|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:40:50 GMT 9
Ngải ngậm hương trầm Võ Quang Yến Lên non đón gió tìm trầm, Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ. Ca dao Theo truyền thuyết, bà Thiên Y A Na khi rời cha mẹ nuôi lên Bắc Hải cũng như khi đem hai đứa con Tri và Quý trốn Bắc Triều về lại Cù Huynh, đều núp lén trong cây trầm rồi để cho dòng nước cuốn đi. Hương trầm thơm tỏa ngào ngạt nên nơi cây trao dạt vào bờ được gọi là Hương Sơn (thuộc tỉnh Khánh Hòa). "Ở huyện miền núi Con Cuông (Nghệ Tĩnh), có một địa danh tên là Trầm Hương. Người ta bảo, nơi đây, xưa kia có một rừng trầm nằm dọc theo bờ sông Lam. Rễ cây lan man khắp đồi núi và vệ sông, tỏa mùi thơm lên cả mặt nước, cỏ cây và bầu trời. Hương thơm đậm đặc đến nỗi những đám mây bay qua đó cũng tẩm hương, rồi mây bay theo chiều gió dạt về mạn dưới thành những trận mưa có vị thơm - người ta gọi là mưa hương "(8). Người Chăm tin đấng thượng đế khi giao phó thần Pô Ino Nagar xuống khai phá mặt đất cho phép bà đem theo lúa và trầm thể hiện oai quyền mầu nhiệm của mình. Chùa Bảo quốc ở Huế chứa một mảnh gỗ trầm hương dài 80, phân rộng 40 phân, dày vài phân, có hình dung một con người. Tục truyến lúc trước có người mua đem về nhà thì tai họa liên miên nên phải đem lên chùa gởi để các vị sư luông hương đèn cúng bái, mong bài trừ được những ảnh hưởng xấu (3). Mảnh gỗ trấm hương chùa Bảo Quốc (3) Cây trầm cống hương Những huyền thoại được lưu truyền bắt nguốn từ hương thơm của cây trầm. Cây gỗ không chìm nầy còn mang tên trầm kỳ, trà hương, gió núi, dó bầu. Gỗ cây thường được gọi gỗ kỳ nam hay gỗ trầm hương. Trong một cây trầm có thể có cả hai loại kỳ nam (bois d’aloès) và trầm hương (bois d’aigle), hương thơm xen lẫn chút cay, khác nhau ở chỗ mùi vị, một bên vừa chua vừa ngọt, bên kia hơi đắng lại có phần dịu ; thường kỳ nam quý hiếm hơn trầm hương (5). Trong các báo khoa học, tên nôm na của cây trầm là agarwood hay agalwood (gỗ thạch), có khi eaglewood (gỗ đại bàng). Riêng người Nhật Bản có nhiều tên gọi : jinko, jinkok, kanakok, kanankok, kyara hay ryoku-yu. Hai danh từ jinkok và kanakok thường được dùng để chỉ định những loại trầm thu nhặt ở Việt Nam và xuất cảng qua Hồng Kông, rất được chú trọng những năm gần đây (13-19). Thường kỳ hương được xếp thành loại hắc kỳ (màu đen, hảo hạng, đắc tiền nhất), thanh kỳ hay hoàng kỳ (màu xanh vàng) và bạch kỳ (màu trắng đục). Ngày nay, trên thế giới, nhu cầu vượt quá xa nguồn cung cấp và thu hoạch không có phương pháp, lắm khi bất hợp pháp ở vài nước nên Quy ước Thương mãi Quốc tế về những Loài động vật và Thực vật Hoang dã Lâm nguy cơ CITES đã lên tiếng báo động và kêu gọi thực thi Quy ước cùng kiểm tra thương mãi (9). . Cây trầm lớn, cao khoảng 15-30 m, có khi lên đến 40 m, mọc ở châu Á từ Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, qua Mã lai, Cao Mên, Lào, Nam Dương. Ở Việt Nam, cây trầm mọc nhiều ở miền Trung, từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, đến đảo Phú Quốc (5b). Cây trầm thuộc chi Aquilaria, họ Trầm (*) hay Trầm hương Thymeleaceae (**). Aquilaria do tiếng La Tinh aquila (aigle, chim đại bàng) mà ra, nên danh từ Pháp bois d’aigle hay Anh eaglewood chỉ định những loại gỗ khối nhựa, màu nâu, có khi mang đường rạch vằn hay vết lốm đốm như lông chim (2). Aquilaria gồm có nhiều loài : A. agallocha Roxb., A. baillonnii Pierre ex Lam., A . banaensis Pham Hoang Ho, A. crassna Pierre ex Lecomte (tiếng Campuchia chỉ trầm là krasna hay chan krasna), A. malaccensis Benth, A. sinensis (Lour.) Gilg. hay Spreng (7), vừa rồi mới có tìm ra A. rugosa ở Việt Nam, lắm khi khó phân biệt. Trong các loài thuộc Aquilaria thì A. crassna, A. malaccensis và A. sinensis có tiếng cống hiến nhiều kỳ nam hay trầm hương, nhưng được khảo cứu nhiều nhất là A. agallocha và chẳng thấy dấu vết A. crassna trong tập Chemical Abstracts. Trái lại, ở Việt Nam thấy có nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) A. crassma 20 năm tuổi trên vùng đảo Phú Quốc (10). Ngoài ra cũng thấy có khai thác các cây Aloexylon agallochum Lour., Excoecaria agallocha Linn. (*) Aquilaria crassna và A. baillonii (**) Aquilaria crassna Gỗ cây trầm rất quý nên lúc xưa được các thổ dân miền sơn cước dùng làm lễ vật đưa về cống nộp cho vua chúa. Cách đây hơn 250 năm, nhận được biểu của Mạc Thiên Tứ, trấn thủ Hà Tiên, báo cáo về việc tế lễ, để tỏ lòng đặc biệt ưu ái với vị trọng thần biên trấn, chúa Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Thụ đã ban cho hai thanh gỗ trầm hương. "Hai thanh cống hương đen như huyền, bản rộng hơn tấc, cao những hàng xích. Một thanh dựng ở giữa tế đàn Sơn xuyên, một thanh dựng ở giữa tế đàn Xã tắc. Khói đốt bốc thẳng đứng, như hai cây cột khói thơm dựng ở giữa trời. Hương trầm tỏa ngan ngát giữa đêm thanh, trăng sao lồng lộng ; dân cư tận xa vòng ngoài Trúc bằng thanh, còn nghe thấy mùi thơm trộn trong gió chướng rao rao" (4). Nguyên gốc của kỳ nam hay trầm hương, tuy đã được nghiên cứu nhưng chưa thấy giải thích tường tận. Từ xưa nhiều giả thuyết đã được đưa ra, chẳng hạn như kiến sống trên cây chế mật rơi lên gỗ, lâu ngày thấm vào thành hương thơm (5a). Cũng cùng ý ấy, một giả thuyết khác cho những cây có tổ kiến hay tổ mối dưới chân thì đào tận rễ dễ tìm ra (5). Có người lại tin phân chim ở kẽ cành biến chất cũng có thể tạo thành trầm (*). Thật ra nhìn từ bên ngoài rất khó xác định một cây có trầm. Ngày nay, người ta nhận thấy kỳ nam hay trầm hương là một khối nhựa do cây tiết ra để tự băng bó, bảo vệ chống vi trùng , thời tiết khi có vết thương. Biết vậy, những người tìm trầm khi kiếm ra cây có khả năng cống hiến trầm thì cố ý vạch cắt cây gây vết thương rồi đợi khối nhựa cấu thành, có khi nhiều tháng, nhiều năm. Cơ chế cấu tạo khối nhựa có thể là một hiện tượng thoái hóa vi khuẩn, nhưng thực chất hơn là do nấm gây ra. Người ta đã tìm ra được những loại nấm Mycelia, Menanotus flavolines (16), Epicoccum granulatum (6) nhiễm gỗ cây trầm. Nấm Mycelia còn có một đặc điểm nữa là cho phát hiện trong mảnh trầm cắt những oleoresin trước không có trong cây. Ngoài ra, loại nấm bậc cao nâu sẫm Cytosphaera mangiferae Died. trích chiết từ gỗ cây A. agallocha đang biến chất thành trầm, cho nhiễm vào những mảnh gỗ Aquilaria thì chế biến ra gỗ có hương thơm mùi trầm. Thí nghiệm không thành nếu dùng những mảnh gỗ các cây Syzyum hay Amoora mọc cạnh các cây Aquilaria kia trong những khu rừng Sylhet ở Bangladesh hay dùng các nấm Penicillum sp., Aspergillus sp., Fusarium sp. cũng được trích chiết từ các cây A. agallocha đã bị nhiễm. Theo tác giả công trình khảo cứu nầy thì côn trùng đã đem nấm vào các lỗ nứt, kẽ nẻ của vỏ cây (6). Từ A. agallocha cũng đã chiết xuất một loại nấm Paecilomyces varioti đặc biệt có khả năng xúc tác những phản ứng khử, kết vòng, kết hydroxy… biến hóa citronellal ra isopulegol, menthon ra menthol, cinnamaldehyd ra cinnamid acid,… (26). Hương thơm cây trầm Hương thơm trong cây trầm là do các phân tử chromon và sesquiterpen mà ra. Những chromon có thể là agarotetrol hay isoagarotetrol chứa nhiều nhóm hydroxy. Hai chất nầy có trong những cây trầm Tân Gia Ba và Việt Nam theo tỷ lê 2 :1 (14). Những chromon khác phần lớn là những dẫn xuất của ethyl phenyl chromon tìm ra trong A. agallocha và A. sinensis : hydroxy, dihydroxy, methoxy, dimethoxy, tetrahydroxy, tetrahydroxy tetrahydro; của ethyl phenyl pentahydroxy chromon ; của ethyl phenyl methoxy chromon : methoxy, dimethoxy ; của ethyl phenyl tetrahydro chromon ; của ethyl phenyl pentahydro chromon. Người ta cũng đã tìm ra được những ethyl biphenyl chromon và ethyl triphenyl chromon. Một công trình khảo cứu về tương quan giữa chất lượng và thành phần trầm bán ở Hồng Kông với agarotetrol và isoagarotetrol qua một loạt đo các làn sóng 270-400 nm cho thấy một số hoá chất khác ngoài chromon. Những sesquiterpen phần lớn tìm ra trong A. agallocha, cũng có một số tài liệu khảo cứu trên A. malaccensis và A. sinensis. Những phân tử được các nhà khảo cứu Ấn Độ chiết xuất trước tiên từ tinh dầu trầm là agarol bên cạnh gmelofuran và những agarofuran : dihydro, hydroxy dihydro, norketo hay epieudesmol là agarofuran mở vòng, đồng thời với agarospirol và oxoagarospirol. Cũng cùng loại selimanic furanoid nầy, những jinkohol đã được tìm ra cạnh jinkoh-ceremol. Với công thức tương tự, các tác giả Trung Quốc đã chiết xuất những baimuxinol, dihydro baimuxinol, isobaimuxinol, baimixinal, baimuxinic acid, baimuxifuranic acid, sinanofuranol từ A. sinensis bên cạnh những hóa chất tương đối thông thường như benzyl aceton, methoxy benzyl aceton, anisic, palmitic, octadecenoic, dienoctadecanoic acid trong tổ chức gỗ. Ba chất sau nầy thay đổi thành phần khi gỗ bị nhiễm nấm Menanotus flavolines, đồng thời cũng xuất hiện oxoagarospirol. Bước qua sườn guain thì một loạt bảy sesquiterpen được xác định trong trầm Việt Nam mà quan trọng nhất là guaiadienal đã góp phần lớn trong mùi hương thanh nhã. Tinh dầu trầm Việt Nam, theo các nhà khảo cứu Nhật Bản, thì ngoài guaiadienal, còn chứa selinadienol, selinadienon bên cạnh guaiene, bulnesen, agarofuran, kusunol, karanon, dihydro karanon, oxoagarospirol cùng các ethyl phenyl chromon đã thấy ở trên (15), năm eudesman sesquiterpen cùng epoxy norketo guaien, dehydro jinkoh-eremol và neopetasan (19). Các tác giả nầy cho jinkoh có thể là A. sinensis, còn kanankoh tức A. agallocha thì có hai loại : một loại giàu guaien và eudesman đã oxi hóa, loại kia có oxoagarospirol là thành phần sesquiterpen chính (17). Trước đó, một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản khác đã so sánh tinh dầu hai loại trầm Việt Nam (loại A : A. agallocha) và Nam Dương (loại B : có thể là A. malaccensis) thì thấy thành phần và tỷ lệ rất khác nhau (13). Tinh dầu % loại A : agarofuran (0,6), norketo agarofuran (0,6), agarospirol (4,7), jinkoh-eremol (4,0), kusunol (2,9), dihydro karanon (2,4), oxoagarospirol (5,8) ; loại B : agarofuran (1,3), epieudesmol (6,2), agarospirol (7,2), jinkohol (5,2), jinkoh-eremol (3,7), kusunol (3,4), jinkohol II (5,6), oxoagarospirol (3,1). Ngoài hai loại chromon và sesquiterpen vừa thấy, một vài hóa chất khác cũng đã được tìm ra : liriodenin, aquillochin trong thân cây A. agallocha, dibehenyl ferulyl glycerid (0,55%), decatrienyl phorbol acetat trong vỏ cây A. malaccensis. Trong hai chất sau nầy, chất thứ nhất có một liều gây chết LD50 0,8 microg/ml chống hệ thống P-388 chứng bạch cầu lympho bào in vitro nhưng vô hiệu in vivo, liều gây chết LD50 của chất kia là 0,0022 microg/ml in vitro. Đây là lần đầu tiên những chất nầy được xác định có một hoạt động gây hại tế bào in vitro (11). Về mặt duợc liệu, tinh dầu chiết xuất từ A. agallocha có một hoạt động nhỏ trợ tim. Gần đây nhờ có tính chất gia tốc sự cấu tạo collagen, nó được dùng làm thuốc làm dẻo da, ngừa da nhăn, chữa chấn thương (24), nhờ tính chất chống melanin cấu tạo nên được dùng làm thuốc bảo vệ da chống nhiễm sắc tố, vết hoe (25); nó cũng được dùng trong một liều thuốc gồm có hổ phách, mộc hương, đinh hương, đàn hương, hương phụ,… để làm thuốc chống co giật đồng thời gây ngủ (27). Bên phần A. sinensis thì tinh dầu có hoạt động khử những vi khuẩn gam âm và gam dương (28), hợp với nhiều chất khác để làm thuốc chống béo (23), chữa gan (22). Thật ra, từ xưa ở nước ta, kỳ nam và trầm hương đã được dùng làm thuốc giải nhiệt, chống đái, chữa đau bụng, đau ngực, ỉa chảy, nôn mửa, khí thủng, trị sốt rét, suyển kinh niên (5a) , bí tiểu tiện, bổ dạ dày nhờ có vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh tỳ, vị và thận, có tác dụng giáng khí nạp thận hình can tráng nguyên dương. Người ta dùng chúng dưới dạng bột hay ngâm rượu, ít khi sắc, thường chỉ mài với nước mà uống. Để chữa nôn mửa, đau bụng, dạ dày, đơn thuốc gồm có trầm hương, nhục quế, bạch đậu khấu, hoàng liên, đinh hương, tán nhỏ dùng nước nóng chiêu thuốc, ngày uống ba, bốn lần (*). Ngậm ngải tìm trầm Tuy vậy, công dụng chính của trầm là hương thơm. Cả hai loại hóa chất chromon và sesquitepen đều có mùi thơm đặc biệt, khi đốt nóng mới tỏa ra cùng các chất dễ bốc hơi khác, đặc biệt là những sesquiterpen carboxylic acid. Một nhóm khảo cứu viên Nhật Bản đã thử phân biệt hương thơm của một số sesquiterpen. Họ nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà. Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl thì có chất thơm mùi gỗ ngọt, có chất nặng mùi khói, có chất lại phảng phất mùi chua và nhựa thông (19). Mặt khác, những chức trong phân tử cũng đóng một vai trò : nếu là selinadienon có mùi dịu như hoa tươi, selinadienol lại thơm mùi gỗ ngọt, trong khi guaiadienal tỏa mùi gỗ giống mùi của damacenon thêm vào chút long não (15). Các tác giả nầy cũng có khảo sát khói của hai loại trầm Việt Nam (kamakoh và jinkoh) : một loại đầy benzaldehyd, acetic acid, vanillin, loại kia chứa toàn hoá chất hữu cơ vòng thơm nên khi đem đốt mùi hương rất khác nhau (18). Thơm như vậy nên dùng gỗ cây trầm làm nhang là chuyện dĩ nhiên. Một văn bằng sáng chế Nhật Bản cho trộn với bột tabu và nước để làm nhang (12). Để làm tăng hương thơm của tinh dầu trầm, nhất ra để tạo ra một mùi hương đặc biệt, quyến dũ, người ta cũng đã cho trộn với tinh dầu dạ hương (lấy từ túi thơm của con cầy hương). Ngoài ra, cây trầm còn có những ứng dụng khác. Gần đây, một văn bằng Trung Quốc dùng cây A. agallocha trong một hỗn hợp gồm có nhân sâm, ngải cứu, bạc hà, kinh giới, hoắc hương, ma hoàng để làm thuốc hút không có thuốc lá và rao là không độc cho cơ thể (20). Nó cũng được dùng trong một văn bằng để khử những mùi ammoniac, trimethylamin, methylmercaptan (21). Nhờ không bị sâu mọt phá hoại và chịu đựng thời tiết, gỗ cây trầm được sử dụng trong ngành chạm trổ. Sau cùng cũng nên biết bên Ấn Độ, gỗ cây trầm đã được dùng làm giấy viết và giấy in có chất lượng. Cây trầm rất hiếm quý nên giá bán rất đắt. Có một dạo, người ta đổ xô đi tìm trầm, phải lặn lội nhiều tháng trong rừng mới hầu mong bắt gặp. Có khi họ xây lều ngay cạnh để canh giữ. Người xưa bảo đi tìm trầm phải trong sạch về mặt tinh thần cũng như thể xác, suy tư đứng đắn, ăn nói đàng hoàng, kiêng cử đàn bà, rượu chè cờ bạc. Nếu đi thành toán thì không được chuyện trò ồn ào, cãi nhau ầm ỉ. Để tránh thú dữ, beo cọp, họ cầm roi dâu, vừa đi vừa quất lên cành lá bên đường. Để chống yêu quái, ma quỷ, họ ngậm ngải để làm bùa hộ thân. "Theo lắm người kể chuyện, ngải là một thứ củ do người Mọi Trường Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong vò mật ong một tháng, để giữa dòng suối chảy một trăm ngày. Đoạn phải đặt trong tay đủ năm người chết, và đeo trước ngực năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chưa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Đoạn phải bẫy cho được con hổ ấy, rối giết và lấy ngải ra. Ngải là một cái bùa thiêng lúc ấy có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì không ăn uống cũng sống được. Và thú dữ đi sát bên cạnh cũng không thấy mình đuợc. Nhưng hạn trong ba tháng mươi ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì người ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật… " (1). Một điều đáng ngạc nhiên là một cây hiếm quý như vậy, đã được sử dụng trong nhiều nước, chưa từng nghe đến một trại nuôi trồng. Đến nay chỉ thấy khai thác cây trầm mọc hoang, một ngày kia ắt sẽ tiệt giống như CITES đã lên tiếng kêu cứu. Đứng về mặt sản phẩm hương mùi, sợ e rồi trầm hương dần dần sẽ nhường chỗ cho các hóa chất nhân tạo tổng hợp như đã bắt đầu thấy. Thông tin Khoa học và Công nghệ 4 (22) (1998) 94-101 có bổ túc (*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tái bản lần thứ 5 (1986) 449 (**) Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Thymélaeacées, Muséum d’Histoire Naturelle, Paris 26 (1962) 46-49 Tham khảo 1- Thanh Tịnh,Ngậm ngải tìm trầm trong Quê mẹ, nxb Văn học , Hà Nội tái bản (1983) 64 ; in lần đầu 1943. 2-A. Pételot, Plantes médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Archives des Recherches Agronomiques et Pastorales du Vietnam, Saigon III (1954) 65-99 3- L. Cadière, Croyances et pratiques religieuses au Vietnam, EFEO Sài Gòn II (1955) 12 4- Mộng Tuyết thất tiểu muội, Nàng Ái Cơ trong chậu úp, nxb Văn hóa, Hà Tiên-Kiên Giang, tái bán (1996) 27 ; in lần đầu 1960 5- F. Mouton, Le bois merveilleux du Sud, Imp. Emmanuel Vitte, ,Lyon (1970) 37-9, 44-5 dẫn 4a- Nguyễn Văn Minh, Dược tính chỉ nam, Sài Gòn, kỳ nam (1964) 102 ; trầm hương (1969) 1481 ; 4b- H. Lecomte, Sur les graines de Thymeleaceae, Bull. Soc. Bot. France (1914) 410 6- M. Jalaluddin, Useful pathological condition of wood, Econ. Bot. 31 (1977) 222-4 7- Phạm Hoàng Hộ, Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam, Thyméleacées, Muséum national d’Histoire Naturelle,Paris 26 (1992) 46-9 8- Võ Văn Trực, Hương trầm trong Những ngày hội dân dã, nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội (1997) 111-2 9- Chu Hữu Tín, Cây trầm kỳ nam, Mua bán trầm hương và kiểm tra mua bán trầm hương, khoahoc.net 21.04.2005, 16.06.2005 10- Thái Thành Lượm, Nghiên cứu chọn giống cây có cơ chế tạo trầm tự nhiên cây trầm hương (dó bầu) Aquilaria crassma Pierre 20 năm tuổi trên vùng đạo Phú Quốc Việt Nam, khoahoc.net 06.09.2007 11- S.P. Guanasekera, A.D. Kinghorn, G.A. Cordell, N.R. Farnsworth, Plant anticancer agents. XIX. Constituents of Aquilaria malaccensis, J. Nat. Prod. (5) 44 (1981) 569-72 44 (1981) 569-72 12- K.K. Yamamoto, Incense containing chromone derivatives isolated from Aquilaria agallocha, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 59, 106,414 (1984) 10 tr. 13- K. Yoneda, E. Yamagata, T. Nakanishi, T. Nagashima, I. Kawasaki, T. Yoshida, H. Mori, I. Miura, Sesquiterpene constituents in agawood. Part 4. Sesquiterpenoids in two different kinds of agarwood, Phytochem. (9) 23 (1984) 2068-9 14- T. Konishi, Y. Okutani, K. Iwagoe, S. Kiyosawa, Y. Shimada, Studies on the algalwood "Jinko". IX. Quantitive analysis of 2-(2-phenylenthyl) chromone derivatives (supplement), Shoyakugaku Zasshi (1) 43 (1989) 1-6 15- M. Ishihara, T. Tsuneya, M. S higa, K. Uneyama, Three sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (2) 30 (1991) 563-6 16- S. Qi, B. Lu, L. Zhu, B. Li, Formation of oxo-agarospirol in Aquilaria sinensis, Zhiwu Shenlixue Tongxun (5) 28 (1992) 336-9 17- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the volatile concentrate of agarwood, J. Essent. Oil Res.(3) 5 (1993) 283-9 18- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Components of the agarwood smoke on heating, J. Essent. Oil Res.(4) 5 (1993) 419-23 19- M. Ishihara, T. Tsuneya, K. Uneyama, Sesquiterpenes constituents of agarwood. 4. Fragrant sesquiterpenes from agarwood, Phytochem. (5) 33 (1993) 1147-55 20- J. Liu, Non-toxic tobaccoless cigaret, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,111,965 (1995) 4 tr. 21- T. Shimamura, T. Yamada, Deodorants containing aloe components for indoor air treatment, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09099045 (1997) 5 tr. 22- Z. Guo, Plaster for treating liver disease, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 96,1170585 (1998) 4 tr. 23- P. Yan, Antiobesity essence compositions, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1171236 (1998) 5 tr. 24- M.H. Jin, S.Y. Kim, H.J. Kim, M.Y. Chagn, S.H. Kang, Skin composition containing collagen synthesis facilitator, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2000018467 (2000) 25- Y. Ochiai, A. Ogawa, Skin-lightening cosmetics containing tyrosinase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001316241 (2001) 12 tr. 26- M.A. Deodhar, N.H. Pipalia, S.M. Karmarkar, Biotransformation of terpenoids : reductive ability of Paecilomyces varioti, J. Med. Arom. Plant Sci. (1) 24 (2002) 1-5 27- B.S. Koo, D.U. Lee, Y.H. Shin, Treatment and prevention of insomnia and seizure containing perfume components of herbal material, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003071213 (2003) 28- J.F. Hu, K. Kuhen, D. Hafenbradl, J. Li, T . Chen, J. Harris, N. Gray, P.G. Schultz, Twenty high-grade traditional Chinese medicines : their anti-Hiv, antibacterial, and anticancer biological screening, Abst.Pap.229th ACS Nat.Meet.San Diego,CA USA March 13-17 (2005) MEDI-397
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 9, 2011 7:02:54 GMT 9
Đỗ Quyên hoa thắm Vietsciences- Võ Quang Yến Quân vương tuyệt tận ở Giang Đông Tiện thiếp làm sao nhập Hán phòng. Máu xanh hóa có bên sông lạnh, Như đóa đỗ quyên nở cánh hồng. Ngu Mỹ Nhân - Hứa Thị, Văn Phạm dịch Rhododendron indicum (ảnh Võ Quang Yến) "… Thuở ấy, có hai vợ chồng trẻ sống dưới động Truồi. Họ rất yêu nhau. Thế rồi tự nhiên chàng trai trở bệnh, thuốc thang không khỏi mà ngày càng nặng thêm. Có người mách bảo lên động Bạch Mã tìm loại cây thuốc giống như cây kim giao toàn thân màu trắng, uống vào sẽ cải tử hoàn sinh. Người vợ đã lên đường tìm linh dược cho chồng nhưng qua mấy ngày lặn lội trong rừng, cô chẳng tìm ra thuốc. Đói lạnh làm cô kiệt sức, cô ngã xuống bên một dòng suối, đầu va vào tảng đá. Máu cô hòa vào dòng suối, chảy đến đâu liền xuất hiện đến đó một loài cây cỏ thân gầy guộc, có màu hoa đỏ như máu gọi là đỗ quyên… Loại hoa nầy chỉ sống trọn vẹn trong mùa xuân, vươn mình lên kẽ đá và soi mình đỏ rực xuống dòng suối…" (1) Thật ra, hoa đỗ quyên Rhododendron, còn có tên đỗ quyên ấn, hồng thụ ấn (*), thạch nam (**), thuộc họ cùng tên Đỗ quyên Ericaceae, ngày nay với kỹ thuật hợp lai phổ biến rộng rãi, không chỉ toàn một màu đỏ thắm mà tùy nơi còn mang nhiều sắc trắng, tím, tía, son qua hồng nhiệt, đỏ thẫm, đỏ gạch, đỏ hồng, đỏ xanh, đỏ cam, đỏ vàng,… Nguồn gốc núi cao châu Á nhiệt đới (Nhật Bản, Myanmar, Nepal) ngày nay nó mọc hoang và được trồng khắp nơi, ở châu Á (Nhật Bản, Myanmar, Nepal), cũng như ở châu Âu, châu Mỹ. Là một cây trang trí rất được ưa thích, nó đã được pha giống thành hằng trăm loại đủ cở lớn, nhỏ, đủ màu sắc lộng lẫy. Hoa R. simsii Planch. (tức R. indicum Sweet var. simsii Maxim, hay var. ignescens Sweet, hay Azalea indica Sims. non Linn) màu đỏ hồng, R. kaempferi Planch. màu đỏ cam tươi, R. obtusum Planch. màu trắng, đỏ gạch, đỏ tía, đều thuộc chủng của R. indicum Sweet (*). Môn phân tích hóa học giúp ta biết được nguyên do màu đỏ ở hoa đỗ quyên là các chất sắc anthocyanin. Hai chất chính cyanidin glucosid và cyanidin diglucosid thường gặp bên cạnh peonidin diglucosid. Hoa màu tía chứa đựng malvidin diglucosid, màu tím là do myricetin methyl ether mà ra, còn quercetin, azaleatin, methoxy kaempferol chuyển màu đỏ xanh. Lượng các cyanidin hay flavonol, mà nhiều nhất là azaleatin rhamnosyl gucosid, làm thay đổi màu hoa từ đỏ thẫm, đỏ xanh qua hồng nhiệt, đỏ cam, đỏ vàng. Càng ít cyanidin glucosid, màu đỏ càng chuyển qua xanh. Cyanidin còn hiện ra dưới các thể galactosid, arabinosid, galactosid glucosid, araginosid. Trong số các flavon khác, đã xác định được những pelargonidin, delphinidin, petunidin, còn flavonol glycosid thì có quercetin galactosid, rhamnosid, azaleatin galactosid, malvidin glucosid, delphinidin glucosid. Hai chất sau nầy nhuộm hoa màu tía (3), còn caroten hiến màu vàng trong hoa R. japonicum f. flavum (21). Song song với hoa, thân, lá , rễ cây đỗ quyên R. simsii cũng được khảo cứu. Rễ cây chứa đựng những flavon như quercetin, kaempferol, hyperin cùng sitosterol. Bên cạnh amin acid, những kim loại Zn, Fe, Cu, Co, Se, Mn và Cr đã được xác định (mg/100g) trong thân cây : 7,09, 21,37, 1,14, 0,31, 0,03, 6,62, 0,02 và trong rễ cây : 7,42, 28,69, 1,29, 0,32, 0,01, 0,99, 0,02. Trong lá cây, cùng với triterpen, flavonon glycosid và chất phản oxy hóa "matteucinol", những flavonoid aglycon như quercetin, kaempferol đã được trích chiết làm rượu thuốc Jinjuan (2). Về mặt ứng dụng, lá cây đỗ quyên chứa đựng vitamin C. Lượng sinh tố có nhiều về mùa hè so với mùa đông, có nhiều ở chỗ nóng so với trong bóng râm, tăng lên trước khi mặt trời mọc rồi giảm dần (7,8). Phần chiết chứa đựng nhiều flavonoid ở liều lưọng 300 mg/kg chữa bệnh viêm phế quản mạn tính rất hiệu nghiệm (4). Nước chiết từ cây cống hiến một chất thuốc có khả năng ức chế trùng VSH-II (6). Những flavon glucosid ở lá cây R. anthopogonoid, cấu chất của anthorhododendrin, có tác dụng long đờm trên chuột. Đằng khác, nó gây co thắt các mạch máu ở chân ếch và tai thỏ đồng thời làm duỗi khí quản heo cùng các bắp thịt cánh chậu trơn nhẵn. Nó rất hiệu nghiệm trong cuộc trị liệu viêm phế quản nhưng nên ghi nhận LD50 ở chuột là 0,40 g/kg (12). Phần chiết nhiều cây đỗ quyên khác cũng có tính chất long đờm (5) nhờ những chất farrerol, astragalin, kaempferol, scopoletin, hay ngừa ho nhờ hyperin và quercetin (13). Chất quercetin nầy còn có khả năng ức chế những hoại tử khối u ở đại thực bào (20). Dầu lá cây R. dauricum chứa đựng flavon được dùng chữa ho hen và bệnh suyễn (15). Dùng methanol chiết lá thì được một chất thuốc làm giảm đau, hiệu nghiệm 40% với 50 mg/kg nhưng cũng trở nên độc trên 150 mg/kg (14). Chiết với ethanol 95%, cây R. cephaluntum cống hiến một chất chromen có khả năng ức chế hoạt động của 5-lipoxygenase và được dùng chống viêm, dị ứng, hen suyễn (19). Ở vùng núi miền Hắc hải bên Turkey cũng như ở Nhật Bản, Nepal, Brazyl, và ngay ở châu Âu và châu Mỹ, các loại hoa đỗ quyên R. ponticum, R.luteum chứa một chất độc, grayantoxin, được ong hút về cùng nhựa hoa làm mật, ăn vào có thể bị nôn mửa, hôn mê, vú nứt (22) hay huyết áp giảm xuống, nhịp chim chậm lại (11,16,17). Chất độc nầy tác động lên cuộc gián phân bạch huyết bào con người (18). Mang tên andromedotoxin, được phát hiện ở R. hunnewellianum (9) hay acetylandromedol (11) ở R. chrysanthum, R. campylocarpum và các hoa đỗ quyên khác cùng họ Đỗ quyên Ericaceae, đồng thời tác dụng lên tim, nó còn kích thích da cùng các màng nhầy (10). Trong Đông y, đỗ quyên vị đắng tính bình, hơi độc vào can thận, có tác dụng dưỡng thận khí, bổ thận khu phong, trị âm suy liệt dương, chân yếu lưng mỏi, di tinh, phối hợp với các vị khác. Chữa tiết tinh, lạnh tinh, liệt dương : lá thạch nam, ba kích, nhục thung dung, tỏa dương , sơn thù, mỗi vị 12-20g, sắc uống, hòa thêm 10 g cao ban long càng tốt. Chữa can thận hư, phong hàn thấp, chân tê yếu : thạch nam, tật lê, hà thủ ô, ba kích, ngũ gia bì, thỏ ty tử (quả hạt tơ hồng), uy linh tiên, mỗi vị 12-20 g, sắc uống (**). Khóm đỗ quyên trên sườn đồi núi Alpes (ảnh Võ Quang Yến) Tôi đã có dịp lên Bạch Mã nhưng không may mắn gặp được mùa đỗ quyên trỗ hoa. Nghe nói đẹp lắm. "Khi mặt trời rọi những tia nắng ấm xuống Bạch Mã, dòng suối đã mang hết nước về xuôi, hoa đỗ quyên rực rỡ một vùng. Sắc đỗ quyên đỏ thắm như máu, nồng nàn như mời gọi mà không rực rỡ, xót xa như phượng vĩ…" (1) Tuy nhiên, tôi lại được đi dạo ở miền núi Alpes bên Pháp, một chiều đầu hè, mặt trời tuy cao nhưng hết còn nóng, gió nhẹ thổi vương chút nắng tàn, hoa đỗ quyên cũng đỏ thắm huy hoàng cả một triền núi xanh thấp thoáng dưới bầu trời lửng lơ mây trắng.. Tôi cảm thấy khoan khoái, dễ chịu do khí trời mát mẻ, không khí trong sạch đã đành, mà cũng có lẽ vì nhẹ bước giữa những khóm đỏ quyên tươi thắm như hân hoan đón rước kẻ đi dạo rừng. Khó mà so sánh với Bạch Mã, tuy ở đây cũng có chim nhưng không phải chim đỗ quyên, cũng có thác nhưng không phải thác Đỗ Quyên. Thôi thì tạm vui nơi phong cảnh xứ người, có khi may mắn được nghe giọng hát ví von của ca sĩ Đỗ Quyên khuây khỏa thời gian chờ đợi về tắm ao ta. Nghiên cứu và Phát triển 2(45) (2004) 68-72 có bổ túc (*) Trần Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TPHồChíMinh (1993) 342
(**) Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội (1997) 1097 Tham khảo
1- Nguyễn Hương, Bạch Mã, mùa hoa đỗ quyên nở, Nhớ Huế - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TPHồChíMinh (2000) 42-45 Rhododendron simsii, R. indicum, Azalea indica
2- R. De Loose, Qualitative investigation on the flower pigments of Belgian hybrids of Rhododendron simsii, Meded. Vlaam. Chem. Ver. 30(4) (1968) 99-123
3- R. De Loose, Azalea indica flower color as related to the parameters pH, anthocyanins and flavonol co-pigments, Sci. Hortic. (Amsterdam) 9(3) (1978) 285-90
4- Y.F. Zhang, J.X. Tan, Y.F. Zhou, Change of action potentials in vagus nerve (efferent) of chronic bronchitic rats and the effect of treatment with flavonols of Rhododendron simsii, Yao Hsueh Tung Pao 16(5) (1981) 4-6
5- J. Xie, L. Wang, C. Liu, D. Ge, Synthesis of expectorant principle of natural flavanone, «matteucinol», Zhongguo Yixue Kexueyuan Xuebao 8(2) (1986) 84-7
6- M.S. Zheng, An experimental study of the anti-HSV-II action of 500 herbal drugs, J. Trad. Chin. Med. 9(2) (1989) 113-6 Rhododendron spp
7- R. Wasicky, Vitamin C cycle in the plant, Anais fac.farm.e odontol.univ.,Sao Paulo 15 (1958) 87-109
8- R. Wasicky, Extraction of vitamin C from the above ground portions of plants by the rain, Sci. Pharm. Brazyl 26 (1958) 100-3
9- H.P. Chu, G.K. How, The toxic principle (andromedotoxin) from Nao-Yang-Hua, Rhododendron hunnewellianum. I. The effect on circulation and respiration, Chinese J. Physiol. 5 (1962) 115-24
10- H. Schindler, Acetylandromedol (andromedotoxin) in various Ericaceae species, especially in Rhododendron, and ist approximate determination, Planta Med. 10 (1962) 232-7
11- F. Zymalkpwski, P. Pachaly, S. Auf dem Keller, Determination of acetylandromedol (grayanotoxin I) in Rhododendron ponticum extracts, Planta Med. 17(1) (1969) 8-13
12- Lanchow Med. Coll., Pharmacologic action and toxicity of anthorhododendrin, Chung-Hua Hsueh Tsa Chih 54(5) (1974) 279-83
13- Lab. Med. Plants, Correlation between phylogeny, chemical constituents and pharmaceutical aspects of plants and their applications in drug research, Chih Wu Hsueh Pao 19(4) (1977) 257-62
14- H. Tamura, H. Kuwahara, T. Inui, S. Terada, M. Yokota, A. Hasebe, Use of Rhododendron. I. Drugs and perfumes, Shizuoka-ken Kogyo Gijutsu Senta Kenkyu Hokoku (33) (1988) 61-5
15- F. Cong, F. Xiao, Z. Jiang, H. Yan, L. Meng, L. Cheng, Rhododendron dauricum leaf extracts containing flavones for treatment of cough and asthma, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 86108317 (1988) 4 tr.
16- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Site of action of grayanotoxins in mad honey in rats, J. Appl. Toxic. 11(3) (1991) 199-201
17- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Mad honey poisoning in man and rat, Rev. Envir. Healt 9(1) (1991) 3-9
18- M. Ascioglu, N. Cucer, A. Ekecik, Effect of grayanotoxin II on in vitro mitotic activity of human lymphocytes, J. Inter. Med. Res. 26(3) (1998) 140-3
19- A. Tokuta, T. Kawanabe, K. Tokuta, Y. Toue, A. Satoshi, The new chromene derivatives as 5-lipoxygenase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10251246 (1998) 5 tr.
20- K.R. Manjeet, B. Ghosh, Quercetin inhibits LPS-induced nitric oxide and tumor necrosis factor-alpha production in murine macrophages, Int. J. Immunopharm. 21(7) (1999) 435-43
21- I. Miyajima, K. Ureshino, N. Kobayashi, M. Akabane, Flower color and pigments of intersubgeneric hybrid between white-flowered evergreen and yellow-flowered deciduous azaleas, J. Jap. Soc. Hort. Sci. 69(3) (2000) 280-282
22- B. Puschner, D.M. Holstege, N. Lamberski, T. Le, Grayanotoxin poisoning in the three goats, J. Amer. Vet. Med. Ass. 219(4) (2001) 573-5
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 9, 2011 7:08:09 GMT 9
Măng cụtVietsciences- Võ Quang Yến “Mùa đông về dằng dặc trong tiếng động nghìn trùng của mưa trên lá. Tưởng không còn gì để trông ngóng ở khu vườn trước lúc sang xuân, thì đến tháng mười một, măng cụt chín, như một quả vui đột xuất cuối năm. Đây là mùa thu hoạch chính của những khu vườn vùng Kim Long. Quả măng cụt, người Huế còn gọi là trái giáng châu, lúc chín màu tím sẫm, ở rốn quả nổi lên một hình hoa nhỏ, nhìn hoa có bao nhiêu cánh thì biết bên trong có bao nhiêu múi. Hình như nó chẳng có tác dụng gì cả ngoài việc khiến người ta ưa nhìn đến nó, giống như hạt cúc giả trên áo phụ nữ, vì thế bà Lan Hữu tạm giải thích rằng đó là cái bản năng tự trang sức của thiên nhiên ở nơi cây măng cụt” (5). Cây măng cụt người Tàu gọi là sơn trúc tử tuy nó không mọc bên Trung Quốc, người Huế gọi gọn nhẹ cây măng, mang tên khoa học Garcinia mangostana L., thuộc họ Bứa Guttiferae. Người Pháp gọi nó mangoustanier, Anh Mỹ mangosteen, có khi manggis. Cách gọi nầy của người nước ngoài có ảnh hưởng gì đến tên của ta không vì phần lớn các cây Garcinia khác đều mang tên bứa : bứa lửa, bứa nhà, bứa mọi, bứa núi ? (1). Còn tên gọi đài các ở Huế là giáng châu, như ngọc trên trời ban xuống, thì có lẽ từ cung đình mà ra. “Thiết nghĩ cây măng cụt sống được trên đất Kim Long phải có từ lâu, có lẽ từ thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần khi mở đất tới xứ Đồng Nai, nếu không cũng phải thời Gia Long lên ngôi nhận sản vật hai miền cung tiến ra kinh đô. Bởi tương truyền giống măng cụt do bà Từ Dũ đem từ trong Nam ra...” (6). Giáng cũng còn có nghĩa đỏ tía, châu chỉ định một cây có lòng đỏ, một màu đỏ thắm như trong châu sa, châu tử, châu thần thì cách lấy tên nầy đặt cho măng cụt cũng dễ hiểu thôi. Cây măng cụt nguồn gốc Mã Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku, ngày nay bắt gặp khắp Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Myanmar cũng như ở Sri Lanka, Philippines, được các nhà truyến giáo đạo Gia tô di thực vào miền Nam nước ta (2), rồi trồng nhiều ở các tỉnh Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ở đây khí hậu cũng nóng ấm nên cây dễ mọc, nhưng nó không tiến được xa lên miền Bắc lạnh lẽo, xa lắm là đến tận Huế. Có người đã từng ngạc nhiên : “Cây măng cụt chẳng hạn, từ miền Đông Nam Bộ nó nhảy qua suốt một dải miền Trung rồi xuất hiện trở lại ở những khu vườn Huế” rồi thắc mắc “Riêng tôi vẫn thấy một điều lạ chưa giải đáp được về cây măng cụt ở Huế, sao chịu về đây để chín bằng mưa dầm gió bấc, sao chín được bằng sức đông lạnh của Huế ? Dầu sao, nhờ có mùa măng, vườn An Hiên vẫn giữ được phong độ qua buổi vạn vật tàn phai” (5). Cách thức thích ứng nầy của cây măng cụt với thời tiết đã gây ra một hiện tượng khá lạ. “Mùa măng cụt ở Huế lại so le với mùa măng cụt ở Nam Bộ. Vì vậy khi măng cụt miền Nam hút trái, giống trái cây nầy được nhiều người ưa chuộng, măng cụt Huế đang mùa trổ quả lại được buôn ngược vào trong Nam. Riêng người Huế thì ăn được cả hai mùa trái cây của hai miền đất nước. Có được điều đó hẳn do phong thổ ở Huế khác hơn. Hiện nay vườn măng cụt ở Huế sai quả nhất Kim Long phải kể đến vườn ông Lê Tự Thái, mỗi gốc cây có tuổi đời già hơn tuổi của mấy đời chủ nhân... Măng cụt Nguyệt Biều trồng nhiều song người Huế vẫn chuộng trái của vườn Kim Long ” (6). Măng cụt là một loại cây to, có thể cao tới 20-25m. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ tươi như rượu vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng, ăn ngọt thơm ngon (2,4). Như các loại quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường : sucrose, fructose, glucose và có thể cả maltose (8). Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số ấy hơn 30 chất đã được xác định (19). Nhiều nhất là (%) hexenol (27,27), tương đối ít hơn là octan (14,76) đứng trước hexyl acetat (7,87), a-copaen (7,28), aceton (5,65), furfural (4,89), hexanol (4,38), methyl butenon (4,34), toluen (2,80). Những chất khác đều dưới 2% nhưng góp phần với các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal, hexanol, a-bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với a-copaen, mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi hồ đào với d-cadinen. Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, a-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu, valencen đặc biệt mùi mứt cam. Đáng để ý là nếu furfurl methylceton cống hiến hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi. Qua ví dụ một trái măng cụt, ta thấy hương vị thiên nhiên quả là phức tạp. Áo hạt măng cụt không thấy được khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là mangostin (8,9,10), a-mangostin (32,33,34), b-mangostin (8,9,10), g-mangostin (9,32,35), những isomangostin (26), normangostin (10) bên cạnh trioxyxanthon (18,27), pyranoxanthon (28), dihydroxy methyl butenyl xanthon (34), trihydroxy methyl butenyl xanthon (32), pyrano xanthenon (15). Những garcinon A (17,20), B (17,20,32), C (17,20) , D (24), E (32,34), mangostinon (34), garcimangoson A,B,C (49), gartanin (10,11,25) , egonol (32), epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam (33), benzophenon glucosid (14) tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8%), tanin (11,2%), đã được xác định những trihydroxy methoxy methyl butenyl xanthon (25), ethyl methyl maleimid glucopyranosid (37), cùng những triterpenoid như cycloartenol, friedlin, b-sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid, cyclolanostendiol (30), hydroxy cyclolanostenon (31). Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra (12). Còn tử y thì chứa đựng mangostin, những calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon (26). Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống khoa học đời sống ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giản phế quản trong cuộc điều trị hen suyển (27). Nó cũng được xem như là những thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ (15), kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch (31). Người Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da (31). Người Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da (2). Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón (3). Cách thức dùng tương đối dễ : bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nữa, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện (2). Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính chất của vỏ trái : nhờ chất epicatechin, nó chống oxi hoá (55) ; nhờ những flavonoid, nó ức chế hoạt động sản xuất acid của trùng Streptococcus mutans GS-5 (56) . Bên phân garcinon E thì có tính chất độc hại cho các tế bào gan, phổi, dạ dày (51) . Trong số các xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin. Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8µg/ml (21,23) , lên các nấm Fusarium oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis, Dreschlera oryzae (42), Trichophyton mentagrophytes, Microsporum gypseum (22,23), Epidermophyton floccosum ở nồng độ 1µg/ml (22), Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 6,25 µg/mL (52) . Đem thử trên heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế bào bám dính miễn dịch (16). Đặc biệt a-mangostin ức chế Bacillus subtilis ở nồng độ 3,13µg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ 209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57µg/ml, tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin (36). g-mangostin thì chống sự oxi hóa lipid (40), ức chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do các tế bào đại thực gây ra (54) . Cả hai a- và g-mangostin đều có tính chất chống dị ứng ; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng sổ mũi mùa (43). Cả hai ức chế sự co của động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin và serotonin tác động (39). Nói chung, cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin, tức là những tác nhân điều trị đác lực những bệnh biến dị ứng (44). Hai chất nấy, chiết xuất từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc, kháng oxi hóa (33). Một phần chiết măng cụt gồm có mangostin và g-mangostin ức chế HIV-1 protease (IC50=5,12 và 4,81µM) (35) . Đứng về mặt ứng dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất kháng vi sinh vật (53) . Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay ergonol ức chế Helicobacter pylori đã được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ dày. a-mangostin có công hiệu trên Helicobacter pylori ở nồng độ 1,56µg/ml (38). a- và g-mangostin ức chế glucosyl transferase phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và collagenase do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi nên được dùng trong thuốc đánh răng (50) , có khả năng ngừa chặn sâu răng và mảng răng (47). Mangosten được trộn với nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon, eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen glycol, triethanolamin,… để làm một loại thuốc bảo vệ chống ánh nắng mặt trời (45). Nhờ tính chất ức chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50µg/ml trong một dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc kích thích tiêu mỡ (48). Sau cùng, cũng nên biết để trái măng cụt tránh bị rám nâu khi tích trữ trong tủ lạnh, nó cần phải được lắc lay một phút trong một dung dịch 0,25% calcim chlorid + 0,5% citric acid (29). Một cô gái Huế sống tha hương bên chân trời Đức băng giá, không có cây măng cụt trong vườn và chắc cũng không có nhiều quả măng cụt trong tủ lạnh, một lần về thăm thành phố quê nhà đã đặc biệt rung cảm thưởng thức trái cây với tị triết lý : “Hãy lắng nghe tiếng động của quả Giáng Châu đang rơi trong vườn, để đừng hất hủi không về với Huế nghèo nàn trong buổi cuối đông. Giáng châu trên cành dù cho chín tới vẫn chưa phải là giáng châu, phải đợi một thời điểm nống ấm vừa tầm – như tiếng nhắc nhở của nắng sớm qua hương hoa mộc – giáng châu rơi xuống, chạm đất - phải “rơi và chạm” như một nghi lễ hành thâm, như sự cúi xuống của giọt nắng đầu tiên – đó là bí mật vị ngọt thanh khiết vô song của những múi giáng châu trinh nguyên, hái trên cành không chạm đất giáng châu vẫn còn giữ một vị chua chưa đủ xứng danh là viên ngọc của trời riêng tặng cho đất… Nếu chín trong lòng nắng không ấm không nồng làm sao giáng châu trở thành một giáng tiên trong mùa đông ở Huế ?” (7) . Trong giấc mơ nơi đất khách nghe tiếng giáng châu “rơi và chạm” vào đất, giật mình thức giấc, thế nào cô gái kia không nhớ được về vườn nhà sai quả êm dịu trong ánh nắng mùa thu ! Xô thành, mùa giáng châu vườn Huế Trích Nghiên cứu và Phát triển số 4(38) 2002
(có bổ túc tài liệu cho Vietsciences) Tài liệu Đại cương
1- Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ miền nam Việt Nam, Bộ Giáo Dục, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn (1970) 267
2- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 442
3- Bùi Kim Tùng, Món ăn bài thuốc II, Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh Bà Rịa–VũngTàu (1996) 40
4- Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nôi (1997) 718
5- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoa trái quanh tôi trong Huế, Di tích và con người, nxb Thuận Hóa, Huế (1995)
6- Nguyễn Hoài Hương, Kim Long - Vườn xanh xứ Huế, Nhớ Huế 8 - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 131
7-Thái Kim Lan, Nắng Phú Xuân, Diễn Đàn forum, Paris (2) (2002) 43
Khảo cứu
8- G.S. Siddappa, B.S. Bhatia, The identification of sugars in fruits by paper chromatography, Indian J. Hort. 11 (1954) 19-23
9- A. Jefferson, A.J. Quillinan, F. Scheinmann, K.Y. Sim, Isolation of g-mangostin from Garcinia mangostana, and preparation of the natural mangostins by selective demethylation, Aust. J.Chem. 23(12) (1970) 2539-53
10- T.R. Govindachari, P.S. Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai, Isolation of three new xanthones from Garcinia mangostana, Indian J.Chem. 9(5) (1971) 505-6
11- T.R. Govindachari, P.S. Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai, Xanthones of Garcinia mangostana, Tetrahedron 27(16) (1971) 3919-26
12- D.M. Holloway, F. Scheinmann, Phenolic compounds from the heartwood of Garcinia mangostana, Phytochemistry 14(11) (1975) 2517-8
13- C.S. James, C.T. Thomas, N. Kunjikutty, A note of the chemical composition and tannic acid content of the locally available tree leaves, Kerala J. Vet. Sci. 8(2) (1977) 247-9
14- C.T. Du, F.J. Francis, Anthocyanins of mangosteen, Garcinia mangostana, J. Food. Sci. 42(6) (1977) 1667-8
15- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A. Hase, A xanthone from Garcinia mangostana, Phytochemistry 19(10) (1980) 2223-5
16- C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, L. Kameswaran, S.K. Nazimudeen, Effect of mangostin, a xanthone from Garcinia mangostana Linn, in immunopathological and inflammatory reactions, Indian. J. Exp. Biol. 18(8) (1980) 843-6
17- A.K.. Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Isolation of tree new minor xanthones from Garcinia mangostana Linn., Indian J. Chem., Sect. B 19B (11) (1980) 1008
18- A.K.. Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Minor xanthones of Garcinia mangostana, Phytochemistry 20(1) (1981) 183-5
19- A.J. MacLeod, N.M. Pieris, Volatile flavor components of mangosteen, Garcinia mangostana, Phytochemistry 21(1) (1982) 117-9
20- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A. Hase, The structure of garcinones A, B, and C : three new xanthones from Garcinia mangostana, Phytochemistry 21(7) (1982) 1747-50
21- W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, C. Jansakul, P. Wiriyachitra, Screening of antibacterial activity of chemicals from Garcinia mangostana, Warasan Songkhla Nakkharin 5(4) (1983) 337-9
22- W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, P. Wiriyachitra, Screening of antifungal activity of chemicals from Garcinia mangostana, Warasan Songkhla Nakkharin 5(4) (1983) 341-2
23- W. Mahabusarakam, P. Wiriyachitra, S. Phongpaichit, Antimicrobial activities of chemical constituents from Garcinia mangostana Linn., J. Sci. Soc. Thailand, 12(4) (1986) 239-43
24- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Garcinone D, a new xanthone from Garcinia mangostana Linn., Indian J. Chem., Sect. B 25B (11) (1986) 1157-8
25- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, A new isoprenylated xanthone from Garcinia mangostana Linn., Chem. Ind. (London) (12) (1987) 418
26- W. Mahabusarakam, P. Wiriyachitra, W.C. Taylor, Chemical constituents of Garcinia mangostana, J. Nat. Prod. 50(3) (1987) 474-8
27- K. Balasubramanian, K. Rajagopalan, Novel xanthones from Garcinia mangostana, structures of BR-xanthone-A and BR-xanthone-B, Phytochemistry 27(5) (1988) 1552-4
28- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, Two xanthones from Garcinia mangostana, Phytochemistry 27(11) (1988) 3694-6
29- P. Sophanodora, C. Sripongpunkul, Prevention of browning in frozen mangosteen, Warasan Songkhla Nakkharin 12(3) (1990) 289-94
30- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, B. Achari, P.K. Dutta, Tritexpenoids from Garcinia mangostana, Fitoterapia 61(1) (1990) 86-7
31- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, B. Achari, P.K. Dutta, A triterpene from Garcinia mangostana, Phytochemistry 30(1) (1991) 361-2
32- S. Sakai, M. Katsura, H. Takayama, N. Aimi, N. Chokethaworn, M. Suttajit, The structure of garcinone E, Chem. Pharm. Bull. 41(5) (1993) 958-60
33- M. Yoshikawa, E. Harada, A. Miki, K. Tsukamoto, Antioxidant constituents from the fruit hulls of mangosteen (Garcinia mangostana) originating in Vietnam, Yakugaku Zasshi 114(2) (1994) 129-33
34- F. Asai, H. Tosa, T. Tanaka, M. Iinuma, A xanthone from pericarps of Garcinia mangostana, Phytochemistry 39(4) (1995) 943-4
35- S.X. Chen, M. Wan, B.N. Loh, Active constituents against HIV-1 protease from Garcinia mangostana, Planta Med. 62(4) (1996) 381-2
36- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, F. Asai, Y. Kobayashi, R. Shimano, K.I. Miyauchi, Antibacterial activity of xanthones from guttiferaeous plants against methicillin-resistant Staphylococcus aureus, J. Pharm. Pharmacol. 48(8) (1996, 861-5
37- D. Krajewski, G. Toth, P. Schreier, 2-Ethyl-3-methylmaleimide N-β -D-glucopyranoside from the leaves of mangosteen (Garcinia mangostana), Phytochemistry 43(1) (1996) 141-3
38- H. Hasegawa, S. Sakai, N. Aimi, H. Takayama, T. Koyano, Helicibacter pylori inhibitors containing xanthones from Garcinia mangostana, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08231396 A2 19960910 Heisei (1996) 5tr.
39- N. Chairungsrilerd, K.I. Furukawa, T. Ohta, S.Nozoe, Y. Ohizumi, Histaminergic and serotonergic receptor blocking substances from the medical plant Garcinia mangostana, Planta Med. 62(5) (1996) 471-2
40- M. Yoshikawa, T. Yoshizumi, Natural antioxidant g-mangostin isolation from mangosteen, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08225783 (1996) 6tr.
41- M. Iinuma, M. Yamada, Antibacterial agents containing xanthones for Gram-negative bacteria, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09110688 A2 19970428 Heisei (1997) 5tr.
42- G. Gopalakrishnan, B. Banumathi, G. Suresh, Evaluation of the antifungal activity of natural xanthones from Garcinia mangostana and their synthetic derivatives, J. Nat. Prod. 60(5) (1997) 519-24
43- K. Oizumi, K. Furukawa, , N. Chiranshilart, T. Ota, S. Nozoe, Antiallergic agents containing extracts of Garcinia mangostana pericap or magostin, and antiallergic foods containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10072357 A2 19980317 Heisei (1998) 6tr.
44- Y. Ohizumi, Search for receptor blocking substances from natural resources and their pharmacological studies, Int. Congr. Ser. (1998) 1157 (Towards Natural Medecine Rexsearch in the 21st Century) 103-112
45- J. Gedouin, R. Vallee, Sunscreen composition containing mangostin, Fr. Demande FR 2754447 A1 19980417 (1998) 12tr.
46- S. Wahyuono, P. Astuti, W.T. Artama, Characterization of bioactive substance, a-mangosten, isolated from the hull of Garcinia mangostana L., Maj. Farm. Indones 10(3) (1999) 127-34
47- K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyl transferase inhibitors from plant extracts for dentifrice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11343247 A2 19991214 (1999) 9tr.
48- J. Gedouin, R. Vallee, Use of cosmetic compositions containing a substance with a pyrone group, Fr. Demande FR 2 7774 905 (1999) 18tr.
49- Y.L. Huang, C.C. Chen, Y.J. Chen, R.L. Huang, B.J. Shieh, Three xanthones and a benzophenone from Garcinia mangostana, J. Nat. Prod. 64(7) (2001) 903-6
50- K. Miyazaki, K. Osawa, Food and dentifrice containing anticaries and anti-pyorrhea agents, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001247469 A2 2660911 (2001) 8tr.
51- C.K. Ho, Y.L. Huang, C.C. Chen, Garcinone E, a xanthone derivative, has potent cytotoxic effect against hepatocellular carcinoma cell lines, Planta Medica 68(11) (2002) 975-9
52 - S. Suksamrarn et all., Antimycobacterial activity of prenylated xanthones from the fruits of Garcinia mangostana, Chem. Pharm. Bull.(Bangkok) 51(7) (2003) 857-9
53-Y. Kato, S. Hosoda, Mangosteen extracts, their preparation, and antimicrobial deodorant agents containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003231607 A2 20030819 (2003) 9tr
54- C.C. Wang, L.G. Chan, I.H. Lin, L.L. Yang, Inducible nitric oxide synthase inhibitors of Chinese herbs IV : Garcinia mangostana, Abstracts of Papers, 228th ACS National Meeting, Philadelphia, PA, USA, August 22-26 (2004)
55- J. Feng, T. Yamakuni, E. Katoh, S. Hosoda, Y. Ohizumi, Potent oxidative activity of unripe fruits of Garcinia mangostana L., Nat. med. (Tokyo) 58(4) (2004) 156-9
56- Nguyen Thi Mai Huong, Phan Tuan Nghia, Nguyen Thi Ngoc Dao, Do Ngoc Lien, Polyphenolic component of fruit skin of Garcinia mangostana L. and inhibitory effect on acid production by Streptococcus mutans GS-5, Tap Chi Duoc Hoc 44(6) (2004) 18-21
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 4:57:42 GMT 9
Hoàng Lan Hoàng lan hay ngọc lan tây, ylang-ylang hoặc Ylang công chúa (danh pháp khoa học: Cananga odorata), là một loài cây thân gỗ trong Chi Công chúa (Cananga). Loài cây này có thể có độ cao trung bình khoảng 12 m, phát triển tối đa khi được trồng tại nơi có nhiều nắng, và nó ưa thích các loại đất chua tại khu vực nguồn gốc của nó là các rừng mưa. Vỏ cây màu xám trắng; nhánh ngang hay thòng, mang lá song đính, không lông. Lá của nó dài, trơn và bóng loáng. Hoa có màu vàng ánh lục hoặc hồng, quăn như sao biển, và có tinh dầu có mùi thơm rất mạnh, nở từ tháng 11 đến tháng 12. Mỗi hoa cho ra một chùm quả, mỗi chùm quả chứa 10 - 12 hạt, giống như hạt na. Tên gọi ylang-ylang có nguồn gốc từ tiếng Tagalog ilang-ilang, có nghĩa là "hoa của các loài hoa" mà không phải là để nói bóng gió tới mùi thơm dễ chịu của hoa hoàng lan. Mùi thơm của hoa hoàng lan vừa nồng và đậm với các dấu vết của hoa cây cao su và món sữa trứng, đồng thời lại rực rõ với dấu vết của của hoa nhài và tinh dầu cam đắng (Citrus aurantium thứ amara hay Bigaradia). Tinh dầu hoa hoàng lan thu được bằng cách chưng cất nhờ hơi nước và tách ra thành các cấp khác nhau (extra; 1; 2; 3) tương ứng với việc chưng cất vào khi nào. Thành phần chính tạo ra mùi thơm của hoàng lan là mêtyl anthranilat. Tinh dầu hoàng lan được dùng trong điều trị bằng xoa bóp dầu thơm, người ta tin rằng nó có thể làm giảm huyết áp cao, điều tiết các chất bã nhờn đối với các vấn đề về da, và cho rằng nó có tác dụng kích thích tình dục. Tinh dầu hoàng lan cũng được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông. Mùi hoàng lan pha trộn khá tốt với phần lớn các loại mùi cây cỏ, hoa quả và gỗ. Tại Indonesia, hoa hoàng lan được rải trên giường cưới của các đôi tân hôn. Tinh dầu hoàng lan chiếm tới 29% xuất khẩu hàng năm của Comoros (số liệu năm 1998). **************************************** Thương Nhớ Hoàng LanTrần Thùy MaiTôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: - Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót? Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: - Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi. Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: - Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ? Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: - Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H. Rồi bà cười ha hả: - Đi tu mà chẳng trót đời, làm thân con ếch cho người lột da. Mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm... Cô ruột tôi giận lắm, bảo: - Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng. Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói *Đừng*. Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương? Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni. Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn... Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: - Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu? Tôi chỉ lắc đầu... Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: - Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác. Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: - Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: - Tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh? Thầy hỏi: - Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong. Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì. Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng. Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: - Này, đừng nghịch. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: - Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: - Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bộ không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử? Tôi cự: - Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ. Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: - Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi. Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: - Không can gì. Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa? Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó. Tôi động lòng, hỏi: - Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong. Thầy cười: - Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây. Tôi vái thầy mà thưa: - Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa. Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. Anh không thích phong lan nữa sao?. Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: - Thích ghê, em chưa thấy bao giờ. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương... Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng. Tôi hãi hồn, vội nói: - Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: - Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa. Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt... Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà. Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó. Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: - Khó tin. Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn. Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: - Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi. Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: - Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.... Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: - Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi. Quay sang Lan, tôi nạt: - Đi về! Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi... Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: - Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không? Tôi cau mặt: - Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn? Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến. Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không? Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... Em có thích nghe chuyện cổ tích không? Thích. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: - Sao có người làm được như thế? Tôi gật đầu: Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: - Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc? Tôi bảo: - Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con. Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. Thôi, về đi em. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật... Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: - Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu. Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tao mà gặp con ma nữ đó, tao tước từ dưới tước lên. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: - Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao? Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về. Con ma nữ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: - Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con. Tôi cuống quýt: - Bác bảo con làm sao được? Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: - Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng. Tôi thở dài: Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi... Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: - Sao con bỏ học? Tôi nói: - Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng. Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: - Bạch thầy. Thầy tôi bảo: - Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn. Tôi nói: - Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: - Tâm không an, có cầu cũng vô ích. Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn? Thầy nhìn vào mắt tôi: - Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình. Tôi lắc đầu: - Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi. Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian. Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: - Chú Ninh! Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. Bác lên chùa cầu cho em đi bình an... Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt. Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan: Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan... Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi... Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. Cứ khóc đi con - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ. Tôi nức nở: - Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không? Thầy bảo: - Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung? Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống. Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian. Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ. Trần Thùy Mai
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:50:04 GMT 9
Xương rồng Xương rồng (XR) tên mà nhân dân ta thường gọi đối với loại cây thân xanh, mọng nước, nhiều gai nhỏ, có nhựa trắng, hoa nhỏ màu vàng, mọc thành tán, thường nở vào mùa xuân, trong đó có những cây thuộc họ XR chính hiệu: Cactaceae (như các cây: quỳnh, trứng rồng, càng cua, thanh long) và cả những cây thuộc họ thầu dầu: Euphorbiaceae (như cây: xương rắn, trạng nguyên...).Ảnh minh họa. Châu Âu biết đến xương rồng (XR) từ cuối thế kỷ XV, sau khi đã tìm ra châu Mỹ. Năm 1576 Pena và De l’obel là những nhà thực vật học đầu tiên đề cập đến XR. Nhiều tư liệu đã khẳng định quê hương của XR là ở châu Mỹ, nhiều nhất là ở các nước Mỹ latinh, nhưng cũng có tài liệu cho là ở Bắc Trung phi (!). Họ Cactaceae có từ 50-220 chi, với hơn 2.000 loài, thường phân bố tự nhiên từ 36 độ vĩ Bắc đến 45 độ vĩ Nam, nhiều nhất là ở các vùng nóng khô như sa mạc Chihuahua với diện tích 647.000km2 (chiếm 1/4 lãnh thổ Mexico), nơi được coi là thiên đường của XR vì có tới hơn 250 loài (do đó trên quốc kỳ và quốc huy của Mexico có in hình cây XR, biểu tượng của dân tộc - một loại cây có sức sống mãnh liệt và khá phổ biến ở đất nước này). XR dùng làm thuốc Trong y học dân gian ở nhiều nước đều có dùng XR trong trị liệu, dân vùng Tây Ấn thường giã nát một loại lá XR đắp lên da chỗ gãy xương, giúp xương mau liền. Người Mexico dùng rễ 1 loại XR chữa kiết lỵ hoặc nhai một khúc XR Peyote chữa rắn cắn. Thầy thuốc Trung Hoa dùng rễ và thân cây XR bà gai đơn để chữa trĩ, mụn, nhọt, bỏng và rắn cắn. Còn ngư dân nước ta dùng nhựa cây này để chữa đầu đinh, da liễu. Một số vùng dùng XR bà không gai để chữa đau răng và báng, dùng hoa quỳnh để chữa viêm họng, ho ra máu, tử cung xuất huyết, dùng hoa thanh long để thanh nhiệt, chỉ khai (cầm ho); dùng thân thanh long để chữa bỏng, gãy xương, mụn nhọt; dùng quả thanh long để giải nhiệt, nhuận tràng, hạ nồng độ cholesterol máu, thích hợp với người tiểu đường. Ở Mexico, các thầy thuốc dùng một loại nước sắc từ một loại cây XR có khả năng làm hạ độ đường trong máu, giảm được đáng kể liều insulin sử dụng hằng ngày. Gần đây, cây XR Hoodia Gordonil ở sa mạc Kalahari (Nam Phi) đã được đưa vào trị liệu, nhờ khai thác kinh nghiệm của thổ dân Bushmen, do tác dụng cắt cơn đói của nó. Trong thập niên 1990, nhiều nhà khoa học đã kéo về khá đông ở vùng này và phải mất gần 10 năm mới tìm ra nguyên nhân và phân lập các yếu tố tác dụng của cây Hoodia và đến 4/1997, công trình mới được cấp quyền bảo hộ cho yếu tố hoạt tính sinh học trên có tên là P57. Giấy phép khai thác và kinh doanh được cấp cho Công ty Dược phẩm Anh: Phytopharma. Và sau đó (8/1998), công ty này kết hợp với Tập đoàn Dược phẩm Pfizer (Mỹ) đầu tư hàng trăm triệu đô-la vào nghiên cứu loại thuốc giảm béo này. Qua thử nghiệm thấy P57 có khả năng làm giảm 1.000-2.000 calori/ngày, bằng cách tạo ra cảm giác no và dường như không có tác dụng phụ. Qua thử nghiệm trên chuột và trên những người tình nguyện, sản phẩm có nhiều hứa hẹn với một thị trường có doanh số khoảng 3 tỷ đô-la/năm (vì số người mập trên thế giới khá đông đảo). Tuy rằng, sau này Pfizer rút khỏi dự án (7/2003) nên thời gian trình làng của sản phẩm bị chậm trễ. Có ý kiến, Pfizer chuyển sang cách tổng hợp vì lo ngại nguồn nguyên liệu là cây Hoodia bị cạn kiệt. Thổ dân Bushmen, sau một thời gian kiện cáo về việc khai thác kinh nghiệm của họ, cuối cùng đã được chấp nhận tiền đền bù trả trước (gần một triệu đô-la) và sau này khi sản phẩm lưu hành ở thị trường, họ được hưởng 6% lợi nhuận trong vòng 15 năm. Từ một tộc người sống cơ cực, bên bờ suy vong, nay được một số tiền lớn hàng chục triệu đô-la, hy vọng cuộc sống họ sẽ được tốt đẹp hơn, đó là nhờ vào cây XR Hoodia. Cũng cần nói thêm, trong phòng ở hoặc làm việc có trồng cây XR thì không khí sẽ tươi mát, có lợi cho sức khỏe vì ban đêm cây nhả nhiều ion (-) thiên nhiên rất cần đối với tế bào cơ thể con người, nhất là người cao tuổi, thích hợp với phong thủy. XR dùng trong lĩnh vực khác Thổ dân ở Colombia, Mexico, thường dùng thân những cây XR nến làm vật liệu xây dựng: cột, rầm xà, vì kèo... vừa nhẹ, vừa bền. Loại XR nến có gai, cao 3-4m được trồng dùng làm hàng rào, ngăn thú dữ. Có loại XR, thân chứa loại sợi dai, bền, se đan thành túi hoặc bao tải đựng lương thực thực phẩm. XR có loại dùng để nấu thành cồn, rượu vang, rượu mùi còn phế phẩm làm thức ăn gia súc. XR và ma túy Từ nhiều thế kỷ nay, các thầy phù thủy (và thổ dân) ở một số vùng thuộc Mexico đã nhai xương rồng để tạo trạng thái ngây ngất, đê mê khi hành lễ, tạo niềm tin nơi dân chúng. Hai loại XR Lophora Williamsi và Anha là nguồn chiết xuất mescalin, gây ảo giác, rất được thanh niên hippy ở châu Âu ưa chuộng. Mescalin là loại ma túy nhẹ nên người dùng yên tâm. Có 3 dạng Mescalin: tiêm, hút và nhai. Brazil và Colombia là hai nơi có khá nhiều phòng thí nghiệm lậu. Trong việc chế biến Mescalin, thường thêm chất phụ gia để làm tăng độ phê. Do XR có nhiều công dụng như trên nên diễn ra tình trạng tận thu XR, phát triển phong trào buôn lậu XR (lợi nhuận khá cao) kèm theo nạn trộm cắp XR tràn lan ở nhiều nơi. Một số nhà sinh vật học đã phải lên tiếng kêu cứu “XR SOS” vì nếu không có những biện pháp bảo hộ kiên quyết thì tương lai một số loài XR chỉ còn trong sách vở. st
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 3:31:29 GMT 9
Tại sao đa số hoa ở miền Nam nở vào mùa Xuân?Vietsciences- Trần-Đăng Hồng Trong thực tế mùa nào cũng có hoa. Có như vậy các loài ong và chim hút mật sống nhờ hoa mới có thể tồn tại. Nhờ hoa nở quanh năm nên phong cảnh thiên nhiên có đầy màu sắc suốt bốn mùa. Mỗi loài thực vật nở hoa vào những thời điểm khác nhau. Hoa có thứ đẹp, có thứ không, có thứ mùi thơm, cũng có thứ mùi khó ngửi. Khi nói đến hoa, mọi người thường chỉ nói đến hoa đẹp, có màu sặc sỡ. Vì vậy, vào mùa Xuân người ta thường nói đến hoa lan, hoa đào, hoa mai, các loại hoa chưng ngày tết như cúc, vạn thọ, v.v. Để nhớ kỷ niệm thời học trò, ai cũng nghĩ đến hoa phượng đỏ sân trường trong dịp hè. Hè cũng là mùa của hoa ô môi đỏ rực dọc bờ sông, hoa sim nở tím đồi núi, sen nở hồng trong các ao hồ. Trong dịp Trung Thu, các bạn già ngồi nhìn trăng, vừa nhẩm trà vừa thưởng thức bánh, hứng thú lại ngâm thơ để đón chờ hoa quỳnh nở. Mùa Thu cũng là mùa hoa cúc. "Sen tàn cúc lại nở hoa" (Truyện Kiều). Hoa nào tiêu biểu của mùa Đông ở Việt Nam? Thú thật tôi không biết. Ở các nước có khí hậu thật lạnh trong mùa Đông, thì chỉ có một vài loại cây thân mộc có hoa nở đẹp trong mùa này, tiêu biểu như hoa trà Camellia sasanqua của Nhật; hay Daphne bholua, Daphne odoratum có hoa nở thơm phức đúng vào dịp Giáng sinh trong vườn nhà tôi ở Reading. Còn ở Việt Nam, vì mùa Đông không lạnh, vô số giống cây cùng một loài (species) có hoa nở trải dài từ mùa Thu, qua Đông đến Xuân hay Hè. Cũng có loại cây trong năm hoa nở rộ hai lần cách xa. Vì vậy thật sự khó phân biệt hoa nào tiêu biểu cho mỗi mùa ở Việt Nam, nhất là ở Miền Nam. Việt Nam có khoảng 12 ngàn loài cây có hoa, đa số là giống hoang dại, có hoa từ tháng 11 đến tháng 5 dl. Tại sao vậy? Thích ứng để sinh tồn (Adaptation for survival). Đây là một định luật của thiên nhiên áp dụng cho mọi sinh vật: Không thích ứng được với môi trường mới thì sinh vật đó bị diệt vong. Thực vật xuất hiện trên địa cầu cách đây khoảng 2,7 tỷ năm. Kể từ đó đến nay, trái đất đã trải qua không biết bao nhiêu “cuộc bể dâu”, đất liền hóa biển, biển sâu nổi lên thành núi, rồi trải qua các thời đại băng hà, qua bao chu kỳ “hâm nóng toàn cầu” tiếp theo “thời kỳ đông giá”. Lượng CO2 trong khí quyển có thời gia tăng gấp 100 lần hiện nay, có thời chỉ bằng phân nửa hiện nay. Cứ mỗi lần biến đổi như vậy, một số sinh vật bị tuyệt chủng. Số sinh vật sống sót phải “tự diển biến” để sinh tồn, hoặc bộc phát qua “ngẫu biến di truyền” (mutation) hoặc từ từ diễn biến qua cơ cấu di truyền tiến hóa để các thế hệ sau thích ứng hơn. Qua bao triệu năm, thực vật đã biến hóa không ngừng, biến thành đa chủng, đa loài, làm phong phú đa dạng sinh vật (bio-diversity) thích hợp cho mỗi vùng địa lý lớn, và từng vùng địa lý nhỏ với khí hậu đặc thù để tạo thành các loài bản-địa của từng vùng. Trung bình cứ khoảng 10 ngàn năm một loài thực-vật-thân-mộc-sống-lâu-năm mới (như cây rừng) xuất hiện, còn loại thực-vật-chu-kỳ-ngắn vài ba tháng (như cảiArabidopsis) thì chỉ cần 1-5 năm là có một dòng mới trong thiên nhiên do ngẩu biến tạo nên. Hiện tại cả thế giới có khoảng 250 ngàn loài thực vật có hoa, Việt Nam có khoảng 12 ngàn loài. Cây cũng “biết trời” “biết ta” để sinh tồn Cây truyền chủng qua hạt (hột). Để con cháu sinh tồn, cây phải biết ra hoa, kết trái, rụng hạt lúc nào để hạt mọc thành cây con, và cây con có khả năng sống sót qua nghịch cảnh của môi trường. Hai yếu tố quan trọng nhất để thực vật sống và tăng trưởng là nước và nhiệt độ. Ở vùng Ôn đới, mưa phân phối quanh năm, nên yếu tố nước không quan trọng. Chính nhiệt độ giữ vai trò chính yếu cho sinh tồn. Hạt không nẩy mầm được khi lạnh, và cây con có thể bị chết vào mùa băng giá, nên cây vùng ôn đới biết lúc nào cho hột chín và rụng, để cây con không bị chết vì lạnh. Ngoài việc tránh “giết con” vì thời tiết, cây vùng ôn đới còn biết cách “che chở” hạt sống qua mùa đông giá buốt lâu dài, hoặc bằng cách dạy hạt biết “ngủ” (hưu miên, dormancy), ngủ bao lâu,và biết lợi dụng giá buốt để kích động cây con nẩy mầm và ra hoa khi tới tuổi trưởng thành, qua hiện tượng đông-hàn hay xuân-hóa (vernalisation). Ở vùng nhiệt đới, vì trời ấm hay nóng quanh năm, nhiệt độ trở thành không quan trọng. Ngược lại, nước mới quan trọng, vì mưa theo mùa. Chẳng hạn ở Miền Nam Việt Nam, có 2 mùa nắng mưa rõ rệt, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4, và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 DL. Vì vậy, mỗi loài cây phải tự “kế hoạch” cho mình, để thế nào hạt nẩy mầm được khi có nước trong mùa mưa, và cây con có đủ hệ thống rễ khả dĩ sống được trong mùa khô hạn kéo dài, chờ đợi mùa mưa năm tới. Muốn vậy, mỗi loài cây phải “biết thời tiết” để tự “kế hoạch sinh sản”, vì nếu ra hoa trật mùa, hột sẽ chết vì không nẩy mầm, hay nẩy mầm nhưng cây con sẽ chết yểu vào mùa khô hạn. Mỗi loài cây cũng phải tự “biết mình” là từ ngày ra hoa đến ngày hạt chín rụng là bao nhiêu ngày, nó cũng phải biết là hạt có thể sống bao lâu trong đất trước khi gặp nước để nẩy mầm, và nẩy mầm vào thời điểm nào để cây con đủ sức có khả năng sống sót trong mùa hạn. Chẳng hạn, cây Dầu (Dipterocarpus spp.), cây Sao (Hopea odorata) tự nó biết rằng hạt của nó không sống quá 7 ngày sau khi rụng, và cây con phải có đủ 4-5 tháng tăng trưởng mới không chết trong mùa nắng hạn (từ tháng 12 đến tháng 4), vì vậy trái phải rụng vào đầu tháng 5, khi mùa mưa bắt đầu. Nó cũng biết rằng, từ ngày phát động khối-sơ-khởi-tạo-hoa đến ngày trái chín rụng là 100 ngày.Vì vậy, hể tới khoảng ngày 20/1, các loại cây này tự phát động khối-sơ-khởi để đến khoảng 20/3 hoa nở và trái chín rụng vào 1/5 dl. Cây vên-vên (Anisoptera costata), bà con với cây Dầu, biết rằng hạt của nó có thể sống 2-3 tuần sau khi rụng, nên nó phát động ra hoa sớm hơn để trái rụng từ giữa tháng 4 cho tới đầu tháng 5 dl. Cây bằng-lăng có hoa màu tím đẹp nở hoa vào tháng 4 và 5, hay rãi rác tới tháng 7.Một trái có tới ngàn hạt nhỏ, hạt sống lâu lại dễ nẩy mầm, cây con cũng không sợ chết vì thiếu nước, vì nó tập trung ở những nơi ẩm ướt ven sông, suối trong rừng. Cây ăn trái bản địa như xoài, mít, nhãn, chôm chôm,v.v. mà hột không sống lâu được đều trổ hoa trong mùa Xuân để trái chin vào đầu tới giữa mùa mưa. Như vậy, hầu hết cây bản địa của Miền Nam đều nở hoa trong dịp Xuân hay đầu hè, vì lý do sinh tồn của giống nòi. Cây cũng biết “Hy sinh đời bố, củng cố đời con” Loài tre (bamboo) mọc thành bụi, ít khi thấy ra hoa, mà một khi ra hoa thì cả bụi cây chết sau đó. “Tre già măng mọc”, nhiều thế hệ vẫn “cắm dùi” tại một chỗ, nên con người lợi dụng đặc tính không di động này của tre để trồng thành hàng rào, làm ranh giới làng mạc hay vườn nhà. Vì qua nhiều thế hệ, có thể vài chục năm, đất trở nên già cổi, không còn thích hợp để sinh tồn, khóm tre quyết định ra hoa, kết trái thật nhiều rồi nguyên cả bụi tre hay rừng tre đồng loạt chết cùng lúc. Hạt tre theo gió, nước mưa, phát tán đến nơi khác có đất màu mỡ hơn, và tái tạo rừng tre mới. Nơi rừng tre cũ, cây chết và cháy rừng, đất tái tạo lại phì nhiêu hơn nhờ tro cháy của chính thân xác mình. Tre con mọc lại từ hạt hay từ căn hành tái tạo lại rừng tre mới. Làm sao rừng tre biết lúc nào cần phải “hy sinh đời bố”? Cây có biết đọc lịch không? Như vậy, cây biết đọc lịch để tới ngày tháng nào đó nó tự phát động tạo khối-sơ-khởi, rồi tạo nụ hoa, nở ra hoa, kết trái, già chín và hạt rụng theo đúng “kế hoạch” của chủng loại nó. Làm sao cây biết lịch, làm sao nó biết hễ tới tháng 5 dl là có mưa, và mưa suốt 5-6 tháng trời? Mà mùa mưa thì có thể đến sớm hơn hay trễ hơn, tùy năm. Trước nhất, cây cối là các nhà toán học, rành về xác-suất (probability), cây biết cho hoa nở không cùng một lúc, có cái trước, có cái sau, trải dài một vài tuần, có nhiều loài kéo dài vài tháng, hay có loài hoa nở thành 2-3 mùa hoa một năm, để bảo đảm khi hạt chín thế nào cũng có một số hạt trúng vào mùa mưa nhiều, nếu mùa mưa đến trễ hay sớm. Như vậy, làm sao cây biết làm lịch thảo kế hoạch thực hiện cho mình? Thời tiết, và mùa mưa có thể thay đổi, không năm nào giống năm nào, nhưng có thể dựa vào xác suất để phân loại, chẳng hạn ở Miền Nam có thể phân chia một năm thành 2 mùa rõ rệt, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4, và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dl. Cây biết rằng mùa có thể thay đổi, đến sớm hay muộn, nhưng chu kỳ trục quay của trái đất không thay đổi. Trục trái đất khi nghiêng qua rồi nghiên lại, với góc 23° 48’ tạo ra ngày dài ngắn khác nhau theo mùa. Thời tiết nhiệt độ nắng mưa bão tố v.v. đều có liên hệ với gốc độ của trục quay của địa cầu. Vào ngày Xuân phân (20/3) và Thu phân (22/9) là 2 ngày có thời gian ngày và đêm bằng nhau (12 giờ), ngày dài nhất trong năm là ngày Hạ Chí (21/6 ở Bắc Bán Cầu hay 21/12 ở Nam Bán Cầu), và ngày ngắn nhất là ngày Đông Chí (21/12 ở Bắc Bán Cầu và 21/6 ở Nam Bán Cầu). Tại Sài Gòn (khoảng vĩ độ 10°N), cách biệt giữa ngày dài nhất (12g 35 phút vào ngày 21/6) và ngày ngắn nhất (11g24 phút vào ngày 21/12) là 1 giờ 11 phút. Mặt trời qua thiên đỉnh vùng Sài Gòn khoảng ngày 30/4 dl, tức là lúc ngày và đêm dài bằng nhau 12 giờ, cũng là lúc Sài Gòn nóng bức nhất, và cũng là thời điểm bắt đầu mùa mưa. Lá cây nhạy cảm với thời gian của ngày, và dùng thời gian ban ngày, đúng hơn là thời gian ban đêm, làm lịch. Lá cây sử dụng một sắc tố protein-nhận-màu (photoreceptor protein) như sắc tố (phytochrome) Pr, Pfr, nhạy cảm với tia đỏ (Red viết tắt R, độ dài sóng 660 nm) và tia hồng-ngoại (Far-Red, viết tắt FR, độ dài sóng 730 nm) của ánh sáng. Ánh sáng mặt trời (ban ngày) chứa nhiều R hơn FR. Sắc tố Pr khi nhận R thì biến thành Pfr,vì vậy khi mặt trời lặn, lá cây mang sắc tố Pfr. Trong bóng tối (ban đêm), Pfr tự động biến thành Pr. Sắc tố Pr, được tạo nhiều nếu đêm dài hơn ngày, cần thiết để kích động bộ máy di-truyền - gene AP1 làm nhiệm vụ điều khiển việc tạo hoa. Như vậy, đối với một loài cây, vào mùa có ngày ngắn dần (hay đêm dài dần) tới một thời điểm cây bắt đầu chứa nhiều sắc tố Pr để phát động ra hoa. Thời gian của ngày ngắn đó gọi là nhật-kỳ-tới-hạn (critical photoperiod). Nếu ngày dài hơn số giờ này, cây không ra hoa. Cây hoa mai có nhật-kỳ-tới-hạn khoảng 11g10 phút. Tại Sài Gòn, ngày 21/9 ngày dài 12 giờ, cây mai chưa phát động việc ra hoa. Sau ngày này, ngày ngắn dần, cho tới khoảng chừng 1/11 dl là lúc ngày chỉ dài 11g 10 phút – đạt nhật-kỳ-tới-hạn của loài Mai, cây bắt đầu phát động tạo hoa, để hoa mai nở trong mùa Xuân, dịp Tết. Hoa Cúc hoang có nhật-kỳ-tới-hạn cao hơn, nên hoa nở sớm hơn, vào khoảng cuối thu (tháng 11). Con người qua hàng ngàn năm đã tuyển chọn loài có nhật-kỳ-tới-hạn ngắn hơn, và dùng kỹ thuật để ép hoa Cúc nở vào dịp đúng Tết. Một cách tổng quát, các loại cây bản địa của vùng Sài Gòn có nhật-kỳ-tới-hạn khoảng 11 giờ đến 11g 30 phút để cây nở hoa trong dịp Xuân. Hộp-MADS và mô hình phát triển hoa ABC Làm sao cây chuyển từ giai đoạn tăng trưởng sang giai đoạn sinh dục để phát hoa? Sinh vật truyền chủng qua hệ thống di truyền DNA trong nhiểm-sắc-thể (chromosome), trên đó có hàng triệu gen. Để tạo ra hoa, phải có trên vài ngàn gen lần lượt chi phối. Trước nhất, một số gen ra lệnh cây ngừng tăng trưởng để dành năng lượng vào bộ máy sinh dục tạo hoa. Sau đó, một số gen ra lệnh tạo khối-sơ-khởi (primordium), rồi một số gen khác ra lệnh tế bào khối-sơ-khởi sinh sản và phân liệt lần lượt ra đế hoa, tràng hoa, cánh hoa, ống nhị và phấn hoa, bầu noãn, v.v. để thành một hoa đầy đủ bộ phận. Nếu bộ máy di truyền thiếu một số gen nào đó, hoa sẽ biến dị, sẽ thiếu một hay nhiều bộ phận nào đó. MADS-box,viết tắt từ 4 chữ đầu của 4 nhóm protein, mà chuỗi (sequence) nucleotides được xác định đầu tiên là MCM1 (chi phối nhảy nhánh của men Saccharomyces cerevisiae), AGAMOUS (AG chi phối cánh hoa ở cải Arabidopsis thaliana), DEFICIENS (chi phối sự phát triển hoa ở cây Antirrhinum majus), và SRF (của nhân hầu Homo sapiens, chi phối sự sinh sản và phân liệt (differentiation) của tế bào). Ở thực vật, hộp-MADS chi phối việc ra hoa, như các nhóm protein AGAMOUS và DEFICIENS, chỉ định gen nào có nhiệm vụ thành lập bộ phận nào của hoa, theo như mô hình phát triển ABC của hoa. Theo mô hình này, sự hiện diện hay vắng mặt một nhóm gen sẽ đưa đến việc thành hình với đầy đủ các bộ phận của hoa hay hoa dị biến thiếu sót một hay nhiều bộ phận. Ở hoa cải Arabidopsis thaliana, nhóm A gồm protein APETALA2 (AP2), và APETALA1 (AP1); nhóm B gồm APETALA3 (AP3) và PISTILLATA (PI); và nhóm C gồm AGAMOUS (AG). Ở hoa Antirrhinum majus, gen nhóm A gồmSQUAMOSA (SQUA), LIPLESS1 (LIP1) vàLIPLESS2 (LIP2); nhóm B gồmDEFICIENS (DEF) và GLOBOSA (GLO);và nhóm C gồm PLENA (PLE) vàFARINELLI (FAR). Mô hình ABC Nhóm A (màu lục) chi phối tràng hoa (sepal) và cánh hoa (petal), nhóm B (màu vàng) chi phối cánh hoa và ống nhị đực (stamens), và nhóm C (màu đỏ) chi phối ống nhị đực và bầu noãn (carpels) Về sau, khi khám phá thêm APETALA3(AP3) nên còn gọi là mô hình ABCE, theo đó nhóm gen E chi phối việc phát triển các bộ phận của hoa. Ở hoa cải Arabidopsis, 3 nhóm gen chính cùng phối hộp chi phối việc phát hoa là LEAFY (LFY), APETALA1 (AP1) và CAULIFLOWER (CAL). Cây không có LFY tiếp tục tăng trưởng và sẽ không có hoa. AP1 chi phối trên 1000 gen, có 2 nhiệm vụ, (i) ra lệnh các phần tăng trưởng của cây ngừng hoạt động (như ngừng mọc thêm chồi, thêm lá), và (ii) chuyển hướng qua thành lập cơ quan sinh dục (như chồi hoa). Cây nào không có AP1 thì không có hoa, cây tiếp tục tăng trưởng. Nếu cả hai AP1 và CAL không hoạt động, hoa tiếp tục phát triển các bộ phận thành hình dạng của bông cải cauliflower hay broccoli. AP1 như là một nhạc trưởng của một ban nhạc, ra lệnh gen nào hoạt động trước, gen nào sau với nhiệm vụ gì theo một nhịp điệu có lang lớp để cuối cùng có một hoa bình thường thành hình vào một thời điểm đã hoạch định trước. Bộ máy di truyền của Hộp-MADS chi phối việc ra hoa rất phức tạp, gồm hàng vài ngàn gen, nhóm gen này ảnh hưởng lên nhóm gen kia để quyết định sự thành lập hoa. Càng ngày các nhà khoa học khám phá thêm nhiều gen mới. Chẳng hạn, gen TERMINAL FLOWER1 (TFL1) ngăn cản hai gen LFY và AP1 tạo khối-sơ-khởi-phát-hoa, nên cây tiếp tục tăng trưởng. Cả hai gen CONSTANS (CO) và FKF1 cùng kiểm soát thời điểm ra hoa. Nếu bộ máy di truyền thiếu gen FKF1 thì hoa trổ muộn. Gen CO giúp hoa nở sớm Hộp-MADS, viễn ảnh nghiên cứu và áp dụng Cây cối vẫn còn nhiều bí ẩn. Hiện nay các nhà sinh-học đang đi sâu vào bộ máy di truyền để tìm hiểu nguyên cả bộ máy gen trong Hộp-MADS chi phối việc ra hoa, chúng hoạt động ra sao, chúng phối hợp với nhau, hay ngăn cản nhau như thế nào? Kết quả nghiên cứu cung cấp kiến thức hiện nay chỉ là mới khởi đầu, con đường nghiên cứu cả ngàn gen chi phối việc ra hoa còn rất dài. Các Đại học ở Hòa Lan và Ái-Nhĩ-Lan tập trung nghiên cứu bộ máy gen trên cải Arabidopsis thaliana, ở Hoa Kỳ và Tây Ban Nha trên hoa Antirrhinum majus và Arabidopsis thaliana, Đại học Reading và Oxford (UK) trên hoa Impatiens, còn Australia thì tập trung hệ thống gen ra hoa của lúa mì. Ngày nay, các nhà sinh-học kỳ vọng rằng một khi hiểu biết sâu rộng và khám phá thêm nhiều gen cùng cách hoạt động của chúng, con người có thể biến đổi thế giới thực vật để đáp ứng nhu cầu của con người. 1- Tạo được các giống hoa nở rộ vào bất cứ thời điểm mong muốn nào, không còn tùy thuộc vào mùa. Màu sắc, hình dạng hoa cũng có thể tạo được qua các dị biến của gen. 2- Tạo cây ăn trái cho trái chín vào bất cứ tháng nào, chứ không tùy thuộc vào mùa như hiện nay. 3- Các loài rau ăn lá (như xà lách, rau dền, spinach, v.v.) một khi trổ hoa thì giá trị kém và sau khi có hột thì chết. Kỹ thuật mới làm các loại rau này không có hoa, cây chỉ toàn ra lá quanh năm và sống nhiều năm. 4- Giúp công tác lai tạo ra giống mới dễ dàng vì chu kỳ cây cha và mẹ từ gieo đến có hột có thể rút ngắn lại. Ngày nay, các phóng thí nghiệm ờ Tây Ban Nha đã thành công trong việc tạo được cây cam ra trái chiếng chỉ sau 1 năm trồng, thay vì 6 năm trong điều kiện khí hậu ở Tây Ban Nha. Như vậy với những loài cây chậm ra trái như Măng Cụt, và cây rừng, thông thường phải 10-15 năm mới có trái, kỹ thuật lai giống cổ điển phải mất 50-60 năm mới tạo được giống mới, nay có thể tút ngắn xuống còn 10 năm. Reading, 1/2011
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 3:35:04 GMT 9
"Lúa cổ thành Dền"Vietsciences-Trần Đăng Hồng Báo mạng Tuổi Trẻ (1) và Thanh Niên (2) ngày 22/7/2010 cho biết 4 cây “lúa cổ Thành Dền” đã trổ đòng ngày 21/7, và 6 cây còn lại sẽ trổ đòng hết trong tuần này (21-28/7). Theo tiến sĩ Phạm Xuân Hội, Trưởng bộ môn bệnh học phân tử (Viện Di truyền nông nghiệp Việt Nam) “nếu quan sát bằng mắt thường thì giữa giống lúa hiện đại và 10 cây lúa này không có điểm khác biệt lớn. Điểm khác biệt duy nhất là 10 cây lúa này có bản lá to hơn và lá đứng hơn” (1). Như vậy, chu kỳ sinh trưởng từ gieo (12/5/2010) đến trổ đòng (21/7) là 70 ngày, hay từ gieo đến gặt khoảng 98 ngày. Hai giống lúa hiện đại làm đối chứng để so sánh là Q5 và Khang Dân cũng có chu kỳ như vậy. Vì trổ đòng vào tháng 7 dl, là tháng có ngày dài, nên giống “lúa cổ” sớm này không có quang-kỳ-tính (non-photosensitive). Bốn chậu “lúa cổ” sắp trổ đòng Ngoài đặc tính lá có bản to và thẳng đứng, không có tường trình về chiều cao cây lúa, nhưng dựa vào hai hình trên, sau khi trừ phần chiều cao của chậu, cây lúa có độ cao khoảng 80-90 cm. Cũng theo hình, số chồi hữu hiệu (effective tillers, chồi cho gié) mỗi bụi lúa khoảng 10 hay hơn, trong lúc không có (hay ít) chồi vô hiệu (chồi con không có khả năng cho gié). Môi trường đồng bằng sông Hồng thời cổ Cây hoa màu, cũng như mọi thảo mộc khác, phải thích ứng môi trường nơi sinh sống mới có thể sinh tồn được. Vì vậy, muốn tìm hiểu chân dung của giống “lúa cổ Thành Dền”, trước nhất chúng ta phải biết môi trường của đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) thời cổ đại. Con người đã sống ở lưu vực sông Hồng từ thời Đồ Đá Cũ cách đây khoảng 25 ngàn năm. Canh tác lúa nước được phát triển vào thời Đồ Đá Mới trong nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn, cách đây khoảng 9 ngàn năm. Đồng bằng phù sa Sông Hồng bắt đầu được thành lập vào thời Holocene cách đây khoảng 10 ngàn năm, lúc mực nước Biển Đông cao hơn hiện nay 2-3 m. Cách đây khoảng 9 ngàn năm, nước biển bắt đầu hạ thấp dần, đồng bằng được nới rộng thêm ra hướng biển. Thêm vào đó, đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp dày thêm, và lấn dài ra biển với vận tốc khoảng 22 m/năm (9). Trong 9000 năm qua, Biển Đông trải qua 4 lần nước dâng (bờ biển lùi vào đất liền) và 4 lần nước biển hạ thấp (đồng bằng tiến ra biển) với các đỉnh biển dâng cao cách đây 9000, 6000, 4500, 3500, và 4 đỉnh thấp xảy ra khoảng 7000, 5000, 4000 và 2500 năm trước đây (4). Ngày nay nước biển lại dâng cao. Lưọng phù sa trung bình sông Hồng khoảng 80 triệu m3/năm, tương đương với 130 triệu tấn. Năm 1971, năm lũ lớn của thế kỷ, có lượng phù sa tới 202 triệu tấn. Trong mùa lũ, mỗi mét khối nước sông Hồng chứa khoảng 1,2-1,5 kg phù sa (9), gấp 3 lần hàm lượng phù sa trung bình của sông Hậu trong mùa lụt ở Châu Đốc (500g/m3). Tại Đồng bằng Cửu Long (ĐBCL), hàng năm đồng bằng dày thêm từ 0,1 đến 0,15 mm phù sa. Nếu có cùng độ lắng tụ theo tỉ lệ số lượng phù sa (i.e. 0,3 – 0,45 mm/năm), ĐBSH cách đây 3000 năm phải thấp hơn hiện nay từ 0,9 m đến 1,35 m. Bài tính này có cơ sở chính xác vì hạt lúa cổ Thành Dền tìm thấy bị chôn vùi ở độ sâu 1 -1,2 m. Cũng vậy, cách đây 3000 năm, có lẽ bờ biển cách biển hiện nay khoảng từ 20 km đến 60 km. Cảnh trí mô tả trên các trống đồng, như Trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ cho thấy cảnh quang thời vua Hùng, cách đây trên 2 ngàn năm, là cảnh chèo ghe trong đầm lầy. Muôn thú gồm động vật hiện nay như bò, ngựa, chó, cọp, hươu, chim, v.v. Ngoài ra, còn một số thú lạ như con vật đầu chim có 4 chân, có đuôi dài của loài khỉ; hoặc con vật 4 chân, có bờm, đuôi cuộn, miệng há rộng, nay đã tuyệt chủng (9). Hình ảnh này chứng tỏ vào thời 3000 năm trước, ĐBSH còn là một vùng đất thấp, nê địa và hoang dã, bị ngập lụt hàng năm 4-5 tháng trong mùa mưa lũ, tương tự như vùng Đồng Tháp Mười của ĐBCL ở các thập niên trước. Theo sự thành hình tự nhiên của sông ngòi, phù sa lắng đọng nhiều ở bờ sông, tạo thành một đê thiên nhiên cao hơn nội đồng 2-3 m, càng xa sông cuộc đất thấp dần, và tận cùng là vùng đầm lầy. Chỉ sau này, cách đây 2300 năm, hệ thống đê điều ở Phong Khê (Sông Đà bây giờ) mới được thiết lập (Theo Giao Châu Ký), tiếp theo là đê ở tây bắc Long Biên (tức Hà Nội) (theo Hán Thư). Hệ thống đê được phát triển thêm dưới thời Lý Bôn (khoảng 521) quan trọng nhất là công trình của Cao Biền (giữa thế kỷ thứ 9) cho hệ thống đê quanh thành Đại La, và dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) với công trình Đê Cơ Xá (1108) và hoàn chỉnh với Đê Quai Vạt dưới đời Trần (9). Nhờ hệ thống đê hữu hiệu này, lũ lụt được kiểm soát, nhờ vậy lúa canh tác được 2-3 vụ/năm. Tóm lại, ĐBSH cách đây 3000 năm còn là vùng đầm lầy, nê địa. Chỉ những vùng đất trên đê thiên nhiên ven sông là khá cao, tuy có bị ngập lụt trong mùa lũ nhưng thời gian ngập lụt ngắn hơn trong nội đồng, nên mới có cư dân sinh sống. Có lẻ, Thành Dền vào thời cổ nằm trên loại đất khá cao này. Lúa cổ vì vậy phải thích nghi trong môi trường này. Tổ tiên của loài lúa Á châu (Oryza sativa) Lúa canh tác trên thế giới gồm 2 loài, lúa Phi Châu (Oryza glaberrima) và lúa Á Châu (Oryza sativa). Lúa Phi Châu có nguồn gốc Phi Châu, đa số canh tác trên đất khô (upland) và sống nhờ nước mưa, năng xuất thấp vì ít được con người tuyển chọn, nên chỉ canh tác hạn chế ở Phi Châu. Ngược lại, giống lúa Á Châu được thuần hóa từ giống hoang dại cách đây trên 9000 năm, và qua hàng ngàn năm tuyển chọn bởi con người, nên thích ứng rộng rãi trên nhiều loại khí hậu, từ nhiệt đới đến ôn đới, từ đồng bằng đến núi cao, ở mọi loại đất đai từ ngập nước đến núi đồi khô hạn. Vì có năng xuất cao nên được canh tác khắp thế giới. Trên thế giới có tổng cộng 21 loài lúa hoang dại, trong số này Oryza rufipogon được xem là tổ tiên của loài lúa Á Châu. Ngoài ra, lúa O. nivara, một loại lúa hàng niên, cũng là tổ tiên của lúa Á Châu, nhưng ít được công nhận hơn. Cả 2 loại lúa hoang này đều có mặt ở Việt Nam. Lúa O. rufipogon mọc hoang dại thành những cánh đồng lớn từ Đông Ấn Độ cho tới Đông Dương, giới hạn bắc là một lảnh thổ nhỏ hẹp thuộc Nam Trung Quốc. Các nghiên cứu về DNA mới đây (3) cho biết lúa hoang O. rufipogon được cư dân vùng Ấn Độ và Đông Dương thuần hóa thành lúa canh tác cách đây 9000 năm. Các nghiên cứu cũng cho biết để biến thành lúa canh tác Á châu, việc thuần hóa giống lúa hoang trải qua 2 giai đoạn riêng biệt, hậu quả tạo thành 2 giống lúa quan trọng là O. sativa indica và O. sativa japonica (3). Giống Indica được thuần hóa rộng rãi ở phía Nam Hy Mả Lạp Sơn, gồm Đông Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan; còn giống Japonica được thuần hóa ở ĐBSH cho tới nam Trung Quốc. Cũng cần nhắc lại rằng lảnh thổ vùng Nam Trung quốc thời cổ chưa thuộc Trung quốc của dân tộc Hán, mà thuộc tộc Việt và nhiều tộc thiểu số bản địa khác. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng việc thuần hóa từ O. rufipogon thành O. sativa là do cư dân thuộc tộc Việt thực hiện trong thời cổ đại. Như vậy ĐBSH vừa là trung tâm của đa dạng (diversity centre) lúa, cũng là cái nôi thủy tổ thuần hóa các giống lúa canh tác. Hiện tại thế giới có khoảng 120.000 giống lúa O. sativa, được phân loại thành 2 nhóm giống-phụ (sub-species) chính là Indica và Japonica. Việc phân loại dựa theo đặc tính hình thái và sinh lý, tính kháng hạn, như chiều cao, màu sắc lá, phản ứng phenol, v.v., nhất là sự khác biệt môi trường sinh sống (habitat). Indica là lúa vùng đất thấp có ngập nước (lowlands) của vùng Á Châu nhiệt đới, còn Japonica là lúa của vùng đất cao (Uplands, lúa rẫy) trên đồi núi của vùng Nam Trung Quốc, Đông Dương, Đông Nam Á, Indonesia, và ngay cả ở Phi Châu và Mỹ Châu. Giống phụ Japonica lại được phân loại thành 2 dạng khác biệt, dạng nhiệt đới tức Javanica, và dạng ôn đới Japonica. Ngoài 2 nhóm chính này, với phương pháp đánh dấu di truyền (genetic markers) còn phân biệt thêm nhiều giống phụ nhỏ khác, trong số này quan trọng là nhóm lúa-đất-cao-kháng-hạn-Aus (upland drought-tolerant Aus) của Ấn Độ và Bangladesh, lúa-ngập-sâu (deep water) Ashina của Bangladesh, và lúa-thơm-Basmati của Ấn Độ (3). Có 2 giả thuyết về nguồn cội giống lúa Á Châu. Thuyết thứ nhất cho rằng thuần hóa lúa hoang O. rufipogon thành lúa Á Châu O. sativa chỉ xảy ra ở một trung tâm duy nhất là ĐBSH và Nam Trung Quốc. Một thuyết khác là việc thuần hóa giống hoang dại thành lúa canh tác được thực hiện một cách độc lập tại nhiều trung tâm cư dân rải rác ở Nam và Đông Nam Á Châu. Theo thuyết sau, Japonica được thuần hóa tại ĐBSH và Nam Trung Quốc, còn Indica tại vùng Ấn Độ và Đông Dương. Ấn Độ còn là trung tâm thuần hóa của giống lúa-đất-cao-kháng-hạn-Aus và lúa-thơm-Basmati. Tóm lại, dầu theo giả thuyết nào, ĐBSH cũng là nơi thuần hóa lúa hoang dại O. rufipogon thành lúa O. sativa, gồm cả Japonica và Indica. Lúa hoang Oryza rufipogon (brownbeard rice, red rice). Lúa hoang O. rufipogon là tổ tiên của lúa canh tác Á Châu O. sativa. Giống lúa hoang này thế nào? Vì phân bố địa lý khá rộng rãi, từ Ấn Độ đến Đông Dương, giới hạn Bắc là các tỉnh phía nam Trung quốc giáp giới với Việt Nam, Lào và Miến Điện, nên giống lúa hoang này không thuần nhất. Chúng khác nhau về hình thái và một phần cấu trúc di truyền, vì trải qua hàng vạn vạn năm tuyển chọn bởi thiên nhiên để thích ứng với môi trường, khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau. Chúng rất đa dạng, khác nhau về hình thái, cách sinh trưởng, hệ thống truyền giống, kiến trúc gié, v.v. nhất là khác biệt môi trường sinh sống. Có trên 300 dòng (strain) giống lúa hoang O. rufipogon trên thế giới. Về hệ thống truyền giống, có giống đa niên, có giống hàng niên. Giống đa niên sinh sản vừa bằng chồi gốc, vừa bằng hạt. Giống hàng niên gầy giống bằng hạt. Giống hàng niên thường mọc ở vùng đầm lầy cạn, nước ngập theo định kỳ, lúa chín vào lúc đầm cạn, hạt rơi xuống bùn và hưu miên trong suốt thời gian đầm khô ráo, và chỉ nẩy mầm khi nước bắt đầu ngập trong mùa mưa lũ, ra hoa vào cuối mùa mưa để chín khi đầm cạn. Vì vậy, hạt lúa hoang này rất hưu miên (dormancy), và cây có quang-kỳ-tính mạnh, chỉ phát hoa khi gặp mùa có ngày ngắn. Ở giống hàng niên, gié lúa (panicle) thường ít nhánh gié con (rachis) (trung bình 6 nhánh/gié) hơn giống đa niên (trung bình 7.2 nhánh/gié). Giống đa niên thích ứng vùng đầm lầy sâu không bao giờ cạn. Một đặc tính chung khác là hạt rất dễ rụng (shattering) khi hạt sắp hay vừa chín, chỉ cần lay động nhẹ là rớt xuống bùn non, trên gié chỉ còn hạt xanh. Ngoài ra, hạt gạo có lớp cám màu đỏ, nên ở Hoa Kỳ gọi là Red rice, được xem là loại cỏ dại khó trừ khử (noxious weed) vì chúng lẫn lộn không phân biệt được với lúa thương mại, ngoại trừ ở giai đoạn sắp trổ đòng chúng mọc vượt cao hơn. Lúa hoang O. rufipogon ở Đồng Tháp Mười Rất tiếc tôi không tìm được tài liệu lúa hoang này ở ĐBSH, mà chỉ có ở Đồng Tháp Mười. "Ai ơi về miệt Tháp Mười, Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn" Theo GS Phạm Hoàng Hộ (4) O. rufipogon ở Miền Nam được mô tả: “Nê-thực-vật đa niên nổi, có thân nằm rồi đứng dài 1.5-4m, thân to 4-6mm, lóng dài 10 cm. Lá có phiến dài vào 20 cm, rộng vào 1cm; mép các lá dưới cao hơn 1.5-3cm., có rìa lông. Chùm-tụ tán đứng cao 10-15 cm; gié hoa nâu nâu, dài 7 – 9,5 mm, rộng 1,7 – 1,9 mm, có lông gai dài đến 11 cm; đỉnh mòng cao 3 mm. Dựa rạch, ruộng sâu, khắp cùng; rất nhiều ở Đồng Tháp Mười; phát hoa tháng X-XII”. Tại Đồng Tháp Mười, giống lúa hoang này được người dân gọi là “lúa ma”, “lúa trời”. Có lẽ dựa vào từ nôm na này mà nhà sử học thời Nguyễn là Trịnh Hoài Đức đặt cho tên “Quỷ cốc” trong quyển “Gia Định Thành Thông Chí” khi mô tả về giống lúa hoang này ở miền Lục Tỉnh. Nguyễn Hiến Lê, có một thời gian khá lâu công tác ở Đồng Tháp Mười để thiết kế và thực hiện hệ thống kinh thủy lợi, đã mô tả cánh đồng lúa ma qua lời kể của nông dân vào khoảng thời gian 1937-1939: “Trong đồng này có nhiều đám (lúa ma) lắm, mỗi đám rộng vài công hoặc vài chục công (một công tầm 3m có diện tích 1296 m2). Lúa ma nhiều nhất ở Cái Dừng và Gò Bắc Chiêng. Thân nó cao lắm, trên bốn thước (m). Bông ít hột, hột nhỏ, vỏ đỏ và có cái lông dài (awn) cỡ một phân (cm)”. “Khoảng cuối tháng chạp, đầu tháng giêng (âm lịch, tức khoảng cuối tháng 1, đầu tháng 2 dương lịch), chúng tôi căng một cái mền rồi cầm gậy đập vào ngọn lúa cho lúa rụng vào mền. Hột lúa rụng xuống không thúi, mùa sau lại mọc thành đám khác. chén cơm lúa ma: hột nhỏ, đỏ, hơi cứng nhưng vị ngọt”. (cước chú bên trong dấu ngoặc là của tác giả bài viết này). Ngày nay, còn khoảng ngàn ha lúa ma rải rác tại Đồng Tháp Mười. Những cánh đồng lớn còn tập trung ở vùng ngập lụt sâu như Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Vĩnh Trị, vùng ven sông Trăng thuộc huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An, huyện An Nông, Thanh Bình thuộc tỉnh Đồng Tháp. Riêng Vườn quốc gia bảo tồn Tràm Chim thuộc huyện Tam Nông có khoảng 500 ha lúa ma được bảo vệ. Một đặc tính chung của lúa ma vùng Đồng Tháp Mười là thân rất dài từ 1,5 m đến 5 m, hễ nước lũ dâng cao đến đâu thì thân mọc dài đến đó, trung bình 1-2 cm/ngày, riêng năm 1984 nước dâng cao 10 cm/ngày, cây lúa vẫn tăng trưởng kịp. Phần ngọn thân lúa nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Lá có bản to. Hạt có thời gian hưu miên khá lâu, khoảng 4-5 tháng trong bùn. Hạt bắt đầu mọc khi mùa mưa đến (tháng 5-6 dl), cây lúa tăng trưởng theo vận tốc nước lũ dâng cao. Lúa trổ đòng khi nước lũ còn cao, kể từ giữa tháng 10 đến cuối tháng 11 dl, khi lũ bắt đầu hạ thấp. Từ ngày trổ đòng đến hạt bắt đầu chín khoảng 30 ngày, nhưng phải mất thêm một tháng nữa cánh đồng mới chín hết. Ngọn lúa nổi lềnh bềnh trên mặt nước, nông dân dùng xuồng nhỏ len lỏi vào đồng, dùng sào rũ hạt chín rơi vào xuồng. Gié lúa to, dài, thưa hạt và hạt to, thẳng chứ không uốn câu như lúa thường. Kể cả đuôi, hạt dài 3-4 cm, phần hạt dài 1 cm. Hạt lúa ma vùng Tam Nông nhỏ hơn. Thu hoạch lúa ma vùng Đồng Tháp Một gié chỉ trên 10 hột, lại chín không cùng lúc, mỗi lần chỉ chín 2-3 hột, chín ban đêm rồi rụng sáng hôm sau. Hạt rất dễ rụng khi động tới, và rụng vào ban ngày khi mặt trời lên cao, lúc không khí trở nên khô. Đến trưa thì không còn hạt chín nào trên gié. Vì vậy phải thâu hoạch lúc thật sáng sớm. Hạt có đuôi cứng (awn) khá dài, 3-4 cm. Gạo có màu đỏ, xay chà xong có màu ửng nâu. cơm khá cứng, phải nấu nhiều nước và lâu hơn gạo thường, nhưng cơm dẻo, thơm và béo. Hạt gạo dài, thẳng. Lúa ma Đồng Tháp Mười chịu ngập lụt sâu, kháng rầy nâu, kháng hạn hán, kháng đất phèn, nhưng thời gian sinh trưởng dài, 7-10 tháng. Các giống lúa cải thiện từ giống lúa ma O. rufipogon Đó là các giống lúa nổi (floating rice, còn gọi lúa sạ) được thuần hóa từ O. rufipogon, và được con người tuyển chọn, không biết từ niên đại cổ nào, như các giống Tàu Binh, Chệt cụt, Nàng Tây, Nàng Tây Bông Sen, Nàng Tây Đùm, Nàng Pha, Nàng Chi, Trường Hưng, v.v. còn được canh tác chút ít trên đất ngập sâu ở Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên. Tất cả đặc tính của giống lúa hoang O. rufipogon vẫn tồn tại ở các giống lúa này, như đặc tính vượt theo nước lũ, hạt hưu miên, quang kỳ tính mạnh, chu kỳ dài ngày (từ sạ đến gặt khoảng 210 - 280 ngày, ngoại trừ giống Nàng Tây Bông Sen chín sớm hơn 10 ngày), hạt vẫn còn đuôi nhưng ngắn hơn nhiều, hạt gạo đỏ (trung bình 50%, riêng Nàng pha 80% hạt đỏ), năng xuất 2-3 t/ha. Cuối thập niên 1980s, Trung Tâm lúa ĐBCL ở Ô Môn lai tạo thành công giữa lúa O. rufigogon Đồng Tháp Mười với giống IR 64 của Viện Lúa Gạo IRRI thành giống AS 996, phóng thích năm 2007 mang tên OM 2431, có chu kỳ từ gieo đến gặt 90-95 ngày, chịu được đất phèn và đất nhiểm mặn ven biển, năng xuất trung bình 5-6 t/ha/vụ. Các giống lúa sớm và tương đối cổ ở Việt Nam Vì những giống lúa cổ 2000 – 3000 năm không được ghi lại trong sử sách, nên không biết có còn tồn tại ở Việt Nam hay không. Tuy nhiên, có một ít số giống lúa cổ dưới ngàn năm được ghi chép còn tồn tại cho tới bây giờ. Giống lúa Chiêm (Champa rice), được canh tác từ trước thế kỹ thứ 10 trên phần lảnh thổ Chiêm Thành (tức Miền Trung hiện nay), có chu kỳ rất ngắn, từ gieo đến gặt 100-120 ngày, không quang cảm (photo-insensitive) và ít nhiệt cảm (less thermosensitive), lại rất kháng hạn (drought tolerant) nên có thể làm 2-3 vụ lúa một năm. ĐBSH có giống lúa Chiêm này từ lâu đời nên mới có vụ lúa Chiêm canh tác trong vụ Đông Xuân trên ruộng Chiêm. Giống lúa Chiêm du nhập vào ĐBSH bằng 2 đường: trực tiếp qua biên giới Việt-Champa ở thời kỳ rất sớm qua sự tiếp cận giữa 2 dân tộc Việt Chiêm sống tại vùng biên giới (thuộc Bắc Trung Việt); và sau này gián tiếp từ Trung quốc. Khoảng năm 1011-1012, dưới đời vua Tống Cheng-Tsung (Zhengzong, 988-1022) giống lúa Chiêm được du nhập vào Trung quốc từ Chiêm Thành (7). Trước đây, người Trung Hoa chỉ biết làm ruộng lúa nước, một vụ mỗi năm, nay với giống lúa Chiêm, ngắn hạn, họ trồng 2 vụ lúa/năm, hay đa canh với hoa màu khác. Sau đó giống này được phát triển lên vùng núi cao canh tác trên ruộng bậc thang ở vùng biên giới Việt Hoa, và từ đó du nhập vào vùng thượng du của ĐBSH. Cũng có thể là giống lúa Chiêm này từ ĐBSH được du nhập thẳng vào Trung quốc, nên người Hoa mới gọi lúa này là “lúa rẫy An Nam”. Các giống lúa Chiêm vẫn còn canh tác ở vài tỉnh Miền Trung (7). Trong sách Vân Đài Loại Ngữ (phát hành năm 1773) của Lê Quí Đôn (1726 – 1784) cho biết vào thời này, Việt Nam có 2 loại lúa, lúa canh và lúa nọa. Lúa canh là lúa ăn thông thường, còn lúa nọa là nếp. Về ruộng thì có 2 loại, ruộng mùa thu gọi là ruộng mùa, ruộng mùa hạ gọi là ruộng Chiêm (hạ điền). Như vậy, lúa Canh trồng trong ruộng Chiêm là giống lúa sớm, không hay ít quang cảm. Về các giống lúa ngắn ngày có thời gian sinh trưởng từ 60 đến 70 ngày thì ông Lê Quí Đôn đã chép như sau: Lúa Thiền Minh chỉ có 63 ngày là có thể thu hoạch; lúa Tiển Tử loại hột nhỏ chỉ trồng 60 ngày, phần lớn là giống của nước Chiêm Thành. Ở Thái bình có giống lúa Tiên chỉ trồng trong 60 ngày gọi là Lúa Đà Lê Kiếm; lúa Xích Hồng Tiên, Bát Nguyệt Tiên đều là các giống ngắn ngày; Lúa Tuyết Lý Đống, lúa Lăng (Quảng Trị) cũng là lúa 60 ngày. Giống lúa có chu kỳ từ gieo đến gặt ngắn kỷ lục, chỉ có 40 ngày, là giống lúa Câu ở Thừa Thiên. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí “lúa Câu có thân ngắn, bông nhỏ, gạo rất đỏ, ưa ruộng cao, từ lúc cấy đến lúc chín chỉ 40 ngày, cơm rắn“. Tuyển chọn bởi thiên nhiên, bởi con người và các giống lúa cao năng hiện đại Qua hàng triệu năm, sinh vật (gồm thực vật và động vật) phải biến hóa để sinh tồn, thích nghi với môi trường biến đổi. Lúa hoang O. rufipogon không thoát được luật đó. Nhờ hạt có đuôi dài, giúp hạt khi rụng dính vào bộ lông của thú, chim muông, cỏ rác, lục bình, v.v., nên được phát tán rộng rãi. Gặp môi trường mới, nó phải biến hóa hình thái và bản chất di truyền để sinh tồn. Vì vậy nẩy sinh hàng vài trăm dạng lúa O. rufipogon, khác nhau ở vài đặc tính hình thái hay bản chất di truyền qua các đợt ngẫu-biến (mutation). Rồi với thời gian lâu dài, hoặc ngẫu-biến nhiều lần, hoặc ngẫu nhiên lai với các loài lúa tương cận, bản chất di truyền thay đổi để thành O. sativa, rồi phân hóa thành indica, japonica, javanica và các phụ loài khác. Con người trong thời tiền sử phải đi lượm hái hạt lúa hoang dại ở nơi đầm lầy xa để sinh sống, rồi nảy sinh việc gieo hạt thâu lượm được ngay cạnh nơi cư trú để khỏi phải vất vả đi xa. Thời kỳ thuần hóa lúa bắt đầu cách đây 9000 năm trên ĐBSH. Với thời gian hàng ngàn năm, con người tuyển chọn lúa từ cây mang nhiều hạt hơn, hạt có đuôi ngắn hơn, thân cây thấp hơn để thích nghi chỗ cư trú vốn là chỗ đất cao ít ngập lụt sâu. Vì chưa biết kỹ thuật lai nhân tạo, con người thời tiền sử chỉ dựa vào hình thái bên ngoài để tuyển chọn. Vì vậy, cơ cấu di truyền không thay đổi nhiều lắm, ngoại trừ các ngẫu-biến tự nhiên. Các giống lúa nổi, lúa sạ trước khi được du nhập vào ĐBCL là kết quả tuyển chọn của thiên nhiên và của con người qua hàng ngàn năm. Đến khi con người biết lai giống nhân tạo, thời gian có giống mới được rút ngắn lại, 7-10 năm thay vì trăm hay ngàn năm tuyển chọn và diễn biến tự nhiên. Chẳng hạn, giống lúa OM 2431 được lai tạo ở Trung Tâm Ô Môn là một ví dụ điển hình trong cuộc cách mạng xanh của lúa. Đặc tính lý tưởng cho giống lúa cao năng trong cách mạng xanh hiện nay Cuộc cách mạng xanh ở lúa bắt đầu từ thập niên 1960s đã giải quyết tốt đẹp một phần nạn thiếu lương thực trên toàn thế giới. Việc lai tạo giống lúa mới, đầu tiên với giống IR8, làm tăng vọt năng xuất gấp 2 lần so với các giống cổ truyền nếu tính trên cùng diện tích cho mỗi vụ lúa, và tăng 3-4 lần nếu tính trên diện tích cho cả nguyên năm. Sở dĩ được vậy là nhờ cải thiện giống qua các đặc tính: - Không quang cảm. Giống lúa cổ truyền chịu ảnh hưởng mạnh của nhật quang kỳ, chỉ phát động ra hoa khi gặp mùa có ngày ngắn. Vì vậy, giống lúa cổ truyền như các giống lúa mùa, và lúa hoang chỉ tượng đòng vào tháng 10 - 12 dương lịch (là tháng có ngày ngắn), dầu gieo sớm (tháng 4 hay 5 dl) hay muộn (7- 9 dl), và như vậy chỉ canh tác 1 vụ mỗi năm mà thôi. Ngược lại, các giống cải thiện không bị ảnh hưởng bởi nhật quang kỳ, lúa tượng đòng khi tới tuổi trưởng thành, trung bình khoảng 30 – 50 ngày sau khi gieo, vì vậy chu kỳ từ gieo đến gặt chỉ dài từ 90 ngày đến 140 ngày dầu trồng bất cứ tháng nào trong năm, và như vậy có thể canh tác 2 hay 3 vụ lúa/năm. - Cải thiện kiến trúc cây có thân cứng với lá thẳng đứng để sử dụng hiệu quả ánh sáng mặt trời cho hiện tượng quang-tổng-hợp (Photosynthesis). - Chọn giống có thân thấp lùn. Chất-quang-tổng-hợp do lá sản xuất được chuyển đến hột lúa và nuôi thân rạ. Với giống lùn, phần thân rạ ít, nên chỉ số thâu-hoạch (harvest index, trọng lượng gié lúa/trọng lượng rơm rạ) cao, hơn 50% chất quang-tổng-hợp tích tụ ở hạt lúa, nhờ vậy gia tăng năng suất hạt. Nhờ vị trí lá thẳng đứng, và thân cây thấp lùn nên có thể trồng dày với mật độ cao, và bón nhiều phân đạm mà lúa không bị đổ ngã. Đó là những đặc tính chánh góp phần vào gia tăng năng suất lúa. Giống “lúa cổ Thành Dền” Như đã nhận định ở trên, Thành Dền vào 3000 năm trước, tuy ở vị trí khá cao, nhưng vẫn bị ngập lụt theo định kỳ vì hệ thống đê trên Sông Hồng chưa có. Vì còn là thời chưa biết lai giống nhân tạo, cư dân chỉ biết tuyển chọn giống qua hình thái bên ngoài, nên các giống lúa cổ vẫn còn mang nhiều đặc tính của lúa hoang dại O. rufipogon hay O. nivara, tức có thân cao, lá rũ, hạt có râu dài, hạt hưu miên mạnh, cây bị ảnh hưởng bởi quang kỳ tính (chỉ trổ đòng vào tháng 10-12 khi có ngày ngắn), tương tự như các giống lúa nổi ở ĐBCL. Quan sát hình ảnh cây lúa cổ Thành Dền (hai hình trên), mặc dầu chưa thấy gié và hạt, hình dạng cây lúa cổ này có thân cứng và lùn, lá thẳng đứng, nhiều chồi hữu hiệu, ít chồi vô hiệu, giống sớm với chu kỳ 100 ngày vì không quang cảm. Giống lúa cổ này đúng là một mẩu mực lý tưởng về hình thái (plant type) và sinh học mà các nhà lai tạo lúa, như Dr Peter Jennings, Dr T.T Chang của Viện Lúa Gạo Quốc Tế IRRI mơ ước từ thập niên 1950s. Các vị này cùng với nhiều cọng sự viên khác đã cố công lai tạo và tuyển chọn sau gần 10 năm, mãi tới giữa thập niên 1960s, mới tạo được giống IR8 hội đủ các đặc tính tốt nói trên, làm giống lúa tiền phong cho cuộc cách mạng xanh trong hậu bán thế kỷ 20. Vì vậy, với phương pháp AMS (Accelerator mass spectrometry) mà các nhà khoa học Nhật đang xác định niên đại các vỏ trấu (sẽ có kết quả trong vài tuần tới) nếu chứng nhận rằng các cây lúa mọc từ hạt lúa cổ có niên đại 3000 năm này là chân thât, thì, một lần nữa, ta có thể vỗ ngực tự hào là từ thời Hùng Vương nhân dân ta đã ở đỉnh cao trí tuệ, vì đã tiến bộ trước thế giới tới 3000 năm. Anh quốc, 25/7/2010 Trần Đăng Hồng, Ph D. Tài liệu Tham Khảo: 1. tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/391365/Lua-co-3000-nam-thuoc-giong-ngan-ngay.html2. www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201030/20100722025427.aspx3. Ke-Fu Yu, Jian-Xin Zhao, Terry Done and Te-Gu Chen (2009) Microatoll record for large century-scale sea-level fluctuations in the mid-Holocene Quaternary Research Volume 71, Issue 3, May 2009, Pages 354-360. 4. Londo JP, Chiang YC, Hung KH, ChiangTY & Schall BA (2006). Phylogeography of Asian wild rice, Oryza rufipogon, reveals multiple independent domestications of cultivated rice, Oryza sativa. Proc Natl Acad Sci U S A, 20; 103(25): 9578–9583. 5. Phạm Hoàng Hộ (1999). Cây Cỏ Việt Nam. Quyển III. Nhà Xuất Bản Trẻ. Trang 629. 6. Nguyễn Hiến Lê (1954). Bảy ngày trong đồng Tháp Mười. vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n4nqntn31n343tq83a3q3m3237n1n7. Trần Văn Đạt (2004). Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam từ thời nguyên thủy đến hiện tại. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp. 315 trang. 8. BS Hồ Đắc Duy (2009). Màu hạt lúa Thừa Thiên Huế. Khoa hoc & Đời sống. www.khoahoc.net/baivo/hodacduy/030909-luacau.htm9. Trần Đăng Hồng (2009). Thử tìm giải pháp thuỷ lợi cho đồng bằng Cửu Long - Phần 4. Kinh nghiệm châu thổ sông Hồng
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 3:39:17 GMT 9
Hạt lúa 3000 năm nẩy mầm? Vietsciences-Trần Đăng Hồng* Ngày 17/5/2010, báo điện tử Vietnam Express loan tin “Giới Khoa học (VN) xôn xao vì hạt lúa 3000 năm nẩy mầm” (13). Sự việc bắt đầu khi Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lâm Thị Mỹ Dung - Chủ nhiệm Bộ môn Khảo cổ học trường Đại Học Quốc gia Hà Nội - tiến hành khai quật địa điểm khảo cổ Thành Dền đã tìm thấy những hạt thóc (hạt lúa) và gạo cháy xém tại 4 hố rác bếp. Khi đem các hạt thóc và gạo này ngâm trong nước để bảo quản thì khoảng 2 ngày sau có tới 10 hạt thóc đã nẩy mầm, đâm lá. TS Dung khẳng định "những hạt lúa này được lấy ra từ các hố rác bếp thuộc Văn hóa Đồng Đậu, tiền Đông Sơn, cách ngày nay 3.000 - 3.500 năm". Trong hình chụp (dưới đây) thấy có 9 hạt, 2 hạt không nẩy mầm (hay vừa lú, không thấy rõ) và 7 hạt nẩy mầm trong đó có 2 cây con khá lớn. Hình chụp các hạt lúa nẩy mầm sau “3.000 năm” nằm trong di chỉ Thành Dền Trước thông tin này, nhiều nhà khoa học lớn Việt Nam, như ông Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp Lê Duy Hàm, hay Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Nguyễn Văn Bộ, vừa nghi ngờ nhưng cũng vừa thích thú. Ông Lê Duy Hàm phát biểu: "Nếu đúng là lúa cổ thì đây là một phát hiện chưa từng ghi nhận từ trước đến nay. Nó sẽ có ý nghĩa cực kỳ to lớn về mặt lịch sử cũng như về mặt di truyền học" (13). Giáo sư Đào Thế Tuấn, vị giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, nhận định là các hạt lúa này có hình dạng ngắn, bề ngang rộng chứ không thon dài như lúa nhiệt đới. Đây là cũng là hình dạng của các loại lúa cổ xưa nhất ở Việt Nam như lúa nương, lúa nếp. Ông giả thuyết: "Theo tôi, nếu đúng là hạt thóc 3.000 năm nảy mầm thì có lẽ ở đây có một điều kiện đặc biệt nào đấy, tạo cho khu vực lưu trữ hạt thóc ở di chỉ Thành Dền chân không tốt nhất, giữ được sức sống cho chúng. Tôi giả định rằng trong khu vực lưu giữ các hạt thóc có lẫn lộn rất nhiều tro, hạt gạo cháy... Có thể chính môi trường này đã tạo điều kiện yếm khí tuyệt đối". Đồng quan điểm với giáo sư Đào Thế Tuấn, Viện trưởng Khoa học Nông nghiệp Việt Nam Nguyễn Văn Bộ cho biết “không loại trừ khả năng những hạt thóc này được bao bọc bởi một môi trường đặc biệt, có thể là yếm khí hoàn toàn mà con người chưa biết đến” (14). Tuy nhiên, cũng có chuyên viên nghi ngờ: "43 năm làm khảo cổ nhưng tôi chưa bao giờ nghe, hoặc chứng kiến chuyện này. Tôi cũng đã đọc rất nhiều tài liệu nhưng chưa thấy đề cập đến chuyện nào tương tự. Tôi rất sợ đó là những hạt thóc do chuột đào hang và tha xuống", Phó GS Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường nói (14). Hiện tại, 10 cây lúa (lần đầu 8 cây, 2 ngày sau thêm 2 cây) này được trồng, bảo vệ và theo dõi tại Viện Di truyền nông nghiệp Hà Nội để khảo nghiệm bằng các phương pháp hiện đại để đối chiếu với trình tự gen của giống lúa hiện đại để có kết luận đó có phải là lúa cổ hay không (13). I/ NHỮNG CÂU CHUYỆN HẠT CỔ ĐẠI “MUMMY SEEDS” Chuyện hạt cổ “mummy seeds” (trong các mồ chôn vua chúa Ai Cập cách đây vài ngàn năm), hay hạt đào từ các địa điểm khảo cổ nẩy mầm sau vài trăm năm đến vài ngàn năm tồn trữ trong hầm, mộ không phải là hiếm. Vào thế kỷ 19, vô số chuyện đăng trên báo chí danh tiếng, kể cả các tạp chí khoa học, về hạt “mummy seeds” nẩy mầm sau vài ngàn năm tồn trữ trong hầm mộ kim tự tháp. Chẳng hạn, trên tạp chí khoa học nổi danh thế giới NATURE, ngày 31/3/1887, giáo sư danh tiếng Judd thời đó khẳng định trong một bài báo rằng các hạt lúa mạch (barley) tìm trong các ngôi mộ chôn các vua Ai Cập cách đây trên 3.000 năm – nói chung là “Mummy seeds” - nẩy mầm và cho ra cây bình thường, và trong phần tài liệu tham khảo, ông liệt kê một số tác giả làm các việc nẩy mầm hạt “mummy” này, mà tất cả các tác giả này không phải khoa học gia mà chỉ là các nhà vườn và du khách “tài tử - amateur”. Chỉ nội 3 tuần sau, cũng trên tạp chí Nature, ngày 21/4/1887 (số 35, trang 582-582), GS George Murray viết lên cho biết sự thật sau khi điều tra, kiểm chứng và khám phá các hạt lúa mạch gọi là “Mummy seeds” là giả mạo bởi các tay buôn Á Rập. Họ giả mạo hạt “Mummy seeds” bằng các hạt lúa mạch đương thời trồng chung quanh vùng các kim tự tháp đó, và bán cho các du khách. Du khách tưởng bở là thật tuyên bố vung vít trên báo chí. Năm 1897, Ông E. A. Wallis Budge, Giám đốc Viện Bảo Tàng Anh Quốc về Ai Cập Cổ Đại gởi đến Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Kew rất nhiều hạt “mummy seeds” có niên đại 3.000 năm để thử nẩy mầm trong phòng thí nghiệm có thiết bị tối tân, kết quả không một hạt nào nẩy mầm. Sau bài báo của GS Murray, và tường trình của Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Kew, các phòng khoa học khắp nơi trên thế giới tiết lộ thêm là tất cả chuyện hạt cổ đại “Mummy seeds” nẩy mầm đều giả mạo với các hạt giống đương thời, hay các giống (cultivars), loài (species) mà vào thời kỳ 3.000 năm trước Ai Cập chưa có các loài hay giống hoa màu đó. Các hột thật sự “mummy seeds” đều chết. Ngày nay, với kỹ thuật DNA, thật là dễ dàng để khám phá các giả mạo. Chẳng hạn, năm 1922, một hạt đậu pea (Pisum sativum) tìm thấy trong lăng mộ vua Tutankhamen (chết năm 1334 trước Thiên chúa) nẩy mầm, nhưng sau đó khám phá ra rằng hạt đậu này là một giống địa phương bán ngoài chợ. Năm 1967, trên tạp chí khoa học danh tiếng thế giới Science (số 158, trang 113-114) Porsild & cộng sự (16) tuyên bố hạt Lupinus arcticus (họ Đậu Leguminosae) có số tuổi trên 10.000 năm, khai quật từ một hầm băng tuyết thời Pleistocene, vẫn nẩy mầm. Trong suốt 4 thập niên, các nhà khoa học đều tin tưởng là hạt Lupin này có tuổi thọ kỷ lục 10 ngàn năm, khí tồn trữ trong điều kiện băng tuyết trường kỳ (permafrost). Phải 42 năm sau, năm 2009, trên tạp chí khoa học New Scientists (số 182, trang 788-792), Zazula & cộng sự (23) chứng minh là giống Lupinus arcticus nói trên chỉ là một giống thương mại ngày nay, không phải được tồn trữ từ thời Pleistocene cách đây 10.000 năm. Có lẽ tầng băng giá Pleistocene bị nhiễm các hạt giống ngày nay do các loài gặm nhấm (như chuột, sóc) đào hang mang hạt vào để tồn trữ dành ăn. Về chuyện giả mạo hạt “mummy” đều được đề cập hầu hết trong các sách giáo khoa bậc đại học ở phương tây (như Black, 1967; Prestley, 1986; Roos et al., 1996; Baskin & Baskin, 2001, v.v.). Gần đây, tháng 12/2009, một tờ báo (lá cải) ở Turkey tường trình hạt giống lentil cổ đại 4.000 ngàn năm nẩy mầm. Cho tới nay các báo khoa học (thật sự) và các khoa học gia của Turkey không đá động gì tới chuyện này. II/ TUỔI THỌ KỶ LỤC Ở HẠT Vì vậy, khoa học chỉ công nhận là hạt cổ đại khi được định tuổi ít nhất bằng phương pháp phóng xạ C*, hay được tồn trữ trong điều kiện được xác định rõ ràng. Tồn trữ khô: Hột khô được tồn trữ trong phòng. Năm 1908, Ewart (người Úc) (kể trong 11, 12) thử nghiệm hạt của 1.400 loài (species) tồn trữ trong phòng lưu trữ mẫu thực vật (herbarium) tại Ấn Độ (có không khí khô và tương đối nóng), thì chỉ có 49 loài có tuổi thọ trên 50 năm, trong số này hết 37 loài trong họ Đậu. Loài đậu có tuổi thọ cao nhất là Hovea linearis với 17% nẩy mầm sau 105 năm. Harrington (1972) (kể trong 11, 12) cho biết Cassia surattensis tồn trữ 43 năm trong phòng vẫn nẩy mầm 100%. Nhà thực vật học Pháp Paul Becquerel năm 1907 và 1934 thử nghiệm nẩy mầm hạt của 500 loài tồn trữ trong phòng chứa (không khí khô và mát) của 1 viện bảo tàng ở Pháp. Chỉ có 13 loài có tuổi thọ trên 50 năm, trong số này là 11 loài họ Đậu, mà Cassia bicapsularis sau 115 năm vẫn nẩy mẩm 40%, và sau này thử nghiệm thêm cho là có tuổi thọ kỷ lục 158 năm (kể trong 11, 12). Năm 1933, Ông J.H. Turner ở Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Kew thử nghiệm nẩy mầm hạt lưu trữ trong herbarium cho biết các loài họ Đậu thuộc tông (genus) Anthyllis, Cytisus, Lotus, Medicago, Melilotus, và Trifolium có tuổi thọ trên 80 năm (kể trong 11, 12). Tờ Gardeners’ Chronicle London, năm 1942 tường trình hạt Albizzia julibrissin (họ Đậu) nẩy mầm sau 149 năm, và hạt súng Nelumbium speciosum (waterlily) nẩy mầm sau 250 năm tồn trữ trong Viện Bảo Tàng ở London. Trong Đệ nhị Thế Chiến, không quân Đức dội bom London dữ dội và Viện Bảo Tàng Lịch sử Thiên Nhiên (Natural History Museum) bốc cháy. Đội Cứu Hỏa phải xịt thật nhiều nước, làm ngập nhiều phòng chứa mẫu thực vật, và sau đó khám phá nhiều hạt sen (Lotus) có số tuổi 500 năm nẩy mầm. Tuổi thọ kỷ lục trong tồn trữ khô được giới khoa học công nhận là hạt chà-là (date, Phoenix dactylifera L.) có số tuổi 2.000 năm được tìm thấy dưới hầm một cổ thành trên đồi Masada gần Dead Sea ở Israel vào đầu thập niên 1970s. Ba hạt chà-là này được cất trong ngăn tủ của phòng thí nghiệm thực vật thuộc Đại Học Bar-Ilan (Israel) cho tới tháng 1/2005 (sau 30 năm) mới được thử nghiệm nẩy mầm. Chỉ có một hạt trong số 3 hạt này nẩy mầm thành cây con. Hạt của cây này được định tuổi bằng phương pháp phóng xạ C* tại Đại học Zurich (Thụy Sĩ) là 1990 ± 50 năm, và phân tích DNA của lá cho biết là giống chà-là này khác biệt 13% với các giống chà-là trồng ở vùng Trung Đông, Phi Châu hay Mỹ Châu ngày nay. Đó là một giống chà-là đã bị tuyệt chủng hơn ngàn năm nay (19). Tồn trữ trong đất (Tồn trữ hạt ẩm). Hạt cỏ dại là một ví dụ rõ ràng. Cứ sau mùa mưa, hay sau khi cày xới đất, là cỏ dại mọc rộ. Ở vùng Ôn đới, hạt cỏ dại có thể sống trong đất 50 năm hay hơn. Hạt cây rừng tiền phong (pioneer forest tree) cũng sống hàng chục năm trong đất, và sau khi phá rừng hạt cây rừng này mọc để tái tạo rừng. Cũng có nhiều loại thực vật tưởng đã tuyệt chủng trong nhiều thập niên, tự nhiên thấy mọc lại. Chẳng hạn, 2 loài Viola persicifolia và Senecio paludosus được tường trình đã tuyệt chủng hàng mấy thập niên ở Anh. Năm 1974 chúng xuất hiện mọc lại từ khối đất đào lên khi công nhân đào một mương rảnh ở vùng Cambridge. Để tìm hiểu tuổi thọ của hạt chôn vùi trong đất, Dr Beal ở Michigan (Hoa Kỳ) làm một thí nghiệm năm 1879. Ông sử dụng hạt của 20 loài, gồm 19 loài cỏ và một loài hoa màu (Trifolium repens). Mỗi loài, ông lấy 50 hạt trộn với đất cát ẩm để trong chai thủy tinh có đậy nút (cũng thủy tinh). Mỗi loài ông làm 20 chai, tổng cộng 400 chai. Tất cả các chai chứa hạt và đất ẩm này được chôn vào đất ở độ sâu 46 cm. Trong 40 năm đầu, cứ 5 năm, ông hay cộng sự viên của ông đào lấy 20 chai của 20 loài, đem thử nghiệm nẩy mầm. Sau 40 năm, cứ 10 năm thì đào lên thử nghiệm độ nẩy mầm một lần; như vậy các năm thử nghiệm là 1980 (trước khi chôn), 1885, 1889, 1894, 1899, 1905, 1910, 1915, 1922, 1931, 1941, 1951, 1961, 1971, 1981(100 năm), 1991, 2001 (120 năm). Kết quả sau 100 năm (1981), cho thấy hạt loài hoa màu Trifolium repens chỉ sống 5 năm, 3 loại cỏ sống 1 năm; ngược lại hạt cỏ Verbascum spp. (họ Scrophulariaceae) và Malva pusica (họ bông bụp Malvaceae) sống 100 năm; Rumex crispus (họ Polygonaceae) và Oenothera biennis (họ Onagraceae) sống 50 năm; cải hoang Brassica nigra (họ Cruciferae) sống 50 năm trong đất (15). Kết quả sau 120 năm (năm 2001), cho thấy 50 % hạt Verbascum nẩy mầm, và hạt Malva rotundifolia chỉ còn nẩy mầm 2% (21). Như vậy, trong 20 loài chỉ có hạt loài Verbascum là thọ nhất, và nếu dựa vào sơ đồ tuổi thọ theo thời gian hạt loài này tiên đoán sẽ có tuổi thọ khoảng 180-200 năm (21). Một thí nghiệm nổi tiếng khác là của Dr Duvel thực hiện năm 1902 tại Arlington, Virginia, Hoa Kỳ. Ông chôn hột của 107 loài trong hũ chứa đất và hột chôn ở 3 độ sâu 20, 60 và 107 cm. Thí nghiệm chấm dứt sau 39 năm (1941). Kết quả cho thấy 2 loài hoa màu không có hưu miên (dormancy) đều chết sau 2 năm. Ngược lại hạt thuốc lá (Nicotiana tabacum), cần tây (Apium graveolens), Trifolium pratense đều sống sau 39 năm chôn vùi trong đất. Sau 39 năm, hạt Phytolacca americana nẩy mầm 81-90%, hạt Solanum nigrum nẩy mầm 79-83% (22). Từ kết quả của 2 thí nghiệm nổi danh này, hạt cỏ chôn vùi trong đất có tuổi thọ tối đa khoảng 180 năm. Hạt của các loài hoa màu hòa bảng không hưu miên chỉ thọ 2 năm. Tuy nhiên, tuổi thọ của hạt chôn trong đất chiếm kỷ lục được công nhận là 1.300 năm với hạt sen (lotus, Nelumbo nucifera) tìm thấy ở một đáy hồ khô cạn ở Pulantien (tỉnh Liaoning, vùng Đông Bắc Trung Quốc) năm 1995, có tuổi từ 830 đến 1.250 năm xác định bằng phương pháp C*. Sáu hạt được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm ở Los Angeles (Hoa Kỳ), 4 hạt nẩy mầm và sinh trưởng bình thường (20). III/ KHOA HỌC NGÀY NAY ĐÃ KHÁM PHÁ ĐIỀU GÌ MỚI? Với đà tiến bộ khoa học, nhất là việc thúc đẩy tìm biện pháp bảo tồn tài nguyên thực vật đạng bị nguy cơ tuyệt chủng, trong đó việc bảo quản hạt giống cây hoa màu, cây rừng và thực vật hoang dại rất khẩn cấp, nên ngành khoa học về hạt (Seed Science) đã tiến triển nhanh chóng trong nửa thế kỷ qua. Bản chất tồn trữ (Seed storage behaviour) Để bảo quản hạt giống, trước tiên cần phải biết đặc tính tồn trữ của mỗi loài hạt cây. Năm 1973, GS EH Roberts (17) của Đại Học Reading (Anh Quốc) chia hạt của thực vật thành 2 nhóm: Hạt chính thống (Orthodox seed) – hay nôm na là “hạt-ưa-khô” - là nhóm hạt “có thể rút khô (dry, desiccation) mà không hư hại đến khả năng nẩy mầm, và trong một giới hạn rộng rãi của môi trường tồn trữ, tuổi thọ hạt càng gia tăng khi ẩm độ hạt và nhiệt độ tồn trữ càng thấp, theo một quy luật có thể tính toán và tiên đoán được”. Tóm lược, được gọi là Orthodox seed, hạt phải có đủ 3 điều kiện: (i) Hạt có thể rút khô xuống 2-5% ẩm độ (moisture content, mc), hay tương đương với 10% ẩm độ tương đối không khí (air relative humidity, rh). (ii) Trong giới hạn từ 2-5% tới 20% ẩm độ, có sự tương quan logarithm nghịch (negative logarithmic relation) giữa tuổi thọ và ẩm độ hạt tồn trữ. (iii) Có tương quan nghịch (negative relation) giữa gia tăng tuổi thọ và gia tăng nhiệt độ (i.e. tuổi thọ càng gia tăng khi nhiệt độ tồn trữ càng thấp). Ví dụ: hạt ngũ cốc, đậu. Vì vậy, tuổi thọ của hạt-ưa-khô khi tồn trữ ở ẩm độ thấp và nhiệt độ thấp, sẽ có tuổi thọ lớn. Chẳng hạn, các ngân hàng hạt giống (seed genebank) tồn trữ hạt ở ẩm độ 3-5% và nhiệt độ -20ºC tin tưởng là có tuổi thọ từ vài trăm năm đến vài ngàn năm. Hạt phản loạn (Recalcitrant) – hay nôm na “hạt-ưa-ẩm” là loại hạt sẽ bị chết hoàn toàn khi rút khô dưới 25 -20% (tương đương với ẩm độ tương đối không khí 95-98% rh). Vì không thể rút khô, nên không thể tồn trữ lạnh <10ºC, vì vậy tuổi thọ rất ngắn, chỉ vài tuần đến vài tháng. Ví dụ: hạt mít, nhản, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, v.v. Năm 1990, một nhóm hạt thứ 3 được Ellis, Hong và Roberts (3) khám phá, đặt tên là “Hạt trung gian” (Intermediate seed storage behaviour). Ở nhóm hạt này, tuổi thọ gia tăng khi hạt rút khô và tuổi thọ tối đa khi hạt có ẩm độ khoảng 8-12%, tương đương với ẩm độ tương đối không khí 50% rh, rút khô dưới ẩm độ này hạt chết. Về nhiệt độ tối hảo để tồn trữ là 10 ºC, trên nhiệt đô này tuổi thọ giảm, dưới nhiệt độ này hạt bị chết. Ví dụ: hạt cà phê arabica, hạt đu đủ, hạt cam quít, v.v. Tuổi thọ của nhóm hạt này cũng ngắn, nếu tồn trữ ở điều kiện tối hảo (10% ẩm độ, 10ºC) hạt cà phê arabica có tuổi thọ tối đa là 10 tới 15 năm, tùy giống (9). Chi tiết bản chất tồn trữ và phương pháp tồn trữ tối hảo cho 3 nhóm hạt này được tường trình (8, 11). Trong khoảng 7.000 loại thực vật hiện được biết bản chất tồn trữ (trong số khoảng 250 ngàn thực vật có hạt) thì 88.6% là hạt-ưa-khô, 2% là trung gian, và 7.4% là hạt-ưa-ẩm (12). Trong số 60 cây rừng Việt Nam được nghiên cứu tại Reading thì có 34 loài thuộc hạt-ưa-khô (56.8%), 13 loài trung gian (21.6%), và 13 loài thuộc hạt-ưa-ẩm (21.6%) (5). Bản chất tồn trữ của hơn 7.000 loài nói trên đã được Ngân Hàng Hạt Giống thuộc Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Kew cập vào database và đưa lên mạng (18). Công thức tính tuổi thọ (Viability Equation) Để tiên đoán tuổi thọ của hạt hoa màu tồn trữ trong các điều kiện được xác định rõ, từ thập niên 1960s, GS Roberts đã đề xướng một mô hình toán học và được áp dụng rộng rãi, tuy chưa được chính xác lắm. Richard Ellis (6), một sinh viên cấp PhD của Ông nghiên cứu và cải thiện mô hình toán học này trở thành hoàn hảo (6), và được mệnh danh là “Viability Equation” – “Phương trình tính tuổi thọ”: t2 = t bình phương v (viết tắt của Viability) là số bách phân nẩy mầm tính theo đơn vị probit (sác xuất probability) sau p (period) ngày tồn trữ ở ẩm độ m (moisture content, tính theo chất tươi, fresh basis) và nhiệt độ t (°C), Ki là một hằng số mô tả độ nẩy mầm của lô hạt trước khi tồn trữ, tính theo đơn vị probit, và KE, CW, CH và CQ là các hằng số có liên hệ với loài (species) hạt tồn trữ. Các trị số này được tính từ kết quả của một thí nghiệm cho từng loài hoa màu trong các điều kiện tồn trữ thật chính xác trong phòng thí nghiệm, cần một thời gian tối thiểu 2 năm. Cho tới nay (2009), khoảng 80 loài đã được xác định các hằng số, và đã được phổ biến (12). Công thức này không những chính xác tính tuổi thọ của hạt thực vật, mà còn đúng cho hạt phấn hoa (Pollen grain) (10), và bào tử (spores, conidia) của 10 loại nấm (7). Trị số Ki mô tả “tiềm năng tuổi thọ” (potential longevity). Trị số càng lớn chứng tỏ lô hạt có độ nẩy mầm cao trước khi tồn trữ, và như vậy có tuổi thọ lớn. Trị số KE mô tả “tuổi thọ tuyệt đối” (absolute longevity) của loài (species). Trị số càng lớn thì loài hạt đó có tuổi thọ cao. Có thể dùng để so sánh tuổi thọ giữa các loài, để biết loài nào thọ hơn, hay loài nào chết trước, nếu chúng có cùng môi trường tồn trữ. Chẳng hạn, trong các loại ngũ cốc hòa bảng, thì hạt bắp (Zea mays) có tuổi thọ tuyệt đối cao nhất (9,993), kế là lúa miến (Sorghum bicolor) (9,381), pearl millet (Pennisetum typhoides) (9,336), lúa Phi Châu (Oryza glaberrima) (8,786), lúa mì (Triticum aestivum) (8,498), foxtail millet (Setaria italica) (8,478), finger millet (Eleusine coracana) (8,288), kodo millet (Paspalum scrobiculatum) (8,138), cuối cùng là lúa Á châu (Oryza sativa) (8,096) (2). Trong loài lúa Á châu, lúa Indica có tuổi thọ tuyệt đối lớn hơn lúa Javanica và lúa Japonica. Trị số CW mô tả phản ứng của loài hạt đối với thay đổi ẩm độ hạt tồn trữ. Cùng giảm ẩm độ, chẳng hạn từ 15% xuống 5%, mỗi loài có phản ứng gia tăng tuổi thọ khác nhau, trị số càng lớn cho thấy tuổi thọ gia tăng nhiều khi hạt càng khô. Chẳng hạn, trong các loài ngũ cốc, bắp (5,993) gia tăng tuổi thọ nhiều nhất khi giảm ẩm độ, kế là pearl millet (5,540), lúa miến (5,379), foxtail millet (4,829), lúa mì (4,836), lúa Phi châu (4,727), kodo millet (4,435), finger millet (4,345), cuối cùng là lúa Á Châu (4,246) (2). Phối hợp 2 yếu tố KE và CW trên, thì lúa Á Châu có tuổi thọ ngắn hơn các hoa màu nói trên. Trị số CH và CQ là hằng số mô tả phản ứng của hạt đối với thay đổi nhiệt độ tồn trữ. Trị số này bất biến, với CH = 0,0329 và CQ = 0,000478, và được áp dụng cho mọi hạt thực vật. Bây giờ hảy xét tồn trữ ở cùng một ẩm độ, nhưng khác nhiệt độ. Nếu nhiệt độ tồn trữ giảm từ 35 ºC xuống 30 ºC, tuổi thọ tăng 2,09 lần; giảm từ 30 ºC xuống 25 ºC, tuổi thọ tăng 1,98 lần; giảm từ 25 ºC xuống 20 ºC, tuổi thọ tăng 1,87 lần; 20 ºC xuống 15 ºC, tuổi thọ tăng 1,77 lần; 15 ºC xuống 10 ºC, tuổi thọ tăng 1,67 lần, v.v., nghĩa là cứ giảm mỗi 5 ºC, càng xuống nhiệt độ lạnh hơn thì số lần gia tăng tuổi thọ cũng kém đi. Vì vậy, nếu giảm nhiệt độ tồn trữ từ 30 ºC (như ở Sài Gòn) đến -20 ºC (nhiệt độ của ngân hàng hột giống), tuổi thọ tăng 76,6 lần. Bây giờ hảy xét tồn trữ ở cùng một nhiệt độ, nhưng khác ẩm độ. Nếu giảm ẩm độ hạt từ 15% xuống 12,5%, tuổi thọ gia tăng 2,45 lần; từ 12,5% xuống xuống 10%, tuổi thọ gia tăng 2,99 lần; từ 10% xuống 7,5%, tuổi thọ gia tăng 4,19 lần; từ 7,5% xuống 5%, tuổi thọ gia tăng 7,32 lần. Vì vậy, nếu giảm ẩm độ hạt từ 15% (nông dân tồn trữ) xuống 5% (ẩm độ hạt của ngân hàng hạt giống tồn trữ), tuổi thọ tăng 220 lần. Vì vậy, lợi ích của việc rút khô hạt giống có hiệu quả gia tăng tuổi thọ hơn phương pháp tồn trữ bằng cách giảm nhiệt độ. Với biện pháp giảm ẩm độ hạt kết hợp với giảm nhiệt độ tồn trữ, tuổi thọ gia tăng rất nhiều. Chẳng hạn, so sánh tồn trữ hạt ở ẩm độ 15% và 30 ºC (cách của nông dân), với tồn trữ hạt 5% và nhiệt độ -20 ºC (ngân hàng hạt giống) thì tuổi thọ hạt ở ngân hàng hạt giống gia tăng 16.850 lần nhiều hơn của nông dân. Trong phương pháp tồn trữ khô, ngoài 2 yếu tố chánh là ẩm độ và nhiệt độ, các thành phần cấu tạo của không khí cũng có ảnh hưởng. Sự hiện diện của Oxy làm giảm tuổi thọ vì làm gia tăng hiện tượng “lảo hóa” (ageing). Ngược lại, khí CO2, khí N2, và khoảng 10 khí khác, hay chân không (dùng máy bơm hết không khí), làm gia tăng tuổi thọ thêm khoảng 5-10%. Tồn trữ siêu khô (Ultra dry storage) Như vậy, càng rút khô hạt xuống thật thấp, tuổi thọ gia tăng càng nhiều. Thí nghiệm với 30 loài hoa màu, ẩm độ hạt biến thiên từ 20% xuống 2-3%, với nhiều nhiệt độ tồn trữ khác nhau từ 70 ºC (chết trong vài giờ) đến 20 ºC (vẫn nẩy mầm 100% sau 15 năm). Kết quả cho thấy, ở các nhiệt độ cao (30 ºC đến 70 ºC, ở nhiệt độ này hạt chết trong vòng 3 năm, vì cần kết quả để công bố luận án PhD của sinh viên, nên thí nghiệm thường chấm dứt trước 3 năm) khi ẩm độ hạt xuống dưới một trị số tối thiểu nào đó, tuổi thọ không còn gia tăng nữa. Trị số ẩm độ tối thiểu giới hạn gia tăng tuổi thọ đó là 2,56% cho xà lách (Lactuca sativa), 2,82% cho Brassica juncea; 4,5% cho lúa Á châu, 6,04% cho đậu xanh. Mặc dầu có khác biệt giữa các trị số này, nhưng khi đo qua ẩm độ tương đối của không khí tồn trữ thì đều 10% rh. Vì vậy, ở một nhiệt độ cố định, tuổi thọ tối đa xảy ra khi hạt có ẩm độ tối hảo tương đương với ẩm độ tương đối của không khí 10 % rh. Ẩm độ hạt tối hảo này biến thiên từ 2,5% cho các loại hột giàu chất dầu (oil, lipid, như mè, hướng dương) cho tới 6% cho các loại hạt giàu chất tinh bột (các loại đậu như đậu pea). Các loại ngũ cốc như lúa, bắp, lúa miến có ẩm độ tối hảo cho tồn trữ khoảng 4,6%. Một điều rất kỳ diệu của thiên nhiên là trị số ẩm độ tương đối 10 % rh không những tối hảo cho tuổi thọ hạt thực vật, mà cũng là tối hảo cho tồn trữ hạt phấn hoa (pollen grain) và bào tử của nhiều loại nấm để có tuổi thọ tối đa (7, 10). Sau khi công bố phương pháp “tồn trữ siêu khô”, năm 1991 GS C. Gomez-Campo của Học Viện Sinh Học Thực Vật ở Madrid (Spain) gởi đến Đại học Reading hàng trăm mẩu của 17 loài thuộc họ Cải (Cruciferae) để thử nghiệm độ nẩy mầm. Hạt được tồn trữ cùng với silica gel trong các ống thủy tinh (vials) được khằn kín (đốt ở nhiệt độ thật cao cho thủy tinh chảy để hàn kín) và tồn trữ ở nhiệt độ từ -5 đến -10ºC từ năm 1966. Khi nhận được, sau 25 năm, những ống nào có vết nứt đều vứt bỏ, chỉ giữ những ống nguyên vẹn và silica còn giữ màu xanh lục. Đo ẩm hạt cho biết hạt có ẩm độ biến thiên từ 1,2% đến 6,1% (căn bản chất tươi, fresh weight basis), và dùng máy đo ẩm độ tương đối (relative humidity) của không khí trong ống thủy tinh, cho biêt rh biến thiên từ 4,9 đến 10,4% rh, đa số ở 6-7% rh. Kết quả thử nghiệm nẩy mầm, sau khi dùng nhiều biện pháp phá hưu miên, cho biết 6 loài họ Cải gia tăng độ nẩy mầm (so với 25 năm trước, vì nhờ việc mất hưu miên trong thời gian tồn trữ 25 năm, và biện pháp phá hưu miên ngày nay), chỉ có 1 loài thấy giảm độ nẩy mầm (từ 33% năm 1966 còn 21% năm 1991); còn 10 loài kia độ nẩy mầm không thay đổi sau 25 năm “tồn trữ siêu khô” (4). Vì độ nẩy mầm còn rất cao (>90% sau 25 năm) nên chưa thể kết luận về tuổi thọ của các loài này trong điều kiện “tồn trữ siêu khô”. Tại sao hạt họ Đậu thọ nhất khi tồn trữ khô ở phòng? Hạt họ Đậu cũng như họ Bông Bụp (Malvaceae) cho tuổi thọ cao nhất khi tồn trữ trong phòng ở Viện Bảo Tàng, v.v. Vỏ hạt họ Đậu có một cơ nguyên đặc biệt, có vỏ dày, cứng không thấm nước. Ở phần tể (hilum), mô tế bào đặc biệt tạo một cơ chế chỉ cho phép nước trong hạt thoát ra ngoài (khi rút khô, phơi) như một cái valve một chiều, nhưng khi ẩm độ không khí gia tăng, hay khi tiếp xúc với nước, cái valve đóng chặt không cho nước hay hơi nước vào hạt. Vì vậy hạt lúc nào cũng khô. Đó là “hạt đá” trong đậu. Hiện tượng này gọi là “hardseededness”. Hạt họ Đậu bắt đầu hóa đá khi hạt bắt đầu già. Số bách phân “hạt đá” gia tăng khi ẩm độ hạt càng thấp, có khi tới 80% nếu hạt có ẩm độ dưới 6% (tương ứng với ẩm độ tương đối không khí 20% rh). Hạt đá chỉ hấp thụ nước (để nẩy mầm) khi lớp vỏ bị bào mòn (bởi thời gian, chà xát, nhiệt, vi sinh vật phá hủy, v.v.). Hiện tượng “hạt đá” rất phổ biến ở nhiều họ thực vật. Các Viện bảo tàng ngày xưa chưa có máy điều hòa không khí, nhưng có lò sưởi trong mùa đông, nên nhiệt độ phòng trung bình trong năm khoảng 25ºC, và ẩm độ tương đối của không khí trong phòng biến thiên từ 40 % rh đến 80% rh. Nhờ cơ chế valve một chiều, hạt khô dần cho tới khi hạt có ẩm độ tương đương với 40% rh (chứ không hút ẩm khi ẩm độ không khí 80%), tức hạt có ẩm độ khoảng 8%. Thay thế công thức (1) với các hằng số của đậu Vigna radiata (KE = 10,858 ; Cw = 6,27, t =25 ºC; m= 8%, Ki= 2,326 (nẩy mầm 99% trước khi tồn trữ, đơn vị probit), thì tuổi thọ của đậu là 47.130 ngày tức 129 năm (từ 99% sau 129 năm chỉ còn nẩy mầm 5%). Vì vậy, các loài họ Đậu chứa nhiều “hạt đá” có khả năng sống trên 100 năm ở các viện bảo tàng. Hạt sen nằm trong nhóm này. Hạt sen chín trong gương sen khô, được phơi một thời gian rất lâu mới rụng xuống nước. Nếu trong mùa sen chín, có ngày thật khô, có lúc ẩm độ tương đối không khí xuống thật thấp, chẳng hạng 30%, thì một số hạt trong gương khô sẽ thành “hạt đá” có ẩm độ hạt khoảng 6,8%, và giữ mãi như vậy, dầu sau này có rơi chìm vào nước hay bùn. Hạt nằm ngủ trong đó cho tới khi vỏ bị bào mòn, và khi nước cạn, có đủ ánh sáng rọi tới, hạt mới nẩy mầm. Vì vậy, mặc dầu nằm trong nước, nhưng “hạt đá” của sen vẫn khô, coi như được tồn trữ khô. Hạt nào không phải “hạt đá” thì nẩy mầm sớm hơn. Hiện chưa có các hằng số áp dụng cho hạt sen với công thức (1), nhưng với tài liệu hạt sen từ 250 năm đến 500 năm vẫn còn nẩy mầm trong Viện Bảo Tàng London kể trên, chứng tỏ có KE và CW lớn hơn các trị số của họ Đậu, ví dụ KE = 10,85 và CW = 6,27 (tương đương với Vigna radiata là loài đậu có tuổi thọ cao nhất trong loài đậu, xem tài liệu 12), Ki = 2,362 (nẩy mầm 99% trước khi tồn trữ) và t= 15ºC (giả sử nhiệt độ cùa vùng Pulantien Trung quốc), ẩm độ hạt đá là 6,8 %, thì phải 432.555 ngày tức 1.185 năm để hạt từ 99% nẩy mầm giảm còn 5%. Con số này gần với 1.300 năm trong trường hợp hạt sen ở Trung quốc nói trên. Hạt chà-là không thuộc loại “hạt đá”, vỏ hạt mỏng và hấp thụ hơi nước và thoát nước dễ dàng. Bởi vì nguồn gốc sa mạc, chà-là thích ứng vùng khí hậu khô hạn, rất nóng ban ngày (có khi 45 ºC) nhưng lại lạnh nhanh ban đêm (có khi dưới 0 ºC). Hạt tồn trữ trong một kho dưới hầm tại Masada, là vùng sa mạc, ẩm độ tương đối không khí ban trưa xuống <10% r.h., ban đêm 60% rh, và nhiệt độ trong hầm đá bao giờ cũng mát hơn bên ngoài, vì vậy nhiệt độ nơi tồn trữ có lẽ khoảng 20 ºC. Áp dụng công thức (1) với các trị số của đậu Vigna radiata, nhưng ẩm độ hạt 5,7% (tương ứng với 25% rh của không khí), thì phải 670.095 ngày, tức 1.838 năm tồn trữ để hạt chà-là giảm độ nẩy mầm từ 99% xuống 10%. Nếu ẩm độ 5,6% thì thời gian tồn trữ trở thành 749.748 ngày, tức 2.054 năm. Các con số này phù hợp với tuổi thọ được tường trình 2.000 năm nói ở trên. Tồn trữ ẩm (moist storage) Hạt-ưa-ẩm chỉ có thể tồn trữ trong điều kiện ẩm, bởi vì rút khô dưới 30% ẩm độ hạt bị chết. Ẩm độ tối hảo là khoảng 45-50% (hạt chưa đủ độ ẩm để nẩy mầm, hạt nẩy mầm khi có ẩm độ >55%), và ở nhiệt độ tối hảo khoảng 15ºC cho các giống miền nhiệt đới (bởi vì <12 ºC, hạt dễ bị chết vì lạnh, chilling damage), khoảng 5-10 ºC cho giống vùng ôn đới (bởi vì dưới 0ºC, tế bào đóng băng làm hạt chết). Một điều kiện quan trọng nữa là phải có đầy đủ Oxy để hạt hô hấp (trái ngược với tồn trữ khô). Nếu tồn trữ kín, thiếu Oxy, thừa CO2 do hô hấp thải ra, hạt bị chết và lên men yếm khí. Trong các điều kiện tốt này, tồn trữ tối đa 1 năm cho hạt vùng nhiệt đới, tối đa 2-3 năm cho hạt vùng ôn đới. Vì hạt-ưa-ẩm không có hưu miên, nên dễ nẩy mầm trong lúc tồn trữ ẩm, nên việc sử dụng kích thích tố ngăn sự nẩy mầm (như ABA, abscisic acid), và vì ở điều kiện ẩm thường có mốc meo (cũng giết hạt) nên có thể sử dụng thuốc kháng sinh (antibiotics). Với các biện pháp này tuổi thọ có thể tăng thêm 10-15%. Hạt trung gian và hạt-ưa-khô, ngoài tồn trữ khô, còn có thể tồn trữ ẩm như hạt-ưa-ẩm. Ẩm độ hạt tối hảo cũng 40-50% và nhiệt độ tồn trữ cũng 15 ºC cho hạt vùng nhiệt đới, cũng cần nhiều oxy. Nếu là giống không hưu miên, tuổi thọ hạt tồn trữ ẩm cũng chỉ 1 năm, nếu hột hưu miên nhiều có thể tồn trữ lâu hơn. Chẵng hạn hạt lúa ma Mỹ châu Zizania palustris (thuộc nhóm trung gian) hay hạt cà phê arabica (nhóm trung gian) có thể tồn trữ ẩm trong 5 năm (có cùng thời gian với tồn trữ khô). Ngược với tồn trữ khô, trong tồn trữ ẩm hễ hạt có ẩm độ càng cao thì hiện tượng lảo hóa càng chậm, vì nhờ cơ nguyên “tự-sửa-chửa” (Auto repair), chỉ xảy ra ở ẩm độ cao, mà các khuyết tật do hiện tượng “tự-oxyt-hóa” (auto-oxydation) trong cơ chế “lão hóa” sinh ra ở hạt khô trước đó được sửa chửa. Hột cỏ dại sở dĩ sống lâu trong đất vì chúng: (i) có hưu miên rất mạnh; (ii) loại hưu miên này chỉ phá được khi có ánh sáng (hạt trồi lên mặt đất khi cày xới); (iii) hay bởi nhiệt độ biến đổi (alternating temperatures) có biên độ lớn (ở mặt đât có biên độ lớn, càng xuống sâu biên độ càng thu hẹp); và (iv) hạt phải thật nhỏ (chim chuột không thấy để ăn). Trường hợp của lúa. Việt Nam cũng là cái nôi nguồn cội của lúa Á Châu (Oryza sativa) và các giống lúa hoang dại như “lúa ma” (Oryza rufipogon) vùng Đồng Tháp, hay Oryza nivara mọc hoang trong đồng lúa khắp nơi. Vì nằm trong vùng ảnh hưởng gió mùa, trải qua hàng vạn năm tiến hóa thích nghi phong thổ để sinh tồn, lúa nẩy mầm vào đầu mùa mưa (tháng 5, 6), phát hoa trổ đòng vào cuối mùa mưa (tháng 11, 12), hạt phát triển và lúa chín đầu mùa khô (tháng 1), hạt rụng xuống đất và ngủ yên trong đất cho tới khi gặp mưa thật nhiều (để bảo đảm không bị chết nếu khô hạn), nẩy mầm và sinh trưởng cho chu kỳ mới. Vì vậy, các giống lúa cổ điển Á Châu chịu ảnh hưởng quang kỳ, chỉ phát hoa khi gặp ngày ngắn (dưới 14 giờ kể cả hoàng hôn và rạng đông, tháng 10, 11), và hạt phải hưu miên (dormancy) 3-5 tháng cho tới khi có đầy đủ nước để bảo đảm sinh tồn. Đó là đặc tính chung của các giống lúa cổ điển, như các giống “lúa mùa”, “lúa muộn” ngày xưa. Các giống tân tiến do con người tuyển chọn, với khuynh hướng không quang cảm (để có thể trồng bất cứ mùa nào trong năm), không hay ít hưu miên (để mau nẩy mầm khi có nước), vì vậy chu kỳ từ gieo đến chín khoảng 100 -150 ngày, tùy giống, nhờ vậy có thể làm 2-3 vụ lúa/năm. Các giống lúa rẫy cổ điễn cũng diễn tiến như vậy, nhưng độ hưu miên ở hạt nhiều hơn, hạt nẩy mầm chậm hơn cả tháng sau trận mưa đầu mùa để bảo đảm sinh tồn. Về đặc tính tồn trữ, lúa thuộc loại tồn trữ “hạt-ưa-khô”, vì vậy có thể tồn trữ khô, hay tồn trữ ẩm. Trường hợp tồn trữ khô: tuổi thọ tối đa sẽ bao nhiêu? Như đã trình bày ở phần trên, tuổi thọ tối đa ở mỗi nhiệt độ tồn trữ (ví dụ trong hầm ở Thành Dậu là 20ºC) chỉ đạt được ở ẩm độ tối hảo, m= 4,6% (tương ứng với 10% rh ở 20 ºC). Thay thế công thức (1) với các hằng số của lúa Á Châu (Oryza sativa) (1) KE= 8,096; CW= 4,246; Ki = 2,3263 (nẩy mầm 99% trước khi tồn trữ), t= 20 ºC; CH = 0,0329 và CQ = 0,000478 (1). Bài tính cho biết tuổi thọ (độ nẩy mầm giảm từ 99% xuống còn 5%) là 107.560 ngày, tức 295 năm. Nếu hầm ở Thành Dền có nhiệt độ 15 ºC, tuổi thọ sẽ là 190.459 ngày, tức 522 năm. Muốn sống 3.000 năm, tức 1.095.000 ngày, hầm Thành Dền phải có nhiệt độ -5 ºC (độ âm). Nếu loài lúa ngày xưa thật hoang dại, như lúa rẫy Phi Châu (Oryza glaberrima) thì tuổi thọ bao nhiêu? Thay thế công thức (1) với KE= 8,786, CW= 4,727 của loài lúa Phi châu (1). Bài tính cho biết tuổi thọ (độ nẩy mầm giảm từ 99% xuống còn 5%) là 253.434 ngày, tức 694 năm tồn trữ ở 20 ºC. Nếu hầm ở Thành Dền có nhiệt độ 15 ºC, tuổi thọ sẽ là 448.762 ngày, tức 1.229 năm. Muốn hạt lúa sống 3.000 năm, tức 1.095.000 ngày, hầm Thành Dền phải có nhiệt độ 6 ºC. Không phải dễ dàng giữ ẩm độ hạt không thay đổi ở 4,6% trong suốt 3.000 năm. Chỉ có thể với silica gel và phải chứa trong bình thủy tinh khằn kín. Ở lu vại đất nung, chỉ sau 10 năm, ẩm độ hạt sẽ gia tăng. Tro bếp cũng là chất làm khô (desiccant), nhưng rất yếu.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 3:40:14 GMT 9
Trường hợp “tồn trữ ẩm” sẽ cho tuổi thọ tối đa bao nhiêu? Như đã nói ở phần trên, muốn tồn trữ ẩm thành công, hạt lúa phải hưu miên thật mạnh, trong lúc lúa Á Châu chỉ hưu miên trong 3-4 tháng tối đa ở nhiệt độ 30 ºC. Lúa Phi Châu có hưu miên nhiều hơn. Hiện tại, không có thí nghiệm nào về tồn trữ ẩm cho hạt lúa, chỉ biết rằng tuổi thọ không cao. Kinh nghiệm của nông dân ở vùng “lúa ma” Đồng Tháp, sau khi đào mương lập vườn, lúa ma nẩy mầm nhiều trong năm đầu, nông dân diệt trước khi phát hoa, thì năm sau mọc ít hơn, và như vậy tiếp tục trong 5 năm, trong vườn không còn lúa ma khi mùa mưa đến. Lúa ma Mỹ châu (Zizania palustris) có hưu miên rất mạnh nhưng tuổi thọ không quá 5 năm khi tồn trữ ẩm ở nhiệt độ 5ºC. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Ellis RH & Hong TD (2006). Temperature sensitivity of the low-moisture-content limit to negative seed longevity - moisture content relations in hermetic storage. Annals of Botany 97, 785-791. 2. Ellis RH & Hong TD (2007) Quantitative response of the longevity of seed of twelve crops to temperature and moisture in hermetic storage, Seed Science & Technology 35, 431-443. 3. Ellis RH, Hong TD & Roberts ER (1990). An intermediate category of seed storage behaviour? I. Coffee. Journal of Experimental Botany 41, 1167-1174. 4. Ellis RH, Hong TD, Roberts EH, Martin MC, Perez Garcia F & Gomez-Campo C (1993). The long-term storage of ultra-dry seeds of 17 crucifers. Plant Varieties and Seeds 6, 75-81. 5. Ellis RH, Mai-Hong T, Hong TD, Tan TT, Xuan-Chuong ND, Hung LQ, Ngoc-Tam B & Le-Tam VT (2007) Comparative analysis by protocol and key of seed storage behaviour of sixty Vietnamese tree species, Seed Science & Technology 35, 459-475. 6. Ellis RH & Roberts ER (1980). Improved equations for the prediction of seed longevity. Annals of Botany 45, 13-30. 7. Hong TD, Gunn J, Ellis RH, Jenkins NE & Moore D (2001). The effect of environment on the longevity of conidia of Beauveria bassiana. Mycological Research 105, 597-602. 8. Hong TD & Ellis RH (2002). Chapter 3. Storage. In Tropical Tree Seed Manual. Ed. J.A. Vozzo. Washington DC: USDA. Pp 125-135. www.rngr.net/publications/ttsm9. Hong TD & Ellis RH (2002). Optimum moisture status for the exceptional survival of seeds of arabica coffee (Coffea arabica L.) in medium-term storage at -20°C. Seed Science and Technology 30, 131-136. 10. Hong TD, Ellis RH, Buitink J, Walters C, Hoekstra FA & Crane J (1999). A model of the effect of moisture content on pollen longevity in air-dry storage environments. Annals of Botany 83, 167-173. 11. Hong TD, Linington S & Ellis RH (1998). Compendium of Information on Seed Storage Behaviour. Volume I. A-H. Kew: Royal Botanic Gardens. 400pp. 12. Hong TD, Linington S & Ellis RH (1998). Compendium of Information on Seed Storage Behaviour. Volume II. I-Z. Kew: Royal Botanic Gardens. 401-901pp. 13. Hưng N (18/5/2010). Giới khoa học xôn xao vì hạt lúa 3000 năm nẩy mầm. vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2010/05/3BA1BEEA/14. Hưng N (21/5/2010). Giả thuyết về sức sống của 'hạt thóc 3.000 năm'. vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2010/05/3BA1C11D/15. Kivilaan AR & Bandurski S (1981) The one hundred-year period for Dr. Beal's seed viability experiment. American Journal of Botany 68, 1290-1292. 16. Porsild AE, Harington CR & Mulligan GA (1967). Lupinus arcticus Wats. grown from seeds of Pleistocene age. Science 158, 113–114. 17. Roberts EH (1973). Predicting the storage life of seeds. Seed Science & Technology 1, 499-514. 18. Royal Botanic Gardens Kew. Seed Information Database. Search the Seed Information Database. data.kew.org/sid/sidsearch.html19. Sallon S, Solowey E, Cohen Y, Korchinsky R, Egli M, Woodhatch I, Simchoni O & Kislev M (2008). Germination, genetics, and growth of an ancient date seed. Science 320 (5882), 1464 (13 June 2008). 20. Shen-Miller J, Mudgett MB, Schopf W, Clarke S & Berger R (1995). Exceptional seed longevity and robust growth: Ancient sacred lotus from China. American Journal of Botany 82 (11), 1367-1380. 21. Telewsk FW & Zeevaart JAD (2002). The 120-yr period for Dr. Beal's seed viability experiment. American Journal of Botany 89, 1285-1288. 22. Toole EH & Brown E (1946). Final results of the Duvel buried seeds experiment. Journal of Experiment Research 72, 201-209. 23. Zazula GD, C. Harington R, Alice M, Telka AM & Brock F (2009). Radiocarbon dates reveal that Lupinus arcticus plants were grown from modern not Pleistocene seeds. New Phytologist 182, Issue 4, Pages 788-792. Reading (UK), 22/5/2010. * Vài hàng về tác giả: 6 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Phân Khoa Nông Nghiệp, Đại Học Cần Thơ, và 30 năm nghiên cứu tại Seed Science Laboratory, Đại học Reading (Anh quốc). Ông là tác giả của 7 quyển sách và trên 80 bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí khoa học Âu Mỹ, đề cập chung quanh các vấn đề khoa học và kỹ thuật hạt liên hệ đến ngân hàng hạt giống.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 3:46:15 GMT 9
Hoa-Mai-vàng-ngày-Tết Vietsciences-Trần Đăng Hồng Người Việt thường lẫn lộn trong việc đặc tên hoa. Chẳng hạn, cùng tên Mai nhưng những hoa này lại thuộc nhiều tộc họ thực vật không có liên hệ bà con gì cả. Như gốc cây Mai đại thụ ở địa danh Chùa Cây Mai (Sài Gòn) có tên mỹ miều trong thơ văn là “Bạch Mai”, tên dân dã “Mai Mù u”, có tên khoa học Ochrocarpus siamensis var. odoratissimus Pierre, thuộc họ Bứa Guttiferae. “Mai Chấn Thủy” thường làm cây kiểng, tiểu cảnh (bonsai) là Wrightia religiosa (Teisjm. Binn) Hook. f. thuộc họ Apocynaceae. Trong văn chương cổ điển Việt Nam, thường vay mượn điển tích hay truyện Trung Hoa, hoa Mai cũng được đề cập nhiều như truyện Nhị Độ Mai, hay hoa mai trong truyện Kiều, hay của nhiều tác giả khác, thì đa số thuộc loài Prunus (Đào, Mơ, Mận) của họ Rosaceae (họ hoa Hồng). Ông Lê Phạm Trung Dung (Tập san Hoa Cảnh), cũng như GS Tôn Thất Trình (Tập San Hoa Cảnh, xuân Giáp Thân 2004), đã đề cập nhiều loại hoa mang tên Mai, nhưng có tên khoa học không phải trong chi tộc Mai-Vàng-Ngày-Tết ở Miền Nam Ochna, nên tôi không lập lại ở đây. Cũng vậy, sau 1975, hàng mấy triệu người Việt sống tha hương khắp thế giới, vốn nặng tình với cố quốc, nên hễ thấy giống hoa gì có màu vàng nở vào dịp Tết ta, đều gọi nó là Mai, quen thuộc nhất là Forsythia sp. (Mai Mỹ, Mai Canada, Mai xứ lạnh), thuộc họ Lài Oleaceae, thường gặp trong công viên vùng lạnh ở Hoa Kỳ, Canada, và Âu Châu. Ở bài này, tôi chỉ đề cập đến Hoa-Mai-Vàng (Huỳnh Mai, Hoàng Mai) mà người dân Miền Nam, từ Huế cho tới Cà Mau, đều có chưng một vài cành trong dịp Tết Nguyên Đán. Tên khoa học của Hoa-Mai-Vàng-Ngày-Tết này là Ochna integerrima (Lour.) Merr. (cũng có tên Elaeocarpus integerrima Lour., và Ochna harmandii Lec., tên Trung Hoa 金莲木) thuộc họ Ochnaceae. Mai Ochna ở Việt Nam Theo GS Phạm Hoàng Hộ, họ Ochnaceae tại Việt Nam có hai loài Mai Ochna: Mai-tứ-quý, còn gọi là Mai Đỏ, trước đây mang nhiều tên như Ochna atropurpurea DC., Ochna multiflora, Ochna serratifolia, hiện nay các nhà khoa học cùng chấp nhận tên Ochna serrulata (Hoshst.) Walp. Loài Mai này có nguồn gốc phía đông Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope), thuộc Nam Phi. Hoa cũng màu vàng, cành ít hoa hơn, và ra bông lẻ tẻ suốt năm. Mai này thường trồng trong sân trước nhà, trong chậu để làm cây cảnh, nhưng không cắt nhánh để chưng trên bàn như loài Mai-Vàng. Mai-tứ-quý chịu lạnh giỏi, vì có nguồn gốc xứ lạnh, ở vĩ độ 32º Nam Bán cầu, nơi có nhiệt độ trung bình 7 °C trong mùa lạnh, nên được ưa chuộng ở Bắc Mỹ nơi có khí hậu ôn hòa trong mùa đông (trên 10°C). Trung quốc và Việt Nam du nhập giống này từ lâu đời. Tại miền Bắc Việt Nam, đa số mai Ochna là mai-tứ-quý. Mai-Vàng (hoàng-mai – thường gọi là huỳnh-mai vì cữ húy tên chúa Nguyễn Hoàng, Champax) tức Ochna integerrima, là loài mai bản địa, mọc hoang trong rừng còi từ Quảng Trị vào Nam, có hoa từ tháng 1 đến tháng 4 dương lịch, tùy nơi. Đây chính là Mai-Vàng-Ngày-Tết ở Miền Nam. Tôi đã cố công tìm kiếm trên mạng, cũng như trong các sách thực vật học vùng Đông Dương và Đông Nam Á để tìm nguồn gốc chữ Champax, thì thấy có tên này, nhưng không nói đó là ngôn ngữ nước nào. Phải chăng Champax và Champa (nước Chiêm Thành) có liên hệ với nhau? Bởi vì lãnh thổ hoa Mai-Vàng cũng chính là lãnh thổ của Chiêm Thành ngày xưa. Mai-Vàng ngày Tết Ochna integerrima phân bố địa lý từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Andamans, Nicobars (giữa vĩ tuyến 6º và 14º N), Bangladesh, Burma, Bán đảo Mả Lai, đến Đông Dương, từ xích đạo cho tới Khammouan (vĩ độ 17.4 ºN) thuộc Lào, Đảo Hải Nam (vĩ tuyến 20 º N), và Tây Nam Quảng Đông (khoảng vĩ tuyến 24 º N) gần vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc, nơi có nhiệt độ mùa đông trung bình 10ºC. Tại vùng cực bắc này, hoa Mai-Vàng bắt đầu nở vào tháng 3 và 4 dl, nở rộ từ tháng 4 đến tháng 6 dl. Tại Việt Nam, Mai-Vàng thấy mọc hoang ở rừng núi Côn Đảo (vĩ tuyến 8º 02’ N, là đảo cực nam của Việt Nam), tập trung nhiều nhất từ vùng rừng núi ở Miền Đông, Miền Trung, Cao Nguyên cho tới Quảng Trị, từ mực nước biển cho tới cao độ 700 m. Trên vĩ tuyến 17 ºN, cũng thấy Mai Vàng mọc rải rác ở vùng Quảng Bình (Bến Én), Đèo Ngang (Hà Tỉnh), Nghệ An (Nghĩa Đàn), Ninh Bình (Tam Đảo), đảo Bái Tử Long (vĩ độ 20.70 ºN, Quảng Ninh). Cũng tại Quảng Ninh có giống Mai-Vàng ở núi Yên Tử, chịu được lạnh, và hoa có mùi thơm. Hà Nội ở vĩ độ 20°53' - 21°23N, có nhiệt độ trung bình mùa đông là 15.2°C, có khi sụt xuống 2.7°C (tháng 1/1955). Ngược lại, Vịnh Hạ Long cũng có cùng vĩ độ (20°45'-20°50' N), nhưng nhờ ảnh hưởng của biển, nhiệt độ trung bình mùa đông ấm hơn (16-18°C), và ít khi xuống dưới 12°C. Truyền thuyết cho rằng giống Mai Yên Tử này là con cháu của gốc Mai Vàng do vua Trần Nhân Tông trồng trên núi Yên Tử khi nhà vua đi tu (từ năm 1285 đến 1288). Như vậy, trong lãnh thổ Việt Nam, Mai-Vàng là giống bản địa mọc tự nhiên từ Nam chí Bắc, và giới hạn phân bố cực bắc của giống này ở khoảng vĩ độ 24 ºN trong lãnh thổ Trung quốc. Tại vĩ độ này, như Tiandong Xian (vĩ độ 23 º.60’N, cao độ 60 m) có nhiệt độ trung bình mùa đông khoảng 10-12°C. Mai-Vàng Ochna integerrima được mô tả là loại cây lá rụng theo mùa (deciduous) trong rừng lá rụng ở Đông Nam Á. Lá mai rụng trong mùa đông, sau đó ra hoa trong mùa Xuân, từ tháng 1 đến tháng 4 dl. Tuy nhiên tại Việt Nam, giống Mai-Vàng có lá xanh quanh năm (evergreen), ngoại trừ giống mai-vàng Trại Thủy ở Nha Trang (nơi có tượng Phật trên đỉnh núi khi vào thành phố) lá rụng vào mùa đông trước khi ra hoa rực rỡvào dịp Tết ta. Mai-vàng chịu khô hạn và cháy rừng rất giỏi, không chịu úng nước. Sau cháy rừng, thân cây phần trên bị chết, nhưng phần gốc vẫn sống, đâm chồi mạnh, cho nhiều hoa trái hơn để bảo tồn nòi giống. Chim ăn trái chín và nhờ vậy cây Mai được phân tán rộng rãi. Mai là giống vùng nhiệt đới, không chịu lạnh được nhiều, nhưng giống Mai Yên Tử ở Miền Bắc (Quảng Ninh) chịu lạnh rất giỏi. Mai Yên tử nở hoa sau Tết Nguyên Đán, thông thường từ giữa tháng Giêng đến tháng 3 Âm Lịch. Các Việt kiều ở Mỹ nên tìm trồng giống Mai-Vàng này. Vì Việt Nam trải dài từ vĩ tuyến 8º 02' đến 23º 23' N, có nhiều loại khí hậu và tiểu khí hậu khác nhau, nên không ngạc nhiên là có rất nhiều giống Mai-Vàng, có nhiều đặc tính khác nhau, khác biệt về màu sắc, số cánh hoa, chịu đựng hạn hay lạnh khác nhau. Nhờ chim ăn trái và phát tán rộng rãi, rồi qua hàng ngàn năm được thiên nhiên tuyển chọn, rồi do con người tuyển chọn (như hoa mai-vàng Yên tử do các nhà sư tuyển chọn trong hơn 700 năm) để thích ứng cho mỗi môi trường địa phương, nên có lẻ giống mai-vàng-ngày-tết rất đa dạng. Ông Quách Giao (Tập san Hoa cảnh) đã mô tả rất chi tiết hàng trăm giống Mai-Vàng ở mỗi địa phương từ nam chí bắc, từ hoa 5 cánh thông thường tới hàng trăm cánh hoa, ngoài màu vàng, trắng, hồng, đỏ lại có giông mai cánh màu đen đen (Hoa Mai Bình Giả). Vùng Khánh Hòa đến Phan Thiết có lẻ là vùng đa dạng nhất ở Việt Nam về hoa mai-vàng, từ loài mai biển ngoài hải đảo (khoảng 200 đảo thuộc khánh Hòa, như Khải Lương, Đầm Môn, Vạn Ninh, Hòn Tre, Thủy Triều, Cam Ranh), đến mai vùng bãi cát, rồi mai rừng còi, cho tới mai núi, từ thung lủng thấp tới độ cao trên 400 m, đa dạng về màu sắc, số cánh hoa, về hương thơm. Vì vậy, không ngạc nhiên trước đây dinh Độc Lập, cũng như nhiều công thự khác ở Sài Gòn, đều có chưng cây Mai-Vàng chở từ rừng núi Cam Lâm (Khánh Hòa). Theo ông Quách Giao, trong lãnh thổ từ Bình Thuận đến Khánh Hòa có những giống mai-vàng quý như Mai Vïnh Hảo ở vùng núi Vïnh Hảo (Phan Thiết), thân cây nặng gấp rưỡi mai thường, nên gọi là “mai đá”, gỗ thật cứng, hoa to cánh phẳng, từ 12 đến 16 cánh màu vàng rất đẹp và lâu tàn. Mai Cà Ná, Bình Châu, hoa 5 cánh màu vàng nhạt, mọc hoang ở những khu rừng từ Đồng Bò (Nha Trang) chạy vào tới Cà Ná, Bình Châu. Nha Trang có giống Hoàng-Mai-Tám-Cánh đặc thù của núi Hoàng Mai Sơn (núi Trại Thủy), giống này lá rụng trụi lủi vào mùa đông và ra hoa rực vàng cả núi đồi vào dịp Tết. “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận). Cách đây 70 năm, Phước Hải của thành phố Nha Trang là một rừng mai chạy dài từ biển tới núi Đồng Bò: Mã Vòng đêm vắng ma trêu nguyệt Phước Hải Xuân về cọp thưởng mai (Thơ Thuần Phong Trần Khắc Thành) Đa số các giống Mai-Vàng trỗ hoa vào dịp Tết ta, nhưng có một giống Mai Vàng ở đảo Hòn Đỏ Nha Trang nở hòa vào giữa tháng 4 âm lịch, vào mùa Phật Đản. Mai-Vàng trên bàn chưng Tết ở Miền Nam có từ khi nào? Dân Miền Nam vốn xuất thân từ đồng bằng Sông Hồng, đa số từ vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh và Quảng Bình. Theo bước Nam Tiến, di dân tiến dần vào Nam. Khi chúa Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa (Huế) lập cơ nghiệp nhà Nguyễn (khoảng năm 1600) hùng cứ phương nam sông Gianh. Đèo Ngang vốn là biên giới giữa Việt Nam và Chiêm Thành, ở vĩ tuyến 18 ºN, có cao độ 300 m. Mặc dầu độ cao không nhiều như Hải Vân, nhưng khí hậu phía bắc và phía nam Đèo Ngang có phần cách biệt lớn. Ở phía bắc, như Hà Tỉnh (vĩ độ 18°19'59"N) nhiệt độ trung bình mùa đông khoảng 17 ºC, có khi xuống 8 ºC, ngược lại ở phía Nam có khí hậu nóng hơn, như ở Đồng Hới (vĩ độ 17º21' N ) là vùng khô hạn hơn, nhiệt độ trung bình mùa đông 18.7ºC. Kể từ nam Đèo Ngang đến Đèo Hải Vân, nhiệt độ mùa đông cao dần. Chẳng hạn ở Huế (vĩ độ 16º 28’N), có nhiệt độ trung bình mùa đông 20 ºC, lạnh nhất là 10ºC. Đèo Hải Vân (vĩ độ 16°28' N, cao độ 1495 m) ngăn chận gió Bắc thổi từ lục địa Trung Hoa, nên phía nam có khí hậu ấm hơn. Chẳng hạn ở Đà Nẳng (vĩ độ 16°04'12"N) có nhiệt độ trung bình mùa Đông 18-23 ºC, và ít khi lạnh dưới 15 ºC. Và từ đây vào Nam, nhiệt độ mùa đông tăng dần. Tập tục chưng mai-vàng trong dịp Tết chỉ thấy từ Huế trở vào nam. Trước đây 50 năm, dân chúng vùng từ Quảng Trị trở ra không có chưng hoa Mai trong dịp Têt mà chỉ chưng Hải đường (Chaenomeles spp. họ Rosaceae), Đỗ quyên (Rhododendron sp.), hay hoa hồng (Rosa spp.), vì hoa mai nở trễ sau Tết rất xa (tháng 2 và 3 dl) và không nhiều hoa. Ngày nay nhờ phương tiện di chuyển hàng hóa dễ dàng và đời sống kinh tế khá hơn, văn hóa chưng mai-vàng-ngày-tết được phổ biến rộng rãi hơn, mai được chở đến từ các tỉnh phía nam. Như vậy, giới hạn nhiệt độ trung bình mùa đông để Mai-Vàng trồng được phải trên 10 ºC, và để cho hoa Mai-Vàng nở dịp gần Tết (trước hoặc sau Tết 2-3 tuần) phải trên 15 ºC. Đó là lý do tại sao từ Huế trở vào Nam có văn hóa chưng Mai Vàng trong dịp Tết, vì có điều kiện khí hậu (cùng với kỹ thuật lặt lá) để hoa mai-vàng nở tự nhiên trong dịp Tết. Riêng ở Miền Bắc, nhờ ảnh hưởng của vùng biển mà Hoa Mai-Vàng Yên tử có hoa, trong khi ở những vùng khác Mai Vàng có hoa rất trể khoảng tháng 2 hay 3 dl, và hoa không nhiều. Như vậy, từ vùng Quảng Trị trở ra Miền Bắc không có điều kiện nhiệt độ mùa đông thích hợp cho mai-vàng nở rộ trong dịp Tết. Thay vào đó, hoa Đào thích hợp xứ lạnh, được tuyển chọn lâu đời qua mấy ngàn năm để hoa nở rộ vào dịp Tết, chính là hoa lý tưởng của Miền Bắc. Mai-Vàng và người Việt lưu vong Sau 1975, hàng triệu người Việt vượt biên “bỏ của chạy lấy người”. Tài sản cả một đời bỏ lại quê nhà, nhưng khi có điều kiện về thăm quê cũ, dĩ nhiên tài sản không được phép mang theo, nhưng họ lại lén lút mang theo một tài sản tinh thần quý giá -hạt hay cây con mai-vàng-ngày-Tết cho quê hương mới (vì luật lệ rất khắc khe khi du nhập giống cây xứ lạ vào nước sở tại, nhất là Australia và Hoa Kỳ). Kể từ đó, mai-vàng-ngày-tết, và mai tứ-quí được trồng ngoài vườn (nơi có khí hậu cho phép), hay trong nhà (trong chậu, dạng bonsai trong chậu nhỏ) được thấy ở Hawaii (Honolulu, vĩ độ 21ºN, ngang Hà Nội), Miami (25ºN), Tampa (27 ºN), New Orleans (29 ºN), Houston (29 ºN), Dallas (32 ºN), San Diego, Little Saigon, Long Beach, Los Angeles (California, 33-34 ºN), Oklohama City (35 ºN) và San Jose (California, 37 ºN). Như vậy, cực bắc của hoa-mai-vàng của người Việt ở Mỹ là vĩ tuyến 37 ºN). Tại London (51 ºN), tôi biết có nhiều người trồng mai-vàng trong nhà nhưng không có hoa, ngoài trừ ở Vườn Bách Thảo Hoàng Gia Kew (Royal Botanic Garden Kew) trồng trong nhà kiếng nhiệt đới (nhiệt độ điều chỉnh 27-32ºC) có mai-vàng trỗ hoa vào dịp Easter (đầu tháng 4). Tại Hoa Kỳ, ở tất cả mọi thành phố có đông người Việt đều có bán chậu mai-vàng và mai-tứ-quý trong dịp Tết. Các chậu mai này được trồng ở các thành phố miền nam California, nơi có nhiệt độ ban ngày >18 ºC, nhiệt độ ban đêm > 10ºC trong tháng 1 dl, là tháng lạnh nhất trong năm. Chẳng hạn, nhiệt độ ban ngày/ban đêm vào tháng 1 dl ở San Diego (vĩ độ 32º.70’N) là 18.9º/10ºC, nhưng thỉnh thoảng có sương muối (frost). Để tránh chết vì sương muối bất thường, chậu mai được đặt trong sân vườn vào mùa hè và mùa thu, nhưng dời vào nhà hay nhà kiếng vào mùa đông. Ngay cả ở San Jose (Bắc California, vĩ độ 37 ºN, nhiệt độ tháng lạnh nhất là tháng 1 dl, nhiệt độ ngày/đêm 16 º/6 ºC), mai vàng thấy trồng ở chùa Đức Viên, và trong dịp Tết cũng thấy có bán mai-vàng dưới dạng chậu nhỏ hay bonsai, không có bông nhiều và đẹp bằng ở những nơi khác. Vì khó bảo vệ, mua mai về chỉ thưởng ngoạn một năm, giá một cây mai (chưa kể tiền chậu) ở vùng Little Sài Gòn (nam California) tối thiểu 30 đô la, mai lớn có nhiều hoa thì giá cao gấp bội, hơn 200 đô la, nên là một thị trường béo bổ cho người sản xuất mai-vàng bán trong dịp Tết. Ngày nay, đa số mai-vàng bán ở Hoa Kỳ sản xuất từ Hawaii, cùng vĩ độ với vùng Hà Nội, nhưng có khí hậu ôn hòa, ấm áp trong mùa đông hơn. Tại Honolulu, tháng 2 dl lạnh nhất, nhiệt độ ban ngày 27 ºC, ban đêm 18 ºC, tương đương với khí hậu vùng Khánh Hòa, rất lý tưởng cho canh tác hoa-mai-vàng nở rộ đúng Tết ta. Làm sao cây Mai-Vàng biết đọc lịch để trỗ hoa vào dịp Tết nguyên đán? Vì lãnh thổ Việt Nam chạy dài trên 15 vĩ tuyến (từ 8º 02' đến 23º 23' N), hoa Mai-Vàng đầu tiên không trỗ hoa cùng một thời điểm (chẳng hạn Tết nguyên đán) nếu không trảy lá. Tại đồng bằng Cửu Long, đóa hoa trổ đầu tiên có khuynh hướng trổ trước Tết ta từ 3 tuần đến 3 tháng, tùy giống và thời tiết nóng hay lạnh trong mùa thu và mùa đông, năm nhuần hay không nhuần. Tết ta thông thường phải sau ngày 21/1 dl, và trước 19/2 dl, năm không nhuần thường vào cuối tháng 1 hay đầu tháng 2 dl; còn năm nhuần thường giữa tháng 2 dl). Vì vậy, nếu muốn chính xác phải tính ngày cái hoa đầu tiên (first flower) trổ, theo dương lịch. Thông thường, tại vùng Sài gòn cho tới đồng bằng Cửu Long, mai nở bông đầu tiên khoảng từ 25/11 dl đến 25/12 dl, tùy theo giống và điều kiện thời tiết. Năm 2006 (năm bị ngập lụt bởi triều cường trong tháng 10, cây mai rụng lá), hoa mai-vàng bắt đầu nở khoảng 20/11 dl (tức 3 tháng trước Tết nguyên đán, nhằm ngày 17/2/2007, năm nhuần âm lịch). Năm nay (2009), tại vùng Bình Phước, Sài Gòn hoa mai-vàng đầu tiên nở khoảng ngày 10/12/2009, tức trước Tết Canh Dần (14/2/2010) 2 tháng. Tại Miền Trung (Nha Trang), hoa mai đầu tiên có khuynh hướng trổ vào khoảng hạ tuần tháng 1 dl, đầu tháng 2 dl (tức gần cận Tết, hay ngày Tết), và lai rai cho tới tháng 5 dl. Tại Miền Bắc (vùng Hà Nội), mai-vàng nở hoa đầu tiên thường từ trung tuần đến hạ tuần tháng 2 dl, tức sau Tết âm lịch (nếu năm không nhuần). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới ngày ra hoa của cây cối vùng nhiệt đới, trong đó ba yếu tố quan trọng nhất là (i) nhật-quang-kỳ [số giờ kể từ lúc mặt trời ở dưới chân trời 6º khi bình minh (tức rạng đông) và hoàng hôn (tức chạng vạng), thông thường là thời gian từ lúc mặt trời mọc tới mặt trời lặn + 7 phút tới 30 phút], (ii) nhiệt độ, và (iii) yếu tố nước và ẩm độ không khí (khô hạn, mưa). Ba yếu tố này có ảnh-hưởng-hỗ -tương rất phức tạp. Ảnh hưởng của nhật-quang-kỳ (photoperiod) Trái đất quay quanh mặt trời nên có ngày và đêm. Trục trái đất cũng nghiêng ngả định kỳ một góc 23º 48’ nên tạo ra ngày dài ngắn khác nhau theo mùa. Tại Xích đạo, ngày và đêm dài bằng nhau, suốt năm. Ở các vĩ độ Bắc, vào ngày Xuân phân (21/3, March equinox) và Thu phân (21/9, September equinox) ngày và đêm dài bằng nhau (12 giờ). Sau Xuân phân ngày dài dần (hơn 12 giờ) đến tối đa vào ngày 21/6 (Hạ chí, June solstice), sau Hạ chí ngày ngắn dần, và vào Thu Phân ngày và đêm dài bằng nhau, và ngày ngắn nhất trong năm xảy vào 22/12 (Đông chí, December solstice). Sau ngày này, ngày bắt đầu dài lại. Cây mai tứ-quý (O. atropurpurea) ra hoa quanh năm, không bị ảnh hưởng của nhật-quang-kỳ. Ngược lại, cây mai-vàng-ngày-Tết (O. integerrima) thuộc loại đoản-quang-kỳ, chỉ phát động việc ra hoa khi gặp ngày ngắn. Nó không phát động việc ra hoa khi gặp ngày dài. Khi ngày bắt đầu ngắn dần, đến một số giờ ngắn nào đó, cây bắt đầu phát động việc ra hoa, qua việc sản xuất các chất hormones ra hoa, tế bào sinh dục được tạo khối ở nách lá gọi là khối-sơ-khởi-tạo-hoa (primordium initiation). Số giờ của thời gian ban ngày bắt đầu phát động sinh khối-sơ-khởi-tạo-hoa gọi là nhật-kỳ-tới-hạn (critical photoperiod), trên số giờ này cây không phát động việc ra hoa. Như vậy, nhật-kỳ-tới-hạn của Mai-Vàng là bao nhiêu giờ/ngày? Chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này cho Mai-Vàng. Tôi chỉ dựa vào dương lịch ngày có hoa đầu tiên nở trên cây dọc theo vĩ tuyến để ước tính. Theo tôi ước đoán, nhật-kỳ-tới-hạn của mai-vàng khoảng giữa từ 11giờ 00 phút đến 11 giờ 24 phút, tức khoảng ngày 1/11 dl ở vùng Sài Gòn, 20/11 dl ở Miền Trung, và 5/1 dl ở vùng Hà Nội và Honolulu (Hawaii, USA). Biến đổi thời gian ban ngày (giờ . phút) theo vĩ độ Bắc Ảnh hưởng của nhiệt độ. Nhiệt độ có cộng hưởng với nhật-quang-kỳ với ảnh hưởng rất phức tạp. Nhiệt độ có ít nhất 3 ảnh hưởng: (i) Ảnh hưởng hỗ tương với ngày ngắn. Mặc dầu hội đủ nhật-kỳ-tới-hạn, cây mai không thể phát động ra khối-sơ-khời nếu gặp nhiệt độ lạnh, có lẻ khoảng <8 ºC. (ii) làm lá rụng ở một số loài cây (deciduous) (iii) Giúp tăng trưởng khối tế-bào-sơ-khởi để thành nụ hoa. Nhiệt độ gia tăng càng cao (đến tối đa khoảng 32ºC), thời gian từ khối-sơ-khởi đến nở hoa càng ngắn, trung bình khoảng 35 ngày ở 32ºC, đến 70 ngày ở 12-15 ºC. Ảnh hưởng của thiếu nước – hạn hán (water stress) Thời gian hạn hán là yếu tố rất quan trọng cho cây thân mộc vùng nhiệt đới phát động tạo khối-sơ-khởi-phát-hoa. Yếu tố hạn hán cũng hỗ tương với nhật-quang-kỳ và nhiệt độ (như cây cao-su, Hevea brasiliensis). Cây ăn trái của VN phần đông nằm trong nhóm này để phát hoa. Phải có một thời gian hạn hán (thiếu nước mưa, ẩm độ không khí thấp, từ tháng 12 đến tháng 4 dl) cây ăn trái mới ra hoa nhiều khi có mưa vào tháng 5 hay 6 dl. Thiếu nước cũng làm lá rụng ở một số loài cây. Yếu tố hạn hán không quan trọng mấy ở cây-mai-vàng, vì thời kỳ phát động tạo khối-sơ-khởi xảy trước mùa khô hạn, mùa hạn thường bắt đầu vào tháng 12 dl. Ảnh hưởng của lặt lá. Lá rụng theo mùa (deciduous) là hậu quả ảnh hưởng hỗ tương của nhật-quang-kỳ, nhiệt độ, và/hay hạn hán. Lá rụng cũng giúp tạo khối-tế-bào-sơ-khởi của nụ hoa. Ngoài ra, khi cây mai đã có nụ hoa, lặt lá giúp hoa nở rộ đồng bộ trên cành. Triều cường cao nhất trong 48 năm xảy ra từ 26/10 đến 29/10/2007 gây ngập lụt các vườn mai-vàng vùng Sài Gòn, Gia định, Bình Dương, Biên Hòa, làm lá mai vàng úa và rụng trụi lủi. Sự kiện tác hại của triều cường gây ra rụng lá (được xem như lặt lá) lại trùng hợp với ngày phát động tạo khối-sơ-khởi hoa mai, nên hoa mai vùng Sài Gòn nở sớm hơn năm bình thường khoảng 3 tuần lễ, làm thất thu cho nhà vườn rất lớn. Chậu hoa mai có bông nở rộ trong dịp Tết bán mới có tiền. Vì sự phát triển từ khối-sơ-khởi đến nở hoa, tùy thuộc vào dinh dưỡng, nước tưới, quan trọng nhất là nhiệt độ. Vì vậy, để hoa nở đúng dịp Tết, thời điểm lặt lá mai rất quan trọng, lại tùy thuộc vào thời tiết vốn thay đổi theo vĩ tuyến. Tại vùng Sài Gòn (vĩ độ 10 ºN), thường lặt lá khoảng 15 ngày trước Tết; tại Nha Trang (vĩ độ 12 ºN) 15 – 30 ngày; Phú Yên (13 ºN), Bình Định (13.80 ºN) 20- 30 ngày; tại vùng Hà Nội (20 ºN) 30 đến 45 ngày; ở Florida (25 ºN) 30-45 ngày; Houston, Oklahoma (29-32 ºN), 30 đến 50 ngày; và San Jose (37 ºN), 50-60 ngày trước Tết ta. Để dễ nhớ, có lẻ công thức đơn giản sau đây giúp phỏng đoán được ngày lặt lá mai để hoa nở rộ đúng Tết: Số ngày lặt lá trước Tết = vĩ độ x 1.5 ± vĩ độ /2 Kết luận: Chưng một cành mai-vàng trên bàn, hay một chậu mai-vàng trong nhà vào dịp Tết là một tập tục lâu đời của người dân Miền Nam, từ giàu chí nghèo. Việc tạo ra hoa mai đúng Tết là một kinh nghiệm cá nhân quý báu của người yêu hoa mai, nhất là giới nhà vườn sản xuất bán hoa cho ngày Tết. Việc nghiên cứu về điều kiện ra hoa ở Mai-Vàng, hay hoa vùng nhiệt đới, coi như không có. Ngược lại những tài liệu nghiên cứu về hoa vùng Ôn Đới thì rất dồi dào, vì là một kỹ nghệ sản xuất hoa đồ sộ, với kỹ thuật tối tân (điều chỉnh ngày dài hay ngắn, nhiệt độ thích hợp cho mỗi thời kỳ sinh trưởng, theo chương trình tự động hóa qua máy vi tính, sử dụng hóa chất, v.v.), muốn hoa nở rộ lúc nào cũng được, để cung cấp hoa theo ý nghĩa của mỗi ngày lể, như lể Tình Nhân, Lể Mẹ, Giáng sinh, hay sinh nhật và tang lể xảy ra bất cứ ngày nào trong năm. Tác giả chưa hề trồng Mai-vàng, nói chi đến chuyện có kinh nghiệm cá nhân. Tuy nhiên, tác giả dùng kiến thức khoa học thâu lượm được trong thời gian cộng tác nghiên cứu ở thập niên 1980s, tìm “Mô hình toán học tiên đoán ngày ra hoa” của hàng chục loại hoa màu vùng nhiệt đới, trong một đề án nghiên cứu lớn của Đại học Reading (Anh Quốc) kéo dài hơn mười năm. Vì chỉ dựa vào các thông tin do thân hửu cung cấp, có thể không chính xác, và không dựa trên thí nghiệm, nên các ước tính trên có thể sai lầm. Tuy vậy, hy vọng rằng nó sẽ cung cấp một ít kiến thức phổ thông hửu ích cho các vị hằng quan tâm, hay ít ra cũng để quý đọc giả giải khuây giây lát trong dịp Tết cổ truyền. Cảm tạ: Tác giả cảm tạ GS Tôn Thất Trình (Hoa Kỳ) đã cung cấp tài liệu và cho ý kiến, Dr Nguyễn Ngọc Bình (Hoa Kỳ), ThS Nguyễn Thế Thiệu (Hoa Kỳ), KS Nguyễn Thị Mỹ (Hoa Kỳ), KS Nguyễn Hoàng Long (Hoa Kỳ), KS Dương Hiển Hẹ (Hoa Kỳ), Ô Bà Đoàn Vân Anh (Hoa Kỳ), KS Trần Quốc Dzũng (Việt Nam), KS Trần Giỏi (Việt Nam) và một số thân hửu đã cung cấp thông tin về Hoa Mai Vàng ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại. Reading (Anh Quốc), Jan/2010
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 6:25:38 GMT 9
Hoa mai làm thuốc Nói đến hoa xuân không thể không nói đến hoa mai. Tết đến xuân về, dẫu tiết trời giá rét, hoa mai vẫn nở trắng một màu như tuyết. Ở vùng cao, mai mọc thành rừng, nên đến mùa hoa mai nở, từng mảng trắng xóa xen giữa màu xanh của rừng núi tạo nên cảnh sắc trông thật trữ tình. Thi nhân yêu hoa mai đã đành, người thầy thuốc cũng mến chuộng loài hoa này. Hoa mai nói đến ở đây là hoa mai trắng (bạch mai hoa), ở ta chính là hoa của cây mơ, tên khoa học là Prunus armeniaca L., còn được gọi là lạp mai, bạch mai, lạp mộc, hương mai, hoàng lạp, tuyết lý hoa... Cần phân biệt với cây mai vàng (Ochna integerrima Lour) thường được trồng làm cảnh. Cũng như đào và mận, mai có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản. Cây mai nhỏ, cao chừng 4 - 5m, hoa mọc đơn độc ở kẽ những lá đã rụng, có cuống ngắn, màu trắng và có mùi thơm, đài hình bánh xe, 5 răng nhỏ, tràng 5 cánh mỏng, nhị nhiều xếp thành 2 vòng, bầu thượng, một ô. Trong thành phần hóa học, hoa mai chứa nhiều tinh dầu như cineole, borneol, linalool, benzyl alcohol, farnesol, terpineol, indol... và một số chất khác như meratin, calycanthine, caroten... Nghiên cứu hiện đại cho thấy, hoa mai có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật, ức chế một số loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao... Theo dược học cổ truyền, hoa mai vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt... Các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo nguyên thủy, Bách thảo kính, Bản thảo tái tân, Cương mục thập di, Thực vật nghi kỵ... đều đã ghi lại nhiều phương thuốc có dùng hoa mai với những kiến giải khá sâu sắc. Có thể dẫn ra một số ví dụ cụ thể như sau: - Trúng thử gây tâm phiền, đau dầu, chóng mặt: (1) Hoa mai 9g sắc uống hoặc phối hợp hoa mai với hoa biển đậu và lá sen tươi lượng vừa đủ, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, hoa cúc trắng 15g, hoa hồng 15g, hãm uống thay trà. - Tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực: Hoa mai 3g, thảo quyết minh 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. - Mai hạch khí, đau dạ dày, viêm gan và xơ gan mức độ nhẹ: Hoa mai 5g đem ninh với 100g gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường trắng, chia ăn vài lần trong ngày. Mai hạch khí là chứng cảm thấy trong họng có vật gì đó gây bế tắc, thổ không ra, nuốt không trôi nhưng không gây trở ngại cho việc ăn uống. Với chứng bệnh này người ta còn dùng hoa mai 12g, hoa quế 3g, trà 20g, ba thứ trộn đều, chia làm 3 lần hãm uống thay trà. - Chướng bụng, đầy hơi: Hoa mai 10g, mộc hương 10g, hương phụ 15g, sắc uống. - Đau bụng do lạnh: Hoa mai và chu sa liên lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 3 - 6g với rượu nhạt. - Nấc: Hoa mai 5g, tai hồng (thị đế) 5 cái, gừng tươi 3 lát, gạo tẻ 100g. Đem gừng tươi và thị đế sắc kỹ lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, khi chín thì cho hoa mai vào, đun sôi vài dạo là được, chia ăn vài lần trong ngày. - Nôn: Hoa mai 5g, nước cốt gừng tươi 5ml. Đem hoa mai hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút là dùng được, chắt ra hòa thêm nước gừng tươi rồi uống, mỗi ngày dùng 2 thang. - Viêm họng, viêm amydal cấp tính: (1) Hoa mai 6g, huyền sâm 9g, bản lam căn 9g, sắc uống. (2) Hoa mai 15g, kim ngân hoa 15g, thạch cao 15g, huyền sâm 9g, sắc uống. (3) Hoa mai 9g hãm với nước sôi trong bình kín, uống thay trà trong ngày. - Viêm họng mạn tính: (1) Hoa mai 6g, hoa dành dành 5g, trà 20g. Ba thứ trộn lẫn chia làm 2 lần hãm với nước sôi uống thay trà, mỗi ngày 1 thang. (2) Hoa mai và hoa ngọc trâm lượng vừa đủ đem nấu với 60g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài lần trong ngày, mỗi ngày 1 thang. - Ho dai dẳng: (1) Hoa mai 9g hãm uống thay trà trong ngày. (2) Hoa mai 10g, khoản đông hoa 10g, gạo tẻ 60g, tất cả đem ninh thành cháo, chế thêm một chút mật ong, chia ăn vài lần trong ngày. - Mất nước nhiều do thử nhiệt gây phiền khát, tức ngực: Hoa mai 10g, lá sâm 10g, cam thảo 10g, mạch môn 15g, hoắc hương 6g, sắc uống. - Chứng chán ăn do thử nhiệt: Hoa mai 10g, lá sen 50g, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày. - Tức ngực, khó thở: Hoa mai 10g, đan sâm 10g, qua lâu 15g, sắc uống trong ngày. - Đau khớp do phong thấp: Hoa mai 9g, thạch nam đằng 9g, thố nhĩ phong 9g, đam ngâm với 200ml rượu, mỗi lần uống 30 - 50ml. - Viêm kết mạc cấp tính: Hoa mai 6g, cúc hoa 9g sắc kỹ rồi hòa thêm một chút mật ong uống. - Tổn thương do trật đả: Hoa mai 9g, lá liễu 9g, quá sơn long 9g, đem ngâm với 250ml rượu trắng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 50ml. - Vết thương chảy máu: Hoa mai 10g đem sao tồn tính rồi tán thành bột rắc vào vết thương. - Viêm loét môi và niêm mạc miệng: Hoa mai tươi lượng vừa đủ đem giã nát với đường trắng rồi vắt lấy nước bôi vào tổn thương. - Loa lịch (lao hạch): Hoa mai lượng vừa đủ, trứng gà 1 quả. Dùng dao nhọn chích một lỗ nhỏ ở quả trứng rồi nhét hoa mai vào trong, đem hấp cách thủy cho chín rồi ăn, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình. - Viêm da lở loét: Hoa mai 6g đem ngâm với dầu lạc hoặc dầu vừng, sau 2 tuần thì dùng được, bôi vào tổn thương mỗi ngày 2 lần. - Bỏng: Hoa mai lượng vừa đủ ngâm với dầu trà rồi bôi vào vùng bị bỏng. Ngoài ra, trong ẩm thực cổ truyền, hoa mai còn được cổ nhân sử dụng như một loại thực phẩm để chế thành những món ăn có công dụng bổ dưỡng cường thân cùng với các loại thực phẩm khác như thịt lợn, thịt dê, hải sâm, trứng gà, cá chép, nấm hương... Như vậy, với vẻ đẹp tao nhã và hương thơm thanh khiết của mình, hoa mai không những có giá trị thẩm mỹ sâu sắc mà còn là một vị thuốc hay và một loại thực phẩm độc đáo. ThS Hoàng Khánh Toàn
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 18, 2011 4:09:19 GMT 9
Chùm hoa lãng mạn Ti gôn Vietsciences- Võ Quang Yến Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy Mà viết tìm em được ích gì ? T.T. Kh (Bài thơ cuối cùng) Vào khoảng giữa năm 1937, tạp chí "Tiểu thuyết thứ bảy" ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn "Hoa Ti-gôn" của ký giả Thanh Châu. Đây là một chuyện tình bi đát của chàng họa sĩ Lê Chất. Vừa mới ra trường, trên đường đi tìm phong cảnh làng quê để vẽ, anh thấy một cô gái đẹp đang víu một cành hoa ti gôn màu đỏ trước một biệt thự ven Hà Nội. Mấy ngày liền, anh mê mẩn trở lại nhìn cô ta nhưng đến một hôm thì hết còn thấy. Chín năm sau, công thành danh toại, anh vẫn không quên cô gái đẹp thời xưa. Một hôm, trong một buổi dạ vũ ở toà lãnh sự Pháp ở Vân Nam bên Trung Quốc, anh gặp lại cô gái, nay đã có chồng, một viên chức cao cấp, mà cô ta không hề yêu thương. Sau kỳ tái ngộ đó, họ tâm sự và quyết định trốn qua Nhật cùng sống với nhau. Nhưng cuối cùng, cô gái từ chối ra đi và gởi cho Lê Chất một lá thư kèm một chùm hoa ti gôn. Bốn năm sau, anh nhận được một lá thư của chồng cô gái báo tin nàng đã mất. Từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ đến mùa hoa ti gôn nở, buồn đau, anh không quên mua một chùm hoa trang hoàng phòng làm việc để nhớ đến người yêu xa xưa. Mấy ngày sau truyện ngắn trữ tình nầy được đăng báo, một thiếu phụ khoảng 20 tuổi, dáng dấp thùy mị, mang lại toà báo một bài thơ tựa đề "Hai sắc hoa ti gôn" ký tên T.T.Kh., đề ngày 30.10.1937. Bài thơ nghe nói bị vứt vào sọt rác, may lấy ra lại được, lột tả những đau xót của một người con gái phải xa người yêu đi lấy chồng và suốt đời ray rức như mình là người phụ bạc, càng não nùng qua giọng ngâm của người tốt giọng như Hoàng Oanh. Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buốn Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc Tôi chờ người đến với yêu đương. Sau bài thơ lời lẽ mộc mạc nầy đã gây xôn xao trong giới yêu văn thơ, tòa soạn nhận được qua bưu điện một bài thơ khác tựa đề "Bài thơ thứ nhất" cùng tác giả, lời lẽ tương tự, mô tả kỹ lưỡng hơn mối tình dang dở. Giới văn nghệ lại càng bàn tán xôn xao. Trong bầu không khí xao động, tờ "Phụ nữ thời đàm" ở Hà Nội nhận được, cũng qua bưu điện, bài thơ "Đan áo cho chồng" cùng tác giả, cùng giọng điệu, than vản, oán trách thân phận mình. Bài báo nầy vừa ra mắt thi tờ "Tiểu thuyết thứ bảy" lại nhận thêm một bài thơ nữa kỳ nầy có tựa đề "Bài thơ cuối cùng" (1938) cùng tác giả, ý tứ có phần khác ba bài thơ trước và, như tác giả đã báo truớc, không còn một bài thơ nào khác ký tên T.T .Kh để độc giả hoang mang không biết nàng là ai. Năm lại năm qua cứ muốn yên Mà phương ngoài gió chẳng làm quên Và người vỡ lỡ duyên thầm kín Lại chính là anh, anh của em. Trong suốt bốn bài thơ luôn có nói đến hoa dáng tim vỡ, nhưng, ngoài tên bài "Hai sắc hoa ti gôn", chỉ trong "Bài thơ cuối cùng" là có chỉ định hoa ti gôn : Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy. Tuy nhiên nội dung ngây thơ của người con gái lúc đầu gặp gỡ người yêu dưới giàn hoa rồi luôn buồn tưởng tới nhà nghệ sĩ trong cuộc sống lạnh lẽo bên người chồng… những dữ kiện hoà hợp rất khắng khít với cốt truyện "Hoa Ti-gôn". Rất dễ hiểu ký giả Thanh Châu khẳng định tác giả các bài thơ là người yêu của ông. Nhưng ông không phải là người độc nhất. Nhà thơ Nguyễn Bính, vì cũng đã sống một cuộc tình duyên dang dở tương tự, cũng cho T.T Kh là người tình vườn xanh xưa cũ của mình : Và tiễn người đi bến cát xa, Ở lại vườn Thanh có một mình. Bên phần thi sĩ Thanh Tâm (Nguyễn Tuấn Trình) thì dẫn cớ T.T. là những chữ cái của bút hiệu mình, còn Kh là hai chữ đầu tên cô Trần Thị Khánh, một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà Nội, được biết là không cho cưới người yêu mà phải lấy một ông chồng nhiều tuổi hơn : Khánh ơi, còn hỏi gì anh, Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên (1940). Trong những bài thơ viết tặng T.T.Kh. có bài "Mẩu máu Tigôn". Theo nhà thơ lão thành Lương Trúc (1985) có gặp bà Trần Thị Khánh thì chuyện nầy có thật. Tuy nhiên, sau nầy (1994), qua nhà văn Thế Nhật, có giả thuyết chữ T đầu là họ nữ sĩ Trần Thị Văn Chung, kết hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn, hiện còn sống ở miền nam nước Pháp; chữ T thứ hai là Thanh, tên ký giả Thanh Châu, tác giả truyện ngắn ; còn Kh là….khóc, khóc cho mối tình dở dang ! Rút cuộc, với vẻn vẹn độc nhất bốn bài thơ não lòng, T.T.Kh. đã gây xốn xao dư luận cả một thời và đến nay chưa ai biết chắc chắn tung tích tác giả. Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ, cô Khánh không biết làm thơ, những bài ký tên T.T.Kh. là do Thanh Tâm làm, còn Nhà văn Vũ Hạnh thì cho tác giả những bài thơ nấy là thi sĩ Jean Leiba ! Nhưng cần chăng biết nàng là ai, và như tác giả một bài sưu tầm tỉ mỉ (1) đã kết luận, chúng ta cần gì phải thắc mắc, nàng là ai cũng thế mà thôi, dù nàng là cô Trần Thị Khánh ở Hà Nội hay là cô Trần Thị Chung ở Thanh Hóa. Điều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ của T.T.Kh. là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn Việt Nam. Tuy vậy, cũng nên tìm biết ti gôn là hoa gì, không lý chỉ có trong trí tưởng tưởng của nhà văn lãng mạn, nhà thi sĩ đa tình ! Thưa không : gần đây tôi may mắn được đọc Vườn có những hàng cây yên ả Mùa Ti-gôn chưa trổ hoa Nắng nhìn nghiêng lá trổ màu lục Đôi khi đợi chờ là hạnh phúc Hồ Đắc Thiếu Anh (Có một mùa Ti-gôn) Thật ra, ti gôn là một loại hoa nguồn gốc ngoại lai mà trong Nam nuớc ta thường nôm na gọi là hoa nho hay nho kiểng, còn ở ngoài Trung và Bắc thông thái phiên âm rút gọn danh từ Tây phương antigon hay antigone. Trong thần thoại Hy Lạp có một bà tên Antigone, con vua Œdipe thành quốc Thèbes (nay là Thiba) bên nước Hy Lạp và hoàng hậu Jocaste. Vì là con của một cặp loạn luân, bà đã phải chịu sống một cuộc đời đau khổ, không chồng, không con và sau cùng bị kết án giam lỏng trong mồ gia đình. Ngay lúc mới sinh, Œdipe bị cha là Laios đem bỏ vào rừng cho chết đi vì ông tin một lời nguyền rủa bảo con ông sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Œdipe không chết, được nuôi lớn lên ở vương triều Corinthe như một đứa con mồ côi. Một ngày trên đường đi, vì một chuyện xích mích, Œdipe giết Laios mà không biết ông ta là cha mình. Trả lời là "con người" đúng câu hỏi của quái vật Sphinx, thân phụ nữ mình sư tử, ai ban sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân, sau khi quái vật đập đầu vào đá chết đi, Œdipe được dân chúng đón tiếp như một người hùng và tôn xưng lên ngôi vua. Sau đấy ông cưới hoàng hậu Jocaste làm vợ mà không dè bà là mẹ mình, vô tình thực hiện lời nguyền rủa. Vào lúc ấy có bệnh dịch hoành hành và thánh nhân đòi tìm cho ra người đã ám sát Laios may ra cứu được toàn dân Thèbes. Khám phá ra mình đã giết cha, Oedipe vô cùng đau đớn, nhổ mắt thành mù, được Antigone dẫn ra khỏi Thèbes làm người ăn xin trước khi chết ở Colone. Còn Jocaste thì treo cổ tự tử. Ngoài hai con gái, Antigone và Ismène, Œdipe và Jocaste có hai con trai, Polynice và Etéocle. Hai anh em thỏa thuận luân phiên nhau thế cha lên ngôi trị vì mỗi người một năm. Etéocle bắt đầu lên ngôi nhưng một năm sau không chịu nhường ngôi lại cho Polynice. Trong cuộc chiến huynh đệ tranh ngôi cả hai đều tử trận. Em của Jocaste là Créon lên nối ngôi, truyền lệnh khâm niệm Etéocle theo nghi lễ một nhà vua nhưng cấm không được chôn cất Polynice xem như là kẻ phản bội. Antigone không chịu tuân lời cậu, lại rải một ít đất lên thi hài anh gọi là lễ tang tối thiểu để linh hồn anh yên giấc ngàn thu, vậy mà Créon lên án giam cháu. Không chịu sống giam cầm suốt đời, Antigone treo cổ tự tử. Hémon, con của Créon, người yêu của Antigone, tự sát ngay trên thi hài Antigone và tiếp theo đó, vợ Créon cũng chết theo con. Rút cuộc người còn sống trong đau khổ là Créon cùng một lúc mất con, góa vợ, chỉ vì một xử lý thiếu suy nghĩ của mình. Lời nguyền rủa thấy như còn tiếp tục lâu dài… Trong bối cảnh một thế giới đảo điên, con giết cha, anh em giết nhau, cậu giết cháu, Œdipe không chủ ý phạm tội loạn luân, một hiện tượng sau nầy được nhiều triết gia biện luận và nhiều soạn giả viết thành bi kịch..., Antigone tỏ ra là một người con có hiếu vì đã chịu chăm sóc người cha mù cho đến lúc ông chết, lại là một người em mang một tình thương anh vô tận nên mới đơn thương độc mã bất tuân lệnh của ông vua cậu. Nhiều học giả đã thấy qua nàng một bi kịch của những đối lập : một bên là tình thương chị em, mệnh lệnh thần thánh, sự tận tâm tận tụy, bên kia là ý chí nhà vua, luân lý thành quốc, sự mù quáng của tuổi già. Lòng hiếu thảo, tình thương của nàng phải chăn được thể hiện qua một cây leo luôn quấn quít trên những cành cứng, những bụi rậm như cây antigone thường thấy ở Nam Mỹ, phát xuất từ Mexico, mọc hoang nhiều ở các tiểu bang California, Arizona bên Hoa Kỳ, ở tỉnh Phan Thiết bên ta. Mang tên khoa học Antigona leptopus Hook. et Arn. (5,7) (có khi viết Linn. (8,9) ) thuộc họ Răm Polygonaceae, cây ti gôn còn được gọi hiếu nữ, Coral vine, Mountain Rose, Queen’s Wreath hay Love’s chain. Dây leo đa niên nhờ có củ to, thân mảnh, lá có phiến không lông, hình tim, xanh tươi, dúng. Chùm có vòi, to, ở chót nhánh, hoa hường hay trắng (var. alba Horst) (*) cho nên T.T.Kh. mới có tựa bài "Hai sắc hoa ti gôn". Hoa có 5 tai đỏ, ngoài 3 trong 2, tiểu nhị dính nhau ở đáy, noãn sào 3 cánh, 3 vòi, nhụy bế quả. Ưa chịu nóng mùa hè và thích nhiều nước. Vào mùa đông lá rụng nhiều, chỉ ngọn cây chết nhưng chóng phục hồi (2) . Là một loại hoa đẹp, lại được mệnh danh là hoa lòng, hoa máu, hoa ti gôn đã được nhiều nhà chú ý khảo cứu, nhất là về mặt chất sắc. Nhóm Minocha ở viện Đại học Allahabad bên Ấn Độ dùng methanol-HCl (1%) chiết xuất được hai anthocyanin pelargonin và malvin (4). Thay đổi dung dịch, dùng ethanol, họ đạt được hentriacontan và trimethoxy propanoyl anthraquinon (5), quercetin, rhamnetin, quercetin glucopyranosid và hydroxy methyl anthraquinon arabinofuranosyl glucopyranosid (3). Nhóm Valsakumari ở Trường kỷ sư Tiruchirapalli cũng ở Ấn Độ thì tìm ra được trong hoa quercetin rhamnosyl rhamnoside (7). Nhóm Kawasaki ở viện Đại học Shinshu bên Nhật bản phát hiện trong lá 28 cây thuộc họ Răm 33 flavonoid. Quercetin glycosid có mặt trong hầu hết các lá, nhiều nhất là rhamnodid và glucuronid, còn myrcetin thì hiếm hơn (6). Những nhà khảo cứu ở viện Đại học Michigan bên Hoa Kỳ dùng methanol thì chiết xuất được từ tất cả các bộ phận khí sinh của cây, kể cả hoa, hentriacontan, ferulic acid, hydroxy cinnamic acid, quercetin rhamnosid, kaempherol glucosid đồng thời với bêta-sitosterol, bêta-sitosterol glucosid và mannitol (16). Trong một cuộc khảo cứu về các acid béo trên 15 cây đủ loại mọc ở Rajasthan trong ấy có Antigonon leptopus, tinh dầu hột cống hiến dimethyl oxazolin (10). Cây ti gôn không chỉ phô trương sắc đẹp. Người ta đã tìm ra được trong những phần chiết methanol các bộ phận khí sinh của cây có tính chất ức chế lipid peroxi hóa (89%), cycloxygenase (50,4 – 72,5 %) với 250 microgam/mL (16), phản thrombin (80%) (13). Ở viện Đại học Victoria bên Canada, một cuộc khảo cứu đã được thực hiện trên các cây dùng để chữa các chứng thuộc đường niệu cùng bệnh đái đường ở Trinidad và Tobago trong ấy có ti gôn (15). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đề nghị dùng Antigonon leptopus cùng nhiều cây khác như kha tử Terminalia chebula, mã tiền Strychnos nux-vomica, đàn hương Santalum album, thảo đậu khấu Alpinia katsumadai, nhục đậu khấu Myristica fragrans, đinh hương Eugenia caryophyllata, ngũ linh chi Facces trogopterpri… nhờ những tính chất chống đau, chống viêm, chống siêu trùng, bài niệu, giải độc, để chữa một loạt bệnh viêm : viêm thận, viêm gan, viêm kết tràng,… (14). Ti gôn đã được dùng làm thức uống (16). Cũng cần biết thêm nhóm Krishna ở viện Đại học Andhra bên Ấn Độ đã khảo cứu cách đường hóa và lên men cùng lúc sinh khối ti gôn để sản xuất ethanol với các chủng Trichoderma reesei và Saccharomyces cerevisiae (8,11) hỗn hợp với Kluyveromyces fragilis (l2), bêta-glucosidase (9). Hoa ti gôn không thơm tùy loại có hai màu : màu trắng tượng trưng cho lòng trinh bạch (Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít giây hoa trắng chạnh lòng ), màu hồng hay đỏ chỉ sự đau khổ trong đời. (Nhưng hồng, tựa trái tim tan vỡ, Và đỏ như như màu máu thắm phai). Chỉ với hai màu, T.T.Kh đã trưng bày đủ đời mình, kết liễu với một nỗi nhớ tiếc không nguôi, ví mình như một loài hoa vỡ, một trái tim phai : Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng Trời ơi, người ấy có buồn không ? Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ Tựa trái tim phai, tựa máu hồng. Theo kết quả của những tìm kiếm, rất có thể T.T .Kh hiện còn sống. Một con người, với một cuộc đời như vậy, có hảnh diện không khi thấy những bài thơ mộc mạc nhưng chân thành của mình đã gây náo động khắp nước, cả một thời, không những ở quốc nội hồi thơ mới được đăng báo, mà còn bây giờ, gần bảy mươi năm sau, khắp thế giới, bất kỳ ở nơi nào có người Việt, còn người yêu thơ ? Nghiên cứu và Phát triển 2 (79) 2010 Tham khảo (*) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Ấn quán (1991) I, 954 1- Lưu An, TTKh và những khám phá về thân thế tác giả, khoahocphothong.net/forum/archiv/index.php/t-8504.html 2- Lê Văn Lân, Mùa thu và hoa tim vỡ, khoahoc.net 20.09.2007. 3- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Chemical constituents of the flowers of Antigonon leptopus, Indian J. Chem.section B (5) 19B (1980) 431-2 4- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Study of anthocyanins from flowers of Antigone leptopus, Vijnana Parishad Anusandhan Patrika (4) 23 (1980) 305-7 5- P.K. Minocha, M. Masood, K.P. Tiwari, 1,6,8-Trimethoxy-3-propanoylanthraquinone, a new pigment from the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, Indian J. Chem.section B (3) 20B (1981) 251-2 6- M. Kawasaki, T. Komata, K. Yonutsama, Flavonoids in the leaves of twenty-eight polygonaceous plants, Bot. Mag. (Tokyo) (1053) 99 (1986) 63-74 7- M.K. Valsakumari, N. Sulochana, Phytochemical investigation on the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, J. Inst.Chem.(India) (1) 64 (1992) 38 8- S.H. Krishna, Y. Prabhakar, R.J. Rao, Saccharification studies of lignocellulosic biomass from Antigonon leptopus Linn, Indian J; Pharm. Sci .(1) 59 (1997) 39-42 9- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, D.S. Reddy, C. Ayyanna, Simultaneous saccharification and fermentation of pretreated Antigonon leptopus Linn leaves to ethanol, J. Chem. Tech. Biotech. (11) 74 (1999) 1055-60 10- M.M. Azam, M.R.K. Sherwani, Chemical investigation of some seed oils from arid zone of Rajasthan, Oriental J. Chem. (2) 15 (1999) 295-300 11- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, Optimization of simultaneous saccharification and fermentation for the production of ethanol from lignocellulosic biomass, J. Agri. Food Chem.(5) 48 (2000) 1971-6 l2- S.H. Krishna, D.S. Reddy, T. Janardhan, G.V. Chowdary, Simultaneous saccharification and fermentation of lignocellulosic wastes to ethanol using a thermotolerant yeast, Biores. Tech. (2) 77 (2001) 193-6 13- N. Chistokhodova, Nguyen Chi, T. Calvino, I. Kachirskaia, G. Cunningham, M.D. Howard, Antithrombin activity of medicinal plants from central Florida, J.Ethnopharm. (2) 81 (2002) 277-80 14- J. Wu, Manufacture of traditional Chinese medicine with antiviral, anti-inflammatory, and detoxicating effects, Faming Zhuanli Shanqing Gongkai Shuomingshu CN 1840147 (2006) 6 tr. 15- C.A. Lans, Ethnomedicines used in Trinidad and Tobago for urany problems and diabetes mellitus, J.Ethnobio. Ethnomed. 2 (2006) 45 16- M. Vanisree, R.L. Alexander-Lindo, D.L. De Witt, M.G. Nair, Functional food components of Antigonon leptopus tea, Food Chem. (2) 106 (2008) 487-92
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 18, 2011 11:01:53 GMT 9
Hoa Vô ưu 'thắp lửa' bầu trời Hà NộiTrong tiết trời nắng ấm của thời khắc chuyển mùa, trên đường phố Hà Nội có một loài hoa trổ bông rực rỡ, nhuộm cả một khung trời vàng rực như lửa. Đó là hoa Vô ưu (Vàng anh), một loài hoa đẹp mang cái tên ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Có xuất xứ từ Ấn Độ, hoa Vô ưu gắn với điển tích Đức Phật Thích Ca được sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni. Theo truyền thuyết, tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni, cây vô ưu được trồng rất nhiều. Trong lần cùng đoàn tùy tùng xa giá về quê ngoại để sinh con đầu lòng theo tập tục Ấn Độ cổ, hoàng hậu Ma Da có đi ngang qua vườn Lâm Tỳ Ni. Tại đây, bà ra lệnh dừng lại để vào lâm viên nghỉ ngơi, đi dạo và ngoạn cảnh. Khi đi đến dưới cây vô ưu, bà thấy hoa nở rộ, ngào ngạt hương thơm, bèn đưa tay vin cành hoa. Ngay sau đó, dưới gốc cây vô ưu, hoàng hậu trở dạ sinh Thái tử Tất Đạt Đa, người sáng lập ra Phật giáo sau này. Cây Vô ưu xanh quanh năm, có tán rộng cho bóng mát, vào mùa xuân cho hoa màu sắc đẹp nên được trồng ở một số đường phố và công viên tại Hà Nội. Đặc biệt, loài cây biểu trưng của Phật giáo này được trồng khá nhiều ở khu vực tương đài vua Lý Thái Tổ - vị vua sùng kính đạo Phật, đồng thời cũng là người khai sinh kinh thành Thăng Long. Một số hình ảnh Đất Việt ghi nhận: Vào những ngày này, khu vực vườn hoa Chí Linh, nơi đặt tượng đài vua Lý Thái Tổ rực rỡ sắc hoa Vô ưu. Có xuất xứ từ Ấn Độ, loài hoa này gắn với tích Đức Phật Thích Ca được sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni. Hoa nở vào mùa xuân với những chùm lớn màu vàng tươi, hương thơm dịu dàng thu hút nhiều loài ong bướm. Tên hoa có nghĩa là không ưu tư phiền muộn, thể hiện tinh thần giải thoát của đạo Phật. Do sắc màu đặc trưng mà người Việt Nam còn gọi loài hoa này là hoa Vàng anh. Trong văn hóa Ấn Độ, cây Vô ưu được coi là loày cây mang đến điềm lành. Theo truyền thuyết, cây Vô ưu cảm nhận được tình cảm của con người nên được phụ nữ chăm sóc thì trổ hoa rất nhiều. Mang trong mình nhiều ý nghĩa, hoa Vô ưu được coi là một trong những Thánh hoa của đạo Phật. Hoa góp phần tạo nên một nét quyến rũ của Hà Nội vào cuối mùa xuân. Tuy vậy, rất ít người ở Hà Nội biết tên và sự tích đằng sau loài hoa này.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 5:28:38 GMT 9
HOA CỎ DẠI (*) Truyện ký của Nguyễn Chính " Hạt gạo làng ta, có vị phù sa của sông Kinh Thầy, có hương sen thơm trong hồ nước đầy, có lời mẹ hát ngọt bùi hôm nay...". Bài hát đã khép lại chương trình "Khách mời ngày thứ bảy", buổi phát thanh thời sự và âm nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong chương trình "Khách mời ngày thứ bảy" hôm ấy, PGS-PTS Đào Quang Triệu đã tâm sự với bạn nghe đài về những mẫu máy nông nghiệp độc đáo của ông. Tôi - người viết bài này - vốn sinh ra ở một vùng quê nghèo, thủa nhỏ mỗi khi mùa gặt đến lại cùng bạn bè đi nhặt những chẽ thóc rơi. Ngày ấy, tuổi thơ của chúng tôi làm sao hiểu được những hạt chắc lại thường bị rụng lẫn vào cỏ rác, được chúng tôi dùng những nắm đất dẻo chấm cho dính vào, mang về cho mẹ đãi. Lớn lên, có dịp đi nhiều nơi, tôi mới thấy không chỉ ở quê mình mà ở mọi vùng trồng lúa, mùa thu hoạch vui thì vui thật, nhưng cũng vất vả bội phần. Chính vì thế mà những mẫu máy thu hoạch của PGS-PTS Đào Quang Triệu đã thật sự cuốn hút tôi. Một chiều cuối thu 1996, tôi tìm gặp PGS-PTS Đào Quang Triệu. Ông không có ở cơ quan, nhưng rất may là tôi đã gặp được kỹ sư Nguyễn Văn Mạnh, một học trò của ông. Mạnh bảo : "Anh muốn tìm hiểu những mẫu máy thu hoạch của thầy tôi à, muộn rồi!". "Sao vậy, Đài Tiếng nói Việt Nam vừa phát được mấy hôm ?", tôi sửng sốt hỏi lại. Mạnh gật đầu vẻ thông cảm, nhưng vẫn quả quyết: "Cả Đài cũng vậy, quá muộn". Mạnh người Hải Phòng, sinh viên khoa cơ khí Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, đã ra trường được 10 năm. Anh có dáng người to đậm, chắc nịch. Bằng một giọng buồn, thật buồn, Mạnh giải thích: "Những mẫu máy thu hoạch này, thầy tôi đã nghiên cứu thành công và cho ra đời cách đây hơn mười năm, còn báo chí các anh thì bây giờ mới tìm hiểu về số phận của chúng. Hơn mười năm, những mẫu máy đơn giản với giải pháp kỹ thuật tiên tiến mà người nông dân rất cần này lại không xuất hiện được trên đồng. Trong khi "chúng" còn bị lãng quên một cách oan nghiệt ở đâu đó, thì người ta lại cứ đổ tiền, đổ của ra để nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm, rồi lại thử nghiệm, nghiên cứu, chế tạo một máy thu hoạch có công dụng tương tự mà vẫn không xong". Rồi anh buông một tiếng thở dài : "Ôi ! thật là một tội ác". - Vậy anh là ... ? - Tôi hỏi. - Tôi là một trong số những sinh viên thuộc nhóm nghiên cứu, khảo nghiệm các mẫu máy thu hoạch lúa của thầy Triệu ở các tỉnh phía Nam. - Thế tại sao anh lại cho là muộn? Mạnh nhìn tôi, giọng anh trở nên trầm lắng : " Trong khoa học, người ta mong những phát minh, sáng chế được phục vụ cuộc sống sớm đến từng ngày, từng giờ. Đằng này lại để muộn tới mười năm mới nói đến. Các anh là những người cầm bút, người viết... là bộ phận nhạy cảm nhất của xã hội kia mà !". Tôi lặng im, sự việc không đơn giản như tôi nghĩ. Thì ra, máy cũng bị "oan", cũng bị "khổ sai" đến mười năm. Mạnh hứa gửi cho tôi những tư liệu mà anh có và sẽ là "cố vấn kỹ thuật" cho tôi, trong phóng sự này. Tôi đã không phải chờ lâu. Trong những tài liệu mà Mạnh gửi đến, có cả một cuộn băng video. Tôi cho băng vào máy, trên màn hình là cảnh một máy thu hoạch lúa đang hoạt động trên đồng, với lời thuyết minh bằng tiếng Anh. Tôi điện hỏi Mạnh, anh giải thích: "Đúng, đó là máy thuộc thế hệ mới nhất Viện Lúa quốc tế (IRRI) chế tạo, theo phát minh của một kỹ sư người Anh, đang được tuyên truyền, phổ biến cho các nước trồng lúa". Hoạt động của máy được camera quay cận cảnh nên thấy rất rõ những dải lúa rộng khoảng 0,8m được máy vừa tuốt, vừa hớt bông đưa vào thùng gắn luôn trên máy ngon lành. Máy chỉ có hai công nhân, một người điều khiển, một người phụ giúp để khi thùng chứa đầy thì đưa sang máy đập phụ làm cho sạch gié. Mặc dù tỉ lệ thóc gié còn khá cao (từ 50-60%), nhưng lượng rơi vãi rất thấp và với năng suất 0,2-0, 3ha/giờ thì theo tôi đã là lý tưởng lắm. Và tôi nghĩ, vào mùa gặt mà vùng quê lam lũ của tôi có cái máy này thì phải biết ... Hôm sau, Mạnh hỏi tôi : "Ông thấy máy của IRRI thế nào?" Tôi bảo : "Hết ý". Mạnh bảo : "Thế ông không thấy máy của họ còn nhiêu khê à, tỉ lệ gié trong hạt còn cao nên phải sử dụng thêm máy đập phụ. Có lẽ vì vậy mà nông dân chưa mê lắm". Tôi liền hỏi vị "cố vấn" : "Thế máy của thầy anh như thế nào?". Mạnh cười : "Ông cứ tìm hiểu thực tế và đọc tài liệu đi!". Năm 1980, sau khi bảo vệ xong luận án Phó tiến sĩ tại Liên Xô (cũ) trở về, ông Đào Quang Triệu đã có chuyến đi công tác dài ngày tại đồng bằng sông Cửu Long. Lúc đó, cả nước đang phấn đấu đạt tổng sản lượng lương thực 21 triệu tấn/năm. Từ thực tế mùa vụ và công việc thu hoạch ở đây, ông Triệu nhận xét : "Đúng là một vựa lúa. Đồng bằng sông Cửu Long sẽ góp phần quan trọng cho mục tiêu 21 triệu tấn/ năm, nếu cơ giới hoá được khâu thu hoạch và giải quyết được vấn đề phơi sấy cho vụ hè thu. Vì hàng năm, lượng thất thoát do thu hoạch chậm, do rơi vãi và do mưa lũ ... lên đến hàng chục vạn tấn". Ông trở về Hà Nội với những phác thảo ban đầu về những mẫu máy thu hoạch lúa và hệ thống phơi sấy cho vùng đồng bằng nổi tiếng này. Giáo sư Lê Duy Thước, hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội rất tâm đắc với những dự án đề tài của ông. Bằng tất cả tấm lòng và tâm huyết với sự nghiệp giải phóng sức lao động cho người nông dân, vị hiệu trưởng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để đề tài cấp nhà nước "Nghiên cứu vấn đề thu hoạch lúa ngập nước và sấy lúa hè thu ở Đồng bằng Sông Cửu Long", do PGS-PTS Đào Quang Triệu chủ trì, sớm được triển khai thực hiện. Song, rất tiếc, công việc vừa mới bắt đầu thì GS Hiệu trưởng Lê Duy Thước, một người đạo cao đức trọng, được nhiều thế hệ thầy và trò Trường Đại học Nông nghiệp I yêu mến, kính nể , thôi giữ chức hiệu trưởng. Người thay ông là bà Trần Thị Nhị Hường, một đồng nghiệp của PGS-PTS Đào Quang Triệu. Ngay từ đầu, việc nghiên cứu đã vấp phải vấn đề nan giải số một là kinh phí. Với số tiền được duyệt chỉ có 300.000 đồng trong 5 năm (1983-1987), tính ra mỗi năm là 60.000 đồng, vừa phải trang trải cho một núi công việc, vừa phải nuôi một cách dè sẻn 6 kỹ sư mới ra trường, được Bộ Nông nghiệp bổ sung để thành lập nhóm nghiên cứu đề tài cấp nhà nước này. Mạnh bảo : "Biết bao nhiêu thứ phải chi, như mua vật tư, thiết kế, chế tạo, thử mẫu máy thí nghiệm, tiền ra Bắc vào Nam thử nghiệm máy, ngoài tiền lương cho 6 kỹ sư , còn phải chi phí cho số sinh viên thực tập, mỗi năm từ 5 đến 6 chú, rồi tiền mua lúa thí nghiệm, tiền vận chuyển máy, tiền tổ chức khảo nghiệm, thao diễn ... thôi thì đủ thứ. Đó là chưa kể hàng tháng, việc nhận tiền cũng rất chậm, muốn nhận được nhanh, kịp thời và đổi séc ra tiền mặt cũng không phải dễ dàng gì...". - Nghe nói chi phí thực tế cho đề tài tới gần 700.000 đồng, vậy tiền ở đâu mà làm? - Tôi hỏi Mạnh. - Đồ đạc nhà thầy Triệu đã phải lần lượt "ra đi", như đài, máy khâu, tủ, quGS-PTS Đào Quang triệu đã gây được sự chú ý của các đồng nghiệp, nhất là trong ngành cơ khí nông nghiệp vì đây là vấn đề khá hóc búa và nan giải, từng thu hút trí tuệ của nhiều nhà khoa học, nhà phát minh trong và ngoài nước. Rất nhiều bạn bè xa gần đã dành cho ông những lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Nhưng cũng có những đồng nghiệp chỉ hoan hỉ ngoài mặt, với những cái bắt tay đau đến nhăn mặt. Và, thật không may cho "nhà khoa học trên đồng" của chúng ta, những đồng nghiệp có "tấm lòng vàng" ấy lại có chức có quyền -- nhỏ thôi, nhưng mỗi "nhật lệnh" hoặc "mật lệnh" của họ phát ra có thể làm lụi tắt ngọn lửa nhiệt tình, thậm chí đi tong cả một sự nghiệp. Mạnh kể : "Họ theo dõi sát đến từng tiến độ nhỏ của đề tài. Lần khảo nghiệm đầu tiên, họ không tham gia, nhưng lại nóng lòng chờ kết quả. Họ hỏi dồn một học trò : - Máy có chạy được không? - Dạ có. - Có tuốt hạt được không? - Dạ có. - Có thấy còn sót bông không ?câu xanh rờn như vậy. Trong cơn tuyệt vọng của lòng đố kỵ, họ đã tuyên bố quá sớm. Vì để thành công được, "nó" còn phải lao tâm khổ tứ nhiều lắm. Cũng từ đây bắt đầu hình thành một thế lực ma mãnh vô hình, nhưng không kém phần ác độc. Họ cho rằng, đối với nhà khoa học, chỉ cần "đánh" vào nhiệt huyết, "đánh" vào tế bào thần kinh, thì sự sáng tạo sẽ trở nên tê liệt. Còn thầy tôi thì vẫn vô tư, vẫn tưởng những khó khăn thường nhật liên tiếp vấp phải là do "sự cố khách quan", do hoàn cảnh của thời bao cấp... Mở màn là hàng loạt biện pháp để làm tan rã dần nhóm 6 kỹ sư nghiên cứu. Ngay sau lần khảo nghiệm máy đầu tiên (1983), người ta đã "đánh" vào dạ dày của họ. Từ chậm lương một tháng, chậm lương mấy tháng, rồi đến không phát lương, "ăn" vào tiền đề tài, mà tiền đề tài cũng có khi tới gần nửa năm mới được nhận. Vả lại, với số tiền còn lại còn phải đi công tác thì đói dài, làm sao mà nghiên cứu cho được ? Bấu víu vào nhà thầy Triệu mãi, mà nhà thầy Triệu cũng ráng hết sức rồi. Thế là từng người, từng người một phải lần lượt ra đi. Lực bất tòng tâm, thầy tôi đã không giữ nổi những cộng sự thân thiết của mình. Lúc ấy, ông vẫn đinh ninh rằng họ đã phải sống và làm việc trong điều kiện kham khổ quá, để thông cảm với sự chia tay... Thầy tôi đã không nghĩ rằng nhóm nghiên cứu của ông với một đội hình mạnh như vậy sẽ có thể làm nên nhiều chuyện. Nhưng "người ta" thì giật mình. Và tất yếu là mấy chú kỹ sư này phải đói, để cuối cùng cái gì phải đến đã đến, đó là sự tan rã. Công việc cấp bách và cũng là đòi hỏi bức xúc của sản xuất là từ nhừng mẫu máy đã khảo nghiệm thành công, phải nhanh chóng chế tạo ra các mẫu máy hoàn chỉnh. Lúc này (1985), vẫn còn hai kỹ sư giúp việc và một số sinh viên đang được ông hướng dẫn thực tập tốt nghiệp. Thầy đã cùng chúng tôi vừa lo chạy kinh phí, vừa lo mua vật tư (vật tư khi đó không sẵn như bây giờ) để những cỗ máy ra đời đúng như dự kiến. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là khi các cỗ máy DT-1 và DT-2,2 vừa hoàn tất, thì Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức triển lãm thành tựu khoa học-kỹ thuật trẻ toàn quốc tại Vân Hồ (Hà Nội). Anh em rất phấn khởi khi được Đoàn trường đăng ký cho hai cỗ máy này tham gia triển lãm. Tất cả đang náo nức chuẩn bị, thì có tin báo như một gáo nước lạnh dội xuống : "Ban Giám hiệu không đồng ý". Nhìn chúng tôi thất vọng ỉu xìu, ông bảo : "Các cậu cứ chuẩn bị". Mấy sinh viên trẻ tròn mắt, nhưng ông quả quyết : "Mình sẽ có cách". Vì là đề tài cấp Nhà nước nên cơ quan quản lý là Tổng cục Trang bị kỹ thuật, sau khi nghe thầy tôi trình bày, đã đồng ý cho máy tham gia triển lãm. Hôm sau, khi hai cỗ máy đã nằm yên trên ô-tô, xe chuẩn bị chuyển bánh, thì bà hiệu trưởng Trần Thị Nhị Hường đạp xe xuống. Mọi người nhìn nhau, ai cũng nghĩ chắc bà hiệu trưởng sẽ bắt dừng lại. Nhưng không, bà bảo : " Ông Triệu xem có cái gì để tham gia triển lãm không?". Tất cả đều ngạc nhiên. Thầy tôi chỉ hai cỗ máy trên ô- tô. Bà hiệu trưởng xua tay : "Không được, to quá không có chỗ để trưng bày". Thầy tôi nói: "Vậy thì không có máy nào nữa". Bà hiệu trưởng vặn lại : "Thế cái máy đẩy tay của ông đâu?". Chúng tôi không còn tin vào tai mình nữa. Nhưng thầy tôi vẫn ôn tồn: "Đó là cái máy thử nghiệm, là đồ giáo cụ trực quan cho sinh viên, chỉ tuốt được có một hàng lúa, không đúng với yêu cầu của triển lãm...". Bà hiệu trưởng im lặng giây lát, rồi nói : "Mang ra đây cho tôi xem nào". Mấy sinh viên vào kho, kẻ đẩy, người kéo thứ "đồ cổ" đó ra ngoài. Quả là nó quá xộc xệch vì đã lâu lắm không ai đụng đến. Nhưng bà hiệu trưởng vẫn không chịu, cứ nhất quyết bảo : "Phải chữa đi mà triển lãm". Thầy tôi vẫn kiên trì thuyết phục : "Đây là đồ thủ công, có chữa được cũng không ai mang đi triển lãm cái máy này". Bà hiệu trưởng vẫn nhắc lại, tuy giọng có vẻ nhỏ hơn : "Cứ chữa đi mà triển lãm". Đến đây, thầy tôi cũng hết chịu nổi, nhưng ông vẫn thản nhiên: "Có triển lãm thì mang hai cái máy to, không thì thôi". Bà hiệu trưởng không nói không rằng, đạp xe về. Mấy chú sinh viên không sao hiểu nổi, cứ tròn mắt đứng như trời trồng nhìn theo, cho đến khi bà khuất bóng. Thầy tôi mệt mỏi, ra hiệu cho các môn sinh lên ô tô, bảo lái xe chạy thẳng đến khu triển lãm, còn mình thì phóng xe máy sang sau. Đến nơi, ai cũng ngỡ ngàng khi thấy khu triển lãm quá rộng, để bốn cỗ máy cũng vẫn còn thoải mái. Vậy mà bà hiệu trưởng cứ bảo là không có chỗ ! Hai ngày sau, gặp thầy Triệu, bà hiệu trưởng gay gắt : "Tại sao ông mang hai máy lớn đi triển lãm lại không bảo mình?". Thầy tôi vừa cười, vừa trả lời : "Chị bảo có máy nào đi triển lãm không, tôi bảo có hai máy to, chị bảo đưa máy con đi, tôi bảo máy con không triển lãm được, có triển lãm thì mang hai máy to đi. Nhưng chị đã không ra lệnh là "không", cũng không ra lệnh là "được", tức là nhà trường cũng cần có máy đi triển lãm. Chị lo không có chỗ để, mà bên triển lãm người ta lo được chỗ để, thế là đúng ý chị rồi còn gì ?". Bà hiệu trưởng vẫn gay gắt bắt bẻ thế này thế nọ. Nhưng thầy Triệu vẫn ôn tồn: "Mà thôi, chị cũng đừng lo, không ảnh hưởng gì đến chị đâu, vì máy triển lãm theo đơn vị Tổng cục Trang bị kỹ thuật". - Sao ? Tại sao lại là Tổng cục Trang bị kỹ thuật ? Bà hiệu trưởng sửng sốt. - Vì lãnh đạo trường không cho đi triển lãm theo đơn vị trường, thì máy đi triển lãm theo đơn vị Tổng cục chứ sao. Nghe đến đây, không hiểu sao bà hiệu trưởng lại trầm ngâm một lúc, rồi hạ giọng : "Không được, máy phải đi theo đơn vị trường". Thầy tôi bảo: "Máy đã đi theo đơn vị Tổng cục thì không thể lại đi theo đơn vị trường được". Cứ như thế, hai bên giằng co mãi, không ai chịu ai. Cuối cùng, bà yêu cầu chủ nhiệm Khoa Cơ khí đưa vấn đề ra hội đồng khoa học của khoa, để đi đến quyết định nhà trường cấp tiếp giấy tờ tham gia triển lãm cho hai cỗ máy. Thế là, cùng một lúc Ban tổ chức triển lãm nhận được hai bộ hồ sơ của một "thành tựu sáng chế trẻ". Còn hai cỗ máy được đặt ở vị trí ngăn đôi giữa hai đơn vị, để quan khách hiểu thế nào cũng đúng cả. Thật là một "sự kiện" mà ai biết cũng phải ngán ngẩm lắc đầu ... Từ đây, vâng ! Lại "từ đây", không biết thầy Triệu của chúng tôi có nhận ra rằng những con đường phía trước với ai thì nhiều vinh hoa danh lợi, còn với thầy lại báo trước những ngoắt ngoéo tai ương ... Cuối năm 1985, kỹ sư cuối cùng trong nhóm nghiên cứu đã ra đi, đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của nhóm nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước này. Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước và Bộ Nông nghiệp giao, chỉ còn một mình thầy tôi lặn lội vào Nam ra Bắc. Đầu năm 1986, thầy tôi lại vào vùng đồng bằng sông Cửu Long để tiếp tục khảo nghiệm các mẫu máy thu hoạch mà ông tin sẽ rất hiệu quả với vùng đồng bằng bát ngát, phì nhiêu này. Cả ba mẫu máy DT-1; DT-2,2 và T-1 đều đã được khảo nghiệm ở Quảng Ngãi, Bình Định, TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh Nam bộ. Máy T-1 (tuốt lúa trên bông và tự chuyển lên thuyền) tỏ ra rất thích hợp với đồng bằng sông Cửu Long táy thu hoạch lúa mà thầy tôi đã nghiên cứu, chế tạo. Tháng 5-1987, tại Hội nghị nghiệm thu đề tài, với sự có mặt của những nhà khoa học có uy tín trong ngành cơ khí, Viện trưởng Viện Công cụ Cơ giới Nguyễn Điền đã khẳng định : "Đây là phương pháp mới để giải quyết cơ giới hoá khâu thu hoạch lúa, phù hợp với xu hướng nghiên cứu hiện nay của thế giới. Nhiều nước như Mỹ, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Nhật, Philippines ... đã và đang nghiên cứu từ hơn chục năm nay, nhưng gần đây Pháp mới thiết kế thành công mẫu máy đầu tiên và đưa vào sản xuất hàng loạt trong năm 1987. Mẫu máy của tác giả (PTS Triệu) đứng hàng đầu vì nguyên lý hợp lý hơn mẫu máy của Pháp và Liên Xô, có năng suất thu hoạch cao, rất đơn giản khi chế tạo và hao phí năng lượng thấp". Nhiều chuyên gia khác có mặt trong hội nghị cũng đánh giá tương tự. Thực tế, qua khảo nghiệm, các mẫu máy thu hoạch lúa của thầy tôi có mức hao phí năng lượng thấp hơn nhiều lần so với máy của nước ngoài. Cuối cùng, Hội nghị đã kết luận : " Nguyên lý thu hoạch lúa của tác giả rất sáng tạo, các mẫu máy thu hoạch theo nguyên lý này có triển vọng giải quyết vấn đề cơ giới hoá khâu thu hoạch lúa ở nước ta". Tháng 10-1987, thầy tôi đã được cấp Bằng Lao động sáng tạo và bản quyền tác giả. Trong lĩnh vực nghiên cứu hợp lý hoá hệ thống gặt đập liên hợp này, thầy tôi cũng từng được cấp bằng phát minh ở Liên Xô (cũ)... ". Trên đây là những sự kiện mà kỹ sư Nguyễn Văn Mạnh đã chứng kiến trong suốt những năm tháng thực tập tốt nghiệp, sống và làm việc với thầy. Có lần, anh tâm sự : "Tôi đã âm thầm ghi lại tất cả những gì xảy ra với thầy tôi, để suy ngẫm, để cố lý giải xem tại sao, vì sao mà một người tài hoa như thầy, nhân hậu như thầy, luôn làm tốt cho người khác, nghĩ tốt cho người khác, lại gặp phải nhiều ngang trái ? Và vì sao những phát kiến của thầy có lợi cho dân, cho nước là thế, lại bị xếp xó?". Rồi Mạnh tiếp tục kể lại quá trình PGS -PTS Đào Quang Triệu nghiên cứu thành công hệ thống sấy lúa liên hoàn từ 1987 đến 1989 tại đồng bằng sông Cửu Long, mà chúng tôi sẽ có dịp trở lại trong một phóng sự khác. Mấy hôm sau, tranh thủ thời gian còn ở Hà Nội, tôi tìm gặp Mạnh, nhưng anh đã về Hải Phòng thăm nhà. Tôi rất sốt ruột muốn biết những cỗ máy thu hoạch lúa ấy hiện ở đâu. Rất may là vừa ở nhà lên, Mạnh liền tìm đến tôi : "Thế nào, tìm hiểu thực tế và ngâm cứu tài liệu xong chưa, ông "quan" báo ? - Rồi -- tôi trả lời. - Sao, ông thấy sao? - Hay ! Này, thầy ông tuổi gì nhỉ ? - Sửu, thì sao ? -Tuổi trâu chuyên làm tốt cho người, còn mình chỉ ăn cỏ và những con đường phía sau lắm chông gai là phải. Tôi nói vậy, không ngờ Mạnh gạt phắt : "Khẳng định như thế là nhầm rồi, nhầm to rồi. Nếu như tôi chỉ ra được có người cầm tinh con trâu mà những con đường phía trước toàn hoa, thậm chí dẫm đạp lên cả hoa để làm tốt cho mình, thì ông bảo sao ?" - Đã dẫm đạp lên cả hoa để làm tốt cho mình thì tôi thua, chứ còn biết bảo gì nữa. Không ngờ chỉ mới đấu khẩu vui như thế mà anh chàng kỹ sư trẻ đã trầm ngâm tư lự. Tôi chuyển hướng câu chuyện : "Mình muốn biết những cỗ máy ấy hiện đang ở đâu?". Mạnh bảo : "Tất nhiên rồi, nhưng ông đã biết chuyện đi làm luận án tiến sỹ của thầy tôi chưa ?". Tôi bảo : "Chưa, kể đi". "Năm 1989, giữa lúc đề tài nghiên cứu hệ thống sấy lúa đang bước vào giai đoạn hoàn tất và việc triển khai ứng dụng các mẫu máy thu hoạch lúa đang được các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hưởng ứng mạnh, thì PTS Đào Quang Triệu có giấy báo đi làm luận án tiến sĩ. Thầy tôi trở về Hà Nội với ngón tay giữa chỉ còn hai đốt : trong một lần khảo nghiệm, ngón tay ấy đã bị chính cỗ máy của ông nghiền nát. Tai nạn xảy ra đúng vào lúc cô (vợ PTS Đào Quang Triệu) từ Hà Nội vào. Vợ chồng chưa kịp hỏi thăm nhau, thì ông phải vào bệnh viện. Là một kỹ sư nông nghiệp rất hiểu công việc của chồng, cô chính là điểm tựa tinh thần của ông trong những ngày tháng khó khăn nhất ... Điều rất lạ là thầy tôi làm nghiên cứu sinh bậc một ở Liên Xô (cũ), mà người ta lại xếp ông đi nghiên cứu sinh bậc hai ở Bungari. Thế là ông lại phải mất rất nhiều thời gian để làm thủ tục chuyển lại, đồng thời người ta lại yêu cầu ông trước khi đi phải nghiệm thu xong đề tài. Thầy tôi gấp rút chuẩn bị cho việc nghiệm thu. Nhưng chờ mãi, một tháng, hai tháng, ba tháng ... Và phải mười tháng sau, việc nghiệm thu mới được tiến hành. Đề tài được đánh giá xuất sắc, nhưng việc đi làm luận án tiến sĩ thì đã muộn mất rồi, cả việc triển khai ứng dụng để sản xuất hàng loạt các mẫu máy thu hoạch cũng "nguội" mất rồi. Nhưng thầy tôi không nản, ông vẫn vui vẻ và lại tiếp tục âm thầm lao vào công việc. Trước đòi hỏi rất bức xúc của sản xuất tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và để có điều kiện đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu, khi được Viện Công nghệ mời sang công tác, ông đã đồng ý. Nhưng những đồng nghiệp có "tấm lòng vàng" vẫn chưa chịu buông tha ông. Người trực tiếp, kẻ ném đá giấu tay, đã làm cho ông vừa không được chuyển sang Viện, vừa phải "ngồi chơi xơi nước", suốt 17 tháng trời bị cắt lương. Song, điều bất hạnh nhất đối với một nhà khoa học là bị "bứng" ra khỏi môi trường sáng tạo. Các báo lên tiếng bảo vệ ông. Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam yêu cầu phải trả lại việc làm cho ông. Khi đã biết làm sai phải sửa, người ta vẫn cố tình kéo dài sự sửa sai, có lẽ để cho nhiệt huyết sáng tạo trong ông chết hẳn. Và, quả có vậy, hơn 30 năm trên bục giảng, ông - người lái đò cần mẫn, nhân hậu, đã nhận được sự kính trọng, lòng biết ơn của bao thế hệ học trò qua sông. Giờ đã hai phần ba đời người, lại rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, phải "nhàn cư", nhìn lại những nẻo đường phía sau, thầy tôi mới thấy rùng mình. Thầy tôi buồn, rất buồn, suốt những tháng ngày đội đơn đi kêu các cửa, ông không hiểu tại sao và cũng không thể nào lý giải được mình đang đi đâu, làm gì thế này . Mọi phác thảo thiết kế, mọi giải pháp tối ưu cho một số mô hình kỹ thuật và ngay cả lời mời hợp tác nghiên cứu của một Viện lúa bên Pháp ... tất cả đều phải xếp lại. Thầy tôi trở nên trầm ngâm, hay suy ngẫm về chuyện đời, chuyện người. Và đến giờ, khi đã thấm cái "sự đời" rồi, thầy mới thuộc hai câu thơ "báo động" từ hơn mười năm trước của nhà thơ Nguyễn Duy : " Có những nụ hôn sắc hơn lá mía Hôn má bên này, tứa máu má bên kia". Tháng 9-1996, thầy tôi được gia đình một người bạn mời đi thăm Côn Sơn. Suốt dọc đường đến viếng người Anh hùng Dân tộc, thầy tôi cứ suy nghĩ mông lung. Thủa ấy, giữa sân rồng, sau tiếng phán truyền như sấm sét của kẻ ác, ba tộc nhà Ức Trai đã mắc hoạ. Một vị đại thần đã phải ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Trời không có mắt nên quan hành khiển bị oan". Thế đấy, sự đời ... chưa vào tới đền giải oan, mới đứng trước tượng Nguyễn Trãi, kính cẩn ngước lên Người mà thầy tôi đã nước mắt lưng tròng. Chao ôi, những giọt nước mắt hiếm hoi của một nhà khoa học đã ở tuổi 60. Có lẽ những giọt nước mắt nguyện cầu, chắt ra từ tấm lòng nhân hậu của thầy đã thấu đến cổ nhân, nên sau lần đến viếng Côn Sơn, ông trở nên vui vẻ hơn. Mấy tuần sau, thầy tôi nhận được điện thoại của PGS-PTS Lê Văn Lai, Chủ tịch Hiệp hội Cơ khí nông nghiệp Việt Nam:"Anh Triệu ơi, còn nhiệt tình không ? ". Thì ra, hơn mười năm qua, vấn đề cơ giới hoá khâu thu hoạch lúa vẫn rất bức xúc, hiện tại Chính phủ cũng rất quan tâm đến vấn đề quan trọng này. Tiếp đến, thầy lại nhận được lá thư từ Vientiane, kèm theo một cuốn băng video của một học trò cũ người Lào, PTS ngành cơ khí Viêng Thoong Chanlivong. Thư có đoạn : "Thầy cô kính nhớ, vừa rồi em có dịp tham quan Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) , ở đó em thấy người ta đang quan tâm đến máy thu hoạch lúa kiểu tuốt chải. Có một kỹ sư người Anh đang nghiên cứu để áp dụng ở châu Phi. Em có nói qua với IRRI về mẫu máy của thầy, nhưng rất tiếc em không có bản vẽ. Em phân tích cho họ nghe rằng máy của thầy có nhiều ưu điểm hơn hẳn. Vậy em đề nghị thầy nếu có thể, thầy nên có một bản giới thiệu cho họ. Nếu thầy có sự quan tâm thì cho em biết, vì từ 10 đến 20-11-1996 này, người của bộ môn cơ khí IRRI sẽ sang Lào làm việc với em". Còn cuốn băng video là toàn bộ hoạt động của máy thu hoạch lúa do IRRI chế tạo, mà tôi đã gửi cùng những tài liệu cho anh hôm trước. Thầy tôi đã suy nghĩ rất nhiều về lá thư của PTS Viêng Thoong, về máy thu hoạch của IRRI, về các sáng chế của người Anh, người Pháp, người Nga... Ông tiếc cho mẫu máy DT-1 của Việt Nam. Những cỗ máy ấy bây giờ ở đâu? Hay đã thành sắt vụn cả rồi? Vì có một lần, một số địa phương mà ông gửi mẫu máy để khảo nghiệm điện về hỏi, thầy tôi đã bức xúc bảo : "Các anh cứ bán hết cho đồng nát". Máy ơi ở đâu ? Hơn mười năm qua, cỗ máy DT-1 "mô đen đời 86" (1986) vẫn bị xếp xó ở đây, trong cái kho "tả pí lù" những thiết bị phế thải của Khoa Cơ khí Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Những sợi dây cua-roa đã mục dãn, còn các ổ bi thì hoen rỉ, cứng ngắc, phải lấy búa đập mãi mới ra. Nhìn cỗ máy thân tàn ma dại, bụi đóng hàng tấc, ai cũng phải xót xa, lắc đầu. Còn hai bệ máy thì tìm đỏ con mắt không ra. Hai thầy trò tôi phải lặn lội đến cả những bãi thu mua sắt vụn tìm cũng không thấy. Cuối cùng, phải bỏ tiền ra làm lại. Phải hơn mười ngày đánh vật với gỉ sét, chúng tôi mới khôi phục được "sự sống" cho DT-1. Còn bây giờ thì nó đây". Mạnh mở băng video, trên màn hình hiện lên cỗ máy tươm tất trong màu sơn mới đang thu hoạch lúa trên đồng. Tiếng động cơ nổ ròn rã trong tiếng reo vui mừng của đám sinh viên thực tập. Những hạt lúa óng vàng được máy tuốt trực tiếp trên bông, tự chảy vào bao đặt luôn trên máy. Kỹ sư Mạnh cho biết : "Máy có thể đạt vận tốc từ 3-6km/giờ, để đạt năng suất thu hoạch mỗi giờ 0,2-0,4ha, với độ sót và rơi vãi dưới mức cho phép. Đặc biệt là chi phí nhiên liệu thấp hơn so với máy có cùng công suất của nước ngoài...". Mạnh tắt màn hình, anh ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp : "Giữa tháng 11-1996, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát lại hai lần bài báo "Nhà khoa học trên đồng" đăng ở báo Đại Đoàn Kết, và sau đó thầy tôi được là khách mời ngày thứ bảy của Chương trình Thời sự và Âm nhạc. Ông đã tâm sự với bạn nghe đài về qúa trình nghiên cứu những mẫu máy thu hoạch và hệ thống sấy lúa liên hoàn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Phải chăng, những giọt nước mắt nguyện cầu bậc Thánh nhân, ở chùa Côn Sơn hôm nào của thầy tôi đã linh nghiệm? Có phải ông đã qua được cơn bĩ cực mà đến ngày thái lai ?". Tôi không trả lời Mạnh, mà từ trong sâu thẳm cứ thấy buồn man mác. Một nữ đồng nghiệp của tôi đã nhận được giải thưởng lớn báo chí toàn quốc, với bài báo ngắn gọn sắc sảo "Chất sám chảy về đâu?". Vâng ! Hơn mười năm qua, một phần không nhỏ chất sám - máu của Quốc gia đã chảy mà không trở về tim. Đau là thế. Nhưng sản phẩm của chất sám đã được khẳnh định rồi, đã được cấp bằng lao động sáng tạo rồi, trong khi thực tế sản xuất đang đòi hỏi cấp bách, với một chi phí quá thấp, so với hàng trăm ngàn USD cho một công trình nghiên cứu tương tự của nước ngoài. Nhất là sản phẩm đó, lại có thể giải phóng tới hơn một phần ba sức lao động nặng nhọc từ ngàn đời của người nông dân. Vậy mà để đến 10 năm bị xếp xó, thì quả là một tội ác. Thứ tội ác vô hình, không ai phải chịu trách nhiệm cả ? Nói về những đồng nghiệp "có tấm lòng vàng" trong ký ức của kỹ sư Mạnh, tôi đã đọc cho anh nghe một bài thơ vô đề, viết cách đây 10 năm : Suốt cuộc hành trình cuộc đời Ta có thể yêu mình, ghét mình Nhưng nếu có giây phút ta thấy sợ chính mình Thì hẳn là: Từ tâm hồn cỗi cằn hoang mạc Ta đã thổi vào đời ngọn gió tối đen Lụi tắt những ngọn đèn Giết chết cả mầm non của đất ... Đêm cuối thu Hà Nội, gió từ ngoại thành thổi về se lạnh. Đã hơn mười năm rồi, không biết đến bao giờ những cỗ máy thu hoạch lúa của PGS-PTS Đào Quang Triệu thiết kế, mới về được với nông dân ? Tôi chua chát nghĩ về một loài cỏ dại, với những bông hoa trái mùa xám ngắt, vẫn nở bám theo những nẻo đường phía sau, của "nhà khoa học trên đồng" tài hoa, đầy tâm huyết ấy. Khác với những hạt lép, gặp nước thì nổi, gặp gió thì bay, những hạt chắc thường bị chìm xuống đáy, hoặc lẫn vào cỏ rác. Đành là vậy, nhưng tôi cứ trằn trọc mãi, về cái nghịch lý ấy ở cõi Người. Hà Nội - Nha Trang 12-1996 NC (*) Trong tập truyện ký "Hoa cỏ dại" -- NXB Văn họa -2007
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 8:47:48 GMT 9
Mù u... ___________ Bùi Thụy Đào Nguyên Không biết những hàng cây mù u soi bóng bên dòng sông quê tôi có tự bao giờ, có lẽ từ thuở người xưa đi mở đất đã gieo trồng rồi cây bám đất sinh sôi. Ông nội tôi kể thời ông mới đến cù lao này, ngọn mù u đã cao xấp xỉ mái đình.Thân cây tròn thẳng, có thể cao trên chục mét; lá mọc đối, thon dài, phía gần cuống hơi thắt lại. Hằng năm cứ vào đầu tháng hai, lẫn trong vòm lá xanh rộng là những chùm hoa trắng tinh nở rộ. Hoa mù u lớn, thơm dịu và có nhiều cánh như hoa mai. Lúc ấy, lúa cũng vừa vàng đồng, thế là hương hoa, hương lúa cùng hòa quyện theo làn gío xuân lan toả khắp nơi nơi... Khoảng giữa tháng mười, quả mù u bắt đầu ửng chín. Quả căng tròn cỡ quả nhãn. Lúc này vỏ của chúng không xanh mà dần ngã sang màu vàng nhạt, và mỗi khi gió giật quả lặng lẽ xa cành ... Gặp những năm cơ khổ, ông nội tôi cùng những người dân trôi nổi, tìm nhặt qủa mù u đem về giã nhuyễn, xe tròn quanh cọng tre khô thắp sáng thay đèn. Lợi ích khác là gỗ mù u còn dùng để đóng ghe, làm cột nhà; chất dầu trong quả nếu nấu cô đặc lại sẽ là thứ dùng thay xà phòng hay làm thuốc trị ghẻ lở, thấp khớp ở những nơi xa thầy, xa chợ... Nghe ông kể vậy nhưng mãi về sau, khi lần đầu về thăm quê nội, tôi mới có dịp ngắm kĩ càng cây mù u và còn nhặt trái nhờ nội làm đèn. Đêm ấy bên ánh đuốc chập chờn, bốc khói cay xè...Tôi không hiểu ông bà và cha tôi nghĩ gì, nhớ gì hay là do chất cay nồng ấy mà khóe mắt ai nấy đều đọng lệ... Nhẩm tính mới đấy đã hơn hai mươi năm sống xa quê. Ngày cha tôi dìu dắt vợ con lên thành phố tìm việc, tôi hãy còn khóc nhè trên tay mẹ. Kỉ niệm tuổi thơ của tôi gắn chặt với phố phường. Lẫn trong những mơ ước, buồn vui là lắm thứ ồn ào, là mùi hôi hám của cống rãnh, rác rưởi...Hình ảnh nơi chôn nhau cắt rún có dòng nước mát lành, ruộng vườn xanh ngát với những con người thật thà, cần mẫn lắm lúc chỉ là nỗi nhớ mong lung ... Mấy hôm rày không hiểu sao chị tôi theo chồng chẳng được bao lâu, lại bế con rời bỏ chốn sang giàu ấy, trở về cùng buồn vui dưới mái gia đình . Những lúc vỗ về cho con ngủ, chị hát : " Con nước lên sông sâu à ơi... mù u chưa chín. Con nước lên sông sâu à ơi ...mù u đã rơi !..." mà tôi nghe ngỡ chừng như là tiếng thở than của một bước lỡ lầm ... Bùi Thụy Đào Nguyên.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 22, 2011 7:16:15 GMT 9
Ba cây hữu dụng cho mọi nhà Tiểu Đệ (*) Trước đây, tôi đã viết bài Các Nông Cụ Việt Nam Vang Bóng Một Thời, nay lại nhớ đến Ba cây hữu dụng cho mọi nhà. Đó là, Chuối, Dừa và Tre, xin trích dẫn như sau : 1.- Cây Chuối Cây Chuối, nếu chúng ta nhìn kỹ sẽ thấy hữu ích của nó nào là : Lá chuối dùng để gói bánh Tét...Bắp chuối xắt mỏng ngâm giấm dùng để trộn gỏi hoặc với gà xé phay... Chuối còn non chưa già gọi là Chuối Chát hay thân cây chuối còn non xắt mỏng làm rau ghém dùng để ăn với các loại mắm, thịt ba rọi luộc hay cá nướng rất hấp dẫn. Thời xa xưa (năm 1945), vì chiến tranh lương thực không đầy đủ nên phải dùng đến củ Chuối để ăn sanh tồn, bởi vì, củ Chuối có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt và giải độc. Hơn nữa, nhà nào có vườn Chuối sau hè, sau khi cắt lúa xong, thường lấy rơm chất nơi các cây Chuối một thời gian, thì chúng ta sẽ thấy nấm rơm mọc lên, bởi vì, cây Chuối nó có độ ẩm và giữ nước mưa, làm cho men của rơm sanh ra nấm rơm. Đó là, phương pháp làm nấm rơm đơn giản thời xưa, không dùng hóa chất làm độc hại như ngày nay. Khi buồng Chuối già thấy có vài trái chín cây, người ta đốn buồng Chuối xuống để có thể nấu ăn ngay hoăc đem giú cho nó chín còn cây Chuối cũng chặt luôn, thân cây chuối này dùng dao yếm để xắt chuối cho Heo ăn. Viết đến đây, tôi lại nhớ : Mẹ già như chuối chín cây, Gió đưa trái rụng con rày mồ côi. (Quả đúng vậy, bởi vì khi Mẹ già có khác gì <Chuối chín cây>, khi bị một ngọn gió Mẹ sẽ bị đau bịnh rồi chết, hơn nữa nếu nhà nào có trồng chuối nhiều, sẽ thấy buồng chuối chín cây, vì không đốn kịp, mỗi khi có ngọn gió, các trái chuối lần lượt rơi rớt, có khác gì thân Mẹ già bị ngọn gió độc vậy. Đây là, hai câu tục-ngữ rất xác-thực trong dân gian VN, đã tài tình ví tuổi già yếu đuối của Mẹ không khác Chuối chín cây). Khi Chuối chưa chín hằn, còn ươm ướp thường làm các món Chuối như : Xào dừa, hầm dừa hoặc nướng ăn tuyệt vời. Khi Chuối đã chín, thông thường dùng làm món tráng miệng, gồm có các loại Chuối như : Chuối Cao, Chuối Già. Khi nhắc đến Chuối Già, thì chỉ thường thấy bày bán ở Pháp haycác nước Âu Tây mà thôi. Nếu chúng ta chịu khó tìm kiếm ở Việt Nam, không những thấy loại Chuối Già có nhiều loại như : Già Hương, Già Cui, Già Lùn...Ngoài ra, còn có các loại Chuối khác : Cao, Cơm, Hột, Sáp, Xiêm, Xứ... ở Việt Nam bày bán khắp nơi rất nhiều. Chuối già Chuối cao Chuối nướng Riêng Chuối Xiêm thường dùng nhưn bánh Tét hoặc các món ăn khác rất ngon. Ngày nay khoa học đã tìm thấy Chuối có tên khoa học Musa Paradisiaca L. thuộc họ chuối Musacae và theo Đông Y, Chuối có vị ngọt, tính bình, nhuận phế, chỉ khát, lợi tính tràng vị. Do vậy, không những dùng làm món tráng miệng, mà còn trợ giúp cho bộ tiêu hóa, nhuận trường và các bịnh khác cho nhân loại nữa. Ngoài ra, người ta cho rằng, nếu chúng ta dùng Chuối chín rục thâm kim, tức làm cho vỏ chuối có đốm đen có tác dụng tăng cường tính chất của các tế bào máu trắng lên gấp 7 hay 8 lần so với vỏ chuối còn xanh. Vì thế, có người cho rằng mỗi ngày một trái chuối....khỏi cần gặp bác sĩ? Hơn nữa, nếu chúng ta dùng Chuối chín rục thâm kim để gây giấm ăn rất tốt, không dùng hóa chất làm độc hại như ngày nay. Ngoài ra, còn trị các bịnh thông thường như : 1 - Muỗi cắn : Khi muỗi cắn, chúng ta hãy thử chà nhẹ phần trong của vỏ chuối vào chỗ muỗi cắn, sẽ thấy da bớt sưng và bớt ngứa. 2 - Mụn cóc ùng phần trong của vỏ chuối đắp lên chỗ mụn cóc, rồi băng keo dán lại, sau một thời gian mụn cóc sẽ mất! 2.- Cây Dừa Sau cây Chuối là cây hữu dụng từ lá, rồi trái cho dến củ, nay xin bàn dến cây Dừa,chúng ta thấy 2 loại Dừa là : Dừa sống trên đất như Dừa : Xiêm, Lửa, Lùn và Dừa sống dưới nước thường gọi Dừa Nước nó cũng hữu dụng không kém. Nhân đây, xin trích dẫn Sinh Hoạt Đời Sống Việt Nam trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH của Nguyễn Phú Thứ từ trang 567 đến trrang 599) dưới đây :Ở Việt Nam, có rừng Dừa tại Bến Tre, vì nơi đây, du khách đi đâu cũng thấy Dừa hàng hàng lớp lớp, không những Dừa ở trên đất liền, mà còn thấy hàng Dừa ở dưới nước, bên lề đường. Cây lá Dừa Nước Đó là, loại Dừa Nước, nó cũng có nhiểu trái rất công dụng, cơm và nước dùng để ăn uống rất ngon... Ngoài ra, còn có lá Dừa nước, trước kia dùng nó làm vách hay lợp nhà để che nắng che mưa. Thốt Lốt : (khi nói đến trái Dừa Nước, phải nhớ đến trái Thốt Lốt), bởi vì, nước chúng nó có vị ngọt thơm đặc biệt giống nhau, cho nên du khách khi đến Núi Sam (Châu Đốc) hoặc biên giới Miên Việt, së thấy trồng những cây Thốt Lốt và nơi đây còn được ăn trái và đường Thốt Lốt được bày bán. Trái cây Thốt Lốt (Le fruit de palmier) khi bổ ra, thấy có 3 hoặc 4 múi, màu trắng, nạo bỏ vào ly cùng với nước Thốt Lốt, ăn rất thơm ngon hơn Dừa tươi. Ngày nay, người ta đã lấy nước trái Thốt Lốt pha thêm si-rô để vô hộp xuất khẩu (Fruit de palmier au sirop). Còn đường táng Thốt Lốt, làm bằng nước Thốt Lốt có hình bầu dục, bề dài khoảng 3 hay 4cm và bề dày khoảng 2cm, loại đường này ăn có vị ngọt thanh tao, thường dùng để nấu chè hay ăn dưa gang rất ngon tuyệt. (Phương pháp lấy nước Thốt Lốt để làm đường, không phải lấy từ trong trái, mà lấy từ hoa cây cái của Thốt Lốt, vì nó có khoảng trên 30 hoa mỗi cây, có chiều dài tử 5 dến 6cm. Khi hoa trổ bông, người ta thường dùng Óng tre đã được xông khói và lau chùi cho sạch để hứng nước hoa, sau khi cắt một đoạn đầu vòi hoa, từ đó nước từ vòi đó sẽ chảy từng giọt, mỗi ngày hứng được khoảng 1 lít nước, tùy theo vòi hoa lớn nhỏ). Ngoài ra, khi nhắc đến cây Thốt Lốt, phải nhắc đến < Cành lá cây Thốt Lốt >, bởi vì, nó cùng loại với cây Palmier (Le palmier = cây kè, cây Thốt Lốt), rất được trân quý, cho nên Chánh Phủ Pháp làm biểu tượng làm cành Vinh Quang và Chiến Thắng, vì thế chúng ta mới thấy có Palme Académique (Giáo Dục Huy Chương hay Hàn Lâm Huy Chương), để Chánh Phủ thường trao tặng, cho nên mới có huy chương Đệ Ngũ Đẳng Hàn Lâm tức Chevalier dans l'Odre des Palmes Académiques người có công trạng trong ngành Văn Hóa, Nghệ Thuật và Giáo Dục của nước Pháp, cho nên vào tháng 5 hằng năm tại thành phố Cannesở miền Nam nước Pháp, thường tổ chức Đại Hội festival à Cannes dành cho những tài tử đóng phim quốc tế cũng thấy cành cây Palmier xuất hiện một cách trang trọng. Trở lại, cây Dừa, chúng ta thấy có nhửng công dụng hữu ích như sau : cây Dừa không gây giống để trồng bằng hột hay chiết cành như các loại cây khác, mà bằng trái dừa khô, khi trái dừa khô,để lâu ngày sẽ có mọng dừa (mọng dừa còn nhỏ ăn được), rồi từ đó mọc ra thành cây dừa Con. Trái dừa tươi để uống nước giải khát, trái dừa khô thường nạo lấy nước cốt dừa để làm bánh hay nấu ăn hoặc thắng dầu... Riẽng trái dừa khô có công dụng làm giỏ bình tích hay gáo dừa.... Lá dừa khi còn non dùng gói bánh, cho nên có tên bánh lá dừa, còn thân cây dừa ngày xưa làm cột nhà hoặc khắc trạm những đôi liễn để thờ nhà xưa. Gáo dừa Cây dừa con Trái dừa tươi Liễn làm bằng cây Dừa 3.- Cây Tre TRE : Việt Nam có nhiều loại như : Tre Mạnh Tông, Tre Gai... thân Tre cao lớn thường để làm nhà hoặc đan những dụng cụ để xài như : Thúng, đăng, đó, giỏ, cần xé, nơm, nia, sàng, sề, rổ, lờ... cho nên trong dân gian thường thấy như : Tre già dùng để làm nan, Lớn đan đăng đó, nhỏ đan thúng sàng, Gốc thì tạo dựng cái nhà, Ngọn ngành thì để làm giàn trầu leo, Hết thân rồi đến mụt măng, cho ta khẩu vị làm tăng bội phần... Mụt măng tre Ngoài cây Tre, còn có cây Lồ ồ (nó có thân nhỏ hơn Tre và có lóng dài) và cây Trúc... có công dụng mỗi loại khác nhau. Nhưng, ở Pháp không tìm ra tên đặc biệt từng loại Tre, Lồ ồ và Trúc, mà chỉ gọi tên chung là : Le bambourồi giải thích thêm ... Trường hợp này, giống như các cái đã nói ở trên như : Thúng, đăng, đó, giỏ, cần xé, nơm, nia, sề, rổ, lờ... cũng không có từ ngữ nào chánh xác của Pháp Ngữ nên sự chuyển dịch từ Việt Ngữ sang không thể đúng nghĩa của nó hết được. Bởi vì, ở Pháp không có sữ dụng các vật dụng này và chỉ có các tử ngữ để dùng chung chung mà thôi, đó là : La corbeille và Le panier, cho nên quý độc giả đã thấy các cái : Bung, đục, Giỏ, Rộng để đựng cá chỉ chuyển dịch sang Pháp Ngữ là La corbeille. Còn các cái : Thúng, Rổ, Cần Xé, Sề, Nia... chuyển dịch sang Pháp Ngữ là Le panier rồi giải thích thêm, ví như : - Cái Cần Xé = Le panier grand à anses - Cái Thúng = Le panier en bambou tressé - Cái Rổ / Sề = Le panier à claire-voie - Cái Nia = Le panier plat... Hoặc cái : Lờ, Đụt, Đó, Đăng... chuyển dịch sang Pháp Ngữ là La nasse, Le verveux rồi giải thích thêm. Cũng như cái Đăng = Le gord hoặc Le duit ou duis (xin trích trong quyển Pháp Việt Tân Tự Điển của Thanh Nghị và xem lại các hình ảnh trong bài Các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời cùng tác giả Tiểu Đệ vừa qua). Từ đó, những Pháp Ngữ nghèo nàn như : La corbeille, Le panier, La nasse và Le verveux khi chuyển sang Anh Ngữ The basket, The lobster pot... thì càng không đúng nghĩa các cái vật dụng của Việt Nam. Khi nói đến Pháp Ngữ nghèo nàn, tôi lại nhớ ở Việt Nam có rất nhiều từ ngữ lúa gạo ví như : gạo lức, gạo trắng, gạo dài, gạo tròn, gạo tấm, cơm, lúa... nhưng khi chuyển dịch sang Pháp Ngữ thì chỉ dùng chữ Riz rồi giải thích thêm. Tiểu Đệ Kỷ niệm mùa Vu Lan Báo Hiếu -------------------------------------------------------------------------------- (*) Nguyễn Phú-Thứ (Tiểu Đệ) Professeur & Écrivain Chevalier dans l’Ordre des Arts et des Lettres (2010) Chevalier dans l’Ordre de la Légion d’Honneur (2007) Chevalier dans l’Ordre des Palmes Académiques (2003) Membre de la Société d’Entraide des Membres de la Légion d’Honneur et de l’Association des Membres de l’Ordre des Palmes Académiques & de l’Ordre des Arts et des Lettres Il a signé 20 ouvrages et de six livres déjà dans cadre de la francophonie. Monsieur NGUYEN-PHU-THU est né le 1er avril 1945 à Phong Dinh (Vietnam). Il est diplômé de l’Ecole Normale Supérieure de Sàïgon (sud Vietnam) en 1968 et licencié en Droit Economique (Saïgon 1969). Il a été successivement Professeur de Mathématiques et Censeur au Lycée TU BI An Giang et Professeur de Mathématiques (2ème degré) au Lycée NGUYEN TRUNG TRUC Rach Gia ( Kien Giang) de 1968 à 1977.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:01:34 GMT 9
Cây lúaVietsciences- Hồ Đắc Duy Cây lúa Việt Nam xưa Phần I LIÊN QUAN ĐẾN CÂY LÚA TRONG THƯ TỊCH CŨ Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia. Xã Tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau: Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia. Lúc tôi còn bé, mỗi khi ăn cơm xong thấy trong bát còn sót lại mấy hột cơm, mẹ tôi thường nói với anh em chúng tôi: “Hột gạo là hột ngọc trời cho, các con phải ăn cho hết không để chừa lại”. Người Việt rất coi quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 131 có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2879 năm trước công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa… Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh Chưng Bánh Dầy thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau. Năm 111 trước Công Nguyên nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hãm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…” Các vua chúa nước ta thường hàng năm có làm lễ Tịch Điền, đó là môt lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc. Lễ Tịch Điền thường được tổ chức vào mùa xuân. Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng tịch điền gồm có các chương: Điển lệ cày ruộng tịch điền, công việc cày ruộng tịch điền, lời chúc cho lúa tốt… Nghi thức lễ Tịch Điền được ghi lại dưới thời nhà Nguyễn như sau: “Giao cho bộ Lễ phụ trách. Ruộng Tịch điền gồm 12 mẫu nằm ở trong Kinh thành, phía bắc Ngự Hà. Ở đây có đàn Thần Nông, có đài quan canh để nhà vua ngự xem cày, có hệ thống nhà làm việc, nhà kho”. Trước lễ Tịch điền, quan Phủ doãn Thừa Thiên chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ cày, bừa, thóc giống và lễ vật. Trước đó vài ngày, các quan mời vua ra tập cày trước. Sáng sớm ngày hành lễ, đám rước vua đi hành lễ đầy đủ nghi thức của hoàng đế xuất cung. Phường bát âm luôn cử khúc nghinh xuân, tiếp giá. Mở đầu lễ Tịch điền là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Tiếp theo là nghi thức tiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục thay áo, đội khăn rồi ra ruộng cày. Vua cày xong ba luống thì trao cày cho quan Phủ doãn và quan Thượng thư bộ Hộ. Sau đó, nhà vua ngự đến đài quan canh chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp. Các hoàng thân, hoàng tử cày 10 luống, quan văn võ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần còn lại dành cho các chức sắc, bô lão sở tại. Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan. Mùa lúa chín, quan Phủ doãn Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng với một quan thuộc Bộ Hộ. Lúa gặt về được lựa giống để gieo vào lễ Tịch điền mùa sau. Số còn lại được xử dụng cho tế lễ trong Đại Nội, tế giao, tế thần linh và lăng miếu. Ý nghĩa của lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài “Thường Mậu quan canh”, nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng: Chót vót lầu cao giữa khoảng không Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy Năm tháng thương người trọng việc nông. Trong lời chúc cho cây lúa tốt có đoạn : Làm lễ xong, đi đến bên thửa ruộng lớn Dây thừng đỏ, bánh xe sơn màu xanh, và cày, và đồ mặc, và dây cương ngựa Cầm cái roi ở tay đem giơ lên Người coi việc làm ruộng bưng thúng vàng đựng thóc đồng thóc lục… (Lúa đồng (lúa Minh Xuân, lúa thơm, lúa sản (gạo De An Cựu) lúa móng chim… ) cấy trước mà chín sau (Lúa lục cấy sau mà chín trước, loại lúa giống 60 ngày như: loai lúa Tẻ chín sớm, lúa Tiên ở tình Thái Bình, lúa của Chiêm Thành..loại lúa 80, 90 hoặc 100 ngày như lúa Mạn, lúa Chiêm, lúa hẻo trắng, lúa lăng…) Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 224: Mùa xuân năm Đinh Hợi (987), vua Lê Đại Hành lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở núi Đọi hay còn gọi là Đội Sơn ở huyện Duy Tiên (Nam Hà), được một hũ nhỏ vàng nhỏ. Năm sau cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc nên vua đặt là ruộng Kim Ngân. Sách Việt sử lược cũng có chép sự kiện này. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Trang 255 có ghi: mùa Hạ tháng Tư ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thân (1032), vua cày tịch điền ở Tín Hương - Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng Vua một cây lúa Chiêm có 9 bông thóc, Vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Trang 259 ghi như sau: "Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), Vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: - Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông, nên thay! Vua Minh Mạng ra chiếu dụ: ... Từ khi Trẫm lên ngôi, luôn luôn nghĩ đến an dân, nên quan tâm đến việc chính này (Cày ruộng tịch điền"... Vua định ngày lễ Tịch điền tháng 2... và phải xây tại ruộng Tịch điền các dinh thự là Quan Canh (nhìn cày), Cụ phục (mặc áo), đàn Tiên Nông, kho lúa dự trữ để cúng thờ (thần Thương)... Giống lúa cấy trên ruộng tịch điền được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc. Lễ cày tịch điền chấm dứt dưới thời vua Khải Định. Xem thêm : www.hanam.gov.vn/index.asp?newsID=1595&language=tiengviet Hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ 5 toàn cầu về sản xuất gạo, cũng là một trong ba nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đến năm 2008, Việt Nam lại đạt sản lượng lúa kỷ lục: vượt 38 triệu tấn, tăng khoảng 2,6 triệu tấn so với năm 2007, và tiếp tục đứng thứ 2 trong thị trường xuất khẩu gạo. Vụ đông xuân 2009 này vừa thu hoạch ở ĐBSCL lại đạt sản lượng cao hơn vụ đông xuân trước, đạt gần tới mốc 10 triệu tấn thóc, mặc dầu diện tích sản xuất có ít hơn, và khoảng 1,5 triệu ha ( khoahoc.net/baivo/nguyenvanluat/230409-cayluavietnam.htm ) Hiện nay lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của nhân loại, cùng với bắp, lúa mì, sắn và khoai tây. Theo sách Chu Lễ, nó đứng đầu trong cửu cốc là 9 thứ hột để ăn được gồm: 1/ Tắc: thứ lúa cao, cây dài đến hơn một trượng, là giống lúa chín sớm nhất 2/ Thuật: một thứ lúa nếp nhiều nhựa 3/ Thử: một loại nếp 4/ Đạo lúa dé: một thứ lúa ưa ruộng có nước, mỗi năm chín 2 mùa 5/ Ma là mè, có 2 loại trắng và đen 6/ Đại đậu: một thứ đậu hột to 7/ Tiểu đậu 8/ Đại mạch: một loại lúa mì, hột có lông dài 9/ Tiểu mạch Trong sách của Lê Danh Phương (1726-1784), nó là một trong 5 hột Ngũ Cốc (Ma, thủ, tắc, mạch, đậu); cũng là 1 trong 3 hột (Tam cốc) trong sách Vật lý luận của Dương Tuyền đời Tấn gồm: Lương, Đạo, Thúc Lương là tên chung của Tắc và Đạo. Thúc là đậu. 3 loại cốc (hột) này mỗi thứ có 20 giống. Rau, trái cây có 40 giống. 3 loại cốc + chung với rau trái gọi là Bách Cốc (không nên nhầm với 100 giống lúa). Trong sách của Lê Danh Phương trích dẫn các sách như Tề dân yếu thuật, Bản thảo của Lý thời Trân, Uyên giám loại hàm, Thông giám của Tư Mã Quang… nói lên nhiều chi tiết về việc cày cấy, gieo trồng, tưới tiêu, luân canh, thời vụ, đồng thời ông mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa khác nhau kể cả việc so sánh giống lúa ở nước ta và vài vùng ở Trung quốc như Dương Châu, Kinh Châu, Sơn Đông, Giang Biểu… PHẦN II CÁC GIỐNG LÚA VIỆT NAM XƯA Trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An năm 1555 phần nói về Sản vật và Phong tục, ông đã cho những nhận xét về nghề nông, cây lúa, giống lúa và thổ nhưỡng của 2 châu Ô Lý (vùng đất từ Quảng Bình đến một phần tỉnh Quảng Nam) như sau: Huyện Đan Điền liền với phương Nam, cương giới bên ngoài châu Ô. Dân lấy thóc làm giàu, nhà nông dùng trâu đạp lúa, gắng sức nghề nông có dân Triệu Đông, Hoằng Phước, thóc Đơn Quế chất đống như gò… Giống là một trong 4 yếu tố chính quyết định thành bại của việc canh tác trong ca dao đã có câu truyền tụng kinh nghiệm “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Các giống lúa của Việt Nam thời xưa được mô tả khá chi tiết trong các sách mà Đại Nam Nhất Thống Chí đã trích dẫn trong phần thổ sản như: Lễ Ký Nguyệt Lệnh, Loại Dịch Bộ của Diêu Bồi Khiêm, Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, Loại Ngữ của Lê Danh Phương, Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An Phong Thổ Ký của Bùi Dương Lịch…Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ. Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn từ 2 tác phẩm: Một nghiên cứu có tính cách cá nhân là của ông Lê Danh Phương, hai là của tập thể: Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Lê Danh Phương tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh 1726 tại Thái Bình, cha là Lê Phú Thứ đậu tiến sĩ năm 1724 làm quan tới chức Hình bộ thượng thư. Lê Danh Phương đậu Giải Nguyên năm 18 tuổi, Bảng Nhãn năm 1752, ông được sung vào đoàn sứ bộ Việt Nam qua Trung Quốc yết kiến vua nhà Thanh năm 1761. Ông được xem như một thần đồng và là một nhà bác học nổi tiếng Việt Nam, chức vụ cuối cùng là thượng thư bộ Công. Ông chết năm 1784 lúc 58 tuổi, để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong lời tựa của sách Loại Ngữ, ông đã nói lên kinh nghiệm khi sọan quyển sách này, một tác phẩm gồm có 9 quyển bao gồm Lý khí, hình tượng, Khu vũ, Điển vựng, Văn nghệ… Phẩm vật. Cuốn sách mà chúng tôi xin trích dẫn nói về cây lúa Việt Nam xưa nằm trong quyển Phẩm vật. Bộ Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn gồm có 4 tập. Các giống lúa Việt Nam được các sử thần ghi chép trong tập 1, quyển 1, phần Phủ Thừa Thiên đoạn “Loại Cốc”. Lê Danh Phương sau khi bàn luận đã dẫn chứng trong các cổ thư của Trung Quốc nói đến Hoàng Đế là người đầu tiên dạy cho dân biết hấp gạo làm cơm, nấu gạo làm cháo. Sách Cổ Kim Chú năm 123 đời vua Hán An Đế có nhận xét rằng: “Lúa tốt mọc ở Cửu chân (Thanh hóa), 150 gốc mà được 768 bông. Ông còn lưu ý khí hậu vùng miền Nam: “Nửa năm có mưa, nửa năm không mưa, từ tháng 4 đến tháng 9 mỗi ngày sau 12 giờ trưa thì trời đổ mưa, từ tháng 10 đến tháng 3 một giọt mưa cũng không có”. Lê Danh Phương cho biết lúa đạo hay đồ là tên thông dụng của lúa canh lúa nọa. Lúa canh là thứ gạo người ta thường ăn. Lúa nọa là nếp. Ruộng nước ta thì có 2 thứ: Ruộng mùa thu gọi là ruộng mùa, ruộng mùa hạ gọi là ruộng Chiêm (hạ điền). Thóc có 2 thứ: Lúa canh là lúa tẻ, lúa nọa là nếp. Ta thường nói nôm na có Tẻ có Nếp Lúa Canh thích hợp với ruộng Chiêm có 8 loại như : Lúa Sài Đường: cây mềm yếu, hột lúa màu đỏ thân dài, hai đầu nhọn, vỏ dày, hột gạo màu trắng, chín sớm, nấu cơm dẻo. Lúa Bồ Lộ: Cây lúa cứng mọc thẳng, hột lúa màu trắng, thân nhỏ tròn, vỏ mỏng, hột gạo có 2 màu đỏ trắng, chín không sớm mà cũng chẳng muộn, cơm cứng. Lúa Thạch rất dễ sống, trồng nơi nào cũng được, cây cao thẳng bông chia ra mấy gié, chín muộn, hột gạo trắng, rất nhiều nhựa, mềm dẻo, giã và xay bột được. 5 giống lúa Chiêm: Chiêm Di, Dự cơm mềm dẻo Loại Chiêm Hoàng cơm cứng, Chiêm Bảo cấy ở ruộng thấp nhiều nước, Chiêm Hâm… Lúa Canh thích hợp với ruộng mùa gồm có 23 giống như: Lúa Bát Xuân, lúa Thông gồm có: lúa Ô Canh và Sùng Canh, gạo có 2 loại màu trắng và tím. Lúa Bảo Thế, Từ Bồn, Bát Ải, Bát Lại, Bát Sinh, Bát Tu, Lúa tẻ chín sớm, cây và gạo đều có mùi thơm, lúa Hiên, lúa tam nguyệt ở Nghệ An. Lúa Điền kê (lúa Ếch) trồng vụ chiêm, vụ mùa đều đươc, trồng tháng 4 gặt tháng 7, hột lúa dài, hột gạo trắng, nhỏ… có mùi thơm, vị hậu. Lúa Mộ trồng vùng đất núi như Thái Nguyên, canh tác bằng cách phá rừng, đốt cây lấy tro bón ruộng… trồng tháng 2, gặt tháng 6… Ông còn ghi chép cẩn thận chi tiết các giống lúa Chiêm Thành, cũng như các giống lúa lai tạo của Chiêm Thành và nước ta. Năm 998-1022, nhà Tống sai sứ sang nước Chiêm Thành lấy 3 vạn hộc lúa phân ra cấp cho các nơi nên mới có giống lúa Cái Hạ Bạch, lúa này sinh ra 4 loại gọi chung là Lúa Tiên, đặc điểm của loại lúa này là chín sớm. Về thời gian gieo gặt, ông đã thống kê được một số chi tiết rất đáng quí của các cây lúa Việt Nam xưa mà bất cứ nhà khoa học nào nhất là các nhà nông nghiệp cũng phải giật mình. Lúa Thiền Minh chỉ có 63 ngày là có thể thu hoạch; lúa Tiễn Tử loại hột nhỏ chỉ trồng 60 ngày, có loại chín trễ 80 đến 100 ngày, phần lớn là giống của nước Chiêm Thành. Ở Thái bình có giống lúa Tiên chỉ trồng trong 60 ngày gọi là Lúa Đà Lê Kiếm, lúa Xích Hồng tiên, Bát Nguyệt Tiên đều là các giống ngắn ngày, Lúa Tuyết Lý Đống, lúa Lăng (Quảng Trị) cũng là lúa 60 ngày. Lúa Tái thục là giống lúa ngọn đã gặt rồi mà gốc vẫn lên cây kết hột một lần nữa (lúa tái liêu - gọi là lúa gặt 2 lần). Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi một loại giống lúa cực ngắn ngày, đó là Lúa Câu ở vùng Thừa Thiên – Huế mà Lê Quí Đôn cũng không biết tới. Thời gian gieo gặt chỉ có 40 ngày. Đặc điểm của các giống lúa ngon, quí, chất lượng tuyệt hảo gọi là lúa Cống dùng để tiến vua có 3 loại chính: lúa De An Cựu hay còn gọi là lúa hương, lúa Minh Xuân và lúa móng chim (Vĩnh Long). Biểu tượng cho cây lúa Việt Nam là cây lúa tẻ (lúa Canh) được vua Minh Mang cho khắc hình tượng vào Cao Đỉnh, trên quốc huy cây lúa là một yếu tố chính nhưng không rõ giống lúa nào. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_huy_Vi%E1%BB%87t_Nam) LÚA CÂU, MỘT GIỐNG LÚA KỲ DIỆU TRONG SÁCH CỔ VIỆT NAM Gần cuối năm 2009 sẽ có một festival Lúa Gạo Việt Nam được tổ chức từ ngày 26 đến 30 tháng 11 tại thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang. Mục đích của festival là xây dựng thương hiệu Lúa Gạo Việt Nam và tôn vinh nền văn minh lúa nước. Nhân dịp này chúng tôi muốn nói đến một giống lúa đặc biệt có ở vùng Thừa Thiên Huế. Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, quyển 2 phần Phủ Thừa Thiên trong đoạn viết về Thổ Sản-Loại Cốc có đề cập đến một giống lúa, nó có tên gọi là lúa Câu, một giống lúa mà thời gian từ khi gieo cấy đến khi gặt hái là cực kỳ ngắn chỉ trong 40 ngày. Chúng tôi tra cứu trong các tài liệu của Viện nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI) có trụ sở đặt ờ Phi Luật Tân từ năm 1960. Các tài liệu mà họ phát trên internet có một thông báo cho biết: Tại Ấn Độ có loại lúa OMCS1 (CR 666-36-9) có thời gian sinh trưởng từ 60-66 ngày và tại VN, Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Đồng Bằng Sông Cửu Long có giới thiệu một giống lúa OMCS6 có thời gian sinh trưởng từ 65-75 ngày. Đó là giống lúa ngắn ngày nhất trên thế giới mà chúng tôi tìm thấy được. Giống Nguồn gốc Thời gian sinh trưởng (ngày) OMCS 7 Vietnam 75-80 OMCS 6 Vietnam 65-70 OMCS 5 CR 666-78 (Ấn Độ) 62-74 OMCS 2 CR 666-36-4(Ấn Độ) 62-68 OMCS 4 CR 666-77 (Ấn Độ) 65-71 OMCS 1 CR 666-36-9 (Ấn Độ) 60-66 OMCS 3 CR 666-63 (Ấn Độ) 65-70 Các giống lúa ngắn ngày và các vụ lúa ngắn ngày sẽ trở thành mục tiêu của ngành nông nghiệp phát triển của nước ta. Để bền vững và ổn định thì những nhà hoạch định chính sách nông nghiệp cần có kế hoạch lâu dài song song với nhập khẩu lúa giống của Trung Quốc hay các nước khác cho đến khi chúng ta có thể tự túc được. Cần nghiên cứu các giống lúa ngắn ngày, lai tạo với các giống lúa cao sản mới có nhiều ưu điểm: ngon thơm hợp khẩu vị của nhiều loại sắc dân bởi tính chất dẻo, xốp, nở cơm hay không, tính khó lên men thiu thối của cơm, cháo hay bột, cơm để lâu vẫn mềm, tính kháng sâu rầy cao, chịu hạn hán, dễ trồng, năng suất cao… để làm thóc giống cho nông dân sản xuất, Cần phải thiết kế một chương trình các vụ lúa ngắn ngày trong năm cho từng vùng thổ nhưỡng, địa dư ở miền Bắc (Tây Bắc, Trung Du, Đông Bắc) miền Trung, miền Nam và vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long). Lúa ngắn ngày và các vụ lúa ngắn ngày đặc biệt là các giống lúa có thời gian sinh trưởng chỉ hơn một đến hai tháng có lợi điểm là tránh được ảnh hưởng các điều kiện bất lợi của thiên nhiên, môi trường như thời tiết, các mùa, giao mùa… như ngập lụt, hạn hán, ngập mặn, rét đậm, nắng nóng, kiệt nước, khô cằn, trũng, ngập nước, đầm lầy… Các vụ lúa ngắn ngày, đặc biệt là các vụ cực ngắn ngày dưới 2 tháng sẽ có ý nghĩa chiến lược khi gieo trồng vì nông dân sẽ lựa chọn được thời điểm gieo cấy ít bị đe dọa bởi các điều kiện của thiên nhiên như nắng, gió, sương, mưa rào, bão, lũ, triều cường… Trong sách Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn cho biết lúa đạo hay đồ là tên thông dụng của lúa canh lúa nọa. Lúa canh là thứ gạo người ta thường ăn. Lúa nọa là nếp. Ruộng nước ta thì có 2 thứ: Ruộng mùa thu gọi là ruộng mùa, ruộng mùa hạ gọi là ruộng Chiêm (hạ điền). Lúa Canh thích hợp với ruộng Chiêm có 8 loại như : Lúa Sài Đường: cây mềm yếu, hột lúa màu đỏ thân dài, hai đầu nhọn, vỏ dày, hột gạo màu trắng, chín sớm, nấu cơm dẻo. Lúa Bồ Lộ: Cây lúa cứng mọc thẳng, hột lúa màu trắng, thân nhỏ tròn, vỏ mỏng, hột gạo có 2 màu đỏ trắng, chín không sớm mà cũng chẳng muộn, cơm cứng. Lúa Thạch rất dễ sống, trồng nơi nào cũng được, cây cao thẳng, bông chia ra mấy gié, chín muộn, hột gạo trắng, rất nhiều nhựa, mềm dẻo, giã và xay bột được. 5 giống lúa Chiêm: Chiêm Di, Dự cơm mềm dẻo Loại Chiêm Hoàng cơm cứng, Chiêm Bảo cấy ở ruộng thấp nhiều nước, Chiêm Hâm… Lúa Canh thích hợp với ruộng mùa gồm có 23 giống như: Lúa Bát Xuân, lúa Thông gồm có: lúa Ô Canh và Sùng Canh, gạo có 2 loại màu trắng và tím. Lúa Bảo Thế, Từ Bồn, Bát Ải, Bát Lại, Bát Sinh, Bát Tu, Lúa tẻ chín sớm, cây và gạo đều có mùi thơm, lúa Hiên, lúa Tam nguyệt ở Nghệ An. Lúa Điền kê (lúa Ếch) trồng vụ chiêm, vụ mùa đều đươc, trồng tháng 4 gặt tháng 7, hột lúa dài, hột gạo trắng, nhỏ… có mùi thơm, vị hậu. Lúa Mộ trồng vùng đất núi như Thái Nguyên, canh tác bằng cách phá rừng, đốt cây lấy tro bón ruộng… trồng tháng 2, gặt tháng 6… Ông còn ghi chép cẩn thận chi tiết các giống lúa Chiêm Thành, cũng như các giống lúa lai tạo của Chiêm Thành và nước ta. Về các giống lúa ngắn ngày nếu ta so sánh với các giống lúa ở Ấn Độ có thời gian sinh trưởng từ 60 đến 70 ngày thì ông đã chép như sau: Lúa Thiền Minh chỉ có 63 ngày là có thể thu hoạch; lúa Tiển Tử loại hột nhỏ chỉ trồng 60 ngày, phần lớn là giống của nước Chiêm Thành. Ở Thái bình có giống lúa Tiên chỉ trồng trong 60 ngày gọi là Lúa Đà Lê Kiếm, lúa Xích Hồng tiên, Bát Nguyệt Tiên đều là các giống ngắn ngày, Lúa Tuyết Lý Đống, lúa Lăng (Quảng Trị) cũng là lúa 60 ngày. Riêng giống lúa có thời gian sinh trưởng cực ngắn thì được sách Đại Nam Nhất Thống Chí trang 256 ghi như sau: Lúa câu thân ngắn, bông nhỏ, gạo rất đỏ, ưa ruộng cao, từ lúc cấy đến lúc chín chỉ 40 ngày, cơm rắn. Sách có ghi chú rằng phàm vật nào (giống lúa) đã chép đầy đủ trong Thừa Thiên Chí mà các nơi khác cũng có, thì không chép lại ở các tỉnh chí nữa, duy tỉnh nào có thổ sản đặc thù hoặc nhiều đặc biệt, hoặc sung lệ cống, lệ thuế thì mới chép. Lúa có nhiều hình dáng và đặc tính: có hạt lúa dài hay tròn, dẹp hay thon, nhọn đầu hay không, có râu hay không, có lông hay không, sắc của hạt thóc có đủ các loại màu sắc từ màu vàng, vàng đậm, nâu, có vân như lúa Chày Chày hay không, có râu như lúa Bát râu hay không, tím, đen như lúa Ô tiền đạo, trắng như lúa Bạch đạo... Gạo có loại trắng, vàng mơ hay từ đỏ nhạt sang đỏ đậm như Huyết rồng hay Gạo nếp than hay gạo có 2 màu như Gạo Bồ lộ ...cơm, cháo hay bột nấu ra có loại gạo mùi thơm như hoa lài như dứa, vị thì có loại mặn, ngọt, bùi... và màu sắc cũng rất đa dạng. Lúa câu với một đặc tính hiếm có mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, các nhà khoa học đã lại tạo được một trong giống mới là “gạo aerobic” (lúa khí trời) vì nó cần rất ít nước tưới và một loại khác là “gạo dream” (lúa mơ) với giống lúa này hy vọng cung cấp người ăn nhiều dưỡng chất hơn thì với đặc tính siêu ngắn ngày "Từ cấy đến gặt" là 40 ngày của lúa câu. Tính siêu ngắn ngày sẽ là một biện phát giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp mà thế gới đang gặp phải, tình trạng diện tích đất dùng cho nông nghiệp bị thu hẹp lại do công nghiệp hóa, đô thị hóa... Nếu tri thức khoa học và những tiến bộ của khoa học sinh học phân tử, thông tin sinh học… các nhà nghiên cứu về nông nghiệp về giống lúa câu này hy vọng sẽ làm thay đổi tình hình sản xuất lương thực của thế giới trong một tương lai không xa. MỘT GIỐNG LÚA ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ TRÊN THẾ GIỚI CỦA PHỦ THỪA THIÊN Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn , Quyễn 2 phần Phủ Thừa Thiên trong đoạn viết về Thổ Sản-Loại Cốc trang 256 ghi như sau: Lúa câu thân ngắn, bông nhỏ, gạo rất đỏ, ưa ruộng cao, từ lúc cấy đến lúc chín chỉ 40 ngày, cơm rắn. Chúng tôi thử tra cứu trong các tài liệu của Viện nghiên cứu lúa gạo thế giới (IRRI) để xem trên hành tinh này có một giống lúa nào có thời gian sinh trưởng ngắn hơn thế nữa không ! Quả thật là đáng kinh ngạc, IRRI chỉ đưa ra một tài liệu mà họ phát trên internet cho biết : Tại Ấn Độ là nước có nhiều giống lúa ngắn ngày nhất như : OMCS 5 (CR 666-78) thời gian sinh trưởng 62-74 ngày, OMCS 2 (CR 666-36-4) thời gian sinh trưởng 62-68 ngày, OMCS 4 (CR 666-77) thời gian sinh trưởng 65-71 ngày và loại lúa OMCS1 gọi là (CR 666-36-9) có thời gian sinh trưởng từ 60-66 ngày. Đó là những giống lúa ngắn ngày nhất trên thế giới mà IRRI có được Ấn Độ và Trung Quốc là 2 quốc gia đông dân và rộng nhất, họ có một nền nông nghiệp phát triễn lâu đời , một trong những vì vua của Trung Quốc là Thần Nông. Ấy thế mà trong Vân Đài loại Ngữ Lê Quí Đôn cũng không tìm thấy giống lúa nào ngắn ngày hơn thế nữa Theo ĐNNTC thì Phủ Thừa Thiên : Xưa là đất Việt Thường Thị ( Thượng thư Đại truyện chép rằng: “Thời Đường Nghiêu, Việt Thường thi dâng rùa lớn’’ tên Việt Thường bắt đầu từ đây; đời Tấn thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam...Nay lấy số dặm mà xét thì từ Quảng Bình đến Thừa Thiên trên dưới 200 dặm, năm 1853 vua Tự Đức cho hợp tình Quảng Trị vào Phủ Thừa Thiên, phủ Thừa Thiên gồm có một đạo, 11 huyện và 9 châu phụ thuộc Hình thể của Phủ Thừa Thiên phía đông giáp biển có các phá, phía tây dựa vào núi, núi rừng chập chùng, Phá Tam Giang ở phía bắc, phá Hà Trung ở phía đông, các núi nguồn Tả Trạch vòng quanh phía nam, các núi nguồn Hữu Trạch kéo dài phía bên phải; núi sông bao quanh, ruộng vườn màu mỡ; vừa giáp biển, vùa gần núi, nên cá tôm , gỗ lạt, không sao dùng hết, thật la kho tàng của trời... Khí hậu bốn mùa thường ấm, đầu mùa xuân đào đã trổ hoa, tháng giêng tháng hai khí trời hòa ấm, cau bắt đầu ấp bẹ, tháng ba khí trời bắt đầu nóng, tháng tư thỉnh thoảng có lụt, tháng năm tháng sáu và tháng bảy gió nam thổi mạnh, trước ngày 7 tháng 7 có mưa, tháng tám tháng chín trời mát dần thường có mưa lũ, thỉnh thoảng có gió đông và ba ngày, tháng mười trong những 3, 13, 23 thường có lụt. Trong một năm nửa mùa thu sang mùa đông thường mưa nhiều, nủa mùa xuân về sau nắng nhiều, từ tháng mười một trở về sau khí rét nhưng không giá buốt...Mỗi năm có 2 vụ lúa tháng mười cấy, tháng ba gặt là vụ Hạ, tháng năm cấy, tháng tám gặt là vụ Thu, tháng bảy và tháng tám, nếu lụt sớm thì hỏng lúa. Địa thế 9 châu phần nhiều là rừng núi, một năm chỉ cấy một mùa (tháng âm lich) Hiện nay nông dân cũng có 2 vụ nhưng thời vụ sớm hay trể hơn gọi là vụ Hè-Thu và Đông-Xuân, tính theo tháng dương lịch Theo như nhận xét của các sử thần biên soạn bộ ĐNNTC thời vua Tự Đức (1847-1883) thì ruộng cao là môi trường thích hợp nhất để gieo cấy đối với giống lúa câu, thổ nhưỡng của đất phủ Thừa Thiên xưa hay tỉnh Thừa Thiên-Huế-Quảng Trị hiện nay khi chúng ta khảo sát vùng đất này trên bản đồ không ảnh của hệ thống Google Map thì vùng đồng bằng phía đông và rừng núi phía tây được phân ranh khá rõ rệt bằng quốc lộ 1A chạy dài từ chân đèo Hải Vân đến cầu Hiền Lương, vùng ruộng cao đa số nằm phía tây của quốc lộ Theo Lê Quí Đôn thì ruộng nước ta thì có 2 thứ: Ruộng mùa thu gọi là ruộng mùa, ruộng mùa hạ gọi là ruộng Chiêm (hạ điền). Lúa Canh thích hợp với ruộng Chiêm có 8 loại như : Lúa Sài Đường, lúa Bồ Lộ: hột lúa màu trắng, hột gạo có 2 màu đỏ trắng Lúa Thạch rất dễ sống, trồng nơi nào cũng được, hột gạo trắng, rất nhiều nhựa, mềm dẽo, giã và xay bột được. 5 giống lúa Chiêm: Chiêm Di, Dự ,Chiêm Bảo cấy ở ruộng thấp nhiều nước, Lúa Canh thích hợp với ruộng mùa gồm có 23 giống như: Lúa Bát Xuân, lúa Thông, lúa Ô Canh và Sùng Canh, gạo có 2 loại màu trắng và tím. Lúa Bảo Thế, Từ Bồn, Bát Ải, Bát Lại, Bát Sinh, Bát Tu, Lúa tẻ chín sớm, cây và gạo đều có mùi thơm, lúa Hiên, lúa Tam nguyệt ở Nghệ An. Lúa Điền kê (lúa Ếch) trồng vụ chiêm, vụ mùa đều đươc, trồng tháng 4 gặt tháng 7, hột lúa dài, hột gạo trắng, nhỏ… có mùi thơm, vị hậu. Lúa Mộ trồng vùng đất núi như Thái Nguyên, canh tác bằng cách phá rừng, đốt cây lấy tro bón ruộng… trồng tháng 2, gặt tháng 6… Ông còn ghi chép cẩn thận chi tiết các giống lúa Chiêm Thành, cũng như các giống lúa lai tạo của Chiêm Thành và nước ta. Còn Trịnh Hoài Đức phân thành hai loại ruộng . - Loại ruộng núi, gọi là sơn điền, khi mới khai khẩn thì đẵn chặt cỏ cây, để cho khô rồi đốt làm phân tro, đến khi mưa xuống cứ thế mà gieo thóc, không cần cày bừa, dùng sức ít mà đạt lợi nhiều, trong 3, 4 năm lại đổi trồng chỗ khác. Vùng trũng, thấp thì làm ruộng núi, lâu ngày ruộng thành thục và cày bừa như ruộng thấp (thảo điền). - Loại ruộng thấp (ruộng cỏ), có nhiều lùng, lác, lúc nắng khô nứt nẻ như vẽ mu rùa, đường nẻ sâu, phải đợi mưa ngấm cho bùn tan thì mới cày được, mà phải lựa trâu khỏe. Loại ruộng này cho năng suất cao. Việc canh tác chủ yếu dựa vào mùa mưa, nên mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng sớm thì tháng 5 gieo mạ, tháng 6 cấy, tháng 9 gặt. Ruộng muộn thì tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt. Về các giống lúa ngắn ngày nếu ta so sánh với các giống lúa ờ Ấn Độ có thời gian sinh trưởng từ 60 đến 70 ngày thì Lê Qúi Đôn ghi: Lúa Thiền Minh chỉ có 63 ngày là có thể thu hoạch; lúa Tiển Tử loại hột nhỏ chỉ trồng 60 ngày, phần lớn là giống của nước Chiêm Thành. Ở Thái bình có giống lúa Tiên chỉ trồng trong 60 ngày gọi là Lúa Đà Lê Kiếm, lúa Xích Hồng tiên, Bát Nguyệt Tiên đều là các giống ngắn ngày, Lúa Tuyết Lý Đống, lúa Lăng (Quảng Trị) cũng là lúa 60 ngày. Sách ĐNNTC ghi chú rằng phàm vật nào (giống lúa) đã chép đầy đủ trong Thừa Thiên Chí mà các nơi khác cũng có, thì không chép lại ở các tỉnh chí nữa, duy tỉnh nào có thổ sản đặc thù hoặc nhiều đặc biệt , hoặc sung lệ cống, lệ thuế thì mới chép. Như vậy ắc là lúa câu không chỉ có ở Thừa Thiên mà cũng có mặt ở một số tỉnh khác nữa Và nếu ở Thừa Thiên thì giống lúa này trồng ở vùng nào ? và hiện nay giống lúa câu có còn hay không? Đó là câu hỏi then chốt mà các nhà nghiên cứu lúa gạo trên thế giới phải tìm cho ra Lúa ngắn ngày và các vụ lúa ngắn ngày đặc biệt là các giống lúa có thời gian sinh trưởng chỉ hơn một đến hai tháng có lợi điểm là tránh được ảnh hưởng các điều kiện bất lợi của thiên nhiên, môi trường Đặt biệt là các vụ ngắn ngày dưới 2 tháng sẽ có ý nghĩa chiến lược khi gieo trồng vì ít bị đe dọa bởi các điều kiện của thiên nhiên Các giống lúa ngắn ngày và các vụ lúa ngắn ngày sẽ trở thành mục tiêu của ngành nông nghiệp cùa thế giới trong tương lại. Lúa mì, lúa mạch HỒ ĐẮC DUY Cuối tháng 4 năm 2009
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:52:04 GMT 9
Tre trúc Việt Nam Nguyễn Dư Tình cờ trong lúc đi tra nghĩa một thành ngữ, tôi được đọc :
Trong bài hịch kể tội Tuỳ Dượng Đế, Lý Mật có viết : Chặt hết trúc trên núi Nam Sơn, chẻ thành tre cũng chẳng đủ để ghi tội ác của Tuỳ Dượng Đế. (Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh chủ biên, nxb Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 412).
Lời giải thích nghe hơi lạ.
" Chặt hết trúc, chẻ thành tre ", nghĩa là thân cây trúc to hơn thân cây tre à ?Thế mà từ thuở bé đến giờ tôi cứ đinh ninh là tre to hơn trúc. Hình ảnh cái mành trúc, cái chõng tre của bà nội, cái xe điếu uốn cong của bố, cái cầu ao đầu làng... Hay là mình nhớ sai ? May quá, Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê cho biết Trúc là tên gọi chung của nhiều loài tre nhỏ, gióng thẳng. Nghĩa là... trúc nhỏ hơn tre. Yên tâm chưa ? Dạ... chưa. Định nghĩa rõ như vậy mà còn chưa yên tâm à? Định nghĩa thì rõ nhưng thí dụ đưa ra thì hơi mù mờ. Từ điển tiếng Việt giải thích thành ngữ " Trúc chẻ ngói tan " là ví thế quân mạnh như chẻ tre, đánh đến đâu, quân đối phương tan tới đó. Trúc chẻ là... chẻ tre. Hoá ra trúc lại là tre ? Rốt cuộc, trúc là tre hay khác tre ? Là... cả hai! Thế mới... điên cái đầu ! Đầu đuôi chỉ vì : - Nếu trúc là chữ Hán thì tiếng Việt dịch là cây tre. Thí dụ : Trúc côn là cái gậy tre (Từ điển tiếng Việtcủa Văn Tân). - Nếu trúc là tiếng Việt thì trúc... hơi khác tre. Họ tre có nhiều cây, mỗi cây có một tên gọi khác nhau : trúc, bương, luồng, vầu, lồ ô, giang, mai, nứa, hóp v.v.. Trúc là một giống tre nhỏ. Trúc xinh trúc mọc đầu đình. Tre to lớn hơn trúc. Tre mọc hoang thành rừng. Tre được trồng để bao bọc, bảo vệ xóm làng. Làng tôi xanh bóng tre. Thân tre được để nguyên, dùng làm nhà, làm cầu ao...hoặc được chẻ nhỏ làm tăm, tước mỏng làm lạt... Tre và trúc khác nhau như vậy. Nhưng đôi khi cũng bị lẫn lộn. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có câu : Quyết Đông Hải chi thuỷ, bất túc dĩ trạc kỳ ô ; Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Văn Tân dịch là : Tát cạn nước Đông hải, không đủ rửa vết nhơ Chặt hết trúc Nam sơn, chẳng đủ ghi tội ác Trúc Khê dịch là : Múc cạn nước Đông Hải dễ mà rửa sạch tanh nhơ Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ biên ghi tội ác Bùi Kỷ dịch là : Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội Dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi Chữ trúc được cả ba người dịch dịch là... trúc. Đúng ra phải dịch là tre. Nguyễn Trãi muốn nói rằng Chặt hết tre Nam Sơn (chẻ thành thanh) cũng không đủ để ghi tội ác (của quân Minh). Trong một bài biểu dâng lên vua Gia Long, Đặng Trần Thường cũng nói : Xét tội ác (của bọn Ngô Thời Nhậm thì) chẻ hết tre cũng khó biên hết.(Đại Nam thực lục, tập 1, bản dịch của Nguyễn Ngọc Tỉnh, Giáo Dục, 2002, tr. 547). Ngày xưa, khi chưa có giấy, người ta viết lên tre. Những thanh tre chép sử, có lớp vỏ màu xanh, được gọi là thanh sử. Thanh sử dịch sang tiếng Việt là sử xanh. Nghìn thu gặp hội thăng bình Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời Lan đài dừng bút thảnh thơi Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh... (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca) Ngày nay lịch sử được viết bằng giấy trắng mực đen, được gọi là trang sử. Chỉ có mấy ông hoài cổ, ưa màu mè, mới phóng bút viết những trang sử xanh (rờn). Thân trúc (tiếng Việt) vốn nhỏ, người Việt không chẻ trúc để làm gì cả. Chỉ có văn học mới lôi trúc (chữ Hán) ra chẻ. Bản dịch Bình Ngô đại cáo có câu : Trận Bồ Đằng như sấm vang chớp giật, Trận Trà Lân như trúc chẻ tro bay. Thơ Nôm cũng có những câu tương tự : Nhân cơ phá trúc đuổi dài Bảo Hà mở luỹ, Hồng Mai trú đồn (Đại Nam quốc sử diễn ca) Thừa cơ trúc chẻ ngói tan Binh uy từ ấy sấm ran ra ngoài (Kiều) " Trúc chẻ " chữ Hán là " phá trúc ". " Phá trúc " dịch hết sang tiếng Việt là " chẻ tre ". " Trúc chẻ ngói tan " chỉ thế quân mạnh, đánh đâu được đấy. Dễ như chẻ tre, tháo ngói. Chẻ tre, chẻ được một mắt thì các mắt khác tự tách ra. Tháo ngói, tháo được một hòn thì cả mảng sụt theo (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều). Đào Duy Anh gián tiếp đồng ý rằng " trúc chẻ " nghĩa là " chẻ tre ". Tại sao trong thơ văn xưa của ta, chữ tre không được dùng, chữ trúc không được dịch ? Chỉ vì niêm luật, thanh điệu của thơ văn. Tre (thanh bằng) không thay thế cho trúc (thanh trắc) được. Rốt cuộc các tác giả, dịch giả đã chọn cái hay (nhưng tối nghĩa) thay cho cái đúng (nhưng nằm ngoài vòng luật lệ). Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Miệng ăn măng trúc, măng mai Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng (Trấn thủ lưu đồn, Ca dao) Măng mai to bằng bắp chân ăn còn bữa đói bữa no, huống hồ măng trúc nhỏ như ngón tay. Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể sai người ở đi tìm măng trúc về... nhắm rượu, nhưng anh lính thú " ngày thì canh điếm tối dồn việc quan " kia thì nhất định không mất thì giờ đi kiếm măng trúc về... nhâm nhi, ăn chơi. Oằn oại đôi vai quân tử trúc Long lay một cổ trượng phu tòng (Nguyễn Hữu Huân, Khi bị đóng gông) Gông mà làm bằng trúc thì chỉ có gông hàng mã cho trẻ con bẻ chơi. Luật bằng trắc đã loại chữ tre, dùng chữ trúc (Hán). Tuy nhiên, đôi khi chữ trúc cũng được niêm luật cho phép dịch là tre. Tú hoa dã trúc tam xuân hảo Tinh nguyệt minh song nhất thất hư (Tre hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt, Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ). (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Xuân đán cảm tác, Đinh Gia Khánh dịch) Mặc dù bị trúc Tàu lấn át, thỉnh thoảng cây tre của ta cũng được các cụ nhà Nho đề cao. Thế à? Hoá ra bụt chùa nhà cũng thiêng sao ? Đồ đựng tăm ngày xưa được khắc câu Mỗi phạn bất vong quân tử trúc (Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử). Cây tre được ví với người quân tử vì tre có " tiết cứng, lòng không " : Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết Đáo lăng vân sứ dã vô tâm (Chưa mọc lên khỏi mặt đất đã có tiết Lên đến mây cao thì không có tâm) Có chắc là cây tre không ? Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chầy Kìa quân tử trúc, dạ này bâng khuâng... Dân ca cũng tơ tưởng quân tử trúc kia mà ! Quân tử trúc là... quân tử Tàu. Quân tử tre là... quân tử ta. Đôi khi dân ca còn vượt cả chữ nghĩa của thánh hiền : Gió đưa bụi trúc ngã quỳ Ba năm trực tiết còn gì là xuân Tiết hạnh của nữ nhi và tiết tháo của quân tử, cái nào đáng quý hơn cái nào ? Trở lại chuyện cơm nước hàng ngày. Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử. Người ta có thể ba ngày, ba tháng không đọc sách, nhưng mấy ai có thể khoanh tay...chịu mắc răng nửa ngày ? Câu nói vừa có nghĩa đen là ăn cơm xong phải nhớ lấy tăm (tre) xỉa răng, vừa có ý nhắc nhở mọi người phải tu thân để trở thành người quân tử. Dạ, dạ, quân tử dễ thương lắm. Chả thế mà chị Xuân Hương đã nhiều lần thủ thỉ : Quân tử có yêu thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay (Quả mít) Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi (Ốc nhồi) Bọn em chỉ mơ được : Một đêm quân tử nằm kề Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm Oan cho nhà Nho đến thế là cùng. Nhà Nho khuyên mọi người sống như quân tử chứ không phải khuyến khích các em... chơi trèo với quân tử như vậy đâu. Người ta, kẻ thì mong được " một phút huy hoàng ", kẻ thì lỡ dại được " một giờ ", thế mà mấy em đòi những... " một đêm"! Quân tử như gió, tiểu nhân như cỏ... Mưa gió suốt đêm, coi chừng có ngày sập nhà, gãy giường đấy. Nghĩ mà bực mình giùm cho thằng nhắng Việt Nam. Dớ da dớ dẩn, rờ rẫm ra sao để đến nỗi xôi hỏng bỏng không, bị chê sát ván như vậy ? Nó phải sống ở bên Tây thì mới đúng đất dụng võ. Tha hồ trổ tài vỗ về các bà. Huy chương vàng nịnh đầm (galant) đút túi là cái chắc ! Ta có thành ngữ Tre già măng mọc để nói thế hệ trẻ nối tiếp thế hệ cha ông. Ngày xưa còn có thành ngữ Tre còn măng mất (Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên), và Tre già khóc măng (Génibrel) để chỉ hoàn cảnh con cái chết trước cha mẹ. Mới ngày nào... Tre được dựng thành hàng rào dày đặc để phòng giữ các bản làng miền núi, để bảo vệ các ấp chiến lược xa xôi hẻo lánh. Tre được vót nhọn, cắm tua tủa dưới hầm chông. Qua rồi, cái thời chinh chiến... Mẹ nhìn lên cao trong vắt trăng sao Đầu làng tre xanh vui đón xôn xao Mẹ nhìn tay con không súng không dao Nụ cười trên môi Ôi trái tim người... (Phạm Thế Mỹ, Giấc mơ của mẹ) Bụi tre, khóm trúc lại trở thành chứng nhân của hò hẹn, yêu đương... Anh nhớ xót xa, dưới tre là ngà Gợn buồn nhìn anh, em nói mến anh Mây lướt thướt trôi, khi nắng vương đồi Nhớ em dịu hiền, nắng chiều ngừng trôi. (Lê Trọng Nguyễn, Nắng chiều) ... của nhớ thương, hờn trách Công anh đắp nấm trồng chanh Chẳng được ăn quả vin cành cho cam ... Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu, Cầu tre vững dịp hơn cầu thượng gia Cầu thượng gia tức là cầu " thượng gia hạ trì " (trên là nhà, dưới là ao). Có nơi gọi là " cầu ngói " (Thanh Toàn), " cầu Nhật Bản " (Hội An). Chàng trai trách người yêu tham giàu phụ nghèo. Em ơi, cầu thượng gia kia nhìn bề ngoài thì sang trọng, to lớn nhưng chắc gì đã vững bền hơn chiếc cầu tre đơn sơ, mộc mạc này? Thuở thanh bình, tre trúc reo vui... Vườn nhà chúng tôi tre mọc um tùm. Lúc mới dọn về, vườn chỉ có một khóm tre thưa. Vợ chồng hăm hở đánh vài gốc, cắm trồng mấy góc vườn. Hàng xóm đỡ dòm sang nhà mình . Không ngờ, mấy năm sau chỗ nào cũng đầy tre. Chặt rồi lại mọc. Tre mọc kín hàng rào. Tre chui dưới tường, đâm ra ngoài đường. Tre bò sang hàng xóm. Tre nâng cả gạch lát sân. Rễ tre sắp lan đến bếp, sắp đụng phòng khách. Người bạn Pháp ngạc nhiên : - Ồ ! Tre biết lách, biết luồn tránh chướng ngại. Nhiều đốt cụt ngủn, hình thù xiên xẹo. - Một vài cây bị biến tướng. Có lẽ tại thuỷ thổ. - Bên Pháp không có tăm tre, người Việt xoay xở ra sao ? - Không có tăm tre thì có tăm quẹt, tăm gỗ, tăm nhựa. Tăm nào chả được, miễn sao sạch sẽ, được việc. Nguyễn Dư (Lyon, 6/2006)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 23, 2022 15:09:30 GMT 9
Đinh hương là gì? 10 Công dụng tuyệt vời của đinh hương Nói đến Đinh hương, chúng ta nghĩ ngay đến một loại gia vị không thể thiếu trong những món ăn. Đặc biệt, đây cũng chính là thành phần để điều chế hương thơm, chiết xuất tinh dầu và hỗ trợ khử mùi hiệu quả. Được biết, Đinh hương còn có tác dụng trong điều trị bệnh. Bạn đã bao giờ tìm hiểu Đinh hương là gì? Công dụng tuyệt vời của Đinh hương như thế nào hay chưa? Nội dung : 1. Cây Đinh hương là gì? 2. Thành phần trong Đinh hương 3. Công dụng của cây Đinh hương 4. Lưu ý khi sử dụng đinh hương Cây Đinh hương là gì?Đinh hương còn được gọi với những cái tên khác như: đinh tử, đinh tử hương, kê tử hương. Đây là loại cây thuộc họ nhà Đào Kim hương, Đinh hương khi phơi khô các chồi hoa sẽ có mùi thơm, ứng dụng nhiều trong điều chế hương liệu, gia vị cho món ăn. Đinh hương có mùi thơm đặc trưng Cây thuốc có thể cao tới 20m, phần lá lớn có hình bầu dục, mọc đối. Hoa Đinh hương có màu đỏ thẫm và mọc thành từng cụm. Quả của cây là quả mọng dài và bên trong chỉ có 1 hạt. Hoa Đinh hương ban đầu sẽ có màu nhạt và dần dần sẽ trở thành màu lục, chuyển từ từ sang đỏ tươi. Đây là loại cây ưa khí hậu nóng ẩm, hiện tại cây chưa được trồng ở Việt Nam. Thành phần trong Đinh hươngTrong Đinh hương có nhiều thành phần dưỡng chất quan trọng như: Vitamin K, Mangan, Vitamin C, Canxi, Vitamin E, Magie, chất xơ, khoáng chất, chất chống oxy hóa. Mangan: Khoáng chất giúp duy trì hệ xương chắc khỏe và ổn định chức năng não. Hàm lượng Vitamin C giúp tăng cường hệ thống miễn dịch Vitamin K đóng vai trò quan trọng trong sự đông máu của cơ thể. Không những vậy, trong thảo dược này còn chứa hàm lượng các chất có khả năng gây mê tốt. Được sử dụng để làm tê dây thần kinh, giảm đau. Thông thường, dược liệu sẽ được bào chế ở dạng tinh dầu, rượu thuốc, thuốc lá, nước súc miệng, các loại gia vị bột. Công dụng của cây Đinh hươngThành phần chính của cây Đinh hương là hợp chất Eugenol, đây cũng chính là vị thuốc được dùng nhiều trong y khoa. 1. Đinh hương điều trị bệnh răng miệng Dùng Đinh hương giã nhỏ, càng nhuyễn càng tốt, sau khi giã thì đem ngâm với cồn. Dùng tăm bông chấm dung dịch vừa ngâm chấm vào chỗ đau răng. Giã nhỏ dược liệu, ngâm với cồn (ngâm càng lâu càng công hiệu) tẩm vào bông, đặt vào chỗ răng đau. Có thể phối hợp với xuyên tiêu (lượng bằng nhau) tán thành bột mịn cùng với ít băng phiến, rồi trộn với mật ong, bôi hằng ngày để điều trị các bệnh về răng. Khi bạn sử dụng tinh dầu thì sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Bạn chỉ cần dùng tăm bông để thấm tinh dầu và đặt vào chỗ răng bị đau là được. Hoặc bạn cũng có thể thêm tinh dầu đinh hương vào cùng với kem đánh răng, nước súc miệng để giúp làm sạch răng miệng, hạn chế hơi thở có mùi hay vi khuẩn làm sâu răng 2. Đinh hương làm giảm đau đầu Khi bị đau đầu, bạn có thể dùng tinh dầu để thoa lên vùng thái dương. Chỉ sau khoảng vài phút bạn sẽ thấy cơn đau đầu thuyên giảm đi rất nhiều. 3. Giảm ho Trong Đinh hương có nhiều thành phần kháng khuẩn mạnh. Đặc biệt còn có khả năng loại bỏ đờm và và những vi khuẩn gây bệnh trong cổ họng. Vì thế, khi bị ho, bạn dùng bột đinh hương hòa cùng nước muối và ngậm. Cơn ho sẽ nhanh chóng biến mất. 4. Thúc đẩy hệ tiêu hóa Khi bạn bị đau dạ dày, buồn nôn thì có thể dùng hỗn hợp mật ong trộn cùng bột Đinh tử hương để dùng. Cảm giác khó chịu ở dạ dày sẽ không còn nữa. Nếu bạn bị đau bụng, chướng bụng hay rối loạn tiêu hóa. Bạn cũng có thể dùng Đinh tử hương kết hợp với một số vị thuốc khác như sa nhân, bạch truật tán thành bột, uống mỗi ngày 2 – 3 lần, 1 lần uống từ 2 – 4g 5. Hỗ trợ giảm căng thẳng Đinh hương có tác dụng giảm căng thẳng, thư giãn thần kinh tốt Sử dụng tinh dầu Đinh tử hương để xông trong phòng làm việc, phòng ngủ sẽ giúp bạn loại bỏ mệt mỏi, căng thẳng. 6. Tăng lưu thông máu Dầu đinh hương có tác dụng tăng lưu thông máu. Không những vậy còn giúp làm sạch máu và thanh lọc cơ thể. 7. Tăng cường hệ miễn dịch Do có các chất làm sạch máu và kháng viêm nên cây đinh hương được sử dụng để thúc đẩy hoạt động của hệ miễn dịch. 8. Chữa viêm mí mắt Đây là tình trạng viêm trên lông mi và gây khó chịu. Không những gây đau đớn mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của mắt. Cây đinh hương là bài thuốc hữu hiệu khi mắc phải. 9. Đinh hương có tính sát khuẩn Do có tính sát khuẩn cao nên cây được sử dụng để sát khuẩn các vết thương, ghẻ, nấm và nhiễm trùng… Cũng có thể sử dụng để điều trị các vết do côn trùng cắn. Ngoài ra dược liệu này còn có tác dụng điều trị mụn trứng cá và làm đẹp cho làn da. 10. Điều trị bệnh đái tháo đường Vị thuốc có chức năng giống như insulin ở trong cơ thể. Chuyển lượng đường dư vào trong tế bào và làm giảm lượng đường huyết trong máu. Giúp cho quá trình điều trị bệnh đường huyết hiệu quả hơn. Thảo dược này có nhiều công dụng đặc biệt rất tốt cho sức khỏe Lưu ý khi sử dụng đinh hương Khi sử dụng tinh dầu bạn nên cẩn thận và pha loãng trước khi dùng. Có thể kết hợp với nhiều loại tinh dầu khác nhau. Tác dụng chữa bệnh của cây thuốc này phần lớn là do kinh nghiệm dân gian truyền lại. Vì vậy bạn nên thăm khám tại các cơ sở y tế và tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp bạn hiểu thêm về tác dụng của Đinh hương trong điều trị bệnh và thư giãn. Cảm ơn bạn đã đọc bài viết của chúng tôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 1, 2023 17:11:37 GMT 9
Cây Hoa Thạch Thảohannahlinhflower2.wordpress.com/cotg-12-net-dep-hoa-thach-thao/Cây Hoa Thạch Thảo mà Apollinaire đã từng hái nhành hoa và đặt lên mộ Léopoldine vào ngày cuối thu (16/9), cây Hoa thạch thảo có: Tên Hoa : 紅方柏 (hồng phương bách), 石楠(thạch nam) Tên Anh : heather Tên Pháp: bruyère Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae) Chi Calluna – Thạch nam Tất cả các loại thạch thảo đều trong Họ Ericaceae, có một loài hoa thạch thảo duy nhất thuộc Chi Calluna, ngoài ra là Chi Erica. Chi Calluna trước đây cũng bao gồm trong Erica – nhưng có điểm khác biệt là lá của chúng nhỏ hơn (dài nhỏ hơn 2–3 mm), và đài hoa được chia thành những cánh hoa riêng biệt. Erica đôi khi được xem là “heather đông (hay xuân) ” để phân biệt với Calluna (heather mùa hè (hay thu)). Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loài cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt. Hoa thạch thảo (Heather) Hoa thạch thảo (Heather) (9) Dưới đây là một số loài thuộc Chi Erica trong hàng vài trăm loài khác nhau trên thế giới. Chi Erica gồm nhiều loài khác nhau từ loài cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn. – Erica arborea, cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút. Hoa thạch thảo (Heather) (127) – Erica carnea, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng. Phân bố ở vùng núi Alpes – E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím từ Tây Âu cho đến Đan mạch. hoa Thạch Thảo (1) -Erica ciliaris phân bố ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, bán đảo Ibériquevà Bắc Maroc. – E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng ở Tây Âu hoa Thạch Thảo – E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu. Hoa thạch thảo (Heather) (81) – E. lusitanica mọc rậm rạp có hoa trắng hồng phân bố ở Tây ban nha và Bồ Đào Nha và ở vùng bán đảo Iberia. Hoa thạch thảo (5) – E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath – Erica mammosa là loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác. nhành hoa thạch thảo 2013 (266)nhành hoa thạch thảo 2013 (190)nhành hoa thạch thảo 2013 (197) Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt chính là Cây Hoa Thạch Thảo. Canh dong hoa Thach ThaoCánh đồng hoa Thạch Thảo ở Ortegal (Galicia) – Wiki Hoa thạch thảo (6) Loài hoa này gốc ở Châu Âu, trước thế kỷ 17 -19 là hoa dại. Ở miền bắc nước Anh hoa Thạch Thảo mọc đầy đồng, giống như cỏ tranh ở Việt Nam. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp mái và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Ai từng đọc qua truyện Ðỉnh Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronte chắc cũng nhớ đến những cánh đồng hoang (moors) mọc đầy hoa thạch thảo (heather), và tiếng hót líu lo của những con chim chiền chiện (moor-lark). Hoa thạch thảo là loài hoa mà chính tác giả, Emily Bronte yêu thích, nàng đã nhiều lần đưa nó vào truyện và thơ của mình. Lê Duy Đoàn (Trích: Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung.) Nếu nói về ý nghĩa của màu hoa thạch thảo thì thạch thảo trắng tượng trưng cho sự che chở, cho sự mong mỏi. Thạch thảo mầu hồng tượng trưng cho may mắn, và màu xanh lạt lavender tượng trưng cho cô đơn, sự hâm mộ thán phục. H L & hoa Thạch Thảo Aug 14 - 2013 (122)gió hiu hiu thổi, dang rộng cánh tay, lướt nhanh qua con đường nhỏ đầy hoa, hít thật sâu một hơi gió trời và hương hoa. H L & hoa Thạch Thảo Aug 14 - 2013 (105)H L & hoa Thạch Thảo Aug 14 - 2013 (106) Aug 14 – 2013 Photos: hannahlinhflower Words: LSV (Tổng hợp) Hoa Thạch Thảo trong thơ Bùi Giáng và nhạc Phạm Duynhành hoa thạch thảo Thật ra, đây là loài hoa Thạch Thảo có tên tiếng Anh là: “Heather” và tiếng Pháp là “bruyère”, hoặc còn gọi là Common Ling hay Briar, là một cành hoa thạch thảo đặt lên mộ của Léopoldine; tiếc thương người bạc mệnh trong bài thơ L’Adieu của Apollinaire (Léopoldine là con gái cưng của Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy 20 tuổi. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi. Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913, để tưởng niệm đến văn hào Pháp Victor Hugo và Léopoldine ); thi sĩ Bùi Giáng đã dịch và Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc . Hoa thạch thảo (Heather) (128) L’Adieu – Apollinaire J’ai cueilli ce brin de bruyère L’automne est morte souviens-t’en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps brin de bruyère Et souvients-toi que je t’attends. Bùi Giáng dịch Lời vĩnh biệt Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó… Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé… . Bùi Giáng (1925-1998) dịch (“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969) Cũng dựa trên ý thơ của bài thơ nói trên, năm 1965, Phạm Duy viết bài “Mùa thu chết” mở đầu bằng 2 câu: “Mùa thu chết”“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi! Hoa thạch thảo (Heather) (102)Hoa thạch thảo (Heather) (104) Ngoài Bắc, hoa thạch thảo là Cúc cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối), cúc thạch thảo nên nhiều người đã nhầm lẫn cây hoa thạch thảo trong bài thơ nói trên là cây cúc cánh mối .
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 10, 2024 4:23:16 GMT 9
Cây kim tiền
Cây kim tiền 'mê tít' 4 thứ: Ai biết làm theo cây đâm chồi bật nụ, tài lộc ồ ạt theo về
Khi trṑng cȃy ⱪim tiḕn, bạn cần biḗt rõ sở thích của cȃy, có như vậy mới giúp cȃy phát triển tṓt, ra hoa, bật chṑi. Cȃy ⱪim tiḕn có nhiḕu tên gọi ⱪhác như ⱪim tiḕn phát tài, phát tài hay ⱪim phát tài. Có tên ⱪhoa học là Zamioculas Zamiifolia, cȃy ⱪim tiḕn thuộc họ Ráy và có nguṑn gṓc từ chȃu Phi.
Cȃy ⱪim tiḕn mọc thành bụi, lá mọc ᵭṓi xứng có màu xanh bóng. Thȃn cȃy mọc vươn thẳng, mọng nước và phình to ở phần gṓc. Loài cȃy này thường có chiḕu cao từ 0,3m ᵭḗn 1m.
Kim tiḕn là loài cȃy dễ sṓng và sẽ phát triển tṓt ngay cả trong ᵭiḕu ⱪiện mȏi trường bình thường. Nhiệt ᵭộ thích hợp của cȃy ⱪim tiḕn từ 22 ᵭộ C ᵭḗn 28 ᵭộ C.
Cȃy ⱪim tiḕn là ᵭại diện cho sự may mắn, phú quý, mang lại tài lộc cho gia chủ. Nḗu nói ᵭḗn phong thủy, ⱪim tiḕn là loại cȃy ⱪḗt hợp cả ba yḗu tṓ Thuỷ- Thổ- Kim . Vì thḗ cȃy ᵭược nhiḕu người ưa thích và trṑng trọt.
Lá cȃy ⱪim tiḕn phong thủy có viḕn tròn nên mang tính ȃm thích hợp trong việc trang trí nhà cửa hiện ᵭại- theo phong thủy ᵭȃy là tính dương. Vì thể cȃy ⱪim tiḕn có thể ᵭiḕu hoà sự cȃn bằng trong ⱪhȏng gian.
kim-tien Khi chăm sóc cȃy ⱪim tiḕn, bạn cần biḗt rõ sở thích của cȃy:
Thích bón phȃn thường xuyên
Cȃy ⱪim tiḕn phát triển rất nhanh, nên ᵭương nhiên cȃy cần rất nhiḕu chất dinh dưỡng trong suṓt quá trình sinh trưởng. Nḗu ⱪhȏng bón phȃn, cȃy sẽ bị vàng lá.
Bạn nên bón phȃn ᵭạm-kali hoặc phȃn bánh cho cȃy ⱪhoảng 10 - 15 ngày/lần. Lưu ý, cần pha loãng phȃn theo tỷ lệ 1:500 trước ⱪhi tưới. Khȏng nên bón phȃn quá nhiḕu hoặc quá ᵭặc, nḗu ⱪhȏng cȃy sẽ bị cháy rễ ⱪhiḗn phần trên của các lá mới có màu nȃu, các lá cũ sẽ héo ᵭi.
kim-tien.1 Thích ánh sáng tán xạ
Khi nuȏi cȃy ⱪim tiḕn tại nhà, nhiḕu người yêu hoa nói rằng cȃy phát triển chậm, lá vàng và rũ xuṓng. Nḗu gặp tình trạng này, ⱪhuyên bạn nên chuyển cȃy ra nơi có ánh sáng tán xạ, thoáng gió như ban cȏng, phòng ⱪhách hoặc gần bệ cửa sổ. Bằng cách này, cȃy ⱪim tiḕn có thể quang hợp nhanh và phát triển lá xanh tṓt, thúc ᵭẩy ⱪhả năng ra hoa.
Lưu ý, cȃy ⱪim tiḕn là loại cȃy ⱪhȏng ưa ánh sáng mạnh, vì vậy tránh ᵭặt cȃy dưới ánh nắng gay gắt ᵭể tránh tình trạng cháy lá. Vào mùa hè nắng nóng, ⱪhȏng ⱪhí oi bức, cȃy ⱪim tiḕn rất dễ héo úa và vàng lá, bạn hãy phun nước lên lá ᵭể làm giảm nhiệt ᵭộ và tăng ᵭộ ẩm ⱪhȏng ⱪhí.
Thích ᵭất tơi xṓp và màu mỡ
Cȃy ⱪim tiḕn ưa ᵭất tơi xṓp, màu mỡ, thoát nước tṓt, vì củ của nó tương ᵭṓi mỏng manh, nḗu ᵭất nén chặt thì củ sẽ bị ép gȃy cản trợ sự phát triển của nó. Bạn có thể trộn ᵭất mùn với cát sȏng hoặc cám thȏ hay xỉ than tổ ong nghiḕn nhỏ cùng ᵭá trȃn chȃu ᵭể trṑng cȃy. Đất thoáng ⱪhí thì nước sẽ thấm nhanh sau ⱪhi tưới, ⱪhȏng dễ ᵭọng nước.
Chịu ᵭược ⱪhȏ hạn và ⱪhȏng thích nước
Cȃy ⱪim tiḕn có củ ngầm, có ⱪhả năng trữ nước nên cȃy chịu ᵭược ⱪhȏ hạn, ưa mȏi trường sinh trưởng ⱪhȏ và ấm. Nó ⱪhȏng thích nước, nḗu trong chậu có quá nhiḕu nước và thường xuyên bị tích nước thì chắc chắn cȃy sẽ bị vàng lá, thṓi rễ.
Cho nên, ⱪhi tưới nước bạn cần nhớ nguyên tắc hãy chờ cho ᵭḗn ⱪhi ᵭất ⱪhȏ rṑi mới tưới thật ᵭẫm. Bạn có thể cắm một chiḗc ᵭũa vào chậu cȃy ᵭể ⱪiểm tra ᵭộ ẩm của bầu ᵭất. Nḗu chiḗc ᵭũa ⱪhȏ lại thì tưới nước, nḗu vẫn còn ẩm thì ⱪhȏng cần tưới.
kim-tien.4 Hướng dẫn cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn nhanh, chuẩn nhất
Cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn bằng cành
Cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn bằng cành giúp bạn tiḗt ⱪiệm ᵭược nhiḕu thời gian nhất. Tuy nhiên, sṓ lượng cành tách chiḗt sẽ bị hạn chḗ tùy thuộc vào sṓ cành cȃy mẹ sinh ra. Đầu tiên, bạn nên chọn cành ⱪhȏng quá già cũng ⱪhȏng quá non. Dùng dao sắt nhọn cắt dứt ⱪhoát và bỏ bớt lá già trên cành muṓn ươm. Sau ᵭó, giȃm cành xuṓng ᵭất ᵭã trộn sẵn xơ dừa, tro trấu và phȃn. Hãy luȏn giữ ẩm ᵭất của cȃy mới trong vòng 1 tuần rṑi ᵭưa cȃy ra nơi có ánh sáng, thoáng mát ᵭể cȃy quang hợp.
Cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn từ củ
Trṑng cȃy ⱪim tiḕn từ củ của cȃy mẹ là phương pháp ᵭơn giản và hiệu quả nhất. Bạn chỉ cần lấy củ và ươm xuṓng ᵭất chuẩn bị sẵn là ᵭã hoàn thành cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn từ củ. Lưu ý ⱪhȏng nên tưới quá nhiḕu nước ⱪhi ươm vì củ dễ bị úng nước dẫn ᵭḗn thṓi củ.
Cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn trong nước
Cȃy ⱪim tiḕn trṑng trong nước còn gọi là cȃy ⱪim tiḕn thủy sinh, tức là thay vì trṑng cȃy ⱪim tiḕn trong ᵭất thì người làm vườn trṑng trong nước. Hầu hḗt các cȃy ⱪim tiḕn trṑng ᵭược trong ᵭất sẽ sṓng ᵭược trong mȏi trường nước.
Đầu tiên bạn nên chọn chiḗc bình ᵭược làm bằng thủy tinh ᵭể phần rễ của cȃy ᵭược lộ rõ sẽ ᵭẹp mắt hơn.
Sau ᵭó bạn nhỏ từ 2 ᵭḗn 3 giọt dung dịch thủy sinh vào nước, dung dịch này sẽ cung cấp dinh dưỡng ᵭầy ᵭủ giúp cȃy sinh trưởng và phát triển tṓt hơn.
Tiḗp theo, bạn nhẹ nhàng lấy cȃy ra ⱪhỏi chậu, dùng tay tách phần ᵭất bám vào rễ cȃy sao cho ⱪhȏng làm ᵭứt, gãy các rễ. Dùng vòi xịt nhẹ ᵭể làm sạch phần rễ và cắt bớt rễ nhỏ ⱪhȏng cần thiḗt.
Sau ⱪhi ᵭã chuẩn bị xong, bạn ᵭặt cȃy vào bình thủy tinh ᵭã chuẩn bị, ᵭặt làm sao cho rễ rủ xuṓng ᵭáy bình càng nhiḕu càng tṓt và có thể cṓ ᵭịnh cȃy bằng những viên sỏi trắng. Chú ý chỉ ᵭổ nước ngập ½ rễ cȃy và ᵭể ½ rễ cȃy còn lại nổi trên mặt nước ᵭể tránh bị ngộp. Vậy là bạn ᵭã hoàn thành cách trṑng cȃy ⱪim tiḕn trong nước.
|
|