|
Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 1:47:21 GMT 9
Những Nhân Tố Hình Thành Vãn Học Nhật Bản Dẫn Nhập và Tổng Luận
Nguyễn Nam Trân
Có nhiều lý do khiến xui ngýời viết ðặt bút soạn loạt bài Vãn Học Sử Nhật Bản nầy.
Trýớc hết là cái duyên may ðã ðýa ngýời viết cùng với tám ngýời bạn ðồng khóa ðặt chân lên ðất Nhật du học giữa tháng ba nãm 1965. Rồi từ ðó, với duyên nợ của nãm nãm ngồi trên ghế nhà trýờng Nhật Bản (1965-1970) và hai mýõi lãm nãm (1981 ðến nay, 2006) làm việc trong xí nghiệp và ðại học Nhật Bản, ngýời viết cảm thấy gần gũi với con ngýời và ðất nýớc ðã cýu mang mình trên nửa cuộc ðời ðể mong mỏi tìm hiểu về nó nhiều hõn. Tìm hiểu ðất nýớc và con ngýời một cách sâu lắng, có lẽ không gì hõn là nhìn qua lãng kính vãn hóa và nhất là cái kính vạn hoa của vãn học.
Lý do thứ hai là Nhật Bản ðã không ngớt làm ngạc nhiên thế giới vì sức sống mãnh liệt của dân tộc họ ðã ðýa họ từ thế ðứng của một quốc gia nghèo nàn và bế tỏa trở thành một cýờng quốc sau cuộc duy tân thời Minh Trị (Meiji). Sức sống của con phýợng hoàng tái sinh từ ðống tro tàn của trận thế chiến thứ hai ðem họ ðạt tới ngôi vị quốc gia phồn vinh thứ hai thế giới về mặt kinh tế ðã làm cho ta không khỏi tự ðặt câu hỏi xem ðâu là cội nguồn gốc của sức sống ấy và nó có thể hiện ðýợc qua vãn học của 13 thế kỷ hữu sử của hõn 127 triệu con ngýời Nhật Bản chãng? Nhý cha anh ta của phong trào Ðông Du và Duy Tân, ta ngẫm nghĩ có thể nào qua quan sát lịch sử vãn hóa nói chung và vãn học nói riêng, tìm ðýợc câu giải thích về phép lạ Nhật Bản.
Lý do thứ ba: vãn học Nhật Bản là tự thể ðã là một ðối týợng nghiên cứu khá lý thú vì tính cách ðặc thù và phong phú của nó. Vãn học Nhật vốn có những ðặc ðiểm làm ngýời ta phân bịệt ðýợc với những nền vãn học lớn trên thế giới nhý của Âu Mỹ, của Trung Quốc.Xin mýợn ý của Katô Shuuichi [1] ðẻ nói về 5 ðặc ðiểm của vãn học Nhật Bản:
1) Vãn học Nhật Bản chỉ là một phần không tách rời ðýợc của toàn bộ vãn hóa của nýớc họ. Vãn học Nhật Bản tóm gọn ðýợc trong ba chữ: cụ thể, phi hệ thống và tình cảm. Nhật Bản có nhiều ðiểm týõng ðồng với Trung Quốc nhýng không bắt buộc có tinh thần trọng hệ thống của Trung Quốcvốn ðýợc týợng trýng bằng triết học Tống Nho. Nó cũng khác Âu Châu vì ở Âu Châu, những yếu tố trừu týợng nhý tôn giáo, triết học, âm nhạc là nền tảng vãn hóa tinh thần của họ. Ngýợc lại, thõ, truyện kể, thủ công và nghệ thuật trình diễn (misemono) tức là những biểu hiện cụ thể có mặt trong ðời sống của ngýời bình thýờng mới là cốt lõi của vãn hóa Nhật Bản.
2) Mô hình phát triển ðặc biệt của vãn học trong lịch sử: Nhật Bản thâu nhận rất cả và không loại bỏ gì hết. Haiku [2] không hề xóa bỏ waka, kabuki không hề thay thế nô và kyôgen. Nói cách khác, ở Nhật, không có sự xung ðột một mất một còn giữa cái cũ và cái mới. Nếu kyôka (cuồng ca, một loại thõ ngắn hài hýớc và bình dân ) có mất ði cũng chỉ vì không hợp với thời ðại mới và bị ðào thải một cách tự nhiên thôi (nhýng ðây vẫn là ngoại lệ). Những khái niệm thẫm mỹ của ngýời Nhật thuở trýớc nhý aware thời Heian, yugen thời Kamakura, wabi và sabi thời Muromachi và iki thời Tokugawa ngày nay hãy còn ðó cả.Sau thời Meiji (1868-1912), ngýời viết waka vẫn ði tìm aware, kẻ ðóng tuồng Nô vẫn dựa vào yugen, trà ðạo hãy còn lấy wabi và sabi làm cãn bản và các nàng geisha vẫn nhắc ðến iki nhý ðỉnh cao của phẩm chất nghệ thuật của mình. Một ngýời Nhật, Miyamoto Tsua [3] , ðã viết những dòng sau ðây: "Ở Âu Châu, nãm 1649, cách mạng Thanh Giáo ðã lấy ðầu vua Charles I. Cách mạng Pháp cũng sử dụng máy chém với hoàng ðế Louis XVI. Trong hai thế kỷ 17 và 18, bao nhiêu vua chúa bị bêu ðầu. Nhật Bản thì không. Thái thýợng hoàng Go-Toba (sau khi ðảo chánh thất bại) chỉ bị ðày ra ðảo Oki, ở ðó 19 nãm rồi chết trong cô ðộc nãm 60 tuổi". Miyamoto không nói ðến thiên hoàng Shôwa, ðáng lẽ bị quân Ðồng Minh coi là chiến phạm số một, vẫn tiếp tục làm týợng trýng cho nýớc Nhật ðến lúc ông ta qua ðời nãm 1989 nghĩa là 44 nãm sau ngày Nhật bại trận.
3) Tính ðặc thù của ngôn ngữ và vãn tự Nhật Bản: Tiếng Nhật có thể viết bằng 4 thứ vãn tự khác nhau: Kanji (Hán tự), Hiragana (dấu hiệu ðọc theo âm ðể ghi những từ quốc âm), Katagana (dấu hiệu ðọc theo âm nay dùng ðể phiên âm tiếng ngoại quốc) và Roma-ji (ký hiệu chữ cái La Mã). Ðó là chýa kể chữ Kanji còn ðýợc ðọc theo âm miền Nam Trung Quốc (Ngô âm) của thế kỷ thứ 5, thứ 6 nhý trong Kojiki (Cổ Sự Ký )hay Man.yôshuu (Vạn Diệp Tập), hoặc ðọc theo âm miền bắc Trung Quốc (Ðýờng âm) của thế kỷ thứ 7 nhý một số chữ trong Nihon Shoki (Nhật Bản Thý Kỷ). Cái khó nắm của vãn tự nýớc họ làm cho một ngýời Nhật trung bình không thể ðọc trực tiếp tác phẩm cổ ðiển nếu không chuẩn bị trýớc. Genji Monogatari (Nguyên Thị vật ngữ) [4] chẳng hạn ðều ðýợc dịch ra kim vãn mới có thể ðến với ðộc giả.
Trong vãn học Nhật, có hai luồng rõ rệt ði song song suốt thời gian từ thế kỷ thứ 7 ðến thế kỷ 19. Thõ waka của họ làm theo quốc âm có từ thời xa xýa nhýng cho ðến gần ðây thõ chữ Hán vẫn ðýợc trọng vọng và ngýời ta không hiểu loại thõ nào mới phản ánh ðýợc cảm xúc của ngýời Nhật. Thời Muromachi chẳng hạn, bên cạnh thõ renga rất Nhật có thõ chữ Hán của các thiền tãng phái Gozan (Ngũ Sõn). Giữa hai tập thõ Tsukuba-shuu (Thố Cữu Ba Tập) và Kyôun-shuu (Cuồng Vân Tập) cũng nhý giữa hai tập truyện Konjaku Monogatari (Kim Tích Vật Ngữ) và Meigetsu-ki (Minh Nguyệt Ký), có một hố ngôn ngữ ngãn cách. Khi ở Âu Châu, vãn học chữ La Tinh ðã bị cuốn hút vào dòng vãn học các nýớc thời Phục Hýng (thế kỷ 14 ðến 17) thì vãn chýõng chữ Hán kanbun vẫn kéo ðến thời Meiji (cuối thế kỷ 19 ðầu 20). Ðó là chýa nói ðến việc ngýời Nhật ðã sử dụng tài tình Hán vãn ðể dịch những phạm trù tý týởng Tây Phýõng và cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp duy tân.
Câu vãn Nhật thýờng thýờng là những mẩu ngắn ðýợc ghép lại chứ không có một cấu trúc chung. Cũng vậy, thần thoại của họ chẳng có ðầu ðuôi và chỉ là những mẩu vụn ðýợc ráp lại.Truyện Utsuho hay ngay cả TruyệnGenji của thời Heian là tập hợp của nhiều truyện ngắn, bản thân mỗi truyện ðã có ý nghĩa cho dù ðứng riêng biệt. Ðem so sánh một truyện Nhật trong Nihon Ryôiki (Nhật Bản Linh Dị Ký) và truyện gốc của nó trong Pháp Uyển Châu Lâm của Trung Quốc thì bản tiếng Nhật chi tiết, cụ thể và linh ðộng hõn chứ không quan tâm cho lắm ðến cấu trúc hay sự gọn ghẽ của câu chuyện nhý trong sách gốc. Tản vãn Nhật không có tính qui củ của vãn chýõng Ðýờng, Tống , do ðó, lại càng không thể nào có cái trật tự, mạch lạc thấy trong cổ ðiển Pháp của thế kỷ 17 và 18. Ði xem tuồng kabuki, ta có thể coi liên tiếp nãm sáu vở ngắn khác nhau. Phim ảnh Nhật Bản thýờng ghép nhiều ðề tài làm một và giống phim truyền hình thuật sự theo lối chýõng hồi (episode) hõn là theo cấu trúc một cuốn phim màn ảnh lớn.
4) Bối cảnh xã hội của vãn học:Vãn học Nhật Bản có tính chất qui tụ về trung tâm (centripetal) nghĩa là hoạt ðộng vãn học thýờng tập trung ở ðô thị. Trong khi không phủ nhận sự có mặt của dân ca, dân thoại (truyện cổ dân gian), ngýời ta thấy những tác phẩm cổ ðều ðýợc biên soạn hoặc do mệnh lệnh của chính quyền trung ýõng hoặc do những thi nhân, học giả cung ðiønh. Các tác phẩm lịch sử, ðịa lý nhý Kojiki (Cổ Sự Ký) , Fudoki (Phong Thổ Ký), hay vãn học nhý 13 thi tập waka (Thập Tam Ðại Tập) ðýợc soạn ra theo yêu cầu của nhà nýớc (hình thức "sắc soạn", "quan soạn"). Không những thế, những truyện kể có tính rãn ðời (setsuwa = thuyết thoại) của các ðịa phýõng nhý Nihon Ryôi-ki (Nhật Bản Linh Dị Ký), Kokon Chômonjuu (Cổ Kim Trứ Vãn Tập) hay Shasekishuu (Sa Thạch Tập) cũng ðều ðýợc biên tập theo yêu cầu tôn giáo.
Ðề tài của các nhà soạn kịch và tiểu thuyết ðời sau cũng chỉ xoay quanh cuộc sống ở các thành phố lớn và phục vụ ngýời kẻ chợ (chônin).Ngày xýa, nếu vãn học Nhật Bản tập trung ở vùng ðô thị nhý Nara-Kyôto (vãn học Nara, Hei-an), nó ðã dời sang Kyôto-Ôsaka vào thế kỷ 17, tiếp ðến là Kyôto-Tôkyô (vãn học Edo) rồi cuối cùng vẫn tiếp tục ra hoa kết quả ở vùng ðô thị nhý Tôkyô (vãn học từ thời Duy Tân ðến hiện thời). Ðiều này khác hẳn với trýờng hợp Trung Quốc và Nhật Bản. Thi nhân Trung Quốc du lịch nhiều nõi ðể tìm nguồn cảm hứng chứ không thu mình ở Trýờng An trong khi phần lớn thi nhân Nhật Bản thời Heian viết về những ðịa phýõng mà họ chýa bao giờ ðặt chân ðến mà chỉ dựa vào khuôn sáo ðể diễn tả. Tính ly tâm (centrifugal) ðýợc thấy rõ rệt nõi các nhà vãn nhà thõ Âu Châu, có thể ngoại trừ trýờng hợp của Paris là nõi qui tụ nhiều trýờng phái nghệ thuật. Katô Shuuichi ðã nhận xét rằng từ Kakinomoto no Hitomaro (cuối thế kỷ thứ 7) cho ðến Saitô Mokichi (1882-1953), không thấy có nhà thõ lớn nào của Nhật Bản làm thõ với thổ ngữ ðịa phýõng.
Tính cách ðồng qui của vãn học Nhật Bản còn ðýợc thể hiện qua sự tập trung của các tác giả và ðộc giả thành từng nhóm. Nó làm cho vãn học Nhật Bản có tính cách khép kín. Chỉ có ngýời quí tộc mới cảm ðýợc tâm sự các nhân vật của Truyện Genji, thõ haiku mang tính cách thời tiết với chủ ðề xoay quanh bốn mùa xuân, hạ, thu, ðông, còn các nhà vãn hiện ðại tụ tập thành một nhóm với danh hiệu vãn ðàn (bundan) và không viết gì ngoài cái tôi và cuộc sống hàng ngày của họ nhý ðã thấy qua loại tý-tiểu thuyết (watakushi-shôsetsu) tức tiểu thuyết nói về tâm trạng cá nhân.
5) Nói chung, vãn học Nhật thể hiện quan ðiểm về cuộc và cái chết có tính chất tôn giáo và triết học ðặc biệt Nhật Bản. Cho dù Phật Giáo, Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo, chủ nghĩa Marx ðã ðýợc du nhập vào Nhật Bản và ðều ðóng những vài trò quan trọng trong việc xây dựng nền vãn học của họ, tý týởng nòng cốt của vũ trụ quan Nhật Bản ðã hình thành từ thế kỷ thứ 4 và thứ 5 với một cấu trúc ða thần (polytheistic) phức tạp mà ngày nay, sau khi chịu ảnh hýởng Phật và Khổng Giáo ðã trở thành Thần Ðạo (Shintô). Nó là tổng hợp của phong tục thờ cúng tổ tiên, tôn giáo nguyên thủy dựa trên thần chú , ðồng cốt (shamanism) và quan ðiểm vạn vật hữu linh (animism) nghĩa là xem thần thánh có mặt khắp nõi trong từng mỗi sự vật.
Do ðó, ở Nhật, ta thấy vũ trụ quan trong vãn học ða tạp và thể hiện dýới 3 hình thức: trýớc hết là hệ thống tý týởng ngoại lai, thứ hai là tý týởng bản ðịa và thứ ba hệ tý týởng chiết trung khi mà tý týởng ngoại lai ðã ðýợc uốn nắn theo mô hình Nhật Bản.Ví dụ vào thời Minh Trị, có Uchimura Kanzô là ngýời hoàn toàn theo mới, Masamune Hakuchô ði ngýợc lại trong khi Mori Ôgai và Natsume Sôseki ðứng giữa ngã ba ðýờng. Sau 1945, nếu Miyamoto Yuriko (cấp tiến) và Kawabata Yasunari (bảo thủ) týợng trýng cho hai khuynh hýớng ðối nghịch thì những Kobayashi Hideo và Ishikawa Jun có quan ðiểm ôn hòa hõn.
Một nền vãn học ðặc biệt nhý vậy cho ðến gần ðây vẫn không ðýợc thế giới quan tâm nếu không có vai trò trọng yếu của quốc gia Nhật Bản trong ðời sống kinh tế và chính trị thế giới từ hõn một thế kỹ nay. Ngýời Tây Phýõng biết ðến vãn học Nhật Bản từ bao giờ? Hẳn phải là sau khi A. Pfizmaier dịch một bài viết của Ruutei Tanehiko (Liễu Ðiønh, Chủng Ngạn, 1783-1842) ra tiếng Ðức ở Wien nãm 1847, hay ngýời Pháp L. de Rosny cho ra ðời tập thi tuyển cổ kim Nhật Bản nãm 1871 trong ðó có Hyakunin Isshu [5]tức "trãm nhà thõ trãm bài thõ", ngýời Anh W.G. Aston [6] dịch quyển vãn học sử Nhật Bản ðầu tiên nãm 1899 và Fenollosa [7] dịch tuồng Nô trýớc Thế Chiến Thứ Nhất. Trong những nãm 1920, tuy ðã có bản dịch Truyện Genji với phong cách tài hoa của Arthur Waley [8] nhýng phải ðợi ðến những nhà dịch thuật và khảo cứu Anh-Mỹ nhý Donald Keene, Ivan Morris, Edward Seidensticker, Pháp nhý René Sieffert, Edwige de Chavanes, Bernard Frank hay Nhật nhý Mori Arimasa, Kojima Takashi, Fujimori Bunkichi...ngýời ngoại quốc mới tìm ðọc vãn học Nhật. Chúng ta cũng không quên những ðóng góp của các nhà truyền giáo, ngoại giao và học giả Nhật Bản Học ðã không ngừng phát hành những tác phẩm dịch thuật và nghiên cứu về vãn học Nhật Bản từ nhiều nãm.
Vãn học Nhật Bản rất phong phú và không ðáng bị xếp bên cạnh những nền vãn học của một ngôn ngữ thứ yếu ví dụ tiếng Bantu (bộ lạc Nam Phi Châu) nhý cách ngýời ta xếp loại nó trong một viện nghiên cứu Ðông Phýõng ở Anh vào những nãm 1920 (theo lời R.P. Dore nãm 1979 trong lời tựa cho quyển sách của Katô Shuuichi). Giáo sý René Sieffert [9] của Viện Sinh Ngữ Và Vãn Minh Ðông Phýõng (Inalco) ở Paris ðã nhắc ðến con số hõn 10.000 tác phẩm của giai ðoạn lịch sử từ thýợng cổ ðến 1868 ðýợc ghi lại trong thý chí Nhật Bản. Một nhà xuất bản ở Tokyo ðã ấn hành một tuyển tập liên quan ðến các tác phẩm kể từ nãm 1868 ðánh dấu cuộc Minh Trị Duy Tân ðến 1973 tức lúc quyển La Littérature Japonaise (Lịch Sử Vãn Học Nhật Bản) của Sieffert ra ðời. Tuyển tập ấy gồm 99 bộ, mỗi bộ 5 quyển khổ thông thýờng chýa kể 35 bộ tuyển thêm in sau ðó liên quan ðến khoảng thời gian từ 1945 về sau. Không thể nào nói là không tìm ra ðýợc một tác phẩm có tầm cở từ một khối lýợng ðồ sộ nhý thế. Cái khó ở ðây là cần có một ðội ngũ dịch thuật già tay ðể làm cái công việc chuyển ngữ vốn chẳng dễ dàng nầy.
Ở Việt Nam chúng ta, trýớc ðây ðã có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu và dịch thuật về vãn học Nhật ðýợc dịch ra Việt Ngữ gián tiếp từ một ngôn ngữ khác (Anh, Pháp, Ðức, Nga) hay trực tiếp từ Nhật ngữ gần ðây nhất là từ sau ngày Nhật Việt nối lại bang giao. Một số ngýời dịch trẻ có du học Nhật Bản ðang bắt ðầu công việc chuyển ngữ, tuy chýa qui mô nhýng ðã chứng tỏ có tài nãng và ðầy nhiệt tình. Âu cũng là ðiều ðáng mừng cho vãn hóa nýớc nhà và tình hữu nghị Việt Nhật.
Do ðó, qua loạt bài nầy mà tý liệu tham khảo chính, Shin Nihon Bungakushi (Tân Nhật Bản Vãn Học Sử), Bun-eidô phát hành, ấn bản nãm 2000) do hai giáo sý danh dự Ðại Học Tôkyô Akiyama Ken và Mikoshi Yukio chủ biên, là một tập sách giáo khoa viết cho học trò trung học ở Nhật, ngýời muốn giúp ðở những ai tò mò muốn biết về vãn học Nhật Bản một chút kiến thức cõ sở ðể có thể ði xa hõn.
Ðến ðây, chúng ta hãy thử bắt ðầu tìm hiểu những nhân tố nào ðã hình thành vãn học Nhật Bản.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 1:48:19 GMT 9
TIẾT I : ÐẤT NÝỚC, CON NGÝỜI
A) Ðất Nýớc
Nhật Bản là một ðảo quốc gồm 4 hòn ðảo chính, ở vùng Ðông Bắc Á,
trải dài theo hình cánh cung. Do ðiều kiện ðặc biệt của ðịa chất vùng này, Nhật Bản có hình thù một cái bao lõn nhìn ra vùng Bắc Thái Bình Dýõng với một giải ðất hẹp, nhiều núi non xen kẻ một ít ðồng bằng và thung lũng (16 % diện tích).Nhật Bản chỉ có ðộ 378.000 cây số vuông nghĩa là bằng nýớc Áo ở Âu Châu hay tiểu bang Montana của Hoa Kỳ và lớn hõn Việt Nam một tí.
Nhật Bản nằm ở vĩ ðộ 38 ðến 45 của Bắc Bán Cầu, khí hậu ôn ðới với bốn mùa rõ rệt. Vì nằm giữa hai ðýờng nứt của vỏ ðịa cầu nên có nhiều núi lửa, suối nýớc nóng và chịu nhiều trận ðộng ðất. Vũ lýợng týõng ðối cao: 1.800mm một nãm, có ảnh hýởng của gió mùa và là nõi gặp gở của những luồng nýớc ấm và nýớc lạnh.
B) Con Ngýời
Dân Nhật là một dân tộc hải dýõng, ðời sống gắn liền với biển, nguồn lýõng thực của họ. Về mặt nhân chủng, ngýời Nhật có thể chất của sắc dân châu Á (da vàng, tóc ðen và cứng, mắt một mí, gò má cao, mũi thấp) nhýng mỗi ðịa phýõng lại có nét ðặc biệt, ví dụ phụ nữ Kagoshima (miền nam) da ngãm ngãm, phụ nữ Hokuriku (miền Bắc) trắng trứng gà bóc, ðàn ông Kyuushuu (miền Nam) nét mềm mại, lông thýa, ðàn ông miền Tôhoku (Bắc) nét sâu, râu rậm. Trýớc kia họ bị coi là thấp (trung bình ðàn ông cao 162 cm, ðàn bà 149,9cm) nhýng từ sau thời chiến, cứ mỗi 10 nãm, họ ðã cao thêm 1cm.
Quốc dân tính Nhật Bản ðã ðýợc nhà dân tộc học Mỹ, Ruth Benedict miêu tả nhý sau trong tác phẩm The Chrysanthemum and the Sword (Hoa Cúc Và Lýỡi Kiếm): "Thích cải cọ nhýng ôn tồn, háo chiến nhýng lại chuộng mỹ thuật, ngạo mạn nhýng lễ ðộ, ngoan cố nhýng biết nghe lời, trung thành và cũng bất trung, dũng cảm ðồng thời hèn nhát, bảo thủ mà lại chuộng ðiều mới mẻ trong cuộc sống. Những mâu thuẩn ðó là ðặc tính của dân tộc Nhật." Họ có cái thú phong lýu biết thýởng thức vẽ ðẹp tao nhã của nhánh cúc nhýng kè kè suốt ðời bên mình vũ khí là thanh kiếm.
Họ từ ðâu ðến? Thuyết "tiên trú " (senjuu) bảo rằng họ ðã có mặt sẳn trên quần ðảo từ thời xa xýa, thuyết "ðộ lai " (torai) cho là họ ðến từ một nõi nào ðó ngoài biển. Ngày nay, phần lớn các nhà nghiên cứu ðều ðồng ý là ngýời Nhật ðã ðến quần ðảo nầy bằng nhiều ðợt và nhiều ðýờng khác nhau. Tổ tiên ngýời Nhật Bản có lẽ ðã từ ðại lục qua bằng ðýờng Ðông Bắc Á (Tây Bá Lợi Á , Triều Tiên, Mãn Châu) nhýng cũng theo dòng nýớc ấm Kuroshio (Hắc Triều) ðể ði từ miền Nam (Ðài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, In-ðô-nê-xia, bán ðảo Ðông Dýõng và nam Trung Quốc). Sau ðó, một số ngýời thuộc 17 huyện nhà Hán, dân chúng các nýớc nhỏ thuộc Triều Tiên bây giờ nhý Cao Cú Lệ, Bách Tề, Tân La, Nhiệm Na ðã ðến và xin thần phục, ðem sự hiểu biết cùng tài nãng của họ cống hiến cho xã hội Nhật Bản cổ ðại.
TIẾT II : NGÔN NGỮ, CHỮ VIẾT
A) Ngôn Ngữ
Tiếng Nhật [10] ðýợc nhiều ngýời xếp vào ngữ hệ phýõng bắc tức ngữ hệ Oural Altai (gần gũi với tiếng Triều Tiên, Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ), nhýng nhất là tiếng Triều Tiên. Ðó là "thuyết phýõng bắc ". Ngôn ngữ Altai không có phạm trù về giống và số, không có quán từ, ngoài ra túc từ (bổ ngữ) lại ðặt trýớc ðộng từ vv...Tiếng Nhật có thể ðã tách ra từ tiếng Triều Tiên từ 7000 nãm trýớc hay chỉ có cùng một tiếng tổ với tiếng ấy. Lại có thuyết gọ là "thuyết phýõng nam " xem Nhật ngữ có nguồn gốc phýõng Nam qua những ðiểm týõng ðồng của nó với ngôn ngữ quần ðảo Lýu Cầu. Ngýời ta còn tìm thấy nõi nó dấu vết của ngôn ngữ các vùng ðảo Mã Lai Pô-ly-nê-di vì những âm mở (a, i, u, e, o và không khép bằng phụ âm trừ n) hay sự không phân biệt âm r và l của nó.Có học giả nhý Ôno Susumu lại tìm thấy týõng quan của Nhật Ngữ với tiếng Tamil miền Nam Ấn Ðộ. Ngày nay, thuyết xem Nhật ngữ là một tiếng nói lai giống (hybrid) xem ra có tính thuyết phục hõn cả.Tuy nhiên, dù là thuộc ngữ tộc hay ngữ hệ nào, ban ðầu Nhật ngữ rất ðõn sõ, nghèo nàn về cả âm lẫn ý và chỉ ðýợc hoàn chỉnh và phong phú ra với sự trợ giúp của Hán ngữ.
B) Chữ Viết
Việc nghiên cứu ngôn ngữ Nhật Bản gặp nhiều khó khãn viø nó ðýợc ghi chép bằng vãn tự rất trễ. Những vãn bản ðầu tiên chỉ có từ thế kỷ thứ 8 cho ta thấy nó dýới một dạng ðã khá hoàn chỉnh hầu nhý ngôn ngữ hiện ðại.
Sao chép ký hiệu Nhật ngữ bằng tiếng La Tinh không có gì khó khãn ðặc biệt (nhý học giả Mỹ Hepburn ðã làm).Tiếng Nhật là một tiếng ða âm, những tính từ và ðộng từ ðýợc chuyển hóa bằng ngữvĩ, không phải ðể phân biệt giống và số, ngôi thứ của ðại danh từ nhýng ðể biểu hiện thể khẳng ðịnh hay phủ ðịnh, khả nãng, tiềm nãng, ðộ dài của thời gian...Trong tiếng Nhật có tiếng tôn xýng, tiếng khiêm tốn, ngôn ngữ của ðàn ông, ðàn bà chứng tỏ xã hội Nhật tổ chức chặt chẽ theo thứ bậc.
Tuy nhiên, ngôn ngữ ða âm Nhật Bản khi phải ghi lại bằng vãn tự Trung Hoa vốn xuất phát từ ngôn ngữ ðõn âm, là cả một vấn ðề. Ngýời Nhật ðã có nhiều cố gắng ðể khắc phục nó ðể có ðýợc một hệ thống chữ viết với 50 âm tố tuy chýa hoàn chỉnh nhýng tạm ðủ dùng nhý bây giờ. Số chữ Hán hiện nay ðýợc dùng và Bộ Giáo Dục chấp nhận lên ðến 2235 [11] chữ (ðã tãng gia khoảng 400 chữ trong vòng 30 nãm nay) không kể một số quốc tự, tức là chữ Hán do ngýời Nhật ðặt ra. Trong khi sử dụng Hán tự, họ vấp phải vấn ðề ðồng âm dị nghĩa và phải dựa vào vãn mạch ðể biện biệt.
Cho ðến nãm 1868, tiếng Nhật mà các nhà vãn dùng vẫn là bungo (vãn ngữ). Dýới thời Duy Tân, khi vãn học nhắm mục ðích giáo dục quần chúng những cái hay, cái mới thì bungo lại không ðóng ðýợc vai trò ấy. Vãn nói (kôgo = khẩu ngữ) , thoáng hiện trong các tiểu thuyết và bản tuồng sân khấu từ thế kỷ 16 (vãn nói vùng Kyôto- Ôsaka) xem ra thích hợp hõn. Thế nhýng, thổ ngữ miền Ðông của vùng Tôkyô ðýợc ðánh giá là tân tiến ðã dần dần thay thế vãn nói của vùng cố ðô.
Nói ðến hiện ðại hóa, ta không thể nào quên vai trò của gairaigo (ngoại lai ngữ = tiếng có gốc nýớc ngoài nhýng không phải chữ Hán) trong lối diễn tả của ngýời Nhật. Ðó là những chữ dùng mà họ ðã du nhập từ tiếng Bồ, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ðức [12] ngày trýớc và tiếng Mỹ bây giờ. Sự du nhập ấy nhiều khi rất táo bạo và sống sýợng nhýng ðã ðýợc thực hiện trong một tinh thần duy thực lợi và không mặc cảm. Các ca từ của nhạc trẻ ngày nay ðầy tiếng Anh và những chữ ðó ðýợc dùng chỉ ðể tạo không khí (ambiance), giống nhý chữ Hán dùng nhý mặt nạ [13] trong tiếng Nhật thuở xýa. Một nhà vãn hiện ðại Nhật, Murakami Haruki, ðã dịch tựa cuốn truyện Catcher in the Rye của Jerome David Sallinger (1919- ) ra tiếng Nhật với tựa ðề là Kaccha in za rai! nghĩa là hầu nhý giữ nguyên không dịch. Tuy nhiên, sự cắt rời khỏi ngôn ngữ và vãn tự cổ truyền có nguy hiểm là sẽ ðýa tới sự ðoạn tuyệt với di sản vãn học cổ ðiển. Ngày nay, tác phẩm cổ ðiển nhý Truyện Genji hay Truyện Heike ðều phải ðýợc dịch ra ngôn ngữ hiện ðại ðể ðến với ngýời ðọc.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 1:49:03 GMT 9
TIẾT III: TÊN NGÝỜI, TÊN ÐẤT
Tên ngýời và tên ðất không phải những nhân tố hình thành vãn học Nhật Bản. Nhắc ðến nó ở ðây, ngýời viết chỉ muốn ðýa ra một vài nguyên tắc cõ sở ðể ðộc giả ðở phải ngýợng ngùng với những tên ngýời, tên ðất vốn ðầy dẫy trong những trang sắp tới.
A) Tên Ngýời
Theo nhà nghiên cứu Toyoda Takeshi [14] trýớc ðây chỉ có tầng lớp cai trị mới có tên và ngýời bình dân Nhật Bản phải gọi theo tên chủ nhân của họ. Tên họ các hào tộc nhý Fujiwara, Soga, Ôtomo, Kume, Saeki ...ðã ðýợc nhắc ðến rất sớm từ thế kỷ thứ 5, thứ 6.
Tên tuổi ðýợc thành lập theo một số qui tắc nhý tên quan chức, ðịa danh nõi cý trú, theo thiên vãn, ðịa hình, phýõng hýớng, tên ðộngthực vật chẳng hạn. Các nhà công khanh hay vũ sĩ thýờng lấy tên theo ðất thế tập hay nõi sinh sống. Họ Sanjô, Kujô lấy tên theo hai khu vực trong thành phố Kyoto, còn Yamashina, Daigo lấy tên theo hai vùng ngoại thành. Việc ðặt họ theo quan chức có từ lúc chế ðộ luật lệnh tổ chức hệ thống hành chánh ðýợc lập ra. Họ Kokubu xuất thân hành chánh ðịa phýõng, Kokuga vốn làm quan thu thuế, họ Ôkura và Miyake có liên quan ðến việc trông coi kho lẫm. Tên họ có liên quan ðến thiên vãn ðến từ tập tục và tín ngýỡng thời cổ nhý ðặt họ theo mặt trời thì có Hidaka, theo sao thì có Hoshino, theo trãng thiø có Mochizuki. Các loại ðịa hình ruộng (nhý Tanaka), výờn týợc (nhý Sonoda), nýớc (nhý Mizuno), sông (nhý Ogawa) núi (nhý Yamanaka) , gò (nhý Nagaoka), ao chuôm (nhý Numata), rừng (nhý Hayashi, Mori), biển (nhý Miura), bến (nhý Hama), ghềnh (nhý Kishi), mũi ðất (nhý Ozaki), cửa sông (nhý Irie) ðều có thể dùng ðể ðặt tên họ, nhất là ruộng (ta) vì xã hội Nhật Bản xýa vốn theo nông nghiệp. Những ðịa ðiểm hoặc loài vật liên quan ðến sinh hoạt ðã ði vào tên họ có giếng (nhý Inoue, Imai), ao ( nhý Ikeda), nguồn nýớc (nhý Izumi). Liên quan ðến cây cỏ chim muông có anh ðào (nhý Sakurai), tùng (nhý Komatsu) , trúc (nhý Takeyama), mõ (nhý Umeda), tử ðằng (nhý Fujino). Phýõng hýớng ðông (nhý Azuma), tây (Nishida), nam (nhý Minamida), bắc (nhý Kitano) cũng là cõ sở ðặt tên của họ. Nghề nghiệp cũng vậy: dân gốc chài lýới có họ Kaifu, cúng tế có Takahashi, may cắt có Hattori, ðýa thuyền ðò có Watanabe, chế tên có Yabe, nuôi chó có Inukai.
Họ (uji) hay ðoàn thể có liên hệ huyết thống cần phân biệt với tên cá nhân (na). Tên cá nhân ðàn bà thýờng có chữ o ðằng trýớc hay chữ ko (tử = con) ở cuối cùng (tuy khuynh hýớng này ðã giảm ði gần ðây). Tên ðàn ông thýờng ðặt theo thứ bực anh cả, anh hai, ba, bốn, nãm, sáu... (ta, ji, sabu hay zô, shi, go, roku, shichi, hachi vv ðể ai chỉ sinh trýớc sinh sau) hay thêm các ngữ vĩ rô , o, suke, hei, go, hiko, ta, ya... gắn sau một tính từ chỉ một ðức tính của con mà cha mẹ mong mõi. Cần nhắc lại vì số âm giới hạn nên tên ngýời Nhật thýờng viết bằng nhiều chữ Hán khác nhau.
B) Tên ðất
Tác giả Kagami Kanji [15] chia cách ðặt tên ðất của ngýời Nhật ra làm ba loại: ðặt theo ngữ nguyên ðịa phýõng, theo dân tộc và theo thời ðại. Loại ðầu tiên thýờng ðýợc cấu tạo bằng cách gọi của ngýời dịa phýõng vè hình thế của vùng ðó, ðôi lúc kèm thêm tên tuổi nhân vật hoặc sự kiện ðặc thù nào liên quan ðến ðịa danh ðó. Trýớc hết phải thu thập các phát âm tên những vùng ðất của ðịa phýõng ðó vốn có một hình thế giống nhau ðể suy diễn ra ngữ nguyên của tên với sự trợ giúp của các từ ðiển cổ ngữ và tài kiệu dân tộc học. Trong trýờng hợp Nhật Bản thì có nhiều sác xuất tên ðất ðýợc ðặt theo tiếng Ainu nên việc sử dụng kiến thức về ngôn ngữ Ainu ðể tìm hiểu rất cần thiết. Những vùng có tên là Tarô viết âm Hán là Thái Lang hay Ðiền Lão, suy ra không có liên quan gì ðến ngýời già ngýời trẻ (Lang hay Lão) gì cả nhýng có thể có nghĩa là ðất bằng (taira) do biến thể của từ tairo thấy trong ngôn ngữ ðịa phýõng vùng ðảo Hachijojima. Cũng vậy, bộ phận ya (cốc = hang) trong Yachi, Yatsu, Yato lại ðýợc dùng ðể chỉ một vùng ðất trủng (thung lũng) ẩm ýớt.
Trên ðất Nhật có nhiều giống ngýời lần lýợt ðến cý ngụ tên ðịa danh còn có màu sắc chủng tộc. Dĩ nhiên ngôn ngữ Ainu chiếm ða số nhýng tiếng Triều Tiên và các ðảo phía Nam cũng có ảnh hýởng không nhỏ. Những tên ðất có một bộ phận là nai (nhý Wakanai) có nghĩa là sông có bộ phận là horo (nhý Sapporo) lại có nghĩa là lớn (cả hai trýờng hợp ðều theo tiếng Ainu) dù viết bằng chữ Hán nào. Những thành phố tên là Kure có lẽ ðến từ chữ Kuri (Cao Ly) ðýợc ðọc trại ra. Chữ tsuru trong tiếng Ainu có nghĩa là ðục và bẩn, viết ra Hán vãn lại dùng chữ Hạc nhý tên loại chim nýớc sống ở Triều Tiên, Mãn Châu. Trong tiếng Triều Tiên, tsuru còn có nghĩa là ðồng bằng và ngýời ta thấy ðịa danh vùng Kyuushu hay có chữ tsuru nầy. Các thôn làng, ðảo, cồn trên sông Nhật Bản ðọc là Tara cũng có thể cùng một gốc gác với các ðịa danh cùng một ðịa hình thấy ở vùng Borneo, Taiwan hay New Zealand.
Cách ðặt tên ðất theo thời ðại hay nhân danh cũng là một hiện týợng phổ thông. Ví dụ ngýời ta phân biệt Tashiro và Shinden, ruộng ðã khai khẩn từ xýa và ruộng mới vỡ gần ðây. Shôwa Shinzan (Chiêu Hòa Tân Sõn) chẳng hạn là một hòn núi nhỏ cao 402m mới có từ sau biến ðộng ðịa chất ở Hokkaido (trong khoảng từ 12/1943 ðến 9/1945) ðặt theo tên thiên hoàng Shôwa.
TIẾT IV: KHU PHÂN THỜI ÐẠI VÃN HỌC
A) Phân chia theo triều ðại
Việc phân chia thời ðại vãn học là một vấn ðề. Cho ðến nay ngýời ta thýờng phân chia thời ðại vãn học theo thời kỳ lịch sử nhý gọi vãn học triều Yamato, vãn học triều Nara, vãn học triều Heian...Lại có cách phân chia theo thýợng cổ, trung cổ, cận ðại, hiện ðại. Tuy vãn học tuy có chịu ảnh hýởng của những sự kiện lịch sử thực ðấy nhýng nó là một dòng chảy liên tục, không thể hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay ðổi výõng triều hay chính quyền mà còn tùy thuộc vô số ảnh hýởng khác. Ngoài ra, khi gọi là vãn học thýợng cổ hay trung cổ thì bắt buộc phải ðịnh nghĩa thế nào là thýợng cổ và trung cổ vv..., các thời ðại ấy bắt ðầu khi nào và chấm dứt vào bao giờ và trả lời câu hỏi xem danh từ thýợng cổ và trung cổ có phổ quát và thống nhất cho mọi quốc gia trên thế giới không?
B) Phân chia theo vãn thể
Saigô Nobutsuna (Tây Hýõng, Tín Cýõng) trong Nhật Bản Cổ Ðại Vãn Học Sử (1963) ðề nghị một lối phân chia khác. Ông chia theo thể tài vãn học: thời ðại thần thoại và thi ca thuật sự, thời ðại thõ trữ tình, thời ðại truyện kể... Ðó cũng là lối tiếp cận của Hayashi Tatsuya (Lâm, Ðạt Dã) và Noyama Kashô (Dã Sõn, Hạ Chính) trong Quốc vãn học nhập môn (2004) khi hai ông phân chia theo hình thái vãn học: kayô (ca dao cổ ðại), các loại thõ nhý waka, renga và haikai, vãn học Hán vãn výõng triều, vãn học cửa thiền, vãn học Nho gia, vãn học truyện kể, nhật ký và tùy bút, vãn học truyện rãn ðời (setsuwa), truyện giải trí (zôshi), vãn chýõng du hành (kikô bungaku) và tiểu thuyết vv...Hai tác giả nầy dù sao cũng nhìn nhận một thời ðại có thể có một màu sắc, ðặc tính chung có thể tìm thấy bàng bạc trong bất luận hình thức vãn học nào.
C) Phân chia theo tiêu chuẩn tổng hợp
René Sieffert trong La Littérature Japonaise bắt ðầu bằng phân biệt theo nét ðặc trýng của thời ðại: thời ðại sýu tập thi ca (thế kỷ thứ 8), thời ðại ða dạng hóa vãn thể (thế kỷ thứ 9 và 10), thời ðại vãn học có tính lịch sử (thế kỷ 11 ðến 14), thời kỳ sân khấu cổ ðiển Nô (thế kỷ 15), thời kỳ vãn chýõng bình dân (thế kỷ 16 và 17), thế kỷ vãn học Osaka (1650-1750), thế kỷ vãn học Edo (1750-1850), thời kỳ vãn học chịu ảnh hýởng phýõng Tây (từ 1868 ðến nay). Tuy nhiên, ông lại phân chia giai ðoạn cuối thành thành 3 thời kỳ theo thời trị vì của ba vị thiên hoàng nhýng cho rằng không làm cách nào khác hõn vì trong giai ðoạn nầy, ảnh hýởng của chính trị lên trên vãn học rất rõ nét. Trong cùng một thời ðại, dĩ nhiên có một thể tài hay một khuynh hýớng ðóng vài trò then chốt nhýng những thể tài hay khuynh hýớng khác cũng phát triển song song tuy có yếu thế hõn. Ví dụ suốt mấy trãm nãm sinh hoạt vãn hoá thời Heian, tuy thể loại truyện kể (monogatari) ðýợc phát triển mạnh mẽ nhýng thi ca nhý tanka cũng phong phú dồi dào và ðôi khi trà trộn vào ðó và ðóng một vai trò không nhỏ trong nội dung của truyện kể.
Lối tiếp cận của Hisamatsu Sei-ichi (Cữu Tùng, Tiềm Nhất) trong Nihon Bungakushi Tsuusetsu [16 ] lại dựa vào cả hai quan ðiểm ðịa lý và lịch sử ðể phân ðịnh thời kỳ khi ông lần lýợt sắp xếp theo thứ tự vãn học thýợng cổ (vùng Yamato), vãn học trung cổ (vùng Kyôto), vãn học trung cận ðại (các vùng Kamakura, Yoshino, Muromachi), vãn học cận ðại (các vùng Azuchi & Momoyama, Kamigata tức khu vực Kyôto & Ôsaka), giai ðoạn chuyển tiếp từ miền Tây sang Edo thuộc miền Ðông, vãn học cận kim ( thời Meiji, thời Taishô...). Ðó cũng là lối tiếp cận thýờng thấy trong các sách vãn học sử Nhật Bản có tính cách giáo khoa.
D) Cách phân chia ðýợc áp dụng ở ðây
Loạt bài này, vì sự tiện lợi cần có của một tý liệu nhập môn, lý ra phải dựa trên lối phân chia theo thời ðại cũng có tính cách tổng hợp của hai tác giả và cũng là hai nhà sý phạm Akiyama và Mikoshi trong Shin Nihon Bungakushi (Tân Nhật Bản Vãn Học Sử, 2000) nhý sau ðây:
-Thýợng cổ (thời Yamato-Fujiwara (350-710) và Nara (710-794)) tuy vãn học Nhật Bản chỉ hiện rõ nét từ thế kỷ thứ 7. -Trung cổ (thời Heian (794-1185)) -Trung cận ðại (thời Kamakura (1185-1333), Muromachi (1333-1568) và Azuchi-Momoyama (1568-1600)) -Cận ðại (thời Edo (1600-1868) chia ra làm cận ðại và cận kim -Hiện ðại (từ Duy Tân ðến Shôwa (1868-1989)) chia ra làm hiện ðại và hiện kim. Dĩ nhiên từ hiện ðại bao gồm cả hiện kim nhýng chữ kim dùng ở ðây chỉ ðể nói lên phần mới nhất của hiện ðại. Giai ðoạn Heisei (1989 ðến nay) hãy còn quá mới ðể có thể ðýa vào vãn học sử nên chỉ xin bỏ ngõ trong lời kết từ với vài ba yếu tố có tính chất thông tin sẽ cập nhật lần hồi nếu có dịp.
Tuy nhiên, ðể bớt tính chất giáo khoa thý và ðể khỏi nhảy từ chuyện nó sang chuyện kia rồi trở lại sau ðó, chúng tôi ðã phối hợp lối trình bày theo thời ðại của hai ông với lối trình bày theo hình thái vãn học (truyện kể, thõ chữ Hán, tiểu thuyết, sân khấu tuồng, vãn dịch vv...và nhý thế, có tính cách xuyên lịch sử) của hai giáo sý Hayashi và Noyama trong Quốc vãn học nhập môn (2004) ðã nhắc tới ở trên. Cùng lúc sẽ có những bài mang tính chất luận ðề nhý khi bàn về ảnh hýởng của Trung Quốc, của Phật Giáo, của Tây Phýõng trên vãn học Nhật.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 1:50:22 GMT 9
Loạt bài này gồm 32 kỳ dự tính ðýợc sắp xếp theo thứ tự nhý sau:
1 - Những nhân tố hình thành vãn học Nhật Bản 2 - Thần Thọai và Cổ Tích 3 - Manyôshu (Vạn Diệp Tập), tuyển tập thõ tối cổ của ngýời Nhật 4 - Taketori, thủy tổ của tiểu thuyết Nhật Bản 5 - Truyện Genji (Genji Monogatari) 6 - Truyện Heike, Taiheiki và dòng vãn học chiến ký 7 - Dòng vãn học nhật ký và tùy bút 8 - Cổ Kim Hòa Ca Tập 9 - Tân Cổ Kim Hòa Ca 10 - Truyện Konjaku và vãn học truyện rãn ðời 11 - Nô và Kyôgen. Vai trò của cha con Kan-ami và Zeami 12 - Sân khấu Jôruri và Kabuki. Chikamatsu Monzaemon, Shakespeare Nhật Bản 13 - Lịch sử thõ haiku: Từ haiku tên bắn tới haiku tiền vệ 14 - Ba trãm nãm tiểu thuyết Edo 15 - Ảnh hýởng Trung Quốc: Hán Thi và ngýời Nhật 16 - Ảnh hýởng Phật Giáo ðối với vãn học Nhật Bản 17 - Ngã rẽ giữa tý týởng Hán Học và Quốc Học 18 - Shôyô, Shimei và vãn học thời Duy Tân 19 - Ảnh hýởng Tây Phýõng: Phiên Dịch và Khai Sáng 20 - Ôgai và Sôseki 21 - Nhóm Shirakaba và Vãn học thời Taishô 22 - Akutagawa và Shiga Naoya 23 - Tanizaki và Kawabata 24 - Vãn Học Shôwa thời lâm chiến 25 - Thõ Mới Nhật Bản 26 - Tanka và hiện ðại 27 - Kịch Hiện Ðại và Vãn Học 28 - Výợt QuaThời Hậu Chiến 29 - Mishima và Ôe 30 - Vãn Học Ðại Chúng (1): Kiếm Hiệp &Tình Cảm 31 - Vãn Học Ðại Chúng (2): Trinh Thám và Khoa Học Giả Týởng 32 - Vãn Học Nhật Bản Nhìn Ra Thế Giới Tuy không phải là ngýời chuyên môn về vãn học Nhật Bản và khả nãng Nhật Ngữ rất giới hạn, ngýời viết cũng xin hết sức cố gắng ðể trình bày vấn ðề một cách suông sẻ. Cõi học nghìn trùng, nhý thiền gia nói "Sau núi còn có núi", nay bản thân lực bất tòng tâm, sõ hở khiếm khuyết ðầy dẫy, mong các vị cao mình vui lòng chỉ bảo. Ngýời viết hết sức biết õn. Trong thời gian cặm cụi làm việc, ngýời viết ðã nhận ðýợc nhiều khích lệ từ thân hữu và gia ðình. Xin chân thành cảm õn tất cả nhất là các vị chủ trýõng các mạng ðã cho phép tải loạt bài này lên, những dịch giả ðã cho trích ðãng dịch phẩm của họ, và nhiều thân hữu và ðộc giả ðã góp ý kiến trong tinh thần xây dựng. Ngýời viết cũng xin tỏ lòng tri ân ðến các thầy cô ðã dìu dắt trong lãnh vực ngữ vãn, ðặc biệt Giáo sý Ðỗ Khánh Hoan, nguyên Giáo sý Anh vãn Trung học Chu Vãn An và Trýởng ban Khoa Anh-Mỹ Ðại học Vãn khoa Sài Gòn và là một ngýời có công lớn trong việc phiên dịch vãn học Nhật, Giáo sý René Sieffert, nguyên Viện trýởng Viện Sinh ngữ và Vãn minh Ðông phýõng, Paris, nữ Giáo sý Sakata Yukiko (Phản-Ðiền, Tuyết Tử) và Giáo sý Kunimatsu Akira, (Quốc-Tùng, Chiêu), cả hai ðều nguyên là Giáo sý Nhật ngữ và Vãn học Nhật Bản, Giáo sý danh dự Ðại học Ngoại ngữ Ðông Kinh.
__________________________________
[1] - Katô, Shuu-ichi, A History of Japanese Literature (I), trang 1-26.
[2] - Những khái niệm trong tiểu ðoạn nầy sẽ ðýợc trình bày lần hồi về sau..
[3] - Miyamoto Tsua, The Formation of Japan (Nihon no katachi) Tokyo, 2001 ( trang 39)
[4] - Vật (mono) = sự việc, ngữ (katari) = kể. Monogatari là truyện kể và Katarimono là hình thức vãn học cổ xýa thuật lại việc lạ lùng của những nhân vật khác thýờng. Genji thýờng ðýợc hiểu là giòng họ Minamoto (Nguyên), có ảnh hýởng lớn ðến ðời sống chính trị, quân sự lẫn vãn hóa Nhật Bản nhýng trong truyện, ông ta chỉ là nhân vật có tính hý cấu, dòng dõi không chính thức của thiên hoàng.
[5] - Theo Jean-Jacques Origas, trong Dictionnaire de Littérature Japonaise, PUF, Paris, 1994.
[6] - William George Aston (1841-?), ngýời Ái Nhĩ Lan, ðến Edo nãm 1864 và sống ở Nhật 11 nãm, thông dịch cho ngoại giao ðoàn và dạy Anh Vãn, ðã dịch Nhật Bản Vãn Học Sử của Shibano Rokusuke (Chi Dã Lục Trợ) ra tiếng Anh nãm 1899.
[7] - Fenollosa, Ernest (1853-1908) giáo sý khoa Anh vãn Ðại Học Ðế Quốc Tôkyô trýớc thế chiến thứ nhất.
[8] - Waley, Arthur (tên thật là Arthur David Schloss, 1889-1966) nhà Ðông Phýõng Học ngýời Anh gốc Do Thái, giáo sý danh dự Ðại Học Luân Ðôn, nguyên phó quản thủ thý viện tại Bảo Tàng Viện Hoàng Gia Anh, tinh thông Hán, Nhật. Ðã dịch Truyện Genji (1925-1933) và Makura Sôshi (1928) ra tiếng Anh
[9] - Sieffert, René, La Littérature Japonaise, PUF, 1973, trang 6.
[10] - Xem Higuchi Takayasu , Nihonjin wa doko karakita ka (Ngýời Nhật từ ðâu ðến ?), Kôdansha Gendai Shinsho, Tokyo, 1971.
[11] - Gồm 1945 chữ thông dụng và 290 chữ ít thông dụng hõn ðể viết tên. Dự ðịnh lên ðến 2965 chữ ðã ðýợc dùng trong máy tính và ðiện thoại cầm tay. (theo báo International Herald Tribune 28/09/04).
[12] - Ví dụ bara (hoa hồng) từ tiếng Bồ Ðào Nha, suriru (hồi hộp = thrill) từ tiếng Anh, aura (aura =hào quang) từ tiếng Ðức, purezen (quà tặng = présent) từ tiếng Pháp...
[13] - Ví dụ ðọc là bara (hoa hồng) theo tiếng Bồ Ðào Nha nhýng viết là Týờng Vi bằng chữ Hán. Viết chữ Hán Trân Châu nhýng có thể ðýợc phép ðọc là Paaru (Pearl) theo tiếng Anh. " Mặt nạ " là ðể che bên ngoài nhý trang sức cho ðẹp.
[14] - Toyoda, Takeshi, Myojino rekishi " Lịch sử tên họ ", Chuô Korôn, 1971.
[15] - Kagami, Kanji, Nihon no Chimei " Ðịa danh Nhật Bản ", Kadokawa Shobô, 1964.
[16] - Hisamatsu Sei-ichi, Nihon Bungakushi Tsuusetsu ,(Nhật Bản Vãn Học Sử Thông Thuyết), Yuuhikaku xuất bản, 1953), trang 1-6.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:24:06 GMT 9
Saigyô Hôshi Vietsciences-Vĩnh Sính Saigyô Hôshi (1118-1190): Thi sĩ tài hoa yêu phiêu du của Nhật Bản Ngoài song hoa nở — hoa lilac, Tím ngát chân trời, tím ngát ai.Đầu tháng 6 , năm 2010 Vĩnh Sính Saigyô Saigyô(tranh vẽ của Kikuchi Yosai) Vào hậu bán thế kỷ XII, sau gần bốn mươi năm tranh hùng giữa hai họ Taira và họ Minamoto, họ Minamoto nắm được phần toàn thắng. Với sự ra đời của chính quyền võ sĩ/vũ sĩ (samurai) ở Kamakura do Minamoto-no-Yoritomo lãnh đạo vào năm 1185, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản có hai chính quyền tồn tại song song. Chính quyền của giai cấp võ sĩ đóng ở Kamakura1 gọi là bakufu (幕府 mạc phủ; nói nôm na là “chính phủ/chính quyền quân sự”), còn triều đình thiên hoàng vẫn ở Kyoto giống như trước. Đây là một sự kiện vô cùng trọng đại vì trên nguyên tắc shôgun (将軍 tướng quân) đặt dưới quyền của thiên hoàng và do thiên hoàng bổ nhiệm (Minamoto-no-Yoritomo nhận chức Shôgun năm 1192), nhưng trong thực tế shôgun mới thật là người có nhiều quyền bính nhất ở Nhật Bản. Cơ chế hai chính quyền tồn tại song song này kéo dài gần 700 năm — mãi cho đến Minh Trị Duy Tân (1868) thì mới chấm dứt. * * * Nửa phần sau cuộc đời của Saigyô trùng hợp với giai đoạn nhiễu nhương của thế kỷ XII. Saigyô chứng kiến những đổi thay trong cuộc tranh hùng giữa hai họ Minamoto và Taira và sự ra đời của chính quyền giai cấp võ sĩ. Nhưng không phải vậy thôi, chính Saigyô là dòng dõi của Fujiwara Hidemoto (藤原秀郷, Đằng-nguyên Tú-hương), samurai/võ sĩ có công trạng trong cuộc đánh dẹp họ Taira. Trước hết, vì sao lại gọi là Saigyô Hôshi (西行法師 Tây Hành Pháp sư)? “Saigyô/Tây Hành” lấy từ chữ “Tây phương tịnh độ”, tức là “Tây phương cực lạc” hay “Cực lạc tịnh độ” của Phật A Di Đà — luôn nguyện cầu để được đi về thế giới Tây phương2. “Hôshi/Pháp sư” có nghĩa là người xuất gia, vị thầy thông thạo giáo pháp3. Cũng ở trong nghĩa Phật giáo đó, chúng ta thường gọi là “Thầy” trong tiếng Việt. Như vậy, Saigyô Hôshi có nghĩa là “Thầy Saigyô”. Saigyô vốn tên thật là Satô Norihide (佐藤義清 Tá-đằng Nghĩa-thanh), từ nhỏ theo học võ nghệ và trau dồi cung kiếm. Saigyô làm võ sĩ cận vệ ở nội thành cho Thái thượng hoàng Toba (鳥羽 Điểu Vũ). Năm 23 tuổi, Saigyô đột nhiên xuất gia và lấy pháp danh là En’i (円位 Viên Vị). Cuối đời Heian chiến loạn triền miên khiến lòng người mất nơi nương tựa. Saigyô nghĩ rằng nếu là võ sĩ không thôi thì khó lòng cứu vớt được người khác, nhưng trở thành nhà sư có thể dùng chánh niệm để dẫn dắt con người khỏi lầm đường lạc lối. Saigyô xin cắt tóc ở chùa Shôji-ji (勝持寺 Thắng Trì Tự; còn có tên gọi là Hana-no-tera花の寺, hay Chùa Bông) ở Kyoto. * * * Thơ waka và tiếng gọi ngàn phương Xuất gia được ít lâu, Saigyô đi lên miền Ôshû. Ôshû tức là miền Tôhoku ở miền Bắc bây giờ, có khi người ta cũng gọi là miền Oku. Sau đó, Saigyô ở lại Hiraizumi (huyện Iwate hiện nay) chừng hai năm. Hiraizumi là nơi Saigyô có nhiều người thân thích. Saigyô lại đi ngược về Kôya-san (huyện Wakayama hiện nay) theo để theo học Phật giáo, theo tông Shingon (真言 Chân Ngôn) do đại sư nổi tiếng Kûkai (空海 Không Hải) bắt đầu ở Nhật Bản vào thế kỷ IX. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng cuối đời Heian chỉ có tông Shingon và tông Tendai (天台 Thiên Thai) — tông Shingon nguyên chủ yếu để cho giới quý tộc và tông Tendai cho dòng họ thiên hoàng. Những tông phái khác như Thiền tông (禅宗) hay Jôdo (浄土 Tịnh Độ/Tịnh Thổ), Jôdô Shinshû (浄土真宗Tịnh Độ/Tịnh Thổ Chân Tông) và Hokke (法華 Pháp Hoa) thì phải bước vào thời Kamakura mới ra đời. So với Shingon và Tendai, việc giảng dạy kinh kệ và cách thức tu hành của các tông phái này rất đơn giản, đồng thời Phật giáo đã rời đi xa giới quý tộc để ăn sâu vào dân chúng. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng Saigyô sinh vào cuối đời Heian, tông phái Saigyô theo tu học là Shingon và đến cuối đời của Saigyô mới bước vào đầu thời Kamakura. Sau nhiều năm loạn lạc, đói kém và thiên tai cuối đời Heian, con người cảm thấy cuộc thế quá nhiều vật đổi sao dời và sự “vô thường” của cuộc sống nên có khuynh hướng tìm cách giải thoát. Khi xuống núi, Saigyô lại đi về Kinh (Kyoto) hay các tỉnh miền Nam. Saigyô quyết chí học làm thơ waka (和歌, tức “hoà ca”, hay “thơ Nhật”) bắt đầu từ đó. Thơ waka gồm tanka (短歌 đoản ca, tức thơ ngắn) có 31 âm tiết theo thứ tự 5-7-5-7-7; và chôka (長歌 trường ca) với số âm tiết không có giới hạn. Cũng nên nói thêm là thơ haiku (俳句 bài cú) với 17 âm tiết phải đợi đến lúc Bashô ra đời, tức là khoảng 500 năm sau mới xuất hiện. Người ta kể lại rằng một hôm hoà thượng Mongaku (文覚 Văn Giác) quở mắng Saigyô vì thấy Saigyô thích học làm thơ waka quá đỗi: “Saigyô đã xuất gia thì lo mà tu học, đàng này lại còn làm thơ rồi đi đây đi đó là nghĩa lý gì?” Nhưng rồi Hoà thượng thấy Saigyô khi tu học hay khi dấn bước phiêu du rồi làm thơ waka mà sắc mặt vẫn nghiêm trang giống nhau, lúc nào cũng có tư thế đúng đắn, không một chút nào sao lãng. Từ đó, hoà thượng Mongaku đổi hẳn thái độ đối với Saigyô, không còn quở la như trước nữa. Ra đi lần cuối Năm 1186, cuộc giao tranh Gempei đã chấm dứt. Saigyô mặc dầu tuổi cao nhưng vẫn lên Hiraizumi gặp Fujiwara Hidehira (藤原秀衝 Đằng-nguyên Tú-xung) là chỗ quen biết ngày xưa để quyên tiền giúp chùa Todaiji (東大寺 Đông Đại Tự ) ở Nara bị tàn phá sau chiến tranh. Trên đường, Saigyô ghé đền Tsuruoka Hachimangû ở Kamakura để tham bái, rồi tình cờ gặp ngay Minamoto-no-Yoritomo, người đã đánh dẹp họ Taira và sẽ là vị Shôgun đầu tiên năm 1192. Biết Saigyô vừa làm thơ hay lại vừa bắn cung giỏi trong “kiếp trước” — tức là trước khi đi tu — Yoritomo mời Saigyô đến thăm dinh thất của mình. Tương truyền hai người trò chuyện về thơ waka mãi cho đến sáng. Khi chia tay, Yoritomo tặng Saigyô một cái dĩa/đĩa bằng bạc chạm hình con mèo. Sáng hôm sau, khi Saigyô đi ra khỏi dinh, thấy một con trẻ đang chơi đùa vui vẻ, Saigyô bèn lấy cái dĩa đó đem cho. Câu chuyện không biết có thật hay không, nhưng có lẽ muốn nói lên rằng Saigyô là người muyoku (無欲 vô dục) — đi vượt vòng tục lụy, ham muốn mà người đời thường có. Saigyô Hôshi là một trong ba nhà thơ được yêu chuộng nhất ở Nhật Bản từ trước đến nay — cùng với Kakinomoto Hitomaro (柿本人麻呂 Thị-bản Nhân-ma-lữ; 662-710 sau CN) và Matsuo Bashô (松尾芭蕉 Tùng-vĩ Ba-tiêu; 1644-1694). Chính thơ Saigyô đã tạo những cảm hứng cho Bashô và không biết bao nhiêu thế hệ sau trong việc làm thơ và quan niệm về mỹ học. Chúng ta thử đọc bài thơ bài tanka (đoản ca) sau đây của Saigyô, và bài “Cây-liễu-du-hành” của Bashô. Michi no be ni shimizu nagaruru yanagi kage shibashi tote koso tachidomari tsure. Dịch nghĩa: Dưới bóng cây liễu bên đường, có dòng nước trong veo/Tôi dừng chân lại trong giây lát. Dịch thơ: Lơ thơ cây liễu bên đàng, Trong veo dòng nước tần ngần bước chân. Bài thơ của Saigyô và cây liễu trở nên nổi tiếng một phần vì dao khúc (謡曲, tức là bài ca trong tuồng Nô) của vở tuồng Yûgyô yanagi (Cây-liễu-du-hành) dựa trên bài thơ này. “Cây-liễu-du-hành” ấy vẫn còn ở trên bờ ruộng ở làng Ashino, huyện Tochigi, khi Bashô ghé qua và vẫn còn cho đến bây giờ. Bashô đã viết bài haiku sau đây khi đứng dưới gốc cây liễu đó: Ta ichimai uete tachisaru yanagi kana. Dịch nghĩa: Người ta gieo mạ dưới ruộng Lúc đó tôi rời Cây liễu. Dịch thơ: Lơ thơ cây liễu Tây Hành, Nông phu cấy mạ tôi đành bỏ đi. Saigyô Túp lều tranh của Saigyô ở Yoshino (huyện Wakayama hiện nay) Được xem là người dịch thơ của Saigyô từ tiếng Nhật ra tiếng Anh hay nhất, Burton Watson đã có nhận xét về Saigyô như sau: “Cái tên Saigyô xui ta nhớ đến túp lều tranh trên một triền núi, một người lữ hành cô độc trên quãng đường xa, hay một nhà-thơ-và-nhà-sư (a Buddhist poet-priest) viết về cái đẹp của thế giới vô thường, và cũng không bao giờ giấu giếm rằng mình đang chiêm ngưỡng hoa anh đào hay ánh trăng trên trời cao” 4. Thật là cô đọng ! * * * Trong tập Shin Kokinwaka shû (新古今和歌集 Tân Cổ kim hòa ca tập) do Fujiwara Teika (藤原定家 Đằng-nguyên Định-gia), biên soạn do lệnh của thiên hoàng Gotoba năm 1202, tức là đầu thời Kamakura, Saigyô có đến 94 bài, tức là nhiều nhất trong các thi nhân5. Ngoài ra, Saigyô còn có tập Sankashû (山家集 Sơn-gia tập). Saigyô còn lại tất cả là 2090 bài thơ. Ba phần tư của Sankashû là thơ về bốn mùa, một phần tư là thơ đủ loại đề tài. Cuối cùng, chúng ta thử thưởng thức một bài thơ về hoa anh đào. Negawaku wa hana no moto nite haru shinamu sono kisaragi no mochizuki no koro. Dịch nghĩa: Nếu được, lúc trăng tròn mùa Xuân tháng hai (âm lịch) tôi xin được nằm dưới gốc hoa anh đào. Trăng sẽ tròn vì là khoảng trăng rằm. Dịch thơ: Xuân sang nở rộ anh đào, Trăng rằm tỏ sáng bao la đất trời. Năm 1188, Saigyô về ở chùa Hirokawa (弘川寺 Hoằng Xuyên Tự) ở Kawachi (河内 Hà Nội; nay thuộc Osaka-fu). Hai năm sau, ngay giữa mùa hoa anh đào, trong lặng lẽ, Saigyô ra đi vào cõi vĩnh hằng. Vĩnh Sính 1 Tượng Phật ở Kamakura lớn nhất Nhật Bản, gọi là Daibutsu (大仏 Đại Phật). Tượng này được đúc thời Kamakura. Khi Nhật Bản tiếp thu Phật giáo, người ta tin rằng mỗi vùng phải có một chùa thì đất nước mới được bình an. Bởi vậy các chùa ấy mới có tên là Gokokuji (護国寺 Hộ Quốc Tự) để chứng tỏ thế lực hùng mạnh của giai cấp võ sĩ mới vùng lên. Theo giáo sư Katô Shûichi, Daibutsu ở Kamakura còn lớn hơn tượng Phật ở Nara để chứng tỏ sức mạnh của chính quyền giai cấp võ sĩ. 2 Shinmura Izuru, Kôjien (広辞苑Quảng từ uyển). Tokyo: Iwanami Shoten, 1984, trang 936. 3 Như trên, trang 2182. 4 Burton Watson, Saigyo: Poems of a Mountain Home. New York: Columbia University Press, 1991. 5 Tập này có tất cả là 1978 bài. Người có nhiều bài sau đó cũng là một nhà sư, Jien (慈円Từ Viên). Fujiwara Teika cũng đọc là Fujiwara Sadaie.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 17:17:03 GMT 9
Tiếng Thu Tạp văn Nguyễn Nam Trân Riêng tặng anh Đinh Văn Thạnh, người bạn chưa quen Em không nghe mùa thu Dưới trăng vàng thổn thức? Em không nghe rạo rực, Hình ảnh kẻ chinh phu, Trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô? Một người thân ở Paris, gần đây có viết Mail hỏi tôi xem bài Tiếng Thu (1939) nổi tiếng của Lưu Trọng Lư (1912-1991) có lấy cảm hứng từ một bài thơ xưa của Nhật không? Anh ấy đã đọc ở tờ báo Kỷ Nguyên Mới ở Mỹ cho biết nhà văn Nguyễn Vỹ có lần hỏi bạn ông là Lưu Trọng Lư lúc trước chiến tranh về điều đó. Lưu Trọng Lư trả lời không là không nhưng Nguyễn Vỹ vẫn chưa hết mối ngờ và đem theo nó vào tận Sài Gòn .
Thực tình nếu trí nhớ chưa phản bội tôi thì chính tôi cũng đã có cơ hội đọc điều nầy trong mục Mình Ơi của báo Phổ Thông do cô Diệu Huyền (một biệt hiệu của Nguyễn Vỹ) phụ trách. Báo Phổ Thông thời đó có vài cựu sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản đóng góp khá thường xuyên và được quần chúng, trong số đó có tôi, khá yêu chuộng và lòng mến mộ nước Nhật của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Giai thoại Tiếng Thu được kể ra qua cuộc đối thoại giữa Ông Tú và Bà Tú. Ông bà Tú không phải là những nhân vật hư cấu, có chăng là ..cô hàng bán vịt lộn đôi khi xuất hiện trong đó. Bà Tú là nhân vật có thực ngoài đời, em gái ông Vỹ. Ông Trần Tú, chồng bà, gốc ngoài Quảng như ông Vỹ, là một người bạn của cha tôi hồi còn ở Đơn Dương gần Đà Lạt. Một người con của hai ông bà, chị Kim Thoa, là bạn học với tôi năm lớp nhì tiểu học. Theo nội dung của bài báo trên Phổ Thông thì Lưu Trọng Lư có thể đã mượn ý của một bài thơ cổ của người Nhật nhưng qua một bản dịch tiếng Pháp vì ông Lư không biết tiếng Nhật.
Tôi bèn suy ra thơ cổ của Nhật Bản thì chỉ có tanka và tập thơ tanka căn bản phải là Kokin Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập). Nhân một ngày thứ bảy rỗi việc, tôi mới ra quán sách trong supermarket ở Tôkyô đọc cọp bản của nhà Chuô Kôron và tình cờ có thêm một số ít tin tức về bài tanka liên quan xa gần đến Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.
Trước hết phải nói là những thông tin của Nguyễn Vỹ rất chính xác vì ông có chua âm Nhật của bài thơ bên cạnh bài báo xuất bản ở Mỹ mà người thân của tôi ở Paris đã đọc.
Nguyên tác :
Okuyama ni (Trong núi sâu) (5) Momiji fumiwake (Đạp lên lá phong đỏ rẽ lối đi) (7) Naku shika no (Của nai kêu) (5) Koe kiku toki zo (Chính là khi nghe tiếng) (7) Aki ga kanashiki (Mùa thu buồn làm sao) (7)
Chúng ta đều biết người Nhật thích thể thơ 5 chữ 7 chữ như Việt Nam thích 6,8. Những bài hát Nhật ăn tiền bây giờ cũng theo thể 5,7. Đọc thơ Nhật như bài nầy thì nên đi ngược từ câu cuối thì mới rõ nghĩa.
Vâng, bài nầy đã tìm thấy trong phần Thu Ca của tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập), một tuyển tập thơ quốc âm Tanka (Đoản Ca) của Nhật. Vào đầu thời Hei-an, văn chương chữ Hán chiếm địa vị độc tôn và thơ quốc âm Waka bị đẩy lùi vào bóng tối. Thế nhưng, Waka không vì thế mà mai một hẳn, nó chỉ trở thành một hình thức thơ để tỏ tình cảm riêng tư, sinh hoạt luyến ái nam nữ hay tình tự dân gian. Tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập) là tập thơ quốc âm đầu tiên đã được soạn để tiến lên vua theo sắc chiếu, còn được lược xưng là Kokin Shuu (Cổ Kim Tập). Do bọn các ông Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán Chi), Ki-no-Tomonori (Kỷ, Hữu Trắc), Ôshikôchi-no-Mitsune (Phàm Hà Nội, Cung Hằng), Mibu-no-Tadamine (Nhiệm Sinh, Trung Lĩnh) soạn khoảng năm Engi (Diên Hỷ) thứ 5 (905) theo sắc lệnh của thiên hoàng (thứ 60) Daigô (Đề Hồ, trị vì 897-930). Đây là tập thi tuyển Waka đầu tiên được soạn theo chiếu chỉ và là qui phạm cho những tập soạn theo chiếu chỉ các đời sau.Thi tập nầy gồm 12 quyển, thu thập ước chừng trên 1100 bài thơ, có kèm hai bài tựa (Jo), một viết bằng Kana (tức bài Kanajo) do Ki-no-Tsurayuki và bài kia bằng chữ Hán (Manajo) do Ki-no-Yoshimochi (Kỷ, Thục Vọng) viết. Đặc biệt trong bài tựa viết bằng Kana, không những thuyết về sự hoà điệu giữa cái Tâm và thi Từ mà còn chủ trương về vai trò đối đầu của Waka với thơ chữ Hán, nói lên được ý thức dân tộc của người soạn ra nó.
Kokin Waka Shuu chia thành nhiều bộ (bộ lập=budate) tùy theo chủ đề: Xuân (thượng, hạ), Hạ, Thu (thượng, hạ), Đông, Hạ (chúc tụng), Ly Biệt, Ki Lữ (lữ hành), Vật Danh, Luyến (Tình Yêu), Ai Thương, Tạp (thượng, hạ), Tạp Thể (thượng, hạ) Đại Ca Sở ngự ca.Về thể điệu, phần lớn là những bài ngắn (Tanka), có một ít bài dài (Chôka hay Naga-uta) và thơ đối đáp (Sedôka).
Như đã nói, bài thơ chúng ta đang bàn đến có chép trong phần chủ đề về mùa thu (Thu Ca). Về tác giả, sách cho biết "không biết là ai" nhưng chua thêm "Trong tập Hyakunin Isshuu (Bách Nhân Nhất Thủ, tức một tập chọn mỗi người nổi tiếng một bài ) thì bảo tác giả là Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại Phu) một nhân vật truyền thuyết có tên trong 36 nhà thơ thời cổ (Tam Thập Lục Ca Tiên) đã soạn".
Hyakunin Isshuu được nhiều người cho là công trình biên soạn của Fujiwara Sadaie (còn đọc là Teika, tức Đằng Nguyên Định Gia) vào khoảng năm 1235 và thơ dựa trên Hyakunin Shuuka (Bách Nhân Tú Ca) tức thơ hay của trăm nhà mà ông đã chọn để viết trên giấy họa để trang trí dinh thự một vương hầu. Hyakunin Isshu (quen gọi tắt là Hyakuninshu) chọn của 100 tác giả mỗi người một bài thơ và lấy những bài đó ở các thi tập soạn theo sắc chiếu, tính từ Kokin-Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập) cho đến Shoku-Gosen-Shuu (Tục-Hậu Tuyển Tập). Những bài thơ trong tập sách nầy đều đặc sắc nên được truyền bá rộng rãi về sau dưới mọi hình thức nghệ thuật. Chẳng hạn vào đầu thời Edo, có trò chơi Utagaruta (Ca Gia Lưu Đa) tức trò chơi "ai nhanh tay" bốc những quân bài ( Uta=thơ ca; karuta = Carte ) có in câu dưới của bài thơ trong Hyakunin Isshu là thắng cuộc. Người Nhật hầu như ai cũng biết bài (tạm gọi là) Thu Ca nầy vì nó có trên một trong 100 quân bài của trò chơi đó. Khi giám khảo ngâm câu trên trong yomifuda tức quân bài để đọc thì phải biết mà bốc quân bài có ghi câu dưới trong torifuda tức là quân để bốc. Đây là một trò chơi tao nhã rất phổ biến trong quần chúng vào dịp Tết nhất cho đến tận giờ.
Sách đã dẫn (Kokin Waka Shuu, bản Chuô Kôron) cho rằng câu đầu và câu thứ hai không xác định nai hay là người đạp trên lá (đỏ chứ không phải vàng vì Momiji chữ Hán viết là Hồng Diệp tức là lá màu đỏ của cây phong vào thu). Có lẽ là cả hai nhưng cái mơ hồ đó làm tăng thi vị. Hơn nữa, nai của ông Lư nên thơ hơn vì không kêu để gọi nai cái (hay gọi đàn) như nai Nhật mà chỉ im lặng, ngơ ngác đạp lá vàng khô.
Không riêng Lưu Trọng Lư, Huy Cận cũng đã viết:
Nai con gót lẩn trong mù, Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Nai và mùa thu là một chủ đề thường thấy trong tập Kokin Waka-Shuu nầy nhưng bên Tàu thời ấy (Đường) cũng có những bài thi vị dính líu xa gần với nai và núi vắng như Lộc Sài của Vương Duy :
Không sơn bất kiến nhân Đản văn nhân ngữ hưởng Phản cảnh nhập thâm lâm Phục chiếu thanh đài thượng
Theo người thân tôi ở Paris cho biết thì sau khi nghe Nguyễn Vỹ " kết tội ", Lưu Trọng Lư đã giẫy nẩy lên " Nhưng bài thơ tao còn có chinh phu, cô phụ kia mà " vv...Người bạn Paris cho biết thêm là một thân nhân của ông Lư bảo rằng ông ta làm bài thơ nói trên sau khi xem một bức sơn mài có cảnh nai ở trong rừng. Ngoài ra, theo nguồn tin thân cận khác, nhà phê bình văn học Đặng Tiến nói ông Lư đã chịu ảnh hưởng Thu Thanh Phú của Âu Dương Tu. Điều này làm tôi tự hỏi phải chăng một bài thơ thu rất hay của một nhà thơ triều Nguyễn là Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của cụ Đinh Nhật Thận, còn có thể là gạch nối giữa Âu Dương Tu và Lưu Trọng Lư chăng ? Vẫn người thân của tôi ở Paris lại nhắc đến Chanson d'Automne, một tác phẩm trứ danh của Pháp mà ai cũng nằm lòng từ lúc ngồi trên ghế trường trung học.Thơ viết về mùa thu nhiều lắm. Thế thì, ông Lư sanh sau đẻ muộn nầy lấy cảm hứng ở đâu để viết Tiếng Thu đây ?
Khi tôi có dịp may gặp nhà thơ Xuân Diệu ở Paris một vài năm trước khi ông mất và có hỏi : Thế bác viết :
Tuổi học trời xa, Huế cũng đi, Mấy bài thơ cũ thật tiên tri. Bạn vàng thuở trước nên ông cả, Gái nhỏ khi nao thoắt dậy thì.
Có lấy cảm hứng từ hai câu :
Đồng học thiếu niên đa bất tiện Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì
không ? (vì Xuân Diệu rất sành thơ Đường: con ông đồ Nghệ, đã viết những bài như Nhị Hồ, đã dịch và vác ba lô đi nói chuyện về thơ Đường khắp nơi) thì được ông trả lời " Không. Có thể đó là cái hồn thơ nho nhỏ của " thằng " Xuân Diệu đã gặp được cái hồn thơ vĩ đại của cụ Đỗ Phủ ở chỗ nào đó thôi ".
Cho nên chuyện ông Lưu Trọng Lư có biết bài thơ Nhật kia không thì không quan trọng. Trước hết ông Lư có đủ tài để làm thơ hay như khi ông viết về mùa hạ ( ?) :
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời, Lúc người con sống tôi lên mười. Mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội, Áo đỏ người đem trước dậu phơi.
Hay mùa đông :
Em chỉ là người em gái thôi, Người em sầu mộng của muôn đời Tình em như tuyết giăng đầu núi, Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
thì có gì mà chẳng làm được một bài thơ hay về mùa thu, cũng hay như Vần Thơ Sầu Rụng nói về mùa xuân với "những ngày lạnh rớt gió vèo trong cây".
Cái quan trọng ở đây là ông Lư đã đẻ ra được cái hình ảnh " con nai vàng ngơ ngác ". Nếu ông lấy cảm hứng từ thơ Nhật thì thi nhân Waka nào đó còn phải cảm ơn Lưu Trọng Lư nữa, vì dù có mô phỏng cổ nhân, ông đã đưa hồn thơ Nhật Bản đến cho người Việt Nam. Cũng như Nguyễn Khuyến đã đem Thu Hứng của Đỗ Phủ vào thơ Việt khéo đến nỗi người ta khó lập ra quan hệ "liên văn bản" giữa:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái (Nguyễn Khuyến) Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Đỗ Phủ)
Phải tinh ý lắm mới nhận ra. Hơn nữa, ông Lư cũng đã đem vào bài thơ nầy một chủ đề mùa thu khác như mùa thu của chờ mong thường thấy trong văn học Trung Hoa, Việt Nam và cả Nhật Bản (rạo rực, chinh phu, cô phụ) như ông đã nói rất đúng. Ngoài ra, cái độc đáo của ông là lối đặt câu hỏi (không nghe?), tiếng động mùa thu (thổn thức, xào xạc) như tiếng thu mà Âu Dương Tu, văn nhân đời Tống đã bắt gặp giữa một đêm mất ngủ trong Thu Thanh Phú, hay linh hồn réo rắt của làn gió thu nghe như tiếng vĩ cầm trong Chanson d�Automne của Paul Verlaine (1844-1896):
Les sangots longs Des violons De l'automne Blessent mon coeur D'une langueur monotone...
Chưa hết.
Tôi nghĩ mùa thu đã nhập vào hồn thơ nhân loại. Thi ca toàn cầu hóa trước khi kinh tế bắt đầu vượt biên giới quốc gia. Mới đây, tôi lại thấy người Trung Quốc dịch bài Waka chủ đề Thu Ca nầy sang tiếng Trung và một giáo sư Nhật Bản dịch thơ Lưu Trọng Lư sang tiếng Nhật. Vậy xin chép lại cả hai bài thơ dịch để quý độc giả thưởng thức.
Bài Waka dịch ra tiếng Trung với nhan đề Thâm Sơn Hồng Diệp, Đàn Khả dịch (Nhật Bản Cổ Thi Nhất Bách Thủ (Riben Gushi Yibai Shou) do nhà Xuất Bản Văn Học Ngoại Quốc, Bắc Kinh in năm 1985. Theo Đàn Khả, dựa trên bài tựa bằng chữ Hán của Kokin Shuu do Ki no Yoshimochi (Kỷ Thục Vọng), bài thơ nầy do Ôtomo no Kuronushi (Đại Hữu Hắc Chủ), thi nhân khoảng tiền bán thời Heian (794-1188) viết theo một bài thơ trước đó của Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại Phu), như đã nói trên, là một nhân vật chưa chắc đã có thực:
Thâm sơn hồng diệp mãn địa phiêu Túc đạp hồng diệp lộ điều điều Văn đạo lộc minh thanh ai khổ Bi cảm phong hàn thu khí cao Núi sâu lá đỏ rụng đầy Chân khua xác lá dặm dài về đâu Nai kêu ai oán gieo sầu Hơi thu lạnh buốt tầng cao ngập lòng (Nguyễn Nam Trân dịch)
Dịch giả giải thích đây là tâm sự của một người đang ở giữa đường đời, như đứng giữa rừng sâu lá đỏ, dưới trời thu lạnh lẽo, tiền lộ mịt mùng, lạc lõng không biết về đâu.Theo lối dịch nầy, chỉ có người đạp trên lá đỏ và chỉ nghe tiếng nai vọng đến từ xa. Lối dịch thế nầy không trung thành với nguyên tác cho lắm, nhưng xem ra cũng có một thi vị riêng.
Ngoài ra, vào một buổi chiều trong thư viện, tôi nhân tò mò đọc vài trang của quyển sách nhan đề Lối Vào Văn Học Đông Nam Á (Tônan-Azia Bungaku no Shôtai, Sei-unsha, Tôkyo, 2001), thấy trong phần thi văn Việt Nam, giáo sư Kawaguchi Ken-ichi đã dịch Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư ra Nhật Ngữ như sau:
Urumu tsuki no nutsa ni Kimi wa kikazuya Susurinaite iru aki wo Ura wakitsuma no kokoro ni Kimi wa kikazuya Senjô ni yukishi otto no omokage e no Yamigataki omoi wo Aki no mori ni Kimi wa kikazuya Samayou shika ga kareba wo fumu Sono kasokeki oto wo (Aki no oto)
Tuy bản dịch chưa đạt như ý chúng ta muốn nhưng phải nói ông giáo Nhật nầy là người có trình độ và phải rõ về cả hai nền văn học vì ít nhất ông là giáo sư Việt Ngữ Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh, chuyên gia văn học. Thế mà chẳng nghe ông gợi ra một câu hỏi nhỏ về khả năng của nguồn cội Waka bài Tiếng Thu khi ông dịch nó qua tiếng nước ông. Điều đó chứng tỏ Lưu Trọng Lư, nói dại là có chịu ảnh hưởng bài Waka chăng nữa, đã thành công vì "che mắt" được cả giáo sư văn chương kia.
Để kết luận, tuy phân tích của Nguyễn Vỹ rất cần cho nghiên cứu văn học nhất là văn học đối chiếu nhưng nếu thế, lập luận của ông cần phải có thêm chứng cứ có tính khoa học và khách quan hơn, nhất là khi luận điểm đó đã bị chính tác giả phủ nhận. Riêng ở cương vị một người thưởng thức, tôi lại muốn đồng ý với Xuân Diệu khi họ Ngô viết (lâu ngày quên đích xác thế nào):
Ai đi phân tích một làn hương Hay bản cầm ca, Tôi chỉ mơ, tôi chỉ thương, chỉ chuồi theo dòng ảo tưởng Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
mà tôi nghĩ thích hợp cho bài Tiếng Thu nầy.
Tôkyô, 4/2004, một ngày nắng nhưng nhiều gió Nguyễn Nam Trân
|
|