|
Post by Huu Le on Aug 26, 2006 4:24:26 GMT 9
5 loại thực phẩm có hại với não Tất cả mọi người đều biết sữa, các loại cá, cà rốt, hành tây …vv đều là những loại thực phẩm có tác dụng kiện não, ích trí, nhưng ngoài ra, cũng có một số lọai thực phẩm có tác dụng không tốt với não. Một số nghiên cứu chứng minh, nếu thường xuyên ăn 5 loại thực phẩm sau đại não sẽ xuất hiện phản ứng trìđộn, thậm chí trí lực giảm sút. 1.THức ăn muối: cơ thể sinh lý con người bình thường cần một lượng muối rất thấp, người trưởng thành mỗi ngày chỉ cần 7g trở xuống, trẻ em 4g trở xuống là đủ rồi. Thường xuyên ăn quá mặn sẽ làm tổn hại đến động mạch , ảnh hưởng đến sự cung cấp máu cho tổ chức não làm cho tế bào não thiếu máu, thiếu oxy trong thời gian dài từ đó dẫn đến trí lực bị giảm sút , đại não bị thái hóa sớm . 2.Thực phẩm có chứa chì: chì là ‘‘sát thủ’’ lớn của tế bào não vì nó có khả năng thay thế vị trí hoạt động tại hệ thống thần kinh của sắt, canxi, kẽm. Những thực phẩm có chứa chì như : bỏng ng ô , bỏng g ạo, tr ứng muối…không nên ăn nhi ều. 3. Thực phẩm có chứa nhôm: Theo khuyến cáo cuả T ổ chức y tế thế giơí, m ỗi ngày cơ thể hấp thu m ột l ư ợng chì không quá 60mg. phèn chua trong quẩy có chứa chì v ô cơ nên n ếu m ỗi ngày ăn 50-100g quẩy thì s ẽ v ư ợt quá hàm l ư ợng chì cho phép. 4. Thực phẩm có hàm lượng ch ất béo oxy hóa cao: Thực phẩm rán trong dầu trên 2000c hay phơi dưới ánh nắng gay g ắt nh ư: cá mực, v ịt quay, chim quay,…đều chưá hàm lượng chất béo oxy hóa cao. Những ch ất này có th ể tích lại trong cơ th ể d ẫ n đ ế n m ột s ố h ệ thống men chuy ể n hóa trong cơ thể b ị tổ n thương làm cho đ ại não bị suy thoái sớm. 5.Thực phẩm có hàm l ượng đường, mì chính cao: ăn qúa nhiều đường làm tổ chứ c tế baò n ão b ị tổn h ại ; n ế u dùng m ột l ượng nhỏ mì chính thì không có hại nhưng phụ n ữ có thai và ấu nhi tốt nhất là không nên ăn. Mì chính có thể làm t ế bào não Ấu nhi bị chết, làm thiếu h ụt k ẽm của thai nhi, ảnh hưởng tới sự phát triển trí não cuả tr ẻ. d ịch theo báo tin tức y dược Trung quốc BS NGUYỄN THỊ TÂM THUẬN
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 3:52:05 GMT 9
Có thật nấm Vân chi phòng chống được ung thư và AIDS? Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng, Phạm Thế Hải Nấm Vân chi (Trametes versicolor, Coriolus versicolor, Agaricus versicolor, Boletus versicolor, Polyporus versicolor, Polystictus versicolor, Poria versicolor) là một loại nấm dược liệu đã được y học cổ truyền phương Đông sử dụng từ lâu. Sở dĩ như vậy vì nấm này có rất nhiều tác dụng dược lý, nổi bật nhất là tác dụng phòng chống ung thư. Trong vài thập kỷ gần đây đã có hàng ngàn công trình nghiên cứu về tác dụng dược lý của nấm Vân chi. Gần đây nhất nấm này còn được phát hiện là có khả năng kiềm chế virus HIV. Hiện nay các dược phẩm chế xuất từ nấm Vân chi được phát triển đa dạng, được sử dụng rộng rãi trong y học hiên đại, kết hợp với nhiều liệu pháp vật lý, hoá học và sinh học để điều trị nhiều loại bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là chống và kìm hãm ung thư. Chủng giống nấm Vân Chi hiện được bảo quản và đang được tiến hành nghiên cứu tại Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật (VTCC) thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tác dụng tăng cường miễn dịch Tác dụng dược lý của nấm Vân chi chủ yếu dựa trên nền tảng là khả năng làm tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể, nhờ hoạt tính của các hợp chất chứa trong nấm. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nấm Vân chi lên khả năng miễn dịch của cơ thể người và tất cả các công trình đều có kết quả khẳng định tác dụng tăng cường miễn dịch của nấm này. Theo các kết quả nghiên cứu, trong nấm có chứa các hợp chất polysaccharid liên kết với protein với rất nhiều ưu điểm dược lý và chính các polysaccharid này quyết định tác dụng tăng cường miễn dịch của nấm. Các hợp chất này gồm hai loại chính: PSP (polysaccharide peptide) và PSK (polysaccharide krestin). PSK và PSP có cấu trúc hoá học cũng như các tính chất khá tương đồng. Chúng đều là những hỗn hợp của các chuỗi đường liên kết với một số protein (Q.Y.Yang et al., 1992). Cả hai đều có trọng lượng phân tử khoảng 100 kDa và các chuỗi polypeptid trong phân tử của chúng đều chứa một số lượng lớn các acid amin aspartic và glutamic (Ng.T.B., 1998). Các polysaccharid này có khả năng chống chịu với tác dụng của các enzym thuỷ phân protein (T.Hotta et al., 1981). Về tính chất vật lý, PSK và PSP thông thường tồn tại ở dạng bột màu nâu, không mùi vị, tan và bền trong nước nóng nhưng không tan trong các dung môi như methanol, benzen, pyridine, clorofom và hexan (S.Ueno et al., 1980; T.Hotta et al., 1981). Tác dụng chung của PSP và PSK là hoạt hóa, tăng cường sự sản sinh và bảo vệ các tế bào của hệ miễn dịch (P.M.Kidd, 2000). Các thí nghiệm trên cơ thể động vật chỉ ra rằng PSP có hoạt tính rất đa dạng. Hợp chất này cảm ứng, kích thích làm tăng sự sản xuất các interferon, interleukin và các TNF (yếu tố hoại tử u), qua đó thúc đẩy sự sản xuất các tế bào Lymphocyte, đồng thời hoạt hóa các đại thực bào (W.K.Liu et al., 1993; G.D.Yu et al., 1996; X.W.Mao et al., 1996). Các đại thực bào và tế bào Lymphocyte là hai loai tế bào miễn dịch chính có tác dụng chống lại các tác nhân gây độc xâm nhập từ ngoài vào và tiêu diệt các tế bào lạ - các tế bào ung thư. Bên cạnh đó, PSP còn có tác dụng điều hòa hoạt động của các cytokine, đây là thành phần mấu chốt trong quá trình “tự chết”, rất quan trọng để ngăn ngừa sự hình thành và phát triển các khối u. PSK và PSP còn có tác dụng làm tăng độc tính và số lượng của các tế bào giết tự nhiên đối với các tế bào lạ. Nghiên cứu thực hiện bởi Munroe và cộng sự cho thấy số lượng các tế bào giết tự nhiên trong cơ thể 36 bệnh nhân suy giảm miễn dịch đã tăng 35% khi họ được điều trị bằng polysaccharid chiết từ nấm Vân chi (Munroe, 2004). Một tác dụng khác của các polysaccharid này là khả năng tăng cường hoạt tính và sự sản xuất (thông qua cảm ứng sao mã) các enzyme superoxide dismutase (SOD) (W.S.Wei et al., 1996;Y.Kobayashi et al., 1994) và glutathione peroxidase (Z.J.Pang et al., 2000). Các enzym này đóng vai trò rất quan trọng trong việc chống lại tác động gây hại của các tác nhân oxy hoá tự do, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ung thư. Trên cơ sở các tác dụng trên, PSK và PSP giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể nói chung, giúp chống lại ảnh hưởng kiềm chế miễn dịch của các liệu pháp hóa trị và xạ trị (Chung Kuo Yao, Li Hsueh Pao, 1996), giúp kiềm chế tác hại và kìm hãm sự phát triển các khối u, đồng thời cũng giúp tăng cường chức năng của gan, tăng cảm giác ngon miệng, điều hoà hệ thần kinh và làm giảm đau các vết thương. Đặc biệt đáng lưu ý là tác dụng chống ung thư của PSK và PSP. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng PSK và PSP có tác dụng với nhiều loại tế bào ung thư như các tế bào ung thư biểu mô (carcinoma), các sarcoma và các tế bào ung thư máu (leukemia) (Q.Y.Yang et al., 1992). Nghiên cứu của Hsieh và cộng sự (T.C.Hsieh et al., 2002) chỉ ra rằng PSP tác động lên pha G trong chu kỳ phân bào của các tế bào ung thư máu, qua đó cảm ứng quá trình “tự chết” (apoptosis). Một nghiên cứu khác (Y.Dong et al., 1997) lại cho thấy các polysaccharid này có khả năng ức chế sự tổng hợp ADN ở các tế bào ung thư vú và kìm hãm sự nhân lên hàng loạt của các tế bào ung thư gan. PSK và PSP không có tác dụng trực tiếp gây hại cho các tế bào ung thư mà gián tiếp thông qua các tác dụng tăng cường miễn dịch như nêu ở trên, cụ thể là hoạt hóa các tế bào miễn dịch và tăng cường hoạt động của các enzym chống các tác nhân oxy hóa. Gần đây PSP còn được chứng minh là có tác dụng chống lại sự xâm nhiễm của virus HIV type 1 (R.A.Collins và Ng.T.B, 1997). Polysaccharid này có tác dụng ngăn cản liên kết giữa protein HIV-1 gp của virus và thụ thể CD4 từ đó ngăn chặn sự xâm nhập của virus vào tế bào miễn dịch, đồng thời còn có tác dụng ức chế các enzym HIV-1 reverse transcriptase và glycohydrolase cần thiết cho sự tạo thành virus. Vì vậy PSP được đề nghị như một liệu pháp hữu hiệu chống lại HIV type 1. Các polysaccharid của nấm Vân chi có độ bền cao với nhiệt độ và ánh sáng, tồn tại lâu trong cơ thể, và đặc biệt chưa được phát hiện có tác dụng phụ gì, cả đối với phụ nữ mang thai, vì vậy rất thích hợp cho nhiều liệu pháp điều trị (P.M.Kidd, 2000). Chúng có thể được tách chiết từ quả thể hoặc sợi nấm Vân chi bằng phương pháp dùng nước nóng. Bên cạnh các polysaccharid là các thành phần chính quyết định tác dụng dược lý của nấm Vân chi, trong nấm còn chứa nhiều loại enzym như SOD (với tác dụng nêu ở trên), cytochrome P-450, một thành phần quan trọng trong việc khử độc các chất được nhập vào tế bào, và các chất trao đổi bậc hai có tác dụng ức chế thrombin, chống quá trình đông tụ máu ( A. Karmali, Khả năng sử dụng nấm Vân chi như một dược phẩm quý Nấm Vân chi có tác dụng tăng cường sức đề kháng của cơ thể nên có thể được sử dụng để điều trị rất nhiều loại bệnh. Ở đây xin được trình bày những minh chứng cho hai tác dụng nổi bật và đáng quan tâm nhất của nấm Vân chi: điều trị ung thư và chống virus HIV. Tác dụng điều trị ung thư: Ở Nhật Bản, từ năm 1970, PSK từ nấm Vân chi đã được chứng minh có khả năng kéo dài thời gian sống thêm 5 năm hoặc hơn cho các bệnh nhân ung thư thuộc nhiều thể loại: ung thư dạ dày, ung thư đại tràng, ung thư vòm họng, ung thư thực quản, ung thư phổi và ung thư vú (P.M.Kidd, 2000). Năm 1994, nhà xuất bản Lancet công bố kết quả của một nghiên cứu về một liệu pháp mới kết hợp PSK với các phương pháp hoá học để điều trị ung thư dạ dày. Theo kết quả này, so với điều trị bằng hoá chất đơn thuần, điều trị bằng hóa chất kết hợp với PSK giúp tăng thời gian sống sót của các bệnh nhân thêm 5 năm và không gây ra tác dụng phụ nào. Còn PSP đã được sử dụng để điều trị ung thư giai đoạn 2 và 3 ở Trung Quốc từ lâu. Polysaccharid này cũng có tác dụng kéo dài thêm thời gian sống ít nhất là 5 năm cho các bệnh nhân ung thư thực quản. PSP cũng có tác dụng cải thiện sức khỏe, giúp giảm đau và tăng cường khả năng miễn dịch ở 70 –97 % các bệnh nhân ung thư dạ dày, thực quản, ung thư phổi, ung thư buồng trứng và cổ tử cung (P.M.Kidd, 2000). Nghiên cứu thực hiện bởi Tsang và cộng sự trên 34 bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn tiến triển cho kết quả là sau 28 ngày điều trị bằng PSP, số lượng tế bào máu, hàm lượng các kháng thể của những người được điều trị đều tăng cao hơn so với những người không được điều trị (K.W.Tsang et al., 2003). Đặc biệt ở những người được điều trị, sự tiến triển của bệnh đã được làm chậm lại một cách đáng kể. Kết quả nghiên cứu do nhóm của tiến sỹ Kenyon ở trung tâm nghiên cứu điều trị lâm sàng Dove (Winchester, London) trên 30 bệnh nhân ung thư thuộc nhiều dạng khác nhau chỉ ra rằng điều trị bằng bột nghiền từ sinh khối nấm Vân chi làm giảm mạnh mẽ hoạt tính của enzym telomerase (một enzym thiết yếu giúp các tế bào ung thư chống lại quá trình “tự chết”), đồng thời tăng cường đáng kể các phản ứng miễn dịch chống lại các khối u. Vì vậy, nghiên cứu cho thấy điều trị bằng nấm Vân chi đặc biệt vẫn có tác dụng với các trường hợp ung thư giai đoạn 3 và 4, khi mà các liệu pháp hoá học và phóng xạ đã không còn tác dụng. Còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác về tác dụng chống ung thư của nấm Vân chi mà có lẽ nếu chỉ trong khuôn khổ bài viết này sẽ không thể đề cập hết được. Bản chất, cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm Vân chi đối với ung thư hiện vẫn đang được rất nhiều nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau (hóa sinh, miễn dịch, y học, dược học…) quan tâm nghiên cứu và ngày càng nhiều các phát hiện mới được công bố. Tiềm năng phòng chống và điều trị ung thư của nấm Vân chi là rất lớn và rất đáng lưu ý. Tác dụng chống virus HIV Năm 1997, R.A. Collins và Ng.T.B. (1997) thuộc Đại học Hồng Kông công bố kết quả nghiên cứu về tác dụng chống lại virus HIV typ 1 của các polysaccharid từ nấm Vân chi . Ngay sau đó, nhiều nhà nghiên cứu khác đã tiến hành các thử nghiệm sử dụng nấm Vân chi trong điều trị bệnh nhân AIDS. Tiêu biểu phải kể đến là nghiên cứu của Marijke Pfeiffer trên một nhóm bệnh nhân HIV dương tính ( M.Pfeiffer, 2001). Các bệnh nhân này được điều trị bằng Coriolus MRL, một dược phẩm chế xuất từ nấm Vân chi, kết hợp với liệu pháp châm cứu và dùng thảo dược; một số có dùng thêm HAART, một loại thuốc chống AIDS. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 3-4 tháng điều trị, sức khỏe của các bệnh nhân đều được cải thiện, biểu hiện như tăng cân, cảm thấy khỏe khoắn hơn, giải tỏa ức chế tâm lý. Đặc biệt số lượng virus trong cơ thể họ đều giảm một cách đáng kinh ngạc (từ vài chục nghìn xuống vài nghìn) và số lượng các tế bào trình diện kháng thế CD-4 đều tăng. Sau thời gian điều trị các bệnh nhân đều khỏi hoặc thuyên giảm hẳn các triệu chứng hệ quả của AIDS như ỉa chảy, viêm phế quản, đau tim, viêm dây thần kinh, nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, vv…Một số có thể ngừng không cần điều trị với HAART và có thể quay lại với cuộc sống bình thường, chơi thể thao, làm việc trở lại, … M. Pfeiffer (2001) đã xây dựng một phác đồ điều trị khá hiệu quả cho các bệnh nhân HIV dương tính . Một nghiên cứu đáng lưu ý khác do nhóm của G. Rotolo (1999) thực hiện cũng chứng minh tác dụng điều trị các biểu hiện thứ cấp trong sự phát triển bệnh ở các bệnh nhân AIDS . Các bệnh nhân đều trên 35 tuổi, HIV dương tính, được điều trị bổ sung bằng chế phẩm từ nấm Vân chi. Kết quả cho thấy sau 15 ngày điều trị với hàm lượng chế phẩm sử dụng là 3g/ngày, số lượng các tế bào bạch cầu trong cơ thể các bệnh nhân đều tăng lên khoảng 27% so với các trường hợp không được điều trị, và con số này giảm xuống còn 14,1 % nếu lượng chế phẩm sử dụng cho điều trị được giảm đi một nửa. Sau 45 ngày điều trị kết hợp cả hai chế độ, số lượng bạch cầu trong cơ thể các bệnh nhân tăng 45,2%. Từ các kết quả này tác giả khuyến cáo việc sử dụng chế phẩm từ nấm Vân chi như một liệu pháp chống bệnh AIDS và đề nghị nghiên cứu sâu hơn về bản chất tác dụng của nấm đối với sự tăng số lượng bạch cầu. Hiện nay các nghiên cứu về tác dụng của nấm Vân chi trong phòng chống virus HIV và bệnh AIDS vẫn đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào các cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm để từ đó đề xuất những phương pháp điều trị thích hợp. Nấm Vân chi rõ ràng là một loại nấm dược liệu có nhiều đặc tính dược lý ưu việt và rất đáng quan tâm. Tiềm năng sử dụng nấm Vân chi trong điều trị lâm sàng, đặc biệt với các bệnh hiểm nghèo như ung thư, AIDS là rất lớn và cần được đi sâu khai thác. Một điều đáng lưu ý là việc nuôi trồng và sản xuất dược liệu từ nấm này không hề tốn kém , rất phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, trong khi đây lại là một loại nấm có hiệu quả y dược cao. Vì vây, việc phát triển sản xuất dược phẩm từ nấm Vân chi có ý nghĩa kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho các ngành Công nghiệp dược phẩm và Công nghệ sinh học.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 3:55:35 GMT 9
Nấm mỡ Blazei - sản xuất và ứng dụng Vietsciences- Nguyễn Lân Dũng, Dương Văn Hợp, Phạm Thế Hải Nấm mỡ Blazei có tên khoa học là Agaricus blazei Murrill, thuộc họ Agaricaceae, bộ Acaricales, ngành phụ Basidiomycotina, ngành Eumycota, giới Mycota. Nấm mỡ Blazei còn có các tên gọi khác là Nấm mỡ Ba Tư, Nấm thông lớn, Nấm Nữ hoàng, Nấm của Chúa (Cognelo de Deus), Nấm Himematsutake. Ngày 24-4-1944 nhà khoa học W. Blazei đã phát hiện thấy ở vùng thảo nguyên Gainesville giáp biển Đại Tây Dương, thuộc bang Florida một chủng nấm lạ mang ký hiệu F. 32911. Nấm này về sau còn tìm thấy ở cả miền Nam California, ở Brazil và Peru. Mùa hè năm 1965 một thương gia Brazil gốc Nhật đã tìm thấy ở vùng đồng cỏ ngoại ô Pedade, thuộc Sao Paolo (Brazil) một loài nấm ăn có hương vị thơm ngon mà nhân dân địa phương gọi là Nấm của Chúa. Ông đã đưa bào tử nấm này về Nhật và đã nghiên cứu nuôi trồng ra quả thể. Họ đặt tên là Nấm Đại Nguyên Nhung. Mãi đến năm 1967 các nhà phân loại mới thấy các nấm nói trên là thuộc loài Agaricus blazei Murill. Năm 1991 tiến sĩ Tiên Minh Diệu ở Trung tâm nghiên cứu nấm ăn , thuộc Viện Khoa học nông nghiệp Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã đưa được nấm này từ Nhật Bản về và nuôi trồng thử nghiệm thành công. Năm 1992 nấm này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng về đặc tính sinh học và đặc điểm nuôi cấy bởi Sở nghiên cứu Bảo vệ thực vật và Sở nghiên cứu đất phân, trực thuộc Viện Khoa học Phúc Kiến. Nghề nuôi trồng nấm mỡ Blazei lan rộng tại các vùng Phúc Châu, Vu Đức, La Nguyên, Tiên Du, Vưu Khê thuộc Phúc Kiến. Sau đó việc trồng nấm này đã lan rộng ra nhiều tỉnh ở Trung Quốc. Sản phẩm nấm Ba Tư ở Tứ Xuyên và Phúc Kiến chủ yếu được bán sang Nhật Bản và một phần được ướp muối để tiêu thụ nội địa. Nấm Agaricus blazei có mũ hình bán cầu, về sau dẹt dần lại. Đường kính mũ nấm thay đổi trong khoảng 5-12cm, màu vàn nâu, có các vẩy màu nâu.Thịt nấm màu trắng, giữa dày, ngoài mỏng. Phiến nấm màu trắng, lúc già chuyển thành màu nâu đen. Cuống nấm dài khoảng 5-13cm, đường kính 1,0-2,5cm, màu trắng hay màu vàng nhạt. Bào tử đảm (basidiospore) có hình từ bầu dục đến hình trứng với kích thước trong khoảng 5,2-7,0 x 3,7- 6,31mm. Đảm có kích thước 5,5- 7,5 x 15,2-20,0 mm, trên đỉnh có 4 cuống nhỏ mang bào tử đảm. Quả thể gần giống với các nấm mỡ khác ( Agaricus bisporus, A. bitorquis) nhưng có màu từ nâu tro nhạt đến màu vàng nâu với nhiều vẩy dạng sợi. Đường kính mũ nấm khoảng 6-11cm. Cuống dài 4-14cm, đường kính 2-3cm, hình viên trụ, nằm chính giữa quả thể, trên dưới đều nhau, màu sắc và bề mặt gần giống với mũ nấm. Phần thịt nấm dày khoảng 11mm. Sợi nấm có bề rộng khoảng 3-6mm. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của hệ sợi nấm là 10-37°C, tốt nhất là ở 23-27°C. Với quả thể thì nhiệt độ thích hợp để sản sinh là 16-33°C , nhưng tốt nhất là 18-25°C. Nấm mỡ Blazei thích hợp trồng ở miềm Bắc nước ta trong vụ Đông Xuân. Không thích hợp trồng trong mùa hè hoặc trồng tại miền Nam. Khi rét dưới 10°C thì sợi nấm không mọc, dưới 19°C sợi nấm sinh trưởng chậm. Với nhiệt độ 29°C tuy sợi nấm mọc rất nhanh nhưng lại rất yếu và dễ lão hóa. Trên 30°C sợi nấm bắt đầu mọc chậm lại. Tại 37°C sợi nấm bị chết khô. Khi nhiệt độ quá 25°C quả thể vẫn hình thành nhưng cuống dài và dễ xòe mũ nấm. Độ ẩm trong nguyên liệu nuôi cấy sợi nấm Agaricus blazei tốt nhất là vào khoảng 58,5% ( ứng với tỷ lệ 1 nguyên liệu : 4 nước). Độ ẩm không khí cũng là yếu tố quan trọng để phát triển sợi nấm và sản sinh quả thể, độ ẩm tương đối thích hợp nhất để phát triển sợi nấm là 60-85%, để sản sinh quả thể là 85-95%. Độ ẩm của lớp đất phủ nên là 60-65%. Cần trang bị các ẩm kế trong phòng trồng nấm. pH thích hợp cho sự phát triển của sợi nấm là 4,5-8,5 , nhưng tốt nhất là 6-7. Khi hình thành quả thể tốt nhất môi trường nên có pH vào khoảng 6,5-7,5. pH của lớp đất phủ nên là 7. Nấm mỡ Blazei có vị ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Nếu tính theo trọng lượng tươi thì trong 100g nấm có tới 85-87g nước. Còn nếu tính theo trọng lượng khô thì trong 100 g nấm có 40-50g prôtêin, 38-45g hydrat carbon, 6-8g cellulose, 5-7 g chất khoáng, 3-4g lipid thô, ngoài ra còn có 0,3mg Thiamin (vitamin B1), 3,2mg Riboflavin ( B2), 4,92mg Axit nicotinic. Protein của nấm này có 18 loại axit amin, trong đó có đầy đủ 8 axít amin không thay thế (valin, leucin, isoleucin, methionin, threonin, phenylalanin, tryptophan,lysin). Đặc biệt quan trọng là giá trị dược liệu của nấm mỡ Blazei. Tác dụng kháng khối u (chống ung thư ) của nấm này được thấy rõ ở 6 loại polysacharide sau đây: b-glucan Flo-a-b; a-glucan FA -1-a-a; b-galactoglucan FA-1-a-b; acid ribonucleic FA-2-b-b; Proteinic glucan F III-2-b; Xyloglucan FIV-2-b. Cơ chế tác dụng và hiệu quả kháng khối u của polysacharide ở nấm mỡ Blazei được nêu lên trong rất nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống tại nhiều nước. Từ xa xưa, con người đã sử dụng chè làm từ nấm mỡ Blazei để điều trị nhiều chứng bệnh: các bệnh liên quan đến những rối loạn hệ thống miễn dịch, tuần hoàn, tiêu hóa, cũng như chứng tiểu đường, các hội chứng dị ứng hay các rối loạn về gan. Cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan cũng đã từng điều trị bằng nấm mỡ Blazei để chiến thắng căn bệnh ung thư da và qua sự kiện đó, hiệu quả dược học của nấm này đã được cả thế giới biết đến. Kể từ khi hiệu quả dược học của nấm mỡ Blazei được phát hiện, rất nhiều nghiên cứu về đề tài này đã được thực hiện trên toàn thế giới. Đặc biệt, các nghiên cứu trong suốt thời gian 25 năm qua đều chỉ ra rằng nấm mỡ Blazei có tác dụng rất lớn trong việc phòng và chống ung thư. Theo các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản, nấm mỡ Blazei có hiệu quả phòng ung thư đạt tới 99.4% và hiệu quả điều trị ung thư cũng đạt tới 90 %. Cũng theo các nhà khoa học Nhật Bản, nấm mỡ Blazei tỏ ra có hiệu quả cao hơn 80% so với PSK, thuốc tốt nhất dùng trong điều trị ung thư. Hiện nay, nấm mỡ Blazei đang được sử dụng rộng rãi trong trị liệu ung thư ở nhiều nước châu Á. Điều đáng lưu ý là nấm mỡ Blazei là một loại nấm ăn ngon, giàu dinh dưỡng và không gây ra bất kỳ một phản ứng phụ nào có hại đối với cơ thể con người. Sở dĩ nấm mỡ Blazei có hiệu quả dược học cao như vậy là do trong thành phần hóa học của sợi nấm cũng như quả thể của nấm này có những hoạt chất đặc biệt với những tác dụng miễn dịch đặc hiệu : - Các phức hệ polysaccarit – protein: bao gồm chủ yếu là các Beta-1,6-D-glucan, Beta-1,3-D-glucan [3], [7], [8], một số nghiên cứu cho rằng bao gồm cả các Beta–1,4–a–D-glucan [4]. Các polysaccarit này có tác dụng hoạt hoá mạnh mẽ các đại thực bào (macrophage) trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Các đại thực bào rất quan trọng vì chúng là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể. Sự tăng cường hoạt động của các đại thực bào đồng nghĩa với sự tăng cường khả năng phòng chống, ngăn chặn các mầm mống bệnh tật ngay từ giai đoạn xâm nhập đầu tiên. Sự hoạt hoá các đại thực bào còn dẫn đến sự tăng hàm lượng các cytokin. Đây là các protein tối quan trọng chịu trách nhiệm xúc tác và điều hoà hàng loạt các phản ứng miễn dịch của cơ thể. Bên cạnh đó, các đại thực bào còn có các tương tác với các tế bào Lympho T, có tác dụng khởi động các phản ứng miễn dịch đặc hiệu [5]. Vì thế, khi hoạt động của các đại thực bào được hoạt hoá, các phản ứng đặc hiệu này cũng được tăng cường. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng các polysaccarit kể trên cũng có tác dụng ức chế sự phát triển không bình thường của tế bào, đặc biệt là chúng có tác dụng kích thích, làm tăng số lượng các tế bào lymphô gây giết (killer cells) tự nhiên. Các tế bào này có khả năng phát hiện và tiêu diệt các tế bào phát triển không bình thường của cơ thể, các tế bào ung thư. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, các polysaccarit trong thành phần của nấm mỡ Blazei có tác dụng làm tăng cường rất mạnh khả năng miễn dịch của cơ thể. - Các steroid tự nhiên, các dẫn xuất Ergosterol: Các steroid tự nhiên của nấm mỡ Blazei có tác dụng ngăn ngừa ung thư, đặc biệt là ung thư tử cung [9]. Các Ergosterol được biết đến như các tiền vitamin D2, một loại tác nhân cũng có khả năng chống ung thư. Để nuôi cấy sợi nấm nấm mỡ Blazei trên môi trường thạch nghiêng ( giống cấp 1) nên sử dụng một trong số các môi trường sau đây: MT1 MT2 MT3 MT4 MT5 Khoai tây 200g 200g 200g Đường kính 20g 5g Glucose 20g 20g Bột ngô 30g Phân ủ hoai 100-150g 50g 50g MgSO4 0,5g KH2PO4 1,0g CaCl2 0,1g Fe2SO4 0,1g CaSO4 1g Thạch 20g 20g 20g 20g 20g Nước 1000ml 1000ml 1000ml 1000ml 1000ml Để sản xuất giống cấp 2 trong các chai thủy tinh miệng rộng có nút bông có thể sử dụng một trong các môi trường sau đây: 1- Rơm rạ- 375kg; Cám gạo- 10kg; Phân gà khô-15kg; Vôi sống- 8kg; Ammon sulphat- 10kg; Super phosphat- 5kg; Nước- đủ ẩm. 2- Rơm rạ- 350kg; Phân bò khô- 75kg; Vỏ hạt bông-65kg; Thạch cao-%kg; Super phosphat- 5kg; Urê- 2,5kg; Nước đủ ẩm Ngâm rơm, vỏ hạt bông trong 2-3 giờ. Lấy ra để cho ráo nước, ủ thành đống trong 1-2 ngày. Phân bò, phân gà khô cần nghiền nát, sàng qua lưới sắt, thêm đủ nước, ủ thành đống trong 1-2 ngày. Sau đó lấy ra ủ một tầng nguyên liệu thô ( rơm rạ, vở hạt bông...), rồi đến một tầng phụ liệu ( phân khô và các nguyên liệu khác). Xếp thành đống có mặt cắt ngang hình thang, Phủ bao tải ẩm hay vải nhựa (nilon) lên trên. Chăn hai bên bằng gạch cho khỏi bay vì gió. Để lên men trong ngày. Đưa môi trường vào chai dung tích 750ml , có cổ chai đường kính 3cm; hoặc các túi màng mỏng PE hay PP dài 33-35cm, dầy 0,04-0,05mm. Nén nguyên liệu đủ chặt nhưng vẫn đảm bảo đủ xốp. Nếu là túi nhựa thì phải tạo ra cổ bằng luồn đầu túi qua một đoạn ống nhựa cứng. Làm nút bông có độ chặt vừa phải. Đưa đi hấp khử trùng bằng hơi nước sôi trong thời gian 7-8 giờ . Không dùng nồi hấp áp lực vì nhiệt độ cao trên 100°C sẽ làm rách túi màng mỏng. Đợi nguội lấy ra cấy giống từ ống giống cấp I ( mọc trên thạch nghiêng). cấy xong đậy lại nút bông hay đậy bằng màng mỏng có đục thủng vài lỗ rồi bao lại bằng giấy báo ra ngoài. Giữ các bình hoặc túi đã cấy giống trên giá đặt trong phòng có nhiệt độ điều chỉnh ở mức 23-27°C và có độ ẩm không khí 65-75. Khi sợi nấm đã mọc kín túi thì ta dùng để cấy vào môi trường sản xuất (cấp III). Các nguyên liệu dùng để nuôi trồng A. blazei gồm chủ yếu là rơm rạ, thân cành lá ngô, đậu, mía... vỏ hạt bông, bã rượu, lõi ngô, khô dầu... Ngoài ra là phân gia súc, gia cầm, phân đạm, phân lân, phân kali, MgSO4, thạch cao, CaCO3, bột tiết. Tỷ lệ C : N nên là 33 : 1. Các nguyên liệu này cần ủ đống để lên men tạo nhiệt. Nhiệt độ có thể lên tới 70 - 75°C. ở nhiệt độ này các vi sinh vật (trừ bào tử của chúng). Các loại côn trùng, tuyến trùng cũng đều chết hết. Các xạ khuẩn ưa nhiệt sẽ hoạt động mạnh mẽ ở nhiệt độ cao này, làm phân huỷ các chất cao phân tử phức tạp này thành các đường phân tử thấp. Về sau sợi nấm sẽ dùng các hợp chất phân tử thấp này để tổng hợp ra sinh khối của chúng. ủ nguyên liệu là khâu đầu tiên rất quan trọng sau quá trình phối trộn nguyên liệu. Dùng rơm khô, chưa mủn, chưa mốc, không dùng rơm rạ lần bụi bậm do phơi trên quốc lộ. Cứ 1 tấn rơm khô thì dùng 20kg vôi ướt. Hoà vôi vào nước tạo dung dịch có máu trắng đục như nước vo gạo. Nhấn chìm rơm rạ trong 3 - 5 phút. Rơm rạ chuyển sang màu vàng nhạt. Vớt ra để ráo 3 - 5 phút sau đó đưa vào đống ủ. Đưa rơm rạ này vào đống ủ, thường có kích thước 1 x 1,5 x 1,8m. Cứ xếp rơm rạ lên cao độ 30 - 50cm thì ngừng lại để rắc lớp urê. Lại xếp tiếp một lớp rơm rạ khác cao 30 - 50cm. Lại rắc tiếp urê sao cho đống ủ cao tới 1,5m. Cần phân phối urê sao cho cứ 1 tấn rơm rạ khô chỉ dùng vừa hết 5kg urê. Khi rắc lưu ý phần dưới rắc ít đạm urê, càng lên trên càng nhiều lần. Nên ủ rơm trên nền bê tông, bên dưới có lót ni lông, không ủ trực tiếp trên nền bê tông và cũng không ủ trên nền đất, nền gạch. ủ xong lấy ni lông phủ kín cả đống ủ. Dùng dây thừng hoặc dây ni lông buộc chặt xung quanh đống ủ có hình thang. Sau 3 ngày rỡ ra. Lấy nguyên liệu phía trên ủ xuống dưới. Khi có độ dầy 30-50cm tiến hành rắc phân lân (nên dùng loại lân meng chảy mịn - thermophotphat, của nhà máy phân lân Văn Điển), cũng làm lần lượt như trên chỉ có thay đạm bằng lân, và đảo lớp rơm từ trên xuống dưới từ dưới lên trên. Làm sao khi ủ hết rơm thì cũng vừa hết phân lân và vẫn theo nguyên tắc khi rắc phân lân thì dưới rắc ít, trên rắc nhiều. Dùng hết 30kg phân lân nung chảy cho 1 tấn rơm khô. Cũng đậy ni lông và buộc như lần 1. Sau 3 ngày lại rỡ ra và làm lại như lần 2. Lần 3 thay phân lân bằng bột nhẹ, tức là CaCO3. Cũng làm nhu trên, cách 30-50cm lại rắc bột nhẹ 1 lần, dưới rắc ít trên rắc nhiều. Sao cho rơm ở lớp trên đảo xuống dưới, dưới đảo lên trên khi xếp rơm vào ủ lại. Cứ 1 tấn rơm khô dùng hết 25kg bột nhẹ. Cũng phủ ni lông và buộc chặt lại như 2 lần trên. Sau 3 ngày lại rỡ ra, kiểm tra độ ẩm, nếu cần thì bổ sung nước cho khỏi khô quá, đảo tung đống rơm lên rồi ủ lại như các lần trước nhưng không bổ sung thêm nguyên liệu gì nữa. ủ thêm 3 ngày là đủ. Tất cả cần ủ tổng cộng là 12 ngày. Khi đó rút một nắm nguyên liệu ở một góc nào đó, nắm vào bàn tay và bóp lại, nếu thấy một vài giọt nước rỉ ra là tốt, khi thả thay ra thấy nguyên liệu vẫn kết dính với nhau thành một nắm. Nếu thấy nước chảy ra nhiều hơn thì cần hong phơi nguyên liệu 10 - 20 phút rồi kiểm tra lại độ ẩm theo cách nói trên. Nếu không thấy nước rỉ ra kẽ ngón tay cần pha 5kg vôi ướt vào 100 lít nước sạch, sau đó thêm nước này dần dần vào nguyên liệu cho đến khi nào kiểm tra độ ẩm thấy vừa đủ mới thôi. Tiếp tục đậy ni lông ủ thêm 3 ngày nữa (thành ra 15 ngày cả thẩy). Chú ý khi đảo đống ủ làm 4 cần giảm chiều dài và tăng thêm chiều cao cho đống ủ. Sau khi hoàn thành quá trình ủ rơm ta cho vào các ngăn của giá hay xếp ngay trên nền nhà thành các luống ruộng 1m, chiều dài tuỳ ý (phụ thuộc vào kích thước giá hoặc nền nhà). Chiều cao lớp nguyên liệu là 20 - 22cm. Nên dùng tay cuốn rơm rạ lại thành từng bó phía trên có dang tròn, cao 2°Cm, đường kính 10 - 15cm. Xếp theo chiều thẳng đính vào luống. Trước đó đã đặt bao tải dứa lót phía bên dưới luống. Nếu làm giá nhiều tầng thì tầng nọ phải cách tầng kia 50-60cm. Chiều cao của giá không nên quá 2m để dễ chăm sóc. Dưới đáy từng tầng đều có lót bao tải dứa. Khi làm trên nền nhà, trước khi trải bao tải dứa nên rắc lên nền nhà một lớp vôi bột khô. Vào luống được 7 ngày thì dùng nhiệt kế cắm sâu khoảng 8 - 10cm, để 5 phút lấy ra xem nhiệt độ. Nếu đạt 22 - 25°C là tốt. Nếu nhiệt độ là 25 - 28oC là do xếp nguyên liệu quá chặt tay nên sinh nhiệt. Khi đó cần tháo bỏ bớt một vài nắm nguyên liệu ra và xếp lại nguyên liệu từ trên quay đảo xuống dưới, dưới quay lên trên. Sau 1 ngày mới cấy giống. Nếu 7 ngày mà thấy nhiệt độ đạt yêu cầu thì bắt đầu cấy giống vào luống. Dùng cào làm bằng thép với 3 - 5 răng, các răng dài 5cm, cách nhau 3cm, cán dài hay ngắn tuỳ điều kiện cụ thể. Cào xới đều trên mặt luống theo từng m2 một. Cứ 1m chiều dài của luống thì dùng 1 túi giống đã có sợi nấm mọc trắng hết (0,5kg). Chỉ cào theo một hướng (hoặc ngang hoặc dọc), không cào ngang dọc lẫn lộn. Khi cào nếu có phần nguyên liệu mắc vào rãnh cào thì ta lấy ra gom lại để sau dùng làm nguyên liệu phủ trên bề mặt luống. Thường làm giống bằng thóc. Khi đó bóp giống tơi ra và rắc vào những đường rãnh cào trên bề mặt luống. Phần giống nào mắc trên bề mặt thì dùng tay gạt xuống rãnh. Sau cùng phủ một lớp mỏng nguyên liệu lên trên bề mặt luống, dày khoảng 1,0 - 1,5cm. Cấy giống xong dùng giấy báo hay giấy bao xi măng phủ kín toàn bộ bề mặt luống. Dùng bình phun mù nước để làm ẩm trên khắp bề mặt lớp giấy phủ. Tạo ẩm như vậy trong 15 ngày liền (không tạo ẩm vào ban đêm). Đến ngày thứ 15 bỏ lớp giấy phủ trên mặt luống ra, lấy tay nhấc một nắm nhỏ nguyên liệu ra thấy có sợi nấm trắng mọc toả lan đều trên nguyên liệu. Bắt đầu đến giai đoạn phủ đất. Lấy đất ruộng ở tầng canh tác, luyện thật kỹ như kiểu làm "pháo đất". Lăn tròn rồi khoanh lại như chiếc vòng lớn và để nơi râm mát trong 12 giờ. Nếu thấy vòng đất bị đứt ra từng đoạn là đất lẫn cát, không dùng được. Nếu đất rạn châm chim là dùng được. Thử được đất tốt mới khai thác để về dùng. Cứ 1 tấn nguyên liệu cần chuẩn bị 500kg đất. Tải mỏng đất ra phơi trên sân. Dùng dung dịch Formol 0,05% để phun vào đất nhằm khử trùng đất. Phơi đất 15 ngày, trời mưa thì đậy che, khi nắng lại mở ra phơi. Rắc đất đã bỏ ra thành từng hạt, từng viên to bằng khoảng hạt ngô phủ lên khắp bề mặt của luống. Độ dày lớp đất phủ khoảng 1,0 - 1,5cm. Tuyệt đối không dùng đất vụn, đất bột hoặc các cục đất quá lớn. Phủ đất xong phun mù nước (phun sương bằng bình bơm thuốc sâu chưa đựng thuốc sâu), cứ 2 giớ phun mù một lần, phun liên tục trong 3 ngày đầu (chỉ phun ban ngày). Lấy thử một viên đất bẻ ra để quan sát. Nếu thấy có màu nâu từ ngoài vào trong là đất đã đạt đủ độ ẩm. Nếu ở giữa viên đất có màu trắng đục là chưa đủ độ ẩm. Khi đó phải phun thêm 1 ngày nữa rồi lại kiểm tra độ ẩm lại theo cách này. Sau 2 ngày tạo ẩm ta bắt đầu phun tưới cho các luống. Nếu trời hanh khô mỗi ngày phun không quá 4 lần, nếu trời ẩm ướt chỉ phun 1 lần vào lúc chiều tối. Khi phát hiện thấy quả thể nấm bắt đầu xuất hiện lấm tấm như hạt đỗ hạt ngô màu trắng thì phải tăng thêm số lần phun tưới. Dùng bình phun, quay ngửa vòi phun để phun mù. Phun nhiều lần trong một đợt tưới. Trời hanh khô phun nhiều, nhưng không quá 6 lần. Trời mưa ẩm, thì không nên phun. Từ lúc nấm xuất hiện đến khi thu hái được quả thể là khoảng 72 giờ. Khi cân nấm đã mọc lên được 2 - 3cm kể từ mặt đất thì cần thu hái. Cần chọn quả thể nào to hái trước. Một tay giữ phần đất sát chân nấm, một tay đặt vào chân nấm nhổ thẳng lên cho ra cả phần rễ. Dùng dao sắc cắt bỏ phần rễ của từng quả thể sau đó mới cho nấm vào rổ. Hái nấm xong nếu thấy bề mặt luống có chỗ nào bị lõm xuống thì phải dùng đất dự trữ bổ sung vào. Sau khi hái mỗi đợt phải phun nước ngay để giữ ẩm. Nếu không bán nấm tươi thì cần cắt rồi sấy hoặc tiến hành muối nấm trong các can nhựa. Các phòng nuôi trồng nấm A.blazei cần sạch và kín, càng tối càng tốt. Không nên mở cửa ra vào nhiều. Tuy nhiên phải có hệ thống thông gió. Sau mỗi đợt nuôi trồng nấm cần dừng lại 5 ngày để làm vệ sinh và khử trùng phòng nuôi trồng. Dùng vôi bột rắc toàn bộ nhà xưởng (5kg vôi bột/100m2) sau đó dùng Formol nồng độ 0,05% để phun. Đốt để xông khói trong thời gian là 5 giờ. Sau 5 ngày mới trồng tiếp. Mỗi năm nên để 3 tháng trái vụ không trồng nấm để khử trùng nhà xưởng. Trên đây chỉ là một công thức phối trộn dùng rơm rạ và phân khoáng, bột nhẹ. Môi trường sản xuất còn có thể được ủ theo một trong các công thức khác sau đây: 1. Phân gia súc khô (lợn, trâu, bò) 55% Rơm rạ khô 40% Khô dầu 2 - 3% Thạch cao 1% Supe lân 0,5% Nước Khoảng 160% 2. Rơm rạ 1000kg Bột tiết 40kg Phân ngựa 100kg Urê 10kg Supe lân 40kg CaCO3 20kg Đất phủ 500kg Nước khoảng 2500 lít 3. Phân ngựa 1000kg Phân gà 100kg Thạch cao 25kg Nước 200 - 800 lít 4. Phân gà (40% độ ẩm) 800kg Rơm rạ khô 1000kg Thạch cao 75kg Nước 5000 lít 5. Rơm rạ 1000kg Phân gà 100kg Thạch cao 10 - 20kg Nước Tạo đủ độ ẩm 65% Dựa vào các công thức nói trên, căn cứ vào các nguyên liệu sẵn có ở từng địa phương người trồng nấm Agaricus blazei có thể tự xây dựng ra các công thức phối trộn để thử nghiệm. Tài liệu tham khảo: 1. Antitumor effect of a peptide-glucan preparation extracted from Agaricus blazei in a double-grafted tumor system in mice. Ebina T, Fujimiya Y. Division of Immunology, Miyagi Cancer Center Research Institute, Natori, Miyagi, Japan. Biotherapy 1998;11(4):259-65 2. Selective tumoricidal effect of soluble proteoglucan extracted from the basidiomycete, Agaricus blazei Murill, mediated via natural killer cell activation and apoptosis. Fujimiya Y, Suzuki Y, Oshiman K, Kobori H, Moriguchi K, Nakashima H, Matumoto Y, Takahara S, Ebina T, Katakura R. Division of Immunology, Miyagi Cancer Center Research Institute, Natori, Japan. Cancer Immunol Immunother 1998 May;46(3):147-59 3. Anti-tumor polysaccharide from the mycelium of liquid-cultured Agaricus blazei mill. Mizuno M, Minato K, Ito H, Kawade M, Terai H, Tsuchida H. Graduate School of Science and Technology, Kobe University, Japan. Biochem Mol Biol Int 1999 Apr;47(4):707-14 4. Tumor-specific cytocidal and immunopotentiating effects of relatively low molecular weight products derived from the basidiomycete, Agaricus blazei Murill. Fujimiya Y, Suzuki Y, Katakura R, Ebina T. Division of Immunology, Miyagi Cancer Center Research Institute, Natori, Japan. Anticancer Res 1999 Jan-Feb;19(1A):113-8 5. Polysaccharides from Agaricus blazei stimulate lymphocyte T-cell subsets in mice. Mizuno M, Morimoto M, Minato K, Tsuchida H. Division of Science of Biological Resources, Graduate School of Science and Technology, Kobe University, Japan. Biosci Biotechnol Biochem 1998 Mar;62(3):434-7 6. . [Article in Japanese] Higaki M, Eguchi F, Watanabe Y. Lab. of Forest Products Chemistry, Tokyo University of Agriculture, Japan. Nippon Yakurigaku Zasshi 1997 Oct;110 Suppl 1:98P-103P 7. Antitumor effects of a new polysaccharide-protein complex (ATOM) prepared from Agaricus blazei (Iwade strain 101) "Himematsutake" and its mechanisms in tumor-bearing mice. Ito H, Shimura K, Itoh H, Kawade M. Department of Pharmacology, Mie University School of Medicine, Japan. Anticancer Res 1997 Jan-Feb;17(1A):277-84 8. Inhibitory action of a (1-->6)-beta-D-glucan-protein complex (F III-2-b) isolated from Agaricus blazei Murill ("himematsutake") on Meth A fibrosarcoma-bearing mice and its antitumor mechanism. Itoh H, Ito H, Amano H, Noda H. Laboratory of Marine Biochemistry, Faculty of Bioresources, Mie University, Japan. Jpn J Pharmacol 1994 Oct;66(2):265-71 9. [Antimutagenic and bactericidal substances in the fruit body of a Basidiomycete Agaricus blazei, Jun-17]. [Article in Japanese] Osaki Y, Kato T, Yamamoto K, Okubo J, Miyazaki T. Tokyo College of Pharmacy, Japan. Yakugaku Zasshi 1994 May;114(5):342-50 10. Illustration for China popular edible mushroom Vân Nam Xuất bản xã, 1999 11. Cơ Thông Nhung tài bồi kỹ thuật đồ thuyết Hà Bắc Khoa học Kỹ thuật Xuất bản xã, 2003 12. Trung Quốc dược dụng khuẩn sinh sản dự sản phẩm khai phát TrungQuốc nông nghiệp xuất bản xã, 2000
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 4:01:52 GMT 9
Thuốc tây, thuốc Bắc, thuốc Nam dưới mắt một bác sĩ tây yBài của Bác sĩ Nguyễn văn Hoàng Kính thưa quý vị, một hôm, có một bệnh nhân đến phòng mạch, yêu cầu chúng tôi thử máu tổng quát. Là bác sĩ, trước khi thử máu thì cần phải biết tại sao bệnh nhân có yêu cầu này, vì nhiều khi bệnh nhân có những căn bệnh mà cuộc thử nghiệm tổng quát không phải là thử nghiệm thích hợp nhất. Sau khi được hỏi bệnh cẩn thận, bệnh nhân dứt khoát là không bị bệnh gì cả, chỉ muốn khám nghiệm tổng quát. Thấy bệnh nhân trong độ tuổi giữa 45 và 49, cũng là tuổi mà bộ y tế muốn các BS làm một cuộc khám nghiệm tổng quát, chúng tôi đồng ý cho bệnh nhân thử máu. Thật tình cờ, khi kết quả trở về thì cho thấy bệnh nhân bị suy gan khá trầm trọng. Tất nhiên tiếp theo đó những thử nghiệm khác được tiến hành, để tìm hiểu thêm nguyên nhân của sự suy gan, mà người Việt mình thường gọi là nóng gan, như thử các bệnh viêm gan do siêu vi khuẩn gây ra, siêu âm gan, và hỏi lại thật cặn kẻ việc ăn uống cùng thuốc men của bệnh nhân. Nên biết, rượu hay thuốc làm giảm mỡ (cholesterol) cũng thường là nguyên nhân làm cho "nóng gan". Kết quả là không một nguyên nhân nào được tìm thấy, nhưng chính trong lần khám nghiệm thứ ba này, bệnh nhân tiết lộ đang dùng thuốc Bắc, mặc dù trong những lần khám nghiệm trước, đã được hỏi về những thuốc men mà bệnh nhân sử dụng. Sau một thời gian ngưng uống liều thuốc Bắc này, gan bệnh nhân trở lại bình thường. Kính thưa quý vị, chúng tôi lớn lên ở VN, tuy không học qua Ðông y, nhưng cũng nghe lõm bõm về khái niệm âm dương ngũ hành, thổ sinh kim, thủy khắc hỏa vân vân. Khi ở VN thì chúng tôi học 4 năm đại học ngành hóa học, thấy người Tây phương chia vạn vật ra làm hàng tỉ tỉ hợp chất khác nhau, mà thành phần đơn chất căn bản để cấu tạo nên những hợp chất này là nguyên tố, như oxygen, carbon, sắt, đồng, nitrogen vân vân. Té ra đời không thể nhìn đơn giản với kim mộc thủy hỏa thổ mà đủ (quan niệm của Hy Lạp cách đây mấy ngàn năm cũng tương tự như vậy, nhưng nay người ta đã tiến rất xa rồi). Khi sang Úc, học ngành y, thì chúng tôi được biết thêm cách thức Tây phương nghiên cứu thuốc men. Xin được vắn tắt về cách Tây y nghiên cứu một môn thuốc trước khi thuốc này được đưa ra thị trường cho người bệnh dùng. Một liều thuốc Tây căn bản, thường chỉ bao gồm một hợp chất (hoặc cao lắm là vài hợp chất) trộn với chất bột không có tính thuốc. Sau khi thử trên loài vật có hệ thống sinh lý tương đối giống con người và đã xác định được hiệu quả của thuốc, người ta mới bắt đầu thử trên con người. Ở giai đoạn thử trên con người này, hầu như luôn luôn người ta sử dụng phương pháp gọi là "double blinded study". Xin đưa một thí dụ. Các bệnh nhân có cùng một căn bệnh, sẽ được chia làm 2 nhóm. Một nhóm sẽ được cho uống thuốc thật và một nhóm được cho uống thuốc giả (placebo), tức là viên thuốc chỉ có chất bột mà không có hợp chất thuốc. Bác sĩ cho thuốc cũng không hề biết viên thuốc mình cho bệnh nhân uống là thực hay giả, và tất nhiên bệnh nhân cũng không biết luôn. Do đó, người ta gọi là "double blinded", cả hai, thầy lang và con bệnh, đều bị "bịt mắt". Người biết ai uống thuốc thật, ai uống thuốc giả là những nhân viên hành chánh, chưa hề gặp mặt các bệnh nhân. Sau một thời gian dùng thuốc, bệnh nhân được kiểm tra lại. Thí dụ như trong trường hợp thử nghiệm loại thuốc giảm áp huyết, người ta sẽ đo lại áp huyết của bệnh nhân, và so sánh với áp huyết trước khi dùng thuốc. Cùng lúc, người ta hỏi bệnh nhân về các phản ứng phụ, như buồn nôn, chóng mặt vân vân, và đo đạc những thay đổi khách quan khác như thử máu xem gan có bị "nóng" (bệnh) hay không, công năng thận ra sao vân vân. Sau đó người ta đưa sang thống kê để phân tích. Nếu trường hợp 99% người uống thuốc thật khỏi bệnh, còn chỉ có 1% người uống thuốc giả khỏi bệnh, thì ta có thể kết luận là thuốc này công hiệu. Ngược lại, nếu chỉ có 5% người uống thuốc thật hết bệnh và có 4% người uống thuốc giả cũng khỏi bệnh, thì có thể ta cũng thấy được uống thuốc hay không cũng không khác gì nhau, tức là thuốc không nhiệu nghiệm. Nhưng thông thường, kết quả không rõ rệt như vậy, mà có thể là 563/1000 người dùng thuốc thật sẽ khỏi bệnh, 230/1000 người dùng thuốc giả hết bệnh. Như vậy thì thuốc thật có công hiệu không? Và thuốc giả thì sao, vì cũng có người hết bệnh đó mà Ðến đây, vai trò của toán thống kê vô cùng quan trọng. Toán thống kê cuối cùng sẽ cho ta một kết luận, kết luận rằng có thể nào vì "rùa" (tình cờ) mà có nhiều người uống thuốc thật khỏi bệnh hơn người uống thuốc giả không. (chỉ số dùng để kết luận này được gọi là "p value", và nếu nó nhỏ hơn 0.05 thì kể như không thể nào thuốc thật "chó ngáp phải ruồi" được). Song song đó, người ta cũng phải bảo đảm những bệnh nhân tham gia cuộc thử thuốc không có những bệnh khác, hoặc không có uống những thuốc khác. Sở dĩ người ta phải so sánh người uống thuốc thật và thuốc giả là để loại đi vai trò của tâm lý ảnh hưởng lên người bệnh (hiệu ứng tâm lý này rất quan trọng, gọi là placebo effect), vì nhiều người chỉ nhờ tin tưởng mà hết bệnh, nhất là đối với những chứng bệnh mà ta không thể đo lường một cách khách quan được, thí dụ như bệnh nhức đầu. (Nhức, đau, ngứa là những triệu chứng vô cùng chủ quan, chỉ có bản thân bệnh nhân mới định lượng được thôi). Và, sở dĩ người ta chú ý đến những yếu tố khác của bệnh nhân là vì những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến căn bệnh. Thí dụ như một người nghĩ rằng vì nhờ uống hà thủ ô mà tóc trở nên đen, nhưng không chừng trong thời gian đó, người này ăn nhiều rau giấp cá, mà chính rau giấp cá mới có tác dụng làm đen tóc thì sao (chỉ thí dụ như vậy mà thôi). Chắc chúng ta không biết được trong 1000 người uống hà thủ ô thì có bao nhiêu người tóc bạc trở thành đen (e rằng không có đến 1 người, nhờ vậy mà thuốc nhuộm tóc vẫn bán chay re re). Kính thưa quý vị, đó là quá trình thử nghiệm và thực nghiệm của Tây y, mà theo chúng tôi, y học cổ truyền của chúng ta không có. Y học cổ truyền dựa trên kinh nghiệm tích lũy, nhưng không có thống kê rõ ràng. Chúng tôi được biết có rất nhiều bệnh nhân tin rằng uống thuốc Bắc sẽ khỏi một số bệnh nan y, tốn tiền rất nhiều, nhưng cuối cùng trong một ngàn người dùng thuốc này có bao nhiêu người khỏi bệnh và bao nhều người... quy tiên, ta cũng không biết. Một số người do nhìn thấy một vài trường hợp cá biệt rồi khái quát hóa, cho rằng liều thuốc đông y ấy có hiệu nghiệm trên mọi người. Có lẽ là vì Ðông y thiếu thực nghiệm và thống kê. Thứ đến, rất nhiều bệnh nhân than phiền về phản ứng phụ của Tây y. Kính thưa quý vị, trong khi một viên thuốc Tây chỉ có một hay hai hợp chất, thì một khúc rễ cây, một túi mật, có hàng chục đến hàng trăm hợp chất trong đó. Như vậy thì "phản ứng không mong muốn" (unwanted effects) ắt phải nhiều hơn rất nhiều. Một viên Morphine chỉ chứa có chất Morphine mà thôi, trong khi đó nếu ăn một cây á phiện thì ta cho vào cơ thể biết bao nhiêu tạp chất khác. Vấn đề nằm ở hai chữ: LIỀU LƯỢNG. Kính thưa quý vị, chắc chắn một số thuốc Ta, thuốc Bắc, thuốc Nam cũng có hiệu lực, nên mới lưu truyền cả ngàn năm, nhưng sự nghiên cứu của những loại thuốc này thực thua kém thuốc Tây rất xa. Nói đến thuốc Bắc thuốc Nam thì chắc có lẽ vua Càn Long, Tần Thủy Hoàng, các đại quan, phú hộ của Tàu là người uống nhiều nhất, cũng được toàn các danh y, Hoa Ðà, Biển Thước chẩn trị. Nhưng kết quả các vị ây ra sao, chết lúc bao nhiêu tuổi, có mạnh khỏe hơn tổng thống Bush hay không, ta cũng thấy rồi. Các vị ngày xưa thường nói, nhân sinh thất thập cổ lai hy, bây giờ với Tây y thì nhân sinh thất thập mà "die", thì là... hơi yểu mệnh đó. Ngày nay, có rất nhiều cô chú bác đã xấp xỉ thất thập, nhưng vẫn còn mạnh cuồi cuội, đi shop, đi du lịch, đi biểu tình rần rần, so với các vị quan lớn, vua chúa ngày xưa thì khỏe và thọ hơn nhiều, dù không uống sâm nhung, dù không dùng cao hổ cốt, lộc nai, sừng tê giác. Bài tâm tình về thuốc này không nhằm việc bài bác Ðông y, mà chỉ để chúng ta thấy được sự khác biệt trong nghiên cứu giữa Ðông và Tây y. Là một người theo ngành khoa học, nhìn đời qua cặp mắt thống kê, cá nhân của chúng tôi chỉ được thuyết phục khi nào thuốc Bắc, thuốc Nam, Ðông y, Trung Y, có những nghiên cứu tinh tế, chi tiết, với sự chứng minh của thống kê mà thôi. Nhiều bệnh nhân khi gặp bác sĩ Tây y, thường hỏi thuốc này có những phản ứng phụ gì. Hầu như lúc nào BS cũng biết, nếu không biết thì mảnh giấy hướng dẫn trong hộp thuốc cũng có ghi. Quý vị vẫn có thể dùng thuốc Bắc, thuốc Nam, nhưng khi gặp các Ðông y sĩ, hay Trung y sĩ, nên hỏi xem thuốc ấy có tạo phản ứng phụ gì không. Ðiều này sẽ hữu ích cho hiểu biết và sức khỏe của chúng ta. Bài của Bác sĩ Nguyễn văn Hoàng (Hoàng Nguyên) trích từ Việt Vùng Vịnh ******************************************************************************************** Thần dược Đông Trùng Hạ ThảoVietsciences-Nguyễn Lân Dũng, Dương Văn Hợp, Phạm Thế Hải Đông trùng hạ thảo là gì? Đó là một dạng cộng sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Cordyceps sinensis (Berk.) Sacc. với sâu non (ấu trùng) của một loài côn trùng thuộc chi Hepialus. Thường gặp nhất là sâu non của loài Hepialus armoricanus. Ngoài ra còn 40 loài khác thuộc chi Hepialus cũng có thể bị Cordyceps sinensis ký sinh. Vào mùa đông nấm bắt đầu ký sinh vào sâu non và làm chết sâu non vì ăn hết chất dinh dưỡng của chúng. Mùa hè ấm áp nấm bắt đầu mọc ra khỏi sâu như một ngọn cỏ và vươn lên khỏi mặt đất. Đầu của ngọn nấm là một thể đệm (stroma) hình trụ thuôn nhọn. Chỉ phát hiện được ĐTHT vào mùa hè ở một số cao nguyên cao hơn mặt biển từ 3500 đến 5000m. Đó là các vùng Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hi, Cam Túc, Vân Nam... Thành phần Các phân tích hoá học cho thấy trong sinh khối (biomass) của ĐTHT có 17 acid amin khác nhau, có D-mannitol, có lipid, có nhiều nguyên tố vi lượng (Al, Si, K, Na...). Quan trọng hơn là trong sinh khối ĐTHT có nhiều chất hoạt động sinh học mà các nhà khoa học đang phát hiện dần dần ra nhờ các tiến bộ của ngành hoá học các hợp chất tự nhiên. Nhiều hoạt chất này có giá trị dược liệu thần kỳ. Trong đó phi kể đến cordiceptic acid, cordycepin, adenosine, hydroxyethyl-adenosine. Đáng chú ý hơn c là nhóm hoạt chất HEAA ( Hydroxy-Ethyl-Adenosine- Analogs). ĐTHT còn có chứa nhiều loại vitamin (trong 100g ĐTHT có 0,12 g vitamin B12; 29,19 mg vitamin A; 116,03 mg vitamin C, ngoài ra còn có vitamin B2 (riboflavin), vitamin E, vitamin K...) Chi nấm Cordyceps có tới 350 loài khác nhau, chỉ riêng ở Trung Quốc đã tìm thấy 60 loài. Tuy nhiên cho đến nay người ta mới chỉ nghiên cứu nhiều nhất được về 2 loài Cordyceps sinensis (Berk.) Sacc. và Cordyceps militaris (L. ex Fr.) Link. Loài thứ hai được gọi là Nhộng trùng thảo Sưu tập giống của chúng tôi hiện đã có tới 3000 chủng, nhưng mỗi lần có thêm được một chủng vi sinh vật mới là một lần chúng tôi thêm một hy vọng có thể đóng góp cho đất nước một sản phẩm mới. Ai sang Trung Quốc cũng muốn mua làm quà một ít Đông trùng hạ thảo vì danh tiếng của loại dược liệu này quá lớn và đem tặng ai cũng quý. Tại một Viện nghiên cứu Công nghệ sinh học (CNSH) Trung Quốc đã giới thiệu cho Đoàn chúng tôi việc phân lập thành công nấm Cordyceps sinensis trong Đông trùng hạ thảo và chứng minh được mọi dược liệu đều nằm trong phần hạ thảo chứ không hề có gì trong phần Đông trùng. Vậy là họ đã có trong tay một của quý. Những lần sang Trung Quốc gần đây tôi đã thấy những viên nang Đông trùng hạ thảo (ĐTHT) trong các vỉ thuốc rất đẹp và với giá rẻ hơn rất nhiều so với mẫu Đông trùng hạ thảo tự nhiên mà chúng ta vẫn thấy bán ở phố Lãn Ông. Năm qua tôi được tham dự một Hội nghị quốc tế về Công nghệ sinh học họp ở Thái Lan và tôi rất ngạc nhiên khi thấy không chỉ có các báo cáo rất sâu về ĐTHT của các nhà khoa học Trung Quốc mà còn có các báo cáo sâu hơn nữa về ĐTHT của các nhà khoa học Mỹ. Đông trùng hạ thảo là một thần dược Vì sao chúng được coi như một trong những loại thần dược nổi tiếng khắp thế giới?. Sách y học cổ truyền của Trung Quốc từ xa xưa đã coi ĐTHT là vị thuốc có tác dụng “Bổ phế ích can, bổ tinh điền tuỷ, chỉ huyết hoá đàm” , “Bổ phế ích thận, hộ dưỡng tạng phủ”, “Tư âm tráng dương, khư bệnh kiện thân”; là loại thuốc “Tư bổ dược thiện”, có thể chữa được “Bách hư bách tổn”. Mặt khác các nghiên cứu cổ truyền cũng như các thực nghiệm hiện đại đều xác định ĐTHT hầu như không có tác dụng phụ đối với cơ thể người và động vật. Liều uống ĐTHT an toàn đối với chuột thí nghiệm là trên 45g/1kg thể trọng. Cordyceps militaris (Nhộng trùng thảo) Cordyceps capitata Cordyceps ditmarii Cordyceps gracilis Cordyceps sphecocephala Ứng dụng của Đông trùng dạ thảo: Các nghiên cứu y học và dược học đã chứng minh được các tác dụng sau đây của ĐTHT: 1-Chống lại tác dụng xấu của các tân dược đối với thận, thí dụ đối với độc tính của Cephalosporin A. 2-Bảo vệ thận trong trường hợp gặp tổn thương do thiếu máu. 3-Chống lại sự suy thoái của thận, xúc tiến việc tái sinh và phục hồi các tế bào tiểu quản ở thận 4-Làm hạ huyết áp ở người cao huyết áp 5-Chống lại hiện tượng thiếu máu ở cơ tim 6- Giữ ổn định nhịp đập của tim 7-Tăng cường tính miễn dịch không đặc hiệu 8- Điều tiết tính miễn dịch đặc hiệu 9-Tăng cường năng lực thực bào của các tế bào miễn dịch 10-Tăng cường tác dụng của nội tiết tố tuyến thượng thận và làm trương nở các nhánh khí quản. 11-Tăng cường dịch tiết trong khí quản và trừ đờm 12-Làm chậm quá trình lão hoá của cơ thể 13- Hạn chế bệnh tật của tuổi già 14-Nâng cao năng lực chống ung thư của cơ thể 15- Chống lại tình trạng thiếu oxygen của cơ thể 16- Tăng cường tác dụng lưu thông máu trong cơ thể 17- hạn chế tác hại của tia gamma đối với cơ thể 18- Tăng cường tác dụng an thần, trấn tĩnh thần kinh 19-Tăng cường việc điều tiết nồng độ đường trong máu 20-Làm giảm cholesterol trong máu và chống xơ vữa động mạch. 21-Xúc tiến tác dụng của các nội tiết tố (hormone). 22- Tăng cường chức năng tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng 23- Ức chế vi sinh vật có hại, kể cả vi khuẩn lao 24- Kháng viêm và tiêu viêm 25- Có tác dụng cường dương và chống liệt dương Vì ĐTHT thu nhặt từ thiên nhiên chỉ có hạn, môi trường tự nhiên thích hợp cho sự phát triển của ĐTHT lại toàn là các vùng núi non và cao nguyên hiểm trở, xa xôi, cho nên việc chứng minh các hoạt chất đều tập trung trong nấm Cordyceps sinensis và việc thành công trong việc nuôi cấy ở quy mô công nghiệp (với nồi lên men) hoặc ở quy mô thủ công nghiệp (nuôi trên môi trường xốp trong các lọ miệng rộng có nút bông)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 4:09:21 GMT 9
Vai Trò của Tỏi với Sức Khỏe Vietsciences- Nguyễn Ý Ðức Tháng Chạp năm 1998, một cuộc hội thảo kéo dài hai ngày rưỡi đã được tổ chức tại New Port Beach, California, để thảo luận và trình bày kết quả nghiên cứu về công dụng củaTỏi. Hội thảo được Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ và Đại Học Pennsylvania bảo trợ, với sự tham dự của trên hai trăm khoa học gia, chuyên viên y tế, dinh dưỡng đến từ 12 quốc gia trên thế giới. Kết luận của hội thảo là các cuộc nghiên cứu trong nhiều năm qua đã xác định một số ích lợi của Tỏi đối với sức khỏe con người. Kinh nghiệm dân gian dùng Tỏi chữa bệnh.Chữ viết đầu tiên của dân Sanskrit cách đây 5000 năm đã nhắc đến TỎI nhiều lần. Trong mộ cổ Ai Cập 6000 năm về trước có những củ tỏi khô nằm ướp cùng với bộ xương. Sách Y học Ai Cập trên 3000 năm về trước có ghi hai mươi bài thuốc tỏi để trị một số bệnh như đau bụng, đau nhức khớp xương, nhiễm độc, cơ thể suy nhược. Công nhân xây đắp Kim Tự Tháp được cung cấp thực phẩm có tỏi để tăng cường sức lao động. Những giác đấu Hi Lạp, binh sĩ La Mã cũng được cho ăn tỏi để chiến đấu can trường, dũng cảm hơn. Trong các cuộc hải hành, dân Virking đều mang tỏi làm lương thực và để trị bệnh khi cần đến. Tỏi đã được các vị thầy thuốc xưa kia ca ngợi như một dược thảo có giá trị. Ông tổ nền y học tây phương Hippocrates coi tỏi là môn thuốc tốt để trị các bệnh nhiễm độc, bệnh viêm, bệnh bao tử, và loại trừ nước dư trong cơ thể. Galen, một trong những danh y khi xưa thì ca tụng tỏi như môn thuốc dân tộc trị bá bệnh.Theo Y sĩ Dioscorides thời La Mã, tỏi làm giọng nói trong trẻo, làm bớt ho, làm thông tắc nghẽn ở mạch máu, làm nhuận tiểu, bớt đau răng, chữa bệnh ngoài da, và chữa cả hói tóc nữa. Vào thế kỷ 16, Alfred Franklin nói với dân chúng thành phố Paris là nếu họ ăn tỏi tươi với bơ vào tháng Năm thì họ sẽ được khỏe mạnh trong những tháng còn lại. Trong thế chiến thứ nhất, người Nga đã dùng tỏi để trị bệnh nhiễm vi trùng. Họ gọi tỏi là “thuốc kháng sinh Nga Sô”; các bác sĩ Anh dùng tỏi để trị vết thương làm độc ở chiến trường. Khi có các dịch cúm vào đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đã dùng tỏi như một phương tiện để chống lại sự hoành hành của bệnh. Sách xưa có ghi lại câu chuyện về bốn tên trộm lừng danh ở thành phố Marseille: trong vụ dịch hạch kinh khủng ở thành phố này, có bốn tên trộm vẫn ngang nhiên vào nhà các người bị bệnh để trộm của mà không bị lây bệnh. Khi bị bắt, chính quyền hứa sẽ tha tội nếu họ nói bí quyết không lây bệnh. Bốn chú đạo trích khai là suốt thời gian dịch hạch, họ ăn rất nhiều tỏi tươi, do đó họ không bị bệnh. Vào thời Trung Cổ, khi đi vào vùng phố nhiễm độc, các thầy thuốc đều mang nhiều nhánh tỏi để phân phát cho dân chúng cũng như để ngăn chặn xú uế xâm nhập vào mũi. Triết gia cũng có nhiều nhận xét về giá trị của tỏi. Celsius khuyên dùng tỏi để trị nóng sốt và bệnh đường ruột. Virgil thấy tỏi làm tăng sức lực của nông dân. Aristophanes thì nhắc nhở lực sĩ, chiến sĩ ăn tỏi trước khi xuất trận để chiến đấu cang cường hơn. Dân Nga xưa ngâm tỏi với rượu vodka, để lâu hai tuần rồi uống, tin là sẽ sống lâu. Dân Ukraine uống nước chanh ngâm tỏi để làm tăng sức lực, làm người trẻ ra. Về niềm tin dị đoan, tỏi đã được dùng là vũ khí để trừ tà ma , quỷ quái ở Việt Nam ta. Dân Âu châu xưa rất sợ ma cà rồng hút máu và để xua đuổi, mỗi nhà đều cheo nhiều nhánh tỏi ở trước cửa. Văn tự Ấn Độ giáo từ nhiều ngàn năm trước có ví một củ tỏi như một tráng sĩ diệt trừ yêu quái. Dân nài ngựa cheo vài nhánh tỏi vào cương để ngựa phi mau hơn. Nằm mơ thấy tỏi là điềm lành. Trong các cộng đồng Hebrew xưa kia, vài nhánh tỏi được trang điểm vào áo cưới cô dâu với niềm tin là cuộc hôn nhân sẽ muôn vàn hạnh phúc. Dân Ai Cập so sánh hương vị cay hôi của tỏi với những thăng trầm của cuộc đời. Các tu sĩ nói với con chiên là khi họ cầm vài nhánh tỏi trên tay tức là đang cầm mọi phức tạp của cuộc đời. Và khi tuyên thệ, họ đặt tỏi trên bàn tay hay trên bàn thờ. Bên Việt Nam ta, các cụ cheo tỏi trước cửa buồng đàn bà mang bầu để trẻ sinh được mẹ tròn con vuông, khỏe mạnh Trẻ con Ý sống trong trại tiếp đón, được cha mẹ cho mang một túi tỏi nhỏ trên cổ để ngừa bệnh tật truyền từ người này sang người khác. Dân Da Đỏ bắt chước đoàn thám hiểm Tây Ban Nha, dùng tỏi để trị các bệnh khó tiêu, đau bụng, đau tai và họ rất ít bị bệnh yết hầu vì mùi tỏi làm cuống phổi mở rộng, hô hấp dễ dàng. Người Mỹ xưa kia chữa bệnh tim phổi bằng cách đắp tỏi giã nhỏ lên chân và họ giải thích là như vậy tỏi sẽ hút hết chất độc xuống để đưa ra ngoài. Tổng Thống Benjamin Franklin thích ăn xúp nấu với tỏi, còn binh sĩ của Tổng Thống George Washington thì được thêm tỏi trong khẩu phần. Vào đầu thế kỷ trước, bệnh lao rất phổ biến và khó trị vì chưa có thuốc kháng sinh. Các bác sĩ bèn chữa bằng tỏi và thấy là rất công hiệu để diệt vi trùng lao. Sau đó một thời gian, nước Mỹ bị dịch cúm và bệnh tinh hồng nhiệt, dân chúng bèn đốt tỏi trong nhà và hơi khói tỏi che trở nhiều người khỏi bị bệnh. Nhiều người còn nhai tỏi để ngửa bệnh cúm. Đông Y việt Nam ta ghi nhận công dụng trị bệnh của tỏi như sau: tỏi có vị cay, tính ôn, hơi độc nằm trong hai kinh can và vị. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa bệnh lỵ ra máu, tiêu nhọt, hạch ở phổi, tiêu đàm, chữa đầy chướng bụng, đại tiểu tiện khó khăn. Người âm nhu, nội thiệt, có thai, đậu chẩn, đau mắt không nên dùng. Kết quả nghiên cứu công dụng tỏi với bệnh tật Qua nhiều nghiên cứu khoa học và qua kinh nghiệm xử dụng của dân chúng, thì tỏi không những là một thực phẩm ngon mà còn có nhiều công dụng hỗ trợ việc trị bệnh. Alliin Xin nhắc lại là vào năm 1951, hai nhà hóa học Thụy sĩ Arthur Stoll và Ewald Seebeck đã tìm ra hóa chất chính của tỏi là chất Alliin và men Allinase. Hai chất này được giữ riêng rẽ trong tế bào tỏi và đóng góp vai trò quan trọng trong các công dụng y học của tỏi. alliin ====> Allicin alliin biến ra allicin khi bị nghiền nát hay bị cắt 1-Tỏi và cholesterol. Quan sát dân chúng vùng Địa Trung Hải, các nhà nghiên cứu thấy họ rất ít bị các bệnh về tim mạch mặc dù họ ăn nhiều thịt động vật và uống nhiều rượu vang. Nhiều người cho là do ảnh hưởng của rượu vang. Nhưng các bác sĩ ở địa phương thì cho là do uống rượu và ăn nhiều tỏi. Sự kiện này thúc đẩy các chuyên viên của Đại Học Western Ontario, Canada, để tâm nghiên cứu và họ kết luận rằng một dân tộc càng ăn nhiều tỏi thì bệnh tim mạch càng ít. Bằng chứng là dân Triều Tiên ăn nhiều tỏi và họ cũng ít bị bênh tim. Nhiều khoa học gia bèn nghiên cứu tương quan giữa tỏi và bênh tim ở súc vật trong phòng thí nghiệm. Họ đều thấy là tỏi làm chậm sự biến hóa của chất béo trong gan, khiến gan tiết ra nhiều mật, đồng thời cũng lấy bớt mỡ từ thành động mạch. Các bác sĩ H.C. Bansal và Arun Bordia ở Ấn Độ nhận thấy khi ăn bơ với tỏi, cholesterol trong máu đã không lên cao mà còn giảm xuống. Năm 1990, nghiên cứu do bác sĩ F.H. Mader ở Đức cho hay, nếu mỗi ngày ăn vài nhánh tỏi thì cholesterol sẽ giảm xuống tới 15%. Một nghiên cứu tương tự ở Đại học Tulane, New Orleans do bác sĩ A. K. Jain thực hiện năm 1993 cho thấy người có cholesterol cao, khi dùng tỏi một thời gian, thì cholesterol giảm xuống được 6%. Đó là một sự giảm đáng kể. Bác sĩ Benjamin Lau, Đại Học Loma Linda, California cho biết tỏi giúp chuyển cholesterol xấu LDL thành cholesterol lành HDL. Còn bác sĩ Myung Chi của Đại Học Lincoln ở Nebraska chứng minh là tỏi làm hạ cholesterol và đường trong máu. Một câu hỏi được nêu lên là tỏi có làm giảm cholesterol ở người có mức độ trung bình không? Các nhà nghiên cứu cho là tỏi có một vài ảnh hưởng, nhưng nếu cholesterol cao thì tác dụng của tỏi tốt hơn. Có bác sĩ còn cho là tỏi công hiệu hơn một vài âu dược hiện đang được dùng để chữa cholesterol cao trong máu. Do hạ thấp cholesterol trong máu, tỏi có thể ngăn ngừa nguy cơ một số bệnh tim. Đã có nhiều bằng chứng rằng cholesterol trong máu lên cao là nguy cơ đưa tới các bệnh vữa xơ động mạch và kích tim. 2-Tỏi và sự đông máuTỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục, một nguy cơ của kích tim và tai biến động mạch não. Máu cục gây ra do sự dính chùm của tiểu cầu mỗi khi có dấu hiệu cơ thể bị thương để ngăn ngừa băng huyết Trong tỏi có chất Ajoene mà bác sĩ Eric Block, Đại học Nữu Ước, khám phá ra. Theo ông ta, chất này có công hiệu như Aspirin trong việc làm giảm sự đóng cục của máu, lại rẻ tiền mà ít tác dụng phụ không muốn. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của bác sĩ I.S. Menon là ở miền nam nước Pháp, khi ngựa bị máu đóng cục ở chân thì nông gia đều chữa khỏi bằng cách cho ăn nhiều tỏi và hành. Bệnh viện Hải quân Hoa Kỳ trong trại Pendleton, California, cũng công bố là tỏi có chất ngừa đông máu do đó có thể làm máu lỏng và ngăn ngừa tai biến động mạch não, kích tim vì máu cục. Ngay cả ông tổ của nền y học cổ truyền Ấn Độ Charaka cũng ghi là “ tỏi giúp máu lưu thông dễ dàng, làm tim khỏe mạnh hơn và làm con người sống lâu. Chỉ vì mùi khó chịu của nó chứ không thì tỏi sẽ đắt hơn vàng”. Các nhà thảo mộc học xưa kia cũng nói là tỏi làm máu loãng hơn.Tác dụng này diễn ra rất mau, chỉ vài giờ sau khi dùng tỏi. Chưa có trường hợp nào trong đó ăn nhiều tỏi đưa đến máu loãng rồi băng huyết, vì tỏi chỉ làm máu loãng tới mức bình thường thôi. 3-Tỏi và cao huyết ápTỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Bên Nhật Bản, giới chức y tế chính thức thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao. Năm 1948, bác sĩ F.G. Piotrowski ở Geneve làm thế giới ngạc nhiên khi ông tiết lộ kết quả tốt đẹp khi dùng tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông ta, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt hay bị co hẹp, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm. Các nghiên cứu ở Ấn Độ, Gia Nã Đại, Đức cũng đưa đến kết quả tương tự. Nhà sinh học V. Petkov thực hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ 20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ. 4-Tỏi và cúm Trong các dịch cúm vào đầu thế kỷ trước, dân chúng đã dũng tỏi để ngăn ngừa sự lan tràn của bệnh này. Y học dân gian nhiều nước đã chữa cảm cúm bằng cách thoa tỏi tươi mới cắt vào bàn chân. Trong dịch cúm ở Nga Sô Viết năm 1965, dân Nga đã tiêu thụ thêm trên 500 tấn tỏi để ngừa cúm. Trước đó, vào năm 1950, một bác sĩ người Đức đã công bố là tinh dầu tỏi có khả năng tiêu diệt một số vi sinh có hại mà không làm mất những vi sinh vật lành trong cơ thể. Bác sĩ Tarig Abdullah ở trung tâm nghiên cứu tại Tampa, Florida, công bố năm 1987 là tỏi sống và tỏi chế biến đều làm tăng tính miễn dịch của cơ thể với vi trùng, ngay cả HIV và làm giảm nguy cơ vài bệnh ung thư. Cá nhân ông ta đã liên tục dùng mấy nhánh tỏi sống mỗi ngày từ năm 1973 và chưa bao giờ bị cảm cúm. Từ năm 1950, bác sĩ J. Klosa bên Đức đã dùng tỏi để chữa lành những bệnh đau cuống họng, sổ mũi, ho lạnh. Ông ta vừa cho bệnh nhân uống vừa ngửi tinh dầu tỏi. Theo ông ta, đó là nhờ chất Alliin trong tỏi. Trong bệnh cảm cúm, bệnh nhân thường sưng cuống phổi, bị ho, sổ mũi. Bác sĩ Irvin Ziment, California, nhận thấy tỏi có thể làm giảm những triệu chứng trên, làm bệnh nhân bớt ho, long đàm, thở dễ dàng và không bị nghẹt mũi. Theo vị thầy thuốc này thì vị hăng cay của tỏi kích thích bao tử tiết ra nhiều dịch vị chua; dịch vị này chuyển một tín hiệu lên phổi khiến phổi tiết ra nhiều dung dịch lỏng làm long đờm và đưa ra khỏi phổi. Các bác sĩ bên Ba Lan trước đây dùng tỏi để trị bênh suyễn và viêm phổi ở trẻ em 5-Tỏi và ung thưHiện nay đang có nhiều nghiên cứu coi xem tỏi có công dụng trị ung thư ở người như kết quả nhận thấy ở vật trong phòng thí nghiệm. Từ năm 1952, các khoa học gia Nga Sô Viết đã thành công trong việc ngăn chặn sự phát triển của một vài tế bào ung bướu ở chuột.Thí nghiệm ở Nhật Bản cho hay tỏi có thể làm chậm sự tăng trưởng tế bào ung thư vú ở loài chuột và tỏi có chất oxy hóa rất mạnh để ngăn chặn sự phá tế bào do các gốc tự do gây ra. Tại viện Ung Thư M.D. Anderson Houston, các bác sĩ đã cứu một con chuột khỏi bị ung thư ruột già bằng cách cho uống chất Sulfur trong tỏi. Được biết viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ đang đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu khả năng trị bệnh ung thư của hóa chất sulfur này. Nghiên cứu tại Sloan Kettering Memotial Medical Center cho hay nước triết của tỏi có thể ngăn chặn sự tăng trưởng tế bào ung thư nhiếp tuyến. Nghiên cứu tại Đại Học Pen State cho hay khi nấu tỏi bằng microwave oven thì khả năng chống ung thư giảm đi. Tác giả nghiên cứu, giáo sư Kun Song đề nghị trước khi nấu nên cắt tỏi và để ra không khí mươi phút thì giữ được khả năng này. 6-Tỏi như thuốc kháng sinhTừ lâu, dân chúng tại nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng tỏi để chữa một số bệnh gây ra do vi khuẩn như kiết lỵ, bệnh tiêu chẩy, bệnh thương hàn, viêm cuống họng, mụn nhọt ngoài da, thối tai và tỏi được gọi là thuốc kháng sinh dân tộc. Trong hai thế chiến, tỏi được dùng để chữa vết thương cho binh sĩ tại chiến trường. Người ta cũng dùng tỏi để trị vết thương do côn trùng, rắn cắn. Nông dân, thợ săn đều mang theo tỏi phong hờ khi bị các sinh vật này cắn thì tự chữa. Năm 1858, nhà bác học Pháp Louis Pasteur đã chứng minh được công dụng diệt vi khuẩn của tỏi. Năm 1944, nhà hóa học Chester J. Cavallito, làm việc cho Winthrop Chemical Company ở Hoa Kỳ, đã phân tích được hóa chất chính trong tỏi có công dụng như thuốc kháng sinh. Đó là chất Allicin, chỉ có trong tỏi chưa nấu hay chế hóa. Kháng sinh này mạnh bằng 1/5 thuốc Penicilin và 1/10 thuốc Tetracycline, có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn, xua đuổi hoặc tiêu diệt nhiều sâu bọ, ký sinh trùng, nấm độc và vài loại siêu vi trùng. Theo nhiều nghiên cứu, Allicin có tác dụng ức chế sinh trưởng vi khuẩn nhiều hơn là diệt chúng. Nói một cách khác, chất này không giết vi khuẩn đã có sẵn mà ngăn chặn sự sinh sôi, tăng trưởng và như vậy có thể ngừa bệnh, nâng cao tính miễn dịch, làm bệnh mau lành. Nghiên cứu tại Brazil năm 1982 đã chứng minh là nước tinh chất của tỏi có thể chữa được nhiều bệnh nhiễm độc bao tử, do thức ăn có lẫn vi khuẩn, nhất là loại Salmonella. Các nghiên cứu tại Đại Học California ở Davis cũng đưa đến kết luận tương tự. Ngoài ra, tỏi cũng được dùng rất công hiệu để trị bệnh sán lãi, giun kim, các bệnh nấm ngoài da. Một nhà nghiên cứu đã hào hứng tuyên bố rằng “ tỏi có tác dụng rộng rãi hơn bất cứ loại kháng sinh nào hiện có. Nó có thể diệt vi trùng, nấm độc,siêu vi trùng, ký sinh trùng lại rẻ tiền hơn, an toàn hơn vì không có tác dụng phụ và không gây ra quen thuốc ở vi trùng”. Giáo sư Arthur Vitaaen, đoạt giải Nobel, cũng đồng ý như vậy. Do đó ta không lấy làm lạ là trong thế chiến thứ nhất, các bác sĩ Anh quốc đã dùng tỏi để chữa vết thương làm độc. Thực tế ra, tỏi được dùng với những nhiễm độc nhẹ, không nguy hiểm tới tính mạng. Chứ còn nhiễm trùng cấp tính mà lại trầm trọng thì kháng sinh âu dược vẫn công hiệu hơn và tác dụng mau hơn. 7-Tỏi với tuổi thọTheo dân chúng vùng Ukraine, ngâm nửa kí tỏi cắt hay giã nhỏ bỏ vào nước vắt của 25 quả chanh, để qua đêm rồi mỗi ngày uống một thìa pha với nước lạnh, trong hai tuần sẽ thấy trẻ khỏe ra. Các nhà văn Ukraine tán là nếu uống thường trực thì con người sẽ cảm thấy trẻ trung. Nhiều vị cao niên Việt Nam ta đang có phong trào uống rượu ngâm với tỏi, tin tưởng là sẽ được cải lão hoàn đồng. Một bài thuốc Rượu Tỏi được truyền tụng là tìm thấy từ mộ cổ Ai Cập đang rất phổ biến. 40 gr Tỏi khô thái nhỏ ngâm trong 100 ml rượu lúa mới. Mười ngày sau có thể dùng được, ngày hai lần sáng và tối, mỗi lần 45 giọt. Ở vùng Balkan, số người thọ trên 100 tuổi rất cao và được giải thích là họ nhai nhiều nhánh tỏi mỗi ngày. Ngoài ra, Tỏi còn một số công dụng khác như: Nhà thiên nhiên học La Mã Pliny viết rằng tỏi mà đưa cay với rượu vang thì con người làm tình rất điệu nghệ. Do đó dân chúng La Mã ăn nhiều tỏi coi đó là thuốc kích dâm, gợi tình. Nghiên cứu mới đây ở loài chuột cho thấy tỏi có thể có tác dụng tốt trên các chức năng của não bộ, tăng trí nhớ và có thể nâng cao tuổi thọ. Theo bác sĩ Paavo Airola, một nhà chuyên môn dinh dưỡng tại Phoenix, Arizona, tỏi với các hóa chất sulfur của nó, có thể chữa được bệnh trứng cá, bệnh khí thũng phổi làm khó thở, khó tiêu bao tử, táo bón, cảm lạnh. Các nghiên cứu của bác sĩ D Sooranna và I Das bên Luân đôn cho hay dùng tỏi khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tiền sản giật , ( cao huyết áp và đạm chất trong nước tiểu ) và làm tăng sức nặng của trẻ chậm lớn. Và cuối cùng là một nghiên cứu ở Monnel Chemical Senses Center, Philadelphia, cho hay khi mẹ ăn tỏi, con sẽ bú sữa mẹ lâu hơn và nhiều hơn vì tỏi làm tăng khẩu vị em bé. Kết luận.Công dụng của Tỏi với sức khỏe đang là đề tài hấp dẫn của các nhà dinh đưỡng cũng như y tế. Với công chúng thì phong trào dùng tỏi để tăng cường sức khỏe cũng khá phổ biến. Tuy nhiên cho tới nay các tổ chức y tế cũng chưa chính thức ủng hộ ý kiến sử dụng tỏi trong việc trị bệnh vì các kết quả nghiên cứu không đủ sức thuyết phục. Và lại kết quả nghiên cứu hiện nay đều có tính cách cá nhân với mục đích thông tin học hỏi và đa số dựa trên quan sát dịch tễ. Cho nên ngoài tác dụng diệt vi khuẩn của chất allicin, các nhà nghiên cứu cũng chưa xác định công dụng của nhiều hóa chất khác trong Tỏi. Trên thị trường có bán sản phẩm Tỏi chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì chỉ là chất bổ sung dinh dưỡng nên các sản phẩm này không được coi là thuốc, không đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan điều hành dược phẩm. Do đó món hàng không bị soi mói về thành phần cấu tạo, sự tinh khiết và có thể bầy bán tự do miễn là không quảng cáo khả năng trị bệnh. Cho nên sử dụng tỏi như một chất dinh dưỡng, một gia vị thực phẩm, hỗ trợ cho sức khỏe có lẽ là khôn ngoan hơn chứ cũng chẳng nên coi tỏi như một môn thuốc trị bệnh này bệnh kia mà bỏ qua những phương thức trị liệu đã được y khoa học công nhận. Kết quả các nghiên cứu về công dụng y học của tỏi cần được tìm hiểu thêm để đi đến một sự đồng thuận của giới y khoa học. Và đặc biệt với vị nào đang uống thuốc chống đông máu như aspirin thì nên tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình trước khi dùng sản phẩm Tỏi vì thực vật này có tác dụng loãng máu.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 4:15:40 GMT 9
Nấm Vietsciences- Nguyễn Ý Đức Nấm là những thực vật bực thấp không có hoa, lá. Vì không có diệp lục tố, nấm không lấy năng lượng qua ánh sáng mặt trời được nên phải sống ký sinh trên các cây khác hoặc trên chất mục nát. Có loại nấm sống cộng sinh lấy chất dinh dưỡng của cây và cung cấp cho cây khoáng chất như phospho. Có rất nhiều loại nấm, nhưng chỉ có một số loại ăn được, gọi chung là nấm ăn. Một số nấm có độc tố ăn vào chết người. Nấm là một thực phẩm ngon, được nhiều người sành ăn ưa thích. Các vị vua chúa Ai Cập ngày xưa coi nấm như món ăn quý hiếm, ra lệnh cho thần dân khi kiếm được nấm phải dâng lên để ngài ngự và hoàng gia dùng. Dân chúng Trung Hoa, Nhật xưa coi nấm như một thứ thuốc đại bổ, mang đến cho người ăn sức khỏe vô địch, sống lâu và khi tới khâu Tử thì nhẹ nhàng ra đi vào cõi vĩnh hằng. Nấm cũng được dùng trong y học, làm chất kích thích hoặc gây ảo giác trong các lễ nghi tôn giáo từ nhiều ngàn năm trước. Giá trị dinh dưỡngAthenaeus, người sành ăn nổi tiếng của La Mã thời cổ đại đã viết là nấm có nhiều chất dinh dưỡng, lại dễ tiêu cho nên rất tốt cho bộ máy tiêu hóa. Nấm có kali, calci, selen, sắt, đồng, sinh tố C, vài loại sinh tố B như B2 (riboflavin), B3 (niacin). chất xơ hòa tan pectin ở phần mềm ( thịt ) của nấm, và một ít chất dẻo cellulose ở màng bọc nấm. Vì có rất ít chất béo lại cung cấp rất ít năng lượng (nửa ly chỉ có 10 calori) cho nên nấm rất tốt cho người thích ăn mà không muốn bị béo phì. Đặc biệt nấm có nhiều glutamic acid, một loại bột ngọt monosodium glutamate, vì vậy nấm thường được nấu chung với nhiều món ăn như một gia vị để tăng hương vị đậm đà. Nấm tốt tươi chắc mịn như thịt nên có thể ăn nướng, bỏ lò hoặc thay cho thịt khi nấu canh làm súp. Nấm tươi trộn với các loại rau cũng là món ăn ưa thích. Khi thái nhỏ, nấm thường mau bị đen vì oxy hóa, đồng thời cũng mất tới 60% vitamin B2. Để làm chậm sự oxy hóa này, có thể ngâm nấm trong nước chua như chanh, giấm. Khi nấu chín, riboflavin không bị tiêu hao mấy vì sẽ hòa tan trong nước, làm ngọt món ăn, nhưng tai nấm mất bớt nước, teo lại, còn cuống nấm thì cứng hơn và giòn sựt. Nấm với Sức KhỏeThủy tổ nền y học phương Tây là Hippocrates (460- 377 trước Công nguyên) đã dùng nấm trong việc ăn uống và trị bệnh. Cách đây trên 3000 năm, người Trung Hoa đã coi nấm như là một loại thuốc bổ tổng quát, có khả năng tăng tính miễn dịch của cơ thể chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng. Các khoa học gia Nhật Bản đã nghiên cứu công dụng trị bệnh của nấm. Theo họ, nấm có vài hóa chất có thể làm tăng tính miễn dịch chống lại vi khuẩn, ung thư và chữa các bệnh phong khớp xương. Họ tìm ra chất lentinan, một loại beta glucan tự nhiên trong nấm đông cô có đặc tính bảo vệ cơ thể, kéo dài tuổi thọ và tránh các tác dụng phụ của hóa và xạ trị liệu. Các nghiên cứu khác ở Mỹ cho là nấm có nhiều phytochemical, có thể là chất chống ung thư rất tốt cũng như làm giảm cholesterol, làm cơ thể bớt mệt mỏi. Viện Ung Thư Hoa kỳ đang nghiên cứu công dụng của nấm trong việc chữa trị các bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS, cũng như tăng cường sức khỏe cho các bệnh nhân này. Năm 1960, Tiến sĩ Kenneth Cochran, thuộc Đại học Michigan, có nghiên cứu nhiều về loại nấm Đông cô (Shiitake) và thấy rằng nấm này làm tăng tính miễn dịch mạnh hơn chất interferon, một loại thuốc thường dùng trong việc chữa bệnh do virus và ung thư. Nhiều người còn cho là ăn nấm đông cô sẽ làm giảm cholesterol và làm máu dễ lưu thông nên có tác dụng tốt với tim. Nghiên cứu ở Bắc Kinh cho hay trà nấm linh chi (Zhu Ling , hay Lingzhi) đuợc dùng để trị ung thư bao tử, cuống họng, ruột... Nấm thường dùngCó nhiều loại nấm khác nhau. Xin cùng tìm hiểu một số nấm thường dùng. a-Nấm hương ( Lentinus edodes , Shiitake)Đây là một loại lâm sản rất quý, thường mọc dại trong các rừng ẩm mát ở miền núi cao. Nấm có mùi thơm, mọc trên các cây côm, cây giẻ trong rừng. Nấm hương hiện nay được nuôi trồng tại nhiều quốc gia như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn. Ngoài giá trị thực phẩm, người Việt ta còn dùng nấm hương dễ chữa bệnh kiết lỵ. b-Nấm linh chi ( Ganoderma lucidum).Nấm này còn được gọi là nấm trường thọ, cỏ linh chi, thuốc thần tiên. Nấm linh chi đã được dùng nhiều ở Trung Hoa từ nhiều ngàn năm về trước như một loại thuốc quý hiếm mà chỉ vua chúa, người giầu mới có khả năng sử dụng. Nấm thường thấy mọc hoang dại ở các vùng núi cao lạnh tại một vài tỉnh Trung Hoa như Tứ xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây. Nấm hiện đang được trồng thử ở Việt Nam, Nhật Bản nhưng kết quả không khả quan vì khí hậu không phù hợp như ở Trung Hoa. Theo các nhà khoa học Trung Hoa, nấm linh chi làm khí huyết lưu thông, làm tăng tính miễn dịch, bổ gan, diệt tế bào ung thư, chống dị ứng và chống viêm. Cũng ở Trung Hoa, nấm linh chi được dùng trong việc trị các bệnh đau thắt cơ tim, ổn định huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, viêm gan, bệnh đường tiêu hóa cũng như tăng cường trí nhớ. Trong ăn uống, nấm linh chi thường được nấu canh với thịt. c-Nấm tai mèo (Auricularia polytricha).Còn được gọi là mộc nhĩ, nấm này thường mọc hoang trên cây cành gỗ mục của các cây sung, cây duối, cây sắn, trong rừng hay ở dưới đồng bằng. Nấm trông giống tai mèo, mặt ngoài mầu nâu sẫm, có lông nhỏ, mặt trong mầu nâu nhạt. Hiện nay nấm cũng được nuôi trồng Nấm tai mèo dùng để ăn như nấu canh miến gà, thái nhỏ trộn với trứng làm món mộc.. Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, Đông y dùng nấm để chữa bệnh kiết lỵ, táo bón, giải độc... Bác sĩ Dale Hammerschmidt, giáo sư y khoa Đại học Minnesota, cho rằng nấm tai mèo có tính chất chống lại sự đông máu, công hiệu như aspirin trong việc phòng ngừa bệnh tim và tai biến động mạch não. d-Nấm cúc (ascomycete ectomycorhizien , Truffe )Bên Pháp và Ý, có loại nấm mọc dưới đất, trong đám rễ cây sồi, cây phỉ (hazel).. Nấm này rất thơm vì có chất pheromone giống như kích thích tố sinh dục trong nước miếng con heo. Nấm rất ngon, hương vị thơm, nhưng hiện nay rất hiếm nên đắt giá, vì nấm mọc tự nhiên nên bị săn lùng gần hết. Nhiều người đã thử trồng loại này nhưng chưa thành công. e-Nấm Đông Trùng Hạ Thảo.Có ở vùng Tây Nam Trung Hoa. Nấm ký sinh trên loại sâu giống như con bướm. Khi sâu chết thì nấm phát triển trên đất, mọc qua mình sâu. Nấm được đào lên, phơi khô để sử dụng. Nấm được dùng để trị bệnh thần kinh suy nhược, liệt dương, tăng cường sinh lực. g-Nấm Phục Linh.Nấm mọc ký sinh trên rễ cây thông, nặng có thể tới cả vài kg, có nhiều ở Trung Hoa. Nấm được dùng làm thuốc bổ, trị mất ngủ, di tinh. h-Nấm Vân Chi.Nấm thường mọc ký sinh trên thân cây sồi, liễu, mận, táo và có nhiều ở những vùng có khí hậu ôn đới tại Á châu, Bắc Mỹ. Nấm ít được phương Tây biết tới nhưng lại được Đông y sử dụng rất nhiều trong trị bệnh và tăng cường sức khỏe. Kết quả nhiều nghiên cứu tại Trung Hoa, Nhật Bản cho thấy nấm Vân Chi có khả năng chống ung thư, bao tử, ruột già, thực quản, tăng khả năng miễn dịch của cơ thể và chống oxy hóa. Nấm dạiTrong thiên nhiên có cả vài chục ngàn loại nấm dại khác nhau nhưng chỉ có hai ba trăm loại là ăn được. Đa số nấm độc thuộc hai nhóm nấm Amanita muscaria và A. phalloides. Nấm A muscaria có chất muscarine, một độc chất với hệ thần kinh phó giao cảm, khiến người ăn vào bị ói mửa, chẩy nước mắt, đổ mồ hôi, tiêu chẩy, đau bụng, chóng mặt , lên kinh phong, bất tỉnh nhân sự... đôi khi chết người. Chất độc phalloidine trong nấm A. phalloides làm gan hư và có đến khoảng 50% người trúng độc bị tử vong. Nhiều loại nấm dại ăn vào có thể nguy hại đến tính mạng, cho nên tốt nhất là không ăn bất cứ loại nấm nào mà ta không biết rõ. Nấm mọc hoang nhiều khi ăn lại ngon hơn nấm trồng nên nhiều người ưa thích nhưng có nhiều nguy cơ ăn phải nấm độc nên phải hết sức cẩn thận. Mua nấm và cất giữ nấmKhi mua nên chọn nấm còn tươi, lành lặn, hình dáng đầy đặn, bụ bẫm, thịt chắc, mũ nấm khép kín bao che những phiến mỏng dưới mũ. Khi hư hỏng, nấm đổi sang mầu đen sậm, mũ mở rộng để lộ lá mỏng, nấm khô hơn và mất bớt vị ngọt. Để dành lâu, nấm ăn giòn vì màng bọc nấm trở thành cứng. Nấm tươi cất giữ cẩn thận có thể ăn trong khoảng 4-5 ngày sau khi hái. Nấm cũng được sấy hoặc phơi khô để dành, quanh năm. Nấm khô cần được bọc kín để tránh ẩm, giữ nơi mát và không có ánh sáng vì sinh tố B2 bị ánh mặt trời phân hủy. Nấm khô bảo quản tốt có thể để dành được tới sáu tháng ăn vẫn ngon. Trước khi nấu, rửa qua cho sạch bụi đất rồi ngâm nấm khô trong nước nóng độ 15 phút. Đừng loại bỏ nước ngâm này vì nước có hương vị thơm như nấm. Nấm hộp có rất nhiều muối natri nhưng riboflavin còn nguyên vẹn. Nấm tươi nên được cất trong tủ lạnh, trong hộp thoáng khí, tránh hơi ẩm làm nấm mau hư. Không bao giờ giữ nấm trong túi nylon bịt kín vì hơi ẩm đọng lại làm nấm mau hư. Nấm trồng thường được xịt nhiều phân bón hóa học nên cần được rửa sạch trước khi ăn. Cách tốt hơn cả là dùng giấy mềm mà lau hoặc chải bằng loại bàn chải dành riêng cho nấm. Tránh rửa nấm trong nước quá lâu vì nấm hút rất nhiều nước. Vài điều cần lưu ý.Những người cai rượu thường được bác sĩ chỉ định dùng một loại dược phẩm là disulfiram (antabuse). Khi đang dùng chất này mà uống rượu vào thuốc sẽ tương tác với rượu gây ra những triệu chứng rất khó chịu như khó thở, nặng ngực, buồn ói, mặt nóng bừng, tim đập nhanh. Một vài loại nấm cũng có chất disulfiram này nên có khả năng gây ra các triệu chứng tương tự khi ăn nấm và uống rượu. Mặt khác, trong thời gian ba ngày trước khi tiến hành xét nghiệm phân để coi có máu không, phải tránh ăn nấm. Vì trong nấm có một hóa chất làm cho thử nghiệm này cho kết quả dương tính ngay cả khi phân không có máu! Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Dallas-Texas
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 8:54:51 GMT 9
Câu chuyện thầy lang Thursday, October 07, 2010
Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức
Hạt ngắn hạt dài, đỏ hay trắng Quý độc giả có thể đọc thêm bài của Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức trên trang mạng bsnguyenyduc.com. Nhân dịp phóng viên Ngy Thanh viết về lúa gạo trong bài “Ðố Ai Biết Lúa Mấy Cây”, xin tìm hiểu xem nên ăn gạo gì khi hữu sự. Vì bà con mình thường rỉ tai nhau là ăn gạo này, tránh gạo kia nếu bị bệnh tiểu đường hoặc dư ký Một bát cơm nấu bằng gạo jasmine. (Hình: Justin Sullivan/Getty Images) Cơm gạo là món ăn vừa căn bản, sẵn có và ưa thích của bà con ta, nhưng, theo một số nhà dinh dưỡng, nếu không để ý thì một vài loại gạo có thể tăng đường huyết tới mức độ đáng ngại. Lúa gạo nằm trong nhóm Carbohydrat (còn gọi là Saccharid), một trong ba loại thực phẩm chính của con người. Ðó là Carbohydrat, chất đạm protein và chất béo lipid. Carbohydat cần thiết để duy trì một cơ thể lành mạnh đặc biệt là những tế bào não bộ. Ðể hoạt động hữu hiệu, tế bào não cần rất nhiều năng lượng mà nguồn cung cấp duy nhất là từ glucose, một thành phần cấu tạo của carbohydrat. Vì thế, khi không tiêu thụ đầy đủ glucose, cơ thể sẽ mỏi mệt, chóng mặt, kém phối hợp, kém tập trung, tâm trạng trở nên bất an, lo lắng. Lý do là không được tiếp tế glucose, não sẽ rút các chất này từ kho dự trữ ở gan và cơ bắp hoặc tổng hợp glucose từ các thực phẩm không có carbohydrate như chất béo. Mà kho thì không nhiều, mau hết đưa tới hậu quả xấu cho sức khỏe. Carbohydrat gồm có đường (sugar), tinh bột (Starch) và cellulose và được chia làm nhiều loại: 1. Saccharit đơn có một đơn vị đường như: - Glucose còn gọi là đường bắp hoặc đường dextrose nho; - Fructose là đường ngọt nhất, có trong trái cây, rau, mật hoa và - Galactose không có trong thiên nhiên mà do cơ thể tiêu hóa đường lactose trong sữa mà ra. Glucose là dạng carbohydrate lưu hành trong máu và trực tiếp cung cấp năng lượng cho tế bào cơ thể. 2. Saccharit đôi có 2 đơn vị đường: - Sucrose ngọt nhất trong số các carbohydrate, gồm có glucose và fructose, và được lấy ra từ mía và củ cải; - Lactose là đường chỉ có trong sữa gồm một phân tử glucose và galactose. Nhiều dân Châu Á và Châu Phi không dung nạp được lactose vì không có men tiêu hóa lactase. Mỗi khi uống sữa tươi là họ bị tiêu chảy. - Mannose là đường mà nhiều người cho là có thể giảm rủi ro mắc bệnh nhiễm trùng đường tiểu tiện và -Maltose hoặc đường mạch nha có trong mầm lúa mạch, được dùng trong việc làm bia, rượu wisky. Ðường đơn và đôi có nhiều điểm tương đồng như: cùng hòa tan trong nước, cùng ngọt, kết tinh và cùng gọi là đường vì có tiếp ngữ “ose” nghĩa là đường. 3. Ða Saccharit như cellulose, tinh bột và glycogen. - Tinh bột là thành phần chính của chế độ ăn uống và là dạng tồn trữ carbohydrate trong nhiều thực vật. Tinh bột do nhiều đơn vị glucose liên kết và có hai thành phần chính là a-amylose và amylopectin. Tỷ lệ 2 phân tử này cao thấp tùy theo loại carbohydrate. Theo các nhà nghiên cứu thực phẩm có nhiều amylose được tiêu hóa và hấp thụ chậm. Tinh bột được tiêu hóa bằng men amylase. - Cellulose gồm nhiều đơn vị đường glucose kết hợp và là thành phần cấu tạo quan trọng ở vách cứng của tế bào thực vật. Tuy con người không tiêu hóa được nhưng cellulose có nhiều vai trò quan trọng đối với sức khỏe. Trâu, bò, ngựa, dê có thể tiêu hóa cellulose nhờ có các vi khuẩn cộng sinh ở dạ dày. - Glycogen là dạng dự trữ của glucose trong gan và cơ bắp của người và các động vật, tương tự như tinh bột ở thực vật. Chỉ Số Ðường Huyết Từ hơn ba thập niên vừa qua, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một vai trò quan trọng khác của thực phẩm carbohydrat đối với sức khỏe con người. Ðó là khái niệm Chỉ Số Ðường Huyết (Glycemic Index) của mỗi loại thực phẩm chứa carbohydrate. Thực phẩm gốc động vật như thịt cá có lượng carbohydrate không đáng kể, không ảnh hưởng tới đường huyết cho nên không có Chỉ Số Ðường Huyết (CSÐH). CSÐH là mức nhanh/chậm của carbohydrat trong một loại thực phẩm có thể ảnh hưởng tới đường huyết sau bữa ăn từ 2-3 giờ đồng thời cũng kích thích tuyến tụy sản xuất insulin. Mỗi loại thực phẩm có tốc độ khác nhau để chuyển thành glucose trong máu. Thực phẩm chuyển hóa mau tăng đường huyết nhanh có CSÐH cao hơn đồng loại phân hóa chậm, nâng đường huyết từ từ, có CSÐH thấp. Chỉ số được xếp hạng từ 0 tới 100 tùy theo thực phẩm đó tăng đường huyết nhiều hoặc ít. 100 là CSÐH của đường glucose được nhiều nhà nghiên cứu dùng làm mốc để so sánh. Glucose xuất hiện trong máu ngay sau khi tiêu thụ. Chỉ số này diễn tả phẩm chất (quality) của carbohydrate trong món ăn chứ không phải số lượng (quantity) carbohydrat trong món ăn. Chẳng hạn CSÐH của gạo Jasmine Thái Lan là 109 thì gạo Ấn độ Basmati thấp hơn, 58. Như vậy gạo Thái Lan nâng đường huyết nhanh, cao hơn gạo Ấn độ. Khái niệm CSÐH được khởi xướng ở Canada, rất phổ biến ở Úc rồi lan sang Âu Châu và Hoa Kỳ. Khái niệm này được cho là có vai trò đáng để ý đối với bệnh nhân tiểu đường, vận động viên và người mập phì vì sẽ giúp họ lựa chọn thực phẩm carbohydrate thích hợp với hiện trạng. Theo các nhà nghiên cứu, liên tục tiêu thụ thực phẩm carbohydrat có CS ÐH cao sẽ đưa tới một số hậu quả: - Insulin cao sẽ báo hiệu cho gan hay là năng lượng cần thiết cho cơ thể đã có đủ, không cần lấy năng lượng từ kho dự trữ chất béo. - Ðường glucose trong máu cao không dùng hết sẽ được chuyển sang chất béo để dự trữ. Và hậu quả là sẽ lên cân. Ngoài ra, tuyến tụy liên tục sản xuất insulin vì đường huyết cao sẽ khiến cho cơ thể quen với hormon này cũng như tuyến tụy suy vì làm việc quá sức. Hậu quả là insulin ngày một ít và trở nên kém hiệu nghiệm trong việc đưa glucose vào tế bào và hậu quả là có nguy cơ bị bệnh tiểu đường, mập phì, bệnh tim. Ngược lại, dùng thực phẩm có CS ÐH thấp có thể giảm rủi ro tiểu đường loại 2, bệnh tim, giảm rủi ro mập phì. Mức độ CSÐH Thấp: bằng hoặc dưới 50 Trung bình: từ 55-70 Cao: bằng hoặc trên 70. Những yếu tố ảnh hưởng tới CSÐH Nhiều yếu tố ảnh hưởng tới CSÐH: - Cấu trúc của của thực phẩm chứa carbohydrat: nhiều amylose, thực phẩm chậm tiêu hóa vì các vòng glucose gắn bó với nhau, sẽ có CSÐH thấp. Ngược lại nhiều amylopectin có CS ÐH cao vì các vòng glucose lỏng lẻo, dễ tiêu hóa, mau đưa vào máu. - Thực phẩm được làm tinh khiết (refined) quá kỹ không còn lớp cám hoặc thực phẩm đã được chế biến (processed) có CSÐH cao hơn thực phẩm thô sơ. - Thực phẩm đã được nghiền vụn, xốp, mỏng, các dạng carbohydrat bột đều dễ tiêu hóa và có CSÐH cao. Ngược lại thực phẩm nguyên dạng nhiều hạt có CSÐH thấp. - Thực phẩm do nấu chín lâu có CSÐH cao vì thức ăn đã biến dạng, dễ dàng chuyển hóa ra glucose, sẵn sàng vào máu. - Sự hiện diện các chất khác trong thực phẩm: chất béo, chất đạm, chất chua làm chậm sự tiêu hóa tinh bột sẽ giảm ảnh hưởng của carbohydrate lên đường huyết. - Tốc độ chuyển hóa của thực phẩm: chuyển hóa mau sẽ có CSÐH cao hơn. - Trái cây chín mùi có CSÐH cao hơn trái cây còn xanh vì carbohydrate đã được chuyển ra đường. - Rượu có rất ít carbohydrat đặc biệt là rượu vang và wisky hầu như không có; bia có khoảng 3-4 gr/100ml. Uống nhiều thì bia có thể ảnh hưởng đến đường huyết. - Bún, mì sợi có CS ÐH thấp (30-60) vì có cấu trúc đặc biệt với tinh bột nằm trong mạng lưới đạm chất gluten khiến cho bún, mì chậm tiêu hóa. - Ða số các loại rau có ít carbohydrat vì thế CSÐH thấp ngoại trừ quả bơ (avocado), ngô, bí ngô, củ cải đỏ có chỉ số cao hơn, nhưng đều là thực phẩm dinh dưỡng tốt vì có nhiều chất xơ và chất dinh dưỡng. - Thường thường nước uống trên thị trường, đặc biệt là nước thể thao, đều có nhiều đường để cung cấp năng lượng cho nhu cầu vận động cho nên đều có CSÐH cao. - Thịt, cá, trứng hầu như không có carbohydrat cho nên không thử nghiệm được theo tiêu chuẩn của thực phẩm có carbohydrat. Khi tiêu thụ riêng rẽ, các thực phẩm này không có ảnh hưởng gì tới đường huyết. Bây giờ xin đề cập tới lúa gạo Gạo mà bà con ta thường dùng là gạo tẻ và gạo nếp. Trên thị trường, gạo được phân chia tùy theo hình dáng và độ dài ngắn cũng như mầu sắc của hạt gạo: 1. Theo màu sắc - Gạo nâu (Brown rice) mà ta thường gọi là gạo lức, gạo đỏ là gạo mà vỏ cám và nhân gạo vẫn còn. Thực ra mầu có thể thay đổi từ vàng nhạt tới đỏ hoặc đen tía. Cám và nhân chứa nhiều chất xơ, chất dinh dưỡng như vitamin nhóm B, kẽm, sắt và một ít chất béo. Vì có chất béo cho nên gạo cần cất giữ nơi nhiệt độ lạnh để tránh ôi mùi dầu và dùng trong 6 tháng. Gạo còn cám nấu lâu và cơm gạo lức cần nhai lâu hơn gạo trắng. Ngày xưa, gạo đỏ vẫn được gán cho là gạo của con nhà nghèo, thiếu tiền mướn thợ xay giã gạo cho trắng, như người giầu tiền của. - Gạo trắng với lớp vỏ cám và nhân đã mất đi sau khi xay giã chà xát và có rất ít chất dinh dưỡng. Gạo được bổ sung với vitamin, khoáng chất. Không có chất béo, gạo cất giữ được lâu hơn. Nấu cơm gạo trắng mau hơn, hạt mềm dễ nhai dễ nuốt hợp với nếp sống thanh cảnh của con nhà giầu, “gạo trắng, nước trong.” 2. Theo hình dáng Sau khi xay giã, chạy máy, hạt gạo có thể là: - Hạt dài. Chiều dài của hạt gạo gấp 3 chiều ngang, sau khi nấu cơm rời rạc, xốp. Gạo hạt dài còn rất ít chất xơ và chất dinh dưỡng do đó gạo bán trên thị trường đều được tăng cường khoáng sắt, các sinh tố B. - Hạt trung bình chiều dài gấp đôi chiều ngang; khi nấu cơm mềm, ẩm, dính với nhau. - Hạt ngắn bụ bẫm hơn với chiều dài nhỉnh hơn chiều ngang một chút, được dùng nhiều trong món ăn shushi của Nhật cho nên còn gọi là gạo shushi. Gạo nếp không có amylose cho nên CSÐH cao nhất. Chỉ Số Ðường Huyết của gạo: Uncle Ben’s Converted Rice..... 44 Gạo Ấn Ðộ Basmati…… 58 Gạo lức (Brown Rice)…… 55 Gạo trắng, hạt dài…… 56 Gạo trắng hạt ngắn…… 72 Gạo Jasmine…… 109 Jasmine là gạo truyền thống lâu đời của Thái Lan với một hương thơm phảng phất của hoa hồng rất đặc biệt và hạt gạo lại trắng, trong, mịn, ăn ngon miệng. Từ thập niên 1990, Hoa Kỳ đã thành công tạo ra nhiều loại gạo lai giống như gạo Jasmati lai giống từ Jasmine Thái Lan và Basmati Ấn Ðộ; gạo vô cơ Texmati từ gạo Mỹ hạt dài với gạo Ấn Ðộ Basmati và mới đây Jazzmen Rice ở miền Nam Louisiana, nơi phát xuất điệu nhạc đam-mê gần-gũi Jazz, từ lúa Toro và giống lúa khác của Trung Hoa. Jasmati và Jazzmen đang cạnh tranh ráo riết với Jasmine trên thị trường Hoa Kỳ. Kết luận Thực phẩm chứa carbohydrat vẫn là món ăn chính của phần ăn. Mỗi ngày nên tiêu thụ 65% tổng số năng lượng với thực phẩm có carbohydrat, khoảng 225-275 gr mỗi ngày hoặc hai ba lưng chén cơm. Ðồng thời ăn uống đều đặn, đầy đủ; giảm chất béo động vật; tăng chất xơ; giới hạn muối, đường, uống nhiều nước để có sức khỏe. Khái niệm chỉ số đường huyết khá mới mẻ, còn nhiều tranh luận cho nên chưa được sự đồng ý áp dụng của các nhà nghiên cứu. Một số nhà nghiên cứu đề nghị là người bị tiểu đường hoặc muốn giảm cân nên tiêu thụ thực phẩm có CSÐH trung bình hoặc thấp để duy trì đường huyết bình thường. Hội Tiểu Ðường Hoa Kỳ chưa đề nghị mang khái niệm này vào việc điều trị và phòng ngừa bệnh tiểu đường vì kết quả nghiên cứu cho hay không có ảnh hưởng đáng kể lên mức độ HbA1c hoặc insulin. Vả lại với người dân, khó mà lựa được một chế độ dinh dưỡng căn cứ vào CSÐH, vì thực phẩm trên thị trường chưa đồng loạt ghi CSÐH của món hàng. Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức M.D. Texas-Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2011 11:56:58 GMT 9
Những Thực Phẩm Làm Tăng Cường Sinh Lực Thực Phẩm, dinh dưỡng không những làm tăng khả năng phòng và chống bệnh tật. Nó không những giúp ta xa lánh các bác sĩ mà nó còn giúp cho người yêu đến thân cận với ta hơn . Ngày nay, chúng ta càng tò mò muốn tìm hiểu xem những thực phẩm , gia vị thiên nhiên nào làm tăng khả năng sinh lý . 1. Sò oyster có những nguyên tố nào mà lại được xem là món ăn kích thích , tăng cường sinh lý ? Xưa nay Sò được xem là sinh vật giúp cho con người tăng cường khả năng sinh lý mạnh mẽ nhất . Nó có chất amino acids làm kích thích sex hormones. Nó củng có chất kẽm ( zinc) lớn lao nhất sẽ giuspcow thể tạo ra chất kích thích tố nam testosterone. Nó củng là nguồn cung cấp cho cơ thể ta chất Sắt và Sinh tố B12 . 2. Trái Bơ Avocado : Trước khi đi ngủ bạn nên cùng với người bạn tình nên ăn trái bơ , trái bơ có chứa sinh tố B6 , là dưỡng chất giúp gia tăng chất kích thích tố Nam ( increases male hormone production) và nó củng chứa chất potassium ( nhằm giúp điều hòa tuyến thyroid gland ở nũ giới) -- Đó chính là 2 thành phần chính giúp nâng cao khả năng sinh lý cho cả Nam lẫn nữ . 3. Gừng : Ginger Có khi nào bạn thấy mùi vị nồng cay của gừng khi ta ăn Sushi ? Hãy thử kẹp gừng vào ăn chung với món cá thu trong cuốn Sushi xem sao . Gừng sẽ làm luồng máu nóng trong người bạn luân chuyển mạnh mẽ hơn , mà khi dòng máu chảy mạnh trong người thì tất cả cơ thể sẽ ngập tràn hưng phấn lên , phải không bạn ta ? Ngoài ra Gừng còn giúp giảm triệu chứng thống phong , nghẹt mũi,
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 13, 2019 2:39:59 GMT 9
Phân biệt giữa thuốc muối (baking soda) và bột nở (baking powder)Baking soda, hay sodium bicarbonate, tiếng Việt gọi là “Thuốc Muối” hay “Thuốc Tiêu Mặn” có mặt trên kệ bếp của nhiều gia đình cho việc nướng bánh và tẩy rửa. Nhưng nó còn nhiều công dụng khác mà bạn chưa biết đến để tận dụng. Chẳng hạn như bạn có thể dùng baking soda để lấy cái dằm ở ngón tay ra một cách an toàn, hay bạn có thể dùng nó để làm kem đánh răng. Bạn có thể mua một hộp baking soda với giá 1 dollar. Nó là một trong những dụng cụ y tế rẻ tiền và an toàn nhất, vì vậy thật là có lý để bạn tìm hiểu về nhiều công dụng của baking soda. Tóm tắt lịch sử của baking sodaỞ dạng tự nhiên, baking soda được biết đến như nahcolite, một loại khoáng chất được tạo ra từ thời cổ đại khi các hồ bị bay hơi một cách nhanh chóng bởi nhiệt độ cao. Nahcolite chứa một lượng lớn sodium bicarbonate, đã được sử dụng từ nhiều ngàn năm. Ví dụ, người Ai Cập dùng nahcolite làm xà phòng để tẩy rửa. Sau đó, xuyên suốt lịch sử, nhiều câu chuyện của nhiều dân tộc kể lại rằng baking soda được sử dụng khi làm bánh mì và các loại bánh nở khác. Tuy nhiên, mãi đến năm 1846 hai vị tiến sĩ Austin Church và John Dwight mới bắt đầu sản xuất và bán baking soda. Trong những năm 1860, baking soda là một thành phần trong sách dạy nấu ăn, và trong những năm 1930 đã được quảng cáo rộng rãi như là một “dược phẩm đã được chứng minh.” Ðến năm 1972, ý tưởng giữ một hộp baking soda trong tủ lạnh để giữ cho thực phẩm tươi mới nảy sinh và nhiều người đã thực hành như thế. Baking soda được phổ biến bởi Arm & Hammer hơn 150 năm qua. Trong khi nhiều người biết về công dụng trong nấu ăn và tẩy rửa, thì ít ai nhận ra rằng baking soda cũng có nhiều dược tính mạnh mẽ. Baking Soda có thể giúp chống cảm lạnh và cúm Một số người tin rằng khi uống baking soda, nó có thể giúp cho cơ thể duy trì sự cân bằng độ pH axit-kiềm trong máu. Ðây có khả năng là điều cơ bản trong việc đề nghị sử dụng baking soda chống lại các triệu chứng của cảm lạnh và cúm. Trong tập sách “Cách dùng Arm & Hammer Baking Soda trong y học” xuất bản năm 1924, Tiến Sĩ Volney S. Cheney kể lại những thành công của ông trong điều trị cảm lạnh và cúm với thuốc muối baking soda. Năm 1918 và 1919 trong khi dịch vụ y tế công cộng Mỹ chiến đấu với bệnh cúm, điều làm Bác Sĩ Cheney chú ý đó là những ai đã hoàn toàn có độ pH là kiềm nhờ uống baking soda rất ít bị lây bệnh cúm, những ai bị nhiễm bệnh, nếu nhanh chóng đưa cơ thể lên chỉ số pH kiềm thì chỉ bị cúm nhẹ. Từ đó Bác Sĩ Cheney điều trị mọi trường hợp cảm lạnh và cúm bằng cách cho uống ngay nhiều lần thuốc muối baking soda và rất nhiều trường hợp chỉ trong vòng 36 giờ thì các triệu chứng hoàn toàn chấm dứt. Hơn nữa, trước Câu Lạc Bộ Phụ Nữ và Hiệp Hội Phụ Huynh-Giáo Viên, Bác Sĩ Cheney đã ủng hộ việc sử dụng baking soda để phòng ngừa “cảm lạnh” với kết quả là đến bây giờ nhiều báo cáo vẫn đang tiếp tục gởi về nói rằng những ai uống baking soda không bị nhiễm bệnh, trong khi những người chung quanh hầu như bị cúm cả. (Cũng không quá cho việc nâng độ pH lên độ kiềm tối ưu do hoạt động của baking soda là nhất định, vì tôi (bác sĩ Cheney) cũng thường dùng axit hydrochloric (pH=2) pha loãng để tiêm vào tĩnh mạch và giúp các bệnh nhân hầu như khỏi nhiễm trùng cấp tính ngay lập tức. Rõ ràng việc này đẩy độ pH theo hướng ngược lại với baking soda, tuy nhiên cả hai đều có tác dụng, cho thấy rằng cách thức hoạt động có thể là cách khác hơn là độ pH trung gian.) Việc sử dụng baking soda tương đối dễ dàng và vô hại ngay cả khi bạn không thấy các triệu chứng cảm lạnh thuyên giảm. Chỉ đơn giản hòa tan lượng baking soda đề nghị vào ly nước và uống. Liều lượng đề nghị cho cảm lạnh và cúm của công ty Arm & Hammer năm 1925 là: Ngày 1: Uống 6 liều cách nhau 2 tiếng. Mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy. Ngày 2: Uống 4 liều cách nhau 3 tiếng. Mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy. Ngày 3: Uống 2 liều vào buổi sáng và buổi chiều. Mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy. Những ngày tiếp theo: uống 1 liều 1/2 muỗng cà phê baking soda trong ly nước đầy vào buổi sáng cho tới khi triệu chứng chấm dứt. Các công dụng khác của baking soda1. Ðau loét: Tôi đã đề nghị cho nhiều người kể cả những người trong nhà và ngạc nhiên khi thấy hiệu quả đáng ca ngợi của nó. Ðiều này có lý, vì baking soda nhanh chóng trung hòa axit trong dạ dày. Liều lượng thường là 1-2 muỗng cà phê trong một ly nước đầy. 2. Lấy dằm ra ngoài: Cho một muỗng súp baking soda vào ly nước nhỏ, rồi ngâm vùng bị dằm vào hai lần một ngày. Nhiều dằm sẽ tự ra ngoài sau vài ngày sử dụng liệu pháp này. 3. Cháy nắng: Cho 1/2 chén baking soda vào bồn tắm rồi ngâm mình trong bồn. Khi ra khỏi bồn hãy để người khô tự nhiên, không dùng khăn lau muối bám vào người để gia tăng hiệu quả. Bạn cũng có thể cho hỗn hợp baking soda và nước vào gạc băng lạnh và đắp lên chỗ phỏng nắng. 4. Khử mùi: Nếu bạn muốn tránh sản phẩm khử mùi và chống đổ mồ hôi có chứa paraben và nhôm, hãy thử lấy một nhúm baking soda nhào với nước để thay thế. Bột sền sệt này là chất khử mùi đơn giản tự nhiên và hiệu quả. 5. Nâng cao hiệu suất thể thao: Các vận động viên chạy bộ đường dài từ lâu đã uống viên baking soda trước cuộc đua để gia tăng năng lực. Tôi không đề nghị bạn thử nó ở nhà, tôi chỉ đưa ra một ví dụ về lợi ích của baking soda. 6. Kem làm sạch vôi răng: Lấy 6 phần baking soda trộn đều với 1 phần muối biển, rồi cho vào lọ để sử dụng. Làm ướt đầu ngón tay trỏ rồi chấm vào muối này chà khắp lợi và răng. Bắt đầu ở hàm trên phía ngoài rồi phía bên trong. Làm như thế với lợi và răng hàm dưới. Nhổ ra ngoài phần muối dư. Sau 15 phút súc miệng cho sạch. Hỗn hợp muối này rất hiệu quả trong việc diệt khuẩn ở răng miệng và dần dần làm sạch vôi răng. 7. Kem làm trắng răng tự nhiên: Dằm nhuyễn 1 trái dâu tây chín (strawberry) rồi trộn đều với 1/2 muỗng cà phê baking soda (thuốc muối). Trát hỗn hợp này lên răng và để yên 5 phút rồi đánh răng. Phương pháp này chỉ sử dụng một tuần một lần, làm nhiều hơn có thể làm hỏng men răng. 8. Côn trùng cắn: Cho một chút nước vào baking soda rồi thoa lên chỗ bị muỗi, kiến cắn. Cũng có thể thoa bột baking soda khô lên da. Cách này giúp giảm ngứa. 9. Ngâm chân: Cho ba muỗng canh baking soda vào chậu nước ấm rồi ngâm chân. 10. Tẩy da chết: Trộn đều ba phần baking soda, một phần nước có thể dùng để tẩy da chết trên mặt và cơ thể. Ðây là cách tự nhiên, ít tốn kém và nhẹ nhàng có thể sử dụng hàng ngày. 11. Tẩy độc: Cho baking soda và giấm táo vào bồn nước ấm rồi ngâm mình. Cách này giúp giảm đau nhức và tẩy độc. Nó cũng giúp làm sạch bồn tắm và ống cống nữa. 12. Baking soda cũng tuyệt vời để làm sạch các vật dụng ở nhà bếp. Bạn có thể để hộp baking soda ở tủ thuốc, ở nhà bếp, phòng tắm và chung với các sản phẩm làm sạch khác. 13. Cọ rửa phòng tắm và nhà bếp: Rắc baking soda trên bề mặt và và cọ rửa. 14. Làm sạch đường cống: Rắc baking soda xuống ống thoát nước, xong đổ thêm giấm táo (apple cider vinegar) và để nó sủi bọt trong 15 phút, sau đó xả nước nóng. Ðây là cách an toàn thay thế cho dùng hóa chất. 15. Làm sạch nồi chảo: Ngâm nồi, chảo trong nước nóng và baking soda 15 phút sẽ dễ dàng tẩy sạch các vết dính. 16. Chùi rửa giá sắt nướng thịt. Sử dụng baking soda để chà rửa giá nướng thịt. 17. Làm sạch đồ chơi trẻ em: Ngâm đồ chơi trong dung dịch 1 lít nước cà 4 muỗng canh baking soda. 18. Làm mềm quần áo: Cho 1/2 chén baking soda vào quần áo khi giặt, quần áo sẽ mềm mại, trắng và mới hơn. 19. Làm sạch thảm: Rắc bột baking soda lên thảm, dễ 15 phút rồi dùng máy hút bụi thảm. 20. Ðánh bóng dụng cụ bằng bạc: Xả nước nóng vào bồn rửa chén, lót miếng giấy bạc bên dưới, cho baking soda lên giấy bạc, ngâm các miếng bạc lên trên cho tới lúc sạch. 21. Khử mùi hôi của giày: Rắc baking soda vào trong giày. 22. Chữa cháy nhỏ: Trường hợp xảy ra việc cháy nhỏ do dầu mỡ trong nhà bếp, rắc baking soda lên để dập tắt ngọn lửa. 23. Ngâm các vật dụng dùng cho đánh răng vào ly nước ấm với 2 muỗng cà phê baking soda sẽ khử mùi và làm sạch dụng cụ. 24. Dùng để hạ ợ nóng (heartburn), ợ chua.( Theo hướng dẫn ghi trong hộp.) 25. Rửa tay: Không dùng xà bông. Lấy 3 phần baking soda, 1 phần nước, trộn chung rồi rửa tay, sẽ khử mùi và đất bám ở tay. Hoặc lấy 3 phần baking soda này cho vào xà bông rồi rửa tay. 26. Làm sạch tóc: Lấy một nhúm baking soda cho vào lòng bàn tay cùng với xà bông gội đầu. Gội đầu như thường lệ. Baking soda giúp tẩy keo xịt tóc hay dầu xức tóc làm cho tóc sạch hơn. Bây giờ bạn không ngại thoa dầu dừa vào chân tóc để trị gầu hay giúp tóc mọc vì sau đó tóc bóng dầu nữa. Gội đầu với baking soda sẽ làm sạch dầu. 27. Làm sạch lược, bàn chải. Ngâm trong 1 tô nước ấm với 1 muỗng cà phê baking soda. 28. Làm sạch khăn, xốp rửa chén: Ngâm trong 1 lít nước ấm với 4 muỗng súp baking soda. Ðể khử trùng mạnh hơn nữa, dùng microwave. 29. Khử dầu mỡ: Rắc baking soda lên chỗ dính dầu mỡ và chà với bàn chải ướt. 30. Khử mùi thùng rác: Rắc baking soda vào đáy thùng. 31. Khử mùi ống cống: Ðổ nửa chén baking soda vào ống thoát nước ở các bồn nước trong khi mở vòi cho chảy nước ấm. Việc này sẽ trung hòa chất axit và khử mùi hôi. 32. Tươi mát tủ quần áo: Ðặt một hộp baking soda vào kệ quần áo để giữ quần áo được thơm tho. 33. Ða năng cho cắm trại: Dùng để tẩy chất dơ, rửa tay, rửa chén nồi, khử mùi, kem đánh răng, chữa cháy, v.v... 34. Bảo quản hầm cầu (septic care): Thường xuyên dùng baking soda trong ống nước có thể giúp hệ thống bồn cầu thông chảy. Một chén baking soda mỗi tuần sẽ duy trì độ pH thích hợp cho bể phốt (septic tank). 35. Rửa rau cải và trái cây: Baking soda là cách dùng an toàn để rửa sạch các chất bẩn bám vào rau quả. Rắc baking soda lên miếng xốp sạch, chà rửa và xả nước cho sạch. (Dr. Mercola - articles.mercola.com/…/baking-soda-natural-remedy.as…)Kim Tuyến chuyển ngữ.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 10, 2019 16:27:56 GMT 9
6 bí kíp nhìn thì tưởng nhảm nhí nhưng lại giúp cuộc sống dễ thở đến không ngờBạn có nghĩ rằng uống một tách cafe sẽ giúp ngủ ngon và làm việc hiệu quả hơn, hay đi vệ sinh ban đêm thì chỉ nên... mở một mắt? Chắc nhiều người đã từng nghe đến cụm từ "life-hack"đúng không? Đó là những bí kíp, mẹo vặt ra đời nhằm mục đích giúp mọi việc trong cuộc sống của bạn trở nên nhanh chóng, thuận tiện và dễ dàng hơn.
Mỗi ngày lại có hàng trăm bí kíp xuất hiện trên mạng. Có cái đúng, có cái sai, nhưng đặc biệt trong đó có những bí kíp tưởng là sai mà lại đúng không tưởng, như danh sách dưới đây chẳng hạn.1. Chỉ mở 1 mắt khi đi toilet ban đêm để ngủ lại dễ hơn - Ảnh 1. Nửa đêm, bạn bỗng buồn đi toilet. Bạn mò dậy, mở đèn WC, giải quyết rồi quay trở lại giường. Quy trình này quen thuộc quá đúng không? Nhưng khổ nỗi, bạn chẳng thể ngủ lại được - hoặc ít nhất là không thể nhanh chóng quay lại với giấc mộng còn dang dở. Có 2 lý do cho hiện tượng này. Đầu tiên, việc phải dậy giữa đêm quả thực là một sự xáo trộn đến chu kỳ ngủ quả bạn. Nhưng điều quan trọng hơn nằm ở ánh sáng: đèn đột nhiên bật sáng sẽ khiến não bộ tưởng rằng bình minh đã lên, và phát ra tín hiệu khiến bạn trở nên khó ngủ hơn. Để giải quyết câu chuyện này, bạn chỉ nên mở một mắt khi đi toilet thôi. Điều này giúp giảm thiểu lượng ánh sáng đi vào nhãn cầu, giảm được tín hiệu từ não bộ, và giúp bạn quay về ngủ dễ hơn. 2. Đau mỏi tay? Hãy ngửa cổ lên trời- Ảnh 2. Có bảo giờ bạn tỉnh dậy trong tình trạng cánh tay và vai tê rần, đau bại? Nguyên nhân có thể là vì khi ngủ, bạn vô tình quay nghiên và nằm đè lên tay, khiến mạch máu bị nghẽn lại. Cánh tay bị thiếu máu sẽ trở nên tê buốt. Để giải quyết câu chuyện, mẹo nhỏ cho bạn là hãy cử động đầu. Điều này sẽ giúp cánh tay đỡ đau hơn, do dây thần kinh trên cổ được nối thẳng đến cánh tay. 3. Muốn ngủ trưa? Làm 1 ly cafe là tuyệt vời nhất- Ảnh 3. Theo một nghiên cứu tại Nhật Bản vào năm 2003, những người uống 1 - 2 ly cafe rồi đi ngủ trong khoảng 20 phút sẽ cảm thấy giấc ngủ đến nhanh và dễ chịu hơn người thường. Nhưng điều quan trọng hơn là sau khi họ ngủ dậy, khả năng tập trung và sự tỉnh táo cũng nhiều hơn gấp bội. 4. Buốt óc vì ăn kem lạnh? Đây là giải pháp- Ảnh 4. Kem lạnh ăn rất ngon - nhất là vào mùa hè nóng kỷ lục như năm nay. Nhưng việc ăn kem lạnh đôi khi sẽ khiến bạn cảm thấy buốt óc! Nguyên do là vì việc tiếp nhận liên tiếp một thứ gì đó quá lạnh - như kem hoặc nước đá - sẽ khiến não bộ buộc phải tìm cách làm ấm cơ thể lên. Quá trình này gây ra nhiều thay đổi, và sau cùng là tạo ra phản ứng đau đầu. Để giải quyết, bạn chỉ cần cọ lưỡi vào phần vòm miệng phía trên. Đây là cách để làm ấm lại não bộ, giúp cơn buốt giảm đi nhanh chóng. 5. Đánh răng ngay sau bữa ăn là một sai lầm - Ảnh 5. Đánh răng ngay lập tức sau bữa ăn, nhìn thì có vẻ là cách tuyệt vời để giải quyết toàn bộ mảng bám ra khỏi miệng, nhưng thực ra không phải như vậy. Nguyên nhân là vì rất nhiều thực phẩm chúng ta ăn có tính acid - cà chua, chanh, nước quả... Nếu đánh răng luôn, men răng của bạn sẽ bị cọ bớt, khiến quá trình ăn mòn của acid được đẩy mạnh hơn và cuối cùng làm hỏng men răng. Hãy đợi khoảng 30 - 45 phút sau bữa ăn rồi đánh răng là vừa nhé. 6. "Hack não" bằng kẹo cao suKẹo cao su thì mang quá nhiều lợi ích rồi. Như theo một nghiên cứu từ ĐH Coventry (Anh Quốc) đã chỉ ra rằng việc nhai kẹo cao su có thể giúp giảm cảm giác mệt mỏi, tăng cường sự tập trung. Tuy nhiên không chỉ có vậy đâu. Một nghiên cứu khác tại Anh Quốc còn cho biết người thường xuyên nhai kẹo có thể tạm thời "hack" trí nhớ thêm 35% so với bình thường. Và đây cũng chính là lý do vì sao cứ đến kỳ thi là các sĩ tử người Anh lại nhóp nhép kẹo cao su trong suốt một thời gian dài. Tham khảo: BS, VT.co Theo J.D *********************************************** Các chất gây ung thư “ẩn nấp” trong 10 loại vật dụng thường thấy nhất trong nhàCác chất gây ung thư “ẩn nấp” trong 10 loại vật dụng thường thấy nhất trong nhà Rất nhiều người không biết, có rất những vật dụng trong nhà ẩn giấu chất gây ung thư, bởi vì chúng không được dán nhãn cảnh báo ung thư như thuốc lá hay đồ uống có cồn. Dưới đây là 10 vật dụng trong nhà có chứa chất gây ung thư nhưng ít người ngờ tới: 1. Dầu gội- Ảnh 1. Dầu gội và dầu xả là những sản phẩm không thể thiểu trong mỗi gia đình. Dầu gội truyền thống có chứa các hóa chất bao gồm: sodium lauryl sulfate (SLS), nước hoa hoặc hương liệu, paraben (chất bảo quản) và màu tổng hợp… Parabens được biết đến là một chất gây ung thư, vì chúng có liên quan trực tiếp đến các loại ung thư khác nhau, một nghiên cứu cho thấy 99% các mô ung thư vú có chứa paraben. 2. Dụng cụ nấu chống dính- Ảnh 2. Dụng cụ nấu chống dính được làm từ một lớp phủ tổng hợp polytetrafluoroetylen, còn được gọi là Teflon. Tuy nhiên nhiều nhà khoa học lo ngại về chất Teflon có thể giải phóng ra những chất khí độc hại khi sử dụng ở nhiệt độ cao gây nguy cơ ung thư và nhiều bệnh nguy hiểm. 3. Chất làm ngọt nhân tạoCó nhiều loại chất làm ngọt nhân tạo, phổ biến nhất trong số đó là aspartame. Aspartame thường được coi là chỉ có trong nước soda không đường, nhưng nó cũng thường được thêm vào trà, nước tăng lực, các sản phẩm từ sữa, nước trái cây và đồ uống có hương vị nhân tạo khác. Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2007 cho thấy aspartame có thể gây ra bệnh bạch cầu, ung thư hạch và ung thư vú. 4. Hộp nhựa- Ảnh 3. Nhựa chứa hóa chất như bisphenol A (BPA), polyvinyl clorua (PVC) và phthalates có thể ngấm vào thức ăn. Nhựa với BPA có liên quan đến ung thư, sức khỏe não bộ và tim mạch. Khi bạn cho hộp nhựa đựng thức ăn vào lò vi sóng, nhiệt độ cao làm tăng việc phát tán các hóa chất và rất dễ dính vào thức ăn có tính axit, béo hoặc thức ăn mặn. 5. Thớt nhựaKhi bạn sử dụng thớt nhựa để cắt, thái thức ăn, những vết nứt và đường cắt sẽ hằn lên trên mặt thớt. Đây sẽ là môi trường lý tưởng cho vi khuẩn nguy hiểm sinh sống như E.coli và salmonella, gây nguy hiểm cho sức khỏe đường ruột. 6. Chất tẩy rửa thông thường - Ảnh 4. Hầu hết các gia đình đều lưu trữ một số chất tẩy rửa bề mặt dụng cụ. Một số hóa chất phổ biến có trong các sản phẩm tẩy rửa gia dụng gây nguy hại cho sức khỏe bao gồm: 2-BE (gây ra các vấn đề về sinh sản), amoniac (liên quan đến tổn thương thận), than nhuộm (gây ung thư và tổn thương hệ thần kinh). 7. Nước và sáp thơm phòngCác loại nước thơm phòng hiện được sử dụng rất phổ biến để giúp khử mùi khó chịu trong nhà vệ sinh, trong tủ lạnh hay tủ quần áo... Tuy nhiên đây cũng là loại hóa chất độc hại vì chứa nhiều độc tố, sau thời gian sử dụng thì những chất độc này sẽ tích lũy dần trong cơ thể. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy các chất này có thể ảnh hưởng xấu đến nội tiết tố, gây hại cho sức khỏe sinh sản, nhất là với trẻ em. 8. Dung dịch vệ sinh bồn cầu - Ảnh 5. Để làm sạch các vết bẩn trên bồn cầu và thông cống thì các loại dung dịch vệ sinh thường có chứa các chất có tính axit ăn mòn cực mạnh. Vì có tính chất như vậy nên chúng có thể gây bỏng da và mắt nếu bị bắn vào người. Ngoài ra những chất này cũng rất nguy hiểm khi trộn lẫn với một số loại chất tẩy rửa vệ sinh khác. 9. Băng phiếnBăng phiến hiện được sản xuất từ Napthalen, trong khi đó napthalen lại là một chất có thể phá hủy tế bào hồng cầu và đã được chứng minh là gây ung thư trên động vật, dù chưa có kết quả thử nghiệm trên người nhưng chúng ta vẫn nên đề phòng về những mối nguy hại có thể xảy ra với sức khỏe. 10. Rèm cửa và thảmCác chất gây ung thư ẩn nấp trong 10 loại vật dụng thường thấy nhất trong nhà - Ảnh 6. Đây được coi là vật gián tiếp gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Cụ thể, cadmium là một thành phần gây ung thư có trong khói thuốc lá. Nếu ai đó hút thuốc trong nhà, cadmium và các thành phần khác của khói thuốc có thể lưu lại trên các bề mặt mềm như rèm cửa, thảm. Chúng vẫn có thể tồn tại mặc dù mùi khói thuốc đã hoàn toàn biến mất, nguy cơ tiềm ẩn gây ung thư. (Dịch theo Aboluowang) Theo Hà Vũ
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 15, 2020 1:54:11 GMT 9
2 loại rau được WHO xếp vào danh sách gây ung thư bảng A: Đứng đầu là rau để qua đêm người Việt ăn suốt Nov 14, 2020Huynh Tan Minh Chúng ta vẫn thường được khuyên là ăn nhiều rau vì nó tốt cho sức khỏe. Thế nhưng kh.ông phải loại rau nào cũng có lợi cho cơ thể đâu mọi người ạ. Th.ông qua báo chí, mình thấy t.ổ ch.ức Y tế Thế giới còn liệt kê ra những loại rau thuộc danh sách gây ung thư bảng A. Khổ nỗi những loại rau này người Việt mình có nhiều, hay ăn, thích ăn nhiều lắm luôn cơ. Thế bảo sao giờ số người bị ung thư cứ tăng lên nhanh thế.
WHO công bố 2 loại rau thuộc danh sách chất độc bảng A
+ Rau để qua đêm
Các cụ vẫn có câu ‘cơm kh.ông rau như đau kh.ông thuốc’. Vì thế, trong mâm cơm gia đình của người Việt bao giờ cũng có sự xuất hiện của đĩa rau. Và để tiết kiệm thì nhiều người hay có thói quen nấu từ tối hô.m trước rồi để sáng mai ăn luôn cho tiện. Việc này đúng là tiết kiệm thời gian, công sức. Thế nhưng Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) thì: Các loại rau xanh như súp lơ, rau bina, cải thìa, củ cải, cần tây, cà rốt… có hàm lượng nitrat cao. Vì vậy, nếu chúng ta để qua đêm thì nó sẽ bị biến chất và giải phóng các đặc tính gây ung thư, kể cả khi được hâm nóng lại.
Trong đó, rau bina là ‘đ.ối t.ượng nguy hiểm nhất’. Bởi kh.ông chỉ giàu nitrit mà nó còn giàu chất sắt. Khi được hâm nóng lại, chất sắt sẽ bị oxy hóa và tạo ra các gốc tự do nguy hiểm. Đây cũng là nguyên nhân gây ra các bệnh nguy hiểm như ung thư, vô sinh.
Tờ Business Insider của Mỹ báo cáo rằng: Nitrat trong rau xanh có thể bị chuyển hóa thành nitrosamine khi hâm nóng. Nitrosamine là chất gây ung thư cực kỳ nguy hiểm.
+ Dưa chua
Dưa chua từ lâu đã được xếp vào ‘danh sách đen’ có thể gây ung thư. Điều này đã được các nhà khoa học nghiên cứu và chứng minh. WHO phân tích rằng: Bệnh ung thư dạ dày vẫn luôn là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Việc nhiễm vi khuẩn HP kh.ông phải là nguyên nhân duy nhất gây ung thư dạ dày.
WHO khẳng định: Chính thói quen ăn uống sai lầm là căn nguyên của bệnh này. Trong đó, WHP nhận ra khi một người tiêu thụ càng nhiều dưa chua, thịt muối, cà muối… thì nguy cơ mắc ung thư dạ dày càng cao. Thậm chí, đã có nghiên cứu khẳng định rằng việc dùng nhiều món ăn như dưa chua có thể làm tăng nguy cơ bị viêm loét dạ dày, tá tràng. Từ đó cũng làm tăng nguy cơ bị ung thư dạ dày vì lớp niêm mạc dạ dày bị phá hủy, tạo điều kiện cho vi khuẩn HP.
Ngoài 2 loại này thì còn có một số loại rau khác cũng có chứa chất độc, kh.ông tốt cho sức khỏe, bạn nên hạn chế ăn.
Một số loại rau chứa chất độc, nên hạn chế ăn
+ Khoai tây mọc mầm
Nhiều gia đình thường xuyên có thói quen mua khoai tây về ăn dần. Tuy nhiên, bạn kh.ông nên để quá lâu vì nếu củ khoai tây mọc mầm thì sẽ sản sinh ra chất độc hại. Bởi, trong củ khoai tây mọc mầm có chứa nhiều solanine. Đây là một chất cực độc và có thể gây ngộ độc ch.ế.t người với liều lượng 0,2g – 0,4g/kg trọng lượng cơ thể.
Ngay cả khi chúng ta loại bỏ hết các mầm trên củ khoai rồi thì solanine vẫn còn trong củ khoai tây. Sau khi ăn, chất độc này sẽ ở gan để chờ ph.ân h.ủy, làm tăng gánh nặng cho gan. Từ đó làm tăng nguy cơ bị ung thư gan.
+ Giá đỗ kh.ông có rễ
Trên thị trường có rất nhiều loại giá đỗ kh.ông có rễ trông hấp dẫn. Thế nhưng thực chất đây là loại giá đỗ có h.óa ch.ất tăng trưởng, lớn lên nhờ thuốc k.ích th.ích. Những h.óa ch.ất này đọng lại trong cơ thể phá hủy gan, gây ung thư gan.
+ Bí đỏ để lâu
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng bí đỏ già có hàm lượng đường cao. Vì vậy, khi chúng ta để càng lâu thì càng dễ xảy ra quá tình hô hấp kỵ khí – lên men. Quá trình này khiến bí đỏ bị biến chất và gây hại cho gan, làm tăng nguy cơ bị ung thư gan.
+ Cà chua xanh
Cà chua xanh có chứa alkaloid. Chất này kh.ông chỉ gây ngộ độc thực phẩm mà còn có thể đe d.ọa tính mạng nếu chúng ta ăn nhiều.
Nguồn: Tổng hợp
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 2, 2021 3:41:11 GMT 9
10 chất độc chết người nhất mà con người biết đếnwww.thoughtco.com/deadliest-poisons-known-to-man-4058116Bởi Anne Marie Helmenstine, Ph.D. Cập nhật ngày 09 tháng 10 năm 2019 Chất độc là một chất gây ra tử vong hoặc thương tích khi nó ăn vào, hít vào hoặc hấp thụ vào cơ thể. Về mặt kỹ thuật, bất cứ thứ gì cũng có thể là chất độc. Nếu bạn uống đủ nước, bạn sẽ chết. Đó chỉ là vấn đề về liều lượng. Vì vậy, danh sách này bao gồm các chất độc gây chết người ở liều lượng cực thấp. Tại sao mọi người lại cần một danh sách như vậy? Nó có thể hữu ích nếu bạn đang viết một bí ẩn giết người hoặc tự hỏi liệu ai đó ra ngoài để bắt bạn. Có lẽ bạn chỉ tò mò ...Bài học rút ra chính: 10 chất độc chết người nhất* Những chất độc chết người nhất trên thế giới bao gồm vũ khí hóa học; hợp chất tự nhiên; hóa chất phòng vệ được sử dụng bởi thực vật, động vật, nấm và vi khuẩn; và cả các nguyên tố hóa học. * Hầu hết các chất độc thực sự chết người là chất độc thần kinh. Tử vong thường xảy ra do ngạt thở khi các cơ bị tê liệt và một người không thể thở được. * Mặc dù tất cả các chất trong danh sách này đều gây chết người, nhưng một số chất thực sự có thể sống sót khi được sơ cứu hoặc chăm sóc y tế chuyên nghiệp.Ricin đậu thầu dầu Ricin là một loại độc tố mạnh có từ đậu thầu dầu. Mặc dù dầu thầu dầu cũng có nguồn gốc từ đậu nhưng nó không chứa chất độc. Hình ảnh Kazakov / GettyRicin là một chất độc chết người có từ hạt thầu dầu. Liều lượng chỉ bằng một hạt cát là đủ để giết người. Chất độc hoạt động bằng cách bất hoạt ribosome và làm ngừng sản xuất protein, đây cuối cùng là một vấn đề gây chết người. Không có thuốc giải độc cho chất độc, mặc dù nó có thể sống sót nếu liều lượng đủ nhỏ. Ricin được sử dụng để ám sát Georgi Markov người Bulgaria vào năm 1978. Mặc dù không có khả năng bạn gặp phải chất độc đã được tinh chế, nhưng chất độc này được tìm thấy trong hạt của cây thầu dầu. Nuốt toàn bộ hạt sẽ không gây ngộ độc cho bạn, nhưng trẻ em và vật nuôi nên tránh xa các loại đậu có vẻ ngoài thú vị vì nhai chúng có thể giải phóng đủ chất độc để gây hại. Botulinum Toxin (Botox)Một người phụ nữ tiêm Botox vào trán Tiêm Botox cung cấp một liều lượng độc tố botulinum gây chết người thường được kiểm soát cẩn thận. Hình ảnh Adam Gault / Getty Vi khuẩn Clostridium botulinum tạo ra một chất độc thần kinh chết người gọi là botulinum. Nếu vi khuẩn ăn phải, có thể bị ngộ độc ngộ độc thịt. Bạn có thể nhận được thứ này từ những đồ hộp được đậy kín không đúng cách hoặc thịt không ngon. Trường hợp tốt nhất là đau và tê liệt cơ tạm thời. Tình trạng tê liệt nghiêm trọng có thể khiến người bệnh ngừng thở, gây tử vong. Độc tố tương tự cũng được tìm thấy trong Botox, nơi một liều lượng nhỏ được tiêm vào để đóng băng các cơ vào vị trí, giảm thiểu nếp nhăn. Botox tấn công các chất dẫn truyền thần kinh khiến các cơ bị co cứng không thể thư giãn. Tetradotoxin Cá nóc Cá nóc không phải là động vật duy nhất chứa nọc độc tetradotoxin. Nó cũng được tìm thấy trong một số loại bạch tuộc, sa giông, cóc và giun. Hình ảnh Jeff Rotman / GettyTetradotoxin hay TTX là một chất độc thần kinh mạnh có tác dụng ngăn chặn sự dẫn truyền thần kinh giữa não và cơ thể bằng cách ngăn chặn các kênh natri. Liều một phút có thể gây mất cảm giác và tê liệt, nhưng chỉ cần một chút nữa sẽ làm tê liệt các cơ mà bạn cần hoạt động để sống. Mất khoảng 6 giờ để đạt được hiệu quả đầy đủ, nhưng một khi cơ hoành ngừng hoạt động, phổi không thể hít vào hoặc thở ra được nữa và bạn là người mệt mỏi. Hoặc, bạn có thể chết sớm hơn vì nhịp tim không đều. Làm thế nào để bạn tiếp xúc? Cá nóc được dùng để chế biến món fugu ngon của Nhật Bản. Nếu các cơ quan chứa chất độc bị hư hỏng hoặc bị loại bỏ không hoàn toàn, món ăn sẽ gây chết người. Cá nóc không phải là loài động vật duy nhất mang độc tố này. Nó cũng được tìm thấy trong một số loài bạch tuộc, giun dẹp, sao biển, cá thần tiên, cóc và sa giông. TTX có thể gây chết người cho dù nó được hít vào, ăn vào hoặc hấp thụ trực tiếp vào máu qua vết cắt. BatrachotoxinMột con ếch phi tiêu độc Độc tố batrachotoxin thực sự đến từ thức ăn nhiễm độc mà ếch ăn phải, không phải chính ếch. David Tipling / Getty ImagesTrong tất cả các chất độc trong danh sách này, batrachotoxin là chất độc bạn ít gặp nhất (trừ khi bạn sống trong rừng mưa nhiệt đới). Chất độc được tìm thấy trên da của ếch phi tiêu độc. Bản thân những con ếch không phải là nguồn của độc tố. Nó đến từ thực phẩm họ ăn. Khi bạn nhìn thấy những con ếch này trong vườn thú, hãy yên tâm rằng chúng không ăn những con bọ chết người, vì vậy chúng không thể làm hại bạn. Lượng hóa chất phụ thuộc vào loài ếch. Ếch độc vàng từ Columbia có thể mang đủ độc tố khiến bạn chạm vào nó sẽ khiến bạn tiếp xúc với lượng batrachotoxin đủ để giết chết khoảng hai chục người. Chất độc là một chất độc thần kinh can thiệp vào hoạt động của kênh natri. Kết quả là tê liệt và tử vong nhanh chóng. Không có thuốc giải độc. AmatoxinAmanita muscaria Ruồi agaric (Amanita muscaria) tạo ra amatoxin gây chết người. Nấm độc mất vài ngày có thể giết chết một người, làm tổn thương gan, tim và thận. Hình ảnh Sven Zacek / GettyAmatoxin là chất độc chết người có trong nấm Amanita, chẳng hạn như nấm ruồi. Ăn một loại nấm có thể đủ để kết liễu bạn, tuy vậy nó không phải là hóa chất tồi tệ nhất trong danh sách này, nhưng bạn có nhiều khả năng gặp phải hơn một số loại nấm khác (đặc biệt nếu bạn biết một đầu bếp thích hái nấm dại). Amatoxin tấn công thận và gan. Cuối cùng, thiệt hại dẫn đến hôn mê và tử vong. Nó không phải là một cái chết nhanh chóng. Xyanua Hạt táo Hạt táo, quả anh đào và hạnh nhân đắng đều chứa xyanua. Bạn sẽ phải ăn nhiều cùng một lúc để ốm vì cơ thể bạn có thể giải độc một lượng nhỏ chất độc. Nguồn hình ảnh / Getty ImagesXyanua là một chất độc chết người liên kết với sắt trong máu, ngăn cản nó mang oxy đến các tế bào. Một liều chết người giết chết trong vài phút. Tuy nhiên, chất độc này rất phổ biến trong tự nhiên nên cơ thể giải độc một lượng nhỏ. Nó được tìm thấy trong hạt của táo, anh đào, hạnh nhân và mơ. Hydro xyanua là một loại vũ khí hóa học. Nó được cho là có mùi giống như mùi hạnh nhân, mặc dù sự thật là, mùi của hạnh nhân là mùi của xyanua mà chúng chứa! Khí thần kinhThủy quân lục chiến Hoa Kỳ huấn luyện chống khủng bố hóa học độc hại. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ huấn luyện chống khủng bố hóa học độc hại. Mặc dù khí thần kinh có thể gây chết người, nhưng trong một số trường hợp, tiếp xúc có thể sống sót. Hình ảnh Leif Skoogfors / GettyBất kỳ chất độc thần kinh nào cũng có thể nằm trong danh sách các chất hóa học nguy hiểm nhất. Sarin, VX và các hợp chất liên quan gây tử vong nhiều hơn so với hầu hết các hợp chất khác. Ví dụ, Sarin độc hơn hydro xyanua khoảng 500 lần. Khí thần kinh không cần phải hít để có hiệu quả. Nó có thể được hấp thụ qua da. Mặc dù có thể sống sót với liều lượng cực thấp, nạn nhân thường bị tổn thương thần kinh vĩnh viễn ở một mức độ nào đó. VX có thể còn mạnh hơn nữa, mặc dù chất độc thần kinh chưa bao giờ được sử dụng trong trận chiến, vì vậy có ít dữ liệu hơn về nó. VX ức chế một loại enzyme trong hệ thần kinh để nó liên tục phát ra tín hiệu. Mất kiểm soát các chức năng cơ thể, ngạt thở, co giật dẫn đến tử vong. BrodifacoumHóa chất kiểm soát dịch hại trong cửa sổ cửa hàng Brodifacoum là một loại hóa chất kiểm soát côn trùng gây hại, tiêu diệt bằng cách ngăn đông máu, gây chảy máu nội tạng lớn. Hình ảnh Mark Bolton / Getty Brodifacoum là một loại thuốc chống đông máu mạnh, làm giảm nồng độ vitamin K trong máu, dẫn đến chảy máu trong và tử vong. Nó được bán dưới dạng thuốc diệt loài gặm nhấm dưới các thương hiệu bao gồm Talon, Jaguar và Havoc. Mặc dù giết chết chuột vì chúng ăn phải mồi bị nhiễm độc, nhưng nó cũng không mang lại lợi ích gì cho người hoặc vật nuôi, vì ngay cả khi chạm vào nó cũng có thể gây ra phơi nhiễm. Nó thấm qua da và lưu lại trong cơ thể trong nhiều tháng. Động vật ăn phải loài gặm nhấm bị nhiễm độc cũng có nguy cơ mắc bệnh. StrychnineMột kệ hóa chất bao gồm Strychninum sulfuricum Strychnine là một chất độc tự nhiên có thể gây tử vong nghiêm trọng khi cơ bắp co lại và co thắt. Hình ảnh Ion-Bogdan DUMITRESCU / Getty Strychnine là một chất độc có trong tự nhiên, chủ yếu lấy từ hạt của cây Strychnos nux-vomica. Đó là một chất độc thần kinh tác động lên các dây thần kinh cột sống, khiến nạn nhân co quắp và co giật. Nó được bán trên thị trường như một loại thuốc trừ sâu để diệt bọ xít và chuột. Giống như Brodifacoum, rất nguy hiểm khi sử dụng vì nó gây rủi ro cho trẻ em, vật nuôi và các nạn nhân ngoài ý muốn khác. PoloniumMột bức tranh tường quảng cáo sự nguy hiểm của Polonium Polonium là một nguyên tố phóng xạ được phát hiện bởi Marie và Pierre Curie. Hugh Rooney / Eye Ubiquitous / Getty ImagesTrong khi có rất nhiều hợp chất khác có thể dễ dàng lọt vào danh sách này, đừng quên một số nguyên tố hóa học rất độc! Chì và thủy ngân độc hại khủng khiếp. Không có sự tiếp xúc "an toàn" với chì, trong khi thủy ngân ở dạng hữu cơ kém hơn nhiều so với ở dạng nguyên tố tinh khiết. Polonium và các nguyên tố phóng xạ nặng khác đóng gói một con cá voi kép. Bản thân nguyên tố này độc hại, cộng với phóng xạ phá vỡ các mô của cơ thể. Liều lượng gây chết người của nguyên tố này nhỏ hơn nhiều so với bất kỳ chất độc nào khác trong danh sách này. Chỉ cần ăn 7 phần nghìn tỷ gram là đủ để giết một người lớn.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 2, 2021 4:32:22 GMT 9
Phần trăm não người được sử dụng là bao nhiêu? Bỏ qua 10% huyền thoạiwww.thoughtco.com/percentage-of-human-brain-used-4159438Tâhttps://www.thoughtco.com/percentage-of-human-brain-used-4159438m trí của hai người được thể hiện bằng những con số và phần trăm Hình ảnh iMrSquid / Getty Bởi Alane Lim Cập nhật ngày 04 tháng 8 năm 2019 Bạn có thể đã nghe nói rằng con người chỉ sử dụng 10 phần trăm sức mạnh não bộ và nếu bạn có thể mở khóa phần còn lại của bộ não của mình, bạn có thể làm được nhiều hơn thế. Bạn có thể trở thành một siêu thiên tài, hoặc có được sức mạnh tâm linh như khả năng đọc suy nghĩ và điều khiển từ xa. Tuy nhiên, có một lượng lớn bằng chứng xác minh 10% huyền thoại. Các nhà khoa học đã liên tục chỉ ra rằng con người sử dụng toàn bộ bộ não của họ trong suốt mỗi ngày.
Bất chấp bằng chứng, huyền thoại 10 phần trăm đã truyền cảm hứng cho nhiều tài liệu tham khảo trong trí tưởng tượng văn hóa. Các bộ phim như "Limitless" và "Lucy" mô tả các nhân vật chính phát triển sức mạnh thần thánh nhờ vào loại thuốc giải phóng 90% bộ não trước đây không thể tiếp cận được. Một nghiên cứu năm 2013 cho thấy khoảng 65% người Mỹ tin vào trò lừa bịp và một nghiên cứu năm 1998 cho thấy rằng một phần ba các chuyên ngành tâm lý học, những người tập trung vào hoạt động của bộ não, đã yêu nó.Tâm thần kinhTâm lý học thần kinh nghiên cứu cách giải phẫu của não ảnh hưởng đến hành vi, cảm xúc và nhận thức của một người nào đó. Trong nhiều năm, các nhà khoa học về não bộ đã chỉ ra rằng các phần khác nhau của não chịu trách nhiệm cho các chức năng cụ thể, cho dù đó là nhận biết màu sắc hay giải quyết vấn đề. Trái ngược với 10% lầm tưởng, các nhà khoa học đã chứng minh rằng mọi bộ phận của não đều không thể thiếu cho hoạt động hàng ngày của chúng ta, nhờ các kỹ thuật hình ảnh não như chụp cắt lớp phát xạ positron và chụp cộng hưởng từ chức năng. Nghiên cứu vẫn chưa tìm ra vùng não hoàn toàn không hoạt động. Ngay cả những nghiên cứu đo lường hoạt động ở cấp độ các tế bào thần kinh đơn lẻ cũng không tiết lộ bất kỳ vùng não không hoạt động nào. Nhiều nghiên cứu hình ảnh não đo hoạt động của não khi một người đang thực hiện một nhiệm vụ cụ thể cho thấy các phần khác nhau của não hoạt động cùng nhau như thế nào. Ví dụ: khi bạn đang đọc văn bản này trên điện thoại thông minh, một số bộ phận của não, bao gồm cả những bộ phận chịu trách nhiệm về thị giác, khả năng đọc hiểu và cầm điện thoại, sẽ hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên, một số hình ảnh não bộ vô tình hỗ trợ cho huyền thoại 10 phần trăm, vì chúng thường hiển thị các vệt sáng nhỏ trên một bộ não màu xám khác. Điều này có thể ngụ ý rằng chỉ có những điểm sáng mới có hoạt động của não, nhưng không phải vậy. Thay vào đó, các vệt màu thể hiện các vùng não hoạt động nhiều hơn khi ai đó đang thực hiện một nhiệm vụ so với khi họ không làm. Các đốm xám vẫn còn hoạt động, chỉ ở mức độ nhẹ hơn. Một phản bác trực tiếp hơn với 10% lầm tưởng nằm ở những người đã bị tổn thương não – do đột quỵ, chấn thương đầu hoặc ngộ độc carbon monoxide – và những gì họ không còn có thể làm do hậu quả của tổn thương đó, hoặc vẫn có thể làm tốt. Nếu 10% lầm tưởng là sự thật, thì có lẽ 90% bộ não bị tổn thương sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra rằng việc làm tổn thương ngay cả một phần rất nhỏ của não cũng có thể gây ra hậu quả tàn khốc. Ví dụ: tổn thương khu vực Broca cản trở việc hình thành từ đúng cách và khả năng nói trôi chảy, mặc dù khả năng hiểu ngôn ngữ chung vẫn còn nguyên vẹn. Trong một trường hợp được công bố rộng rãi, một phụ nữ Florida vĩnh viễn mất “khả năng suy nghĩ, nhận thức, ký ức và cảm xúc vốn là bản chất của con người” khi thiếu oxy phá hủy một nửa não của cô ấy, chiếm khoảng 85% não. Lập luận tiến hóaMột dòng bằng chứng khác chống lại huyền thoại 10% đến từ sự tiến hóa. Bộ não của người trưởng thành chỉ chiếm 2% khối lượng cơ thể, nhưng nó tiêu thụ hơn 20% năng lượng của cơ thể. Trong khi đó, bộ não trưởng thành của nhiều loài động vật có xương sống - bao gồm một số loài cá, bò sát, chim và động vật có vú - tiêu thụ từ 2 đến 8 phần trăm năng lượng của cơ thể chúng. Bộ não đã được định hình qua hàng triệu năm chọn lọc tự nhiên, nó sẽ truyền lại những đặc điểm thuận lợi để tăng khả năng sống sót. Không chắc cơ thể sẽ dành nhiều năng lượng như vậy để duy trì toàn bộ bộ não hoạt động nếu nó chỉ sử dụng 10% bộ não. Nguồn gốc của huyền thoạiSức hấp dẫn chính của huyền thoại 10% là ý tưởng rằng bạn có thể làm được nhiều hơn thế nếu chỉ có thể mở khóa phần còn lại của bộ não của bạn. Ngay cả khi có nhiều bằng chứng cho thấy điều ngược lại, tại sao nhiều người vẫn tin rằng con người chỉ sử dụng 10% bộ não của họ? Không rõ ban đầu huyền thoại lan truyền như thế nào, nhưng nó đã được phổ biến bởi các cuốn sách self-help và thậm chí có thể được dựa trên các nghiên cứu khoa học thần kinh cũ hơn, thiếu sót. Câu chuyện hoang đường có thể phù hợp với những thông điệp được đề cao bởi những cuốn sách tự cải thiện, chỉ cho bạn những cách để làm tốt hơn và phát huy hết "tiềm năng" của mình. Ví dụ, lời tựa của cuốn sách khét tiếng "Làm thế nào để giành được bạn bè và những người có ảnh hưởng" nói rằng một người bình thường "chỉ phát triển 10% khả năng tinh thần tiềm ẩn của mình." Câu nói này, được bắt nguồn từ nhà tâm lý học William James, đề cập đến tiềm năng của một người để đạt được nhiều thứ hơn là số lượng chất xám mà họ đã sử dụng. Những người khác thậm chí còn nói rằng Einstein đã giải thích sự sáng chói của mình bằng cách sử dụng 10% huyền thoại, mặc dù những tuyên bố này vẫn vô căn cứ. Một nguồn khác có thể có của huyền thoại nằm trong các vùng não "im lặng" từ nghiên cứu khoa học thần kinh cũ. Ví dụ, vào những năm 1930, bác sĩ giải phẫu thần kinh Wilder Penfield đã nối các điện cực vào phần não tiếp xúc của bệnh nhân động kinh của mình trong khi phẫu thuật. Ông nhận thấy rằng những vùng não cụ thể kích hoạt trải nghiệm nhiều cảm giác khác nhau, nhưng những vùng khác dường như không gây ra phản ứng. Tuy nhiên, khi công nghệ phát triển, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những vùng não “im lặng” này, bao gồm cả thùy trước trán, có những chức năng chính. Resources and Further ReadingBeyerstein, B.L. “Whence Cometh the Myth That We Only Use 10% of Our Brains?” Mind Myths: Exploring Popular Assumptions about the Mind and Brain, edited by Sergio Della Sala, Wiley, 1999, pp. 3-24. Broadfoot, Marla Vacek. “How Do Brain Scans Work?” Raleigh News & Observer, 27 Jan. 2013. “Exploding the 10 Percent Myth.” Science & Consciousness Review. Higbee, Kenneth L., and Samuel L. Clay. “College Students' Beliefs in the Ten-Percent Myth.” The Journal of Psychology, vol. 132, no. 5, 1998, pp. 469-476. Jarrett, Christian. Great Myths of the Brain. Wiley Blackwell, 2014. McDougle, Sam. “You Already Use Way, Way More Than 10 Percent of Your Brain.” The Atlantic, 7 Aug. 2014. Mink, J. W., et al. “Ratio of Central Nervous System to Body Metabolism in Vertebrates: Its Constancy and Functional Basis.” American Journal of Physiology-Regulatory, Integrative and Comparative Physiology, vol. 241, no. 3, 1 Sept. 1981, pp. R203-R212. “New Survey Finds Americans Care about Brain Health, but Misperceptions Abound.” The Michael J. Fox Foundation for Parkinson's Research, 25 Sept. 2013. Tandon, Prakashnarain. “Not so ‘Silent’: The Human Prefrontal Cortex.” Neurology India, vol. 61, no. 6, 2013, pp. 578-580. Vreeman, Rachel C, and Aaron E Carroll. “Medical Myths.” BMJ, vol. 335, no. 7633, 20 Dec. 2007, pp. 1288-1289. Wanjek, Christopher. Bad Medicine: Misconceptions and Misuses Revealed, from Distance Healing to Vitamin O. Wiley, 2003.
|
|