|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:41:38 GMT 9
Một thế giới hậu Hoa Kỳ Fareed Zakaria Lê Quốc Tuấn, X-Cafe chuyển ngữ
Lời mở đầu cho ấn bản bìa mềm:
Chiếc xe đua chạy nhanh nhất thế giới
Thời hoàng kim nào cũng đến lúc chung cuộc. Càng hào nhoáng chừng nào, kết cục càng cháy bỏng chừng nấy. Cuộc đổ vỡ năm 2008 là sự xụp đổ tồi tệ nhất của thế giới kể từ năm 1929 và đã dẫn đến sự đình trệ kinh tế thê thảm nhất kể từ cuộc Đại suy thoái đến nay. Tất cả mọi biến chuyển trong năm qua đều không từng có thể tiên liệu được: sự hủy hoại của gần 50 trillion mỹ kim trong các tài sản kinh tế toàn cầu; việc quốc hữu hóa những công ty cho vay nợ nhà lớn nhất Hoa Kỳ; vụ khai phá sản lớn nhất lịch sử (Lehman Brothers); sự biến mất của các ngân hàng đầu tư; những gói kích thích và cứu chuộc quanh thế giới lên đến nhiều trillion dollars. Chúng ta đang sống qua thời đại chắc chhắn sẽ được nhớ lại để nghiên cứu trong nhiều thế hệ sau.
Làm thế nào chúng ta đã đến mức này ? Mỉa mai thay, tôi đã phải rút ra kết luận rằng nguyên nhân chính của cuộc đổ xụp này chính là - sự thành công. Môt phần tư thế kỷ qua đã là một sự tăng trưởng ngoạn mục. Cứ mỗi một thập niên hay tương tự, kích thước kinh tế toàn cầu tăng gấp đôi, từ 32 trillion mỹ kim trong năm 1999 lên đến 62 trillion vào năm 2008, lạm phát liên tục nằm ở mức thấp một cách đáng ngạc nhiên. Sự tăng trưởng kinh tế đã đến tận những khu vực mới. Trong khi các gia đình ở phương Tây dọn vào các ngôi nhà to hơn, mua sắm laptop và điện thoại di động, thì những nông dân đủ ăn ở Á Châu và châu Mỹ La tinh tìm được công ăn việc làm mới trong các thành phố phát triển nhanh. Ngay cả ở Phi châu, dân chúng cũng nhảy vào được thị trường toàn cầu để mua bán sản phẩm của mình. Ở mọi nơi chốn, giá cả hàng hóa đi xuống, trong khi sự thịnh vượng trong các hình thức đầu tư chứng khoán và địa ốc nhảy vọt. Những biểu thị kinh tế vĩ mô sẽ lập tức cho thấy tất cả câu chuyện. Trong năm 2006 và 2007, những năm đánh dấu cao trào của thời hoàng kim, 124 quốc gia - khoảng 2/3 tổng số các nước trên thế giới- đã nhanh chóng phát triển hơn 4 phần trăm hàng năm.
Nguyên nhân gì tạo nên thời đại phát triển toàn cầu ? Như tôi sẽ trình bày chi tiết trong tập sách này, đó chính là sự kết hợp của chính trị, kinh tế và sức mạnh của khoa học kỹ thuật.
Chính trị:
Cái chết của Liên bang xô viết đã dẫn đến một thế hệ tương đối ổn định về chính trị. Trong thời chiến tranh lạnh, đã từng xảy ra hàng chục cuộc chiến tranh dân sự, bạo loạn và các nhóm phiến loạn vũ trang được Liên Xô bảo trợ - và trong hầu hết các trường hợp này, Tây phương cũng đã tài trợ cho các đối tác của mình. Không có cạnh tranh về quyền lực, chiến tranh ít xảy ra hơn và nếu có xảy ra cũng chỉ ở bình diện nhỏ. Cũng có những ngoại lệ, như vụ đụng chạm đẫm máu ở Congo trong những năm 1990 và, dĩ nhiên, chủ nghĩa khủng bố như đã từng gây nên bởi Al Qaeda, nhưng trên tổng thể, thế giới đã tận hưởng được sự ổn định và hòa bình hơn là đã từng có trong suốt thế kỷ. Con số thương vong gây nên bởi các bạo hành chính trị tiếp tục suy giảm.
Kinh tế:
Sự xụp đổ của chủ nghĩa cộng sản đã khiến thị trường tự do tư bản chủ nghĩa trở thành lối thoát sinh tử duy nhất đề vận hành một nền kinh tế, khiến tạo khích lệ cho các chính phủ ở mọi nơi trở nên một bộ phận của hệ thống kinh tế quốc tế. Các thỏa hiệp mới và các cơ quan như WTO đã hoạt động để giảm bớt các rào cản nhằm hợp nhất thế giới. Các chính phủ từ Việt Nam đến Cam Bốt đều đã nhận thức được rằng họ không thể bỏ lỡ cuộc chạy đua đến thịnh vượng của cả toàn cầu. Các chính phủ này đã theo đuổi các chính sách hợp lý, giảm mức nợ nần và loại bỏ những trợ cấp nâng đỡ phi lý- không phải vì những con người như Bob Rubin hay Hank Paulson cưỡng ép họ phải hành động như thế, mà chính bởi vì họ có thể nhìn ra được những lợi điểm của việc di chuyển vào trong phương hướng ấy (và cái giá phải trả nếu không hành động như thế). Những cải tổ ấy khuyến khích đầu tư quốc tế và tạo nên các công ăn việc làm mới.
Ðồng thời, các ngân hàng trung ương đã học được cách điều khiển và làm dịu nhẹ chu kỳ thương mại, ngăn ngừa được những thay đổi giá cả bất nhất khiến có thể tổn hại đến công ăn việc làm, tài sản tiết kiệm , dẫn đến các bất ổn và cách mạng. Lấy Hoa Kỳ làm một thí dụ: Giữa những năm 1854 và 1919, cứ bốn năm lại xảy ra một lần suy thoái và mỗi lần như thế, sự suy thoái kéo dài đến hai năm tròn. Hai thập niên qua, Hoa Kỳ trải qua được tám năm tăng trưởng liên tục không hề bị gián đoạn bởi các suy thoái, và sự suy sụp, khi suy thoái xảy đến chỉ kéo dài có tám tháng. Thời kỳ ổn định này là thắng lợi của cuộc tấn công dài nhiều thế hệ vào nạn lạm phát. Khởi đầu với Paul Volcker vào những năm đầu 1980,các ngân hàng trung ương phát động cuộc chiến tranh chống lạm phát, xử dụng những công cụ cùn mẻ của chính sách tiền tệ để giữ cho giá cả hàng hóa được ổn định tương đối. Những chiến thuật được mài dũa trong cuộc chiến đấu ấy đã trở thành một trong những món hàng xuất khẩu thành công nhất của Hoa Kỳ. Vào năm 2007, chỉ có hai mươi ba quốc gia có mức lạm phát cao hơn 10 phần trăm, và chỉ một quốc gia – Zimbabwe - phải chịu khốn khổ vì lạm phát siêu. Kỹ thuật.
Cuộc cách mạng tin học gia tốc thêm cho sự xuất hiện của một nền kinh tế toàn cầu đơn thể. Các chi phí về truyền thông xuống thấp, thông tin có thể truy cập được ở mọi nơi và sự kết hợp trở nên dể dàng hơn. Ðột nhiên, một cửa hàng bán những món hàng thể thao ở Nebraskan có thể có nguồn từ Trung Quốc, bán sang Âu châu, để rồi có sổ sách được thực hiện bởi các kế toán viên ở Bangalore.
Nhưng ảnh hưởng chính của tất cả những thành công này - lạm phát thấp, tăng trưởng toàn cầu, tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật – lại chính là sự ngạo mạn, hay nói một cách kỹ thuật hơn, là cái chết của sự rủi ro. Trong những năm 1990 và 2000 này, những người làm thương mại đã không còn lo lắng về các rủi ro chính trị - các hiểm nguy đến tăng trưởng kinh tế bởi các cú đảo chính, tấn công của khủng bố và các rối loạn xã hội. Tuy nhiên ít có các rủi ro về chính trị. Một sự táo bạo đã đơn giản mang lại một thể chế mới vẫn phải đối diện với các gò bó cũng như các cơ hội của một nền kinh tế toàn cầu. Sự ổn định căn bản của thế giới thời kỳ hậu chiến tranh lạnh đã kéo dài, bất chấp chủ nghĩa khủng bố cùng đôi lúc tai họa.
Chính những người làm thuơng mại ấy đã ít chú ý đến một vấn nạn rất quen thuộc ở cận kề hơn trong nước : rủi ro về kinh tế. Như Alan Greenspan, họ cho rằng sự phát triển của các sản phẩm tài chính phức tạp đã thực sự giảm thiểu được rủi ro bằng cách phân tán ra rộng rãi. Họ đã tin rằng các mức nợ từng có lúc được xem là nguy hiểm hiện đã có thể kiểm soát được căn cứ vào những gì họ tưởng đã thay đổi được các tình huống mãi mãi. Kết quả là, các nhà đầu tư đã dồn tài sản vào loại vốn thông thường được xem là những loại đầu tư nguy hiểm, tất cả cho những hứa hẹn ít ỏi. Trải rộng tín dụng ra- sự khác biệt lợi tức giữa trái phiếu của ngân khố Hoa Kỳ, thường được coi như một loại đầu tư an toàn nhất thế giới, với trái phiếu của những công ty có thành tích giới hạn - đã ở mức thấp kỷ lục. Những quốc gia bất ổn như Ecuador và các công ty bấp bênh như Chrysler có thể vay mượn được rẻ gần như ngang với chính phủ Hoa kỳ (Dĩ nhiên là vào năm 2009, Ecuador đã không trả được nợ và Chrysler đã ngăn ngừa được sự khánh tận chỉ nhờ vào sự cứu chuộc phút chót của chính phủ). Và bởi vì nợ rẻ, những người cho vay nợ và giới chủ nhà đã xử dụng quá đà, tiêu xài vượt ra ngoài khả năng của họ. Các ngân hàng và những nhà đầu tư vốn cung cấp tất cả các đồng nợ rẻ mạt ấy đã được bảo đảm bởi những két bạc to đùng của những tập đoàn- với các lợi nhuận tăng vọt gấp đôi trong suốt liên tục mười tám quý liền giữa 2002 và 2006- và tỉ lệ khai phá sản xuống thấp dưới mức trung bình. Những ngày nắng đẹp tưởng như không bao giờ có thể chấm dứt.
Kinh tế thế giới đã trở thành tương tự như một chiếc xe đua đắt tiền, ngoại hạng, với khả năng đua ở tốc độ chóng mặt. Vì mọi người đã lái chiếc xe đua này trong thập niên vừa qua và đã cảm nhận được các cao độ cùng tốc độ cuồng loạn như có chích thuốc kích thích adrenaline. Chỉ có một vấn đề duy nhất: đó là hóa ra không một ai biết cách lái một chiếc xe đua như thế này. Trải qua mười năm vừa qua, kinh tế toàn cầu đã trở nên một thứ chưa ai từng nhìn thấy - một hệ thống nối kết của khoảng 125 quốc gia, tất cả đều tham dự và tất cả đều chạy với những tốc độ chưa từng biết đến. Thật như thể là chiếc xe đua ấy được lái bởi 125 tay đua khác nhau- và không một ai kịp nhớ nghĩ đến việc mua các bộ phận giảm shock.
Vấn nạn của Nợ nần
Có những người muốn mua các bộ giảm shock. Họ được xem như những người bi quan tiêu cực trong những năm tháng phát triển. Họ đã đặt câu hỏi tại sao những bộ nợ nhà dưới chuẩn lại có thể được đánh lãi xuất cao như những trái phiếu của hãng General Electric. Nhưng cứ mỗi năm thành công lại chấm dứt với một báo cáo lợi nhuận nổ tung con mắt khác hay ngày lãnh lương bạc tỉ của các nhà quản trị các quỹ đối trọng (hedge funds) cùng những hứa hẹn sửa chữa không được hiện thực hóa khiến những người bi quan tiêu cực trở nên yên lặng hơn. Có một loại đảo ngược lối chọn lọc tự nhiên xảy ra ở Wall Street. Như Boykin Curry, vị giám đốc điều hành ở Eagle Capital đã từng phát biểu, trải qua hai mươi năm qua, "tế bào DNA của gần như tất cả các cơ quan tài chính đã bị biến ảnh (morph) một cách nguy hiểm. Mỗi khi có một ai hối hả tăng thêm lực bẩy tài chính và rủi ro, chỉ vài năm sau đó thực tế lại chứng minh là họ hành động "đúng". Những con người này được khuyến khích để táo bạo hơn, được thăng chức, và được chi phối đến nhiều tiền bạc hơn. Trong khi ấy, bất cứ ai có quyền mà do dự, hoặc tranh cãi để cẩn thận hơn, đều bị xem là "sai lầm". Các thành phần cẩn trọng càng tăng phần xấu hổ, phải làm ngơ đi để được tăng thưởng. Họ đã mất đi ảnh hưởng của mình". Warren Buffett đã giải thích là trọng tâm của vấn nạn chính ở việc cứ tăng mãi cái lực bẩy tài chính - từ chữ hoa mỹ của Wall Street dùng cho chữ "nợ". Đó chính là "cách duy nhất khiến một người khôn ngoan phải đi đến phá sản", Buffett đã nói " bạn hành động những điều khôn ngoan, hẳn nhiên bạn sẽ giàu có. Nhưng nếu bạn hành xử khôn ngoan và dùng đến loại đòn bẩy tài chính và bạn cứ hành động sai lầm như thế, đòn bẩy tài chính này sẽ triệt tiêu bạn, bởi vì bất cứ điều gì nhân với con số không chỉ là số không. Thế nhưng điều này lại được củng cố vững chắc thêm bởi vì chung quanh bạn ai cũng đang thành công, bạn cũng đang hành động thành công, và giống như là cô lọ lem Cinderella ở buổi yến tiệc. Nhìn chàng lúc nào cũng mê mẫn, tiếng nhạc càng hay hơn, càng lúc càng vui hơn, bạn nghĩ "Việc quái gì mà ta phải ra về lúc 12 giờ kém 15 ? ta sẽ về lúc 12 giờ kém hai phút" Thế nhưng khổ nỗi, không hề có cái đồng hồ nào trên tường cả. Và ai cũng nghĩ là mình sẽ ra về vào lúc 12 giờ kém 2 phút ". Một cách tóm tắt, đấy chính là câu chuyện vì sao chúng ta đã đi đến tai họa của năm 2008.
Ở một vài mức độ, nợ nần chính là trọng tâm của tất cả mọi việc. Kể từ những năm 1980, người Mỹ đã tiêu thụ nhiều hơn mức họ làm ra và đã bù vào sự thiếu hụt bằng cách đi vay nợ. Điều này xảy ra trong mọi giai tầng của xã hội. Loại nợ gia đình (household debts) đã tăng nhanh từ 680 tỉ vào năm 1974 đến mức 14 nghìn tỉ vào năm 2008. Gấp đôi chỉ trong vòng 7 năm qua. Hiện nay,một gia đình trung bình có mười ba thẻ tín dụng và $120000 tiền nợ nhà. Tuy nhiên, căn cứ trên một số tiêu chuẩn, các hộ gia đình chính là những đỉnh cao của sự tằn tiện. Các chính trị gia ở mức nhà nước và địa phương bbắt đầu vay mượn vào tương lai để hăm hở mang lại cho cử tri của mình những sân vận động chơi bóng rổ mới và các đường cao tốc mười hai đường chạy mà không phải tăng thuế. Họ ban hành các trái phiếu để chi trả cho các công trình yêu quý của mình, các trái phiếu vốn chỉ dựa vào tiền đánh thuế trong tương lai và tiền trúng xổ số. Thế nhưng ngay các chính khách ấy cũng còn phải xấu hổ vì chính phủ liên bang, ông vua của nợ nần. Vào năm 1990, nợ quốc gia ở mức 3 nghìn tỉ. Đến cuối năm 2008, món nợ này đã lên được cõi mười một con số,vượt quá 10 nghìn tỉ.(Vào lúc tôi viết những dòng này, con số ấy đã đến 11 nghìn tỉ). Chiếc đồng hồ ghi nợ quốc gia nổi tiếng ở thành phố Nữu Ước không còn chỗ để hiển thị tất cả các con số. Chủ nhân của chiếc đồng hồ này sẽ phải lắp đặt một cái đồng hồ mới, to rộng hơn vào năm nay.
Nói một cách khác, Hoa Kỳ đã trở thành một đất nước của những con nợ. Không có gì là sai trái với nợ nần - nếu xử dụng khôn ngoan, các khoản nợ và đòn bẩy tài chính sẽ là những nhịp tim của một nền kinh tế hiện đại - nhưng xử dụng quá mức như thế, nợ nần trở nên kẻ sát nhân. Và cả hai về của phương trình phải đưọc cân bằng - Hoa Kỳ đã không bao giờ có thể đến được vị trí như thế nếu không có những quốc gia sẵn lòng cho vay nợ. Đó là nơi mà - "Cuộc vươn dậy của những kẻ khác" như tôi đặt tên - nhập cuộc, và điều này được biểu tượng tốt nhất từ cuộc vươn dậy của Trung Quốc.
Dù trải qua những năm tháng phát triển mạnh, các hộ gia đình ở Trung Quốc và các tập đoàn đã có khuynh hướng cẩn trọng. Họ bỏ vào ngân hàng một nửa lợi tức kiếm được của mình, luôn luôn sẵn sàng cho một ngày khó khăn. Tính cần kiệm cao độ kết hợp với mức tăng trưởng cao đã đưa đến sự tích lũy của Trung Quốc về những nguồn vốn lớn lao. Nhưng đây không phải chỉ có nguyên nhân từ các đặc điểm của loại văn hoá đức Khổng tử. Chính phủ Trung Quốc đã không hề khuyến khích việc tiêu dùng và cổ vũ cho sự tiết kiệm, một phần là phương cách để giữ mức lạm phát và tiền tệ của họ ở mức thấp - điều đã khiến cho hàng hóa Trung Quốc được rẻ và thu hút giới tiêu thụ Tây phương, các quốc gia như Trung Quốc đã được lên men bởi cơn khủng hoảng Á châu năm 1997, khi các nền kinh tế Á châu thất bại, các ngân hàng Tây phương đến tiếp cứu bằng những điều kiện vay phiền hà. Sau khi hồi sinh, các chính phủ Á châu - và cả các chính phủ khác ngoài Á Châu nữa- quyết định tích lũy trữ lượng của chính mình, để khi xảy ra khó khăn, họ sẽ không phải lệ thuộc vào lòng tốt của người lạ nữa.
Do đó, thay vì mang đồng tiền tiết kiệm tăng nhanh của mình tái đầu tư vào kinh tế nội địa, chính quyền Trung Quốc đã dấu nhẹm đi. Nhưng làm sao chính phủ tích trữ được tiền bạc của mình ? Chính bằng cách mua vào – và vẫn còn tiếp tục mua đến hiện nay - những thứ mà khi ấy được coi là những loại đầu tư an toàn nhất thế giới: các trái phiếu của Ngân khố Hoa kỳ. Thông qua việc tích lũy các khối lượng không lồ của nợ Hoa kỳ, người Trung Quốc đi đến chỗ phụ giúp cho lối tiêu thụ Mỹ - là chính cái tính cách đã gây ra nợ nần. Họ đã tài trợ cho cuộc chè chén chi tiêu của chúng ta và xây dựng lên một kho tích trữ vĩ đại của đồng nợ mỹ kim. Người Trung Quốc đã tiết kiệm quá nhiều, người Mỹ đã tiêu thụ quá tay. Hệ thống như thể được cân đối rồi.
Và không phải chỉ có Trung Quốc mà thôi. Tám thị trường hội nhập quốc gia khác đã tích lũy được một ngân quỹ chiến tranh trị giá hơn 100 tỉ, đa phần là tiền Mỹ kim. Nhưng chỉ riêng Trung Quốc có trong tay hơn 2 trillion dự trữ, hầu hết là tiền Mỹ kim. Tháng 9 vừa qua, Trung Quốc trở thành chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ, qua mặt cả Nhật bản, một đất nước lâu nay đã không còn mua vàng bạc của Hoa kỳ ở khối lượng lớn nữa. (Với sở hữu 10 phần trăm của tất cả những trái phiếu kho bạc Mỹ chưa đáo hạn, Trung Quốc gần như một chủ nợ lớn nhất, thế thôi, nhưng Ngân khố hoa kỳ không tính đến giới cho vay trong nước). Trung Quốc hiện nay đang sở hữu các biên lai nợ lớn nhất thế giới, và các biên lai nợ này đều có chữ ký của chú Sam. Sự tiết kiệm quá mức trên bình diện toàn cầu đã cho thấy cũng là một vấn nạn như sự tiêu dùng quá tay. Nhà kinh tế học Dani Rodrick ở Havard đã ước đoán rằng việc chuyển gởi quá nhiều tiền ra ngoại quốc thay vì đầu tư một cách sinh lợi đã tốn kém Trung Quốc khoảng một phần trăm GDP một năm, hoặc hơn 40 tỉ hàng năm. Việc cho vay của Trung Quốc chính cũng đã là một chương trình kích thích vĩ đại cho Hoa Kỳ. Khiến giữ được mức lãi xuất thấp, khuyến khích người có nhà mượn lại thêm vào nợ nhà, các nhà quản trị quỹ đối trọng nén chặt thêm các loại đòn bẩy tài chính và các ngân hàng đầu tư mầy mò chọc được những bản cân đối kết toán của mình. Nhà bỉnh bút Martin Wolf của tờ Thời báo tài chính đã nói lối cho vay của Trung Quốc tạo ra đồng tiền rẻ mạt và "đồng tiền rẻ tạo nên các cuộc truy hoan trác táng của những sáng tạo tài chính, vay mượn và chi xài".
"Sẽ không có đường quay về lối làm ăn như trước nữa" Wolf đã viết như thế. Nhưng trong ngắn hạn, dường như chúng ta đi đến hơn cả nguyên trạng ấy. Không lâu trước khi nhậm chức, Tổng thống Barack Obama đã cảnh báo về viển cảnh của "các khoản nợ hàng trillion mỹ kim cho những năm sắp đến" khi chính phủ của ông tăng thêm tất cả các chi tiêu vào mọi thứ, từ kỹ nghệ xanh đến chăm sóc y tế nhằm thổi nền kinh tế lún sâu của chúng ta lên. Hầu hết các khoản tiền chi dùng ấy đều vay mượn từ Trung Quốc. Người Trung Quốc cũng có những khó khăn kinh tế của chính họ để mà phải vượt qua, và họ đã phải chi 600 tỉ Mỹ kim - một con số vĩ đại tương đương với 15 phần trăm GDP của họ- để chiến đấu với các khó khăn ấy. Kết quả là, chúng ta đang yêu cầu Trung Quốc phải đồng thời tài trợ cho cả hai cuộc bành trướng tiền tệ lớn nhất trong lịch sử con người: của chính họ và của chúng ta. Và quốc gia có tất cả các sáng kiến để tiếp tục tiêu xài lu bù các trái phiếu kho bạc của mình. Không thế thì các xuất khẩu của Trung Hoa sẽ khốn đốn, và các tỉ số gia tăng cao ngạo của họ sẽ tụt xuống đất đen.
Tuy nhiên, người Trung Quốc có các lựa chọn. Kinh tế gia từng đoạt giải Nobel Joseph Stigliz đã giải thích rằng "Họ chắc chắn sẽ giữ cho giới tiêu thụ ở Hoa kỳ tiếp tục như thế, nhưng nếu rõ ràng là điều ấy không mang lại kết quả, họ sẽ có kế hoạch B". Kế hoạch B sẽ là sự tập chú vào việc thúc đẩy tiêu thụ ở Trung Hoa thông qua các chi dùng của chính phủ và tăng thêm tín dụng cho nhân dân mình. Như sử gia Niall Ferguson đã viết " câu hỏi lớn nhất của ngày hôm nay là phải chăng Hoa-Mỹ (Trung Quốc và Mỹ) đi chung đường với nhau hay chia ra hai ngả riêng vì cơn khủng hoảng này. Nếu đi chung đường, chúng ta sẽ tìm ra được một lối mòn đi ra khỏi cánh rừng. Nếu họ chia tay, chúng ta sẽ phải chào tạm biệt với toàn cầu hóa".
Kịch bản tốt nhất sẽ là Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng hợp tác với nhau để từ từ tháo gỡ cái kết ước cùng tự sát của họ. Trung Quốc sẽ hưởng lợi được từ việc có thêm nhiều tiền để tái đầu tư vào kinh tế nội địa của họ. Hoa Kỳ sẽ hưởng lợi được từ sự bắt buộc phải tiến hành những quyết định mạnh mẽ hơn để cuối cùng sẽ trở nên khá hơn. Tối thiểu từ những năm 1980, người Mỹ đã từng nhận ra rằng mình có thể tiêu xài buông thả, cứ khất lần việc trả nợ cho đến vô hạn. Điều này đã không tốt đẹp gì cho chính sách đối ngoại và đối nội của họ. Điều ấy đã khiến cho Hoa Thịnh Đốn trở nên ngạo mạn, lười biếng và cẩu thả. Nhưng những chuyến tàu miễn phí đang đi đến kết thúc rồi.
Chạy đua đến một Thế giới Hậu-Hoa Kỳ
Mặc dù kích thước của cuộc khủng hoảng tài chính này vượt khỏi bất cứ điều gì trong ký ức gần đây nhưng không phải là nó chưa từng xảy ra. Lịch sử của chủ nghĩa tư bản đầy ắp những ảo tưởng, hoảng loạn, các cơ chế tài chính đổ vỡ và các suy thoái. Người Đức đã từng mất trí vì hoa tulip vào những năm 1600, chứng điên loạn đường sắt đã tấn công Đế quốc Anh vào những năm 1840. Ngay chỉ mới gần đây vài thập niên, đã từng có những thảm hoạ về tài chính ở Mexico, Argentina, Brazil và hầu như ở mọi thành phố của các quốc gia châu Mỹ Latinh. Nga và các nước vệ tinh của họ trước đây đã bị khánh tận vào những năm 1990 và con bệnh đã lây lan đến các nước Á châu cho đến cuối thập kỷ ấy. Cú đổ xụp năm 1998 của Long-Term Capital management, một trong những quỹ đối trọng lớn nhất thế giới, đã quá muộn phiền đến mức Quỹ dự trữ liên bang đã phải tổ chức một cuộc cứu chuộc (bailout) để giữ cho hệ thống tài chính không bị sụp đổ.
Cơn khủng hoảng của năm 2008 thì khác chính xác ở chỗ nó không bắt nguồn từ một số vũng tù ở các nước đang phát triển; nó đã xuất hiện ngay từ Hoa Kỳ, tâm điểm của chủ nghĩa tư bản toàn cầu, và tiến triển qua các huyết mạch của nền tài chính quốc tế. Bất chấp ý kiến của một số bậc uyên thâm, cuộc khủng hoảng này đã không hề báo hiệu chung cuộc cho chủ nghĩa tư bản. Nhưng chắc chắn nó đã là sự kết thúc của một số loại thống trị kinh tế toàn cầu đối với Hoa kỳ. Cuộc đột biến kinh tế hiện nay sẽ chỉ thúc đẩy sự chuyển dịch đến một thế giới Hậu-Hoa kỳ. Nếu cuộc chiến tranh ở Iraq và chính sách ngoại giao của George W. Bush có được hậu quả vô hiệu hoá tính hợp pháp của sức mạnh chính trị quân sự của Hoa kỳ trong cái nhìn của thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính có được hậu quả của sự vô hiệu hóa sức mạnh kinh tế của Mỹ.
Bất kể ai nghĩ gì về chính sách ngoại giao của Hoa kỳ, tất cả đều phải đồng ý rằng Hoa Kỳ là một nền kinh tế có hiệu quả, khôn ngoan và hiện đại nhất thế giới- với những thị trường vốn đầu tư tiến bộ nhất. Kết quả là, Hoa kỳ giữ được quyền bá chủ không chỉ bằng sức mạnh quân sự mà còn trong cõi lớn của các ý tưởng. Các chủ ngân hàng trung ương và các viên chức tài chính trên khắp thế giới đều đã học hỏi những căn bản cho nghề nghiệp của họ từ các trường sở của Mỹ. Các chính khách phát triển kinh tế của họ từ việc bắt chước theo các lời khuyên vốn được dẫn giải trong Đồng thuận Washington (Wasington Consensus). Những sáng kiến ở thung lũng Silicon từng là niềm ganh tỵ của cả thế giới. Các thị trường sâu sắc, sinh lợi của Nữu Ước đã được tán thưởng và bắt chước trên khắp các châu lục chỉ trừ châu băng đảo.
Như Brad Setser, một thành viên của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại đã nhận xét, cuộc toàn cầu hóa sau Đệ nhị thế chiến gần như đồng nghĩa với cuộc Mỹ hóa. Ông viết "Những người ngoại quốc đi vay tìm cách gây quỹ có khuynh hướng phát hành các trái phiếu có tên gọi bằng Mỹ kim, xử dụng luật lệ của New York, và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của Uỷ Hội Trao đổi chứng khóan (Securities and Exchange Commission) để công báo". Các định chế và mẫu mực của Mỹ đã được thu hút hơn chính từ thành công về kinh tế của quốc gia.
Sự xụp đổ của Wall Street sẽ ăn mòn đáng kể vào di sản thành công ấy. Kinh tế Mỹ sẽ teo lại hoặc đình trệ trong năm 2009, và sẽ phát triển một cách có tiềm năng chầm chậm trong những năm sau đó, nặng nề bởi nợ nần. Hầu hết Âu châu cũng sẽ ở trong tình trạng tương tự. Hoạt động kinh tế ở mọi nơi, một cách tự nhiên, sẽ bị ảnh hưởng bởi cuộc xụp đổ của thế giới thượng hạng này.Thị trường chứng khoán khắp nơi sẽ xụp đổ và tài chính sẽ trở nên hoàn toàn toàn cầu hóa. Nhưng các nền kinh tế căn bản của những thị trường lớn – Trung Hoa, Ấn độ và Ba tây - hiện đủ lớn để có thể có được hoạt động kinh tế của chính mình (nhu cầu nội địa) khiến không phải lệ thuộc vào các xuất khẩu qua Tây phương. Kết quả là, Quỹ Tiền tệ quóc tế ước lượng 100 phần trăm phát triển của toàn cầu trong năm 2009 sẽ đến từ các thị trường mới nổi. Trong khi các thị trường tài chính của những đất nước này bị buộc chặt với các thị trường tài chính của Hoa Kỳ, các nền kinh tế thực sự của họ, lần đầu tiên trong lịch sử, đang đạt được những độc lập tính từ những thị trường này. Goldman Sachs thoạt tiên đã dự án là GDP gộp lại của 4 nước BRIC – Ba Tây, Nga, Ấn độ, Trung quốc – có thể vượt khỏi tổng số GDP gộp lại của các nước G7 vào năm 2035. Vào những ngày này, họ cho rằng điều ấy có thể xảy ra vào năm 2027. Cuộc suy thoái toàn cầu hiện nay làm tạo thêm nhiều niềm tự tin chứ không ít đi. Nói cho cùng, quyền lực toàn cầu vượt khỏi các ý tưởng, các chương trình làm việc và các khuôn mẫu. Sự phát hiện mà từ đó phần lớn các chương trình đổi mới đã xảy ra trong thập kỷ qua đã tạo nên một loại nhà giấy (house of cards) ăn mòn quyền lực Mỹ. Kể từ nay, rao bán các ý tưởng Mỹ đến các phần còn lại của thế giới sẽ phải cần đến nhiều nỗ lực hơn. Các nước đang phát triển sẽ lựa chọn những chính sách kinh tế nào khiến phát triển được lòng tin và thích hợp với mình nhất. “Hệ thống kinh tế Hoa Kỳ được xem như một mẫu mực và chúng tôi cố gắng hết sức mình để bắt chước bất cứ phần nào chúng tôi có thể bắt chước được” Yu Yongding, một cựu tham vấn cho ngân hàng trung ương Trung Quốc đã phát biểu như thế vào cuối tháng 9 năm 2008. “Đột nhiên, chúng tôi nhận thấy người thầy của chúng tôi không phải là xuất sắc như thế nữa, cho nên lần sau khi thiết kế hệ thống tài chính của mình chúng tôi sẽ xử dụng đến trí tuệ của chính chúng tôi nhiều hơn”.
Sự vùng dậy của phần còn lại, ở trọng tâm là một hiện tượng kinh tế nhưng sự chuyển dịch chúng ta đang chứng kiến không phải chỉ là các vấn đề thuộc tiền tệ. Chuyển dịch này có cả các hậu quả của chính trị, quân sự và văn hóa nữa. Khi các quốc gia trở nên giàu và mạnh hơn, và khi Hoa Kỳ phải đấu tranh để dành lại niềm tin của cả thế giới, ắt chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều thử thách và những quyết đoán lớn lao hơn từ những quốc gia đang vươn dậy. Trong một tháng mùa hè vừa qua, Ấn độ đã sẵn lòng thách thức trực diện Hoa kỳ ở các cuộc đàm phán thương mại tại Doha, Nga tấn công và chiếm đóng một số phần lãnh thổ của Georgia và Trung quốc đã tổ chức Olympic với một chương trình biể diễn ngoạn mục hoành tráng nhất lịch sử (với chi phí hơn 40 tỉ). Mười năm trước, không một quốc gia nào trong số ba nước này có đủ sức mạnh và niềm tự tin để hành động như họ đã làm. Cho dù tỉ số tăng trưởng của họ xuống thấp và chắc chắn sẽ phải xuống thấp như thế, những quốc gia này cũng sẽ không buông bỏ những vai trò mới của họ trong hệ thống toàn cầu. Hãy thử xem xét một số ví dụ. Trải qua thập kỷ vừa rồi, Hoa kỳ đã bành trướng ảnh hưởng của mình vào khu vực từng là của Nga trong nhiều thế kỷ. Sự thống trị của Hoa Kỳ trong thời đại hậu-chiến tranh lạnh, Moscow đã đồng ý. Họ cần tiền và hậu thuẫn của Washington. Nhưng vào năm 2008 Nga đã là một quyền lực được tái sinh. Giữa tháng hai năm 2009, nước cộng hòa Kyrgyz hoàn tất quyết định của họ để đóng cửa căn cứ hàng không Manas, một căn cứ được Hoa kỳ cung cấp để đem lại các hỗ trợ hàng không chủ yếu cho các chiến dịch của họ tại Afghanistan, vốn đã trở nên đặc biệt quan trọng sau khi đóng cửa một căn cứ hàng không khác ở Uzbekistan vào năm 2005. Động cơ thúc đẩy chính là đồng tiền. Hoa kỳ đã chi 55 triệu mỹ kim mỗi năm để thuê căn cứ này và cho thấy ý định sẵn sàng trả đến 100 triệu/năm. Chính phủ Nga chống lại một cách không thân thiện ý tưởng của một căn cứ quân sự Mỹ bán thường trực hiện diện trong sân sau nhà của mình, đã chào mời một kế hoạch viện trợ trị giá 2.3 tỉ mỹ kim khiến làm rúm ró hỗ trợ tài chính của Mỹ , bao gồm cả 180 triệu mỹ kim tiền xóa nợ, 150 triệu tiền viện trợ và 2 tỉ tiền nợ để hoàn tất công trình xây dựng trạm thủy điện. Công trình năng lượng là một công trình liên doanh và sẽ nâng công suất điện lực của Cộng Hoà Kyrgyz lên 40 phần trăm, có thể nâng khả năng xuất khẩu năng lượng của quốc gia này đến mức tối đa. Cho dù giá dầu có xuống đến 40 mỹ kim một thùng, Nga vẫn ở trong vị trí có thể theo đuổi một chính sách ngoại giao độc lập hơn.
Ngay cả đồng minh mới của Mỹ là Ấn độ cũng duy trì tính độc lập của mình với Hoa Kỳ. Thủ đô Tân Đề ly cảm kích Washington về các hỗ trợ của họ trong việc hợp pháp hoá Ấn độ như là một đất nước có năng lực nguyên tử bình thường, nhưng Ấn độ vẫn chống lại các vấn đề về an ninh. Mặc cho sức ép của Hoa Kỳ, Ấn độ cứ đơn giản không xem Iran như một mối đe dọa như Hoa Kỳ quan niệm. Ấn độ đã một lần đồng ý ủng hộ Hoa kỳ tại Ủy ban Quốc Tế về Năng lượng Nguyên tử nhưng vẫn tiếp tục có những quan hệ tăng cường với Iran, kể cả việc cùng tham gia tập trận trên vùng biển. Ấn độ xem Iran như một đối tác thương mại mới và từ chối việc cô lập Iran trong bất cứ hình thức nào. Vào tháng Tư 2008, các phi công của Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad yêu cầu được dừng lại ở thủ đô Tân Đề Li để tiếp nhiên liệu khi lãnh tụ Iran trở về nước sau chuyến viếng thăm Tích Lan. Ngay lập tức, chính phủ Ấn độ đã đề xuất một lời mời chính thức và biến chuyến tạm dừng 6 giờ đồng hồ này trở thành một cuộc thăm viếng cấp quốc gia.
Tình trạng hiện tại của IMF và Ngân hàng thế giới cũng đem lại một bài học hữu ích. Các cơ quan chức năng này, thống trị bởi tiền bạc vàý tưởng của Mỹ, lâu nay từng được xem như những công cụ chuyên chở ảnh hưởng Mỹ. Ngày nay, Setser đã viết rằng “các nền kinh tế mới nổi lên như Trung quốc, Nga, Ấn độ, Saudi Arabia, Korea và ngay cả Brazil cũng không cần đến IMF; họ còn không ngừng trở thành một vai trò cạnh tranh với IMF. Saudi Arabia đã là hậu ứng cho Lebanon. Venezuela đã giúp Argentina trả lại nợ cho IMF. Trung quốc đã phát triển tài chính như một lựa chọn khác thay vì vay mượn ở Ngân hàng thế giới”.
Để có được một thí dụ rõ ràng hơn chỉ riêng về việc các thay đổi đã liên kết sâu sắc như thế nào với sự nổi dậy của phần còn lại, hãy đọc lại các tin tức báo chí về Hội nghị G20 ở Washington DC. tháng 11 năm 2008, tất cả các cuộc khủng hoảng tài chính trước đây đã từng được giải quyết bởi Ngân hàng thế giới hay khối G7 (và sau đó là khối G8). Trong những cuộc khủng hoảng trước đây, phương Tây đóng phần vai người thầy nghiêm nghị quở trách một lớp học ương ngạnh. Những bài học họ truyền đạt giờ đây dường như không còn giá trị. Hãy nhớ lại rằng trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính ở Á châu, Hoa kỳ và các nước Tây phương khác đã đòi hỏi Á châu phải thực hiện ba bước - phải để những ngân hàng tồi thất bại, phải giữ các chi tiêu trong kế hoạch và phải giữ lãi suất tiền lời cao. Trong cuộc khủng hoảng của chính mình, Tây phương đã thực hiện đúng chiều ngược lại của cả ba mặt ấy.
Trong bất cứ biến chuyển nào, cuộc khủng hoảng này là một loại mà phương Tây đã không thể tự mình giải quyết được. Để đạt được giải pháp có hiệu quả trong một nền kinh tế toàn cầu liên kết chặt chẽ, tất cả các tay chơi chủ yếu của thế giới - bao gồm cả những nền kinh tế nổi bật nhất - cần phải tham dự. Để cung ứng tiền mặt, những quốc gia như Trung quốc và Saudi Arabia rất quan trọng. Còn đối với sự chính danh, các câu lạc bộ Âu châu xưa cũ đã già cỗi, là những thánh tích của một thế giới đã qua và đã không còn chào bán được một giải pháp toàn cầu nào cho chính mình. Khi cuộc khủng hoảng trở nên rõ nét, ngay cả Hoa Kỳ cũng không còn có thể hành động độc lập. Do đó, lần đầu tiên một cuộc họp của tất cả đầu não các nước G20 – nghĩa là các nước G8 cộng với các quốc gia chính yếu vừa nổi dậy – đã được triệu tập. Dĩ nhiên không phải mọithứ đều thay đổi cả. Hội nghị G20 vẫn phải được tổ chức ở Washington, và tổng thống George W. Bush vẫn đóng vai trò chính trong việc khai triển chương trình làm việc. Đó là một thế giới mới nhưng không cần thiết phải là một thế giới mà Mỹ phải bị loại trừ.Thực tế, Mỹ vẫn còn là quốc gia quan trọng bậc nhất trên toàn cầu, một quốc gia có khả năng thi hành ảnh hưởng trong tất cả các cõi và trên tất cả các lục địa trong phương cách mà không một thế lực nào khác có thể làm được. Mỹ vẫn còn là “siêu quyền lực mặc nhiên”, trong ngôn từ của nhà văn Đức Josef Joffe. Nhưng hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà hành động chung không phải chỉ là một ước muốn mà chính là vì sự sống còn.
Tất cả cùng liên kết lại với nhau
Hợp tác quốc tế là một con vật lắt léo. Dù có quyết tâm cũng chẳng có được một lối đi rõ ràng. Afghanistan là mẫu mực cho một loại chương trình hợp tác quốc tế thành công - tối thiểu là trên lý thuyết. Cuộc xâm chiếm ban đầu có được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế. Nỗ lực quân sự, hiện nay đã trải qua hơn 7 năm, bao gồm Anh quốc, Canada, Poland – ngay cả Pháp quốc. Ngân hàng thế giới, USAID và các chính phủ quốc tê đã đóng góp nhiều tỉ mỹ kim để tái thiết cấu trúc hạ tầng. Thế nhưng cuộc chiến ở đấy vẫn gần như thất bại. Chính phủ Hamid Karzai chỉ điều khiển được ít hơn một phần ba đất nước. Bên ngoài Kabul, các lãnh chúa là những cội nguồn thế lực chính. Dù đã suy yếu nhưng Taliban vẫn còn đó khả năng phục hồi đáng lo ngại. Nha phiến trở thành nguồn xuất khẩu chính của đất nước. và hầu hết các quốc gia - từ các biên giới lân cận như Pakistan đến các đối tác Tây phương như Đức quốc – đang nôn nóng muốn rút lại những hứa hẹn của họ hơn là hoàn tất chúng. Chủ nghĩa quốc gia thu hẹp lấn át chủ nghĩa quốc tế sáng suốt quá đỗi thường xuyên.
Nhưng bài học từ Afghanistan cho thấy rằng chủ nghĩa đa phương không phải lúc nào cũng dễ dàng và có hiệu quả. Nhưng nỗ lực ở Afghanistan đã khốn đốn vì sự thiếu lưu tâm – chính quyền của Bush đã quá bận rộn việc chào bán và gây chiến ở Iraq – và vẫn có thể cứu chữa được. Bên cạnh đó, các vấn nạn của ngày nay đòi hỏi một giải pháp đa phương dù một giải pháp như thế hết sức khó để mà đạt đến. Thử xem xét đến hầu như bất cứ vấn nạn trầm kha nào ngày nay chúng ta đang phải đối đầu; đa phần đều cho thấy vấn nạn ấy có liên quan đến nhiều hơn là một quốc gia. Chủ nghĩa khủng bố, lây nhiễm tài chính, bệnh tật, năng lượng, an ninh - tất cả đều thử thách đến các giải pháp hợp tác, và trong một số trường hợp cần đến các định chế để thực hiện.
Đơn cử thí dụ như một cơn bệnh lây nhiễm chẳng hạn. Ngày nay, một khi bệnh bùng phát ra, chắc chắn sẽ lây lan nhanh và rộng khắp. Có nghĩa là tất cả chúng ta đều có một thúc đẩy phải xác định được bản chất của căn bệnh càng nhanh càng tốt, cô lập các nạn nhân lại và hành động để tìm ra cách chữa trị. Lý tưởng là, Tổ chức Y Tế quốc tế nhập cuộc, yêu cầu gởi ngay đến họ các mẫu virus, thực hiện các phân tích rõ ràng và đề ra các biện pháp để tuân thủ. Không may thay, Tổ chức y Tế Quốc tế thì thiếu hụt ngân sách và nhân lực, lại không đủ thẩm quyền để có thể làm ra các luật lệ để mọi người phải tuân thủ. Trung Quốc đã từng dấu kín cơn bệnh cúm gia cầm trong lãnh thổ của mình nhiều tuần lễ trước khi thế giới phát hiện ra. Có lúc, Indonesia từng thoái thác không giao nộp các mẫu bệnh cúm vì họ lo lắng rằng các mẫu ấy sẽ được dùng để chế tạo ra các loại chủng ngừa đắt tiền khiến đất nước này không kham nổi.
Đây là loại thế giới đang đối đầu với tổng thống Barack Obama: một thế giới bát nháo và hay sinh sự với rất ít câu trả lời dể dàng. Nhưng dù cho tất cả những vấn nạn này, thế giới này vẫn là một thế giới rõ ràng yên bình. Xảy ra chiến tranh giữa những quyền lực lớn là không thể nghĩ đến được. Căn cứ vào một số yếu tố, chẳng hạn như số dân sự thương vong, chúng ta quả đang sống trong những ngày tháng hòa bình chưa từng có. Và Al Qaeda, mối đe dọa đầu tiên của thế kỷ hai mươi mốt, đã rụng hết răng và chuyển vào thế phòng thủ trong khi người Hồi giáo trên thế giới đã bị đánh bại bởi sự tuyên dương cho bạo lực và sẵn sàng giết hại thường dân, ngay cả khi những thường dân ấy là người Hồi giáo của họ. Việc bầu cho Barak Obama, một người Mỹ đa chủng, từng đi khắp thế giới, có cha là người theo Hồi giáo, mang tên lót là Hussein, đã thực khiến cho những nhóm khủng bố phải kinh ngạc.Trong một đoạn phim video gần đây, các lãnh tụ của chúng đã phải dùng đến phương sách công kích cá nhân một cách vô tích sự vào vị tân tổng thống, gọi ông là một “tên mọi đen giữ nhà”. Mối lo ngại của chúng có thể hiểu được: Việc bầu Obama làm tổng thống là biểu trưng của niềm hy vọng cho thế giới và là một đe dọa đến loại tư tưởng gieo hận thù của Al Qaeda.
Dĩ nhiên, cũng có loại mối lo xưa cũ rằng trong giai đoạn chuyển biến, nền hòa bình có thể bị đổ xụp. Kể từ khi Thucydides đã từng nhận định rằng cuộc chuyển quyền từ Sparta đến Athens là nguyên nhân chính yếu của chiến tranh Pelopnnesan, các học giả đã chứng kiến những thời điểm ấy với sự am hiểu. Nhưng lần này, nếu được sắp đặt một cách đúng đắn, cuộc nổi dậy của phần còn lại không cần phải làm cho mất ổn định. Mỹ sẽ không chìm đắm nhanh, sẽ không phải được thay thế bằng một quốc gia khác. Trong một ý nghĩa sâu sắc, mọi người đang ở cùng nhau trong cuộc khủng hoảng này. Các quốc gia khác có thể đóng các vai trò ổn định chính yếu. Và không phải chỉ ở lãnh vực kinh tế. Trong cuộc xung đột giữa Nga và Georgia, chính tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy thân hành đến Moscow chứ không phải Bush. Khi Israel và Syria bước vào bàn thương thảo trong mùa hè vừa qua, chính Turkey đã là người môi giới hòa bình chứ không phải Washington. Và khi các bè phái người Lebanon lại xông vào nhau bằng súng đạn vào bạo lực, người duy nhất có thể mang họ trở lại bàn thương thảo là Shiekh của Qatar. Không một trường hợp nào trong số này có mặt Hoa Kỳ. Điều này không thể nghĩ đến được trong mười năm trước. Ngày nay điều ấy là phổ biến. Dù cho một thế giới tích cực hơn cũng có nghĩa là nhiều đối kháng và mị dân hơn, thế giới ấy cũng có nghĩa là nhiều nhà thương thuyết và các lãnh tụ khu vực hơn với một nguyên tắc để giữ gìn nền hoà bình. Nếu niềm thôi thúc ấy có thể tổ chức và khuyến khích được, thế giới sẽ là một nơi chốn tốt đẹp hơn cho niềm thôi thúc ấy.
Hầu hết các thế lực chính cùng chia xẻ chung với Hoa kỳ những lý tưởng và quyền lợi căn bản. Những khích lệ từ chia xẻ ấy giữ cho thế giới di chuyển trong chiều hướng đi đến ổn định hơn và thịnh vượng hơn. Những hiểm nguy thực sự vẫn còn đó khi Washington đi những quân bài thấp, khiến tạo ra bất ổn và hỗn loạn, hoặc ra bài quá tay, đưa các quốc gia khác đến sự oán giận và đi theo con đường riêng của mình. Sự khôn khéo của sức mạnh quân sự và chính trị của Hoa Kỳ vẫn duy trì một nhiệm vụ duy nhất hết sức quan trọng cho ổn định của toàn cầu. Hoa Kỳ phải mang lại được các luật chơi, các định chế và dịch vụ nhằm giúp giải quyết các vấn nạn chính của thế giới, trong khi trao cho các nước khác-chủ yếu là những quyền lực mới nổi- một vai trò trong hệ thống.
Trong những thập niên gần đây, Hoa Kỳ đã không mang lại lối lãnh đạo này. Tuy nhiên ngay cả Paris, London, Moscow, Beijing hay New Delhi cũng không. Âu châu đã từng do dự khi chuyển nhượng quyền lực cho IMF và các hội nghị khác, và nhiều quốc gia có thị trường mới nổi đã canh giữ chủ quyền của mình một cách ganh tỵ như thể Hoa Kỳ, có khi còn ganh tỵ hơn cả Hoa kỳ nữa. Ai là đối tượng để chê trách, trừ khi chúng ta tìm ra các phương cách để mở rộng và tăng cường các lề luật và định chế cho sự hợp tác toàn cầu - về kinh tế, năng lượng, thay đổi khí hậu, bệnh tật, ma túy, nhập cư và hàng loạt các vấn đề khác - thế giới sẽ phải trải qua nhiều khủng hoảng và các giải pháp của chính phủ sẽ là khinh suất và đặc biệt sẽ : quá ít, quá trễ. Chúng ta không thể ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện tại với sức lực thực sự trừ khi các quốc gia chính trên thế giới cùng hợp tác với nhau trên một bình diện vĩ đại và bền bỉ.
Mặt khác, nếu chúng ta cùng đến với nhau và làm việc cho những vấn nạn chung của nhân loại, hãy tưởng tượng đến các cơ hội mở ra cho bao người. Thử tưởng tượng nếu chúng ta tạo nên các luật chơi mới, mở ra được một con đường cho phép tiến trình toàn cầu hóa tuyệt vời này phát triển bền bỉ và tỏa rộng đến mọi tầng lớp của xã hội, nâng cao các chuẩn mực của đời sống và sức khỏe cho kẻ nghèo khó nhất trong những người nghèo, cho phép nhiều người và nhiều người nữa phát triển được tiềm năng của mình.
Nếu chúng ta thực sự cộng tác với nhau và bỏ cuộc khủng hoảng này vào quá khứ, các cơ hội sẽ là vô tận. Kinh tế thế giới mang đến được lời hứa hẹn một đời sống tử tế cho mọi người ở mọi nơi chốn. Truyền thông cho phép chúng ta biết đến và học hỏi được ở lẫn nhau như chưa từng bao giờ có đưọc trong quá khứ. Các phối hợp chính trị sẽ có thể thuần hóa được những ngọn lửa cạnh tranh của các quyền lực lớn. Hàng ngày, con người đang thực hiện những điều tuyệt diệu ở mọi nơi chốn trên thế giới. Bây giờ, đã đến lúc để các chính phủ của họ phải đáp ứng điều phi thường này của nhân loại bằng những phát kiến của mình để tạo nên được những hình thái mới của sự hợp tác. Thử thách lớn nhất của Barack Obama và thế hệ lãnh đạo này là sáng tạo được một hệ thống quan hệ quốc tế mới, một hệ thống có thể mang lại sự hợp tác toàn cầu xác thực và có hiệu quả về những vấn đề chung lớn lao đang muộn phiền tất cả chúng ta. Đây là kế hoạch lớn nhất của thế kỷ hai mươi mốt : Một kiến trúc mới bảo đảm được hòa bình, phát triển và tự do cho toàn thế giới.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:51:17 GMT 9
CHIẾN TRANH, THAM VỌNG ĐẾ QUỐC, VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI Tháng Ba 18, 2014
Trên bình diện địa-kinh tế-chính trị, từ góc cạnh chiến tranh và đế quốc, nhân loại có thể đang bước vào một kỷ nguyên chưa hề trải nghiệm. Cứ nhìn quanh và bạn sẽ thấy thế giới đang luôn sôi sục. Từ Ukraine đến Syria, từ South Sudan đến Thailand, từ Libya đến Bosnia, từ Turkey đến Venezuela, quần chúng luôn bị kích động bởi cả hai phía tả và hữu và hiện đang phải đối đầu với những xáo trộn, thậm chí ngay cả với tình trạng đảo lộn và rệu rã trên toàn cầu. Tính nhất trí của các quốc gia, lớn cũng như nhỏ, cũ cũng như mới, rất cần được quan tâm. Nội chiến, bạo động, và tranh chấp tương tàn rõ rệt lúc một gia tăng. Với sự can thiệp của các nước ngoài, trong nhiều trường hợp, quyền hành nhà nước luôn bị thương tổn và suy yếu trong khi chẳng có quốc gia nào được hưởng lợi. Câu hỏi cần được đặt ra, vì vậy, sẽ là: Quyền hành trên hành tinh hiện đang thực sự ở đâu? Đã hẳn, trong thế kỷ mới, siêu cường duy nhất, dù đang suy tàn, vẫn liên tục gửi lực lượng quân sự can thiệp khắp nơi trên toàn cầu một cách tai họa. Tuy vậy, các hành động nầy đã không thể giúp tăng cường hệ thống đế quốc, về cả hai phương diện tổ chức và bố trí lực lượng trên hành tinh, do chính mình thiết kế vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nói một cách khác, siêu cường duy nhất đã chứng tỏ không đủ khả năng tổ chức một hệ thống toàn cầu mới cho thế kỷ mới. Trong thực tế, sự can thiệp của lực lượng quân sự của siêu cường bất cứ ở đâu cũng chỉ đem lại hỗn loạn cho địa phương và khu vực . Cùng lúc, hệ thống chính trị của chính siêu cường đã tăng trưởng một cách phi thường và cồng kềnh; quá trình bầu cử lúc một bị tràn ngập bởi các dòng chảy tư bản của giới tài phiệt 1%; và guồng máy chính quyền rõ ràng luôn gặp rắc rối, nếu không muốn nói thiếu hiệu năng. Giới giàu ngày một giàu thêm, giới nghèo ngày một nghèo hơn, và giới trung lưu ngày một suy sụp. Tuy vậy, kể từ đại suy thoái kinh tế tài chánh 2007-2008, lực lượng quân sự của siêu cường, mặc dù lớn hơn quân đội của các đại cường khác nhiều lần, cũng đang bắt đầu phải bị cắt giảm. Trên khắp thế giới, các đồng minh, các chính quyền khách hàng hay chư hầu, các địch thủ, ngày một xem thường sự mong đợi và ước muốn của siêu cường, thường khi không gặp phải các chế tài nghiêm trọng. Siêu cường duy nhất, mặc dù giàu mạnh hơn xa các siêu cường đối thủ thời Chiến Tranh Lạnh, hiện mang sắc thái cổ điển của một đại cường đang tuột dốc, dễ bị tiên đoán, hay đơn thuần đang hướng đến nghĩa trang tuy chậm chạp nhưng luôn chắc chắn. Tuy nhiên, một tiên đoán như thế vẫn là điều thiếu khôn ngoan. Kể từ khi bắt đầu kỷ nguyên đương đại, thế giới chưa bao giờ chứng kiến một cường quốc trên đà tuột dốc mà vẫn không gặp phải bất cứ một sự cạnh tranh hay địch thủ nghiêm trọng nào. Nói một cách khác, Hoa Kỳ — ngày nay vẫn được hoan hô như một Saudi Arabia mới trên bình diện tài nguyên năng lượng có thể khai thác — rõ ràng không gặp phải nguy cơ đánh mất vai vế đại cường và đế quốc duy nhất của hành tinh. Trong mọi trường hợp, giới quan sát vẫn luôn đặt câu hỏi: quyền lực hiện hữu của Hoa Kỳ là gì? Liệu người Mỹ, theo câu nói trong kỷ nguyên Bush đã bị bỏ quên từ lâu, vẫn còn có đủ khả năng duy trì một thế giới đơn cực? Hay như lối nói thời thượng trong một thời gian ngắn ngũi trước đây, quyền lực sẽ ngày một mang tính đa cực? Hay sẽ ngày một hỗn loạn hơn? Hay trên một hành tinh khí hậu ngày một hâm nóng, hạn hán ngày một khắc nghiệt, và giá thực phẩm trong tương lai có nguy cơ tăng vọt — có nghĩa sẽ ngày một có nhiều chống đối, bạo lực, thiếu nhất trí, hay ngay cả các “cực”? Trong thực tế, sau đây là thực tại của 13 năm đầu của thế kỷ XXI: Lần đầu tiên trong ít ra một nửa thiên niên kỷ, nguyên tắc đế quốc hình như đang suy sụp; tuy vậy, đế quốc duy nhất, lúc một mất bớt khả năng tổ chức thế giới, nhưng không hẳn đang tuột dốc. Tình trạng khá mơ hồ, thiếu ổn định, và rối loạn. Tuy vậy, ít ra cũng có hai điều khá rõ ràng, và dù bạn muốn hiểu như thế nào chăng nữa, đây vẫn là những thông tin thực tế trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ mới. Cả hai đang phơi bày ngay trước mắt các bạn, tuy vậy, phần lớn vẫn chưa được nhận diện và lưu tâm. Thứ nhất: Cả nguyên tắc đế quốc và sự cạnh tranh giữa các đại cường đi kèm đều cùng suy sụp. Thứ hai: cũng không kém phần đáng ngạc nhiên, chiến tranh (toàn cầu, trong cùng quốc gia, chống trỗi dậy), đã làm chấn động thế kỷ XX, hình như cũng đang lúc một tiệm giảm. Thực tế đó có ý nghĩa gì? THAM VỌNG ĐẾ QUỐC NGÀY MỘT KHÓ THỂ HIỆN Thử bắt đầu với vế đế quốc của phương trình. Ngay từ khi các đại cường Âu Châu gửi tàu chiến đi thăm dò và chinh phục toàn cầu, chưa lúc nào có sự kiện một hay nhiều đế quốc đang lên trong khi một số khác ngày một suy yếu, không lúc nào là không có tình trạng ganh đua giữa các đại cường tìm cách phân chia tài nguyên chiến lợi phẩm toàn cầu, và tổ chức, xâm lấn , hay tranh giành phạm vi ảnh hưởng của nhau. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, với Đế Quốc Anh trong cốt lõi đã khánh kiệt, và một số khác như Đức, Nhật, Ý đã bị nghiền nát, và hai đại cường còn sót lại, Hoa Kỳ và Liên Bang Xô Viết, đã phân chia hành tinh làm hai khu vực ảnh hưởng không đồng đều. Hoa Kỳ rõ ràng là đại cường giàu có và hùng cường hơn, là siêu cường duy nhất. Vào năm 1991, sau gần một nửa thế kỷ Chiến Tranh Lạnh trong đó hai siêu cường ít ra đã một lần suýt xẩy ra xung đột nguyên tử, và máu xương đã lan tràn lai láng trong các cuộc chiến giới hạn trong các vùng ngoại vi. Và cuộc xung đột vào cuối kỷ nguyên — cuộc chiến của Nga Sô ở Afghanistan — đã đưa Liên Bang Xô Viết đến chỗ tan rã. Khi quân đội Xô Viết đã phải hồi hương trong tình trạng tơi tả — một tình trạng giới lãnh đạo của chính họ đã phải mô tả như vết thương đang rĩ máu (the bleeding wound), và kinh tế đã nổ tung — USSR đã âm thầm tan rã một cách bất thần và đáng kinh ngạc. Đã hẳn, Hoa Kỳ đã thượng tồn trong tư thế, như nhiều lãnh đạo ở Hoa Thịnh Đốn đã vững tin, siêu cường duy nhất của mọi thời đại. Chưa bao giờ có tình trạng tương tự: một siêu cường vĩ đại, một hành tinh. Đó là phương thức cần phải được thể hiện. Câu chuyện phân chia “lợi lộc hòa bình” đã tan biến nhanh chóng. Với quân lực Hoa Kỳ giữ vai trò áp đảo về tài chánh và kỹ thuật và không còn phải âu lo về một cuộc chiến có thể chấm dứt mọi cuộc chiến. Và theo họ, một kỷ nguyên mới đã bắt đầu. Trước đó, thi đua võ trang đã diễn ra giữa các đại cường, ít nhất vào cuối thế kỷ XIX. Ngày nay, vào thời buổi lẽ ra cuộc thi đua đã phải chấm dứt, Hoa Kỳ vẫn đang theo đuổi một “cuộc chạy đua độc diễn và đơn độc” với mục đích ngăn chặn bất cứ lực lượng quân sự nào khác bên ngoài Hoa Kỳ có thể có đủ khả năng thách thức quân đội Hoa Kỳ bất cứ ở đâu trên thế giới. Trong thực tế, người Mỹ hình như đã không bao giờ ngờ, sau thất bại 1975 ở Việt Nam, họ lại phải đối đầu và thất bại trước các nhóm tàn quân rời rạc và thầm lặng, trang bị với vũ khí nhẹ, bom gài dọc vệ đường, và sử dụng ngay cơ thể như vũ khí. Khởi đầu thế kỷ mới, đội ngũ George W. Bush và thingy Cheney lên cầm quyền ở Hoa Thịnh Đốn. Đây là chính quyền đầu tiên do một “think tank” khai sinh với một đề án đầy tham vọng — American Century: Project for a New American Century. Ngay cả trước biến cố 11/9 đem lại cơ hội buông lỏng các lực lượng quân sự trên khắp hành tinh, phe Tân Bảo Thũ đã nuôi mộng một đế quốc Hoa Kỳ, chói lọi hơn và làm lu mờ cả hai đế quốc Anh và đế quốc La Mã trước đây. Thật ra, chẳng ai biết được những gì sẽ xẩy ra. Mặc dù phái Tân Bảo Thũ đã mơ tưởng một Pax Americana ở Trung Đông và kế đến trên toàn hành tinh, giấc mơ của họ đã chứng tỏ chẳng có gì tương tự một viễn kiến với cấu trúc có tổ chức. Họ đã sa lầy ở Iraq, ở Afghanistan, và đã bất ổn hóa ngay cả cường quốc nguyên tử Pakistan. Ở Iraq, với hy vọng kiểm soát nguồn cung năng lượng, họ đã khởi động cuộc nội chiến cấp vùng giữa hai phái Sunni-Shiite, với số nạn nhân vượt quá sức tưởng tượng. Trong quá trình, họ chưa bao giờ tiến tới gần giấc mơ làm Tehran phải qụy gối, nói gì đến thiết lập một dạng Pax Americana, dù thô sơ nhất. Chính quyền Bush và phe Tân Bảo Thũ là một bảo tố đế quốc, nhưng mỗi động thái của họ đã là một tai họa. Thực vậy, vào cuối nhiệm kỳ hai của George W. Bush, họ đã vô tình tiếp tay tăng tốc quá trình giải thể hệ thống đế quốc toàn cầu. Khi Barack Obama tiếp quản, Mỹ Latin đã không còn là “sân sau của Hoa Kỳ”; phần lớn Trung Đông đã là một bệnh nhân cụt cả tay lẫn chân; Phi châu, với số quân Mỹ ngày một gia tăng, cũng đã bắt đầu mất ổn định; Âu châu, lần đầu tiên kể từ kỷ nguyên Charles de Gaulle, cũng đã vô cùng giận dữ và hình như đã sẵn sàng nói “không” — ngược lại ý muốn của Hoa Kỳ. Tuy vậy, quyền lực, thất thoát khỏi hệ thống Hoa Kỳ, hình như đã không thể cô đọng lại ở bất cứ đâu. Tổng Thống Liên Bang Nga Vladimir Putin đã chơi một tay bài rất khôn khéo. Từ vai trò trung gian một thỏa ước Syria với Hoa Thịnh Đốn đến tổ chức Thế Vận Hội Mùa Đông ở Sochi, Putin đã đem lại cho Liên Bang Nga uy tín của một đại cường. Tuy nhiên, trong thực tế, Liên Bang Nga cũng vẫn còn là một nhà nước tương đối rệu rã, một di tích của kỷ nguyên Xô Viết. Và ở Ukraine, người Nga cũng đang phải chiến đấu chống lại lịch sử và các đế quốc thừa kế vai trò Chiến Tranh Lạnh — Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu châu. Liên Hiệp Âu Châu là một cường quốc kinh tế, nhưng đang lâm vào tình trạng xáo trộn vì phải kiệm ước. Dù rõ ràng là một đại cường kinh tế, Liên Hiệp Âu Châu, trong ý nghĩa chức năng, vẫn không thể vận hành như một đại cường. Trung Quốc chắc chắn là kẻ thù lựa chọn của Hoa thịnh Đốn cũng như quần chúng Mỹ. Rõ ràng là một cường quốc đang đi lên, Trung Quốc đang đầu tư ngày một nhiều hơn vào công trình xây dựng một lực lượng quân sự cấp vùng. Tuy không ở trong tình trạng chiến tranh, nhưng Trung Quốc cũng đang phải đối diện với nhiều vấn đề kinh tế và môi trường, nạn thiếu thực phẩm và khát năng lượng, khá nghiêm trọng, nên bất cứ tham vọng đế quốc tương lai nào cũng còn khá xa vời. Giới lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù với thái độ hù dọa trong vùng Thái Bình Dương, vẫn rõ ràng không mấy vồ vập địa vị đế quốc. Nhật Bản cũng là một cường quốc kinh tế mặc dù với thái độ hiếu chiến, tăng gia đầu tư vào một lực lượng quân sự ngày một bành trướng, khuynh hướng tái diễn đế quốc, trong thực tế, hình như vẫn nằm ngoài tầm với. Nhiều quan sát viên cũng đã có lúc tin tưởng, khối BRICS — Brazil, Russia, India, China, và South Africa (vài người còn nhắc đến Turkey) — cũng có thể trở thành một tập thể quốc gia hùng mạnh trong một thế giới đa cực tương lai. Nhưng đó cũng chỉ là câu chuyện trước khi các nền kinh tế Brazil, Africa, India, và Turkey không còn đấy hứa hẹn. Rút cuộc, ngoại trừ Hoa Kỳ, tham vọng trở thành các đại cường vẫn là một thực tế hiếm hoi. CHIẾN TRANH NGÀY MỘT BẤT LỢI VÀ CHIẾN LỢI PHẨM NGÀY MỘT XA VỜI Đến đây, chúng ta sẽ xem xét vế thứ hai của phương trình: một sắc thái đáng ngạc nhiên và ít được lưu ý hơn trong cùng những thập kỷ vừa qua. Viễn ảnh chiến tranh giữa các quốc gia hay giữa các đại cường cũng như các cuộc dấy loạn một phần lớn đã ngày một mờ nhạt. Đã hẳn, bất cứ một quy luật nào cũng có ngoại lệ. Trước hết, từ những cuộc chiến kiểu thực dân và toàn diện (Iraq, Afghanistan) đến các xung đột cỡ nhỏ, chính yếu chỉ liên quan đến phi cơ không người lái hay không lực (Yemen, Somalia, Libya), Hoa Kỳ hình như đã giữ độc quyền gây chiến (kiểu cũ hay truyền thống) trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, cuộc chiến Iraq đã chấm dứt trong thảm họa và nhục nhã trong năm 2011 và cuộc chiến Afghanistan hình như cũng đang dần dà hướng đến một kết thúc trong năm nay. Vã chăng, Bộ Trưởng Quốc Phòng Chuck Hagel gần đây cũng đã loan báo ý định cắt xén quân số một cách đáng kể trong những năm sắp tới của Ngũ Giác Đài — một dấu hiệu cho thấy các cuộc xung đột trong tương lai rất có thể ít đưa đến các cuộc xâm lăng và chiếm đóng theo kiểu truyền thống trên lục địa Âu Á. Ngoại lệ thứ hai: Do Thái đã phát động một cuộc chiến 34 ngày chống lại Hezbollah ở Lebanon trong năm 2006 và một cuộc xâm nhập quân sự đáng kể kéo dài ba tuần lễ vào dãy Gaza Strip trong các năm 2008-2009 — mặc dù cả hai đều không thể so sánh với các cuộc chiến của chính Do Thái trong thế kỷ trước. Nói một cách khác, khi nói đến chiến tranh — có nghĩa gửi quân đội vượt qua biên giới các quốc gia, theo kiểu chiến tranh trong thế kỷ XIX, hay chinh phục và “bình định” các xứ xa xôi — chúng ta hầu như không còn chứng kiến nhiều cuộc chiến tương tự . Thực vậy, cuộc chiến cuối cùng trong thế kỷ trước giữa Ethiopia và xứ lân bang Eritria là cuộc chiến cỡ lớn ngoại lệ, nhưng cũng chỉ kéo dài trong sáu tháng. Chúng ta cũng phải nhắc đến cuộc đột nhập của Nga vào Georgia trong năm 2008 (bên ngoài quá trình tan rã của Liên Bang Xô Viết). Được biết như “cuộc chiến năm ngày,” đó cũng chỉ là một cuộc chiến nhỏ bé (nếu bạn không phải là người Georgia). Cũng đã có vụ Ethiopia xâm lăng Somalia được Hoa Kỳ hậu thuẩn trong năm 2006 (và cuộc xâm lăng của Kenya vào cùng xứ trong năm 2011). Riêng đối với chiến tranh kiểu đế quốc mang tính cổ điển, bạn có thể tính trên bàn tay: vụ can thiệp của Pháp vào Mali trong năm 2013 (tiếp theo sau vụ can thiệp bằng không lực tai họa của U.S./NATO vào Libya gây bất ổn định ở Mali). Pháp cũng đã gửi quân đội đến các xứ Phi Châu, gần đây nhất vào Cộng Hòa Trung Phi, nhưng đây cũng chỉ là dạng thức nhỏ bé của các cuộc chiến chiếm thuộc địa trong thế kỷ XIX. Thỉnh thoảng Thổ Nhĩ Kỳ cũng vượt qua biên giới tiến vào Iraq như một phần của cuộc xung đột nội bộ với tộc dân Kurdish. Ở Á Châu, ngoài tình trạng căng thẳng ngày một gia tăng và một vài va chạm giữa các chiến thuyền trong hải phận quốc tế, giây phút gần chiến tranh nhất trong thế kỷ mới là một xung đột biên giới nhỏ trong tháng 4-2001 giữa Ấn Độ và Bangladesh. Ngày nay, những sự kiện trên rất có thể được xem như những biến cố khá quan trọng cho đến khi bạn ôn lại lịch sử trong hậu bán thế kỷ XX. Chỉ riêng ở Á Châu: Cuộc Chiến Cao Ly (1950-1953), cuộc chiến biên giới kéo dài một tháng giữa Trung Quốc và Ấn Độ năm 1962, hai cuộc chiến của Pháp rồi của Mỹ ở Việt Nam (1946-1975), cuộc chiến Việt-Miên 1978, cuộc chiến xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc năm 1979; các cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan trong các năm 1965, 1971, và 1999. Cuộc chiến giành độc lập của Bangladesh năm 1971 (trong cốt lõi là một cuộc nội chiến). Và đã hẳn, đó là chưa kể cảnh tàn sát trong 50 năm đầu của thế kỷ, khởi đầu với sự can thiệp của ngoại bang vào cuộc chiến Boxer Rebellion năm 1900 và cuộc chiến Nga-Nhật 1904-1905 và chấm dứt với hai vụ dội bom hạt nhân ở Hiroshima và Nagasaki. Trong thực tế, xét theo bất cứ chuẩn mực nào vào bất cứ giai đoạn nào trong hai thế kỷ trước đó, ngày nay chiến tranh hầu như vắng bóng, và đó là là một điều mới mẻ dưới ánh sáng mặt trời. THẾ GIỚI NGÀY MỘT AN BÌNH HƠN Một kỷ nguyên đế quốc, như vậy, hình như đang trên đà cáo chung. Chiến tranh dần dà mất tính quyết định, và hình ảnh các đại cường mang mộng đế quốc ngày một hiếm hoi và vắng bóng. Trên bình diện lịch sử, đó là một cột mốc, hay một thực tại đáng ghi nhận trong lịch sử thế giới đáng kinh hoàng. Đã hẳn, sự vắng mặt của chiến tranh kiểu cũ không có nghĩa không có bạo động. Trong 13 năm đầu của thế kỷ mới, các tranh chấp nội bộ, nội chiến, thậm chí chiến tranh cỡ lớn, thường với sự can thiệp của các nước ngoài, đã là các thực tại tai họa: Yemen, với sự dính líu của Saudi Arabia và Hoa Kỳ; Syria với sự can thiệp của Liên Bang Nga, Saudi Arabia, Qatar, Iran, Hezbollah, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, và Hoa Kỳ; Congo và nhiều thành phần từ bên ngoài, South Sudan, Darfur, India (dấy loạn Maoist), Nigeria (các thành phần Hồi Giáo cực đoan) …, — không thể nào tàn nhẫn hơn! Tuy vậy, mười ba năm đầu của thế kỷ vẫn chỉ là một thời gian khá ngắn ngũi, so với năm 1914 và cuộc đại chiến sau đó… Chẳng hạn, trước cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay, quân đội Nga một lần nữa đã vượt qua biên giới (cũng như trong năm 2008), ngoại vi của Liên Bang Xô Viết trước đây. Cũng có thể các tấn công khả dĩ, Do Thái hay Hoa Kỳ có thể khởi động, vào các cơ sở hạt nhân của Iran, sẽ làm gia tăng xáo trộn và bạo lực ở Trung Đông. Cũng tương tự, một biến chuyển tình cờ ở Thái Bình Dương có thể khởi động một xung đột bất ngờ giữa Nhật và Trung Quốc. Và đã hẳn cũng có khả năng xẩy ra các cuộc chiến giành tài nguyên trên một hành tinh ngày một bị hũy hoại … Tuy nhiên, hiện không một đế quốc đang lên nào và cũng không có nhiều quốc gia muốn có chiến tranh. Nhưng cũng chẳng ai có thể biết trước? Cũng có thể chúng ta đang đi theo lối mòn lịch sử và đang ở trong một vùng đất lạ. Có thể đây là con đường chúng ta chưa bao giờ đặt chân đến. Nếu như vậy, cũng rất có thể nhân loại đang hướng tới một trật tự thế giới thật sự mới mẻ, một lãnh địa chưa bao giờ được trải nghiệm! Phải chăng đây là những dấu hiệu đáng mừng của một kỷ nguyên mới, một trật tự thế giới mới? Đã hẳn, vẫn còn quá sớm và đây chỉ là những ước ao và hy vọng mang tính lạc quan. Dù sao, chúng ta vẫn có quyền hy vọng. Vì ai biết được tương lai? Nguyễn Trường Irvine, California, USA 18-3-2014
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:53:07 GMT 9
Á-PHI, ÂU-MỸ, VÀ MÔ HÌNH TƯ BẢN TOÀN CẦU Cách đây trên mười năm, trước biến cố 11/9, Goldman Sachs đã tiên đoán các xứ thành viên trong khối “BRIC” (Brazil, Russia, India, China) có thể sẽ lọt vào nhóm 10 quốc gia hàng đầu của thế giới — nhưng cũng phải đợi đến năm 2040. Tuy vậy, chỉ một thập kỷ sau, Trung Quốc đã nhảy lên hàng thứ nhì, Brazil thứ bảy, Ấn Độ thứ mười, và ngay cả Liên Bang Nga cũng đã mon men lên gần Nhóm Mười Nước Hàng Đầu thế giới. Nếu tính theo “mãi lực tương đồng”[1], hay PPP, tình trạng còn đáng ngạc nhiên hơn: TQ vẫn thứ hai, nhưng Ấn Độ lên hạng tư, Liên Bang Nga hạng sáu, và Brazil hạng bảy. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi Jim O’Neil, người đặt ra cụm từ “BRIC” và hiện giữ chức vụ Chủ Tịch Quản Lý Tích Sản của Goldman Sachs, đã nhấn mạnh: “Thế giới không còn lệ thuộc sự lãnh đạo của Hoa Kỳ và Âu Châu.”[2] Xét cho cùng, kể từ năm 2007, kinh tế TQ đã tăng trưởng 45%, Hoa Kỳ chưa đến 1%. Tốc độ tăng trưởng của TQ thật sự ấn tượng, đủ để các nhà phân tích phải rút lại lời tiên đoán. Trong lúc đó, Hoa Kỳ lại rất lo lắng và bàng hoàng, nhất là khi những dự phóng gần đây nhất của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế đã cho thấy: Ít ra theo một vài chuẩn mực, kinh tế TQ có thể qua mặt Hoa Kỳ vào năm 2016. Tưởng cũng cần nhắc lại, cho đến gần đây, theo Goldman Sachs, TQ phải đợi ít ra cho đến năm 2050. Trong vòng 30 năm tới, năm nước hàng đầu thế giới rất có thể sẽ là TQ, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Brazil, và Mexico. Riêng Tây Âu có lẽ phải chào tạm biệt.TƯ BẢN TOÀN CẦU ĐANG SUY SỤP Một số chuyên gia ngày một đông đồng ý Á châu hiện nay đang giữ vai trò đầu tàu của kinh tế thế giới, ngay cả khi chưa được “các quốc gia văn minh phương Tây” ghi nhận. Tuy vậy, bàn luận về sự tuột dốc của phương Tây cũng vẫn là một điều nguy hiểm. Một tài liệu tham khảo lịch sử quan trọng về cùng chủ đề là bài tham luận năm 1918 của Oswald Spengler. Là tác giả nổi tiếng thời đó, Spengler nghĩ: nhân loại đã vận hành qua những hệ thống văn hóa độc đáo và tư tưởng Tây phương có thể không thích hợp hay không thể chuyển đạt qua các vùng khác trên hành tinh. Giới trẻ Ai Cập ngày nay chắc không nghĩ thế. Đã hẳn, Spengler đã phản ảnh trung thực môi trường trí thức, đạo đức, và văn hóa chung của một thời đại khống chế bởi Tây phương của một thế kỷ khác, khi hành tinh chỉ được xem như một thuộc địa dành cho các phạm nhân hình sự, một dưỡng đường của những người mất trí, những bãi rác thải của một nền văn minh tiền tiến, để loại bỏ những thành phần nhân loại bất xứng và không ai ưa thích. Spengler đã xem mỗi một hệ thống văn hóa đều có sinh có tử, và một linh hồn độc đáo riêng. Đông phương như “ma thuật”[3], Tây phương như một “phù thủy chạy theo tiền tài vật chất – Faustian.”[4] Là một người yếm thế và phản động, Spengler tin các quốc gia Tây phương đã đạt đến đỉnh cao của văn minh dân chủ - và do đó, trước sau rồi cũng phải đến lúc tàn lụi. Theo ngôn từ của Sammuel Huntington, điều nầy có nghĩa “va chạm giữa các nền văn minh.”[5] Nói đến va chạm giữa các nền văn minh, tưởng cũng nên lưu ý đến bài viết – cùng chủ đề với Spengler – “Sự Suy Tàn và Sụp Đổ của Âu Châu (và Có thể của Tây phương)”[6] trong một số báo TIME gần đây. Trong thời đại hậu-Spengler, Tây Phương chính là Hoa Kỳ. Xét cho cùng, một Âu châu, hiện đang chìm đắm trong khủng hoảng tài chánh, sẽ bị tuột dốc chừng nào còn ở trong tình trạng đan xen và phục tùng Hoa Thịnh Đốn, ngay cả khi cùng lúc đang chứng kiến các tiến bộ kinh tế của thế giới “phía Nam”.[7] Có thể nghĩ: thời buổi tư bản toàn cầu hiện nay không như một “va chạm”, mà như cái “chết của các nền văn minh”[8]. Nếu Hoa Thịnh Đốn hiện nay đang kinh ngạc và “vận hành tự động”[9], một phần là vì trên bình diện lịch sử, “triều đại” của siêu cường duy nhất chỉ thu gọn từ ngày Bức Tường Bá Linh sụp đổ và Liên Bang Xô Viết tan rã đến biến cố 11/9 và chủ thuyết Bush. Thế kỷ mới của Hoa Kỳ đã bị lung lay trong ba giai đoạn đầy biến động: 11/9 (căm hận); xâm lăng Iraq (chiến tranh phòng ngừa); và khủng hoảng Wall Street 2008 (tư bản sòng bài). Trong lúc đó, chúng ta cũng có thể lập luận: Âu châu, trong thực tế, vẫn còn có nhiều cơ hội như những xứ độc lập đối với Mỹ, những xứ ngoại vi nuôi “giấc mơ Âu châu khác Mỹ.”[10] Mùa Xuân Á Rập, chẳng hạn, đã đặc biệt lưu tâm đến thể chế dân chủ đại nghị kiểu Âu châu, không phải thể chế tổng thống kiểu Hoa Kỳ. Ngoài ra, mặc dù đang lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chánh, Âu châu vẫn còn là thị trường lớn nhất của thế giới. Về kỷ thuật, Âu châu đang tranh đua và trong vài địa hạt, đã vượt qua Hoa Kỳ, trong khi các quốc gia với đế chế tụt hậu trong vùng Vịnh Ba Tư vẫn đang tràn ngập đồng euro như một trong nhiều ngoại tệ dự trữ, và sở hữu nhiều bất động sản hàng đầu ở Paris và Luân Đôn. Tuy nhiên, với các lãnh đạo thiếu óc tưởng tượng và tầm cỡ như Nicolas Sarkozy, David Cameron, Silvio Berlusconi, và Angela Merkel, Âu châu chắc hẳn chẳng cần thêm thù địch. Tuột dốc hay không, Âu châu vẫn có thể tồn tại bằng cách loại bỏ chủ thuyết Đại Tây Dương và mạnh dạn hướng theo định mệnh Âu-Á. Âu châu có thể chuyển biến thành những xã hội mở đón nhận TQ, Ấn Độ, Liên Bang Nga, về kinh tế và văn hóa, đồng thời thúc đẩy các quốc gia Nam Âu nối kết chặt chẽ hơn với Thổ Nhĩ Kỳ, phần còn lại của Trung Đông, Mỹ La Tinh, và Phi châu, và từ bỏ sách lược oanh tạc nhân đạo kiểu NATO. Ngược lại, các sự kiện thực tế diễn tiến hiện nay hình như đang hướng đến không chỉ một Tây Phương tuột dốc nhanh chóng, mà một sự tàn lụi của toàn bộ hệ thống Tây phương đến tận cội rễ trong những năm u ám gần đây. Trong tác phẩm “Bằng Cách Nào Để Thay Đổi Thế Giới,”[11] nhà sử học Eric Hobsbawm đã nắm bắt được tình hình khi viết: “Thế giới đã biến dạng bởi chủ nghĩa tư bản,” như Karl Marx đã mô tả năm 1948 “trong nhiều đoạn hào hùng, đen tối, ngắn gọn, chính là thế giới nhận diện được vào đầu thế kỷ hai mươi mốt.”[12] Trong bối cảnh chính trị đã được thu gọn còn một tấm gương vỡ vụn phản chiếu nền tài chánh, và guồng máy sản xuất và tiết kiệm đã được thay thế bằng những xã hội đua đòi tiêu thụ, một điều gì đó mang tính hệ thống đang dần lộ diện. Như trong một câu nổi tiếng của thi sĩ Wiliam Butler Yeats, “trung tâm không thể đứng vững”[13] –và sẽ không đứng vững. Nếu Tây phương không còn là trung tâm, câu hỏi cần đặt ra sẽ là: điều sai trái gì đã thực sự xẩy ra? THEO TA HAY CHỐNG LẠI TA? Tưởng cũng nên nhắc lại: chủ nghĩa tư bản đã được thuần hóa và trở nên văn minh hơn là nhờ ở áp lực thường xuyên của các phong trào lao động can đảm và kiên trì, những đe dọa đình công và ngay cả các cuộc cách mạng. Sự hiện diện của khối Xô Viết trước đây, như mô hình phát triển kinh tế thay thế, tuy méo mó, cũng đã có phần đóng góp rất quan trọng. Để chống lại USSR, các tập đoàn lãnh đạo ở Hoa Thịnh Đốn và Âu châu đã phải mua chuộc sự hổ trợ của quần chúng qua các “pháp chế xã hội”[14] để bảo vệ điều được gọi không ngượng miệng là “lối sống Tây phương.”[15] Một khế ước xã hội đã ra đời, với giới tư bản đã phải chấp nhận nhiều nhượng bộ. Ngày nay, mọi việc lại một lần nữa đã đổi thay. Khế ước xã hội không còn nữa. Sự thật đó đã quá rõ ràng ở Hoa Thịnh Đốn, và ngày một rõ ràng hơn ở Âu châu. Hệ thống nói trên đã bắt đầu rạn vỡ cùng lúc với sự thắng thế của “lý thuyết tân tự do”[16], một toàn thắng ý thức hệ! Tân Tự Do: trò chơi duy nhất trên toàn cầu! Một đại lộ cao tốc duy nhất đã trực tiếp quét các thành tố mong manh nhất của tầng lớp trung lưu vào giai cấp vô sản mới, hay đơn thuần vào giới không thể kiếm được việc làm trong kỷ nguyên hậu kỹ nghệ. Nếu chủ nghĩa tân tự do đang thắng thế hiện nay, lý do không phải vì thiếu vắng mô hình phát triển thay thế thực tiển, và sự đắc thắng tự nó cần được đặt thành vấn đề nghiêm chỉnh hơn. Trong lúc đó, ngoại trừ ở Trung Đông, giới cấp tiến trên toàn thế giới đang bị tê liệt, như đang chờ đợi sự rệu rã của trật tự thế giới tuy mới nhưng cũng đã quá cũ. Không may, lịch sử đã dạy chúng ta một bài học: trong quá khứ, mỗi khi đứng giữa ngã tư đường, nhân loại thường tìm thấy những “chùm táo căm hận,”[17] kiểu bình dân hữu khuynh, hay tệ hại hơn nữa, chủ nghĩa phát xít đích thực. “Tây phương chống lại phần còn lại của thế giới” là phương thức quá đơn giản để mô tả thế giới đương đại. Thay vào đó, thử tưởng tượng một hành tinh trong đó “phần còn lại” trong nhiều phương cách đang tìm cách vượt qua, nhưng đồng thời cũng đã bị Tây phương đồng hóa và thẩm thấu quá sâu xa để có thể trở thành một mô hình thay thế. Lúc đó, sự thật oái oăm sẽ là: Vâng, Tây Phương sẽ “tàn lụi”, kể cả Hoa Thịnh Đốn, và sẽ bị bỏ lại phía sau hay tụt hậu trên khắp thế giới. ĐI TÌM MỘT MÔ HÌNH KHẢ DĨ THAY THẾ Giả thiết bạn là một xứ đang phát triển, đi mua sắm trong một “siêu thị phát triển”. Bạn nhìn về phía TQ và nghĩ bạn đang tìm thấy một cái gì mới mẻ: một mô hình đồng thuận đang tỏa sáng khắp nơi. Nhưng xét cho cùng, mô hình TQ — “thịnh vượng về kinh tế” nhưng thiếu vắng “thành tố tự do chính trị” — có thể chưa đủ để trở thành mô hình cho nhiều quốc gia noi theo – bởi lẽ trên nhiều phương diện, mô hình mới tương tự một “sản phẩm hỗn hợp” giữa ý niệm ” tân tiến Tây phương” kết nối và mang nhiều sắc thái ” Leninist,” với một đảng duy nhất kiểm soát nhân viên, guồng máy tuyên truyền và nhất là Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân. Cùng lúc, đây là một hệ thống rõ ràng đang cố gắng chứng minh: mặc dù Tây phương đã thống nhất thế giới — từ tân thực dân đến toàn cầu hóa — thực tế đó không mặc nhiên có nghĩa hệ thống sẽ ngự trị mãi mãi trên phương diện vật chất hay tinh thần. Về phần mình, Âu châu đang rao bán mô hình hội nhập siêu quốc gia như phương tiện giải quyết tất cả các vấn đề và xung đột từ Trung Đông đến Phi châu. Nhưng bất cứ khách hàng đi mua sắm nào hiện nay cũng có thể thấy rõ bằng chứng một Liên Hiệp Âu châu đang rạn vỡ bởi sự tranh cãi không ngừng giữa các thành viên, kể cả nhiều thành viên đang trỗi dậy chống đối đồng euro, bất bình với vai trò của NATO như một cảnh sát tự động, và một thách thức văn hóa Âu châu luôn kiêu căng đến độ tự đánh mất khả năng nhận diện, chẳng hạn, tại sao mô hình TQ lại thành công như thế ở Phi châu. Hay thử tưởng tượng khách mua sắm đang nhìn về Hoa Kỳ, một xứ xét cho cùng vẫn còn là nền kinh tế số một của thế giới, đồng đô la vẫn là đơn vị ngoại tệ dự trữ của thế giới, và lực lượng quân sự với sức tàn phá số một và còn giàn trải khắp địa cầu. Đã hẳn, hình ảnh đó có thể rất ấn tượng nếu chúng ta không quan tâm đến sự kiện thực tế Hoa Thịnh Đốn rõ ràng đang trên đà tuột dốc, đang chao đảo giữa một chủ thuyết bình dân khập khiểng và một chủ thuyết chính thống héo úa, và làm “cò mồi” cho “chủ nghĩa tư bản sòng bài” khi rảnh rỗi. Tóm lại, Hoa Kỳ là một đại cường khổng lồ đang phơi bày tình trạng bại liệt về kinh tế và chính trị cho toàn thế giới chiêm nghiệm, không còn ngay cả khả năng tìm kiếm một chiến lược rút lui trong danh dự. Trong hoàn cảnh đó, như một khách mua hàng, liệu bạn có thể nào quyết định mua một trong số mô hình bày biện? Trong thực tế, có nơi nào để một khách hàng có thể tìm được một mô hình thay thế trong một thế giới ngày một hỗn loạn hơn? Một trong những nguyên do đưa đến Arab Spring là giá cả thực phẩm các loại, do nạn đầu cơ, đã ngày một gia tăng khỏi vòng kiểm soát. Các phong trào xuống đường phản kháng ở Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Austria, và Thổ Nhĩ Kỳ, đều là hậu quả trực tiếp của Suy Thoái Toàn Cầu. Ở Tây Ban Nha, gần phân nửa giới trẻ trong lứa tuổi từ 16 đến 29, một thế hệ có học vấn cao đã bị đánh mất và hiện đang thất ngiệp, một kỷ lục ở Âu châu. Đó là một Âu châu tệ hại, nhưng ở Anh, 20% giới trẻ trong lứa tuổi từ 16 đến 24 đang thất nghiệp – con số trung bình trong Liên Hiệp Âu châu. Ở Luân Đôn, gần 25% những người trong lớp tuổi đi làm đang thất nghiệp. Ở Pháp, 13,5% dân số hiện được chính thức xếp vào tầng lớp nghèo – có nghĩa sống dưới mức 1.300 USD mỗi tháng. Như người dân Tây Âu đang chứng kiến, nhà nước đã phá vỡ khế ước xã hội. Những người phản kháng indignados ở Madrid đã nắm bắt tình hình một cách tuyệt diệu: “Chúng tôi không chống lại hệ thống, chính hệ thống đang chống lại chúng tôi.”[18] Thực trạng mô tả trên đây đã rõ ràng phơi bày sự thất bại và tuyệt vọng của chủ nghĩa tư bản tân tự do, như David Harvey đã giải thích trong tác phẩm mới nhất, The Enigma of Capital ( Bí Ẩn của Tư Bản). Tác giả đã miêu tả bằng cách nào một hệ thống kinh tế chính trị “bóc lột quần chúng, với những xảo thuật cướp đoạt không mấy khác cướp giật giữa ban ngày, đặc biệt là người nghèo và người dễ tổn thương, người ít hiểu biết và người không được pháp luật bảo vệ, đã trở thành chuyện thường nhật.”[19] Á CHÂU VÀ MÔ HÌNH TƯ BẢN TOÀN CẦU Trong khi Bắc Kinh đang quá bận rộn — tái hoà đồng định mệnh của một “Trung Quốc Toàn Cầu,”[20] gửi kỷ sư, kiến trúc sư, và công nhân chuyên ngành hạ tầng cơ sở, theo kiểu “không dội bom nhân đạo,” từ Canada đến Brazil, Cuba đến Angola — để bị phân tâm bởi những “trăn trở đớn đau Đại Tây Dương” trong vùng Trung Đông và Bắc Phi, còn được biết đến dưới tên gọi MENA. Nêú Tây phương đang gặp khó khăn, chủ nghĩa tư bản toàn cầu vẫn còn được an bình – không ai biết sẽ kéo dài được bao lâu – nhờ ở sự trổi dậy của tầng lớp trung lưu Á châu, không những ở TQ và Ấn Độ, mà còn ở Indonesia (với 240 triệu dân), và Việt Nam (85 triệu). Riêng ở TQ, 300 triệu người – 23% dân số - hiện sống trong các thành phố cỡ trung hoặc lớn, thoải mái với số lợi tức khả dụng. Trong thực tế, riêng họ cũng đủ cấu thành một quốc gia với nền kinh tế bằng 2/3 kinh tế Đức Quốc. Theo Viện McKinsey Global Institute, tầng lớp trung lưu TQ ngày nay chiếm 29% trong tổng số 190 triệu hộ gia đình, và sẽ tăng lên 75% trong tổng số 372 triệu hộ gia đình vào năm 2025 — dĩ nhiên nếu cuộc thực nghiệm tư bản vào thời điểm đó không thất bại và bong bóng tài chánh và bất động sản không xìu xẹp và nhận chìm xã hội TQ. Ấn Độ , theo McKinsey, với một dân số 1,2 tỉ và 15 triệu hộ gia đình cũng có mức lợi tức tương đương, sau năm năm dự phóng sẽ tăng lên 40 triệu hộ gia đình, hay 200 triệu dân, trong cùng mức lợi tức. Và đối với Ấn Độ vào năm 2011, cũng như TQ vào năm 2001, con đường duy nhất là đi lên, chừng nào giai đoạn yên bình còn kéo dài. Người Mỹ có thể khó tin, nhưng mức lợi tức trung bình hàng năm trên dưới 10.000 USD có thể đem lại một đời sống thoải mái ở TQ hay Indonesia, trong khi ở Hoa Kỳ, một hộ gia đình, với mức lợi tức trung điểm[21] hàng năm 50.000 USD, được chính thức xếp vào tầng lớp thực sự nghèo khó. Cơ quan Nomura Securities tiên đoán chỉ cần ba năm nữa, doanh số bán lẻ ở TQ sẽ vượt qua Hoa Kỳ, và như vậy, tầng lớp trung lưu Á châu có thể thực sự có đủ khả năng cứu vãn chủ nghĩa tư bản toàn cầu, ít ra trong một thời gian – nhưng với một giá khá đắt dưới hình thức thay đổi khí hậu, hiện nay đơn thuần được biết như “thời tiết kỳ lạ.”[22] HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC Trong lúc đó, ở Hoa Kỳ, T T Obama tiếp tục nhấn mạnh: thế giới đang sống trên hành tinh Hoa Kỳ. Lời tuyên bố dù vang vọng bùi tai đối với người Mỹ nhưng rất chối tai đối với thế giới bên ngoài — nơi cuộc thực nghiệm phản lực cơ tàng hình đang diễn tiến trong khi bộ trưởng quốc phòng Mỹ đang viếng thăm TQ; hay khi hảng thông tấn Xinhua, theo giọng điệu Bắc Kinh, đã lên tiếng chỉ trích các chính trị gia Hoa Thịnh Đốn là vô trách nhiệm trong trò xảo thuật trần-công-trái gần đây, và nêu rõ tính mong manh của một hệ thống vừa được ứng cứu khỏi tai nạn rơi tự do, với lời hứa sẽ được ban phát tín dụng không phải chịu lãi trong ít ra hai năm của Cục Dự Trữ Liên Bang. Ngoài ra, Hoa Thịnh Đốn cũng đã thiếu khôn ngoan khi thách thức giới lãnh đạo nước chủ nợ lớn nhất đang nắm giữ 3,2 nghìn tỉ USD trong số ngoại tệ dự trữ, hay 40% tổng số toàn cầu, và luôn ngạc nhiên và khó hiểu trước thói quen liên tục xuất khẩu tai họa “dân chủ cho người khù khờ”[23] từ bến bờ Hoa Kỳ đến các vùng chinh chiến Afghanistan-Pakistan, Iraq, Libya, và nhiều điểm nóng trong khu vực Trung Đông Nới Rộng. Bắc Kinh hiểu rất rõ bất cứ biến động mới nào do Hoa Kỳ gây ra trong chủ nghĩa tư bản toàn cầu đều có thể làm sút giảm số xuất khẩu, làm xìu xẹp bong bóng bất động sản, và xô đẩy các tầng lớp lao động TQ vào trạng huống cách mạng phiền toái. Điều nầy có nghĩa – mặc dù tiếng nói ồn ào chát chúa gần đây của những ứng viên Cộng Hòa như Rich Perry/Michele Bachmann - TQ không hề có âm mưu đen tối qủy quyệt chống lại Hoa Thịnh Đốn hay Tây phương. Trong thực tế, bên sau bước nhảy vọt qua mặt Đức Quốc như quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới và danh hiệu công xưởng của thế giới, một phần sản xuất đáng kể ở TQ đều do các công ty Âu châu, Mỹ và Nhật kiểm soát. Cũng tưởng cần phải nhắc lại: Vâng, Tây phương đang tuột dốc, nhưng Tây phương cũng đã dính quá sâu vào TQ để có thể dễ dàng ra đi nay mai. Bất cứ ai đang trỗi lên hay tuột xuống vào thời khắc nầy cũng phải cùng chia sẻ một hệ thống mậu dịch quốc tế duy nhất, đang rệu rã trong vùng Đại Tây Dương và đang nở rộ trong vùng Thái Bình Dương. Nếu những hy vọng thay đổi TQ của Hoa Thịnh Đốn là một ảo giác, khi bàn đến độc quyền toàn cầu của chủ nghĩa tư bản, không ai biết được thực thể nào sẽ xuất hiện trong tương lai. RÁC THẢI VÀ TƯƠNG LAI Những tên tuổi — được dùng để gieo kinh hải trên thế giới như Osama, Saddam, Gaddafi, Ahmadinejad (thật kỳ lạ, đều là Hồi giáo!) — rõ ràng ngụ ý họ đang hành động như những lỗ đen hút trọn những nỗi lo sợ của nhân dân thế giới. Nhưng họ sẽ không cứu rỗi được Tây phương tránh được tuột dốc, hay siêu cường duy nhất trước đây tránh khỏi hình phạt. Paul Kennedy, thuộc Đại Học Yale, sử gia tiên liệu tuột dốc, có thể nhắc nhở chúng ta: lịch sử sẽ quét sạch bá quyền của Hoa Kỳ, chắc chắn như mùa thu sẽ thay thế mùa hè, cũng như chủ nghĩa thực dân Âu châu, ngay cả sau các cuộc chiến “nhân đạo” của NATO. Ngay từ năm 2002, trước cuộc xâm lăng Iraq, chuyên gia hệ-thống-thế-giới[24], Immanuel Wallerstein, cũng đã lập sẵn khuôn rập cho cuộc tranh luận theo cách riêng của mình trong tác phẩm“Sự Tuột Dốc của Uy Lực Hoa Kỳ”[25]: “vấn đề không phải Hoa Kỳ đã tuột dốc hay chưa, mà là Hoa Kỳ có thể nào tìm được một cách té dễ xem, không gây quá nhiều tai hại cho bản thân hay thế giới. Câu trả lời trong những năm kế tiếp sau đó đã khá rõ rệt: không!”[26] Không ai có thể ngờ, 10 năm sau biến cố 11/9, câu chuyện toàn cầu quan yếu trong năm 2011 lại là câu chuyện Arab Spring, tự nó là một tiểu tiết trong toàn cảnh tuột dốc của Tây phương. Trong khi Tây phương đang ngụp lặn trong vũng lầy âu lo sợ hải — “Hội Chứng Hồi Giáo”[27], khủng hoảng tài chánh và kinh tế, và ngay cả nổi loạn và hôi của ở Anh Quốc — từ Bắc Phi đến Trung Đông, người dân đã phải hy sinh mạng sống để cố gây cho bằng được một rạn nứt trong dân chủ Tây phương. Đã hẳn, giấc mơ ít ra một phần nào đã bị chệch hướng, nhờ công sức của một “House of Saud trung cổ” và các tiểu vương vùng Vịnh Ba Tư hồ hỡi tham gia chiến lược phản cách mạng tàn nhẫn, trong khi NATO cũng đã giúp một tay qua nổ lực thay đổi câu chuyện qua chiến dịch” bỏ bom nhân đạo” với mục đích tái khẳng định sự vĩ đại của Tây phương. Như tổng thư ký NATO, Anders Fogh Rasmussen, đã phát biểu một cách trắng trợn: “Nếu quý vị không đủ khả năng giàn trải quân đội ra khỏi biên giới của mình, lúc đó quý vị không còn có thể duy trì ảnh hưởng quốc tế, và hố sâu sẽ được lấp đầy bởi các cường quốc đang lên, những quốc gia không nhất thiết chia sẻ các giá trị và tư duy của quý vị.”[28] Cuối cùng, thử phân tích tình hình khi năm 2011 đang sắp ra khỏi mùa đông. Trong phạm vi khu vực MENA, vai trò của NATO là bảo đảm và duy trì địa vị của Hoa Kỳ và Âu châu, gạt ra ngoài các thành viên khối BRICS, và buộc dân bản địa phải ngồi yên tại chỗ. Trong lúc đó, trong thế giới Đại Tây Dương, giai cấp trung lưu đang cố sức duy trì sự hiện diện của mình một cách tuyệt vọng; trong vùng Thái Bình dương , TQ đang ngày một trù phú; và trên toàn cầu, thế giới đang nín thở đợi chờ chiếc giày kinh tế Tây phương sắp rơi. Đáng tiếc là không có một T.S. Eliot để theo dõi quá trình bãi rác tân-trung-cổ lên thay thế trục Đại Tây Dương. Khi chủ nghĩa tư bản phải vào ICU[29] — phòng dành cho bệnh nhân cần được thường xuyên theo dõi bệnh trạng — người phải thanh toán hóa đơn bệnh viện luôn là người dễ bị thương tổn nhất, và hóa đơn luôn phải được thanh toán bằng máu bằng xương. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 27-12-2011 Tái bút: Viết tặng gia đình, bạn bè, và những ai quan tâm đến tình hình thế giới, sau khi vừa thoát khỏi bạo bệnh. [1]… purchasing power parity [2] The world is no longer dependent on the leadership of the U.S. and Europe. [3] magical [4] Faustian. [5] ..clash of civilizations. [6] The Decline and Fall of Europe (and Maybe the West). [7] The South. [8] …not as “a clash” but a “cash of civilizations.” [9] on autopilot. [10] …dreaming with European – not American – subtitles [11] How to Change the World. [12] …the world transformed by capitalism, which Karl Marx described in 1948 “in passages of dark, laconic eloquence is recognisably in the world of the early twenty-first century. [13] The center cannot hold [14] …social legislation. [15] …the Western way of life. [16]… neoliberalism. [17] grapes of wrath. [18] We’re not against the system, it’s the system that is against us. [19] …how a political economy “of mass dispossession, of predatory practices to the point of daylight robbery, particularly of the poor and the vulnerable, the unsophisticated and the legally unprotected, has become the order of the day.” [20] ..Global Middle Kingdom. [21] …a median household income. [22] …weird weather. [23] …democracy for dummies. [24] …world-system expert. [25] The Decline of American Power. [26] The question wasn’t whether the United States was in decline, but if it could find a way to fall gracefully, without too much damage to itself or the world. The answer in the years since has been clear enough: no. [27] Islamophobia. [28] NATO’s Secretary-general Anders Fogh Ramussen: “If you’re not able to deploy troops beyond your borders, then you can’t exert influence internationally, and then the gap will be filled by emerging powers that don’t necessarily share your values and thinking.” [29] Intensive Care Unit. nguyentruong92606.wordpress.com/2011/12/27/212/
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:54:32 GMT 9
GIÁM SÁT, PHỈ BÁNG, VÀ AN NINH QUỐC GIA
Trong hơn nửa năm vừa qua, các tiết lộ của Edward Snowden về Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (NSA) đã được phổ biến rộng rãi trên các báo Washington Post, New York Times, The Guardian, Der Spiegel ở Đức, và O Globo ở Brazil, cũng như ở nhiều nơi khác. Tuy vậy, không một ai nêu rõ: một phối hợp các yếu tố giúp các chương trình giám sát toàn cầu NSA ngày một lan rộng là việc làm quá dễ dàng và cám dỗ đối với Hoa Thịnh Đốn. Câu trả lời khá đơn giản. Đối với một đế quốc đang mất dần quyền kiểm soát kinh tế và đang lâm vào thời buổi lúc một phải kiệm ước nhiều hơn, các thành tựu kỹ thuật mới nhất của NSA không mấy khác một giao dịch hời giá khi đang cần phóng chiếu quyền lực và giám sát chặt chẽ các đồng minh chư hầu — trong thực tế, không mấy khác phương cách để chộp lấy độc quyền thế kỷ. Ngay cả khi tai họa rõ ràng đang đi kèm, các chương trình giám sát của NSA đã đến với một giá chiết giảm quá lớn không một quan chức cao cấp nào ở Hoa Thịnh Đốn có thể từ chối. Trong hơn một thế kỷ, từ chiến dịch bình định Philippines trong năm 1898 đến các cuộc thương thảo với Liên Hiệp Âu Châu ngày nay, giám sát và thu lượm thông tin xấu xa thô bĩ đã là các vũ khí then chốt trong việc tìm kiếm địa vị áp đảo toàn cầu của Hoa Thịnh Đốn. Không có gì đáng ngạc nhiên, trong thời gian hành xử quyền hành pháp lưỡng đảng hậu-11/9, George W. Bush và Barack Obama đã chủ trì quá trình xây dựng từng bước, đôi khi kín đáo, một “chòi canh kỹ thuật số” — a digital panopticon, được thiết kế để kiểm soát sinh hoạt truyền thông của nhân dân Mỹ và lãnh đạo các nước ngoài trên khắp thế giới. Mục tiêu của chương trình tình báo quốc nội và toàn cầu vô tiền khoáng hậu — một chương trình rõ ràng hàm chứa nhiều tranh luận đầy bất trắc trong quốc nội và ở hải ngoại — là gì? Để trả lời, một nhận thức lịch sử trên hơn một thế kỷ giám sát của Hoa Kỳ có thể dẫn chúng ta qua vô số thông tin do NSA thu thập, liên quan đến ý nghĩa chiến lược của chương trình đối với siêu cường cuối cùng của hành tinh. Những gì quá khứ phơi bày là một quan hệ dài lâu giữa sự giám sát của chính quyền Hoa Kỳ và các tủi nhục chính trị, một kinh nghiệm giúp soi sáng lý do không được xác nhận tại sao NSA đã phải giám sát các đồng minh thân cận nhất của chính Hoa Kỳ. Một sự giám sát như vậy không những giúp đem lại tin tức tình báo có lợi cho ngoại giao, quan hệ thương mãi, chiến tranh và hòa bình, mà còn thu thập các thông tin thầm kín riêng tư có thể đem lại lực đòn bẩy — như để hăm dọa hay bắt chẹt — trong các giao dịch và thương thảo nhạy cảm đủ loại. “Chòi canh toàn cầu” của NSA, như vậy, đã rất cần thiết để thỏa mãn giấc mơ đế quốc lâu đời. Chỉ cần nhấn vài nút then chốt trên bàn phím máy vi tính, NSA đã giải quyết được vấn đề đã gây khó khăn cho các cường quốc trên thế giới, ít ra ngay từ thời Caesar Augustus: bằng cách nào để có thể kiểm soát các lãnh đạo cấp địa phương bất trị, những lãnh đạo thường là nền móng của quyền lực đế quốc, qua việc moi móc tìm kiếm thông tin thiết yếu và thường thô bỉ để uốn nắn hay ép buộc các lãnh đạo địa phương phải vâng theo. GIÁM SÁT, KIỆM ƯỚC, PHỈ BÁNG Cho đến nay, một hệ thống giám sát như vậy đã chứng tỏ vừa tốn kém, vừa cần nhiều nhân lực. Tuy nhiên, ngày nay, không như hệ thống giám sát của Quân Đội Hoa Kỳ trong Đệ Nhất Thế Chiến, hay xâm nhập thầm kín và nghe lén điện thoại của FBI trong thời Chiến Tranh Lạnh, NSA có thể giám sát toàn thế giới và lãnh đạo các quốc gia chỉ với một số ít các cuộc điều tra qua cáp quan thính thị (probes into the Internet’s fiber optic cables) trên mạng Internet. Kỹ thuật mới mang tính “toàn thức” và “toàn cầu”(omniscient and omnipresent), vượt khỏi bất cứ những gì bất cứ ai không được phép tiếp cận các tài liệu tuyệt mật có thể tưởng tượng, ít ra trước các tiết lộ gần đây của Edward Snowden. Chẳng những phổ cập ngoài sức tưởng tượng, hệ thống giám sát NSA còn là một chiến lược đặc biệt ít tốn kém, so với bất cứ hình thức phóng chiếu uy quyền toàn cầu nào khác. Và trên tất cả, hệ thống đã giúp thể hiện giấc mơ đế quốc lớn lao nhất — một hệ thống toàn thức không chỉ hạn chế trong vài hải đảo như ở Philippines cách đây một thế kỷ, hay vài quốc gia như trong kỷ nguyên Chiến Tranh Lạnh, mà thực sự mang tính toàn cầu. Trong thời buổi kiệm ước ngày một gia tăng ngay cả đối với đế quốc, và khả năng kỹ thuật đặc biệt ngoại lệ, tất cả mọi chuyện liên quan đến hệ thống giám sát của NSA đều thúc đẩy Hoa Thịnh Đốn nhanh nhẩu vồ vập lấy cơ may. Cơ chế ít tốn kém trong việc phóng chiếu cũng như duy trì quyền lực toàn cầu, đã hẳn, có vẻ thiếu thông minh, một giải-pháp-rẻ-tiền-phải-có đối với bất cứ tổng thống Hoa Kỳ nào trong thế kỷ XXI — trước khi các tài liệu mới của NSA, nhờ Snowden, bắt đầu xuất hiện hàng tuần trên trang đầu các báo và toàn thế giới đã bắt đầu phản ứng gay gắt: Một blowback! Trong khi hố cách biệt ngày một lớn dần giữa tầm với toàn cầu và khả năng kiểm soát giới hạn của Hoa Thịnh Đốn, trong khi Hoa Kỳ đang tranh thủ duy trì 40% lực lượng vũ trang thế giới (con số năm 2012) chỉ với 23% sản lượng kinh tế gộp toàn cầu, Hoa Kỳ cần tìm các phương cách mới nhằm hành xử quyền lực của mình một cách tiết kiệm hơn. Khi Chiến Tranh Lạnh bắt đầu, Quân Đội Hoa Kỳ được trang bị nặng nề — với 500 căn cứ ở hải ngoại vào khoảng năm 1950 — vẫn còn có thể duy trì và cáng đáng, bởi lẽ Hoa Kỳ đang kiểm soát khoảng 50% sản lượng gộp toàn cầu. Nhưng khi bách phân sản lượng của Hoa Kỳ suy giảm — ước tính xuống khoảng 17% vào năm 2016 — và phí tổn an sinh xã hội không ngừng gia tăng, từ 4% GDP trong năm 2010 lên tới khoảng 18% vào năm 2050, cắt xén phí tổn đang trở thành một điều khẩn thiết, nếu Hoa Thịnh Đốn muốn thượng tồn như siêu cường duy nhất hành tinh. So với 3.000 tỉ USD, phí tổn trong cuộc chiến xâm lăng và chiếm đóng Iraq, ngân sách 2012 của NSA chỉ vào khoảng 11 tỉ USD cho cả chương trình giám sát toàn cầu lẫn chiến tranh không gian (cyberwarfare) — một tiết kiệm Ngũ Giác Đài khó thể làm ngơ. Tuy vậy, món hàng hời giá chẳng bao lâu đã chứng tỏ quá đắt, đến độ không thể lường trước. Chỉ riêng kích cỡ của chương trình giám sát cũng đã phơi bày vô số nguy cơ xâm nhập, hoặc bởi một nhóm phản chiến lẻn vào trụ sở FBI ở Media, Pennsylvania trong năm 1971, hay bởi Edward Snowden truy cập các tài liệu NSA tại tiền trạm Hawaii trong năm 2012. Một khi các chương trình bí mật bị phơi bày, sự thật sẽ chứng tỏ không một ai thích bị giám sát. Lãnh đạo các quốc gia đầy tự trọng sẽ không bao giờ tha thứ các ngoại cường quan sát họ như các chú chuột bị nhốt trong lồng. Người dân thường cũng ghê tởm với ý nghĩ các nhà cầm quyền luôn quan sát đời sống riêng tư hàng ngày của họ như các vi khuẩn dưới kính hiển vi. VÒNG LẪN QUẨN GIÁM SÁT Trong thế kỷ vừa qua, tình trạng căng thẳng, giữa khuynh hướng bành trướng của guồng máy nhà nước và mạng lưới giám sát thường xuyên và ngày một chặt chẽ các quyền tự do dân sự của công dân, luôn tiếp diễn và gia tăng. Trước hết là sự phát triển nhanh chóng của các kỹ thuật phản gián dưới áp lực của các cuộc chiến hải ngoại. Kế đến, việc áp dụng bừa bãi và thường phi pháp các kỹ thuật giám sát trong quốc nội bên sau bức màn bí mật. Và cuối cùng, các cải cách muộn màng và miễn cưỡng khi báo chí và quần chúng khám phá các lạm dụng ghê tởm của FBI, CIA, hay hiện nay, của NSA. Trong vòng một thế kỷ vừa qua — trong khi truyền thông hiện đại đã tiến bộ từ thư từ bưu điện, đến điện thoại, đến mạng lưới Internet — chương trình giám sát của chính quyền đã tiến theo bước nhảy vọt, trong khi tự do dân sự chập chững theo sau một cách chậm chạp cùng nhịp với các quy luật và pháp chế. Vòng giám sát đầy ấn tượng đầu tiên đã diễn ra trong Đệ Nhất Thế Chiến và sau đó. Âu lo trước tiềm năng phá hoại của người Mỹ gốc Đức sau khi Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức Quốc trong năm 1917, hàng ngũ FBI và Tình Báo Quân Sự đã gia tăng từ những tổ chức nhỏ bé để trở thành những cơ quan hùng mạnh với trách nhiệm nhổ tận gốc mọi dấu hiệu thiếu trung thành bất cứ ở đâu trên đất Mỹ, dù bằng lời nói hay hành động. Từ khi chỉ có 9% dân Mỹ có điện thoại, theo dõi và giám sát lòng trung thành của 10 triệu người Mỹ gốc Đức đòi hỏi một số nhân viên bưu điện kếch sù để khám xét khoảng 30 triệu thư hạng nhất và 350.000 trật tự viên để theo dõi các dân nhập cư, thành viên các nghiệp đoàn, và đảng viên xã hội đủ loại. Trong suốt thập kỷ 1920, các thành viên bảo thũ Cộng Hòa, kinh hoàng trước đe dọa đối với các bí mật riêng tư, đã dần dà bắt đầu thu gọn guồng máy an ninh của Hoa Thịnh Đốn. Sự thay đổi đã đạt đỉnh cao với việc bải bỏ đơn vị mật mã của chính quyền bởi Ngoại Trưởng Henry Stimson trong năm 1929, với lời cảnh cáo đáng ghi nhớ : “Giới thượng lưu quý phái không đọc thư riêng của nhau.”[1] Trong đợt giám sát quần chúng kế tiếp trong Đệ Nhị Thế Chiến, FBI đã khám phá: nghe trộm dây nói đã đưa đến một phó sản bất ngờ, với tiềm năng đem lại quyền lực chính trị đặc biệt — phỉ báng. Nhằm chặn đứng khả năng dò thám của phe địch, Tổng Thống Franklin Roosevelt đã dành cho FBI quyền kiểm soát toàn bộ ngành phản gián, và trong tháng 5-1940, đã cho phép Giám Đốc J. Edgar Hoover quyền nghe trộm dây nói. Những gì biến Hoover thành một lãnh đạo đầy quyền lực ở Hoa Thịnh Đốn là điện thoại. Với 20% dân Hoa Kỳ và toàn bộ giới thượng lưu chính trị lúc đó đã có dây nói, và với quyền nghe trộm tại các tổng đài địa phương, FBI đã có thể dễ dàng kiểm soát các cuộc điện đàm giữa các thành phần có tiềm năng phá hoại và những thành phần thù nghịch với tổng thống ở quốc nội, đặc biệt là các lãnh tụ phong trào chủ trương biệt lập như phi công Charles Linbergh và Thượng Nghị Sĩ Burton Wheeler. Tuy vậy, ngay cả với các cuộc điện đàm tập trung có thể giám sát từ các tổng đài, văn phòng an ninh cũng còn cần một khối nhân lực khổng lồ cho công tác phản gián thời chiến. Nhân viên FBI đã tăng vọt từ 650 năm 1924 lên đến 13.000 năm 1943. Sau khi Roosevelt mệnh chung vào đầu năm 1945, Harry Truman được biết kích cỡ khác thường của công tác giám sát bởi FBI. Tháng 5-1945, Truman đã ghi trong nhật ký: “Chúng ta không muốn có Gestapo hay Cảnh Sát Mật Vụ. FBI đang đi theo hướng đó. Họ đang ngụp lặn trong các chuyện bỉ ổi xấu xa trong đời sống tình dục và đe dọa phỉ báng trắng trợn.”[2] Sau một phần tư thế kỷ nghe trộm dây nói không cần giấy phép của pháp đình, Hoover đã xây dựng một văn khố về các sở thích tình dục trong giới quyền lực của Mỹ và sử dụng nó để định hình chiều hướng chính trị của Hoa Kỳ. Hoover đã cho phân phối hồ sơ về lời đồn đồng tính luyến ái của Adlai Stevenson nhằm đánh bại ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ trong cuộc bầu cử tổng thống 1952, cho phổ biến băng ghi âm tán tỉnh phụ nữ của Martin Luther King, và giám sát quan hệ ngoại hôn của T T Kennedy với người tình mafia Judith Exner… Và đó cũng chỉ là phương cách sử dụng các điều bỉ ổi xấu xa để giữ giới quyền lực Hoa Thịnh Đốn trong vòng lèo lái của chính cá nhân Hoover. William Sullivan, trưởng phân bộ tình báo quốc nội FBI trong suốt thập kỷ 1960, đã hồi tưởng, “Ngay khi [Hoover] biết được bất cứ điều gì bất lợi cho một nghị sĩ, ông có thể gửi một trong số thuộc cấp lên khuyến cáo vị nghị sĩ ‘trong tiến trình một cuộc điều tra, chúng tôi đã tình cờ nắm được dữ liệu nầy về con gái của ngài…’ Từ đó, vị thượng nghị sĩ luôn nằm trong túi của ông ta.”[3] Sau khi qua đời, một kết toán chính thức đã tìm thấy Hoover đã có đến 883 hồ sơ như thế về các nghị sĩ và 722 hồ sơ về các dân biểu. Trang bị với những thông tin nhạy cảm, Hoover nắm toàn quyền quyết định hướng đi của quốc gia và phát động các chương trình do chính ông lựa chọn, kể cả Chương Trình Phản Gián nổi tiếng của FBI (COINTELPRO), quấy nhiễu một cách bất hợp pháp các phong trào tranh đấu Dân Quyền và chống-đối-chiến-tranh-Việt-Nam qua các thủ đoạn tuyên truyền đen tối, xâm nhập các văn phòng, và kích động… Vào cuối cuộc chiến Việt Nam, Nghị Sĩ Frank Church cầm đầu tiểu ban điều tra các lạm quyền vừa nói. Một trợ tá trong cuộc điều tra của Church đã nhớ lại,”ý định của COINTELPRO” là thủ tiêu nhiều sinh mạng và hủy diệt thanh danh.”[4] Những khám phá nầy đã dẫn đến việc thiết lập, trong khuôn khổ Luật Giám Sát Tình Báo Hải Ngoại năm 1978, các tòa án FISA có trách nhiệm cấp giấy phép nghe trộm dây nói vì an ninh quốc gia trong tương lai. GIÁM SÁT TRONG KỶ NGUYÊN INTERNET Trong nỗ lực tìm kiếm các vũ khí mới để chống khủng bố tiếp theo sau sự kiện 11/9, Hoa Thịnh Đốn đã nghĩ đến giám sát điện tử — một thành tố trong chiến lược hành xử quyền lực toàn cầu hiện nay. Trong tháng 10-2001, chưa thỏa mãn với các quyền hạn rộng lớn khác thường của Luật Ái Quốc (Patriot Act) mới được ban hành, Tổng Thống Bush đã ra lệnh cho NSA bắt đầu kiểm soát một cách thầm lặng mọi trao đổi thông tin tư nhân qua các công ty điện thoại trên toàn quốc, không cần đến giấy phép của các tòa FISA. Chẳng bao lâu sau, NSA đã bắt đầu rà soát Mạng Internet về các thư điện tử, các dữ liệu tài chánh, các tin nhắn, dựa trên lý thuyết mong manh các “dữ liệu hậu thiên không được hiến pháp bảo vệ”[5]. Thực vậy, qua việc xâm nhập Mạng Internet về văn bản và Mạng Lưới Các Tổng Đài Điện Thoại Công Cộng song hành về dây nói, NSA đã có thể tiếp cận mọi phương tiện truyền thông trên thế giới. Vào cuối hai nhiệm kỳ của Bush trong năm 2008, Quốc Hội đã ban hành các luật không những để hợp pháp hóa một cách hồi tố các chương trình phi pháp, mà còn dọn đường cho việc phát triển không bị kiềm chế guồng máy giám sát của NSA. Thay vì kiềm chế, Tổng Thống Obama đã đích thân giám thị sự bành trướng của NSA trong nhiều phương cách: kích cỡ — hàng tỉ thông điệp thu thập trên toàn cầu, và đặc biệt giám sát một số lãnh đạo thế giới. Đã hẳn, những gì đem lại nhiều quyền lực cho NSA cũng chính là mạng Internet — hệ thống phân bố các cáp quang thính thị hiện đang nối kết 40% nhân loại. Vào lúc Obama vào tòa Bạch Ốc, NSA cuối cùng cũng đã sẵn sàng khai triển các phương tiện truyền thông tân tiến cần thiết cho chương trình giám sát hầu như đã hoàn hảo. Hệ thống đã đủ khả năng bao trùm hoàn cầu cũng như theo dõi các cá nhân riêng biệt. Hệ thống đã hoàn thành mọi dụng cụ kỹ thuật tất yếu — nhất là các điểm tiếp cận để thu thập dữ kiện, mật mã vi tính để giải mã, các kho bảo quản khối dữ liệu kỹ thuật số, và các máy vi tính khổng lồ cần thiết cho việc ngấu nghiến và khai thác trong nháy mắt (nanosecond processing) các kho dữ liệu nầy. Vào năm 2012, việc tập trung qua trung gian số hóa — tiếng nói, hình ảnh, văn bản, và các truyền thông tài chánh, vào mạng lưới cáp quang thính thị toàn cầu — đã cho phép NSA kiểm soát toàn thế giới qua việc thâm nhập 190 trung tâm dữ liệu, một tiết kiệm phi thường trong các đề án giám sát chính trị và chiến tranh không gian. Với vài trăm cuộc thăm dò cáp quan thính thị và giải mã vi tính hóa, NSA ngày nay có thể nắm bắt các chi tiết đời tư vững chắc, những gì J.Edgar Hoover đã từng thiết tha tìm kiếm, và cung cấp loại giám sát quần chúng toàn diện, một việc làm cảnh sát mật vụ Stasi của Đông Đức đã từng sử dụng. Tuy vậy, những so sánh như thế cũng chỉ dừng ở đó. Xét cho cùng, một khi nhân viên FBI đã thu thập hàng nghìn cuộc điện đàm, các tốc ký viên đã chép lại vô số bản sao, và các nhân viên văn phòng đã tồn trữ số tài liệu bẩn thĩu vào các tủ hồ sơ, J. Edgar Hoover cũng chỉ biết được những việc làm trong nội bộ giới thượng lưu trong một thành phố: Hoa Thịnh Đốn. Để thu thập các chi tiết thầm kín tương tự cho một quốc gia, Stasi đã phải cần đến một cảnh sát mật vụ cho mỗi sáu công dân Đông Đức hay một số lượng nhân viên khổng lồ khó thể duy trì lâu dài. Ngược lại, phối hợp yếu tố kỹ thuật của NSA với dữ liệu Internet từ các trung tâm, đã cho phép con số 37.000 nhân viên NSA ngày nay thể hiện cùng khối lượng công tác trên toàn cầu với mỗi nhân viên phụ trách khoảng 200.000 dân số. Trong tài liệu Tuyệt Mật 2012 trên đây, NSA cho thấy các đồng minh “Five Eyes” (Úc, Canada, New Zealand, Anh Quốc) với 190 “chương trình tiếp cận” nhằm xâm nhập hệ thống cáp quang thính thị toàn cầu qua Internet, trong địa hạt giám sát và chiến tranh không gian (Nguồn: NRC Handelsblad, November 23, 2013). GIẤC MƠ LÂU ĐỜI Dưới thời Obama, những dấu hiệu đầu tiên cho thấy chương trình giám sát của NSA sẽ sử dụng thông tin thu thập được, để khai thác các câu chuyện bẩn thĩu trong sinh hoạt chính trị và xã hội, giống như FBI dưới thời Hoover. Tháng 9-2013, tờ The New York Times đã tường trình: kể từ năm 2010, NSA đã sử dụng phần mềm tinh xảo để tạo dựng “nhiều biểu đồ mạng lưới xã hội …, giải mã càng nhiều chuyện bí mật cá nhân càng tốt …, và chọn lựa những thông tin nhạy cảm, chẳng hạn, thường gọi điện cho các chuyên gia tâm thần, những tin nhắn đêm khuya, cho đến những đối tượng ngoại hôn.”[6] Với kinh phí 250 triệu USD mỗi năm cho dự án tình-báo-tín-hiệu (Sigint Enabling Project), NSA đã thầm lén xâm nhập các mã số được thiết kế nhằm bảo vệ các bí mật cá nhân. Theo tài liệu NSA năm 2007, “Trong tương lai, các siêu cường, sẽ được xây đắp hay sụp đổ, cơ sở trên sức mạnh của các chương trình phân tích mật mã. Đó là tấm vé vào cửa để Hoa Kỳ duy trì quyền tiếp cận không hạn chế và sử dụng môi trường trao đổi thông tin vi tính — cyberspace.”[7] Qua việc thu thập thông tin — thông thường, mật thiết, hay nhục nhã — liên quan đến các lãnh đạo nước ngoài, các thống đốc thuộc địa đế quốc, từ thời La Mã xa xưa đến Hoa Kỳ đương đại, đã thủ đắc trí thông minh và vẻ oai nghiêm cần thiết của một toàn quyền thuộc địa đối với các xã hội bản địa. Tầm quan trọng và thử thách khả năng kiểm soát giới thượng lưu địa phương, đã hẳn, thật sự thiết yếu. Trong quá trình bình định Philippines sau năm 1898, chẳng hạn, nhà cầm quyền thuộc địa Hoa Kỳ đã khuất phục các lãnh đạo Philippines ương ngạnh, qua phương cách cảnh sát thâm nhập để thu thập tin tức tình báo chính trị và các việc làm thô bĩ cá nhân. Và đã hẳn đó cũng chỉ là những gì J. Edgar Hoover đã làm ở Hoa Thịnh Đốn trong các thập kỷ 1950 và 1960. Thực vậy, Đế Quốc Anh hùng mạnh, cũng như tất cả các đế quốc khác, là một tấm thảm toàn cầu được dệt bằng các dây liên hệ chính trị với giới lãnh đạo hay thượng lưu tay chân địa phương — từ các sultan Mã Lai và các maharajas Ấn Độ đến các sheik vùng Vịnh và các thủ lãnh bộ lạc Tây Phi. Như sử gia Ronald Robinson có lần đã nhận định, Đế Quốc Anh đã trãi rộng trên toàn cầu trong hai thế kỷ qua sự cộng tác với các lãnh đạo địa phương, để rồi đã phải tan rã chỉ trong vòng hai thập kỷ, khi “cộng tác” (collaboration) đã biến thể để trở thành “bất hợp tác”(non-cooperation). Sau quá trình giải thể thuộc địa nhanh chóng trong thập kỷ 1960, giúp biến thể số đông đế quốc Âu Châu thành 100 quốc gia mới, cấp lãnh đạo các quốc gia nầy cũng đã sớm nhận ra chính mình cũng đã trở thành giai cấp thượng lưu tay chân của đế quốc toàn cầu Hoa Kỳ đang bành trướng. Đã hẳn, ngày nay Hoa Thịnh Đốn cũng đang bất thần cần đến loại thông tin riêng tư có thể giúp khuất phục các tay chân mới. Giám sát các lãnh đạo bản xứ luôn cung cấp cho các đại cường thế giới — Anh Quốc hồi đó và Hoa Kỳ hiện nay — các thông tin thiết yếu cho việc hành xử quyền thống lĩnh toàn cầu. Công tác tình báo đã đem lại quyền xâm nhập đặc biệt thiết yếu cho tầm nhìn đế quốc, cho ý thức cấp trên thiết yếu trong vai trò thống trị quần chúng dưới quyền. Giám sát cũng cung cấp thông tin thiết yếu cho cách xử lý các thành phần chống đối với các hành động ngụy trang hay lực lượng quân sự. Tình báo chính trị và kinh tế cũng rất hữu ích trong việc tương tác với các đồng minh trong các cuộc thương nghị đủ loại. Và có lẽ quan trọng hơn hết, thông tin về các lỗi lầm thiếu sót của các lãnh đạo cũng rất hữu ích để ép buộc các lãnh đạo nầy phải chấp hành. Vào cuối năm 2013, tờ The New York Times đã phúc trình, khi nói đến dò thám giới thượng lưu toàn cầu, người ta cũng đã ghi nhận trên 1.000 mục tiêu giám sát ở Hoa Kỳ và Anh Quốc trong những năm gần đây, xuống tận các nhân vật chính trị trung cấp trên chính trường quốc tế.[8] Các tiết lộ bởi Edward Snowden đã cho thấy: NSA đã giám sát các nhà lãnh đạo trong 35 quốc gia trên thế giới, kể cả tổng thống Brazil, Dilma Rousseff, các tổng thống Mexico Felipe Calderon và Enrique Pena Nieto, Thủ Tướng Đức Angela Merkel, và tổng thống Indonesia, Susilo Bambang Yudhoyono. Cũng nên kể thêm, các động thái giám sát các “quyền lợi ngoại giao của Pháp” trong cuôc bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc trong tháng 6-2010 về các chế tài đối với Iran, và giám sát các cấp lãnh đạo thế giới trong cuộc họp thượng đỉnh G-20 tại Ottawa trong tháng 6-2010. Xét theo bề ngoài, hình như chỉ một số thành viên trong liên minh lịch sử “Five Eyes” tình-báo-tín-hiệu (Úc, Canada, New Zealand, và Anh Quốc), được miễn nhiễm giám sát NSA, ít ra trên lý thuyết.[9] Tóm lại, tình báo bí mật về các đồng minh rõ ràng có thể đem lại cho Hoa Thịnh Đốn nhiều lợi điểm ngoại giao đáng kể. Chẳng hạn, trong suốt thời gian LHQ tranh luận về sự kiện Hoa Kỳ xâm lăng Iraq trong các năm 2002-2003, NSA đã chặn đứng các cuộc điện đàm của Tổng Thư Ký Kofi Anan và giám sát chặt chẽ cấp lãnh đạo sáu quốc gia “Middle Six” — các quốc gia thuộc Thế Giới Thứ Ba trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, để mua chuộc giành phiếu đúng lúc. Lãnh đạo số hai của NSA đặc trách các mục tiêu trong khu vực cũng đã trao đổi văn thư với các đồng minh Five Eyes, đòi hỏi các thông tin tay trong (insider information) về phản ứng của các xứ thành viên đối với cuộc tranh luận đang diễn tiến về vấn đề Iraq, kế hoạch bỏ phiếu về các nghị quyết liên hệ…và nhiều thông tin khác có thể giúp các nhà làm chính sách Hoa Kỳ một lợi khí để thành đạt các kết quả thuận lợi đối với các mục đích của Mỹ. Nêu rõ nhu cầu cần có các thông tin bất lợi trong các cuộc thương thảo tay đôi, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã thúc đẩy tòa đại sứ của Mỹ ở Bahrain trong năm 2009 về các chi tiết có hại trong thế giới Hồi Giáo liên quan đến các hoàng thân, như các thông tin bất lợi cho hoàng thân nào? Hoàng thân nào thích tứ đổ tường hay dùng ma túy? Thực vậy, trong tháng 10-2012, một quan chức NSA được biết dưới danh hiệu “DIRNSA “, hay Tổng Giám Đốc Keith Alexander, đã đề nghị phương cách sau để đối phó với các thành phần Hồi Giáo cực đoan: “Tính dễ bị tổn thương của những thành phần nầy, nếu bị phơi bày, có thể gây nghi ngờ lòng tận tụy của họ đối với chính nghĩa thánh chiến, dẫn đến chỗ mất hết uy quyền. NSA đã gợi ý ‘dễ bị tổn thương’ có thể bao gồm ‘xem phim tình dục trực tuyến’ hay ‘sử dụng một phần ngân quỹ tặng dữ nhận được để tài trợ các chi tiêu cá nhân.’ Tài liệu NSA đã nhận diện một mục tiêu tiềm năng — một nhà giáo dục được trọng vọng đã phạm lỗi tạp-hôn-trực-tuyến (online promiscuity).” [10] Cũng như tập trung truyền thông, mạng Internet cũng chuyển dịch hầu hết các sinh hoạt tình dục thương mãi vào “môi trường trao đổi thông tin vi tính”. Với khoảng 25 triệu tụ điểm dâm ô trên thế giới và khoảng 10,6 tỉ trang được tìm xem mỗi tháng trong năm 2013 tại 5 tụ điểm tình dục hàng đầu, sinh hoạt khiêu dâm trực tuyến đã trở thành ngành doanh thương toàn cầu. Trong thực tế, vào năm 2006, tổng số thu nhập toàn ngành đã lên đến 97 tỉ USD. Với vô số khách ăn chơi tìm vào các tụ điểm trên mạng Internet và không một ai thú nhận điều đó, NSA dễ dàng tiếp cận các thói quen gây bối rối cho khách chơi trên thế giới, dù đó là các chiến binh Hồi Giáo hay các lãnh đạo chính trị Âu Châu. Theo James Bamford, tác giả hai tác phẩm về NSA, “Hoạt động của NSA giống một cách kỳ lạ các hoạt động của FBI dưới thời J. Edgar Hoover trong thập kỷ 1960, khi FBI sử dụng phương cách nghe trộm với mục tiêu khám phá các tệ trạng dễ gây thương tổn, như các vi phạm tình dục, nhằm trung hòa hóa các đối tượng.”[11] Jameel Jaffer, thuộc ACLU, đã cảnh cáo: một tổng thống có thể “đòi hỏi NSA sử dụng kết quả giám sát để làm mất uy tín các đối thủ chính trị, các nhà báo, hay các nhà hoạt động nhân quyền. NSA cũng đã từng dùng uy quyền tương tự trong quá khứ và không một ai nên ngây thơ cả tin sẽ không hành động như vậy trong tương lai.”[12] Ngay cả cuộc thảo luận tái duyệt các hoạt động của NSA, do Tổng Thống Obama triệu tập gần đây, cũng đã phải thú nhận: “Dưới ánh sáng của các bài học lịch sử của chính chúng ta … vào một thời điểm nào đó trong tương lai, các quan chức cao cấp trong chính quyền sẽ quyết định dữ-liệu-bạ khổng lồ (massive database) các thông tin riêng tư nhạy cảm luôn sẵn sàng để được lạm dụng.”[13] Thực vậy, Edward Snowden đã lên án NSA, trong thực tế, đang thể hiện việc giám sát như thế. Trong bức thư tháng 12-2013, gửi cho nhân dân Brazil, Snowden đã viết: “Họ [NSA] ngay cả đang theo dõi xem ai đang có tư tình hay xem phim ảnh khiêu dâm, để lâm thời cần thóa mạ thanh danh của đối tượng.”[14] Nếu Snowden đúng, một mục tiêu then chốt của chương trình giám sát các lãnh đạo thế giới của NSA chẳng phải là an ninh quốc gia Hoa Kỳ, mà chỉ để bắt chẹt chính trị — như đã từng xẩy ra từ năm 1898. Một sự giám sát bằng kỹ thuật số như thế luôn hàm chứa một tiềm năng thóa mạ nguy hiểm, như mọi người đều nhớ Thống Đốc New York Eliot Spitzer buộc lòng đã phải từ chức trong năm 2008 sau vụ nghe trộm điện thoại thông thường, tiết lộ Spitzer đã sử dụng các dịch vụ mãi dâm; hay, để đơn cử một ví dụ khác, sự kiện loại trừ bộ trưởng ngân sách của Pháp, Jérôme Cahuzac trong năm 2013, tiếp theo sau vụ nghe trộm phơi bày tài khoản bí mật trong ngân hàng Thụy Sĩ. Như thường lệ, nguồn thóa mạ chính trị vẫn luôn là tình dục và tiền bạc, cả hai NSA đều có thể theo dõi khá dễ dàng. Với tính nhạy cảm cao độ của truyền thông hành chính, các lãnh đạo thế giới đã phản ứng mạnh mẽ đối với các phúc trình về chương trình giám sát NSA — với Thủ Tướng Merkel đòi hỏi quy chế chước miễn “Five-Eyes-exempt status” đối với Đức; Nghị Viện Âu Châu bỏ phiếu cắt xén việc chia sẻ các dữ liệu ngân hàng với Hoa Thịnh Đốn; và Tổng Thống Brazil Rousseff đã hủy bỏ cuộc công du đến Hoa Kỳ và hợp đồng thuê hệ thống vệ tinh truyền thông 560 triệu USD nhằm giúp Brazil tránh khỏi mạng Internet do Hoa Kỳ kiểm soát. TƯƠNG LAI QUYỀN LỰC TOÀN CẦU CỦA HOA KỲ Qua hành động phổ biến các tài liệu tuyệt mật của NSA, Edward Snowden đã đem lại cho chúng ta một ý niệm về kiến trúc đang thay đổi trong quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ. Ở cấp độ rộng rãi nhất, “chốt” kỹ thuật số của Obama bổ túc cho chiến lược quốc phòng tổng quát của Mỹ, trong năm 2012, đã thông báo giảm thiểu các lực lượng quy ước trong khi bành trướng vào không gian và môi trường trao đổi thông tin vi tính, cyberspace, mới và ít tốn kém . Trong khi cắt xén một cách khiêm tốn ngân sách vũ khí và trang thiết bị cũng như kích cỡ các lực lượng quân sự, Tổng Thống Obama đã đầu tư hàng tỉ vào chương trình xây dựng một kiến trúc mới về kiểm soát thông tin toàn cầu. Nếu cộng số 791 tỉ kinh phí xây dựng Bộ An Ninh Quốc Nội (Department of Homeland Security) với số 500 tỉ chi tiêu vào dạng thức tình báo toàn cầu ngày một gia tăng tính bán quân sự từ sau biến cố 11/9, Hoa Thịnh Đốn đã đầu tư 1,2 trillion (1.200 tỉ USD) vào guồng máy quyền lực toàn cầu mới. Guồng máy hành chánh về an ninh lớn đến độ một thẩm duyệt hành chánh gần đây của Obama đã khuyến cáo cần tái quy định chặt chẽ quyền tiếp tục thu thập thông tin các cuộc điện đàm của dân Mỹ và giám sát các cấp lãnh đạo nước ngoài trong một tương lai có thể tiên liệu của NSA. Môi trường trao đổi thông tin vi tính cho phép Hoa Thịnh Đốn hành xử uy quyền toàn cầu trên một vũ đài kiệm ước, mặc dù đã phải trả giá với nguy cơ đánh mất lòng tin của các đồng minh thân cận nhất — một mâu thuẩn chắc sẽ gây nhiều bất trắc khó khăn cho vai trò lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ trong nhiều năm sắp tới. Henry Stimson cũng cần được cập nhật: Trong thời đại Internet, các bậc thượng lưu không những đọc thư riêng của nhau, họ còn tìm xem phim dâm ô của nhau. Ngay cả khi vững tin không có gì phải che dấu, tất cả chúng ta, dù là lãnh đạo thế giới hay dân thường, đều có đủ lý do để phải quan tâm. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 27-02-2014 ——————————————————————————– [1] Gentlemen do not read each other’s mail. [2] We want no Gespo or Secret Police. FBI is tending in that direction. They are dabbling in sex-life scandals and plain blackmail. [3] The moment [Hoover] would get something on a senator,” recalled William Sullivan, the FBI’s chief of domestic intelligence during the 1960s, “he’d send one of the errand boys up and advise the senator that ‘we’re in the course of an investigation, and we by chance happened to come up with this data on your daughter…’ From that time on, the senator’s right in his pocket. [4] The intent of COINTELPRO was to destroy lives and ruin reputations. [5] …not constitutionally protected metadata … [6] In September 2013, the New York Times reported that the NSA has, since 2010, applied sophisticated software to create “social network diagrams…, unlock as many secrets about individuals as possible…, and pick up sensitive information like regular calls to a psychiatrist’s office, late-night messages to an extramarital partner.” [7] In the future, superpowers will be made or broken based on the strength of their cryptanalytic programs. It is the price of admission for the U.S. to maintain unrestricted access to and use of cyberspace. [8] In late 2013, the New York Times reported that, when it came to spying on global elites, there were “more than 1,000 targets of American and British surveillance in recent years,” reaching down to mid-level political actors in the international arena. [9] Revelations from Edward Snowden’s cache of leaked documents indicate that the NSA has monitored leaders in some 35 nations worldwide — including Brazilian president Dilma Rousseff, Mexican presidents Felipe Calderón and Enrique Peña Nieto, German Chancellor Angela Merkel, and Indonesia’s president Susilo Bambang Yudhoyono. Count in as well, among so many other operations, the monitoring of “French diplomatic interests” during the June 2010 U.N. vote on Iran sanctions and “widespread surveillance” of world leaders during the Group 20 summit meeting at Ottawa in June 2010. Apparently, only members of the historic “Five Eyes” signals-intelligence alliance (Australia, Canada, New Zealand, and Great Britain) remain exempt — at least theoretically — from NSA surveillance. [10]” [Their] vulnerabilities, if exposed, would likely call into question a radicalizer’s devotion to the jihadist cause, leading to the degradation or loss of his authority.” The agency suggested that such vulnerabilities could include “viewing sexually explicit material online” or “using a portion of the donations they are receiving… to defray personal expenses.” The NSA document identified one potential target as a “respected academic” whose “vulnerabilities” are “online promiscuity.” [11] The NSA’s operation is eerily similar to the FBI’s operations under J. Edgar Hoover in the 1960s where the bureau used wiretapping to discover vulnerabilities, such as sexual activity, to neutralize their targets. [12]…a president might “ask the NSA to use the fruits of surveillance to discredit a political opponent, journalist, or human rights activist. The NSA has used its power that way in the past and it would be naïve to think it couldn’t use its power that way in the future.” [13] …n light of the lessons of our own history… at some point in the future, high-level government officials will decide that this massive database of extraordinarily sensitive private information is there for the plucking. [14] They even keep track of who is having an affair or looking at pornography, in case they need to damage their target’s reputation.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:56:17 GMT 9
CHỐT Á CHÂU-THÁI BÌNH DƯƠNG hay DIỆN MẠO MỚI CỦA ĐẾ QUỐCVào dịp cập nhật tương lai cuốn Từ Điển Quỷ Quyệt (The Devil’s Dictionary) của tác giả Hoa Kỳ, Ambrose Gwinnett Bierce (1842-1914), chuyên mổ xẻ các đạo đức giả ngôn ngữ học (linguistic hypocrisies) trong đời sống hiện đại, một từ duy nhất sẽ đi kèm cụm từ mới “Chốt Thái Bình Dương”: triệt thoái (retreat). Thực tế nầy có thể biểu hiện phương cách định tính kỳ lạ: một nỗ lực hăng say tái định hướng chính sách quân sự và đối ngoại của chính quyền Obama đối với Á Châu. Xét cho cùng, đội ngũ của Obama đã nhấn mạnh: chốt Thái Bình Dương là một tái khẳng định hùng mạnh quyền lực của Hoa Kỳ trong một khu vực chiến lược trên thế giới, và một tái xác quyết được cân nhắc cẩn trọng đối với các đồng minh của Hoa Kỳ trong chiến lược chống Trung Quốc. Thực vậy, đôi khi “chốt Thái Bình Dương” hình như không hẳn là một vạn ứng linh đơn đối với các căn bệnh trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Phải chăng nguyên nhân chính là thái độ bối rối trước các tai họa ở Iraq và Afghanistan? Hay vì âu lo các đối thủ đang tan biến và Ngũ Giác Đài đã đánh mất lý do để hiện hữu? Như vậy, liệu có nên theo gót Trung Quốc, siêu cường tương lai duy nhất đang lên? Và nếu mọi người đang âu lo về tình hình kinh tế Hoa Kỳ hiện nay, lúc đó Tổ Chức Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership hay TPP), một thỏa ước mậu dịch tự do cấp vùng Hoa Kỳ đang thương thảo, có thể là liều thuốc tăng cường các đại công ty Hoa Kỳ đang thèm muốn. Tuy nhiên, trong thực tế, “tái cân bằng chiến lược” đã được chính quyền Obama xúc tiến như một đông thái điều chỉnh chính sách đối ngoại giữa nhiệm kỳ vẫn chỉ mạnh mẽ trong ngôn từ và khá yếu ớt trong thực chất. Xét cho cùng, trong kỷ nguyên thắt lưng buộc bụng và công luận quốc nội đang chống đối, Hoa Thịnh Đốn có thể gặp nhiều khó khăn di chuyển một số tài nguyên phụ trội đáng kể đến Á Châu. Ngay cả thỏa ước TPP cũng là chỉ là một xác nhận khá nhiều quyền lực kinh tế trong khu vực đã nằm trong tay Trung Quốc. Ngoài ra, thiết tưởng cũng cần lưu ý đến một giai đoạn lịch sử dài lâu hơn. Tiến trình triệt thoái của Hoa Kỳ khỏi Á Châu đã tiếp diễn từ thập kỷ 1970, mặc dù động thái rút về hậu phương — theo thuật ngữ quân sự nỗi tiếng “strategic movement to the rear — đã không diễn ra nhanh chóng hay đã không được đi kèm bởi cụm từ “sứ mệnh hoàn tất” (mission accomplished). “Chốt,” một từ được chính quyền quảng bá ồn ào, lúc một tỏ ra như một lỗ hổng chênh vênh ngay từ nền móng.LỰC LƯỢNG HOA KỲ Ở HẢI NGOẠI ĐANG DẦN DÀ GIẢM THIỂU Trong thời Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã lâm chiến và đổ máu ở Á Châu nhiều hơn ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Từ 1950 đến 1953, nhân danh Liên Hợp Quốc, quân lực Hoa Kỳ đã chiến đấu giành quyền kiểm soát trên bán đảo Triều Tiên, để rồi đã phải chấm dứt cuộc chiến với một thỏa ước ngưng bắn và một bế tắc hầu như với cùng một lằn ranh chia cắt như trước khi bắt đầu. Vào một thời điểm, khi cuộc chiến Việt Nam lan rộng trong các thập kỷ 1960 và 1970, số quân Hoa Kỳ ở Á Châu đã lên trên 800.000. Tuy nhiên, kể từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Hoa Thịnh Đốn đã dần dà, tuy rất chậm chạp, triệt thoái từng đợt khỏi Á Châu. Số quân Mỹ trong vùng cho đến nay đã sụt xuống dưới mức 100.000. Con số nầy đã được ghi nhận trong suốt hai nhiệm kỳ của George W. Bush khi lực lượng quân sự Mỹ đang bị sa lầy ở Iraq và Afghanistan, và nhiều nhà bình luận đã bắt đầu buộc tội chính quyền George W. Bush đã đánh mất Á Châu vào tay một Trung Quốc đang lên. Nhìn vào những con số trên đây, người ta khó lòng để không kết luận: trọng tâm chiến lược của Hoa Thịnh Đốn đã dịch chuyển dần ra khỏi vùng Thái Bình Dương. Hãy nhìn kỷ Triều Tiên. Hòa bình vẫn chưa đổ vỡ trên bán đảo nầy. Trong thực tế, vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên và sự canh tân quân sự sâu rộng của Nam Hàn cũng chỉ có tác dụng làm gia tăng tình trạng căng thẳng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã nhiều lần giảm thiểu, cả về kích cỡ lẫn ý nghĩa, lực lượng quân sự của mình ở Nam Hàn trong một diễn trình thường ngắt quãng. Trong vòng 45 năm vừa qua, Hoa Thịnh Đốn đã ba lần đơn phương rút bớt quân khỏi bán đảo — mặc dù cả ba lần đều không được sự đồng tình của chính quyền Nam Hàn. Quân số Mỹ đã lên tới gần 70.000 vào đầu thập kỷ 1970 khi chính quyền Nixon lần đầu tiên triệt thoái trọn một sư đoàn 20.000 quân nhân. Về sau, chính quyền Carter, khởi sự cũng muốn triệt thoái toàn bộ lực lượng quân sự Mỹ, nhưng rút cuộc cũng đã phải bằng lòng với quyết định rút bớt một số quân nhỏ bé hơn. Năm 1991, với sự tan rã của Liên Bang Xô Viết, chính quyền George H.W. Bush cũng đã đơn phương rút các vũ khí nguyên tử chiến thuật khỏi bán đảo. Trong thế kỷ XXI, dấu chân các lực lượng quân sự Mỹ ở Nam Hàn một lần nữa đã giảm thiểu từ 37.000 xuống còn 28.500 hiện nay, lần nầy có sự đồng thuận giữa Hoa Thịnh Đốn và Seoul. Mới đây, Hoa Kỳ đã gửi thêm 800 binh sĩ đến Nam Hàn như tín hiệu cảnh cáo của Mỹ trước thái độ hung hăng của Bắc Triều Tiên, nhưng cũng phải luân chuyển 9 tháng một lần. Ngoài ra, số quân Hoa Kỳ đồn trú gần vùng phi quân sự giữa Nam và Bắc Hàn từ lâu đã mang ý nghĩa một cam kết: Mỹ sẽ can thiệp trong bất cứ một xung đột nào xẩy ra giữa hai chính quyền Nam và Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, Ngũ Giác Đài gần đây đã ám chỉ sẽ để lại phía sau một số quân. Cả hai xứ vẫn còn đang thương thảo việc chuyển giao, sáu thập kỷ sau cuộc chiến, trách nhiệm “kiểm soát hành quân thời chiến” (wartime operational control), một việc lẽ ra đã phải thực hiện từ lâu. Sự giảm bớt quân lực thường khi đi kèm với quyết định đóng cửa và củng cố các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ, kể cả số quân khá lớn đồn trú ngay giữa thủ đô Seoul của Nam Hàn. Nhiêm vụ kiểm soát hành quân thời chiến sẽ được hoàn toàn trao lại cho người Triều Tiên trong ít năm sắp tới. Dù sao, “dấu chân” quân lực Mỹ đang ngày một thu gọn không chỉ ở Triều Tiên. Một quá trình tái phối trí âm thầm hơn đã giảm thiểu quân số Mỹ trên bộ ngay cả ở Nhật, từ khoảng 46.000 trong năm 1990 xuống còn 38.000 hiện nay. Và những thay đổi lớn hơn cũng đang được cứu xét. Vào năm 2000, nhân một cuộc viếng thăm Okinawa, một hải đảo cực Nam Nhật Bản, Tổng Thống Bill Clinton đã hứa hẹn sẽ rút bớt quân Mỹ trên hải đảo. Vào thời điểm đó, dân chúng Okinawa rất giận dữ về một loạt sát hại và hãm hiếp, cũng như nhiều tai nạn, liên quan đến quân nhân Hoa Kỳ gây thương vong và đe dọa sức khỏe của quần chúng Okinawa với đủ thứ ô nhiễm, do sự hiện diện của hơn 30 căn cứ quân sự của Mỹ. Kể từ đó, Hoa Thịnh Đốn đã theo đuổi một kế hoạch đóng cửa căn cứ Không Lực-Thủy Quân Lục Chiến lâu đời Futenma Marine Air Force Base — một cơ sở tọa lạc một cách nguy hiểm ngay giữa lòng một thành phố hiện đại — và xây dựng một căn cứ thay thế ở một nơi khác trên hải đảo. Kế hoạch đó cũng đòi hỏi tái phân phối 9.000 lính thủy đánh bộ trong vùng Thái Bình Dương. Nếu kế hoạch được thực thi, lực lượng quân sự Mỹ ở Nhật sẽ giảm bớt khoảng 25%. Tại những nơi khác thuộc Á Châu, dưới áp lực chống đối của dân địa phương, Hoa Kỳ đã phải đóng cửa hai căn cứ quân sự ở Philippines trong năm 1991, rút bớt gần 15.000 quân khỏi xứ nầy và thay thế các căn cứ thường trực bằng một “thỏa ước thăm viếng bởi các lực lượng quân sự khiêm tốn hơn,”– a more modest visiting forces agreement. Trong những năm gần đây, Hoa Thịnh Đốn cũng đã “thương thảo các thỏa ước hợp tác”với nhiều xứ khác trong khu vực, kể cả cựu thù Việt Nam, tuy vậy, vẫn chưa xây cất bất cứ căn cứ mới quan trọng nào. Ngoài những lực lượng ở Nhật, Nam Hàn, và trên các tàu chiến và tiềm thủy đỉnh, sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong phần còn lại của khu vực Á Châu-Thái Bình Dương đều không đáng kể. Đã hẳn, một sự giảm bớt về nhân số và đóng cửa một số căn cứ không nhất thiết phải là những dấu hiệu triệt thoái. Xét cho cùng, Ngũ Giác Đài đã chú tâm chuyển tiếp đến một tư thế tác chiến mềm dẻo hơn, xem nhẹ những căn cứ cố định và thay thế bằng các đơn vị đáp ứng nhanh và nhẹ nhàng hơn. Trong khi đó, sự canh tân và hiện đại hóa quân lực Hoa Kỳ đã có nghĩa hỏa lực đã gia tăng ngay cả khi dấu chân của quân lực ở Á Châu-Thái Bình Dương đã giảm bớt. Ngoài ra, Hoa Kỳ đã đặt nặng việc sử dụng các Lực Lượng Hành Quân Đặc Biệt như một phần của chiến lược chống khủng bố trong những xứ như Philippines, Thailand, và Indonesia, trong khi đẩy mạnh một vài lớp tường tên lửa tự vệ tầm xa trong khu vực. Tất cả các chính sách đó đã đi trước chốt Á Châu-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, xu hướng mới kể từ thập kỷ 1970 đang ngày một rõ nét. Ngay cả khi khả năng đã được nâng cấp, lực lượng quân sự Hoa Kỳ cũng đã từ từ chuyển sang phòng tuyến ngoại vi Á Châu, với các căn cứ Guam và Hawaii ngày một quan trọng trong khi các căn cứ ở Triều Tiên và Nhật Bản đang âm thầm xuống cấp. Trong khi từ bỏ một phần phạm vi ảnh hưởng, Hoa Thịnh Đốn cũng đang gia tăng sức ép đối với các đồng minh, buộc họ phải gánh chịu một phần kinh phí hỗ trợ các lưc lượng Hoa Kỳ hiện diện trên lãnh thổ ngày một lớn hơn, tạo mãi các hệ thống vũ khí từ Hoa Kỳ ngày một tốn kém, và nâng cấp hay tăng cường quân lực của chính mình. Cũng như trước đây người Mỹ đã từng tìm cách Việt-Nam-hóa và Iraq-hóa hai cuộc chiến trong cùng lúc chính người Mỹ đang triệt thoái đội quân viễn chinh, Hoa Kỳ ngày nay cũng đã dần dà xúc tiến chính sách Á-Châu-hóa Thái Bình Dương. CHỐT HỮU DANH VÔ THỰC Chốt Á Châu đã được quảng bá như phương cách chận đứng xu hướng đang trôi dạt bất định và củng cố địa vị của Hoa Kỳ như tay chơi Á Châu. Tuy nhiên, cho đến nay, tái cân bằng, tuy được cổ súy ồn ào, trong thực tế, chính yếu cũng chỉ là một trò chơi rỗng ruột, một shell game, một hình thức hoán chuyển các lực lượng Hoa Kỳ ngay bên trong Á Châu. Trò chơi nầy đã hoán vị 18.000 lính thủy đánh bộ tại căn cứ Futenma. Trên hơn 15 năm qua, Hoa Thịnh Đốn và Tokyo đã không thể đạt được một thỏa ước đóng cửa căn cứ Futenma đã xuống cấp và thiết kế một căn cứ thay thế. Đại đa số cử tri Okinawa vẫn bác bỏ kế hoạch xây một căn cứ mới, một căn cứ gây tai họa môi sinh trên hải đảo. Ngoài ra, Okinawa cũng đã là nơi đồn trú của hơn 70% các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Nhật Bản, và cư dân trên hải đảo cũng đã chán ngán các tai ương các quân nhân Mỹ đã gây ra cho các cộng đồng sở tại. Không sớm thì muộn, khoảng 5.000 lính thủy đánh bộ sẽ được chuyển đến một căn cứ nới rộng trên đảo Guam, một dự án khổng lồ do chính quyền Nhật Bản tài trợ. 2.700 thủy quân lục chiến khác sẽ được tái bố trí đến Hawaii. Và khoảng 2.500 thủy quân lục chiến khác sẽ được luân chuyển qua căn cứ Không Quân Hoàng Gia Úc ở Darwin. Từ 8.000 đến 10.000 thủy quân lục chiến sẽ tiếp tục đồn trú ở Okinawa — hay, ít ra, Hoa Thịnh Đốn và Tokyo có thể muốn như thế. Và điều nầy còn lệ thuộc ở vòng đàm phán mới nhất đang diễn tiến. Vào cuối tháng 12-2013, Thống Đốc Okinawa, Hirokazu Nakaima, đã thay đổi lập trường và không còn chống đối việc thiết kế một căn cứ mới, một phần với ngân khoản 300 tỉ yen mỗi năm Tokyo đã hứa bơm vào kinh tế Okinawa trong 8 năm sắp tới. Tuy vậy, thỏa ước nầy vẫn chưa hoàn toàn ngã ngũ. Trong cuộc bầu cử trong tháng giêng 2014 trong thành phố Nago, đơn vị có thẩm quyền đối với Henoko, địa điểm của căn cứ mới sẽ được xây dựng, Thị Trưởng Susumu Inamine đã thắng cử nhiệm kỳ hai sau khi cam kết tiếp tục chống đối dự án xây dựng liên hệ. Số cử tri đi bầu khá cao, cũng như biên độ tái đắc cử của Inamine — mặc dù đảng cầm quyền bảo thủ hứa sẽ cung cấp 50 tỉ yen cho Nago nếu cử tri từ chối hậu thuẩn thị trưởng đương nhiệm. Cùng lúc, các nhóm công dân khác cũng đang tiếp tục tìm cách chận đứng dự án trước tòa. Ngoài việc hoán chuyển thủy quân lục chiến trong vùng Thái Bình Dương, chốt Á Châu còn có thể làm được gì khác? Cũng chẳng bao nhiêu! Bốn tàu chiến cận duyên đang được gửi đến Singapore để tăng cường lực lượng tuần duyên trong khu vực. Bắt đầu với một cử chỉ nhỏ: chiếc tàu thực nghiệm, với phí tổn sản xuất vượt quá ngân sách dự trù khá nghiêm trọng, cũng đã là một thất bại. Chiếc thứ nhất, đến được Singapore, cũng đã phải trở về cảng xuất phát chỉ sau 8 giờ hạ thủy — vấn đề mới nhất trong chuổi các vấn đề đang khiến Quốc Hội phải tái xét số phận của chương trình. Ngũ Giác Đài cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của một tái điều chỉnh hoạch định thế cân bằng các hạm đội Hoa Kỳ trên toàn cầu. Hiện nay, tỉ số bố trí các tàu chiến trong Thái Bình Dương và bên ngoài Thái Bình Dương là 50-50. Trong những năm sắp đến, tỉ số nầy có thể thay đổi thành 60-40, có lợi cho Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tỉ số tự nó sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu tổng số các hạm đội sụt giảm. Hải Quân mới đây đã đệ trình kế hoạch gia tăng kích cỡ hạm đội từ 285 hiện nay lên 306 trong vòng 30 năm sắp tới. Nhưng kế hoạch hiện đang cơ sở trên những phân phối ngân sách tương lai tưởng tượng: 1/3 cao hơn những phân phối Hải Quân đã nhận được trong các thập kỷ gần đây. Một kịch bản thực tế hơn, trong kỷ nguyên thắt lưng buộc bụng, là một sụt giảm kích cỡ hạm đội xuống mức 250 tàu chiến hay ít hơn, khi số tàu chiến giải nhiệm (decommisioned) cao hơn con số tàu chiến mới gia nhập hạm đội (commissioned) hàng năm. Trong địa hạt không lực, tình trạng cũng không mấy khác. Chốt cũng lúc một bị giới hạn nhiều hơn, so với những gì Hoa Kỳ đang triển khai trong khu vực. Như Michael Auslin thuộc American Enterprise Institute đã xác nhận trước Quốc Hội trong mùa hè vừa qua, “Không Lực Hoa Kỳ đã hoán chuyển các F-22, B-52, và B-2 trong khắp vùng , nhất là ở Guam và Okinawa, và đang có thêm rất ít phi cơ để có thể gửi đi [Á Châu-Thái Bình Dương] một cách đều đặn.”[1] Thực vậy, Hoa Thịnh Đốn đang thúc đẩy sản xuất các chiến đấu cơ phản lực F-35 — Nhât Bản đã hứa mua 28 đơn vị — nhưng không may cho các đồng minh của Hoa Kỳ. Theo phúc trình của tổng thanh tra Ngũ Giác Đài, loại phi cơ nầy, như hệ thống vũ khí tốn kém nhất trong lịch sử, hiện đang phải đối đầu với 719 vấn đề kỹ thuật. Đó quả thật là quá nhiều vấn đề đối với một hệ thống vũ khí với giá 200 triệu một đơn vị (gần 300 triệu đối với vài hệ thống F-35). Trọng tâm tương lai của Ngũ Giác Đài ở Á Châu là Không-và-Hải Chiến, một kế hoạch hội nhập liên quân Không và Hải Lực đặc nhiệm, ra đời trong năm 2010, nhằm mục tiêu ngăn cản các quốc gia thù nghịch tiếp cận hải và không phận trong khu vực. Bộ Binh, do cảm nhận bị bỏ quên, cũng đã đưa ra sáng kiến “Pacific Pathways initiative”, nhằm biến cải một lực lượng phần lớn đặt căn cứ trên đất liền thành một lực lượng viễn chinh hàng hải, có khả năng cạnh tranh với Lính Thủy Đánh Bộ. Tuy nhiên, các đồng minh của Hoa Thịnh Đốn trong vùng Thái Bình Dương cũng không nên đặt nhiều hy vọng ở các kế hoạch nầy. Chương trình trong thực tế chỉ là một nổ lực chặn đứng nạn hao mòn nhân lực trong bộ binh, ước tính khoảng 10% trong vòng vài năm tới — với tín hiệu thu gọn nhiều hơn nữa trong một tương lai gần. Như nhà khoa học chính trị Andrew Bacevich viết, “Các Tuyến Hàng Hải Thái Bình Dương chỉ mơ tưởng một lực lượng tương đối nhỏ sẽ lui tới vùng Viễn Đông, lâm thời khi có biến động, hoặc do thiên tai, hoặc nhân tạo, Bộ Binh sẽ không bị bỏ quên.”[2] Trong khi chốt Á Châu có thể không mấy quan trọng, vẫn có một điều khá chắc chắn: Chốt sẽ rất tốn kém, ngay cả khi đã có sẵn phần đóng góp của các đồng minh. Chẳng hạn, dự án mở rộng căn cứ Guam hiện được ước tính tốn khoảng 8,6 tỉ USD hay nhiều hơn nữa, với chỉ 3 tỉ do Tokyo đóng góp. Theo ước tính của Ngũ Giác Đài, tổng phí tổn di dời Thủy Quân Lục Chiến đã có thể lên đến 12 tỉ. Và theo ước tính của Sở Government Accountability Office, ngay cả con số nầy vẫn còn quá thấp. Riêng phí tổn di dời đến Guam cũng đã gấp đôi. Do đó, không có gì đáng ngac nhiên khi Thượng Viện — trong tinh thần một thỏa ước lưỡng đảng bất bình thường — đã chỉ trích con số chi phí ước tính là quá thấp. Sự thật đơn giản là Ngũ Giác Đài không còn có đủ tài nguyên như trong nhiều thập kỷ vừa qua để vung vãi. Chỉ riêng phí tổn di dời các lực lượng trong phạm vi Thái Bình Dương cũng đã quá tốn kém, phí tổn khổng lồ của các triển khai mới, quan trọng hơn, thật sự sẽ rất khó lòng được Quốc Hội thông qua. Và đó là chưa kể cử tri trong các quốc gia đồng minh — Nhật, Nam Hàn, và Úc — cũng sẽ chống đối các sắc thuế cần thiết khi chính họ phải bắt đầu thanh toán phần đóng góp của chính mình. TẠI SAO Á CHÂU? TẠI SAO BÂY GIỜ? Ngay cả khi chốt Thái Bình Dương là hỏa mù hơn là hỏa lực, Hoa Kỳ cũng không phải chỉ là một cọp giấy ở Á Châu. Siêu cường duy nhất, dù đang trải nghiệm quá trình tuột dốc, vẫn luôn là tay chơi quân sự hùng mạnh nhất trong khu vực. Với tàu sân bay, diệt lôi hạm, chiến đấu cơ phản lực, và tàu ngầm nguyên tử, tất cả đều có nghĩa Hoa Kỳ luôn có thể chứng tỏ uy lực của mình khi cần. Nhưng yếu tố nhận thức cũng rất quan trọng trong địa chính trị, và hiện nay Trung Quốc đang giữ ưu thế trong trò chơi nhận thức. Bắc Kinh rất giàu tiền bạc và đã sử dụng số ngoại tệ thặng dư lớn lao để gạ gẫm các xứ trong khu vực, ngay cả khi cùng lúc đã phung phí một phần thiện cảm của các quốc gia láng giềng qua các yêu sách lãnh thổ và hành động quân sự. Tuy vậy, trong năm 2010, Trung Quốc cũng đã hợp tác với các lân bang Đông Nam Á thiết lập một khu mậu dịch tự do đủ lớn để cạnh tranh hữu hiệu với Âu Châu và Bắc Mỹ. Mặc dù Trung Quốc vẫn chưa đủ khả năng phóng chiếu quyền lực của mình, và còn kém xa Hoa Kỳ trong một tương lai có thể tiên liệu, chi tiêu quân sự trên 10% trong suốt thập kỷ vừa qua cũng đã giúp thu hẹp khoảng cách với Nhật và Hàn Quốc. Tình hình căng thẳng trong vùng đã gia tăng, hậu quả của các tranh chấp về các hải đảo giữa Nhật và Trung Quốc, chung quanh vùng Biển Hoa Nam giàu tiềm năng dầu lửa, và cả trong không phận sau khi Trung Quốc đơn phương thiết lập “khu vực nhận dạng phòng không”[3] của chính mình trong tháng 11, bao gồm cả các hải đảo đang trong vòng tranh chấp Senkaku/Diaoyu. Hành động “khẳng định quyền lực” của Trung Quốc vẫn là yếu tố duy nhất có thể biến chốt Thái Bình Dương thành một nguy cơ thực tế. Nhiều quốc gia — như Việt Nam hay Philippines — trước đây đã từng có thái độ thiếu rõ ràng đối với sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ, giờ đây đang sẵn sàng trải thảm nghênh đón các lực lượng quân sự Mỹ. Nhật Bản hiện đang lấy cớ đe dọa của Trung Quốc để làm ngơ hiến pháp hòa bình và gia tăng hợp tác với Ngũ Giác Đài. Và Hoa Kỳ cũng đang tỏ ra hăng hái xây đắp các quan hệ song phương — từ Ấn Độ đến Úc Đại Lợi đến Triều Tiên — thành một bờ đê ngăn chặn đà trỗi dậy của Trung Quốc. Ngay cả khi chẳng có mấy chất lượng, chốt Thái Bình Dương cho đến nay vẫn lúc một mang tính hiện thực bởi lẽ nhiều tay chơi rời rạc đang tìm thấy tính hữu ích của niềm tin. Đối với Trung Quốc, thực tế nầy đang đem lại một lý do tiện lợi để tậu mãi các hệ thống vũ khí hiện đại nhằm từ chối quyền kiểm soát không và hải phận của Mỹ. Đối với các đồng minh của Mỹ, chốt Thái Bình Dương đang đem lại một hợp đồng bảo hiểm đòi hỏi họ phải trả bảo phí dưới hình thức tăng cường quân lực của chính mình. Ở Hoa Kỳ, các thành phần diều hâu đang hoan hỉ với quyết định trở lại Á Châu như một Rambo, trong lúc các thành phần bồ câu than phiền chủ nghĩa võ biền cố hữu trong các chính sách mới. Ngũ Giác Đài đang có thêm cơ hội lựa chọn căn cứ mới; các đại công ty sản xuất vũ khí có nhiều cơ may tìm được các hợp đồng với lợi nhuận kếch sù; nhiều đại công ty khác cũng thấy viễn tượng có nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường hải ngoại qua trung gian của thỏa ước TPP. NGUY CƠ TIỀM ẨN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA GIỚI LÃNH ĐẠO CÁC NƯỚC LỚN Tuy nhiên, một thực tế quan trọng ở Á Châu cũng cần được lưu ý khi thẩm định chốt Á Châu của một Hoa Thịnh Đốn đang quan tâm ngày một nhiều hơn đến các mối lợi thiển cận trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương. Kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ chưa bao giờ có thể áp đặt ý muốn của mình lên khu vực. Hoa Kỳ đã lâm vào thế bế tắc trong cuộc chiến Triều Tiên, đã phải chấp nhận thất bại trong cuộc chiến Việt Nam, cũng như đã không thể ngăn ngừa Bắc Triều Tiên thủ đắc vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ cũng không thể ngăn ngừa hai đồng minh Nhật Bản và Nam Hàn tranh giành các hải đảo nhỏ bé giữa hai quốc gia. Và quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc — một hổ thuộc cơ sở trên sản xuất thái quá và tiêu thụ thái quá — là cái thắng kiềm hãm chủ nghĩa đơn phương và biệt lệ của Hoa Kỳ trong khu vực. Trong kỷ nguyên kiệm ước kinh tế và phối hợp chính sách với Trung Quốc, chốt Á Châu-Thái Bình Dương không mấy khác một vũ điệu phức tạp trong đó Hoa Kỳ đã bị buộc phải chấp nhận nhiều bước lùi trong khi vẫn thúc đẩy các đồng minh của mình phải tiến bước. Tình hình có thể xem như lối xử sự “khôn vặt”, nhỏ nhen trong phương cách san sẻ gánh nặng an ninh, nhưng tái cân bằng vẫn rất tốn kém và đầy tai ương… Và Á-Châu-hóa Thái Bình Dương qua xuất khẩu vũ khí và các thỏa ước thăm viếng, trao đổi, và thao diễn quân sự … cũng không mấy khác đổ dầu vào lửa trong cuộc chạy đua võ trang quan trọng nhất trong thế giới ngày nay. Tàu sân bay cồng kềnh, kệch cởm, ì ạch, được biết như Hiệp Chủng Quốc, lẽ ra đã phải thực thi một chốt xứng đáng với tên gọi: một chuyển dịch từ chủ trương chiến tranh triền miên qua tinh thần yêu chuộng hòa bình. Thay vào đó, Hoa Kỳ chỉ gây xáo động mặt nước và để lại phía sau nhiều bất ổn định. Trong bối cảnh đó, Thủ Tướng bảo thủ Nhật, Shinzo Abe, một lãnh tụ sốt sắng biến quân lực Nhật thành một lực lượng ngày một ít mang tính tự vệ, rõ ràng đã vi phạm hiến pháp hòa bình của xứ sở, và hy vọng vào một ngày đẹp trời sẽ chấm dứt dị ứng nguyên tử của người Nhật khi chương trình tái võ trang tương lai bắt đầu. Trong lúc chờ đợi, căng thẳng ngày một gia tăng với lập trường lúc một mang tính khẳng định của Trung Quốc, và với Abe có biệt tài kích động trong phương cách sử dụng lịch sử để thể hiện nghị trình đối nội và gia tăng tình hình căng thẳng trong khu vực. Trong tháng 12-2013, để kỷ niệm ngày tròn năm đầu trong nhiệm kỳ, Abe đã dành 30 phút đến viếng thăm đền thờ nạn nhân chiến tranh nổi tiếng Yasukuni Shrine, nơi chôn cất 14 tội phạm chiến tranh trong Đệ Nhị Thế Chiến. Cả Trung Quốc lẫn Triều Tiên, từng trải nghiệm cách đối xử bạo tàn bởi quân đội Nhật trong Đệ Nhị Thế Chiến, đã lấy làm kinh ngạc và giận dữ, mặc dù Abe, đã cố tình khởi động và đã cãi chính cuộc viếng thăm chẳng hề có ý định tôn vinh các tội phạm chiến tranh. Tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới Davos trong tuần lễ cuối tháng 1-2014, thủ tướng Nhật lại sử dụng lịch sử các cuộc chiến toàn cầu tai họa để nhấn mạnh đề tài một lần nữa. Đúng vào năm kỷ niệm Đệ Nhất Thế Chiến thứ 100, trong một dịp tiếp xúc với báo chí, thủ tướng Nhật đã so sánh quan hệ giữa Nhật và Trung Quốc hiện nay không mấy khác quan hệ giữa Đức và Anh Quốc trước Đệ Nhất Thế Chiến. Có nghĩa, Abe đã so sánh tình hình Á Châu hiện nay với thời kỳ khi hai đế quốc hùng mạnh nhất (tương tự quan hệ kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay) đã lâm chiến và đã biến Âu Châu thành một lò sát sanh khổng lồ. Được hỏi: Với sự tương đồng theo nhận thức của ông, phải chăng thủ tướng có thể sẽ tìm cách giảm thiểu tình hình căng thẳng hiện nay với Trung Quốc? Thủ Tướng Abe rõ ràng đã cho biết là không — chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục vun đắp lực lượng quân sự. Chánh Văn Phòng Phủ Thủ Tướng đã vội vàng nhấn mạnh: Thủ tướng không tiên đoán một cuộc chiến mới. Trước tinh thần quốc gia và chống Nhật ở Trung Quốc, với cuộc thi đua võ trang ngày một gay gắt, và với các yêu sách lãnh hải gần những khu vực giàu năng lượng mang tính gây hấn của Trung Quốc, đây đúng là thời điểm cần phải tìm cách làm lắng dịu tình hình, thay vì thái độ chẳng mấy ôn hòa của thủ tướng Nhật! Tuy nhiên, mới đây chính quyền Obama cũng đã hoan hỉ trước quyết định của thủ tướng Abe đầu tư nhiều hơn vào các loại vũ khí tân tiến dành cho quân đội. Trong một thế giới với tình hình ngày một căng thẳng, trong những năm gần đây, Hoa Thịnh Đốn đã ồn ào quảng bá “chốt” hay “tái cân bằng” Á Châu-Thái Bình Dương. Sự nhấn mạnh của chính quyền Obama rõ ràng đã làm gia tăng căng thẳng trong khu vực qua các động thái tổ chức một vòng đai liên minh các quốc gia chống một Trung Quốc đang lên, và đã “khởi động những âu lo bị ‘bao vây’ hay ‘đắp bờ’ trước đây của Trung Quốc trong kỷ nguyên Chiến Tranh Lạnh.” Như đã phân tách trên đây, “chốt” của Obama đang chứng tỏ mang nặng các ngôn từ cường điệu nhưng trống rỗng về thực chất — sức mạnh quân sự mới. Những ai quan tâm đến Đệ Nhất Thế Chiến chắc hẳn còn nhớ ngôn từ cường điệu, phối hợp với những tai biến nhỏ và bất ngờ, có thể có đủ lực tác động làm gia tăng căng thẳng đến mức vỡ bờ. Đã hẵn, thế kỷ XXI không phải là các năm 1914 hay 1941, mặc dù rất có thể không mấy ai đủ quan tâm trước tư duy lỗi thời bên sau chốt Á Châu-Thái Bình Dương của Hoa Thịnh Đốn, sự tăng cường và hiện đai hóa quân sự của Nhật, và các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trên hành tinh hiện nay, “con đường tư bản” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, được cân bằng một cách mong manh bởi phép lạ kinh tế đang chậm dần, rất có thể sớm đưa Trung Quốc lên địa vị áp đảo như siêu cường tương lai, là một thực tai không ai được quyền xem thường. Trong thực tế, Hoa Thịnh Đốn cũng nên đặt câu hỏi liệu trên “hành tinh đang trong tình trạng môi trường suy sụp và phản tác dụng phôi thai”, sự trỗi dậy của một đế quốc mới là “một-có-thể”. Trong giao thời, chốt Á Châu của Hoa Thịnh Đốn đang nhắc nhở chúng ta các đầu óc lãnh đạo trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương cũng rất có thể vẫn còn lưu luyến với kỷ nguyên tiền-Đệ-Nhất-Thế-Chiến. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 07-02-2014 ——————————————————————————– [1] As the American Enterprise Institute’s Michael Auslin testified before Congress this past summer, “The U.S. Air Force already rotates F-22s, B-52s, and B-2s throughout the region, primarily in Guam and Okinawa, and there are few more planes that can be sent on a regular basis.” [2] …Andrew Bacevich writes, “Pacific Pathways envisions relatively small elements milling about the Far East so that whatever happens, whether act of God or act of evil-doers, the service won’t be left out.” [3] …air defense identification zone… nguyentruong92606.wordpress.com/2014/02/07/chot-a-chau-thai-binh-duong-hay-dien-mao-moi-cua-de-quoc/
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:58:10 GMT 9
SIÊU CƯỜNG DUY NHẤT, HÀNH TINH DUY NHẤT, VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI
Liên Bang Xô Viết trãi dài từ Caspian đến Biển Baltic, từ Trung Âu đến Kurile Islands trong Thái Bình Dương, từ Siberia đến Trung Á, có kho vũ khí hạt nhân với trên 45.000 đầu đạn nguyên tử, và một quân đội đến 5 triệu quân nhân. Chưa hề có một quốc gia nào với kích cỡ tương đương trên khắp hai lục địa Âu-Á kể từ thời Quân Mông Cổ chiếm đóng Trung Quốc, thôn tính nhiều khu vực Trung Á và cao nguyên Iran, và tiến tới Trung Đông trấn lột thủ đô Baghdad. Tuy vậy, khi sụp đổ vào tháng 12-1991, Liên Xô cũng chỉ là một đế quốc nghèo nàn đang rệu rã. Và lúc đó cũng đang có sự hiện diện của một đế quốc khác. Chưa bao giờ thế giới chứng kiến một thời khắc tương tự: một quốc gia duy nhất trên toàn cầu với không bóng dáng một đại cường cạnh tranh, và cũng không có ngay cả một tên gọi cho một một nhà nước như thế. Từ “Siêu cường”(Superpower) đã được sử dụng khi có hai siêu cường. Hyperpower đã được dùng thử nhưng không sống sót. Siêu cường duy nhất (Sole superpower) thay thế trong một thời gian nhưng đã không thỏa mãn được nhiều người. Đại Cường (Great Power), có lúc là từ tột đỉnh thông dụng, nhưng vào lúc đó cũng chỉ còn là một từ quá khiêm tốn, rơi rớt lại sau nhiều thế kỷ khi các xứ Âu Châu và Nhật đang bành trướng đế quốc. Và một số người đã bắt đầu nhắc đến từ ” thế giới đơn cực” (unipolar world) trong đó mọi nẻo đường đều hướng về Hoa Thịnh Đốn. Cho đến ngày nầy, chúng ta vẫn còn ngỡ ngàng trước thời khắc khi đế quốc Xô Viết thối rữa một cách bất thần và đã trở thành đế quốc lâm-nạn-và-bốc-cháy. Thượng tồn đơn côi, quốc gia chiến thắng trong Chiến Tranh Lạnh, lúc đó, đã đương nhiên trở thành đế quốc duy nhất dưới ánh sáng mặt trời. Không mấy khác nhân loại đã luôn hướng tới chung cuộc nầy — điểm tận cùng của lịch sử, hay “the end of history.” ĐẾ QUỐC CUỐI CÙNG? Sau một chuổi thăng trầm của người Assyrians, người La Mã, người Ba Tư, người Trung Quốc, người Mông Cổ, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, người Hòa Lan, người Pháp, người Anh, người Đức, và người Nhật, một vài diễn tiến hình như đã kết thúc. Người Mỹ đã giữ vai trò áp đảo ngoài sức tưởng tượng của bất cứ ai trước đó, ngoại trừ trong phim ảnh của Hollywood. Như một bắt đầu, Hoa Kỳ đã là đế quốc của tư bản toàn cầu. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản kiểu Xô Viết và sự biến thái của Cộng Sản Trung Quốc thành một tập đoàn tư bản độc tài, không còn một mô hình nào khác về phát triển kinh tế. Chỉ có con đường của Hoa Thịnh Đốn — và con đường của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới (cả hai đều do Hoa Thịnh Đốn kiểm soát) — hay con đường cao tốc, và Liên Bang Xô Viết đã chứng tỏ rõ rệt đã lỗi thời và phá sản. Ngoài ra, Hoa kỳ đã có một uy lực quân sự vô tiền khoáng hậu. Vào thời điểm Liên Bang Xô Viết bắt đầu chao đảo, các lãnh đạo Hoa Kỳ lúc đó cũng đã theo đuổi cuộc chạy đua võ trang trong gần một thập kỷ để đẩy đối phương vào tử địa sớm hơn . Và đây là điều khá hiếu kỳ sau nhiều thế kỷ thi đua võ trang: khi không còn một quốc gia nào đứng vững để tranh đua, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cuộc đua võ trang — một cuộc đua đơn độc. Trong những năm kế tiếp, người Mỹ đã vượt trội quá xa so với các quốc gia hay các nhóm quốc gia về ngân sách quốc phòng. Hoa Kỳ cũng có nhiều đại công ty sản xuất các loại vũ khí tiên tiến nhất, đi trước nhiều năm ánh sáng so với bất cứ quốc gia nào về kỹ thuật, và vẫn tiếp tục khai triển nhiều loại vũ khí tương lai cho những năm 2020, 2040, 2060 …, đã thiết kế ngay cả độc quyền trên thị trường mua bán vũ khí toàn cầu, và nhờ vậy, hoàn toàn kiểm soát quốc gia nào được phép hay không được phép trang bị quân sự tân tiến. Hoa kỳ cũng là đế quốc với nhiều căn cứ quân sự ở hải ngoại — hơn 1.000 căn cứ trên toàn cầu, cũng là một hiện tượng vô tiền khoáng hậu. Hoa Kỳ cũng giữ vị trí áp đảo về văn hóa. Cũng như trong địa hạt sản xuất vũ khí, các phim ảnh của Hollywood ngày một tràn ngập toàn cầu. Từ phim ảnh đến máy vi tính cá nhân, không một văn hóa nào có thể sánh kịp dấu ấn của Hoa Kỳ trên thị trường toàn cầu. Những quốc gia hùng mạnh về kinh tế ngoài Hoa Kỳ — như Âu Châu và Nhật Bản – – đều tiếp tục đươc che chở bởi dù nguyên tử (nuclear umbrella) của Hoa Thịnh Đốn. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi bên trong Hoa Kỳ, kỷ nguyên hậu-Xô-Viết chẳng bao lâu sau đã được tuyên bố như “điểm chấm dứt của lịch sử (the end of history), và sự toàn thắng của thể chế “dân chủ tự do” (liberal democracy) đang được ca tụng tán dương. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, trong thế kỷ mới, phái tân bảo thũ và các nhà bình luận tay chân đã bắt đầu đánh giá đế quốc Anh và đế quốc La Mã trước đây cũng chỉ là những đế quốc hạng hai. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên các nhân vật trọng yếu bên trong và chung quanh chính quyền George W. Bush đã mơ tưởng thiết kế một Pax Americana trong vùng Trung Đông Nới Rộng và có thể trên toàn cầu, cũng như một Pax Republicana bên trong Hoa Kỳ. Họ tưởng tượng họ có thể thực sự ngăn chặn bất cứ quốc gia hay nhóm quốc gia cạnh tranh nào muốn thách thức quyền lực của Mỹ. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi họ chẳng mấy do dự phát động các cuộc chiến chọn lựa trong vùng Trung Đông Nới Rộng. Đã hẳn không một quốc gia nào có thể gây khó khăn trở ngại! Không một xứ sở nào có thể ngăn cản một siêu cường khổng lồ lịch sử chưa bao giờ chứng kiến! THẨM ĐỊNH KỶ NGUYÊN ĐẾ QUỐC, KIỂU THẾ KỶ XXI Gần một phần tư thế kỷ sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, điều đáng lưu ý là đã có rất nhiều hoặc rất ít thay đổi. Xét vế nhiều thay đổi: Những giấc mơ vinh quang quân sự của Hoa Thịnh Đốn đã nhanh chóng gặp nhiều trở ngại ở Afghanistan và Iraq. Kế đến, trong năm 2007, đế quốc tư bản siêu việt cũng đã đứng bên bờ tan vỡ khi tai họa tài chánh đơn cực lan tràn trên khắp hành tinh. Đại suy thoái đã khiến mọi người phải tự hỏi phải chăng siêu cường lớn nhất hành tinh trong thực tế cũng có thể “không quá lớn để thất bại”, và như nhiều người đã tin, nhân loại đang bất thần rơi vào một “thế giới đa cực.” Trong lúc đó, vùng Trung Đông Nới Rộng đang bị tràn ngập bởi làn sóng phản kháng, dấy loạn, nội chiến, và xáo trộn, thiếu vắng bóng dáng một Pax Americana, trong khi hệ thống chiến tranh lạnh do Hoa Thịnh Đốn kiểm soát trong khu vực đã phải giật mình tuy chưa sụp đổ. Khả năng áp đặt ý muốn lên hành tinh của Hoa Thịnh Đốn xem chừng không mấy khác một chuyện hoang đường, trong khi mọi chỉ dấu, kể cả nạn mất máu ngân khố quốc gia trong các cuộc chiến tốn kém hàng nghìn tỉ USD, đã phản chiếu không phải hướng đi lên mà là đà đi xuống hay tuột dốc. Xét về ít thay đổi: Âu Châu và Nhật Bản đang ẩn náu dưới “dù quân sự” của Hoa Kỳ, lãnh thổ của các xứ nầy đang đầy dẫy các căn cứ quân sự của Mỹ. Trong khu vực đồng Euro, chính quyền các xứ thành viên tiếp tục cắt giảm các số đầu tư vào NATO và lực lượng quân sự. Liên Bang Nga vẫn là quốc gia với kho nguyên tử lớn lao và một quân lực giảm thiểu nhưng vẫn còn khá lớn. Tuy vậy, cũng chỉ một Liên Bang Nga không nuôi tham vọng siêu cường. Các cường quốc cấp vùng khác đang thách thức đơn cực trên bình diện kinh tế — Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil chẳng hạn, nhưng không trên bình diện quân sự, và không quốc gia nào, dù đơn lẻ hay họp thành nhóm, có thể cạnh tranh với Hoa Kỳ trên bình diện đế quốc. Kẻ thù của Hoa Thịnh Đốn trên thế giới vẫn chỉ là những quốc gia kích cỡ khiêm tốn, mặc dù luôn được các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ khuếch đại quá đáng. Đó là một vài cường quốc èo ọp, khập khiễng cấp vùng như Iran và Bắc Triều Tiên, môt vài nhóm dấy loạn thiểu số, và vài nhóm “khủng bố Hồi Giáo” tương đối nhỏ bé. Dù sao, như một mực thước đo lường quyền lực trên hành tinh, cũng chỉ có vài xứ duy trì vài cơ sở quân sự bên ngoài lãnh thổ của mình. Trong bối cảnh đó, không có gì kỳ lạ hơn sự kiện: ngay trong thời kỳ đi lên, siêu cường duy nhất, với lực lượng quân sự có tiềm năng phá hủy kinh thiên động địa và kỷ thuật tiên tiến, vẫn không thể chiến thắng một cuộc chiến chống lại các lực lượng du kích được trang bị tối thiểu. Càng đáng ngạc nhiên hơn, mặc dù không phải đối diện với bất cứ một đối thủ có đủ vai vế nào bất cứ ở đâu, uy tín của siêu cường duy nhất không những không gia tăng, ngược lại ngày một suy sụp, với hạ tầng cơ sở thối rữa, với quần chúng chìm đắm trong suy thoái kinh tế, tài phú phân phối ngày một bất bình đẳng, Quốc Hội luôn tê liệt vô phương cứu chữa, trong khi hầu hết tiền của và quyền uy bị thu hút vào hệ thống an ninh quốc gia. Đã hẳn, không sớm thì muộn, mọi đế quốc rồi ra đều sẽ sụp đổ, nhưng khuynh hướng nầy đang diễn tiến một cách khá kỳ lạ. Kế đến, hiện tượng Trung Quốc đã xuất hiện. Trên hành tinh nhân loại đã cư trú trong vài thiên niên kỷ vừa qua, hình như Trung Quốc rõ ràng là quôc gia đang trỗi dậy, và sớm muộn gì rồi cũng sẽ thách thức bá quyền của siêu cường duy nhất? Một vài ước tính dự liệu Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ như nền “kinh tế số một” vào khoảng 2030. Hiện nay, chính quyền Obama hình như đang vận hành dựa trên giả thiết vừa nói. Với chốt Á Châu hay tái cân bằng được quảng bá rộng rãi, chính quyền Hoa Kỳ đang có nhiều động thái đắp bờ hay rào giậu viễn cảnh, người Mỹ đang âu lo, Trung Quốc có thể sẽ là đại cường đang lên và sẽ có nhiều động thái thách thức. Quả thật, Trung Quốc, trong thực tế, đang bành trướng quân lực và có thể đang đe dọa các xứ lân bang trong vùng Thái Bình Dương. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai ghi nhận được bất cứ dấu hiệu nào các cấp lãnh đạo Trung Quốc đã sẵn sàng khởi động một dạng thách thức toàn cầu nào đó đối với Hoa Kỳ, và có thể hành động theo chiều hướng đó trong một tương lai có thể quan niệm được. Các vấn đề đối nội, từ ô nhiễm môi sinh đến các nguy cơ xáo trộn xã hội, cũng đủ nghiêm trọng để chính quyền Trung Quốc phải ưu tiên quan tâm đến các vấn đề quốc nội mãi cho đến 2030 và sau đó …! DÙ SAO VẪN CHỈ CÓ MỘT HÀNH TINH Trên bình diện quân sự và văn hóa, và ngay cả trong một chừng mức nào đó, trên bình diện kinh tế, Hoa Kỳ một cách đáng ngạc nhiên vẫn luôn là đế quốc độc nhất trên địa cầu, ngay cả khi mọi việc đã không diễn tiến như hoạch định của Hoa Thịnh Đốn. Câu chuyện trong những năm kể từ khi Liên Bang Xô Viết tan vỡ có thể chứng tỏ là câu chuyện bằng cách nào bá quyền và đà suy đồi hay tuột dốc của Hoa Kỳ đã cùng lúc diễn tiến song hành, với phần suy đồi trong phương trình là do chính Hoa Kỳ tự tạo. Tuy nhiên sau đây là một khả dĩ đơn thuần đáng ngạc nhiên: thời khắc “đơn cực” trong thập kỷ 1990 thực sự đã rất có thể là điểm chung cuộc của lịch sử như nhân loại đã trải nghiệm sau vài thiên niên kỷ — lịch sử của sự trỗi dậy và sụp đổ của các đế quốc. Có thể nào Hoa Kỳ trong thực tế sẽ là đế quốc cuối cùng? Có thể nào sẽ không có một đế quốc tiếp nối vì lẽ có một cái gì đó đã thay đổi sâu xa trong địa hạt xây dựng đế quốc? Nhưng một điều lúc một rõ ràng: dù cho tình trạng Hoa Kỳ như một đế quốc ra sao chăng nữa, một điều gì đó có ý nghĩa cốt lõi hơn đối với số phận của nhân loại (và của các đế quốc) đang suy đồi. Đã hẳn, chúng ta muốn nói đến chính hành tinh. Mô hình tư bản hiện nay (mô hình duy nhất khả hữu) đối với một cường quốc đang lên, dù đó là Trung Quốc, Ấn Độ, hay Brazil, cũng chỉ là mô hình suy đồi của chính hành tinh địa cầu, một suy đồi mang tính dồn dập. Chính định nghĩa của sự thành công — thành phần tiêu thụ trung lưu đông hơn, sở hữu chủ xe hơi ngày một nhiều hơn, khách mua sắm ngày một nhộn nhịp, lượng khí thải nhà kính trong bầu khí quyển ngày một lớn lao — cũng là định nghĩa của thất bại, như chưa bao giờ chứng kiến trước đây. “Thành công” càng lớn, hạn hán càng gay gắt, bảo tố tàn phá càng nặng nề, thời tiết càng bất thường và cực đoan, mực nước biển ngày một lên cao, nhiệt độ ngày càng nóng bức, xáo trộn trong các đồng bằng nhiệt đới ngày một phức tạp, thất bại ngày một sâu xa. Vấn đề chính vẫn là: tình trạng nầy sẽ chấm dứt những mẫu mực lịch sử trước đây, kể cả sự trỗi dậy cho đến nay có thể tiên đoán được của đại cường kế tiếp, của đế quốc kế tiếp? Trên hành tinh đang diễn biến, ngay cả có thể nào tưởng tượng được giai đoạn kế tiếp của dạng đế quốc khổng lồ? Những nhân tố thường đưa đến tính vĩ đại, hiện nay đồng thời cũng đưa đến suy thoái toàn cầu. Quá trình — không thể nào bất công hơn đối với các xứ mới bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ và tiêu thụ muộn màng — đang đem lại một ý nghĩa mới cho cụm từ “chủ nghĩa tư bản tai họa,” (disaster capitalism). Thử nhìn kỷ người Trung Quốc, dù đã phải bỏ lại phía sau mô hình Maoist, lãnh đạo của họ cũng đã hành động một cách tự nhiên nhất trong thế giới ngày nay: chọn mô hình kinh tế tương lai không mấy khác Hoa Kỳ — có nghĩa theo sự thành công như đã được định nghĩa vào lúc đó. Mặc dù với các truyền thống cộng đồng vừa mang tính truyền thống vừa mang tính cách mạng, họ đã quyết định, để trở thành đại cường trên thế giới, họ cần phải sản xuất thật nhiều xe hơi, cơ bản đối với bất cứ một tư-bản-nhà-nước-Trung-Quốc tương lai nào. Thực tế nầy đã thành công ở Mỹ, cũng đã thành công đối với Trung Quốc trong đoản kỳ — thành công như một giấc mơ, một phép lạ tư bản. Và Trung Quốc đã đi lên. Tuy nhiên, đó cũng là phương thức gây ô nhiễm nghiêm trọng, môi trường xuống cấp, và rót lúc một nhiều nhiên liệu hóa thạch vào bầu khí quyển với số lượng kỷ lục. Và chúng ta không chỉ nói đến Trung Quốc. Chẳng có gì quan trọng khi chúng ta nói đến tình trạng đói nhiên liệu của Trung Quốc, có thể kể cả “bom carbon” tương lai. Chúng ta cũng có thể nói đến Hoa Kỳ: tiềm năng tuột dốc của Hoa Kỳ cũng có thể được chận đứng với các phương pháp khai thác năng lượng cực đoan mới (fracking, tar-sand extraction, khoan dầu ngoài vùng biển sâu). Các phương pháp đó, mặc dù phương hại nghiêm trọng đến môi trường, vẫn có thể thực sự biến Hoa Kỳ thành một “Saudi Arabia mới.” Tuy vậy, sự kiện đó cùng lúc cũng sẽ góp phần gây ô nhiễm hành tinh trên một diện ngày một sâu rộng hơn. Điều gì sẽ xẩy ra trong thế kỷ XXI, khi đi lên cũng có nghĩa suy đồi hay đi xuống? Điều gì sẽ xẩy ra nếu thời khắc đơn cực thực ra cũng là thời khắc toàn bộ hành tinh trong đó những biến cố đế quốc trước đây riêng rẻ — sự trỗi dậy hay sụp đổ của các đế quốc — đã tan hòa thẩm thấu vào toàn bộ hệ thống tai họa duy nhất? Điều gì sẽ xẩy ra khi câu chuyện của thời đại chúng ta cũng chính là câu chuyện: Nhân loại chỉ có một hành tinh, và hành tinh đó đang lúc một suy sụp. Nguyễn Trường Irvine, California, USA 20-01-2014
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2014 7:59:49 GMT 9
CHỐT Á CHÂU-THÁI BÌNH DƯƠNG hay TÁI CÂN BẰNG CỦA TÁI CÂN BẰNG VIỄN KIẾN MỚI CỦA OBAMA TRONG NHIỆM KỲ HAInguyentruong92606.wordpress.com/2014/01/11/chot-a-chau-thai-binh-duong-hay-tai-can-bang-cua-tai-can-bang/Sau vài tháng giữ thái độ khiêm tốn trong quyết định tái cân bằng ở Á Châu-Thái Bình Dương, chính quyền Obama hiện đang tìm cách làm sống lại sáng kiến nầy. Susan Rice, nhân vật được biết luôn âu lo về Trung Đông, Phi châu và các vần đề phi truyền thống, nay đang sẵn sàng quan tâm ngày một nhiều hơn đến Á châu-Thái Bình Dương, sáu tháng sau ngày nhận nhiệm vụ mới. Trong bài nói chuyện tại Georgetown University, Susan Rice đã phác họa giai đoạn kế tiếp của chiến lược tái cân bằng của Hoa Kỳ, tái nhấn mạnh quyết chí của người Mỹ tăng cường sự hiện diện trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương, tái cam kết với các đồng minh và đối tác trong khu vực, và tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ ở Á Châu. Chiến lược nầy đang diễn ra trong thời điểm quyền lực của Trung Quốc đang ngày một tăng trưởng và lãnh đạo mới Tập Cận Bình đã đưa ra chính sách mới trong khu vực, nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia lân bang với sáng kiến nối kết và con đường tơ lụa hay năng lượng mới xuyên lục địa và các đại dương. Barack Obama, người tự nhận như một tổng thống Á châu-Thái Bình Dương, từ lâu đã dương cao khẩu hiệu quyền lực của Hoa Kỳ trong khu vực như tiêu điểm. Trong cuộc công du đầu tiên đến các quốc gia thành viên của khối ASEAN trong năm 2009, Hillary Clinton cũng tuyên bố Hoa Kỳ đã trở lại Á châu ngay từ lúc Obama tiếp nhận chính quyền. Tiếp theo đó, “chốt Á châu” đã chính thức thành hình trước cuối năm 2011, khi Obama tuyên bố trước Nghị Viện Úc “Hoa Kỳ đến và ở lại đây như một đại cường Thái Bình Dương.”[1] Cuối cùng, kể từ đầu năm 2012, Hoa Kỳ cũng đã chấp nhận một chiến lược tái cân bằng ôn hòa và ít mang tính gây hấn hơn. Như vậy, chính quyền Obama đã thể hiện một chuyển dịch trong trọng tâm chiến lược đối với Á châu-Thái Bình Dương như một chính sách tiêu chuẩn. Tuy nhiên, ngay sau khi Obama bắt đầu nhiệm kỳ hai, tái cân bằng cũng đã trải nghiệm nhiều thay đổi mới, một dịch chuyển các nhà quan sát đã gọi “tái cân bằng chiến lược tái cân bằng trước đó ” — a rebalance of its rebalance. Trước hết, sau khi bắt đầu nhiệm kỳ hai, Obama đã phát động chính sách được mệnh danh: đối tác thương mãi và đầu tư xuyên Đại Tây Dương với Âu châu (transatlantic trade and investment partnership with Europe — TTIP), với mục đích đảo ngược cảm giác lơ là do chiến lược tái cân bằng đã đem lại. Liền sau đó, ngoại trưởng Kerry một lần nữa đã chuyển dịch sự quan tâm của Hoa Kỳ trở lại khu vực Trung Đông. Mặc dù hầu như hoàn toàn bị chi phối bởi Syria, Ai Cập, Iran, và thế bí trong quan hệ Do Thái-Palestine gai góc, một dấu hiệu rõ ràng chính quyền Obama một lần nữa đã tái nhận diện Trung Đông là quyền lợi nòng cốt của Mỹ, một vùng hết sức quan trọng trong chính trị thế giới, ngay cả vào thời điểm Hoa Kỳ ngày một bớt âu lo về nguồn cung năng lượng. Kế đến, trước một ước muốn cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc cùng chia sẻ — thiết kế “một mô hình quan hệ siêu cường mới” — Hoa Kỳ đã cảm thấy bất lợi khi chỉ tập trung vào thành tố quân sự trong chiến lược tái cân bằng, không những có hại cho quan hệ đối với Trung Quốc, mà còn nhen nhúm sự âu lo trong toàn vùng. Các đồng minh như Úc và Nam Hàn, và các đối tác như Singapore và Indonesia, không ưa thích bị buộc phải lựa chọn giữa hai siêu cường. Do đó, chính quyền Obama trong nhiệm kỳ hai đã nâng thành tố kinh tế lên ngang hàng với thành tố quân sự. Ngoài ra, nhân quyền và dân chủ, những thành tố của chiến lược tái cân bằng, cũng đã được nhấn mạnh, trong đó các đề mục an ninh phi cổ điển như biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, bảo toàn các nguồn nước, cũng đã được nâng cấp ưu tiên. Như vậy, Hoa Kỳ đã tìm cách giảm thiểu tính nhạy cảm của các thành tố “cứng” như quân sự và an ninh, đồng thời tăng cường vai trò các thành tố “mềm” và “ưu tiên thấp” trong nghị trình. Cuối cùng, Hoa Kỳ đã thực sự đặt quan hệ hợp tác với Trung Quốc như thành tố cơ bản trong chiến lược tái cân bằng. Joseph Nye và Brzezinski đã thúc đẩy chính quyền Hoa Kỳ nên hậu thuẩn sự gia nhập của Trung Quốc vào Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương — TTP. Hơn nữa, với quan hệ quân sự-quân sự được cải thiện, Trung Quốc khi tham gia như hoạch định vào hải quân — Vành Đai Thái Bình Dương 2014 (China’s planned involvement in the navy, such as the 2014 Rim of the Pacific – RIMPAC) — cũng đã trở thành “chốt Trung Quốc” (China pillar) của “một tái cân bằng cập nhật” thêm phần thuyết phục và dễ chấp nhận hơn.CÓ GÌ MỚI TRONG TÁI CÂN BẰNG CỦA TÁI CÂN BẰNG Trong thực tế, tất cả các khuynh hướng giúp định hình chính sách tái cân bằng của Obama trong nhiệm kỳ hai trên đây đều có thể tìm thấy trong bài nói chuyện của Donilon về Á châu-Thái Bình Dương tại Asia Society trong tháng 3-2013. Nhưng hơi khác với bài nói chuyện của Rice về đề tài “Tương Lai của Hoa Kỳ ở Á Châu” (America’s Future in Asia), Donilon đã nhấn mạnh cả hai khía cạnh: tính liên tục và các biến chuyển mới. Trong khi bám sát ba mục tiêu an ninh, thịnh vượng, và tự do, từ lâu đã được theo đuổi như cơ bản đối với quyền lợi của Hoa Kỳ, bài nói chuyên của Rice đã phân biệt bốn địa hạt: cải thiện an ninh, gia tăng thịnh vượng, phát huy các giá trị dân chủ, và thăng tiến nhân phẩm. Rice chia đôi ý niệm nhân quyền làm an ninh và thịnh vượng, và như vậy, cho thấy đã nhấn mạnh đề mục nầy nhiều hơn. Hơn nữa, Rice cũng đã làm sáng tỏ chính sách của Hoa Kỳ về vài đề tài nhạy cảm và cấp thiết nhất trong khu vực, như hậu thuẩn việc thiết lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Nhật, hợp tác với Úc trong các địa hạt như tên lửa không gian và tự vệ, và tham dự vào an ninh hàng hải với Thái Lan và Philippines. Trong khi gián tiếp xác nhận Bắc Triều Tiên đã có sẵn kho vũ khí nguyên tử, Rice rõ ràng đã đưa ra dấu hiệu một chính sách kiên định của Hoa Kỳ: cánh cữa đang rộng mở đối với Bắc Hàn nếu quốc gia nầy có bước tiến cụ thể và không thay đổi hướng đến phi-nguyên-tử. Ngược lại, chính sách chế tài, cô lập, và chiến lược kiên trì cô lập hóa sẽ được duy trì. Bài nói chuyện của Rice cũng đưa ra một góc nhìn mới về Trung Quốc. Mặc dù Rice chỉ dành hai đoạn ngắn cho đề tài, chúng ta cũng có thể nhận diện được bóng dáng Trung Quốc trong một số các đoạn khác. Rice sử dụng động từ “operationalize” để mô tả sự khai triển một mô hình mới trong quan hệ giữa các nước lớn; liệt kê Bắc Triều Tiên, Iran, Afghanistan, và Sudan, cũng như các quan hệ quân sự-quân sự (mil-to-mil relations) như những địa hạt chính trong quan hệ mới nầy. Điều nầy đã phơi bày rõ ý muốn của Hoa Kỳ định hình nghị trình hướng đến các nhu cầu và ưu tiên của Mỹ. Trong chừng mức đó, hợp tác luôn kèm theo trách nhiệm, trong khi giải thích nghị trình đó như thế nào đều hoàn toàn tùy thuộc ưu tiên của Hoa Kỳ. Ngoài ra, các chuẩn mực và quy tắc lại hầu như rải rác ở khắp nơi khi nói đến các đề tài như an ninh thượng tầng không gian và các tranh chấp hàng hải, đặc biệt là các đề tài Biển Hoa Nam và Hoa Đông. Bài nói chuyện của Rice cũng hoan nghênh Trung Quốc tham gia vào TPP. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết là phải”ứng xử đúng theo các chuẩn mực cao của Hoa Kỳ.” Chính sách Trung Quốc của Obama rõ ràng là chi phối và định hình chiều hướng trỗi dậy của Trung Quốc qua các can dự cấp cao cũng như một phối hợp các biện pháp chế ngự cứng và mềm. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn thấy sự dịch chuyển như hình thức của một chính sách tái cân bằng ôn hòa hơn, một dịch chuyển hay thay đổi một xứ ngày một tự tin có thể tiếp thu, định hình, và ngay cả chấp nhận. Bởi lẽ với sức mạnh ngày một gia tăng và triết lý đối ngoại hòa bình đang hình thành, Trung Quốc ngày nay đủ tự tin có thể tác động đến các nước lớn khác theo chiều hướng riêng của mình. CẢNH GIÁC ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC Như vậy, hình như Hoa Kỳ vẫn chưa hiểu rõ tham vọng của Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau khi đắc cử tổng thống với sứ mệnh hòa bình, rút quân khỏi hai cuộc chiến tốn kém, Barack Obama đã nghĩ ngay đến chốt Á Châu trong năm 2009. Quan tâm kinh tế lúc một gia tăng đến một khu vực bành trướng nhanh chóng của thế giới, và đến cơ hội để hải và không quân có thể chứng tỏ sức mạnh trong vùng Á châu-Thái Bình Dương sau hơn một thập kỷ chiến tranh trên bộ ở Iraq và Afghanistan, hình như là loại chính sách người Mỹ và các đối tác trên thế giới dễ dàng hậu thuẩn. Một sự vụng về trong việc sử dụng ngôn từ đã phương hại đến bước đầu của một kế hoạch khập khiểng và thường bị hiểu lầm. Giờ đây dưới tên gọi tái cân bằng, trọng điểm của chính sách đối ngoại của Obama tiếp tục bị mờ nhạt bởi các xung đột tiếp diễn ở Trung Đông. HOA KỲ SẼ TRỞ LẠI Sự triệt thoái bất thần của Hoa Kỳ khỏi Iraq vào cuối năm 2011 đã để lại phía sau một quốc gia chìm đắm trong bạo lực. Mùa Xuân Á Rập, bắt đầu vào cuối năm 2010, đã lật đổ nhiều chính thể độc tài ở Trung Đông và Bắc Phi, với nhiều quốc gia hiện đang chịu hậu quả. Cuộc nội chiến ở Syria sắp đến ngày kỷ niệm năm thứ ba vào tháng 3-2014, với Hoa Kỳ quyết định vào hồi đầu tháng 12-2013 từ bỏ cung cấp cho các chiến binh phản loạn loại viện trợ không giết người vì âu lo một cuộc trỗi dậy ngày một gia tăng của Hồi Giáo. Các xung đột liên tục ở Ai Cập đã buộc Hoa Kỳ phải can thiệp quân sự cỡ lớn hồi tháng 7-2013, và Bộ Ngoại Giao đã phải ra lệnh đóng cửa nhiều tòa đại sứ ở Trung Đông và nhiều nơi khác vào đầu tháng 8-2013 vì các đe dọa tấn công khủng bố. Và vào cuối năm 2013, Tổng Thống Afghanistan Hamid Karzai vẫn chưa chịu ký vào thỏa ước an ninh, định hình sự hiện diện của quân đội Mỹ sau năm 2014. Trong lúc đó, Hoa Kỳ vẫn còn ước muốn đóng chốt, tái cân bằng, hay chuyển dịch lực lượng quân sự đến Thái Bình Dương, và đang khiến nhiều quan chức, nhiều nhà phân tích và đối tác trên thế giới, phải tự hỏi bằng cách nào người Mỹ có đủ khả năng để thành đạt nhiều tham vọng trong nghị trình. Vikram Singh, phó trợ lý bộ trưởng quốc phòng và cố vấn trưởng của các lãnh đạo Ngũ Giác Đài về Nam và Đông Nam Á, đã cho biết: “Mười năm vừa qua đã chứng tỏ rất bất thường hơn là chuẩn mực. Cùng lúc phải theo đuổi hai cuộc chiến cỡ lớn là một điều thực sự quá bất thường đối với Hoa Kỳ. Đã thế, quyết định tái cân bằng ở khu vực Á Châu-Thái Bình Dương sẽ đòi hỏi phải tái phối trí các tài nguyên rộng lớn của Hoa Kỳ đến một phần đất của thế giới, nơi yếu tố ổn định sẽ hết sức quan trọng.” Nêu rõ sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ ở Guam và Nhật Bản từ cuối Đệ Nhị Thế Chiến, Singh nói tiếp: “Chúng ta đã là một cường quốc Thái Bình Dương trong nhiều thế hệ. Đây đâu phải điều gì mới mẻ.”[2] Riêng đối với vấn đề tài nguyên của Hoa Kỳ hiện đang giàn trải quá mỏng với chính sách mới nầy, Singh nói, ” Điều quan trọng cần ghi nhận là khả năng của Hoa Kỳ ra sao. Chúng ta có thể làm nhiều chuyện cùng lúc.” Lập luận nầy đã khiến nhiều người nhớ tới câu cách ngôn “vừa đi vừa nhai kẹo cao su” (the proverbial walking-while-chewing-gum). Hoa Kỳ tin mình có thể nhai kẹo cao su để hơi thở được thơm tho ở Trung Đông trong cùng lúc đi dạo mát xuyên Á. Tuy nhiên, tài nguyên của Ngũ Giác Đài vẫn rất hạn chế. Với các hậu quả còn rơi rớt lại sau các biện pháp cắt xén ngân sách đồng đều được biết dưới tên gọi “sequestration” (cắt xén tạm thời), cũng như các cắt xén ngân sách dự liệu tiếp theo sau hai cuộc chiến kéo dài, giới quân sự có nhiệm vụ tìm cách sử dụng ít ngân quỹ và vật liệu hơn trong một thế giới luôn chờ đợi ngân quỹ và vật liệu lúc một phải dồi dào hơn. Ngũ Giác Đài luôn cảm thấy thực sự bị đe dọa bởi các tay chơi ngoài vòng pháp luật như Bắc Triều Tiên, và có sẵn kế hoạch một chiến dịch hành quân trên bộ lâm thời cần đến khi quan hệ giữa Bắc Triều Tiên và các quốc gia láng giềng, kể cả đồng minh khắng khít Nam Hàn của Mỹ, bị bào mòn đến độ khó hàn gắn. Cùng lúc, Ngũ Giác Đài cũng phải đối phó với Trung Quốc, một siêu cường đang đi lên, với tham vọng bá quyền cấp vùng đã biểu hiện qua các lời tuyên bố chủ quyền đối với các vùng thuộc hải phận quốc tế, các hải đảo và đảo đá ngầm. Theo Singh, viện trợ tài chánh có thể dưới hình thức đa phương hơn là song phương, và cần tăng cường quân đội các nước ngoài để giúp họ tự đối phó với các đe dọa và khủng hoảng. Tuy vậy, các nhà làm chính sách trong Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ, luôn vội vã nhấn mạnh tái cân bằng không phải chỉ là chiến lược quân sự, mà còn là sáng kiến của toàn bộ guồng máy bao gồm các nỗ lực thương mãi, kinh tế, và ngoại giao. Danny Russel, phụ tá ngoại trưởng đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương Sự Vụ, đã nói rõ: “Chúng ta không thể không hiện diện ở đó. Một sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ thiết yếu cho hòa bình và thịnh vượng trong thế kỷ XXI.” “Chỉ chú tâm đến khía cạnh quân sự của chiến lược tái cân bằng là không hiểu được toàn bộ. Các mục tiêu tái cân bằng của chúng ta là canh tân và tăng cường các đồng minh Á Châu-Thái Bình Dương nhằm đối phó hữu hiệu hơn với các thử thách của thế kỷ XXI.”[3] Điều nầy bao gồm cả việc tăng cường các đối tác, kể cả Trung Quốc. Nó cũng đòi hỏi phải tăng cường thương mãi, như tổ chức Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương sắp hoàn tất (to-be-finalized Trans-Pacific Partnership — TPP), và các định chế hỗ trợ như ASEAN (Association of Southeast Asians). Bộ trưởng Quốc Phòng Chuck Hagel đã chủ trì tiệc trưa với 10 vị đại sứ ASEAN vào đầu tháng 12-2013. Joe Biden bị Kẹt Giữa Trung Quốc và Nhật Bản về Vùng Không Gian Hạn Chế (Air Restriction Zone — ARZ) Tuy nhiên, các quan chức quân sự vẫn không che dấu đang sử dụng chiến lược tái cân bằng để biện minh các nhu cầu tạo mãi các trang bị quân sự và các cách tiếp cận mới, như phi cơ tàng hình F-35, các thủy đỉnh tàng hình, tên lửa tầm xa, và lính thủy đánh bộ . Chiến lược Thái Bình Dương đưa đến quyết định di chuyển khoảng 60% các chiến hạm và trang bị hải quân khác trong nhiệm vụ tuần tiểu Thái Bình Dương. Hàng nghìn lính thủy đánh bộ, phần lớn mới hồi hương từ các cuộc chiến ở Trung Đông, sẽ được tái bố trí khi cần đến căn cứ mới ở Darwin, Úc Đại Lợi, để hỗ trợ các cơ sở khác ở Nhật, Nam Hàn, và Hawaii. Tình trạng vẫn còn khá căng thẳng với sự hiện diện quân sự dài lâu của Mỹ trong khu vực, với Hoa Kỳ đang xem xét tái bố trí các cơ sở lính thủy đánh bộ từ Okinama đến Guam và Hawaii. Tuy nhiên, phản ứng nhanh chóng bởi Lính Thủy Đánh Bộ và Hải Quân đối với khủng hoảng ở Philippines gần đây, được nối tiếp bởi sự hỗ trợ của Bộ Binh và Không Quân, rõ ràng đã tăng cường loại thông điệp các lực lượng Hoa Kỳ hy vọng đã gửi đi với sự hiện diện ngày một lớn lao của các lực lượng nầy. Tuy nhiên, quan hệ phức tạp của Hoa Kỳ với Trung Quốc là trung tâm của nhu cầu tiềm năng đối với một đáp ứng quân sự tiềm năng. Sự trỗi dậy của nền kinh tế của một cường quốc Á Châu, phối hợp với tình trạng suy nhược có thể nhận thức được của Hoa Kỳ sau đại suy thoái tài chánh 2008 của Wall Sreet, đã là nguyên nhân thúc đẩy Trung Quốc bành trướng quân lực và thăm dò khu vực một cách gây hấn hơn trước đây. Trong tháng 8-2013, Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Quốc, Tướng Chang Wanquan, đã viếng thăm Ngũ Giác Đài với một phái đoàn quân sự. Nhận xét của ông trong cuộc họp báo chung với Bộ Trưởng Hagel đã cung cấp một cách nhìn từ bên trong quan hệ phức tạp và đôi khi mang tính phân liệt hay rối loạn tâm thần. Ông phát biểu: “Nhân dân Trung Quốc luôn yêu chuộng hòa bình. Chúng tôi nhấn mạnh các tranh chấp cần được giải quyết qua đối thoại và thương thảo.” “[Tuy vậy,] không ai nên tùy tiện nghĩ Trung Quốc có thể đánh đổi các quyền lợi thiết thân của chúng tôi, và không ai nên đánh giá thấp ý chí của chúng tôi, và sự kiên trì bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền và quyền hàng hải của chúng tôi.”[4] Nhiệm vụ khó khăn của chính quyền Obama, như vậy, là phải khéo léo theo đuổi một chính sách hết sức an toàn đối với các đồng minh, và luôn sẵn sàng thương thảo với các xứ như Trung Quốc. Thái Độ của Giới Lãnh Đạo Quân Sự Hoa Kỳ Đối Với Trung Quốc Các lãnh đạo quân sự, kể cả Hagel và Obama, đã trách móc các động thái kiểm soát không phận trong vùng Biển Hoa Đông gần đây của Trung Quốc như những hành động gây rối và đe dọa đối với sự ổn định trong khu vực. Đây là các động thái mới trong một chuổi thám hiểm bắt đầu từ các năm 2008 và 2009 của hải quân Trung Quốc, nhằm bảo đảm quyền đánh cá trong các vùng nước cạn và hải đảo trong các khu vực chia sẻ với các đồng minh của Hoa Kỳ như Philippines, Nhật , cũng như Việt Nam. Tình trạng căng thẳng đó đã buộc các quốc gia láng giềng phải yêu cầu Hoa Kỳ có phản ứng. Nhiều phái đoàn thiện chí, kể cả phái đoàn gần đây nhất do Phó Tổng Thống Joe Biden lãnh đạo, đã tìm cách bảo đảm với các đồng minh trong khu vực Hoa Kỳ sẽ giúp giải quyết vấn đề. Sự hiện diện của Hoa Kỳ có ý nghĩa khá nhiều. Sự kiện Obama đã bị buộc phải vắng mặt trong cuộc họp ASEAN gần đây nhất, trong tháng 10-2013, vì một cuộc khủng hoảng ngân sách khác ở quốc nội, đã đưa đến một giây phút bộc trực từ một nhà ngoại giao Nhật. Shigeo Yamaha, một viên chức chính trị thuộc tòa đại sứ Nhật ở Hoa Kỳ tại hội nghị trong tháng 10-2013, đã tuyên bố: “Thật không may tổng thống [Obama] đã không thể đến Á Châu mùa hè nầy. Đặc biệt ở Á châu, sự hiện diện luôn mang rất nhiều ý nghĩa.”[5] Russel, thuộc Bộ Ngoại Giao, đã phát biểu: “Đây không phải là trò chơi lợi cho người nầy thì hại cho người kia (zero-sum game). Thái Bình Dương đủ rộng lớn cho mọi người, và chúng tôi không đi tìm các quốc gia phải chọn lựa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.”[6] GÓC NHÌN TRUNG QUỐC Tất cả các cuộc thảo luận về các trò chơi quyền lực trong vùng Thái Bình Dương đều bắt đầu và chấm dứt với thực tại Trung Quốc. Theo Bonnie Glaser, một chuyên gia về Á Châu-Thái Bình Dương thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế có trụ sở ở D.C., và chuyên gia tư vấn của hai bộ Quốc Phòng và Ngoại Giao trước đây, “Á Châu-Thái Bình Dương về nhiều phương diện không phải chỉ là trò chơi về khả năng, mà là một trò chơi về nhận thức.”[7] Cũng theo Glaser, các quốc gia trong khu vực rất lo ngại sự hiện diện và quyền lực ngày một gia tăng của Trung Quốc. “Họ âu lo Hoa Kỳ sẽ bị thu hút một lần nữa vào Trung Đông và sẽ không đủ khả năng ngăn chặn Trung Quốc. Hoặc chúng ta sẽ không sẵn sàng đứng lên đối mặt với Trung Quốc trong trường hợp Trung Quốc sử dụng các phương tiện cưỡng chế chống lại họ.”[8] Philippines, chẳng hạn, đã đánh mất quyền đánh cá chung quanh các khu nước cạn Scarborough Shoals trong năm 2012 sau khi các tàu chiến Trung Quốc đã giành được quyền kiểm soát các khu vực kế cạnh. Các khu vực nhiều hải sản chỉ cách xa đất liền Philippinnes khoảng 140 dặm, và khoảng 500 dặm từ lục địa Trung Quốc. Hòa Bình Ở Á Châu Theo Bonnie Glaser, “Nhiều quốc gia yếu kém, dễ bị tổn thương, nhỏ bé, cảm thấy bị nhiều sức ép đã phải thích nghi với Trung Quốc, mặc dù trong vài trường hợp, họ không hề muốn. Nếu bạn ở gần bờ biển Trung Quốc, trên bình diện địa lý, bạn luôn cảm nhận bạn dễ bị thương tổn.”[9] Trong địa hạt an ninh, một vài xứ muốn nương tựa vào Hoa Kỳ. Vài xứ khác ước muốn Hoa Kỳ luôn hiện diện như một đối trọng đối với Trung Quốc. Trung Quốc là đối tác số 1 đối với 124 quốc gia tính đến cuối năm 2013. Hoa Kỳ chỉ có 76 đối tác như thế. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng gần 8% trong năm rồi, so với 3,6% của Hoa Kỳ. Giữ vai trò một đối trọng thật sự rất khó lòng đối với Hoa Kỳ. Lực lượng quân sự của Trung Quốc kém xa Hoa Kỳ về khả năng và năng lực, nhưng tăng trưởng hàng ngày song song với nền kinh tế ngày một kỹ nghệ hóa cao độ. Trong tháng 10-2013, Trung Quốc đã tiết lộ một tên lửa di động có đủ tầm với và khả năng tiêu hủy một tàu sân bay. Hoa Kỳ sử dụng những tàu chiến khổng lồ như cơ sở hàng hải. Tom Snitch, một chuyên gia Á Châu, cố vấn kiểm soát vũ khí hạt nhân bên cạnh Bộ Ngoại Giao trong thập kỷ 1980, đã cho biết: “Nếu bạn có một tên lửa siêu thanh có thể phóng tới một tàu sân bay ở cách xa bạn một nghìn dặm, tàu sân bay còn có ý nghĩa gì? Khi bạn nghĩ những gì người Trung Quốc có thể làm khi họ có đủ ý chí chính trị, quyết tâm và tài nguyên, và nếu họ tiếp tục di chuyển theo chiều hướng đó, bạn đang phải đối mặt với một đối thủ cạnh tranh có quyền lực thực sự ở Á Châu.”[10] Snitch muốn nói đến chiến thuật sử dụng ngày một nhiều quyền lực và từ từ tiến tới kiểm soát toàn bộ khu vực của chính quyền Trung Quốc. Họ có lẽ đang nghĩ, phải chăng Hoa Kỳ đang thiết kế chốt Á Châu-Thái Bình Dương? Nếu vậy, hãy thử xem chốt đó sẽ mạnh đến mức nào. Trung Quốc cũng muốn thăm dò xem Hoa Kỳ đang sẵn sàng cam kết uy tín quốc gia, quyền lực, và quan hệ kinh tế đến mức độ nào. Chỉ đơn thuần chạy theo tốc độ phát triển kỹ thuật của Trung Quốc cũng đã là một công tác khổng lồ. Thực sự không ai có thể tiên đoán một cách chính xác khả năng bắt kịp Trung Quốc của Hoa Kỳ trong tương lai dài lâu. Tái Cân Bằng Đang Hụt Hơi Theo Glaser, “đây không phải là một đề tài tĩnh. Đây là đề tài rất năng động. Người Trung Quốc luôn di chuyển về phía trước. Họ sản xuất rất nhiều chiến hạm, rất nhiều tiềm thủy đỉnh. Họ có một số lượng tên lửa khổng lồ và rất chính xác. Đây là một thách thức đối với Hoa Kỳ phải duy trì khả năng tiếp cận và tự do thao diễn. Đó là một dấu hỏi lớn lao.”[11] Xin Đừng Bỏ Cuộc Vẫn còn hy vọng khi Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn đang tiếp tục thẩm định quan hệ giữa hai quốc gia trong khu vực. Theo Singh từ Bộ Quốc Phòng, “chúng tôi tự cảm thấy như một thành phần trong cùng một gia đình trong khu vực nầy. Có những lúc Hoa Kỳ không đồng ý với các đồng minh của gia đình và giữa các đồng minh với nhau. Chúng tôi không quá ngây thơ để cả tin đã thấu triệt được mọi chông gai khi phải đối phó với một số vấn đề như vậy.”[12] Trong thực tế, lối ứng xử của Trung Quốc luôn mang tính tự nhiên của một đại cường đang đi lên. Singh chỉ muốn cảnh cáo những động thái có thể xem như mang tính gây bất ổn định. Theo Singh, Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực có bổn phận chỉ đưa ra những đòi hỏi dựa trên luật pháp quốc tế. Và các xứ khác cũng đang bắt đầu chấp nhận một phần gánh nặng lớn hơn. Nhật Bản gần đây đã loan báo có thể gia tăng ngân sách quốc phòng 5% trong vòng 5 năm tới, về phi cơ giám sát không người lái, các chiến đấu cơ phản lực, và các diệt lôi hạm. Russel thuộc Bộ Ngoại Giao cũng cho biết “không khí căng thẳng với Trung Quốc cho thấy tầm quan trọng của các nỗ lực can dự cấp cao giữa hai quốc gia.” Ông nói tiếp, “chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với Trung Quốc trong cả hai địa hạt có thể thỏa thuận và bất đồng. Nhằm mục đích tìm cách giải quyết một số thử thách cấp thiết — biến đổi khí hậu, cấm phổ biến nguyên tử, phát triển bền lâu — tất cả các quốc gia trong khu vực sẽ phải cùng nhau làm việc.”[13] Nhưng triệt thoái khỏi Trung Đông, nhất là khỏi Afghanistan, vẫn là thử thách nghiêm trọng nhất đối với Hoa Kỳ, nhất là khi Hoa Kỳ phải cùng lúc tăng cường sự hiện diện trong nhiều khu vực khác. Chiến Tranh Trên Bộ ở Á Châu Iraq và Afghanistan là hai quốc gia hoàn toàn tách biệt về tài nguyên thiên nhiên cũng như phát triển. Tuy vậy, các quan chức giữ vai trò quyết định không thể làm gì khác hơn là nhìn bạo lực đang nhận chìm Iraq kể từ ngày quân đội Mỹ triệt thoái trong năm 2011, như một cảnh cáo nghiêm trọng đối với mọi quyết định rời bỏ Afghanistan quá sớm. Số quân nhân có thể được phép tiếp tục đồn trú ở Afghanistan sau năm 2014 hiện chưa rõ ràng. Vài ước tính rò rĩ cho biết con số để lại phía sau có thể lên tới 10.000 theo dự thảo thỏa ước BSA. Quân số nầy nhỏ hơn con số 13.600 cần thiết , do John Allen và Jim Mattis, hai tướng tư lệnh thủy quân lục chiến được trọng nễ về khả năng lãnh đạo và hoạch định ở Afghanistan, khuyến cáo. Con số nầy, tuy vậy, cũng chỉ là con số ước tính khá bảo thủ so với số quân tuyệt đối cần thiết. Mattis, nguyên tư lệnh thuộc Bộ Tư Lệnh Trung Ương và nổi tiếng bộc trực, trước đây đã cho biết nhu cầu của Afghanistan có thể trên 20.000 quân trong một thời gian dài lâu, mặc dù hiểu rõ các chính trị gia ở Hoa Thịnh Đốn rất có thể sẽ cắt xén. Mattis đã tuyên bố trước Ủy Ban Quân Lực Thượng Viện trong tháng 3-2013:”Trong lúc những tiến bộ không thể chối cãi ở Afghanistan đã được ghi nhận, tiến bộ và bạo lực luôn cùng hiện hữu.” Mattis cũng đã đơn cử “sự thiếu vắng cam kết của Hoa Kỳ có thể nhận thức được trong khu vực” như một trong những đe dọa lớn nhất đang đối diện xứ sở.” Cảm tưởng nầy, nếu không được tích cực xóa bỏ, bất cứ sự thiếu rõ ràng nào đối với ý định của Hoa Kỳ trong khu vực, đặc biệt đối với tương lai Afghanistan, hòa bình ở Trung Đông, và định hình một kết cục có thể chấp nhận được ở Syria, cũng có thể giảm thiểu sự cam kết của các đồng minh đối với lập trường của chúng ta và đem lại khoảng trống không gian các tay chơi khác sẵn sàng lấp đầy với vai trò lãnh đạo khó chấp nhận.” Mattis nói thêm, sự thành công ở Afghanistan một phần lớn lệ thuộc vào hậu thuẩn liên tục từ phía Hoa Kỳ, nhất là trước cuộc bầu cử ở Afghanistan trong năm 2014, cũng như vào việc bảo toàn khả năng tự chiến đấu của các Lực Lượng An Ninh Quốc Gia Afghanistan (ANSF). “Không dành sự hỗ trợ cho ANSF sẽ hạn chế rất nhiều khả năng của chúng ta ngăn ngừa sự trở lại địa bàn ẩn náu an toàn của các lực lượng khủng bố và một sự trỗi dậy của phe Taliban đang đe dọa chính quyền Afghanistan. Kẻ thù của chúng ta đang tự che dấu và kiên nhẫn chờ cơ hội để trỗi dậy theo đuổi các nghị trình của mình.” [14] Liệu sự cam kết của Hoa Kỳ đối với Á Châu sẽ dài lâu hơn một thập kỷ can dự ở Iraq và Afghanistan vẫn còn chờ được ấn định, nhất là trong số những người đo lường thời gian bằng thế kỷ. TRẬT TỰ Á CHÂU-THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ TỪ GÓC NHÌN CỦA NHẬT Vào những ngày đầu tháng 12-2013, lễ kỷ niệm lần thứ 70 Bản Tuyên Ngôn Cairo đã được tổ chức ở nhiều nơi trên toàn cầu để ghi nhận lòng yêu chuộng hòa bình và tôn trọng công lý của nhân loại. Ngày 01-12-1943, lãnh đạo Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Anh Quốc đã công bố Bản Tuyên Ngôn Cairo, kêu gọi một chiến thắng sau cùng trong cuộc chiến chống phát xít trên mặt trận phía Đông. Bản Tuyên Ngôn đã bày tỏ sự quyết tâm loại bỏ chủ nghĩa phát xít Nhật và buộc Nhật phải trao trả “tất cả các lãnh thổ đã xâm chiếm vì tham lam và bạo lực” trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương. Bản Tuyên Ngôn cũng đã củng cố quy chế pháp lý quốc tế về sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Trên căn bản của Tuyên Ngôn Cairo, Phe Đồng Minh đã thiết kế Bản Tuyên Bố Potsdam trong năm 1945, loan báo cuộc chiến chống phát xít đã chấm dứt và buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện. Bản Tuyên Bố cũng là căn bản pháp lý cho việc thực thi các điều khoản của Tuyên Ngôn Cairo và cơ chế hòa bình toàn cầu trong thời hậu chiến đang được thiết kế. Bản văn Tuyên Chiến với Nhật Bản ngày 9-12-1941 do chính quyền Trung Quốc công bố cũng đã ghi rõ “tất cả các hiệp ước, thỏa ước và hợp đồng liên can đến quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản sẽ bị hủy bỏ.” Tuyên Chiến với Nhật của Trung Quốc, Tuyên Ngôn Cairo, Tuyên Bố Potsdam và Hiệp Ước Yalta, cùng với các vụ xét xử phát xít hậu chiến, các bản án của tòa, và các sắp xếp định chế , đều là những phần quan trọng của hệ thống quan hệ quốc tế và hệ thống pháp lý quốc tế hiện đại sau Đệ Nhị Thế Chiến. Hiện nay tất cả vẫn còn hiệu lực bó buộc không thể tranh cãi. Hiện nay, trong khi thế kỷ mới đã đi vào thập kỷ thứ hai, Hoa Kỳ đã phát động chiến lược tái cân bằng trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chính quyền Nhật đã có những tác động gây hấn, khuấy động các tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia lân bang, không chút quan tâm đến trật tự thế giới được thiết kế sau khi cuộc chiến chống phát xít thành công. Các động thái nầy đã gây căng thẳng trong khu vực và đã cản trở các quốc gia khác trong vùng đang theo đuổi các mục tiêu hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Hành động của Nhật cũng là một trở ngại đối với chiến lược tái cân bằng của Hoa Kỳ. Trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, những luận cứ của Nhật đều sai lầm trên cả hai bình diện lịch sử và pháp lý. Một mặt, Nhật tự nhận là quốc gia đầu tiên ở Á Châu đã thiết kế “100 năm lợi thế trong hệ thống xã hội” nhờ ở sự khai triển chủ nghĩa đế quốc sau Thời Phục Hưng Minh Trị Thiên Hoàng, một nỗ lực bạch hóa lịch sử xâm chiếm lãnh thổ các xứ khác bằng vũ lực và thực thi chính sách thuộc địa ở Á Châu. Một mặt khác, Nhật nhấn mạnh hệ thống pháp lý quốc tế sau Đệ Nhị Thế Chiến vẫn chỉ là sự tiếp nối “hệ thống pháp lý hiện đại cơ sở trên Thỏa Ước Hòa Bình Westphalia. Nhật từ chối công nhận hệ thống pháp lý quốc tế đương đại được thiết kế cơ sở trên cuộc chiến chống phát xít và trật tự thế giới hậu chiến. Nhật lập luận, sự sáp nhập từ thôn tính thuộc địa là cội nguồn duy nhất của chủ quyền lãnh thổ. Bằng cách đó, chính quyền Nhật đã khuấy động nỗi luyến tiếc mang tính quốc gia chủ nghĩa trong quốc nội và phát động các đòi hỏi lãnh thổ trên thế giới. Những quan điểm lịch sử và luật quốc tế hữu khuynh nầy trái ngược với ý niệm công lý khai triển trong trật tự thế giới hậu chiến và cấu thành một vi phạm trắng trợn các nguyên tắc căn bản của hệ thống pháp lý quốc tế đương đại. Nhật đã dõi theo con đường hữu khuynh ngày một xa hơn kể từ khi Shinzo Abe trở lại nắm chính quyền. Abe đã tái thiết chế lý thuyết ông đã tìm cách thực thi trong suốt nhiệm kỳ đầu, nói rõ hơn, là trở lại khởi điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến và thay đổi hệ thống hậu chiến. Lấy lý do phục hồi ý thức lịch sử và văn hóa ưu việt của Nhật, Abe đã gợi ý xét lại hiến pháp chủ hòa thời hậu chiến của Nhật. Abe đã tỏ rõ ý muốn thay đổi quy chế của Nhật như một vịt què trên bình diện chính trị quốc tế trói buộc bởi Hoa Kỳ và mở ra một kỷ nguyên chính trị quốc tế mới. Trong chính quyền đối nội, Abe ấp ủ chủ nghĩa toàn trị và tìm kiếm quyền lực độc tôn của một thủ tướng. Ông đã bổ nhiệm nhiều bà con, bạn bè và con cháu của các bạn bè của các bậc cha anh vào các chức vụ thứ trưởng hay quan chức hành chánh. Những động thái nầy đã vi phạm nguyên tắc dân chủ: “các viên chức dân sự phải giữ thái độ trung lập chính trị.” Xúc tiến “hội nghị bảo đảm an ninh quốc gia mới đây” và “luật bảo vệ các tài liệu tối mật” của Abe đã phản ảnh khuynh hướng độc tài trong chính trị Nhật Bản. Những động thái nầy đã bị các cơ quan truyền thông quốc nội chỉ trích như “phủ nhận quyền tiếp cận thông tin của công chúng” và phục hồi (resurrection) Taisei Yohusankai hay “Hiệp Hội Trợ Giúp Đế Chế” (Imperial Aid Association), một tổ chức bán phát xít do giới quân phiệt Nhật tạo lập trước Đệ Nhị Thế Chiến. Về vấn đề Á Châu, chính quyền Abe đang theo đuổi “chiến lược cổng Á Châu” (Asia Portal strategy), chủ trương:”Nhật Bản là đại diện của Á Châu.” Một mặt, Nhật đang thúc đẩy mạng lưới bao vây Trung Quốc; một mặt khác, Nhật đang sử dụng TPP, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ, và chính sách quốc phòng hỗn hợp, để can thiệp vào chiến lược tái cân bằng Á Châu-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nhằm xây dựng một định chế cộng đồng Á Châu do Nhật khống chế loại trừ Trung Quốc và Hoa Kỳ, và chấm dứt trật tự Á Châu hậu chiến. Các quan điểm về lịch sử, luật quốc tế, và Á Châu của Nhật rõ ràng không những vi phạm Tuyên Ngôn Cairo chống phát xít, Tuyên Bố Potsdam, và Thỏa Hiệp Yalta, mà còn trực tiếp trái ngược với luật pháp quốc tế đương đại. Đó cũng là những quan điểm trái ngược với niềm tin chung vào hòa bình và công lý, và quyền lợi chung của các quốc gia Á Châu-Thái Bình Dương, cũng như quyền lợi của nhân dân Nhật. * * * Nói chung, sau quyết định tái cân bằng và tái cân bằng của tái cân bằng của người Mỹ, bàn cờ chính trị Á Châu-Thái Bình Dương đang diễn ra giữa các tay chơi: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, và ASEAN (không mấy thống nhất). Đã hẳn, đạt được thế cân bằng quyền lực giữa bốn tay chơi hay có thể nhiều hơn nữa là một nghị trình không dễ hoàn tất. Trong lúc chờ đợi, nhân loại chỉ còn có thể cầu nguyện cho hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới! Nguyễn Trường Irvine, California, USA 11-01-2014 ——————————————————————————– [1] …the US “is here to stay as a pacific power.” [2]“The last 10 years have been more anomaly than the standard,” says Vikram Singh, a deputy assistant defense secretary and principal adviser to the Pentagon’s top brass on South and Southeast Asian affairs. It’s unusual for the U.S. to fight two simultaneous large-scale wars, he says, adding the shift is about refocusing America’s vast resources on a part of the world “where stability is so important.” “We have been a Pacific power for generations,” he says, citing the continued American presence in Guam and Japan since the end of World War II. “This is not something new.” [3] “We can’t afford not to be there,” says Danny Russel, assistant secretary of State for East Asian and Pacific Affairs. “A strong U.S. presence in the region will be essential to peace and prosperity in the 21st century. To focus on the military aspect of the rebalance alone misses the bigger picture, Russel said in an email to U.S. News. “The goals of our rebalance are to modernize and deepen our Asian and Pacific alliances to more effectively cope with the challenges of the 21st century.” [4] “The Chinese people always have their love of peace,” Gen. Chang Wanquan said. “We insist related disputes be solved through dialogue and negotiation.[However,] nobody should fantasize that China would barter away our core interests, and no one should underestimate our will, and our determination in defending our territory, sovereignty and maritime rights.” [5] “It was unfortunate that the president couldn’t make it to Asia this summer. Especially in Asia, showing up means a lot.” [6] This is not a zero-sum game. The Pacific is big enough for everyone, and we are not looking for countries to choose between the U.S. and China.” [7] The Asia-Pacific is very much not just a capacities game, but it’s a perceptions game. [8] “They’re worried that the U.S. is going to again get sucked back into the Middle East and won’t be able to deter China,” she says. “Or, we won’t be willing to stand up to China in the event that China is using coercive means against them.” [9] “Countries that are weak and vulnerable and small feel they are under pressure to accommodate China, when in some cases they don’t want to,” she says. “If you’re close to China’s coastline, you feel you are vulnerable geographically.” [10] “If you have a hypersonic missile that can hit a carrier from a thousand miles away, what good does a carrier do you?” says Tom Snitch, an Asia expert who served as a nuclear and weapons control adviser to the State Department in the 1980s.When you start thinking about what [the Chinese] have been able to do when they put their political will behind it, and their resources behind it, you’re facing — if they continue to move in this direction — a real contestant to power in Asia.” [11] “This is not a static issue, it’s very dynamic,” says Glaser. “The Chinese are moving forward all the time. They are churning out lots of ships, lots of submarines. They have an enormous amount of missiles, highly accurate. It is challenging for the U.S. to maintain [its] ability to have access and freedom to maneuver. That’s a big question mark.” [12] “We see ourselves as a part of the family in this region,” says DOD’s Singh. There are times when the U.S. disagrees with its allies and disagrees among allies, he says. “We don’t want to be naive about how hard some of these things can be to address.” [13] “We will continue working with China both on areas where we agree and those where we disagree,” he says. “In order to tackle some of our most pressing challenges — climate change, non-proliferation, sustainable development — all countries of the region will have to work together.” [14] Not supporting the ANSF will greatly limit our ability to prevent the return of terrorist safe havens and a Taliban resurgence that threatens the Afghan government. Our enemies are hedging and contemplating whether the opportunity will arise for them to pursue their agendas.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 5, 2014 4:50:37 GMT 9
Kinh tế Mỹ đang phục hồi hay chậm lại?Đoàn Hưng Quốc Nền kinh tế Mỹ mang nhiều chỉ dấu trái ngược nên có một câu hỏi trị giá 65 ngàn đô-la * vẫn không được trả lời: liệu những biện pháp cứu vãn kinh tế từ năm 2007 đến nay có giúp Hoa Kỳ trên đà phục hồi, hay chỉ tạo ra một quả bóng khổng lồ đang chờ ngày bùng nổ trong tương lai? Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ cao điểm 10% vào tháng 12-2009 xuống còn 6.3% tháng 4-2014. Thị trường chứng khoán tăng 150% cũng trong khoảng thời gian này, trong lúc tại nhiều địa phương giá nhà khôi phục trở lại gần mức cao điểm của năm 2006. Tất cả đang là những dấu hiệu rất đáng khích lệ khiến Ngân Hàng Trung Ương (Federal Reserve) dự trù sẽ chấm dứt các khoảng kích cầu vào cuối năm và sẽ tăng lãi xuất ngân hàng vào đầu năm tới. Nhưng ngược lại GDP tăng trưởng rơi xuống chỉ còn 0.1% trong qúý một - một phần do mùa Đông giá buốt năm nay; rồi vọt lên 4% vào quý hai . Lương bổng lại tăng chậm, điều này hoặc do năng suất đứng khựng hoặc các việc làm màu mỡ tiếp tục chảy ra nước ngoài. Thị trường nhà đất chậm lại, trong lúc chứng khoán vốn đã tăng trưởng liên tục từ 5 năm liệu có sẽ mất giá hay không? Nổi thắc mắc là tại sao giá địa ốc và chứng khoán đang ở mức cao trong khi mức thu nhập của dân chúng không tăng thì làm sao có tiền mua nhà và cổ phiếu? Câu trả lời do Ngân Hàng Trung Ương kềm giữ lãi xuất ngân hàng đồng thời tung hàng ngàn tỷ USD vào thị trường để kích thích nền kinh tế. Mức lời quá thấp khiến người có tiền không thể tiết kiệm mà phải đầu tư vào địa ốc hay chứng khoán để kiếm lời cao hơn, tức là gián tiếp Ngân Hàng Trung Ương đã bơm ra hai quả bóng mới. Nay đến lúc Ngân Hàng Trung Ương phải ngưng các gói kích cầu thì liệu nhà đất và chứng khoán có còn đứng vững hay không vì chỉ dựa trên lãi xuất thấp hơn là giá cả mà lương bổng có thể gánh vác? Trước đây Ngân Hàng Trung Ương phải bơm tiền vào nền kinh tế vì các ngân hàng tư nhân siết chặt tín dụng không dám cho mượn tiền vào năm 2007-11 trong giai đoạn khủng hoảng. Thất nghiệp lên cao, giá nhà và cổ phiếu rơi xuống tận đáy nên Ngân Hàng Trung Ương phải tung ra các gói kích cầu, mục tiêu khi giá nhà và cổ phiếu tăng sẽ tạo ra nhu cầu tiêu thụ; mức cầu tăng nên hảng xưởng sẽ mướn thêm nhân viên để nâng mức cung. Vòng xoáy nói trên tiếp diễn đến lúc nền kinh tế có đủ trớn phục hồi mà không cần sự trợ giúp của Ngân Hàng Trung Ương nửa – cũng giống như đẩy chiếc xe đang hư cho đến khi máy nổ. Nhưng cũng có lúc xe ngừng đẩy thì… khựng luôn. Nếu Ngân Hàng Trung Ương chấm dứt kích thích trong khi lương bổng và năng suất không tăng thì bong bóng địa ốc và chứng khoán phải xì hơi. Khi đó Ngân Hàng Trung Ương lại phải tiếp tục kích cầu dài hạn để tránh rơi vào một cuộc khủng hoảng mới. GDP tăng chậm tức là Mỹ khó trả núi nợ hiện thời, trong khi Ngân Hàng Trung Ương cứ tiếp tục in bạc sẽ đến một lúc thế giới không còn tin vào đồng đô-la cũng như khả năng trả nợ của nước Mỹ. Thế giới (nhất là Tàu) sẽ ngưng không cho Mỹ vay tiền trong lúc tiền đô-la mất giá. Khi đó Hoa Kỳ có thể bị phá sản và lạm phát phi mã để rơi vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Để hiểu mức độ trầm trọng của vấn đề: cuộc Đại Suy Trầm 2007 xảy ra do 1500 tỷ bong bóng tín dụng trong địa ốc. Nhằm thoát khỏi khủng hoảng nên Ngân Hàng Trung Ương bơm 4000 tỷ vào nền kinh tế từ đó đến nay. Chẳng ai biết liệu đây có sẽ là một bong bóng kinh hoàng nhất hay không. Phái lạc quan dẫn chứng nhiều dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ đang hồi phục, trong lúc cánh bi quan phân tích các mâu thuẩn trong những con số chứng minh nước Mỹ sắp rơi vào khủng hoảng. Ai đúng hay sai, ngay cả Ngân Hàng Trung Ương cũng không có câu trả lời mà phải dựa vào những chỉ số hàng ngày để đối phó. Đây không chỉ là cuộc tranh luận giữa các kinh tế gia mà sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến hàng triệu gia đình và hàng tỷ con người trên hành tinh. *** * Câu hỏi trị giá 65 ngàn đô-la dịch từ tiếng Mỹ là “65 thousand dollar question”. Đây là lối nói đùa khi đưa ra câu hỏi quan trọng nhưng không có trả lời. *********************************************************** Bà Yellen tiên đoán kinh tế Mỹ tăng tốc trong năm 2014Bà Janet Yellen, người nhậm chức Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ dự đoán kinh tế Mỹ sẽ tăng tốc trong năm 2014 09.01.2014 Bà Janet Yellen, sắp tiếp quản chức đứng đầu ngân hàng trung ương Hoa Kỳ đầy thế lực vào tháng tới, nói bà dự đoán nền kinh tế Mỹ sẽ tăng tốc trong năm 2014. Bà Yellen nói với tạp chí Time: “Tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy mức tăng trưởng mạnh hơn trong năm nay.” Bà nói các nhà quyết định chính sách của Quỹ Dự trữ Liên bang đang hy vọng nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng thêm 3% hay hơn trong năm 2014. Nền kinh tế hoa Kỳ tăng 2,6% trong suốt 9 tháng đầu năm ngoái, nhưng ghi nhận mức tăng 4,1% trong thời kỳ từ tháng 7 đến tháng 9. Trong khi các kinh tế gia cho rằng mức tăng của quý 4 có thể không nhanh đến thế, ngân hàng trung ương Hoa Kỳ nói nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng ở mức trung bình trong những tuần lễ cuối của năm 2013. Bà Yellen, 63 tuổi, sẽ là người phụ nữ đầu tiên làm chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang trong lịch sử cả thế kỷ, kế nhiệm ông Ben Bernanke khi nhiệm kỳ 8 năm của ông kết thúc vào cuối tháng 1. Trong tư cách đứng đầu ngân hàng trung ương giám sát nền kinh tế lớn nhất thế giới, các quan điểm của bà có thể đóng một vai trò quan trọng trong giới kinh tế toàn cầu. Trong cuộc phỏng vấn với báo Time, bà Yellen nói sự phục hồi của Hoa Kỳ sau cuộc suy thoái nặng vào năm 2008 và 2009 đã “chậm chạp một cách đáng buồn.” Nhưng bà nói Hoa Kỳ đang “đạt được tiến bộ trong việc đem công ăn việc làm trở lại cho dân chúng,” và Quỹ Dự trữ Liên bang hy vọng mức lạm phát của Hoa Kỳ sẽ nhích cao thêm một chút tới mục tiêu 2% của ngân hàng. Các ý kiến của bà Yellen về tiến bộ của nền kinh tế Hoa Kỳ được nhiều người khác chia sẻ, trong đó có ông James Glassman, kinh tế gia trưởng tại ngân hàng JPMorgan, ngân hàng lớn nhất nưóc. Ông nói với đài VOA rằng ông hy vọng vào lúc các vấn đề kinh tế dịu bớt ở châu Âu và ở Hoa Kỳ, nền kinh tế Mỹ sẽ tăng tưởng 3,75% hay hơn trong năm nay và thậm chí còn nhanh hơn trong năm tới. Ông Glassman giải thích: “Suy nghĩ chính là vụ khủng hoảng Âu châu sẽ phai nhạt. Châu Âu có thể không tăng trưởng nhanh như thế, nhưng sẽ khác xa với năm ngoái. Các vấn đề nhà đất ở Hoa Kỳ dường như đã hết. Và khu vực tài chính, đã trì trệ trong nhiều năm qua, dường như bắt đầu ổn định. Vì thế, có rất nhiều lý do để nghĩ rằng 2014 sẽ là một năm tốt hơn, một năm tăng trưởng nhanh hơn.” Bà Yellen bênh vực chương trình kéo dài của Quỹ Dự trữ Liên bang định mua hàng tỷ đôla chứng khoán để bơm thêm tiền vào nền kinh tế Hoa Kỳ, những khoản mua nay đang tiết giảm dần vào lúc nền kinh tế Hoa Kỳ khá hơn. Bà Yellen nêu ra rằng những người chỉ trích chương trình nói rằng “chương trình chỉ giúp ích cho người giàu,” nhưng bà nói việc mua chứng khoán đã giúp kìm mức lãi suất dài hạn và khuyến khích sự chi tiêu của giới tiêu thụ. ************************************************************************************* 9 lý do kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục thống trị thế giới Thanh Niên (TNO) Trong bối cảnh nền kinh tế Mỹ đang dần phục hồi, ngân hàng thương mại hàng đầu nước Mỹ US Trust đã đưa ra những lý do chứng minh nền kinh tế hàng đầu thế giới này sẽ tiếp tục dẫn đầu trong nhiều năm tới. Nhiều nhà đầu tư toàn cầu đang lo lắng về chính sách tiền tệ mạo hiểm của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng của châu Âu và nguy cơ khủng hoảng tín dụng của Trung Quốc... Kinh tế Mỹ được dự đoán vẫn sẽ đứng đầu thế giới trong nhiều năm tới - Ảnh: Reuters Tuy nhiên, trang tin Business Insider (Mỹ) ngày 22.6 đăng tải báo cáo của Joseph Quinlan, người đứng đầu bộ phận phân tích chiến lược thị trường tại Ngân hàng US Trust, nêu ra 9 lý do cho thấy kinh tế Mỹ sẽ đứng yên tại vị trí số 1 thế giới trong nhiều năm nữa: 1. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất và có năng suất cao nhất thế giới: Dân số Mỹ chỉ bằng 4,5% dân số thế giới nhưng nước này hiện chiếm đến 1/5 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu. Quy mô kinh tế Mỹ lớn gần gấp đôi kinh tế Trung Quốc nếu tính bằng USD, theo US Trust. Ngoài ra, Mỹ còn là một trong số ít các quốc gia phát triển có GDP thực cao hơn mức đạt được trước khi cơn khủng hoảng kinh tế xảy ra hồi năm 2008. 2. Mỹ dẫn đầu thế giới về lượng hàng hóa sản xuất: Sản lượng sản xuất hàng hóa của Mỹ có tổng trị giá là 1.900 tỉ USD trong năm 2012, tăng 27% so với năm 2009. Số lượng nhân công trong lĩnh vực này cũng đã tăng thêm 500.000 người kể từ năm 2010, theo số liệu thống kê của US Trust. 3. Mỹ là một trong những nước xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ lớn nhất thế giới: Kim ngạch xuất khẩu của cả năm 2012 đạt giá trị 2.200 tỉ USD, tăng gần 40% so với năm 2009, US Trust cho hay. 4. Nhà đầu tư nước ngoài vẫn thích đổ tiền vào Mỹ: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Mỹ trong những năm sau khủng hoảng đạt mức 736 tỉ USD, tương đương 15% tổng lượng vốn FDI của toàn thế giới, theo số liệu thống kê của US Trust. 5. Mỹ có những thương hiệu hàng đầu thế giới: Trong năm 2013, chín trong số 10 thương hiệu có giá trị cao nhất thế giới đều là của các công ty Mỹ, theo nghiên cứu thường niên BrandZ về 100 thương hiệu hàng đầu thế giới của hãng Millward Brown (Mỹ). 6. Mỹ dẫn đầu thế giới về công nghệ: US Trust nhận định Mỹ vẫn là nhà của các trang mạng xã hội hàng đầu thế giới, đồng thời vượt xa các nước khác về lượng tiền chi tiêu cho phát triển công nghệ. 7. Mỹ có những trường đại học tốt nhất thế giới: Sáu trong số 10 trường đại học tốt nhất thế giới trong năm 2012 đều có xuất xứ từ Mỹ, theo đánh giá của công ty chuyên về giáo dục và du học Quacquarelli Symonds (Anh). 8. USD là tiền tệ “vua”: Các nước trên thế giới hiện vẫn trữ USD. Báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết USD chiếm đến 62% dự trữ tiền tệ toàn cầu trong quý 4 năm 2012. 9. Mỹ có trữ lượng dầu mỏ khổng lồ: Sản lượng khai thác dầu trong nước của Mỹ lần đầu tiên vượt qua lượng nhập khẩu trong 16 năm trở lại đây, US Trust cho hay. Mỹ sẽ qua mặt Ả Rập Xê Út để trở thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới vào năm 2017 và là nhà xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới vào năm 2020, theo báo cáo nghiên cứu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). Hoàng Uy
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 4, 2015 5:43:53 GMT 9
Câu Chuyện Thuế Và Trợ Cấp 03/02/2015 Vũ Linh
Loại tới 1/3 dân Mỹ ra khỏi thống kê thì làm sao tỷ lệ không xuống thấp được...
Toà Bạch Ốc vẫn còn trong tay Dân Chủ (DC), nhưng bước vào năm 2015, sẽ không ai có thể bác bỏ vai trò của đối lập được nữa. Đảng Cộng Hoà (CH) sẽ kiểm soát cả hai viện quốc hội liên bang và 31 tiểu bang, kể cả những tiền đồn cấp tiến nhất như Massachusetts, Maryland, Maine, và tiểu bang nhà của TT Obama, Illinois. Trong 10 tiểu bang đông dân nhất, CH nắm 7. Trong 99 viện quốc hội (thượng và hạ viện) của 50 tiểu bang, CH kiểm soát 70. Nói cách khác, ngoại trừ Tòa Bạch Ốc, CH kiểm soát phần chính trị Mỹ.
Việc đảng CH chia quyền với đảng DC sẽ làm không ít người mất ăn mất ngủ. Trong suốt 6 năm qua, TT Obama và đảng DC đã tô vẽ một bức tranh thật kinh hoàng về đảng đối lập CH.
Đó là đảng của tài phiệt, 1% nhà giàu da trắng, những người chỉ tìm cơ hội bóc lột người nghèo, lại còn muốn cho đám dân nghèo bệnh tới chết mà không cho bảo hiểm sức khỏe. Là đảng sẽ cắt trợ cấp, tiền già, tiền thuốc. Đảng của các đại công ty trốn thuế, mang công ăn việc làm của dân Mỹ ra ngoài nước, tạo nên thất nghiệp. Đảng của các ngân hàng ăn cướp đã gây ra khủng hoảng gia cư khiến cả triệu người tan nhà nát cửa. Cũng là đảng luôn đi ngược lại đà tiến hoá của nhân loại, chống lại những khuynh hướng tân thời, văn minh tiến bộ như tự do phá thai, hôn nhân đồng tính, tự do ma túy, không tin việc hâm nóng địa cầu mà lại coi thường ô nhiễm kỹ nghệ để bảo vệ các đại công ty. Đảng CH cũng chủ trương chống dân da màu cho dù là da đen, nâu hay vàng, đặc biệt là chống di dân Nam Mỹ. Đối ngoại, đó là đảng cao bồi đế quốc, chủ trương thí mạng thanh niên Mỹ, đi đánh tất cả những nước nào không phục tùng quyền lợi cua tài phiệt Mỹ. Tóm lại CH là party of NO, chỉ biết chửi bới lung tung như hàng tôm hàng cá thôi, không có kế hoạch, chương trình, ý kiến gì. Nghe mà lạnh người!
Guồng máy tuyên truyền của Nhà Nước Obama, với sự hỗ trợ của truyền thông dòng chính đã in sâu những hình ảnh này trong tâm lý quần chúng, nhất là trong giới những người ít suy nghĩ, không thích suy nghĩ, không có thời giờ suy nghĩ, hay có thành kiến bất di dịch rồi.
Thật ra, đa số dân Mỹ sáng suốt hơn TT Obama nghĩ khi họ trao quyền cho đảng CH. Bất chấp truyền thông dòng chính phổ biến những hình ảnh kinh hồn của CH, đa số dân Mỹ vẫn nhìn đảng này một cách tinh tế hơn, và cảm thấy đảng này gần với những giá trị cơ bản của họ hơn, và những tố giác của TT Obama không đúng sự thật, hoặc là phóng đại thêm lông thêm cánh quá mức. Truyền thông cấp tiến ngạc nhiên trước chiến thắng lớn của CH trong cuộc bầu vừa qua, chỉ vì từ quá lâu nay, họ đã tin vào những huyền thoại mà chính họ đã tạo dựng ra.
Bài này sẽ nhìn lại vài huyền thoại được phổ biến rộng rãi về đảng CH để ta có cái nhìn chính xác hơn. Cũng phải nói ngay để tránh hiểu lầm, kẻ viết này chẳng có ân oán cá nhân thương ghét gì với đảng DC hay CH. Kẻ viết này chỉ trình bày quan điểm chủ quan cá nhân. Thông tin thì bắt buộc phải khách quan và trung thực, không thể phiạ tin, nhưng bình luận thì tất nhiên là chủ quan một chiều, người thấy đúng, người cho là sai.
Lý do của những bài viết này: để quý độc giả có được hình ảnh từ cả hai phiá của các vấn đề thời sự. Chuyện gì cũng có hai mặt, một mặt do truyền thông dòng chính cấp tiến phổ biến quá rộng rãi, được không ít báo tỵ nạn ta lập lại, và một mặt khác xa mà truyền thông dòng chính phớt lờ. Muốn đọc về “tội lỗi” của Bush và sự “tuyệt vời” của Obama? Bất cứ báo lớn nào của Mỹ cũng đầy rẫy, báo tỵ nạn ta cũng không ít. Muốn biết những sai lầm của Obama, đọc New York Times sẽ rất khó thấy. Đồng ý với mặt nào là lựa chọn cá nhân của mỗi độc giả.
Dưới đây là một vài vấn đề chính, một cách thật ngắn gọn, dù đó là những vấn đề phức tạp nhất. Ở đây, ta chỉ tạm bàn về những vấn đề kinh tế, xã hội, không bàn đến những chính sách đối ngoại, chống khủng bố, quốc phòng...
- CH là đảng của nhà giàu, tài phiệt? Trong 10 thượng nghị sĩ liên bang giàu nhất, có 7 vị là DC, trong đó có John Kerry, Ted Kennedy, Jay Rockefeller,... Trong hai cuộc bầu cử tổng thống năm 2008-2012, hai phần ba số tiền các tài phiệt Wall Street yểm trợ chạy về phiá Obama, một phần ba về phiá McCain và sau đó, Romney. Khi những đại gia cấp tiến như George Soros yểm trợ bạc triệu cho DC thì truyền thông không đăng tin. Khi các đại gia bảo thủ như anh em Koch yểm trợ tiền cho CH thì truyền thông chu chéo “CH bị tài phiệt chi phối”, phổ biến tài liệu bôi bác những tài phiệt đó. TT Obama đắc cử năm 2008 nhờ thu được hơn 700 triệu đô, một con số hồi đó chưa từng thấy trong lịch sử Mỹ, không phải tiền cò con của sinh viên và dân da màu như quảng bá (khối này lấy tiền đâu ra nhiều thế?), mà là từ những tỷ phú như Soros, Tom Steyer, và các đại nghiệp đoàn bắt dân lao động phải đóng tiền cho các tổ chức vận động chính trị gọi là PAC, Political Action Committees, và từ Wall Street.
- Mỗi lần có bầu cử là DC lại dọa CH sẽ cắt tiền già, Medicare, Medicaid, tiền thất nghiệp,... Trải qua 7 đời tổng thống CH từ sau Thế Chiến II, chưa có đồng nào bị cắt mà chỉ có tăng đều chi. Dù vậy, vẫn không ít người tin CH sẽ cắt trợ cấp vì DC vẫn nhồi sọ chuyện cắt trợ cấp như một vũ khí hữu hiệu đối với dân nghèo để lấy phiếu của họ. Bà cụ thân sinh của kẻ viết này khi sinh tiền, sợ đảng CH hơn sợ đảng CS: “Chết, chết, tụi nó sẽ cắt hết tiền già, tiền thuốc của tao!”. Cho dù trong những năm cuối đời, dưới các TT Reagan, Bush cha và con, bà toàn sống nhờ tiền già và medicare mà chẳng bị cắt đồng nào. Câu chuyện của bà cụ là câu chuyện chung của phần lớn dân tỵ nạn chúng ta.
- CH chỉ lo giảm thuế các đại công ty? Đây chỉ là chuyện khác biệt chính sách kinh tế. CH chủ trương giảm thuế công ty để khuyến khích công ty gia tăng sản xuất, tạo công ăn việc làm, làm chiếc bánh lớn ra, tất cả mọi người đều có phần lớn hơn. Trong khi TT Obama chủ trương tăng thuế để có tiền tăng trợ cấp, gọi là tái phân phối lợi tức theo mô thức xã hội chủ nghiã, cái bánh có sao cứ để vậy, chỉ cần lấy của những người “có nhiều” chia lại cho những người “có ít”. Thay vì có chính sách tạo công ăn việc làm thì TT Obama chủ trương lấy thuế nhà giàu để nuôi người thất nghiệp. Thực tế, đó là chính sách hữu hiệu để lấy phiếu của cử tri nghèo cần trợ cấp, nhờ đó đắc cử năm 2008 và tái đắc cử năm 2012.
- Ta đọc chuyện Tầu, vua quan lâu lâu mở lòng tốt, giảm thuế cho dân, được cả nước tung hô vạn tuế. Trong lịch sử cận đại Mỹ, hai tổng thống cắt thuế cho dân đều là CH: Reagan và Bush con. Hơn 40% dân nghèo không phải đóng thuế chẳng thấy gì khác, chỉ thấy báo đăng những người giàu hơn mình đang phải đóng thuế, sẽ được bớt thuế, sợ Nhà Nước mất tiền, sẽ bớt trợ cấp, nhao nhao phản đối việc “cắt thuế nhà giàu”. Dân trung lưu được bớt vài ngàn tiền thuế khiếu nại khi thấy mấy ông nhà giàu được trừ mấy trăm ngàn tiền thuế. Họ quên mấy ông đại gia đó, sau khi được bớt vẫn còn phải đóng cả triệu bạc thuế.
- Về chuyện CH chống bảo hiểm y tế toàn dân, muốn cho dân nghèo bị bệnh cho chết, sự thật, tổng thống đầu tiên cố gắng thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân là TT Nixon của CH năm 1972, nhưng thất bại vì bị đảng DC khi đó nắm đa số tại quốc hội chống phá. TĐ Romney của CH là thống đốc của tiểu bang duy nhất ở Mỹ áp đặt bảo hiểm y tế toàn dân trong tiểu bang. CH không chống bảo hiểm y tế toàn dân, chỉ là vấn đề khác biệt trong kế hoạch thực hiện, làm sao mọi người đều có bảo hiểm mà chi phí y tế không tăng vọt như mô thức Obamacare hiện nay. Ưu tiên của TT Obama là cung cấp bảo hiểm cho thêm hai ba chục triệu người, bất kể cái giá phải trả. Ưu tiên của CH là ngăn chặn gia tăng chi phí y tế cho hơn 300 triệu dân trong cái xứ mà chi phí y tế đã nổi tiếng cao nhất thế giới rồi.
- TT Bush và CH tiếp tay với tài phiệt tạo nên khủng hoảng kinh tế lớn nhất thế kỷ? Khủng hoảng gia cư đưa đến khủng hoảng tài chánh năm 2008 có nguyên nhân sâu xa trong 6 đời tổng thống từ TT Carter và leo lên mức khủng hoảng dưới TT Clinton trước khi nổ bùng dưới TT Bush. Đó là hậu quả trực tiếp của chính sách gia cư mỵ dân của TT Carter, bắt ngân hàng phải cho dân da màu mượn tiền tối đa để có thể sở hữu nhà riêng dù không đủ tiêu chuẩn (đẻ ra nợ “sub-prime”), tiếp theo bởi việc TT Clinton hủy bỏ phần lớn các luật lệ kiểm soát ngân hàng đã có từ thời TT Roosevelt để giúp việc cấp nợ dưới tiêu chuẩn dễ dàng hơn nữa. Cả chục cuốn sách nghiên cứu khủng hoảng này đã ra đời gần đây, quý độc giả có hứng thú có thể tìm đọc trước khi xếp hạng Bush đứng đầu sổ 25 thủ phạm.
Kẻ viết này xin được giới thiệu cuốn Reckless Endangerment của Gretchen Morgenson, là Chủ Bút trang Tài Chánh của New York Times, đã đoạt giải Pulitzer, là một loại giải Oscar trong ngành báo chí. New York Times và Morgenson tuyệt đối không phải là “fan” của Bush!
- Nạn thất nghiệp do Bush tạo ra đã được TT Obama chấm dứt? Kinh tế đã phục hồi? Truyền thông rầm rộ quảng bá tỷ lệ thất nghiệp đã xuống tới 5,6%. Không sai. Đáng hoan nghênh! Điều họ không nhắc tới là hiện nay có gần 93 triệu người Mỹ -gần một phần ba dân số, một kỷ lục chưa từng thấy- đã ra khỏi thị trường lao động, phần lớn vì thất nghiệp quá lâu, không tìm ra việc nữa hay không đủ tiêu chuẩn lãnh tiền thất nghiệp nữa. Loại tới một phần ba dân Mỹ ra khỏi thống kê thì làm sao tỷ lệ không xuống thấp được? Báo chí cũng rùm beng tăng trưởng kinh tế 5%. Đó là con số của đệ tam cá nguyệt 2014, đúng mùa chuẩn bị cho mua sắm Thanksgiving, Giáng Sinh, Tết Dương Lịch. Qua đệ tứ cá nguyệt, tăng trưởng kinh tế đã trở lại mức 2,5%, tương đối là mức đáng kể của TT Obama rồi. Một độc giả đã lưu ý các con số không thể nói láo –figures dont lie. Đúng vậy, nhưng vấn đề là khi đọc con số, như 5,6% thất nghiệp hay 5% tăng trưởng kinh tế, ta có hiểu là gì hay không.
- Vấn đề di dân bất hợp pháp, đằng sau tất cả những tranh cãi về tính nhân đạo và thượng tôn luật pháp, thật sự chỉ là chuyện đếm phiếu. DC không thương gì di dân lậu mà CH cũng chẳng ghét gì họ. Trái lại, rất nhiều ông bà nhà giàu mê di dân lậu vì siêng năng làm việc mà có thể trả lương thấp, chẳng cần bảo hiểm, cũng chẳng phải đóng thuế an sinh xã hội cho họ. Chỉ là khối này sẽ cần trợ cấp tối đa, do đó nếu được hợp thức hoá, sẽ bỏ phiếu cho DC vì tin tưởng sẽ được trợ cấp. DC hoan nghênh họ để lấy thêm cả chục triệu phiếu, trong khi CH chống lại vì... cũng biết đếm phiếu.
- CH là đảng chỉ giỏi chửi bới mà không có chương trình, kế hoạch gì hết? Không đúng. CH có chương trình bảo hiểm y tế của 3 TNS Richard Burr (NC), Tom Coburn (OK) and Orrin Hatch (UT) để thay thế Obamacare. CH cũng có kế hoạch giải quyết di dân lậu của TNS Marco Rubio (FL), là người cũng đã đề xuất một kế hoạch cải tổ hệ thống giáo dục cấp đại học cộng đồng cả năm trước rồi. Ít người biết đến vì truyền thông dòng chính không loan tin. Dù vậy có kế hoạch cho mọi chuyện cũng chưa hẳn là đúng, là hay. DC là đảng muốn làm vú em cho cả nước theo mô thức xã hội chủ nghiã, kế hoạch hoá từ cá nhân đến gia đình đến Nhà Nước. Thiên hạ chỉ cần nhậu BBQ, uống bia, coi football, đầu tháng đi lãnh trợ cấp, để Nhà Nước lo mà không có ý kiến gì khác là Nhà Nước sẽ rất vui. CH chủ trương hơi khác. Nhà Nước chỉ có vai trò giới hạn, càng ít can thiệp càng tốt. Hàng triệu dân Mỹ, các nhà kinh doanh, thầy giáo, dân buôn gánh bán bưng, kỹ sư, bác sĩ, sinh viên, các bà nội trợ, dân lao động, đó mới là những người góp ý dẫn dắt và điều hành guồng máy kinh tế thị trường cũng như guồng máy chính trị theo ý dân chứ không phải theo ý vài công chức ngồi trong phòng lạnh vẽ kế hoạch.
Mâu thuẫn DC – CH xuất phát từ những khác biệt quan điểm nghiêm chỉnh, và sự thành công hay thất bại của hai đảng trong các cuộc bầu cử đều tùy thuộc dư luận thời thượng của dân Mỹ và hoàn cảnh xã hội thời điểm đó. Cả hai đảng đều có điểm tốt điểm xấu, không có chuyện một đảng thiên thần, một đảng ma quỷ, một đảng chân thật, một đảng xảo trá, một đảng bảo vệ dân, một đảng giết dân.
Khác biệt cơ bản là trong quan niệm nhân sinh quan. DC là đảng của trợ cấp, của Nhà Nước vú em, từ trong bào thai cho đến xuống huyệt, biến người dân thành nô lệ của trợ cấp, trong khi CH là đảng của tự lực cánh sinh, Nhà Nước chỉ có một mạng lưới an toàn tối thiểu, bảo đảm không ai chết đói, chết bệnh, không ai bị bóc lột quá đáng, nhưng mọi người đều phải dùng cánh tay của mình để tiến thân. Tại sao đại đa số dân nghèo da màu bỏ phiếu cho DC? Vì trợ cấp. Tại sao đại đa số dân trung lưu da trắng bỏ phiếu cho CH? Vì sợ thuế.
Chính sách cấp tiến biến mọi người thành nô lệ của trợ cấp và bị trói tay trong hàng rừng luật lệ, chế ra bởi những công chức sáng cắp ô đi chiều xách cặp về, mỗi ngày cố nặn ra vài luật lệ gọi là đã lo cho dân. Bộ luật Obamacare đã lên đến 20.000 trang, dầy hơn hai thước khổ giấy lớn, mà vẫn chưa viết xong. Bảo đảm đám dân “ngu xuẩn” của GS Gruber sẽ không ai đọc mà có đọc cũng không thể hiểu gì.
Huyền thoại là những gì được xây dựng trên tuyên truyền giả tạo, dù vậy vẫn là những gì khó lay chuyển nhất khi đã ăn xâu vào tâm trí mọi người. Cái may mắn là trong thể chế tự do dân chủ của Mỹ, những người ôm cứng thành kiến chỉ là thiểu số, trong khi những người chịu mở mắt nhìn thực tế, và chấp nhận thay đổi trong sáng suốt mới là đa số. Bằng chứng rõ rệt nhất là xứ Mỹ này đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc bầu cử thay đổi lãnh đạo, thay đổi chính sách. Nếu tất cả dân Mỹ đều nhìn đảng CH như ác quỷ mà TT Obama mô tả thì không có lý do gì đảng của Lincoln, Eisenhower, Reagan,... vẫn tồn tại đến ngày nay trong một thể chế thực sự tự do mà người dân có quyền có lựa chọn, và bây giờ lại được trao quyền kềm chế một tổng thống Dân Chủ.
Dù vậy, cũng phải nhìn nhận nói chung, CH tuy không phải là ngáo ộp mà TT Obama mô tả, nhưng cũng là đảng càng ngày càng rẽ qua hướng bảo thủ, một phản ứng ngược đối với chính sách quá cấp tiến của TT Obama. Khối cực đoan Tea Party chính là hệ quả trực tiếp, phản ánh cái phản ứng ngược đó. Với hướng đi đó, càng ngày CH càng giới hạn cử tri của mình trong khối da trắng trung lưu trong khi khối này ngày càng nhỏ lại, phần nhỏ đã thành công leo lên giới thượng lưu, phần lớn hơn, nghèo đi, rơi vào khối “nghèo”. Thống kê mới nhất cho thấy dưới thời TT Obama, con số dân lãnh trợ cấp đã leo lên mức cao nhất lịch sử, phần lớn do thất nghiệp quá cao và quá lâu.
Câu hỏi đó có phải là chính sách có tính toán của TT Obama, cố tình lơ là vấn đề thất nghiệp như chính TNS Dân Chủ Schumer của New York đã nhìn nhận, để có thể thu phiếu cử tri nghèo và thất nghiệp không? Chưa kể với chính sách di dân của TT Obama, hàng chục triệu dân gốc Nam Mỹ sẽ gia nhập vào khối cử tri DC. Số phiếu cử tri mới quan trọng. Tiền bạc để tài trợ những trợ cấp chồng chất không thành vấn đề. Cứ tăng công nợ rồi hô hào tăng thuế “nhà giàu” là xong.
Thiên hạ quá nhiều người muốn và cần trợ cấp, ngày càng nhiều hơn nhờ chính sách của khối cấp tiến. Trên phương diện chính trị, đếm phiếu, DC dường như có một chiến lược lâu dài hiệu quả hơn CH rất nhiều, nhưng cái giá phải trả là càng ngày càng nhiều dân Mỹ lệ thuộc trợ cấp. Đó có phải là chính sách đúng để dân giàu nước mạnh không? Hay chỉ cần đảng ta thắng Tòa Bạch Ốc là được? (01-02-15)
Vũ Linh
47% Gia Đình Mỹ Tiêu Hết Tiền Thu Nhập, Mắc Nợ, Phải Rút Cả Tiền Tiết Kiệm Ra Xài 02/02/2015 Quỹ Dự Trữ Liên Bang tuyên bố phát triển kinh tế “vững chắc.” Nhưng nhiều phúc trình mới cho thấy hầu hết người Mỹ đang dẫm chân lên lằn ranh tài chánh nguy hiểm, nơi mà chỉ một cú trượt chân là phá sản.
Gần một nửa gia đình Myu4 – 47% -- nói rằng họ tiêu hết tiền thu nhập, rơi vào tình trạng nợ nần hay tiêu cả tiền tiết kiệm để đáp ứng những chi tiêu hàng năm, theo một phân tích về tài liệu thăm dò của Quỹ Dự Trữ Liên Bang được công bố hôm Thứ Năm bởi Pew Charitable Trusts.
Nếu chủ hộ gia đình giới trung lưu tiêu chuẩn có một khoảng thời gian thất nghiệp mà không có mức thu nhập, họ sẽ tiêu sạch những tiết kiệm có sẵn trong vòng 21 ngày, theo phân tích cho thấy. Nếu cùng gia đình đó cũng rút hết tiền đầu tư cho ngày về hưu, thì họ sẽ đốt sạch những số tiền đó trong vòng 4 tháng.
Không có sự nhiều sự uyển chuyển trong các ngân sách gia đình. Người Mỹ ngày càng chi tiêu thu nhập của họ cho chi phí nhà cửa, chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm và hưu bổng cá nhân kể từ năm 1984. Sau khi điều chỉnh lạm phát, chi tiêu trung bình hằng năm của họ gia tăng 6% tới 51,105 đô la trong cùng thời kỳ nói trên. Thu nhập của họ đã không thay đổi trong vòng 3 thập niên – gia tăng chỉ khi nào có “những thay đổi” của chính quyền như cắt giảm thuế và ngân phiếu An Sinh Xã Hội.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 5, 2020 9:49:01 GMT 9
Đảng Dân chủ muốn làm cách mạng XHCN tại Mỹ Xuân Thành • Thứ Hai, 29/06/2020 • Biên tập viên Joel B. Pollak của tờ Breitbart News (tờ báo cánh hữu tại Mỹ) hôm Chủ Nhật (28/6) đã đăng bài viết nhận định Đảng Dân chủ đang muốn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ông Pollak cho rằng ba sự kiện diễn ra tại Mỹ tuần qua cho thấy Đảng Dân chủ không chỉ muốn chuyển giao quyền lực nếu họ chiến thắng cuộc bầu cử tháng Mười Một, mà điều họ thực sự muốn là cách mạng hóa toàn hệ thống quản trị tại Mỹ.
Thứ nhất là sự kiện xảy ra hôm thứ Tư (24/6) khi Đảng Dân chủ chặn Thượng viện xem xét dự luật về cải cách lực lượng cảnh sát theo đề xuất của Thượng nghị sĩ Tim Scott.
Ông Tim Scott là người Mỹ gốc Phi. Ông đã dành nhiều năm để làm việc về vấn đề cải cách lực lượng cảnh sát Mỹ. Dự luật ông Scott đề xuất nhận được sự ủng hộ của Đảng Cộng hòa tại Thượng viện và ông cũng đã đồng ý cân nhắc bất cứ đề xuất sửa đổi nào của Đảng Dân chủ.
Nhưng Đảng Dân chủ đã sử dụng hình thức phát biểu ý kiến kéo dài (filibuster) để cố tình chặn Thượng viện thảo luận về dự luật này.
Theo ông Pollak, tình huống nêu trên cho thấy rằng Đảng Dân chủ không thực sự quan tâm tới chuyện cải cách lực lượng cảnh sát. Họ cũng không hề muốn đoàn kết nước Mỹ đằng sau bất kỳ hình thức thỏa hiệp lưỡng đảng nào. Họ chỉ muốn sử dụng vấn đề này trong các cuộc bầu cử vào tháng Mười Một với hy vọng họ sẽ thắng cả ở Hạ viện, Thượng viện và Tổng thống. Sau đó, họ có thể loại bỏ thủ tục filibuster và sẽ thông qua bất cứ dự luật nào mà họ muốn.
Câu chuyện thứ hai xảy ra vào thứ Năm (25/6) khi ban lãnh đạo thành phố Oakland, bang California phụ trách vấn đề trường học, đã bỏ phiếu nhất trí xóa bỏ lực lượng cảnh sát bảo vệ các trường học công lập tại địa phương này.
Trong khi vấn nạn xả súng tại trường học vẫn là một nỗi lo lớn, thì quan chức Oakland đã quỳ gối trước mong muốn của các nhà hoạt động phong trào Black Lives Matter và đã loại bỏ lớp bảo vệ rất quan trọng cho trẻ em trong thành phố này.
Đáng chú ý, tình huống trên không phải là câu chuyện đơn lẻ của riêng Oakland. Đảng Dân chủ tại Hội đồng thành phố Minneapolis, bang Minnesota hôm thứ Sáu (26/6) cũng đã bỏ phiếu đồng ý giải tán lực lượng cảnh sát thành phố này.
Ông Pollak cho rằng hành động đó của Đảng Dân chủ cho thấy đảng này không quan tâm tới các quyết định hợp lý về chính sách công. Họ chỉ muốn thực hiện một cuộc cách mạng.
Câu chuyện thứ ba xảy ra hôm thứ Sáu (26/6) khi Hạ viện do Đảng Dân chủ chiếm đa số đã bỏ phiếu thông qua dự luật tiểu bang D.C để biến thủ đô nước Mỹ trở thành bang thứ 51.
Ông Pollak nhận định đó là dự luật lố bịch. Washington D.C thậm chí không xứng là một thành phố bởi vì nó có diện tích còn nhỏ hơn cả thành phố Stockton, bang California. Hiện nay cũng không hề có nhu cầu quốc gia cấp bách nào để phải thêm một bang khác và phải sửa lại lá cờ quốc gia Mỹ.
Theo ông Pollak, lý do duy nhất mà Đảng Dân chủ muốn thêm một bang nữa là: họ muốn thêm hai Thượng nghị sĩ, những người sẽ luôn là người của Đảng Dân chủ. Điều này đồng nghĩa Đảng Cộng hòa sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc giành đa số ghế tại Thượng viện.
Khi chiếm đa số ghế lâu dài tại Thượng viện, và loại bỏ thủ tục filibuster, Đảng Dân chủ sẽ có thể thiết kế lại nước Mỹ, thậm chí họ không cần phải thông qua sửa đổi hiến pháp. Họ sẽ có thể gia tăng thẩm phán trong Tòa án Tối cao và đóng khung nó với đa số thẩm phán theo quan điểm cánh tả cấp tiến. Họ sẽ có thể cấp quyền công dân cho hơn 11 triệu người nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ để có thêm phiếu bầu. Họ cũng sẽ thông qua các chính sách xã hội chủ nghĩa như Thỏa thuận Xanh Mới (Green New Deal) và Chăm sóc Y tế Toàn dân v.v…
Ông Pollak cho rằng Đảng Dân chủ đã biết dự luật tiểu bang D.C sẽ không thể được thông qua trong thời điểm này, nhưng mục tiêu của họ là làm suy yếu sự phản đối để họ có thể thông qua dự luật này vào năm tới với sự phản đối tối thiểu nếu họ thắng lớn trong cuộc bầu cử tháng Mười Một.
Đảng Dân chủ đã có mục tiêu rõ ràng. Cách duy nhất để ngăn chặn cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của họ là phải đánh bại họ trong cuộc bầu cử tháng Mười Một, ông Pollak kết luận.
Xuân Thành
|
|
|
Nuớc Mỹ
Oct 25, 2023 16:53:54 GMT 9
Post by Can Tho on Oct 25, 2023 16:53:54 GMT 9
6 GIÁ TRỊ TẠI MỸ KHÔNG THỂ MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN
1. Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ cho bà lão. Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 ngàn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa. 2. Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng. Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau. 3. Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi. Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn. Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi ch.ết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án. Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác. Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó. 4. Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật. 5. Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch. Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ. Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng. 6. Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia. Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng. Roy Nguyen
|
|