|
Post by Huu Le on Oct 8, 2007 14:48:03 GMT 9
Quốc ngữ và giáo dục thời Pháp thuộc Nguyễn Phú Phong
Như ta đã thấy quốc ngữ hiểu như chữ viết vào đầu thế kỷ 20 đã thắng lợi hoàn toàn bằng cách đưa chữ nôm vào lãng quên, chiếm độc quyền trong việc ghi tiếng Việt. Cuộc thắng lợi này sở dĩ được tương đối dễ dàng vì chữ quốc ngữ éo le thay lại là giao điểm của hai chủ trương đối nghịch nhau. Một bên chính quyền Pháp ở Đông Dương xem chữ quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để đồng hoá dân thuộc địa. Bên phía những sĩ phu Việt Nam lại cho đó là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà. Quốc ngữ hiểu như chữ viết kiểu La Tinh đã thế, còn quốc ngữ hiểu như tiếng Việt thì thế nào ? Địa vị của tiếng Việt ra sao, trong một đất nước, giữa một dân tộc mà chữ Hán thống trị trong suốt một nghìn năm đô hộ phương Bắc, thêm mười thế kỷ nữa dưới các triều đại vua chúa Việt Nam lấy Hán học làm giềng mối quốc gia, làm gốc cho đạo lý xã hội, bây giờ lại đứng trước sức tiến công của tiếng Pháp trong chủ trương khai hoá, đồng hoá, của những ông chủ mới đến từ phương Tây. Lẽ dĩ nhiên tiếng Việt là tiếng nói của toàn dân Việt, sinh ra một lần với dân tộc Việt, trải qua bao nhiêu cuộc biến thiên vẫn còn tồn tại, sống động qua ca dao tục ngữ, câu hò tiếng hát dân gian qua Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi ở thế kỷ 15, đạt đến độ ngôn ngữ văn chương tài tình với truyện Kiều của Nguyễn Du ở cuối thế kỷ 18-đầu thế kỷ 19. Lẽ dĩ nhiên với thắng lợi của chữ quốc ngữ, sự ra đời của nhiều tờ báo, sự phát triển của nhà in, với những lời kêu gọi của những phong trào duy tân, tiếng Việt đã ngoi lên để trở thành một ngôn ngữ viết, khác hơn là một ngôn ngữ nói, một ngôn ngữ thông dụng hàng ngày. Trên con đường này, tiếng Việt vấp phải một số trở ngại, nhất là trước sự phổ biến có tổ chức và có chính quyền của tiếng Pháp.
Như đã nói ở Chương 5, hiệp ước Pentenôtre ký ngày 6.6.1884, đã nhìn nhận nước Pháp thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại ; hậu quả rõ ràng là trong các giao thiệp quốc tế, tiếng Pháp sẽ nói thay tiếng Việt.
1. Quốc ngữ và bộ Học-chính tổng-qui
Bây giờ hãy xem địa vị mà Chính quyền bảo hộ dành cho tiếng Việt trong công cuộc giáo dục ở Việt Nam, qua bộ Học-chính tổng-qui (Règlement général de l'Instruction publique) do Toàn quyền Albert Sarraut ký ngày 21.12.1917, và đăng lên công báo ngày 10.4.1918. Bộ HCTQ gồm những qui định chung tạo nền móng cho cơ sở giáo dục đặt dưới quyền điều khiển duy nhất của Phủ Toàn quyền. Từ đây, học chính đạt được một diện mạo khá rõ ràng với sự hình thành của ba khu vực : trường Pháp (tiểu học, cao đẳng tiểu học, trung học) ; trường Pháp bản xứ (tiểu học, bổ túc, trung học) ; trường chuyên nghiệp.
Thiên thứ II bộ HCTQ về cấp tiểu học có qui định dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau :
- Dạy tiếng Pháp (tập đọc, ám tả, học mẹo, làm văn) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít ra là 12 giờ.
- Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ ½ vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị : " Dạy Hán tự phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở lớp để giữ kỷ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình. "
Rõ ràng là thời gian dạy chữ Hán bị teo lại nhường chỗ cho tiếng Pháp ngay ở cấp tiểu học. Không những thế lớp dạy chữ Hán còn bị theo dõi, kiểm tra, làm như dạy môn quốc cấm. Nhà cầm quyền thuộc địa vẫn còn nghi ngại các thầy đồ còn noi theo chí khí, tư tưởng của các sĩ phu nhà nho thuộc các phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục chăng ? Không thấy nói đến việc dạy tiếng Việt ở cấp này. Nhưng theo Phạm Quỳnh (Nam Phong số 18, juin 1918, tr. 333) : " Cứ lệ thời các môn trong chương trình tiểu học đều phải dạy bằng tiếng Pháp cả. " Xem thế là có chủ trương thay thế tiếng Việt bằng tiếng Pháp như một ngôn ngữ dùng để dạy dỗ học tập ở nhà trường ngay cả ở lớp đồng ấu.
Ở cấp trung học, một trong những mục đích nhắm đến là " dạy cho học trò thực thông tiếng Pháp, vì tiếng Pháp là mối yếu cần cho sự học vấn về sau. " Mỗi tuần lễ thời gian học ở lớp là 27 giờ ½. Trong số giờ này phải để ra 12 giờ học tiếng Pháp và học lịch sử" (sở dĩ gộp giờ Pháp văn với giờ lịch sử vì lịch sử đây là lịch sử nước Pháp, viết bằng tiếng Pháp, chú thích NPP).
Hán tự và quốc ngữ, gọi chung là quốc văn dạy 3 giờ một tuần.
Ở tiểu mục Sự dạy học bằng tiếng Pháp, Nam Phong (số 18 : 339-341) có nhắc đến tờ chu tri của Toàn quyền Sarraut, với đoạn :
" Từ nay phải hết sức làm cho chữ Pháp thông dụng trong các trường tiểu học, bắt đầu ngay từ lớp ba (...) Vả từ xưa đến nay vẫn thi tiểu học tốt nghiệp bằng chữ Pháp thì đủ biết sự dạy học bằng tiếng Pháp ở các trường đã là một sự cố nhiên rồi (...)
" Vì những thứ chữ như chữ quốc ngữ, (...) đã thành ra văn tự gì có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ những danh từ về khoa học để diễn những môn học mới của Thái Tây. "
Xem qua những lời kể trên ta thấy ngay chủ trương bành trướng tiếng Pháp, lấn áp tiếng Việt, thật rõ ràng làm người chủ bút báo Nam Phong cũng phải nhận xét (tr. 340) : " Cho nên cứ như ý riêng của người bàn đây thời dạy học bằng tiếng Pháp trong suốt các trường tiểu học hiện nay e còn chưa được tiện lợi lắm (...) "
Địa vị của tiếng Việt trong nhà trường đã được Hoàng Ngọc Phách, khóa 1914-1918 trường Bưởi, Hà Nội, trong hồi ký của mình, thốt lên câu : " Thật là ngược đời ! Việt văn bị coi như một ngoại ngữ. " Môn quốc văn bị bạc đãi như thế, còn người dạy quốc văn thì sao ? Hoàng Ngọc Phách lại nhận xét : " Cả hai thầy (dạy chữ Hán và Việt văn) đều là thầy giáo phụ. Đến trường thường đứng ở hành lang hoặc ngồi ở các buồng giám thị, không bao giờ vào phòng giáo sư. "
2. Tình hình Hán học
Bộ Học chính tổng qui có hiệu lực từ năm 1917 hướng vào việc Pháp hoá nền giáo dục bản xứ, đưa môn học tiếng Pháp vào cả chương trình tiểu học, không những giới hạn tối đa lớp học chữ nho mà còn đặt lớp học này dưới sự kiểm sát giám thị. Mục đích tối hậu của tổ chức giáo dục theo bộ HCTQ vẫn là đánh bạt ảnh hưởng Hán học, đồng thời khai hoá tạo ra một lớp người mới chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp. Chủ trương này trên thực tế đã gặp phải sức chống mạnh mẽ và dẻo dai của các trường học cổ truyền hay chữ nho. Ngay cả Nam Phong, tờ báo đã giới thiệu và ca tụng bộ HCTQ, vẫn còn nêu điều thắc mắc qua việc đăng bài Bàn về việc học của quốc dân. Chữ nho có bỏ được không ? của Nguyễn Tất Tế, tri phủ Mĩ đức, Hà đông, viết năm 1915, in trong Nam Phong số 19, (janvier 1919, 197- 201). Dưới đây là những đoạn trích dẫn :
" Từ khi khởi ra cái nghị lấy chữ Pháp đổi hẳn chữ Nho, thì ngoài đồn rằng Chánh phủ sợ dân học nho rồi lại theo Tàu nên phải đổi.
" Nhiều người thấy các trường Đốc học, Giáo, Huấn, hầu không có nghe tiếng đọc sách, mà nghĩ lầm rằng : chữ nho là số liệt bại (...) nghĩ thế là chưa xét kỹ. Trường Đốc học, Giáo, Huấn không học trò là vì thơ, phú, sách, luận không thi nữa, có phải dân không học nho đâu ; chúng ta nên biết chữ nho trong nước ta, cha đủ sức dạy con, anh đủ sức dạy em, không cần mượn thầy, tôi thường đi chơi các làng, chẳng ngõ nào không nghe tiếng tiếng học Luận, Mạnh, thành ra mỗi xóm có một trường, mà mỗi làng có năm bảy trường, trước hợp lại học các trường công, chẳng được bao, nay ta về học các trường riêng càng nhiều lắm. Hoa nho tàn hay chửa, hãy xin xem chốn nhà quê.
" Không phải dân nhà quê cố ý thủ cựu, bởi vì ngôn ngữ phong tục trong nước, hết thảy là đạo nho, nếu ai không học, đối với người thì khế khoán không tường, đối với nhà thì phổ chúc không biết, như mù, như điếc, thành một người ngu ngốc ở đời, vậy nên không cứ giàu nghèo, ai có con cũng phải cho học.
" Nhiều khi tôi bảo các tổng sư dạy trẻ thuần bằng quốc ngữ, cho trẻ chóng khôn, không cần học nho, thì bố mẹ đem con ngay về tìm thầy khác dạy ; hỏi cớ sao thế ? Người ta đáp rằng : " Quốc ngữ mất dấu, chữ nọ ra chữ kia, nếu không học nho, chắc sau con cháu lẫn cả tên ông vải ". Thế mới biết chữ nho có nhiều mối vướng vít, làm cho dân gỡ không ra.
" Chữ nho bỏ không xong, chữ Tây thay cũng khó nước nào chẳng thế, mà nước ta càng hơn nữa, trăm người đến 99 người nghèo, bới đất vạch cỏ cả đời, hai tay không đủ vun vào lỗ miệng, nom thấy trường Pháp Việt Chánh phủ mở cửa, cũng biết cho con học đó thì dễ kiếm ăn, mà ngặt về nỗi nghèo không sẵn đồng tiền, một quyển Lecture giá 7 hào, đắt hơn 4 quyển Tứ truyện ; một tập giấy tây giá hào rưỡi, đắt bằng trăm tờ giấy nam ; tính mình (...) không đủ tiền gửi con vào trường học một tháng, (...) đành cho con học nho vậy...
" Phương chi thượng lưu học chữ Pháp, chửa hẳn đã phát đạt (...) nhưng khi cắp sách vào trong lớp học, chả ai không có lòng mơ tưởng cao xa, thế mà Chánh phủ mở trường 40 năm nay kết quả đêán Thông ngôn là cùng dẫu rằng Tân học cử nhân, Tân học tú tài, đổi danh hiệu sang để mới tai mắt người, mà kỳ thực chửa khỏi hai chữ Thông ngôn được. "
Trên đây là tóm lược các lý lẽ về văn hoá, lịch sử, kinh tế của viên tri phủ Nguyễn Tất Tế đưa ra để bênh vực cho các trường dạy chữ nho cổ truyền. Sức sống còn của các trường này khá vững bền đến mức năm 1938, nghĩa là hơn hai mươi năm sau khi áp dụng bộ HCTQ, theo dẫn liệu thống kê cuộc điều tra về nạn mù chữ ở Thanh Hoá, ta có những con số không ngờ. Như tại ba làng không có trường tiểu học, Thọ Lộc, Nam Thôn và Ninh Thôn chỉ có 3% đàn ông ở lứa tuổi 30 biết đọc một trong ba thứ tiếng, quốc ngữ, Hán, Pháp. Còn lứa tuổi cao hơn, tức là lứa tuổi theo học trường dạy nho cổ truyền thì đến 48 % đôc thông chữ Hán (xem Trịnh Văn Thảo, (1995, 35-38). Nhưng sự trường tồn và sức hấp dẫn của các trường thầy đồ chắc chỉ xảy ra ở nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chứ càng đi vào Nam thì tình hình có đổi khác : giai đoạn 1916-1920, học trò các trường Nhà nước đã đông ; chữ quốc ngữ đã thông dụng ; chữ Hán đã bắt đầu bị chữ quốc ngữ và chữ Pháp thay thế (xem Nguyễn Vỹ, 1969, chương 4).
3. Báo Nam Phong và quốc ngữ
Báo Nam Phong có đăng nhiều bài nói về việc dạy và học quốc ngữ. Nhưng trước khi đề cập đến vấn đề trên, hãy sơ lược tìm hiểu về tạp chí này.
Báo Nam Phong - số 1, juillet 1917 - ra đời gần như cùng một lúc với sự ban bố của bộ Học chính tổng qui mà mục đích là nhắm vào sự khai hoá dân bản xứ rất rõ ràng. Đó là một sự ngẩu nhiên chăng, hay là những sự kiện có điều hợp trước ? Bià ngoài ở đầu tờ có hàng chữ : L�Information Française (Thông tin Pháp). Nam Phong là Văn học Khoa học Tạp chí gồm hai phần : phần quốc ngữ và phần chữ nho. Kể từ số 64, tháng 10, 1922, Nam Phong lại có thêm phần phụ bản tiếng Pháp. Chủ bút phần quốc ngữ là Phạm Quỳnh, phần chữ nho là Nguyễn Bá Trác. Nhưng bắt đầu số 20, 1919, ở trang trong tờ bìa trước, có ghi rõ tên các người sáng lập, ngoài Phạm Quỳnh (Hàn lâm viện trước tác) và Nguyễn Bá Trác (Cử nhân, Hồng lô tự khanh), còn có Louis Marty (trưởng toà Chính trị Phủ Toàn Quyền).
Cũng ở trang này, báo Nam Phong có kê rõ : " Mục đích báo Nam Phong là thể cái chủ nghĩa khai hoá của Nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An-nam, truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc tuý của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong trường kinh tế.
Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An-nam. "
Tưởng cần lưu ý là hai ông chủ bút Nam Phong đều không phải là những nhà báo độc lập mà là những công chức của chính quyền bảo hộ. Phạm Thị Ngoạn (1973 : 217) có kể là Nguyễn Bá Trác sau khi xuất dương du học ở Nhật về, " hồi chánh ", nên được nhận vào làm việc cho chính quyền thuộc địa như một thông dịch viên ở Sở Chính trị vụ (Direction des Affaires Politiques) thuộc Phủ Toàn Quyền. Ở đó Nguyễn Bá Trác trở thành đồng liêu của Phạm Quỳnh vừa được biệt phái từ Trường Viễn Đông Bác Cổ qua. Và công việc đầu tiên mà hai vị công chức kia cùng cộng tác, là dịch ra chữ Hán cuốn sách của Gabriel Hanotaux Lịch sử Chiến tranh Âu châu (Histoire de la guerre européenne) mà Phủ Toàn Quyền cho phát hành ở Trung Quốc để phô trương uy lực Pháp Quốc. Đó là năm 1917.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 8, 2007 14:48:25 GMT 9
Ở vị thế của một công chức ngạch thuộc địa, thì biên độ hoạt động theo ý muốn riêng của hai ông Phạm và Nguyễn chắc không được bao nhiêu ngoài việc phục vụ đường lối đã được ấn định cho tờ báo. Quyền hạn của họ e không thể vượt qua việc cổ xúy chính sách do nhà cầm quyền đề ra. May thay chủ ý riêng này lại trùng hợp với nhiệm vụ được giao phó, nhất là phía chủ bút phần quốc ngữ. Vì quốc ngữ tất nhiên là công cụ nghề nghiệp của Phạm Quỳnh để truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp. Trau dồi, tập luyện quốc ngữ là bổn phận nghề nghiệp của nhà báo, nhà thông dịch Phạm Quỳnh vậy.
Phạm Quỳnh viết khá nhiều và đa dạng : những bài biên tập về chính trị, xã hội hay lịch sử ; những bài văn học ; những bài có tính cách triết học. Vì đụng đến nhiều thể loại nên họ Phạm phải dùng nhiều từ ngữ mới mẻ đối với tiếng Việt thời bấy giờ.
Các từ ngữ này phần nhiều xuất xứ từ Hán văn đã dùng trong các tân thư Trung Quốc và Nhật Bản. Thời ấy hay cả bây giờ cũng vậy, các nhà văn, các nhà nghiên cứu của ta khi cần đến thuật ngữ, từ ngữ để diễn tả một khái niệm mới, một tư tưởng mới chưa có trong tiếng Việt, thường quay qua vay mượn ở tiếng Hán. Đó là phương pháp thông thường để làm tăng trưởng vốn từ tiếng Việt. Báo Nam Phong nói chung và Phạm Quỳnh nói riêng cũng đi theo đường lối này và phần Từ vựng ở các số báo là bản kê những từ mới vừa được dùng. Trên phương diện từ ngữ như vậy, nhóm Nam Phong có góp phần làm giàu cho quốc ngữ. Nhưng trên mặt khác, vì lạm dụng quá nhiều Hán văn nên nhóm Nam Phong đã làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Sự vay mượn ở mức độ hình vị, từ đơn hay từ ghép tất được thu nhận dễ dàng, song suốt, nhưng nếu bệ nguyên xi cả một nhóm từ, cả một đoản cú trong Hán ngữ để đưa vào tiếng Việt thì sẽ làm cho tiếng Việt lai căng. Vì cú pháp nội tại giữa các thành tố trong một nhóm từ rất khác nhau nếu đem so sánh tiếng Việt và tiếng Hán. Hãy lấy một ví dụ cụ thể : Nam Phong được ghi ở bìa báo là Văn-học Khoa-học Tạp-chí. Nhóm từ này tuân theo trật tự cú pháp của Hán ngữ : các định từ Văn-học Khoa-học đặt trước Tạp-chí, từ bị hạn định. Trái với tiếng Việt theo đó ta sẽ viết : Tạp-chí Văn-học Khoa-học.
Nguyễn Háo Vĩnh, một độc giả người Nam, trong thư ngỏ gửi cho chủ bút Nam Phong (số 1, octobre 1918, tr. 199), có đoạn nhận xét : " Các bài quốc ngữ, chủ bút Nam Phong cùng các người phụ bút dùng nhiều chữ Hán quá, nên coi khó hiểu lắm ; có chỗ chẳng hiểu các ngài muốn nói cái chi chi !... "
Sự sính dùng chữ nho nằm ngay trong chủ trương của báo Nam Phong (số 1, tr. 5) : " Bản báo không chủ trương sự phổ-thông mà muốn làm cái cơ -quan riêng cho bọn cao-đẳng học-giới nước ta, gồm cả những bậc cựu-học cùng tân-học mà dung hoà làm một. " Như vậy rõ ràng là nền quốc văn mà nhóm Nam Phong muôn xây đắp hướng về cấp " cao đẳng " và Hán văn và cũng vì thế ảnh hưởng của báo này rất giới hạn đối với ngôn ngữ đại chúng. Hơn nữa, cái nhìn của Phạm Quỳnh về quốc ngữ, nghĩa là tiếng Việt, có nhiều điều khinh mạn, qua những lời của tác giả, rút trong bài Bàn về sự dùng chữ nho trong văn quốc ngữ, Nam Phong số 20, février 1919 : " Trước kia quốc văn tức là hán văn, hán văn tức là quốc văn (...), chỉ biết văn thì duy có hán văn mà thôi, mà nôm là lời tục trong dân gian của những kẻ không biết chữ . " (tr. 85) ; (...) vì nôm tức là tục, quá nôm không khỏi tục được. " (tr.91).
Ta không khỏi sửng sốt khi nghe những lời quá đáng như trên về quốc văn của ông chủ bút báo Nam Phong mà chủ ý riêng (là) sự tập- luyện văn quố- ngữ cho thành một nền quốc-văn An-nam. ". Thử hỏi nôm là tục thì văn chương truyện Kiều là tục u ? Nếu quan niệm " hán văn tức là quốc văn " thì thảo nào bài đăng trong Nam Phong không nhan nhản từ ngữ gốc Hán ?
4. Diện mạo quốc ngữ qua một số tác giả, tác phẩm
Xét diện mạo của quốc ngữ qua một số tác giả, tác phẩm của mỗi thời kỳ, ta sẽ thấy những nét như sau.
De Rhodes trong cuốn Dictionarium thế kỷ 17 đặt trọng tâm vào tiếng Việt phổ thông, đại chúng. Trong tác phẩm của mình, ông không hề đưa Hán văn vào. Cuốn Dictionarium của de Rhodes là công trình khai phá về mặt chữ viết cũng như lần đầu tiên đã phác họa diện mạo tiếng Việt với những nét chân phương về âm ngữ, ngữ nghĩa, cú pháp.
Kế đến hai cuốn tự điển của Pierre Pigneaux thế kỷ 18 và của J.L.Taberd thế kỷ 19 đã dành cho chữ Hán một địa vị quan trọng. Tiếng Việt ở hai cuốn sách này đã phải nhường chỗ cho sự có mặt khá nổi bật của chữ Hán. Vả chăng cung cách thực hiện chúng là theo sát quan niệm của hai tác giả : " Phải truyền đạo bằng cách tấn công vào cái tim và cái đầu của xã hội mà ta muốn xâm nhập. Muốn được như vậy phải gây ấn tượng với giới có học, trên mặt khoa học cũng như trên mặt văn hoá. Muốn lôi kéo vào đạo Ki Tô những nhà nho hay những quan chức có thế quyền trong xã hội Đàng Trong, thì phải nhữ họ và chinh phục họ ở lĩnh vực mà họ giỏi. " (xem chương 2, 2.1, sách này).
Tiếng Việt trong sáng tác của ba vị Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký và Huình Tịnh Paulus Của ở buổi đầu chữ quốc ngữ trong Nam, không bị nhuốm đậm màu Hán ngữ như nhóm Nam Phong sau này. Như qua cuốn J.B.-P. Trương Vĩnh Ký, Petit dictionnaire français-annamite, Saigon, Imprimerie de la Mission Tân Định, 1884, ta thấy tác giả không lạm dụng những từ gốc Hán để giải thích các từ tiếng Pháp. Đọc Tập Chuyến đi Bắc-Kì năm Ất-Hợi (1976), ta thấy văn phong tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký rất sáng sủa, gãy gọn, báo trước văn bút ký hiện đại. Còn cuốn Đại-Nam Quốc-Âm Tự-Vị của Huình Tịnh Paulus Của tuy theo lối trình bày trong cuốn Dictionariumcủa Pierre Pingeaux bằng cách đưa chữ tượng hình vào trước chữ quốc ngữ (xem chương 2, 2.1., sách này) nhưng những lời giải thích phần lớn là thuần Việt, có khi là phương ngữ miền Nam. Phương ngữ này hiểu theo Trương Vĩnh Ký (1883, tr.4) là tiếng Việt nói từ tỉnh Quảng Nam đến tận mút ranh giới cực nam Đàng Trong (Basse Cochinchine).
Các nhà nho trong phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục ở đầu thế kỷ 20 nhắm vào việc đả phá tư tưởng lạc hậu của bọn hủ nho, từ bỏ lối học từ chương trong khoa cử, cổ động học quốc ngữ, khoa học kỹ thuật, v.v. Chủ trương rõ ràng là không những đưa chữ quốc ngữ lên làm chữ viết chính thức của nước Việt (Chữ quốc ngữ là hồn trong nước) mà còn tin tưởng vào sức mạnh của tiếng Việt trong việc chuyển tải các tư tưởng mới :
Sách các nước, sách Chi-na Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường
(Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ)
Đường lối hoạt động như vậy nên quốc ngữ trong Quốc văn tập đọc là một thứ tiếng Việt phổ biến, có sức mạnh tuyên truyền dễ đi vào quần chúng. Các tác giả những bài hát trong Quốc văn tuy là khuyết danh nhưng có phần chắc là những nhà mới học chữ quốc ngữ và đến từ những địa phương khác nhau. Do đó có một số viết sai chính tả (xem Vũ Văn Sạch và đtg, 1997, 108-156).
Sau cùng tiếng Việt của nhóm Nam Phong nói chung là một thứ tiếng Việt " cao đẳng ", đậm màu Hán ngữ, với những ưu điểm và nhất là khuyết điểm của nó (xem mục 2 trên đây).
Tưởng cũng nên nhắc đến cuốn Việt-Nam Tự-điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo từ 1923 và in năm 1931 do nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội. Ban biên tập ngoài Phạm Quỳnh còn có Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Đổ Thận, Nguyễn Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục. Là cuốn từ điển Việt-Việt thứ hai sau cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895-1896) của Paukus Của và Dictionnaire Annamite-Français (1898) của J.-F.-M. Génibrel được dùng làm gốc. Từ ngữ gốc Hán được đưa vào Việt-Nam Tự-điển nhiều hơn ở Đại Nam Quấc Âm vì chủ trương của Phạm Quỳnh là " chữ ta muợn chữ Tàu nhiều, một bộ Việt âm tự điển phải kiêm cả tính cách một bộ Hán Việt tự điển nữa... " (Nam Phong số 74, tr. 112A). Việt-Nam Tự-điển tự nhiên là có sưu tầm những tiếng thuộc phương ngữ miền Bắc và nhất là có phần Văn liệu ở rất nhiều mục từ. Các câu ở phần Văn liệu được lấy từ các tác phẩm nổi tiếng như Truyện Kiều, Cung Oán, Lục Vân Tiên, v.v. hoặc từ ca dao, tục ngữ, nhắm giải thích hoặc diễn tả cách dùng từ. Tiếng Việt trong Việt-Nam Tự-điển vì thế có màu sắc văn chương hơn.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 22, 2007 6:05:32 GMT 9
Diep Luyen Hoa : Là một người khá quan tâm đến từ ngữ, chính tả và ngữ pháp tiếng Việt. Nên muốn mở ra chủ đề này để cùng thảo luận chút. Thơ ca gắn liền với ngôn ngữ mà. Trong tiếng Việt, chỉ cần để ý chút sẽ thấy có rất nhiều chuyện thú vị đáng để bàn. Thực ra tiếng Việt có nhiều vấn đề hơn ta tưởng. Về từ ngữ: - Những từ dùng sai nghĩa - Những từ cổ - Từ vay mượn - Từ Hán Việt hay thuần Nôm ? - Nguồn gốc những từ mới sáng tạo: chảnh, sến, chuối,... Chính tả: - Chữ i hay y ? - Bỏ dấu trên nguyên âm nào ? - Gi/d/r ? <--- nhiều từ không dễ đâu :-) - ay hay ây ? - x hay s ? - Những lỗi chính ta thường gặp - Chính tả khi dùng máy tính: bỏ dấu, dấu câu, dấu cách,... Tự mở hàng cái vậy! Đầu tiên xin gửi mấy chữ mà hiện tượng dùng nhầm rất phổ biến. Mấy từ này ngày xưa có thảo luận ở bên TTVN rồi, giờ mình ghi lại thôi. - chính kiến: từ này nghĩa đúng là "ý kiến của một ai đó về chính trị", nhưng bây giờ nhiều người lại dùng thay cho nghĩa của từ "chủ kiến" (ý kiến riêng của cá nhân). - vị tha: nghĩa đúng là "vì người khác", ngược với từ "vị kỷ" (chỉ vì mình). Nhưng nhiều người lại dùng với nghĩa là "bao dung, độ lượng". - cứu cánh: nghĩa là "cuối cùng", nhưng lại được dùng là "biện pháp cứu giúp tình thế". - hỗ trợ: giúp đỡ lẫn nhau, có qua có lại, giống với từ "tương trợ". Bây giờ từ này lại được dùng là giúp đỡ theo một chiều thôi. - yếu điểm: nghĩa đúng là "điểm quan trọng", nhưng lại được dùng như nghĩa của từ "điểm yếu". Những từ trên đây đều là từ Hán Việt. Hiện tượng dùng nhầm có lẽ là do có âm giống hoặc gần giống một từ nào đó trong chữ Nôm nhưng mang nghĩa khác. Mãi hay mại ? Trong tiếng Hán quan thoại, mãi là mua, mại là bán. Nhưng tại sao lại thường nói "khuyến mại" mà không phải "khuyến mãi" ? Nguyên nhân của nó không đơn giản như vậy. Nếu xét đúng ra thì là "khuyến mãi", đó là chữ đúng. Nhưng "khuyến mại" cũng không sai, vì nó là âm Quảng Đông (cantonese). Nguyên trước đây, ở Sài Gòn-Chợ Lớn người Hoa sinh sống buôn bán rất nhiều, và hầu hết đều là người Quảng Đông, Quảng Tây hoặc lân cận. Nói đến đây chắc mọi người hiểu rồi PS: không biết ai còn nhớ câu "mại lơ, mại lơ" ko nhỉ .... - câu kết: móc nối với nhau. Hay bị viết thành "cấu kết". - vãng cảnh: tới ngắm cảnh. Hay bị viết thành "vãn cảnh". - xán lạn: hay bị nói và viết thành "sáng lạng". - phong thanh: hay bị nhầm thành "phong phanh". Phong thanh (tiếng gió) là nghe thoáng qua, còn phong phanh là mỏng manh. (Có câu "phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh" từ tích trận Phì Thuỷ thời Ngũ Hồ thập lục quốc). Theo chị biết, "qua" là một trong cách xưng hô của người Nam Bộ, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, chỉ chủ thể ở ngôi thứ Nhất (tôi) - thường dùng giữa những người ngang hàng hoặc người lớn nói chuyện với người nhỏ tuổi hơn (chứ không được dùng ngược lại). Từ này bắt gặp nhiều trong các tác phẩm viết về cuộc sống vùng sông nước Cửu Long. Người Việt nói chung, và người dân vùng đồng bằng Nam Bộ nói riêng, có cách xưng hô thật đa dạng, phong phú. Cách nào cũng thể hiện sắc thái tình cảm khác nhau. Nhưng cũng chính vì thế, đôi khi gây khó cho mình.. chứ không đơn giản You với lại I, me... nhỉ PVCT nhỉ? Ví dụ ở ngôi thứ 2, người Bắc không có những từ như "cưng" (Cưng làm cái này cho chị nghen!) hoặc ở ngôi thứ 3, người Bắc không thể có những từ như: Cổ, dỉ, bả, ổng... như người Nam Bộ.. Thật là thiên biến vạn hóa! Lại nữa, người Nam bộ gọi nhau (với ngôi thứ 2), đôi khi ko cần gọi tên mà dùng thứ hạng trong gia đình để gọi. Ví dụ: "Bảy có đi chơi với anh không?" .. mà không cần thêm anh, chị hay em.. ở đằng trước... cái này rất là đặc biệt! - giảm tối đa = giảm tới mức tối thiểu (đều đúng) - "lãng mạn" là đúng, "lãng mạng" hay "lãn mạn" đều là sai. Trong chữ Hán, lãng 浪 là sóng, mạn 漫 là tràn trề. Từ "nữ lưu" thì đúng như giải thích của Điệp, có lẽ mọi người ai cũng hiểu. Từ "lữ lưu" 旅流: cũng như mọi người, tớ mới thấy lần đầu tiên cách đây ít ngày, vì không biết phải giải nghĩa thế nào nên mới đem vô hỏi. Từ (chữ) "lữ" 旅 trong từ "lữ hành" 旅行; từ (chữ) "lưu" 流 có nghĩa là dòng chảy, như trong "giao lưu" 交流 hay "đạo lưu" 道流 hay "lưu thuỷ" 流水. Từ đó, có thể giải thích từ "lữ lưu" theo cách của PVCT, hoặc có thể giải thích là "trào lưu du lịch" chăng? --------------------------------------- À... mục này chúng ta đang bàn về lý thuyết tiếng, tuy nhiên tớ thấy có một vài chỗ hình như mọi người chưa đúng lắm trong cách sử dụng "đơn vị ngôn ngữ": Theo lý thuyết tiếng Việt "chữ" và "từ" là khác nhau: - Chữ: chỉ là các chữ trong bảng chữ cái: như A, Ă, Â, B, C... - Tiếng: phát âm của một chữ, hoặc các chữ ghép lại thành 1 tiếng: như "bon", "con", "lon"... - Từ: các từ có nghĩa, từ có thể đơn âm hoặc đa âm: như "con", "bon bon", "lon ton"... - Cụm từ: như "vịt con lon ton" - Câu: có đầy đủ chủ ngữ vị ngữ: như "em CAM chạy lon ton như con vịt con... hì..."
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 22, 2007 6:06:27 GMT 9
Tiếng Việt có 6 hay 8 thanh ?
Ngày trước trong chủ đề "Luật thơ" mình đã đặt vấn đề này ra rồi, giờ chỉ xin đưa ra một số điều để chứng minh thôi. Trước hết xin nói rằng ta không nên căn cứ vào chính tả để phân biệt số thanh, vì 2 lý do: - Thứ nhất, chính tả chữ Quốc ngữ đang dùng ra đời mới được khoảng 1 thế kỷ, mà tiếng nói của ta đã có từ rất lâu rồi. Như vậy không thể dùng cái có sau để suy ra cái có trước được. - Thứ hai, chính tả chữ Quốc ngữ của ta hiện nay đang có một số bất cập, mà đây chính là một. Cụ thể hơn, bất cập ở đây là, có những chữ cùng âm với nhau nhưng lại dùng chữ cái khác nhau để viết, ví dụ từ "ươn ướt" thì hai chữ trong đó cùng âm với nhau, nhưng một chữ dùng n, chữ kia lại dùng t.
Mình xin nêu ra một số minh chứng...
1. Phát âm: Ta có thể sắp xếp các thanh từ thấp tới cao như sau: - cặp t và n: ượt ượn ưởn ườn ươn ướn ưỡn ướt, hụt hụn hủn hùn hun hún hũn hút - cặp ch và nh: tạch tạnh tảnh tành tanh tánh tãnh tách, chịch chịnh chỉnh chình chinh chính chĩnh chích - cặp m và p: hập hậm hẩm hầm hâm hấm hẫm hấp, bẹp bẹm bẻm bèm bem bém bẽm bép - cặp c và ng: hoạc hoạng hoảng hoàng hoang hoáng hoãng hoác, khạc khạng khảng khàng khang kháng khãng khác
Các thanh này lần lượt được gọi như sau: - Trầm nhập thanh (.) - Trầm khứ thanh (.) - Trầm thượng thanh (?) - Trầm bình thanh (`) - Phù bình thanh (không dấu) - Phù khứ thanh (') - Phù thượng thanh (~) - Phù nhập thanh (')
Chú ý là không phải chữ nào cũng xếp được vào 4 hệ thống ở trên, mà chỉ những chữ có chữ cái tận cùng đã ghi trong 4 cặp đó. Những chữ còn lại, ta chỉ có thể liệt kê được 6 thanh (hai nhập thanh không tồn tại). VD: - nạo nảo nào nao náo não - đạ đả đà đa đá đã Rõ ràng những chữ này, bạn không thể tăng hoặc giảm thanh xuống được nữa khi phát âm (hãy thử xem).
Như vậy, từ đây cho thấy tiếng Việt có 8 thanh, nhưng không phải tất cả các âm đều có 8 thanh, mà một phần có 6 thanh.
2. Từ láy (láy âm) Đây cũng là một căn cứ tốt để thấy sai sót trong hệ thống chính tả của ta đang dùng. Trong tiếng Việt có rất nhiều từ láy âm chỉ có thể giải thích bằng thuyết 8 thanh mà thôi: ươn ướt, hun hút, tanh tách, chình chịch, hâm hấp, bèm bẹp, hoang hoác, khang khác,...
3. Nói lái (nói ngược) Trong tiếng Việt có trò chơi nói ngược, chắc ai cũng đã từng thử qua. Nói ngược có nhiều kiểu, nhưng trong đó có kiểu là đổi âm và phụ âm 2 từ cho nhau để tạo ra 2 từ mới nghe rất vần với 2 từ cũ. Ví dụ: trả lời -> lởi trà, làm thơ -> thờ lam,...
Nhưng ai chơi trò này cũng biết một điều là, không phải cặp chữ nào cũng áp dụng được quy tắc đó. VD: thống nhất. Nếu ta đổi "thống nhất" thành "thất nhống" thì khi đọc không còn thấy vần với nhau nữa. Tuy nhiên, nếu một người chơi tốt trò này (nghĩa là chơi nhiều thành quen mồm) có thể đọc "thống nhất" rồi phát âm ngược lại ngay thành "thấn nhốc" và nghe rất đúng. Và tất nhiên là điều đó hoàn toàn đúng, nhưng chỉ có thể được giải thích bằng thuyết 8 thanh, vì n và t ở cuối âm vốn là một, c và ng ở cuối âm vốn cũng là một.
Tất nhiên những nghiên cứu về ngữ âm không thể chỉ đơn giản như vậy. Ở đây mình chỉ muốn nêu ra những bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy tiếng Việt có 8 thanh mà thôi. Và sai lầm trong chính tả chính là ở chỗ, người ta chỉ dùng 6 dấu thanh thay vì phải dùng 8 mới đủ, nghĩa là dấu nặng (.) và dấu sắc (') bị dùng 2 lần cho những chữ cùng một âm.
Để rõ ràng hơn, bạn có thể tưởng tượng là tiếng Việt có thêm 2 dấu thanh nữa, mình tạm dùng là ä và å (chỉ là vấn đề ký hiệu) thay cho trầm nhập thanh và phù nhập thanh. Khi đó ta sẽ viết như sau: - hoäng hoạng hoảng hoàng hoang hoáng hoãng hoång - tänh tạnh tảnh tành tanh tánh tãnh tånh - ...
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 22, 2007 6:19:53 GMT 9
Một số từ hay nói sai (Nhân tiện đang nghĩ tới thì post nốt ko mai lại quên mất ) - sáp nhập: hay bị nói sai thành sát nhập. "Sáp" trong tiếng Hán là cắm vào (vd cắm hoa vào bình). - mạn tính: hay bị nói sai thành mãn tính. "Mạn" trong tiếng Hán là chậm, từ từ. Bệnh mạn tính: bệnh phát từ từ. thấy viết là "vô hình trung" thì đúng rồi, nghĩa là không chủ tâm, không dụng tâm, nhưng mà xem các cách giải thích thì em vẫn thấy không thuyết phục lắm, vì các cách giải thích đều không cắt nghĩa được từng từ trong đó. Nếu giải nghĩa gốc của nó ra thì thành: trong cái vô hình, trong cái không. Cũng không rõ từ này nguồn gốc từ đâu nữa. Đây là một ý kiến tương đối đầy đủ: www.nhanvan.com/m...nghuy_cungnenchinhlai.htm Vô hình trung: Đây là một từ mới, không biết được đưa vào sử dụng từ bao giờ, nhưng những tự điển chữ Hán, chữ Việt xuất bản trước chiến tranh, không ghi. Về chính tả, còn có người viết "vô hình chung". Về nghĩa, mỗi người hiểu một cách. Tựu trung, có hai cách hiểu chính: 1-Theo nghĩa "không cố ý"; 2-Theo nghĩa của từ cũ "chung qui". Tôi thử tra tự điển, thì thấy: -Tự điển Hán-Anh Mathews (1966) không ghi "vô hình trung", nhưng có ghi "vô ý trung", và định nghĩa là "thoughtlessly, inadvertently" (không dụng tâm); -Tự điển Hán-Anh Viễn-Đông (1993) có ghi "vô hình trung", và định nghĩa cũng gần giống cuốn vừa dẫn; -Từ điển Việt-Hán của Hà-Nội (1990) chú nghĩa "vô hình trung" là "vô ý trung"; -Tự điển Tiếng Việt Hoàng Phê (1988) định nghĩa "vô hình trung": Tuy không có chủ định, không cố ý, nhưng tự nhiên là. Và cho thí dụ: -Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại nó. -Tự điển Lê Văn Đức (1970) có ghi "vô hình trung", nhưng giảng rất lúng túng: "Tóm lại, rút ra những phần cốt yếu mà khó thấy. Thí dụ: Làm chính trị phải có nhiều thủ đoạn để giải quyết trăm ngàn việc khó khăn phức tạp; nhưng vô hình trung, là làm cho nước mạnh dân giàu, an cư lạc nghiệp". Bốn cuốn trước hiểu "vô hình trung" theo nghĩa "không cố ý". Riêng cuốn sau cùng hình như hiểu theo nghĩa "chung qui", "rốt cuộc". Phần tôi, trước nay tôi vẫn tránh dùng ba chữ "vô hình trung", vì nghĩ rằng có thể gây hiểu lầm. Nghĩa đúng là "không dụng tâm", nhưng không thiếu gì người không hiểu theo nghĩa ấy. Tôi tự hỏi sao lại có người cầu kỳ đi dùng chữ ấy làm gì, trong khi đã có những chữ "vô tình", "không dụng tâm". Nhưng nghĩ cho cùng, chữ mới đôi khi cũng có cái hấp dẫn của nó. Như trong khi đã sẵn "tối thiểu", "ít ra", "ít nhất", thì nhiều nhà văn trong nước vẫn thích dùng "chí ít". Theo tôi, phong phú hóa tiếng nói của mình là chuyện rất nên làm, nhưng cũng tùy chữ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 22, 2007 9:03:33 GMT 9
À... mục này chúng ta đang bàn về lý thuyết tiếng, tuy nhiên tớ thấy có một vài chỗ hình như mọi người chưa đúng lắm trong cách sử dụng "đơn vị ngôn ngữ": Theo lý thuyết tiếng Việt "chữ" và "từ" là khác nhau: - Chữ: chỉ là các chữ trong bảng chữ cái: như A, Ă, Â, B, C... - Tiếng: phát âm của một chữ, hoặc các chữ ghép lại thành 1 tiếng: như "bon", "con", "lon"... - Từ: các từ có nghĩa, từ có thể đơn âm hoặc đa âm: như "con", "bon bon", "lon ton"... - Cụm từ: như "vịt con lon ton" - Câu: có đầy đủ chủ ngữ vị ngữ: như "em CAM chạy lon ton như con vịt con... hì..." dict.vietfun.com/ www.tudientiengviet.net/ www.thuongviet.com/dictionary/ www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/ www.saigon.com/~vietdict/ www.ask.com.vn/search/dict? www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/index.html www.tinhvan.com/scripts/tvis/webdict/webdict.pl baamboo.com/Default.aspx?tab=Vietdic - "chổm" vốn là tên huý của chúa, nhưng bây giờ được dùng như tính từ nhằm ám chỉ những người nợ lần chồng chất. - "chã" vốn là tên của một cậu bé: em Chã, nay dùng để ám chỉ người mập quá mức bình thường - "lão hạc" đối nghĩa với "chã" - "chí" hay "chí phèo" như trong câu: "sao mà mày chí thế!" - "sở khanh" như trong câu: "hắn là đồ sở khanh" - "sến" là từ đâu mà ra nhỉ? - "a-qui" là tên của một nhân vật, nay được dùng như tính từ. - "cuội" vốn là tên của chú Cuội, vậy mà những ai hay nói dối thì bị mắng là: "mày cuội" Rối trí với con số: Như mọi người biết, để đọc chính tả hay viết chính tả con số 5, trong tiếng Việt có đến 3 lựa chọn: "năm"; "lăm"; và "nhăm" Vậy mọi người cùng cho chính tả những ví dụ dưới xem sao: - 1, 2, 3, 4, 5: một, hai, ba, bốn... - 11, 12, 13, 14, 15: mười một, mười hai, mười ba, mười bốn,... - 50, 51, 52, 53, 54, 55: - 105, 115, 155: - 5005, 5555 Hôm nay thử ngồi phân tích, Lan đệ thấy tiếng Việt ngày nay có ít nhất 7 loại từ vựng: 1- Các từ thuần Việt: như "cha", "mẹ", "con", "người", "sông", "núi"... 2- Các từ gốc Hán: như "phụ", "mẫu", "nhân dân", "sơn" "thủy", "hữu", "tình"... 3- Các danh từ được tính từ hóa: như "chí" hay "chí phèo", "sở khanh", "chổm", "cuội"... 4- Những từ vay mượn đã Việt hóa: như "bia" (beer), "cao-bồi" (cowboy), "pê-đan", "ghi-đông", "cổ- phốt"... 5- Những từ vay mượn chưa Việt hóa: như "hello", "okie", "computer", "update",... 6- Những từ mới do thế hệ trẻ phát triển: như "chảnh", "sến", "chuối",... 7- Những từ mới được phát triển từ những từ cũ, do cách phát âm bẻ trẹo đi của thế hệ trẻ: như "biết roài", "cóa hay không?", "hôm nay bùn wá",... Theo mọi người, còn có những loại từ nào khác nữa không? nói đến "Từ địa phương" chắc hẳn sẽ có nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện vui của từng vùng, miền khác nhau... Ở địa phương của Q sử dụng một số từ ngữ địa phương ngộ nghĩnh: đi dìa: đi về cái nừng: cái giỏ đi chợ cái nả: cái giỏ xách tay ông bà quại: ông bà ngoại om, ơ: nồi nhỏ để kho thịt cá ên: một mình ...và còn nhiều nhiều lắm... Nhân đây Q xin kể một mẫu chuyện vui sưu tầm về từ ngữ Việt Nam của mình: Chuyện kể về một anh sinh viên người Hungary sang Việt Nam làm nghiên cưú sinh môn tiếng Việt. Cuối đợt nghiên cứu trường ĐHQG Hà Nội tổ chức một kỳ thi gọi là khảo sát trình độ của từng nghiên cứu sinh. Đề văn ra như sau: "Anh (chị) hãy giải thích câu ca dao: Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương." Đọc xong đề, anh chàng sinh viên khoái chí lắm vì nghĩ rằng không có gì là khó, nhất là khi anh có mang theo cả từ điển. Sau một hồi tra cứu chảy nước mắt, xem ra anh ta đã tường tận nhiều điều: "Gió đưa (được) cành trúc" thì ắt hẳn phải là gió to, ý hẳn là có bão. Với từ "la" anh phân vân giữa hai cách hiểu: +"la" là sự kết hợp giữ lừa và ngựa. +"la" anh đoán rằng đề đã in sai, phải là lao mới đúng. Và anh đã chọn cách hiểu này. "Đà" là thanh tà vẹt để tàu có thể chuyển động trên đó. "Thiên mụ" : đàn bà trời - ý hẳn là vợ trời.| " Thọ" : nhiều lần (lâu) Và cuối cùng anh ta đã cho ra đời một sản phẩm bất hủ: Trời nổi cơn bão lớn Lao xuống tà vẹt đường Vợ trời đánh một tiếng chuông Canh gà húp vội, hóc xương mấy lần ca dao: "Dã Tràng xe cát biển đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì" Giai thoại "công dã tràng" ra đời từ câu chuyện kể dưới đây: Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về chọ Nhưng khi rắn đực lột da thì rắn cái bèn bò đi tìm rắn đực khác. Dã Tràng bất bình bèn bắn chết rắn cái. Rắn đực đi tìm vợ, gặp Dã Tràng mới hiểu ra vợ mình xấu xa Rắn đực bèn trả ơn Dã Tràng bằng một viên ngọc lạ, mỗi lần Dã Tràng ngậm viên ngọc này thì có thể nghe và hiểu được tiếng nói của loài vật. Tin viên ngọc lạ có thể cho cho con người hiểu ngôn ngữ loài vật bay đến tai vuạ Vua cho đòi Dã Tràng tới, mượn viên ngọc của chàng và ban thưởng nhiều của cảị Một hôm vua xuống thuyền, ngậm viên ngọc, nghe được các loại cá mực hát rất hay, Vua bật cười, viên ngọc bị rơi xuống biển. Dã Tràng tiếc viên ngọc, ngày đem ngụp lặn tìm kiếm, kiệt sức chết đi. Dã Tràng biến thành một loài cua bể ngày đêm tha cát lấp biển để tìm lại viên ngọc đã mất. Dã Tràng tha cát lấp bể, sóng biển lại đánh vào cho nên giai thoại "công dã tràng" ra đời từ đó "Xỏ lá ba que" Q gạn hỏi mãi và được lão giải thích thành ngữ "Xỏ lá ba que" thế này: "Trong thời Pháp thuộc, có một nhóm người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống. Người chơi cầm cái que nhỏ xỏ vào ba vòng này. Mỗi người chỉ được xỏ một lần. Người nào xỏ vào được một lúc cả ba lá và nhấc được chúng lên thì được lĩnh thưởng. Ai xỏ trật, tức xỏ không vào lá nào hoặc chỉ vào một trong ba lá, sẽ mất toi số tiền đặt cược. Cũng liên quan tới trò chơi này, có người kể lại cách thức chơi của chủ trò có khác chút ít.Họ thường dùng ba que nhỏ, trong đó chỉ có một que xỏ vào chiếc lá rồi chìa cho mọi người xem. Họ tuyên bố rằng nếu ai rút trúng que có chiếc lá khi chúng nắm tay lại thì người đó trúng thưởng. Ngược lại, người chơi sẽ mất số tiền đặt cược trước. Dù chơi theo cách thức nào đi nữa, thì chủ trò vẫn có nhiều mưu mẹo, khiến cho người chơi bao giờ cũng thua cuộc. Vì thế, người ta mới gọi chủ trò là "ba que xỏ lá" với hàm ý là bịp bợm, lừa đảo... Từ cách thức chơi thứ nhất, nhiều người cho rằng hình thức ban đầu của "ba que xỏ lá" là "xỏ lá ba que". Sở dĩ có sự thay đổi này là do việc đọc chệch cho thuận miệng, dễ đọc, dễ nhớ. Thành ngữ "ba que xỏ lá" dần dần được mở rộng phạm vi sử dụng. Nó được dùng để chỉ tất cả những người lừa lọc, bịp bợm..." từ "phong lưu" ai cũng hiểu là ám chỉ loại người thế nào (giống lão Lan chẳng hạn). Thế nhưng nó xuất xứ thế nào nhỉ. Nếu tra theo Hán-Việt thì "phong" 風 là gió, nhưng cũng dùng trong các từ "gia phong" 家風; "phong nhã" 風雅... Còn "lưu" 流 là dòng chảy. Tuy nhiên cả âm "phong" và âm "lưu" còn nhiều cách viết khác, do đó còn nhiều nghĩa khác, nếu bác nào có thời gian có thể tự tra từ điển tham khảo. 1. trung hiếu, trung kiên, trung thành Xuất phát từ chữ trung 忠 trong tiếng Hán, nghĩa là giữ vững lòng không thay đổi. 2. chung thuỷ, chung tình, chung thân, chung kết Xuất phát từ chữ chung 終 trong tiếng Hán, nghĩa là cuối cùng. Thuỷ chung = từ đầu đến cuối không thay đổi, trước sau như một (thuỷ = đầu tiên, nguyên thuỷ). 3. trung tâm, trung gian, trung học, trung bình 4. Trung Á, Trung Đông Xuất phát từ chữ trung 中 trong tiếng Hán, nghĩa là ở trong, ở giữa. 5. Trung cộng, Trung Quốc, Trung Hoa, Trung-Việt Vẫn là chữ trung 中, nhưng là chỉ nước Trung Quốc. 6. chung chung, chung đụng Chữ chung thuần Việt, mang tính tập hợp. (Thực ra thì cái này em cũng ko rõ, có thể chữ chung này có nguồn gốc chính từ chữ chung trong mục 7) 7. chung đúc Từ này nửa Việt nửa Hán, chung 鍾 là tụ hợp lại, còn đúc là đúc kết. 8. chung quanh Do biến âm từ "xung quanh". Theo học giả Nguyễn Thiện Giáp của Viện Ngôn Ngữ học: Chữ quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ XVII, nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi đạo Thiên Chúa mà triều đình phong kiến Việt Nam, cả ở Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, lại thi hành chính sách cấm đạo nên chữ quốc ngữ không thể phát triển, truyền bá rộng rãi. Khi tiếng Việt chưa được sử dụng trong giáo dục và hành chính, thì nhu cầu thống nhất và chuẩn hoá tiếng Việt chưa đặt ra một cách cấp thiết. Thế nhưng, Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa lại địa vị ngôn ngữ chính thức của quốc gia cho tiếng Việt, nhu cầu chuẩn hoá tiếng Việt trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Chính nhu cầu thống nhất ngôn ngữ, chuẩn hoá tiếng Việt đã đòi hỏi việc nghiên cứu tiếng Việt phải thật đầy đủ, toàn diện. Vậy là chữ quốc ngữ mặc dù ra đời từ thế kỷ XVII, nhưng mãi đến 1945 mới được sử dụng một cách rộng rãi trên toàn quốc, rồi mới chuẩn hóa dần dần, do vậy thiết nghĩ chúng ta không có quyền phê bình về chính tả đối với những người tiếp thu nền giáo dục trước 1945. 晚 (vãn): có nghĩa là chiều, già, chậm, sau (Cái sau này thì hình như từ "vãn bối" với "tiền bối" phải không ạ?) Mà chữ vãn trong vãn cảnh của anh Điệp là gì vậy ta? Em tra mà không có thấy, (keke, chắc là do không biết thôi ạ! Lần này thì nhờ anh Điệp chỉ giáo nha!) Còn chữ vãng lai, cháu tra trên từ điển Hán Việt thì thấy họ giải nghĩa như sau bác ạ: Khách vãng lai thì là khách qua đường rồi nhỉ? 往 (vãng): Có nghĩa là đi, đi qua. Còn Lai (來) thì dường như mọi người đều biết rồi bác nhỉ? Xin lỗi mọi người, lần trước mình nhầm nhọt thành ra viết ngược. Đúng phải là "vãng cảnh", mọi người hay viết nhầm thành "vãn cảnh". Xin đính chính lại bài viết trước! Theo Tự điển tiếng việt thì: Chia sẻ: cùng chia với nhau để cùng chịu cùng hưởng Chia xẻ: sự chia ra, phân ra ví dụ như: Chia năm xẻ bảy; Chia ngọt sẻ bùi vậy nên tuỳ vào ý nghĩa của câu (trách nhiệm hay quyền lợi)mà ta dùng sẻ hay xẻ cho phù hợp Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:16:37 GMT 9
Từ Hán Việt Apr/10/06
Từ Hán-Việt là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Hán-Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng chữ cái La Mã.
Lịch sử Với sự giao lưu trên các bình diện văn hóa, kinh tế và chiến tranh giữa các dân tộc ở Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á, chữ Trung Quốc được hình thành, phát triển và trở thành chữ viết chung được sử dụng rộng rãi trong của các dân tộc ở khu vực này. Lưu ý là cách nói và ngôn ngữ của các dân tộc có thể hoàn toàn khác nhau vì thuộc các hệ ngôn ngữ khác nhau.
Sau hàng chục thế kỷ dưới sự cai trị và đồng hóa của người Hán, người Việt vẫn giữ được tiếng nói và nhiều phong tục riêng của mình. Tuy vậy, vẫn có sự ảnh hưởng nhất định về văn hóa, thể chế chính trị của Trung Quốc đối với người Việt, kể cả trong tư tưởng triết học và ngôn ngữ.
Thật vậy, do không có chữ viết riêng (theo truyền thuyết thì người Việt cổ có chữ viết riêng nhưng bị người Hán hủy bỏ, cấm đoán dẫn đến mất hẳn), trước khi chữ quốc ngữ ra đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng họ đọc theo âm Hán-Việt (chữ Nôm cũng dựa vào chữ Hán nhưng phức tạp hơn và chưa được chuẩn hóa nên cũng không được phổ cập). Cùng với tâm lý ngưỡng mộ văn hóa Trung Hoa, xem đó là mẫu mực, văn hóa Trung Quốc cũng hòa nhập vào văn hóa Việt. Tổ chức chính quyền phong kiến các triều đại đều theo mô hình Trung Quốc. Các nghi lễ "hôn, quan, tang, tế" cũng ảnh hưởng của kiểu Trung Quốc.
Từ Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, nhiều khi không tìm được từ thuần Việt tương đương để thay thế. Ngay cả ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt: lập trình, vi mạch, Wiki hóa... Lòng tự tôn dân tộc khiến người Việt có ý muốn hạn chế từ Hán-Việt mỗi khi có thể, nhưng điều này xem ra khá khó khăn.
Hiện tượng đồng âm trong từ Hán-Việt khá phổ biến (ngay cả phát âm theo kiểu Hán cũng vậy), phải đặt trong văn cảnh mới rõ, nhiều khi phải viết ra bằng chữ Hán mới phân biệt được. Thí dụ phi 飛 = "bay" khác với phi 非 = "không" hay "ngoại trừ"; tử 子 = "con" khác với tử 死 = "chết"...
Từ Hán-Việt với ý nghĩa thay đổi Có nhiều từ Hán-Việt đã thay đổi ý nghĩa qua các giai đoạn khác nhau. Thí dụ, vào đầu thế kỷ 20, ở Việt Nam, quan hệ có nghĩa tương đương với quan trọng, hệ trọng ngày nay, trong khi bây giờ quan hệ được hiểu là có liên quan, trao đổi lẫn nhau, hoặc là cách nói tắt của "quan hệ tình dục".
Có nhiều từ Hán-Việt đã mang ý nghĩa khác với nghĩa gốc trong tiếng Hán. Ở Trung Quốc, bác sĩ = PhD và y sĩ = medical doctor; ở Việt Nam, tiến sĩ = PhD và bác sĩ = medical doctor trong khi y sĩ = "nhân viên y tế được đào tạo ngắn hạn (3 năm), được quyền khám và điều trị bệnh" (hệ đào tạo này chỉ tồn tại trong điều kiện đất nước còn chiến tranh hoặc khó khăn kinh tế, nay không còn nữa, các y sĩ đó đa số đã theo học hệ chuyên tu khoảng 3 năm nữa để lấy bằng bác sĩ); y sĩ khác với y tá (nay gọi là điều dưỡng - dạng tắt của nhân viên điều dưỡng) là những người được đào tạo các kỹ năng chăm sóc người bệnh, theo y lệnh của bác sĩ và không được phép khám bệnh, cho toa.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:17:29 GMT 9
Chữ Nôm Apr/06/06
Chữ Nôm là cách viết biểu ý ngày xưa của tiếng Việt. Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm được đặt ra để ghi lại tiếng Việt bằng chữ tượng hình. Hơn 1.000 năm sau đó —từ thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 20 —một phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo, và hành chánh được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chánh được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ duy nhất hoàn toàn Việt Nam ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ.
Di sản này hiện nay có nguy cơ tiêu vong. Sau khi chữ Quốc ngữ (dùng mẫu tự la tinh) phổ biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Năm 1920, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm dùng chữ Nôm. Ngày nay, trên thế giới chưa có đến 100 người đọc được chữ Nôm. Một phần to tát của lịch sử Việt Nam như thế nằm ngoài tầm tay của 80 triệu người nói tiếng Việt.
[ Nguyên tắc tạo chữ Nôm Có thể tóm tắt chữ Nôm được tạo ra từ chữ Hán theo một số nguyên tắc sau:
Dùng chữ Hán có âm và nghĩa giống tiếng Việt. Ví dụ: chữ Chè 茶 dùng chữ Hán "Tra" 茶, chữ Là 羅 viết từ chữ Hán "La" 羅 v.v...
Ghép 2 hay 3 chữ Hán với nhau. Ví dụ: Tháng = Nguyệt 月 + Thượng 尚; Mắt = Mục 目 + Mạt 末, Trời= Thượng 上 + Thiên 天 v.v...
Dùng một chữ Hán có âm giống như âm tiếng Việt, loại này người viết chữ chỉ chú trọng về âm, không chú trọng về nghĩa. Ví dụ, chữ 我 có âm đọc là "ngã", nghĩa là "tôi", đối chiếu với tiếng Việt thì có chữ "ngã" trong từ "ngã nhào" là thích hợp. Do đó chữ 我 trong tiếng Nôm được đọc là "ngã".
Ngoài ra chữ Nôm còn được hình thành bằng một số hình thức khác. Về cơ bản cách tạo thành chữ Nôm cũng giống như cách hình thành chữ Hán.
[] Sự kết thúc của chữ Nôm và Hán Chữ Nôm được dùng song song với chữ Hán cho đến thế kỷ thứ 16, khi các nhà truyền đạo phương tây vào Việt Nam, họ đã dùng kí tự La Tinh để phiên âm tiếng Việt, và chữ Quốc ngữ bắt đầu ra đời. Chữ Quốc ngữ bằng kí tự La Tinh ra đời dần dần thay thế chữ Hán Nôm do sự đơn giản dễ nhớ dễ học, và đặc biệt chữ Quốc ngữ có thể phiên âm được các âm thanh có trong tiếng Việt. Và cho đến đầu thế kỷ 20, chữ Quốc ngữ chính thức thay thế chữ Hán Nôm, và chữ Hán Nôm đã không còn được giảng dạy và học trong trường học nữa. Đến nay đã gần thế kỷ, nhiều thế hệ người Việt Nam không còn được học chữ Hán Nôm nữa. Do vậy sợi dây liên hệ giữa chữ Quốc ngữ với chữ Hán Nôm đã bị gián đoạn.
Chữ Quốc ngữ ra đời tuy đơn giản, dể nhớ dễ học nhưng lại có nhược điểm là chữ biểu âm khó diễn đạt hết các từ cùng âm khác nghĩa vốn rất nhiều trong tiếng Hán và tiếng Việt. Và vì lý do này, có nhiều từ Việt bị dùng sai, nhưng do dùng lâu quen và do đó từ sai trở thành từ đúng (ví dụ: Khốn nạn). Và cũng chính vì việc từ khi sử dụng chữ Quốc ngữ không tiếp tục giảng dạy và học chữ Hán Nôm đã làm cho những thế hệ người Việt ngày nay không còn biết đến chữ Hán Nôm nữa, và không thể đọc được những tư liệu sách vở trong kho di sản Hán Nôm ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Chính vì điều đó mà ít có thế hệ người Việt sau này có thể hiểu rõ và dùng đúng tiếng Việt như nghĩa thật sự của nó (vì hơn 70% tiếng Việt được hình thành từ tiếng Hán-Việt).
[]
Liên kết bên ngoài Hội Bảo tồn Di sản Nôm
[] Nguồn Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm cung cấp nguyên bản chính, và cho phép xuất bản nguyên bản này theo Giấy Phép Sử Dụng Văn Bản Tự Do GNU (GFDL
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:23:53 GMT 9
-------------------------------------------------------------------------------- Quốc ngữ Việt Mar/04/06
Tiếng Việt (còn gọi là Việt ngữ hay Quốc ngữ) là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với gần ba triệu Việt Kiều ở hải ngoại, mà phần lớn là người Mỹ gốc Việt. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có nguồn từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Hán (chữ Nho) để viết, sau đó được cải biên thành chữ Nôm, tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều gấp mấy lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại). Ngày nay tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh cùng các dấu thanh để viết.
Theo ISO-639-2, mã của tiếng Việt là vi. [1] Bia đá khắc tên Tân Trạng tại Quốc Tử Giám
Nguồn gốc
Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh nông nghiệp tại nơi mà ngày nay là khu vực phía bắc lưu vực sông Hồng và sông Mã của Việt Nam.
Xếp loại Với những cơ sở khoa học gần đây được đa số các nhà ngôn ngữ học thừa nhận, tiếng Việt thuộc hệ Nam Á ở khu vực Đông Nam Á hiện nay, có quan hệ họ hàng gần nhất với tiếng Mường. Xa hơn một chút là các tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Thí dụ từ tay trong tiếng Việt tương đương trong tiếng Mường là thay, trong tiếng Khmer là đay, và trong tiếng Mông là tai.
Quá trình phát triển và lịch sử
Trước nửa đầu thế kỷ thứ 19 Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam từ thời lập quốc, dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường. Để phát triển, tự làm phong phú thêm, tiếng Việt trong thời kỳ này du nhập thêm những từ ngữ Hán cổ như đầu, gan, ghế, ông, bà, cậu..., từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Bằng cách này, tiếng Việt đã làm giàu thêm từ vựng của mình bằng cách thêm vào hàng loạt các yếu tố Hán Việt. Như là tâm, minh, đức, thiên, tự do... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như nhiệt náo thành náo nhiệt, thích phóng thành phóng thích.... Hoặc được rút gọn như thừa trần thành trần (trong trần nhà), lạc hoa sinh thành lạc (trong củ lạc, còn gọi là đậu phọng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như phương phi trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", bồi hồi trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động".... Đặc biệt, và giầu sáng tạo hơn, là các yếu tố Hán-Việt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ sĩ diện, phi công (dùng 2 yếu tố Hán-Việt) hay bao gồm, sống động (một yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng 25%) nhưng đại đa số những từ đó đều là những từ văn hoá (những từ thể hiện trình độ phát triển của xã hội) và về cơ bản, và chúng đã được Việt hóa cho phù hợp với các điều kiện xã hội, văn hóa tại Việt Nam. Do vậy tiếng Việt vừa giữ được bản sắc riêng của mình, vừa phát triển, tiến hóa và hoàn thiện dần theo nhu cầu và trình độ phát triển của xã hội.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (Sông Cầu). Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm.
Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789.
Thời kỳ thuộc địa Pháp Kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, tiếng Pháp dần dần thay thế vị trí của chữ Nho như là ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính, và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn từ điển Việt-Bồ-La và Ngữ pháp tiếng An Nam, với mục đích dùng ký tự Latinh để biểu diễn tiếng Việt, ngày càng được phổ biến, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của văn hóa Tây phương (chủ yếu là từ ngôn ngữ – văn hóa Pháp) như phanh, lốp, găng, pê đan... và các từ Hán-Việt như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính... Tờ báo "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam độc lập sau này.
Thời kỳ 1945 cho đến nay Bản Tuyên ngôn Độc lập được thảo bằng chữ Quốc ngữ do ông Hồ Chí Minh đọc đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, đồng thời gián tiếp khẳng định vị trí của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam. Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 ký tự Latinh và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng; thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và tiếng Hán vốn khó đọc, khó nhớ, không thông dụng.
Trong thời kỳ đất nước chia cách sau Hiệp định Genève, sự phát triển tiếng Việt giữa miền Bắc và miền Nam có chiều hướng khác nhau. Vì lý do chính trị và kinh tế, chính quyền miền Bắc có mối quan hệ sâu xa với Trung Quốc, và sự hiện diện của các chuyên viên nhân sự Trung Quốc đưa nhiều từ Bạch Thoại (ngôn ngữ nói của Trung Quốc) vào ngữ vựng tiếng Việt. Những từ này thường có gốc Hán Việt, nhưng thường đổi ngược thứ tự hay có nghĩa mới. Tại miền Nam, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ đã đem nhiều từ Anh ngữ vào ngữ vựng tiếng Việt.
Sau khi thống nhất, quan hệ bắc-nam được kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào.
Cách viết Hiện nay, tiếng Việt dùng hệ chữ viết như ký tự Latinh gọi là Quốc ngữ. Theo tài liệu của những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lúc trước, tiếng Quốc ngữ phát triển từ thế kỷ thứ 17, do công của một nhà truyền giáo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes (1591–1660). Sau cuộc xâm lăng của người Pháp giữa thế kỷ thứ 19, Quốc ngữ trở nên thịnh hành và hầu như tất cả những chữ viết đều dùng Quốc ngữ. Trước đó, người Việt dùng hai loại chữ viết là chữ Nho (chữ Hán đọc theo cách Việt Nam – ngôn ngữ hành chánh), và chữ Nôm (mô phỏng chữ Nho để viết chữ 'thuần Việt' – ngôn ngữ dân gian).
Chữ Nho được nhiều người dùng hơn, trong khi chữ Nôm phần lớn được dùng bởi những người có học (một người muốn đọc chữ Nôm phải biết đọc chữ Nho). Nay hai cách viết này không còn thông dụng ở Việt Nam nữa, và chữ Nôm đang có vẻ mai một.
Dấu của tiếng Việt Dấu Chữ Mẫu ngang a huyền à sắc á hỏi ả ngã ã nặng ạ Trong tiếng Việt có sáu thanh: ngang (không dấu: a), huyền (nghiêng trái: à), sắc (nghiêng phải: á), hỏi (dấu hỏi: ả), ngã (dấu ngã: ã), và nặng (dấu chấm: ạ). Tất cả các dấu đều được đặt trên nguyên âm, riêng dấu nặng được đặt dưới nguyên âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, nhưng những từ ghép cũng có nhiều. Nguyên âm đôi và nguyên âm ba rất thông thường. Tiếng Việt có nhiều tiếng địa phương, trong đó có giọng bắc (Hà Nội), giọng trung (Huế), và giọng nam (Sài Gòn) là ba tiếng chính. Những tiếng địa phương này chỉ khác nhau bằng giọng điệu. Thanh hỏi và thanh ngã ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam. Tiếng Huế khó hiểu hơn những tiếng khác vì có nhiều từ địa phương. Cách đọc tiêu chuẩn hiện nay được dựa vào giọng chuẩn tại Hà Nội.
Chữ mẫu Dưới đây là sáu hàng đầu trong tác phẩm kiệt tác Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du (1765–1820). Tác phẩm nguyên gốc được viết bằng chữ Nôm và hiện nay được giảng dạy cho học sinh bằng chữ Quốc ngữ.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Chính tả Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội Nghị Khảo Cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc Ngữ đã được Uỷ Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Các định nghĩa Các định nghĩa sau quan trọng cho việc xây dựng các quy tắc chính tả:
Âm tiết Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng được phát ra với một thanh điệu, và tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng Việt được ghi thành một "chữ". Ví dụ: hoa hồng bạch gồm 3 chữ, hoặc 3 âm tiết.
Nguyên âm Các nguyên âm là a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, và y. Ngoài ra, các nguyên âm có dấu phụ là ă, â, ê, ô, ơ, và ư.
Bán nguyên âm Trong duy nhất 3 trường hợp của oa, oe, uy thì có o và u là bán nguyên âm, đóng vai trò đệm cho nguyên âm. Có nghĩa là o và u không được xem là nguyên âm trong tổ hợp 3 âm tiết trên.
Phụ âm Các phụ âm là b, c, d, đ, (f), g, h, (j), k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, (w), x, và (z). Các chữ f, j, w, và z không thuộc về chữ cái tiếng Việt, nhưng được sử dụng trong nhiều từ mượn.
Tổ hợp phụ âm Các phụ âm ghép chuẩn là ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr, gi, và qu. Đôi khi có người cũng viết dz thay vì d vào đầu chữ. Ngày nay, các tổ hợp phụ âm không được nhìn là chữ riêng khi sắp xếp theo chữ cái, cho nên những từ điển mới bỏ ch ở giữa ca và co, nhưng một số từ điển cũ, như là Từ-Điển Thông-Dụng Anh-Việt Việt-Anh của Nguyễn Văn Khôn năm 1987, bỏ ch đằng sau co.
Chú ý: gi và qu là tổ hợp bán phụ âm. Tại đây, i và u không là nguyên âm, mà chỉ là một bộ phận của phụ âm bất khả phân li.
Đặt dấu thanh Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, quan điểm tương đối hợp lí hiện nay như sau:
Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /zero/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quờ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt...
Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: ỉa, tủa, cứa, thùa, khứa...
Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
Với "ia" thì thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt gịa" và đọc là zịa [ʐie6]).
Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /zero/.
Quy tắc sử dụng chữ I và Y Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lí (theo [2]) cách dùng hai chữ i-ngắn và y-dài hiện nay như sau:
Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /zero/, âm chính /i/ và âm cuối /zero/, thì có hai cách viết:
Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
Đối với các âm tiết có âm đệm /zero/ và âm chính /ie/ thì dùng "i". Ví dụ: ỉa, chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /zero/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /ie/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /zero/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
Dấu hỏi hay dấu ngã Tiếng Việt có 6 thanh là ngang (hoặc không) – huyền – ngã – hỏi – sắc – nặng. Đối với một số người, việc phân biệt hai thanh hỏi và ngã khá phức tạp. Xin mời tham khảo bài viết của nhà ngôn ngữ học Đoàn Xuân Kiên hiện đang cư ngụ tại Anh Quốc. (nhấn đây đọc thêm bài "Luật Hỏi-Ngã") WKP.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:24:59 GMT 9
Luật hỏi ngã trong chữ Việt Mar/04/06 Như đã trình bày trong một bài trước đây, một từ tiếng Việt chỉ mang một trong số sáu thanh. Thanh là yếu tố định bậc cao thấp trong thang âm sáu bậc của tiếng Việt hiện đại, và là yếu tố cần và đủ để tạo thành ý nghĩa khu biệt của một từ. Sáu bậc cao thấp đó được cụ thể hoá một cách dễ hiểu bằng sáu tiếng sau đây: ngang (hoặc không) - huyền - ngã - hỏi - sắc - nặng. Phân biệt bốn thanh khác không có khó khăn gì, nhưng hai thanh hỏi và ngã thì cần nhiều công phu. Từ nghỉ và nghĩ chẳng hạn, chỉ khác nhau ở một dấu hỏi hay ngã mà làm nên sự khác biệt về ý nghĩa của hai từ đó. So sánh hai câu dưới đây để thấy sự khác biệt giữa hai thanh hỏi và ngã làm nên sự khác biệt ý nghĩa của từ:
Thôi, đừng nghĩ ngợi làm gì cho mệt xác !
Thôi chứ, đã hết giờ nghỉ mệt rồi !
Cho nên lầm lẫn dấu hỏi ngã trong những trường hợp như thế sẽ thay đổi hẳn ý nghĩa của từ trong một câu. Phân biệt dấu hỏi và ngã là một việc tương đối dễ dàng đối với người nói giọng bắc, nhưng lại là một việc cần thiết cho những ai nói giọng trung và nam - nghĩa là người phát âm giọng tiếng Việt từ phía nam Thanh Hoá vào trong vùng tây nam bộ. Ðối với những người - đàng trong - thì phân biệt hỏi ngã dựa trên phát âm là chuyện khó chính xác, vì số từ ngữ tiếng Việt mang dấu hỏi và ngã là một khối lượng khá lớn. Do vậy, nếu nắm được một số những quy tắc hoạt động của thanh hỏi và thanh ngã thì sẽ giúp giải quyết những khó khăn về dấu hỏi - ngã.
Trong bài này chúng tôi cố gắng hệ thống hoá lại những nét chính của chính tả dấu hỏi ngã trong tiếng Việt. Vì việc phân biệt hỏi ngã có khác nhau giữa hai loại từ vựng trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chia bài thành hai phần chính: trước hết là phân biệt hai nhóm từ vựng trong tiếng Việt, sau đó mới tìm hiểu cách phân biệt hỏi-ngã trong từng nhóm loại từ vựng này.
NHẬN BIẾT MỘT TỪ TIẾNG VIỆT
Chúng ta biết rằng từ vựng tiếng Việt là tập hợp từ những nguồn khác nhau: nguồn thứ nhất là những từ ngữ rất lâu đời của cộng đồng ngôn ngữ Việt cổ thuộc họ ngôn ngữ Nam A¨; nguồn thứ hai là những từ ngữ vay mượn từ một ngôn ngữ khác, hoặc là từ tiếng Hán (tức là tiếng Hoa nói vào đời Hán), hoăc là từ một ngôn ngữ phương tây gần đây. Như vậy thì một từ tiếng Việt có thể là một từ "thuần Việt" (hay có khi còn gọi là tiếng nôm), cũng có thể là một từ Hán Việt, hoặc là một từ mới vay mượn từ một ngôn ngữ khác. Mỗi loại từ trên có những nét tính cách khác nhau về thanh. Nhận biết được một từ là thuộc nhóm từ nôm hoặc từ Hán Việt sẽ giúp giải quyết được một số khá nhiều những trường hợp cần phân biệt dấu hỏi ngã. Nhưng làm thế nào để phân biệt được đâu là một từ thuần Việt và đâu là một từ Hán Việt hoặc một từ vay mượn ?
Từ thuần Việt trước kia thường gọi chung đây là những "tiếng nôm", nói trại từ "tiếng nam", tức là tiếng của người nước Nam - để phân biệt với tiếng nói của người phương Bắc, tức là người Hán. Ðó là những từ có thể chuyển đổi thanh theo quy luật hài thanh, hoặc là những từ láy âm theo phép hoà phối ngữ âm. Chẳng hạn, từ nở, nóng, hỏi là những từ thuần Việt, vì chúng có thể tạo thành những từ láy âm: nở nang, nóng nảy, hỏ han. Một từ như đã, chẳng, dẫu là những từ thuần Việt, vì chúng có thể chuyển thanh điệu mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa: đà, chăng, dầu.
Từ Hán Việt là những từ đã vay mượn từ vốn từ vựng tiếng Hán từ cả gần hai nghìn năm trước đây, khi nhà Hán bên Trung Hoa sang đô hộ xứ mình. Số từ Hán Việt đã chiếm quá nửa số vốn từ của chúng ta hiện nay. Có thể nhận biết một từ Hán Việt hay không là nhờ mấy cách như sau:
Nếu một chữ hay một tiếng có thể ghép với các tiếng như nhất (một), hữu (có), vô (không), bất (chẳng), thì từ ấy phải là từ Hán Việt. Vậy thì từ nhân, ích, đạo, bình là những tiếng Hán Việt vì chúng có thể kết hợp có ý nghĩa với bốn tiếng trên kia: nhất nhân, hữu ích, vô đạo, bất bình.
Nếu một chữ hay một tiếng có nghĩa nhưng không thể đứng một mình làm thành một từ được mà chỉ có thể làm thành một thành phần của từ mà thôi, thì đó là một chữ Hán Việt. Ví dụ: những tiếng quốc (nước), gia (nhà), sơn (núi), hà (sông), nhất (một), nhị (hai),& thường chỉ ghép chúng với một tiếng khác chứ không thể dùng riêng rẽ được. Chẳng hạn, để nói ý "hai quả núi", người Việt không thể nói nhị núi hoặc hai quả sơn; cũng thế, có thể viết là nhất gia, sơn hà, nhị nhân... nhưng không thể nói một gia, núi hà, hai nhân. Vậy thì những tiếng quốc, gia, sơn hà, nhân, nhất, nhị là những tiếng Hán Việt.
Nếu gặp một chữ hoặc một tiếng mà ta không hiểu nghĩa, nhưng ta lại biết rằng chúng có thể ghép chung với hai từ mà lại có cùng ý nghĩa, thì đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: ta gặp từ trường sinh mà ta không biết tiếng trường là gì, nhưng biết là nó ghép chung với hai tiếng khác (trường dạ, trường kỉ), thì có thể đoán biết là trường là một tiếng Hán Việt có nghĩa là "dài"; hoặc là đọc đến mấy chữ tác nghiệp, ta không hiểu tác là gì, nhưng biết là có sáng tác, tác giả, thì đoán biết tác là một tiếng Hán Việt, có nghĩa đại khái là "làm ra cái gì đó".
Nếu một tiếng nào đó mặc dù quen dùng riêng rẽ trong lời nói hằng ngày, nhưng lại thấy chúng thường ghép trong ít nhất là hai từ Hán Việt, thì tiếng hoặc chữ đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: tiếng học là một từ quen dùng. Tiếng này có thể gặp trong những từ Hán Việt như học sinh, đại học, học vị. Vậy thì tiếng học là một tiếng Hán Việt. Thí dụ khác: tiếng chúng có thể gặp trong các từ Hán Việt như quần chúng, chúng sinh..., vậy thì chúng cũng là một tiếng Hán Việt.
Từ vay mượn: là những từ ngữ vay mượn từ vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác, cụ thể là các ngôn ngữ phương tây. Từ khi giao tiếp với phương tây đến nay, tiếng Việt đã đưa vào kho từ vựng của mình những tiếng như xà phòng, (áo) sơ mi, xi măng, (dầu) xăng, cao bồi, (trái) bom, phim, (xe) ô tô, cuốc (xe), (bà) đầm, (bánh) quy, (nhà) băng, két (bạc), (kinh) xáng. Những tiếng vay mượn này hoặc được phiên âm trực tiếp từ một từ ngữ phương tây (xi măng <cement>, bom <bombe>, phim <film>, ô tô <auto>, băng <banque>), hoặc được đọc trại âm theo lối phát âm của người Việt (xà phòng <savon>, sơ mi <chemise>, xăng <essence>, cao bồi <cow boy>, cuốc <course>, đầm <dame>, (bánh) quy <biscuit>, két <caisse>, (kinh) xáng <chaland>). Những tiếng vay mượn này được cố gắng Việt hoá, cho nên cũng mang tất cả các thanh của tiếng Việt.
DẤU HỎI NGÃ ÐỐI VỚI TIẾNG THUẦN VIỆT
Một tính cách rất nổi bật của tiếng Việt là tính cách hoà phối ngữ âm giữa hai thành phần của một từ kép mà chúng ta thường gọi là từ láy. Những từ có hai âm tiết láy với nhau khi một hay nhiều thành phần âm tiết của hai âm tiết đó lặp lại giống hệt âm kia (gọi là điệp âm), hoặc kết hợp với âm kia theo một trật tự nào đó. Một vài thí dụ về từ láy: vui vẻ, xinh xắn, khô khan, đẹp đẽ... Hiện tượng láy từ có tác dụng trước hết là sự cân đối, sự hài hoà giữa các âm tiết của từ. So sánh hai câu dưới đây:
2a Căn nhà này khá rộng. 2b Căn nhà này khá rộng rãi.
Cả hai câu nói đều đúng cách nói thông thường. Nhưng khi nói rộng rãi như trong câu 2b thì nghe êm ái hơn, dễ nghe hơn, và do đó được chuộng hơn.
Xem thế thì hoà phối ngữ âm là sự kết hợp hài hoà giữa thành phần của một từ với một từ khác để tạo thành sự cân đối nhịp nhàng. Hoà phối ngữ âm có thể thực hiện ở cả bốn thành phần âm tiết của từ:
Láy âm đầu: lững lờ, lờ vờ, lụng thụng Láy âm chính: đo đỏ, gồ ghề, chúm chím, nhõng nhẽo Láy âm cuối: mũm mĩm, hầm hập, ươn ướt Láy thanh: thênh thang, vàng vọt, lả lơi, ngả ngớn
Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến sự hoà phối ngữ âm về mặt thanh điệu. Sự phân bố cân phương này được gọi là luật hài thanh . Luật hài thanh được thể hiện qua hai hiện tượng liên quan đến hoạt động của thanh điệu tiếng Việt:
Trước hết là sự hài thanh giữa hai âm tiết của từ láy: đây là sự phân bố cân đối giữa các thanh giữa hai âm tiết của một từ kép thành từng đôi một trong mỗi nhóm dưới đây:
Nhóm thứ nhất (thanh bổng): ngang - hỏi - sắc Nhóm thứ nhì (thanh trầm): huyền - ngã - nặng
Theo bảng trên đây, hai từ thuộc nhóm thứ nhất có thể mang một trong ba thanh:
Ngang - hỏi: lửng lơ, thơ thẩn, sang sảng
Hỏi - sắc: lở lói, ngả ngớn, vắng vẻ, gắng gỏi,
Ngang - sắc: diêm dúa, nghe ngóng, mang máng, líu lo, thối tha
Ba thanh thuộc nhóm thứ nhì được phân bố kết hợp như sau:
Huyền - ngã: ầm ĩ, lờ lững, vòi vĩnh, ỡm ờ, thẫn thờ,
Ngã - nặng: kĩu kịt, nũng nịu, nhão nhoẹt, hợm hĩnh, đẹp đẽ
Huyền - nặng: mờ mịt, vàng vọt, lặng lờ, mặn mà
Luật hài thanh còn thể hiện cả trong hiện tượng chuyển thanh điệu của một số từ. Tiếng Việt có nhiều từ biến đổi thanh mà vẫn không đổi ý nghĩa sang một từ khác. Hiện tượng chuyển đổi thanh trong tiếng Việt cũng theo phép hài thanh, nghĩa là các từ chuyển thanh theo hai nhóm mà Lê Ngọc Trụ (1959) tóm lại thành hai mô hình mà ông gọi là tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Phép chuyển thanh này như sau:
Ðổi thanh theo mô hình tan - tán - tản (nhóm ngang - hỏi - sắc). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
chăng - chẳng lén - lẻn rảy - rưới chưa - chửa lỏm - lóm túa - tủa / toả không - hổng thoáng - thoảng há miệng - hả miệng phản - ván ham - hám nói hở - nói hớ tan - tản bấu - bâu vểnh mặt - vênh mặt
Ðổi thanh theo mô hình lãi - lời - lợi (nhóm huyền - ngã - nặng). Dưới đây là một số trường hợp thường gặp:
đã - đà ngỡ - ngờ chậm rãi - chẫm rãi lời - lợi cội - cỗi ướt đẫm - ướt đầm dẫu - dầu còi - cỗi đen sậm - đen sẫm cũng - cùng đỗ - đậu xoã tóc - xoà tóc (sông) Nhị - (sông) Nhĩ thõng - thòng ăn ruỗng - ăn ruồng
Ngoài ra, có một số từ Hán Việt và tiếng thuần Việt dường như có liên quan, gần gũi với nhau . Những trường hợp vay mượn qua lại như thế cũng tuân theo phép hài thanh của tiếng Việt, nghĩa là cũng theo một trong hai mô hình tan - tán - tản và lãi - lời - lợi. Dưới đây là một vài thí dụ về sự giao tiếp ngôn ngữ như thế:
huyền - ngã - nặng ngang - hỏi - sắc cưỡng - gượng thiểu - thiếu trữ - giữ thố - thỏ đãi - đợi xả - xá
Biết được tính cách của luật hài thanh thì chúng ta có thể nêu lên thành luật gọi là "luật hỏi-ngã của các tiếng nôm" như sau:
Luật 1 khi hai tiếng có thể láy được với nhau thì hễ một tiếng mang dấu ngang (không dấu) hoặc dấu sắc thì tiếng kia phải mang dấu hỏi; ngược lại, hễ một tiếng mang dấu huyền hoặc dấu nặng thì tiếng kia phải mang dấu ngã. Luật 2 một từ có thể chuyển thanh điệu sang ngang hoặc sắc thì chắc chắn là mang dấu hỏi (theo mẫu tan - tán - tản); ngược lại, một tiếng có thể chuyển sang thanh huyền hoặc thanh nặng thì chắc chắn là có dấu ngã (theo mẫu lời - lãi - lợi).
Hai luật hỏi ngã này có thể giúp giải quyết được một số khá lớn các trường hợp mà người viết đang còn phân vân không biết nên bỏ dấu hỏi hay dấu ngã. Chẳng hạn, khi phải viết câu dưới đây, người nói giọng đàng trong có thể phân vân không biết bỏ dấu hỏi ngã thế nào:
3a Chị mơ gói thịt mơ ra rồi ngao ngán thơ dài.
Có thể dùng phép hài thanh (ngang hỏi sắc-huyền ngã nặng) để tìm ra được rằng: tiếng Việt có nói mở mang (làm cho rộng ra) theo luật ngang-hỏi-sắc, và có mỡ màng (có nhiều chất dầu, mỡ) theo luật huyền-ngã-nặng; lại cũng có thở than (than vãn chuyện gì) mà không có *thỡ (viết với dấu ngã). Vậy câu 3a bỏ dấu hỏi ngã như sau:
3b Chị mở gói thịt mỡ ra rồi ngao ngán thở dài.
Một thí dụ khác là khi viết câu dưới đây:
4a Ðứa bé đa ăn no rồi mà vân chưa chịu đi ngu.
Chúng ta biết là từ đã ở đây phải bỏ dấu ngã vì cũng có thể nói đà mà câu vẫn không đổi nghĩa. Từ vẫn mang dấu ngã vì phó từ này không có thể nhầm lẫn với từ vẩn - Có nghĩa là chất cặn bẩn, hoặc từ vẩn vơ (có nghĩa là tâm trạng không dứt khoát) theo luật ngang-hỏi-sắc. Từ ngủ ở cuối câu thì chỉ có thể láy thành ngủ nghê theo luật ngang-hỏi-sắc, nên phải mang dấu hỏi. Vậy thì câu 4a được viết hoàn chỉnh như sau:
4b Ðứa bé đã ăn no rồi mà vẫn chưa chịu đi ngủ.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:25:42 GMT 9
Ngoài ra, cũng nên biết thêm là người Việt - nhất là người miền Nam - hay nói gộp các tiếng hai âm tiết thành một trong những trường hợp sau đây: phải không > phỏng, bà ấy > bả, ở bên ngoài ấy > ở ngoải, hôm ấy > hổm, năm ấy > nẳm, hồi ấy > hổi [7]. Tất cả những tiếng nói gộp trên đây đều mang dấu hỏi. Vậy thì có luật 3 như sau:
Luật 3 Các tiếng nói gộp âm đều mang dấu hỏi
Trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại còn có một nhóm nhỏ những từ ngữ nước ngoài nhưng đã được chuyển sang giọng đọc tiếng Việt. Các tiếng vay mượn thường được phiên chuyển sang thanh hỏi: moả (< moi), xừ luỷ (< lui), đi rỏn (< ronde), sở cẩm (< commissaire de police), làm cỏ vê (< corvée). Vậy có thể nêu thành luật cho loại từ ngữ này như sau:
Luật 4 các tiếng vay mượn từ tiếng nước ngoài và đã chuyển sang giọng tiếng Việt, thì thường viết với dấu hỏi.
DẤU HỎI NGÃ CỦA TỪ HÁN VIỆT
Như đã nói ở trên, nhận biết được một từ Hán Việt sẽ có lợi rất lớn là phân biệt được một phần khá lớn những từ mang dấu hỏi ngã thuộc nhóm từ Hán Việt. Giở từ điển Hán Việt, ta có thể thấy là:
(1) Những từ Hán Việt bắt đầu bằng các phụ âm d, l, m, n. nh, ng, v thường viết dấu ngã . Có khoảng 180 từ Hán Việt mang dấu ngã. Ví dụ:
Phụ âm d: dã, dĩ, dũ, dữ. Phụ âm l: lão, lễ, lỗ, lữ Phụ âm m: mão, mãnh, mẫn, mỗ Phụ âm n: não, nễ, nỗ, nữ Phụ âm ng: ngã, ngỗ, ngũ, ngữ Phụ âm nh: nhã, nhĩ, nhũ, nhữ Phụ âm v: vẫn, vĩ, viễn, vũ
(2) Ngoài những trường hợp kể trên, các từ Hán Việt khác bắt đầu bằng các phụ âm khác đều viết dấu hỏi, trừ những lệ ngoại sẽ nói ở dưới. Ví dụ về các từ Hán Việt có dấu hỏi:
Nguyên âm: ả, ảo, ẩn, yểu, uẩn, uỷ.
Phụ âm b bảo, bỉ, bỉnh, bổng, bửu c/k/q cảo, cổ, củ, kỉ, kiểu, quả, quản, quảng, quỷ đầu ch chỉ, chiểu, chuẩn, chủng, chử đầu đ đả, đẩu, để, điểu, đổ gi giả, giảo, h hảo, hỉ, hổ, hủ đầu kh khả, khẩu, khổ, khởi ph phả, phỉ, phổ s sỉ, sổ, sửu t tả, tảo, tể, tỉ, tổ, tử th thải, thổ, thủ, thưởng tr trảo, trảm, triển, trưởng x xa, xả, xảo, xỉ, xử
Nhóm thứ nhì này có khoảng 30 trường hợp ngoại lệ, cần nhớ thuộc lòng. Dưới đây là bảng liệt kê các từ đó với những thí dụ về từ ghép đặt trong ngoặc:
Phụ âm b bãi (bãi thị, bãi nại), bĩ (bĩ vận), c cữu (linh cữu), cưỡng (cưỡng đoạt) đ đãng (khoáng đãng), đễ (hiếu đễ), đỗ (Ðỗ thị) h hãm (hãm hại), hãn (hãn hữu), hoãn (hoãn binh), hĩ (một tiếng đệm), hỗ (hỗ trợ), hỗn (hỗn hợp, hỗn mang), huyễn (huyễn mộng), hữu (bằng hữu) k kĩ (ca kĩ, kĩ thuật, kĩ xảo) ph phẫn (phẫn nộ), phẫu (giải phẫu) d quẫn (quẫn bách), quỹ (quỹ đạo, quỹ tích, thủ quỹ) s sĩ (bác sĩ, viện sĩ), suyễn (suyễn tức, suyễn yết) t tiễn (tiễn biệt), tĩnh (tĩnh mịch), tuẫn (tuẫn tiết) th thuẫn (mâu thuẫn), thũng (phù thũng) tr trãi, trẫm, trĩ (ấu trĩ), trữ (dự trữ, lưu trữ, tích trữ) x xã (xã hội, xã tắc)
Từ hai điểm trên, chúng ta có thể nêu lên hai luật hỏi ngã dành cho tiếng Hán Việt như sau:
Luật 5 các từ Hán Việt có phụ âm đầu d, l, m, n, nh, ng, v đều có dấu ngã. Luật 6 các từ Hán Việt khác có thanh hỏi. Trừ khoảng 30 trường hợp ngoại lệ.
Tóm lại, viết dấu hỏi ngã tiếng Việt cho dù phức tạp nhưng vẫn có những lề luật từ tự thân tiếng Việt. Những mẹo luật mà Nguyễn Ðình và Lê Ngọc Trụ đã phát hiện và được nhắc đến ở đây chẳng qua chỉ là những phát hiện những quy luật ẩn dấu trong hoạt động ngôn ngữ mà thôi. Ðể có thể áp dụng sáu "luật hỏi ngã" trên đây, cần đến công phu thực tập đều đặn trong một thời gian đủ để chiêm nghiệm những quy luật được thể hiện qua thực tiễn ra sao.
Trong tình hình dạy và học tiếng Việt tại hải ngoại hiện nay, việc phân biệt dấu hỏi và dấu ngã là một công việc khó khăn. Nhưng đây cũng lại là một việc cần thiết vô cùng, vì đó là một trong những công việc cần thiết để nâng cao trình độ hiểu biết về chuẩn mực ngôn ngữ của tiếng Việt. Có thể là chuyện viển vông khi nói đến chuẩn mực ngôn ngữ ở hải ngoại lúc này, nhưng đây lại là nhu cầu chính đáng của lớp trẻ ngày càng đòi hỏi phải nhìn lại cho rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ. Ðó cũng chính là mục đích của chính tả vậy.
Ðoàn Xuân Kiên
Luân Ðôn
--------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu:
Lê Ngọc Trụ (1959): Chánh Tả Việt Ngữ. (bản in kì 2). Sài Gòn: nxb. Trường Thi
Nguyễn Ðình (1939): Luật Ngã Hỏi, tạp chí Tao Ðàn (Hà Nội), bộ mới, số 8, ngày 16.6.1939
Phan Ngọc (1982): Chữa Lỗi Chính Tả Cho Học Sinh. Hà Nội: nxb. Giáo Dục
Ghi chú:
[1] Ðoàn Xuân Kiên, "Bàn về việc đánh dấu thanh tiếng Việt", in trong tập san Ðịnh Hướng số 17 (mùa thu 1998), tr. 109-121.
[2] Tiếng Việt hiện đại có khoảng 2000 từ mang dấu hỏi, và khoảng trên 1000 từ mang dấu ngã.
[3] Nói về hiện tượng vay mượn thì cần chú ý riêng đến vốn từ ngữ mượn từ tiếng Trung Hoa do người Hán đem sang từ khi họ đô hộ nước Việt cổ. Trong một thời gian dài cả nghìn năm, tiếng Hán đã trở thành một thứ ngôn ngữ chính thức trong xã hội Việt. Ðến khi nước ta giành lại nền độc lập (năm 939) thì tiếng Hán vẫn là thứ văn tự chính thức trong hành chính và giáo dục. Vì thế mà chúng ta gọi kho từ ngữ Hán dùng tại nước mình là tiếng Hán Việt. Chỗ đứng của tiếng Hán Việt trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại rất là đặc biệt, khác hẳn với một số nhỏ những từ ngữ mượn từ các ngôn ngữ phương tây về sau: đã từ lâu đời rồi, ngôn ngữ văn hoá của người Việt không thể thiếu vốn từ Hán Việt. Chỗ đứng của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt trong chừng mức nào đó tương tự như tiếng Latin trong các ngôn ngữ Ấn-Âu vậy. Trước đây, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam toan loại bỏ chỗ đứng của từ Hán Việt. Nay thì họ lại rơi vào một quá khích khác, là dùng nhiều từ Hán Việt đến mức làm cho tiếng Việt nhiều khi tối tăm, nặng nề. (Báo Nhân Dân có thừa những dẫn chứng cụ thể về chuyện này). Chúng ta không sùng bái nhưng cũng không thể có thái độ kì thị đối với tiếng Hán Việt. Vả chăng, số vốn từ vựng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại chiếm đến khoảng 60% từ ngữ, thì thái độ chính đáng của bất cứ ai quý trọng tiếng Việt là cần phải học hỏi và trau giồi vốn từ Hán Việt.
Cần lưu ý là trong lối nói thông thường hiện nay có khi chúng ta nói bất kể nhưng đây là trường hợp nói sai quy tắc, vì kể không phải là từ Hán Việt.
"Luật" này đã được một nhà giáo trẻ -tên là Nguyễn Ðình- tìm ra đầu tiên. Ông gửi đăng trên tạp chí Tao Ðàn số 8 bộ mới (1939) một bài báo mà ông gọi là luật ngã hỏi. Về sau ông Lê Ngọc Trụ đã phát triển thêm và gọi đó là luật bổng trầm (1943). Cũng Lê Ngọc Trụ đã khai triển thêm về những lề lối chuyển thanh âm của tiếng Hán Việt, và hoàn chình các mẹo luật chính tả tiếng Việt trong tập Chánh tả Việt ngữ (1952).
Các nhà Hán ngữ học (như Vương Lực) đã dò tìm trong một số từ ngữ Việt rất gần với giọng phát âm của người Hán, và đã đưa ra giả thuyết là tiếng Hán cổ có thể cũng vay mượn một số từ của Giao Châu trong thời kì người Hán sang đô hộ.
[7] Gs. Lê Ngọc Trụ cho rằng có một ngoại lệ là hỗi (dấu ngã), vì ông cho rằng đó là nói gộp âm của "hồi nãy đến giờ". Các bạn miền Nam của chúng tôi thì lại cho rằng khi nói hổi, họ nghĩ đến "hồi đó tới giờ". Vậy thì có một biệt lệ ở đây hay chăng?
[8] Ðể cho dễ nhớ, có thể học thuộc lòng câu sau đây: "mình nên nhớ là viết dấu ngã ", trong đó các âm đầu đều mang phụ âm của các từ Hán Việt có dấu ngã.
[9] Chính tả nghĩa là viết (tả) cho đúng (chính), nghĩa là viết đúng theo một mẫu mực nào đó được xã hội công nhận và quy định làm mực thước cho mọi người phải tuân theo.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:26:33 GMT 9
Hán ngữ -Trung văn Mar/04/06 Âm Hán-Việt: Hán ngữ, Hoa ngữ, hay Trung văn; Pinyin: Hànyǔ, Huáyǔ, hay Zhōngwén) là một ngôn ngữ có ngữ điệu thuộc hệ ngôn ngữ Hán-Tạng. Mặc dù thường được coi là ngôn ngữ duy nhất với lý do văn hoá, trên thực tế mức độ đa dạng giữa các vùng khác nhau có thể sánh với sự đa dạng của các ngôn ngữ Rôman. Tuy vậy, tất cả mọi người nói các thứ tiếng Trung Quốc khác nhau đều dùng chung một dạng văn viết thống nhất có từ đầu thế kỷ 20 là bạch thoại (nghĩa là thứ tiếng bình dân dựa trên tiếng Quan thoại) dùng gần như cùng một bộ chữ Trung Quốc.
Khoảng một phần năm dân số thế giới hiện nay dùng một trong những thứ tiếng Trung Quốc làm tiếng mẹ đẻ, khiến nó trở thành thứ tiếng đứng đầu thế giới về phương diện này. Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quan thoại chuẩn là ngôn ngữ chính thức của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc tại Đài Loan, cũng như là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của Singapore, và là một trong sáu ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên Hiệp Quốc. Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quảng Đông chuẩn thì là một trong những ngôn ngữ chính thức của Hồng Kông (cùng với tiếng Anh) và của Ma Cao (cùng với tiếng Bồ Đào Nha).
Thuật ngữ và khái niệm và người Trung Quốc sử dụng để phân biệt văn nói và văn viết không giống với phương Tây do những sự khác biệt về phát triển chính trị và xã hội ở Trung Quốc so với châu Âu. Mặc dù châu Âu phân chia thành nhiều nhà nước-quốc gia dựa trên khác biệt về ngôn ngữ sau khi Đế chế La Mã sụp đổ, Trung Quốc vẫn giữ được thống nhất về văn hoá và chính trị vào cùng thời kỳ đó và duy trì được thứ ngôn ngữ viết chung trong suốt thời kỳ lịch sử của nó dù trên thực tế sự đa dạng trong ngôn ngữ nói của Trung Quốc có thể sánh như châu Âu. Do đó, người Trung Quốc phân biệt rõ giữa "văn viết" (wén; 文) và "văn nói" (yǔ; 語). Như vậy, quan niệm về sự thống nhất và khác biệt giữa văn viết và các dạng văn nói ở phương Tây rõ rệt hơn là ở Trung Quốc.
Hoa kiều tại Việt Nam:
Dân tộc Hoa (chữ Hán) là những người gốc Trung Quốc định cư ở Việt Nam và đa số có quốc tịch Việt Nam. Các tên gọi khác: Khách, Hán, Tàu. Nếu xếp theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì họ là dân tộc Hán.
Vào thế kỉ 17 tại Trung Quốc, sự sụp đổ của nhà Minh dẫn đến làn sóng người Hoa trung thành với nhà Minh và không thần phục nhà Thanh bỏ quê hương (người Minh Hương) di dân sang vùng Đông Nam Á. Năm 1671, Mạc Cửu và gia đình đến vùng đất Mang Khảm (nay là Hà Tiên). Năm 1679, các tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch dẫn tuỳ tùng quân lính theo đường thuỷ đến Đà Nẵng, Chúa Nguyễn cho Trần Thượng Xuyên vào vùng Biên Hòa – Cù Lao Phố (tỉnh Đồng Nai), Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang) để khai khẩn vùng đất phương Nam. Đến thế kỷ 19, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt tuyển mộ phu đồn điền của người Pháp. Năm 1949, một số người Hoa chạy sang Việt Nam khi Trung Hoa Quốc Dân đảng thua ở lục địa.
Vào nửa cuối thập kỷ 1970, do quan hệ căng thẳng giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, nhiều người Hoa đã rời bỏ Việt Nam. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề "nạn kiều".
Theo thống kê của cuộc điều tra dân số năm 1999, tổng số người Hoa ở Việt Nam là 862.371 (1,13% dân số ở Việt Nam), được xếp hạng thứ tư, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại Sài Gòn, vùng Chợ Lớn. Họ tập trung đông nhất ở các khu thương mại trong Quận 5, 11 (khoảng 45% dân số mỗi quận), 10, 6 với 5 nhóm ngôn ngữ chính: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Số người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh toàn quốc, mà hầu hết là ở nhiều tỉnh miền Tây Việt Nam. Năm 2003 ước tính có khoảng 913.250 người Hoa. (WKP)
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:27:35 GMT 9
Ca Dao Việt Nam Mar/03/06
Ca dao là một từ Hán-Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.
Nội dung Ca dao phản ánh lịch sử: Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân.
Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống; phản ánh đời sống tình cảm nhân dân; phản ánh đời sống xã hội cũ. Ngoài ra, ca dao còn:
Chứa đựng tiếng cười trào phúng
Phân loại Đồng dao: là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.
Ca dao lao động: là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động.
Ca dao ru con: Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến, lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn.
Ca dao nghi lễ, phong tục: Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.
Ca dao trào phúng, bông đùa và ca dao trữ tình.
Nghệ thuật Thể thơ: Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục bát rất phổ biến trong ca dao; thể song thất lục bát được sử dụng không nhiều; thể vãn thường gồm một câu có bốn hoặc năm chữ, rất đắc dụng trong đồng dao. Ngoài ra ca dao cũng sử dụng hợp thể là thể thơ gồm từ bốn, năm chữ thường kết hợp với lục bát biến thể.
Cấu tứ có các loại sau: Cấu tứ theo lối ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định; cấu tứ theo lối đối thoại, và cấu tứ theo lối phô diễn về thiên nhiên...
Nói về sông nước Nam bộ:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng Về sông ăn cá về đồng ăn cua...
Nói về tình vợ chồng:
Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẳm tay bồng, Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông...
Nói về tình thủy chung:
Tay bưng dĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau. ........ Qua cầu than thở cùng cầu Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Nói về tình đời đen bạc:
Ầu ơ..Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra...
Về tình yêu trai gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua Năm thương cổ yếm đeo bùa Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng Bảy thương nết ở khôn ngoan Tám thương ăn nói dịu dàng thêm xinh Chín thương cô ở một mình Mười thương con mắt có tình với ai ...........
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân,
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay...
......... Áo tứ thân em treo trên mắc Đêm anh nằm anh đắp lấy hơi Nhớ em em vẫn ở đời Quên em em mới ra người kiếp xưa...
.......
Qua cầu than thở cùng cầu Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu... .........
Chim xa bầy thương cây nhớ cội Người xa người tội lắm người ơi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi mỗi đứa một nơi sao đành ........... Đêm qua chớp bể mưa nguồn Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng Cá buồn cá lội tung tăng Em buồn em biết đãi đằng cùng ai
Về tình cảm
Lan huệ sầu ai lan huệ héo,
Lan huệ sầu đời, trong héo ngoài tươi...
......... Anh đi đằng ấy xa xa Để em ôm bóng trăng tà năm canh... .......... Chiều chiều ra ngõ mà trông Bạn không thấy bạn tình không thấy tình
Chiều chiều ra đứng ngõ trông Ngõ thì thấy ngõ người không thấy người
Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú. Hẹn sẽ trở lại câu chuyện này với quý bạn.
(Wikipedia)
v
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 3, 2008 11:18:39 GMT 9
Luật Hỏi Ngã
LUẬT HỎI NGÃ
Trong tiếng Việt chúng ta sử dụng tất cả 1270 âm tiết với dấu hỏi hoặc với dấu ngã, trong đó có 793 âm tiết (chiếm 62%) viết dấu hỏi, 477 âm tiết (38%) viết dấu ngã. Việc nắm được quy luật dấu hỏi và dấu ngã của lớp từ láy và lớp từ Hán Việt sẽ giúp ta giảm được nhiều lỗi chính tả.
I. Từ láy và từ có dạng láy:
• Các thanh ngang (viết không có dấu) và sắc đi với thanh hỏi, ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...
• Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ...
Quy tắc từ láy chỉ cho phép viết đúng chính tả 44 âm tiết dấu ngã sau đây:
ã ầm ã, ồn ã sã suồng sã thãi thưà thãi vãnh vặt vãnh đẵng đằng đẵng ẫm ẫm ờ dẫm dựa dẫm, dọa dẫm, dò dẫm gẫm gạ gẫm rẫm rờ rẫm đẫn đờ đẫn thẫn thờ thẫn đẽ đẹp đẽ ghẽ gọn ghẽ quẽ quạnh quẽ kẽo kẽo kẹt nghẽo ngặt nghẽo ?? nghễ ngạo nghễ nhễ nhễ nhại chễm chiễm chệ khễng khập khễng tễng tập tễnh nghễu nghễu nghện hĩ hậu hĩ ĩ ầm ĩ rĩ rầu rĩ, rầm rĩ hĩnh hậu hĩnh, hợm hĩnh nghĩng ngộ nghĩnh trĩnh tròn trĩnh xĩnh xoàng xĩnh kĩu kĩu kịt tĩu tục tĩu nhõm nhẹ nhõm lõng lạc lõng õng õng ẹo ngỗ ngỗ nghịch, ngỗ ngược sỗ sỗ sàng chỗm chồm chỗm sỡ sặc sỡ, sàm sỡ cỡm kệch cỡm ỡm ỡm ờ phỡn phè phỡn phũ phũ phàng gũi gần gũi hững hờ hững (Hoàng Phê, 2).
Ngoài ra còn có 19 âm tiết dấu ngã khác dùng như từ đơn tiết mà có dạng láy ví dụ như:
cãi cọ giãy giụa sẵn sàng nẫu nà đẫy đà vẫy vùng bẽ bàng dễ dàng nghĩ ngợi khập khiễng rõ ràng nõn nà thõng thượt ngỡ ngàng cũ kỹ nũng nịu sững sờ sừng sững vững vàng ưỡn ẹo
Cần phải nhớ cãi cọ khác với củ cải, nghĩ ngợi khác với nghỉ ngơi, nghỉ học.
Như vậy quy tắc hài thanh cho phép viết đúng chính tả 63 âm tiết dấu ngã. Ngoài ra còn có 81 âm tiết dấu ngã dưới đây thuộc loại ít dùng:
Ngãi, tãi, giãn (dãn), ngão, bẵm, đẵm (đẫm), giẵm (giẫm), gẵng, nhẵng, trẫm, nẫng, dẫy (dãy), gẫy (gãy), nẫy (nãy), dẽ, nhẽ (lẽ), thẽ, trẽ, hẽm (hẻm), trẽn, ẽo, xẽo, chễng, lĩ, nhĩ, quĩ, thĩ, miễu, hĩm, dĩnh, đĩnh, phĩnh, đõ, ngoã, choãi,doãi, doãn, noãn, hoãng, hoẵng, ngoẵng, chõm, tõm, trõm, bõng, ngõng, sõng, chỗi (trỗi), giỗi (dỗi), thỗn, nỗng, hỡ, xỡ, lỡi, lỡm, nỡm, nhỡn, rỡn (giỡn), xũ, lũa, rũa (rữa), chũi, lũi, hũm, tũm, vũm, lũn (nhũn), cuỗm, muỗm, đuỗn, luỗng, thưỡi, đưỡn, phưỡn, thưỡn, chưỡng, gưỡng, khưỡng, trưỡng, mưỡu (Hoàng Phê, 3).
Tôi để ý thấy rất nhiều lỗi chính tả ở những âm tiết rất thường dùng sau đây: đã (đã rồi), sẽ (mai sẽ đi), cũng (cũng thế), vẫn (vẫn thế), dẫu (dẫu sao), mãi (mãi mãi), mỗi, những, hễ (hễ nói là lam), hỡi (hỡi ai), hãy, hẵng.
Cũng có những trường hợp ngoại lệ như:
1. Dấu ngã: đối đãi (từ Hán Việt), sư sãi (từ Hán Việt), vung vãi (từ ghép), hung hàn (từ Hán Việt), than vãn, ve vãn, nhão nhoét (so sánh: nhão nhẹt), minh mẫn (từ Hán Việt), khe khẽ (so sánh: khẽ khàng), riêng rẽ, ễng ương, ngoan ngoãn, nông nỗi, rảnh rỗi, ủ rũ . . .
2. Dấu hỏi: sàng sảy (từ ghép), lẳng lặng, mình mẩy, vẻn vẹn, bền bỉ, nài nỉ, viển vông, chò hỏ, nhỏ nhặt, nhỏ nhẹ, sừng sỏ, học hỏi, luồn lỏi, sành sỏi, vỏn vẹn, mềm mỏng, bồi bỏ, chồm hổm, niềm nở, hồ hởi . . . (Hoàng Phê, 4).
II. Từ Hán Việt:
a) Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là:
• Ch-: chuẩn, chỉ, chỉnh, chủ, chuẩn, chủng, chuyển, chưởng. • Gi-: giả, giải, giảm, giản, giảng, giảo. • Kh-: khả, khải, khảm, khảng, khảo, khẳng, khẩn, khẩu, khiển, khoả, khoản, khoảnh, khổ, khổng, khởi, khuẩn, khủng, khuyển, khử. • Và các từ không có phụ âm đầu như: ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.
b) Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là:
• D-: dã, dẫn, dĩ, diễm, diễn, diễu, dĩnh, doãn, dõng, dũng, dữ, dưỡng. • L-: lãm, lãn, lãng, lãnh, lão, lẫm, lễ, liễm, liễu, lĩnh, lõa, lỗi, lỗ, lũ, lũng, luỹ, lữ, lưỡng. • M-: mã, mãi, mãn, mãng, mãnh, mão, mẫn, mẫu, mỹ, miễn. • N-(kể cả NH-NG): nã, não, ngã, ngãi, ngẫu, nghĩa, nghiễm, ngỗ, ngũ, ngữ, ngưỡng, nhã, nhãn, nhẫn, nhĩ, nhiễm, nhiễu, nhỡn, nhũ, nhũng, nhuyễn, nhưỡng, noãn, nỗ, nữ. • V-: vãn, vãng, vẫn, vĩ, viễn, vĩnh, võ, võng, vũ.
c) 33 từ tố Hán-Việt có dấu ngã cần ghi nhớ (đối chiếu với bản dấu hỏi bên cạnh):
Bãi: bãi công, bãi miễn. Bảo: bảo quản, bảo thủ. Bão: hoài bão, bão ho Bỉ: bỉ ổi, thô bỉ Bĩ: vận bĩ, bĩ cực thái lai Cưỡng: cưỡng bức, miễn cưỡng Cửu: cửu trùnh, vĩnh cửu Cữu: linh cữu Đãi: đối đãi, đãi ngộ Đảng: đảng phái Đãng: quang đãng, dâm đãng Để: đại để, đáo để, triệt để Đễ: hiếu đễ Đỗ: đỗ quyên Hải: hải cảng, hàng hải Hãi: kinh hãi Hãm: kìm hãm, hãm hại Hãn: hãn hữu, hung hãn Hãnh: hãnh diện, kiêu hãnh Hoãn: hoãn binh, hoà hoãn Hổ: hổ cốt, hổ phách Hỗ: hỗ trợ Hỗn: hỗn hợp, hỗn độn Huyễn: huyễn hoặc Hữu: tả hữu, hữu ích Kỷ: kỷ luật, kỷ niệm, ích kỷ, thế kỷ Kỹ: kỹ thuật, kỹ nữ Phẫn: phẫn nộ Phẫu: giải phẫu Quẫn: quẫn bách, quẫn trí Quỷ: quỷ quái, quỷ quyệt Quỹ: công quỹ, quỹ đạo Sỉ: sỉ nhục, liêm sỉ Sĩ: sĩ diện, chiến sĩ, nghệ sĩ Tể: tể tướng, chúa tể, đồ tể Tễ: dịch tễ Thuẫn: hậu thuẫn, mâu thuẩn Tiễn: tiễn biệt, thực tiễn, hoả tiễn Tiểu: tiểu đội, tiểu học Tiễu: tuần tiễu, tiễu phỉ Tỉnh: tỉnh ngộ, tỉnh thành Tĩnh: bình tĩnh, yên tĩnh Trĩ: ấu trĩ Trữ: tích trữ, trữ tình Tuẫn: tuẫn nạn, tuẫn tiết Xả: xả thân Xã: xã hội, xã giao, thị xã (Hoàng Phê, 6-7).
III. Tóm lại:
1. Từ láy: Các thanh ngang và sắc đi với thanh hỏi. Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã. Để cho dễ nhớ chúng ta có thể tóm gọn trong hai câu thơ sau:
Chị Huyền vác nặng ngã đau Anh Sắc không hỏi một câu được là (Hoàng Anh Tuấn).
2. Từ Hán Việt phần lớn viết với dấu hỏi (trong tổng số yếu tố Hán-Việt, có 176 yếu tố viết dấu hỏi, chiếm 62%; 107 yếu tố viết dấu ngã, chiếm 38%), (Hoàng Phê, 6).
• Dùng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là CH, GI, KH và các từ khởi đầu bằng nguyên âm hoặc bán nguyên âm như ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu.
• Dùng dấu ngã khi có phụ âm đầu là M, N(NH-NG), V, L, D, N (cho dễ nhớ tôi viết thành Mình Nên Viết Là Dãu Ngã) (Hoàng Anh Tuấn).
Như vậy chỉ cần nắm các qui tắc trên và nhớ 33 trường hợp đặc biệt viết với dấu ngã là có thể viết đúng chính tả toàn bộ 283 yếu tố Hán-Việt có vấn đề hỏi ngã cũng coi như nắm được căn bản chính tả DẤU HỎI HAY DẤU NGÃ trong tiếng Việt (Hoàng Phê, 1).
Tài liệu tham khảo: (1) Hoàng Anh Tuấn (2) Hoàng Phê, Dấu hỏi hay dấu ngã Trung tâm tự điển học. Tháng 1 năm 1996
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 29, 2009 17:50:48 GMT 9
Thưa "các" quý vị hay thưa quý vị? Hồng Lê Thọ Một số quan chức cấp cao thường phát biểu ý kiến "chỉ đạo" tại hội nghị hay mít tinh, hoặc "khai từ" cho một buổi gặp gỡ, khen thưởng… mà chúng ta thường được chứng kiến trên màn ảnh nhỏ trong giờ tin tức. Hầu hết là những bài nầy thường được thư ký soạn thảo trước. Điều đáng ngạc nhiên là hai chữ "quý vị" được dùng khá phổ biến. Cụm từ "các vị khách quí" hoặc "các vị đại biểu" được thay thế bằng cụm từ "các quý vị…" một cách hồn nhiên. Một nhà lãnh đạo có học hàm, học vị cao nhất nước, từng làm hiệu trưởng đại học nhưng vẫn "thưa các quý vị" trong bài đọc hay nói chuyện trong buổi lễ!
Theo Từ điển tiếng Việt ( NXB KHXH-Trung tâm Từ điển học, 2004) thì từ "quý" ở đây mang nghĩa số nhiều khi đứng trước một danh từ, "dùng để gọi một cách lịch sự một số người" hay "một tổ chức nào đó nói chung" (trang 785) như "quý quan khách", "quý Bộ" chứ không có nghĩa là "có giá trị cao" như "quý báu" hay "quý kim". Như thế, cụm từ "các quý vị" thì chữ "các" ở đây là thừa, không thể đi cùng với từ "quý", hai từ mang nghĩa "số nhiều" liền nhau, nghe rất chối tai. Chỉ có thể là "các vị" hay "quý vị" mà thôi.
Nếu cứ nói vậy, dễ bị hiểu nhầm là người mang bệnh "sính "chữ!
Giữa lúc cao trào bàn về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt dâng cao thì một trang báo cùng ngày lại đưa tin về hội chứng "đái tháo đường". Thuật ngữ trong y học vẫn sử dụng "đái tháo đường". Báo chí và giới truyền thông trong nước vẫn thường xuyên đề cập căn bệnh quái ác này với thuật ngữ "thô thiển" nói trên.
Hành động bài tiết của cơ thể được diễn đạt một cách thanh tao trong tiếng Việt. "Tiểu tiện" hay "đại tiện" là ngôn từ được dùng khá phổ biến để chỉ hành động "thô tục" tự nhiên của con người, thay chữ "đái" hoặc "ỉa", không gây khó chịu hoặc dơ bẩn trong lời nói, câu văn.
Ngay từ tuổi cắp sách đến trường, cấp tiểu học, các em được cô giáo hướng dẫn "đi tiểu", "đi ngoài", "đi cầu", "đi sông", "đi đồng" (tiếng nói phổ biến của bà con mình ở nông thôn) hoặc ở cấp trung học phổ thông, các em quen dùng "tiểu tiện" hoặc "đại tiện". Ngày nay, người lịch sự thường dùng từ đi "vệ sinh" hay vào "toalét"(toilette) hơn là dùng những từ "lõa lồ" không hay.
Vậy mà các y bác sĩ -những người trí thức- khám chữa bệnh ở nước Việt mình lại chọn từ "đái tháo đường" như một thuật ngữ y học để chỉ căn bệnh mãn tính của người bị rối loạn trong chuyển hóa nội tiết, điều tiết bởi Insuline từ tuyến tụy, cơ thể không thể hấp thụ lượng đường từ thức ăn, nước uống… Đường được bài tiết ra bên ngoài qua nước tiểu cho nên chứng bệnh nầy còn được gọi là bệnh "tiểu đường". Gọi rứa là không có gì sai, nghe dịu dàng hơn ba chữ đái tháo đường, như là khủng bố tinh thần bệnh nhân! Kiểu gọi tên bệnh khủng bố này đang nhan nhản khắp nơi, kể cả bảng hướng dẫn của phòng mạch chuyên khoa hay bác sĩ tại nhà.
Mong rằng đề nghị nho nhỏ nầy sẽ thấu tai các nhà y học và ngôn ngữ học ở nước ta!
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 8:39:39 GMT 9
Vẫn Chuyện i Ngắn, y Dài Feb 16, 2010 Nguyễn Đình Hoà . Vien Viet Hoc
Cách đây chừng ba năm, tôi có mạo muội đề nghị với Tạp chí “Thế Kỷ 21” là nên viết tên tờ báo đứng đắn đó là Thếkỉ 21. Tiếp đó, một độc giả của tờ tạp chí ấy có chỉ ra là trong cuốn từ điển Việt-Anh của chính tôi, nhan đề là Vietnamese-English Dictionary (Saigon: Bình Minh, 1959; Tokyo: Charles E. Tuttle, 1966), từ “thế kỷ” [nghĩa là “century”] vẫn dùng con chữ “y dài” [thường được gọi là i-cờ-rét, “chữ Hi-Lạp”.]
Là người đã từng phụ trách giảng khoa về Kế hoạch hoá Ngôn ngữ (Language Planning) trong mấy chục năm, tôi thừa hiểu rằng: tại bất cứ một nước nào, việc thi hành kế hoạch về lĩnh vực lời ăn tiếng nói cũng cần phải lưu tâm đến tình cảm ngôn ngữ của người dân nói tiếng bản ngữ. Mấy cuộc hội nghị đã được triệu tập tại cả miền Bắc lẫn miền Nam Việt Nam trước 1975 về vấn đề thống nhất ngôn ngữ, về nhu cầu cải tiến chữ quốc ngữ, cũng như về việc cần tiêu chuẩn hoá chính tả và thống nhất danh từ khoa học kĩ thuật. Rồi sau 1975, các nhà chuyên môn vẫn tiếp tục thảo luận về những đề tài như: dùng con chữ nào cho âm vị nào, con chữ nào viết hoa, khi nào dùng gạch nối, khi nào viết liền các âm tiết (cũng là từ tố) bên trong một từ, phiên âm những thuật ngữ khoa học quốc tế cách nào? v.v… Những nhà ngữ học đó đều phải kết luận rằng có những đề nghị cải cách rất có tính khoa học, cốt làm cho chữ quốc ngữ nhất quán hơn, và có một số chuẩn mực phải theo một cách “trước sau như một”, song có điều chưa thi hành ngay được, vì thiên hạ quen cùng cách này, cách kia rồi.
Chẳng hạn, thiên hạ quen viết lý trưởng, lý tưởng, lý trí, kỳ dị, nước Mỹ, Mỹ quốc, (cao lương) mỹ vị, mỹ thuật, v.v… mất rồi. Thậm chí, có nhà văn còn dùng lối viết quá táo bạo: thi sỹ, hoạ sỹ, v.v… Lí do là người ta đã lẫn lộn con chữ i dùng để ghi nguyên âm (còn gọi là “mẫu âm”) /i/ — là âm hạt nhân hay âm chính của một âm tiết trong tiếng Việt — với con chữ y, dùng để ghi bán nguyên âm (còn gọi là “bán mẫu âm”) /y/ — là âm lướt xuất hiện ở đầu hoặc cuối một âm tiết và được ngành ngữ âm học ghi bằng kí hiệu [i:]. Có điều lạ là không ai viết kỳ dỵ, lý trý cả! Thực tế, nay chúng ta bảo nhau theo cách phân biệt nói trên mà viết cho đúng: ông lí trưởng, lí tưởng, lí trí, kì dị, nước Mĩ, Mĩ quốc, (cao lương) mĩ vị, mĩ thuật, v.v… thì có người sẽ thấy lạ hoắc, không quen, nên không chấp nhận.
Vậy thì trong khi chờ đợi chuẩn bị cho những lớp học sinh tiểu học, rồi trung học, được chỉ dạy những điểm sơ đẳng đó về tương quan giữa ngữ âm và chính tả, thì biện pháp tốt hơn hết ta có thể áp dụng ở giai đoạn đầu — tức ngay bây giờ — là:
1. Khi một âm tiết có nguyên âm /i/ đứng ở cuối, thì ta dần dần cố nhớ ghi nhất loạt bằng con chữ i: ăn mì Hải kí gần hơn Tùng kí, ông lí trưởng, Mĩ cảnh, tiếng nói Hoa Kì, thế kỉ (thứ 21), v.v… 2. Một biệt lệ là vần –uy /-wi/ [ui] như trong duy, huy, khuy, nguy, quy, tuy, thuý, v.v… thì vẫn viết như cũ, NHƯNG phải đánh dấu thanh điệu (hoặc thanh) vào nguyên âm chính: huý, luỹ, quý, tuý, tuỳ, tuỷ, thuý, thuỷ, nhuỵ, nguỵ, v.v… để phân biệt với húi, lủi, cúi, túi, đùi, tủi, thúi, khui, v.v…
Ta cần chấp nhận biệt lệ này vì còn có những vần phức tạp hơn như /–uyên/, /-uyêt/ trong duyên, chuyển, huyên (náo), khuyên, luyến, quyên, tuyên truyền, thuyền, nhuyễn, nguyên, Nguyễn, xuyễn, duyệt, tuyết, khuyết, nguyệt, quyết, v.v… 3. Nếu âm chính là nguyên âm /i/ đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết, thì vẫn viết theo thói quen như cũ: […] y học, y khoa, ý kiến, ý nghĩa, Nguyễn Ngu Ý, v.v…
Trong ba cuốn từ điển song ngữ Việt-Anh hay Anh-Việt của tôi (xuất bản vào những thập niên 1950 và 1960 đó), tôi vẫn theo thói quen của các nhà văn, nhà báo và nhà giáo mà ghi thế kỷ, kỷ niệm, kỷ nguyên, v.v… Nhưng ở thời điểm này (ba mươi năm sau!), tôi áp dụng chút sở học để cầu tiến và nắm tay các bạn già trẻ cùng tiến bộ, thiết tưởng bạn đọc và bạn học không nên lấy làm lạ, mặc dầu những điều tôi nêu lên (không phải là ý kiến riêng của tôi) có thể chưa đủ sức thuyết phục.
Ngoài ra, nói riêng một tạp chí đã có lời phi lộ là đem độc giả bước vào thế kỉ sau, thì quí vị phụ trách tờ báo có giá trị đó, theo thiển ý, chẳng nên ngần ngại gì mà không bắt đầu viết cho đúng: Thế-kỉ 21. Tôi còn xin phép đề nghị là tốt hơn nữa, quí vị trong ban biên tập, cho đến nay vẫn bỏ cái gạch nối — là cái dấu cần thiết cho người học nói, học đọc tiếng Việt, dù là người Việt hay người ngoài — xin đi xa hơn nữa mà triệt để viết liền hai âm tiết lại với nhau như thế này: Thếkỉ 21, thì thật là đúng với cái thiên chức quí vị đã đề ra cho tạp chí kia.
Ngày xưa, các cụ nhà ta dùng thẳng chữ Nho của người Hán, rồi lại mượn thứ chữ khối vuông đó của người phương Bắc để đặt ra chữ Nôm, rồi lại được người phương Tây mách cho cách dùng chữ cái của La tinh để ghi âm Việt. Cả ba thứ văn tự ấy đều là mượn của người ngoài, chẳng khác gì chiếc khăn đội đầu, về sau được thay thế bằng các kiểu nón mũ giúp ta tránh mưa che nắng mà thôi. Điểm then chốt là: hệ thống văn tự mà ta mượn của họ có nhiều điểm bất nhất và bất tiện, ta có cần mượn luôn cả những cái bất nhất đó vào văn tự của ta hay không? Bài đăng trên Dòng Việt, số 3 (“Chữ nghĩa tiếng Việt”).
Người đánh máy thêm vào một số kí hiệu ngữ âm quốc tế:
1. Chữ trong ngoặc vuông là cách phát âm, thí dụ: . 2. Chữ trong hai gạch nghiêng và in ngả (italic) là chữ viết, thí dụ: /i/, /y/.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 8:46:52 GMT 9
ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU ĐỂ YÊU THÊM TIẾNG VIỆT
Đàm Trung Pháp. VienVietHoc
Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã "nổi hứng" rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc. Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên DIE LEIDEN DES JUNGEN WERTHERS (Những nỗi ưu sầu của chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một vài giai nhân đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện nhảy xuống hồ tự tử mà trong tay còn nắm chặt cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết ATALA, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Coleridge xuất bản tập thơ LYRICAL BALLADS, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong văn học quốc gia ấy. Wordsworth say mê thiên nhiên và có biệt tài dùng ngôn ngữ bình dị dễ hiểu để diễn tả những cảm xúc tràn bờ trước vẻ đẹp của rừng, của núi, của giai nhân. Tôi nhớ mãi những câu thơ sau đây của Wordsworth để tả một kiều nữ bí mật sống giữa thiên nhiên mang tên Lucy mà thi nhân ví như một bông hoa đổng thảo:
A violet by a mossy stone Half-hidden from the eye Fair as a star, when only one Is shining in the sky Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath Tagore (giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh). Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều "mười phân vẹn mười" cả, nhưng riêng đối với tôi thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của các vị "ngoại quốc" kia, vì tôi là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
Nguyễn Du (ND) sinh năm 1765 trong một danh gia vọng tộc. Cha là Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm, người Hà Tĩnh, làm Thủ Tướng triều Lê. Mẹ là Trần Thị Tần, người Bắc Ninh, kém chồng 32 tuổi. ND mồ côi cha năm 11 tuổi và mồ côi mẹ năm 13 tuổi. Anh cả là Tiến Sĩ Nguyễn Khản, Thượng Thư bộ Lại, anh thứ hai là Nguyễn Điều từng làm Trấn Thủ Sơn Tây. Năm 1783, lúc 18 tuổi, ND đậu Tam Trường (Tú Tài); cùng năm này, một người anh tên là Nguyễn Đề đậu thủ khoa kỳ thi Hương (Cử Nhân). Tình hình chính trị lúc ấy thực bất ổn. Năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh; Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Huế. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Năm 1802 Gia Long diệt Tây Sơn, bắt đầu triều Nguyễn; ND làm tri huyện Phù Dung (thuộc Hưng Yên ngày nay), mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín (thuộc Hà Tây ngày nay). Năm 1809 ND làm cai bạ ở Quảng Bình. Năm 1813 ND thăng cần chánh điện học sĩ, chánh sứ sang nhà Thanh. Năm sau đi sứ về, thăng tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Gia Long mất, Minh Mệnh nối ngôi. ND được cử chánh sứ sang Tàu báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp lên đường thì bị bệnh và qua đời, thọ 56 tuổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ là khi nào ND viết Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) trước hay sau khi đi sứ sang Trung Quốc năm 1813. Theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì Truyện Kiều (TK) bắt nguồn từ một tiểu thuyết Tàu của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, văn chương tầm thường, về một người đàn bà tài sắc, có lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, mà đời bị bèo giạt hoa trôi. ND bỏ bớt những chỗ rườm rà, thô lỗ, dơ bẩn. So với tiểu thuyết Tàu thì TK của ND thanh nhã và văn vẻ hơn nhiều. Hà Như Chi, khi so sánh TK với tiểu thuyết Tàu nguyên thủy, nhận định TK là một công trình nghệ thuật cân đối hoàn hảo, kết cấu chặt chẽ, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm đượm màu sắc Việt Nam và dẫy đầy thi vị.
Vẫn theo Hà Như Chi, một nàng Kiều tài hoa duyên dáng như thế lại là nạn nhân của một số mệnh vô cùng khắt khe đã đánh mạnh vào tâm hồn ND và thúc giục cụ viết nên TK để hả hê những mối cảm tình đối với một người đã được cụ xem như đồng hội đồng thuyền với mình: ND phải quên nhà Lê mà ra làm quan với nhà Nguyễn thì có khác chi, vì chữ "mệnh" oái oăm, nàng Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ? Đúng là:
Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Nội dung TK gồm 3254 câu thơ lục-bát có thể chia làm 3 phần: (1) Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gỡ và gắn bó với nhau; (2) Những nỗi khổ của Thúy Kiều trên bước đường luân lạc; và (3) Kim-Kiều tái ngộ. TK còn là một tác phẩm chứng minh cho định luật "tài mệnh tương đố": Kiều là kẻ tài hoa nên phải mệnh bạc. Trong phần kết, may thay, ND cũng cho chúng ta tin tưởng rằng thiện tâm có thể cải hóa được số mệnh:
Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Những phân đoạn chính trong TK như sau: Phần (1): (a) Xác định thuyết tài mệnh tương đố , (b) Kiều gặp Kim Trọng, (c) Kiều và Kim Trọng thề thốt gắn bó. Phần (2): (a) Gia biến nàng Kiều, (b) Mã Giám Sinh mua Kiều, (c) Kiều phó thác tâm sự cho em, (d) Mắc tay Tú Bà, (e) Đi trốn với Sở Khanh, (f) Kiều tiếp khách trong lầu xanh, (g) Kiều được Thúc Sinh chuộc ra, (h) Mắc tay Hoạn Thư, (i) Đi trốn, (j) Giác Duyên sợ liên lụy, gửi Kiều cho Bạc Bà, (k) Bạc Bà lừa dối, Kiều lại bị bán vào lầu xanh, (l) Được Từ Hải chuộc ra, (m) Kiều báo ân báo oán, (n) Mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, (o) Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường, (p) Giác Duyên vớt Kiều. Phần (3): (a) Kim Trọng trở lại vườn Thúy, (b) Lấy Thúy Vân, (c) Làm quan ở Lâm Tri , (d) Tìm Kiều ở Hàng Châu, (e) Giác Duyên đưa đến gặp Kiều, (f) Kim-Kiều xem nhau như bạn, (g) Kiều đánh đàn kết liễu đời bạc mệnh, (h) Kết thúc: Thiện tâm sửa được số mệnh.
Chúng ta đã nghe người ngoại quốc ca tụng TK trên đây, và bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các nhà phê bình văn chương người Việt nghĩ gì về tuyệt tác phẩm này của Nguyễn Du. Tôi xin đóng góp trong phần này này bằng cách tóm lược một số nhận định về giá trị TK của các nhà phê bình tên tuổi từ trước đến nay để chúng ta có một cái nhìn bao quát.
PHẠM QUỲNH: Sau khi cho rằng TK của ND hay hơn cả văn chương của Khuất Nguyên bên Tàu và văn chương của Racine và Bossuet bên Tây, Phạm Quỳnh trong ngày giỗ ND năm 1924 tại Hà Nội đã thề trước anh linh thi hào họ Nguyễn rằng "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây" (Tạp chí Nam Phong, tháng 8, 1924). Vì những lời này mà Phạm Quỳnh bị hai cụ nghè Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng xỉ vả thậm tệ (tôi sẽ nói tiếp về vụ này ở một đoạn sau).
NGUYỄN TƯỜNG TAM: Nhà văn thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924: "Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá, nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được... Tôi xin nói quyết một lời rằng MONG ĐƯỢC MỘT QUYỂN TRUYỆN NÀO HAY HƠN TRUYỆN KIỀU LÀ MỘNG TƯỞNG. Cái trình độ thơ quốc ngữ đến như thế là tuyệt đích rồi." Nhận định về câu thơ thuộc loại "văn hữu dư ba" là câu "Lơ thơ tơ liễu buông mành," Nguyễn Tường Tam thấy ba chữ "lơ thơ tơ" nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. Và câu "Nách tường bông liễu bay ngang trước mành" ông thấy rất hay về cảnh sắc. Ông cũng thấy trong TK nhiều chỗ cảnh và người có liên lạc, đúng như:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Như lúc Thúc Sinh trở về với Kiều, trông ra cảnh vật cũng hình như chia vui với mình:
Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Và khi Kiều và Kim gặp nhau lần đầu, lúc từ giã, cô Kiều còn trông theo, nhưng nào thấy gì đâu, chỉ thấy:
Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hai câu đệm ấy vào thật là tả rõ được cái buồn, cái nhớ của cô Kiều mà hình như cảnh vật cũng âu sầu!
VŨ ĐÌNH LONG: Lấy âm nhạc làm ẩn dụ để lượng giá TK, phê bình gia Vũ Đình Long viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924 rằng "TK thực là một cây đàn tuyệt quý không phím không dây. Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tĩnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều thì còn đàn nào hay bằng nữa ... Cụ ND không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là THẦN THƠ vậy!" Theo Vũ Đình Long, những câu Kiều nói với chàng Kim thật hay thật tình, như :
Thưa rằng đừng lấy làm chơi Rẽ cho thưa hết một lời đã nao
Chữ "rẽ" dùng có thần tình không? Ta thấy hình như nàng Kiều lấy tay gạt chàng Kim ra vậy! Năm lần láy chữ "còn" trong hai câu thơ sau đây là một tuyệt chiêu, như thể một lời thề nguyền vĩnh cửu:
Còn non, còn nước, còn dài Còn về còn nhớ đến người hôm nay
Tình nhân tương tư nhau là những cảnh não nùng mà ND tả rất khéo. Chàng Kim nỗi lòng canh cánh luôn nghĩ đến người đẹp đã gặp trong ngày hội Đạp Thanh:
Sầu đong càng lắc càng đầy Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Đêm không ngủ được, vẩn vơ ngọn đèn tàn:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Cậu đồ đã mang nặng gánh tương tư thì còn thiết gì đến sách, đến bút, đến đàn:
Phòng văn hơi giá như đồng Trúc xe ngọn thỏ, tơ chùng phím loan
Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành cũng nhớ đến ai ; vì nhớ nhung mà trà mất ngon, mùi hương kém ngát:
Mành tương phân phất gió đàn Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
LƯU TRỌNG LƯ: Để "đáp lễ" lời cụ nghè Ngô Đức Kế cho rằng TK "chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải là một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu" (báo Hữu Thanh, tháng 9 năm 1924) và nhất là lời kết tội gay gắt của cụ nghè Huỳnh Thúc Kháng rằng "Truyện Kiều là một thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại ... Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít..." (báo Tiếng Dân, tháng 9 năm 1930), Lưu Trọng Lư viết trong tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm vào cuối năm 1933: "Ai muốn làm thánh hiền thì đi đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư. Hãy để Truyện Kiều lại cho bọn chúng tôi là hạng người trong những phút mệt nhọc, buồn rầu, chán nản, cần phải ngâm nga những câu như:
Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha"
ĐÀO DUY ANH: Để kết luận tập "Khảo Luận về Kim Vân Kiều" xuất bản năm 1943, học giả Đào Duy Anh khẳng định: "Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một mối hy vọng dồi dào với tiếng nói của ta." Cũng theo ông, ở thời Lê mạt, ta đã thấy có những tác phẩm có giá trị như Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần Truyện, Hoa Tiên Ký ... viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, đủ khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức.
TRẦN TRỌNG KIM: Trong cuốn "Truyện Thúy Kiều" do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo xuất bản năm 1925, học giả Trần Trọng Kim viết: "ND khéo dùng lối hoạt họa, chọn cái hình dáng nào rõ thật nổi, rồi tìm một vài chữ thật đúng mà tả ra, hễ đọc qua là nhận ngay được chân tướng:
Kim Trọng: Phong tư tài mạo tuyệt vời Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Mã Giám Sinh: Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Tú Bà: Thoắt trông nhờn nhợt màu da Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Sở Khanh: Một chàng vừa trạc thanh xuân Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Từ Hải: Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao"
HOÀI THANH: Theo bài viết "Quyền Sống Của Con Người Trong Truyện Kiều" của nhà phê bình Hoài Thanh năm 1949, nếu nói về mức độ "say" Truyện Kiều thì không ai bằng ông nghè Chu Mạnh Trinh (một con người hào hoa phong nhã kiểu Kim Trọng). Nhà thơ lãng mạn này không phải chỉ say văn chương Truyện Kiều mà lại còn say luôn cả nàng Kiều như say một giai nhân có thực, đến nỗi đã nói đến những chuyện si tình như thêu tên Kiều vào tay áo, mơ tưởng dựng một ngôi nhà vàng cho Kiều ở, mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, và thấy như Kiều về thật! Chuyện lạ đời này cũng có thể hiểu được, vì theo Hoài Thanh, "ND có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây... Những cử chỉ uể oải, những câu nói thiếu lòng tin, những cái nhìn hời hợt, những tâm tư mệt nhọc hình như đương chờ đợi một cơn gió nào ... TK ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh, vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống..."
NGUYỄN LỘC: Trong cuốn sách "Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ 18" xuất bản năm 1997 tại Hà Nội, nhà biên khảo Nguyễn Lộc có những nhận xét tinh tế về cách sử dụng ca dao, tục ngữ trong TK, mà tôi xin tóm lược trong những đoạn dưới đây:
Có thể nói trong TK có hàng mấy chục câu thơ ND trực tiếp rút ra từ ca dao. Rất có thể hai câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
là rút ra từ câu ca dao:
Tiễn đưa một chén rượu nồng Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi
Ca dao trong TK được ND sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không như những trích dẫn. Không có câu nào ND dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn lại cho phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm. TK có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận ra ảnh hưởng của ca dao, như :
Xót thay huyên cỗi xuân già Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi Chốc đà mười mấy năm trời Còn ra khi đã da mồi tóc sương
ND cũng dùng rất nhiều tục ngữ, như :
Ra tuồng mèo mả gà đồng Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
hoặc: Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao
Ngôn ngữ TK vừa súc tích chính xác, đồng thời lại vừa giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. ND có thể bằng một vài câu thơ khắc họa lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay miêu tả một biến cố, một cảnh ngộ. Một học trò giỏi đi thi bị rớt có thể tự an ủi bằng cách "lẩy" hai câu thơ súc tích, hợp tình hợp cảnh của TK:
Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần
Tả một chàng đẹp trai hào hoa phong nhã thì ta có thể mượn ngay hai câu ND tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
Hai câu:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
thực tuyệt đẹp và chí tình để một chàng trai thiết tha căn dặn người yêu khi giã từ. Và khi giấc mơ ấp ủ từ lâu nay mới thành sự thực, ta vội kêu lên:
Đến bây giờ mới thấy đây Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Qua những nhận định kể trên của các văn nhân lỗi lạc ngoại quốc và Việt Nam về tuyệt tác phẩm TRUYỆN KIỀU thì thiên tài Nguyễn Du đã chứng minh một cách hùng hồn rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ tuyệt vời cho thi ca. Chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không đọc lại Truyện Kiều thật kỹ càng để yêu thêm tiếng Việt của chúng ta?
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 9:05:42 GMT 9
Học tiếng Việt từ ... dân quê Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng 14/02/2010
Thời đi học tôi luôn luôn là người bé nhất lớp và cũng được cưng chiều nhất lớp. Thế hệ chúng tôi có rất nhiều người thành danh trong các lĩnh vực khác nhau. Họ là những thầy giáo đầu tiên sau ngày giải phóng Thủ đô dạy ở các Trường Đại học và nay đều đã về hưu hết cả, mặc dầu nhiều người vẫn còn đang tham gia các hoạt động xã hội hoặc hướng dẫn các cán bộ trẻ trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên trở thành nhà văn tài hoa có lẽ chỉ có một người. Đó là Ma Văn Kháng. Gần đây Kháng bị bệnh tim phải vào điều trị tại Viện tim mạch trung ương, nơi em trai tôi làm Viện trưởng. Tôi giao cho Lân Việt phải chăm sóc Kháng, vậy mà một tháng sau mới tìm thấy ông nhà văn bạn thân của anh mình. Hóa ra Kháng lấy tên khai sinh ghi trong Y bạ là Đinh Trọng Đoàn nên Lân Việt không thấy có bệnh nhân nào tên Ma Văn Kháng nhập viện.
Tôi nhớ năm 1954 sau khi tốt nghiệp Sư phạm trung cấp tại Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) tôi vì ít tuổi quá nên được cử về học tiếp tại Đại học Sư phạm khoa học Hà Nội, còn Kháng hơn tôi 2 tuổi thì được cử về tiếp quản Thủ đô. Đấy là vinh dự lớn mà chỉ rất ít bạn được lựa chọn. Tuy nhiên Kháng lại từ chối và xin về dạy học ở Lào Cai. Tôi tưởng Kháng quê ở Lào Cai nhưng Kháng bảo: Quê mình chính là ở làng cổ Kim Liên Hà Nội, chả quen ai ở Lào Cai cả . Nhưng mình muốn viết văn thành ra dám liều mạng lên miền biên ải một phen xem sao.Kháng về dạy cấp II ở Lào Cai và bắt đầu xung phong tham gia nhiều hoạt động xã hội. Đáng nhớ nhất là những ngày đi làm thuế nông nghiệp ở thôn người Giáy Tùng Tung huyện Bảo Thắng. Tại đây Kháng bị sốt rét ác tính, may mà có anh Ma Văn Nho là Phó bí thư huyện ủy Bảo Thắng cứu sống cho nhờ kiếm được mấy mũi tiêm. Thế là kết nghĩa anh em và đổi luôn tên là Ma Văn Kháng. Buồn cười ngay anh Nho cũng là người Kinh, họ thật là Mè (quê Hạ Hòa , Phú Thọ) nhưng trên này nhiều người họ Ma nên cũng đổi luôn họ của mình. Kháng vào Đảng năm 1959 và lấy vợ năm 1962. Năm 1961 Kháng gừi truyện ngắn đầu tay Phố Cụt về báo Văn học (tiền thân của báo Văn nghệ) và được đăng ngay. Ban biên tập chắc sướng lắm vì phát hiện ra một anh người Tày biết viết văn (!) và nhờ có đà động viên ấy mà Kháng sau đó gửi liên tiếp nhiều truyện ngắn khác. Tôi từ Hà Nội ngược sông Hồng lên thăm Kháng vào dạo ấy. Tại một gian phòng nhỏ vào tối thứ bảy tôi gặp rất nhiều người yêu văn thơ từ rất xa về tụ tập quanh Kháng để nghe Kháng thuyết giảng như một bậc thầy văn chương. Tại đấy lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Thu Phòng, cô công nhân xinh đẹp của Nhà máy điện Lào Cai. Phòng rất mê văn chương và tình nguyện chép lại các bản thảo dập xóa lằng nhằng của Kháng. Rất tiếc ngày Kháng lấy Phòng tôi không lên dự được vì đường xá quá xa xôi. Sau đó ít lâu Kháng được cử về học Đại học Sư phạm Hà Nội, khi tốt nghiệp lại một lần làm mọi người ngạc nhiên vì trong khi nhiều Bộ môn muốn giữ Kháng ở lại trường thì Kháng vẫn một mực đòi về Lào Cai để dạy cấp III. Sau đó Kháng chuyển sang làm thư ký cho đồng chí Bí thư Tỉnh Ủy, rồi làm Phó Tổng biên tập tờ báo của Đảng bộ Tỉnh. Mãi đến năm 1976 Kháng và cả gia đình mới chuyển về công tác tại Hà Nội. Cuộc đời rất phong phú và sôi nổi của Kháng được anh gần đây ghi lại trong hai cuốn: Hồi ký-Năm tháng nhọc nhằn,năm tháng nhớ thương (NXB Hội nhà văn, 2009) và tiểu thuyết Một mình một ngựa (NXB Phụ nữ, 2009).
Tôi đã đọc rất kỹ một loạt các tác phẩm của Kháng ( Đồng bạc trắng hoa xoè (1979); Vùng biên ải (1983);Trăng non (1984); Mưa mùa hạ (1982); Mùa lá rụng trong vườn (1985);Võ sĩ lên đài (1986); Côi cút giữa cảnh đời (1989 );Đám cưới không giấy giá thú (1989 ); Chó Bi, đời lưu lạc (1992); Ngày đẹp trời (1986);Vệ sĩ của Quan Châu (1988), Trái chín mùa thu (1988);Heo may gió lộng (1992);Trăng soi sân nhỏ (1994);Ngoại thành (1996); Truyện ngắn Ma Văn Kháng (1996);Vòng quay cổ điển (1997); Đầm sen (1997); Một chiều giông gió (1998); Ngược dòng nước lũ (1999); Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001)....Tôi không đủ khả năng bình luận về văn tài của Kháng vì nghe nói đã có không ít luận văn Cử nhân,Thạc sĩ, Tiến sĩ lấy làm đề tài rồi. Giả thưởng Hội Nhà văn (1986), Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn (1995), Gỉải thưởng Văn học Đông Nam Á (1998) cũng đã xác định vị trí của Kháng trên văn đàn nước ta.
Cũng như đối với các nhà văn đàn anh như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nam Cao, tác phẩm của Ma Văn Kháng để lại cho tôi một ấn tượng sâu đậm về ngôn từ tiếng Việt. Hóa ra không phải chúng ta ai cũng biết hết tiếng Việt. Đây là tôi nói tới tiếng Việt phổ thông chứ chưa nói đến các phương ngữ (như trong văn của Nguyễn Ngọc Tư). Có lần trả lời phỏng vấn Kháng đã nói: Tôi có thói quen quan sát và ghi chép tỉ mỉ. Chính những vùng đất tôi đã sống và đã đi qua, những con người hiền hậu, trong trẻo, hồn nhiên, giàu tình cảm đã thôi thúc tôi viết... Tôi luôn tâm niệm sống rồi mới viết, quan trọng là sự trải nghiệm của bản thân, của suy ngẫm trước cuộc sống. Cuộc sống mà Kháng đã từng trải rất gần gũi với người dân quê ở các địa phương miền Bắc và ngôn ngữ của anh thật phong phú cũng nhờ vào việc biết lắng nghe và ghi nhớ tiếng nói hàng ngày của quần chúng. GS Phong Lê đã nhận xét rất xác đáng: “Nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ- áp cận được vào thì hiện tại, tôi nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng. Và trước đó-Tô Hoài. Đó là hai trong số ít người viết có được cả một kho chữ thật rủng rỉnh để tiêu dùng. Và do có cả một cái kho, nên anh là người không ưa dùng những chữ mòn; và ít khi làm cho mòn chữ. Dẫu là quen hoặc lạ, chữ nghĩa khi qua tay Ma Văn Kháng là cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó”
Tâm sự với tôi, Kháng viết: Mình sinh ra không ở nông thôn. Chẳng được thừa hưởng chút nào lời ăn tiếng nói của làng quê, chẳng được tiếp nhận cái hay cái đẹp của dòng văn học dân gian. Mình cũng chỉ như bao nhiêu anh em ta là có được một bà mẹ xuất thân con gái một làng ngoại ô Hà Nội, có được một lượng ngôn ngữ dồi dào phong vị ca dao,tục ngữ giầu hình tượng, với nhiều tích chuyện cổ mà thôi. Thành ra khi quàng vào cổ cái ách văn chương rồi thì đành phải lấy sự tự học để bù đắp vào cái thiệt thòi, kém cỏi của mình vậy. Có thói quen do lâu ngày mà hình thành là mình rất nhạy cảm với sự mới lạ của ngôn ngữ. Đọc một trang sách, nghe một người nói chuyện. Sức hấp dẫn với mình ngay lúc đó chưa hẳn đã là nội dung đâu,mà trước hết, có khi lại là ngôn ngữ. Thấy có cách diễn đạt, kiểu câu, từ ngữ lạ, hay, chính xác, nghĩa là đi đến tận cùng của ý tứ, là mình ghi chép, găm vào trí nhớ liền. Sách phổ biến khoa học mà Lân Dũng tặng là những kho tàng chữ mới, mình không bao giờ bỏ qua. Ở thành phố mình hay chú ý tới ngôn ngữ giao tiếp ở các ngõ xóm, nơi đời sống xa lạ với tính quan phương, nơi cuộc sống trần thế đa tạp, đa sắc, nơi lưu hành một thứ ngôn ngữ sống động tràn trề. Góp nhặt nó, đặt nó đúng chỗ, gia thêm cho nó hàm lượng văn hóa, làm nó sang trọng lên là việc của anh nhà văn. Mình cũng rất thích trò chuyện, gần gũi với các bà, các chị. Phụ nữ là đời sống tự nhiên, là cái thường ngày. Ngôn ngữ của họ là tiếng nói đời sống, sống động, đầy khía cạnh, sắc sảo, giàu biểu tượng, chứ không thẳng bẹt như cánh đàn ông đâu. Ấy thế, phụ nữ đẹp, ngoa ngoắt, đáo để lợi khẩu là cái kho ngôn ngữ giàu có lắm.Học chữ là việc ngày ngày, học mãi vẫn thấy chưa đủ của cánh nhà văn bọn mình...”
Ví dụ thì vô vàn, tôi chỉ xin trích dẫn ít câu trong mấy chương đầu của tập Hồi ký mới xuất bản của Kháng. như thế đã thấy là quá nhiều rồi. Chẳng hạn như:
-Ở đó ngần ngật ảnh tượng Phật tổ,các chư phật và các đồ thờ lúc này đang mờ mờ khói hương và phăng phắc những ngọn bạch lạp cháy dựng đứng hình búp đa.
-Khối vàng đinh đứt dây, tung tở từng thoi lem lém cùng hai con ngựa, chiếc ti vi, cái xe máy bát lửa lòe cháy đùng đùng, phát tiếng ù ù như reo vui.
-Nẩy nhẹ hai rảnh đùi, tiếp tục dòng ký ức đầy vẻ khoái hoạt, ông Cát cao giọng vừa định tiếp thì chị Nứa từ mâm dưới đã quát với lên: Này, ông râu rậm, bô lô ba la mãi thôi, không để bà nói à?
-Mỗi lần từ Kim Liên lên thăm cậu em tức ba tôi,bác Cả Tre, mẹ chị Nứa tôi đều chân xỏ dép lá đa đi bộ từ sớm bửng đến tối mịt thì tới.
-Hay đây chỉ là cái trò bày đặt ra cốt để dọa dẫm, đe loi của người Nhật?
-Ấy , cái anh thuốc phiện lúc đầu hút thấy nó ngài ngài rất khó chịu...
-Đang rầm rì, bỗng nổi lên tiếng một ông già khan re.
-Tôi nói thế là chết mất nửa ruột rồi đây.
-Cầy đất ải, đặt bừa xuống, trâu kéo, bừa nẩy tâng tâng đau ngực lắm. Bừa san cũng mệt lắm.
-Ông chủ tịch Chung đứng trên bờ bắt quyết, rồi đun 15 ống nứa đổ xuống suối. năm sáu chục con người nhong nhóng bên bờ suối.
- Không có ăn thì cố với gắng làm sao được.
-Có chăng còn lại là một nỗi buồn, một niềm thương, một nỗi nhớ vương vương
-Dưới kia ,dòng sông Nậm Thi liu riu chảy.
-Còn vương vương một chút buồn vì một phen thay đổi sơn hà, mảnh thân chiếc lá biết là về đâu.
-Chăn tằm một tháng một lứa, vất vả vì chăm chút tỷ mỷ, từ công đoạn lấy ngài đến lúc sang tằm, khi tằm ngái ngủ, rồi ngủ đều, giai đoạn này phủ lá dâu thái chỉ nhỏ như sợi thuốc lào chủ yếu đẻ cho tằm ngửi, ba tiếng một lần phải ra xem...
-Là con phải giữ lấy nghề cha mới ra người hiếu hĩ.
-Thày đọc nhiều thơ lắm. Giọng thày trầm ấm và cao sang. Những bài thơ thể ngôn chí, thuật hứng, tức cảnh. Cuối cùng thày pha một ấm trà mới, trà móc câu tuyết san.
-Chờ tôi thưởng trà xong, thày mới mở cuốn sổ tay nhỏ, cất giọng thật thanh sảng đọc bài thơ thày mới làm.
-Ra về thày bảo tôi: Ông Tuân nói, tôi không phải là đảng viên, nheng Đảng coi tôi dục tâm sáng như vầng nhật nguyệt.
-Thày nói cho ông người Anh đó hiểu thế nào là tay cưa, đốc cưa, thế nào là cưa đã rửa.
-Thày sợ thói đời thông tục: đã ghét thì ghét cả tông ty họ hàng.
-Trong tôi, một sức sống mới đang nẩy mầm,cựa động.
-Tôi trở về Lào Cai với nghề làm báo, với bao bồi hồi và dự cảm.
-Tôi cảm hội được sự thành công và niềm vinh dự này.
-Mỏi mệt thì giải lao bằng hớp nước đun sôi và tự thưởng bằng một điếu thuốc lào hút hết khói say lơ mơ.
-Cả đêm ấy tôi không sao chợp mắt được.Nỗi vui râm ran làm thao thức cả nhà.
-Mà ông Tạo thì biết đâu mà lần. Cái quay búng sẵn trên trời. Số phận mỗi con người là từ bên trong họ bước ra hay từ bên ngoài họ bước vào, nào ai mà biết đươc?
-Toàn những tuấn mã máu me ngửi thấy mùi đồng cỏ cao nguyên là cất tiếng hí, đòi cất vó lên đường cả. Có gì ngăn trở được nỗi hăm hở trước cái vẫy gọi của vùng đất lạ.
-Đi để trở về với thân hình gầy gùa, xanh xao, mệt nhọc rã rời, thậm chí ốm đau lử lả, nhưng phục sức một chút, mắt đã lại ngóng về phía trời xa.
-Đêm trong rừng, mắt con nhện ăn đèn đỏ chóe, mắt nai xanh xếch chéo.
-Xa rồi những thôn bản, những con suối, eo đồi, mom núi.
-Tôi ngùi ngùi tự bảo mình: phải viết nốt những gì đã ấp ủ về mảnh đất này.
-Vào ngõ, qua mấy ngăn hố xí thùng, rẽ phải, qua một căn hộ, lại ngoặt phải, qua ba căn buồng nhỏ của ba hộ, một cái sân chung lầy lội than bùn, mặt tiền của hai hộ nữa, thì đến căn buồng kiệt cùng, đó là nơi ở của chúng tôi.
-Ngày hè, màn xô bí hơi, muỗi như ong, vậy mà sáng dậy mặt mũi, chân tay ai cũng lấm chấm như lên sởi.
-Bế con ra vườn hoa Canh nông cho nó chơi ở đó, nhìn những ngôi biệt thự, những cặp vợ chồng, con cái người ta sởn sơ vui vẻ mà đau tủi.
-Nhiều lúc thấy con nằm vắt trên vai bà nội như cái dải khoai héo mà đứt ruột, đứt gan.
-Cơm gạo càng ít càng phải phân miêng.
-Miếng ăn quả là miếng nhục. Nhưng người ta không thể sống mà không ăn.
-Đồng tiền cháy ngay trên lòng bàn tay người tiêu dùng. Người nội trợ đi chợ, có cảm giác như bị ăn cắp giữa ban ngày.
-Thì cũng phải bới đất nhặt cỏ, tìm thêm công việc để làm chứ còn thế nào!
-Phòng là người cơ chỉ, dè sẻn trong chi tiêu, mẫu mực trong lối sống của một người mẹ, người vợ hiền thục, nhịn nhường.
-Ngồi trong căn buồng chật hẹp mùa hè như cái lò thiêu,tôi viết, được trang nào lại dúi xuống cất giấu ở dưới gầm giường cùng lũ nồi niêu sông chảo nhọ nhem.
-Ở đây lũ gà vịt ngan ngỗng lấm lem làm chủ. Chúng được thả rông. Con nào con nấy đều ngược ngạo, táo tợn, chúng đá nhau, mổ nhau loạn xạ, chúng bay vù vù để mổ thóc ngô trên các kiêu gạch , các mái gẩy.
-Cái ngõ như kẻ mắc bệnh động kinh, hơi một tý là lên cơn sài giật.
-Cậu nên nhớ thế giới người ta cho vay, nhưng còn xem giỏ bỏ thóc nhé...
Nhà văn, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng viết: “ Ma Văn Kháng là nhà văn có ý thức chăm chút câu chữ và đó cũng chính là sức hấp dẫn có được của tác phẩm” Tôi nghĩ, chúng ta nếu muốn tự làm giàu thêm kho tàng tiếng Việt của mình thì tốt nhất nên đọc sách của các nhà văn trong đó đặc biệt là của nhà văn Ma Văn Kháng. Đọc sách của Kháng, qua những ngôn từ mà Kháng đã dày công gạn lọc từ dân chúng, nhất là dân quê và dân nghèo thành thị,chúng ta sẽ thấy cuộc sống phong phú , tinh tế, thú vị thêm biết nhường nào!
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 22, 2011 7:11:19 GMT 9
Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt Đào Văn Bình Đôi khi trong đời người ta, viết văn chỉ vì nhu cầu thôi thúc chứ thực ra nhà văn chưa chắc đã nắm vững một số kỹ thuật hoặc nguyên tắc viết văn. Ngay chính bản thân tôi cũng rơi vào trường hợp như vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì tôi không tốt nghiệp hoặc chưa theo học một truờng hoặc một lớp dạy viết văn nào. Mặc dầu tôi đã trải qua sáu năm đại học nhưng ở đại học người ta không chấm điểm theo nghệ thuật viết văn mà chấm điểm theo nội dung bài vở. Cho nên khi khởi đầu viết tác phẩm Những Sự Thực Không Thể Chối Bỏ năm 1987 thì kỹ thuật viết văn của tôi như nguyên tắc viết hoa, cách chấm câu v.v.. hoàn toàn là của lớp đệ thất, đệ lục với lời dạy của thầy, cô trong môn Việt Văn rất đơn sơ mà tôi chỉ còn nhớ lõm bõm. Sau mười năm sống ở Mỹ tức khoảng năm 1995 và sau khi đã làm việc trong các trường học, theo dõi các bài giảng dạy viết văn của học sinh Mỹ, đọc các sách biên khảo về văn chương Hoa Kỳ tôi mới bắt đầu hiểu một số vấn đề như sau: I. Quy tắc viết hoa Trước khi nói về nguyên tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên tắc viết hoa của văn chương Việt Nam như thế nào. Theo tôi, khi tổ tiên chúng ta còn xử dụng tiếng Hán để làm văn tự thì chắc chắn không có quy tắc viết hoa. Khi chữ quốc ngữ được sáng tạo thì quy tắc viết hoa của chúng ta đã được mô phỏng hoặc bắt chước theo lối viết hoa của văn chương Pháp. Thế nhưng quy tắc mà chúng ta ứng dụng hoặc bắt chước lại hỗn loạn và không thống nhất. Tôi không hiểu lỗi này do cha ông chúng ta không có một Hàn Lâm Viện để đặt một quy tắc thống nhất hoặc giả đây là lỗi của nhà văn, nhà xuất bản, của ban biên tập, của người sắp chữ (sau này là người đánh máy) ? Riêng bản thân tôi, cho mãi tới năm 2000 – tức là sau 15 năm viết văn tôi mới chính thức tuân thủ lối viết hoa thống nhất theo văn chương Hoa Kỳ. Điều này qúy vị độc giả có thể nhận thấy trong cuốn Ký Sự 15 Năm xuất bản năm 2000. Chứ còn năm tác phẩm về trước, lối viết hoa của tôi hoàn toàn không thống nhất và hết sức lộn xộn. Sau đây là lối viết hoa trong văn chương Việt Nam theo thứ tự thời gian mà tôi đưa ra như những điển hình. 1) Viết hoa theo Việt Nam Tự Điển Khai Trí Tiến Đức (1931): Chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa và có gạch nối giữa các chữ. Thí dụ: Kinh-dương-vương Hà-nội, Hà-nam, Hà-tĩnh, Giáo-sư, Giáo-sĩ, Hương-giang, Nga-la-tư, Thái-bình-dương Thế nhưng: A-di-đà-Phật (chữ Phật cuối cùng lại viết hoa) 2) Lối viết hoa không thống nhất trong Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng: Tên người: Viết hoa cả họ, tên và chữ lót theo văn chương Mỹ nhưng vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Dương-Huy, Nguyễn-Thiết-Thanh, Nguyễn-Yên. Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Dương-thị-Mai (chữ thị không viết hoa) Tước hiệu, chức vụ: Thường không viết hoa và rất lộn xộn. Thí dụ: cụ tú Ninh-Bắc, cụ tú Lãm, ông hàn Thanh nhưng ở một chỗ khác lại viết Bà Cán, ông Tham Lộc (Tham ở đây là một tước vị lại viết hoa) Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, trường học: Khái Hưng chỉ viết hoa chữ đầu và vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Phúc-yên, Hà-nội, chùa Bách-môn Thế nhưng ở những chỗ khác tất cả lại viết hoa. Thí dụ: Thạch-Lỗi, Quan-Thánh, Phú-Thọ, Trù-Mật, Ninh-Bắc, Nam-Định, Gia-Lâm Các con đường, con sông Khái Hưng viết hoa cũng không thống nhất: Thí dụ: đường Quan-Thánh (Quan Thánh viết hoa) Sông Tô-lịch (sông lại viết hoa, lịch lại không viết hoa) Ngày, tháng Khái Hưng không viết hoa. Thí dụ: thứ bảy 3) Lối viết hoa của Nhất Linh trong Bướm Trắng: Về địa danh, Nhất Linh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Sầm-sơn, Hà-nội, Khâm-thiên, Chợ-lớn Thế nhưng Sài Gòn có chỗ lại viết: Sài gòn (không gạch nối) Sài-gòn (có gạch nối) Nhật bản (không gạch nối) Về tên người Nhất Linh viết hoa theo lối Mỹ. Thí dụ: Bác-sĩ Trần Đình Chuyên (không gạch nối, chữ lót viết hoa) Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Vũ-đình-Trương (có gạch nối và chữ lót lại không viết hoa) 4) Lối viết hoa không thống nhất của Thanh Tịnh trong Quê Mẹ: Các địa danh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối. Thí dụ: phá Tam-giang, trường Mỹ-lý, Trung-kỳ, Hà-nội Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Trường Mỹ-lý (trường viết hoa mà không phải ở đầu câu) làng Hòa ấp (lại không có gạch nối) chùa Đồng Tâm (chữ tâm lại viết hoa và không có gạch nối) Chức vụ chỉ viết hoa chữ đầu. Thí dụ: Hương-thơ Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết: ông đốc (đốc không viết hoa) ông Huyện Phong (hai chữ sau lại viết hoa) Miếu Thần Đá (tất cả lại viết hoa) miễu Thánh (chữ miễu không viết hoa) Các tên người đều viết hoa theo lối Mỹ nhưng có gạch nối. Thí dụ: Hoàng-Thiên-Y, Khổng-Tử, Lý-Tịnh, Na-Tra Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Lê Bá Xuân (không gạch nối) 5) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Văn Chí: Về tên các quốc gia: Viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ: Việt-Nam, Đông-Nam-Á, Đông-Dương, Hòa-Lan Nhưng ở nhiều chỗ khác chỉ viết hoa chữ đầu: Hoa-kỳ, Thái-lan, Ấn-độ, Trung-cộng, Tây-tạng, Tên các nhân vật: Có lúc viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ: Khuyển-Dưỡng-Nghị, Tôn-Văn, Vương-Dương-Minh Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết: Phan-đình-Phùng, Tôn-thất-Thuyết (chữ lót không viết hoa) Nhóm, hội đoàn, đoàn thể: Viết hoa không thống nhất, chỗ có gạch nối, chỗ không. Thí dụ: Phong trào Cần-Vương Phong trào Đông Du (không gạch nối) Phong trào Văn-Thân phong trào cộng sản (cả bốn chữ lại không viết hoa) Các địa danh viết hoa cũng không thống nhất. Thí dụ: Thượng-Hải, Hồng-Kông, Trà-Lùng, Hàng-Bông, Làng Cổ-Am, Yên-Báy, Hải-Phòng Thế nhưng ở những chỗ khác lại chỉ viết hoa chữ đầu mà thôi. Thí dụ: Hà-nội, Quảng-châu, Quảng-nam, Lạng-sơn, Dương-tư, Nam-đàn v.v.. 6) Lối viết hoa của Duyên Anh trong Về Yêu Hoa Cúc (1970): Đại lược về tên người, địa danh, tên trường học, tước hiệu Duyên Anh viết hoa theo lối Mỹ và bỏ gạch nối. Thí dụ: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Mai Thảo, Nguyên Sa, Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử Đại Học Văn Khoa, Đà Lạt, Hà Nội, Mỹ Tho Thế nhưng còn hai chữ Sài Gòn thì Duyên Anh có lúc viết Sài-gòn (có gạch nối, chữ gòn không viết hoa), rồi có lúc lại viết Sài gòn (không gạch nối) Tên các tờ báo, tạp chí lối viết hoa cũng không thống nhất. Thí dụ: nhật báo Đồng Nai, tuần báo Kịch Ảnh tức là các chữ nhật báo, tuần báo không viết hoa) thế nhưng lại viết: Đông Dương Tạp Chí (tạp chí lại viết hoa) Các tác phẩm văn chương chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa (tức theo lối cũ). Thí dụ: Ngày về, Lạnh lùng, Chân trời cũ Nhưng ở chỗ khác lại viết Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tất cả đều viết hoa) 7) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Khởi Phong trong Người Trăm Năm Cũ 1993: Hoàng Khởi Phong là cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp Chí Văn Học trong khoảng thời gian từ 1989-1990. Dĩ nhiên với chức năng này ông phải đọc lại và coi lại rất nhiều bài viết thế nhưng lối viết hoa của ông cũng không thống nhất – điển hình qua tác phẩm Người Trăm Năm Cũ. Các tước vị hoặc ngôi thứ trong gia đình đều viết hoa như: Đề Thám, Cai Kinh, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Tổng đốc Lê Hoan... Thế nhưng ở nhiều chỗ khác, các tước vị lại không viết hoa: Thí dụ: vua Hàm Nghi, tướng Voyron, quan ba Lambert... Các điạ danh, cách viết hoa cũng không thống nhất: Thí dụ: Phủ Lạng Thương, tỉnh Hà Đông, huyện Nhã Nam (Phủ, huyện, tỉnh đều là đơn vị hành chánh thế mà phủ viết hoa còn tỉnh và huyện lại không viết hoa). Các biến cố lịch sử đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa. Thí dụ: Cuộc khởi nghiã Yên Thế, chiến khu Yên Thế. Đáng lý phải viết: Cuộc Khởi Nghĩa Yên Thế, Chiến Khu Yên Thế. 8) Lối viết hoa không thống nhất của Tạ Chí Đại Trường trong Tạp Chí Văn Học năm 2000: Tạ Chí Đại Trường là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học sức học rất uyên bác nhưng cũng lại không để ý đến quy tắc viết hoa. Thí dụ: Công Giáo (tất cả đều viết hoa) Thế nhưng ở chỗ khác lại viết: Tam giáo (chữ giáo không viết hoa) Tự Đức kí Dụ: Đáng lý kí viết hoa lại không viết hoa. truờng Bảo hộ (chữ hộ không viết hoa) nhưng lại viết trường Chu Văn An (chữ an lại viết hoa) Hồng vệ binh maxít phương Đông: (chữ phương không viết hoa). Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Văn Minh Tây Phương (chữ phương lại viết hoa) Hồng quân Trung Quốc (chữ quân đáng lý viết hoa lại không viết hoa) Cộng hòa Đại Hàn (chữ hòa đáng lý viết hoa lại không viết hoa) Phong trào Không liên kết Thế giới thứ Ba: Các chữ trào, liên kết, giới, thứ - đáng lý phải viết hoa lại không viết hoa. 9) Lối viết hoa của Nguyễn Hưng Quốc trong Tạp Chí Văn Học năm 2000 Nguyễn Hưng Quốc là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học. Là một nhà bình luận văn học rất kỹ lưỡng thế nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng không chú ý đến quy luật viết hoa. Tên các tác phẩm đều viết hoa như: Truyện Kiều Thơ Mới của Hoài Thanh Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: thơ Nguyễn Công Trứ (chữ thơ không viết hoa). Thơ Nguyễn Công Trứ là một danh từ riêng chỉ Nguyễn Công Trứ mới có cho nên phải viết hoa. Các tên nhóm, hội đoàn đều viết hoa như: Nhóm Sáng Tạo (chữ nhóm viết hoa) trường phái Phê Bình Mới (đáng lẽ chữ trường phái cũng phải viết hoa) Rồi ở một chỗ khác lại viết: nhóm Ngôn ngữ học tại Moscow (đáng lý phải viết: Nhóm Ngôn Ngữ Học tại Moscow II. Quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ: (*) Đây là quy tắc thống nhất được áp dụng ở khắp mọi nơi. Ít khi thấy nhà văn, nhà thơ, nhà báo Hoa Kỳ vi phạm quy tắc này. Nguyên do chính là vì xã hội của họ đã ổn định cả hai trăm năm nay, việc gì cũng đã trở thành quy củ, nề nếp, có trường ốc. Ngoài ra tờ báo nào, nhà xuất bản nào cũng có một ban biên tập chịu trách nhiệm về vấn đề này chứ không “tự biên tự diễn, tự đánh máy, tự in, tự sáng chế” như chúng ta. Giới thiệu quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ ở đây không có nghĩa là cái gì của Mỹ cũng nhất. Quy tắc nào cũng tốt cả nhưng với điều kiện phải thống nhất. Không thể ở đầu trang viết: Phong trào Đông du rồi ở cuối sách lại viết Phong Trào Đông Du. Nếu cứ tiếp tục viết lộn xộn như thế này thì con cháu chúng ta cũng sẽ tiếp tục thừa kế cái lộn xộn đó và hậu quả là cả ngàn năm sau nền văn chương Việt Nam vẫn cứ tiếp tục lộn xộn làm người ngoại quốc điên đầu khi nghiên cứu văn chương Việt Nam. Sau đây là quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ, nếu áp dụng vào văn chương Việt Ngữ sẽ như sau: 1) Tên người: Thí dụ: Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, Ông Tô Hiến Thành, Ông Cao Bá Quát, Ông Tôn Thất Thuyết, Bà Đoàn Thị Điểm, Ông Đặng Trần Côn, Cô Nguyễn Thị Giang, Cô Bắc. 2) Các con vật mình nuôi và thương mến (pet): Con Vàng, Con Vện, Con Loulou, Con Cún, Con Bống 3) Các chức vụ, tước hiệu và các chữ tắt của tên: Thí dụ: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sử Gia Lê Văn Hưu, Chúa Sãi, Chúa Trịnh, Bà Huyện Thanh Quan, Đô Đốc Tuyết, Cai Tổng Vàng, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Nguyễn C. Hách, GS Phạm B. Tâm, Đại Sứ Cabot Lodge, Tiến Sĩ Kissinger, Tổng Thống Roosevelt. 4) Ngôi thứ trong gia đình: Thí dụ: Cô Bảy, Bác Ba, Bà Cả Tề, Thím Năm, Cô Ba Bến Tre, Cô Năm Phỉ, Út Trà Ôn. 5) Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, quận: Thí dụ: Thành Phố Đà Lạt, Dinh Độc Lập, Phủ Thủ Hiến, Phủ Thủ Tướng, Tòa Thị Chính Nha Trang, Công Viên Tao Đàn, Vườn Hoa Con Cóc, Vườn Hoa Chéo, Quận Gò Vấp, Quận Châu Thành Mỹ Tho, Xã An Hội... 6) Bến, cảng, phi trường: Thí dụ: Phi Trường Tân Sơn Nhất, Ga Hàng Cỏ, Bến Vân Đồn, Bến Sáu Kho, Bến Đò Bính, Bến Đò Lèn, Cảng Hải Phòng 7) Đường: Thí dụ: Đường Trần Hưng Đạo, Xa Lộ Biên Hòa, Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 7, Hương Lộ 8... 8) Chợ: Thí dụ: Chợ Bến Thành, Chợ Đồng Xuân, Chợ Tân Định, Chợ Bà Chiểu, Chợ Lớn, Chợ Huyệïn Thanh Vân... 9) Núi, đèo, cửa ải: Thí dụ: Núi Hoàng Liên Sơn, Núi Sam, Núi Ba Vì, Núi Ngũ Hành, Núi Ông Voi, Núi Ngự, Đèo Hải Vân, Đèo Cả, Ải Nam Quan... 10) Sông, thác, hồ, suối: Thí dụ: Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Hương, Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Than Thở, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc, Suối Giải Oan... 11) Vịnh, biển, đảo: Thí dụ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Cam Ranh, Rạch Cái Cối, Vũng Rô, Quần Đảo Hoàng Sa, Quần Đảo Trường Sa, Đảo Tây Sa, Côn Đảo, Hòn Bà, Hòn Chồng, Hòn Vọng Phu, Phá Tam Giang… 12) Ngày tháng: Thí dụ: Tháng Giêng, Thứ Hai, nhưng mùa thu, mùa xuân (các mùa lại không viết hoa) 13) Ngày lễ, các sinh họat thể thao v.v.. Thí dụ: Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Ngày Thiếu Nhi Toàn Quốc, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, Giải Túc Cầu Thế Giới (World Cup), Vòng Pháp Quốc (Tour de France), Giải Quần Vợt Hoa Kỳ (US. Open)… 14) Nhóm, hội đoàn: Thí dụ: Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Ngàn Lau, Hội Đua Ngựa Phú Thọ, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội Ái Hữu Gò Công, Câu Lạc Bộ Lướt Sóng, Môn Phái Vovinam, Môn Phái Thiếu Lâm, Trường Phái Siêu Thực, Trường Phái Dã Thú, Trường Phái Ấn Tượng. 15) Ban nhạc: Thí dụ: Ban Thăng Long, Ban Tiếng Tơ Đồng, Ban The Rolling Stone, Đoàn Cải Lương Hương Mùa Thu, Đoàn Thoại Kịch Tiếng Chuông Vàng… 16) Báo chí, tựa đề các cuốn sách, thơ, bài báo, vở kịch, bức hoạ, bản nhạc, truyện, cuốn phim và bài báo: Thí dụ: Nam Phong Tạp Chí, Tạp Chí Bách Khoa, Nhật Báo Người Việt. nhưng: báo Văn, báo Viễn Đông, báo Saigon Nhỏ, báo Người Việt, Đoạn Tuyệt, Thơ Vũ Hoàng Chương, Truyện Kiều, Kịch Lôi Vũ, Trường Ca Mẹ Việt Nam, Cầu Sông Qwai... 17) Thánh thần và kinh sách: Thí dụ: Trời, Phật, Chúa, Đức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu Hạnh, Mẹ Âu Cơ, Kinh Kim Cang, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh Coran, Kinh Cựu Ước.. 18) Miền, vùng của một đất nước (nhưng không phải để chỉ phương hướng). Thí dụ: Miền Nam, Miền Bắc, Miền Trung, Vùng Cao Nguyên, Miền Tây, Bắc Bình Định... 19) Các biến cố lịch sử, tài liệu, mốc thời gian: Thí dụ: Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ, Đệ II Thế Chiến, Thời Kỳ Bắc Thuộc, Thời Kỳ Trịnh - Nguyễn Phân Tranh, Thời Kỳ Phục Hưng, Nhà Hậu Lê, Bình Ngô Đại Cáo... 20) Ngôn ngữ, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo: Thí dụ: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Hoa Ngữ, Nhật Ngữ, Việt Ngữ Thái, Nùng, Kinh, Thượng, Ra-Đê, Việt v.v.. Việt Tịch, Pháp Tịch, Ấn Tịch... Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo.. 21) Tên các con tàu, xe lửa, máy bay hoặc nhãn hiệu xe hơi: Thí dụ: Tuần Dương Hạm Yết Kiêu, Khu Trục Hạm Vạn Kiếp, Hàng Không Mẫu Hạm Trần Hưng Đạo...La Dalat, Citroyen, Toyota, v.v… Thiên Lôi (Thunderchief), Con Ma (Phantom) 22) Chữ đầu của câu trích dẫn: Thí dụ: Trần Bình Trọng dõng dạc nói “Ta thà làm quỷ Nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” (Trích Tuyển Tập 20 Năm Viết Văn xuất bản năm 2004) Ghi chú: (*) Đây chỉ là sự gợi ý sau khi nghiên cứu lối viết hoa của văn chương Hoa Kỳ. Chuyện đặt ra một quy tắc viết hoa cho cả một quốc gia cần có sự đóng góp của rất nhiều nhà văn, nhà báo, nhà giáo dục và nhà nghiên cứu về ngôn ngữ…và cần một thời gian dài giảng dạy trong các trường từ tiểu học. Ngòai ra quý vị, quý bạn nào muốn đọc thêm các tác phẩm văn chương của cùng tác giả xin viếng Weblog Đào Văn Bình tại địa chỉ: hxxp://daovanbinh.cattien.us ĐÀO VĂN BÌNH (nguồn: Vietbaoonline
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 22, 2011 7:14:29 GMT 9
Cách Chấm Câu Đào Văn Bình
Sau khi đưa lên weblog bài viết Cách Viết Hoa Trong Tiếng Việt, tôi đã nhận được khích lệ của một độc giả và yêu cầu viết thêm về cách chấm câu. Đáp lại thịnh tình đó, tôi xin đưa ra Quy Tắc Chấm Câu trong văn chương Hoa Kỳ để chúng ta cùng nghiên cứu, ứng dụng.
Quy tắc chấm câu có nghĩa là cách xử dụng các dấu: Chấm (.), Dấu Hỏi (?), Dấu Than/Cảm Thán (!), Dấu Phẩy/Phết (,), Gạch Nối (-), Hai Chấm ( : ), Dấu Trích Dẫn/Ngoặc Kép (“…”) và Ngọăc Đơn (‘…’) sao cho đúng nơi, đúng chỗ không ngoài mục đích làm đoạn văn hay câu văn sáng tỏ cũng như diễn đạt được tính hiện thực của nó.
Dấu Chấm
1. Dấu chấm được đặt ở cuối câu để cho biết câu văn đến đây là chấm dứt. Ví dụ: Buổi họp đã kết thúc với kết quả tốt đẹp.
2. Câu ra lệnh (Mệnh Lệnh Cách). Ví dụ: Tìm cho mẹ cái chổi.
3. Những chữ viết tắt đã quen thuộc và được chấp nhận. Ví dụ: chữ Ông, Giáo Sư, Bác Sĩ v.v… nếu viết tắt thì phải có dấu chấm: Ô. Nguyễn Văn Vĩnh, GS. Hoàng Xuân Hãn (Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn), BS. Phạm Biểu Tâm (Bác Sĩ Phạm Biểu Tâm).
4. Còn những danh từ khác chẳng hạn như Liên Hiệp Quốc viết tắt thành LHQ và Việt Nam viết tắt thành VN thì người Việt ít khi để dấu chấm.
5. Dùng dấu chấm bên cạnh những chữ như A, B, C…để phân đoạn. Ví dụ:
A. Mở Đầu B. Thân Bài C. Kết Luận
Hoặc:
1. Mở Đầu 2. Thân Bài 3. Kết Luận
Dấu Hỏi
Dùng trong câu nghi vấn/câu hỏi. Ví dụ: Ông là ai? Bà làm gì đó?
Nếu không phải là câu hỏi thì không dùng dấu (?). Chẳng hạn như: Tôi thắc mắc không biết ông ta có đến hay không. Đây không phải là câu hỏi cho nên không có dấu (?) Nó khác với câu hỏi sau đây: Này bà, ông ta có đến hay không?
Dấu Than/Cảm Thán
1. Dùng để diễn tả một cảm giác mạnh. Ví dụ:
Tôi điên mất rồi! Đúng là một gã khùng! Ối làng nước ơi!
2. Câu ra lệnh nhưng không phải ra lệnh bình thường mà là một cảm xúc mạnh. Ví dụ:
Coi chừng! Nhanh lên!
3. Một nhóm chữ để diễn tả một cảm xúc mạnh. Ví dụ:
Ồ! Đẹp quá! Úi cha! Đau quá! Trời! Khốn khổ cái thân tôi!
Dấu Phẩy/Phết
Dấu phẩy/phết rất quan trọng trong văn tự. Một đoạn văn mà dấu phẩy/phết đặt khác chỗ hoặc không có dấu phấy/phết ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Vào thập niên1950, tại Miền Nam báo chí và một số nhà văn đã đưa một câu Kiều để bàn luận vui chơi về dấu phẩy/phết. Xin quý vị đọc câu Kiều sau đây, một câu có dấu (,) một câu không có dấu (,), ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Câu thơ đó như sau:
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
Ý của câu thơ này là: Trong lúc kinh hoảng nàng không biết phải làm gì, hành động như thế nào.
Thất kinh, nàng chửa, biết là làm sao. (có thêm hai dấu phẩy)
Ý của câu thơ này có thể hiểu là: Thật kinh hoàng, nàng có chửa (có thai) và không biết phải làm gì đây.
Trong văn chương Hoa Kỳ, dấu (,) được dùng trong những trường hợp sau đây:
1. Khi tên một người đứng đầu câu hay cuối câu. Ví dụ:
Anh Tư, anh uống gì? Tôi nghĩ rằng anh giỏi hơn Sơn, anh Tư à.
2. Khi muốn nói thêm chi tiết về một nhân vật nào đó. Ví dụ:
Như Loan, cô giáo của chúng tôi, là người thật dịu dàng.
3. Giữa hai địa danh. Ví dụ:
Thanh Trì, Hà Nội nổi tiếng về bánh cuốn. Gò Vấp, Gia Định nổi tiếng về nem chua. Sài Gòn, Huế, Hà Nội là ba thành phố tiêu biểu của đất nước. Quê tôi ở Khúc Thủy, Hà Đông.
4. Phần cuối cùng của ngày, tháng. Ví dụ:
Ngày 15 Tháng Ba, 2010 Tiệc cưới được tổ chức vào Thứ Bảy, 18 Tháng Tám, 2001
5. Ngay đầu và cuối câu trích dẫn. Ví dụ:
Mẹ nói, “Hôm nay là ngày giỗ ông nội, các con phải ở nhà.” “Một trong những người ở trong căn phòng này,” viên thám tử nói, “chính là thủ phạm.”
6. Nếu có một loạt những danh từ thì phải có dấu (,) để phân biệt. Ví dụ:
Mẹ đi chợ mua bánh chuối, nước dừa xiêm, bánh phở và rau húng quế.
Nhưng nếu câu văn trên không có dấu (,) thì người đọc có thể hiểu như sau:
Mẹ đi chợ mua bánh, chuối, nước, dừa xiêm, bánh, phở và rau húng quế.
7. Sau một loạt tĩnh từ (adjective) thì phải có dấu (,) để phân biệt. Ví dụ:
Chàng là một thanh niên hào hoa, đẹp trai, lịch sự và duyên dáng.
8. Sau các câu mở đầu đối thoại như: đúng, đúng vậy, à, đúng rồi, không v.v… Ví dụ:
Đúng, chúng ta đang thành công. Không, câu chuyện không phải vậy. À, thì ra câu chuyện diễn tiến như thế. Đúng rồi, tôi đã nhớ ra rồi.
9. Trước chữ “nhưng”, “nhưng mà”. Ví dụ:
Chúng ta thành công, nhưng chưa trọn vẹn. Cô ta tuy đẹp, nhưng ăn nói không lịch sự.
Sau cùng, dấu (,) giúp người đọc theo dõi sự mạch lạc của ý tưởng. Thiếu dấu (,) hoặc không có dấu (,) khiến người đọc bối rối. Nếu là xướng ngôn viên, hoặc người đọc truyện, sẽ hụt hơi, không biết ngắt câu hoặc diễn tả như thế nào. Cách xử dụng đúng dấu (,) cho biết trình độ viết văn của người viết.
Gạch Nối
1. Khi phiên dịch các từ ngoại quốc như Anh, Pháp sang tiếng Việt thì nên dùng gạch nối để cho thấy đó là một chữ/từ chứ không phải hai chữ/từ kép. Ví dụ: cà-phê, ny-lông, cạc-tông, cao-su, bù-loong v.v…
2. Khi xuống hàng mà hết chỗ, phải dùng gạch nối để cho thấy chữ ở dòng sau là một phần của chữ ở hàng trên.
3. Một đôi khi dấu (,) không đủ mạnh để tách biệt hai sự kiện, hai ý tưởng, người viết xử dụng gạch nối (-) để phân biệt. Đọc các bản tin trên các báo hoặc của các phóng viên chuyên nghiệp như AP, UPI chúng ta sẽ thấy.
Hai Chấm
1. Văn chương Việt Nam dùng ( : ) rồi xuống hàng để trình bày một câu đối thoại, sau một đề mục hoặc sau hai chữ “ví dụ”. Còn trong văn chương Hoa Kỳ, dấu ( : ) được dùng trong những trường hợp sau đây:
- Sau đề mục có dấu ( : ) để dưới đó trình bày từng chi tiết.
- Giữa giờ và phút. Ví dụ: 8:30 sáng, 7:45 tối
2. Trong lời chào hỏi của loại thư giao dịch hoặc gửi cho các cơ quan. Ví dụ:
Kính thưa thủ tướng: Thưa ngài: Kính thưa giáo sư: Thưa ông giám đốc:
3. Còn thư thân mật gửi bạn bè, gia đình thì dùng dấu (,). Ví dụ:
Anh Tư thân mến, Thưa chị Ba,
4. Và phần chào hỏi kết thúc bức thư:
Trân trọng kính chào, Chúc anh chị và các cháu vui vẻ, Kính thư,
Chấm phẩy/chấm phết
Dùng để nối kết hai mệnh đề mà không cần dùng những chữ như “và”, “nhưng”, “hoặc”. Ví dụ:
Tòa tuyên án xong; mọi người âm thầm rời phòng xử. Nhạc trưởng đưa tay lên; dàn nhạc bắt đầu. Thầy bước vào; cả lớp im phăng phắc. Thành công đó; thất bại cũng đó.
Theo nhận xét riêng của tôi, hình như càng ngày người ta càng ít dùng dấu ( ; )
Dấu trích dẫn
1. Dùng để phân biệt đây là câu nói mà mình trích dẫn chứ không phải lời của phóng viên, người viết phóng sự hoặc của tác giả trong các truyện. Ví dụ:
Trong cuộc họp báo thủ tướng tuyên bố, “Tôi sẽ áp nghiêm chỉnh luật đầu tư.” Ông hiệu trưởng cho biết, “Trường chúng tôi là trường có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cao nhất.” Thằng bé nhõng nhẽo, “Mẹ cho con ăn cà-rem đi.”
Tuy nhiên, nếu trong câu trích dẫn lại có một lời trích dẫn của người khác thì dùng ngoặc đơn. Ví dụ: Bài tường thuật của một phóng viên:
Trong cuộc họp báo, bà bộ trưởng nói như sau, “Tôi nghe đích thân thủ tướng chỉ thị ‘phải giải quyết mau lẹ nhu cầu của người dân,’” rồi bà tuyên bố tiếp, “chúng tôi sẽ nghiêm chính thi hành.”
2. Dùng ngoặc kép cho tựa đề của truyện, bài thơ, bản báo cáo, phúc trình, tựa đề và chương mục của cuốn sách. Ví dụ:
Bản nhạc “Cầu Sông Kwai” đã làm cuốn phim trở nên sống động. Tiểu thuyết “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh đã làm say mê bao thanh niên, thiếu nữ Hà Thành lúc bấy giờ. Bản phúc trình “Nạn Buôn Bán Nô Lệ Tình Dục” của LHQ đã làm xúc động lương tâm nhân loại. “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của Nguyễn Du ảnh hưởng bởi giáo lý Từ Bi của Đạo Phật. Bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị” của Phạm Thiên Thư dù nói về tình yêu, nhưng có âm hưởng nhẹ nhàng, thanh thoát.
Tài liệu tham khảo: McDougal, Littell LITERATURE
Bài được đăng thứ Bảy, 21 tháng Tám 2010 trong mục Biên Khảo.
(Nguồn: Trang “Đào Văn Bình” do Cát Tiên xây dựng trên WordPress )
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 22, 2011 7:16:12 GMT 9
Nguyên tắc bỏ dấu trong tiếng Việt Trich lai tu website ThuVienVietNam
Những gì tôi viết sau đây được dựa theo "Việt Nam Tự Điển" của Ban Văn Học, Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 và được in lại tại Hoa Kỳ năm 1982.
Trước hết, ta phải phân loại nguyên âm:
Loại 1: a, e, i, o, u, y;
Loại 2: ă, â, ê, ô,ơ, ư.
Dấu chỉ được bỏ trên hoặc dưới nguyên âm, dĩ nhiên ai cũng biết như vậy.
#1. Nếu chỉ có một nguyên âm thì dĩ nhiên dấu được bỏ trên hoặc dưới nguyên âm đó. Trong câu vừa rồi, những chữ "chỉ có một" là ví dụ điển hình.
#2. Nếu có hai nguyên âm cùng loại 1, dấu được bỏ trên hoặc dưới nguyên âm thứ nhất: bài, ngày, ngụy, húy, thủy, nẻo, hòa...
#3. Nếu có 2 nguyên âm khác loại, dấu được bỏ trên hoặc dưới nguyên âm loại 2: Huế, quế, thuế, thuở, giờ, ngửi, gửi, nửa, nữa, nấu, ngựa, lỗi thời...
#4. Nếu có ba nguyên âm, dấu được bỏ trên hoặc dưới nguyên âm giữa: cười, người, ngoài, ngoại...
#5. Nếu có phụ âm theo sau nguyên âm cuối, dấu được bỏ vào nguyên âm ngay trước phụ âm (không kể có bao nhiêu nguyên âm trước đó): quy(ể)n, đư(ợ)c, giu(ộ)c, trư(ớ)c, trư(ờ)ng, dư(ỡ)ng, hu(ỳ)nh, giư(ờ)ng, huy(ề)n...
Nên nhớ là trong chữ Việt, vần "qu" được coi là một vần bởi vì chữ "q" bao giờ cũng phải có nguyên âm "u" kèm theo thì mới có nghĩa, do đó, dấu không bao giờ được bỏ trên nguyên âm "u": quý, quá, quạ, v.v...
Những chữ thường hay bị viết sai: sợi dây (không phải sợi "giây"), giây phút, chia sẻ (không phải chia "xẻ"), sử dụng (không phải "xử" dụng).
Tôi thành tâm khẩn cầu các đại văn sĩ (và cả các vị thầy Cò) làm ơn viết cho đúng chính tả kẻo con cháu chúng ta sinh ra và lớn lên trên xứ người không còn có thể viết đúng chữ quốc ngữ. Vẫn biết rằng chúng ta chưa có một Hàn Lâm Viện, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể viết đúng tiếng cha sinh mẹ đẻ để bảo tồn văn hóa của chúng ta. Trân trọng cám ơn.
Phước Tuy
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 22, 2011 7:18:55 GMT 9
Những Chữ Việt Thường Viết Sai Chính Tả
A - ả (ả đào, oi ả) - không có dấu ngã - ảnh—(ám ảnh, ảo ảnh, hình ảnh, màn ảnh, nhiếp ảnh, tranh ảnh, ảnh hưởng; anh ấy ảnh đã đi rồi.) - ảo – (mập mờ, như thật ảo ảnh, ảo giác, ảo mộng, ảo thuật) - ẵm –(bế, bồng trên tay con còn ẵm ngửa) - ầm ĩ - ẩn –(trốn, lánh đi, giấu ẩn cư, ẩn danh, ẩn dật,, ẩn nấp, ẩn nhẫn, ẩn sĩ, ẩn số, ẩn tình)
B- bác (chú bác); - bát (chén bát, bát ngát) - bải (bải hoải); - bãi (bãi biển, bãi nại) - bảo (nói; bảo hiểm, bảo đảm); - bão (bão tố) - bẩm (bẩm sinh); - bẫm (cày sâu cuốc bẫm) - bẵng (bẵng đi) - bâng (bâng khuâng, bâng quơ) - bẩy (đòn bẩy); - bẫy (cái bẫy, bẫy chuột) - bẻ (bẻ cong, bẻ gẫy, bẻ hành bẻ tỏi); - bẽ (bẽ bàng, bẽ mặt) - biển - không có chữ dấu ngã - bỏ (bỏ bê, bỏ dở, bỏ hoang, bỏ ngỏ); - bõ (đầy tớ; cho bõ giận, bõ ghét) - bổng (bay bổng, lương bổng); - bỗng (bỗng nhiên) - bở (rời rạc; bở lắm); - bỡ (bỡ ngỡ) - buộc (cột; buộc tội, ràng buộc) - buôn (buôn bán); - buông (buông thả) - bửa (chẻ; bửa củi); - bữa (bữa ăn, bữa nay)
C - cáo (con cáo, báo cáo, cáo biệt); - cáu (giận) - cắm (cắm đầu cắm cổ, cắm sừng); - cấm (ngăn cấm) - cháo (cơm cháo); - cháu (con cháu) - chặc (chặc lưỡi); - chặt (chặt chẽ, chặt đầu, xiết chặt, cột chặt) - chằn (chằn tinh); - chằng (không chằng không rễ, chằng chịt) - chẵn (chẵn lẻ); - chẳng (chẳng bao giờ, cực chẳng đã) - chỗ - không có dấu hỏi - chồm hổm (ngồi chồm hổm, Chợ chồm hổm) - chùn (chùn bước, hôn chùn chụt); - chùng (chùng chình; không thẳng) - chuộc (mua chuộc); - chuột (bẫy chuột) - chuỗi (xâu chuỗi, chuỗi hạt) - không có dấu hỏi - chuồn (cút đi; con chuồn chuồn); - chuồng (chuồng gà) - chửa (có thai); - chữa (chưa; chữa được, sửa chữa, chữa bệnh) - chữ (chữ nghĩa) - chữ này không có dấu hỏi - cổ (cô ấy; bộ phận của cơ thể cổ chân, cổ họng ,cũ; cổ áo, cổ lỗ xỉ, cổ võ; khảo cổ; cổ đông, cổ phần) - cỗ (ăn cỗ, cỗ xe ngựa) - cỡ (kích thước) - không có dấu hỏi - cởi (cởi mở); - cỡi (cưỡi; cỡi ngựa) - củ (củ sắn); - cũ (già, xưa) - cũn (cũn cỡn); - củng (củng cố); - cũng (cũng được) - cuốn (cuốn sách, cuốn gói, cuốn vó); - cuống (luống cuống, cuống cuồng, cuống phổi) - cứt (cứt ráy, cứt mũi) - không có chữ c - cửu –(chín cửu chương, cửu huyền, cửu ngũ, cửu phẩm, cửu trùng, cửu tuyền, sông Cửu Long; --lâu vĩnh cửu, trường cửu). - cữu –(cái hòm di cữu, linh cữu)
Ch - chải –(gỡ cho suôn chải chuốt, chải đầu, chải giày, chải gỡ, chải tóc, cái bàn chải, bươn chải). - chãi –(vững chãi). - chảy –(di chuyển thành dòng chảy máu, chảy xối, chảy ròng ròng, chảy xiết, thùng lủng chảy re, nấu cho chì chảy). - chảo –(để chiên, rang, xào chảo đụn, chảo sắt, chảo gan, chiên áp chảo). - chão –(thứ dây lớn đánh chão, dai như chão). - chẵn –(số nguyên, trọn chẵn cặp, chẵn chòi, chẵn chục, ngày chẵn, chẵn một trăm). - chẳng –(chả, không chẳng bao giờ, chẳng bù, chẳng bõ, chẳng cùng, chẳng cứ, chẳng) - chẻ -(tách ra theo chiều dọc chẻ củi, chẻ lạt, chẻ nan, chẻ làm đôi, chẻ nhỏ ra, chẻ rau muống, chẻ tre, tính chẻ sợi tóc làm hai). - chẽ -(chặt chẽ).
D - dả (dư dả). - dã (làm cho bớt dã độc, dã lã, dã rượu; --buồn, mệt dã dượi; --chỗ hoang, quê mùa dã chiến, dã man, dã sử, dã thú, dân dã, sơn dã, thôn dã, khỉ dã nhân, công dã tràng, dã tâm, trắng dã). - dãy (núi; dãy Trường Sơn); dãi (nước dãi, dãi dầu) - dáo dác - dẩn (câu hỏi dớ dẩn.) - dẫn ( dắt đi, đưa đến, dẫn chứng, dẫn dụ, dẫn đạo, dẫn điện, dẫn độ, dẫn đường, dẫn giải, dẫn hỏa, áp dẫn, chỉ dẫn, chú dẫn, tiến dẫn, tiểu dẫn, dẫn thủy nhập điền). - dạt (dạt dào); giạt (trôi giạt) - dây (dây cung, dây dưa); giây (chỉ thời gian; giây lát) - dể ( không kính nể, khinh dể ngươi, khi dể, khinh dể) - dễ ( không khó dễ bảo, dễ chịu, dễ coi, dễ dãi, dễ dàng, dễ dạy, dễ dầu gì, dễ dúng gì, dễ gì, dễ hôn! dễ ợt, dễ sợ, dễ tánh, dễ thường.) - dĩa ( dĩa hát, dĩa nhạc, chén dĩa, đánh sóc dĩa). - dịu (dịu dàng); diệu (tuyệt diệu) - dóc (nói khoác); dốc (dốc núi, dốc cạn bầu tâm sự, dốc lòng); giốc (nhạc cung giốc) - dở -( đỡ lên cao, mở ra dở bổng, dở hỏng lên, dở sách ra; --trổ ra, lòi ra dở thói vũ phu, dở trò; --không hay dở ẹt, dở mạt, dở quá, dở tệ, giỏi dở, hay dở; --lỡ chừng dở bữa, dở chừng, dở hơi, dở dang, bỏ dở, lỡ dở; -không rõ tính dở dở ương ương, dở khóc dở cười, dở khôn dở dại, dở người dở ngợm, dở ông dở thằng, dở sống dở chết. - dử (nhử; đem mồi dử chuột)); - dữ (hung dữ, dữ dội); giữ (giữ gìn)
Đ - đả (đánh; đả phá); - đã (thuộc về quá khứ) - đã (đã đời, đã đành, đã giận, đã khát, đã lắm, đã qua, đã rồi, đã xong, đã vậy thì, đã giỏi lại ngoan; --tiếng bảo ngưng khoan đã! chờ hết mưa đã! nghỉ cái đã! rồi làm tiếp, cực chẳng đã) - đãi –(thết, xử với đãi bôi, đãi đằng, đãi khách, đãi ngộ, bạc đãi, biệt đãi, chiêu đãi, đối đãi, khoản đãi, ngược đãi, tiếp đãi, trọng đãi, đãi lịnh, ưu đãi; --trễ nải huỡn đãi, giải đãi; --sàng để gạn lọc đãi sạn, đãi cát tìm vàng, bòn tro đãi trấu, đồn đãi). - đan (đan áo); - đang (thuộc về hiện tại; đang khi, đang tâm) - đản (Phật đản, huỳnh đản, quái đản) - đảng (phe, bọn đảng cướp, đảng bộ, đảng phái, đảng trị, đảng viên; bè đảng, chính đảng, phe đảng). - đãng (đãng trí, đãng tử, du đãng, lơ đãng, phóng đãng, khoáng đãng.) - đắm (đắm đuối); - đấm (đấm bóp) - đẫm (ướt đẫm) - không có chữ dấu hỏi - để (đặt để, để ý); - đễ (hiếu đễ) - đếm (đếm số, đếm xỉa); điếm (đĩ điếm) - đỉa ( con đỉa hút máu đỉa mén, đỉa trâu, đeo như đỉa đói, dai như đỉa, giãy như đỉa phải vôi.) - đĩa ( dĩa để đựng thức ăn chén đĩa, đơm cơm ra đĩa, thi ném đĩa, đĩa nhạc.) - đổ (đánh đổ, đổ bể, đổ bộ); - đỗ (hạt đậu; thi đỗ) - đỡ (đỡ đần) - không có dấu hỏi - đủ (không thiếu đủ ăn, đủ dùng, đủ điều, đủ loại, đủ lông đủ cánh, đủ số, đủ sức, đủ thứ, đông đủ, đu đủ, thiếu đủ.) - đũa ( 2 que dùng để gắp đũa bếp, đũa con, đậu đũa, chơi đánh đũa, cây so đũa, trả đũa).
E - ẻn ( ỏn ẻn.) - ẻo –( dáng đi ẻo lả, trù ẻo). - ẽo võng kêu ẽo ẹt).
G - gả ( kết hôn cho con gái gả con, gả cưới, gả bán). - gã (người đàn ông gã thiếu niên, gã kia.) - gác (gác đũa, gác phượng, canh gác) - gằm (gằm mặt xuống); gầm (gầm bàn, gầm trời) - ghẻ (ghẻ lở) - già giặn - giả (đồ giả, giả bộ, tác giả); - giã (giã biệt, giã gạo, giục giã) - giải (giải tội nhân, giải thưởng, giải đáp, giải khát); giãi (giãi bày) - giễu (giễu cợt) - giỏi giang - giục (hối thúc; giục giã) - gõ –(đập nhẹ vào cho ra tiếng gõ cửa, gõ mõ, gõ nhịp; --loại gỗ quý cây gõ (gỗ gụ), bộ ngựa gõ ) - gổ -(gây gổ.) - gỗ ( gỗ quý, gỗ gụ, gỗ tạp, đốn gỗ, khúc gỗ, tượng gỗ). - gở (điềm gở); - gỡ (gỡ gạc, gỡ ra) - gởi, gửi ( gởi gắm, gởi lại, gởi thơ, gởi rể, gởi lời thăm).
H - hải (hải cảng)- - hãi (sợ hãi) - hảo (hảo hán, hảo hạng); - hão (hão huyền) - hằn (hằn học, thù hằn); hằng (hằng mong, Hằng Nga) - hoãn (hòa hoãn, hoãn binh, trì hoãn); - hoảng (hoảng sợ) - họp (họp mặt, tụ họp); hộp (cái hộp); - hợp (hạp; hợp ca, hợp tan, hỗn hợp) - hổn (hổn hển); hỗn (hỗn hào, - hỗn độn, hỗn hợp) - hởi (hồ hởi, hởi lòng hởi dạ); - hỡi (hỡi ôi, hỡi đồng bào) - hủ -(cũ kỹ hủ bại, hủ hỉ, hủ hoá, hủ lậu, hủ nho, hủ tiếu, hủ tục, đậu hủ.) - hũ (lu nhỏ bé miệng hũ gạo, hũ mắm, hũ rượu, cổ hũ cau, cổ hũ dừa. ) - hửng –(hừng trời hửng sáng, hí hửng). - hững hờ - hữu –(có hữu danh, hữu dụng, hữu duyên, hữu hạn, hữu hình, hữu ích) - hỷ-( hỷ sự, hỷ tín, hỷ xả, báo hỷ, cung hỷ, hoan hỷ, song hỷ; hỷ hả, hỷ mũi )
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2011 4:30:23 GMT 9
Những Chữ Việt Thường Viết Sai Chính Tả (#3)
I - ỉ (hơi ướt ẩm ỉ, i ỉ, ỉ ỉ; --ngầm ngầm đau âm ỉ, trời âm ỉ; --kêu than năn nỉ ỉ ôi.) - ĩ (ầm ĩ, òn ĩ.) - ỉa (đi tiêu, đại tiện ỉa chảy.) - ỉm (cửa đóng im ỉm) - ĩnh (con ĩnh ương ãnh ương ) - ỉu (bị ẩm làm cho mềm iu ỉu.)
Y - ỷ ( cậy thế, dựa vào ỷ giàu, ỷ giỏi, ỷ lại, ỷ tài, ỷ quyền, ỷ thế, ỷ y.) - yểm (trợ giúp yểm hộ, yểm trợ; --ém, ếm yểm bùa, yểm tài, yểm trừ) - yểu ( chết non yểu tướng, chết yểu; --mềm mại thướt tha yểu điệu.)
K - kẻ (người; kẻ ở, kẻ thù) - kẽ (kẽ hở, kẽ răng) - kẻo (không thế thì phải chăm học kẻo dốt, mau mau kẻo trễ.) - kẽo (tiếng võng kẽo kẹt.) - kể (thuật lại, coi như kể chuyện, kể chết, kể công, kể lể, kể như, kể ơn, kể ra, kể rõ, kể trên, chẳng kể, cứ kể là, khóc kể, không đáng kể.) - kỷ (kỷ vật, kỷ yếu, kỷ lục; --thân mình ích kỷ, tự kỷ, tri kỷ, vị kỷ; --phép tắc bắt buộc kỷ luật, kỷ cương; --chỉ thời gian kỷ niệm, kỷ nguyên, niên kỷ, thế kỷ, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu; --ghế ngồi, mâm nhỏ ghế trường kỷ, kỷ trà.) - kỹ (nghề kỹ nghệ, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ xảo; --gái đĩ thõa kỹ nữ, ca kỹ, kỹ viện; --mất nhiều công kỹ càng, kỹ lưỡng, nhìn kỹ, ăn no ngủ kỹ.)
Kh - khả (có thể khả ái, khả dĩ, khả kính, khả năng, khả nghi, khả ố, khả quan, bất khả kháng, vô kế khả thi.) - khải (khải hoàn, khải hoàn môn) - khảy (khảy đờn, khảy móng tay; cười khảy.) - khảm (khảm xa cừ, khảm vàng, tâm khảm, quẻ Khảm) - khắc khoải - khắng khít - khắp (khắp nơi) - khấp (khấp khểnh) - khẻ (làm cho mẻ, bể lần lần; khẻ mảnh sành, khẻ tay) - khẽ (nhẹ nhàng không gây tiếng động; khe khẽ) - khoác (khoác áo) - khoát (dứt khoát) - khoản (khoản đãi) - khoảng (khoảng cách, khoảng chừng) - khoảnh khắc - khuấy nhiễu (quấy nhiễu) - khúc khích - khúc khuỷu - khuôn (khuôn bánh, khuôn phép); khuông (khuông phò) - khước (từ chối; khước từ); khướt (say khướt) - khuỷu (khuỷu tay, đường đi khúc khuỷu) - khử (trừ, bỏ đi khử độc, khử tà, trừ khử, khử thổ, khử trùng)
L - lả (yếu sức đói lả, mệt lả; -- không đứng đắn lả lơi, lả lúa, lả lướt, ẻo lả; -- rách, tét té lả đầu gối; -- rời rạc mưa rơi lả tả.) - lã (nước lã, làm ăn lỗ lã, lệ rơi lã chã.) - lải (nói lải nhải.) - lãi (lỗ lãi, lời lãi, tiền lãi, lấy công làm lãi, cho vay nặng lãi, lãi suất; --giun trong ruột lãi đũa, lãi kim, sán lãi, sên lãi, con lãi.) - lảy, lẩy (dùng tay tách ra lảy bắp, lảy đậu, lảy lá, lảy cò súng.) - lan (hoa lan, lan tràn) - lang (con sói; thầy thuốc; lang thang, thầy lang, khoai lang), lang (lương, thầy thuốc) - lả (mệt lả, lả lơi, lả lướt); lã (lã chã) -.lãn (giỏ; lãn hoa); (cách biếng nhác; phung phí, lãn công= lãng công) - lảng (lảng tai, lảng trí, lảng nhách, lảng vảng, lảng tránh) - lãng (lãng du, lãng đãng, lãng mạn, lãng tử, lãng công) - lảo (lảo đảo) - lão (già lão ấu, lão bá, lão bộc, lão gia, lão già, lão khẩu, lão luyện, lão phu, lão thành, lão trượng, cây đã lão, dưỡng lão, nguyệt lão, ra lão, trưởng lão; Lão Tử, Lão giáo)
- lắc (lắc lư); lắt (chuột lắt, lắt nhắt, lắt lẻo, lắt léo) - lăn (lăn tăn, lăn cù, lăn long lóc); lăng (lăng mộ, cá lăng) - lân (kỳ lân, lân cận, lân bang); lâng (lâng lâng) - lẻ (chẵn lẻ, lẻ loi, lẻ tẻ) - lẽ (lý lẽ, lẽ dĩ nhiên, lặng lẽ) - lể (dùng kim lấy miếng dằm) - lễ (lễ nghĩa, ngày lễ) - liến thoắng. - liễu - không có dấu hỏi. - lỗ (lỗ kim, lỗ lã, lỗ mãng, lỗ mũi) - lỗi (sai, điều quấy lỗi duyên, lỗi đạo làm con lỗi hẹn, lỗi lạc, lỗi lầm, lỗi thời, cung đàn lỗi nhịp bắt lỗi, chữa lỗi, chịu lỗi, đổ lỗi, hối lỗi, phạm lỗi, sửa lỗi, tha lỗi, thứ lỗi, tội lỗi, xin lỗi.)
- lở (lở loét); lỡ (lỡ làng, lỡ lầm, lỡ quên) - luồn (luồn cúi) - luồng (luồng gió) - lủ (lủ khủ) - lũ (một lũ, lũ lượt, nước lũ) - lửa (lửa củi, lửa dục, lửa hận, lửa lòng, lửa trại, bén lửa, binh lửa, chữa lửa, dế lửa dầu lửa, dừa lửa, đá lửa, kiến lửa, nảy lửa, núi lửa, nằm lửa, nhạy lửa, xe lửa, nhúm lửa, bò cạp lửa, rắn hổ lửa, thổi lửa, thử lửa, tánh nóng như lửa.) - lữa ( cứ lần lữa mãi.) - lửng (lửng lơ, quên lửng, lửng dạ) - lững (lững lờ, lững thững)
M - mả (ngôi mộ) - mã (ngựa; tốt mã, vàng mã) - mải (ham mê, cứ mải ham chơi, mải học, mải mê, mải miết, mải lo.) - mãi (luôn luôn, hoài mãi mãi, nói mãi, chờ mãi tới khuya, nghĩ mãi không ra; --mua bán (Mại) mãi dâm, mãi lộ, mãi võ, tạo mãi, thương mãi.) - mảy (mảy may, mảy lông, ngồi tréo mảy.)
- mác (buồn man mác, giáo mác) - mát (gió mát) - màn (tấm màn) - màng (không màng, màng nhĩ) - mải (mải mê, mải miết) - mãi (mãi mãi) - mẩn (mê mẩn) - mẫn (cần mẫn, mùi mẫn, minh mẫn) - mẩu (một phần nhỏ) - mẫu (mẹ; gương mẫu, mẫu đất, hoa mẫu đơn, mẫu giáo, người mẫu) - mỉ (tỉ mỉ) - mỹ (mỹ cảm, mỹ lệ, mỹ mãn, mỹ miều, mỹ nhân, mỹ nghệ, mỹ nữ, mỹ sắc, mỹ phẩm, mỹ quan, mỹ thuật, mỹ tửu, mỹ viện, mỹ vị, mỹ ý, hoa mỹ, chân thiện mỹ; Âu Mỹ, Mỹ Châu, mỹ kim, Mỹ Quốc). - mỉm (mỉm cười) - mĩm (mũm mĩm) - mịt mùng - mỏi (mỏi mòn, mỏi mệt) - không có dấu ngã. - mỏm (phần de ra mỏm đá, mỏm núi, mỏm gành.) - mõm ( miệng loài thú mõm chó, mõm heo.) - mọng (chín mọng, môi mọng); - mộng (giấc mộng) - mơn mởn - mở (mở đường, mở hàng) - mỡ (mỡ bò) - muốn (ham muốn); - muống (rau muống) - mủ (máu mủ) - mũ (nón) - mủi (mủi lòng) - mũi (lỗ mũi) - muỗi (con muỗi muỗi.) - muỗng (để múc thức ăn muỗng nỉa, muỗng xúp, muỗng cà phê).
Còn tiếp
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 2, 2011 4:31:25 GMT 9
Dấu Chấm Câu Anh / Việt DẤU NGOẶC KÉP: QUOTATION MARKS ( "..." ) Khi dùng dấu ngoặc kép, quý vị nên để ý những dấu chấm câu khác. Dùng dấu ngoặc kép trong những trường hợp sau: Diễn tả chính xác lời của người nói (lời dẫn trực tiếp) Mom said, "Dinner is ready." Mỗi sự trích dẫn bắt đầu bằng 1 chữ viết hoa. The child said, "Give me the cake." Dấu chấm than (!) và dấu chấm hỏi (?) nằm trong dấu ngoặc kép nếu chúng là 1 phần của sự trích dẫn. Nếu không, chúng nằm ở ngoài. Allen said, "Watch out!" "Where have you been?" he asked. Did you say, "I love you"? Dấu hỏi và dấu chấm ở cuối sự trích dẫn luôn luôn nằm trong dấu ngoặc kép. "Go to your room," Dad said, " and think about what you did." Dấu hai chấm và dấu chấm phẩy nằm ở ngoài dấu ngoặc kép. "Give me liberty or give death": these are immortal (long-remembered) words. Dấu phẩy được dùng để tách rời phần trích dẫn của 1 câu với phần còn lại của câu đó. The father said, "Shut up!" Khi 1 câu trích dẫn bị chia làm 2 phần, phần thứ 2 bắt đầu bằng 1 chữ viết thường nếu phần thứ hai không phải là 1 câu mới. "My cousin," they said, "is a trilingual." ( is a trilingual là phần thứ hai của câu.) "My cousin is a trilingual," they said. "He lives in Fullerton." (He lives in Fullerton là 1 câu mới.) Mô hình "————," said Rose. "————?" asked Rose. "————!" exclaimed Rose. Mô hình Iris said, "————." Iris asked, "————?" Iris exclaimed, "————!" Mô hình "————," said Lily. "————." "————?" asked Lily. "————?" "————!" exclaimed Lily. "————!" Mô hình "————," said Daisy, "————." "————," asked Daisy, "————?" "————," exclaimed Daisy, "————!" Dùng 1 dấu ngoặc kép ('...') để bao quanh 1 sự trích dẫn nằm trong 1 sự trích dẫn khác. The physics professor said, "Do the problems at the end of Chapter Five, 'Work and Energy,' for class on Friday." Dùng dấu ngặc kép để tách rời từ ngữ nước hoặc từ ngữ đặc biệt với phần còn lại của câu. Some people don't know what the word "pho" means. "Pho" means Vietnamese noodle soup. What's the difference between "it's" and "its"? Dùng dấu ngoặc kép để tách rời tựa đề của tạp chí, báo, sách, chương trong 1 quyển sách, truyện ngắn, thơ, và bài hát. In the article "Save the Planet," the author states that...... In the essay "My terrible day"...... In the chapter "Database Administration".... In the story "My Sister".... In the poem "When I have Fears"..... In the song "Knife"..... Dùng để biểu thị thái độ mỉa mai, chế diễu của người viết hoặc trích dẫn từ, ngữ của người khác hoặc đánh dấu một từ được dùng với nghĩa đặc biệt, khác với nghĩa thông thường.. Ví dụ: Xem chừng các anh chị ở đây đều theo chiều hướng “trăm năm cô đơn” hết cả rồi! Another common use of quotation marks is to indicate or call attention to ironic or apologetic words: He shared his “wisdom” with me. The lunch lady plopped a glob of “food” onto my tray. She attempted to use her “strength” to lift the weight. DẤU NGOẶC ÐƠN: PARENTHESES ( ) Ðừng lạm dụng dấu ngoặc đơn trong văn viết. Dùng dấu ngoặc đơn để tách rời phần dư với phần còn lại của câu. An adjective clause (relative clause) consists of a subject pronoun (who, which, that...) + verb + object. It can consists of an object pronoun (whom, which, that ...) + verb + subject. Dùng dấu ngoặc đơn để tách rời số mà là 1 phần của 1 danh sách. There are three ways to contact her: (1) phone her, (2) email her, and (3) send her a letter. - Một trường hợp đáng chú ý là dấu ngoặc đơn có thể dùng để giải nghĩa cho một từ hoặc một yếu tố ngôn ngữ không thông dụng. Ví dụ: – Italia (Ý), Đại Hàn (Triều Tiên) - Tiếng trống của phìa (lý trưởng) thúc gọi nộp thuế vẫn rền rĩ. (Tô Hoài) ***************** Hiện nay, tiếng Việt dùng mười dấu câu là: 1. dấu chấm . 2. dấu hỏi ? 3. dấu cảm ! 4. dấu lửng … 5. dấu phẩy , 6. dấu chấm phẩy ; 7. dấu hai chấm : 8. dấu ngang – 9. dấu ngoặc đơn () 10. dấu ngoặc kép “ ” ******** 8. DẤU NGANG: - Dấu ngang dùng để chỉ ranh giới của thành phần chú thích. Ví dụ: Chồng chị – anh Nguyễn Văn Dậu – tuy mới hai sáu tuổi nhưng đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm. (Ngô Tất Tố) Sự khác nhau giữa dấu ngang và dấu ngoặc đơn có khi không được rõ; theo thói quen, người dùng dấu này, người dùng dấu kia, đối với thành phần chú thích. Tuy vậy, cũng có thể nhận thấy giữa hai loại dấu đó có sự khác nhau sau đây: Khi thành phần chú thích có quan hệ rõ với một từ, một ngữ ở trước nó, thì thường dùng dấu ngang; nếu quan hệ đó không rõ thì thường dùng dấu ngoặc đơn. Ví dụ: Tôi vừa gặp lại anh Thân – người chỉ huy đơn vị của tôi, hồi chiến tranh chống thực dân Pháp. Anh ấy không đến dự đám cưới của Lan (bảo là bận!) nhưng mọi người đều hiểu anh ấy không tán thành đám cưới này. Một trường hợp đáng chú ý là dấu ngoặc đơn có thể dùng để đóng khung cho một từ hay một ngữ có tác dụng chú thích cho một chữ không thông dụng (chữ cổ, chữ địa phương...). Ví dụ: Tiếng trống của phìa (lý trưởng) thúc gọi nộp thuế vẫn rền rĩ. (Tô Hoài) Một loại dấu đôi nữa, có mở ra rồi có đóng vào giống như dấu ngang và dấu ngoặc đơn, và cũng được dùng để chú thích thêm trong một số trường hợp đặc biệt, là dấu móc: []. Trong trường hợp nhắc lại một văn bản, mà cần chú thích, đồng thời lưu ý người đọc rằng chú thích đó là ở ngoài văn bản thì dùng dấu móc. Ví dụ: Mậu thân Thuận Thiên năm thứ nhất [1428]... người Minh đã về nước, vua bèn thống nhất thiên hạ, lấy năm ấy là năm dẹp yên. (Dịch "Đại Việt Sử ký toàn thư") Ký hiệu phiên âm quốc tế (phonetic transcription): hook [huk] Toán Học: [(2+3)x4]=20 Công thức Hóa học: Zeise's salt, K+[PtCl3(C2H4)]- Chú ý: ( + ,3, 2,4 , - ở đây nằm sai vị trí, lý do kỹ thuật không chỉnh được). Programming language ( C ): e.g. by int A[10][20] or int A[m][n] Chú ý: Mỗi ngôn ngữ có hình thức chấm câu khác nhau..BE và AE cũng có những quy tắc dấu chấm, dấu phết khi đi chung với dấu ngoặc cũng khác nhau. (Nguồn: wiki/Quotation_mark,_non-English_usage) • “Carefree,” in general, means “free from care or anxiety.” (American practice) • “Carefree”, in general, means “free from care or anxiety”. (British practice) • Double quotes are standard for denoting speech in German. • Andreas fragte mich: „Hast du den Artikel ‚EU-Erweiterung‘ gelesen?“ • Sometimes, especially in books, the angle quotation marks (see below) are used in Germany and Austria, albeit in reversed order: »O«. In Switzerland, however, the same quotation marks as in French are used: «O». • Double angle quotation marks without spaces are the standard for German printed texts in Switzerland: • Andreas fragte mich: «Hast du den Artikel ‹EU-Erweiterung› gelesen?» • Andrew asked me: ‘Have you read the article “EU Expansion”?’ • Unlike English, French does not set off unquoted material within a quotation mark by using a second set of quotes. They must be used with non-breaking spaces. Compare: • “This is a great day for Montrealers,” the minister said. “These investments will permit economic growth.” • « C’est une belle journée pour les Montréalais, soutient le ministre. Ces investissements stimuleront la croissance économique. » • For clarity, some newspapers put the quoted material in italics: • « C’est une belle journée pour les Montréalais, soutient le ministre. Ces investissements stimuleront la croissance économique. » • The use of English quotation marks is increasing in French and usually follows English rules, for instance when the keyboard or the software context doesn't allow the utilisation of guillemets. The French news site Le Monde uses straight quotation marks. • English quotes are also used for nested quotations: • « Son “explication” n’est qu’un mensonge », s’indigna le député. • “His ‘explanation’ is just a lie,” the deputy protested. • The French Imprimerie nationale (cf. Lexique des règles typographiques en usage à l'Imprimerie nationale, presses de l'Imprimerie nationale, Paris, 2002), though, does not use different quotation marks for nesting: • « Son « explication » n’est qu’un mensonge », s’indigna le député. • “His ‘explanation’ is just a lie,” the deputy protested. • In this case, when there should be two adjacent opening or closing marks, only one is written: • Il répondit : « Ce n'est qu'un « gadget ! ». • He answered: “It's only a ‘gizmo’”. • Etc. Language: Standard ( primary / secondary). Alternative (primary / secondary ) English, UK: ( ‘…’ / “…” ). English, U.S: ( “…” / ‘…’ ). French: ( « … » / « … » or “…” ). ( “… ” / ‘ … ’ ) French, Swiss: ( «…» / ‹…›) German: ( „…“ / ‚…‘ ). ( »…« / ›…‹ ) German, Swiss: ( «…» / ‹…›) Chinese, Simplified: ( “…” / ‘…’ ).…………….(vì lý do kỷ thuật không đưa “dấu” lên được) Chinese, Traditional: (「…」 / 『…』 ). ( “…” / ‘…’) Russian: ( «…» / „…“). Czech: ( „…“ / ‚…‘ ). ( »…« / ›…‹) Spanish: ( «…» / “…” ) ( “…” / ‘…’ ) Etc.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 14, 2011 3:17:44 GMT 9
Hỏi Ngã. Tác Giả : Đoàn Văn Phi Long Viết cho đúng hỏi ngã là một vấn đề không đơn giản, làm nhức đầu một số người, đồng thời lại quá dễ dàng đối với một số người khác.
Có người không biết tại sao chỉ có hai dấu mà mình không làm sao nhớ được, người khác lại không thể tưởng tượng được lại có loại người không nhớ nổi hai dấu này. Người khác không cần thắc mắc, chỉ dùng một dấu, tới đâu thì tới, do vốn dễ dãi với mình, nghĩ rằng chắc không sao đâu, ai mà để ý. Vốn không chuyên môn về ngôn ngữ học- viết hỏi ngã còn chưa thông-nhưng thấy các sách chưa nói ra hết các khó khăn của hỏi ngã, vì đa số viết theo nhãn quan của người miền Bắc, quá rành về chính tả. Khi dạy Toán, người học toán dở thường dạy hay hơn những thầy quá giỏi về toán, vì họ hiểu rõ những sự khó khăn, chật vật của học trò. Bài này viết, theo cái nhìn của phương Nam, một phần dựa theo các thắc mắc do thân hữu đề ra, là bài khởi đầu trong số nhiều bài về thanh điệu tiếng Việt.
Vấn đề: Viết sai hỏi ngã vì là dân trường Tây
Nhiều người cho là tại vì học chương trình Pháp nên viết tiếng Việt sai chính tả.
Giải thích: Các nhà văn tiền chiến, như nhóm Tự lực văn đoàn, ai mà không học trường Tây, thế mà họ viết tiếng Việt đâu có sai. Vậy không phải chỉ có Tây, mà cả Ta cũng thế.
Vấn đề: Chữ thông thường dùng hằng ngày mà cũng viết sai
Nhiều từ, nghe hằng ngày cả chục lần, nói hằng trăm lần, đọc hằng chục lần, viết hằng mấy lần, bị sửa sai hằng ngàn lần mà chứng nào tật ấy, sai vẫn cứ sai hỏi ngã.
Giải thích: Tại sao tiếng Anh, tiếng Pháp chữ nào cũng dài thoòng, âm tiết kỳ lạ, nói giọng khịt mũi (Pháp), ưỡn ẹo như bóng (giọng Ăng lê), cà giựt như xe thổ mộ (giọng HongKong), cà xịt như xe lửa chạy (giọng Nga), rồ rồ trong cổ họng như bị hen suyễn (giọng Bắc Mỹ), líu lo dính cả lưỡi (giọng Japan trong phim Monkey magic), giọng Si Hà Nút của một số vùng VN, mà ít khi quên, trong khi chỉ có hai dấu quèn mà không nhớ. Thế nghĩa là thế nào?
Lý do là tiếng Anh Pháp không có dấu, chỉ cần nhớ âm tiết, vì thế còn ráng nhớ được, còn hỏi ngã thì chỉ khác tần số, mà tần số có thể bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nên rất khó nhớ, phải nói là không thể nhớ nỗi mới đúng.
Vấn đề: Học càng cao càng dốt hỏi ngã
Giải thích: Chính tả là môn bắt buộc ở tiểu học, nên ai cũng phải ráng nhớ, không nhớ thì bị ăn hột vịt lộn, nhưng khi lên Trung Học và Đại học vì còn rất nhiều môn khác để học, nên chính tả trở thành thứ yếu, nhất là hỏi ngã. Chính cả mấy thầy môn Văn không chấm điểm hỏi ngã, nên học sinh từ từ quên hết vốn liếng ở Tiểu học. Lên Đại học lại càng thoải mái hơn nữa. Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư và cả giáo sư, không-Bắc, mà viết không chính tả, và nhất là sai hỏi ngã, mới là điều kỳ lạ. Vài công ty ở Saigon, khi tuyển người, bắt làm đơn viết tay để kiểm soát chính tả. Viết sai chính tả là cho vào thùng rác vì bị nghi ngờ về trình độ.
Như vậy là chỉ có người Bắc, người mới vừa học hết tiểu học là được hưởng lợi, còn dân khác tốt nghiệp Đại học coi như ra rìa. Công ty có cơ bị sập tiệm vì nhận người không đủ trình độ.
Vấn đề: Không thể nhớ được hỏi ngã.
Vì không nhớ hỏi ngã nên có người cho mình có trí nhớ kém; có người cho là bộ nhớ (memory) của mình bị trục trặc, không chịu lưu giữ dữ kiện; có người cho là tại già trở nên lù khù; có người nghi ngờ mình mắc bịnh si khờ người già.
Giải thích: Không nhớ không phải tại mình già, mà tại vì hỏi ngã quá phức tạp không một ai có thể nhớ hết được, trừ phi là người Bắc. Có lời khuyên các bạn, nhớ được tới đâu hay tới đó, nhưng đừng cố gắng thái quá có cơ đi nhà thương Chợ Quán.
Vấn đề: Sách chỉ dẫn hỏi ngã có giúp ích nhiều không?
Giải thích: Hài thanh để viết đúng các từ láy được một nhà thơ tóm tắt bằng hai câu thơ sau đây:
Chị Huyền vác nặng ngã đau Anh Sắc không hỏi một câu được là.
Chỉ có 4 từ mà phải đặt thơ để nhớ, thế thì hằng trăm, có thể lên cả ngàn từ khác, thì phải giải quyết như thế nào đây, chẳng lẽ phải đặt thơ kiểu Lục Vân Tiên?
Khi đã nói đến mẹo tức phải ngắn gọn, chớ viết nguyên cả một cuốn sách vài trăm trang để chỉ dẫn hỏi ngã cho thiên hạ thì còn gì là mẹo, sách nghiên cứu thì có.
Người viết sách qui tắc hỏi ngã không thấy được cái khó khăn của người miền Nam, không biết được phương pháp tân tiến để học một sinh ngữ, không am tường phát âm miền khác, nên nêu ra hằng lô qui tắc, hằng trăm từ có hỏi ngã phải học thuộc lòng, và tin rằng ai cũng nhớ được.
Không ai có thể nhớ được nhiều như thế. Cứ cho là nhớ được đi, nhưng nhớ được bao lâu, vài ngày hay vài tuần?
Vấn đề: Software sửa chính tả ra sao?
Giải thích: Có khá nhiều software khá hay để sửa chính tả tiếng Anh, nhưng có rất ít cho tiếng Việt- có thể đếm được trên đầu ngón tay. Hơn nữa lại không đáng tin cậy lắm vì nhiều từ sửa trật lất, có lẽ có ít chuyên gia chú trọng đến tiếng Việt, hay cho tiếng quá dễ học, học chừng hai tháng là viết được ngay, nên không cần ba cái phần mềm lỉnh kỉnh này.
Vấn đề: Dùng tự điển để tra hỏi ngã được không?
Tự điển cũng không 100% chính xác. Có khi cùng một từ mà tự điển này viết khác tự điển kia. Tự điển, kể cả tự điển do chính quyền phát hành, thiếu các từ được cho là địa phương (miền Nam, Trung), các từ kỹ thuật hiện đại, các tiếng lóng, các tiếng Tây, từ Internet, phone text, phim tập...
Tự điển cũng chỉ là một trong những phương tiện để viết chính tả, nhưng tự điển cũng không thuận tiện cho lắm, vì quá chậm, cứ viết một chút lại phải tra tự điển mất hết mươi phút, như thế đâu còn hứng mà viết.
Vấn đề: Cứ theo giọng nói mà viết hỏi ngã.
Có người cho rằng viết hỏi ngã rất dễ, cứ lần theo giọng người ta nói, từ nào lên giọng là dấu ngã, từ nào xuống giọng là dấu hỏi.
Giải thích: Nhưng làm thế nào khi viết luôn luôn có người đứng kề bên để nhắc tuồng, không lẽ mình đi đâu cũng có một ông kè kè đi theo như mật vụ? Mà ai nhắc? Ông này là người Trung hay Nam thì không khá hơn.
Vấn đề: Hỏi và ngã khác nhau ra sao?
Giải thích: Ít ai phân biệt rõ ràng hỏi ngã khác nhau như thế nào. Đi hỏi mấy ông bạn thân người Bắc thì mỗi người trả lời một khác. Các đồ biểu diễn tả thanh sắc phát xuất từ miền Bắc cũng không cho ta một ý tưởng nào rõ ràng, vì rất lờ mờ, sai sót, và mỗi nơi trình bày một khác. Các mẫu ghi âm giọng nói từ Internet thì cũng không đem đến kết quả khả quan cho lắm, vì khác đây là phát âm lý tưởng, chỉ có trong một nhóm nào đó trong quá khứ, khác với phát âm hiện tại của người Hà Nội cũ và mới. Đa số cho rằng tiếng có dấu (~) thì có âm dài và cao, tiếng có dấu (?) âm ngắn và gọn.
Dấu ngã là falling-rising tone, nghĩa là tần số giảm xuống thấp, để rồi trồi lên cao hơn cả sắc, nên thanh sắc bắt buộc phải lơ lửng coi như không dấu. Dấu ngã có cuối tăng cao và creaky, hơi khác dấu hỏi miền Nam vì dấu này ngắn và thấp hơn sắc.Thí dụ bã phát âm đúng phải là bà a ạ Á (creaky, đột ngột dừng lại và âm độ to lên). Thanh ngã kiểu này có thể là rất hiếm vì dò hỏi mấy anh bạn thân người Bắc thì người nào cũng ngơ ngác.
Dấu hỏi miền Bắc là low falling-rising tone nghĩa là từ thấp (huyền) xuống thấp hơn nữa rồi bật lên một chút. Tần số thấp thì phải phát âm từ trong cổ họng nên cường độ quá nhỏ, coi như cái đuôi bị nuốt mất. Vì rất khó phát âm và không đủ thời giờ kéo dài nên thanh hỏi nghe gần như nặng. Bị lấn chỗ, nặng phải trồi lên trở thành không dấu.
Thanh bả, đúng phát âm lý tưởng miền Bắc, phải là bà ạ á, nhưng đa số phát âm thành bạ.
Câu “Ông từ Tư tự tử” nghe gần như là “Ông tư Tư tư tự”.
Xáo trộn hỏi ngã không thay đổi nghĩa
Khi người Bắc nói, nhiều từ có thể bị đổi tông. Nếu lên giọng là ngã, xuống giọng là hỏi, vì bị ảnh hưởng bởi các âm đứng kề bên, bởi tâm trạng người nói. Vui hay buồn, nghiêm trọng hay thư thả, thủ thỉ thì thầm hoặc la hét, đều có ảnh hưởng đến âm điệu, và như thế làm ảnh hưởng đến độ trầm bổng của tiếng nói. Hơn nữa, các thanh điệu miền Bắc hiện nay đều lơ lửng, nên có thể biến đổi y như tiếng BK, nghĩa là hài thanh, chẳng những áp dụng cho từ láy, mà còn áp dụng cho hầm bà lằng thứ khác.
Phần đối thoại dưới đây nghe lỏm được, xin đừng sửa chính tả vì cố ý viết theo giọng nói, dấu ngã là lên tông, dấu hỏi là xuống tông.
Ăn trộm, nói khẽ với đồng bọn, xuống giọng: Mầy có mang theo cái xà beng để mở cổng không hả?
Bà chủ nhà la lên: Thằng nào muốn mỡ cỗng nhà bà thế hỡ?
Đòi nợ, lên giọng: Mày có trã tiền cho tau không hã?
Con nợ xuống giọng năn nỉ: Đại ca cho em mai trả được không hả?
Buổi sáng vợ nói với chồng: Cởi tã cho con rồi chữa?
Tối lửa tắt đèn, vợ nói với bồ: Muốn cỡi thì cởi nhanh lên, làm gì như là rùa vậy hã?
Bồ: Khẻ chứ, cởi nhanh thế nào được nhẻ?
Phân biệt hỏi ngã không cần thiết
Lý do duy nhất được nêu ra, để bênh vực cho việc duy trì hỏi ngã, là chúng làm phân biệt từ này với từ kia, như lẽ khác lẻ, bả khác với bã. Lập luận này xem ra không vững chắc cho lắm, vì nói sai hay viết sai hỏi ngã người ta vẫn hiểu.
1. Nói: Ngay cả miền Bắc cũng phát âm khác nhau, dân Hà nội xưa khác Hà Nội nay, dân không-Hanội lại khác dân Hànội, Hànội di cư khác Hànội xưa...Không thể bắt người ta viết theo một nhóm nhỏ dần dần bị tuyệt chủng (theo cuộc khảo sát của Edmondson, chỉ có 50% dân miền Bắc nói đúng hỏi ngã).
Hỏi ngã không cần thiết vì dân Hànội nói người không-Hànội vẫn hiểu, mặc dầu hỏi ngã phát âm khác nhau. Lý do là một từ sẽ làm sáng tỏ bằng các từ kế bên, như trường hợp chữ viết. Người miền Nam, chỉ dùng thanh hỏi gần như thanh ngã, nói chuyện người Bắc có hiểu không? Vẫn hiểu như thường, có khi còn hiểu rõ hơn khi nghe vài vùng ở miền Bắc, như nghe dân đảo Cát bà, người Bắc di cư nghe dân Hànội ngày nay. Nhớ lại hồi xưa khi học lớp năm, khoảng 1948, thì đã có bạn thân là người Bắc, con của dân Bắc kỳ 30 cạo mủ cao su. Tụi này nói chuyện với nhau rất bình thường, không một ai nói là không hiểu, và cũng không phân biệt Bắc hay Nam, chỉ hơi lạ là có một thằng bạn nói N thành L và ngược lại, tuy lạ tai nhưng vẫn hiểu như thường. Hỏi quê ở đâu thì trả lời là Hải Dương, ngày nay mới biết là ở vùng biển người ta hay nói như thế. Xem ra nói lộn xộn hỏi ngã cũng không sao.
2. Chữ viết:
Nếu viết sai hay cố ý xáo trộn hỏi ngã thì người ta có hiểu không?
Vẫn hiểu như thường vì khi đọc, ta không mò từng chữ, nghiên cứu từng dấu một, mà lướt thật nhanh và bộ óc tự động đón nhận các thông tin.
Đọc một chút là chúng ta nhập thần, hòa mình vào trong bối cảnh, vào các diễn biến, vào các nhân vật, và quên hết sự việc xung quanh, đôi khi tưởng mình là nhân vật chính. Nếu đọc mà chú ý đến chính tả, văn phạm, hỏi ngã, chấm câu thì sẽ bừng tỉnh ngay lập tức.
Xin giải thích một cách tỉ mỉ hơn tùy theo từ đơn, từ kép hay câu.
Từ đơn: Đúng là hỏi ngã sẽ làm phân biệt từ đơn với nhau. Bả khác bã, bảo khác bão, bẩy khác bẫy, bỉ khác bĩ, bổng khác bỗng, võ khác vỏ, đẻ khác đẽ, kĩu khác kỉu, đã khác đả. Nhưng sự phân biệt này không thật cần thiết vì:
- Từ láy, không mang một nghĩa nào cả, thì cần gì phải phân biệt hỏi với ngã?
- Từ đơn chỉ có một trong hai dấu cũng không cần phân biệt. Ta thấy có từ phở nhưng không có phỡ, có từ giữ nhưng không có giử, có phẫu nhưng không phẩu, có cả nhưng không cã, có tủy nhưng không tũy. Vì chỉ có một dấu nên nếu có viết sai cũng không làm cho nhầm lẫn được với cái gì khác được.
- Từ đơn ít khi được sử dụng đơn lẻ, trừ trường hợp như bảng chỉ đường cần phải vắn tắt như Ngừng, Đi, Chạy, hoặc là từ đơn trong tự điển Việt Anh, mà lỡ có viết sai hỏi ngã, cũng không nhầm lẫn được vì đã có tiếng Anh kề bên.
Hồi xưa, thỉnh thoảng tại ngã tư có bảng “ Được phép quẹo phải khi đèn đỏ” dài loòng thoòng. Thắc mắc sao lại viết quá dài trên một bảng chỉ đường bé tí teo-không có trùng ngôn hay trùng ngữ, kể cả khi viết “sông Hồng Hà”, như một học giả gạo cội đã nêu ra. Khi có dịp sẽ bàn đến.
-Được chớ, “Đèn đỏ được quẹo phải”.
-Có thể thu gọn hơn “Đỏ được quẹo phải”, mà không sợ nhầm lẫn vì tại ngã tư thì chỉ có đèn mới đỏ thôi.
-Có thể ngắn hơn chút nữa không?
-Được chớ, “Được quẹo phải”, vì đèn xanh là đương nhiên, còn đèn đỏ là được phép, cả hai trường hợp đều đúng.
-Có thể thay đổi chút xíu nào nữa không?
-Được, “Được quẹo phãi”, vì chỉ có một từ mang dấu hỏi nên lỡ có viết phãi cũng không sợ nhầm lẫn với cái gì khác.
Dùng dấu hiệu thì gọn nhất
Bàn ra hơi xa, xin tiếp tục vấn đề còn đang dở dang.
Từ ghép: không cần phân biệt hỏi ngã, vì không thể nhầm lẫn được nhờ vào từ ghép, mà các từ này chiếm đa số, khoảng 95% tiếng HV và 70% tiếng Nôm.
Bả chuột, nếu có viết sai thành bã chuột đi nữa, thì làm thế nào nhầm với bã mía cho được. Tương tự, bảo bối khác giông bão, đòn bẩy khác bẫy thú, thô bỉ khác bĩ cực, bổng lộc khác với bỗng nhiên, con đỉa khác cái đĩa, máy đẻ khác đẹp đẽ. Cũng có trường hợp, nhưng rất hiếm, là từ ghép nói sai sẽ làm lẫn lộn với từ khác, như chẳng lẽ và chẵn lẻ.
Câu: hỏi ngã không cần thiết vì toàn bộ sẽ bổ túc cho nhau.
Câu “chẳng lẽ anh ta chơi chẵn lẻ” dẫu cho có đổi thành “chẵn lẻ anh ta chơi chẳng lẽ” thì tin chắc là ai cũng hiểu được.
Mỗi từ sẽ được làm cho rõ ràng hơn nhờ từ kề bên, nhờ vào một phần hay nguyên một câu. Viết không dấu trên Internet còn ráng đọc được, huống hồ là chỉ sai hỏi ngã.
Viết sai âm thì khác. Nói “en không en tét đèn ngầu chừa thượng đứa” thì không ai hiểu gì cả. Cứ thử tưởng tượng chữ QN, dùng để ghi phát âm của dân miền này, được công nhận là chính thức thì việc gì sẽ xảy ra? Ai viết “ăn không ăn tắt đèn ngồi chờ thượng đế” sẽ bị không điểm vì sai chính tả.
Chúng ta không phủ nhận là hỏi ngã nâng cao tính phân biệt từ đơn và một dấu đứng đơn lẽ, nhưng tính phân biệt này không thật cần thiết, đồng thời chính nó làm cho rất nhiều người, không-Bắc, viết sai tùm lum.
Đó là lý do tại sao hỏi ngã khó nhớ hơn âm tiết.
Tự đào thải
Thanh hỏi low falling-rising của dân không-Hànội từ từ sẽ biến mất và trở thành thanh nặng như dân Hànội, vì trong cuộc sống quá bận rộn, dân số càng ngày càng đông, sinh hoạt phải tăng tốc, nói phải nhanh mới kịp đà, không có đủ thì giờ để kéo dài nên phần đuôi ngóc lên sẽ biến mất. Và chính thanh hỏi trầm này đến lượt mình cũng biến dạng thành hỏi bổng vì nhiều nguyên nhân như sau:
- Tuy là phân biệt được với ngã nhưng lại trùng với thanh nặng, được đường này mất đường kia. Thay vì có 6 thanh, rốt cuộc chỉ còn lại 3 hay 4 thanh, ít hơn miền Nam.
- Hỏi trầm mới nghe thì cũng bình thường, nhưng nghe lâu có cảm tưởng người nói bị mệt mỏi, thiếu hơi.
- Người Bắc ngày nay có khuynh hướng dùng hỏi bổng, nếu họ có tiếp xúc thường xuyên với miền Nam. Chỉ có người Bắc di cư cố cựu, người Bắc chưa vào Nam còn xài hỏi trầm.
- Người trẻ Bắc lớn lên ở miền Nam hay ở nước ngoài sẽ không phân biệt được hỏi trầm với ngã, mà thay bằng vào đó bằng hỏi bổng. Các em này có giọng nói lai, nghĩa là một chút Bắc, một chút Nam (có các âm R, Tr, W, Y đầu từ), một chút Tây (nói các âm Fl, Bl, Dr...quá dễ dàng), nghe rất lạ tai, ngộ nghĩnh, dễ thương, và không giống ai. Các bạn có thể kiểm chứng lại bằng cách nghe các câu trả lời, bằng tiếng Việt, trong các cuộc phỏng vấn ca sĩ trẻ hay các cô thi hoa hậu.
- Khi muốn biểu diễn 6 thanh tiếng Việt thì hỏi bổng được sử dụng thay cho hỏi trầm, chứng tỏ có cái gì không ổn trong hỏi trầm.
Nếu chỉ còn thanh ngã thì cần gì phải phân biệt hỏi ngã?
Giọng chuẩn
Quan niệm chung cho rằng dân Nam Kỳ thì bê bối nhất, Trung Kỳ thì còn khá một chút, chớ Bắc Kỳ thì hoàn hảo trong việc sử dụng hỏi ngã. Vì giọng của người ta khi sinh ra vốn đã “chuẩn” rồi nên viết đúng chính tả. Nhưng thế nào là chuẩn?
-Chuẩn là nói đúng. Không có phát âm nào đúng và cũng không có phát âm nào sai. Đúng hay sai là phải có cái gì làm chuẩn để có thể so sánh. Người Bắc dùng rất nhiều từ Hán Việt trong khi miền Nam chỉ dùng tiếng Việt, và không có tiêu chuẩn nào để cho là từ HV đúng hơn tiếng nước ta. Bình Nguyên Lộc viết rằng từ HV chỉ là tiếng Tàu nói sai giọng. Đúng vậy, Pejing nói sai giọng thành Bắc Kinh, Zhongguò thành Trung Quốc hay Chzung Quốc, Yuènàn thành Việt Nam, Paris thành Bá le.â
-Chuẩn là phân biệt rõ ràng các âm, nghĩa là ít từ đồng âm khác nghĩa. Miền Bắc có nhiều âm tiết nên ít từ đồng âm, nhưng không có nghĩa là chuẩn hơn tiếng Hán, tiếng Nhật. Mỗi âm tiết tiếng các nước này có rất nhiều từ đồng âm, có từ có hơn một trăm từ đồng âm như từ “Yi” tiếng Hán có khoảng 170 từ đồng âm, thế mà khi nói hay viết thì họ vẫn hiểu nhau được. Đó là nhờ cách dùng từ ghép và viết dính lại trong phiên âm Latin để ghi tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật.
-Chuẩn là phổ biến nhất nghĩa là có tỉ số dân nói nhiều nhất. Phát âm ở đảo Cát Bà, ở bờ bể Tuy Hòa, ở xứ Quảng khá đặc biệt, ngay cả dân bản địa cũng không hiểu nỗi, không thể dùng để làm tiêu chuẩn cho tiếng Việt, không phải vì sai, mà vì có quá ít người sử dụng.
Nếu thế thì phát âm miền Nam đúng tiêu chuẩn nhất, vì phát âm miền Bắc chiếm độ 30%; miền Thanh Nghệ Tĩnh chừng 15%; miền Nam chiếm 55%-trải dài từ Nha Trang đến Cà Mau. Nói miền Nam chuẩn hơn thì hơi lộng ngôn một chút. Chuẩn phải là một cái gì khác.
-Chuẩn có nghĩa là được chính quyền công nhận. Điều này không có gì để bàn cãi vì có người viết rằng phân biệt dấu hỏi với dấu ngã là qui tắc chính tả Việt ngữ thống nhất trên toàn quốc.
Tại sao chỉ có dân miền Bắc viết đúng? Ai có thẩm quyền quyết định hỏi ngã?
Đây là vấn đề mấu chốt nhưng ít ai nói đến vì vô tình không biết, hay cố ý tảng lờ.
Không phải người Bắc viết đúng chữ QN, mà chữ QN được sáng tác theo phát âm miền Bắc, ngoại trừ các âm R, Tr, S. Vì thế, chữ QN thiếu các âm W, J, phụ Y đầu từ.
Không phải sắc lệnh, không phải tự điển chính thức, mà phát âm miền Bắc được dùng làm tiêu chuẩn cho chữ QN.
Bất kể là họ nói như thế nào, đúng hay sai, chữ QN đều phải viết theo y chang như thế. Thí dụ Washington, nếu ta viết đúng âm W như Wa Thịnh Đốn, là viết sai chính tả. Còn nếu ghi sai W thành H như Hoa Thịnh Đốn, thì lại đúng chính tả. Hawaii, nếu ghi đúng Ha wai yi là sai chính tả, còn ghi sai Ha oai di là đúng chính tả, thế mới kỳ. Ngay cả tiếng Nôm cũng thế, nếu viết đúng ngả chúi là sai chính tả, còn nếu viết sai thành ngã chúi thì lại đúng chính tả, vì tự điển dùng dấu hỏi cho nghiêng ngả, ngả nón nhưng dùng dấu ngã cho ngã chúi, ghi đúng theo phát âm lên giọng. Cả lũ nhưng lủ khủ, dỡ hổng nhưng dở bổng là thí dụ khác. Ngoài ra có nhiều từ miền Nam bị sửa lại cho đúng phát âm miền Bắc như mắc cở thành mắc cỡ, cù lủ thành cù lũ, lũ khũ (viết lủ khủ cũng đúng).
Và có hằng trăm từ bất chợt đổi tông như thế, ba hồi xuống giọng thành hỏi, ba hồi lên giọng thành ngả, không theo qui tắc nào cả, cho đã cái miệng của mình nhưng làm khổ cho cái đầu của người khác.
Người Nam và Trung, viết theo phát âm của mình, khác với miền Bắc, nên thường viết sai. Nếu cố gắng thì khá một chút nhưng phần đông viết mò quờ quạng y như hiệp sĩ mù điếc đi trong mua gió. Viết trật chính tả là chuyện tự nhiên, viết đúng mới là chuyện hi hữu.
Người Bắc viết “Cô Lan lang thang, mới tám tuổi tủi thân khóc ầm ĩ, âm ỷ bỏ ngõ bừa bãi nhà cửa” vì họ nói y chang như thế “Cô La-nờ la-ngờ tha-ngờ, mới tám tu-ụi tuị thân khóc ầm í, âm ỵ bọ ngó bừa bái nhà cựa”. Trong khi đó, người Nam viết “Cô Lang lang thang, mới tám tủi tủi thân khóc ầm ỉ, âm ỷ bỏ ngỏ bừa bải nhà cửa”, nói thế nào là viết thế ấy.
Thế tại sao dân miền Nam không dùng dấu ngã mà dùng dấu hỏi?
Lý do là người Nam phát âm hỏi hay ngã như nhau nên chỉ dùng một dấu. Chỉ dùng dấu hỏi vì liền sau câu hỏi là dấu (?), nên họ viết “hỏi” với dấu (?), một cách đúng logic, và các dấu ngã đều biến thành hỏi. Người Trung phát âm thanh hỏi và ngã thành nặng nên dùng dấu hỏi y như người Bắc.
Chữ viết không được phổ biến
Một ngôn ngữ hay chữ viết muốn được phổ thông thì trước tiên là phải dễ học, dễ nhớ, lâu quên, sắc tộc nào nói cũng nói được, có thể nói nhanh (để lồng tiếng cho kịp), bắt chước dễ dàng tiếng Anh Pháp (để nói cho cho đúng giọng). Ngôn ngữ phong phú là do từ chính xác, phân biệt, rõ ràng, cấu trúc mạch lạc, chứ không phải là do sử dụng hỏi ngã quá phức tạp, gây phiền phức cho hơn 70% tổng số dân của một nước- muốn biết hỏi ngã khó cỡ nào, xin xem các bài kế.
Chữ Đại Hàn thay thế chữ Hán; chữ giản thể của Trung Quốc; tiếng Pháp bị tiếng Anh lấn lướt vì quá phức tạp, là các gương sờ sờ trước mắt, mà sao không thấy.
Khi viết người không-Bắc chỉ dùng có nữa bộ óc, phần còn lại dùng để kiểm soát dấu, như thế đâu còn hứng để mà viết. Viết như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam vừa hay vừa không sai chính tả thì bộ óc chắc phải có gì đặc biệt.
Viết đúng chính tả là làm đẹp hình thức
Có người viết chỉ có hình thức, đúng chính tả, đúng chấm câu, chơi chữ, vòng vo tam quốc, khó hiểu vì dùng từ chuyên môn- một cách vô tình hay cố ý- để không ai hiểu được muốn nói cái gì, nhưng nội dung rỗng tuếch.
Nếu viết cho bạn bè thân hay vợ con trong nhà đọc thì muốn vẽ rồng rắn gì cũng được, ngược lại nếu viết cho người khác đọc thì phải rất thận trọng, trong chính tả nói chung và hỏi ngã nói riêng. Nếu không sẽ bị phê bình là có mác Tiến sĩ, Thạc sĩ hay Bác sĩ mà viết trật chính tả. Các bài viết, biên khảo, nghiên cứu dù có công phu cách mấy cũng mất một phần giá trị đi.
Đúng là rừng hỏi ngã hỏi ngã
Quí vị trường Tây thì nên viết bằng tiếng Anh Pháp coi bộ dễ hơn rồi chịu khó tìm người chuyển dịch chữ Việt.
Không có chữ nước nào, kể cả Anh, Pháp, Ấn, Campuchia, Thái Lào, và cả chữ Hán tượng hình, khi viết cứ mươi phút lại phải dùng tự điển kiểm tra hỏi ngã. Và cũng không có chữ nước nào, càng học cao lại càng dốt- tốt nghiệp Đại học viết thua người có trình độ tiểu học.
Cách viết đúng chính tả: Trong khi chờ đợi sự cải cách, có thể viết đúng hỏi ngã bằng cách
-Áp dụng qui tắc không sắc hỏi, huyền nặng ngã
cho từ láy. Nhưng với từ láy nào là cả một vấn đề, nếu kết hợp không đúng sẽ viết sai. Thí dụ rõ ràng, ro rõ, lảng ồ, lơ lảng.
-Từ HV viết hỏi khi các phụ âm đầu là Ch, Di, Kh và không có phụ âm đầu như ải, ảo...; viết dấu ngã cho khi phụ âm đầu là D, L, M. N, V
-Từ miền Nam, Trung viết dấu hỏi.
Trên đây là qui tắc có thể nhớ được. Phần còn lại, không thể nhớ hết được, có thể giải quyết bằng một trong các cách dưới đây
-Sử dụng tự điển điện tử để tra cứu hay tự động sửa chữa, lẹ hơn là sách tự điển.
-Thay bằng dấu khác. Có thể thay cả hai dấu hỏi ngã bằng một dấu nằm nghiên 45 độ như hình dưới đây, tạm đặt tên là dấu “nghiên”
Phương cách này rất thích hợp để viết tay, nhưng phải viết kiểu nước đôi hay mờ ảo như chữ Bác sĩ, để không ai bẻ được. Để có thể dùng trong computer chắc phải nhờ một người nào đó cài thêm dấu này vào trong các chương trình viết tiếng Việt.
Trên đây chỉ là vài ý kiến thô thiển, nếu thấy sai thì xin chỉ giáo, nếu trái tai thì xin bỏ qua cho.
(Úc Châu- 22-Feb-07)
|
|