|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:18:46 GMT 9
HOA KỲ: CHIẾN LƯỢC MỚI VÀ THỬ THÁCH TƯƠNG LAI Tháng Hai 18, 2012 Khi từ bỏ chiến lược hai cuộc chiến cùng lúc, T T Obama đang đảo ngược một chủ thuyết trước đây đã được nhiều tổng thống, Cộng Hòa và Dân Chủ, kể cả Obama, chấp thuận. Sự duyệt lại chiến lược quốc phòng mỗi bốn năm một lần vào năm 2010 của Obama, một tài liệu đòi hỏi bởi Quốc Hội liệt kê những sứ mệnh chính của quân lực và những lực lượng cần thiết để thực thi, đã xác nhận chiến lược Hoa Kỳ “đang duy trì khả năng khống chế hai quốc gia cùng lúc gây chiến.”[1] Nhưng chiến lược được tái duyệt với dấu ấn của T T Obama, qua việc chính thức loan báo tại Ngũ Giác Đài vào hôm thứ năm 05-01-2012, đã loại bỏ khả năng đồng thời giữ ưu thế trong hai cuộc chiến cùng lúc. Trong thực tế, chiến lược mới, với những cắt giảm trong lực lượng Bộ Binh và Thủy Quân Lục Chiến, có nghĩa quân lực sẽ chỉ có thể tiến hành một cuộc chiến nhỏ trong một thời gian hạn định. Nói một cách khác, Ngũ Giác Đài có thể phải động viên các lực lượng trừ bị cần thiết cho một cuộc chiến dài lâu, như cuộc chiến Afghanistan hiện nay. Theo kế hoạch mới, quân lực không còn được duy trì với tầm cỡ có thể tiến hành những chiến dịch lớn lao với mục tiêu đem lại ổn định bền lâu. Nếu phải đối diện với một cuộc chiến lâu dài, quân lực có thể ngăn chặn hay áp đặt những tổn phí lớn lao ngoài sức chịu đựng của một quốc gia gây chiến thứ hai , nhưng chiến lược mới không sử dụng những từ “đánh bại” hay “thủ thắng.”[2] T T Obama và Bộ Trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta cho biết: từ bỏ sự tái duyệt mỗi bốn năm một lần là cần thiết vì khủng hoảng tài chánh và chỉ có thể thực hiện nhờ cuộc chiến Iraq trong thực tế đã chấm dứt và cuộc chiến Afghanistan cũng đang trên đường tiến dần đến hồi chung cuộc. Chủ Tịch Ủy Ban Quân Lực Hạ Viện, Howard P. Buck McKeon thuộc bang California, và các thành viên diều hâu Cộng Hòa, đã tuyên bố: “tiên đoán các cuộc chiến trên bộ sẽ không tái diễn là điều quá nguy hiểm.”[3] Theo McKeon, “mười năm chinh chiến mới đây đã dạy chúng ta bài học: sau mỗi cuộc xung đột lớn trong thế kỷ vừa qua, Hoa Kỳ đã cắt giảm quân số, chỉ để phải gầy dựng trở lại một cách khó khăn khi an ninh bị đe dọa trong lần kế tiếp. Thật đáng buồn, chiến lược mới đã lặp lại lỗi lầm của quá khứ… Lịch sử đã dạy chúng ta đây là con đường nguy hiểm, tốn kém cả về sinh mạng lẫn tài sản.”[4] ƯU TIÊN NGÂN SÁCH Tướng hưu trí Carl E. Mundy Jr. đã nói với báo The Washington Times, chiến lược của Obama không cơ sở trên nhu cầu quân sự mà chính là hậu quả của khủng hoảng tài chánh. Theo Mundy, từng giữ chức Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến từ 1991 đến 1995, “chiến lược mới đã được rút tỉa không phải từ sự phân tích các bất trắc nguy cơ, mà chính là do những giới hạn tài chánh. Chúng ta chỉ cần hỏi, ‘Có thể nào chúng ta đã lựa chọn chiến lược nầy nếu không phải đã bị thúc đẩy bởi các lý do tài chánh ? Tôi nghi ngờ bất cứ ai trong giới quốc phòng có thể trả lời: ‘vâng, đúng như vậy’. “Quốc gia chúng ta đang nhích dần đến tuyệt vọng tài chánh. Các lãnh đạo dân cử đã không đủ khả năng đối phó với hiểm họa trước mắt. Và giới quân sự đang bị thúc ép phải chấp nhận một phần bất tương xứng các chi phí cần thiết để giải quyết.” Ông còn nói thêm: “Điều nầy không phải vô tiền khoáng hậu. Nó đã từng xẩy ra vì nhu cầu thời cuộc trong lịch sử. Tuy nhiên, trong khi văn hóa quân sự luôn đáp ứng các mệnh lệnh khó khăn với thái độ ‘có thể làm’ và hoạch định những đáp ứng tích cực, chúng ta không nên tự dối mình để tin chiến lược mới là một lựa chọn quân sự đã được thẩm định kỷ lưỡng, hơn là một lựa chọn thúc bách bởi các ưu tiên tài chánh trong những địa hạt khác của xã hội chúng ta.”[5] GIỚI DIỀU HÂU VÀ CHIẾN LƯỢC MỚI Đảo ngược chiến lược và cắt xén những khoản chi tương lai có thể biện minh là một việc làm quả thực khó khăn, nếu chúng ta nhớ rằng các lãnh đạo Cộng Hòa và T T Obama năm rồi cũng đã thỏa hiệp về số cắt giảm ngân sách Ngũ Giác Đài đến 487 tỉ trong vòng 10 năm. Cách duy nhất để đạt mục tiêu đó, theo phe chủ trương chiến lược mới, là cắt giảm nhân viên và vũ khí, kế đó sẽ phải thu gọn những đòi hỏi của các chương trình còn lại. Joe Kasper, một phát ngôn viên của dân biểu Duncan Hunter, Cộng Hòa bang California và thành viên trong Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, cho biết, các thành phần diều hâu về quốc phòng đã đệ nạp một dự luật ngăn cấm mọi cắt xén trong tài khóa bắt đầu từ tháng 10-2012. Kasper nói: “đây là cuộc tranh đấu khó khăn.”[6] Ngân sách quốc phòng 2013 công bố vào tháng tới sẽ cắt giảm lục quân từ 569.000 xuống còn 500.000, và thủy quân lục chiến từ 203.000 xuống còn khoảng 170.000. Ngân sách 5 năm do chính quyền Obama đệ trình trong năm 2012, trước khi có các đòi hỏi giảm chi bởi luật ngân sách, kêu gọi cắt giảm 571 tỉ trong số dự chi căn bản, không kể các phí tổn chiến tranh trực tiếp, trong năm 2013. Giờ đây, chính quyền Obama chỉ có thể đưa ra Quốc Hội một dự thảo ngân sách 50 tỉ thấp hơn. ẢNH HƯỞNG CỦA GATES Chiến lược mới hình như bắt nguồn từ một người đã rời khỏi Ngũ Giác Đài. Một năm trước đây, Robert M. Gates, bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của Obama, đã tuyên bố trước cử tọa tại West Point: “Theo tôi, bất cứ bộ trưởng quốc phòng nào trong tương lai khuyến cáo tổng thống một lần nữa gửi một số đông bộ binh đến Á châu , hay Trung Đông hay Phi châu, vị bộ trưởng đó nên đi ‘khám lại đầu óc của mình,’ như Tướng Douglas MacArthur đã từng diễn đạt một cách tế nhị.”[7] Các cuộc tấn công của al-Qaeda ngày 11-9-2001 đã dẫn đến hai cuộc chiến lớn trên bộ ở Afghanistan và Iraq, đồng thời cũng đã đẩy Ngũ Giác Đài vào kỷ nguyên chiến tranh mới. Ngũ Giác Đài đã mở rộng các lực lượng hành quân đặc biệt và đầu tư nhiều vào công tác thu lượm tin tức tình báo và phi cơ không người lái. Tất cả những biện pháp vừa kể đã cho phép phá tan mạng lưới khủng bố với những lực lượng hạn chế, khác với một cuộc xâm lăng toàn bộ. Obama tin: chiến tranh chống du kích và các cuộc xung đột cỡ nhỏ, không phải là những cuộc chiến lâu dài trên bộ, là những cuộc chiến trong tương lai. TIÊN ĐOÁN THIẾU CHÍNH XÁC Tướng hưu trí George A. Joulwan, nguyên tư lệnh tối cao quân đội đồng minh ở Âu châu từ 1993 đến 1997, đã nói với báo The Times: các chiến lược quân sự mới luôn có một kỷ lục tiên đoán tồi. Ông nói: “Chúng ta đã từng trải nghiệm tất cả những điều nầy trong quá khứ. Đây là lần thứ tư chúng ta đã giảm thiểu và tái cấu trúc lực lượng quân sự của chúng ta. Không may, tất cả đều chưa hề tiên đoán những gì sẽ xẩy ra trong tương lai.”[8] Chẳng hạn, khi tướng Joulwan đảm nhận chức vụ tư lệnh NATO năm 1993, các quan chức an ninh quốc gia cho biết chính quyền Clinton có kế hoạch tăng cường quân lực ở Á châu. Lực lượng bộ binh được cắt giảm đáng kể; không lực và hải quân được tăng cường nhiều hơn. Sau đó không lâu, tướng Joulwan đã gửi 60.000 quân, trong số có 20.000 quân Mỹ, đến Vùng Balkans trong chiến dịch Operation Joint Endeavor nhằm ngăn chặn các hành động tàn bạo của người Serbia ở Bosnia. Tiếp đó, T T Clinton đã cho phép không tạc Serbia trong nhiều tuần lễ để ngăn chặn các cuộc tấn công của Serbia bên trong Kosovo. Năm năm sau, Hoa Kỳ đã gửi hàng trăm nghìn quân đội đến Afghanistan và Iraq. CHÍNH QUYỀN VÀ KHẢ NĂNG HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ Theo tướng Joulwan, thử thách thực sự sẽ đến khi chính quyền Obama đệ trình ngân sách năm 2013 và trình bày chi tiết chiến lược của Hoa Kỳ. Joulwan nói: “Chính quyền có thể tìm đủ tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu chiến lược hay không? Nếu không, các lãnh đạo quân sự cao cấp cần nêu rõ các nguy cơ bất trắc.”[9] Ông nói thêm: ” Tôi nghĩ, điều chúng ta nên tìm kiếm là một lực lượng nhanh nhẹn và quân bình, có thể ngăn chặn cũng như chiến đấu, và một sự hiện diện tiền phương đủ để đem lại sự an tâm cho các đồng minh và đối tác đang chia sẻ các giá trị và lý tưởng của chúng ta. Điều nầy rất quan trọng ở Âu châu. Điều tôi lập luận [khi còn trong quân ngũ] là khả năng đối phó cùng lúc năm tình trạng bất ngờ cấp vùng, bởi lẽ tôi tin đó là môi trường chiến lược chúng ta đang sống. Và tôi thấy một vai trò rộng lớn dành cho các lực lượng đặc biệt và các nhân viên tình báo kiểu CIA. Nhưng chúng ta thực sự cần có đủ khả năng ngăn ngừa xung đột cũng như chiến đấu và thủ thắng. Và đó là sự thử thách đối với chiến lược an ninh quốc gia mới.”[10] CUỘC CHIẾN 1% Các cuộc chiến của Hoa Kỳ đều được điều khiển viễn liên. Đó là các cuộc chiến xa xôi về địa lý, về cảm xúc, và các cơ quan truyền thông. Nhưng đó cũng là các cuộc chiến do quân đội Mỹ thực hiện, “những người Mỹ anh hùng chống lại các thành phần khủng bố và bất hảo nước ngoài cũng như quốc nội.” Đây cũng là những cuộc chiến bởi các phi cơ tự động không người lái, do các phi công điều khiển từ các căn cứ ở lục địa Hoa Kỳ, đôi khi từ mạng lưới bí mật các căn cứ cách xa mọi bất trắc của chiến trường hàng trăm, hàng nghìn dặm. Khoảng cách không gian dĩ nhiên thường đem lại sự thờ ơ, nếu không muốn nói chẳng mấy được quan tâm, bởi đa số người Mỹ. Thực vậy, đó là sản phẩm của hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, những cuộc chiến lựa chọn, không phải những cuộc chiến cần thiết. Đó là sản phẩm của người Mỹ khi chọn lựa tạo ra một tầng lớp chiến sĩ biệt lập với nhân dân Mỹ, để gửi ra các nước ngoài thực thi các cuộc chiến lựa chọn bởi Hoa Thịnh Đốn với rất ít quan tâm, và ray rứt băn khoăn. Kết quả tất yếu có thể tiên đoán đương nhiên phải xấu. Quân đội Mỹ phải đau khổ. Người dân Afghanistan và Iraq vô tội càng đau khổ gấp bội phần. Trong lúc đó, công dân Mỹ không hề đau khổ, ít ra không đau khổ trong phương cách có thể thấy được dễ dàng, bởi lẽ chiến tranh đã diễn ra ở những nơi quá xa xôi đối với họ. Người Mỹ đã lựa chọn, hay để cấp lãnh đạo 1% của họ lựa chọn, tự tách khỏi mọi nỗi đau và ghê tởm của các cuộc chiến nhân danh họ. Đó là một lựa chọn họ phải chịu trách nhiệm, vì lẽ tình trạng chiến tranh thường trực, nhưng tách biệt và xa xôi, đã làm quân lực Mỹ suy yếu, ngân khố Hoa Kỳ cạn kiệt, dân quyền, nhân quyền và tự do của công dân Mỹ bị bào mòn. CHIẾN TRANH CẦN THIẾT VÀ CHIẾN TRANH LỰA CHỌN Đệ Nhị Thế Chiến là cuộc chiến cần thiết, một cuộc chiến liên quan mật thiết đến quyền lợi của người Mỹ. Adolf Hitler và chủ nghĩa Quốc Xã phải được đánh bại. Thực vậy, mục tiêu cuộc chiến khá rõ ràng và dễ hiểu. Với cuộc chiến cần thiết không có gì phải tranh luận đó, người Mỹ đã minh thị chia sẻ trách nhiệm qua luật tổng động viên. Các cuộc chiến 1% hiện nay hoàn toàn khác. Đây là những cuộc chiến lựa chọn bởi 1% người Mỹ, không vì quyền lợi của 99% nhân dân Hoa Kỳ. Phần lớn số 1% có quyền lợi trong các cuộc chiến lựa chọn là những thành viên của một thiểu số năm 1961 Tổng Thống Eisenhower đã đặt cho tên gọi lịch sử – “Tập Đoàn Quân Sự-Kỹ Nghệ,”[11] ngày nay còn được biết dưới tên “Tập Đoàn Các Đại Công Ty của Mỹ.”[12] Trong nửa thế kỷ vừa qua, mạng lưới các công ty tay chân của tập đoàn quân-sự-kỹ-nghệ, các tổ chức vận động hành lang, các chính trị gia, và các sĩ quan cao cấp hưu trí, qua cửa quay Hoa Thịnh Đốn,[13] ngày một lớn mạnh và chồng chéo, nuốt ngốn hàng nghìn tỉ USD dành riêng cho mạng lưới an ninh quốc gia và tình báo đang khống chế Hoa Thịnh Đốn. Họ là tập thể đảm nhiệm việc triển khai “1% người Mỹ khác trong đội quân hoàn toàn tình nguyện của chúng ta”[14] qua nhiều đợt phục vụ liên tiếp ở các nước ngoài. Không như các cuộc chiến tranh cần thiết trước đây, sứ mệnh những cuộc chiến lựa chọn rất mơ hồ, khó phân biệt, và luôn thay đổi. Phải chăng đây là những cuộc chiến chống khủng bố? Một cuộc chiến vì dầu lửa và các tài nguyên chiến lược khác? Một cuộc chiến để phát huy tự do và dân chủ? Một cuộc chiến giúp xây dựng các quốc gia? Một cuộc chiến để chứng tõ quyết tâm của chính quyền Mỹ hay để bảo đảm an ninh cho toàn thế giới trước nguy cơ al-Qaeda? Có ai còn có thể hiểu khi ngày nay ngay chính Hoa Thịnh Đốn cũng chẳng mấy quan tâm để tự đặt câu hỏi tại sao, mà chỉ luôn đơn thuần tiếp tục chiến tranh không ngơi nghỉ? Đã hẳn, trong những cuộc chiến lựa chọn, sứ mệnh hay mục tiêu là bất cứ gì cấp lãnh đạo Hoa Kỳ chọn, không đem lại cho người dân bất cứ tiêu chí nào để đo lường thành công, nói gì đến quyết định một dứt điểm. Làm thế nào để xác quyết đây là những cuộc chiến lựa chọn? Câu trả lời khá đơn giản: Bởi lẽ phe phát động cuộc chiến luôn có thể quyết định bỏ cuộc khi muốn, hay khi quá sức chịu đựng hay không thể tiếp tục, như trường hợp cuộc chiến Iraq hiện nay, cũng như người Mỹ rất có thể sẽ làm đối với cuộc chiến Afghanistan vào một lúc nào đó trong những năm sau cuôc bầu cử tổng thống 2012. Tùy theo người Mỹ lựa chọn. Người không có sự lựa chọn đã hẳn là người Iraq và người Afghanistan, những người nay phải dọn dẹp đổ nát, hàn gắn thương vong và tái thiết. Ngay cả cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu của Mỹ cũng chỉ là cuộc chiến lựa chọn. Thử hỏi: Ai kiểm soát được tâm trạng sợ hãi của người Mỹ — người Mỹ hay kẻ thù của người Mỹ? Người Mỹ chỉ có thể bị khủng bố nếu họ lựa chọn đầu hàng sự sợ hãi. Hãy ngẫm nghĩ về vụ dấu bom trong giày năm 2001 và vụ cài bom ngầm dưới nước năm 2009. Tại sao những hành động vớ vẩn của hai tên “khủng bố” ngớ ngẫn đó đã thu hút trọn vẹn sự quan tâm của giới truyền thông Hoa Kỳ? Như một quốc gia hùng cường nhất địa cầu, tại sao người Mỹ đã không thể tiếp tục cuộc sống bình thường của mình? Thay vào đó, chính quyền Mỹ lại chấp nhận phung phí tiền của vào các kỷ thuật và mạng lưới theo dõi, kiểm soát, sàng lọc, chẳng hề giúp bắt được một tên khủng bố. Người Mỹ còn chịu đựng sự giám sát lúc một khắt khe hơn và tham khảo ý kiến ngày một ít hơn. Người Mỹ cũng đã chọn lựa xác nhận sự kinh hải của mình mỗi khi phải cởi giày, hay vui vẻ chịu khám xét, sờ soạng tại các phi trường. Các cuộc chiến thường trực ở những nơi xa xăm, những cuộc chiến lựa chọn 1% của Mỹ, sẽ vẫn luôn xa xôi tách biệt với cảm nhận, và tư duy của người Mỹ, đòi hỏi rất ít hy sinh ngoại trừ từ chính các quân nhân, tầng lớp ngày một tách biệt khỏi trật tự dân sự và xã hội Mỹ. Điều nầy đặc biệt đúng với giới trẻ ở Mỹ, lớp tuổi từ 18 đến 29 tuổi, tầng lớp, theo một nghiên cứu gần đây của Pew Research Center, rất ít khi có anh em bà con trong quân ngũ. Kết quả? Một tầng lớp chiến binh đang hình thành có thể ngày một xa lạ đối với khối 99%, tạo tình trạng căng thẳng và khuyến khích bất bình, rất có thể dễ bị lôi kéo nhào nặn bởi tầng lớp 1% kia: giới mua quan bán chức, chỉ biết kiếm tiền, và giật dây, đang sẵn sàng gửi cảnh sát đe dọa và bắt giữ thành viên các phong trào OWS trong các thành phố trên giải đất một thời đầy hứa hẹn. QUÂN ĐỘI HOA KỲ HAY QUÂN ĐỘI THÙ NGHỊCH? Vì người Mỹ theo đuổi những cuộc chiến lựa chọn ở những nơi xa xôi với nhiều mục tiêu luôn thay đổi, điều gì sẽ xẩy ra nếu giới quân nhân đơn thuần ngày một xa lánh Hoa Kỳ hơn? Điều gì sẽ xẩy ra nếu lực lượng quân sự trở thành quân nhân của phe đối nghịch? Phải chăng đây mới là nỗi lo sợ thực sự đòi hỏi người Mỹ phải động viên toàn quốc để ngăn ngừa? Nỗi kinh hoàng tách giới quân nhân hầu như hoàn toàn khỏi Hoa Kỳ và nhân dân Mỹ. Như Đề Đốc Mike Mullen, nguyên Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gần đây đã phát biểu với báo Time: “Trong trường kỳ, nếu giới quân sự trôi dạt xa dần nhân dân của xứ sở nầy, đó là một hậu quả tai họa mà chúng ta, như một quốc gia, không thể tha thứ.” [15] Nghĩ đến một số phận đáng kinh hoàng: một dân tộc cho phép những cuộc chiến lựa chọn phương hại đến chính cốt lõi cơ bản tự thân của một xã hội yêu chuộng tự do, trong khi tự mình lại để trở thành xa lạ đối với toàn bộ các thanh niên nam nữ đã và đang phục vụ ở tiền phương trong các cuộc chiến lựa chọn. Đây là một thực tế Hoa Kỳ: đa số 99% hiện quá tách biệt với các cuộc chiến lựa chọn và những binh sĩ đã và đang chiến đấu trong đó. Để giành lại hàng ngũ các binh sĩ, người Mỹ phải chấm dứt các cuộc chiến lựa chọn. Và đó chính là cuộc chiến cần thiết và cần phải thắng. Nguyễn Trường, Irvine, California, U.S.A. 21-01-2012 [1] …the U.S. is maintaining the ability to prevail against two capable nation-state agressors in ovrlapping time frames. [2] …the words “defeat” or “prevail.” [3] …predicting that land wars will not erupt is too risky. [4] McKeon said, “the last 10 years of war have taught us this lesson: After every major conflict in the last century, The United States has cut its military, only to have to painstakingly rebuild it the next time our security is threatened. Sadly, this strategy repeats the mistakes of the past… History has taught us this is a perilous course, expensive in both lives and treasure.” [5] The new strategy is one derived not from risk analysis, but by fiscal constraints. One has only to ask, ‘Would we have conceived this strategy had not we been driven financially to do so?’ I doubt anyone in the business of defense would answer ‘yes.’ Our country is nearing financial desperation. Our elected leaders have been unable to deal with that threat. And the military establishment is being asked to pay a disproportionate portion of the bill to solve it. He added: This is not without precedent. It has occurred of necessity at other times in our history. However, while the military culture is such as to respond to difficult orders with a ‘can do’ attitude and to conceive positive plans to deal with them, we should not deceive ourselves into believing that the new strategy is one of carefully assessed military choice rather than one driven by fiscal priorities elsewhere in our society. [6] It’s an uphill fight. [7] In my opinion, any future defense secretary who advises the president to again send a big American land army into Asia or into the Middle East or Africa should have his head examined, as Gen. [Douglas] MacArthur so delicately put it. [8] We’ve been through this before. This is about the fourth time that we have downsized and reorganized our military forces. Unfortunately, it never is predictive of what’s going to happen. [9] Does [the Obama administration] match requirements with resources? If not, our senior military leaders need to lay out the risks. [10] I think what we should be looking for is an agile, balanced force that can deter as well as fight and a forward presence that reassures our allies and partners who share our values and ideals. This is particularly important in Europe. What I argued for [while on active duty] is the capability to conduct five simultaneous , regional contingencies because I think that’s the strategic environment we’re in. And I do see an enlarged role for special forces and CIA-type operatives. But we do need to be able to deter conflict as well as to fight and win. And that’s the challenge for the new national security strategy. [11] The military-industrial complex. [12] Corporate America. [13] …Washington’s revolving door. [14] …another 1% — the lone percent of Americans in our All-Volunteer Military… [15] Long term, if the military drifts away from its people in this country, that is a catastrophic outcome we as a country can’t tolerate.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:20:08 GMT 9
PHE DIỀU HÂU HOA KỲ VÀ CHIÊU BÀI HIỂM HỌA NGUYÊN TỬ hay IRAN: CÔ LẬP VÀ THAY ĐỔI CHẾ ĐỘ Trong thời gian gần đây, với không khí khủng hoảng trong vùng Vịnh Ba Tư ngày một căng thẳng, ôn lại bài học lịch sử quan hệ Mỹ-Iran, vì vậy, là một điều cần thiết. NGUYÊN TỬ VÌ HÒA BÌNH Mùa hè 1953: CIA và tình báo Anh Quốc đã toa rập tổ chức đảo chánh lật đổ chính quyền dân cử ở Iran đang trên đà quốc hữu hóa kỹ nghệ dầu khí. Để thay thế, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã đưa lên ngôi một quốc vương chuyên quyền trẻ tuổi — Shah of Iran — cùng với tổ chức cảnh sát bí mật đáng ghê sợ của ông. Shah of Iran đã ngự trị vương quốc trong một phần tư thế kỷ, như một tiền đồn của Hoa Thịnh Đốn trong vùng Vịnh Ba Tư, cho đến khi bị lật đổ bởi cuộc cách mạng 1979. Một chế độ thần quyền với lãnh tụ Ayatollah Khomeni và các mullah hay giáo sĩ Hồi giáo lên thay thế. Tuy không phải tay chân của Hoa Thịnh Đốn, chính quyền Khomeni, trong thực tế, vẫn là kế thừa cuộc đảo chính 1953. Nói một cách khác, quyết định tai họa lật đổ một chính quyên thế tục, do chính dân Iran bầu lên và hậu thuẩn, đã định hình chế độ Iran ngày nay, một chế độ Hoa Thịnh Đốn đang quyết tâm thay đổi. Và xét cho cùng, dầu khí vẫn luôn là động lực. Năm 1967: Trong khuôn khổ chương trình “Nguyên Tử vì Hòa Bình”[1], do T T Dwight D. Eisenhower khởi động trong thập kỷ 1950, Shah of Iran đã được phép mua một máy phản lực 5-megawatt, dùng vào việc nghiên cứu, loại sử dụng “nước-nhẹ,”[2]cho Tehran . Các viên chức bộ Quốc Phòng hồi đó cũng đã âu lo Shah có thể sử dụng “nguyên tử hòa bình” như nền tảng của chương trình vũ khí mai hậu, hoặc vật liệu hạt nhân cũng có thể lọt vào tay những kẻ thù nghịch. Một văn bản ghi nhớ nội bộ của Ngũ Giác Đài năm 1974 đã ghi nhận, “một người kế vị năng động của Shah có thể xem vũ khí nguyên tử như yếu tố cuối cùng cần thiết cho việc áp đặt địa vị quân sự áp đảo của Iran trong khu vực.”[3] Tuy vậy, viễn tượng đó vẫn không đủ để thuyết phục họ ngừng khuyến dụ và giúp đỡ Iran xây dựng chương trình nghiên cứu hạt nhân. Quốc Vương Shah, cũng như các giáo sĩ kế thừa, lập luận, một chương trình nghiên cứu hạt nhân nằm trong phạm vi thẩm quyền quốc gia, và trong ước mơ phần lớn điện lực ở Iran sẽ do hệ thống các nhà máy hạt nhân cung cấp. Một quảng cáo năm 1970 của nhóm công ty điện lực Mỹ đã tóm tắt: “Shah of Iran đang ngồi trên đỉnh một trong những trữ lượng dầu lớn nhất thế giới. Tuy vậy, ngài vẫn đang xây dựng hai nhà máy hạt nhân và có kế hoạch xây thêm hai nhà máy khác để cung cấp điện cho Iran. Quốc Vương hiểu rõ dầu lửa ngày một cạn kiệt — cùng với thời gian.”[4] Nói một cách khác, chương trình nguyên tử của Hoa Kỳ là cội nguồn của chương trình hạt nhân Iran hiện nay, một chương trình người Mỹ đang hết sức căm ghét và tìm cách ngăn chặn. Tháng 9-1980: T T Saddam Hussein của Iraq đã phát động cuộc chiến xâm lăng Iran của Ayatollah Khomeini. Vào đầu thập kỷ 1980, Saddam Hussein đã là cánh tay nối dài của Hoa Thịnh Đốn, và Iraq một tiền đồn của Mỹ trong vùng Vịnh Ba Tư. Người Mỹ luôn cung cấp thông tin chi tiết liên quan đến việc phối trí, hoạch định chiến thuật của Iran, giúp Saddam Hussein sử dụng vũ khí hóa học hữu hiệu hơn trong cuộc chiến. Một mặt khác, Chính quyền Reagan cũng đã quyết định kín đáo bán tên lửa và các loại vũ khí khác cho Iran của Ayatollah Khomeini, một phần trong cái được biết như Vụ Iran-Contra[5], suýt nữa gây họa cho Reagan và phe nhóm. Tháng 3-2003: Saddam Hussein, giờ đây, không còn là tay chân của Hoa Thịnh Đốn ở Baghdad, mà theo các quan chức hàng đầu Hoa Thịnh Đốn lúc đó, đã là một Hitler, với chương trình vũ khí nguyên tử một ngày nào đó có thể để lại mây mù hình nấm trên không phận các thành phố của Mỹ. Vì vậy, chính quyền Bush đã phát động cuộc chiến xâm lăng Iraq, một xứ, theo lời của Thứ Trưởng Quốc Phòng Paul Wolfowitz, tương tự như Iran, đang “nổi lềnh bềnh trên biển dầu.”[6] Các quan chức trong chính quyền Bush hy vọng, sau cuộc chiến chớp nhoáng, Iraq sẽ được giúp phục hồi và tư hữu hóa kỹ nghệ dầu, có thể sử dụng để tàn phá OPEC và hạ giá dầu trên thị trường quốc tế. Chín năm sau, một chính quyền Shiite ở Baghdad, đồng minh với Tehran, nay cũng đã có nhiều ảnh hưởng trong khu vực, nhờ chính sự chiếm đóng tai họa của Hoa Kỳ. Gọi đó là thành tích vẻ vang không dễ thành đạt! Trong hơn 50 năm, các cấp lãnh đạo Hoa Kỳ với các hành động trong vùng Vịnh và ngay bên trong Iran, đã luôn đem lại những hậu quả trái ngược, bất ngờ, và thãm hại. Ngày nay, sau nhiều năm chiến tranh ngụy trang chống lại Iran, Hoa Thịnh Đốn một lần nữa đang chuẩn bị một loạt các thao tác mới – những chế tài chống lại Ngân Hàng Trung Ương Iran nhằm phá hoại kỹ nghệ dầu khí, mở cửa nền kinh tế tiếp nối bởi… những gì chưa ai biết! BÍ ẨN MỘT IRAN BỊ CÔ LẬP Hãy bắt đầu với những lằn ranh đỏ. Và đây là lằn ranh đỏ sau cùng của Hoa Thịnh Đốn. Vào trung tuần tháng 1-2012, Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta đã bàn về Iran: “Có phải họ đang khai triển ‘vũ khí hạt nhân’? Không. Nhưng chúng tôi biết họ đang tìm cách khai triển một ‘khả năng hạt nhân’. Và đó là điều làm chúng tôi lo ngại. Và lằn ranh đỏ đối với Iran là không được khai triển vũ khí hạt nhân. Đó là lằn ranh đỏ đối với chúng tôi.”[7] Thật kỳ lạ, hãy nhìn xem phương cách các lằn ranh đỏ cứ tiếp tục đi lùi. Có một thời, lằn ranh đỏ đối với Hoa Thịnh Đốn là “làm giàu uranium”. Ngày nay, rõ ràng là một vũ khí nguyên tử đích thực và có thể được sử dụng. Tưởng cần phải nhớ, từ năm 2005, lãnh tụ tối cao Ayatolla Khamenei đã nhấn mạnh xứ ông không tìm cách khai triển vũ khí hạt nhân. Ước Tính Tình Báo Quốc Gia[8] gần đây nhất về Iran của Cộng Đồng Tình Báo Hoa Kỳ[9] cũng nhấn mạnh tương tự. Trong thực tế, Iran không khai triển vũ khí hạt nhân (khác với khả năng có thể xây dựng một vũ khí hạt nhân một ngày nào đó). Tuy nhiên, điều gì sẽ xẩy đến nếu không có một lằn ranh đỏ, nhưng một cái gì đó hoàn toàn khác? Chẳng hạn, lằn ranh petrodollar. CÁC CHẾ TÀI MỚI Vào tháng 12-2011, không mảy may quan tâm đến các hậu quả khốc liệt đối với kinh tế toàn cầu, Quốc Hội Hoa Kỳ — dưới áp lực thường lệ của giới vận động hành lang Do Thái — đã áp đặt một gói các chế tài luật định lên chính quyền Obama (100 phiếu thuận, 0 phiếu chống ở Thượng Viện, và chỉ với 12 phiếu chống ở Hạ Viện). Theo đó, kể từ tháng 6-2012, Hoa Kỳ sẽ phải chế tài bất cứ ngân hàng và công ty của một quốc gia thứ ba nào giao dịch với Ngân Hàng Trung Ương Iran. Có nghĩa: ngăn chặn mọi xuất khẩu dầu của Iran. (Quốc Hội cũng có dự liệu một vài “ngoại lệ.”) Mục tiêu cuối cùng? Không gì khác hơn thay đổi chế độ ở Iran. Một quan chức Hoa Kỳ dấu tên đã thú nhận chính danh mục tiêu với báo Washington Post, và tờ báo cũng đã đăng lời bình luận (“Mục tiêu của Hoa Kỳ và các chế tài đối với Iran là sự sụp đổ của chế độ, một tín hiệu rõ ràng nhất chính quyền Obama ít ra cũng có quyết định ‘lật đổ’, đồng thời cũng ‘can dự’, với chính quyền Iran.” Liền sau đó, tờ báo cũng đã rút lại đoạn trích dẫn về mục tiêu gây bối rối trên đây. Đã hẳn, lằn ranh đỏ đã quá gần với sự thật để có thể thoải mái. Theo đề đốc Mike Mullen, nguyên Tư Lệnh Bộ Tham mưu Liên quân, chỉ một biến cố gây sốc và kinh hoàng tàn bạo, hạ nhục tối đa giới lãnh đạo Tehran, may ra mới có thể đưa đến một thay đổi chế độ. Và đề đốc không phải là người duy nhất. Phe chủ trương hành động — từ không tạc đến xâm lăng (bởi Hoa Kỳ hoặc bởi Do Thái, hoặc bởi cả hai trong một hình thức đối tác nào đó) — không phải là ít ở Hoa Thịnh Đốn, nơi đầy dẫy phe tân bảo thủ. Tuy nhiên, bất cứ ai ít nhiều hiểu biết về Iran đều rõ: một cuộc tấn công như thế chỉ có thể củng cố sức hậu thuẩn của quần chúng dành cho Khamenei và lực lượng Vệ Binh Cách Mạng. Trong tình huống đó, thái độ thù ghét của một số người Iran đối với phe độc tài quân phiệt của hàng giáo phẩm Hồi Giáo chẳng còn mấy quan trọng. Vả chăng, ngay cả phe đối lập cũng ủng hộ một chương trình nguyên tử hòa bình — vì đó là một vấn đề kiêu hãnh quốc gia! Giới trí thức Iran, tinh thông về văn hóa Ba Tư, dĩ nhiên hơn xa các chuyên gia ý thức hệ Hoa Thinh Đốn, cũng hoàn toàn chối bỏ mọi kịch bản chiến tranh. Họ nhấn mạnh: giới lãnh đạo Tehran, vốn rất tường tận về nghệ thuật chơi trò tưởng tượng của người Ba Tư, không có ý định thách thức một cuộc tấn công có thể đưa đến tận diệt. Về phần mình, dù đúng hay sai, các chiến lược gia Tehran cũng vững tin Hoa Thịnh Đốn sẽ không đủ khả năng phát động một cuộc chiến mới trong vùng Trung Đông Nới Rộng, nhất là một cuộc chiến có thể đưa đến nhiều đổ vỡ trong kinh tế thế giới vô can. Trong giao thời, những mong ước của Hoa Thịnh Đốn — một chế độ chế tài khe khắt có thể buộc Iran nhượng bộ, nếu không sụp đổ — rất có thể là một chuyện hão huyền. Guồng máy tuyên truyền Hoa Thịnh Đốn đã chú tâm vào một đại phá giá tai họa đơn vị tiền tệ Iran, đồng rial, đối diện với các chế tài mới. Không may cho những ai tin ở sự khả dĩ sụp đổ của kinh tế Iran, giáo sư Djavad Salehi-Isfahani đã phân tích, cặn kẽ và với đầy đủ chi tiết, bản chất trong trường kỳ của tiến trình nầy — một phân tích đã được các kinh tế gia Iran rất hoan nghênh. Xét cho cùng, phá giá đồng rial sẽ kích thích xuất khẩu các sản phẩm ngoài dầu khí và giúp kỹ nghệ bản xứ cạnh tranh hữu hiệu với các hàng nhập khẩu rẻ tiền từ TQ. Tóm lại, một đồng rial phá giá sẽ có nhiều khả năng giúp Iran giảm thiểu nạn thất nghiệp. MỘT IRAN CÔ LẬP VÀ THIẾU NỐI KẾT! Mặc dù rất ít người Hoa Kỳ lưu ý, trong thực tế Iran không hoàn toàn bị cô lập như Hoa Thịnh Đốn có thể đã mong muốn. Thủ Tướng Pakistan Yusuf Gilani đã là người thường bay tới Tehran. Mới đây, Nikolai Patrushev, người đứng đầu cơ quan an ninh quốc gia Liên Bang Nga, đã lên tiếng cảnh cáo Do Thái chớ nên thúc đẩy Hoa Kỳ tấn công Iran. Ngoài ra, cũng cần kể thêm Hamid Karzai, một đồng minh của Hoa Kỳ đồng thời cũng là Tổng Thống của Afghanistan. Tại đại hội đồng Loya Jirga vào cuối năm 2011, T T Karzai đã nhấn mạnh trước 2.000 lãnh đạo các bộ lạc: Kabul có kế hoạch xích lại gần hơn với Tehran. Trên bàn cờ Âu-Á hay Pipelineistan, trái với mong muốn của Hoa Thịnh Đốn, tuyến ống dẫn hơi đốt thiên nhiên Iran-Pakistan (IP) nay đang được xúc tiến. Pakistan rất cần năng lượng và cấp lãnh đạo nước nầy rõ ràng đã quyết định không muốn chờ đợi quá lâu dự án ‘cưng’ của Hoa Thịnh Đốn — tuyến đường ống Turkmenistan-Afghanistan-Pakistan-India (TAPI) đi ngang qua Talibanistan. Ngay cả ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ Ahmet Davutoglu mới đây cũng đã viếng thăm Tehran, mặc dù quan hệ giữa hai nước ngày một căng thẳng. Xét cho cùng, đối với các quốc gia trong khu vực, năng lượng thay vì đe dọa đã đắc thắng. Turkey, thành viên NATO, đã can dự trong các cuộc hành quân che đậy ở Syria, đồng minh với phe Sunni chính thống ở Iraq, và — trong một động thái đảo ngược lập trường đáng lưu ý tiếp theo sau Mùa Xuân Á Rập — đã đổi trục Ankara-Tehran-Damascus để gia nhập trục Ankara-Riyadh-Doha. Turkey còn có ngay cả kế hoạch cho phép Hoa Thịnh Đốn đặt các tên lửa thuộc hệ thống tên lửa phòng không của Hoa Thịnh Đốn nhằm mục tiêu Iran. Tất cả những điều kể trên từ một xứ với “chính sách đối ngoại zero hay không vấn đề với các lân bang”[10]do Davutoglu thiết kế. Tuy vậy, nhu cầu của Pipelineistan cũng đem lại nhiều âu lo. Turkey đang rất cần tiếp cận tài nguyên năng lượng của Iran, và nếu một ngày nào đó hơi đốt thiên nhiên của Iran tới được Tây Âu — một điều người Âu cũng thiết tha mong muốn — Turkey sẽ là xứ quá cảnh ưu tiên. Các lãnh đạo Turkey đã gửi tín hiệu họ sẽ bác bỏ các chế tài mới của Hoa Kỳ chống lại dầu Iran. Trên bình diện “nối kết”, vào trung tuần tháng 1-2012, thế giới đã chứng kiến một màn trình diễn ngoại giao ngoạn mục — T T Iran Mamoud Ahmadinejad đã viếng thăm Mỹ La Tinh. Người Mỹ cánh hữu có thể lải nhải về trục ma quỷ Tehran-Caracas — cổ súy khủng bố khắp châu Mỹ La Tinh như tấm ván nhún cho các cuộc tấn công siêu cường phía Bắc trong tương lai — nhưng trở lại với thực tế đời thường, một loại sự thật khác cũng đang lảng vảng. Sau bấy nhiêu năm, Hoa Thịnh Đốn vẫn chưa thể tiêu hóa ý tưởng đã đánh mất quyền kiểm soát, hay ngay cả ảnh hưởng, trong hai cường quốc cấp khu vực — nơi trước đây Hoa Kỳ đã hành xử quyền bá chủ không suy giảm của một đế quốc. Thêm vào đó là bức tường ngờ vực được tăng cường bởi cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran. Trộn lẫn trong một châu Mỹ La Tinh mới, hầu như có trọn chủ quyền, đang cổ súy hội nhập không những qua trung gian các chính quyền tả phái ở Venezuela, Bolivia, và Ecuador, mà còn qua các cường quốc cấp khu vực Brazil và Argentina. Quậy lên và chúng ta sẽ có dịp chứng kiến những cơ hội chụp ảnh chung hay photo ops, như T T Iran Ahmadinejad và T T Venezuela Hugo Chavez đang cùng chào đón T T Nicaragua Daniel Ortega. Hoa Thịnh Đốn tiếp tục thúc đẩy viễn kiến một thế giới trong đó Iran hoàn toàn thiếu nối kết. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Victoria Nuland là một điển hình khi gần đây đã nói: “Iran có thể duy trì vị thế cô lập trên thế giới.”[11] Nhưng, trong thực tế, bà phát ngôn viên hình như đang cần các thông tin cập nhật để phản ảnh đứng đắn thực tế địa-kinh tế-chính trị toàn cầu. Iran “bị cô lập”hiện có những dự án hợp doanh trị giá 4 tỉ USD với Venezuela kể cả một ngân hàng, cũng như hàng tá các dự án đã được hoạch định với Ecuador từ xây dựng các nhà máy phát điện đến ngân hàng. Thực tế đó đã thúc đẩy phe chủ trương Do-Thái-trên-hết[12]ở Hoa Thịnh Đốn lớn tiếng đòi hỏi phải áp đặt các biện pháp chế tài đối với Venezuela. Chỉ còn một vấn đề: bằng cách nào Hoa Kỳ có thể thanh toán các hóa đơn dầu nhập khẩu không thể thiếu từ Venezuela? Các cơ quan truyền thông dòng chính ở Hoa Kỳ đã lớn tiếng rêu rao Ahmadinejad đã không ghé Brazil trong chuyến công du Mỹ La Tinh. Nhưng trên bình diện ngoại giao, Tehran và Brasilia luôn đồng điệu. Khi đặc biệt bàn đến hồ sơ hạt nhân, lịch sử Brazil chứng tỏ cấp lãnh đạo xứ nầy luôn có thiện cảm. Xét cho cùng, Brazil đã khai triển –và rồi hủy bỏ –chương trình vũ khí hạt nhân. Vào tháng 5-2010, Brazil và Turkey đã trung gian môi giới một thỏa ước trao đổi uranium giúp Iran, một thỏa ước lẽ ra đã có thể trót lọt mặc dù tình trạng rối reng nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Iran. Tuy nhiên, ngay sau đó Hoa Thịnh Đốn đã lập tức phá hoại. Một thành viên nòng cốt trong khối BRICS, câu lạc bộ các nền kinh tế hàng đầu đang lên, Brasilia đã hoàn toàn chống đối chiến lược chế tài/cấm vận của Hoa Kỳ. Như vậy, Iran có thể đã bị cô lập đối với Hoa Kỳ và Tây Âu, nhưng đối với khối BRICS và NAM (120 xứ hội viên trong phong trào phi liên kết), Iran luôn được đa số các quốc gia thuộc tập thể Nam Toàn Cầu (Global South) đứng về phía mình. Ngoài ra, các đồng minh then chốt của Hoa Thịnh Đốn, Nhật và Nam Hàn, hiện cũng đang vận động đòi được hưởng ngoại lệ đối với các biện pháp tẩy chay/cấm vận mới, áp đặt lên Ngân Hàng Trung Ương Iran sau tháng 6-2012. Không có gì đáng ngạc nhiên, vì các biện pháp chế tài đơn phương của Hoa Kỳ cũng nhằm vào Á châu. Xét cho cùng, TQ, Ấn Độ, Nhật, và Nam Hàn, nói chung, đang mua khoảng 62% số dầu xuất khẩu của Iran. Với lễ độ thường tình của người Á châu, Bộ Trưởng Tài Chánh Nhật, Jun Azumi, đã thông báo cho Bộ Trưởng Ngân Khố Timothy Geithner những khó khăn Hoa Thịnh Đốn đang gây ra cho Tokyo, hiện đang lệ thuộc vào Iran khoảng 10% số dầu nhập khẩu. Nhật cam kết ít ra sẽ giảm thiểu chút ít bách phân nầy càng sớm càng tốt, với hy vọng được Hoa Thịnh Đốn cho hưởng ‘ngoại lệ’ đối với các biện pháp chế tài mới. Riêng Nam Hàn cũng đã loan báo sẽ mua 10% số dầu cần thiết từ Iran trong năm 2012. LẠI CON ĐƯỜNG TƠ LỤA Nhưng trên hết, Iran “bị cô lập” còn là vấn đề an ninh quốc gia cực kỳ quan trọng đối với TQ, quốc gia đã thẳng thắn và dứt khoát bác bỏ các biện pháp chế tài mới nhất của Hoa Thịnh Đốn. Người Tây phương hình như đã quên Trung Quốc và Ba Tư đã từng giao thương trong gần hai thiên niên kỷ. “Con Đường Tơ Lụa”[13] là bằng chứng. Người TQ đã ký một hợp đồng béo bỡ nhằm khai triển khu dự trữ dầu lớn nhất Iran — Yadavaran. Ngoài ra còn vấn đề chuyển tải dầu từ Vịnh Caspian qua Iran và tuyến ống dẫn dầu trải dài từ Kazakhstan đến Tây Trung Quốc. Trong thực tế, Iran đã cung cấp khoảng 15% số dầu và hơi đốt thiên nhiên cho TQ. Trên bình diện năng lượng, Iran đối với TQ còn quan trọng hơn Saudi Arabia đối với Hoa Kỳ, quốc gia hàng năm nhập khẩu lối 11% dầu từ Saudi Arabia. Trong thực tế, TQ có thể đã được hưởng lợi từ các biện pháp chế tài mới của Hoa Thịnh Đốn, bởi lẽ có thể mua năng lượng với giá rẻ hơn khi Iran ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào thị trường TQ. Hiện nay, cả hai xứ đang thương thảo về giá dầu, và TQ trong thực tế đang tăng gia áp lực qua việc giảm thiểu chút ít số năng lượng nhập khẩu từ Iran. Nhưng mọi thương thảo, theo các chuyên viên Bắc Kinh, cần được hoàn tất trước tháng 3-2012, ít ra hai tháng trước ngày các chế tài mới của Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Cuối cùng, người TQ chắc chắn sẽ mua năng lượng Iran nhiều hơn, nhưng Iran vẫn còn là xứ cung cấp lớn thứ ba, sau Saudi Arabia và Angola. Riêng đối với các tác động khác của các chế tài mới đối với TQ, tưởng cũng chẳng cần quan tâm nhiều. Hoạt động doanh thương của TQ ở Iran tập trung trong các địa hạt sản xuất xe hơi, các mạng lưới fiber optics, và mở rộng hệ thống đường ngầm ở Tehran. Mậu dịch hai chiều hiện ở mức 30 tỉ USD và được dự kiến sẽ tăng lên 50 tỉ vào năm 2015. Giới doanh thương TQ sẽ tìm cách tránh né các vấn đề ngân hàng do các biện pháp chế tài mới áp đặt bởi Hoa Kỳ. Đã hẳn, Liên Bang Nga cũng là quốc gia yểm trợ nòng cốt khác đối với Iran bị phong tỏa. Nga đã chống đối các chế tài khe khắt hoặc qua Liên Hiệp Quốc hoặc gói biện pháp đã được Hoa Thịnh Đốn chấp thuận nhằm Ngân Hàng Trung Ương Iran. Trong thực tế, Nga đang ủng hộ lập trường thu hồi các chế tài hiện hữu của LHQ và đang vận động một kế hoạch thay thế, ít ra trên lý thuyết, có thể đưa đến một thỏa hiệp nguyên tử vớt vát thể diện cho đôi bên. Trên mặt trận nguyên tử, Tehran đã tỏ ý thỏa hiệp với Hoa Thịnh Đốn theo hướng kế hoạch do Brazil và Turkey đề xướng và Hoa Thịnh Đốn đã bác bỏ trong năm 2010. Tuy nhiên, vấn đề nay đã rõ ràng hơn nhiều: đối với Hoa Thịnh Đốn — cố nhiên đối với cả Quốc Hội Mỹ — đề tài ‘hạt nhân’ đã trở thành thứ yếu và đã nhường chỗ cho đề tài ‘thay đổi chế độ’. Vì vậy, mọi thương thảo mới chắc chắn sẽ gay cấn và đớn đau hơn nhiều. Điều nầy đặc biệt chính xác hiện nay khi các lãnh đạo của Liên Hiệp Âu Châu đã tìm cách tự lánh xa bàn thương nghị tương lai, bằng cách tự bắn vào chân. Nói một cách điển hình, họ đã chỉ đi theo hướng dẫn của Hoa Thịnh Đốn — thực thi cấm vận dầu Iran. Như một viên chức cao cấp Liên Hiệp Âu châu đã nói với Trita Parsi, Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Hoa Kỳ-Iran[14], và theo các nhà ngoại giao Liên Hiệp Âu Châu, họ sợ điều nầy có thể trở thành bước cuối trước khi chiến tranh bùng nổ. Trong lúc đó, một toán các thanh tra thuộc Cơ Quan Năng Lượng Hạt Nhân Quốc Tế – IAEA – cũng vừa viếng thăm Iran. IAEA giám sát mọi việc liên quan đến nguyên tử ở Iran, kể cả nhà máy làm giàu uranium mới ở Fordow, gần thị trấn Qom, khởi sự hoạt động kể từ tháng 6-2011. IAEA quả quyết: không có dấu hiệu làm bom. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn và người Do Thái vẫn tiếp tục ứng xử như đây chỉ là một vấn đề thời gian — mặc dù chẳng có bằng chứng gì khác. DÕI THEO PHƯƠNG TIỆN CHI PHÓ Đề tài cô lập Iran ngày một mất tính thuyết phục khi mọi người đều biết Iran không còn dùng đồng USD trong giao thương với Nga, thay thế bằng đồng rial và đồng ruble — môt động thái tương tự như trong giao thương với TQ và Nhật trước đó. Riêng đối với Ấn Độ, một đại cường kinh tế láng giềng, các lãnh đạo cũng từ chối ngưng mua dầu Iran, một giao dịch trong trường kỳ có lẽ sẽ không sử dụng đồng USD làm phương tiện chi phó. Ấn Độ đã dùng đồng yuan với TQ, trong khi Nga và TQ cũng đã dùng đồng ruble và Yuan trong giao thương giữa hai nước từ hơn một năm nay. Nhật và TQ cũng đang phát huy giao dịch thương mãi trực tiếp qua đồng yen và đồng yuan. Riêng giữa Iran và TQ, tất cả các giao dịch thương mãi và đầu tư mới sẽ được thanh toán bằng đồng yuan và đồng rial. Tóm lại, trong một tương lai gần, ngoại trừ Âu châu, hầu hết mọi giao dịch về năng lượng Iran đều không thực hiện qua trung gian đồng USD. Thêm vào đó, ba thành viên trong khối BRICS — Nga, Ấn và TQ – đồng minh của Iran, cũng là những xứ sản xuất vàng quan trọng. Các quan hệ mậu dịch phức tạp giữa các xứ nầy sẽ không chịu ảnh hưởng bởi những sở thích hay thay đổi bất thường của Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong thực tế, khi thế giới đang phát triển nhìn vùng Tây Đại Tây Dương đang bị khủng hoảng sâu xa, những gì họ thấy là nợ nần chồng chất của Mỹ, Cục Dự Trữ Liên Bang thoải mái in thêm tiền giấy làm gia tăng khối tiền giấy lưu hành, và khu vực Eurozone đang bị lung lay tận gốc rễ. Thử theo dõi dòng tiền tệ hay các phương tiện chi phó. Tạm thời, gạt ra ngoài những chế tài mới áp đặt lên Ngân Hàng Trung Ương Iran, sẽ bắt đầu có hiệu lực sau vài tháng, và làm ngơ trước các đe dọa đóng cửa Eo biển Hormuz (chắc khó xẩy ra vì đó là tuyến đường vận chuyển dầu xuất khẩu của chính Iran đến các thị trường), có lẽ lý do căn bản của cuộc khủng hoảng trong vùng Vịnh Ba Tư đã liên hệ đến hành động đánh chìm đồng petrodollar như phương tiện trao đổi đa năng. Chiến dịch đã do Iran phát động và sẽ chuyển biến thành mối âu lo của Hoa Thịnh Đốn, đang đối mặt không những với một cường quốc cấp khu vực, mà cả các cường quốc cạnh tranh quan trọng — TQ và Liên Bang Nga. Chẳng trách những động thái dồn dập của các hàng không mẫu hạm hướng tới vùng Vịnh Ba Tư hiện nay, mặc dù đây là một cuộc đối đầu hay thử thách kỳ lạ nhất — một siêu cường quân sự đang giàn trận chống lại một cường quốc kinh tế. Trong bối cảnh đó, tưởng cũng cần nhắc lại, vào tháng 9-2000, Saddam Hussein đã chọn đồng euro thay thế đồng petrodollar như đơn vị chi phó đối với dầu xuất khẩu của Iraq. Tháng 3-2003, Iraq đã bị xâm lăng và thay đổi chế độ đã xẩy ra. Sau khi Muammar Gaddafi của Libya đề nghị dùng đồng dinar bằng vàng như đơn vị tiền tệ chung của Phi châu và đơn vị chi phó cho tài nguyên năng lượng xuất khẩu của Libya, hành động can thiệp của NATO/ Hoa Kỳ và thay đổi chế độ cũng đã tái diễn. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn-NATO-Tel Aviv đã viết một tự truyện khác. Các “đe dọa” của Iran là trung tâm của cuộc khủng hoảng hiện nay, ngay cả khi, trong thực tế, đó chỉ là phản ứng của Iran trước cuộc chiến che dấu không ngơi nghỉ và hiện nay, đã hẳn, cũng là cuộc chiến kinh tế. Tự truyện của ‘Bộ Tam’ luôn là: chính các đe dọa của Iran đã khiến giá dầu tăng vọt, và vì vậy, đưa đến suy thoái kinh tế hiện nay, thay vì tư bản sòng bài của Wall Street hay các món nợ kếch sù của Hoa Kỳ và Âu châu. Tầng lớp thượng lưu 1% không dính dáng gì đến giá dầu tăng vọt, ít ra chừng nào còn có Iran đứng sẵn chịu đòn hay búa rìu dư luận, trước cơn thịnh nộ của quần chúng 99%. Như chuyên gia năng lượng Michael Klare đã nêu rõ gần đây, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên địa-năng-lượng mới, chắc hẳn sẽ vô cùng hỗn loạn trong vùng Vịnh Ba Tư và nhiều nơi khác. Thực vậy, năm 2012 có lẽ là năm khởi đầu khi hàng loạt các quốc gia đang lần lượt từ bỏ đồng USD như phương tiện chi phó và dự trữ toàn cầu lựa chọn. Vì nhận thức cũng là thực tại, thử tưởng tượng một thế giới thực tại – phần lớn là thế giới phương Nam toàn cầu — đang toan tính từng bước giao dịch thương mãi với đơn vị tiền tệ riêng và đầu tư ngày một ít bất cứ số thặng dư nào vào trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ… Đã hẳn, Hoa Kỳ luôn có thể trông cậy vào “Hội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh” (GCC)[15] — Saudi Arabia, Qatar, Oman, Bahrain, Kuwait và United Arab Emirates — hay theo gợi ý của Pepe Escobar, phóng viên của báo Asia Times, “Hội Đồng Phản Cách Mạng Vùng Vịnh”[16] (chỉ cần nhìn phong cách của họ trong Mùa Xuân Á Rập). Trên bình diện địa-kinh-tế-chính-trị thực tế, các Quốc Vương Vùng Vịnh chỉ là những Thống Đốc hay Tỉnh Trưởng của Mỹ. Lời hứa từ nhiều thập kỷ chỉ sử dụng đồng petrodollar đã biến họ thành một bộ phận phụ thuộc trong guồng máy quyền lực phóng chiếu của Ngũ Giác Đài trong khắp vùng Trung Đông. Xét cho cùng, Centcom đặt cơ sở ở Qatar; Hạm Đội Thứ Năm đồn trú ở Bahrain. Trong thực tế, trong những vùng đất cực giàu về năng lượng — chúng ta có thể đặt tên Greater Pipelineistan và Ngũ Giác Đài đã từng gọi “vòng cung bất ổn” — GCC vẫn còn là chìa khóa của ‘ý niệm quyền bá chủ co rút’ của Hoa Kỳ. Iran chỉ có thể là ‘cái răng’ trong cổ máy khổng lồ nghiền nát đồng USD như ngoại tệ dự trữ toàn cầu. Tuy vậy, đó là ‘cái răng’ Hoa Thịnh Đốn hiện đang chăm chú. Họ đang mang ý tưởng thay đổi chế độ trong đầu. Tất cả những gì cần thiết chỉ là một tia lửa để khởi động một hỏa hoạn. Chúng ta hẳn còn nhớ Chiến Dịch Northwoods[17], một kế hoạch hành quân khủng bố ở Hoa Kỳ năm 1962 do Bộ Tham Mưu Liên Quân giàn dựng để đổ tội cho Cuba của Fidel Castro (nhưng T T Kennedy đã bác bỏ). Chúng ta cũng chưa quên biến cố Vịnh Bắc Việt năm 1964, được T T Lyndon Johnson sử dụng như một biện minh cho quyết định mở rộng chiến tranh Việt nam. Hoa Kỳ đã lên án tàu phóng ngư lôi Bắc Việt đã tấn công gây hấn các tàu chiến Mỹ trong hải phận quốc tế. Về sau, chúng ta được biết cuộc tấn công chưa bao giờ xẩy ra và tổng thống Johnson đã nói dối. Cũng không quá xa thực tế khi tưởng tượng những thành phần diều hâu chủ trương ‘Thống Trị Rộng Khắp’[18]trong Ngũ Giác Đài sáng tạo một biến cố trong Vịnh Ba Tư để khai chiến hoặc dồn Iran vào tình thế có thể tính toán sai lầm tai họa. Cũng có thể xem chiến lược quân sự mới của Hoa Kỳ như T T Obama vừa tiết lộ, theo đó trọng tâm chiến lược quân sự của Hoa Thịnh Đốn đã chuyển dịch từ hai cuộc chiến thất bại trong vùng Trung Đông Nới Rộng đến Thái Bình Dương (và do đó Trung Quốc). Iran nằm ngay phía giữa, trong vùng Tây Nam Á, với khối lượng dầu khổng lồ hướng đến một TQ đang đói dầu, qua tuyến đường biển do Hải quân Hoa Kỳ tuần tiểu. Vì vậy, Iran rất có thể trở thành một sân khấu bi hài đầy kịch tính đối với TQ và đồng USD, cũng như đối với “chính trị hiểm họa vũ khí hạt nhân không hiện hữu” trong vùng Vịnh Ba Tư. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 02-02-2012 Chú Thích: Phần lớn bài viết đã dựa trên tư liệu của Pepe Escobar, phóng viên của báo Asia Times, tác giả cuốn: Obama Does Globalistan, Nimble Books, 2009. [1] …Atoms for Peace… [2] .. a 5-megawatt, light-water type research reactor…. [3] …An aggressive successor to the Shah might consider nuclear weapons the final item needed to establis Iran’s complete military dominance of the region. [4] The Shah of Iran is sitting on top of one of the largest reservoirs of oil in the world. Yet he’s building two nuclear plants and planning two more to provide electricity for his country. He knows the oil is running out — and time with it. [5] Iran-Contra Affair. [6] …”float on a sea of oil.” [7] Are they trying to develop a nuclear weapon? No. But we know that they’re trying to develop a nuclear capacity. And that’s what concerns us. And our red line to Iran is do not develop a nuclear weapon. That’s a red line for us. [8] National Intelligence Estimate… [9] U.S. Intelligence Community… [10] …a Davutoglu-coined foreign policy of “zero problems with our neighbors.” [11] Iran can remain in international isolation. [12] ..the Israel-first crowd in Washington… [13] Silk Road. [14] National Iranian-American Council… [15] Gulf Cooperation Council [16] Gulf Counterrevolution Council [17] Operation Northwood [18] …Full Spectrum Dominance…
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:21:14 GMT 9
HOA KỲ-IRAN VÀ EO BIỂN HORMUZ Sau ngày 27-12-2011, mây mù chiến tranh ngày một bao phủ Eo Biển Hormuz nối liền Vịnh Ba Tư với Ấn Độ Dương, và xa hơn nữa, với Thái Bình Dương. Ngay hôm đó, Phó TổngThống Mohammad Reza Rahimi đã cảnh cáo: Tehran có thể ngăn chặn lưu thông hàng hải qua eo biển và gây xáo trộn trên các thị trường năng lượng quốc tế, nếu Tây Phương áp đặt các chế tài kinh tế mới lên Iran. Rahimi tuyên bố: “Nếu họ áp đặt các chế tài lên dầu xuất khẩu của Iran, lúc đó ngay cả một giọt dầu cũng không thể chảy qua Eo Biển Hormuz.”[1] Xác quyết một động thái như thế sẽ được xem như tấn công vào quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ, T T Obama, theo tường trình của báo chí, đã thông tri cho lãnh tụ tối cao Iran Ayatollah Ali Khamenei, Hoa Thịnh Đốn sẽ dùng vũ lực để duy trì tự do lưu thông qua eo biển. Để hậu thuẩn cho lời đe dọa, cả hai bên đã tăng cường lực lượng trong khu vực và tổ chức các đợt thao diễn quân sự mang tính răn đe. Bổng chốc, Eo Biển Hormuz đã trở thành điểm nóng bỏng nhất hành tinh, một địa điểm rất dễ chứng kiến một cuộc xung đột lớn giữa các đối thủ trang bị vũ khí hiện đại. Tại sao tình hình lại đã trở nên sôi sục đến thế? Đã hẳn, dầu là yếu tố quan trọng của câu trả lời, nhưng cũng chỉ một phần — một nhận thức có thể gây ngạc nhiên. Dầu lửa vẫn luôn là nguồn năng lượng chính yếu của thế giới, và vào khoảng 1/5 số cung dầu của hành tinh được chuyển tải bằng tàu dầu đi qua eo biển. Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ vào hồi cuối năm 2011 đã ghi nhận: “Hormuz là điểm tắc nghẽn dầu lửa quan trọng nhất thế giới vì dòng chảy qua eo biển đã lên gần 17 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2011.”[2] Vì không một khu vực nào khác có khả năng thay thế 17 triệu thùng dầu mỗi ngày, bất cứ một sự đóng cửa kéo dài nào cũng có thể gây ra nạn khan hiếm toàn cầu và tăng giá dầu, với xáo trộn và hoảng sợ chắc chắn theo sau. Trong tình huống đó, không ai có thể biết chắc giá dầu sẽ lên cao bao nhiêu, nhưng nhiều nhà phân tích năng lượng tin, gía dầu mỗi thùng sẽ lập tức tăng vọt, thêm khoảng 50 USD hay cao hơn nữa. Theo Lawrence J. Goldstein, một quản trị viên trong Cơ Quan Nghiên Cứu Chính sách Năng Lượng, “bạn sẽ thấy một phản ứng quốc tế không những cao, mà còn cao một cách thiếu duy lý.”[3] Mặc dù các chuyên gia quân sự tin, Hoa Kỳ sẽ sử dụng sức mạnh áp đảo của mình để quét sạch mọi bom mìn và chướng ngại trong vài ngày hay vài tuần, tình trạng hổn độn trong khu vực có thể khó kết thúc nhanh chóng. Vì vậy, giá dầu sẽ ở một mức cao khá lâu dài. Thực vậy, vài nhà phân tích e ngại giá dầu , hiện đang ở khoảng 100 USD mỗi thùng, có thể nhanh chóng tăng gấp đôi lên trên 200 USD, xóa nhòa mọi viễn ảnh phục hồi kinh tế ở Hoa Kỳ và Tây Âu, và có thể xô đẩy hành tinh trở vào đại suy thoái. Người Iran hiểu rất rõ điều nầy. Và với kịch bản ác mộng đó, họ đang tìm cách làm nản lòng giới lãnh đạo Tây Phương trong mưu toan áp đặt các chế tài kinh tế mới cũng như các hành động che dấu khác khi họ đe dọa đóng cửa eo biển. Nhằm đánh tan mọi âu lo, các quan chức Hoa Kỳ cũng đã tỏ ra không kém cứng rắn khi nhấn mạnh quyết tâm duy trì tự do lưu thông trong eo biển. Trong tình huống cực kỳ căng thẳng đó, bất cứ một bước sai lầm bởi bất cứ bên nào cũng có thể kéo theo những tai họa khôn lường và cũng có thể biến đổi thái độ hay ngôn từ hiếu chiến thành xung đột thực sự. CHÚA TỂ VÙNG VỊNH BA TƯ Nói một cách khác, dầu lửa, thiết yếu cho sự vận hành kinh tế toàn cầu, là yếu tố rõ ràng nhất trong các câu chuyện về chiến tranh, nếu không phải chiến tranh thực sự. Cũng có ý nghĩa không kém quan trọng là các yếu tố chính trị liên hệ, những yếu tố có gốc rễ trong địa-chính-trị dầu lửa, nhưng tự thân cũng đã có một đời sống riêng. Bởi lẽ phần lớn trữ lượng dầu dễ khai thác nhất trên thế giới đều tập trung trong Vịnh Ba Tư, và vì một dòng chảy năng lượng đều đặn là yếu tố tuyệt đối thiết yếu cho sự thịnh vượng của Hoa Kỳ và kinh tế toàn cầu, từ lâu chính sách của Hoa Kỳ là ngăn ngừa các cường quốc đối nghịch có tiềm năng thủ đắc khả năng thống trị Vùng Vịnh hay ngăn chặn Eo Biển Hormuz. T T Jimmy Carter là người đầu tiên minh họa lập trường nầy trong tháng 1-1980, tiếp theo sau cuộc cách mạng Hồi Giáo ở Iran và cuộc xâm lăng Afghanistan của Liên Bang Xô Viết. Carter đã tuyên bố trước Lưỡng Viện Quốc Hội: “Bất cứ một nổ lực nào của một lực lượng bên ngoài tìm cách kiểm soát vùng Vịnh Ba Tư cũng sẽ bị xem như một cuộc tấn công vào quyền lợi sinh tử của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và một cuộc tấn công như thế sẽ bị chống đối bằng mọi phương tiện cần thiết, kể cả lực lượng quân sự.”[4] Với nhận thức nầy, Hoa Thịnh Đốn đã tự nhận là chúa tể vùng Vịnh, và được trang bị với đầy đủ sức mạnh quân sự để áp đảo bất cứ quốc gia thách thức tiềm năng nào. Tuy nhiên, vào thời đó, quân lực Hoa Kỳ chưa được tổ chức hoàn bị để thực thi sáng kiến của tổng thống, từ đó đã được biết dưới tên gọi Chủ Thuyết Carter. Vì vậy, Ngũ Giác Đài đã phải tạo lập một tổ chức mới — Bộ Tư Lệnh Trung Ương Hoa Kỳ, The U.S. Central Command (CENTCOM), và nhanh chóng trang bị CENTCOM với đầy đủ những gì cần thiết để nghiền nát bất cứ hay tất cả các cường quốc cạnh tranh nào trong khu vực và duy trì quyền kiểm soát các tuyến đường biển liên hệ. CENTCOM khởi đầu hoạt động vào những năm 1987-88, khi lực lượng Iran tấn công các tàu dầu Kuwait và Saudi Arabia trong cuộc chiến Iran-Iraq, đe dọa dòng chảy năng lượng qua eo biển. Để bảo vệ các tàu dầu, T T Reagan đã ra lệnh cho các tàu dầu phải treo cờ Mỹ và được các tàu chiến Mỹ hộ tống, và lần đầu tiên đặt hải quân Mỹ trong tình trạng có tiềm năng xung đột với Iran. Trong bối cảnh đó, Chuyến Bay 655 của hảng Iran Air — một phi cơ dân sự chở 290 hành khách và phi hành đoàn, đã bị bắn rơi và tử vong, bởi một hỏa tiển của chiến hạm USS Vincennes, tưởng lầm như một chiến đấu cơ thù nghịch. Một thảm kịch từ lâu người Mỹ đã dễ dàng quên, nhưng người Iran vẫn luôn mang hận. Iraq là đồng minh trong thực tế của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Iran-Iraq, nhưng khi Iraq xâm lăng Kuwait năm 1990 — đe dọa trực tiếp quyền thống trị Vùng Vịnh của Hoa Thịnh Đốn — T T Bush thứ nhất đã ra lệnh cho CENTCOM bảo vệ Saudi Arabia và đánh bật Iraq ra khỏi Kuwait. Và khi Saddam tái xây dựng lại quân lực và ngay sự hiện diện của Saddam cũng đã được xem một đe dọa tiềm tàng đối với quyền thống trị của Hoa Kỳ trong khu vực, T T Bush thứ hai đã ra lệnh cho CENTCOM xâm chiếm Iraq và loại trừ toàn bộ chế độ Saddam Hussein, một quyết định đã đưa đến một chuổi tai họa sau đó và hiện chưa ai có thể quên. Nếu năng lượng là gốc rễ của vai trò khống chế Vùng Vịnh của Hoa Thịnh Đốn, qua thời gian, vai trò nầy cũng đã chuyển hóa thành một cái gì khác: một biểu dương hùng mạnh vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ. Trong vai trò chúa tể Vùng Vịnh và siêu cường bảo vệ dòng chảy năng lượng qua Eo Biển Hormuz, Hoa Thịnh Đốn đã tuyên cáo với thế giới: “Chúng tôi, và chỉ chúng tôi, là quốc gia có thể bảo đảm an toàn nguồn cung cấp năng lượng hàng ngày của quý vị và qua đó ngăn ngừa sự sụp đổ của kinh tế toàn cầu.”[5] Thực vậy, khi chiến tranh lạnh chấm dứt — và cùng lúc với ý thức kiêu hãnh và thể diện của Hoa Kỳ như thành trì chống lại chủ nghĩa bành trướng của khối Xô Viết ở Âu châu và Á châu — việc bảo vệ dòng chảy dầu khí Vùng Vịnh Ba Tư đã trở thành một biểu tượng rõ ràng nhất vị trí siêu cường toàn cầu, và duy trì vị trí đó cho đến ngày nay. MỌI LỰA CHỌN ĐỀU RỘNG MỞ Với sự loại bỏ Saddam Hussein trong năm 2003, đã hẳn đe dọa tiềm năng còn lại đối với quyền thống trị vùng Vịnh Ba tư của Hoa Kỳ là chính Iran. Ngay từ dưới thời Shah of Iran do Hoa Kỳ yểm trợ và tay chân lâu ngày của Hoa Thịnh Đốn trong vùng Vịnh, người Iran cũng đã tìm kiếm địa vị cường quốc hàng đầu trong khu vực. Ngày nay, dưới chế độ Hồi Giáo Shiite đấu tranh, họ càng quyết tâm hơn, và éo le thay chính nhờ sự lật đổ Saddam và trổi dậy của một chính quyền do Shiite khống chế ở Baghdad, họ đã thành công mở rộng tầm với chính trị trong khu vực. Với số phận Saddam in đậm trong ký ức, họ cũng đã xây dựng khả năng quân sự để tự vệ, và theo nhiều nhà phân tích Tây Phương, đã khởi đầu chương trình làm giàu uranium với tiềm năng cung cấp các vật liệu có thể tách biệt (fissile material) cho một vũ khí hạt nhân, nếu một ngày nào đó cấp lãnh đạo Iran lựa chọn bước tiến định mệnh đó. Do đó, Iran đang nắm trong tay một thử thách kép đối với quy chế tự tạo của Hoa Thịnh Đốn trong Vùng Vịnh. Thực vậy, Iran không những là một xứ tương đối vũ trang đầy đủ, với ảnh hưởng đáng kể ở Iraq và nhiều nơi khác trong khu vực, mà qua cách phát huy chương trình nguyên tử, còn đe dọa làm phức tạp thêm rất nhiều khả năng tấn công trừng phạt tương lai của Hoa Kỳ, tương tự những gì đã xẩy ra đối với các lực lượng Iraq trong các năm 1991 và 2003. Trong khi ngân sách quân sự của Iran nhiều lắm cũng chỉ thuộc cỡ khiêm tốn và khả năng quân sự quy ước sẽ không bao giờ sánh kịp lực lượng hùng hậu của CENTCOM trong một cuộc chạm trán trực tiếp, tiềm năng theo đuổi khả năng vũ khí hạt nhân sẽ làm phức tạp thêm rất nhiều mọi tính toán chiến lược trong khu vực. Ngay cả khi không đi tiếp những bước cuối – chế biến các bộ phận một vũ khí hạt nhân, và hiện nay vẫn chưa thấy bằng chứng Iran đã tiến tới giai đoạn quyết định đó, nổ lực nguyên tử của Iran cũng đã gây âu lo lớn cho các quốc gia trong vùng Trung Đông và đã đặt thành vấn đề sự hiện diện liên tục và khống chế của ảnh hưởng Hoa Kỳ trong toàn khu vực. Trong viễn kiến của Hoa Thịnh Đốn, bom hạt nhân của Iran, dù đích thực hay mới manh nha, sẽ là một đe dọa hiện sinh đối với vị trí siêu cường duy nhất của Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, vấn đề ngăn ngừa Iran không những trở thành một quốc gia nguyên tử, mà ngay cả chỉ một đe dọa có thể trở thành nguyên tử, đã là mục tiêu ám ảnh chính sách ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ. Các lãnh đạo Mỹ luôn xem xét liên tục các kế hoạch sử dụng quân lực làm tê liệt chương trình của Iran, qua các cuộc không tạc hoặc dùng tên lửa tấn công các căn cứ hạt nhân hay nghi ngờ. Cả Bush lẫn Obama đều đã chính thức từ chối loại bỏ biện pháp sử dụng vũ lực, như T T Obama đã nói rõ trong diễn văn Tình trạng Liên Bang gần đây. Do Thái cũng đã nhiều lần tỏ ý muốn hành động tương tự, rất có thể chỉ như một kích động để Hoa Thịnh Đốn hoàn tất dự kiến. Phần đông các nhà phân tích nghiêm chỉnh đều đã kết luận hành động quân sự có thể cực kỳ nguy hiểm, có lẽ sẽ gây nhiều thương vong dân sự và mời gọi các biện pháp trả đũa ác liệt từ phía chính quyền Iran. Hành động cũng rất có thể không thành đạt được mục tiêu: chận đứng chương trình hạt nhân Iran, phần lớn hiện đang được thực hiện sâu dưới lòng đất. Do đó, quan điểm đồng thuận trong giới lãnh đạo Hoa Kỳ và Âu châu đã là áp đặt các biện pháp chế tài kinh tế, buộc người Iran phải đến bàn hội nghị, nơi họ có thể được dẫn dụ hay thuyết phục từ bỏ các tham vọng hạt nhân, để đổi lại các lợi lộc kinh tế. Nhưng leo thang các chế tài, hình như chỉ có tác dụng gia tăng các nổi đau kinh tế của thường dân Iran, đã bị các lãnh đạo Iran minh họa như một “hành động chiến tranh”, biện minh cho những đe dọa đóng cửa Eo Biển Hormuz. Căng thẳng càng gia tăng, lãnh đạo cả hai phía càng bị áp lực nặng nề phải đề kháng mạnh mẽ hơn các đe dọa của đối phương. T T Obama, đang đối mặt với nhu cầu tái cử, còn phải đương đầu với các ứng viên Cộng Hòa đối thủ đang rêu rao chính quyền Obama đã thất bại trong nổ lực chận đứng chương trình hạt nhân Iran, mặc dù không một ứng cử viên Cộng Hòa nào có được một kế hoạch khả tín. Về phía mình, T T Obama cũng đã giữ một lập trường lúc một cứng rắn hơn về đề tài nầy. Trong khi đó, giới lãnh đạo Iran — đã tỏ rõ âu lo không những điều kiện kinh tế trong nước ngày một xấu đi, mà còn cả hiểm họa biến động quần chúng kiểu Mùa Xuân Á Rập — lúc một trở nên hiếu chiến hơn trong ngôn từ. Tóm lại, uy tín thống lĩnh toàn cầu, tham vọng một cường quốc cấp khu vực của Iran, và các yếu tố chính trị nội bộ, tất cả đã hội tụ và trở thành một hỗn hợp nóng bỏng làm sôi sục Eo Biển Hormuz như địa điểm nguy hiểm nhất hành tinh. Đối với Tehran cũng như Hoa Thịnh Đốn, các biến cố hình như đang dồn dập — một tình huống trong đó các tính toán sai lầm có thể trở thành khó tránh. Không bên nào có thể tỏ ra nhượng bộ mà không mất uy tín, có khi mất ngay cả việc làm. Nói một cách khác, một trắc nghiệm ý chí hiện sinh trước áp lực địa-chính-trị trong một khu vực quan yếu của địa cầu, đối với cả hai phía, hình như đang khép dần các Cửa Thoát Nguy ngày một ít . Và Eo Biển Hormuz chắc chắn sẽ còn là một ground zero tiềm năng xung đột toàn cầu trong những tháng trước mặt. CHẾ TÀI KINH TẾ: LỢI VÀ HẠI Bàn về chính sách Hoa Kỳ đối với Iran, “éo le” là tên gọi của trò chơi địa-chính-trị. Một mặt, các chế tài ngày một khắt khe chính quyền Obama đang tìm cách áp đặt lên kỹ nghệ năng lượng Iran, cố nhiên, sẽ gây nhiều khó khăn kinh tế và khổ đau cho thường dân Iran. Một mặt khác, các biện pháp chế tài cùng lúc cũng là điều đáng mừng đối với một số quốc gia Hoa Thịnh Đốn không mấy ưa thích. Chẳng hạn, TQ hiện đang mua khoảng 22% dầu xuất khẩu của Iran. Với nền kinh tế đói dầu, TQ trong trường kỳ chắc sẽ phải nhập khẩu năng lượng từ Iran ngày một nhiều hơn. Với các chế tài của Mỹ, giá mua căn bản đang thương thảo có thể thấp vì Iran lệ thuộc vào thị trường TQ ngày một nhiều hơn. Thử tưởng tượng Liên Bang Nga khi đối diện với một Eurozone thiếu dầu xuất khẩu của Iran. Chắc hẳn quốc gia sản xuất năng lượng khổng lồ phải hồ hởi trước một thị phần năng lượng Âu châu lớn hơn, với giá cao hơn. Ngay cả Saudi Arabia, mặc dù là đồng minh ý hợp tâm đầu của Mỹ, chắc cũng thỏa thích khi thấy giá dầu tăng cao trong khi rất cần nhiều tiền để chủng ngừa quần chúng trước căn bệnh truyền nhiễm tiềm năng - Mùa Xuân Á Rập. Và Iraq, với một biên giới bỏ ngõ, nạn chợ đen dầu Iran lan tràn, và một chính quyền Shiite ở Baghdad, dĩ nhiên sẽ vui lòng trợ giúp Iran, một láng giềng gần. Tất cả các quốc gia kể trên cần phải tri ân Hoa Kỳ! Nhưng ai là người phải trả giá? Trước tiên, cố nhiên là thường dân Iran – nạn nhân! Về lâu về dài, các nền kinh tế khập khiểng của Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha, từ lâu lệ thuộc vào dầu Iran, đã hẳn sẽ gây thêm nhiều khó khăn cho Eurozone đang hờn dỗi. Và cũng không nên quên kinh tế Hoa Kỳ khi giá dầu tăng vọt, hay T T Obama, khi hy vọng ở kết quả cấm vận/chế tài biến thành tai họa kinh tế trong năm bầu cử. Ngay cả dự án, gửi tàu đổ bộ làm căn cứ nổi cho các cuộc hành quân đặc biệt và ngụy trang của Navy SEAL vào tháng 7-2012 sắp tới, cũng chỉ có thể làm tình hình thêm căng thẳng trong vùng Vịnh Ba Tư, một địa điểm vốn đã sôi sục và dễ bùng nổ nhất hành tinh. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 04-02-2012 [1] If they impose santions on Iran’s oil exports, then even one drop of oil cannot flow from the Strait of Hormuz. [2] Hormuz is the world’s most important oil chokepoint due to its daily oil flow of almost 17 million barrels in 2011. [3] You would get an international reaction that would not only be high, but irrationally high. [4] Any attempt by an outside force to gain control of the Persian Gulf region ll begardd as an assault on the vital interests of the UnitSates of America, and such an assault will be repelled by by any means necessary, including military force. [5] We, and we alone, are the ones who can ensure the safety of your daily oil supply and thereby prevent global economic collapse.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:22:42 GMT 9
SOI GƯƠNG ĐỂ TỰ NHẬN DIỆN hay KHỦNG HOẢNG HOA KỲ-IRAN MẨU TIN ĐẶC BIỆT (Tehran, FNA) Hảng thông tấn The Fars News Agency ở Tehran đã xác nhận với Bộ Tư Lệnh Hành Quân Bắc Mỹ của Vệ Binh Cộng Hòa: một đội com-măng-đô tinh nhuệ mới của Iran đang hoạt động trong vùng biên giới Hoa Kỳ-Mexico. Sứ mệnh cơ bản hàng ngày của đội, được biết như Đội Đặc Nhiệm Hành Quân Đặc Biệt Hỗn Hợp Vùng Vịnh Mexico, hay JSOG-MTF,[1] là huấn luyện và cố vấn các đơn vị quân đội Mexico trong vùng biên giới trong cuộc chiến chống các cartel nha phiến tối nguy hiểm . Thiếu Tá Amir Arastoo, phát ngôn nhân của lực lượng hành quân đặc biệt Bắc Mỹ của Vệ Binh Cộng Hòa, đã nói với Fars: “Đội Đặc Nhiệm cung cấp “các huấn luyện viên rất tinh nhuệ, đặc biệt xuất sắc trong các môi trường bất định, và đang tìm cách đương đầu với các đe dọa bất thường…”[2] Đơn vị bắt đầu hoạt động vào giữa năm 2009 — thời điểm Hoa Thịnh Đốn đã bác bỏ nổ lực của giới lãnh đạo Iran tìm kiếm một đối thoại ngoại giao mới. Tuy nhiên, những gì toán đặc nhiệm toan tính đối với Hoa Kỳ – hay có thể làm trong tương lai — là một đế tài nhạy cảm đối với Vệ Binh Cộng Hòa. “Thảo luận những kế hoạch hành động liên quan đến bất cứ một quốc gia đặc biệt nào cũng là một việc làm không thích đáng,“[3] Arastoo đang nói về Hoa Kỳ. Mẩu tin nầy đã hẳn chỉ là một hư cấu. Trong mọi trường hợp, người Mỹ cũng nên đọc và xem như tấm kiến phản chiếu những gì nhà cầm quyền Mỹ đang công khai thực hiện trong chiến lược chống Iran, để hiểu chính mình hơn. Thực vậy, mặc dù đang tuột dốc, Hoa Kỳ cũng đã tự tạo và duy trì con đường một chiều dành riêng cho chính mình trên hành tinh. Thực vậy, Hoa Thịnh Đốn hiện có đội quân đặc biệt mới, được biết dưới tên gọi “Joint Special Operations Task Force – Gulf Cooperation Council hay JSOTF-GCC”, đang hoạt động gần Iran, và theo Wired magazine’s Danger Room blog, chúng ta chưa thực sự hiểu rõ nhiệm vụ, ngoài việc giúp huấn luyện các lực lượng tình báo và quân sự của các đồng minh như Bahrain và Saudi Arabia. Và sau đây là câu chuyện hoàn toàn thực, theo lời của chính “phát ngôn viên các lực lượng hành quân đặc biệt của Hoa Kỳ ở Trung Đông,” không phải của “đại diện Vệ Binh Cộng Hòa Iran.”[4] Và vâng, hầu hết người Mỹ, nếu biết sự hiện hữu của đội quân đặc biệt mới, có lẽ họ sẽ không ngạc nhiên trước sự kiện lực lượng Hoa Kỳ đang hoạt động sát, nhưng chưa vượt qua biên giới Iran, ít ra khi “an ninh” của Hoa Kỳ không bị đe dọa, hay chưa cần thiết. Lật ngược trở lại, câu chuyện lập tức trở thành một chuyện hoang đường ác tính, nếu không muốn nói là không thể tưởng tượng. Đã hẳn, sẽ không bao giờ có chuyện một lực lượng tinh nhuệ nào đó của Iran có thể hoạt động dọc biên giới Hoa Kỳ-Mexico — không thể có chuyện đó trong thế giới nầy. Hoa Thịnh Đốn sẽ không bao giờ ngồi yên vì vẫn luôn là quốc gia với quân lực khổng lồ và vô song trên hành tinh. Trên bình diện quân sự, để so sánh, Iran chỉ là một cường quốc vị thành niên – một minor power. Bất cứ lực lượng Iran nào đến gần biên giới Mexico cũng được xem đã vi phạm một trong những đường ranh đỏ các quan chức Hoa Hỳ luôn nói đến, và vì vậy, là một tội phạm quốc tế ghê gớm cần được chế tài tức khắc và nghiêm khắc. Hơn thế nữa, sự hiện diện chắc chắn sẽ được xem như một hành vi chiến tranh, và được tường thuật với những hàng tít lớn trong vùng Bắc Tây Bán Cầu. Các ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa sẽ điên tiết. Và các bạn có thể tưởng tượng những gì tiếp theo… Thử nhớ lại phản ứng ở Hoa KỲ khi Bộ Trưởng Tư Pháp Eric Holder loan báo: một nhân viên bán xe cũ ở Texas, người Mỹ gốc Iran, đã liên hệ với một cartel nha phiến Mexico, như một phần trong âm mưu kỳ quái bởi các thành viên cao cấp, thuộc tổ chức Quds Iran ưu tú, nhằm ám sát đại sứ Saudi Arabia trong một tiệm ăn ở Hoa Thịnh Đốn và có thể cả âm mưu cài bom các tòa đại sứ Do Thái và Saudi Arabia. Liền sau đó, mặc dù đã có nhiều nghi vấn về tính khả tín của một âm mưu như thế của Iran, thế giới cũng đã chứng kiến một Hoa Thịnh Đốn giận dữ đến điên cuồng. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã nhấn mạnh “Iran đã vượt qua đường ranh cần phải buộc chịu trách nhiệm.”[5] Dân biểu Peter King, chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc nội Hạ Viện, và báo The Wall Street Journal, gọi đó là “một hành động chiến tranh”[6]. Chủ tịch Hạ Viện John Boehner cũng đã phụ họa: đây là “một vi phạm rất nghiêm trọng quy tắc ứng xử quốc tế,”[7]. Trong khi đó, Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ Viện, Mike Rogers, còn lớn tiếng răn đe: “Iran đã vượt qua bậc thềm rất nguy hiểm và kêu gọi chính quyền Obama phải có hành động “vô tiền khoáng hậu.”[8] Trái lại, không một ai ở Hoa Kỳ có thì giờ để quan tâm đến sự kiện “đội hành quân đặc biệt Hoa Kỳ đang bám sát biên giới Iran” như một điều bất bình thường, hoặc có tiềm năng vượt qua đường ranh đỏ, hoặc bước quá giới hạn những gì cộng đồng quốc tế chấp nhận. Trong thực tế, ngay cả giới truyền thông và báo chí ở Hoa Thịnh Đốn cũng không có lấy một hàng tít hay một lời bình luận, tuyệt đối không. Xét cho cùng, ai cũng biết Iran chỉ có thể là “cá đã ra khỏi nước” khi đến Mexico, và người Mỹ thì luôn hành động như một “minh chủ”, dù đang ở Vịnh Ba Tư hay bất cứ nơi nào khác trên địa cầu. CUỘC CHIẾN IRAN CHỐNG HOA KỲ Giờ đây, tạm quên đi các định luật về trọng-lực-chính-trị cũng như quân-sự, và lượm lặt thêm một ít chi-tiết chuyện-hoang-đường. Thử tưởng tượng vào cuối năm 2007: Các giáo sĩ Hồi Giáo cầm quyền ở Iran và các cố vấn quân sự đã quyết định nâng cấp các hoạt động, khá quan trọng và được ngụy trang, chống lại Hoa Thịnh Đốn, kể cả các cuộc hành quân vượt qua biên giới, đồng thời tăng cường chiến dịch bí mật nhằm “bất-ổn-hóa” hàng ngũ giới lãnh đạo Mỹ — gọi đó là cuộc chiến che đậy nếu muốn — được tài trợ hàng trăm triệu USD từ tiền bán dầu; Chính quyền Iran và đồng minh của họ ủng hộ những nhóm vũ trang thù nghịch với Hoa Thịnh Đốn; gửi nhiều phi cơ tự động không người lái tân tiến trong các phi vụ tình báo trên không phận Hoa Kỳ; áp đặt các chế tài lúc một leo thang, trong nhiều năm đã gây khổ đau trong quần chúng Hoa Kỳ, nhằm buộc Hoa Thịnh Đốn phải tháo gở kho vũ khí nguyên tử và từ bỏ chương trình hạt nhân, quân sự và hòa bình, theo đuổi từ năm 1943; Họ và một đồng minh đã khai triển và phát động một vi khuẫn điện toán nhằm phá hoại các máy ly tâm Hoa Kỳ và du nhập những cơ phận đã bị phá hoại vào dây chuyền cung cấp hạt nhân; đã khuyến khích các nhà khoa học nguyên tử Mỹ đào nhiệm; một trong các đồng minh của họ đã phát động chương trình ám sát các khoa học gia và kỷ sư nguyên tử Hoa Kỳ, hạ sát 5 trong số những người nầy trên các đường phố Mỹ; Họ cũng đã phát động một chiến dịch toàn cầu buộc thế giới từ chối mua hàng của Mỹ, kể cả phim Hollywood, iPhone, iPod, iPad, và vũ khí các loại, qua các biện pháp chế tài/cấm vận các giao dịch với ngân hàng Mỹ. Và tổng thống Mỹ, bị bủa vây trong chiến tranh, đã tuyên bố đóng cửa Vịnh Mexico đối với các tàu sân bay của Iran và đe dọa mọi xâm nhập vào hải phận sẽ có hậu quả khốc liệt. Thử tưởng tượng, để đáp lại, nhà cầm quyền Iran đã nhanh chóng gửi tàu sân bay Mossadegh, và đội tàu chiến tháp tùng trực tiếp vào vùng Vịnh Mexico, không mấy xa Florida, và một tàu sân bay thứ hai, Khomeini, và đội đặc nhiệm hành quân đến một căn cứ trong vùng Caribbean Sea để yểm trợ. (Đã hẳn, Iran hiện chưa có tàu sân bay, nhưng tạm thời quên đi điều đó). Và cũng không nên quên, trong kịch bản kỳ quái đó, tất cả những điều kể trên chỉ là những gì chúng ta đã biết hay nghi ngờ. Chúng ta cũng phải giả sử còn nhiều khía cạnh chưa biết về các chiến dịch trong bóng tối, nhằm thay đổi chế độ ở Hoa Thịnh Đốn. Giờ đây, khi gán buộc vào Iran, danh sách trên đây có vẻ phi lý. Nếu những điều đó đã thực sự xẩy ra, chắc chắn tất cả đều đã được toàn bộ quang phổ chính trị Hoa Kỳ xem như một điều kinh tởm, những chương trình hành động phi pháp, bất chính, và vô luân, phải được chống đối bằng mọi giá. Trong thực tế, như mọi người đều biết, đó chỉ là một minh họa những gì chúng ta đã biết hay nghi ngờ Hoa Kỳ đã và đang làm, đơn phương hay phối hợp với đồng minh Do Thái — hay những gì, trong trường hợp những hành động ám sát các khoa học gia nguyên tử (và có thể cả vụ đặt chất nổ phá hủy phần lớn một căn cứ tên lửa của Iran, sát hại một trung tướng và 16 người khác), rõ ràng đã do chính người Do Thái đơn phương thực hiện, nhưng có thể với sự đồng ý kín đáo của Hoa Thịnh Đốn. Tóm lại, dù có bỏ công tìm kiếm tất cả các tin tức dòng chính, chúng ta cũng không thể tìm thấy những từ như “bất hợp pháp“, “không chính đáng”, hay “vô đạo đức“, hay ngay cả một “vi phạm rất nghiêm trọng cách ứng xử quốc tế”, ứng dụng vào những trường hợp kể trên, mặc dù chúng ta chắc chắn dễ dàng tìm thấy nhiều tường trình khởi sắc về tiềm năng phá hoại trong vùng của Hoa Kỳ — những loạt bài, nếu được đăng trong báo chí Iran do nhà nước kiểm soát, người Mỹ luôn xem như tuyên truyền. Trong khi ba ứng cử viên tổng thống khác lớn tiếng đòi nợ máu Iran trong các cuộc vận động tranh cử nội bộ của đảng Cộng Hòa gần đây, ứng viên Ron Paul – ứng viên bàng quan duy nhất, đã phơi bày một sự thật hiển nhiên: “đợt chế tài dầu lửa mới nhất do Hoa Thịnh Đốn áp đặt và Liên Hiệp Âu châu vừa nhất trí ủng hộ, có nghĩa cấm bán dầu Iran trên thị trường quốc tế, trong cốt lõi, là một ‘hành động chiến tranh,’ [9] trước khi Iran đưa ra lời đe dọa đóng cửa Eo Biển Hormuz gần đây” – tuyến đường hàng hải chuyển vận phần lớn số dầu của thế giới (chắc khó lòng diễn ra). Tưởng cũng cần ghi nhận, cuộc chiến ngụy trang chống Iran, bề ngoài chỉ nhằm một vũ khí hạt nhân không hiện hữu, các lãnh đạo Iran cũng đã nói rõ họ không sản xuất, và kết quả điều tra của chính cộng đồng tình báo Mỹ trong năm 2007 và 2010 cũng đã xác nhận không có dấu hiệu chế tạo. Trong hiện tình, quá lắm, người Mỹ cũng chỉ có thể tin, Iran đang tìm cách hướng tới khả năng tách biệt các vật liệu khả dĩ dùng để chế tạo vũ khí, nếu họ lấy quyết định hoàn tất những bước cần thiết kế tiếp… Riêng đối với vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ hiện có 5113 đầu đạn nguyên tử, được tin là cần thiết để bảo đảm an toàn cho Mỹ và thế giới. Đây là số vũ khí người Mỹ mặc nhiên xác quyết chỉ họ mới đáng tin cậy và cần được quyền nắm giữ, mặc dù Hoa Kỳ vẫn còn là quốc gia duy nhất đã từng sử dụng vũ khí hạt nhân, xóa trọn hai thành phố và tàn sát khoảng 200.000 thường dân Nhật. Tương tự như thế, người Mỹ cũng luôn tin thế giới sẽ an toàn hơn với 200 vũ khí hạt nhân không được công bố của Do Thái, một kho vũ khí đủ để hủy diệt văn minh nhân loại. Nhưng người Mỹ lại tin chắc chỉ cần một vũ khí hạt nhân trong tay Iran cũng đủ triệt tiêu mọi mầm sống trên hành tinh. Bên cạnh nổi âu lo nầy còn một sự kiện thường được viện dẫn khác: Iran dưới quyền lãnh đạo của các giáo sĩ Hồi Giáo đang đàn áp bất cứ thành phần đối lập nào. Tuy nhiên, niềm tin đó vẫn không đủ để ngăn chính quyền Mỹ thu nhận làm đồng minh một số quốc gia trong vùng Vịnh Ba Tư, như Bahrain, một đế chế đã từng sát hại, cầm tù, tra tấn phe đối lập…, và Saudi Arabia, một xứ đã thẳng tay đàn áp phe bất đồng chính kiến quốc nội… Trên tiêu chí hại dân, Iran cũng chưa đủ tư cách đứng chung hàng ngũ với các đồng minh của Hoa Kỳ trước đây, như Tướng Augusto Pinochet của Chile, người đã tàn sát một số dân lớn hơn số tử vong trong biến cố 11-9-2001, hay nhà độc tài Suharto, người phải chịu trách nhiệm ít ra con số nửa triệu thường dân tử vong ở Indonesia. HOA THỊNH ĐỐN LUÔN AN TOÀN VÀ THOẢI MÁI Sau đây là bối cảnh căn-bệnh-bị-ám-ảnh-đến-cuồng-điên-bởi-Iran của Hoa Kỳ. Hoa Thịnh Đốn luôn xem thế giới như sân sau của chính mình, và đã thiết lập mạng lưới khoảng trên dưới 1.000 căn cứ quân sự trên khắp hành tinh, một cách độc đáo trong lịch sử, mà chẳng cần đến các thuộc địa trực tiếp (chưa kể những căn cứ trong những vùng đang có chiến tranh hay những căn cứ Ngũ Giác Đài không ưa xác nhận). Hoa Kỳ đã luôn hành động như thế, và người Mỹ vẫn chẳng lấy làm kỳ lạ. Một trong những lý do tương đối đơn giản: điều được gọi là “an toàn” và “an ninh” của người Mỹ đã biến thái thành một đề mục quốc tế. Trong thực tế, đó là chuẩn mực hành động toàn cầu, một chuân mực chỉ người Mỹ hay đồng minh khắng khít nhất của Mỹ mới có thể viện dẫn. Các quốc gia khác được đặt dưới những quy luật ứng xử mang tính hạn chế hơn rất nhiều. Kết quả: Ngày nay Tổng thống Mỹ có thể gửi các phi cơ tự động không người lái và các lực lượng hành quân đặc biệt, đến hầu như bất cứ nơi nào, để ám sát bất cứ ai ông ta chỉ đích danh như một đe dọa đối với an ninh của Hoa Kỳ. Bởi lẽ người Mỹ hiện diện khắp nơi, thoải mái ở bất cứ nơi nào, có quyền lợi bất cứ ở đâu, họ có thể thực sự bị đe dọa bất cứ ở đâu. Bất cứ ở đâu người Mỹ đã định cư — ở Vùng Vịnh, chẳng hạn — họ luôn cố thủ, những đường ranh đỏ được tạo ra, tất cả những ai khác đều bị cấm không được quyền vi phạm. Để bảo vệ quyền lợi – nói một cách trung thực, quyền lợi dầu lửa — người Mỹ đã có thể lật đổ, dù được ngụy trang, chính quyền Iran năm 1953 (khởi đầu một chuổi biến cố đưa đến cuôc khủng hoảng hiện nay trong Vịnh Ba Tư), và người Mỹ cũng có thể, một lần nữa, tìm cách lật đổ một chính quyền Iran khác trong năm 2012. Một vấn đề duy nhất được thảo luận nghiêm chỉnh ở Hoa Kỳ: bằng cách nào người Mỹ có thể làm được việc đó, hay có thể nào họ làm được điều đó mà không gây tai hại không thể cứu chữa nhiều hơn? Hiệu quả, không phải tính hợp pháp hay đạo đức, là mực thước duy nhất. Ít ai trong thế giới đặt thành vấn đề quyền hành động của người Mỹ, mặc dù rõ ràng quyền của bất cứ nhà nước nào khác làm một điều gì đó tương tự với một trong số các đồng minh của Mỹ hay chính người Mỹ đã làm, dù chỉ để trả đũa hay ngay cả đe dọa trả đũa, đều được xem như đáng kinh ngạc, như đã vượt khỏi mọi đường ranh đỏ và mọi chuẩn mực ứng xử . Định kiến đó, và những hành động đi kèm, đã thổi phồng một vấn đề toàn cầu nhiều lắm cũng chỉ thuộc cỡ khiêm tốn thành một vấn đề sinh tử. Iran như một quái vật toàn cầu ngày nay gần như đã trở thành một quốc gia thù nghịch tầm cỡ đối với Hoa Thịnh Đốn hiện nay. Tuy vậy, mặc dù với trữ lượng dầu khổng lồ, Iran cũng vẫn chỉ là một cường quốc cấp khu vực luôn bất ổn, dưới sự lãnh đạo của phe Shiite chính thống gồm nhiều phe phái chia rẽ, với nhóm diều hâu hình như hiện đang thắng thế (phần lớn do các chính sách của Hoa Kỳ và Do Thái). Iran có một ngân sách quân sự tương đối khiêm tốn, và một lịch sử cận đại không hề xâm lăng các nước ngoài. Iran cũng đã chịu đủ loại áp lực nặng nề trong nhiều năm và có dấu hiệu căng thẳng. Loại áp lực do Mỹ và đồng minh đang tạo ra nền tảng cho một tình hình gay cấn, rất dễ đưa đến những tính toán sai lầm và tai họa khó tránh. Trong năm bầu cử ở Hoa Kỳ, người ta ghi nhận một ít dấu hiệu của tình trạng vừa nói. Các đảng viên Cộng Hòa — Ron Paul là một ngoại lệ — đã chọn Iran làm món khai vị trong thực đơn an ninh Hoa Kỳ (và Do Thái), một tình thế đã vượt ra khỏi mọi tầm cỡ cân đối và cực kỳ nguy hiểm. Trong thực tế, khi bàn đến vấn đề an ninh của Hoa Kỳ, phe Mỹ cực đoan lại thêm một lần khùng điên thịnh nộ, với chính quyền Obama theo đuôi. Như một thao dượt để phục hồi ý niệm quân bình cân xứng, bạn nên dừng lại trong chốc lát mỗi khi nghe nói đến các kế hoạch gây bất ổn ở Iran của Hoa Kỳ hay Do Thái, để suy tư: Người Mỹ sẽ phải làm gì nếu người Iran cũng có kế hoạch làm những gì tương tự đối với Hoa Kỳ? Trên phương diện cá nhân, mỗi chúng ta đều có thể tưởng tượng một hành tinh trong đó mỗi cá nhân có thể đã trải nghiệm một ý niệm an ninh nào đó. Và đây là điều kỳ lạ nhất: hình ảnh phản chiếu một bùng nổ trong vùng Vịnh Ba Tư (chỉ trong tưởng tượng) rất có thể giúp tất cả chúng ta được an toàn hơn. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 11-02-2012 CHÚ THÍCH: (1) Tin tức Iran khởi đầu trong bài viết đã được lấy từ bài “New U.S. Commando Team Operating Near Iran”, với vài thay đổi, do Spencer Ackerman đưa lên Wired’s Danger Room blog, một blog giúp cập nhật các thông tin quân sự. (2) Tư liệu sử dụng lấy từ Antiwar.com, Juan Cole’s Informed Comment; Paul Woodward’s the WAR in Context; và Tom Engelhardt trong the American Empire Project. [1] Joint Special Operations Gulf of Mexico Task Force [2] The task force provides “highly trained personnel that excel in certain environments, and seeks to confront irregular threats…” [3] It would be inappropriate to discuss operational plans regarding any particular nation. [4] …out of the mouth of a U.S. spokesman for speial-operations forces in the Mideast … [5] …it crosses a line that Iran needs to be held to account for. [6] …arguably an act of war… [7] …a very serious breach of international behavior… [8] House Intelligence Committee Chairman swore that it crossed a very dangerous threshold and “called for unprecedented action by the Obama adminisration.” [9] ..an act of war…
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:23:56 GMT 9
KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU: ÂU CHÂU, HOA KỲ, TRUNG QUỐC Kinh tế thế giới giàu đang trong tình trạng tồi tệ. Từ đầu tháng 8-2011, nhiều tín hiệu báo động đã được ghi nhận. Ở Âu châu, tỉ suất lợi nhuận của trái phiếu thời hạn 10 năm ở Ý và Tây Ban Nha đã lên trên 6%. Hoa Kỳ trong khi đó đã tỏ ra âu lo khi tầm cỡ an toàn tín dụng đã bị xuống cấp bởi một trong những cơ quan thẩm định lớn – S&P’s. Trên khắp thế giới, các thị trường chứng khoán chao đảo, một vài thị trường đã ghi nhận mức độ sụt giảm lớn nhất trong một ngày kể từ 2008. Chứng khoán các ngân hàng cũng sụt giảm mạnh, một chỉ dấu bất ổn trầm trọng trong hệ thống tài chánh. Các ngân hàng trung ương đã phải can thiệp. Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu (ECB) cho biết có thể ứng cứu Tây Ban Nha và Ý qua việc mở rộng chương trình mua trái phiếu của hai xứ nầy. Cùng lúc, Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ cũng đã thông báo sẽ giữ mức lãi suất thấp gần số không ít ra cho đến năm 2013, và ám chỉ có thể có nhiều biện pháp khác hổ trợ nền kinh tế. Tỉ suất lợi nhuận các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha đã sụt giảm phần nào. Đà suy sụp trên thị trường chứng khoán đã tạm thời dừng lại, dù chỉ ngắn ngũi, khi sự âu lo lan tràn tới Pháp. Mặc dù các nền kinh tế đang lên vẫn tăng trưởng đủ mạnh để duy trì tăng trưởng toàn cầu, làn sóng bi quan ở Âu châu và Hoa Kỳ đang đè nặng lên toàn thế giới. ÂU CHÂU VÀ HOA KỲ Tâm trạng bi quan rõ ràng có gốc rễ từ các dữ kiện kinh tế, nhất là từ Hoa Kỳ, cho thấy đà hồi phục hết sức chậm chạp. Tuy nhiên, cũng cần nhắc đến nổi ám ảnh với các nguy cơ chính trị. Sau hơn ba năm trông chờ các chính trị gia giải quyết các vấn đề, các nhà đầu tư đã mất hết tin tưởng. Một thỏa hiệp tồi tệ nâng mức trần công trái với Quốc Hội Mỹ và sự bất lực của khu vực euro trong nổ lực giải quyết các vấn đề khó khăn không những chẳng tốt lành, mà còn cho thấy các chính trị gia hoặc đang thất bại hay đang làm tình hình ngày một tệ hại hơn. Làn sóng thất vọng cũng đã ảnh hưởng đến lòng tin của giới doanh nhân.The Economist/FT global business barometer mới nhất, một cuộc thăm dò các nhà quản lý trên khắp thế giới, tiết lộ những kẻ tin điều kiện sẽ tồi tệ hơn trong vòng sáu tháng tới vượt quá số người đang chờ đợi một sự cải thiện đến 10,5 %, một sự đổi chiều lớn so với cuộc thăm dò trong tháng 5. Các xí nghiệp Hoa Kỳ giờ đây có thái độ cẩn trọng hơn nhiều trong việc bỏ thêm vốn đầu tư. Chừng nào tình trạng nầy còn kéo dài, các ngân hàng trung ương, ngay cả khi quyết định đúng, may mắn lắm cũng chỉ có thể đem lại một liều thuốc giảm đau. Chuổi sụt giảm trên thị trường chứng khoán trong mấy tuần qua đã gây thêm mất tin tưởng, nhưng cũng chưa phải lý do để phải quá hoảng sợ. Một sự điều chỉnh trong giá trị các tích sản Hoa Kỳ lẽ ra đã phải thể hiện sớm hơn: chỉ số S&P 500 đã tăng gấp đôi kể từ mức thấp nhất trong tháng 3-2009, và tỉ số giá cả thị trường điều chỉnh theo chu kỳ/lợi tức[1] – 20,7, vào ngày 4-8-2011, mức cao hơn rất nhiều so với tỉ số trung bình 16,4. Đà phục hồi sau suy thoái tài chánh yếu ớt, trong khi khu vực tư đang trả bớt nợ nần. Từ lâu thị trường trái phiếu đã ghi nhận thực tế vừa nói, và cuối cùng có thể đã phải cùng chung số phận với các thị trường chứng khoán. Tuy vậy, kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn dấu hiệu sinh động: tháng 7-2011 đã ghi nhận 117,000 việc làm mới, tuy chưa đáng kể, nhưng không phải là bằng chứng của suy thoái. Tuy nhiên, nguy cơ Hoa Kỳ và các xứ giàu đang rơi trở lại suy thoái là thực sự. Gốc rễ của vấn đề ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương khá giản dị: quá nhiều nợ nần, thiếu vắng ý chí chính trị để đối phó với hậu quả. Điều đó cho thấy vấn đề thực sự đang ở đâu. Trong khu vực đồng euro, gánh nặng nợ nần, bắt đầu với các quốc gia ngoại vi, đã lan tràn đến các xứ lớn Tây Ban Nha, Ý và có lẽ cả Pháp. Như thường lệ, cuộc khủng hoảng đã dừng lại trong vài ngày tiếp theo sau phiên họp thượng đỉnh khẩn cấp trong tháng 7, để rồi tiếp tục trở lại với đe dọa mới khi các chính trị gia rõ ràng đã chưa làm đủ, và hệ thống ngân hàng vẫn đang lâm nguy. Trong lúc đó, ở Hoa Thịnh Đốn, các chính trị gia đang tiếp tục cãi vã mặc dù đã thoát nguy cơ vỡ nợ với thỏa hiệp nâng mức trần công trái, một thỏa hiệp sai quấy vì hai lý do: (1) Thắt chặt tín dụng ngắn hạn trong khi nền kinh tế đòi hỏi tăng chi và kích cầu; (2) Chưa có biện pháp xử lý vấn đề giảm thiểu khiếm hụt trong trung hạn. Vì vậy, tín dụng bị S&P xuống cấp là điều dễ hiểu. Câu hỏi cần được đặt ra là Ngân hàng trung ương có thể làm được gì? Ở Âu châu, sự can thiệp của ECB đã đem lại hiệu quả cần thiết: lợi nhuận các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha đã sụt xuống 5%. Jean-Claude Trichet, chủ tịch ECB, có thể có đủ khôn ngoan để đảo ngược quyết định nâng cao lãi suất hồi đầu năm: lạm phát trong khu vực đồng euro đã sụt giảm và cần sụt giảm hơn nữa khi giá các mặt hàng xuống thấp. Nhưng lãi suất đang ở mức khá thấp, và ECB đang ngần ngại can thiệp vào địa hạt tài chánh qua hành động mua vào nhiều hơn các công trái phiếu. Ở Hoa Kỳ, chủ tịch Cục Dự Trữ, Ben Bernenke, cần xét đến khả năng nới lỏng tín dụng đợt ba (in thêm tiền để mua trái phiếu). Tuy nhiên, tác động của biện pháp nầy có lẽ sẽ rất hạn chế , và có thể gây rắc rối thêm cho các nền kinh tế đang lên khi các xứ nầy có thể đối diện một đợt gia tăng tư bản nhập khẩu mới. GIỚI LÃNH ĐẠO BARACK OBAMA & ANGELA MERKEL… Khuynh hướng hiếu động của ngân hàng trung ương thường mang theo những bất trắc tinh thần. Nói rõ hơn, đó là nguy cơ khuyến khích các chính quyền giữ một vai trò thụ động, phó mặc cho người khác làm những việc chính quyền cảm thấy khó đảm đương. Thái độ nầy là một hành động chối từ trách nhiệm nguy hiểm và bỏ phí cơ hội. Ở Hoa Kỳ, Quốc Hội cần ủng hộ các biện pháp tài chánh đoản kỳ – gia hạn tín dụng giảm thuế căn cứ trên bảng lương nhân công, gia hạn bảo hiểm thất nghiệp, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở – và một kế hoạch khả tín cắt giảm khiếm hụt trung hạn qua cải cách thuế vụ và các chương trình an sinh xã hội. Hiện đang có những kế hoạch lưỡng đảng để làm những việc nầy. Obama và những đối thủ Cộng Hòa trước đây đã mở cữa thương nghị những chương trình lớn lao như thế. Một ủy ban mới, phụ trách giảm thiểu thiếu hụt, là một cơ hội khác. Các lãnh đạo Âu châu sẽ phải đối diện với sự lựa chọn khó khăn hơn nhiều – giữa nguy cơ tan rã của khu vực euro và liên hiệp tài chánh khắng khít hơn. Cứu vớt đồng euro sẽ đòi hỏi một quỹ cứu trợ lớn lao hơn là khu vực euro hiện sẵn sàng chấp nhận. Trên bình diện viễn kiến kinh tế, một ý tưởng mạnh dạn hơn có thể là khả năng phát hành những trái phiếu Euro được bảo đảm bởi cộng đồng các quốc gia thành viên trong khu vực. Đây là một quyết định chính trị can đảm, không phải một điều các cử tri Âu châu chỉ có thể thấy được đưa vào cữa hậu, mà là một cam kết thực hiện một công trình vĩ đại. Đã hẳn, đây là một quyết định chính trị vô cùng khó khăn. Nhưng Angela Merkel và Nicolas Sarkosy không còn nhiều lựa chọn. Các ngân hàng trung ương có thể đem lại cho các chính trị gia hai bên bờ Đại Tây Dương thêm chút ít thời gian. Và đã đến lúc các chính trị gia phải quyết định. TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ Suốt mùa đông 2010, các quan chức Trung Quốc và Hoa Kỳ đã cố gắng lật qua một trang mới trong quan hệ hai nước. Tháng 1-2011, trong cuộc công du đến Hoa Thịnh Đốn của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, lãnh đạo hai nước đã nổ lực cải thiện quan hệ giữa hai quốc gia. Sau đó, Phó Tổng Thống Joseph R. Biden đã quyết định sẽ viếng thăm Trung Quốc, vào mùa hè 2011, để gặp đối tác Xi Jinping, người được chờ đợi thay thế Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào vào năm tới. Trong khi Biden đang chuẩn bị lên đường vào hôm thứ ba 12-8, một diễn biến mới lại bao phủ quan hệ Mỹ-Hoa. Các lãnh đạo TQ đặt nhiều câu hỏi quan trọng về nền kinh tế và giới lãnh đạo Hoa Kỳ. Chính quyền Mỹ đang phải đối đầu với các khó khăn thanh toán nợ nần và phân hóa đảng phái. Và tê liệt chính trị đã biến tình trạng nầy thành một cuộc khủng hoảng. Mặc dù Biden đã quyết định hoản ngày lên đường trong tháng 7 ngõ hầu giúp đem lại thỏa hiệp nâng cao mức trần công trái, phương cách duy nhất thanh toán số nợ đáo hạn trong tháng 8, tuy vậy, vẫn không tránh được sự kiện Standard & Poor’s hạ thấp an toàn tín dụng của Hoa Kỳ từ AAA xuống AA+. Thông Tấn Xã Xinhua công bố lời bình luận đòi hỏi Hoa Kỳ phải“chữa trị bịnh ghiền vay mượn và sống trong giới hạn khả năng của chính mình.”[2] Những khó khăn kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ đã có những hệ lụy trực tiếp đến tài chánh TQ. Thực vậy, TQ đang chấp hữu hơn 1,1 nghìn tỉ công khố phiếu của Mỹ, và đã trở thành trái chủ lớn nhất của Hoa Kỳ. Không ít người TQ công khai chỉ trích cấp lãnh đạo đã đầu tư quá nhiều vào công khố phiếu Mỹ. Các nguy cơ dai dẳng không trả được nợ nước ngoài sắp đáo hạn của Âu châu, bóng ma chập chờn đại suy thoái kép của Mỹ, và những xáo trộn trên các thị trường toàn cầu, càng làm tăng thêm nỗi lo ngại của TQ, một xứ có tỉ suất tăng trưởng kinh tế tùy thuộc phần lớn vào khu vực xuất khẩu rộng lớn của mình. Zhu Feng, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại Học Bắc Kinh , cho biết: trong lần tham dự buổi họp ở Bộ Tài Chánh gần đây, ông nhận thấy các tham luận viên đều ái ngại âu lo. Theo ông, “mọi người đều cảm nhận kinh tế thế giới đột nhiên trở nên rất khó tiên liệu. Chẳng ai muốn thấy kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục tuột dốc và một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. TQ và Hoa Kỳ đang giữ một vai trò rất quan trọng – tìm cách duy trì sự ổn định trong kinh tế toàn cầu.”[3] Trong bước đầu làm quen, Biden và Xi cũng sẽ thảo luận một số vấn đề an ninh đang chia rẽ hai nước – Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan, chương trình hạt nhân của Bắc Hàn, tình hình căng thẳng trên Biển Đông hay Nam Hải… Nhưng các vấn đề kinh tế đã là những vấn đề nổi trội hàng đầu. Theo Jeffrey A. Bader, Giám đốc kỳ cựu Đông Á Sự Vụ trước tháng 4-2011 trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, “mục tiêu của chuyến công du, được hoạch định trước các khó khăn kinh tế mới đây, là để làm quen với Xi Jinping. Đã hẳn những biến cố gần đây trong địa hạt kinh tế đã là lý do các vấn đề kinh tế Hoa Kỳ và đồng USD được ưu tiên ghi vào nghị trình.”[4] Theo Da Wei, Phó Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Hoa Kỳ thuộc Liên Viện Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại Trung Quốc ở Bắc Kinh[5], đối với TQ, “nợ công khố phiếu Hoa Kỳ là mối lo ngại lớn nhất vì liên quan đến tính an toàn số đầu tư tài chánh lớn lao của TQ.”[6] Trong khi đó, theo Hoa Kỳ, những khó khăn quốc nội của TQ đã lấn át các quan hệ đối ngoại. Các nổ lực duy trì ổn định xã hội của các lãnh đạo TQ trong mùa hè đã bị thách thức bởi bạo động sắc tộc trong khu vực phía tây Xinjiang và các chỉ trích của công chúng về cách xử lý tai nạn xe lửa cao tốc trong tỉnh Zhejiang của chính quyền. Có lẽ vấn đề nhức nhối nhất đối với cấp lãnh đạo TQ là lạm phát gia tăng. Chỉ số giá tiêu thụ của TQ đã tăng 6,4% trong tháng 6-2011, cao nhất trong vòng ba năm qua. Các nhà phân tích cho biết lạm phát trung bình cho cả năm chắc chắn sẽ quá 4%, mức ấn định bởi cấp lãnh đạo. Lạm phát sẽ đặt TQ trước các khó khăn về chính sách nếu các xứ Tây phương lại rơi vào một suy thoái mới. Trong năm 2008, cao điểm của suy thoái tài chánh toàn cầu, TQ đã trông cậy vào chi tiêu công để kích cầu và nới lỏng tín dụng bởi các ngân hàng nhà nước, để bơm tiền vào các chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở và các dự án đòi hỏi những khoản đầu tư lớn lao nhằm duy trì tỉ suất tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, các quan chức TQ đang lo ngại về sự chi tiêu phung phí và đang cố gắng thắt chặt tín dụng. Một vấn đề gay cấn giữa Hoa Kỳ và TQ trước đây nay ngày một bớt căng thẳng và lùi vào hậu trường: định giá đồng nhân dân tệ – RMB. Chính quyền Obama trong một thời gian lâu dài trước đây đã thúc đẩy TQ tái định giá đồng RMB để điều chỉnh những bất quân bình trong cân thương mãi và giúp tái cơ cấu kinh tế thế giới. Chính quyền TQ đã dè dặt từ chối, e ngại khu vực xuất khẩu sẽ bị tổn thương. Tuy nhiên, đồng nhân dân tệ, nếu được định giá quá thấp một cách giả tạo, sẽ đưa đến lạm phát. Do đó, gần đây TQ đã để đơn vị tiền tệ, đồng RMB, từ từ tăng giá đối với đồng USD. Đề tài nầy có thể đang mất dần tầm quan trọng trong chính trị Mỹ. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), trong phúc trình tháng 7-2011, đã nói rõ: một đồng nhân dân tệ mạnh hơn không nhất thiết đã có thể giúp đem lại công ăn việc làm mới cho Hoa Kỳ. Chính vì vậy, thay vì Biden gây áp lực đối với TQ về tiền tệ, các quan chức TQ rất có thể sẽ gây áp lực với Biden, đòi hỏi Hoa Kỳ phải ổn định giá trị đồng USD. Trong lúc đó, TQ sẽ tìm cách đánh giá uy lực của T T Obama, trước những khó khăn đang đối diện trong nổ lực thuyết phục phe Cộng Hòa trong Quốc Hội nâng cao mức trần công trái. Kenneth G. Lieberthal, một học giả về TQ tại Brookings Institution đã từng phục vụ trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia dưới thời Clinton, đã cho biết, “khi họ tin đang làm việc với một tổng thống Hoa Kỳ mạnh, người TQ luôn ứng xử tử tế. Thật khó lòng bằng cách nào những biến cố gần đây có thể đem lại một ấn tượng tổng thống Hoa Kỳ là một lãnh đạo mạnh.”[7] Thứ năm (18-8-2011), Phái đoàn Hoa Kỳ đã đến Bắc Kinh với e ngại người TQ có thể bày tỏ lo âu về sự an toàn của số nợ khổng lồ của Mỹ. Trong thực tế, Phó T T Joseph R. Biden và các lãnh đạo TQ đã nhấn mạnh nhu cầu hợp tác kinh tế vào thời điểm kinh tế toàn cầu đang đương đầu với các khủng hoảng mới. Và các quan chức tháp tùng hiện diện trong buổi họp cho biết các lãnh đạo TQ đã nói với Biden họ vẫn có lòng tin ở hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và đã không tỏ ra quá lo ngại đối với số đầu tư khổng lồ vào trái phiếu ngân khố. Tuy nhiên, vì các quan chức TQ đã không tiết lộ gì với các phóng viên ngoại quốc, không ai có thể đoan chắc những gì đã thực sự được trao đổi. Những bình luận gần đây của các cơ quan truyền thông chính thức TQ đã phản ảnh tâm trạng hoảng sợ về số đầu tư vào trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ tiếp theo sau cuộc khủng hoảng về trần quốc trái ở Mỹ. Biden trong lúc đó vẫn trở lại một đề tài cũ: TQ cần xây dựng một nền kinh tế vững bền hơn, ý muốn nói một nền kinh tế cơ sở trên tiêu thụ quốc nội hơn là xuất khẩu. Ông nhấn mạnh một sự tái quân bình như thế là phương cách TQ có thể giúp kích thích tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ và các xứ khác, và điều chỉnh cơ cấu kinh tế của chính TQ. Thực vậy, trong cuộc họp chiều 18-8 với Wu Bangguo, chủ tịch Quốc Hội Nhân Dân và là lãnh đạo số hai ở TQ, Biden đã tuyên bố: “Đó là lý do chính tôi đã đến đây: để thảo luận về việc làm [nhân dụng] và tăng trưởng, và như đã được phát biểu sáng nay, tái cơ cấu kinh tế – của quý quốc và của chính chúng tôi.”[8] Phó T T Biden nói tiếp: Trên cương vị hai nền kinh tế lớn nhất trong thời buổi khó khăn, cả hai quốc gia “đang cùng nhau giữ vai trò nòng cốt không những trong sự thịnh vượng của chính chúng ta, mà còn là nguồn lực đem lại tăng trưởng và nhân dụng cho toàn thế giới.”[9] Các quan chức Mỹ cũng đã nhấn mạnh: khía cạnh quyết định chủ chốt của tái quân bình hai nền kinh tế là cho phép đơn vị tiền tệ TQ, đồng nhân dân tệ , tăng giá. Và theo các quan chức Mỹ, kể từ tháng 6-2010, đồng RMB đã tăng giá 7%, nhưng vẫn chưa đủ. Đây là chuyến viếng thăm TQ lần đầu của Phó T T Biden kể từ ngày nhận chức. Mục tiêu chính của chuyên công du, gồm ba ngày họp ở Bắc Kinh và thị trấn miền Tây Chengdu, là để Biden và các quan chức tháp tùng làm quen và xây dựng quan hệ với Phó Chủ Tịch Xi Jinping, người được chờ đợi sẽ trở thành lãnh đạo của TQ năm tới. Trong ngày Thứ Năm, Biden đã có hai cuộc họp với Phó Chủ Tịch Xi ở Nhân Dân Đại Sảnh và dự tiệc tối do Xi khoản đãi. Biden và Xi đến Đại Sảnh lúc 10:30 sáng. Bên trong Đại Sảnh, cả hai duyệt qua hàng quân danh dự cử hành quốc ca Hoa Kỳ và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Chủ và khách đã trao đổi lời mở đầu tại bàn hội nghị. PCT Xi nói trước, nhấn mạnh đề tài chính của cuộc thăm viếng của PTT Biden:quyền lợi đan xen chồng chéo ngày một gia tăng, nhất là quyền lợi kinh tế, giữa hai nước. Ông nói, “Tôi cũng vậy, tôi tin trong hiện tình,TQ và Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi chung ngày một rộng lớn, và chúng ta cùng gánh vác nhiều trách nhiệm chung ngày một nhiều và quan trọng hơn.”[10] Về phía Mỹ, PTT Biden nhắc lại chuyến thăm TQ đầu tiên năm 1979, khi ông còn là một nghị sĩ. Trước khi ông có thể hoàn tất lời mở đầu, được soạn thảo dành riêng cho các quan chức và báo chí, các nhân viên an ninh TQ đã buộc một số phóng viên ngoại quốc và vài nhân viên Tòa Bạch Ốc ra khỏi phòng họp. Người ta không rõ đã có sự hiểu lầm gì gây ra sự lộn xộn, thường hiếm hoi trong các cuộc họp cấp cao như thế, nhưng các quan chức Mỹ đã từ chối bình luận về sự kiện nầy. DOLLAR BẢN VỊ HAY ĐƠN VỊ TIỀN DỰ TRỮ QUỐC TẾ Ngay sau khi Standard & Poor’s xuống cấp trình độ an toàn của tín dụng Hoa Kỳ, Alan Greenspan, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã nói: “Hoa Kỳ có thể trả bất cứ món nợ nào của mình vì lẽ chúng tôi luôn có thể in thêm tiền để làm việc đó.”[11] Để trả lời, người ta thường nhắc lại trường hợp Zimbabwe. Như Cộng Hòa Phi châu thiếu may mắn nầy đã chứng tỏ, chính quyền luôn gặp một giới hạn nào đó đối với số tiền giấy có thể in, trước khi kinh tế phải đối đầu với siêu lạm phát. Tuy nhiên, Zimbabwe không còn bị siêu lạm phát. Theo The Economist Intelligence Unit, một công ty chị em của The Economist, lạm phát trung bình chỉ ở mức 5,5% năm nay. Làm thế nào Zimbabwe đã thành đạt phép lạ đó? Bí quyết là chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền tệ chính thức của mình. Như John Chambers thuộc Standard & Poor’s đã nói: người Mỹ có thể đã đánh mất mức an toàn tín dụng AAA, nhưng đồng USD sẽ “duy trì cương vị đồng tiền dự trữ quốc tế then chốt dưới bất cứ kịch bản khả dĩ nào.”[12] Theo con số mới nhất của IMF, Zimbabwe là một trong 66 quốc gia, ngoài nước Mỹ, hoặc chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền tệ chính thức, ràng buộc đơn vị tiền tệ của mình với đồng USD, hay thả nổi hối suất theo đồng USD. Đơn vị tiền tệ cạnh tranh duy nhất hiện nay, đồng euro, chỉ có một phạm vi ảnh hưởng nhỏ bé hơn, gồm 25 xứ, bên ngoài 17 quốc gia thành viên của khu vực euro. Nhóm 66 thành viên trong khu vực USD chiếm một GDP gộp lên tới 9,000 tỉ USD, hay khoảng 14% kinh tế toàn cầu. Danh sách gồm những xứ nhỏ bé như St Kitts và Nevis, vài xứ đông dân như Bangladesh, và vài cường quốc kinh tế bậc trung như Saudi Arabia. Nhóm nầy còn bao gồm các đồng minh như Qatar, và xứ kình địch như Venezuela, luôn coi thường chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ ngay cả khi đã phải hy sinh chủ quyền tiền tệ của chính mình cho Cục Dự Trữ Liên Bang hay ngân hàng trung ương của Mỹ. Trong mọi trường hợp, tất cả không phải đều tốt đẹp bên trong khối USD. Năm 2010, lạm phát trung bình lên tới 5,6% trong mọi xứ thành viên không tính theo kích cỡ GDP. Năm nay, tỉ suất lên đến 8%. Thành viên lớn nhất trong khối là Trung Quốc, xứ kiểm soát chặt chẽ các giao động của đồng RMB đối với đồng USD. TQ nuôi mộng tạo dựng một thứ tiền dự trữ riêng. Nhiều xứ đang theo dõi đồng RMB vì lẽ các xứ nầy không thể để mất khả năng cạnh tranh đối với một xứ xuất khẩu lớn lao như TQ. Một phân tích bởi ba kinh tế gia trong Viện Chính Sách và Tài Chánh Công Quốc Gia ở Delhi cho thấy: đồng RMB đã có ảnh hưởng đáng kể trên tiền tệ 33 xứ. Một nền kinh tế nằm giữa khối USD và khối RMB tiềm năng là Hong Kong. Đồng dollar Hong Kong được định nghĩa theo đồng USD là một điều dễ hiểu, vì đồng RMB cũng đang được buộc chặt với đồng USD. Một khi đồng RMB tách khỏi đồng USD, Hong Kong sẽ bị lôi kéo theo hai chiều hướng khác nhau. Vài người chủ trương chấp nhận đồng RMB làm đơn vị tiền tệ chính thức của Hong Kong song song với đồng dollar Hong Kong. Nhưng các quan chức Hong Kong cho đến nay vẫn luôn giữ thái độ im lặng về đề tài nầy. Họ e ngại thảo luận vấn đề tiền dự trữ thay thế sẽ làm suy giảm lòng tin vào đồng dollar Hong Kong. Sau ngày S&P hạ cấp tín dụng Hoa Kỳ, Norman Chan, chủ nhiệm Hong Kong Monetary Authority đã cho biết: “sự kết nối với đồng USD đã có tác dụng rất tốt đối với sự ổn định tiền tệ và tài chánh của Hong Kong từ năm 1983 đến nay.”[13] Tuy nhiên, sự trung thành với đồng USD không thể xem như thái độ tự nhiên, ngay cả trong những xứ đồng USD giữ một vị thế quan trọng nhất. Newsday số ngày 10-8-2011, một nhật báo ở Zimbabwe, đã tự hỏi: liệu đã đến lúc Zimbabwe nên rời bỏ đồng USD, e ngại Zimbabwe rồi sẽ phải nhập khẩu tính khinh suất hay liều lĩnh kinh tế vĩ mô của Mỹ. Vài người nghĩ đồng rand của Nam Phi có thể là một thứ tiền dự trữ thay thế tốt hơn. Mặc dù đồng USD vẫn còn là tiền dự trữ của thế giới, nhưng ngay cả vài người Zimbabwe nay cũng đang tìm đơn vị tiền dự trữ thay thế, đó không thể là một dấu hiệu tốt đối với người Mỹ. Trong bài nói chuyện ngày thứ sáu, 26-8-2011, đương kim chủ tịch Cục Dự Trữ, Ben S. Bernanke, quy lỗi cho các chính trị gia đã gây ra nhiều xáo trộn tài chánh nguy hiểm. Theo Bernanke, thỏa hiệp hồi đầu tháng 8-2011 nâng cao mức trần tối đa chính phủ có thể vay mượn, để đổi lấy cắt giảm thiếu hụt ít nhất 2,1 nghìn tỉ USD, chưa giảm thiểu số nợ xuống mức hầu hết các kinh tế gia tin có thể chịu đựng, và những tranh cãi chính trị hỗn loạn là các lý do Standard & Poor’s đã loại các trái phiếu ngân khố dài hạn khỏi danh sách các cơ hội đầu tư an toàn. Bài nói chuyện đã được nhiều quan chức nóng lòng chờ đợi vì lẽ Bernanke cũng như các vị chủ tịch tiền nhiệm thường có thói quen đến dự hội nghị do Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Kansas City chủ trì, để làm sáng tỏ quan điểm của mình về tình hình kinh tế và chính sách tiền tệ. Thay vì mô tả với đầy đủ chi tiết các giải pháp có thể lựa chọn, Bernanke lại chỉ chú tâm vào chính sách tiền tệ và tài chánh. Bernanke đã lặp lại lời kêu gọi cải cách tài chánh quen thuộc nhằm giảm thiểu nợ liên bang trong dài hạn, cùng lúc tránh các cắt xén chi tiêu hay tăng thuế trong đoản kỳ có thể gây khó khăn cho phục hồi kinh tế. Ông cũng nói chính quyền có thể giúp tăng tốc đà phục hồi qua một số biện pháp kể cả “chính sách gia cư tốt và hiếu động.”[14] Trong khi đó một số kinh tế gia ngày một đông lập luận: Cục Dự Trữ cần chấp nhận một tỉ suất lạm phát cao hơn. Vài người nói ngân hàng trung ương cần cho phép lạm phát cao hơn để giảm thiều thất nghiệp. Vài người khác còn nói lạm phát có thể hữu ích qua việc giảm thiểu gánh nặng nợ nần của các hộ gia đình khi họ có thể trả nợ với một đồng USD ít giá trị hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, các lãnh đạo Cục Dự Trữ chưa có dấu hiệu chịu thuyết phục. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 30-8-2011 [1] …market’s cyclically adjusted price/earnings ratio. [2] …demanding the United States cure its addiction to debts and live within its means. [3] The feeling of everyone was that the world economy has just suddenly become very unpredictable. No one wants to see the U.S. economy keep going downhill and a new financial crisis. China and the U.S. are very important in keeping the global economy stable. [4] The primary purpose of the trip was to build the relationship with Xi Jinping. Recent events in the economic sphere have undoubtedly put the U.S. economy and U.S. currency on the agenda. [5] Institute of American Studies at the China Institutes of Contemporary International Ralations in Beijing. [6] U.S. Treasury debt is the biggest concern since it’s about the safety of China’s financial investment. [7] It always encourages good behavior in China when they think they’re dealing with a strong U.S. president. It’s hard to see how recent events would have created an impression that he’s a strong leader. [8] That’s the overwhelming reason I’ve come: to talk about jobs and growth, and as was phrased this morning, the reordering of our economies – yours and ours. [9] …both nations “hold the key together to not only our own prosperity, but to generating growth and jobs worldwide.” [10] I, too, believe that under the new situation, China and the United States have ever more extensive common interests, and we shoulder ever more important common responsibilities. [11] The United States can pay any debt it has because we can always print money to do that. [12] America may have lost its triple-A rating, but the dollars it issues will remain the key international reserve currency under any plausible scenario. [13] The link to the dollar has served Hong Kong very well as the anchor for monetary and financial stability since 1983. [14] …good, proactive housing policy.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:24:57 GMT 9
LUẬT PHÁP, ĐẠO ĐỨC,CHIẾN TRANH ROBOT Sau gần hai tháng đợi chờ và tạm thời không được phép dùng Căn cứ Không Quân Shamsi Air Base, CIA một lần nữa gia tăng các cuộc hành quân với phi cơ không người lái trong những khu vực dọc biên giới các bộ lạc Pakistan. Hai cuộc tấn công đầu năm 2012 đã được phát động cách nhau trong vòng 48 giờ, gây 10 tử vong và ít ra 4 nạn nhân trọng thương. Cả hai đã diễn ra bên trong lãnh thổ Pakistan. Tin tức báo chí thường gọi các tử vong như “chiến binh” hay “tình nghi chiến binh” vô danh, và máy bay không người lái “drone” của CIA không bao giờ đến đủ gần để có thể có những hành động vô luân xúc phạm đến thi thể của họ. Mọi việc có vẻ tương đối sạch sẻ. Trong năm 2011, con số các cuộc tấn công đã lên khoảng 75, gây thiệt mạng cho 303 nạn nhân từ năm 2004, và số tử vong có thể đã lên hàng nghìn dọc theo biên giới các bộ lạc . Trong thực tế, thế giới đổ nát và chết chóc luôn có vẻ sạch sẻ và gọn gàng, nếu bạn đứng từ xa, như các thiên thần trên thiên đường, như các “phi công viễn liên” cách xa mục tiêu hàng nghìn dặm, hoặc các nhà làm chính sách đứng đằng sau giàn binh bố trận. Trên chiến địa, tình trạng đã hẳn vô cùng hỗn độn, bẩn thỉu, và buồn nôn. Trong tình hình khuấy động của Pakistan, với sự thiếu nhất trí giữa phe quân sự và chính quyền dân sự, với tin đồn đảo chánh và lủng củng với đồng minh Hoa Kỳ, các cuộc tấn công phi pháp của drone chà đạp lên chủ quyền quốc gia tối thượng và trái với lòng dân chỉ làm tình hình thêm căng thẳng. Drone chẳng giúp ích được nhiều, mà chỉ đem lại cảm nghĩ nguy hiểm và sai lầm về bá quyền tuyệt đối của Mỹ — mọi việc đều có thể, bất chấp luật pháp. PHI CƠ KHÔNG NGƯỜI LÁI Vũ khí tân tiến và kỳ diệu như drone, mặc dầu chưa được thẩm định đứng đắn, cuối cùng cũng chỉ là những dụng cụ chiến tranh phản tác dụng. Trong mọi trường hợp, drone vẫn là vũ khí chính trong hình thức chiến tranh mới của Hoa Kỳ. Thực vậy, các phản lực cơ chiến đấu của Mỹ đã gầm thét trên không phận vùng quê Iraq, hướng đến phi cơ không người lái MQ-1 Predator, trong khi phi hành đoàn ở California chỉ biết ngồi nhìn trong tuyệt vọng. Một phi vụ trinh sát thông thường đã trở thành một tai họa. Trong phút chốc, phản lực cơ tấn công và rồi mọi chuyện bất ngờ kết thúc: phi cơ Predator, một trong những phi cơ không người lái săn lùng và ám sát của Không Lực, đã bị hũy diệt. Một báo cáo trong tháng 11-2007, về kết cục đầy ấn tượng của một phi cơ tự động trị giá gần 4 triệu USD, đã được tìm thấy trong tập tài liệu điều tra về tai nạn của Không Lực mới đây. Tập hồ sơ đã liệt kê hơn 70 tai nạn phi cơ tự động kể từ năm 2000, mỗi vụ gây thiệt hại, về phi cơ hay tài sản, trên 2 triệu USD. Những báo cáo chính thức thuộc loại nầy, được tiết lộ trong khuôn khổ Luật Tự Do Thông tin, đã phơi bày một sự thật bên trong chương trình ám sát và trinh thám mới, phần lớn được che đậy nhưng vẫn mang tính khoa trương, liên quan các phi cơ tự động, không đáng tin cậy như thường được biết trước đây. Phi cơ không người lái hay drone, loại vũ khí thần kỳ mới nhất trong kho quân cụ Hoa Kỳ, đã được thử nghiệm, phóng đi, điều khiển viễn liên, từ một mạng lưới trên 60 căn cứ trong bóng tối, trải rộng khắp hoàn cầu, thường để hổ trợ các lực lượng hành quân đặc biệt và ưu tú. Nói chung, các tài liệu của Không Lực đã phơi bày hình ảnh một cuộc chiến bằng phi cơ không người lái tân kỳ đáng chú ý, trong một thập kỷ với nhiều tường thuật báo chí luôn rêu rao thành công và đáng sợ , hiếm khi ghi nhận các nhược điểm, nói gì đến lỗi lầm và tai họa. Những tai nạn và lầm lẫn, do Không Lực mô tả, đã thu hút sự chú ý không những đến các giới hạn kỹ thuật của cuộc chiến drone, mà còn đến những nhược điểm về quan niệm sai lầm nội tại lớn lao hơn, cố hữu trong các cuộc hành quân loại nầy. Khởi động cất cánh và hạ cánh bởi các “phi hành đoàn” gần các chiến trường trong những nơi như Afghanitan, các phi cơ không người lái trong suốt phi vụ, dưới sự giám sát và điều khiển của các nhân viên kỹ thuật đặc trách các máy điện tử nhạy cảm đa năng (sensor) trong nhiều giờ, từ những căn cứ ở Nevada và North Dakota. Drone, đôi khi còn được kiểm soát qua màn ảnh giám sát bởi các nhân viên an ninh tư, từ các căn cứ như Hurlburt Field ở Florida. Một tường trình gần đây của McClatchy đã tiết lộ: có khi phải cần đến gần 170 người để điều hành chỉ một Predator trong một phi vụ 24 tiếng đồng hồ. Nói một cách khác, các phi vụ của phi cơ không người lái, cũng giống các người máy, có nhiều bộ phận chuyển động thường bị trục trặc. Chẳng hạn, trong tai nạn Predator ở Iraq trong tháng 11-2007, một rắc rối điện tử đã khiến phi cơ không người lái khởi động cơ chế tự hũy diệt và rơi xuống đất, sau đó các phản lực cơ đã phải tiêu hũy xác phi cơ để khỏi lọt vào tay phe thù nghịch. Trong vài trường hợp khác, các phi cơ tự động — chính thức được biết như phi cơ được điều khiển viễn liên, remotely piloted aircraft hay RPA — chết máy, thoát khỏi khả năng kiểm soát và giám sát , hay tự hũy vì những lý do như lỗi của phi công, thời tiết xấu, cho đến trục trặc máy móc ở Afghanistan, Djibouti, Vịnh Aden, Iraq, Kuwait, và trong nhiều nơi không được tiết lộ hay bí mật, cũng như ở Hoa Kỳ. Trong năm 2001, phi cơ không người lái Predator của Không Lực đã bay 7.500 giờ. Vào gần cuối năm 2011, số giờ bay đã lên đến trên 70.000. Cùng với nhịp độ các phi vụ của máy bay tự động liên tục gia tăng, tai nạn cũng trở nên thường xuyên hơn. Trong năm 2001, chỉ hai phi cơ không người lái của Không Lực đã bị hũy diệt. Trong năm 2008, con số đã tăng lên đến 8. Năm 2011, 13 phi cơ không người lái bị nạn. Tuy nhiên, theo báo cáo của Không Lực, số tai nạn trung bình, dựa trên các con số từ năm 2009, nói chung đã sụt giảm. Cũng cần nên nhớ, trên 70 tai nạn được ghi nhận trong các tài liệu của Không Lực chỉ tương ứng với các tai nạn do Không Lực điều tra, căn cứ trên những quy tắc cực kỳ chặt chẽ. Và nhiều tai nạn của các phi cơ không người lái khác đã không được ghi nhận trong thống kê của Không Lực. Chẳng hạn một phi cơ tự động MQ-9 Reaper do một phản lực cơ bắn hạ ở Afghanistan năm 2009, một trực thăng Hải Quân điều khiển viễn liên đã lâm nạn ở Libya trong tháng 6-2011, một phi cơ không người lái có máy chụp hình đã lọt vào tay các dân quân Afghanistan sau khi rơi trong tháng 8-2011, một phi cơ không người lái R-170 Sentinel mất tích trong một phi vụ do thám ở Iran trong tháng 12-2011, và một phi cơ MQ-9 Reaper rơi ở Seychelles Islands gần đây. CẦN HAY KHÔNG CẦN NHÂN VIÊN DỰ BÁO THỜI TIẾT Các phi vụ đã được thực hiện như thế nào – và đôi khi đã gặp phải tai họa – có thể hiểu được nhờ các báo cáo đã được giải mật, kể cả tai nạn phi cơ tự động rơi trong tháng 6-2011 như Không Lực đã tiết lộ. Vào cuối tháng 12-2011, một phi cơ Predator đã cất cánh từ Căn Cứ Không Quân Jalalabad ở Afghanistan trong một phi vụ giám sát và yểm trợ các lực lượng bộ binh. Do một thành viên thuộc Phi Đội 432 Air Expeditionary Wing từ Căn Cứ Không Quân Whiteman ở Missouri điều khiển, khi gặp phải thời tiết xấu, viên “phi công” đã phải xin phép ngưng nhiệm vụ yểm trợ đoàn quân dưới đất. Chỉ huy của anh ta chưa kịp trả lời. Vì không được trang bị các sensors, như các phi cơ lớn tinh xảo hơn, để giúp phi công đối phó với điều kiện thời tiết xấu, và với bão cát gây trở ngại cho rađa dưới đất, Predator đã gặp khó khăn. Trong chốc lát, vệ tinh nối kết phi công với phi cơ bị gián đoạn. Khi tín hiệu yếu ớt trở lại, phi hành đoàn thấy phi cơ đang đâm nhào xuống đất, rồi họ lại mất tín hiệu lần thứ hai và cũng là lần chót. Vài phút sau, quân nhân dưới đất báo cáo drone đã rơi xuống gần địa điểm hành quân. Một tháng trước đó, một Predator cất cánh từ quốc gia nhỏ bé Djibouti để yểm trợ chiến dịch Operation Enduring Freedom, bao gồm các cuộc hành quân ở Afghanistan, Yemen, Djibouti, Somalia và nhiều xứ khác. Theo các tài liệu nhận được nhờ Luật Tự Do Thông tin, sau khoảng 8 giờ bay, phi hành đoàn nhận được tín hiệu dầu rò rĩ. Sau 10 giờ bay, họ chuyển quyền điều khiển cho một phi hành đoàn có nhiệm vụ điều khiển drone đáp xuống sân bay Ambouli ở Djibouti, một cơ sở hỗn hợp dân và quân sự bên cạnh Camp Lemonier, một căn cứ Hoa Kỳ ngay ở điạ phương. Phi hành đoàn phi vụ nầy – cả phi công lẫn chuyên viên kỹ thuật – đã được triển khai từ căn cứ Creech Air Force Base ở Nevada và đã trải nghiệm 1.700 giờ điều khiển các phi vụ của Predator. Họ đã được Không Lực xếp vào hạng có kinh nghiệm. Tuy nhiên, cho đến nay, các máy điện tử nhạy cảm – sensor – đo cao độ của các drone không được chính xác, trong khi mây thấp và độ ẩm cao đã ảnh hưởng đến các máy điện tử nhạy cảm và là nguyên do của các tai họa. Một cuộc điều tra sau đó cho thấy nếu phi hành đoàn đã tái kiểm tra (crosscheck) đứng đắn các dụng cụ, họ đã có thể ghi nhận một sai lệch từ 300 đến 400 bộ trong cao độ. Thay vào đó, chỉ khi phi cơ RPA đã ra khỏi các lớp mây mù, các kỹ thuật viên mới hiểu phi cơ đã quá gần mặt đất. Sáu giây sau đó, phi cơ drone đã đâm sầm xuống đất, tự hũy cùng với một trong số các hỏa tiễn Hellfire trang bị. Không chỉ bảo tố, mây mù, độ ẩm, và sai lầm của con người là những bất trắc tự nhiên của drone. Trong tai nạn tháng 11-2008, một phi hành đoàn ở Kandahar Air Field đã phóng một Predator vào một ngày gió lớn. Chỉ sau 5 phút của phi vụ, phi cơ vẫn còn trên bầu trời của căn cứ khổng lồ của Mỹ, phi công đã hiểu phi cơ đã bay chệch đường dự định. Để điều chỉnh, phi công khởi động đổi hướng, một động thái do bản chất luôn táo bạo, điều kiện gió, thiết kế của phi cơ, và trọng lượng bất cân đối của một tên lửa ở một cánh, phi cơ đã chao đảo, xoay quanh, rơi xuống căn cứ, và bốc cháy. MẤT KIỂM SOÁT Đôi khi, RPA đơn thuần vuột khỏi tầm kiểm soát của phi công viễn liên. Chẳng hạn, trong một phi vụ kéo dài 8 tiếng đồng hồ vào cuối tháng 2-2009, năm phi hành đoàn khác nhau đã lần lượt chuyển quyền điều khiển một Predator drone, từ đội nầy qua đội kế tiếp, khi đang bay trên không phận Iraq. Bất thần, phi hành đoàn cuối, các thành viên của Vệ Binh Phòng Không Quốc Gia bang North Dakota tại Phi Trường Quốc Tế Hector ở Fargo, mất liên lạc với drone. Đúng lúc đó, phi công, chuyên viên kỹ thuật máy điện tử nhạy cảm, cũng như phi hành đoàn điều khiển phi vụ ở địa phương, không ai biết phi cơ tự động đang ở đâu và làm gì. Không phát cũng không nhận tín hiệu các dữ kiện hay mệnh lệnh chỉ huy, drone trong thực tế đã thoát khỏi tầm kiểm soát. Chỉ về sau, đội chỉ huy mới đi đến kết luận một rắc rối kỷ thuật trong khâu nối kết các dữ kiện đã khởi động cơ chế tự hũy của drone, khiến phi cơ quay tít và lâm nạn trong vòng 10 phút sau khi mất liên lạc với dây chuyền điều khiển. Trong tháng 11-2009, một Predator phóng đi từ Kandahar Air Field ở Afghanistan mất liên lạc với “phi hành đoàn” 20 phút sau khi cất cánh và biệt tăm. Khi phi hành đoàn không thể tăng cao độ của drone, các chuyên viên kỹ thuật nối kết dữ kiện được gửi tới nhưng cũng chẳng định vị được phi cơ. Trong lúc đó, radar của các kiểm soát viên không lưu đã mất dấu vết phi cơ trên mạng, cũng không hề nhận được tín hiệu radio truyền tin của transponder. Mọi nổ lực nối kết tín hiệu đều thất bại. Hai ngày sau, vào lúc phi cơ cạn nhiên liệu, Không Lực tuyên bố Predator đã thất lạc và tám ngày sau mới tìm được xác phi cơ. GIẢI PHÁP CẤP TỐC Vào giữa tháng 8-2004, trong khi nhịp độ hành quân bằng drone trong phạm vi trách nhiệm của CENTCOM lúc một tăng nhanh, “phi hành đoàn” một Predator bắt đầu nhận được làn sóng tín hiệu báo động — động cơ và máy dao điện (alternator) bị trục trặc, cũng như tín hiệu cháy máy. Khi chuyên viên máy điện tử nhạy cảm dùng máy ảnh để phân hình phi cơ, họ mới khám phá được nguyên nhân: đuôi phi cơ đã bốc cháy. Chẳng mấy chốc, phi cơ không còn có thể kiểm soát và đâm sầm xuống mặt đất. Tháng 1-2007, một phi cơ Predator đang bay ở một nơi nào đó trong vùng trách nhiệm của CENTCOM. Vào giờ thứ 14 trong một phi vụ dài 20 giờ, phi cơ bắt đầu gửi tín hiệu có vấn đề. Động cơ bị trục trặc khoảng 15 phút, nhưng thông tin gửi về vẫn trong phạm vi các thông số bình thường. Vì vậy, phi hành đoàn viễn liên đã không lưu ý. Vào phút chót, họ mới chợt hiểu phi cơ sắp chết máy. Một cuộc điều tra sau đó đã đi đến kết luận, một rạn nứt lúc một lớn dần trong crankshaft của phi cơ đã khiến động cơ tăng nhiệt và bốc cháy. Phi công liền cho phi cơ lượn đến một khu vực không có dân cư. Nhưng nhà cầm quyền cao cấp ra lệnh cho phi công phải lập tức đánh rơi, bởi lẽ phi cơ đang mang theo hai tên lửa Hellfire và các trang bị bí mật. Vài ngày sau, xác phi cơ đã được thu hồi. TƯƠNG LAI CỦA CHIẾN TRANH ROBOT Mặc dù đối diện với những giới hạn kỹ thuật trong hình thức chiến tranh viễn liên như đã được ghi rõ trong hồ sơ điều tra của Không Lực, Hoa Kỳ hiện vẫn đầu tư gấp đôi vào các phi cơ tự động drone. Với chiến lược quân sự mới của T T Obama, Không Lực được dự phóng một phần ngân sách gia tăng và các phi cơ tự động được đặc biệt quan tâm triển khai. Hiện nay, với con số gần 7.500 máy bay drone tí hon, 1/3 tổng số phi cơ quân sự là máy bay tự động.Theo con số chính thức được tiết lộ, 8 trong số nầy là các loại Predator Raper, hay các phi cơ tự động Global Hawk của Không Lực. Kho quân cụ của Không Lực còn gồm cả các máy bay tự động tiền tiến hơn — Sentinel, Avenger — và các máy bay tự động bí mật khác. Một báo cáo của Sở Ngân Sách Quốc Hội phổ biến trong năm rồi cũng đã tiết lộ “Bộ Quốc Phòng có kế hoạch mua khoảng 730 phi cơ không người lái cỡ trung và cỡ lớn”[1] trong vòng 10 năm tới. Trong thập kỷ vừa qua, Hoa Kỳ ngày một trông cậy nhiều hơn vào các phi cơ không người lái trong nổ lực thũ thắng trong các cuộc chiến của Mỹ. Hồ sơ điều tra của Không Lực cho thấy nhà cầm quyền đã sử dụng các máy bay không người lái ở Iraq rộng rãi hơn là đã được báo cáo trước đây. Tuy nhiên, ở Iraq cũng như ở Afghanistan, các vũ khí thần kỳ nổi tiếng của Hoa Kỳ cũng đã không thành công trong nổ lực giúp quân đội Mỹ tiến đến gần với chiến thắng. Khá hiệu quả như một mũi nhọn của chương trình làm tê liệt al-Qaeda ở Pakistan, chiến tranh robot trong những vùng dọc theo biên giới các bộ lạc đã đánh mất thiện cảm của toàn bộ 190 triệu dân bản xứ. Nói một cách khác, khoảng 2.000 du kích quân, tình nghi hay nhận diện, cũng như vô số thường dân, đã thiệt mạng. Quần chúng trong quốc gia đồng minh nòng cốt của Hoa Kỳ ngày một trở nên thù nghịch và không ai biết được bao nhiêu chiến binh mới đang tìm cách trả thù chỉ vì các cuộc oanh tạc của các máy bay tự động drone, mặc dù mọi người tin con số thương vong rất cao. Sau một thập kỷ tinh chế và cải tiến kỷ thuật, chiến thuật, và chiến lược, Không Lực và nhân viên CIA theo dõi các kiểm tra vi tính từ những nơi xa xôi đã liên tục thất bại trong nổ lực phân biệt các dân quân trang bị vũ khí với các thường dân vô can. Và vì vậy, chương trình ám sát đa năng — thẩm-phán-bồi-thẩm-hành-quyết bằng máy bay không người lái — luôn bị lên án đã vi phạm luật pháp quốc tế. Vả chăng, chiến tranh robot hình như đã đưa đến một hệ quả độc hại — qua sự kết nối với các động cơ kinh tế đi kèm, đã làm gia tăng số thương vong trong thực tế. Thực vậy, như Joshua Foust đã viết trên The Atlantic về các nhà thầu tư nhân tham dự vào quá trình gần đây: “Trong một số chương trình với mục tiêu ấn định, các cán bộ thực thi có những chỉ tiêu để thẩm định — có nghĩa, họ phải tái thẩm một số mục tiêu khả dĩ nào đó trong một khoảng thời gian nào đó. Vì là nhà thầu, việc làm liên tục của lớp người nầy tùy thuộc ở khả năng thỏa mãn những phương thức thẩm định công tác rõ rệt. Vì vậy, họ có động cơ tài chánh để lấy những quyết định sinh tử về số mục tiêu khả dĩ ám sát, với mục đích giữ được việc làm lâu dài. Đây là một tình trạng không thể tha thứ, nhưng vì lẽ hệ thống thiếu minh bạch hay tái thẩm định từ bên ngoài, đây cũng là điều gần như không thể giám sát hay sửa đổi.”[2] Vì số giờ bay ngày một gia tăng, những khuyết điểm rõ ràng trên đây đã trở nên phức tạp hơn bởi một chuổi các lỗi lầm kỹ thuật và tổn thất ngày một lộ liễu và đều đặn . Chẳng hạn, các dân quân Iraq xâm nhâp vào dữ liệu video các drone , một vi khuẫn vi tính độc hại lan tràn trong không đoàn phi cơ không người lái của Không Lực, phần lớn các phi công drone chịu “áp lực hành quân cao độ” — high operational stress, một tai nạn nổ súng của chuyên viên đồng đội giết hại hai nhân viên quân sự Hoa Kỳ, số phi cơ không người lái lâm nạn gia tăng, và sự khả dĩ drone bị không tặc cưỡng đoạt, cũng như hơn 70 tai nạn tai họa mô tả trong các tài liệu điều tra của Không Lực. Trong thập kỷ vừa qua, với tâm lý càng nhiều càng tốt, số phi cơ tự động, số căn cứ, số phi công, số tai nạn máy bay drone…ngày một nhiều. Drone có thể hữu hiệu căn cứ trên số thương vong, nhưng còn thành công hơn nữa trong khả năng gây thêm nhiều chống đối và kẻ thù. Các phúc trình tai nạn của Không Lực đầy dẫy những chứng cứ khiếm khuyết tiềm tàng trong kỹ thuật máy bay tự động, và chắc chắn sẽ còn nhiều hơn trong tương lai. Một thập kỷ phù phiếm đã phơi bày chiến tranh robot tự thân đã đầy tai ương và hũy diệt. Tuy nhiên, định mệnh hình như đang chờ đợi không gian ngày một đầy dẫy máy bay drone, và tương lai sẽ tiếp tục mang lạị những bất trắc hiểm nguy tương tự. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 19-02-2012 [1] TheDepartment of Defense plans to purchase about 730 new medium-sized and large unmanned aircraft systems. [2] In some taeting progrs, staffer have rview qutas — that is, they must review a certain number of possible targets pr given lengthof time. Because they are contractors, their continued employment depends on their ability to satisfy the stated performance metris. So they have a financial incentive to make life-or-death decisions about possible kill targets just to stay emolyed. This should be an intolerable situation, but because the system lacks transparency or outside review it is almost impossible to monitor or alter.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:26:10 GMT 9
CHÍNH TRỊ THOÁI HÓA VÀ ĐẾ QUỐC SUY TÀN Hàng năm, các ngày có nhiều ý nghĩa thường được tưởng niệm một cách trang nghiêm. Nhật Bản tấn công căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng là một ví dụ. Nhiều biến cố quan trọng khác lại bị lãng quên. Trong mọi trường hợp, nhiều bài học quý giá có thể được rút tỉa khả dĩ giúp tiên đoán những gì đang chờ đợi phía trước. Ngày nay, nhân loại hình như đã bỏ quên ngày tưởng niệm lần thứ 50 quyết định của T T John F. Kennedy phát động cuộc chiến gây thương vong và đổ nát lớn nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Đó là cuộc chiến xâm lăng Nam Việt Nam, và sau đó là toàn bộ Đông Dương, giết hại nhiều triệu sinh linh, tàn phá bốn quốc gia. Điều nhân loại không có quyền quên là chính sách tắm gội Nam Việt Nam với những hóa chất độc hại nhất, nhằm tàn phá núi rừng che chở cho dân quân kháng chiến, mùa màng cây cỏ, cùng lúc đã đem lại nhiều hậu quả dài hạn như các tác nhân gây khuyết tật và ung thư. Mục tiêu chính là Nam Việt Nam. Cuộc tấn công về sau lan ra Bắc Việt, kế đến là nông thôn Bắc Ai Lao và Cambodia, qua các chiến dịch dội bom với tầm cỡ ác liệt, vượt xa toàn bộ các cuộc oanh tạc của phe đồng minh trong khu vực Thái Bình Dương trong Đệ Nhị Thế Chiến, kể cả hai bom hạt nhân tàn phá Hiroshima và Nagasaki. Mệnh lệnh của Henry Kissinger đã được triệt để thi hành — một lời kêu gọi diệt chủng rất ít thấy trong lịch sử nhân loại. Đã hẳn thực tế nầy đã không được lịch sử ghi lại đầy đủ và không còn được nhớ rõ. Hầu hết đều ít được biết đến bên ngoài một thiểu số chứng nhân thời cuộc. Khi cuộc xâm lăng được phát động 50 năm trước đây, rất ít ai quan tâm, đến nổi nhà cầm quyền Hoa Kỳ đã không phải nhọc công biện minh, ngoài những lời kêu gọi hăng say của Kennedy: “chúng ta đang bị chống đối khắp thế giới bởi một âm mưu đơn điệu và tàn nhẫn, cơ sở trên các phương tiện bí mật, nhằm bành trướng phạm vi ảnh hưởng,” và nếu âm mưu đạt được mục đích ở Ai Lao và Việt Nam,”các cánh cửa sẽ được rộng mở.”[1] T T còn cảnh cáo: “Các xã hội tự mãn, thụ hưởng, ủy mị, sẽ bị quét sạch cùng với những đổ nát của lịch sử, và chỉ những xứ hùng cường mới có thể thượng tồn.”[2] Lời cảnh cáo đã gián tiếp phản ảnh sự thất bại trong các chiến dịch tấn công và khủng bố của Hoa Kỳ nhằm nghiền nát nền độc lập của Cuba. Khi làn sóng phản kháng bắt đầu trỗi dậy năm bảy năm sau đó, nhà sử học quân sự và chuyên gia Việt Nam đáng kính, Bernard Fall, không thuộc hàng ngũ bồ câu, đã tiên đoán: “Việt Nam, như một chủ thể văn hóa và lịch sử, … đang bị đe dọa diệt chũng…[vì] toàn bộ vùng quê đang thực sự dẫy chết dưới những cuộc tấn công vũ bão của guồng máy quân sự lớn nhất trên một mảnh đất nhỏ bé như thế.”[3] Bernard Fall đang nói đến Nam Việt Nam. Khi cuộc chiến chấm dứt sau 8 năm kinh hoàng, dư luận dòng chính bị chia rẽ giữa phe minh họa cuộc chiến như một chính nghĩa cao thượng, lẽ ra đã có thể thắng nếu kiên định hơn, và phe có quan điểm đối lập xem đây là một đường lối sai lầm quá tốn kém. Vào năm 1977, T T Carter đã không thu hút được nhiều đồng tình khi giải thích: Người Mỹ “không nợ nần” gì Việt Nam bởi lẽ “sự tàn phá đổ vỡ mang tính hổ tương”. Ngay cả đến ngày nay, nhiều bài học hữu ích vẫn còn có thể rút tỉa từ cuộc chiến, không những như một nhắc nhở chỉ có kẻ yếu và thất bại mới phải chịu trách nhiệm về “tội phạm” của mình. Bài học đầu tiên: Để hiểu những gì đang xẩy ra, chúng ta cần quan tâm không những đến các biến cố quyết định trong thế giới thực, thường bị lịch sử bỏ quên, mà còn đến những gì các nhà lãnh đạo và dư luận của giới thượng lưu tin tưởng, dù nhuốm mầu kỳ quặc hay mang tính tưởng tượng. Bài học Thứ hai: Cùng với một loạt các tưởng tượng được phối trí nhằm gieo kinh hoàng và động viên quần chúng (và có lẽ còn được các người chìm đắm trong những chiêu bài lừa bịp của chính mình tin tưởng), còn có sự hoạch định địa chiến lược cơ sở trên các nguyên tắc duy lý và bền vững qua nhiều giai đoạn dài lâu và đã bám rễ trong những định chế vững bền và quan tâm của chính họ. Điều nầy cũng rất đúng trong trường hợp Việt Nam. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề nầy sau, ở đây chỉ cần nhấn mạnh các yếu tố dai dẳng trong các hành động của nhà cầm quyền thường được che dấu kỷ. Cuộc chiến Iraq cũng là một trường hợp có thể đem lại nhiều bài học. Qua các phương tiện tuyên truyền gieo rắc hoảng sợ trong quần chúng, cuộc chiến đã được quảng bá dựa trên luận cứ: tự vệ thông thường trước một đe dọa khả năng thượng tồn của người Mỹ. George Bush và Tony Blair đã tuyên bố, “câu hỏi duy nhất” là liệu Saddam Husein có chịu chấm dứt các chương trình khai triển các vũ khí tiêu diệt hàng loạt hay không? Khi câu trả lời trái với ý muốn, chính quyền dễ dàng chuyển qua luận điệu “ước vọng dân chủ”[4] của người Mỹ, và dư luận đã được uốn nắn và hướng dẫn dễ dàng đi theo. Tất cả chỉ là lệ thường. Về sau, khi kích cỡ thất bại của Hoa Kỳ ở Iraq đã trở nên khó lòng che đậy, chính quyền lặng lẽ thú nhận những gì từ lâu đã quá rõ ràng. Trong các năm 2007-2008, chính quyền chính thức loan báo giải pháp cuối cùng bao gồm những thỏa hiệp về sự có mặt của các căn cứ quân sự và quyền hành quân của Mỹ, cũng như đặc quyền của giới đầu tư Hoa Kỳ trong hệ thống năng lượng dồi dào của Iraq — những đòi hỏi về sau bất đắc dĩ cũng đã phải từ bỏ trước sức đề kháng của Iraq. Và mọi việc đều được giữ kín và quần chúng Mỹ không hề được tham khảo. ĐÁNH GIÁ TẦM CỠ SUY SỤP CỦA HOA KỲ Với những bài học trên đây, tưởng cũng nên nhìn lại những nét chính được báo chí ghi nhận về chính sách và công luận hiện nay, nhất là tờ báo uy tín nhất – Foreign Affairs. Tiêu đề quan trọng hàng đầu trên trang bìa số tháng 12-2011: “Hoa Kỳ đã hết thời?”[5] Bài viết chính kêu gọi cắt xén các sứ mệnh nhân đạo tốn kém tài nguyên quốc gia ở nước ngoài, ngõ hầu chận đứng đà tuột dốc của Mỹ. Đây là đề tài quan trọng trên diễn đàn quốc tế, thường đi kèm với hệ quả quyền lực đang chuyển dịch về Đông Phương, TQ, và có thể cả Ấn Độ. Quan trọng hàng đầu là những bài viết về quan hệ Israel-Palestine. Bài đầu, do hai quan chức Do Thái, có nhan đề “Vấn Đề là sự Từ Chối của Palestine“[6]. Sự xung đột không thể giải quyết, vì lẽ người Palestine từ chối không chịu công nhận Do Thái như một nhà nước – do đó, theo đúng chuẩn mực ngoại giao: nhà nước được công nhận, nhưng các khu vực đặc quyền bên trong mỗi nước thì không. Sự đòi hỏi chẳng khác gì một phương cách mới nhằm ngăn chặn mối đe dọa của một giải pháp chính trị có thể phương hại đến các mục tiêu bành trướng của Do Thái. Quan điểm đối lập, được một giáo sư Hoa Kỳ bảo vệ, với nhan đề “Vấn đề là Sự Chiếm Đóng,”[7] với phụ đề: “Bằng Cách Nào sự Chiếm Đóng Đang Phá Hoại Quốc Gia.”[8] Quốc gia nào? Dĩ nhiên, Do Thái. Cả hai đều xuất hiện dưới tiêu đề “Do Thái bị Vây Hãm.”[9] Số tháng 1-2012 đã đăng một bài đặc biệt, kêu gọi phải oanh kích Iran ngay bây giờ trước khi quá muộn. Cảnh cáo về “các nguy cơ của biện pháp ngăn chặn,” tác giả đã gợi ý: “Những người nghi ngờ hành động quân sự đều không thẩm định đứng đắn nguy cơ thực sự của một Iran với vũ khí hạt nhân đối với quyền lợi của Hoa Kỳ ở Trung Đông và xa hơn nữa. Và các dự đoán bi quan giả thiết phương thuốc cứu chữa có thể tệ hại hơn chính căn bệnh — có nghĩa hậu quả một cuộc tấn công Iran của Hoa Kỳ có thể có hại không kém hay tệ hại hơn hậu quả của việc Iran thành đạt được các tham vọng hạt nhân của mình. Nhưng đây là một giả thiết sai lầm. Sự thật là một cuộc tấn công quân sự nhằm hũy hoại chương trình hạt nhân của Iran, nếu được xử lý thận trọng, có thể giúp khu vực và thế giới tránh được một đe dọa rất thật và cải thiện rất nhiều an ninh quốc gia dài hạn của Hoa Kỳ.”[10] Vài người khác đưa ra luận cứ: phí tổn có thể quá cao. Thậm chí vài người cực đoan hơn còn nói rõ một cuộc tấn công có thể vi phạm luật quốc tế — cũng như lập trường của giới ôn hòa, luôn đưa ra các đe dọa bạo động, trái với Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Chúng ta thử lần lượt đánh giá các âu lo chính yếu trên đây. Sự tuột dốc của Hoa Kỳ là thực, mặc dù viễn kiến mang tính mặc khải, phản ảnh một nhận thức quen thuộc của giới thống trị: bất cứ điều gì không được kiểm soát trọn vẹn cũng chẳng mấy khác một tai họa hoàn toàn. Mặc dù các ta thán não nuột, Hoa Kỳ vẫn luôn là cường quốc áp đảo thế giới, hơn xa bất cứ quốc gia nào khác, và không một xứ nào đủ sức cạnh tranh không chỉ trên bình diện quân sự, một địa hạt hoàn toàn dưới quyền áp đảo tột cùng của Hoa Kỳ. TQ và Ấn Độ đã ghi nhận một tỉ suất tăng trưởng cao (mặc dù phân phối bất bình đẳng), nhưng vẫn còn là những quốc gia nghèo khó, với rất nhiều vấn đề nội bộ lớn lao các xứ Tây phương không phải đối diện. TQ là trung tâm kỹ nghệ biến chế lớn của thế giới, nhưng phần lớn như một nhà máy lắp ráp phục vụ các cường quốc kỹ nghệ tiền tiến bên ngoài và các công ty đa quốc gia Tây phương. Đã hẳn, tình trạng nầy rất có thể thay đổi qua thời gian. Biến chế thường đem lại cơ sở cho canh tân, lắm lúc tiến bộ bất thần, như nay đôi khi đang xẩy ra ở TQ. Một ví dụ đã gây ấn tượng đối với các chuyên gia Tây Phương là TQ đã thành công trong vai trò khống chế thị trường toàn cầu các pa-nô năng lượng mặt trời, không phải nhờ phí lao động thấp, nhưng qua khả năng hoạch định, phối trí, và ngày một có nhiều canh tân. Tuy nhiên, TQ hiện đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn, các vấn đề nhân khẩu được thẩm định trong tạp chí Khoa Học hàng tuần — Science, một ngành Hoa Kỳ đang dẫn đầu. Nghiên cứu cho thấy tử suất ở TQ đã sụt giảm nhanh chóng dưới thời Mao Trạch Đông, “phần lớn là nhờ kết quả của phát triển kinh tế, cải cách giáo dục, và dịch vụ y tế, đặc biệt là phong trào vệ sinh công cộng đã đưa đến một sụt giảm nhanh chóng trong tử suất từ những bệnh truyền nhiễm.” Những tiến bộ nầy đã chấm dứt với sự du nhập các cải cách theo hướng tư bản chủ nghĩa cách đây 30 năm, và tử suất từ đó lại gia tăng. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế gần đây của TQ phần lớn đã dựa trên “động cơ nhân khẩu,” thành phần tới tuổi đi làm đông đảo. “Nhưng cánh cửa gặt hái động cơ nầy có thể sớm đóng lại,” với một “tác động sâu rộng trên phát triển”: “Số cung nhân công thặng dư rẽ tiền, một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy phép lạ kinh tế của TQ, sẽ không còn hiện diện.” Nhân khẩu sẽ chỉ còn là một trong những vấn đề nghiêm trọng trong những năm sắp tới. Với Ấn Độ, các vấn đề còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Không phải tất cả những tiếng nói có thẩm quyền đều tiên đoán sự tuột dốc của Hoa Kỳ. Trong số các cơ quan truyền thông quốc tế, không một cơ quan nào đứng đắn và có trách nhiệm hơn Financial Times. Gần đây, tờ báo đã dành trọn một trang cho các tin tức lạc quan về kỹ thuật mới để khai thác nhiên liệu hóa thạch, rất có thể sẽ giúp Hoa Kỳ độc lập về năng lượng, và nhờ đó, duy trì được địa vị bá chủ toàn cầu thêm một thế kỷ. Tuy vậy, tờ báo vẫn không nói gì đến thế giới do Hoa Kỳ ngự trị trong bối cảnh tốt đẹp nầy sẽ ra sao, nhưng không phải vì thiếu tín hiệu. Trong thực tế, vào cùng thời điểm, Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế IEA đã báo cáo: với lượng khí thải carbon tăng nhanh do việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, giới hạn an toàn sẽ đến vào năm 2017 nếu thế giới cứ tiếp tục con đường hiện nay. “Cánh cửa sẽ khép lại”, và theo kinh tế trưởng của IEA, chẳng bao lâu, “sẽ khép chặt mãi mãi.”[11] Ngay trước khi Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ báo cáo lượng khí thải carbon dioxide mới nhất, một con số gia tăng kỷ lục, tới mức cao hơn cả kịch bản xấu nhất tiên liệu bởi Hội Đồng Quốc Tế về Thay Đổi Khí Hậu (International Panel on Climate Change – IPCC). Tình trạng nầy không có gì đáng ngạc nhiên đối với các khoa học gia, kể cả chương trình MIT về thay đổi khí hậu — một chương trình trong nhiều năm đã cảnh cáo các tiên đoán của IPCC là quá bảo thủ. Những nhà phê bình các tiên đoán của IPCC hầu như không được công luận lưu ý, không như số người phủ nhận, đã được các đại công ty yểm trợ, cùng với các chiến dịch tuyên truyền khổng lồ, đã đẩy người Mỹ vào hàng ngũ phe phủ nhận các nguy cơ ô nhiễm và thay đổi khí hậu. Sự hổ trợ của giới doanh thương đại công ty cũng trực tiếp chuyển biến thành quyền lực chính trị. Đường lối phủ nhận là một bộ phận trong giáo lý vấn đáp được các ứng cử viên Cộng Hòa lặp đi lặp lại trong chiến dịch vận động bầu cử trò hề hiện đang diễn tiến. Và trong Quốc Hội, họ cũng đủ hùng mạnh để ngăn chặn mọi nổ lực nhằm điều tra hậu quả của hiện tượng thay đổi khí hậu, nói gì đến làm bất cứ điều gì nghiêm chỉnh nhằm giảm thiểu hiện tượng nầy. Tóm lại, đà tuột dốc của Hoa Kỳ có lẽ có thể được chận đứng nếu người Mỹ từ bỏ mọi hy vọng về một phương cách thượng tồn phải chăng,[12] những triễn vọng quá thực với cán cân lực lượng trên thế giới hiện nay. ĐÁNH MẤT TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM Tạm thời gác qua một bên những ý tưởng không mấy thuận tai vừa nói, một cái nhìn kỷ đà tuột dốc của Mỹ cho thấy: TQ quả thật đang giữ một vai trò lớn, cũng như trong suốt 60 năm vừa qua. Sự tuột dốc nay đang đem lại âu lo cho giới lãnhđạo không phải là một hiện tượng mới mẻ, mà đã khởi đầu từ cuối Đệ Nhị Thế Chiến, khi Hoa Kỳ đang nắm giữ phân nửa tài sản thế giới, và tình hình an ninh cũng như tầm với toàn cầu không quốc gia nào sánh kịp. Các nhà hoạch định Hoa Kỳ lúc đó dĩ nhiên đã nhận thức rõ ràng sự chênh lệch lớn lao trong cán cân quyền lực, và quyết tâm duy trì tình trạng đó. Quan điểm căn bản đã được mô phỏng với sự ngay thẳng đáng khen trong một tài liệu chính thức năm 1948 — a major state paper of 1948 hay PPS 23: Tác giả là một trong số kiến trúc sư Trật Tự Thế Giới Mới lúc đó, người đứng đầu Bộ Tham Mưu Hoạch Định Chính Sách của Bộ Ngoại Giao – State Department Policy Planning Staff, chính khách và học giả George Kennan, một bồ câu ôn hòa bên trong quang phổ hoạch định. Kennan đã nhận định: mục tiêu của chính sách trọng tâm là duy trì “vị trí bất cân xứng” – position of disparity, ngăn cách tài sản khổng lồ của Mỹ với sự nghèo nàn của các dân tộc khác. Để đạt mục tiêu, ông khuyến cáo: “Chúng ta nên chấm dứt nhắc đến những đối tượng mơ hồ và… không tưởng như nhân quyền, nâng cao mực sống, và dân chủ hóa,” và phải “thương thảo trong tư thế các nhận thức quyền lực thẳng thắn,” không bị “trói buộc bởi các khẩu hiệu lý tưởng” về “lòng vị tha và làm việc nghĩa quốc tế.”[13] Kennan đặc biệt lưu ý đến Á châu, nhưng các nhận xét, với vài ngoại lệ, được tổng quát hóa nhằm các quốc gia tham gia vào hệ thống toàn cầu do Mỹ lãnh đạo. Ông hiểu rất rõ “các khẩu hiệu lý tưởng” cần được trình bày rõ rệt khi đề cập các quốc gia nầy, kể cả các tầng lớp trí thức được chờ đợi phổ biến các thông điệp của Mỹ. Các kế hoạch do Kennan giúp soạn thảo và thực thi đã xem như một sự thật hiễn nhiên: Hoa Kỳ sẽ kiểm soát Tây Bán Cầu, Viễn Đông, các xứ thuộc đế quốc Anh trước đây (bao gồm các tài nguyên năng lượng vô song của Trung Đông), và càng nhiều nước càng tốt thuộc khu vực Âu-Á (Eurasia), nhất là các trung tâm thương mãi và kỹ nghệ. Đây không phải là những mục tiêu không thực tế, nếu chúng ta lưu ý đến cán cân quyền lực vào thời điểm đó. Tuy nhiên, khuynh hướng tuột dốc bẩm sinh cũng đã lập tức manh nha. Năm 1949, TQ tuyên bố độc lập, một biến cố được chính giới Tây Phương biết đến như sự kiện “đánh mất Trung Quốc”[14] – ở Hoa Kỳ, với những buộc tội và xung đột lẫn nhau giữa các phe phái về đề tài: Ai là người phải chịu trách nhiệm về “sự kiện đánh mất”. Từ ngữ sử dụng đã nói lên tất cả. Người ta chỉ có thể đánh mất một cái gì mình đang sở hữu. Giả thiết ngầm là Hoa Kỳ đã sở hữu Trung Quốc, vì có quyền, cũng như hầu hết phần còn lại của thế giới, rất giống với quan niệm của các nhà hoạch định hậu chiến. Sự kiện “đánh mất Trung Quốc” là bước đầu rất quan trọng trong thực trạng “tuột dốc của Hoa Kỳ,”[15] một sự kiện có những hậu quả chính sách quan yếu. Một hậu quả tức thì là quyết định ủng hộ nổ lực tái chiếm thuộc địa Đông Dương của Pháp, với mục tiêu không “để mất Đông Dương.” Tự thân Đông Dương lúc đó không phải là mối lo quan trọng, mặc dù T T Eisenhower và nhiều người khác cũng đã nhắc đến các tài nguyên của Đông Dương. Âu lo chính là “chủ thuyết domino,” một âu lo đã bị diễu cợt khi các domino đã không sụp đổ, nhưng vẫn là nguyên tắc chính sách hàng đầu vì lẽ khá duy lý. Nói theo giọng Henry Kissinger, một vùng khi rơi ra ngoài vòng kiểm soát sẽ trở thành một “vi khuẩn”, nguyên nhân làm căn bệnh lây lan và thúc đẩy nhiều xứ khác đi theo lối mòn. Trong trường hợp Việt Nam, mối âu lo là vi khuẩn “phát triển độc lập” có thể lan qua Indonesia, thực sự giàu tài nguyên. Và rồi có thể lan đến Nhật Bản — một superdomino, như nhà sử học khá nổi danh về Á châu, John Dower, đã từng gọi — tự thích ứng vào một Á châu độc lập như trung tâm kỹ thuật và kỹ nghệ trong một hệ thống có thể thoát khỏi tầm với của quyền lực Hoa Kỳ. Thực vậy, điều nầy có nghĩa: nếu trước đây Hoa Kỳ đã đánh mất đợt Thái Bình Dương trong Thế Chiến thứ hai, Hoa Kỳ cũng đã phải tiếp tục cuộc chiến để ngăn ngừa nổ lực của Nhật thiết lập một Trật Tự Mới ở Á châu. Phương thức đối phó với vấn đề, như vậy, đã khá rõ ràng: tiêu diệt vi khuẩn và chủng ngừa những xứ có thể bị lây nhiễm. Trong trường hợp Việt Nam, lựa chọn duy lý là triệt tiêu mọi hy vọng phát triển độc lập thành công và áp đặt các chế độ độc tài tàn bạo trong những xứ lân bang. Công tác đó đã được thực thi thành công — mặc dù lịch sử cũng thường có những trò xảo thuật của nó, và một điều gì đó tương tự những gì người Mỹ đang âu lo, đã thực sự khai triển ở Đông Á, làm người Mỹ phải điên đầu vì kinh hoàng. Chiến thắng quan trọng nhất trong cuộc chiến Đông Dương là năm 1965, khi cuộc đảo chính quân sự được Mỹ ủng hộ ở Indonesia, do Tướng Suharto lãnh đạo, đã phạm hàng loạt tội ác – CIA đã so sánh với tội ác của Hitler, Stalin … Việc tàn sát hàng loạt, như báo New York Times đã mô tả, đã được các cơ quan truyền thông dòng chính tường trình khá trung thực, một cách hả hê thích thú. Đó là “một tia sáng hy vọng ở Á châu”[16], như một nhà bình luận có khuynh hướng tự do, James Reston, đã viết trong The Times. Cuộc đảo chính đã chấm dứt đe dọa dân chủ, qua việc đạp đổ chính đảng của giới nghèo cơ sở trên quần chúng, thay vào đó, thiết lập một thể chế độc tài vun đắp một kỷ lục nhân quyền tồi tệ nhất thế giới, mở toang cánh cửa tài nguyên quốc gia nghênh đón các nhà đầu tư Tây phương. Chẳng trách sau nhiều điều ghê tởm, kể cả cuộc xâm lăng ĐôngTimor, gần như diệt chủng, Suharto đã được chính quyền Clinton tiếp đón năm 1995 như ” người của phe ta.”[17] Nhiều năm sau các biến cố lớn 1965, McGeorge Bundy, Cố Vấn An Ninh của chính quyền Kennedy-Johnson, đã suy ngẫm: có lẽ chấm dứt cuộc chiến Việt Nam vào lúc đó là một việc làm khôn ngoan, với vi khuẩn hầu như bị triệt tiêu và domino nòng cốt đã an vị vững chắc, được tăng cường bởi các chế độ độc tài được Mỹ yểm trợ khắp khu vực. Những chính sách tương tự cũng đã được theo đuổi ở nhiều nơi khác. Kissinger đã đặc biệt lưu tâm đến mối đe dọa của chế độ dân chủ xã hội Chí Lợi. Mối đe dọa nầy cũng đã được giải quyết vào một nhật kỳ đã bị lãng quên, một việc người Mỹ La Tinh gọi là ” biến cố 11/9 đầu tiên,”[18] một sự kiện, về bạo động và hậu quả đau thương, đã vượt xa sự kiện 11/9 được kỷ niệm bởi các xứ Tây phương. Một chế độ độc tài đã được áp đặt ở Chí Lợi, một phần của dịch bệnh đàn áp dã man lan khắp Mỹ La Tinh đến Trung Mỹ dưới thời Reagan. Nhiều vi khuẩn cũng đã khơi dậy những âu lo sâu xa ở nhiều nơi khác, kể cả Trung Đông, nơi mối đe dọa của chủ nghĩa quốc gia thế tục đã khiến các nhà hoạch định Anh và Mỹ âu lo, thúc đẩy họ hậu thuẩn chủ nghĩa Hồi giáo chính thống cực đoan để chống lại. TẬP TRUNG TÀI SẢN VÀ TUỘT DỐC CỦA MỸ Mặc dù những thắng lợi vừa nói, sự tuột dốc của Mỹ vẫn tiếp tục. Đến năm 1970, phần tài sản riêng của Hoa Kỳ trên thế giới đã tụt xuống mức 25% và đã dừng lại ở đó, tuy vẫn còn khổng lồ nhưng cũng đã ở dưới mức cuối Thế Chiến thứ hai khá xa. Vào thời điểm đó, thế giới đang ở trong tình trạng tam cực: Bắc Mỹ cơ sở trên Hoa Kỳ, Âu châu trên Đức quốc, và Đông Á, đã là vùng kỹ nghệ năng động nhất, đang cơ sở trên Nhật Bản, nhưng đến nay bao gồm cả các cựu thuộc địa của Nhật như Đài Loan, Nam Hàn, và gần đây hơn, Trung Quốc. Cũng vào thời điểm đó, đà tuột dốc của Hoa Kỳ đã bước vào một giai đoạn mới: tuột dốc tự tạo có ý thức.[19] Kể từ thập kỷ 1970, kinh tế Hoa Kỳ đã có một thay đổi quan trọng khi các nhà hoạch định, trong khu vực công cũng như tư, đã theo hướng tài chánh hóa và chuyển dịch khu vực kỹ nghệ chế biến ra các nước ngoài gần thị trường tiêu thụ và phí lao động thấp, một phần cũng vì tỉ suất doanh lợi trong kỹ nghệ biến chế quốc nội ngày một thấp. Những quyết định nầy đã khởi đầu một vòng lẫn quẫn: tài sản tập trung cao độ vào 0,1% dân số, đem lại một sự tập trung quyền lực chính trị, nhờ đó, ngành lập pháp đã tiếp tay đẩy mạnh chu kỳ xa hơn: chính sách thuế khóa và tài chánh, gở bỏ cơ chế giám sát, thay đổi quy luật quản trị các công ty dành cho tầng lớp quản lý nhiều quyền lợi kếch sù, và cứ thế tiếp tục. Cùng lúc, đối với đa số quần chúng, lương hiện vật phần lớn ngưng trệ, giới lao động chỉ có thể sống lây lất qua ngày bằng cách làm việc nhiều giờ hơn (so với Âu châu), nợ nần chồng chất, và nhiều bong bóng liên tục kể từ thời Reagan, với tài sản bằng giấy lộn, không tránh được tiêu tan khi bong bóng xìu xẹp, và giới trách nhiệm thay vì bị trừng phạt lại được cứu trợ với tiền thuế của cử tri. Cùng bước song hành, hệ thống chính trị ngày một rách nát, trong khi cả hai đảng — Cộng Hòa như những tên hề và Dân Chủ phần lớn là đảng viên Cộng Hòa ôn hòa trước đây lẻo đẻo theo sau — ngày một lọt sâu hơn vào túi các đại công ty tự do thao túng qua các cuộc bầu cử ngày một tốn kém. Một nghiên cứu gần đây của Viện Chính Sách Kinh Tế – Economic Policy Institute, là nguồn dữ liệu quan trọng về những biến chuyển trong nhiều năm nói trên, dưới nhan đề Thất Bại Do Thiết Kế[20] – Failure by Design. Cụm từ “do thiết kế” rất chính xác. Đã hẳn, cũng có thể có nhiều lựa chọn khác. Và như cuộc nghiên cứu đã nêu rõ: sự thất bại cơ sở trên giai cấp. Các nhà thiết kế không thất bại. Thật ra, đó là chính sách đã thất bại đối với tuyệt đại đa số, tầng lớp 99% trong hình ảnh các Phong Trào Chiếm Đóng hay Occupy Movements, và đối với Hoa Kỳ, từ lâu đã tuột dốc và sẽ tiếp tục tuột dốc với các chính sách hiện hữu. Một yếu tố khác là làn sóng xuất khẩu khu vực biến chế – offshoring of manufacturing. Như ví dụ các pa-nô năng lượng mặt trời đã đề cập trên đây đã phản ảnh, khả năng biến chế luôn cung cấp căn bản và khích lệ canh tân, dẫn đến những giai tầng tinh xảo cao hơn trong guồng máy sản xuất, thiết kế, và phát minh hay sáng chế. Tất cả đều được đưa ra nước ngoài, không là một vấn đề đối với các “quan chức giàu tiền của,” những vị tiếp tục thiết kế chính sách, nhưng là một vấn đề nghiêm trọng đối với giai cấp lao động và các giai cấp trung lưu, và là một tai họa thực sự đối với những người Mỹ gốc Phi châu và bị áp bức, chưa bao giờ thoát khỏi di sản nô lệ và các hậu quả xấu xa của nó, với tài sản nhỏ nhoi hầu như đã triệt tiêu sau sự xìu xẹp của bong bóng bất động sản năm 2008, khởi đầu cuộc khủng hoảng tài chánh 2008, một cuộc khủng hoảng tệ hại nhất cho đến nay. CƠ HỘI ĐÃ ĐÁNH MẤT Năm 1945, một toán nhỏ các nhân viên quân sự và tình báo Hoa Kỳ thuộc Sở Dịch Vụ Chiến Lược, Office of Strategic Services – OSS, tiền thân của CIA, nhảy dù xuống Việt Nam, lúc đó nằm dưới quyền chiếm đóng của Nhật. Sứ mệnh là nhằm tiếp xúc với lãnh tụ Việt Minh, Hồ Chí Minh, và cung cấp huấn luyện và viện trợ cần thiết cho lực lượng kháng chiến chống lại Nhật duy nhất của ông ở Đông Dương. Tuyên Ngôn Độc Lập, do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc ở Hà nội ngày 2-9-1945, đã biểu hiện rõ ràng ảnh hưởng của Hoa Kỳ (qua Thiếu Tá Archimedes Patti thuộc OSS) như sau: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do.” Phong Trào Độc Lập Chỉ sau mấy tháng, Hoa Kỳ lại hậu thuẩn cho thực dân Pháp đang tìm cách tiêu diệt phong trào độc lập của người Việt. Một thập kỷ sau, người Mỹ đã lựa chọn Ngô Đình Diệm thay mặt phá hoại Hiệp Định Hòa Bình Genève – về sau lại ném thi hài ông ta vào đống rác lịch sử — một bài học cho tất cả các cộng sự viên của Hoa Kỳ. Kết quả, người Mỹ cũng đã bị lôi cuốn vào một cuộc chiến chỉ chấm dứt sau một thất bại lớn lao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ — với trên dưới 60.000 người Mỹ và ba triệu người Việt tử vong. Điều đã gây ra sự kiện — một cơ hội cho Hoa Kỳ và Việt Nam cộng sinh trong hòa bình đã bị bỏ lỡ — chính là cái chết của Franklin D. Roosevelt – có lẽ là vị Tổng Thống thành công nhất sau T T Lincoln. Người kế nhiệm, Harry Truman, đã bị tập đoàn đầu sỏ chính trị lèo lái bỏ mất giấc mơ một thế giới không còn chủ nghĩa thực dân, thay vào đó, đã theo đuổi mục tiêu một Đế Quốc Hoa Kỳ. Sau tai họa Việt Nam, T T Jimmy Carter đã nổ lực xây đắp một hình ảnh mới cho Hoa Kỳ, nhất là qua chiến lược phát huy nhân quyền không chỉ cho đồng minh mà ngay cả các quốc gia thù nghịch. Nhưng rồi cũng bị tập đoàn đầu sỏ chính trị phá hỏng. Các Quốc Gia Đầy Đủ Chủ Quyền Lịch sử của ba thập kỷ vừa qua đã là lịch sử xâm lược và phá hoại của Hoa Kỳ: từ Granada và Nicaragua đến Iraq và Afghanistan. Quyền của các quốc gia tối thượng đã luôn bị chà đạp bởi nanh vuốt một Hoa Kỳ bám víu vào mọi cơ hội để duy trì quyền bá chủ ngày một phai mờ. Tất cả những gì sót lại từ thành tích quán quân nhân quyền của Carter chỉ vỏn vẹn còn thái độ kiêu ngạo ngông cuồng của Hoa Kỳ. Chương trình Phụng Hoàng sát nhân của CIA ở Việt Nam đã được lặp lại trên khắp thế giới khi giới quân sự trong nhiều xứ được huấn luyện bởi Hoa Kỳ nhằm thực thi các chương trình bắt cóc, giam giữ phi pháp, tra tấn dã man, ám sát, những programmes of disappearances. Ngay chính Hoa Kỳ cũng đã là quốc gia vi phạm nhân quyền nhiều hơn cả. Những kinh cầu vi phạm nhân quyền của Mỹ trong những năm gần đây cũng đã được bổ túc với các tội ác mọi người đều biết trong những nhà giam Camp X-Ray ở Guantanamo, Abu Ghraib, bắt cóc, ám sát các nhà báo như phóng viên nhiếp ảnh Reuters – Namir Noor-Eldeen… Tất cả cũng mới là chóp mũi của một núi băng. CIA còn duy trì một danh sách những mục tiêu cần giết –Kill List, chẳng hề quan tâm đến thủ tục tố tụng hay xét xử luật định, sử dụng các phi cơ không người lái ở Pakistan, và nhiều nơi khác; có lẽ cả nguyên lãnh tụ Libya Muammar Gadaffi bị phi cơ không người lái và các đội Biệt Kích của Hoa Kỳ và NATO tấn công gây thương tích ở chân, trước khi hướng dẫn phe dân quân nổi loạn đến giết ngay tại hiện trường. Kill List cũng là một vi phạm luật quốc tế: cố ý giết, không quan tâm đến thủ tục tố tụng hay xét xử luật định, luôn bị cấm đoán, ngoại trừ trường hợp đối tượng liên hệ đang đe dọa gây thương tích hay chết chóc; và ngay trong trường hợp nầy, quyết định cố ý giết chết cũng chỉ là giải pháp cuối cùng. Và bỏ lỡ cơ hội, lạm dụng giải pháp cuối cùng … cũng là những yếu tố góp phần tăng tốc đà thoái hóa trong sinh hoạt chính trị và suy tàn của đế quốc. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 01-3-2012 Chú Thích: (1) Độc giả có thể đọc thêm các tác phẩm mới nhất của Noam Chomsky, giáo sư hưu trí thuộc MIT Department of Linguistics and Philosophy: Making the Future: Occupations, Intervention, Empire, and Resistance; Gaza in Crisis; và Hopes and Prospects. (2) John Maynard Keynes và Khủng Hoảng Kinh Tế, Nguyễn Trường, ”nguyentruong92606.wordpress.com.” [1] We are opposed around the world by a monolithic and ruthless conspiracy that relies primarily on covert means for expanding its sphere of influence and if the conspiracy achieves its ends in Laos and Vietnam, the gates will be opened wide. [2] … The complacent, the self-indulgent, the soft societies are about to be swept away with the debris of history and only the strong… can posssibly survive… [3] Vietnam as a cultural and historic entity … is threatened with extinction … [as] … the countryside literally dies under the blows of the largest military machine ever unleashed on an area of this size…. [4] yearning for democracy. [5] Is America Over? [6] The Problem is Palestinian Rejection. [7] The Problem Is the Occupation. [8] How the Occupation is Destroying the Nation. [9] Israel under Siege. [10] …Skeptics of military action fail to appreciate the true danger that a nuclear-armed Iran would pose to U.S. interests in the Middle East and beyond. And their grim forecasts assume that the cure would be worse than the disease — that is, that the consequences of a U.S assault on Iran would be as bad as or worse than those of Iran achieving its nuclear ambitions. But that is a faulty assumption. The truth is that a military strike intended to destroy Iran’s nuclear program, if managed carefully, could spare the region and the world a very real threat and dramatically improve the long-term natioal security of the United States. [11] The door is closing, and very soon it will be closed forever. [12] American decline can perhaps be stemmed if we [Americans] abandon hope for decent survival… [13] We should cease to talk about vague and … unreal objectives such as human rights, the raising of the living standards, and democratization,” and must “deal in straight power concepts,” not “hampered by idealistic slogans about altruism and world-benefaction.” [14] …the loss of China… [15] …America’s decline… [16] …a gleam of light in Asia… [17] …our kind of guy… [18] …the first 9/11… [19] …conscious self-inflicted decline… [20] Failure by Design.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:27:23 GMT 9
ẢNH HƯỞNG VÀ QUYỀN LỰC CỦA SIÊU CƯỜNG HOA KỲ Sau nhiều năm tuột dốc tự tạo và có ý thức, những mất mát bên ngoài của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ngày một gia tăng. THU HẸP VÀ LUNG LAY Trong thập kỷ vừa qua, lần đầu tiên trong 500 năm, Nam Mỹ đã có những bước thành công tự giải phóng khỏi ách thống trị của Tây Phương, thêm một thất bại nghiêm trọng của Hoa Kỳ. Khu vực phía Nam Tây Bán Cầu đang trong quá trình hội nhập, và đã khởi đầu giải quyết một số vấn đề nội bộ khó khăn của những xã hội phần lớn ngự trị bởi tầng lớp thượng lưu Âu châu, những ốc đảo nhỏ bé cực kỳ giàu có trong một đại dương nghèo khó. Các quốc gia Nam Mỹ cũng đã cởi bỏ những căn cứ quân sự của Mỹ và sự kiểm soát của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Một tổ chức mới được sáng lập, CELAC, bao gồm tất cả các xứ Tây Bán Cầu ngoại trừ Canada và Hoa Kỳ. Một khi thực sự hoạt động, CELAC cũng là một bước mới trong quá trình tuột dốc của Mỹ, trong trường hợp nầy ngay trong khu vực luôn được xem như “sân sau” của Hoa Kỳ. Một mất mát nghiêm trọng hơn là các xứ MENA -Trung Đông/ Bắc Phi – khu vực các nhà hoạch định ngay từ thập kỷ 1940 đã xem như “nguồn quyền lực chiến lược to lớn kỳ diệu, và là một trong những phần thưởng vật chất lớn nhất trong lịch sử thế giới.”[1] Theo lời của cố vấn đầy quyền lực của T T Roosevelt, A.A. Berle, kiểm soát được trữ lượng dầu khí của MENA có thể đem lại quyền kiểm soát đáng kể trên thế giới. Đã hẳn, nếu những dự báo một thế kỷ độc lập về năng lượng của Hoa Kỳ dựa trên các tài nguyên năng lượng Bắc Mỹ đúng với thực tế, ý nghĩa của quyền kiểm soát MENA có thể giảm bớt đôi chút, mặc dù có lẽ không nhiều: quan tâm chính luôn là kiểm soát nhiều hơn là tiếp cận. Tuy nhiên, hậu quả khả dĩ đối với thế quân bình của hành tinh là điềm xấu đến độ sự thảo luận phần lớn chỉ có thể mang tính hàn lâm. Mùa Xuân Á Rập, một biến cố có tầm quan trọng lịch sử khác, có thể báo hiệu ít ra một mất mát phân bộ trong vùng MENA. Hoa Kỳ và các đồng minh đã tận lực ngăn chặn hậu quả đó – cho đến nay, khá thành công. Chính sách của các xứ nầy đối với các phong trào trỗi dậy của quần chúng là luôn bám sát những nguyên tắc hướng dẫn chuẩn: ủng hộ những lực lượng có nhiều khả năng chấp nhận ảnh hưởng và sự kiểm soát của người Mỹ. Các nhà độc tài tay chân sẽ được yểm trợ trong chừng mức họ có thể duy trì quyền kiểm soát (như trong các xứ nhiều dầu lửa). Khi điều nầy không còn có thể, lúc đó phải loại bỏ họ và tìm cách vãn hồi chế độ cũ càng nhiều càng tốt (như trường hợp Tunisia và Ai Cập). Mẫu mực chung rất quen thuộc: Somoza, Marcos, Duvalier, Mobutu, Suharto, và nhiều lãnh tụ khác. Trong trường hợp Libya, ba đế quốc truyền thống đã can thiệp bằng vũ lực qua việc công khai yểm trợ các phe nhóm phiến loạn lật đổ nhà độc tài đồng bóng khó tin cậy, mở đường cho khả năng kiểm soát các tài nguyên quan trọng hữu hiệu hơn (dầu lửa, cả nước sạch đối với người Pháp), một căn cứ quân sự cho Bộ Tư lệnh Phi châu của Hoa Kỳ (cho đến nay, chỉ hạn chế cho Đức), và đảo ngược sự xâm nhập ngày một gia tăng của TQ. Trên phương diện chính sách, chẳng có nhiều ngạc nhiên. Điều quan trọng hơn cả là giảm thiểu sự đe dọa của “các chế độ dân chủ đang vận hành hay mới manh nha, trong đó ý kiến quần chúng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến chính sách”. Một lần nữa, đó là lệ thường và dễ hiểu. Một cái nhìn về các nghiên cứu công luận của các cơ quan thăm dò Hoa Kỳ trong các xứ MENA giúp giải thích dễ dàng sự e ngại của nhà cầm quyền Mỹ trước “mối đe dọa dân chủ chân chính với công luận luôn ảnh hưởng đến chính sách”. DO THÁI VÀ ĐẢNG CỘNG HÒA Quan tâm hàng đầu thứ hai được đề cập trong Foreign Affairs: quan hệ Do Thái-Palestine. Trong trường hợp nầy, nỗi e ngại dân chủ quả thật đã quá rõ ràng. Tháng giêng 2006, một cuộc bầu cử đã được tổ chức ở Palestine và đã được các quan sát viên quốc tế xác nhận là tự do và công bình. Phản ứng tức khắc của Hoa Kỳ (và cố nhiên, của cả Do Thái), với Âu châu ngoan ngoãn theo sau, là áp đặt những trừng phạt khắt khe lên dân chúng Palestine, vì đã bỏ phiếu trái với ý muốn của người Mỹ. Đây cũng không phải một điều gì mới mẽ. Phản ứng hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc chung và không có gì đáng ngạc nhiên đối với các học giả dòng chính: Hoa Kỳ chỉ ủng hộ dân chủ nếu kết quả bầu cử phù hợp với các mục tiêu chiến lược và kinh tế của Mỹ. Nói chung, trong 35 năm, Hoa Kỳ đã dẫn đầu “phe bác bỏ”[2] trong vấn đề Do Thái-Palestine, chặn đứng mọi đồng thuận quốc tế kêu gọi một giải pháp quá quen thuộc để phải lặp lại. Phương châm của các xứ Tây phương là Do Thái luôn tìm kiếm các cuộc thương thảo không có “điều kiện tiên quyết”, và người Palestine luôn “bác bỏ”. Trong thực tế, sự thật hoàn toàn trái ngược. Hoa Kỳ và Do Thái luôn “đòi hỏi các điều kiện tiên quyết phi lý”, được thiết kế nhằm bảo đảm các cuộc thương nghị sẽ đưa đến hoặc một sự đầu hàng của Palestine trong các vấn đề then chốt, hoặc không đi đến đâu. Điều kiện tiên quyết thứ nhất là các cuộc thương nghị “phải được Hoa Kỳ giám sát”, một đòi hỏi vô nghĩa và thiếu duy lý, chẳng khác gì Iran đòi hỏi được quyền giám sát mọi thương nghị trong cuộc xung đột Sunni-Shia ở Iraq. Đàm phán nghiêm chỉnh cần được tổ chức dưới sự bảo trợ của một quốc gia trung lập, và có uy tín quốc tế – có lẽ Brazil. Và đây là các cuộc đàm phán nhằm tìm cách giải quyết các xung đột giữa hai phe đối nghịch: một bên là Hoa Kỳ-Do Thái, bên kia là phần lớn thế giới còn lại. Điều kiện tiên quyết thứ hai là Do Thái “phải được tự do bành trướng các khu định cư phi pháp ở Bờ Tây”. Trên lý thuyết, người Mỹ chống đối những hành động nầy, nhưng chỉ với cử chỉ gỏ nhẹ vào cổ tay, trong khi vẫn tiếp tục cung cấp các hổ trợ kinh tế , ngoại giao, và quân sự cho Do Thái. Khi người Mỹ có vài phản đối nhỏ, họ rất dễ dàng ngăn chặn, như trong trường hợp dự án E-1 nối liền Greater Jerusalem với thành phố Ma’aleh Adumim hầu như cắt đôi Bờ Tây, một ưu tiên hàng đầu đối với các nhà hoạch định Do Thái, nhưng cũng chỉ nêu lên một vài chống đối qua loa ở Hoa Thịnh Đốn, để rồi Do Thái chỉ phải sử dụng vài biện pháp ranh ma bào đẽo dự án. Giả vờ chống đối đã đạt tới mức hài hước trong tháng 2-2011, khi Obama phủ quyết nghị quyết của Hội Đồng Bảo An LHQ kêu gọi thực thi chính sách chính thức của Hoa Kỳ (cũng kèm thêm nhận xét thông thường các khu định cư là bất hợp pháp – chẳng dính dáng gì đến kế hoạch bành trướng). Từ đó, ít có ai nhắc tới biện pháp chấm dứt bành trướng các khu định cư, tuy vẫn được tiếp tục như một việc làm với chủ đích khiêu khích. Vì vậy, khi đại diện của Do Thái và Palestine chuẩn bị gặp nhau vào tháng 1-2011, Do Thái đã loan báo những công trình xây dựng mới ở Pisgat Ze’ev và Har Homa, những khu trong Bờ Tây đã được công bố thuộc phạm vi Jerusalem nới rộng, được sát nhập, và xây dựng như thủ đô của Do Thái, tất cả đều vi phạm các mệnh lệnh trực tiếp của Hội Đồng Bảo An LHQ. Nhiều động thái khác nhằm xúc tiến các thiết kế lớn lao hơn trong chiến lược cô lập hóa những gì còn lại từ các khu biệt lập trong Bờ Tây, như trung tâm văn hóa, thương mãi, chính trị của Palestine trong Jerusalem trước đây. Điều khá dễ hiểu là quyền lợi của Palestine đã được đẩy ra ngoại vi chính sách và công luận Hoa Kỳ. Người Palestine hình như chẳng có tài sản hay quyền lực gì đủ quan trọng để trao đổi với Hoa Kỳ trong quá trình định hình chính sách. Trong thực tế, họ chỉ có một giá trị tiêu cực – một phiền toái khuấy rối “đường phố Á Rập.” Ngược lại, Do Thái là một đồng minh quý giá. Đó là một xứ giàu có, với công nghệ cao và phần lớn đã được quân sự hóa. Trong nhiều thập kỷ, Do Thái đã là đồng minh chiến lược và quân sự thiết yếu, nhất là từ năm 1967, khi đã thành công trong việc giúp Hoa Kỳ và đồng minh Saudi Arabia hủy diệt vi khuẩn Nasser, thiết lập một quan hệ đặc biệt với Hoa Thịnh Đốn trong một hình thức lâu bền kéo dài mãi cho đến ngày nay. Do Thái cũng là một trung tâm ngày một quan trọng thu hút đầu tư công nghệ cao của Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, kỹ nghệ tân tiến và đặc biệt là kỹ nghệ quân sự trong hai xứ cũng đã nối kết chặt chẽ với nhau. Bên cạnh các lý do chính trị nước lớn sơ đẳng, chúng ta cũng không nên quên các yếu tố văn hóa. Chủ nghĩa phục quốc ở Anh và Hoa Kỳ từ lâu đã đi trước chủ nghĩa phục quốc Do Thái, và đã là hiện tượng thượng lưu đầy ý nghĩa với những hệ lụy chính sách rõ rệt (kể cả Tuyên Ngôn Balfour rút tỉa từ những hệ lụy nầy). Khi Tướng Allenby chinh phục Jerusalem trong Đệ Nhất Thế Chiến, ông ta đã được báo chí Hoa Kỳ hoan nghênh như Richard the Lion-Hearted, người cuối cùng đã thắng Thập Tự Chinh và đuổi các tín đồ tà giáo ra khỏi Holy Land. Bước kế tiếp là giúp Dân Tộc Được Lựa Chọn – the Chosen People – trở về vùng Đất Hứa Chúa đã dành cho họ. Phát biểu cách nhìn của giới thượng lưu, Bộ trưởng Nội Vụ của Franklin Roosevelt, Harold Ickes, đã mô tả chiếm đóng Palestine làm khu định cư của Do Thái là một thành tựu “vô song trong lịch sử nhân loại.” [3] Những thái độ như thế thường dễ tìm được chỗ đứng bên trong các chủ thuyết Providentialist, một yếu tố mạnh mẽ trong văn hóa dân gian và thượng lưu từ nguồn gốc của Do Thái: đức tin Chúa có một kế hoạch cho thế giới và Hoa Kỳ đang thực thi kế hoạch dưới sự hướng dẫn của Chúa, như đã được phát biểu bởi một danh sách dài các gương mặt lãnh đạo. Hơn nữa, Cơ Đốc Phúc Âm là một lực lượng bình dân lớn ở Hoa Kỳ. Đi xa hơn về phía cực đoan, Cơ Đốc Phúc Âm End Times, cũng có tầm với bình dân sâu rộng, tăng cường bởi sự thành lập nước Do Thái năm 1948, tiếp đến bởi việc chiếm đoạt phần còn lại của Palesine năm 1967 – mọi dấu hiệu End Times và Second Coming đang đến gần. Những lực lượng vừa nói đã trở nên cực thịnh từ thời Reagan, khi Phe Cộng Hòa đã từ bỏ lớp võ ngoài của một chính đảng theo nghĩa truyền thống, thay vào đó đã đồng lòng tích cực phụng sự một tối thiểu số cực giàu và khu vực các đại công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, vì số cử tri hậu thuẩn quá nhỏ bé, phần lớn được đảng vừa tái thiết phụng sự, không thể đem lại đủ số phiếu, vì vậy, phải quay qua nơi khác tìm hậu thuẩn. Lựa chọn duy nhất là động viên các khuynh hướng luôn hiện diện, mặc dù hiếm khi như một lực lượng chính trị có tổ chức: phần lớn là thổ dân bản địa run sợ và căm thù, và những thành phần tôn giáo cực đoan. Một kết quả là sùng bái những lời tiên tri trong Kinh Thánh, không những ủng hộ Do Thái và chính sách chiếm đoạt và bành trướng, mà còn si mê Do Thái đến cuồng điên, một bộ phận nòng cốt của giáo lý catechism – ngợi ca bởi các ứng cử viên Cộng Hòa – với đảng viên Dân Chủ lẻo đẻo theo sau. Do đó, những nhóm nầy luôn có thiện cảm - trực giác hay cảm tính – đối với con em Do Thái. Nhưng trên căn bản, các quyền lợi kinh tế và địa chiến lược luôn giữ địa vị ưu thắng, và chính sách không phải không thay đổi. ĐE DỌA IRAN VÀ ĐỀ TÀI NGUYÊN TỬ Đây là đề tài hàng đầu thứ ba được đề cập trong Foreign Affairs: “đe dọa Iran.” Trong giới thượng lưu và tầng lớp chính trị, đây là đe dọa chính đối với trật tự thế giới – mặc dù không phải trong quần chúng. Ở Âu châu, các cuộc thăm dò cho thấy Do Thái được xem như đe dọa hòa bình hàng đầu. Trong các xứ MENA, tình trạng cũng tương tự như Hoa Kỳ. Chẳng hạn, ở Ai Cập, trước ngày biến động ở Quảng Trường Tahrir, 80% dân Ai Cập cảm nhận khu vực Trung Đông có thể an toàn hơn nếu Iran có vũ khí nguyên tử. Cùng những thăm dò đã đi đến kết luận: chỉ 10% xem Iran như một đe dọa – không giống những nhà độc tài đang ngự trị, những người có những quan tâm riêng. Ở Hoa Kỳ, trước các chiến dịch tuyên truyền rầm rộ trong vài năm gần đây, đa số quần chúng đồng ý với hầu hết thế giới: như một quốc gia đã ký Thỏa Ước Cấm Phổ Biến Nguyên Tử, Iran có quyền làm giàu uranium. Và ngay cả hiện nay, một đa số lớn vẫn ủng hộ các biện pháp hòa bình trong quan hệ với Iran. Đa số dân Mỹ chống đối can dự quân sự nếu có chiến tranh giữa Iran và Do Thái. Chỉ 1/4 xem Iran như mối quan tâm lớn đối với Hoa Kỳ. Đã hẳn, chẳng có gì bất thường nếu có một khoảng cách hay hố sâu, chia cách công luận và chính sách. Như vậy, vì sao Iran lại bị xem như một đe dọa lớn lao đến thế? Vấn đề rất hiếm khi được thảo luận, nhưng vẫn không khó tìm một câu trả lời nghiêm chỉnh – dĩ nhiên không phải trong những lời tuyên bố nẩy lửa của các ứng viên Cộng Hòa. Câu trả lời có thẩm quyền nhất được cung cấp bởi Ngũ Giác Đài và các cơ quan tình báo, trong các báo cáo định kỳ cho Quốc Hội, về an ninh toàn cầu: Iran không là một đe dọa quân sự; chi tiêu quân sự của Iran rất thấp ngay cả theo chuẩn mực trong khu vực, đã hẵn bé tí teo so với Hoa Kỳ. Iran có rất ít khả năng giàn trải lực lượng. Các học thuyết chiến lược của Iran mang tính tự vệ, được thiết kế nhằm ngăn ngừa xâm lăng đủ lâu để tìm một giải pháp ngoại giao. Nếu Iran khai triển khả năng vũ khí hạt nhân, điều đó cũng chỉ là một phân bộ của chiến lược ngăn ngừa. Không một nhà phân tích nghiêm chỉnh nào tin hàng giáo phẩm lãnh đạo Iran lại nóng lòng muốn thấy xứ sở và kinh tế của họ bị tiêu tan, hậu quả trực tiếp của việc họ tiến gần đến nguy cơ khởi động một cuộc chiến nguyên tử. Và tưởng cũng chẳng cần phải nêu rõ những lý do tại sao cấp lãnh đạo Iran phải quan tâm đến các biện pháp ngăn chặn, trong hoàn cảnh hiện nay. Chế độ đã hẳn là một đe dọa ngay đối với một số dân chúng Iran – và đáng tiếc, họ cũng không hề duy nhất hay đơn độc trong địa hạt nầy. Nhưng đe dọa chính đối với Hoa Kỳ và Do Thái là Iran có thể ngăn chặn hai nước thù địch Hoa Kỳ-Do Thái tự do hành xử bạo lực. Một đe dọa khác là người Iran rõ ràng đang tìm cách bành trướng ảnh hưởng đến Iraq và Afghanistan, và xa hơn nữa. Những hành động không chính đáng đó được gọi là gây bất ổn hay tệ hơn nữa. Trái lại, sự áp đặt, mang tính cưởng ép, ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở những vùng xa xôi trên thế giới lại được xem như góp phần vào “ổn định và trật tự,” phù hợp với học thuyết truyền thống: Ai đang làm chủ thế giới. Đã hẳn, chúng ta có thể hiểu lý do vì sao cần ngăn ngừa Iran gia nhập hàng ngũ những quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, kể cả ba xứ đã từ chối ký vào Thỏa Ước Cấm Phổ Biến Nguyên Tử — Do Thái, Ấn Độ, và Pakistan, cả ba đều đã được Hoa Kỳ giúp phát triển vũ khí nguyên tử và vẫn còn được các xứ nầy ủng hộ trở lại. Nhưng cũng không phải không thể tiến tới mục tiêu ngăn ngừa Iran bằng các biện pháp ngoại giao hòa bình. Một cách tiếp cận, được sự hổ trợ quốc tế mạnh mẽ, là cần có những bước tiến có ý nghĩa: nhằm thiết lập một khu vực phi nguyên tử ở Trung Đông, kể cả Iran và Do Thái (và cũng áp dụng cho các lực lượng Hoa Kỳ hoạt động trong khu vực), và còn tốt hơn nữa bao gồm cả Nam Á. Hậu thuẩn cho cách tiếp cận vừa nói mạnh đến nổi chính quyền Obama cũng đã bị buộc phải chính thức đồng ý, mặc dù với dè dặt: quan trọng nhất là chương trình nguyên tử của Do Thái phải được đặt dưới quyền bảo trợ của Hiệp Hội Năng Lượng Nguyên Tử Quốc Tế, International Atomic Energy Association – IAEA; không quốc gia nào (ám chỉ chính Hoa Kỳ) bị đòi hỏi phải tiết lộ thông tin về “các cơ sở và hoạt động nguyên tử của Do Thái, kể cả thông tin liên quan đến các chuyển giao nguyên tử cho Do Thái trước đây.”[4]Obama cũng chấp nhận lập trường của Do Thái: bất cứ một đề nghị nào tương tự cũng phải tùy thuộc một giải pháp hòa bình toàn bộ – một giải pháp Hoa Kỳ và Do THái có thể tiếp tục trì hoãn vô thời hạn. Khỏi cần phải nói, lối nhìn tổng quát nầy còn xa mới đầy đủ. Trong số những đề tài quan trọng không được xét đến là việc chuyển dịch chiến lược quân sự của Hoa Kỳ qua vùng Á Châu-Thái Bình Dương, với sự thiết lập hệ thống căn cứ quân sự đang diễn tiến hiện nay ở Jeju Island ngoài khơi Nam Hàn và Bắc Úc Đại Lợi. Tất cả đều là thành tố của chính sách “ngăn chặn Trung Quốc.”[5] Một đề tài liên hệ chặt chẽ khác là các căn cứ của Hoa Kỳ ở Okinawa, bị kịch liệt chống đối bởi dân địa phương trong nhiều năm qua, và gây khủng hoảng liên tục trong quan hệ Hoa Kỳ-Tokyo-Okinawa. Theo Paul Godwin, Viện Nghiên Cứu Chính Sách Đối Ngoại, với rất ít thay đổi các giả thiết căn bản đã được tiết lộ, các nhà phân tích chiến lược Hoa Kỳ mô tả kết quả các chương trình quân sự của TQ như một “vấn nạn ‘an ninh cổ điển’, theo đó các chương trình quân sự và chiến lược quốc gia được đánh giá bởi các nhà hoạch định là ‘tự vệ’ đang được đối phương xem như mang tính đe dọa.”[6] Vấn nạn an ninh bắt nguồn từ quyền kiểm soát những vùng biển ngoài khơi bờ biển Trung Quốc: Người Mỹ xem chính sách kiểm soát các vùng biển nầy của mình là để “tự vệ,” trong khi TQ xem đó là một “đe dọa”; ngược lại, TQ xem các hành động của mình trong các vùng kế cận là “tự vệ” trong khi người Mỹ xem đó là một “đe dọa.” Không một tranh luận tương tự nào như thế có thể tưởng tượng được nếu liên quan đến các vùng lãnh hải của Hoa Kỳ. Vấn nạn an ninh cổ điển nầy cũng rất dễ hiểu – Hoa Kỳ luôn tự nhận: có quyền kiểm soát hầu hết thế giới, và an ninh Hoa Kỳ đòi hỏi một điều gần như quyền kiểm soát toàn cầu tuyệt đối. Trong khi các nguyên tắc về quyền bá chủ mang tính đế quốc của Hoa Kỳ đã thay đổi rất ít, khả năng của Hoa Kỳ để thực thi những quyền nầy lại đã suy giảm khá rõ ràng khi quyền lực đã được phân phối rộng rãi hơn trong một thế giới không còn đơn cực. Hậu quả thật sự khá nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là không một đại cường nào chịu giúp gở bỏ hai đám mây dày đặc đang vần vũ bên trên mọi toan tính trật tự toàn cầu: hiểm họa chiến tranh nguyên tử và tai họa môi trường. Cả hai rõ ràng đang đe dọa sự thượng tồn của nhân loại. Hoàn toàn ngược lại. Sự đe dọa của cả hai đại họa đã rất rõ rệt và ngày một gia tăng. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. Ngày 05-3-2012 Chú Thích: (1) Hầu hết các dữ liệu sử dụng trong bài viết đều dựa vào các tác phẩm của Noam Chomsky, Giáo sư hưu trí, MIT Department of Languistics and Philosophy. (2) Những tác phẩm mới nhất của Noam Chomsky: Making the Future: Occupations, Intervention, Empire, and Resistance; Gaza in Crisis; Hopes and Prospects. [1] …a stupendous source of strategic power, and one of the greatest material prizes in world history. [2] ..the rejectionist camp… [3] …Jewish colonization of Palestine as an achievement “without comparison in the history of the human race.” [4] …no state (meaning the U.S.) should be required to release information about”Israeli nuclear facilities and activities, including information pertaining to previous nuclar transfer to Israel.” [5] …”containment of China.” [6] …the result of China’s military programs as “a classic security dilemma, whereby military prgrams and national strategies deemed defensive by their planners are viewed as threatening by the other side.”
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:28:28 GMT 9
CUỘC CHIẾN TOÀN CẦU CHỐNG KHỦNG BỐ: TỪ GIẢI PHÓNG ĐẾN ÁM SÁT Đã khá lâu Hoa Kỳ đã bước vào thập kỷ thứ hai, thời kỳ Ngũ Giác Đài đã mệnh danh “kỷ nguyên xung đột triền miên.”[1] Cuộc chiến trước đây đã được biết dưới tên gọi “Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố’,”[2] ngày một có vẻ “manh mún” và “khuếch tán.”[3] Không ghi được chiến thắng, nhưng vẫn không sẵn sàng nhận thất bại, lực lượng quân sự của Hoa Kỳ đã rút khỏi Iraq. Người Mỹ cũng đang tìm cách rời bỏ Afghanistan, nơi họ hình như không có triễn vọng kết thúc tốt đẹp như hằng mong muốn. Trong nhiều xứ khác — Pakistan, Libya, Yemen, và Somalia — lực lượng Hoa Kỳ hiện đang bận rộn mở nhiều mặt trận mới. Theo tường trình báo chí, Hoa Kỳ còn đang thiết lập nhiều căn cứ phi cơ không người lái bí mật bên trong hoặc gần Horn of Africa và Bán đảo Á Rập. Chiến tranh, do đó, chắc sẽ mở rộng nhiều hơn nữa. Trong một bài đăng trên trang đầu, báo The New York Times đã mô tả các kế hoạch tăng cường sự hiện diện dày đặc hơn của lực lượng hành quân biệt kích Hoa Kỳ trên toàn cầu. Quân đội Mỹ cũng đang gấp rút cải biến các tàu đổ bộ hải quân thành những căn cứ nổi di động đến gần tiền tuyến – một căn cứ xuất phát lưu động dành cho các cuộc hành quân còm-măng-đô hay rà quét bom mìn trong vùng Vịnh Ba Tư – thêm một dấu hiệu tăng cường và mở rộng cuộc chiến. Trong khi một vài căn cứ được đóng cữa, một số mới lại xuất hiện, câu chuyện chiến tranh, do đó, ngày một thêm phức tạp khó lường. Nhìn gần và nhìn kỷ, cuộc “chiến” hình như đã đánh mất vóc dáng, hình thù. Tuy nhiên, nếu lùi lại vài bước, mẫu mực quan trọng ũng đã bắt đầu ló dạng. Những gì sau đây chỉ là một nổ lực sơ bộ để thẩm định Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố. Cuộc chiến tạm thời được xem như trận đấu với ba hiệp. Mặc dù rất có thể sẽ còn nhiều hiệp phụ, ở đây chỉ cần lưu ý ba hiệp chúng ta đã và đang trải nghiệm cho đến nay. KỶ NGUYÊN RUMSFELD Hiệp 1: Giải Phóng. Hơn bất cứ ai, bất cứ tướng lãnh nào, và ngay cả chính tổng thống, Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld đã giữ vai trò áp đảo trong thời kỳ đầu của cuộc chiến. Được tâng bấc quá đáng, uy tín được thổi phồng, và được hâm mộ, ít ra trong mắt câu lạc bộ tân bảo thủ, như một Bộ Trưởng Chiến Tranh tài ba, Rumsfeld cực kỳ tin tưởng, trong chiến tranh, tốc độ là chìa khóa quyết định thành công. Ông đã dốc toàn lực hậu thuẩn hình thái chiến tranh chớp nhoáng cơ sở trên công nghệ cao của Mỹ. Rumsfeld thường nhấn mạnh, lực lượng Hoa Kỳ thông minh và nhanh nhẹn hơn bất cứ đối thủ nào. Sử dụng quân lực trong những phương cách tối đa hóa các đặc tính vừa nói là bảo đảm thắng lợi. Từ được báo chí lựa chọn để mô tả ý niệm nầy là “sốc và kinh hoàng.”[4] Không ai tin tưởng ở “sốc và kinh hoàng” hơn Rumsfeld. Thiết kế cuộc hành quân Operation Enduring Freedom, phát động trong tháng 10-2001, và Operation Iraqi Freedom, bắt đầu vào tháng 3-2003, đã phản ảnh lòng tin ấy. Trong mỗi trường hợp, chiến dịch khởi động đầy hứa hẹn, với quân Mỹ đã giáng những cú đấm thần tốc và đầy ấn tượng. Tuy nhiên, trong cả hai cuộc hành quân, họ đều không thể thắng hẳn đối phương, hay trong thực tế, ngay cả không nhận diện được ai là kẻ thù của họ. Không may cho Rumsfeld, các thành phần “khủng bố” đã từ chối luật chơi của ông, và lực lượng Mỹ đã chứng tỏ ít thông minh và nhanh nhẹn hơn là lợi thế kỷ thuật sẵn có — và guồng máy “quan hệ quần chúng”, hay đúng hơn “đổi trắng thay đen” của họ đã chứng minh điều đó. Thực vậy, khi bị quấy rối bởi các nhóm trỗi dậy và các nhóm thánh chiến đó đây, quân đội Mỹ đã tỏ ra chậm chạp đáng ngạc nhiên trong cách ứng phó. Ở Afghanistan, Rumsfeld đã để chiến thắng vuột khỏi tầm tay. Ở Iraq, phương cách quản lý cuộc chiến sai lầm của ông đã buộc Hoa Kỳ phải trực diện với thất bại hoàn toàn. Cấp lãnh đạo Hoa Kỳ trước đó đã nuôi hy vọng “giải phóng” (và cố nhiên khống chế) thế giới Hồi giáo sau một chuổi tấn công gọn ghẽ chóng vánh. Nhưng những gì Bush nhận được là hai cuộc tranh hùng khó khăn và dài lâu. Vào cuối năm 2006, chiến lược “sốc và kinh hoàng” đã hoàn toàn thất bại. Bị dân Mỹ và quân lực bỏ lại phía sau quá xa, Tổng Thống Bush rút cuộc đã mất hết tin tưởng ở chiến lược của vị Bộ Trưởng Quốc Phòng của mình. Kết quả cuối cùng, Rumsfeld đã bị thay thế. Hiệp 1 đã chấm dứt, và người Mỹ đã phải bối rối và chịu thua điểm. KỶ NGUYÊN PETRAEUS Hiệp 2: Bình Định. Đến phiên Tướng David Petraeus. Hơn bất cứ ai, dù quân sự hay dân sự, Petraeus đã giữ vai trò áp đảo trong Hiệp 2 cuộc Chiến Chống Khủng Bố. Hiệp hai bắt đầu với ít kỳ vọng hơn. Giấc mơ giải phóng hay khống chế không còn nữa. Các tiên đoán thắng lợi chớp nhoáng cũng không còn. Giờ đây, Hoa Kỳ phải bằng lòng với các mục tiêu khiêm tốn hơn nhiều trong khi vẫn rêu rao đang thắng lợi. Thực ra, chiến lược của Petraeus giờ đây chỉ nhằm vãn hồi một bề ngoài trật tự trong các xứ đã rơi vào hỗn độn, hậu quả của Hiệp 1. Trật tự có thể cho phép Hoa Kỳ tự tháo gỡ trong khi vẫn làm ra vẻ đã đạt được các mục tiêu chính sách. Đó chỉ là định nghĩa thực tế của thắng lợi trong chiến lược mới. Tên gọi chính thức Petraeus dành cho chiến lược là “chống nổi loạn” – counterinsurgency, hay COIN. Thay vì tìm cách đánh bại kẻ địch, COIN đã cố gắng đem lại một thứ quốc gia-nhà nước (nation-state), có thể tồn tại vất vưởng và ổn định tạm bợ. Đây là mục tiệu ấn định của đợt dấy lên hay tăng cường (surge), ở Iraq, theo lệnh của T T George W. Bush vào cuối năm 2006. Dưới sự lèo lái của Petraeus, bạo lực trong xứ đã nhanh chóng giảm bớt. Liên hệ của hai sự kiện mang tính nhân quả hay chỉ trùng hợp ngẫu nhiên vẫn còn là một đề tài tranh luận. Tuy vậy, sự thành công biểu kiến của Petraeus đã thuyết phục vài quan sát viên chiến lược chống nổi loạn tầm cỡ toàn cầu, dưới tên gọi GCOIN, lúc đó, chọn làm cơ bản cho chiến lược an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Họ lập luận, đây là cách tiếp cận hay chính sách chắc chắn có thể giải cứu Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, cùng lúc đem lại một thứ chiến thắng. Thay vì dùng chiến lược “sốc và kinh hoàng” để giải phóng thế giới Hồi giáo, các lực lượng Hoa Kỳ có thể áp dụng học thuyết chống nổi loạn để bình định, dù chỉ tạm thời. Nhiệm vụ chứng minh hiệu lực hay giá trị của COIN bên ngoài Iraq được giao phó cho Tướng Stanley McChrystal, được bổ nhiệm một cách trang trọng năm 2009 vào chức vụ Tư Lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và NATO ở Afghanistan. Báo chí ca tụng McChrystal như một Petraeus thứ hai, một ứng viên lý tưởng để lặp lại các thành tựu đã đem lại uy tín vẻ vang cho “King David.” Sự thăng tiến của McChrystal đã đến vào một thời điểm khi sự tôn sùng các tướng lãnh đang thẩm thấu Hoa Thịnh Đốn. Thay vì vũ khí công nghệ cao là yếu tố quyết định thành công như Rumsfeld đã từng tin tưởng, chìa khóa thành công lúc đó là “đặt người đúng chỗ” với “trọn quyền tự do điều hành quản lý”. Các chính trị gia lưỡng đảng đã không tiếc lời tâng bấc McChrystal là tướng tư lệnh lý tưởng cho Afghanistan. Các bình luận gia mọi sắc màu cũng tham dự hợp xướng tán dương. Vừa an vị ở Kabul, và sau khi đã quan sát tình hình, không mấy ai ngạc nhiên khi McChrystal trang trọng tuyên bố: “thành công đòi hỏi một chiến dịch chống trỗi dậy toàn diện.”[5] Chiến dịch phát động một đợt “tăng cường tấn công” hay “surge” ở Afghanistan, tương tự những gì đã từng giúp đảo ngược thế cờ ở Iraq. Tháng 12-2009, mặc dù không mấy hồ hởi tin tưởng, T T Obama đã chấp nhận yêu cầu hay tối hậu thư của tướng tư lệnh. Và quân đội Hoa Kỳ ở Afghanistan đã được tăng cường nhanh chóng. Nhưng rồi tình hình lại lúc một tệ dần. Tiến độ giảm thiểu làn sóng trỗi dậy hay cải thiện khả năng của các lực lượng an ninh Afghanistan, dù đã được đánh giá một cách rộng lượng nhất, vẫn không đáng kể. McChrystal đã đưa ra nhiều hứa hẹn, như thỏa mãn các nhu cầu căn bản của chính quyền Afghanistan, tướng tư lệnh sau đó đã không đủ khả năng thực thi. Quan hệ với T T Hamid Karzai vẫn gượng ép, căng thẳng. Quan hệ với nước láng giềng Pakistan, không mấy tốt đẹp ngay từ đầu, giờ cũng chỉ tồi tệ thêm. Cả hai chính quyền đều tỏ ra phẩn uất sâu xa trước lối ứng xử kẻ cả của người Mỹ và trước thực tế thường dân thương vong ngày một nhiều. Điều làm cho tình hình tồi tệ hơn, mặc dù những hứng khởi cuồng nhiệt ban đầu, McChrystal đã tỏ ra không thích ứng — rõ ràng không phải “đúng người đúng chỗ”. Điều đáng chú ý, ông ta đã tỏ ra không nắm vững nhu cầu phải biết tôn trọng, ít ra bề ngoài, nguyên tắc kiểm soát và lãnh đạo dân sự ở Hoa Thịnh Đốn. Và mùa hè 2010, McChrystal đã bị thay thế. Petraeus, một lần nữa, trở lại nắm quyền tư lệnh Afghanistan. Ở Hoa Thịnh Đốn, nếu không phải ở Kabul, uy tín thổi phồng quá đáng dành cho Petraeus đã giúp dập tắt ý tưởng, với ngọn nến leo lét McChrystal, chiến dịch Afghanistan rất có thể đã tuyệt vọng. Chắc chắn, người lính được ca ngợi nhất của thế hệ ông rất có thể sẽ tái diễn xảo thuật Iraq của chính ông, tái xác nhận tài ba riêng và sức sống liên tục của COIN. Nhưng thực tế không hề đơn giản. Điều kiện ở Afghanistan trong suốt thời gian trách nhiệm của Petraeus đã được cải tiến — nếu đó là từ chính xác — cũng chỉ hết sức khiêm tốn. Cuộc chiến đã tiếp diễn đúng theo “định nghĩa sa lầy của bất cứ ai.” Với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, Thẩm định Tình báo Quốc gia 2011 đã gọi tình hình thực tế ở Afghanistan đang lâm vào “thế bí” hay “bế tắc”; ”stalemate” là từ chính thức được sử dụng. Chẳng bao lâu sau, câu chuyện “chống trỗi dậy toàn diện” — comprehensive counterinsurgency — đã thực sự phai mờ. Với định nghĩa chuẩn mực của thành công tuột xuống mức thấp hơn bao giờ hết, đề cao quyết định trao trách nhiệm chiến đấu lại cho lực lượng an ninh Afghanistan và quân đội Mỹ cuốn gói hồi hương, đã trở thành mục tiêu chiến tranh được chính thức công bố. Thêm một bài hoc và một tín hiệu mạt vận của chủ nghĩa đế quốc! Được triệu hồi về Mỹ, Petraeus đã rời quân ngũ để trở thành giám đốc CIA, trong khi chưa, hay đúng hơn, không thể hoàn thành trách nhiệm được giao phó ở Afghanistan. Mặc dù vẫn còn được tín nhiệm, sự từ bỏ quy chế hiện dịch đã để lại phía sau hình ảnh tơi tả thảm thương của hàng ngũ tướng lãnh, một thời đã được hết lòng tôn sùng bởi Hoa Thịnh Đốn. Vào đúng lúc Tướng John Allen kế nhiệm Petraeus — trở thành Tướng Mỹ thứ tám được bổ nhiệm vào chức vụ chủ trì cuộc chiến Afghanistan đang tiếp diễn — không còn ai tin: chỉ cần đơn thuần đặt đúng người vào vị trí tư lệnh là đủ để đem lại ma thuật thần diệu. Với nhận định đó, Hiệp 2 Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Trổi Dậy, hay GCOIN, đã chấm dứt. KỶ NGUYÊN VICKERS Hiệp 3: Ám Sát. Khác với Donald Rumsfeld hay David Petraeus, Michael Vickers chưa bao giờ được xếp vào hàng lỗi lạc. Tuy nhiên, hơn bất cứ ai trong hay ngoài quân ngũ, Vickers, đang giữ chức vụ Thứ Trưởng Quốc Phòng phụ trách Tình Báo, xứng đáng được công nhận như gương mặt biểu tượng cho Hiệp 3 Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố. Với phong cách khiêm tốn, ôn hòa của một người được ưa chuộng, Vickers có nhân cách hoàn toàn thích hợp với giai đoạn mới nhất trong cuộc chiến. Rất ít người bên ngoài Hoa Thịnh Đốn biết ông là ai, điều nầy thực sự thích hợp, vì lẽ ông đang chủ trì một cuộc chiến rất ít người bên ngoài Hoa Thịnh Đốn còn lưu ý. Với quyết định hưu trí của nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates, Vickers là nhân vật cao cấp duy nhất còn sót lại từ Ngũ Giác Đài thời George W. Bush. Thành tích quá khứ chẳng có gì lổi lạc đặc biệt, nếu không nói là chiết trung. Trước đó, ông đã phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt của Bộ Binh Hoa Kỳ và là một nhân viên tình báo. Trong tư cách đó, Vickers đã giữ vai trò hàng đầu trong việc hổ trợ các dân quân thánh chiến Afghanistan chống lại quân chiếm đóng Xô Viết trong thập kỷ 1980. Sau đó, ông đã làm việc trong một cơ quan nghiên cứu, think tank, ở Hoa Thịnh Đốn và lấy được văn bằng tiến sĩ khoa nghiên cứu chiến lược tại Đại Học Johns Hopkins với luận án : “Cơ Cấu của Các Cuộc Cách Mạng Quân Sự” — The Structure of Military Revolutions. Trong suốt kỷ nguyên George W. Bush, Vickers chưa bao giờ theo đuổi mục đích: Hoa Kỳ có thể “giải phóng” hay “bình định” thế giới Hồi Giáo. Cách tiếp cận Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố ông ưa thích luôn rất đơn giản. Ông từng phát biểu, “Tôi chỉ muốn giết những tên đó,” ông muốn nói đến các thành viên al-Qaeda. Giết mọi người muốn giết người Mỹ và không ngừng giết cho đến khi tất cả bọn chúng đều chết: đó là định nghĩa chiến lược của Vickers, một chiến lược dưới thời T T Obama đã thay thế COIN như hình thái chiến lược mới nhất của Hoa Kỳ. Cách tiếp cận của Vickers có nghĩa: tích cực tấn công để loại bỏ những tên giết người tiềm năng — would-be killers, tìm thấy bất cứ ở đâu, sử dụng bất cứ phương tiện cần thiết nào. Như một người hâm mộ đã bình luận, Vickers có “khuynh hướng tư duy như một kẻ cướp. Ông có thể hiểu các khuynh hướng và rồi thay đổi luật chơi để có lợi cho phe mình.”[6] Hiệp 3 của Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố là uốn nắn, bẻ gảy, và tái sáng chế những quy luật theo nhiều phương cách được tin là có lợi cho Hoa Kỳ. Rất giống với COIN đã thay thế “sốc và kinh hoàng,” một chương trình lượng định thông thoáng và rộng rãi các mục tiêu cần ám sát, nay đã thay thế COIN như hình thức diễn đạt thịnh hành chiến lược mới của người Mỹ. Hoa Kỳ nay không còn gửi nhiều bộ binh đến xâm lăng và chiếm đóng các xứ trong lục địa Âu-Á. Robert Gates, khi còn giữ chức vụ Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã có tuyên bố dứt khoát về đề tài nầy. Hoa Kỳ hiện chỉ sử dụng các phi cơ không người lái và các lực lượng hành quân đặc biệt nhằm thanh toán bất cứ ai, kể cả công dân Mỹ, tổng thống Hoa Kỳ quyết định đã trở thành một phiền nhiễu không thể tha thứ. Dưới thời T T Obama, các cuộc tấn công như vậy đã tăng nhanh. Đây là chính sách mới của Hoa Kỳ. Nhại theo một cảnh cáo của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton, báo Washington Post đã tóm tắt một cách ngắn gọn những gì muốn nói: “Hoa Kỳ tự dành quyền tấn công bất cứ ai được xem như một đe dọa trực tiếp cho an ninh quốc gia Hoa Kỳ , bất cứ ở đâu trên thế giới.”[7] Hơn nữa, hành động thay mặt cho Hoa Kỳ, tổng thống hành xử quyền trên không cần cảnh cáo, không cần quan tâm đến sự đòi hỏi của chủ quyền quốc gia tối thượng, không cần sự cho phép của Quốc Hội, không cần tham khảo ý kiến của bất cứ ai ngoài Michael Vickers và một số ít các thành viên khác trong guồng máy an ninh quốc gia. Vai trò dành cho nhân dân Hoa Kỳ là hoan hô, nếu và khi được thông báo một hành vi ám sát đã thành công. Và hoan hô: dân chúng đã từng thể hiện! Chẳng hạn, khi cuộc bố ráp táo bạo và trắng trợn bởi các thành viên trong SEAL – Đội 6, bí mật xâm nhập không phận Pakistan để thanh toán Osama bin Laden với hai phát súng gọn ghẻ. Thù hận lâu ngày đã thay thế mọi suy xét những hệ lụy chính trị thứ yếu có thể gây ra. Hiệp 3 sẽ chấm dứt ra sao là một điều khá khó tiên đoán. Điều có thể nói chỉ là Hiệp 3 khó lòng sớm chấm dứt, nhất là chấm dứt tốt đẹp. Như Do Thái đã khám phá, một khi “ám sát các mục tiêu có sẵn” đã trở thành chính sách, danh sách các mục tiêu luôn có cách ngày một lớn và dài thêm. Như vậy, những phán đoán tạm thời chúng ta có thể đưa ra liên quan đến Cuộc Chiến Toàn Cầu chống Khủng Bố là gì? Về phương diện điều hành, một cuộc chiến được phát động bởi những đầu óc ước lệ đã dần dà rơi vào phạm vi của những ai đang cư trú, như thingy Cheney có lần đã gọi, “bên phía tối tăm,” với hệ lụy rất ít ai muốn dò tìm. Về phương diện chiến lược, một cuộc chiến ngay từ đầu được quan niệm với nhiều chờ đợi không tưởng, được tiếp tục cho đến nay, với không một chờ đợi được trình bày cụ thể, đà đi tới của các biến cố sẽ thay thế những lý do chính đáng của mục tiêu . Về phương diện chính trị, một cuộc chiến một lúc nào đó đã chiếm vị trí trung tâm trong chính trị quốc gia, giờ đang tuột dần ra phía ngoại vi, dân Mỹ tiếp tục hướng về các quan tâm và giải trí khác, với những vấn đề luật pháp và đạo đức cuộc chiến đã nêu lên hiện đang lơ lửng trong không trung. Phải chăng đó là tiến bộ và văn minh? Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 11-3-2012 [1] …era of persistent conflict… [2] …the war formerly known as the global war on terrorism (unofficial acronym WFKATGWOT). [3] …fragmented and diffuse. [4] …shock and awe… [5] ..success demands a comprehensive counterinsurgency campaign. [6] Vickers tends to think like a gangster. He can understand trends then change the rules of the game so they are advantageous for your side. [7] The United States reserved the right to attack anyone who it determined posed a direct threat to U.S. national security, anywhere in the world.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:30:06 GMT 9
CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN VÀ VÁN BÀI CHUNG CUỘC Sau Iraq, nay đến lượt Afghanistan. Người Mỹ đang tìm cách tháo lui với thương vong và chiến phí tối thiểu. Lối ra chưa được định hình, và số tử vong của Mỹ và NATO vẫn tiếp tục và có phần tiệm tăng. Các cuộc xuống đường chống Mỹ và liên minh của người Afghanistan ngày một sôi nỗi và táo bạo. Đôi khi, trong chốc lát, sương khói tan, mây mù sáng tỏ, chúng ta cuối cùng cũng có thể thấy cảnh vật phía trước khá rõ ràng. Ở Afghanistan, Hoa Thịnh Đốn có thể đã đến thời điểm đó, nhưng trong rối trí và bàng hoàng. Theo người phát ngôn quân sự James Williams, ngay cả khi một tư lệnh Hoa Kỳ ra lệnh rút khoảng 300 cố vấn Mỹ và NATO ra khỏi các bộ và cơ quan chính quyền chung quanh Kabul vào hồi cuối tháng 2-2012, khả năng quân lực Mỹ lưu lại bên trong các căn cứ khổng lồ được tăng cường phòng ngự cho đến một tương lai xa xôi, không có dấu hiệu thay đổi. Không một nhóm dân quân du kích, các cuộc nổ bom cảm tử, hay các quân nhân Afghanistan nào quay súng bắn vào các bạn đồng minh Mỹ của họ, có thể thay đổi thực trạng đó, ít ra chừng nào Hoa Thịnh Đốn còn sẵn sàng đưa hàng tiếp liệu cần thiết vào Afghanistan đang bị phong tỏa với giá choáng ngợp. Tuy nhiên, đôi khi đó vẫn chỉ là vấn đề nhỏ, không phải thiết yếu. Vì vậy, nếu lưu ý, những nhật kỳ lên lịch vào cuối tháng 2-2012 có thể đã cho thấy ván bài cuối của cuộc chiến Afghanistan thứ hai của Mỹ, phát động từ tháng 10-2001, đã bắt đầu thoáng hiện lờ mờ. Giữa những tường trình báo chí về những biến cố gần đây, nhất là vụ lính Mỹ đốt kinh Koran ở căn cứ không quân Bagram, một mẩu tin vắn đã thu hút sự chú ý của mọi người. Khi phong trào biểu tình phản đối Mỹ giết hại thường dân đang dấy lên khắp nơi, giới quân sự Đức đã bất thần quyết định rời bỏ một tiền đồn 50 quân nhân ở phía Bắc Afghanistan. Thực ra, họ cũng đã có kế hoạch rút quân ít tuần sau, nhưng phải xem động thái nầy như một tín hiệu nhỏ của tình hình căng thẳng lúc một gia tăng của các đồng minh NATO của Hoa Thịnh Đốn. Người Pháp cũng có lập trường tương tự, rời bỏ hồi đầu năm, khi 4 quân nhân Pháp bị một binh sĩ Afghanistan bắn chết và 16 quân nhân khác bị thương, tiếp theo sau vụ ba quân nhân trước đó đã bị một binh sĩ Afghanistan bắn tử thương. Cả người Pháp lẫn người Đức cũng đã rút các cố vấn dân sự khỏi các cơ quan chính quyền Afghanistan tiếp theo sau các biến động mới nhất. Cho đến nay, tình hình tương đối khá rõ rệt: người Âu đã sẵn sàng ra đi. Và điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng, chúng ta đang nói đến NATO — Tổ Chức Thỏa Ước Bắc Đại Tây Dương — sở dĩ có quân đội tham chiến ở Afghanistan xa xôi hẻo lánh, cũng chỉ vì, từ sau Thế Chiến thứ hai, với biệt lệ đặc thù duy nhất của Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle trong thập kỷ 1960, cấp lãnh đạo Âu châu chưa bao giờ có thể trả lời “không” với Hoa Thịnh Đốn. Hiện nay cũng vậy, nhưng trong mấy tháng gần đây, bước chân của họ cũng đã chỉ rõ hướng đi. Điều đó rất dễ hiểu. Chỉ có những người mù mới không nhận ra nổ lực của người Mỹ ở Afghanistan đang lâm vào ngõ bí. Điều đáng ngạc nhiên là chính quyền Obama, gần đây cũng bắt đầu có chỉ dấu âu lo – tăng tốc lịch rút quân và giảm mức trần quân số để lại phía sau — luôn sa lầy trong tai họa Afghanistan ngày một rắc rối. Bị bủa vây bởi làn sóng biểu tình chống đối của quần chúng Afghanistan, và trong quốc nội các ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa đang lợi dụng tình hình để lấy điểm với cử tri, phạm vi xoay xở của chính quyền Obama trong tình thế lúc một hỗn độn hình như ngày một bị thu hẹp. HUẤN LUYỆN ĐỨC TÍNH NHẠY CẢM Cuộc chiến Afghanistan cũng chưa phải một vấn đề quá phức tạp không thể giải quyết. Xét cho cùng, thông điệp đã khá rõ ràng. Sau 11 năm, nếu lực lượng của bạn vẫn còn đốt kinh Koran trong một xứ cực kỳ hâm mộ Hồi giáo, ngày phải ra đi kể ra đã quá muộn màng, và bạn cũng nên ra đi. Thay vào đó, bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở Kabul và chính quyền Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục tự trói mình trong một chuổi nút thắt kỳ lạ — xin lỗi, ra oai, và đe dọa chẳng đâu vào đâu, trong khi các biến cố tiếp tục leo thang. Chẳng hạn, ngay sau khi tin đốt kinh Koran được loan truyền, Tướng John R. Allen, tư lệnh chiến trường Afghanistan, đã ra quyết định không thể nào bi hài hơn, trong bối cảnh. Chỉ chậm mất một thập kỷ, ông chỉ đạo tất cả các nhân viên quân sự Hoa Kỳ ở Afghanistan phải “theo học một khóa huấn luyện nhạy cảm 10 ngày về phương cách xử lý thích ứng các tài liệu tôn giáo.”[1] Đã hẳn, như mọi người đều biết, nhạy cảm chưa bao giờ là sở trường hay một đức tính phổ quát trong xã hội Hoa Kỳ, đặc biệt là trong giới lãnh đạo chính trị. Chẳng hạn, những hàng tít lớn trên báo chí trong năm rồi [2011] đã tiết lộ câu chuyện “12 quân nhân trong đội ‘kill team’ chuyên săn lùng các thường dân Afghanistan như một trò chơi thể thao, giết họ, và đứng chụp hình nhục mạ bên cạnh thi hài của họ.”[2] Còn có vụ bốn thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đùa giởn, quay video họ đang tiểu tiện lên tử thi người Afghanistan – không rõ thường dân hay du kích quân Taliban – với lời đùa cợt lổ mãng (“chúc bồ một ngày vui…Thật quý hóa —như dội nước tắm”)[3]. Lại còn một đơn vị bắn sẻ hân hoan mang băng tay “Nazi SS banner” và một tiền đồn mang tên “Aryan.” Và cũng không nên quên các quân nhân đồng minh — các binh sĩ Anh quốc — trong bức hình đang “sách nhiễu” trẻ con Afghanistan. Tất cã cũng chỉ là chóp mũi một tảng băng khi chúng ta nhớ lại những gì người Afghanistan đã phải trải nghiệm qua sự chiếm đóng của quân đội Hoa Kỳ và NATO trong những năm vừa qua. Thử lấy một thí dụ gần đây về những gì đã gây xúc động và lăng nhục — một nhóm tám đứa trẻ chăn cừu từ 6 đến 18 tuổi đã bị phi cơ NATO tàn sát trong tỉnh Kapisa miền Bắc Afghanistan, dĩ nhiên với thông lệ xin lỗi và hứa hẹn điều tra, cũng như lời buộc tội, và phủ nhận: bọn trẻ có trang bị vũ khí. Nói chung, người Afghanistan rất căm hận những vụ bố ráp trong đêm tối bởi các lực lượng hành quân biệt kích, đột nhập gia cư, dẫm lên mọi giới hạn văn hóa , và lắm khi để lại phía sau nhiều tử thi và thương vong. Họ cũng rất căm thù, khinh bỉ những vụ “oanh kích sai lầm” rất thường xẩy ra của không quân NATO. T T Hamid Karzai cũng đã nhiều lần phản đối, lên án. Ông cũng đã đòi hỏi quân đội Mỹ và đồng minh phải chấm dứt những tệ nạn kể trên hay đặt các cuộc hành quân, oanh tạc dưới quyền kiểm soát của chính quyền Afghanistan. Tuy nhiên, trong cương vị tổng thống Afghanistan, Karzai chẳng có mấy uy lực và các quan chức Hoa Kỳ chẳng mấy quan tâm — luôn bỏ ngoài tai những lời ta thán, lên án của chính ông. Kết quả là những gì ngày nay mọi người đều chứng kiến: căm hận bùng nổ khắp nơi ở Afghanistan. Tình trạng sẽ leo thang và kéo dài đến đâu và bao lâu, không ai biết. Nhưng kinh nghiêm gần đây đã chứng tỏ, một khi quần chúng đã quyết tâm xuống đường, bất cứ chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Cũng rất có thể, tất cả sẽ đi vào quên lãng. Tuy nhiên, với hơn 46 người phản kháng đã phải hy sinh, điều đó cũng rất có thể khoác lên một bộ mặt tương tự cuộc nội chiến ngày một leo thang ở Syria, hay , như đã từng xẩy ra trong quá khứ, toàn bộ một số đơn vị trong lực lượng an ninh Afghanistan bỏ hàng ngũ đi theo Taliban. Những biến cố dồn dập diễn ra trước mắt rõ ràng đã tràn ngập, áp đảo, và gây hoang mang, e ngại ngay cả trong giới trách nhiệm Mỹ. Tuy nhiên, vẫn biết Afghanistan là một quốc gia sùng đạo, và kinh Koran là thiêng liêng, những gì đã xẩy ra cũng đã có thể đem lại một giải thích đầy đủ: sự bùng nổ của thập kỷ sắp tới. DẤU HIỆU BÁO TRƯỚC VÀ ĐIỀM CHẲNG LÀNH Khi người Mỹ đến Kabul tháng 11-2001, chiêu bài “giải phóng” đã vang vọng khắp nơi. Hơn 10 năm sau, tâm thức rõ ràng đã hoàn toàn biến thái, và lần đầu, tin báo chí cho biết nhiều “bản nhạc Taliban” đã vang lên trong các cuộc biểu tình trên đường phố thủ đô. Như báo New York Times đã tường trình trong tháng 2-2012, với ngôn từ ít khi thấy trong báo chí Hoa Kỳ, Afghanistan là “xứ sùng đạo đã chán ngấy người nước ngoài;”[4] hay như báo Los Angeles Times đã viết, “ngày nay đang có một sự ghê tởm tận tâm can đối với các giá trị vá cách ứng xử Tây Phương”[5] trong một số khá đông người Afghanistan. Sau nhiều năm chịu đựng — bức xúc, vỡ mộng, căm hờn, và tuyệt vọng — quần chúng Afghanistan nay đang bùng dậy qua các cuộc xuống đường chống đối. Thực tế đó không ai còn có thể nghi ngờ. Một trong các biến cố gây sốc sâu đậm hơn, tiếp theo sau vụ đốt kinh Koran, là sự kiện khám phá, trong căn phòng được canh gác nghiêm ngặt thuộc Bộ Nội Vụ Afghanistan ở Kabul, hai thi hài của một trung tá và một thiếu tá Mỹ — cả hai rõ ràng đã bị xử bắn vào gáy ngay tại sở làm. Thủ phạm, một đối tác Afghanistan, rõ ràng đã quá bức xúc, không những trước biến cố đốt kinh Koran, và rất có thể, cả trước thái độ nhạo báng của chính hai sĩ quan Mỹ đối với những người Afghanistan biểu tình chống đối. Anh ta đã tẩu thoát. Cũng như trong nhiều vụ tương tự, phe Taliban nhanh chóng nhận trách nhiệm, mặc dù Taliban có thể đã không hề liên can. Tuy nhiên, điều làm bộ tư lệnh Hoa Kỳ âu lo và thúc đẩy họ rút hàng trăm cố vấn khỏi các bộ ngành chung quanh Kabul, là cả hai sĩ quan bị giết đều đang làm việc bên trong “căn phòng an ninh tối đa,” phần lớn người Afghanistan không được phép lai vãng. Đó là khu chỉ huy và kiểm soát của Bộ Nội Vụ Afghanistan. Tưởng cũng cần nói rõ, Bộ Nội Vụ có một khu dành riêng cho người nước ngoài và hầu hết nhân viên đối tác Afghanistan không được phép ra vào. Như báo The New York Times đã viết, quyết định rút các cố vấn là “dấu hiệu đáng lo âu đã quá rõ ràng — lòng căm hận đã lan sâu rộng ngay cả trong các lực lượng an ninh và các bộ ngành Afghanistan làm việc gần gũi nhất với liên minh.“[6] Hai sĩ quan Mỹ ở trong số bốn người bị giết trong những ngày hỗn loạn vừa qua bởi các“đồng minh Afghanistan”. Cùng lúc, phe Taliban đã và đang thúc dục cảnh sát và quân đội Afghanistan, một số trong bọn họ rõ ràng chẳng cần đợi thúc đẩy, tấn công các căn cứ quân sự Mỹ và các lực lượng Mỹ hay liên minh. Hai quân nhân Mỹ khác chết bên ngoài một căn cứ nhỏ thuộc tỉnh Nangarhar gần biên giới Pakistan, trong một cuộc biểu tình của người Afghanistan, và hai người biểu tình cũng bị giết. Một quân nhân Afghanistan đã bắn hạ các lính Mỹ, rồi lẫn tránh — trà trộn vào đám đông người biểu tình chống đối. Trong một bài viết ngắn trên báo Washington Post, những cái chết như vậy thường được gọi là “fratricide” hay “anh em giết nhau,” mặc dù điều đó có lẽ đã giải thích hay hiểu sai tình cảm của nhiều người Afghanistan, những người, trong các năm tháng gần đây, luôn xem người Mỹ như quân xâm lăng và có thể như những kẻ cướp đoạt — không phải những người anh em. Đây là điều vô tiền khoáng hậu trong kỷ nguyên hiện đại: trong những năm gần đây, đã nhiều lần người Afghanistan trong đồng phục cảnh sát hay quân nhân quay súng bắn vào quân Mỹ hay NATO, đang huấn luyện, cùng làm việc, hay tuần tiểu với chính họ. Chẳng hạn, chỉ vài tuần trước đây, một cảnh sát viên Afghanistan đã giết quân nhân Albania đầu tiên trong cuộc chiến. Hồi đầu năm, cũng có bảy quân nhân Pháp bị giết . Ít ra, 36 quân nhân Mỹ và NATO đã chết như thế trong năm 2011. Từ năm 2007, cũng đã có khoảng 47 vụ tấn công tương tự. Những vụ đồng đội quay súng bắn giết và tấn công như vậy cho đến nay luôn được làm ngơ hay bàn luận qua loa như những “tai nạn riêng rẻ hay ngoại lệ,” những “isolated incidents,” không mấy được các cấp chỉ huy Hoa Kỳ và NATO lưu tâm, và thật sự rất khó tin, vẫn còn được xếp cùng loại hiện nay. Không như ở Iraq, không như trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Cao Ly, cũng không như trong suốt thời gian cuộc Nổi Dậy ở Philippines vào đầu thế kỷ XX, những ví dụ tương tự của những gì một thời đã được gọi “quân bản xứ” hay “native troops”quay súng giết những huấn luyện viên, người trả lương, hay thuê mướn họ. Có lẽ chúng ta phải trở lại thời Sepoy Rebellion, cuộc nổi loạn của lính Da Đỏ chống lại các sĩ quan Anh quốc năm 1857, để có một trường hợp để so sánh. Tháng 4-2011, trong biến cố tai hại nhất , một đại tá không quân Afghanistan đã giết chín (9) huấn luyện viên Mỹ trong một khu vực được canh gác cẩn mật ngay trong phạm vi Phi Trường Quốc Tế Kabul. Ông ta chỉ căm hận người Mỹ nói chung, và rõ ràng không can dự gì đến Taliban. Và có thể xem đó là một tín hiệu rất xấu những gì sắp xẩy ra: lễ an táng của ông ở Kabul đã thu hút khoảng 1.500 đồng hương đến tiễn biệt. Xét một cách thực tiển, chính quyền Bush trước đây và chính quyền Obama hiện nay, đã chấp nhận mọi chi phí tuyển chọn và huấn luyện lực lượng an ninh Afghanistan — khoảng vài trăm nghìn — với một ngân sách hàng năm lên tới 11 tỉ USD, chỉ riêng cho năm 2011. Đây là lực lượng sẽ gánh vác “cuộc chiến của Hoa Kỳ” và sẽ do Hoa Kỳ “bàn giao cho họ” nay mai, khi quân đội Mỹ ở Afghanistan rút dần. Tuy vậy, giờ đây, hoặc do sự xâm nhập của Taliban hay do lòng dân căm hận, hay cả hai, điều rõ ràng là bất cứ quân nhân Hoa Kỳ nào tiếp cận một thành viên trong lực lượng an ninh Afghanistan để “bàn giao” bất cứ cái gì, cũng vẫn muốn nắm chắc sinh mạng thành viên đó trong tay mình. Cố nhiên, không một cuộc chiến nào có thể vận hành lâu dài trong những hoàn cảnh tương tự. XIN LỖI, BIỆN MINH, ĐE DỌA Vì vậy, không thể nói là chưa hề có cảnh cáo, hay các quan chức cao cấp trong chính quyền Obama đã không được chuẩn bị cho việc gỡ rối hiện nay. Nhưng khi đối diện với tình hình thực tế, chính quyền Obama và phe quân sự đã tỏ ra lúng túng, bối rối, và không biết phải giải quyết ra sao. Trong thực tế, qua những bước đi liên tục sai lầm và thiếu kỷ năng đối phó hữu hiệu với hậu quả từ tai họa đốt kinh Koran, Hoa Thịnh Đốn giờ đây đang bị kẹt trong mê hồn trận — điều tra, xin lỗi, biện minh, đe dọa. Các biến cố dồn dập đang tràn ngập và áp đảo khả năng của chính quyền vận hành một chính sách đối ngoại hữu hiệu. Kết quả là các quan chức lãnh đạo và tư lệnh, dội từ khủng hoảng nầy qua khủng hoảng khác, với rất ít lựa chọn dưới áp lực chính trị đối nội và đối ngoại . Vì sao tốc độ các biến cố dồn dập lại chóng mặt đến thế? Thử bắt đầu với vụ ám sát các cậu bé chăn cừu Afghanistan. Vào ngày 15-2, Lực Lượng An Ninh Quốc Tế[7] do Mỹ lãnh đạo -ISAF – “gửi lời hối tiếc sâu sắc đến gia đình và thân nhân của vài thanh thiếu niên Afghanistan đã chết trong vụ không tạc trong tỉnh Kapisa ngày 8-2.”[8]Theo bản tin chính thức được công bố, ISAF nhấn mạnh, cũng như trong nhiều tai nạn trước đây, ISAF “đang có hành động thích ứng nhằm xác định các sự kiện, và ngăn ngừa những tái diễn tương tự trong tương lai.”[9] Năm ngày sau, trong khi đang chờ đợi kết quả điều tra, các nhân công Afghanistan phát giác một số quân nhân đồng phục đang liệng một số kinh Koran vào lò lửa tại phi trường Bagram Air Base. Họ đã thu lượm và cất dấu vài cuốn – những trang cháy xém và những gì còn lại – đem ra khỏi căn cứ và phổ biến — châm ngòi một làn sóng căm hận toàn quốc. Ngay lập tức, một đợt “ân hận hối tiếc mới” lại bắt đầu. Tướng Allen loan báo ngày hôm sau: “Thay mặt cho toàn thể Lực Lượng Hổ Trợ An Ninh Quốc Tế, tôi gửi lời xin lỗi thành thật nhất của tôi đến nhân dân Afghanistan.”[10] Đồng thời, trong một thông lệ cổ điển “quá ít, quá trể,”[11] tướng Allen cũng đã ra chỉ thị huấn luyện các quân nhân về phương cách “xử lý thích hợp các tài liệu tôn giáo.” Cùng ngày, phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Jay Carney cũng nói với các phóng viên báo chí sự kiện “đốt kinh Koran” là điều “hết sức bất hạnh,”, nhưng không phản ảnh tình cảm của người Mỹ đối với tín ngưỡng của nhân dân Afghanistan. “Cấp lãnh đạo quân sự của chúng tôi đã xin lỗi…về những hành động không có chủ ý, và ISAF đang tiến hành điều tra tìm hiểu điều gì đã thật sự xẩy ra và bảo đảm sẽ có biện pháp để những chuyện không may như thế không tái diễn.”[12] Ngày 22-2, một cuộc điều tra hỗn hợp của ISAF-chính quyền Afghanistan về sự kiện đốt kinh Koran đã khởi động. Allen nói, “mục đích cuộc điều tra là khám phá sự thật chung quanh các biến cố đưa đến điều không may nầy. Chúng tôi quyết tâm xác định các sự kiện, và có hành động cần thiết để bảo đảm chuyện nầy không bao giờ tái diễn.”[13] Ngay hôm sau, khi căm hờn bùng nổ trên đường phố Afghanistan, Allen kêu gọi: “mọi người trong toàn quốc — thành viên ISAF và nhân dân Afghanistan — kiên nhẫn và tự chế trong khi chúng tôi tiếp tục thu lượm các sự kiện thực tế chung quanh vụ bất ngờ trong đêm thứ hai vừa qua.”[14] Trong cùng ngày, T T Obama gửi thư xin lỗi và ngõ lời hối tiếc sâu xa về nội vụ với T T Afghanistan Hamid Karzai. T T Obama viết tiếp: “Lầm lỗi là một hành động thiếu cảnh giác. Tôi đoan chắc với Tổng Thống chúng tôi sẽ có những hành động nhằm tránh khả năng tái diễn, kể cả những ai phải chịu trách nhiệm.”[15] Thư của Obama đã gặp phản ứng phẩn nộ tức thì từ các ứng viên tổng thống Cộng Hòa, nhất là nguyên chủ tịch Hạ Viện Newt Gingrich, gọi đó là một “lăng nhục” – outrage, và đòi hỏi T T Karzai phải có lời xin lỗi đối với hai người Mỹ bị một quân nhân Afghanistan bắn hạ. Nếu không, Gingrich còn nói thêm: “chúng ta nên chào tạm biệt và chúc họ may mắn.”[16] Theo ngôn từ Hoa Thịnh Đốn, tình hình hiện nay như sau: một tổng thống Dân Chủ trên đường đi vận động trong một năm bầu cử lại phải xin lỗi một nước ngoài, rõ ràng đang có một vấn đề. Cũng chính vì vậy, những nổ lực hàn gắn quan hệ thiết yếu nhưng khập khiểng với Pakistan lại càng thêm rắc rối hỗn loạn. Do kết quả các cuộc tấn công bằng phi cơ Hoa Kỳ xuyên qua biên giới trong tháng 11-2011, gây tử vong cho 24 quân nhân Pakistan, quan hệ giữa hai quốc gia đã thương tổn nặng nề và Pakistan vẫn còn ngăn chận các đường tiếp liệu huyết mạch cho cuộc chiến ở Afghanistan. Với những nổ lực chiến tranh của Mỹ đang gặp rắc rối, tranh cãi, và phí tổn tiếp liệu tăng vọt, chính quyền Hoa Kỳ đã phải soạn thảo một kế hoạch điều hợp khéo léo nhằm cải thiện quan hệ hai bên. Tướng Martin Dempsey, Tư lệnh Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân, đã phải lên tiếng chính thức xin lỗi Tư Lệnh quân đội Pakistan. Tiếp đó, Bộ trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton cũng phải gửi lời xin lỗi tương tự đến đối tác Pakistan. Tuy nhiên, vì ngại phe Cộng Hòa lợi dụng, chính quyền Obama vội vàng thay đổi lịch làm việc, trì hoãn xin lỗi ít nhất thêm vài tuần, như một cách nhắn gửi người Pakistan: lời hối tiếc về cái chết của các quân nhân của họ có thể phải đợi thời cơ thuận lợi cho chu kỳ tuyển cử ở Mỹ. Tuy nhiên, hành động tạm thời trì hoãn xin lỗi Pakistan và gửi lời xin lỗi Afghanistan cũng chẳng có mấy ý nghĩa trên các đường phố Afghanistan. Ngay cả trong những khu vực không chịu ảnh hưởng của phe Taliban, khẩu hiệu chống đối “Death to America” lúc một vang vọng và phổ quát. Một trong đám đông chống đối, Wali Mohammed, đã nói với báo The New York Times: “Chỉ nói ‘Tôi xin lỗi’ không thể giải quyết được gì. Chúng tôi muốn phải đem ra xử công khai những kẻ ngoại đạo [người không theo đạo Hồi hay đạo Thiên chúa] đã đốt kinh Koran thiêng liêng của chúng tôi.”[17] Và câu trả lời của Wali Mohammed vẫn còn khá nhẹ nhàng so với phản ứng của Mohammed Anwar, một sĩ quan làm việc với cảnh sát Hoa Kỳ-đồng minh Afghanistan. Anwar nói: “Tôi sẽ trả thù đối với những người ngoại đạo về những gì bọn họ đã làm đối với kinh Koran thiêng liêng của chúng tôi, và tôi sẽ giết họ khi tôi có cơ may.Tôi không cần công việc tôi đang có.”[18] Một ngày sau, khi lời nói của Anwar trở thành hành động bởi một người chắc chắn đang chia sẻ cùng những xúc cảm, Tướng Allen lại loan báo một đợt điều tra mới, nhưng lần nầy kèm theo những lời lẽ chát chúa, không phải lời xin lỗi: “Tôi lên án cuộc tấn công hôm nay tại Bộ Nội Vụ Afghanistan, đã giết chết hai trong số các sĩ quan liên minh, và ý nghĩ và những lời cầu nguyện của tôi luôn với gia đình và thân nhân của các cá nhân can đảm đã mất hôm nay. Chúng tôi đang điều tra tội phạm và sẽ theo dõi mọi chỉ dấu để tìm cho được người chịu trách nhiệm về cuộc tấn công. Thủ phạm tấn công là một kẻ hèn nát và hành động của y can sẽ không thể không gặp đáp ứng.”[19] Allen cũng đã quyết định những bước vô tiền khoáng hậu — cắt đứt những điểm giao tiếp then chốt với đồng minh Afghanistan của Hoa Kỳ: “Vì những lý do rõ ràng cần bảo vệ lực lượng, tôi đã lập tức có những biện pháp rút nhân viên ISAF khỏi các bộ ngành chung quanh Kabul.” Không thể tái khởi động quan hệ với Pakistan vì những bất ổn ở Afghanistan, trong thực tế, cũng đã lan qua biên giới, Hoa Kỳ giờ đây tự đặt mình vào hoàn cảnh gián đoạn một phần quan hệ với đối tác ở Kabul. Trong lúc đó, ngay tại Hoa Kỳ, Gingrich và phe nhóm cũng tìm cách làm căng thêm tính khả dĩ cắt quan hệ với chính T T Karzai. Nói một cách khác, căng thẳng ngày một gia tăng trong Tòa Bạch Ốc và dinh tổng thống Afghanistan, trong khi mọi hy vọng kiểm soát các biến cố ở những nơi khác trong mỗi xứ cũng tiêu tan. Tuy vậy, giới quân sự Hoa Kỳ cũng chưa quyết định bước duy lý kế tiếp: ngăn cấm thêm nhiều hạng người Afghanistan khác không được lai vãng gần các căn cứ Hoa Kỳ. Theo một phát ngôn viên ISAF, “hiện chưa có thảo luận hạn chế các đối tác Afghanistan tiếp cận các căn cứ ISAF,” nhưng nếu tình hình xấu đi, chúng ta có thể chờ đợi những thảo luận như thế sẽ bắt đầu. KHỞI ĐẦU CỦA CHUNG CUỘC Khi vụ thóa mạ đốt kinh Koran diễn ra, và được hỏi ý kiến, thượng sĩ bộ binh, Raymond F. Chandler III, đã trả lời: “Có nhiều lúc sự việc xẩy ra không đúng phong cách chúng ta muốn hay nhiều người đã hành động thiếu chuyên nghiệp. Tuyệt đối đúng. Thật không may. Chúng ta có một tiến trình nhất định để bảo đảm khi những điều đó không xẩy ra, chúng ta mở điều tra và quy trách nhiệm cho thủ phạm.”[20] Tuy nhiên, suốt thập kỷ vừa qua, trong mắt người Afghanistan, tinh thần trách nhiệm luôn thiếu vắng. Chính vì vậy, người dân bình thường ngày nay luôn đòi hỏi không chỉ xin lỗi, mà một sự xét xử công khai ngay tại địa phương và án tử hình đối với các thủ phạm đốt kinh Koran. Mặc dù cuộc điều tra của ISAF đang diễn tiến, những lời tuyên bố của ISAF đã nói rõ: việc đốt kinh Koran là tình cờ và không cố ý. Thái độ nầy bảo đảm một điều: người có tội, nhà cầm quyền Mỹ có thể không bao giờ sẵn sàng trao lại cho người Afghanistan xét xử, nhiều lắm cũng chỉ nhận một gỏ nhẹ vào khuỷu tay – và nhiều người Afghanistan càng thêm bức xúc căm hận. Nói một cách khác, làm gì thì làm, dù ra tuyên bố nào đi nữa, người Mỹ, trong bối cảnh Afghanistan hiện nay, vẫn không còn đủ uy quyền để chận đứng tiến trình tan rã và băng hoại . Hoàn toàn ngược lại: những việc làm của Mỹ bảo đảm sẽ chỉ làm các đồng minh Afghanistan thêm căm hận. Trong lúc đó, vào cuối tuần vừa qua (10-3-2012), lại thêm một biến cố mới: một quân nhân Mỹ tàn sát 16 thường dân Afghanistan! Tin mới nhất: thủ phạm đã được các giới chức Mỹ chuyển qua Kuwait! Và khỏi phải nói, mọi người đều hiểu rõ những gì đang và sẽ xẩy ra trong quan hệ giữa quân đội liên minh Mỹ-NATO-chính quyền Karzai-phe Taliban-quần chúng Afghanistan! Chandler, đến Afghanistan năm rồi và sẽ trở lại trong những tháng tới, cho biết: ông tin Hoa Kỳ đang thắng, nhưng với cảnh cáo. ” Một lần nửa, trong nhiều khu vực ở Afghanistan chúng ta đã thành công ít hơn trong những khu vực khác, nhưng mỗi một tỉnh trong các tỉnh đó có một số điều kiện riêng buộc chặt với người dân Afghanistan, với những tiêu chí của chính quyền Afghanistan về việc chuyển tiếp qua quân đội và cảnh sát quốc gia Afghanistan, với các lực lượng tự vệ của Afghanistan, và chúng ta đã cam kết như thế.”[21] Chandler nói thêm người Mỹ phục vụ ở đó đã làm mọi điều có thể — tuyệt đối tốt, trong những điều kiện và môi trường có sẵn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay ở Afghanistan, tốt nhất vẫn chưa đủ. Với ngay cả vài thành viên Nghị Viện Afghanistan ngày nay đang kêu gọi thánh chiến chống lại Hoa Thịnh Đốn và các đồng minh trong liên minh, thái độ chống đối cực đoan đang bao trùm không khí. Vị trí của người Mỹ đang rõ ràng suy sụp. Thắng lợi là một ảo tượng xa vời và từ lâu đã phai mờ, thất bại là một thực tại ngày một mồn một . Mặc dù hỏa lực khổng lồ và cơ cấu các căn cứ quân sự choáng ngợp của người Mỹ ở Afghanistan, uy quyền thực sự rõ ràng đã vuột khỏi tầm tay Hoa Kỳ. Các quan chức Mỹ đã nói tới đừng hoảng sợ (tín hiệu hoảng sợ, trong thực tế, đang bao trùm không khí). Và trong một năm bầu cử, với các lựa chọn của chính quyền Obama bị hạn chế đến mức tuyệt vọng, và các mục tiêu theo đuổi tan biến nhanh chóng, người Mỹ chỉ còn có thể chuẩn bị sẵn sàng và hy vọng lê lết khập khiểng cho qua tháng 11-2012. Ván bài chót ở Afghanistan đã ló dạng, và sau nhiều năm phung phí, đầy máu và nước mắt, tình hình thực tế chẳng còn gì buồn thảm hơn. Buồn thảm nhất, máu đã đổ quá nhiều cho những mục đích, nếu đã có lúc có ít nhiều ý nghĩa, từ lâu cũng đã tan theo sương khói mây mù của lịch sử. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 14 -3-2012 [1] ..undergo 10 days of sensitivity “training in the proper handling of religious materials.” [2] …the 12- soldier “kill team” that “hunted” Afghan civilians “for sport”, murdered them, and posed for demeaning photos with their corpses. [3] …”Have a good day, buddy… Golden — like a shower.” [4] Afghanistan is “a religious country fed up with foreigners”… [5] ..there is now “a visceral distaste for Western behavior and values” among significant numbers of Afghans. [6] …a clear sign of concern that the fury had reached deeply into even the Afghan security forces and ministries working most closely with the coalition. [7] … International Security Assistance Force – ISAF.. [8] …ISAF extended its deep regret to the families and loved ones of several Afghan youths who died during an air engagement in Kapisa province Feb 8. [9] …ISAF insisted that it was taking appropriate action to ascertain the facts, and prevent similar occurrences in the future. [10] On behalf of the entire International Security Assistance Force, I extend my sincerest apologies to the people of Afghanistan. [11] …too-little, too-late… [12] Our military leaders have apologized…for these unintentional actions, and ISAF is taking an investigation to understand what happened and to ensure that steps are taken so that incidents like this do not happen again. [13] The purpose of the investigation is to discover the truth surrounding the events which resulted in this incident. We are determined to ascertain the facts, and take all actions necessary to ensure this never happens again. [14] …Everyone throughout the country — ISAF members and Afghans — to exercise patience and restraint as we continue to gather the facts surrounding Monday night’s incident. [15] The error was inadvertent. I assure you that we will take the appropriate steps to avoid any recurrence, to include holding those responsible. [16] Otherwise, “we should say goodbye and good luck.” [17] Just by saying “I am sorry,’ nothing can be solved. We want an open trial for those infidels who have burned our Holy Koran. [18] I will take revenge from the infidels for what they did to our Holy Koran, and I will kill them whenever I get the chance. I don’t care about the job I have. [19] I condemn today’s attack at the Afghan Ministry of Interior that killed two of our coalition officers, and my thoughts and prayers are with the families and loved ones of the brave individuals lost today. We are investigating the crime and will pursue all leads to find the person responsible for this attack. The perpetrator of this attack is a coward whose actions will not go unanswered. [20] Are there times that things happen that don’t go exactly the way we want or that people act in an unprofessional manner? Absolutely. It’s unfortunate. We have a process in place to ensure that when those things don’t happen we conduct an investigation and hold people accountable. [21] Again, there are areas in Afghanistan where we have been less successful than others, but each one of those provinces , each one of those districts has their own set of conditions tied with the Afghan people, the Afghan government’s criteria for transition to the Afghan army and the Afghan national police, the Afghan defense forces, and we’re committed to that.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 4:14:30 GMT 9
Tổng thống Obama và chủ thuyết chiến tranh Nguyễn Trường 27/03/2012 Trong những tháng gần đây, T T Obama luôn bàn về khả năng mở rộng chiến tranh, kiểu Mỹ, ngày một cực đoan. Mặc dù luôn tìm cách ngăn chặn các đe dọa tấn công Iran với mục đích phòng ngừa của Do thái, nhiều tuyên bố và bình luận của Obama lẽ ra đã có tác động gây sốc đối với người Mỹ — nhưng hình như chẳng mấy ai quan tâm. LÝ DO MỚI ĐỂ MỞ RỘNG CHIẾN TRANH Đã hẳn, chúng tôi không muốn nói không ai lưu ý đến những lời tuyên bố của Tổng Thống. Ngược lại là khác, những lời tuyên bố của Obama đã chiếm những hàng tít lớn, được báo chí, các nhà bình luận và phân tích, nghiền ngẫm. Mitt Romney, Rich Santorum, và Newt Gingrich đã đồng loạt tấn công. Fox News đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh kiềm chế: Obama kêu gọi ngăn bờ Iran, phát biểu về chiến tranh một cách vô trách nhiệm. Báo Huffington Post làm nổi bật khía cạnh hậu thuẩn Do Thái : Obama đang lên tiếng bảo vệ các chính sách đối với Do Thái, trước các luận điệu chỉ trích mang tính đảng phái. Thủ Tướng Do Thái Netanyahu chống lại các lời tuyên bố của Obama trong một vũ điệu Hoa Kỳ-Do Thái nguy hiểm có thể mang lại hỗn loạn mới ở Trung Đông. Nhưng giữa những hàng tít, lời bình luận, và phân tích, hình như rất ít ai lưu tâm đến những gì đã thực sự thay đổi trên thế giới.Tổng Thống đã đưa ra một định nghĩa mới về “xâm lược” – “aggression” đối với Iran và một “chủ thuyết mới về chiến tranh” nói chung. Obama đã nhấn mạnh, ông có thể đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến không những để chận đứng một quốc gia khác tấn công Hoa Kỳ hay ngay cả đe dọa tấn công Hoa Kỳ, mà chỉ để chận đứng quốc gia đó chế tạo một vũ khí nguyên tử. Và Tổng Thống có thể hành động ngay cả nếu quốc gia đó không có đủ khả năng nhằm Hoa Kỳ như một mục tiêu. Điều nầy đã là một mẫu tin cần lưu tâm. Chẳng hạn, đây là một trong những tuyên bố đáng ngạc nhiên nhất: Ngay trước khi Thủ Tướng Do Thái Netanyahu đến Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống đã dành cho Jeffrey Goldberg, tạp chí Atlantic, một cuộc phỏng vấn kéo dài 45 phút trong tòa Bạch Ốc. Là nhà báo thân Do Thái đáng chú ý, Goldberg đã viết đăng trong số tháng 9-2011 một bài nhan đề “The Point of No Return” – Điểm Không Thể Lùi Bước. Trong bài, trên cơ sở các cuộc phỏng vấn với 40 nhân vật có quyền quyết định của Do Thái hiện nay và trong quá khứ, về một cuộc tấn công quân sự , tác giả đã lượng định khả năng một cuộc tấn công Iran bởi không lực Do Thái có thể xẩy ra vào trước tháng 7-2012 vào khoảng 50%. Sau đây là những nét chính lời tuyên bố của Obama trong cuộc phỏng vấn gần đây: “Tôi nghĩ chính quyền Do Thái nhận thức được, trong tư cách tổng thống Hoa Kỳ, tôi không tháu cáy. Tôi cũng không, như một vấn đề chính sách lành mạnh, đi quảng cáo chính xác các ý định của chúng tôi là gì. Nhưng tôi nghĩ cả hai chính quyền Iran và Do Thái đều nhận thức rõ khi Hoa Kỳ nói Iran sở hữu một vũ khí nguyên tử là điều không thể chấp nhận, chúng tôi muốn được hiểu những gì chúng tôi nói.”[1] Tổng Thống còn phát biểu thêm một nhận định đáng ngại: “Tôi nghĩ, công bằng mà nói, trong ba năm qua, tôi đã chứng tỏ khá rõ ràng là luôn sẵn sàng, khi tôi tin đó là quyền lợi cốt lõi của quốc gia Hoa Kỳ, vận dụng các hành động quân sự, ngay cả khi những hành động nầy hàm chứa các bất trắc thật lớn lao.”[2] Ngày hôm sau, trong một bài nói chuyện nhằm chấm dứt mọi bàn luận thiếu trách nhiệm về chiến tranh, trước một cử tọa hậu thuẩn hùng mạnh của Do Thái, Ủy Ban Công Vụ Hoa Kỳ-Do Thái,[3]tổng thống đã đưa ra một công thức còn mạnh mẽ hơn, xứng đáng được trích dẫn ở đây. Khi thảo luận những hậu quả của các quyết định sử dụng quân lực của chính mình “dưới mắt những người ông gặp mới trở về với thương tích trầm trọng,” Obama đã nói: “Và vì lý do nầy, như một phần trong trách nhiệm thiêng liêng của chính mình, tôi sẽ chỉ sử dụng vũ lực khi thời gian và hoàn cảnh đòi hỏi…Tất cả chúng ta đều ưa thích giải quyết vấn đề qua đường lối ngoại giao. Sau khi đã nói rõ điều đó, cấp lãnh đạo Iran không nên nghi ngờ về sự quyết tâm của Hoa Kỳ — cũng như họ không nên nghi ngờ về quyền tối thượng của Do Thái tự quyết định về những gì cần thiết để đáp ứng các nhu cầu an ninh của chính Do Thái. Tôi đã nói như thế khi bàn đến nhu cầu ngăn ngừa Iran thủ đắc một vũ khí hạt nhân, tôi sẽ không loại trừ bất cứ lựa chọn nào, và tôi phải được hiểu những gì tôi nói. Điều nầy bao gồm mọi thành tố quyền lực của Hoa Kỳ… và, vâng một nổ lực quân sự được chuẩn bị sẵn sàng để đối phó mọi tình huống khả dĩ. Cấp lãnh đạo Iran cần hiểu rõ tôi không theo đuổi chính sách đắp bờ; tôi có một chính sách ngăn ngừa Iran thủ đắc một vũ khí hạt nhân. Và như tôi đã nhiều lần nói rõ trong suốt thời gian giữ nhiệm vụ tổng thống, tôi sẽ không ngần ngại sử dụng vũ lực khi cần thiết để bảo vệ Hoa Kỳ và quyền lợi của Hoa Kỳ.”[4] Một tổng thống Hoa Kỳ không thể nào minh bạch hơn nữa, khi tuyên bố: nếu giới tình báo Hoa Kỳ kết luận người Iran đang xây dựng một vũ khí nguyên tử, người Mỹ sẽ tấn công. Ngay ngày hôm sau khi nói chuyện trước một cử tọa AIPAC, Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta, một lần nữa, đã củng cố lời cam kết của tổng thống: “Không một đe dọa nào lớn hơn đối với Do Thái, với toàn vùng, và cả với Hoa Kỳ, hơn là một Iran với vũ khí hạt nhân.. Hành động quân sự là sự lựa chọn cuối cùng khi tất cả các biện pháp khác đều thất bại, nhưng xin đừng hiểu lầm: khi mọi biện pháp khác đều thất bại, chúng tôi sẽ hành động.”[5] TIỀN LỆ VÀ ẢNH HƯỞNG Để có thể hiểu có điều gì mới mẻ ở đây, chúng ta cần lùi lại vài năm. Xét cho cùng, tiền lệ thường là di sản mang tính truyền thống, và những lời tuyên bố trên đây có một tiền lệ duy nhất trong thời đại nguyên tử (mặc dù không phải một tiền lệ Obama có thể nói ông khâm phục): xâm lược Iraq năm 2003 của chính quyền Bush. Và lý do được tuyên bố rõ ràng, biện minh cho cuộc chiến xâm lăng, là chương trình nguyên tử cũng như vũ khí sinh hóa tiêu diệt hàng loạt – WMD, của Saddam Hussein. Trong loạt bài nói chuyện từ tháng 8-2002, T T George W. Bush đã công khai lên án Saddam Hussein đang tích cực theo đuổi một chương trình nguyên tử. Cùng lúc, phó T T của Bush đã phát động một chiến dịch tác động báo chí và công luận với những lời lên án tương tự, và Bộ Trưởng Ngoại Giao của Bush cũng lớn tiếng quảng bá nguy cơ nấm mây phóng xạ đe dọa không phận các thành phố của Hoa Kỳ: “Chúng tôi biết chắc [Saddam] đang tích cực theo đuổi một vũ khí nguyên tử… Chúng tôi không muốn họng súng đang bốc khói trở thành một đám mây hình nấm.”[6] Trong suốt thời gian đó, chính quyền Bush đã nổ lực thuyết phục Quốc Hội — từ lâu đã bị lảng quên — Hoa Kỳ đang thực sự đối diện nguy cơ một cuộc tấn công WMD, rất có thể là anthrax, bất cứ lúc nào. T T Bush công khai gợi ý, với phi cơ không người lái (drones), Saddam có thể có đủ khả năng rãi thảm các thành phố miền Đông nước Mỹ ven bờ Đại Tây Dương với các vũ khí sinh hóa. Và Quốc Hội đã được thông báo qua các cuộc điều trần mật gây hoang mang hoảng sợ bởi ngành hành pháp. Chẳng hạn, Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Bang Florida, Bill Nelson, cho biết ông đã bỏ phiếu chấp thuận nghị quyết của chính quyền Bush cho phép sử dụng quân lực ở Iraq vì “tôi được cho biết không những [Saddam đã sở hữu WMD] và cũng đã có các phương tiện sử dụng các vũ khí đó, với các phi cơ không người lái unmanned aerial vehicles – UAV, mà còn có đủ khả năng vận dụng các UAV bên ngoài Iraq và đe dọa ngay cả lục địa Mỹ, nhất là bằng tàu biển đến vùng ven biển miền Đông [Hoa Kỳ].”[7] Nhu cầu xuất trình bằng chứng, dù quái dị hay ngụy tạo, của một đe dọa khả dĩ đối với Hoa Kỳ đã đưa đến một chiến dịch bóp méo, xuyên tạc, cực đoan mới trong phương cách chuẩn bị phát động chiến tranh. Trong những ngày tháng sau sự kiện 11-9, Phó T T thingy Cheney đã đề nghị: ngay cả khi nguy cơ Hoa Kỳ bị tấn công, nhất là với WMD, chỉ 1%, cũng phải được xem như một điều chắc chắn. Nhà báo Ron Suskin đã gọi điều đó là “Chủ Thuyết Một Phần Trăm.” Đó là phương thức liều lĩnh và bừa bãi nhất trong cuộc chiến xâm lược phòng ngừa người ta đã chứng kiến trong kỷ nguyên hiện đại. Đã hẳn, thực tế — Iraq của Saddam đã không có chương trình nguyên tử, không có vũ khí sinh hóa, không có UAV, và cũng không có cách tới được miền Đông nước Mỹ ven bờ Đại Tây Dương — đã chứng minh đầy đủ lập trường đứng đắn của phe chỉ trích chính quyền Bush. Nhưng chúng ta đã bỏ sót một điều tối quan trọng mới mẻ khác trong chính sách xâm lược: không những chính chủ thuyết 1%, mà còn ý tưởng tối nguy hiểm — ý niệm lần đầu tiên xuất hiện trên hành tinh địa cầu — khai chiến chỉ vì sự khả dĩ một quốc gia khác có thể sở hữu vũ khí tiêu diệt hàng loạt. Cho đến thời điểm đó, một ý niệm như thế chưa bao giờ hiện diện trong ngôn từ chiến lược quốc tế. Hoàn toàn trái ngược: trong kỷ nguyên chiến tranh lạnh, vũ khí nguyên tử đã được nghĩ đến như vũ khí ngăn chặn hay làm nản lòng hay nhụt chí – deterrence, hay, trong trường hợp hai siêu cường nguyên tử của thời đại đó, như một vũ khí “bảo đảm tiêu diệt lẫn nhau”- “mutually assured destruction” (hay MAD) giữa hai phe lâm chiến. Những vũ khí nầy được xem như loại vũ khí bảo đảm ngăn cản mọi khởi động chiến tranh. Chấp hữu những khí giới đó là một thứ bảo đảm rùng rợn đối phương không thể tấn công bạn, vì cả hai bên đều chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Trong tinh thần đó, trong khoảng thời gian giữa thời điểm ném hai quả bom hạt nhân xuống các thành phố Nhật Hiroshima và Nagasaki trong tháng 8-1945 và cuôc chiến xâm lược Iraq tháng 3-2003, bảy quốc gia — Liên Bang Nga, Anh quốc, Pháp, Trung Quốc, Do Thái (mặc dù kho vũ khí nguyên tử lớn vẫn chưa được Do Thái tự xác nhận), Ấn Độ, và Pakistan — tất cả đều đã là các quốc gia nguyên tử – mà chẳng có ai gợi ý là cả bảy quốc gia cần được tấn công chỉ vì đang sở hữu loại vũ khí đó. Một quốc gia thứ tám –Nam Phi, do người da trắng lãnh đạo — đã thực sự ráp sáu vũ khí hạt nhân, và về sau đã trở thành quốc gia duy nhất đã giải thể vũ khí nguyên tử. Nam Hàn, Đài Loan, Argentina, và Brazil cũng đều có chương trình hạt nhân phôi thai, mặc dù chưa có vũ khí hạt nhân nào đã được sản xuất. Ngày nay, Nhật Bản đã được xem như đã đạt đến khả năng, người Iran chưa với tới: khả năng chế tạo bom hạt nhân — breakout capacity, hay khả năng chế tạo một bom nguyên tử tương đối nhanh nếu Nhật quyết định xây dựng. Năm 2006, Bắc Hàn đã thử nghiệm bom hạt nhân lần đầu, và trong vòng ít năm, đã trở thành cường quốc nguyên tử thứ chín. Nói một cách khác, năm 2003, ý niệm chấp hữu vũ khí nguyên tử, hay chỉ cần một chương trình nguyên tử với khả năng tới một ngày đẹp trời nào đó cũng có thể chế tạo bom, là đủ để bị hay cần bị tấn công – a casus belli. Đó là một ý niệm hoàn toàn mới. Và khi Saddam đã rõ ràng không có chương trình hạt nhân nào, và cũng chẳng có vũ khí tiêu diệt hàng loạt nào, lối biện minh cuộc chiến xâm lược của Mỹ đã được phơi bày như một việc làm rõ ràng với chủ đích lừa lọc và gian lận — hình như đã được ném vào sọt rác lịch sử. BARACK OBAMA VÀ CHỦ THUYẾT O% Đó là những gì đã xẩy ra cho đến nay. Dù muốn dù không, trong lối giải thích chính sách chiến tranh mới nhất đối với Iran, T T Obama đã dựa trên tiền lệ do Bush xây đắp. Tuy nhiên, cách diễn giải của tổng thống là một phướng thức còn cực đoan hơn nhiều, cần được gọi là Chủ Thuyết O%. Trong phương cách ngăn chặn cuộc tấn công của Do Thái, rất có thể cũng chỉ là một lối tháu cáy, Obama đã định hình một quyết định của Iran chế tạo một vũ khí nguyên tử, trong tương lai, là một hình thức tấn công mới chống lại Hoa Kỳ. Như đã giải thích với JeffreyGoldberg, Obama có thể sử dụng quân lực chống lại Iran không phải để ngăn ngừa một cuộc tấn công Hoa Kỳ của Iran, mà là một cuộc thi đua vũ trang nguyên tử ở Trung Đông. Và cần lưu ý: Obama không nói, “‘chúng tôi’ không tháu cáy”. Ông đã nói: ” ‘Tôi’ không tháu cáy.” Và từ “tôi” không nên bị coi nhẹ. Chính quyền Bush đã đề xướng “suy tôn quyền uy của tổng thống,” hay [ như họ đã gọi lúc đó,] “hành pháp một người” - “a unitary executive.” Ngày nay, không ai trong Tòa Bạch Ốc dùng từ đó, cũng như từ “Chiến Tranh Toàn Cầu Chống Khủng Bố,”nhưng nếu cả hai từ đã biến mất, các hiện tượng thực tế họ đặt tên chỉ có thể được tăng cường. Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố — với bí mật quân sự đâm chồi bén rễ, các lực lượng hành quân đặc biệt và ưu tú, và lực lượng UAV ngày một lớn, một phần do CIA kiểm soát – cần được nghĩ đến như cuộc chiến chỉ thuộc quyền riêng tư của tổng thống. Vả chăng, khi bàn về các cuộc hành quân ám sát bởi phi cơ không người lái (hay “giết các đối tượng đã được lựa chọn trước” “targeted killings”, như nay họ thường gọi một cách nhẹ nhàng hơn), học giả pháp lý Jonathan Turley mới đây đã viết, “Bộ Trưởng Tư Pháp Eric Holder đã đòi hỏi dành cho tổng thống quyền giết bất cứ công dân Mỹ nào nếu ông đơn phương thẩm định người đó là một đe dọa cho quốc gia.”[8] Turley còn viết tiếp, khi làm như vậy, “Obama đã thay thế các ‘bảo đảm hiến định’ dành cho mọi công dân với ‘lời tuyên thệ tin ở tôi’.“[9] Nói một cách khác, đối với khủng bố, chiến tranh ngày một trở thành địa hạt dành riêng cho tổng thống; và tấn công kẻ địch, dù được định nghĩa ra sao chăng nữa, là một vấn đề thuộc quyền xét đoán riêng tư của tổng thống. Đó không còn là một vấn đề của “chúng tôi,”mà là “của riêng tôi như tổng thống” khi quyết định khởi động các cuộc tấn công trong một địa hạt đã trở thành một vùng “tác xạ tự do toàn cầu” bởi các UAV, hay phi cơ không người lái, và các lực lượng hành quân đặc biệt. Nói một cách khác, chiến tranh ngày một “cư trú trong Tòa Bạch Ốc và cá nhân lãnh đạo hành pháp tổng tư lệnh – a commander-in-chief executive.” Như chiến dịch can thiệp ở Libya đã cho thấy, cũng như nhân dân Hoa Kỳ, Quốc Hội may lắm cũng chỉ là một ý nghĩ đến sau – ngay cả Quốc Hội hiện nay có thể có quyền chuẩn y chiếu lệ một hành động chiến tranh của tổng thống mà chẳng cần phải thắc mắc băn khoăn. Điều oái oăm là tổng thống đã đề xuất một chính sách khai chiến hết sức cực đoan vào một lúc không có một bằng cớ người Iran đang theo đuổi chế tạo một bom nguyên tử – ít ra là chưa. Lãnh tụ tôn giáo tối cao của một nhà nước thần quyền đã gọi sự chấp hữu vũ khí nguyên tử là một tội lỗi trầm trọng – “a grave sin” và thẩm định của tình báo quốc gia Hoa Kỳ đã nhiều lần kết luận, trong thực tế, người Iran không có dấu hiệu xây dựng vũ khí nguyên tử. Tuy nhiên, nếu, và đây là một chữ nếu khổng lồ, Iran thực sự đã có bom hạt nhân, nếu một quốc gia thứ mười gia nhập câu lạc bộ nguyên tử, đó đã hẳn không phải là một tin vui, nhưng thế giới cũng không vì vậy mà đã trở thành một hành tinh tệ hại hơn, cũng không nhất thiết đã thay đổi quá nhiều. Điều có thể thay đổi thế giới một cách cực đoan chính là chủ thuyết O% – và khuynh hướng có thêm nhiều quốc gia xem chiến tranh như đặc quyền cá nhân của một tổng thống Hoa Kỳ, cùng lúc đã nhường chỗ cho giới quân sự Hoa Kỳ những gì cho đến gần đây thuộc địa hạt và thẩm quyền của các nhà ngoại giao. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 22-3-2012 Chú Thích: (1) Bài viết đã dựa trên tư liệu của Tom Engelhardt, đồng sáng lập viên Dự Án “the American Empire Project.” (2) Tác phẩm mới của Tom Engelhardt: The American Way of War: How Bush’s Wars Became Obama’s; The End of Victory Culture; The United States of Fear. [1] I think that the Israeli government recognizes that, as president of the United States, I don’t bluff. I also don’t , as a matter of sound policy, go around advertising exactly what our intentions are. But I think both the Iranian and the Israeli governments recognize that when the United States says it is unacceptable for Iran to have a nuclear weapon, we mean what we say. [2] I think it’s fair to say that the last three years, I’ve shown myself pretty clearly willing, when I believe it is in the core national interest of the United States, to direct military actions, even when they entail enormous risks. [3] …the American-Israel Public Affairs Committee (AIPAC). [4] And for this reason, as part of my solemn obligation to American people, I will only use force when the time and circumstances demand it… We all prefer to resolve this issue diplomatically. Having said that, Iran’s leaders should have no doubt about the resolve of the United States — just as they should not doubt Israel’s sovereign right to make its own decisions about what is required to meet its security needs. I have said that when it comes to preventing Iran from obtaining a nuclear weapon, I will take no options off the table, and I mean what I say. That includes all elements of American power…and, yes, a military effort to be prepared for any contingency. Iran’s leaders should understand that I do not have a policy of containment; I have a policy to prevent Iran from obtaining a nuclear weapon. And as I have made clear time and again during the course of my presidency, I will not hesitate to use force when it is necessary to defend the United States and its interests. [5] No greater threat exists to Israel, to the entire region, and indeed to the United States, than a nuclear-armed Iran… Military action is the last alternative if all else fails, but make no mistake: When all else fails, we will act. [6] We do know that [Saddam] is actively pursuing a nuclear weapon…We don’t want the smoking gun to be a mushroom cloud. [7] I was told not only that [Saddam had weapons of mass destruction] and that he had the means to deliver them through unmanned aerial vehicles, but that he had the capability of transporting those UAVs outside of Iraq and threatening the homeland here in America, specifically by putting them on ships off the eastern seaboard. [8] Attorney General Eric Holder has just claimed for the president the “authority to kill any American if he unilaterally determines them to be a threat to the nation.” [9] Obama has replaced the constitutional protections afforded to citizens with a ‘trust me’ pledge. nguyentruong92606.wordpress.com/
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 22, 2012 1:15:52 GMT 9
Di sản của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu
Nguyễn Trường Giờ đây, mọi người có thể nghĩ nhân loại đang đi vào giai đoạn cuối của kỷ nguyên 11/9. Một cuộc chiến vừa kết thúc ở vùng Trung Đông nới rộng, một cuộc chiến khác cũng đang trên đường đi đến đoạn kết, mặc dù còn đầy tai họa. Nguy cơ al-Qaeda đã sụt giảm đến độ kim đồng hồ âu lo hầu như không còn nhúc nhích. Trong thực tế, bạn rất có thể nghĩ thời cơ đã đến để người Mỹ quay trở về với các nguyên tắc ban sơ: hiến pháp và các dân và nhân quyền căn bản. Tuy nhiên, những tín hiệu báo động vẫn đầy dẫy: năm 2012 sẽ là năm trong đó, nhân danh an ninh quốc gia, những quyền căn bản hình như chỉ có thể bị Guantanamo- hóa và giảm thiểu. Chằng hạn, mặc dù các kẻ thù thật sự nguy hiểm vẫn tiếp tục hiện hữu, trong thực tế thế giới ngày nay còn chứng kiến một kẻ thù mới trong tầm nhìn của người Mỹ: nói rõ ra, những thành phần cảnh báo các tai họa do Mỹ gây ra đang bị truy tố như những tên phản nghịch trưng bày cách vận hành của chính quyền Mỹ cho giới báo chí và kẻ thù của Hoa Kỳ. Ở đây cũng như trong nhiều địa hạt khác, chúng ta có thể chờ đợi chính quyền Obama tiếp tục dõi theo con đường đã đưa người Mỹ ngày một xa dần một Hoa Kỳ họ đã từng thân quen. Và qua năm 2013, khi một tổng thống khác vào Tòa Bạch Ốc, ông ta có lẽ cũng sẽ đưa họ đi chệch đường xa hơn nữa. Trong bối cảnh đó, sau đây là năm địa hạt an ninh quốc gia trong đó năm 2012 có lẽ ngày một thê thảm hơn năm 2011. 1. HÌNH PHẠT NGÀY MỘT GIA TĂNG VÀ CÔNG LÝ NGÀY MỘT MỜ NHẠT Những ai, đang mơ tưởng kỷ nguyên của tầm với quá xa vì lý do an ninh quốc gia sẽ sớm chấm dứt, cần nên nhớ vài vụ xét xử vi phạm an ninh quốc gia đáng chú ý sắp diễn ra nay mai; và nhân loại rất có thể sắp bước vào kỷ nguyên trả thù mới của chính quyền Mỹ. Trong số các vụ xét xử quan trọng đáng lưu ý nhất, các ủy hội quân sự tại Guantanamo sắp đưa ra xét xử Khalid Sheikh Mohammed, bị cáo chủ mưu trong vụ tấn công 11/9 và các đồng lỏa, cũng như vụ Abd al-Rahim al-Nashiri, bị cáo trong vụ tấn công cảm tử chiến hạm U.S.S. Cole ở cảng Aden. Đây sẽ là những vụ có thể bị tuyên án tử hình và đang bị truy tố với tinh thần trả thù. Nhưng tinh thần trả thù sẽ không dừng lại với các tên chủ mưu a-Qaeda và đồng lõa. Một loạt các vụ không liên hệ đến tấn công hay sát hại người Mỹ cũng sẽ được đưa ra xét xử với lý do an ninh quốc gia và trong tinh thần trả thù tương tự. Để bắt đầu, vụ xét xử trước tòa án quân sự quân nhân Bradley Manning, bị cáo tiết lộ các tài liệu mật của chính quyền cho WikiLeaks. Và rồi, rất có thể vụ truy tố sáng lập viên WikiLeaks, Julian Assange, ra tòa án Liên Bang - một bồi thẩm đoàn liên bang hiện đang cân nhắc tội của Assange – vì đã cộng tác với Manning. Cả hai đã được nhiều người bàng quan hoan hô và ủng hộ. Các quan chức hàng đầu trong chính quyền Obama đã nhấn mạnh các tài liệu do WikiLeaks tiết lộ đã đe dọa mạng sống của nhiều người Mỹ, và bàn tay của cả hai - Assange và Manning – đang vấy máu người Mỹ, mặc dù không một mạng sống của bất cứ ai đã trực tiếp bị đe dọa bởi việc phổ biến các tài liệu liên hệ. Các thành phần cực đoan khát máu trong quang phổ chính trị Hoa Kỳ – chẳng hạn nguyên thống đốc Arkansas và ứng viên tổng thống Cộng Hòa Mike Huckabee hay Dân biểu Mike Rogers, Cộng Hòa-Michigan – đã kêu gọi xử tử Manning. Rogers đã giải thích: “Tôi lập luận hình phạt tử hình rõ ràng cần được áp dụng trong trường hợp nầy…[Manning] rõ ràng đã tiếp tay cho kẻ thù trong việc có thể đe dọa sinh mạng các binh sĩ Mỹ hay các cộng tác viên. Nếu đó không phải là một vi phạm đáng tội tử hình, tôi không biết tội gì còn nặng hơn.”[1] Một ước muốn trừng phạt tương tự, mặc dù không đến nổi tử hình, bắt nguồn từ sự quyết chí của chính quyền Obama theo dõi và thẳng tay trừng trị mọi tiết lộ, từ nội bộ chính quyền, cho các cơ quan truyền thông, ngay cả khi không trực tiếp hay thực sự lấy trộm tài liệu của chính phủ. Đã hẳn, Obama đã vào Tòa Bạch Ốc với lời hứa một chính sách thông thoáng minh bạch trong mọi hành động của chính quyền, để rồi vượt quá mọi nỗ lực đàn áp các người lên tiếng báo động các vụ lạm quyền trong guồng máy nhà nước. Vụ xét xử hai cựu viên chức tình báo CIA sắp tới là những vụ điển hình của dạng thức nầy: Jeffrey Sterling đã bị cáo buộc tiết lộ tài liệu bí mật cho James Risen báo the New York Times, về các kế hoạch phổ biến các thông tin không xác thực, nhưng chỉ mang lại phản tác dụng, trong nỗ lực phá hoại chương trình nguyên tử của Iran; và John Kiriakou đã biện hộ vô tội trong vụ tiết lộ thông tin cho các cơ quan truyền thông về các chính sách tra tấn trong kỷ nguyên Bush. Nói chung, chính quyền đã truy tố sáu nghi can tiết lộ tài liệu mật – nhiều hơn tất cả các chính quyền tiền nhiệm gộp lại – dựa trên Luật Gián Điệp rất hà khắc. Trong vấn đề các phạm nhân tiết lộ tài liệu mật, thông điệp không thể nào rõ ràng và mang tính trả thù hơn. Lập trường của chính quyền đã không hề thay đổi: lột trần chúng tôi, chúng tôi sẽ thẳng tay trừng trị với lòng căm thù bạn khó thể tưởng tượng nổi. Cũng như giới khủng bố đã được cảnh cáo sẽ bị đối phó bởi luật mới và các hệ thống pháp lý có thể được ban hành, những ai đã bị cáo buộc tiết lộ cho báo chí hiện đang được cho biết: ngay cả toàn bộ hệ thống pháp lý vẫn chưa phải là giới hạn khi nói đến trừng phạt. Chứng cớ là cách đối xử với Bradley Manning trong năm đầu tạm giam trước khi bị cáo buộc bất cứ tội gì: Manning đã bị giữ biệt lập trong nhà tạm giam của Thủy Quân Lục Chiến và buộc phải ngũ trần truồng. Cũng đừng nên quên không những chỉ tìm cách truy tố mà còn hủy hoại đời sống của cựu viên chức Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Thomas Drake. Drake bị cáo buộc tiết lộ thông tin bí mật về điều anh ta tin là một chương trình quá phí phạm của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia -NSA. Cuối cùng, mặc dù bị truy tố theo Luật Gián Điệp, anh ta cũng chỉ phải bào chữa một tội vi cảnh: mượn tạm máy vi tính của chính quyền – nhưng cũng phải đợi đến khi đời sống hoàn toàn bị đảo lộn và đã mất việc làm. 2. NGÀY MỘT NHIỀU NẠN NHÂN BỊ BỎ QUÊN TRONG NGỤC TÙ VÀ NGÀY MỘT MẤT TIN TƯỞNG VÀO HIẾN PHÁP Việc thừa nhận sự giam giữ những thành phần – một thời được xem như “chiến binh thù địch” hay enemy combatant, ngày nay được gọi là “chiến binh thù địch không có đặc quyền” hay “unprivileged enemy belligerents” – chỉ là một hành động lỗi thời – mang thuộc tính Mỹ không mấy khác “apple pie.” Cũng như chính quyền Bush trước đây, ngày nay chính quyền Obama cũng công khai nhấn mạnh cam kết giam giữ khoảng 50 chiến binh ở Guantanamo vô thời hạn, chẳng cần buộc tội hay xét xử. Tháng 5-2009, trong một bài nói chuyện ở Nha Văn Khố Quốc Gia, Tổng Thống Obama đã nói không thể nào rõ hơn: câu lưu vô thời hạn sẽ được duy trì như một chọn lựa trong thùng khí cụ an ninh quốc gia cần thiết trong chính quyền của ông. Như vậy, Obama đã đảm bảo: một dạng bất công của Mỹ ở hải ngoại và là yếu tính của Guantanamo – điều có lúc ông đã hứa sẽ hủy bỏ – có thể được tiếp tục không chút đổi thay. Tuy nhiên, năm 2012, còn có thêm một loại câu lưu vô thời hạn mới khá rắc rối và đáng lo âu: các công dân Hoa Kỳ. Trước đây, công dân Mỹ được đặc miễn – khỏi bị giam giữ ở Guantanamo, và do đó, nằm ngoài chính sách giam giữ mà không cần xét xử. Trong năm 2002, Yaser Hamdi, một công dân Hoa Kỳ gốc Saudi Arabia, khi được khám phá đang bị giam giữ ở Vịnh Guantanamo, đã vội vàng được đưa lên phi cơ chở đi nơi khác, một dấu hiệu của các quyền vẫn còn được dành cho công dân Hoa Kỳ. Cũng tương tự như vậy, một chiến binh Taliban người Mỹ, John Walker Lindh, bị bắt trên chiến trường Afghanistan, cũng đã được đặt dưới quyền tài phán của hệ thống tòa án liên bang. Tuy nhiên, gần đây, Quốc Hội đã tỏ ra ít tôn trọng sự phân biệt giữa các quyền dành cho công dân và không phải công dân. Trong tháng 2-2012, Quốc Hội đã thông qua Luật Ủy Quyền Quốc Phòng 2012 – NDAA (2012 National Defense Authorization Act). Các cuộc thảo luận trước khi thông qua luật mới đã phản ảnh một nỗ lực chung đặt công dân Mỹ cũng như người nước ngoài trong cùng chế độ: có thể bị câu lưu quân sự vô thời hạn. Cuối cùng, công dân giả thiết vẫn còn được chước miễn khỏi luật mới, nhưng mặc dù vậy, xuýt nữa cũng đã mất quyền nầy và là một tín hiệu – đó rất có thể cũng là một khuynh hướng trong tương lai. Như một phúc trình gần đây của Sở Nghiên Cứu Quốc Hội về Luật NDAA 2012 đã giải thích, “ý định không phải nhằm ảnh hưởng đến các quyền lực hiện hữu liên quan đến sự quản thúc các công dân Mỹ hay các ngoại kiều thường trú hợp pháp, hay bất cứ người nào bị bắt hay câu lưu ở Hoa Kỳ.”[2] Tuy vậy, hiện vẫn còn nhiều âu lo về các bảo đảm dành riêng cho công dân Hoa Kỳ còn được duy trì dưới Luật mới. Ngay cả lời tuyên bố của TT Obama – khi ký ban hành luật mới: T T sẽ không cho phép hành vi quản thúc quân sự vô thời hạn không xét xử các công dân Mỹ – cũng không thể làm dịu bớt những nổi sợ hải vừa nói. Nếu công dân Hoa Kỳ thực sự được bảo vệ trước sự khả dĩ quản thúc vô thời hạn dưới luật mới, tại sao lời tuyên bố khi ký ban hành luật mới còn cần thiết? Ngoài ra còn có những nơi luật mới hình như đã chìm đắm vào quên lãng trên phương diện pháp lý và chẳng có cách nào hạn chế hành động của nhà cầm quyền Mỹ: trên các đại dương. Vào hồi đầu năm, chính quyền Obama đã loan báo quản thúc 15 tên cướp biển ngoài khơi Somalia – và các đương sự đã bị quản thúc không dựa trên bất cứ quy chế pháp lý nào. Theo phóng viên báo New York Times, C.J. Chivers, “nơi sự cấm đoán chấm dứt, một vấn đề dài lâu bắt đầu: phải làm gì với các tên cướp biển các tàu nước ngoài đang quản thúc?”[3] Theo Bộ Ngoại Giao, những tên cướp sẽ được đưa ra xét xử. Nhưng ở đâu? Theo lời của Phó Đề Đốc Mark I. Fox, “Chúng ta thiếu một hoàn tất pháp lý thực tế và đáng tin cậy.”[4] Nói một cách khác, Hoa Kỳ chưa tìm được một quốc gia dưới luật pháp của quốc gia đó Hoa Kỳ có thể xét xử họ. Trong lúc chờ đợi, theo những tường trình mới nhất, Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục quản thúc họ. Người ta có thể quan niệm tàu hải quân như một Guantanamo nổi trên mặt nước đang quản thúc những kẻ thù để thủ lợi. 3. NGÀY MỘT NHIỀU BÍ MẬT VÀ MỘT THIẾU MINH BẠCH HƠN Bí mật”cần thiết”đã là cách giải thích cuối cùng của chính quyền – fallback explanation, đối với phần lớn thông tin đã bị che đậy để tránh mọi giám sát của công chúng kể từ sau 11/9. Các ủy hội quân sự ở Guantanamo sẽ tiếp tục thụ lý , chẳng hạn, với lý do nếu các bị cáo, phần lớn đã bị quản thúc hơn một thập kỷ, phải được đưa ra xét xử trước tòa án liên bang, quá nhiều thông tin sẽ bị phơi bày, một cách nào đó, có thể phương hại đến an ninh Hoa Kỳ. Nhằm đối phó với những yêu sách của phái tự do dân sự cho rằng bí mật chỉ là nỗ lực che dấu cách xử lý xấu xa hay sai quấy, chính quyền đương nhiệm đã hứa hẹn minh bạch thông thoáng trong các hoạt động của ủy hội quân sự sẽ bắt đầu làm việc vào cuối năm nay. Các nỗ lực minh bạch, loan báo từ mùa thu năm ngoái, bao gồm một mạng lưới nơi các tài liệu – loang lổ với những dấu vết tẩy xóa – công chúng có thể tiếp cận, và các cơ quan truyền thông và thân nhân của gia đình các nạn nhân có thể vào xem riêng, mặc dù với 40 giây chậm trễ. Tuy vậy, chính quyền chẳng phí nhiều thì giờ trước khi làm ngược lại những cam kết minh bạch, theo ngôn từ lễ độ của Spencer Ackerman thuộc Wired’s Danger Room blog, đảm bảo Guantanamo vẫn luôn là nơi không rộng mở thông thoáng – not a place of openness. Trong lúc đó, tất cả thư tín trao đổi giữa những người bị quản thúc và luật sư quân đội đại diện họ đều bị sàng lọc, một hành động gây bức xúc đối với các luật sư. Trong loại thiếu minh bạch và màn bí mật ngày một gia tăng như nguyên tắc số một của chính quyền, phải kể hành động giấu kín một thông tư của Cơ Quan Tư Vấn Pháp Lý thuộc Bộ Tư Pháp – OLC.[5] Thông tư rõ ràng được soạn thảo nhằm biện minh vụ ám sát, bởi phi cơ không người lái ở Yemen trong tháng 9 năm ngoái, công dân Hoa Kỳ Anwar al-Awlaki, được gán biệt hiệu “bin Laden của Mạng Internet.”[6] Cho đến gần đây, chính quyền đã lẫn tránh các chất vấn về vụ ám sát al-Awlaki và một công dân Mỹ khác, Samir Khan, biên tập viên tạp chí Inspire của al-Qaeda. Trong tháng giêng, chính quyền đã loan báo: Bộ Trưởng Tư Pháp Eric Holder sẽ sớm phổ biến thông tư của OLC hợp pháp hóa hai vụ ám sát, nhưng hoãn lời giải thích của Holder đến tháng ba. Trong lúc đó, báo New York Times và ACLU đã nộp đơn đòi công bố thông tư đúng theo quy định của Luật Tự Do Thông Tin (FOIA).[7] Ngày 5-3, Holder cuối cùng cũng đã phải giải thích chi tiết cách lập luận vòng vo sau vụ ám sát al-Awlaki, nhưng vẫn chưa thấy tăm hơi của thông tư. Trong suốt năm vừa qua, bức màn bí mật bao trùm nhiều hành động của chính quyền ngày một gia tăng rõ rệt. Để đơn cử một trong những ví dụ quá trớn, thử xem xét cách xử lý của chính quyền trong vụ Jeffrey Sterling – nhân viên tình báo CIA trước đây. Theo yêu cầu của Sterling, một thẩm phán liên bang nay đã chấp thuận cho phép áp dụng “quy luật nhân chứng im lặng.”[8] Nói một cách khác, thẩm phán sẽ cho phép bồi thẩm đoàn được xem các tài liệu của chính quyền nhưng không được công bố, theo công tố viện, vì lý do “an ninh quốc gia”. Sau một thập kỷ, đối với các vấn đề an ninh, thói quen luôn xếp quá nhiều tài liệu ít nhiều quan trọng vào bóng tối dưới đề mục an ninh quốc gia, điều nầy không có gì đáng ngạc nhiên. Ngày nay, người Mỹ ngày một biết ít hơn những gì chính quyền do họ bầu lên đang làm. Nếu không nhờ những vụ kiện FOIA của ACLU và vài cơ quan khác, rất ít những gì chúng ta biết về tra tấn và giám sát không có lệnh của tòa án, và nhiều việc làm mờ ám tai hại khác của chính quyền, đã có thể được khui ra ánh sáng. Cứ lưu ý xem con số ngày một nhiều các vụ truy tố những người lên tiếng báo động như thêm một phương cách che dấu các hoạt động khỏi cặp mắt canh chừng của tập thể công dân. 4. NGHI NGỜ NGÀY MỘT NHIỀU VÀ RIÊNG TƯ NGÀY MỘT ÍT Trong nhiều năm, viễn tượng nghe lén với lý do an ninh quốc gia đã có tác dụng ghê rợn đối với người Mỹ chống đối các chính sách của chính quyền trong cuộc chiến chống khủng bố. Năm 2008, T T Bush đã ký Luật các Tu Chính FISA, cho phép chính quyền nghe lén các công dân với tối thiểu giám sát bởi các Tòa Án Giám Sát Tình Báo Ngoại Quốc vốn sẵn bí mật. Đó là những tòa án được thiết lập năm 1978 để giám sát việc cho phép theo dõi các nhân viên tình báo tiềm năng của nước ngoài. Chính quyền Obama, nhân danh an ninh quốc gia, đã liên tục sử dụng quyền hạn nầy và quyền của chính quyền tự do ghi âm những liên lạc truyền thông điện tử giữa người bên ngoài Hoa Kỳ và người trong nước. Trong lúc đó, những tiết lộ mới nhất - nghi ngờ ngày một nhiều và riêng tư ngày một ít – đã được phản ảnh bởi tin Nha Cảnh Sát Thành Phố New York, NYPD, đã luôn sử dụng các chương trình giám sát vi phạm quyền tự do dân sự các công dân Hồi Giáo Mỹ trong thành phố. NYPD đã xâm nhập các đền thờ và các đại học Hồi giáo, thu lượm thông tin về các cá nhân không hề bị nghi ngờ phạm tội, cùng với các quan chức CIA (nay đã được thu hồi) sử dụng những phương pháp quen thuộc dành riêng cho cơ quan nầy. Đã hẳn các hành vi nầy, dù không chính thức, đã vi phạm sứ mệnh của CIA – chỉ được quyền giám sát ở nước ngoài; và không một ai dính líu đã phải bị chế tài. Hơn nữa, trong một phối hợp đáng ngạc nhiên vượt quá tầm với an ninh và theo dõi tiểu sử bởi cảnh sát, NYPD đã điều tra và giám sát các công dân Hoa Kỳ theo Hồi giáo ngay cả bên ngoài thành phố New York – từ New Haven, Connecticut đến Newart, New Jersey. Mọi việc càng thêm tồi tệ, chính quyền cũng mới chấp thuận sử dụng phi cơ không người lái trong chiến dịch giám sát như một phần trong các dụng cụ thi hành luật pháp ngày một bành trướng, nhằm thu thập thông tin bên trong Hoa Kỳ. Ngày 14-2 vừa rồi, T T Obama đã ký luật cho phép sử dụng phi cơ drone trên nhiều địa bàn rộng lớn, từ các hoạt động doanh thương đến thực thi luật pháp. Thông điệp đã khá rõ ràng: năm nay, năm tới và năm kế tiếp sẽ là những năm nghe lén rình rập nhiều hơn. Đối với công tác thực thi luật pháp, cuộc đời của dân Mỹ là một cuốn sách rộng mở. 5. GIẾT CHÓC NGÀY MỘT NHIỀU, HÒA BÌNH NGÀY MỘT HIẾM Không một ngày trôi qua mà không có tin sử dụng phi cơ drone Predator và Reaper để ám sát các cá nhân ở các nước ngoài, kể cả những năm gần đây ở Afghanistan, Pakistan, Iraq, Yemen, Somalia, Libya, và Phi Luật Tân. Không khác gì khi CIA và giới quân sự được trao cho một đồ chơi mới, họ không thể không sử dụng hay không dạy người khác sử dụng. Theo báo Atlantic, “một ước tính bảo thũ gợi ý hàng trăm dân thường không phải chiến binh đã bị ám sát chỉ riêng ở Pakistan.”[9] Trong khi đó, cổ vũ chiến tranh với Iran luôn tiếp tục gia tăng. Đối diện với viễn tượng một cuộc tấn công Cộng Hòa Hồi Giáo của Do Thái, chính quyền Obama đã từ chối sẽ lùi bước trước viễn tượng trở thành một quốc gia tham chiến. Obama đã nói: “Lãnh đạo Iran cần hiểu rõ tôi không có một chính sách đắp bờ. Tôi có một chính sách ngăn chặn Iran thủ đắc một vũ khí hạt nhân. Và như tôi đã nhiều lần làm rõ trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, tôi sẽ không ngần ngại sử dụng vũ lực khi cần, để bảo vệ Hoa Kỳ và quyền lợi của Hoa Kỳ.”[10] Trong thực tế, nhằm ngăn ngừa một cuộc chạm trán có tiềm năng tai họa, có thể tác động nghiêm trọng đến giá dầu và kinh tế toàn cầu, một số quan chức dân sự và quân sự cao cấp đã được Hoa Thịnh Đốn gửi đến Do Thái với thông điệp tránh một cuộc tấn công vào Iran. Tuy vậy, chiến tranh vẫn tiếp tục được các nhà ngoại giao và nhiều quan chức khác xem như “một việc đã rồi” – a fait accompli. Và trong thực tế, tin tức đã thực sự nghiêm trọng và luôn theo chiều hướng: sử dụng luật pháp, hay ít ra dạng thức luật pháp của Bộ Tư Pháp, để biện minh những hành động chính quyền cảm thấy cần thiết để chống lại bất cứ ai họ xem như kẻ thù. Bộ Trưởng tư pháp Holder đã tóm tắt tình hình rõ ràng chỉ để biện minh vụ ám sát al-Awlaki. Trong một chi tiết có ý nghĩa, Holder đã giải thích việc giết chết một công dân Mỹ (và nghi can khủng bố) là hợp pháp, mặc dù thực tế hành động sát nhân đã đặt thành vần đề bảo vệ “quá trình luật định” theo Tu Chính Án số Năm, và mặc dù các bảo đảm đã được đưa ra bởi các luật chiến tranh. Holder tuyên bố: “Tiến trình luật định không phải là tiến trình tư pháp.”[11] Đó là một lời thú nhận ngay thẳng đáng ngạc nhiên một điều mới lạ dưới ánh sáng mặt trời của Mỹ: tiến trình luật định nay là những gì tổng thống và các cố vấn cận thần quyết định là tiến trình luật định — một tái tư duy hiến pháp quan trọng bậc nhất để biện minh sát hại một công dân Hoa Kỳ được chọn làm mục tiêu ám sát. Tóm lại, trong vòng một thập kỷ Hoa Thịnh Đốn đã đẩy người Mỹ vào vùng tranh tối tranh sáng pháp lý – và tất cả những gì đi kèm theo, kể cả các biện pháp trừng phạt, những nỗ lực tránh né các bảo đảm hiến định, sự lan tràn của bóng tối bí mật và giám sát , sự mất tin tưởng ngày một gia tăng của công dân Mỹ , và hành vi ám sát trắng trợn – không phải là điều người Mỹ sẽ dễ dàng sớm đẩy về phía sau. Sự dịch chuyển xa dần các quyền và tự do công dân đã được Hiến Pháp và luật pháp tôn thờ rõ ràng là con đường tương lai của Mỹ trong thời đại mới của các kẻ thù. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 08-4-2012 [1] As Rogers explained: “I argue the death penalty clearly should be considered here…[Manning] clearly aided the enemy to what may result in the death of U.S. soldiers or those cooperating. If that is not a capital offense, I don’t know what is.” [2] As a recent Congressional Research Service report on the NDAA explained, it is “not intended to affect any existing authorities relating to the detention of U.S. citizens or lawful resident aliens, or any other persons captured or arrested in the United States.” [3] …where interdiction ends, an enduring problem begins: what to do with the pirates that foreign ships detain? [4] We lack a practical and reliable legal finish. [5] ..elaborate dance of non-disclosure over a memo produced by the Justice Department’s Office of Legal Counsel – OLC. [6] … was evidently written to justify the assassination by drone in Yemen last September of American citizen Anwar al-Awlaki, alleged to have been the “bin Laden of the Internet.” [7] Meanwhile, the New York Times and ACLU filed a Freedom of Information Act (FOIA) request for its releae. [8] …to invoke the “silent witness rule.” [9] Conservative estimates suggest hundred of noncombattant civilians have been killed in Pakistan alone. [10] Iran’s leaders should understand I do not have a policy of containment. I have a policy to prevent Iran obtaining a nuclear weapon. And as I have made clear time and again during the course of my presidency, I will not hesitate to use force when it is necessary to defend the United States and its interests. [11] Due process is not judicial process.
Xin giới thiệu trang nhà của tác giả nguyentruong92606.wordpress.com/
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 7, 2012 2:04:04 GMT 9
Washington, Tehran và kinh tế thế giới
Nguyễn Trường Đã hẳn chính sách kẻ cả, bắt nạt, và hù dọa của Hoa Thịnh Đốn đã, đang, và sẽ gây tang tóc đau thương cho người dân Iran, và về lâu về dài có thể cả cho người Mỹ. Cuối cùng, chính sách nầy cũng sẽ vô cùng tai hại cho kinh tế toàn cầu, và theo kinh nghiệm lịch sử, cũng chẳng có cơ may thành công. Cuộc chiến kinh tế do Mỹ lãnh đạo và Do Thái khuyến khích và cổ võ, sẽ khó lòng lật đổ được chính quyền Iran, buộc Iran phải thương nghị, hay từ bỏ chương trình nguyên tử của mình. Tuy nhiên, chính sách đó cũng rất có thể đưa đến xung đột quân sự với hậu quả vô cùng khốc liệt. Trong thực tế, Hoa Kỳ cũng đã bị lôi cuốn vào một cuộc chiến kinh tế với Iran. Chính quyền Obama đã áp đặt lên Cộng Hòa Hồi Giáo những chế tài kinh tế khe khắt nhất đối với bất cứ quốc gia nào kể từ khi xô đẩy Iraq vào hàng ngũ “thế giới thứ tư” trong thập kỷ 1990. Và một tình trạng tệ hại hơn rất nhiều đang chờ đợi Iran. Iran đang bị người Mỹ bao vây tài chánh với mục đích ngăn chận việc xuất khẩu tài nguyên quý hiếm dầu lửa, như phương cách buộc chế độ Tehran từ bỏ chương trình làm giàu uranium. Lịch sử đã chứng tỏ đây không phải là thế mạnh của Mỹ, và rất ít ai ngày nay nhớ rõ cuộc cấm vận toàn cầu đối với dầu Iran, một chiến thuật không mới mẻ gì trong địa-chính trị Tây phương. Và cũng không có nhiều người nhớ lần cuối cùng biện pháp nầy cũng đã được sử dụng một cách trắng trợn, trong thập kỷ 1950, và đã đưa đến sự lật đổ chính quyền Iran với phản tác dụng dài lâu đối với Hoa Kỳ như thế nào. Chiến thuật nầy ngày nay cũng không kém nguy hiểm. Lãnh tụ tôn giáo tối cao Iran, Ayatollah Ali Khameni, đã nhiều lần lên án bom hạt nhân và các vũ khí nguyên tử như những dụng cụ của “ma quỷ”, những thứ vũ khí không thể được sử dụng mà không giết hại hàng loạt dân lành. Trong thực tế, với những từ mạnh mẽ, ông đã từng tuyên bố các thứ vũ khí nầy đều bị giới luật Hồi giáo cấm đoán. Dựa trên tin tức tình báo mới nhất của Hoa Kỳ, Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta cũng đã xác quyết Iran không có quyết định theo đuổi một đầu đạn nguyên tử. Ngược lại, các thành phần diều hâu Do Thái và Hoa Kỳ luôn nhấn mạnh mục đích cuối cùng của chương trình làm giàu uranium dân sự của Iran là chế tạo một bom hạt nhân, và người Iran đang theo đuổi con đường nầy một cách quyết liệt và phải được chận đứng ngay bây giờ, nếu cần, bằng các biện pháp quân sự. XIẾT CHẶT CHẾ TÀI ĐỐI VỚI IRAN Cho đến nay, chính quyền Obama và Quốc Hội Hoa Kỳ hình như đã tìm hết cách chận đứng mọi giao dịch về dầu lửa Iran trên thị trường toàn cầu. Vào cuối năm 2011, Quốc Hội Mỹ đã thông qua một tu chính án Luật Ủy Quyền Quốc Phòng, quy định các chế tài đối với các công ty và quốc gia có quan hệ với Ngân Hàng Trung Ương Iran hay mua dầu Tehran, mặc dù cũng có dự liệu một số ngoại lệ trong các trường hợp đặc biệt thiết yếu. Sự leo thang từ các chế tài đến biện pháp phong tỏa toàn diện hàm chứa những nguy cơ cực đoan rất dễ đưa đến một đối đầu quân sự. Cộng hòa Hồi giáo đã cố gắng nêu rõ điều đó, cũng như đã chứng tỏ , qua các cuộc diễn tập hải quân trong Vịnh Ba Tư gần đây, họ sẽ không bao giờ chấp nhận chịu bó tay mà không có phản ứng. Nguy cơ ở đây đã thật sự rõ ràng: khoảng 20% dầu lửa trên thế giới được chuyển vận qua vùng Vịnh, và ngay cả một gián đoạn phân bộ hay tạm bợ cũng có thể trở thành một tai họa đối với kinh tế thế giới. Trước hết, qua chính sách chế tài lẫn phong tỏa, T T Obama rõ ràng đang cố gắng và tin tưởng sẽ thành công, trong nổ lực ngăn chặn Netanyahu và chính quyền Do Thái tấn công quân sự vào các cơ sở nguyên tử của Iran. Obama lập luận các biện pháp kinh tế ngặt nghèo sẽ đủ buộc Iran đến bàn hội nghị , ngay cả đơn thuần đầu hàng. Đồng thời, Obama cũng đang tìm cách làm vừa lòng một đồng minh khác ở Trung Đông – Saudi Arabia – rất muốn thấy chương trình nguyên tử của Iran một cách nào đó bị vô hiệu hóa. Trong quá trình đó, chính quyền Hoa Kỳ và đồng minh đã loại các ngân hàng Iran ra khỏi các mạng lưới hối đoái quốc tế, gây khó khăn cho các khách hàng năng lượng quan trọng của Iran, như Nam Hàn và Ấn Độ, thanh toán tiền mua dầu lửa nhập khẩu. Và cũng không nên quên khí giới quan trọng nhất của chính quyền Obama: hầu hết các quốc gia và tập đoàn các đại công ty đều không muốn gặp khó khăn trong các giao dịch kinh tế với Mỹ – một nền kinh tế vẫn còn lớn nhất và năng động nhất trên thế giới, với một GDP trên 15.000 tỉ USD. Chẳng hạn, Liên Hiệp Âu Châu, e ngại trước các chế tài của Quốc hội Mỹ, đã phải đồng ý ngưng ký các hợp đồng mua dầu Iran kể từ 1-7-2012, một quyết định đã gây thêm nhiều gánh nặng đặc biệt trong các quốc gia miền Nam Âu châu, như Hy Lạp và Ý, những nước đang gặp nhiều khó khăn. Với sự tẩy chay của các khách hàng Âu châu, Iran ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào các khách hàng Á châu, cho đến nay đang chiếm một thị phần 64% dầu lửa xuất khẩu của Iran, cũng như vào các khách hàng ở Nam Bán Cầu. Trong số các xứ nầy, TQ và Ấn Độ đã từ chối tham gia vào chiến lược tẩy chay. Nam Hàn, mỗi năm mua một số dầu Iran trị giá trên dưới 14 tỉ USD hay 10% số dầu nhập khẩu, hiện đang thỉnh cầu Hoa Thịnh Đốn dành cho một ngoại lệ, cũng như Nhật phải mua 8,8% số dầu nhập khẩu từ Iran trong năm rồi, vào khoảng hơn 300.000 thùng mỗi ngày, và nhiều hơn Nam Hàn nếu tính theo con số tuyệt đối. Nhật, có kế hoạch cắt giảm khoảng 12% số dầu nhập khẩu từ Iran, và đã được Hoa Kỳ dành cho ngoại lệ. Đối diện với các hệ quả một sự gián đoạn bất thần trong số dầu nhập khẩu từ Iran có thể gây ra cho các nền kinh tế Đông Á, chính quyền Obama cũng đã phải tìm một giải pháp thứ yếu ít tai hại hơn: các cam kết cắt giảm từ 10-20% số dầu nhập khẩu trong tương lai, để đổi lấy một ngoại lệ. Vì lẽ cam kết luôn dễ dàng hơn là tẩy chay, các đồng minh, kể cả Thổ Nhĩ Kỳ, đang tranh đua sắp hàng với lời hứa hẹn. Những lời cam kết như thế, đã hẳn, là những lời hứa tương đối trống rổng. Xét cho cùng, các xứ nầy có rất ít lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục mua dầu Iran, trừ phi họ có thể tìm được nguồn cung dầu lửa thay thế, một điều hiện nay rất khó xẩy ra; hay cắt giảm một phần lớn số dầu tiêu thụ, do đó, sẽ phải đối đầu với thoái trào kinh tế và lòng căm hận của người dân. Điều nầy trong thực tế có nghĩa: biện pháp tẩy chay dầu xuất khẩu từ Iran của Hoa Kỳ và Do Thái có lẽ sẽ là một điều viển vông, mặc dù Saudi Arabia đã hứa hẹn tăng thêm số dầu sản xuất mỗi ngày. Để kế hoạch có hiệu quả, số cầu dầu lửa phải không thay đổi và các xứ xuất khẩu dầu khác phải đủ khả năng thay thế khoảng 2,5 triệu thùng dầu xuất khẩu mỗi ngày của Iran trên thị trường toàn cầu. Chẳng hạn, Saudi Arabia phải gia tăng số dầu sản xuất, và hứa hẹn còn gia tăng nhiều hơn trong mùa hè sắp tới trong nổ lực tăng số cung dầu trên thị trường và cho phép các xứ nhập khẩu thay thế số dầu mua của Iran trước đây bằng số dầu sản xuất gia tăng của Saudi Arabia. Nhưng các chuyên gia năng lượng nghi ngờ khả năng của Saudi trong trường kỳ. Hơn thế nữa, số cầu toàn cầu lại ngày một gia tăng, nhất là TQ và Ấn Độ. Biện pháp phong tỏa năng lượng của Hoa Thịnh Đốn chỉ có thể mang lại kết quả, nếu Saudi Arabia và các xứ sản xuất khác có thể được tin cậy có đủ khả năng thay thế số dầu do Iran sản xuất và thỏa mãn số cầu gia tăng, cùng với các số dầu sản xuất bị sụt giảm vì khủng hoảng như trường hợp Syria và South Sudan, và trữ lượng dầu ngày một cạn kiệt trong nhiều nơi khác. Ngược lại, một sự tẩy chay dầu Iran thành công sẽ chỉ làm gia tăng áp lực tăng giá dầu, như Nhật Bản đã lể độ nhưng kiên quyết chứng minh với chính quyền Obama. Vì vậy, trong thực tế, điều có nhiều khả năng xẩy ra nhất sẽ là: Các đồng minh thân cận nhất của Mỹ và những xứ lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Hoa Kỳ sẽ giảm bớt số dầu nhập khẩu từ Iran. Trong lúc đó, TQ, Ấn Độ và các xứ ở Á châu, Phi châu, và Mỹ La Tinh sẽ mua dầu thô Iran nhiều hơn, và rất có thể với giá thấp hơn giá người Iran trước đây thường bán. Phí tổn giao dịch của Iran, vì vậy, chắc chắn sẽ gia tăng, dân Iran đã bắt đầu gặp khó khăn về kinh tế, và Iran có thể phải giảm bớt lượng dầu xuất khẩu. Tuy nhiên, tình hình căng thẳng ở Vùng Vịnh cũng đã đẩy giá dầu tương lai lên cao, có lẽ cũng đủ để bù đắp vào những phí tổn mới chế độ Iran đã và đang phải gánh chịu. Các chuyên gia cũng ước tính khủng hoảng Iran đã đẩy giá dầu giới tiêu thụ Mỹ phải trả tại các trạm xăng đã tăng thêm khoảng 25 cents mỗi gallon. Theo gót TQ, Ấn Độ cũng đã từ chối tuân theo các biện pháp tẩy chay và cấm vận áp đặt bởi Hoa Thịnh Đốn. Chính quyền của Thủ Tướng Manmohan Singh, lệ thuộc sâu xa vào số phiếu của cử tri Hồi giáo, không sẵn sàng muốn bị xem như đã ngấm ngầm nhượng bộ trước áp lực mạnh tay của Mỹ. Thêm vào đó, vì thiếu tài nguyên năng lượng hóa thạch, và trước các kế hoạch đầy tham vọng của Singh nhằm đạt tỉ suất tăng trưởng kinh tế 9% mỗi năm, nhất là bành trướng khu vực vận tải thiếu mở mang của Ấn Độ (70% số dầu lửa sử dụng trên thế giới được dành để thỏa mãn nhu cầu nhiên liệu của xe hơi), Iran luôn là quốc gia thiết yếu đối với tương lai Ấn Độ. Tránh né Hoa Thịnh Đốn, Ấn Độ đã ký thỏa ước thanh toán phân nửa số lượng dầu nhập khẩu từ Iran bằng đồng rupees, một ngoại tệ mềm. Dĩ nhiên, Iran có thể sẽ dùng số rupees nhận được để mua thực phẩm và hàng hóa các loại từ Ấn Độ, một món lợi trời cho đối với giới xuất khẩu Ấn. Thách thức tổng thống Hoa Kỳ một lần nữa, người Ấn còn dành cho các công ty Ấn giao thương với Iran một đặc ân thuế vụ. Iran cũng đã bằng lòng thanh toán tiền mua hàng Ấn bằng vàng. Vì Ấn Độ có cân thương mãi hữu hình khuy khiếm đối với Mỹ, Hoa Thịnh Đốn có thể chỉ làm hại chính mình nếu mạnh tay chế tài Ấn Độ. LÀM NGƠ TRƯỚC BÀI HỌC LỊCH SỬ Tuy vậy, Iran cũng không có dấu hiệu đã hoặc sẽ nhượng bộ trước áp lực. Đối với cấp lãnh đạo, các nhà máy điện hạt nhân tương lai hứa hẹn sẽ đem lại độc lập và vinh quang cho Iran, giống như đã đem lại vinh quang cho Pháp, một xứ với 80% điện lực do các nhà máy phản ứng hạt nhân cung cấp. Tehran âu lo, nếu không có điện nguyên tử, một Iran đang phát triển có thể phải tiêu thụ hầu hết số dầu lửa sản xuất ngay trong nội địa, như trường hợp Indonesia, lúc đó chính quyền sẽ không còn lợi tức thặng dư giúp duy trì tự do trước các áp lực quốc tế. Iran đặc biệt trân quý vị thế độc lập của mình, bởi lẽ trong lịch sử hiện đại, Iran luôn bị khống chế bởi một hay nhiều đại cường. Năm 1941, khi Đệ Nhị Thế Chiến đang diễn tiến, Nga và Anh Quốc, quốc gia đã kiểm soát dầu lửa của Iran, đã phát động cuộc xâm lăng để bảo đảm Iran vẫn là một tích sản của Phe Đồng Minh chống lại Phe Trục. Nga và Anh Quốc đã đưa Mohammed Reza Pahlevi trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm lên ngôi vua, và gửi phụ hoàng , Reza Shah, ra sống lưu vong ở hải ngoại. Hành lang Iran – Thủ Tướng Anh Winston Churchill đã mệnh danh là“chiếc cầu của chiến thắng”[1] – lúc đó đã cho phép phe đồng minh chuyển vận các loại tiếp liệu thiết yếu cho Liên Bang Xô Viết trong cuộc chiến chống lại Đức Quốc Xã. Tuy nhiên, các năm chiếm đóng cũng đã tác động tai hại đến người Iran qua lạm phát gia tăng và nạn đói. Tình trạng bất mãn bùng nổ tiếp theo sau cuộc chiến và sự chiếm đóng của quân đội Đồng Minh đã phải chấm dứt. Mọi người lại chú tâm vào thỏa ước 1933 Iran đã ký kết với Công Ty Dầu Anh Quốc-Iran, AIOC.[2] Vào đầu thập kỷ 1950, AIOC, về sau đã trở thành British Petroleum hay BP, đã trả thuế cho chính quyền Anh quốc nhiều hơn là trả royalties hay tiền thuê mỏ dầu để khai thác, cho Iran. Năm 1950, khi được biết tập đoàn ARAMCO của Mỹ đã đồng ý trả cho quốc vương Saudi Arabia trên căn bản 50-50 doanh lợi từ dầu khai thác, người Iran cũng đã đòi hỏi cùng điều kiện. Lúc đầu AIOC đã tỏ thái độ cương quyết từ chối tái thương lượng thỏa ước. Đến khi AIOC thay đổi lập trường đôi chút và bắt đầu bớt kiêu kỳ, lúc đó Nghị Viện Iran đã giận dữ quyết định cắt đứt mọi quan hệ với AIOC hay chính quyền Anh quốc đang đứng bên sau yểm trợ. Ngày 15-3-1951, Nghị Viện Iran, được bầu chọn dân chủ, đơn thuần quyết định quốc hữu hóa kỹ nghệ dầu lửa và trục xuất AIOC ra khỏi Iran. Đối diện với làn sóng giận dữ của quần chúng, quốc vương Mohammed Reza Shah đã phải đồng ý. Mohammed Mosaddegh, một diều hâu trong phe chủ trương quốc hữu hóa dầu khí, đã được bầu chọn vào chức vụ thủ tướng. Là nhân vật quốc gia bảo thủ xuất thân từ một gia đình quý phái, Mosaddegh đã quyết định công du Hoa Kỳ để tìm viện trợ. Nhưng báo chí Mỹ đã miệt thị ông như một nhân vật thân Xô Viết, vì lẽ trong liên minh quốc gia của ông có cả đảng Tudeh Party – Đảng Cộng Sản Iran. Chính phủ Anh — bất bình với biện pháp quốc hữu hóa và âu lo các quốc gia sản xuất dầu có thể noi theo gương — đã quyết định đóng băng các tích sản của Iran và khởi động phong tỏa toàn cầu dầu Iran. Luân Đôn cũng đã áp đặt các biện pháp hạn chế khắt khe đối với khả năng mậu dịch của Tehran, và gây khó khăn cho Iran trong việc đoái hoán đồng pound sterling ký thác trong các ngân hàng Anh Quốc. Lúc đầu, chính quyền Harry Truman giữ lập trường ủng hộ Iran. Tuy nhiên, sau khi chính quyền của T T Cộng Hòa Dwight Eisenhower vào Bạch Ốc, Hoa Kỳ lại hồ hởi tham gia cấm vận dầu lửa và chiến dịch chống đối Iran. Dĩ nhiên, Iran ngày một cần bán nhiều dầu, và vài xứ như Ý và Nhật bị cám dỗ bởi giá bán thấp hơn giá thị trường. Tuy nhiên, như sử gia Nikki Keddie đã ghi nhận, các đại công ty dầu và Bộ Ngoại Giao đã ra tay với chiến thuật gây áp lực ngăn ngừa các quốc gia khác hành động tương tự. Chẳng hạn, vào tháng 5-1953, Max Thornburg, thuộc công ty Standard Oil of California và cố vấn dầu lửa bên cạnh Bộ Ngoại Giao, đã viết cho Đại Sứ Hoa Kỳ ở Ý, Claire Booth Luce, về yêu cầu của chính phủ Ý được dành ngoại lệ mua dầu Iran: “Việc nước Ý muốn được phép mua dầu lần nầy và các tàu hàng mới khác có thể chứng tỏ rõ ràng chính quyền Ý đã đứng về phía các người chủ trương quốc hữu hóa dầu khí, mặc dù các nguy cơ điều nầy phản ảnh đối với các số đầu tư ở nước ngoài và các nguồn cung cấp dầu sinh tử của Mỹ. Đã hẳn đây là quyền của Ý. Chỉ có sự thận trọng của hành động nầy mới là vấn đề.”[3] Thornburg sau đó đã đe doạ Rome: các công ty dầu của Mỹ sẽ chấm dứt mua đồ tiếp liệu của Ý trị giá nhiều triệu đô la. Cuối cùng, biện pháp phong tỏa của Anh Quốc và Hoa Kỳ đã gây nhiều tai họa về kinh tế và xã hội ở Iran. Thủ Tướng Mosaddegh, lúc đầu rất được dân Iran ái mộ, chẳng bao lâu đã phải đối đầu với làn sóng đình công, và các cuộc biểu tình phản kháng của quần chúng lao động ngày một lên cao. Các chủ tiệm và giới tiểu thương, trong những thành phần cử tri hậu thuẩn của chính ông, đã gây áp lực đòi hỏi thủ tướng phải có hành động vãn hồi trật tự. Cuối cùng khi Mosaddegh đã hành động chống lại phong trào biểu tình phản kháng, một số không nhỏ trong phong trào đã do chính CIA khuyến khích và bảo trợ, Đảng cực tả Tudeh Party đã quyết định rút lại hậu thuẩn. Các tướng lãnh hữu phái – mất tinh thần trước sự kiện quốc vương Shah phải qua sống lưu vong ở Ý, trước sự sụp đổ trong quan hệ với các quốc gia Tây phương, và trước tình trạng suy đồi kinh tế – sẵn sàng nghe theo khuyến dụ của CIA, và với sự trợ lực của tình báo Anh, đã quyết định tổ chức đảo chánh đưa người của họ lên nắm quyền. NGUY CƠ PHẢN TÁC DỤNG Câu chuyện đảo chánh 1953 của CIA ở Iran đã được một số người biết đến, nhưng sự thành công, lệ thuộc rất nhiều vào hai năm chế tài tàn nhẫn đối với khu vực dầu khí và người dân Iran, lại rất hiếm khi được nhắc đến. Tuy vậy, một chiến dịch phong tỏa kinh tế toàn cầu đối với một quốc gia giàu năng lượng cũng vẫn khó lòng duy trì bền lâu. Nếu thất bại, Hoa Kỳ và Anh Quốc có thể đã phải chịu mất hết uy tín. Các quốc gia trong Thế Giới Thứ Ba có thể đã lên tinh thần và tìm cách giành lại các tài nguyên thiên nhiên của họ. Biện pháp phong tỏa, vì vậy, đã khiến đảo chánh trở nên cần thiết, ít ra với Hoa Kỳ và Anh Quốc. Nhưng rồi, đảo chánh lại đưa đến cơ hội lãnh tụ Hồi Giáo tối cao Ayatollah Khomeini lên nắm chính quyền một phần tư thế kỷ sau đó, và cuối cùng sự đối mặt hiện nay giữa người Hoa Kỳ/người Do Thái/người Iran. Hình như đây mới là bài học lịch sử đáng buồn mọi chính trị gia Hoa Thịnh Đốn cần chiêm nghiệm, nhưng hiễn nhiên là đã không có một ai. Thời đó, cũng như hiện nay, phong tỏa dầu khí tự nó rất khó giúp Hoa Thịnh Đốn thành đạt các mục tiêu. Ước muốn của người Mỹ buộc Iran phải từ bỏ chương trình làm giàu uranium hình như vẫn khó thành công, như trong bất cứ lúc nào khác. Trong bối cảnh đó, một bài học lịch sử khác cũng cần được phân tích: sự thất bại của các biện pháp chế tài áp đặt lên Iraq của Saddam Hussein trong thập kỷ 1990 để lật đổ nhà độc tài và chế độ. Sự thật nầy tương đối đơn giản: các tập đoàn sở hữu một kỹ nghệ đáng giá như dầu lửa có thể tránh cho chính mình những tác động tệ nhất của một cuộc tẩy chay quốc tế, ngay cả chuyển các phí tổn liên hệ đến quần chúng vô can. Trong thực tế, làm tê liệt nền kinh tế có khuynh hướng đẩy giai cấp trung lưu vào vòng xoáy trôn ốc tuột dốc, khiến tầng lớp nầy ngày một mất bớt tài nguyên để đề kháng một chính quyền độc tài. Sự tuột dốc của phong trào phản đối Xanh có lúc rất hùng mạnh ở Iran năm 2009 có lẽ có thể giải thích như thế, cũng như ý thức lúc một rõ ràng Iran hiện đang bị các nước ngoài vây hãm, và người Iran cần đoàn kết để hậu thuẩn và bảo vệ quốc gia dân tộc. Những cuộc bầu cử Nghị Viện gần đây đã thu hút được đông đảo cử tri tham dự, và các ứng cử viên gần gũi với Lãnh Tụ Tôn Giáo Tối Cao Ali Khameini đã chiếm đa số khống chế một cách đáng ngạc nhiên. Chính trị Iran, chưa bao giờ thật sự tự do, tuy vậy, đôi khi cũng đã đem lại ngạc nhiên, và nhiều phong trào hăng say gần đây đã rõ rệt theo hướng bảo thủ và mang tinh thần quốc gia mạnh mẽ. Chỉ cách đây vài năm, đa số dân Iran không chấp thuận ý tưởng cần có bom nguyên tử. Ngày nay, theo kết quả thăm dò công luận Gallup, đa số dân Iran đang hậu thuẩn quân sự hóa chương trình hạt nhân hơn là chống đối. Chiến dịch phong tỏa dầu khí lớn lao năm 2012 có thể chỉ chú tâm về tài chánh, nhưng vẫn có thể mang theo những hệ lụy leo thang và can thiệp, cũng như những căm hận và phản tác dụng trong tương lai – tương tự những chiến dịch vào đầu thập kỷ 1950. Những biện pháp chế tài về tài chánh của Mỹ và Âu châu đang bắt đầu gây khó khăn cho việc nhập khẩu thực phẩm như lúa mì, vì Iran không còn có thể sử dụng hệ thống ngân hàng thế giới để thanh toán. Nếu trẻ con phải gánh chịu hậu quả hay trải nghiệm tử suất gia tăng vì các biện pháp chế tài, sự kiện đó có thể gây ra những cuộc tấn công trong tương lai vào Hoa Kỳ hay quân đội Hoa Kỳ trong vùng Trung Đông nới rộng. Cũng không nên quên các chế tài áp đặt lên Iraq trước đây đã phải chịu trách nhiệm về số khoảng 500.000 trẻ em tử vong, và cũng đã được al-Qaeda nêu rõ trong lời tuyên chiến với Hoa Kỳ. Nổ lực làm tràn ngập thị trường và sử dụng các chế tài tài chánh để thực thi lệnh cấm vận đối với dầu Iran cũng hàm chứa nhiều nguy cơ. Nếu thất bại, giá dầu gia tăng có thể gây suy thoái trong các nền kinh tế mong manh ở Tây phương đang phục hồi yếu ớt từ các vụ bê bối liên quan nợ bất động sản và ngân hàng trong năm 2008. Nếu thái quá, nhiều khả năng rối loạn có thể bùng nổ trong các xứ sản xuất dầu do số thu nhập giảm sụt bất thần. Ngay cả nếu sự cấm vận là một thành công tương đối, giữ lại trữ lượng dầu dưới lòng đất, những thiệt hại trong trường kỳ cho các khu dầu và hệ thống ống dẫn dầu (vì không hoạt động lâu dài) phương hại đến kinh tế thế giới trong tương lai. Dưới ánh sáng kinh nghiệm chế tài kinh tế Iraq, Cuba, và nhiều nơi khác trước đây, chúng ta có thể tin: khả năng một cấm vận dầu khí có thể làm thay đổi chính sách của chính quyền Iran hay một thay đổi chế độ sẽ rất thấp. Đã thế, cũng không có lý do gì để nghĩ Cộng Hòa Hồi Giáo sẽ chấp nhận cúi đầu chịu đựng hay đầu hàng. Khi các chế tài biến dạng thành một chiến dịch phong tỏa thực tế, các biện pháp trừng phạt sẽ tạo ra nổi ám ảnh như tất cả các biện pháp phong tỏa khác, và có thể đưa đến phản ứng bạo lực. Cũng nguy hiểm không kém khi các chế tài kéo dài mà không đem lại kết quả mong muốn, Hoa Kỳ buộc lòng phải có hành động, che đậy hay công khai, chống lại Tehran để giữ thể diện. Đó mới là nguy cơ với hậu quả khôn lường! Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 22-4-2012 [1] …the bridge of victory… [2] Anglo-Iranian Oil Company – AIOC. [3] For Italy to clear this oil and take additional cargoes would definitely indicate that it had taken the side of the oil ‘nationalizers,’ despite the hazard this represents to American foreign investments and vital oil supply sources. This of course is Italy’s right. It is only the prudence of the course that is in question
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2012 9:47:15 GMT 9
Thất nghiệp dài lâu, việc làm tạm bợ và chủ nghĩa tư bản
Nguyễn Trường Gần đây, hội đồng thành phố Ventura, California, đã biểu quyết chấp thuận một quy lệ[1] cho phép các người thất nghiệp và vô gia cư được quyền ngủ trong xe. Vào cao điểm của Đại Suy Thoái 2008, một phần ba các tích sản trang thiết bị trong nền kinh tế Mỹ phải ngưng hoạt động. Trong số nam nữ bị thất nghiệp cùng với các trang thiết bị vừa nói, chỉ 37% nhận được chi phiếu phụ cấp thất nghiệp của chính quyền, tương đương với khoảng 35% lương hàng tuần của họ. Hiện nay, khoảng hai triệu người trong khối 99% là những người đã tận dụng phụ cấp thất nghiệp vì đã mất việc hơn 99 tuần lễ. Chúng ta có thể xem họ như một “đoàn quân lao động trừ bị.”[2] Đoàn quân nầy chiếm khoảng 17% lực lượng lao động Hoa Kỳ, nếu kể cả những nhân công bán thời gian cần và muốn kiếm việc toàn thời gian, và hàng triệu người Mỹ thất nghiệp đã quá nãn lòng và đã từ bỏ đi kiếm việc, do đó, không còn được xếp vào hàng ngũ thất nghiệp chính thức. Trong vai trò lịch sử của mình, lực lượng lao động không việc làm một lần nữa đã làm công xá sụt giảm, kéo dài số giờ làm việc mỗi ngày, điều kiện làm việc tồi tệ hơn, và tăng thêm nổi âu lo một tương lai bấp bênh đối với những ai may mắn còn có việc làm. Không một ai tự nguyện gia nhập đoàn quân nầy. Nhưng bất cứ ai, từ các kỷ sư ở Silicon Valley cho đến các nhân công thu gặt cà chua ở Florida, cũng đủ điều kiện để gia nhập lực lượng hoàn-toàn-không-tự-nguyện vừa nói. Sứ mệnh của đoàn quân là bảo đảm an ninh toàn cầu cho chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, với thế giới đang vận hành theo hình xoắn trôn ốc đến đáy thứ hai của Đại Suy Thoái Kép (dù chỉ một tối thiểu số, ngoài các ngân hàng, ghi nhận Đại Suy Thoái thứ nhất đã chấm dứt), hàng ngũ của họ cũng ngày một đông đảo thêm. ĐOÀN QUÂN HOÀN TOÀN KHÔNG TỰ NGUYỆN Như một sự thật phũ phàng, sự cộng tồn giữa các trang thiết bị không hoạt động và các nhân công thất nghiệp luôn là lời kết án nghiêm khắc nhất đối với chủ nghĩa tư bản như một hệ thống đang ngự trị xã hội con người. Sự xuất hiện của tầng lớp xã hội mới — “những thành phần 99%” — là dấu ấn tàn nhẫn của thế giới ngày nay. Xét cho cùng, những gì tạo nên kích cỡ lớn lao của Đại Suy Thoái không những là mức thất nghiệp nghiêm trọng (không kém tình trạng thực tế trong nhiều giai đoạn sụp đổ kinh tế khác trong lịch sử trước đây) mà còn là thời gian kéo dài của nó. Nhiều năm không việc làm đã trôi qua trong đau buồn và vô vọng. Khi suy thoái cứ kéo dài, người dân bắt đầu tự hỏi: chủ nghĩa tư bản, như một hệ thống, phải chăng đã lỗi thời và không còn gì hữu ích? Tuy nhiên, ngày nay, ngoài giới 99%, người ta vẫn chưa sẵn sàng ghi nhận một kết luận như thế. Cùng với các chu kỳ kinh tế, kể cả các bong bóng và sụp đổ của thị trường chứng khoán và các xáo trộn kinh tế khác, thất nghiệp cũng chỉ được bình thường hóa. Đã hẳn, không ai nghĩ đó là điều tốt, nhưng cũng chưa phải một cái gì có thể khiến mọi người phải nghi ngờ phương cách kinh tế thế giới đang được tổ chức và vận hành. Đã từ lâu, khi thất nghiệp không còn được nhận diện như những biến cố gây sốc và thương tổn, xô đẩy mọi người quay trở về với các âu lo cơ bản. Chẳng hạn, người ta không còn dùng ngay cả câu “đoàn quân lao động trừ bị.” Cấp lãnh đạo thượng lưu luôn nghĩ cụm từ nầy, cũng như các cụm từ “đấu tranh giai cấp” và “giới lao động,”[3] luôn gây bối rối ngượng nghịu cho mọi người. Những cụm từ đó quá Marxist hay quá lỗi thời trong thời đại chủ nghĩa tư bản mềm dẻo hậu kỹ nghệ[4], khi xã hội đã ngày một quen dần với “tính tự nhiên” và “nhất thời”[5] của việc làm, hay ngay cả như một hình thức “môi giới tự do.”[6] Tuy nhiên, đã từ lâu, trước khi phe tả bắt đầu nói đến người thất nghiệp như một đoàn quân trừ bị, một ẩn dụ gợi cảm thường được sử dụng bởi các nhà báo âu lo hay giận dữ trong thế kỷ 19, các viên chức chính quyền, các giáo sĩ, và các công dân quan tâm. Họ tin một trạng thái xã hội mới đang xuất hiện, nhưng vẫn chưa hiểu rõ cần được nhận định và phản ứng như thế nào. Thất nghiệp như một nét đặc trưng thường xảy ra trong cấu trúc xã hội cũng chỉ được người Mỹ lưu ý với sự trổi dậy của chủ nghĩa tư bản trong kỷ nguyên Tiền-Nội- chiến. Trước đó, ngay nếu nếp sống ruộng đồng thôn làng, kể cả các giao động theo mùa khi cực lực lao động lúc thiếu việc làm, nông dân và thợ thủ công thường phải tìm cách duy trì khả năng để xoay xở, kiếm sống, và thượng tồn. Những lúc gặp khó khăn, trừ phi quá đáng, đa số dân chúng vẫn thường trông mong vào mảnh đất và dụng cụ, sử dụng núi rừng, ruộng đồng, và khả năng săn bắn, chài lưới, để sống qua ngày. Họ thường phải tự mình kiếm sống. Chỉ đến lúc các phương tiện tự lực cánh sinh đã lọt vào tay các thương nhân-tư bản, các kỹ nghệ gia, và các đại địa chủ , tình hình mới hoàn toàn thay đổi. Tầng lớp vô sản – những thành phần tay trắng không chút tài sản ngoài sức lao động của chính mình – xuất hiện, và phải lệ thuộc vào giới có tiền của thuê mướn mới có việc làm. Nếu, vì một lý do nào đó, sức cầu trên thị trường lao động khô cạn, lúc đó họ mới bị trôi dạt rày đây mai đó. Quá trình bị tước đoạt tài sản đã kéo dài trong hơn một thế kỷ. Cho đến các thập kỷ đầu của thế kỷ 19, tác động tương đối còn giới hạn. Nông dân, thợ thủ công, ngư dân, và thương nhân các loại mới bị thu hút vào các xưởng dệt hay làm giày dép mới, hay các nữ lao động phải đi đến các vùng quê kéo sợi và dệt vải cho các thương-gia-tư-bản, thường vẫn bám víu vào lối sống ít nhiều quen thuộc. Họ duy trì các vườn rau cải, tiếp tục săn bắn và chài lưới, và có lẽ cả chăn nuôi một ít gia súc. Khi những hoang mang sợ hãi trước các các chu kỳ thương mãi trong các thập kỷ 1830 và 1850 và việc buôn bán ngưng trệ, nhiều người đã phải trở về thôn quê kiếm sống qua ngày theo những phương cách tiền-tư-bản. Với các biến động đó, đoàn quân thất nghiệp trừ bị mới bắt đầu xuất hiện. Các nhân công nam giới đã lang thang khắp nơi trên đường phố, một cảnh tượng hãi hùng vô tiền khoáng hậu đối với giới thị dân chưa quen với những gì đang xẩy ra trước mắt. LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG RỜI RẠC VÀ PHÂN TÁN – MỘT CHUẨN MỰC MỚI Khi chủ nghĩa tư bản kỹ nghệ bùng nổ sau Nội Chiến, thất nghiệp đã bất thần trở thành một khía cạnh kinh niên đáng sợ của cuộc sống hiện đại, ảnh hưởng đến hàng triệu người. Hãi hùng và ngã lòng ngày nay thường diễn ra với nhịp độ gây sốc. Tính đột khởi, nghiêm trọng, và kéo dài đôi khi hàng nửa thập kỷ hay lâu hơn, chỉ có thể gia tăng hàng ngũ đội quân thất nghiệp. Tình trạng bơ vơ tan nát trước nguy cơ thất nghiệp đã trở thành một kinh nghiệm tàn nhẫn mới, đối với làn sóng nhập cư đến bến bờ Hiệp Chủng Quốc, số đông là dân quê đến từ Nam và Đông Âu quen sống với số tài nguyên nhỏ nhoi từ đồng ruộng, núi rừng khi gặp khó khăn. Chính sự hiện diện của đội quân nhân công, khỏe mạnh nhưng cơ cực, hình như đã phản ảnh tính tàn bạo tự thân của nền kinh tế mới và đã gây kinh ngạc sửng sốt cho khách bàng quan. Những người sống lang thang đã trở thành những hình ảnh quen thuộc khắp nơi, dọc đường lộ, bến xe, bến tàu, đôi khi mang theo các dụng cụ làm ăn và kiếm việc làm trong tuyệt vọng. Họ đã xuất hiện như những bóng ma đe họa thôn dân cũng như thị dân. Một nhận thức gây choáng váng không kém, không thể phủ nhận với mỗi chu kỳ kinh tế buồn thảm tái diễn, là nền kinh tế kỹ nghệ mới không những khai sinh đoàn quân thất nghiệp trừ bị, mà còn trông cậy vào sự huy động và sa thải mang tính định kỳ để tiếp tục quá trình tích lũy tư bản. Đây không phải là một hiện tượng chóng qua, một thiên tai có dứt điểm. Đây là một thực tế mới lâu dài. Những phản ứng ban đầu mang nhiều hình thức kịch tính. Các chính quyền địa phương vội vã ban hành các luật trừng phạt những kẻ sống lang thang vất vưỡng, bỏ tù từ 6 tháng cho đến 2 năm khổ sai. Trong lúc đó, tư duy chính thống cùng lúc đã dựng lên những rào cản khắt khe đối với sự trợ giúp của chính quyền. Chẳng hạn trong cuộc khủng hoảng tai hại trong thập kỷ 1870, Bộ Trưởng Ngân Khố của Tổng Thống Ulysses Grant đã tuyên bố ngắn gọn: “Chính quyền không có nhiệm vụ tìm việc làm cho dân chúng.”[7] Tuy nhiên, trừng phạt và thờ ơ vô trách nhiệm không phải là những giải pháp duy nhất khi các nổ lực cứu trợ khẩn cấp, cá nhân cũng như cộng đồng, đã trở nên lúc một phổ thông. Các tác ðộng tàn phá của thất nghiệp, lan tràn như dịch bệnh, và tái diễn kinh niên, cũng đã đưa đến những biện pháp cực đoan hơn trong nghị trình, những đề nghị đặt thành vấn đề tính khả tồn và đạo đức của hệ thống công xá hay lương bổng. Nhiều lời kêu gọi chính quyền khai thác đất bỏ hoang và thiết lập những xưởng máy và nông trường để tái thu dụng các nhân công đang kiếm việc vào guồng máy sản xuất. Dân thất nghiệp giận dữ xâm chiếm các công sở đòi hỏi việc làm. Các thành phần lao động và quần chúng chủ trương thành lập các hợp tác xã nông nghiệp và biến chế như phương cách tránh né tính tàn nhẫn của thị trường tự do. Công luận ta thán các tổ hợp và liên minh doanh thương hay độc quyền thường xô đẩy các xí nghiệp khác vào tình trạng phá sản, và vì vậy, làm trầm trọng thêm tình trạng tiến thối lưỡng nan của thất nghiệp. Trong vài trường hợp, đòi hỏi quốc hữu hóa các tổ hợp và liên minh cũng đã xẩy ra. Nhiều thành phần tranh đấu cũng đã bắt đầu đòi hỏi việc làm không như một sự an ủi, dỗ dành, mà như một quyền công dân, cũng quí giá và bất khả xâm phạm như bất cứ quyền gì khác trong Luật Nhân Quyền. Sự vận động quần chúng kéo dài và lớn lao nhất vào giữa thập kỷ 1880 là phong trào toàn quốc đòi hỏi hạn chế số giờ làm việc mỗi ngày. “Phong trào 8 giờ mỗi ngày” được nhiệt liệt hưởng ứng bởi ước muốn có thêm thời gian rảnh rỗi, nhưng cũng bởi hy vọng hảo huyền khi được Quốc Hội chấp thuận và ban hành, công xá sẽ thực sự được gia tăng. Tuy nhiên, các kỹ nghệ gia không hề có ý định trả cùng số lương như chế độ làm việc 12 giờ mỗi ngày trước đó. Mặc dù động lực chính là lòng tin quyết định bớt giờ làm việc từ 12 giờ xuống còn 8 giờ mỗi ngày có thể tạo thêm công ăn việc làm, và nhờ đó, sẽ giảm thiểu hàng ngũ đoàn quân thất nghiệp trừ bị. Một vài người tin: chủ nghĩa tư bản luôn khao khát khai thác lao động nên không khi nào chịu chấp nhận những giới hạn như thế. Chừng nào chu kỳ kinh tế còn luôn dồn dập, động lực khai thác lao động khó thể hoàn toàn thỏa mãn. Khi thị trường suy thoái, số lao động thặng dư phải tự lo lấy mình. Tuy nhiên một số người vẫn tin tưởng phong trào ngày làm việc tám giờ có thể phơi bày tính man rợ của hệ thống kinh tế cho mọi người đều thấy, lúc đó, cánh cửa sẽ được rộng mở để đón nhận những cải cách hợp nhân tính và nhân đạo hơn. Nói một cách khác, một quang phổ rộng lớn các cách đáp ứng với nạn thất nghiệp luôn được hàm chứa trong một văn hóa chống tư bản chủ nghĩa đang rộng lớn dần và ngày một gia tăng. Chẳng hạn các phong trào lao động có tổ chức, đặc biệt là nghiệp đoàn nguyên sinh the Knights of Labor, là những định chế cực lực chống đối tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, hầu hết các nghiệp đoàn thời đó đều đã chấp nhận thực tế “hệ thống công xá” sẽ trường tồn, và chỉ chuyên tâm đấu tranh nhằm cải thiện an ninh việc làm, phụ cấp thất nghiệp, chế độ thâm niên, cấm làm giờ phụ trội, và hạn chế số giờ làm việc mỗi ngày… Ngay cả các cuộc vận động bài trừ lao động trẻ con, giới hạn tuyển dụng phụ nữ, một phần cũng bị chi phối bởi ước muốn làm dịu bớt khuynh hướng lan tràn của nạn thất nghiệp qua việc giảm thiểu lực lượng lao động khả dụng. Các mục tiêu và đề nghị khác của nghiệp đoàn đều có tầm vóc nhỏ bé và lắm khi thấp hèn, kể cả nổ lực ngăn cản nhập cư hay loại trừ người Mỹ gốc Phi châu và các sắc dân thiểu số, hay các lao động thiếu kỷ năng chuyên môn, khỏi hàng ngũ các thành viên của phong trào. Tính kỳ thị đó đã làm hoen ố phong trào nghiệp đoàn cho đến ngày nay. Như một phần của thời kỳ thăng trầm ồn ào vừa nói, kéo dài từ thập kỷ 1870 xuyên qua Đại Khủng Hoảng, giới thất nghiệp tự mình cũng đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình. Một cuộc tập họp hàng nghìn người thất nghiệp tuyệt vọng trong cuộc khủng hoảng 1873, ở Tomkins Square Park , New York, đã bị cảnh sát giải tán hết sức tàn bạo. Mặc dù cuộc mít-tinh Tomkins Square, chính yếu chỉ là một thỉnh cầu cứu trợ và việc làm, người biểu tình cũng đã bàn đến khả năng xuống đường phản đối Wall Street. Những biện luận cực đoan như thế , chưa nói đến bạo động thực sự, không có gì bất thường trong các cuộc chạm trán lúc đó, một mực thước đo lường mức độ nghiêm trọng của các quan hệ giai cấp và trình độ dân chúng bị khuấy động sâu xa và ám ảnh bởi tình trạng thất nghiệp ngày một lan tràn. Cũng đáng lưu ý, các thành phần thất nghiệp và những công nhân đang có việc làm nhưng đối kháng với giới chủ nhân, thường công khai phơi bày tính tương trợ. Trong cuộc Nổi Dậy khá lớn năm 1877, khi các công nhân hỏa xa từ Thái Bình Dương qua Đại Tây Dương đình công, đối đầu với các dân quân, quân đội liên bang, và các đội quân tư nhân của các bá tước hỏa xa, họ đã được tăng cường bởi đội quân thất nghiệp trừ bị. Họ luôn là những người láng giềng và anh em trong gia đình, nhưng cũng có các thành phần xa lạ , những người có thiện cảm với các người anh em đang bị vây bũa, ưa phóng hỏa các kho chứa đầu máy xe lửa hơn là đến đó để làm việc như những thành phần chống lại biểu tình hay đình công. Giữa cuộc khủng hoảng đáng sợ trong thập kỷ 1890, một công nhân nhà máy sản xuất thuốc cigar đã nắm bắt và diễn tả tâm trạng một cách ngắn gọn: “Tôi tin chính các công nhân đang làm việc sẽ phải hành động. Tôi tin những kẻ đang có việc làm sẽ phải lo cho số phận của người thất nghiệp trong cùng ngành.”[8] ĐOÀN QUÂN THẤT NGHIỆP XUỐNG ĐƯỜNG Các cuộc biểu tình của đoàn quân thất nghiệp luôn tái xuất hiện mỗi lần kinh tế thoái trào. Chẳng hạn, trong cuộc khủng hoảng 1893-1894, biểu tình đã diễn ra ở 40 địa điểm khác nhau trong khắp Hoa Kỳ. Cuộc xuống đường lớn nhất với chuyến tàu hướng về Washington, D.C., đã bị quân đội liên bang đuổi theo suốt trên 300 dặm xuyên qua Montana. Cuộc biểu tình nổi tiếng nhất do Jacob Coxey, một thương gia Ohio, điều khiển. Đội quân thất nghiệp “Coxey’s Army”, còn được biết dưới tên “the Commonwealers” hay “Commonwealth of Christ Army,” đã đến Hoa Thịnh Đốn như một thỉnh nguyện sống trước Quốc Hội. Coxey’s Army được dẫn đầu bởi con gái 17 tuổi của chính Coxey như “the Goddess of Peace” hay Nữ Thần Hòa Bình” cỡi ngựa trắng. Đến thủ đô, Coxey’s Army đã đệ trình thỉnh nguyện cứu trợ, việc làm, và gia tăng khối tiền tệ lưu hành. Tổng Thống Grover Cleveland không xét bất cứ thỉnh nguyện nào, vì năm 1889 Cleveland đã làm rõ quan điểm của mình ngay trong nhiệm kỳ đầu: “Những bài học của chủ nghĩa gia trưởng phải được cỡi bỏ và bài học tốt hơn đã dạy trong khi nhân dân phải vui vẻ ủng hộ chính quyền với tinh thần ái quốc, nhiệm vụ của chính quyền không bao gồm ủng hộ nhân dân.”[9] Đại Khủng Hoảng Kinh Tế đã đẩy giai đoạn xáo trộn lao động lên đỉnh điểm và chung cuộc. Trong những năm đầu, những nét đặc thù của “thuyết hỗ sinh” – mutualism, và tình liên đới giữa những người có việc làm và những người thất nghiệp đã được tăng cường. Trong những năm đó, hỏa xa đã bắt đầu báo cáo những đợt gia tăng nhanh chóng trong số người Mỹ nhảy lên tàu đi ké (không mua vé) – hoppers, giống như đón xe đi nhờ. Trên một tuyến đường, số hoppers đã gia tăng từ 14.000 năm 1929 lên 186.000 năm 1931. Năm 1930, khi tỉ suất thất nghiệp lên cao, trong các thành phố khắp Hoa Kỳ những cuộc xuống đường đầu tiên của giới thất nghiệp đã bắt đầu với các yêu sách việc làm và cứu trợ. Về sau, còn có nạn cướp thực phẩm và các xe vận tải và các xưởng đóng hàng vào thùng, cũng như chiếm đóng các mỏ than đóng cửa và các công ty điện nước phá sản, bởi những thành phần tuyệt vọng. Các liên minh những người thất nghiệp, đôi khi được tổ chức bởi Đảng Cộng Sản, đôi khi bởi Đảng Xã Hội, và đôi khi bởi một nhóm dẫn đầu bởi A.J. Muste, một nhân vật hòa bình cực đoan, đã tập hợp lực lượng để chống đối nạn đuổi nhà, ủng hộ các cuộc đình công, và đưa ra nhiều đề nghị quan trọng như thiết lập các hệ thống công trường trong khu vực công và bảo hiểm thất nghiệp. Những nhóm Muste, khá mạnh trong vùng Trung Tây, thiết lập những cơ sở đổi hàng lấy hàng, và trao đổi lao động giữa những người thất nghiệp. Để hổ trợ các công nhân đình công, các người biểu tình đã đóng cửa nhà máy Briggs ở Highland Park, Michigan – sản xuất vỏ xe cho hảng Ford – cam kết sẽ không làm việc ngày nào còn có công nhân đình công. Một cuộc xuống đường của các cựu công nhân và các công nhân hiện hữu thuộc những cơ sở ở Dearborn, Michigan, đã đưa ra một đòi hỏi khác thường là hãng Ford, không phải chính quyền, phải cung cấp việc làm cho người thất nghiêp. Trong biến cố nầy, các công nhân biểu tình đã xung đột với lũ côn đồ do hãng Ford mướn và 5 công nhân biểu tình đã phải thiệt mạng. T T Herbert Hoover cũng đã có hành động tương tự. Trong một cử chỉ gây sốc trên toàn quốc, Hoover đã ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội, tướng Douglas MacArthur, sử dụng quân lực giải tán Đội Quân Bonus Expeditionary Army, các cựu chiến binh Thế Chiến I đang thất nghiệp, tập hợp trong các lều trại trên Anacostia Flats ở Hoa Thịnh Đốn, đòi hỏi nhanh chóng trả lương hưu thời chiến cho họ. Họ đã phải tháo chạy tán loạn trước rừng lưỡi lê, và quân đội của tướng MacArthur đã thiêu rụi thành phố lều trại của họ. GIẢI PHÁP NEW DEAL Đại Khủng Hoảng Kinh Tế, tuy nhiên, đã gây xáo trộn đến trình độ: giới thất nghiệp cuối cùng đã trở thành một khối chính trị tầm cỡ quốc gia. Phong trào gây áp lực đối với các chính trị gia dòng chính phải làm một điều gì đó đã trở nên ngày một cực lực. Hội Nghị các Thị Trưởng, còn hoạt động cho đến ngày nay, đã được thành lập để vận động hành lang Hoa Thịnh Đốn về chương trình cứu trợ liên bang cho giới thất nghiệp. Ngay cả một số trong cộng đồng doanh thương cũng đã phải lên tiếng phàn nàn về cái giá phải trả cho nạn thất nghiệp đối với hiệu quả doanh thương. Bảo hiểm thất nghiệp, cứu trợ, an sinh, và các công tác công cộng, tất cả các đề tài đó đã trở nên ngày một phổ thông trong công luận kể từ đầu thế kỷ 20 và đã được thu gom thành một gói các giải pháp cơ bản trong chương trình New Deal của T T Franklin Roosevelt, để đối phó với tình trạng bất ổn định nội tại trong đời sống hàng ngày của giai cấp vô sản. Không một đáp ứng riêng lẻ nào đủ rộng lớn; tuy vậy, tất cả các biện pháp đều luôn bị tấn công chỉ trích ngay từ khi mới được khai sinh. Văn kiện lập pháp táo bạo nhất được xem xét , luật Lundeen do sáng kiến của dân biểu Minnesota, lẽ ra đã có thể thiết kế một chương trình bảo hiểm thất nghiệp với mức trợ cấp bằng với tiền lương hiện hữu cho bất cứ ai trên 18 tuổi đang làm việc bán hay toàn thời gian. Mặc dù dự luật chưa bao giờ thành luật, chương trình cũng đã được tài trợ bởi sắc thuế đánh vào số lợi tức trên mức 5.000 đô la, và được quản trị bởi các đại diện do công nhân bầu chọn. Điều đó khá phổ thông trong giả thiết căn bản nhất có lần đã được xem như không thể chấp nhận: thất nghiệp ở mức khá cao và có thể kéo dài trong một thời gian bất định. Các biện pháp cứu trợ thất nghiệp ngày nay phải được cải thiện, và cũng đã được chấp nhận. Harry Hopkins, người cấm đầu nổ lực cứu trợ New Deal, đã là trường hợp điển hình khi tiên đoán một mức tối thiểu từ bốn đến năm triệu người Mỹ có lẽ phải chịu thất nghiệp “ngay cả trong những thời kỳ kinh tế thịnh vượng trong tương lai.” Vì vậy, những cải cách cứu trợ mới phải được xem như những cơ chế tự vệ được thiết kế để giúp phục hồi kinh tế đang ngưng trệ và tối thiểu hóa các hậu quả chính trị của tình trạng thất nghiệp quá nghiêm trọng. Bảng liệt kê các giải pháp nầy đã tạo thành phần cốt lõi của cách tiếp cận thất nghiệp của phong trào lao động tiến bộ ngay từ lúc khởi thủy. TỈ SUẤT THẤT NGHIỆP TỰ NHIÊN Sau Đệ Nhị Thế Chiến, thất nghiệp phần lớn đã trở thành một đề tài về con số và chính sách, thay vì một hiện tượng xã hội. Trong thập kỷ 1960, điều trước đây đã gây ấn tượng đối với đa số người Mỹ như bất thường và ghê rợn, đã hoàn toàn biến thái, bởi các kinh tế gia và giới thượng lưu chính trị, thành một tỉ suất thất nghiệp tự nhiên[10] – một mức độ thiếu việc làm không nên can thiệp bởi lẽ chỉ phí thì giờ, và nếu cố gắng, cũng chỉ đem lại lạm phát. Gần đây hơn nữa, vấn đề đã trở thành thực sự đồi trụy. Phe tân tự do – những người trong kỷ nguyên Reagan của thập kỷ 1980 đã làm lu mờ vai trò các đồ đệ của Keynes như những nhà tư tưởng áp đảo trong phạm vi chính sách kinh tế – lại âu lo thất nghiệp có thể chưa đủ cao. Họ ngày một e ngại nếu hàng ngũ những người thất nghiệp thực sự đã không đủ lớn, cả phí tổn lao động lẫn lạm phát sẽ lên cao, đe dọa giá trị tương lai của các số đầu tư tư bản[11]. Nói một cách khác, thế giới đã hoàn toàn đảo lộn. Trong khi xã hội đã chính thức thích ứng với tính thường trực của thất nghiệp, chính những người không có việc làm đã phải cam chịu chìm đắm trong tình cảnh im lặng chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn các ngoại lệ. Có lẽ cuộc biểu tình đông đảo nhất của các người thất nghiệp trong lịch sử Hoa Kỳ đã diễn ra trong năm 1963 khi 100.000 người xuống đường hướng về Hoa Thịnh Đốn đòi “Việc Làm và Tự Do.” Đó là một kết luận rõ rệt về các đề tài chính trị nhạy cảm trong suốt nửa thế kỷ đã qua, khi cuộc Diễn Hành đến Hoa Thịnh Đốn, đã luôn được nhắc nhở nhờ bài diễn văn nổi tiếng của Martin Luther King “Tôi Có một Giấc Mơ”, rất ít khi được nhắc tới như một bộc lộ lòng căm hờn chính đáng đối với một hệ thống chính trị xã hội đã xô đẩy hầu hết một chủng tộc vào trạng huống bị ruồng bỏ và vô gia cư, lần đầu tiên đã phải trải nghiêm bởi các phụ nữ trẻ tuổi trong các nhà máy tơ sợi vùng New England ngay trong lòng Hiệp-Chủng-Quốc-Tiền-Nội-Chiến. Ngày nay, vấn đề cần được đặt ra: Khi chuẩn mực thất nghiệp mới ngày một rõ nét, liệu tập thể 99% vẫn tiếp tục chỉ là một con số, hay liệu sự giận dữ và chức-năng-bất-thích-ứng của hệ-thống[12] sẽ đưa các phong trào của giới thất nghiệp một lần nữa trổi dậy và liên kết, như trong quá khứ, với các nạn nhân khác của đà suy thoái kinh tế? Đã hẳn, chúng ta không nên phóng đại quá đáng tác động của phong trào chống đối của giới thất nghiệp trong quá khứ. Ngay cả Đại Khủng Hoảng Kinh Tế cũng đã không mong đợi nhiều ở khả năng động viên quần chúng bền lâu từ giới thất nghiệp. Điều nầy không có gì đáng ngạc nhiên. Thực vậy, do bản chất, thất nghiệp thường khiến nạn nhân mất tinh thần và trở nên cô lập. Thất nghiệp có khuynh hướng biến đổi quần chúng thành đám đông luôn chao đảo và hay thay đổi, với không một kẻ thù chung dễ nhận diện, và không một nơi thích hợp để kết hợp và thống nhất. Một vấn đề khác cũng nên quan tâm: Trong những năm sắp tới, chúng ta rất có thể sẽ chứng kiến một sự trở lại của nổi kinh hoàng trước hiện tượng không có việc làm; và người Mỹ có thể được thúc đẩy để bắt đầu đặt lại những vấn đề cơ bản về một hệ thống đã và đang sống nhờ ở tình trạng buồn thảm đó. Xét cho cùng, chúng ta hiện đang sống trong một nền kinh tế thiếu phát triển. Những việc làm mới được tạo dựng luôn có thù đáp thấp, không đòi hỏi kỷ năng cao, và thường mang tính tạm bợ, và cũng không đủ để giảm bớt số người thất nghiệp một cách đáng kể. Tập thể 99% là bằng chứng hiển nhiên: chúng ta rất có thể đang chứng kiến sự ra đời của một giai cấp mới và thường trực gồm những phần tử bị đẩy dần ra ngoài lề xã hội. Tỉ suất thất nghiệp không có việc làm trên sáu tháng đã gia tăng từ 8,6% năm 1979 lên đến 19,6% hiện nay. Hơn nữa, chủ nghĩa tư bản mềm dẻo đã có khuynh hướng biến thái việc làm ngày một trở nên tạm bợ và bấp bênh. Cho đến nay, các nhà ý thức hệ trật tự mới đã khá thành công tái phục trang hệ thống tư bản mềm dẽo như một hình thức mới của tự do. Các thế hệ người Mỹ đi trước, những người đã từng trải nghiệm những gián đoạn và đứt quảng trong đời sống và việc làm, và đã di thực hàng nghìn dặm để kiếm việc làm, có thể duy trì hay đánh mất tùy theo thị hiếu của giới chủ, và họ cũng chưa bao giờ bị tuyệt vọng đến thế. Xét cho cùng, người Mỹ có một lựa chọn: họ có thể tiếp tục chấp nhận tình trạng thất nghiệp lan tràn như một sự kiện tự nhiên và thường trực, hay như một sắc thái căn bản trên lộ trình lưỡng đảng tìm kiếm phục hồi kinh tế qua các biện pháp kiệm ước. Họ cũng có thể dõi theo lối mòn của những thanh niên không có việc làm trong Mùa Xuân Á Rập hay những người dân xuống đường phản kháng hàng loạt như ở Âu châu. Ngay cả những người vô sản tân thời ở Ventura, California, ngủ trong xe bên vệ đường, cũng có thể quyết định họ đã chán ngấy một trật tự chính trị và kinh tế phá sản đến độ đã trở nên vô bổ đối với họ với bất cứ giá nào. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 17-4-2012 [1] …ordinance… [2] …the reserved army of labor… [3] …class struggle and working class… [4] …post-industrial flexible capitalism… [5] …casualness and transience [6] …free agency. [7] It is not part of the business of government to find employment for people. [8] I believe the working men themselves will have to take action. I believe those men that are employed will have to look out for for the unemployed that work at the same business they do. [9] The lessons of paternalism ought to be unlearned and the better lesson taught that while the people should patriotically and cheerfully support their government, its functions do not include support of the people. [10] ..the natural rate of unemployment… [11] ..if the ranks of the jobless were not large indeed, both labor costs and inflation would rise, threatening the future value of capital investments. [12] …systemic disfunction… Xin giới thiệu trang nhà của tác giả nguyentruong92606.wordpress.com/
|
|
|
Nuớc Mỹ
Jul 23, 2012 17:25:32 GMT 9
Post by NhiHa on Jul 23, 2012 17:25:32 GMT 9
Barack Obama, thingy Cheney và chính sách năng lượng Hoa Kỳ
Nguyễn Trường 19/07/2012 Trong khi chiến lược chống khủng bố và làn sóng biến động trên toàn cầu của chính quyền Obama ngày một được phổ biến sâu rộng, công luận cũng đã nhận thức lúc một rõ ràng hơn những tương đồng giữa Tổng Thống Barack Obama và Tổng Thống tiền nhiệm George W. Bush, cả hai đều cuồng tín với các hành động quân sự . Aaron David Miller, cố vấn của nhiều bộ trưởng ngoại giao, đã viết trong tạp chí Foreign Policy: “Như đã được chứng tỏ trong chiến dịch drone ngày một được tăng cường, Barack Obama đã trở thành Geoge W. Bush với bệnh ghiền [ám sát và thanh toán].”[1] Tuy nhiên, trong địa hạt chính trị năng lượng toàn cầu, thay vì Bush, Phó T T Cheney mới là mô hình lãnh đạo chọn lựa bởi T T Obama. Như những biến cố gần đây đã minh chứng, chính sách năng lượng toàn cầu của Obama tương tự một cách kỳ lạ với đường lối của Cheney, nhất là trong địa hạt địa-chính-trị năng lượng như một bộ phận trong cuộc tranh giành quyền bá chủ tương lai giữa các nước lớn. Hơn bất cứ viên chức cao cấp nào khác trong chính quyền Bush — với nhiều thành viên xuất thân từ kỹ nghệ năng lượng — Cheney luôn quan tâm đến vai trò của năng lượng trong chính trị-quyền lực-toàn cầu [2]. Từ năm 1995 đến năm 2000, Cheney giữ cương vị chủ tịch hội đồng quản trị và CEO của Halliburton, một đại công ty cung cấp dịch vụ cho kỹ nghệ dầu khí. Ngay sau khi chính thức giữ vai trò phó tổng thống, Cheney đã được Bush giao phó trách nhiệm thiết kế chiến lược năng lượng quốc gia mới — một chiến lược định hướng phần lớn chính sách của Hoa Kỳ. Trước đó, Cheney đã nhận thức rõ số cung năng lượng toàn cầu đã không thể bắt kịp số cầu ngày một gia tăng nhanh chóng của thế giới. Do đó, kiểm soát số cung dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên còn lại có thể là nhiệm vụ thiết yếu đối với bất cứ nhà nước nào tìm cách thủ đắc và duy trì địa vị tối thượng toàn cầu. Cheney cũng hiểu rõ ảnh hưởng và uy quyền của một đại cường có thể bị suy giảm nếu không thể tiếp cận các nguồn cung năng lượng chính yếu. Nếu trong quá khứ than đá là khí giới thiết yếu của đế quốc Anh, thì ngày nay, đối với Cheney, dầu lửa sẽ là tài nguyên quyết định trong các cuộc chiến. Hơn bất cứ đối tác nào khác, Cheney có một quan điểm hết sức rõ ràng về tầm quan trọng của năng lượng đối với sự thịnh vượng và uy quyền quốc gia. Tại một hội nghị ở Luân Đôn năm 1999, Cheney đã tuyên bố: “Dầu lửa, với bản chất độc đáo của nó, luôn mang tính chiến lược. Ở đây, chúng ta đang nói đến không phải bông bọt xà phòng hay y phục thoải mái. Năng lượng luôn mang tính thực sự cơ bản đối với kinh tế thế giới. Cuộc Chiến Vùng Vịnh phản ảnh thực tế nầy.”[3] Cheney đã tỏ ra đặc biệt ngay thẳng và minh bạch khi nhắc đến Cuộc Chiến Vùng Vịnh 1990-91. Trong suốt cuộc chiến đó, Cheney đang giữ chức vụ bộ trưởng quốc phòng, và trong tư cách đó, đã điều hành và giám sát nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Trong khi cấp trên của chính ông, T T George H.W. Bush, đã cố tình lờ đi vai trò của dầu lửa trong cuộc chiến Iraq, Cheney lại bộc trực nói rõ quan điểm và niềm tin của chính mình: địa-chính-trị năng lượng là lý do trung tâm của cuộc chiến. Khi được yêu cầu giải thích quyết định can thiệp của chính quyền, Cheney cũng đã tuyên bố trước Ủy Ban Quân Lực Thượng Viện[4]: “Một khi [nhà độc tài Iraq Saddam Hussein] đã chiếm được Kuwait và giàn trải toàn bộ quân lực lớn lao của mình, Saddam rõ ràng đã chiếm giữ vị thế có thể chi phối chính sách năng lượng trên toàn thế giới trong tương lai, và điều nầy đã đem lại cho Saddam quyền kiểm soát kinh tế của chúng ta.”[5] Năm 2002, Cheney cũng đã công bố cùng một thông điệp, khi T T Georges W. Bush đang chuẩn bị xâm lăng Iraq. Thực vậy, ngày 15-8-2002, Cheney đã tuyên bố với một nhóm cựu quân nhân: “Nếu Saddam Hussein thành công trong việc thủ đắc các vũ khí tiêu diệt hàng loạt, ‘lúc đó Saddam rất có thể sẽ tìm kiếm quyền bá chủ trong toàn vùng Trung Đông và kiểm soát phần lớn các nguồn cung năng lượng thế giới’.”[6] Đối với Cheney, địa chính trị dầu lửa — cốt lõi trong các quan hệ quốc tế — là yếu tố quyết định phần lớn sự cường thịnh hay suy sụp của các quốc gia. Trên căn bản đó, chúng ta có thể hiểu: mỗi một bước, kể cả tai họa chiến tranh hay môi sinh, đều có thể biện minh, chừng nào quyền lực của Hoa Kỳ, nhờ đó, còn được thăng tiến và gây thương tổn cho các quốc gia cạnh tranh với Hoa Kỳ. THẾ GIỚI CỦA CHENEY Qua các bài nói chuyện, các cuộc điều trần trước Quốc Hội, và các việc làm khi tại chức, chúng ta có thể tái cấu trúc chương trình địa-chính-trị Cheney đã theo đuổi trong suốt sự nghiệp của ông như một chiến lược gia hàng đầu tại Bạch Ốc — một chiến lược T T Obama, một cách khá kỳ lạ, hình như hiện đang thể hiện, mặc dù với rất nhiều bất trắc, nguy cơ. Chương trình gồm bốn sắc thái then chốt: (1) Gia tăng sản ngạch dầu và hơi đốt thiên nhiên quốc nội bằng mọi giá, nhằm giảm thiểu trình độ lệ thuộc vào các nguồn cung từ các xứ thiếu thiện cảm, do đó, tăng khả năng tự do hành động của Hoa Kỳ. (2) Duy trì quyền kiểm soát các nguồn cung từ Vùng Vịnh Ba Tư ngay cả khi Hoa Kỳ chỉ cần một phần ngày một ít hơn trong sản ngạch từ vùng nầy, khả dĩ phát triển khả năng chi phối sinh hoạt kinh tế của các đại cường nhập khẩu khác. (3) Nắm quyền bá chủ các tuyến vận chuyển dầu trên các đại dương ở Á châu, ngõ hầu kiểm soát dòng chảy dầu khí và các nguyên liệu khác đến các nước lớn có tiềm năng cạnh tranh kinh tế với Hoa Kỳ, như Nhật và TQ. (4) Phát huy khuynh hướng đa dạng hóa năng lượng ở Âu châu, đặc biệt qua sự gia tăng nhập khẩu dầu và hơi đốt từ các Cộng Hòa Xô Viết trước đây trong vùng lòng chảo Caspian, với mục tiêu giảm bớt lệ thuộc vào dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên do Nga cung cấp, cùng với ảnh hưởng chính trị đi kèm có lợi cho Mạc Tư Khoa. PHÚC TRÌNH CHENEY Mục tiêu thứ nhất — dựa vào ngạch số sản xuất năng lượng quốc nội nhiều hơn — đã được nhấn mạnh trong Chính sách Năng Lượng Quốc Gia, chiến lược do Cheney thiết kế dưới thời tổng thống Bush II trong tháng 5-2001, với sự tư vấn của đại diện các công ty dầu lớn. Mặc dù được biết như chủ trương tăng cường công tác thăm dò và khai thác trong các vùng đất do chính quyền liên bang sở hữu, kể cả Vùng Bảo Vệ Các Thú Vật Hoang Dã Bắc Cực[7], Phúc trình Cheney — như đã được mệnh danh — luôn chú tâm vào nguy cơ lệ thuộc ở các nguồn cung cấp dầu và hơi đốt thiên nhiên ngoại quốc ngày một sâu xa, và vào nhu cầu nhanh chóng thành đạt an ninh năng lượng qua chương trình tăng tốc công tác thăm dò và khai thác các nguồn năng lượng quốc nội. Phúc Trình công bố:“Đối tượng hàng đầu của Chính Sách Năng Lượng Quốc Gia là tìm kiếm thêm các nguồn cung khác nhau. Điều nầy có nghĩa dầu, hơi đốt thiên nhiên, than đá quốc nội. Nó cũng có nghĩa thủy điện và điện hạt nhân.”[8] Kế hoạch cũng kêu gọi tập trung nỗ lực gia tăng năng lượng nhập khẩu từ các nguồn cung thân thiện ở Tây Bán Cầu , đặc biệt là từ Brazil, Canada, và Mexico. Mục tiêu thứ hai — kiểm soát dòng chảy dầu lửa qua Vịnh Ba Tư — đối với Cheney, là lý do chính của cả Cuộc Chiến Vùng Vịnh I năm 1990-91, và Cuộc Chiến Xâm Lăng Iraq năm 2003. Mặc dù trước cuộc xâm lăng, Tổng Thống và các quan chức hàng đầu đã chú tâm vào các lý do giả tưởng – vũ khí tiêu diệt hàng loạt, thành tích nhân quyền, và nhu cầu mang lại dân chủ cho Iraq — Cheney không bao giờ nao núng trong niềm tin: mục tiêu căn bản luôn là đem lại quyền kiểm soát dòng chảy dầu lửa huyết mạch của Trung Đông. Mục tiêu thứ ba: Sau khi Saddam Hussein đã bị lật đổ và cuộc chiếm đóng Iraq bắt đầu, Cheney đã đặc biệt lớn tiếng nhấn mạnh cần ngăn chặn Iran, nếu cần bằng vũ lực — một quốc gia láng giềng thách thức quyền bá chủ của Hoa Kỳ trong vùng Vịnh. Cheney đã tuyên bố trên boong tàu sân bay trong một cuộc dượt tập ngoài khơi Iran trong tháng 5-2007: “Chúng ta sẽ giữ các tuyến đường biển rộng mở. Chúng ta sẽ cùng đứng chung với các quốc gia khác để ngăn ngừa Iran sở hữu các vũ khí hạt nhân và trở thành bá chủ trong vùng.”[9] Cheney cũng đặc biệt chú tâm vào việc duy trì quyền kiểm soát các tuyến đường biển từ Eo Biển Hormuz, cửa ra vào Vùng Vịnh Ba Tư (hàng ngày khoảng 35% số dầu trao đổi trên thế giới), xuyên qua Ấn Độ Dương, Eo Biển Malacca, và đi vào Biển Đông hay Đông Nam Thái Bình Dương. Cho đến nay, các hành lang hàng hải vừa nói vẫn luôn giữ tầm quan trọng thiết yếu đối với sự trường tồn kinh tế của các xứ TQ, Nhật, Nam Hàn, và Taiwan — vận chuyển dầu và các nguyên liệu khác đến các kỹ nghệ và các biến chế phẩm đến các thị trường hải ngoại. Qua việc duy trì quyền kiểm soát bởi Hoa Kỳ dọc các tuyến đường hàng hải huyết mạch nói trên, Cheney đã tìm cách bảo đảm sự trung thành của các đồng minh nòng cốt ở Á châu và hạn chế đà tăng trưởng của TQ. Trong phạm vi theo đuổi các mục tiêu địa chính trị cổ điển đó, Cheney đã thúc đẩy tăng cường sự hiện diện của Hải Quân Hoa Kỳ trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương và thiết lập một mạng lưới đồng minh quân sự nối kết Nhật, Úc, và Ấn Độ, tất cả đều nhằm ngăn bờ TQ. Mục tiêu thứ tư và cuối cùng: Hoa Kỳ cũng đã tìm cách vây hãm một đại cường cạnh tranh khác: Liên Bang Nga. Trong khi chủ mới của chính Cheney, George W. Bush, đã đánh tiếng cho biết tiềm năng hợp tác với Điện Cẩm Linh, Cheney, vẫn còn là chiến binh năng lượng thời chiến tranh lạnh, tiếp tục xem Liên Bang Nga như một quốc gia cạnh tranh địa chính trị và đã tìm mọi cơ hội giảm thiểu quyền lực và ảnh hưởng của Liên Bang Nga. Cheney đặc biệt âu lo sự lệ thuộc ngày một gia tăng của Âu châu vào hơi đốt thiên nhiên của Nga có thể làm suy yếu quyết tâm đề kháng các động thái cường quyền của Nga ở Âu châu và vùng Caucasus. Để chống lại khuynh hướng nầy, Cheney đã nỗ lực thuyết phục người Âu Châu tậu mãi năng lượng nhiều hơn từ các Cộng Hòa trong vùng lòng chảo Caspian bằng cách xây dựng những tuyến ống dẫn năng lượng mới tới vùng nầy qua ngã Georgia và Turkey. Ý tưởng là để tránh Liên Bang Nga qua nỗ lực thuyết phục Azerbaijan, Kazakhstan, và Turmenistan xuất khẩu hơi đốt của họ qua các tuyến đường ống mới, không phải những tuyến ống dẫn do Gazprom, một công ty quốc doanh độc quyền của Liên Bang Nga, sở hữu. Khi Georgia bị các lực lượng Liên Bang Nga tấn công vào tháng 8-2008 để đáp lại các cuộc pháo kích của Georgia vào South Ossetia thân Mạc Tư Khoa, Cheney là quan chức lãnh đạo Hoa Kỳ đầu tiên viếng thăm Tbilisi, với lời hứa dành 1 tỉ USD viện trợ tái thiết, cùng với thẻ gia nhập NATO chóng vánh. Tuy nhiên, lời hứa thu nhận Georgia vào NATO, sau đó, đã bị chận đứng vì Pháp và Đức e ngại Moscow có thể phản ứng với những hành động có thể làm Âu Châu mất ổn định.[10] OBAMA VÀ PHÚC TRÌNH CHENEY Kế hoạch địa chính trị bốn điểm nói trên, đã được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ kiên trì theo đuổi trong 8 năm đương nhiệm, ngày nay đang được T T Obama thể hiện trong mọi khía cạnh. Trên bình diện chính sách gia tăng độc lập năng lượng, Obama đã chấp nhận tinh thần quốc gia cực đoan của Phúc Trình Cheney 2001, kêu gọi nương tựa nhiều hơn vào dầu lửa và hơi đốt quốc nội và Tây Bán Cầu — bất chấp mọi nguy cơ khoan dầu trong những vùng ngoài khơi có môi trường mong manh dễ bị ô nhiễm hay sử dụng những kỹ thuật nguy hiểm như hydro-fracking. Trong những bài nói chuyện gần đây, Obama đã khoe những nỗ lực của chính quyền làm dễ dàng công tác khoan và khai thác dầu và hơi đốt thiên nhiên quốc nội và đã hứa đẩy nhanh công tác khoan dầu và hơi đốt trong nhiều địa điểm mới, kể cả ngoài khơi Alaska và Vịnh Mexico. Trong diễn văn về Tình Trạng Liên Bang trong tháng 1-2012, Obama đã khoa trương: “Trong vòng ba năm qua, chúng ta đã mở cửa cho phép thăm dò dầu và hơi đốt thiên nhiên trong hàng triệu acres mới, và tối nay, tôi đã chỉ thị cho chính quyền mở thêm hơn 75% các khu tài nguyên dầu và hơi đốt tiềm năng ngoài khơi. Hiện giờ — hiện giờ — số dầu sản xuất của Hoa Kỳ đang ở mức cao nhất trong vòng 8 năm qua… Không những thế — năm rồi, chúng ta đã lệ thuộc vào dầu các nước ngoài ít hơn bất cứ năm nào trong vòng 16 năm qua.”[11] Obama cũng đã đặc biệt quan tâm đến chương trình khai thác hơi đốt thiên nhiên sử dụng kỹ thuật fracking và các trữ lượng shale: “Chúng ta có một nguồn cung hơi đốt thiên nhiên có thể đủ cung ứng cho Hoa Kỳ đến gần 100 năm. Và chính quyền sẽ có mọi hành động cần thiết và có thể để khai thác số năng lượng nầy một cách an toàn.”[12] Obama cũng đã nói rõ ý định sẽ sốt sắng hợp tác trong nỗ lực phát triển các nguồn cung năng lượng ở Tây Bán Cầu, nhờ đó, giảm bớt mức độ lệ thuộc vào các nguồn cung không mấy khả tín và thiếu thiện cảm ở Trung Đông và Phi Châu.Tháng 3-2011, với Mùa Xuân Á Rập đang nở rộ, Obama đã dành 5 ngày để đến Brazil thương thuyết về mậu dịch, một chốt địa chính trị năng lượng đáng ghi nhận vào thời điểm đó. Trong tầm nhìn của nhiều quan sát viên, sự quan tâm của Obama đối với Brazil chính là do sự kiện Brazil đang trỗi dậy như một quốc gia sản xuất dầu lửa quan trọng ở Tây Bán Cầu, nhờ ở những khám phá gần đây trong những khu vực “pre-salt” ngoài khơi Đại Tây Dương, những khám phá có thể giúp Hoa Kỳ bớt lệ thuộc vào dầu Trung Đông, nhưng cũng có thể trở thành những ác mộng ô nhiễm. Mặc dù các nhà môi sinh học đã nhiều lần cảnh cáo những nguy cơ trong quá trình khoan tìm và khai thác các khu vực chứa nhiều trữ lượng pre-salt, nơi nguy cơ bùng nổ tương tự như biến cố Deepwater Horizon ngoài khơi Mexico luôn dễ dàng xẩy ra, Obama cũng đã nói rõ các ưu tiên địa chính trị của chính Tổng Thống. Obama đã tuyên bố với giới lãnh đạo doanh thương Brazil tại thủ đô Brasilia: “Theo vài ước tính, trữ lượng dầu lửa quý vị mới khám phá gần đây ngoài khơi Brazil có thể gấp đôi trữ lượng chúng tôi đang có ở Hoa Kỳ. Khi quý vị sẵn sàng khởi đầu bán, chúng tôi muốn là một trong số những quốc gia khách hàng tốt nhất. Vào thời điểm khi chúng ta đã luôn được nhắc nhở, tình trạng thiếu ổn định ở nhiều nơi trên thế giới có thể dễ dàng ảnh hưởng đến giá dầu như thế nào, Hoa Kỳ không thể nào vui sướng hơn với tiềm năng một nguồn năng lượng mới và ổn định.”[13] Cùng lúc, Obama đã nói rõ Hoa Kỳ sẽ duy trì vai trò một quốc gia bảo vệ cơ bản các tuyến vận chuyển đường biển trong Vịnh Ba Tư. Ngay trong khi rầm rộ quảng bá quyết định rút quân tác chiến khỏi Iraq, Obama cũng đã nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ tăng cường các lực lượng hải và không quân, cũng như biệt kích trong vùng Vịnh, khả dĩ duy trì quyền bá chủ trong vùng. “Trở về tương lai” — “Back to the future” là cách Trung Tướng Karl R. Horst, tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Trung Ương, đã mô tả vị thế mới, nhắc lại thời điểm trước cuộc xâm lăng Iraq khi Hoa Kỳ đã sử dụng quyền bá chủ trong vùng, chủ yếu đã trông cậy vào các lực lượng hải và không quân hùng mạnh của một siêu cường. Mặc dù ít lộ liểu và dễ thấy như bộ binh (boots on the ground), sự hiện diện của các lực lượng hải và không quân được tăng cường sẽ được giữ ở mức đủ mạnh để đè bẹp bất cứ đối thủ có thể quan niệm nào khác. Tháng 10- 2011, Ngoại Trưởng Hillary Clinton đã tuyên bố: “Chúng ta sẽ có một sự hiện diện liên tục và hùng mạnh khắp trong vùng.”[14] Một sự tăng cường như thế, trong thực tế, đã được nhấn mạnh đang chuẩn bị hoặc cho một cuộc tấn công vào các cơ sở hạt nhân của Iran, nếu Obama kết luận các cuộc thương thảo nhằm hạn chế khả năng làm giàu uranium của Iran đã gặp bế tắc, hoặc để khai thông Eo Biển Hormuz, nếu Iran thực thi lời đe dọa đóng cửa Eo Biển Hormuz nhằm trả đũa các biện pháp chế tài kinh tế mới và khắt khe hơn đã được áp đặt sau ngày 1-7-2012. Cũng như Cheney, Obama đang tìm cách duy trì quyền kiểm soát của Hoa Kỳ đối với các tuyến vận chuyển hàng hải từ Eo Biển Hormuz đến vùng Thái Bình Dương phía Nam Trung Quốc. Trong thực tế, đây chính là tâm điểm của chính sách Obama như đã được quảng bá: “chốt an ninh quốc gia” ở Á Châu-Thái Bình Dương và chủ thuyết quân sự mới của Obama, được tiết lộ lần đầu trong bài diễn văn đọc trước Nghị Viện Úc ngày 17-11-2011. Obama đã tuyên bố: “Trong khi chúng tôi làm kế hoạch và chuẩn bị ngân sách cho tương lai, chúng tôi sẽ phân bổ tài nguyên cần thiết để duy trì sự hiện diện quân sự hùng mạnh của chúng tôi trong vùng nầy.”[15] Ông cho biết thêm, một ưu tiên quan trọng trong nỗ lực nầy có thể là “an ninh hàng hải”, đặc biệt trong vùng biển Nam Trung Quốc. Tâm điểm của kế hoạch Obama — cũng như kế hoạch do thingy Cheney thiết kế năm 2007 — là xây dựng một mạng lưới các căn cứ và đồng minh vây quanh TQ, siêu cường đang lên, trong một vòng cung trải dài từ Nhật và Nam Hàn ở phía Bắc đến Úc, Việt Nam, và Philippines phía Đông Nam, và từ đó đến Ấn Độ trong vùng Tây Nam. Khi mô tả nỗ lực nầy ở Canberra, Obama đã tiết lộ ông vừa đạt được một thỏa ước với chính quyền Úc, thiết lập một căn cứ quân sự Hoa Kỳ mới ở Darwin trên bờ biển Bắc Úc, gần biển Nam Trung Quốc. Obama cũng đã nói đến mục tiêu tối hậu của địa chính trị Hoa Kỳ — một liên minh toàn vùng gồm các quốc gia chống Trung Quốc, có thể cả Ấn Độ. Obama tuyên bố: “Chúng tôi thấy sự hiện diện được tăng cường của Hoa Kỳ xuyên Đông Nam Á,” cùng lúc trong những quan hệ ngày một lớn mạnh với các cường quốc địa phương như Úc “cũng như trong sự nghênh tiếp của chúng tôi dành cho Ấn Độ, quốc gia đang ‘nhìn về phía Đông’ và giữ một vai trò rộng lớn hơn như một đại cường Á châu.”[16] Như bất cứ ai quan tâm đến tình hình Á châu đều hiểu rõ, một chiến lược nhằm bao vây TQ — nhất là một chiến lược có ý định kết nạp Ấn Độ vào hệ thống đồng minh Á châu hiện hữu của Hoa Kỳ — chắc chắn sẽ gây hoang mang, báo động, và phản ứng mãnh liệt từ Bắc Kinh. Mark Valencia, nhà nghiên cứu kinh nghiệm thuộc Văn Phòng Quốc Gia Nghiên Cứu Á Châu, đã phát biểu: “Tôi không nghĩ người TQ sẽ rất vui thích. Trong trường kỳ, tôi không chút lac quan về kết cuộc.”[17] Sau hết, Obama đã đi theo dấu chân của Cheney trong nỗ lực giảm thiểu ảnh hưởng của Liên Bang Nga ở Âu châu và Nam Á qua việc cổ súy xây dựng những tuyến ống dẫn dầu và hơi đốt mới từ vùng lòng chảo Caspian ngang qua Georgia và Turkey đến Âu châu. Ngày 5 tháng 6, tại Hội Nghị Dầu và Hơi Đốt Caspian ở Baku, T T Ilam Aliyev của Azerbaijan đã đọc một thông điệp từ Obama hứa hẹn sự hậu thuẩn của Hoa Thịnh Đốn đối với tuyến ống dẫn hơi đốt Trans-Anatolia, hệ thống ống dẫn được thiết kế nhằm vận chuyển hơi đốt thiên nhiên từ Azerbaijan đi ngang qua Georgia và Turkey đến Âu châu — dĩ nhiên tránh Liên Bang Nga. Cùng lúc, Ngoại Trưởng Hillary Clinton cũng công du đến Georgia, giống như Cheney đã làm trước đây, để xác nhận sự yểm trợ và lời hứa gia tăng viện trợ quân sự của Mỹ. Cũng như trong kỷ nguyên Bush-Cheney, những động thái nầy đã được Mạc Tư Khoa xem như một phần trong kế hoạch đã được tính toán kỷ lưởng nhằm giảm bớt ảnh hưởng của Liên Bang Nga trong vùng — và do đó, sẽ gặp phải một phản ứng thù nghịch. Nói một cách vắn tắt, trong hầu hết mọi khía cạnh, khi nói đến địa chính trị năng lượng, chính quyền Obama đang tiếp tục thực thi chiến lược do thingy Cheney thiết kế trong suốt hai nhiệm kỳ của T T George W. Bush. Đến đây, một câu hỏi cần được trả lời: Nguyên do của lối ứng xử đáng ngạc nhiên của Obama? Giả thiết cách ứng xử của Obama không phản ảnh một nỗ lực đơn thuần lặp lại tư duy của Cheney — và cũng không có dấu hiệu gì như thế; do đó, cách ứng xử của Obama rõ ràng đã phản ảnh sự đắc thắng của địa chính trị đế quốc đối với hệ ý thức, nguyên tắc, hay ngay cả thái độ đơn thuần cởi mở trước các ý tưởng mới. Khi chúng ta đang đối mặt với hai nhân vật khác nhau như Obama và Cheney lần lượt dõi theo cùng một hướng đi trong thế giới — và kết cục lần đầu với Cheney là bất cứ điều gì ngoại trừ thành công — cách ứng xử của Obama lúc đó rõ ràng là dấu hiệu thế giới của Hoa Thịnh Đốn đã trở nên khép kín và thật sự ngột ngạt. Vào một thời điểm khi đa số người Mỹ đang mệt mỏi chán chường trước những xung đột giữa các hệ ý thức lớn, sự dõi theo các quyền lợi quốc gia đơn thuần và hẹp hòi dưới hình thức số cung năng lượng đươc đảm bảo — có thể quyến rũ hơn nhiều như lý do để can thiệp chính trị và quân sự ở hải ngoại. Vả chăng, Obama và các cố vấn có lẽ đang bị ảnh hưởng bởi luận thuyết: một thời đại vàng son mới của dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên ở phía Bắc Tây Bán Cầu, nhờ ở kỷ thuật khai thác các trữ lượng shale và các tài nguyên năng lượng phi quy ước và gây ô nhiễm khác. Theo dự báo của Bộ Năng Lượng, sự lệ thuộc của Hoa Kỳ vào năng lượng nhập khẩu từ các nước ngoài có khuynh hướng sụt giảm trong những năm sắp tới, trong khi sự lệ thuộc của TQ ngày một gia tăng – một lợi thế địa chính trị đối với Hoa Kỳ, một lợi thế Obama hình như đang thích thú thụ hưởng. Đã hẳn, đó là là một điều dễ hiểu khi T T Obama và các chiến lược gia Tòa Bạch Ốc tỏ ra hồ hởi trước viễn tượng quyến rũ của một vài lợi thế địa chính trị năng lượng, nhất là trước những khó khăn kinh tế tài chánh Hoa Kỳ hiện đang đối mặt và những khí cụ chính trị, quân sự khác của Mỹ ngày một mất tính hữu dụng. Ngoài ra, trừ phi người Mỹ sẵn sàng làm ngơ trước những nguy cơ ngày một gia tăng đối với môi trường khi lệ thuộc ngày một nhiều hơn vào việc thăm dò và khai thác các hình thức năng lượng phi quy ước như các trữ lượng dầu dưới biển sâu, hơi đốt shale…, sản ngạch năng lượng gia tăng có thể sẽ đem lại vài lợi điểm địa chính trị. Tuy nhiên, như lịch sử đã minh chứng, cố tình tìm kiếm những va chạm đối nghịch, qua những chính sách gây hấn địa chính trị toàn cầu, với các tay chơi kiên định, được trang bị vũ khí đầy đủ, thường dẫn đến khủng hoảng, chiến tranh, và tai họa. Trên bình diện nầy, những động thái địa chính trị của Cheney trước đây đã từng đem lại hai cuộc chiến tốn kém và tàn nhẫn ở Trung Đông, cùng lúc gây thêm căng thẳng với TQ và Liên Bang Nga. Cho đến nay, T T Obama luôn hứa hẹn tìm cách xây dựng một thế giới hòa bình hơn, dõi theo chính sách năng lượng của Cheney, như Obama đã lựa chọn, chắc chắn sẽ dẫn đến một thực tế hoàn toàn trái ngược. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 06 -7-2012 [1] As shown through his stepped-up drone campaign, Barack Obama has become George W. Bush on steroids. [2] Global power politics. [3] …Oil is unique in that it is so strategic in nature. We are not talking about soapflakes or leisurewear here. Energy is truly fundamental to the world’s economy. The Gulf War was a reflection of that reality. [4] Senate Armed Services Committee. [5] Once [Iraqi autocrat Saddam Hussein] acquired Kuwait and deployed an army as large as the one he possesses, he was clearly in a position to be able to dictate the future of wordwide energy policy, and that gave him a stranglehold on our economy. [6] Were Saddam Hussein successful in acquiring weapons of mass destruction, “[he] could then be expected to seek domination of the entire Middle East [and] take control of a great portion of the world’s energy supplies.” [7] …Arctic National Wildlife Refuge… [8] A primary goal of the National Energy Policy is to add supply from diverse sources. This means domestic oil, gas, and coal. It also means hydropower and nuclear power. [9] We’ll keep the sea lanes open. We’ll stand with others to prevent Iran from gaining nuclear weapons and dominating the region. [10] Xin xem thêm Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh [Chính Trị Năng Lượng: Bàn Cờ Caucasus] tr. 763-770, Nguyễn Trường, Nhà Xuất Bản Tri Thức, 26-11-2010, Hà Nội, Việt Nam. [11] Over the past three years, we’ve opened millions of new acres for oil and gas exploration, and tonight, I’m directing my administration to open more than 75% of our potential offshore oil and gas resources. Right now — right now — American oil production is the highest that it’s been in eight years …Not only that– last year, we relied less on foreign oil than in any of the past 16 years. [12] We have a supply of natural gas that can last America nearly 100 years. And my administration will take every possible action to safely develop this energy. [13] By some estimates, the oil you recently discovered off the shores of Brazil could amount to twice the reserves we have in the United States. When you’re ready to start selling, we want to be one of your best customers. At a time when we’ve been reminded how easily instability in other parts of the world can affect the price of oil, the United States could not be happier with the potential for a new, stable source of energy. [14] We will have a robust continuing presence throughout the region. [15] As we plan and budget for the future, we will allocate the resources necessary to maintain our strong military presence in this region. [16] “We see America’s enhanced presence across Southeast Asia,” both in growing ties with local powers like Australia and “in our welcome of India as it ‘looks east’ and plays a larger role as an Asian power.” [17] I don’t think they’re going to be very happy. I’m not optimistic in the long run as to how this is going to wind up.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 1, 2012 9:02:05 GMT 9
Washington, quân sự hóa và giải pháp quân sự
Nguyễn Trường Người Mỹ có thể cảm nhận lúc một xa chiến tranh hơn bất cứ lúc nào kể từ khi Đệ Nhị Thế Chiến bắt đầu. Thực vậy, một bách phân chưa đến 1% dân số hiện phục vụ trong quân đội trong kỷ nguyên tất cả đều tình nguyện, và vì vậy, trên bề mặt, những cuộc chiến triền miên ở những vùng xa xôi hình như chẳng dính dáng gì đến đại đa số người Mỹ. Tuy nhiên, quá trình quân sự hóa Hoa Kỳ và tăng cường khu vực An Ninh Quốc Gia vẫn liên tục tăng tốc. Ngày nay, Ngũ Giác Đài tự nó là một thế giới riêng biệt, với một ngân sách choáng ngợp, vào một lúc không một đại cường hay một số cường quốc nào họp lại có thể thách thức uy lực của Hoa Kỳ. Trong kỷ nguyên hậu 11/9, tập đoàn quân sự-kỹ nghệ đã được huy động dưới chiêu bài tư hữu hóa và tham chiến bên cạnh Ngũ Giác Đài. Với một ngân sách hơn 80 tỉ USD, mạng lưới tình báo đơn thuần đã bùng nổ. Vô số những cơ quan và đội ngũ cạnh tranh, bao vây bởi một vũ trụ các nhà thầu tình báo tư, tất cả được bao phủ dưới bức màn bí mật và ngày một lớn mạnh dưới sự bảo trợ của Ngũ Giác Đài, đến độ người ta có thể nói tình báo ngày nay là lối sống phổ quát ở Hoa Thịnh Đốn, một thủ đô hoàn toàn được quân sự hóa. Ngay cả CIA, một thời dân sự, cũng đang trong quá trình trở thành bán quân sự và ngày nay đang theo đuổi nhiều cuộc chiến phi cơ không người láingụy trang ở Pakistan và nhiều nơi khác. Giám đốc CIA, một tướng bốn sao hưu trí nổi tiếng , nguyên tư lệnh chiến trường Iraq và sau đó Afghanistan, cũng như Giám Đốc Tình Báo Quốc Gia, có trách nhiệm bao trùm toàn bộ mạng lưới tình báo, cũng là một trung tướng không quân hưu trí. Theo một nghĩa nào đó, ngay cả “giới quân nhân” cũng đã được “quân sự hóa.” Trong những năm gần đây, một đội quân bí mật, với 60,000 biệt kích đang bành trướng và tăng trưởng như một bóng đen bên trong một quân đội nhà nghề. Trong khi lực lượng drone của CIA đã trở thành một không lực riêng và lực lượng hành quân biệt kích một đội quân riêng của tổng thống, và nay được hoàn toàn tự do khai chiến trong mạng lưới bí mật ở những nơi không liên quan gì đến những vùng chiến sự bình thường của Hoa Kỳ. Ngoại giao cũng bị quân sự hóa. Các nhà ngoại giao làm việc ngày một gần gũi hơn với giới quân sự, trong khi Bộ Ngoại Giao cũng đang biến thái thành một cánh tay nối dài không chính thức của Ngũ Giác Đài và các kỹ nghệ vũ khí — như bộ trưởng ngoại giao đã thẳng thắn và hồn nhiên thú nhận. Cũng không nên quên, với sự ra đời của Bộ An Ninh Quốc Nội — Department of Homeland Security (DHS), ngày nay người Mỹ cũng đang có đến hai Ngũ Giác Đài. DHS đang được giao phó, bên cạnh nhiều nhiệm vụ của một bộ, trách nhiệm quân sự hóa biên giới phía Nam. Thực vậy, với sự trợ lực của DHS, các lực lượng cảnh sát địa phương, trong toàn quốc, trong thập kỷ vừa qua, đã được trang bị vũ khí dưới danh nghĩa chống khủng bố, và lớp vỏ bên ngoài hoàn toàn quân sự. Lực lượng cảnh sát ngày một được tiếp cận các vũ khí và trang bị tân tiến. Ngay cả các trang bị quân sự thặng dư trị giá hàng tỉ USD cũng thường được chuyển đến các lực lượng cảnh sát địa phương trong các thành phố nhỏ trước đây luôn yên bình. VÙNG TRUNG ĐÔNG NỚI RỘNG VÀ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ Quân sự hóa ở Hoa Kỳ cũng không phải một hiện tượng mới lạ, và trong thực tế, đã bắt đầu từ nhiều thập kỷ nay. Đã hẳn quá trình quân sự hóa đã tăng tốc trong những năm tiếp theo sự kiện 11/9, với sự biến thái tinh thần đi kèm của Hoa Thịnh Đốn — một hiện tượng có thể được gọi “quân sự hóa các giải pháp.” Nếu các định chế chi phối đời sống và chính trị quốc nội ở Hoa Kỳ ngày một bị quân sự hóa, ngày nay chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các vần đề người Mỹ đang đối diện ngày một được đóng khung trong những từ ngữ quân sự và giải pháp duy nhất được xét duyệt cũng đều bị quân sự hóa tương tự. Trí tưởng tượng giới hạn và nghèo nàn, về những gì xem như có thể, hình như đặc biệt hiển hiện ở vùng Trung Đông Nới Rộng. Trong thực tế, thành tích của Hoa Thịnh Đốn, nếu được thâu tóm vào một chỗ, có thể giúp chúng ta thấy rõ ràng hơn. Hãy bắt đầu với một liều lượng mỉa mai, oái oăm: trước cuộc xâm lăng Iraq năm 2003, các thành phần tân bảo thủ thường gọi vùng trải dài xuyên qua trung tâm dầu khí của thế giới, từ Bắc Phi đến biên giới TQ ở Trung Á, là “vòng cung bất ổn.” Sau một thập kỷ, Hoa Thịnh Đốn đã sử dụng sức mạnh quân sự và các giải pháp quân sự hóa trong vùng, phần-thế-giới-sau-một- thập-kỷ-đó nay có vẻ khá hoang tàn và ngày một bất ổn định. Sau đây là tóm lược các hệ lụy của chính sách quân sự hóa của Hoa Kỳ trong Vùng Trung Đông Nới Rộng trong suốt những năm 2001-2012. Pakistan: Hoa kỳ đã phải đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp ở Pakistan, một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân đang trải nghiệm các phong trào trỗi dậy, các bộ lạc đã trở thành nơi trú ẩn cho các thành phần thánh chiến, các mạng lưới tình báo đang có những quan hệ chòng chéo với giới lãnh đạo Taliban cũng như các nhóm chiến binh hay dân quân ở Afghanistan. Phản ứng của Hoa Thịnh đốn, như Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta gần đây đã gọi: chiến tranh. Năm 2004, chính quyền Bush đã phát động một chiến dịch ám sát bằng phi cơ drone dọc biên giới các bộ lạc, phần lớn nhằm các lãnh đạo al-Qaeda cùng với các cuộc tấn công biệt kích xuyên qua biên giới. Các cuộc không tập từ đó đã được mở rộng và đã trở thành một cuộc chiến ngụy trang sát hại nhiều thường dân, và vì vậy, bị người dân trên khắp lãnh thổ Pakistan lên án, và ngày nay rõ ràng đang nhằm trừng phạt những hành động đối nghịch của giới lãnh đạo Pakistan. Bức xúc bởi những gì được xem như thiếu nhượng bộ của Pakistan, giới quân sự và tình báo Hoa Kỳ được biết đã tạo áp lực qua những cuộc hành quân biệt kích hỗn hợp Mỹ-Afghanistan vượt qua biên giới. Các cuộc không tập từ Afghanistan của Mỹ trong tháng 11-2011 đã hạ sát 24 binh sĩ Pakistan, một hành động chiến tranh đối với một đồng minh, không một lời xin lỗi trong suốt bảy tháng tiếp theo, đã đem lại một khủng hoảng sôi sục giữa Hoa Thịnh Đốn và Islamabad, với chính quyền Pakistan quyết định đóng cửa con đường vận chuyển hàng tiếp liệu cho cuộc chiến Afghanisan băng qua lãnh thổ Pakistan. Tình hình căng thẳng đã gây thêm hàng tỉ USD phí tổn cho Ngũ Giác Đài trước khi cuộc khủng hoảng chấm dứt với lời xin lỗi gượng gạo của ngoại trưởng Hillary Clinton hồi đầu tháng 7. Cuộc khủng hoảng rõ ràng đã làm gia tăng tình hình bất ổn trong một Pakistan sở hữu vũ khí hạt nhân. Afghanistan: Tiếp theo sau cuộc xâm lăng năm 2001, Hoa Kỳ đã chọn lựa kế hoạch chiếm đóng và tái thiết Afghanistan. Trong suốt quá trình, người Mỹ đã nỗ lực tái thiết và tái tạo phong trào Taliban trước đây không được quần chúng hậu thuẩn và đã bị đánh bại. Tiếp đó là cuộc chống đối mới trỗi dậy. Mặc dù với đợt tăng cường quân lực Mỹ, lực lượng biệt kích, các nhà thầu tư nhân, sự hổ trợ của một chiến dịch không kích ồ ạt, và các cuộc bố ráp ban đêm bởi các cuộc hành quân biệt kích và CIA ngày một lan tràn, chiến thắng vẫn chỉ là một mục tiêu xa vời. Cuối cùng, Hoa Kỳ cũng đã phải quyết định lên lịch rút quân tác chiến khỏi một Afghanistan hoàn toàn bất ổn định vào cuối năm 2014. Iran: Trong khuôn khổ một chương trình dài lâu nhằm thay đổi chế độ, với vũ khí hạt nhân như lý do chính thức, Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp chế tài năng lượng lên Iran. Chương trình, ngay cả Ngũ Giác Đài cũng đã xem như một hành động chiến tranh, bao gồm một chuổi các chiến dịch hành quân biệt kích, các hoạt động dò thám bằng phi cơ drone, và cùng với Do Thái, phát động ít nhất hai vi khuẩn malware quan trọng, chống lại các hệ thống vi tính và máy ly tâm trong các cơ sở hạt nhân Iran. Người Mỹ cũng đã tăng cường đại trà các lực lượng không, hải quân trong vùng Vịnh Ba Tư và các căn cứ quân sự trong các xứ ngoại vi của Iran, song song với hoạch định nhiều hình thức chiến tranh chuẩn bị một cuộc tấn công khả dĩ vào các cơ sở hạt nhân của Iran trong năm 2013. Mặc dù rất ít chi tiết được tiết lộ, một chiến dịch ám sát các khoa học gia nguyên tử Iran cũng đã được biết do người Do Thái chủ mưu. Tuy nhiên, hiện nay khi những hành động chung Hoa Kỳ-Do Thái về cyberwar chống lại Iran đã được xác nhận, ít ra người ta cũng đã có đủ lý do để nghi ngờ Hoa Kỳ rất có thể đã nhúng tay vào các vụ ám sát vừa nói. Tất cả các điều trên đây đã gây rối rắm, xung đột, và đã đưa các quốc gia trong vùng đến bên bờ chinh chiến, trong khi vẫn chưa có phương cách rõ ràng nào để có thể lay chuyển chế độ Iran. Iraq: Tháng 3-2003, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc chiến xâm lăng và chiếm đóng Iraq. Người Mỹ đã theo đuổi cuộc chiến chống trỗi dậy trên tám năm, và có thể nói, trong cốt lõi, đã thất bại, và cuối cùng cũng đã phải chấp nhận rút quân vào cuối năm 2011, nhưng vẫn để lại phía sau, ở Baghdad, một tòa đại sứ lớn nhất thế giới và đã được quân sự hóa cao độ. Iraq, nay ít ra trên danh nghĩa, là một đồng minh và một đối tác thương mãi của Hoa Kỳ, nhưng vẫn chưa được tái thiết và bất ổn định, với các chiến dịch dội bom đều đặn trong các thành phố luôn tiếp diễn. Kuwait: Ngay bên kia biên giới Iraq, Hoa Kỳ đã liên tục tăng cường lực lượng quân sự. Trong tương lai, theo phúc trình Thượng Viện Hoa Kỳ, số quân đồn trú thường trực ở Kuwait có thể sẽ lên tới khoảng 13.000. Yemen: Hoa Thịnh Đốn, từ lâu luôn hậu thuẩn lãnh tụ độc tài, nay lại ủng hộ một chế độ thay thế. Cũng như ở bất cứ nơi nào khác, ở Yemen, người Mỹ luôn cảm thấy thiếu thoải mái với các phong trào dân chủ kiểu Mùa Xuân Á Rập trong các quốc gia đồng minh. Trong nhiều năm, Hoa Kỳ luôn duy trì một chiến dịch không kích ở miền Nam Yemen, nhằm chống lại các thành phần thù nghịch liên kết với al-Qaeda trong bán đảo Á Rập (Arabian Peninsula — AQAP). Gần đây hơn, Hoa Kỳ đã gửi một số nhỏ lực lượng hành quân biệt kích như các cố vấn và huấn luyện viên và đã leo thang chiến dịch không kích với một lực lượng hỗn hợp gồm các phi cơ drone CIA và các oanh tạc cơ Không Quân trong vùng Nam Yemen. Trong năm 2012 đã có tới ít ra 23 cuộc không kích, gây nhiều thương vong dân sự, biến người Yemen ở miền Nam thành những phần tử cực đoan ngày một ủng hộ AQAP nhiều hơn, và gây thêm bất ổn định trong quốc gia nghèo khó và tuyệt vọng nầy. Bahrain: Là một xứ bé nhỏ, nơi Đệ Ngũ Hạm Đội Hoa Kỳ đặt bản doanh, Bahrain đang đối diện một phòng trào dân chủ thù nghịch của người Shiite chiếm đa số, và đã yêu cầu Saudi gửi lực lượng quân sự vào trấn áp. Hoa Kỳ cũng đã viện trợ quân sự và đang hậu thuẩn chế độ quân chủ Sunni đang cầm quyền. Syria: Tình hình Syria hiện đang rất bất ổn, nơi phong trào dân chủ đã biến thái thành một cuộc nội chiến giữa các phe phái, đe dọa bất ổn hóa toàn vùng, kể cả Lebanon và Iraq. Lực lượng CIA nay đã được gửi tới biên giới Turkey. Nhiệm vụ chính yếu là chuyển vận và phân phối vũ khí cho các phe nổi loạn do Hoa Thinh Đốn chọn lựa, hoàn toàn dựa trên khả năng phân biệt đáng nghi ngờ của CIA giữa các phe dân chủ và thánh chiến. Theo báo New York Times, vũ khí đã được vận chuyển và phân phối qua trung gian một mạng lưới bao gồm cả Muslim Brotherhood của Syria do Turkey, Saudi Arabia, và Qatar bảo trợ. Đã hẳn, đây là một dự án khó thể thành công. Somalia: Từ lâu, Somalia, một quốc gia thất bại, đã phải trải nghiệm nhiều tai ương, nhất là cuộc xâm lăng năm 2006 bởi lực lượng Ethiopia do Hoa Kỳ đỡ đầu, và gần đây hơn, các cuộc tấn công bởi drone, các cuộc hành quân của CIA và các lực lượng biệt kích, một chương trình phức tạp của Hoa Kỳ tài trợ một lực lượng quân sự Phi châu, đặc biệt của Uganda ở thủ đô, và hậu thuẩn cho cuộc xâm lăng của Kenya ở phía Nam — các động thái hình như đã đưa đến tình trạng manh mún, cực đoan, và quá khích. Ai Cập: Kể từ các biến động xuống đường ở Quảng Trường Tahrir Square, Hoa Thịnh Đốn đã trông cậy vào các quan hệ chặt chẽ với giới lãnh đạo quân sự Ai cập thường thăm viếng Hoa Thịnh Đốn, và nhiều tỉ USD viện trợ quân sự , mặc dù phe nầy rõ ràng đã phỏng tay trên cuộc cách mạng dân chủ Mùa Xuân Á Rập của quần chúng Ai Cập. Libya: Chính quyền Obama đã sử dụng Không Quân Hoa Kỳ, bên cạnh lực lượng không quân của các đồng minh NATO, để yểm trợ một cuộc nổi dậy hỗn tạp nhằm lật đổ chế độ Muammar Gaddafi, và đã thành công. Tuy vậy, hệ lụy dài lâu vẫn chưa ai biết. CHIẾN TRANH LAN TRÀN KHẮP HÀNH TINH VÀ NHỮNG BÀI HỌC BỎ LỠ Trên đây mới chỉ là một liệt kê phân bộ, và dĩ nhiên, còn rất nhiều thiếu sót, chẳng hạn: các căn cứ drone thiết lập từ các đảo vùng Seychelles và Ethiopia cho đến Bán Đảo Arabia — rõ ràng nhằm đẩy mạnh các cuộc chiến drone mở rộng trong toàn vùng. Tuy nhiên, đây là một ví dụ đáng lưu ý của sự thiếu hiệu quả nói chung của giải pháp quân sự hay quân sự hóa các vấn đề của một vùng xa xôi trên thế giới . Từ Pakistan và Afghanistan đến Yemen và Somalia, bằng chứng đã khá rõ ràng: các giải pháp quân sự đều không mấy hiệu quả hay chẳng giải quyết được gì , và trong hầu hết các trường hợp, hình như chỉ làm gia tăng bất ổn định trong một vùng hay một xứ, cũng như tình trạng tang tóc đau thương của người dân. Tuy vậy, sự thiếu vắng thành công nói chung từ 2002 và sự bức xúc ngày một sâu xa ở Hoa Thịnh Đốn cũng chỉ đưa đến một tin tưởng mạnh mẽ hơn ở một dạng thức điều chỉnh kích cỡ giải pháp quân sự — tăng cường nhiều hay ít hơn, không xâm lăng chiếm đóng mà chỉ sử dụng các cuộc hành quân biệt kích và phi cơ không người lái, ít sử dụng bộ binh hơn, tăng gia sự hiện diện của hải và không quân …– là giải pháp duy lý duy nhất . Trong thực tế, các giải pháp quân sự dưới mọi hình thức đã có một tác động thẩm thấu và luôn ám ảnh Hoa Thịnh Đốn, nhất là trong địa hạt chiến tranh bằng phi cơ không người lái của CIA. Trong những năm chiến tranh Việt Nam trước đây, T T Lyndon Johnson được biết đã khiến các tướng lãnh phải điên đầu qua phương cách xen vào công tác “quản lý chi tiết” — micromanaging – cuộc chiến, nhất là trong những phiên họp trong giờ ăn trưa, đã luôn nhấn mạnh tự mình lựa chọn các mục tiêu oanh tạc ở Bắc Việt. Tuy nhiên, so với bây giờ, Johnson hầu như có thể được xem như một tổng thống laissez-faire thời chiến — một tổng thống không can thiệp vào các chi tiết điều hành cuộc chiến. Xét cho cùng, qua báo The New York Times, chúng ta đã được biết, Tòa Bạch Ốc hiện nay đã chấp nhận và đang theo đuổi một quá trình lựa chọn các mục tiêu nghi can khủng bố để đưa lên danh sách cần được thanh toán, và đích thân tổng thống đã quyết định từng vụ tấn công của drone — không những các khu vực mục tiêu, mà từng mục tiêu một. Chính tổng thống lựa chọn đích danh từng cá nhân đối tượng cần thanh toán trong những vùng hẻo lánh của Pakistan, Yemen, và Somalia. Điều nầy phải được xem như một biểu hiện của thời đại, dù những mẩu tin nầy có thể đã gây sốc ở Hoa Thịnh Đốn, chính yếu là vì sự kiện khả dĩ tiết lộ bởi chính quyền bản chất của chương trình được che dấu, rất ít ai đã nhắc đến sự kiện tổng thống đã can thiệp vào các chi tiết nhỏ. Một vài người có thể đã nhận thức được quá trình lựa chọn đối tượng để ám sát là một điều gây sốc, nhưng rất ít ai nghĩ đây là một việc làm kỳ lạ và đáng kinh ngạc, khi một tổng thống Hoa Kỳ đích thân lựa chọn các đối tượng, kể cả các công dân Mỹ, cần thanh toán bằng drone trong các nơi xa xăm trên toàn cầu. Sự thật: các giải pháp như thế, lần đầu tiên đã được thực nghiệm ở Vùng Trung Đông Nới Rộng, nay đang được áp dụng từ Phi châu đến Trung Mỹ. Ở Phi châu, người ta có thể truy nguyên tình trạng bất ổn hóa ở nhiều nơi đến quyết định thiết lập bộ Tư Lệnh Africom năm 2007, và trong những năm sau đó, quá trình vận dụng tiệm tăng các drone, các cuộc hành quân biệt kích, các nhà thầu tư nhân, và nhiều hành động cùng loại trong các khu vực đã có nhiều vấn đề. Sau đây là một Hoa Kỳ trong thực tế năm 2012: Trong tư thế một đại cường, Hoa Kỳ hiện đang có một túi dụng cụ ngày một hạn chế và ngày một sử dụng nhiều hơn cùng những dụng cụ tương tự. Ý tưởng — địa cầu là một bàn cờ, Hoa Thịnh Đốn đang kiểm soát trò chơi, và mỗi một nước cờ đều được quân sự hóa và sẽ đưa đến một kết quả có thể tiên liệu — là một ý tưởng không gì nguy hiểm hơn. Bằng chứng trong thập kỷ vừa qua đã khá rõ ràng: những điều khó tiên liệu ngày một ít hơn, hay những gì có thể sai quấy ngày một nhiều hơn, có nghĩa: việc áp dụng lực lượng quân sự và các giải pháp quân sự hóa, với tác động lũy tích ngày một nguy hiểm hơn trong nhiều phương cách bất ngờ, và cuối cùng đe dọa đem lại đại họa trong nhiều vùng. Tuy nhiên, tất cả những điều trên đây hình như không hề được Hoa Thịnh Đốn quan tâm đúng mức. Người ta thường nói Hoa Kỳ là một đại cường đang trên đà tuột dốc, nhưng khuynh hướng quân sự hóa chính sách và tư duy của Hoa Kỳ, ở quốc nội cũng như ở hải ngoại, lại không hề suy giảm. Và Hoa Thịnh Đốn, nay là một thủ đô chiến tranh triền miên, vẫn liên tục được quân sự hóa. Tiến trình nầy đã bắt đầu ngay sau 11/9, với một tinh thần lãng mạn cao độ của chính quyền Bush về uy quyền của “lực lượng giải phóng nhân loại lớn nhất.. thế giới chưa bao giờ chứng kiến,” còn được biết đến như lực lượng quân sự Hoa Kỳ, để thay đổi thế giới. Đó là một sự tin tưởng căn bản của Bush và các viên chức hàng đầu: lực lượng quân sự hùng mạnh nhất hành tinh của Hoa Kỳ có thể đè bẹp bất cứ xứ nào trong vùng Trung Đông Nới Rộng một cách dễ dàng. Ngày nay, tiếp theo sau hai cuộc chiến thảm bại trên lục địa Á-Âu, một dạng thức niềm tin vừa nói — một dạng thức đã mất hết tính lãng mạn — đã trở thành một lối sống quen thuộc và ngày một tẻ nhạt của một Hoa Thịnh Đốn được quân sự hóa. Và tình trạng đó sẽ kéo dài. Vì vậy, vào tháng 11 tới, nếu Barack Obama, người đã giết chết Bin Laden, được tái cử, người Mỹ sẽ có rất ít cơ may được chứng kiến một thay đổi đáng kể nào đó trên bình diện nầy. Nếu Mitt Romney thắng, quá trình chắc sẽ tăng tốc, có thể sẽ chuyển dịch từ tình trạng thất bại hay “tịt ngòi toàn cầu,” và ám ảnh bởi một trí tưởng tượng cực đoan, với hậu quả, từ Iran đến Liên Bang Nga đến TQ, thật khó lòng tưởng tượng. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 20-7-2012
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 11, 2012 4:33:25 GMT 9
CHÍNH TRỊ TUYỂN CỬ VÀ THỰC TẾ XÃ HỘI HOA KỲ Tháng Mười 10, 2012 CHÍNH TRỊ TUYỂN CỬ VÀ THỰC TẾ XÃ HỘI HOA KỲ Năm đề tài lớn mang tính quyết định đối với Hoa Kỳ trong hai mươi năm tới sẽ có rất ít hy vọng được thảo luận nghiêm túc trong quá trình bầu cử 2012. Đã hẳn, các vấn đề trao đổi giữa các ứng viên hai đảng Cộng hòa và Dân chủ sẽ tập trung vào khuy khiếm ngân sách, thuế vụ, bảo hiểm y tế, quốc phòng, và giáo dục. Cử tri ít nhiều cũng đã biết những lập trường của mỗi ứng viên. Những gì cử tri sẽ không được nghe từ Mitt Romney hay Barack Obama là chút ít nhận định thành khẩn về thực trạng của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong năm đề tài quan trọng vừa nói, chút ít thực tế rất có thể sẽ có tác động lớn lao, trong khi quá ít thực tế chắc chắn sẽ làm tăng tốc đà tuột dốc của chính Hoa Kỳ. Vì vậy, sau đây là tóm lược những gì cử tri Mỹ sẽ không được nghe trong các cuộc tranh luận giữa các ứng viên tổng thống và phó tổng thống trước tháng 11-2012. Và tưởng cũng đã đến lúc chúng ta thử tư duy về năm sự thật không mấy lạc quan đang định hình tương lai Hiệp Chủng Quốc. (1) VỘI VÃ GIẢM THIỂU KHUY KHIẾM SẼ XÓA TAN MỌI HY VỌNG HỒI PHỤC KINH TẾ: Trong những ngày gần đây, các ứng viên tranh đua luận bàn về khả năng và tốc độ giảm thiểu ngạch số khuy khiếm trong ngân sách liên bang, hiện đang ở mức 1.200 tỉ USD trong tài khóa 2012. Và cử tri cũng đã được nghe kế hoạch cắt giảm khuy khiếm Simpson-Bowles và nhiều điều tương tự trong ngày thứ tư, 3-10-2012, vừa qua. Tuy nhiên, sự thật phủ phàng trong địa hạt nầy là nổ lực cắt giảm khuy khiếm sâu xa sẽ chỉ đơn thuần là một tai họa. Thực vậy, nếu sáng 4-10 khi thức dậy, bạn được biết khủng hoảng khuy khiếm ngân sách đã được Hoa Thịnh Đốn giải quyết, và bạn đã mất việc làm, liệu bạn có thể nào reo vui mừng rỡ? Hẳn là không. Thực vậy, bất cứ động thái cắt giảm khuy khiếm nhanh chóng nào cũng sẽ làm tăng thêm tỉ suất thất nghiệp. Một khi chính quyền cắt giảm chi tiêu, đồng thời chính quyền cũng sẽ phải sa thải công nhân viên, và hủy bỏ các đơn đặt hàng đủ thứ sản phẩm và dịch vụ, những tác vụ lẽ ra đã có thể giúp đem lại lợi tức cho các công ty trong khu vực tư. Các công ty tư nhân giờ đây lại phải cho công nhân nghỉ việc, và do đó, các đợt sóng hậu quả tiêu cực sẽ lan dần trong nền kinh tế. Và đây không phải khoa học nguyên tử. Đây chỉ là những sản phẩm và dịch vụ căn bản thông thường — những thứ rõ ràng không thích ứng trong các cuộc tranh luận giữa các ứng viên tổng thống và phó tổng thống. Chẳng hạn, trong phúc trình tháng 9-2012, Sở Nghiên cứu Quốc Hội đã tiên liệu: bất cứ cắt giảm khuy khiếm ngân sách quan trọng nào trong thời gian sắp tới cũng có thể góp phần làm trầm trọng thêm thoái trào kinh tế. Nói một cách khác, cắt giảm khuy khiếm ngân sách hiện nay sẽ làm Đại Suy Thoái trầm trọng thêm — một đại suy thoái kinh tế Hoa Kỳ chưa thực sự bắt đầu hồi phục. Phe chủ trương cắt giảm tỉ suất khuy khiếm ngay tức khắc có lẽ sẽ la lên: một khiếm hụt lớn lao không thể duy trì lâu dài sẽ không tốt cho nền kinh tế. Điều nầy rất đúng trong trường kỳ. Đã hẳn Hoa Thịnh Đốn cần có kế hoạch chỉ cho phép những khuy khiếm nhỏ bé hơn trong tương lai. Tuy nhiên, điều nầy có thể thành đạt dễ dàng hơn khi kinh tế đã phục hồi bởi lẽ lúc đó chi tiêu công sẽ giảm bớt vì ít người cần được trợ giúp, và số thu nhập thuế vụ sẽ gia tăng với mức nhân dụng lúc một cao hơn khi người thất nghiệp đã tìm được việc làm. Vì vậy, cần phải cải thiện hay phục hồi kinh tế trước. Tính tất yếu của các chi tiêu nhằm hồi phục kinh tế càng sớm càng tốt song hành với khả năng giảm thiểu khiếm hụt ngân sách trong dài hạn sẽ bị nhận chìm khi các ứng cử viên đưa ra nhiều khẩu hiệu dao to búa lớn vì nhu cầu vận động bầu cử, với những bản tin truyền hình vào các giờ cao điểm. (2) THUẾ SUẤT Ở MỨC THẤP NHẤT TRONG HƠN MỘT NỬA THẾ KỶ ĐÃ GÂY NHIỀU KHÓ KHĂN CHO ĐẦU TƯ VÀ DUY TRÌ HẦU HẾT CÁC CƠ SỞ HẠ TẦNG CĂN BẢN: Khó tin, nhưng đó là một thực tế. Cho đến nay, các ứng viên luôn có truyền thống tranh cử với chiêu bài ứng viên nào có thể hạ thấp thuế suất và hạ thấp đến mức nào, và giảm thuế cho mọi thành phần cử tri hay cho mọi người ngoại trừ những người giàu nhất trong giới giàu. Đó chỉ là cuộc tranh luận khá bùi tai đối với các cử tri luôn ưa thích chuyện thần tiên. Cuộc tranh luận sẽ không còn hứng thú nếu chúng ta biết rõ người Mỹ hiện đang hưởng thụ một thuế suất nhẹ nhàng nhất trong suốt gần năm thập kỷ, và sẽ phải trả với một giá cực đắt trong “tương lai” hay nhiều năm sắp đến. Hoa Kỳ sẽ không thể có cách nào khác để duy trì một hạ tầng cơ sở như đê điều, xa lộ , cầu cống… tốt nhất thế giới, và một hệ thống giáo dục trước đây cả thế giới đều thèm muốn — với số thuế người Mỹ hiện đang trả. Phe chống tăng thuế nhấn mạnh: người Mỹ nên giảm thuế nhiều hơn nữa để thúc đẩy nền kinh tế đang suy thoái — một luận cứ đang thường xuyên được phổ biến và sẽ định hình những cuộc tranh luận truyền hình đang tiếp tục diễn ra giữa hai liên danh tổng thống-phó tổng thống. Tuy nhiên, như báo New York Times đã ghi nhận gần đây, cắt giảm thuế rất có thể đã mang lại hiệu quả kích thích nền kinh tế vài thập kỷ trước đây khi thuế suất trên 70% và khi các thế hệ cha ông đã không mấy ta thán. Nhưng hiện nay, với thuế suất thực tế 14% cho Mitt Romney và những người cùng tầng lớp, cắt giảm hơn nữa sẽ không mang lại hiệu quả sớm tạo thêm công ăn việc làm, mà ngược lại chỉ đánh mất khả năng đầu tư công trong mọi thứ từ cơ sở hạ tầng đến giáo dục. Trong hiện tình, hiệu quả tiêu cực của các biện pháp tăng thuế trên giới nhà giàu cũng vẫn bé nhỏ — hiểu theo nghĩa một tai họa đối với giới tạo ra công ăn việc làm — và thuế suất cao đối với giới nầy có thể mang về cho công khố một số thu nhập tối cần thiết. Tăng thuế đối với giới trung lưu sẽ cần đến khi kinh tế đã khá hồi phục. Hiện nay, tình trạng khá rõ ràng: người Mỹ đơn thuần đã không trả đủ thuế để tài trợ các nhu cầu cơ bản cần cho thịnh vượng, từ hệ thống xa lộ và giáo dục đại học đến nghiên cứu y khoa và an toàn thực phẩm. Thiếu những nguồn vốn cần thiết đó, tương lai nước Mỹ chắc sẽ không mấy tốt đẹp. (3) KHÔNG NHỮNG HIỆN TÌNH MÀ NGAY CẢ HỆ THỐNG TEM PHIẾU CŨNG SẼ KHÔNG ĐỦ ĐỂ BẢO VỆ MEDICARE HAY BẤT CỨ DỊCH VỤ Y TẾ NÀO TRONG TRƯỜNG KỲ: Trong phạm vi Medicare, Mitt Romney đã đề nghị một chương trình hổ trợ bảo phí, cho phép người già quyền lựa chọn mua bảo hiểm tư. Về phía mình, T T Obama bày tỏ ý muốn duy trì Medicare ít nhiều như hiện nay đối với giới hưu trí. Trong lúc đó, chi phí y tế không ngừng gia tăng đã chiếm một phần ngày một quan trọng trong lợi tức của người Mỹ và ngân sách liên bang. Chi phí về y tế hiện nay đã lên đến 24% tổng số chi tiêu liên bang, so với 7% chưa đầy 40 năm trước đây. Theo David Cutler, kinh tế gia chuyên về y tế ở Đại học Harvard, kế hoạch của Romney sẽ chuyển dịch một bách phân ngày một lớn các chi phí y tế qua giới hưu trí, trong khi T T Obama chủ trương chính quyền liên bang sẽ tiếp tục tài trợ các chi phí nầy. Không ứng viên nào đưa ra giải pháp nhằm xử lý vấn đề cơ bản bên sau các chi phí. Và đây là thực tế: Medicare có thể được bảo vệ đáng kể qua nổ lực cắt bỏ các phí phạm trong chương trình. Hệ thống y tế của Hoa Kỳ đang đầy dẫy các loại thử nghiệm và phẩu thuật không cần thiết, cũng như phối trí thiếu hiệu quả các phương cách xử lý nhiều vấn đề y tế phức tạp. Hoa Kỳ đã chi tiêu khoảng 2.600 tỉ USD về dịch vụ y tế trong năm 2010, và khoảng 30% con số nầy đã bị phí phạm. Hiện nay, hệ thống y tế Hoa Kỳ đang chú trọng vào số lượng nhiều hơn chất lượng, và cần được thay đổi và cải tiến. Thay vì thù đáp theo từng thử nghiệm và phẩu thuật, Medicare có thể trả theo tiêu chuẩn hiệu quả và đem lại cho các bác sĩ và chuyên viên y tế một động lực mạnh mẽ trong nổ lực cung cấp các dịch vụ y tế phối trí hữu hiệu. Luật y tế của T T Obama trong thực tế đang theo đuổi sáng kiến nầy qua các thí điểm thực nghiệm (pilot test). Nhưng đây là đề tài tối kỵ trong mùa bầu cử, vì vậy, Obama rất ít khi nhắc đến các thí điểm nầy. Du nhập những thay đổi như thế vào lãnh vực Medicare và phần còn lại của hệ thống y tế có thể giúp tiết kiệm cho ngân sách liên bang hàng chục tỉ USD mỗi năm. Động thái nầy có thể thực sự giúp duy trì chương trình Medicare cho các thế hệ tương lai, cũng như cải tiến tính phổ cập bảo hiểm y tế cho người Mỹ dưới 65 tuổi. Điều đáng tiếc là chương trình vẫn chưa được ngay cả đem ra thảo luận trước Quốc Hội. (4) HỆ THỐNG QUÂN LỰC HOA KỲ QUÁ TỐN KÉM VÀ KHÔNG THÍCH ỨNG VỚI THỰC TẾ CÁC ĐE DỌA AN NINH QUỐC GIA : Các ứng viên của hai đảng đều cam kết sẽ không cắt xén ngân sách Ngũ Giác Đài. Phía Romney còn hứa ngay cả gia tăng ngân sách quân sự vốn đã choáng ngợp. Tuy nhiên, trong một xứ đang cần tăng cường và cải tiến các cơ sở hạ tầng, giáo dục, và ngân sách cho nhiều chương trình cấp thiết khác, dành tài nguyên không giới hạn cho Ngũ Giác Đài thực sự sẽ làm suy yếu “an ninh quốc gia.” Chi tiêu quốc phòng vốn đã quá lớn. Nếu gộp tất cả mọi chi tiêu quân sự và an ninh như một xứ riêng, ngân sách của Ngũ Giác Đài có thể lớn bằng nền kinh tế lớn thứ 19 trên thế giới, lớn hơn cả Saudi Arabia, Đài Loan, và Thụy Sĩ. Nếu kể cả các tàu sân bay, các hệ thống vũ khí, hay khả năng hũy diệt, quân lực Hoa Kỳ sẽ vô địch so với bất cứ quốc gia riêng rẽ nào hay ngay cả toàn bộ phần còn lại của thế giới. Vài năm trước đây, Bộ trưởng Quốc phòng Robert M. Gates, trong một bài diễn văn, đã mô tả chi tiết sức mạnh vô song đó. Tóm lược: “Hoa Kỳ đang nắm giữ 11 tàu sân bay lớn, tất cả chạy bằng năng lượng nguyên tử. Tính theo kích cỡ hay tiềm năng tàn phá, không một xứ nào có được ngay cả một hàng không mẫu hạm tương đương.”[1] Gần đây, TQ đã sở hữu một tàu sân bay nhưng vẫn còn phải mất một thời gian trước khi có thể vận hành bình thường, trong khi các quan chức dân cử Mỹ luôn sẵn sàng xây dựng thêm tàu sân bay thứ 12. Tuy nhiên, bạn sẽ không bao giờ được nghe các ứng viên tổng thống nhắc đến điều nầy trong các cuộc tranh luận bầu cử. Có lẽ các ứng viên sẽ nhắc đến sự khả dĩ các hệ thống vũ khí lỗi thời, vô hiệu, và cực kỳ tốn kém, có thể bị cắt xén, nhưng cũng chỉ vô ích. Vấn đề là: sự khả gì nầy cũng chẳng thể làm suy giảm tí nào trong tổng số chi tiêu quốc phòng. Hiện nay, gần 1/5 ngân sách của chính quền liên bang đang được dành cho chi tiêu quân sự. Trung bình, người Mỹ được thăm dò ý kiến đã cho biết họ muốn thấy một tỉ suất cắt giảm ngân sách quân sự khoảng 18%. Thay vào đó, hầu hết các quan chức dân cử cam kết rót không giới hạn các tài nguyên vào nhiều hệ thống vũ khí mới với hiệu lực đáng nghi ngờ, những hệ thống Hoa Kỳ đã sở hữu nhiều hơn phần còn lại của toàn thế giới. Một điều chắc chắn: chi tiêu quân sự sẽ không bị cắt xén chừng nào Hoa Kỳ đang có kế hoạch tăng cường lực lượng trong vùng Vịnh Ba Tư, gửi lính thủy đánh bộ đến Darwin, Úc Đại Lợi, và các đơn vị hành quân biệt kích đến Phi châu và Trung Đông, các phi cơ không người lái xuất phát từ các Hải Đảo Seychelles, và đóng chốt ở Á châu. Nếu sứ mệnh toàn cầu của Hoa Kỳ không thuyên giảm kích cỡ, ngân sách Ngũ Giác Đài sẽ không bị cắt xén — và đó là một tai họa cho tương lai Hoa Kỳ, nhưng sẽ không bao giờ được nhắc tới trong các cuộc tranh luận bầu cử trong tháng 10-2012. (5) HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐÃ ĐEM LẠI THỊNH VƯỢNG CHO HOA KỲ TRONG THẾ KỶ XX, NAY ĐANG LÂM NGUY: Có lẽ đây là đề tài cấp thiết nhất. Tuy vậy, mặc dù đã được bàn luận khá nhiều trong các nghiệp đoàn giáo chức và thử nghiệm, các chương trình giáo dục thực sự và các ý tưởng thiết yếu không hề được quan tâm trong mùa bầu cử. Trong suốt thế kỷ XX, hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới đã cho phép Hoa Kỳ phát triển nhanh chóng và nâng cao mực sống. Ngày nay, từ mẫu giáo cho đến đại học, ngân sách dành cho hê thống giáo dục công triền miên bất cập. Chưa đến 2% ngân sách liên bang được dành cho giáo dục, và đầu tư công sụt giảm — có nghĩa sinh viên đã phải gánh chịu học phí ngày một cao và nợ nần gia tăng. Tổng số nợ của sinh viên đã vượt quá mức 1.000 tỉ USD trong năm nay và không ngừng gia tăng, với gánh nặng nợ trung bình của một sinh viên tốt nghiệp đại học đã vượt quá 24.000 USD. Trước thực tế nầy, họ hầu như sẽ phải trả nợ suốt đời. Tái lập và tăng cường chương trình đầu tư công vào giáo dục – từ mẫu giáo đến đại học, có thể mang lại nhiều kết quả tốt đẹp cho nhiều thế hệ tương lai. Tuy nhiên, người Mỹ hình như không được nghe các ứng cử viên tổng thống và phó tổng thống đề nghị một kế hoạch tương đương với Luật GI Bill dành cho sinh viên nói chung, hay ngay cả một chương trình đầu tư mới đáng kể nào vào giáo dục. Và đây là một tín hiệu chắc chắn của đà tuột dốc của Hoa Kỳ. Oái oăm thay, các chính trị gia Hoa Thịnh Đốn luôn đưa ra luận cứ cần cấp thiết giảm chi hay giảm khuy khiếm như những gì họ sẽ phải làm vì các thế hệ con cháu tương lai, trước viễn cảnh những núi nợ công của chính quyền liên bang. Nhưng nếu con em các bạn đang trong lứa tuổi vào đại học nhận thấy chính quyền đang theo đuổi một ngân sách cân bằng trong một Hoa Kỳ rỗng ruột , một Hoa Kỳ trong đó chúng không còn cơ may kiếm ra tiền để theo đuổi học vấn cấp đại học, có thể nào chúng sẽ hoan hĩ đón chờ? Không ai cần một kinh tế gia để tìm ra câu trả lời. NguyễnTrường Irvine, California, USA 11-10-2012 [1] The U.S. operates 11 large carriers, all nuclear powered. In terms of size and striking power, no other country has even one comparable ship.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 11, 2012 4:34:42 GMT 9
HỆ Ý THỨC VÀ TÔN GIÁO TRONG SINH HOẠT CHÍNH TRỊ HOA KỲ Tháng Mười 4, 2012 Trước hết, nhiều người trong chúng ta chắc còn nhớ những tranh luận ồn ào về “Đền Hồi Giáo ở Ground Zero.”[1] Kế đó, Mục sư Terry Jones ở Gainesville, Florida, đã chiếm tin hàng đầu khi chủ trương “Ngày Đốt-một-Kinh Koran Quốc Tế.”[2] Gần đây hơn, một băng video chống đối và lăng mạ Hồi giáo do một người Mỹ đưa lên mạng Internet đã lôi cuốn theo những biến động trong khắp thế giới Hồi giáo. Đã hẳn, lập trường chính thức của Hoa Kỳ luôn không thay đổi: Chính quyền Hoa Kỳ lên án mọi nỗ lực gieo rắc “bệnh sợ Hồi giáo” — Islamophobia. Người Mỹ tôn trọng đạo Hồi như một tôn giáo hòa bình. Những manh động trái ngược chỉ là việc làm của một thiểu số nhỏ bé — những thành phần bất hảo, những kẻ chủ tâm gây hận thù, và tự quảng cáo. Nhưng đối với các tín đồ Hồi giáo từ Benghazi đến Islamabad, luận cứ vừa nói đã chứng tỏ hoàn toàn vô hiệu. Và họ có đủ lý do chính đáng. Mặc dù giới lãnh đạo Hoa Kỳ có thể cảm thấy thoải mái hơn khi bác bỏ mọi hành động bài Hồi giáo như việc làm của một thiểu số cuồng tín, hình ảnh thực tế lại phức tạp hơn rất nhiều. Những thực tại đó giúp mọi người hiểu được tại sao tôn giáo, trước đây đã được xem như một tích sản trong chính sách đối ngoại, đã trở thành một tiêu sản thuần túy trong những năm gần đây. Chúng ta có thể bắt đầu với bài học lịch sử ngắn gọn. Từ cuối thập kỷ 1940 đến cuối thập kỷ 1980, chủ nghĩa cộng sản đã đem lại cơ sở ý thức hệ cơ bản cho chủ nghĩa toàn cầu của Hoa Kỳ — một tôn giáo áp đảo đặc trưng cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Lập trường phi tôn giáo của Cộng sản đã giúp tăng cường căn bản đồng thuận bền lâu trong chính sách đối ngoại thời Chiến Tranh Lạnh của Hoa Kỳ. Sự kiện Cộng sản vô thần tự nó cũng đã đủ để bị loại bỏ. Đối với nhiều người Mỹ, Chiến Tranh Lạnh đã dựa trên cơ sở đạo lý rõ ràng, rút tỉa từ lòng tin đây là cuộc chiến giữa người sợ Chúa và người phủ nhận Chúa. Bởi lẽ luôn đứng về phía Thượng Đế, người Mỹ đương nhiên chờ đợi được Thượng Đế nuông chiều yêu quý. Suốt trong các thập kỷ khi chủ nghĩa chống Cộng đã chi phối chính sách Hoa Kỳ, các chiến lược gia Cơ Đốc-Do Thái ở Hoa Thịnh Đốn — rút tỉa từ tư tưởng thần học, nguyên lý đứng đắn: các tín đồ Cơ Đốc, Do Thái, và Hồi giáo cùng thờ chung một Chúa — đã tìm cách kết nạp người Hồi giáo, ngay cả phái chính thống cực đoan, trong cuộc chiến chống thế giới vô thần. Một ví dụ đặc biệt đáng ghi nhớ là Cuộc Chiến Xô Viết-Afghanistan 1979-1989. Với mục tiêu gây nhức nhối cho lực lượng chiếm đóng Xô Viết, Hoa Kỳ đã quyết định hậu thuẩn phe kháng chiến Afghanistan. Hoa Thịnh Đốn đã ban tặng cho các lực lượng nầy danh hiệu “binh sĩ chiến đấu vì tự do” (freedom fighters), và qua trung gian Saudi Arabia và Pakistan, đã dồn viện trợ cho các thành phần Hồi giáo cực đoan nhất. Khi nổ lực nầy đã đưa đến một thất bại lớn lao cho Xô Viết, Hoa Kỳ đã ca ngợi sự hậu thuẩn dành cho phe thánh chiến Afghanistan như bằng chứng thiên tài chiến lược, không mấy khác một phán quyết của Thượng Đế. Tuy vậy, chẳng bao lâu sau khi quân Xô Viết triệt thoái, các chiến sĩ tự do lại biến thái trở thành phong trào Taliban cực lực chống Tây phương, cung cấp khu an toàn cho al-Qaeda trong suốt thời gian chuẩn bị (thành công) tấn công vào Hoa Kỳ. Rõ ràng, đây là cây gậy thọc vào bánh xe kế hoạch của Thượng Đế. Với sự phát động cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố, chủ thuyết Hồi giáo đã thay thế chủ nghĩa Cộng sản như hệ thống tín điều, nếu không được chế ngự, sẽ đe dọa toàn cầu với những hậu quả nghiêm trọng đối với thế giới tự do. Những thành phần đã được Hoa Thịnh Đốn trang bị vũ khí như những chiến binh tranh đấu vì tự do nay đã trở thành những kẻ thù nguy hiểm nhất của Hoa Kỳ. Vì vậy, ít ra thành viên của hệ thống an ninh quốc gia tin, hay được biết tin tưởng, hạn chế mọi bàn luận về khả năng chủ nghĩa toàn cầu được quân sự hóa trong thực tế phải chăng là phương cách tốt nhất để phát huy các giá trị tự do hay phụng sự quyền lợi Hoa Kỳ. Trong mọi tình huống, như một châm ngôn vận động tăng cường hàng ngũ, cuộc chiến chống chủ thuyết Hồi giáo đã gặp phải nhiều khó khăn ngay từ đầu. Mặc dù các nhà làm chính sách đã tìm hết cách để ngăn ngừa “chủ thuyết Hồi giáo,” (Islamism) hòa nhập với chính “đạo Hồi” (Islam) trong tâm thức quần chúng, một số ngày một đông người Mỹ — hoặc thực tình lo sợ hay đầu óc bệnh hoạn — đã xem đây như một nổ lực “phân biệt“(distinction) nhưng chẳng có “dị biệt” (difference). Nổ lực của chính quyền Bush chung quanh vấn đề nầy qua việc gói ghém phổ cập vấn đề dưới chiêu bài chủ nghĩa khủng bố cuối cùng cũng đã thất bại, bởi lẽ “từ phổ quát” (generic term) đã không thể đem lại một giải thích về động lực. Dù chính quyền xoay xở đủ chiều, động lực trong địa hạt nầy hình như luôn bị buộc chặt với các vấn đề tôn giáo. Đặt Thượng Đế vào vị trí nào trong chính sách hậu 11/9 là một thử thách đích thực đối với giới làm chính sách, nhất là với George W. Bush, người thật lòng tin đã được Thượng Đế lựa chọn để bảo vệ Hoa Kỳ trong thời buổi ly loạn. Khác với Cộng sản và luôn tin tưởng vào sự hiện hữu của Thượng Đế, người Hồi giáo luôn hăng say tôn sùng Thượng Đế một cách điên dại đáng ngạc nhiên. Thực vậy, trong chiến dịch gay gắt tố cáo Hoa Kỳ và trong các hành động tích cực chống lại bạo lực Hoa Kỳ, họ đã luôn chứng tỏ là những “tín-đồ-báo-oán” trung tín (avenging agents) của Thượng Đế. Đối đầu với quỷ Satan lớn nhất, họ tự nhận mình đang thực thi ý chí của Thượng Đế. CHIẾN TRANH NHÂN DANH JESUS Cuộc bàn luận chung quanh đề tài ai là người thực sự đại diện cho ý chí của Thượng Đế là cuộc thảo luận các chính quyền kế tiếp George W. Bush và Barack Obama đã không ngừng tìm cách tránh né. Các quan chức nhà nước luôn nhấn mạnh, Hoa Kỳ không tuyên chiến với đạo Hồi. Tuy vậy, trong thế giới Hồi giáo hải ngoại, mặc dù Hoa Thịnh Đốn đã nhiều lần phủ nhận, thái độ ngờ vực vẫn hiện hữu và không phải không có lý do chính đáng. Chúng ta có thể nhắc lại trường hợp Tướng William G. (Jerry) Boykin. Năm 2002, khi còn tại chức, vị tướng bộ binh được ban nhiều huy chương cao quý nầy, trong quân phục, trong một chuổi 30 dịp tham dự lễ nhà thờ, đã đưa ra giải đáp riêng của chính mình về câu hỏi nổi tiếng của George W. Bush: “Vì sao họ ghét chúng ta?”[3] Nhận thức của Boykin rất khác với tổng tư lệnh của mình: “Câu trả lời: vì chúng ta là một quốc gia cơ đốc. Họ ghét chúng ta là vì chúng ta là một quốc gia của các tín đồ [cơ đốc].”[4] Trong một dịp khác, tướng Boykin đã nhớ lại lần đối thoại với một thủ lãnh Somali tự cho mình đang được Allah che chở. Boykin đã tuyên bố, vị thũ lãnh đang tự đánh lừa, và chắc sẽ phải chịu hình phạt: “Tôi biết Thượng Đế của tôi vĩ đại hơn Allah của ông ta. Tôi biết Thượng Đế của tôi là Chúa Trời đích thực và [Allah] của ông ta chỉ là một thần tượng.”[5] Boykin nhấn mạnh, Hoa Kỳ chỉ có thể thành công khống chế các địch thủ nếu “chúng ta chống các địch thủ đó nhân danh Jesus.”[6] Khi những nhận định của Boykin được báo chí dòng chính đăng tải, Tòa Bạch Ốc, Bộ Ngoại Giao, và Ngũ Giác Đài đều vội vã lên tiếng quả quyết: không chia sẻ quan điểm của vị tướng bộ binh. Tuy nhiên, những dấu hiệu sau đó đều gợi ý, mặc dù sống sượng, Boykin thực sự đã diễn đạt những cách nhìn được nhiều người Mỹ chia sẻ. Bằng cớ rõ ràng đã đến tức khắc: mặc dù các phản ứng giận dữ, tướng Boykin vẫn được tiếp tục giữ chức vụ quan trọng Phó Thứ trưởng quốc phòng đặc trách tình báo. Điều nầy có nghĩa: chính quyền Bush đã xem vi phạm của Boykin chỉ là một lầm lỗi không đáng lưu tâm. Để hiểu rõ dị biệt, chúng ta thử tưởng tượng tai họa nào có thể ập xuống đầu một quan chức cao cấp Hoa Kỳ dám mở miệng nói với Thủ Tướng Do Thái Benjamin Netanyahu: “Thượng Đế của tôi là Chúa Trời thực sự và chúa trời của Ngài chỉ là một thần tượng.” Một dấu hiệu thứ hai đã đến tiếp theo sau ngày Boykin về hưu trí. Năm 2012, Hội Đồng Nghiên Cứu Gia Đình (Family Research Council — FRC) đầy uy lực ở Hoa Thịnh Đốn đã tuyển dụng tướng Boykin vào giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Điều Hành của tổ chức. Chuyên trách về việc “phát huy đức tin, gia đình, và tự do,” Hội Đồng luôn mang phong thái một định chế nặng về Cơ Đốc. Sinh hoạt của FRC luôn cuốn hút các chính trị gia nặng ký của đảng Cộng Hòa. FRC là thành viên dòng chính bảo thủ, không mấy khác Liên Hiệp Tự Do Công Dân Hoa Kỳ (American Civil Liberties Union) là thành viên dòng chính tự do cánh tả. Sư kiện FRC thu dụng, như quan chức điều hành hàng đầu, một người có quan điểm về Hồi giáo như Boykin, là một hành động đáng ghi nhận. Ít nhất, bất cứ tổ chức nào tuyển dụng tướng hưu trí Boykin rõ ràng đã không thấy gì đặc biệt đáng chê trách trong thế giới quan của ứng viên. Họ không thấy sẽ gặp bất trắc trên bình diện chính trị khi liên kết với Jerry Boykin. Nói một cách khác, Jerry Boykin đồng chí hướng với họ. Rất có thể, khi thu dụng Boykin, FRC đã có ý định gửi đi một tín hiệu: Về những vấn đề trong phạm vi chuyên môn của quan chức điều hành hàng đầu (chief operating officer — COO), nhất là chiến tranh, tính bất thích ứng chính trị thọc-ngón-tay-cái-vào-mắt đã trở thành một đức tính. Chỉ cần tưởng tượng tổ chức NAACP lựa chọn lãnh tụ Nation of Islam, Louis Farrakhan, làm chủ tịch, chúng ta cũng có thể hiểu được Quốc Gia Islam rõ ràng đã tán đồng quan điểm của Farrakhan về chủng tộc. Sự kiện FRC vồ vập tuyển dụng tướng Boykin đã làm rõ một điều: gạt bỏ mọi hình thức biểu lộ thái độ e ngại Hồi giáo, đơn thuần như việc làm của một số người Mỹ ngoài lề không đáng kể, là một việc làm sai lầm. Cũng như với những thành phần hậu thuẩn Thượng Nghị sĩ Joseph McCarthy, người trong những ngày đầu của Chiến Tranh Lạnh, nhìn đâu cũng thấy cán bộ cộng sản, ngay cả dưới mọi bàn giấy của Bộ Ngại Giao, những người can dự vào những hành động của tướng Boykin là những người có can đảm công khai bày tỏ thái độ, một hành động một số đông hơn rất nhiều cũng đang hậu thuẩn một cách âm thầm. Nói một cách khác, những gì — người Mỹ trong thập kỷ 1950 biết về chủ thuyết McCarthy — ngày nay đang tái xuất hiện dưới hình thức chủ thuyết Boykin. Các sử gia bất đồng quan điểm sâu xa về chủ thuyết McCarthy đã phản ảnh hoặc một dạng chống cộng đồi trụy hoặc một biểu lộ trung thực nhất thái độ chống cộng. Cũng vậy, các quan sát viên ngày nay sẽ khó thể đồng thuận trong cảm nhận về chủ thuyết Boykin chỉ phản ảnh một đáp ứng hăng say hay hoàn toàn khùng điên đối với đe dọa Hồi Giáo. Tuy nhiên, một điều không thể chối cãi: cũng như một nghị sĩ đàn em mới đắc cử từ Wisconsin, trong tuổi hăng say, đã đội lốt một dạng thức không phải trò đùa trong chính trị Hoa Kỳ; trong một tư thế tương tự,” một chiến binh biệt kích ngày trước, nay đã trở thành một tu sĩ đam mê truyền bá thánh kinh Jesus Christ.”[7] Điều đáng ghi nhận, trong tư cách người sáng lập chủ thuyết Boykin, quan điểm của tướng bộ binh hưu trí rất giống với các người cố nghị sĩ McCarthy ưa thích. Cũng như McCarthy, Boykin tin, trong khi kẻ thù bên ngoài Hoa Kỳ đã là mối nguy lớn lao, kẻ thù bên trong còn là một mối nguy lớn lao hơn rất nhiều. Trong một băng video năm 2010, Boykin đã tuyên bố: “Tôi đã nghiên cứu phong trào dấy loạn Marxist. Đó là một phần trong quá trình huấn luyện của tôi. Và tất cả những gì tôi biết đã được làm trong bất cứ cuộc dấy loạn Marxist nào, đều đang được làm ở Hoa Kỳ hiện nay.”[8] Minh thị so sánh Hoa Kỳ dưới thời Barack Obama với Liên Bang Xô Viết, TQ dưới thời Mao Trạch Đông, và Cuba dưới thời Castro, Boykin cáo buộc: ngụy trang dưới danh hiệu cải cách y tế,”chính quyền Obama đang bí mật tổ chức một lực lượng cảnh sát võ trang,’một lực lượng sẽ có nhiệm vụ kiểm soát quần chúng ở Hoa Kỳ’.”[9] Boykin còn nói, lực lượng mới nầy đang được thiết lập, lớn hơn cả quân đội Hoa Kỳ, và sẽ vận hành giống như “Đội quân Áo Nâu của Hitler” (Hitler’s Brownshirts) ở Đức. Tất cả những thứ nầy đang diễn ra trước những cặp mắt ngây thơ và không chút nghi ngờ của chúng ta. CHỦ THUYẾT BOYKIN: MỘT CHỦ THUYẾT McCARTHY MỚI Có bao nhiêu người Mỹ đã chấp nhận nhãn-quan-luôn-có-âm-mưu-cộng-sản-ở- khắp-nơi của McCarthy trong địa hạt chính trị Hoa Kỳ và quốc tế? Rất khó lòng biết chắc; nhưng cũng khá đông ở Wisconsin để giúp ông tái cử năm 1952, với một đa số thoải mái 54%-46%, một đa số đủ gây bức xúc cho các chính trị gia đang âu lo McCarthy sẽ cáo buộc họ quá “mềm yếu đối với chủ nghĩa Cộng sản.”[10] Bao nhiêu cử tri Mỹ đang chấp nhận quan điểm quá khích của Boykin? Một lần nữa, cũng rất khó trả lời; nhưng cũng khá đông, đủ để thuyết phục các nhóm tài trợ và hậu thuẩn của FRC thu dụng ông ta, tin tưởng việc làm của họ sẽ giúp đánh bóng thay vì làm lu mờ hình ảnh của tổ chức. Đã hẳn, Boykin không hề gây tai hại cho khả năng thu hút các chính trị gia cực hữu nặng ký ở Hoa Kỳ. Hội Nghị Thượng Đỉnh “Values Voter Summit” của FRCgần đây, với sự tham dự của những đảng viên Cộng Hòa sáng chói như ứng cử viên Phó Tổng Thống Paul Ryan, nguyên Nghị Sĩ Cộng Hòa và ứng viên tổng thống sơ bộ Rich Santorum, Lãnh tụ Đa số Hạ Viện Eric Cantor, và Dân biểu Michele Bachmann — với chính Jerry Boykin, tham luận viên trước hội nghị về đề tài “Do Thái, Iran, và Tương Lai của Văn Minh Tây Phương”. Vào đầu tháng 8-2012, Mitt Romney cũng đã gặp riêng nhóm“bảo thủ xã hội tai mắt,” prominent social conservatives, kể cả Boykin. Liệu sự xuất hiện của họ tại hội nghị FRC đã mang ý nghĩa: Ryan, Santorum, Cantor, và Bachmann đều chia sẻ các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết Boykin? Chắc chắn không nhiều hơn những khuôn mặt muốn khai thác tiếng tăm của McCarthy khi có lợi cho sự nghiệp chính trị riêng của mình. Cũng như Richard Nixon trước đây chẳng hạn, họ không nhất thiết hoàn toàn đồng quan điểm với tất cả các lời cáo buộc của McCarthy. Tuy vậy, sự hiện diện của các nhân vật Cộng Hòa hàng đầu trong hội nghị FRC bên cạnh tham luận viên Boykin chắc chắn cũng đã gợi ý: họ không thấy có gì đặc biệt đáng trách hay có thể có ảnh hưởng tai hại cho sự nghiệp chính trị của họ do thế giới quan của Boykin. Dù sao, chỉ chừng ấy so sánh chủ thuyết McCarthy với chủ thuyết Boykin cũng tạm đủ. Nghị sĩ McCarthy đã gây nhiều rắc rối tai hại ở quốc nội: săn lùng nạn nhân, phá hoại sự nghiệp chính trị, và chà đạp dân quyền, cũng như đã cung ứng cho chính trị Hoa Kỳ một bầu không khí gánh xiếc. Trên bình diện đối ngoại, tác động của chủ thuyết McCarthy cũng chỉ tăng cường một đồng thuận chống cộng đang hiện hữu. Các trò hề của McCarthy đã không tạo thêm thù địch ở hải ngoại. Chủ thuyết McCarthy chỉ tái xác quyết cộng sản thực sự là kẻ thù, trong khi đã làm gia tăng cái giá quá cao các nạn nhân chính trị phải trả. Chủ thuyết Boykin, ngược lại, đã có nhiều tác động đối ngoại. Không như chủ thuyết McCarthy, chủ thuyết Boykin không gieo sợ hải trong lòng các ứng viên đương nhiệm đang vận động tái cử. Giành được hậu thuẩn hay làm mếch lòng tướng Boykin sẽ không quyết định kết quả của bất cứ cuộc bầu cử nào. Tuy nhiên, qua những biểu lộ khác nhau, chủ thuyết Boykin đang nhen nhúm và tiếp tay nuôi dưỡng các cảm nhận chống Mỹ trong thế giới Hồi giáo. Chủ thuyết Boykin còn tăng cường lòng tin của người Hồi giáo: Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố thực ra là cuộc chiến chống lại chính họ. Chủ thuyết Boykin xác nhận những gì người Hồi giáo đã được chuẩn bị để tin tưởng: hệ thống giá trị của Mỹ và hệ thống giá trị của Hồi giáo không thể hòa đồng. Các tổng thống và ngoại trưởng Hoa Kỳ luôn bám chặt những gì cần và phải nói, ca ngợi đức tin Hồi giáo như một truyền thống tôn giáo vĩ đại và khoa trương những hành động quân sự của Hoa Kỳ nhằm giúp người Hồi giáo trong quá khứ. Tuy nhiên với uy tín của Hoa Kỳ trong các xứ Iraq, Afghanistan, Pakistan, và nhiều xứ khác trong vùng trung Đông Nới Rộng, đã tụt xuống mức số âm, tiếng nói của Hoa Kỳ cũng chẳng gây được đồng vọng nào dù chỉ nhỏ bé. Chừng nào đa số người Mỹ kiêu căng không tin ở những luận cứ ý thức hệ được vun đắp để biện minh cho chính sách can thiệp của Hoa Kỳ trong thế giới Hồi giáo — như quan niệm tự do “của họ”, kể cả tự do tôn giáo, xét cho cùng cũng không mấy khác với quan niệm “của chúng ta” — chừng đó người Hồi giáo cũng không dễ bị thuyết phục. Trong ý nghĩa đó, sự kiện phe hậu thuẩn chủ thuyết Boykin đã bác bỏ các luận cứ nói trên cũng đang khuyến khích người Hồi giáo noi theo gương của họ. Và giải pháp quân sự lại được tăng cường như phương tiện ưa thích trong chính sách Hoa Kỳ đối với thế giới Hồi giáo và sẽ khuyếch đại các sai lầm từ lâu đã định hình kỷ nguyên hậu 11/9. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 05-10-2012 [1] Mosque at Ground Zero. [2] International Burn-a-Koran Day. [3] Why do they hate us? [4] The answer to that is because we are a christian nation. We are hated because we are a nation of believers. [5] I knew that my God was a real God and his was an idol. [6] …the United States would succeed in overcoming its adversaries only if “we come against them in the name of Jesus.” [7] …the former special-ops-warrier-turned-”ordained minister with a passion for spreading the Gospel of Jesus Christ.” [8] I’ve studied Marxist insurgency. It was part of my training. And the things I know that have been done in every Marxist insurgency are being done in America today. [9] …the Obama administration is secretly organizing a “constabulary force that will control the population in America.” [10] …soft on Communism.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2012 4:33:37 GMT 9
THỂ THỨC BẦU CỬ TỔNG THỐNG HOA KỲ
Nguyễn Thế Đại Hoa Kỳ là một nước có truyền thống dân chủ lâu đời vào bậc nhất thế giới, đã bầu các chức vụ cầm đầu chính phủ Liên bang từ hơn 200 năm qua, trong khi đó, trên thế giới vẫn còn có nhiều nước đang chìm đắm trong các chế độ quân chủ độc tài, quân phiệt chuyên chế, hay hoặc đang bị cai trị thuộc địa bỡi một nước thực dân khác tham lam và tàn bạo ! Chúng ta, những con dân nước Việt đã mất nước trong tay của đảng Việt cọng gian ác, bán nước, hại dân, nên đã phải bỏ nước ra đi ! Nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ đã cưu mang chúng ta, giúp chúng ta lập lại cuộc đời mới, và Hoa Kỳ chính là quê hương thứ hai của chúng ta vậy ! Năm nay, năm 2012 là năm có cuộc bầu cử Tổng Thống cho nhiệm kỳ mới. Chúng ta có bổn phận của người công dân là phải đi bầu. Đối với người Việt chúng ta, ngoài việc xây dựng tổ quốc, quê hương thứ hai của mình, kế theo, việc làm này còn có mục đích là góp một bàn tay cho công cuộc khôi phục lại quyền Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho dân tộc Việt-Nam ta nữa đấy ! Để giúp cho quí đồng hương trong Cộng đồng người Việt chúng ta hiểu biết về một khía cạnh nhỏ trong sinh hoạt chính trị, hầu có thể hành xử quyền công dân của mình một cách đầy đủ và thông suốt trong mùa bầu cử sắp tới, chúng tôi viết bài này với mục đích trình bày những nét khái quát, nhưng cơ bản về thể thức bầu cử Tổng Thống tại đất nước Hoa Kỳ này. Theo Hiến pháp (Constitution) năm 1787 của Hoa Kỳ (áp dụng từ năm 1789), Tổng Thống (President) là nhân vật quan trọng trong hệ thống chính quyền Hoa Kỳ, đại diện cho chính quyền và sự hợp nhất của dân tộc, nắm quyền về Hành pháp (Executive power). Hiến pháp Hoa Kỳ qui định : Tổng Thống có nhiệm kỳ là 4 năm và có quyền tái ứng cử 1 lần, chiếu theo Tu chính án thứ 22 (22nd Amendment), phê chuẩn ngày Feb.-27-1951. Từ năm 1951 trở về trước, có 33 đời Tổng thống với những nhiệm kỳ khác nhau như sau : * 4 nhiệm kỳ : duy nhất có Tổng Thống F. D. Roosevelt (D), đời thứ 32. * 2 nhiệm kỳ : có 9 Tổng Thống thuộc các đời : thứ 1, 3, 4, 5, 7, 18, 26, 28, 33. * 1 nhiệm kỳ : còn lại 23 đời Tổng Thống đều chỉ ở 1 nhiệm kỳ mà thôi. Đó là Tổng Thống của các đời : thứ 2, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13,14, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 27, 29, 30 và 31. (Có nhiều lý do : các vị này hoặc không ra tái ứng cử hay hoặc có tái ứng cử, nhưng bị thất cử . v. v..). Tiếp tục theo trình tự từ trước đến giờ thì cứ 4 năm, vào những năm chẵn, sẽ có bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống (như các năm : 1992,1996, 2000, 2004, 2008, 2012 . . . . ) A.- PHƯƠNG THỨC BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ Việc bầu cử Tổng Thống Mỹ không theo lối “phổ thông đầu phiếu” và “bầu cử trực tiếp” như tại Việt-Nam Cọng hòa ta trước đây, mà là bầu cử theo thể thức “Cử tri đoàn” (electoral college). 1) “CỬ TRI ĐOÀN” (ELECTOR) LÀ GÌ ? QUỐC HỘI (Congress) là cơ quan Lập pháp của Liên bang (Federal Legislature) gồm có 2 Viện : Thượng nghị viện (Senate) và Hạ nghị viện (House of Representative). * Thượng nghị viện là cơ quan có tính cách đại diện cho các Tiểu bang trong Liên bang. Dù lớn hay nhỏ, dân số dù nhiều hay ít, mỗi Tiểu bang đều có quyền bầu 2 Thựợng nghị sĩ (Senator) với nhiệm kỳ là 6 năm. Như vậy, Thượng nghị viện Hoa Kỳ có cả thảy là 100 Thượng nghị sĩ (2 tns X 50 tb). * Hạ nghị viện là cơ quan có tính cách đại diện cho nhân dân Hoa Kỳ. Số Dân biểu (Representative) của mỗi Tiểu bang được qui định dựa theo dân số của Tiểu bang đó. Cứ vào khoảng mỗi 500.000 dân, thì có 1 Dân biểu, với nhiệm kỳ là 2 năm. Bỡi vậy, Tiểu bang nào có đông dân cư sẽ bầu ra nhiều Dân biểu hơn. Ngược lại, Tiểu bang nào dân số ít thì sẽ có ít Dân biểu được bầu. Hiện nay, tổng số Dân biểu của Hạ nghị viện Hoa Kỳ là 435 vị. Tổng số Thượng nghị sĩ và Dân biểu cọng chung lại (100 + 435) = 535. Con số 535 là số Cử tri đoàn tính từ Quốc hội. *Ngoài ra, Vùng Hoa Thịnh Đốn, tức Quận hạt Columbia (District of Columbia), không phải là 1 Tiểu bang, và mặc dù không được qui định có một số Thượng nghị sĩ hay Dân biểu nào, nhưng theo Tu chính án thứ 23 (23rd Amendment), phê chuẩn ngày March-29-1961, qui định nơi đây được tính có 3 đơn vị “Cử tri đoàn”. Cọng thêm 3, ta có : (535 + 3 = 538). Con số 538 chính là con số “Cử tri đoàn” (Elector) để dùng trong việc bầu cử Tổng Thống Mỹ. 2) NGÀY ĐI BẦU CỦA “NGƯỜI DÂN CỬ TRI” (POPULAR VOTERS) Hiến pháp qui định : “Ngày Thứ Ba sau ngày Thứ Hai đầu tiên của tháng 11, năm thứ Tư , sau kỳ bầu cử Tổng Thống lần trước, là ngày đi bầu của “Người dân cử tri”. Kỳ bầu cử lần này, ngày đi bầu của “Người dân Cử tri” sẽ là ngày Thứ Ba, 06-11-2012. Trong ngày này, “Người Dân Cử tri” sẽ đi bầu thành phần “Cử tri đoàn”(Electors) tại mỗi Tiểu bang (mỗi Tiểu bang bầu riêng). Trước ngày bầu cử, mỗi đảng chính trị (có ứng cử viên ra tranh cử) như 2 đảng Cọng hòa và Dân chủ, sẽ cử ra số thành viên “Cử tri đoàn” đại diện cho đảng của mình. Lấy thí dụ như tại TB Utah, chúng ta có “Cử tri đoàn” là 6 (vì có 4 Dân biểu và 2 Thượng nghị sĩ), đảng Cọng hòa cũng như đảng Dân chủ, mỗi đảng cử 6 thành viên “Cử tri đoàn” của đảng mình. Dĩ nhiên những người này được đảng đưa ra phải là những đảng viên trung kiên, ưu tú, có nhiều thành tích trong quá khứ, để dễ tranh thắng với các đảng khác . “Người Dân Cử tri” sẽ chọn để bỏ phiếu cho những thành viên “Cử tri đoàn’ này (đại diện cho những liên danh ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống). Những thành viên “Cử tri đoàn” này phải hứa với đảng mình là phải bỏ phiếu cho ứng cử viên Tổng thống và Phó Tổng Thống thuộc đảng của mình trong lần bầu cử thứ hai, do chính họ bỏ phiếu bầu trực tiếp. Tuy nhiên, trong quá khứ, từ năm 1820 đến năm 1988, cũng đã xãy ra có 16 thành viên đã “xé rào” không bỏ phiếu cho ứng cử viên của đảng mình. Mỗi Tiểu bang được kiểm phiếu riêng rẽ, chứ không cọng chung 50 Tiểu bang lại. Kết quả bầu cử được tính theo phương thức “Winner take all”, nghĩa là liên danh Tổng Thống , Phó Tổng Thống nào (hay đúng hơn, “Cử tri đoàn” đại diện cho liên danh ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống nào) được nhiều phiếu hơn, coi như đã thắng tại Tiểu bang đó và nhận hết tất cả số thành viên “Cử tri đoàn” của Tiểu bang đó.Thí dụ: tại Tiểu bang Utah, nếu “Cử tri đoàn” đại diện cho liên danh ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống Mitt Roomney, Paul Ryan thắng phiếu, thì liên danh này sẽ ôm trọn số thành viên “Cử tri đoàn” của Tiểu bang này là 6. Còn liên danh kia thì không có gì cả. Đặc biệt, trên toàn 50 Tiểu bang, chỉ có 2 Tiểu bang là : Maine và Nebraska là kiểm phiếu theo từng Địa hạt dân biểu (Congressional strict), chứ không kiểm phiếu chung toàn Tiểu bang như 48 Tiểu bang kia. Do đó, các ứng cử viên có thể chia nhận được thành viên “Cử tri đoàn” tùy theo mỗi địa hạt dân biểu. Thí dụ như tại Nebraska, con số thành viên “Cử tri đoàn” là 5, vì tính phiếu theo từng địa hạt, nên 2 liên danh Cọng hòa và Dân chủ có thể chia nhau trong 5 số thành viên “Cử tri đoàn” kia, chứ không phải đại diện liên danh nào hơn phiếu là được ôm trọn một mình. Vào tối 06-11-2012, các đại diện liên danh ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống sẽ được cọng chung số thành viên “Cử tri đoàn’ mà mình đã thắng trong 50 Tiểu bang. Liên danh nào thu được 270 thành viên “Cử tri đoàn”, sẽ được coi như là đã thắng cử chưa chính thức trên toàn quốc (liên danh thắng có thể thu được con số thành viên “Cử tri đoàn” cao hơn con số 270, tùy theo mức độ được tín nhiệm của liên danh ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống cao nhiều hay ít, và con số 270 chính là con số thấp nhất, nhưng cũng đã đủ để được thắng cử vậy).. Sở dĩ kết quả bầu cử lần 1 trong tháng 11 này được gọi là chưa chính thức, vì còn phải chờ kết quả bầu cử lần 2 trong tháng 12, do chính các vị thành viên “Cử tri đoàn” trực tiếp bỏ phiếu bầu cho tổng Thống và Phó Tổng Thống. 3) NGÀY BẦU CỬ CỦA “CỬ TRI ĐOÀN” (ELECTORS) Hiến pháp qui định : “ Ngày Thứ Hai đầu tiên, sau ngày Thứ Tư thứ hai, của tháng 12, là ngày đi bầu của các thành viên “Cử tri Đoàn” “. Trong mùa bầu cử của năm nay, ngày này chính là ngày : Thứ Hai, 17-12-2012. Vào ngày này, tất cả thành viên “Cử tri đoàn” của 50 Tiểu bang và Quận hạt Columbia phải đến thủ phủ của Tiểu bang mình, để bỏ phiếu bầu trực tiếp Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Trong lần bầu này, Tổng Thống và Phó Tổng Thống được bầu riêng rẽ, chứ không bầu theo liên danh như “Người dân Cử tri” đã bầu trong lần 1. Thống đốc Tiểu bang là người chứng thực kết quả bầu phiếu của “Cử tri đoàn” và có nhiệm vụ chuyển kết quả bầu cử về Văn phòng Chủ tịch Thượng nghị viện. 4) NGÀY KIỂM PHIẾU ĐÃ BẦU CỦA “CỬ TRI ĐOÀN” Hiến pháp qui định : “Ngày 06 tháng 1, năm sau năm bầu cử, lúc 1.00 pm, tại trụ sở Thượng nghị viện, là ngày, giờ và địa điểm kiểm phiếu bầu của các thành viên “Cử tri đoàn””. Kỳ bầu cử lần này, ngày kiểm phiếu bầu của các thành viên “Cử tri đoàn” chính là ngày Chủ nhật, 06-01-2013. Đến ngày này, Chủ tịch Thượng nghị viện sẽ khui, kiểm và tổng kết để công bố kết quả bầu cử của các thành viên “Cử tri đoàn”. Ứng cử viên Tổng thống nào nhận đủ 270 phiếu bầu (con số thấp nhất) sẽ được chính thức công nhận là đắc cử. Về phiếu bầu Phó Tổng Thống cũng được làm như thế. * Trong trường hợp nếu không có ứng cử viên Tổng Thống nào nhận đủ 270 phiếu bầu của “Cử tri đoàn” thì coi như không có ai đắc cử. Trường hợp này, Hạ nghị viện Hoa Kỳ sẽ chọn 3 ứng cử viên Tổng Thống có số phiếu cao nhất để cho các Dân biểu Liên bang bỏ phiếu bầu chọn lấy 1. Tuy số Dân biểu của mỗi Tiểu bang nhiều, ít khác nhau, nhưng mỗi phái đoàn Dân biểu Liên bang của mỗi Tiểu bang đều sẽ chỉ bỏ 1 lá phiếu bầu chọn mà thôi. Thí dụ : Tiểu bang CALIFORNIA cho dù có 55 Dân biểu Liên bang, nhưng phái đoàn Dân biểu của Tiểu bang này, sau khi nhất trí chọn 1 người nào, họ chỉ được phép bỏ 1 lá phiếu mà thôi. Các Tiểu bang ALASKA, DELAWARE, MONTANA, NORTH DAKOTA, SOUTH DAKOTA, VERMONT và WYOMING, mỗi Tiểu bang chỉ có 1 Dân biểu mà thôi, nhưng họ vẫn có quyền bỏ 1 lá phiếu, giống như Tiểu bang CALIFORNIA vậy. Trường hợp như vừa nói bên trên rất hiếm khi xãy ra. Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, chỉ có 2 lần xãy ra vào các năm : 1800 và 1824 như sau : 1) Năm 1800, có 2 ứng cử viên Tổng Thống, đó là : (1) THOMAS JEFFERSOH (DR, tức đảng Demacratic Republican, đảng tiền thân của đảng Democrat là đảng Dân chủ bây giờ). Ông này có số phiếu thành viên “Cử tri đoàn” là 73, còn số phiếu của “Người dân cử tri” thì không được biết (không có thông tin). (2) AARON BURR (DR). Số phiếu thành viên “Cử tri đoàn” của ông này cũng là 73, và số phiếu “Người dân cử tri” cũng không được biết (vì cũng không có thông tin). Hai người đồng phiếu, và con số 73 chưa phải là con số quá bán thấp nhất. Do đó Hạ nghị viên phải bỏ phiếu chọn một trong 2 người này. Kết quả ông THOMAS JEFFERSON được bầu chọn là Tổng Thống đời thứ 3, nhiệm kỳ (1802-1809). 2) Năm 1824, có 4 ứng cử viên Tổng Thống ra tranh cử với kết quả phiếu bầu như sau : (1) JOHN QUINCY ADAMS (DR). Phiếu “Người dân cử tri” ông có 113,122 , phiếu thành viên “Cử tri đoàn” ông được 84. (2) ANDREW JACKSON (DR). Phiếu “Người dân cử tri” có 151,271 , phiếu thành viên “Cử tri đoàn” được 99.. (3) HENRY CLAY (DR), Phiếu “Người dân cử tri” có 46,587 , phiếu thành viên “Cử tri đoàn” được 37. (4) WILLIAM H. CRAWFORD (DR). Phiếu “Người dân cử tri” ông có 44,282 , phiếu thành viên “Cử tri đoàn” có 41. Tóm lại, 4 ông này không người nào có được số phiếu “Cử tri đoàn” quá bán, Hạ nghị viện phải bỏ phiếu bầu chọn một trong ba ông số (1), (2) và (4). Kết quả ông JOHN QUINCY ADAMS đã đắc cử là Tổng Thống Hoa Kỳ đời thứ 6, nhiệm kỳ (1825-1829). * Về phần Phó Tổng Thống, nếu không có ứng cử viên Phó Tổng Thống nào nhận đủ số phiếu “Cử tri đoàn” quá bán (như trong hiện tại,con số này là 270), thì Thượng nghị viện Hoa Kỳ sẽ chọn ra 2 ứng cử viên Phó Tổng Thống có số phiếu cao nhất , để cho toàn thể 100 vị Thượng nghị sĩ của Thượng nghị viện bỏ phiếu chọn lựa. 5) NGÀY NHẬM CHỨC CỦA TÂN TỔNG THỐNG Hiến pháp qui định : “Ngày 20 tháng 01 của năm kế năm có bầu cử sẽ là ngày nhậm chức của tânTổng Thống và Phó Tổng Thống”. Kỳ bầu cử năm này, ngày đó sẽ là ngày Chủ nhật, 20-01-2013. Nếu ngày này rơi vào ngày Chủ nhật, thì Tổng Thống và Phó Tổng Thống sẽ nhậm chức trong phòng, và ngày hôm sau, ngày Thứ Hai mới làm lễ cử hành công khai bên ngoài. Đó là trường hợp của Tổng Thống DWIGHT D. EISENHOWER (R), Tổng Thống Hoa Kỳ đời thứ 32 trước đây. Mùa bầu cử năm nay chắc sẽ áp dụng giống như trường hợp của Tổng Thống EISENHOWER vậy thôi ! B.- TRƯỜNG HỢP ỨNG CỬ VIÊN TỔNG THỐNG NHẬN ĐƯỢC PHIẾU BẦU CỦA “NGƯỜI DÂN CỬ TRI” NHIỀU HƠN, NHƯNG LẠI THẤT CỬ Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, đã xãy ra 3 lần về trường hợp như đã nêu dẫn bên trên, vào những năm bầu cử : 1876, 1888 và 2000 . * Năm 1876, ứng cử viên Tổng Thống của đảng Dân chủ là SAMUEL J. TILDEN đã thất cử , dù ông đã thắng trên số phiếu bầu của “Người dân cử tri” với con số là 4,288,546 phiếu, nhưng ông ông lại thua trên số phiếu bầu của “Cử tri đoàn” với 184 phiếu, trong khi ứng cử viên của đảng Cọng hòa là RUTHERFORD B. HAYES lại đắc cử với số phiếu của “Cử tri đoàn” là 185 (chỉ thắng có 1 phiếu), trong lúc phiếu bầu của “Người dân cử tri” cho ông chỉ có 4,034,311 (thấp hơn ứng cử viên thất cử những 254,235 phiếu). Và ông RUTHERFORD B. HAYES đã trở thành là Tổng Thống đời thứ 19 của Hoa Kỳ, nhiệm kỳ (1877-1881). * Năm 1888, ứng cử viên Tổng Thống GROVER CLEVELAND (D) là Tổng Thống đời thứ 22, nhiệm kỳ 1, tái ứng cử trong nhiệm kỳ 2, đã thất cử, mặc dù ông dẫn đầu với số phiếu bầu của “Người dân cử tri” là 5,534,488, nhưng ông lại chỉ đạt có 168 phiếu bầu của thành viên “Cử tri đoàn”. Trong khi đó, ứng cử viên Tổng Thống BENJAMIN HARRISON (R) lại đắc cử với số phiếu bầu của thành viên “Cử tri đoàn” là 233 phiếu (cao hơn CLEVELAND đến 65 phiếu), mặc dù phiếu bầu của “Người dân cử tri” của ông chỉ có 5,443,892 (thua CLEVELAND đến những 90,596 phiếu). Và ông BENJAMIN HARRISON đã trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đời thứ 23, nhiệm kỳ (1889-1893). Lúc bấy giờ dân số Hoa kỳ còn thấp, nên số Dân biểu nhỏ hơn con số 435, vì thế số thành viên “Cử tri đoàn” nhỏ hơn con số 538. Do đó con số quá bán lúc ấy không phải là 270, mà có lẽ thấp hơn nhiều). * Năm 2000, ứng cử viên Tổng Thống AL GORE (D) đã thất cử, mặc dù ông dẫn đầu số phiếu bầu của “Người dân cử tri’ là 51,003,894, nhưng ông chỉ đạt có 266 phiếu bầu của thành viên “Cử tri đoàn” . Trong khi đó, ứng cử viên Tổng Thống GEORGE W. BUSH (R) lại đắc cử với số phiếu bầu của thành viên “Cử tri đoàn” là 271 phiếu (cao hơn GORE 5 phiếu), mặc dù phiếu bầu của “Người dân cử tri”của ông chỉ có 50,459,211 (thua GORE đến 544,683 phiếu). Và ông GEORGE W. BUSH đã trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đời thứ 54, nhiệm kỳ (2000-2003). C.- BẦU CỬ SƠ BỘ Chúng tôi đề cập đến mục này sau cùng, vì đây là phần chuẩn bị và sửa soạn của các đảng có đưa người ra tranh cử chức vụ Tổng Thống và Phó Tổng Thống . Tóm lại, đây là những sinh hoạt, những công việc phải làm của các đảng phái có đưa người ra tranh cử, trong thời kỳ Tiền bầu cử. Từ những tháng đầu của năm có bầu cử, các đảng có người ra tranh cử đã bận rộn trong các cuộc bầu cử Sơ bộ tại các Tiểu bang. Đây là cuộc chạy đua giữa những người cùng một đảng với nhau, kéo dài cho đến ngày Đại hội đảng mới kết thúc việc chọn lựa người dự tranh chức vụ Tổng Thống và Phó Tổng Thống trong năm đó. Dự tranh có nhiều đảng chứ không phải chỉ có 2 đảng lớn là Cọng Hòa và Dân Chủ. Ngay đối với 2 đảng lớn này, phải nói rằng có tới năm, sáu chục đảng nhỏ Cọng Hòa và Dân Chủ. Bỡi lẽ, mỗi Tiểu bang, họ có những luật lệ, qui tắc khác nhau để chọn lựa ứng cử viên hết sức phức tạp ! Từ việc loại bỏ tổ chức Caucus trước kia (cuộc họp bất kỳ hạn của đảng viên), các đảng lớn tiến tới việc thành lập “Đại hội Đảng”, cho phép toàn thể đảng viên của mình tham gia việc đề cử và chọn lựa ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống. (Trước kia, ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống của 2 đảng do Nghị viện Liên bang và Nghị viện Tiểu bang chỉ định). Những sinh hoạt chính trị của Đảng, có thể là những điều bí mật, trước đây, phải được giữ kín trong nội bộ Đảng. Nhưng về sau này, trong những lần bầu cử Sơ bộ, đường lối, chủ trương của Đảng có dịp được công khai phơi bày cho mọi người dân đều được biết. Đây chính là nét đặc thù về sinh hoạt dân chủ xãy ra duy nhất tại Hoa Kỳ, không có thêm ở một nước thứ hai nào khác. Qua diễn tiến từng bước trong Thể thức bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể rút ra những nhận xét như sau : 1) Trong lần bầu cử thứ nhất của “Người dân cử tri”, các liên danh không cần thắng phiếu nhiều. Chỉ cần thắng 1 phiếu của “Người dân cử tri”,thì đã đủ cho liên danh thắng ôm trọn số thành viên “Cử tri đoàn”của Tiểu bang đó rồi. Bỡi thế, các ứng cử viên chỉ cần quan tâm nhiều đến các Tiểu bang đông dân cư như : - TB California, có thành viên “Cử tri đoàn” là : 55 - TB New York -nt- : 29 - TB Texas -nt- : 38 - TB Florida -nt- : 29 - TB Pennsylvania -nt- : 20 Dành thắng được tại các Tiểu bang đông dân cư thì sẽ dễ dàng đạt được con số quá bán 270, để thắng cử trong đợt đầu. 2) Tuy thắng cử ở đợt đầu dựa trên lá phiếu của “Người dân cử tri”, nhưng chínhlá phiếu của thành viên “Cử tri đoàn” mới là quan trọng hơn, vì nó quyết định cho chung cuộc. Bỡi thế, trong đợt bầu cử lần hai trong tháng 12, các ứng cử viên nhằm tranh thủ cho được : * Lòng tín nhiệm và trung thành của các thành viên “Cử tri đoàn” trong đảng của mình, để nếu không thắng thì cũng giữ được số phiếu căn bản ở thế HÒA. * Tranh thủ thêm lòng tín nhiệm của các thành viên “Cử tri đoàn” trong đảng đối thủ của mình. Nếu đạt được mục tiêu này, số phiếu của mình sẽ vượt quá số phiếu thủ HÒA (của thành viên nội bộ đảng mình bầu ra), tất nhiên, số phiếu của đối thủ sẽ thấp hơn số phiếu thủ HÒA, và có nghĩa là mình được thắng cử vậy. D.- BẢN THỐNG KÊ SỐ “CỬ TRI ĐOÀN” TRÊN 50 TIỂU BANG CỦA HOA KỲ 1) Tb Alabama . . . . . . . . . . . . 9 2) Tb Alaska. . . . . . . . . . . . . . . . . 3 3) Tb Arizona . . . . . . . . . . . . . 11 4) Tb Arkansas . . . . . . . . . . . . . . . 6 5) Tb California . . . . . . . . . . . 55 6) Tb Colorado . . . . . . . . . . . . . . . 9 7) Tb Connecticut . . . . . . . . . 7 8) Tb Delaware . . . . . . . . . . . . . . . 3 9) Tb Florida . . . . . . . . . . . . . . 29 10) Tb Georgia . . . . . . . . . . . . . . . . 16 11) Tb Hawaii . . . . . . . . . . . . . 4 12) Tb Idaho . . . . . . . . . . . . . . . . . 4 13) Tb Illinois . . . . . . . . . . . . . 20 14) Tb Indiana . . . . . . . . . . . . . . . . 11 15) Tb Iowa . . . . . . . . . . . . . . 6 16) Tb Kansas . . . . . . . . . . . . . . . . 6 17) Tb Kentucky . . . . . . . . . . . 8 18) Tb Louisiana . . . . . . . . . . . . . . 8 19) Tb Maine . . . . . . . . . . . . . . 4 20) Tb Maryland . . . . . . . . . . . . . . 10 21) Tb Massachusetts . . . . . . . . 11 22) Tb Michigan . . . . . . . . . . . . . . . 16 23) Tb Minnesota . . . . . . . . . . . 10 24) Tb Mississippi . . . . . . . . . . . . . . 6 25) Tb Missouri . . . . . . . . . . . . 10 26) Tb Montana . . . . . . . . . . . . . . . . 3 27) Tb Nebraska . . . . . . . . . . . . 5 28) Tb Nevada . . . . . . . . . . . . . . . . . 6 29) Tb New Hampshire . . . . . . 4 30) Tb New Jersey . . . . . . . . . . . . . . 14 31) Tb New Mexico . . . . . . . . . . 5 32) Tb New York . . . . . . . . . . . . . . . 29 33) Tb North Carolina . . . . . . . . 15 34) Tb North Dakota . . . . . . . . . . . . 3 35) Tb Ohio . . . . . . . . . . . . . . . . 18 36) Tb Oklahoma . . . . . . . . . . . . . . . 7 37) Tb Oregon . . . . . . . . . . . . . 7 38) Tb Pennsylvania . . . . . . . . . . . . . 20 39) Tb Rhode Island . . . . . . . . 4 40) Tb South Carolina . . . . . . . . . . . 9 41) Tb South Dakota . . . . . . . . . 3 42) Tb Tennessee . . . . . . . . . . . . . . 11 43) Tb Texas. . . . . . . . . . . . . . . 38 44) Tb Utah . . . . . . . . . . . . . . . . . . 6 45) Tb Vermont . . . . . . . . . . . . . 3 46) Tb Virginia . . . . . . . . . . . . . . . . 13 47) Tb Washington . . . . . . . . . 12 48) Tb West Virginia . . . . . . . . . . . . 5 49) Tb Wisconsin . . . . . . . . . . 10 50) Tb Wyoming . . . . . . . . . . . . . . . 3 District of Columbia . . . . . 3 Tổng cọng : Số Cử tri Đoàn toàn quốc là : 538 LỜI KẾT Bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ theo thể thức “CỬ TRI ĐOÀN” như vừa trình bày bên trên quả thật rât quá phức tạp, có không ít những rắc rối linh tinh, và trên thế giới hiện giờ, không có một nước nào đã áp dụng một thể thức bâu cử với nhiều qui chế phức tạp đến như thế ! Bỡi thế, đã có không ít người chỉ trích, muốn canh cải, sửa đổi lại, hay thay thế bằng một thể thức khác đơn giản hơn ! Tuy nhiên, số người bảo thủ không muốn thay đổi lại quá nhiều. Họ cho rằng thể thức này là tốt đẹp và sáng suốt nhất, nếu so với các lề lối bầu cử của các quốc gia khác. Chính cũng vì thế, theo thiển nghĩ của chúng tôi, chúng ta cần nên tìm hiểu nếp sinh hoạt chính trị này, với mục đích trước tiên là để am tường và hành xử đầy đủ bổn phận và quyền hạn của người công dân đối với đất nước quê hương thứ hai của chúng ta. Thứ đến, âu đây cũng là một cơ hội để triển khai và phát huy những suy nghĩ và sáng kiến của mọi người công dân đối với quốc gia mà trong đó có cộng đồng người Việt của chúng ta đấy !
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 9:07:33 GMT 9
Hoa Kỳ cảnh giác với trục liên minh ma quỷ!Hoa kỳ đã phạm phải một sai lầm rất lớn trong chiến lược phòng thủ lâu dài ở thế giới tương lai, vì đã tích cực góp phần vực dậy một nền kinh tế và quốc phòng hùng mạnh thứ hai thế giới hiện nay là Trung Quốc! Hơn bốn mươi năm trước sau những lần “đi đêm” mặc cả với Trung Quốc và Hà Nội, người Mỹ chấm dứt sự có mặt ở miền Nam Việt Nam thông qua việc đàm phán và ký kết hiệp định paris vào ngày 27/01/1973, điều đó đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ chấp nhận bỏ rơi người anh em đồng minh Việt Nam Cộng Hòa dẫn đến kết cuộc quân đội miền nam Việt Nam dần suy yếu và Sài Gòn chính thức thất thủ vào ngày 30/4/1975. Trách nhiệm thuộc về chức sắc nền Đệ nhị Cộng hòa đã không tìm cách tự lực cánh sinh: ngân quỹ quốc gia chủ yếu phụ thuộc, dựa dẫm vào sự viện trợ của người Mỹ cho đến khi người Mỹ rút thang thì Chính phủ VNCH phải chới với và ngã từ trên cao xuống đất mà không thể bấu víu vào đâu được nữa. Việc rút thang này có công đóng góp rất lớn của ông tiến sĩ ngoại trưởng Kit-sinh-gơ, ông ta đã đạt thành quả với ván cờ cao vì quyền lợi của người Do Thái bởi ông là người gốc Do Thái và bản thân đất nước Hoa Kỳ cũng đạt được mục tiêu thí chốt trên bàn cờ chiến lược khi làm sụp đổ, tan rã khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô. Nhưng sự ngoi lên mạnh mẽ về kinh tế, lẫn tiềm lực quân sự của Trung Quốc ngày nay đang là mối lo cho vị thế siêu cường của người Mỹ! Ở vị thế năm nước thường trực, lá phiếu của Trung Quốc luôn phủ quyết và đối nghịch lại các chính sách của Hoa kỳ đồng thời là một nước chống lưng làm bức bình phong cho các cuộc thương lượng về ván cờ hạt nhân của Iran và Bắc Triều Tiên… Trung Quốc thường sử dụng hai nước nói trên như những quân cờ trên bàn đàm phán trong chiến lược ngoại giao; buộc Mỹ và các nước phương Tây phải nhượng bộ nhằm kêu gọi sự ủng hộ từ phía Bắc Kinh; dù thừa hiểu rằng Trung Quốc là kẻ đứng phía sau, bao che, dung túng kể cả việc cung cấp nguyên liệu lẫn phương tiện, kỹ thuật làm giàu Uranium về tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân của hai quốc gia này. Sau sự kiện ngày 11/09/2001, Hoa Kỳ phát động cuộc chiến chống khủng bố và nhanh chóng giải thể các chế độ nhà nước Hồi giáo cực đoan. Tuy nhiên uy tín và vị thế siêu cường số 1 của Hoa Kỳ lại xuống thấp do sa lầy bởi hai cuộc chiến ở Afghanistan và Irac. Cho dù ông Geogth W. Bush có làm sụp đổ chế độ Taliban hay đưa ông Sadam Huisen lên giá treo cổ nhưng nếu nhìn kỹ lại người Mỹ không đạt được nhiều lợi ích như mong muốn? Chỉ có chết chóc, thương tật và những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại cho cả hai phía! Mười hai năm trôi qua, việc tái thiết nhằm ổn định cho cả hai quốc gia nói trên xem ra còn xa vời và một cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế không mong đợi đó là: khủng hoảng tài chính, những khoản nợ công, thất nghiệp tăng cao ở Hoa Kỳ là một sự thật? Theo dự đoán, bước sang thập kỷ 20 của thế kỷ 21 thì nền kinh tế của Trung Quốc sẽ vượt mặt Hoa Kỳ nếu người Mỹ vẫn mãi hao tâm, tổn sức cho những việc triển khai lá chắn phòng thủ tên lửa ở Đông Âu hoặc loay hoay vấn đề hạt nhân của Iran và Bắc triều tiên. Nói như thế không có nghĩa là nước Mỹ lơi lỏng để ba quốc gia nói trên muốn làm gì thì làm! Hoa Kỳ phải có những đối sách rạch ròi và chiến lược thích hợp trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc hiện nay cũng như trong tương lai? Trước thế lực bao che, dung túng vấn đề hạt nhân của Iran, Bắc Triều Tiên cộng với việc xưng hùng, xưng bá gây căng thẳng ở biển đông, vùng Đông Bắc Á như thời gian vừa qua và hiện nay thì những bước đi ngoại giao của Hoa Kỳ sắp tới sẽ ra sao? a. Người Mỹ sẽ thích ứng với những chiến lược nào? - Với các chính sách áp đặt trước đây mà một vùng Châu Mỹ Latin rộng lớn gồm nhiều quốc gia đã từng là sân sau của Mỹ nay đã lần lượt quay lưng với người Mỹ? Một quốc gia Đài Loan nhỏ bé trên bàn cờ chiến lược của Mỹ thời chiến tranh lạnh (cũng là nạn nhân nhưng lại may mắn hơn VNCH) nay không có nhiều lợi thế cho một cuộc chiến tranh quy mô, khi đối đầu với những vũ khí chiến lược tầm xa của Trung quốc? Một đảo quốc Philippin và một quốc gia Thái Lan là những đồng minh luôn bất ổn về chính trị? Một Indonesia, Malaisia hai quốc gia hồi giáo Mỹ không mặn mòi vì những người Hồi Giáo luôn có tư tưởng chống Mỹ? Một đất nước Việt nam vừa là bạn, vừa là thù trong quá khứ ngày nay đã tự biến mình thành rùa già rút cổ, chậm chạp bởi tầm trí thấp bé luôn lo sợ “diễn biến hòa bình”? Như vậy cả vùng Đông Nam Á này không thể làm thế đối trọng chiến lược quân sự lâu dài và có đủ sức ngăn chặn, hạn chế sức phát triển, bành trướng của người Trung Quốc trong tương lai. - Người Nhật sau thế chiến thứ hai, phải tận lực tập trung vào phát triển kinh tế và xây dựng tái thiết đất nước trên đống đổ nát hoang tàn do hậu quả của chiến tranh để lại. Tuy bị chiếm đóng nhưng may mắn nền tảng chính trị đất nước không rơi vào trạng thái hổn loạn, rối ren. Dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ! Nhật Bản tập trung vào việc tái thiết đất nước. Với tinh thần dân tộc bất khuất, ý chí quật cường cùng với nghị lực phi thường; người Nhật không những thành công trong việc tái thiết đất nước mà còn tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực khoa học kỷ thuật và nhanh chóng trở thành một quốc gia cường thịnh…. Dù là một siêu cường kinh tế thế giới nhưng tiềm năng quân sự của Nhật Bản không thể phát huy hết sở trường bởi sự khống chế ở một số điều khoản trong Hiến Pháp sau chiến tranh. Tiềm năng quân sự, lẫn tiềm lực quốc phòng của Nhật Bản hiện nay chỉ đủ khả năng chống đở mối hiểm họa tiềm ẩn từ Bắc Hàn, nhưng không đủ lực đương đầu với một cuộc chiến tranh tổng lực trước Trung quốc. Vì vậy việc phòng thủ an ninh quốc phòng Nhật Bản vẫn dựa vào đồng minh chiến lược Hoa Kỳ là chính. Lòng tự ái dân tộc của người Nhật đang trỗi dậy nhưng người Nhật phải chờ đợi đến mười, mười lăm năm nữa mới đủ thời gian để hiện đại hóa quân đội. - Người Mỹ nên hạn chế tầm ảnh hưởng với Pakistan một quốc gia hồi giáo không ưa thích Mỹ, hơn nữa quốc gia Nam Á nầy khó có một nền chính trị ổn định bền vững để làm đối tác, đồng minh chiến lược lâu dài. Đồng thời Hoa Kỳ cần có những chính sách mềm dẽo, ôn hòa với các quốc gia hồi giáo ở Trung Đông và những quốc gia Nam Mỹ.Với lợi thế siêu cường trong lĩnh vực khoa học kỷ thuật, Hoa kỳ mở rộng giao thương, hợp tác khai khoáng và khai sáng mở mang vùng đất Châu Phi giàu tiềm năng, nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Vì với một nền kinh tế đang trên đà lớn mạnh, Trung quốc sẽ nhanh chân tạo mối quan hệ giao thương lên các quốc gia này để tìm thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác khoáng sản cùng tiềm năng kinh tế còn tiềm ẩn của các quốc gia Châu Phi. - Hoa Kỳ xác định mối quan hệ song phương ngày càng khằng khít, bền chặt với Ấn Độ một quốc gia Nam Á nằm sát cạnh sườn Trung Quốc là một hướng đi ngoại giao sáng suốt. Tuy diện tích đất đai của Ấn Độ rộng lớn chỉ bằng 1/3 Trung Quốc nhưng có số dân đông đúc và tiềm năng phát triển không thua kém Trung Quốc. Với chiến lược lâu dài, Ấn Độ có thể là một đồng minh tin cậy có khả năng, thực lực làm thế đối trọng quân sự cho người Mỹ trong tương lai. Thế giới vẫn luôn chờ mong sự phát triển của Trung Quốc, Ấn Độ có thể làm cho hệ thống quốc tế trở về với trạng thái cân bằng giữa Đông và Tây! Thế nhưng sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc ngày nay không theo chiều hướng tích cực mà chỉ đem đến nhiều hệ lụy tiêu cực, lo lắng cho tất cả các quốc gia láng giềng kể cả Mỹ và phương Tây. (chiếm đóng trái phép, chồng lấn biên giới, lãnh thổ lên hai nước láng giềng là Việt nam và Ấn Độ; cùng lúc chịu tác động lớn bởi các chính sách áp đặt thiếu nhất quán, nói một đàng làm một nẻo. Với Ấn Độ thì Trung quốc còn kiêng nể nhưng với Việt Nam họ vừa đấm, vừa xoa). - Trong xu thế toàn cầu hóa ở thế kỷ 21, Hoa Kỳ và Liên bang Nga nên là hai đồng minh hợp tác chiến lược, sẽ tạo nên bước ngoặc kép: kiềm tỏa Trung quốc ở mặt bắc, mở sang trang bước vào kỷ nguyên mới một thế giới hiện đại ổn định và phồn vinh. Nếu hai quốc gia này luôn dè chừng và đối đầu nhau thì cả hai đều bại, kẻ thắng cuộc chắc chắn sẽ là Trung quốc vì “Ngư ông đắc lợi”? Hãy gạt bỏ quá khứ tạo nên mối quan hệ bền chặt như quan hệ đồng minh giữa Hoa Kỳ-Nhật Bản nhằm hạn chế và ngăn chặn mưu đồ bành trướng, bá quyền của người Trung Quốc những kẻ nuôi tham vọng một ngày nào đó sẽ vượt qua mọi rào cản để lên ngôi bá chủ thống trị thế giới mới là đều cần thiết trong bối cảnh hiện nay và cả cho tương lai. b. Hoa Kỳ có những bước đi ngoại giao thế nào? - Do có nhiều bất đồng sâu sắc trong đàm phán, ngoại giao như vừa kể trên và sau những sự kiện xảy ra trên biển đông trong thời gian gần đây Hoa Kỳ hiện đang tìm thế, lẫn tiềm lực nhằm ngăn chận và kiềm tỏa mưu đồ bành trướng, bá quyền của Trung Quốc đó là một trong những lý do để người Mỹ quay trở lại vùng Đông Nam Á – Thái Bình Dương đã bỏ ngỏ hơn bốn mươi năm qua. Việt Nam sẽ là điểm đến và lựa chọn ưu tiên số một cho mục tiêu chiến lược mới bởi trong quá khứ giữa Hoa Kỳ – Việt Nam từng có những “kỷ niệm” khó quên! Việt Nam suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước trải qua các triều đại Nhà nước phong kiến, tích lũy nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh chống ngoại xâm, từng đẩy lùi nhiều cuộc xâm lăng thống trị của người phương Bắc. Nhưng tiếc rằng Nhà nước Việt Nam hiện nay vẫn đang mê ngủ, theo đuổi những giấc mơ hão huyền, ảo tưởng! Ở một chừng mực nào đó có thể nói chế độ hiện nay không còn là chế độ của giai cấp chuyên chính vô sản đích thực mà là một giai cấp của những người lãnh đạo, giai cấp này tự đặt cho mình quyền cai trị tối thượng chỉ nhằm bảo vệ tư lợi của một nhóm người đặt lên trên quyền và lợi ích hợp pháp của đất nước, của dân tộc, đồng thời xem thường nhân cách, vi phạm dân chủ, nhân quyền một cách nghiêm trọng. Khi đất nước lâm nguy họ vẫn chủ trương ôm chân cầu cạnh, cúi đầu trước kẻ thù xâm lược bạo ngược? Việt Nam càng phải học hỏi và đúc kết kinh nghiệm của người Nhật là nên gác lại quá khứ lẫn ánh hào quang trong chiến thắng để phát triển bền vững và cường thịnh như Nhật Bản. - Mấy năm trở lại đây Trung quốc, Iran, Bắc triều tiên, họ thừa hiểu rằng họ không đủ thực lực để đối đầu trực diện với Hoa kỳ? Mưu đồ chiến lược của trục liên minh ma quỷ này đang tìm kế sách đánh vào kinh tế của nước Mỹ vốn là con nợ lớn nhất của Trung Quốc. Nền tảng kinh tế suy yếu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy: thất nghiệp lan tràn sẽ gây bất ổn xã hội, ngân sách cắt giảm, thiếu hụt làm cho quốc phòng suy yếu, quốc phòng yếu kém dẫn đến việc an ninh chính trị đất nước bị đe dọa. Hoa Kỳ cần phải thận trọng trước những động thái mặc cả chính trị về tiến trình hạt nhân vì nó có thể là mưu đồ làm hao công, tổn sức của Hoa Kỳ trong đó mục tiêu, chiến lược lớn nhất là đánh vào nền kinh tế nước Mỹ trong những lần điều động và triệt thoái binh lực. Họ tuyên bố cứng rắn, bất chấp phản ứng của dư luận quốc tế hoặc một cuộc thanh sát của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc Tế (IAEA). Khi Hoa Kỳ dùng biện pháp cứng rắn điều động binh lực trừng phạt thì họ lại dịu giọng đáp ứng yêu cầu. - Tình hình trên bán đảo Triều tiên hiện nay đã nhận thấy rõ, đang đi theo chiều hướng này. Dư luận cho rằng nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim jong un trẻ người, non dạ lỡ mạnh miệng tuyên bố chiến tranh nên phóng lao phải theo lao để giữ thể diện, nhưng thực ra họ đang giở những chiêu bài hư hư, thực thực. Iran cũng vậy họ cũng đang mặc cả khi các phương án ngoại giao không đạt kết quả, chờ đến lúc Hoa Kỳ điều động binh lực thì lúc đó Iran mới giả vờ lùi bước chấp nhận một cuộc thanh sát toàn diện. - Có không ít ý kiến cho rằng nhờ Bắc Triều Tiên hung hăng làm càn nên Hoa kỳ mới danh chánh, ngôn thuận chuyển hướng phòng thủ đến vùng Châu Á Thái Bình Dương sau hơn bốn mươi năm bỏ ngỏ. Nhưng cũng không thể khinh suất và loại trừ khả năng Trung Quốc tập trung quan sát, theo dõi sát sao việc Hoa Kỳ tập trận chung cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản. Có khi họ lại chủ động khuyến khích Bắc Hàn gây hấn để tận mắt chứng kiến, khám phá xem tiềm lực xuất kích của những loại vũ khí chiến lược tối tân B-2 và F-22 đến đâu? Bởi hai loại vũ khí chiến lược tối tân này đối với họ vẫn còn là những ẩn số? Có thể họ sẽ tìm ra những phương án để chế ngự, phòng bị hoặc khả năng đánh bại trong tương lai? Nói như thế không có nghĩa khuyên ngăn Hoa Kỳ thụ động đứng ngoài cuộc để cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm mà qua đó đề ra những đối sách phù hợp tránh để bị sa lầy và hao tổn binh lực cho những lần huy động lực lượng rồi triệt thoái. Hoa Kỳ càng hao tâm, tổn sức với tình hình Bắc Hàn và Iran bao nhiêu, Trung quốc càng có lợi bấy nhiêu. - Hoa Kỳ cần nghiên cứu xem xét chiến lược lá chắn tên lửa ở Đông âu với lý do bảo vệ đồng minh có thiết thực hay không? Việc Hoa Kỳ quyết định hủy bỏ giai đoạn cuối của hệ thống lá chắn tên lửa ở châu Âu chưa thể xua tan mối hoài nghi của người Nga, vì Nga không công nhận quyết định hủy bỏ giai đoạn cuối của lá chắn tên lửa của Mỹ ở châu Âu là một hành động nhượng bộ? - Giới chức Hoa Kỳ nỗ lực thúc đẩy Quốc hội nước này thông qua việc Mỹ chính thức tham gia vào Công ước luật biển, như vậy mới có cơ sở pháp lý buộc Trung Quốc chấp hành công ước mà nước này đã ký kết. Và những điều luật của Công ước này sẽ là nền tảng pháp lý cho sự hiện diện của Mỹ trên toàn cầu, cả không phận, hải phận và dưới đáy biển (Công ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994). - Điều động binh lực trong điều kiện, khả năng kinh tế cho phép nhưng không để ảnh hưởng suy giảm đến nền kinh tế đất nước. Bảo vệ đồng minh là các quốc gia Đông Bắc Á gồm Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc vừa ngăn chặn hướng đông khogn6 để Trung Quốc làm bàn đạp tiến ra cửa ngỏ thế giới, vừa tạo thế gọng kềm từ bán đảo Ấn Độ giáp giới phía tây và Nga từ hướng bắc, Úc đóng vai trò hổ trợ then chốt giữa khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nhằm khống chế Trung Quốc tác oai, tác oái trên biển đông và Thái Bình Dương. Xảy ra vụ hai quả bom tự chế phát nổ khi đoàn vận động viên về gần đích đến ở giải marathon thường niên tại thành phố Boston bang Massachusetts khiến 3 người chết và 264 người bị thương vào sáng ngày 15/4/2013, càng khoét sâu thêm vào vết thương chưa kịp lành sau sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001, và từ đó cho đến nay cũng xảy ra vài vụ tương tự hoặc được ngăn chận kịp thời hoặc ở một mức độ không nghiêm trọng. Vì vậy, người dân Mỹ đã suy nghiệm một điều: nước Mỹ không phải là một đất nước bất khả xâm phạm bởi nhà chức trách không thể kiểm tra, giám sát toàn diện và tổ chức mạng lưới bố phòng an ninh dầy đặc trên khắp đất nước Mỹ! Chính quyền quốc gia phải nhanh chóng đề ra những phương án tối ưu và hiệu quả giảm thiểu tối đa mọi thiệt hại tiềm tàng nhất là không được khinh suất, lơ là trong mọi tình huống. Chiến lược phòng thủ từ xa hay đổ bê tông trước khung thành trong môn bóng đá đều có thế mạnh và điểm yếu: tùy theo hoàn cảnh ứng biến, hoặc kết hợp cả hai thì cơ hội giành thắng lợi mới được toàn diện trên bàn cờ chính trị trong thời đại toàn cầu hóa, hiện đại hóa. Dù người Mỹ đã gây ra cái chết oan uổng cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong quá khứ? Và hiện tại nước Mỹ có không ít kẻ thù do một số chính sách cứng rắn, áp đặt lên các quốc gia có tham vọng hạt nhân! Nhưng cả thế giới nầy không thể phủ nhận vai trò siêu cường của nước Mỹ đối với thế giới. Hãy cảm tạ Đấng Tạo hóa, vì ngài đã ban cho thế giới nầy một đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ để nhân loại mới hiểu được thế nào là dân chủ và tự do, thế nào là bình đẳng và nhân quyền vì ở những chế độ nô lệ, phong kiến xa xưa con người không thể nhìn thấy! Và trong thời hiện đại ngày nay còn sót lại những thế lực vô nhân, tàn bạo đang kìm hãm sự phát triển của xã hội tương lai đó là các chế độ cộng sản vô thần đang hủy hoại đời sống tâm linh, sẵn sàng gieo rắc bạo tàn và bất hạnh cho nhân loại. Mong muốn của xã hội hiện đại là đất nước Hoa Kỳ mãi mãi cầm trịch thế giới, để thế giới nầy luôn nhìn thấy ánh sáng của tự do, dân chủ; ngày nào chẳng may bọn cộng nô Hán quyền Trung quốc đoạt ngôi thống trị bá chủ thế giới! Ngày đó sẽ là ngày thảm họa và bất hạnh của cả thế giới hơn cả nạn diệt chủng của phát xít ở thập niên 1935-1945 của thế kỷ trước. Lịch sử nhân loại không thể nào quên vào khoảng 2250 năm (năm 259-210 trước công nguyên), dưới triều đại Tần thủy hoàng bạo chúa đã thôn tính và cai trị các nước chư hầu như thế nào? Hãy vì hòa bình, ổn định và trật tự thế giới; vì tự do, dân chủ và phát triển, phồn vinh: thế giới chúng ta hãy cùng đoàn kết xiết chặt tay, cùng nhau vạch mặt, chỉ tên, nhanh chóng đánh đổ, loại bỏ một thứ chủ nghĩa quân phiệt kiểu mới đó là chủ nghĩa bành trướng, bá quyền và Hán hóa của Trung Quốc. Tưởng nhớ Sài Gòn, ngày 30/04/1975 Quốc Anh
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 25, 2013 8:28:17 GMT 9
Tướng TQ Lưu Á Châu: “Đâu là chỗ đáng sợ của nước Mỹ”?
Trích bài nói chuyện của Trung tướng Lưu Á Châu. Đâu là chỗ thực sự đáng sợ của nước Mỹ? Tuy rằng Mỹ có quân đội mạnh nhất thế giới, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới, nhưng tôi cho rằng những cái đó không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ thường xuyên ra vào bầu trời Trung Quốc, nhưng điều ấy chẳng có gì đáng sợ cả. Cái đáng sợ của họ không phải là những thứ ấy. Năm 1972, tôi học ở Đại học Vũ Hán. Lên lớp giờ chính trị, một thầy giáo khoa chính trị nói: “Nước Mỹ là đại diện của các nước tư bản mục nát, suy tàn, đã sắp xuống mồ, hết hơi rồi.” Nhưng, chính là cái nước tư bản mục nát suy tàn ấy vào thập niên 90 thế kỷ trước đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới. Vậy cái đáng sợ của Mỹ là ở đâu? Tôi cảm thấy có ba điểm. 1. Cơ chế tinh anh của Mỹ. Chế độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm những người quyết sách đều là tinh anh. Bi kịch của Trung Quốc chúng ta là người có tư tưởng thì không quyết sách, người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có cương vị, có cương vị thì không có đầu óc. Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế, a. họ không mắc sai lầm hay họ ít mắc sai lầm; b. họ mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai, lại thường xuyên mắc sai lầm. Nước Mỹ không quan tâm lãnh thổ, toàn bộ những gì họ làm trong thế kỷ XX đều là để tạo thế. Tạo thế là gì? Ngoài sự lớn mạnh về kinh tế thì là lòng dân ! Có lòng dân thì quốc gia có lực hội tụ, lãnh thổ mất rồi sẽ có thể lấy lại. Không có lòng dân thì khẳng định đất đai anh sở hữu sẽ bị mất. Nước Mỹ hành sự thường nhìn 10 bước. Rất nhiều bạn chỉ thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, mà chưa thấy sự mất cân đối nghiêm trọng về chiến lược. Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là quốc gia “dân chủ”. Nga, Mông Cổ , Kazakhstan thay đổi rồi. Cộng thêm các nước như Hàn Quốc, Phillippines , Indonesia , vùng Đài Loan. Đối với Trung Quốc, sự đe doạ này còn ghê gớm hơn đe doạ quân sự. Đe doạ quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các quốc gia “dân chủ” bao vây là hiệu ứng dài hạn. 2. Nền văn hoá hừng hực khí thế đi lên. Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các phố lớn ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế. Tôi nói: Tập thể dục đại diện cho một kiểu văn hoá hừng hực khí thế đi lên. Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết.
Nước Mỹ 11/9/2001 3. Sức mạnh tinh thần, sự độ lượng và khoan dung của nước Mỹ. Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai họa ập đến thể xác ngã xuống, nhưng tinh thần vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp tai nạn thể xác chưa ngã mà đã đầu hàng. Trong vụ 11/9 có xảy ra 3 sự việc qua đó chúng ta có thể để nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. a. Sau khi toà nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa cháy ùng ùng. Khi mọi người ở tầng trên qua cửa thoát hiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm. Người ta đi xuống, lính cứu hoả xông lên trên. Họ nhường lối đi cho nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước. Đứng trước cái chết vẫn bình tĩnh như không. Một dân tộc tinh thần không cứng cáp tới mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. b. Hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ này do bọn khủng bố người A Rập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người A Rập bị đập phá, một số thương nhân người A Rập bị tấn công. Vào lúc đó có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước các cửa hiệu, tiệm ăn của người A Rập hoặc đến các khu người A Rập ở để tuần tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo. Chúng ta thì từ xưa đã có truyền thống trả thù. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết. c. Chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở Pennsylvania đã biết tin toà nhà Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ quyết định phải đấu tranh sống chết với bọn khủng bố. Dù trong tình hình ấy họ còn biểu quyết có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay không. Trong giờ phút quan hệ tới sự sống chết ấy, họ cũng không cưỡng chế ý chí của mình lên người khác. Dân chủ là gì? đây là dân chủ. Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt. Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 17, 2013 9:25:34 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:25:34 GMT 9
Rushford Report - Chính phủ Obama “tưởng đã có kinh nghiệm” với ngoại giao Việt Nam
Greg Rushford | Rushford Report
Bản dịch của Huỳnh Thục Vy
Một kịch bản ngoại giao nhiều rủi ro giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sắp đi đến hồi kết. Trong khi trọng tâm nằm ở việc phát huy mối quan hệ kinh tế song phương tại các cuộc đàm phán Đối tác xuyên Thái Bình Dương đang diễn ra, chuyện kinh tế cũng liên quan đến các vấn đề Nhân quyền và an ninh rộng lớn hơn. Bài viết này sẽ nói đến những tin tức mới mẻ nhất về những gì đang diễn ra ở hậu trường: Bộ chính trị đảng cầm quyền ở Hà Nội đã quyết định gì về việc thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các siêu cường. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama đã phải nói với nhau những gì trong suốt cuộc gặp gỡ ở Nhà Trắng ngày 25 tháng 7 tại phòng Bầu Dục. Có ai khác cũng ở trong căn phòng này – và tại sao điều đó lại quan trọng.
Bài viết cũng nêu lên những thông tin mang tính cơ sở để tiết lộ những áp lực to lớn mà Đại diện thương mại Hoa Kỳ Michael Froman đã mang ra để tác động lên Việt Nam, rất đáng chú ý vào tuần trước ở Bandar Seri Begawan, Brunei. Vào ngày 22-23 tháng 8, ông Froman đã có những cuộc trò chuyện riêng tư với người đồng nhiệm Việt Nam, Vũ Huy Hoàng, bên lề vòng đàm phán thương mại TPP thứ 19, vòng đàm phán này sẽ tiếp tục trong tuần này ở Brunei. Washington đã chơi trò chơi hăm doạ, áp lực buộc Hà Nội phải chấp nhận một thoả thuận kinh tế rõ ràng là không phục vụ tốt nhất cho quyền lợi của Việt Nam – và đã chạy làng.
Nhưng đó chưa phải là tin quan trọng gây chú ý nhất, mà chính là cảm giác “như đã từng trải qua” về một bước ngoặt lịch sử nữa trong mối quan hệ Mỹ Việt. Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945 cách đây 68 năm, hoá ra là, vòng đàn phán TPP thứ 19 sẽ hoàn tất vào thứ sáu này ở Brunei – Hồ Chí Minh đã viết một lá thư đầu tiên trong số nhiều lá thư sau đó cho Tổng thống Mỹ Harry Truman. Ông Hồ đã tìm sự ủng hộ của Truman cho khát vọng giành độc lập từ thực dân Pháp. Những lá thư này không được hồi đáp, vì ưu tiên lớn hơn của chính quyền Truman là giúp cho nước Pháp phục hồi từ đống đổ nát của chiến tranh thế giới thứ 2.
“Trên bình diện lịch sử, đó là một quyết định lớn của Truman, và cũng giống như nhiều quyết định khác mà cácTổng thống Hoa Kỳ sẽ làm trong nhiều thập kỷ sắp tới, có liên quan rất ít đến Việt Nam – nó nằm trong những ưu tiên lớn của Hoa Kỳ trên vũ đài thế giới” nhà sử học Fredrik Logevall đã nhận xét trong cuốn sách được ca ngợi của ông – Tro tàn của Chiến tranh. Những quan ngại của nhiều nhà quan sát thông thái trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và trong cộng đồng tình báo – những người này đã lo lắng về kết quả của việc đứng nhầm bên trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân – đã không được điếm xỉa tới.
Khi họ gặp nhau tại phòng Bầu Dục tháng trước, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phô diễn sự hiểu biết sắc sảo về lịch sử khi ông đưa cho Obama bản sao chép của một trong những lá thư mà ông Hồ gởi cho Truman. Hà Nội có lý do để lo ngại rằng ưu tiên hàng đầu của Nhà Trắng dưới chính quyền Obama, một lần nữa, lại không thực sự nằm ở nền kinh tế Việt Nam.
Trong đàm phán thương mại TPP, Nhà Trắng đã đấu tranh hết sức mình nhân danh nhóm vận động hành lang ngành vải sợi ủng hộ chính sách bảo hộ của Hoa Kỳ – các đồng minh trung thành của Obama, những người đã ủng hộ ông trong hai cuộc chạy đua tranh cử Tổng thống thành công của mình. Ưu tiên hàng đầu của các nhà máy dệt Hoa Kỳ (không có khả năng cạnh tranh quốc tế) là từ chối không cho Việt Nam được tiếp cận nhiều hơn vào thị trường giày dép và quần áo được bảo hộ của Hoa Kỳ trong một thoả thuận thương mại TPP.
Vào thập niên 1940, một số nhà ngoại giao thông thái (nhưng trầm lặng) của Hoa Kỳ và các giới chức tình báo (rất trầm lặng) lúc bấy giờ đã đưa lên những quan ngại của mình cho công chúng được biết ở Washington. Nhưng những nhân vật châu Á kỳ cựu của Washington nhận thấy chính mình đã cơ bản bị những ưu tiên chính trị nội địa của Nhà Trắng gạt ra ngoài lề, giống như những người đi trước của họ đã bị cách đây bảy thập kỷ.
Trong khi đó, chủ tịch Sang, nhân danh Bộ chính trị đảng cầm quyền, đã gởi thông điệp của chính ông cho Obama tháng trước.
Để hiểu nhiều hơn về sự hoà trộn nhiều sắc thái phức tạp của những tin tức nóng hổi hiện nay và lịch sử, hãy cùng bắt đầu với cuộc hội đàm ở Nhà Trắng này.
Giải thích chính sách Ngoại giao phòng Bầu Dục
Khi bước vào lĩnh vực ngoại giao, thỉnh thoảng điều mà công chúng xem như là sự thực – không phải là toàn bộ bức tranh. Hãy xem xét đoạn video mà Nhà Trắng đã đưa lên website vào ngày 25 tháng 7. Người xem nhìn thấy ông Sang và ông Obama gặp nhau một mình trong phòng Bầu Dục, ngồi trên ghế bành trước lò sưởi, mỗi người đều mặc một bộ complet màu tối và cà vạt màu nhạt. Hình ảnh mà những người PR cho Nhà Trắng – những người này cũg được đoạn video lên You Tube – có ý định chuyển tải, gợi lại những cuộc hội đàm ngoại giao tay đôi nổi tiếng trong lịch sử ở cấp cao nhất: Nixon với Mao, hoặc Roosevelt với Stalin.
Nhưng cuộc gặp gỡ Obama và Sang hầu như không giống cuộc gặp gỡ Roosevelt-Stalin. Đây là một dịp mang tính nghi thức và được lập trình trước, đặc trưng của cách thức mà các Tổng thống Hoa Kỳ tiếp đón các giới chức nước ngoài trong những năm gần đây.
Một tấm hình không được công khai được chụp bời một người khác có mặt trong phòng với góc chụp rộng cho thấy rằng ông Sang có 9 người nữa ngồi trong phòng Bầu Dục cùng với ông. Bộ trưởng thương mại Vũ Huy Hoàng cũng ở đó, cùng với Bộ trưởng Nông nghiệp Cao Đức Phát và người đứng đầu văn phòng chủ tịch nước Đào Việt Trung. Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường cũng có mặt, cũng như Trung tướng Tô Lâm. Tướng Lâm là Thứ trưởng Bộ Công An, trước đây từng đứng đầu Cục phản gián của Bộ này. Ông Lâm cũng là Uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Với nhiều người quan sát tình hình – không phải tất cả nhất thiết phải trung thành với những người ủng hộ ông Sang trong Bộ chính trị – không một chủ tịch nước Việt Nam nào được đặt vào vị trí này để tiến hành những mặc cả tối quan trọng.
Nhận thức lịch sử
Có lẽ ba giới chức Việt Nam thú vị nhất có mặt hôm đó là Thông dịch viên Phạm Xuân Hoàng Ẩn, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Bình Minh, và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh – Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ba người này mang cả nhận thức lịch sử theo họ – và có mối quan tâm chuyên nghiệp, nghiêm túc và lâu dài về mối bang giao Mỹ Việt. Đối với những người quan sát có kinh nghiệm, tin ba ông Ân, Vịnh và Minh có mặt ở phòng Bầu Dục sẽ chuyển tải một cảm giác về sự nghiêm túc của giới lãnh đạo Việt Nam.
Cha của thông dịch viên Ân, ông Phạm Xuân Ẩn, có lẽ là một điệp viên cộng sản quan trọng nhất trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ông Ẩn hành nghề nhà báo cho các hãng tin phương Tây, bao gồm Reuters và Tạp chí Time. Người đàn ông với nhân thân phức tạp này đã làm Tướng sau chiến thắng của miền Bắc Việt Nam năm 1975. Nhưng rồi tướng Ẩn đã bị giam cầm trong một trại “cải tạo” trong một năm, vì ông bị tình nghi có xu hướng thân Mỹ.
Thực tế, ông Ẩn yêu thích nước Mỹ (ông từng giúp cho một trong những điệp viên quan trọng nhất của CIA trốn thoát khi những người cộng sản chiếm Sài Gòn. Nhưng sau chiến tranh, điệp viên này giải thích với những người bạn Mỹ của mình rằng ưu tiên hàng đầu của ông luôn là làm việc cho nền độc lập của đất nước ông. Cuộc đời hai mặt của ông Ẩn là chủ đề cho cuốn “Điệp viên hoàn hảo” đầy hấp dẫn của Larry Berman, được xuất bản năm 2007. Bây giờ, con ông Ẩn, thông dịch viên Phạm Hoàng Xuân Ân, lại làm việc trong lãnh sự Việt Nam ở San Francisco. Cũng giống như cha ông, ông Ân trẻ biết rất rõ về cả nước Mỹ lẫn Việt Nam.
Trong khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh hầu như không phải là một cái tên quen thuộc ở Mỹ, ông ta chỉ nổi tiếng đối với giới quan sát Việt Nam. Cha ông, tướng Nguyễn Chí Thanh, là vị tướng đứng hàng thứ hai chỉ sau tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Thanh là chuyên gia về những cuộc nổi dậy có phối hợp trong hầu như mọi trung tâm đô thị chính ở miền Nam Việt Nam trong suốt dịpTết Mậu Thân tháng 1 năm 1968. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân không thành công về mặt quân sự. Nhưng nó được công nhận rộng rãi như là giọt nước cuối cùng làm tràn ly đối với quần chúng bất mãn ở Mỹ, họ nhận ra rằng điều mà Nhà Trắng khẳng định rằng những người cộng sản đang đứng bên bờ thất bại là giả dối.
Ông Vịnh là Uỷ viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, và trước đây từng đứng đầu Tổng cục tình báo quân đội được biết đến (hoặc bị sợ) như là Tổng cục 2. Thông tín viên nước ngoài có trụ sở tại Hồng Công cũ là Greg Torode đã gọi ông Vịnh là “tên Cáo già” xảo quyệt của Việt Nam, một người thường được xem là người có tư duy chiến lược sắc sảo nhất của Việt Nam.
Ông Vịnh là nhân vật chủ chốt trong chính sách cân bằng tinh vi của Việt Nam liên quan đến mối quan hệ với những siêu cường trong những mối quan tâm về an ninh ở vùng Thái Bình Dương. Ông đóng vai trò quan trọng trong hàng loạt các vấn đề nhạy cảm: đối phó với mối hăm doạ của Trung Quốc ở Biển Đông trong khi đồng thời cũng thiết lập những mối quan hệ quân sự với Bắc Kinh; mua tàu ngầm và các loại vũ khí khác từ Nga; và cũng tăng cường hợp tác quân sự Mỹ Việt. Ông Vịnh, nổi tiếng ở cả Washington lẫn Bắc Kinh, cũng xuất hiện đầu tháng này để hội đàm riêng với các giứoi chức quốc phòng cao cấp ở Tokyo (người Nhật có lý do chính đáng để lo ngại về những động thái hiếu chiến liên tiếp của Trung Quốc ở Thái Bình Dương).
Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh cũng có một người cha nổi tiếng. Nguyễn Cơ Thạch là Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam từ 1980 đến 1991, ở chức vụ này, ông đã làm việc không thành công để binh thường hoá bang giao với những người Mỹ chiến bại. Giống như cha mình, Bộ trưởng ngoại giao Minh nổi tiếng là người có hiểu biết sắc sảo về tầm quan trọng chiến lược của việc phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ, bằng cách đó có thể đối phó với ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc.
Ông Minh đã thật thà kể ở một sự kiện của Hội đồng Đối ngoại năm 2011 rằng ông rất “căm thù” trong suốt cuộc chiến tranh, khi còn là một đứa trẻ phải chịu đựng những cuộc đánh bom của người Mỹ ở Hà Nội. Nhưng từ khi ông tham gia vào công việc ngoại giao sau chiến thắng của những người cộng sản năm 1975, ông Minh – giống như cha mình – đã tập trung sự nghiệp của mình vào việc tìm ra phương cách để đạt được mối quan hệ thân thiết hơn với kẻ cựu thù chiến tranh của Việt Nam.
Ê kíp ngoại giao của Obama
Trong khi cuộc gặp gỡ tại Nhà Trắng của ông Sang và Obama vào ngày 25 tháng 7 được lập trình một cách chặt chẽ, ít nhất cũng còn có một khoảnh khắc bộc phát, khi ông Obama vươn người ra một chút để có chút giao tiếp mang tính cá nhân với vị khách Việt Nam. Khi các đại diện của các ký giả ngoại quốc và Hoa Kỳ được phép vào phòng Bầu Dục để có cơ hội chụp ảnh bình thường, họ đã hét lên vài câu hỏi cho hai vị nguyên thủ. Obama đã phớt lờ đi, nhưng đã bị phát hiện thì thầm với ông Sang, “phóng viên ở đâu cũng như nhau”.
Một người phụ tá báo chí ở Nhà Trắng ngừng thảo luận với một người khác nữa cũng có mặt trong cuộc họp ở phía phái đoàn Việt Nam hoặc là phía Mỹ. Các ký giả đại diện được cho phép ngồi trong cho nghi thức chụp ảnh đã nhìn thấy các giới chức phía Mỹ bên cạnh bà cố vấn an ninh quốc gia Susan Rice gồm Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker và người đại diện đàm phán thương mại phía Hoa Kỳ Froman.
Pritzker, một nhà vận động gây quỹ của Obama đến từ Chicago mới vô ngành ngoại giao. Bộ Thương mại của bà này là cơ quan bị ghét nhiều nhất ở Việt Nam vì áp đặt hàng rào thuế quan bảo hộ chống bán phá giá lên ngành công nghiệp cá da trơn và tôn của Việt Nam. Còn Froman, mặc dù cũng thân cận với Obama, công việc của ông này tập trung nhiều vào trọng tâm chính trị nội địa hơn là các chính sách ngoại giao thực sự. (Bất cứ hành động nâng tầm ngoại giao một cách khó khăn nào được thực hiện sẽ bị một vài cản trở từ phía Nhà Trắng, trong Bộ Ngoại giao của Ngoại trưởng John Kerry. Kerry, một cựu binh chiến tranh Việt Nam, đã tiếp đón phái đoàn Việt Nam vào ngày 24 tháng 7. Ông này ở New York khi các vị khách Việt Nam gặp ông Obama ngày hôm sau)
Dù có được lập trình sẵn hay không, những tín hiệu quan trọng vẫn được gởi ra từ hai vị nguyên thủ.
Thông điệp từ Bộ Chính trị
Phái đoàn Việt Nam giải thích rõ cho Obama – khi họ có một ngày trước cuộc họp với đại diện đàm phán thương mại Froman – rằng họ rất thành thật trong việc xem mối quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán TPP là một ưu tiên rất cao, theo các giới thạo tin Việt Nam và cũng theo các giới chức ngoại giao cao cấp Hoa Kỳ yêu cầu không tiến lộ danh tính.
Carlyle Thayer, một nhà quan sát tình hình Việt Nam được kính trọng, có những mối quan hệ cấp cao hàng đầu ở Hà Nội, giải thích. Thayer, từng là thành viên của Học viện Quốc Phòng Úc châu, nói rằng ông nhìn thấy một bản sao của Nghị quyết ngày 10 tháng 4 được soạn thảo bởi Bộ Chính trị, văn bản này chưa được phổ biến công khai. “Nó đặt chính sách hội nhập kinh tế với tất cả các cường quốc hạng nhất là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam, bao gồm tất cả các hình thức hội nhập, kể cả hội nhập về an ninh”, ông Thayer tường thuật.
Trong phòng Bầu Dục, Chủ tịch Sang nhấn mạnh với Obama điều mà các giới chức Việt Nam đã nói trong suốt ba năm qua: rằng nếu đàm phán TPP thành công, Việt Nam sẽ cần các động lực kinh tế – chủ yếu là thêm những lối vào quan trọng đối với thị trường giày dép và may mặc Hoa Kỳ, những lối vào này hiện đang bị cản trở bởi biểu thuế quan cao. Vấn đề chính của Việt Nam với TPP bây giờ là, trong ba năm qua, Nhà Trắng đã trì hoãn quá trình đàm phán bằng cách từ chối không đưa ra những động thái cắt giảm thuế quan nghiêm túc.
Các giới chức báo chí Nhà Trắng từ chối thảo luận về trả lời của Obama cho ông Sang. Vì nhu cầu của dân chúng, hai vị nguyên thủ đồng ý sẽ đưa ra một bản tuyên bố chung (rất ôn hoà) lưu ý rằng họ sẽ hướng dẫn các phụ tá cố gắng hết sức để hoàn thành đàm phán TPP chậm nhất là cuối năm nay. (Năm ngoái và năm 2011 Nhà Trắng cũng đã nói như thế. Froman đã giả thích với mọi người rằng lần này, chính quyền Obama thật sự có ý định như thế.)
Những tín hiệu từ Washington
Chi tiết nhỏ được biết về điều mà Obama nói trong suốt cuộc họp đã được tiết lộ bởi Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear, ông này đã nói chuyện trong một cuộc họp của những người Mỹ gốc Việt có uy tín tại vùng ngoại ô Virginia của thủ đô Washington, D.C. vào ngày 16 tháng 8. Ông Shear nói rằng chính quyền Obama xem các cuộc đàm phán TPP “cực kỳ quan trọng”. Nhưng nếu không có những tiến bộ có thể kiểm chứng được về Nhân quyền được thực hiện bởi Hà Nội, “chúng tôi sẽ không thể đưa ra sự ủng hộ của quốc hội” cho thoả thuận TPP, ngài Đại sứ nói thêm.
Ông Shear kể rằng vấn đề Nhân quyền đã xuất hiện hai lần trong cuộc gặp gỡ của ông Sang và Obama. Trước tiên, là phần nhắc đến chung chung liên quan đến Nhân quyền như là chìa khoá để cải thiện mối quan hệ kinh tế và an ninh.
Theo lời ông Đại sứ, vấn đề Nhân quyền được nhắc đến lần thứ hai sau khi ông Sang bày tỏ mong muốn của Việt Nam mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ. Ông Shear nói Obama đã đáp lại rằng “Nếu các bạn muốn thực hiện được điều đó, các bạn phải cải thiện tình trạng Nhân quyền của mình”. (Một văn bản đầy đủ những lời bình luận của ông Shear chưa được đưa lên trang web của Đại sứ quán Hoa Kỳ).
Vì hồ sơ Nhân quyền của Hà Nội hiện đang bị so sánh một cách bất lợi với những người láng giềng châu Á của mình – thậm chí Campuchia vốn đầy tai tiếng cũng đã tổ chức các cuộc bầu cử, trong khi Miến Điện cũng đang bận trả tự do cho các tù nhân chính trị – quan điểm của Obama hoàn toàn hợp lý. Bộ chính trị trong những ngày này phải tự hỏi quốc gia sẽ đạt được những lợi ích nào bằng cách tiếp tục bỏ tù hơn 160 tù nhân chính trị ôn hoà, trong khi ”tội” của họ chỉ là thực thi quyền tự do bày tỏ quan điểm chính trị và tụ do hội họp ôn hoà.
Nhưng cũng chính các Uỷ viên Bộ chính trị, những người đang biện minh về vấn đề Nhân quyền, phải tự hỏi tại sao họ nên ký vào thoả thuận TPP trong khi thoả thuận này chỉ đưa đến những lợi ích kinh tế mơ hồ.
Những đàm phán “thế kỷ 21″ bí mật
Một số phần trong đàm phán TPP, nói một cách chắc chắn, rõ ràng sẽ hướng đến việc thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã và đang cố gắng thực hiện nhiệm vụ khó khăn về mặt chính trị đó là cải tổ các công ty quốc doanh kém hiệu quả khét tiếng của quốc gia này trong khoảng hai thập kỷ.
Các công ty Nhà nước của Việt Nam về cơ bản là những hố đen bí mật và là một chướng ngại vật trên hơn một phần ba nền kinh tế nước này. Khi Nhà Trắng của Obama giải thích về thoả thuận TPP như là một thoả thuận “thế kỷ 21, tiêu chuẩn cao” sẽ thiết lập một mô hình mẫu mực đáng mong ước cho thương mại ở vùng châu Á Thái Bình Dương, sự cải tổ các công ty quốc doanh phải được cân nhắc ngay lập tức.
Nhưng hơn cả những khẩu hiệu tự phục vụ, Nhà Trắng đã từ chối không giải thích cho công luận đang theo dõi bất cứ chi tiết nào về điều mà Việt Nam bị đòi hỏi phải thực hiện. Thật mỉa mai, Nhà Trắng đang yêu cầu nền kinh tế Việt Nam phải cởi mở hơn để trở thành nền kinh tế theo định hướng thị trường, trong khi chi định ra cái gì phải được xác định là bí mật Nhà nước.
Áp dụng “phương pháp bảo hộ”
Điều Hà Nội mong muốn nhất trong đàm phán TPP là để Hoa Kỳ cắt giảm thuế quan cao đánh vào mặc hàng giày dép và may mặc. Có sự đảo ngược vai trò ở đây. Những người cộng sản ở Hà Nội đang áp lực để có được lối vào thị trường tự do đối với thị trường Hoa Kỳ được bảo hộ. Người Mỹ đòi hỏi phải có sự kiểm soát của Nhà nước. Khái niệm kinh tế này được gọi là “phương pháp bảo hộ” (yarn forward), nhưng nền kinh tế nước này hầu như không hề cách tân.
Như tôi đã nêu, những người thực dân Pháp thế kỷ 19 đòi hỏi rằng thần dân Việt Nam phải cung cấp cho mẫu quốc vải sợi. Âm mưu quyền ưu tiên đế quốc đã ủng hộ cho sự thống trị kinh tế của nước Pháp đối với Đông Dương – và đã thúc đẩy phong trào giành độc lập của Việt Nam.
Bây giờ người Mỹ đang đòi hỏi một loại sắp đặt tương tự trong TPP. Việt Nam sẽ chỉ đủ điều kiện để miễn thuế đánh vào hàng may mặc và giày dép xuất sang Hoa Kỳ nếu nước này mua sợi và vải từ một nước TPP khác – có nghĩa rằng: từ những nhà máy đang suy sụp ở miền Nam nước Mỹ, chứ không phải từ một quốc gia ngoài TPP như Trung Quốc.
Không cần phải có chuyên môn về kinh tế mới nhận thấy những khiếm khuyết này. Không ai – ngoài những người bị biệt lập ngoài đảo – nhìn vào các nhà máy vải sợi của Mỹ, cách đây khá lâu các nhà máy này đã đánh mất năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu – giả vờ rằng điều này là hợp lý về mặt kinh tế. Tại sao Nhà Trắng lại áp lực các công ty như Levis hoặc Gap phải mua vải bông (thô) từ các nhà cung cấp Hoa Kỳ và chuyển hàng vượt Thái Bình Dương sang Đông Nam Á? Tại sao Obama thậm chí tìm cách cố ép buộc nhà sản xuất quần áo lót khổng lồ Hanesbrands phải ngừng cung cấp các mặt hàng sản xuất tại Việt Nam của họ khỏi các nhà cung cấp lâu đời của Hanes ở Trung Quốc và Thái Lan?Tại sao Nhà Trắng cứ khăng khăng rằng họ có quyền phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng đầu có uy tín của Hoa Kỳ như thế?
Đại diện thương mại Hoa Kỳ Froman đã từ chối những yêu cầu được liên tiếp lặp lại không giải thích chính xác tại sao “phương pháp bảo hộ” lại phục vụ tốt nhất cho quyền lợi kinh tế của Việt Nam.
Tôi cũng đã hỏi Đại sứ Hoa Kỳ, ông Shear là ông ta có thể chỉ ra lợi ích kinh tế nào cho Việt Nam trong khái niệm ” phương pháp bảo hộ ” không. Ông Shear đã nói trong vị thế lúng túng về ngoại giao để bảo vệ cho lập trường của Nhà Trắng về nguyên tắc ” phương pháp bảo hộ” áp dụng cho Việt Nam. Ông Shear từ chối biện hộ cho nguyên tắc kinh tế nền tảng của phương pháp bảo hộ một cách công khai. Ông đại sứ giao lại câu hỏi cho đại diện đàm phán thương mại Froman, ông này cũng lại từ chối bình luận.
(Ông đại sứ Shear nổi tiếng như một nhà ngoại giao thận trọng, bất chấp vai trò người chơi trong một trò chơi tập thể. Những câu không phải là câu trả lời đầy dè dặt của ông có thể được giải thích như là môt khoảnh khắc ngoại giao, chuyển tải sự chán ghét của ông đối với toàn bộ vụ việc. Trong những cuộc họp riêng vớ các giám đốc điều hành các tập đoàn Mỹ, ông Shear đã cố gắng thuyết phục về đường lối của Obama nhưng ngôn ngữ cơ thể cho thấy sự không thoải mái của ông)
Trong khi đó, Nhà Trắng đã yêu cầu các nhà sản xuất hàng may mặc Hoa Kỳ phải giao nộp các thông tin bí mật về cách thức hoạt động của chuỗi cung ứng toàn cầu của họ. Bị đe doạ, các công ty hầu như đã đầu hàng. Văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ thậm chí có một trang web đặc biệt cho các công ty tiết lộ các bí mật kinh doanh của họ cho chính phủ. Cách tiếp cận vào kho dữ liệu thuộc quyền tư hữu này đã đưa cho Froman và các phụ tá của ông phương tiện để chỉ dẫn cho ngành công nghiệp nội địa biết họ có thể (từ miền Nam Hoa Kỳ) và không thể (tư Trung Quốc) mua nguyên liệu nguyên liệu từ đâu.
Các nhà nhập khẩu hàng may mặc Hoa Kỳ bây giờ tranh giành phía sau hậu trường để nhận được sự miễn thuế từ Nhà Trắng. Những người vận động hành lang của các tập đoàn đã nhắm đến việc bảo vệ ít nhất vài phần trong toàn bộ chuỗi cung ứng toàn cầu của họ khỏi sự can thiệp của Nhà Trắng.
Tất nhiên, thậm chí với các công ty con TPP bị giới hạn được các cơ quan Liên bang cấp vốn, các luật lệ vẫn luôn phải lệ thuộc vào những thay đổi đột ngột, phụ thuộc vào ý thích bất chợt của hệ thống quan liêu không thể dự đoán. Các công ty Mỹ có thể ngừng toàn bộ việc kinh doanh nếu có đủ can đảm để ngừng việc luồn cúi chính quyền – điều mà họ hoàn toàn chưa bao giờ nghĩ tới trong các đàm phán thương mại Hoa Kỳ trước đây.
Trung Quốc cực lực lên án
Nhà Trắng phủ nhận một cách thiếu tính thuyết phục rằng TPP là một phần của chiến lược bao vây kinh tế chống Trung Quốc. Phương pháp bảo hộ lần đầu tiên được bao gồm vào thoả thuận thương mại ưu đãi của Hoa Kỳ dành cho Mễ Tây Cơ đầu những năm 1990, và rồi dành cho các nước châu Mỹ La tinh khác. Ý tưởng lúc đó, cũng như hiện nay, là để kiềm hãm Trung Quốc và các nhà nhập khẩu châu Á khác.
Nó đã thất bại. Các luật lệ quá cồng kềnh đến nỗi chỉ khoảng 17 phần trăm nền thương mại châu Mỹ La tinh vượt qua được các nguyên tắc ” phương pháp bảo hộ”. Các công ty hầu như thích trả thuế hơn là phải chịu đựng công việc làm giấy tờ.
Xoa dịu châu Phi
Khi châu Phi đang đàm phán Đạo luật Cơ hội và Phát triển Phi châu với Hoa Kỳ trong năm năm 1990, Congressional Black Caucus (một tổ chức đại diện cho các thành viên da đen của Quốc hội Hoa Kỳ) đã kịch liệt phản đối các luật lệ phương pháp bảo hộ bởi vì các nguyên tắc này xâm phạm đến họ. Các Nghị sĩ như Charles Rangel, người của đảng Dân chủ đại diện cho khu vực Harlem thuộc New York, đã nổi đoá lên rằng yarn forward sặc mùi chủ nghĩa thực dân. Hơn nữa, Rangle phản đối những luật lệ như thế phân biệt chủng tộc. Kết quả là, thoả thuận thương mại AGOA cho phép người châu Phi mua bông vải và các loại vải sợi khác từ Trung Quốc, hoặc bất cứ đâu, miễn là sản phẩm quần áo cuối cùng được “cắt và may” ở châu Phi. Trong các đàm phán TPP, bất cứ điều gì thiếu nguyên tắc “cắt và may” đối với mặc hàng vải đều sẽ kiềm hãm tiềm lực xuất khẩu của Việt Nam.
Điều mỉa mai cay đắng khác cho Việt Nam là: Những ngày này Dân biểu Rangel và các nhà làm luật người Mỹ gốc Phi đang vận động để Obama buộc Việt Nam phải chấp nhận các nguyên tắc phương pháp bảo hộ mà trước đây họ đã từng công kích là thực dân và phân biệt chủng tộc. Và các quốc gia Trung Phi như Cộng hoà Dominica, không ở trong TPP và muốn ngăn cản các đối thủ cạnh tranh ở châu Á khỏi làm tổn hại đến quyền lợi của họ, cũng đang đổ dồn mọi áp lực lên Việt Nam.
Không nhụt chí, tuần qua ở Brunei, nhà đàm phán thương mại Froman vẫn quả quyết rằng các nguyên tắc phương pháp bảo hộ nghiêm ngặt vẫn là cốt lõi cùa những gì mà Hoa Kỳ muốn trong TPP. Ông tiếp tục không đưa cho công chúng bất cứ chi tiết thực nào về TPP ngoài việc giải thích rằng đó là mẫu hình thương mại “thế kỷ 21 tiêu chuẩn cao”.
Các nhà đầu tư tài chính sẽ đặt cược rằng Việt Nam cuối cùng sẽ chịu đựng và chấp nhận một thoả thuận TPP kém hiệu quả, cho họ một lối vào thị trường giày dép và quần áo được gia tăng nhưng còn khiêm tốn, trong khi phải nhượng bộ mở cửa thị trường tối thiểu cho người Mỹ. Hãy gọi đó là TPP Nhỏ.
Nhưng có lẽ các ông điều hành không ngoan trong Bộ chính trị ở Hà Nội, hoặc ít nhất đủ người trong số họ, có cùng quyết tâm như thế hệ cha ông họ. Và cuối cùng, các nhà đàm phán Việt Nam nên hiểu rằng Obama là người cần thoả thuận thương mại TPP nhất. Vị tổng thống Hoa Kỳ này có thể thật sự cho phép TPP thất bại, chỉ vì người Việt Nam muốn bán cho người Mỹ nhiều bộ đồ lót, quần jeans và giày đế mềm hay không?
Hãy bàn về cảm giác “đã từng thấy trước đây”. Vào những năm 1940, Tổng thống Truman đã phớt lờ những cảnh báo tiên tri từ các giới chức ngoại giao và tình báo Hoa Kỳ rằng sẽ là một sai lầm lớn cho Hoa Kỳ nếu chọn nhầm bên trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Bây giờ, Tổng thống Obama cũng ít chú ý đến những cảnh báo rằng sẽ không khôn ngoan chút nào khi đánh liều thoả thuận thương mại quan trọng với Việt Nam – và lập trường của Hoa Kỳ ở châu Á – để đổi lấy nền chính trị nội địa thiển cận.
Một số người dường như không bao giờ học được bài học từ lịch sử.
Nguồn: Rushford Report
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 17, 2013 9:36:54 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:36:54 GMT 9
MẠNG LƯỚI GIÁM SÁT TRONG NHÃN QUAN CỦA JONATHAN SCHELLMột đàn cá đang bơi lội yên bình ngoài biển cả, bên trên một mạng lưới của các thuyền chài đang vây quanh. Bất thần, các ngư phủ kéo lưới. Mặt biển bên trong mạng lưới dậy sóng với bầy cá hoảng loạn đang vẫy vùng tìm cách thoát nạn trong vô vọng. Đời sống nhân dân Mỹ hiện nay không mấy khác đàn cá phía trên mạng lưới. Đó chính là mạng internet và các công cụ liên hợp thu thập các dữ liệu “metadata”, và ngư phủ chính là các đại công ty và chính quyền Hoa Kỳ. Hay nói theo lối ẩn dụ phổ thông, nhân dân Mỹ đang sống trong hệ thống lao tù chuyên chế với nhà nước là người giữ chìa khóa nhà giam. Nhờ lòng can đảm của Edward Snowden, chúng ta nay được biết, Cơ Quan An Ninh Quốc Gia, NSA (National Security Agency), đã bí mật ra lệnh cho Verizon thu thập và chuyển giao mọi dữ liệu các cuộc điện đàm của hàng triệu khách hàng: số điện thoại, thời gian nói chuyện, thông tin và đôi khi cả tọa độ của người gọi. Cũng chính nhờ Snowden, chúng ta còn được biết khối lượng các thông tin tương tự lấy từ mạng Internet và các các công ty vi tính, kể cả Microsoft, Yahoo, Google, Facebook, PalTalk, AOL, Skype, YouTube, và Apple. Điều đầu tiên cần ghi nhận là chỉ cách đây một thế hệ, loại dữ liệu nầy chưa hề hiện diện. Đó là thứ quyền lực mới trong xã hội, phát xuất từ kỹ thuật mới, sẵn sàng để được thu thập và sử dụng. Và quyền lực luôn tạo ra cám dỗ, đặc biệt đối với các thành phần vốn đã có sẵn quyền lực. Điện thoại cầm tay cho nhà cầm quyền biết tọa độ của người gọi. Mọi thông tin trao đổi đều phải đi qua các “centralized servers”, được bảo lưu vô hạn định trong các “ngân hàng bảo quản,” bất cứ lúc nào cũng có thể truy cập và tra cứu. Mọi giao dịch, mọi quan hệ, bệnh tật, giải trí … đều được giám sát và tích lũy. Nếu bị quản thúc, ngay cả DNA của bạn cũng có thể bị thu thập và bảo quản bởi nhà nước. Ngày nay, song đôi với mỗi cá nhân là bản sao chép điện tử, một phần tự tạo, một phần bởi một pháp nhân bên ngoài. Bản sao chép trong thực tế đã trở thành một tài hóa công, phần lớn thuộc quyền sở hữu của các đại công ty luôn ngấu nghiến khối lượng dữ liệu khổng lồ với mục đích thương mãi. Giờ đây, chính quyền đã với tới các đại công ty đó với mục đích riêng, tạo lập một lãnh địa hoàn toàn mới dưới hình thức state-corporate complex — một hợp thể công-tư nhà nước-đại công ty. Guồng máy giám sát với kích cỡ rộng khắp đã biến các dân quyền cơ bản thành vô nghĩa, trên cả Đệ Tứ Tu Chính Án (Fourth Amendment) bảo vệ người dân trước mọi khám xét và câu lưu không chính đáng. Trong thực tế, các quan chức chính quyền luôn đảm bảo sẽ không bao giờ xiết chặt mạng lưới. Họ nói rõ, mặc dù họ có thể biết mọi thứ về mọi người, họ sẽ không hành động như thế. Họ sẽ bảo lưu các thông tin chưa thẩm định trong các vòm điện tử. Nhưng lich sử Hoa Kỳ cũng như các xứ khác đã dạy chúng ta bài học: chỉ những người điên rồ mới đặt lòng tin vào các lời bảo đảm đó. Những gì một tổng thống biết tự chế không làm, tổng thống kế tiếp sẽ làm; những gì không làm trong thời bình sẽ được làm trong thời khủng hoảng. Ngành hành pháp cũng đã đưa ra lời cam kết tương tự đối với quyền xử tử các công dân Hoa Kỳ và nước ngoài chỉ với quyền chuyên quyết của riêng mình. Tuy nhiên, chấp nhận những lời cam kết như thế có nghĩa đã từ bỏ những nguyên tắc hiến định bảo đảm vững chắc các quyền tự do dân sự căn bản cho mọi công dân. Nếu có một ý niệm chính trị duy nhất xứng đáng được xem như cốt lõi đặc trưng của Hoa Kỳ, đó là nguyên tắc quyền lực của một ngành chính quyền phải được cân bằng và kiềm chế bởi quyền lực của một ngành chính quyền khác. Chính vì vậy, quyền hạn của chính quyền liên bang phải được đối trọng và cân bằng bởi quyền hạn của chính quyền các tiểu bang, và bởi nguyên tắc phân quyền giữa ba ngành hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Các quan chức chính quyền, nhất là T T Obama, đã cam kết với nhân dân Mỹ hệ thống kiềm chế và cân bằng vẫn còn nguyên vẹn. Và theo lời của chính T T Obama, các chương trình giám sát đều được đặt dưới quyền giám hộ hết sức chặt chẽ của cả ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp. Nhưng chỉ một xét nghiệm thành tích ngắn ngũi cũng đủ để bác bỏ các lời xác quyết trên đây. Trong địa hạt nầy, tác động hổ tương giữa ba ngành trong thực tế không phải là mô hình lý tưởng cần tái xác quyết, mà là để thể hiện trung thực và sâu sắc hơn. Lý do không phải vì hai ngành lập pháp và tư pháp không quan tâm; mà vì mỗi ngành, trong phương cách riêng của mình, đã từ bỏ thực thi vai trò hiến định của chính mình. Mọi chuyện bắt đầu với trò chơi lẫn tránh hệ thống pháp lý sau sự kiện 11/9 của George W. Bush. Xem thường luật pháp, Bush đã ra lệnh khởi động chương trình giám sát quốc nội với Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (NSA), mà không cần đến sự đồng tình của tòa án. Chương trình nầy, vì vậy, đã hoàn toàn mang tính bất hợp pháp và nghịch lý, đến độ các quan chức cao cấp trong chính quyền , kể cả James Comey, Phó Chưởng Lý, và Robert Mueller, giám đốc FBI, đã đe dọa từ chức. Và Bush cũng đã phải chấp nhận ít nhiều nhượng bộ, nhưng sự đối kháng cũng không hề được tiết lộ cho đến gần đây. Câu hỏi cần được nêu lên là điều gì đã xẩy ra? Quốc Hội đã ngăn chặn sự tiếm quyền của hành pháp? Quốc Hội đã khiển trách Bush, cấm đoán các tội phạm, buộc tội các quan chức chính quyền? Trong thực tế, chẳng hề có một chế tài nào theo chiều hướng vừa nói. Thay vào đó, Quốc Hội đã hợp pháp hóa các điểm đặc trưng tồi tệ nhất của chương trình qua các pháp chế mới, như luật Protect America Act năm 2007, và Foreign Intelligence Surveillance Amendments Act năm 2008. Quốc Hội cũng đã chước miễn trách nhiệm pháp lý cho các đoàn thể và định chế bí mật, các tổ chức đã chịu khuất phục trước các vi phạm luật pháp của Bush. Thay vì chế tài các lạm dụng, Quốc Hội đã định chế hóa các hành vi phạm pháp. Cùng lúc, Quốc Hội đã hậu thuẩn các hình thức bí mật che dấu các hành vi lạm quyền của hành pháp, qua cách xếp loại các quan điểm pháp lý (legal opinions). Các phán quyết của tòa án bí mật FISA (the secret Foreign Intelligence Surveillance Act court) cũng đã đem lại sự bảo vệ pháp lý cho các chương trình giám sát mới. Các quan điểm pháp lý của chính quyền Obama về các thủ tục vừa kể cũng được xếp vào loại tối mật. Riêng đối với ngành tư pháp, vào năm 1979, Tối Cao Pháp Viện đã phán quyết các dữ liệu đặc biệt do Verizon thu thập không thuộc loại được Đệ Tứ Tu Chính Án bảo vệ. Công bằng mà nói, Tối Cao Pháp Viện cũng không tỏ dấu hiệu đã tiên liệu hay có ý muốn chuẩn y các chương trình thu thập bừa bải các dữ liệu và thông tin đặc biệt như trong thực tế hiện nay. Vì vậy, vụ kiện của ACLU, nhằm chận đứng các thủ tục nói trên, vẫn có cơ may thành công. Tuy nhiên, Tòa FISA hầu như chưa bao giờ từ chối các yêu sách của hành pháp. James Bamford, chuyên viên giám sát của NSA, đã định tính định chế nầy là “tòa giám sát siêu bí mật, một tòa án hoàn toàn bất lực.”[1] Hệ thống chế ngự và cân bằng (system of checks and balances) của Hoa Kỳ đã có tác động trái ngược . Hệ thống phân quyền hành pháp-lập pháp-tư pháp, không những không hoàn thành trách nhiệm chế ngự lẫn nhau hay bảo vệ dân quyền cho người Mỹ, mà còn đồng lõa trong các vụ vi phạm dân quyền, đến tầm cỡ đã đem lại hệ thống chước miễn trách nhiệm trong các hành động vi luật của cả ba ngành. Phân quyền để giữ thế quân bình và chế ngự lẫn nhau, trong thực tế, đã trở thành hệ thống hợp nhất để tăng cường quyền hạn (fused power) — điều mà các Nhà Lập Quốc đã e ngại nhiều nhất. Các đảng phái chính trị chẳng những đã không làm tròn chức năng các lực chế ngự ba ngành chính quyền. Giới lãnh đạo các đảng, trái lại, còn chung sức che chở các hành vi lạm quyền, mặc dù cá nhân vài nghị sĩ, kể cả Jeff Merkley và Ron Wyden, đã đề xuất một số cải cách hợp lý. Cuối cùng, ngay cả các cuộc bầu cử cũng đã tỏ ra vô hiệu: cử tri đã chọn một tổng thống — giáo sư giảng dạy luật hiến pháp, với nghị trình vận động tuyển cử đề cao chức năng ngăn ngừa các vi phạm các quyền tự do dân sự — nay đã trở thành tác giả của các vi phạm mới. Ngay cho đến nay, thái độ tìm cách xoa dịu và bảo toàn thanh danh một lãnh đạo có khuynh hướng tự do (“Đổi Thay chúng ta có thể tin tưởng”, “Change we can believe in”) đang gây bối rối và trở ngại cho những ai lẽ ra đã có thể phản ứng một cách giận dữ. Người Mỹ phải làm những gì khi mọi kênh chính thức đều không đáp ứng hay tỏ ra không làm tròn chức năng, hay bất lực? Theo lối nói trong đời thường, phải chăng cử tri Mỹ đang ở trong thời kỳ cách mạng? Liệu cử tri sẽ xuống đường để phản kháng? Hình như tình hình còn khác thường hơn thế. Hoa Kỳ đang trải nghiệm một cuộc “cách mạng,” nhưng không phải một cuộc cách mạng trên đường phố. Đây là cuộc cách mạng do chính quyền thể hiện, để chống lại chính hệ thống luật pháp của quốc gia. Đây là cuộc dấy loạn chống lại trật tự hiến định, bởi các quan chức đã tuyên thệ bảo vệ hiến pháp, bao gồm cả các quan điểm pháp lý và pháp chế, một cuộc dấy loạn còn cực đoan và nguy hiểm hơn rất nhiều. Nói một cách khác, chính quyền đang lén lút dấy loạn chống lại bản văn và tinh thần cơ bản của luật pháp quốc gia. Những gì cần thiết, vì vậy, là một cuộc phản-cách-mạng hay một sự phục hồi và tái xác quyết các nguyên tắc từng là nền tảng của Cộng Hòa Hoa Kỳ. Edward Snowden là người đã hiểu được những gì cần làm. Snowden đã hiểu, khi toàn bộ chính quyền đang xử sự ngoài vòng pháp luật và cực đoan, lực lượng duy nhất có cơ may phục hồi nền Cộng Hòa chính là quần chúng. Anh ta đã giúp thể hiện điều nầy qua quyết định vạch trần trước công luận tình trạng lộng hành ngày một nghiêm trọng của chính quyền, nhân danh toàn thể quốc dân. Nói theo lời của chính Jonathan Schell: “Có hai hạng người bất đồng chính kiến về các quyền dân sự: những kẻ lấy cảm hứng từ các nguyên tắc phổ quát, và những kẻ lấy cảm hứng từ truyền thống quốc gia. Mỗi hạng có hậu thuẩn riêng của mình. Julian Assange thuộc Wikileaks là loại bất đồng chính kiến thứ nhất; Snowden, loại bất đồng chính kiến thứ hai. Khi được hỏi tại sao anh ta đã làm những gì anh đã làm, Snowden đã trả lời, ‘Tôi không phải kẻ phản quốc, và cũng không phải anh hùng. Tôi là một người Mỹ.’ Snowden đã cơ sở các hành động của mình trên những truyền thống tốt đẹp nhất của xứ sở nầy, những truyền thống các lãnh đạo hiện nay đã từ bỏ, nhưng anh ta hy vọng, thế hệ người Mỹ hiện nay vẫn còn chia sẻ. Trong những tuần lễ và những tháng trước mặt, chúng ta sẽ hiểu được phải chăng anh ta đã đúng.”[2] Nguyễn Trường Irvine, California, USA 16-8-2013 nguyentruong92606.wordpress.com/——————————————————————————– [1] …a super hush-hush surveillance court that is virtually impotent. [2] …Civil disobedients are of two kinds: those inspired by universal principles, and those inspired by national traditions. Each has its strengths. Julian Assange of WikiLeaks is the first kind; Snowden, the second. Asked why he had done what he did, Snowden replied, “I am neither traitor nor hero. I am an American.” He based his actions on the finest traditions of this country, which its current leaders have abandoned but which, he hopes, the current generation of Americans still share. In the weeks and months ahead, we’ll find out whether he was right.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 17, 2013 9:43:42 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:43:42 GMT 9
MỘT CHIMERICA [1] ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNGSau cuộc họp mặt ngoài nghi thức ngoại giao ở California giữa T T Obama và Chủ Tịch Tập Cận Bình, Tôn Tử, lý thuyết gia quân sự Trung Quốc, tác giả cuốn “Nghệ Thuật Chiến Tranh” (The Art of War), từ mộ phần thiêng liêng của mình, chắc đã phải thiết đải hai quốc trưởng một tiệc rượu. “Tìm Hiểu Kẻ Thù,” trong thực tế, là nhạc hiệu của cuộc họp thượng đỉnh. Bắc kinh đã hiểu rất rõ, và cũng đã giận dữ phản đối, Sở Tiếp Cận các Tác Vụ Đặc Chuyên (Office of Tailored Access Operations – TAO), một đơn vị bí mật thuộc Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA-USA), đã xâm nhập thao túng các mạng vi tính của Trung Quốc trong 15 năm qua. Tuy vậy, Xi Jinping vẫn lặng lẻ để mặc Obama độc thoại răn đe Bắc Kinh về các hoạt động xâm nhập bất hợp pháp các hệ thống vi tính của Mỹ. Ngay sau đó, từ ngày 20-5-2013 và kế tiếp, tiếng nói của Edward Snowden, một “gián điệp” Mỹ, ẩn hiện từ Hawaii, Hong Kong, và đâu đó, đã vang vọng về cùng loại hoạt động phi pháp của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Xinhua, cơ quan truyền thông chính thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mặc dù ghê tởm đội quân gián điệp của Obama, vẫn chẳng thấy cần phải lên tiếng bình luận. Với mặt trái của Prism, các chương trình giám sát tự động của Hoa Kỳ, đột nhiên được phơi bày trước công luận toàn cầu, Trung Quốc — từ lâu luôn bị Hoa Thịnh Đốn kết án xâm nhập bất hợp pháp vào các hệ thống vi tính quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ — đã tỏ ra khá độ lượng. Họ không để mất thì giờ tố giác Prism như một ung bướu khác trong giấc mơ một Viễn Kiến Hỗn Hợp 2020 của Ngũ Giác Đài: “thống trị toàn bộ quang phổ” — the Pentagon’s Joint Vision 2020 dream of “full spectrum dominance”. Qua hành vi tiết lộ sự hiện hữu của Prism (và các chương trình giám sát liên hệ khác), Snowden đã đem lại cho Bắc Kinh một động lực để bám chặt chương trình “giám sát tự động” “cyber-surveillance”. Và chỉ vài ngày sau, Snowden lại tiết lộ điều mà Xi, hẵn cũng đã biết rõ: trong nhiều năm Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã không ngừng xâm nhập bất hợp pháp vào các mạng lưới vi tính của Hong Kong và lục địa Trung Quốc. Nhưng lá bài cốt yếu của TQ là bài xã luận trong tờ Global Times do Đảng Cộng Sản kiểm soát. Bài xã luận đã xác nhận”Snowden là ‘con bài TQ đã không bao giờ ngờ trước.’ Và TQ cũng không sở trường hay thường sử dụng con bài nầy.”[2] Bài xã luận còn khuyến cáo: “sử dụng các tiết lộ gần đây ‘như bằng chứng để thương thảo với Hoa Kỳ’. Bài xã luận cũng cảnh cáo ‘công luận sẽ bất lợi cho chính quyền trung ương Trung Quốc và chính quyền SAR [Special Administration Region] Hong Kong, nếu họ chọn giải pháp gửi [Snowden] trả lại cho Mỹ’.”[3] Với toàn bộ các động thái kiểm soát tự động — từ xâm nhập bất hợp pháp lấy cắp các bí mật kinh tế và thám thính, cho đến các cuộc tấn công kiểm soát tự động khả dĩ, được nhà nước cho phép, trong tương lai — tiếp tục diễn tiến trong bóng tối, thật khó lòng để bàn luận về một dạng quan hệ mới tốt đẹp giữa hai siêu cường, như Chủ Tịch Xi đã gợi ý với T T Obama trong lần gặp gỡ thượng đỉnh gần đây. MÔ HÌNH KINH TẾ NHÀ NƯỚC Câu chuyện giám sát tự động do Snowden tiết lộ, đang lần lượt phô diễn, thực sự đã nhận chìm mộng ước của chính quyền Obama — tìm hiểu các kế hoạch cực kỳ tham vọng của họ Xi tái định hình nền kinh tế Trung Quốc — với mục đích giúp các doanh nghiệp Hoa Kỳ thủ đắc một phần lợi ích kinh tế tương lai. Cốt lõi của các kế hoạch nầy là số đầu tư đáng ngạc nhiên khoảng 6.400 tỉ USD của cấp lãnh đạo TQ để thể hiện kế hoạch thành thị hóa nền kinh tế ngày một sâu rộng cho đến năm 2020. Đó là phần quan yếu của mô hình phát triển mới, đặt nặng các khía cạnh nâng cao năng suất, một nấc thang cao hơn về chất lượng biến chế quốc gia, và một trật tự kỹ-thuật-số quốc tế ngày một sâu rộng, cũng như khuyến khích khuynh hướng tiêu thụ của giai cấp trung lưu ngày một lớn lao. Mô hình còn được tăng cường bởi một chương trình đầu tư hàng loạt trong địa hạt nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trung Quốc cũng đã du nhập mô hình hội nhập công tư hỗn hợp nhằm canh tân các kỹ thuật quân-dân sự, và nhờ đó, tăng cường không những khu vực quân sự mà cả khu vực kinh tế dân sự. Cuối cùng, Bắc Kinh cũng có kế hoạch chi tiêu đến 30% ngân sách cho các chương trình nghiên cứu và phát triển liên quan đến quốc phòng. Đây đã hẳn là vectơ nòng cốt gần đây trong nỗ lực bành trướng kỹ thuật truyền thông, vi điện tử, viễn thông, năng lượng nguyên tử, kỹ thuật sinh học, và kỹ nghệ không gian. Điều cốt yếu là mọi kế hoạch đều đã được hoạch định — không do cơ chế thị trường điều hướng. Nhịp phát triển ở Trung Quốc vẫn luôn nhanh chóng — từ xây dựng máy siêu vi tính đến canh tân và phát triển khu vực đô thị. Chẳng hạn, kể cả đà cải biến thành phố Chongqin, nằm sâu trong lục địa phía Tây Nam, thành đô thị lớn nhất thế giới, với một dân số ước tính trên 33 triệu và ngày một lớn mạnh. Một câu chuyện bên lề thú vị, điễn hình trong hiện tượng phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, có thể là phương cáchTrung Quốc, một xứ có nhu cầu năng lượng khổng lồ, đã “thắng” trong cuộc chiến Iraq. Tờ The New York Times gần đây đã có tường thuật: Trung Quốc hiện đang nhập khẩu gần 50% số dầu Iraq sản xuất. Đó là một mũi gươm đâm sâu vào con tim mới của thingy Cheney. ƯỚC MƠ NHỮNG GÌ Trong tháng 11-2012, ngay sau khi được chính thức xác nhận vào chức vụ tổng thư ký Đảng Cộng Sản Trung Quốc sau Đại Hội thứ 18, Xi Jinping đã khởi động “giấc mơ Trung Quốc với một chương trình tiêu thụ công vĩ đại” — giấc mơ “hoàn tất quá trình phục hưng lớn lao của giống dòng Trung Quốc.”[4] Và giấc mơ sẽ không ngừng mãi cho đến Đại Hội Đảng thứ 20 vào năm 2022. Với các chương trình đầu tư công 6.400 tỉ USD, vấn đề cần đặt ra là phương cách để bất cứ sự cạnh tranh ước mơ nào liên quan đến các tầng lớp thượng lưu cầm quyền Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng có thể đem lại một “win-win relation” (một quan hệ cả hai bên đều thắng) giữa siêu cường duy nhất và siêu cường đang lên ở Á châu. Điều chắc chắn là để có thể tăng thêm lực hấp dẫn của giấc mơ đối với các quốc gia lân bang rõ ràng đang hờ hững, nếu không muốn nói thù nghịch, các nhà ngoại giao TQ có lẽ phải cần đến một chiến dịch đại tấn công quyến rũ với uy lực mềm (a blockbuster soft-power charm offensive). Hai lãnh đạo tiền nhiệm của Xi đã không thể tìm được một chiêu bài nào tốt hơn ý niệm mơ hồ một “xã hội hài hòa” — harmonious society (Hồ Cẩm Đào), hay một “lý thuyết ba đại diện”– “theory of the Three Represents” sâu sắc khó hiểu (Giang Trạch Dân), trong khi tham nhũng đã lan tràn trong giới thượng lưu Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế bắt đầu chậm lại, và môi trường ngày một ô nhiễm tệ hại hơn. Giấc mơ Xi Jinping đang được thể hiện với lộ trình dẫn đến một Trung Quốc tương lai hùng cường. Trong ngôn từ mang tính khẩu hiệu hiện thời: một Trung Quốc hùng cường (về kinh tế, chính trị, ngoại giao, khoa học, quân sự); một Trung Quốc văn minh (duy lý, công bằng, giàu văn hóa, đạo đức); một Trung Quốc hài hòa (giữa các tầng lớp xã hội); và cuối cùng, một Trung Quốc đẹp (với môi trường lành mạnh, ít ô nhiễm). Thời điểm thiêng liêng là “Hai Kỷ Niệm 100 năm”: (1)thành đạt một “xã hội thịnh vượng vừa phải” (moderately prosperous society) vào năm 2021, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc, một năm trước khi Xi Jinping về hưu trí; (2) và một quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu, mạnh, dân chủ, văn minh, và hài hòa vào năm 2049, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Cộng Hòa Nhân Dân, People’s Republic. Wang Yiming, kinh tế gia cao cấp, thuộc Ủy Hội Phát Triển Quốc Gia và Cải Cách, đã xác quyết: GDP của TQ sẽ lên đến 90.000 tỉ yuan (14.600 tỉ USD) năm 2020, khi GDP theo đầu người sẽ đạt, ít ra trên lý thuyết, 10.000 USD; Vào năm 2050, GDP của TQ có thể lên đến 350.000 tỉ yuan (56.600 tỉ USD), và GDP theo đầu người có thể vượt quá 260.000 yuan (42.000 USD). Những dự phóng trên đây đã cơ sở trên niềm tin vững chắc vào động cơ kinh tế do nỗ lực thành thị hóa không ngừng sẽ đem lại — mục đích nhằm đưa 70% dân số Trung Quốc, hay khoảng một tỉ người, vào khu vực thành thị trước cuối năm 2030. Giới trí thức hàn lâm TQ đã tỏ ra rất nhiệt tình với bối cảnh giấc mơ của Xi Jinping. Theo Xin Ming, thuộc Trường Trung Ương Đảng (Central Party School -CPS), một trụ cột của giới lãnh đạo, những gì được hứa hẹn là “một mức độ dân chủ đầy đủ, một nền pháp trị vững chắc, nhân quyền bất khả xâm phạm, và phát triển đầy đủ và tự do của mọi công dân.”[5] Tuy nhiên, chúng ta không nên lẫn lộn “dân chủ” với hệ thống đa đảng của Tây Phương hay tưởng tượng có liên hệ đến trào lưu “tây phương hóa” về chính trị. Nhà khoa học chính trị thuộc Đại Học Renmin, Wang Yiwei, mô tả dân chủ một cách điển hình như “Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marxist …mở đường cho xã hội chủ nghĩa với đặc trưng Trung Quốc.”[6] CÔNG DÂN ĐÔ THỊ MẪU MỰC hay LAO ĐỘNG DU CƯ Đã hẳn, vấn đề thực sự không phải là bằng cách nào giới ủng hộ và nhiệt tình ca tụng đảng có thể đem lại tính lành mạnh cho giấc mơ của Xi, mà là bằng cách nào các kế hoạch như thế có thể được thể hiện tốt đẹp trong thực tế ngày một phức tạp và đầy âu lo. Chỉ cần viếng thăm các thương xá khổng lồ ở Hong Kong như IFC hay Harbour City và không cần phải là một Li Chunling thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội của TQ, để hiểu được giai cấp trung lưu của Trung Quốc đang mơ thành đạt một dạng tây phương hóa — sống trọn vẹn cuộc đời giới tiêu thụ của các đối tác trung lưu Mỹ (hiện đang nguy khốn). Vấn đề thực sự vẫn là: Trên một hành tinh và trong một xứ có quá nhiều vấn đề, làm cách nào để có thể duy trì một giấc mơ như thế dài lâu? Trong thực tế, một số các bậc khoa bảng TQ luôn âu lo về những gì một trọng tâm xây dựng một môi trường thành thị với một nhịp nhanh chóng như thế trong thực tế có thể có ý nghĩa gì. Kinh tế gia Li Yining thuộc Đại Học Bắc Kinh, cố vấn cao cấp của Thủ Tướng Lý Khắc Cường, đã nêu rõ: khi mọi người tranh đua đầu tư vào các dự án đô thị, kết quả không mấy khác một cuộc khủng hoảng tài chánh với bong bóng gần nổ tung. Li Yining đặt câu hỏi: “nguy cơ lớn nhất đối với Trung Quốc là khu vực tài chánh. Nếu tăng trưởng diễn ra mà không đem lại hiệu quả, làm cách nào để có thể trả lại nợ sau sự bùng nổ trong số cung tín dụng?”[7] Chen Xiwen, giám đốc Nhóm Đặc Trách Công Tác Nông Thôn Trung Ương Đảng Hàng Đầu (Party’s Central Rural Work Leading Group) thích nhấn mạnh căn bệnh rõ rệt của chương trình thành thị hóa: sự khả dĩ cạn kiệt năng lượng, tài nguyên, nguồn cung nước uống, chiếm nhiều diện tích đất đai canh tác trước đây, ô nhiễm môi trường đại trà, và tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng. Trong số những vấn đề cấp thiết nhất, do giấc mơ của Xi đem lại, là những gì những kế hoạch thực hiện sẽ chuyển biến nhiều triệu nhân công đồng áng thành các cư dân đô thị — một hiện tượng có nghĩa những nhân công du cư sống trong những túp lều tạm bợ ven biên một thành phố lớn. Chỉ trong năm 2011, một số nhân công khổng lồ 253 triệu đã rời bỏ vùng nông thôn vào thành phố lớn. Lợi tức theo đầu người (per capita income) ở vùng nông thôn chỉ vào khoảng 1/3 lợi tức khả dụng (disposable income) ở thành phố, vẫn chỉ đến 21.800 yuan, hay chỉ hơn 3.500 USD mỗi năm (một phần nào vẫn còn khá hạn chế). Báo cáo năm 2012 của Ủy Hội Dân Số Quốc Gia và Hoạch Định Gia Đình (National Population and Family Planning Commission) đã tiết lộ: 25,8% dân số sẽ có nghề riêng (self-employed), một phương cách mô tả tình trạng xuống cấp của các nhân công du cư trong một nền kinh tế phát triển nhanh (không chính thức); 3/4 làm việc trong những xí nghiệp tư doanh hay gia đình bán chính thức, không sổ sách; dưới 40% chủ xí nghiệp có ký hợp đồng lao động; chỉ 51% các nhân công du cư (migrant workers) làm việc theo hợp đồng định kỳ; và 24% có bảo hiểm y tế. Trên lý thuyết, trong tư cách công dân lao động, họ có quyền tiếp cận các dịch vụ y tế. Nhưng nhiều chính quyền địa phương đã từ chối các quyền lợi nầy vì các công nhân có hộ khẩu trong các thành phố khác. Vì vậy, các khu nhà ổ chuột hay các túp lều mọc lên khắp nơi và các “công dân”thành phố chìm đắm trong nợ nần nghèo túng. Trong lúc đó, giới quản lý cao cấp trong các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, Shenzhen, và Trùng Khánh, đang tìm cách giải tỏa các túp lều hay nhà ổ chuột, dọn đường cho các hình thức đầu cơ tài chánh đủ loại và cơn sốt bất động sản. Đã hẳn, một cái gì đó sẽ phải chịu hy sinh. Khi Justin Lin Yifu, nguyên kinh tế trưởng Ngân Hàng Thế Giới, cảnh cáo: TQ cần hạn chế tham vọng trong kế hoạch thành thị hóa, ông ta đã nêu lên một vấn đề khá chính đáng. Trong thực tế, giấc mơ lớn lao của Chủ Tịch Xi hình như là một phương thức rất dễ đưa đến suy thoái. Nếu quá nhiều nhân công du cư tràn ngập các thành phố lớn và chính quyền không thành công nâng cao năng suất , TQ sẽ bị kẹt trong bẩy sập lợi tức trung lưu đáng sợ — stuck in the dreaded middle-income trap. Dù sao, ngay cả trong trường hợp chính quyền thành công đúng theo các kế hoạch, TQ cũng chỉ có thể thành đạt các mục tiêu với một giá cao khi môi trường quốc gia sẽ bị ô nhiễm nghiêm trọng với hậu quả tai họa lâu dài khó lường. MỘT LÝ THUYẾT KHÔNG TƯỞNG? Chủ tịch Xi, người nuôi giấc mơ, rất có thể là một chiến thuật gia bậc thầy hiện đại dưới bề mặt một trường phái xưa về quan hệ quần chúng. Theo Willy Lam, nhà phân tích chính trị Hong Kong, Xi Jinping, trên bình diện ý thức hệ, là một Maoist kiên trì, luôn muốn duy trì hệ thống “đảng và quân đội dưới một chế độ kiểm soát chặt chẽ “. Trên bình diện chính trị, Xi đã phải hành động như nhà lãnh đạo ý thức hệ đối với 80 triệu đảng viên Cộng Sản. Việc đầu tiên của Xi ngay sau khi chính thức trở thành tổng thư ký là khởi động chuyến thanh tra thành phố lớn ở phương Nam — Shenzhen, một thị trấn vào đầu thập kỷ 1980 đã được chọn làm “vùng kinh tế đặc biệt đầu tiên của Trung Quốc”. Nơi đây, Xi đã theo lối mòn của nhà lãnh đạo tiền nhiệm Đặng Tiểu Bình, người tiên phong đi theo con đường tư bản (first capitalist roader), với chuyến viếng thăm cải cách khổng lồ đầu tiên năm 1992 trong cùng khu vực. Đó rõ ràng là phương cách Xi Jinping hứa hẹn sẽ định hướng và dẫn đạo đợt trỗi dậy theo con đường tư bản sắp tới của Trung Quốc. Tuy nhiên, một loạt thảo luận hàn lâm quyến rũ trên mạng Internet hiện nay xoay quanh sự thúc đẩy của Chủ Tịch Xi hồi phục uy quyền và tính chính đáng của lãnh tụ Cộng Sản nguyên thủy Mao Trạch Đông. Nếu không, Xi Jinping cho rằng chẳng còn lại gì ngoại trừ “chủ thuyết hư vô lịch sử”, “historical nihilism”. Như một thí dụ về con đường sẽ không được lựa chọn, Xi đã đơn cử kinh nghiệm của Liên Bang Xô Viết. Nói một cách khác, Chủ Tịch Xi đã cảnh báo: ông sẽ không bao giờ là nhà lãnh đạo theo gương Mikhail Gorbachev, lãnh tụ cuối cùng của Liên Bang Xô Viết; có nghĩa, sẽ không bao giờ đánh mất quyền kiểm soát phe quân sự Trung Quốc. Quả thật, Xi đã rất cẩn trọng trong mọi tương tác với Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân, People’s Liberation Arm (PLA), luôn nhấn mạnh “giấc mơ một Trung Quốc hùng cường” và “giấc mơ một quân đội hùng cường”. Cùng lúc, thái độ của ông biểu hiện một cách hoàn hảo tự truyện vĩ đại của Đảng Cộng Sản. Chỉ Đảng mới có đủ khả năng bảo đảm tiếp tục cải thiện mực sống và kiềm chế hố bất bình đẳng ngày một gia tăng ở TQ; Chỉ Đảng mới có thể bảo đảm một xứ sở ổn định, thống nhất, và một xã hội hạnh phúc và hài hòa; Chỉ Đảng mới có thể bảo đảm một “Trung Quốc liên tục canh tân,” bảo vệ “các quyền lợi thiết yếu” (đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ tối thượng), và đem lại sự kính trọng toàn cầu cho Trung Quốc — một xứ đã từng bị các đại cường khác làm nhục trong phần lớn hai thế kỷ XIX và XX. Một nhân vật yếm thế Tây Phương hâm mộ Trung Quốc cũng có thể được tha thứ với tư duy: đây chỉ là một phương cách tinh tế hơn để nhấn mạnh, như người Trung Quốc thường làm, sức mạnh của ngòi bút và nòng súng là hai trụ cột của Cộng Hòa Nhân Dân. Tất cả những điều nói trên phần lớn đã được phác họa bởi Đại Tá PLA Liu Mingfu trong tác phẩm 2010 mới được tái bản gần đây, nhan đề “China Dream: Great Power Thinking and Strategic Posture in the Post-American Era” (Giấc Mơ Trung Quốc: Tư Duy và Tư Thế Chiến Lược Đại Cường trong Kỷ Nguyên Hậu-Hoa Kỳ). Liu và Xi (cùng với tất cả các lãnh đạo gần đây của Trung Quốc và các tư lệnh PLA) đều đồng ý về một điều: “Trung Quốc đang trở lại như một quốc gia hùng cường nhất, một vị thế Trung Quốc đã từng chiếm giữ trong suốt một nghìn năm trước ‘thế kỷ tủi nhục’.”[8] Điều căn bản: khi các vấn đề bắt đầu, giấc mơ của Xi sẽ cơ sở trên quốc gia chủ nghĩa. Và chủ nghĩa quốc gia — chất keo xã hội chính yếu — sẽ là điều kiện tiên quyết thiết yếu cho bất cứ canh tân nào sắp tới. Trong tháng 4-2013, một tháng sau Đại Hội Nhân Dân Quốc Gia, Xi đã lặp lại, giấc mơ của ông có thể sẽ hoàn thành vào năm 2050; trong khi người đứng đầu ngành tuyên huấn của Đảng, Liu Yunshan, cũng đã ra lệnh: giấc mơ phải được ghi vào tất cả các sách giáo khoa dùng trong các trường học. Tuy nhiên, bất cứ điều gì, dù được lặp đi lặp lại nhiều lần, cũng chưa hẳn sẽ thành sự thật. Thân phụ của Chủ Tịch Xi, nguyên phó thủ tướng Xi Zhongxun, là nhân vật luôn tư duy khác thường. Trong nhiều phương cách, Xi rõ ràng đang cố làm như thế, đã hứa hẹn sẽ giải quyết mọi việc từ tham nhũng đại trà (cùng lúc diệt cọp lẫn ruồi) cho đến ăn chơi phung phí (không yến tiệc linh đình; kể từ nay, chỉ đề nghị “bốn đĩa thức ăn và một bát xúp.”) Một điều khá chắc chắn: Xi sẽ không có bất cứ cử chỉ gì nhằm thay đổi mô hình chính yếu. TRANH CHẤP TRONG VÙNG BIỂN NAM HẢI Ai cũng muốn biết: bằng cách nào giấc mơ của Chủ Tịch Xi sẽ được thể hiện qua chính sách đối ngoại. Cách đây ba tháng, khi nói chuyện với báo chí từ nhóm BRICS đang lên (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi), Chủ tịch Xi đã nhấn mạnh “Giấc Mơ Trung Quốc cũng sẽ mang lại cơ hội cho thế giới.”[9] Tiếp theo là đợt tấn công quyến rũ: Trong thế giới mới của Xi, “phát triển trong hòa bình” luôn hiện diện, và “đe dọa từ Trung Quốc luôn vắng mặt.”[10] Theo ngôn từ của Bắc Kinh, điều đó được gọi “ngoại giao mọi chiều hướng ,” all-dimensional diplomacy,” một chính sách đã được phản ảnh qua thời gian biểu công du toàn cầu không ngừng của chủ Tịch Xi và Thủ Tướng Lý Khắc Cường trong những tháng đầu nhiệm kỳ. Tuy vậy, cũng như giấc mơ ở quốc nội, giấc mơ trong thế giới bên ngoài cũng tương tự. Thực tế — nhất là trong vùng Biển Nam Hải — một lần nữa đang đe dọa chuyển biến giấc mơ của Xi Jinping thành một ác mộng tương lai. Quốc gia chủ nghĩa đã chứng tỏ là yếu tố nòng cốt và chẳng có gì giống một giấc mơ trong các va chạm liên tục với các đòi hỏi chủ quyền các hải đảo và lãnh hải giàu năng lượng trong vùng. Các tàu chiến gần đây đã luôn diễn tập trong khi Trung Quốc đối đầu với Nhật, Việt Nam, Philippines và nhiều xứ khác. Tình trạng bất ổn định nầy đã tạo cơ hội cho Hoa Thịnh Đốn trong khi chính quyền Obama đã loan báo “chốt” hay “tái cân bằng” ở Á Châu và một chiến lược mới rõ ràng khuyến khích các quốc gia trong khu vực chống đối Trung Quốc — không mấy khác chính sách đắp bờ ngăn chận thế kỷ XXI. Tuy nhiên, trong quan điểm của Hoa Thịnh Đốn, Trung Quốc cũng đã gửi đi nhiều tín hiệu các động thái mới trên bình diện quốc tế. Trong phạm vi mậu dịch song phương với Nhật, Nga, Iran, Ấn Độ, và Brazil, Trung Quốc đã chuẩn bị tránh né đồng mỹ kim. Cũng tương tự như thế, Trung Quốc và Anh đã thỏa hiệp một dạng trao đổi đơn vị tiền tệ, nối kết đồng yuan với đồng pound, và Pháp cũng đang có kế hoạch tương tự đối với đồng euro trong một nổ lực biến Paris thành một trung tâm mậu dịch hải ngoại quan trọng đối với đồng yuan. Chuyến công du đầu tiên của Chủ Tịch Xi đến Mạc Tư Khoa cũng không phải một tình cờ. Hiện không một quan hệ kinh tế và chiến lược nòng cốt nào quan trọng hơn đối với cấp lãnh đạo Trung Quốc. Cũng như Mạc Tư Khoa sẽ không bao giờ chấp nhận một sự bành trướng vô giới hạn về phía Đông của NATO, Bắc Kinh sẽ không chấp nhận chốt chiến lược của Hoa Kỳ trong Thái Bình Dương. Và Mạc Tư Khoa sẽ hậu thuẩn Trung Quốc trong động thái nầy. Gần đây, Bộ Trưởng Quốc Phòng Chuck Hagel đã ghé lại Singapore tham dự Cuộc Đối Thoại Shangri-La, một diễn đàn quốc phòng và an ninh Á Châu, để tìm hậu thuẩn cho mục tiêu mới của Hoa Kỳ khi tạo lập một liên minh chống Trung Quốc trong vùng Nam và Đông Nam Á cũng như Thái Bình Dương. Tướng Qi Jiango, Phó Tư Lệnh tổng tham mưu PLA, cũng có mặt ở diễn đàn, đã chăm chú lắng nghe Hagel, sẵn sàng phác họa chiến lược chống đối của Trung Quốc đặt nặng vấn đề tôn trọng luật pháp quốc tế của Bắc Kinh, sự quan tâm của Trung Quốc đối với vấn đề mậu dịch với Đông Nam Á, nhưng trên hết, đã tỏ rõ không nhượng bộ trong mọi tranh chấp lãnh thổ đang leo thang trong khu vực. Qi Jiango đã tuyên bố: “Lý do Trung Quốc liên tục tuần tiểu Biển Nam Hải và Biển Đông là vì Trung Quốc xem các vùng nầy thuộc chủ quyền tối thượng của Trung Quốc.”[11] Như vậy, giấc mơ và quốc gia chủ nghĩa là hai bạn đồng sàng, không cảm thấy mấy thoải mái cả ở hải ngoại lẫn quốc nội. Bắc Kinh xem chốt Á châu-Thài Bình Dương của Hoa Kỳ như một lời tuyên bố không mấy che đậy về sự xuất hiện một Chiến Tranh Lạnh mới trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương, và một mắt xích nguy hiểm mới của ý niệm Chiến Trận Không-Hải của Ngũ Giác Đài, một cách tiếp cận được quân sự hóa đối với các tham vọng Thái Bình Dương của Trung Quốc như một siêu cường đang lên sắp tới trên hành tinh. Ở Shangri-La, Hagel đã kêu gọi “một quan hệ tích cực và xây dựng với Trung Quốc như một phần thiết yếu của chiến lược tái cân bằng ở Á Châu.”[12] Đó là nơi Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương mới (TPP) do Mỹ thúc đẩy — chính yếu là khía cạnh kinh tế của “chốt” — có thể hòa nhập. Bộ Thương Mãi của Trung Quốc được biết cũng đang nghiên cứu khả năng tham gia như một thành viên. Tuy nhiên, không thể nào một Bắc Kinh đang trỗi dậy có thể chấp nhận sự kiểm soát kinh tế không hạn chế của Hoa Kỳ trong toàn vùng, và cũng không có gì bảo đảm TPP sẽ trở thành một tập hợp mậu dịch áp đảo trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương. Xét cho cùng, với sức mạnh kinh tế của mình, Trung Quốc đang lãnh đạo Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Cấp Vùng bao gồm tất cả 10 thành viên Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) cộng thêm Úc, Ấn, Nhật, Tân Tây Lan, và Nam Hàn. Trong tháng 4-2013, sau khi thăm viếng Bắc Kinh, ngoại trưởng John Kerry bắt đầu nói đến giấc mơ Thái Bình Dương của Mỹ khi dừng chân ở Tokyo. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tỉnh táo trước mơ mộng của Hoa Thịnh Đốn, vì cấp lãnh đạo Trung Quốc luôn xếp bất cứ giấc mơ nào liên quan đến các động thái khắp nơi ở Á Châu cũng đồng nghĩa với ước muốn duy trì vai trò khống chế của Mỹ trong khu vực, và như vậy, sẽ ngăn chận đà trỗi dậy của Trung Quốc. Dù cho quốc gia chủ nghĩa giữ một vai trò nhất định nào đó đối với các hải đảo giàu năng lượng trong những tranh chấp trong vùng Biển Nam Hải, ý niệm Trung Quốc mong muốn ngự trị dù chỉ thế giới Á Châu, hay toàn thế giới, là một điều thiếu duy lý. Cùng lúc, mô hình được cổ súy trong lần họp thượng đỉnh Obama-Xi gần đây nhiều lắm cũng chỉ là một giấc mơ mong manh dễ vỡ, nhất là với chốt Á Châu và các tiết lộ gần đây của Edward Snowden về phương cách Hoa Thịnh Đốn đã xâm nhập vào các hệ thống vi tính của Trung Quốc. Có lẽ, vấn đề trong khu vực đơn giản chỉ là giấc mơ của ai sẽ tan biến trước, khi đối diện với thực tế kinh tế và quân sự. Ít nhất, về lý thuyết, một điều chỉnh chiến lược bởi cả hai bên có thể đem lại một giấc mơ chung, một Chimerica, có nhiều hy vọng ít hão huyền hơn. Tuy nhiên, giấc mơ chung Chimerica hàm ý: Hoa Thịnh Đốn phải có đủ khả năng thừa nhận các quyền lợi quốc gia thiết yếu của Trung Quốc — giấc mơ của Xi — một cách thực sự minh thị. Dù cho thực tế hỗn độn và khó khăn giới lãnh đạo Trung Quốc đang phải đối diện là gì chăng nữa, Bắc Kinh hình như có thể hiểu được thực tế bên sau các ý định chiến lược của Hoa Thịnh Đốn. Ngược lại, chúng ta rất có thể phải âu lo về lập trường và thái độ trái ngược từ phía Mỹ. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 02-7-2013 [1] Chimerica: tên gọi do Niall Ferguson, một sử gia tài chánh, sáng tạo và dành cho cặp tình nhân Mỹ-Trung Quốc. [2] …Snowden is a card that China never expected. China is neither adept at nor used to playing it. [3] …Its recommendation: use the recent leaks “as evidence to negotiate with the U.S. It also offered a warning that ‘public opinion will turn against China’s central government and the Hong Kong SAR [Special Administrative Region] government if they choose to send [Snowden] back’.” [4] …fulfilling the great renaissance of the Chinese race. [5] …what’s being promised is “a sufficient level of democracy, well-developed rule of law, sacrosanct human rights, and the free and full development of every citizen.” [6] …”the Sinocization of Marxism …opening up the path of socialism with Chinese characteristics.” [7] …The biggest risk for China is in the financial sector. If growth comes without efficiency, how can debt be repaid after a boom in credit supply? [8] …China is “back as the most powerful nation where it’s been for a thousand years before the ‘century of humiliation’.” [9] …The China Dream also will bring opportunities to the world. [10] …In Xi’s new world, “peaceful development” is always in and “the China threat” is always out. [11] …The reason China constantly patrols the South China Sea and East Sea is because China considers this to be sovereign territory. [12] …Hagel did call for “a positive and constructive relationship with China” as an “essential part of America’s rebalance to Asia.” nguyentruong92606.wordpress.com/2013/07/02/mot-chimerica-1-dong-sang-di-mong/
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 24, 2013 3:57:14 GMT 9
Post by nguyendonganh on Sept 24, 2013 3:57:14 GMT 9
Saddam Hussein Cứu Al-Assad
Nguyễn đạt Thịnh
Không ai tin được chuyện Saddam Hussein đội mồ sống dậy cứu Bashar al-Assad; chỉ cần 5 chữ Saddam Hussein cứu al-Assad cũng đã đủ là một câu chuyện ma rất ngắn, nhưng khá lý thú cho những người sợ ma nhưng lại thích nghe chuyện ma. Tuy nhiên, chuyện nhà độc tài Iraq bị treo cổ từ 7 năm trước làm anh sĩ quan hải pháo Mỹ trên chiến hạm Mahan đang thả neo ngoài khơi biển Mediterranée xượng tay chưa nhấn nút điện khai hỏa cho dàn hỏa tiễn Tomohawk bay vào Damascus giết Assad lại không phải chuyện giả tưởng, mà là chuyện có thật, chuyện đang xẩy ra, và được truyền thông sôi nổi tường thuật mỗi ngày nhiều lần. Mọi người nín thở chờ tiếng hỏa tiễn nỗ, khai diễn thêm một cuộc chiến nữa giữa Hoa Kỳ và một nước Ả Rập khác; tuy nhiên hỏa tiễn vẫn chưa nổ, mặc dù Hoa Kỳ đã bố trí 4 chiến hạm quanh Địa Trung Hải, gần hải phận Syria. Hoa Kỳ chỉ sẵn sàng, nhưng vẫn còn chờ hai đồng minh -Pháp và Anh- gửi chiến hạm đến phối hợp hành động, rồi mới khai hỏa -nếu Tổng Tư Lệnh Barack Obama dám ra lệnh khai hỏa. Obama rất cần đồng minh, nhưng Anh quốc lại chưa sẵn sàng. Hôm thứ Tư 8/28 quần chúng Anh ồn ào xuống đường, biểu tình trước dinh thủ tướng với khẩu hiệu "Không Dính Vào Syria", khiến thủ tướng Anh David Cameron quyết định tạm ngưng, chưa gửi chiến hạm HMS Illustrious vào vị thế tác chiến bên cạnh 4 chiến hạm Mỹ đang thả neo chờ lệnh. Hôm thứ Năm 8/29, Cameron nói với quốc hội Anh là ông tạ lỗi đã phá hỏng chương trình nghỉ hè của họ, triệu tập họ trở về Luân Đôn, hầu thảo luận về thái độ của Anh đối với Syria; ông nói, "chúng ta cần quyết định về phản ứng của Anh đối với vụ sử dụng vũ khí hóa học (VKHH) tàn ác nhất thế kỷ." Cameron nói thêm là Anh quốc chỉ trừng trị hành động sử dụng VKHH, và sẽ không đổ quân vào Syria, mà cũng không tìm cách thay đổi chế độ chính trị tại đó, nhất là không hạ bệ Assad. "Nói đơn giản là, chúng ta cần trả lời câu hỏi 'Việc ngăn cấm sử dụng VKHH trên mọi chiến trường có là việc phù hợp với quyền lợi của Anh Quốc không?'" Ông nói. "Tôi thì tôi tin đó là việc phải làm." Ông xin quý vị thành viên quốc hội đừng để tổng thống al-Assad ngộ nhận là ông ta có thể vô thưởng, vô phạt tiếp tục sử dụng VKHH. Cameron cũng nói thêm là Assad đã sử dụng VKHH 14 lần, lần này ông dùng loại mạnh hơn, tàn độc hơn, với dụng ý thử nghiệm xem quốc tế dám có phản ứng gì không. Thái độ thận trọng của hai vị nguyên thủ Anh và Mỹ cho thấy là họ không muốn tái diễn cái "hố" của thủ tướng Tony Blair và của tổng thống George W. Bush trong việc tấn công Iraq năm 2003 chỉ vì tin tình báo sai lạc nói Saddam Hussein chế tạo WMD (weapon of mass destruction-vũ khí tàn sát). Ngày 19 tháng Ba 2003, tổng thống Bush ra lệnh quân đội tiến vào Iraq, đánh phủ đầu để ngăn cấm không cho lãnh tụ Saddam Hussein chế tạo vũ khí nguyên tử; trước đó 2 tháng, nhiều cuộc thăm dò dân ý của giới truyền thông cho thấy 64% người Mỹ đồng ý chinh phạt Iraq, trong lúc 63% muốn một giải pháp ngoại giao, và 62% tin là cuộc chinh phạt Iraq, không những không làm giảm mà còn làm tăng hiểm họa khủng bố trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Cuộc chiến kéo dài gần một thập niên, tạo kiệt quệ kinh tế cho Hoa Kỳ, và tạo ra nhu cầu hỏi ý dân trước mỗi quyết định quan trọng. Trình bầy quan điểm của ông Obama, phát ngôn viên Bạch Cung Josh Earnest nói, "Tổng thống không mưu tìm một cuộc chiến tranh kéo dài lê thê, ông chỉ muốn một phản ứng nho nhỏ của Hoa Kỳ trừng trị hành động sử dụng VKHH; ông cũng không tham vọng thay đổi chế độ chính trị của Syria.” Phân tách kỹ, chúng ta thấy Obama quả không có cái cao vọng của người tiền nhiệm -tổng thống George W. Bush- xây dựng dân chủ cho những quốc gia Ả Rập lạc hậu; ông chỉ muốn gửi điệp văn cho nhiều lãnh tụ trên thế giới: đừng tàn sát thường dân vô tội bằng VKHH, nếu quý vị không muốn Hoa Kỳ "xía" vào những cuộc nội chiến của quý quốc. Tàn sát thường dân bằng pháo kích và đốt nhà như Việt Cộng làm trong cuộc Tổng Công Kich Mậu Thân? Mỹ vẫn vui vẻ bang giao với Việt Cộng. Giết thường dân Ai Cập bằng xe tăng Mỹ, tiểu liên Nga, bắt vị tổng thống dân cử đầu tiên của Ai Cập bỏ tù, rồi chỉ định một vị tổng thống khác, không ai bầu lên cả? Mỹ vẫn không cúp quân viện; miễn là quý vị đừng sử dụng VKHH, thứ hơi độc giết người bừa bãi, không cần biết nạn nhân là ai, có chống chính phủ hay không. Cái giá sinh mệnh con người nhẹ như đồng bạc bỏ ra mua vé số Power Ball khiến anh Nguyễn Công Bằng về Nam Vang tìm hiểu cuộc bầu cử tại Căm Bốt, mà anh nghĩ là sẽ được tái diễn tại Việt Nam trong một ngày không còn xa nữa để giải quyết bế tắc chính trị. Anh Công Bằng thấy, có thể cần thêm một thế hệ nữa để người Miên, người Việt bầu được người dân biểu đại diện cho họ, vì, trong giả thuyết đảng Cộng Sản Việt Nam không còn nữa, đảng viên Cộng Sản vẫn là những ứng cử viên có nhiều tiền nhất, nhiều thế lực và thủ đoạn nhất để thắng cử, mà anh hồn của tổng thống Ngô Đình Diệm, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, tổng thống Dương Văn Minh không cứu được ai cả, trong lúc Saddam Hussein -dù bị treo cổ- vẫn cứu được al-Assad. Nhà độc tài này có thể yên tâm ngồi vững vàng trên ghế tổng thống, vì quốc hội Anh, với tỉ lệ 285 chống 272, đã bỏ phiếu chống việc trừng phạt al-Assad. Cameron tuyên bố, "Phản ánh quan điểm của người Anh, quốc hội đã bác bỏ hành động quân sự." Đứng chơ vơ một mình giữa Địa Trung Hải, tổng thống Obama thấm thía hiểu 4 chữ Tầu "tiến, thoái, lưỡng nan." (nđt) Hội Chứng Trung Đông
Nguyễn đạt Thịnh
Hội chứng -tiếng Anh gọi là syndrome- là một danh từ y khoa và khoa tâm lý học; hội chứng mô tả một vài động thái, một vài triệu chứng mà cả bệnh nhân lẫn người ngoài đều có thể nhận ra; triệu chứng này liên quan đến một kinh nghiệm cũ bệnh nhân đã trải qua, và tạo ám ảnh nặng nề trên tâm trạng của bệnh nhân. Nói cách khác "hội chứng" là một ám ảnh tâm lý, do một diễn biến lớn gây ra. Một tâm bệnh. Lúc sau này bốn chữ “hội chứng Việt Nam” (HCVN) trở thành khá phổ biến trong những bài bình luận về chiến tranh; nhiều bình luận gia cho là phản ứng của quần chúng Mỹ đối với chiến tranh bị ảnh hưởng bởi những điều họ nghe và thấy qua truyền thông về cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến gây nhiều tranh cãi trong xã hội Mỹ. Một đặc điểm cần chú ý là rất ít cựu chiến binh Hoa Kỳ đã tác chiến tại Việt Nam trở về mắc chứng HCVN, mà chỉ quảng đại quần chúng Mỹ mới phản ứng sảng về chiến tranh, qua HCVN. Tuy nhiên việc vừa xẩy ra cho đại tướng David Petraeus lại không còn là một HCVN nữa, để trở thành một căn bệnh mới của xã hội Mỹ -bệnh hội chứng Trung Đông (HCTĐ). Tướng Petraeus có 2 “trọng tội,” tội yêu cô Paula Broadwell, người viết tiểu sử ông, do đó thường gặp để nghe ông kể lại những diễn biến trên 2 chiến trường Iraq và A Phú Hãn mà ông là tư lệnh; tội thứ nhì của Petraeus là chiến thắng chiến thuật trên cả 2 cuộc chiến này -2 cuộc chiến mới nhất, và cũng khó khăn nhất trong cận sử Hoa Kỳ. Chiến thắng chiến thuật có nghĩa là ông duy trì được tình trạng ổn định trên cả 2 chiến trường, và giảm thiểu số lính Mỹ tử trận. Chiến thắng chiến lược là hoàn toàn ngăn cấm quân khủng bố không cho chúng gây tổn thất nhân mạng cho binh sĩ Hoa Kỳ. Người chiến thắng chiến lược tại Trung Đông là tổng tư lệnh Barack Obama; ông sử dụng chiến lược rút toàn bộ lục quân Hoa Kỳ ra khỏi Trung Đông. Câu nói nghe ngược đời nhưng quyết định rút quân giúp Obama thôi, “không cung cấp mục tiêu cho xe bom,” để ung dung tiêu diệt địch quân từ trên chóp đổ xuống, hầu chấm dứt một cuộc chiến tranh tưởng chừng không thể nào ngã ngũ, và do đó ông chiến thắng. Petraeus đã đền tội bay bướm bằng cách xin từ chức giám đốc CIA, nhưng vẫn còn chưa đền tội chiến thắng tại Trung Đông. Hôm thứ Hai, mùng 9 tháng Chín, trong lúc ông đi bộ trên đường đến trường đại học CUNY (The City University of New York) để giảng dạy -GODAUTRE (gõ đầu trẻ) là công việc và cũng là sinh kế của ông từ ngày giải ngũ và từ nhiệm. Một nhóm sinh viên vây quanh ông, và vừa đi theo ông, họ vừa hò hét “Petraeus out of CUNY and out of every class” - đuổi Petraeus ra khỏi CUNY và đuổi hắn ra khỏi mọi lớp học. Một sinh viên la lớn, “thằng cha đó chính là Petraeus, một tên tội phạm chiến tranh,” đám đông hùa theo hò hét “war criminal” (tội phạm chiến tranh). Truyền thông Mỹ loan tin này như mọi tin khác, không bất bình vì chuyện một người lính chiến trở về nước, bị chính đồng bào mình hạ nhục; sinh viên không hạ nhục những người cựu chiến binh khác, mà chọn Petraeus vì ngoài cái tội viễn chinh, ông còn mắc tội chiến thắng. Nhìn qua một góc cạnh khác tổng tư lệnh George W. Bush chỉ bị anh phóng viên Ả Rập Muntadar al-Zeidi hằn học ném giầy tại Baghdad hôm 14 tháng Chạp 2008 khi ông vào chiến trường Iraq lần chót, để giã biệt chiến tranh; trong lúc Petraeus bị ném giầy vào mặt sau khi ông đã giã từ vũ khí, và ông bị chính sinh viên Mỹ hạ nhục ngay trên đất Mỹ. Họ gọi ông là “war criminal,” và độc giả dửng dưng như vừa đọc một bài tường thuật tai nạn lưu thông. Thái độ ghê tởm chiến tranh, kết tội một vị tướng thắng trận trở thành nhược điểm lớn và hại cho Hoa Kỳ; nhược điểm này đang được chính tổng thống Nga Vladimir Putin khai thác qua bài báo ông gửi đăng trên tờ New York Times ngày thứ Tư 9/11. Putin đe người Mỹ là việc tổng thống Obama tấn công trừng phạt Bashar al-Assad “sẽ đưa đến tình trạng chiến tranh leo thang, có thể khiến chiến tranh lan rộng vượt biên giới Syria, và gây thêm cảnh giết chóc.” Trong lúc chính ngoại trưởng Nga đề nghị Syria giao nạp vũ khí hóa học (VKHH) cho Liên Hiệp Quốc, đề nghị đó đưa đến cuộc gặp gỡ giữa hai ngoại trưởng Nga và Mỹ, thì Putin lại viết trong bài đăng trên tờ nhật báo lớn nhất của Mỹ là chính lực lượng nổi dậy tại Syria đã sử dụng VKHH để dựng chứng “kêu gọi sự can thiệp của bọn ngoại nhân đầu sỏ của chúng.” Chỉ trích niềm tự hào của người Mỹ, Putin viết, “Việc làm vô cùng nguy hiểm là khuyến khích -dù với bất cứ mục đích nào- cho quần chúng Hoa Kỳ tưởng họ là siêu phàm; ngay đến cả Thượng Đế cũng không siêu phàm. "Thế giới gồm có những nước lớn và những nước nhỏ, những nước giầu và những nước nghèo, những nước đã có quá trình dân chủ lâu dài, và những nước đang trên đường xây dựng dân chủ; do đó chính thể của nước này không giống chính thể nước khác được. Chúng ta không giống nhau, nhưng trong lúc cầu nguyện, chúng ta đừng quên là Tạo Hóa tạo ra chúng ta -mọi người, mọi dân tộc- bằng nhau, bình đẳng như nhau." Nghị Sĩ Dân Chủ Robert Menendez nói với phóng viên CNN, “Đọc bài báo của Putin tôi lợm giọng, buồn mửa.” Nguyên tổng trưởng quốc phòng Leon Panetta nhận định Putin không có tư cách gì để “lên lớp” người Mỹ về chiến tranh, và về nhân đạo, nhân quyền. Panetta nói, “Mục đích mà Putin mưu tìm là làm yếu đi quyết tâm của người Mỹ; lòng dân chán ngán chiến tranh sẽ làm giảm bớt những yêu sách của Hoa Kỳ trên bàn hòa đàm.” Nhận xét về bài báo của ông Putin, Nghị Sĩ John McCain cho là “ông ta sỉ nhục óc phán đoán của mỗi người Mỹ;” trong lúc ông Pat Buchanan, nguyên cố vấn của 2 vị tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Ronald Reagan, lại nhận xét, “Ông Putin nói về việc Mỹ tấn công Syria đúng hơn tổng thống Obama nói.” Nói tóm lại “hội chứng Trung Đông” là một trở ngại lớn cho chính sách trừng phạt al-Assad về tội dùng VKHH giết thường dân. Hai chữ “hội chứng” hơi mới đối với một số độc giả; bốn chữ “kinh cung chi điểu” có thể quen thuộc hơn. Bốn chữ này lấy từ điển tích Chiến Quốc: Canh Lũy biểu diễn cho Ngụy Vương xem trò ông giương một cây cung không nạp tên đưa lên không bắn rơi một con chim nhạn, rồi giải thích, "con chim này chết vì khiếp đảm, trước đó nó đã thọ thương vì một mũi tên, nên kinh sợ khi thấy có người giương cung lên bắn, dù trên cây cung có tên hay không." Dĩ nhiên đó là chuyện chỉ xẩy ra bên Tầu, ngày xưa. Chuyện bên Mỹ hôm nay là một mâu thuẫn chua chát: ông Nobel Hòa Bình Obama đang là người chủ chiến nhất, diều hâu nhất nước Mỹ; và hậu duệ của thế hệ anh hùng 1939-1945, thế hệ đã hy sinh 1,076,245 quân nhân tử trận để giải phóng toàn thế giới ra khỏi ách đô hộ của Đức Quốc Xã và Nhật Quân Phiệt đang chết ngộp trong Hội Chứng Trung Đông. (ndt)
|
|