|
Post by NhiHa on Jun 7, 2009 10:27:11 GMT 9
Phiếm Luận 03-06-2009 Việt Nam: tỉnh hay khu tự trị? Ninh Cơ ghi lại VN Que Huong ToiTrích tài liệu chép lại từ băng ghi âm cuộc gặp mặt giữa đại diện Tổng cục tình báo Hoa Nam và Tổng cục II Việt Nam để lưu trữ, được bảo quản theo chế độ “Tuyệt mật” “ Thưa các đồng chí, ... Trong mấy ngày qua ta đã cùng nhau bàn thảo nhiều vấn đề, đạt được đồng thuận về căn bản, tuy không khỏi có sự tranh biện về tiểu tiết. Khép lại, ta có thể hài lòng khẳng định: hội nghị đã thắng lợi, và thắng lợi lớn. Xin các đồng chí hoan hỉ cạn chén! (vỗ tay kéo dài) … Trong lời phát biểu kết thúc hội nghị Lương tư lệnh (?) nhấn mạnh: những gì được đưa ra bàn ở hội nghị chung quy chỉ là những điều đã được đề cập nhiều lần từ nhiều năm trong những cuộc gặp gỡ các cấp tham mưu và cả cấp cao. Với tư cách chính uỷ được cử ra chủ trì hội nghị, tôi xin tóm tắt vài điều quan thiết. Trước hết, hội nghị nhất trí cao về quan điểm không có, và không hề có chuyện Trung Quốc thôn tính Việt Nam. Trung Quốc không có nhu cầu thôn tính nước nào, các nước lân bang đều nghèo, họ cần đến Trung Quốc hơn là Trung Quốc cần đến họ. Những cái họ có đều ở dạng tiềm năng ở dưới đất hoặc ở ngoài biển, không có Trung Quốc giúp đỡ thì chẳng khai thác được. Trong giai đoạn phải dồn toàn lực cho phát triển kinh tế mà Đặng (Đặng Tiều Bình) lãnh tụ vạch ra, mọi sự đèo bòng đều vô nghĩa. Chúng kìm hãm bước tiến vĩ đại của Trung Quốc vĩ đại (vỗ tay). Thế mà ở Việt Nam lại có những luồng dư luận như thế đấy, nào là Trung Quốc bá quyền, nào là Trung Quốc bành trướng. Thối lắm, thưa các đồng chí, không ngửi được (cười rộ). Bọn dân chủ ở Việt Nam đã hô hoán rầm rĩ rằng cuộc vạch lại biên cương giữa Trung Quốc và Việt Nam là tranh chấp biên giới. Nguồn: sun-bin.blogspot.com -------------------------------------------------------------------------------- Bọn dân chủ ở Việt Nam đã hô hoán rầm rĩ rằng cuộc vạch lại biên cương giữa Trung Quốc và Việt Nam là tranh chấp biên giới. Trong khi đàm phán tất nhiên có những điều hai bên phải nhân nhượng nhau, có chỗ lồi ra, có chỗ lõm vào ở bên này hay bên kia, nhưng đó là kết quả của những thương thảo sòng phẳng, thuận mua vừa bán. Các đồng chí Việt Nam thấy chúng nói thế lại chỉ thanh minh mới chán. Như Lê thứ trưởng (Lê Công Phụng) trả lời phỏng vấn: “Thác Bản Giốc ta cứ tưởng là của ta, bạn cũng không bảo là của bạn, đo ra mới biết của ta chỉ có một phần ba, vì tình hữu nghị với ta, bạn cho ta hưởng một nửa”, nói thế là tốt, nhưng vẫn cứ là thanh minh. Việc gì mà phải thanh minh cơ chứ? Với bọn phản động chuyên gây rối ấy à, cứ thẳng tay trấn áp, bịt cái miệng chó của chúng lại (vỗ tay). Chớ lừng chừng thiếu kiên quyết, chớ hữu khuynh nhân nhượng. Nhân nhượng là chết đấy. Phải quét cho bằng sạch, tiêu diệt không thương xót bọn dân chủ, không cho chúng được đàng chân lân đàng đầu, vùi chúng xuống đất đen, không cho chúng ngóc đầu dậy (nhiều tiếng hô: Sùng chính uỷ nói rất đúng!). Nhưng cái đó sẽ không còn là vấn đề trong tương lai. Việc tiêu diệt bọn dân chủ giòi bọ sẽ không còn là việc của riêng các đồng chí Việt Nam, nó sẽ là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta (vỗ tay). Thưa các đồng chí, Hội nghị đã thành công là nhờ nó gạt được ra ngoài những chuyện lặt vặt vô bổ đang là đề tài thời sự để tập trung vào đại sự – bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai (vỗ tay). Tương lai có thể chưa tới ngay, nhưng lại có thể rất gần, vì thế ta phải có viễn kiến, phải có sự chuẩn bị. Hợp nhất Trung Quốc – Việt Nam là một mốc lịch sử vĩ đại trên con đường phát triển của Tổ quốc. Với tư cách tham mưu cho cấp cao hai bên, trong hội nghị này chúng ta đã bàn thẳng vào những phương án, phác thảo những bước tiến hành cụ thể, những công việc cụ thể trong công tác chuẩn bị. Nào, xin cạn chén lần nữa mừng thắng lợi của hội nghị lịch sử này (vỗ tay ran)! … Trong tình hình thế giới hiện nay, Việt Nam không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại. Đi với Mỹ chăng? Thì các đồng chí chạy đi đâu? Chỉ trở về với Tổ quốc các đồng chí mới có thể tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm hoạ bọn giòi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí khỏi chỗ ngồi của mình. Hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó các đồng chí không còn được ngồi ở bàn giấy trong công thự mà phải đi lang thang ngoài đường kiếm việc làm. Thật khủng khiếp! Vì thế, chúng ta phải chiến đấu hết mình cho sự tồn tại của chúng ta, cho con cháu chúng ta. Tương lai của chúng ta, của con cháu chúng ta, quyết không để lọt vào tay kẻ khác (vỗ tay). Lũ dân chủ giòi bọ ấy có cả ở Trung Quốc, tôi thừa nhận điều đó, nhưng chúng tôi đã thẳng tay trấn áp chúng thắng lợi. Nhưng ở Việt Nam tình trạng có khác, chúng hung hăng hơn, lì lợm hơn, là do các đồng chí thiếu kiên quyết. Nếu ở Trung Quốc đã có một Thiên An Môn thì tại sao Việt Nam không thể có một cái tương tự? Tôi xin bảo đảm với các đồng chí rằng Trung Quốc sẽ tận tình chi viện cho các đồng chí một khi có sự biến đe doạ quyền lợi của các đồng chí. Để bảo vệ các đồng chí, Trung Quốc không thiếu xe tăng dĩ chí cho vài Thiên An Môn (vỗ tay). Các đồng chí cứ hỏi Nông đồng chí xem Hồ đồng chí (Hồ Cẩm Đào) đã hứa hẹn gì trong cuộc gặp gỡ cấp cao vừa rồi. Nhưng đó là trong tình huống hiện nay, chứ trong tương lai khi hai nước đã là một thì sẽ không phải như vậy. Việc Việt Nam trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến, không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn (vỗ tay, nhiều tiếng hô: Sùng chính uỷ nói rất đúng!” ). Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa. “Trung Quốc và Việt Nam là một”. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng chính là lời của Hồ đồng chí (Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ gia nhập ĐCSTQ. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: “Trung Quốc – Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh”. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể (vỗ tay). Nông đồng chí (Nông Đức Mạnh), từng tự hào nhận mình là người Choang trong cuộc gặp gỡ với các đại biểu trong Quốc vụ viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc. Trong thời đại hiện nay, khi thế giới được tái phân chia sau Đệ nhị Thế chiến, khi Hoa Kỳ đã mất vị thế độc tôn trước sự trỗi dậy bất ngờ của Tổ quốc chúng ta, thì sự sáp nhập trở lại của Việt Nam, và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu (vỗ tay ran).. Thế nhưng chúng ta đều đã thấy biết những biểu hiện lừng chừng dao động lúc này lúc khác trong ban lãnh đạo đảng Việt Nam, muốn vừa dựa lưng vào Trung Quốc vừa dựa hơi con hổ giấy Hoa Kỳ. Bây giờ đã khác, sự lựa chọn chỉ có một, và ở đây các đồng chí Việt Nam tỏ ra đã có lựa chọn đúng (vỗ tay). Ngày nay Trung Quốc vĩ đại đang giành lại vị trí phải có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại càng thêm vĩ đại (vỗ tay, tiếng nhiều người “Rất đúng!”). Thế giới hôm nay chỉ còn lại hai siêu cường, là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Con hổ giấy Hoa Kỳ… (bỏ một đoạn không rõ tiếng) … Những việc mà giờ đây chúng ta phải làm, tôi xin nhấn mạnh lần nữa, không phải bây giờ mới làm, nhưng làm chưa đúng, làm chưa đủ, thì nay cần phải đẩy mạnh hơn nữa, phải khai triển rộng hơn nữa, là: Đè bẹp và tiêu diệt luận điệu “tinh thần dân tộc” vẫn còn tồn tại dai dẳng trong bọn kiên trì lập trường độc lập dân tộc, đặc biệt trong đám trí thức và vài phần tử công thần chủ nghĩa trong tướng lĩnh. Cần phải tiêu diệt cả về tinh thần, cả về vật chất. Tướng lĩnh phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc, công này là của nguyên chủ tịch Lê (Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng (vỗ tay). Tuy nhiên, lẫn vào đấy cũng vẫn có vài phần tử lừng chừng, dao động, chủ yếu do kém hiểu biết, các đồng chí cần đả thông, bồi dưỡng thêm cho họ về lập trường quan điểm ở trường Đảng các cấp. Mấy anh già sắp chết hay nói ngang thì phải đe nẹt, cho chúng biết rằng một khi đã bị coi là chống đảng thì chúng sẽ bị tước hết mọi tiêu chuẩn cao đang được hưởng, tất chúng sẽ im mồm. Đám trí thức lèo tèo mới là đáng ngại. Tuy chẳng có trong tay cái gì, nhưng chúng có khả năng kích động tinh thần dân tộc trong nhân dân để cản trở hợp nhất. Nhưng không lo, Mao chủ tịch đã dạy: trí thức khởi xướng được nhưng không làm được, chúng chỉ lép bép lỗ miệng, thấy súng lên đạn là chúng rùng rùng bỏ chạy. Đáng ngại là ở chỗ ấy, chỗ khởi xướng, nhưng không đáng sợ cũng ở chỗ ấy, ở chỗ bản tính trí thức. Hãy lên đạn, hãy hô “bắn” thật to, đâu sẽ vào đấy hết (cười ran). Lực lượng chủ yếu của chúng ta trong việc trấn áp bọn dân tộc chủ nghĩa là hai cánh quân: về vật chất là công an, về tinh thần là truyền thông. Công an sẽ được cung cấp mọi trang bị hiện đại nhất để đè bẹp mọi mưu toan đối kháng. Nhưng phải chú ý điểm này: không được lạm dụng các phương tiện hiện đại, chiếu cố những biện pháp truyền thống ít gây ồn ào, tránh những phản ứng quốc tế bất lợi. Truyền thông phải sử dụng mọi phương tiện sẵn có, tăng cường viết và nói hàng ngày hàng giờ, biện luận cho dân thấy được cái lợi của việc sáp nhập: họ sẽ được hưởng mọi phúc lợi của người dân Trung Quốc, hơn hẳn phúc lợi đang có, sẽ không còn chuyện lủng củng vướng mắc về biên giới, ngư dân được tha hồ đánh cá trên biển Đông nay cũng là của họ mà không còn phải lo lắng vì xâm phạm hải phận bị hải quân Trung Quốc trừng phạt, người dân khi xuất ngoại sẽ được cầm hộ chiếu của một nước lớn mà thế giới phải kiêng nể (vỗ tay ran)… Tuy nhiên, tôi đặc biệt lưu ý các đồng chí: phải tiến hành kín đáo để mọi việc chuẩn bị diễn ra như bình thường, không nhận thấy được. Trong khi chưa hợp nhất, trung ương chính phủ cũng như các tỉnh chính phủ, tuyệt đối không lộ ý đồ. Thỉnh thoảng vẫn phải cho phát ngôn nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa, phải cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải đảo. Nguồn: sun-bin.blogspot.com -------------------------------------------------------------------------------- Thỉnh thoảng vẫn phải cho phát ngôn nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa, phải cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải đảo. Với mọi sự cố xảy ra trên biển như vừa rồi cứ tiếp tục ám chỉ một “nước ngoài” nào đó, hoặc một “tàu lạ” nào đó, không rõ quốc tịch v.v… là được. Đừng quên khen thưởng các nhà báo, họ là công bộc trung thành của ta, thiếu họ không được. Hiện nay đang nổi lên sự phản đối Trung Quốc khai thác bô–xít ở miền Trung. Ồn ào lắm. Có vẻ hung hăng lắm. Nhưng là bề ngoài thôi, chứ bề trong thì bọn phản đối cũng biết thừa – mọi sự đã an bài, tiền đã trao thì cháo phải được múc, Bộ Chính trị quyết không bỏ kế hoạch này. Nhất là Nông (Đức Mạnh) đồng chí, là chuyện sinh tử của Nông đồng chí, nên đồng chí rất kiên quyết. Trong chuyện bô–xít tôi thấy bên cạnh cái xấu lại có cái tốt đấy, các đồng chí ạ. Phải phản công bằng lập luận: một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây Nguyên của Việt Nam là của chung nước ta, chưa chừng trên sẽ thay đổi kế hoạch – ta không khai thác ở đấy nữa, mà chuyển sang thực hiện ở châu Phi, bô–xít của ta, ta để đấy dùng sau, cũng như ta đâu có vội khai thác cả tỉ tấn bô–xít ở Quảng Tây. Nói để các đồng chí phấn khởi: về thực chất, qua con đường ngoại thương, đầu tư, ta nắm châu Phi trong tay từ nhiều năm rồi. Ta đã mua hết các chính quyền ở đấy. Cái đó gọi là quyền lực mềm. Trung Quốc đến sau phương Tây và Hoa Kỳ, vậy mà chỉ trong vòng một thập niên ta đã quét sạch chúng khỏi đấy. Ta còn chuyển dân mình sang châu Phi làm thành những vùng đất Trung Quốc trên lục địa Đen nữa kia (vỗ tay). Người Trung Quốc bây giờ có quyền nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của Tổ quốc” (vỗ tay ran). Phải trấn an các cán bộ các cấp từ trung ương cho đến địa phương để họ thấy rằng sau hợp nhất mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chính sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chính chung trong toàn quốc. Việc này rất quan trọng, xin các đồng chí chớ coi thường. Lãnh đạo, từ Trung ương cho đến địa phương, có thông thì nhân dân mới thông, nhân dân đã được giáo dục chu đáo trong nhiều năm tinh thần tuyệt đối phục tùng lãnh đạo. Nhưng nếu họ thấy cấp trên của họ dao động, tư tưởng bất thông thì chính họ cũng sẽ dao động theo, trở thành mồi ngon cho những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ... Thưa các đồng chí, Còn lại một việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất: Tỉnh hay là Khu Tự trị? Chuyện này xin các đồng chí về nghĩ thêm, bàn thêm. Tỉnh thì cũng như Quảng Đông, Quảng Tây, về diện tích hơn kém không nhiều. Khu tự trị kiểu như Khu tự trị Choang trong tỉnh Quảng Tây thì lại quá nhỏ về vai vế, Nông đồng chí vồn rất e ngại sự chống đối trong nội bộ. Mà làm khu tự trị với ý nghĩa lớn hơn thì lại vướng chuyện Tây Tạng, bọn chó Đạt Lai Lạt Ma cũng đang xin tự trị đấy, mà Trung ương không thuận. Có mấy đồng chí Việt Nam nêu ý kiến: hay là tổ chức Trung Quốc thành liên bang, Việt Nam sẽ là một nước, hay một bang trong liên bang ấy? Ý kiến này không mới, nó đã từng được nêu lên. Nhưng, các đồng chí thử nghĩ xem: nếu như thế thì thống nhất làm sao được với bọn Tây Tạng, bọn Nội Mông, bọn Mãn Châu, bọn Hồi Hột…, chính chúng nó đang muốn cái đó để xưng độc lập hoặc tự trị trong liên bang. Trên nguyên tắc thì đúng, là cái gì cũng được, danh chính thì ngôn thuận, nhưng nội dung bất biến – vùng nào cũng chỉ là một bộ phận lãnh thổ của Tổ quốc. Có điều những danh hiệu độc lập, tự trị lại là cái dễ bị lồng vào đấy cái tinh thần dân tộc, mầm mống cho sự phân liệt. Không được, quyết không được, thưa các đồng chí ... (có tiếng xì xào). Vấn đề hình thức, nhưng lại có tầm quan trọng lớn, xin các đồng chí phát huy tự do tư tưởng để đề xuất
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:28:24 GMT 9
Trót làm mẫu nudeTP - “Ngân mẫu” là cái tên quen với nhiều thế hệ học trò tại trường Mỹ thuật Yết Kiêu. Mười bảy năm đổ lại đây, Ngân đã làm mẫu nude cho hàng nghìn người. Thế nhưng, cũng đến lúc, mẫu nude… chán nghề. Công việc hàng ngày ở trường Mỹ thuật Sinh ra để làm mẫu nude Kim Ngân sinh năm 1974, bắt đầu làm mẫu nude từ năm 19 tuổi, qua sự mai mối của một người bạn. Người đó học cùng Ngân. Suốt những năm cấp ba đã chứng kiến cảnh bạn mình đẹp lồ lộ được săn đón như thế nào. Thư tình nhét vào ruột bút bi ném vào bàn Ngân tơi tới. Tan trường, đi bộ về nhà có biết bao người ngẩn ngơ nhìn đăm đắm. Ngân đi học múa cũng không yên. Sự săn đón của đàn ông làm cô sợ. Mười sáu tuổi về nhà thắc mắc với mẹ: mặt con làm sao mà đi đường ai cũng nhìn? Nhan sắc làm phiền việc học hành của Ngân. Ngồi chờ việc, được giới thiệu đi làm mẫu, Ngân đồng ý ngay. Tất nhiên, chỉ nghĩ là mẫu “mặc quần áo” ngồi cho học sinh vẽ. Nhưng rồi, chính các thầy ở trường bảo Ngân: đây là hi sinh vì nghệ thuật, là vì học sinh, không có gì đáng xấu hổ. Ngân đồng ý mặc bikini ngồi mẫu. Những lần đầu cởi quần áo, bao giờ cũng có cảm giác kiến đốt râm ran khắp người. Ba phút, năm phút, thấy những đôi mắt học trò nhìn chăm chú chỉ ước ao có lỗ nẻ nào để chui xuống. Phải mất vài ba năm Ngân mới quen với tư thế nude hoàn toàn. Trường Mỹ thuật có nhiều mẫu nude nhưng không ai có thâm niên bằng Ngân, cũng không ai nhiều giai thoại như Ngân. Từ những thế hệ đàn anh đã thành danh, đến các học trò mới vào trường, đụng đến Ngân mẫu thế nào cũng có tâm điểm để xuýt xoa. Chuyện học trò đang vẽ nhìn Ngân đẹp sững sờ mà rơi bút là thường. Người bạo hơn, như họa sĩ Trần Nhật Thăng, thấy Ngân một thời mặc quần thụng, áo thụng cắm thùng chép miệng: em mặc đồ này phí cả người! Tóc Ngân mềm một dải, màu hung quanh năm để dài cũng trở thành một đề tài gây tranh cãi. Chỉ đến khi đích thân thầy giáo đính chính hộ: “tóc xịn của nó đấy” học trò mới tin tóc Ngân thuộc loại ba không: không ép, không nhuộm, không hấp. Ngân gắn bó với nghề mẫu nude lâu như vậy vì cô là người duy nhất tạo dáng được cả những tư thế khó suốt bốn nhăm phút mà không cần nghỉ. Trước, hết mỗi tiết lại lóng ngóng mặc quần áo, nghỉ mười lăm phút. Giờ có kinh nghiệm hơn, Ngân sắm được cái áo kimono, lúc nào nghỉ thì khoác vào, tiện lợi. Nhưng cũng chả dám sắm hai cái vì đắt. Ngày nóng trần mình dưới cái quạt trần cũ kỹ, ngày lạnh buốt da chỉ có lò than liu riu góc nhà Ngân đều phải làm việc với cường độ như nhau. Nửa ngày chẵn, suốt năm buổi một tuần, thời gian đủ để sinh viên hoàn thành một bài vẽ, với một tư thế mẫu. Trong tác phẩm của nhà nhiếp ảnh Lê Quang Châu Từng người tình bỏ đi… Ngân có nhiều người hâm mộ. Các họa sĩ tên tuổi cũng có. Cô đã làm mẫu cho Phạm Viết Song, Trần Đông Lương, Tô Liên, Thành Chương… hình ảnh của cô vượt ra ngoài biên giới và trở thành nỗi khát khao của nhiều người. Ngân từng yêu. Mỗi người một vẻ, nhưng đều phải giống nhau ở ngoại hình: cao to, đẹp trai. Ngân bảo, không hiểu sao cô khó có cảm tình với đàn ông xấu xí. Ngay đi xe ôm cũng phải chọn người mặt mũi sáng sủa. Nhưng những đàn ông “cao to đẹp trai” làm cô buồn nhiều. Người không đủ dũng cảm vượt qua dư luận để lấy một cô mẫu nude. Người vũ phu, muốn sở hữu người đẹp bằng bạo lực. Rút cục, đám cưới vẫn là một cái mốc xa vời. Tính Ngân thẳng, sự tự tin của một người đẹp cho phép cô không phải bợ đỡ. Đi làm mẫu, thấy ai sàm sỡ cô bỏ về ngay. Người ta biết cái nghề này ngắn, phải “ngoại giao” khéo léo thì sẽ có nhiều hợp đồng. Ngân không. Đến mức, một số người nghe tin Ngân đẹp muốn mời làm mẫu nhưng nghe cảnh báo: kiêu lắm, lại thôi. Những tư thế mẫu rất khó. Chỉ duy nhất Ngân ở Yết Kiêu làm được liên tục trong một tiết học, không phải nghỉ đoạn nào Câu chuyện về những chân dài - đại gia hoặc nghệ sĩ - nguyên mẫu có vẻ không đụng chạm nhiều đến Ngân. Vẻ đẹp “ngây ngây thơ thơ” ấy hồn nhiên nhận xét: nghệ sĩ khôn lắm, ít người chịu bỏ tiền vì cái đẹp. Giá chung một buổi mẫu có hai trăm ngàn mà còn kỳ kèo thêm bớt. Thế nhưng khi tranh, hoặc ảnh được giải cũng cấm thấy “đại gia” nào lại quả cho mẫu một đồng. Ai hào phóng lắm, sau buổi vẽ mời mẫu đi ăn uống đã là số hiếm. Những người cùng nghề với Ngân đa phần cũng chịu chung số phận: người ta thích đấy, mê đấy, săn đón đấy nhưng lấy thì ai cũng e ngại. Có người, có chồng rồi mới đi làm mẫu, mà đi cũng giấu giấu diếm diếm không dám công khai. Có người, cả hai vợ chồng cùng làm mẫu, ít bị ghen tuông hơn nhưng cũng chỉ dám đi làm cầm chừng. “Tuổi đuổi xuân đi”, đến lúc Ngân thôi bồng bột với những hào nhoáng bên ngoài, chỉ muốn một người đàn ông vững chãi để dựa thì “ngôi nhà hạnh phúc” dường như vẫn rất mông lung. Ngân có vài nguyên tắc để bảo vệ mình: không chấp nhận lời tán tỉnh liên quan đến sex, không đi chơi tối, không hẹn hò bí mật… Và người ta kết luận Ngân giả, Ngân làm màu. Có những nỗi oan không thể giải thích. Tại triển lãm tranh nude, mê em lắm, ngưỡng mộ lắm, nhưng chỉ thế mà thôi Làm mẫu không đủ sống Ngân hẹn gặp tôi tại nhà riêng của cô. Một căn hộ bé xíu, lối đi lắt léo ngay phố Hàng Bông, chỉ đủ kê một cái giường 1m2. Tài sản đáng giá nhất trong phòng là cái tivi 24inch. Ngân sống cùng mẹ già không có lương hưu. Trước, còn khỏe bà bán hàng nước để thêm đồng ra đồng vào. Giờ hai mẹ con trông cả vào thù lao làm mẫu của Ngân. Một buổi sáng ngồi mẫu Ngân được trả 100.000 đồng, cả chục năm nay không thay đổi. Một tháng, cộng các khoản, thu nhập của Ngân chưa được 2 triệu đồng. Ngân bảo, vài năm trước, khi giá cả ổn định, đến kỳ nghỉ hè cô vẫn còn đủ tiền dành dụm để sống. Giờ, đến ba tháng hè là lo ngay ngáy, nếu không có những hợp đồng mẫu ổn định của Cung thiếu nhi thì không biết xoay sở thế nào. Mười bảy năm làm việc cho trường Mỹ thuật Ngân vẫn không có bất cứ một chế độ nào. Không hợp đồng, không bảo hiểm. Làm công nào ăn công ấy. Tết nhất, năm nào xôm thì được thêm 200.000 đồng. Hàng ngày, Ngân đi bộ đến trường, giải pháp bất đắc dĩ thay thế cái xe đạp, vì theo Ngân: giờ có ai đi xe đạp nữa, ngoài những người già. Ngân không biết đi xe máy, cũng chưa bao giờ gom đủ tiền để mơ đến một cái xe máy. Thế nhưng, trông vẻ nhàn nhã của cô nhiều sinh viên vẫn tưởng, Ngân lên xe xuống ngựa. Có người còn hỏi: chị đi Méc hay BMW? Mỗi lần như thế Ngân lại cười: để Ngân ra Lương Văn Can mua cái ô tô giấy! Sắp qua cái tuổi rực rỡ nhất của nghề mẫu nude, Ngân bắt đầu mệt mỏi. Những mong có một bàn tay đủ mạnh dắt cô khỏi công việc nhiều thị phi ấy. Cô sẽ bỏ hết, sẽ dồn cả tâm trí để thu vén cho một tổ ấm. Nhưng đám đàn ông, sao nghe mong ước thật thà của một người đàn bà đẹp, họ lại nhiều hoài nghi đến vậy? Ngân kết luận: chắc tại vì cô trót làm mẫu nude. Hạnh Đỗ
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:45:16 GMT 9
Nhà vệ sinh, trí thức và Đảng
-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Nguyễn Hưng Quốc, VOA Nói đến chuyện vệ sinh ở Việt Nam, đặc biệt ở miền Bắc trước năm 1975, không thể không nhớ đến Tô Hoài.
Trong cuốn hồi ký có nhan đề Chiều chiều xuất bản năm 1999, Tô Hoài kể nhiều chuyện liên quan đến hệ thống nhà vệ sinh ở Hà Nội trước và sau năm 1954.
Ông viết, thật chi tiết:
“Mấy lâu nay thành phố vận động các nhà làm hố xí hai ngăn. Việc ỉa đái của đất Kẻ Chợ từ thời Tây đã cứ không dưng như mưa nắng, như trời đất hết mùa hạ sang mùa thu. Hồi xửa xưa, chỉ độc mấy phố hàng Đào, hàng Gai, các nhà quan cách khá giả trổ ngõ sau ra phố tắt, ra vườn hoang, mọi đi lại, chợ búa, con cháu ở quê ra, người vào lấy phân tro đều đi cửa khuất ấy. Rồi quan đốc lý Tây cho thầu phân, các nhà làm hố xí đằng sau, nửa đêm có phu gọi cửa “đổi thùng! đổi thùng!” – mà người nghe lúc ngái ngủ nhầm là “đổ thùng!”. Nhà có cửa nách cho phu thùng, nhà chật chội thì mỗi đêm phu cứ xách thùng phân qua suốt các phòng ra cửa trước.”
“Năm 1956, về hoà bình rồi, buổi tối tôi vào hiệu vằn thắn phố Huế, đương ăn còn thấy người công nhân vệ sinh quảy đôi thùng phân đi ra, qua ngay giữa nhà. Đấy là nơi có phố, còn lều quán chưa thành phường thì vẫn ngồi nấp bờ đầm, bờ sông, bụi rậm. Làng tôi ở ven nội, người lớn trẻ con đều ra các chân tre đầu đồng, mỗi hôm có mụ “mũi thung” - những người đàn bà lam lũ trên mặt nổi vết chàm có lông như miếng da lợn, họ ở các làng vùng trong quảy thúng tro đi gắp phân về bán.”
“Nhà người Tây có hố xí máy, còn người ta ở Hà Nội thì cả trăm năm thuộc Pháp các phố cứ “đổi thùng” cho mãi đến những năm 1958.”
“Không biết ai cải tiến ra cái hố xí hai ngăn đến bây giờ còn người khen, người thì bài bác kịch liệt, đòi truy cho ra đứa có sáng kiến ấy để bỏ tù. Tôi là người đứng giữa có thực nghiệm với tư cách nhà có một hố xí hai ngăn và bây giờ trông nom hơn hai trăm cái hố xí hai ngăn của hàng phố, tôi thấy không phải tội ở người nghĩ ra mà tại những đứa xây và đứa cai quản với thói kẻ cắp bớt xén, thói lười biếng.”
“Lý nhẽ và lề lối nghe ra thuận tai, vẫn cái hố xí mọi khi đem chia thành hai ngăn. Đầy ngăn này, đậy nắp lại cho phân ngấu. Khi ngăn kia sắp ứ lên thì ty vệ sinh đến hốt hố bên. Hàng tuần, đem tro và mùn đất rắc vào hố phân, lại trát vôi cho khít nắp.”
[…]
“Cái tưởng là sẽ tốt đẹp ấy đều đặn tử tế được vài tháng đầu. Các người ở ngoại thành vào lấy trộm phân khốn khổ lắm. Công nhân vệ sinh bắt quang sọt, công an phạt tiền. Nhưng vẫn có người đi chui, có các nhà cho vào múc lậu.”
“Chỉ ít lâu, đến khi chểnh mảng chẳng thấy công nhân đưa mùn đất, không đến trát nắp, lại những thùng xe cũng đỗ bất thường. Cả hai hố đã phè ra, chủ nhà phải ngồi ở cửa hóng người hốt phân chui, lại phải dúi tiền để các bác ấy làm phúc vào lấy cho.” (tr. 300-302).
Một lần, với tư cách tổ trưởng khu phố, Tô Hoài đi điều tra về tình hình nhà vệ sinh trong khu phố. Đây là ghi chép của ông:
“Bẩn kinh khủng. Mùi hôi thối không trông thấy, nhưng có thể tưởng tượng như một cái cống, một cái bễ đương ngùn ngụt tuôn hôi thối nồng nặc ngạt thở. Hai bên tường, không quét vôi, lở lói dưới hàng gạch lâu đời đã vỡ khấp khểnh xanh xám nhờn nhợt […]. Dưới rãnh, những con dòi trắng hếu bò lổm ngổm. Nhưng không thấy nhặng xanh bay ngang mặt, có lẽ bí hơi quá, nhặng cũng không dám vào.”
“Đến cuối hẻm, tôi quay ra. Cảm tưởng vừa xuống âm ty. U ám, nhơn nhớt, nghẹt cổ. Ở Hà Nội, phố nào cũng đằng trước mặt hoa da phấn, đằng sau là cái lối vào chuồng phân như thế này, cả bao nhiêu năm nay thế.” (tr. 306-7).
Ở miền Bắc, trong các chuyến đi thực tế, các nhà văn nhà thơ làm gì?
Một trong những công việc chính của họ là đào hố phân rồi hằng ngày đi nhặt phân, từ phân người đến phân thú vật, về đổ vào các hố ấy, lại nhặt lá cây bỏ vào, trộn đều, ủ lại cho chúng ngấu lên.
Cũng theo lời kể của Tô Hoài, mỗi buổi sáng, nhà thơ Phùng Quán ở trong xóm đi ra, “gánh đôi quang lồng một, hai thanh tre gánh phân đặt trên mặt sọt.” Một buổi chiều, gánh phân về,
“Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những con trâu con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên, tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra ngồi bĩnh đấy. Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu phân người. Tìm ra những con đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.” (tr. 70).
Nhắc đến việc bắt giới văn nghệ sĩ đi nhặt phân, hốt phân, ủ phân trong cái gọi là “đi thực tế” ở miền Bắc trước đây, không thể không nhớ đến câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông: “Trí thức là cục phân.”
Thời kháng chiến chống Pháp, nhất là từ cuối thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950, trong các buổi học tập chính trị, giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt Nam phải tụng đi tụng lại câu nói ấy. Nhà văn Nguyễn Thành Long kể: “Chúng tôi phải tin theo điều này và tự phủ nhận bản thân mình.” (In trong cuốn Cách mạng – Kháng chiến và đời sống văn học, 1945-1954 do Phong Lê chủ biên, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1995, tr. 527).
Tưởng chỉ có một mình Mao Trạch Đông nói “trí thức là cục phân”. Gần đây, đọc báo, tôi nghe tường thuật chính Lê Nin cũng từng nói thế. Năm 1922, ông bàn với Stalin về kế hoạch thanh tẩy nước Nga, trong đó có việc cải tạo giới trí thức, những kẻ theo ông, chỉ là đầy tớ cho bọn tư sản.
Ông nói về giới trí thức một cách hằn học: “Bọn chúng nghĩ bọn chúng là đầu óc của quốc gia. Thực sự bọn chúng không phải là đầu óc. Bọn chúng chỉ là cứt.”
Hồ Chí Minh có bao giờ nói câu tương tự hay không?
Thú thực, tôi không biết. Bạn đọc nào biết, xin chỉ giùm. Thành thực cảm tạ trước. Nguồn: VOA
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:48:43 GMT 9
Sự quan liêu của quan chức cao cấp
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Nguyễn Văn Tuấn 20.08.2009 Tôi vừa dự một hội nghị chuyên ngành từ Phú Quốc về, và trong thời gian ngắn ngủi đó cũng được nhìn thấy sự quan liêu và lãng phí ghê gớm trong các quan chức cao cấp ở nước ta.
Hội nghị thu hút khoảng 270 người đến tham dự, với sự tài trợ nhiệt tình của các công ti dược. Khách sạn Sasco Blue Lagoon Resort được chọn làm nơi tổ chức, và khách tham dự đã đặt phòng từ một tháng trước. Tưởng rằng đã đặt phòng thì chắc ăn sẽ có phòng để ở, nhưng ở Việt Nam “sự đời” không đơn giản như thế. Một số khách đến ngày hội nghị, đến nơi check-in thì được biết là đã … mất phòng! Tại sao? Tại vì phái đoàn tùy tùng của ông phó thủ tướng Hoàng Trung Hải ra thị sát hay đi holiday gì đó ở đảo Phú Quốc, và vì khách sạn là của Nhà nước, nên họ phải dành phòng cho tùy tùng của ông phó thủ tướng, và tống cổ khách đi khách sạn khác. Một kiểu làm business rất đặc thù của các công ti thuộc Nhà nước Việt Nam.
Chưa hết. Khoảng 10 khách mời và diễn giả (speakers) của hội nghị từ Hà Nội cũng không tham dự được, cũng chỉ vì người ta dành ưu tiên cho chuyến bay của ông Hoàng Trung Hải. Cần nói thêm rằng những người này đã mua vé máy bay (Vietnam Airlines) từ cả tháng trước. Nhưng bất chấp mọi qui luật business, Vietnam Airlines vẫn lấy chỗ của các hành khách này để cho đoàn tùy tùng của ông Hoàng Trung Hải! Một số còn “đau” hơn, vì họ đã bay vào Sài Gòn, nhưng đành phải bay về Hà Nội chứ không có chỗ để đi Phú Quốc.
Tôi có cơ duyên được tạm trú tại khách sạn Sasco Blue Lagoon Resort cùng với ông Hoàng Trung Hải, nhưng không có cơ duyên diện kiến ngài. Tôi thường ăn sáng tại một nhà ăn có 2 tầng, và tôi thường chọn tầng trên để nhìn ra biển. Nhưng vì sự có mặt của Hoàng Trung Hải nên tôi và một số bạn bị đuổi xuống tầng dưới. Làm quan lớn cỡ như ông Hoàng Trung Hải đúng là sướng thiệt vì được “ăn trên ngồi trước”, cũng là một hình thức đóng vai các quan thuộc địa của Pháp ngày xưa mà Ba tôi thường kể lại.
Đến ngày ngài phó thủ tướng Hoàng Trung Hải lên đường về Hà Nội thì lại là một sự kiện trên đảo Phú Quốc. Xe quân đội biển số đỏ chận các nút đường, và xe công an biển xanh hú còi, dọn đường cho xe của ngài đi.
Nghe nói ông Hoàng Trung Hải và tùy tùng đi thị sát tiến độ thi công sân bay Phú Quốc. Nhưng cũng có tin là ông ta đi thị sát công trình gì đó ở Hà Tiên rồi nổi hứng ra Phú Quốc chơi. Nhưng dù là Hà Tiên hay Phú Quốc thì ông ta cũng chỉ tiêu ra vài phút ngắm nhìn công trình, chỉ tay phía bên này, chỉ tay phía bên kia để phóng viên chụp hình. Tính ra thời gian ông Hoàng Trung Hải lưu lại trên Phú Quốc chỉ có một ngày, nhưng ông ta và tùy tùng ông ta đã gây ra biết bao phiền toái cho người dân. Đó là chưa nói đến khoản chi phí rất lớn để lo cho ông ấy và tùy tùng của ông ấy.
Nói lên sự lãng phí tôi còn chứng kiến một tình hình khác. Số là ngày 13/8 có hội nghị về quản lí bệnh viện vùng Đông Nam Á do Hội Y học TPHCM tổ chức tại khách sạn Equatorial. Hội nghị thu hút khoảng 300 khách, nhưng có đến 2 quan chức cao cấp trong chính phủ đến đọc diễn văn: đó là ông phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và bộ trưởng y tế Nguyễn Quốc Triệu. Hai ông này phải bay từ Hà Nội vào Sài Gòn, ở khách sạn Equatorial (phòng dành cho VIP), và mỗi ông có vệ sĩ đi theo cộng với một hay hai thư kí. Ban tổ chức trả tiền phòng mệt nghỉ. Đó là chưa nói đến phong bì cho 2 ông. Hôm đó tôi đi ăn sáng và thấy cho vệ sĩ đi theo, tôi tưởng là họ đi … bảo vệ tôi :-), nhưng không họ bảo vệ 2 ông quan kia đi … ăn sáng. Trời! Đây là khách sạn 5 sao, có ai mà hành hung hai ông ấy để phải có vệ sĩ đi theo! Thật ra, phần lớn khách trong khách sạn cũng chẳng ai biết hai ông ấy là ai. Đúng là hợm hĩnh!
Sống ớ nước ngoài lâu, tôi chưa bao giờ chứng kiến cái cảnh bộ trưởng hay phó thủ tướng đi mà có xe cảnh sát dọn đường, chưa bao giờ chứng kiến cảnh bộ trưởng, thậm chí thủ tướng, ăn trên ngồi trước. Tôi cũng từng có cơ duyên gặp một hay hai bộ trưởng Úc nên thấy được phong cách bình dân của họ như thế nào. Thủ tướng Úc đi công tác các tiểu bang chỉ có 2 người (ông ấy và bảo vệ) và đi trên chuyến bay dân sự như mọi người dân khác. Còn ở Việt Nam, tôi thấy các quan chức cứ như là những ông trời hay thần thánh sao ấy. Nguồn: Tuan's Blog
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:50:07 GMT 9
Việt Nam: Chung sống với tham nhũng để được việc-------------------------------------------------------------------------------- Chính trị - xã hội Pháp luật Người việt xấu xí Lam Thanh 96% các doanh nghiệp Việt Nam đang chấp nhận chung sống với tham nhũng miễn sao “được việc” trong kinh doanh. Kết quả giật mình này vừa được tổ chức kiểm toán hàng đầu thế giới Ernst & Young công bố tại Hà Nội. Khảo sát gian lận trên toàn cầu lần thứ 10 (chu kỳ hai năm) được Ernst & Young tiến hành với 1.186 cuộc phỏng vấn lãnh đạo cấp cao của các doanh nghiệp ở 33 quốc gia năm 2008, trong đó có Việt Nam. Theo đó, có tới 96% các doanh nghiệp Việt Nam được phỏng vấn đã từng có liên quan đến việc hối lộ hay tham nhũng trong vòng hai năm trở lại đây. Tỷ lệ này gần gấp đôi mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và gấp gần bốn lần mức trung bình toàn cầu. Có 60% doanh nghiệp Việt Nam được phỏng vấn cũng thừa nhận đã từng bị yêu cầu đưa hối lộ để có được hoặc tiếp tục được nhận các hợp đồng kinh doanh. Tỷ lệ trên cao gần gấp ba so với mức trung bình toàn cầu. Cũng có tới 48% doanh nghiệp Việt Nam cho biết đã từng bị mất hợp đồng vào tay đối thủ cạnh tranh chỉ vì đã không chịu… đưa hối lộ. Lĩnh vực đầu tư xây dựng thường xuất hiện hành vi hối lộ, tham nhũng nhiều nhất. Ảnh: Lê HưngĐại diện Kiểm toán Nhà nước (KTNN), ông Hoàng Văn Chương, Vụ trưởng Vụ Pháp chế chia sẻ: “Kết quả kiếm toán hàng năm hé lộ ra vô số sai phạm tại nhiều doanh nghiệp, địa phương, thậm chí cả ở Bộ, ngành. Nhưng trường hợp cụ thể được xử lý, nêu đích danh lại rất ít vì cá nhân người đứng đầu thường thoái thác trách nhiệm, đổ lỗi cho cả tập thể, mà lỗi của tập thể thì biết thuộc về ai?”. Chưa kể, “hậu” thanh, kiểm, điều tra, việc xử lý vi phạm, tham nhũng ở nước ta theo ông Chương còn “rất kém”, khiến tham nhũng đến thời điểm này vẫn kéo dài dù văn bản quy định pháp luật về phòng và chống tham nhũng ở nước ta đã rất cụ thể và đầy đủ. Trong 8 lĩnh vực mà cơ quan kiểm toán phát hiện có tham nhũng (đầu tư xây dựng, ngân hàng, thuế, bưu chính viễn thông, đầu tư nước ngoài, xây dựng giao thông đường bộ, đất đai, chương trình 327- phủ xanh đất trồng đồi núi trọc, bảo vệ, phát triển rừng), theo ông Chương, lĩnh vực đầu tư xây dựng xuất hiện nhiều sai phạm hơn cả. Tổng Giám đốc Ernst & Young, ông Trần Đình Cường bày tỏ lo ngại: “Gian lận tài chính, hối lộ, tham nhũng luôn là nguyên nhân lớn dẫn tới đổ vỡ, phá sản của bất kỳ doanh nghiệp nào, điều này sẽ càng đặc biệt nghiêm trọng hơn đối với một nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam”. Tham nhũng nhìn thấy, biết được nhưng lại khó vạch trần theo ông Chương là do Việt Nam chưa có cơ chế rõ ràng bảo vệ người tích cực tố cáo như một số nước đã làm. “Mỗi ngày, KTNN nhận được nhiều đơn thư tố cáo nhưng do tâm lý của người tố cáo sợ bị ghen ghét, trả thù nên thường giấu tên hoặc chỉ viết tên nặc danh. Điều này khiến cơ quan chức năng “lâm vào thế bí”. Vì theo Luật Khiếu nại tố cáo, đơn thư nặc danh rất khó giải quyết do không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ”, ông Chương kể. Thực tế, biện pháp sử dụng để ngăn ngừa các hành vi tham nhũng không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trong khu vực hiện nay chủ yếu chỉ dừng lại ở khâu tăng cường đào tạo, nâng cao nhận thức. Trong khi, việc duy trì các đường dây nóng của các cơ quan chức năng như là công cụ kiểm soát lại ít được sử dụng. Để chống tham nhũng hiệu quả, theo ông Rob Morris, quan trọng là chính sách phải rõ ràng, không phải chỉ để đặt lên bàn giấy mà chính sách phải mang tính thực tiễn cao, đưa ra để mọi người cùng thảo luận, đóng góp, nhận thức và cùng cam kết thực hiện. Cũng theo khảo sát của Ernst& Young, tỷ lệ doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật ở Việt Nam rất thấp, chỉ là 24%, so với mức trung bình toàn cầu là 40% (Trung Quốc 35%, Hàn Quốc 60%, Singapore 85%).. Trưởng trưởng bộ phận Dịch vụ Điều tra gian lận và giải quyết tranh chấp của Ernst& Young, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ông Rob Morris lý giải: “Kinh nghiệm khảo sát các nước cho thấy, tham nhũng sở dĩ được che chắn tốt vì các hành vi này thường liên quan đến cá nhân quản lý cấp cao, thậm chí được nhiều nước trong khu vực xem là một phần trong hoạt động kinh doanh”. Theo ông Rob Morris, vai trò của kiểm toán nội bộ trong phát hiện tham nhũng ở Việt Nam chưa được chú trọng. Chỉ chưa đầy 20% doanh nghiệp Việt Nam tuân thủ kiểm toán nội bộ, trong khi đây là hoạt động được các quốc gia khác rất coi trọng nhằm đo mức độ minh bạch tài chính. Ngoài ra, có đến 88% doanh nghiệp Việt Nam không hề biết đến Luật chống tham nhũng nước ngoài (còn được gọi là FCPA - Luật chống tham nhũng của Mỹ). Đáng chú ý, đây được coi là chuẩn mực quốc tế cho khung pháp lý chống tham nhũng trên phạm vi toàn cầu. Nguồn: 96% doanh nghiệp VN 'dính' tham nhũng Nguồn: Báo Đất Việt
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:52:23 GMT 9
Tìm cách nâng cao personal and teamwork productivity của người VN -------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Các bác, Người VN mình, nếu chia riêng ra từng người, thì productivity chắc cao lắm cũng chỉ được 6 phần, trong khi tuyệt đỉnh của thế giới là 10 phần; còn nếu gộp lại thành một nhóm, thì 100 người VN ta có productivity chỉ đạt 1-2 phần, so với mức tối đa của thế giới là 10 phần. Em rất quan tâm tới việc 1. Tìm cách hướng dẫn cá nhân nâng cao productivity - Đúng giờ - Kỷ luật - Làm việc tập trung - Luôn tự nhắc nhở bản thân rằng cần phải dùng lý trí giải quyết vấn đề, thay vì dùng tình cảm - Nâng cao số giờ làm việc - Đặt mục tiêu rõ ràng - Kiểm tra tiến độ - Theo đuổi mục tiêu - Quản lý time - Quản lý tasks ... 2.Tìm cách xây dựng những teamwork best practices để nâng cao productivity - Tạo sự sòng phẳng về tiền bạc - Ráng dùng lý trí để phân tích các vấn đề inter-personal, giảm phần tình cảm trong công việc này - Khó với mình, dễ với người - Thiết lập bonus and penalty - Thi hành dân chủ khi ra quyết định (tránh tình trạng để một vài cá nhân lũng đoạn một tổ chức) - Khuyến khích mọi người speak up their minds - Tập trung vào mục đích thay vì phương tiện, và mục đích cần cụ thể (có tên gọi khác là thực dụng) .... Tất cả các best practices, methods, good habits nói trên nói thì dễ, làm thì khó. Mong các bác chia sẻ kinh nghiệm. (EM QUỲ LẠY MONG CÁC BÁC KHÔNG NHÂN CƠ HỘI NÀY ĐỂ CHỈ TRÍCH ĐẢNG CỘNG SẢN) Flippers viết: Cách đây hơn 1 năm, VTV có mời một vị chuyên gia nước ngoài đến VTV huấn luyện cho cán bộ, công nhân viên đài VTV và Đài TH các tỉnh phía bắc về “Kỷ năng làm việc theo nhóm”. Có lẽ đây là lần đầu tiên 1 cơ quan, đơn vị trong nước nhận thức được vai trò và sự cần thiết của “Kỹ năng làm việc theo nhóm”. Đối với người Việt Nam, nhất là các bạn trẻ, từ "teamwork" được nhắc đến nhiều, nhưng hình như vẫn chỉ được "nghe nói" chứ chúng ta chưa thực hiện nó theo đúng nghĩa. Họ ít khi thành công trong những dự án làm việc theo nhóm và sự hỗ trợ của nhiều thành viên, nhiều bộ phận chuyên biệt. Hiện nay, trong các trường ĐH tại TP. HCM đang hình thành những “teamwork” tự phát hoặc do các tổ chức trong trường đứng ra tổ chức. Các “teamwork” này thường hoạt động theo các Game Show trên đài truyền hình như : Làm giàu không khó… Ngoài ra, hiện nay cũng có game Goobs là một trong những game hiếm hoi hiện nay vừa giúp bạn giải trí vừa giúp luyện khả năng suy luận và làm việc theo nhóm (team-working). Bạn efacx và các mem x-cà có thể download từ đây : www.redclawgames.com/games/goobsdemosetup.exeChính vì hiện nay chúng ta “nghe nói” đến “teamworking”, chứ chưa hiểu được tường tận. Vì vậy mem efacx “quăng” cái đề tài này lên đây hay là “quăng” lên đâu chăng nữa cũng sẽ có ít người quan tâm đến. Bên ttvnol.com cũng có thảo luận về đề tài này bạn sang đó thi thố thử xem. Có 1 câu nói nói lên tích cách của người Việt : “1 người Việt Nam thì hơn 1 người Nhật, nhưng 3 người Việt Nam thì thua 3 người Nhật”. Câu nói này cũng ám chỉ khả năng làm việc nhóm của người Việt Nam rất kém. Về nguyên nhân thì có nhiều, xin được TRÍCH vài nguyên nhân : Quá nể nang các mối quan hệ. Người phương Tây có cái tôi rất cao nhưng lại sẵn sàng cùng nhau hoàn thành công việc cần nhiều người. Còn người Việt trẻ chỉ chăm chăm xây dựng mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong đội, tỏ ra rất coi trọng bạn bè nên những cuộc tranh luận thường được đè nén cho có vẻ nhẹ nhàng. Đôi khi có cãi nhau vặt theo kiểu công tư lẫn lộn. Còn đối với sếp, tranh luận với sếp được coi như một biểu hiện của không tôn trọng, không biết trên dưới, được đánh giá sang lĩnh vực đạo đức, thái độ làm việc. "Dĩ hoà vi quý" mà, việc xây dựng được một mối quan hệ tốt giữa các thành viên quan trọng hơn việc một công trình bị chậm tiến độ. Thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý Người châu Âu và châu Mỹ luôn tách biệt giữa công việc và tình cảm còn chúng ta thì ngược lại, thích làm vừa lòng người khác bằng cách luôn luôn tỏ ra đồng ý khi người khác đưa ra ý kiến trong khi không đồng ý hoặc chẳng hiểu gì cả. Điều đó sẽ làm cho cả nhóm hiểu lầm nhau, chia năm sẻ bảy hoặc ai làm thì làm. Những người khác ngồi chơi xơi nước. Ai cũng hài lòng còn công việc thì không hoàn thành. Nếu sếp đưa ra ý kiến thì lập tức trở thành khuôn vàng thước ngọc, các thành viên chỉ việc tỏ ý tán thành mà chẳng bao giờ dám phản đối. Nếu bạn làm việc mà chỉ có một mình bạn đưa ra ý kiến thì cũng giống như bạn đang ở trên biển một mình. Bạn sẽ chọn đi với 10 người khác nhau hay với 10 hình nộm chỉ biết gật gù đồng ý Đùn đẩy trách nhiệm cho người khác Chính sự thảo luận không dứt điểm, phân chia công việc không phân minh nên ai cũng nghĩ đó là việc của người khác chứ không phải của mình. Khi đang đóng vai im lặng đồng ý, thì trong đầu mỗi thành viên thường tạo ra cho mình một ý kiến khác, đúng đắn hơn, dáng suốt hơn và không nói ra. Trong kỳ dọn dẹp công sở cuối năm, khi công việc đươc tuyên bố "toàn công ty dọn dẹp phòng làm việc" thì sau một tuần phòng vẫn đầy rác, giấy tờ, hồ sơ tung toé khắp nơi. Cuối cùng sếp chỉ định một người chịu trách nhiệm thôi thì công việc chỉ một buổi là OK. Vì sao? Đơn giản vì chỉ có một người, họ buộc phải làm chứ không thể đùn cho ai khác! Còn với cả nhóm, nếu nhóm gặp thất bại, tất nhiên, không phải tại ý kiến của mình, vì mình có nói gì đâu? Ý tưởng của mình vẫn còn cất trong đầu mà! Rất nhiều lý do để giải thích tại sao thất bại, lý do nào cũng dẫn đến điều mình không phải chịu trach nhiệm! Một trong những nguyên nhân của điều này là do chúng ta hiếm khi phân công việc cho từng người, vì chúng ta thiếu lòng tự tin và tâm lý sợ sai. Không chú ý đến công việc của nhóm Một khuynh hướng trái ngược là luôn luôn cố gắng cho ý kiến của mình là tốt và chẳng bao giờ chịu chấp nhận ý kiến của bât kì ai khác. Một số thành viên trong nhómvho rằng giỏi nên chỉ bàn luận trong nhóm nhỏ những người giỏi hoặc đưa ý kiến của mình vào mà không cho người khác tham gia. Chỉ vài hôm là chia rẽ nhóm. Khi cả đội bàn bạc với nhau, một số thành viên hoặc nghĩ rằng ý kiến của mình không tốt nên không chịu nói ra hoặc cho rằng đề tài quá chán nên không tốn thời gian. Thế là, trong khi phải bàn luận kỹ hơn để giải quyết vấn đề lại quay sang nói chuyện riêng với nhau. Cho đến khi thời gian chỉ còn 5-10 phút thì tất cả mới bắt đầu quay sang, đùn đẩy nhau phát biểu. Và chính lúc đã có một người lên thuyết trình, chúng ta vẫn cứ tiếp tục bàn về chuyện riêng của mình.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:53:28 GMT 9
Cần giáo dục về sự xấu hổ
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Nguyễn Hưng Quốc, VOA Từ năm 1945, đặc biệt từ năm 1954, người Việt Nam, nhất là ở miền Bắc và sau đó, từ năm 1975, trong cả nước, không ngớt được/bị giáo dục về lòng tự hào. Tự hào về bốn hay năm ngàn năm văn hiến. Tự hào về tài đánh giặc, hết giặc Tống đến giặc Minh, giặc Thanh, giặc Chiêm, rồi cuối cùng, giặc Pháp và giặc Mỹ.
Ngoài ra, người Việt Nam còn tự hào về tài trí của mình, bao gồm cả tài văn chương, với những tên tuổi có thể làm lu mờ truyền thống lừng lẫy của thời Tiền Hán và Thịnh Đường bên Trung Quốc.
Tự hào. Lúc nào cũng tự hào. Sách viết về đất nước và con người Việt Nam lúc nào cũng ánh lên vẻ sự tự hào. Có những điều tự hào có thực và cũng có không ít những điều chỉ do tưởng tượng.
Câu nói “ra ngõ gặp anh hùng” hay “nhiều người ngoại quốc mơ ước sáng ngủ dậy thấy mình là người Việt Nam” được lặp lại lặp lại từ học đường đến các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tuy nhiên, theo tôi, đã đến lúc nên có chính sách giáo dục người Việt Nam về lòng xấu hổ.
Thật ra, nói “theo tôi” là một cách nói hơi cường điệu. Rõ ràng, tôi không phải là người đầu tiên và càng không phải là người duy nhất nói lên điều đó.
Trước, từ giữa thập niên 1980, đạo diễn Trần Văn Thủy đã nhấn mạnh vào nhu cầu giáo dục lòng xấu hổ. Trong cuốn phim tài liệu Chuyện tử tế nổi tiếng, Trần Văn Thủy đã so sánh việc giáo dục tại Nhật và tại Việt Nam: Trong khi ở Nhật, một quốc gia tiến bộ và giàu mạnh nhất châu Á, trẻ em luôn được giáo dục là đất nước của họ rất nghèo tài nguyên và bị thua trận một cách nhục nhã, thì tại Việt Nam, một quốc gia thuộc loại lạc hậu và nghèo đói nhất trên thế giới, trẻ em lại luôn được giáo dục một cách đầy tự hào: tài nguyên thì giàu có, lịch sử thì trực rỡ, con người thì anh hùng, tài trí thì vô song, v.v…
Cũng trong thập niên 1980, sau Chuyện tử tế một tí, trong bài “Nhìn từ xa… Tổ quốc”, nhà thơ Nguyễn Duy cũng nói đến hiện tượng “bội thực tự hào”, hơn nữa, “ngộ độc tự hào” của người Việt Nam.
Ông chỉ ra những điều nghịch lý: “xứ sở thông minh / sao thật lắm trẻ con thất học”, “xứ sở thật thà sao thật lắm thứ điếm”, “xứ sở cần cù / sao thật lắm Lãn Ông”, “xứ sở bao dung / sao thật lắm thần dân lìa xứ”, “xứ sở kỷ cương / sao thật lắm vua / vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa / vua không ngai - vua choai choai - vua nhỏ”. Nhưng trên tất cả là nghịch lý: Trong tuyên truyền, lúc nào cũng “hát đồng ca”: “Ta là ta mà ta vẫn mê ta”, trong khi đó, trên thực tế, ai cũng biết: “Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ / ợ lên thum thủm cả tim gan”.
Tuy nhiên, xin lưu ý: Trần Văn Thuỷ và Nguyễn Duy không phải là những người đầu tiên phê phán bệnh tự hào và đặt vấn đề về nhu cầu giáo dục lòng xấu hổ.
Ngay từ đầu thế kỷ 20, các nhà nho cấp tiến đã nhận ra được điều đó. Trong các tác phẩm của mình, cả Phan Chu Trinh lẫn Phan Bội Châu đều nhiều lần nhấn mạnh đến cái ngu và cái hèn của người Việt Nam. Hãy thử đọc lại đoạn văn này của Phan Chu Trinh:
“Nhân dân nước Nam bây giờ, ngu xuẩn như trâu như ngựa, tha hồ cho người ràng trói, cho người đánh đập, có miệng mà không dám kêu, gần chết mà không dám than thở.” (Trích theo Đặng Thai Mai, Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20, nxb Văn Học, Hà Nội, 1974, tr. 85).
Việt Nam hiện nay là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, trên rất nhiều phương diện, so với mặt bằng chung của thế giới cũng như so với chính tiềm năng và tiềm lực mà chúng ta có, có rất nhiều điều khiến chúng ta phải xấu hổ.
Cần xấu hổ về trình độ phát triển của Việt Nam hiện nay vốn rất thấp không những so với thế giới mà còn so với cả các quốc gia láng giềng của chúng ta ở châu Á.
Cần xấu hổ về khoảng cách giàu nghèo phi lý và bất nhẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa cán bộ và người lao động bình thường không có quyền thế và thân thế.
Cần xấu hổ về tinh thần vô kỷ luật, thậm chí, rất kém văn hoá nhan nhản khắp nơi, từ công tư sở đến ngoài đường phố, từ cách làm việc đến cách đi lại.
Cần xấu hổ về sự hoành hành của nạn tham nhũng ở mọi cấp.
Cần xấu hổ về những cách hành xử của nhà cầm quyền: nhu nhược đối với nước ngoài, đặc biệt với Trung Quốc, nhưng lại độc tài và tàn bạo ngay với những người tha thiết nhất đối với chủ quyền và sự toàn vẹn của Việt Nam.
Theo tôi, không chừng xấu hổ nên được xem là một đức hạnh cần thiết nhất hiện nay.
Trong chừng mực nào đó, có thể nói, người Việt Nam hiện nay nên được chia thành hai loại: Loại biết xấu hổ và loại không biết xấu hổ.
Giận thay, chính những kẻ không biết xấu hổ ấy lại đang không ngừng rao giảng chân lý, công lý và đạo lý.
Nguồn: VOA
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:56:36 GMT 9
Thấy người Hà Nội mà... kinh
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Đoàn Đình Sáng, trannhuong.com 30.08.2009
Cách đây không lâu, tôi ngồi ngoài chờ người nhà vào UBND quận Tây Hồ xin giấy tờ, đã chứng kiến vài cảnh tượng, xin được thuật lại như sau:
Cảnh thứ nhất: Thấy hai người đàn ông đi xe máy từ quán ăn uống Minh Nguyệt ra. Hai người đỗ xịch xe dưới lòng đường chỗ điểm dừng xe buýt ( cạnh đó còn có cột điện thoại thẻ) đối diện cổng UBND quận, rồi bước lên vỉa hè, kéo vội khoá quần, chĩa vào tường bao chùa Tảo Sách…đái. Hai người đều ăn mặc sang trọng. Một người một tay chống nạnh, tay kia rút điện thoại ra nghe. Có lẽ họ uống nhiều bia nên đái lâu và bia chưa tiêu hết. Bọt và nước chảy thành dòng từ thân tường, tràn đưới đế giầy, qua vỉa hè rộng khoảng 3 mét rồi đọng thành vũng ở rệ đường. May cho họ lúc đó xe buýt chưa đến và không ai ra gọi điện.
Cảnh thứ hai: Một ông người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, mặc com lê đen, từ trong UBND quận đi ra. Phía sau là một thanh niên to cao, da trắng trẻo, cầm chiếc ô đen che cho ông đi trước, mặc dù trời không nắng, không mưa. Hai người đi đến chiếc xe con màu đen bóng loáng đỗ gần cổng. Ông này tạt vào vỉa hè và… đái vào hàng rào sắt của UBND quận, cách chỗ vọng gác khoảng 5 mét. Người thanh niên vẫn cầm ô loay hoay bên cạnh để che đầu cho ông. Xong xuôi họ mới vào xe rồi lao vút đi.
Cảnh thứ ba: Tầm hơn bốn giờ chiều, một người đàn ông ăn mặc bảnh bao dừng xe máy cách cô quét rác tầm bẩy, tám mét rồi cất tiếng hỏi: “Này! Rác ơi!...Đường Nguyễn Hoàng Tôn đâu???”. Cô quét rác dừng tay, ngước lên. Ông này lại hỏi lần nữa như thế. Cô quét rác đập đập cái chổi tre vào đám rác: “Kìa rác! Chỉ đường cho ông bạn đi!”. Ông ta nghe thấy vậy rồ ga phóng thẳng về phía công viên nước Hồ Tây mà không biết đường Nguyễn Hoàng Tôn rẽ ngay tay trái trước UBND quận.
Thấy cô quét rác cho ông kia một bài học khá hay, nên tôi hỏi thêm người bán nước về cô ấy thì được biết: Cô ấy là Nguyễn Thị Lan, nhà ở Xuân La, có trách nhiệm cao với công việc, sống rất tình cảm. Có lần nhân ngày lễ, cô ấy được giao việc nhổ hết cỏ trên triền đất trước hàng rào UBND quận. Sợ không làm kịp thời gian quy định nên cô ấy bỏ tiền túi ra thuê hai mẹ con người bên Đông Anh sang Hà Nội kiếm việc làm, làm đỡ. Trong lúc hai mẹ con lúi húi nhổ cỏ thì kẻ trộm lấy chiếc xe đạp của họ phóng đi mất. Hai mẹ con khóc lóc kêu trời, vì chiếc xe tuy cũ nhưng là phương tiện đi làm không thể thiếu được. Cô ấy động viên an ủi hai mẹ con và nói cho chiếc xe đạp cũ của mình. Trước khi cho, cô ấy còn mang xe ra hiệu thay vào đôi bàn đạp mới để hai mẹ con đi cho yên tâm. Hai mẹ con người làm thuê chỉ còn biết cảm ơn lòng tốt của cô ấy.
Gần đến 1000 năm Thăng Long rồi. Mong rằng Hà Nội ngày càng có nhiều người như cô Nguyễn Thị Lan, và càng ít đi những người như mấy đấng mày râu kể trên để bộ mặt Thủ Đô thêm tươi đẹp. Nguồn: trannhuong.com
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:57:32 GMT 9
Người Việt Nam không biết cười
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Nguyễn Hưng Quốc, VOA Ít nhất từ đầu thế kỷ 20 đến nay, hầu như ai cũng nói là người Việt Nam hay cười. Cười nhiều đến độ vô duyên.
Người đầu tiên nhận định như thế là một học giả rất có uy tín: Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Trong bài “Gì cũng cười” đăng trên Đông Dương tạp chí số 6 năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh viết:
“An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.”
Trong sự nghiệp khá đồ sộ của Nguyễn Văn Vĩnh, với tư cách một nhà văn, một nhà báo và một dịch giả, có lẽ đoạn văn vừa trích ở trên là đoạn văn được nhiều người nhớ và nhắc nhất. Đến nay, tôi chưa thấy ai phản đối ông cả.
Mà làm sao phản đối được? Chỉ bằng kinh nghiệm thường nhật, chúng ta cũng có thể thấy ngay là ông nói đúng. Nhìn những bức ảnh chụp hay các thước phim tư liệu quay tình cờ trên đường phố, chúng ta dễ thấy đặc điểm của từng dân tộc: ở Nhật thì người ta cắm cúi đi hay dí tai vào chiếc điện thoại di động; ở Trung Quốc, người ta vừa đi vừa nhai nhồm nhoàm, còn ở Việt Nam thì người ta cười (nếu mồm không bị cái khẩu trang bịt kín).
Trong đời sống, chúng ta càng dễ thấy vai trò của nụ cười và tiếng cười. Ở đâu có người Việt là ở đó có những tiếng cười rúc rích. Kể cả trong giảng đường hay thính đường ở các cuộc hội nghị quan trọng và đầy tính chuyên môn. Trong nhà, trong quán ăn hay ngoài đường phố thì… khỏi nói.
Có thể nói cười là một loại hình ngôn ngữ thân thể (body language) đặc biệt của người Việt Nam. Gặp bạn bè hay người quen, người khác “hello”, “hi” hay “bon jour”, người Việt chỉ cần nhoẻn miệng ra cười. Thay vì nói “cám ơn”, người Việt cũng nhoẻn miệng ra cười. Thay vì nói “xin lỗi”, người Việt cũng cứ nhoẻn miệng ra cười.
Bạn bè tôi, đám giáo sư ở đại học có đông sinh viên Việt Nam, thỉnh thoảng nhờ tôi “phiên dịch” giúp ý nghĩa nụ cười hay tiếng cười của người Việt Nam. Chẳng hạn, một giáo sư, chấm luận văn, phát hiện một sinh viên Việt Nam trích nguyên văn nhiều câu từ sách báo mà không hề ghi xuất xứ.
Thay vì đánh rớt ngay vì tội đạo văn, ông thông cảm gọi sinh viên ấy vào phòng, chỉ cho sinh viên ấy thấy các câu văn ăn cắp và khuyên nên cố gắng diễn đạt bằng lời văn của mình hoặc phải ghi xuất xứ đàng hoàng. Nói xong, ông chờ đợi một lời xin lỗi. Nhưng anh sinh viên ấy chỉ… cười.
Người Việt Nam chúng ta, trong những trường hợp như trên, có thể “đọc” được dễ dàng lời xin lỗi ẩn sau nụ cười ấy. Tuy nhiên, người ngoại quốc, dù gần gũi với người Việt Nam nhiều đến mấy, cũng thấy ngỡ ngàng.
Nhưng dù hiểu đúng hay hiểu sai, một sự kiện phổ biến cũng cần được ghi nhận: Người Việt Nam sử dụng nụ cười và tiếng cười thật hào phóng!
Có điều, từ một khía cạnh khác, tôi lại nghĩ, trong văn hoá giao tiếp thông thường, người Việt Nam, nói chung, không biết cười.
Bạn ngạc nhiên ư?
Thì đây, bạn cứ tự mình kiểm tra đi. Sống ở hải ngoại, bạn bước lên máy bay về Việt Nam thăm nhà. Để ý mà xem, có tiếp viên nào ít cười bằng tiếp viên của Hàng Không Việt Nam không? Theo kinh nghiệm của tôi, câu trả lời là: Không.
Bước vào máy bay của các hãng hàng không khác, ngay từ cửa ra vào, chúng ta đã bắt gặp ít nhất là hai tiếp viên đứng cười chào và chỉ hướng đi. Ở hãng Hàng Không Việt Nam, cũng hai tiếp viên ấy và những lời chỉ dẫn tương tự. Nhưng rất hiếm khi thấy nụ cười nào.
Xuống phi trường, những người đầu tiên bạn gặp là các công an cửa khẩu, nơi bạn trình hộ chiếu. Đố bạn bắt gặp nụ cười nào ở đấy!
Lấy hành lý xong, bạn sẽ gặp hải quan. Đố bạn bắt gặp nụ cười nào ở đấy!
Không phải chỉ những nơi có quyền lực mới thiếu vắng nụ cười. Bạn bước vào bưu điện hay ngân hàng mà xem, có nhân viên nào nhoẻn miệng cười chào bạn không?
Lần đầu tiên tôi về Việt Nam và ra Hà Nội là năm 1996. Bước vào các hiệu sách, tôi hay nhoẻn miệng cười chào các cô bán hàng. Lần nào cũng thế, tôi cũng chỉ được đáp trả bằng một cái nhìn trân trối, có chút ngạc nhiên và đầy tò mò. Nhưng không có nụ cười. Khiến tôi phải vội vàng tìm cách kéo môi lại cho đỡ ngượng ngùng.
Sau này, khi xu hướng thương mại hoá và tư nhân hoá phát triển, những người bán hàng giảm bớt thứ văn hoá hợp tác xã ngày xưa, tương đối lịch sự hơn. Nhưng lịch sự không phải là biết cười.
Bước vào tiệm ăn hay quán nước, bạn hãy quan sát và so sánh cách chào khách của các tiếp viên ngoại quốc và tiếp viên Việt Nam mà xem. Ở các tiệm ngoại quốc, bạn sẽ bắt gặp, hầu như thường xuyên, một nụ cười. Ở các tiệm Việt Nam, ngay cả ở hải ngoại, bạn thường gặp cái gì? Một gương mặt lạnh tanh.
Làm sao có thể giải thích hiện tượng nghịch lý là: một mặt, người Việt Nam cười một cách dễ dàng, thậm chí, thừa thãi; mặt khác, lại tiết kiệm nụ cười đến độ có thể bị chê là “rude”, cục cằn và thô lỗ, như thế?
Các bạn thử giải thích giùm đi.
Làm sao có thể giải thích hiện tượng nghịch lý là: một mặt, người Việt Nam cười một cách dễ dàng, thậm chí, thừa thãi; mặt khác, lại tiết kiệm nụ cười đến độ có thể bị chê là “rude”, cục cằn và thô lỗ, như thế?
Một câu hỏi như thế có thể là một đề tài thú vị, cần nhiều công phu nghiên cứu và nhất định sẽ dẫn đến nhiều cách trả lời khác nhau.
Về phương diện ngôn ngữ, tôi chỉ xin lưu ý mấy điểm:
Thứ nhất, như nhiều người đã ghi nhận, tiếng Việt có thật nhiều từ và ngữ mô tả tiếng cười. Ít nhất là hơn 100.
Thứ hai, tất cả các từ và ngữ ấy đều có thể xếp vào hai loại: hình thức và ý nghĩa.
Căn cứ vào hình thức, nhằm mô tả các kiểu cười khác nhau, chúng ta có, đại loại:
Cười ầm, cười bò, cười bò lê bò càng, cười bỏng tai, cười cắm cắt (giọng cao), cười chúm chím, cười chuột rúc, cười đổ quán xiêu đình, cười đứt ruột, cười giòn, cười ha hả, cười hà hà, cười hả hê, cười hăng hắc, cười hắt hắt, cười hê hê, cười hề hề, cười hềnh hệch, cười hi hí, cười hì hì, cười híp mắt, cười hô hố, cười hở lợi, cười hở mười cái răng, cười hoa, cười khan, cười khanh khách, cười khèng khẹc, cười khì, cười khín (cười hùn), cười khúc khích, cười lăn, cười lăn chiên, cười mép, cười mím chi (miếng chi), cười nắc nẻ, cười ngất, cười ngặt nghẽo, cười ngỏn ngoẻn, cười lộn ruột, cười nhếch mép, cười nhoẻn, cười nôn ruột, cười nụ, cười nửa miệng, cười ồ, cười ỏn ẻn, cười phì, cười ra nước mắt, cười ré, cười rộ, cười rú, cười rũ, cười rũ rượi, cười rúc rích, cười rùm, cười sặc sụa, cười sằng sặc, cười té đái, cười the thé, cười thơn thớt, cười tít mắt, cười toe toét, cười tức bụng, cười tủm, cười tủm tỉm, cười vãi đái, cười vỡ bụng, cười xoà, cười tuồng, cười vang…
Căn cứ vào ý nghĩa hay động cơ của tiếng cười, chúng ta có:
Cười ba lơn, cười bả lả, cười ba ngoe (cười nịnh), cười bông phèng, cười buồn, cười cầu phong, cười cầu tài, cười chớt nhả, cười chua chát, cười cợt, cười dã lã, cười dê, cười duyên,cười đế, cười đểu, cười Đổng Trác, cười động cỡn, cười đú đởn, cười đón, cười đưa, cười gằn, cười góp, cười gượng, cười hợm (hĩnh), cười huề, cười khà, cười khảy, cười khê, cười khinh khỉnh, cười lẳng, cười lấy lòng, cười lén, cười lỏn lẻn, cười mát, cười mỉa, cười mơn, cười mũi,cười ngả ngớn, cười ngạo, cười ngạo nghễ, cười ngựa, cười nhả, cười nhả nhớt, cười nham nhở, cười nhăn nhở, cười nhạo, cười nhạt, cười nịnh, cười ruồi, cười thái sư, cười thâm, cười thầm, cười theo, cười tình, cười trâu, cười trây, cười trừ, cười xã giao, cười xí xóa,…
V.v…
Nhiều. Thật nhiều. Nhiều đến độ Nguyễn Tuân nghĩ “e phải làm từ vựng từ điển Việt Nam đến nơi rồi cho tiếng cười giàu có của chúng ta”.
Không những nhiều mà còn đa dạng.
Cũng theo Nguyễn Tuân: “Tổ tiên ta thiệt là những nghệ sĩ đã tạo hình cho tiếng cười Việt Nam, tạo cho tiếng cười bao nhiêu là bóng dáng, và có cả một cái gì như là biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười.” (Tuyển tập Nguyễn Tuân 2, Nguyễn Đăng Mạnh biên tập, nxb Văn Học, HN, 1982, tr. 393-4).
Thú thực tôi không biết trong các ngôn ngữ khác trên thế giới, có thứ tiếng nào có số lượng từ và ngữ mô tả tiếng cười phong phú và đa dạng đến như vậy hay không.
Tuy nhiên, bạn để ý mà xem, dù nhiều đến như vậy, trong tiếng Việt vẫn thiếu một thứ cười: Cười chào. Cười để chào.
Chúng ta cười để tán tỉnh nhau, để nịnh bợ nhau, để bày tỏ sự khinh bỉ hay căm ghét nhau…
Đủ thứ.
Và đủ kiểu.
Nhưng chúng ta lại thiếu một nụ cười chào nhau, nhất là ở những lần gặp gỡ đầu tiên. Nụ cười đi kèm hay thay cho một cái bắt tay, một câu “hello” hay “bon jour” thông thường. Và bình thường.
Một nụ cười không có ý nghĩa gì khác ngoài việc làm cho quan hệ giữa người và người trở thành thân thiện và ấm áp hơn.
Một nụ cười như thế, cần biết mấy, phải không bạn? Nguồn: VOA
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:58:41 GMT 9
Tính ồn ào lắm chuyện của người Việt-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Phạm Hy Sơn, Đàn Chim Việt 03.07.2009
Quả thật chúng ta lắm chuyện theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Khác với người Mỹ những nơi hội họp hay làm việc của họ thật yên lặng. Họ chăm chú làm việc hay lắng nghe người khác nói, không muốn nghe họ cũng giữ yên lặng để người khác nghe.
Nếu vào thư viện hay vào phòng mạch của các Bác sĩ Mỹ chúng ta thấy họ giữ yên lặng gần như tuyệt đối. Cần nói với nhau điều gì, người ta nói rất nhỏ đủ nghe để không làm phiền người khác. Còn người Việt chúng ta chỗ nào tụ tập độ năm, bảy người trở lên là ồn ào rồi.
Điều đáng ngạc nhiên là đến sở làm, đến những nơi người Mỹ làm việc phần lớn chúng ta biết giữ im lặng nhưng ở những cơ sở hay nơi làm việc của người Việt thì chúng ta lại theo thói quen cũ cười cười, nói nói rất huyên náo.
Tết Nguyên Đán năm 2006 cộng đồng người Việt ở chỗ tôi tổ chức Hội Chợ được ông Thị Trưỏng thành phố tới thăm. Ông đọc diễn văn chào mừng nhưng trên khán đài ông nói một thì ở dưới đồng bào nói mười, rất ồn ào chẳng ai thèm nghe, thèm biết ông ấy nói gì. Chúng ta quá ư vô ý và không một chút lịch sự với khách. Đến phần văn nghệ, nữ danh ca Mai Lệ Huyền có giọng hát mạnh và truyền cảm như vậy mà cũng không át được số khách dự đang huyên náo ở phía dưới.
Cái lắm chuyện thứ hai mới thực là lắm chuyện. Nó luôn luôn gây phiền toái cho người khác, đó là đi soi mói chuyện của người rồi đem loan truyền khắp nơi. Ở bên nhà công việc này dành cho những người rảnh rỗi chuyên đi “ngồi lê đôi mách”. Ra ngoại quốc dù làm ăn vất vả người ta vẫn không quên được cái tính ấy: thích nói và thích nghe chuyện xấu của người khác. Nhà này có đứa con hư hỏng sì ke ma túy, nhà kia vợ chồng xích mích... chỉ một thời gian ngắn mọi người trong sở đều biết, rồi mọi người trong thành phố đều biết.
Ai không có ưu điểm, khuyết điểm; nhà nào không có chuyện tốt chuyện xấu. Nếu chúng ta đem chuyện tốt đẹp, may mắn của người khác nói để nghe, để mừng cho nhau, để tìm cách học hỏi, bắt chước không nói làm gì nhưng lại lôi những điều bất hạnh, những điều xấu của người khác rồi thêm bớt loan truyền để dè bửu, đàm tiếu. Hình như chúng ta hẹp hòi, kém thông cảm nên thay vì chia xẻ, xót thương chúng ta lại vô tình nghiệt ngã đem ra phơi bày làm người ta thêm đau buồn, tủi hổ.
Ông cha chúng ta nói "đầu cầu nào không có con chó chết ", ngụ ý chẳng ai tốt đẹp hoàn toàn:
Chân mình dính đất bèm bèm, Lại đi đốt đuốc tìm xem chân người. (Ca dao)
Ngày nay đời sống khác đi nhưng không có nhà nào không có thùng rác mùi rất khó chịu phải đem đổ đi mỗi ngày!
Vì tính lắm chuyện của người mình, một số người Việt sợ ở gần hay giao tiếp với người Việt. Những người này một phần có lý nhưng một phần mắc cái tính thông thường sẵn có của chúng ta, đó là tính tự cao tự đại coi mình thuộc thành phần ưu tú, cao quý nên xa lánh nhóm người mà họ cho là ô hợp, thấp kém. Thế nhưng đôi khi giao tiếp với người quen họ lại đem nhà, đem xe, đem con cái, bằng cấp... ra khoe và không quên chê bai, đàm tiếu người khác hết lời. Tưởng sao, như vậy mèo vẫn hoàn mèo.
Cái "lắm chuyện" thứ ba mới thực đáng nói. Nó làm cho chúng ta tủi hổ khi cùng nhau sống ở xứ người và làm cho các sắc dân khác khinh bỉ, đánh giá thấp tất cả người Việt chúng ta. Hầu hết chúng ta đi lánh nạn với 2 bàn tay trắng: của cải, tiến bạc, học hành, kiến thức, địa vị... đều đã vứt bỏ khi đến xứ người. Người ít học cũng như người có học, dân cũng như quan, lính cũng như xếp của lính hầu hết đều kiếm những công việc lao động trong các nhà máy để làm lấy tiền sinh sống và nuôi gia đình. Nhưng ở nơi nào có đông công nhân người Việt là nơi ấy có những việc đáng buồn, đáng xấu hổ xẩy ra (chúng tôi không vơ đũa cả nắm vì có rất nhiều người có tư cách, có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau). Chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhỏ tất cả độ trên mười phần trăm. Cái thành phần đáng buồn này “xuất thân” thuộc đủ tầng lớp: không có học, có học; lính, quan; dân, quan... vẫn giữ nguyên tác phong cũ quen có ở bên nhà.
Nếu làm việc cho chủ Việt, những người này tìm mọi cách luồn lọt, xu nịnh và khi đã được chủ tin cậy thì tỏ ra hách dịch, phách lối. Ai chống đối hoặc không ưa ai họ tìm cách đặt diều, bịa chuyện để làm hại. Nếu làm cho chủ Mỹ họ tìm cách xum xoe biếu xén để mong sớm được vô permanent (vào ngạch, vào biên chế) hay được lên lương. Cách thức này hình như ít có hiệu qủa đối với cấp chi huy người Mỹ nên nhiều người tỏ ra cay cú khi không được thoả mãn. Nên một cách thức khác những người này hay dùng là đi tâu, đi báo, bịa chuyện hoặc nhận làm ăng ten chỉ điểm. Nhưng qua ý kiến chung thì chúng ta, nhất là các bà các cô, không nên sợ loại người này vì người Mỹ, và người Âu châu nói chung người ta không nhẹ dạ, cả tin như các ông chủ người Việt. Họ phải thu thập có đủ bằng chứng khách quan trước khi có quyết định.
Cái nạn gây gổ chửi bới, kéo bè kéo cánh trong sở làm cũng rất thường xẩy ra, nhất là cái nạn xô đẩy,giành giựt công việc của nhau (trong các ngàng làm màn cửa, may khoán, bóng đèn...) làm người ngoại quốc chê cười.
Như chúng tôi đã nói ở trên, loại người này không nhiều nhưng lại làm người ngoại quốc chú ý và làm mang tiếng người Việt chúng ta. Chúng tôi thử estimate (ước lượng) những con số sau đây:
- Hay nghe và đem chuyện của người khác ra nói (ngồi lê đôi mách): 8% (dân số) - Hay cãi cọ: 4% - Xu nịnh, luồn cúi: 2% - Kéo bè kéo cánh: 3% - Đâm bị thóc chọc bị gạo: 1%
Không biết đến bao giờ những người bà con của chúng ta mới trút bỏ được những cái cố tật đáng buồn này. Nguồn: Đàn Chim Việt
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:59:50 GMT 9
Trước một thực trạng rất đáng thất vọng
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Cùng chủ đề:1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Nguyễn Gia Kiểng
Cách đây một năm rưỡi tôi có viết một bài nhận định về tình trạng phong trào dân chủ (*). Bên cạnh những đồng tình đông đảo hơn nhiều, bài này đã nhận được một vài phản ứng gay gắt. Tôi đã không trả lời những phản ứng này bởi vì nói chung các tác giả không phản bác gì, họ chỉ tức giận vì tôi đã nói ra những điều mà họ nghĩ rằng không nên nói. Dần dần với thời gian, qua trao đổi riêng, phần đông, kể cả những người đã ủng hộ tôi, lại nhận định là bài viết đó chưa nói hết sự thực.
Một tổng kết về thành quả và thực lực của phong trào dân chủ được một vị giáo sư chính trị học mà tôi gặp tại Mỹ mùa hè vừa qua đưa ra qua một câu nói đùa: "bọn cộng sản nó đểu lắm, nó cứ đợi cho các anh chết đi là xong hết".
Nếu đảng cộng sản chỉ cần đợi cho những người đối lập dân chủ chết đi (ông này muốn nói là chết già) nghĩa là nó có thể đợi, phong trào dân chủ không làm gì được nó; nói cách khác lực lượng dân chủ không đáng kể. Và nếu những người dân chủ già chết đi là xong thì điều này có nghĩa là hàng ngũ dân chủ gồm phần lớn những người già và không có tiếp nối. Câu nói đùa mai mỉa của vị giáo sư này là cả một tổng kết bi đát.
Hai vị lãnh đạo của hai tổ chức chính trị quen biết với quá trình thành lập và sinh hoạt lâu dài nói với tôi rằng số thành viên của họ không còn nhiều và tuổi trung bình là trên 60. Họ thêm rằng dầu vậy đa số thành viên kỳ cựu của họ không chấp nhận kết hợp với một tổ chức khác. Các tổ chức dân chủ hải ngoại yếu, già nua và không được tuổi trẻ tiếp nối, phân tán và sẽ tiếp tục phân tán; nhiều tổ chức không còn cả khả năng đổi mới để tránh một sự đào thải chắc chắn. Tình hình phong trào dân chủ trong nước trên nhiều mặt còn khó khăn hơn. Lực lượng đã mỏng mà sự phân hoá, chống đối và bài xích lẫn nhau còn trầm trọng hơn. Nói rằng phong trào dân chủ Việt Nam yếu và đang ở trong tình trạng báo động là nói nhẹ. Một thực trạng như vậy đòi hỏi một xét lại toàn bộ về cả văn hoá lẫn phương pháp. Phong trào dân chủ cần được cứu nguy khẩn cấp. * Đã có nhiều phân tích về những nguyên nhân của tình trạng bi đát này. Những phân tích này cần được thường xuyên nhắc lại, nhưng chúng không phải là mục đích của bài này. Chỉ xin nhắc lại những điều cần thiết để giải thích những đề nghị sẽ được đưa ra.
Sự thiếu văn hoá tổ chức của người Việt Nam không còn là một bí mật. Nó khiến đại đa số chúng ta không thấy cần thiết phải tham gia một tổ chức và khi đã ở trong tổ chức thì luôn luôn thấy có nhiều lý do để ra đi hơn là ở lại. Nó cũng khiến người ta không ngần ngại phá hoại một tổ chức mà chính mình cũng đã đóng góp tạo dựng, hy sinh cả những tình bạn lâu năm. Khuyết tật này có trong mọi dân tộc nhưng ở người Việt Nam nó đạt tới một mức độ kinh khủng. Nó thể hiện trong mọi thành phần xã hội, kể cả thành phần học thức cao, và trong mọi tổ chức, dù là các tổ chức chính trị hay các tổ chức từ thiện, ái hữu. Điều đáng để ý là khuyết tật này được mọi người Việt Nam nhìn nhận nhưng hầu như không ai lấy làm xấu hổ và thấy cần khắc phục.
Chúng ta thường nhấn mạnh và tự hào là có bốn nghìn năm văn hiến và một lịch sử giữ nước oai hùng mà quên rằng xã hội truyền thống của chúng ta là một xã hội nô lệ và đến nay dưới một số góc nhìn xã hội ta vẫn còn hình dáng của một xã hội nô lệ. Một đặc tính chung của những tập thể nô lệ là người ta không quý trọng nhau và không kết hợp được với nhau. Chúng ta mang nặng di căn nô lệ, trong khi kết hợp với nhau để thay đổi xã hội chỉ có thể là phản xạ của những con người tự do. Ngoài ra văn hoá Khổng Giáo còn để lại cho chúng ta một căn bệnh tổ tông truyền: bệnh háo danh (đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông - Nguyễn Công Trứ). Sự khao khát một "danh gì" có thể khiến một người Việt Nam làm những cố gắng rất phi thường để có được một chút tiếng tăm hão huyền cho mình, trong khi không chấp nhận những hy sinh nhỏ để xây dựng một tổ chức có khả năng làm những thay đổi lớn.
Ngoài ra người Việt Nam còn có tập quán không đến với nhau bằng căn cước thực. Mọi người cố gắng tỏ ra tài giỏi hơn, dũng cảm hơn, lương thiện hơn hẳn con người thực của mình và đòi được đánh giá như thế. Căn cước không thực này không cho phép sinh hoạt lâu dài trong một tổ chức bởi vì với thời gian và qua sự gần gũi con người thực tự nhiên hiện ra. Một sản phẩm của tập quán này là cách hoạt động chính trị nhân sĩ, tìm kiếm sự hưởng ứng của những người không biết con người thực của mình. Nền tảng của nó là một sự mâu thuẫn: muốn người ta biết đến mình nhưng lại sợ người ta biết rõ mình.
Không thể xây dựng một căn nhà tốt với những viên gạch mục. Chúng ta cần một thay đổi văn hoá lớn để trút bỏ di sản năng nề, để trở thành những con người tự do, dám có những dự án lớn và dám đảm nhiệm căn cước thực của mình nếu muốn hình thành với nhau những kết hợp lớn. Tuổi trẻ không tiếp nối có thể vì họ không có lý do để đánh giá cao những người đi trước. * Nhưng giả thử chúng vượt qua được những trở ngại tâm lý và văn hoá này thì vẫn còn những kiến thức khách quan và kỹ thuật về đấu tranh chính trị cần phải nắm vững. Những kiến thức này đã được trình bày rất đầy đủ trong nhiều tài liệu nghiên cứu và được kiểm chứng qua lịch sử của mọi quốc gia cũng như trong sinh hoạt chính trị thế giới. Một điều bí ẩn là tại sao những người hoạt động chính trị Việt Nam vẫn không biết đến và cứ tiếp tục luẩn quẩn trong những ngộ nhận lớn. (**)
Ngộ nhận thứ nhất là nghĩ rằng một tổ chức chính trị, hay chính đảng, không cần lý thuyết, không cần một tư tưởng chính trị, trong khi một chính đảng chỉ có lý do hiện hữu và chỉ có thể tồn tại nếu là sự thể hiện của một chủ thuyết nào đó, chủ thuyết hiểu theo nghĩa một cách diễn giải cho những khái niệm lớn – như con người, xã hội, tự do, dân chủ, bình đẳng, liên đới v.v., một cách nhìn thế giới và đất nước, một lập trường về phát triển, một định nghĩa của tiến bộ v.v. Tất cả đều phải gắn bó với nhau trong một toàn bộ kiên kết (coherent) của một tư tưởng chính trị, và chỉ có thể là thành quả của những cố gắng nghiên cứu và suy tư lớn. Chủ thuyết đó (cứ tạm dùng một từ ngữ dễ gây dị ứng) cho phép tổ chức thích nghi với tình thế mà không chối bỏ chính mình, nó khiến những thay đổi chiến thuật không có dáng dấp của một sự phản bội. Nó cũng đem lại ý nghĩa và thế giá cho đấu tranh chính trị, để hoạt động chính trị không rơi vào sự nhảm nhí. Bề ngoài đấu tranh chính trị là tranh giành quyền lực, nghĩa là hoặc để giành được chính quyền hoặc ít nhất một địa vị có ảnh hưởng trong sinh hoạt chính trị. Nhưng sự tôn sùng và tìm kiếm quyền lực vì quyền lực chỉ là một bản năng sơ đẳng còn sót lại trong quá trình tiến hoá từ vượn lên người, qua nô lệ. Tự nó quyền lực chẳng có ý nghĩa gì. Có những điều quan trọng và đáng tìm kiếm hơn nhiều, như tình yêu, tự do, lẽ phải, sự hiểu biết, bàn tay đưa ra cho những người thiếu may mắn v.v. Quyền lực chỉ có ý nghĩa nếu là một phương tiện để thực hiện một dự án thông mịnh và quảng đại. Người ta không thể xây dựng một tổ chức chính trị trên một lập trường tiêu cực, dù là để chống lại những gì phải chống, như độc tài, tham nhũng, áp bức. Ngộ nhận này đưa đến sự thành hình của những tổ chức chỉ để hành động và chỉ có những con người hành động. Nhưng hành động cái gì và như thế nào khi không biết phải làm gì và không hiểu cái tại sao của những việc mình đang làm? Những tổ chức này dĩ nhiên không có triển vọng mà chỉ làm phí uổng những sinh lực và thiện chí quí báu.
Ngộ nhận thứ hai là cho rằng một tổ chức có thể thành lập một cách nhanh chóng. Trong lịch sử thế giới chưa có tổ chức chính trị nào thành công chỉ sau một vài năm thành lập. Ngộ nhận này là hậu quả của sự quan sát hời hợt các biến cố lịch sử. Người ta thấy có những phong trào bùng lên và nhanh chóng giành được thắng lợi mà không biết rằng đó chỉ là giai đoạn cuối của một cố gắng kiên trì từ nhiều năm trước đó. Một tổ chức chính trị có tầm vóc chỉ có thể là thành quả của những cố gắng kiên trì trong nhiều thập niên. Ngộ nhận này đã đưa đến sự ra đời vội vã của nhiều tổ chức đột xuất kiểu mì ăn liền, hay fast food, trong những giai đoạn sôi động. Hậu quả chỉ là sự phân tán lực lượng dân chủ, đánh lạc hướng sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm túc, và làm lỡ cơ hội. Một tổ chức chính trị đúng nghĩa phải được thành lập với tham vọng thực hiện một dự án quốc gia và phải có hành trang tư tưởng và nhân sự để cầm quyền.
Ngộ nhận thứ ba là về các liên minh chính trị. Một sự kiện nổi bật là từ hơn 35 năm qua đã có rất nhiều liên minh chính trị giữa các tổ chức và cá nhân. Các liên minh này đều giống nhau ở một điểm: chúng đều thất bại một cách nhạt nhẽo, nhiều khi còn gây hiềm khích giũa các tổ chức thành viên. Đây là một công thức phải dứt khoát từ bỏ. Tại sao? Lý do là vì vấn đề liên minh chỉ đặt ra giữa những tổ chức lớn, trong khi cho tới nay chưa có một tổ chức dân chủ nào đủ tầm vóc để có tư cách tham gia một liên minh cả. Các liên minh vì vậy không khác gì những cuộc tảo hôn. Chúng thường được coi như là một giải pháp cho tình trạng phân tán lực lượng, trên thực tế chúng có tác dụng ngược lại. Chúng khuyến khích sự thành lập những tổ chức không có thực chất chỉ ra đời để tham gia một liên minh. Vấn đề trước mắt là phải xây dựng ra một, hoặc một vài, tổ chức có tầm vóc. * Tóm lược nào cũng thiếu sót nhưng cuộc vận động dân chủ có thể tóm lược như sau: một bên là chính quyền cộng sản cố gắng thuyết phục người dân rằng không cần phải thay đổi chế độ, mỗi người có thể tìm cách để thành công, nghĩa là ít nhất có thể trở thành giầu có và thoải mái, trong khuôn khổ chế độ này; một bên là đối lập dân chủ cố gắng thuyết phục dân chúng rằng không thể có giải đáp cá nhân cho những vấn đề cá nhân mà phải có một giải đáp chung cho cả xã hội, nghĩa là phải thay đổi chế độ độc tài này bằng một chế độ dân chủ. Một bên khuyến khích chủ nghĩa luồn lách, một bên hô hào kết hợp đấu tranh thay đổi xã hội. Đây là một cuộc chiến tranh động viên.
Cuộc đấu tranh này không cân xứng vì chính quyền cộng sản vừa có phương tiện để khuyến khích chủ nghĩa luồn lách vừa có bạo lực để đàn áp những kết hợp phản kháng. Muốn thắng cuộc chiến tranh này chính nghĩa không đủ, chúng ta cũng cần hiểu những điều kiện để một cuộc vận động quần chúng thành công. Kẻ viết bài này đã từng phân tích những điều kiện này. Một trong những điều kiện bắt buộc là phải có một tổ chức đủ mạnh để lãnh đạo cuộc đấu tranh và để tạo niềm tin vào thắng lợi. Phải động viên quần chúng, nhưng không thể động viên quần chúng nếu không có một tổ chức mạnh. Kết luận dứt khoát phải rút ra là nếu không có ít nhất một tổ chức dân chủ mạnh thì chế độ độc tài này sẽ còn tồn tại dù nó có phân hoá và chao đảo đến đâu đi nữa, và mọi cố gắng và hy sinh sẽ đều vô ích.
Kết luận này có một số hệ luận:
- Một là, mọi hành động phải được đánh giá trên tiêu chuẩn chúng đóng góp gì cho việc xây dựng một lực lượng dân chủ mạnh, tất cả những tác dụng khác đều không quan trọng;
- Hai là phải thẳng thắn vứt bỏ lối làm chính trị nhân sĩ, nghĩa là đấu tranh cho dân chủ với tư cách cá nhân, các nhân sĩ thể hiện chủ nghĩa luồn lách trong hoạt động chính trị, trong khi chủ nghĩa luồn lách chính là điều mà chính quyền cộng sản khuyến khích và đối lập dân chủ phải chống;
- Ba là phải tập trung yểm trợ những tổ chức có tiềm năng, không khuyến khích, không tốn thì giờ và sinh lực cho những tổ chức đột xuất hoặc những tổ chức đã chứng tỏ sự cằn cỗi.
Chỉ cần suy nghĩ bình tĩnh một chút thôi thì kết luận này và những hệ luận của nó là hiển nhiên. Sở dĩ những sai lầm cứ tiếp tục và dẫn tới tình trạng đáng buồn hiện nay là vì một đặc tính rất lan tràn của trí thức Việt Nam: kết luận trước khi lý luận. Kết luận theo những gì mình muốn rồi dùng lý luận để biện hộ cho một kết luận đến từ cảm tính, thành kiến và sự thèm muốn. Chúng ta không thể là một dân tộc lớn nếu không bỏ được tập quán này. Chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ và không còn thời giờ để mất. * Cuối năm là thời điểm tự nhiên để kiểm điểm, nhưng cũng đã đến lúc những người dân chủ bắt buộc phải tổng kết tình trạng của cuộc đấu tranh dân chủ.
Tình trạng không khả quan. Không phải chỉ có vị giáo sư chính trị học nói trên mà rất nhiều người trong và ngoài nước cũng chia sẻ cái nhìn bi quan này về lực lượng dân chủ. Chưa kể là một tác viên quan trọng khác cũng đã xuất hiện và ngày càng chiếm vai trò áp đảo: đồng tiền, vừa là đồng minh vừa là vũ khí của đảng cộng sản. Chưa kể là thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng lớn, các chính quyền dân chủ và dư luận thế giới đang tập trung quan tâm vào những khó khăn kinh tế. Tình trạng khẩn trương này buộc những người dân chủ tự hỏi phải làm gì, nhưng nó cũng đặt ra cho mỗi người một câu hỏi nghiêm trọng hơn nhiều: chúng ta có thực sự yêu nước Việt Nam không?
Nếu câu trả lời là "có" thì hệ luận phải rút ra là bắt buộc phải thay đổi chế độ này bằng một chế độ dân chủ, nếu không thì Việt Nam không có tương lai nào và cũng không thể tồn tại. Trong thế giới toàn cầu hoá ngày nay một trong những khái niệm bị xét lại gay gắt nhất chính là khái niệm quốc gia. Sau cuộc chuyển hoá này sẽ chỉ còn lại những quốc gia thành công, đem lại sự sung túc và niềm hãnh diện cho người dân và được quan niệm như là một không gian liên đới của những con người tự do cùng chấp nhận xây dựng và chia sẻ với nhau một tương lai chung. Không thể có một nước Việt Nam như thế với chế độ này. Trong vô số lý do chỉ cần nêu hai lý do trên đó cả đối lập dân chủ lẫn những người lãnh đạo cộng sản đều đồng ý: tham nhũng và tụt hậu. Tham nhũng là quốc nạn đang kéo đất nước xuống vực thẳm, nhưng cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm của mọi quốc gia đều chứng tỏ không thể có trường hợp một chính quyền tham nhũng tự cải tiến để hết tham nhũng, thậm chí để bớt tham nhũng, giải pháp cho tham nhũng chỉ giản dị là phải thay thế một chính quyền tham nhũng bằng một chính quyền khác. Còn nguy cơ tụt hậu? Ý kiến và sáng kiến là những yếu tố quyết định mức độ tiến bộ, chỗ đứng và sự vinh nhục của mỗi dân tộc trong kỷ nguyên tri thức này, nhưng ý kiến và sáng kiến chỉ phát sinh và nẩy nở nơi những con người tự do, trong những xã hôi dân chủ. Và cũng đừng quên rằng trong khi chúng ta thảo luận thì môi trường Việt Nam đang bị huỷ hoại một cách nhanh chóng. Khi đất nước đã cằn cỗi đến độ không còn sinh sống được nữa thì cũng không còn gì để nói. Phải thay đổi chế độ để đất nước có thể tồn tại. Cuộc đấu tranh dân chủ hoá cũng là cuộc đấu tranh cứu nước.
Nếu câu trả lời là "có".
Một chữ NẾU quá lớn bởi vì những người Việt Nam yêu nước thực ra không còn nhiều. Đó là thành tích lớn nhất của đảng cộng sản. Đó lại càng là lý do để những người dân chủ và yêu nước thực sự nhận nhau là chí hữu, là anh em, và đừng mất thì giờ và công sức cho những manh động phù phiếm. Chúng ta ít nhưng chúng ta có thể kết hợp để có sức mạnh vì chúng ta có những mục tiêu đúng gắn bó chúng ta. Sức mạnh của cuộc vận động dân chủ cũng là ở chỗ không ai có nhu cầu và lý do chính đáng để lo sợ và thù ghét nó cả. Và còn cả một khối hơn 80 triệu người Việt đang chờ đợi lý do để tin và để được động viên. * Vả lại tình trạng của cuộc vận động dân chủ tuy bi đát nhưng không tuyệt vọng. Vấn đề xét cho cùng chỉ là quyết tâm và phương pháp. Bối cảnh thế giới có thể còn thuận lợi hơn trước nếu chúng ta biết vận dụng. Trái với một vài nhận xét, cuộc khủng kinh tế hiện nay gây khốn đốn nhiều nhất cho các nước dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Nó là cuộc khủng hoảng do những cán cân mậu dịch mất thăng bằng, có những nước xuất khẩu nhiều và tiêu thụ ít trong khi những nước khác ngược lại tiêu thụ nhiều và sản xuất ít. Nó sẽ phải được điều chỉnh lại theo chiều hướng giảm bớt nhập khẩu tại các nước phương Tây. Khi thị trường trở thành khó khăn thì kẻ bán điêu đứng hơn người mua. Trung Quốc, và nhất là Việt Nam, sẽ còn lệ thuộc hơn nữa vào các nước dân chủ phát triển và còn phải nể nang dư luận thế giới hơn trước đây. Hậu thuẫn quốc tế sẽ rất có hiệu lực, dĩ nhiên nếu đối lập dân chủ Việt Nam biết vận dụng một cách nghiêm chỉnh và thông minh.
Một trong những điều kiện cốt lõi để giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh động viên là khối người bị ức hiếp nhận diện ra được một thành phần xã hội khác như là nguyên nhân của những thua thiệt của họ. Thí dụ: sau Thế Chiến II Đảng Cộng Sản đã động viên được quần chúng nhờ tạo ra được ý thức một giai cấp bần cố nông bị giai cấp địa chủ bóc lột. Chúng ta đang thấy gì?
Đặc tính của mọi đảng cộng sản, ở mọi quốc gia, là sau khi đã cướp được chính quyền chúng dần dần biến thành một giai cấp bóc lột và không còn là những chính đảng đúng nghĩa. Không thể khác vì triết lý chính quyền của các đảng cộng sản là giai cấp thống trị đương nhiên phải bóc lột giai cấp bị trị. (Nên nhớ Marx không hề coi việc giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản là một tội ác, ông coi đó là một điều tự nhiên, cũng tự nhiên như việc giai cấp vô sản phải tiêu diệt giai cấp tư sản). Đó là điều đang xẩy ra tại Trung Quốc. Với hơn 70 triệu đảng viên, bằng dân số của một nước lớn, đảng Cộng Sản Trung Quốc không còn là một đảng mà là một giai cấp. Đó cũng là điều đang xẩy ra tại Việt Nam, với gần 8 triệu đảng viên và đoàn viên Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng không còn là một chính đảng mà đã trở thành một giai cấp. Sự nhận diện một gia cấp bóc lột, một điều kiện cốt lõi để động viên quần chúng, đã có. Mặt khác, trở thành một giai cấp có nghĩa là đảng cộng sản không còn chiến đấu tính của một chính đảng. Một giai cấp không có khả năng đoàn kết chiến đấu, dù là để tự vệ. Phong trào dân chủ sẽ thắng nếu có đội ngũ. Đảng cộng sản cũng biết như vậy cho nên họ sợ và đàn áp trước hết các mưu toan thành lập tổ chức. Tuy vậy với những phương tiện giao thông và truyền thông hiện nay một lực lượng dân chủ có tổ chức vẫn thành lập được với điều kiện là những người dân chủ làm đúng những điều cần làm và làm có phương pháp. Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một thay đổi chế độ rồi; họ không đứng dậy chỉ vì họ không nhìn thấy một tổ chức đủ tầm vóc và uy tín để lãnh đạo họ và đem lại cho họ niềm tin ở thắng lợi. Một tổ chức như vậy chắc chắn sẽ nhanh chóng tranh thủ được quần chúng và buộc đảng cộng sản phải nhượng bộ. Lúc đó ngay trong nội bộ đảng cộng sản cũng sẽ có rất nhiều người nhận ra rằng nên đối thoại để tìm một lộ trình dân chủ hoá chấp nhận được cho mọi người thay vì ngoan cố trong một cuộc đối đầu tuyệt vọng về lâu về dài, nhất là nếu trước mặt họ là một lực lượng luôn luôn mở cửa cho đối thoại và không nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai mà chỉ nhắm dân chủ hoá đất nước.
Ban lãnh đạo cộng sản sẽ không có chọn lựa nào khác nếu họ thấy là quần chúng có thể động viên được. Họ càng phải khiêm tốn khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra ngày càng chứng tỏ rằng chạy theo mô thức Trung Quốc là một sai lầm lớn, và khi cái thành tích tăng trưởng kinh tế bẩy, tám phần trăm mỗi năm đã tiêu tan.
Cần nhấn mạnh một lần nữa là một giai cấp không có chiến đấu tính. Đảng công sản ngày nay với tám triệu đảng viên và thành viên và hàng chục tỷ đô-la là một giai cấp và yếu hơn đảng cộng sản năm 1945 với vài trăm cán bộ và những ruột tượng gạo. Quyền lợi và lòng tham chưa bao giờ là keo sơn gắn bó những con người. Nghĩ rằng các đảng viên cộng sản và thành phần tư sản đỏ sẽ gắn bó với nhau vì quyền lợi là một nhận định ấu trĩ. Đồng tiền là một đồng minh dối trá và phản trắc, và cũng có thể là thuốc độc. Chế độ này không mạnh, nó còn tồn tại và ngoan cố chỉ vì đối lập dân chủ quá yếu, và đối lập dân chủ yếu chỉ vì không đấu tranh đúng phương pháp. Tình trạng rất đáng thất vọng hiện nay không thể làm ta quên là triển vọng thành công của cuộc vận động dân chủ rất lớn.
Ước gì năm mới sẽ là khởi điểm của một cách suy nghĩ và hành động mới.
Nguyễn Gia Kiểng
Chú thích : (*) Xem: Nguyễn Gia Kiểng, “Thời điểm của một xét lại bắt buộc” (Thông Luận số 215, tháng 6-2007). (**) Tôi có đúc kết những nghiên cứu này trong một số bài viết: - “Chọn lựa giữa vận động quần chúng và chính trị xa lông ?” (Thông Luận số 213, tháng 4-2007). - “Kịch bản nào cho cuộc cờ này ?” (Thông Luận số 216, tháng 7-2007). - “Giải quyết khủng hoảng căn cước để ra khỏi bế tắc chính trị” (Thông Luận số 226, tháng 6-2008). - “Phải xét lại những gì và như thế nào?” (Thông Luận số 219, tháng 11-2007). - “Cuộc chiến đấu thực sự” (Thông Luận số 192, tháng 5-2005).
Nguồn: Thông Luận
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 9:01:11 GMT 9
Hám lợi...-------------------------------------------------------------------------------- Chính trị - xã hội Người việt xấu xí "Hám lợi " - 2 từ này gợi lên bao suy nghĩ lan man, lẩn thẩn...
Dạo này, xung quanh mình, người ta hám lợi hơi bị nhiều. Khi xưa đâu có nhiều như thế, mức độ cũng đâu đến nỗi táng tận lương tâm như thế. Làm gì người ta cũng còn nghĩ đến tha nhân đôi chút, chí ít thì cũng nhìn quanh xem việc mình làm có phương hại đến ai không. Bi giờ, nghĩ như thế có vẻ lạc hậu, không "pờ-rồ" gì cả. Phải làm như những người đang lái con tàu đất nước - đạt mục đích bằng mọi cách, mọi giá, dù phải đạp trên tất cả - mới ra dáng xì-tai, mới có cảm giác rất Yo! Chỉ có cá nhân và lý tưởng ([tức là] cái cứ tưởng là có lý í) còn mọi thứ chả là cái đinh gì, kể cả luân thường, đạo lý, nhân văn, nhân bản, tín ngưỡng, nguồn cội, tổ tiên hay quê hương, dân tộc...
Hôm rồi, bà chị mình bị đau bụng vào một trung tâm Y khoa, có thể gọi là đầu ngành mà mình rất tin tưởng, vì các bác sĩ ở đây phần lớn đang giảng dạy trong trường Y, đào tạo các bác sĩ tương lai. Bác sĩ ký vào y bạ: mổ, cắt túi mật. Bà chị hỏi ý kiến mình, mình phán chắc như đinh đóng cột:
- "Bác sĩ bảo mổ thì mổ chứ sao!"
Nghĩ sao đó mà bà chị mình đem hồ sơ đến hỏi nhỏ em chồng mình - một bác sĩ khá giỏi, nó bảo:
- "Không cần thiết phải mổ vì sạn nhỏ xíu thôi, đau là do bao tử, chỉ cần uống thuốc là đủ, bao giờ sạn lớn gây hại mới cần mổ."
Thấy lạ, mình hỏi nó:
- "Vậy là sao?"
Nó cười:
- "Mấy ông bác sĩ phẫu thuật cứ mổ là có tiền, nên cứ có bệnh là cho mổ dù không cần thiết, vì thế ông nào cũng giàu lắm, ngoài tiền công mổ còn có phong bì cám ơn của bệnh nhân nữa - phong bì có khi tới vài triệu lận đó, bét nhất cũng 5-700 ngàn, vì ai cũng nghĩ ổng đã cứu sống mình!"
Mình rụng rời:
- "Trời! Mấy ổng chỉ vì một vài triệu đồng mà nỡ làm như thế sao? Không cần biết đến an nguy của người ta sao? Lỡ người ta nghèo, việc lo số tiền đó gây cho người ta biết bao đau khổ thì sao? Chưa kể đến sự lo lắng của cả gia đình người ta khi nghe đến việc người thân phải bị phẫu thuật. Tàn nhẫn quá!"
Sau đó, nó còn kể nhiều vụ việc của cái Bệnh Viện đầu ngành toàn những giáo sư bác sĩ này đại loại như:
- "Đừng nghĩ bệnh viện đó là tốt, hôm trước em có việc qua đó, thấy phòng nội soi dạ dày làm trên 60 ca/ ngày. Em tính ra thời gian sát trùng dụng cụ chưa đủ. Đó là chưa kể đến việc bao lâu thì họ thay thuốc sát trùng một lần, bởi vì mỗi lần thay thuốc tốn cả mấy triệu đồng."
Mình thắc mắc:
- "Vậy lây bệnh tùm lum thì sao? Sai nguyên tắc mà không lẽ không biết?"
Nó nhăn nhăn mũi:
- "Người ta biết chứ, nhưng vẫn làm, có lẽ do bệnh nhân đông quá cũng có thể do chỉ đạo từ cấp trên vì chạy theo lợi nhuận"
Nghĩ đến việc mỗi 6 tháng lại đi nội soi dạ dày một lần của mình mà khiếp đảm. Cũng chỉ bị đau bao tử thôi, nhưng vì đau lâu rồi nên sợ ung thư mà phải đi nội soi định kỳ. Nếu Bệnh viện làm ăn kiểu này, tuy không bị ung thư nhưng có vài con chôm chôm chui vào máu thông qua cái dụng cụ ấy thì cũng đi toong. May mà tôi có nhỏ em làm bác sĩ để tư vấn & nhờ gởi gắm. Còn bao nhiêu người khác không có may mắn đó thì sao?
Rồi lại nghĩ, đó là bênh viện đầu ngành ở một thành phố lớn nhất nước do những con người đáng kính làm chủ - những nơi khác kém văn minh hơn, ở tận vùng sâu vùng xa hơn thì sao?
Có vẻ "chết do thiếu hiểu biết" hơi bị nhiều, nhỉ? Thế mà dân ta vẫn còn đông mới lạ.
Đó là về một ngành cao quý. Còn một ngành cao quý tương đương là "kỹ sư tâm hồn" thì sao?
Bản thân cái từ này đã cho thấy sự vô cảm. "Kỹ sư tâm hồn" là thế nào? Mấy ông kỹ sư thường làm những công việc rất cụ thể, có thể cân đo đong đếm, vo tròn bóp méo, tính toán chi li sản phẩm của mình. Rủi có chế tạo ra sản phẩm lỗi thì sửa, sửa không được thì đem huỷ là xong. Với con người mà tạo ra sản phẩm lỗi hàng loạt kiểu đó thì có mà tàn lụi cả một dân tộc.
Có lẽ vì quan niệm như vậy nên chẳng coi giáo dục con người là cốt lõi. Chỉ chú trọng tạo ra những cái máy vô cảm. Những cỗ máy ấy lại tiếp tục dạy dỗ những mầm non. Than ôi! Bao nhiêu là thế hệ bị lỗi hệ thống, hỏng mainboard, chập IC theo cái chính sách cải cách giáo dục quái gở ấy!
Đọc bài về cháu bé bị thầy cô trù dập ở trường Hai Bà Trưng Q3 trong blog của Tạ Phong Tần lại nhớ đến cảnh con mình mấy năm trước. Chỉ vì muốn hù dọa để các em nhỏ sợ phải đi học thêm mà thầy cô làm những điều bất nhân. Năm ấy, nếu cô giáo ấy không phải là bạn cũ của mình thì ra sao nhỉ? Với một đứa bé lớp 3 làm mất vở báo bài (chỉ là quyển vở do nhà trường in dùng để ghi những bài ngày mai phải học, không có thì ghi vào vở khác cũng được, có gì quan trọng đâu) đến nỗi hạ nhân phẩm một đứa trẻ với hình phạt ngồi học dưới đất, trong góc lớp, không có bàn ghế cả một tuần để trừng phạt. Dạy trên lớp chỉ chia một chữ số nhưng bắt các học sinh không đi học thêm ở nhà cô lên bảng chia 2 chữ số. Trước đó thì đập bàn hỏi "em nào chưa biết làm phép chia?" - dĩ nhiên một đứa trẻ khá thông minh đã biết làu làu chia một chữ số đâu giơ tay làm gì. Thế là bì quỳ gối cả buổi vì nói dối, vì chậm phát triển. Kết quả là đứa bé bị bạn bè trêu chọc đến nỗi không dám đến trường, lúc nào cũng u uất, sợ hãi. Khi truy ra nguyên nhân mình tức giận đến nỗi quyết định làm cho ra lẽ rồi xin chuyển trường cho con. Sau khi la lối với hiệu trưởng về tác phong phản giáo dục ấy thì cô giáo được mời lên làm việc. Gặp nhau mới ngỡ ngàng làm sao! Cô giáo ấy là một người bạn cũ hiền lành, rất ngoan đạo, biết "kính Chúa - yêu người" khi xưa của mình. Thời gian và sự nhào nặn của nghề nghiệp đã xoá mờ hết những điều tốt đẹp trong con người ta dễ dàng đến thế ư? Còn hơn nhát dao đâm vào tim mình khi chứng kiến một tình bạn giãy chết, khi nhìn sự trơ tráo của bạn mà nghẹn ngào. Chao ôi!
Con mình sau đó được "phục hồi nhân phẩm", được cô yêu thì sẽ được bạn mến nên chẳng bị làm sao ở ngay chính ngôi trường mà nó từng sợ hãi. Thử tượng tượng, nếu cô giáo ấy không từng là bạn mình , nếu con mình liên tiếp bị trù dập kiểu đó mà không trở nên trầm uất, chậm phát triển, thì chắc phải là một hiện tượng lạ kỳ, một loại thần kinh thép. May cho tôi và con tôi nhưng còn bao nhiêu đứa trẻ không gặp may như thế? Để thay vì có thể trở thành một người hữu ích lại trở thành kẻ chẳng ra gì làm gánh nặng cho gia đình và xã hội chỉ vì cái sự "hám lợi" của chính các "kỹ sư tâm hồn"?
Và vì thế tôi phải uốn mình theo vòng xoáy của xã hội nếu muốn cho con tôi hoà nhập vào đó. Tôi phải bán rẻ lương tâm đi đôi chút để sống không lạc loài hoặc bị văng ra khỏi xã hội đó. Wow, bỗng thấy mình mềm oặt như con giun dưới chân ai đó...
Biết bao nhiêu cách để thoả cái sự hám lợi mà sao người ta cứ phải trở thành bất nhân để có được chút lợi lộc cỏn con thế nhỉ? Sự tha hoá nảy sinh từ trong trứng, trong cái nguyên lý cơ bản của hệ thống giáo dục nhân sinh quan, rồi lại được hun đúc, khuyến khích phát triển theo thời gian làm vật hoá con người. Mọi khuôn mẫu làm thước đo giá trị đạo đức bị đảo lộn hết cả trách gì người ta không tránh khỏi cái bản ngã xấu xa thúc dục làm những việc đê hèn.
Buồn quá!
Hiện nay phong trào du học trở thành mode thời thượng. Người ta cho con đi du học có khi từ cấp tiểu học, trễ hơn thì trung học, phổ biến là đại học. Bao nhiêu là ngoại tệ ki cóp chảy ra khỏi đất nước vốn đã nghèo càng nghèo hơn, bao nhiêu nam thanh nữ tú-rường cột quốc gia lũ lượt ra đi - Cứ y như tráng sĩ Kinh Kha vượt sông Dịch chẳng hẹn ngày về. Cái xu hướng này có phải là do người ta chạy trốn cái nền giáo dục "đỉnh cao trí tuệ" kia không nhỉ?
Bây giờ người ta hay nói đến cụm từ "tị nạn văn hoá"! Sao lại là "tị nạn văn hoá"? Phong trào du học bị đẩy lên, rồi bị khoác cho cái cụm từ ko biết là hoa mỹ hay xấu xa: "tị nạn văn hoá". Có thể tị nạn văn hoá được ư? Mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng đặc thù cho dân tộc đó. Nếu chối bỏ cái văn hoá đã tạo nên con người của mình, tạo nên cái hồn của mình thì không thể là mình nữa rồi. Văn hoá có phải cái áo đâu mà dễ dàng thay đổi? Văn hoá cũng chẳng phải ngục tù gông xiềng để phải tị nạn? Người ta cũng nói cụm từ "trình độ văn hoá". Nếu vậy thì phải có người nhiều văn hoá và người ít văn hoá hơn. Người ta cũng khen anh này "có văn hoá", chê kẻ kia "thiếu văn hoá". Lạ thật. Văn hoá mà cũng có thể cân đo đong đếm nữa cơ đấy! Còn có cả "khu phố văn hoá" và "gia đình văn hoá" nữa mới lạ.
Cái cơ sự đưa những người dốt nát nhưng dễ bảo làm thầy người khác đã làm đảo lộn mọi thứ, nhầm lẫn, đánh tráo khái niệm lung tung cả. Việc chấn hưng giáo dục còn mù xa, diệu vợi. Không chừng đến lúc có thể được chấn hưng thì những người tâm huyết, giỏi giang đã ra thiên cổ, còn đám hậu sinh ngơ ngơ ngáo ngáo vẫn cứ thấy "tình hình còn rất tình hình, tâm trạng rất đỗi tâm trạng, nói chung tồn tại nhiều bất cập, khuất tất..." Chán ốm cả lên!
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 9:02:32 GMT 9
KỲ THỊ ĐỊA PHƯƠNG – bóng ma ám ảnh hay thực trạng đáng buồn? (III)
-------------------------------------------------------------------------------- Người việt xấu xí Cùng chủ đề:1 2 3 TracTreo
Trước đây, tại SG, có một nhắc nhở khá quen thuộc, trong bất cứ cuộc trò chuyện nào, nếu không muốn nổ ra tranh cãi căng thẳng, đừng đề cập tới ba vấn đề sau : tôn giáo, chính trị và địa phương vùng miền. Mặc nhiên coi đó là những lò thuốc súng sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào. Rõ ràng là, hình như không có ai phản bác ý kiến đó, mọi người thừa nhận ba lãnh vực đó là vô cùng nhạy cảm, dễ bất đồng đưa tới tranh cãi và mạ lỵ nhau vô phương cứu chữa.
Thời thanh niên, hai lãnh vực đầu, tôi coi như...pha. Khuynh hướng chính trị lúc đó của tôi có lẽ thuộc phái vô chính phủ, tôi coi thường những ước thúc ràng buộc tự do công dân trong mọi xã hội. Make Love Not War, khẩu hiệu lừng lẫy của phong trào Hippy luôn luôn là một thứ không kém hấp dẫn dưới mắt tôi. Dù không thực thụ là một Hippy, nhưng có thể nói tôi rất có cảm tình với nó, cánh hoa Hippy có lẽ là một bông hoa vừa phi thực lại vừa hiện thực, lúc nào cũng nở thơm ngát trong lòng tôi.
Tôn giáo trong mắt tôi không đến nỗi như một loại thuốc phiện của nhân dân, nhưng tôi không hề có chút cảm tình với bất cứ hệ thống tôn giáo nào. Một người chị của tôi (theo tôn giáo của anh rể tôi là Thiên Chúa giáo La Mã nhưng sùng đạo còn hơn cả chồng) từng hốt hoảng khi nghe cậu em bảo : Khi nào em cần nói chuyện với Thượng đế (giả dụ tới lúc nào đó em tin là có) em sẽ trực tiếp nói chuyện với ngài mà không cần bất cứ một thứ thông dịch viên nào hết. Trong các tôn giáo, tôi gần gũi với Phật giáo hơn hết, nhưng, cũng chính vì vậy mà tôi ghét nhứt là các vị sư. Đó là một mâu thuẫn không dễ giải thích trong một vài câu.
Khi trò chuyện với bạn bè, hoặc cả những người sơ giao, tôi không ngần ngại đặt thẳng những câu hỏi hoặc đưa ra xác tín của tôi về hai lãnh vực chính trị và tôn giáo, bất kể người đối diện với tôi thuộc thành phần nào. Tâm lý háo thắng rất hồn nhiên của một người trẻ tuổi càng xúi giục tôi đương đầu trực diện với bất cứ một ý kiến có vẻ đối lập nào. Không úy kỵ, không kiêng nể, nhều lần tôi dồn "đối thủ" vào chân tường với một sự hả hê ngạo nghễ, và cũng không ít lần rời bỏ câu chuyện với một tâm trạng uất ức nghẹn ngào. Dẫu thế nào, ngày hôm sau tôi vẫn cứ "chứng nào tật ấy", lại tiếp tục tung vó câu non dại vào những "cuộc trường chinh" không có hồi kết...
Nét đẹp của phụ nữ Bắc hà có một hấp lực rất lớn với tôi, mặc dù đó hoàn toàn không là chủ tâm của tôi.
»TracTreo Thế nhưng, gần như là một quy ước tự mình đề ra cho chính mình, tôi bao giờ cũng hết sức nương nhẹ và thậm chí lẩn tránh khi có ai đó bắt đầu đưa câu chuyện mấp mé tới lãnh vực vùng miền địa phương của người Việt. Những đặc điểm tâm lý, phong cách sống điển hình, tập tục địa phương...đối với tôi là những thứ không thể phê phán đúng, sai. Mà, với cái tuổi trẻ "máu me đầy mình" của tôi lúc ấy, chết cho một chân lý (rất chủ quan, dễ sai lầm) dễ hơn rất nhiều so với phân tách rạch ròi những mâu thuẫn nội tại ấy. Tại sao tôi gọi là mâu thuẫn nội tại ? Như tôi đã trình bày, tôi là một gã thanh niên Nam kỳ rặt, nhưng...sự hòa mình để dòng văn hóa Bắc di cư (1954) thẩm thấu là rất sâu rễ bền gốc. Nếu muốn, tôi có thể nói giọng Bắc (di cư 54) rất chuẩn mà chắc không có ai nhận ra. Trong tôi, sự kỳ thị Nam Bắc giống như dùng tay phải đấu với tay trái, chính mình vả vào mặt mình, đại khái vậy.
Hình bóng một phụ nữ trong cuộc đời tôi qua nhiều thời kỳ, có thể không hề là ngẫu nhiên, chiếm tuyệt đại đa số là người đàn bà xứ Bắc. Nét đẹp của phụ nữ Bắc hà có một hấp lực rất lớn với tôi, mặc dù đó hoàn toàn không là chủ tâm của tôi. Có thể, cô bạn gái Bắc kỳ thời bé chính là nguyên nhân sâu xa hình thành một cái gout thẩm mỹ trong vô thức cũng nên.
Tôi nhìn thấy rất rõ bản chất tài hoa của đa số người Bắc mà tôi quen biết, thân cũng như sơ. Tôi nhìn thấy chất vừa lẳng lơ (ai ghét thì có thể gọi là "đĩ thỏa" cũng không sai lệch nhiều quá) vừa đành hanh trong đuôi mắt của những người phụ nữ Bắc. Tôi không thể phớt lờ bỏ qua tính cách ỡm ờ (người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo) của tuyệt đại đa số trí thức Bắc hà. Tôi cũng không thể không chạnh lòng khi đánh giá rất chính xác sự cân nhắc so đo tỉ mỉ những lợi hại vô cùng thực tế trước khi quyết định một vấn đề gì đó của rất nhiều người Bắc mà tôi được biết. Sự quyết đoán đôi khi tàn nhẫn khi đứng trước kẻ thù là một đức tính rất ít người Nam kỳ sở hữu nổi. Kềm nén cá tính, giấu kỹ con người thực của mình trước người xa lạ là sở trường quen thuộc của những người con dân xứ Bắc. Khả năng ăn nói lưu loát và không thiếu sắc thái đãi bôi với rất nhiều người Bắc gần như là chuyện bình thường...
Lẽ dĩ nhiên, không phải bất kỳ một người Bắc nào cũng mang đầy đủ những tính cách đó. Nhưng, theo kinh nghiệm bản thân của riêng tôi, đó là những đặc điểm rất đỗi bình thường với đa phần người gốc Bắc. Họ sở hữu nó một cách rất ư là tự nhiên không cần cố gắng nhiều. Có lẽ, văn hóa Bắc hà, cung cách giáo dục, có thể có cả sự góp tay của những nhiễm sắc thể di truyền, đã tạo dựng nên những đặc thù ấy chăng ?
Tôi không dám chắc một điều gì cả, nhưng, những gì tôi đặc biệt chú ý và nhận xét là như thế, và tôi dám chắc là nó không sai chệh bao nhiêu. Chính vì vậy, cho dù là một gã thanh niên coi trời bằng vung, tôi ít khi tham gia vào những câu chuyện phiếm đi hơi sâu vào vấn đề tính cách vùng miền của một con người. Khi ai đó thốt lên một câu đại ý người Bắc rất xảo ! tim tôi như bị một vết cắt của một lưỡi dao sắc. Tôi cảm thấy sự tổn thương trong tâm hồn mình, như chính tôi là một người Bắc thực thụ vậy.
Cũng khó mà giải thích tại sao, nhưng tôi tin những nhận xét của mình thực sự công tâm, không hề hàm chứa một sự ghét bỏ kỳ thị nào với người gốc Bắc. Những gì tôi viết lên đây, có thể gây một phản ứng tiêu cực về mặt cảm xúc đối với không ít người. Biết thế, nhưng tôi nghĩ rằng, mình cần phải ít nhứt một lần dám đối mặt với những gì mình đã không dám đối mặt thuở thanh niên. Ít ra, nó cũng giúp được cho tôi khỏi phải trăn trở mãi với những cảm giác mâu thuẫn và...vô cùng nặng nhọc của cá nhân mình.
Tôi ra Hà Nội lần đầu tiên năm 1991.
Phải nhắc một điều (dù nó không dính líu tới chủ đề đang bàn), bởi vì nó là một nỗi canh cánh thực sự của tôi suốt trong nhiều năm. Sau khi hiệp định Paris được ký kết, buổi sáng ngày 27 tháng 1 (tôi không nhớ chắc lắm ngày Hiệp định bắt đầu có giá trị thi hành, mà cũng làm biếng "Gúc" một phát), tôi đi bộ dọc theo con đường Cộng Hòa dưới tàn điệp tây, hát rất to bài "Đồng dao hòa bình" của Trịnh Công Sơn mà mắt đầm đìa nước mắt. Có thể có người không tin có một thanh niên "tưng tửng" đến vậy giữa đất Sài Gòn, nhưng, thực tế nó đã xảy ra y hệt như vậy. Trên lề đường rất rộng và rất mát phía trước KHĐHĐ, tôi và bạn bè đã ngồi thành vòng tròn vỗ tay hát hò vang trời, trong đó, bài "Tôi Sẽ Đi Thăm" là bài hát được chúng tôi đặc biệt ưa chuộng. Những lời ca từ như thế này đã thực sự làm những con tim trai trẻ của chúng tôi lâm vào tình trạng, nói không ngoa là "nức nở nghẹn ngào" :
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Tôi sẽ đi thăm cầu gãy vì mìn Đi thăm hầm chông và mã tấu. Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ...
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm. Đi thăm một con đường nhiều hố. Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình...
Như thế đó, để rồi khi ngày 30 tháng 4 đến, tôi thực sự rơi vào một cơn vỡ mộng tan tành, ngậm ngùi nhìn những mảnh vỡ của giấc chiêm bao của mình rơi rụng lả tả theo từng sắc lệnh của UBQQ ban hành. Mơ ước từng nhen nhóm một lần ngược chuyến xe lửa Nam Bắc ra tận ga Hàng Cỏ để tận mắt nhìn cái Hà Nội năm cửa ô buồn hắt hiu trong ngục tù (nhạc PĐC) hay sóng gợn hồ Gươm xanh màu liễu rũ... tàn lụi dần theo năm tháng.
Mãi cho tới năm 1991, mơ ước ấy trở thành sự thật, có điều, cái lãng mạn, cái thắm tươi chắc chắn đã không còn, chỉ còn những nỗi lo cơm áo, những tất bật đời thường trần trụi và phũ phàng, những e dè nghi kỵ mỏi mệt hiện mồn một trên mắt mọi người. Và, thêm một cái dở nữa, tôi không được đi dọc theo gần suốt "con đường cái quan" (tên một trường ca của PD) mà ra HN, tôi chỉ được ngồi tít trên cao, lọt thỏm trong một chiếc máy bay phản lực TU gì đó của đàn anh vĩ đại LX viện trợ.
Dẫu sao, vẫn còn đó một chút háo hức về một miền đất lừng danh, dù chỉ còn lợn gợn dư ba. Vẫn còn trong tôi một hy vọng (hão huyền chăng) về một hình ảnh tuyệt vời của Hướng Về Hà Nội (nhạc sĩ HD) mà tôi từng say đắm...
Tôi đã đến, đã ngắm nhìn...đã xót xa...
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 9:05:20 GMT 9
Bị bắt chỉ vì lời lẽ “thiếu hữu nghị với Trung Quốc”?-------------------------------------------------------------------------------- Chính trị - xã hội Trân Văn, phóng viên đài RFA 02.09.2009 Sau hàng loạt thông tin liên quan đến vụ bắt giữ blogger Người Buôn Gió hôm 27 tháng 8, các diễn đàn điện tử, các blog và nhiều hãng thông tấn nước ngoài tiếp tục loan báo, lực lượng an ninh của Công an Việt Nam đã bắt giữ bà Phạm Đoan Trang, 31 tuổi, nữ phóng viên của báo điện tử VietNamNet, cơ quan ngôn luận thuộc Bộ Thông tin Truyền thông Việt Nam vì “xâm phạm an ninh quốc gia”. Nữ phóng viên Phạm Đoan Trang. photo courtesy RFI Trước đây, các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam đã từng khởi tố, tạm giam, truy tố và kết án một số nhà báo ở Việt Nam vì mộtsố tội khác nhau, đã được qui định trong bộ luật hình sự, song cô Phạm Đoan Trang có lẽ là nhà báo Việt Nam đầu tiên bị bắt giữ vì “xâm phạm an ninh quốc gia”... Cô Phạm Đoan Trang đã làm những gì? Mời qúy vị nghe Trân Văn tường trình... Chỉ biết là... “xâm phạm an ninh quốc gia” Tuy tin cô Phạm Đoan Trang, phóng viên báo điện tử VietNamNet, bị lực lượng an ninh quốc gia của Công an Việt Nam bắt giữ vì “xâm phạm an ninh quốc gia”, đã được khá nhiều diễn đàn điện tử, blog, cũng như hàng chục hãng thông tấn quốc tế loan báo, song đến nay, những chi tiết có liên quan đến vụ bắt giữ này chỉ ngừng lại ở mức độ đó. Trong một cuộc trao đổi ngắn với Đài Á Châu Tự Do vào tối 1 tháng 9, ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Biên tập báo điện tử VietNamNet, bảo rằng, VietNamNet cũng chỉ được thông báo là cô Phạm Đoan Trang đã bị bắt vào tối 28 tháng 8, ở bên ngoài Toà soạn, do những hoạt động bên ngoài tờ báo chứ không liên quan đến những bài cô viết trên VietNamNet. Cũng theo ông Nguyễn Anh Tuấn, cách nay vài năm, cô Phạm Đoan Trang từng làm việc cho bộ phận VietNamNet TV. Sau đó xin nghỉ việc và mới quay trở lại làm việc cho chuyên trang Tuần Việt Nam được hơn một năm. Ông Tuấn khẳng định rằng, sau khi tìm hiểu đủ thông tin, VietNamNet sẽ có thông tin chính thức liên quan đến việc cô Phạm Đoan Trang bị bắt. Đã từng xúc phạm... Trung Quốc Ngoài việc trò chuyện với ông Nguyễn Anh Tuấn, chúng tôi cũng đã tìm cách tiếp xúc với vài blogger được xem là thạo tin để tìm những thông tin có liên quan đến việc bắt giữ cô Phạm Đoan Trang. Theo một blogger có nickname là PoorLady thì: Lý do quan trọng nhất là cô này bị cáo buộc liên quan đến việc tiết lộ tin Tham tán Kinh tế - Thương mại Hồ Tỏa Cẩm lên lớp báo chí Việt Nam. Cô này đưa tin cho Người Buôn Gió và Người Buôn Gió đã viết một bài trên blog của anh. Cũng có một nguồn tin cho biết là phóng viên Đoan Trang viết một bài liên quan tới Tham tán Kinh tế - Thương mại Hồ Tỏa Cẩm đề nghị phía Việt Nam kỷ luật những tờ báo cho đăng những phát biểu của bà Phạm Chi Lan và ông Nguyễn Minh Phong về hàng hoá Trung Quốckhông tốt mà tràn vào thị trường Việt Nam. Bài này không đăng trên những tờ báo chính thức ở trong nước mà đăng trên blog. Có một lý do nữa là cô này viết một bài nói về những hiệp ước mà chính phủ Việt Nam đã ký với Trung Quốc, cho nên đã bỏ qua rất là nhiều cơ hội cho đất nước đi lên... Chúng tôi đã thử đối chiếu những thông tin do blogger PoorLady cung cấp với các dữ kiện khác. Theo đó, đúng là blogger Người Buôn Gió đã từng đưa lên blog của ông một tin ngắn, độ dài khoảng 400 chữ, cho biết, trong cuộc gặp bà Quản Duy Ngân Hà – Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế của Bộ Thông tin Truyền Thông Việt Nam, ông Hồ Tỏa Cẩm, Tham tán Kinh tế - Thương mại của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, đã yêu cầu Bộ Thông tin Truyền Thông Việt Nam cần phải rút kinh nghiệm và phải quản lý báo chí chặt chẽ hơn do báo chí Việt Nam đã để hai chuyên gia kinh tế lả bà Phạm Chi Lan và ông Nguyễn Minh Phong có những lời lẽ không hữu nghị với Trung Quốc. Ít ngày sau, sự kiện mà blogger Người Buôn Gió loan báo trên blog của ông, đã được chi tiết hoá bằng bài viết “Sứ quán Trung Quốc đòi khuyến cáo, nhắc nhở VietNamNet”, có độ dài lên tới 2.200 chữ, trên Diễn đàn điện tử X-cafe. Với bút danh N.T.D - tác giả bài viết “Sứ quán Trung Quốc đòi khuyến cáo, nhắc nhở VietNamNet” đã chọn lối tường thuật sự kiện theo kiểu “Biên bản cuộc họp”. Nội dung cuộc họp giữa Tham tán Kinh tế - Thương mại của Đại sứ quán Trung Quốc, với Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế của Bộ Thông tin Truyền Thông Việt Nam đủ để khiến bất kỳ người Việt nào đọc bài viết này cũng cảm thấy ngán ngẩm cho quốc thể, âu lo cho chủ quyền quốc gia! Tại sao “Sứ quán Trung Quốc đòi khuyến cáo, nhắc nhở VietNamNet”? Ngày 16 tháng 6, chuyên trang Tuần Việt Nam của báo điện tử VietNamNet tổ chức một buổi tọa đàm, nhằm tìm giải pháp đối phó với hàng Trung Quốc chất lượng thấp, với sự tham gia của bà Phạm Chi Lan – Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam và ông Nguyễn Minh Phong - Viện nghiên cứu Kinh tế Xã hội Hà Nội. Tại buổi tọa đàm này, bà Phạm Chi Lan cho rằng, một trong những nguyên nhân giúp hàng Trung Quốc có giá bán rẻ là: Trung Quốc theo đuổi chính sách đã làm gì thì làm tới cùng. Có khi họ không quan tâm nhiều hoặc bất chấp những điều thuộc về đạo lý kinh doanh hay lương tâm kinh doanh: hàng xấu, hàng độc... Ngay cả đối với dân của họ, họ cũng không quan tâm, chẳng hạn trường hợp trẻ em Trung Quốc ngộ độc sữa... Cho nên đối với người tiêu dùng nước khác, dại dột mua hàng kém chất lượng và bị hại, họ càng không coi đó là vấn đề của mình. Ông Nguyễn Minh Phong tán thành điều đó và góp thêm: Người hàng xóm của chúng ta đã ‘hy sinh’ 750 triệu nông dân nước họ để có giá thành lao động cực thấp, thậm chí với 1USD một ngày họ cũng làm quần quật, chưa kể chi phí của lao động trẻ em, lao động tù nhân. Và như mọi người đều biết, trong nhiều trường hợp, họ bỏ qua những tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Đấy là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của họ. Nếu chúng ta bám được vào ý này, chúng ta sẽ tạo được những điểm mạnh cho chúng ta. Nếu đối chiếu những nhận định của bà Phạm Chi Lan và ông Nguyễn Minh Phong với các ý kiến phân tích, đánh giá của nhiều chuyên gia, cũng như báo chí trên thế giới về chính sách kinh tế và hàng hoá Trung Quốc, ai cũng có thể thấy những nhận định này không mới. Vậy thì tại sao một nhân viên ngoại giao, chỉ giữ vai trò tham tán kinh tế - thương mại trong đại sứ quán của một quốc gia, lại dám hành xử như vậy trên lãnh thổ của một quốc gia khác? Chưa kể trước yêu cầu như thế của một nhân viên ngoại giao nước ngoài, tại sao một viên chức cấp Vụ trưởng lại đi cám ơn và hứa "sẽ xem xét, báo cáo lại với các đồng chí có trách nhiệm”? Thậm chí còn mời Đoàn quản lý báo chí của Trung Quốc sang thăm Việt Nam để trao đổi về chính sách quản lý báo chí bằng chi phí của Việt Nam? Đến nay, ông Bùi Thanh Hiếu - blogger Người Buôn Gió đã bị giam năm ngày. Cô Phạm Đoan Trang đã bị giam bốn ngày nhưng cơ quan an ninh Việt Nam chưa tiết lộ cả hai chỉ bị tạm giữ hành chính hay đã bị khởi tố và đang tạm giam vì tội gì. Thân nhân cũng như nơi họ làm việc chỉ cho biết họ mất tự do vì “xâm phạm an ninh quốc gia”. Tường thuật thông tin, trình bày suy nghĩ không có lợi cho quan hệ Việt – Trung theo đúng “phương châm 16 chữ vàng” và “tinh thần bốn tốt” là đủ để bị coi như “xâm phạm an ninh quốc gia”? Nguồn: RFA
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 9:08:10 GMT 9
Yêu nước là vi phạm an ninh quốc gia!
-------------------------------------------------------------------------------- Chính trị - xã hội Hà Giang, thông tín viên RFA 04.09.2009 Thưa quý thính giả, trong những ngày qua, người ta chưa hết bàng hoàng vì những tin blogger Người Buôn Gió, nhà báo Phạm Đoan Trang, blogger Sphinx bị bắt thì lại được tin blogger mẹ Nấm cũng vừa mới bị bắt khẩn cấp. Điều gì đã khiến cho hàng loạt blogger và nhà báo bị bắt giam? Điểm chung trong những vụ ruồng bắt này là gì? Và những vụ bắt bớ này rồi có khiến người ta thôi viết blog hay không? Hà Giang tìm hiểu và tường trình.
Chiều ngày 2/9 vừa qua, blogger Mẹ Nấm, tên thật là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, thông báo với cộng đồng dân blog là cô đã nhận được giấy triệu tập là phải đến sở Công An để làm việc vào 8h sáng ngày hôm sau. Thế nhưng vào nửa đêm hôm đấy Công An đã bất thình lình ập vào nhà riêng của thân mẫu cô, đọc lệnh bắt khẩn cấp và mang cô đi. Thân mẫu của Như Quỳnh là người đã chứng kiến cảnh con bị bắt giam thuật lại:
“Đêm ngày 2/9 thì gia đình đang ngủ thì khoảng 12h thì thấy người chồng của Quỳnh về kêu cửa, và khoảng mười lăm người công an tiến vô trong nhà, trong đó có tổ dân phố, công an khu vực, công an phường, công an tỉnh, công an thành phố vô. Và họ đọc lệnh bắt khẩn cấp, ký ngày 28/8, rằng con gái tôi là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh lợi dụng sự tự do dân chủ để để vi phạm an ninh quốc gia, điều 258. Rồi trong khi đó họ biểu lấy quần áo đi theo luôn."
Đây không phải lần đầu tiên Như Quỳnh gặp rắc rối với Nhà nước. Vào cuối tháng 7, cô cũng bị câu lưu 6 tiếng đồng hồ. Lúc ấy, trả lời một cuộc phỏng vấn của đài chúng tôi, Như Quỳnh đã phát biểu:
“Em bị mời là vì em mặc cái áo xanh mầu đọt chuối ở giữa phía trước nó có chữ “NO Bô-xít, Hòang Sa Trường Sa là của VN” còn sau lưng thì nó có dòng chữ “Người Việt Yêu Nước SOS, giữ mầu xanh và an ninh cho Việt Nam”.
Họ nói với em lý do chính họ mời em là vì em mặc cái áo đó. Theo lời của họ là mời lên làm việc, kiểu là nếu mà không đi thì cũng không nên thân, họ nói là hợp tác về an ninh quốc gia thì mình phải đi thôi...
Lúc em mặc cái áo đơn giản em chỉ nghĩ tôi góp một phần tiếng nói “Hòang Sa Trường Sa là của Việt Nam, giữ mầu xanh và an ninh cho VN”, nhưng mà em không nghĩ là nó quan trọng đến mức độ như ngày hôm nay... Em không được biết là lý do an ninh quốc gia gì.”
Lần đó Như Quỳnh được thả về, nhưng rồi bây giờ cuối cùng cô cũng bị bắt vì tội vi phạm an ninh quốc gia theo chân blogger Người Buôn Gió và nhà báo Đoan Trang mới bị bắt cách đây vài ngày. Mặc áo có dòng chữ “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam” mà bị xem là vi phạm an ninh quốc gia đã là một điều khó hiểu, nhưng hãy tạm gác điều khó hiểu đó qua một bên. Dầu sao thì Như Quỳnh cũng đã nộp lại 2 chiếc áo ấy cho công an, và không dám mặc áo ấy nữa rồi, thì tại sao cô vẫn bị bắt?
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về tình hình Á Châu – Thái Bình Dương, hiện đang ở Úc, nhận định rằng mẫu số chung của mấy vụ bắt bớ này là “Trung Quốc”. Ông nói:
“Đây là một cuộc tổng tấn công vào hai mặt. Thứ nhất là tấn công vào việc sử dụng blog, một lãnh địa mà cơ quan an ninh chưa thể kiểm soát được. Thứ hai là tấn công vào giới blogger đã lên tiếng chỉ trích những hành động mà họ cho là nguy hại cho chủ quyền đất nước của chính quyền. Tôi cho rằng những cuộc tấn công này đang xảy ra dưới áp lực của Trung Quốc. Đại sứ và các viên chức của Trung Quốc đã liên tục can thiệp vào những chính sách của chính quyền Việt Nam. Họ than phiền về từng web site, từng bài viết đã làm cho họ phiền lòng. Vì thế nhà cầm quyền Hà Nội đang tìm cách ngăn chặn sự lan tràn của những lời chống đối và làn sóng yêu nước đang dâng cao, vừa bất lợi cho quan hệ hai nước, vừa ngày càng thách thức quyền hạn của họ khiến cho họ lo sợ.”
Thân mẫu của Như Quỳnh cho rằng con bà không có tội gì. Bà nói thêm rằng Như Quỳnh đã bị bắt vì dám lên tiếng, mà Nhà cầm quyền không muốn cho ai lên tiếng vì sợ rằng người ta biết đến điều họ đang muốn dấu. Nhưng thật ra theo nhận định của bà thì chính những vụ bắt bớ này đã thành động cơ khiến người ta muốn tìm hiểu nhiều thêm:
“Yêu nước thì không bao giờ sai. Thực ra tôi cũng không biết gì nhiều, nhưng từ lúc công an mời lên thì tôi mới đi vào thế giới internet này, thì tôi mới biết là Nhà văn Nguyên Ngọc là người yêu thích Tây Nguyên họ cũng yêu cầu Nhà nước đừng khai thác hết, tận diệt Tây Nguyên vì Tây Nguyên là mái nhà. Rồi nhiều người có tri thức hơn tôi, hiểu biết hơn tôi họ cũng đều như vậy. Rồi tôi tìm hiểu qua những hình ảnh thì tôi thấy cái sự xâm lăng của Trung Quốc với Việt Nam rất là rõ ràng. Mà con tôi nó còn trẻ, khi mà nó học sử hào hùng của người Việt Nam như vậy, chắc chắn rằng nó không bao giờ chấp nhận được chuyện này.”
Những vụ bắt bớ này rồi sẽ đi đến đâu? Giáo sư Carl Thayer khẳng định:
“Rồi sẽ ra sao? Lúc này chính quyền có vẻ đang huy động toàn bộ cơ quan an ninh của họ để tràn ngập vào không gian điện toán với hy vọng dập tắt được sự chống đối, nên trước mắt sẽ có thêm người vào tù. Nhưng lâu dài sẽ không ai có thể hạn chế được mạng lưới điện toán và chế ngự được thế giới blog. Thế giới blog cũng là biên giới cuối cùng để bảo vệ tự do cho người dân, là phương tiện duy nhất mà giới trí thức ở Việt Nam có thể dùng được để phát biểu và chia sẻ những tư tưởng của họ. Tóm lại, về lâu về dài, chính quyền Việt Nam sẽ tốn rất nhiều tiền, nhưng việc kiểm soát blog sẽ không bao giờ thực hiện được."
Chúng tôi xin mượn lời của thành viên có nick Bình Luận trên diễn đàn X-café để chấm dứt bài viết này:
“Người dân sống trên đất nước mình mà không có chút quyền được nghe, được biết tới những gì đang xảy ra cho đất nước, không được bàn đến chính sự nước nhà, mà chỉ biết nghe theo những thông tin một chiều đúc sẵn từ một khuôn mẫu, thì đó có phải là một xã hội thật sự hay không? Bây giờ mà còn viện đến cái cớ nhận tiền có yếu tố nước ngoài để đưa những người dân Việt dũng cảm, đã dám đối diện với một bộ máy cường quyền khổng lồ, vào vòng lao lý thì thật là hết biết!”
Nguồn: RFA
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 9:08:56 GMT 9
Bó tay chấm com
-------------------------------------------------------------------------------- Chính trị - xã hội Cùng chủ đề:1 2 Nguyễn Quang Lập, Quê Choa's Blog 09.09.2009
Hôm nay là ngày không bình thường. 10 giờ sáng tôi vào blog Ba Sàm mới biết báo điện tử của ĐCSVN đưa tin Hải quân Trung Quốc diễn tập tại Biển Đông, giật mình liền lần theo đường link Ba Sàm dẫn vào xem, quả nhiên đúng.
Một cái tin rất bậy, nó khẳng định việc Hải quân Trung Quốc tập trận ở Biển Đông như một lẽ đương nhiên “để bảo vệ tốt biên cương trên biển phía nam Tổ quốc” như lời Tư lệnh phó hạm đội Nam Hải đã nhấn mạnh. Cái biên cương mà ông ta nói có nhắc đến Hoàng Sa như một căn cứ quân sự của Trung Quốc. Một cái tin như vậy chỉ có mù mới không thấy nó nguy hiểm như thế nào khi đăng lên tờ báo Đảng.
Tôi ngồi suy nghĩ rất lâu, rà xét thật kĩ xem đây có đúng là website báo Đảng không, chỉ sợ có kẻ giả mạo làm một website giống y chang báo Đảng thì sao. Chính tôi đã nhầm website báo Tổ quốc của Bộ 4T với website Tổ quốc của một tổ chức dân chủ gì gì đó ngoài biên giới. Sau hơn một giờ, gọi điện lung tung để hỏi và khẳng định đúng là webssite báo Đảng, tôi ngồi thừ, đắng ngắt.
Việc TTXVN đưa tin ngư dân VN từ Hoàng Sa trở về lại nói từ Trung Quốc trở về chỉ là sơ suất đáng tiếc, việc trang web của Bộ Công thương đưa tin bà Khương Du khảng định Hoàng Sa, Trường Sa là của TQ cũng chỉ vì thói quan liêu và chủ quan “giao trứng cho Trung Quốc” như Huy Đức đã nói. Còn việc này là vì cái gì, không thể hiểu nổi.
10h 39 phút vẫn thấy tin này trên trang web báo Đảng, tôi quyết định đưa tin này. Đưa nhưng mà run, vì sợ có thể do hacker nó cài đặt, mình nói oan cho người ta tội nghiệp. Lại sợ có người qui kết, nói mình vờ đưa tin thế để tuyên truyền cho kẻ xấu, vì thế tôi thông báo với bà con chỉ đưa lên 4 tiếng là del, đúng 1h chiều tôi del liền. Về sau thì mới biết mình lầm, rất nhiều trang web đã đưa tin này, blog Ba Sàm còn khẳng định cái tin đó đã nằm trên trang web báo Đảng đã 4 ngày rồi, thật đau hơn hoạn.
Đến 2 giờ chiều Trương Duy Nhất gọi điện cho tôi, nói em vào trang web đó thì không thấy có nhưng vào theo đường link người ta gửi cho em thì vẫn thấy. Đến 5h chiều thì hầu như đường link cũng không còn.
Tôi ngồi hút hết một bao thuốc nghĩ mãi vẫn không ra tại làm sao người ta lại có thể sai lầm đến vậy. Nếu bảo quan liêu thì quan liêu kiểu gì mà chuyện nhậy cảm như thế lại có thể nhắm mắt post bừa? Nếu bảo là ngu thì không thể có cái ngu thậm tệ để đến nỗi người ta coi Hoàng Sa là đất của người ta mà mình cũng không biết?
Nếu kết tội thì kết tội như Bauxite Việt Nam : “đây là tội cố ý làm nhục quốc thể” thật không oan một chút nào. Nhưng thôi, tôi thuộc nhóm người không muốn kết tội ai, cứ coi đây là một sai lầm, dù là sai lầm nghiêm trọng thì cũng chỉ là sai lầm.
Đã sai lầm thì xin lỗi với bạn đọc sau khi anh đã del bài, nên nhớ bạn đọc ở đây là dân Việt ta, không thể không nói lời xin lỗi. Đợi đến giờ vẫn không thấy một lời xin lỗi nào. Không phải dân muốn nghe một lời xin lỗi cho sướng tai đâu, người ta muốn qua lời xin lỗi để biết chắc sai sót hay cố ý mà thôi.
Hay đây là quan điểm của bản báo? Nếu là quan điểm của bản báo thì cũng nói rõ quan điểm của mình cho dân Việt ta biết, tại sao del vẫn del, nói không chịu nói. Là sao thế nhỉ?
Bó tay chấm com. Nguồn: Quê Choa's blog
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2009 14:43:45 GMT 9
Gorbachev, “Chúng ta đã tránh được đại chiến thứ ba”Isabelle Lasserre, Caroline de Malet và Philippe Gélie phỏng vấn - Hồng Lĩnh lược dịch Tổng Thống cuối cùng của Liên Bang Xô Viết nói về những điều ông biết về những sự kiện dẫn tới đã dẫn tới sự sụp đổ của bức tường Berlin và sự sụp đổ của khối cộng sản. Và nói những gì ông nghĩ về Obama, Medvedev và Putin. Gorbachev tại Geneva trong cuộc phỏng vấn với Le Figaro Nguồn: Le Figaro -------------------------------------------------------------------------------- Le Figaro: Cách đây 20 năm, vào lúc bức tường Bá Linh sụp đổ, ông nắm quyền tại Liên Xô. Ông thấy sự việc xảy tới hay sự kiện ấy bất ngờ đối với ông? Mikhaïl Gorbachev: Điều đó khó có thể gây bất ngờ cho tôi vào lúc đó. Những sự kiện này là kết quả của một quá trình lâu dài. Tôi đã ở trong vòng của quyền lực lâu dài và tôi biết tình hình một cách hoàn hảo. Khi tôi trở thành người lãnh đạo của Liên Xô, một trong những viễn kiến nền tảng về thế giới của tôi là coi Châu Âu như là ngôi nhà chung của chúng ta. Tôi cũng đã đề xuất, trong chuyến thăm Pháp, chúng ta cùng xây dựng căn nhà này. Và vấn đề nước Đức là một phần của tầm nhìn đó. Thống nhất nước Đức là việc rất có thể,vì trước đó đã có những thay đổi lớn tại Liên Xô, tại Trung Âu và Đông Âu trong bang giao với các nướcphương tây và đặc biệt với Hoa Kỳ, trong qúa khứ không mấy thân thiện với chúng tôi. Lúc tôi là quốc trưởng Liên Xô, giới hữu trách Liên Xô và Mỹ đã không gặp nhau từ sáu năm qua. Vài năm sau đó, chúng tôi đã thay đổi sự kiện ấy. Và tất cả những thay đổi này dẫn đến khả năng thống nhất. Trong một chuyến thăm Đông Đức vào năm 1989, nhân kỷ niệm 40 năm nước Cộng hòa Đông Đức, tôi đã rất ấn tượng vì những gì tôi thấy. Tôi đã nói chuyện nhiều với Chủ tịch Erich Honecker và ông ta làm tôi ngạc nhiên. Tôi nghĩ rằng ông (Honecker) đã không hiểu những gì đã xảy ra. Hoặc là ông đã từ chối chấp nhận các quá trình đó đã và đang triển khai đó, rõ ràng, đặt câu hỏi về sự thống nhất của nước Đức lên bàn (thảo luận). Có một cuộc diễn hành lớn, 28 khu vực của GDR đã có đại diện. Thanh thiếu niên tham gia vào cuộc biểu tình reo hò khẩu hiệu chứng minh rằng quốc gia được trong tình trạng hỗn loạn và sẽ sớm có thay đổi lớn ... Các Thủ tướng Ba Lan Mieczysław Rakowski, đến gần và hỏi tôi có hiểu tiếng Đức hay không. Tôi nói đủ để biết ý nghĩa của những dấu hiệu và khẩu hiệu. Sau đó, ông (Rakowski) nói với tôi, “màn đang hạ”. Tôi nói, “đúng thế.” Le Figaro: Nghe ông nói, hình như chính ông đã lên kế hoạch tất cả sự kiện ấy? Mikhaïl Gorbachev: Không, tôi không có kế hoạch đó. Hơn nữa tháng sáu năm 1989 vào dịp thăm viếng (Tây) Đức, sau khi nói chuyện với thủ tướng Helmut Kohl, một nhà báo hỏi tôi có nêu lên câu hỏi về (sự thống nhất) nước Đức hay không. Tôi nói có. Tôi cho rằng, sự phân chia của Đức là một di sản lịch sử của Thế chiến thứ hai. Nhưng chính lịch sử phải nói cái gì sẽ xảy ra. Các nhà báo đã không thoả mãn và họ khăng khăng hỏi tôi khi nào sẽ thống nhất. Tôi trả lời rằng vấn đề này có lẽ sẽ được giải quyết trong thế kỷ này và lịch sử sẽ quyết định điều đó. Đó quan điểm của tôi một vài tháng trước khi bức tường đổ xuống ... Và sau đó có thay đổi ở Liên Xô, Trung Âu và Đông Âu, “cuộc cách mạng nhung”, mối quan hệ mới với Hoa Kỳ, cuộc giải trừ quân bị. Tất cả điều này đã dẫn đến một vòng xoắn ốc sự kiện, ngay cả khi Cộng hoà Dân chủ Đức vẫn còn là một loại đảo trong vùng biển của sự thay đổi. Le Figaro: Ông có bị cám dỗ vào việc sử dụng vũ lực để ngăn chặn sự thay đổi ở Đông Âu hay không? Mikhaïl Gorbachev: Quý vị đã biết, khi người tiền nhiệm của tôi là ông Konstantin Tchernenko qua đời vào năm 1985, các lãnh tụ của các quốc gia thuộc Khối Varsovie tới phúng điếu tại Moscow. Chúng tôi họp nhau lại tại văn phòng của tôi. Tôi cám ơn họ và nói với mấy vị ấy, “Chúng tôi sẽ không làm gì hết có thể làm rồi rem mối quan hệ của chúng tôi với qúy ông.” Chúng tôi sẽ tôn trọng các nghĩa vụ của chúng tôi, nhưng bạn có trách nhiệm chính trị của mình, với quốc gia của bạn, và chúng tôi chịu trách nhiệm chính trị của chúng tôi, với đất nước của chúng tôi. Năm 1985, do đó, tôi đã hứa với họ rằng chúng tôi sẽ không can thiệp - và chúng tôi không bao giờ nói. Nếu chúng tôi đã làm, thì sau đó có lẽ tôi sẽ không được ở đây hôm nay với bạn ... Do đó, tôi đảm bảo điều này với quý vị. Le Figaro: Cái gì đã có thể xảy ra theo ý ông? Mikhaïl Gorbachev: Chúng tôi có thể có chiến tranh thế giới thứ ba ... Lúc đó, Châu Âu đã có đầy đủ các loại vũ khí hạt nhân. Có khoảng hai triệu quân trên cả hai phía của Bức màn sắt ... Tưởng tượng đơn giản thôi, điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi đã sử dụng vũ lực ... Le Figaro: Vào thới điểm ấy, đâu là tầm nhìn của ông về tương lai của Liên Xô? Mikhaïl Gorbachev: Đó là tầm nhìn dẫn chúng tôi đến những thay đổi dân chủ, mở cửa, cải tổ liên bang và kinh tế của chúng tôi, trả lại tự do đi lại cho người dân, đưa tự do ngôn luận và tôn giáo (vào đời sống). Lúc ấy, tôi đã không ngần ngại, tôi biềt đó là con đường phải theo. Và tôi tin rằng chúng tôi có thể kéo dài Liên Bang Xô Viết như cũ. Nhưng, sau các tuyển cử tự do năm 1989, một số người trong hàng ngũ trung ương của đàng CS đã phản ứng dữ dội chống lại sự thay đổi. Lúc ấy Đảng chia rẽ: 84% dân biểu là đảng viên, nhưng thành phần ưu tú của đảng CS Liên Bang Xô Viết thất cử. Tôi đã có mọi lý do để tin rằng perestroika đã được đa số ủng hộ. Tuy nhiên, tầng lớp “nomenklatura” đã cố gắng liên tục để lật đổ tôi, phải từ chức tại cuộc họp của Xô viết tối cao. Về mặt chính trị, các đối thủ của perestroika chưa thể phản đối chúng tôi một cách hợp pháp. Đó là lý do tại sao họ đã tổ chức một cuộc đảo chính năm 1991. Chúng tôi đã đánh giá không đúng sự nguy hiểm, nhưng chúng tôi đã có hành động dứt khoát hơn để ngăn chặn điều này. Tôi nghĩ rằng những người chủ trương perestroika, kể cả bản thân tôi, chúng tôi đã quá tự tin. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã đi đúng hướng. Vào thời điểm đó, chúng tôi chuẩn bị một chương trình để khắc phục tình hình kinh tế tại Liên Xô. Chương trình này được các nước Cộng hòa hỗ trợ, ngay cả các nước Cộng hòa Baltic. Đầu tháng, chúng tôi cũng đã chuẩn bị một hiệp ước mới cho Liên bang. Trong tháng 11 năm 1991, chúng tôi muốn tổ chức một đại hội để cải cách trong đảng. Chúng tôi nghĩ rằng trong tình hình này, bất cứ ai muốn tổ chức một cuộc đảo chính là vô trách nhiệm cho để. Thật không may, họ đã làm, và một số trong những người tổ chức cuộc đảo chính là một phần những người xung quanh của tôi, tôi bị bao vây. Le Figaro: Hôm nay ông giải thích thế nào về nỗi luyến tiếc về đế quốc và quyền lực của Liên Bang Xô Viết biểu lộ trong giới lãnh đạo và quần chúng Nga? Mikhaïl Gorbachev: Tôi biết tình thế. Tôi nghĩ rằng không nên phóng đại khuynh huớng ấy. Trong một cuộc thăm dò thực hiện vào năm 2005 nhân kỷ niệm hai mươi năm đổi mới (perestroïka), 55% số người thẩm định rằng các cải tổ là rất cần thiết, trong lúc họ thuộc thiểu số mười năm trước đó (1995). Hai phần ba dân Nga ủng hộ tuyển cử tự do, kinh tề thị truờng, tự do đi lại. Le Figaro: Đồng ý, nhưng hiện nay ông Stalin đuợc lòng dân hơn trong quá khứ? Mikhaïl Gorbachev: Tôi không nghĩ thế. Thật thế là có một số biểu tình với chân dung Staline. Điều ấy chứng tỏ rằng Nga chưa thành công hoàn toàn tiến trình đổi mới. Nhưng chuyện ấy chúng tôi đã biềt. Dầu sao đi nữa, không có vấn đề quay lại qúa khứ. Người ta không thể đi lùi. Cái đó sẽ không xảy ra. Le Figaro: Ông đánh giá thế nào về chính sách của Medvedev-Putin? Hai người ấy đang dẫn dắt Nga đúng hướng không? Mikhaïl Gorbachev: Nhiệm kỳ đầu của Vladimir Putin xem thuận chiều. Ông ta đã chận đứng tiến trình thoái hóa của Nga, tiến trình ấy rất nguy hiềm. Ông ta ổn định được tình thế. Ông ấy sẽ có chỗ đứng trong lịch sử. Nhưng tôi không thấy những cố gắng hiện đại hoá thực sự, đó là bài toán chính. Các điều kiện rất thuận lợi, nhờ giá dầu tăng. Nhưng tôi tự hỏi về cách thức họ dùng hàng triệu đô la do dầu lửa tạo ra. Tôi tin là số tiền ấy đã cho phép các bè đảng của họ (Medvedev-Putin) mua Điện Élysées và phần còn lại của nuớc Pháp. Nói đùa thôi, nhưng tôi nghĩ rằng một phần lớn của số tiển ầy bị lãng phí và không đuợc dùng vào hiện đại hoá đất nước. Có lẽ họ phải hành động sớm hơn để tu bổ tình trạng kinh tế, hiện đại hoávà luôn thể cho dân chủ hóa nước Nga. Một mặt họ đã dập tắt đám cháy, mặt khác họ đã phạm nhiều lỗi lầm. Le Figaro: Theo ý ông, vấn đề chính là chính trị, kinh tế, hay tham nhũng? Mikhaïl Gorbachev: Nhu cầu hiện nay của quốc gia là một hệ thống mới, một kiểu mẫu phát triển mới. Và để xây dựng, cần dẹp xong vấn đề tham nhũng. Hiện nay, tôi đồng ý, là chưa phải thế. Nhưng thời gian sẽ trả lời. Le Figaro: Ông có nghĩ rằng Medvedev và Putin sẽ đón nhận bàn tay do Barack Obama đưa ra không? Mikhaïl Gorbachev: Không phải Barack Obama chỉ là nguyên nhân của của thời cơ này trong bang giao Nga-Mỹ. Nhưng chính ông là một con người nghiêm túc, ông ta hiểu tình hình khủng hoảng, ông tranh đấu để giải giới vũ khí hạt nhân và ông đã thẩm định tầm quan trọng của môi trường. Đây là một đối tác tốt cho các nhà lãnh đạo của chúng tôi, vì đó cũng có những gì họ muốn. Tôi có một cảm giác tích cực đối với tổng thống Mỹ. Và là thế, tôi tin chắc là Nga muốn nắm bắt cơ hội này. Nhưng không ai biết ngày mai ra sao. Le Figaro: Ông đã nhận giải thưởng Nobel hòa bình năm 1990. Ông có nghĩ là giải thưởng vừa được trao tặng cho Barack Obama có xứng đáng hay quá sớm? Mikhaïl Gorbachev: Tôi đã có thư chúc mừng ông ta.Tôi bảo đó là một lựa chọn tốt, vì tôi càm thấy gần gụi với tầm nhìn của ông ấy về thế giới. Ông ta cương quyết, có uy tín quốc tế và có tài truyền đạt để bắt tay vào việc. Tôi chúc ông ta thành công. Le Figaro: Ông đã rút lui quân Nga ra khỏi Afghanistan. Hai mươi năm sau, Barack Obama sắp sửa quyết định có hay không gởi thêm quân đội Mỹ tới xứ đó. Ông sẽ khuyên ông ta cái gì? Mikhaïl Gorbachev: Chúng tôi đã phải trải qua một giai đoạn tương tự như Obama đang gặp phải tại Afghanistan. Chúng tôi cũng đã có chiến lược để đặt bằng các chính sách của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng mục tiêu tối hậu của người Mỹ là nên rút lực lượng của họ. Nhưng tôi không có khuyến nghị để thực hiện. Không còn nghi ngờ gì nữa có lẽ không ai nên đặt chân đến đó. Khi chúng tôi rút lui khỏi Afghanistan, người Mỹ làm việc với các người Pakistanis để tạo ra các phần tử Talibans, tuy người Mỹ đã xác nhận với chúng tôi là muốn một đất nước “tự do và ổn định, thân thiện với hai quốc gia chúng tôi.” Ngày nay, người Mỹ đang gặt hái kết qủa của cái nhân ấy. Phần khác, tôi nhìn nhận là cần hành động chống các tổ chức khủng bố. Le Figaro: Ông đứng đầu tổ chức Green Cross (Chữ thập Xanh), một tổ chức phi chính phủ (NGO) có mục đích bảo vệ môi trường: Ông còn niềm tin không, trước hội nghị quốc tế sẽ tổ chức vào tháng 12 tại Copenhague về sự nóng lên của bầu khí quyển? Mikhaïl Gorbachev: Tôi cũng muốn tin rằng đó là một giai đoạn chính trong hướng đi đúng. Những công việc chuẩn bị vững chắc đã có. Các vần đề môi trường đang bóp ngẹt chúng ta: chúng ta phải hành động để tránh một thảm họa, thoát khỏi tai biến. Nhiệt độ trung bình của địa cầu không đuợc tăng quá 0.2%: dầu cho mục tiêu ấy khó đạt đuợc. Ngày từ bây giờ, mọi quốc gia phải có các hành động quyết định. -------------------------------------------------------------------------------- Bài do người dịch gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ. Nguồn: Gorbachev: “On a évité une troisième guerre mondiale”, Propos recueillis à Genève par Isabelle Lasserre, Caroline de Malet et Philippe Gélie, Le Figaro 12/10/2009 | Mise à jour: 09:31.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2009 14:49:21 GMT 9
Sự bành trướng của Trung Quốc Tác Giả Đoàn Hưng Quốc Ý Chính: Trung Quốc tuy có ưu thế tuyệt đối về quân sự nhưng do các yếu tố kinh tế và ngoại giao, bị bó buộc không thể công khai dùng vũ lực chế ngự vùng biển Đông Nam Á. Việt Nam có thể dựa vào yếu tố này để theo đuổi một chính sách ngoại giao công bằng nhưng cứng rắn, với điều kiện nhà nước không bị Bắc Kinh mua chuộc và lũng đoạn.
Mỗi lần có một đại cường quốc trổi dậy là một sự kiên vô cùng trọng đại vì tầm ảnh hưởng không chỉ giới hạn ở kinh tế chính trị nhưng tác động lâu dài lên văn hoá xã hội, và để lại những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nhân loại. Các siêu cường thông thường lại lớn mạnh không êm thắm mà trái lại trải qua nhiều máu lửa chiến tranh, đôi khi kéo dài hàng nhiều thế kỷ khi các nền văn hoá va chạm nhau. Mỗi thế lực như La Mã, Đại Quốc Hồi Giáo, Đế Quốc Anh, Liên Bang Xô Viết, Hoa Kỳ đều có những nét đặc thù riêng biệt; hiện Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng và không lâu nữa sẽ đứng vào hàng nhất nhì thế giới, bài viết này nhằm tìm hiểu những nét đặt biệt của nước đông dân nhất địa cầu này nhằm đóng góp phần nào cho những dự kiến về tương lai nhất là trong mối quan hệ Việt-Hoa.
***
Điểm nổi bật nhất là khi các đế quốc La Mã, Mông Cổ, Anh Quốc chinh phục thế giới bằng sức mạnh quân sự, Trung Quốc lại tràn ngập thế giới với hàng hoá rẻ. Điểm thứ nhì là đa số các thế lực quốc tế mang theo ánh sáng văn minh: La Mã để lại quan niệm luật pháp và hành chính; đế quốc Hồi Giáo mang theo niềm tin vào đấng Allah; thực dân Anh Pháp mang đến khoa học thực nghiệm và khái niệm về dân quyền; Liên Bang Xô Viết với sức thu hút của chủ nghĩa cộng sản đại đồng; Hoa Kỳ với quyền tự do cá nhân. Riêng Trung Quốc lại không có một đóng góp nhỏ nào cho giá trị tinh thần của nhân loại. Cái mà họ gọi “kinh tế thị trường trong định hướng xã hội chủ nghĩa” là một sự chấp vá gượng gạo không thu hút được ai - ngoại trừ Việt Nam (!) – cho dù là các đồng minh thân tín như Iran, Venezuala, Miến Điện, Bắc Hàn. Trường hợp của Trung Quốc có thể so sánh phần nào với các thế lực Mông Cổ, phát-xít Đức Nhật và Liên Bang Xô-Viết: hùng mạnh nhưng lại không đóng góp những giá trị đại đồng được nhân loại chấp nhận, tất bạo phát bạo tàn.
Trung Quốc phát triển nhờ vào những tình cờ lịch sử, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự khéo léo của Bắc Kinh để nắm lấy các cơ hội. Năm 1969 Trung Quốc từ bỏ quỹ đạo của Liên Bang Xô Viết, năm 1971 mở cửa đón tiếp Hoa Kỳ là do nhu cầu sống còn về an ninh chớ không vì lý do kinh tế. Dân chúng nghèo đói nhưng các lảnh tụ cộng sản Bắc Kinh chỉ tìm cách bảo vệ vị trí của mình ngay cả chấp nhận hợp tác với trùm tư bản Thị trường và xã hội mở khung cửa hạn hẹp vì e sợ những ảnh hưởng của Tây Phương. Mặc khác, Hoa Kỳ và Tây Âu trong thời kỳ còn chiến tranh lạnh cũng không thể nào mang các phương tiện sản xuất hiện đại vào thị trường Trung Quốc vì sợ các kỷ thuật này lọt vào tay khối cộng sản.
Năm 1988 Liên Bang Xô Viết sụp đổ, giới lãnh đạo Bắc Kinh mới nhận thấy kéo dài kinh tế tập trung là con đường bế tắc. Tuy vậy cải cách theo kiểu Nga Xô làm tan rả hổn loạn cả liên bang cũng không được, đảng cộng sản vừa lo sẽ bị mất quyền hạn vừa sợ đất nước bị chia năm xẻ bảy như thời lục quốc, điều mà người Hán không thể nào chấp nhận. Đặng Tiểu Bình đã khéo léo chấp vá hai giải pháp, vừa mở cánh cửa kinh tế cho phép tư hữu và tư doanh nhưng không hề nới lỏng uy quyền lãnh đạo tập trung vào đảng.
Khi chủ tịch Mao Trạch Đông đón tiếp tổng thống Richard Nixon thì giới tư bản đã nhìn Trung Quốc như một thị trường tiêu thụ khổng lồ - câu nói thông thường vào thập niên 70-80 là chỉ cần mỗi người dân Tàu uống một lon thì doanh vụ của Coca Cola tăng lên 1 tỷ. Nhưng cánh cửa mậu dịch mở ra, giới tư bản lại khám phá một đội ngũ nhân công dồi dào, rẻ tiền và siêng năng. Chiến tranh lạnh chấm dứt nên mối lo về chủ nghĩa cộng sản cũng hết, các chính quyền Hoa Kỳ và Âu Châu dễ dãi cho tư bản Tây Phương ồ ạt đầu tư cả về kỷ thuật tiên tiến (các con chip điện tử, máy móc nông nghiệp, ….) vừa lạc hậu (hàng hoá may mặc, đồ chơi, ….)
Một ngẫu nhiên lịch sử khi Trung Quốc đổi mới đúng vào lúc ngành Internet bùng nổ lan tràn khắp thế giới. Chỉ trong 10 năm xây dựng hệ thống tin học giao dịch giữa Đông-Tây dễ dàng qua một cái bấm chuột. Hãng xưởng đầu tư vào Trung Quốc nhưng vẫn điều hành từ Âu-Mỹ, rồi ồ ạt chở hàng hoá xuất cảng ra toàn thế giới. Giới lao động tại Hoa Kỳ có lo mất việc làm nhưng bù lại, xí nghiệp ngày càng lời, đồ tiêu dùng ngày càng rẻ nên dân chúng cũng không ta thán gì nhiều. Hiệu năng sản xuất của Trung Quốc kèm giá hàng không tăng đã giúp Hoa Kỳ giữ lạm phátở mức độ thấp 2-3% trong suốt cả thập niên. Khía cạnh khác khi Trung Quốc tạo ra quá nhiều tiền của nhưng không biết gởi vào đâu nên mua công phiếu của Hoa Kỳ là chỗ an toàn, nhà nước Mỹ có điều kiện tiêu xài phung phí thâm thủng ngân sách mà tiền bạc vẫn dồi dào để dân chúng mua nhà cửa, sắm sửa tiêu xài sung sướng thì đúng là đôi bên cùng hưởng lợi.
Chúng ta phải công tâm nhìn nhận trong 20 năm cường quốc Trung Hoa bành trướng nhưng chưa hề đem quân xâm chiếm ai, trái lại dân chúng họ làm việc cật lực ngày đêm, phục dịch thế giới và nhất là Hoa Kỳ. Nhưng khi họ giàu mạnh sẽ đổi thái độ, như trong 5-3 năm nay đã công khai ra mặt chèn ép Việt Nam.
Người viết trước nay vẫn không tiêu xài phung phí (theo tiêu chuẩn Mỹ) vậy mà cách đây 2 tháng khi dọn nhà, đồ đạc không dùng đến chất chồng phải mất 6 tuần mới soạn bỏ hết! Vậy mới thấy người Hoa làm việc cật lực, biến đất nước đẹp đẽ của họ thành một đống rác của thế giới. tạo ra của cải dư thừa cho dân Mỹ mua sắm rồi không xài, tới lúc đem ra bỏ rác cũng phát mệt - dùng từ ngữ kinh tế là chính sách phát triển không bền vững, còn nôm na là bộ mặt thật của nền mậu dịch toàn cầu.
Khi người viết đọc về vụ Bô-Xít không khỏi nhớ đến một bản tin về hảng xưởng Trung Quốc đầu tư khai thác quặng mỏ tại Phi Châu. Họ đem công nhân sang vì dân Tàu ăn ít mà lại làm việc siêng năng hơn người bản xứ! Nếu so sánh Trung Quốc ngày nay và thực dân trước đây: Pháp chiếm đóng lãnh thổ, cho người qua làm chủ nhân bắt dân Việt lên rừng xuống núi làm chết sống tại các đồn điền; còn người Hoa làm cả chủ lẫn thợ; kết quả là người Việt vừa mất tài nguyên vừa không có công ăn việc làm, nhưng nhà nước và cán bộ thu vào món tiền béo bở, thì chúng ta phải trách mình chớ không trách người ngoài.
Từ Âu-Mỹ sang Phi, Úc nơi nào cũng tràn ngập vật dụng tiêu dùng từ Trung Quốc nên các hình thức chống đối như đòi tẩy chay hàng hoá đều vô hiệu quả; nếu thực hiện thì giá quần áo, giày dép, đồ điện tử, xà bông khăng tắm… giá cả tăng vọt; riêng tại Hoa Kỳ, các cửa hàng được người Việt yêu chuộng như Target, Wal-Mart sẽ bị thiệt hại nặng nề và đóng cửa. Nhưng mặt trái là thế lực Trung Quốc hoàn toàn giới hạn vào việc cung cấp hàng rẻ mạt cho thế giới. Không ai đánh giá cao nền tổ chức xã hội và nền văn hoá hiện đại của Trung Quốc. Không một ai nhìn về Bắc Kinh và bị thu hút như đối với các thành phố Rome, Paris, New York, Mecca, hay khi Moscova còn là trung tâm điểm của chuyên chính vô sản. Trung Quốc là một người khổng lồ bắp thịt nhưng thiếu vẻ đẹp, giống như Mông Cổ và Phát Xít, hùng mạnh nhưng bị chê bai; ba đế quốc này cùng chia sẻ điểm tương đồng là phát triển từ mặc cảm thua thiệt thay vì là một cái nôi cho nền văn minh nhân loại.
Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh hiểu rõ là họ không có những đồng minh chân chính, những dân tộc cùng lý tưởng. Chơi với các nhà cầm quyền Iran, Venezuala, Nga, Pakistan, Miến Điện, Việt Nam vì quyền lợi nên ngay cả khi thân thiện cũng dùng thủ đoạn mà không hề tin tưởng lẫn nhau. Thế giới mua hàng rẻ nhưng ai cũng sợ Trung Quốc thực sự trở thành một đế quốc quân sự và chính trị. Cho nên Bắc Kinh ở thế rất khó là ngay cả một phiêu lưu quân sự nhỏ nhoi nào ra khỏi biên giới cũng bị cả thế giới xem như bước đầu bành trướng, họ sẽ gặp phản ứng đồng loạt và dữ dội, và có thể bị thiệt hại nặng nề về kinh tế. Người viết đề nghị nhà cầm quyền Hà Nội nên suy nghĩ rất kỹ về điểm này, rằng dù không hải quân Trung Quốc mạnh thập bội Việt Nam nhưng họ không có thế chính trị để phiêu lưu quân sự, chúng ta nên dựa vào đó để có chính sách cứng rắn bảo vệ lảnh hải mà không sợ bị Trung Quốc tấn công.
Vì thiếu sức hấp dẫn của ý thức hệ nên Bắc Kinh không có nhiều khả năng xoay sở, không lợi dụng được khủng hoảng tại Âu-Mỹ để bành trướng thế lực. Khi Hoa Kỳ chưa tìm lối thoát trong tranh chấp với khối Hồi Giáo cực đoan thì ngược lại Bắc Kinh cũng không tạo được thêm ảnh hưởng chính trị ở vùng Trung Đông ngoại trừ ve vãn Iran, cho dù biết rỏ giữa hai nước không có một quan hệ tương đồng nào cả. Khi Hoa Kỳ rơi vào khủng hoảng kinh tế thì Bắc Kinh ấm ức đòi hỏi thay thế đồng đô la bằng một đơn vị tiền tệ quốc tế khác, cho dù biết rằng các nước ủng hộ đề nghị này như Brazil, Nga đều điêu đứng với hàng hoá Trung Quốc tràn lan nên không dại gì hợp tác giúp Bắc Kinh có cơ hội thao túng thêm nền kinh tế của họ.
Trung Quốc là một người khổng lồ không có trái tim nhưng lại có bộ óc hướng ngoại. Đảng cộng sản lo sợ mở cánh cửa kinh tế lại du nhập các quan niệm dân chủ, nhân quyền, đe doạ quyền lãnh đạo độc tôn của họ. Dân chúng Trung Hoa phần nào có tăng về tự hào dân tộc, nhưng mặt khác lại yêu chuộng nếp sống, thời trang, âm nhạc, phim ảnh và nền khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ và Âu Châu.
*** Phần trên viết về các điểm yếu của Trung Quốc thì dưới đây xin đề cập đến thế mạnh của họ. Thế giới không thể nào đánh giá thấp về tiềm năng của dân tộc Trung Hoa. Thế giới đã rung chuyển khi Trung Quốc hiện chỉ dùng 1/3 năng suất - của 300 triệu người sống miền ven biển, thì không ai cóthể tưởng tượng được tác động như thế nào khi số dân còn lại 800 triệu người tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Hàng hoá Trung Quốc hiện bị chê rẻ tiền và thiếu phẩm chất. Nhưng xin nhớ lại 60 năm trước đây hàng Nhật cũng liệt hạng kém; 15 năm trước đồ Nam Hàn bị chê bai. Giờ đây các đại công ty Sony, Panasonic, Samsung, LG sánh ngang hàng với bất cứ một đại xí nghiệp nào của Âu Mỹ. Ý chí của người Hoa không chỉ giới hạn làm nhân công rẻ cho thế giới mà họ đang ồ ạt đầu tư vào thành phần ưu tú cho nghiên cứu, sáng tạo. Người viết nghĩ rằng chỉ khoảng 20 năm nửa Trung Quốc sẽ có những công ty tên tuổi lớn hàng đầu trên thế giới.
Nhật Bản, Đại Hàn khi lớn mạnh chuyên về sản xuất hàng hoá chất lượng cao mà bỏ dần thị trường phía dưới. Trái lại Trung Quốc với nguồn nhân lực vô tận sẽ phát triễn song song cả hai hướng: hàng tốt xuất cảng sang Âu-Mỳ; còn đồ rẻ tiền, phẩm chất kém lại đổ tràn ngập trong thị trường nội địa và các nước kém mở mang như Việt Nam, Cam Bốt, hay ở Phi Châu. Nói nôm na, thượng vàng hạ cám, cở nào họ cũng vét sạch.
Từ hơn 30 năm nhiều nhà quan sát đã tiên đoán đảng cộng sản Trung Quốc sẽ mất quyền lãnh đạo độc tôn một khi dân chúng trở nên giàu có, hiểu biết. Trường hợp này vẫn có thể xảy ra; nhưng đồng thời người viết nghĩ rằng các nhà quan sát Tây Phương không hiểu được mức độ nhẫn nhục chịu đựng của người dân Tàu. Họ trải qua hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến; họ mất nước hơn 200 năm vào tay người Mãn Thanh; họ tủi nhục vì bị Âu Châu và Nhật Bản đánh bại; họ chịu đựng bần cùng dưới chính sách công nông, cải tổ ruộng đất và cách mạng văn hoá. Lần đầu tiên từ nhiều trăm năm người Hoa có hy vọng thực sự rằng đất nước của họ sẽ tiến lên hàng nhất nhì trên thế giới, không bởi lời tuyên truyền giả dối về “đỉnh cao trí tuệ” mà bằng ý chí và năng lực làm việc; họ tin rằng con cái của họ sẽ có tương lai sáng lạn hơn các thế hệ trước. Trong hai giả thuyết hoặc người Hoa sẽ chấp nhận sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản như họ đã nhẫn nại chiụ đựng hàng ngàn năm để tránh không rơi vào hổn loạn và vấp phải các bước thụt lùi cho sự phát triễn; hay họ sẽ hấp thụ những tư tưởng mới, đòi hỏi các quyền lợi chính trị đa nguyên khi nền kinh tế mở mang - người viết không có tiên liệu được tương lai.
***
Phần phân tách bối cảnh toàn bộ giữa Trung Quốc và thế giới; nhưng hoàn cảnh đặc thù với Việt Nam thì lại rất khác. Đa số thế giới muốn hợp tác với Trung Quốc trong quá trình tiến bộ chung mà không vướng vào các tranh chấp “nóng”. Riêng Việt Nam vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử đặc thù nên gần như sự phát triễn nào của người láng giềng phương Bắc cũng có thể là một mối đe doạ cho dân tộc, giới lãnh đạo phải khôn khéo vận dụng chiều hướng chung hoà bình và phát triễn của nhân loại nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Trước hết chúng ta phải nhìn nhận vài tác động tích cực của Trung Quốc vào Việt Nam. Hà Nội đã khôn khéo chọn con đường Đổi Mới theo kiểu mẫu Trung Quốc thay vì khép kín như Cuba và Bắc Hàn nên kinh tế phát triển ngoạn mục trong nhiều năm liền, đời sống người dân không còn bần hàn rách nát như xưa, và xã hội lại có dịp tiếp cận với nền văn minh va quan niệm tiến bộ trên thế giới. Hàng hoá Trung Quốc rẻ giúp cho đất nước tiến nhanh vào con đường hội nhập (máy điện toán, điện thoại di động, …) và khiến người Việt tăng tiêu thụ (quần áo, giày dép, thời trang, ….)
Tại Âu-Mỹ ít nhất còn có tiếng nói của Hành Pháp, Lập Pháp, các nghiệp đoàn bảo vệ tính cạnh tranh của xí nghiệp và công ăn việc làm của dân chúng; còn được các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu thụ cảnh giác về phẩm chất độc hại. Riêng đối với các nước thiếu quyền tự do ngôn luận thì Trung Quốc cấu kết với giai cấp lãnh đạo để đổ tràn hàng hoá mà không hề bị kiểm soát: hàng rẻ, nguy hiểm cho người tiêu dùng (nhưng đồng thời chính các công ty của người Việt cũng bán hàng chất lượng xấu cho người Việt); xí nghiệp bản xứ bị sức ép của công ty Trung Quốc không có cơ hội ngoi lên; giá công nhân lúc nào cũng rẻ mạt vì không học được tay nghề mới, nay lại còn phải cạnh tranh với xuất khẩu lao động từ Trung Quốc, lương bổng đã thấp nhưng năng xuất làm việc lại không thua ai! Thêm vào đó buôn lậu là tệ nạn không lường được: Việt Nam thâm thủng 10 tỷ đô-la trong cán cân mậu dịch chính thức, thì có lẽ còn thua thiệt thêm 10-15 tỷ đâu đó vì hàng lậu. Hàng lậu giá rẻ, lại không phải chiụ thuế thì ai có thể cạnh tranh nổi.
Tác động môi trường của Trung Quốc lên các nước láng giềng cũng không nhỏ. Đây là một anh khổng lồ cần được tiếp tế nguyên vật liệu nuôi dưỡng cho bộ máy phát triển: họ đã xây những đập thuỷ điện to lớn ở thượng nguồn các sông vùng Đông-Á tạo ra ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng xuống hạ nguồn và cho chính đất đai của họ. Khi cần khai thác quặng mỏ một cách chính thức thì Trung Quốc vừa mua chuột, vừa áp lức nhóm cầm quyền tại Phi Châu, Việt Nam, Lào, Cam Bốt để thầu với điều kiện thuận lợi, giá rẻ mà lại không có các điều kiện gắt gao bảo vệ môi trường; còn nếu khai thác lậu được thì lại càng dễ, tha hồ mua và phá hoại rừng núi, động vật, khoáng sản như thang đá … mà không bị ai kiểm soát.
Tác động trực tiếp nhất đến Việt Nam là lãnh hải vì Trung Quốc muốn kiểm soát các tài nguyên và con đường biển vùng Đông Nam Á. Chính sắc của Bắc Kinh là mua chuộc hay hù doạ nhóm cầm quyền vốn mưu đồ quyền lợi bè phái và cá nhân; dùng áp lực kinh tế tạo ra các cơn khủng hoảng giả tạo về xăng, gạo, trong thị trường chứng khoáng và địa ốc mỗi khi có những mối bất đồng.
Để kết luận, người viết xin đề nghị 4 đối sách với Trung Quốc sau đây:
1. Đàm phán về thương mại song phương để hàng Trung Quốc không tràn ngập thị trường trong giai đoạn nền công nghệ của Việt Nam cần được bảo vệ để phát triển; khi tình trạng thất nghiệp còn cao và lương bổng thấp; đồng thời kiển soát bảo vệ chất lượng hàng hoá tối thiểu không có tính độc hại cho người tiêu thụ.
2. Ngăn chận các đường giây buôn lậu qua ngỏ biên giới.
3. Minh bạch hoá tiến trình đấu thầu xây dựng đường xá, cầu cống và khai thác tài nguyên thiên nhiên; đối xử không phân biệt giữa các công ty Trung Quốc, Âu-Úc-Mỹ-Nhật.
4. Cứng rắn với Trung Quốc trong việc bảo vệ lảnh hải và quyền hạn của dân Việt Nam khai thác tài sản đất nước mình.
Trung Quốc dù có ưu thế tuyệt đối về không hải lực nhưng không dám phiêu lưu quân sự vì sẽ gặp sự chống đối của toàn thế giới và hứng chiụ các hậu quả không lường về kinh tế, có thể dẫn đến sư sụp đổ về chính trị, nên Việt Nam không có lý do gì phải sợ Trung Quốc ngoài trừ vì mất quyền lợi cá nhân hay bè phái.
Trich: Đàn Chim Việt Online
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 11:11:56 GMT 9
Ái nam ái nữ - truyền thuyết và khoa học
Theo thần thoại Hy Lạp, loài người gồm 3 giới: đực, cái và vừa đực vừa cái. Vì làm cho thần Zeus nổi giận nên nhân loại bị trừng phạt bằng cách tách từng người ra làm hai nửa: chỉ là nam hoặc là nữ. Sự chia cắt đó khiến loài người luôn tìm kiếm một nửa của mình, tạo nên hiện tượng mà ta gọi là tình yêu.
Truyền thuyết về những người có giới tính mập mờ đã xuất hiện từ thời cổ đại. Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai: Hermaphrodite. Một nữ thần khác yêu Hermaphrodite nhưng bị khước từ nên đã có lời ước nguyện là cơ thể của 2 người được nhập làm một. Điều mong ước đó đã được chấp thuận, làm xuất hiện con người vừa là nam vừa là nữ. Hình tượng được thể hiện như một người vừa có * vừa có dương vật. Thần thoại Hy Lạp cũng nói đến Tiresias là người mà theo huyền thoại khi thì là đàn ông khi thì là phụ nữ.
Trong sinh học, trạng thái vừa đực vừa cái một cách tự nhiên có thể thấy ở một số loài, ví dụ con sên khi là đực khi là cái trong suốt cuộc đời của nó. Thời cổ đại, người ta coi những trẻ có "giới mập mờ" là kẻ có kỳ tích sự nổi giận của các thần; và họ bị giết ngay. Cho đến gần đây, cách hành xử này vẫn tồn tại ở một số nước. Tuy nhiên một số trường hợp giới tính mập mờ lại được coi là mô hình của sự trùng hợp những yếu tố đối lập, quy tụ sức mạnh thần bí và tôn giáo gắn với mỗi cá thể mang 2 giới. Trong trường hợp này, cá thể được trao cho những quyền năng của cả 2 giới bằng nhiều thực hành có tính nghi thức, đặc biệt là sự thay đổi trang phục.
Trước đây, nhóm dân số có giới tính mập mờ thường gọi là ái nam ái nữ. Nếu xảy ra cho một gia đình, điều này gây ra nhiều sự lo lắng, thậm chí kinh hoàng. Có nhiều lý do để cần quan tâm: các bậc cha mẹ sinh con có giới mập mờ sẽ phải nuôi dưỡng, giáo dục như thế nào để không tổn thương đến sự phát triển tâm lý và vai trò xã hội của chúng; các thày thuốc cần nhúng tay vào vào thời điểm nào để đáp ứng đúng nguyện vọng của trẻ; tương lai của những trẻ có giới mập mờ sẽ ra sao nếu không được nhúng tay vào... Ngoài ra còn nhiều vấn đề cần giải đáp khác và chỉ có sự hiểu biết mới có thể cải thiện phẩm chất sống cho nhóm dân số này.
Thuật ngữ ái nam ái nữ (hermaphrodite) hầu như không còn được dùng nữa vì không phù hợp. Giới y học đề nghị dùng một thuật ngữ thay thế là giới trung gian (intersex), giới mập mờ hay lẫn lộn (ambigous androgyne). Các thầy thuốc trước đây tin rằng đường sinh dục là dấu hiệu chính yếu để xếp con người thuộc một giới nào đó. Vì vậy, họ đã đặt ra một loạt tên gọi không dựa trên hiểu biết về nhiễm thể học, nội tiết học hay bào thai học, và phân những người có giới tính không rõ thành nhiều loại như "ái nam ái nữ giả kiểu nam", "ái nam ái nữ giả kiểu nữ" hay "ái nam ái nữ đích thực".
Chỉ khi nào cả 2 tuyến sinh dục (cả tinh hoàn và buồng trứng) tồn tại trên một cá thể mới có thể gọi là ái nam ái nữ đích thực, điều này không thể xảy ra, trừ phi có sự kiện về nhiễm thể học và cũng rất hiếm. Những người này có thể sống được nhưng không thể sinh sản và giới hạn về khả năng tình dục vì các hormore nam đã triệt tiêu tác dụng của các hormore nữ và ngược lại.
Nhiều hình thái bệnh lý khiến trẻ sinh ra đã có cơ quan sinh sản không phù hợp với định nghĩa về nam hay nữ. Ví dụ một trẻ sinh ra bề ngoài là gái nhưng phần lớn cấu trúc giải phẫu bên trong cơ thể là nam. Tuy nhiên, cũng có trẻ sinh ra với cơ quan sinh dục ngoài không rõ nam hay nữ: ví dụ trẻ gái sinh ra với âm vật to hay không có cửa vào âm đạo; hoặc một bé trai sinh ra với dương vật nhỏ rõ rệt hoặc có bìu tách đôi giống như 2 môi lớn. Có khi trẻ sinh ra với cấu trúc gene hình khảm nên một số tế bào vừa có cặp nhiễm sắc thể giới XX và một số khác lại có cặp nhiễm sắc thể giới XY.
Giới mập mờ có thể do những rối loạn về thể nhiễm sắc hay hormore gây ra; thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau về mặt thể chất. Đây mặc dù là một bệnh bẩm sinh nhưng không phải lúc nào cũng bộc lộ ra ngay khi đẻ. Đôi khi tình trạng giải phẫu mập mờ về giới chỉ khám phá ra khi đến tuổi dậy thì hoặc tuổi trưởng thành do không thấy sinh sản được. Thậm chí có người đến khi chết già, qua giải phẫu thi thể người ta mới tình cờ biết là có giới không rõ ràng. Một số người chung sống suốt đời với tình trạng giới mập mờ mà không ai biết (ngay cả chính họ).
Có phải người giới tính mập mờ nào cũng có cơ quan sinh dục khó nhận biết là nam hay nữ? Câu trả lời là không. Cơ quan sinh dục ngoài có khi mập mờ nhưng cũng có khi hoàn toàn giống nữ hay nam. Ví dụ, bé gái sinh ra với cặp nhiễm sắc thể XY và mắc hội chứng không nhạy cảm với androgeăcsex có cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nữ. Và một số trẻ sinh ra với cặp XX nhưng có hội chứng quá sản bẩm sinh đường thượng thận thì cơ quan sinh dục ngoài hoàn toàn kiểu nam. Lớn lên, dĩ nhiên trẻ sẽ nhận thấy sự khác biệt và khi đó nó sẽ tự quyết định thuộc giới nào dựa trên cảm nhận về bản sắc giới. Y học hiện đại và tâm lý học có vai trò quan trọng để bảo đảm quyền được chuyển giới cho một số người giới mập mờ và rối loạn bản sắc giới.
Nhân cách của người có giới mập mờ thế nào? Còn tùy theo nguyên nhân thực thể; bất thường nặng gây tâm lý trả giám, trí tuệ chậm chạp. Có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ có giới mập mờ không được nhúng tay vào ngoại khoa vẫn có thể lớn lên bình thường. Y văn đã từng nêu 2 trường hợp phụ nữ đã lớn lên với âm vật to; ngay cả con trai có dương vật nhỏ cũng có thể trưởng thành bình thường, nếu không nhúng tay vào ngoại khoa và được nuôi dưỡng, giáo dục đúng đắn.
Có thể khai sinh là trai hay gái cho cá thể có giới mập mờ mà không cần nhúng tay vào ngoại khoa? Thông thường, muốn quy định một trẻ giới mập mờ là trai hay gái thì cần làm một số thăm dò về hoóc môn, nhiễm thể, điện quang và tham khảo ý kiến thầy thuốc về giới dễ có ở trẻ khi trưởng thành. Ví dụ, tuyệt đại đa số trẻ bị hội chứng không nhạy cảm hoàn toàn với androgen khi lớn lên cảm thấy mình là nữ và nhiều trẻ phì đại âm vật với cặp nhiễm sắc thể XY sẽ lớn lên với cảm nhận mình là nam. Hội nghiên cứu về giới mập mờ Bắc Mỹ (ISNA) chủ trương quy định cho trẻ sơ sinh có giới mập mờ thuộc nam hay nữ nhưng đây chỉ là bước chuẩn bị; vì sau này trẻ có thể cho rằng người ta đã quy định lầm giới cho mình và muốn chuyển sang giới khác.
Trẻ có biểu hiện giới mập mờ có tỷ lệ chuyển giới cao hơn rõ rệt so với dân số chung. Đó là lý do chính yếu không nên nhúng tay vào ngoại khoa sớm khi chưa có sự đồng ý của họ. Cơ quan sinh dục đã tạo hình từ nhỏ sẽ rất khó sửa lại, nếu như không muốn nói là không thể. Vì vậy, việc nhúng tay vào ngoại khoa để sửa chữa lại cơ quan sinh dục nên được trì hoãn đến độ tuổi mà trẻ có thể cảm nhận mình thuộc giới nào và tự quyết định.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 31, 2010 3:35:06 GMT 9
Từ chuyện thành công qua chuyện... sex 29/10/2010 Nguyễn Linh Giang/Viễn Đông Tuần trước tôi có đưa ra chuyện cô Kim Kardashian, người nổi tiếng nhất trong show “Keeping up with the Kardashians”, một show “thực trạng” về cái gia đình cọc cạch xinh đẹp của cô. Cô hiện được coi là một phụ nữ quá thành công, dù chẳng tài cán (theo tiêu chuẩn Hollywood) chi cả. Thực ra chữ thành công cần được định nghĩa rõ ràng. Ở nước Mỹ hiện nay và ở cả rất nhiều nơi trên thế giới, “thành công” thường được định nghĩa là: làm ra nhiều tiền (bằng cách nào không cần biết), nổi tiếng (bằng cách nào cũng không cần biết), ăn diện sexy, đẹp, theo thời khiến nhiều người nể phục, mơ ước. Theo định nghĩa này thì rõ ràng cô Kim là một người thành công tột bực. Trái với điều mọi người nghĩ là cô không có tài cán và đầu óc, cô rất thông minh và biết tận dụng những lợi điểm của mình. Trên thế giới có lẽ có rất nhiều người muốn theo gót cô và thành công giống cô. Điển hình là những cô sinh viên Trung quốc xinh đẹp của những viện đại học nước này. Các cô đang trên đường học... đại để có được kiến thức và bằng cấp hầu thành công trong xã hội. Cái định nghĩa thành công này có hơi khác thành công trên, vì nó còn kèm theo nhiều yếu tố khác nữa, thí dụ như địa vị, sự kính nể của mọi người. Nhưng các cô lại cũng muốn thành công theo cái nghĩa của cô Kim ngay lập tức, tức là có tiền rủng rỉnh, ăn diện tha hồ. Thì cũng dễ thôi, một khi các cô có sắc đẹp và tuổi trẻ, hai điều kiện để hành cái nghề xưa như trái đất mà ngày nay được gọi là “escort”, tức người làm bạn với các ông để các ông được “giải trí”; đổi lại các ông sẽ phải chi ra khá bộn cho thì giờ và nhu cầu ăn diện của các cô. Đa số các cô gái này có lẽ không khác gì cô Ashley Dupre của Mỹ quốc. Cô này cũng là sinh viên, ca sĩ tài tử đồng thời là gái gọi hạng sang, người đã làm ông thống đốc tiểu bang New York Eliot Spitzer phải “xin nghỉ dài hạn” trong niềm hổ thẹn vô biên, sau khi chi đẹp để mua dịch vụ của cô. Các cô đều coi nghề “escort” như một cái nghề ngắn hạn, giúp các cô trang trải chi phí ăn diện trong những năm dùi mài kinh sử. Sau khi ra trường, có việc làm tốt, có địa vị cao, thì những ngày tháng này sẽ chỉ là một trang sách của cuộc đời vừa được lật qua, không cần nhớ tới. Cái quan niệm “hiện đại” này là kết quả của cuộc cách mạng tình dục của cuối thế kỷ 20 qua đầu thế kỷ 21. Gọi là cách mạng tình dục là vì sau cùng, thì sex đã ra khỏi cái vỏ của nó để hiện nguyên hình trần truồng, không che đậy. Sex bây giờ... bình thường! Như một nhu cầu của con người, thế thôi! Đói thì ăn, khát thì uống, thèm... yêu thì cứ yêu. Chỉ là việc thỏa mãn một nhu cầu. Đàn ông có sự đòi hỏi nhiều hơn, thì phải đành bỏ triền ra mua sex. Và đàn bà thì sẵn sàng bán. Bồ bịch với nhau không có chuyện mua bán, thì là chuyện thỏa mãn nhu cầu cho nhau, chẳng ai nợ ai. Nhìn vào giới ca sĩ tài tử thì thấy ngay, cặp nhau rồi bỏ nhau như cơm bữa; mà cũng chẳng cứ giới tài tử, giới nào cũng vậy thôi. Tài tử thì họ chỉ là một tấm gương phản ảnh rõ hơn, vì cuộc đời của họ khó mà che đậy được ở thời nay. Đến đây tôi lại nhớ đến anh tài tử David Arquette. Có thể nhiều người trong chúng ta chưa hề nghe tên anh, nhưng đối với người Mỹ thì anh cũng khá nổi tiếng. Anh lấy cô vợ hơn anh 1,2 tuổi gì đó, nhưng chín chắn hơn anh nhiều. Sau 11 năm lấy nhau, họ chính thức đưa nhau ra tòa ly dị. Cô vợ tuyên bố: Tôi không muốn làm má anh nữa, tôi chỉ muốn làm vợ. Anh lên đài radio kể lể đủ thứ về chuyện tan vỡ, khiến cô vợ quá bực mình. Nhưng phải công nhận là anh này thành thực, vì anh nói ra đủ khúc nôi của cuộc sống vợ chồng của anh, kể cả việc hai vợ chồng không làm chuyện ấy đã nhiều tháng qua, và từ khi tuyên bố chia tay, anh đã lên giường với 2 cô liên tiếp. Và anh tuyên bố: thì chắc ai cũng biết vì “hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đàm mây bàng bạc”, thuốc ngừa cúm lại được nhắc nhở vang vang trên radio, TV... Vậy ai là người nên chích thuốc này? Hiện nay, từ Nên tháng tuổi trở lên là được khuyên nên chích ngừa cúm, không giới hạn tuổi nào cả. Nhưng những trường hợp sau đây càng nên chích ngừa cúm:Nhưng tôi không thể nào quên được cái tình cảm chan chứa, ánh mắt thương yêu chúng tôi trao cho nhau khi “gần gũi”. Thì ra cuối cùng người ta cũng nhận ra sex là một cái gì khác hơn sự cọ xát của hai thân thể.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:17:13 GMT 9
Chữ Trinh đáng giá bao nhiêu? 18/11/2010 Hoàng Thanh/Viễn Đông Nếu có ai đó hỏi bạn câu hỏi trên, thì bạn nghĩ sao? Có lẽ sẽ có nhiều lời giải đáp khác nhau, nhưng chắc chắn một điều là bạn sẽ rất do dự - trước khi có được câu trả lời, như tôi đã từng do dự... Tuần rồi, gặp lại cô bạn cũ trong một quán ăn. Lan mới qua Mỹ được vài tháng do Mẹ bảo lãnh, cho đến nay tuy đã ngoài bốn mươi, nhưng cô vẫn còn độc thân vui tính. Lâu ngày gặp lại, cả hai tha hồ tán dóc hằng trăm chuyện trên trời dưới đất. Lan kể lể: “Bồ biết hôn, mới đây có một chuyện xảy ra làm mình quê muốn độn thổ đi được... ”. Tôi hỏi: “Chuyện gì?”. Và thế là Lan tâm sự: Tuần trước là lần đầu tiên mình đi khám phụ khoa. Cô phụ tá bảo mình điền tờ khai với các câu hỏi về bệnh tình và các chứng bệnh di truyền trong gia đình, các thuốc đang uống, v.v… Mình ngạc nhiên khi có một câu hỏi là, “Có còn trinh không?”. Mình đánh vô chỗ có dấu Yes. Khi đến phiên mình, cô phụ tá hỏi: “Em... chưa gì hết hả?”. Mình gật đầu: “Đúng, sáng nay em chưa hề ăn gì cả…”. Cô ta cười: “Không, không, khám này đâu cần nhịn ăn đâu. Ý chị hỏi là… Em chưa gì... cả sao?”. Mình lại gật đầu: “Dạ, đây là lần đầu tiên em đi khám…”. Cô ta càng cười to hơn: “Không, ý chị là... em chưa có gì... có gì đó... gì đó... với ai hết sao?”. Mình chợt “thông minh đột xuất”, nên hiểu ra, gật đầu xác nhận mà thấy quê ghê, mắc cỡ gì đâu đó! Một lát sau, khi đưa hồ sơ mình qua một chỗ khác để chờ được vô khám, mình nghe chị phụ tá nói to với một cô khác trong văn phòng, “Lan Nguyễn - virgin nhe...”, làm mình xấu hổ quá, nên mình đến nói nhỏ với chị. “Chèn ơi, chị đừng la to vậy, em quê lắm chị à…”. Chị này nhìn mình cười, “À, sorry em. Bởi vì khi khám thì nếu các cô còn trinh, bác sĩ sẽ có cách khám khác hơn những ai đã có gia đình. Nhưng có gì mà quê, em phải hãnh diện mới đúng chứ. Hơn bốn chục (tuổi) mà còn trinh, thì xứ Mỹ này dễ dầu kiếm được mấy người... Chắc em qua Mỹ lúc cũng khá lớn tuổi rồi phải không? Chứ tụi nhỏ bây giờ ghê lắm em ơi...”. Kể lại cho tôi nghe, mà Lan còn đỏ cả mặt, cô quay sang tôi hỏi nhỏ: “Bộ thiệt là virgin ở xứ Mỹ đã thành hàng quý hiếm rồi sao? Ông bà mình ngày xưa thường nói, ‘Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng’, thế thì ở xứ này, nó đáng giá bao nhiêu vậy bồ?”. Gặp câu hỏi bất ngờ, tôi cứng họng, chẳng biết trả lời sao... * Quan hệ tình dục mỗi sắc tộc mỗi khác Theo “The Penguin Atlas of Human Sexual Behaviour”, thì tại Hoa Kỳ, tuổi trung bình của lần quan hệ tình dục đầu tiên là 17. Thanh thiếu niên da đen thường có quan hệ tình dục sớm hơn so với các chủng tộc khác. Và ở lứa tuổi từ 15 đến 19, thì trẻ em sống với gia đình có cả cha lẫn mẹ, thường “trì hoãn” việc mất trinh lâu hơn, nếu so với các trẻ sống trong một gia đình có hoàn cảnh phức tạp hơn (ở với một cha, một mẹ hay không có cha lẫn mẹ). Tỉ lệ các thanh thiếu niên có kinh nghiệm sớm về sex ở các gia đình có lợi tức thấp, cũng cao hơn nếu so với các bạn cùng trang lứa trong một gia đình khá giả hơn. Đến tuổi 23, thì hơn 90% đều đã có kinh nghiệm về sex. Cũng theo thăm dò này, thì trình độ học vấn có ảnh hưởng tỉ lệ nghịch với quan hệ tình dục, nghĩa là học vấn càng cao thì số tuổi có quan hệ tình dục lần đầu tiên cũng cao hơn. Kết quả thăm dò gần đây của “Add Health” cho biết, là do truyền thống của một số dân tộc, mà con cái bị cha mẹ dạy dỗ hay ngăn cấm không cho có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Thế nhưng theo thống kê của American Journal of Sociology, thì sự ngăn cấm này thường cũng chỉ có thể “trì hoãn” lần quan hệ tình dục đầu tiên khoảng chừng 18 tháng mà thôi. Và thường thì ở các thanh thiếu niên này, khi lần đầu giao hợp, thì tỉ lệ có thai lại cao hơn khác nhiều, so với các thiếu niên mà gia đình hay phong tục không cấm đoán, vì các em không hề được hướng dẫn các biện pháp ngừa thai (sử dụng bao cao su hay thuốc ngừa thai). Cũng theo kết quả thăm dò của “The American Sexual Behaviour”, hầu hết các thanh niên, cả trai lẫn gái đều rất bực mình (upset), khi bạn gái hay bản thân có thai (60 % so với chỉ 5% là vui lòng khi biết mình mang thai). Số tuổi càng nhỏ, thì các em gái càng hốt hoảng khi hay tin mình mang thai. Và cũng theo kết quả thăm dò, thì các thanh thiếu niên da trắng thường “upset” nhiều hơn các bạn cùng tuổi da đen. Cũng theo cuộc thăm dò của “Add Health”, thì thế hệ trẻ ngày nay cho việc có quan hệ tình dục trước hôn nhân là bình thường, và điều quan trọng với tuổi trẻ ngày nay là “have sex” với người mình có tình cảm và ở vào thời điểm đúng lúc. Theo tác giả Resnick từ nguồn www.guttmacher.org, thì một trong các điểm các bậc phụ huynh cần lưu ý, là khi con mình có một bạn trai hay gái từ 18 tháng trở lên, vì đó là khoảng thời gian cần thiết để “tụi nhỏ” đều sẵn sàng đi đến chỗ giao hợp do tình nguyện của cả đôi bên. Tác giả Resnick cũng có lời khuyên dành cho các bậc cha mẹ, là “nên lưu tâm và hướng dẫn con cái về các biện pháp ngăn ngừa để tránh có thai, tránh lây các bệnh nhiễm qua đường giao hợp, hơn là cứ cấm đoán, thì chỉ càng khiến con em mình tò mò, tìm hiểu, mà kết cuộc thường là sự mang thai ngoài ý muốn”. * Giá của “chữ Trinh” Nhưng nếu quay về câu hỏi “Chữ Trinh đáng giá bao nhiêu?”, thì thật khó trả lời. Theo các thống kê nói trên, thì chữ Trinh dường như không “có giá” cho lắm ở xứ sở Cờ Hoa này. Thế nhưng hiện nay ở Việt Nam và nhiều nước châu Âu, lại xuất hiện một dịch vụ mới: mua bán màng trinh nhân tạo. Điều này chứng tỏ rằng “chữ Trinh” cũng ít nhiều còn “có giá” lắm ở các nước này. Theo tin từ Hải Phòng, thì các màng trinh nhân tạo này được sản xuất tại Nhật, giá 1,2 triệu đồng/chiếc, trong khi của Hồng Kông thì 900 ngàn đồng/chiếc, nhằm phục vụ cho các khách hàng lỡ ăn trái cấm trước ngày cưới, có thể tìm lại “cái ngàn vàng” của mình. Công ty T.H. ( Đống Đa, Hà Nội ) là một đầu mối chuyên cung cấp các loại màng trinh nhân tạo cho các địa phương khác và các thẩm mỹ viện lớn trong thành phố. Giám đốc H. thao thao bất tuyệt về mặt hàng đặc biệt này, “Đơn giản lắm, nếu đã lỡ mất rồi thì tội gì phải đi may vá cho tốn kém, mà lại đau đớn. Mua sản phẩm này, trên bao bì sẽ hướng dẫn cách dùng tỉ mỉ, để đạt được hiệu quả cao nhất”. Thế còn ở những nước Trung Đông, Trung Á theo Hồi giáo như Iran, Afghanistan, Israel, Pakistan... thì sao? Có lẽ chúng ta cũng đều biết, chữ Trinh ở đây còn “mắc mỏ” hơn nhiều, có thể nói không quá đáng, là chữ Trinh nơi đây đáng giá... cả cuộc đời của người con gái. Câu chuyện về những cô gái lỡ lầm đánh mất chữ Trinh, sau đó bị đem ra để cả đám trai làng hiếp dâm tập thể, bị ném đá cho đến chết - như một tấm gương răn đe những cô gái khác, hầu như ai ai cũng đã từng nghe qua trong đời… Sau khi đi một vòng quanh thế giới, tôi lại trở về với câu hỏi của cô bạn: “Chữ Trinh đáng giá bao nhiêu?”. Theo thiển ý, từ lâu nay, “trinh tiết” bị xem như một món hàng. Mà đã là một thứ hàng hóa, thì đương nhiên nó sẽ phải tuân theo mọi luật lệ phức tạp tại “địa phương” để được xuất hay nhập, và sẽ phải tuân theo quy luật cung cầu, cùng thể chế nơi xứ sở đang cho lưu hành món hàng đó. Ở các nước Trung Đông, với các phong tục, truyền thống vô cùng khắt khe, thì chữ Trinh là một món hàng “đắt gia”, nên hễ cô gái nào lỡ mất nó không đúng người, đúng chỗ, thì có thể mất mạng và mất cả cuộc đời. Tại các nước Á Châu, có những gia đình còn giữ theo nề nếp gia phong từ ngàn xưa, thì chữ Trinh ít nhiều còn giá trị. Tuy vậy, với giới trẻ ngày nay ở Việt Nam, cùng hằng loạt phim ảnh về tình dục lan tràn khắp nơi, thì dĩ nhiên là giá cả của chữ Trinh đã thay đổi khá nhiều rồi, đã “rẻ hơn” xưa nhiều lắm, khi nhiều thanh niên đã không còn đặt nặng vấn đề này nữa. Còn các nuớc Tây Âu, đặc biệt là xứ Mỹ? Có lẽ chữ Trinh lại càng “mất giá” trầm trọng. Tuổi trẻ ở xứ này không quan tâm nhiều về vấn đề này nữa (Who cares?), dù cho cha mẹ có nghiêm cấm... Thế nhưng, nghe thế chứ... chưa hẳn là thế. Vì vẫn luôn luôn có những trường hợp ngoại lệ. Tạp chí Sun Magazine vừa đăng tin với tiêu đề hấp dẫn “Chuyện hy hữu: Còn trinh nguyên ở tuổi 106!”. Sau đây là câu chuyện có thật, về cụ bà Isa Blyth, người Anh, đã được công nhận là trinh nữ già nhất thế giới. Dù đã bước sang tuổi 106, nhưng cụ chưa từng bao giờ thuộc về ai, thậm chí cả một nụ hôn. Tâm sự trên The Sun Magazine, cụ bà Isa Blyth cho biết, cuộc sống độc thân là bí quyết giúp bà sống khỏe mạnh cho đến hôm nay. Theo một người cháu họ của cụ Isa, là bà Sheena Campbell nói: “Tôi không chắc chắn liệu đã có ai từng hẹn hò với cụ chưa, nhưng dù đã hẹn hò, thì mối tình đó cũng sẽ không bao giờ đi đến đâu cả. Cụ Isa nói rằng, cụ chưa bao giờ cần sự lãng mạn, cũng như chưa bao giờ dành thời gian cho bất kỳ người đàn ông nào”. Cụ Blyth sinh năm 1904, và định cư tại thành phố Edinburgh. Thời gian của cụ thường dành hết vào các câu lạc bộ chơi hoa và ở nhà thờ để tham gia các hội ca đoàn. Có khi cụ cũng tham gia chơi golf và làm vườn. Bà Sheena cho biết thêm: “Tôi nghĩ rằng công việc của cụ Blyth rất tuyệt vời, và cụ luôn luôn bận rộn với chúng”. Cụ Blyth có 6 anh chị em và thường dành thời gian chăm sóc họ. Đến nỗi cụ còn không có thời gian để mà... buồn. Có lẽ vì vậy mà dù đã ở tuổi 106, nhưng cụ vẫn luôn luôn sống rất khỏe mạnh với một tinh thần thoải mái”. Theo “The National Survey of Sexual Health Behavior” (HSSHB), thì chưa tới 4% phụ nữ đang sinh sống tại Mỹ còn trinh khi về nhà chồng. Nếu thế thì cô bạn “sồn sồn” của tôi phải mừng mới phải, vì cô vẫn còn là một trong số những “bảo tàng vật quý hiếm” ở xứ này. Tôi đưa cho Lan đọc bài viết về cụ Blyth và bảo “Bồ đừng lo, cứ vui sống với công việc, thì bồ sẽ không có thời gian để mà ... buồn. Rồi biết đâu chừng vài chục năm nữa, báo chí sẽ đưa tin về “Cụ già Việt Nam còn trinh nguyên ở tuổi…”. Chưa nói hết câu, thì tôi đã bị cô bạn “trong trắng” này nhéo cho một cái đau điếng... Bạn hỏi ý kiến tôi ư? Tôi không dám lạm bàn, nhưng tôi chỉ cảm thấy rất vui mừng và may mắn khi mình đã không sinh ra, hay đang không phải ở những nước, mà chữ Trinh đánh đổi bằng cả một mạng người. Đó là câu trả lời của riêng tôi, còn theo bạn thì “chữ Trinh đáng giá bao nhiêu?”...
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 12:46:56 GMT 9
CHUYỆN SAIGON XƯA KỲ VƯƠNG LÝ ANH MẬU (02/09/2011) Tác giả : TRẦN TUẤN KIỆT Việt Báo Xuân Tân Mão 2011 Lý Anh Mậu, em của nhà văn Lý Văn Sâm, là một đại kiện tướng về cờ Tướng Việt Nam. Hình bên là một trong nhiều bìa sách cờ thế của Lý Anh Mậu, trước đây được nhà xuất bản Khai Trí tại Saigon in lại rất nhiều. Đổi đời, bảng hiệu Khai Trí không còn nữa, nhưng sách cờ tướng của Mậu vẫn tái bản luôn. Thời tôi còn niên thiếu ở Sài Gòn, Lý Văn Sâm đã nổi danh như cồn trong các tuần báo, nhật báo và văn học thời chống Pháp. Tôi nhớ rõ lúc còn trẻ từng thuộc làu các câu thơ trên báo thế giới như câu chuyện Lục Quốc Tranh Hùng kể về giai thoại các ký giả, văn thi sĩ lừng danh thời đó như Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Ái Lan, Hoàng Tố Nguyên, Chim Xanh Liên Chớp... Trong truyện Lục Quốc Tranh Hùng có ghi phần I; Lý Văn Sâm bán áo nuôi con Thẩm Thệ Hà qua sông tìm bạn mới Hoặc Thích chưng ảnh Vũ anh Khanh mang họa Ham làm báo Dương Tử Giang ở tù... Vì ông anh Lý Văn Sâm nổi tiếng quá, nên Lý Anh Mậu suy nghĩ. -Ảnh nổi tiếng là văn nghệ sĩ quá rồi, bây giờ mình viết văn thì không hơn được ảnh. Vậy phải đi đường khác. Con đường ưa thích nhất của Lý Anh Mậu là chơi cờ tướng vì từ thuở bé, cậu bé thần đồng ở Biên Hòa tuy nhỏ mà chưa nhường ai một nước cờ nào hết. Tuy nhiên chơi cờ tướng thì suốt ngày ngồi còm lưng uống nước lã, Lý Anh Mậu phải tìm cách kiếm tiền để độ nhật. Vì thế nên ông xin vào tiệm hớt tóc để học nghề thầy hớt tóc, lấy rái tay. Chẳng mấy lâu đã thành thạo, ông bèn tự đóng một cái thùng cây nhỏ để đi hớt tóc dạo. Vừa kiếm cơm nuôi miệng, vừa gặp nơi nào có bày cờ tướng thì nhào vô xem cho đã hay đánh một vài ván với làng xóm cho vui. Thế là với cái thùng hớt tóc, ông len lỏi khắp thôn xóm Biên Hòa, đi tới đâu cũng rao mời: -Hớt tóc dạo đây. -Hớt tóc lấy ráy tai đây! Cứ thế mà ông kiếm cũng đủ tiền cho tấm thân gầy nhom, cái bụng lép xẹp của mình sống qua ngày. Không nổi tiếng văn nhân nhà báo như người anh, nhưng ông được các vị lão thành trong làng kỳ thủ rất trọng vọng yêu mến. Ngày nọ ông cầm trên tay một ổ bánh mì baguet (bánh mì đũa) ngồi đưới gốc cây đa to ở đình Phú Thạnh, ăn bánh mì với hai ba quả chuối già, uống mấy ngụm nước mưa múc ở nhà người dân trong xóm đình. Ngày xưa, mỗi nhà thường đặt một cái lu trước thềm để hứng nước mưa uống. Tác giả Trần Tuấn Kiệt, nhà thơ của miền Nam, hiện sống ở Saigon: Ngồi quán bên đường nhớ chuyện xưa. Dựa bên cái lu, cái vại lớn, người ta có chống một cái sào có nạng, cháng hai cháng ba, rồi móc một cái gáo dừa để múc nước. Lu nước luôn trong vắt mát lạnh như nước đá để cho người qua đường ai khát thì uống khỏi trả tiền, cũng không cần một tiếng cám ơn cám nghĩa gì. Đó là người dân Nam Bộ. Nhưng khi hiềm khích nhau, tranh tụng ruộng đất hay chuyện danh dự làng xã, có gia đình người em dành đất với gia đình anh ruột ở Cái Bè, họ lén mướn thầy bùa Chà Châu Giang thư ếm, và bỏ thuốc độc vào mấy cái lu nước uống ngoài sân để hại nhau. Từ đó dân Hậu Giang cũng ngại bùa ngãi của bọn thầy người Xiêm, cả người Ấn. Nhất là sợ người Ấn võ nghệ cao cường một mình vác cái bị vải to đi bán dạo khắp nơi. Họ bán vải lụa tốt giá rẻ, bà con nào không tiền thì mua chịu cũng được, rồi hẹn ngày vài ba tháng trả tiền sau. Nhưng đừng ai quịt của họ một đồng nào cả, vì quịt thì bị họ thư ếm cho mà chết. Có người gian tham bị ếm bụng to sình, có người bị thư cả một cây kéo vào bụng. Lý Anh Mậu biết chuyện đó, nhưng ông không sợ gì hết, cứ đi hớt tóc dạo, khát nước thì coi ai có ly nước ngoài thềm mà vào xin uống một hai gáo. Bữa đó trời nắng nóng như lửa, ăn xong ổ bánh mì dài thòn như chiếc đũa rồi thấy khát nước, Lý Anh Mậu xách thùng hớt tóc lên đi dọc theo đám hàng rào bông bụp, tìm nhà có lu nước để uống. Thời may, trong căn nhà vách bổ kho, cột lớn như cột đình, lại cất nền đá ong nhà theo kiểu Tây, có vẻ bề thế của một ông phú hộ nào đó. Trong nhà có tiếng chó sủa ra, Lý Anh Mậu vạch hàng rào nhìu vô thì thấy bốn năm ông già có vẻ kỳ lão, ăn mặc toàn gấm lụa đang đấu cờ tướng, tiếng nói cười vang ra cả ngoài mé lộ. Lý Anh Mậu xách thùng đồ nghề rao lớn: -Hớt tóc dạo có lấy ráy tai đây bà con ơi... Hớt tóc dạo đây! Phần nhiều Lý Anh Mậu chỉ hớt cho các chú học sinh hoặc đám con nít trong làng. Người lớn còn nhiều kẻ để tóc búi lên, ít ai thích hớt ngắn cho gọn Mấy ông già vừa đánh cờ, vừa nhịp quân cờ lắc cắc, vừa hù dọa, trêu chọc nhau, có vẻ gay cấn quá tay. Chàng họ Lý lúc đó mới mười bảy mười tám tuổi, độc thân sống bụi đời, lại ăn mặc lem luốc lang thang cũng chẳng kém gì cái bang ba bốn túi. Thấy đánh cờ thì phấn khích lên, giở tay đẩy cái cổng qua bên, xách thùng hớt tóc đi vào. Bất thần hai con chó đen, loại chó Phú Quốc rất khôn ngoan, hung tợn nhảy sồ ra cắn lấy quần dài của chàng Lý lôi đi. Lý Anh Mậu la hoảng: -Chó! Chó! Mấy cụ già mê chơi cờ không để ý cậu thanh niên bị chó lôi sệch vào sân rộng. Người nhà ra la đàn chó, rồi hỏi: -Ở đây có ai kêu vô hớt tóc đâu mà dám mở cổng vào nhà chứ! Lý Anh Mậu mới hoàn hồn cúi đầu nói: -Dạ... tôi xin phép bà chủ cho vô để coi đánh cờ tướng. Bà ta cũng độ trung niên, vẻ mặt lộ ra vẻ đài các, nhưng cũng là người đạo mạo hiền từ nên hạ giọng: -Vào nhà ẩu như thế, may mà con chó nó chỉ cắn quần thôi, nó dữ lắm có thể chồm lên cắn cổ đó nghen... con! Lý Anh Mậu khúm núm: -Dạ... dạ. -Thôi ra ngoài đi hớt tóc đi. Mấy ông già đánh cờ tướng khá lắm, mầy vào coi nói bậy bạ thì ăn roi đó! Lý Anh Mậu năn nỉ: -Xin cho coi một chút thôi. Tôi không nói gì đâu! -Ừ, coi bộ mầy mê cờ dữ lắm hả. Lý Anh Mậu nói: -Con thích lắm. Vừa coi vừa nghỉ chân một lát. Xin bà chủ cho con gáo nước lạnh! Bà chủ nói: -Đã đòi coi đánh cờ bây giờ lại đòi uống nước nữa chứ! Ai mà hầu dễ thế! Nói thì nói bà ta vẫn gọi một cô gái ra đem cho Lý Anh Mậu tô nước lọc, nói: -Uống thì uống đi. Cô gái trắng trẻo dễ thương cũng trạc tuổi như Lý Anh Mậu, cô trao tô nước lớn rồi hỏi tự nhiên: -Còn khát nước nữa không! -Hết khát rồi. Cám ơn cô! Thấy anh chàng tuy có bộ dạng nghèo khó nhưng ăn nói lễ độ, cô gái gật đầu một cái rồi cầm cái tô đi vào nhà trong. Lý Anh Mậu để thùng hớt tóc dưới cột nhà, đi lại gần các kỳ thủ. Đã đến lúc cờ tàn rồi, nhất là ông chủ nhà đang cầm cự với đối phương để kéo dài thời gian. Ông Ba Lân, vừa đánh vừa lắc đầu: -Ờ! ờ! Ván này hơi khó cho ta đây. Ông Kỳ là đối thủ nói: -Ráng gỡ đi ông bạn! Ông là tay chơi cờ hạng nhất ở vùng này mà. Ba Lân chơt thấy có anh chàng trai trẻ đang chăm chăm nhìn mình, bỗng hỏi: -Cậu ở đâu vào đây! -Dạ đi hớt tóc dạo, thấy đánh cờ vui quá nên cháu mới vô coi thử! Ông Ba Lân cáu lên: -Mầy con nít biết cái gì mà coi... thử chớ? Lý Anh Mậu mê cờ, cóc cần nghe ông Ba Lân cự nự. Bỗng anh thấy sáng ra một nước cờ tàn bèn nói: -Bác ơi! Bác cho con pháo bình ba rồi cho con chốt đầu lội qua sông đi bác. Ba Lân suy nghĩ một chút, bèn làm theo lời thằng bé, chợt Lý Anh Mậu cười khúc khích nói nhỏ: -Thọc cho xe xuống chiếu đi, còn chờ gì nữa. Chỉ qua hai nước cờ đã gỡ thế bí cho chủ nhân, ông Ba Lân đang chơi bỗng xoa đầu Lý Anh Mậu một cái rồi nói: -Khá lắm! Khá lắm! Ông Kỳ đối thủ của Ba Lân nói: -Chỉ tại cái thằng con nít này, không thì tao chiếu bí ổng rồi. Lý Anh Mậu cười nói: -Đó là nước pháo đôi, thế cờ "Minh tu sạn đạo ám độ trần thương" của anh chàng lòn trôn giữa chợ đó thôi. Chỉ có Hàn Tín là lòn trôn giữa chợ, nhưng giọng nói quá độc ác vừa ám chỉ khinh miệt thế cờ tồi tàn này của Ấm Kỳ, khiến ông Ấm Kỳ đổ quạu quay lại: -Thằng hôi hám này đi chơi chỗ khác đi. Nhưng ông Ba Lân cười cười nói: -Cứ để nó đứng đó, có... ăn thua gì đâu! Ấm Kỳ càu nhàu: -Cấm nói vô nói vào. Mầy mà còn nói bậy tao vả cho gãy răng hô của mầy đó. Vì gỡ được thế bí nên ông Ba Lân phấn khích lên, ăn Ấm Kỳ hai ván nữa. Đã xế trưa rồi, mệt mỏi nên họ dẹp bàn cờ để ăn cơm trưa. Nhìn thấy Lý Anh Mậu còn đứng đó, ông Ba Lân lộ hẳn cảm tình nói: -Mầy cao cờ lắm. Thích thì ở nhà tao vài ngày chơi cờ với tao nghe. Có gia đình vợ con gì chưa? Lý Anh Mậu nói: -Dạ... tứ cố vô thân! -Vậy thì tốt. Ở lại hớt tóc cho mầy thằng cháu của tao, thôi vô ăn cơm rồi hãy tính sau. Nhìn lại thấy Lý Anh Mậu lôi thôi quá nên nói: -Nè... em tên gì. Đi tắm rửa cho sạch sẽ rồi tao đưa đồ mới mà mặc. Suốt ba ngày Lý Anh Mậu ở lại nhà ông bá hộ Ba Lân, cứ ngày ngày ăn uống trà nước xong thì bàn cờ tướng bày ra đấu nhau. Có ván được, có ván thua, nhưng những thế cờ lạ lùng của chú bé Lý Anh Mậu biến hóa càng lúc càng cao, càng lạ lùng. Tuy nhiên Lý anh Mậu rất lễ độ cứ gần chiếu bí ông Ba Lân, lại mở ra cho ông ta đánh tiếp. Càng đánh càng say cờ, họ quên ăn quên ngủ. Có lần bà chủ ra nói với ông Ba: -Nè... bộ ông muốn "ăn chay" luôn hả! Bản vẽ Duy Thanh 2010 Ông Ba khẽ cười nói: -Thì bà chờ tui hết ván cờ này đã. Bà có mệt... thì đi nghỉ sớm đi. Cô gái ban đầu cho Lý Anh Mậu uống nước cũng ra đứng coi. Cô có vẻ hiểu biết về cờ tướng và cũng xen vào định nước cờ với cha. Đặc biệt là khi có cô gái, Lý Anh Mậu chơi cờ cứ thất thế và chịu thua ông già luôn. Chợt cô nói: -Ảnh thả... đó ba ơi! Đừng chơi nữa! Ông già ngẩng lên cười: -Mầy thả cờ... cho tao ăn hả! Lý Anh Mậu hấp tấp nói: -Dạ... đâu có, bác đánh thắng con thật mà! Sau ván cờ đó, ông Ba Lân vào nói với vợ: -Thằng Mậu thông minh, giỏi lắm, lại đánh cờ với tôi có vẻ lịch sự, nó luôn nhường tôi vài ba nước! Tôi nghe nói nó là em của nhà văn Lý Văn Sâm nổi tiếng nữa, đâu có tầm thường! Bà nói: -Cái ông này làm gì mà hỏi lý lịch nó dữ vậy ông? Ông Ba Lân nói: -Ý tôi muốn nói với bà là con gái mình cũng rất nể phục nó. Con nhỏ xưa nay không hề nể phục ai cả! Bà cười: -Thôi... tôi biết rồi! vậy ông muốn bắt thằng Mậu này lại... cho ở rể chứ gì! Ông Ba nói: -Nhưng phải thử cái tài nó có thực hay không đã. Ngày mai tôi mở hội cờ tướng, bà lo các thức ăn đãi tiệc mọi người đi. Ngày hôm sau, ông Ba Lân cho bày ra ba bàn cờ tướng mới tinh. Ông cho đầy tớ đưa thư mời như có vẻ thách mọi người xa gần nổi danh cờ tướng khắp nơi về tranh giải. Chẳng bao lâu hội cờ tướng mở ra, có cả mấy ông chức sắc trong làng đến. Người dân nghe có hội cờ bỏ cả công việc vườn tược, đồng áng đến xem hội rất đông. Hội cờ ba ngày chọn ra ba Kỳ thủ đấu nhau, cuối cùng chọn lại một kiện tướng và cho Lý Anh Mậu ăn mặc đồ mới tinh, lại chít khăn đóng để ngồi chính vị. Lần lượt Lý Anh Mậu hạ hết từng người, đến lúc đấu với ông Ấm Kỳ thì có ý nhường ông một nước để thủ hòa! Thế là tiếng tăm Lý Anh Mậu trong giới cờ tướng nổi lên như cồn, ai cũng đồn đại, đến tai ông anh Lý Văn Sâm. Lý Văn Sâm nói với anh em: -Thằng đó suốt đời nghèo khổ vì cờ! Ông Ba Lân cho con gái nâng khăn sửa túi cho chàng rể phiêu bạt giang hồ. Nhưng chẳng bao lâu, kỳ thủ Lý Anh Mậu lại chán cảnh ngồi không, lại xách thùng hớt tóc dạo từ bỏ gia đình cha mẹ vợ mà ra đi. Thời đó có một kỳ thủ đệ nhất ở Bắc Hà vào thi đấu ở hội chợ Vườn Ông Thượng còn gọi là Vườn Bờ rô, kỳ thủ này sau khi hạ gần hết các tay cờ tướng miền Nam thì đụng với Lý Anh Mậu, ba ván cờ quyết tử lừng danh nhưng đều phải hạ tay bái phục chàng thanh niên kỳ tài. Vừa lúc đó hội cờ tướng miền Nam có mời được vô địch cờ tướng Hồng Kong là Lý Chế Hải sang đấu. Nhưng Lý Chế Hải đấu với người vô địch cờ tướng Bắc Kỳ đã bị thua trước, nên không được độ với Lý Anh Mậu nữa. Lý Anh Mậu thành bậc đại kiện tướng thất nghiệp, lúc này đã ngoài tuổi ba mươi, ông đi lang thang ở chợ Sài gòn để kiếm ăn. Nhất là đám bày cờ thế ở bến xe lửa Sài Gòn có Hoàng áo Đỏ, lần nào thấy Lý Anh Mậu đến chen vào coi, cũng đến sau lưng họ Lý bỏ mấy đồng nhét vào tay Lý Anh Mậu mà nói: -Cha ơi, lấy mấy đồng uống cà phê rồi đi chỗ khác dùm con, để con kiếm ăn... Sài Gòn Chợ Lớn lúc này có nhiều hội cờ tướng nhất là ở quận 5, gần đường Khổng Tử. Số người mê cờ độ, đánh ăn tiền lớn, nghe tiếng Lý Anh Mậu bèn mời vào trợ thủ. Họ đánh cờ trong tiệm nước lớn như Đại La Thiên, Lý Anh Mậu đóng vai người giúp việc bưng nước trà đãi khách. Hễ khi nào chủ quán bị chiếu bí, hay gặp ván cờ khó thì vào cho Lý Anh Mậu bưng bình trà ra, có sẵn ám hiệu, Lý xem nước cờ rồi ra dấu từng nước để chủ thắng đối phương. Họ nuôi dưỡng Lý Anh Mậu vài ngày thì họ Lý bị khám phá ra, không dùng được nữa, Lý Anh Mậu lại thất nghiệp, ông đi lang thang vào vùng đồng Ông Cộ ở Gia Định. Lúc đó ở đồng Ông Cộ, ăn mày mỗi ngày đi ăn xin, tối về chùm nhum lại đánh bài, cho vay hay ăn nhậu với nhau. Ban ngày chúng đi ăn mày, đứng coi các nhóm đánh cờ ở chợ Sài Gòn gần Kim Sơn, Thanh Thế! Nhờ họ nói, Lý Anh Mậu mới biết Đồng Ông Cộ có sòng bạc lớn, đúng hơn là sòng đánh cờ tướng thật ồn ào đông đúc. Phần nhiều dân chạy taxi đến chiều thứ Bảy thì đúc xe từng dọc, từng dãy trên con đường đất um tùm tre nứa và mồ mả rồi bắt đầu đánh cờ tướng ăn tiền lớn với nhau. Tay chủ chứa xếp sòng là Hai Thiện, dân có máu mặt đứng sòng tổ chức hội cờ tướng đánh với các kỳ thủ từ Lái Thiêu xuống hay từ Sài Gòn Chợ Lớn vào, toàn con buôn có tiền của. Lý Anh Mậu đem theo một ông chủ có tiền ở quán nước Sinh Ký giả làm dân ghiền đi coi đánh cờ đột nhập vào khu đồng Ông Cộ. Anh Hai Thiện hôm đó thắng lớn, hết tay chơi định dẹp thì Lý Anh Mậu xin vào đánh. Ván cờ đó số tiền khá lớn. Đánh được ba bốn ván thì Lý Anh Mậu thắng được một, sau đó từ từ thắng luôn hai ván rồi đứng lên, hẹn thứ bảy tới. Biết gặp tay cao cờ, Hai Thiện đành đồng ý. Mấy ngày sau Hai Thiện xuống Sài Gòn tìm được Hoàng Áo Đỏ, cả hai đi mời được bậc thầy cờ ở đình Phú Thạnh lên Đồng Ông Cộ để thi đấu với Lý Anh Mậu, ông này tên là Đình Quí xuống núi theo hai người chờ họ Lý vào sáng thứ bảy. Hai Thiện bày những ván cờ mình bị thua ra nói: -Anh chàng này đánh cờ có thua có thắng. Nhưng rất lạ là đến khi mình chiếu bí lại bị hắn ta chiếu bí lại, ăn chỉ có một hai nước cờ thôi. Tức lắm nên tôi mới thỉnh bác lên đây để đối địch với hắn cho xứng tay. Đình Quí nói: -Chết cha rồi, ông gặp tay cao thủ cờ tướng rồi đây. Để tôi xem tôi có thể đối địch với anh ta nổi hay không cho biết. Dân chạy taxi mê cờ tướng như mê đá gà. Sáng thứ bảy đã đậu xe nghẹt cả lối vào vườn nhà Hai Thiện và bắt đầu sát phạt nhau inh ỏi! Hai Thiện, Hoàng Áo Đỏ và Đình Quí đang ngồi uống cà phê trông ra đường chờ đội kỳ khách. Mặt trời lên độ một sào thì ba người thấy một trung niên từ xa đi lại. Hai Thiện chỉ và nói: -Đó đó! Hắn ta tới rồi đó! Hai Thiện vừa nói xong, thì Đình Quí và Hoàng Áo Đỏ đứng bật lên gọi. -Anh Mậu! anh Mậu! Lý Anh Mậu vừa bước tới nghe gọi khựng đứng lại. Hoàng Áo Đỏ chạy vụt ra đón chào. Còn bậc thầy của Hai Thiện là Đình Quí quay lại chửi thề! -Chết cha rồi! Mầy nhè ông thầy cờ của tao mà dám đánh với ổng, thua là phải rồi. Hoàng Áo Đỏ vui vẻ mời Lý Anh Mậu vào mà giới thiệu: -Đây là ông Lý Anh Mậu vua cờ tướng, người đã hạ Lý Chế Hải của Hồng Kong đó, sao anh dám chơi với ông! Hai Thiện tá hỏa, mặt sượng trân. -Thôi thì bày tiệc rượu lên, đãi ổng một bữa cho thỏa lòng. Gặp thái sơn trước mặt mà thằng em này không biết thật đáng tội. Ai nấy đều cười xòa lên. Cả khu đồng Ông Cộ nghe nói có Kỳ Vương, đại kiện tướng Lý Anh Mậu lên chơi kéo ùa nhau chiêm ngưỡng vô cùng huyên náo và đầy trọng vọng đối với ông vua cờ tướng thời đó. Trước đây họa sĩ Hoài Nam thường chơi với Lý Anh Mậu, cũng nghiên cứu cờ thế. Có lần hỏi Lý Anh Mậu rằng, Anh có thể tính trước được bao nhiêu nước, Lý đáp: Chừng một trăm nước. -Nếu có người giỏi hơn thì thế nào? -Họ đi con nào mình đi con nấy. Cùng quá thì thủ huề chứ không thể thua được. Suốt đời Lý Anh Mậu mê suy nghĩ về cờ tướng, ông nằm chiêm bao thấy cờ tướng hiện lên trên bầu trời khắp nơi như các vị thần tướng. Sau này ông mất ở nơi nào chúng tôi chưa tìm ra được. Sách cờ thế của Lý Anh Mậu được nhà xuất bản Khai Trí in lại rất nhiều cho đến ngày nay vẫn còn tái bản luôn, đó là chút tuyệt nghệ của Lý Anh Mậu, một người suốt đời chỉ nghĩ có cờ tướng mà không quan tâm bất kỳ việc gì cho bản thân của mình. Trần Tuấn Kiệt
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 11, 2011 19:35:47 GMT 9
Gaddafi, tôi thương ông, tôi hận ông, và cám ơn ông!Nguyễn Đình Đồng Gaddafi, tôi thương ông, tôi hận ông, và cám ơn ông! DCVOnline: Xin mời bạn đọc theo dõi bài của blogger Nguyễn Đình Đồng, đã được đăng trên blog của ông. Hy vọng, bạn đọc sẽ tìm được câu trả lời tại sao Hà Nội vẫn ca tụng "Gaddafi anh hùng cho đến chết" qua bài viết của tác gỉa. Thưa ông, tôi nghe tin ông bị bọn phản nghịch nó truy sát về tới quê nhà, rồi phải chui xuống cống trốn cũng không thoát, chết tức chết tưởi. Tôi buồn lắm. Tôi nhìn ông, một nhân vật nổi tiếng của thế kỷ 20, từ 27 tuổi đã bắt đầu sự nghiệp rất oanh liệt, từng có một cuộc sống đầy huyền thoại với những thói quen khác người thú vị, từng hiên ngang thách thức cả thế giới phương Tây hùng mạnh, từng có trong tay quyền lực tuyệt đối, tài sản nhiều nhiều tỉ đô la, và thật ngưỡng mộ, có cả một đội nữ vệ sĩ đa quốc gia 40 cô gái còn trinh, xinh đẹp, giỏi võ giỏi bắn súng và chắc là sẽ giỏi nhiều thứ. Tóm lại, tôi từng “thần tượng” ông. Vào những năm cuối thế kỷ trước, chúng tôi được nghe báo chí nước tôi kể về ông chẳng khác gì một anh hùng. Ông còn được so sánh với rất nhiều anh hùng khác, ví dụ, Chê Gê va ra (Che Guevara - DCVOnline) bên châu Mỹ. Không rõ ông có coi nước tôi như một người bạn thật không, chứ người bên nước tôi ngưỡng mộ ông, tự hào về ông và luôn “kéo” ông về phía mình. Tôi nghi là ông không định đi theo con đường Mác-Lê Nin như mấy cụ nhà tôi, ông theo thánh Ala (Allah, chỉ Thượng đế trong ngữ cảnh Hồi giáo - DCVOnline), đấng tối cao của mình. Nhưng khi ông đưa ra cái “Chủ nghĩa xã hội hồi giáo” thì khá nhiều anh em của cụ bên tôi nể ông và quý ông lắm. Tất cả những gì ông làm họ đều ca ngợi hết lời, ông tài trợ khủng bố thì họ gọi ông đang “ủng hộ phong trào du kích cánh tả”, ông đặt bom máy bay chở khách họ thầm thì “Gaddafi đang tấn công chủ nghĩa tư bản”. Nói chung, ông luôn làm việc tốt cả, riêng chuyện lối sống, đời tư của ông thì họ làm lơ hoặc nói chiếu lệ, hoặc họ bảo đó là phong tục nhà ông, hoặc họ bảo “bọn phản động bôi nhọ” ông. Sống và học tập theo gương bác Gaddafi vĩ đại! Nguồn: Marmut Turkia/AFP?Getty Mà chẳng cứ ông, ngày xưa thì tất cả những gì thối nát, tệ hại, hủ lậu của cái đảng cộng sản Trung quốc, của ông Mao “mặt trời phương đông” cũng được bưng bít kỹ lắm. May mà có thời Việt Nam xích mích với Trung quốc, báo chí, sách vở bên tôi được dịp thả sức vạch tội bọn bá quyền, lũ phản động bành trướng, kẻ thù lâu dài (là Trung quốc), và chúng tôi mới được biết tường tận, rõ ràng, và còn đôi chút phóng đại về Mao cùng bè lũ của ông ta, kể cả những thói quen dâm dục của ông “Mặt trời” này. Thời đại thông tin, mặc dù báo chí nước tôi vẫn ca ngợi ông như một người bạn vĩ đại, nhưng dân nước tôi dần dần cũng được đọc và hiểu về ông. Nhiều người vẫn không ghét ông, thật đấy, nhưng họ bắt đầu so sánh ông với những kẻ độc tài ưa nắm quyền trọn đời. Phàm là, bất cứ cái gì mới rồi cũng sẽ cũ, sẽ hỏng. Đại tá Gaddafi thời 27 tuổi, cũng như ông Mubarac bên Ai Cập hồi trẻ, đều là những người cấp tiến, tiến bộ. Các ông chỉ hỏng dần, hư dần theo thời gian. Và kết cục là các ông đã tự sát, chứ không ai làm điều đó cả. Ông bị lật đổ, bị lịch sử đào thải là tất nhiên. Nhưng tôi vẫn buồn cho sự “tất nhiên” đó. Một kẻ oanh liệt như thế mà nay bị kéo lê xác trên đường như một con vật. Đáng buồn lắm chứ. Tôi còn buồn hơn, và cũng có hận ông nữa, vì đã có thời người của chúng tôi hay lấy ông ra học tập, nhất là chuyện ngồi lâu. Tất nhiên, chuyện ngồi lâu trên thế giới chẳng riêng gì ông, ngay cả ông Putin, một ngôi sao nước Nga cũng đang định “ngồi lâu”, khiến cho các quan chức nước tôi được dịp “đấy, nhìn Putin kìa!” Nhưng tôi giận ông là vì chuyện khác. Ông là người sống lâu, ông thừa biết kết cục nào dành cho mình nhưng ông không muốn ra đi êm thấm, sợ bị cười, bị nhục. Vâng, ông cứ việc. Thế nhưng tại sao trong lúc gần chết rồi, ông lại muốn lôi chúng tôi vào chuyện của ông? Chúng tôi đã khốn khổ khốn nạn với những “người bạn cùng chiến hào” của ông rồi. Vậy mà hồi tháng Ba, ông còn tuyên bố: Libya sẽ là một Việt Nam thứ hai! (Muammar Gaddafi has promised "another Vietnam" if foreign powers answer a plea by Libyan dissidents for military intervention.) Thế thì chết chúng tôi rồi còn gì? Ông hô lên như thế, bên chúng tôi người ta đáp lễ, lên tiếng ca ngợi ông, bênh vực ông, ví dụ tờ báo dầu mỡ của ông Nguyễn Như Phong. Hôm nay, Báo Đất Việt vẫn: "Gaddafi anh hùng đến lúc chết"! Và cả cái comment hồi tháng 8: Tinh thần Gaddafi bất diệt! Vậy thì, cũng cám ơn ông, cái chết của ông làm nhiều kẻ ngu muội bên chúng tôi, và cả tôi, tỉnh ngộ. Báo Đất Việt vẫn: "Gaddafi anh hùng đến lúc chết"! Nguồn hình: Guillem Valle/EPA Giờ thì, học tập cách nói của ông, bên tôi người ta hỏi nhau: Khi nào thì Việt Nam sẽ là Libya thứ hai?
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 7, 2012 8:25:27 GMT 9
Thư giãn: Cười trong nước mắt, đau tận tâm can Để hiểu được nguyên nhân của những điều không ai hiểu được là tại sao họ vô cảm đến thế? Chúng ta hãy nhìn xem những người lãnh đạo “có tài,có đức” của đảng ta là ai, tài đức của họ như thế nào và cả dân tộc chúng ta đang được dẫn dắt bởi ai? Xin gửi đến đồng bào Miền Trung yêu thương đang trong cơn hoạn nạn, thiên tai dồn dập chết người, mất của. Những đau đớn đó của đồng bào cả cộng đồng thế giới biết rõ qua những thông tin từ mạng internet. Duy chỉ có những nhà lãnh đạo Việt Nam vô cảm đang lo ăn chơi, nhảy múa tại Hà Nội với số tiền của khổng lồ của nhân dân Việt Nam mà không cảm thấy xấu hổ. Những ngày này, cái gọi là “Đảng cộng sản Việt Nam” luôn tự hào là “đạo đức, là văn minh” đang lo tranh ghế tranh bàn mà không biết hàng triệu đồng bào mình đang ngụp lặn trong nỗi đớn đau đến tận cùng, dù họ đang sống bằng tiền của, xương máu và sức lao động của đồng bào. Để hiểu được nguyên nhân của những điều không ai hiểu được là tại sao họ vô cảm đến thế? Chúng ta hãy nhìn xem những người lãnh đạo “có tài, có đức” của đảng ta là ai, tài đức của họ như thế nào và cả dân tộc chúng ta đang được dẫn dắt bởi ai? Tìm hiểu điều này, sẽ có những tiếng cười bật ra một cách vô thức, bởi không ai có thể nhịn được cười. Xin những người dân đang trong bão lụt đau đớn, hãy coi những tiếng cười này như một lời cảm thông và sự thấu hiểu nỗi đau của họ cũng như nỗi đau của cả đất nước, dân tộc này đang phải chịu. Hôm nay, chúng ta tìm hiểu về người đứng đầu đất nước, tượng trưng cho bộ mặt của đất nước chúng ta: Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết: - Chủ tịch Nguyễn Minh Triết giải thích với Việt kiều về vị thế của Việt Nam và nạn tham nhũng: Tại Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất vào hôm 22/11/2009 Chủ tịch nước nói: "Mới tháng 9 vừa rồi tôi đi dự hội nghị các nhà lãnh đạo 15 nước Hội đồng Bảo an LHQ. Mình đến cuộc họp này với một cái tư thế .. là mạnh mẽ. Mà mình là người có tiếng nói mạnh mẽ. Chưa bao giờ mình lại cất cao tiếng nói như thế. Và ngay tại đại hội đồng LHQ vừa rồi, kì họp 64, mình lại lên tiếng, mình phê phán cái việc là "cấm vận Cuba". Và cũng trong quốc họp đó đó, ngoài những ý kiến chung thì tôi có thêm một cái ý kiến: Tôi hoan nghênh ông Obama ... ông ấy tuyên bố đóng cửa nhà tù Gatanamo mà. Nhưng mà tôi nói rằng "ông Obama ơi, vấn đề này là khó lắm đó. Tôi chúc ông phải nỗ lực để thực hiện cho bằng được cái này." TÔI NÓI MÀ TÔI NHÌN OBAMA MÀ TÔI THẤY ÔNG ẤY CŨNG CHĂM TRÚ LẮM ĐÓ, LẮNG NGHE LẮM. NHƯ THẾ LÀ MÌNH VỪA ĐỘNG VIÊN ÔNG OBAMA NHƯNG MÌNH VỪA PHÂN HOÁ CÁI NỘI BỘ CỦA ÔNG ẤY. NHƯ VÂY ĐÓ TÔI MUỐN NÓI VỚI CÁC ĐỒNG CHÍ VÀ QUÝ VỊ RẰNG CÁI VAI TRÒ VÀ VỊ THẾ CỦA MÌNH BÂY GIỜ CŨNG NGANG HÀNG VỚI NGƯỜI TA, CŨNG NÓI NĂNG CŨNG ĐÚNG MỨC, ĐÀNG HOÀNG. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết "chém gió" tại Cuba Chủ tịch Triết nói: - Có người ví von: "Việt Nam, Cuba như là Trời Đất sinh ra. Một anh ở phía Đông. Một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cuba thức thì VN ngủ. VN gác thì Cuba nghỉ." Khán giả: (rầm rộ vỗ tay khen ngợi) Chủ tịch Nguyễn Minh Triết: Thánh Gióng về Trời vui thú điền viên. Thành quả của ĐCSVN sau 80 năm ở VN
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 19, 2013 11:22:44 GMT 9
Nghĩa địa chôn lợnHầu hết khách thăm chùa Mã Tộc (TP. Sóc Trăng) chỉ nhăm nhăm ra vườn ngắm đàn dơi đang say giấc nồng, nên không biết rằng, đằng sau ngôi chùa này còn có một khu nghĩa địa kỳ lạ chôn những chú lợn được đồn đại đã... "thành tinh" và một khu chuồng trại nuôi những con lợn quái dị còn đang sống. Những câu chuyện quanh đàn lợn được nhiều người mê tín cho là mang linh hồn ma quỷ này khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên. Lợn 5 móng, 3 giò Tôi thực sự bất ngờ và lạ lẫm trước những ngôi mộ được xây cất rất trang trọng, có cả bia mộ ghi tên "Bà Hợi" hoặc "Ông Hợi". Trên bia mộ ghi cả tuổi tác, thời gian sinh tử và hình vẽ một chú ỉn rất béo tốt, đẹp mắt. Nghĩa địa lợn. Câu chuyện lạ lùng này được bắt đầu bởi một quan niệm mê tín của nhiều người Khmer về những con lợn quái thai. Họ đồn đoán rằng các chú lợn có 5 móng hoặc 3 giò (một chân móng đen, một chân móng trắng gọi là lợn ba giò) chính là "cốt tinh" của con người. Do đó nếu gia đình nào nuôi phải thì sẽ gặp chuyện lục đục chẳng lành, còn nếu giết lợn thì cả nhà sẽ phải đền mạng. Nhà nào có lợn này, muốn bán cũng không có ai mua, cho không ai dám lấy. Và như thế gia chủ cứ phải nuôi đến khi nó chết, đem mai táng cẩn thận, thì may ra mới thoát nạn. Nơi trú chân của đàn lợn quái thai Vì cho rằng nuôi những con vật khác thường này chẳng tốt lành gì, nên những gia đình có loại lợn này đã tìm đến nhà chùa nhờ hóa giải. Con lợn đầu tiên mà chùa phải nuôi là vào năm 1989. Bà cụ Khiên, người quét dọn chùa, một hôm nhìn thấy một con lợn cái 5 móng đang ngủ ngon lành phía sau chùa. Bà lay nó cũng không dậy, bà đuổi nó cũng không đi. Thế là bà Khiên cho cô ỉn ngụ lại cửa Phật. Ngày ngày cô lợn chạy rong trong khuôn viên, tối chui vào ổ ngủ và đến bữa thì được các nhà sư mang đồ ăn cho. Bàn chân có thêm móng của chú lợn. Dâng trầu cho... lợn Buổi sáng, chị "Năm Hợi" dẫn đầu, đàn em theo sau, xếp hàng thứ tự từ lớn đến nhỏ, lục tục ra khỏi sân chùa đi... khất thực (xin ăn). Chúng cứ lặng lẽ đi dọc đường, qua các ngả chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, cả đàn bộ hành trên đoạn đường dài hơn 3km, qua chợ Sóc Trăng, vào tận thị xã, rồi trở về chùa đúng lúc nhà chùa sắp tụng kinh. Người dân hai bên đường thấy đàn lợn đi qua thì ném cho đồ ăn. Có lẽ đã "quy y cửa Phật" nên chúng rất hiền, tuyệt nhiên không càn quấy, phá phách gì ngoài đường, ngoài chợ. Người dân cũng rất... kính trọng đàn lợn. Nhiều bà lão khi thấy đàn lợn đi qua nhà mình liền mời dừng lại chơi rồi... dâng trầu và các chú ỉn thảnh thơi nhai bỏm bẻm. Ở chùa, đàn lợn cũng ăn theo chế độ ăn ngọ, tức là chỉ ăn uống trước 12h mỗi ngày, sau 12 giờ là không ăn gì nữa. Khẩu phần ăn của chúng đơn giản, khất thực được thứ gì thì ăn thứ đó, nhưng chẳng hiểu sao chúng lại lớn rất nhanh. Chị "Năm Hợi" ngày nào đã trở thành một "bà lớn" theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chị nặng đến 400kg, trông lừng lững như một chú voi còi. Nghĩa địa lợn "Năm Hợi" ở chùa được 7 năm thì chết vì tuổi tác. Sư phó Tú Linh của chùa Mã Tộc cho biết, cuối năm 1996, "Năm Hợi" chọn một nơi yên tĩnh ở góc vườn chùa nằm nghỉ rồi "đi" một cách thanh thản, như thể tránh cho du khách viếng chùa khỏi trông thấy hình ảnh buồn. Chính những biểu hiện kỳ lạ này mà khi "Năm Hợi" chết, nhiều người mê tín đã đến cúng vái, và họ đều gọi con lợn quá cố là "cô Năm Hợi". Đêm đêm có nhiều tay ma đề cũng mò mẫm vào khu mộ lợn khấn xin trúng số. Mộ "cô Năm Hợi" Không chỉ có "Năm Hợi", những anh, chị lợn khác ở chùa chết, cũng đều được các sư chôn cất trong nghĩa địa sau chùa. Và các chủ gửi lợn đến chùa cũng học theo. Khi nào lợn chết, được nhà chùa thông báo, họ đến làm lễ mai táng, rồi xây mồ yên mả đẹp cho lợn. Thế là sau ngôi chùa Dơi, xuất hiện một nghĩa địa lợn rất kỳ lạ. Hiện tại, trong chùa vẫn còn một số lợn 5 móng, 3 giò. Tuy nhiên, đàn lợn này không có sự chỉ đạo của chị "Năm Hợi", nên nghịch ngợm, phá phách lung tung. Thành thử, nhà chùa phải xây chuồng trại nhốt lại, rồi hàng ngày chia sẻ khẩu phần ăn vốn đã không nhiều nhặn của mình cho chúng. Những con lợn đều rất to, hàng ngày chỉ nằm dài chờ ăn. Buổi trưa, chúng nằm phưỡn mình ngủ, thở phì phò, hai răng nanh thò ra sắc nhọn như nanh hổ, trông phát ớn. Những chú lợn thế hệ 2 này chỉ nằm ườn chờ ăn.
|
|