|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:38:54 GMT 9
7. PHÊ BÌNH VÀ ĐÁNH GIÁ Ngày nay, sau một thế kỷ giông bão triết học đánh tới tấp lên nó, kiến trúc phức tạp ấy, bao gồm luận lý, siêu hình, tâm lý, đạo đức và chính trị, đã ra sao ? Thật là một điều vui mừng khi trả lời rằng phần lớn ngôi nhà đồ sộ ấy vẫn còn, và nền "triết học phê phán" là một biết cố có tầm quan trọng vĩnh cửu trong tư tưởng sử. Nhưng nhiều chi tiết và thêm thắt trong đó đã bị lung lay. Trước hết, có phải không gian chỉ là một "hình thức của cảm tính", không có thực tính khách quan biệt lập với tâm thức nhận biết nó ? Phải và không. Phải vì không gian là một khái niệm trống rỗng khi nó không được lấp đầy bằng những sự vật được tri giác; "không gian" chỉ có nghĩa rằng một vài sự vật nào đó đang hiện hữu đối với tâm thức năng tri, ở một vài vị trí hay khoảng cách nào đó quy chiếu theo những sự vật sở tri khác; và không một tri giác ngoại giới nào khả hữu nếu không là tri giác về sự vật trong không gian; thế thì không gian chắc chắn là một "hình thức tất yếu của cảm thức ngoại giới". Và không phải: vì chắc chắn rằng những sự kiện trong không gian như hiện tượng nhật thực hăng năm, mặc dù do tâm thức nhận biết, lại biệt lập với bất cứ tri giác nào: đại dương sâu và xanh thẳm vẫn tiếp tục cuồn cuộn trước khi Byron nói nó cuồn cuộn, và sau khi Byron không còn nữa. Không gian cũng không phải là một "tạo tác" của tâm thức qua sự phối hợp những cảm giác không có không gian; chúng ta tri giác không gian một cách trực tiếp qua tri giác đồng thời về những sự vật khác nhau và những điểm khác nhau như khi ta thấy một con sâu bò qua một bối cảnh đứng yên. Cũng thế: thời gian như một cảm thức về trước và sau, hay một đo lường của chuyển động, dĩ nhiên là chủ quan, và rất tương đối; nhưng một cái cây sẽ già tàn tạ và mục nát dù khoảng thời gian trôi qua có được tri giác hay không . Sự thật là Kant quá hăm hở chứng minh chủ-quan-tính của không gian, như một cách trú ẩn khỏi duy vật luận; ông sợ cái luận cứ cho rằng không gian là khách quan và phổ quát, thì Thượng đế phải hiện hữu trong không gian, do đó có tính cách không gian vật chất. Có lẽ ông nên bằng lòng với duy tâm luận kia đã đủ: nên duy tâm phê phán chứng minh rằng mọi thực tại được chúng ta biết đến, cốt yếu chỉ là cảm thức và ý tưởng của chúng ta. Con cáo già đã ham cắn nhiều quá nên nhai không hết. Và hơn nữa đáng lẽ Kant nên bằng lòng với tính cách tương đối của chân lý khoa học, không cần phải cố gượng đi đến ảo tưởng tuyệt đối. Những khảo cứu mới đây như của Pearson ở Anh, Mach ở Đức, Henri Poincaré ở Pháp, đều đồng ý với Hume hơn với Kant; mọi khoa học, ngay cả nền toán học khắt khe nhất, đều có tính cách tương đối trong những chân lý của chúng. Chính khoa học cũng không bận tâm về vấn đề ấy; trong khoa học, còn rất nhiều có thể. Chung quy, có lẽ tri thức "tất yếu" cũng không cần tất yếu gì cả ? Công trình lớn của Kant là đã chứng minh một lần dứt khoát rằng ngoại giới được chúng ta biết đến chỉ như một cảm giác; rằng tâm thức không phải chỉ là một bạch bản, một tabula rasa vô vọng, nạn nhân bất động của cảm giác, mà là một yếu tố tích cực, chọn lọc và tạo lại kinh nghiệm khi kinh nghiệm xảy ra. Chúng ta có thể rút bớt từ công trình này mà không tổn thương tính cách vĩ đại cốt yếu của nó. Chúng ta có thể mỉm cười, như Schopenhauer, trước một tá phạm trù của ông lò bánh mì đúng giờ khắc kia, những phạm trù được đóng hộp thành những bộ ba xinh xắn rồi được kéo ra, ép lại và giải thích quanh co và tàn bạo để thích hợp và bao quát mọi sự (sđd, vol II tr. 23). Và chúng ta lại còn có thể đặt nghi vấn:những phạm trù này, hay những hình thức giải thích của tư tưởng, có phải là bẩm sinh, có trước cảm giác và kinh nghiệm ? Có lẽ trong cá nhân, như Spencer đồng ý, mặc dù theo Spencer còn có yếu tố "tập thành" nhờ nòi giống. Song ngay ở cá nhân, những phạm trù ấy cũng có thể là tập thành: những rừng tư tưởng, thói quen tri thức và quan niệm, dần dần được sản xuất do cảm giác và tri giác tự sắp đặt một cách máy móc, đầu tiên theo những cách thế vô trật tự, rồi như do một loại đào thãi tự nhiên, trở nên có thứ lớp, thích ứng và sáng sủa. Chính ký ức đã phân loại và giải thích những cảm giác thành tri giác, và tri giác thành ý tưởng; mà ký ức là một sự tăng gia "hậu nghiệm". Sự nhất thể của tâm thức mà Kant nghĩ là bẩm sinh (nhất thể tính siêu nghiệm của tự thức - transcendental unity of apperception) thực ra là tập thành - và không phải ai cũng có; nó có thể bị đánh mất cũng như tìm lại được - trong tình trạng hôn mê, bản ngã thay đổi, hay điên cuồng. Những khái niệm là kết quả của một công trình chứ không phải thiên bẩm. Thế kỷ 19 đối xử khá tệ với đạo đức học của Kant, học thuyết về một ý thức đạo đức tuyệt đối bẩm sinh, tiên nghiệm. Nền triết học tiến hoá nhất định cho rằng ý thức bổn phận là một ý thức mà xã hội đã đặt vào cho cá nhân, nội dung của lương tâm là tập thành, mặc dù khuynh hướng mơ hồ tuân theo đạo đức xã hội là một khuynh hướng bẩm sinh. Cái ngã đạo đức, con người xã hội, không phải là "sự sáng tạo đặc biệt" nào đến một cách huyền bí từ Thượng đế, mà là một sản phẩm mới đây của một nền tiến hoá chậm chạp. Đạo đức không tuyệt đối: đấy là một quy điều xử thế được phát triển có phần nào ngẫu nhiên để thích ứng với sự sống còn của đoàn thể và thay đổi theo bản chất và hoàn cảnh của đoàn thể. Một dân tộc bị kềm thúc giữa kẻ thù, ví dụ, sẽ xem là vô luân cái chủ nghĩa cá nhân đầy hăng hái và lăng xăng mà một quốc gia có tài sản bảo đảm và sống biệt lập, sẽ dung túng, xem như một yếu tố cần thiết cho việc khai thác những tài nguyên thiên nhiên và sự lập thành cá tính dân tộc. Không có hành vi nào tự nó là thiện như Kant tưởng (Phê bình lý trí thực tiễn, tr. 31). Tuổi trẻ ngoan đạo của Kant , cuộc đời cam go đầy bổn phận và hiếm thú vui, đã khiến ông có khuynh hướng đạo đức; cuối cùng ông đi đến chỗ binh vực bổn phận vì bổn phận, và như thế vô tình ông rơi vào tay của tuyệt-đối-luận kiểu Phổ (Dewey, German Philosophy and Politjus). Có một vẻ gì mang tính chất thần học Calvin khắc khổ trong sự đối chọi bổn phận với hạnh phúc ấy. Kant tiếp nối Luther và thời đại cải cách của phái khắc kỷ, như Voltaire kế thừa Montaigne và thời Phục hưng chủ nghĩa Epicure. Ông tượng trưng một phản ứng nghiêm khắc chống lại lòng vị ngã và hưởng lạc mà Helvetius và Holbach đã lập thành công thức cho đời sống vào thời đại bạt mạng của họ, hệt như Luther đã phản ứng lại sự dâm đãng phóng dật của Ý ở Địa trung hải. Nhưng sau một thế kỷ phản ứng lại tuyệt đối luận của nền đạo đức Kant, chúng ta lại thấy mình rơi vào tình trạng hỗn loạn của dục lạc và vô luân, của cá nhân chủ nghĩa tàn bạo không đi đôi với ý thức dân chủ hay danh dự quí tộc, và có lẽ sắp đến ngày mà một nền văn minh phân hoá sẽ lại chào đón " tiếng gọi trở về bổn phận" của Kant. Điều kỳ lạ trong của Phê bình thứ hai, là Kant đã mạnh mẽ phục hồi những ý tưởng tôn giáo về Thượng đế, tự do và bất tử, mà cuốn Phê bình đầu rõ ràng đã phá huỷ. Paul Ree bảo: "Đọc tác phẩm Kant, ta có cảm tưởng đang ở trong một chợ phiên thôn quê. Bạn có thể mua nơi ông bất cứ gì bạn cần: tự do ý chí hay sự tù hãm ý chí, duy tâm và chối bỏ duy tâm, vô thần luận và Đức Chúa Trời. Như một người làm trò lôi ra từ một chiếc mũ trống, Kant cũng lôi ra từ khái niệm bổn phận một Thượng đế, Bất tử và Tự do, làm cho độc giả ngạc nhiên vô cùng" (Trong Untermann, Science and Revolution, Chicago, 1905, tr.81). Schopenhauer cũng nhận xét như sau về thuyết bất tử và nhu cầu ban thưởng: "Đức hạnh của Kant, ban đầu sử sự khá oanh liệt đối với vấn đề hạnh phúc, nhưng sau lại mất tự chủ và chìa tay xin một khoản tiền nước" (Paulsen, tr. 317). Nhà bi quan vĩ đại này tin rằng Kant thực sự là một người hoài nghi, sau khi tự mình đã bỏ đức tin, lại ngần ngại không muốn phá hoại niềm tin của người khác vì sợ những hậu quả tai hại cho đạo đức tập thể. "Kant phơi bày sự thiếu nền tảng của thần học duy lý, song để yên nền thần học của nhân gian, đúng hơn ông còn thiết lập nó dưới một hình thức cao quý hơn, ấy là một đức tin căn cứ trên cảm thức đạo đức. Điều này về sau bị những triết gia bá láp xuyên tạc thành ra sự hiểu biết thuần lý, ý thức về Thượng đế v.v., trong khi trái lại, khi phá huỷ những sai lầm cũ vốn được tôn trọng và biết rõ mối nguy của hành động ấy, Kant chỉ mong nương vào nền thần học đạo đức này để thay thế một vài cột trụ yếu ớt chống đỡ tạm thời, để cuộc đổ nát khỏi đè ập lên ông, hầu ông có thì giờ tẩu thoát" (Thế giới kể như ý dục và biểu tượng, q. II, tr.129). Cũng thế Heine, có lẽ cố ý vẽ tranh hoạt kê đã trình bày Kant , sau khi phá huỷ tôn giáo, đi dạo một vòng với lão bộc Lampe và thình lình thấy đôi mắt người tớ già đẫm lệ. Lúc ấy Immanuel Kant động lòng trắc ẩn, chứng tỏ ông ta không những chỉ là một đại triết gia, mà còn là một người tốt bụng. Vừa tử tế, vừa mỉa mai, Kant bảo: "Già Lampe này phải có một Thượng đế, nếu không y không thể sung sướng được. Lý trí thực tiễn bảo thế, vậy thì ta hãy cho phép lý trí thực tiễn bảo đảm hiện hữu của một Thượng đế " (Paulsen trích dẫn, tr. 8 - sđd.). Nếu những giải thích nầy đúng, thì đáng lẽ chúng ta phải gọi cuốn Phê bình thứ hai là một Phi cảm giác học siêu nghiệm. Tuy nhiên không cần phải quá chú trọng đến những thay đổi này trong tâm hồn Kant. Tính chất hăng hái của bài tiểu luận về "Tôn giáo trong giới hạn của lý trí" cho thấy một sự chân thành nồng nhiệt quá hiển nhiên; và nỗ lực để thay đổi nền tảng của tôn giáo từ thần học ra đạo đức, từ tín điều ra đức hạnh, một nỗ lực như thế chỉ có thể xuất phát từ một tâm thức có thái độ tôn giáo rất sâu xa. Kant viết cho Moses Mendelssohn vào năm 1766: "Quả thế, tôi suy nghĩ nhiều điều với niềm xác tín rõ rệt nhất mà tôi chưa bao giờ có can đảm nói ra, nhưng tôi sẽ không bao giờ nói lên một điều gì mà tôi không suy nghĩ kỹ" (Paulsen, tr.53). Dĩ nhiên, một thiên cảo luận dài và tối nghĩa như cuốn Phê bình vĩ đại ấy bắt buộc phải chuốc lấy những lối giải thích thù nghịch; một trong những bài tường thuật đầu tiên về tác phẩm ấy do Reinhold viết vài năm sau khi nó ra đời, đã nói nhiều điều như chúng ta có thể nói ngày nay: "Cuốn Phê bình lý tính thuần tuý đã được các nhà giáo điều cho rằng đấy là nỗ lực của một người hoài nghi để phá vỡ tính cách xác định của mọi tri thức; những nhà hoài nghi thì cho đấy là một tác phẩm đầy kiêu căng tự phụ muốn dựng lại một hình thức giáo điều mới trên những đổ nát của các hệ thống trước đấy; những nhà siêu nhiên luận thì cho đấy là một ngón mưu mô để dẹp những nền tảng lịch sử của tôn giáo và để thiết lập tự-nhiên-luận; những nhà tự nhiên học thì bảo đấy là một vật chống đỡ cho triết học đức tin đang độ suy tàn; những nhà duy vật thì cho đấy là một duy tâm luận mâu thuẫn với thực tại của vật chất; những nhà duy tâm thì cho rằng Kant đã giới hạn một cách vô căn cứ mọi thực tại vào thế giới vật chất, được che dấu dưới danh từ "lãnh vực kinh nghiệm" (Ibid., p. 14). Thật ra sự vinh quang của tác phẩm nằm ở chỗ nó thưởng ngoạn tất cả những quan điểm trên; và đối với một trí thông minh sắc bén như của Kant thì rất có thể ông đã dung hoà tất cả những dị biệt kia trong một nhất thể chân lý phức tạp chưa từng thấy trong lịch sử triết học. Về phương diện ảnh hưởng của Kant, toàn thể tư tưởng triết học thế kỷ 19 đều xoay quanh những tư duy của ông. Sau Kant, toàn thể Đức quốc bắt đầu nói chuyện siêu hình : Schiller và Goethe nghiên cứu Kant, Beethoven đầy thán phục trích dẫn câu nói thời danh của Kant về hai điều kỳ diệu của cuộc đạo đời: "Bầu trời đầy sao ở trên đầu, luật đạo đức ở trong hồn"; và Fichte, Hegel, Schelling, Schopenhauer liên tiếp sản xuất những tư tưởng hệ vĩ đại được nuôi dưỡng từ thuyết danh từ của vị hiền nhân già thành Koenigsberg. Chính vào những ngày tốt đẹp này của siêu hình học Đức quốc, Jean Paul Richter đã viết: "Thượng đế đã cho người Pháp đất đai, người Anh biển cả, và người Đức đế quốc của không khí". Nền triết học phê phán của Kant về lý tính và ca ngợi cảm thức đã sửa soạn cho thuyết Ý Chí của Schopenhauer và Nietzsche, thuyết Trực Giác của Bergson và thuyết Thực Dụng của William James. Sự đồng nhất theo Kant giữa luật của tư tưởng với luật của thực tại đã đem lại cho Hegel một hệ thống triết học toàn vẹn và vật-tự-thân bất-khả-tri của ông đã ảnh hưởng đến Spencer nhiều hơn Spencer tưởng. Phần lớn sự tối nghĩa của Carlyle có thể truy tầm nguyên do ở chỗ ông cố diễn tả theo lối ẩn dụ, tư tưởng vốn đã tối nghĩa của Goethe và Kant , theo đó những nền tôn giáo và triết học khác nhau chỉ là những bộ áo thay đổi của một chân lý bất diệt. Caird, Green, Wallace, Watson, Bradley và nhiều người khác ở Anh quốc đã khởi hứng từ tác phẩm Phê bình đầu. Và ngay cả anh chàng Nietzsche canh tân một cách man dại cũng rút nhận-thức-luận của mình từ "chú Chệt vĩ đại của thành Koenigsberg", người mà Nietzsche đã rất hăng hái lên án nền đạo đức quá tù đọng. Sau một thế kỷ tranh đấu giữa duy tâm luận của Kant, được cải tạo theo nhiều lối khác nhau, và duy vật luận của phái Tôn sùng lý trí, cũng được biến cải nhiều cách, sự chiến thắng dường như về phía Kant. Ngay nhà duy vật vĩ đại Helvetius cũng đã viết, khá mâu thuẫn: "Có thể nói, con người chỉ là những kẻ sáng tạo ra vật chất" (Trong Chamberlain, q.1, tr. 86). Triết học sẽ không bao giờ rơi lại vào tình trạng ngây ngô như vào những ngày đơn sơ về trước; và từ nay về sau nó cũng phải luôn luôn đổi mới, sâu sắc hơn, chính bởi vì Immanuel Kant đã ra đời. 8. VÀI LỜI VỀ HEGEL (1770 - 1831) Cách đây không lâu, các nhà triết sử có khuynh hướng dành nhiều vinh dự và nhiều chỗ cho những người kế vị Kant: Fichte, Schelling, Hegel; cũng như cho những người trước Kant trong tư tưởng tân thời từ Bacon, Descartes đến Voltaire và Hume. Ngày nay chúng ta có một lối nhìn hơi khác và chúng ta dễ dàng thưởng thức lời chỉ trích khắt khe của Schopenhauer đối với những kẻ thù thành công của ông trong cuộc tranh ghế giáo sư đại học. Khi đọc Kant, Schopenhauer bảo, "đại chúng bắt buộc phải thấy rằng cái gì tối nghĩa không phải luôn luôn là không có ý nghĩa". Fichte và Schelling lợi dụng điều này để dệt ra nhiều mạng nhện siêu hình học khổng lồ. "Nhưng cao độ của sự táo bạo trong việc chỉ đưa ra toàn những điều vô nghĩa, trong việc kết thành những tràng danh từ vô ý thức và dị hợm, những danh từ mà trước đây chỉ có trong các nhà điên, - cuối cùng đã được đạt đến với Hegel-, và trở thành dụng cụ của sự phỉnh gạt đại chúng một cách trơ tráo nhất chưa từng thấy, với một hậu quả mà đối với hậu thế sẽ có vẻ hoang đường, và sẽ mãi mãi tồn tại như một đài kỷ niệm cho sự ngu xuẩn của người Đức" (Caird, Hegel, trong bộ Cổ thư triết học do nhà Black wood xuất bản, tr. 5-8. Tiểu sử sau đây đều theo trong này). Nói thế có công bình chăng ? Georg Wilhem Friedrich Hegel sinh ở Stuttgart năm 1779. Thân phụ là một viên chức tuỳ tòng trong bộ tài chánh của tiểu bang Wurtemberg; và chính Hegel đã lớn lên với những thói quen kiên nhẫn, có phương pháp của những người công bộc mà hiệu năng khiêm tốn của họ đã đem lại cho Đức quốc những đô thị được cai quản một cách mỹ mãn nhất thế giới. Chàng thanh niên Hegel là một thanh niên say mê việc học: chàng phân tích đầy đủ tất cả các tác phẩm quan trọng đã học, và chép ra những đoạn dài. Văn hoá đích thực -chàng bảo- phải bắt đầu với sự tự xoá mình một cách quyết liệt; như trong hệ thống giáo dục của Pythagore, người học trò trong năm năm đầu bị bắt buộc phải giữ im lặng. Sự nghiên cứu văn chương Hy Lạp đem lại cho Hegel một niềm phấn khởi đối với nền văn hoá của thành Athènes, một niềm phấn khởi vẫn còn lại với chàng khi hầu hết những sự nồng nhiệt khác đã chết dần. Chàng viết: "Nghe nhắc đến tên Hy Lạp, người Đức có học vấn liền cảm thấy thoải mái quen thuộc. Tôn giáo của người Âu châu có nguồn gốc xa xôi, từ tận phương đông ... ; nhưng những gì ở đây, hiện tại, -khoa học và nghệ thuật, tất cả những gì nâng cao và tô điểm cuộc đời- chúng ta đều rút ra từ Hy Lạp, trực tiếp hoặc gián tiếp". Trong một giai đoạn, chàng thích tôn giáo của người Hy Lạp hơn Kitô giáo, và chàng báo trước sự xuất hiện của Strauss và Renan khi viết Cuộc đời của Chúa Kitô, trong đó Chúa Kitô được xem là con trai của Marie và Joseph không kể đến yếu tố phép mầu. Về sau chàng huỷ tác phẩm ấy. Về chính trị cũng thế, Hegel chứng tỏ một tinh thần phản động mà ta khó ngờ được khi về sau cũng chính Hegel sẽ thần thánh hoá hiện trạng sẵn có. Trong khi theo học thần học ở Tuebingen, Hegel và Schelling đã nồng nhiệt bênh vực cuộc cách mạng Pháp, vào một buổi sáng họ ra đường thật sớm để trồng một cây Tự do ở giữa chợ. Hegel viết: "Dân tộc Pháp nhờ tắm trong cuộc cách mạng nên đã giải phóng khỏi nhiều định chế mà tinh thần con người đã bỏ lại đằng sau như những chiếc giày của trẻ em; những định chế đã đè nặng tâm thức họ, cũng như chúng còn đè nặng trên tâm thức những kẻ khác như những bộ lông đã chết". Chính vào những ngày trẻ trung đầy hy vọng ấy, Hegel, cũng như Fichte đã hăng hái lao mình vào trào lưu lãng mạn trong đó toàn thể Âu châu đang bị cuốn theo. Hegel tốt nghiệp đại học Tuebingen năm 1793 với một chứng chỉ chứng nhận chàng là một thanh niên có tài, có cá tính, rất khá về thần học và ngữ học, nhưng không có khả năng về triết. Bấy giờ Hegel nghèo, phải kiếm ăn bằng nghề dạy tư ở Berne và Frankfurt. Đấy là những năm của con sâu trong kén, trong khi Âu châu bị chia năm xẻ bảy thành những mảnh vụn quốc gia chủ nghĩa thì Hegel tập trung sinh lực để trưởng thành. Năm 1799, khi thân phụ qua đời, Hegel được hưởng gia tài khoảng 300.000 đồng, và tự cho mình giàu, chàng bỏ dạy. Chàng viết thư cho Schelling hỏi ý kiến bạn nên lập nghiệp ở đâu, và xin một chỗ nào có thức ăn đạm bạc nhưng thật dồi dào sách và "rượu bia thật ngon". Schelling giới thiệu Jena, một thành phố đại học dưới quyền quản hạt quận công Weimar. Ở Jena, Schiller đang dạy sử học, Tiek, Novalis và Schlegels giảng về lãng mạn chủ nghĩa, Fichte và Schelling thì tuyên dương triết học của mình. Hegel đến đấy năm 1801 và năm 1803 trở thành một giáo sư. Hegel vẫn còn ở đấy năm 1806 khi Napoleon chiến thắng Phổ, gieo hỗn loạn khủng khiếp khắp đô thị đại học nhỏ bé này. Lính Pháp xâm nhập nhà Hegel, và chàng co giò chạy như một triết gia, mang theo bản thảo tác phẩm quan trọng đầu tiên, Hiện tượng luận về tinh thần. Có một giai đoạn, chàng nghèo túng đến độ Goethe bảo Knebel nên cho chàng mượn đỡ vài trăm để sống qua cơn khốn đốn. Hegel đã viết những dòng hầu như chua chát cho Knebel: "Tôi đã lấy lời thánh kinh làm ngôi sao dẫn đường; chân lý của lời này tôi đã học được nhờ kinh nghiệm: Ngươi hãy tìm kiếm cơm ăn áo mặc trước hết rồi cõi nước thiên đàng sẽ được thêm vào cho ngươi". Một thời gian chàng làm chủ biên một tờ báo ở Bamberg; năm 1812 chàng trở thành hiệu trưởng một trường trung học ở Nuremberg. Có lẽ chính ở đây những nhu cầu khắc khổ của công việc hành chánh đã làm nguội ngọn lửa lãng mạn chủ nghĩa trong chàng. Và làm chàng trở thành, như Napoleon và Goethe, một tàn tích cổ điển trong thời đại lãng mạn. Và cũng chính ở đây chàng đã viết cuốn Lý học (1812 - 1816), tác phẩm đã làm nước Đức chú ý vì tính cách khó hiểu của nó, và đã đem lại cho chàng ghế giáo sư triết ở Heidelberg. Ở đây chàng viết tác phẩm khổng lồ Bách khoa tự điển về các khoa học triết (1817), nhờ mãnh lực của tác phẩm này, Hegel được tiến cử đến đại học Berlin vào năm 1818. Từ lúc ấy cho đến cuối đời, Hegel đã thống trị thế giới văn chương, Beethoven lãnh vực âm nhạc... Có lần một người Pháp yêu cầu Hegel tóm tắt triết học của chàng trong một câu, và Hegel đã không thành công như thầy dòng khi được bảo phải định nghĩa Kitô giáo trong khoảng thời gian đứng một chân, đã nói giản dị: „Ngươi phải yêu người bên cạnh như yêu chính ngươi“. Hegel thích trả lời trong mười cuốn sách; nhưng khi chúng được viết ra, xuất bản và cả thế giới đều nói về chúng, thì Hegel lại phàn nàn: „Chỉ có một người hiểu tôi, và người ấy cũng không hiểu nốt“. Phần lớn tác phẩm của Hegel, như của Aristote, gồm những lời ghi chú cho bài giảng hay tệ hơn, gồm những lời ghi chú của các sinh viên khi nghe những bài giảng của Hegel. Chỉ có cuốn Lý học và Hiện tượng luận là do chính Hegel viết, và đấy là những tuyệt tác về sự tối nghĩa bị bôi đen vì tính cách trừu tượng và lời văn cô đọng, vì một thuật ngữ quái dị và vì một sự thay thế quá cẩn thận mỗi lời bằng một kho tàng gô-tích gồm những mệnh đề giới hạn. Hegel mô tả tác phẩm mình là „một nỗ lực để dạy cho triết học nói bằng Đức ngữ“. Chàng đã thành công. Cuốn Lý học là một tác phẩm phân tích không phải về phương pháp lý luận mà về những khái niệm dùng trong việc lý luận. Những khái niệm này Hegel cho là những phạm trù mà Kant đã đặt tên - thực thể, phẩm tính, lượng tính, tương quan v.v. Công việc đầu tiên của triết học là mổ xẻ những khái niệm căn bản này, những khái niệm hàm chứa trong mọi tư tưởng chúng ta. Khái niệm lan tràn nhất là khái niệm về tương quan. Mọi ý tưởng là một nhóm tương quan; chúng ta chỉ có thể nghĩ về một điều gì bằng cách lập tương quan giữa nó với một cái gì khác, và tri giác những điểm đồng và dị của nó. Một ý tưởng không có một tương quan nào cả là một ý tưởng trống rỗng, đấy là tất cả ý nghĩa của lời này: „Thực thể thuần tuý và vô thể thuần tuý chỉ là một“. Thực thể tuyệt đối không tương quan hay không tính chất là một thực thể không hiện hữu và không có một ý nghĩa gì cả. Mệnh đề này đẻ ra một tràng bất tận những nhận xét khôi hài bây giờ vẫn còn sinh sản; và nó vừa là một chướng ngại vừa là một cám dỗ cho việc nghiên cứu tư tưởng Hegel. Trong mọi tương quan, tương quan phổ quát nhất là tương quan về đối chọi hay mâu thuẫn. Mọi điều kiện của tư tưởng hay của sự vật, mọi ý tưởng và mọi trạng huống trong thế giới nhất thiết đưa đến cái đối lập với nó, và rồi phối hợp với nó để lập thành một tổng thể cao hơn và phức tạp hơn. "Vận hành biện chứng" này tràn lan trong mọi tác phẩm của Hegel. Đó là một tư tưởng cũ kỹ, dĩ nhiên, đã có bóng dáng trước nơi Empédocles, và nhập xác trong "trung đạo" của Aristote, người đã viết rằng: "tri giác về những đối lập là một". Chân lý (như một điện tử) là sự hợp nhất những phần đối nghịch nhau. Chân lý về bảo thủ và cực đoan là tự do chủ nghĩa - một tâm thức khoáng đạt và một bàn tay cẩn thận, một bàn tay mở và một tâm thức dè dặt. Sự lập thành những quan niệm của chúng ta về vấn đề rộng lớn là một sự giao động tiệm giảm giữa hai thái cực; và trong mọi vấn đề có thể thảo luận, chân lý nằm ở chặn giữa, veritas in medio stat. Quá trình tiến hoá là một sự phát triển liên tục của những đối lập, và sự tan hoà dung hợp giữa chúng. Schelling nói đúng: "có một sự đồng nhất giữa những đối lập" nằm bên dưới làm nòng. Fichte cũng đúng: tiền đề, phản đề và tổng đề làm nên công thức và bí yếu của mọi sự phát triển, của mọi thực tại. Vì không những tư tưởng phát triển và tiến hóa theo "vận hành biện chứng" này, mà sự vật cũng thế; mọi điều kiện của sự vật đều chứa đựng một mâu thuẫn mà luật tiến hoá phải giải quyết bằng một lối hợp nhất dung hoà. Bởi thế, chắc chắn hệ thống xã hội hiện tại của chúng ta tiết ra một mâu thuẫn tự ăn mòn nó: cá nhân chủ nghĩa đầy phấn khích cần có trong một giai đoạn phát triển kinh tế và khi tài nguyên chưa khai thác, làm sinh khởi vào một giai đoạn sau, ước vọng về một nền cộng hoà hợp tác; và tương lai sẽ là tổng thể của thực tại hiện hành và lý tưởng đang nhắm để đem lại một đời sống cao hơn. Giai đoạn này nữa cũng phân thành một mâu thuẫn có tính cách sáng tạo, và lên đến những trình độ cao hơn mãi của tổ chức. Như thế, vận hành của tư tưởng cũng như vận hành của sự vật; trong mỗi loại đều có một tiến triển biện chứng từ nhất thể để qua dị thể đến dị-thể-trong-nhất-thể. Tư tưởng và hữu thể tuân theo cùng một định luật; luận lý và siêu hình (hay hữu thể học) là một. Tinh thần là cơ quan thiết yếu cho tri giác về quá trình biện chứng này, và về sự nhất tính trong dị biệt này. Vai trò của tinh thần, và nhiệm vụ của triết học là phải khám phá nhất tính tiềm tàng trong sự dị biệt; nhiệm vụ của đạo đức học là hợp nhất cá tính và sự xử thế; và nhiệm vụ của chính trị là hợp nhất cá nhân vào một quốc gia. Nhiệm vụ của tôn giáo là đạt đến và ý thức được cái tuyệt đối trong đó mọi mâu thuẫn được giải quyết thành một nhất thể, tổng hợp vĩ đại của hữu thể trong đó vật chất và tinh thần, chủ thể và đối tượng, tốt và xấu, là một. Thượng đế là hệ thống những tương quan trong đó mọi sự vật vận hành và có thực thể cùng ý nghĩa của chúng. Nơi con người, Tuyệt Đối ấy là sự tự thức, và trở thành Ý Tưởng tuyệt đối, nghĩa là cái tư tưởng tự biết nó là một phần của Tuyệt đối, siêu việt những giới hạn, mục đích cá nhân, và nắm bắt mối hoà điệu ẩn trong mọi sự vật, "Lý tính là bản thể của vũ trụ; ... kiểu mẫu của thế giới là thuần tuý một cách tuyệt đối". (Hegel, Triết học về lịch sử, Bonn, tr. 9, 13). Không phải tranh chấp và xấu xa chỉ là những tưởng tượng tiêu cực; chúng cũng khá thực; nhưng trong cái nhìn của trí minh triết chúng là những giai đoạn để đi đến sự trọn vẹn và tốt đẹp. Tranh đấu là luật của tiến hoá; cá tính vốn thường được xây dựng trong cơn ngặt nghèo và bão tố của cuộc đời; và một con người chỉ đạt được đến chiều cao toàn vẹn qua những thế kẹt, trách nhiệm và đau khổ. Ngay cả khổ đau cũng có tính cách thuần lý; đấy là một dấu hiệu của sự sống, một đà thúc đẩy sự dựng xây trở lại. Đam mê dục vọng cũng có một chỗ đứng trong lý tính của sự vật : "Không gì vĩ đại trong thế giới đã được hoàn thành mà không có đam mê" (Ibid.; tr. 26) ngay những tham vọng vị kỷ của một Nã-phá-luân cũng vô tình góp phần vào việc phát triển các quốc gia. Đời sống không phải cốt cho hạnh phúc, mà cốt cho sự hoàn thành sự nghiệp. "Lịch sử thế giới không phải là sân khấu của hạnh phúc; những giai đoạn hạnh phúc là những trang bỏ trắng trong đó, vì là những giai đoạn của hoà điệu (Ibid, tr. 28) và nội dung nhàm chán này không xứng đáng với một con người. Lịch sử chỉ được viết vào những giai đoạn trong đó những mâu thuẫn của thực tại được giải quyết bằng sự tiến hoá, như những do dự vụng về của tuổi trẻ bước vào sự thoải mái trật tự của tuổi trưởng thành. Lịch sử là một vận hành biện chứng, hầu như một chuỗi cách mạng trong đó hết dân tộc này đến dân tộc khác, hết thiên tài này đến thiên tài khác trở thành dụng cụ cho tuyệt đối. Vĩ nhân không hẳn là những người sinh ra, mà là bà mụ của tương lai; những gì họ đem lại đã có mẹ là Zeitgeist, Tinh thần thời đại. Thiên tài chỉ đặt thêm một tảng đá lên trên chồng đá như những người khác đã làm; "song tảng đá của họ có cái may mắn đến sau cùng, và khi họ đặt lên thì khải hoàn môn tự đứng vững". „Những cá nhân như thế không có ý thức về ý tưởng chung mà họ đang phơi mở;... nhưng họ có một tuệ giác biết rõ những đòi hỏi của thời đại - những gì đã chín mùi cho sự triển khai. Đây chính là chân lý cho thời đại họ, cho thế giới họ; có thể nói là giống loài kế tiếp theo thứ tự, đã được hình thành trong bào thai của thời đại“ (Ibid, tr. 31). Một nền triết học về lịch sử như thế dường như đưa đến những kết luận cách mạng. Quá trình biện chứng làm biến đổi nguyên tắc chính yếu của sự sống; không có điều kiện nào là vĩnh cửu; trong mọi giai đoạn của sự vật đều có một mâu thuẫn mà chỉ „sự xung đột giữa những đối lập“ mới có thể giải quyết. Định luật sâu xa nhất của chính trị, do đó, là tự do -một đại lộ mở ra cho biến chuyển; lịch sử là sự lớn mạnh của tự do, và quốc gia là, hay phải là, nền tự do được tổ chức. Trái lại, chủ thuyết cho rằng „thực tại là thuần tuý“ mang một màu sắc bảo thủ; mọi điều kiện, mặc dù có phần số là sẽ phải biến mất, đều có cái quyền thiêng liêng của nó, kể như một giai đoạn thiết yếu trong tiến hoá. Có thể bảo đây là một sự thật tàn bạo: „cái gì hiện hữu đều có lý“. Và bởi vì nhất tính là mục đích của sự phát triển nên trật tự là điều kiện đầu tiên của tự do. Nếu vào những năm về sau, Hegel đã thiên về khía cạnh bảo thủ hơn về những hàm ý cấp tiến của triết học mình, một phần chính vì Tinh Thần Thời Đại (để dùng danh từ lịch sử của chính Hegel ) đã thấm mệt vì quá nhiều biến chuyển. Sau cuộc cách mạng 1830, Hegel viết: „cuối cùng, sau 40 năm chinh chiến và hỗn loạn khôn lường, một trái tim già nua có thể vui mừng thấy tất cả đã chấm dứt, và một giai đoạn thoả mãn yên lành bắt đầu“ (trong Caird, tr. 93). Thật cũng không đúng trật tự cho lắm, khi một triết gia vốn xem sự đấu tranh như là một biện chứng của tiến hoá, bây giờ lại trở thành người bênh vực cho sự thoả mãn; nhưng với tuổi lục tuần, một người cũng có quyền đòi hỏi bình an chứ. Dù sao, những mâu thuẫn trong tư tưởng Hegel quá sâu xa để biết được bình an; và trong thế hệ kế tiếp, những tín đồ của Hegel tách phân - với đinh mệnh biện chứng – thành ra „tả phái Hegel“ và „hữu phái Hegel“. Weisse và Fichte khi còn trẻ cho rằng lý thuyết về „thực tại kể như thuần lý“ là một lối diễn đạt theo triết học lý thuyết về Thượng đế, và biện minh cho một nền chính trị chủ trương sự phục tùng tuyệt đối. Feuerbach, Moleschott, Bauer và Marx trở về với hoài nghi luận và „nền phê phán cao hơn“ của Hegel hồi trẻ và khai triển triết học về lịch sử của ông thành một lý thuyết về đấu tranh giai cấp đưa đến „xã hội chủ nghĩa không tránh được“ do tính cách tất yếu kiểu Hegel. Thay vì để Tuyệt đối định đoạt lịch sử qua tinh thần thời đại (Zeitgeist). Marx đưa ra những phong trào quần chúng và sức mạnh kinh tế xem như những nguyên nhân căn bản của mọi biến chuyển nòng cốt, dù trong thế giới của sự vật hay trong đời sống tư tưởng. Hegel, vị giáo sư có lý thuyết đế quốc, đã ấp những cái trứng xã hội chủ nghĩa. Vị triết gia lớn tuổi bây giờ bắt đầu tố giác những người quá khích và mơ mộng, và cẩn thận giấu kỹ những bài cảo luận thời trẻ của mình. Hegel tự liên kết với chính phủ Phổ, chúc lành cho nó, xem như biểu hiện mới nhất của Tuyệt đối, và sưởi ấm trong ánh mặt trời của những ân sủng chính phủ dành cho học giả. Những kẻ thù của Hegel gọi ông là „Triết gia công chức“. Ông bắt đầu nghĩ về „hệ thống Hegel“ như một phần của định luật tự nhiên trong thế giới, mà quên rằng chính biện chứng của ông đã buộc tư tưởng của ông vào trong dòng vô thường và tàn tạ. „Chưa bao giờ triết học lên giọng cao cả như thế, và chưa bao giờ những danh vọng đế vương của nó lại được công nhận và bảo đảm hoàn toàn như vào năm 1830“ ở Berlin (Paulsen: Immanuel Kant , tr. 385). Nhưng Hegel già rất chóng vào những năm hạnh phúc ấy. Ông trở nên đãng trí như một thiên tài trong truyện; một lần ông đi vào giảng đường với chỉ một chiếc giày, vì đã bỏ lại chiếc kia trong bùn mà ông không biết. Khi bịnh dịch tả lan đến Berlin vào năm 1831, cơ thể suy yếu của ông đã là một trong những cơ thể đầu tiên bị gục dưới bệnh truyền nhiễm. Chỉ sau một ngày ốm, ông ra đi bất ngờ và lặng lẽ trong giấc ngủ. Cũng như trong khoảng một năm đã ra đời Napoléon, Beethoven và Hegel, vào những năm 1827 đến 1832 Đức quốc đã mất đi Goethe, Hegel và Beethoven. Đấy là sự chấm dứt của một thời đại, nỗ lực tốt đẹp cuối cùng của thời kỳ vĩ đại nhất của Đức quốc./.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:39:56 GMT 9
Chương VII SCHOPENHAUER (1788 – 1860) I. THỜI ĐẠI Tại sao nửa đầu thế kỷ 19 đã nổi lên làm tiếng nói của thời đại một nhóm thi sĩ bi quan: Byron ở Anh, de Musset ở Pháp, Heine ở Đức, Leopardi ở Ý, Pushkin và Lermontof ở Nga; một nhóm nhạc sĩ bi quan : Schubert, Schumann, Chopin và cả Beethoven sau này ( một nhà bi quan cố tự thuyết phục rằng mình lạc quan); và trên tất cả, một triết gia vô cùng bi quan - Arthur Schopenhauer ? Tuyển tập vĩ đại về nỗi thống khổ, tác phẩm "Thế giới: ý dục và biểu tượng", xuất hiện vào năm 1818. Đó là thời đại của quân đồng minh "thần thánh". Trận Waterloo đã chung cuộc, cách mạng đã chết và "Con người của Cách mạng" đang tàn suy dần trên một mỏm đá ở biển xa. Sự tôn sùng ý chí của Schopenhauer có phần nào ảnh hưởng sự xuất hiện vĩ đại của ý chí được biến thành xác thịt nơi người dân đảo Corse nhỏ con ấy, và sự thất vọng của ông về cuộc đời một phần do khoảng cách bi thảm giữa đảo St. Hélène và ý chí cuối cùng bị đánh bại, và thần chết đen tối là kẻ vinh quang độc nhất trong mọi cuộc chiến tranh. Dòng họ Bourbons được khôi phục, những bá tước phong kiến trở về đòi lại đất đai họ, và chủ nghĩa duy tâm hoà bình của Alexandre đã vô tình sản sinh ra một liên minh cho sự bóp chẹt tiến bộ ở khắp nơi. Thời đại huy hoàng đã qua. "Tôi cám ơn Thượng đế - Goethe bảo, vì tôi không còn trẻ trong một thế giới đã đến chỗ hoàn toàn bị tiêu vong". Toàn thể Âu châu suy sụp. Hàng triệu người mạnh khoẻ bị tiêu diệt; hàng triệu mẫu đất trở thành hoang phế; khắp nơi trên lục địa cuộc đời phải bắt đầu lại từ căn để, hòng khôi phục một cách nhọc nhằn chậm chạp mối thặng dư kinh tế mà chiến tranh đã nuốt chửng. Schopenhauer khi du lịch qua Pháp và Áo năm 1804 đã kinh ngạc trước sự hỗn độn và dơ bẩn của những khu làng, cái nghèo nàn khốn nạn của các điền chủ, nỗi bất an khốn cùng của những thành phố. Cuộc hành binh của Nã phá luân và quân chống Nã phá luân đã để lại những vết sẹo to lớn trên mặt mày mọi xứ sở. Mạc tư khoa đã ra tro. Ở Anh, xứ chiến thắng, những tá điền bị tan gia bại sản vì giá lúa sụt; những công nhân kỹ nghệ đang nếm trải tất cả kinh hoàng của chế độ cơ xưởng đang lên không được kiểm soát. Sự giải ngũ quân đội gia tăng số người thất nghiệp. Carlyle đã viết: "Tôi nghe thân phụ tôi kể rằng vào những năm lúa kiều mạch lên giá đến 10 Anh kim một "Stone" (6 368 grams), ông đã thấy những tá điền rút lui riêng rẽ về một con suối, uống nước suối thay bữa và nơm nớp che dấu nỗi cơ cực của mình để tá điền khác khỏi thấy (*) [(*) Froude: Life and Letters of Thomas Carlyle I, p. 52]. Chưa bao giờ cuộc đời có vẻ vô nghĩa đến thế, đê hèn đến thế ". Vâng, cách mạng đã chết, và cùng với cách mạng sự sống dường như đã lìa khỏi linh hồn Âu châu. Thiên đường mới mẻ kia, được gọi là Xã hội lý tưởng, mà ánh sáng mê hoặc đã thay thế ánh hoàng hôn của những thần linh, đã lùi vào một tương lai mờ mịt chỉ có những cặp mắt trẻ trung mới nhìn thấy. Những người già đã theo dõi cám dỗ ấy khá lâu rồi, bây giờ họ quay đi tránh nó như tránh một sự nhạo báng đối với niềm hy vọng của con người. Chỉ có những người trẻ mới có thể sống trong tương lai, và chỉ có người già mới có thể sống trong quá khứ; phần đông con người bị bắt buộc phải sống trong hiện tại, mà hiện tại bấy giờ là một cảnh tàn phế điêu linh. Biết bao nghìn vạn anh hùng và những người tin tưởng đã chiến đấu cho cách mạng ! Những trái tim thanh niên khắp nơi ở Âu châu đã hăm hở xiết bao khi hướng về nền cộng hoà trẻ trung, và đã sống bằng ánh sáng và niềm hy vọng về nó, cho đến khi Beethoven xé nát lời đề tặng bản hoà tấu bi hùng của mình cho con người không còn là người con của cách mạng mà đã trở thành con rể của phản động. Biết bao người ngay lúc đó vẫn còn chiến đấu cho niềm kỳ vọng lớn lao và đã tin tưởng cho đến phút cuối cùng ? Và đây là phút cuối ấy: Waterloo, St. Hélène và Vienne, và trên ngai vàng của nước Pháp kiệt quệ ngự trị một người thuộc giòng họ Bourbon đã không học được gì và cũng không quên gì *) [(*) Sau khi Napoléon thất bại với trận Waterloo, dòng Bourbons trở lại với Louis 18 lên ngôi]. Đây là kết cục vinh quang của một thời đại có một hy vọng và nỗ lực lớn lao như chưa từng thấy trong lịch sử loài người . Thật là một bi kịch khôi hài biết bao cho những người mà tiếng cười đã đẫm lệ chua chát. Trong những ngày vỡ mộng, đau khổ ấy, nhiều người trong giới nghèo khổ còn có niềm an ủi của hy vọng tôn giáo; nhưng một số lớn của giai cấp thượng lưu đã mất hết niềm tin, nhìn thế giới bị tàn phá mà không có một viễn tượng nào để giải khuây, viễn ảnh một cõi đời rộng lớn hơn, trong cõi tuyệt mỹ và chí công ấy, những đau khổ xấu xa này sẽ tan biến. Và quả thật khó mà tin rằng một hành tinh buồn thảm như người ta thấy vào năm 1818 lại do một vì Thượng đế trí huệ và bác ái nắm giữ. Mephistopheles đã thắng và mọi Faust đều thất vọng. Voltaire đã gieo ngọn cuồng phong và Schopenhauer phải gặt lấy kết quả. Thật hiếm khi vấn đề sự ác lại được ném vào mặt triết học và tôn giáo một cách gắt gay và quyết liệt đến thế. Mọi nấm mồ binh sĩ từ Boulogne đến Moscow và kim tự tháp đều nêu một câu hỏi câm lặng lên những vì sao lạnh lùng. Hỡi Thượng đế, còn bao lâu nữa và tại sao ? Có phải tại hoạ gần như cùng khắp này là sự báo thù của một Thượng đế công chính đối với thời đại Lý Trí và Bất Tín ? Có phải đấy là một lời giục gọi tri thức ăn năn phải khuất phục những đức hạnh cũ - đức tin, hy vọng, bác ái ? Đấy là ý kiến của Schlegel, Novalis, Chateaubriand, De Musset, Southey, Wordsworth và Gogol; họ quay về niềm tin cũ như những đứa con hoang phá sung sướng được trở về gia đình. Nhưng nhiều người khác có giải đáp phũ phàng hơn: theo họ, tình trạng hỗn mang của Âu châu chỉ là phản ảnh cái hỗn mang của vũ trụ; rốt cuộc chẳng có một trật tự thiêng liêng nào cả, cũng không có niềm hy vọng thiên đường nào: Thượng đế nếu có chỉ là một Thượng đế mù loà, sự ác đang trùm lấp mặt mày trái đất. Đấy là quan điểm của Byron, Heine, Urmontof, Leopardi và triết gia của chúng ta, Schopenhauer. II. CON NGƯỜI Arthur Schopenhauer sinh ở Dantzig ngày 22 tháng 2 năm 1788. Thân phụ ông là một thương gia được tiếng có tài, nóng tính, tự chủ và yêu chuộng tự do. Ông dời nhà từ Dantzig tới Hamburg khi A. Schopenhauer mới lên năm, vì Dantzig mất tự do trong khi bị Poland sáp nhập vào năm 1793. Cậu bé Schopenhauer lớn lên trong không khí doanh nghiệp và tài chính; và mặc dù chẳng bao lâu cậu đã bỏ nghề thương mãi mà cha cậu đẩy cậu vào, nó vẫn còn dấu vết trên nhân cách cậu ở lối cư xử cộc lốc, lối xoay chiều tư tưởng về thực tế, lối hiểu biết về thế gian và con người ... làm cho Schopenhauer trở nên đối nghịch với mẫu triết gia hàn lâm, tháp ngà mà ông khinh miệt. Thân phụ ông mất, có lẽ tự sát, vào năm 1805; bà nội chết trong cơn điên. "Tính tình hay ý chí được thừa hưởng từ người cha, trí huệ từ người mẹ". Schopenhauer bảo. Mẹ ông là người có trí huệ -bà là một trong những tiểu thuyết gia phổ thông nhất đương thời, nhưng cũng rất nóng tính. Bà không được hạnh phúc với người chồng phàm tục, không biết gì về văn chương, nên khi ông chết, bà bắt đầu sống đời tự do luyến ái, và dọn nhà đến Weimar, nơi có không khí thích hợp nhất cho lối sống kia. Arthur chống đối điều này hệt như Hamlet chống đối sự tái giá của mẹ mình; và những cuộc gây gổ với mẹ ông đã đem lại cho ông phần lớn những chân lý nửa vời về phụ nữ mà ông dùng để biện minh cho triết lý của ông. Một bức thư của bà mẹ cho ta thấy tình trạng giữa hai mẹ con: "Mày thật khó chịu và rầy rà, thật khó sống với mày. Tất cả những đức tính của mày đều bị tánh tự phụ che lấp, chúng thành ra vô dụng chỉ vì mày không thể kiềm hãm được khuynh hướng "vạch lá tìm sâu" của mày *) [(*) Wallace "Cuộcđời Schopenhauer, trường. 59]. Bởi thế họ thu xếp để sống xa nhau, Schopenhauer đến chơi nhà mẹ vào những buổi tiếp tân tại nhà bà và làm một người khách như những người khác, khi ấy họ có thể lịch sự với nhau như những người xa lạ, thay vì thù ghét nhau trong vai thân thuộc bà con. Goethe thích bà Schopenhauer vì bà ta để ông tự do mang theo Christianne, song ông ta đã đổ dầu thêm vào lửa khi bảo rằng danh tiếng của con bà sẽ nổi như cồn. Bà Schopenhauer chưa hề nghe một gia đình có đến hai thiên tài. Cuối cùng, trong một trận gây gỗ quyết liệt, bà mẹ xô con trai đối nghịch xuống cầu thang, và triết gia của chúng ta liền báo cho bà hay rằng hậu thế có biết tới bà cũng chỉ nhờ qua tay ông mà thôi. Ngay sau đó Schopenhauer rời Weimar; và mặc dù mẹ ông còn sống 24 năm nữa, ông không hề gặp lại. Byron, cùng sinh vào năm 1788, dường như cũng có cùng một tình trạng mẹ con tương tự. Những người này hầu như vì hoàn cảnh ấy nên phải chuốc lấy tâm trạng bi quan, một người không từng nếm trải tình yêu của mẹ, và tệ hơn, đã từng nếm trải sự thù hằn của mẹ, thì thật không có lý do nào để yêu mến cuộc đời. Trong lúc đó Schopenhauer đã qua bực trung học và đại học, và đã học nhiều hơn chương trình. Ông lao mình vào ái tình và cuộc đời kết quả là nó ảnh hưởng đến tính tình và triết lý của ông. Ông đâm ra u trầm, cay cú, hoài nghi; ông bị ám ảnh bởi sợ hãi và những khuynh hướng quỷ mỵ . Ông khoá kỹ những ống điếu và không bao giờ tin cậy người thợ cạo; ông ngủ với những khẩu súng lục nạp đạn để sẵn bên giường - có lẽ dành cho kẻ trộm. Ông không thể chịu đựng tiếng ồn: "Từ lâu tôi đã quan niệm rằng số lượng tiếng động mà một người có thể an nhiên chịu đựng tỷ lệ nghịch với khả năng tinh thần của họ, và do đó có thể được xem như một thước đo khá đúng về khả năng ấy... Tiếng động là một cực hình đối với mọi người trí thức... Sự phô trương sinh lực dồi dào bằng hình thức gõ, nện, quăng ném đồ vật một cách ồn ào đã là một cực hình thường nhật suốt đời tôi"*) (* Thế giới..., 199, Tiểu luận "Về tiếng ồn"). Ông có cảm tưởng -gần như một tâm bệnh do sự kiêu căng thái quá- rằng mình có đại tài mà không được công nhận; thiếu thành công và danh tiếng, ông xoay vào nội tâm để ray rứt chính tâm hồn mình. Ông không có mẹ, không vợ con, gia đình, xứ sở. Ông tuyệt đối cô độc, không có lấy một người bạn. Giữa "một người" và "không người nào" là cả một khoảng cách vô cùng **) (** Nietzsche: Schopenhauer nhà giáo dục, London, 1910, tr.122). Còn hơn cả Goethe, ông hoàn toàn không nhiễm cơn sốt ái quốc của thời đại. Năm 1813 ông bị lôi cuốn theo sự nồng nhiệt của Fichte về một cuộc chiến tranh giải phóng ách Napoléon, đến nỗi ông đã nghĩ đến việc tình nguyện nhập ngũ và lại còn mua cả một bộ khí giới. Nhưng tính lo xa đã giữ ông lại kịp thời; ông lý luận: "Chung quy, Napoléon chỉ biểu hiện -một sự biểu hiện quá đà, chỉ tập trung vào một đối tượng duy nhất- sự xác định tự ngã và lòng ham muốn tăng cường sự sống, những điều mà người yếu hơn ông cũng cảm thấy nhưng đành phải nguỵ trang chúng". Thay vì đi vào chiến trường, ông ta đi về quê và viết một luận án tiến sĩ triết học. Sau luận án nhan đề "Về bốn cội rễ của lý trí túc lý" (1813), Schopenhauer đem hết thì giờ năng lực để viết một tác phẩm về sau trở thành kiệt tác của ông - "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng". Ông gởi bản thảo "Magna cum laude" đến nhà xuất bản . Theo ông tác phẩm này không phải chỉ là nhai lại những ý tưởng cũ, mà là một kết cấu vô cùng chặt chẽ những ý tưởng vô cùng độc đáo, "rất dễ hiểu, mạnh mẽ và không phải là không hoa mỹ"; một tác phẩm mà "về sau sẽ khơi nguồn khởi hứng cho một trăm tác phẩm khác" (Wallace). Tất cả những lời đó biểu lộ tính tự đắc quá trớn và đều tuyệt đối đúng thật... Nhiều năm sau, Schopenhauer quá tin rằng mình đã giải quyết những vấn đề chính yếu của triết học đến nỗi ông thuê chạm trổ trên nhẫn đeo tay một hình quái vật Sphinx (đầu đàn bà mình sư tử) đâm đầu xuống vực thẳm như lời hứa khi những nạn vấn của nó đã được giải đáp. Tuy thế, tác phẩm đã không lôi cuốn một sự chú ý nào, thế giới quá nghèo nàn kiệt quệ để đọc về những nỗi nghèo kiệt của nó. Mười sáu năm sau khi xuất bản, Schopenhauer được báo tin là phần lớn số sách in ra đã được bán làm giấy loại. Trong bài tiểu luận về "Danh tiếng" trong "Túi khôn của đời người", ông trích dẫn hai nhận xét của Lichtenberger, hiển nhiên để ám chỉ kiệt tác của ông : "Những tác phẩm như vầy giống như một chiếc gương: nếu một con khỉ nhìn vào đấy thì bạn không thể nào chờ đợi một thiên thần nhìn ra" và "Khi một cái đầu và cuốn sách va chạm nhau, và nếu một bên nghe rỗng tuếch, thì đấy có phải luôn luôn là cuốn sách không ?". Schopenhauer lại tiếp, với giọng điệu của lòng tự phụ bị tổn thương: "Một người càng thuộc về hậu thế bao nhiêu ... -hay thuộc về nhân loại nói chung- thì người ấy càng xa lạ với người đồng thời bấy nhiêu, vì tác phẩm của người ấy không cốt dành cho những người đồng thời trừ phi những người ấy là thành phần của nhân loại rộng lớn; trong những tác phẩm của người kia không có cái màu địa phương quen thuộc hấp dẫn họ". Rôi ông trở nên hùng biện như chú chồn trong truyện ngụ ngôn: "Một nhạc sĩ có thể cảm thấy khoái vì tiếng vỗ tay của một thính chúng chăng, khi người ấy biết rằng hầu hết những người nghe kia đều điếc, và thấy vài người vỗ tay để che dấu sự tàn tật của mình ? Và nhạc sĩ kia sẽ nói gì khi khám phá rằng một vài người kia thường nhận hối lộ để tán thưởng lớn tiếng nhất cho người chơi dở nhất". Trong một số người, tính tự đại tự cao là một bù trừ cho sự vô danh tiểu tốt; trong vài người khác, tính tự cao lại cộng tác đắc lực cho việc nổi danh. Schopenhauer đã để hết mình vào tác phẩm này đến nỗi những tác phẩm về sau của ông chỉ là những phụ chú cho nó; ông trở thành nhà luận giải cho kinh điển của chính ông. Năm 1836 ông xuất bản một cuốn tiểu luận "Về ý dục trong thiên nhiên", tác phẩm một phần nào đã nhập vào trong bản in khoáng đại cuốn "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng" xuất hiện năm 1844. Năm 1841 ông ra cuốn "Hai vấn đề căn để của đạo đức", và 1851 hai cuốn sách khổng lồ "Parerga và Paralipomena" -dịch sát là "Thặng phẩm" và "Cặn bã"- đã được dịch ra Anh ngữ dưới nhan đề "Tiểu luận" (Essays). Về cuốn sách này, tác phẩm dễ đọc nhất của ông, nhan nhản những lời dí dỏm sâu sắc, Schopenhauer nhận được mười ấn bản khỏi trả tiền, đấy là tất cả nhuận bút của ông. Kể cũng khó lạc quan được trong những hoàn cảnh như thế. Chỉ có một cuộc phiêu lưu quấy động sự đều đặn trong chuỗi ngày ẩn dật của ông sau khi rời Weimar. Ông đã hy vọng được dịp trình bày triết học của mình ở một trong những đại học lớn của Đức; dịp ấy đến vào năm 1822, khi ông được mời đến Berlin làm Privatdozent (Giáo sư / Giảng sư ngoại ngạch / ngoài biên chế -chú thích của người đánh máy-). Ông cố ý chọn buổi giảng vào đúng giờ mà Hegel -lúc ấy đang có uy thế- được sắp giờ dạy trong thời khắc biểu; Schopenhauer tin tưởng rằng sinh viên sẽ nhìn ông và Hegel với con mắt của hậu thế. Nhưng những sinh viên không thể biết trước được quá trình xa như vậy, và Schopenhauer tự thấy mình nói với những hàng ghế trống. Ông từ chức, và trả đũa bằng những bài công kích Hegel một cách chua chát, những lời đã làm hỏng những bản in lần sau của tuyệt tác ông. Năm 1831, một trận dịch tả nổi lên ở Berlin, cả Hegel lẫn Schopenhauer chạy trốn; nhưng Hegel trở về quá sớm, bị nhiễm và chết vài ngày sau. Schopenhauer không dừng bước cho đến khi ông tới Frankfurt, ở đó ông sống nốt những ngày còn lại trong bảy mươi hai năm đời. Vốn là người bi quan nhạy cảm, ông tránh cái cạm bẫy đặt cho những kẻ lạc quan -toan sống nhờ cây bút. Ông đã thừa hưởng một lợi nhuận trong công ty của thân phụ ông, và sống trong tiện nghi vừa phải với số lợi tức này. Ông đầu tư tiền một cách khôn ngoan hiếm thấy nơi một nhà triết học. Khi một công ty ông có hùn vốn bị thua lỗ và những người hùn khác đều chịu cho trả 70% số vốn, Schopenhauer quyết tranh đấu lấy lại toàn vốn, và thắng cuộc. Ông có đủ tiền để thuê hai phòng nhà trọ; ở đấy ông sống cô độc ba mươi năm sau cùng, với một con chó làm bạn. Ông đặt tên cho nó là Atma (danh từ của Bà la môn giáo có nghĩa là Linh hồn vũ trụ), nhưng những người trong thành phố thường gọi đùa là "Schopenhauer con". Ông thường ăn tối ở quán Englischer Hof. Đầu mỗi bữa ăn ông thường đặt một đồng tiền vàng trước mặt, và cuối bữa lại bỏ đồng tiền vào túi. Cuối cùng, một bồi bàn bất mãn trước cái lễ tục bất di dịch ấy, đã hỏi ông về ý nghĩa của nó. Schopenhauer trả lời đấy là tiền ông tự đánh cuộc với mình, và ông sẽ bỏ nó vào trong hộp lạc quyên cho người nghèo nếu những sĩ quan Anh vào ăn ở đấy sẽ nói một điều gì khác hơn là ngựa, đàn bà hay chó (Wallace, tr.171). Những đại học làm ngơ xem như không có ông và những cuốn sách ông viết, dường như muốn cụ thể hoá lời tuyên bố của ông, theo đó mọi bước tiến về triết học đều được thực hiện ở bên ngoài những bức tường đại học. Nietzsche bảo: "Không có gì làm tổn thương những nhà bác học Đức cho bằng sự ghét bỏ của Schopenhauer đối với họ". Nhưng ông đã tập được chút ít kiên nhẫn; ông tin tưởng rằng dù chậm trễ đến đâu, cuối cùng ông cũng sẽ được công nhận. Và cuối cùng sự thừa nhận ấy đã đến, mặc dù rất chậm. Những người trung lưu -luật sư, bác sĩ, thương gia- tìm thấy nơi ông một triết gia đem lại cho họ không phải chỉ một mớ tiếng lóng kênh kiệu của những gì phi thực siêu hình, mà một thống quan khả dĩ hiểu được về những hiện tượng của đời sống thực. Một Âu châu vỡ mộng vì những lý tưởng và nỗ lực của 1848 nồng nhiệt quay về với nền triết học này, nền triết học đã nói lên nỗi tuyệt vọng của năm 1815. Sự đả kích của khoa học đối với thần học, bản cáo trạng của xã hội chủ nghĩa về nghèo khó và chiến tranh, sự nhấn mạnh của sinh lý học vào việc cạnh tranh sinh tồn, -tất cả những yếu tố này cuối cùng đã nâng Schopenhauer lên đài danh vọng. Ông không đến nỗi quá già hết muốn thưởng thức danh vọng của mình: ông hăm hở đọc tất cả những mục báo nói về ông; ông bảo bạn bè gởi cho ông tất cả mọi sách báo phê bình mà họ gặp -ông sẽ trả tiền cò. Năm 1854 Wagner gởi cho ông một ấn bản của tác phẩm Der Ring der Nibelungen với một lời tán thưởng cái triết lý về âm nhạc của Schopenhauer. Bởi thế nhà bi quan trở thành gần như một nhà lạc quan khi về già; ông thổi sáo luôn mồm sau mỗi buổi ăn tối, và cám ơn Thời gian đã xua đuổi cho ông những hăng hái của tuổi trẻ. Từ khắp nơi trên thế giới, khách đến viếng tấp nập, và vào sinh nhật thất tuần ông năm 1858, những lời chúc tụng đổ tới ông từ mọi phương và mọi lục địa. Nhưng không quá sớm, ông chỉ còn sống hai năm nữa. Vào ngày 21 tháng 9 năm 1860, Schopenhauer ngồi ăn sáng một mình, xem bề ngoài vẫn mạnh. Một giờ sau bà chủ nhà thấy ông vẫn ngồi nguyên chỗ, nhưng đã chết tự bao giờ.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:40:55 GMT 9
III. THẾ GIỚI KỂ NHƯ BIỂU TƯỢNG: Điều làm cho độc giả chú ý ngay khi vừa mở cuốn "Thế giới kể như ý dục và biểu tượng" chính là lời văn. Ở đây không có cái lắc léo kiểu Tàu của thuật ngữ Kant, cũng không có sự bí hiểm của Hegel, cũng không có kỷ hà học của Spinoza; mọi sự đều sáng sủa, trật tự; tất cả đều xoay quanh một cách tuyệt diệu cái trung tâm là quan điểm dẫn đạo về thế giới kể như ý dục, từ ý dục có ra đấu tranh, và từ đấu tranh có ra đau khổ. Thật là thẳng thắn rõ ràng, thật là mạnh mẽ tỉnh táo, thật là trực tiếp không quanh co ! Trong khi những người trước ông trừu tượng đến độ không thể thấy được, lập những lý thuyết mở rất ít cửa sổ minh chứng ra thế giới hiện thực, thì Schopenhauer, đúng như người con trai của một thương gia, rất phong phú về những hình ảnh cụ thể, về tỉ dụ, về sự áp dụng, ngay cả về óc hài hước. Sau Kant, sự hài hước trong triết học quả là một mới mẻ làm ta giật mình. Nhưng vì sao cuốn sách lại bị từ chối ? Phần vì nó công kích ngay chính những người có thể lăng-xê nó -những giáo sư đại học-. Hegel là nhà độc tài triết học của Đức vào năm 1818; tuy thế Schopenhauer không trì hoãn tấn công ông ta. Trong lời tựa in lần hai, Schopenhauer viết: "Không thời nào bất lợi cho triết học hơn cái thời mà triết học bị lạm dụng một cách đáng hổ thẹn, một mặt để đưa ra những mục tiêu chính trị, mặt khác để làm phương tiện sinh nhai... Thế không có gì để chống lại châm ngôn: Primum vivere, deinde philosophari (sống trước đã, rồi triết lý sau) hay sao ? Những ông lớn này muốn sống, và quả vậy, sống nhờ triết học. Họ được bao thầu triết học để nuôi vợ con... Định luật "ăn cây nào rào cây ấy" đã luôn luôn đúng: sự làm tiền bằng triết học được những người xưa xem như đặc điểm của những ngụy luận gia... Chỉ có sự xoàng xĩnh mới được mua chác bằng tiền. Không thể nào một thời đại mà trong hai mươi năm đã tán dương Hegel, một thằng ngợm trí thức, xem như triết gia vĩ đại nhất... lại làm cho người đã chứng kiến cảnh tượng ấy còn muốn được thời đại kia tán dương... Nhưng đúng hơn, chân lý luôn luôn thuộc về một số it người, paucorum hominum , và bởi thế phải lặng lẽ khiêm tốn chờ đợi số ít ấy, những người mà cách thế tư duy khác thường của họ có thể ham thích chân lý kia... Đời người ngắn ngủi, nhưng chân lý có tác dụng xa rộng và trường tồn; ta hãy nói lên chân lý. Những câu cuối cùng này cao quý thật nhưng tất cả những lời ấy có vẻ gì "nho xanh chẳng xứng miệng người phong lưu". Chưa ai khao khát được ca tụng hơn Schopenhauer . Có lẽ lời kia nghe sẽ cao quý hơn nữa nếu đừng nói xấu gì Hegel cả; de vivis nil nisi bonom - về những người còn sống chúng ta hãy chỉ nói những điều tốt. Còn về sự khiêm tốn chờ đợi được công nhận, thì: "Tôi không thể thấy được ngoài Kant và tôi -Schopenhauer bảo- đã có thêm gì vào cho triết học" (Vol. ii, tr.5) . "Tôi cho tư tưởng theo đó thế giới là ý dục, là tư tưởng người ta đã từ lâu tìm kiếm dưới cái tên "triết học", và bởi thế sự khám phá ra nó được những người quen thuộc với lịch sử xem như hoàn toàn bất khả cũng như sự khám phá ra tảng đá của triết gia". "Tôi chỉ muốn công bố một tư tưởng độc nhất. Tuy nhiên, dù cố gắng hết mức, tôi cũng không thể tìm một cách nào để công bố nó vắn tắt hơn toàn tập sách này... Hãy đọc nó hai lần, và lần thứ nhất cần nhiều kiên nhẫn". Khiêm tốn dữ ! "Khiêm tốn là gì nếu không là sự tự hạ mình một cách giả dối, nhờ đó trong một thế giới căng phồng ganh tị một người cố xin lỗi vì những ưu điểm và giá trị của mình trước những người không có một ưu điểm giá trị nào" (I, 303). "Dĩ nhiên, khi sự khiêm tốn đã thành ra đức hạnh, thì đấy là một điều rất lợi cho những kẻ ngu; vì khi ấy mọi người sẽ nói về mình như thể mình là một người ngu" (Tiểu luận "Về sự kiêu căng"). Không có sự khiêm cung nào trong câu đầu tác phẩm của Schopenhauer. Nó bắt đầu: "Thế giới là Ý nghĩ của tôi". Khi Fichte đã thốt ra một mệnh đề tương tự, ngay những người Đức rành về siêu hình cũng đã hỏi: "Vợ ông ta nói gì về điểm này ?" Nhưng Schopenhauer không có vợ. Dĩ nhiên, ý ông muốn nói khá giản dị: ông muốn ngay từ đầu, công nhận lập trường Kant cho rằng chúng ta chỉ biết ngoại giới qua cảm giác và ý tưởng của ta. Kế đó, ông trình bày về duy tâm luận khá rõ ràng vững chắc, nhưng đấy là phần ít độc đáo nhất trong sách và đáng nên nằm sau cùng hơn là nằm ở đầu. Thế giới phải mất cả một thời đại mới khám phá được Schopenhauer vì ông đã thò bàn chân tồi nhất ra trước, và dấu tư tưởng riêng của ông sau một hàng rào ngăn gồm hai trăm trang về duy tâm luận cũ rích. Phần trọng yếu nhất của tiết đầu là một trận đả kích duy vật. Làm sao ta giải thích được tâm và vật khi ta chỉ biết được vật chất qua tâm thức ? "Nếu đến đây chúng ta đã theo dõi duy vật luận với những ý tưởng minh bạch, khi ta đạt đến điểm tột cùng của nó ta sẽ bất chợt phải cười lớn lên một tràng cười không thể dập tắt. Như thể tỉnh dậy từ một cơn mộng bỗng chốc ta sẽ ý thức được rằng kết quả cuối cùng của duy vật luận tức cái tri thức mà nó đã dày công đạt đến, đã được tiền định như là điều kiện cần thiết cho chính khởi điểm của nó. Chỉ có vật chất, và khi ta tưởng rằng ta tư duy vật chất, kỳ thực chúng ta chỉ tư duy cái chủ thể tri giác vật chất; con mắt nhìn thấy vật, bàn tay sờ mó, sự hiểu biết nó. Như thế khởi điểm tranh biện lộ ra một cách không ngờ; vì bỗng chốc người ta thấy móc xích cuối cùng chính là khởi điểm và dây xích là một vòng tròn, cái duy vật luận trân tráo mà ngay bây giờ, giữa thế kỷ 19, đã được dọn ra dưới cái ảo tưởng ngu si rằng nó mới lạ, ... đã chối bỏ một cách ngu ngốc "sức sống", và trước hết cố giải thích những hiện tượng của đời sống là do những năng lực vật lý và hoá học, và những năng lực này lại do hậu quả máy móc của vật chất ..., nhưng tôi sẽ không bao giờ tin rằng ngay cả sự phối hợp hoá chất đơn sơ nhất có thể chấp nhận lối giải thích máy móc huống nữa là ánh sáng, hơi nóng, điện. Những thứ này sẽ luôn luôn đòi hỏi một lối giải thích năng động". Không, không thể nào giải quyết bài toán siêu hình nan giải, không thể khám phá tinh yếu bí mật của thực tại, bằng cách xét vật chất trước, rồi tiếp đến xét tư tưởng. Ta phải bắt đầu bằng cái mà chúng ta biết trực tiếp và thân thiết nhất - chính tự thân. "Ta không bao giờ có thể đạt đến bản chất thực sự của vật từ bên ngoài. Dù truy tầm bao nhiêu nữa, ta cũng không bao giờ đạt được gì ngoài ra những hình ảnh và danh từ. Chúng ta giống như một người đi quanh một lâu đài, tìm kiếm vô vọng một lối vào, và đôi khi phác hoạ ra mặt tiền". Ta hãy đi vào trong; nếu ta có thể phanh phui ra bản chất tối hậu của chính tâm thức mình, thì có lẽ ta sẽ có chìa khoá mở ra ngoại giới. IV. THẾ GIỚI: DỤC VỌNG 1. Dục vọng muốn sống Hầu như không một ngoại lệ nào, tất cả triết gia đều đặt tinh yếu của tâm thức ở tư tưởng và ý thức; người là một con vật tri giác animal rationale. "Lầm lỗi căn để, phổ quát và xưa cũ này, lầm lỗi to tát đầu tiên này... trước hết phải được gạt ra. Ý thức chỉ là bề mặt của tâm thức ta, về tâm thức này, cũng như về quả đất, ta không biết bên trong mà chỉ biết cái vỏ". Dưới trí năng (intellect) hữu thức là dục vọng hữu thức hoặc vô thức, một sức sống nỗ lực dai dẳng, một hoạt động tự nhiên, một ý dục với nỗi khát thèm mãnh liệt. Trí năng thỉnh thoảng dường như có thể điều khiển ý dục nhưng chỉ như một kẻ đưa đường dẫn dắt người chủ; ý dục là người mù khoẻ mạnh mang trên vai người què sáng mắt. Không phải ta muốn một điều gì bởi vì ta đã tìm ra lý lẽ cho điều ấy, trái lại, ta tìm lý lẽ cho nó vì ta muốn nó; chúng ta lại còn thiết lập, khai triển ra những nền triết học và thần học để khoác ra ngoài dục vọng của mình *) [(*) Một nguồn gốc của học thuyết Freud]. Bởi thế Schopenhauer gọi người ta là "con vật siêu hình"; những con vật khác ham muốn không cần siêu hình "không gì làm ta tức bực hơn, khi ta dùng lý luận và giải thích để cãi với một người nào, mất công thuyết phục y, mà cuối cùng ta lại khám phá rằng y nhất định không muốn hiểu, rằng chúng ta đang đương đầu với ý chí của y". Do đó, luận lý thật vô dụng: không ai từng thuyết phục ai được nhờ luận lý; và ngay những nhà luận lý cũng chỉ sử dụng luận lý như một nguồn lợi. Để thuyết phục người nào ta phải lôi cuốn lòng tư lợi của y, dục vọng y, ý chí y. Hãy quan sát chúng ta nhớ những chiến thắng của mình lâu biết bao, và chóng quên làm sao những thất bại; ký ức là kẻ tôi đòi của ý chí (Tiểu luận, 126). Khi tính toán ta thường lầm lẫn có lợi cho mình hơn là hại; và ta làm thế khi tuyệt nhiên không có một ý định bất lương nào cả. "Trái lại, sự hiểu biết của con người ngu si nhất trở nên bén nhạy khi những sự vật đang bàn có liên quan mật thiết với những ước vọng của y"; nói chung, trí năng được phát triển nhờ hiểm nguy, như nơi con chồn, hoặc do sự thiếu thốn, như nơi người tội lỗi. Nhưng nó dường như luôn luôn phụ thuộc dục vọng và làm khí cụ cho dục vọng; khi trí năng cố truất phế ý chí, thì hỗn loạn sẽ theo sau. Không ai dễ lầm lạc hơn là người chỉ hành động theo suy tưởng. Hãy nhìn cuộc tranh đấu sôi nổi của người ta về thức ăn, nam nữ, con cái; có thể nào đây là công việc của sự suy tưởng chăng ? Dĩ nhiên không ; nguyên do chính ở cái ý chí muốn sống (nửa vô ý thức), và muốn sống thật trọn vẹn. "Bề ngoài, con người tuồng như có cái gì ở trước thúc đẩy họ đi tới, song kỳ thực họ bị thúc tới từ đàng sau", họ tưởng họ được thúc đẩy tiến tới do những gì họ thấy nhưng thực ra họ bị thúc dục bởi những gì họ cảm thấy -bởi những bản năng mà về sự vận hành của chúng, họ không hoàn toàn ý thức được. Trí năng chỉ là một bộ trưởng ngoại giao; "Thiên nhiên đã sản xuất nó ra và phụng sự cho ý chí cá nhân. Bởi thế nó chỉ dành để biết sự vật trong giới hạn sự vật ấy cung cấp nguyên động lực cho ý chí chứ không phải dành để thăm dò căn nguyên sự vật hay lãnh hội bản thể đích thực của sự vật. "Ý chí là yếu tố duy nhất trường tồn bất biến trong tâm thức; chính ý chí, qua sự liên tục của mục đích, đã đem lại nhất tính cho ý thức và liên kết những ý nghĩ và tư tưởng của ý thức đi theo chúng như một hoà điệu liên tục". Chính ý chí lãnh đạo tư tưởng. Cá tính nằm trong ý chí, không phải trong trí năng; cá tính cũng là sự liên tục của mục đích và thái độ: và những yết tố này chính là ý chí. Ngôn ngữ thông thường đã đúng khi nó thích nói "Lòng" hơn là "Đầu" ; nó biết (bởi vì đã không lý luận) rằng một "thiện chí" là sâu sắc và đáng tin cậy hơn một tâm thức sáng suốt; và khi ngôn ngữ thông thường gọi một người là "tinh ranh", "khôn", "láu cá", điều ấy ngụ sự nghi ngờ và ít ưa. "Những tính xuất sắc của tri thức làm cho người ta khâm phục, nhưng chẳng bao giờ làm người ta thương yêu"; và mọi tôn giáo đều hứa hẹn một phần thưởng ... cho những ưu điểm của ý chí hay trái tim, nhưng không phần thưởng nào dành cho những ưu điểm của cái đầu hay tri thức". Ngay thân xác là sản phẩm của ý chí. Được thúc đẩy tiến tới do cái ý dục mà ta thường gọi mơ hồ là sự sống, máu huyết tự xây dựng lên những mạch cho nó bằng cách tạo thành những rãnh trong cơ thể của bào thai: những rãnh này sâu dần và kín lại đã thành những động mạch và tĩnh mạch. Ý chí muốn hiểu biết xây dựng nên não bộ, hệt như ý chí muốn nắm cầm đã dựng nên bàn tay, hoặc như ý chí muốn ăn đã phát triển bộ phận tiêu hoá. Quả thế, những cặp này - hình thức của ý chí và hình thể của xác thịt - chỉ là hai mặt của tiến trình và một thực tại duy nhất. Mối tương quan được thấy rõ nhất trong sự xúc động, ở đấy cảm thức và những biến chuyển nội thân hợp thành một nhất thể phức tạp*) [*) Phải chăng đây là một nguồn gốc cho thuyết cảm xúc của J. Lange ?]. "Hành vi của ý chí và chuyển động của thân xác không phải là hai chuyện khác nhau được kết hợp lại theo luật nhân quả mà là cùng một chuyện xảy ra theo những cách hoàn toàn khác nhau, tức khắc, rồi bằng tri giác ... Hành động của thân thể chỉ là một hành vi của ý chí được cụ thể hoá. Điều này đúng cho mọi chuyển động của thân xác; ... toàn thể thân xác chỉ là ý chí được cụ thể hoá. Bởi thế, những phần tử của thân thể phải hoàn toàn tương ứng với dục vọng chính yếu qua đó ý chí biểu lộ; chúng phải là biểu hiện của những dục vọng này. Răng, yết hầu, ruột là cơn đói được cụ thể hoá ... Thần kinh hệ là những dây ăng-ten của ý chí , ý chí đã giăng chúng ra bên trong và bên ngoài... cũng như cơ thể con người nói chung tương ứng với ý chí con người nói chung, cơ cấu thể xác cá nhân cũng tương ứng với ý chí đã biến đổi theo cá nhân, nghĩa là tương ứng với cá tính của cá nhân". Trí năng có mỏi mệt nhưng ý chí thì không bao giờ mỏi mệt. Trí năng cần ngủ nhưng ý chí hoạt động ngay cả trong giấc ngủ. Sự mỏi mệt, cũng như đau đớn, có chỗ ở của nó trong não cân; nhưng bắp thịt không liên lạc với não bộ (như quả tim) thì không bao giờ mệt *) [(*) Nhưng há không có cái gọi là sự ngấy chán hay kiệt dục ? Trong sự mệt mỏi hay đau yếu quá độ, thì ngay cả ý chí muốn sống cũng phai tàn.]. Não cân dinh dưỡng bằng giấc ngủ; nhưng ý chí thì không cần thức ăn nào cả. Do đó mà nhu cầu ngủ lớn lao nhất nơi những người làm việc bằng trí óc. Tuy nhiên "không nên vì thế mà ngủ quá độ; vì khi ấy giấc ngủ không còn cần thiết mà chỉ thành ra mất thì giờ" **) [(**)Tiểu luận "Về mối liên lạc giữa chúng ta với chúng ta"]. Trong giấc ngủ, sự sống con người chìm xuống hàng thảo mộc, và khi ấy "ý chí làm việc tuỳ theo bản chất nguyên thuỷ của nó, không bị bên ngoài quấy rầy, không bị giảm năng lực vì hoạt động của não và sự thi thố trí năng, vốn là nhiệm vụ nặng nề nhất ..., bởi thế, trong giấc ngủ toàn thể năng lực ý chí được hướng về việc duy trì và cải thiện cơ thể. Do đó mọi sự lành bệnh, mọi cuộc khủng hoảng cần thiết đều xẩy đến trong giấc ngủ. Burdach có lý khi tuyên bố rằng giấc ngủ là trạng thái tối sơ. Bào thai ngủ hầu như liên miên, hài nhi ngủ phần lớn thì giờ của nó. Đời sống là "một cuộc tranh đấu chống lại giấc ngủ: đầu tiên chúng ta thắng giấc ngủ, cuối cùng giấc ngủ phụ hồi. Giấc ngủ là một mảnh của sự chết được vay mượn để duy trì và đổi mới một phần của sự sống đã bị tiêu hao vào ban ngày". Giấc ngủ là kẻ thù bất diệt của ta; ngay cả khi thức, giấc ngủ cũng chiếm đoạt chúng ta một phần. Chung quy, ta chờ đợi gì được từ nơi những cái đầu mà ngay những cái khôn ngoan nhất cũng là sân khấu cho những giấc mộng quái gở phi lý nhất ban đêm, những cái đầu phải trầm tư trở lại khi thức dậy từ những giấc mộng kia ?". Thế thì ý chí cũng là tinh thể của con người. Bây giờ, đọc giả nghĩ sao nếu ý chí cũng là tinh thể của sự sống trong mọi hình thức của nó, và ngay cả của vật chất "vô tri" ? Nếu ý chí chính là "vật tự thân" mà ta tìm kiến bấy lâu, mà ta đã từ lâu tuyệt vọng trong sự truy tầm, nếu ý chí chính là thực tại nội tâm tối hậu và tinh thể bí yếu của mọi sự ? Vậy chúng ta hãy thử giải thích ngoại giới theo tiêu chuẩn của ý chí. Và hãy đi ngay vào căn để; chỗ mà những người khác bảo ý chí là một hình thức của sức mạnh, chúng ta hãy nói rằng sức mạnh chính là một hình thức của ý chí. Trả lời cho câu hỏi của Hume: nhân quả là gì ? Ta sẽ bảo: ý chí. Cũng như ý chí là nguyên nhân phổ quát trong chính chúng ta, trong sự vật nó cũng vậy, và nếu chúng ta không hiểu được nguyên nhân là ý chí như thế thì nhân quả vẫn chỉ là một phù chú thần bí, hoàn toàn vô nghĩa. Nếu không có bí yếu này, chúng ta chỉ đi đến những đặc tính tối nghĩa như "năng lực" hay "dẫn lực" (Gravity) hay "ái lực" (affinity); chúng ta không biết những sức mạnh này là gì, nhưng chúng ta biết -ít nhất là rõ hơn một chút- ý chí là gì; thế thì hãy nói rằng sự ghê tởm và vẻ quyến rũ, sự phối hợp và phân chiết từ lực, dẫn lực, sự kết tinh (crystalization) chính là ý chí, Goethe đã diễn tả ý tưởng này trong nhan đề một cuốn tiểu thuyết khi ông gọi sự thu hút không thể cưỡng lại của những tình nhân là die Wahlverwandtschaft - sự "thân mật tuyển chọn" [die Wahlverwandtschaft (congeniality -engl.) = "Sự tâm đầu ý hợp; sự tương đắc"; một nghĩa khác trong hoá-học: elective affinity (engl.) ="ái lực của sự tuyển chọn"_ chú thích riêng của người đánh máy!]. Cái mãnh lực thu hút người đang yêu, và mãnh lực thu hút hành tinh chỉ là một. Trong đời sống thảo mộc cũng thế. Càng đi xuống những hình thức thấp kém của sự sống bao nhiêu, chúng ta càng nhận thấy vai trò của trí năng nhỏ lại bấy nhiêu; nhưng với ý chí thì không thế. "Cái năng lực trong ta theo đuổi mục đích của nó nhờ tri thức, nhưng ở đây thì chỉ có tiến lên một cách mù quáng câm điếc với cách thế một chiều bất biến, song trong cả hai trường hợp - nó cũng có tên là ý chí ... Vô thức là điều kiện nguyên thuỷ tự nhiên của mọi sự vật, và bởi thế cũng là nền tảng từ đấy, trong những loài chúng sinh đặc biệt, ý thức đã sinh thành như sự triển khai tột độ của loài ấy; và đến lúc ấy vô thức cũng luôn luôn tiếp tục chiếm ưu thế. Do đó phần lớn mọi cuộc tồn sinh đều không có ý thức; tuy nhiên chúng hành động theo những định luật của bản tính chúng, nghĩa là của ý chí chúng. Thảo mộc chỉ có một tương tự rất yếu với ý thức loài động vật thấp nhất chỉ có bóng dáng sơ khai của ý thức. Nhưng ngay cả sau khi ý thức đã lên cao qua quá trình từ động vật cho đến con người với lý trí của nó, vô ý thức của thảo mộc (khởi điểm của ý thức) vẫn còn là căn bản, và ta có thể truy tầm căn bản ấy trong nhu cầu ngủ. Aristote có lý: có một năng lực nội tại un đúc hình thể trong cây cối và hành tinh, trong động vật và người "Bản năng của động vật nói chung cho chúng ta tỷ dụ tốt nhất về cái gì gọi là cùng đích ở trong thiên nhiên. Vì, cũng như bản năng là một hành động tợ như hành động được dẫn dắt bởi quan niệm về một cứu cánh, tuy nhiên lại hoàn toàn không có một cứu cánh nào; cũng thế, mọi sự tạo tác trong thiên nhiên cũng tợ như sự tạo tác được hướng dẫn bởi quan niệm về mục đích, tuy nhiên lại hoàn toàn không mục đích". Sự khéo léo một cách máy móc nhưng tuyệt diệu nơi động vật chứng tỏ ý chí có trước trí năng ra sao. Một con voi đã được đưa đi khắp Âu châu , và đã qua hàng trăm chiếc cầu, sẽ không chịu bước lên một chiếc cầu ọp ẹp, mặc dù nó đã thấy người và ngựa đi qua. Một con chó nhỏ sợ nhảy từ bàn xuống; nó thấy trước kết quả cuộc té ngã không phải nhờ lý luận (và nó không có một kinh nghiệm nào về một vụ té như vậy) mà nhờ bản năng. Những con đười ươi sưởi ấm bên một lò sưởi chúng gặp thấy, nhưng không nuôi ngọn lửa; như vậy rõ ràng những hành vi kia là do bản năng, chứ không phải kết quả của lý luận; chúng là biểu hiện không phải của trí năng mà của ý dục (I, 29). Ý dục ấy, dĩ nhiên, là dục vọng muốn sống, một ý chí muốn được sống tới mức tối đa. Sự sống quý giá biết bao đối với tất cả mọi loài ! - Và nó chờ đợi cơ hội một cách kiên nhẫn biết bao! "Trong hàng năm, lưu điện (galvanism) ngủ mê trong đồng đỏ và thiếc, và những kim khí này nằm yên bên cạnh bạc, cả ba thứ sẽ được đốt cháy thành ngọn vừa khi chúng được mang lại nhau dưới những điều kiện cần thiết. Ngay trong lãnh vực của loài hữu cơ, chúng ta cũng thấy một hạt giống khô duy trì sức sống ngủ yên qua 3000 năm và, cuối cùng khi những hoàn cảnh thuận tiện xảy đến, nó sẽ lớn lên thành cây nhỏ", những con cóc sống được tìm thấy trong đá vôi đưa đến kết luận rằng cả đến sự sống động vật cũng có thể ngưng lại qua hàng ngàn năm. Ý chí ấy là một ý chí muốn sống; và kẻ thù bất diệt của nó là sự chết. Nhưng có lẽ nó có thể đánh bại ngay cả thần chết ? 2. Ý chí muốn sinh sản Vâng, nó có thể, qua chiến lược và cực hình "tử đạo" của sự sinh sản. Mọi cơ thể bình thường lúc trưởng thành đều vội vã tự hy sinh cho nhiệm vụ sinh sản: từ con nhện đực bị xơi trọn do chính con cái nó vừa mới làm cho sinh sản, hay con tò vò tận tuỵ kiếm thức ăn nuôi đàn con mà nó sẽ không bao giờ hội ngộ, đến con người phải ra thân tàn ma dại trong nỗ lực nuôi ăn, lo mặc và giáo huấn bầy con sinh sản là mục đích tối hậu của mọi cơ thể, bản năng mãnh liệt nhất của nó; vì chỉ có cách ấy ý chí mới có thể chinh phục cái chết . Và để bảo đảm sự đắc thắng này, ý chí sinh sản hầu như hoàn toàn đặt ngoài sự kiểm soát của hiểu biết hay suy tưởng: ngay cả một triết gia đôi khi cũng có con cái đàng hoàng. Ý dục ở đây tỏ ra biệt lập với tri thức, và hoạt động một cách mù quáng, như trong thiên nhiên vô thức ... Do đó, những cơ quan sinh sản chính là trung tâm của ý dục, và làm thành một cực đối lập với não bộ, vốn là biểu tượng của tri thức... Cơ quan sinh sản là nguyên lý duy trì sự sống, chúng bảo đảm một đời sống bất tận; "vì lẽ đó chúng được người Hy-lạp thờ phụng trong phallus (nam căn) và người Ấn độ giáo thờ trong lingam (nữ căn)... Hésiode và Parménides đã nói đầy ý nghĩa rằng Eros là người đầu tiên, đấng sáng tạo, là nguyên lý từ đó mọi sự vật tiến tới. Sự tương quan giữa hai giống ... chính thật là trung tâm điểm vô hình của mọi hoạt động và hành vi, nó ló ra khắp nơi mặc dù có đủ loại màn che phủ lên nó. Đấy là nguyên nhân của chiến tranh và cứu cánh của hoà bình; là căn bản của những gì nghiêm trọng và mục tiêu của trò hề; nó là nguồn bất tận của sự chơi chữ, chìa khoá của mọi ẩn dụ và ý nghiã của mọi ám chỉ huyền bí *) [*) Một nguồn gốc của thuyết Freud về "chơi chữ và vô thức"]... Chúng ta thấy nó an vị ở đấy trong mọi lúc, như chúa tể đích thực tập truyền của thế giới, bởi chính sức mạnh tròn đầy của riêng nó, an vị trên chiếc ngai của tiên tổ; và từ đấy nhìn xuống bằng cái nhìn khinh bỉ, nhạo báng trước những trò chuẩn bị để trói buộc nó, cầm tù nó, hay ít nhất cũng hạn chế và che dấu nó càng nhiều càng tốt, và ngay cả chế phục nó để nó chỉ có thể có vẻ là mối bận tâm phụ thuộc, thứ yếu của đời sống. "Siêu hình học về tình yêu" xoay quanh sự phụ thuộc của người cha đối với người mẹ, của cha mẹ đối với con cái, của cá nhân đối với nòi giống. Đầu tiên định luật của sự lôi cuốn nhục thể là sự lựa chọn đôi bạn phần lớn được định đoạt - dù một cách vô thức đến đâu - bởi sự thích ứng với nhau để sinh con đẻ cái. "Mỗi người tìm một người bạn đường khả dĩ dung hoà được những nhược điểm của mình, sợ chúng di truyền cho con cái;... một người đàn ông có cơ thể yếu sẽ tìm một người đàn bà mạnh khoẻ ... Mỗi người sẽ xem một người khác là đẹp trước hết vì những điểm hoàn hảo của người này y không có, nói đúng hơn, ngay những điểm bất toàn của người này cũng đối lập với những bất toàn của chính y *) [*) một nguồn gốc của thuyết Weininger]... Vì mục đích phục hồi mẫu mực của nòi giống, những đức tính về thể xác của hai cá nhân cốt yếu là làm sao cho người này đặc biệt và hoàn toàn là sự bổ sung hoàn tất cho người kia, và người kia vì vậy cũng chỉ ham muốn người này... Ý thức sâu xa mà ta dùng để xét gẫm mọi phần tử trong cơ thể, ... sự tỉ mỉ phê phán ta có trong khi nhìn một người đàn bà bắt đầu làm ta hài lòng... cá nhân ở đây hành động do mệnh lệnh của một cái gì cao hơn chính mình mà y không biết... Mọi cá nhân càng mất sự quyến rũ đối với phái đối lập khi y càng xa giai đoạn thích nghi nhất cho việc sinh sản hay thụ thai... tuổi trẻ không nhan sắc vẫn luôn luôn còn sự quyến rữ; nhan sắc không tuổi trẻ thì không có sự quyến rũ nào. Trong mọi trường hợp yêu đương ... điều duy nhất được nhắm đến là sự sản sinh rằng một cá nhân có một bản tính nhất định; sự kiện ấy được xác quyết bởi thực tại: điều cốt yếu không phải là sự song phương trong tình yêu mà là sự chiếm hữu. Tuy vậy, không có sự phối hợp nào bất hạnh bằng những hôn phối do tình yêu - và chính vì lý do rằng mục đích của hôn phối là lưu truyền nòi giống, chứ không phải khoái lạc cá nhân. "Kẻ nào kết hôn vì yêu phải sống trong buồn thảm", một cách ngôn Tây-ban-nha đã nói. Phân nửa văn học về vấn đề hôn nhân trở thành lố bịch vì nó nghĩ về hôn nhân như là một sự kết đôi bạn, thay vì nghĩ về nó như là một cuộc xếp đặt để bảo tồn nòi giống. Thiên nhiên dường như bất chấp những cặp cha mẹ có "hạnh phúc trăm năm" hay chỉ một ngày, bao lâu mục đích sinh sản được làm tròn. Những cuộc hôn nhân do sự thu xếp của phụ huynh đôi bên, thường thường hạnh phúc hơn hôn phối vì tình yêu. Tuy thế, người đàn bà kết hôn vì tình, chống lại lời khuyên của cha mẹ, trong một ý nghĩa, đáng được khâm phục, vì "cô ta đã thích điều quan trọng nhất, và đã hành động theo tinh thần của thiên nhiên (đúng hơn của giống nòi), trong khi cha mẹ cô khuyên bảo theo tinh thần của lòng vị kỷ cá nhân". Tình yêu là yếu tố cải thiện nòi giống tốt nhất. Vì tình yêu là một thất bại do thiên nhiên gây ra, nên hôn nhân là yếu tố làm hao mòn tình yêu, và phải làm người ta vỡ mộng. Chỉ có triết gia mới có thể hạnh phúc trong hôn nhân, nhưng triết gia lại không kết hôn. "Bởi vì đam mê tuỳ thuộc vào một ảo tưởng nó làm cho ta thấy điều chỉ có giá trị cho nòi giống như là có giá trị cho cá nhân, nên ảo tưởng ấy phải tiêu tan sau khi đạt được mục đích của nòi giống. Cá nhân khám phá rằng mình đã là kẻ bị nòi giống lừa gạt. Nếu đam mê của Petrarch đã được thoả mãn, thì tiếng hát của ông có lẽ đã im". Sự phục tùng của cá nhân đối với nòi giống như một khí cụ để tiếp nối giống nòi, còn xuất hiện trong sự phụ thuộc của sinh lực cá nhân vào điều kiện của những tế bào sinh sản. Sự thúc đẩy của tính dục phải được xem như là đời sống bên trong của cây (nòi giống) trên đó sự sống của cá nhân tăng trưởng, như một ngọn lá được cây nuôi dưỡng và giúp vào sự dinh dưỡng cây; đây là lý do vì sao sự thúc đẩy kia mạnh đến thế, và tuôn vọt từ những đáy sâu của bản ngã chúng ta. Cắt đứt bộ phận sinh dục của một cá nhân có nghĩa là cắt lìa y khỏi cây nòi giống trên đó y lớn lên, và như thế làm y hết nhựa sống, héo khô; do đó những năng lực vật lý và tinh thần y bị tàn tạ. Sự phục vụ nòi giống, nghĩa là sự sinh sản trong mọi cá vật (animal individuo) thường được theo liền bởi sự kiệt sức và sự suy nhược hết mọi năng lực trong chốc lát, và trong trường hợp phần đông sâu bọ được theo liền bởi cái chết nhanh chóng - vì thế Celsus nói: seminis emissio est partis animae jactura; trong trường hợp con người, sự tắt nghẽn năng lực sinh sản chứng tỏ rằng cá nhân đang tiến gần cái chết; sự sử dụng quá độ năng lực ấy vào mọi tuổi đều làm giảm thọ, trong khi trái lại, sự tiết độ trên phương diện này làm tăng cường mọi năng lực, nhất là năng lực bắp thịt, vì thế đấy là một phần trong sự luyện tập của những lực sĩ Hy-lạp; cũng sự tiết độ ấy sẽ kéo dài đời sống sâu bọ ngay cả đến mùa xuân sau; tất cả những điều nói trên đều chứng tỏ sự kiện rằng đời sống của cá nhân từ căn để chỉ là vay mượn từ đời sống của giống nòi... Sự sinh sản là cao độ; và sau khi đạt đến đây, đời sống của cá vật đầu tiên chìm xuống nhanh chóng hoặc từ từ trong khi một đời sống mới bảo đảm cho thiên nhiên sự kéo dài của đời sống, và lập lại cùng những hiện tượng ấy... Như thế sự luân phiên của sự chết và sự tái sản xuất là giống như nhịp tim của nòi giống... Sự chết đối với giống nòi chẳng khác gì sự ngủ nghỉ đối với cá nhân... Đây là thuyết bất tử vĩ đại của thiên nhiên ... Vì toàn thế giới, với mọi hiện tượng của nó, chính là sự cụ thể hoá của một ý chí bất khả phân duy nhất, ý dục, nó tương quan với mọi ý tưởng khác như hoà âm tương quan với một tiếng đơn độc... Trong cuốn "Đàm luận với Goethe của Eckermann" (q I, tr. 161), Goethe nói: Linh hồn của chúng ta là một thực thể của thiên nhiên hoàn toàn bất khả hoại; và hoạt động của nó tiếp diễn vô thuỷ vô chung. Nó như mặt trời, chỉ dường như lặn đối với con mắt phàm tục của chúng ta, mà kỳ thực không bao giờ lặn, vẫn tiếp tục chiếu sáng không ngừng". Goethe đã mượn tỷ dụ này của tôi, không phải tôi mượn của ông ta. Chỉ trong không gian và thời gian chúng ta dường như là những thực thể tách rời, chúng tạo thành "nguyên tắc cá biệt hoá" (principle of individuation) phân chia sự sống thành những cơ thể riêng biệt xuất hiện vào những nơi chốn và thời kỳ khác nhau; không gian và thời gian là một bức màn huyển hoá. Ảo tưởng che lấp nhất tính của vạn sự vạn vật. Thực ra chỉ có nòi giống, chỉ có sự sống, chỉ có ý dục. "Hiểu rõ rằng cá nhân chỉ là hiện tượng, không phải là vật tự thân", thấy trong "sự biến chuyển không ngừng của vật chất, sự trường tồn cố định của hình thể", đấy là tinh yếu của triết học. "Châm ngôn lịch sử phải như thế này: Eadem, sed aliter" (Cùng một sự vật nhưng bằng những cách thế khác nhau). Sự vật càng biến chuyển bao nhiêu, chúng càng bất biến bấy nhiêu. "Con người mà đối với y người và sự vật (?), ở mọi lúc, không có vẻ như chỉ là những bóng ma hay ảo tưởng, con người ấy không có khả năng triết học ... Triết học đích thực về lịch sử nằm trong sự thấy rõ ràng, trong mọi cuộc biến chuyển bất tận và trong sự phức tạp muôn màu của những biến cố, chỉ có một thực thể duy nhất bất biến kia nằm trước mặt chúng ta, cái thực thể mà hôm nay theo đuổi cùng những mục tiêu nó đã theo hôm qua và sẽ theo mãi mãi. Triết gia lịch sử, do đó phải nhận chân được tính cách giống nhau, sự đồng tính trong mọi biến cố ... và dù cho có bao nhiêu thay đổi trong những hoàn cảnh đặc biệt trong y phục và trong phong tục tập quán, ông ta vẫn phải thấy ở khắp nơi cùng một nhân loại ấy ... Đã đọc Herodotus, trên phương diện triết học, có nghĩa là đã nghiên cứu đầy đủ về lịch sử... Khắp nơi và trong suốt thời gian, biểu tượng chân thật của thiên nhiên là vòng tròn, bởi vì đấy là đồ biểu hay mẫu mực của sự tái hồi *) [*) Xem thuyết của Nietzsche về "Sự tái hồi bất tận" ]. Chúng ta ưa tin rằng mọi lịch sử là một cuộc chuẩn bị bất toàn cho một thời đại tráng lệ; nhưng khái niệm về tiến bộ này chỉ là tự phụ điên rồ. "Nói chung, hiền nhân trong mọi thời đại đều luôn luôn nói cùng những điều ấy, và những kẻ ngu si, mà ở mọi thời đều chiếm đa số mênh mông, đều hành động giống nhau theo cách thế của chúng, và làm điều ngược lại và cứ thế sẽ tiếp tục.Vì như Voltaire nói, khi chúng ta từ giã cõi đời vẫn điên rồ và xấu xa như khi ta mới gặp nó". Dưới ánh sáng của tất cả điều này chúng ta có một ý thức mới mẻ và khó chịu hơn về thực tại không thể tránh của thuyết định mệnh. "Spinoza bảo (Epistle 62) rằng nếu một tảng đá được tung qua không trung mà có một ý thức, nó cũng sẽ tin rằng nó đang chuyển động do ý chí tự do của nó. Tôi chỉ thêm vào điều này rằng tảng đá có lý. Cái đà đã thúc đẩy tảng đá đối với tảng đá chính là nguyên động lực đối với tôi; và cái mà trong tảng đá có vẻ như sự mạch lạc, hấp dẫn lực (gravitation), sự cứng rắn, trong bản chất nội tại nơi nó, cũng chính là cái mà tôi nhận thấy ở trong tôi như là ý chí, và cái mà cả tảng đá nữa cũng sẽ nhận thấy là ý chí, nếu nó có tri thức" (II, 164). Nhưng trong cả tảng đã cũng như trong triết gia không đâu có ý chí "tự do" cả. Ý chí kể như một toàn thể là tự do, bởi vì không có ý chí nào bên cạnh nó có thể hạn chế nó; nhưng mỗi phần tử của ý chí phổ quát - mỗi nòi giống, mỗi cơ thể, mỗi cơ quan, đều luôn luôn bị định đoạt bởi toàn thể. Mọi người tự tin mình tiên nghiệm là hoàn toàn tự do, ngay cả trong những hành vi cá nhân của họ, và nghĩ rằng vào mọi lúc, họ có thể bắt đầu một lối sống khác, cái điều chỉ có nghĩa là họ có thể trở thành một người khác. Nhưng hậu nghiệm - qua kinh nghiệm - họ ngạc nhiên nhận thấy rằng họ không tự do, mà chỉ tuỳ thuộc vào sự tất yếu; rằng mặc dầu tất cả những quyết định và suy tưởng của họ, họ không thay đổi các xử thế của họ được, và từ khi bắt đầu cuộc đời cho đến khi kết cuộc, họ phải mang theo ngay chính cái cá tính mà họ lên án, và dường như thể họ phải giữ vai tuồng đã đảm nhận cho đến phút cuối cùng (I, 147).
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:43:00 GMT 9
V. THẾ GIỚI: SỰ ÁC Nhưng nếu thế giới là ý dục, thì đồng thời nó phải là một thế giới của đau khổ. Trước hết bởi vì ý dục tự nó có nghĩa là thiếu thốn, và sự vồ nắm của nó luôn luôn lớn hơn tầm tay với của nó. Với mỗi ước ao được thoả mãn còn có mười ước ao bị từ chối. Dục vọng thì vô biên song sự thoả mãn lại có giới hạn - "nó giống như của bố thí ném cho người hành khất, giữ cho y sống hôm nay để nỗi khốn khổ của y có thể kéo dài ngày mai ... Bao lâu ý thức của ta còn tràn trề ý dục, thì bấy lâu chúng ta còn bị phó mặc cho dục vọng với những hy vọng và sợ hãi triền miên, còn nô lệ cho sự ham muốn, không bao giờ có thể có hạnh phúc hay bình an trường cửu" (I, 253). Và sự thành tựu không bao giờ làm thoả mãn; không gì nguy hiểm cho một lý tưởng bằng sự thực hiện được nó. "Đam mê được thoả mãn thường đưa đến bất hạnh hơn là hạnh phúc. Vì những đòi hỏi của nó thường xung đột quá nhiều với an sinh của cá nhân liên hệ đến nỗi chúng phá hoại sự an sinh ấy" (III. 368). Mỗi cá nhân mang trong mình một mâu thuẫn phá hoại; dục vọng nào khi đã được thực hiện của phát triển thêm một dục vọng mới, và cứ thế cho đến vô cùng. "Tự căn để, điều này do bởi sự kiện rằng ý chí phải tự nuôi sống bằng chính nó, vì không có gì bên cạnh nó, và hơn nữa lại là một ý chí đói khát" (I, 201). Trong mọi cá nhân, cái lượng đau khổ thiết yếu cho y được định đoạt bởi bản tính y; sao cho nó không được trống rỗng, cũng không được quá đầy... khi một nỗi lo âu to tát cấp bách vừa được nhấc lên khỏi ngực ta... thì một mối lo khác tức khắc đến thế chỗ cho nó, toàn thể chất liệu của mối lo này đã hiện diện ở đấy trước kia, nhưng không thể len vào ý thức bởi vì không có chỗ dung chứa... Nhưng bây giờ, khi đã có chỗ cho nó, nó liền tiến tới và chiếm ngôi (I, 409). Lại nữa, đời sống là xấu ác vì khổ đau là nguyên động lực và thực tại căn để, và khoái lạc chỉ là tiêu cực, chỉ là một sự chấm dứt khổ đau. Aristote có lý: người minh triết không tìm khoái lạc, nhưng tìm sự giải thoát khỏi lo phiền khổ não. Mọi sự thoả mãn, hay cái mà thông thường gọi là hạnh phúc, trong thực tại và tinh thể, chỉ là tiêu cực... Chúng ta không đặc biệt ý thức được những hạnh phúc và lợi lộc mà ta thực sự đang có, chúng ta cũng không cho những điều này là đáng giá, mà chỉ xem chúng như lẽ tất nhiên vì chúng chỉ làm cho ta thoả mãn một cách tiêu cực, bằng cách kiềm hãm sự khổ đau. Chỉ khi ta đã mất chúng, ta mới ý thức đến giá trị của chúng; vì sự thiếu thốn, sự mất mát, nỗi buồn sầu, mới là điều tích cực, liên can đến ta một cách trực tiếp... Cái gì đã khiến những nhà khuyển thuyết (cyniker - vô sỉ) xua đuổi khoái lạc dưới mọi hình thức; nếu không phải chính bởi sự kiện rằng khổ đau, không nhiều thì ít, luôn luôn được liên kết chặt chẽ với khoái lạc? ... cùng một chân lý ấy được chứa đựng trong câu cách ngôn tế nhị của Pháp: Le mieux est l' ennemi du bien (I, 141). Đời sống là xấu xa vì "ngay khi sự nghèo túng đau khổ vừa buông tha cho con người an nghỉ, thì lập tức ennui hiện ra gần gũi đến độ y nhất thiết cần phải giải trí" (I, 404) nghĩa là rước thêm khổ đau. Dù cho con người có đạt được xã hội lý tưởng, thì cũng còn có vô số tệ đoan khác bởi vì một vài tệ đoan trong số đó, sự tranh đấu chẳng hạn, vốn là thiết yếu cho cuộc sống; và nếu mọi tệ ác đều được gột tẩy, và sự đấu tranh hoàn toàn chấm dứt thì cơn buồn chán sẽ đâm ra khó chịu tương tự như nỗi khổ đau. Cứ thế "cuộc sống đu đưa như một quả lắc đồng hồ treo, lắc qua lắc lại giữa khổ đau và buồn chán... Sau khi con người đã biến tất cả những khổ đau và ray rứt thành khái niệm về địa ngục, thì không còn gì cho thiên đường nữa ngoại trừ sự bực mình (I, 402). Càng thành công bao nhiêu, chúng ta càng chán bực bấy nhiêu. "Cũng như sự thiếu thốn là hình phạt liên miên của con người, sự buồn chán là hình phạt của thế giới phong lưu. Trong đời sống giới trung lưu buồn chán được biểu hiện qua những ngày chủ nhật và sự thiếu thốn biểu hiện qua những ngày trong tuần" (I, 404). Đời sống là xấu xa vì cơ thể càng cao đẳng, thì sự khổ đau càng lớn lao. Sự tăng trưởng tri thức không phải là giải pháp thoát khổ. "Vì khi hiện tượng ý chí toàn vẹn hơn, thì khổ đau cũng rõ rệt hơn. Trong thảo mộc chưa có cảm tính, vì thế không có đớn đau. Một độ khổ đau nào đó rất nhỏ được cảm nghiệm bởi loài thấp nhất trong sự sống động vật, trong thảo mao trùng và phóng xạ động vật; ngay trong côn trùng khả năng cảm nhận và khổ đau cũng còn có giới hạn. Nó xuất hiện đầu tiên với một cường độ cao nơi thần kinh hệ hoàn bị của những động vật có xương sống và luôn luôn trong một cường độ cao hơn nếu trí thông minh càng phát triển. Như thế, tri thức càng đạt đến chỗ phân biệt, ý thức càng cao, nỗi khổ đau cũng tăng dần, và đạt đến độ cao nhất của nó nơi con người. Và, lại nữa, một người càng biết nhiều bao nhiêu, càng thông minh bao nhiêu thì càng đau khổ bấy nhiêu; con người có thiên tài lại đau khổ hơn tất cả". Bởi thế, người nào gia tăng tri thức chỉ gia tăng khổ sầu. Ngay cả sự nhớ dai và thấy trước cũng chỉ làm tăng thêm nỗi khổ của con người vì phần lớn khổ đau của chúng ta nằm trong sự phản quan hay tiên liệu, chính nỗi khổ đau thì ngắn ngủi. Ý tưởng về sự chết đã gây biết bao khổ đau hơn là chính sự chết ! Cuối cùng, và trên tất cả, sự sống là xấu xa vì sự sống là chiến tranh. Khắp nơi trong thiên nhiên ta thấy sự phấn đấu, cạnh tranh, xung đột và một sự luân phiên có tính cách tự sát giữa chiến thắng và chiến bại. Mọi loài chiến đấu chiếm lấy vật chất, không gian và thời gian của những loài khác. "Con rắn con, vốn lớn lên như một cái mầm của con mẹ, và sau đó tách rời khỏi mẹ, thường chiến đấu khi nó còn được nối liền với con mẹ, để giành mồi, đến nỗi con này giật lấy mồi từ miệng con kia. Những con kiến của Úc châu cho ta tỉ dụ phi thường nhất thuộc loại này; vì nếu nó bị cắt đôi, một trận đấu sẽ bắt đầu giữa cái đầu và cái đuôi. Cái đầu dùng răng giữ lấy cái đuôi, và cái đuôi tự vệ một cách anh dũng bằng cách châm chích cái đầu; cuộc chiến có thể kéo dài nửa tiếng đồng hồ, cho đến khi cả hai chết hoặc bị những con kiến khác lôi đi. Cuộc đấu này xảy ra mỗi lần người ta thí nghiệm... Junghahn kể rằng ông ta thấy ở xứ Java một đồng bằng trải dài đến vô tận, hoàn toàn được phủ đầy bởi những bộ xương, và ông ta đã tưởng đấy là một bãi chiến địa; tuy nhiên, đấy chỉ là những bộ xương của những con rùa lớn... đã ra khỏi biển đến đấy để đẻ trứng, rồi bị những con chó hoang tấn công, những con chó này đã hợp sức đặt ngửa những con rùa, lột chiếc mai nhỏ ra khỏi bụng chúng, rồi ăn tươi nuốt sống. Nhưng thường khi như thế, sẽ có một con hổ chồm tới bọn chó... Những con rùa này được sinh ra để chết như vậy ... Như thế, dục vọng muốn sống ở khắp nơi đều lấy chính nó làm mồi ăn, và là dưỡng chất của chính nó trong những hình thức khác nhau, cho đến cuối cùng loài người vì đã khắc phục mọi loài khác, xem thiên nhiên như một xưởng chế tạo dành riêng cho mình sử dụng. Tuy vậy, ở loài người ... Lại có sự biểu lộ rõ rệt kinh khủng nhất của sự tranh đấu này, sự xung khắc giữa ý dục với chính nó; và chúng ta nhận ra rằng homo homini lupus (người là chó sói đối với người). Toàn diện bức tranh của sự sống hầu như quá thống khổ để ngắm nhìn; muốn sống chúng ta đừng biết quá rõ về sự sống. "Nếu ta chỉ cho một người thấy rõ những khổ đau và cay cực ghê gớm mà cuộc đời của y phải chịu đựng miên viễn, y sẽ vô cùng kinh hãi; và nếu ta dẫn người lạc quan "kinh niên" qua những bệnh viện, chẩn y viện và phòng giải phẫu, qua những nhà tù, phòng tra tấn, và cũi nhốt nô lệ, qua bãi chiến trường và nơi hành quyết; nếu ta mở ra cho y thấy mọi chỗ ở tối tăm của sự cơ cực, nơi đó nỗi thống khổ dấu mặt khỏi cái nhìn của sự tò mò lạnh nhạt và, cuối cùng, để cho y nhìn vào những nhà tù giam đói của Ugolino, thì cả những người lạc quan kia cuối cùng sẽ hiểu được bản chất của cái "thế giới tốt đẹp nhất trong mọi thế giới " khả hữu này. Vì từ đâu Dante đã lấy tài liệu cho địa ngục của ông nếu không phải từ chính thế giới thực thụ của chúng ta ? Và tuy nhiên ông đã làm nó trở thành một địa ngục rất đặc biệt. Nhưng trái lại, khi mô tả thiên đường và những lạc thú của nó, Dante gặp một khó khăn không thể vượt, vì thế giới chúng ta không cung cấp một tí tài liệu gì về điều này cả... Mọi bài anh hùng ca và bi hùng kịch chỉ có thể trình bày một cuộc tranh đấu, một nỗ lực, một sự chiến đấu cho hạnh phúc, không bao giờ tả chính hạnh phúc lâu dài và toàn vẹn. Kịch dẫn dắt những nhân vật qua một ngàn hiểm nguy và khó khăn để đạt tới đích; vừa khi đích đã đạt được thì màn bỗng từ từ hạ; vì bây giờ vở tuồng không còn gì để diễn tả ngoài ra sự chỉ rõ rằng cái mục đích chói sáng trong đó nhân vật mong đợi tìm thấy hạnh phúc chỉ làm cho anh ta thất vọng, và sau khi đạt được mục đích ấy, anh ta chẳng khá gì hơn trước". Chúng ta không hạnh phúc khi đã kết hôn, và không kết hôn chúng ta lại không hạnh phúc. Chúng ta bất hạnh khi ở một mình, bất hạnh trong xã hội : chúng ta giống như những con nhím tụ lại cùng nhau để sưởi ấm, và cảm thấy bất tiện khi quá ép lại gần nhau, nhưng lại khổ sở khi rời xa nhau. Tất cả việc đó đều rất đáng cười và "cuộc đời của cá nhân, nếu nhìn bao quát ... và chỉ nhấn mạnh trên đặc điểm ý nghĩa nhất, thật luôn luôn là một bi kịch; nhưng nếu ta đi qua từng chi tiết của nó, cuộc đời ấy lại có tính chất của một hài kịch". Xem: Vào lúc 5 tuổi đi vào một xưởng dệt vải hay một xưởng nào khác, và từ lúc ấy trở đi cứ mỗi ngày ngồi đấy ban đầu mười tiếng, rồi 12, cuối cùng 14 tiếng, làm cùng một công việc máy móc đó để mua bằng giá đắt đỏ sự thoả mãn là còn giữ được hơi thở. Nhưng đây là số phận của hàng triệu người, và số phận của hàng triệu kẻ khác cũng tương tự... Lại nữa, dưới lớp vỏ cứng của hành tinh này chứa nhiều năng lực hùng hậu của thiên nhiên mà, vừa khi một sự tình cờ nào đó mở lối cho chúng tự do sẽ tất nhiên phá hoại cái vỏ cứng ấy với mọi sự sống trên đó như đã xẩy ra ít nhất là ba lần trên hành tinh của chúng ta, và có lẽ còn xảy ra thường hơn nữa, trận động đất ở Lisbonne, ở Haiiti, sự tàn phá Pompei, chỉ là những ám hiệu nhỏ đùa chơi của những gì có thể xảy đến" (III, 389, 395). Trước tất cả cảnh này, "lạc quan là một sự nhạo báng cay chua về nỗi sầu thảm của con người" (I, 420) và " chúng ta không thể gán cho tác phẩm Theodicy của Leibnitz một giá trị nào hơn là giá trị này; ấy là tác phẩm ấy đã tạo cơ hội cho cuốn Candide bất hủ của Voltaire; trong đó sự chống chế què quặt mà Leibnitz luôn luôn đưa ra được bênh vực cho sự xấu xa của thế giới -ông cho rằng sự xấu xa đôi khi đem lại cái tốt đẹp- đã được một sự xác nhận mà ông không ngờ" (III, 934). Tóm tắt, "bản chất của sự sống suốt quá trình nó chỉ là sự cốt ý đánh thức niềm xác tín rằng không có một tí gì đáng cho ta nỗ lực, đáng cho những cố gắng và tranh đấu của ta; rằng mọi điều tốt đẹp chỉ là hư vô trống rỗng, thế giới hoàn toàn suy sụp phá sản, và đời là một kinh doanh không bù lại những phí tổn" (III, 383) Muốn được hạnh phúc, người ta phải ngu si như tuổi trẻ. Tuổi trẻ nghĩ rằng sự ham muốn và nỗ lực là những nguồn vui; nó chưa khám phá ra rằng dục vọng là một túi tham không đáy đáng chán chường, và mọi sự hoàn thành đều vô ích; nó chưa thấy rõ tính cách tất yếu của thất bại. "Sự vui vẻ và hoạt bát của tuổi trẻ một phần do ở sự kiện rằng khi chúng ta đang đi lên đồi dốc của sự sống, cái chết chưa rõ rệt; nó đang còn ở dưới chân đồi bên kia... Khi về già, mỗi ngày ta sống cho ta cùng loại cảm giác như kẻ tử tội cảm nghiệm mỗi bước trên đường đến nơi hành quyết... Để thấy rõ cuộc dời ngắn ngủi, người ta phải đã sống lâu. Cho đến năm ba mươi sáu tuổi, ta có thể được ví, trong cách sử dụng sinh lực, với những người sống bằng lợi tức của tiền cho vay; số tiền tiêu xài hôm nay họ sẽ có lại ngày mai. Nhưng từ ba mươi sáu tuổi trở đi, chúng ta giống như người đầu tư bắt đầu xâm phạm số vốn của y... Chính nỗi sợ hãi tai nạn này đã làm cho lòng ham dồn của thường tăng theo với tuổi già... Nhưng tuyệt nhiên không phải tuổi trẻ là giai đoạn hạnh phúc nhất của cuộc đời, nhận xét của Platon ở đầu cuốn Cộng hoà có phần đúng hơn, ấy là phần thưởng kia đang dành cho tuổi già, vì lúc ấy cuối cùng con người đã giải thoát khỏi cái dục vọng thú tính mà cho đến bây giờ chưa bao giờ ngưng quấy rối y... Tuy nhiên không nên quên rằng, khi đam mê này đã tắt, thì mầm sống cũng mất, và chỉ còn cái vỏ trống rỗng, hoặc, trên một phương diện khác, sự sống khi ấy trở thành như một hài kịch mà ban đầu do những tài tử thật đóng nhưng lại được tiếp tục và kết thúc bằng những người máy được mặc y phục của họ". ("Lời khuyên và châm ngôn", 124 - 139). Cuối cùng, chúng ta gặp phải cái chết. Vừa khi kinh nghiệm bắt đầu phối hợp thành minh triết thì óc não và cơ thể cũng khởi sự suy tàn "Mọi sự chỉ ở nán lại một phút chốc, rồi vội vã đi đến cái chết" (II, 454; III, 269) và nếu sự chết thong thả chờ đợi chính là vì nó muốn giỡn với ta như mèo vờn chuột. "Rõ ràng là hệt như sự bước đi của ta ai cũng nhận thấy chỉ là một sự té ngã luôn luôn được gượng lại, cũng thế, sự sống của thân xác ta chỉ là sự chết luôn luôn được gượng lại, một cái chết luôn luôn được triển hạn" ("Lời khuyên và châm ngôn" 28, phần ghi chú). "Trong số những đồ trang sức mỹ lệ của những vị chúa độc tài Đông phương, luôn luôn có một chai độc dược đắt đỏ" (I, 119). Triết lý của Đông phương hiểu rõ sự hiện diện khắp nơi của cái chết, và đem lại cho những nho sĩ vẻ bình thản và phong độ khoan thai do ý thức về sự ngắn ngủi của đời người. Lòng sợ chết là khởi điểm của triết học, và là nguyên nhân cuối cùng của tôn giáo. Người trung bình không thể hoà giải với cái chết ; do đó y tạo ra vô số nền triết học và thần học; sự thịnh hành của một đức tin vào bất tử là dấu hiệu của nỗi sợ hãi rùng rợn trước cái chết. Thần học là một lãnh vực để ẩn trốn cái chết, điên loạn là một tình trạng để trốn tránh khổ đau, "sự điên loạn đến như một phương thế trốn khỏi ký ức về khổ đau" (I, 250). Nó là một gián đoạn cứu rỗi trong sợi chỉ ý thức; chúng ta có thể sống sót sau một vài kinh nghiệm hay sau nỗi sợ hãi chỉ nhờ lãng quên. Chúng ta thường rất miễn cưỡng khi nghĩ về những điều tổn hại đến lợi lộc, lòng tự kiêu của ta, những điều quấy rối ước vọng của ta. Chúng ta cảm thấy vô cùng khó khăn khi quyết định đặt những điều ấy ra trước trí năng của mình để truy tầm một cách cẩn thận nghiêm chỉnh... Trong sự chống kháng của ý dục không muốn để cho những yếu tố mâu thuẫn với nó len lỏi vào và chịu sự khám xét của trí năng, ta thấy được cái chỗ mà sự điên loạn có thể đột nhập... khi ý dục ngăn cản trí năng lĩnh hội một chuyện gì, và khi sự chống kháng của ý dục đã đi đến một mức độ khiến cho sự lãnh hội ấy không được hoàn toàn, thì đối với trí năng một vài yếu tố hay hoàn cảnh nào đó sẽ bị ức chế, vì ý dục không thể chịu đựng được sự thấy mặt chúng. Khi ấy vì tâm thức cần có sự liên tục, cho nên những khoảng hở phát sinh do sự ức chế sẽ được lấp đầy tuỳ thích; do đó mà tình trạng điên cuồng xuất hiện. Bởi vì tất cả trí năng là để làm vừa lòng ý dục, nên bây giờ con người tưởng tượng ra những chuyện không có thực. Tuy nhiên sự điên loạn nổi lên như thế chính là phương pháp lãng khuây mọi đau khổ không thể chịu đựng; đấy là liều thuốc cuối cùng của bản tính bị ray rứt, nghĩa là của ý dục *) [(*) III, 167 - 9. Một nguồn cho thuyết Freud]. Chỗ trú ẩn cuối cùng là tự sát. Ở đây, cuối cùng, điều kỳ quặc là tư tưởng và trí tưởng tượng đã thắng được bản năng. Tương truyền Diogène đã tự sát bằng cách nhịn thở - quả là một chiến thắng vẻ vang đối với ý dục tham sống. Nhưng sự chiến thắng này chỉ ở cá nhân; ý dục vẫn tiếp tục trong nòi giống. Sự sống cười lớn nhạo báng việc tự sát, và mỉm cười trước cái chết; vì tương ứng với mỗi cái chết có tính toán thì lại có hàng ngàn sự sinh không suy tính. "Sự tự sát, sự cố ý phá huỷ một hiện hữu đơn độc trong thế giới hiện tượng, chỉ là một hành vi điền rồ vô lối, vì vật-tự-thân, giống nòi, sự sống, ý dục nói chung, vẫn không bị ảnh hưởng gì bởi hành vi ấy" (I, 515). Sự thống khổ và đấu tranh vẫn tiếp tục sau khi một cá nhân chết, và phải tiếp tục, bao lâu ý dục còn thống trị con người. Không thể có chiến thắng đối với những nỗi khổ của sự sống khi mà ý dục chưa hoàn toàn phục tùng tri thức và trí tuệ. VI. MINH TRIẾT VỀ NHÂN SINH 1. Triết học: Trước hết, hãy xét sự phi lý của lòng ham muốn của cải vật chất. Những kẻ ngu tin tưởng chỉ cần có nhiều tài sản vào là đủ làm cho ý dục họ hoàn toàn thoả mãn. Người ta tưởng rằng một người có đầy đủ phương tiện là một người có thể thoả mãn mọi ước muốn. "Người ta thường bị trách cứ là tham tiền hơn mọi thứ, và yêu tiền hơn bất cứ gì khác; nhưng đối với con người thì đấy là điều tự nhiên không thể tránh khi họ yêu chuộng cái thứ luôn luôn sẵn sàng tự biến thành bất cứ thứ gì mà những ước vọng lang thang của họ, những ham muốn muôn mặt của họ để mắt xanh đến. Mọi vật khác chỉ có thể thoả mãn một ước muốn, chỉ có tiền là tuyệt đối tốt, vì đấy là sự thoả mãn một cách trừu tượng mọi ước muốn" (Tiểu luận, tr. 47). Tuy nhiên, một đời sống cù chày để thu hoạch tài sản thật là vô dụng nếu chúng ta không biết làm thế nào để biến tài sản thành lạc thú, và đấy là một nghệ thuật đòi hỏi văn hoá và sự minh triết. Một chuỗi tiếp nối những đeo đuổi dục lạc không bao giờ đem lại thoả mãn lâu dài, người ta cần phải hiểu những cứu cánh cũng như hiểu nghệ thuật kiếm phương tiện. "Con người có nhiều định ý để làm giàu gấp ngàn lần định ý thu nhập văn hoá, mặc dù điều hoàn toàn chắc chắn là "nội tài" của con người đem lại hạnh phúc cho y nhiều hơn sở hữu "ngoại tài" của y" (Ibid, 11). "Một kẻ không có nhu cầu tâm thức gọi là một con người hủ lậu" (tr. 41). Y không biết làm gì với sự nhàn rỗi của y - difficilis in otio quies (được bình an trong lúc nhàn rỗi là điều khó) (tr. 39); y hăm hở thèm thuồng đi hết nơi này đến nơi khác để tìm kiếm cảm giác mới, và cuối cùng y phải chịu hình phạt của kẻ giàu nhàn rỗi hay một kẻ túng dục liều lĩnh - hình phạt ấy chính là nỗi bực mình, ennui (tr.22). Không phải tài sản mà chính sự minh triết mới là chánh đạo. "Con người đồng thời vừa là sự nỗ lực hùng hổ của ý dục (mà trung tâm nằm ở hệ thống sinh sản) vừa là chủ tể bất diệt, tự do, an tịnh của tri thức thuần khiết (mà trung tâm là não bộ)" (I, 262). Điều kỳ diệu là tri thức, mặc dù là con đẻ của ý dục, song lại có thể khắc phục nó, khả tính độc lập của tri thức bắt đầu xuất hiện khi trí năng thỉnh thoảng lơ là trong việc đáp ứng những đòi hỏi của dục vọng. "Đôi khi trí năng từ chối không phục tùng ý dục, như khi chúng ta cố gắng vô vọng vào một việc gì, hay khi ta không thể nào làm cho ký ức nhớ lại một điều đã giao cho nó giữ. Sự tức giận của ý dục chống lại trí năng vào những dịp như thế làm nổi bật mối liên hệ giữa tri thức và ý chí, và sự khác biệt giữa đôi bên. Quả thế, bị bực tức vì sự giận dữ của ý dục, trí năng đôi khi láu táu mang lại điều mà ý dục đòi hỏi nhiều giờ sau đó, hay cả đến sáng hôm sau, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái mùa" (II, 439). Từ sự phục dịch bất toàn, trí năng có thể đi đến chỗ thống trị ý dục. Theo ý định hay vì cần thiết, con người có thể thản nhiên chịu đựng hay hoàn thành những hành động có tầm quan trọng ghê gớm đến tính mạng y - sự tự sát, hành quyết, đấu kiếm và những việc nguy hiểm khác nói chung, những việc mà toàn thể bản năng thú vật của y chống lại. Trong những trường hợp như thế, chúng ta thấy rõ lý trí đã làm chủ bản năng đến mức độ nào" (I, 112). Quyền lực này của trí năng đối với ý chí có thể được phát triển tự do, dục vọng có thể bị tri thức tiết chế hay dập tắt tiếng nói, nhất là cái tri thức có một triết lý tất mệnh công nhận mọi sự là hậu quả hiển nhiên của những nguyên nhân trước nó. "Trong mười điều khiến ta buồn bực, có hết chín điều sẽ vô hiệu lực đối với ta nếu ta hiểu rõ nguyên nhân của chúng, và nhờ cậy bớt tính cách tất yếu và thực tính của chúng ... Dây cương và hàm thiết đối với con ngựa bất kham có công dụng thế nào thì trí năng đối với ý chí cũng có công dụng như thế ấy" (II, 426). "Sự tất yếu ở nội tâm cũng như sự tất yếu ở ngoại cảnh: không gì đem lại cho ta sự an bình rốt ráo cho bằng một sự hiểu biết rõ ràng" (I, 396). Chúng ta càng hiểu rõ dục vọng đam mê của chúng ta bao nhiêu, thì chúng càng ít khống chế chúng ta được bấy nhiêu, và "không gì che chở ta thoát được sự cưỡng bức của ngoại vật cho bằng tự kiềm chế mình" ("Lời khuyên và châm ngôn", tr. 51). "Nếu bạn muốn khắc phục mọi sự, thì chính bạn hãy phục tùng lý trí" (Si vis tibi omnia subjicere, subjice te rationi). Kỳ quan vĩ đại nhất trong tất cả, không phải là kẻ chinh phục thế giới, mà chính là kẻ hàng phục được bản thân. Như vậy triết lý thanh luyện ý dục. Nhưng triết lý ở đây phải hiểu là kinh nghiệm và tư duy, không phải chỉ là việc đọc sách và nghiên cứu thụ động. "Khi để những tư tưởng của người khác liên tục tràn vào đầu ta, chúng sẽ hạn chế và đàn áp những tư tưởng của riêng ta; và cuối cùng làm tê liệt năng lực tư duy. Khuynh hướng của mọi học giả là tống khứ hết cái nghèo nàn của tâm thức họ bằng cách đưa vào những tư tưởng của kẻ khác... Thật nguy hiểm khi ta đọc về một vấn đề trước khi chính chúng ta đã suy nghĩ về nó. Khi ta đọc, một người khác suy nghĩ cho ta, ta chỉ có lập lại quá trình tâm thức của người ấy... Như thế, chuyện xảy ra hầu như thế này: là nếu một người đọc sách suốt ngày, y sẽ mất dần khả năng suy tưởng ... Kinh nghiệm thế gian có thể xem như một bài học, mà sự tư duy và hiểu biết về nó là phần bình luận. Khi có quá nhiều tư duy và hiểu biết mà quá ít kinh nghiệm thì chẳng khác nào những cuốn sách mỗi trang chỉ có hai dòng chính văn mà đến bốn mươi dòng bình giải". (II, 254, Tiểu luận "Sách và đọc sách", "Lời khuyên và châm ngôn", tr. 21). Như vậy lời khuyên thứ nhất là: cuộc đời trước sách vở; và lời khuyên thứ hai là chính văn trước bình giải. Hãy đọc chính những tác phẩm hơn là những sách trình bày và phê bình tác phẩm. Chỉ từ chính những triết gia chúng ta mới thu thập được những tư tưởng triết học: bởi thế kẻ nào tự thấy mình ưa thích triết học, thì phải tìm những bực thầy bất tử trong thánh địa an tĩnh của chính tác phẩm họ. Một tác phẩm của thiên tài đáng giá một ngàn thiên bình luận. Trong những giới hạn ấy, sự theo đuổi văn hoá dù qua sách vở, cũng có giá trị, vì hạnh phúc tuỳ thuộc những gì ta có trong đầu hơn những gì ta có trong túi. Ngay cả tiếng tăm cũng là sự điên rồ. "Những cái đầu của kẻ khác là một nơi khốn nạn để làm nhà ở cho hạnh phúc chân thật của một con người" ("Minh triết và đời sống", tr. 117). "Một người có thể bị kẻ khác phán đoán thế nào, điều ấy không quan trọng, vì chung quy, mọi người đều cô độc. Nhưng điều quan trọng là: kẻ cô độc ấy là ai... Niềm hạnh phúc ta nhận được từ chính mình vốn thường lớn lao hơn hạnh phúc mà ta có được từ hoàn cảnh xung quanh... Hình ảnh của thế giới trong đó một con người sống, chính do cách thế y nhìn thế giới ấy... Vì mọi sự hiện hữu hay xảy đến cho một người chỉ có trong ý thức y, và chỉ xảy đến cho một mình y, nên điều thiết yếu nhất là sự tạo thành ý thức của y ... Vì thế Aristote đã nói lên chân lý vĩ đại sau đây: được hạnh phúc có nghĩa là tự mình đầy đủ cho mình" (Ibid. tr. 27, 4-9). Cách thoát ra khỏi dục vọng vô bờ chính là sự chiêm quan cuộc đời một cách thông minh, và nói chuyện với những công trình của vĩ nhân trong mọi thời mọi xứ. Chính cho những tâm hồn biết yêu thương chân lý này mà những vĩ nhân đã sống. "Trí năng vô vị kỷ vươn lên như một làn hương vượt trên những lỗi lầm và điên rồ của thế giới ý dục" ("Minh triết về nhân sinh", 34, 108). Phần đông người ta không bao giờ vượt khỏi lối nhìn vạn vật như đối tượng của dục vọng, do đó mà họ khổ sở. Nhưng thấy được mọi sự chỉ như đối tượng của tri thức, tức là đã vươn đến tự do. "Khi một nguyên nhân bên ngoài hay thiên tính bên trong bất chợt nâng ta lên khỏi lòng ham muốn bất tận, và giải phóng tri thức ra khỏi sự nô lệ ý dục, thì sự chú ý không còn được hướng đến những động lực của ham muốn, không còn lĩnh hội mọi sự trong tương quan với ý dục, mà quan sát sự vật không xen lẫn tư lợi, hoàn toàn khách quan, hoàn toàn chú mục vào sự vật trong giới hạn chúng là những ý tưởng, chứ không phải là những động lực thúc đẩy dục tình. Khi ấy bỗng chốc niềm an lạc mà chúng ta vẫn luôn tìm kiếm nhưng luôn vụt khỏi tầm tay ta để trở lại con đường dục vọng, niềm an lạc ấy sẽ tự ý đến với ta và giảng hoà với ta. Đấy là trạng huống không khổ đau mà Epicure cho là điều thiện cao tột và là trạng huống của những thần linh, vì trong lúc ấy chúng ta được giải phóng khỏi những nỗ lực đeo đẳng khốn nạn của ý dục, chúng ta được nghỉ lễ Sabbath, không còn làm tôi mọi nhọc nhằn cho dục vọng, bánh xe của Ixion được yên nghỉ" *) [(*) I, 254; Theo thần thoại, Ixion bị Jupiter trừng phạt bằng cách trói vào một bánh xe quay bất tận]. 2. Thiên tài Thiên tài là hình thức tuyệt đỉnh của tri thức vô dục này. Những hình thức thấp nhất của sự sống hoàn toàn làm bằng ham muốn, vắng bóng tri thức; con người nói chung là một phần lớn ham muốn và rất ít tri thức; thiên tài là một phần lớn tri thức và rất ít ham muốn. "Thiên tài bao gồm trong điều này: là khả năng hiểu biết phát triển đến mức độ vô cùng lớn hơn mức cần thiết để phục vụ cho ý dục " (III, 139). Việc ấy cần mọi sự chuyển dịch năng lực dành cho hoạt động sinh sản thành ra năng lực hoạt động tri thức. "Điều kiện căn để của thiên tài là tính nhạy cảm trội hẳn đến độ bất thường vượt trên năng lực sinh sản" (III, 159). Do đó có sự thù địch giữa thiên tài và phụ nữ vốn tượng trưng cho sự sinh sản và sự phục tùng của trí năng đối với dục vọng muốn sống và làm ra sự sống. "Đàn bà có thể có tài lớn, nhưng không thể có thiên tài, vì họ luôn luôn chủ quan". Đối với họ mọi sự đều riêng tư, và đều được xem như một phương tiện để đạt những cứu cánh riêng. Trái lại.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:44:41 GMT 9
"Thiên tài nói giản dị là khách quan tính toàn vẹn nhất, nghĩa là khuynh hướng khách quan của tâm thức... Thiên tài là năng lực gạt hẳn ra khỏi tầm mắt mình những lợi thú riêng, ước vọng và mục đích riêng, là năng lực khước từ bản ngã của mình trong một thời gian để có thể đóng vai chủ thể tri giác thuần tuý, thị kiến sáng suốt về vũ trụ ... Bởi thế sự biểu hiện của thiên tài nơi một nét mặt là ở điểm này: trong nét mặt kia ta có thể thấy được một sự thắng vượt quyết định của tri thức đối với ý dục. Trong những nét mặt thông thường, có sự nổi bật của ý dục, và ta thấy rằng tri thức chỉ hoạt động dưới sự thúc đẩy của ý dục, và chỉ được hướng dẫn bởi những động lực của tư lợi" (I, 249, 243). Khi giải thoát khỏi ý dục, tri thức có thể thấy được sự vật trong tự thân của chúng; "thiên tài đưa lên cho chúng ta chiếc kính thần, trong đó mọi sự cốt yếu và ý nghĩa đều được quy tụ lại và hiển lộ được ánh sáng rõ ràng, còn những gì ngẫu nhiên xa lạ đều bị gạt ra" (I, 351). Tư tưởng đâm thủng dục vọng như ánh mặt trời xuyên qua một đám mây, làm hiển lộ trọng tâm của sự vật; đặc biệt nó hướng đến "Ý tưởng" kiểu Platon hay cái tinh yếu phổ quát mà nó chỉ là một hình thể phát xuất từ đấy, hệt như họa sĩ thấy qua người mẫu mà ông phác họa, không những chỉ cá tính và dáng vẻ của một cá nhân mà còn thấy một tính chất phổ quát và một thực tại trường cửu mà cá nhân kia chỉ là một biểu tượng, một phương diện để làm hiển lộ. Vậy thì bí quyết của thiên tài nằm ở sự tri giác một cách sáng suốt vô tư cái khách quan, tinh yếu và phổ quát. Chính sự mất quân bình ấy khiến cho thiên tài khó thích ứng trong thế giới đầy những hoạt động của ham muốn, thực tế, tư lợi. Vì thấy quá xa, thiên tài không thấy cái gì gần, nên thường bất cẩn và "quái dị"; trong khi chú mục nhìn một ngôi sao, ông có thể rơi tòm xuống giếng. Một phần vì thế mà thiên tài không có xã hội tính, ông chỉ nghĩ đến cái căn để, phổ quát bất diệt, trong khi những kẻ khác nghĩ đến giai đoạn, đặc thù, thức thời. Tâm thức của ông và của những kẻ khác không có gì chung, không bao giờ gặp gỡ. "Thường xã hội tính của một người tỉ lệ với mức độ nghèo nàn về tri thức và nói chung, mức độ tầm thường của y" (Minh triết nhân sinh, tr. 24). Con người thiên tài có những đền bù cho mình, không cần bạn bè nhiều như những người sống trong mối lệ thuộc vĩnh viễn vào những gì bên ngoài họ. "Lạc thú mà thiên tài nhận được từ mọi vẻ đẹp, niềm an ủi mà nghệ thuật đem lại cho ông, mối hăng say nghệ sĩ... giúp thiên tài quên đi những phiền muộn của cuộc sống, và bù đắp cho nỗi đau khổ càng tăng của ông khi ý thức càng sáng suốt, và cho sự cô đơn sa mạc của ông giữa một nòi giống khác biệt" (I, 345). Tuy nhiên, kết quả là thiên tài bị bắt buộc đi vào thế cô lập, và đôi khi vào nỗi điên loạn; tính nhạy cảm quá độ đã đem lại cho ông khổ đau, tưởng tượng và trực giác hợp lực với nỗi cô đơn và tính khó thích nghi để bẻ gãy những giây liên lạc giữa tâm thức với thực tế. Aristote một lần nữa lại đúng: "Những người xuất sắc về triết học, chính trị, thi ca hay nghệ thuật hầu hết đều thuộc loại đa sầu" (Minh triết nhân sinh, 19). Mối liên lạc trực tiếp giữa điên loạn và thiên tài "đã được đặt ra trong những tiểu sử của các vĩ nhân, như Rousseau, Byron, Alfieri, v.v. Qua một cuộc truy tầm cẩn thận trong những nhà điên, tôi đã khám phá nhiều trường hợp những con bệnh rõ rệt là có tài lớn, và thiên tài của họ xuất hiện rõ rệt qua cơn điên loạn" (I, 247). Nhưng chính những người nửa điên nửa tỉnh ấy, những bậc thiên tài là giai cấp quý tộc đích thực của nhân loại. "Về phương diện trí năng, thiên nhiên rất nặng về quý tộc chủ nghĩa. Những phân biệt mà thiên nhiên đã thiết lập thường lớn lao hơn những phân biệt do bất cứ quốc gia nào lập ra theo dòng giống, địa vị, tài sản hay giai cấp" (II, 342). Thiên nhiên chỉ đem lại thiên tài cho một số ít bởi một thiên tính như vậy sẽ là một cản trở cho những mục đích thông thường trong đời sống vốn luôn luôn đòi hỏi chú tâm vào những gì riêng biệt cấp thiết. "Thật ra thiên nhiên định rằng ngay những học giả cũng phải là những người cày ruộng, quả thế, những giáo sư triết phải được đánh giá theo tiêu chuẩn này, và khi ấy ta sẽ thấy những công trình của họ đạt đến mọi mong đợi tốt đẹp" (III, 20). 3. Nghệ thuật Sự giải phóng tri thức khỏi bị nô lệ ý dục, sự bỏ quên ngã chấp và mối bận tâm vật chất của nó, sự nâng cao tâm thức đến chỗ chiêm ngưỡng chân lý một cách vô dục, chính là nhiệm vụ của nghệ thuật. Đối tượng của khoa học là cái phổ quát chứa đựng nhiều cái đặc thù, đối tượng của nghệ thuật là cái đặc thù chứa đựng một cái phổ quát. "Ngay cả bức chân dung cũng phải là, như Winckelmann bảo, hình ảnh lý tưởng của cá nhân" (I, 290). Trong sự phát họa động vật, bức hoạ điển hình nhất được kể là bức hoạ đẹp nhất, bởi nó biểu lộ giống loài một cách tốt đẹp nhất. Vậy một tác phẩm nghệ thuật cũng thế, thành công tuỳ mức độ nó gợi lên cái Ý tưởng kiểu Platon nhiều hay ít, gợi lên cái phổ quát chung cho đồng loại của vật được trình bày. Chân dung của một con người, bởi thế, không phải cốt ở sự giống hệt kiểu chụp hình, mà ở nỗ lực trình bày qua một dáng hình, vài đặc tính cốt yếu hay phổ quát của con người. "Nghệ thuật cao cả hơn khoa học , vì khoa học tiến hành nhờ quá trình tích trữ và lý luận, trong khi nghệ thuật đạt đến đích ngay qua trực giác và sự trình bày. Khoa học chỉ cần có tài là đủ, nhưng nghệ thuật đòi hỏi phải có thiên tài. Niềm lạc thú của ta trong thiên nhiên, như trong thi hay hoạ, phát sinh nhờ sự ngắm nhìn đối tượng mà không xen lẫn ý muốn cá nhân. Đối với nghệ sĩ, sông Rhin là một loạt những phong cảnh thay đổi thần kỳ, kích động cảm quan và trí tưởng tượng với những gợi ý của cái đẹp, nhưng người du lịch đang chú tâm vào những công việc riêng tư "sẽ thấy con sông và bờ sông chỉ là một đường thẳng, và cây cầu chỉ là một đường cắt ngang" (III, 145). Nghệ sĩ tự giải thoát khỏi những lo nghĩ cá nhân đến nỗi "đối với cái nhìn của nghệ sĩ, không có gì khác nhau giữa sự ngắm cảnh hoàng hôn từ một nhà giam hay từ một lâu đài" (I, 265). "Chính hạnh phúc của tri giác vô dục này đã rọi một ánh sáng huyền ảo trên quá khứ và khoảng cách, và trình bày chúng cho ta thấy dưới một ánh sáng vô cùng mỹ lệ" (I, 256). Ngay cả những đối tượng nghịch, khi được ngắm nhìn không xen lẫn kích động của ý dục , và không có mối nguy kề cận, cũng trở thành cao đẹp. Cũng thế, bi kịch có thể có một giá trị nghệ thuật, khi nó giải phóng ta ra khỏi cuộc tranh chấp của dục vọng cá nhân, và làm cho ta có thể thấy nỗi khổ của ta trong một nhãn quan rộng rãi. Nghệ thuật làm dịu bớt những xấu xa sự sống bằng cách chỉ cho ta thấy cái bất diệt và phổ quát ở đằng sau cái phù du, cá biệt. Spinoza có lý: khi tâm trí nhìn sự vật trong khía cạnh vĩnh cửu của chúng, nó đã dự phần vào vĩnh cửu". Mãnh lực của nghệ thuật để nâng ta lên trên sự đấu tranh của những dục vọng, trước hết chính là âm nhạc. "Âm nhạc tuyệt nhiên không giống những nghệ thuật khác, sự mô phỏng những ý tưởng hay tinh thể của sự vật, mà âm nhạc là sự mô phỏng chính ý dục"; nó chỉ cho ta thấy ý dục vĩnh viễn di động, nỗ lực, lang thang, luôn luôn rốt cuộc trở về với chính nó để bắt đầu lại những nỗ lực. "Đây chính là lý do vì sao tác dụng của âm nhạc mãnh liệt hơn, sau xa hơn những nghệ thuật khác, vì chúng chỉ nói đến những cái bóng, trong khi âm nhạc nói ngay đến chính sự vật" (I, 313). Âm nhạc cũng khác các nghệ thuật khác bởi vì nó ảnh hưởng đến cảm thức của ta một cách trực tiếp, không qua trung gian những ý tưởng, âm nhạc đối thoại với một cái gì tinh tế hơn là trí năng. Sự cân đối đối với nghệ thuật tạo hình thế nào thì âm điệu đối với âm nhạc cũng thế ấy, bởi vậy âm nhạc là một phản cực của kiến trúc. Kiến trúc, như Goethe bảo, là âm nhạc đông lại và sự cân đối là âm điệu đứng im. 4. Tôn giáo Vào giai đoạn trưởng thành, Schopenhauer bắt đầu có ý tưởng rằng lý thuyết của ông về nghệ thuật - theo đó nghệ thuật là sự rút lui của ý dục, và sự chiêm ngưỡng cái bất diệt phổ quát cũng áp dụng cho tôn giáo. Thời niên thiếu ông đã thu thập rất ít huấn luyện về tôn giáo, và tính khí ông không có khuynh hướng kính trọng những tổ chức giáo hội đương thời. Ông khinh bỉ những nhà thần học: "Luận chứng cuối cùng của những nhà thần học là các cọc giàn hoả thiêu mà ta thấy trong nhiều quốc gia" (II, 365) và ông mô tả tôn giáo là "nền siêu hình của quẩn chúng" (Tiểu luận, tr.2). Nhưng vào những năm về sau, Schopenhauer bắt đầu tìm thấy một ý nghĩa sâu xa trong vài lễ tục và giáo điều. "Sự tranh chấp tiếp diễn dai dẳng trong thời đại chúng ta giữa những nhà siêu nhiên và những nhà thuận lý là do ở chỗ họ không nhận chân được tính cách ẩn dụ của mọi tôn giáo" (II, 369). Ki-tô giáo chẳng hạn, là một triết lý bi quan sâu xa; "lý thuyết về tội lỗi nguyên thuỷ ( sự xác nhận dục vọng) và về sự cứu rỗi (chối bỏ dục vọng) chính là chân lý vĩ đại làm nên tinh yếu của Ki-tô giáo" (I, 254). Kiêng ăn là một phương tiện thiện xảo để làm yếu đi những dục vọng không bao giờ đưa đến hạnh phúc mà chỉ đưa đến sự vỡ mộng hay đến dục vọng khác. "Cái năng lực nhờ đó Ki-tô giáo có cơ thắng thế đối với Do thái giáo và vô thần luận của Hy lạp và La Mã, chỉ nằm ở một điểm duy nhất là bi quan luận của nó, ở chỗ nó thú nhận rằng trạng huống của chúng ta vừa khốn đốn vừa tội lỗi vô cùng, trong khi cả Do thái giáo lẫn vô thần luận đều lạc quan" (II, 372), xem tôn giáo như một sự hối lộ cho những quyền năng trên trời để giúp đỡ cho những thành công ở dưới đất. Ki-tô giáo trái lại, xem tôn giáo là sự ngăn cản cuộc săn tìm vô bổ chạy theo hạnh phúc trần gian. Ở giữa lòng sự xa hoa và quyền năng thế tục, "Ki-tô giáo đã đề cao lý tưởng của bậc thánh. Kẻ điên trong Chúa, người khước từ sự chiến đấu, hoàn toàn thắng lướt ý dục cá nhân" (I, 493). Phật giáo còn sâu sắc hơn Ki-tô giáo, vì toàn bộ nền tôn giáo này nhằm vào sự phá huỷ dục vọng, và thuyết giáo về Niết bàn xem như mục đích của mọi sự tu tập của cá nhân. Những người Ấn-độ sâu sắc hơn những nhà tư tưởng của Âu châu bởi lối giải thích thế giới của họ có tính cách nội tâm và trực giác, không phải ngoại tại và tri thức; trí năng chia tách mọi sự, trực giác hợp nhất mọi sự. Những người Ấn-giáo thấy rằng cái "tôi" là một ảo tưởng; cá nhân chỉ là hiện tượng, và thực tại độc nhất là nhất thể vô biên - "cái kia là ngươi". "Kẻ nào có thể nói câu ấy với chính mình, đối với mọi thực thể y tiếp xúc, - kẻ nào có con mắt sáng và linh hồn minh mẫn đủ để thấy rằng tất cả chúng ta đều là những tay chân của một cơ thể duy nhất, những dòng nước nhỏ trong một đại dương của ý chí - kẻ ấy "chắc chắn có mọi đức hạnh và phước lành, và đang ở trên đường thẳng đến giải thoát" (I, 483). Schopenhauer không nghĩ rằng Ki-tô giáo sẽ có ngày thay thế Phật giáo ở Đông phương: "việc ấy giống hệt như thể ta bắn một viên đạn vào một mỏm đá" (I, 460). Đúng hơn, triết học Ấn sẽ tràn vào Âu châu, thay đổi sâu xa tri thức và tư tưởng của Âu châu. "Ảnh hưởng của văn học Phạn ngữ sẽ thâm nhập không kém sự phục hưng của văn chương Hy Lạp vào thế kỷ 15". Vậy thì, sự minh triết tối hậu chính là Niết bàn: giảm thiểu cái "ngã" của mình đến mức tối thiểu đối với ham muốn và dục vọng. Ý chí vũ trụ mạnh hơn ý chí cá nhân, chúng ta hãy nhượng bộ tức khắc. "Ý dục càng ít kích động bao nhiêu, chúng ta càng ít khổ đau bấy nhiêu" (Lời khuyên và châm ngôn, tr. 19). Những tuyệt tác vĩ đại về hội hoạ luôn luôn trình bày những nét mặt trong đó "ta thấy biểu hiệu của tri thức toàn vẹn nhất, không hướng về những sự vật đặc thù mà đã ... trở thành yếu tố làm cho lặng bặt mọi dục vọng" (I, 300). "Niềm bình an vượt trên mọi lý tính ấy, vẻ an tịnh hoàn toàn ấy của tâm linh, sự nghĩ ngợi sâu xa ấy, trạng thái thanh bình bất khả xâm phạm ấy ... mà Raphael và Correggio đã mô tả, chính là một thánh kinh toàn vẹn vững chắc; chỉ có tri thức còn lại, ý dục đã tiêu tan" (I, 531). VII. MINH TRIẾT VỀ CÁI CHẾT Tuy nhiên, còn cần thêm điều gì nữa. Với Niết bàn, cá nhân đạt được niềm an tịnh trong sự vô dục, và tìm thấy giải thoát; nhưng sau cá nhân ? Cuộc sống cười lớn trước cái chết của cá nhân, sự sống sẽ tiếp tục sau cá nhân ấy trong con cháu y hay trong con cháu kẻ khác; cho dù dòng sống nhỏ của y đã khô cạn, vẫn còn một ngàn dòng sống khác chảy rộng hơn và sâu hơn cùng với mỗi thế hệ. Làm sao Con Người có thể được giải thoát ? Có chăng một Niết bàn cho mọi loài cũng như cho cá nhân ? Hiển nhiên, sự chiến thắng dục vọng một cách căn để rốt ráo duy nhất phải nằm ở sự chấm dứt dòng sống - tức ý muốn sinh sản. "Sự thoả mãn bản năng sinh sản tự nó đã hoàn toàn đáng trách cứ, vì đấy là sự xác quyết mạnh mẽ nhất của dục vọng muốn sống" (Wallace, tr. 29). Những trẻ con đã phạm tội lỗi gì để bị sinh ra ? "Khi ngắm nhìn cuộc sống hỗn độn, ta thấy tất cả đều bận rộn với sự thiếu hụt và khốn đốn, dốc hết năng lực để thoả mãn những nhu cầu vô biên và để né tránh muôn ngàn sầu khổ, tuy nhiên không dám hy vọng điều gì khác hơn là chỉ duy trì kiếp sống quay cuồng này trong một khoảng ngắn thời gian. Song cũng trong lúc ấy, ngay giữa cảnh náo loạn này, ta lại thấy đôi tình nhân nhìn nhau đắm đuối; nhưng sao lại bí mật thế, sợ hãi thế và lén lút thế ? Bởi vì những tình nhân kia là những kẻ phản bội đang tìm cách kéo dài miên viễn toàn thể nỗi cơ cực vất vả này mà đáng lẽ phải đi đến chung cuộc một cách mau chóng; đấy là lý do sâu xa của sự hổ thẹn liên hệ đến quá trình sinh sản" (III, 374; I, 423). Ở đây chính người đàn bà là kẻ có tội, vì khi tri thức đã đạt đến chỗ vô dục, thì những duyên dáng thiếu suy nghĩ của họ lại dụ dỗ đàn ông rơi vào sự sinh sản trở lại. Tuổi trẻ không đủ thông minh để thấy rõ những vẻ kiều diễm kia thật ngắn ngủi chừng nào, và khi sự thông minh đến với họ thì quá muộn. "Với những thiếu nữ, thiên nhiên dường như nhắm một mục đích mà trong ngôn ngữ kịch nghệ thường gọi là "hậu quả kích động"; vì trong một vài năm thiên nhiên cho chúng một tài sản nhan sắc và vẻ kiều diễm để có thể chộp lấy cơn bốc đồng của một người đàn ông đến độ chàng vội vã đảm nhận cái vinh dự săn sóc chúng suốt đời, một nước bước dường như không có một bảo đảm nào để biện minh nếu lý trí chịu điều khiển tư tưởng con người một chút... Ở đây, cũng như nơi khác, thiên nhiên tiến hành với sự tiết kiệm thường lệ, vì hệt như con kiến mẹ sau khi sinh sản mất cả đôi cánh khi ấy đã trở nên dư thừa hay đúng hơn trở nên một mối nguy cho việc nuôi con, cũng thế, một người đàn bà sau khi sinh một hay hai đứa con thường thường mất nhan sắc có lẽ cũng vì lý do tương tự" (Luận về đàn bà, tr. 73). Những thanh niên cần phải suy nghĩ rằng "nếu cái đối tượng hôm nay khởi hứng cho họ làm thơ ca tụng để sinh ra mười tám năm trước hơn, nó sẽ không lôi cuốn được dù chỉ một cái nhìn của họ" (III, 339). Nói cho cùng, đàn ông về thân thể đẹp hơn đàn bà nhiều. "Chỉ có một người đàn ông bị mờ mắt vì sự thúc đẩy của xác thịt mới có thể tặng danh từ phái đẹp cho cái giống người thấp bé, vai hẹp, mông rộng, chân ngắn kia; vì toàn thể vẻ đẹp của giống này đều liên kết chặt chẽ với bản năng tính dục. Thay vì gọi chúng là phái đẹp, để bảo đảm hơn nên tả đàn bà là giống thiếu thẩm mỹ. Chúng không bao giờ thực sự có một tính cảm thụ nào đối với âm nhạc hay thi ca mỹ nghệ, chúng chỉ là một trò hề khi giả vờ có ý thức ấy để phụ vào nỗ lực làm hài lòng phái kia. Đàn bà không thể có mối quan tâm thuần tuý, khách quan về bất cứ một điều gì... Những bộ óc đặc sắc nhất trong toàn thể giống này chưa bao giờ sản xuất được gì dầu chỉ một công trình duy nhất về mỹ nghệ thật độc đáo và thuần tuý, hay hiến cho thế giới một tác phẩm có giá trị trường cửu thuộc bất cứ lãnh vực nào" (Luận về đàn bà, 79). Sự tôn sùng đàn bà là một sản phẩm của Ki-tô giáo và của tính đa cảm nơi người Đức, và nó trở lại làm một nguyên nhân cho phong trào lãng mạn đề cao cảm tính, bản năng và dục vọng lên trên trí năng. Những người Á châu biết rõ hơn và thẳng thắn công nhận sự kém cõi của đàn bà. "Khi luật pháp cho đàn bà bình quyền với đàn ông, thì luật pháp đáng lẽ phải cho đàn bà luôn cả trí năng của nam giới" (Luận về đàn bà, 84). Hơn nữa, Á đông chứng tỏ một sự thành thật tinh vi hơn sự thành thật của Tây phương trong những định chế về hôn nhân của họ. Á đông chấp nhận tục đa thê như một điều bình thường, hợp pháp, điều này mặc dù được người Tây phương thi hành rộng rãi, vẫn bị giấu dưới sự vờ vĩnh của một câu nói: "Ở đâu có những người thực sự theo chế độ độc thê ?". Và thật phi lý vô cùng khi cho là đàn bà có quyền về tài sản. "Mọi phụ nữ, rất hiếm ngoại lệ, đều thiên về sự quá lố", bởi vì họ chỉ sống trong hiện tại, và môn thể thao chính yếu của họ là đi mua hàng. "Đàn bà nghĩ rằng công việc của đàn ông là kiếm tiền, còn công việc họ là tiêu tiền". Đấy là quan niệm của họ về sự phân công. "Bởi thế tôi có quan niệm rằng không bao giờ nên cho phép đàn bà trọn quyền điều khiển những công việc của riêng họ, mà họ phải luôn luôn ở dưới sự cai quản thực thụ của nam giới, hoặc của cha hay chồng hay con trai, hay quốc gia, như trường hợp ở Ấn độ; và do đó không bao giờ nên cho họ trọn quyền sử dụng bất cứ tài sản nào không do chính họ kiếm được" (Wallace, tr. 80). Có lẽ chính sự xa xỉ và quá lố của những phụ nữ trong triều Louis XIII đã gây ra sự thối nát toàn diện của chính phủ đã dồn dập để cuối cùng đưa đến cuộc cách mạng Pháp chính là tịch diệt ? VIII. PHÊ BÌNH Phản ứng tự nhiên cho một nền triết học như thế là một cuộc chẩn bệnh, xét đến thời đại và con người. Chúng ta hãy nhận chân một lần nữa rằng ở đây ta có một hiện tượng mà, vào những ngày sau Alexandre và sau César, đã đem lại đầu tiên cho Hy Lạp và thứ đến cho La Mã một làn sóng đức tin và thái độ của Đông phương. Điểm đặc biệt của phương đông là xem ý chí bên ngoài, ý chí thiên nhiên, là vô cùng mãnh liệt hơn ý chí con người, và sẵn sàng đi đến một thuyết cam chịu và tuyệt vọng. Cũng như sự suy tàn của Hy Lạp đem lại vẻ bơ phờ của thuyết khắc kỷ và nét hồng hào của thuyết hưởng lạc theo Epicure trên đôi má của Hy Lạp, những hỗn loạn của chiến tranh thời Napoléon đã đưa vào linh hồn Âu châu sự mệt mỏi chán chường khiến Schopenhauer trở thành tiếng nói triết học ở đây. Âu châu đã trải qua một cơn nhức đầu kinh khủng vào năm 1815 *) [(*) Hãy so sánh nỗi hờ hững chán chường của Âu châu ngày nay (1924) và sự thịnh hành của những tác phẩm như cuốn "Sự suy tàn của thế giới Tây phương của O. Spengler]. Sự chẩn mạch cá nhân có thể bắt đầu từ lời xác nhận của Schopenhauer rằng hạnh phúc của một con người tuỳ thuộc vào tinh thể của y hơn là vào hoàn cảnh bên ngoài. Bi quan luận là một bản cáo trạng của người bi quan. Một cơ thể bệnh hoạn và một tâm hồn thần kinh loạn, một đời sống nhàn hạ trống rỗng và buồn chán ảm đạm, đó là nền sinh lý học thích đáng cho triết học Schopenhauer. Người ta phải có sự nhàn hạ mới thành một kẻ bi quan; một đời hoạt động hầu như luôn luôn đem lại sự phấn khởi về thể chất và tâm linh. Schopenhauer ca tụng niềm bình an phát sinh bởi những mục đích khiêm tốn và một đời sống vững vàng (I, 422), nhưng ông hoàn toàn không thể nói về những điều này do kinh nghiệm bản thân Difficilis in otio quies (Thật khó bình an khi nhàn rỗi), đúng vậy; ông có đủ tiền để luôn luôn nhàn rỗi, và ông nhận thấy sự nhàn rỗi liên tục còn khó chịu hơn công việc liên tục. Có lẽ khuynh hướng đa sầu của những triết gia là do ở tình trạng thiếu tự nhiên của những công việc ngồi một chỗ; thường khi sự công kích đời sống chỉ là một triệu chứng của sự thiếu sót trong nghệ thuật bài tiết. Niết bàn là lý tưởng của một người không hăng hái, một Childe Harold hay một René, người đã khởi sự bằng cách ham muốn quá nhiều, bằng cách đặt cọc tất cả vốn liếng vào một đam mê, rồi khi thua cuộc, kéo lê cuộc sống thừa trong nỗi chán chường bực bội. Nếu trí năng quả làm kẻ phục dịch cho dục vọng, thì rất có thể rằng sản phẩm đặc biệt của trí năng, mà chúng ta biết được dưới cái tên là triết học của Schopenhauer, chính là cái vỏ phủ ngoài, sự biện hộ cho một dục vọng bệnh hoạn và lừ đừ. Và dĩ nhiên những kinh nghiệm đầu của ông với đàn bà và đàn ông đã phát triển một mối nghi kỵ và tính nhạy cảm bất thường như trường hợp của Stendhal, Flaubert và Nietzsche. Ông đâm ra cay cú và ưa đơn độc. Ông viết: "Một người bạn trong cơn túng thiếu không phải là một người bạn chân thật; y chỉ là một kẻ mượn tiền" (Lời khuyên và châm ngôn, tr. 68); và : Đừng nói cho một người bạn nghe bất cứ điều gì mà ta sẽ giữ kín đối với một kẻ thù" (tr. 96). Ông khuyên nên sống một đời yên tĩnh, bình lặng đều đều của kẻ ẩn dật; ông sợ xã hội và không có ý thức gì về những giá trị hay nguồn vui của sự tương giao giữa người vói người (tr.86). Nhưng hạnh phúc chết lặng khi nó không được san sẻ. Dĩ nhiên có một yếu tố tự cao to lớn trong sự bi quan; thế giới không đủ tốt đẹp cho ta, và ta quay lỗ mũi triết lý của ta đi chỗ khác. Nhưng đấy là vì đã quên bài học của Spinoza, theo đó những tiêu chuẩn chỉ trích và tán thưởng của chúng ta chỉ là những phán đoán của con người, phần lớn không xác đáng khi áp dụng cho vũ trụ xét như một đoàn thể. Có lẽ sự ngấy chán đầy tự kiêu của ta đối với cuộc sống chỉ là một lớp vỏ che đậy một nỗi ngấy chán thầm kín đối với chính chúng ta : chúng ta đã làm hỏng bét đời sống của mình rồi đổ lỗi cho "hoàn cảnh" hay cho "thế giới", những cái không có lưỡi để thốt lên một lời tự vệ. Con người chín chắn chấp nhận những giới hạn tự nhiên của cuộc đời; y không mong đợi ông Trời thiên vị có lợi cho y; y không đòi hỏi được chia nhiều con bài hơn kẻ khác để chơi ván bài cuộc đời. Y biết - như Carlyle- rằng không có nghĩa lý gì để phỉ báng mặt trời chỉ vì nó không thắp cho ta điếu xì-gà. Và có lẽ, nếu chúng ta khá đủ thông minh để phụ lực cho nó, mặt trời có thể làm ngay cả việc ấy nữa; và vũ trụ bao la vô tư này có thể trở thành một nơi khá dễ chịu nếu ta mang một ít nắng của riêng chúng ta để giúp vào đó. Thực ra thế giới không theo chúng ta cũng không chống lại chúng ta; nó chỉ là nguyên liệu đơn thuần ở trong tay ta, và có thể trở thành thiên đường hay địa ngục tuỳ ở điểm chúng ta là gì. Một phần nguyên nhân của bi quan, nơi Schopenhauer và người đồng thời, nằm ở thái độ và sự mong đợi có tính chất lãng mạn của họ. Tuổi trẻ chờ đợi quá nhiều nơi cuộc đời; bi quan là buổi sáng hôm sau của lạc quan, hệt như năm 1815 phải bù lại năm 1780. Cơn nhiệt nồng lãng mạn và sự giải phóng cảm tính, bản năng và ý chí, cùng sự khinh bỉ của trào lưu lãng mạn đối với trí năng, sự tiết chế và trật tự, đã đem lại những hình phạt tự nhiên của chúng; vì thế giới như Horace Walpole đã nói, "là một hài kịch đối với những người sống đời suy tư, nhưng là một bi kịch đối với những người sống đời cảm tính". "Có lẽ không một phong trào nào dồi dào nét đa sầu cho người phong trào lãng mạn cảm xúc... Khi nhà lãng mạn khám phá rằng lý tưởng hạnh phúc của mình hoá ra thành sự bất hạnh trong thực tế, y không trách cứ lý tưởng của mình mà chỉ cho rằng thế giới không xứng đáng với một anh hoa phát tiết như y" *) [(*) Babbitt, Rousseau and Romantism, tr.20]. Làm sao một vũ trụ bốc đồng có thể thoả mãn một linh hồn hay thay đổi ? Cảnh tượng Napoléon lên làm bá chủ, sự tố giác của Rousseau -và sự phê phán của Kant về trí năng - cộng với tính khí đam mê và những kinh nghiệm của riêng Schopenhauer, đã hợp lực âm mưu gợi cho ông lý thuyết về sự ưu thắng tối hậu của dục vọng. Có lẽ, hơn nữa, trận Waterloo và St. Hélène đã giúp cho sự phát triển một bi quan luận chắc hẳn phát sinh từ sự đích thân xúc tiếp một cách chua chát với những mũi nhọn và hình phạt của cuộc sống. Đây là ý chí cá nhân năng động nhất trong suốt lịch sử, hùng hổ dẫn đạo các lục địa; tuy nhiên định mệnh của nó cũng chắc chắn và hèn mọn như số phận của con sâu mà ngày sinh ra cũng đồng lúc đem lại cho nó cái chết tất yếu. Schopenhauer không bao giờ có ý nghĩ rằng thà đã từng chiến đấu và thua cuộc hơn là không bao giờ chiến đấu; ông không cảm thấy, như một Hegel hùng mạnh và nhiều nam tính hơn, cái vinh quang và sự đáng muốn của chiến đấu, ông mong mỏi hoà bình, nhưng lại sống giữa lòng chiến tranh. Khắp nơi ông thấy sự tranh đấu; ông không thể thấy đàng sau sự đấu tranh, sự giúp đỡ thân hữu của những láng giềng, niềm vui nhộn nhịp của trẻ con và thanh niên, vũ điệu của những thiếu nữ linh động, những hy sinh tự ý của những cha mẹ và những tình nhân, hoa mầu dồi dào kiên nhẫn của đất đai, và sự sống lại của mùa xuân. Và đã sao nếu dục vọng khi thoả mãn, chỉ đưa đến một dục vọng khác ? Có lẽ thế lại tốt hơn, khi chúng ta không bao giờ hài lòng. Hạnh phúc nằm trong sự tựu thành hơn là trong sự chiếm hữu hay thoả mãn, đấy là một bài học từ ngàn xưa. người khoẻ mạnh không đòi hỏi hạnh phúc mà đòi hỏi một cơ hội để thi thố những khả năng của mình; và nếu y phải trả giá bằng hình phạt khổ đau cho sự tự do này, cho năng lực này, y vẫn trả một cách hoan hỷ; đấy không phải là một giá quá đắt. Chúng ta cần sức chống kháng để nâng ta lên, như sức cản đã nâng chiếc phi cơ hay con chim; chúng ta cần những trở ngại để mài dũa sức mạnh và thúc đẩy sự trưởng thành của ta. Cuộc đời không có bi kịch sẽ không xứng với một con người*) [(*) Xem thêm chính Schopenhauer cũng viết: "Không có công việc đều đặn, không có lãnh vực hoạt động nhất định, đấy thật là một điều khốn nạn nhất !... Nỗ lực, đấu tranh với gian khó là điều tự nhiên cho một con người, chẳng khác nào đối với việc đùn đất đối với một con mối. Được thoả mãn tất cả mọi nhu cầu là một điều không thể chịu đựng -không thể chịu đựng cái cảm giác tù đọng phát sinh bởi sự kéo dài quá lâu những lạc thú. Thắng lướt những khó khăn chính là cảm nghiệm để niềm lạc thú viên mãn của cuộc sống" (Lời khuyên và châm ngôn, tr. 53). Chúng ta sẽ muốn biết thêm Schopenhauer khi trưởng thành đã nghĩ gì về cái triết lý xuất sắc của ông vào thời niên thiếu.]. Có thật đúng rằng "kẻ nào tăng trưởng tri thức chỉ tăng thêm sự buồn sầu", và chính những sinh vật có cơ cấu tổ chức cao nhất là khổ đau nhiều nhất ? Phải, nhưng cũng đúng khi bảo sự tăng trưởng tri thức làm tăng niềm hoan lạc cũng như nỗi buồn sầu, và những lạc thú vi diệu nhất, cũng như những khổ đau sâu xa nhất, vốn dành cho những tâm hồn đã triển khai. Voltaire đã chí lý khi thích sự minh triết "bất hạnh" của người Bà-la-môn hơn là sự ngu dốt hạnh phúc của người đàn bà nhà quê; chúng ta mong được cảm nghiệm cuộc đời một cách thấm thía sâu xa, dù phải chịu đau đớn; ta mong được phiêu lưu vào trong những bí mật tận cùng cuộc sống, cho dù phải bị vỡ mộng *) [(*) Anatole France (hoá thân cuối cùng của Voltaire) đã dành trọn một tuyệt tác của ông -Bi kịch thế nhân- để chứng minh rằng "niềm vui của tri thức là một lạc thú buồn thảm", tuy nhiên, "ai đã từng nếm trải nó một lần sẽ không chịu đổi nó để lấy tất cả những sự vui nhộn phù phiếm, những niềm hy vọng trống trơn của đám đông phàm tình" (Cf. The Garden of Epicurus, N.Y., 1908, p. 120)]. Virgil, người đã nếm đủ mọi mùi khoái lạc, và kinh nghiệm những xa hoa của "ơn chín bệ" cuối cùng đã "chán chường mọi sự trừ ra niềm vui của sự hiểu biết". Khi những giác quan không còn làm ta thoả mãn; thì cũng "đáng đồng tiền bát gạo" nếu chúng ta, dù phải khó nhọc bao nhiêu, được làm bạn với những nghệ sĩ, thi sĩ và triết gia mà chỉ có một tâm hồn đã trưởng thành mới lĩnh hội được. Sự minh triết là một lạc thú vừa đắng vừa ngọt, nó sâu sắc chính nhờ ở cung cầm lỗi điệu len vào trong bản hoà âm.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:45:40 GMT 9
Lạc thú phải chăng là tiêu cực ? Chỉ có một tâm hồn đã bị vết thương nặng nề, rụt mình khỏi sự tiếp xúc với thế giới, mới có thể rút ra một lời xúc phạm căn để như thế đối với cuộc đời. Lạc thú gì nếu không phải là sự vận hành nhịp nhàng của những bản năng ? - và làm sao lạc thú có thể là tiêu cực trừ phi cái bản năng đương vận hành ấy sẵn sàng để rút lui hơn là để tiến đến những lạc thú của sự thoát ly và an nghỉ, của sự phục tùng và an ninh, của nỗi cô đơn và vắng lặng dĩ nhiên là tiêu cực, bởi vì những bản năng thúc dục ta tìm đến chúng vốn cốt yếu là tiêu cực - những hình thức của sự trốn chạy và sợ hãi; nhưng ta có thể nào nói thế về những khoái lạc xảy đến khi những bản năng tích cực đang điều khiển - những bản năng của sự thu hoạch, chiếm hữu, của sự hiếu chiến và sự thống trị, của hành động và chơi đùa, của sự kết bạn, của tình yêu ? Phải chăng là tiêu cực niềm vui trong chuỗi cười, sự nô đùa của trẻ, tiếng hót của con chim gọi bạn, tiếng gáy của con gà trống, sự xuất thần đầy sáng tạo của nghệ thuật ? Chính sự sống là một sức mạnh tích cực, và mọi nhiệm vụ bình thường của nó đều có một lạc thú. Dĩ nhiên rất đúng khi bảo rằng sự chết thật là ghê gớm. Nhưng phần lớn nỗi kinh hoàng của nó sẽ biến mất khi ta sống một đời bình thường; con người phải sống đúng cách để chết đúng cách. Và liệu sự bất tử có làm cho ta vui thú chăng ? Ai thèm số phận của Ahasverus, kẻ đã bị buộc phải sống hoài không chết, xem như hình phạt nặng nhất có thể đặt ra cho con người ? Và bởi đâu sự chết là ghê gớm nếu không phải bởi vì sự sống là ngọt ngào ? Ta không cần phải nói như Napoléon rằng tất cả những người sợ chết đều là người vô thần chính cống, nhưng ta có thể nói chắc chắn rằng một người đã sống bảy mươi năm tức đã vượt qua bi quan luận của mình rồi. Goethe nói không ai là một kẻ bi quan sau ba mươi tuổi. Và hoàn toàn không thể bi quan trước tuổi hai mươi; bi quan là một xa xỉ phẩm của tuổi trẻ tự thức và xem mình quan trọng; cái tuổi đã ra khỏi lòng ấm áp của gia đình xum vầy để đi vào không khí lạnh lùng của cạnh tranh và thèm muốn cá nhân, rồi khát vọng hướng về lòng mẹ; cái tuổi trẻ đã điên cuồng tự lao mình vào những cối xay gió và những xấu xa của cuộc đời, rồi buồn bã trút dần theo mỗi năm những ảo vọng và lý tưởng. Nhưng trước tuổi hai mươi là niềm vui của thể xác và sau tuổi ba mươi là niềm vui của tâm hồn; trước hai mươi là khoái cảm của sự che chở và an ninh; sau ba mươi lạc thú của gia đình và nhiệm vụ làm cha mẹ. Làm sao một người tránh khỏi bi quan khi gần suốt đời sống trong nhà trọ ? Khi đã bỏ mặc đứa con độc nhất thành con hoang vô danh ? Tận căn để nỗi bất hạnh của Schopenhauer là sự khước từ của ông đối với sinh hoạt bình thường, - sự khước từ phụ nữ, hôn nhân, con cái-. Ông cho sự làm cha mẹ là tệ đoan lớn lao nhất, trong khi một người khoẻ mạnh thấy đó là niềm thoả mãn lớn lao nhất của cuộc sống. Ông nghĩ rằng sự lén lút của tình yêu là do nỗi hổ thẹn trong việc tiếp nối nòi giống - còn gì có thể phi lý hợm hĩnh hơn? Ông chỉ thấy trong tình yêu sự hy sinh của cá nhân cho nòi giống, mà không biết đến những lạc thú bản năng đã đền bù cho sự hy sinh- , những lạc thú lớn lao đến nỗi chúng ta đã khởi hứng cho phần lớn thi ca trên thế giới. Ông chỉ biết đàn bà là láu cá và tội lỗi, và tưởng tượng rằng không có mẫu đàn bà nào khác hơn. Ông nghĩ rằng con người đảm nhận nuôi nấng một người vợ là kẻ điên (Luận về đàn bà, 73). Nhưng rõ ràng những người ấy không bất hạnh gì hơn vị tôn đồ say mê của nỗi bạc phước trong đơn độc; và (như Balzac nói) nuôi dưỡng một thói xấu cũng tốn kém như nuôi dưỡng một gia đình. Ông khinh bỉ sắc đẹp phụ nữ - làm như thể có những hình thức của cái đẹp mà ta có thể để riêng ra, và không nên yêu chuộng như là sắc hương của cuộc sống. Ôi ! quả là một mối thù ghét sâu xa đối với đàn bà, do một rủi ro đã đem lại cho tâm hồn bất hạnh ấy ! Có nhiều khó khăn khác, có tính cách kỹ thuật và ít quan trọng, trong nền triết học đáng chú ý và có nhiều khởi hứng này. Làm sao sự tự sát có thể xảy đến trong một thế giới mà sức mạnh thực thụ duy nhất là ý chí ham sống ? Làm sao trí năng, được sinh ra và nuôi dưỡng để phục dịch ý chí, lại có thể đi đến tự lập và khách quan tính ? Thiên tài nằm trong tri thức ly khai với ý chí hay trái lại, như một động lực điều khiển, chứa đựng một năng lực ý chí vô biên, ngay cả một lượng hỗn hợp khổng lồ giữa những tham vọng và lòng tự phụ ? *) [(*) Cf. Schopenhauer "Những khả năng tri thức vĩ đại nhất chỉ để tìm thấy, đi đôi với một ý chí hăng hái và đam mê" (II,413)]. Phải chăng sự điên loạn đi đôi với thiên tài, hay nên nói đúng hơn, chỉ với mẫu thiên tài "lãng mạn" (Byron, Shelley, Poe, Heine, Swinburre, Strindberg, Dostoievski, v.v.) và há chẳng phải mẫu thiên tài "cổ điển" và sâu sắc hơn lại sáng suốt phi thường (Socrate, Platon, Spinoza, Bacon, Newton, Voltaire, Goethe, Darwin, Whitmann v.v. )? Nếu nhiệm vụ đích đáng của trí năng và triết học không phải là chối bỏ ý dục mà là phối hợp những dục vọng thành một ý chí hợp nhất hoà điệu thì sao ? Nếu chúng "ý chí", trừ khi nó là sản phẩm của một sự phối hợp như thế, chỉ là một sự trừu tượng huyền hoặc mơ hồ như "năng lực" ? Dù sao trong nền triết học này cũng có một sự thành thực thẳng thắn mà bên cạnh nó, phần lớn những tín điều lạc quan đều mang vẻ giả dối của liều thuốc ngủ. Thật rất nên nói theo Spinoza rằng thiện và ác chỉ là những danh từ chủ quan, những thành kiến của con người, tuy nhiên chúng ta vẫn bị bắt buộc phải phán đoán thế gian này không từ một lập trường "vô tư" nào cả, mà từ quan điểm của nỗi khổ đau và sự thiếu thốn thực sự của con người. Thật là chí lý khi Schopenhauer buộc triết học phải đối diện với thực tại nguyên chất của sự xấu xa, và hướng lỗ mũi tư duy vào việc làm vơi khổ. Từ Schopenhauer trở đi, triết học khó mà sống trong bầu không khí phi thực của một nền siêu hình chiết phân luận lý; những tư tưởng gia bắt đầu nhận chân rằng tư duy không hành động là một cơn bệnh. Sau hết Schopenhauer để mở mắt cho những nhà tâm lý học thấy chiều sâu tinh tế và sức mạnh hiện diện khắp nơi của bản năng. Sự tri thức hoá -quan niệm cho rằng con người trên tất cả là một con vật suy tưởng, thích ứng một cách đầy ý thức các phương tiện vào những cứu cánh đã được chọn lựa theo lý trí -bắt đầu nhuốm bệnh với Rousseau, đưa vào giường với Kant, và chết với Schopenhauer. Sau hai thế kỷ phân tích nội quan, triết học đã tìm ra đằng sau tư tưởng là dục vọng, và đàng sau trí năng là bản năng; hệt như sau một thế kỷ duy vật luận, vật lý học đã tìm ra đàng sau vật chất là năng lượng. Chúng ta mắc ơn của Schopenhauer đã vén mở cho chúng ta thấy những cõi lòng bí mật của ta là những định đề cho triết học chúng ta, và dọn đường cho một sự lĩnh hội rằng tư tưởng không phải chỉ là sự tính toán trừu tượng về những biến cố vô tình, mà là một khí cụ mềm dẻo của hành động và ước muốn. Cuối cùng, và mặc dù có nhiều sự quá đáng trong lý thuyết của ông, Schopenhauer đã dạy chúng ta sự thiết yếu của thiên tài, và giá trị của nghệ thuật. Ông thấy rằng điều thiện tối hậu là cái đẹp, và lạc thú tối hậu nằm trong sự sáng tạo hay yêu thích cái đẹp. Ông đồng ý với Goethe và Carlyle trong sự chống lại nỗ lực của Hegel, Marx và Bucke để loại bỏ quan niệm xem thiên tài là một yếu tố căn bản trong lịch sử nhân loại. Vào một thời đại mà mọi vĩ nhân hầu như đã chết thì Schopenhauer một lần nữa đã thuyết giảng sự thờ phụng cao quý đối với những anh hùng. Và mặc dù có nhiều khuyết điểm, ông vẫn là một tên tuổi thêm vào danh sách các vĩ nhân./.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:47:14 GMT 9
Chương VIII HERBERT SPENCER (1820 – 1903) I. COMTE VÀ DARWIN Triết học Kant, nền triết học đã tự xem là "dẫn nhập mọi nền siêu hình học trong tương lai", kỹ thuật đã là một mũi kiếm chết người đâm vào những hình thái suy tư cựu truyền; và trái với ý định, đấy lại là một cú đấm tai hại cho bất cứ nền siêu hình nào. Bởi vì siêu hình, trải qua suốt lịch trình tư tưởng, vốn có nghĩa là một cố gắng khám phá ra bản chất tối hậu của thực tại; bây giờ người ta lại đã nghe người có thẩm quyền khả kính nhất bảo rằng thực tại không bao giờ có thể kinh nghiệm; rằng đấy là một "bản thể" chỉ có thể quan niệm mà không thể tri giác; và ngay cả trí tuệ tinh vi nhất của con người cũng không bao giờ vượt khỏi hiện tượng giới để chọc thủng bức màn của ảo giác. Những tuồng siêu hình lố bịch của Fichte, Hegel và Schelling, với những cách giải khai khác nhau đối với ẩn ngữ cổ điền với "Cái Tôi" và "Ý Tưởng" và "Ý Chí" của họ, đã triệt tiêu lẫn nhau thành số không; mãi đến hơn 30 năm sau thế kỷ 19, mọi người vẫn cho rằng vũ trụ đang còn giữ kín những bí ẩn của nó. Sau một thời đại bị nhiễm độc bằng Tuyệt đối, tâm thức Âu châu phản ứng lại bằng cách thế không chấp nhận bất cứ một loại siêu hình học nào nữa. Người Pháp vốn dĩ đã chuyên môn về hoài nghi, nên tự nhiên họ cũng sản xuất ra nhà sáng lập (nếu có những người như thế trong triết học, địa hạt trong đó mọi ý tưởng trở thành thiêng liêng theo năm tháng) của phong trào "thực nghiệm" Auguste Comte, hay, theo tên gọi móc nối do cha mẹ đặt là Isidore Auguste Marie François Xanvier Comte, ra đời tại Montpellier vào năm 1798. Thần tượng của ông hồi thiếu thời là Benjamin Franklin, người mà ông cho là Socrate tái thế. "Các ngài cũng biết rằng vảo tuổi 25, ông ta đã nuôi dự định trở thành hoàn toàn minh triết, và ông đã hoàn thành dự định ông. Tôi cũng đã dám mạo hiểm dự trù như thế, mặc dầu tôi chưa đến 20 tuổi. "Auguste Comte đã bước một bước đầu khả quan bằng cách làm thư ký cho nhà chủ trương xã hội lý tưởng, Saint-Simon, người đã trao truyền cho ông niềm hăng say cải tạo của Turgot và Condorcet, và truyền thụ ý tưởng theo đó những hiện tượng xã hội, giống như hiện tượng vật lý, cũng có thể quy về định luật và khoa học, và mọi nền triết học phải nên đặt trọng tâm vào sự cải thiện nhân loại trên phương diện tinh thần và chính trị. Nhưng cũng như phần đông chúng ta, những người bắt tay vào việc cải cách thế giới, Comte thấy rằng "tề gia" cho xong đã là một việc khá gay go; năm 1827 sau hai năm bất hạnh trong đời sống hôn nhân, ông bị loạn óc và nhảy xuống sông Seine tự trầm. Bởi thế, bây giờ chúng ta mang ơn một phần đối với kẻ đã cứu ông, khi ta đọc các tác phẩm Triết học thực nghiệm xuất hiện giữa 1830 và 1842, và bốn cuốn Chính thể thực nghiệm xuất hiện giữa 1851 và 1854. Đấy là một công trình mà trong tầm phạm vi cũng như về phương diện bền chí, chỉ đứng sau "Triết học tổng hợp" của Spencer ngày nay. Ở đây những khoa học được xếp hạng tuỳ theo tính cách đơn giản hoá và tổng quát hoá dần dần của chủ đề chúng: toán học, thiên văn, lý học, hoá học, sinh vật học và xã hội học; mỗi khoa học dựa trên những kết quả của tất cả các khoa học trước nó, bởi thế xã hội học là tột đỉnh của các khoa học, và những khoa khác chỉ có lý do tồn tại khi chúng có thể soi sáng cho khoa học về xã hội. Khoa học trong ý nghĩa và sự hiểu biết đích xác, đã bành trướng từ chủ đề này đến chủ đề khác theo trật tự trên; và điều tự nhiên là những hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội phải là những hiện tượng cuối cùng nhường chỗ cho phương pháp khoa học. Trong mỗi lãnh vực tư duy, nhà tư tưởng sử có thể tuân theo một "Định luật ba giai đoạn": đầu tiên, vấn đề được quan niệm theo kiểu thần học, và mọi vấn đề đều được giải thích nhờ ý chí của một thần linh nào đó - như thời kỳ xem những ngôi sao là những vị thần hay những cỗ xe của thần linh; về sau, cũng vấn đề ấy đi đến giai đoạn siêu hình học, và được giải thích bằng những tinh tú xoay vòng tròn vì vòng tròn là hình toàn hảo nhất; cuối cùng vấn đề rút giảm về khoa học thực nghiệm bằng quan sát, giả thuyết, thí nghiệm và những hiện tượng được giải thích qua những lề luật của nhân quả tự nhiên. "Ý chí Thượng đế" nhường chỗ cho những tính thể hão huyền như những "Ý tưởng" của Platon hay "Ý tưởng tuyệt đối" của Hegel, và những tính thể này đến lượt chúng lại nhường chỗ cho những định luật khoa học. Siêu hình là một giai đoạn của sự phát triển bị dừng lại: đã đến lúc, theo Comte, nên dẹp bỏ những trò ngây ngô ấy đi. Triết học không phải là một cái gì khác với khoa học; đấy là một sự hợp tác của mọi khoa học nhằm mục đích cải thiện đời sống con người. Trong thực-nghiệm-luận (positivism, Positivismus) này có một thứ tri thức giáo điều có lẽ phản ảnh tâm hồn triết gia bị vỡ mộng, bị cô lập. Năm 1845, khi bà Clotilde de Vaux (có người chồng suốt đời bị ở tù) đảm đương trái tim của Comte, tình yêu của ông đối với bà đã làm ấm lại và tô màu cho tư tưởng ông, đưa đến một phản ứng theo đó ông đặt cảm tính lên trên trí tuệ trong sức cải tạo, và kết luận rằng thế giới chỉ có thể cứu chuộc bằng một tôn giáo mới, vai trò của tôn giáo này sẽ là nuôi dưỡng và tăng cường lòng vị tha yếu ớt của nhân tính bằng cách tán dương Nhân Loại như là đối tượng của một nghi lễ thờ phụng. Comte đã bỏ suốt tuổi già để tìm cho thứ Tôn giáo Nhân loại này một hệ thống phức tạp có cả giáo sĩ, phép tuyên thệ kinh tụng và quy luật; và đề nghị làm một quyển lịch mới trong đó tên của những thần linh tà giáo và những vị thánh trung cổ sẽ được thay thế bằng những vị anh hùng có công tiến bộ của nhân loại. Như lời tục nói, Comte đã cho thế giới mọi sự của Công giáo chỉ trừ đạo Công giáo. Phong trào thực-nghiệm tán đồng làn sóng tư tưởng Anh quốc, khởi nguồn từ một đời sống kỹ nghệ và mậu dịch, và nhìn những vấn đề của thực tế với một thái độ hơi kính trọng. Truyền thống Bacon đã xoay chiều tư tưởng hướng về sự vật, tâm hướng về vật; duy-vật-luận (Materialismus) của Hobbes, duy-cảm-luận (Sensualismus) của Locke, hoài-nghi-thuyết (Skeptizismus) của Hume, ích-dụng-thuyết (Utilitarismus) của Bentham, là những biến thiên của đề tài về một cuộc sống thực tiễn bận rộn. Berkeley là một nốt nhạc Ái-nhĩ-lan lỗi điệu trong khúc hoà âm này. Hegel chế riễu thói quen của người Anh - thường kính trọng dụng cụ lý học và hoá học - với danh từ "những dụng cụ của triết học"; nhưng một danh từ như thế rất tự nhiên đến với những người đồng ý Comte và Spencer khi định nghĩa triết học là một tổng thể những kết quả của mọi khoa học. Bởi thế mà phong trào thực nghiệm gặp nhiều người tán đồng ở Anh hơn ở mảnh đất nó phát sinh; những người tán đồng có lẽ không nồng nhiệt bằng Littré song có một tinh thần kiên cố đặc biệt Anh-cát-lợi đã khiến cho John Stuart Mill (1806 - 1873) và Fréderick Harrison (1831 -1923) trung thành suốt đời với triết học Comte, trong khi tính cẩn thận cũng đặc biệt Anh-cát-lợi của họ đã khiến họ "kính nhi viễn chi" đối với nền tôn giáo nghi lễ trong triết học ấy. Trong khi đó thì phong trào cách mạng kỹ nghệ, phát xuất từ một chút đỉnh khoa học, trở lại khởi hứng cho khoa học. Newton và Herschel đã mang những vì sao đến Anh quốc, Boyle và Davy đã mở ra những kho tàng của hoá học, Faraday đang nghiên cứu tìm tòi để điện năng hoá cả thế giới, Rumford và Joule đang chứng minh tính chất khả biến và sự tương đương giữa năng lực và sự bảo tồn năng lượng. Các khoa học đang tiến đến một giai đoạn phức tạp có thể khiến cho một thế giới phân vân sẽ vui mừng đón nhận một thể tổng hợp. Nhưng trên tất cả những ảnh hưởng tri thức này - những ảnh hưởng đã khuấy động Anh quốc trong thời niên thiếu của Herbert Spencer - chính là sự phát triển của sinh vật học và thuyết tiến hoá. Khoa học đã trở thành quốc tế một cách gương mẫu trong sự bành trướng chủ thuyết này. Kant đã nói chuyện khỉ có thể trở thành người; Erasmus Darwin và Lamarck đã tuyên dương lý thuyết theo đó các loài đã tiến hoá từ những hình thức đơn giản bằng cách hưởng thụ những hậu quả của sự hữu dụng và vô dụng; vào năm 1830 Saint Hilaire đã khiến cho Âu châu phải choáng váng và ông già Goethe vui mừng, khi ông hầu như thắng Cuvier trong cuộc tranh luận nổi tiếng về tiến hoá như một Ernani thứ hai (tên một vở Opera của Giuseppe Verdi năm 1844 dựa trên một tác phẩm của V. Hugo - chú thích của người đánh máy-), một cuộc phản kháng mới chống lại những tư tưởng cổ điển về định luật và trật tự bất di dịch trong một thế giới bất dịch. Vào những năm 1850, thuyết tiến hoá đã manh nha, Spencer diễn tả ý tưởng về tiến hoá, rất lâu trước Darwin, trong một tiểu luận về "Giả thuyết về sự phát triển" (Development Hypothesis, 1852) và trong cuốn Nguyên tắc tâm lý học của ông (1855). Năm 1855 Darwin và Wallace đọc những tiểu luận thời danh của họ trước Hội Linnacan Society năm 1859, thế giới cũ, như những vị giám mục tử tế nghĩ, đã bị đập tan từng mảnh khi tác phẩm Nguồn gốc các loài xuất bản. Ở đây không còn chỉ là quan niệm mơ hồ về tiến hoá, về những loài vật cao đẳng tiến triển từ những loài thấp hơn theo một cách thế nào đó, mà đây là một lý thuyết có đầy đủ tài liệu và chi tiết dồi dào về cách thế và quá trình thực thụ của sự tiến hoá "bằng luật đào thải tự nhiên, hay sự bảo tồn những giống loại được ưu đãi trong cuộc tranh đấu sống còn". Trong suốt mười năm cả thế giới đều nói về tiến hoá. Yếu tố đã nâng Spencer lên đến tột đỉnh của làn sóng tư tưởng này chính là tinh thần sáng sủa khúc triết trong việc đề nghị áp dụng ý tưởng tiến hoá vào mọi ngành nghiên cứu, và tầm trí thức rộng lớn đã khiến cho hầu hết mọi ngành hiểu biết phải tôn trọng lý thuyết ông. Cũng như toán học đã ngự trị vào thế kỷ thứ mười bảy, cống hiến cho nhân loại Descartes, Nobbes, Spinoza, Leibnitz và Pascal, cũng như tâm lý học đã viết triết lý với Berkeley, Hume, Condillac và Kant; vào thế kỷ mười chín cũng thế, với Schelling, Schopenhauer, Spencer, Nietzsche và Bergson, sinh lý học chính là bối cảnh của tư tưởng triết học. Trong mỗi trường hợp, những ý tưởng thuộc từng thời kỳ là sản phẩm phân đoạn của những người riêng rẽ, có phần mơ hồ; nhưng những ý tưởng được gắn liền với những người đã phối hợp và làm sáng tỏ chúng; như Tân thế giới đã lấy tên của Amerigo Vespucci vì ông ta đã vẽ một bản đồ. Herbert Spencer chính là Vespucci của thời đại Darwin, và một phần nào cũng là Christophe Colomb của thời đại ấy. II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SPENCER Ông sinh ở Derby năm 1820. Về cả hai bên nội ngoại tổ tiên ông là những người ly khai với tôn giáo chính thống. Ông ngoại Spencer là một đồ đệ trung thành của John Wesley; bác ông, Thomas, mặc dù là một linh mục thuộc giáo đường Anh-cát-lợi, đã lãnh đạo một phong trào theo Wesley ngay trong khuôn khổ giáo đường, không bao giờ dự một buổi hoà nhạc hay kịch nghệ, và đóng vai trò tích cực trong những phong trào yêu sách cải tổ nền chính trị. Khuynh hướng phản động này càng mạnh hơn đến đời thân phụ ông, và đạt đến tột đỉnh nơi Spencer với một cá nhân chủ nghĩa hầu như ương ngạnh. Thân phụ ông không bao giờ dùng tiếng siêu nhiên để giải thích sự việc gì; một người quen đã mô tả ông ta là một người "không có một đức tin, một tôn giáo nào cả, như chỗ người ta có thể thấy" (Spencer, Tự truyện, N.Y., 1904; vol. 1, tr. 51) (mặc dù điều này Herbert cho là quá đáng). Ông thiên về khoa học và viết một cuốn Hình học phát minh. Về chính trị ông là một người theo chủ nghĩa cá nhân như con trai ông, và "không bao giờ cất nón mũ chào người nào bất luận địa vị cao đến đâu" (tr. 53). "Nếu ông không hiểu một câu hỏi nào của mẹ tôi, ông sẽ im lặng, không hỏi bà hỏi gì, và cứ để mặc không trả lời. Ông cứ tiếp tục kiểu ấy suốt đời, mặc dù nó không đưa đến đâu" (tr. 61). Ngoài tính im lặng ấy người ta còn nhớ đến sự phản kháng của Herbert Spencer, vào những năm ông về già, trước sự bành trướng những vai trò của quốc gia. Thân phụ ông, cũng như một người chú và tổ phụ của ông, đều là những giáo chức trường tư thục; tuy nhiên người con trai mà sau này sẽ là triết gia Anh nổi tiếng nhất của thế kỷ, lại vẫn bị thất học cho đến năm 40 tuổi. Herbert vốn lười biếng, thân phụ ông thì lại nhu nhược dễ tánh. Cuối cùng, năm ông 13 tuổi, Herbert được gởi đến Hinton để theo học với người chú nổi tiếng là nghiêm khắc. Nhưng Herbert trốn thoát người chú ngay sau đó, và bôn tẩu một mình trở về nhà cha ở Derby - đi 48 dặm Anh ngày đầu, 47 dặm ngày hôm sau, 20 dặm ngày thứ ba, chỉ ăn một ít bánh mì và uống bia. Dù sao sau đó vài tuần, ông cũng trở lại Hinton và ở đấy 3 năm. Đó là khoảng thời gian độc nhất ông được hấp thụ một lối học tập có hệ thống đàng hoàng. Về sau nội một điều ông đã học những gì ở đấy ông cũng không thể nhớ; không có sử ký, vạn vật, văn chương tổng quát. Ông nói với niềm kiêu hãnh điển hình: "Điều cần nhớ là tôi đã không hấp thụ một bài học nào về Anh ngữ, trong thuở ấu thời cũng như thiếu thời, và tôi hoàn toàn không có một kiến thức chỉnh đốn nào về ngữ pháp cho đến bây giờ. Người ta cần biết như vậy, vì những sự kiện này thật tương phản với những giả thuyết mọi người đều chấp nhận". Năm 40 tuổi, ông cố đọc Illias, nhưng "sau khi đọc chừng sáu cuốn, tôi có cảm tưởng thật là một công việc khổ nhọc nếu phải tiếp tục - tôi cảm thấy chẳng thà phải trả một số tiền lớn còn hơn là phải đọc cho đến hết" (tr. 300). Collier, một trong những viên thư ký của Spencer, cho chúng ta biết rằng Spencer không bao giờ đọc hết một cuốn sách nào về khoa học (Phần phụ trương trong cuốn Herbert Spencer của Royce). Ngay cả trong những địa hạt mà ông ưa thích, ông cũng không được hấp thụ một sự học hỏi có hệ thống nào cả. Ông bị phỏng tay và nhân đó tìm ra một vài chất nổ trong hoá học; ông nhai gặm lá non như những côn trùng ở quanh nhà và trường, và biết được một vài điều về hoá thạch và kim khoáng trong công việc của ông về sau khi làm kỹ sư kiều lộ; ông lượm lặt kiến thức của mình dọc đường một cách tình cờ. Cho đến năm 30 tuổi, ông vẫn không có một ý tưởng nào về triết học (Tự truyện, tr.438). Rồi ông đọc Lewes, và cố gắng đọc qua Kant; nhưng khi thấy Kant xem không gian và thời gian là những hình thái của nhận thức giác quan hơn là những sự vật khách quan có thật; ông quyết ngay rằng Kant là một lão ngốc, và ném cuốn sách ra cửa sổ (tr. 289 - 291). Viên thư ký kể lại rằng Spencer đã viết tác phẩm đầu tiên của ông, Social Statics mà không đọc một khảo luận về đạo đức học nào ngoài ra một cuốn sách cũ giờ đã bị bỏ quên là cuốn của Jonathan Dymond". Ông viết cuốn Tâm lý học sau khi chỉ đọc Hume, Mansel và Reid; cuốn Sinh vật học sau khi đọc Sinh lý học tỉ giảo của Carpenter (chứ không phải tác phẩm Nguồn gốc các loài giống); viết cuốn Xã hội học mà không đọc Comte hay Taylor; Đạo đức học mà không đọc Kant hay Mill hay bất cứ nhà đạo đức học nào trừ Sedgwick (Collier, trong Royce, 210). Thật là tương phản với nền học vấn dồi dào say sưa của John Stuart Mill ! Thế thì Spencer tìm ở đâu ra những sự kiện hằng hà sa số kia để bênh vực cho hàng nghìn luận cứ của ông ? Phần lớn ông "lượm lặt" chúng nhờ quan sát trực tiếp hơn là qua sách vở. "Tính tò mò của ông luôn thức tỉnh, ông luôn luôn làm cho người bạn của ông phải chú ý đến một hiện tượng đặc biết nào đó ... mà cho đến bây giờ chỉ có mắt ông trông thấy". Ở hội Athenaeum ông bơm cạn túi tri thức quảng bá của Huxley và các bạn khác, ông đọc lướt qua những tạp chí ở Hội cũng như đã đọc lướt qua những tạp chí qua tay thân phụ ông để đến hội Triết học ở Derby, "có đôi mắt của con chồn đèn đối với mọi sự kiện mà ông có thể sử dụng" (Ibid.). Sau khi đã quyết định những gì ông muốn làm, và tìm ra quan niệm tiến hoá, ý tưởng nòng cốt cho toàn bộ tác phẩm ông, thì mọi tài liệu liên hệ, và tính ngăn nắp không tiền khoáng hậu của tư tưởng ông xếp loại ngay tài liệu hầu như một cách máy móc khi nó đến. Thảo nào người vô sản và thương gia nghe ông một cách hoan hỉ; đây chính thật là một khối óc như khối óc của họ - một kẻ xa lạ đối với cái học sách vở, không biết gì về "văn hoá" nhưng lại có sẵn một tri thức tự nhiên, thực tế của con người biết học trong khi làm lụng và sống. Bởi vì Spencer phải làm việc để sống: và nghề nghiệp ông làm tăng cường khuynh hướng thực tiễn của tư tưởng ông. Ông làm giám thị, cai quản và vẽ kiểu cho những đường hoả xa và cầu cống, nói chung ông là một kỹ sư kiều lộ. Ông phát minh luôn luôn, những cuộc phát minh của ông đều thất bại, nhưng ngoái nhìn lại chúng trong cuốn Tự thuật, ông có niềm thích thú của một người cha đối với đứa con ương ngạnh. Những trang hồi ký của ông nhan nhản những sáng chế hầm chứa muối, chum, độ tắt nến, xe cho người què, và những thứ tương tự. cũng như phần đông chúng ta hồi niên thiếu, ông đã đặt ra những cách ăn kiêng; ông ăn chay một thời gian; nhưng liền bỏ ăn khi thấy một người bạn ăn chay bị thiếu máu, và chính ông cũng mất sức: "Tôi thấy mình phải viết lại những gì đã viết trong thời gian ăn chay, vì chúng thiếu hẳn dũng lực" (Tự thuật). Vào thời kỳ ấy ông sẵn sàng làm thử bất cứ điều gì, ông lại còn nghĩ đến việc di cư sang Tân-tây-lan, quên bẵng rằng một xứ còn trẻ không cần đến triết gia. Một việc làm điển hình của Spencer là ông đã lập thành một bản kê đối chiếu những lý do nên và không nên đi, cho điểm đánh giá một lý do. Tổng kết có 110 điểm nên ở lại Anh quốc và 301 điểm nên đi. Ông đã ở lại ! Cá tình của ông có những khuyết điềm trong những đức tính. Ông phải trả giá tính thực tế cả quyết và óc thực tiễn bằng sự thiếu tâm hồn nghệ sĩ. Ông có một tính cả quyết rất tốt nhưng mặt trái của nó lại là sự ngoan cố độc đoán; ông có thể càn quét cả vũ trụ để kiếm những bằng chứng cho giả thuyết của mình, nhưng không thể nhìn thấy một cách sâu sắc quan điểm của người khác; ông có tính duy ngã gây phấn khởi cho những kể không theo quy củ, nhưng ông không thể mang sự vĩ đại của mình mà không xen lẫn một ít tự phụ. Ông có những giới hạn của một nhà tiền phong: một sự hẹp hòi giáo điều với một tính hồn nhiên can đảm và tính cách độc đoán mãnh liệt; cương quyết phản đối mọi sự nịnh hót, từ chối những vinh dự mà chính quyền đề nghị tặng cho ông, theo đuổi một công trình khó nhọc trải qua bốn mươi năm trong bệnh hoạn kinh niên và ẩn dật, tuy thế ông vẫn bị một nhà nghiên cứu não tướng học (phrenologe) cho là "quá nhiều tự cao" (tr, 228). Vốn là con và cháu của những nhà giáo, ông cũng múa một con roi gõ đầu trẻ trong sách ông viết, và nện một giọng điệu rât mô phạm thầy đời. "Tôi không bao giờ bối rối", ông bảo chúng ta (tr. 464). Cuộc sống cô quạnh độc thân làm ông thiếu những đức tính nồng nàn của tình người, mặc dù ông có thể nhân đạo trong phẫn nộ. Ông đã từng dây dưa với con người Anh quốc vĩ đại là George Elliot, nhưng bà ấy trí thức quá, không làm ông hài lòng. Ông thiếu óc khôi hài, và không có sự tế nhị trong lời văn. Khi ông đánh thua một ván bi-da, trò chơi ông rất khoái, ông chỉ trích đối thủ của mình đã bỏ quá nhiều thì giờ vào một trò chơi cho đến nỗi trở thành một người chơi giỏi. Trong cuốn Tự thuật ông viết những bài điểm sách về những tác phẩm đầu tiên của chính ông, để chỉ cho ta thấy phải nên viết như thế nào. Sự vĩ đại của công việc ông quả đã khiến ông nhìn đời với sự nghiêm trọng quá mức. Ở Paris ông viết: "Tôi đi dự lễ St. Cloud hôm chủ nhật, và rất đỗi thích thú trước tính cách trẻ trung của những người lớn. Người nước Pháp không bao giờ chấm dứt hẳn giai đoạn con trai; tôi thấy những người tóc đã hoa râm cưỡi trên những con ngựa gỗ giống như chúng ta có ở những hội chợ ở nhà" (I,533). Ông quá bận phân tích và mô tả cuộc đời đến nỗi không có thì giờ để sống. Sau khi nhìn thác Niagara ông đã nguệch ngoạc vào nhật ký: "Cũng gần như những gì tôi đã chờ đợi". Ông mô tả những sự việc thông thường nhất với vẻ mô phạm thầy đời -như khi ông cho chúng ta biết về cái lần độc đáo nhất trong đời khiến ông chửi thề (Tyndall đã có lần nói về Spencer rằng ông ta đã khá hơn nếu thỉnh thoảng chịu văng tục một lần - Eliot, H. Spencer, tr. 61). Ông không bị những cuộc khủng hoảng, không thích phiêu lưu lãng mạn (nếu hồi ký của ông nhớ đúng), ông có vướng vào một vài vụ yêu đương, nhưng ông viết về chúng hầu như một cách máy móc; ông phác họa những khúc quanh của những tình bạn nhạt nhẽo trong đời mà không thêm một chút đam mê nào để nâng cao chúng. Một người bạn bảo ông rằng y không thể sáng tác được gì đặc sắc khi đọc cho một người đàn bà trẻ tốc ký; Spencer nói rằng điều đó không trở ngại cho ông chút nào cả. Thư ký của Spencer nói về ông như sau: "Đôi môi mỏng vô dục nói lên sự hoàn toàn thiếu vắng dục tình, và đôi mắt sáng biểu lộ sự thiếu chiều sâu cảm xúc" (Royce, 188). Do đó mà văn ông có tính chất bằng phẳng đều đặn: ông không bao giờ bay bổng khơi vơi, không cần đến những dấu chấm than; giữa một thế kỷ lãng mạn ông đứng riêng rẽ như một bức tượng thể hiện gương mẫu của tư cách và tính dè dặt. Ông có một bộ óc luận lý phi thường; ông sắp đặt những tiên nghiệm và hậu nghiệm của ông một cách khúc triết, minh bạch như người chơi cờ. Ông là người bình giải sáng sủa nhất về những đề tài phức tạp mà lịch sử có thể nêu lên. Ông viết về những vấn đề khó khăn bằng những từ ngữ sáng sủa đến nỗi suốt một thời, cả thế giới đều thích triết học. Ông nói: "Người ta đã nhận xét rằng tôi có một khả năng trình bày hiếm có - đưa ra những dữ kiện và lý luận cùng kết luận một cách rõ ràng mạch lạc ít thấy" (Tự thuật, tr. 511). Ông thích tổng quát hoá một cách dài dòng, làm cho tác phẩm của ông thú vị nhờ những giả thuyết ông đặt ra hơn là những bằng cớ dẫn giải. Huxley nói rằng Spencer quan niệm bi kịch là khi một lý thuyết bị một sự kiện giết chết; và có quá nhiều lý thuyết trong đầu óc Spencer đến nỗi ông ta buộc lòng phải gặp mỗi ngày một bi kịch. Huxley, ngạc nhiên trước dáng đi yếu đuối không vững của Buckle, đã bảo Spencer "A, tôi thấy anh chàng thuộc loại người nào rồi, anh ta bị đầu nặng đuôi nhẹ". Spencer thêm "Buckle đã thu vào một số lượng vật chất quá nhiều hơn ông có thể tổ chức". Với Spencer thì trái lại: ông ta tổ chức quá nhiều hơn ông đã thu vào. Cái gì ông ta cũng phối trí và tổng hợp; ông chê bai Carlyle vì thiếu lối làm việc như thế. Nơi ông, tính yêu thích trật tự đã trở thành một đam mê trói buộc, tính quy nạp xuất sắc đã chế ngự ông. Nhưng thế giới đang cần một bộ óc như ông, một khối óc có thể biến đổi những sự kiện trong tình trạng hoang dã trở thành ý nghĩa được khai hoá một cách sáng sủa. Những gì Spencer đã hoàn tất được cho thế hệ ông cũng khiến ông có quyền có những khuyết điểm làm cho ông rất "Người". Nếu ở đây chúng ta đã mô tả hình ảnh ông một cách khá chân thực, ấy chính bởi vì thường chúng ta yêu một vĩ nhân nhiều hơn nếu chúng ta biết rõ những chỗ yếu của họ, và ta không ưa gì một vĩ nhân -còn hơi ngờ vực họ nữa là khác- khi họ quá sáng chói trong sự toàn thiện toàn mỹ không có chỗ chê. Năm 40 tuổi, Spencer viết: "Cho đến ngày nay cuộc đời tôi có thể được gọi rất đúng là một cuộc đời tạp lục" (II,67). Hiếm khi ta thấy một triết gia có nhiều do dự rời rạc như thế trong sự nghiệp. "Vào khoảng thời gian này (năm 23 tuổi) tôi xoay sang chú ý đến việc ráp đồng hồ". Nhưng dần dà, ông tìm ra địa hạt ông và cẩn thận chăm bón nó. Vào năm 1842 ông đã viết cho tờ Non-Conformist (hãy để ý môi trường trung gian ông chọn lựa), vài bức thư về "Địa hạt đúng chổ cho chánh quyền" trong ấy chứa đựng mầm móng triết lý tự do mậu dịch của ông sau này. Sáu năm sau ông bỏ ngành kiều lộ để làm chủ bút tờ The Economist. Vào năm 30 tuổi, khi ông mạt sát tập Tiểu luận về những nguyên tắc đạo đức của J. Dymond, và thân phụ ông thách ông viết cho được như thế về đề tài ấy, ông đã nhân sự thách đố và viết cuốn Social Statics. Sách chỉ bán được một ít, nhưng cũng khiến ông được các tạp chí để ý. Năm 1852 tiểu luận của ông về "Lý thuyết về dân cư" (một trong nhiều tỉ dụ về ảnh hưởng của Malthus trên tư tưởng thế kỷ 19) cho rằng sự tranh đấu sống còn đưa đến sự sống sót của con vật thích nghi nhất, và đặt ra những giai đoạn lịch sử ấy. Cũng trong năm đó tiểu luận ông về "Giả thuyết tiến triển" chống lại bác luận thông thường - cho rằng người ta chưa hề thấy những loài mới nào được sinh ra do sự biến đổi dần dần của những loài cũ- bằng cách nêu rõ rằng chính lập luận ấy càng dễ bác bỏ một cách hùng hồn lý thuyết cho rằng Thượng đế sinh ra loài mới do sự "sáng tạo đặc biệt"; bài tiểu luận tiếp tục chứng minh rằng sự phát triển những loài mới không kỳ diệu hay khó tin gì hơn chuyện một con người phát triển từ noãn và tinh trùng, hay cây phát triển từ một hạt giống. Năm 1855, tác phẩm thứ hai của ông "Nguyên tắc tâm lý học", làm cái việc theo dõi tiến hoá của trí óc. Năm 1857, một tiểu luận ra đời nhan đề "Sự tiến bộ: Định luật và nguyên nhân" lấy ý của Von Baer về sự phát triển của mọi hình thể sinh sống từ những khởi thuỷ đồng tính đến những phát triển dị tính, và nâng cao ý ấy lên thành một nguyên tắc chung về lịch sử và tiến bộ. Tóm lại Spencer đã phát triển theo tinh thần của thời đại mình, và bây giờ ông cũng sẵn sàng trở thành triết gia của luật tiến hoá vũ trụ. Năm 1858 khi xem lại những bài khảo luận của mình để in thành tập, Spencer lấy làm ngạc nhiên trước sự nhất tính và liên tục của những ý tưởng ông đã diễn đạt, và một ý niệm phát sinh trong trí ông, như một ánh nắng ùa vào cửa mở, ý niệm cho rằng thuyết tiến hoá có thể được áp dụng trong mọi khoa học cũng như trong sinh vật học; rằng không những thuyết ấy có thể giải thích loài, giống mà còn giải thích những hành tinh, địa tầng, lịch sử xã hội và chính trị, những quan niệm đạo đức và thẩm mỹ. Ông vô cùng hăng hái khi nghĩ đến một loạt tác phẩm trong đó ông sẽ chứng minh sự tiến hoá của vật chất và trí óc từ tinh vân cho đến con người, và từ người sơ khai cho đến Shakespeare. Nhưng ông gần như tuyệt vọng khi nghĩ đến cái tuổi xấp xỉ tứ tuần của mình. Làm sao một con người già cả như thế, lại bệnh hoạn có thể băng qua mọi lãnh vực của kiến thức nhân loại trước khi chết ? Chỉ ba năm trước đấy, ông đã bị một chuyến suy sụm hoàn toàn; trong mười tám tháng dài ông đã trở thành bất lực, tâm trí lụn bại, mất hết can đảm, đi lang thang không mục đích và vô vọng từ chỗ này qua chỗ khác. Ý thức về những năng lực tiềm tàng của mình lại làm cho sự yếu bệnh của ông trở thành một điều chua chát. Ông biết ông sẽ không bao giờ trở lại hoàn toàn mạnh khoẻ, và biết ông không thể làm việc tinh thần quá một tiếng đồng hồ. Chưa ai từng bị bất lợi như thế cho công việc mình đã chọn, cũng chưa ai từng chọn một công việc quá lớn lao như thế vào một lúc quá muộn trong đời.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:48:25 GMT 9
Ông nghèo túng. Ông không để ý đến việc kiếm sống. "Tôi không muốn làm ăn, -ông nói- tôi không nghĩ chuyện làm ăn là đáng bận tâm" (J.A. Thomson, H. Spencer, p. 71). Ông từ chức chủ bút tờ Economist khi nhận được khoảng nửa triệu đồng di sản của một ông chú để lại; nhưng sự ngồi không của ông đã tiêu hết món tiền di tặng ấy. Bây giờ ông chợt nghĩ ra rằng ông có thể kiếm ra được tiền trả trước cho những cuốn sách ông định viết, rồi cứ thế mà sống qua ngày. Ông soạn một bản đại cương rồi đưa cho Huxley, Lewes và những người bạn khác xem; những người này kiếm được cho ông một danh sách "rân rác" (?) những người đặt mua đầu tiên mà tên họ có thể tô điểm tờ quảng cáo sách ông : Kingsney, Lyell, Hooker, Tyndall, Buckle, Froude, Bain, Herschel ... In năm 1860, tờ quảng cáo này mang lại 440 phiếu đặt mua từ Âu châu, 200 từ Mỹ; tổng cộng hứa hẹn được khoảng 300 ngàn đồng mỗi năm. Spencer hài lòng, và khởi sự làm việc với ý chí hăng hái. Nhưng sau khi ấn hành quyển Nguyên lý đầu tiên năm 1862, nhiều người đặt mua rút tên ra vì cái "Phần thứ nhất" thời danh đã làm mếch lòng các giám mục và học giả vì nó cố hoà giải khoa học và tôn giáo. Con đường của người hoà giải vốn khó khăn. Cuốn Nguyên lý đầu tiên và Nguồn gốc giống loài trở thành trung tâm của một chiến trận lớn của sách vở, trong trận tuyến này Huxley làm vị tổng tư lệnh cho những lực lượng của thuyết Darwin và bất khả tri luận. Trong một thời gian, những tông đồ của thuyết tiến hoá bị những người đáng kính tẩy chay một cách nghiêm khắc; họ bị tố là những con quỷ vô luân, và người ta nghĩ nên nhục mạ họ một cách công khai. Mỗi kỳ trả tiền, khách hàng của Spencer thưa thớt dần như lá mùa thu, và nhiều người lại không trả tiền cho những kỳ sách họ nhận được. Spencer cố gắng tiếp tục, bỏ tiền túi bù vào chỗ tiền thiếu mỗi kỳ. Nhưng cuối cùng túi tiền và túi nghị lực của ông kiệt quệ, ông cho ra một bố cáo gửi cho những khách còn đặt cọc nói rằng ông không thể tiếp tục công việc được nữa. Khi ấy xảy đến một trong những biến có đầy khích lệ của lịch sử. Kẻ đối thủ lớn nhất của Spencer -người đã nắm giữ địa hạt triết học Anh quốc trước khi cuốn Nguyên lý đầu tiên xuất bản, giờ bỗng thấy mình bị ra rìa, bị thay thế bởi vị triết gia của tiến hoá -, đã viết cho Spencer như sau, vào ngày 4 tháng 2 năm 1866. Thưa tôn ông, Khi đến đây tuần trước, tôi có gặp số tháng 12 của cuốn Sinh vật học của tôn ông, và thật khỏi phải nói tôi hối tiếc đến mức nào khi đọc lời bố cáo trong mảnh giấy đính kèm ... Tôi xin đề nghị tôn ông nên tiếp tục viết thêm khảo luận ấy, và tôi sẽ bảo đảm với người xuất bản trường hợp họ lỗ vốn. Tôi xin tôn ông đừng xem lời đề nghị này là vì lòng yêu chuộng riêng tư, mặc dù nếu thật có trường hợp ấy, tôi cũng hy vọng được tôn ông cho phép cống hiến lời đề nghị trên. Nhưng đây tuyệt nhiên không phải thế - đây chỉ đơn thuần là một lời đề nghị xin hợp tác trong một mục đích chung tối quan trọng, trong một công trình mà tôn ông đang cống hiến cho nó tất cả lao nhọc và đã bỏ vào đấy sức khoẻ của tôn ông. Rất chân thành, J.St. Mill (Tự thuật, ii, 156) Spencer đã lịch sự chối từ, nhưng Mill đã đi đến các bạn thuyết phục người đặt mua 250 ấn bản mỗi kỳ. Spencer vẫn từ chối, không thể bị lay chuyển. Nhưng bỗng ông nhận được bức thư của giáo sư Youmans nói rằng những người Mỹ hâm mộ ông đã mua để tên ông 7.000 Mỹ kim chứng khoán, lợi tức hoặc phần chia của nó sẽ thuộc về ông. Lần này thì ông nhượng bộ. Tinh thần của tặng vật ấy gây lại một cảm hứng cho ông; ông trở lại công việc, và trong bốn mươi năm ông làm việc hết sức bình sinh, cho đến khi tất cả nền Triết học Tổng hợp được ấn loát hoàn bị. Sự chiến thắng của tâm thức và ý chí này đối với bệnh hoạn và muôn nghìn chướng ngại vật quả là một điểm sáng rỡ trong lịch sử loài người. III. NGUYÊN LÝ ĐẦU 1. Cái bất khả tri Spencer nói ngay từ đầu: "Quá thường khi chúng ta quên rằng không những có một linh hồn của cái thiện trong những sự việc xấu xa, mà nói chung còn có một linh hồn của chân lý trong những điều lầm lạc". Bởi thế, ông đề nghị xét những ý tưởng tôn giáo, với mục đích tìm ra trọng tâm của chân lý, trọng tâm mà, dưới hình thức biến thiên của nhiều tín ngưỡng, đã đem lại cho tôn giáo cái quyền năng bền bỉ đối với linh hồn con người. Điều ông tìm thấy ngay là: mọi lý thuyết về nguồn gốc vũ trụ đều đưa chúng ta đến những cái không thể quan niệm được. Nhà vô thần cố nghĩ đến một thế giới tự hữu, không nguyên nhân, không có bắt đầu, nhưng ta không thể quan niệm được một cái gì không có khởi thuỷ hoặc không có nguyên nhân. Nhà thần học chỉ đẩy lui sự khó khăn có một bước; và khi nhà thần học nói "Thượng đế tạo ra vũ trụ" thì câu hỏi không thể trả lời đã đứa trẻ sẽ đến kế đó: "Ai tạo ra Thượng đế ? ". Mọi ý tưởng tối hậu của tôn giáo đều không thể quan niệm được trên phương diện luận lý. Mọi ý tưởng tối hậu của khoa học cũng vượt ngoài quan niệm thuần lý. Vật chất là gì ? Chúng ta quy nó về nguyên tử, nhưng rồi ta tự thấy bắt buộc phải chia nguyên tử ra như chúng ta đã chia tế bào; chúng ta bị vướng vào thế lưỡng nan là: vật chất có thể phân tán đến vô hạn cho sự phân chẻ vật chất, nhưng điều này lại cũng không thể quan niệm. Tính cách khả phân của không gian và thời gian cũng thế; cả hai xét cho cùng, đều là những ý niệm phi lý. Chuyển động bị bao phủ bởi ba màn tối, vì nó gồm vật thể thay đổi theo thời gian vị trí của nó trong không gian. Khi chúng ta phân tích vật chất một cách rốt ráo, cuối cùng chúng ta không tìm thấy gì ngoài ra năng lực - một thứ năng lực in dấu vết lên các giác quan ta, hay một thứ năng lực đối kháng lại những quan năng hoạt động của chúng ta ; và ai sẽ giải thích cho ta năng lực là gì ? Từ vật lý chuyển sang tâm lý, ta sẽ gặp tâm não và ý thức: ở đây những bí ẩn lại còn to lớn hơn trước. Vậy thì, "những ý niệm khoa học tối hậu đều là những hình ảnh của thực tại không thể lĩnh hội được ... Trong mọi chiều hướng, những sưu tầm của nhà khoa học đưa ông đến đối diện với một bí ẩn không thể giải. Ông ta nhận ngay ra sự vĩ đại và sự nhỏ bé của tri thức con người - khả năng của nó đối với mọi sự vật trong tầm kinh nghiệm, sự bất lực của nó đối với những gì siêu việt kinh nghiệm. Hơn ai hết, nhà khoa học thật sự biết rằng ta không thể biết được cái gì hết trong bản chất tối hậu của nó (Nguyên lý đầu tiên , NY, 1910, tr. 56). Nền triết học thành thực độc nhất, để dùng từ ngữ của Huxley chính là thuyết bất-khả-tri. Nguyên nhân chung cho mọi màn tối này là tính cách tương đối của mọi hiểu biết. "Vì suy tưởng là đặt tương quan, nên không ý tưởng nào có thể diễn tả được gì ngoài ra những mối tương quan... Tri thức đã bị đóng khung bởi và cho cuộc đối thoại với hiện tượng nên nó chỉ làm ta rơi vào những cái vô nghĩa nếu ta cố sử dụng nó để tìm hiểu bất cứ gì ngoài hiện tượng giới" (tr. 107 - 108. Điểm này vô tình tương đồng với Kant và báo trước học thuyết Bergson). Tuy nhiên cái tương đối và hiện tượng, ngay ở cái tên gọi và bản chất của chúng, đã bao hàm một cái gì vượt ngoài chúng, một cái gì tối hậu và tuyệt đối. "Khi quan sát tư tưởng chúng ta, ta thấy thật không có thể nào xua đuổi cái ý thức về một Thực hữu nằm sau Giả tướng và từ chỗ bất khả ấy kết quả là ta có một niềm tin kiên cố vào cái Thực hữu kia" (tr. 83). Song cái thực hữu ấy là gì chúng ta không thể biết. Từ quan điểm này, sự hoà giải khoa học và tôn giáo không còn quá khó. "Chân lý thường nằm trong sự phối trí những quan niệm đối nghịch" (Tự thuật, tr. 16). Khoa học hãy nhận rằng những "định luật" của nó chỉ áp dụng cho hiện tượng giới và cái tương đối; tôn giáo hãy nhận rằng thần học của nó là một huyền thoại hợp lý hoá dành cho một đức tin bất khả tư nghị. Nhưng xin tôn giáo thôi đừng phác hoạ Tuyệt đối như một con người phóng đại; tệ hơn nữa, như một con quỷ, tàn ác, khát máu bội phản, buồn khổ vì "tính yêu chuộng sự nịnh hót, một tính xấu vốn bị khinh bỉ nếu nó hiện diện nơi một con người" (Nguyên lý đầu tiên, 103). Xin khoa học thôi phủ nhận thần tính, hay xem duy vật luận là chân lý chắc chắn đương nhiên. Tâm và vật đều là những hiện tượng tương đối y như nhau, đều là hai hậu quả của một nguyên nhân tối hậu mà bản chất của nó ta đành phải không biết được. Sự công nhận Quyền năng Khôn dò này là trọng tâm chân lý trong mọi tôn giáo và là khởi thuỷ của mọi nền triết học. 2. Tiến hoá Sau khi chỉ rõ cái bất khả tri, triết học đầu hàng cái bất khả tri ấy và xoay về những gì có thể biết được. Siêu hình học là một ảo ảnh: nói như Michelet, đấy là "nghệ thuật đánh thuốc mê một cách có phương pháp". Lãnh vực và nhiệm vụ đúng mức thích hợp cho triết học nằn trong việc tóm lược và hợp nhất những kết quả của khoa học, "kiến thức loại thấp nhất là kiến thức không được thống nhất, khoa học là kiến thức được thống nhất một phần; triết học là kiến thức hoàn toàn được thống nhất". Một việc thống nhất toàn bộ như thế, đòi hỏi nguyên tắc phổ quát và rộng rãi có thể bao gồm hết mọi kinh nghiệm, và mô tả những nét tính yếu của mọi kiến thức. Có chăng một nguyên tắc thuộc loại ấy ? Có lẽ chúng ta có thể tiến đến gần một nguyên tắc như thế bằng cách nỗ lực hợp nhất những quy nạp cao nhất của lý học. Đó là: tính cách bất khả hoại của vật chất, sự bảo tồn năng lượng, sự liên tục chuyển động, sự bền bỉ của những tương quan giữa những năng lực (nghĩa là tính bất khả xâm phạm của định luật tự nhiên), tính khả biến và tương đương giữa những năng lực (ngay cả giữa những năng lực tâm lý và vật lý), và nhịp của chuyển động. Sự quy nạp cuối cùng này -không phải thường được công nhận- chỉ cần được nêu rõ. Toàn thể thiên nhiên đều có tiết nhịp, từ nhịp chập chờn của hơi nóng đến nhịp rung của dây vĩ cầm, từ những gợn sóng của ánh sáng, hơi nóng và âm thanh đến thuỷ triều của biển, từ những cơn dao động của nhục dục đến những dao động định kỳ của những hành tinh, sao chổi và tinh tú; từ sự tuần hoàn của ngày đêm đến sự nối tiếp của bốn mùa, và có lẽ đến những nhịp điệu của sự thay đổi khí hậu; từ những rung động của tế bào đến cuộc thăng trầm của các quốc gia và sinh diệt của những vì sao. Tất cà những "định luật về cái khả tri" này đều có thể quy về (qua một phân tích không cần theo dõi ở đây) định luật tối hậu là sự kiên cố bền bỉ của năng lực. Nhưng trong nguyên tắc này có một cái gì tĩnh và trơ lỳ; nó không ám chỉ được bí mật của sự sống. Cái gì là nguyên lý động về thực tại ? Đâu là công thức về sự tăng trưởng và hoại diệt của mọi sự vật ? Đấy phải là một công thức của sự tiến hoá và tan rã, bởi vì "một lịch sử toàn vẹn của bất cứ sự vật gì đều phải bao gồm sự xuất hiện của nó từ chỗ vô hình cũng như sự tan biến của nó vào chỗ vô hình" (tr.253). Thế là Spencer cho chúng ta công thức tiến hoá thời danh của ông, một công thức đã khiến cho giới trí thức Âu châu phải kinh ngạc đến ngộp thở, và đã phải cần đến bốn mươi năm và mười pho sách để giải thích. "Tiến hoá là một phối hợp của vật chất và một sự phân tán đồng lúc của chuyển động; trong quá trình ấy vật chất di chuyển từ một khối đồng tính bất định, rời rạc đến một khối dị tính nhất định, chặt chẽ, và trong quá trình ấy chuyển động trải qua một cuộc biến đổi song hành (tr.367). Điều này có nghĩa gì ? Sự phát xuất của những hành tinh từ tinh vân; sự thành hình của đại dương và núi trên mặt đất, sự phát triển của trái tim trong bào thai, và sự dính liền của xương cốt sau khi sinh; sự phối hợp cảm giác và ký ức thành tri thức và tư tưởng, sự phối hợp của tri thức thành khoa học và triết học; sự phát triển từ gia đình thành bộ tộc, đô thị quốc gia, liên minh và "liên bang thế giới"; đây là sự phối hợp của vật chất, "sự nhóm tụ những phần tử rời rạc thành ra khối nhóm và toàn bộ. Một sự phối hợp như thế dĩ nhiên bao gồm sự giảm thiểu" chuyển động trong những phần tử, như quyền lực gia tăng của quốc gia sẽ làm giảm bớt tự do của cá nhân, nhưng đồng thời nó cũng đem lại cho những phần tử một sự hỗ tương phụ thuộc, một màn lưới bảo vệ của tương giao, điều này làm nên sự "chặt chẽ" và nâng đỡ sự sống còn của đoàn thể. Quá trình này còn đem lại một tính cách nhất định về hình thể và nhiệm vụ : khối tinh vân thì không có hình thù, u ám; song từ đó sinh ra hình thể đều đặn bầu dục của những hành tinh, những đường nét rõ rệt của những rặng núi, hình thể và tính chất đặc thù của những cơ thể và cơ quan, sự phân công và chuyên môn hoá của nhiệm vụ trong các cơ cấu sinh lý học và chính trị v.v. Và những phần tử của toàn bộ tổng hợp này trở thành không những chỉ có tính cách xác định hơn mà lại còn đổi khác về bản chất và vận hành. Khối tinh vân sơ khai thì đồng tính, nghĩa là nó gồm những phần tử giống hệt nhau; nhưng nó liền được phân biệt thành chất hơi, chất lỏng và chất đặc; mặt đất trở thành nơi thì xanh um cỏ dại, chỗ lại trắng phau đỉnh núi hay lục biếc đại dương; sự sống tiến hoá từ một nguyên sinh chất tương đối đồng tính đến những cơ quan khác nhau của sự dinh dưỡng, sinh sản, vận động, tri giác; từ một ngôn ngữ đơn thuần, sinh ra những thổ ngữ thiên hình vạn trạng lan đầy các vùng đất; từ một khoa học duy nhất sinh sản trăm khoa, nền văn chương bình dân của một quốc gia triển khai thành muôn ngàn hình thái văn nghệ; trăm hoa đua sắc, cá tính nổi bật độc đáo, và mỗi nòi giống, mỗi dân tộc phát triển thiên tài kỳ đặc của mình. Sự phối hợp và dị tính, sự nhóm tụ những phần tử vào những toàn bộ mãi mãi rộng lớn hơn, sự phân biệt những phần tử thành những hình thái mãi mãi đổi khác thêm: đấy là những trọng tâm của quỹ đạo tiến hoá. Bất cứ cái gì đi từ sự khuếch tán đến sự phối hợp, từ một đơn thể đồng tính đến một phức thể sai biệt (Mỹ châu, 1600 - 1900), đều ở trong dòng triều lên của tiến hoá; bất cứ gì đang từ phối hợp trở về phân tán, từ phức thể trở về đơn thể (Âu châu từ năm 200 - 600), đều rơi vào trong dòng nước ròng của tán hoại. Chưa thoả mãn với công thức tổng hợp này, Spencer nỗ lực chứng minh làm thế nào nó là kết quả tất yếu của sự vận hành tự nhiên những năng lực cơ giới. Trước hết, có một tính chất có thể gọi là "Tính bất ổn định của thể đồng tính": nghĩa là, những phần tử giống nhau không thể giống nhau lâu dài bởi vì chúng phải chịu không đồng đều những sức mạnh ngoại giới; chẳng hạn những phần ở bên ngoài bị tấn công trước hết, như những thành phố miền duyên hải vào thời chiến; những công việc khác nhau uốn nắn những con người giống nhau thành vô số hiện thân của hàng trăm nghề nghiệp và tài khéo - lại nữa, có một sự "Tăng bội những hậu quả": một nguyên nhân có thể phát sinh ra rất nhiều hậu quả khác nhau, và trợ lực làm cho thế giới thành ngàn sai muôn khác, một lời nói nhầm, như lời của Marie Antoinette, hay một bức điện tín bị sửa đổi ở Ems, hay một cơn gió ở Salamis, có thể đóng một vai trò bất tận trong lịch sử. Rồi còn có định luật về "Sự tách riêng" (segregation): những phần tử của một toàn khối tương đối đồng tính, bị tách rời nhau để đi vào những lãnh vực khác nhau, sẽ do hoàn cảnh sai khác mà biến thành những sản phẩm bất đồng, -như người Anh trở thành người Mỹ, hay Gia nã đại hoặc Úc, tuỳ theo đặc tính của nơi chốn-. Trong vô số cách thức ấy, những năng lực của thiên nhiên tạo nên muôn hồng nghìn tía của thế giới trong đà tiến hoá này. Nhưng cuối cùng và không thể tránh được, phải đến sự "làm thăng bằng". Mọi chuyển động vì là chuyển động dưới kháng lực, nên sớm muộn cũng phải đến chỗ dừng; mọi dao động theo tiết nhịp (nếu không được thêm sức từ bên ngoài) đều phải chịu ít nhiều mất mát về tốc độ và biên độ chấn động. Những hành tinh đang hoặc sẽ quay qua một quỹ đạo nhỏ hơn trước, mặt trời sẽ ít nóng hơn và ít sáng hơn theo nhịp thế kỷ đi qua; sự cọ sát của thuỷ triều sẽ làm chậm vòng quay của quả đất. Trái địa cầu này, đang rung động và thì thào với hàng triệu chuyển động nẩy nở xum xuê thành hàng triệu hình thái sinh hoá xô bồ, một ngày kia sẽ xê dịch chậm hơn trong quỹ đạo và trong những phần tử của nó; máu sẽ chảy lạnh hơn, chậm hơn trong những tĩnh mạch già cỗi của chúng ta, chúng ta sẽ không còn vội vàng nữa; như những dân tộc đang chết, chúng ta sẽ nghĩ đến thiên đường bằng hình ảnh của sự an nghỉ chứ không phải hình ảnh của sự sống; chúng ta sẽ mơ về Niết bàn. Dần dần, rồi rất nhanh, sự thăng bằng sẽ trở thành sự tán hoại, kết thúc bất hạnh của tiến hoá. Những xã hội sẽ phân hoá, dân chúng sẽ di cư, đô thị sẽ phai tàn thành nội địa đen tối của đời sống nhà quê; sẽ không còn chính thể nào mạnh đủ để kết hợp những phần tử lỏng lẻo vào với nhau; ngay cả việc nhớ đến trật tự xã hội người ta cũng sẽ không còn nhớ. Và trong cá nhân cũng vậy, sự hợp nhất sẽ nhường chỗ cho sự tan rã; và sự phối hợp -tức là sự sống- sẽ bước qua giai đoạn vô trật tự phân tán tức là cái chết. Trái đất sẽ là một sân khấu hỗn độn của sự tan rã, một tấn tuồng thê lương của nghị lực trên đường thoái hoá không thể xoay chiều; và chính nó, trái đất, cũng sẽ tan thành cát bụi và tinh vân từ đấy nó đã đến. Chu kỳ sẽ bắt đầu trở lại, và trở lại liên miên bất tận; nhưng luôn luôn đây sẽ là kết thúc. Thông điệp nhắc nhở cái chết được viết trên mặt đời sống; và mỗi sự sơ sanh là một tiền đề cho tán hoại và chết chóc. Nguyên lý đầu tiên là một vở kịch vĩ đại được kể với vẻ bình thản cổ điển, câu chuyện về sự thăng và trầm, tiến hoá và hoại diệt của những hành tinh của cuộc đời, của con người, Nhưng đấy là một vở kịch bi thiết, hậu ngôn thích hợp nhất cho nó là lời của Hamlet: "Còn lại chỉ là im lặng". Có gì đáng ngạc nhiên không khi những người đàn ông đàn bà sống bằng tin tưởng và hy vọng, đã phản đối kịch liệt lối tóm lược này về cuộc đời ? Chúng ta biết rằng ta phải chết; nhưng vì đấy là một vấn đề sẽ tự giải quyết lấy nó, nên chúng ta thích nghĩ về sự sống hơn. Ở Spencer có một cảm thức gần giống của Schopenhauer về tính cách bất tất của nỗ lực con người. Vào đoạn cuối sự nghiệp lẫy lừng của ông, ông đã diễn đạt cảm tưởng của mình rằng cuộc đời không đáng sống. Ông có căn bệnh của triết gia là thấy quá xa ở đàng trước đến nỗi mọi hình dáng sắc màu mỹ miều của cuộc sống lướt qua duới mắt ông mà ông không trông thấy. Ông biết rằng người ta sẽ không thích thưởng thức một thứ triết lý mà từ ngữ tối hậu không phải là Thượng đế và Thiên đường, mà là thăng bằng và tán hoại; nên khi kết luận "phần thứ nhất" này ông đã bênh vực - với một tài hùng biện và hăng hái phi thường - cái quyền ông được nói những sự thật đen tối mà ông thấy. "Kẻ nào ngần ngại không chịu nói ra những gì mình nghĩ là chân lý cao nhất, vì sợ nó đi quá xa trước thời đại, kẻ ấy có thể tự trấn an bằng cách nhìn hành vi mình từ một quan điểm vô tư. Kẻ ấy nên nhớ rằng quan niệm của y là một trong những đơn vị năng lực tạo nên năng lực tổng thể làm ra những biến chuyển xã hội; và kẻ ấy sẽ thấy rằng mình có thể nói lên niềm xác tín sâu xa nhất của mình; cứ để mặc nó kết quả ra sao thì ra. Không phải là điều vô ích khi kẻ ấy có những hảo cảm đối với vài nguyên lý và ác cảm với vài nguyên lý khác. Kẻ ấy, với tất cả khả năng, ước vọng và niềm tin của y, không phải là một sự ngẫu nhiên mà là một sản phẩm của thời gian. Trong khi y là một hậu duệ của quá khứ thì y cũng là một kẻ tiền bối của tương lai; và những tư tưởng y cũng như những đứa con y sinh ra, y không thể cẩu thả để chúng chết. Như mọi người khác, y có thể tự xem mình như một trong muôn vàn môi trường qua đó Nguyên Nhân Bí Ẩn tác động; và khi Nguyên nhân bí ẩn ấy sinh khởi trong một niềm tin nào, thì y có quyền tuyên dương và thi hành niềm tin ấy... Bởi thế người minh triết sẽ không xem niềm tin có trong y là một cái gì ngẫu sinh. Nếu y thấy chân lý cao cả nhất, y sẽ mạnh dạn nói lên; biết rằng nó sẽ ra sao thì ra, y chỉ đang đóng vai trò đích thực dành cho y trong vũ trụ; biết rằng nếu y có thể thực hiện sự cải tổ mà y nhắm đến thì tốt, bằng không thì cũng tốt, mặc dù không tốt lắm. IV. SINH VẬT HỌC: QUÁ TRÌNH TIẾN HOÁ CỦA SỰ SỐNG Những cuốn thứ hai và ba của Nền Triết học Tổng hợp xuất hiện vào năm 1872 dưới nhan đề Những nguyên lý sinh vật học. Chúng cho thấy những giới hạn tự nhiên của nhà triết học xâm phạm lãnh vực của nhà chuyên môn; nhưng chúng bù lại những lỗi lầm về chi tiết bằng những quy nạp rọi ánh sáng và đem lại một nhất tính mới mẻ và dễ hiểu cho những phạm vi rộng lớn của dữ kiện sinh vật học. Spencer mở đầu với một định nghĩa thời danh: "Sự sống là sự thích ứng liên tục của những tương quan nội giới với những tương quan ngoại giới" (Nguyên lý sinh vật học, N.Y. 1910, I, 99). Tính cách toàn vẹn của sự sống tuỳ theo tính cách toàn vẹn của mối tương giao này; và sự sống hoàn mỹ khi mối tương giao được hoàn mỹ. Sự tương giao không phải chỉ là sự thích ứng của những tương quan nội giới biết trước một đổi thay trong những tương quan ngoại giới, như một con vật thu hình lại để tránh một vố đánh đập hay một con người nhóm lửa để hâm nóng thức ăn. Khuyết điểm của định nghĩa này không những nằm trong khuynh hướng bỏ quên hoạt động cải tạo của cơ thể đối với hoàn cảnh, mà còn nằm ở chỗ nó không giải thích được cái gì là năng lực tinh vi nhờ đó một cơ thể hoàn thành được những sự thích ứng có tính cách tiên tri - đặc tính của sự sống. Trong một chương thêm vào những lần in về sau, Spencer bắt buộc phải bàn đến "Yếu tố động trong sự sống" và phải nhận rằng định nghĩa của ông đã không biểu thị trung thực bản chất của sự sống. "Chúng ta buộc lòng phải thú nhận rằng sự sống, trong tinh thể của nó, không thể quan niệm theo phương diện lý hoá được" (I, 120). Ông không nhận ra rằng một lời công nhận như thế sẽ tai hại đến mức nào đối với sự nhất thể và toàn triệt của hệ thống ông. Cũng như Spencer thấy trong đời sống của cá nhân, sự thích nghi của những tương quan ngoại giới, ông thấy trong đời sống các giống loài một sự thích nghi đặc biệt của sự dồi dào sinh sản đối với những điều kiện của môi trường sống. Sự sinh sản khởi thuỷ phát hiện như một sự tái thích nghi của lớp mặt trên dinh dưỡng đối với khối được dinh dưỡng; sự tăng trưởng của một biến hình trùng, chẳng hạn, bao hàm một sự gia tăng của khối vô cùng nhanh hơn sự gia tăng trong lớp trên mặt, qua đó khối phải hấp thụ chất dinh dưỡng. Sự phân chia, sự nẩy mầm, sự tạo thành bao tử, và sự sinh sản hữu dục có một điểm chung này là tỉ lệ của khối đối với mặt trên bị giảm rút, và thế quân bình dinh dưỡng được phục hồi. Bởi thế mà sự phát triển của cơ thể cá biệt vượt ngoài một mức nào đó sẽ thành nguy hiểm, và thông thường sau một thời gian sự lớn lên nhường chỗ cho sự sinh sản. Trung bình sự tăng trưởng biến thiên ngược chiều với tốc độ của sự tiêu hao năng lực, và tốc độ của sự sinh sản biến thiên ngược chiều với độ tăng trưởng. "Một điều những người nuôi ngựa đều biết là nếu một chị ngựa cái được chuẩn bị để sinh một chú ngựa con, thì chị ấy được ngăn ngừa cho khỏi lớn đến tầm vóc thật sự của mình ... Ngược lại những con vật bị thiến, như gà trống thiến, và nhất là mèo thiến, thường trở nên to lớn hơn những đồng bạn không bị thiến" (II, 459). Tốc độ của sự sinh nở có khuynh hướng giảm xuống khi sự phát triển và khả năng của cá thể tăng lên. "Khi tổ chức thấp kém, thiếu khả năng để chiến đấu với những hiểm nguy bên ngoài (đánh đâu thua đó), thì phải có một sự dồi dào sinh sản để bù lại số tử vong; nếu không giống nòi sẽ phải tiêu mòn lần. Trái lại khi có nhiều tài năng thừa sức để tự tồn thì phải cần một độ sinh sản thấp tương ứng", nếu không , tỉ số sinh sản có thể vượt trên mức cung cấp thức ăn (II,421). Như vậy, nói chung có một sự chống đối giữa cá thể và giòng giống, hay giữa sự phát triển cá thể và sự sinh sản. Định luật này thường đúng cho tập đoàn và giống nòi hơn là cho cá thể: giống nòi hay tập đoàn càng phát triển cao chừng nào thì tỉ số sinh sản của nó càng thấp chừng ấy. Nhưng trung bình nó cũng đúng cho cá thể nữa. Chẳng hạn sự phát triển tri thức hình như thù nghịch với mức độ sinh sản. "Ở đâu có sự sinh sản đặc biệt dồi dào, ở đấy có sự chậm lụt về tâm trí, và ở đâu có sự tiêu hao sinh lực quá độ vào hoạt động tinh thần, thì ở đấy kết quả thường là một sự cằn cỗi về phương diện sinh sản. Do đó, loại tiến hoá xa hơn, loại tiến hoá đặc biệt, mà con người sau này phải vươn đến là một lối tiến hoá có thể gây nên một sự thoái bộ trong năng lực sinh sản" (II, 530). Những triết gia đã nổi tiếng là những người tránh làm cha mẹ. Mặt khác, nơi đàn bà, giai đoạn làm mẹ thường gây nên một tình trạng giảm sút về hoạt động tri thức (Tự thuật, tr. 62), và có lẽ thời kỳ thanh niên tương đối ngắn ngủi của họ là do sự hy sinh sớm sủa cho việc sinh sản. Mặc dù có sự thích ứng gần khít này giữa tốc độ sinh sản với nhu cầu của sự sống còn tập thể, sự thích ứng cũng không bao giờ hoàn toàn, và Malthus đã đúng trong nguyên lý tổng quát của ông, theo đó mật độ dân chúng có khuynh hướng vượt quá những phương tiện nuôi sống. "Từ khởi thuỷ mật độ dân chúng đã là nguyên nhân gần của tiến bộ. Nó phát sinh ra sự phân tán đầu tiên của giống nòi. Nó buộc con người phải bỏ những thói cướp bóc và khởi sự cày cuốc. Nó đưa đến sự khai quang mặt đất, nó buộc người ta vào trong tình trạng xã hội ... và phát triển những tình cảm xã hội. Nó đã khơi nguồn cho những cải tiến về sản xuất, và làm tăng trưởng tài khéo léo và trí thông minh" (Sinh vật học , II, 536). Nó là nguyên nhân chính của sự cạnh tranh sinh tồn qua đó kẻ thích nghi nhất có thể sống sót và qua đó trình độ của giống nòi được nâng cao. Sự xuất hiện của loài thích nghi nhất là do những biến thiên thuận lợi ngẫu nhiên, hay do thụ hưởng một phần những đặc tính hay khả năng mà nhiều thế hệ kế tiếp đã đạt được ? Về vấn đề này, Spencer không giữ lập trường độc đoán, ông sẵn sàng chấp nhận lý thuyết Darwin, nhưng nghĩ rằng có những sự kiện mà lý thuyết ấy không thể giải thích, và buộc lòng phải chấp nhận, với ít nhiều châm chước, quan điểm của Lamarck. Ông bênh vực Lamarck một cách hùng hồn trong cuộc tranh luận với Weismann; và nêu rõ vài khuyết điểm trong lý thuyết Darwin. Vào thời ấy Spencer hầu như là người duy nhất đứng về phe Lamarck. Một điểm đáng ghi là ngày nay, trong số những tân môn đồ của Lamarck có cả những hậu duệ của Darwin, trong khi nhà sinh vật học Anh quốc vĩ đại nhất đương thời cho rằng lý thuyết đặc biệt (dĩ nhiên không phải lý thuyết đại cương) của Darwin về tiến hoá cần phải phế bỏ (xem diễn từ của Sir W. Bateson trước "Hội những người Mỹ xúc tiến khoa học" - Toronto, Dec. 28-1921, trong báo Science, Jan.20.1922).
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:49:24 GMT 9
V. TÂM LÝ HỌC: SỰ TIẾN HOÁ CỦA TÂM TRÍ Hai tác phẩm về Nguyên tắc tâm lý học (1873) là những dây nối yếu ớt nhất trong sợi dây xích của Spencer. Trước đấy ông đã có một tác phẩm về đề tài này (1855) bênh vực với sự hăng hái trẻ trung thuyết duy vật và thuyết tất định; nhưng về sau ông đã duyệt lại tác phẩm ấy thành một hình thức ôn hoà hơn và đệm thêm hàng trăm trang phân tích công phu những không rọi sáng gì thêm. Ở đây, còn hơn ở chỗ khác, Spencer tỏ ra dồi dào về lý thuyết nhưng sút kém về chứng cứ. Ông có một lý thuyết về nguồn gốc của thần kinh do từ màng tế bào liên kết; một lý thuyết về căn nguyên của bản năng do sự phối hợp những phản xạ và sự lan truyền những tính cách tập thành; một lý thuyết về khởi thuỷ của những phạm trù tâm thức do kinh nghiệm của giống nòi; một lý thuyết về "duy thực biến dạng" (Spencer muốn nói rằng mặc dù những đối tượng kinh nghiệm rất có thể bị biến dạng qua tri giác, chúng ta vẫn có một thực hữu vốn không hoàn toàn lệ thuộc vào sự tri giác (II, 494); và một trăm lý thuyết khác, tất cả đều có cái năng lực "làm thành khó hiểu" của siêu hình học hơn là đức tính giải minh của một nền tâm lý học thực tiễn. Trong những tác phẩm này, chúng ta giã từ Anh quốc duy thực và đi "trở về Kant". Điều làm ta chú ý ngay tức khắc là, lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý học, ở đây chúng ta gặp một quan điểm tiến hoá nhất định, một cố gắng giải thích căn nguyên, một nỗ lực truy tầm từ những phức tạp rối ren của tư tưởng xuống đến vận hành đơn giản nhất của thần kinh, và cuối cùng đến những chuyển động của vật chất . Thật ra nỗ lực này thất bại, nhưng có ai đã từng thành công trong một nỗ lực như thế ? Spencer khởi hành với một chương trình vĩ đại mong vén bức màn bí mật về những quá trình theo đó ý thức đã tiến lên; song rốt cùng ông bị buộc lòng phải đặt ý thức ở khắp nơi (Tự thuật, tr. 549), để thăng tiến nó. Ông nhấn mạnh rằng đã có một sự tiến hoá liên tục từ tinh vân cho đến tâm thức, và cuối cùng thú nhận rằng vật chất chỉ được biết qua tâm thức. Có lẽ những đoạn ý nghĩa nhất trong những cuốn này là những đoạn trong đó triết học duy vật bị bỏ rơi. "Có thể nào biểu hiện trong tâm thức sự dao động của một phân tử bên cạnh một cơn kích động thần kinh và cả hai hiện tượng được xem như một hay không ? Không một nỗ lực nào có thể giúp ta đồng hoá chúng được. Sự kiện rằng một đơn vị cảm giác không liên can gì đến một đơn vị chuyển động, trở thành rõ rệt hơn bao giờ hết khi chúng ta đặt hai cái kề nhau. Và bản án ấy của ý thức có thể được biện minh bằng phân tích...; vì ta có thể chứng minh rằng khái niệm về một phân tử dao động là do nhiều đơn vị cảm giác tạo thành" (Có nghĩa rằng tri thức của ta về vật chất được tạo thành do những đơn vị tâm thức - cảm giác, ký ức, tư tưởng )... "Nếu chúng ta bị bắt buộc phải chọn lựa giữa hai trường hợp : hoặc giải thích hiện tượng tâm lý bằng hiện tượng vật lý, hoặc giải thích hiện tượng vật lý bằng hiện tượng tâm lý, - thì trường hợp thứ hai hình như dễ chấp nhận hơn" (Nguyên tắc tâm lý học, NY. 1910, i, 158-9). Dù sao, vẫn có một sự tiến hoá của tâm thức; một sự phát triển của những cách thế phản ứng từ đơn sơ đến kép rồi phức tạp, từ phản xạ đến hướng động rồi bản năng, qua ký ức và tưởng tượng đến trí năng và lý trí. Đối với người đọc trôi được suốt 1400 trang phân tích sinh lý và tâm lý này, y sẽ cảm nghiệm một ý thức tràn trề về sự liên tục của sự sống và tâm thức; y sẽ thấy như trên một phim ảnh quay chậm, sự thành hình của thần kinh, sự phát triển của những phản xạ thích ứng và những bản năng, thấy sự sản xuất ra ý thức và tư tưởng qua sự va chạm của những động lực xung đột nhau: "Trí thông minh không có những cấp bực riêng biệt rõ ràng, nó cũng không phải được cấu tạo bởi những khả năng thực sự độc lập, mà những biểu hiện cao nhất của nó là những kết quả của một phức tính phát sinh từ những yếu tố đơn giản nhất" (I, 388). Kant có khe hở giữa bản năng và lý trí; mỗi cái là một sự thích ứng giữa những tương quan nội tại với những tương quan ngoại giới, và dị biệt độc nhất là dị biệt về cường độ, nghĩa là những tương quan do bản năng ứng phó thì tương đối giống nhau và đơn giản, còn những tương quan do lý trí đương đầu thì tương đối mới mẻ và phức tạp. Một hành động thuần lý chỉ là một ứng phó bản năng đã sống sót trong một cuộc tranh đấu với những ứng phó bản năng khác do hoàn cảnh thúc đẩy; "suy xét cân nhắc" chỉ là cuộc hỗn chiến tương sát giữa những động lực đối nghịch nhau (I, 453 - 5). Tự căn để, lý trí và bản năng, tâm thức và sự sống, chỉ là một. Ý chí là một từ ngữ trừu tượng chúng ta đặt cho toàn thể những động lực đang hoạt động của ta, và một ý muốn là sự tuôn chảy tự nhiên của một ý tưởng vào hành động. Một ý tưởng là giai đoạn đầu của một hành động bản năng, và sự diễn đạt cảm xúc là một tiền đề hữu ích cho sự ứng phó được hoàn tất. Sự nghiến răng trong cơn giận ám chỉ rất nhiều đến sự xé xác kẻ thù ra từng mảnh, việc ấy thường là kết thúc tự nhiên của một khởi đầu như thế (I, 482). "Những hình thái của tư tưởng như tri giác về không gian và thời gian, hay những ý niệm về số lượng và nguyên nhân, mà Kant cho là bẩm sinh, thật ra chỉ là những lối tư duy theo bản năng; và bởi vì bản năng là thói quen do nòi giống tập thành nhưng lại bẩm sinh nơi cá thể, nên những phạm trù này là những thói quen tinh thần đã được tập thành dần dần qua dòng tiến hoá, và bây giờ trở thành một phần trong di sản tri thức của chúng ta. Tất cả những bí ẩn lâu đời này của tâm lý học đều có thể được giải thích bằng "sự thừa hưởng những biến thái không ngừng tích tụ thêm" (I, 491). Dĩ nhiên chỉ vì một giả thuyết vơ đũa cả nắm này mà khiến cho phần khá lớn của những pho sách công phu kia trở thành khả nghi, và có lẽ thành vô hiệu. VI. XÃ HỘI HỌC : TIẾN HOÁ CỦA XÃ HỘI Với xã hội học, bản án lại khác hẳn. Những pho sách dày cộm này, ấn loát trên hai mươi năm, là kiệt tác của Spencer: chúng bao gồm lãnh vực ông yêu chuộng, và cho ta thấy ông xuất sắc nhất về phép quy nạp gợi ý và về triết lý chính trị. Từ cuốn sách đầu của ông Tĩnh học về xã hội (Social Statics) cho đến tập cuối của bộ Nguyên lý xã hội học, qua một khoảng thời gian dài gần nửa thế kỷ, lãnh vực chú ý của phần lớn là về những vấn đề kinh tế và chính trị; ông bắt đầu và kết thúc, như Platon, bằng những luận bàn về công bằng đạo đức, công bằng chính trị. Chưa có người nào, kể cả Comte (nhà sáng lập khoa học xã hội và đặt ra tên gọi này) đã từng làm được nhiều thành tích như thế cho xã hội học. Trong cuốn dẫn nhập rất phổ thông, Nghiên cứu xã hội học (1873), Spencer lý luận rất hùng hồn cho việc thừa nhận và phát triển nền khoa học mới mẻ này. Nếu thuyết tất định là đúng trong tâm lý học, thì phải có những quy tắc về nhân quả trong những hiện tượng xã hội, và một học giả rốt ráo về con người và xã hội sẽ không thoả mãn với một lịch sử chỉ thuần ghi niên đại như của Livy, cũng không thoả mãn với một lịch sử ghi tiểu sử của Carlyle; mà sẽ tìm trong lịch sử con người những nét đại cương của sự phát triển, những chuỗi nhân quả, những mối tương quan rọi thêm ánh sáng, biến đổi tình trạng sơ khai hoang dã của những sự kiện thành bản đồ của khoa học. Sinh vật học liên hệ với nhân chủng học thế nào thì sử học cũng liên hệ đến xã hội học như thế ấy (Nghiên cứu xã hội học, NY. 1910, tr.52). Dĩ nhiên còn có một ngàn chướng ngại vật mà công cuộc nghiên cứu về xã hội phải vượt qua trước khi nó có thể xứng đáng tên gọi "khoa học" (Nguyên lý đạo đức, NY, 1910, i, 464) (Nếu những nhà phê bình Spencer đã đọc đoạn này thì họ không đến nỗi đã lên án ông ta đánh giá quá mức xã hội học). Nền nghiên cứu mới mẻ này bị quấy rối bởi nhiều thành kiến - thành kiến cá nhân, giáo dục, thần học, kinh tế, chính trị, quốc gia, tôn giáo; và bởi sự "toàn trí" dễ dãi của người thường (tự cho mình cái gì cũng biết). "Có một chuyện về một người Pháp, sau khi ở Anh ba tuần, muốn viết một cuốn sách về Anh quốc; nhưng sau ba tháng, y nhận thấy mình chưa sẵn sàng lắm, và ba năm sau, y kết luận rằng y không biết tí gì về Anh quốc cả" (Nghiên cứu, tr. 9). Một người như thế chính là kẻ sẵn sàng để bắt đầu nghiên cứu xã hội học. Người ta chuẩn bị nghiên cứu cả đời trước khi trở thành những người có thẩm quyền về vật lý hay hoá học, hay sinh vật học; nhưng trong lãnh vực những sự việc xã hội và chính trị, một cậu bé chạy hiệu cho ngành bán thực phẩm cũng là một nhà chuyên môn, biết rõ giải pháp, và đòi người ta phải nghe mình. Sự chuẩn bị của Spencer trong trường hợp này, là một mẫu mực về lương tâm tri thức. Ông mướn ba thư ký để thâu lượm dữ kiện và sắp loại chúng thành những cột song song, ghi định chế gia đình, giáo hội, nghề nghiệp, chính trị và kỹ nghệ của mọi dân tộc quan trọng. Ông bỏ tiền túi ra ấn hành những tập này thành tám pho lớn, để thay đổi những học giả khác có thể kiểm chứng hoặc thay đổi những kết luận của ông ; và vì khi ông chết việc ấn loát cũng chưa xong, nên ông đã để lại một phần số tiền dành dụm ít oi của ông để hoàn tất công việc đó. Sau bao năm chuẩn bị, cuốn đầu của bộ Xã hội học ra đời năm 1876; cuốn cuối mãi đến năm 1896 mới hoàn thành. Khi mọi thứ khác của Spencer đã trở thành một công việc cho người khảo cổ, ba pho sách này sẽ vẫn còn đầy bổ ích cho mọi người nghiên cứu về xã hội. Tuy thế, quan niệm đầu tiên diễn đạt trong tác phẩm cũng là điển hình của thói quen Spencer ưa nhảy bổ vào những lối quy nạp. Xã hội, theo ông, là một cơ thể, có những cơ quan dinh dưỡng, tuần hoàn, tổ chức và sinh sản rất giống trong trường hợp cá nhân. Đành rằng trong cá nhân, ý thức được định xứ, trong khi ở xã hội mỗi phần tử của nó vẫn giữ lại ý thức và ý chí riêng; nhưng sự tập trung của cai trị và quyền hành làm giảm bớt tầm khác biệt này. "Một cơ thể xã hội giống hệt một cơ thể cá nhân ở những điểm cốt yếu này: nó tăng trưởng, và trong khi tăng trưởng nó trở thành phức tạp hơn, những phần tử của nó có sự hỗ tương phụ thuộc càng ngày càng tăng; đời sống của nó bao la về bề dài so với đời sống của những đơn vị tạo thành nó ... và trong cả hai trường hợp, sự phối hợp càng phức tạp thì dị tính càng tăng" (Tự thuật, tr.56).Như vậy sự phát triển của khoa học đã thi hành rộng rãi công thức của tiến hoá : tầm vóc lớn dần của đơn vị chính trị, từ gia đình đến quốc gia và liên minh; tầm vóc lớn dần của đơn vị dân cư, từ làng mạc đến thành phố và đô thị -chắc chắn những điều này chứng tỏ một quá trình phối hợp; trong khi sự phân công, sự tăng bội những nghề nghiệp và tài khéo, và sự hỗ tương lệ thuộc ngày càng tăng về phương diện kinh tế giữa đô thị và thôn quê, giữa nước này với nước khác, đã chứng minh rõ rệt quá trình của sự kết hợp và sự phân tán. Cùng một nguyên lý ấy -nguyên lý phối hợp- cũng áp dụng cho mọi lĩnh vực của hiện tượng xã hội, từ tôn giáo, chính quyền đến khoa học và nghệ thuật. Tôn giáo ban sơ là sự thờ phụng một số đông thần và quỷ, hao hao tương tợ nhau ở mọi xứ, và sự phát triển của tôn giáo bắt nguồn từ ý niệm về một vị thần trung ương và toàn quyền, hạ những vị khác xuống và tổ chức họ thành một hệ thống thần linh giữ những vài trò đặc biệt. Những vị thần đầu tiên có lẽ là do mộng mị và ma quỷ khởi ra (Nguyên lý xã hội học, NY, 1910, i, 286). Danh từ "Spirit" (linh hồn) trước kia và bây giờ, được áp dụng vừa cho quỷ vừa cho thần. Tâm thức sơ khai tin rằng trong khi chết hay ngủ, hay hôn mê, con ma hay linh hồn rời khỏi thể xác; ngay cả khi hắt hơi, sức mạnh của hơi thở ra có thể xua linh hồn ra khỏi xác, cho nên một câu "Lạy mụ" -hay câu tương đương- trở thành gắn liền với cuộc phiêu lưu nguy hiểm đó. Tiếng vang và bóng phản chiếu là những âm thanh và hình ảnh của linh hồn người ta, hay phó bản của con người; anh chàng Basuto không chịu đi cạnh một dòng suối, sợ một con cá sấu có thể bắt lấy bóng mình mà ăn thịt. Khởi thuỷ, Thượng đế chỉ là "một linh hồn sống trường cửu" (I, 296). Người ta tin rằng những người đã từng có thế lực trong khi sống sẽ giữ nguyên thế lực trong bóng ma của họ. Nơi những người Tannese, danh từ để chỉ thần linh có nghiã đen là một người chết (I, 303) "Jehovah" có nghĩa là "người mạnh mẽ" "người chiến sĩ": kẻ nào khi chết được thờ phụng như là "Thượng đế của những chủ nhân" có lẽ khi sống đã là một vị lãnh chúa. Những linh hồn nguy hiểm như thế phải được vỗ về an ủi: đám ma trở thành sự thờ phụng, và mọi cách thế xin ân huệ nơi người chủ khi sống được áp dụng vào nghi lễ cầu xin và làm lắng dịu những thần linh. Tài lợi của giáo hội là do ở tặng phẩm cho những thần linh, cũng như lợi tức quốc gia khởi đầu là những quà tặng cho những vị lãnh đạo. Sự vâng lời những vị vua trở thành sự quỳ lạy và cầu nguyện nơi bàn thờ thượng đế. Sự kiện theo đó thượng đế bắt nguồn từ ông vua đã chết, được chứng minh rõ rệt trong trường hợp những người La Mã; những người cai trị của họ được phong thần trước khi chết. Mọi tôn giáo dường như đều bắt nguồn từ sự thờ tổ tiên như thế. Mãnh lực của tục lệ này có thể được chứng minh bằng câu chuyện một người tộc trưởng không chịu rửa tội vì không thoả mãn với câu trả lời cho câu hỏi y đặt ra là: y có sẽ gặp những tổ tiên chưa rửa tội của y ở thiên đàng không ? (I, 284, 422; Bách khoa Anh, mục "Ancestor worship") (Tin tưởng này có phần nào giống với sự can đảm của người Nhật trong cuộc chiến tranh 1905; họ chết dễ dàng hơn khi nghĩ rằng tổ tiên họ đang ở trên trời nhìn xuống họ). Tôn giáo có lẽ là nét chủ chốt trong sinh hoạt của con người sơ khai; sự sống quá mong manh và bé nhỏ đối với họ đến nỗi linh hồn sống bằng hy vọng đời sau hơn là với thực tại trước mắt. Trong một mức độ nào đó, tôn giáo siêu nhiên là một yếu tố theo liền những xã hội quân phiệt, khi chiến tranh nhường chỗ cho kỹ nghệ, tư tưởng xoay chiều từ sự chết đến sự sống, và cuộc sống thoát khỏi những hủ tục thờ phụng thần quyền để bước vào con đường khoáng đạt của sáng kiến và tự do. Quả vậy sự biến đổi có ảnh hưởng sâu xa nhất đã xảy ra trong khắp lịch sử của xã hội tây phương là sự thay thế từ từ chế độ quân sự bằng chế độ kỹ nghệ. Những nhà nghiên cứu về quốc gia thường xếp hạng siêu hình tuỳ theo chính thể là quân chủ, quý tộc hay dân chủ; nhưng sau đây là những phân biệt nông cạn, con đường phân chia lớn nhất là con đường từ tách rời những xã hội quân phiệt khỏi những xã hội kỹ nghệ, tách rời những quốc gia sống bằng chiến tranh khỏi những quốc gia sống bằng công việc. Quốc gia quân phiệt luôn luôn tập trung vào chính quyền và gần như luôn luôn theo kiểu quân chủ; sự hợp tác ở đây có tính cách tập đoàn và cưỡng bách; nó khuyến khích nền tôn giáo thần quyền, thờ phụng một thượng đế hiếu chiến; nó phát triển sự phân biệt giai cấp và luật lệ của giai cấp; nó đề cao sự chuyên chế của giống đực trong thiên nhiên và trong nhà. Bởi vì tỉ số tử vong trong những xã hội chiến tranh lên rất cao nên những xã hội này thiên về chế độ đa thê và quy chế thấp kém cho phụ nữ. Phần lớn các quốc gia đã trở thành hiếu chiến vì chiến tranh tăng cường quyền hành trung ương và đưa đến sự lệ thuộc mọi quyền lợi quốc gia. Do đó, "lịch sử không hơn gì cuốn lịch Newgate của các quốc gia" *) (* Newgate: nhà ngục xưa ỏ London, bị phá vào năm 1902), một sổ ghi những chuyện giết người cướp của, phản bội và sự tự sát của các quốc gia. Việc ăn thịt người là điều đáng hổ thẹn nơi những xã hội sơ khai; nhưng nhiều xã hội tân tiến lại ăn thịt xã hội, làm nô lệ và thôn tính trọn ổ những dân tộc. Khi chiến tranh chưa bị loại ra khỏi vòng pháp luật, chưa được chế phục, thì văn minh chỉ là một giai đoạn xã hội mong manh giữa những cuộc đại hoạn; "một quốc gia muốn có trình độ xã hội cao thì cốt yếu là phải chấm dứt chiến tranh" (II, 663). Mối hy vọng về một sự kiện toàn như thế không phải nằm ở sự cải hoá trái tim con người (bởi vì con người là những gì do hoàn cảnh tạo nên) mà trong việc phát triển những xã hội kỹ nghệ. Kỹ nghệ chuẩn bị chiến tranh thống trị, thì một ngàn trung tâm phát triển kinh tế sẽ mọc lên và quyền lực được ban bố khắp cho một số lớn những phần tử trong đoàn thể. Vì sự sản xuất chỉ thịnh vượng ở nơi nào được tự do sáng tạo, nên một xã hội kỹ nghệ đập tan những truyền thống của thần quyền, giai tầng, đẳng cấp những thứ phát triển rất mạnh trong những quốc gia quân phiệt; những thứ nhờ đó quốc gia quân phiệt phát triển. Nghề làm quân nhân không còn được xem trọng; và lòng ái quốc trở thành lòng yêu xứ sở mình hơn là sự thù ghét mọi quốc gia khác (II, 634-5). Sự thanh bình nội bộ trở thành nhu yếu đầu tiên của sự phồn thịnh, và vì tư bản trở thành quốc tế, và một ngàn vụ đầu tư vượt khỏi mọi biên giới, nên sự hoà bình quốc tế cũng trở thành một nhu yếu nữa. Khi chiến tranh bên ngoài giảm xuống, sự tàn bạo trong nhà cũng giảm; chế độ độc thê thay thế cho chế độ đa thê vì tuổi thọ của đàn ông gần bằng của đàn bà; quy chế cho đàn bà được nâng cao, "sự giải phóng phụ nữ" trở thành điều tất nhiên (I, 681). Những tôn giáo mê tín nhường chỗ cho những đức tin phóng khoáng tập trung nỗ lực vào việc cải thiện và thăng hoa sự sống cùng nhân cách con người trên mặt đất. Cơ cấu của vũ trụ, và ý niệm về chuỗi liên tục bất biến về nhân quả; sự truy tầm chính xác những nguyên nhân thiên nhiên thay thế cho việc viện dẫn lối giải thích siêu nhiên (II, 599). Lịch sử bắt đầu nghiên cứu những con người đang làm việc hơn là những ông vua đang đánh giặc; nó không còn là một sổ ghi chép những nhân vật mà trở thành lịch sử của những phát minh vĩ đại, những tư tưởng tân kỳ. Uy lực của chính quyền giảm xuống, có một sự chuyển hướng "từ quy chế đến khế ước", từ bình đẳng trong lệ thuộc đến tự do trong sáng kiến, từ sự hợp tác cưỡng bách đến hợp tác tự do. Sự tương phản giữa những mẫu xã hội chiến tranh và xã hội kỹ nghệ được biểu thị bằng "sự đảo ngược từ niềm tin cá nhân sống cho quốc gia trở thành niềm tin quốc gia tồn tại vì lợi ích cá nhân" (I, 575). Trong khi vẫn cực lực phản đối việc bành trướng của chế độ quân phiệt đế quốc ở Anh, Spencer đã chọn xứ sở mình làm mẫu mực để nghiên cứu xã hội kỹ nghệ, và chỉ mặt điểm danh nước Pháp và Đức làm những ví dụ cho quốc gia chiến tranh. "Thỉnh thoảng báo chí nhắc ta nhớ sự cạnh tranh giữa Đức và Pháp trong những phát triển quân sự của họ. Quốc gia mỗi bên phần lớn sử dụng nghị lực mình vào việc phát triển nanh vuốt -mỗi sự tăng cường bên phe này xúi giục một sự tăng cường của bên kia-.. Mới đây bộ trưởng ngoại giao Pháp, khi nói đến Tunisie, Việt nam, Congo, Madagasca, đã bàn chi tiết về sự cần thiết trong cuộc cạnh tranh trộm cướp chính trị với các quốc gia khác; và cho rằng, với sự chiếm đoạt bằng vũ lực những lãnh thổ của các dân tộc yếu kém, "nước Pháp đã lấy lại được phần nào cái vinh quang như nhiều công trình cao cả trong những thế kỷ trước đây đã đem lại...". Do đó ta thấy tại sao ở Pháp cũng như ở Đức một kế hoạch tái tổ chức xã hội - theo đó mỗi công dân, trong khi được đoàn thể giữ gìn, có bổn phận phải làm việc cho đoàn thể - đã được đông đảo người theo đến độ đã tạo nên một khối chính trị, tại sao trong những người Pháp, St Simon, Fourier, Proudhon, Cabet, Louis Blanc, Pierre Leroux, khi thì bằng lời nói, khi thì bằng hành động, đã cố tạo ra một hình thái hoạt động tập đoàn và sống tập đoàn ... Kiểm chứng bằng sự tương phản cũng đúng khi ta thấy ở Anh trong tình cảm và tư tưởng, ít có sự tiến đến thể thức tịch biên quyền sở hữu, một thể thức bao hàm trong xã hội chủ nghĩa; và không đâu tình trạng bị tịch biên quyền sử hữu xảy ra nhiều như ở Pháp và Đức, hai nước giống với Anh quốc về hình thức quân sự và dân sự" (III, 596 -9). Như đoạn văn trên chỉ rõ, Spencer tin rằng chủ nghĩa xã hội là một xuất phát từ mẫu quốc gia chiến tranh và phong kiến, không có dây liên hệ tự nhiên nào với kỹ nghệ. Cũng như chế độ quân phiệt, chế độ xã hội bao hàm sự phát triển sự tập trung và bành trướng thế lực của chính quyền, sự tàn tạ của sáng kiến phát minh, và sự phục tùng cá nhân. "Bismarck rất có thể tỏ bày sự ngả về chủ nghĩa quốc gia xã hội" (Social statics, tr. 329). "Định luật của mọi tổ chức là khi nó trở thành hoàn bị, nó cũng trở thành cứng rắn" (Xã hội học, 571). Chủ nghĩa xã hội trong kỹ nghệ gần giống như hệ thống bản năng chặt chẽ trong thú vật; nó sẽ sản xuất một đoàn thể kiến và ong dưới hình thù người; và sẽ kết quả trong một tình trạng nô lệ còn chán chường vô vọng hơn sự thể hiện tại rất xa. "Dưới sự trọng tài mà chủ nghĩa xã hội bắt buộc phải cần đến ... những người điều hành, theo đuổi quyền lợi riêng tư của họ,... sẽ không bị những người làm việc hợp lực để phản kháng; và vì không bị hạn chế bởi những cuộc đình công trừ phi với những điều kiện đã ấn định, quyền lực của họ sẽ bành trướng, mọc thêm chi nhánh và củng cố cho đến khi nó trở thành không cách nào chống lại... Khi từ sự cai quản công nhân bằng chế độ thư lại, chúng ta quay sang chính nền thư lại ấy để đặt câu hỏi: nó phải được điều hành cách nào, thì ta không có giải đáp thoả mãn... Dưới những điều kiện như thế, tất phải mọc lên một nền quý tộc mới mà quần chúng sẽ nỗ lực ủng hộ và khi nó được củng cố, sẽ tạo thành một thứ quyền hành vượt xa hẳn quyền hành của bất cứ nền quý tộc nào trong quá khứ (III, 588, ở Nga Xô hiện đang có nguy cơ này ). Những liên lạc kinh tế rất khác biệt với những liên lạc chính trị, và phức tạp hơn nhiều, đến nỗi không chính thể nào điều hành được mà không cần đến một nền thư lại nô-lệ-hoá như thế. Sự can thiệp của nhà nước luôn luôn bỏ quên một yếu tố nào đó của hoàn cảnh kỹ nghệ phức tạp và sự can thiệp ấy mỗi lần cố thực hiện thử là một lần thất bại. Hãy để ý luật ấn định lương hướng của Anh quốc thời trung cổ, và luật ấn định giá cả của nước Pháp thời cách mạng. Những liên hệ kinh tế phải để mặc cho sự tự-thích-nghi một cách máy móc (mặc dù điều này có thể không hoàn mỹ) của cung và cầu. Những gì xã hội cần thiết sẽ phải trả giá chúng nặng nhất; và nếu những người nào, hay những chức vụ nào thu được những phần lợi lớn lao ấy là bởi những người, chức vụ vấy đã chịu làm hoặc dễ gặp những sự hiểm nguy hoặc khổ nhọc phi thường. Con người như được cấu tạo ngày nay, sẽ không chịu đựng được một tình trạng bình đẳng cưỡng bách. Khi chưa có một hoàn cảnh để cải tạo cá tính con người, thì nền luật pháp làm ra những cải đổi giả tạo cũng vô hiệu như thuật chiêm tinh (Xem cá nhân với nhà nước !). Spencer hầu như nôn mửa khi nghĩ đến một thế giới được thống trị bởi giai cấp làm thuê. Ông không mê gì những nhà cầm đầu những nghiệp đoàn công nhân theo chỗ ông biết họ qua trung gian phản động của tờ Luân đôn thời báo (III, 589) ông nêu rõ rằng những cuộc đình công đều vô ích nếu không muốn nói là phần lớn đều thất bại; vì nếu tất cả những công nhân, vào những thời gian khác nhau, cứ đình công và thắng thế, thì vật giá có thể tăng lên cùng nhịp với lương tăng, và tình trạng sẽ giống hệt như cũ (III, 545). Chúng ta rồi sẽ thấy những bất công do giai cấp chủ nhân gieo rắc đi song song với những bất công do giới làm công gieo rắc" (Tự thuật, tr.423). Tuy nhiên kết luận của ông không phải là bảo thủ một cách mù quáng. Ông công nhận sự hỗn độn và tàn bạo của chế độ và xã hội chung quanh ông, và ông háo hức tìm quanh để kiếm một giải pháp thay thế. Cuối cùng ông bày tỏ hảo cảm đối với phong trào hợp tác; ông thấy trong đó tột điểm của quá trình từ quy chế đến khế ước, trong đó Sir Henry Maine đã tìm thấy cốt yếu của lịch sử kinh tế. "Sự điều hành công nhân trở thành ít cưỡng bức khi xã hội mang một hình thức cao hơn. Ở đây ta đạt đến một hình thức trong đó sự cưỡng bách đã giảm đến độ nhỏ nhất phù hợp với hoạt động phối hợp. Mỗi phần tử là chủ nhân của chính y trong công việc của y làm; và chỉ phải lệ thuộc những quy luật, -do đại đa số phần tử lập ra- cần thiết cho sự duy trì trật tự. Thế là việc chuyển từ hợp tác cưỡng bách của chế độ quân phiệt đến hợp tác tự ý của chế độ kỹ nghệ đã được hoàn tất (III, 572). Spencer hoài nghi không biết con người có đủ lương thiện và khả năng để làm cho một chế độ kỹ nghệ dân chủ như vậy trở thành hữu hiệu hay không; nhưng ông hoàn toàn sẵn sàng để thí nghiệm. Ông thấy trước một thời đại mà kỹ nghệ sẽ không còn bị điều khiển bởi những ông chủ chuyên chế, mà người ta sẽ không còn hy sinh mạng sống để sản xuất những đồ vô giá trị. "Cũng như sự tương phản giữa mẫu xã hội quân phiệt và kỹ nghệ được nêu ra trong sự đảo nghịch niềm tin, theo đó cá nhân tồn tại vì lợi ích của quốc gia, thành ra niềm tin rằng quốc gia tồn tại vì lợi ích của cá nhân; sự tương phản giữa mẫu mực kỹ nghệ và mẫu mực có thể tiến hoá từ đấy mà ra, -cũng được nêu rõ bằng sự đảo ngược niềm tin "sống để làm việc" thành ra niềm tin "làm việc để sống" (I, 575).
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:50:27 GMT 9
VII. ĐẠO ĐỨC HỌC: TIẾN HOÁ CỦA ĐẠO ĐỨC Đối với Spencer, vấn đề xây dựng lại nền kỹ nghệ dường như rất quan trọng đến nỗi ông dành cho nó phần lớn nhất trong tác phẩm Nguyên tắc đạo đức (1893). "Đối với phần cuối cùng này của công trình của tôi... thì tất cả những phần trước chỉ là phụ thuộc" (Đạo đức, vol.i, tr.xiii). Là một người có tất cả sự nghiêm khắc về đạo đức của khoảng giữa thời đại Victoria, Spencer đặc biệt lưu tâm đến vấn đề tìm một nền đạo đức mới mẻ và tự nhiên để thay thế quy điều đạo đức đã gắn liền với tín ngưỡng cổ truyền. "Sự khuyến khích hành thiện mà người ta cho là do một năng lực siêu nhiên nếu bị bác bỏ vẫn không gây một khoảng trống nào. Có những luật thưởng phạt của thiên nhiên không kém ưu thế , và lại bao gồm một phạm vi rộng lớn hơn nhiều" (I,7). Nền đạo đức mới phải được xây dựng trên nền tảng sinh vật học. "Sự chấp nhận lý thuyết về tiến hoá hữu cơ định đoạt một vài quan niệm đạo đức" (I,25). Huxley, trong những bài diễn văn đọc ở Oxford năm 1893, cãi rằng sinh vật học không thể được xem như hướng đạo cho đạo đức học; rằng "thiên nhiên với nanh vuốt đỏ rực" (như Tennyson viết) tán dương sự tàn bạo xảo quyệt hơn là công bằng và tình yêu; nhưng Spencer cho rằng một nền quy luật đạo đức mà không thể đương đầu với những trắc nghiệm của luật đào thải tự nhiên và cạnh tranh sinh tồn thì nền đạo đức ấy ngay từ đầu đã bị sa vào sự ba hoa vô bổ. Hành vi, cũng như mọi sự khác, phải được gọi là thiện hay ác khi nó khéo thích nghi hay vụng thích nghi, với những cùng đích của sự sống; "hành vi cao nhất là hành vi đưa đến chiều dài nhất, rộng nhất, và đến sự sống" (I,22,26;ii,3), hoặc nói theo công thức của tiến hoá, một hành vi là đạo đức nếu nó làm cho cá nhân hay đoàn thể hợp nhất hơn, chặt chẽ hơn mặc dù những cứu cánh có thể khác nhau. Đạo đức, cũng như nghệ thuật, là sự hoàn thành nhất tính trong dị biệt; mẫu người cao nhất là con người có thể hợp nhất nơi mình một cách hữu hiệu viên mãn tất cả những phức tạp muôn màu của cuộc sống. Đấy là một định nghĩa hơi mơ hồ, mà nó phải mơ hồ; vì không gì biến thiên nhiều qua không gian và thời gian cho bằng những nhu yếu đặc biệt của sự thích nghi, và nội dung đặc biệt của khái niệm về điều thiện. Dĩ nhiên quả có vài hình thái của sự cư xử đã được xem là tốt, thiện, - nói chung, là xứng hợp với sự sống tròn đầy nhất- do bởi cái cảm thức về khoái lạc mà theo luật đào thải tự nhiên đã gắn liền với những hành động duy trì và khuếch trương sự sống. Sự phức tạp của đời sống tân tiến đã tăng thêm nhiều ngoại lệ, nhưng bình thường thì khoái lạc chỉ những hoạt động hữu ích về phương diện sinh vật học, và khổ đau chỉ những hoạt động nguy hiểm trên phương diện sinh vật học (I, 98). Dù sao trong những giới hạn rộng rãi của nguyên tắc này, chúng ta tìm thấy những quan niệm khác biệt nhau nhất và có vẻ đối nghịch nhất, về điều thiện. Không có một mục nào trong quy luật đạo đức Tây phương đã không bị xem là phi luân ở một nơi nào đó. Không những sự đa thê mà cả sự tự sát nữa, tự giết đồng bào mình, ngay cả giết cha mẹ mình, ở một vài dân tộc lại được nền đạo đức của họ tán thưởng. "Những bà vợ của những tộc trưởng xứ Fijiurs (Fidschi; đảo thuộc Anh quốc ở Nam Thái bình dương - chú thích của người dịch) xem mình có bổn phận thiêng liêng là phải chịu bóp cổ khi chồng chết. Một người đàn bà được Williams cứu thoát đã "bỏ trốn trong đêm, bơi qua sông, tự trình diện với những người của mình và xin được hoàn tất lễ hy sinh mà trong một lúc yếu đuối nàng đã miễn cưỡng không chịu thi hành". Wilkes kể về một người đàn bà khác "mắng chửi thậm tệ" người cứu mình và từ đấy về sau bày tỏ một sự căm thù chí tử đối với y" (I,469). Livingstone kể về một phụ nữ Makololo, trên bờ sông Zambezi, rằng họ hoàn toàn kinh ngạc khi nghe ở Anh mỗi người đàn ông chỉ có một vợ: chỉ có một vợ là không "đáng kính". Cũng vậy, ở Phi châu Xích đạo theo lời Reade, "nếu một người đàn ông cưới vợ, và nghĩ rằng y đủ tiền để cưới thêm một người vợ khác bà ta sẽ năn nỉ y phải cưới thêm; và gọi y là "đồ hà tiện bủn xỉn" nếu y không chịu cưới" (I, 327). Những sự kiện như thế dĩ nhiên mâu thuẫn với niềm tin rằng có ý thức đạo đức bẩm sinh, dạy mỗi người biết đâu là chính đâu là tà. Nhưng trung bình mà nói, sự liên kết lạc và khổ với hành vi thiện và ác chỉ cho thấy một ít chân lý; và rất có thể rằng một vài quan niệm đạo đức do nòi giống tập thành lại trở thành di truyền trong cá nhân (I, 471). Ở đây Spencer sử dụng công thức ông ưa chuộng để dung hoà chủ trương trực giác và chủ trương ích dụng, và một lần nữa trở lại với thuyết thừa hưởng những tính tình tập thành. Song dĩ nhiên, ý thức đạo đức bẩm sinh, nếu có, hiện nay đang gặp khó khăn, vì chưa bao giờ những ý niệm đạo đức lại rối ren hơn bây giờ. Điều hiển nhiên nhất là những nguyên tắc chúng ta áp dụng trong đời sống thực thường tương phản phần lớn với những nguyên tắc ta thuyết trong nhà thờ và trong sách vở. Nền đạo đức mà Âu châu và Mỹ châu tuyên dương là một nền Ki-tô giáo hoà bình; trong khi đạo đức thực thụ lại là quy luật hiếu chiến của dân ăn cướp Teutons (Nhật nhĩ man /dân tộc Đức Germanen) mà khắp Âu châu giai cấp thống trị đang thực hành. Tập tục đấu kiếm giữa hai địch thủ ở nước Pháp theo Công giáo và ở Đức theo Thệ phản giáo, là một di tích bền bỉ của quy luật nguyên thuỷ của người Teutons (I, 323). Những nhà đạo đức học của chúng ta cứ phải biện giải cho những mâu thuẫn này, hệt như những nhà đạo đức học của một xứ Hy lạp và Ấn độ trong giai đoạn theo chế độ độc thê về sau phải khó nhọc giải thích hành vi của những thần linh đã được nặn ra vào thời theo tục loạn dâm (I, 458). Một quốc gia phát triển dân chúng theo đường lối đạo đức Ki-tô giáo hay theo quy luật của người Teutons tuỳ trường hợp quốc gia ấy đang quan tâm nhiều đến kỹ nghệ hay đến chiến tranh. Một xã hội chiến tranh ca ngợi một vài đức tính và dung túng những việc mà các dân tộc khác có thể xem là tội lỗi. Sự xâm lược, cướp bóc, phản bội ở những dân tộc đã quen với những thói ấy vì tình trạng chiến tranh, không nhất định phải bị lên án như ở những dân tộc đã học được giá trị của sự lương thiện và bất bạo qua kỹ nghệ và hoà bình. Tính quảng đại và nhân đạo phát triển mạnh hơn ở những nơi có ít chiến tranh, và những thời kỳ thanh bình đầy năng suất khiến con người ý thức sâu xa những lợi ích của sự tương trợ (I, 391). Người ái quốc trong một xã hội lâm chiến sẽ xem sự can đảm và sức mạnh là những đức tính cao nhất của một con người; xem sự tuân lệnh là đạo đức cao nhất của một công dân; và xem sự phục tùng trong im lặng để tạo ra con cái là đức hạnh cao nhất của người đàn bà (Xem triết lý của Nietzsche !). Vị hoàng đế Đức quốc xem Thượng đế là lãnh tụ của quân đội Đức, và theo sát sự tán đồng của ông đối với việc đấu kiếm bằng cách dự lễ thiêng (I, 318). Những người mọi Bắc Mỹ "xem việc sử dụng cung tên, roi da, chĩa ba là những công việc cao quý nhất của con người ... Họ xem việc đồng áng và sử dụng cơ khí là những việc hèn hạ.. Chỉ gần đây -khi an sinh quốc gia trở thành ngày càng tuỳ thuộc vào những năng lực sản xuất, và những năng lực này lại tuỳ thuộc vào những khả năng tinh thần cao cấp, thì những công việc khác ngoài việc nhà binh mới được nâng lên hàng khả kính (I,423-4). Bây giờ chiến tranh chỉ là cảnh ăn thịt người tập thể; và không có lý do gì để không xếp nó vào hạng hành động ăn thịt người và tố cáo thẳng mặt. "Tình cảm và ý tưởng về công lý chỉ tăng khi sự đối nghịch xã hội giảm và những sự hợp tác trong xã hội càng ngày càng được phát triển" (I, 277). Làm sao có thể xúc tiến sự hoà điệu này ? Như ta đã thấy, nó sẵn sàng đến qua tự do hơn là qua lề luật. Công thức về công lý phải là: "Mọi người được tự do làm những gì y muốn, miễn là y không xâm phạm đến tự do tương tự nơi bất cứ người nào khác" (II, 46). Đây là một công thức thù nghịch với chiến tranh , vì chiến tranh tán dương uy quyền, sự lập đoàn, sự tuân phục; nhưng là một công thức thuận tiện cho nền kỹ nghệ hoà bình, vì nó đem lại mức tối đa của sự khuyến khích và bình đẳng tuyệt đối về cơ hội nó có thể thích hợp với đạo đức Ki-tô giáo, vì nó xem mọi con người đều thiêng liêng, và giải phóng người ra khỏi bạo động (I, 257), nó có sự phê phán của vị quan toà tối hậu -luật đào thải tự nhiên - bởi vì nó mở rộng những tài nguyên của mặt đất cho tất cả mọi người, và cho phép mỗi cá nhân tự phát triển tuỳ theo khả năng và công việc của y. Điều này nghe qua có vẻ là một nguyên tắc tàn bạo, và nhiều người sẽ phản đối, đưa ra một nguyên tắc khác xem là có thể bành trướng quốc gia, ấy là nguyên tắc cung cấp cho mỗi người không theo khả năng và sản phẩm của y mà theo nhu cầu của y. Nhưng một xã hội được cai trị trên những nguyên tắc như thế không lâu sẽ bị đào thải. "Trong giai đoạn chưa trưởng thành, lợi tức thâu được phải tỷ lệ nghịch với những khả năng sẵn có. Trong phạm vi tổ hợp gia đình, cần phải cung cấp nhiều nhất cho chỗ nào ít xứng đáng nhất, nghĩa là ít giá trị nhất. Trái lại sau khi đã đạt đến trưởng thành, lợi tức phải biến thiên trực tiếp theo giá trị: giá trị được đo bằng sự thích nghi với những điều kiện của cuộc sống. Kẻ kém thích nghi và kẻ khéo thích nghi sẽ được lợi nhờ sự thích nghi của mình. Đây là hai định luật mà một nòi giống phải theo nếu muốn tồn tại... Nếu ở trẻ con, lợi tức tỷ lệ với hiệu năng, thì nòi giống sẽ tiêu tan lập tức; và nếu nơi người lớn, lợi tức tỷ lệ với sự vô hiệu năng, thì trong vài thế hệ, nòi giống cũng sẽ biến mất do sự suy tàn... Lối biện minh độc nhất cho sự so sánh giữa cha mẹ và con cái với chính quyền và dân, là sự kém trưởng thành của dân tộc nào có lối so sánh ấy" (II, 4, 217). Tự do và tiến hoá tranh nhau ưu thế trong tình cảm Spencer (Eliott, H .Spencer, tr.81), và tự do đã thắng. Ông nghĩ rằng khi chiến tranh giảm xuống, sự kiểm soát của nhà nước đối với cá nhân phần lớn mất lý do (I, 148,420) và trong một hoàn cảnh thái bình trường cửu, nhà nước sẽ bị rút gọn vào trong giới hạn của Jefferson, nghĩa là chỉ hoạt động để ngăn ngừa những vi phạm đến nền tự do mà mọi người được hưởng ngang nhau. Một nền công lý như thế sẽ được điều hành miễn phí, để cho những kẻ làm quấy biết rằng dù nạn nhân họ nghèo khó họ cũng không thoát khỏi hình phạt; và tất cả những phí tổn của nhà nước phải được trả bằng cách đánh thuế trực thâu, vì khi không thể thấy được việc mình bị đánh thuế, dân chúng sẽ hết chú ý đến những sự quá lố của chính quyền (II, 200). Nhưng ngoài việc duy trì công lý, bất cứ việc gì khác nhà nước làm đều vi phạm đến công lý" (II, 222) , vì như thế tức là che chở cho những cá nhân thấp kém khỏi chịu luật phân phối tự nhiên là phần thưởng đối với khả năng, một định luật mà tất cả sự sống còn và cải thiện của tập đoàn đều tuỳ thuộc vào. Nguyên tắc của công lý sẽ đòi hỏi sự có quyền sở hữu chung về đất đai. Trong tác phẩm đầu của ông, Spencer đã tuyên dương sự quốc hữu hoá đất đai, để bình đẳng hoá cơ hội về kinh tế của dân; nhưng về sau ông rút lui quan niệm ấy (điều làm cho Henry George khinh bỉ gọi ông là "lão triết gia bị rối trí") vì lẽ rằng đất đai chỉ được chăm bón cẩn thận bởi gia đình nào làm sở hữu chủ nó và có thể tin chắc mình được truyền lại cho con cháu mình những kết quả của công khó đã bỏ vào đấy. Còn về tài sản tư hữu, thì nó xuất phát ngay từ luật lệ của công lý, vì mỗi người phải được tự do ngang nhau trong việc giữ lại những sản phẩm mình đã tiết kiệm được. Sự công bằng trong việc di tặng không rõ rệt lắm; nhưng "quyền di tặng bao gồm trong quyền sở hữu, bởi vì nếu không thế thì quyền sở hữu không được toàn vẹn" (II, 120). Việc mậu dịch cần phải được tự do giữa các quốc gia cũng như đã các cá nhân; luật công bằng không được chỉ có tính cách bộ lạc, mà phải là một châm ngôn bất khả xâm phạm trong giao dịch quốc tế. Đấy là, trong đại cương, những "quyền thực thụ của con người" quyền được sống, được tự do, và được theo đuổi hạnh phúc ngang hàng với tất cả mọi người. Ngoài những thứ quyền kinh tế này, những quyền chính trị chỉ là những chuyện hão huyền không quan trọng (II, 120). Những sự thay đổi về hình thức chính thể không đưa đến đâu khi đời sống kinh tế không được tự do; và một nền quân chủ có tự do mậu dịch còn tốt hơn nhiều một nền dân chủ xã hội. "Sự đầu phiếu chỉ là phương cách tạo ra một dụng cụ để duy trì quyền hành, nên vấn đề là sự phổ thông đầu phiếu có đưa đến việc tạo thành dụng cụ tốt nhất cho việc duy trì quyền hành không ? Chúng ta đã thấy là nó không bảo đảm mục đích ấy một cách hữu hiệu... Kinh nghiệm cho thấy rõ rệt một điều mà đáng lẽ cũng đã khá rõ rệt không cần đến kinh nghiệm, ấy là, với một sự phân phối khắp những lá phiếu, giai cấp lớn nhất định sẽ lợi dụng làm hại giai cấp nhỏ... Hiển nhiên tổ chức của quốc gia thích hợp với mẫu xã hội kinh tế trong đó sự công bằng được công nhận trọn vẹn, phải là một quốc gia trong đó không có sự tiêu biểu những cá nhân mà là sự tiêu biểu những quyền lợi... Có thể rằng mẫu kỹ nghệ, có lẽ do sự phát triển những tổ chức hợp tác khiến cho trên lý thuyết đã xoá mờ phân biệt chủ và thợ - có thể đề ra những dàn xếp xã hội trong đó những quyền lợi giai cấp đối chọi nhau sẽ không còn, hoặc sẽ giảm thiểu đến một độ không gây nên vấn đề rắc rối trầm trọng ... Nhưng với một nhân loại như hiện nay, một nhân loại sẽ còn giữ nguyên trạng như thế rất lâu, thì sự nắm vững những cái gọi là bình quyền sẽ không bảo đảm được việc duy trì những quyền lợi bình đẳng đúng theo tên gọi (II, 192-3). Vì quyền chính trị chỉ là một sự lừa dối và chỉ có quyền kinh tế mới đáng kể, nên phụ nữ thật sai lầm khi họ để quá nhiều thì giờ vào việc đòi giải phóng. Spencer sợ rằng bản năng làm mẹ muốn giúp đỡ kẻ thế cô có thể đưa phụ nữ đến sự ưa thích một quốc gia "xem dân như con" (II, 196-7). Về điểm này hơi có sự lộn xộn trong tư tưởng Spencer; ông lý luận rằng quyền chính trị là không quan trọng, rồi lại nói rằng điều rất quan trọng là phụ nữ không nên có quyền ấy; ông tố cáo chiến tranh, rồi lại cho rằng phụ nữ không nên bỏ phiếu vì họ không liều mạng sống của họ ở chiến trường (II, 166) - một lý luận đáng hổ thẹn cho bất cứ người đàn ông nào dùng đến, khi họ đã được sinh ra từ sự đau khổ của một người đàn bà. Ông ngại đàn bà vì họ có thể quá vị tha; tuy nhiên quan niệm tột đỉnh của tác phẩm ông là kỹ nghệ và hoà bình sẽ phát triển lòng vị tha đến một độ nó sẽ gây thế quân bình cho tính vị kỷ và như vậy sẽ xúc tiến trật tự tự nhiên trong một hoàn cảnh vô chính phủ kiểu triết học. Sự xung đột đã vị kỷ và vị tha (danh từ này, và một phần nào đường hướng tư duy này, Spencer đã vô tình rút từ Comte ) kết quả từ sự xung đột giữa cá nhân và gia đình, tập đoàn và nòi giống. Ước chừng tính ích kỷ sẽ vẫn thắng thế, nhưng có lẽ thế lại tốt hơn. Nếu mọi người đều nghĩ đến quyền lợi những người khác hơn quyền lợi của chính mình, chúng ta sẽ gặp một tình trạng hỗn loạn là cảnh tượng ai cũng cúi mình và bước lui; và có lẽ "sự theo đuổi hạnh phúc cá nhân trong giới hạn ấn định bởi điều kiện xã hội là điều cần thiết trước tiên để đạt đến hạnh phúc chung lớn nhất (I, 196, 190). Điều chúng ta có thể chờ đợi, tuy nhiên, là một sự nới rộng lớn lao phạm vi của hảo cảm, một sự phát triển mạnh động cơ của tính vị tha. Ngay cả những hy sinh do sự làm cha mẹ đòi hỏi cũng được thi hành một cách vui vẻ; "lòng mong ước con cái của những người không con, và việc nuôi con nuôi chứng tỏ những hoạt động vị tha rất cần thiết để đạt đến một vài thoả mãn vị kỷ" (I, 242-3). Cường độ của lòng ái quốc là một tỉ dụ khác về sự yêu thích say mê đối với những lợi thú lớn lao hơn là thích những mối lo nghĩ gần. Mỗi thế hệ sinh hoạt xã hội đào sâu những động cơ thúc đẩy sự hỗ trợ (I, 466). "Kỷ luật xã hội liên tục sẽ uốn nắn bản tính con người để cuối cùng những khoái lạc đầy thiện cảm sự được theo đuổi một cách tự nhiên và đến độ viên mãn nhất có lợi cho tất cả" (I,259). Ý thức bổn phận, dư âm của hàng mấy thế hệ cưỡng bách theo lối cư xử xã hội, lúc ấy sẽ tan biến, những hành động vị tha, vì đã trở nên có tính cách bản năng qua sự đào thải tự nhiên để có ích lợi xã hội, -sẽ giống như mọi vận hành theo bản năng khác, được thi hành một cách hân hoan. Tiến hoá tự nhiên của xã hội con người dần dần mang chúng ta lại gần một quốc gia toàn thiện. VIII. PHÊ BÌNH Đọc giả thông minh, qua sự phân tích này (*) ắt đã thấy vài trục trặc trong lập luận của Spencer và chỉ cần bất quá vài nét nhắc nhở để nhớ những khuyết điểm nằm ở chỗ nào. Sự phê bình tiêu cực luôn luôn là điều khó chịu, nhất là đối với một công trình vĩ đại; nhưng một phần công việc của chúng ta là xét xem thời gian đã làm gì với nền triết học tổng hợp của Spencer. [(*) Dĩ nhiên sự phân tích này không đầy đủ. "Vì giới hạn cuốn sách không cho phép" (tác giả vẫn thường mỉm cười trước chiếc áo che đậy sự lười biếng này, song ở đây phải dùng đến) bàn đến các tác phẩm Giáo dục, Tiểu luận và nhiều phần lớn của cuốn Xã hội. Bài học về Giáo dục đã được học quá kỹ; và chúng ta ngày nay cần ít chất điều hoà cho lời quyết đoán đã thắng của Spencer về đòi hỏi của khoa học chống lại văn học nghệ thuật. Về tiểu luận, đặc sắc nhất là những tiểu luận về văn pháp, về cái cười, và về âm nhạc. Cuốn Herbert Spencer của Hugh Elliott là một thiên trình bày tuyệt diệu.] 1. Nguyên lý đầu Trở ngại trước tiên, dĩ nhiên là cái bất-khả-tri. Chúng ta có thể vui lòng nhận những giới hạn khả hữu của tri thức con người; chúng ta không thể thăm dò hẳn đại dương của sự sống mà trong đó chúng ta chỉ là một làn sóng nhỏ phù du. Nhưng chúng ta không thể có thái độ độc đoán về vấn đề ấy, bởi vì theo luận lý chặt chẽ thì sự xác quyết rằng một điều gì đó là bất-khả-tri đã bao hàm một tri thức về điều ấy. Quả thế, khi Spencer tiếp tục qua mười quyển sách của ông, ông chứng tỏ "một tri thức dồi dào về cái bất-khả-tri" (Bowne: Kant và Spencer, tr. 253). Như Hegel nói: đem lý luận để định giới hạn cho lý trí thì chẳng khác nào bơi mà không vào trong nước. Và tất cả việc chẻ vụn luận lý về "tính cách không thể quan niệm" - việc ấy đối với chúng ta bây giờ thật đã xa vời, thật giống với những ngày ở trường trung học, những ngày mà sống chỉ có nghĩa là tranh luận ! Và về vấn đề này, một cái máy chạy không cần điều khiển cũng không dễ quan niệm gì hơn một "nguyên nhân đầu" nhất là nếu ta hiểu nguyên nhân đầu ấy là toàn thể nguyên nhân và năng lực trong vũ trụ. Spencer sống trong một thế giới máy móc đã xem cơ khí là chuyện đương nhiên; cũng như Darwin sống trong một thời đại cạnh tranh cá nhân tàn bạo, chỉ thấy có việc tranh đấu sống còn. Chúng ta sẽ nói gì về định nghĩa vĩ đại kia về tiến hoá ? Nó có giải thích cái gì không ? "Bảo rằng ban đầu có cái đơn thuần, rồi cái phức tạp tiến hoá từ đó v.v. , thì không phải là giải thích thiên nhiên gì cả" (Richie: Darwin và Hegel, tr. 60). Bergson bảo Spencer chỉ chấp nối mà không giải thích (Tiến hoá sáng tạo, tr. 64), ông đã bỏ sót, như cuối cùng ông đã nhận thấy cái yếu tố sinh động trong thế giới. Những nhà phê bình hiển hiên đã bực tức vì sự định nghĩa ấy; và thứ Anh ngữ bị La-tinh hoá thật đã làm ta chú ý đặc biệt nơi một con người đã chỉ trích sự học La-tinh, và đã định nghĩa văn hay là một lời văn chỉ cần cố gắng tối thiểu để hiểu. Tuy nhiên ta phải nhượng bộ Spencer một phần nào; có lẽ ông cố ý hy sinh sự rõ ràng trực tiếp cho nhu yếu tập trung trong một mệnh đề ngắn, tất cả ngọn triều của sự sống. Nhưng thật ra ông quá yêu thích định nghĩa của ông; ông lăn cuộn nó trên lưỡi ông như một miếng ăn ngon, không ngừng tách ra chắp lại. Nhược điểm của định nghĩa ấy nằm trong giả thuyết "sự bất ổn của những thể đồng tính". Một toàn khối gồm những phần tử giống nhau là bất ổn hơn, dễ thay đổi hơn một khối gồm những phần tử khác nhau à ? Thể dị tính, vì phức tạp hơn, chắc chắn là bất ổn hơn thể đơn giản đồng tính. Về dân tộc học và chính trị, người ta đã xem là việc dĩ nhiên rằng sự dị tính đưa đến sự bất ổn, và sự tan hoà những đoàn dân di cư vào một mẫu quốc gia sẽ làm mạnh xã hội. Tarde nghĩ rằng văn minh là kết quả một sự tăng trưởng yếu tố đồng tính trong những phần tử của một đoàn thể qua nhiều thời đại bắt chước nhau; ở đây phong trào tiến hoá được quan niệm như một sự tiến đến đồng thể. Kiến trúc gô-tích chắc chắn là phức tạp hơn kiến trúc của người Hy Lạp; nhưng không cần thiết là một giai đoạn cao hơn trong tiến hoá nghệ thuật. Spencer đã quá vội vàng khi cho rằng cái gì sớm hơn trong thời gian thì đơn giản hơn về cơ cấu; ông xem thường tính cách phức tạp của nguyên-sinh-chất và khiếu thông minh của người sơ khai (xem Boas: The Mind of Primitive Man). Cuối cùng định nghĩa về tiến hoá không nói lên được chính yếu tố mà phần đông trí óc con người hiện nay luôn luôn liên kết với ý tưởng về tiến hoá - ấy là luật đào thải tự nhiên. Có lẽ (mặc dù điều này cũng thế, không hoàn hảo lắm) sự mô tả lịch sử như là một cuộc cạnh tranh sinh tồn và sự sống còn của những gì dễ thích nghi nhất -những cơ thể thích nghi nhất, những xã hội thích nghi nhất, những nền đạo đức học thích nghi nhất - sẽ dễ hiểu hơn là công thức về sự rời rạc và chặt chẽ, về sự đồng tính và dị tính, vế sự phân tán và phối hợp ? "Tôi là một kẻ kém cỏi trong việc quan sát nhân loại cụ thể" - Spencer nói - "bởi vì quá bận dong ruỗi trong thế giới trừu tượng" (Tự thuật, II, 461). Đây là sự thành thật nguy hiểm. Phương pháp của Spencer, dĩ nhiên, có tính cách diễn dịch và tiên nghiệm quá, khác xa với lý tưởng của Bacon hoặc phương pháp thực thụ của tư tưởng khoa học. Người thư ký của ông nói ông "có một khả năng bất tận để khai triển những lý luận tiên nghiệm và hậu nghiệm, quy nạp và diễn dịch để bênh vực cho bất cứ mệnh đề nào có thể tưởng tượng" (Royce, 194) và những lý luận tiên nghiệm có lẽ đi trước những lý luận khác. Như một nhà khoa học Spencer bắt đầu bằng sự quan sát; như một nhà khoa học, ông lập giả thuyết sau đó; nhưng đoạn, không giống nhà khoa học, ông không dùng đến thí nghiệm, cũng không dùng sự quan sát vô tư, mà dùng sự tích trữ chọn lọc những chi tiết thuận lợi. Ông không thèm chú ý gì đến "những ví dụ phủ định". Hãy so với phương pháp của Darwin, khi gặp những sự kiện bất lợi cho lý thuyết ông, ông liền vội ghi chép ngay, biết rằng chúng vốn được đón chào.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:51:33 GMT 9
2. Sinh vật học và Tâm lý học Trong một cước chú cho tiểu luận của ông về "Tiến bộ", Spencer thật thà thú nhận rằng những ý tưởng của ông viết về tiến hoá là căn cứ trên thuyết của Lamarck về tính cách khả truyền của những tính tình tập thành; đây không thực thụ là một lý thuyết báo trước Darwin, mà ý tưởng nòng cốt là thuyết đào thải tự nhiên. Vậy thì Spencer là triết gia của học thuyết Lamarck hơn là triết gia theo học thuyết Darwin. Ông đã xấp xỉ tứ tuần khi cuốn Nguồn gốc giống nòi xuất hiện; vào cái tuổi ấy những phạm trù của ta thường đã đông cứng thành bất khả di dịch. Ngoài những khuyết điểm nhỏ, như không dung hoà được nguyên tắc sáng sủa của ông -theo đó sự sinh sản giảm xuống khi quá trình phát triển lên cao- với những sự kiện như tỉ số sinh sản cao hơn ở Âu châu văn minh, so sánh với những dân tộc man di, những khuyết điểm chính yếu trong lý thuyết sinh vật học của ông là đã dựa vào Lamarck và không tìm được một quan niệm động về đời sống. Khi ông thú thật rằng cuộc sống "không thể được quan niệm trong những điều kiện lý hoá" (Sinh vật học, i, 120) thì "sự công nhận ấy rất nguy hại cho công thức tiến hoá của ông, cho định nghĩa ông về sự sống, và cho tính cách chặt chẽ của nền triết học tổng hợp"(J.A. Thompson, Herbert Spencer, tr. 109). Bí mật của tâm thức để thích ứng những liên hệ ngoại giới với liên hệ nội giới, hơn là trong sự thích nghi gần như thụ động của cơ thể đối với hoàn cảnh. Theo những tiền đề của Spencer thì sự thích nghi hoàn toàn sẽ là cái chết. Những tác phẩm về tâm lý học lập ra những công thức hơn là dạy cho ta được gì. Những gì chúng ta đã biết thì được uốn nắn lại thành một thuật ngữ phức tạp gần như dã man, làm tối nghĩa ở những chỗ cần minh giải. Độc giả quá mỏi mệt với những công thức và định nghĩa và những lối rút giảm -rất đáng vấn nạn- những sự kiện tâm lý thành ra chỉ còn là những cơ cấu thần kinh, đến nỗi họ có thể không nhận thấy rằng nguồn gốc của tâm trí và ý thức đã hoàn toàn không được giải thích. Đành rằng Spencer cố che đậy khe hở to lớn này trong hệ thống tư tưởng ông bằng cách lý luận, tâm là sự song hành chủ quan đi theo tiến trình thần kinh phát triển một cách máy móc, bằng một cách nào đó, từ tinh vân nguyên thuỷ; nhưng vì sao lại phải có sự song hành chủ quan ấy thêm vào cơ năng thần kinh, ông không nói. Và điều đó dĩ nhiên chính là vấn đề của toàn thể tâm lý học. 3. Xã hội học và đạo đức Mặc dù công trình xã hội học vĩ đại, hết hai nghìn trang giấy viết về nó, cũng cho thấy nhiều chỗ sơ hở dễ bị công kích. Khắp tác phẩm ta gặp cái giả thuyết thông thường của Spencer theo đó tiến hoá và tiến bộ đồng nghĩa, trong khi rất có thể rằng cuộc tiến hoá sẽ đem đến cho sâu bọ và vi trùng sự thắng trận tối hậu trong cuộc chiến tranh không ngừng với người. Không phải hoàn toàn hiển nhiên rằng tình trạng kỹ nghệ là hoà bình hơn hay đạo đức hơn tình trạng phong kiến "hiếu chiến" đi trước nó. Những cuộc chiến tranh tàn phá nhất của đô thị Athènes xảy ra rất lâu sau khi những lãnh chúa phong kiến của nó đã nhượng quyền cho một giai cấp trưởng giả phú thương; và những quốc gia Âu châu tân tiến dường như đang đánh nhau hoàn toàn bất chấp chúng thuộc về quốc gia kỹ nghệ hay không ? chủ nghĩa đế quốc và kỹ nghệ có thể cũng hiếu chiến không kém những triều đại vua chúa thiếu đất. Quốc gia hiếu chiến nhất trong những quốc gia tân tiến ngày nay là một trong hai quốc gia lãnh đạo về kỹ nghệ trên thế giới. Hơn nữa, sự phát triển kỹ nghệ nhanh chóng của Đức quốc dường như đã được hỗ trợ, hậu quả là bị trở ngại, bởi sự kiểm soát của nhà nước trong vài giai đoạn, về chuyên chở và mậu dịch. Xã hội chủ nghĩa rõ ràng là một sự phát triển không phải của chủ nghĩa quân sự mà của chủ trương kỹ nghệ. Spencer trước tác vào một thời kỳ mà sự cô lập tương đối của Anh quốc làm cho nước này thành chủ hoà (ở Âu châu ) và ưu thế của nó về thương mãi và kỹ nghệ làm cho nó trở thành một xứ tin tưởng mạnh vào tự do mậu dịch. Ông sẽ kinh ngạc nếu ông sống để thấy lý thuyết tự do mậu dịch sẽ dễ tiêu tan ra sao cùng với ưu thế của thương mãi và kỹ nghệ, và sự chủ hoà sẽ tiêu tan thế nào khi cuộc tấn công của Đức và Bỉ đe doạ sự cô lập của Anh quốc. Và dĩ nhiên Spencer đã nói quá những đức tính của chế độ kỹ nghệ; ông hầu như mù mắt trước cảnh khai thác tàn bạo thịnh hành ở Anh quốc trước khi nhà nước can thiệp để làm giảm bớt; tất cả những gì ông thấy được "giữa thế kỷ chúng ta, nhất là ở Anh", chỉ là "một mức độ tự do cá nhân lớn lao trước đây chưa từng có" *) [(*) xã hội học, iii, 697. Xem nghiên cứu xã hội học, trang 335: "Bằng chứng là lương bổng tăng thường chỉ có hậu quả là nếp sống lố bịch hơn hoặc rượu chè quá chén hơn mà thôi"]. Thảo nào Nietzsche đã kinh tởm phản kháng kỹ nghệ, và đến lượt ông, tán tụng quá đáng đức tính của đời sống quân sự (Tri thức hân hoan, chương 40). Phép loại suy về cơ cầu xã hội sẽ hướng Spencer đến thuyết xã hội nhà nước nếu lý luận của ông đã mạnh hơn cảm tính của ông : vì thuyết xã hội nhà nước biểu thị - với một cường độ cao hơn xã hội tự do mậu dịch nhiều - sự phối hợp thành một toàn khối những thể dị tính. Bằng tiêu chuẩn của công thức ông, Spencer đã có thể bị bắt buộc phải hoan hô Đức quốc như là quốc gia tiến hoá cao nhất trong những quốc gia tân tiến. Ông cố đương đầu với điểm này bằng cách lý luận rằng sự dự tính bao gồm tự do của những phần tử, và một tự do như thế bao hàm một mức độ cai trị tối thiểu; nhưng đây hoàn toàn là một điểm khác hẳn điều ta đã nghe trong "sự dị tính chặt chẽ". Trong thân thể người ta, sự phối hợp thành toàn thể và tự tiến hoá dành hơi ít tự do cho những phần tử. Spencer trả lời rằng trong một xã hội ý thức chỉ hiện hữu trong toàn khối. Nhưng ý thức xã hội -ý thức về những quyền lợi và tiến trình của đoàn thể - quy về trung tâm của xã hội, cũng như ý thức cá nhân quy về cá nhân; rất ít trong chúng ta có chút "ý thức về quốc gia" nào. Spencer giúp chúng ta thoát khỏi một chủ nghĩa xã hội nhà nước quân đội, nhưng trong lúc đó, ông đã phải hy sinh tính cách chặt chẽ và luận lý của ông. Và ông đã phải nói quá lố kiểu cá nhân chủ nghĩa. Ta nên nhớ rằng Spencer bị tóm giữa hai thời kỳ; rằng tư tưởng chính trị của ông đã được thành hình vào những ngày của chủ trương tự do mậu dịch và dưới ảnh hưởng của Adam Smith; trong khi những năm về sau, ông sống vào một thời kỳ mà Anh quốc đang chiến đấu để sửa sai, bằng sự kiểm soát xã hội, những lạm dụng trong chính sách kỹ nghệ của mình. Spencer không bao giờ chán lập lại những lý luận ông chống lại sự can thiệp của nhà nước; ông phản đối nền giáo dục do nhà nước kinh tài, hay sự bảo vệ của chính phủ cho những công dân để chống lại tài chánh gian lận (Tự thuật, ii 5); vào một thời kỳ ông lý luận rằng ngay cả việc quản trị chiến tranh cũng cần phải là một việc của tư nhân chứ không phải của nhà nước (I, 236); ông mong, như Wells nói, "nâng cao sự vô hiệu công cộng lên tư cách của một chính sách quốc gia". Ông thân hành mang bản thảo đến nhà in, vì không tin cậy cơ sở của chính phủ, ông không thể giao phó nó cho nhà bưu điện (Gollier, trong Royce, tr. 221). Ông là một người theo chủ nghĩa cá nhân mãnh liệt, bực bội yêu cầu để được yên; và mỗi đạo luật mới của luật pháp đối với ông dường như là một xâm phạm tự do của riêng ông. Ông không thể hiểu luận cứ của Benjamin Kidd, theo đó thì vì sự đào thải tự nhiên vận hành càng lúc càng nhiều trên những cá nhân, nên sự áp dụng nguyên tắc gia đình (ở đó kẻ yếu được người mạnh giúp đỡ) là cần thiết cho sự duy trì nhất tính và sức mạnh của đoàn thể. Vì sao một quốc gia phải che chở công dân chống lại sức mạnh vật lý phi-xã-hội-tính và lại không chịu chống lại sức mạnh kinh tế cũng phi-xã-hội-tính là một điểm Spencer không biết đến. Ông khinh bỉ cho là trẻ con sự so sánh chính quyền và dân với cha mẹ và con cái; nhưng chỗ tương đồng thật sự là tương đồng với sự giúp nhau trong tình huynh đệ. Thuyết chính trị của ông có tính cách Darwin hơn thuyết sinh vật học của ông. Nhưng phê bình thế đã đủ. Ta hãy trở lui về con người ông và nhìn trong viễn tượng công bình hơn, sự vĩ đại của công trình ông. IX KẾT LUẬN Nguyên lý đầu đã khiến Spencer hầu như lập tức trở thành triết gia nổi tiếng nhất của thời đại ông. Tác phẩm được phiên dịch ngay ra phần lớn những ngôn ngữ của Âu châu; và ngay cả Nga, nơi mà nó phải đối diện và đánh bại một sự truy tố của chính quyền. Ông được nhận là triết gia đại diện cho tinh thần thời đại; và không những ảnh hưởng ông lan khắp tư tưởng Âu châu, mà nó còn tác động mạnh mẽ trên phong trào tả thực trong văn chương nghệ thuật. Năm 1869 ông kinh ngạc thấy rằng Nguyên lý đầu đã được dùng làm sách giáo khoa ở Oxford. Còn kỳ diệu hơn, những tác phẩm ông bắt đầu đem lại cho ông, từ 1870, lợi tức khiến ông được bảo đảm về tài chính. Trong vài trường hợp những người hâm mộ gửi cho ông những món quà lớn, mà ông luôn luôn gửi trả lại. Khi Nga hoàng Czar Alexandre II viếng London và tỏ ý với Lord Derby muốn gặp những nhà thông thái đặc biệt của Anh quốc, Derby mời Spencer, Huxley, Tyndall, v.v. Những người khác đều đến, riêng Spencer từ chối. Ông chỉ giao dịch với một ít bạn thân. "Không có người nào ngang với tác phẩm họ viết. Tất cả những sản phẩm tốt đẹp nhất của hoạt động tinh thần họ đều đi vào trong tác phẩm, chúng xuất xứ từ vô số những sản phẩm thấp kém hơn lẫn lộn với chúng trong cuộc chuyện trò hằng ngày của họ" (Tự thuật, i, 423). Khi người ta năn nỉ xin đến gặp ông, ông nhém hai lỗ tai lại và thản nhiên lắng nghe họ nói chuyện. Thật lạ lùng, danh tiếng ông tan biến gần như cũng đột ngột như nó đã đến. Ông đã sống dai hơn cao độ của danh tiếng mình, và vào những năm cuối đời, ông buồn rầu khi thấy những đoạn văn dông dài của ông đã ít hiệu lực ra sao trong việc chận đứng ngọn triều của nền lập pháp kiểu "cha mẹ". Ông đã trở thành khó ưa đối với hầu hết mọi tầng lớp. Những nhà chuyên môn khoa học - mà những địa hạt thuộc đặc quyền của họ ông đã xâm lấn - giả cách khen ông để rồi quật lại, tảng lờ sự đóng góp của ông và nhấn mạnh những lỗi lầm ông ; và giám mục của mọi đức tin hợp nhau lại để gửi ông xuống hoả ngục đời đời kiếp kiếp. Những đảng viên Lao động đã thích sự tố cáo chiến tranh của ông bây giờ giận dữ xa lánh ông khi ông nói lên ý nghĩ mình về chủ nghĩa xã hội và nền chính trị công nhân tổ hợp; trong khi những người bảo thủ đã thích quan điểm ông về chủ nghĩa xã hội thì lại tránh ông vì chủ trương về bất-khả-tri của ông. "Tôi bảo thủ hơn bất cứ đảng viên bảo thủ nào và tiến bộ hơn bất cứ đảng viên tiến bộ nào", ông nói với vẻ khao khát (II, 431). Ông thành thật một cách không sửa chữa được, và làm mếch lòng mọi nhóm với lối nói thẳng; sau khi tỏ cảm tình với thợ thuyền là những nạn nhân của chủ, ông thêm rằng thợ thuyền cũng sẽ thống trị như thế nếu địa vị đảo ngược; và sau khi tỏ sự lân mẫn với phụ nữ như nạn nhân của đàn ông, ông không quên thêm rằng đàn ông cũng là nạn nhân của đàn bà khi đàn bà có thể xoay sở được. Ông sống cô độc khi về già. Khi đã có tuổi, ông trở nên nhẹ nhàng hơn trong sự chống đối, và điều độ hơn về quan niệm. Ông vẫn thường cười nhạo về ông vua dùng để trang hoàng của nước Anh, nhưng bây giờ ông bày tỏ ý kiến rằng thật là một việc làm không phải khi muốn bỏ quách ông vua của dân chúng, việc ấy không khác gì giật lấy con búp-bê của một đứa trẻ (Elliott, tr. 66). Cũng thế, về tôn giáo ông cho là vô lý và không tốt khi quấy rầy nền tin tưởng cựu truyền trong lúc nó dường như là một ảnh hưởng tốt lành và làm người ta vui vẻ. Ông bắt đầu nhận ra rằng những niềm tin tôn giáo và phong trào xã hội đều được xây trên những nhu yếu và động cơ vượt khỏi tầm công kích của trí thức; và ông cam chịu ngồi nhìn thế giới tiếp tục lăn quay không cần chú ý nhiều đến những pho sách nặng ông ném về phía họ. Nhìn lại quãng sự nghiệp hăng hái của ông, ông tự cho mình điên rồ vì đã ham tìm danh tiếng trong văn học trong khi đáng lẽ nên tìm những lạc thú giản dị hơn của sự sống . Khi ông mất vào năm 1903, ông đã chợt nghĩ rằng công trình của ông đã là công dã tràng (Thompson, tr. 51). Dĩ nhiên bây giờ chúng ta biết không phải vậy. Sự suy tàn của danh tiếng ông là một phần của sự phản kháng của người Anh theo Hegel chống lại thực nghiệm luận; sự phục hưng của thuyết tự do sẽ lại nâng ông lên vị trí của ông như là triết gia Anh vĩ đại nhất của thế kỷ. Ông đem lại cho triết học một tiếp xúc mới mẻ với sự vật, và một thuyết duy thực đã làm cho nền triết học Đức quốc bên cạnh có vẻ yếu ớt trừu tượng. Ông tóm lược thời đại ông như chưa ai từng tóm lược thời đại nào cả kể từ Dante; và ông hoàn thành một cách thiện xảo sự phối trí của một lãnh vực tri thức rộng lớn đến nỗi nhà phê bình hầu như phải hổ thẹn lặng im trước sự hoàn thành của ông. Chúng ta bây giờ đang đứng trên những chiều cao mà những tranh đấu và khó nhọc của ông đã đem lại : chúng ta có vẻ như ở trên ông bởi vì ông đã đưa vai nâng chúng ta lên. Một ngày kia, khi mũi dùi của sự chống đối ông đã bị lãng quên, chúng ta sẽ định giá ông một cách phải chăng hơn ./
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:52:36 GMT 9
Chương IX FIEDRICH NIETZSCHE (1844 – 1900) I. DÒNG DÕI Nietzsche là con đẻ của Darwin và (là) anh em của Bismarck. Nietzsche nhạo báng những người Anh chủ trương thuyết Tiến hoá và những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia, song điều này không quan trọng; ông có thói quen tố cáo những người đã ảnh hưởng tới mình nhiều nhất; đó là cách ông che đậy -một cách vô thức- những món nợ của mình. Triết học đạo đức của Spencer không phải là hệ luận tự nhiên nhất của thuyết tiến hoá. Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu để sống sót, thì sức mạnh khi ấy sẽ là tối hậu, và sự yếu kém là lỗi lầm duy nhất. Tốt là cái gì sống sót, ưu thắng; xấu là cái gì đầu hàng, thất bại. Chỉ có những người Anh theo thuyết Darwin vào thời đại Victoria, những người Pháp trưởng giả theo thuyết duy nghiệm và những người Đức theo xã hội chủ nghĩa mới có thể che dấu tính cách tất yếu của kết luận này. Những người ấy khá can đảm để chối bỏ thần học Ki-tô giáo, nhưng họ không dám tỏ ra hợp luận lý, không dám phủ nhận những ý tưởng đạo đức, sự tôn sùng tính hoà nhã lịch sự và vị tha, những yếu tố đã thoát thai từ nền thần học ấy. Họ không còn là những người theo giáo đường Anh cát lợi, hay theo Công giáo La Mã, hay theo thánh Luther; nhưng họ không dám thôi làm những người Ki-tô giáo - Friedrich Nietzsche đã lý luận như thế. "Yếu tố kích thích những nhà tư tưởng tự do Pháp từ Voltaire cho đến Auguste Comte là không theo đuôi lý tưởng Ki-tô giáo, ... mà phải vượt hơn nó nếu có thể. Comte, với lý tưởng "Sống cho kẻ khác", đã có tính cách Ki-tô hơn cả chính Ki-tô giáo. Ở Đức quốc, Schopenhauer và ở Anh, John Stuart Mill, đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy nhất cho lý thuyết về thiện cảm, về lòng trắc ẩn, và về sự lợi tha kể như nguyên tắc hành động ... Tất cả những hệ thống thuộc xã hội chủ nghĩa đã vô tình tự an vị trên một nền tảng chung đã kể" *) [(*) trích dẫn trong f*guet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71]. Vô tình Darwin đã hoàn tất công việc của những nhà làm Bách khoa tự điển: họ đã dẹp bỏ nên tảng thần học của đạo đức tân tiến, nhưng vẫn để nguyên vẹn nền đạo đức ấy không động tới. Những người sáng suốt sẽ nhận thấy ngay những gì mà những bộ óc sâu sắc nhất của mọi thời đại đã biết: ấy là, trong trận đấu ta gọi là cuộc sống này, cái gì ta cần không phải là sự tốt lành mà sức mạnh, không phải tính khiêm cung mà niềm kiêu hãnh, không phải lòng vị tha mà trí thông minh cả quyết; bình đẳng và dân chủ là phản lại luật đào thải và sống còn; không phải là quần chúng mà chính thiên tài mới là cùng đích của tiến hoá; không phải "công bằng" mà chính quyền lực mới là trọng tài của mọi cuộc phân tranh và mọi số phận - Friedrich Nietzsche nghĩ thế. Nếu tất cả điều trên là đúng, thì không gì hùng vĩ, đầy ý nghĩa hơn Bismarck. Đây là một con người đã hiểu biết những thực tại cuộc đời, người đã nói toạc rằng "không có lòng cao thượng vị tha giữa các quốc gia", rằng những vấn đề hiện nay phải được định đoạt không phải bằng đầu phiếu và tài hùng biện, mà bằng máu và sắt. Bismarck quả là một cơn lốc tẩy uế cho một Âu châu đã thối rữa vì những ảo tưởng dân chủ và những "lý tưởng" ! Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ông đã khiến toàn thể nước Áo suy tàn phải nhận quyền lãnh đạo của ông; chỉ trong vài tháng ngắn ngủi ông đã triệt hạ một nước Pháp say sưa với huyền thoại Napoléon; và trong những tháng năm ngắn ngủi ấy ông đã đồng lúc bắt buộc tất cả những "tiểu quốc" của nước Đức , tất cả những vị vua chuyên chế, những lãnh chúa, những quyền lực nho nhỏ kia phải tan hoà vào trong một đế quốc hùng mạnh, biểu tượng chính cống của nền đạo đức mới về sức mạnh. Hùng lực kỹ nghệ và quân sự đang lên của nước Đức mới này cần một tiếng nói; chiến tranh cần một nền triết học làm trọng tài để biện minh cho nó. Ki-tô giáo sẽ không làm việc ấy, nhưng thuyết tiến hoá có thể làm. Chỉ cần một ít can đảm để hoàn tất công việc. Nietzsche đã có cái can đảm ấy và trở thành tiếng nói của thời đại. II TUỔI TRẺ Tuy nhiên, cha Nietzsche là một mục sư: một dọc dài những giáo sĩ nối tiếp sau mỗi người họ hàng bà con của ông; và chính ông thuỷ chung vẫn là một nhà thuyết giáo. Ông đả kích Ki-tô giáo bởi vì trong ông, có quá nhiều dấu vết của tinh thần đạo đức Kitô: triết học của ông là một nỗ lực để tạo thế quân bình và sửa đổi -bằng lối nghịch ngôn mạnh mẽ- một khuynh hướng ngả về sự dịu dàng, từ tâm và hoà bình. Éo le thay cho ông, những người lương thiện ở Genoa lại gọi Nietzsche là Il Santo - vị thánh. Thân mẫu ông là một vị phu nhân ngoan đạo rất sùng Thanh giáo, cùng thuộc loại người như những người đã nuôi dưỡng Immanuel Kant và Nietzsche cho đến cùng, vẫn là một người "ngoan đạo". Thanh giáo, tinh khiết như pho tượng: bởi đó mà ông đả kích Thanh giáo và sự sùng đạo. Vị thánh khó hư hỏng ấy, khốn nỗi lại khao khát vô cùng được biến thành kẻ phạm tội ! Nietzsche sinh ở Rocken, nước Phổ, vào ngày 15 tháng 10 năm 1844 - tình cờ cũng là ngày sinh của vị vua Phổ đang cai trị, Friedrich Wilhelm IV. Thân phụ Nietzsche, người đã làm gia sư cho nhiều người trong hoàng tộc, rất vui mừng trước sự trùng hợp ấy, và đặt tên cậu bé theo tên vua. "Dù sao cũng có một lợi điểm trong việc tôi đã chọn ngày ấy để ra đời; suốt thời thơ ấu, sinh nhật tôi đã là một ngày vui công cộng". Cái chết sớm của thân phụ đã để Nietzsche lại làm nạn nhân cho những người đàn bà thánh đức của gia đình; những người này nâng niu yêu dấu cậu đến nỗi khiến cậu bé Nietzsche có một tính nhạy cảm và tế nhị gần như đàn bà. Cậu không thích những đứa bé hư hỏng ở láng giềng, những đứa đi phá tổ chim, phá hoại các vườn hoa, chơi trò lính tráng và nói dối. Những bạn học gọi cậu là "mục sư tí hon" và một đứa trong bọn tả cậu là "một đức Chúa Giê-su trong nhà thờ". Cậu ưa thích cô quạnh một mình để học thánh kinh, hay đọc cho kẻ khác nghe với một giọng thật cảm động để làm cho họ phải rưng mắt lệ. Nhưng trong cậu, có ẩn một niềm kiêu hãnh và tính khắc kỷ mạnh mẽ: khi những bạn học hoài nghi chuyện về Mutius Scaevola, cậu đã đốt cháy một hộp diêm trong lòng bàn tay và để nó nằm đấy cho đến khi những que diêm cháy hết. Đấy là một mẫu chuyện điển hình: suốt đời Nietzsche sẽ luôn luôn tìm kiếm những phương thế vật lý và tâm thức để tự tôi luyện cho mình một hùng tính được lý tưởng hoá. "Cái gì không phải bản tính của tôi, cái đó đối với tôi chính là Thượng đế và đức hạnh" *) [(*) The Birth of Tragedy, dẫn nhập, tr. xvii]. Vào năm 18 tuổi, Nietzsche mất niềm tin tưởng vào Thượng đế mà ông cha chàng đã tôn thờ, và suốt quãng đời còn lại của chàng được dành cho việc đi tìm một thần-tính mới. Chàng nghĩ chàng đã tìm ra trong Siêu-nhân. Về sau Nietzsche bảo rằng chàng đã thay đổi một cách dễ dàng; nhưng Nietzsche vốn có thói quen tự đánh lừa, và vốn là một người viết tự truyện không đáng tin cậy lắm. Chàng trở thành cay cú, như một kẻ đã đặt cược hết cả tài sản vào một cú đen đỏ và đã thua. Tôn giáo đã là cốt tuỷ chính yếu của đời chàng; bây giờ đời chàng dường như rỗng không, vô nghĩa. Chàng đột ngột đi vào một giai đoạn phóng đãng xác thịt cùng với những bạn cùng trường ở Bonn và Leipzig, và lại thắng lướt được tính "làm bộ" đã khiến chàng khó đạt những nghệ thuật của nam giới như thuốc lá và rượu. Nhưng chẳng bao lâu, rượu, đàn bà và thuốc lá làm chàng ngấy chán; chàng phản kháng lại trong một cơn khinh bỉ tràn trề đối với toàn thể sự ái mộ rượu bia (Biergemuetlichkeit) của xứ sở và thời đại mình, những người uống bia và phì phào ống điều không thể nào có được tri giác minh mẫn hoặc ý tưởng sâu sắc. Chính vào khoảng này, vào năm 1865, Nietzsche khám phá tác phẩm Thế giới: ý dục và biểu tượng của Schopenhauer, và bắt gặp trong đó "Một tấm gương trong ấy tôi dòm thấy thế gian, cuộc đời và chính bản tính của tôi được trình bày với một vẻ hùng tráng kinh hồn", chàng đem cuốn sách về nhà và hăm hở đọc từng chữ một. "Dường như thể Schopenhauer đang nói riêng cùng tôi. Tôi cảm thấy nguồn phấn khởi của ông và tưởng như thấy ông trước mắt. Mỗi hàng chữ đều kêu gào thúc dục sự khước từ, chối bỏ, cam chịu". Màu đen tối của triết học Schopenhauer in ấn tượng vĩnh viễn trên tư tưởng Nietzsche: không những chỉ khi chàng là một môn đồ trung thành của "Schopenhauer nhà giáo dục" (nhan đề một trong những bài tiểu luận của Nietzsche), mà ngay cả khi chàng bắt đầu tố cáo Bi-quan chủ nghĩa, xem như một hình thức của đồi truỵ, chàng tự căn để vẫn là một người bất hạnh, một người mà thần kinh hệ dường như đã được cẩn thận sắp đặt để dành cho khổ đau, người mà sự tán dương bi kịch -xem như nguồn hoan lạc của cuộc sống- cũng chỉ là một hình thức tự dối khác. Chỉ có Spinoza hoặc Goethe mới cứu được chàng khỏi Schopenhauer ; nhưng dù chàng thuyết giáo về đức bình an (aequanimitas) và thuận mệnh (amor fati), chàng không bao giờ thực hành chúng, đức an tịnh trong sáng của hiền nhân và niềm bình lặng của tâm thức quân bình không bao giờ có ở trong chàng. Vào năm 23 tuổi, Nietzsche bị gọi nhập ngũ. Đáng lẽ chàng được miễn dịch vì cận thị và vì là con của một goá phụ, nhưng quân đội đã gọi chàng. Tuy nhiên, một tai nạn té ngựa đã làm vẹo xương sườn chàng đến nỗi viên đội đi mộ binh buộc lòng phải thả miếng mồi của y. Nietzsche không bao giờ hoàn toàn bình phục sau đó. Kinh nghiệm nhà binh của chàng quá ngắn ngủi đến nỗi chàng rời khỏi quân ngũ mang theo với hầu hết bao nhiêu ảo tưởng về lính như khi chàng mới vào; cuộc sống cam go "kiểu Sparte" với sự ra lệnh và tuân lệnh, với sự dãi dầu chịu đựng và kỷ luật khắt khe đã cám dỗ trí tưởng tượng chàng, bấy giờ khi chàng đã thoát khỏi bổn phận phải tự mình thực hiện ý tưởng ấy; chàng đâm ra tôn thờ quân nhân chỉ vì sức khoẻ chàng không cho phép chàng trở nên một người lính. Từ nếp sống quân ngũ chàng nhảy qua lãnh vực tuyệt đối tương phản với nó: nếp sống hàn lâm của một nhà ngữ học: thay vì trở thành một chiến sĩ, chàng đã trở thành một tiến sĩ. Năm 25 tuổi, chàng được chỉ định chức giáo sư ngữ học cổ điển ở đại học Basel (Basle), từ khoảng cách an toàn này chàng có thể ngưỡng mộ Bismarck. Chàng hối tiếc lạ lùng vì đã chọn lựa cái công việc ngồi lỳ một chỗ và không anh hùng tí nào này: một mặt chàng ao ước giá mình đã chọn một nghề thực tiễn và linh hoạt, như y học chẳng hạn; đồng thời chàng lại tự thấy mình có thiên tư về âm nhạc. Chàng đã trở thành gần như một nhà chơi dương cầm, và đã viết những khúc cầm- nhạc (sonata); "đời sẽ là một lỗi lầm nếu không có âm nhạc", chàng bảo. Gần Basel là thành phố Tribschen, nơi nhà danh nhạc khổng lồ, Richard Wagner đang sống với vợ một người khác. Năm 1869 Nietzsche được mời đến ở chơi Giáng sinh tại đấy. Chàng là người nồng nhiệt tán dương âm nhạc cho ngày mai, và Wagner không chê những "lính mới" có thể đem lại cho mình một ít hơi hướng của uy danh thuộc giới học giả và đại học. Dưới bùa lực của nhà soạn nhạc vĩ đại này, Nietzsche bắt đầu viết tác phẩm đầu tiên của chàng, tác phẩm sẽ mở đầu với kịch nghệ Hy Lạp và kết thúc bằng Der Ring des Nibelungen*) [(*)Chiếc nhẫn (của vương quốc) Nibelungen - Tác phẩm opera vĩ đại của Richard Wagner dựa trên Anh hùng ca thần thoại Đức về kho tàng châu báu của vương quốc Nibelungen ở khu vực sông Rhein (Rhin), gồm bốn vở: 1. Das Rheingold, 2. die Wallküre, 3. Siegfried và 4. Goetterdaemmerung- chú thích của người đánh máy-], thuyết giáo về Wagner cho cả thế giới, xem như một Achille tân thời. Chàng lên tận vùng núi Alpen để được an ổn viết, xa hẳn đám đông ồn ào; ở đấy, vào năm 1870, chàng được tin Đức và Pháp lâm chiến. Chàng ngần ngại, tinh thần của Hy Lạp và hết thảy những thi thần của thơ, kịch, triết và nhạc đã đưa những bàn tay dâng hiến ra mời mọc chàng. Nhưng chàng không thể chống lại tiếng gọi của xứ sở; đây cũng là thơ chứ ! "Ở đây, chàng viết, ta có quốc gia với nguồn gốc đáng hỗ thẹn; đối với phần đông người, đó là một cái giếng sâu đầy đau khổ không bao giờ khô cạn, một ngọn lửa thiêu huỷ họ trong những cơn khủng hoảng triền miên. Tuy thế mà khi nó cất tiếng gọi, linh hồn ta đâm ra quên bẵng mình; trước tiếng gọi đẫm máu của nó, quần chúng được thúc giục phải dũng cảm và được nâng lên hàng anh hùng"*) [(*) Trong Halevy, Life of F.Nietzsche , London, 1911, tr. 106]. Ở Frankfurt, trên đường ra trận tuyến, chàng thấy một đội kị binh diễn hành với vẻ huyên náo và hùng tráng đi qua thành phố; ngay tức thì và tại chỗ, chàng bảo chàng có một tri giác, một linh kiến mà từ đó toàn thể nền triết học của chàng sẽ trưởng thành. "Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng ý chí muốn sống mãnh liệt nhất và cao độ nhất không phải biểu thị trong một cuộc vật lộn thảm hại để sống còn, mà trong một ý chí muốn Chiến tranh, một ý chí muốn Quyền lực, một ý chí muốn khắc phục [Trong Forster, The Young Nietzsche , London, 1912, tr. 235]. Vì thị giác kém chàng không được làm lính một cách tích cực, mà đành phải y tá điều dưỡng; và mặc dù mục kích khá nhiều cảnh tượng khủng khiếp, chàng không bao giờ biết được sự tàn bạo đích thực của chiến trường mà tâm hồn nhút nhát của chàng về sau sẽ lý tưởng hoá bằng tất cả cường độ tưởng tượng của kẻ thiếu kinh nghiệm. Ngay cả trong việc nuôi bệnh, chàng cũng quá nhạy cảm; cảnh máu me làm cho chàng nhuốm bệnh; chàng ngất xỉu và được đưa về nhà hoàn toàn kiệt quệ. Mãi từ đấy về sau chàng có những sợi thần kinh của một Shelley và bao tử của một Carlyle; tâm hồn của một thiếu nữ dưới lớp áo của một quân nhân. III. NIETZSCHE VÀ WAGNER Vào đầu năm 1872 Nietzsche ấn hành tác phẩm đầu tiên, tác phẩm duy nhất được hoàn thành của chàng - Sự thoát thai của Bi kịch từ tinh thần Âm nhạc (= Bi kịch)- Chưa có một nhà ngữ học nào từng ăn nói trữ tình như thế. Chàng nói về hai vị thần mà nghệ thuật Hy Lạp tôn thờ: trước tiên là Dionysus (hay Bacchus), vị thần của rượu và cuộc vui chơi, của cuộc đời đi lên, của niềm vui trong hành động, của cảm xúc và hứng cảm xuất thần, của bản năng và phiêu lưu và sức khổ đau dũng cảm, vị thần của ca nhạc, vũ và kịch; rồi về sau là Apollon, vị thần của thanh bình, nhàn hạ, nghỉ ngơi, của cảm xúc nghệ thuật, của mặc niệm tri thức, của trật tự hợp lý và niềm bình an triết học, vị thần của hội hoạ điêu khắc và anh hùng ca. Nghệ thuật Hy Lạp cao quý là một hoà điệu của hai lý tưởng, - sức mạnh nam tính lăng xăng của Dionysus và vẻ đẹp nữ tính yên lặng của Apollon. Trong kịch nghệ, Dionysus khởi hứng cho ca khúc và Apollon cho lời đối thoại; ca khúc phát xuất trực tiếp từ đám diễn hành của những môn đồ Dionysus: lời đối thoại là ý nghĩa đến sau, một phần hỗ trợ phản ánh của một kinh nghiệm cảm xúc. Đặc điểm thâm thuý nhất trong kịch nghệ Hy Lạp là sự chinh phục bằng nghệ thuật của Dionysus đối với bi quan chủ nghĩa. Những người Hy Lạp vốn không phải là những người vui vẻ lạc quan chúng ta bắt gặp trong những bài vè sử nói về họ ngày nay; họ tri giác rất thâm thiết những mũi châm chích của cuộc đời, và tính cách ngắn ngủi bi thảm của nó. Khi Midas hỏi Silenus số phận nào là tốt nhất cho con người, Silenus trả lời: "Hỡi nòi giống đáng thương chỉ sống có một ngày kia ơi, hỡi những đứa con của tai nạn và buồn sầu, sao ngươi lại buộc ta phải nói những gì mà tốt hơn đừng nên nghe tới ? Số phận tốt nhất không thể có được: ấy là đừng sinh ra đời, không là cái gì cả. Thứ đến là chết thật sớm". Rõ ràng những người này không cần phải thụ giáo với Schopenhauer, hay với những người Ấn giáo. Nhưng những người Hy Lạp đã thắng lướt được màu u ám của sự vỡ mộng bằng ánh rực rỡ của nghệ thuật: từ nơi khổ đau của chính họ, họ đã làm nên bối cảnh cho kịch nghệ và khám phá rằng "cuộc tồn sinh và thế giới có vẻ hữu lý chỉ vì đấy là một hiện tượng nghệ thuật" (Bi kịch, 50, 183), một đối tượng cho sự thưởng ngoạn hay cho việc tái tạo thẩm mỹ. "Những gì tuyệt vời chính là nghệ thuật đã chế phục được cái khủng khiếp" (Bi Kịch, 60). Bi quan là dấu hiệu của suy tàn, lạc quan là biểu trưng của tâm hồn nông cạn, nhưng "lạc quan bi tráng" chính là tư thái của con người hùng mạnh đi tìm nồng độ và chiều rộng sâu của kinh nghiệm cho dù phải chịu muôn sầu nghìn thảm, tư thái của con người hân hoan nhận chân rằng xung đột chính là định luật của cuộc sống. "Bi kịch chính nó là bằng chứng cho sự kiện rằng những người Hy Lạp không phải bi quan. "Những ngày mà tư thái này đã đẻ ra kịch nghệ Achille và triết học tiền-Socrate là những ngày vĩ đại phi thường của Hy Lạp" (Thư Wagner - Nietzsche, NY, 1921, tr. 167). Socrate -"mẫu người lý thuyết" (Bi kịch, 114) là một biểu hiệu cho khí chất lỏng lẻo của cá tính Hy Lạp; "khả năng cường tráng kiểu Marathon xưa cũ của thân xác và tâm hồn dần dà bị hy sinh cho một tuệ giác khả nghi, hàm ẩn sự suy đồi dần dần của những năng lực thể chất và tâm linh" (tr. 102). Triết học phê phán đã thay chỗ cho thi ca triết lý của thời tiền-Socrate; khoa học thay chỗ cho nghệ thuật; trí năng thay thế trực giác; biện chứng thay thế những trò chơi. Dưới ảnh hưởng Socrate, Platon nhà lực sĩ trở thành một nhà thẩm mỹ, Platon nhà làm kịch trở thành một nhà luận lý, một kẻ thù của lòng say mê, một người trục xuất các thi sĩ, một người Ki-tô giáo tiền-Ki-tô, một nhà chủ trương nhận thức luận. Trên đền thờ Apollon ở Delphes, những châm ngôn của trí khôn vô dục được khắc lên - "Gnothi seauton" và "medem agan" ("tự biết mình" và "trung đạo")- những châm ngôn đã trở thành, nơi Socrate và Platon, cái ảo tưởng cho rằng trí tuệ là đức hạnh duy nhất, và nơi Aristote cái chủ thuyết trung đạo nhu nhược. Trong thời còn trẻ trung, một dân tộc sản sinh huyền thoại và thi ca; vào thời suy tàn, nó sản sinh triết học và luận lý. Vào giai đoạn trẻ trung của nó, Hy Lạp sản xuất Homère và Achille, khi tàn tạ nó cho chúng ta Euripides -nhà luận lý bị biến thành kịch gia, nhà duy lý phá hoại huyền thoại và biểu tượng, nhà duy cảm phá hoại niềm lạc quan bi tráng của thời đại hùng tính, người bạn của Socrate, người đã thay thế ca khúc Dionysus bằng đám người của Apollon, những nhà biện chứng và diễn giả. Thảo nào lời tiên tri của Apollon ở đền Delphe đã gọi Socrate là người thánh-trí thứ nhất của dân Hy Lạp, Euripides thánh trí thứ nhì sau Socrate; và thảo nào "bản năng không lầm lẫn của Aristophanes .. đã thù ghét cả Socrate lẫn Euripides... và thấy nơi họ những triệu chứng của một nền văn hoá suy tàn" (Bi kịch, 182). Dĩ nhiên họ đã phản tỉnh; dĩ nhiên vở kịch cuối cùng của Euripides -The Bacchoe- chính là sự quy hàng của ông trước Dionysus, là bài giáo đầu báo hiệu việc tự sát của ông; và dĩ nhiên Socrate ở trong tù đã khởi sự tập tành âm nhạc của Dionysus để trấn tỉnh lương tâm. "Có lẽ -ông ta phải tự hỏi- có lẽ cái gì tôi không hiểu được phải chăng không vì thế mà phi lý ? Biết đâu lại không có một lãnh vực của tri giác, ở đó nhà luận lý bị gạt ra ? Biết đâu nghệ thuật lại không chính là một cái gì nhất thiết quan hệ đến tri thức và bổ sung cho tri thức ?". Nhưng đã quá muộn màng; công trình của nhà luận lý và nhà duy lý không thể phá huỷ; kịch Hy Lạp và cá tính Hy Lạp đã suy tàn. "Một điều lạ đã xảy đến là : khi nhà thơ và nhà triết phản tỉnh, thì nội cái khuynh hướng phản tỉnh của họ đã chiến thắng" (tr. 95). Cùng với họ chấm dứt thời đại những anh hùng, và nghệ thuật của Dionysus. Nhưng phải chăng thời đại Dionysus có thể trở về ? Há Kant đã không phá huỷ một lần dứt khoát tất cả lý trí lý thuyết và con người lý thuyết ? - Schopenhauer há đã không dạy trở lại cho chúng ta cái sâu sắc của bản năng và bi kịch của tư tưởng ? - và há Richard Wagner một Archilles thứ hai lại không hiện đang khôi phục những linh thoại và biểu tượng, và trở lại phối hợp nhạc và kịch trong một niềm say sưa kiểu Dionysus ? "Từ nơi gốc rễ Dionysus của tinh thần dân Đức, một năng lực đã sinh khởi, một năng lực không có gì chung cùng với những điều kiện sơ khai của văn hoá Socrate, ... - nghĩa là nền âm nhạc Đức quốc ... trong quỹ đạo rộng lớn từ Bach đến Beethoven, từ Beethoven tới Wagner" (Bi kịch, 150). Tinh thần Đức quốc từ quá lâu đã phản ảnh một cách thụ động nghệ thuật kiểu Apollon, của Ý và Pháp; dân tộc Đức hãy nhận chân rằng những bản năng của riêng họ vốn khoẻ mạnh hơn những nền văn hoá suy đồi kia; họ hãy làm một cuộc canh tân về âm nhạc cũng như về tôn giáo, trút cái hùng khí man dại của Luther vào lại trong nghệ thuật và trong cuộc đời. Biết đâu từ nơi những thống khổ chiến tranh mà Đức quốc phải chịu đựng, lại không lộ xuất một thế hệ anh hùng mới và từ nơi tinh thần âm nhạc, bi kịch biết đâu không tái sinh ra đời ? Năm 1872 Nietzsche trở về Basel, thể xác còn yếu đau nhưng tinh thần bùng cháy tham vọng, và không muốn bị tiêu mòn trong công việc giảng dạy mệt nhọc. "Tôi có trước mắt công việc đủ để làm trong năm mươi năm, và phải canh chừng thời gian một cách nghiêm nhặt" (Trong Halévy, 169). Bây giờ Nietzsche đã hơi thất vọng về chiến tranh. Chàng viết:" Đế quốc Đức quả đang tuyệt diệt tinh thần Đức". Chiến thắng 1871 đã đem lại một ít tự phụ thô lỗ trong linh hồn Đức quốc và không có gì thù nghịch với sự trưởng thành tâm linh hơn thế. Một tính chất quỉ ma trong Nietzsche khiến chàng hung hăng trước mọi thần tượng, và chàng quyết định đả kích vẻ tự mãn đáng chán này bằng cách công kích người đại diện được tôn kính nhất của nó - David Strauss. "Tôi bước vào xã hội với trận đấu kiếm tay đôi: Stendahl đã cho tôi lời khuyên ấy" (Ibid). Trong ý tưởng thứ hai của những Ý tưởng lỗi mùa - cái tên khéo đặt - "Schopenhauer nhà giáo dục", Nietzsche quay mũi súng về những đại học đường có tinh thần ái quốc quá trớn. "Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng không gì chướng ngại cho sự phát triển những triết gia lớn cho bằng thói tục nâng đỡ những triết gia tồi trong các đại học quốc gia, không quốc gia nào sẽ dám bảo trợ những người như Platon và Schopenhauer ... Quốc gia luôn luôn sợ những người như thế" (Schopenhauer nhà giáo dục, đoạn 8). Chàng trở lại sự công kích trong "Tương lai những cơ sở giáo dục của chúng ta" và trong "Sử dụng và lạm dụng sử học", chàng nhạo báng sự ngụp lặn của giới trí thức Đức quốc vào trong nền học vấn khảo cổ chi li. Trong những bài tiểu luận này, ta đã thấy biểu lộ hai trong những ý tưởng đặc sắc của Nietzsche: ấy là đạo đức, cũng như thần học, phải được tái lập theo tiêu chuẩn và thuyết tiến hoá ; và nhiệm vụ của đời sống là đem lại "không phải sự cải thiện số đông quần chúng mà xét riêng từng người, là những kẻ vô giá trị nhất", mà chính là "sự tạo dựng thiên tài", sự phát triển và nuôi nấng những nhân cách cao cả (Ibid, đoạn 6). Bài tiểu luận hăng hái nhất trong số này là bài "Richard Wagner ở Bayreuth", hoan hô Wagner như một Siegfried, "người chưa từng biết ý nghĩa của sợ hãi" (Ý tưởng lỗi mùa, i, 117) , và như nhà sáng lập nền nghệ thuật chân chính duy nhất, bởi vì ông là người đầu tiên đã hoà hợp tất cả các nghệ thuật vào trong một tổng thể vĩ đại. Bài tiểu luận còn kêu gọi Đức quốc phải nhận chân ý nghĩa hùng vĩ của cuộc lễ lạc Wagner sắp đến - "Bayreuth với chúng ta có ý nghĩa là phép bí tích ban mai vào ngày lâm chiến" (Ibid., 104). Đấy là tiếng nói của lòng tôn sùng nơi tuổi trẻ, tiếng nói của một linh hồn tế nhị gần như đàn bà đã thấy nơi Wagner một vẻ cương nghị dũng cảm đầy hùng tính, những gì về sau sẽ thai nghén nên Siêu nhân. Nhưng người tôn sùng đồng thời cũng là một triết gia nên chàng thoáng thấy nơi Wagner một tính vị kỷ độc tài gây thương tổn cho một tâm hồn quý tộc. Chàng không thể chịu được sự việc Wagner công kích người Pháp vào năm 1871, và lấy làm kinh ngạc trước sự ganh tị của Wagner đối với Brahms (Thư Wagner - Nietzsche, tr. 223). Đề tài trọng tâm của bài tiểu luận tán dương này đã không báo điềm tốt gì cho Wagner : "Thế giới đã bị đông phương hoá từ lâu rồi; bây giờ mọi người đang khao khát được Hy Lạp hoá". Nhưng Nietzsche cũng đã thừa biết Wagner có nửa dòng máu Do thái. Và năm 1876, chính lễ Bayreuth đã đến, với nhạc kịch Wagner đêm dài nối đêm, với những bà mê say Wagner, những hoàng đế, hoàng tử, vương hầu, những người cự phú nhàn hạ lùa gạt ra ngoài bọn ái mộ túi rỗng. Bỗng nhiên Nietzsche chợt thấy Wagner thật giống Geyer *) [(*) một kịch sĩ Do thái, mà Nietzsche nghi là cha ruột của Wagner. Ludwig Geyer cưới mẹ Wagner sau khi cha chàng mất (lúc ấy chàng mới ra đời được 6 tháng)], tác phẩm The Ring of the Nibelungs thật đã nhờ biết bao đến những tác dụng sân khấu đầy dẫy trong đó, và đến độ nào những khúc Melos không có trong âm nhạc đã vào trong kịch nghệ. "Tôi đã thấy những hình ảnh một kịch bản tràn đầy hoà tấu, một hình thức thoát thai từ khúc hát. Nhưng tiếng gọi xa lạ của nhạc kịch đã khăng khăng lôi cuốn Wagner về hướng khác" (Thư Wagner-Nietzsche, tr. 279). Nietzsche không thể đi theo hướng đó, chàng ghét kịch và nhạc kịch. "Hoạ là điên, tôi mới ở lại đây", chàng viết. "Tôi khủng khiếp chờ đợi từng đêm trình diễn nhạc dai dẳng ấy ... Tôi không thể chịu đựng được nữa" (Trong Halévy, tr. 191). Bởi thế chàng chuồn thẳng, không một lời với Wagner và giữa lúc Wagner đang ở tột đỉnh quang vinh, trong khi mọi người đang tôn thờ; chuồn thẳng, "chán ngấy trước tất cả những gì có tính cách đàn bà và vẻ vô kỷ luật trong cái lãng mạn ấy, trong sự lừa dối ấy, trong sự làm yếu mềm lương tâm người, những gì đã chinh phục được một trong những linh hồn dũng cảm nhất ở đây". Sau đó, ở miền Sorento xa xôi, chàng lại chạm mặt với chính Wagner, đến nghỉ ngơi sau trận chiến thắng của mình, trí hoài thai một bản nhạc kịch mới - Parsifal. Đấy sẽ là một bản ca tụng Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và tình yêu không xác thịt, ca tụng một thế giới được cứu chuộc nhờ một "người điên thuần tuý", "người điên trong Chúa Kitô". Nietzsche ngảnh mặt làm ngơ không một lời cáo biệt, và từ đấy về sau không bao giờ nói với Wagner nữa. "Tôi không thể nào công nhận một sự vĩ đại không phối hợp cùng đức trong sạch và chân thành đối với chính mình. Lúc tôi đã khám phá ra một điều như thế, thì tất cả những thành quả của một người đối với tôi tuyệt đối không còn ý nghĩa gì nữa" (Ibid., 295). Nietzsche thích anh chàng Siegfried người nổi loạn hơn là Parsifal bậc thánh nhân, và không thể tha thứ Wagner về việc ông đã thấy trong Ki-tô giáo một giá trị đạo đức và một vẻ đẹp có ảnh hưởng hơn những khuyết điểm thần học của nó bội phần. Trong cuốn Trường hợp Wagner chàng đã nhục mạ Wagner với cơn giận dữ điên loạn: "Wagner nịnh hót mọi thiên tính ngã về Phật giáo hư vô, và nguỵ trang nó bằng âm nhạc; hắn nịnh hót mọi thứ Ki-tô giáo và mọi hình thức tôn giáo biểu thị của suy đồi... Richard Wagner, một kẻ lãng mạn vô vọng đã tàn bại, bỗng ngã quỵ thình lình trước Thánh giá. Chớ không có người Đức nào có con mắt mà nhìn, có tấm lòng trắc ẩn mà khóc cái cảnh tượng kinh khủng này hay sao ? Vậy hoá ra tôi là kẻ độc nhất hắn đã làm cho khổ đau hay sao ? ... Ờ, mà tuy nhiên tôi là một trong những thằng hâm mộ Wagner đồi truỵ nhất ... Được rồi, tôi là đứa con của thời đại này, y hệt như Wagner, - nghĩa là, một thằng suy vi; nhưng tôi ý thức được chuyện đó, tôi bảo vệ cho tôi chống lại chuyện đó". Nietzsche thật ra có tính chất "Apollon" nhiều hơn chàng tưởng: một con người yêu những gì thanh tú, tế nhị chứ không phải yêu sức mạnh man dại đượm tính chất Dionysian, cũng không phải yêu cái mỹ miều của rượu, ca khúc và tình ái. "Anh của bà, với cái bộ kiêu kỳ của nó, là thằng cha khó chịu nhất", Wagner đã nói với bà Forster-Nietzsche; "...đôi khi nó hoàn toàn bối rối trước những lời nói đùa của tôi, và tôi càng được thể đùa dai hơn baogiờ cả" (Ellis trích dẫn trong Affirmations, tr. 27). Nơi Nietzsche có quá nhiều hơi hướng Platon; chàng lo sợ rằng nghệ thuật sẽ dạy cho con người hết cứng rắn; vốn có tâm hồn mẫn cảm, chàng tưởng cả thế giới cũng như mình, -nguy thay suýt thực hành Ki-tô giáo. Không có nhiều chiến tranh đủ để thích hợp với vị giáo sư hiền lành ấy. Tuy nhiên, trong những giờ bình lặng, chàng biết rằng Wagner cũng đúng như Nietzsche, tính chất tao nhã nơi Parsifal cũng cần thiết như sự hùng mạnh nơi Siegfried, và nhìn dưới một nhãn quan vũ trụ, những mâu thuẫn khốc liệt kia sẽ tan hoà trong những nhất-thể đầy sáng tạo tốt lành. Nietzsche thích nghĩ về tình bạn như "tình sao" này (như những vì sao trên trời - chú thích của người đánh máy -) , mối tình vẫn âm thầm gắn bó chàng với con người đã là kinh nghiệm phong phú và giá trị nhất đời chàng. Và về sau, vào một giây lát minh mẫn trong cơn điên cuối đời, khi nhìn thấy một bức tranh Wagner, đã chết từ lâu, Nietzsche đã thốt ra rất khẽ: "Chính người ấy, ta đã yêu nhiều". IV. TIẾNG HÁT ZARATHUSTRA Và từ nghệ thuật, như đã bỏ rơi chàng, chàng tìm trú ẩn trong học thuật - nơi đó bầu không khí Apollonian giá lạnh đã tẩy sạch linh hồn chàng sau cơn nhiệt nồng và hỗn loạn kiểu Dionysus ở Tribschen và Bayreuth - và trong triết học, "cho ta một chỗ tị nạn ở đấy không nền chuyên chế nào có thể xâm nhập". Cũng như Spinoza, chàng cố làm lắng dịu những cảm xúc bằng cách xem xét chúng; theo Nietzsche, chúng ta cần đến một "khoa hoá học về những cảm xúc". Bởi thế, trong tác phẩm sau đó Con người quá đỗi người (1878-1880), chàng trở nên một nhà tâm lý học, phân tích với sự tàn bạo của một nhà giải phẫu, những cảm thức dịu dàng nhất và những niềm tin được ấp ủ nhiều nhất, - mạnh dạn đề tặng tác phẩm gây phản ứng mãnh liệt đó cho Voltaire con người ưa nói xấu. Rồi ngay giữa lúc tuổi còn xanh, vào năm 1879, Nietzsche ngã quỵ, cả thể các lẫn tinh thần, lụn xuống gần kề chỗ chết. Chàng ương ngạnh chuẩn bị cho giờ lâm tử: "Em hãy hứa với anh -chàng nói với em gái- rằng khi anh chết, chỉ có những người bạn được đứng cạnh quan tài, cấm lũ người tò mò thóc mách. Hãy để ý đừng cho một linh mục hay bất cứ ai khác, thốt những lời bá láp bên mồ anh, khi anh không còn thể tự bảo vệ, hãy để anh đi xuống mồ nguyên vẹn là một đứa vô thần chân chính" (Nietzsche, con người cô đơn, tr. 65). Nhưng rồi chàng đã bình phục và tang lễ bi hùng đành phải hoãn lại. Từ trận ốm ấy, chàng đâm ra yêu sức khoẻ và mặt trời, yêu đời và tiếng cười và vũ điệu, yêu "âm nhạc miền Nam" của Carmen; cũng từ trận ốm ấy nẩy sinh rằng một ý chí mãnh liệt hơn, do cuộc chiến đấu với tử thần, một "tiếng ừ" cảm nhận vị ngọt ngào của sự sống ngay cả trong niềm cay đắng nhọc nhằn. Và có lẽ cũng từ trận ốm kia nẩy sinh ra một nỗ lực đáng thương của chàng để vươn đến chỗ giới hạn tự nhiên, chấp nhận số phận con người. "Công thức của tôi về sự vĩ đại là Amor fati (thuận mệnh): không những chỉ chịu đựng mọi điều không thể tránh, mà còn yêu thương nó". Khốn nỗi, việc ấy nói dễ hơn làm.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:53:03 GMT 9
Chương IX FIEDRICH NIETZSCHE (1844 – 1900) I. DÒNG DÕI Nietzsche là con đẻ của Darwin và (là) anh em của Bismarck. Nietzsche nhạo báng những người Anh chủ trương thuyết Tiến hoá và những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia, song điều này không quan trọng; ông có thói quen tố cáo những người đã ảnh hưởng tới mình nhiều nhất; đó là cách ông che đậy -một cách vô thức- những món nợ của mình. Triết học đạo đức của Spencer không phải là hệ luận tự nhiên nhất của thuyết tiến hoá. Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu để sống sót, thì sức mạnh khi ấy sẽ là tối hậu, và sự yếu kém là lỗi lầm duy nhất. Tốt là cái gì sống sót, ưu thắng; xấu là cái gì đầu hàng, thất bại. Chỉ có những người Anh theo thuyết Darwin vào thời đại Victoria, những người Pháp trưởng giả theo thuyết duy nghiệm và những người Đức theo xã hội chủ nghĩa mới có thể che dấu tính cách tất yếu của kết luận này. Những người ấy khá can đảm để chối bỏ thần học Ki-tô giáo, nhưng họ không dám tỏ ra hợp luận lý, không dám phủ nhận những ý tưởng đạo đức, sự tôn sùng tính hoà nhã lịch sự và vị tha, những yếu tố đã thoát thai từ nền thần học ấy. Họ không còn là những người theo giáo đường Anh cát lợi, hay theo Công giáo La Mã, hay theo thánh Luther; nhưng họ không dám thôi làm những người Ki-tô giáo - Friedrich Nietzsche đã lý luận như thế. "Yếu tố kích thích những nhà tư tưởng tự do Pháp từ Voltaire cho đến Auguste Comte là không theo đuôi lý tưởng Ki-tô giáo, ... mà phải vượt hơn nó nếu có thể. Comte, với lý tưởng "Sống cho kẻ khác", đã có tính cách Ki-tô hơn cả chính Ki-tô giáo. Ở Đức quốc, Schopenhauer và ở Anh, John Stuart Mill, đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy nhất cho lý thuyết về thiện cảm, về lòng trắc ẩn, và về sự lợi tha kể như nguyên tắc hành động ... Tất cả những hệ thống thuộc xã hội chủ nghĩa đã vô tình tự an vị trên một nền tảng chung đã kể" *) [(*) trích dẫn trong f*guet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71]. Vô tình Darwin đã hoàn tất công việc của những nhà làm Bách khoa tự điển: họ đã dẹp bỏ nên tảng thần học của đạo đức tân tiến, nhưng vẫn để nguyên vẹn nền đạo đức ấy không động tới. Những người sáng suốt sẽ nhận thấy ngay những gì mà những bộ óc sâu sắc nhất của mọi thời đại đã biết: ấy là, trong trận đấu ta gọi là cuộc sống này, cái gì ta cần không phải là sự tốt lành mà sức mạnh, không phải tính khiêm cung mà niềm kiêu hãnh, không phải lòng vị tha mà trí thông minh cả quyết; bình đẳng và dân chủ là phản lại luật đào thải và sống còn; không phải là quần chúng mà chính thiên tài mới là cùng đích của tiến hoá; không phải "công bằng" mà chính quyền lực mới là trọng tài của mọi cuộc phân tranh và mọi số phận - Friedrich Nietzsche nghĩ thế. Nếu tất cả điều trên là đúng, thì không gì hùng vĩ, đầy ý nghĩa hơn Bismarck. Đây là một con người đã hiểu biết những thực tại cuộc đời, người đã nói toạc rằng "không có lòng cao thượng vị tha giữa các quốc gia", rằng những vấn đề hiện nay phải được định đoạt không phải bằng đầu phiếu và tài hùng biện, mà bằng máu và sắt. Bismarck quả là một cơn lốc tẩy uế cho một Âu châu đã thối rữa vì những ảo tưởng dân chủ và những "lý tưởng" ! Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ông đã khiến toàn thể nước Áo suy tàn phải nhận quyền lãnh đạo của ông; chỉ trong vài tháng ngắn ngủi ông đã triệt hạ một nước Pháp say sưa với huyền thoại Napoléon; và trong những tháng năm ngắn ngủi ấy ông đã đồng lúc bắt buộc tất cả những "tiểu quốc" của nước Đức , tất cả những vị vua chuyên chế, những lãnh chúa, những quyền lực nho nhỏ kia phải tan hoà vào trong một đế quốc hùng mạnh, biểu tượng chính cống của nền đạo đức mới về sức mạnh. Hùng lực kỹ nghệ và quân sự đang lên của nước Đức mới này cần một tiếng nói; chiến tranh cần một nền triết học làm trọng tài để biện minh cho nó. Ki-tô giáo sẽ không làm việc ấy, nhưng thuyết tiến hoá có thể làm. Chỉ cần một ít can đảm để hoàn tất công việc. Nietzsche đã có cái can đảm ấy và trở thành tiếng nói của thời đại. II TUỔI TRẺ Tuy nhiên, cha Nietzsche là một mục sư: một dọc dài những giáo sĩ nối tiếp sau mỗi người họ hàng bà con của ông; và chính ông thuỷ chung vẫn là một nhà thuyết giáo. Ông đả kích Ki-tô giáo bởi vì trong ông, có quá nhiều dấu vết của tinh thần đạo đức Kitô: triết học của ông là một nỗ lực để tạo thế quân bình và sửa đổi -bằng lối nghịch ngôn mạnh mẽ- một khuynh hướng ngả về sự dịu dàng, từ tâm và hoà bình. Éo le thay cho ông, những người lương thiện ở Genoa lại gọi Nietzsche là Il Santo - vị thánh. Thân mẫu ông là một vị phu nhân ngoan đạo rất sùng Thanh giáo, cùng thuộc loại người như những người đã nuôi dưỡng Immanuel Kant và Nietzsche cho đến cùng, vẫn là một người "ngoan đạo". Thanh giáo, tinh khiết như pho tượng: bởi đó mà ông đả kích Thanh giáo và sự sùng đạo. Vị thánh khó hư hỏng ấy, khốn nỗi lại khao khát vô cùng được biến thành kẻ phạm tội ! Nietzsche sinh ở Rocken, nước Phổ, vào ngày 15 tháng 10 năm 1844 - tình cờ cũng là ngày sinh của vị vua Phổ đang cai trị, Friedrich Wilhelm IV. Thân phụ Nietzsche, người đã làm gia sư cho nhiều người trong hoàng tộc, rất vui mừng trước sự trùng hợp ấy, và đặt tên cậu bé theo tên vua. "Dù sao cũng có một lợi điểm trong việc tôi đã chọn ngày ấy để ra đời; suốt thời thơ ấu, sinh nhật tôi đã là một ngày vui công cộng". Cái chết sớm của thân phụ đã để Nietzsche lại làm nạn nhân cho những người đàn bà thánh đức của gia đình; những người này nâng niu yêu dấu cậu đến nỗi khiến cậu bé Nietzsche có một tính nhạy cảm và tế nhị gần như đàn bà. Cậu không thích những đứa bé hư hỏng ở láng giềng, những đứa đi phá tổ chim, phá hoại các vườn hoa, chơi trò lính tráng và nói dối. Những bạn học gọi cậu là "mục sư tí hon" và một đứa trong bọn tả cậu là "một đức Chúa Giê-su trong nhà thờ". Cậu ưa thích cô quạnh một mình để học thánh kinh, hay đọc cho kẻ khác nghe với một giọng thật cảm động để làm cho họ phải rưng mắt lệ. Nhưng trong cậu, có ẩn một niềm kiêu hãnh và tính khắc kỷ mạnh mẽ: khi những bạn học hoài nghi chuyện về Mutius Scaevola, cậu đã đốt cháy một hộp diêm trong lòng bàn tay và để nó nằm đấy cho đến khi những que diêm cháy hết. Đấy là một mẫu chuyện điển hình: suốt đời Nietzsche sẽ luôn luôn tìm kiếm những phương thế vật lý và tâm thức để tự tôi luyện cho mình một hùng tính được lý tưởng hoá. "Cái gì không phải bản tính của tôi, cái đó đối với tôi chính là Thượng đế và đức hạnh" *) [(*) The Birth of Tragedy, dẫn nhập, tr. xvii]. Vào năm 18 tuổi, Nietzsche mất niềm tin tưởng vào Thượng đế mà ông cha chàng đã tôn thờ, và suốt quãng đời còn lại của chàng được dành cho việc đi tìm một thần-tính mới. Chàng nghĩ chàng đã tìm ra trong Siêu-nhân. Về sau Nietzsche bảo rằng chàng đã thay đổi một cách dễ dàng; nhưng Nietzsche vốn có thói quen tự đánh lừa, và vốn là một người viết tự truyện không đáng tin cậy lắm. Chàng trở thành cay cú, như một kẻ đã đặt cược hết cả tài sản vào một cú đen đỏ và đã thua. Tôn giáo đã là cốt tuỷ chính yếu của đời chàng; bây giờ đời chàng dường như rỗng không, vô nghĩa. Chàng đột ngột đi vào một giai đoạn phóng đãng xác thịt cùng với những bạn cùng trường ở Bonn và Leipzig, và lại thắng lướt được tính "làm bộ" đã khiến chàng khó đạt những nghệ thuật của nam giới như thuốc lá và rượu. Nhưng chẳng bao lâu, rượu, đàn bà và thuốc lá làm chàng ngấy chán; chàng phản kháng lại trong một cơn khinh bỉ tràn trề đối với toàn thể sự ái mộ rượu bia (Biergemuetlichkeit) của xứ sở và thời đại mình, những người uống bia và phì phào ống điều không thể nào có được tri giác minh mẫn hoặc ý tưởng sâu sắc. Chính vào khoảng này, vào năm 1865, Nietzsche khám phá tác phẩm Thế giới: ý dục và biểu tượng của Schopenhauer, và bắt gặp trong đó "Một tấm gương trong ấy tôi dòm thấy thế gian, cuộc đời và chính bản tính của tôi được trình bày với một vẻ hùng tráng kinh hồn", chàng đem cuốn sách về nhà và hăm hở đọc từng chữ một. "Dường như thể Schopenhauer đang nói riêng cùng tôi. Tôi cảm thấy nguồn phấn khởi của ông và tưởng như thấy ông trước mắt. Mỗi hàng chữ đều kêu gào thúc dục sự khước từ, chối bỏ, cam chịu". Màu đen tối của triết học Schopenhauer in ấn tượng vĩnh viễn trên tư tưởng Nietzsche: không những chỉ khi chàng là một môn đồ trung thành của "Schopenhauer nhà giáo dục" (nhan đề một trong những bài tiểu luận của Nietzsche), mà ngay cả khi chàng bắt đầu tố cáo Bi-quan chủ nghĩa, xem như một hình thức của đồi truỵ, chàng tự căn để vẫn là một người bất hạnh, một người mà thần kinh hệ dường như đã được cẩn thận sắp đặt để dành cho khổ đau, người mà sự tán dương bi kịch -xem như nguồn hoan lạc của cuộc sống- cũng chỉ là một hình thức tự dối khác. Chỉ có Spinoza hoặc Goethe mới cứu được chàng khỏi Schopenhauer ; nhưng dù chàng thuyết giáo về đức bình an (aequanimitas) và thuận mệnh (amor fati), chàng không bao giờ thực hành chúng, đức an tịnh trong sáng của hiền nhân và niềm bình lặng của tâm thức quân bình không bao giờ có ở trong chàng. Vào năm 23 tuổi, Nietzsche bị gọi nhập ngũ. Đáng lẽ chàng được miễn dịch vì cận thị và vì là con của một goá phụ, nhưng quân đội đã gọi chàng. Tuy nhiên, một tai nạn té ngựa đã làm vẹo xương sườn chàng đến nỗi viên đội đi mộ binh buộc lòng phải thả miếng mồi của y. Nietzsche không bao giờ hoàn toàn bình phục sau đó. Kinh nghiệm nhà binh của chàng quá ngắn ngủi đến nỗi chàng rời khỏi quân ngũ mang theo với hầu hết bao nhiêu ảo tưởng về lính như khi chàng mới vào; cuộc sống cam go "kiểu Sparte" với sự ra lệnh và tuân lệnh, với sự dãi dầu chịu đựng và kỷ luật khắt khe đã cám dỗ trí tưởng tượng chàng, bấy giờ khi chàng đã thoát khỏi bổn phận phải tự mình thực hiện ý tưởng ấy; chàng đâm ra tôn thờ quân nhân chỉ vì sức khoẻ chàng không cho phép chàng trở nên một người lính. Từ nếp sống quân ngũ chàng nhảy qua lãnh vực tuyệt đối tương phản với nó: nếp sống hàn lâm của một nhà ngữ học: thay vì trở thành một chiến sĩ, chàng đã trở thành một tiến sĩ. Năm 25 tuổi, chàng được chỉ định chức giáo sư ngữ học cổ điển ở đại học Basel (Basle), từ khoảng cách an toàn này chàng có thể ngưỡng mộ Bismarck. Chàng hối tiếc lạ lùng vì đã chọn lựa cái công việc ngồi lỳ một chỗ và không anh hùng tí nào này: một mặt chàng ao ước giá mình đã chọn một nghề thực tiễn và linh hoạt, như y học chẳng hạn; đồng thời chàng lại tự thấy mình có thiên tư về âm nhạc. Chàng đã trở thành gần như một nhà chơi dương cầm, và đã viết những khúc cầm- nhạc (sonata); "đời sẽ là một lỗi lầm nếu không có âm nhạc", chàng bảo. Gần Basel là thành phố Tribschen, nơi nhà danh nhạc khổng lồ, Richard Wagner đang sống với vợ một người khác. Năm 1869 Nietzsche được mời đến ở chơi Giáng sinh tại đấy. Chàng là người nồng nhiệt tán dương âm nhạc cho ngày mai, và Wagner không chê những "lính mới" có thể đem lại cho mình một ít hơi hướng của uy danh thuộc giới học giả và đại học. Dưới bùa lực của nhà soạn nhạc vĩ đại này, Nietzsche bắt đầu viết tác phẩm đầu tiên của chàng, tác phẩm sẽ mở đầu với kịch nghệ Hy Lạp và kết thúc bằng Der Ring des Nibelungen*) [(*)Chiếc nhẫn (của vương quốc) Nibelungen - Tác phẩm opera vĩ đại của Richard Wagner dựa trên Anh hùng ca thần thoại Đức về kho tàng châu báu của vương quốc Nibelungen ở khu vực sông Rhein (Rhin), gồm bốn vở: 1. Das Rheingold, 2. die Wallküre, 3. Siegfried và 4. Goetterdaemmerung- chú thích của người đánh máy-], thuyết giáo về Wagner cho cả thế giới, xem như một Achille tân thời. Chàng lên tận vùng núi Alpen để được an ổn viết, xa hẳn đám đông ồn ào; ở đấy, vào năm 1870, chàng được tin Đức và Pháp lâm chiến. Chàng ngần ngại, tinh thần của Hy Lạp và hết thảy những thi thần của thơ, kịch, triết và nhạc đã đưa những bàn tay dâng hiến ra mời mọc chàng. Nhưng chàng không thể chống lại tiếng gọi của xứ sở; đây cũng là thơ chứ ! "Ở đây, chàng viết, ta có quốc gia với nguồn gốc đáng hỗ thẹn; đối với phần đông người, đó là một cái giếng sâu đầy đau khổ không bao giờ khô cạn, một ngọn lửa thiêu huỷ họ trong những cơn khủng hoảng triền miên. Tuy thế mà khi nó cất tiếng gọi, linh hồn ta đâm ra quên bẵng mình; trước tiếng gọi đẫm máu của nó, quần chúng được thúc giục phải dũng cảm và được nâng lên hàng anh hùng"*) [(*) Trong Halevy, Life of F.Nietzsche , London, 1911, tr. 106]. Ở Frankfurt, trên đường ra trận tuyến, chàng thấy một đội kị binh diễn hành với vẻ huyên náo và hùng tráng đi qua thành phố; ngay tức thì và tại chỗ, chàng bảo chàng có một tri giác, một linh kiến mà từ đó toàn thể nền triết học của chàng sẽ trưởng thành. "Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng ý chí muốn sống mãnh liệt nhất và cao độ nhất không phải biểu thị trong một cuộc vật lộn thảm hại để sống còn, mà trong một ý chí muốn Chiến tranh, một ý chí muốn Quyền lực, một ý chí muốn khắc phục [Trong Forster, The Young Nietzsche , London, 1912, tr. 235]. Vì thị giác kém chàng không được làm lính một cách tích cực, mà đành phải y tá điều dưỡng; và mặc dù mục kích khá nhiều cảnh tượng khủng khiếp, chàng không bao giờ biết được sự tàn bạo đích thực của chiến trường mà tâm hồn nhút nhát của chàng về sau sẽ lý tưởng hoá bằng tất cả cường độ tưởng tượng của kẻ thiếu kinh nghiệm. Ngay cả trong việc nuôi bệnh, chàng cũng quá nhạy cảm; cảnh máu me làm cho chàng nhuốm bệnh; chàng ngất xỉu và được đưa về nhà hoàn toàn kiệt quệ. Mãi từ đấy về sau chàng có những sợi thần kinh của một Shelley và bao tử của một Carlyle; tâm hồn của một thiếu nữ dưới lớp áo của một quân nhân. III. NIETZSCHE VÀ WAGNER Vào đầu năm 1872 Nietzsche ấn hành tác phẩm đầu tiên, tác phẩm duy nhất được hoàn thành của chàng - Sự thoát thai của Bi kịch từ tinh thần Âm nhạc (= Bi kịch)- Chưa có một nhà ngữ học nào từng ăn nói trữ tình như thế. Chàng nói về hai vị thần mà nghệ thuật Hy Lạp tôn thờ: trước tiên là Dionysus (hay Bacchus), vị thần của rượu và cuộc vui chơi, của cuộc đời đi lên, của niềm vui trong hành động, của cảm xúc và hứng cảm xuất thần, của bản năng và phiêu lưu và sức khổ đau dũng cảm, vị thần của ca nhạc, vũ và kịch; rồi về sau là Apollon, vị thần của thanh bình, nhàn hạ, nghỉ ngơi, của cảm xúc nghệ thuật, của mặc niệm tri thức, của trật tự hợp lý và niềm bình an triết học, vị thần của hội hoạ điêu khắc và anh hùng ca. Nghệ thuật Hy Lạp cao quý là một hoà điệu của hai lý tưởng, - sức mạnh nam tính lăng xăng của Dionysus và vẻ đẹp nữ tính yên lặng của Apollon. Trong kịch nghệ, Dionysus khởi hứng cho ca khúc và Apollon cho lời đối thoại; ca khúc phát xuất trực tiếp từ đám diễn hành của những môn đồ Dionysus: lời đối thoại là ý nghĩa đến sau, một phần hỗ trợ phản ánh của một kinh nghiệm cảm xúc. Đặc điểm thâm thuý nhất trong kịch nghệ Hy Lạp là sự chinh phục bằng nghệ thuật của Dionysus đối với bi quan chủ nghĩa. Những người Hy Lạp vốn không phải là những người vui vẻ lạc quan chúng ta bắt gặp trong những bài vè sử nói về họ ngày nay; họ tri giác rất thâm thiết những mũi châm chích của cuộc đời, và tính cách ngắn ngủi bi thảm của nó. Khi Midas hỏi Silenus số phận nào là tốt nhất cho con người, Silenus trả lời: "Hỡi nòi giống đáng thương chỉ sống có một ngày kia ơi, hỡi những đứa con của tai nạn và buồn sầu, sao ngươi lại buộc ta phải nói những gì mà tốt hơn đừng nên nghe tới ? Số phận tốt nhất không thể có được: ấy là đừng sinh ra đời, không là cái gì cả. Thứ đến là chết thật sớm". Rõ ràng những người này không cần phải thụ giáo với Schopenhauer, hay với những người Ấn giáo. Nhưng những người Hy Lạp đã thắng lướt được màu u ám của sự vỡ mộng bằng ánh rực rỡ của nghệ thuật: từ nơi khổ đau của chính họ, họ đã làm nên bối cảnh cho kịch nghệ và khám phá rằng "cuộc tồn sinh và thế giới có vẻ hữu lý chỉ vì đấy là một hiện tượng nghệ thuật" (Bi kịch, 50, 183), một đối tượng cho sự thưởng ngoạn hay cho việc tái tạo thẩm mỹ. "Những gì tuyệt vời chính là nghệ thuật đã chế phục được cái khủng khiếp" (Bi Kịch, 60). Bi quan là dấu hiệu của suy tàn, lạc quan là biểu trưng của tâm hồn nông cạn, nhưng "lạc quan bi tráng" chính là tư thái của con người hùng mạnh đi tìm nồng độ và chiều rộng sâu của kinh nghiệm cho dù phải chịu muôn sầu nghìn thảm, tư thái của con người hân hoan nhận chân rằng xung đột chính là định luật của cuộc sống. "Bi kịch chính nó là bằng chứng cho sự kiện rằng những người Hy Lạp không phải bi quan. "Những ngày mà tư thái này đã đẻ ra kịch nghệ Achille và triết học tiền-Socrate là những ngày vĩ đại phi thường của Hy Lạp" (Thư Wagner - Nietzsche, NY, 1921, tr. 167). Socrate -"mẫu người lý thuyết" (Bi kịch, 114) là một biểu hiệu cho khí chất lỏng lẻo của cá tính Hy Lạp; "khả năng cường tráng kiểu Marathon xưa cũ của thân xác và tâm hồn dần dà bị hy sinh cho một tuệ giác khả nghi, hàm ẩn sự suy đồi dần dần của những năng lực thể chất và tâm linh" (tr. 102). Triết học phê phán đã thay chỗ cho thi ca triết lý của thời tiền-Socrate; khoa học thay chỗ cho nghệ thuật; trí năng thay thế trực giác; biện chứng thay thế những trò chơi. Dưới ảnh hưởng Socrate, Platon nhà lực sĩ trở thành một nhà thẩm mỹ, Platon nhà làm kịch trở thành một nhà luận lý, một kẻ thù của lòng say mê, một người trục xuất các thi sĩ, một người Ki-tô giáo tiền-Ki-tô, một nhà chủ trương nhận thức luận. Trên đền thờ Apollon ở Delphes, những châm ngôn của trí khôn vô dục được khắc lên - "Gnothi seauton" và "medem agan" ("tự biết mình" và "trung đạo")- những châm ngôn đã trở thành, nơi Socrate và Platon, cái ảo tưởng cho rằng trí tuệ là đức hạnh duy nhất, và nơi Aristote cái chủ thuyết trung đạo nhu nhược. Trong thời còn trẻ trung, một dân tộc sản sinh huyền thoại và thi ca; vào thời suy tàn, nó sản sinh triết học và luận lý. Vào giai đoạn trẻ trung của nó, Hy Lạp sản xuất Homère và Achille, khi tàn tạ nó cho chúng ta Euripides -nhà luận lý bị biến thành kịch gia, nhà duy lý phá hoại huyền thoại và biểu tượng, nhà duy cảm phá hoại niềm lạc quan bi tráng của thời đại hùng tính, người bạn của Socrate, người đã thay thế ca khúc Dionysus bằng đám người của Apollon, những nhà biện chứng và diễn giả. Thảo nào lời tiên tri của Apollon ở đền Delphe đã gọi Socrate là người thánh-trí thứ nhất của dân Hy Lạp, Euripides thánh trí thứ nhì sau Socrate; và thảo nào "bản năng không lầm lẫn của Aristophanes .. đã thù ghét cả Socrate lẫn Euripides... và thấy nơi họ những triệu chứng của một nền văn hoá suy tàn" (Bi kịch, 182). Dĩ nhiên họ đã phản tỉnh; dĩ nhiên vở kịch cuối cùng của Euripides -The Bacchoe- chính là sự quy hàng của ông trước Dionysus, là bài giáo đầu báo hiệu việc tự sát của ông; và dĩ nhiên Socrate ở trong tù đã khởi sự tập tành âm nhạc của Dionysus để trấn tỉnh lương tâm. "Có lẽ -ông ta phải tự hỏi- có lẽ cái gì tôi không hiểu được phải chăng không vì thế mà phi lý ? Biết đâu lại không có một lãnh vực của tri giác, ở đó nhà luận lý bị gạt ra ? Biết đâu nghệ thuật lại không chính là một cái gì nhất thiết quan hệ đến tri thức và bổ sung cho tri thức ?". Nhưng đã quá muộn màng; công trình của nhà luận lý và nhà duy lý không thể phá huỷ; kịch Hy Lạp và cá tính Hy Lạp đã suy tàn. "Một điều lạ đã xảy đến là : khi nhà thơ và nhà triết phản tỉnh, thì nội cái khuynh hướng phản tỉnh của họ đã chiến thắng" (tr. 95). Cùng với họ chấm dứt thời đại những anh hùng, và nghệ thuật của Dionysus. Nhưng phải chăng thời đại Dionysus có thể trở về ? Há Kant đã không phá huỷ một lần dứt khoát tất cả lý trí lý thuyết và con người lý thuyết ? - Schopenhauer há đã không dạy trở lại cho chúng ta cái sâu sắc của bản năng và bi kịch của tư tưởng ? - và há Richard Wagner một Archilles thứ hai lại không hiện đang khôi phục những linh thoại và biểu tượng, và trở lại phối hợp nhạc và kịch trong một niềm say sưa kiểu Dionysus ? "Từ nơi gốc rễ Dionysus của tinh thần dân Đức, một năng lực đã sinh khởi, một năng lực không có gì chung cùng với những điều kiện sơ khai của văn hoá Socrate, ... - nghĩa là nền âm nhạc Đức quốc ... trong quỹ đạo rộng lớn từ Bach đến Beethoven, từ Beethoven tới Wagner" (Bi kịch, 150). Tinh thần Đức quốc từ quá lâu đã phản ảnh một cách thụ động nghệ thuật kiểu Apollon, của Ý và Pháp; dân tộc Đức hãy nhận chân rằng những bản năng của riêng họ vốn khoẻ mạnh hơn những nền văn hoá suy đồi kia; họ hãy làm một cuộc canh tân về âm nhạc cũng như về tôn giáo, trút cái hùng khí man dại của Luther vào lại trong nghệ thuật và trong cuộc đời. Biết đâu từ nơi những thống khổ chiến tranh mà Đức quốc phải chịu đựng, lại không lộ xuất một thế hệ anh hùng mới và từ nơi tinh thần âm nhạc, bi kịch biết đâu không tái sinh ra đời ? Năm 1872 Nietzsche trở về Basel, thể xác còn yếu đau nhưng tinh thần bùng cháy tham vọng, và không muốn bị tiêu mòn trong công việc giảng dạy mệt nhọc. "Tôi có trước mắt công việc đủ để làm trong năm mươi năm, và phải canh chừng thời gian một cách nghiêm nhặt" (Trong Halévy, 169). Bây giờ Nietzsche đã hơi thất vọng về chiến tranh. Chàng viết:" Đế quốc Đức quả đang tuyệt diệt tinh thần Đức". Chiến thắng 1871 đã đem lại một ít tự phụ thô lỗ trong linh hồn Đức quốc và không có gì thù nghịch với sự trưởng thành tâm linh hơn thế. Một tính chất quỉ ma trong Nietzsche khiến chàng hung hăng trước mọi thần tượng, và chàng quyết định đả kích vẻ tự mãn đáng chán này bằng cách công kích người đại diện được tôn kính nhất của nó - David Strauss. "Tôi bước vào xã hội với trận đấu kiếm tay đôi: Stendahl đã cho tôi lời khuyên ấy" (Ibid). Trong ý tưởng thứ hai của những Ý tưởng lỗi mùa - cái tên khéo đặt - "Schopenhauer nhà giáo dục", Nietzsche quay mũi súng về những đại học đường có tinh thần ái quốc quá trớn. "Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng không gì chướng ngại cho sự phát triển những triết gia lớn cho bằng thói tục nâng đỡ những triết gia tồi trong các đại học quốc gia, không quốc gia nào sẽ dám bảo trợ những người như Platon và Schopenhauer ... Quốc gia luôn luôn sợ những người như thế" (Schopenhauer nhà giáo dục, đoạn 8). Chàng trở lại sự công kích trong "Tương lai những cơ sở giáo dục của chúng ta" và trong "Sử dụng và lạm dụng sử học", chàng nhạo báng sự ngụp lặn của giới trí thức Đức quốc vào trong nền học vấn khảo cổ chi li. Trong những bài tiểu luận này, ta đã thấy biểu lộ hai trong những ý tưởng đặc sắc của Nietzsche: ấy là đạo đức, cũng như thần học, phải được tái lập theo tiêu chuẩn và thuyết tiến hoá ; và nhiệm vụ của đời sống là đem lại "không phải sự cải thiện số đông quần chúng mà xét riêng từng người, là những kẻ vô giá trị nhất", mà chính là "sự tạo dựng thiên tài", sự phát triển và nuôi nấng những nhân cách cao cả (Ibid, đoạn 6). Bài tiểu luận hăng hái nhất trong số này là bài "Richard Wagner ở Bayreuth", hoan hô Wagner như một Siegfried, "người chưa từng biết ý nghĩa của sợ hãi" (Ý tưởng lỗi mùa, i, 117) , và như nhà sáng lập nền nghệ thuật chân chính duy nhất, bởi vì ông là người đầu tiên đã hoà hợp tất cả các nghệ thuật vào trong một tổng thể vĩ đại. Bài tiểu luận còn kêu gọi Đức quốc phải nhận chân ý nghĩa hùng vĩ của cuộc lễ lạc Wagner sắp đến - "Bayreuth với chúng ta có ý nghĩa là phép bí tích ban mai vào ngày lâm chiến" (Ibid., 104). Đấy là tiếng nói của lòng tôn sùng nơi tuổi trẻ, tiếng nói của một linh hồn tế nhị gần như đàn bà đã thấy nơi Wagner một vẻ cương nghị dũng cảm đầy hùng tính, những gì về sau sẽ thai nghén nên Siêu nhân. Nhưng người tôn sùng đồng thời cũng là một triết gia nên chàng thoáng thấy nơi Wagner một tính vị kỷ độc tài gây thương tổn cho một tâm hồn quý tộc. Chàng không thể chịu được sự việc Wagner công kích người Pháp vào năm 1871, và lấy làm kinh ngạc trước sự ganh tị của Wagner đối với Brahms (Thư Wagner - Nietzsche, tr. 223). Đề tài trọng tâm của bài tiểu luận tán dương này đã không báo điềm tốt gì cho Wagner : "Thế giới đã bị đông phương hoá từ lâu rồi; bây giờ mọi người đang khao khát được Hy Lạp hoá". Nhưng Nietzsche cũng đã thừa biết Wagner có nửa dòng máu Do thái. Và năm 1876, chính lễ Bayreuth đã đến, với nhạc kịch Wagner đêm dài nối đêm, với những bà mê say Wagner, những hoàng đế, hoàng tử, vương hầu, những người cự phú nhàn hạ lùa gạt ra ngoài bọn ái mộ túi rỗng. Bỗng nhiên Nietzsche chợt thấy Wagner thật giống Geyer *) [(*) một kịch sĩ Do thái, mà Nietzsche nghi là cha ruột của Wagner. Ludwig Geyer cưới mẹ Wagner sau khi cha chàng mất (lúc ấy chàng mới ra đời được 6 tháng)], tác phẩm The Ring of the Nibelungs thật đã nhờ biết bao đến những tác dụng sân khấu đầy dẫy trong đó, và đến độ nào những khúc Melos không có trong âm nhạc đã vào trong kịch nghệ. "Tôi đã thấy những hình ảnh một kịch bản tràn đầy hoà tấu, một hình thức thoát thai từ khúc hát. Nhưng tiếng gọi xa lạ của nhạc kịch đã khăng khăng lôi cuốn Wagner về hướng khác" (Thư Wagner-Nietzsche, tr. 279). Nietzsche không thể đi theo hướng đó, chàng ghét kịch và nhạc kịch. "Hoạ là điên, tôi mới ở lại đây", chàng viết. "Tôi khủng khiếp chờ đợi từng đêm trình diễn nhạc dai dẳng ấy ... Tôi không thể chịu đựng được nữa" (Trong Halévy, tr. 191). Bởi thế chàng chuồn thẳng, không một lời với Wagner và giữa lúc Wagner đang ở tột đỉnh quang vinh, trong khi mọi người đang tôn thờ; chuồn thẳng, "chán ngấy trước tất cả những gì có tính cách đàn bà và vẻ vô kỷ luật trong cái lãng mạn ấy, trong sự lừa dối ấy, trong sự làm yếu mềm lương tâm người, những gì đã chinh phục được một trong những linh hồn dũng cảm nhất ở đây". Sau đó, ở miền Sorento xa xôi, chàng lại chạm mặt với chính Wagner, đến nghỉ ngơi sau trận chiến thắng của mình, trí hoài thai một bản nhạc kịch mới - Parsifal. Đấy sẽ là một bản ca tụng Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và tình yêu không xác thịt, ca tụng một thế giới được cứu chuộc nhờ một "người điên thuần tuý", "người điên trong Chúa Kitô". Nietzsche ngảnh mặt làm ngơ không một lời cáo biệt, và từ đấy về sau không bao giờ nói với Wagner nữa. "Tôi không thể nào công nhận một sự vĩ đại không phối hợp cùng đức trong sạch và chân thành đối với chính mình. Lúc tôi đã khám phá ra một điều như thế, thì tất cả những thành quả của một người đối với tôi tuyệt đối không còn ý nghĩa gì nữa" (Ibid., 295). Nietzsche thích anh chàng Siegfried người nổi loạn hơn là Parsifal bậc thánh nhân, và không thể tha thứ Wagner về việc ông đã thấy trong Ki-tô giáo một giá trị đạo đức và một vẻ đẹp có ảnh hưởng hơn những khuyết điểm thần học của nó bội phần. Trong cuốn Trường hợp Wagner chàng đã nhục mạ Wagner với cơn giận dữ điên loạn: "Wagner nịnh hót mọi thiên tính ngã về Phật giáo hư vô, và nguỵ trang nó bằng âm nhạc; hắn nịnh hót mọi thứ Ki-tô giáo và mọi hình thức tôn giáo biểu thị của suy đồi... Richard Wagner, một kẻ lãng mạn vô vọng đã tàn bại, bỗng ngã quỵ thình lình trước Thánh giá. Chớ không có người Đức nào có con mắt mà nhìn, có tấm lòng trắc ẩn mà khóc cái cảnh tượng kinh khủng này hay sao ? Vậy hoá ra tôi là kẻ độc nhất hắn đã làm cho khổ đau hay sao ? ... Ờ, mà tuy nhiên tôi là một trong những thằng hâm mộ Wagner đồi truỵ nhất ... Được rồi, tôi là đứa con của thời đại này, y hệt như Wagner, - nghĩa là, một thằng suy vi; nhưng tôi ý thức được chuyện đó, tôi bảo vệ cho tôi chống lại chuyện đó". Nietzsche thật ra có tính chất "Apollon" nhiều hơn chàng tưởng: một con người yêu những gì thanh tú, tế nhị chứ không phải yêu sức mạnh man dại đượm tính chất Dionysian, cũng không phải yêu cái mỹ miều của rượu, ca khúc và tình ái. "Anh của bà, với cái bộ kiêu kỳ của nó, là thằng cha khó chịu nhất", Wagner đã nói với bà Forster-Nietzsche; "...đôi khi nó hoàn toàn bối rối trước những lời nói đùa của tôi, và tôi càng được thể đùa dai hơn baogiờ cả" (Ellis trích dẫn trong Affirmations, tr. 27). Nơi Nietzsche có quá nhiều hơi hướng Platon; chàng lo sợ rằng nghệ thuật sẽ dạy cho con người hết cứng rắn; vốn có tâm hồn mẫn cảm, chàng tưởng cả thế giới cũng như mình, -nguy thay suýt thực hành Ki-tô giáo. Không có nhiều chiến tranh đủ để thích hợp với vị giáo sư hiền lành ấy. Tuy nhiên, trong những giờ bình lặng, chàng biết rằng Wagner cũng đúng như Nietzsche, tính chất tao nhã nơi Parsifal cũng cần thiết như sự hùng mạnh nơi Siegfried, và nhìn dưới một nhãn quan vũ trụ, những mâu thuẫn khốc liệt kia sẽ tan hoà trong những nhất-thể đầy sáng tạo tốt lành. Nietzsche thích nghĩ về tình bạn như "tình sao" này (như những vì sao trên trời - chú thích của người đánh máy -) , mối tình vẫn âm thầm gắn bó chàng với con người đã là kinh nghiệm phong phú và giá trị nhất đời chàng. Và về sau, vào một giây lát minh mẫn trong cơn điên cuối đời, khi nhìn thấy một bức tranh Wagner, đã chết từ lâu, Nietzsche đã thốt ra rất khẽ: "Chính người ấy, ta đã yêu nhiều". IV. TIẾNG HÁT ZARATHUSTRA Và từ nghệ thuật, như đã bỏ rơi chàng, chàng tìm trú ẩn trong học thuật - nơi đó bầu không khí Apollonian giá lạnh đã tẩy sạch linh hồn chàng sau cơn nhiệt nồng và hỗn loạn kiểu Dionysus ở Tribschen và Bayreuth - và trong triết học, "cho ta một chỗ tị nạn ở đấy không nền chuyên chế nào có thể xâm nhập". Cũng như Spinoza, chàng cố làm lắng dịu những cảm xúc bằng cách xem xét chúng; theo Nietzsche, chúng ta cần đến một "khoa hoá học về những cảm xúc". Bởi thế, trong tác phẩm sau đó Con người quá đỗi người (1878-1880), chàng trở nên một nhà tâm lý học, phân tích với sự tàn bạo của một nhà giải phẫu, những cảm thức dịu dàng nhất và những niềm tin được ấp ủ nhiều nhất, - mạnh dạn đề tặng tác phẩm gây phản ứng mãnh liệt đó cho Voltaire con người ưa nói xấu. Rồi ngay giữa lúc tuổi còn xanh, vào năm 1879, Nietzsche ngã quỵ, cả thể các lẫn tinh thần, lụn xuống gần kề chỗ chết. Chàng ương ngạnh chuẩn bị cho giờ lâm tử: "Em hãy hứa với anh -chàng nói với em gái- rằng khi anh chết, chỉ có những người bạn được đứng cạnh quan tài, cấm lũ người tò mò thóc mách. Hãy để ý đừng cho một linh mục hay bất cứ ai khác, thốt những lời bá láp bên mồ anh, khi anh không còn thể tự bảo vệ, hãy để anh đi xuống mồ nguyên vẹn là một đứa vô thần chân chính" (Nietzsche, con người cô đơn, tr. 65). Nhưng rồi chàng đã bình phục và tang lễ bi hùng đành phải hoãn lại. Từ trận ốm ấy, chàng đâm ra yêu sức khoẻ và mặt trời, yêu đời và tiếng cười và vũ điệu, yêu "âm nhạc miền Nam" của Carmen; cũng từ trận ốm ấy nẩy sinh rằng một ý chí mãnh liệt hơn, do cuộc chiến đấu với tử thần, một "tiếng ừ" cảm nhận vị ngọt ngào của sự sống ngay cả trong niềm cay đắng nhọc nhằn. Và có lẽ cũng từ trận ốm kia nẩy sinh ra một nỗ lực đáng thương của chàng để vươn đến chỗ giới hạn tự nhiên, chấp nhận số phận con người. "Công thức của tôi về sự vĩ đại là Amor fati (thuận mệnh): không những chỉ chịu đựng mọi điều không thể tránh, mà còn yêu thương nó". Khốn nỗi, việc ấy nói dễ hơn làm.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:55:04 GMT 9
Những nhan đề các tác phẩm sau đó của Nietzsche -Bình minh (The Dawn of Day, 1881) và Trí tuệ hân hoan (The Joyful Wisdom, 1882) phản ảnh của một giai đoạn bình phục đầy tri ân, ở đây ta đọc thấy một giọng điệu từ tốn hơn, một lời lẽ hoà nhã hơn trong những tác phẩm về sau. Bấy giờ chàng có một năm trời với những ngày êm lặng, sống đạm bạc với số tiền phụ cấp của Đại học viện. Nhà triết học kiêu hãnh của chúng ta cũng có thể lụy trong một cơn yếu đuối ngộ nghĩnh: đùng một cái, chàng đâm ra si tình. Nhưng Lou Salomé không đáp lại tình yêu của chàng; chàng có đôi mắt quá sắc và sâu, không làm người ta thoải mái. Paul Rée ít nguy hiểm hơn, và đã đóng vai trò bác sĩ Pagello cho De Musset là Nietzsche. Nietzsche thất vọng bỏ ra đi, vừa đi vừa sáng tác những châm ngôn phản đối phụ nữ. Trong thực tế, chàng vốn thật thà; nồng nhiệt, lãng mạn, hiền lành đến độ đơn sơ chất phác; sự tuyên chiến của chàng đối với tính mềm yếu chính là một cố gắng để xua đuổi một đức hạnh đã đưa chàng đến chỗ thất vọng chua chát và gây một vết thương không bao giờ lành. Bấy giờ đối với chàng, cô đơn mấy cũng không vừa: "Thật khó sống với người; vì im lặng thật khó khăn" (Zarathustra, tr. 212). Chàng đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpen ở Sils Maria trong vùng Upper Engadine, -không yêu đàn ông cũng như đàn bà, và cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Ở đấy trên những miền cao cô quạnh, cảm hứng cho tác phẩm vĩ đại nhất đã đến với chàng. Tôi ngồi đây chờ đợi - chờ đợi hư vô Đã vượt ngoài thiện ác, bây giờ tôi thưởng thức ánh sáng rồi bóng râm; chỉ có ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận. Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi, một đã thành hai, Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi. (Trong Halévy, 234) Bây giờ "linh hồn chàng bừng dậy và tràn ngập mé bờ" (Zarathustra, 315). Chàng đã tìm ra một thầy mới - Zoroaster; một Thượng đế mới - Siêu nhân; và một tôn giáo mới - Sự vĩnh viễn phục hồi. Bây giờ chàng phải hát ca triết học vươn lên thành thi ca dưới một bài ca, và sẽ hát, dù tôi đang cô quạnh trong một ngôi nhà trống rỗng, và phải hát bài ca ấy cho chính lỗ tai tôi nghe" (Zarathustra, 279). "Hỡi vì sao vĩ đại ! - Hạnh phúc của ngươi sẽ là cái gì nếu không có những người ngươi chiếu cho ánh sáng ? ... Này ! Ta đang mỏi mệt chán chường về sự minh triết của ta, cũng như con ong đã hút quá nhiều mật ngọt; ta cần những bàn tay với đến xin đòi" (Zarathustra, 1). Bởi thế chàng viết Lời Zarathustra và hoàn tất nó vào "giờ linh thiêng khi Richard Wagner trút linh hồn ở Venice". Đấy là lời đáp mỹ lệ của chàng trả lời Parsifal; nhưng tác giả Parsifal đã chết. Đấy là tuyệt tác của Nietzsche, và chàng cũng biết thế. Sau này chàng đã viết về nó:"Tác phẩm này đứng một mình một cõi. Đừng để chúng ta nhắc đến những thi sĩ trong cùng một hơi; có lẽ chưa từng có cái gì đã được sáng tạo từ một mãnh lực tràn trề đến thế ... Dù cho tất cả sự hăng hái và sự tài hoa của mọi tâm hồn lớn đều tụ lại, cũng không thể sáng tạo nên chỉ một bài duy nhất trong những bài giảng của Zarathustra". Hơi quá đáng đấy, nhưng chắc chắn đấy là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Tuy nhiên Nietzsche đã qua một giai đoạn cay chua để ấn loát nó; phần đầu bị đình trệ vì nhà in của nhà xuất bản bận in một món hàng đặt cọc gồm 500 000 quyển thánh ca, rồi tiếp đó lại bận in một loạt những tập nhỏ chống Do Thái; và người xuất bản không chịu in phần cuối cùng nên tác giả đành phải bỏ tiền ra ấn hành phần ấy. Quyển sách bán được bốn mươi bản; bảy cuốn được đem phân phát; người ta ghi nhận nó, không ai tán dương nó. Chưa ai từng cô đơn đến thế. Zarathustra, 30 tuổi, hạ sơn từ đỉnh núi tư duy để thuyết giáo trước quần chúng, như người tiên phong của ông ở Ba-tư là Zoroaster; nhưng đám đông đã quay đi chỗ khác để nhìn một trò biểu diễn người đi trên dây. Người biểu diễn này té chết, Zarathustra vác y lên vai mang đi; "bởi vì anh đã lấy nguy hiểm làm nghề nghiệp, nên tôi sẽ chôn anh với chính tay mình". "Hãy sống nguy hiểm", chàng thuyết giáo. "Hãy dựng những đô thị của các người bên cạnh núi lửa Vesuvius. Hãy đưa những chiếc tầu của các người đến những vùng biển chưa thám hiểm. Hãy sống trong tình trạng chiến tranh". Và hãy nhớ vứt bỏ đức tin. Zarathustra hạ sơn gặp một ẩn sĩ già nói với chàng về Thượng đế. "Nhưng khi Zarathustra ở một mình, chàng tự nhủ rằng :"Có thể nào như thế được chăng ? Ông thánh già này ở trong khu rừng chưa nghe gì về chuyện Thượng đế đã chết à !" *) [(*) ám chỉ tác phẩm Goetterdaemerung - Hoàng hôn của Thượng đế - của Wagner ]. Song dĩ nhiên là Thượng đế đã chết, tất cả các Thượng đế đều đã chết cả rồi. Vì những Thượng đế cổ lổ đã chấm dứt từ lâu. Và chính thế, đấy là một chấm dứt tốt đẹp và hân hoan của những vì Thượng đế ! Không phải họ chết mà vẫn lai vãng trong hoàng hôn đâu, mặc dù người ta đã nói dối như vậy ! Trái lại, vào một ngày xưa, họ đã cười ngất đến chết ! Việc ấy xảy ra khi mà, chính một vị Thượng đế đã thốt ra lời nói ít-có-vẻ-Thượng-Đế nhất. Lời ấy như vầy: "Chỉ có một Thượng đế ! Trước ta, ngươi sẽ không được có một vì Thượng đế nào khác". Khi ấy tất cả các Thượng đế đều cười lớn rũ rượi trong ghế bành của họ mà la lên "Phải chăng Thượng-đế-tính đúng nghĩa là chỉ có những Thượng đế chứ không có một Thượng đế ?" Ai có tai, hãy lắng mà nghe. Zarathustra đã nói thế (Zarathustra , 263). Thật là một vô thần luận khoái hoạt làm sao! "Có phải Thượng-đế-tính như vầy là đúng nhất không: ấy là, không có Thượng đế ?". "Cái gì có thể được sáng tạo nếu có những Thượng đế ?... Nếu có những Thượng đế, thì làm sao ta chịu được cái chuyện rằng ta không phải là Thượng đế ? Do đó không có Thượng đế nào cả" (Zarathustra, 116-118). "Có ai có nhiều tính chất phi-thượng-đế hơn ta, để ta có thưởng thức những lời dạy ? (Z., 245). "Ta van xin các người, hỡi những huynh đệ của ta, xin các người hãy trung thành với trái đất, và đừng tin tưởng những kẻ nói cho các người nghe về những hy vọng siêu trần ! Họ chính là những kẻ bỏ thuốc độc, dù họ ý thức hay không" (Z., 5). Nhiều kẻ ươn gàn ngày xưa cuối cùng đã trở về với chất thuốc độc ngọt ngào này, cần thiết cho cuộc đời như một thứ thuốc mê. Những "người cao cả" tụ họp trong hang đá của Zarathustra để chuẩn bị đi rao truyền lý thuyết của chàng; chàng từ giã họ một thời gian, và trở về để thấy họ đang thờ phượng một con lừa đã "sáng tạo thế giới theo hình ảnh của mình - nghĩa là, ngu đần hết mức" (Z., 457). Bấy nhiêu đây không khuyến dạy gì; nhưng hãy nghe bản văn sau đó: "Kẻ nào phải làm một đấng sáng tạo về thiện và ác - đúng thế, kẻ ấy phải trước hết là một thần phá hoại, đập tan những giá trị cho rời rã. Như vậy, cái cực ác là một phần của cái cực thiện. Nhưng cái thiện này là cái thiện đầy sáng tạo. Hãy nói về điều ấy, hỡi những người minh triết, dù nó có xấu xa bao nhiêu nữa. Im lặng là điều tệ hơn; mọi chân lý không-được-nói-ra đều trở thành độc hại. Và dù cái gì sẽ đập tan những chân lý chúng ta, cứ để cho nó đập tan ! Còn nhiều ngôi nhà cần xây dựng. Zarathustra đã nói thế !" (Z., 162) Có phải lời này bất kính không ? Nhưng Zarathustra phàn nàn rằng "không còn ai biết cách sùng kính như thế nào cả" (Z.,354) và chàng tự gọi mình là "người kính tin nhất trong những người không tin Thượng đế". Chàng khao khát niềm tin và xót thương "tất cả những kẻ, như ta đã khổ vì nỗi ghét thù lớn rộng, những kẻ đã thấy rằng Thượng đế cũ đã chết mà chưa có một Thượng đế mới nào quấn tã nằm trong nôi" (Z., 434). Và đoạn chàng gọi đích danh vị Thượng đế mới: Tất cả Thượng đế đều chết rồi, bây giờ chúng ta muốn rằng siêu nhân phải sống ... Ta dạy các người siêu nhân. Con người là một cái gì phải được siêu vượt. Các ngươi đã làm gì để vượt trên con người ? Cái lớn lao trong người là ở chỗ nó là một cây cầu chứ không là một mục đích: cái ta có thể yêu thương nơi con người là ở chỗ nó là một chuyển tiếp và một sự phá huỷ. Ta yêu những con người không biết sống ra sao trừ phi bằng cách chết, vì họ là những người vượt qua bên kia. Ta yêu những con người khinh bỉ tất cả bởi vì họ là những người tôn sùng vĩ đại, họ là những mũi tên của sự khao khát bờ bên kia. Ta yêu những con người không tìm kiếm bên kia những vì-sao một lý do để chết và được hy sinh, mà tự hiến mình cho trái đất để một ngày kia trái đất này có thể trở thành trái đất của siêu nhân ... Đã đến lúc cho người đánh dấu mục tiêu mình. Đã đến lúc cho người dựng mầm cây hy vọng lớn nhất của nó. Hãy nói ta nghe, hỡi huynh đệ, nếu loài người mà thiếu mục đích, thì phải chăng chính nhân loại của bất thành ? Tình yêu đối với con người xa xôi nhất vốn cao cả hơn tình yêu đối với láng giềng ngươi" (Z., 108, 419, 5, 8, 11, 79, 80). Nietzsche dường như thấy trước rằng mọi độc giả sẽ nghĩ chính chàng là siêu nhân; và cố để phòng điều này bằng cách thú nhận siêu nhân chưa ra đời; chúng ta chỉ có thể làm những kẻ dọn đường, làm đất đai thích hợp cho siêu nhân. "Đừng ham muốn gì vượt ngoài khả năng ngươi... Đừng đức hạnh quá mức ngươi có thể, đừng đòi hỏi từ chính ngươi những gì trái ngược với khả tính" (Z., 423 - 6). Không phải dành cho chúng ta cái hạnh phúc mà chỉ siêu nhân mới biết được; mục tiêu tốt nhất của chúng ta là hành động. "Từ lâu ta đã thôi không còn nỗ lực đeo đuổi hạnh phúc mình; bây giờ ta nỗ lực theo đuổi hành động" (Z. 341). Nietzsche chưa lấy làm đủ với việc sáng tạo Thượng đế theo hình ảnh mình; chàng phải tự làm cho mình bất tử. Sau siêu nhân sẽ đến sự phục hồi vĩnh viễn. Mọi sự sẽ trở về, với chi tiết rõ ràng, và trở về vô số lấn không thể hạn định; ngay cả Nietzsche cũng sẽ trở lại, và Đức quốc này với máu, sắt và tro tàn, và tất cả khổ nhọc của tâm thức con người từ ngu si đến Zarathustra. Đấy là một ý thức ghê gớm, một hình thức " ừ " cuối cùng và can đảm nhất, một hình thức chấp nhận cuộc đời; và tuy nhiên làm sao nó không thể là thế ? Những phối hợp khả hữu về thực tại chỉ có hạn, mà thời gian thì vô cùng; một ngày nào đó, không thể tránh, đời sống và vật chất sẽ rơi vào một hình thức hệt như xưa kia chúng đã từng mang, và từ cuộc tái diễn định mệnh ấy, tất cả lịch sử sẽ phải diễn lại quá trình quanh co khúc khuỷu của nó. Tất mệnh thuyết đưa chúng ta đến một ngõ ỷ (ngõ hẹp) như thế. Thảo nào Zarathustra sợ phải nói lên điều này như bài học cuối cùng của chàng; run sợ và thối lui, cho đến khi một tiếng nói thốt ra từ trong chàng: "Con làm sao thế, hỡi Zarathustra ? Cứ nói ra lời của con đi rồi chết !" V ĐẠO ĐỨC SIÊU NHÂN Zarathustra đã trở nên một Thánh kinh đối với Nietzsche mà những sách sau này của chàng đều chỉ là phần luận giải cho nó. Nếu Âu châu không chịu thưởng thức thơ Nietzsche , thì có lẽ sẽ hiểu tản văn của chàng. Sau bài ca của nhà tiên tri, ta thưởng thức đến luận lý của nhà triết học; và có hề gì nếu chính triết gia ấy lại không tin vào luận lý ? Vì đấy ít ra cũng là dụng cụ của sự sáng sủa, nếu không phải là con dấu của chứng cứ. Bấy giờ chàng cô độc hơn lúc nào hết, vì Zarathustra có vẻ quái lạ ngay cả đối với bạn bè chàng. Những học giả như Overbeck và Burckhardt, những người từng cộng sự với chàng ở Basel và đã hâm mộ cuốn Khai sinh của Bi kịch, bây giờ tiếc thương một nhà ngữ học xuất sắc đã mất, và không thể vui mừng đón một nhà thơ ra đời. Em gái chàng bỗng nhiên bỏ chàng đi kết hôn với một người trong bọn chống Do Thái mà Nietzsche khinh bỉ, và bỏ đi đến tận Paraguay. Nàng mời ông anh xanh xao yếu ớt đi theo, để tốt cho sức khoẻ chàng ; nhưng Nietzsche coi trọng đời sống của tâm thức hơn sức khoẻ thể xác; chàng muốn ở lại nơi có trận chiến; Âu châu đối với chàng cần thiết "như một bảo tàng viện văn hoá" (Figgis, The Will to Freedom). Chàng sống bất thường về chỗ ở và thời gian; Chàng thử ở Thuỵ sĩ, Áo, Genoa, Nice và Turin, chàng thích viết giữa những bầy bồ câu tụ xung quanh những con sư tử ở St. Mark. "Piazza San Marco nầy là phòng làm việc tốt nhất của tôi". Nhưng chàng đã theo lời khuyên của Hamlet ở ngoài nắng, làm hại đôi mắt đau của chàng, chàng tự giam mình trong những căn gác dơ bẩn không lò sưởi và làm việc sau những tấm màn cửa che kín. Vì mắt kém, từ đấy chàng không viết sách nữa, mà chỉ viết đoản văn. Nietzsche thâu thập một vài đoạn trong số này với những nhan đề Bên kia Thiện Ác (BKTA - 1886 - Jenseits von Gut und Boese) và Uyên nguyên đạo đức (1887- Zur Genealogie); trong những cuốn này, Nietzsche hy vọng phá tan nền đạo đức cũ, dọn đường cho một nền đạo đức của siêu nhân. Trong một thời gian ngắn, chàng đã thành một nhà ngữ-học trở lại và cố nhấn mạnh nền đạo đức mới của mình bằng những từ ngữ không hẳn là không thể chê trách. Chàng nhận xét rằng ngôn ngữ Đức có hai tiếng chỉ nghĩa "xấu" - schlecht và boese -. Schlecht được hạng người thượng lưu dùng để nói người dưới và có nghĩa "thường", "thông tục", về sau nó trở nên có nghĩa tầm thường, vô giá trị, xấu. Boese được người dưới dùng nói đến hạng người trên, có nghĩa không quen thuộc, bất thường, không tính được, nguy hiểm, tai hại, tàn bạo: Napoléon là boese. Nhiều người mộc mạc sợ cá nhân phi thường như một sức phân hoá; Trung hoa có một ngạn ngữ rằng : "Vĩ nhân là một mối hoạ công cộng. "Cũng thế, gut có 2 nghĩa, tương phản với schlecht và boese: Do quí tộc dùng, nó có nghĩa mạnh, can đảm, hùng, thiện chiến, thánh thiện (gut từ chữ Gott -thượng đế, thần thánh-); do người thường dùng, nó có nghĩa quen thuộc, thanh bình, vô hại, tử tế. Thế là ở đây có hai cách tương phản để định giá trị hành vi con người, hai lập trường và tiêu chuẩn đạo đức, một nền đạo đức của ông lớn (Herren-moral) và một nền đạo đức của bầy lũ (Herden-moral), nền đạo đức của chủ nhân và đạo đức của nô-lệ; Nền đạo đức trước là tiêu chuẩn được công nhận thời cổ điển, nhất là giữa những người La-Mã; ngay cả đối với người La Mã tầm thường, đức hạnh là virtus -hùng tính, can đảm, liều lĩnh, bạo dạn. Nhưng từ Á châu, và nhất là từ những người Do Thái vào thời họ bị lệ thuộc chính trị, nẩy sinh rằng tiêu chuẩn thứ hai; Sự lệ thuộc đẻ ra tính khiêm nhường. Sự vô vọng đẻ ra lòng vị tha - vốn là một lời kêu gọi giúp đỡ. Dưới nền đạo đức bầy cừu này, lòng yêu chuộng hiểm nguy và quyền lực nhường chỗ cho sự yêu thích bình an, bảo đảm; sức mạnh bị thay bằng lanh khôn, sự phục thù công khai thay bằng lén lút, sự cứng rắn bằng lòng trắc ẩn, sáng tạo bằng lằn roi của lương tâm. Danh dự là vô thần, phong kiến quý tộc; lương tâm là Ki-tô, trưởng giả, dân chủ. Chính tài hùng biện của những tiên tri, từ Amos đến Jesus, đã làm cho quan niệm về một giai cấp lệ thuộc trở thành hầu như một nền đạo đức phổ quát: "thế tục" và "xác thịt" trở thành đồng nghĩa với xấu xa, và sự nghèo kém thành ra một chứng từ của đức hạnh. Lối đánh giá này đã được Jesus đem đến tột đỉnh: với ông, mọi con người có giá trị ngang nhau, và có những quyền ngang nhau; từ lý thuyết ông, nảy sinh ra dân chủ, thực dụng lý thuyết, xã hội chủ nghĩa; tiến bộ bây giờ được định nghĩa theo những thứ triết lý của hạng bình dân, theo sự bình đẳng hoá và tầm thường hoá, theo sự suy đồi và sinh hoạt đi xuống. Giai đoạn cuối cùng trong vận suy vi là sự tán dương lòng trắc ẩn và đức hy sinh, sự an ủi những tội nhân một cách đầy tình cảm, "sự vô năng của một xã hội trong việc bài tiết". Cảm tình chỉ chính đáng khi nó tích cực; nhưng lòng trắc ẩn là một xa xỉ phẩm tinh thần có tính cách làm tê liệt, một sự phung phí tình cảm đối với hạng người bất tài, hạng khiếm khuyết, hạng xấu xa, hạng người đau ốm một cách tội lỗi và hạng tội nhân không thể cứu vãn. Có một cái gì thiếu tế nhị và có tính cách xâm phạm trong lòng trắc ẩn; sự "đi thăm kẻ ốm" là một kích thích của lòng tự tôn trong việc thưởng ngoạn cảnh vô vọng của kẻ láng giềng mình. Đằng sau tất cả nền "Đạo đức" ấy là một ước muốn thầm kín đối với quyền lực. Tình yêu chính nó chỉ là một ham muốn chiếm hữu. Sự tán tỉnh là trận chiến và kết đôi bạn là làm chủ: Don José giết Carmen để nàng khỏi trở thành sở hữu của một kẻ khác. "Người ta tưởng tượng rằng họ không ích kỷ trong tình yêu bởi vì họ đi tìm lợi ích cho một người khác, thường xung nghịch với lợi ích của riêng họ. Nhưng khi làm thế họ muốn chiếm hữu người kia.. Tình yêu, trong tất cả loại tình cảm là thứ tình vị kỷ nhất và bởi thế, khi tình yêu bị thương tổn, nó trở thành ít độ lượng nhất". Ngay cả trong tình yêu chân lý cũng có cái ham muốn chiếm hữu, có lẽ ham muốn làm người sở hữu chủ đầu tiên của chân lý, người đầu tiên tìm thấy nó còn nguyên vẹn. Khiêm cung là cách tô màu để che chở cho ý chí quyền lực. Đối với lòng ham mê quyền lực này, lý trí và đạo đức trở thành vô vọng; chúng chỉ là khí giới trong tay nó, làm mồi cho trò chơi của nó. "Các hệ thống triết học là những ảo ảnh chói loà, cái gì ta thấy được không phải là chân lý bấy lâu tìm tòi, mà chỉ là phản ảnh của những dục vọng của chính chúng ta". Những triết gia đều làm như thể quan điểm đích thực của họ đã được tìm qua quá trình diễn tiến của một biện chứng lạnh lùng, thuần khiết khách quan một cách thánh thần; ... trong khi đó kỳ thực nó là một mệnh đề thiên kiến, một ý nghĩ hay "sự gợi ý", thường thường là dục vọng của thâm tâm họ được trừu tượng hoá và tinh xảo hoá, và được họ bảo vệ bằng những luận chứng tìm kiếm sau. Chính những dục vọng hạ tầng này, những nhịp thở của ý chí quyền lực này, đã định đoạt tư tưởng chúng ta. "Phần lớn hành động tri thức của chúng ta diễn tiến một cách vô thức, chúng ta không cảm nhận được ... Suy tưởng hữu thức ... là phần yếu kém nhất". Bởi vì bản năng là vận hành trực tiếp của ý chí quyền lực, không bị ý thức quấy rầy, "bản năng là trí thông minh nhất trong tất cả loại trí thông minh đã được tìm ra từ trước đến nay". Quả vậy, vai trò của ý thức đã được đánh giá quá đáng một cách ngu ngốc. "Có thể xem ý thức là phụ thuộc, hầu như không đáng quan tâm, thừa thãi; có lẽ phải biến mất để thay thế bằng sự tự động hoàn toàn". Nơi người mạnh, có rất ít cố gắng để che dấu dục vọng dưới lớp áo của lý trí; luận cứ giản dị của họ là "tôi muốn". Trong hùng tính chưa bị hư hỏng của tâm hồn chủ-nhân-ông, ước muốn biện minh cho chính nó; và lương tâm, trắc ẩn hay hối hận không thể lọt vào. Nhưng từ trước tới nay quan điểm Do-thái-Ki-tô-dân-chủ vẫn thịnh hành đến nỗi những người hùng mạnh bây giờ lại hổ thẹn vì sự hùng mạnh và sức khoẻ của mình, và bắt đầu tìm "lý do". Những đức hạnh và giá trị quý tộc đang chết dần chết mòn. "Âu châu đang bị đe doạ bởi một nền Phật giáo mới"; ngay cả Schopenhauer và Wagner cũng trở thành những Phật tử đầy lòng trắc ẩn. "Toàn thể đạo đức của Âu châu đều dựa trên những giá trị chỉ có ích cho bầy lũ ". Những người mạnh không còn được phép thi thố sức mạnh của mình, họ sẽ trở thành càng giống với những người yếu càng tốt; "thiện là không làm cái gì mà ta không đủ mạnh để làm". Há Kant, "chú Chệt vĩ đại của thành Koenigsberg" kia đã không chứng minh rằng không bao giờ được sử dụng con người như những phương tiện ? Kết quả là những bản năng của người mạnh: săn bắn, chiến đấu, chiếm đọat và thống trị đều bị lật lộn vào bên trong, trở thành sự tự dằn xé vì không có lối thoát; những bản năng ấy sinh ra tánh khổ hạnh và ép xác và "lương tâm cắn rứt", "tất cả mọi bản năng không tìm được một lối thoát tràn ra ngoài thì đều quay trở vào trong - đấy là ý nghĩa tôi muốn nói về tình trạng tự xoay về bên trong của con người: ở đây chúng ta có hình thức đầu tiên của cái sẽ được gọi là linh hồn" (Bi Kịch, 128, 14, 177). Công thức của sự đồi truỵ là: những đức hạnh thuộc riêng của bầy nhóm bị nhiễm sang người lãnh tụ, và nhào nặn họ thành ra thứ đất sét thông thường "Những hệ thống đạo đức phải bị bắt buộc trước hết là cúi mình trước những cấp bực, lòng kiêu căng của họ phải bị tội về lương tâm họ - cho đến khi cuối cùng họ hoàn toàn hiểu rằng cái quan niệm theo đó", cái gì đúng cho một người thì cũng đúng cho một người khác "là một quan niệm vô luân". Những vai trò khác nhau đòi hỏi những đức tính khác nhau; và những tính " ác " của người mạnh cũng cần thiết trong xã hội như những tính " thiện " của kẻ yếu. Sự khắc nghiệt, bạo động, nguy hiểm, chiến tranh, đều giá trị ngang với tử tế; hoà bình; những cá nhân vĩ đại chỉ xuất hiện vào những thời nguy hiểm bạo động và tất yếu phũ phàng. Điều tốt nhất trong con người là sức mạnh của ý chí, quyền lực và sự trường cửu của đam mê, không đam mê con người chỉ là cục bơ, không thể hành động. Thèm muốn, ganh ty., ngay cả thù ghét nữa, đều là những yếu tố cần thiết trong quá trình tranh đấu đào thải và sống còn. Ác đối với thiện cũng như sự canh tân đối với cổ tục; không có sự phát triển nếu không có một vi phạm gần như tội lỗi đối với những tiền lệ và "trật tự". Nếu sự ác độc mà không tốt thì nó đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải coi chừng đừng quá tốt; "con người phải trở nên tốt hơn và độc ác hơn". Nietzsche rất được an lòng để thấy nhiều độc ác và tàn nhẫn trên thế giới, chàng cảm thấy một khoái lạc tàn bạo khi suy nghiệm về cái mức độ mà, theo Nietzsche "sự tàn bạo đã làm nên niềm hân hoan và lạc thú lớn lao nơi người cổ đại" và chàng tin rằng lạc thú của chúng ta trong bi kịch, hay trong bất cứ gì cao cả; là một sự tàn bạo tinh vi. "Người ta là con vật tàn bạo nhất" Zarathustra nói. "Khi xem những bi kịch, cảnh đấu bò mộng và đóng đinh, nó cảm thấy hạnh phúc hơn lúc nào cả từ trước tới nay ở trần thế. Và khi nó đặt bày (bày đặt ?) ra địa-ngục ...thì kia, địa ngục là thiên đàng của nó trên trần gian"; bây giờ nó có thể chịu đựng khổ đau, bằng cách thưởng ngoạn hình phạt vĩnh viễn của những kẻ đàn áp nó ở bên kia thế giới. Nền đạo đức tối hậu là sinh vật học; chúng ta phải phân đoán sự vật tuỳ theo giá trị sống của chúng; chúng ta cần "định lại tất cả các giá trị" theo sinh lý học. Trắc nghiệm thực sự về một người, hay một nhóm, hay một loài, chính là năng lượng, khả năng, quyền lực. Chúng ta có thể dung hoà phần nào với thế kỷ XIX ở chỗ nó nhấn mạnh trên yếu tố vật lý. Linh hồn là một nhiệm vụ của cơ thể. Chỉ một gịot máu thừa hay thiếu trong não đều có thể làm cho con người đau đớn hơn cả Prométhée đau vì con kên-kên. Những thức ăn khác nhau có những tác dụng tinh thần khác nhau: gạo dành cho Phật giáo; và siêu hình học Đức là hậu quả của bia. Bởi thế một nền triết học đúng hay sai tuỳ thuộc ở chỗ nó biểu trưng, tán dương cuộc sống thăng tiến hay lụn bại. Người lụn bại nói: "Cuộc đời không có giá trị gì cả" đáng lẽ nó nên nói :"Tôi không có giá trị gì cả". Tại sao cuộc đời lại đáng sống khi tất cả những giá trị bi hùng trong đó đã được để cho tàn lụn và thuyết dân chủ -nghĩa là không tin vào tất cả những con người vĩ đại - dần dần cứ mỗi mười năm lại phá hoại một dân tộc ? Con người Âu châu ưa hợp quần ngày nay có thể làm bộ như y là loại người chánh đáng độc nhất : y tán dương những đức tính của mình như tinh thần công cộng, lòng tử tế, kính nhường, siêng năng cần mẫn, điều độ, khiêm tốn, khoan hồng, thiện cảm - do những đức tính ấy, y là người lịch sự, chịu đựng, và ích lợi cho bầy nhóm - xem như những đức hạnh đặc biệt người. Tuy nhiên, khi người ta tin tưởng rằng người lãnh đạo và đầu đàn không thể thiếu, người ta đã làm hết thử thách này đến thử thách khác để thay thế những người điều khiển bằng sự triệu tập những người ưa hợp quần khôn khéo: Tất cả những hiến pháp đại nghị, chẳng hạn, đều có nguồn gốc này. Dù sao, thật là một điều đại hạnh, một sự giải thoát khỏi một gánh nặng đã trở thành không thể chịu đựng, khi có một người xuất hiện để thống trị những người Âu châu hợp quần này. Tác dụng của việc Napoléon xuất hiện là bằng chứng lớn lao cuối cùng cho sự kiện này: lịch sử của ảnh hưởng Napoléon hầu như là lịch sử của niềm hạnh phúc cao vượt mà toàn thế kỷ này đã đạt được trong số những cá nhân và những giai đoạn giá trị nhất của nó. VI SIÊU NHÂN Cũng như đạo đức không phải ở nơi lòng tử tế mà ở sức mạnh, mục đích của nỗ lực con người không phải là nâng cao tất cả phát triển những cá nhân mạnh và tinh tuý. "Không phải nhân loại, mà siêu nhân mới là cùng đích". "Cải thiện nhân loại" sẽ là việc cuối cùng cho một người có lương tri làm: nhân loại không cải thiện được, lại cũng không có nhân loại nữa - đấy là một khái niệm trừu tượng; tất cả những gì tồn tại chỉ là một tổ kiến người bao la. Cảnh diện toàn thể rất giống cảnh một cơ xưởng thí nghiệm khổng lồ nơi đó một vài đồ vật thành công trong mọi thời đại, trong khi phần lớn đều thất bại: và mục đích của mọi cuộc thí nghiệm không phải là hạnh phúc của quần chúng mà sự cải thiện mẫu mực. Chẳng thà những xã hội chấm dứt đi, còn hơn là không có một mẫu người cao cả nào xuất hiện. Xã hội là một khí cụ để làm tăng giá trị cho quyền lực và nhân cách của cá nhân; bầy nhóm tự nó không phải là cứu cánh. "Thế thì những máy móc để làm gì, nếu tất cả cá nhân chỉ được dùng để duy trì chúng ? Nếu máy móc - hay tổ chức xã hội - tự chúng là cứu cánh, thì điều ấy có phải là một hài kịch hay không ? Ban đầu Nietzsche nói như thể đặt hy vọng vào sự sản xuất một nòi giống mới; về sau chàng lại nghĩ đến siêu nhân của mình như là cá nhân siêu đẳng vươn lên -một cách tình cờ- từ đám bùn lầy của sự tầm thường quần chúng, và sự tồn tại của siêu nhân này nhờ nhiều ở việc nuôi nấng dạy dỗ cẩn thận tỉ mỉ hơn là ở những rủi may của luật đào thải tự nhiên. Bởi vì quá trình sinh vật học có khuynh hướng chống lại cá nhân phi thường; thiên nhiên tàn bạo nhất đối với những sản phẩm tinh xảo nhất của nó; nó yêu nhiều hơn, và che chở cho những kẻ trung bình và tầm thường; trong thiên nhiên có một khuynh hướng vĩnh viễn trở lại với mẫu mực, với người trung bình, đám đông luôn luôn chế ngự những phần tử anh hoa phát tiết. Siêu nhân chỉ có thể sống sót bằng sự đào thải nhân văn, bằng viễn tượng cải thiện nòi giống và bằng một nền giáo dục cao quý. Dù thế nào đi nữa, thật phi lý vô cùng, nếu để cho những cá nhân cao vượt kết hôn vì tình -những anh hùng mà cưới tôi tớ, những thiên tài kết hôn với những chị ba thợ may. Schopenhauer đã sai lầm, tình yêu không có tính cách cải thiện giống nòi; khi một người đàn ông đang yêu, không nên để cho y được làm những quyết định có ảnh hưởng đến cả đời y; không có chuyện một người vừa yêu mà vừa minh mẫn khôn ngoan được. Chúng ta cần phải tuyên bố vô giá trị những lời ước nguyện của những cặp tình nhân, và phải làm tình yêu trở thành một trở ngại hợp pháp cho hôn phối. Những người tốt nhất phải chỉ cưới những người tốt nhất; tình yêu nên để dành cho bọn tầm thường. Mục đích của hôn nhân không phải chỉ là tái sản xuất, nó còn phải là sự phát triển . "Ngươi còn trẻ, và mong có con và kết hôn. Nhưng ta hỏi người, ngươi có phải là một người dám mong mỏi một đứa con chăng ? Ngươi có phải người quang vinh, người tự-hàng-phục, người điều khiển được những giác quan mình, chủ nhân của những đức hạnh mình ? Hay là trong ước muốn của ngươi, chính con vật đang nói, nhu cầu xác thịt đang nói ? Hay cảnh cô đơn ? Hay nỗi bất hoà với chính ngươi ? Ta mong rằng chính sự quang vinh và tự do của người đang mong mỏi một đứa con. Ngươi sẽ xây dựng những đài kỷ niệm sống cho sự quang vinh và giải phóng của ngươi. Ngươi sẽ xây dựng ở bên ngoài ngươi. Nhưng trước hết ngươi phải tự xây dựng chính ngươi cho được quân bình chính trực, về thể xác lẫn linh hồn. Ngươi sẽ không những tái tạo chính ngươi mà còn phải tái tạo những đứa con vượt trên ngươi ! Hôn phối: ta gọi đó là ý chí của hai người để sáng tạo một người thứ ba còn tốt đẹp hơn những kẻ đã tạo nên nó. Ta gọi hôn phối là sự kính trọng lẫn nhau cũng như kính trọng đối với những người có một ý chí như thế" (Zarathustra đã nói thế). Không có dòng dõi tốt thì không thể có sự cao cả. "Chỉ tri thức mà thôi không làm nên sự cao quý; trái lại, luôn luôn cần có một yếu tố để làm cho tri thức cao quý. Yếu tố ấy là gì ? Dòng máu ..." Nhưng đã có dòng giống tốt và sự nuôi dưỡng cải thiện, yếu tố tiếp theo trong công thức của siêu nhân là một trường học nghiêm khắc; ở đấy đòi hỏi sự hoàn thiện như một lẽ tự nhiên, không đáng khen ngợi nữa; ở đấy sẽ có ít tiện nghi và nhiều trách nhiệm; ở đấy thể xác sẽ được dạy cho chịu đựng đau đớn trong im lặng, và ý chí có thể tập vâng lời và điều khiển. Không có sự phóng túng vô nghĩa ! Không có sự làm suy nhược thể chất và tâm hồn bằng khoan hồng và "tự do" ! Tuy nhiên đấy là một ngôi trường ở đó người ta học cười một cách hăng hái; triết gia sẽ được đánh giá tuỳ theo khả năng cười; "kẻ nào đã sải bước băng qua những ngọn núi cao nhất sẽ cười trước tất cả mọi bi kịch". Và sẽ không có chất a-xít trong nền giáo dục siêu nhân này; một trường khổ hạnh của ý chí, nhưng không lên án xác thịt. "Chớ dừng vũ điệu, hỡi những cô gái dịu dàng ! Không có kẻ phá đám nào đến với các cô bằng một con mắt độc ác ..., không có kẻ thù cho những cô gái có đôi gót đẹp". Ngay cả một siêu nhân cũng được quyền thưởng thức những cặp gót đẹp. Một con người được sinh ra và nuôi dạy như thế sẽ đứng ngoài thiện ác; chàng sẽ không ngần ngại "Ác" (boese) nếu mục đích của chàng đòi hỏi; chàng sẽ can đảm hơn là thiện, "Thiện là gì ? ... Can đảm chính là thiện". "Thiện là gì? Tất cả những gì tăng trưởng cảm thức quyền lực, ý chí quyền lực, chính quyền lực, ở trong người. Ác là gì ? Là tất cả những gì sinh ra từ sự yếu hèn". Có lẽ đặc điểm trỗi bật của siêu nhân là lòng yêu thích nguy hiểm và tranh đấu, miễn là có một mục đích: siêu nhân sẽ không tìm kiếm an ninh trước hết; chàng sẽ để dành hạnh phúc lại cho số đông. "Zarathustra ưa thích tất cả những gì làm nên những cuộc viễn du, và không thích sống thiếu hiểm nghèo". Do đó mọi chiến tranh đều tốt, bất chấp cái ti tiện tầm thường của những nguyên nhân gây ra nó vào thời đại này; "một cuộc chiến tranh tốt đẹp sẽ thần thánh hoá mọi nguyên nhân". Ngay cả cách mạng cũng tốt: không phải tốt trong tự nó, vì không gì có thể bất hạnh hơn ưu thế của đám đông; nhưng bởi vì những giai đoạn đấu tranh sản ra tính cách vĩ đại tiềm tàng của những cá nhân mà trước đấy đã không có đủ cơ hội hay động cơ thúc đẩy; từ những chuyến hỗn loạn như thế nổi bật lên ngôi sao sáng; từ cảnh náo động và vô nghĩa của Cách mạng Pháp, có Napoléon; từ cảnh bạo động, vô trật tự của thời Phục hưng, nổi lên những cá nhân hùng mạnh, nhiều như Âu châu chưa từng thấy, và đến độ không thể chịu đựng. Nghị lực, tri thức và lòng kiêu hãnh, -những yếu tố ấy làm nên siêu nhân . Nhưng chúng phải được điều hoà, những đam mê chỉ sẽ trở thành quyền lực khi chúng được đào thải và thống nhất bằng một mục đích lớn lao đúc kết một đám dục vọng hỗn độn thành ra quyền lực của một nhân cách. "Thảm thương thay cho nhà tư tưởng không phải là người làm vườn mà chỉ là đất cho cây của ông !". Ai là người tuân theo những bản năng của mình ? Chính kẻ yếu đuối: y thiếu năng lực cấm đoán, y không đủ mạnh để nói không, y là một kẻ lỗi điệu, một kẻ suy vi. Tự khép mình vào kỷ luật - đấy là điều cao cả nhất. "Nếu người không muốn mình chỉ là một phần tử của đám đông, thì chỉ cần đừng dễ dãi với chính mình". Có một mục đích vì đó ta có thể cứng rắn với người khác, nhưng trên tất cả, cứng rắn với chính mình; có một mục đích vì đó ta sẽ làm hầu hết bất cứ gì trừ ra phản bội một người bạn - đấy là bảo chứng cuối cùng của sự tôn quý, công thức cuối cùng của siêu nhân. Chỉ bằng cách hướng về một con người như thế xem như mục đích và phần thưởng cho khổ nhọc, ta mới có thể yêu thương cuộc đời và sống hướng thượng. "Chúng ta phải có một mục đích mà vì đó tất cả chúng ta đều quý mến nhau". Chúng ta hãy cao cả, hãy làm kẻ tôi tớ, khí cụ cho những vĩ nhân. Thật là một cảnh tượng tốt khi hàng nghìn người Âu châu tự biến mình như phương tiện cho những mục đích của Bonaparte, và vui vẻ chết cho người, vừa hát tên người khi gục ngã! Có lẽ những người hiểu biết ở trong chúng ta có thể trở nên những kẻ phát ngôn cho người, mà chúng ta không thể làm, và có thể dọn đường cho người đến; chúng ta, bất kể ở miền đất nào, bất kể thời gian, có thể cùng làm việc cho mục đích ấy, dù có cách xa nhau bao nhiêu, Zarathustra sẽ hát, ngay cả trong cơn đau đớn, nếu người có thể nghe chỉ tiếng nói của những người hỗ trợ thầm kín kia, những người yêu Siêu nhân. "Hỡi các người cô đơn hôm nay, những người đứng riêng rẽ, các người một ngày kia sẽ là một dân tộc; từ các người những người đã tự chọn mình, một dân tộc chọn lọc sẽ khởi sinh; và từ dân tộc ấy sẽ sinh khởi siêu nhân.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:55:27 GMT 9
Những nhan đề các tác phẩm sau đó của Nietzsche -Bình minh (The Dawn of Day, 1881) và Trí tuệ hân hoan (The Joyful Wisdom, 1882) phản ảnh của một giai đoạn bình phục đầy tri ân, ở đây ta đọc thấy một giọng điệu từ tốn hơn, một lời lẽ hoà nhã hơn trong những tác phẩm về sau. Bấy giờ chàng có một năm trời với những ngày êm lặng, sống đạm bạc với số tiền phụ cấp của Đại học viện. Nhà triết học kiêu hãnh của chúng ta cũng có thể lụy trong một cơn yếu đuối ngộ nghĩnh: đùng một cái, chàng đâm ra si tình. Nhưng Lou Salomé không đáp lại tình yêu của chàng; chàng có đôi mắt quá sắc và sâu, không làm người ta thoải mái. Paul Rée ít nguy hiểm hơn, và đã đóng vai trò bác sĩ Pagello cho De Musset là Nietzsche. Nietzsche thất vọng bỏ ra đi, vừa đi vừa sáng tác những châm ngôn phản đối phụ nữ. Trong thực tế, chàng vốn thật thà; nồng nhiệt, lãng mạn, hiền lành đến độ đơn sơ chất phác; sự tuyên chiến của chàng đối với tính mềm yếu chính là một cố gắng để xua đuổi một đức hạnh đã đưa chàng đến chỗ thất vọng chua chát và gây một vết thương không bao giờ lành. Bấy giờ đối với chàng, cô đơn mấy cũng không vừa: "Thật khó sống với người; vì im lặng thật khó khăn" (Zarathustra, tr. 212). Chàng đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpen ở Sils Maria trong vùng Upper Engadine, -không yêu đàn ông cũng như đàn bà, và cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Ở đấy trên những miền cao cô quạnh, cảm hứng cho tác phẩm vĩ đại nhất đã đến với chàng. Tôi ngồi đây chờ đợi - chờ đợi hư vô Đã vượt ngoài thiện ác, bây giờ tôi thưởng thức ánh sáng rồi bóng râm; chỉ có ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận. Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi, một đã thành hai, Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi. (Trong Halévy, 234) Bây giờ "linh hồn chàng bừng dậy và tràn ngập mé bờ" (Zarathustra, 315). Chàng đã tìm ra một thầy mới - Zoroaster; một Thượng đế mới - Siêu nhân; và một tôn giáo mới - Sự vĩnh viễn phục hồi. Bây giờ chàng phải hát ca triết học vươn lên thành thi ca dưới một bài ca, và sẽ hát, dù tôi đang cô quạnh trong một ngôi nhà trống rỗng, và phải hát bài ca ấy cho chính lỗ tai tôi nghe" (Zarathustra, 279). "Hỡi vì sao vĩ đại ! - Hạnh phúc của ngươi sẽ là cái gì nếu không có những người ngươi chiếu cho ánh sáng ? ... Này ! Ta đang mỏi mệt chán chường về sự minh triết của ta, cũng như con ong đã hút quá nhiều mật ngọt; ta cần những bàn tay với đến xin đòi" (Zarathustra, 1). Bởi thế chàng viết Lời Zarathustra và hoàn tất nó vào "giờ linh thiêng khi Richard Wagner trút linh hồn ở Venice". Đấy là lời đáp mỹ lệ của chàng trả lời Parsifal; nhưng tác giả Parsifal đã chết. Đấy là tuyệt tác của Nietzsche, và chàng cũng biết thế. Sau này chàng đã viết về nó:"Tác phẩm này đứng một mình một cõi. Đừng để chúng ta nhắc đến những thi sĩ trong cùng một hơi; có lẽ chưa từng có cái gì đã được sáng tạo từ một mãnh lực tràn trề đến thế ... Dù cho tất cả sự hăng hái và sự tài hoa của mọi tâm hồn lớn đều tụ lại, cũng không thể sáng tạo nên chỉ một bài duy nhất trong những bài giảng của Zarathustra". Hơi quá đáng đấy, nhưng chắc chắn đấy là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Tuy nhiên Nietzsche đã qua một giai đoạn cay chua để ấn loát nó; phần đầu bị đình trệ vì nhà in của nhà xuất bản bận in một món hàng đặt cọc gồm 500 000 quyển thánh ca, rồi tiếp đó lại bận in một loạt những tập nhỏ chống Do Thái; và người xuất bản không chịu in phần cuối cùng nên tác giả đành phải bỏ tiền ra ấn hành phần ấy. Quyển sách bán được bốn mươi bản; bảy cuốn được đem phân phát; người ta ghi nhận nó, không ai tán dương nó. Chưa ai từng cô đơn đến thế. Zarathustra, 30 tuổi, hạ sơn từ đỉnh núi tư duy để thuyết giáo trước quần chúng, như người tiên phong của ông ở Ba-tư là Zoroaster; nhưng đám đông đã quay đi chỗ khác để nhìn một trò biểu diễn người đi trên dây. Người biểu diễn này té chết, Zarathustra vác y lên vai mang đi; "bởi vì anh đã lấy nguy hiểm làm nghề nghiệp, nên tôi sẽ chôn anh với chính tay mình". "Hãy sống nguy hiểm", chàng thuyết giáo. "Hãy dựng những đô thị của các người bên cạnh núi lửa Vesuvius. Hãy đưa những chiếc tầu của các người đến những vùng biển chưa thám hiểm. Hãy sống trong tình trạng chiến tranh". Và hãy nhớ vứt bỏ đức tin. Zarathustra hạ sơn gặp một ẩn sĩ già nói với chàng về Thượng đế. "Nhưng khi Zarathustra ở một mình, chàng tự nhủ rằng :"Có thể nào như thế được chăng ? Ông thánh già này ở trong khu rừng chưa nghe gì về chuyện Thượng đế đã chết à !" *) [(*) ám chỉ tác phẩm Goetterdaemerung - Hoàng hôn của Thượng đế - của Wagner ]. Song dĩ nhiên là Thượng đế đã chết, tất cả các Thượng đế đều đã chết cả rồi. Vì những Thượng đế cổ lổ đã chấm dứt từ lâu. Và chính thế, đấy là một chấm dứt tốt đẹp và hân hoan của những vì Thượng đế ! Không phải họ chết mà vẫn lai vãng trong hoàng hôn đâu, mặc dù người ta đã nói dối như vậy ! Trái lại, vào một ngày xưa, họ đã cười ngất đến chết ! Việc ấy xảy ra khi mà, chính một vị Thượng đế đã thốt ra lời nói ít-có-vẻ-Thượng-Đế nhất. Lời ấy như vầy: "Chỉ có một Thượng đế ! Trước ta, ngươi sẽ không được có một vì Thượng đế nào khác". Khi ấy tất cả các Thượng đế đều cười lớn rũ rượi trong ghế bành của họ mà la lên "Phải chăng Thượng-đế-tính đúng nghĩa là chỉ có những Thượng đế chứ không có một Thượng đế ?" Ai có tai, hãy lắng mà nghe. Zarathustra đã nói thế (Zarathustra , 263). Thật là một vô thần luận khoái hoạt làm sao! "Có phải Thượng-đế-tính như vầy là đúng nhất không: ấy là, không có Thượng đế ?". "Cái gì có thể được sáng tạo nếu có những Thượng đế ?... Nếu có những Thượng đế, thì làm sao ta chịu được cái chuyện rằng ta không phải là Thượng đế ? Do đó không có Thượng đế nào cả" (Zarathustra, 116-118). "Có ai có nhiều tính chất phi-thượng-đế hơn ta, để ta có thưởng thức những lời dạy ? (Z., 245). "Ta van xin các người, hỡi những huynh đệ của ta, xin các người hãy trung thành với trái đất, và đừng tin tưởng những kẻ nói cho các người nghe về những hy vọng siêu trần ! Họ chính là những kẻ bỏ thuốc độc, dù họ ý thức hay không" (Z., 5). Nhiều kẻ ươn gàn ngày xưa cuối cùng đã trở về với chất thuốc độc ngọt ngào này, cần thiết cho cuộc đời như một thứ thuốc mê. Những "người cao cả" tụ họp trong hang đá của Zarathustra để chuẩn bị đi rao truyền lý thuyết của chàng; chàng từ giã họ một thời gian, và trở về để thấy họ đang thờ phượng một con lừa đã "sáng tạo thế giới theo hình ảnh của mình - nghĩa là, ngu đần hết mức" (Z., 457). Bấy nhiêu đây không khuyến dạy gì; nhưng hãy nghe bản văn sau đó: "Kẻ nào phải làm một đấng sáng tạo về thiện và ác - đúng thế, kẻ ấy phải trước hết là một thần phá hoại, đập tan những giá trị cho rời rã. Như vậy, cái cực ác là một phần của cái cực thiện. Nhưng cái thiện này là cái thiện đầy sáng tạo. Hãy nói về điều ấy, hỡi những người minh triết, dù nó có xấu xa bao nhiêu nữa. Im lặng là điều tệ hơn; mọi chân lý không-được-nói-ra đều trở thành độc hại. Và dù cái gì sẽ đập tan những chân lý chúng ta, cứ để cho nó đập tan ! Còn nhiều ngôi nhà cần xây dựng. Zarathustra đã nói thế !" (Z., 162) Có phải lời này bất kính không ? Nhưng Zarathustra phàn nàn rằng "không còn ai biết cách sùng kính như thế nào cả" (Z.,354) và chàng tự gọi mình là "người kính tin nhất trong những người không tin Thượng đế". Chàng khao khát niềm tin và xót thương "tất cả những kẻ, như ta đã khổ vì nỗi ghét thù lớn rộng, những kẻ đã thấy rằng Thượng đế cũ đã chết mà chưa có một Thượng đế mới nào quấn tã nằm trong nôi" (Z., 434). Và đoạn chàng gọi đích danh vị Thượng đế mới: Tất cả Thượng đế đều chết rồi, bây giờ chúng ta muốn rằng siêu nhân phải sống ... Ta dạy các người siêu nhân. Con người là một cái gì phải được siêu vượt. Các ngươi đã làm gì để vượt trên con người ? Cái lớn lao trong người là ở chỗ nó là một cây cầu chứ không là một mục đích: cái ta có thể yêu thương nơi con người là ở chỗ nó là một chuyển tiếp và một sự phá huỷ. Ta yêu những con người không biết sống ra sao trừ phi bằng cách chết, vì họ là những người vượt qua bên kia. Ta yêu những con người khinh bỉ tất cả bởi vì họ là những người tôn sùng vĩ đại, họ là những mũi tên của sự khao khát bờ bên kia. Ta yêu những con người không tìm kiếm bên kia những vì-sao một lý do để chết và được hy sinh, mà tự hiến mình cho trái đất để một ngày kia trái đất này có thể trở thành trái đất của siêu nhân ... Đã đến lúc cho người đánh dấu mục tiêu mình. Đã đến lúc cho người dựng mầm cây hy vọng lớn nhất của nó. Hãy nói ta nghe, hỡi huynh đệ, nếu loài người mà thiếu mục đích, thì phải chăng chính nhân loại của bất thành ? Tình yêu đối với con người xa xôi nhất vốn cao cả hơn tình yêu đối với láng giềng ngươi" (Z., 108, 419, 5, 8, 11, 79, 80). Nietzsche dường như thấy trước rằng mọi độc giả sẽ nghĩ chính chàng là siêu nhân; và cố để phòng điều này bằng cách thú nhận siêu nhân chưa ra đời; chúng ta chỉ có thể làm những kẻ dọn đường, làm đất đai thích hợp cho siêu nhân. "Đừng ham muốn gì vượt ngoài khả năng ngươi... Đừng đức hạnh quá mức ngươi có thể, đừng đòi hỏi từ chính ngươi những gì trái ngược với khả tính" (Z., 423 - 6). Không phải dành cho chúng ta cái hạnh phúc mà chỉ siêu nhân mới biết được; mục tiêu tốt nhất của chúng ta là hành động. "Từ lâu ta đã thôi không còn nỗ lực đeo đuổi hạnh phúc mình; bây giờ ta nỗ lực theo đuổi hành động" (Z. 341). Nietzsche chưa lấy làm đủ với việc sáng tạo Thượng đế theo hình ảnh mình; chàng phải tự làm cho mình bất tử. Sau siêu nhân sẽ đến sự phục hồi vĩnh viễn. Mọi sự sẽ trở về, với chi tiết rõ ràng, và trở về vô số lấn không thể hạn định; ngay cả Nietzsche cũng sẽ trở lại, và Đức quốc này với máu, sắt và tro tàn, và tất cả khổ nhọc của tâm thức con người từ ngu si đến Zarathustra. Đấy là một ý thức ghê gớm, một hình thức " ừ " cuối cùng và can đảm nhất, một hình thức chấp nhận cuộc đời; và tuy nhiên làm sao nó không thể là thế ? Những phối hợp khả hữu về thực tại chỉ có hạn, mà thời gian thì vô cùng; một ngày nào đó, không thể tránh, đời sống và vật chất sẽ rơi vào một hình thức hệt như xưa kia chúng đã từng mang, và từ cuộc tái diễn định mệnh ấy, tất cả lịch sử sẽ phải diễn lại quá trình quanh co khúc khuỷu của nó. Tất mệnh thuyết đưa chúng ta đến một ngõ ỷ (ngõ hẹp) như thế. Thảo nào Zarathustra sợ phải nói lên điều này như bài học cuối cùng của chàng; run sợ và thối lui, cho đến khi một tiếng nói thốt ra từ trong chàng: "Con làm sao thế, hỡi Zarathustra ? Cứ nói ra lời của con đi rồi chết !" V ĐẠO ĐỨC SIÊU NHÂN Zarathustra đã trở nên một Thánh kinh đối với Nietzsche mà những sách sau này của chàng đều chỉ là phần luận giải cho nó. Nếu Âu châu không chịu thưởng thức thơ Nietzsche , thì có lẽ sẽ hiểu tản văn của chàng. Sau bài ca của nhà tiên tri, ta thưởng thức đến luận lý của nhà triết học; và có hề gì nếu chính triết gia ấy lại không tin vào luận lý ? Vì đấy ít ra cũng là dụng cụ của sự sáng sủa, nếu không phải là con dấu của chứng cứ. Bấy giờ chàng cô độc hơn lúc nào hết, vì Zarathustra có vẻ quái lạ ngay cả đối với bạn bè chàng. Những học giả như Overbeck và Burckhardt, những người từng cộng sự với chàng ở Basel và đã hâm mộ cuốn Khai sinh của Bi kịch, bây giờ tiếc thương một nhà ngữ học xuất sắc đã mất, và không thể vui mừng đón một nhà thơ ra đời. Em gái chàng bỗng nhiên bỏ chàng đi kết hôn với một người trong bọn chống Do Thái mà Nietzsche khinh bỉ, và bỏ đi đến tận Paraguay. Nàng mời ông anh xanh xao yếu ớt đi theo, để tốt cho sức khoẻ chàng ; nhưng Nietzsche coi trọng đời sống của tâm thức hơn sức khoẻ thể xác; chàng muốn ở lại nơi có trận chiến; Âu châu đối với chàng cần thiết "như một bảo tàng viện văn hoá" (Figgis, The Will to Freedom). Chàng sống bất thường về chỗ ở và thời gian; Chàng thử ở Thuỵ sĩ, Áo, Genoa, Nice và Turin, chàng thích viết giữa những bầy bồ câu tụ xung quanh những con sư tử ở St. Mark. "Piazza San Marco nầy là phòng làm việc tốt nhất của tôi". Nhưng chàng đã theo lời khuyên của Hamlet ở ngoài nắng, làm hại đôi mắt đau của chàng, chàng tự giam mình trong những căn gác dơ bẩn không lò sưởi và làm việc sau những tấm màn cửa che kín. Vì mắt kém, từ đấy chàng không viết sách nữa, mà chỉ viết đoản văn. Nietzsche thâu thập một vài đoạn trong số này với những nhan đề Bên kia Thiện Ác (BKTA - 1886 - Jenseits von Gut und Boese) và Uyên nguyên đạo đức (1887- Zur Genealogie); trong những cuốn này, Nietzsche hy vọng phá tan nền đạo đức cũ, dọn đường cho một nền đạo đức của siêu nhân. Trong một thời gian ngắn, chàng đã thành một nhà ngữ-học trở lại và cố nhấn mạnh nền đạo đức mới của mình bằng những từ ngữ không hẳn là không thể chê trách. Chàng nhận xét rằng ngôn ngữ Đức có hai tiếng chỉ nghĩa "xấu" - schlecht và boese -. Schlecht được hạng người thượng lưu dùng để nói người dưới và có nghĩa "thường", "thông tục", về sau nó trở nên có nghĩa tầm thường, vô giá trị, xấu. Boese được người dưới dùng nói đến hạng người trên, có nghĩa không quen thuộc, bất thường, không tính được, nguy hiểm, tai hại, tàn bạo: Napoléon là boese. Nhiều người mộc mạc sợ cá nhân phi thường như một sức phân hoá; Trung hoa có một ngạn ngữ rằng : "Vĩ nhân là một mối hoạ công cộng. "Cũng thế, gut có 2 nghĩa, tương phản với schlecht và boese: Do quí tộc dùng, nó có nghĩa mạnh, can đảm, hùng, thiện chiến, thánh thiện (gut từ chữ Gott -thượng đế, thần thánh-); do người thường dùng, nó có nghĩa quen thuộc, thanh bình, vô hại, tử tế. Thế là ở đây có hai cách tương phản để định giá trị hành vi con người, hai lập trường và tiêu chuẩn đạo đức, một nền đạo đức của ông lớn (Herren-moral) và một nền đạo đức của bầy lũ (Herden-moral), nền đạo đức của chủ nhân và đạo đức của nô-lệ; Nền đạo đức trước là tiêu chuẩn được công nhận thời cổ điển, nhất là giữa những người La-Mã; ngay cả đối với người La Mã tầm thường, đức hạnh là virtus -hùng tính, can đảm, liều lĩnh, bạo dạn. Nhưng từ Á châu, và nhất là từ những người Do Thái vào thời họ bị lệ thuộc chính trị, nẩy sinh rằng tiêu chuẩn thứ hai; Sự lệ thuộc đẻ ra tính khiêm nhường. Sự vô vọng đẻ ra lòng vị tha - vốn là một lời kêu gọi giúp đỡ. Dưới nền đạo đức bầy cừu này, lòng yêu chuộng hiểm nguy và quyền lực nhường chỗ cho sự yêu thích bình an, bảo đảm; sức mạnh bị thay bằng lanh khôn, sự phục thù công khai thay bằng lén lút, sự cứng rắn bằng lòng trắc ẩn, sáng tạo bằng lằn roi của lương tâm. Danh dự là vô thần, phong kiến quý tộc; lương tâm là Ki-tô, trưởng giả, dân chủ. Chính tài hùng biện của những tiên tri, từ Amos đến Jesus, đã làm cho quan niệm về một giai cấp lệ thuộc trở thành hầu như một nền đạo đức phổ quát: "thế tục" và "xác thịt" trở thành đồng nghĩa với xấu xa, và sự nghèo kém thành ra một chứng từ của đức hạnh. Lối đánh giá này đã được Jesus đem đến tột đỉnh: với ông, mọi con người có giá trị ngang nhau, và có những quyền ngang nhau; từ lý thuyết ông, nảy sinh ra dân chủ, thực dụng lý thuyết, xã hội chủ nghĩa; tiến bộ bây giờ được định nghĩa theo những thứ triết lý của hạng bình dân, theo sự bình đẳng hoá và tầm thường hoá, theo sự suy đồi và sinh hoạt đi xuống. Giai đoạn cuối cùng trong vận suy vi là sự tán dương lòng trắc ẩn và đức hy sinh, sự an ủi những tội nhân một cách đầy tình cảm, "sự vô năng của một xã hội trong việc bài tiết". Cảm tình chỉ chính đáng khi nó tích cực; nhưng lòng trắc ẩn là một xa xỉ phẩm tinh thần có tính cách làm tê liệt, một sự phung phí tình cảm đối với hạng người bất tài, hạng khiếm khuyết, hạng xấu xa, hạng người đau ốm một cách tội lỗi và hạng tội nhân không thể cứu vãn. Có một cái gì thiếu tế nhị và có tính cách xâm phạm trong lòng trắc ẩn; sự "đi thăm kẻ ốm" là một kích thích của lòng tự tôn trong việc thưởng ngoạn cảnh vô vọng của kẻ láng giềng mình. Đằng sau tất cả nền "Đạo đức" ấy là một ước muốn thầm kín đối với quyền lực. Tình yêu chính nó chỉ là một ham muốn chiếm hữu. Sự tán tỉnh là trận chiến và kết đôi bạn là làm chủ: Don José giết Carmen để nàng khỏi trở thành sở hữu của một kẻ khác. "Người ta tưởng tượng rằng họ không ích kỷ trong tình yêu bởi vì họ đi tìm lợi ích cho một người khác, thường xung nghịch với lợi ích của riêng họ. Nhưng khi làm thế họ muốn chiếm hữu người kia.. Tình yêu, trong tất cả loại tình cảm là thứ tình vị kỷ nhất và bởi thế, khi tình yêu bị thương tổn, nó trở thành ít độ lượng nhất". Ngay cả trong tình yêu chân lý cũng có cái ham muốn chiếm hữu, có lẽ ham muốn làm người sở hữu chủ đầu tiên của chân lý, người đầu tiên tìm thấy nó còn nguyên vẹn. Khiêm cung là cách tô màu để che chở cho ý chí quyền lực. Đối với lòng ham mê quyền lực này, lý trí và đạo đức trở thành vô vọng; chúng chỉ là khí giới trong tay nó, làm mồi cho trò chơi của nó. "Các hệ thống triết học là những ảo ảnh chói loà, cái gì ta thấy được không phải là chân lý bấy lâu tìm tòi, mà chỉ là phản ảnh của những dục vọng của chính chúng ta". Những triết gia đều làm như thể quan điểm đích thực của họ đã được tìm qua quá trình diễn tiến của một biện chứng lạnh lùng, thuần khiết khách quan một cách thánh thần; ... trong khi đó kỳ thực nó là một mệnh đề thiên kiến, một ý nghĩ hay "sự gợi ý", thường thường là dục vọng của thâm tâm họ được trừu tượng hoá và tinh xảo hoá, và được họ bảo vệ bằng những luận chứng tìm kiếm sau. Chính những dục vọng hạ tầng này, những nhịp thở của ý chí quyền lực này, đã định đoạt tư tưởng chúng ta. "Phần lớn hành động tri thức của chúng ta diễn tiến một cách vô thức, chúng ta không cảm nhận được ... Suy tưởng hữu thức ... là phần yếu kém nhất". Bởi vì bản năng là vận hành trực tiếp của ý chí quyền lực, không bị ý thức quấy rầy, "bản năng là trí thông minh nhất trong tất cả loại trí thông minh đã được tìm ra từ trước đến nay". Quả vậy, vai trò của ý thức đã được đánh giá quá đáng một cách ngu ngốc. "Có thể xem ý thức là phụ thuộc, hầu như không đáng quan tâm, thừa thãi; có lẽ phải biến mất để thay thế bằng sự tự động hoàn toàn". Nơi người mạnh, có rất ít cố gắng để che dấu dục vọng dưới lớp áo của lý trí; luận cứ giản dị của họ là "tôi muốn". Trong hùng tính chưa bị hư hỏng của tâm hồn chủ-nhân-ông, ước muốn biện minh cho chính nó; và lương tâm, trắc ẩn hay hối hận không thể lọt vào. Nhưng từ trước tới nay quan điểm Do-thái-Ki-tô-dân-chủ vẫn thịnh hành đến nỗi những người hùng mạnh bây giờ lại hổ thẹn vì sự hùng mạnh và sức khoẻ của mình, và bắt đầu tìm "lý do". Những đức hạnh và giá trị quý tộc đang chết dần chết mòn. "Âu châu đang bị đe doạ bởi một nền Phật giáo mới"; ngay cả Schopenhauer và Wagner cũng trở thành những Phật tử đầy lòng trắc ẩn. "Toàn thể đạo đức của Âu châu đều dựa trên những giá trị chỉ có ích cho bầy lũ ". Những người mạnh không còn được phép thi thố sức mạnh của mình, họ sẽ trở thành càng giống với những người yếu càng tốt; "thiện là không làm cái gì mà ta không đủ mạnh để làm". Há Kant, "chú Chệt vĩ đại của thành Koenigsberg" kia đã không chứng minh rằng không bao giờ được sử dụng con người như những phương tiện ? Kết quả là những bản năng của người mạnh: săn bắn, chiến đấu, chiếm đọat và thống trị đều bị lật lộn vào bên trong, trở thành sự tự dằn xé vì không có lối thoát; những bản năng ấy sinh ra tánh khổ hạnh và ép xác và "lương tâm cắn rứt", "tất cả mọi bản năng không tìm được một lối thoát tràn ra ngoài thì đều quay trở vào trong - đấy là ý nghĩa tôi muốn nói về tình trạng tự xoay về bên trong của con người: ở đây chúng ta có hình thức đầu tiên của cái sẽ được gọi là linh hồn" (Bi Kịch, 128, 14, 177). Công thức của sự đồi truỵ là: những đức hạnh thuộc riêng của bầy nhóm bị nhiễm sang người lãnh tụ, và nhào nặn họ thành ra thứ đất sét thông thường "Những hệ thống đạo đức phải bị bắt buộc trước hết là cúi mình trước những cấp bực, lòng kiêu căng của họ phải bị tội về lương tâm họ - cho đến khi cuối cùng họ hoàn toàn hiểu rằng cái quan niệm theo đó", cái gì đúng cho một người thì cũng đúng cho một người khác "là một quan niệm vô luân". Những vai trò khác nhau đòi hỏi những đức tính khác nhau; và những tính " ác " của người mạnh cũng cần thiết trong xã hội như những tính " thiện " của kẻ yếu. Sự khắc nghiệt, bạo động, nguy hiểm, chiến tranh, đều giá trị ngang với tử tế; hoà bình; những cá nhân vĩ đại chỉ xuất hiện vào những thời nguy hiểm bạo động và tất yếu phũ phàng. Điều tốt nhất trong con người là sức mạnh của ý chí, quyền lực và sự trường cửu của đam mê, không đam mê con người chỉ là cục bơ, không thể hành động. Thèm muốn, ganh ty., ngay cả thù ghét nữa, đều là những yếu tố cần thiết trong quá trình tranh đấu đào thải và sống còn. Ác đối với thiện cũng như sự canh tân đối với cổ tục; không có sự phát triển nếu không có một vi phạm gần như tội lỗi đối với những tiền lệ và "trật tự". Nếu sự ác độc mà không tốt thì nó đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải coi chừng đừng quá tốt; "con người phải trở nên tốt hơn và độc ác hơn". Nietzsche rất được an lòng để thấy nhiều độc ác và tàn nhẫn trên thế giới, chàng cảm thấy một khoái lạc tàn bạo khi suy nghiệm về cái mức độ mà, theo Nietzsche "sự tàn bạo đã làm nên niềm hân hoan và lạc thú lớn lao nơi người cổ đại" và chàng tin rằng lạc thú của chúng ta trong bi kịch, hay trong bất cứ gì cao cả; là một sự tàn bạo tinh vi. "Người ta là con vật tàn bạo nhất" Zarathustra nói. "Khi xem những bi kịch, cảnh đấu bò mộng và đóng đinh, nó cảm thấy hạnh phúc hơn lúc nào cả từ trước tới nay ở trần thế. Và khi nó đặt bày (bày đặt ?) ra địa-ngục ...thì kia, địa ngục là thiên đàng của nó trên trần gian"; bây giờ nó có thể chịu đựng khổ đau, bằng cách thưởng ngoạn hình phạt vĩnh viễn của những kẻ đàn áp nó ở bên kia thế giới. Nền đạo đức tối hậu là sinh vật học; chúng ta phải phân đoán sự vật tuỳ theo giá trị sống của chúng; chúng ta cần "định lại tất cả các giá trị" theo sinh lý học. Trắc nghiệm thực sự về một người, hay một nhóm, hay một loài, chính là năng lượng, khả năng, quyền lực. Chúng ta có thể dung hoà phần nào với thế kỷ XIX ở chỗ nó nhấn mạnh trên yếu tố vật lý. Linh hồn là một nhiệm vụ của cơ thể. Chỉ một gịot máu thừa hay thiếu trong não đều có thể làm cho con người đau đớn hơn cả Prométhée đau vì con kên-kên. Những thức ăn khác nhau có những tác dụng tinh thần khác nhau: gạo dành cho Phật giáo; và siêu hình học Đức là hậu quả của bia. Bởi thế một nền triết học đúng hay sai tuỳ thuộc ở chỗ nó biểu trưng, tán dương cuộc sống thăng tiến hay lụn bại. Người lụn bại nói: "Cuộc đời không có giá trị gì cả" đáng lẽ nó nên nói :"Tôi không có giá trị gì cả". Tại sao cuộc đời lại đáng sống khi tất cả những giá trị bi hùng trong đó đã được để cho tàn lụn và thuyết dân chủ -nghĩa là không tin vào tất cả những con người vĩ đại - dần dần cứ mỗi mười năm lại phá hoại một dân tộc ? Con người Âu châu ưa hợp quần ngày nay có thể làm bộ như y là loại người chánh đáng độc nhất : y tán dương những đức tính của mình như tinh thần công cộng, lòng tử tế, kính nhường, siêng năng cần mẫn, điều độ, khiêm tốn, khoan hồng, thiện cảm - do những đức tính ấy, y là người lịch sự, chịu đựng, và ích lợi cho bầy nhóm - xem như những đức hạnh đặc biệt người. Tuy nhiên, khi người ta tin tưởng rằng người lãnh đạo và đầu đàn không thể thiếu, người ta đã làm hết thử thách này đến thử thách khác để thay thế những người điều khiển bằng sự triệu tập những người ưa hợp quần khôn khéo: Tất cả những hiến pháp đại nghị, chẳng hạn, đều có nguồn gốc này. Dù sao, thật là một điều đại hạnh, một sự giải thoát khỏi một gánh nặng đã trở thành không thể chịu đựng, khi có một người xuất hiện để thống trị những người Âu châu hợp quần này. Tác dụng của việc Napoléon xuất hiện là bằng chứng lớn lao cuối cùng cho sự kiện này: lịch sử của ảnh hưởng Napoléon hầu như là lịch sử của niềm hạnh phúc cao vượt mà toàn thế kỷ này đã đạt được trong số những cá nhân và những giai đoạn giá trị nhất của nó. VI SIÊU NHÂN Cũng như đạo đức không phải ở nơi lòng tử tế mà ở sức mạnh, mục đích của nỗ lực con người không phải là nâng cao tất cả phát triển những cá nhân mạnh và tinh tuý. "Không phải nhân loại, mà siêu nhân mới là cùng đích". "Cải thiện nhân loại" sẽ là việc cuối cùng cho một người có lương tri làm: nhân loại không cải thiện được, lại cũng không có nhân loại nữa - đấy là một khái niệm trừu tượng; tất cả những gì tồn tại chỉ là một tổ kiến người bao la. Cảnh diện toàn thể rất giống cảnh một cơ xưởng thí nghiệm khổng lồ nơi đó một vài đồ vật thành công trong mọi thời đại, trong khi phần lớn đều thất bại: và mục đích của mọi cuộc thí nghiệm không phải là hạnh phúc của quần chúng mà sự cải thiện mẫu mực. Chẳng thà những xã hội chấm dứt đi, còn hơn là không có một mẫu người cao cả nào xuất hiện. Xã hội là một khí cụ để làm tăng giá trị cho quyền lực và nhân cách của cá nhân; bầy nhóm tự nó không phải là cứu cánh. "Thế thì những máy móc để làm gì, nếu tất cả cá nhân chỉ được dùng để duy trì chúng ? Nếu máy móc - hay tổ chức xã hội - tự chúng là cứu cánh, thì điều ấy có phải là một hài kịch hay không ? Ban đầu Nietzsche nói như thể đặt hy vọng vào sự sản xuất một nòi giống mới; về sau chàng lại nghĩ đến siêu nhân của mình như là cá nhân siêu đẳng vươn lên -một cách tình cờ- từ đám bùn lầy của sự tầm thường quần chúng, và sự tồn tại của siêu nhân này nhờ nhiều ở việc nuôi nấng dạy dỗ cẩn thận tỉ mỉ hơn là ở những rủi may của luật đào thải tự nhiên. Bởi vì quá trình sinh vật học có khuynh hướng chống lại cá nhân phi thường; thiên nhiên tàn bạo nhất đối với những sản phẩm tinh xảo nhất của nó; nó yêu nhiều hơn, và che chở cho những kẻ trung bình và tầm thường; trong thiên nhiên có một khuynh hướng vĩnh viễn trở lại với mẫu mực, với người trung bình, đám đông luôn luôn chế ngự những phần tử anh hoa phát tiết. Siêu nhân chỉ có thể sống sót bằng sự đào thải nhân văn, bằng viễn tượng cải thiện nòi giống và bằng một nền giáo dục cao quý. Dù thế nào đi nữa, thật phi lý vô cùng, nếu để cho những cá nhân cao vượt kết hôn vì tình -những anh hùng mà cưới tôi tớ, những thiên tài kết hôn với những chị ba thợ may. Schopenhauer đã sai lầm, tình yêu không có tính cách cải thiện giống nòi; khi một người đàn ông đang yêu, không nên để cho y được làm những quyết định có ảnh hưởng đến cả đời y; không có chuyện một người vừa yêu mà vừa minh mẫn khôn ngoan được. Chúng ta cần phải tuyên bố vô giá trị những lời ước nguyện của những cặp tình nhân, và phải làm tình yêu trở thành một trở ngại hợp pháp cho hôn phối. Những người tốt nhất phải chỉ cưới những người tốt nhất; tình yêu nên để dành cho bọn tầm thường. Mục đích của hôn nhân không phải chỉ là tái sản xuất, nó còn phải là sự phát triển . "Ngươi còn trẻ, và mong có con và kết hôn. Nhưng ta hỏi người, ngươi có phải là một người dám mong mỏi một đứa con chăng ? Ngươi có phải người quang vinh, người tự-hàng-phục, người điều khiển được những giác quan mình, chủ nhân của những đức hạnh mình ? Hay là trong ước muốn của ngươi, chính con vật đang nói, nhu cầu xác thịt đang nói ? Hay cảnh cô đơn ? Hay nỗi bất hoà với chính ngươi ? Ta mong rằng chính sự quang vinh và tự do của người đang mong mỏi một đứa con. Ngươi sẽ xây dựng những đài kỷ niệm sống cho sự quang vinh và giải phóng của ngươi. Ngươi sẽ xây dựng ở bên ngoài ngươi. Nhưng trước hết ngươi phải tự xây dựng chính ngươi cho được quân bình chính trực, về thể xác lẫn linh hồn. Ngươi sẽ không những tái tạo chính ngươi mà còn phải tái tạo những đứa con vượt trên ngươi ! Hôn phối: ta gọi đó là ý chí của hai người để sáng tạo một người thứ ba còn tốt đẹp hơn những kẻ đã tạo nên nó. Ta gọi hôn phối là sự kính trọng lẫn nhau cũng như kính trọng đối với những người có một ý chí như thế" (Zarathustra đã nói thế). Không có dòng dõi tốt thì không thể có sự cao cả. "Chỉ tri thức mà thôi không làm nên sự cao quý; trái lại, luôn luôn cần có một yếu tố để làm cho tri thức cao quý. Yếu tố ấy là gì ? Dòng máu ..." Nhưng đã có dòng giống tốt và sự nuôi dưỡng cải thiện, yếu tố tiếp theo trong công thức của siêu nhân là một trường học nghiêm khắc; ở đấy đòi hỏi sự hoàn thiện như một lẽ tự nhiên, không đáng khen ngợi nữa; ở đấy sẽ có ít tiện nghi và nhiều trách nhiệm; ở đấy thể xác sẽ được dạy cho chịu đựng đau đớn trong im lặng, và ý chí có thể tập vâng lời và điều khiển. Không có sự phóng túng vô nghĩa ! Không có sự làm suy nhược thể chất và tâm hồn bằng khoan hồng và "tự do" ! Tuy nhiên đấy là một ngôi trường ở đó người ta học cười một cách hăng hái; triết gia sẽ được đánh giá tuỳ theo khả năng cười; "kẻ nào đã sải bước băng qua những ngọn núi cao nhất sẽ cười trước tất cả mọi bi kịch". Và sẽ không có chất a-xít trong nền giáo dục siêu nhân này; một trường khổ hạnh của ý chí, nhưng không lên án xác thịt. "Chớ dừng vũ điệu, hỡi những cô gái dịu dàng ! Không có kẻ phá đám nào đến với các cô bằng một con mắt độc ác ..., không có kẻ thù cho những cô gái có đôi gót đẹp". Ngay cả một siêu nhân cũng được quyền thưởng thức những cặp gót đẹp. Một con người được sinh ra và nuôi dạy như thế sẽ đứng ngoài thiện ác; chàng sẽ không ngần ngại "Ác" (boese) nếu mục đích của chàng đòi hỏi; chàng sẽ can đảm hơn là thiện, "Thiện là gì ? ... Can đảm chính là thiện". "Thiện là gì? Tất cả những gì tăng trưởng cảm thức quyền lực, ý chí quyền lực, chính quyền lực, ở trong người. Ác là gì ? Là tất cả những gì sinh ra từ sự yếu hèn". Có lẽ đặc điểm trỗi bật của siêu nhân là lòng yêu thích nguy hiểm và tranh đấu, miễn là có một mục đích: siêu nhân sẽ không tìm kiếm an ninh trước hết; chàng sẽ để dành hạnh phúc lại cho số đông. "Zarathustra ưa thích tất cả những gì làm nên những cuộc viễn du, và không thích sống thiếu hiểm nghèo". Do đó mọi chiến tranh đều tốt, bất chấp cái ti tiện tầm thường của những nguyên nhân gây ra nó vào thời đại này; "một cuộc chiến tranh tốt đẹp sẽ thần thánh hoá mọi nguyên nhân". Ngay cả cách mạng cũng tốt: không phải tốt trong tự nó, vì không gì có thể bất hạnh hơn ưu thế của đám đông; nhưng bởi vì những giai đoạn đấu tranh sản ra tính cách vĩ đại tiềm tàng của những cá nhân mà trước đấy đã không có đủ cơ hội hay động cơ thúc đẩy; từ những chuyến hỗn loạn như thế nổi bật lên ngôi sao sáng; từ cảnh náo động và vô nghĩa của Cách mạng Pháp, có Napoléon; từ cảnh bạo động, vô trật tự của thời Phục hưng, nổi lên những cá nhân hùng mạnh, nhiều như Âu châu chưa từng thấy, và đến độ không thể chịu đựng. Nghị lực, tri thức và lòng kiêu hãnh, -những yếu tố ấy làm nên siêu nhân . Nhưng chúng phải được điều hoà, những đam mê chỉ sẽ trở thành quyền lực khi chúng được đào thải và thống nhất bằng một mục đích lớn lao đúc kết một đám dục vọng hỗn độn thành ra quyền lực của một nhân cách. "Thảm thương thay cho nhà tư tưởng không phải là người làm vườn mà chỉ là đất cho cây của ông !". Ai là người tuân theo những bản năng của mình ? Chính kẻ yếu đuối: y thiếu năng lực cấm đoán, y không đủ mạnh để nói không, y là một kẻ lỗi điệu, một kẻ suy vi. Tự khép mình vào kỷ luật - đấy là điều cao cả nhất. "Nếu người không muốn mình chỉ là một phần tử của đám đông, thì chỉ cần đừng dễ dãi với chính mình". Có một mục đích vì đó ta có thể cứng rắn với người khác, nhưng trên tất cả, cứng rắn với chính mình; có một mục đích vì đó ta sẽ làm hầu hết bất cứ gì trừ ra phản bội một người bạn - đấy là bảo chứng cuối cùng của sự tôn quý, công thức cuối cùng của siêu nhân. Chỉ bằng cách hướng về một con người như thế xem như mục đích và phần thưởng cho khổ nhọc, ta mới có thể yêu thương cuộc đời và sống hướng thượng. "Chúng ta phải có một mục đích mà vì đó tất cả chúng ta đều quý mến nhau". Chúng ta hãy cao cả, hãy làm kẻ tôi tớ, khí cụ cho những vĩ nhân. Thật là một cảnh tượng tốt khi hàng nghìn người Âu châu tự biến mình như phương tiện cho những mục đích của Bonaparte, và vui vẻ chết cho người, vừa hát tên người khi gục ngã! Có lẽ những người hiểu biết ở trong chúng ta có thể trở nên những kẻ phát ngôn cho người, mà chúng ta không thể làm, và có thể dọn đường cho người đến; chúng ta, bất kể ở miền đất nào, bất kể thời gian, có thể cùng làm việc cho mục đích ấy, dù có cách xa nhau bao nhiêu, Zarathustra sẽ hát, ngay cả trong cơn đau đớn, nếu người có thể nghe chỉ tiếng nói của những người hỗ trợ thầm kín kia, những người yêu Siêu nhân. "Hỡi các người cô đơn hôm nay, những người đứng riêng rẽ, các người một ngày kia sẽ là một dân tộc; từ các người những người đã tự chọn mình, một dân tộc chọn lọc sẽ khởi sinh; và từ dân tộc ấy sẽ sinh khởi siêu nhân.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:57:00 GMT 9
VII SUY TÀN Kết quả là con đường đưa đến siêu nhân phải băng qua quý tộc. Dân chủ - "chứng tật ưa đếm đầu người" - cần phải bị nhổ tận gốc trước khi quá muộn. Bước đầu tiên ở đây là sự phá huỷ Ki-tô giáo về phương diện liên can đến mọi người cao cả. Chiến thắng của Ki-tô giáo là khởi đầu của dân chủ; "người Ki-tô giáo đầu tiên là một kẻ phản loạn - trong bản năng sâu thẳm nhất của y đối với mọi sự được ưu thế đặc quyền; y sống và tranh đấu không ngừng cho "bình quyền"; vào thời tân tiến đáng lẽ phải gửi y đến Tây-bá-lợi-á (Sibirie). "Kẻ nào vĩ đại nhất trong các ngươi, hãy để kẻ ấy phụng sự ngươi" - đây là đảo ngược của tất cả trí khôn chính trị, của mọi sự lành mạnh; quả thế, khi đọc thánh kinh tân ước ta cảm thấy bầu không khí của một tiểu thuyết Nga, một thứ đạo văn của Dostoievski. Những quan niệm như thế chỉ phát xuất giữa những bọn thấp hèn và chỉ vào một thời đại mà những người thống trị đã suy đồi không còn thống trị được nữa. "Khi Neron và Caralla ngự trên ngai, điều mâu thuẫn phát sinh là: người thấp hèn nhất có giá trị hơn người ở trên tột đỉnh". Cũng như sự việc Ki-tô giáo xâm chiếm Âu châu chấm dứt nền quý tộc cổ đại, những bá tước thiện chiến Teutonic (Nhật nhĩ man) thống trị Âu châu đã phục hồi những đức hạnh hùng tính của thời xưa, và trồng gốc rễ cho nền quý tộc tân tiến. Những người nầy không nặng lòng với "đạo đức", họ "giải thoát khỏi mọi kiềm thúc xã hội; trong tính chất phác của lương tâm dã thú họ trở về như những quỷ dữ hân hoan từ một cuộc chém giết ghê gớm, đốt nhà, hãm hiếp, tra tấn, với một lòng kiêu ngạo và an ổn như thể họ vừa thi hành chỉ một vụ phá phách kiểu học trò". Chính những người như thế đã cung cấp tầng lớp thống trị cho Đức, Na Uy, Pháp, Anh, Ý và Nga. "Một bầy những con mãnh thú có tóc hung, một giòng dõi thống trị và chủ nhân, với tổ chức quân sự, với năng lực tổ chức, không ngần ngại đặt những móng vuốt dễ sợ lên trên một quần chúng có lẽ vô cùng cao hơn về số lượng,... đám đông ấy lập nên quốc gia. Giấc mộng được xua đuổi, làm cho quốc gia khởi sự bằng một khế ước. Con người ấy cần gì đến khế ước khi nó có thể lãnh đạo, khi tự bản chất đã là chủ, người xuất hiện bằng sức mạnh trong hành vi và cốt cách ?" Dòng dõi ngự trị huy hoàng này đã bị làm hỏng trước hết bởi sự tán dương của Công giáo về những đức hạnh đàn bà, thứ đến bởi những lý tưởng của Thanh giáo và của hạng tiện dân trong thời cải cách, thứ ba là bởi sự hôn phối với dòng giống hạ lưu. Hệt như Công giáo chín mùi thành nền văn hoá phi luân, quý tộc của thời Phục hưng. Thời cải cách đã chà đạp nó với việc làm sống lại sự nghiêm trọng khắt khe của Do thái. "Cuối cùng có ai hiểu không, có ai muốn hiểu Phục hưng là gì không ?(*) [(*) Rốt cục có ai hiểu, dù muốn hiểu, Phục hưng là cái gì ? -dịch theo bản tiếng Đức - chú thích của người đánh máy-]. Sự đánh giá lại những giá trị Ki-tô giáo, sự cố gắng bằng mọi phương thế, mọi bản năng và mọi thiên tài để tạo nên những giá-trị-đối-lập, những giá trị cao quý chiến thắng ... Tôi thấy trước mắt một trường hợp khả hữu hoàn toàn ảo thuật với màu sắc chói sáng và vẻ mê hồn của nó ...Ceare Borgia làm giáo hoàng ... Các người có hiểu tôi không ?" Thệ phản giáo và rượu bia đã làm cùn lụt trí thông minh của Đức; bây giờ hãy thêm nhạc kịch Wagner. Kết quả là "Người Phổ ngày nay... một trong những thế lực nguy hiểm nhất của văn hoá ". "Hiện diện của nước Đức làm cho tôi ăn khó tiêu". "Nếu, như lời Gibbon nói, không có gì ngoại trừ thời gian - dù một thời gian lâu dài - là cần thiết để cho một thế giới tiêu diệt, thì cũng không có gì ngoại trừ thời gian -mặc dù còn lâu dài hơn- là cần thiết để phá huỷ một ý tưởng sai lầm ở Đức quốc". Khi Đức quốc đánh bại Napoléon, việc ấy tai hại cho văn hoá cũng như khi Luther đánh bại giáo hội, từ đấy Đức quốc dẹp sang bên nhũng Goethe, Schopenhauer và Beethoven của mình để bắt đầu thờ phụng "những kẻ ái quốc", "Đức quốc trên hết - tôi sợ rằng đấy là chấm dứt của triết học Đức". Tuy nhiên có một vẻ nghiêm trọng và sâu sắc tự nhiên nơi những người Đức cho chúng ta lý do để hy vọng rằng họ còn có thể cứu chuộc được Âu châu; họ có nhiều hùng tính hơn người Pháp hoặc Anh; họ kiên nhẫn, trì chí, siêng năng - từ đó sinh ra sự uyên bác, khoa học và quân kỷ của người Đức; thật thích thú khi nhìn thấy cả Âu châu lo lắng về quân đội Đức. Nếu năng lực tổ chức của Đức có thể phối hợp với tài nguyên tiềm tàng của Nga, về vật liệu và người, khi ấy sẽ đến thời kỳ chính trị vĩ đại. "Chúng ta cần nuôi dưỡng hai giòng giống Đức và Nga, chúng ta cần những nhà kinh tài khôn khéo nhất - những người Do thái- để có thể trở thành bá chủ thế giới ... Chúng ta cần một sự hợp nhất vô điều kiện với Nga sô". Đằng khác là tình trạng bao vây và bóp chẹt. Điều đáng ngại với Đức quốc là tính ươn gàn của tâm trí, một cái giá trả cho sự cương nghị trong tính tình. Đức quốc thiếu truyền thống văn hoá lâu dài, cái truyền thống đã làm cho dân tộc Pháp thành dân tộc tinh tế xảo diệu nhất trong tất cả các dân tộc ở Âu châu. "Tôi chỉ tin vào văn hoá Pháp, và tôi xem mọi cái khác ở Âu châu tự cho mình là văn hoá đều là một lầm lẫn". "Khi đọc Montaigne và Chamfort, ta gần cổ đại hơn với bất cứ nhóm tác giả nào khác ở một quốc gia nào khác". Voltaire là "một vị chúa tể lớn của tâm trí"; và Taine là "người số một trong số những sử gia đang sống". Ngay cả những văn sĩ về sau như Flaubert, Bourget, Anatole France, v.v. - đều vượt xa vô tận những người Âu châu khác về tư tưởng và ngôn ngữ sáng sủa - "thật sáng sủa, rõ ràng tinh vi làm sao, những người Pháp ấy !" Tính cách cao quý của mỹ cảm, của cảm thức và phong độ Âu châu đều là công trình của Pháp. Nhưng là của nước Pháp cố cựu, của nước Pháp vào thế kỷ 16 và 17; cuộc cách mạng, với sự phá huỷ nền quý tộc, đã phá huỷ luôn cả bánh xe và trường nuôi dưỡng văn hoá, và bây giờ linh hồn Pháp ốm yếu xanh xao so với những thời xưa cũ. Dù sao, Pháp vẫn còn có vài đức tính tốt đẹp; "ở Pháp hầu hết mọi vấn đề tâm lý và nghệ thuật đều được cứu xét một cách tinh tế và rốt ráo hơn ở Đức vô vàn... Vào chính lúc Đức quốc trổi dậy như một cường quốc trong thế giới chính trị, thì Pháp đã chiếm được địa vị quan trọng mới trong thế giới văn hoá". Nga là con vật tóc hung của Âu châu. Dân tộc Nga có một "chủ nghĩa định mệnh ương ngạnh và cam chịu đã đem cho họ ngay cả ngày nay, cái lợi thế hơn những người Tây phương chúng ta". Nước Nga có một chính phủ hùng hậu, không có "cái ngu xuẩn của nghị viện". Sức mạnh ý chí đã được tụ tập ở đấy từ lâu đời, và ngày nay đang lăm le tìm chỗ thoát; ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nga trở thành chúa tể Âu châu. "Một nhà tư tưởng cưu mang trong lòng tương lai của Âu châu, sẽ kể đến dân tộc Do thái và Nga - trong tất cả những viễn tượng của ông về tương lai - như những yếu tố có lẽ nhất và bảo đảm nhất trong ván cờ vĩ đại và trong trận tuyến của các lực lượng". Nhưng nói chung, chính những người Ý là những người sành điệu nhất, hùng mạnh nhất trong các dân tộc hiện hữu; cây-người tăng trưởng mạnh mẽ nhất ở Ý, như Alfieri đã tự hào. Có một cốt cách hùng tính, một niềm kiêu hãnh quý tộc ngay cả người Ý thấp kém nhất; "một anh chèo thuyền Gondola ở Venice luôn luôn là một bóng dáng tốt đẹp hơn một nghị viên cơ mật ở Berlin, và nói cho cùng, là một con người khá hơn". Tệ hơn tất cả là những người Anh; chính dân tộc này đã làm hỏng tâm hồn Pháp với ảo tưởng dân chủ; "Bọn coi cửa hàng, tín đồn Ki-tô giáo, bò cái, đàn bà, người Anh, và bọn dân chủ khác thuộc vào một bè với nhau". Chủ nghĩa thực dụng và tính chất hẹp hòi thiếu văn hoá là đáy thấp nhất của văn hoá Âu châu. Chỉ trong một xứ cạnh tranh bóp hầu cắt cổ nguyên tắc mới có thể quan niệm đời là một cuộc tranh đấu chỉ để sống còn. Chỉ trong một nước mà bọn coi cửa hàng và giữ tàu đã tăng bội đến một số lượng lấn át giới quý tộc, nguyên tắc mới có thể nặn ra thuyết dân chủ; đây là tặng phẩm, tặng phẩm Hy Lạp, mà Anh quốc đã đem lại cho thế giới tân tiến. Ai sẽ cứu Âu châu thoát khỏi Anh quốc và cứu Anh quốc thoát khỏi dân chủ ? VIII QUÝ TỘC Dân chủ có nghĩa là lang thang trôi giạt; có nghĩa là cho phép mỗi phần tử của một cơ thể làm bất cứ gì nó thích; có nghĩa là sự đứt mạch lạc và hỗ tương, sự lên ngôi của phóng túng và hỗn loạn. Dân chủ có nghĩa là sự thờ phụng cái tầm thường, và sự thù ghét những gì trác tuyệt. Nó có nghĩa là không thể có những vĩ nhân. Làm sao những con người vĩ đại có thể phục tùng sự thiếu phẩm cách và trơ tráo của một cuộc bầu cử ? Họ sẽ có cơ hội nào đâu ? "Cái mà người ta thù ghét như những con chó thù ghét chó sói, chính là một tâm hồn phóng khoáng, kẻ thù của mọi xiềng xích, con người không thờ phụng". Làm sao siêu nhân có thể xuất phát từ một đám đất như thế ? Và làm sao một quốc gia có thể trở thành vĩ đại được, khi những người vĩ đại nhất của quốc gia ấy nằm trong trạng huống thất dụng, chán nản, có lẽ không ai biết đến ? Một xã hội như thế sẽ mất cả tư cách; sự mô phỏng nằm theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc; không phải siêu nhân, mà con người của đa số trở thành lý tưởng mẫu mực; mọi người thành ra giống hệt mọi người khác; ngay hai giống Nam - Nữ cũng tiệm cận nhau. Đàn ông trở thành đàn bà và đàn bà thành đàn ông (Ý chí quyền lực, i, 382-4). Nữ tính, như vậy, thành hệ luận tự nhiên của dân chủ và Ki-tô giáo. "Ở đây ít có Nam tính; do đó đàn bà cố tự tạo cho mình nam tính. Vì chỉ có người đàn ông đầy đủ nam tính mới duy trì được nữ tính nơi đàn bà". Ibsen, "kẻ tớ gái già điển hình ấy" đã tạo nên "người đàn bà giải phóng". "Đàn bà được tạo thành do xương sườn của tôi nghèo nàn một cách kỳ lạ ! - người đàn ông nói ". Đàn bà đã mất hết quyền năng và thế lực vì sự giải phóng của họ; đàn bà ngày nay có đâu địa vị họ đã được hưởng dưới thời Bourbons ? Bình đẳng nam nữ là điều bất khả, vì cuộc chiến tranh giữa họ bất tuyệt; ở đây không có hoà bình nếu không có chiến thắng - hoà bình chỉ đến khi bên này hay bên kia được công nhận là chủ tể. Cố bình đẳng với người đàn bà là chuyện nguy hiểm; họ sẽ không bằng lòng với chừng ấy; họ chẳng thà chịu phục tùng nếu người đàn ông đúng là đàn ông. Trên tất cả, sự toàn hảo và hạnh phúc của họ nằm ở mẫu tính. "Mọi sự nơi đàn bà là một bí hiểm và mọi sự nơi đàn bà chỉ có một giải đáp: ấy là sinh con". "Đàn ông đối với đàn bà chỉ là một phương tiện, cứu cánh luôn luôn là đứa con. Còn đàn bà đối với đàn ông là gì ? ... Một đồ chơi nguy hiểm". "Đàn ông phải được huấn luyện sẵn sàng cho chiến tranh; và đàn bà cho việc tái tạo chiến sĩ ! Mọi việc khác đều là điên rồ". Tuy nhiên, "người đàn bà toàn hảo là một mẫu nhân loại cao hơn đàn ông toàn hảo, và bởi thế, một cái gì hiếm hoi hơn nhiều... Người ta có lịch sự với đàn bà bao nhiêu cũng không đủ ". Một phần của sự căng thẳng trong hôn nhân nằm ở chỗ hôn nhân làm trọn vẹn người đàn bà mà lại thu hẹp, làm trống rỗng người đàn ông, khi một người đàn ông tán tỉnh một người đàn bà, chàng tình nguyện hiến cả thế giới cho nàng, và khi nàng kết hôn cùng chàng, chàng đã làm thế thật, chàng phải quên cả thế giới khi đứa con ra đời; vị tha tính trong tình yêu trở thành tính vị kỷ của gia đình. Sự thẳng thắn lương thiện và óc canh tân là những xa xỉ phẩm của hoàn cảnh độc thân. "Ở phạm vi liên can đến tư tưởng triết học cao cả, mọi người đàn ông có vợ đều khả nghi... Đối với tôi, dường như là điều phi lý khi một kẻ đã chọn lãnh vực mình là sự đánh giá toàn thể cuộc sự tồn sinh, lại tự rước vào mình gánh nặng gia đình, kiếm gạo bảo đảm an ninh và địa vị xã hội cho vợ con". Nhiều triết gia đã chết khi đứa con của họ ra đời. "Gió luồn qua lỗ khoá bảo tôi: "Lại đây !". Cánh cửa buồng tôi khôn lanh tự mở ra, bảo : "đi đi !". Nhưng tôi cứ nằm vì bị xiềng xích bởi lòng yêu con cái. (Con người cô đơn ! Nietzsche, 77, 393). Cùng với nữ tính, sinh ra xã hội chủ nghĩa và tình trạng hỗn độn; tất cả bấy nhiêu đều là bè lứa của dân chủ; nếu bình quyền chính trị là chánh đáng, thì sao lại không bình quyền luôn cả kinh tế ? Tại sao phải có những lãnh tụ ? Có những nhà xã hội chủ nghĩa thán phục tác phẩm Zarathustra; nhưng không cần sự thán phục của họ. "Có một vài người giảng thuyết chủ nghĩa của ta về nhân sinh nhưng đồng thời lại là người thuyết giáo về bình đẳng ... Ta không muốn lầm lẫn với những kẻ thuyết về bình đẳng ấy. Vì trong ta chân lý bảo rằng : con người không bình đẳng ". "Chúng ta muốn đừng có một điểm chung nào cả". "Hỡi những người thuyết về bình đẳng, tính điên loạn chuyên chế của sự bất tài từ trong các người đã kêu gào đòi bình đẳng". Thiên nhiên ghét bình đẳng mà yêu sự phân biệt những cá nhân, giai cấp và chủng loại. Xã hội chủ nghĩa là phản sinh vật học, trong quá trình tiến hoá, những chủng loại, giống nòi, giai cấp hay cá nhân thấp kém bị sử dụng bởi hạng cao cấp hơn, mọi cuộc sống là sự khai thác, và chỉ tồn tại trên sự sống khác, cá lớn nuốt cá bé, đấy là tất cả câu chuyện. Xã hội chủ nghĩa là sự ganh tị: "Chúng muốn chiếm hữu cái gì chúng ta có" (Zarathustra, 137). Tuy nhiên, đấy là một quá trình để điều khiển; tất cả điều cần thiết để điều khiển nó là thỉnh thoảng mở ra cánh cửa giả giữa chủ và nô lệ, để cho những lãnh tụ của sự bất mãn lên thiên đàng hết. Không phải những lãnh tụ là đáng sợ, mà những kẻ dưới thấp, những kẻ nghĩ rằng bằng một cuộc cách mạng họ có thể thoát khỏi sự lệ thuộc vốn là kết quả tự nhiên của sự bất lực và biếng nhác của họ. Tuy nhiên, người nô lệ chỉ cao quý khi họ phản kháng. Dù sao nô lệ cũng cao quý hơn những người chủ của họ ngày nay - giới trưởng giả. Dấu hiệu của sự hèn kém trong văn hoá thế kỷ 19 là con người có tiền của đã là đối tượng cho quá nhiều tôn sùng và thèm khát. Nhưng cả những thương gia này cũng là nô lệ nữa, những con hình nhân của tập tục, nạn nhân của sự bận rộn; họ không có thì giờ để có những tư tưởng mới. Đối với bọn họ, sự suy nghĩ là điều tốt kiến thức và những niềm vui của tri thức đều vượt ngoài tầm họ. Do đó mà họ không ngừng lăng xăng đi tìm "Hạnh phúc", với những ngôi nhà to lớn không bao giờ là tổ ấm, cảnh xa xỉ hạ thấp khiếu thẩm mỹ, những phòng tranh treo "nguyên bản" có đính kèm giá tiền, những lạc thú nhục dục làm chậm lụt tâm hồn hơn là giải lao, thêm đà cho tâm trí. "Hãy nhìn những kẻ nông cạn kia ! Họ dồn chứa tài sản và bởi đó, cứ mỗi ngày một nghèo nàn thêm", họ chấp nhận tất cả những kiềm thúc của chủ nghĩa quý tộc nhưng không đạt đến được vương quốc của tâm trí để bù lại. "Hãy trông họ leo trèo, những con khỉ nhanh nhẹn kia ! Họ leo lên nhau và cứ thế tự kéo nhau vào trong bùn lầy sâu thẳm ... Mùi tanh hôi của bọn con buôn, sự xoay sở của tham vọng: hơi thở độc địa xấu xa". Những người như thế có tài sản cũng vô ích vì họ không thể đem lại phẩm cách cho tài sản bằng lối sử dụng cao quý, bằng sự bảo trợ phải cách cho văn học hay nghệ thuật. "Chỉ có con người của tri thức nên nắm giữ tài sản"; Những người khác thường xem tài sản như tự nó đã là cứu cánh và theo đuổi nó một cách càng ngày càng liều lĩnh. Hãy nhìn "sự điên cuồng hiện tại của các quốc gia chỉ muốn một điều là sản xuất thật nhiều, càng nhiều càng tốt, và càng giàu càng hay". Cuối cùng con người trở thành một con chim mồi. "Họ rình nhau, họ cướp của nhau bằng cách nằm phục kích. Điều ấy được gọi là láng giềng tốt... Họ tìm những lợi lộc nhỏ nhoi nhất từ mọi thứ rác rưới". "Ngày nay, nền đạo đức con buôn thật chỉ là một lối khéo hơn của nền đạo đức cướp biển - mua ở thị trường rẻ nhất, bán ở thị trường đắt đỏ nhất". Tất cả những người nầy đều kêu gào chính sách tự do mậu dịch, kêu gào được để yên, trong khi đấy chính là những kẻ cần nhất sự giám thị và kiểm soát. Có lẽ ngay cả một mức độ nào đó của xã hội chủ nghĩa, mặc dù nó nguy hiểm, sẽ được bênh vực ở đây; "chúng ta phải thu hồi các ngành vận tải và mậu dịch thuận lợi cho sự dồn chứa những tài sản kếch xù. Do đó, đặc biệt là thị trường tiền tệ - khỏi bàn tay của những tư nhân hay công ty tư nhân" và hãy coi chừng những người sở hữu quá nhiều, hệt như coi chừng những kẻ không có ích gì cả, xem như là những mẫu người đầy nguy hiểm cho đoàn thể" (YTLM, i, 142). Cao hơn giới trưởng giả, và thấp hơn giới quý tộc, là quân nhân. Một vị tướng sử dụng hết những người lính trên chiến trường ở đấy họ có cái khoái được chết dưới liều thuốc mê của sự vinh quang là một người cao quý gấp bội người chủ xưởng sử dụng hết những công nhân trong chiếc máy lợi tức của y; hãy quan sát sự nhẹ nhõm ngần nào nơi những người rời xưởng để ra trận chiến. Napoléon không phải là một đồ tể chém giết mà là một ân nhân; ông đem lại cho người cái chết với danh dự quân nhân thay vì cái chết mòn dưới ách kinh tế, người ta lũ lượt kéo đến dưới lá tử-kỳ bởi vì họ thích những hiểm nguy của chiến trận hơn cảnh đều đều tẻ nhạt không thể chịu đựng trong việc chế tạo thêm một triệu cúc áo khác. "Một ngày kia danh dự sẽ dành cho Napoléon vì đã trong một thời tạo được một thế giới trong đó người đàn ông, chiến sĩ, có giá trị cao vượt hơn kẻ thương gia và bọn người thủ cựu hẹp hòi". Chiến tranh là một liều thuốc tuyệt diệu cho những dân tộc đang trở nên suy nhược ưa tiện nghi đáng khinh bỉ, chiến tranh kích động những thiên tính bị thối mục dần trong thời bình. Chiến tranh và sự tổng động viên vào quân đội là những liều thuốc giải độc cấp thiết đối với bịnh nhu nhược nữ hoá của dân chủ. "Khi những bản năng của một xã hội cuối cùng đưa đến sự bỏ bê chiến tranh và chinh phục, thì xã hội ấy đang suy tàn; nó đã chín mùi cho nền dân chủ và cho sự thống trị của bọn con buôn". Tuy nhiên, những nguyên nhân của chiến tranh ngày nay không có gì cao thượng cả; những cuộc chiến của các triều đại và cuộc chiến vì tôn giáo có đôi chút thanh tao hơn sự dàn xếp bằng súng những tranh giành về thương mãi (Tri thức hân hoan). "Trong vòng 50 năm những chính phủ Babel ấy (những nền dân chủ Âu châu) "sẽ nổ tung trong một cuộc chiến khổng lồ để tranh giành thị trường trên thế giới". Nhưng có lẽ từ cơn điên cuồng ấy sẽ mọc lên nền thống nhất Âu châu; một mục tiêu mà cho dù phải trả giá bằng một cuộc chiến thương mãi cũng không lấy gì làm quá đắt. Vì chỉ từ một Âu châu thống nhất mới có thể sinh khởi nền quý tộc cao cả hơn nhờ đó Âu châu có thể được cứu chuộc. Vấn đề của chính trị là ngăn ngừa đừng cho thương gia thống trị vì một con người như thế có tầm nhãn quan rất ngắn ngủi và tầm tay hẹp hòi của một chính khách, không phải nhãn quan nhìn xa thấy rộng của người quý tộc được huấn luyện để trị quốc. Con người thanh tao hơn có một quyền hành thiêng liêng để cai trị - nghĩa là, quyền hành của khả năng cao vượt hơn. Người thường cũng có chỗ của họ, nhưng không phải ở trên ngai. Ở đúng chỗ mình, người thường sẽ được hạnh phúc và những đức hạnh của nó cũng cần thiết cho xã hội như những đức hạnh của nhà lãnh đạo; "Một tâm trí sâu sắc sẽ không xem sự tầm thường tự nó là một điều bậy". Tính siêng năng, dè xẻn, đều đặn, điều độ, lòng tin vững mạnh, với những đức hạnh ấy, con người tầm thường có thể trở nên hoàn hảo, nhưng chỉ hoàn hảo trong vai trò dụng cụ. "Một nền văn minh cao là một hình tháp; nó chỉ có thể đứng trên một nền tảng rộng; điều kiện tiên quyết của nó là sự tầm thường được củng cố vững vàng mạnh mẽ". Luôn luôn và ở khắp nơi, một số người sẽ làm lãnh tụ và một số làm tuỳ tòng; đại đa số sẽ bị bắt buộc và sung sướng được làm việc dưới sự điều khiển của người cao hơn (Kẻ chống Thiên chúa, 219 - 220). Bất cứ nơi đâu gặp sinh vật, ta cũng nghe tiếng nói của phục tùng. Mọi sinh vật là những con vật phục tùng. Và điều thứ hai, kẻ nào không thể vâng lời chính mình kẻ ấy phải bị sai khiến. Đấy là tập tục của những sinh vật. Nhưng đây là điều thứ ba ta nghe: điều khiển khó khăn hơn phục tùng. Vì không những người điều khiển mang gánh nặng của tất cả những người phục tùng, và gánh nặng ấy dễ đè bẹp người, mà còn một nỗ lực và một hiểm nguy, ta thấy dường như được chứa đựng trong mọi sự điều khiển; và khi nào sinh vật điều khiển cũng tự liều mình" (Zarathustra, 159). "Xã hội lý tưởng , như vậy, sẽ được chia làm ba hạng: những người sản xuất (tá điền, kẻ vô sản và thương gia), công chức (quân nhân và viên chức) và những người cai trị. Những người sau cùng này sẽ cai trị, nhưng không làm chức vụ trong chánh phủ; công việc cai trị là một việc hèn hạ. Những người thống trị sẽ là những chính khách triết gia hơn là những người giữ chức vụ trong bàn giấy. Quyền uy của họ sẽ nằm trong sự kiểm soát tài chánh và quân đội, nhưng chính họ sẽ sống như những quân nhân hơn là như nhà tài chánh. Họ là những người của sự thanh nhã cũng như của sự can đảm và hùng mạnh; vị học giả và viên tướng soái trong cùng một con người. Họ sẽ được phối hợp bởi lịch sự và corps d' esprit, những con người này được giữ gìn nghiêm nhặt rằng những giới hạn của đạo đức: sự kính trọng cổ tục, lòng biết ơn sự giám thị lẫn nhau, lòng ganh đua; và mặt khác khi cư xử với nhau họ sẽ có nhiều sáng kiến trong sự suy xét, tự điều khiển, lòng kiêu hãnh và tình bằng hữu". Lớp quý tộc này sẽ là một giai cấp chăng ? và quyền lực của họ có tính cách tập truyền ? Phải, phần đông là thế, nhưng thỉnh thoảng cũng có mở cửa cho những dòng máu mới vào. Nhưng không có gì có thể làm hỏng và yếu mòn một lớp quý tộc cho bằng việc cưới những người tầm thường giàu có, theo thói tục của quý tộc Anh; chính sự hôn phối lẫn lộn ấy đã làm hỏng tập đoàn thống trị vĩ đại nhất thế giới chưa từng thấy - Thượng viện quý tộc La-Mã. Không có trường hợp "Ngẫu sinh"; mỗi sự sinh ra là bản cáo trạng của thiên nhiên về một cuộc hôn phối; và con người toàn hảo chỉ xuất hiện sau nhiều thế hệ đào thải và chuẩn bị; "những tiền nhân của một người đã trả giá cho hiện thể của nó". Có phải điều này tổn thương quá nhiều đến hai lỗ tai dân chủ từ khuya của chúng ta chăng ? Nhưng "Những nòi giống không chịu nổi nền triết học này là lúa đời rồi; và những nòi giống xem triết học như hồng phúc lớn lao nhất chính là những nòi giống có phần số làm bá chủ hoàn cầu". Chỉ một nền quý tộc như thế mới có thể có thị kiến và can đảm để làm cho Âu châu thành một quốc gia, để chấm dứt cái quốc gia chủ nghĩa kiểu trâu bò này, cái "đất mẹ" ba xu này. Chúng ta hãy là "những người Âu châu tốt", như Napoléon, như Goethe, như Beethoven, như Schopenhauer, như Stendhal, như Heine. Đã quá lâu chúng ta là những mảnh vụn, mảnh rời rạc của cái đáng lẽ phải là một đoàn thể. Làm sao một nền văn hoá lớn có thể sinh trưởng trong bầu không khí của thiên vị quốc gia và của lãnh thổ tính làm cho ta hẹp hòi ? Thời đại của chính trị vụn đã qua. Khi nào thì nòi giống mới xuất hiện, và những lãnh tụ mới ? Khi nào Âu châu sẽ được sinh ra đời ? Há ngươi chưa nghe gì về những đứa con của ta chăng ? Hãy nói ta nghe về khu vườn của ta, những hòn đảo Hy vọng của ta, nòi giống mới tốt đẹp của ta. Vì chúng, ta giàu có, vì chúng, ta trở nên nghèo nàn ... Có cái gì ta đã không từ nhượng ? Có cái gì ta sẽ không bỏ để được có một điều: những đứa con kia, đồn điền sống động kia, những cây nhân sinh của ý chí và hy vọng tột vời của ta ? (Ý chí quyền lực, ii, 353, 362-4, 371, 422).
IX PHÊ BÌNH Đấy là một bài thơ đẹp; và có lẽ đấy là một bài thơ hơn là một nền triết học. Chúng ta biết ở đây có nhiều mâu thuẫn phi lý, và biết anh chàng đã đi quá xa trong một cố gắng tự thuyết phục và tự sửa sai; nhưng chúng ta có thể thấy chàng khổ đau ở từng giòng chữ, và phải yêu mến chàng dù ngay ở điểm chúng ta chất vấn chàng. Có một lúc nào đó ta mệt mỏi vì cảm tình và ảo tưởng, ta nếm mùi châm chích của hoài nghi và phủ nhận; khi ấy Nietzsche sẽ đến với ta như một liều thuốc bổ, như không gian khoáng đạt và gió mát sau một buổi lễ dài trong một Giáo đường đông nghẹt. "Ai biết được cách thở trong bầu không khí của tác phẩm tôi, người ấy ý thức rằng đấy là không khí thượng tầng bồi dưỡng sức khoẻ. Một người phải khoẻ mạnh để đón nhận nó; nếu không rất có thể nó giết y" (Đây, con người ). Đừng ai lầm lẫn chất axit này với sữa mẹ. Rồi thì chao ơi là lời lẽ văn chương ! "Một ngày kia, người ta sẽ nói rằng Heine và tôi là những nghệ sĩ vĩ đại nhất, vượt rất xa, đã từng viết bằng Đức ngữ, rằng chúng tôi đã để lại sau mình cách xa muôn vạn dặm những gì tốt đẹp nhất mà bất cứ một người Đức nào có thể làm". Và thật cũng gần đúng như vậy. Văn của tôi nhảy múa" chàng nói; mỗi câu là một chiếc lao; ngôn ngữ uyển chuyển, hùng tráng, mạnh mẽ, văn lời của một người đánh kiếm, nhanh nhẹn quá, chói loà quá cho một con mắt thường. Nhưng khi đọc lại Nietzsche ta nhận thấy vẻ sáng chói phần nào do sự nói quá đáng, do ở lòng tự tôn thú vị nhưng chung quy, có tính cách thần kinh loạn, ở một lối đảo nghịch - quá dễ dàng - mọi quan niệm được mọi người công nhận, ở sự nhạo báng tất cả mọi đức hạnh, tán dương mọi thói xấu; chúng ta khám phá rằng Nietzsche có niềm khoái trá kiểu học trò trung học trong việc gây xúc động mạnh, chúng ta kết luận rằng; cũng dễ thấy thú vị khi ta không có thiên kiến bênh vực đạo đức. Những quyết đoán giáo điều này, những lối quy nạp không châm chước ấy, những sự lập lại kiểu tiên tri ấy, những lối nghịch ngôn ấy - với người khác cũng như với chính chàng - biểu lộ một tâm trí đã mất quân bình, đang chờn vờn trên bờ vực của điên loạn. Cuối cùng sự sáng chói này làm chúng ta mỏi mệt và làm kiệt quệ những sợi thần kinh ta, như những ngọn roi quất lên thịt, hay như giọng nhấn mạnh quá lớn trong một cuộc đàm thoại. Có cái gì om sòm của người Teutonic trong lối phát ngôn hùng hổ này: không có chút gì chừng mực vốn là nguyên tắc số một của nghệ thuật; không có chút gì của thế quân bình, hoà điệu và sự tao nhã trong tranh biện, những điều mà Nietzsche rất thán phục nơi người Pháp. Dù sao, đấy là một lời văn hùng tráng đầy uy lực; chúng ta bị áp đảo bởi sự đam mê và lối lặp đi lặp lại trong đó; Nietzsche không chứng minh, chàng thông báo và khải thị; chàng chiếm được lòng chúng ta bằng tưởng tượng hơn là bằng luận lý của chàng; chàng hiến cho chúng ta không phải chỉ một nền triết học, cũng không phải chỉ một bài thơ, mà một niềm tin mới, một hy vọng mới, một tôn giáo mới. Tư tưởng chàng, cũng như lời văn chàng, biểu lộ rõ rệt chàng là một người con của phong trào lãng mạn. "Cái gì, chàng hỏi, - một triết gia đòi hỏi đầu tiên và cuối cùng nơi chính mình ? Chính là vượt khỏi thời đại của họ, trở thành phi thời gian". Nhưng đấy là một lời khuyên toàn hảo mà chàng đã vi phạm hơn là tuân giữ; chàng được rửa tội bằng tinh thần của thời đại. Chàng không nhận ra làm sao chủ quan luận của Kant : "Thế giới là ý tưởng tôi" - như Schopenhauer đã thật thà nói - đã đưa đến "ngã tuyệt đối" của Fichte, và thuyết này đưa đến cá nhân chủ nghĩa mất quân bình nơi Stirner, và đến lượt chủ nghĩa này lại đưa đến thuyết phi đạo đức của siêu nhân. Siêu nhân không chỉ là "thiên tài" của Schopenhauer, và "người hùng" của Carlyle, Siegfried của Wagner; anh chàng siêu nhân này giống một cách khả nghi với Karl Moor của Schiller và Goetz của Goethe; Nietzsche đã rút từ Goethe nhiều hơn là chỉ có danh từ Uebermensch (Siêu nhân), Goethe, người mà vẻ bình lặng olympian (thượng giới ?) sau này đã làm chàng khinh bỉ vì ganh tị. Những bức thư chàng đầy dẫy tình cảm lãng mạn và sự âu yếm; "tôi khổ đau" trở đi trở lại nhiều lần trong những bức thư ấy cũng gần như "tôi chết" trong Heine, chàng tự gọi mình là "một linh hồn huyền bí và gần như của tửu thần" và nói về cuốn Khai sinh của Bi kịch là lời thú của một nhà lãng mạn". Chàng viết cho Brandes "Tôi sợ rằng tôi có quá nhiều chất nhạc sĩ để trở thành một nhà lãng mạn". "Một tác giả phải im lặng khi tác phẩm bắt đầu nói"; nhưng Nietzsche không bao giờ ẩn mình, và nhào vào ngôi thứ nhất trên từng trang giấy một; sự tán dương của chàng về bản năng đối lại tư tưởng , về cá nhân đối lại xã hội, về yếu tố Dionysus đối lại Apollon (nghĩa là lãng mạn chống lại cổ điển), nói lên thời đại chàng sống một cách rõ ràng như ngày sinh ngày tử của chàng. Nietzsche đối với triết học của thời đại chàng cũng như Wagner đối với âm nhạc của thời đại ông, - tột đỉnh của phong trào lãng mạn, ngọn triều cao nhất của dòng lãng mạn; Nietzsche giải phóng ca tụng "ý chí" và "thiên tài" của Schopenhauer khỏi mọi kiềm chế xã hội, cũng như Wagner đã giải phóng và ca tụng nguồn đam mê trong bản Sonata Pathetique và các khúc hoà âm thứ 5 và 9. Nietzsche là kẻ hậu duệ vĩ đại cuối cùng của dòng họ Rousseau. Bây giờ hãy trở lại trên đường ta đã du lịch với Nietzsche và nói với chàng - dù vô hiệu - một vài điểm chống đối mà chúng ta rất thường muốn đưa ra để ngắt lời chàng. Chàng cũng khá minh triết để tự thấy, vào những năm về sau của đời chàng, biết bao phi lý đã đóng góp cho vẻ độc đáo của cuốn Khai sinh của Bi kịch. Những học giả như Wilamowitz-Moellendorff cười nhạo tác phẩm ấy, bài nó ra khỏi lãnh vực ngữ học. Sự cố suy ra Wagner từ Achille là sự tự thiêu của một tín đồ trẻ trước một vị thần chuyên chế. Ai sẽ nghĩ rằng thời canh tân là Dionysian, hoang dã, vô luân, rượu chè, đầy Bacchus-tính, và thời Phục Hưng là hoàn toàn ngược lại những điều này - bình lặng, kiềm thúc, điều độ, đầy Apollon-tính ? - Ai sẽ nghi ngờ rằng "Chủ nghĩa Socrate là nỗi miệt thị của một người mê say Wagner đối với nền tư tưởng hợp luận lý, lòng ái mộ Dionysus là sự tôn thờ hoạt động nơi con người thường ngồi một chỗ, và sự thèm muốn thầm kín của một kẻ độc thân hay thẹn đối với tửu lượng và dục tính đầy khí chất nam nhi. Có lẽ Nietzsche có lý khi cho rằng thời tiền-Socrate là những ngày tốt đẹp của Hy Lạp; dĩ nhiên chiến tranh đã phá tung nền tảng kinh tế và chính trị của văn hoá Périclès. Nhưng cũng hơi phi lý khi chỉ thấy ở Socrate một nền phê phán gây phân hoá (làm như thể công việc của chính Nietzsche không phải là điểm này) chứ không thấy cả một công trình cứu rỗi một xã hội bị tàn phá không phải vì triết học mà vì chiến tranh , mục nát và vô luân. Chỉ có một giáo sư chuyên về nghịch lý mới có thể xếp hạng những đoạn văn tối nghĩa và độc đoán của Héraclites trên sự minh triết của chín chắn và nghệ thuật đã phát triển của Platon. Nietzsche tố cáo Platon như đã tố cáo tất cả những người chàng vay mượn - không ai là một anh hùng đối với chủ nợ của mình; nhưng triết học của Nietzsche là gì nếu không là nền đạo đức của Thrasymachus và Callicles, và nền chính trị của Socrate - Platon ? Với tất cả môn ngữ học của mình, Nietzsche cũng chưa bao giờ hoàn toàn lọt vào được trong tinh thần Hy Lạp, chàng chưa bao giờ học được bài học theo đó sự điều độ và tự tri (như lời dạy của những bia đền Delphes và những triết gia vĩ đại) có tác dụng ngăn chận - chứ không dập tắt - ngọn lửa của đam mê và dục vọng; rằng Apollon phải hạn chế bớt Dionysus. Một số người đã mô tả Nietzsche là một người vô thần, song không hẳn thế, không phải chàng vô thần kiểu Hy Lạp như Périclès, hay kiểu Đức như Goethe, chàng thiếu chính cái thế quân bình và tiết độ đã làm cho những người này mạnh. "Tôi sẽ đem lại cho người niềm bình an trong sáng vốn là điều kiện cho mọi nền văn hoá", chàng đã viết. Nhưng than ôi, làm sao một người có thể cho cái mà y không có ?
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:57:38 GMT 9
VII SUY TÀN Kết quả là con đường đưa đến siêu nhân phải băng qua quý tộc. Dân chủ - "chứng tật ưa đếm đầu người" - cần phải bị nhổ tận gốc trước khi quá muộn. Bước đầu tiên ở đây là sự phá huỷ Ki-tô giáo về phương diện liên can đến mọi người cao cả. Chiến thắng của Ki-tô giáo là khởi đầu của dân chủ; "người Ki-tô giáo đầu tiên là một kẻ phản loạn - trong bản năng sâu thẳm nhất của y đối với mọi sự được ưu thế đặc quyền; y sống và tranh đấu không ngừng cho "bình quyền"; vào thời tân tiến đáng lẽ phải gửi y đến Tây-bá-lợi-á (Sibirie). "Kẻ nào vĩ đại nhất trong các ngươi, hãy để kẻ ấy phụng sự ngươi" - đây là đảo ngược của tất cả trí khôn chính trị, của mọi sự lành mạnh; quả thế, khi đọc thánh kinh tân ước ta cảm thấy bầu không khí của một tiểu thuyết Nga, một thứ đạo văn của Dostoievski. Những quan niệm như thế chỉ phát xuất giữa những bọn thấp hèn và chỉ vào một thời đại mà những người thống trị đã suy đồi không còn thống trị được nữa. "Khi Neron và Caralla ngự trên ngai, điều mâu thuẫn phát sinh là: người thấp hèn nhất có giá trị hơn người ở trên tột đỉnh". Cũng như sự việc Ki-tô giáo xâm chiếm Âu châu chấm dứt nền quý tộc cổ đại, những bá tước thiện chiến Teutonic (Nhật nhĩ man) thống trị Âu châu đã phục hồi những đức hạnh hùng tính của thời xưa, và trồng gốc rễ cho nền quý tộc tân tiến. Những người nầy không nặng lòng với "đạo đức", họ "giải thoát khỏi mọi kiềm thúc xã hội; trong tính chất phác của lương tâm dã thú họ trở về như những quỷ dữ hân hoan từ một cuộc chém giết ghê gớm, đốt nhà, hãm hiếp, tra tấn, với một lòng kiêu ngạo và an ổn như thể họ vừa thi hành chỉ một vụ phá phách kiểu học trò". Chính những người như thế đã cung cấp tầng lớp thống trị cho Đức, Na Uy, Pháp, Anh, Ý và Nga. "Một bầy những con mãnh thú có tóc hung, một giòng dõi thống trị và chủ nhân, với tổ chức quân sự, với năng lực tổ chức, không ngần ngại đặt những móng vuốt dễ sợ lên trên một quần chúng có lẽ vô cùng cao hơn về số lượng,... đám đông ấy lập nên quốc gia. Giấc mộng được xua đuổi, làm cho quốc gia khởi sự bằng một khế ước. Con người ấy cần gì đến khế ước khi nó có thể lãnh đạo, khi tự bản chất đã là chủ, người xuất hiện bằng sức mạnh trong hành vi và cốt cách ?" Dòng dõi ngự trị huy hoàng này đã bị làm hỏng trước hết bởi sự tán dương của Công giáo về những đức hạnh đàn bà, thứ đến bởi những lý tưởng của Thanh giáo và của hạng tiện dân trong thời cải cách, thứ ba là bởi sự hôn phối với dòng giống hạ lưu. Hệt như Công giáo chín mùi thành nền văn hoá phi luân, quý tộc của thời Phục hưng. Thời cải cách đã chà đạp nó với việc làm sống lại sự nghiêm trọng khắt khe của Do thái. "Cuối cùng có ai hiểu không, có ai muốn hiểu Phục hưng là gì không ?(*) [(*) Rốt cục có ai hiểu, dù muốn hiểu, Phục hưng là cái gì ? -dịch theo bản tiếng Đức - chú thích của người đánh máy-]. Sự đánh giá lại những giá trị Ki-tô giáo, sự cố gắng bằng mọi phương thế, mọi bản năng và mọi thiên tài để tạo nên những giá-trị-đối-lập, những giá trị cao quý chiến thắng ... Tôi thấy trước mắt một trường hợp khả hữu hoàn toàn ảo thuật với màu sắc chói sáng và vẻ mê hồn của nó ...Ceare Borgia làm giáo hoàng ... Các người có hiểu tôi không ?" Thệ phản giáo và rượu bia đã làm cùn lụt trí thông minh của Đức; bây giờ hãy thêm nhạc kịch Wagner. Kết quả là "Người Phổ ngày nay... một trong những thế lực nguy hiểm nhất của văn hoá ". "Hiện diện của nước Đức làm cho tôi ăn khó tiêu". "Nếu, như lời Gibbon nói, không có gì ngoại trừ thời gian - dù một thời gian lâu dài - là cần thiết để cho một thế giới tiêu diệt, thì cũng không có gì ngoại trừ thời gian -mặc dù còn lâu dài hơn- là cần thiết để phá huỷ một ý tưởng sai lầm ở Đức quốc". Khi Đức quốc đánh bại Napoléon, việc ấy tai hại cho văn hoá cũng như khi Luther đánh bại giáo hội, từ đấy Đức quốc dẹp sang bên nhũng Goethe, Schopenhauer và Beethoven của mình để bắt đầu thờ phụng "những kẻ ái quốc", "Đức quốc trên hết - tôi sợ rằng đấy là chấm dứt của triết học Đức". Tuy nhiên có một vẻ nghiêm trọng và sâu sắc tự nhiên nơi những người Đức cho chúng ta lý do để hy vọng rằng họ còn có thể cứu chuộc được Âu châu; họ có nhiều hùng tính hơn người Pháp hoặc Anh; họ kiên nhẫn, trì chí, siêng năng - từ đó sinh ra sự uyên bác, khoa học và quân kỷ của người Đức; thật thích thú khi nhìn thấy cả Âu châu lo lắng về quân đội Đức. Nếu năng lực tổ chức của Đức có thể phối hợp với tài nguyên tiềm tàng của Nga, về vật liệu và người, khi ấy sẽ đến thời kỳ chính trị vĩ đại. "Chúng ta cần nuôi dưỡng hai giòng giống Đức và Nga, chúng ta cần những nhà kinh tài khôn khéo nhất - những người Do thái- để có thể trở thành bá chủ thế giới ... Chúng ta cần một sự hợp nhất vô điều kiện với Nga sô". Đằng khác là tình trạng bao vây và bóp chẹt. Điều đáng ngại với Đức quốc là tính ươn gàn của tâm trí, một cái giá trả cho sự cương nghị trong tính tình. Đức quốc thiếu truyền thống văn hoá lâu dài, cái truyền thống đã làm cho dân tộc Pháp thành dân tộc tinh tế xảo diệu nhất trong tất cả các dân tộc ở Âu châu. "Tôi chỉ tin vào văn hoá Pháp, và tôi xem mọi cái khác ở Âu châu tự cho mình là văn hoá đều là một lầm lẫn". "Khi đọc Montaigne và Chamfort, ta gần cổ đại hơn với bất cứ nhóm tác giả nào khác ở một quốc gia nào khác". Voltaire là "một vị chúa tể lớn của tâm trí"; và Taine là "người số một trong số những sử gia đang sống". Ngay cả những văn sĩ về sau như Flaubert, Bourget, Anatole France, v.v. - đều vượt xa vô tận những người Âu châu khác về tư tưởng và ngôn ngữ sáng sủa - "thật sáng sủa, rõ ràng tinh vi làm sao, những người Pháp ấy !" Tính cách cao quý của mỹ cảm, của cảm thức và phong độ Âu châu đều là công trình của Pháp. Nhưng là của nước Pháp cố cựu, của nước Pháp vào thế kỷ 16 và 17; cuộc cách mạng, với sự phá huỷ nền quý tộc, đã phá huỷ luôn cả bánh xe và trường nuôi dưỡng văn hoá, và bây giờ linh hồn Pháp ốm yếu xanh xao so với những thời xưa cũ. Dù sao, Pháp vẫn còn có vài đức tính tốt đẹp; "ở Pháp hầu hết mọi vấn đề tâm lý và nghệ thuật đều được cứu xét một cách tinh tế và rốt ráo hơn ở Đức vô vàn... Vào chính lúc Đức quốc trổi dậy như một cường quốc trong thế giới chính trị, thì Pháp đã chiếm được địa vị quan trọng mới trong thế giới văn hoá". Nga là con vật tóc hung của Âu châu. Dân tộc Nga có một "chủ nghĩa định mệnh ương ngạnh và cam chịu đã đem cho họ ngay cả ngày nay, cái lợi thế hơn những người Tây phương chúng ta". Nước Nga có một chính phủ hùng hậu, không có "cái ngu xuẩn của nghị viện". Sức mạnh ý chí đã được tụ tập ở đấy từ lâu đời, và ngày nay đang lăm le tìm chỗ thoát; ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nga trở thành chúa tể Âu châu. "Một nhà tư tưởng cưu mang trong lòng tương lai của Âu châu, sẽ kể đến dân tộc Do thái và Nga - trong tất cả những viễn tượng của ông về tương lai - như những yếu tố có lẽ nhất và bảo đảm nhất trong ván cờ vĩ đại và trong trận tuyến của các lực lượng". Nhưng nói chung, chính những người Ý là những người sành điệu nhất, hùng mạnh nhất trong các dân tộc hiện hữu; cây-người tăng trưởng mạnh mẽ nhất ở Ý, như Alfieri đã tự hào. Có một cốt cách hùng tính, một niềm kiêu hãnh quý tộc ngay cả người Ý thấp kém nhất; "một anh chèo thuyền Gondola ở Venice luôn luôn là một bóng dáng tốt đẹp hơn một nghị viên cơ mật ở Berlin, và nói cho cùng, là một con người khá hơn". Tệ hơn tất cả là những người Anh; chính dân tộc này đã làm hỏng tâm hồn Pháp với ảo tưởng dân chủ; "Bọn coi cửa hàng, tín đồn Ki-tô giáo, bò cái, đàn bà, người Anh, và bọn dân chủ khác thuộc vào một bè với nhau". Chủ nghĩa thực dụng và tính chất hẹp hòi thiếu văn hoá là đáy thấp nhất của văn hoá Âu châu. Chỉ trong một xứ cạnh tranh bóp hầu cắt cổ nguyên tắc mới có thể quan niệm đời là một cuộc tranh đấu chỉ để sống còn. Chỉ trong một nước mà bọn coi cửa hàng và giữ tàu đã tăng bội đến một số lượng lấn át giới quý tộc, nguyên tắc mới có thể nặn ra thuyết dân chủ; đây là tặng phẩm, tặng phẩm Hy Lạp, mà Anh quốc đã đem lại cho thế giới tân tiến. Ai sẽ cứu Âu châu thoát khỏi Anh quốc và cứu Anh quốc thoát khỏi dân chủ ? VIII QUÝ TỘC Dân chủ có nghĩa là lang thang trôi giạt; có nghĩa là cho phép mỗi phần tử của một cơ thể làm bất cứ gì nó thích; có nghĩa là sự đứt mạch lạc và hỗ tương, sự lên ngôi của phóng túng và hỗn loạn. Dân chủ có nghĩa là sự thờ phụng cái tầm thường, và sự thù ghét những gì trác tuyệt. Nó có nghĩa là không thể có những vĩ nhân. Làm sao những con người vĩ đại có thể phục tùng sự thiếu phẩm cách và trơ tráo của một cuộc bầu cử ? Họ sẽ có cơ hội nào đâu ? "Cái mà người ta thù ghét như những con chó thù ghét chó sói, chính là một tâm hồn phóng khoáng, kẻ thù của mọi xiềng xích, con người không thờ phụng". Làm sao siêu nhân có thể xuất phát từ một đám đất như thế ? Và làm sao một quốc gia có thể trở thành vĩ đại được, khi những người vĩ đại nhất của quốc gia ấy nằm trong trạng huống thất dụng, chán nản, có lẽ không ai biết đến ? Một xã hội như thế sẽ mất cả tư cách; sự mô phỏng nằm theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc; không phải siêu nhân, mà con người của đa số trở thành lý tưởng mẫu mực; mọi người thành ra giống hệt mọi người khác; ngay hai giống Nam - Nữ cũng tiệm cận nhau. Đàn ông trở thành đàn bà và đàn bà thành đàn ông (Ý chí quyền lực, i, 382-4). Nữ tính, như vậy, thành hệ luận tự nhiên của dân chủ và Ki-tô giáo. "Ở đây ít có Nam tính; do đó đàn bà cố tự tạo cho mình nam tính. Vì chỉ có người đàn ông đầy đủ nam tính mới duy trì được nữ tính nơi đàn bà". Ibsen, "kẻ tớ gái già điển hình ấy" đã tạo nên "người đàn bà giải phóng". "Đàn bà được tạo thành do xương sườn của tôi nghèo nàn một cách kỳ lạ ! - người đàn ông nói ". Đàn bà đã mất hết quyền năng và thế lực vì sự giải phóng của họ; đàn bà ngày nay có đâu địa vị họ đã được hưởng dưới thời Bourbons ? Bình đẳng nam nữ là điều bất khả, vì cuộc chiến tranh giữa họ bất tuyệt; ở đây không có hoà bình nếu không có chiến thắng - hoà bình chỉ đến khi bên này hay bên kia được công nhận là chủ tể. Cố bình đẳng với người đàn bà là chuyện nguy hiểm; họ sẽ không bằng lòng với chừng ấy; họ chẳng thà chịu phục tùng nếu người đàn ông đúng là đàn ông. Trên tất cả, sự toàn hảo và hạnh phúc của họ nằm ở mẫu tính. "Mọi sự nơi đàn bà là một bí hiểm và mọi sự nơi đàn bà chỉ có một giải đáp: ấy là sinh con". "Đàn ông đối với đàn bà chỉ là một phương tiện, cứu cánh luôn luôn là đứa con. Còn đàn bà đối với đàn ông là gì ? ... Một đồ chơi nguy hiểm". "Đàn ông phải được huấn luyện sẵn sàng cho chiến tranh; và đàn bà cho việc tái tạo chiến sĩ ! Mọi việc khác đều là điên rồ". Tuy nhiên, "người đàn bà toàn hảo là một mẫu nhân loại cao hơn đàn ông toàn hảo, và bởi thế, một cái gì hiếm hoi hơn nhiều... Người ta có lịch sự với đàn bà bao nhiêu cũng không đủ ". Một phần của sự căng thẳng trong hôn nhân nằm ở chỗ hôn nhân làm trọn vẹn người đàn bà mà lại thu hẹp, làm trống rỗng người đàn ông, khi một người đàn ông tán tỉnh một người đàn bà, chàng tình nguyện hiến cả thế giới cho nàng, và khi nàng kết hôn cùng chàng, chàng đã làm thế thật, chàng phải quên cả thế giới khi đứa con ra đời; vị tha tính trong tình yêu trở thành tính vị kỷ của gia đình. Sự thẳng thắn lương thiện và óc canh tân là những xa xỉ phẩm của hoàn cảnh độc thân. "Ở phạm vi liên can đến tư tưởng triết học cao cả, mọi người đàn ông có vợ đều khả nghi... Đối với tôi, dường như là điều phi lý khi một kẻ đã chọn lãnh vực mình là sự đánh giá toàn thể cuộc sự tồn sinh, lại tự rước vào mình gánh nặng gia đình, kiếm gạo bảo đảm an ninh và địa vị xã hội cho vợ con". Nhiều triết gia đã chết khi đứa con của họ ra đời. "Gió luồn qua lỗ khoá bảo tôi: "Lại đây !". Cánh cửa buồng tôi khôn lanh tự mở ra, bảo : "đi đi !". Nhưng tôi cứ nằm vì bị xiềng xích bởi lòng yêu con cái. (Con người cô đơn ! Nietzsche, 77, 393). Cùng với nữ tính, sinh ra xã hội chủ nghĩa và tình trạng hỗn độn; tất cả bấy nhiêu đều là bè lứa của dân chủ; nếu bình quyền chính trị là chánh đáng, thì sao lại không bình quyền luôn cả kinh tế ? Tại sao phải có những lãnh tụ ? Có những nhà xã hội chủ nghĩa thán phục tác phẩm Zarathustra; nhưng không cần sự thán phục của họ. "Có một vài người giảng thuyết chủ nghĩa của ta về nhân sinh nhưng đồng thời lại là người thuyết giáo về bình đẳng ... Ta không muốn lầm lẫn với những kẻ thuyết về bình đẳng ấy. Vì trong ta chân lý bảo rằng : con người không bình đẳng ". "Chúng ta muốn đừng có một điểm chung nào cả". "Hỡi những người thuyết về bình đẳng, tính điên loạn chuyên chế của sự bất tài từ trong các người đã kêu gào đòi bình đẳng". Thiên nhiên ghét bình đẳng mà yêu sự phân biệt những cá nhân, giai cấp và chủng loại. Xã hội chủ nghĩa là phản sinh vật học, trong quá trình tiến hoá, những chủng loại, giống nòi, giai cấp hay cá nhân thấp kém bị sử dụng bởi hạng cao cấp hơn, mọi cuộc sống là sự khai thác, và chỉ tồn tại trên sự sống khác, cá lớn nuốt cá bé, đấy là tất cả câu chuyện. Xã hội chủ nghĩa là sự ganh tị: "Chúng muốn chiếm hữu cái gì chúng ta có" (Zarathustra, 137). Tuy nhiên, đấy là một quá trình để điều khiển; tất cả điều cần thiết để điều khiển nó là thỉnh thoảng mở ra cánh cửa giả giữa chủ và nô lệ, để cho những lãnh tụ của sự bất mãn lên thiên đàng hết. Không phải những lãnh tụ là đáng sợ, mà những kẻ dưới thấp, những kẻ nghĩ rằng bằng một cuộc cách mạng họ có thể thoát khỏi sự lệ thuộc vốn là kết quả tự nhiên của sự bất lực và biếng nhác của họ. Tuy nhiên, người nô lệ chỉ cao quý khi họ phản kháng. Dù sao nô lệ cũng cao quý hơn những người chủ của họ ngày nay - giới trưởng giả. Dấu hiệu của sự hèn kém trong văn hoá thế kỷ 19 là con người có tiền của đã là đối tượng cho quá nhiều tôn sùng và thèm khát. Nhưng cả những thương gia này cũng là nô lệ nữa, những con hình nhân của tập tục, nạn nhân của sự bận rộn; họ không có thì giờ để có những tư tưởng mới. Đối với bọn họ, sự suy nghĩ là điều tốt kiến thức và những niềm vui của tri thức đều vượt ngoài tầm họ. Do đó mà họ không ngừng lăng xăng đi tìm "Hạnh phúc", với những ngôi nhà to lớn không bao giờ là tổ ấm, cảnh xa xỉ hạ thấp khiếu thẩm mỹ, những phòng tranh treo "nguyên bản" có đính kèm giá tiền, những lạc thú nhục dục làm chậm lụt tâm hồn hơn là giải lao, thêm đà cho tâm trí. "Hãy nhìn những kẻ nông cạn kia ! Họ dồn chứa tài sản và bởi đó, cứ mỗi ngày một nghèo nàn thêm", họ chấp nhận tất cả những kiềm thúc của chủ nghĩa quý tộc nhưng không đạt đến được vương quốc của tâm trí để bù lại. "Hãy trông họ leo trèo, những con khỉ nhanh nhẹn kia ! Họ leo lên nhau và cứ thế tự kéo nhau vào trong bùn lầy sâu thẳm ... Mùi tanh hôi của bọn con buôn, sự xoay sở của tham vọng: hơi thở độc địa xấu xa". Những người như thế có tài sản cũng vô ích vì họ không thể đem lại phẩm cách cho tài sản bằng lối sử dụng cao quý, bằng sự bảo trợ phải cách cho văn học hay nghệ thuật. "Chỉ có con người của tri thức nên nắm giữ tài sản"; Những người khác thường xem tài sản như tự nó đã là cứu cánh và theo đuổi nó một cách càng ngày càng liều lĩnh. Hãy nhìn "sự điên cuồng hiện tại của các quốc gia chỉ muốn một điều là sản xuất thật nhiều, càng nhiều càng tốt, và càng giàu càng hay". Cuối cùng con người trở thành một con chim mồi. "Họ rình nhau, họ cướp của nhau bằng cách nằm phục kích. Điều ấy được gọi là láng giềng tốt... Họ tìm những lợi lộc nhỏ nhoi nhất từ mọi thứ rác rưới". "Ngày nay, nền đạo đức con buôn thật chỉ là một lối khéo hơn của nền đạo đức cướp biển - mua ở thị trường rẻ nhất, bán ở thị trường đắt đỏ nhất". Tất cả những người nầy đều kêu gào chính sách tự do mậu dịch, kêu gào được để yên, trong khi đấy chính là những kẻ cần nhất sự giám thị và kiểm soát. Có lẽ ngay cả một mức độ nào đó của xã hội chủ nghĩa, mặc dù nó nguy hiểm, sẽ được bênh vực ở đây; "chúng ta phải thu hồi các ngành vận tải và mậu dịch thuận lợi cho sự dồn chứa những tài sản kếch xù. Do đó, đặc biệt là thị trường tiền tệ - khỏi bàn tay của những tư nhân hay công ty tư nhân" và hãy coi chừng những người sở hữu quá nhiều, hệt như coi chừng những kẻ không có ích gì cả, xem như là những mẫu người đầy nguy hiểm cho đoàn thể" (YTLM, i, 142). Cao hơn giới trưởng giả, và thấp hơn giới quý tộc, là quân nhân. Một vị tướng sử dụng hết những người lính trên chiến trường ở đấy họ có cái khoái được chết dưới liều thuốc mê của sự vinh quang là một người cao quý gấp bội người chủ xưởng sử dụng hết những công nhân trong chiếc máy lợi tức của y; hãy quan sát sự nhẹ nhõm ngần nào nơi những người rời xưởng để ra trận chiến. Napoléon không phải là một đồ tể chém giết mà là một ân nhân; ông đem lại cho người cái chết với danh dự quân nhân thay vì cái chết mòn dưới ách kinh tế, người ta lũ lượt kéo đến dưới lá tử-kỳ bởi vì họ thích những hiểm nguy của chiến trận hơn cảnh đều đều tẻ nhạt không thể chịu đựng trong việc chế tạo thêm một triệu cúc áo khác. "Một ngày kia danh dự sẽ dành cho Napoléon vì đã trong một thời tạo được một thế giới trong đó người đàn ông, chiến sĩ, có giá trị cao vượt hơn kẻ thương gia và bọn người thủ cựu hẹp hòi". Chiến tranh là một liều thuốc tuyệt diệu cho những dân tộc đang trở nên suy nhược ưa tiện nghi đáng khinh bỉ, chiến tranh kích động những thiên tính bị thối mục dần trong thời bình. Chiến tranh và sự tổng động viên vào quân đội là những liều thuốc giải độc cấp thiết đối với bịnh nhu nhược nữ hoá của dân chủ. "Khi những bản năng của một xã hội cuối cùng đưa đến sự bỏ bê chiến tranh và chinh phục, thì xã hội ấy đang suy tàn; nó đã chín mùi cho nền dân chủ và cho sự thống trị của bọn con buôn". Tuy nhiên, những nguyên nhân của chiến tranh ngày nay không có gì cao thượng cả; những cuộc chiến của các triều đại và cuộc chiến vì tôn giáo có đôi chút thanh tao hơn sự dàn xếp bằng súng những tranh giành về thương mãi (Tri thức hân hoan). "Trong vòng 50 năm những chính phủ Babel ấy (những nền dân chủ Âu châu) "sẽ nổ tung trong một cuộc chiến khổng lồ để tranh giành thị trường trên thế giới". Nhưng có lẽ từ cơn điên cuồng ấy sẽ mọc lên nền thống nhất Âu châu; một mục tiêu mà cho dù phải trả giá bằng một cuộc chiến thương mãi cũng không lấy gì làm quá đắt. Vì chỉ từ một Âu châu thống nhất mới có thể sinh khởi nền quý tộc cao cả hơn nhờ đó Âu châu có thể được cứu chuộc. Vấn đề của chính trị là ngăn ngừa đừng cho thương gia thống trị vì một con người như thế có tầm nhãn quan rất ngắn ngủi và tầm tay hẹp hòi của một chính khách, không phải nhãn quan nhìn xa thấy rộng của người quý tộc được huấn luyện để trị quốc. Con người thanh tao hơn có một quyền hành thiêng liêng để cai trị - nghĩa là, quyền hành của khả năng cao vượt hơn. Người thường cũng có chỗ của họ, nhưng không phải ở trên ngai. Ở đúng chỗ mình, người thường sẽ được hạnh phúc và những đức hạnh của nó cũng cần thiết cho xã hội như những đức hạnh của nhà lãnh đạo; "Một tâm trí sâu sắc sẽ không xem sự tầm thường tự nó là một điều bậy". Tính siêng năng, dè xẻn, đều đặn, điều độ, lòng tin vững mạnh, với những đức hạnh ấy, con người tầm thường có thể trở nên hoàn hảo, nhưng chỉ hoàn hảo trong vai trò dụng cụ. "Một nền văn minh cao là một hình tháp; nó chỉ có thể đứng trên một nền tảng rộng; điều kiện tiên quyết của nó là sự tầm thường được củng cố vững vàng mạnh mẽ". Luôn luôn và ở khắp nơi, một số người sẽ làm lãnh tụ và một số làm tuỳ tòng; đại đa số sẽ bị bắt buộc và sung sướng được làm việc dưới sự điều khiển của người cao hơn (Kẻ chống Thiên chúa, 219 - 220). Bất cứ nơi đâu gặp sinh vật, ta cũng nghe tiếng nói của phục tùng. Mọi sinh vật là những con vật phục tùng. Và điều thứ hai, kẻ nào không thể vâng lời chính mình kẻ ấy phải bị sai khiến. Đấy là tập tục của những sinh vật. Nhưng đây là điều thứ ba ta nghe: điều khiển khó khăn hơn phục tùng. Vì không những người điều khiển mang gánh nặng của tất cả những người phục tùng, và gánh nặng ấy dễ đè bẹp người, mà còn một nỗ lực và một hiểm nguy, ta thấy dường như được chứa đựng trong mọi sự điều khiển; và khi nào sinh vật điều khiển cũng tự liều mình" (Zarathustra, 159). "Xã hội lý tưởng , như vậy, sẽ được chia làm ba hạng: những người sản xuất (tá điền, kẻ vô sản và thương gia), công chức (quân nhân và viên chức) và những người cai trị. Những người sau cùng này sẽ cai trị, nhưng không làm chức vụ trong chánh phủ; công việc cai trị là một việc hèn hạ. Những người thống trị sẽ là những chính khách triết gia hơn là những người giữ chức vụ trong bàn giấy. Quyền uy của họ sẽ nằm trong sự kiểm soát tài chánh và quân đội, nhưng chính họ sẽ sống như những quân nhân hơn là như nhà tài chánh. Họ là những người của sự thanh nhã cũng như của sự can đảm và hùng mạnh; vị học giả và viên tướng soái trong cùng một con người. Họ sẽ được phối hợp bởi lịch sự và corps d' esprit, những con người này được giữ gìn nghiêm nhặt rằng những giới hạn của đạo đức: sự kính trọng cổ tục, lòng biết ơn sự giám thị lẫn nhau, lòng ganh đua; và mặt khác khi cư xử với nhau họ sẽ có nhiều sáng kiến trong sự suy xét, tự điều khiển, lòng kiêu hãnh và tình bằng hữu". Lớp quý tộc này sẽ là một giai cấp chăng ? và quyền lực của họ có tính cách tập truyền ? Phải, phần đông là thế, nhưng thỉnh thoảng cũng có mở cửa cho những dòng máu mới vào. Nhưng không có gì có thể làm hỏng và yếu mòn một lớp quý tộc cho bằng việc cưới những người tầm thường giàu có, theo thói tục của quý tộc Anh; chính sự hôn phối lẫn lộn ấy đã làm hỏng tập đoàn thống trị vĩ đại nhất thế giới chưa từng thấy - Thượng viện quý tộc La-Mã. Không có trường hợp "Ngẫu sinh"; mỗi sự sinh ra là bản cáo trạng của thiên nhiên về một cuộc hôn phối; và con người toàn hảo chỉ xuất hiện sau nhiều thế hệ đào thải và chuẩn bị; "những tiền nhân của một người đã trả giá cho hiện thể của nó". Có phải điều này tổn thương quá nhiều đến hai lỗ tai dân chủ từ khuya của chúng ta chăng ? Nhưng "Những nòi giống không chịu nổi nền triết học này là lúa đời rồi; và những nòi giống xem triết học như hồng phúc lớn lao nhất chính là những nòi giống có phần số làm bá chủ hoàn cầu". Chỉ một nền quý tộc như thế mới có thể có thị kiến và can đảm để làm cho Âu châu thành một quốc gia, để chấm dứt cái quốc gia chủ nghĩa kiểu trâu bò này, cái "đất mẹ" ba xu này. Chúng ta hãy là "những người Âu châu tốt", như Napoléon, như Goethe, như Beethoven, như Schopenhauer, như Stendhal, như Heine. Đã quá lâu chúng ta là những mảnh vụn, mảnh rời rạc của cái đáng lẽ phải là một đoàn thể. Làm sao một nền văn hoá lớn có thể sinh trưởng trong bầu không khí của thiên vị quốc gia và của lãnh thổ tính làm cho ta hẹp hòi ? Thời đại của chính trị vụn đã qua. Khi nào thì nòi giống mới xuất hiện, và những lãnh tụ mới ? Khi nào Âu châu sẽ được sinh ra đời ? Há ngươi chưa nghe gì về những đứa con của ta chăng ? Hãy nói ta nghe về khu vườn của ta, những hòn đảo Hy vọng của ta, nòi giống mới tốt đẹp của ta. Vì chúng, ta giàu có, vì chúng, ta trở nên nghèo nàn ... Có cái gì ta đã không từ nhượng ? Có cái gì ta sẽ không bỏ để được có một điều: những đứa con kia, đồn điền sống động kia, những cây nhân sinh của ý chí và hy vọng tột vời của ta ? (Ý chí quyền lực, ii, 353, 362-4, 371, 422).
IX PHÊ BÌNH Đấy là một bài thơ đẹp; và có lẽ đấy là một bài thơ hơn là một nền triết học. Chúng ta biết ở đây có nhiều mâu thuẫn phi lý, và biết anh chàng đã đi quá xa trong một cố gắng tự thuyết phục và tự sửa sai; nhưng chúng ta có thể thấy chàng khổ đau ở từng giòng chữ, và phải yêu mến chàng dù ngay ở điểm chúng ta chất vấn chàng. Có một lúc nào đó ta mệt mỏi vì cảm tình và ảo tưởng, ta nếm mùi châm chích của hoài nghi và phủ nhận; khi ấy Nietzsche sẽ đến với ta như một liều thuốc bổ, như không gian khoáng đạt và gió mát sau một buổi lễ dài trong một Giáo đường đông nghẹt. "Ai biết được cách thở trong bầu không khí của tác phẩm tôi, người ấy ý thức rằng đấy là không khí thượng tầng bồi dưỡng sức khoẻ. Một người phải khoẻ mạnh để đón nhận nó; nếu không rất có thể nó giết y" (Đây, con người ). Đừng ai lầm lẫn chất axit này với sữa mẹ. Rồi thì chao ơi là lời lẽ văn chương ! "Một ngày kia, người ta sẽ nói rằng Heine và tôi là những nghệ sĩ vĩ đại nhất, vượt rất xa, đã từng viết bằng Đức ngữ, rằng chúng tôi đã để lại sau mình cách xa muôn vạn dặm những gì tốt đẹp nhất mà bất cứ một người Đức nào có thể làm". Và thật cũng gần đúng như vậy. Văn của tôi nhảy múa" chàng nói; mỗi câu là một chiếc lao; ngôn ngữ uyển chuyển, hùng tráng, mạnh mẽ, văn lời của một người đánh kiếm, nhanh nhẹn quá, chói loà quá cho một con mắt thường. Nhưng khi đọc lại Nietzsche ta nhận thấy vẻ sáng chói phần nào do sự nói quá đáng, do ở lòng tự tôn thú vị nhưng chung quy, có tính cách thần kinh loạn, ở một lối đảo nghịch - quá dễ dàng - mọi quan niệm được mọi người công nhận, ở sự nhạo báng tất cả mọi đức hạnh, tán dương mọi thói xấu; chúng ta khám phá rằng Nietzsche có niềm khoái trá kiểu học trò trung học trong việc gây xúc động mạnh, chúng ta kết luận rằng; cũng dễ thấy thú vị khi ta không có thiên kiến bênh vực đạo đức. Những quyết đoán giáo điều này, những lối quy nạp không châm chước ấy, những sự lập lại kiểu tiên tri ấy, những lối nghịch ngôn ấy - với người khác cũng như với chính chàng - biểu lộ một tâm trí đã mất quân bình, đang chờn vờn trên bờ vực của điên loạn. Cuối cùng sự sáng chói này làm chúng ta mỏi mệt và làm kiệt quệ những sợi thần kinh ta, như những ngọn roi quất lên thịt, hay như giọng nhấn mạnh quá lớn trong một cuộc đàm thoại. Có cái gì om sòm của người Teutonic trong lối phát ngôn hùng hổ này: không có chút gì chừng mực vốn là nguyên tắc số một của nghệ thuật; không có chút gì của thế quân bình, hoà điệu và sự tao nhã trong tranh biện, những điều mà Nietzsche rất thán phục nơi người Pháp. Dù sao, đấy là một lời văn hùng tráng đầy uy lực; chúng ta bị áp đảo bởi sự đam mê và lối lặp đi lặp lại trong đó; Nietzsche không chứng minh, chàng thông báo và khải thị; chàng chiếm được lòng chúng ta bằng tưởng tượng hơn là bằng luận lý của chàng; chàng hiến cho chúng ta không phải chỉ một nền triết học, cũng không phải chỉ một bài thơ, mà một niềm tin mới, một hy vọng mới, một tôn giáo mới. Tư tưởng chàng, cũng như lời văn chàng, biểu lộ rõ rệt chàng là một người con của phong trào lãng mạn. "Cái gì, chàng hỏi, - một triết gia đòi hỏi đầu tiên và cuối cùng nơi chính mình ? Chính là vượt khỏi thời đại của họ, trở thành phi thời gian". Nhưng đấy là một lời khuyên toàn hảo mà chàng đã vi phạm hơn là tuân giữ; chàng được rửa tội bằng tinh thần của thời đại. Chàng không nhận ra làm sao chủ quan luận của Kant : "Thế giới là ý tưởng tôi" - như Schopenhauer đã thật thà nói - đã đưa đến "ngã tuyệt đối" của Fichte, và thuyết này đưa đến cá nhân chủ nghĩa mất quân bình nơi Stirner, và đến lượt chủ nghĩa này lại đưa đến thuyết phi đạo đức của siêu nhân. Siêu nhân không chỉ là "thiên tài" của Schopenhauer, và "người hùng" của Carlyle, Siegfried của Wagner; anh chàng siêu nhân này giống một cách khả nghi với Karl Moor của Schiller và Goetz của Goethe; Nietzsche đã rút từ Goethe nhiều hơn là chỉ có danh từ Uebermensch (Siêu nhân), Goethe, người mà vẻ bình lặng olympian (thượng giới ?) sau này đã làm chàng khinh bỉ vì ganh tị. Những bức thư chàng đầy dẫy tình cảm lãng mạn và sự âu yếm; "tôi khổ đau" trở đi trở lại nhiều lần trong những bức thư ấy cũng gần như "tôi chết" trong Heine, chàng tự gọi mình là "một linh hồn huyền bí và gần như của tửu thần" và nói về cuốn Khai sinh của Bi kịch là lời thú của một nhà lãng mạn". Chàng viết cho Brandes "Tôi sợ rằng tôi có quá nhiều chất nhạc sĩ để trở thành một nhà lãng mạn". "Một tác giả phải im lặng khi tác phẩm bắt đầu nói"; nhưng Nietzsche không bao giờ ẩn mình, và nhào vào ngôi thứ nhất trên từng trang giấy một; sự tán dương của chàng về bản năng đối lại tư tưởng , về cá nhân đối lại xã hội, về yếu tố Dionysus đối lại Apollon (nghĩa là lãng mạn chống lại cổ điển), nói lên thời đại chàng sống một cách rõ ràng như ngày sinh ngày tử của chàng. Nietzsche đối với triết học của thời đại chàng cũng như Wagner đối với âm nhạc của thời đại ông, - tột đỉnh của phong trào lãng mạn, ngọn triều cao nhất của dòng lãng mạn; Nietzsche giải phóng ca tụng "ý chí" và "thiên tài" của Schopenhauer khỏi mọi kiềm chế xã hội, cũng như Wagner đã giải phóng và ca tụng nguồn đam mê trong bản Sonata Pathetique và các khúc hoà âm thứ 5 và 9. Nietzsche là kẻ hậu duệ vĩ đại cuối cùng của dòng họ Rousseau. Bây giờ hãy trở lại trên đường ta đã du lịch với Nietzsche và nói với chàng - dù vô hiệu - một vài điểm chống đối mà chúng ta rất thường muốn đưa ra để ngắt lời chàng. Chàng cũng khá minh triết để tự thấy, vào những năm về sau của đời chàng, biết bao phi lý đã đóng góp cho vẻ độc đáo của cuốn Khai sinh của Bi kịch. Những học giả như Wilamowitz-Moellendorff cười nhạo tác phẩm ấy, bài nó ra khỏi lãnh vực ngữ học. Sự cố suy ra Wagner từ Achille là sự tự thiêu của một tín đồ trẻ trước một vị thần chuyên chế. Ai sẽ nghĩ rằng thời canh tân là Dionysian, hoang dã, vô luân, rượu chè, đầy Bacchus-tính, và thời Phục Hưng là hoàn toàn ngược lại những điều này - bình lặng, kiềm thúc, điều độ, đầy Apollon-tính ? - Ai sẽ nghi ngờ rằng "Chủ nghĩa Socrate là nỗi miệt thị của một người mê say Wagner đối với nền tư tưởng hợp luận lý, lòng ái mộ Dionysus là sự tôn thờ hoạt động nơi con người thường ngồi một chỗ, và sự thèm muốn thầm kín của một kẻ độc thân hay thẹn đối với tửu lượng và dục tính đầy khí chất nam nhi. Có lẽ Nietzsche có lý khi cho rằng thời tiền-Socrate là những ngày tốt đẹp của Hy Lạp; dĩ nhiên chiến tranh đã phá tung nền tảng kinh tế và chính trị của văn hoá Périclès. Nhưng cũng hơi phi lý khi chỉ thấy ở Socrate một nền phê phán gây phân hoá (làm như thể công việc của chính Nietzsche không phải là điểm này) chứ không thấy cả một công trình cứu rỗi một xã hội bị tàn phá không phải vì triết học mà vì chiến tranh , mục nát và vô luân. Chỉ có một giáo sư chuyên về nghịch lý mới có thể xếp hạng những đoạn văn tối nghĩa và độc đoán của Héraclites trên sự minh triết của chín chắn và nghệ thuật đã phát triển của Platon. Nietzsche tố cáo Platon như đã tố cáo tất cả những người chàng vay mượn - không ai là một anh hùng đối với chủ nợ của mình; nhưng triết học của Nietzsche là gì nếu không là nền đạo đức của Thrasymachus và Callicles, và nền chính trị của Socrate - Platon ? Với tất cả môn ngữ học của mình, Nietzsche cũng chưa bao giờ hoàn toàn lọt vào được trong tinh thần Hy Lạp, chàng chưa bao giờ học được bài học theo đó sự điều độ và tự tri (như lời dạy của những bia đền Delphes và những triết gia vĩ đại) có tác dụng ngăn chận - chứ không dập tắt - ngọn lửa của đam mê và dục vọng; rằng Apollon phải hạn chế bớt Dionysus. Một số người đã mô tả Nietzsche là một người vô thần, song không hẳn thế, không phải chàng vô thần kiểu Hy Lạp như Périclès, hay kiểu Đức như Goethe, chàng thiếu chính cái thế quân bình và tiết độ đã làm cho những người này mạnh. "Tôi sẽ đem lại cho người niềm bình an trong sáng vốn là điều kiện cho mọi nền văn hoá", chàng đã viết. Nhưng than ôi, làm sao một người có thể cho cái mà y không có ?
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 10:59:34 GMT 9
Trong tất cả những tác phẩm của Nietzsche, Zarathustra được yên ổn nhất không bị phê bình, một phần vì nó tối nghĩa, một phần nhờ những giá trị không thể chối cãi của nó đã làm lu mờ mọi sự chỉ trích những sai lầm. Ý tưởng về sự tái hồi vĩnh viễn, mặc dù chung cho Spencer "Apollon" cũng như cho Nietzsche "Dionysus", đã đập vào trí ta như một tưởng tượng thiếu lành mạnh, một nỗ lực kỳ dị cuối cùng để phục hồi niềm tin vào bất tử. Mọi nhà phê bình đều thấy rõ mâu thuẫn giữa lối thuyết giáo táo bạo về duy ngã (Zarathustra tuyên bố Ngã là toàn vẹn và linh thiêng, sự vị ngã được ban phước) và sự kêu gọi vị tha, quên mình đã chuẩn bị phụng sự siêu nhân. Nhưng đọc triết lý này, ai sẽ tự xếp hạng mình là kẻ nô lệ chứ không phải là siêu nhân ? Còn về hệ thống đạo đức của Bên kia thiện và ác và Nguồn đạo đức, thì quả là một cuộc nói quá trớn rất gây kích động. Chúng ta công nhận rằng cần phải đòi hỏi con người dũng cảm hơn, cứng rắn hơn đối với mình - hầu hết mọi nền đạo đức đều đã đòi hỏi chuyện ấy; song thật không có gì cần thiết khẩn cấp trong việc kêu gọi con người phải tàn bạo hơn và "xấu xa" hơn. Dĩ nhiên đấy là một công việc dư thừa. Và cũng không quá khẩn thiết để phàn nàn rằng đạo đức là một khí giới mà kẻ yếu sử dụng để hạn chế kẻ mạnh: kẻ mạnh không bị ấn tượng quá sâu xa của đạo đức, trái lại đúng hơn họ đã rất khéo sử dụng nó: mọi quy lực đạo đức đều bị bắt buộc từ bên trên, chứ không phải từ bên dưới; đám đông thường ca tụng và chê trách rập theo uy lực. Cũng thế, thỉnh thoảng nên tàn nhẫn với tính khiêm cung là điều tốt; "chúng ta đã cầu xin quỵ luỵ khá lâu rồi", như nhà thi sĩ râu xám (bạc) của chúng ta nói, song ngày nay ta không thấy ai có quá nhiều tính ấy. Ở đây Nietzsche đã thiếu mất ý thức lịch sử mà chàng vẫn ca tụng là rất cần thiết đối với triết học; nếu không chàng sẽ thấy rằng lý thuyết về tính hoà nhã và khiêm cung của tâm hồn chính là một liều thuốc giải cần thiết cho những đức hạnh bạo động hiếu chiến của những người dã man đã - vào nghìn năm đầu của kỷ nguyên Ki-tô - suýt phá hoại chính nền văn hoá trong đó Nietzsche luôn luôn trở về để trú ẩn và bồi dưỡng. Có lẽ sự nhấn mạnh điên rồ man dại này trên quyền lực và động chuyển chính là dư vang của một thời đại lên cơn sốt hỗn loạn ? Cái ý chí quyền lực mà Nietzsche cho là phổ quát không thể chứng minh được sự trầm lặng của người Ấn, bình tĩnh của người Trung Hoa, hay tập tục được tuân giữ nơi người dân quê thời trung cổ. Quyền lực là thần tượng của một vài người, nhưng phần đông chúng ta đều mong được yên ổn, hoà bình. Nói chung, như có lẽ mọi độc giả đã thấy rõ, Nietzsche không nhận chân được địa vị và giá trị của những bản năng xã hội; chàng cho rằng những kích động của lòng tự cao và cá nhân chủ nghĩa cần được triết học tăng cường ! Người ta phải ngạc nhiên tự hỏi con mắt chàng để ở đâu khi tất cả Âu châu đang quên bẵng những tập tục trong một vũng lầy chiến tranh vị kỷ, đang hấp thụ chính nền văn hoá mà Nietzsche vô cùng tán dương, và đang cần một sự hợp tác, tiện nghi xã hội và sự tự chế. Vai trò cốt yếu của Ki-tô giáo là phải tiết chế điều hoà bản tính dã man tự nhiên của con người bằng cách ghi tạc vào trong y một lý tưởng cực đoan về sự từ hoà, và một nhà tư tưởng nào lo sợ con người đã đồi truỵ không còn đủ vị ngã, và lại bước vào sự thực hành quá độ đức hạnh Ki-tô giáo, nhà tư tưởng ấy chỉ cần nhìn quanh mình một cái để được an tâm. Bị cô độc vì bịnh hoạn và thần kinh dễ kích động, bị bắt buộc tuyên chiến với sự biếng nhác uể oải tầm thường của con người, Nietzsche đi đến chỗ cho rằng mọi đức hạnh lớn là đức hạnh của những con người biệt lập. Chàng phản kháng lại thuyết Schopenhauer cho rằng cá nhân phải chìm trong nòi giống bằng một sự giải phóng thiếu quân bình của cá nhân ra khỏi kiểm soát của xã hội. Bị thất bại trong cuộc săn tìm tình yêu, chàng đã xoay ra đả kích phụ nữ bằng giọng điệu chua chát không xứng với một triết gia, và không tự nhiên nơi một người đàn ông; thiếu giây liên hệ thân thuộc và mất tình bạn, chàng không bao giờ biết được rằng những giai đoạn tốt đẹp nhất trong đời chỉ xuất hiện qua sự hỗ tương bè bạn hơn là từ sự thống trị và chiến tranh. Chàng đã không sống đủ lâu và đủ rộng để làm chín mùi những chân lý nửa chừng của mình thành ra minh triết. Có lẽ nếu Nietzsche sống lâu hơn, chàng đã biết đổi đám lý thuyết hỗn độn chát chúa của mình thành nền triết học nhịp nhàng hoà điệu. Những lời sau đây của Nietzsche nói về Chúa Giê-su thật đúng cho chàng hơn: "Ngài chết quá sớm; chính Ngài sẽ rút lui lý thuyết của mình nếu Ngài đạt đến tuổi chín chắn hơn, vì Ngài khá cao thượng để rút lui như thế !". Nhưng thần chết có những chương trình khác. Có lẽ về chính trị, thị kiến của Nietzsche xem ra lành mạnh vững vàng hơn về đạo đức. Nền quý tộc là nền cai trị lý tưởng, ai chối cãi được ? "Ôi hỡi trời cao ! Trong mọi quốc gia ...có một con người xứng đáng nhất, minh triết nhất, dũng cảm nhất, tốt nhất, con người chúng ta có thể tìm ra và tôn làm chúa tể ngự trị chúng ta, tất cả quả thật, đều tốt đẹp... khám phá người bằng phương thế nào ? Trời cao không vì trắc ẩn mà dạy phương thế nào hay sao ? Vì nhu cầu của chúng ta đối với người ấy thật quá lớn lao !*)" [*) Carlyle, Past and Present , NY 1901). Nhưng ai là người tốt nhất ? Người ấy có phải chỉ xuất hiện trong một vài gia đình, và bởi thế phải chăng chúng ta cần có nền quý tộc tập truyền ? Nhưng chúng ta đã có nền quý tộc ấy; và đã dẫn đến sự theo đuổi phe đảng, sự vô trách nhiệm của giai cấp, sự cô đọng. Có lẽ những nền quý tộc đã được cứu rỗi cũng nhiều lần như bị phá hoại - nhờ sự kết hôn với lớp trung lưu; giới quý tộc Anh đã tự duy trì bằng cách nào khác đâu ? Và có lẽ nhờ nuôi dưỡng bên trong những kẻ suy đồi ? Hiển nhiên có rất nhiều khía cạnh trong vấn đề phức tạp này mà Nietzsche đã mạnh mẽ tung vào những tiếng " ừ " và " không ". Những nền quý tộc tập truyền không thích thống nhất thế giới; họ thường thiên về một chính sách quốc gia hẹp hòi, dù những người quý tộc ấy tỏ ra có thế giới chủ nghĩa mấy đi nữa trong cách cư xử của họ; nếu họ bỏ quốc gia chủ nghĩa, họ sẽ mất một nguồn chính yếu của quyền lực họ - sự điều khiển những giao tế ngoại bang. Và có lẽ một quốc gia cỡ thế giới sẽ không lợi cho văn hoá nhiều như Nietzsche tưởng; những khối lớn thường di chuyển rất chậm chạp; và có lẽ Đức quốc đóng góp được nhiều cho văn hoá khi chỉ là một "biểu hiện địa lý" với những triều đình độc lập cạnh tranh nhau trong việc bảo trợ văn hoá - hơn là vào thời đại của nước Đức thống nhất; cũng không phải vị hoàng đế đã yêu quý Goethe và cứu vãn Wagner . Một ảo tưởng thông thường là những giai đoạn lớn lao của văn hoá đã là những thời đại của quý tộc tập truyền, trái lại, những thời kỳ thịnh vượng của Périclès, Medici, Elizabeth và thời lãng mạn đều được nuôi dưỡng bằng tài sản của giới trưởng giả giàu có, và công trình sáng tạo văn chương nghệ thuật thường hoàn tất không phải do những gia đình quý tộc mà do con cháu của giới trung lưu: - Do những người như Socrate, con của một bà đỡ; Voltaire, con một viên đại tụng (luật sư); Shakespeare, con một người hàng thịt. Chính những thời đại của biến động đổi thay đã kích động sức sáng tạo văn hoá; những thời đại trong đó một giai cấp mới hùng mạnh vươn lên quyền lực. Trong chính trị cũng thế; sẽ là một việc tự sát nếu gạt ra khỏi những thiên tài thiếu dòng máu quý tộc; chắc chắn công thức tốt hơn là một "nghề mở rộng cửa cho tài năng" dù sinh ở đâu đi nữa; và thiên tài thường có thói ra đời ở những chỗ lạ lùng nhất. Chúng ta hãy để cho tất cả những người tốt nhất cai trị. Một nền quý tộc chỉ tốt đẹp nếu nó là một tập đoàn linh động gồm những người mà bảo-chứng để nắm quyền hành không phải là dòng dõi mà là tài năng, một nền quý tộc không ngừng được đào thải, chọn lọc và nuôi dưỡng từ sự mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người. Sau những suy luận ấy (nếu cần ta phải suy luận) cái gì còn lại. Đã đủ để làm cho người phê bình khó chịu. Nietzsche đã bị bài bác bởi những người ưa sự khả kính : tuy nhiên chàng vẫn đứng vững như trụ đá trong tư tưởng hiện đại, là một đỉnh núi trong tản văn Đức. Chắc hẳn chàng có lỗi nói hơi quá đáng khi tiên đoán rằng tương lai sẽ chia quá khứ thành những giai đoạn "trước Nietzsche" và "sau Nietzsche"; nhưng quả là chàng đã thành công trong việc thi hành một cuộc soát lại, có tính cách phê phán những định chế và quan niệm đã được xem như tất nhiên qua nhiều thế kỷ. Chàng lại còn mở rộng một tầm nhãn quan mới rọi vào kịch nghệ và triết học Hy Lạp; chàng đã chỉ rõ ngay từ đầu, những hạt mầm sự suy tàn lãng mạn trong âm nhạc Wagner; chàng đã phân tích bản tính người của chúng ta một cách tinh vi sắc bén như mũi dao của nhà giải phẫu, và có lẽ cũng có tính cách cứu chữa như mũi dao ấy; chàng đã vạch trần một số cội rễ thầm kín của đạo đức như chưa một nhà tư tưởng hiện đại nào đã làm; chàng "du nhập một giá trị bấy lâu nay hầu như không được biết tới, vào trong những lãnh vực của đạo đức : ấy là quý tộc"; chàng buộc chúng ta phải suy nghĩ một cách đứng đắn về những hàm ẩn đạo đức trong thuyết Darwin; chàng đã viết bài thơ tản văn vĩ đại nhất trong văn chương thế kỷ chàng; và (điều này trên hết) chàng đã quan niệm về con người như một cái gì phải vượt qua. Chàng ăn nói chua chát, nhưng với một sự chân thành vô giá; và tư tưởng chàng đi qua những đám mây mờ và tơ nhện của tâm thức hiện đại như một làn chớp quét sạch một cơn gió tạt mạnh. Không khí của triết học Âu châu bây giờ trong sáng hơn, tươi mát hơn, nhờ Nietzsche đã tung ngọn bút. X KẾT CUỘC "Ta yêu con người muốn tạo một cái gì cao hơn chính mình, và chết vì thế", Zarathustra đã nói. Chắc hẳn nồng độ mãnh liệt của tư tưởng Nietzsche đã sớm tiêu diệt chàng. Cuộc chiến chống lại thời gian làm tâm trí chàng mất quân bình; "người ta đã luôn luôn nhân thấy rằng thật là một điều ghê gớm khi tuyên chiến với hệ thống đạo đức của thời đại mình; việc ấy sẽ gây cuộc phục thù từ bên trong và từ bên ngoài" (Ellis, 39). Càng về cuối đời, tác phẩm Nietzsche càng chua chát; chàng đả kích nhân vật cũng như tư tưởng Wagner, đấng Ki-tô v.v. "Sự tăng trưởng trí tuệ - chàng viết - có thể được đo chính xác bằng sự giảm thiểu tính cách cay chua" nhưng chàng không thể thuyết phục được ngọn bút của chàng. Ngay giọng cười của Nietzsche cũng trở thành bệnh hoạn khi tâm trí chàng suy sụp; không có gì có thể chỉ bày chất độc đang làm tiêu mòn Nietzsche rõ hơn ý tưởng này: "Có lẽ tôi biết rõ vì sao con người là con vật duy nhất có nụ cười: vì chỉ mình nó là đau đớn dữ dội đến nỗi buộc lòng phải phát minh tiếng cười" (Ý chí quyền lực, 1, 24). Bệnh hoạn và sự mù loà càng ngày càng tăng là khía cạnh sinh lý trong cơn suy sụp của chàng. Nietzsche bắt đầu tuôn ra những cơn ám ảnh của bệnh vọng tưởng, như cảm thấy mình vĩ đại, cảm thấy bị hành hạ; chàng gởi một trong những cuốn sách của chàng cho Taine với một lời ghi cả quyết với nhà phê bình lỗi lạc ấy rằng đấy là tác phẩm tuyệt diệu nhất từ xưa tới nay, và trong tác phẩm cuối cùng của Nietzsche, Ecce Homo (Đây, con người), chàng trút đầy những lời tự tán dương điên loạn như ta đã thấy Ecce homo - than ôi, chúng ta đã thấy con người ấy ở đây quá rõ ! Có lẽ nếu được những người khác tán thưởng thì chàng đã bớt được kiểu tự tôn tự đại, và có chỗ bám víu vững hơn vào tương lai và vào sự sáng suốt bình thường. Nhưng sự khen ngợi đến quá muộn. Taine gởi cho chàng một lời khen nồng hậu trong khi hầu hết mọi người khác đều xem chàng như không có, hoặc chửi rủa chàng ; Brandes viết cho chàng hay, ông đang giảng một khoá về "chủ nghĩa cấp tiến quý tộc" của Nietzsche ở đại học Copenhagen; Strindberg viết rằng ông đang đưa những tư tưởng của Nietzsche vào kịch nghệ; và có lẽ điều hay hơn cả là một người hâm mộ vô danh đã gửi một chi phiếu 4000 Mỹ kim. Nhưng khi những mảnh tia sáng như thế đến, thì Nietzsche đã gần như mù loà về thị giác lẫn tâm hồn, chàng đã bỏ hy vọng, "Thời tôi chưa đến", -chàng viết - "chỉ có cái ngày sau ngày mai mới thuộc về tôi" (Đây, con người, 55). Tai hoạ cuối cùng xảy đến ở Turin vào tháng giêng năm 1889, dưới hình thức một cơn trúng gió, chàng lảo đảo quờ quạng đi trở về gian phòng sát mái của chàng, và tung ra những bức thư điên: gởi cho Cosima Wagner bốn chữ - "Ariadne, anh yêu em"; gởi cho Brandes một thư dài hơn, ký tên "Đấng Bị Đóng Đinh" (trên thập giá -chú thích của người đánh máy-) và gởi cho Burckhardt và Overbeck những bức thư quái dị đến nỗi Overbeck vội vàng đến thăm chàng. Ông bắt gặp Nietzsche đang nện chiếc dương cầm bằng hai khuỷu tay, vừa hát vừa gào lên cơn mê cuồng kiểu Dionysus. Ban đầu họ đưa chàng đến một viện dưỡng trí, nhưng mẹ già chàng liền đến xin đem chàng về dưới sự săn sóc đầy bao dung của bà. Cảm động làm sao ! Người đàn bà ngoan đạo ấy đã chịu đựng một cách đau đớn nhưng kiên nhẫn cơn kinh hoàng trước sự bội giáo của con bà, đối với tất cả những gì bà yêu quý, song không vì thế mà bớt yêu thương chàng, bây giờ bà đang đón nhận chàng trong đôi tay, như hình ảnh một Pieta. Bà chết năm 1897, và Nietzsche được em chàng đem đến sống ở Weimar. Ở đây Kramer đã nặn một bức tượng của chàng - một cảnh đau lòng, cho ta thấy bộ óc một thời oanh liệt bây giờ đã tan rã, vô vọng. Tuy nhiên chàng không phải hoàn toàn bất hạnh; niềm bình an mà chàng chưa bao giờ hưởng được lúc lành mạnh bấy giờ đã đến với chàng. Trời đã thương khi làm cho chàng điên loạn. Một lần bắt gặp em chàng khóc khi nhìn chàng, Nietzsche không thể hiểu được, chàng hỏi: "Này Lisbeth, tại sao em khóc ? Chúng ta không hạnh phúc đấy hay sao ?". Vào một dịp khác, khi nghe nói đến sách vở, gương mặt xanh xao của Nietzsche vụt ngời sáng: "A, tôi cũng thế, tôi cũng đã từng viết vài cuốn sách hay !". Rồi giây phút minh mẫn ấy vụt tắt. Chàng mất năm 1900. Chưa ai từng phải trả một giá lớn lao đến thế cho thiên tài./.
CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC Nguyên tác: The Story of Philosophy - Will Durant Trí Hải và Bửu Đích dịch Nha Tu Thư và Sưu Khảo Viện Đại Học Vạn Hạnh (1971) Copy of Lê Tùng Châu
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:37:19 GMT 9
Alain Besançon Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ Phạm Minh Ngọc dịch 1 2 3 Lời người dịch: Mười năm trước, vào năm 1997, nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, như người ta vẫn gọi ở Liên Xô và Việt Nam, ông Alain Besançon, nhà chính trị học, chuyên ngành lịch sử xã hội học và triết học, chuyên gia về lịch sử Nga và Liên Xô, giáo sư Đại học Khoa học Xã hội Paris đã cho xuất bản cuốn Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ nhằm so sánh những tội ác của chủ nghĩa Quốc xã với những tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Năm nay sẽ là năm có ngày kỷ niệm lần thứ 90 Cách mạng tháng Mười, xin giới thiệu bản dịch ba chương đầu trong số năm chương và phần phụ lục của cuốn sách nói trên. Tất cả các ghi chú đều của người dịch. Chương 1 Thủ tiêu về mặt thể xác
Sáu địa danh
Trước khi làm việc so sánh giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, xin bạn hãy đọc tên sáu địa danh sau: Oswiecim [1] , Belzec [2] , Chelmno [3] , Majdanek [4] , Sobibor [5] , Treblinka [6] . Đây là sáu trung tâm thủ tiêu người Do Thái với mức độ “công nghiệp”. Các hành động thường diễn ra theo trật tự sau: đoàn tàu; tuyển chọn ngay trên lối ra của toa tàu; xăm mình; đưa ngay lập tức phụ nữ, trẻ em và những người không còn khả năng lao động vào lò hơi ngạt hay huyệt mộ đã đào sẵn. Trật tự đó, như tôi hiểu, không có trong chế độ cộng sản. Không thể phát âm sáu địa danh này mà không gợi ra trong tâm trí những văn bản, những lời chứng, những cuộc điều tra, những suy tư và lời cầu nguyện, nghĩa là những cố gắng nhằm truyền đạt điều không truyền đạt được.
Raul Hilberg, tác giả cuốn Việc thủ tiêu người Do Thái châu Âu (Raul Hilberg. The destruction of the European Jews. Revised and definitives. Ed., 1985), một tác phẩm chứa đầy các tư liệu được kiểm tra một cách cẩn thận, đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nhà xuất bản và cuốn sách chỉ xuất hiện vào năm 1985.
Theo Hilberg, việc thủ tiêu người Do Thái được tiến hành theo 5 bước sau:
tước đoạt;
phát hiện và tập trung;
các cuộc hành quân tìm diệt;
lưu đày (đưa vào trại);
trung tâm giết người hàng loạt.
Nhìn vào đây, ta có thể nói rằng việc giết người trong chế độ cộng sản bao gồm 4 bước (từ 1 đến 4), tuy nhiên, do bản chất và ý đồ của chế độ, việc giết người này cũng có một vài khác biệt Trong chế độ cộng sản không có bước thứ 5 nhưng lại có thêm hai bước khác mà chủ nghĩa Quốc xã không cần, đấy là án tử hình và nạn đói.
Tước đoạt
Tước đoạt là biện pháp đầu tiên của các chính quyền cộng sản. Một trong những tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa cộng sản là coi cội nguồn của bất công xã hội nằm ở sự tư hữu. Do đó, phải thực hiện việc tước đoạt “phương tiện sản xuất” ngay lập tức. Đồng thời phải triệt tận gốc tư tưởng tư hữu khỏi đầu óc nhân dân và buộc ý thức của người dân phải phụ thuộc hoàn toàn vào chính quyền mới, từ đó, đưa đến kết luận là phải tước đoạt cả nhà ở, tài khoản ngân hàng, đất đai và gia súc. Con người không còn sở hữu gì, ngoại trừ một ít quần áo và đồ gia dụng.
Trong các nước cộng sản vẫn luôn luôn có những người giàu có, nhưng không thể nói rằng họ là những người hữu sản. Đấy hoặc là những người có tài sản “bất hợp pháp” hay những kẻ được ưu đãi vì lòng trung thành với chế độ hoặc vì vị trí mà họ nắm giữ. Quyền được bảo đảm bởi sở hữu tư nhân biến mất ngay lập tức, chỉ còn lại các quyết định của Đảng “được hợp pháp hoá” mà thôi. Trong giai đoạn đầu, ở nước Đức Quốc xã, chỉ người Do Thái mới bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị tước đoạt. Các công dân “thượng đẳng” có quyền có sở hữu tư nhân, nhưng quyền này đã bị thu hẹp rất nhiều và theo logic của chế độ thì trước sau gì nó cũng sẽ biến mất hoàn toàn.
Phát hiện và tập trung
Chế độ cộng sản và chế độ Quốc xã tiến hành theo dõi và phát hiện bằng những cách thức khác nhau. Trong chế độ Quốc xã, mỗi người Do Thái được coi là một ổ dịch. Cần phải tìm bằng được họ, như người ta tìm sâu bọ, dù họ có náu vào bất cứ xó xỉnh nào thì cũng phải tìm cho ra, chế độ chi tiền và cử cán bộ để làm công việc này. Chế độ cộng sản đứng trước một bài toán khó khăn hơn rất nhiều, kẻ thù của nó không có hình thù xác định nào. Nhiệm vụ của nó là tiêu diệt “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội”, “kẻ thù của nhân dân”. Trước hết, phải vô hiệu hoá kẻ thù, một kẻ thù đã được xác định từ trước: đấy là những người giàu có, những nhà tư sản, địa chủ, phú nông… Sau đó đến lượt những người có tư tưởng thù địch, những người “dao động” hay tỏ ra bàng quan. Những người như thế có thể nằm ngay trong giai cấp vô sản, nông dân, trung nông, dân nghèo và trí thức lao động. Họ có mặt cả trong đảng, trong quân đội và các cơ quan nhà nước.
Kẻ thù bí ẩn không có những đường nét đặc thù có thể nhìn thấy bằng mắt thường, họ không có những đặc điểm về thể chất như bao qui đầu bị cắt chẳng hạn, họ cũng không thuộc về một cộng đồng hay bộ lạc nào. Cần phải tìm cho ra, cần phải buộc họ thú nhận đã có những ý đồ đen tối, những ý định phá hoại và sau đó thì “thủ tiêu”. Đây là công việc không bao giờ ngưng và đòi hỏi rất nhiều công sức. Đấy là lý do vì sao bộ máy đàn áp của các chế độ cộng sản lại to lớn và đông người hơn bộ máy cảnh sát của chế độ Quốc xã; nhiệm vụ của bộ máy Quốc xã chỉ là tìm và đưa người Do Thái đến nơi dành riêng cho họ mà thôi. Gestapo chỉ cần mấy ngàn người, nhưng KGB có gần 500 ngàn nhân viên. Stasi [7] của Cộng hoà Dân chủ Đức có nhiều nhân viên hơn Gestapo của toàn thể nước Đức.
Theo số liệu của Raul Hilberg thì chỉ cần 2 năm (1941-1942), nhiệm vụ “giải quyết triệt để vấn đề Do Thái” đã thực hiện được khoảng 60%. Nhiệm vụ của các cơ quan an ninh Liên Xô thì không có hồi kết. Họ đã thực hiện việc phân loại, điều tra, theo dõi từ tháng 11 năm 1917 cho đến tận ngày tàn của chế độ.
Các cuộc hành quân tìm diệt
Theo số liệu của Raul Hilberg, khoảng một phần tư (có thể còn hơn) người Do Thái bị giết bởi các đơn vị chuyên trách gọi là Einsatzgruppe [8] , những đơn vị này thường hành quân theo các đơn vị tác chiến và dùng súng đại bác để hành quyết người Do Thái “ngay tại trận”. Các đơn vị quân đội đôi khi cũng giết người theo cách đó.
Các cuộc hành quân tìm diệt cũng thường được các chế độ cộng sản thực hiện. Các vụ giết người hàng loạt cũng đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật sau khi Hồng quân chiếm được Ukraine, Kavkaz, Sibiri, Trung Á. Đã có những vụ giết người hàng loạt và có hệ thống trong thời gian diễn ra những cuộc chiến tranh nông dân, bắt đầu vào năm 1919 và kéo dài cho đến khi có chính sách kinh tế mới (NEP) vào năm 1921. Để chống lại những người nông dân từng bị cộng sản bóc lột và bỏ đói, để chống lại những người Cossack (tộc người này gần như bị tiêu diệt hoàn toàn) Hồng quân đã sử dụng cả các vũ khí hạng nặng như xe tăng và hơi ngạt. Trong tác phẩm Chekist, Vladimir Zazubrin (1923) đã mô tả các chiến dịch của Ủy ban khẩn cấp địa phương: người ta dùng xe tải chở người đi hành quyết, những vụ hành quyết hàng loạt, bắn vào gáy trong tầng hầm, hàng đoàn xe tải sau đó chở xác chết ra. Việc giết người giữa thanh thiên bạch nhật tái xuất hiện trong giai đoạn tập thể hoá, còn trong vụ “thanh trừng vĩ đại” thì hơi ngạt lại được sử dụng. Tại Trung Quốc, việc giết người giữa thanh thiên bạch nhật được tiến hành trong hai năm đầu sau khi những người cộng sản giành được chính quyền và sau đó, tái xuất hiện trong “Đại nhảy vọt” và trong giai đoạn Cách mạng Văn hoá. Những vụ giết người tương tự đã xảy ra ở Việt Nam, ở Triều Tiên và Etiopia.
Ở Campuchia, rất nhiều vụ giết người hàng loạt đã diễn ra. Vì không có vũ khí hiện đại, người ta có thể huy động từ dao, cuốc đến xẻng, gậy gộc để thực hiện việc giết người. Những tên đao phủ thường là trẻ con đã làm quen với kỹ thuật giết người của chế độ. Khmer Đỏ đã giáo dục chúng như thế đấy. Các nấm mồ tập thể đang dần dần được phát hiện.
Trại cải tạo và lưu đày
Hệ thống các trại cải tạo được phát minh và phát triển trong chế độ Xô viết. Quốc xã chỉ bắt chước mà thôi. Từ “lager” (trại) được người Nga và người Đức phát âm gần giống nhau. Các trại lao động đầu tiên được xây dựng ở Nga vào tháng 6 năm 1918, khoảng nửa năm sau khi Lenin và Đảng của ông ta cướp được chính quyền.
Hệ thống trại cải tạo, lưu đày của nhà nước Xô viết vừa lớn hơn vừa phức tạp hơn nhiều lần hệ thống của nhà nước Quốc xã. Tại Đức, tuy có tồn tại sự khác biệt giữa những trại với tỉ lệ tù nhân tử vong thấp (Dachau [9] ) và trại với tỉ lệ tử vong cao (Dora) gần với những vụ giết người hàng loạt nhưng đấy là sự khác biệt không được chính thức hoá. Còn ở Liên Xô thì phổ phân biệt rộng hơn và hình thức rõ ràng hơn nhiều. Có ba hình thức chủ yếu sau đây.
Thứ nhất là việc lưu đày cả một dân tộc: đấy là người Tartar ở Crưm, người Chechen, người Đức vùng sông Volga… hay những nhóm xã hội nhất định: 10 triệu địa chủ. Tỉ lệ tử vong cao nhất xảy ra trên các đoàn tàu hoả trong những điều kiện không khác gì các đoàn xe Quốc xã đưa người Do Thái vào trại tập trung, sự khác biệt duy nhất là ở Liên Xô người ta phải đi xa hơn; năm lưu đày đầu tiên cũng có rất nhiều người chết, người ta đưa những người bị ép buộc phải di cư đến các thảo nguyên Trung Á, những vùng đầm lầy ở Sibiri mà không được trang bị quần áo ấm và dụng cụ lao động cũng như hạt giống gì cả. Tỉ lệ tử vong được đánh giá là khoảng 50%. Việc lưu đày toàn bộ những dân tộc chỉ xảy ra ở Liên Xô, không thấy tài liệu nào nói đến hiện tượng như thế ở các nước cộng sản khác, có thể vì những nước này không có những vùng đất rộng lớn như Liên Xô, mà cũng có thể sự đồng nhất sắc tộc tại những nước đó không tạo ra trở ngại cho các dự án của chủ nghĩa cộng sản. Có thể so sánh việc trục xuất bằng vũ lực người Đức khỏi Ba Lan và Tiệp Khắc sau Thế chiến thứ hai với việc lưu đày ở Liên Xô.
Thứ hai là trại lao động cải tạo. GULag [10] trở thành một cấu trúc hành chính cực kỳ to lớn và định hình trong những năm 30 của thế kỷ trước. Nó có khả năng quản lý một lực lượng lao động lớn (một số nhà nghiên cứu cho là chiếm 11% lực lượng lao động cả nước). Đã có nhiều tác phẩm viết về hiện tượng này, nó cũng chẳng khác gì những trại lao động dưới chế độ Quốc xã. Dậy, kiểm tra, đội lao động, định mức và khẩu phần ăn tương ứng với việc hoàn thành định mức, đói, đánh đập, tra tấn, tử hình - một ngày của Shalimov ở Kolym cũng chẳng khác gì một ngày của Levi ở Oswiecim. Chi tiết cụ thể cũng giống nhau: ăn cắp trở thành phổ biến, thói ích kỷ, suy kiệt về mặt thể xác, đạo đức suy thoái; trại, giường ngủ, giấc ngủ và giấc mơ cũng giống nhau.
Có một vài khác biệt trong các tổ chức và điều kiện khí hậu. Ở Oswiecim, người ta dùng chuông để đánh thức, còn ở Kolym thì gõ vào thanh ray đường sắt treo trên cây. Ở Liên Xô, người chết không được thiêu. Mùa đông, xác chết được chất thành đống, ngón chân cái mỗi người được gắn một cái thẻ và đợi cho đến khi trời ấm, có thể đào được huyệt, mới được đem đi chôn. Trong rất nhiều trại lao động trải rộng khắp vùng đông-bắc Sibiri còn một điều khủng khiếp nữa, đấy là cái lạnh kinh người cộng với một thiên nhiên buồn thảm trải dài đến vô tận, thêm vào đó, các trại lại cách biệt hẳn với những khu dân cư. Số người chết có nơi đến 30-40% một năm. Với thời gian giam giữ kéo dài cũng như việc chế độ Xô viết tồn tại trong một thời gian khá lâu thì sự đày ải con người như thế cũng gần đồng nghĩa với nạn diệt chủng, tuy nhiên, ở đây không phải ai cũng bị chết như ở Treblina, nơi chẳng ai có thể hi vọng được sống sót.
Loại thứ ba: xung quanh GULag còn những vùng lao động khổ sai và những khu vực mà người dân bị sống dưới sự kiểm soát của chính quyền. Sức lao động của họ được sử dụng trên các công trường “xây dựng vĩ đại” như đào kênh, đắp đập và trên những công trình quân sự bí mật. Nói tóm lại, trong chế độ cộng sản, chẳng có ai được tự do. Vì vậy, khi trả lời câu hỏi ở Liên Xô có bao nhiêu tù nhân chính trị, ông Vladimir Bukovsky đã nói nửa đùa nửa thật: “Có 270 triệu người.”
Trại cải tạo có mặt trong tất cả các nước cộng sản. Ở Rumania, đã có 200 ngàn người chết trên công trường xây dựng kênh đảo Dunaj-Hắc Hải, nghĩa là toàn bộ giới tinh hoa của chế độ cũ đã bi giết. Tin tức về trại cải tạo ở Việt Nam và Trung Quốc (gọi là trại lao cải) không có nhiều. Một cựu tù nhân Liên Xô đã kể cho tôi nghe như sau: Một tù nhân “lao cải” trốn được sang Sibiri và bị bắt vào nhà tù, anh ta coi nhà tù Liên Xô là thiên đường! Trên thực tế, GULag có thời hạn còn ở Trung Quốc thì không có thời hạn nào, tất cả phụ thuộc vào việc “cải tạo tư tưởng” của anh ta (trại cải tạo được coi là “trường học”). Ở Liên Xô, buổi tối tù nhân được đưa vào lán, còn ở Trung Quốc anh ta bị xích ngay tại chỗ. Chỉ một ít thông tin về trải cải tạo ở Bắc Triều Tiên đã đủ làm người ta dựng tóc gáy. Thế mà các trại tù đó vẫn đang hoạt động hết công suất!
Án tử hình
Hai hình thức giết người nữa cũng thường xuyên được chế độ cộng sản sử dụng, nhưng chế độ Quốc xã ít khi dùng.
Thứ nhất là giết người đã có án. Chế độ phát xít không áp dụng hình thức này với người Do Thái: theo quan điểm của chủ nghĩa Quốc xã, người Do Thái không phải là người vì vậy mà không có “công lý” gì hết. Án tử hình chỉ áp dụng với những người đối lập, những người kháng chiến và du kích quân sau khi các sự kiện đã được điều tra một cách cụ thể.
Án tử hình trong chế độ cộng sản (bắn hàng loạt, bắn vào gáy, treo cổ) về nguyên tắc phải là kết quả điều tra của toà án để cho “nhân dân” hay những người đại diện của nhân dân (cánh tay của đảng) có thể nhận diện và lên án kẻ thù bí mật hoặc công khai. Vì vậy, thời kỳ đầu, án tử hình được thực hiện mà không cần toà án, sau này, cùng với việc hoàn thiện bộ máy (công tố viện), các bản án thường được tuyên tại toà. Trong giai đoạn bắt đầu từ năm 1934, thường được gọi là “vụ thanh trừng vĩ đại”, người ta tìm mọi cách để buộc tội nhân thú nhận, tra tấn được coi là biện pháp đơn giản nhất và được áp dụng khắp nơi.
Giai đoạn này còn có một đặc điểm là đa số người bị bắt - việc bắt người thường được thực hiện theo kế hoạch đưa từ trên xuống - bị gán cho những tội lỗi mà họ không hề phạm: đấy thường là những người thụ động không có khả năng chống đối hoặc là những người cộng sản chân thành, những người tuyệt đối tin tưởng và thần phục Stalin. Điều đó đã gây ra một nỗi kinh hoàng đối với tất cả mọi người dân. Nó cũng tạo cho người ta cảm giác như vừa trải qua một cơn ác mộng vì không thể nào hiểu nổi bản chất của việc giết chóc này. Tất cả mọi người đều chờ đến lượt mình vì họ đã thấy những người hàng xóm tự nhiên biến mất; hằng đêm, người ta để sẵn gói quần áo trên đầu giường và lắng nghe bước chân trên cầu thang. Tất cả các nước cộng sản, ở châu Âu và đặc biệt là ở châu Á, đã trải qua những giai đoạn như thế. Có đủ cơ sở để coi Hitler là kẻ khởi xướng “vụ đàn áp lớn”. Trong cái đêm gọi là “đêm của những con dao dài” [11] , một cuộc thanh trừng chớp nhoáng do Đảng xã hội dân tộc tiến hành đã giết chết khoảng 800 người. Stalin đã nhân con số này lên hơn một ngàn lần.
Nạn đói
Nạn đói có mặt trong toàn bộ lịch sử của các chế độ cộng sản. Chúng ta đã và đang thấy nạn đói ở Liên Xô, Trung Quốc, Etiopia và Bắc Triều Tiên.
Nạn đói luôn luôn là hậu quả của chính sách kiểm soát toàn bộ thần dân của chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản không cho phép người nông dân tự tổ chức lấy đời sống của mình. Trong khi bóc lột người nông dân một cách thậm tệ, cộng sản lại buộc họ vào khuôn khổ của các nông trang và công xã và vì vậy nhất định sẽ tạo ra những cuộc khủng hoảng về lương thực. Không thể nói rằng chính quyền trực tiếp gây ra nạn đói, nhưng chính quyền cộng sản sẵn sàng trả giá, nghĩa là sẵn sàng để người dân chết đói vì những mục đích chính trị và tư tưởng của họ. Thí dụ, ở Kazakhstan, một nửa dân số đã chết vì đói.
Nhưng người ta cũng đã biết những trường hợp khi mà nạn đói đã được hoạch định và tổ chức một cách chặt chẽ. Chuyện đó đã xảy ra ở Ukraine trong những năm 1932-1933. Mục đích không phải là tiêu diệt sự kháng cự của tầng lớp nông dân vì công cuộc tập thể hoá đã làm xong việc đó rồi, mục đích của nó là tiêu diệt chính dân tộc Ukraine. Ta có thể dùng từ “diệt chủng” cho trường hợp này.
Dù được coi là phương tiện hay mục đích thì nạn đói vẫn là phương pháp giết người hữu hiệu nhất của chủ nghĩa cộng sản. Hơn một nửa nạn nhân ở Liên Xô và có thể ba phần tư số nạn nhân ở Trung Quốc là những người đã chết vì đói.
Có tên và không tên
Người ta biết chính xác số người Do Thái bị chế độ Quốc xã giết hại, những số liệu đó lại được chính xác hoá bằng những cuộc điều tra và trí nhớ trung thực của người Do Thái. Có những cuốn cẩm nang ghi rõ số người và ngày khởi hành của từng đoàn tàu. Tên tuổi từng người được kiểm tra một cách kỹ lưỡng và ghi chép một cách cẩn thận. Còn nói về số người bị chế độ cộng sản giết hại thì các thống kê khác nhau đưa ra những con số khác nhau, sự cách biệt lên đến hàng chục triệu người. Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản cho rằng có từ 85 đến trên 100 triệu người đã bị các chế độ cộng sản giết hại.
Việc một số người bị giết như những con vật nhưng lại được tưởng nhớ như những con người, trong khi một số người khác có thể đã chết một cách xứng đáng hơn (dù sao họ cũng được coi là “kẻ thù”) lại bị lãng quên, không chỉ là do trí nhớ ở nơi này thì trung thực mà ở nơi khác thì không. Nguyên nhân là các cuộc điều tra không thể được thực hiện hay bị cấm thực hiện trong những vùng đất đã từng hoặc hiện nay vẫn còn nằm dưới sự cai trị của chế độ cộng sản. Một nguyên nhân nữa là người ta đã quá chú ý đến chủ nghĩa Quốc xã và tất cả sẵn sàng quên chủ nghĩa cộng sản. Cuối cùng, đấy là do bản chất của hai chế độ này. Chế độ Quốc xã hành động trong những tiêu chuẩn xác định, thay đổi nhau theo từng giai đoạn (người tàn tật, người Do Thái, người Digan…) còn chủ nghĩa cộng sản thì áp dụng các tiêu chí không xác định, các nạn nhân bị bắt một cách tình cờ, tất cả thần dân của nó đều có thể bị tuyên bố là kẻ thù của chế độ.
*
Biện pháp giết người không phải là tiêu chí đánh giá. Không thể coi cái chết này là khủng khiếp hơn cái chết kia: bất cứ vụ giết người nào cũng đều kinh khủng và đáng lên án cả. Không ai biết một đứa trẻ bị chết ngạt vì hơi “Siklop-B” hay chết vì đói ở Ukraine cảm thấy thế nào. Người ta bị giết mà không qua bất cứ quá trình xét xử nào, vì vậy, có thể nói rằng: nạn nhân của cả hai chế độ đều chết một cách oan ức, họ đều là những người vô tội. Khi có hệ thống xử án thì ta có thể nói rằng biện pháp tử hình này vinh dự hơn biện pháp kia, thí dụ chặt đầu vinh dự hơn treo cổ. Nhưng việc giết người trong thế kỷ chúng ta hoàn toàn xa lạ với khái niệm “danh dự”, vì vậy, phân loại những nỗi đau là việc làm bất khả thi và bất cận nhân tình.
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Oswiecim (tiếng Đức là Auschwitz) là một thành phố ở miền nam Ba Lan. Năm 1940, Đức Quốc xã đã lập một trại tập trung ở gần thành phố này và từ đó đến năm 1945, hơn bốn triệu người đã bị giết hại trong trại tập trung này. Oswiecim được Hồng quân giải phóng ngày 27.1.1945, hiện ở đây có Viện Bảo tàng tội ác phát xít. [2]Belzec nắm trên con đường sắt nối thành phố Lublin của Ba Lan và thành phố Lvov của Ukraine. Tháng 11 năm 1941, phát xít Đức đã cho xây một trại tập trung. Trại này chỉ hoạt động từ tháng 2 năm 1942 đến tháng 1 năm 1943 nhưng đã có 600.000 người Do Thái bị giết hại tại đây. [3]Trại tập trung được xây dựng ở một làng cùng tên tại miền bắc Ba Lan. Ở đây, lần đầu tiên phát xít Đức sử dụng hơi ngạt để giết hại người Do Thái. Có khoảng 152.000 người Do Thái bị sát hại tại trại tập trung này. [4]Trại tập trung của Đức Quốc xã ở gần thành phố Lublin (Ba Lan). Đã có khoảng 1,5 triệu người bị giết hại tại đây. [5]Sobibor, trại tập trung ở gần thành phố Lublin (Ba Lan). Có khoảng 250.000 người bị giết tại đây. [6]Treblinka, trại tập trung ở đông bắc thủ đô Warszawa của Ba Lan. Người ta cho rằng có khoảng 700 ngàn người đến 900 ngàn người Do Thái đã bị tàn sát tại đây. [7]Stasi là tên viết tắt của Bộ An ninh Quốc gia (tiếng Đức: Ministerium für Staatssicherheit) của nước Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập năm 1950. [8]Einsatzgruppe là các đơn vị chuyên giết hại những đối thủ chính trị, những người cộng sản và các sắc dân hạ đẳng (Do Thái, Di-gan...) trong các vùng bị Quốc xã chiếm đóng. [9]Dachau là một trong những trại tập trung đầu tiên được xây dựng trên đất Đức. [10]GULag, tên viết tắt của Tổng cục quản lý các trại lao động cải tạo, được thành lập tháng 11 năm 1930, bị giải tán vào ngày 25 tháng 1 năm 1960. Đa số các trại lao động cải tạo đều nằm ở các vùng xa xôi hẻo lánh đông bắc Liên Xô như Bereglag ở Kolym, Gorlag ở gần Norilsk, ở Kazakhstan thì có Karlag, có cả những trại nằm ở nước ngoài nhưng đặt dưới sự quản lý trực tiếp của GULag. [11]“Đêm của những con dao dài’’ (Nacht der langen Messer) là vụ Hitler hạ lệnh giết hại ban lãnh đạo lực lượng SA được thực hiện từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1934.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Nga, МИК” – “Русская мысль; Москва-Париж, 2000
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:38:47 GMT 9
Chương II Phá hoại về mặt đạo đức
Bên cạnh việc thủ tiêu về mặt thể xác, một khía cạnh rõ ràng của thảm hoạ, một lĩnh vực thu hút nhiều công trình nghiên cứu và có nhiều tài liệu thống kê thì còn một lĩnh vực nữa, không nhìn thấy được, nơi sự phá hoại có thể còn lớn hơn nhiều vì nó động chạm đến số lượng người đông hơn và đòi hỏi nhiều thời gian khắc phục hơn. Đấy là sự phá hoại trái tim và khối óc.
Sự phi lý
Có thể lập và người ta đã lập phả hệ của hai hệ tư tưởng đã từng làm điên đầu một phần nhân loại trong thế kỷ vừa qua. Nhưng khi làm như thế, ta có nguy cơ tin rằng những tư tưởng to lớn và sâu sắc vẫn còn tồn tại trong hai hệ tư tưởng đó, tin rằng chúng đã sử dụng khía cạnh nào đó của những tư tưởng sâu sắc nói trên trong việc tạo lập ra hình hài của chính mình. Chúng không xứng đáng được tôn trọng và được đánh giá cao đến như thế. Làm như thế là chúng ta đã thuận theo yêu sách được liệt vào phả hệ của chúng. Chủ nghĩa Marx-Lenin coi mình là hậu duệ của những truyền thống xuất phát từ Heraclitus và Democritus. Nó chứng minh rằng nó có cội nguồn từ Lucretius, từ thời Khai sáng, từ Hegel và toàn bộ tiến trình phát triển của khoa học. Chủ nghĩa Quốc xã tự coi mình có nguồn gốc từ truyền thống bi kịch Hy Lạp, từ Herder, Novalis, từ Hegel, từ Nietzsche và dĩ nhiên là đã biện hộ bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học từ thời Darwin. Không được tin chúng. Ảo tưởng như thế có thể tạo ra một mối nguy nữa, tức là ta có thể bôi nhọ thanh danh của những người mà các học thuyết này coi là cội nguồn của chúng: chúng ta có thể lên án cả Hegel và bất cứ triết gia hay khoa học gia nào được chúng nhắc tới vì họ đã tạo ra những kẻ thừa kế như thế.
Ảo tưởng đó sẽ tan biến ngay khi ta xem xét cơ chế tư duy của các lãnh tụ cộng sản và Quốc xã. Cơ chế tư duy của họ bị điều khiển bởi một hệ thống giải thích thế giới cực kỳ đơn giản: đấy là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa các giai cấp hay các chủng tộc. Định nghĩa giai cấp hay chủng tộc lại chỉ có ý nghĩa ở bên trong và thông qua hệ thống này, vì vậy, mọi biểu hiện khách quan trong định nghĩa về giai cấp hay chủng tộc đều không có giá trị. Trong đầu óc những đồ đệ của các học thuyết nói trên, các khái niệm điên rồ như thế đủ sức lý giải bản chất của cuộc đấu tranh, biện hộ cho nó, đủ sức hướng dẫn hoạt động của kẻ thù cũng như đồng minh. Có thể sử dụng bất kỳ thủ đoạn nham hiểm và xảo trá nào miễn là đạt được mục đích và nếu nhìn vào các sự kiện, có thể thấy chủ nghĩa cộng sản đã có những kịch sĩ tài năng hơn Hitler nhiều như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Đây là những hệ thống phi lý, còn mục đích của chúng là bất khả thi.
Cốt cán của đảng phải là người trung thành tuyệt đối. Chỉ thị của “thượng cấp” có thể xoay chuyển toàn bộ đầu óc và ngũ quan. Kết quả là ngôn ngữ cũng bị biến dạng: nó không còn là phương tiện trao đổi mà là để che giấu mối liên hệ giữa hệ thống và hiện thực. Ngôn ngữ trở thành ảo thuật gia: buộc hiện thực khuất phục thế giới quan của hệ thống. Đấy là ngôn ngữ của lễ nghi, mỗi lời đều chứng tỏ rằng kẻ nói là người của hệ thống và người nghe cũng phải tham gia vào hệ thống này. Những câu nói có giá trị nhất của nó chính là những lời đe doạ, những biểu hiện của sức mạnh.
Khi đã bị hệ tư tưởng như thế khống chế thì trí tuệ không còn. Chủ nghĩa Quốc xã đã lôi kéo được một vài nhà tư tưởng vĩ đại: Heidegger, Carl Schmitt. Nhưng đấy là họ qui chiếu các tư tưởng xa lạ với chủ nghĩa Quốc xã của mình lên chủ nghĩa Quốc xã: thù địch với hiện đại hoá, thù địch với dân chủ, chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc siêu hình. Dường như chủ nghĩa Quốc xã đã tiếp thu tất cả những cái đó, đã tiếp thu mà bỏ qua những điều tạo nên giá trị trong đời sống tinh thần của triết gia, đã bỏ qua tư tưởng, chiều sâu và siêu hình học của họ. Các nhà triết học này cũng ngộ nhận về phả hệ.
Chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ tuyển mộ được những đầu óc loại hai, thí dụ như Lukács, nhưng những người này đã mau chóng đánh mất tài năng ngay sau đó. Các đảng cộng sản có thể huênh hoang vì có những người nổi tiếng như Aragon, Bréton, Picasso, Langevin, Neruda đứng cùng đội ngũ, nhưng họ lại tìm mọi cách để cho những người này đứng ở ngoài lề, chỉ cho họ tham gia khi cần, khi hoàn cảnh đòi hỏi. Mặc dù vậy, mặc dù đảng tính chỉ là chiếu lệ, hội hoạ của Picasso, thi ca của Neruda và Aragon cũng đã bị ảnh hưởng. Các nhà tư tưởng lớn ngả về một hệ tư tưởng nào đó là do sự say mê nhất thời, bản chất của lòng say mê nằm ngoài mọi hệ tư tưởng. Nhưng khi tiến gần vào trung tâm thì lòng nhiệt tình bỗng giảm hẳn, thường chỉ còn lại sự bực bội mà thôi.
Trong hàng ngũ cộng sản, một số lãnh tụ như Stalin và Mao Trạch Đông đã tự vạch ra sơ đồ nguyên lý chủ yếu của hệ tư tưởng này. Sơ đồ này có thể được mô tả trên vài trang giấy và chứa đựng toàn bộ học thuyết: không tìm đâu ra những kiến giải sâu sắc hơn, mặc dù những cuốn sách giáo khoa này đôi khi được gọi là “giáo trình cơ sở” để tạo ấn tượng rằng có những kiến giải khác khoa học hơn; nhưng những tác phẩm như thế, nếu có, cũng chỉ là kể lại một cách dài dòng “giáo trình” mà thôi. Những cuốn sách như thế lại là đối tượng “nghiên cứu”, nghĩa là các thần dân của họ phải tụng, phải nhại lại như vẹt những điều được ghi trong đó. Chủ nghĩa Quốc xã không có những cuốn sách giáo khoa ngắn gọn như thế: phải tuân thủ tuyệt đối tư tưởng của lãnh tụ, mà tư tưởng của lãnh tụ thì lại có tính chất tiên tri và đầy cảm hứng. Nếu phân tích thì ta sẽ thấy đấy chỉ là sự pha trộn một cách nghèo nàn chủ nghĩa Darwin đem áp dụng vào xã hội loài người, di truyền học, tư tưởng của Nietzsche mang màu sắc bài Thiên Chúa giáo, tư tưởng phục thù và bài Do Thái bệnh hoạn mà thôi.
Môn đệ của cộng sản cũng như của Quốc xã đều cần được khám bệnh tâm thần. Họ là những người kín đáo, sống tách rời thực tế, họ có thể nhắc đi nhắc lại suốt ngày những lý lẽ cũ rích chẳng khác gì những kẻ tâm thần nhưng lại tin rằng mình là người hoàn toàn tỉnh táo. Đấy là lý do vì sao các bác sĩ tâm thần lại so sánh họ với bệnh hoang tưởng mãn tính, với bệnh tâm thần phân liệt. Nhưng khi nghiên cứu kỹ thì ta thấy cách so sánh như thế chỉ mang tính ẩn dụ. Biểu hiện rõ nhất cho thấy đấy là cơn điên nhân tạo thể hiện ở chỗ có thể chữa được: khi áp lực chấm dứt và khi hoàn cảnh thay đổi thì người ta lập tức khỏi bệnh, cứ y như họ vừa thoát khỏi cơn mê vậy. Nhưng đấy là mê trong lúc thức, mê mà không cản trở hành động, mê mà vẫn giữ được vẻ mạch lạc, hợp lý. Khi thoát ra ngoài cái môi trường đã bị thương tổn đó, cái môi trường vốn là thượng tầng của lý trí của một người bình thường, cái môi trường tạo ra tôn giáo và triết học, hay nói theo Kant, là tạo ra các “ý tưởng điều khiển lý trí” thì các chức năng lý tính dường như không bị thương tổn nhưng đã bị phân hoá và nô dịch đến mức hoang tưởng hoàn toàn, khi tỉnh ngộ người ta thấy đầu óc trống rỗng, phải học lại từ đầu tất cả mọi thứ. Nước Đức, hàng thế kỷ được coi là Athen của châu Âu, đã trở thành ngây độn sau 12 năm cầm quyền của chủ nghĩa Quốc xã. Đấy là chưa nói đến nước Nga, một nước đã trải qua nền giáo dục phi lý một cách có hệ thống trong hơn 70 năm trời, một nước mà nền tảng tinh thần chưa phát triển và dễ bị tổn thương hơn nước Đức!
Những chứng bệnh tinh thần nhân tạo đó lại có khả năng truyền nhiễm. Đã có người so sánh chúng với việc bùng phát dịch đậu mùa hay cảm cúm. Về mặt hình thức thì quá trình phát xít hoá nước Đức vào năm 1933 và Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc đã phát triển giống như một căn bệnh truyền nhiễm. Trong khi chờ đợi có những kiến thức sâu sắc hơn về những bệnh dịch tâm thần này, chúng ta hãy coi đây là sự so sánh có giá trị tượng trưng.
Sự phi lý vừa là nền tảng vừa là điều kiện của sự phá hoại về mặt đạo đức. Sự rối loạn nhận thức chỉ có thể xảy ra khi quan niệm về thế giới, thái độ đối với hiện thực bị phá hoại một cách cố ý. Tôi không thảo luận ở đây vấn đề có thể coi sự mê muội đó là tình huống giảm khinh hay phải coi nó là một phần không tách rời của cái ác. Câu trả lời, nếu có, cũng không làm thay đổi đánh giá của chúng ta.
Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa Quốc xã
Khi xem xét một cách cẩn thận toàn bộ các hình thức đày ải mà một dân tộc phải chịu đựng trong sáu cơ sở giết người của chủ nghĩa Quốc xã thì ngôn từ không còn giá trị, các quan niệm biến mất, trí tưởng tượng cũng không còn hoạt động, chỉ còn trí nhớ là có giá trị. Chúng ta như đã thoát ra ngoài thế giới loài người. Và ý nghĩ về quỷ dữ cứ bám mãi vào tâm trí.
Quỷ dữ ở đây chính là những hành động đó được thực hiện nhân danh điều thiện, nhân danh đức hạnh. Phương tiện phá hoại đạo đức chính là sự xuyên tạc tính thiện, cho nên thật khó nói tội nhân có thể nhận thức được rằng họ có phạm tội hay không.
Trong thời kỳ chiến tranh, Himmler đã đăng đàn nhiều lần trước các sĩ quan và hàng ngũ lãnh đạo SS (Heinrich Himmler, Discours secrets, Gallimard, Paris, 1978). Tất cả đều mang giọng giáo huấn đạo đức.
Xin dẫn ra ở đây một đoạn, nó còn cao hơn cả nhu cầu lúc đó, cao hơn nhu cầu của chính đế chế, có thể nói mang tính toàn năng: “Tất cả những điều chúng ta làm đều phải được biện hộ trước tổ tiên của chúng ta. Nếu chúng ta không có mối liên hệ đạo đức như thế, một mối liên hệ sâu sắc nhất và tuyệt vời nhất vì là tự nhiên nhất, thì chúng ta không thể chiến thắng Thiên Chúa giáo và xây dựng được đế chế Đức, một đế chế sẽ là vinh hạnh cho toàn bộ trái đất của chúng ta. Trong suốt hàng ngàn năm qua, nhiệm vụ của chủng tộc da trắng là làm chủ trái đất và luôn luôn tạo ra hạnh phúc và văn minh trên trái đất này” (ngày 9 tháng 6 năm 1942).
Theo chủ nghĩa Quốc xã, tính thiện là khôi phục lại trật tự tự nhiên đã bị lịch sử đảo lộn. Đẳng cấp tự nhiên của các chủng tộc đã bị các hiện tượng như Thiên Chúa giáo (“bệnh dịch hạch này là căn bệnh nặng nhất mà chúng ta gặp trong suốt tiến trình lịch sử”), dân chủ, quyền lực của đồng tiền, chủ nghĩa Bolsevik, người Do Thái phá hoại. Đế chế Đức là đỉnh cao của trật tự tự nhiên nhưng trong đó vẫn có chỗ dành cho các dân tộc Đức khác như người Scandinavia, Hà Lan, Flammand. Đế chế Anh, “một đế chế quốc tế do người da trắng thành lập”, sẽ được giữ nguyên. Người Pháp, người Ý ở bậc thấp hơn. Người Slav còn ở bậc thấp nữa, họ sẽ biến thành nô lệ và số người sẽ giảm bớt: Himmler cảnh báo sẽ “giảm” 30 triệu người. Trật tự tự nhiên cũng được phục hồi ngay trong lòng xã hội, trong đó những người tốt nhất, cứng rắn nhất, trong sạch nhất, cao quý nhất sẽ giữ thế thượng phong: tầng lớp tinh hoa Vaffen-SS là thí dụ điển hình. Khi Himmler nói như thế thì trong các bệnh viện và nhà thương điên, những bệnh nhân không còn khả năng hồi phục, những người tàn tật, người tâm thần thuộc “chủng tộc” Đức đã bị đem thủ tiêu một cách bí mật.
Tất cả những điều đó, Himmler nói tiếp, chỉ có thể đạt được bằng một cuộc chiến đấu cực kỳ khốc liệt. Trong các bài diễn văn của mình, ông ta luôn luôn kêu gọi lòng dũng cảm, kêu gọi những chiến tích siêu nhân, tinh thần trách nhiệm cao trước đế chế, đặc biệt khi nói về việc thực thi các mệnh lệnh khó chịu: “Chúng ta phải thực hiện những trách nhiệm tư tưởng và tuân theo số phận; chúng ta phải đứng vững trên hai chân, không được quỳ gối, không được ngã lòng, phải giữ vững vị trí cho đến hơi thở cuối cùng hay khi nhiệm vụ chưa hoàn thành”.
“Giải quyết triệt để vấn đề Do Thái”, ở khía cạnh nào đó, chỉ là vấn đề kỹ thuật, như người ta giết rận mà thôi: “Diệt rận không phải là vấn đề thế giới quan, đấy là vấn đề vệ sinh (…) chẳng bao lâu nữa sẽ không còn một con rận nào” (ngày 24 tháng 4 năm 1943). Hình ảnh loài côn trùng cần phải bị tiêu diệt thường xuất hiện khi người ta nói về kẻ thù tư tưởng. Lenin cũng hay sử dụng hình ảnh này. Nhưng Himmler, với vai trò một thủ trưởng mẫu mực, dùng nó để động viên, khuyến khích thính giả. Ông ta biết rằng họ sẽ khó khăn: một lúc nào đó, lương tâm có thể sẽ cắn rứt, cho nên để thực hiện một số nhiệm vụ nào đó, “luôn phải nhận thức được rằng chúng ta đang tiến hành cuộc đấu tranh chủng tộc, nguyên thủy, tự nhiên và hợp quy luật” (ngày 1 tháng 12 năm 1943). Bốn cái nhãn này mô tả chính xác đặc điểm của nền đức dục Quốc xã.
Trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 12 năm 1943, Himmler trình bày quan điểm của mình về việc “giải quyết triệt để vấn đề Do Thái” như sau: “Mệnh đề ‘người Do Thái phải bị tiêu diệt’ chỉ chứa có vài từ và được nói rất nhanh, thưa các ngài. Nhưng điều nó đòi hỏi ở người thực hiện lại là nặng nề nhất và khó khăn nhất. Dĩ nhiên, bọn Do Thái chỉ đơn giản là Do Thái, rõ ràng là như thế; nhưng xin các vị hãy suy nghĩ, có biết bao nhiêu người, kể cả các đảng viên, đã đề đạt với các cơ quan khác nhau, họ tuyên bố rằng dĩ nhiên Do Thái là bọn lợn, ngoại trừ tên này hay tên kia, chúng là những tên Do Thái trung thực không nên động đến. Tôi có thể nói rằng: căn cứ vào số đơn từ và ý kiến đó, số Do Thái trung thực ở Đức còn nhiều hơn số dân Do Thái nói chung (…). Tôi khẩn thiết đề nghị các vị hãy nghe những điều tôi nói ở đây, trong một nhóm nhỏ này và sau này sẽ không bao giờ nói lại nữa. Trước mặt các vị có một vấn đề: làm gì với phụ nữ và trẻ con? Tôi đã định thần và trong trường hợp này cũng tìm được giải pháp rõ ràng. Tôi cảm thấy không có quyền tiêu diệt đàn ông nhưng lại để lại những đứa trẻ con để sau này chúng sẽ báo thù con chúng ta, báo thù những thế hệ sau của chúng ta. Cần phải chấp nhận một quyết định đầy khó khăn, đấy là quét sạch dân tộc này khỏi mặt đất. Đối với cái tổ chức phải thực hiện nhiệm vụ này thì đây là nhiệm vụ khó khăn nhất mà nó từng thực hiện. Tôi nghĩ tôi có thể nói rằng: nhiệm vụ này phải được thực hiện sao cho dân chúng, các sĩ quan của chúng ta không bị đau khổ về mặt tình cảm và tâm hồn. Nhưng mối nguy hiểm như thế quả thật là đang tồn tại. Con đường giữa hai khả năng: trở nên quá cứng rắn, tàn nhẫn và đánh mất hết sự tôn trọng đối với đời sống của con người hoặc là trở thành quá mềm yếu và mất tinh thần đến mức động kinh, con đường giữa Scylla và Charibdys [1] là con đường cực kỳ hẹp.”
Cái đạo trung dung mà Himmler đòi hỏi đôi khi cũng đạt được: trên thực tế, có nhiều tên đồ tể có tiếng lại là những ông bố dịu dàng, những người đàn ông đầy tình cảm. Ông ta yêu cầu rằng “nhiệm vụ” phải được thi hành mà không có những động cơ “ích kỷ”, thi hành một cách bình tĩnh, không được ngã lòng. Rượu chè, hiếp dâm, cướp bóc những người bị đi đày vì quyền lợi riêng, rơi vào trạng thái cuồng sát một cách vô ích đều là biểu hiện của tình trạng vô kỷ luật, hỗn loạn, đánh mất lý tưởng của chủ nghĩa Quốc xã, cần phải bị lên án và trừng phạt.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:40:38 GMT 9
Đạo đức Quốc xã buộc người ta phải tuân theo trật tự do thiên nhiên qui định. Nhưng cái trật tự tự nhiên đó không thể nhận thức được bằng quan sát mà được rút ra từ sự hiểu biết về mặt tư tưởng. “Chủng tộc da trắng” đại diện cho bên thiện, còn “chủng tộc” Do Thái là bên ác. Cuộc đấu tranh mang tầm vũ trụ sẽ kết thúc bằng chiến thắng của phía bên này hay bên kia.
Nhưng đây chính là sự giả dối. Không có “chủng tộc” theo cách hiểu của những người Quốc xã. Không có “một người thượng đẳng da trắng cao to” ngay cả nếu ta có thể tưởng tượng được một người Đức da trắng cao to. Và cũng không có “người Do Thái” theo cách hiểu của họ, vì cái hình ảnh chủng tộc mà người Quốc xã tạo ra chỉ có những nét trùng hợp vô tình với diện mạo của một dân tộc trong Kinh Cựu ước mà thôi. Đảng viên Quốc xã cho rằng họ hiểu được tự nhiên, nhưng tự nhiên lại nằm sau các sơ đồ của họ. Hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh cũng bị nhận thức một cách sai lệch. Vì chủ nghĩa Quốc xã mà Hitler khởi chiến và cũng vì chủ nghĩa Quốc xã mà hắn đã thất bại. Stalin đã nắm thế thượng phong vì ông ta biết gạt hệ tư tưởng của mình sang một bên khi cần chuẩn bị cho chiến thắng. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Lenin tỏ ra “tốt hơn” vì nó cho phép những giai đoạn tạm dừng và sự kiên nhẫn về mặt chính trị, còn chủ nghĩa Quốc xã lại đầy xung động nên không thể làm như thế.
Luân lý Quốc xã là sự phủ nhận truyền thống đạo đức của toàn thể loài người. Chỉ một nhóm nhỏ các nhà tư tưởng ngoại vi đã nêu ra một vài đề tài mỹ học như một hình thức khiêu khích. Còn trên thực tế thì loại hình chủ nghĩa hiện thực do họ đề nghị: siêu nhân, người chưa thành nhân, khát vọng quyền lực, hư vô chủ nghĩa, chủ nghĩa phi lý đã đẩy họ vào lĩnh vực mỹ học. Nhưng đấy chỉ là cái tầm thường nghệ thuật dễ làm mê hoặc lòng người: những buổi trình diễn ở Nuremberg, các kiến trúc to lớn của Speer, sức mạnh thô bạo. Nhưng về mặt đạo đức thì nó không tìm ra được một người kế tục nghiêm túc nào trong lịch sử; trong lĩnh vực này, sự thoái hoá của nó là rõ ràng, nó cũng không thể được diễn dịch vào ngôn ngữ chung của nhân loại. Đấy là hai điểm yếu mà người ta thường đem so sánh với đạo đức cộng sản.
Đấy là lý do vì sao đạo đức Quốc xã ít lây nhiễm hơn đạo đức cộng sản, còn sự phá hoại đức hạnh của chủ nghĩa phát xít cũng không rộng lớn bằng. Các chủng tộc “thấp hèn”, các chủng tộc “chưa thành nhân” nhìn thấy ngay mối nguy hiểm chết người không thể nào tránh khỏi trong học thuyết này và vì vậy mà không bị nó lôi cuốn. Chính nhân dân Đức đi theo Hitler chủ yếu là vì tinh thần dân tộc hơn là vì chủ nghĩa Quốc xã. Tinh thần dân tộc - một tình cảm tự nhiên được hun đúc trong suốt hai thế kỷ trước - là một nguồn năng lực và nhiên liệu đối lập với các luận điểm của chủ nghĩa Quốc xã cũng như chủ nghĩa cộng sản. Một số người thuộc tầng lớp tinh hoa Đức đã ủng hộ Hitler, nhưng tính chất quý tộc nhuốm màu du đãng của các đội quân của Hitler lại chẳng có gì chung với tầng lớp tinh hoa cũ. Tầng lớp tinh hoa theo tinh thần Nietzsche, cũng như tất cả những người khác, đã mắc bẫy. Còn sự trung thành của hàng ngũ sĩ quan thì đấy là do truyền thống được củng cố bởi những nhóm theo Kant hay Hegel. Binh lính thì chỉ biết tuân phục.
Đấy là lý do vì sao đỉnh cao lý luận của chủ nghĩa Quốc xã, nghĩa là sự tiêu diệt về mặt thể xác dân tộc Do Thái, rồi sau đó là những dân tộc khác lại là bí mật của đế chế, mà lại là bí mật được bảo vệ kỹ lưỡng nhất. “Đêm pha lê”, được coi là vụ kiểm nghiệm, một cố gắng để tập hợp và giải thích cho người Đức về dự án vĩ đại đã không thành công về mặt chính trị. Lúc đó, Hitler mới quyết định xây dựng bên ngoài lãnh thổ lịch sử của nước Đức sáu trung tâm giết người hàng loạt.
Sự phá hoại về mặt đạo đức của chủ nghĩa Quốc xã có thể mô tả như những vòng tròn xung quanh một hạt nhân trung tâm, vài đoạn trong những bài diễn văn đã dẫn ở trên cho ta thấy hình ảnh của cái hạt nhân này. Hạt nhân được hình thành từ những kẻ hoàn toàn chấp nhận chủ nghĩa Quốc xã: cốt cán của đảng, cốt cán của Waffen-SS, cốt cán của GESTAPO. Những người tiến hành công việc giết người thì ít hơn. Đa số họ không cần chủ nghĩa Quốc xã: năng lực công nghệ và công nghiệp phát triển cao của Đức cho phép tiết kiệm sức lao động. Chỉ cần mấy trăm tên SS quản lý các trại tử thần, chúng giao công việc “đen tối” cho chính các nạn nhân. Các đội Einsatzgruppe được hình thành từ những kẻ chẳng cần qua một giai đoạn huấn luyện nào. Trong một số tác phẩm, người ta đã nói rằng thành viên của những đơn vị giết người này, về lý thuyết, có thể xuất ngũ được. Nhưng họ sẽ gặp nhiều rắc rối, mà ít nhất là bị điều ra mặt trận phía Đông. Những người này là quỷ dữ, nhưng không thể nào nói rằng họ là những kẻ cuồng tín tư tưởng Quốc xã. Ở dân tộc nào cũng có thể tìm được đủ số những kẻ giết người và tra tấn khi cần. Màu sắc tư tưởng chỉ giúp chúng dễ dàng thể hiện khuynh hướng và cho phép chúng phất lên mà thôi.
Có người đã nhấn mạnh rằng hoạt động của các Einsatzgruppe không thể là bí mật đối với quân đội vì so với bộ đội thì họ ở hậu phương; mục đích của các đoàn tàu cũng như việc tiêu diệt các khu vực của người Do Thái không phải là điều mà ngưới ta phải nghi ngờ; và mặc dù các khu vực xung quanh các trại tử thần là khu “trắng” đi chăng nữa thì tin tức cũng thường lọt ra ngoài. Hilberg viết rằng đấy là “bí mật mà mọi người đều biết”. Dĩ nhiên là như thế, nhưng cần phải lưu ý hai điều sau đây.
Bí mật mà mọi người đều biết thì không phải là chính sách hay sự kiện được công bố công khai. Người Đức đi theo Hitler vì kỷ luật quân sự và kỷ luật công dân, vì tinh thần dân tộc, vì sợ hãi, vì không dám nghĩ hay thực hiện các hành động phản kháng. Bí mật, ngay cả khi đã không còn là bí mật nữa, đã giải thoát họ khỏi trách nhiệm tinh thần, hoặc ít nhất đã giúp họ giả vờ, giúp họ quay lưng hay làm ra vẻ như không có gì xảy ra cả. Trong chế độ Quốc xã xã hội vẫn còn một ít quyền. Hàng ngũ sĩ quan tức một số khá đông người vẫn còn giữ được lòng trung thành với luật pháp và truyền thống tiến hành chiến tranh, ít nhiều còn giữ được danh dự. Tài sản tư hữu chưa bị xoá bỏ, như vậy là xã hội công dân phần nào cũng vẫn còn. Bộ phim Danh sách Schindler dựa trên câu chuyện có thật về nhà doanh nghiệp người Đức Oskar Schindler có khả năng thu gom và bảo vệ người lao động Do Thái. Không thể tưởng tượng một chuyện như thế ở Nga ngay cả trong những năm đầu của chính quyền cộng sản.
Đối với một người bình thường thì bí mật này là không thể tưởng tượng được. Phần lớn dân Đức lúc đó vẫn còn sống trong một xã hội quen thuộc, vẫn theo đạo đức truyền thống, họ không thể tưởng tượng được điều sẽ chờ đợi họ trong tương lai, vì vậy, họ khó tin cái hiện thực mà người ta cố tình che giấu, khó tin ngay cả những tang chứng. Chính người Do Thái, sau khi đã bị tước đoạt, bị tập trung và đưa lên tàu hoả cũng không tin vào hiện thực ngay trước khi bước vào lò hơi ngạt.
Nền giáo dục Quốc xã chỉ tồn tại có mấy năm. Khi nước Đức bị đồng minh chiếm đóng, chủ nghĩa Quốc xã biến mất ngay lập tức, ít nhất thì chuyện đó đã diễn ra ở Tây Đức; bên Đông Đức nó đã chuyển hoá thành một dạng khác. Nó biến mất, trước hết, vì bị các quan toà Đức cũng như quan toà quốc tế kết án. Thứ hai, đa số dân chúng chưa bị nó nhồi sọ một cách triệt để. Cuối cùng, nó biến mất vì những người Quốc xã sau khi tỉnh ngộ đã không tìm được mối liên hệ rõ ràng giữa quá khứ, khi họ còn nằm dưới tác động ma thuật của hệ tưởng, và hiện tại, khi cái tác động kia đã không còn. Eichmann [2] đã trở lại với bản chất của một viên chức bậc trung như hắn ta từng là trước đây và có thể sẽ là sau này nếu không bị bắt và bị kết án. Hắn đã chấp nhận bản án một cách thụ động, đúng với tính cách nhạt nhẽo của hắn. Bản luận tội, như Hannah Arendt đã nói rất đúng, không phù hợp với nhận thức hạn chế của con người tầm thường này.
Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa cộng sản là đạo đức. Toàn bộ các lịch sử các phong trào tiền thân của chủ nghĩa Bolshevik (phong trào xã hội chủ nghĩa Pháp và Đức, phong trào dân túy Nga) đều dựa vào yêu cầu đạo đức và chiến thắng của nó đồng nghĩa với chiến thắng của cái thiện. Mỹ học không theo kịp cái đẹp. Đảng viên Quốc xã coi mình là nghệ sĩ, còn người cộng sản thì coi mình là chân nhân.
Cơ sở của nền đạo đức này nằm trong hệ thống giải thích và được rút ra từ tri thức. Chủ nghĩa cộng sản dạy rằng khởi kỳ thủy, tự nhiên không phải là tự nhiên theo hệ thống thang bậc, dãn man và nhẫn tâm mà con người siêu nhân Quốc xã sùng bái. Không, nó giống như tự nhiên đầy thiện ý trong tác phẩm của Rousseau. Tự nhiên này đã biến mất, nhưng chủ nghĩa xã hội sẽ tái tạo nó trên một mức độ cao hơn và khi đó, con người có thể thể hiện được toàn bộ khả năng của mình. Trotsky khẳng định rằng: con người bình thường của nhân loại trong tương lai sẽ là Michelangelo và Leonardo da Vinci. Chủ nghĩa cộng sản dân chủ hoá con người siêu nhân.
Quá trình tự nhiên cũng là quá trình lịch sử vì chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự thống nhất giữa tự nhiên và lịch sử. Chủ nghĩa cộng sản vớ lấy đề tài về sự tiến bộ, một đề tài vĩ đại thời Khai sáng, trái ngược hoàn toàn với đề tài thoái hoá và suy đồi của chủ nghĩa Quốc xã nhưng sự tiến bộ lại đầy bi kịch, phải trải qua những sự tàn phá to lớn và không thể nào tránh được. Ở đây, chúng ta thấy bóng dáng của Hegel và đặc biệt là cuộc đấu tranh sinh tồn không khoan nhượng của học thuyết Darwin đem áp dụng vào xã hội. “Quan hệ sản xuất xã hội (‘Chế độ chiếm nô’, ‘chế độ phong kiến’, ‘chế độ tư bản’) thay thế nhau như các vương quốc trong thế giới động vật, như loài có vú thay cho loài lưỡng cư. Có một sự thống nhất bí mật giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản: “Không đập vỡ trứng thì làm sao có món trứng rán”, “Chặt cây thì mảnh phải văng ra”… Cả hai bên đều coi lịch sử là sư phụ. Chủ nghĩa Quốc xã khôi phục thế giới trong vẻ đẹp của nó, còn chủ nghĩa cộng sản khôi phục thế giới trong tính thiện của nó.
Sự khôi phục phụ thuộc vào ý chí của con người đã được tư tưởng soi sáng. Chủ nghĩa Lenin còn lệ thuộc vào sơ đồ nhận thức luận hai mâu thuẫn đối kháng và ba giai đoạn hơn cả chủ nghĩa Quốc xã. Quá khứ là công xã nguyên thủy, tương lai là chủ nghĩa cộng sản, còn hiện tại là cuộc đấu tranh giữa hai mâu thuẫn cơ bản. Các lực lượng thúc đẩy cuộc vận động về “phía trước” là tốt, còn lực lượng “cản trở” là xấu, là ác. Hệ tư tưởng (có căn cứ khoa học) mô tả bản chất của cái ác. Đấy không phải là tồn tại mang tính sinh vật (chủng tộc hạ đẳng) mà là tồn tại mang tính xã hội, thâm nhập vào toàn bộ xã hội: tư hữu, chủ nghĩa tư bản, đạo đức, luật pháp và văn hoá, là thượng tầng kiến trúc của cái ác, có thể được coi là “linh hồn của chủ nghĩa tư bản”. Những người hiểu được quá trình chuyển tiếp của các giai đoạn và hai mâu thuẫn cơ bản, những người nhận thức được bản chất của trật tự của tự nhiên và xã hội và hiểu được xu hướng tiến hoá và phương tiện để thúc đẩy quá trình tiến hoá tập hợp vào một tổ chức thống nhất, tạo ra đảng.
Như vậy, tất cả mọi phương tiện đưa đến mục đích mà người cách mạng tiên đoán được đều là tốt. Vì quá trình đó cũng là quá trình tiến hoá tự nhiên và phù hợp với lịch sử nên việc phá bỏ chế độ cũ là cần thiết để cho cái mới mau đến hơn mà thôi. Cách diễn đạt của Bakunin khi ông này tổng kết nhận thức của mình về Hegel đã trở thành tiền đề của chủ nghĩa cộng sản: tinh thần phá hoại cũng là tinh thần xây dựng. Trước khi có chủ nghĩa cộng sản, những người dân túy, xuất phát từ nhận thức của họ, đã nhận thức sâu sắc sự cần thiết của một cuộc cách mạng đạo đức. Chernyshevsky, Nechayev, Tkachev đã phát triển trong văn chương đề tài “con người mới”, còn Dostoievsky thì viết những tác phẩm trào phúng về đề tài này, ông là người hiểu rõ ý nghĩa siêu hình của nó. Con người mới là con người nắm được đạo đức mới, trung thành tuyệt đối với mục đích, người kiên trì thanh tẩy tàn dư của đạo đức cũ do “kẻ thù giai cấp” truyền bá nhằm kéo dài sự thống trị của chúng. Lenin xác lập đạo đức cộng sản. Trotsky thì viết một cuốn sách nhỏ về đạo đức “của chúng nó” và “của chúng ta”.
Điều đáng ngạc hiên là không có ai ở bên ngoài phong trào cách mạng nhận thức được sự hẫng hụt về mặt đạo đức này. Để mô tả nền đạo đức mới, chủ nghĩa cộng sản đã vay mượn ngôn từ của nền đạo đức cũ: công bằng, bình đẳng, tự do,… Thế giới mà cộng sản chuẩn bị phá bỏ quả thực đầy rẫy bất công và áp bức. Những người khao khát sự công bằng không thể không công nhận rằng cộng sản là những người lên án những điều bất công này một cách hăng say nhất. Cả những người yêu chuộng công bằng lẫn những người cộng sản đều nói rằng không só sự công bằng trong việc phân chia tài sản. Một người tốt, một người tuân theo lý tưởng công bằng sẽ tìm cách làm cho việc tái phân phối tài sản được thực hiện một cách tốt đẹp hơn. Nhưng đối với người cộng sản thì tư tưởng công bằng không nằm trong khái niệm chia một cách “công bằng” mà nằm trong việc thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, nằm trong việc xoá bỏ tư hữu và bằng cách đó xoá bỏ mọi cách chia, xoá bỏ chính sự chia và quyền của các bên tham gia vào quá trình phân chia. Khai sinh ra nhận thức về sự bất bình đẳng, nhưng người cộng sản không đặt mục tiêu chỉ ra sự khiếm khuyết của luật pháp: mục tiêu của họ là tạo trong dân chúng lòng khát khao một xã hội mà ở đó, pháp luật không còn là phương tiện điều chỉnh nữa. Tương tự như thế, tư tưởng cộng sản về tự do đặt mục đích khích động nhận thức về sự áp bức ở nơi mà cá nhân, nạn nhân của sự vong thân tư bản chủ nghĩa coi mình là tự do. Nói tóm lại, tất cả các ngôn từ thể hiện cái thiện: công bằng, tự do, nhân bản, từ tâm, khoan dung, v.v... đã biến thành công cụ cho một mục đích duy nhất, cho việc thiết lập chế độ cộng sản, một chế độ bao hàm và hiện thực hoá tất cả những điều tốt đẹp đó.
Nhưng có những tiêu chí đơn giản có thể đánh tan được sự lầm lẫn này. Tôi gọi nền đức hạnh mà các nhà thông thái thời cổ đại, cũng như các nhà thông thái Trung Quốc, Ấn Độ và châu Phi dựa vào là đức hạnh tự nhiên hay đức hạnh phổ thông. Trong thế giới Thiên Chúa giáo, đức hạnh này được trình bày tóm tắt trong nửa sau của “Mười điều răn”. Đạo đức cộng sản hoàn toàn trái lại. Mục đích của nó là tiêu diệt tư hữu và những điều liên quan đến sở hữu là luật pháp và tự do, nó còn đặt ra mục tiêu là cải tạo cả các quan hệ gia đình nữa. Nó cho mình quyền dối trá và sử dụng bạo lực như là phương tiện để chiến thắng trật tự cũ và thiết lập trật tự mới. Cơ sở của đạo đức cộng sản trái ngược hoàn toàn với điều răn thứ 5 (“hiếu kính cha mẹ”), điều răn thứ 6 (“chớ giết người”), điều răn thứ 7 (“chớ phạm tội tà dâm”), điều răn thứ 8 (“chớ trộm cướp”), điều răn thứ 9 (“chớ làm chứng dối cho kẻ lân cận mình”) và điều răn thứ 10 (“chớ tham điều gì của kẻ lân cận”). Không cần phải là người tin vào Thánh kinh, vẫn có thể đồng ý với tinh thần của những điều răn mà mọi người trên trái đất đều biết nói trên. Nhiều người cho rằng có những hành vi tốt, hành vi chân chính vì những hành vi này phù hợp với những qui luật của vũ trụ mà họ biết. Chủ nghĩa cộng sản khẳng định có một vũ trụ mới và một nền đạo đức mới phù hợp với nó. Đấy là lý do vì sao chủ nghĩa cộng sản bác bỏ không chỉ các điều răn mà còn bác bỏ cả cơ sở của nó, tức là thế giới tự nhiên. Chúng ta nói rằng đạo đức cộng sản dựa vào tự nhiên và lịch sử, nhưng không phải như thế: đạo đức cộng sản dựa vào siêu nhiên và lịch sử đã bị tước bỏ chân lý.
“Chế độ Xô viết”, Raymond Aron viết trong cuốn Chế độ dân chủ và chế độ toàn trị, “thoát thai từ ý chí cách mạng, được cổ vũ bởi lý tưởng nhân đạo. Mục đích là tạo ra một chế độ nhân bản nhất mà lịch sử từng biết tới, một chế độ mà lần đầu tiên con người có điều kiện trở thành nhân ái, một chế độ không còn giai cấp, nơi sự thống nhất của toàn xã hội tạo điều kiện cho các công dân tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái phong trào hướng đến mục tiêu tối thượng này lại không dừng lại trước bất cứ phương tiện nào vì theo học thuyết thì chỉ bạo lực mới có thể giúp tạo ra xã hội hoàn hảo đó và vì vậy, giai cấp vô sản đã bị lôi kéo vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa tư bản. Các giai đoạn khác nhau của chế độ Xô viết xuất hiện từ sự kết hợp giữa cái mục đích cao cả và phương tiện tàn nhẫn nói trên.”
Mấy câu đã dẫn trên đây thể hiện rõ ràng tính chất nước đôi và dối trá của chủ nghĩa cộng sản. Vì cái mà họ gọi là nhân văn và nhân ái trên thực tế lại là siêu nhân văn và siêu nhân ái, đây chính là cái mà hệ tư tưởng cộng sản hứa mang đến cho nhân loại. Lòng nhân văn và nhân ái đó không kèm theo quyền và không có tương lai. Các giai cấp không thể chung sống hoà bình, tất cả rồi sẽ biến mất. Xã hội không thể thống nhất, tính tự chủ và tính năng động vốn có của nó đã không còn. Không phải là giai cấp vô sản tiến hành chiến tranh chống lại chủ nghĩa tư bản mà là một hệ tư tưởng đã hành động và tiến hành chiến tranh nhân danh giai cấp vô sản. Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản cũng chỉ còn tồn tại trong sự tương phản với chủ nghĩa xã hội, mà chính chủ nghĩa xã hội cũng chỉ còn trong khuôn khổ của hệ tư tưởng, nghĩa là khái niệm chủ nghĩa tư bản cũng không thể dùng để mô tả cái hiện thực cần phải bị loại bỏ được nữa. Mục đích không còn cao quý nữa, nó chỉ khoác màu sắc cao quý mà thôi. Phương tiện, nghĩa là việc sát sinh, đã trở thành mục đích khả thi duy nhất.
Kết luận đoạn so sánh dài một cách đáng khâm phục giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, Raymond Aron viết: “Tôi kiên quyết khẳng định rằng có sự khác nhau đáng kể giữa hai hiện tượng này, dù chúng có giống nhau đến mức nào. Sự khác nhau đáng kể là hậu quả của những tư tưởng cổ động cho hai phong trào nói trên. Một phong trào thì kết thúc bằng trại lao động cải tạo, còn phong trào kia thì là buồng hơi ngạt. Một phong trào đặc trưng bởi ý chí xây dựng một xã hội mới và có thể cả con người mới bằng mọi phương tiện, còn đặc trưng của phong trào kia là một ý chí ma quái nhằm tiêu diệt một chủng-tộc-giả định”.
Tôi công nhận có sự khác nhau giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở những luận cứ sẽ được trình bày dưới đây. Những điều đã dẫn không thuyết phục được tôi. Chủ nghĩa Quốc xã cũng thiết kế ra một xã hội mới, con người mới và cũng bằng mọi phương tiện. Không thể biết giữa việc tiêu diệt một chủng-tộc-giả-định, sau đó đến lượt các chủng-tộc-giả-định khác, kể cả chủng tộc “siêu đẳng” vì tất cả các chủng tộc đều hư hỏng và việc tiêu diệt một giai-cấp-giả-định trước, rồi sau đó đến lượt các giai cấp khác vì tất cả các giai cấp đều tiêm nhiễm tinh thần của chủ nghĩa tư bản, cái nào ma quái hơn.
Raymond Aron kết luận: “Nếu phải nói một cách cực kỳ ngắn gọn ý nghĩa của mỗi phong trào nói trên thì tôi sẽ đề nghị công thức như sau: đối với chế độ Xô viết, tôi xin nhắc lại một câu mà ai cũng biết: “Kẻ muốn tạo ra một thiên thần lại tạo ra được một quỷ dữ”; còn đối với chế độ của Hitler thì tôi xin nói: “Con người có lẽ đã lầm lẫn khi muốn mình hao hao như thú dữ vì anh ta đã rất thành công trong chuyện này.”
Cái nào hay hơn: Trở thành thú với dáng vẻ thiên thần hay là người với dáng vẻ thú, nếu có thể chứng minh được rằng cả hai đều là những con thú dữ? Trường hợp thứ nhất, mức độ dối trá cao hơn và sức mê hoặc cũng nhiều hơn, sự xuyên tạc tính thiện cũng triệt để hơn vì ở đây cái ác lại có vẻ thiện, khác hẳn với tội ác không hề che giấu của chế độ Quốc xã. Điều đó đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa cộng sản truyền bá rộng hơn và làm rung động nhiều người, những người sẽ tránh né ngay lập tức các dự án của bọn SS. Làm cho những người tốt trở thành xấu có lẽ là việc ghê tởm hơn là làm cho kẻ xấu trở thành xấu hơn. Lập luận của Raymond Aron làm cho ta hiểu được sự khác nhau của ý đồ. Ý đồ của chủ nghĩa Quốc xã mâu thuẫn với điều thiện được toàn thể nhân loại công nhận. Ý đồ của chủ nghĩa cộng sản lại bóp méo nó, vì trông nó có vẻ thiện và lôi kéo nhiều người thiếu chú ý tham gia vào dự án. Dự án đã không hoàn thành cho nên không thể xét đoán nó về mặt đạo đức, chỉ còn lại các phương tiện, các phương tiện này không có khả năng đưa tới mục đích, chúng đã trở thành mục đích trên thực tế. Kèm theo tội ác, sự dối trá làm cho tội lỗi càng có sức hấp dẫn và trở thành nguy hiểm hơn.
Trở thành hấp dẫn hơn vì chủ nghĩa Lenin đã ăn cắp di sản của một lý tưởng có nguồn gốc lâu đời nhất. Trong thời điểm cải đạo, nhiều người không có khả năng nhận thức được sự xuyên tạc lý tưởng. Đôi khi có người suốt đời là đảng viên cộng sản mà không biết có sự xuyên tạc như thế. Sự lầm lẫn giữa đạo đức cũ (được mọi người công nhận) với đạo đức mới chưa bao giờ được làm sáng tỏ tới cùng. Vì chưa được làm sáng tỏ tới cùng như thế nên trong các đảng cộng sản, vẫn còn một số “người đứng đắn”, sự thoái hoá đạo đức của họ được triển hạn và chính vì có họ mà sự tha thứ đã diễn ra một cách dễ dàng hơn. Một cựu đảng viên cộng sản thì dễ dàng được tha thứ hơn là một cựu đảng viên Quốc xã vì người ta ngờ rằng ngay từ khi ra nhập đảng Quốc xã, hắn ta đã đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống.
Nguy hiểm hơn vì cách nhồi sọ của cộng sản nham hiểm hơn và thường xuyên hơn, vì nó biến việc ác thành việc thiện và buộc người ta phải làm điều ác. Tội ác của cộng sản nguy hiểm hơn còn vì rằng nạn nhân của nó không thể nào đoán trước được. Trên thực tế, bất kỳ người nào, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể được gán cho những đặc điểm tưởng tượng của kẻ thù. Chế độ Quốc xã xác định rõ ngay từ trước các kẻ thù của nó. Nó gán cho kẻ thù của mình những tính chất quái gở, như khi họ nói đến những kẻ bất thành nhân thì ta biết ngay đấy là người Do Thái, khi họ nói đến người Slav đáng khinh thì ta biết ngay đó có thể là người Ba Lan hay người Ukraine bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Người nào không phải gốc Do Thái hay Ba Lan hoặc Ukraine thì được tạm hoãn. Khi chưa cướp được chính quyền thì tính chất toàn nhân loại là một ưu điểm lớn của chủ nghĩa cộng sản so với tính độc tôn của chủ nghĩa Quốc xã, nhưng tính chất này lại trở thành mối đe doạ mang tầm nhân loại khi chủ nghĩa cộng sản nắm được chính quyền. Chủ nghĩa tư bản, trong ngôn từ của những người cộng sản, chỉ là một tồn tại mang tính tư tưởng, bất cứ người nào hay hiện tượng gì cũng có thể được coi là tư sản và bị nó nguyền rủa: trung nông, bần cố, trí thức, vô sản và cuối cùng là chính đảng cũng có thể được coi là đi theo con đường tư bản. Tất cả đều có thể bị nhiễm tư tưởng tư sản. Không có ai thoát khỏi được sự ngờ vực.
*
Các lãnh tụ Quốc xã đã nhận thức được một phần hiện thực khi họ nói rằng sẽ có máu và nước mắt, họ đã nhìn thấy trước cuộc chiến đấu một mất một còn để khôi phục lại trật tự sắc tộc vốn có của nhân loại. Lenin thì ngược lại, ông ta cho rằng thời cơ đã chín muồi, chỉ cần lật đổ được “chủ nghĩa tư bản” là tương lai tươi sáng của thế giới sẽ thành hiện thực. Ngọn lửa cách mạng sẽ bao trùm khắp thế giới. Chỉ cần những kẻ tước đoạt bị tước đoạt là các hình thức của chủ nghĩa xã hội sẽ tự xuất hiện. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra buổi sáng sau ngày 7 tháng 11 năm 1917 cả, bức màn được kéo lên nhưng đằng sau nó hoá ra là một sân khấu trống không. Giai cấp vô sản, bần cố nông, trung nông và tinh thần quốc tế vô sản đâu hết cả rồi? Chỉ có Lenin và đảng của mình cùng với một nhóm cận vệ đỏ giữa một thế giới đầy thù nghịch hay ít nhất cũng là một thế giới bàng quan.
Nhưng chủ nghĩa Marx-Lenin lại là một khoa học. Nghĩa là, kinh nghiệm phải cung cấp bằng chứng cho lý thuyết. Chủ nghĩa tư bản đã bị lật đổ, điều quan trọng bây giờ là thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Vì hiện nó chưa thắng lợi nên phải xây dựng nó theo đúng lý thuyết và phải kiểm tra để kết quả luôn phù hợp với lý thuyết. Từng tầng, từng tầng một của cái thế giới giả tạo có nhiệm vụ thay thế cho thế giới hiện thực được xây dựng lên như thế đấy. Sự dối trá đã phủ bóng đen ngày một dày đặc hơn của nó lên toàn bộ xã hội, lời nói và việc làm ngày càng xa rời nhau. Phủ nhận sự hiện diện của cái ác được coi là thiện và cái “thiện” đó cứ thế điên cuồng sinh sôi nảy nở.
Sự xuống cấp về mặt đạo đức trong chế độ cộng sản chủ yếu phát triển theo con đường như thế. Cũng như trong chế độ Quốc xã, nó lan truyền theo những vòng tròn đồng tâm xung quanh một hạt nhân trung tâm.
Trung tâm là đảng, trong đảng là nhóm lãnh đạo của nó. Trong thời kỳ mới giành được quyền lực, nhóm lãnh đạo này hoàn toàn bị hệ tư tưởng chi phối. Đấy là lúc nó tiến hành “tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. Do lương tâm đã bị đầu độc, nhân danh lý thuyết không tưởng, người ta tiến hành tiêu diệt hàng loạt nhóm người khác nhau. Nhìn về quá khứ, ta thấy dù ở Nga, ở Triều Tiên, Trung Quốc, Rumani, Ba Lan hay Campuchia thì vụ tắm máu đầu tiên này cũng là một trong những vụ giết người lớn nhất trong lịch sử của chế độ cộng sản, trong giai đoạn này khoảng 10% dân số đã bị giết hại.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:43:40 GMT 9
Khi giấc mơ không tưởng không thể nào trở thành hiện thực được, còn mười người giết một cũng không đưa đến đâu thì sự không tưởng đã thoái hoá đơn thuần thành việc bám víu quyền lực. Vì kẻ thù khách quan đã bị tiêu diệt, cần phải theo dõi để làm sao cho nó không tái xuất hiện, kể cả khả năng xuất hiện trong hàng ngũ của đảng. Đấy là lúc bắt đầu cuộc khủng bố giai đoạn hai, một cuộc khủng bố có vẻ vô nghĩa, vì nó không tương xứng với sự chống đối và chỉ nhằm áp đặt sự kiểm soát hoàn toàn lên tất cả mọi người dân, mọi ý nghĩ, mọi tư tưởng. Sợ hãi trở thành tài sản chung, nó lan truyền vào cả trong đảng, mỗi đảng viên đều cảm thấy nguy hiểm. Người này tố giác người kia, người này phản bội người kia. Tất cả, không trừ một ai.
Sau đó đến giai đoạn ba: đảng đưa ra các biện pháp chống lại những vụ thanh trừng thường xuyên. Đảng chấp nhận sự phân phối quyền lực hủ bại và hài lòng với sự an toàn của chính mình. Đảng không còn tin vào hệ tư tưởng nữa nhưng vẫn tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của nó và theo dõi để cái ngôn ngữ mà nó biết rõ là dối trá trở thành ngôn ngữ giao tiếp duy nhất: đấy chính là dấu hiệu rằng nó đang nắm quyền. Đảng tích cóp dần đặc quyền đặc lợi. Đảng trở thành một đẳng cấp riêng. Tham nhũng hiện diện khắp nơi. Dân chúng bây giờ không so sánh đảng viên với chó sói nữa mà so sánh với lũ lợn.
Tất cả dân chúng còn lại đều là ngoại vi. Tất cả và ngay lập tức được kêu gọi và huy động cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả đều bị đe doạ, bị lừa dối, bị xúi giục tham gia làm những việc ác.
Trước hết, tất cả đều bị khoá chặt. Tất cả các chế độ cộng sản đều bế quan toả cảng, đấy là một trong những bước đầu tiên của chế độ. Cho đến năm 1939, Quốc xã vẫn cho người ta ra nước ngoài miễn là có người trả tiền: nước Đức chỉ càng “trong sạch” hơn mà thôi. Cộng sản không bao giờ cho đi như thế. Họ cần có một đường biên giới nội bất xuất ngoại bất nhập, bí mật của những vụ giết người hàng loạt và bí mật về sự thất bại của họ cần phải được bảo vệ, nhưng trước hết là vì cả nước phải trở thành một trường học, nơi tất cả sẽ nhận được một nền giáo dục đào tận gốc rễ tinh thần của chủ nghĩa tư bản và thay vào đó là tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Bước thứ hai: kiểm soát thông tin. Dân chúng không được quyền biết những chuyện ở bên ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Họ cũng không được quyền biết những điều xảy ra ở trong nước. Họ không được quyền biết về quá khứ. Họ không được quyền biết về hiện tại. Họ chỉ được quyền biết về tương lai tươi sáng mà thôi.
Bước thứ ba: thay hiện thực bằng giả-hiện-thực. Có cả một tầng lớp chuyên sản xuất ra báo-chí-giả, lịch-sử-giả, văn-chương-giả và nghệ-thuật-giả và tất cả đều có nhiệm vụ phản ánh cái hiện thực không hề tồn tại. Kinh-tế-học-giả thì tạo ra thống kê tưởng tượng. Đôi khi nhu cầu của các chuyên viên trang trí dẫn đến các biện pháp theo kiểu Quốc xã. Thí dụ, ở Liên Xô, người tàn tật do chiến tranh hay tai nạn lao động bị cách li khỏi xã hội và được đưa đến những khu vực xa xôi để họ không làm hỏng bức tranh chung. Ở Bắc Triều Tiên, như người ta nói, những người lùn bị đưa đi thật xa và bị cấm sinh con, “chủng tộc” này sẽ phải biến mất vĩnh viễn. Có hàng triệu người tham gia vào công việc trang trí như thế. Để làm gì? Để chứng tỏ rằng xã hội chủ nghĩa không chỉ là khả thi mà đang được xây dựng, đang được củng cố, hơn nữa, có thể xây dựng được: đã có một xã hội tự do và tự quản mới, nơi những “con người mới” suy nghĩ và hành động theo qui tắc của hiện-thực-bịa-tạc. Công cụ hữu hiệu nhất của chính quyền là chế tác ra ngôn ngữ mới, trong đó, từ ngữ có ý nghĩa khác hẳn với ý nghĩa đã được mọi người công nhận. Vốn từ vựng và cách thể hiện đặt nó ngang tầm với ngôn ngữ cúng tế: ngôn ngữ thế hiển tính siêu nghiệm của chủ nghĩa xã hội. Nó chứng tỏ sức mạnh vô địch của đảng. Việc sử dụng rộng rãi thú ngôn ngữ này là chỉ dấu cho thấy sự nô dịch đã thành công.
Trong thời kỳ đầu, phần đông dân chúng tự nguyện học nói dối. Người ta gia nhập đạo đức mới cùng với di sản đạo đức cũ. Họ yêu lãnh tụ, những người hứa hẹn mang lại hạnh phúc cho họ, họ tin rằng mình hạnh phúc. Họ nghĩ rằng đang sống trong một xã hội công bằng. Họ căm thù kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, họ tố cáo chúng, đồng tình với việc cướp đoạt, xoá bỏ chúng. Họ tham gia hoặc ủng hộ vào việc tiêu diệt kẻ thù. Họ cùng tham gia thực hiện tội ác mà không biết. Trong khi đó, họ bị làm cho mụ mẫm đi bằng thông tin giả và logic giả. Họ đánh mất khả năng tự tri và đạo đức. Không còn khả năng phân biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng đức hạnh được mọi người thừa nhận cho nên khi gặp phải những điều bất công, họ liền cho rằng đấy là do kẻ thù bên ngoài. Cho đến tận ngày tàn của chế độ cộng sản ở Liên Xô, mỗi khi gặp phải sự đối xử bất công của cảnh sát hay cán bộ đảng, người dân lại gọi họ là “phát xít”. Họ không nghĩ rằng phải gọi những kẻ đó theo đúng tên: tên của chúng là cộng sản.
Sau đó, cuộc sống trong khối xã hội chủ nghĩa không trở nên “tốt hơn”, “vui hơn”, như Stalin nói vào lúc cao trào của cuộc “đại thanh trừng”, mà trở nên buồn tẻ hơn và u ám hơn. Trước đó, sự suy thoái về đạo đức diễn ra một cách vô thức nhưng bây giờ, người ta đã dần nhận thức được bản chất vấn đề. Trước đó, nhân dân làm điều ác nhưng lại nghĩ rằng đang làm việc thiện; nay thì họ biết họ đang làm gì. Người ta tiếp tục tố giác, tiếp tục ăn cắp, tiếp tục luồn cúi nhưng họ đã biết xấu hổ. Khác với chế độ Quốc xã, cộng sản không che giấu tội lỗi, nó tuyên bố công khai việc mình làm và kêu gọi dân chúng tham gia. Mỗi một vụ kết án đều có các cuộc mít tinh ủng hộ. Tội nhân bị đồng chí, bạn bè, vợ con công khai nguyền rủa. Tất cả đều phục tùng nghi lễ vì sợ và vì tư lợi. Những anh hùng lao động thời kỳ đầu chỉ là yếu tố trang trí, thực ra lại là những kẻ lười biếng, quỵ lụy, một người Xô Viết ngu độn. Phụ nữ bắt đầu căm thù đàn ông, trẻ con căm thù cha mẹ vì chúng cảm thấy rằng chúng cũng sẽ trở thành những người như thế.
Giai đoạn cuối cùng đã được các nhà văn thời kỳ cáo chung của chế độ cộng sản như Dinoviev, Erofeev miêu tả rất rõ. Tuyệt vọng và coi thường chính mình là tình cảm phổ biến nhất. Người ta chỉ còn mỗi một cách là sử dụng các tiện nghi mà chế độ cho phép, đấy là sự vô trách nhiệm, ăn bám và sống lay lắt qua ngày. Người ta không còn phải ứng xử theo kiểu nước đôi nữa, họ cố gắng để không còn nghĩ đến bất cứ điều gì. Con người trở nên khép kín. Đa sầu đa cảm, self-pity là cách để kêu gọi người khác chứng kiến sự xuống cấp đạo đức của chính mình, họ hành động giống hệt những kẻ nghiện rượu. Cuộc chiến đấu tất cả chống lại tất cả vẫn diễn ra nhưng xung năng thì đã giảm đi nhiều. Zinoviev cho rằng con người xô viết (homo sovieticus) là sản phẩm của một sự đột biến không thể phục hồi. Có thể là ông đã lầm.
Không ai có thể tránh khỏi nền giáo dục dối trá. Các khuôn khổ của xã hội cũ cùng với tư hữu đã bị bãi bỏ và được thay bằng đủ các thứ trường học và cơ quan theo dõi: nông dân thì bị nông trang, công xã nhân dân (Trung Quốc), công nhân thì bị “công đoàn”, nhà văn và nghệ sĩ thì bị các “hội văn học nghệ thuật” theo dõi. Có thể mô tả lịch sử chế độ cộng sản ở các nước khác nhau như là một cuộc rượt đuổi không mệt mỏi nhằm thiết lập một sự kiểm soát toàn diện, còn từ phía các thần dân thì đấy là những cuộc tìm kiếm tuyệt vọng một chỗ ẩn náu, dù đấy chỉ là một góc nhỏ cho chính mình. Góc nhỏ thì bao giờ cũng có. Chính vì thế mà một số gia đình trí thức cũ ở Nga đã có thể gìn giữ được truyền thống của mình. Andrey Sakharov sinh ra trong một gia đình như thế. Trong các trường đại học tổng hợp, các khoa ngôn ngữ học cổ điển gần như vẫn được giữ nguyên như cũ. Trong các thánh đường bị nô dịch vẫn có bầu không khí trong lành để thở. Trong thời kỳ cuối của chế độ cộng sản, ta có thể thấy ở Moskva những nhóm người trẻ tuổi, những người, sau khi tiếp thu được tri thức và đạo đức, đã không đi làm, không giành một chức vụ nào, họ sống tự do, cố gắng hạn chế tiếp xúc với môi trường Xô viết. Họ đã giữ như vậy cho đến ngày chế độ cáo chung.
Trong đế chế Liên Xô, công tác cải tạo cộng sản dừng lại trước ngưỡng cửa nhà tù. Nếu những người Quốc xã xem việc cải đạo là không thể xảy ra thì những người cộng sản, đơn giản, lại từ chối không cho các tù nhân cải sang đạo của mình. Họ từ chối một cách kiên quyết đến nỗi dù đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện kinh hoàng, Solzhenitsyn vẫn khẳng định rằng nhà tù là nơi có tự do tư tưởng và trong sạch về lương tâm. Ngược lại, chế độ cộng sản Á châu lại biến nhà tù thành trường học. Chính quyền ghi nhận thành tích học tập của từng trại viên. Chỉ có những người chết hoặc đã được cải hoá mới được ra khỏi nhà tù mà thôi.
Đánh giá
Với quan điểm lịch sử như vậy, có thể so sánh sự tàn phá về mặt đạo đức mà chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã gây ra trong thế kỷ vừa qua.
Tôi quan niệm sự tàn phá về mặt đạo đức không phải là sự phóng đãng mà từ xa xưa, những người già đã từng phàn nàn khi quan sát đức hạnh của giới trẻ. Tôi cũng không muốn so sánh thế kỷ này với những thế kỷ trước. Không có một cơ sở triết học nào để nói rằng người ngày xưa thì tốt hơn hay xấu hơn hiện nay. Nhưng rõ ràng là chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã quyết định làm ngược và làm thay đổi cả các nguyên tắc đạo đức, thay đổi nhận thức về thiện - ác. Vì lý do đó mà họ đã làm nhiều việc mà kinh nghiệm của loài người chưa từng biết đến.
Mặc dù chủ nghĩa Quốc xã đã thực hiện những tội ác mà chủ nghĩa cộng sản có thể không so sánh được nhưng phải nói rằng sự tàn phá về mặt đạo đức của chủ nghĩa cộng sản thì sâu hơn và rộng hơn nhiều. Có hai lý do:
Thứ nhất, toàn dân phải học các nguyên tắc đạo đức mới. Các chứng cớ đã nói với ta rằng đây là sự cải đạo bắt buộc, đấy là sự áp bức nặng nề nhất, khó chịu nhất, so với nó thì tất cả những thứ khác: sự thiếu vắng tự do chính trị và dân sự, việc theo dõi của cảnh sát, sự đàn áp về thể xác và kể cả nỗi sợ hãi, đều không là gì so với nền giáo dục bắt buộc đó. Nó có thể làm người ta phát điên vì nó trái ngược hẳn với các sự kiện rõ ràng, trái ngược hẳn các sự kiện có thể cảm thấy được. Và cuối cùng, tất cả các “biện pháp” và “cơ quan” đều bị nó khống chế. Chủ nghĩa cộng sản có thời gian tồn tại lâu hơn chủ nghĩa Quốc xã cho nên nền giáo dục này đã hoàn thành nhiệm vụ mà nó đặt ra. Sau khi sụp đổ, nó đã để lại một xã hội đầy thương tích, để lại những tâm hồn bị đầu độc khó thanh tẩy hơn là ở nước Đức mà sau một giai đoạn vong thân tạm thời, đất nước này đã thoát ra khỏi cơn ác mộng, sẵn sàng lao động, sẵn sàng sám hối.
Thứ hai, vì có sự lẫn lộn thâm căn cố đế giữa đạo đức vẫn được mọi người thừa nhận và đạo đức cộng sản: cái sau ẩn náu sau cái trước, sống ký sinh vào cái trước, giết chết cái trước, như bệnh hoại thư, dùng cái trước làm phương tiện truyền bệnh của mình. Đây là một thí dụ: Trong một cuộc tranh luận sau khi xuất bản Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản, tác giả của những bài xã luận trên tờ Humanité đã tuyên bố trên truyền hình rằng 85 triệu người bị giết hại không hề làm lu mờ lý tưởng cộng sản; đấy chỉ là kết quả của những sự lệch lạc rất đáng tiếc mà thôi. Sau Oswiecim, ông ta tuyên bố, không thể là đảng viên Quốc xã được nữa, nhưng sau những trại tù của Liên Xô thì người ta vẫn có thể là đảng viên cộng sản được. Con người này, lúc đó vẫn còn tỉnh táo, không biết rằng ông ta đã tự ký cho mình bản án tử hình khi nói như thế. Ông ta không nhận ra rằng lý tưởng cộng sản đã đánh mất hoàn toàn nguyên tắc thực tiễn và cơ sở đạo đức đến nỗi trong thực tế, nó vẫn còn sống được sau khi đã để lại trên đường đi của nó 85 triệu xác chết, trong khi lý tưởng Quốc xã đã sụp đổ dưới sức nặng của chính những xác chết do nó tạo ra. Ông ta đã nói những lời lẽ khủng khiếp như thế trong khi nghĩ rằng mình là một người trung thực, một người trung thành với lý tưởng, một người không khoan nhượng. Chủ nghĩa cộng sản tha hoá hơn chủ nghĩa Quốc xã vì nó không bảo người ta chấp nhận một cách có ý thức tư cách của kẻ làm điều ác nhưng nó lại lợi dụng tinh thần công bằng và bác ái thịnh hành trên khắp hành tinh để truyền bá cái ác. Tất cả các thí nghiệm của cộng sản đều bắt đầu bằng sự trong trắng, hồn nhiên.
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Scylla và Charibdys là hai quái vật trong thần thoại Hy Lạp, sống trên hai bờ vịnh hẹp, chuyên giết hại những người đi qua eo biển này. [2]Eichmann (1906-62), một tội phạm chiến tranh, hoạt động trong lực lượng SS từ năm 1933, năm 1937 cầm đầu Phòng xử lý vấn đề Do Thái, sau Chiến tranh thế giới thứ II chạy sang Argentina. Bị tình báo Israel bắt và bị tử hình năm 1962.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Nga, МИК – Русская мысль; Москва-Париж, 2000 Chương III Phá hoại về mặt chính trị
Tôi đã xem xét việc thủ tiêu về mặt thể xác, đã xem xét việc phá hoại môi trường đạo đức của con người, phá hoại cái môi trường của những sinh thể có lý trí biết phân biệt thiện ác. Cần phải xem xét việc phá hoại môi trường chính trị, nghĩa là năng lực xây dựng các quan hệ gia đình và xã hội, khả năng tạo dựng các mối quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị và bằng cách đó tạo ra nhà nước.
Chính sách phá hoại chính trị
Trước khi cướp được chính quyền và để cướp được chính quyền, các đảng Quốc xã và cộng sản đã sử dụng tất cả các phương tiện chính trị hiện có lúc đó. Họ tham gia vào trò chơi chính trị nhưng chính họ thì lại đứng ngoài cuộc, họ chỉ tuân thủ các tiêu chí do chính mình đặt ra và kỷ luật đảng mà thôi. Thí dụ, khi đảng Bolshevik đòi chia ruộng cho nông dân và ký ngay hiệp ước hoà bình thì không có nghĩa là họ sẽ hài lòng khi các đòi hỏi đó được đáp ứng. Đấy là lúc những người Bolshevik cần lôi kéo nông dân và binh lính để bắt đầu tiến trình cách mạng. Nhưng khi cách mạng thành công thì ruộng đất của nông dân lại bị thu hồi và việc chuẩn bị chiến tranh lại được tăng cường. Đảng không nhận thấy một chút mâu thuẫn nào ở đây cả. Công việc không dừng lại khi đã đạt được mục đích đặt ra, nó lại tiếp tục vận động và mục tiêu kia chỉ tồn tại như là vật hy sinh cho một công việc khác nằm đằng sau cái mục đích đã được tuyên bố trước đây.
Sau khi nắm được chính quyền, đảng thực hiện một chính sách phá hoại chính trị chưa hề có tiền lệ trong lịch sử. Tất cả các quan hệ vốn có của xã hội đều bị loại bỏ: gia đình (nếu đảng có đủ sức làm điều đó; gia đình ở đâu cũng chống lại, nhưng dù sao vẫn bị xói mòn và thoái hoá), giai cấp, các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước. Con người bị tước mọi quyền tự tổ chức, tự tập hợp, quyền có đại diện, con người bị hạ xuống thành các đinh ốc và bị lùa vào các hình thức tổ chức mới. Các hình thức này được xây dựng theo khuôn mẫu của những tổ chức đáng lẽ phải tồn tại nếu chủ nghĩa xã hội tồn tại và được khoác cho những cái tên như: xô viết, liên hiệp, công xã. Vì chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại trong tưởng tưởng cho nên các tổ chức trên chỉ sống được nhờ bộ máy đàn áp. Quyết định để cho các tổ chức và cơ quan này mang tên mới phản ánh cái chủ nghĩa xã hội tưởng tượng hay giữ nguyên tên cũ để có vẻ như thế giới cũ ít nhiều vẫn còn tồn tại, tất cả phụ thuộc vào nhu cầu chính trị tại thời điểm đó: trong trường hợp giữ như cũ thì chúng được gọi là công đoàn, viện hàn lâm, quốc hội, hợp tác xã – các từ đồng âm dị nghĩa như thế có thể “sử dụng được về mặt chính trị”. Biết bao đoàn đại biểu quốc hội hay hội đồng thành phố các nước phương Tây đã bị xỏ mũi khi họ tin rằng đã được các đại biểu quốc hội hay hội đồng thành phố tiếp chứ không phải là các cán bộ đảng tự nhận các danh hiệu như thế!
Về đại thể, đảng Quốc xã đã bắt chước chính sách phá hoại chính trị của cộng sản. Họ cũng cố tình che giấu mục đích thật sự khi cướp chính quyền, cũng lừa bịp các đồng minh tạm thời (có cả những người bảo thủ cánh hữu) để sau đó đàn áp họ. Họ cũng thành lập các tổ chức mới, chiêu nạp thanh niên và “quần chúng” vào các tổ chức này. Tư tưởng Quốc xã không đòi hỏi phải tiêu diệt ngay lập tức các hình thức quan hệ xã hội cũ, trung lập hoá và buộc các tổ chức này phục tùng là họ đã thoả mãn rồi. Vì vậy, dưới thời Quốc xã, các doanh nhân, thị trường, quan toà, công chức cũ, những người đã làm những việc ấy trước khi Quốc xã nắm quyền đã không bị bãi chức và vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc làm việc cũ. Chiến tranh đã đẩy nhanh quá trình thiết lập và củng cố chính quyền toàn trị. Chúng ta không thể biết nếu chủ nghĩa Quốc xã chiến thắng thì chính quyền ấy sẽ phát triển theo hướng nào.
Các hoạt động chính trị còn sót lại
Führerprinzip (Tôn sùng lãnh tụ) là một chi tiết quan trọng của cái lý luận trở về với tự nhiên của chủ nghĩa Quốc xã. Cốt lõi của toàn bộ xã hội là phải giống như một kim tự tháp gồm các cấp lãnh đạo hứa hẹn trung thành, tận tâm với đế chế, đỉnh tháp là lãnh tụ, sùng bái lãnh tụ là một phần không thể tách rời của toàn bộ hệ thống.
Đảng cộng sản cũng tổ chức theo thang bậc nhưng về nguyên tắc, tổ chức này được xây dựng trên cở sở bầu cử và dân chủ. Tính đặc thù của đảng do Lenin sáng lập là ngay từ khi mới hình thành, trung ương đã chỉ đạo cho các tổ chức đảng “bên dưới” cần bầu cho ai. Như vậy, những cuộc bầu cử dân chủ chỉ tạo điều kiện cho trung ương thấy được sức mạnh toàn năng của chính mình. Vấn đề ở đây là về mặt lý thuyết thì ý thức giác ngộ và nhận thức khoa học mà đảng dựa vào là tài sản độc quyền của lãnh đạo đảng, các kiến thức được đưa từ đây xuống “dưới”. Sau khi đã giao quyền cho “trung ương”, cấp “dưới” thể hiện thành tích của mình bằng cách tiếp thu học thuyết và “đường lối” của đảng. Kết quả là ngay từ thời Lenin, đã có hiện tượng sùng bái lãnh tụ và đỉnh cao của nó là dưới trào Stalin. Sự sùng bái vẫn còn ngay cả sau khi Stalin chết, nhưng dưới thời Brezhnev, mọi người đều hiểu rõ rằng bức tượng hoá ra chỉ là một khúc gỗ rỗng. Sùng bái lãnh tụ mâu thuẫn với học thuyết Mác-xít, những người đòi bảo vệ sự trong sáng của học thuyết theo phái Trotsky đã kiên quyết bác bỏ hiện tượng này. Nhưng thực tế đã tự thể hiện mình trong hệ thống được xây dựng trên hiện-thực-bịa-tạc: con người dễ dàng tôn thờ một kẻ giống mình hơn là tôn thờ cái học thuyết trừu tượng và rõ ràng là giả dối kia.
Như vậy, vì chính quyền cộng sản và chính quyền Quốc xã hiện diện trong những con người cụ thể nên các hoạt động chính trị chỉ còn là các hoạt động trong nội bộ đảng, một tổ chức hiện thực duy nhất còn tồn tại mà thôi. Hoạt động chính trị chỉ còn là, như Montesquieu mô tả về triều đình đế chế Ottoman và Ba Tư, hỗn hợp của lòng hận thù và âm mưu giữa những cá nhân và phe nhóm để tạo ra những liên minh tạm thời nhằm tranh giành quyền lực cá nhân, mà những vụ móc ngoặc như thế có thể dựa hoặc không cần dựa vào sự thay đổi đường lối của đảng. Trotky, Bukharin, Zinoviev, Stalin đều có chung mục đích là chủ nghĩa xã hội nhưng phải có một người nào đó làm lãnh tụ tối cao. Trong cái hộp chứa đầy nhện độc như thế đã diễn ra vô số những vụ giết người và phản bội.
Không tưởng
Những hoạt động không ngừng, đầy mưu mô và đôi khi rất sôi động của ban lãnh đạo trung ương không thể được coi là hoạt động chính trị vì đấy là những hoạt động nhằm thực hiện một ảo tưởng.
Cả hai chế độ mà ta đang khảo sát đều vin vào quá khứ huyền thoại, họ đã dựa vào những huyền thoại đó để phác hoạ tương lai trong trí tưởng tượng. Đã có một thời của người thượng đẳng, những người về bản chất là ưu việt hơn tất cả, ngày mai những người thượng đẳng này sẽ lại lên ngôi và đứng đầu là những người trong sạch nhất. Chủ nghĩa cộng sản không ước mong phục hồi quá khứ, tức là chế độ công xã nguyên thủy, mà muốn tái lập nó “trên bình diện cao hơn”. Như vậy, khái niệm về sự tiến bộ, thừa kế từ thời Khai sáng và được các nhà văn trường phái lãng mạn ca tụng hết lời, chiếm vị trí quan trọng trong học thuyết này. Tư tưởng của Marx, theo cách nói rất hay của Raymond Aron, là sự di chuyển từ Rousseau đến Rousseau thông qua Saint-Simon, nghĩa là thông qua tiến bộ kỹ thuật và công nghiệp. Chủ nghĩa Hitler là chủ nghĩa duy ý chí: đây là sự sáng tạo của ý chí, cái ý chí chỉ có thể tạo ra những khu rừng rậm trong trạng thái quân bình sinh học của chúng mà thôi. Chủ nghĩa Lenin lại dựa vào tiến trình lịch sử để tạo ra vùng Arcady [1] (với đèn điện và sự dư thừa), Aufhebung (chữ dùng của Hegel - cải tạo) cái vùng Arcady nguyên thủy ấy. Nhưng đảng, đóng vai trò bà đỡ, lại điều khiển chính tiến trình lịch sử này, vì vậy, chủ nghĩa duy ý chí cũng cần thiết cả ở đây nữa, nhưng nó vừa được người ta ca ngợi lại vừa bị bác bỏ vì rằng đảng chỉ thể hiện cái tất yếu được nhận thức, được người ta coi ngang (Lenin còn viện dẫn cả Spinoza) với tự do!
Hiện thực nằm giữa cái quá khứ huyền thoại và tương lai lý tưởng như thế đã chẳng còn chút giá trị gì. Nghệ thuật làm chính trị, nghĩa là việc sắp xếp hiện tại dựa vào việc quản lý những di sản có giá trị và sống động của quá khứ và những dự báo ngắn hạn về tương lai, cái nghệ thuật đó đã không còn ý nghĩa gì đối với lãnh đạo của cả chế độ Quốc xã lẫn chế độ cộng sản. Quá khứ vừa qua là địch thủ, hiện tại không có giá trị gì, tất cả là để phục vụ cho tương lai, cho mục đích cuối cùng.
Mục tiêu vô giới hạn của chủ nghĩa Quốc xã
Cần phải nghĩ xem liệu môi trường hoạt động và bành trướng của chủ nghĩa Quốc xã có giới hạn nào không hay về bản chất, môi trường của chúng là vô bờ bến. Chính sách hoà hoãn của Chamberlan và trong một chừng mực nào đó, chính sách phân chia mà Stalin theo đuổi vào năm 1940 là dựa trên giả thiết rằng Hitler sẽ thoả mãn với cái mà hắn nhận được. Hắn xoá bỏ hiệp ước Versailles, hắn chiếm các “vùng đất phía đông” liệu đã đủ chưa? Hắn tổ chức lại nước Đức, hắn tiêu diệt những người không có khả năng lao động, hắn giết người Do Thái, người bất thành nhân nhưng hắn cần đi tiếp. Để chiếm Ba Lan, hắn sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với phương Tây. Sau đó, hắn sẵn sàng chấp nhận chiến tranh thế giới. Có thể hắn không biết các kế hoạch đó sẽ đưa đến đâu nhưng hắn chấp nhận hậu quả, cứ như là một người bị số mệnh đưa đẩy phải liên tục khởi sự những cuộc chơi mới vậy. Stalin là người duy nhất có thể cùng hắn phân chia thế giới một cách ổn định, ông ta cho rằng hắn cũng khôn ngoan như mình và là người nhận thức được mối liên hệ tự nhiên giữa hai chế độ đã lấy làm tự hào về liên minh mới được thành lập. Nhưng Hitler đã phản bội và Stalin không thể nào hiểu được vì sao lại như thế. Sau đó, người ta cũng không thể nào hiểu nổi vì sao hắn lại dễ dàng tuyên chiến với Mỹ như thế. Từ giờ phút đó, hắn đã chơi một ván cờ mà thắng thì sẽ được cả thế giới, thua thì nước Đức sẽ tan hoang.
Chủ nghĩa Quốc xã đã bộc lộ sứ mệnh của mình trong cuộc chiến tranh này, đấy là tiêu diệt dần toàn bộ loài người theo từng lớp lang. Đối với họ, thế giới càng kháng cự mạnh bao nhiêu thì sự đối kháng giữa chủng tộc thượng đẳng và người Do Thái càng quyết liệt thêm bấy nhiêu. Người Do Thái được coi là chỉ dấu của sự cản trở việc thực thi kế hoạch vĩ đại của họ. Họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa Bolshevik, lúc này đã thành “Bolshevik-Do Thái”, họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa tư bản, lúc này đã thành “tư bản – Do Thái”. Nghĩa là người Do Thái đã làm băng hoại toàn thế giới, đã vấy bẩn lên tất cả, đã “Do Thái hoá” tất cả. Toàn thể nhân loại cần phải trong sạch hoá, nghĩa là cần phải giết hết. Theo Sebastien Haffner (Sebastien Haffner, Un certain Adolf Hitler, Gasset, Paris., 1979, trang 242) thì những cố gắng cuối cùng của Hitler chính là để điều khiển sao cho sự thất bại không thể tránh khỏi sẽ dẫn đến việc phá hủy toàn bộ nước Đức. Theo lý giải của Haffner, cuộc tấn công ở Ardenne là nhằm kìm chân quân Mỹ để toàn bộ đất nước rơi vào tay quân đội Liên Xô. “Những mệnh lệnh tiến hành chiến tranh hủy diệt do Hitler đưa ra vào các ngày 18 và 19 tháng 3 năm 1945 không phải là nhằm đánh một trận anh hùng cuối cùng như hồi mùa xuân năm 1944 nữa. Việc đưa hàng ngàn người Đức vào chỗ chết ở ngay trong lòng nước Đức cũng như việc hạ lệnh phá hoại một cách có hệ thống tất cả những thứ có thể giúp cho sự tồn tại khiêm nhường nhất là việc làm vô nghĩa. Vụ diệt chủng cuối cùng này của Hitler chỉ có một mục đích duy nhất: trừng phạt người Đức vì họ đã không tự nguyện lên đường đánh một trận cuối cùng, vì họ đã từ chối đóng vai trò mà Hitler đã phân cho họ. Trong mắt của Hitler thì đây là tội tử hình. Một dân tộc không thực hiện được vai trò đã được phân công sẽ phải chết.”
Nhưng cơ cấu chỉ huy Quốc xã với quyền quyết định hoàn toàn thuộc về lãnh tụ đã tạo cho lịch sử của nó một bước ngoặt không ai dự đoán trước được. Về lý thuyết, có thể cho rằng Hitler có khả năng đạt được thoả thuận với nước Anh sau khi đã thoả mãn với những điều khoản nhượng bộ của Stalin. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra, Hitler không chấp nhận xây dựng chế độ Quốc xã trong “một nước riêng lẻ”. Tương tự như thế, đảng Quốc xã và đế chế SS không cần phải làm thay vai trò của các trung tâm chỉ huy nền công nghiệp Đức, bản thân các trung tâm này đã rất ngoan ngoãn và rất có kỷ luật rồi. Thế nhưng họ vẫn giành lấy các vị trí chỉ huy và bằng cách đó, họ đã nhập khẩu hình mẫu kinh tế thiếu hiệu năng của Liên Xô vào nước Đức, tạo ra nhiều hậu quả tai hại trong những cố gắng duy trì chiến tranh của đế chế.
Việc cải tạo thế giới có thể được thực hiện lần lượt theo từng giai đoạn, còn việc phá hoại và giết người cũng được thực hiện theo một trình tự nhất định. Đúng là Quốc xã đã sử dụng “chiến thuật ngoạm từng miếng” (theo cách nói mà người ta gán cho là của Rákosi) vì những chủng tộc “sống sót” qua giai đoạn đầu sau đó mới nhận ra rằng đến lượt họ. Nhưng rồi ngay lập tức, phong trào này đã biến thành một cuộc tắm máu mang tầm nhân loại. Tuy nhiên, người Quốc xã không thể làm như Stalin, thí dụ hứa cho Ukraine độc lập để rồi sẽ “giải quyết” sau chiến thắng. Không, họ cần giết ngay lập tức và như thế là kích động người Ukraine đứng lên chống lại. Nguyên nhân của việc “giải quyết tất một lúc” để cuối cùng dẫn đến thất bại có lẽ có bắt nguồn từ tính duy mỹ của học thuyết. Hitler coi mình là một nghệ sĩ, tức là người có nhận thức thẩm mỹ lãng mạn của một thiên tài. “Thiên tài”, Kant viết, “không thể mô tả hay chứng minh một cách khoa học ông ta đã viết tác phẩm của mình như thế nào (…), và vì thế, tác giả của tác phẩm mà ông ta tạo ra nhờ thiên tài của mình không biết tư tưởng của ông ta đã được thực hiện như thế nào, ông ta không đủ sức nghĩ ra hay truyền đạt các tư tưởng đó cho người khác một cách tùy tiện hay theo kế hoạch trong những bản hướng dẫn mà theo đó những người khác có thể tạo ra những tác phẩm tương tự.” (Kant, Phê bình lý tính thuần túy, Chương 46, trích theo I. Kant, Toàn tập, gồm 6 tập, M. 1966, tập 5, trang 323-324). Theo đó, chính Hitler cũng không biết rõ hắn đang làm gì và cảm hứng cũng như các quyết định của hắn đến từ đâu. Hắn tự coi mình là thần linh như kiểu Promete và một phần sự say sưa đó đã được truyền xuống cho dân chúng. Hắn tin rằng hắn là người cổ động thiên tài tinh thần dân tộc, tin rằng các mệnh lệnh của hắn, lúc đầu còn thận trọng, sau này là những mệnh lệnh điên rồ, đều được ban từ trên xuống. Đấy là lý do vì sao có những sự vội vàng, hấp tấp mà Stalin không thể hiểu nổi. Đấy cũng là lý do của quyết định phi lý trong việc tiến hành cuộc chiến. Một số quyết định, do những viên tướng tài giỏi của hắn đề nghị đã có thể, nếu không thắng thì chí ít cũng có thể dẫn đến hoà, với điều kiện không thể nào có được là cuộc chiến chỉ theo đuổi những mục tiêu giới hạn. Nhưng do lỗi của Hitler mà cuộc chiến đã thất bại.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:45:01 GMT 9
Mục tiêu vô giới hạn của chủ nghĩa cộng sản
Dự án cộng sản ngay từ đầu đã mang tính toàn trị. Nó nhắm đến một cuộc cách mạng trên toàn thế giới, còn về nội dung thì đấy là một sự cải tạo triệt để xã hội, văn hoá và cả con người. Nhưng để thực hiện những mục tiêu xa lạ với lý trí của con người như thế, nó lại cho phép sử dụng những phương tiện hợp lý. Lenin, một người mơ tưởng viển vông, trong giai đoạn chiến tranh, đã đưa những khái niệm trừu tượng như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa cơ hội cùng đủ thứ “ism” khác để giải thích thế giới và theo ông ta, có thể giải thích được tất cả mọi thứ. Ông ta áp dụng các khái niệm này cho Thụy Sĩ, cho Đức và cho cả nước Nga nữa. Nhưng khi ông ta trở về nước Nga thì việc cướp chính quyền của ông ta lại hoàn toàn mang tính “chính trị”, theo nghĩa mà Machiaveli vẫn dùng.
Đảng cộng sản đã giành được chính quyền bằng con đường đấu tranh chính trị trong một xã hội bình thường về mặt chính trị. Ở đây, đảng đã tập dượt những chiến thuật khác nhau, những chiến thuật này sẽ được đem ra áp dụng sau khi đảng giành được chiến thắng. Thí dụ, “chiến thuật…” nghĩa là liên kết với những lực lượng không cộng sản, buộc họ tham gia vào việc tiêu diệt kẻ thù: đầu tiên là dựa vào những người cánh tả để tiêu diệt “bọn cực hữu”; sau đó là cánh tả ôn hoà, v.v… cho đến khi những người còn lại bị buộc phải thần phục và “kết hợp” nếu không muốn bị tiêu diệt hoàn toàn. Ưu việt của chủ nghĩa Lenin là tính chuyên nghiệp bao gồm sự khôn khéo, tính kiên trì và sự hợp lý nhằm đạt cho bằng được mục tiêu đã đặt ra. Nhưng đấy là nói về sự phá hoại, còn xây dựng thì không thể, vì mục tiêu của nó là phi lý.
Sau khi đã trở thành một nhà độc tài mà chính ông ta không nhận thức được, Lenin tiếp tục áp dụng những tiêu chí viển vông của mình vào những tình huống đầy biến động của nước Nga và dùng các tiêu chí đó để ra quyết định. Hoạt động cộng sản không phải được cổ vũ bởi chủ nghĩa duy mỹ mà xuất phát từ thảo luận “khoa học”. Cái giả khoa học này đã vay mượn của khoa học chân chính thuyết tam đoạn luận và tính trực quan giả tạo. Chính vì thế mà việc họ làm càng trở thành điên rồ, các quyết định càng tàn nhẫn, việc sửa chữa càng khó khăn thêm vì giả khoa học không phải là khoa học thực nghiệm, không thể xác nhận kết quả của thí nghiệm.
Dần dần, sự tàn phá lan sang mọi lĩnh vực và trở thành toàn triệt, nói theo Bakunin, là tương đương với ý chí sáng tạo. Ở nước Nga, sự tàn phá đã diễn ra theo những giai đoạn sau đây:
Đầu tiên là tiêu diệt kẻ thù về chính trị tức là các cơ quan của chính phủ và cơ quan hành chính. Việc này được thực hiện ngay sau đảo chính.
Sau đó, tiêu diệt các ổ đề kháng thực sự hoặc tiềm năng: các đảng phái, quân đội, công đoàn, hợp tác xã, trường đại học, trường học, viện hàn lâm khoa học, nhà in, báo giới.
Nhưng sau đó, đảng mới phát hiện ra rằng chủ nghĩa xã hội, như một xã hội tự do và tự quản, vẫn chưa hình thành và để xây dựng nó thì phải áp dụng các biện pháp cưỡng bức chưa từng có trước đây. Trong khi đó, theo lý thuyết thì chỉ có hai hiện thực: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là, hiện thực là tư bản chủ nghĩa, vì vậy, sang bước thứ ba, sẽ phải phá hủy tất cả những gì đang hiện hữu: làng xóm, gia đình, tàn dư của nền giáo dục tư sản và cả tiếng Nga nữa. Cần phải kiểm soát từng người, những con người cô đơn và không còn phương tiện tự vệ vì tất cả các mối liên hệ xã hội đã bị phá hoại rồi, buộc người đó vào một nếp sống mới, trong đó, anh ta sẽ được cải tạo và sẽ hình thành những phản ứng có điều kiện mới. Và cuối cùng là tiêu diệt những kẻ thù bí mật.
Nhưng thất bại trong xây dựng chủ nghĩa ở trong nước còn do môi trường thù địch ở bên ngoài tạo ra nữa. Dù có mang màu sắc nào: dân chủ tư sản, xã hội-dân chủ, chủ nghĩa Quốc xã thì chính sự tồn tại của nó đã là nguy hiểm rồi. Nghĩa là, trong bước thư tư, phải thành lập tại mỗi nước các tổ chức theo kiểu Bolshevik, phải thành lập các đảng cộng sản và một cơ quan trung ương, Comintern, để phối hợp hành động và bảo đảm sao cho các tổ chức địa phương hành động theo đúng mô hình do trung ương đưa xuống. Khi hoàn cảnh cho phép, chủ nghĩa cộng sản lan truyền sang các khu vực mới, liên kết với “khối xã hội chủ nghĩa” thì các khu vực này cũng sẽ trải qua các giai đoạn phá hoại tương tự.
Mặc dù vậy, ngay trong khối xã hội chủ nghĩa, đảng lại tuyên bố (bằng tiếng nói của Stalin) rằng chủ nghĩa tư bản vững chắc chưa từng có. Nó đã thâm nhập vào và mở rộng ảnh hưởng ở trong đảng, đảng đã đánh mất tính chính danh của mình. Như vậy là lãnh tụ của đảng và chỉ một mình ông ta có trách nhiệm giải tán đảng (giai đoạn 5) để rồi tạo dựng nên một đảng mới. Để thực hiện ca phẫu thuật nguy hiểm này, phải sùng bái lãnh tụ hơn nữa, lãnh tụ lúc này đã chẳng khác gì Führer của đảng Quốc xã nữa rồi. Khi đã là người đại diện cho tinh thần của thời đại, cũng như lãnh tụ Quốc xã là đại diện của tinh thần dân tộc, ông ta, trong hoàn cảnh cách ly với môi trường xung quanh nhưng lại “liên hệ trực tiếp” với đám đông, có thể tiêu diệt ngay đảng, tức là trở thành tên đao phủ tập thể của quần chúng. Stalin đã làm như thế một lần, chắc chắn là có xem xét kinh nghiệm của Hitler và “đêm của những con dao dài” của hắn ta. Ông ta chuẩn bị làm điều đó một lần nữa (đồng thời đưa tất cả người Do Thái đi đầy) nhưng chưa kịp thì đã chết. Mao Trạch Đông thì làm những hai lần: một lần là trong giai đoạn “Đại nhảy vọt”, sau đó thì quyết liệt hơn, trong “Đại cách mạng văn hoá vô sản”.
Suy nhược và tự tan rã
Logic của cả hai hệ thống, nếu được đưa đến cùng, là sự tiêu diệt toàn bộ loài người. Nhưng cái logic này không được và không thể được vận dụng đến thắng lợi cuối cùng.
Nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản là tất cả phải phục tùng cho việc giành và giữ chính quyền vì chính quyền có trách nhiệm thực thi đề án. Để bảo vệ chính quyền thì buộc lòng phải tha những gì cần thiết cho chính sự sống còn của nó.
Đã có lúc sự phá hoại đã gây ra những thiệt hại mà quyền lực của đảng gặp nguy hiểm – nhưng đây không phải là nguy cơ khởi nghĩa toàn dân, đảng đủ sức ngăn chặn chuyện đó, mà là nguy cơ biến mất ngay chính vật liệu mà đảng tiến hành thí nghiệm, tức là con người. Điều đó đã xảy ra vào giai đoạn cuối của “chủ nghĩa cộng sản thời chiến”: Nước Nga đang tan rã và sắp biến mất, Lenin buộc phải đưa ra chính sách kinh tế mới, thực chất là một cách giải lao.
Khi cách mạng chưa thu được thắng lợi trên toàn thế giới thì thế giới bên ngoài, dù chỉ còn là một hòn đảo nhỏ, vẫn là một mối đe doạ chết người. Nó có tư tưởng thù địch như đã từng thù địch dưới thời Hitler hay chỉ muốn được yên và giữ nguyên trạng thái như phương Tây sau Thế chiến thứ hai - đó không phải là vấn đề quan trọng, chỉ cần có sự hiện diện của nó là bong bóng xà phòng xã hội chủ nghĩa có nguy cơ nổ tung bất cứ lúc nào. Để giữ cho cái thế giới hiện thực đó đứng ở khoảng cách nhất định và trong trường hợp cần thiết thì có thể tiêu diệt được nó, đảng phải có lực lượng, mà lực lượng này lại chỉ có thể được lấy từ cái hiện thực nằm dưới sự kiểm soát của đảng. Đảng cần có một nền kinh tế tối thiểu để nuôi dân và một nền công nghiệp, công nghệ tối thiểu để trang bị cho quân đội. Chính vì vậy mà những người sản xuất, các kỹ thuật viên, các nhà bác học được tha mạng. Đảng không thể đưa tất cả về “thế giới bên kia” vì nếu làm như vậy thì chính đảng cũng bị cuốn vào dây chuyền tự hủy đó của mình.
Cuối cùng, giai đoạn chót, sự phá hoại đảng va chạm với bản năng tự bảo vệ. Sau những vụ thanh trừng vĩ đại của Stalin và Mao Trạch Đông, đảng đã tự đặt ra các biện pháp bảo đảm và bảo vệ cho sự tồn tại của chính mình. Cộng sản không còn giết cộng sản nữa, nạn nhân chỉ bị thất sủng mà thôi.
Ở nước Nga, giai đoạn suy thoái bắt đầu từ đấy. Đảng ngày một già đi vì nói cho cùng, bảo vệ chính quyền đồng nghĩa với việc bảo vệ các vị trí và chức vụ. Chiến thuật hình thành trong những thời kỳ gian khó bây giờ được dùng để làm mỗi việc đó mà thôi. Trên đỉnh cao quyền lực, Brezhnev đang rữa ra một cách chậm chạp. Đảng rơi vào tình trạng tha hoá: nó không còn tuyệt đối trung thành với các mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản nữa, nó chỉ muốn hưởng thụ quyền lực và tài sản. Nó đã thoát khỏi thế giới siêu thực và trở về với hiện thực, cái hiện thực đã bị nó làm cho tan hoang, nơi chỉ có những thú vui sơ đẳng: rượu, nhà nghỉ và xe ô tô con. Còn quần chúng thì vẫn sống qua ngày đoạn tháng trong thân phận vẫn dành cho họ, cố gắng sắp xếp cuộc sống được thế nào hay thế ấy; họ không còn quan tâm đến chế độ nữa, chế độ cũng không còn tổ chức cho họ xem cảnh lên voi xuống chó của những kẻ quyền thế mà cũng chẳng dành cho họ một chút hi vọng nào trong việc thay thế những kẻ kia. Sự xuống cấp của toàn xã hội đạt đến đỉnh điểm. Khi một tiếng động nhỏ làm sụp đổ ngôi nhà xếp bằng những quân bài, cái ngôi nhà có thể sụp bất cứ lúc nào thì trước mắt chúng ta bỗng hiện lên quang cảnh hậu cộng sản: những tên mafia và những người sống gần mức nghèo khổ, những người chẳng còn đủ sức lực để nhớ về quá khứ nữa.
Ở Trung Quốc, những người thoát được những cuộc thanh trừng của Mao đã đi theo con đường khác. Để giữ quyền lực, người ta buộc phải đưa ra nhiệm vụ xây dựng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hùng mạnh và chủ nghĩa dân tộc đầy sức sống đã thâm nhập vào cái xác không hồn của chủ nghĩa cộng sản. Là người chứng kiến cảnh điêu tàn của nhà nước Liên Xô, họ cảm thấy hối tiếc vì đã đi theo một hình mẫu phát triển sai lầm trong khi những người Trung Hoa khác hay các dân tộc gần gũi với người Trung Hoa đã đi theo mô hình hay hơn. Từ đây, xuất hiện tính chất hai mặt của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa: nước này đang phát triển rất mạnh trong khi đảng tiếp tục nắm chặt quyền lực và không ai biết nó có còn là đảng cộng sản nữa hay không. Hiện nay, trên thế giới chỉ còn một nước cộng sản duy nhất, một nước vẫn tiếp tục đi theo logic tự hủy diệt, đấy là Bắc Triều Tiên.
*
Chúng ta không biết chủ nghĩa Quốc xã sẽ tiến hoá như thế nào. Nó không đạt được đỉnh điểm và đã bị lật đổ ngay khi bắt đầu cuộc chinh phục của mình. Trong chế độ Quốc xã, việc phá hoại chính trị được thực hiện theo một trật tự khác với chế độ cộng sản Liên Xô. Chủ nghĩa Quốc xã hướng ra bên ngoài trước khi nó kết liễu xong xã hội Đức. Trong khi đó, Liên Xô lại coi trọng công việc phá hoại có tổ chức, công việc phá hoại một cách có kế hoạch tinh thần kẻ thù “bên ngoài”, Hồng quân chỉ xuất hiện để khẳng định chiến thắng về mặt chính trị, còn chủ nghĩa Quốc xã lại tiến hành chiến tranh ngay lập tức. Chiến tranh đã gia tốc việc thực hiện các kế hoạch của chủ nghĩa Quốc xã nhưng cũng làm gia tăng sức kháng cự bách chiến bách thắng trên toàn thế giới.
Thành tố không dự đoán trước được trong chủ nghĩa Quốc xã cho phép ta giả định rằng Hitler có thể, thí dụ, thoả hiệp và kí hiệp ước hoà bình mà vẫn giữ được một phần lãnh thổ rộng lớn và an toàn. Trong trường hợp đó, sau khi Hitler chết, chế độ sẽ trải qua giai đoạn suy nhược tương tự như chế độ của Lenin. Về vấn đề này, Leszek Kolakovsky đã viết một tiểu phẩm hài hước nhại một bài báo trên tờ New York Times hồi đầu những năm 80 theo phong cách mà báo này viết về Liên Xô thời Brezhnev. Tác giả chào mừng sự nới lỏng về chính trị, chào mừng những thành công của chủ nghĩa Quốc xã mang bộ mặt con người. Tất nhiên, tác giả viết tiếp, những điều khủng khiếp trong quá khứ, trong đó có số phận kinh hoàng của người Do Thái, là đáng tiếc. Nhưng đấy đã là quá khứ xa xôi và nó không thể cản trở chúng ta trong việc ghi nhận những thành quả tuyệt vời, những thành quả do chế độ, trên đường bình thường hoá, mang lại…
Ý nghĩa của những tác nhân bên ngoài đối với quá trình suy nhược và sụp đổ của các chế độ toàn trị có thể khác nhau. Đối với nước Đức Quốc xã thì đấy là tác nhân quyết định: nước Đức đã bị quân đồng minh đánh tan. Nhưng thế giới “tư bản chủ nghĩa” ít khi là mối đe doạ đối với chế độ cộng sản. Chủ nghĩa Quốc xã đã nêu cao tính chính danh của chủ nghĩa cộng sản trong mắt phương Tây. Trong thời “Chiến tranh lạnh”, chính sách roll back (quay lại quá khứ, nghĩa là quay lại các quan hệ trước chiến tranh) đã nhanh chóng nhường chỗ cho chính sách containment (kiềm chế). Bước ngoặt đó cũng không ngăn chặn được sự phát triển rộng khắp của phong trào cộng sản ở châu Á, châu Phi và cả châu Mỹ nữa. Cuối cùng thì đảo Grenada là nơi duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản bị lật đổ, tương tự như chủ nghĩa Quốc xã, nghĩa là bằng một cuộc đổ quân ồ ạt, dù bị một số nước phi cộng sản phản đối quyết liệt.
Phụ lục Chủ nghĩa Bolshevik: Nhớ và quên
Có một sự đồng thuận rộng rãi về sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản kiểu Bolshevik và chế độ Quốc xã, ít nhất thì trong giới các nhà sử học hàn lâm đã có một sự đồng thuận như thế. Tôi coi thuật ngữ “hai anh em sinh đôi cùng trứng” thể hiện được bản chất của hai chế độ này. Đấy là hai hệ tư tưởng đã giành được quyền lực trong thế kỷ XX. Mục đích của chúng là xây dựng một xã hội hoàn hảo và để làm điều đó thì trước hết phải loại bỏ hoàn toàn cái bất thiện, tức là những trở ngại trên con đường dẫn đến xã hội hoàn hảo đó. Đối với chủ nghĩa cộng sản thì bất thiện chính là tài sản tư nhân, cũng có nghĩa là tầng lớp hữu sản. Nhưng hoá ra cái bất thiện không biến mất sau khi giai cấp hữu sản đã bị tiêu diệt, từ đây tất cả mọi người dân, những người đã bị “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” làm cho thoái hoá biến chất, đều bị coi là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, thậm chí kẻ thù còn thâm nhập vào bộ máy của đảng nữa. Đối với chế độ Quốc xã thì các dân tộc bị coi là hạ đẳng, mà trước hết là người Do Thái, chính là cái bất thiện. Nhưng sau khi người Do Thái bị tiêu diệt thì cái bất thiện cũng không biến mất, cần phải loại trừ cái bất thiện trong cả các chủng tộc khác, kể cả chủng tộc thượng đẳng vì chính họ cũng đã bị vấy bẩn. Cả chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa Quốc xã đều dựa vào uy tín của khoa học để nêu cao tính chính danh của mình. Cả hai chế độ đều có tham vọng tạo dựng con người mới và cải tạo lại toàn bộ nhân loại.
Cả hai hệ tư tưởng đều tự nhận là có lòng nhân ái. Chủ nghĩa Quốc xã thì muốn mang lại hạnh phúc cho nhân dân Đức và tuyên bố rằng giết người Do Thái là làm điều thiện đối với loài người. Chủ nghĩa cộng sản-chủ nghĩa Lenin thì mong muốn đem hạnh phúc đến cho toàn thể loài người. Tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản chính là ở đó, trong khi cương lĩnh của chủ nghĩa Quốc xã thì không thể nào xuất khẩu được. Cả hai học thuyết đều đưa ra “những lý tưởng cao cả”, đủ sức động viên người ta thực hiện những hành động anh hùng và giữ lòng trung thành tuyệt đối. Nhưng cả hai đều cho người ta quyền được giết và buộc người ta phải giết. Xin dẫn ra đây những lời được coi là tiên tri của Chateaubriand: “Hai hệ thống khác nhau này có cùng một phương tiện anh hùng, được tuyên bố công khai hay hiểu ngầm thì cũng thế, đấy là: giết người”. Còn Hugo thì nói: “Ngươi có thể giết tên này”. Hoặc loại người này. Sau khi giành được chính quyền, họ đã thực hiện chương trình giết người với một mức độ chưa từng có trước đây. Tội ác của hai hệ thống có tương đương nhau hay không? Sau khi đã tìm hiểu cả hai hệ thống, sau khi đã biết những kỷ lục của chủ nghĩa Quốc xã về cường độ (buồng hơi ngạt) và kỷ lục của chủ nghĩa cộng sản về số lượng (hơn 80 triệu nạn nhân), sau khi đã biết sự phá hoại về mặt lý trí và tình cảm mà cả hai hệ thống đã gây ra cho nhân loại, tôi nghĩ rằng chẳng nên thảo luận vấn đề này làm gì, ta phải trả lời một cách đơn giản và dứt khoát: chúng đều có tội như nhau.
Vấn đề là tại sao hôm nay, nghĩa là vào năm 1997, trí nhớ lịch sử của nhân loại lại đối xử với chúng khác nhau đến nỗi có cảm giác như chủ nghĩa cộng sản đã bị người đời bỏ quên.
Cách đối xử bất bình đẳng rõ ràng đến nỗi chẳng cần phải chứng minh. Ngay từ năm 1989, phe đối lập ở Ba Lan cùng với Nhà thờ đã đề nghị mọi người cùng quên đi quá khứ và cùng tha thứ. Tại phần lớn các nước vừa thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản, không thấy ai nói đến việc trừng phạt các nhà lãnh đạo cũ, những người đã giết người, đã tước quyền tự do, đã cướp bóc và lừa đảo các thần dân của họ suốt hai ba thế hệ. Trừ Tiệp và Đông Đức, tại tất cả các nước khác, các đảng viên cộng sản vẫn được tiếp tục tham gia vào các trò chơi chính trị và nhờ thế, đôi khi họ lại nắm được quyền lực. Tại Nga và các nước cộng hoà khác, các quan chức cảnh sát và ngoại giao vẫn được giữ nguyên chức vụ. Phương Tây đánh giá tích cực cuộc đại ân xá này. Chỉ một thời gian sau, các phương tiện thông tin đại chúng lại sẵn sàng nói đến “thiên anh hùng ca của chủ nghĩa cộng sản”. Tuy quá khứ của Đảng Cộng sản Pháp đã được trình bày một cách rõ ràng và có đủ cứ liệu chứng minh, nó vẫn chẳng gặp khó khăn gì trong việc hội nhập vào phong trào dân chủ của nước Pháp.
Ngược lại, damatio memoriac (sự nguyền rủa đời đời) chủ nghĩa Quốc xã không những không có thời hạn nào mà có vẻ như lòng căm thù của người đời đối với nó càng ngày lại càng lớn lên thêm. Các thư viện nói về tội ác của chủ nghĩa Quốc xã đã và đang được bổ sung thêm mỗi năm. Các viện bảo tàng và các cuộc triển lãm tiếp tục nhắc nhở người ta, mà như thế là đúng, về “sự khủng khiếp của tội ác”.
Xin theo dõi một số đề tài của một tờ báo lớn từ năm 1990 đến năm 1997 là năm tôi viết tác phẩm này. Chủ nghĩa Quốc xã được nhắc tới 480 lần, Chủ nghĩa Stalin – 7 lần, Oswiecim – 105 lần, Kolyma – 2 lần, Majdanek – 1, Kurpatư – 0 lần nào, Nạn đói ở Ukraine (năm 1933 có từ 5 đến 6 triệu người bị chết vì đói) – 0 lần nào.
Khi nói về cuốn sách mang tên Nhớ và quên của mình, Alfred Grosse tuyên bố: “Tôi đề nghị: phải áp dụng cùng một tiêu chí cho tất cả mọi người khi đánh giá trách nhiệm về những tội lỗi mà họ đã phạm trong quá khứ.” Dĩ nhiên là như thế, nhưng đây là điều rất khó, không phải với tư cách một quan toà mà với tư cách một nhà sử học bình thường, hôm nay tôi xin cố gắng giải thích các sự kiện sine ira et studia (một cách bình tĩnh và không thiên vị). Tôi không nghĩ là mình sẽ giải quyết được toàn bộ vấn đề. Chỉ xin đưa ra một số nhân tố:
Chủ nghĩa Quốc xã được nhiều người biết hơn là chủ nghĩa cộng sản vì các lực lượng đồng minh đã mở rộng cửa “các chỗ giấu xác người” và vì nhân dân nhiều nước Tây Âu đã trải qua giai đoạn nô dịch của chủ nghĩa Quốc xã. Tôi đã nhiều lần hỏi các sinh viên xem họ có biết gì về nạn đói do chính con người tạo ra ở Ukraine vào năm 1933 không. Hoá ra họ chưa nghe nói đến chuyện đó bao giờ. Tội ác của chủ nghĩa Quốc xã trước hết là việc thủ tiêu về mặt thể xác. Nạn nhân và nhân chứng, những người không buộc phải chấp nhận chủ nghĩa Quốc xã, không bị nó tiêm nhiễm về mặt đạo đức. Như vậy là tội ác của nó rất rõ ràng, ai cũng thấy. Các lò hơi ngạt được lập ra để giết một phần nhân loại là một sự kiện rõ ràng, trực tiếp. Còn GULag và lao cải thì lại dường như bị chìm trong sương mù và chỉ được biết đến qua những chứng cớ gián tiếp. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đấy là nước Cămpuchia, ở đấy những nấm mồ tập thể đang được khai quật.
Nhân dân Do Thái tự nhận trách nhiệm ghi nhớ thảm hoạ. Đối với họ, ghi nhớ những cuộc đàn áp là trách nhiệm mang tính đạo đức, trách nhiệm tôn giáo liên quan đến sự vinh danh và lời thỉnh cầu Đức Chúa, Người đã hứa bảo vệ Dân Mình, Người trừng phạt sự bất công và tội ác. Nhân loại phải mang ơn trí nhớ của người Do Thái, họ chính là những người bảo vệ các kho lưu trữ về thảm hoạ. Điều bí mật nằm ở các dân tộc đã quên mà tôi sẽ nói tới sau.
Chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản nằm trong một từ trường bị phân cực bởi các khái niệm tả khuynh và hữu khuynh. Đây là một khái niệm cực kỳ phức tạp. Một mặt, tư tưởng tả khuynh đồng nghĩa với việc các tầng lớp xã hội được tham gia dần dần vào các tiến trình chính trị dân chủ. Đồng thời cần phải ghi nhận rằng sự phát triển của giai cấp công nhân Mỹ đã làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa không còn hấp dẫn nữa, giai cấp công nhân Anh, Đức và các nước vùng Scadinavia đã lớn mạnh, với đa số các đại diện của mình trong nghị viện, đã quay lưng lại với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Ngay trước chiến tranh thế giới thứ II, chỉ có ở Pháp và Tiệp Khắc, cũng như sau này ở Italy, chủ nghĩa cộng sản có thể giành được chiến thắng cùng với phong trào công nhân và như vậy là có toàn quyền tham gia vào lực lượng cánh tả mà thôi. Xin nói thêm rằng: ở Pháp, có một số nhà sử học, thí dụ như Matier, những người hâm mộ cuộc Cách mạng vĩ đại Pháp đã làm việc so sánh Cách mạng tháng Mười năm 1917 với Cách mạng năm 1792 và so sánh cuộc khủng bố do những người Bolshevik và những người Jacobin tiến hành.
Mặt khác, nhiều nhà sử học sinh ra và trưởng thành trước chiến tranh vẫn giữ được cảm giác sống động về cội nguồn xã hội chủ nghĩa hay vô sản của chủ nghĩa phát xít Italy và Quốc xã Đức. Chứng minh cho điều đó là cuốn sách Lịch sử chủ nghĩa xã hội ở châu Âu của Eli Galevi xuất bản năm 1937. Tác giả dành hẳn chương ba của phần năm của tác phẩm để nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Italy phát xít. Còn chương bốn là để nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Đức Quốc xã. Chế độ này tự tuyên bố là theo đường lối chống tư bản, đã tịch thu tài sản của tầng lớp tinh hoa hay tiêu diệt chính tầng lớp này; như vậy là ngày hôm nay, chiếu theo một số tiêu chí, chế độ này có thể chiếm được vị trí mà nó không thể ngờ được, tức là vị trí trong lịch sử của phong trào xã hội chủ nghĩa.
Chiến tranh đã đưa các nước dân chủ tham gia liên minh quân sự với Liên Xô, và vì vậy đã làm giảm sức đề kháng đối với tư tưởng cộng sản mà vào lúc Stalin kí hoà ước với Hitler đã rất mạnh, cũng như đã tạo ra một sự rối loạn tri thức nhất định. Để một nước dân chủ chiến đấu hết mình thì đồng minh của nó phải được tôn trọng ở một mức độ nhất định, khi cần thiết người ta buộc phải gán cho nó một sự tôn trọng như thế. Với sự tiếp tay của Stalin, lòng dũng cảm của các chiến binh Liên Xô được coi là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, còn tư tưởng cộng sản thì được người ta cố tình che giấu đi. Khác với các nước Đông Âu, các nước phương Tây không phải chịu cảnh xâm lăng của quân đội Xô viết. Vì thế, người ta coi Hồng quân là quân đội giải phóng, tương tự như quân đội của các nước đồng minh khác, nhưng điều này trái ngược hẳn với quan niệm của người Ba Lan hay người dân các nước Baltic. Đại diện Liên Xô cũng tham gia vụ xét xử ở Nuremberg. Các nước dân chủ đã chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít. Sau đó, họ chỉ có thể đồng ý chịu những hi sinh tối thiểu để ngăn chặn sự bành trướng của chế độ Xô viết và khi nó sắp cáo chung, nhằm giữ sự ổn định, họ đã giúp đỡ để cho nó sống còn. Chế độ này đã tự sụp đổ, đã biến mất, vai trò của các nước dân chủ trong chuyện đó là không đáng kể.
Một trong những thành tựu của chế độ Xô viết là nó đã tuyên truyền và dần dần áp đặt được cách phân loại các chế độ chính trị hiện nay theo quan điểm tư tưởng của mình. Lenin đã giản lược thành sự đối đầu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cho đến những năm 30 của thế kỷ trước, Stalin vẫn giữ quan điểm về một thế giới lưỡng phân như thế. Chủ nghĩa tư bản hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc bao gồm các chế độ tự do và dân chủ-xã hội, phát xít và Quốc xã. Điều đó đã tạo điều kiện cho những người cộng sản Đức đánh đu giữa những người “phát xít – xã hội” và “Quốc xã”. Nhưng sau khi đưa ra nghị quyết về cái gọi là chính sách Mặt trận dân tộc thì các nước được phân thành: chủ nghĩa xã hội (nghĩa là Liên Xô), dân chủ tư sản (các nước tự do và dân chủ-xã hội) và cuối cùng là phát xít. Các chế độ như Quốc xã, phát xít Mussolini, các chế độ độc tài ở Tây Ban Nha, Áo, Hung, Ba Lan… và cuối cùng là các lực lượng cực hữu ở các nước dân chủ tự do đều bị coi là phát xít cả. Người ta đã xâu chuỗi Hitler với Jean Sharp (một quan chức cao cấp trong chính quyền Pháp trước chiến tranh và sau này có tham gia chính quyền tay sai phát xít Đức, có cảm tình với cánh cực hữu), Franco, Mussolini ..v..v.. Tính đặc thù của chế độ Quốc xã đã bị xoá nhoà. Thêm vào đó, chế độ này bị xếp vào cánh hữu và phủ bóng đen lên tất cả các lực lượng thiên hữu. Chế độ này trở thành cực hữu, trong khi Liên Xô trở thành lực lượng cực tả.
Điều đáng ngạc nhiên là cách phân loại như vậy đã thâm nhập và củng cố được vị trí của mình trong tư duy lịch sử ở nước Pháp. Xin xem mấy cuốn sách giáo khoa về lịch sử dành cho các trường trung và đại học. Cách phân loại thường được viết như sau: Chế độ Xô viết; các nước dân chủ tự do với các lực lượng cánh tả và cánh hữu; các chế độ phát xít, nghĩa là chế độ Quốc xã, chế độ phát xít ở Italy, chế độ của Franco ở Tây Ban Nha..v..v.. Đấy chỉ là cách trình bày “đã được mềm hoá” sự phân loại của Liên Xô mà thôi. Ngược lại, trong các cuốn sách giáo khoa này thật khó tìm thấy cách phân loại đúng đắn, đã được Hannah Arendt đề xuất vào năm 1951 và được tất cả các sử gia đương đại tán thành: Hai hệ thống toàn trị là chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, các chế độ tự do, các nhà nước chuyên chế (Italy, Tây Ban Nha, Hungary, các nước Mỹ La tinh). Cách phân loại như thế sẽ đưa chúng ta trở về với các tiêu chí cổ điển về các chế độ độc tài và áp bức, được mọi người biết đến từ thời Aristotle.
Số người có khả năng gìn giữ trí nhớ về chủ nghĩa cộng sản quả thật không nhiều. Chế độ Quốc xã chỉ tồn tại có 12 năm, trong khi chế độ cộng sản châu Âu kéo dài 50 đến 70 năm, tùy nước. Thời gian dài đã tạo ra hiệu ứng ân xá tự động. Trên thực tế, trong thời gian dài như thế xã hội công dân đã bị thủ tiêu, các tầng lớp tinh hoa đã bị tiêu diệt, bị thay thế hoặc bị cải tạo hết. Tất cả mọi người, từ trên xuống dưới đều đã tự thích nghi, đã phản bội, đã suy đồi về mặt đạo đức. Hơn thế nữa, đa số những người có khả năng tư duy đã không có kiến thức về lịch sử nước mình, đã không còn khả năng phân tích nữa. Khi đọc các tác phẩm đối lập, nghĩa là nền văn học chân chính duy nhất của nước Nga, ta chỉ nghe thấy những lời khẩn cầu đau xé tim gan, những mô tả đầy xúc động về cái thảm hoạ bất tận đó, nhưng không bao giờ gặp một sự phân tích mang tầm lý tính, mang tầm trí tuệ. Các nhà sử học trẻ Nga hiện nay không quan tâm đến giai đoạn đó, một giai đoạn đã được cho vào quên lãng và khinh khi. Xin nói thêm là nhà nước còn đóng cửa các kho lưu trữ. Môi trường duy nhất còn giữ được trí nhớ về chủ nghĩa cộng sản là phong trào gọi là dissident [2] , xuất hiện khoảng năm 1970. Nhưng phong trào này đã tan rã vào năm 1991 và không có khả năng tham gia vào chính quyền mới.
Khôi phục trí năng và nhận thức về đạo đức của nhân dân sau khi chế độ toàn trị tan rã là việc cực kỳ khó. Theo ý nghĩa này thì công việc ở nước Đức Quốc xã có nhiều thuận lợi hơn so với nước Nga hậu cộng sản. Ở Đức, xã hội công dân chưa bị phá sập hoàn toàn. Việc lên án, trừng phạt, phi phát xít hoá do quân đội đồng minh tiến hành đã giúp xã hội công dân tìm được sức mạnh để tham gia vào phong trào thanh tẩy lương tâm, lên án chính mình, giúp nó người ta ghi nhớ những việc đã làm và sám hối.
Đông Âu thì không như thế, phương Tây phải chịu một phần trách nhiệm trong chuyện này. Khi những người cộng sản Nga biến việc nắm giữ toàn bộ tài sản quốc gia thành tài sản tư nhân hợp pháp của chính họ, khi họ hợp thức hoá quyền lực của mình bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu, khi họ thay chủ nghĩa Lenin bằng chủ nghĩa xô vanh nước lớn thì phương Tây đã im lặng, cho rằng đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm là không đúng chỗ. Không nên giúp nước Nga theo cách tồi tệ như thế. Việc những bức tượng của Lenin còn đứng trên tất cả các quảng trường của nước Nga là biểu hiện rõ ràng về sự ngộ độc của tâm hồn con người, phải nhiều năm nữa mới chữa được. Ở phương Tây, lời “giáo huấn” của Comintern đưa ra cho Mặt trận dân tộc vẫn chưa được được xoá bỏ hẳn. Việc đưa các tư tưởng của Lenin vào hàng ngũ cánh tả chắc chắn sẽ làm cho Kautsky, Bernstein, Léon Blum, Bertrand Russell, thậm chí ngay cả Rosa Luxemburg cũng sẽ tỏ thái độ khinh bỉ nếu các vị đó còn sống cho đến hôm nay. Chính vì việc làm sai lầm như thế mà hiện nay người ta vẫn coi đó là một sự hiểu lầm hay một trường hợp đáng tiếc trong phong trào cánh tả. Bây giờ, sau khi biến mất, nó lại tiếp tục được coi như là một dự án xứng đáng thực thi nhưng đã bị đưa vào con đường lầm lạc.
Việc quên chủ nghĩa cộng sản lại thúc đẩy người ta càng nhớ đến chủ nghĩa Quốc xã nhiều hơn và ngược lại, một trí nhớ trung thực và đơn giản cũng đủ để kết án cả hai chế độ này. Ở đây có cả đặc trưng của cái lương tâm không trong sáng đã tồn tại nhiều thế kỷ ở phương Tây: nguồn gốc của cái ác tuyệt đối bao giờ cũng xuất phát từ phương Tây. Nay quan niệm về vị trí địa lý của họ đã thay đổi. Nguồn gốc của cái ác bây giờ là Nam Phi với nạn phân biệt chủng tộc, là Mỹ với cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng trung tâm động đất vẫn là nước Đức Quốc xã. Nga, Triều Tiên, Trung Quốc, Cuba được coi là bên ngoài hay bị đẩy ra bên ngoài vì người ta đã nhắm mắt làm ngơ. Sự cắn rứt lương tâm đi kèm với quá trình này được bù trừ bằng sự cảnh giác không khoan nhượng, sự chú tâm không mệt mỏi vào tất cả những gì có liên quan đến chủ nghĩa Quốc xã mà trước hết là chính quyền Vichy ở Pháp trước đây và tất cả những tư tưởng sai lầm đang thối rữa trong một vài tổ chức cánh hữu ở phương Tây hiện nay.
Thế kỷ XX không chỉ có một lịch sử sát nhân kinh hoàng mà còn có đặc điểm là nhận thức lịch sử phải trải qua nhiều khó khăn mới lựa chọn được hướng đi đúng. Cái này là nguyên nhân của cái kia. G. Orwell đã nhận xét rằng nhiều người trở thành Quốc xã vì nỗi kinh hoàng có thể lý giải được khi thấy những việc mà cộng sản đã làm và nhiều người đã trở thành cộng sản vì nỗi kinh hoàng khi thấy những việc mà Quốc xã đã làm. Điều đó cảnh giác chúng ta về nguy cơ của những sự xuyên tạc lịch sử. Một sự xuyên tạc như thế đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta, và thật đáng buồn nếu cái lịch sử bị xuyên tạc như thế sẽ là di sản mà chúng ta để lại cho thế kỷ sau.
Nhưng tôi vẫn hy vọng. Phải cần nhiều năm, người ta mới nhận thức được đầy đủ chủ nghĩa Quốc xã vì nó là cái bất khả tưởng tượng, là cái mà trí não con người không thể hiểu được. Điều đó cũng có thể sẽ xảy ra với chủ nghĩa cộng sản, công việc mà nó đã làm cũng tạo ra một hố sâu đen ngòm mà con người không thể nào hiểu được, và giống như Oswencim, công việc đó đã được che giấu bởi sự khó tin, khó tưởng tượng và không thể hình dung nổi. Thời gian, một trong các chức năng của nó là phát hiện ra sự thật, có thể sẽ làm được nhiệm vụ của mình.
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Arcady, vùng đất thuộc Hy Lạp, nơi dân chúng chỉ làm nghề trồng trọt và chăn nuôi, không quan tâm đến công nghiệp và khoa học, nghệ thuật (ngoại trừ ca nhạc) và rất hiếu khách. Được các nhà thơ sau này ví với thiên đường trên cõi thế. [2]Dissident, nghĩa rộng là để chỉ những người chống lại các quan điểm, các nguyên tắc, các cơ chế đã đứng vững, nhưng thường được dùng theo nghĩa hẹp để chỉ những nhà hoạt động chính trị chống lại các chế độ độc tài, toàn trị.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 18, 2010 12:04:19 GMT 9
Adam Smith và chủ nghĩa tư bản Phan Huy Đường * Tiểu sử Adam Smith Adam Smith đã lập ra nền tảng của môn kinh tế chính tri học (économie politique, theo ngôn ngữ của ông), hay, với người đời nay ghét hai từ chính trị, chỉ mê khoa học thôi, của những khoa học kinh tế (sciences économiques) hoặc kinh tế học. Một số khái niệm của ông và quan điểm của ông về vai trò của thị trường vẫn còn là nguyên lý trong những lý thuyết kinh tế tân tự do (néolibéral), tân cổ điển (néoclassique) đã và đang thống trị tư duy kinh tế của nhân loại. Tuy vậy, dường như không ai thèm dạy tận gốc, chi ly và đầy đủ, học thuyết kinh tế của ông. Hồi tôi còn xách cặp tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang lý thuyết nhỏ, tôi có được nghe thầy nhắc tới tên Adam Smith trong vài… câu ! Hôm nay, xét cho cùng, không khó hiểu. Đào sâu tư tưởng của ông, tìm hiểu nó, so đo nó với nghiệm sinh và kiến thức mà loài người đã có được trong lĩnh vực này từ thời ông tới nay, một cách tỉnh táo và phê phán, có lắm vấn đề không vui tí nào. Nói chung, các thầy cấu và dùng lại hai ý, như nguyên lý không cần phải bàn : a/ giá trị – lao động (valeur–travail) b/ Ngoài vài trường hợp đặc biệt, như vấn đề an ninh quốc gia chẳng hạn, Nhà nước không nên can thiệp vào sự vận động tự nhiên của thị trường, cứ để cho nó tự điều tiết, đó là đường lối kinh tế chính trị đúng đắn và hiệu quả nhất. Trong sự vận động tự nhiên ấy, mỗi cá nhân chỉ đeo đuổi mục đích ích kỷ của mình thôi, không ai quan tâm tới lợi ích chung của xã hội. Thế mà sự cạnh tranh giữa họ sẽ khiến toàn bộ xã hội đạt khả năng sản xuất và làm giàu tối ưu, cứ như thể thị trường có một bàn tay vô hình hướng dẫn mọi người đều đi tới mục đích ấy. Báo Le Monde và nxb Flammarion tái bản quyển La richesse des nations[1], Sự giàu có của các quốc gia, bán với giá 4,90 € ở quầy báo ! Ôi, một tác phẩm quý đến thế này mà trị giá có bấy nhiêu thôi ! Trí tuệ là tài sản chung của nhân loại, không là một ý tưởng hão khi luật Pháp cấm tư hữu hoá nó… Nhân dịp này, ta thử ghi nhớ vài đóng góp quý báu của Adam Smith trong lĩnh vực tư duy kinh tế. Ghi nhớ thôi, không phê phán vì đã có người phê phán chi li mạch lạc từ lâu rồi[2] và, trong lĩnh vực vừa thiết thân vừa rắc rối bậc nhất này của kiếp người, không thể có "mì ăn liền" được, phải vắt óc toát mồ hôi hột thì may ra mới học được đôi điều đáng học. 1/ Sự giàu có của các quốc gia là gì ? Adam Smith là người đầu tiên khẳng định một cách dứt khoát, toàn diện, rõ ràng và mạch lạc quan điểm này : sự giàu có của các quốc gia không do "rừng vàng biển bạc" mà có ; nó không là gì hết ngoài toàn bộ những sản phẩm do lao động của con người tạo ra. Nếu ta xem nó trong khoảnh khắc 1 năm thì nó gồm : a/ tư bản[3] sẵn có, nghĩa là những sản phẩm mà lao động của xã hội đã sản xuất ra trước đó mà chưa tiêu thụ. b/ những sản phẩm mà lao động của quốc gia (hay xã hội) ấy đã sản xuất được trong năm. Ở thời ông, quan điểm này quả là cách mạng. Nó vừa kế thừa vừa phủ định mô hình kính tế của Quesnay[4] vì Quesnay cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra của cải cho quốc gia. 2/ Khối lượng sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc : a/ số người lao động được vận dụng để sản xuất trong năm Số người này lại tuỳ thuộc lượng tư bản sẵn có trong xã hội : nó cho phép mua ít hay nhiều phương tiện sản xuất và trả lương cho ít hay nhiều thợ (ouvriers) để lao động sản xuất. b/ năng suất của lao động Năng suất của lao động tuỳ thuộc mức độ phát triển của sự phân công lao động (division du travail). Chính nó và sự phân công lao động khiến thị trường phát triển. Thị trường phát triển lại thúc đẩy sự phân công lao động và năng suất lao động phát triển. 3/ Thước đo của giá trị trao đổi của sản phẩm Thời gian lao động cần thiết để sản xuất sản phẩm là thước đo giá trị trao đổi của sản phẩm[5]. Phải hiểu đó là thời gian trung bình để sản xuất một loại sản phẩm trong một xã hội nào đó ở một thời điểm nào đó. Giá cả của sản phẩm chỉ là hình thái tiền tệ của giá trị trao đổi ấy. Khi giá cả khớp với giá trị trao đổi, Adam Smith gọi nó là giá tự nhiên[6] của sản phẩm (prix naturel). Còn những giá mà ta thấy trưng ở cửa hàng, thường khác nhau, Adam Smith gọi chúng là giá thị trường, prix de marché. Giá thị trường dao động chung quanh giá tự nhiên tuỳ tình trạng cung cầu ở từng nơi. Et tutti quanti. Xuyên qua cạnh tranh, sự dao động ấy khiến cho giá thị trường tự nó hướng tới giá tự nhiên của sản phẩm. Sự điều tiết tự nhiên của thị trường ở đó. 4/ Nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế tư bản Trong chương Des salaires du travail[7] (Bàn về những [hình thái] lương của lao động), Adam Smith trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của ông về nền kinh tế thời ông. Đọc kỹ nó, ta hiểu liền vì sao Marx trọng tư tưởng của ông và coi ông với Ricardo là hai người đặt nền móng cho môn kinh tế chính trị học với tính cách một môn khoa học. Tôi xin cố dịch một mẩu, một cách chính xác nhất mà tôi có khả năng[8] : Phần thưởng tự nhiên của lao động, hay lương của lao động, chính là sản phẩm do lao động tạo ra. Trong trạng thái nguyên thuỷ ấy, có từ trước khi có sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản, toàn bộ sản phẩm của lao động thuộc về người thợ (ouvrier, nghĩa thực là : người lao động). Người ấy không phải chia chác với chủ sở hữu (propriétaire) hay chủ (maître)[9]. Nếu trạng thái ấy đã tiếp tục tồn tại tới ngày nay thì lương của lao động đã tăng cùng với sự tăng trưởng của năng suất lao động do sự phân công lao động tạo ra. Mọi sản phẩm đã từ từ trở thành càng ngày càng rẻ.[10] […] Nhưng trạng thái nguyên thuỷ trong đó người thợ hưởng toàn bộ sản phẩm do lao động của nó tạo ra, đã không tồn tại vượt qua thời đại sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản đi vào xã hội. Thế thì trạng thái ấy không còn nữa từ lâu, khi năng suất lao động đã đạt một mức hoàn hảo cao, và ta không nên mất thời giờ tìm hiểu xem hậu quả trên phần thưởng hay lương lao động sẽ thế nào trong trạng thái ấy. Ngay khi đất đai trở thành tư hữu[11], chủ đất liền đòi hỏi cho mình hầu hết những sản phẩm mà người lao động có thể nuôi trồng và gặt hái được ở đó. "Địa tô" (tiền thuê đất) của nó là phần phải trừ đi đầu tiên mà lao động ứng dụng vào đất phải chịu đựng.[12] Rất ít khi con người cày đất có sẵn những gì cần thiết để sống cho tới ngày gặt hái. Thông thường, một ông chủ trại (fermier), người dùng nó, trên vốn tư bản của mình, cho nó vay những đồ tiêu dùng [để tồn tại và lao động cho tới ngày gặt hái], và ông chủ ấy chẳng có lý do gì để làm việc ấy nếu việc ấy không cho phép ông thu một phần sản phẩm do lao động của nó tạo ra, hay nếu vốn tư bản mà ông ấy đã ứng ra không được hoàn lại với một món lời. Món lời ấy là phần cắt xén thứ hai trên sản phẩm của lao động vận dụng vào đất đai.[13] Sản phẩm của hầu hết mọi lao động khác đều bị ăn xén như thế để trả tiền lời. Sản phẩm của hầu hết lao động nào khác đều bị cắt xén như thế để thanh toan món lời cho tư bản. Trong mọi ngành nghề, trong mọi xí nghiệp (fabriques), đa số thợ cần có một ông chủ sẵn sàng ứng cho họ phương tiện vật chất để lao động, cũng như lương và nhu yếu phẩm của họ để sống, cho tới khi sản phẩm của họ hoàn thiện. Người chủ ấy lấy một phần sản phẩm của lao động của họ hay giá trị mà lao động ấy đã thêm vào vật thể mà nó tác động vào [để biến vật thể ấy thành hàng hoá có thể trao đổi được] và chính cái phần ấy làm ra lời của họ. Tóm lại, thế này : A/ Thế nhìn của chủ đất và của chủ tư bản : Tôi là chủ đất, là chủ tư bản. Anh muốn lao động sản xuất để sống "ngày càng khá hơn" thì anh phải nộp tô nộp lời cho tôi ngày càng nhiều hơn. Khi bản thân anh "chủ tư bản" không có vốn, chỉ có tài kinh doanh thôi (tư bản chức năng), anh ấy có thể vay vốn tư bản của người khác (tư bản sở hữu) để kinh doanh và phải chia chác một phần tiền lời (nếu có !) với anh tư bản sở hữu. Phần đó gọi là intérêt (lãi có được do cho vay vốn). Lãi ấy chẳng bao giờ do sự hy sinh không hưởng thụ liền tài sản của mình của chủ vốn hay sự dũng cảm chấp nhận rủi ro, mà đột nhiên hiện thực ở đời, làm gì có chuyện hão đến thế ! nó chỉ có thể do lao động của người khác mà có thực. Đó là chuyện ngày xưa. Ngày nay còn có chuyện siêu hơn nữa. Những nghìn tỷ $ mà các Nhà nước tư bản đổ ra để cứu vãn "hệ thống tài chính" của"quốc gia" và "quốc tế", đương nhiên phải đi vào túi của aichứ ! Đó là những món nợ mà bàn dân các nước ấy phải trả bằng lao động tương lai của mình và con em mình. Kinh tế hậu hiện đại đó ! Không chỉ là học thuyết suông đâu… B/ Thế nhìn của anh lao động : Dù sao thì không có đất hay vốn tư bản của người khác thì mình cũng bất lực và đói nhăn răng. C/ Kết luận của Adam Smith : những điều ấy tự nhiên, cứ để thị trường giải quyết một cách tự nhiên. Sẽ lợi cho mọi người. Trước Adam Smith, chưa ai đã mô tả một cách cụ thể, hữu lý, tính chất bóc lột sức lao động của hình thái kinh-tế xã-hội tư bản như thế này. Adam Smith, trong quyển sách này, không bao giờ dùng khái niệm bóc lột. Có lẽ, đối với ông, khái niệm ấy không có tính chất khoa học, vì đối với ông, đó là một sự kiện tự nhiên, không dính dáng gì hết với thế giới giá trị, tâm linh của con người ? Ông thấy rất rõ rằng quan hệ giữa chủ đất và chủ tư bản với người lao động sản xuất ra sản phẩm, của cải hay sự giàu có của các quốc gia, là một quan hệ cưỡng bức để đoạt về mình một phần sản phẩm do lao động của người khác tạo ra. Ông cũng thấy rất rõ rằng một chức năng của Nhà nước là bảo vệ quan hệ bóc lột ấy. Ông không coi đó là bóc lột, coi đó là tự nhiên. Tự nhiên là tự nhiên, tự nó tồn tại và vận hành, chẳng thể nào khác được, là sự thật, là đối tượng của tư duy khoa học, theo ông và không ít người khác từ xưa tới nay. Đời nó vậy mà ! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, đời nay, các kinh tế gia thời thượng chỉ biết cấu vài ý tưởng của ông để lạm dụng cho mình vì chính mình thua kém ông cả một cái đầu, dù được đội mũ "Nobel" kinh tế, nhưng không có mấy ai nhắc lại, dạy lại toàn bộ học thuyết kinh tế của ông. 5/ chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole) Đã tin vào bàn tay vô hình của Thị trường, tính ưu việt của tự do cạnh tranh, Adam Smith chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole). Ông chung thuỷ và nhất quán trong tư duy của mình đến mức : ông chủ trương bãi bỏ độc quyền kinh doanh của các đế quốc, kể cả đế quốc Anh, trong quan hệ kinh tế của chúng với thuộc địa của chúng. Cứ như OMC ngày nay ! Ông không ý thức được rằng kết quả tự nhiên của cạnh tranh tự do sẽ dẫn tới sự phủ định chính nó : độc quyền. Suy luận hình thức giới hạn ở đó. Ngày nay, trong thị trường toàn cầu hoá này, trong những lĩnh vực cơ bản nhất của kinh tế, mơ màng tới tự do cạnh tranh kiểu Adam Smith là chuyện hão ! Chỉ cần đếm xem, trong lĩnh vực năng lượng dầu hoả và khí đốt, trên đời nay và trong từng quốc gia, còn mấy người cạnh tranh với nhau thì biết.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 18, 2010 12:07:32 GMT 9
6/ chống sự can thiệp của Nhà nước vào sự vận động tự nhiên của thị trường Đây có lẽ là di sản, tuy đã cũ kĩ kinh hoàng, cũ kĩ hơn cả học thuyết kinh tế của Marx mà, có tác động nhiều nhất của Adam Smith với tư duy kinh tế và đời sống chính trị ngày nay. Và thân phận làm người của chúng ta trong nền kinh tế thị trường tư bản toàn cầu hoá này.
Ông cho rằng :
a/ Sự vận động tự nhiên của kinh tế thị trường sẽ tự nó hướng dẫn hành động của con người đi tới mức tối ưu của nó cho xã hội. Đây là niềm tin "khoa học" của thế kỷ Khai Sáng !
b/ Vì sao ? Ta không thể hiểu được[14]. Ta chỉ có thể tin tưởng vào bàn tay vô hình của nó thôi. Bàn tay ấy sẽ dẫn ta đi tới đâu, ta chỉ biết được sau khi đã trả giá, sau khi đã làm người không tự do, hay đã làm người tự do phi lý trí, phi nhân tình[15] !
Thế thì ta có quyền đặt câu hỏi này : mặc dù ông nhân tình, điều ta quý trọng, lý trí của ông trong vấn đề này, đáng tin không ? Riêng tôi : không !
Mấy tháng qua ta đã và, trong những tháng năm tới, ta sẽ trả giá không ít cho niềm tin này.
Trong tác phẩm của ông, còn vô vàn vấn đề để suy ngẫm, không như một lĩnh vực "khoa học", mà như một thức thách làm người có lý trí. Và, với tôi, có… tình người ! Dại thế ! Hè hè…
Đối với một người đành lang thang chữ nghĩa như tôi, đọc lại quyển sách này tôi lại được hưởng hai điều thú vị.
A/ Adam Smith cho thấy rõ tư duy của con người lệ thuộc chữ nghĩa mà người đời đã nhồi vào óc nó đến mức nào !
Dù có thể tôi đã nói quá dài, tôi đã thấy rằng phải xem xét, trong mọi chi tiết của nó, niềm tin của dân chúng cho rằng sự giàu có ở lượng tiền hay vàng bạc mà ta có. Trong ngôn ngữ thông thường, như tôi đã từng nhận xét, có tiền thường có nghĩa là giàu có, và sự nhập nhằng trong cách phát biểu ấy đã khiến ý tưởng bình dân này trở thành thân thuộc với chúng ta đến mức ngay cả những người tin chắc rằng quan điểm ấy sai, bất cứ lúc nào cũng có thể quên nguyên lý của chính họ và bị luồng suy luận của họ lôi kéo tới mức họ chấp nhận thành kiến ấy như một ý tưởng họ đã thu nhập và công nhận là sự thật chắc chắn, không thể phủ nhận. Một vài tác giả Anh hay nhất đã từng viết về thương mại, đã xuất phát từ nguyên lý đó, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ ở lượng vàng và bạc mà nó có, mà là ở đất đai, nhà cửa và đủ thứ sản phẩm tiêu dùng được mà nó có. Tuy vậy, sau đó, dường như họ đã quên béng đất đai, nhà cửa và sản phẩm tiêu dùng được, và nội dung những lập luận của họ khiến ta nghĩ rằng sự giàu có ở lượng vàng và bạc mà quốc gia ấy có và họ coi chuyện nhân khối lượng những kim loại quý ấy là mục tiêu cơ bản của công nghiệp và thương nghiệp quốc gia.[16] Trong lĩnh vực kinh tế học, có lẽ Adam Smith là người đầu tiên nêu ý tưởng sâu sắc này. Sau đó, có Karl Marx, sâu sắc hơn nhiều vì chàng còn là một… triết gia ! Chẳng khoa học tí nào cả…
Nếu ta vận dụng ý tưởng của ông để xem xét "ngôn ngữ khoa học" của chính ông, như khái niệm tự nhiên chẳng hạn, ta sẽ hiểu được đôi điều đáng hiểu về ngôn ngữ khoa học trong học thuyết của ông và trong ngành kinh tế học ngày nay.
B/ Sau khi phê phán khắt khe sai lầm của François Quesnay, ông đánh giá cống hiến của Quesnay cho môn kinh tế chính trị học như thế này.
Mặc dù những khuyết điểm của nó, có lẽ mô hình này, trong tất cả những gì người đời đã đăng về kinh tế chính trị học, là mô hình gần sự thật nhất và, dưới góc độ đó, nó đáng cho mọi người muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc một môn khoa học quan trọng như thế này, quan tâm. Khi ông cho rằng lao động khai thác đất đai là lao động có tính chất sản xuất duy nhất, những ý tưởng của ông về hiện thực có thể quá chật hẹp và giới hạn. Tuy vậy, khi ông cho rằng sự giàu có của những quốc gia không ở lượng của cải không tiêu thụ được như vàng và bạc mà ở những sản phẩm tiêu thụ được mà lao động của xã hội có thể tái sản xuất mỗi năm, và vạch cho thấy rằng tự do tuyệt đối là phương tiện duy nhất cho phép nó đạt thành quả lớn nhất, lý thuyết của ông, về mọi mặt, đúng đắn ngang tầm vĩ đại và tinh thần rộng lượng của nó.[17] Sau này, Marx đã đánh giá Quesnay như sau : Quesnay là người đầu tiên tạo ra thế nhìn vĩ mô, tổng hợp, ở mức Nhà nước, của hoạt động kinh tế.
Về mặt lý thuyết kinh tế, kế thừa và vượt Quesnay, ngoài Marx, chỉ có John Maynard Keynes thôi.
Đọc khúc văn trên, tôi chạnh lòng nhớ cuộc tranh luận giữa Sartre và Camus khi hai người, tôi đều yêu[18], đoạn tuyệt với nhau. Ôi, nhân tài thế giới đánh giá nhau như thế ! Càng quý trọng nhau, càng khắt khe, càng quyết liệt đòi hỏi tới cùng, chẳng rào trước đón sau, xã giao tí nào. Và ngược lại !
Ngông cuồng, tôi kiến nghị với các đại học kinh tế lập một chứng chỉ : tư duy kinh tế của Adam Smith.
Tất nhiên lại chuyện hão ! Chỉ là kẻ ngoại đạo mà dám lếu láo đến thế thì… hết xảy !
2009-10-24
[1] La richesse des nations, Le Monde – Flammarion, Paris 2009. Trong bài này, khi trích văn bản này, tôi ghi gon : La richesse des nations.
[2] Karl Marx. Contribution à la critique de l'économie politique và Le Capital.
[3] capitaux. Ở Adam Smith, capital cơ bản có nghĩa là vốn tuy cũng có nghĩa là tư bản như khái niệm tư bản của Marx.
[4] François Quesnay, 1694-1774, người lập ra học phái kinh tế đầu tiên tại Châu Âu, (physiocrates, trọng nông), tạo ra thế nhìn vĩ mô ở mức một quốc gia với Tableau économique (Bảng hay "mô hình" kinh tế).
[5] "Le travail est donc la mesure réelle de la valeur échangeable de toute marchandise." Lao động là thước đo đích thực của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. La richesse des Nations, tr. 36.
[6] Mỗi lần đưa ra một khái niệm khó giải thích, và đây là khái niệm khó giải thích nhất trong môn kinh tế học, ngay cả hôm nay, Smith giải quyết vấn đề nhẹ nhàng bằng một tính từ : tự nhiên ! Đó là tín ngưỡng của thế kỷ Khai Sáng : mọi sự đều tự nhiên, tự nhiên là khoa học và khoa học là tiến bộ. Tự nhiên có nghĩa là không có gì để bàn cả ! Ngày nay người đời cũng làm thế trong một đống lĩnh vực khác nhau của tư duy… Nếu không là Tự nhiên thì cũng là kinh tế Thị trường lại Toàn cầu hoá nữa ! Có gì mà phải phân vân ? Phải tin, tin và tin… Hè hè…
[7] La richesse des Nations. Tr. 53.
[8] Trong đoạn văn dịch này, những từ được gạch ở dưới, do tôi, PHĐ.
[9] Propriétaire = chủ của một cái gì : đất, nhà, v.v. Maître = ông chủ : như chủ nô hay chủ vốn chẳng hạn, nghĩa rất rộng và mơ hồ.
[10] Đây là một câu hỏi cơ bản cho môn "khoa học" kinh tế cửa đời nay đó. Năng suất lao động tăng vùn vụt mấy chục năm liền, nhưng giá cả của nhu yếu phẩm ở các nước phát triển như Pháp càng ngày càng không với tới được đối với bàn dân lao động sàng sàng ! Đầy người lao động không còn khả năng ăn trưa một cách bình thường như trước kia với đồng lương của mình ngay trong các nhà ăn xí nghiệp (cantines), phải mang đồ ăn vào sở hay mua đồ ăn rẻ tiền của fastfood.
[11] Đến đây ta mới hiểu Adam Smith muốn nói gì trong khúc văn trên khi ông dùng khái niệm chiếm hữu (appropriation) ! Với ông, trong vấn đề kinh tế này, nó nghĩa là tư hữu (propriété privée, trong nghĩa thông thường ngày nay). Thời ấy, không nhất thiết phải hiểu như vậy ! Chỉ cần thêm một tính từ : tư hữu tư sản hay tư bản (propriété privée bourgeoise ou capitaliste), thì có một khái niệm tạm gọi là chính xác vì trong lịch sử của Châu Âu đã từng có nhiều hình thái tư hữu khác!
[12] Nói toạc móng heo thì thế này : anh đã cày cấy trên đất của tôi thì anh phải nộp tô tức cho tôi. Tôi đếch làm gì cả, đếch sản xuất sản phẩm nào cả mà vẫn có lợi tức đề huề, hợp pháp. Chính Adam Smith đã phũ phàng vạch điều ấy trong tác phẩm này.
[13] Nói toạc móng heo : anh chỉ có sức lao động thôi ; với năng lực ấy, anh chẳng làm được gì cả, chết đói ngay ; tôi ứng cho anh tiền mua phương tiện sản xuất và nhu yếu phẩm để anh có thể lao động sản xuất, ăn uống và thậm chí hú hí vớ vợ để đẻ ra những người thợ tương lai, cho tới ngày anh tạo ra sản phẩm. Với điều kiện này : trong sản phẩm anh làm ra, anh hoàn lại cho tôi một số lượng mà giá trị = vốn tôi đã cho anh mượn + tí ti lời.
[14] ý của tôi, vì tác phẩm của Adam Smith nhằm chứng minh điều ấy là tự nhiên và hiểu được một khi ta chấp nhận tính tự nhiên của nó.
[15] Tư duy kinh tế của Marx chống lại luận điểm này : kinh tế là quan hệ giữa người với người, do con người tạo ra, ta có thể làm chủ định mệnh của ta trong lĩnh vực này vì ta có thể hiểu được nó : nó là sản phẩm của chính ta mà.
[16] J'ai cru nécessaire, au risque même d'être trop long, d'examiner dans tous ses détails cette idée populaire, que la richesse consiste dans l'argent ou dans l'abondance des métaux précieux. Dans le langage vulgaire, comme je l'ai observé, argent veut souvent dire richesse, et cette ambiguïté d'expression nous a rendu cette idée populaire tellement familière, que ceux même qui sont convaincus de sa fausseté sont à tout moment sur le point d'oublier leur principe et, entraînés dans leurs raisonnements, à prendre ce préjugé pour une idée reçue et reconnue comme une vérité certaine et incontestable. Quelques-uns des meilleurs auteurs anglais qui ont écrit sur le commerce partent d'abord de ce principe, que la richesse d'un pays ne consiste pas uniquement dans son or et son argent, mais qu'elle consiste dans ses terres, ses maisons et ses biens consommables de toutes sortes. Néanmoins, dans la suite de leurs discussions, il semble que les terres, les maisons et les biens consommables leur sortent de la mémoire, et la nature de leurs arguments paraît souvent supposer qu'ils font consister la richesse dans l'or et dans l'argent, et qu'ils regardent la multiplication de ces métaux comme l'objet capital de l'industrie et du commerce national. La richesse des Nations, p. 141-142
[17] Avec toutes ses imperfections, néanmoins, ce système est peut-être, de tout ce qu'on a encore publié sur l'économie politique, ce qui se rapproche le plus de la vérité, et sous ce rapport il mérite bien l'attention de tout homme qui désire faire un examen sérieux des principes d'une science aussi importante. Si, en représentant le travail employé à la terre comme le seul travail productif, les idées qu'il veut donner des choses sont peut-être trop étroites et trop bornées, cependant, en représentant la richesse des nations comme ne consistant pas dans ces richesses non consommables d'or et d'argent, mais dans les biens consommables reproduits annuellement par le travail de la société, et en montrant la plus parfaite liberté comme l'unique moyen de rendre cette reproduction annuelle la plus grande possible, sa doctrine paraît être, à tous égards, aussi juste qu'elle est grande et généreuse. La richesse des nations, p. 196-197
[18] yêu dễ quá mà, có mất tiền mua đâu !
Đã đăng trên AMVC
|
|