ còn cách từng bước thân thiện với nó để thuần hóa nó, chứ muốn ngăn chặn ngay, thuần hóa ngay có chăng là ảo tưởng. Chớ cậy khỏe làm càn! Truyện cổ Phật giáo có một truyện, tôi thấy có ý nghĩa cho bài viết đầu Xuân này. Truyện kể rằng có con khỉ hàng xóm với con quạ. Quạ sinh được một con, cưng như trứng mỏng. Gần đó, có con rắn thường lân la tới chơi. Một hôm, con rắn qua chơi như mọi lần thì không có quạ mẹ ở nhà. Rắn nuốt chửng quạ con rồi lánh ra xa.
Quạ mẹ kiếm mồi trở về, thấy quạ con không còn trong tổ và thấy một ít lông cùng vết máu. Quạ mẹ biết rắn đã ăn thịt con mình, đau khổ vô cùng, kêu than không ngớt. Quạ mẹ rất muốn trả thù nhưng biết sức mình có hạn, không phải đối thủ của rắn.
Khỉ biết chuyện, quát tháo: “Con rắn độc tâm địa tàn ác, táng tận lương tâm, chuyên gây nghiệp sát sinh, lười biếng không biết kiếm sống theo chính nghiệp, thấy ai yếu hơn mình thì nhe răng uy hiếp, giết hại, thật đáng giận cho cảnh ỷ mạnh hiếp yếu này!”. Khỉ đi tìm rắn và giết rắn trả thù giúp quạ mẹ.
Nghe được câu chuyện, Đức Phật nói rằng con khỉ này chính là một vị Bồ tát hóa thân, nó vì chính nghĩa mà trừ khử con rắn độc, không cho phép rắn tiếp tục giết hại những sinh mệnh bé nhỏ yếu ớt khác. Nó đã tự hy sinh, chẳng thà tự mình chịu lấy nghiệp sát và bị đọa lạc mà sinh mệnh của chúng sinh được bảo toàn.Theo tinh thần Đại thừa, thà tự mình đọa địa ngục mà giúp cho chúng sinh thoát khổ thì vẫn là chuyện nên làm. Đó là tinh thần Bồ tát! Gần đây, trên Báo Tuổi Trẻ (ngày 16-1-2016), TS Vũ Ngọc Hoàng có nói một ý, tôi thấy có phần nào đó giống tinh thần câu chuyện vừa tóm lược ở trên: “Để phát triển đất nước thì chúng ta phải có môi trường hòa bình. Và tất nhiên, không thể vì để có hòa bình mà hy sinh chủ quyền. Cần phải đạt được cả hai! Có cách giải quyết vấn đề này không? Có nhiều cách! Trong đó, có cách chúng ta vận dụng văn hóa làng. Thế giới ngày nay cũng như một “làng”. Trong làng có kẻ khỏe mạnh, hung bạo nhưng không vì thế mà muốn hiếp đáp ai cũng được, không thể cậy khỏe làm càn. Vì người yếu thế hơn biết la làng, cả làng biết xúm lại. Chưa nói là cả làng xúm lại để đánh giúp, chỉ cần xúm lại chê bai, phê phán thì kẻ đó đã phải e ngại. Đó là kiểu văn hóa làng. Nay, chúng ta phát triển văn hóa này lên một tầm cao mới để phản ứng, để truyền thông nhanh nhất và chính xác thực tế tình hình ai xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam ra cho thế giới biết”. VU GIA ************************************* 9 TRIẾT LÝ TUYỆT ĐỐI KHÔNG THỂ QUÊN
1.Đừng bao giờ ngừng học hỏi: Nếu bạn không tiến lên, điều đó có nghĩa là bạn đang bị tụt lại đằng sau. 2. Hãy tha thứ cho người khác hết mức có thể, để có được sự thanh thản cho chính mình. 3. Hãy thử làm một điều gì đó không phải vì tiền. 4. Thời gian trôi nhanh hơn bạn tưởng nhiều. 5. Sự giàu có thật sự, được đo bằng hạnh phúc, chứ không phải tài sản. 6. Làm mọi thứ chỉ vì bạn muốn, chứ đừng sống cuộc đời của người khác. 7. Hãy học cách phản ứng khôn ngoan với những lời phê bình, chê bai. 8. Trân trọng những người đã, đang và sẽ đi qua cuộc đời của bạn. 9. Mỗi ngày hãy rèn luyện mình bằng những thử thách với mức độ khó tăng dần.
- SƯU TẦM -
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2020 3:15:06 GMT 9
Lồng Đèn Tắt Ngày xưa, bên Nhật, người ta dùng lồng đèn bằng tre hay bằng giấy trong đó để một ngọn đèn. Có một người mù, một đêm đến thăm người bạn, được bạn tặng một cái lồng đèn để cầm đi lúc trở về nhà. Người mù nói: - Tôi đâu có cần dùng đèn. Với tôi, ngày như đêm. Sáng như tối chả có gì phân biệt Người bạn trả lời: - Đúng! Nhưng nếu anh không xách lồng đèn, kẻ khác có thể đụng vào anh. Hãy cầm nó mà đi đường Anh mù bằng lòng. Nhưng đi không được bao xa đã bị người đi đường đụng phải. Anh mù la lên: - Không thấy cái đèn của tôi cầm trong tay đây sao? Người đi đường mỉm cười nói: - Nó đã tắt hồi đời nào rồi! Anh không hay sao? Tội chưa!” Trích: Cái cười của thánh nhân Thu Giang Nguyễn Duy Cần
|
|