|
Post by Huu Le on Nov 19, 2006 6:25:52 GMT 9
CHẤT LƯỢNG ỐNG KÍNH -------------------------------------------------------------------------------- Lai Huu DucNgày xưa, người ta có khuynh hướng đánh giá một ống kính tốt hay không, theo vài tiêu chuẩn như : Giá thành (giá càng cao thì ống kính càng tốt), Khẩu độ mở lớn nhất (trị số này càng nhỏ thì được hiểu ống kính chất lượng cao hơn), Một khẩu độ cho ống kính zoom được đánh giá cao hơn ống zoom hai trị số khẩu độ, ... Ngày nay, người ta vẫn đánh giá như thế, nhưng với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, về tính tiện nghi, tính hiện đại, người ta tạo ra được rất nhiều cấu trúc thấu kính mới rất tuyệt vời (Apochromatic, Aspherical, Extra low dispersion {ED}, ..., dù trước kia đã có, nhưng nay đã cải tiến vượt bậc), và những nhà sản xuất đã đưa những cấu trúc này vào những dòng ống kính rẻ tiền hơn, mà chất lượng không còn là vấn đề phải bàn nữa. Những ống kính zoom (trước kia, thường được đánh giá thấp hơn ống kính fix) nay được tập trung nghiên cứu chế tạo, và thực tế là đã có những ống kính zoom có chất lượng cao hơn các ống kính fix đồng cấp. Những lớp tráng phủ chống lóe (multi coated), cũng ngày càng tốt hơn, và họ còn tráng cả trên những phần nằm phía sau của ống kính (mà trước kia khá nhiều hãng không coi trọng), để phục vụ những dòng máy ảnh số hiện đại. Vấn đề tiêu cự cũng là một vấn đề lớn trong thời đại SỐ. Thông thường thì những ống kính có tiêu cự càng gần với ống kính trung bình thì chất lượng càng tốt, và tiêu cự càng tiến về hướng tele thì khả năng ghi nhận chi tiết càng tốt hơn. Như thế, do kích thước con chíp máy số khá nhỏ hơn mặt phim 35mm, nên trị số tiêu cự trung bình bị lùi lại về hướng wide (nghĩa là chất lượng kém hơn). Không phải vô cớ mà khá nhiều nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp quyết định chọn những máy số full frame (có sensor bằng với phim 35mm), với những trị số tiêu cự lớn hơn, và thường sẽ cho chất lượng tốt hơn. -------------------------------------------------- NHỮNG ĐỊNH NGHĨA CƠ BẢN NHIẾP ẢNH -------------------------------------------------------------------------------- Một vài định nghĩa, có thể giúp bạn phần nào : -TIÊU CỰ : tiêu cự của một ống kính (cố định), là một trị số được tính theo đơn vị là milimet (ngày xưa, người ta có dùng cả đơn vị cm, inch nữa, nhưng nay không còn), được ký hiệu là F, và bằng khoảng cách từ quang tâm ống kính đến mặt phim (hay sensor), khi điểm lấy nét đặt ở vô cực. Vị trí quang tâm thường tại ngay nơi đặt lam khẩu độ (đây là nơi chùm tia sáng đổi chiều trước khi vào đến mặt phim). Những ống kính zoom, cũng tuân theo luật này, nhưng do cấu trúc ngày càng hiện đại, nên đôi khi khó nhận thấy rõ vị trí quang tâm này. - KHẨU ĐỘ : là độ mở của một ống kính (nó được điều khiển bởi những lá lam nhỏ, mỏng), ký hiệu là f, nó cho phép những lượng ánh sáng cố định đi xuyên qua, để vào tác động lên mặt phim (hay mặt con chíp). Một phép tính đơn giản : Đường kính lỗ mở = trị số tiêu cự chia cho trị số khẩu độ. (D=F/f). Và chúng ta có thể thấy là trị số khẩu độ và đường kính lỗ mở tỷ lệ nghịch với nhau, nên hễ trị số khẩu độ càng nhỏ thì đường kính lỗ mở càng lớn (ánh sáng vào nhiều), và ngược lại, khi trị số khẩu độ càng lớn, thì đường kính lỗ mở càng nhỏ (ánh sáng vào ít). Những trị số khẩu độ tiêu chuẩn : 1, 1.4, 2, 2.8, 4, 5.6, 8, 11, 16, 22, 32, 45, 64, 90, 128, 256 (những trị số khẩu độ trên 32, thường thấy trên các ống kính máy VIEW CAMERA, và ở những dãy tele trên 300mm). Từ trị số này sang trị số kia biểu thị một lượng ánh sáng vào gấp đôi hay phân nửa. - TỐC ĐỘ : là mức độ chập nhanh hay chậm của hệ màn chập (có màn chập lá, màn chập rèm ngang, màn chập rèm đứng {được dùng trong hầu hết máy thế hệ mới}). Những con số xuất hiện trên máy chụp là thể hiện tắt của trị số nghịch đảo của giây (second, s). Như 1/4s được ký hiệu là 4, con số 500 sẽ được hiểu là 1/500s. Vì là con số nghịch đảo, nên số càng lớn thì tốc độ chập càng cao (độ rung ít hơn), số càng nhỏ thì tốc độ chập càng chậm (dễ rung hơn), người ta còn đưa cả tốc độ âm (nhiều hơn 1s) vào, và lên đến khoảng 30s, ngoài ra, tốc độ B được hiểu là dạng tốc độ chậm tùy ý (nếu bấm nhanh, có thể đạt được ngưỡng 1/8s, hay 1/15s, còn chậm thì có thể là vài phút, vài giờ, ..., và người ta khuyên nên dùng dây bấm mềm). Những trị số chuẩn : 30s, 15s, 8s, 4s, 2s, 1, 2, 4, 8, 15, 30, 60, 125, 250, 500, 1000, 2000, 4000, 8000, 16000 (hiện giờ, rất ít máy có tốc độ chập trên 1/8000s, Minolta có 1/12000s, hình như chưa có máy nào vượt tới ngưỡng 1/16000s). Và ta cũng dễ dàng nhận thấy ứng với mỗi trị số tốc độ, là lượng sáng vào gấp đôi hay phân nửa. - TRỊ SỐ THỜI CHỤP : là sự liên kết giữa hai thông số Khẩu độ và Tốc độ, để có được một lượng sáng phù hợp tác động lên mặt phim. Và ứng với một trị số thời chụp cố định (một lượng sáng cố định), người ta có thể thay đổi trị số khẩu độ, trị số tốc độ sẽ thay đổi theo tương ứng, từng nấc một. - VÙNG ẢNH RÕ : được hiểu là một vùng quanh điểm lấy nét, tại nơi này, điểm được thể hiện bằng những chấm có kích thước nhỏ nhất, và nó sẽ nở dần ra thành những vòng mờ, lớn dần từ ngưỡng 1/3 phía trước, và 2/3 phía sau, và càng xa dần thì vòng mờ càng nở lớn. Có ba yếu tố liên quan đến vùng ảnh rõ : + Tiêu cự : Tiêu cự càng ngắn thì vùng ảnh rõ càng rộng, tiêu cự càng dài thì vùng ảnh rõ càng hẹp. + Khẩu độ : Khẩu độ càng mở lớn (trị số nhỏ) thì vùng ảnh rõ càng mỏng, khẩu độ càng đóng nhỏ, thì vùng ảnh rõ càng rộng (nét sâu). + Điểm lấy nét : Điểm lấy nét càng gần thì vùng ảnh rõ càng hẹp (khi chụp cận), điểm lấy nét càng xa thì vùng ảnh rõ càng rộng (khi chụp ảnh phong cảnh). - ISO : đây là chữ viết tắt của International Standard Association, tuy nhiên, khi viết tắt, nó không chỉ mang ý nghĩa của một tổ chức, nó được mang một nghĩa mới, đó là những tiêu chuẩn do tổ chức này ban hành. Và trước khi mang tên này để chỉ độ nhạy phim (trong lãnh vực nhiếp ảnh), nó còn có các tên ASA (American Standard Association), DIN (của Đức, trị số tính có khác, chỉ thông dụng ở các nước trong khối XHCN, nay không còn dùng). Những độ nhạy phim thông dụng (tiêu chuẩn) : 25, 50, (64), (80), 100, (125), (160), 200, 400, 800, (1000), 1600, 3200 (những trị số trong ngoặc đã từng được dùng trong quá khứ). Ứng với mỗi trị số chuẩn (không ở trong ngoặc), là độ nhạy của phim (hay số, digital) gấp đôi hay phân nửa những trị số đứng trước hay sau nó. Các bậc tiền bối có đưa ra những tiêu chẩn để giúp đánh giá một bức ảnh tốt hay không : NĂM TƯƠNG PHẢN. - Tương phản về tỷ lệ (lớn-nhỏ, cao thấp, gần xa, ...) - Tương phản về động tĩnh (chủ thể động thì hậu cảnh tĩnh, và ngược lại,...) - Tương phản về mờ rõ (có thể mờ do ngoài vùng ảnh rõ, có thể mờ do chuyển động,...) - Tương phản về sắc độ (đậm nhạt, sáng tối, ...) - Tương phản về ý nghĩa (giàu-nghèo, văn minh-lạc hậu, quân tử-tiểu nhân, yêu-ghét, thịnh-suy, ...) Thông thường, trong các cuộc thi, người ta tiến hành các bước để thẩm định ảnh như trên (và trong quá trình sáng tác, tại sao chúng ta lại không quan tâm nhỉ ?). Một Nhiếp ảnh gia thế hệ gần đây, có bổ sung thêm : - Tương phản về màu sắc (màu nóng và màu lạnh, và cả những tương quan với màu trung tính). - Tương phản về thuận nghịch (giữa các hướng nhìn khác nhau). Đường nét trong bố cục Lại Hữu Đức ARPS, APSHK, Hon. F. APA etc... - trích Ảnh Nghệ thuật tập I (Sài Gòn, 1971) Khi đề cập đến bố cục là nói đến đường nét, vậy chúng ta thử tìm hiểu và phân tách vai trò quan trọng của đường nét trong bố cục để xây dựng tác phẩm. Như chúng ta đã thấy, ánh sáng chiếu vào những hình thể trong vũ trụ, tạo nên đường nét. Đường nét có thể là đen, là trắng, là xám, cũng có thể to hoặc nhỏ và không bắt buộc phải liên tục. Tùy theo tính chất và vị trí của đường nét, tùy theo những đường viền kết hợp thành nó, nên đường nét có thể làm rung cảm tâm hồn và tạo những nguồn cảm xúc khác nhau. Đường nét là căn bản xây dựng nội tâm của ảnh : thẳng, cong hay gẫy khúc, nó có thể cho nhìn thấy hoặc cụ-thể-hóa ra, hoặc gợi ra (trong phong cảnh không có đường nét lớn để lấy làm chính thì sự liên lạc hữu hình hoặc vô hình là đường nét chính) cho người xem. Đưòng nét có thể là ngang, là dọc, là chéo. Đường nét có thể đặt theo những nhịp điệu có nhiều tương ứng với chúng ta, bởi vì nó bắt nguồn từ những sự biểu lộ tự nhiên và nó lược-đồ-hóa sức mạnh ấy tùy thuộc loại hình ảnh trình bày không thay đổi từ ngàn xưa. Như vậy người ta ghép ý nghĩa trang nghiêm với đường dọc, phẳng lặng với đường ngang, sống động với đường chéo. Và đường thẳng vẫn có ý nghĩa là cứng rắn, là nghiêm khắc, đường cong diễn tả sự rung cảm và sự trọn vẹn, đường gấp diễn tả sự sống động và hỗn loạn. Sự cân xứng của ảnh phần chính nằm trong sự tương hợp giữa những đường nét và những mảng đậm lợt. Vì cân xứng không có nghĩa là cân đối nên người ta xếp bố cục bằng hai cách: 1/ Bố cục cân đối 2/ Bố cục không cân đối Bố cục cân đối a/ Theo toán học: Cân đối là hai đối xứng ở hai hình bằng nhau, cách đều nhau hai bên một điểm hoặc một cái trục nhất định. b/ Nghệ Thuật : Về phương diện nghệ thuật, cân đối là sự phù hợp về kích thước, về tương xứng của những phần khác nhau của cơ thể và tương xứng của những phần ấy với toàn cục. Kết quả là một tổng hợp điều hòa tẻ nhạt về hình thức mà những tương xứng phối hợp lại một cách đều đặn. Sự cân đối là căn bản của kiến trúc. Những nghệ sĩ thời cổ thường dùng nó để khai diễn những đề tài tôn giáo, những hình thái khắt khe, cứng rắn một cách trang trọng. Người ta thường dùng nó cho những ảnh về lâu đài, nhà thờ v.v... Đường dọc là đường chế ngự trong bố cục cân đối, và bố cục cân đối là một cách bố cục đầy đặc tính trang trọng. Nó có thể giảm đi. Nếu bố cục theo hình tam giác thì nó sẽ có sự linh động phần nào trong toàn thể. Bố cục cân đối đưa đến sự tẻ nhạt, ít gợi cảm, càng tránh được càng tốt. Tuy nhiên có khi người ta muốn nghịch ngợm, dùng cách bố cục cân đối để nhạo cổ điển. Bố cục không cân đối Bố cục không cân đối là nguồn cảm hứng phóng khoáng của nghệ sĩ. Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng trong ký ức thẩm mỹ của tác giả. Đối với loại bố cục này ta phải chú ý đến sự cân xứng, nó có liên hệ chặt chẽ với phép phối cảnh. Đường nét là nền tảng của bố cục nên nhờ nó mà ta tìm cảm hứng và dùng nó làm địa bàn đi tìm trọng tâm ( cùng nghĩa là chủ điểm ) và sự cân xứng của ảnh. Nhưng nếu khai diễn sắc thái của đường nét, ta sẽ thấy bố cục của cách bố cục không cân đối. Trong lãnh vực đó người nghệ sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì những đường tạo ra trong lúc cảm hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà mình muốn và gợi ý ra những trạng thái nó đưa đến bố cục chót. Đường nét là yếu tố sáng tác của nghệ sĩ, nhưng khi không đạt được sự gợi cảm, thì dùng đường nét chỉ là đường nét mà không là nghệ thuật. Có nhiều cách bố cục, nhưng có một cách giản dị là bố cục theo mẫu chữ cái. Mỗi một chữ theo bản thể của nó là một bố cục đồ bản trên một diện tích trắng hay là trong không gian. Có một số chữ theo với bố cục đồ bản trội hơn những chữ khác. Nhưng phần nhiều những chữ được áp dụng là những chữ giản dị trong sự không cân đối của nó : G, Z, J, C, S, U, L, I, v.v... Trong bố cục không cân đối, nên tránh để chân trời chia ảnh ra làm hai phần bằng nhau, phần trời và phần đất đều nhau sẽ không làm cho ta chú ý đến phần nào và mắt cứ đưa từ phần này qua phần khác. (Trong một vài trường hợp cũng có thể để chân trời ở giữa tùy theo sự suy diễn của tác giả.) Trong phong cảnh để chân trời ở 1/3 trên hoặc ở 1/3 dưới tùy theo tác giả muốn đặt phần quan trọng diễn tả ở phần trên hay phần dưới: như muốn tả về trời, về mây thì để chân trời ở 1/3 dưới, còn nếu muốn nhấn mạnh về cảnh mặt nước, cảnh trên mặt đất thì để đường chân trời ở 1/3 trên.
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 19, 2006 6:27:35 GMT 9
Những cái Nhìn Lại Hữu Đức Hồi chưa gia nhập lãnh vực nghệ thuật, tôi đọc sách, báo nhiếp ảnh thường thấy viết và luận về " cái nhìn ". - Có lúc thì nhún nhường : tập nhìn cảnh vật trước mắt. - Có lúc thì cao kỳ : nhìn trên cái nhìn tầm thường, nhìn bằng nửa con mắt. - Có lúc thì dữ dằn hay mơ màng : bắt cái nhìn, khóe nhìn, nhìn qua cửa sổ. Tôi thầm nghĩ, người ta sinh ra đương nhiên là có mắt và biết nhìn, phân biệt xấu hay đẹp mà sao bộ môn nhiếp ảnh lại có nhiều cách để nhìn. Nhìn biết thế nào là đẹp, biết thế nào là xấu. Khi tôi mua được cái máy ảnh, thường là chụp ảnh kỷ niệm gia đình, đôi khi cũng chụp ảnh phong cảnh. Cảnh đồi núi hay đồng quê bao la thật là đẹp mà khi chụp vào ảnh làm tôi thất vọng. Chỉ thấy đồi, núi, cây cối, sông ngòi loạn xạ không còn là cảnh đẹp nữa. Kiểm điểm lại khả năng của mình cần phải học hỏi, nên tôi ghi tên theo học lớp nhíếp ảnh. Một phần lãnh hội được lời giảng dậy, một phần chụp ảnh thực hành cùng đọc sách báo, tôi mới dần dần giải tỏa được những thắc mắc nêu trên. Mắt Người Và Ống Kính Ống kính vô tri vô giác, chỉ ghi lại một cách trung thực, hiện thể diễn biến trước mắt trong một khuôn khổ hai chiều của bức ảnh. Con mắt người ta là một cơ thể nối liền với óc, những hình ảnh gì mắt ghi nhận được là do trí tuệ chi phối : ghi nhớ, nhận xét, suy luận. Cảnh đẹp trước mắt nếu chỉ bấm máy thu hình ảnh, mà không dùng đến trí óc nhận xét, suy diễn thì khó mà đạt được mức nghệ thuật. Nghe giảng về bố cục, chụp ảnh là vẽ bằng ánh sáng. Ánh sáng chiếu vào cảnh vật trong vũ trụ cho ta thấy những hình thể, đường nét, sắc độ chi tiết, phối cảnh và màu sắc. Đó là những yếu tố để bố cục, còn thêm nữa là phương pháp bố cục. Thuần nhất, biến đổi khác nhau, nhịp nhàng cân xứng kích thước tỷ lệ. Tập Nhìn Cảnh Vật Trước Mắt Có được một ít kiến thức nghệ thuật rồi, tôi nghĩ đến tự luyện, tập nhìn cảnh vật trước mắt, dù là ở trong nhà hay ngoại cảnh, dù là gần hay xa mà không dùng máy ảnh. Thấy ánh sáng cửa sổ chiếu vào mặt bàn, có để ít đồ gia dụng, tôi cũng sắp xếp lại để bố cục. Thấy ở góc nhà có xe đạp, đồ chơi trẻ em. Thấy ngoài sân, bóng cây đổ trên lối đi cùng vài đôi giày dép, tôi cũng xử dụng bố cục. Luôn luôn tập luyện để mỗi khi đưa máy ảnh ra thu hình, đỡ lúng túng, làm chủ được tình thế trước cảnh và còn có thể tiết kiệm, đỡ phí phạm phim, giấy ảnh cho những ảnh sai bố cục sẽ loại đi. Nhìn Qua Cửa Sổ Được nghe nói bố cục là phải đóng khung để giới hạn khoảng ghi nhận cho máy ảnh nên tôi đã phải xử dụng một miếng bìa đen cứng to bằng bàn tay, ở giữa có khoét một lỗ hình chữ nhật 2x3 inches để đưa lên mắt nhìn hoặc dùng khung của slide nhìn qua bố cục thay cho kính nhắm ( viseur ) khỏi phải mở máy ảnh ra mà không sử dụng thu hình... Tôi còn cẩn thận chia ô chữ nhật trên ra ba băng dọc để có được chín ô chữ nhật nhỏ đồng đều trong khung ( dùng giây chỉ đen dính vào bìa cứng để phân chia ) và còn phải để ý bốn điểm mạnh ở bốn góc ô chữ nhật nhỏ ở chính giữa. Lại còn chủ đề, hậu cảnh và tiền cảnh; Chủ đề là trọng tâm của ảnh, đặt ở một trong bốn điểm mạnh đừng để những chi tiết của hậu cảnh hoặc tiền cảnh tranh giành ảnh hưởng với chủ đề, chi phối nhãn quan của người xem ảnh. Ngoài ra bối cảnh lại rất cần để phụ giúp chủ đề diễn tả theo đề tài đã chủ trương thực hiện. Tôi còn luyện cái nhìn bằng cách soát lại những ảnh cũ đã loại đi, nghiên cứu những đường nét, những mảnh đậm, lợt để cắt xén, có thể nói là bố cục lần thứ hai, lắm khi những ảnh coi như đã bỏ đi nhưng nay cắt xén những chỗ không phù hợp, không cân xứng, hoặc những chỗ rườm rà để lộ ra những đường nét mạnh, sắc độ mạnh làm nổi bật chủ đề phù hợp với nguyên tắc của bố cục. Nhìn Trên Cái Nhìn Tầm Thường Danh từ dùng có vẻ trừu tượng, nhưng bên nghệ thuật còn có phần khêu gợi sự tò mò, muốn tìm hiểu để tạo cảm giác. Được hiểu là con mắt người ta là một cơ thể nối liền với óc, những cái gì mắt ghi nhận là do trí tuệ chi phối. Nên chỉ nhìn theo bố cục chưa đủ vì bố cục chỉ là hình thức, còn phải nhìn theo quan niệm của mình bằng sự nhận xét, nhìn theo kinh nghiệm theo kiến thức bằng trực giác. Đây có thể nói là một trong những yếu tố chính để sáng tác nghệ thuật. Mắt nhìn nhưng óc suy tư, vận dụng sự nhận xét khả năng bày đặt, tìm hiểu tinh tế v những hình thật đã ghi vào tiềm thức để mang ra trình bày trước ống kính. Nhìn nghệ thuật khác với nhìn thông thường ở chỗ phải suy diễn, tạo nội dung cho ảnh và trình bày ảnh sao cho độc đáo, gợi cho người xem ảnh cùng chia sẻ tâm tư với tác giả. Nhìn Bằng Nửa Con Mắt Lim dim hé mắt nhìn cảnh trước mắt, đôi khi phải áp dụng chốc lát để cho chi tiết và màu sắc trong cảnh mờ nhòe mà chỉ còn những hình thể chia những đường nét chính hiện diện dễ bề cho bố cục. Một phương pháp bên hội họa cũng thường xử dụng. Luôn luôn màu sắc làm bắt mắt trước tiên, rồi đến những chi tiết quá đẹp làm chi phối óc nên không nhận xét được dễ dàng những yếu tố bố cục. Bắt Cái Nhìn Bấm máy đúng lúc để ghi nhận được sự diễn tả đúng mức của người mẫu. Mắt là cửa sổ của tâm hồn, là trung tâm biểu lộ tâm tư, mắt truyền ra cái nhìn cảm xúc, cái nhìn hồn nhiên, cái nhìn xúc động v.v... người ảnh nên nhận xét và ghi lúc cao độ của đôi mắt để diễn tả. Khóe nhìn Lối suy diễn để ghi vào ảnh theo cá tính của người ảnh. Dù là sử dụng nghệ thuật hay kỹ thuật, người ảnh đưa ra cái nhìn theo nhận định của mình về chủ đề với một phong cách riêng. Chọn góc cạnh thu hình khác thường để trình bày quan điểm của mình, thử thách đưa ra một đường lối riêng để được chấp thuận. " Cái nhìn " nhiếp ảnh thật phong phú, dù là nhìn trên xuống, nhìn dưới lên làm sao cho có sự dung hòa giữa mắt người và ống kính, giữa tâm trí và kỹ thuật để diễn tả thế giới trước mắt theo quan niệm của người ảnh. ----------------------------------------------------- ÁNH MẮT TRONG ẢNH CHÂN DUNG -------------------------------------------------------------------------------- Trong ảnh chân dung, bất kể là đóng khung đến đâu, mặt quay theo hướng nào, nhưng nếu ánh mắt hướng về phía ống kính (thực chất được hiểu là nhìn về phía người xem) thì đó là một tạo thế mạnh nhất. Và nếu trong vùng con ngươi, có thể thấy được những đốm sáng nho nhỏ (tạo độ lung linh cho ánh mắt), thì rất tốt. Ánh mắt có thể mang tính tiềm ẩn (cúi xuống), hơi suy tư (khép nhẹ), ngang bình thường, hơi ngước lên (ngạc nhiên), hướng tầm mắt ra xa (vô định), ngước lên nhìn trời (xem có bằng vung hay không), ... Mà để tạo ra được những ánh mắt này thì không phải chỉ làm việc đơn giản là bảo người mẫu nhìn lên, nhìn xuống, mà nên sâu xa hơn, nên nói chuyện, gợi ý, gợi mở về quá khứ, về ưu tư hiện tại, về dự định tương lai, ..., những cái nhìn xuất phát từ nội tâm sẽ có sức mạnh rất lớn. -------------------------------------------------------- MẶT TRỜI -------------------------------------------------------------------------------- Về phương diện vật lý, thì mặt trời là một nguồn năng lượng gần như vô tận, hết ngày lại đêm, hết sáng lại tối. Đây là nguồn sáng chuẩn mà không chuẩn, người ta nhìn mọi vật dưới ánh sáng trời với những sắc màu rực rỡ, và người ta đã lấy đó lảm chuẩn cho ánh sáng trắng (khoảng 5000oK-6000oK), nhưng thực ra ánh sáng trời có nhiệt độ màu thay đổi rất nhiều trong một ngày, và nó hoàn toàn độc lập với cường độ sáng. Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, nhiệt độ màu lên rất cao, có thể lên đến 10.000oK. Khi những tia sáng mặt trời đầu tiên ló dạng, vùng có tia sáng chiếu tới, có nhiệt độ màu thay đổi rất nhanh, từ khoảng hơn 2.000oK mau chóng tăng dần lên đến 5.000oK vào khoảng 8 giờ sáng, sau đó tăng chậm hơn, và đến giữa trưa, nhiệt độ màu của vùng có ánh sáng trời chiếu tới, khoảng 6.000oK. Đây là ngưỡng cao nhất của vùng có ánh sáng trời chiếu vào (ánh nắng), và nhiệt độ màu lại trên đường đi xuống, đến khoảng 4 giờ chiều, thì nhiệt độ màu có thể xuống đến khoảng 4.000oK, và giảm nhanh đến khi mặt trời lặn hẳn. Khi này nhiệt độ màu lại tăng cao (do chỉ nhận sáng của bầu trời, mà không phải sáng của mặt trời), có thể lên đến trên 10.000oK. Nhiệt độ màu của bầu trời rất khác với nhiệt độ màu của ánh sáng trời, nó ở ngưỡng rất cao, có thể khoảng 10.000oK, và nó xuất hiện nơi vùng không có ánh nắng. Như trong bóng râm của mái hiên nhà, hay cây cối, mà ngoài trởi nắng chang chang, thì nhiệt độ màu khoảng 6.000oK đến 6.500oK, hơi ngả xanh nhẹ, vì có sự hòa trộn giữa hai nguồn sáng, nhưng khi bầu trời đầy mây (không thấy mặt trời), nhiệt độ màu nằm ở ngưỡng khá cao, 7.000oK - 9.000oK. Khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc đến sau đó hai tiếng (khoảng 7g đến 8g, tùy mùa), rồi khoảng hai tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, đến khi mặt trời lặn (khoảng 16g - 18g), được gọi bằng một cái tên rất ấn tượng GOLDEN HOUR (thời khắc vàng), và nó đúng theo cả hai phần nghĩa đen và nghĩa bóng. Đó là về khía cạnh vật lý quang học của mặt trời tác động lên vật liệu nhạy sáng (cả phim lẫn số), còn về phương diện nghệ thuật thì sao ? Mặt trời như nguồn sức sống vô tận, nguồn sáng vô biên, hào quang rực rỡ, vinh quang rạng ngời, kim chỉ nam cuộc sống, ..., ý nghĩa của nó thay đổi rất nhiều theo năm tháng, theo vùng miền lãnh thổ, theo quan điểm triết học, đạo đức, ..., và nhiếp ành vận dụng tốt được cả hai khía cạnh này trên con đường sáng tạo nghệ thuật.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 4, 2007 10:36:11 GMT 9
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 5, 2007 16:46:06 GMT 9
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 5, 2007 16:49:45 GMT 9
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 5, 2007 17:00:33 GMT 9
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 5, 2007 17:02:11 GMT 9
|
|
|
Post by Huu Le on Feb 5, 2007 17:09:06 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2008 5:39:11 GMT 9
Ảnh nghệ thuật Việt Nam không hề có khoảng cách với thế giới 02/10/2006 Biển sáng - Ảnh: Đặng Quang Minh Tại Đại hội Nhiếp ảnh thế giới lần thứ 28 vừa diễn ra ở Trung Quốc, Việt Nam đã đoạt Huy chương Vàng với bộ ảnh Đời sống bình dị của người dân Việt Nam. Xung quanh sự kiện này, chúng tôi, đã có cuộc trao đôir với ông Chu Chí Thành - Chủ tịch Hội NSNAVN ngay khi ông vừa trở về từ Trung Quốc. - Ông có thể đánh giá vì sao bộ ảnh đẹp đen trắng gồm 10 bức ảnh của 10 nhiếp ảnh gia Việt Nam giành Huy chương Vàng tại Cuộc thi Nhiếp ảnh thế giới? - Đại hội Nhiếp ảnh thế giới có sự tham gia của 72 nước được tổ chức thường xuyên 2 năm 1 lần. Năm nay có 50 bộ ảnh của 50 nước tham gia. Bộ ảnh Việt Nam được đánh giá cao bởi đã bám sát thực tế, mang đặc trưng cuộc sống của người Việt Nam. Kỹ thuật xử lý ảnh của các nhà nhiếp ảnh Việt Nam rất tốt. Ban giám khảo cuộc thi đánh giá cao trình độ chuyên nghiệp của ta cả về chất lượng lẫn mỹ thuật. Ban giám khảo đã chấm rất công bằng, mặc dù nước đăng cai và có hai thành viên trong Ban giám khảo nhưng Trung Quốc vẫn thua điểm của ta và nhận Huy chương Bạc. Bộ ảnh của Pháp đoạt Cúp Vàng, ta chỉ đứng sau Pháp 2 điểm. Một vài tác giả của ta đã từng đoạt huy chương tại cuộc thi nhưng chỉ là ảnh cá nhân. Bộ ảnh Việt Nam lần này là giải cho đồng đội. - Thưa ông, những giải thưởng liên tiếp gần đây của nhiếp ảnh Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế đã nói lên điều gì? - Những năm gần đây Hội NSNAVN đã tập hợp được một lực lượng đông đảo nghệ sĩ nhiếp ảnh trong nước tham gia các trại sáng tác, các chuyến đi thực tế nhằm nâng cao phần nào chất lượng ảnh cũng như tri thức về ảnh cho các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp và cả không chuyên. Phong trào sáng tác nhiếp ảnh đã được lan rộng ra khắp các tỉnh thành trên cả nước, lôi cuốn được nhiều nghệ sĩ nhiếp ảnh tham gia. Kể cả các nhà nhiếp ảnh ở vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận với kỹ thuật hiện đại cũng đã có sự tìm tòi, học hỏi, có những nghệ sĩ ở các tỉnh Tây Nguyên cũng đã đoạt giải cao tại Triển lãm ảnh nghệ thuật toàn quốc lần thứ 24 vừa qua. Mặt khác, rất nhiều người say mê nhiếp ảnh bởi muốn gửi gắm tình cảm tâm hồn của mình qua những bức ảnh. Đây cũng là động lực khiến nhiếp ảnh Việt Nam có những bước phát triển nhảy vọt và tạo nên bản sắc riêng trong các cuộc thi quốc tế. - Được biết trong số 10 bức ảnh tạo nên thành công của bộ ảnh Việt Nam có cả những bức ảnh có xử lý kỹ thuật, điều này cho thấy nhiếp ảnh thế giới không hề phân biệt giữa ảnh chụp trực tiếp và đã qua xử lý kỹ thuật? - Thế giới họ đánh giá chất lượng ảnh theo tiêu chí riêng và không phân biệt giữa chụp trực tiếp và kỹ thụât. Cái mà họ quan tâm là ảnh của ta có phù hợp với nội dung họ đặt ra không, hình thức thể hiện có chuẩn không. Bức ảnh Lưới cá trên sông của Võ Thị Cúc trong bộ ảnh Việt Nam giành Huy chương Vàng có bố cục rất chặt chẽ và tác giả đã xử lý kỹ xảo làm nổi những vệt trắng và làn sóng trắng trên nền màu nước ghi rất ấn tượng. Bức ảnh Nhịp điệu của Bảo Hưng trong bộ ảnh này cũng đã tạo ấn tượng rất tốt về cách xử lý tối sáng trong từng mảng ảnh. Nhưng cái quan trọng vẫn là chất liệu của hiện thực cuộc sống mà các tác giả ghi lại. - Ông đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nền nhiếp ảnh tiên tiến của thế giới đồng thời cũng vừa tham gia Đại hội Nhiếp ảnh thế giới lần thứ 28 với 72 nước. Theo ông nhiếp ảnh Việt Nam đang đứng ở vị trí nào so với nhiếp ảnh quốc tế? - Chúng ta đang trong quá trình hội nhập nhưng có thể tự tin mà nói, so với các nước có nền nhiếp ảnh phát triển thì Việt Nam không hề có khoảng cách. Đơn cử như tại Cuộc thi Nhiếp ảnh thế giới vừa qua, bộ ảnh của ta được bạn bè quốc tế đánh giá cao. - Thành công tại nhiều cuộc thi ảnh nghệ thuật nhưng vì sao Việt Nam chưa có được thành tích đáng kể tại các cuộc thi ảnh báo chí thế giới? - Trong chiến tranh đã có rất nhiều nhà báo ảnh của Việt Nam có được những bức ảnh báo chí để lại những tiếng vang đối với thế giới. Tôi nghĩ ảnh báo chí của ta trong thời điểm hiện nay không kém nhưng chưa bám sát được nội dung của các cuộc thi ảnh báo chí quốc tế như quan tâm tới các vấn đề mang tính toàn cầu và của nhân loại. Thiết nghĩ những vụ gây chấn động trong nước và thế giới như cơn bão Chan Chu chẳng hạn, chúng ta chưa có những bức ảnh thật sự nổi bật ghi lại những khoảnh khắc về cứu hộ, về những gia đình nạn nhân... Thật tiếc khi nhiều nhà nhiếp ảnh quốc tế tới Việt Nam và chụp ảnh những nạn nhân bị chất độc da cam, những bức ảnh đó trở thành đồng minh của ta tố cáo tội ác của đế quốc. Trong khi đó chúng ta lại không có những bức ảnh chụp về vấn đề đó một cách thuyết phục. VAPA
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2008 8:15:24 GMT 9
Những xu hướng mới của máy ảnh số 23/05/2008 Trang Cnet vừa thống kê một số xu hướng mới của máy ảnh số hứa hẹn sẽ nổi bật trong tương lai gần. Một số xu hướng hiện đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam và sắp tới sẽ phổ biến hơn với người dùng gia đình.
Đây cũng là những tiêu chí giúp những ai đang muốn mua máy ảnh số tích hợp những tính năng hiện đại.
Màn hình cảm ứng
Máy ảnh số Cyber-shot DSCT200 của Sony được xem là thiết bị mở màn cho trào lưu dùng ngón tay điều khiển menu dễ dàng trên màn hình máy ảnh số. Panasonic cũng không muốn đứng ngoài cuộc khi dự kiến tung ra máy ảnh số màn hình cảm ứng đầu tiên của mình - Lumix DMCFX520. Giờ đây, người tiêu dùng chỉ cần chờ đợi những đại gia còn lại, như Canon, Nikon, Fujifilm, Samsung nhập hội để có được nhiều lựa chọn hơn. Một đặc điểm mới được yêu cầu phải có ở màn hình cảm ứng của tương lai là phải có khả năng chống bẩn.
Dò tìm khuôn mặt, nụ cười
Trong khi hầu hết máy ảnh số có chức năng dò tìm khuôn mặt hiện nay chỉ mới nhận ra khuôn mặt nhìn thẳng vào máy ảnh, Fujifilm đã cải thiện công nghệ này và giới thiệu phiên bản "Dò tìm khuôn mặt" 3.0 trong máy ảnh FinePix F100fd của mình. Một thuật toán mới cho phép máy ảnh dò tìm khuôn mặt của người được chụp ở góc nghiêng hay nhìn từ trên xuống. Trong khi đó, công nghệ dò tìm khuôn mặt của Sony tỏ ra thân thiện với gia đình hơn khi có thể phân biệt khuôn mặt người lớn và trẻ em. Ngoài ra, với tính năng Smile Shutter, máy ảnh của Sony còn có thể tự động chụp hình khi phát hiện đối tượng đang cười.
Quay video độ phân giải cao
Panasonic và Samsung đang đi đầu trong xu hướng này với việc đưa tính năng quay video độ phân giải cao vào máy ảnh số nhỏ gọn. Cả Lumix DMCFX36 và NV24HD đều có khả năng quay các đoạn video có độ phân giải 720p (tương đương 1280 x 720 pixel), trong khi máy ảnh thông thường chỉ quay được ở độ phân giải tối đa 640 x 480 pixel. Dù chưa phổ biến nhưng Panasonic cũng rất kỳ vọng vào tương lai của tính năng quay video độ phân giải cao khi sắp tung ra dòng máy Lumix DMC-FX520.
Ống kính có góc chụp rộng
"Rộng hơn là tốt hơn". Đó là câu nói mà Samsung dành cho máy ảnh số độc đáo NV24HD với ống kính chụp góc rộng 24mm cho người sử dụng góc chụp rộng gấp đôi một máy ảnh nhỏ gọn thông thường khác. Tương lai của xu hướng này càng đến gần hơn khi Panasonic giới thiệu chiếc Lumix DMC-FX36 với ống kính chụp góc rộng 25mm. Theo một số nhà sản xuất, sắp tới sẽ còn nhiều máy ảnh số có góc chụp đến 28mm.
Đánh dấu địa lý
Đây là tính năng độc đáo, lần đầu tiên xuất hiện trên máy ảnh số. Đó là tính năng đánh dấu địa lý chỉ mới thấy ở điện thoại di động. Nếu là người đi du lịch nhiều, bạn sẽ thấy tính năng này rất hữu ích vì nó giúp bạn nhận biết được những địa điểm khác nhau mà bạn đã từng chụp ảnh. Khi chụp, những tọa độ địa lý được thu lại thông qua hệ thống định vị toàn cầu và tấm ảnh được đánh dấu địa lý. Khi xem lại ảnh, bạn có thể dễ dàng xác định được địa điểm chụp ảnh.
Ảnh có nhiều chi tiết hơn
Ảnh chụp từ các máy ảnh số thông thường không hiển thị rõ những chi tiết trong những vùng sáng và tối. Những dòng máy ảnh số nhỏ gọn mới xuất hiện hứa hẹn giải quyết vấn đề này thông qua công nghệ Wide Dynamic Range (WDR), cho phép chụp những tấm ảnh có nhiều chi tiết hơn trong những vùng sáng và tối. Fujifilm cho biết công nghệ WDR của máy ảnh số FinePix F100fd hiệu quả hơn 400% so với các máy ảnh khác.
VAPA
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 4:40:00 GMT 9
Võ An Ninh: Nhiếp ảnh và cuộc đời Vietsciences- Nguyễn Đức Hiệp
Ngày 4 tháng 6, 2009, nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh từ giả cõi đời, thọ 103 tuổi. Mắc dầu trong các năm gần đây, được biết sức khoẻ cụ đã yếu, trí nhớ cũng đã kém và ít khi tiếp bạn bè, nhưng ở xa khi nghe tin cụ mất, tôi cũng mất vài phút lặng đi và nghĩ nhiều đến một người nghệ sĩ không những tận tâm với nghệ thuật mà còn với đời, với xã hội chung quanh. Những ai đã tiếp xúc với cụ đều thấy ở cụ một con người rất dễ dãi vui tính với mọi người không phân biệt tuổi tác, giai cấp, giới tính. So với cụ, tôi là thuộc hàng con cháu, sinh sau cụ đúng một nửa thế kỷ, nhưng cũng không vì thế mà không là người có dịp được trao đổi ý kiến, làm bạn đồng hành với cụ trong nhiều chuyến đi “điền dã” khắp Saigon chụp ảnh, thăm bạn bè, người quen của cụ.Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1907 tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ chưa đến tuổi đôi mươi, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh. Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, Võ An Ninh làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Năm 1935, bức ảnh “Buổi sáng trên đê sông Hồng” đoạt Giải ngoại hạng trong cuộc thi do Hội khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam SADAEI (Société Annamite d’encouregement à l’Art et l‘Industrie) tổ chức. Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh. Năm 1938, ảnh “Đẩy thuyền ra khơi” được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Paris – Pháp. Và tại Huế, Võ An Ninh được tặng Huy chương vàng cho cuộc triển lãm ảnh cá nhân đầu tiên của ông. Cuối năm 1938, ông được Bằng khen của triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế Bồ Đào Nha cho tác phẩm “Chợ bán nồi đất”. Đây cũng là giai đoạn tuổi trẻ sung sức nhất của Võ An Ninh, lúc này ông sắm xe gắn máy phân khối cao (150cc) chạy khắp Hà Nội và vùng phụ cận chụp ảnh. Bấy giờ chỉ có vài chiếc xe loại này ở Việt Nam mà thôi. Ông đồ viết câu đối Tết (Hà Nội, 1940) Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng về Hồ Gươm như Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Hồ Gươm trong bốn ảnh "Hà Nội bốn mùa" . Để có những bức này, ông phải mất nhiều công phu và thời gian để “đạt” bức ảnh ưng ý. Ngoài ra ông có những bức ảnh gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Thu về (1960), Cúc Nghi Tàm (1956), Thiếu nữ Hà Nội (1960), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940), Mái nhà cổ phố Hàng bạc (1956), Cửa Ô Quang Chưởng (1940), Gò Đống Đa (1942), Lầu Khuê Văn và bia Tiến sĩ ở Văn Miếu (1945), Bình Minh trên bãi Phúc Xá (1944), Xe tay ngoại thành (1935), Thu hoạch vụ chiêm (1935), Đông về (Từ Liêm, 1935), Bến thuyền cầu đất (1935), Chợ bán nồi đất (Bưởi, 1935), Chợ Đồng Xuân (1956), Sen Tây Hồ (1941), Thiếu Nữ Hà Nội (1960) Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Trong cuộc đời nhiếp ảnh của mình, Võ An Ninh đi khắp mọi nơi trên đất nước ghi lại những khoảnh khắc nghệ thuật vô giá. Một số các tác phẩm để lại: Lăng Hùng Vương (Phú Thọ, 1940), Đỉnh Phăn Xi Păng (Sapa), Buổi sáng ra ruộng muối (Hải Hậu, Nam Định 1945), Bến xưa (Lai Châu, 1952),Núi Tản, Sông Đà (Sơn Tây, 1940), Hương lúa (Hà Đông, 1950), Sông Bạch Đằng (Quảng Yên, 1956), Sảy lúa (Phú Thọ, 1965), Vết tích thành nhà Mạc (Lạng Sơn, 1968), Thác Bản Giốc (Cao Bằng, 1960), Nước ròng bãi Trà Cổ (Móng Cái, 1955), Hồ Ba Bể (Bắc Cạn, 1956), Đi chợ về (Hà Đông, 1953), Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958), Thợ săn Êđê (Buôn Ma Thuột, 1943), Voi tây nguyên (1943), Thiếu nữ Êđê (1943), Suối nắng rừng thông (Đà Lạt, 1951), Cồn cát mủi Né (Phan Thiết, 1945), Nước mắm Phan Thiết (1945), Thiếu nữ Huế (1930), Biển Bạc (Đà Nẵng, 1948), Núi Bà Đen (Tây Ninh, 1952), Bãi thuyền (Vũng Tàu, 1950), Khu phố Ninh Kiều (Cần Thơ, 1948), Ông già Nam bộ (1950), Thốt nốt Hà Tiên (1950), Rừng tràm Long An (1990), Sông Tiền (Mỹ Tho, 1975), Rạch Gầm (Tiền Giang, 1985), Dân chài Xóm Mũi (1976), Rừng đước Cà Mau (1976). Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958) Trong thời kỳ chiến tranh, năm 1972 khi pháo đài bay B-52 đánh Hà Nội ác liệt nhất vào những ngày Ha Noi gọi là những "đêm không ngũ", Võ An Ninh cũng như nhiều nhà nhiếp ảnh khác không sợ hiểm nguy để ghi ảnh. Với cụ Võ thì lại rất bình tỉnh với chiếc xe đạp, chiếc nón cối và máy ảnh trung thành của mình đi như đi dạo thong dong khắp Hà Nội tìm khoảnh khắc cơ hội của người nghệ sĩ cũng như những ngày bình thường khác mà thôi trong cuộc đời nhiếp ảnh của cụ. Năm 1987 tôi gặp và hân hạnh biết cụ và một số các nhà nhiếp ảnh ở Hội Nhiếp ảnh Tp HcM, cơ sở ở 122 đường Sương Nguyệt Ánh mà lúc đó do anh Lâm Tấn Tài còn quản nhiệm. Thời ấy cụ đã hơn 80, tóc và râu dài trắng bạc trông giống như một ông tiên, gây rất nhiều ấn tượng với tôi. Tôi thích nhất là bức ảnh cụ ngồi với một bình rượu và đang chăm chú đánh cờ trên núi mà cụ có nhã ý tặng. Đúng thật là một ông tiên xuất thế. Cụ ngần ấy tuổi nhưng ngày nào cụ cũng đạp xe đạp đi khắp nơi, rất khỏe và tráng kiện. Đó là chưa kể một bàn chân của cụ đã bị cưa mất sau một tai nạn vào năm 1939 khi cụ cởi xe gắn máy ở Hà Nội thì bị một xe tải của một hảng Tây đụng. Cụ được chở vào nhà thương nhưng bàn chân bị cán nát nên phải cưa đi. Sau đó cụ kiện hãng Tây, không nghĩ là sẽ có kết quả gì khi đất nước vẫn còn thuộc Pháp cũng như đi kiện củ khoai, thế mà lại thắng kiện và được đền 3000 đồng Đông Dương, thời đó rất cao. Nhờ đó cụ mua được một mảnh đất và xây một căn nhà 2 tầng ở số 36 phố Tuệ Tĩnh. Sau này lúc vào Saigon, con cháu cụ bán đi và hiện nay là một nhà hàng. Trong những chuyến đi với cụ Võ An Ninh, cụ lúc nào cũng mang theo một máy chụp ảnh xưa cũ từ những năm 1930. Từ chiếc máy bạn đường suốt đời này mà nhiều bức ảnh đã trở thành nổi tiếng. Trong nhà ở Saigon, trên căn phòng của cụ ở lầu một (tầng trệt là cửa hàng bán bàn ghế, giường tủ của các con cháu), cụ có treo một bức ảnh tâm đắc và nổi tiếng “Đôi nét thủy mặc Sapa": cảnh núi buổi sáng sớm hơi sương, đầy mây ở Sapa. Trong những dịp về Saigon, tôi đều đến thăm cụ, ngồi trong phòng nhìn ra từ ban công hàng cây dọc đường Ngô Gia Tự, thật ấm cúng và cảm thấy như đây là nhà của lòng mình vậy. Một trong những kỷ niệm mà tôi nhớ đến nhiều là chuyến đi đạp xe đạp đến khu Bà Quẹo gần phi trường đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên. Trước đây trong các anh em văn nghệ sĩ cùng thời và trước kia là bạn với Chế Lan Viên, có nhiều người (nhất là các văn nghệ sĩ trong Nhân Văn Giai Phẩm) không thích ông nữa vì họ thấy rằng ông không còn đến thăm các bạn nữạ và đã bỏ rơi các anh em lúc đó đang bị phê bình và cô lập. Vào thời điểm này Chế Lan Viên đã thay đổi và có lẽ đã hối hận với cách cư xử của mình với các anh em bạn bè văn nghệ sĩ xưa của mình. Tôi nhớ có đọc bài của ông trên báo trong dịp sau khi coi xong cuốn phim "Sám hối" của Cộng Hoà Armenia (thuộc Liên Sô cũ) về xã hội Stalin, Breznev, ông đã nói lên cảm nghĩ của mình rất thật, tự cho mình cũng phải "ăn cá" để sám hối. Ông cũng đã chỉ trích nhẹ nhàng Tố Hữu và lần đầu tiên bênh vực các anh em bạn bè cũ trong nhóm Nhân Văn bị hoạn nạn trong một bài giới thiệu cho một cuốn sách thơ về Huế. Cụ Võ An Ninh đạp xe đạp rành rõi đi vào nhiều đường, ngõ hẻm mà thú thật lúc đó mặc dầu tôi cũng khá quen khu vực mà phải đuổi theo cực nhọc một ông già tóc trắng bạc phơ không lộ ra vẻ mệt mỏi. Trong sân vườn nhiều cây trái, ngồi uống trà cùng với cụ Võ An Ninh và Chế Lan Viên, tôi để ý Chế Lan Viên rất hào hứng có vẻ như trở lại phong cách xưạ của một thi sĩ. Một trong những điều ông muốn làm lúc ấy là lập một nhà bảo tàng hay nhà lưu niệm cho thi sĩ Hàn Mặc Tử ở Qui Nhơn. Ngược lại, cụ Võ An Ninh, trầm ngâm với tách trà sau đó đi dạo quanh vườn, ngắm nghía đủ góc cạnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon rất cũ kỹ (1928) trong tay với cuộn phim đen trắng (cụ không dùng phim màu). Cụ hầu như không còn để ý đến những người đang nói chuyện nữa và tâm trí của cụ, của một nhà nhiếp ảnh đang tìm cơ hội của một giây phút nào đó. Hôm đó cụ chụp vài tấm ở vườn và trước khi ra về có chụp cho chúng tôi một bức ảnh kỷ niệm. Bức ảnh đen trắng này tôi vẫn quí giữ như báo vật từ một nhà nhiếp ảnh đầy phong cách Võ An Ninh. Võ An Ninh, Mộc Châu (1986) Phải nói là trong bộ sưu tập hình ảnh đồ sộ đến hơn 10000 ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn có rất nhiều ảnh có giá trị lịch sử. Ở thành phố Saigon trong giai đoạn 1946-1950, cụ có mặt và ghi lại nhiều hành ảnh như các cuộc biểu tình chống Pháp, chống viếng thăm đầu tiên cảng Saigon của chiến hạm Mỹ Anderson và Sticken. Dưới mắt nhân bản của nhà nghệ sĩ, cụ chụp các ảnh của nhiều người kể cả các thủy thủ non trẻ Mỹ đi trên phố Saigon. Một trong số những bức ảnh chụp ở Saigon có giá trị về nghệ thuật và tư liệu xã hội như "Chợ bến thành và bến xe thổ mộ" (1949), “Cụ đồ viết câu đối Tết” (Saigon, 1950), "Lăng ông ngày tết" (1952), "Nhà thờ Hồi giáo" (1950), "Khói hương chùa bà, Chợ Lớn" (1953), “Thiếu nữ Saigon” (1951), “Qua Cầu” (Thủ Đức, 1953), "Lẻ loi" (1941), "Sóng đôi" (1942), "Vườn Tầm Vông ngoại thành" (1950), "Ngày xá lợi" (1951), "Đêm phục sinh" (1950), "Bình minh trên sông" (1952). Sau ngày 30/4/1975 không lâu, cụ vào Saigon ở hẳn, tiếp tục sự nghiệp nhiếp ảnh và gắn bó với thành phố cho đến khi cụ mất. Năm 1981, Võ An Ninh có triển lãm các tác phẩm nhiếp ảnh rất thành công và không lâu sau đó ở Hà Nội năm 1983. Năm 1991, một số các ảnh trong bộ sưu tập của cụ được Thông Tấn Xã Việt nam xuất bản (*). Cuốn sách in đen trắng trong đó có nhiều bức ảnh bất hủ trong làng nhiếp ảnh Việt Nam. Ủy ban Nhân dân Thành phố HCM đã tặng cụ là công dân danh dự của thành phố. Một bộ tư liệu quí giá khác trong bộ sưu tập ảnh của cụ là những cảnh trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà cụ ghi lại như một chứng nhân những gì mà thực dân Nhật-Pháp đã gây nên ở miền bắc nước ta. Cảnh người chết đói ở đường phố Hà Nội, trên đường từ các tỉnh (mà nặng nhất là Thái Bình) vào thủ đô, xác người đầy được hốt trên xe đẩy.. Xem những hình ảnh này tôi không khỏi xúc động và kinh tởm tội ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói 1945. Năm 1994, đài truyền hình Nhật NHK khi làm tư liệu về người Nhật ở Đông Dương trong thế chiến thứ 2 đã đến gặp cụ Võ An Ninh và xin được dùng các ảnh này cho chương trình của họ. Về sau này, có một số người Nhật đến thăm hay làm việc ở Việt Nam có đến nhà để xem bộ sưu tập Võ An Ninh. Họ đều xúc động và xin lỗi về những hành động của quân đội Nhật trước đây. Trong những năm gần đây đầu thế kỷ 21, cụ yếu nhiều, đi đứng khó khăn nhưng cụ rất thích bè bạn đến thăm và đi ra ngoài. Vì thế nhiều lúc các con cháu cụ (có người từ Pháp về) đều phải dẫn cụ đi ra ngoài thăm thú và hòa nhập với xã hội. Ngay công viên trước nhà hát lớn thành phố, có những lúc người dân Saigon nếu để ý sẽ thấy một cụ già tóc, râu bạc dài thanh thản ngắm nhìn cảnh vật và sinh hoạt sinh động chung quanh trong lúc ngồi xe lăn do một người nhà đẩy. Rất ít người biết đấy là nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh, một người mặc dầu ở tuổi sắp xa trời xa đất nhưng cũng muốn hòa nhịp với xã hội. Và theo tôi là cụ nhìn để đón bắt một phút nào đó một thần hồn của đời sống chung quanh dưới con mắt của một người nghệ sĩ. Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh mất đi để lại nhiều nuối tiếc của bao người trong và ngoài nước. (*) Ảnh Võ An Ninh, Nhà in Thông Tấn Xã Việt Nam, 1991.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 5:20:10 GMT 9
Nhiếp ảnh: Toàn Thân Xá Lợihosen M.jpg chuadau M.jpg tamcoc M.jpg Trần Công Nhung: QUÊ HƯƠNG QUA ỐNG KÍNH ...Sáng nay trời Hà Nội trong mát, báo trước một ngày nắng đẹp không oi bức. Tôi đi thăm chùa Ðậu. Cứ sau một chuyến đi xa về, tôi lại làm một vòng quanh Hà Nội, vừa dưỡng sức vừa không lãng phí thì giờ. Theo Quốc Lộ 1 về hướng Nam Ðịnh, chừng 25 km, đến ga Thường Tín rẽ phải, có một bảng lớn chỉ hướng đi chùa Ðậu. Băng qua một cánh đồng rồi vào làng. Người bạn nhỏ chạy xe máy, tôi ngồi sau mắt nhìn quanh tìm chùa. Có một ngôi đền khá xưa, tưởng chùa Ðậu nhưng người dân cho biết còn phải đi nữa, qua hết đồng ruộng trước mặt, đến con đường nhựa, rẽ trái là đường đến chùa. Hầu hết thôn quê ngày nay, đường sá tương đối tốt, rải đá, tráng nhựa hoặc đúc bằng bê tông, hai bên đường có trồng phi lao hoặc bạch đàn, cảnh trí bớt đi phần quê mùa lam lũ. Xa xôi hẻo lánh mấy, xe máy cũng lần tới dễ dàng. Mươi phút sau chúng tôi đến địa phận làng Gia Phúc, chùa nằm ngay gần chỗ đường lớn rẽ vào. Vào chùa, qua hai cổng, cổng ngoài dạng tam quan nhưng chỉ một lối đi giữa, màu vôi đã ố vàng, lốm đốm rêu phong. Cảnh đượm phong vị thiền, tiếc một điều, vì ngày mùa nên rơm rạ phơi đầy, từ ngoài vào trong khuôn viên chùa, tường vách sơn viết nhảm nhí, làm mất nét cổ kính trang nghiêm. Cổng chính làm theo dạng gác chuông, cũng chỉ một lối đi, tường gạch lỗ chỗ hư hỏng., vôi sơn viết vẽ linh tinh. Hôm nay là ngày rằm mà khách viếng không mấy đông, cảnh vắng lặng. Chúng tôi đi vòng ra sau mới tìm thấy lối vào chánh điện. Không hiểu sao chùa không mở cửa trước. Khách một số đang sì sụp lễ bái một số các bà tụ lại ăn trầu kháo chuyện, một số, dường như khách phương xa, rảo quanh chùa xem xét các thứ. Hà Tây là một tỉnh có nhiều chùa nhất (90 chùa) ở miền Bắc. Những ngôi chùa cổ được dựng lên từ đời Lý đời Lê. Chùa Ðậu có từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ 3), đến đời Lý (thế kỷ 11) mới được tôn tạo. Tên chùa nghe mộc mạc dân dã, đậu, khoai thì có gì xa lạ. Thật ra chùa có 5 tên: Thành Ðạo Tự - Pháp Vũ Tự - Chùa Vua - Chùa Bà - Chùa Ðậu. Mỗi tên đều có sự tích được ghi chép rõ ràng. Hai tên quen thuộc với quần chúng Phật tử là chùa Vua và chùa Ðậu. Xưa kia, nghe tiếng chùa linh thiêng, vua các triều đại thường đến cầu đảo cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, nên dân gọi chùa Vua. Rồi các tầng lớp sĩ tử đến cầu xin thi cử đỗ đạt, nên gọi là chùa Ðậu. Từ đó về sau tên chùa Ðậu được nghe nhiều hơn. Chùa nổi tiếng về 2 pho tượng nhục thân của 2 vị Thiền Sư, Tổ của chùa trước đây. Hai vị Thiền Sư Vũ Khắc Minh, danh hiệu Tự Ðạo Chân, và Vũ Khắc Trường, Tự Ðạo Tâm, là hai anh em. Ghép hai danh hiệu lại thành Chân Tâm. Trong lịch sử Phật Giáo, chuyện các Thiền Sư sắp xếp ngày tịch diệt cho mình là chuyện thường. Khi các ngài đã đắc đạo rồi thì chuyện ở đi là do các vị quyết định. Vua Trần Nhân Tông lúc viên tịch, thân không còn thở, vậy mà khi người nhà khóc la, ngài đã ngồi dậy quở mắng một thôi rồi nằm trở lại. Hai vị Thiền Sư ở chùa Ðậu cũng thế, trước khi ra đi các ngài dặn đệ tử: “Ta vào nhập thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật. Sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên”. Hết 100 ngày các đệ tử mở cửa tịnh thất, thấy hai Thiền Sư vẫn ngồi theo thế nhập thiền, không hôi thối mà thoang thoảng hương thơm. Các đệ tử biết hai ngài đã để lại Toàn Thân Xá Lợi. Mấy chục năm sau, vải áo của hai pho tượng mục rã, nhục thân hai Thiền Sư tóp lại, chỉ còn da bọc xương. Các đệ tử đã dùng sơn ta quét phủ một lớp. Trải qua mấy trăm năm, nhục thân của hai vị vẫn nguyên vẹn trong thế tọa thiền lúc ban đầu. Ðến những năm gần đây Viện Khảo Cổ Việt Nam đã tiến hành cuộc khảo nghiệm hai pho tượng, và Giáo Sư Nguyễn Lân Cường (Viện Khảo Cổ Hà Nội) có bản tường trình như sau: “Tượng Thiền Sư Vũ Khắc Minh đã được Viện Khảo Cổ Việt Nam chụp X-quang nghiên cứu. Tượng nặng 7 kg, cao 75 cm, xương sọ liền mí, chứng tỏ não chưa bị lấy, tứ chi các khớp xương liền lặn... Chất bồi bên ngoài xương sọ 2-4 mm là đất gò mối mịn, trộn với mùn cưa sơn sống, giấy bản, phủ ngoài lớp bồi là một lớp sơn ta màu cánh dán dày 0.1 mm, đến lớp lá bạc mỏng, ngoài cùng là một lượt quặng dầu...” Theo nguyên tắc, muốn xác không hư thối phải dùng hóa chất giữ cho thịt da không rửa, phải lấy hết óc và ruột, ở đây quá đơn sơ. Viện Khảo Cổ công nhận cách ướp xác của người Việt trước đây rất độc đáo, thế giới chưa từng có. Tượng của Thiền Sư Vũ Khắc Trường thì theo lời kể lại, sau một trận lụt lớp bồi bị hỏng, người ta phải phủ bộ xương bằng cát, mật, vôi nên rất nặng, cản quang, không thể dùng X-quang nghiên cứu được. Hôm tôi đến viếng chùa, chỉ thấy tượng của Thiền Sư Vũ Khắc Trường trong 1 tủ kính, còn 1 tủ kính bỏ trống. Từ xưa đã có nhiều sự tích về Toái Thân Xá Lợi (1) như xá lợi của các ngài Từ Ðạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải và Ðơn Ðiền Thiền Sư, nhưng Toàn Thân Xá Lợi rất hiếm, trường hợp hai Thiền Sư chùa Ðậu là độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Ðiều hi hữu và khác thường là cách “ướp xác” bằng lối pha chế chất liệu sơn, như Viện Khảo Cổ đã tìm thấy. Ðến thăm chùa Ðậu là đến chiêm ngưỡng và đảnh lễ di cốt của hai nhà tu hành đắc quả, để bày tỏ lòng ngưỡng mộ, noi gương các ngài. Tôi thấy đa số khách hành hương đèn nhang đốt khắp nơi, lại còn “đặt quẻ” 200 đồng, cầu xin đủ thứ. Giấy bạc 200 đồng thực tế không còn xài trên thị trường, vì chẳng có gì giá 200 để mua, khi cần thối (tem thư 800 đồng), người ta dùng kẹo, bì thư... Làm cho có lệ chứ chẳng mấy ai nhận. Nhà chùa thì lúc nào cũng đầy giấy bạc 200. Vào những ngày lễ lớn, tại các điểm hành hương cúng bái lại có “dịch vụ đổi tiền”, 10,000 đồng đổi lấy 8,000 đồng giấy 200. Hạch toán kiểu này để lễ lạt đỡ tốn. Không hiểu chư Phật chư Thánh có hài lòng mà ban phước cho không. Có lần tôi đến chùa Quán Sứ, trung tâm lớn của Phật Giáo, một cảnh tượng không ngờ được, một nhà giấy bạc 200 mới toanh, mấy chục người ngồi đếm, cứ như đang sàng sảy thóc lúa ngày mùa. Thì ra nhà nước phát hành loại giấy bạc này chỉ để giúp dân tiết kiệm trong việc cúng kiếng? Ngôi chùa nổi tiếng có báu vật, một thắng tích thu hút du khách trong và ngoài nước, nhưng chỉ chú trọng về mặt lợi nhuận thực tế mà quên đi giá trị lịch sử, văn hóa, làm nơi tôn nghiêm trở thành cơ sở kinh doanh tầm thường. Ða số chùa đều có hồ sen, chùa Trầm, chùa Dâu, chùa Keo... nhưng chùa Ðậu, đứng trước hồ sen nhìn qua cổng chùa, tôi thấy đẹp hơn cả. Tôi thích ngắm cảnh bên ngoài, cái yên lặng cổ kính và riêng biệt của ngôi chùa làm cho tôi thanh thản tâm hồn và tự hào về những hiếm có nơi quê hương mình. Tháng Sáu 2003 ***** Mới đây (12 Tháng Ba) báo chí loan tin pho tượng được “tôn tạo”, nhưng nét tượng bây giờ giống những tượng thường thấy trong chùa miền Bắc, không còn nét của một nhục thân. Toàn Thân Xá Lợi: Một phần xá lợi, 5-10% của toàn thân. Xá lợi là phần đốt không cháy, ngâm nước không rã. ***** THƯ ÐỘC GIẢ: Như đã thưa từ trước, những câu hỏi của độc giả liên quan đến những bài viết, tôi xin được trả lời chung, vì không sao trả lời riêng được, mong bạn đọc thông cảm.
- Anh Trần Luận (San Jose) hỏi: Cho biết ý kiến về máy chụp film thường và máy Digital, anh đang dùng máy gì?
- Trả lời: Nhiều anh em đã chụp ảnh lâu năm hoặc mới tập chụp, thường đặt những câu hỏi tương tự. Sở dĩ có tình trạng hoang mang như vậy là do kỹ nghệ film ảnh phát triển quá nhanh, sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta không theo kịp. Tâm lý chung chung, hễ mỗi khi chúng ta bất túc trước một điều gì, chúng ta thường tìm cách làm hạ giá trị của nó, chẳng qua chỉ để thỏa mãn tự ái mà thôi. Tôi thấy rất nhiều người chê bai máy Digital, kỳ thị với ảnh chụp bằng máy Digital. Nhưng chắc chắn số đông vì do không tiếp cận nổi (hiểu biết) và không kham nổi (đắt), tương tự như người lùn chê “Nho vẫn còn xanh”, có chín cũng không hái được, chê để chữa thẹn.
Công bằng mà nhận xét thì máy Digital hiện nay không thua kém gì máy chụp thông thường, tất nhiên là phải tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng người dùng. Phương tiện làm ảnh Digital còn giúp cho nhà nhiếp ảnh giải quyết những khó khăn khách quan một cách kỳ diệu mà với điều kiện buồng tối cổ điển chúng ta khó mà thực hiện nổi.
Cứ xem thị trường máy ảnh, giá máy thì biết, quán ăn mà đông khách tất phải là quán ăn ngon. Tuy vậy vẫn có nhiều người thích phương tiện cổ điển, thích mày mò trong buồng tối, thích rờ rẫm giấy thuốc, thậm chí thích hít những hóa chất không lợi gì cho sức khỏe. Hôm về Ðà Lạt, nhiếp ảnh gia Nguyễn Bá Trung (con Nguyễn Bá Mậu) cho biết, nhà nhiếp ảnh nổi tiếng nhiều giải quốc tế ở Ðà Lạt là Lý Hoàng Long, ảnh trúng giải toàn chụp bằng máy Digital, ảnh màu chuyển qua trắng đen. Ban giám khảo không thắc mắc gì, mà thực tế thì ảnh chụp bằng hai loại máy có khác nhau gì đâu. Trừ những trường hợp ráp nối theo lối biến hóa thần thoại, tôi thấy rất nhiều nhà nhiếp ảnh chụp bằng máy Digital vẫn có tác phẩm đáng nể.
Tôi hiện dùng cả hai loại máy, đi đường nhỡ xẩy ra sự cố, có mà thay.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 15:36:08 GMT 9
Nắm vững cách sử dụng máy ảnh số thông qua các chế độ chụpNgười đăng bài viết: Phạm Hải Đăng Chuyên mục : Kỹ thuật bấm máy ảnh Khi sử dụng máy ảnh kỹ thuật số, có những ký tự đại diện cho chế độ chụp như B, A, P, Tv...nếu chưa nắm rõ có thể bạn sẽ lúng túng và khó khăn trong việc sử dụng, bài viết liệt kê một số chế độ chụp giúp người dùng tham khảo để điều khiển tốt hơn chiếc camera của mình******************************************** Khái niệm APERTURE : Khẩu độ hay độ mở màn trập (ống kính) Trong ống kính máy ảnh có một cơ quan gọi là màn trập, cơ quan này bao gồm nhiều tấm thép xếp chồng lên nhau để điều tiết độ mở lớn hay nhỏ của ống kính nhằm cho phép ánh sáng vào máy nhiều hay ít, vai trò như mí mắt của người. Giá trị của khẩu độ được đo bằng trị số f (có thể thể hiện theo ba cách như f/8, F8 hay 1:8), trị số f càng nhỏ ví dụ f/2, f/2,8… thì độ mở màn trập càng lớn, ánh sáng càng tiếp xúc nhiều hơn với phim, sensor máy ảnh. Dãy số trị số của khẩu độ f/2, f/2.8, f/4, f/5.6,f/8,f/11….có ý nghĩa là cứ tăng lên một giá trị trong dãy thì màn trập mở nhỏ hơn và lượng ánh sáng đi qua ống kính sẽ giảm đi một nửa. 1. APERTURE PRIORITY: Chế độ chụp ưu tiên khẩu độ. Ký hiệu thường dùng trên vòng xoay chỉnh chế độ là A (Nikon,Panasonic,Lumix..) hoặc là Av (Canon,Pentax…) Khi thiết lập máy ảnh ở A hay Av mode người dùng tự chọn độ mở màn trập, thông số tốc độ màn trập (Shutter speed) do máy kiểm soát. Chế độ này đặc biệt quan trọng khi người muốn kiểm soát khoảng nét hay còn gọi là chiều sâu của bức ảnh. Ví dụ: Trong chụp ảnh phong cảnh thiết lập A, Av mode điều chỉnh độ mở nhỏ f/11, f/16 để ảnh có chiều sâu, có độ sắc nét của các chi tiết tiền cảnh lẫn hậu cảnh. Trong chụp ảnh chân dung,ảnh chụp cận cảnh macro thiết lập A, Av mode, điều chỉnh độ mở lớn f/2, f/2.8 để làm mờ, nhòe đi cảnh nền phía sau giúp đối tượng chụp nổi bật hơn lên. Khái niệm SHUTTER SPEED: Tốc độ trập Đây là trị số tính bằng giây quy định khoảng thời gian cửa trập mở ra để lấy sáng, càng mở lâu thì ánh sáng vào tiếp xúc với phim hay sensor càng nhiều và ngược lại. Dãy trị số của tốc độ trập ....1/4s, 1/8s,1/15s,1/30s,1/60s... có ý nghĩa cứ lên một cấp thì cửa trập đóng lại nhanh hơn và lượng ánh sáng đi qua ống kính giảm đi một nửa, và như vậy với tốc độ đóng cửa trập càng nhanh thì ảnh càng tăng nguy cơ bị thiếu sáng và ngược lại. 2. SHUTTER SPEED PRIORITY MODE: Chế độ chụp ưu tiên tốc độ trập Ký hiệu thường dùng trên vòng xoay chỉnh chế độ là Tv = Time value hay S = Shutter Việc có thể chọn lựa tốc độ đóng cửa trập giúp bạn chụp được những tấm hình chuyển động mà không bị mờ nét chẳng hạn dùng tốc độ đóng nhanh 1/500s, 1/2000s để bắt đứng sự chuyển động của nước, khiến có cảm giác như dòng nước bị đông cứng lại thấy rõ từng hạt nước Hình minh họa: Dùng đá ném xuống nước và thiết lập Tv = 1/400s thấy rõ các hạt của tia nước bắn lên không trung Theo chiều ngược lại, dùng tốc độ trập chậm trong kỹ thuật chụp phơi sáng có thể tạo ra hiệu ứng làm nhòe chuyển động khiến vật thể chuyển động tạo vệt mờ. Hình minh họa dùng tốc độ Tv = 1/2s khiến dòng nước chảy nhòe đi trông như một bức tranh vẽ. 3. PROGRAM : Chế độ chụp chương trình Ký hiệu trên vòng chỉnh chế độ là P. Ở chế độ này máy ảnh sẽ đảm nhận xử lý phần tốc độ trập (shutter) và khẩu độ trập (aperture) đã nêu ở trên. Khi chỉnh về P mode, bạn có thể thiết lập những thông số như độ cân bằng trắng, tắt hay mở đèn Flash, sử dụng độ nhạy sáng ISO ở mức nào, phần phơi sáng thông qua hai trị số f và s để cho máy tự chọn (auto). Chế độ chụp này rất tốt cho người mới bắt đầu chụp, bạn để P mode và không cần phải lo lắng đủ sáng hay không để tập trung vào chủ đề, bố cục,nó đặc biệt hữu dụng khi bạn chụp cảnh ở ngoài trời với ánh sáng tốt. Trong những trường hợp ánh sáng không được tốt lắm, có khả năng ảnh của bạn sẽ bị mờ khi chụp ở P mode vì máy ảnh tự động chọn chụp với tốc độ chậm, khi đó bạn phải chụp với chân máy (tripod) còn nếu không có chân máy thì bạn chỉnh ISO lên cao (tầm 400) kết hợp với bật đèn Flash khi chụp, chú ý là sử dụng Flash không nên đứng quá xa (tối đa 4m) so với đối tượng chụp. 4. MANUAL : Chế độ chụp chỉnh tay Đây là chế độ cuối trong bộ tứ 4 chế độ chính của máy ảnh P-S-A-M, trên vòng xoay chỉnh có ký hiệu là M Khi bạn đã hiểu và nắm được A mode và S mode thì bạn đã hoàn toàn có thể chỉnh về Manual Mode để chụp trong những trường hợp A,S mode không đáp ứng được mong muốn. Manual mode cho phép người chụp hoàn toàn tự do chỉnh các thông số kỹ thuật, trị số s, f, lấy net, chỉnh ISO, cân bằng trắng, thiết lập Flash on hay off....chính vì thế nó không dành cho người mới đến với nhiếp ảnh. Tấm ảnh hoa minh họa được chụp trong bối cảnh hoa được chiếu sáng bởi ánh sáng mặt trời nhưng hậu cảnh nền lại là một vùng bóng râm. Nếu chụp ở chế độ bán tự động, máy ảnh nhiều khả năng sẽ ưu tiên vùng sáng cho hậu cảnh thay vì chủ thể chính, nếu bạn để khẩu độ mở nhỏ để giảm sáng thì ảnh ko đạt yêu cầu, lúc này bạn phải cần có Manual mode để chỉnh tay tất cả nhằm đạt tấm ảnh như ý. Ngoài các chế độ chụp chính, chúng ta còn có thể bắt gặp những chế độ chụp khác tùy theo sự sáng tạo, sự phân loại riêng của các nhà sản xuất máy ảnh (Sony,Nikon,Canon...) trong đó: ISO PRIORITY : chụp ưu tiên độ nhạy sáng : khái niệm ISO: ISO là cách mà bộ cảm biến của máy ảnh nhạy cảm với ánh sáng, giá trị thường gặp 100,200,400,800,1600... Giá trị ISO càng thấp, hình ảnh chi tiết hơn nhưng cảm biến ít nhạy cảm hơn với ánh sáng và ngược lại. Với ánh sáng ban ngày ngoài trời bạn đặt ISO thấp 100,200 để hình ảnh chất lượng hơn, trời u ám, mờ tối chụp với ISO 400,800, chụp ban đêm phải để ISO ở tầm 1600 mới đủ sáng các chi tiết dù hình ảnh tăng khả năng bị nhiễu, hạt. Nếu muốn giữ chất lượng hình bạn nên cố gắng để ISO thấp + kết hợp Flash để chụp trong đêm nhưng Flash thường gây lóe sáng không mong muốn trên chủ đề. Một tấm ảnh chụp hồ cá thủy cung trong điều kiện ánh sáng yếu, tác giả không dùng Flash và để ISO ở 1600 Ký hiệu của ISO priority mode là Sv trên máy ảnh của Pentax, Sv mode cho bạn chọn trước độ nhạy sáng ISO, các thông số tốc độ, khẩu độ do máy auto. Còn thiết lập P mode thì máy quyết định cả 3 thông số. Trên máy khác như Nikon, Canon Sv mode chính là Program mode + chỉnh tay độ nhạy sáng ISO. CHẾ ĐỘ CHỤP TAvChế độ chụp này cho phép bạn chỉnh tay 2 thông số tốc độ và khẩu độ, máy sẽ tự động dò tìm một mức ISO phù hợp, chế độ này tìm thấy trên một số máy ảnh Pentax. Ở các máy khác bạn sử dụng TAv mode bằng cách chọn Manual mode sau đó chọn thiết lập ISO tự động. TAv mode hữu ích hơn Manual mode trong một số tình huống nhất định, chẳng hạn bạn chụp sân khấu, sân được chiếu sáng bởi nhiều nguồn sáng khác nhau, ánh sáng thay đổi liên tục và bạn cần chụp hàng loạt tấm hình, ISO tự động theo từng thời điểm chụp trong TAv mode sẽ giúp bạn xử lý trường hợp này tốt hơn. CHẾ ĐỘ CHỤP DEPKhái niệm DEP: DEP = DEPth of field (Độ sâu trường ảnh) còn gọi là DOF Mỗi ống kính máy ảnh chỉ có khả năng chụp được vật thể một cách sắc nét trong một vùng nhất định, vùng rõ nét này gọi là độ sâu trường Trong hình minh họa, hình ảnh con bướm bay quá gần ống kính hay quá xa sẽ bị mờ vì nó không nằm trong "Độ sâu trường" của ống kính máy ảnh này. Độ sâu trường phụ thuộc máy ảnh và cách chọn khẩu độ, khoảng lấy nét (là khoảng cách từ ống kính đến vật cần lấy nét = chủ thể chụp). Trị số khẩu độ càng nhỏ f/2, f/2.8 ống kính mở càng rộng, khoảng lấy nét càng ngắn thì vùng rõ nét (độ sâu trường) càng nhỏ (nông), trong hình minh họa mở khẩu độ lớn --> vùng rõ nét ngắn tập trung hoàn toàn lên con vật khiến hậu cảnh xung quanh mờ nhòe giúp người xem ảnh tập trung vào chủ thể chính. Khi khẩu độ ống kính mở càng nhỏ ( tri số lớn f.11, f/16) thì vùng rõ nét DOF càng rộng thích hợp cho chụp ảnh phong cảnh, hình minh họa có DOF lớn nên rõ nét các chi tiết cả ở gần lẫn ở xa khiến tấm ảnh có chiều sâu. DEP mode là chế độ thấy trên một số dòng máy của Canon: khi bạn thiết lập ở DEP mode, bạn hướng ổng kính vào chủ thể gần nhất muốn đặt trong vùng rõ nét (DOF) và nhấn nhẹ nút chụp sau đó hướng ống kính vào chủ thể xa nhất muốn đặt trong DOF rồi nhấn tiếp nửa còn lại của nút chụp --> máy tính sẽ tính toán muốn có vùng rõ nét này thì trị số khẩu độ phải đặt ở bao nhiêu. CHẾ ĐỘ CHỤP A-DEPCanon còn cung cấp thêm một chế độ chụp nữa gọi là A-DEP: Chế độ này cho phép bạn để máy ảnh tự động chọn vùng rõ nét (DOF) cho chủ đề chụp để hỗ trợ những tay máy yếu kỹ thuật, tuy nhiên do cách xác định quá đơn giản của máy, chế độ này hầu như không giúp được gì cho người chụp. CHẾ ĐỘ CHỤP C1, C2, C3... * Đây là chế độ Custom cho bạn lưu sẵn các thông số kỹ thuật vào để xài mỗi khi cần chẳng hạn bạn lập: C1 = Av mode, f/11, ISO 100,... dành cho chụp phong cảnh C2 = S mode, 1/200s, ISO200,...lập sẵn cho chụp cảnh thể thao Tùy máy bạn có thể có thêm những thiết lập cấp nhỏ hơn nữa ví dụ như lập sẵn C2.1 để chụp thể thao trong nhà, C2.2 chụp thể thao ngoài trời..v.v... Để tạo thuận lợi cho người sử dụng, các hãng sản xuất cố gắng tiêu chuẩn hóa các thiết lập thông số kỹ thuật cho từng tình huống giúp những người chụp không cần hiểu các khái niệm như DOF, Aperture, Shutter,...vẫn có thể chụp được những tấm ảnh như mong muốn. CHẾ ĐỘ CHỤP AUTO HOÀN TOÀN: Automatic mode Ký hiệu là ô hình vuông màu xanh, hình máy ảnh, hoặc chữ Auto, đây là chế độ dành cho người mới biết đến nhiếp ảnh, luôn có trên thể loại máy ngắm và chụp (compact) và được đa số người sử dụng máy chọn lựa, máy tự động đoán bạn đang chụp cái gì để lấy nét, chỉnh khẩu độ, tốc độ, độ nhạy sáng, cân bằng trắng,flash...và bạn chỉ cần bấm nút. Nhìn chung với chế độ này bạn chỉ có thể dùng tạm khi chưa nắm bắt kỹ thuật, chứ khó lòng giúp bạn có những tấm ảnh ấn tượng được. SCENE MODE : Mỗi hãng sản xuất lại chia nhỏ Auto mode thành hàng loạt mode nhỏ hơn, sự tính toán, điều chỉnh các thông số kỹ thuật trong các chế độ có thể không giống nhau giữa các nhãn hiệu máy, đem lại những kết quả khác nhau. Marco mode : Chụp cận cảnh, thích hợp khi chụp hoa, côn trùng, máy có thể sẽ cố gắng tính toán để mở khẩu độ lớn. Flower : Một số máy có thể có chế độ auto riêng cho chụp hoa Landscape mode : Chỉnh về chế độ này khi muốn chụp phong cảnh, máy thường làm tốt nhiệm vụ nếu trời quang đãng, ánh sáng đủ. Sport mode : Chụp ảnh thể thao, giảm mờ nhòe khi đối tượng chụp di chuyển, máy thường tìm cách nâng tốc độ chụp lên, chụp nhanh để bắt đứng hình lại. Night mode : Chụp cảnh đêm, máy có thể tính toán đẩy ISO lên cao, mở rộng khẩu độ hay giãn thời gian đóng màn trập (chụp tốc độ chậm)... Night portrait : Chụp người ban đêm, máy có thể đẩy flash on và cố gắng nhận dạng và loại bỏ hiện tượng mắt đỏ Night landscape : Chụp phong cảnh ban đêm. Fireworks : Chụp pháo hoa, máy thường xử lý auto kém trong những chế độ khó chụp như chụp cảnh pháo hoa. Beach : Cảnh biển, thường được máy hiểu là ánh sáng nhiều, chói nắng. Snow : Trời nhiều tuyết, sáng trắng. Và còn rất nhiều chế độ chụp được lập sẵn khác như tự chụp mình, chụp văn bản, chụp trong nhà bảo tàng , chụp ngược sáng, trẻ em , tiệc tùng , chân dung ... nói chung chụp người , vật nuôi, hoa cỏ, ...máy thường cố gắng xác định vật thể cần lấy nét, đặt vật ấy vào vùng rõ nét, loại bỏ mắt đỏ và cố gắng tính toán để điều tiết ánh sáng phù hợp ( tăng giảm ISO, bật hay tắt Flash)...chụp cảnh thường chọn lấy một khung cảnh chuẩn mực để dựa vào. dù thế nào thì độ thông minh của máy ảnh vẫn còn nhiều giới hạn nên bạn không nên quá ỷ lại vào những chế độ tự động này, đặc biệt trong những tình huống không phải là một tình huống chuẩn. Các chế độ phụ khác: Chế độ Burst : Chế độ chụp ảnh liên tiếp nhiều tấm (multi-shot) dùng trong một số trường hợp như ghi nhận một sự kiện đang diễn ra rất nhanh, chụp ảnh thể thao, chụp trẻ em (trẻ rất khó đứng im nên thường phải dùng Burst mode để chụp liên tiếp nhằm chọn ra tấm ưng ý nhất) Chế độ Autofocus : Chụp tự động lấy nét ký hiệu AF Vài điểm phân biệt các chế độ lấy nét tự động: * Lấy nét tự động liên tục (continuous): Máy liên tục rà soát để lấy nét và bất cứ lúc nào bạn chụp nhấn nút chụp cũng được. * Lấy nét tự động đơn (single - one shot): Khi chụp nhấn nhẹ nút chụp nửa đường để lấy nét, lấy nét xong nhấn hẳn nút chụp xuống để chụp, tuy tiết kiệm pin hơn nhưng có thể không kịp chụp trong một số tình huống cần bắt lấy khoảnh khắc thật nhanh. Chế độ lấy nét AI Servo: Chế độ lấy nét dành cho chụp chủ thể đang chuyển động liên tục, máy tự động căn khoảng cách lấy nét và lấy nét đúng vào thời điểm bấm chụp Chế độ lấy nét AI Focus: Chế độ lấy nét thông minh thụ động, máy lấy nét cho chủ thể tĩnh nhưng khi chủ thể bất ngờ di chuyển thì máy chuyển sang AI Servo để lấy nét Ngoài ra tùy dòng máy mà còn có một số chế độ như chụp toàn cảnh Panorama, Flash tự động, quay phim, chụp đen trắng, chụp hiệu ứng..v.v.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:36:53 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:41:19 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:45:45 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:52:58 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:55:27 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 16:59:10 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 17:06:24 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 17:12:48 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 17:21:00 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 17:26:23 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 26, 2015 17:33:57 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 1, 2015 11:29:53 GMT 9
Một Số Nguyên Tắc Khi Chụp Hình đúc kết của một nhóm bạn SV yêu thích nhiếp ảnh ở Melbourne , share với mọi người.
- A centre of interest (điểm nhấn) điều làm bạn thấy thu hút ngay từ cái nhì đầu tiên từ bức ảnh. Mặt trời, thác nước, người mẫu, vv.. Tuy nhiên chỉ nên có một điểm nhấn cho mỗi bức ảnh thôi. Nếu không có centre of interest thì không thể có bức ảnh gây cảm xúc. Điều này cần bạn suy tính một chút trước khi quyết định chụp.
- Khung cảnh: những bức ảnh đẹp nhất đều được chụp ngoài trời, một ngày nắng ráo. Trời u ám làm giảm độ tương phản, và mất đi điểm nhấn. Chụp trong nhà rất khó đẹp bởi vì mọi thứ sẽ có độ nhấn như nhau, đặc biệt là các đồ vật góc cạnh. Tuy nhiên các đồ vật khi được sắp xếp tốt sẽ cho một ấn tượng đặc biệt. Các ảnh chụp với ngôi nhà thì thường là với các building cổ thì khá đẹp, đặc biệt bên trong vòm mái cong. Chụp vào buổi tối trong nhà màu da sẽ đỏ dưới ánh đèn điện, và điều này thì không hợp với các bạn gái lắm. Chụp với flash mạnh khuôn mặt sẽ có màu trắng, nhưng không rõ chi tiết.
- Two third rule (nguyên tắc 2/3 tưởng tượng bức ảnh sẽ chia làm chín phần bằng hai dòng kẻ dọc, và hai dòng kẻ ngang). Nếu bạn chụp thuyền, nước, và bầu trời thì thường thuyền và nước sẽ nằm ở 2/3 bên dưới và bầu trời sẽ nằm 1/3 bên trên. Hoặc nếu bầu trời thực sự ấn tượng thì nó sẽ nằm ở 2/3 bức ảnh bên trên. Nếu bạn muốn cân bằng trời và nước thì thường ở gần đường chân trời sẽ có một điểm nhấn nào đó. Ảnh chân dung chụp gần thì con mắt chính sẽ nằm gần ở giao điểm của hai đường kẻ ngang dọc, tuỳ theo vị trí bạn chụp.
- Golden rule: nếu quy tắc 1/3 không áp dụng thì quy tắc 2/5 có thể được áp dụng. Trong trường hợp này chỉ có hai đường kẻ, ngang dọc, phân chia bức ảnh làm bốn phần không đều nhau.
- Chụp vào buổi sáng: Khoảng 9-10 giờ là đẹp. Mọi thứ sẽ lên ảnh tươi mới. Nhất là các bạn gái.
- Chụp vào buổi chiều: Khi mặt trời bắt đầu lặn thì màu sắc bắt đầu rực rỡ nhất, đặc biệt là màu đỏ. Chụp vào giữa trưa sẽ có bức ảnh có tương phản mạnh mẽ, nhưng khó đẹp.
- Chụp với nền đơn giản: nền đơn giản giúp bạn có điểm nhấn tập trung hơn, nhất là chụp người. Khung cảnh tự nhiên là tuyệt vời nhất. Nếu bạn cố gắng lấy cả toà nhà đằng sau bạn khi bạn đứng ngay trước nó thì người bạn sẽ bé tí, chẳng thể nhận ra bạn đẹp thế nào. Nên chọn đứng ở xa ngôi nhà, hoặc chỉ một góc ấn tượng nhất của nó nếu buộc phải ở gần. Nếu bạn đã xem phim Heros của Trung Quốc thì sẽ thấy màu nền là toàn lá phong vàng và đỏ. Một màu vàng hoặc đỏ của lá cây trong một ngày nắng đẹp là một màu nền tuyệt vời cho các ảnh chụp người.
- Chụp với nền không quá sáng: nếu bạn trong nhà thì không nên lấy nền ngoài trời, trong bóng râm thì hạn chế lấy nền bầu trời, không chụp ngược sáng (hướng về phía mặt trời). Tuy nhiên đây có thể là kỹ thuật tuyệt vời để tạo sự tương phản, chẳng hạn một phần viền của mái tóc sẽ có màu sáng, và bạn sẽ nhìn thấy từng sợi tóc trên bức ảnh. Kiểu này cũng tôn khuôn mặt lên.
- Tiền cảnh và hậu cảnh: thường một bức ảnh sẽ có tiền cảnh, nghĩa là những cảnh ở gần, rõ nét; và hậu cảnh thì ngược lại. Cả hai kết hợp cho ta ấn tượng về chiều sâu. Thường bạn chụp sông hồ, có thể lấy một ít lá cây, cành cây ngay trước mặt làm tiền cảnh. Tuy nhiên nếu bạn chụp tiền cảnh rất gần (khoảng 1-2m) và lấy điểm nhấn là ở xa, thì tiền cảnh sẽ mờ đi, chỉ để lại ấn tượng về màu sắc.
- Chụp với ánh sáng nhẹ: không nên đứng ra giữa nắng để chụp, nắng làm bạn nheo mắt, hoặc bóng râm sẽ quá lộ trên khuôn mặt.
- Tư thế chụp: không bao giờ đứng nghiêm chào cờ, nhất là các bạn gái. Bất kỳ ai cũng có các đường cong tự nhiên, và cơ thể con người không bao giờ đối xứng. Khuôn mặt ưa nhìn nhất thường là nhìn ở góc 45 độ so trực nhìn diện. Ngay cả các chính khách với bộ đồ vuông vức đôi khi cũng đứng nghiêng.
- Đừng quên bóng dưới nước: bóng in dưới nước luôn là bức tranh tuyệt vời, vì nó không bao giờ tả thực nhưng lại rất thực. Nó cũng giúp tạo sự cân xứng cho bức ảnh. Nhiều các bức tranh sông nước đều có nhấn vào bóng dưới nước.
- Ảnh đen trắng: nếu bạn có máy cơ, ảnh đen trắng sẽ cho bạn một cơ hội tuyệt vời để khám phá một thế giới chỉ có 2 màu trung tính. Những bức ảnh chụp các diễn viên Hollywood đẹp nhất còn được ca tụng đến giờ đều là ảnh đen trắng.
- Chụp ban đêm: nếu bạn muốn chụp đêm thì ít nhất bạn cần có một cái chạc 3 chân (tripot), và một bộ free hand. Một người chụp quen tay chỉ có thể giữ máy ảnh không rung trong vòng 1/30s, thời gian này quá ngắn đề có được một bức ảnh ban đêm.
- Chụp với cảm xúc bất ngờ: sử dụng trí tưởng tượng của bạn, và luôn luôn vui vẻ khi chụp ảnh. Bạn sẽ bất ngờ với chính sản phẩm của mình trong những lúc cảm xúc đến bất chợt. Bức ảnh người mẫu hiện là logo của ngành Du lịch Việt Nam chụp với nụ cười tự nhiên, do người chụp bất chợt phát hiện ra, không ai chuẩn bị trước. Thường thì bạn sẽ trở nên nghiêm túc quá khi người chụp nói một .. hai.. ba, và bạn sẽ mất tự nhiên, và mất đi khoảng khắc đẹp nhất của mình: đó là khi mỉm cười một cách thoải mái (vì bất kỳ lý do gì). Bông đùa một chút khi chụp ảnh là cách tốt nhất đề thấy mình xinh xắn trong ảnh. suu tam
|
|