|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:19:20 GMT 9
Hồng Nhuệ-Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích MỤC LỤC ● Lời Giới Thiệu ● Chương 1: về quốc hiệu, vị trí và diện tích. ● Chương 2: về khí hậu và đặc tính lãnh thổ Đàng Trong. ● Chương 3: đất đai phì nhiêu. ● Chương 4. Voi và tê giác ● Chương 5. Về tính tình, phong hóa, tục lệ người Đàng Trong, cách sống, cách ăn mặc và thuốc men của họ. ● Chương 6. Về hành chính và dân chính nơi người Đàng Trong. ● Chương 7. Lực lượng của chúa Đàng Trong ● Chương 8. Về thương mại và các hải cảng ở xứ Đàng Trong. ● Chương 9. Quan Trấn Thủ Quy Nhơn đưa các cha Dòng Tên Đến tỉnh ông cai quản và cho dựng một trú sở và một nhà thờ cho các cha. ● Chương 10. Quan Trấn Tỉnh Quy Nhơn qua đời. ● Chương 11. Thiên Văn. ● Chương 12. Đời Sống Tinh Thần ở Đàng Trong. ● Chương 13. Về xứ Đàng Ngoài. ● Kết Luận
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:19:52 GMT 9
LỜI GIỚI THIỆU Vào đầu thế kỷ 17, nghĩa là trước đây gần 400 năm, đã có một người Ý tới Đàng Trong. Trong gần năm năm trời, ông đã xem xét và nhận định về đất nước và con người Việt Nam. Rồi vào năm 1621-1622 ông đã viết một bản tường trình rất lạc quan, rất trìu mến. Không phải chỉ mới trong mấy chục năm nay, người ta mới biết nước Việt Nam là một rừng vàng biển bạc. Trong bản tường trình, tác giả đã nói tới đất đai phì nhiêu, tới rừng vàng có nhiều cây quý như lim, như trầm hương, kì nam, hai thứ sau này được bán ra nước ngoài. Người Nhật mua về làm gối, người Malaixia buôn về làm củi hỏa thiêu theo tôn giáo của họ. Còn về biển thì biết bao thứ cá đủ loại, nhất là ở một miền ven biển, có rất nhiều thứ chim người ta lấy tổ làm thức ăn rất quý, và đó cũng là một món xuất khẩu rất được trọng, một món ăn của bậc đế vương. Tác giả đã đề cập tới món ăn quốc hồn quốc tuý là nước mắm. Ông so sánh: người Việt Nam dự trữ nước mắm trong nhà như thể người châu Au dự trữ rượu trong hầm lạnh để dùng cho cả năm. Đất đai Việt Nam sinh sản ra thứ lúa mỗi năm ba mùa, đủ và dư cho người dân dùng. Người ta còn trồng dâu chăn tằm và tơ lụa thì vô cùng dồi dào đến nỗi những người lao động khuân đất làm đồng cũng mặc toàn đồ tơ lụa. Thứ này còn bán qua các nước lân cận, sang cho tới Tây Tạng. Ông cũng không quên những cách sinh sống riêng của chúng ta như tục uống trà, tục ăn trầu. Ông nói: người có một vườn cau thì không khác ở Châu Au, người ta có được vài ba nương cây ô liu. Về các gia súc và dã thú ông kể khá nhiều, nhưng đặc biệt ông tả con tê giác và cách đi săn tê giác. Ông rất có cảm tình với voi: chính ông đã tiếp xúc với quản tượng, chính ông đã nhiều lần được cưỡi voi trong những quãng đường rừng, đường mé biển. Ông cũng biết một con voi người ta gọi tên nó là Nhơn. Về các cây ăn trái, ông cũng khá tinh tường, đặc biệt ông thích thú được dùng trái sầu riêng mà ông coi như một món ăn tráng miệng vào bậc sang nhất Châu Au. Ông nói tới với một xác tín và yêu mến. Ông còn biết mấy món ăn khá đặc biệt, thí dụ ngoài món ăn yến đế vương, còn có món tim gan tê giác, món tắc kỳ nướng trên than hồng, những món mà ông chỉ nhìn chứ không dám động tới. Về văn hóa phong tục, tuy không đồng ý về nhiều điểm, ông nhận thấy có rất nhiều điều tích cực có thể làm cho người Việt Nam dễ dàng tin theo Kitô giáo. Ông coi Khổng Tử như một nhà hiền triết trứ danh Hy Lạp, Aristote. Cũng vậy, ông đề cập tới nhiều giáo lý uyên thâm của Phật tổ và cũng coi Đức Phật như một Aristote bên phương Đông. Tựu trung ông cho rằng người Việt Nam có hai tin tưởng căn bản này: tin có một thượng đế thưởng phạt và tin linh hồn bất tử. Về con người Việt Nam, ông nhận thấy họ hiền lành, hiếu khách. Họ còn có lòng quảng đại: không bao giờ họ từ chối người đã cất lời xin họ. Bao giờ họ cũng lịch thiệp và hòa nhã. Về học thuật, người Việt Nam cũng có nhiều trường dạy học. Họ chuyên chú học sách thánh hiền. Tuy họ không có trường đào luyện y khoa và dược khoa, nhưng họ có những lương y rất thời danh, có những lá thuốc rất hiệu nghiệm. Chính ông đã có cơ hội nhờ tay khéo léo các thầy thuốc Đông y chữa cho lành mạnh. Về chính thể và võ bị thì tác giả nói là người Việt Nam không như người Trung Hoa quá chuyên chú về ngành văn, cũng không giống người Nhật hiếu võ: tuỳ trường hợp, tuỳ hoàn cảnh mà chúng ta trọng lúc thì võ khi thì văn. Ông cũng nói về lực lượng của chúa Đàng Trong lúc đó, sự việc một công chúa Việt Nam kết hôn cùng vua Campuchia, và dĩ nhiên sự bang giao thân thiện giữa hai nước làng giềng, việc gửi phái đoàn ngoại giao tới nước bạn. Chúng tôi không nói hết những thích thú khi đọc bản tường trình này, những thích thú mà từ gần bốn thế kỷ nay, các độc giả đều cảm nhận, nhận thấy. Nhưng có vài ba nét đặc biệt nơi tác giả làm cho chúng tôi rất yêu mến con người đó. Thứ nhất, ông nói về tục đi chân không của người Việt Nam, và nếu có đi giày thì cũng chỉ là một thứ dép có quai rất thô sơ. Vì không ai biết đóng giày như ở Châu Au nên ông đành phải đi chân không trên đường cát sỏi cũng như bùn lầy. Thế rồi cũng quen đi đến nỗi khi trở về Macao hay Châu Au ông thấy khó chịu phải đút chân vào ống giày. Không còn là một thích thú, trái lại còn là một cái gì lòng thòng vướng víu. Thứ hai, có nhiều người ngoại quốc tới Việt Nam và rất khổ sở vì thiếu bánh mì. Đàng này ông cũng làm quen với cơm, cho tới khi trở về Châu Au, ông thấy thiếu thốn và khổ sở vì thiếu cơm. Thứ ba, khi trở về Châu Au ông đã đem theo một cây gọi là cây đại hoàng để làm giống, nhưng vì thay đổi khí hậu, nên lúc về tới nơi thì nó đã biến chất và không thể cho ông thí nghiệm như lòng ông mong mỏi. Mấy điều trên đây tỏ ra tính tình ông rất dễ thương và ông rất dễ chinh phục được lòng người. Cũng phải nói là vì có chút vốn liếng khoa học, nhất là về thiên văn học, nên ông đã nổi tiếng từ nơi nhà chúa Đàng Trong lúc đó cho tới các bậc cận thần, từ chúa Sãi cho tới hoàng tử Kỳ, từ các nho gia cho tới các vị sãi. Một việc nữa phải nhắc qua ở đây là ông đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông cũng hiểu biết đủ để giảng giáo lý Kitô. Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho khác với De Rhodes sau này, đó là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ viết của người Ý, chứ không phải người Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết gn chứ không nh như nho (trái nho) ông viết là gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông viết là gno. Cũng vậy xin ông viết scin, bởi vì theo tiếng ý nếu viết cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc thì đọc cũng như x. Về bản thân ông, người ta được biết, ông sinh tại Milan (Ý) năm 1583, nhưng không rõ vào tháng nào ngày nào. Trong cuốn tường trình, ông viết: Tôi tới xứ Đàng Trong vào chính ngày tôi sinh ra ở trần gian này và suýt nữa là ngày tôi bỏ về trời. Nhưng là ngày nào tháng nào thì ông không nói. Vào Dòng Tên năm 1601, Ông qua An năm 1615 và tới Đàng Trong, cải trang làm bồi tàu năm 1618. Ông ở đó cho tới năm 1622 thì về Macao. Ở Bồ, ông giảng dạy tại Đại học Coimbra về môn thiên văn và toán học. Ông lại sành về ngành hàng hải và viết một cuốn sách về nghệ thuật đi biển bằng tiếng Bồ. Ông cũng viết chưa xong cuốn “Chỉ dẫn hành trình đi An”. Nhưng cuốn sách làm sôi nổi dư luận là cuốn: Luận về ba tầng trời: khí, hành tinh, thiên khung. Thế là ông bị gọi về Roma. Ông bất mãn với Dòng Tên và xin ra khỏi Dòng năm 1632 để vào Dòng Bernadins de Sainte Croix. Nhưng sau ba tháng, ông lại xin bỏ Dòng này để vào Dòng Citeaux. Nhưng sau mấy tuần ông bị Dòng này trục xuất. Vì thế ông làm đơn kiện. Kết quả là ông được kiện, nhưng khi ông đi đưa tin cho một giáo chủ bạn thân của ông, thì ông bị nạn. Người ta đem ông về nhà và ông đã tắt thở khi được đem lên giường ngày hôm sau. Đó là ngày 24 tháng 5 năm 1632 lúc ông không thuộc Dòng Tên, cũng không thuộc Dòng nào, cũng không ở tu viện nào, mà lại ở nhà một người thân. Ông mất đi, nhưng tác phẩm về Xứ Đàng Trong còn truyền tụng cho tới ngày nay và được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Viết bằng tiếng Ý và ấn hành năm 1631, cuốn này đã được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh vào những năm 1631-1633. Sau ba thế kỷ, ông Bonifacy năm 1931 dịch lại sang tiếng Pháp và cho in ở tạp chí Đô thành Hiếu cổ Huế tháng 7-12 năm 1931. Hồng Nhuệ – Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:20:21 GMT 9
Chương 1 VỀ QUỐC HIỆU, VỊ TRÍ VÀ DIỆN TÍCH CỦA XỨ NÀY Xứ Đàng Trong 1 được người Bồ gọi như vậy nhưng trong tiếng bản xứ là Annam 2 có nghĩa là miền Tây. Đối với nước Tàu, xứ này thực sự nằm ở phía Tây. Nhưng người Nhật gọi xứ này là Cochi 3, trong tiếng bản xứ của họ, cũng có nghĩa là Annam trong tiếng Đàng Trong. Nhưng người Bồ đã vào nước Annam để buôn bán, họ dùng tiếng Nhật Coci và tiếng Tàu Cina mà làm thành tiếng thứ ba là Cocincina để chỉ xứ này, chủ ý phân biệt Cocin cạnh Cina với tỉnh Cocin thuộc An Độ, do người Bồ chiếm đóng. Còn trong các bản đồ thế giới thì xứ Đàng Trong thường được ghi là Cauchinchine hay Cauchine hay tương tự, ấy chỉ là vì do ghi sai hoặc vì tác giả làm bản đồ muốn cho người ta biết xứ này như là cửa vào và là khởi đầu của Trung Quốc. Xứ này, về hướng Nam, giáp vĩ tuyến 11 4, về hướng Bắc, xế về Đông Bắc, giáp xứ Đàng Ngoài, về hướng Đông, có biển Đông và về hướng Tây, xế về Tây Bắc, giáp nước Lào. Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về ông cố của chúa đương thời 5 cai trị Đàng Trong, người đã chống lại chính vua nước Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cha Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô. Xứ Đàng Trong trải dài hơn một trăm dặm theo bờ biển, ở vĩ tuyến 11, cho tới khoảng vĩ tuyến 17 6, chỗ bắt đầu quốc gia của chúa Đàng Ngoài. Bề rộng không lớn lắm, chỉ chừng hai mươi dặm Ý, đất bằng, một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ Mọi ở 7, tên gọi này có nghĩa là man di. Mặc dầu họ là người Đàng Trong, nhưng họ không nhìn nhận chúa cũng không thần phục ngài. Họ đóng đô và chiếm giữ miền núi rất hiểm trở. Xứ Đàng Trong chia thành năm tỉnh. Tỉnh thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai là Cacciam 8, nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia 9. Thứ tư là Quingnim 10, người Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là Renran 11. Chú thích (1) Chúng ta đang ở thời kỳ Nam Bắc phân tranh, chúa Trịnh ở Bắc và chúa Nguyễn ở Nam. (2) An Nam, miền Nam được bình định, chứ không phải miền Tây như Borri nói. Lý Anh Tôn được nhà Tống tôn làm An Nam quốc vương. Đó là năm Giáp Thân 1164. (3) Có thể gốc là Giao Chỉ. Thực ra chữ Cocincina được nhận để phân biệt với tỉnh Cochin ở An Độ. (4) Về ngành hàng hải, người Bồ và người Tây rất thành thạo. Người Hà Lan cũng đã giỏi về thuật đi biển và người ta đã bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với những vĩ tuyến, đường xích đạo. Vào thế kỷ 15, 16 trung tâm địa dư là ở Roma. (5) Lúc ngày Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) làm chúa ở Đàng Trong tục gọi là chúa Sãi. Như vậy ông cố tức là Nguyễn Kim thân sinh của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng (1600-1613), tục gọi là chúa Tiên. (6) Kỳ lạ thay, Hiệp định Genève đã coi vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam-Bắc (1954). (7) Dãy núi Trường Sơn. Chữ “Mọi” đối với ta vẫn còn nghĩa hèn kém (ở đây chỉ dân tộc ít người) (8) Quảng Nam (9) Quảng Ngãi (10) Quy Nhơn (11) Theo bản đồ 1651: 1. Quảng Bình (Dinh Công); 2. Thuận Hóa (Dinh Cả); 3. Quảng Nam (Dinh Chiêm); 4. Quảng Ngãi; 5. Quy Nhơn (Nước Mặn, Nước Ngọt); 6. Phú Yên (Ranran, Dinh Phó An)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:20:57 GMT 9
Chương 2 VỀ KHÍ HẬU VÀ ĐẶC TÍNH LÃNH THỔ ĐÀNG TRONG Như đã nói ở trên, xứ này ở vào giữa vĩ tuyến 11 và 17, do đó, nóng chứ không lạnh. Tuy vậy xứ này lại không nóng như An Độ, mặc dầu cũng vĩ tuyến như nhau và thuộc về miền nhiệt đới như nhau. Lý do sự khác biệt này là ở An Độ không phân rõ bốn mùa. Mùa hạ kéo dài tới chín tháng liên tục. Trong thời gian đó, không thấy có một chút mây trên trời, ngày cũng như đêm, thành thử không khí luôn luôn bị thiêu đốt bởi ánh nắng mặt trời. Ba tháng còn lại được kể là mùa đông, không phải vì thiếu nóng, mà là vì mưa liên tục, thường là cả ngày lẫn đêm trong mùa này. Nói theo kiểu bình thường thì mưa liên tục như thế hẳn phải làm không khí mát dịu. Tuy nhiên, vì mưa vào tháng năm, tháng sáu, tháng bảy, lúc mặt trời ở điểm cao nhất, ở tột đỉnh của An Độ và lại không hề có ngọn gió nào khác ngoài những ngọn gió thật nóng, nên không khí rất ngột ngạt, làm cho nhiệt độ khó chịu hơn là vào chính giữa mùa hạ vì lúc này thường có gió nhẹ thổi từ biển vào đem khí mát cho nội địa. Nếu không có sự an bài đặc biệt, thì không sao ở được trong những xứ sở này. Ở Đàng Trong thì không thế bởi vì có đủ bốn mùa trong năm, tuy không rõ ràng như ở Châu Au vốn có khí hậu ôn hòa hơn. Mùa hạ gồm ba tháng sáu, bảy, và tám, cũng rất nóng vì ở vào miền nhiệt đới và mặt trời trong những tháng đó cũng ở điểm cao nhất trên đầu chúng ta. Nhưng vào tháng chín, mười và mười một thuộc mùa thu thì hết nóng và khí hậu dịu bởi có mưa liên tục, nhất là ở miền núi Kẻ Mọi. Do đó nước lũ làm ngập khắp xứ, đổ ra biển, như thể đất liền và biển chỉ còn là một. Cứ mười lăm hôm lại xảy ra một trận lụt và mỗi lần kéo dài ba ngày. Ích lợi của nước lũ là không những nó làm cho không khí mát mẻ, mà còn đem phù sa làm cho đất phì nhiêu và dồi dào về mọi sự, nhất là về lúa là thức ăn tốt nhất trời ban và là lương thực chung cho khắp xứ. Còn vào ba tháng mùa đông – tháng chạp, tháng giêng và tháng hai thì có gió bắc thổi, đem mưa đủ lạnh để phân biệt mùa đông với các mùa khác trong năm. Sau cùng vào các tháng ba, tư và năm, hiện rõ các hiệu quả của một mùa xuân thú vị, tất cả đều xanh tươi và nở hoa. Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này. Trước hết mọi người ở đây đều mong nước lũ, không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để cho đồng ruộng được mầu mỡ. Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui mừng và thích thú: họ thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, ôm nhau hò hét vui vẻ và nhắc đi nhắc lại “đã đến lụt, đã đến lụt” 1 có nghĩa là nước đã tới, nước đã tới rồi. Nói tóm lại là không ai là không bày tỏ niềm vui, từ kẻ thế gia đến chúa cũng vậy. Nhưng thường thì nước lũ tới bất thần, không ai ngờ, ban chiều chưa ai nghĩ tới, nhưng sáng ra nước đã kéo vào tư bề, và người ta bị nhốt trong nhà, tình trạng này diễn ra khắp xứ. Do đọ họ thường mất hết gia súc vì không kịp đưa chúng chạy lên núi hay những nơi cao hơn. Vào trường hợp này, có một luật kì lạ ở xứ này là bò, dê, lợn và các vật khác bị chết đuối thì không còn thuộc về chủ, nhưng đương nhiên thuộc về người thứ nhất vớt được. Đây cũng là một điều làm cho người ta vui thích một cách lạ lùng: vừa có lụt, mọi người đều nhảy xuống thuyền bơi đi tìm vớt gia súc chết đuối, để rồi làm thịt và dọn cỗ linh đình. Còn trẻ con thì tuỳ theo tuổi, chúng để mắt và vui thú rình trên cánh đồng lúa mênh mông đầy rẫy chuột lớn, chuột bé, vì hang ngập nước nên chúng phải ngoi ra, bò lên cây để thoát, thành thử thật là rất vui mắt khi được nhìn thấy những cảnh cây nặng trĩu những chuột thay vì lá hay quả. Từng đám trẻ con trên các chiếc thuyền nhỏ của chúng tới rung cây làm các con vật này rớt xuống nước và chết đuối. Trò đùa nghịch và giải trí của trẻ con, nhưng thực ra có ích lợi lớn cho đồng ruộng vì thoát được những con vật gây thiệt hại nặng cho những cánh đồng rộng lớn. Cái lợi cuối cùng, không phải là nhỏ, đó là người ta đều có thể sắm sửa cho đủ mọi thứ cần dùng. Vì trong ba ngày này, nước lụt làm cho người ta có thể đi lại khắp nơi bằng thuyền một cách rất dễ dàng đến độ không có gì mà không chuyển được từ nơi này qua nơi khác. Do đó, người ta dành thời gian này để họp chợ, những phiên chợ có tiếng nhất trong xứ, số người đến họp chợ trong dịp này đông hơn bất kỳ buổi họp chợ nào khác trong năm. Cũng trong ba ngày này, người ta đi lấy cây để thổi nấu và dựng nhà. Họ chất cây từ trên núi vào thuyền và dễ dàng bơi qua các nẻo, các ngõ và tới tận nhà vốn được cất trên các hàng cột khá cao để cho nước ra vào tự do. Ai cũng leo lên sàn cao nhất và phải khen họ vì không bao giờ lụt bén tới bởi họ đã lấy kích thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực nước cao thấp, do đó họ không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà họ. Chú thích (1) Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, de Pina tới năm 1617 và Borri với Marquez tới năm 1618. Cha De Pina rất thông thạo tiếng Việt và là thầy dạy De Rhodes sau này.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:21:32 GMT 9
Chương 3 ĐẤT ĐAI PHÌ NHIÊU Người ta dễ dàng nhận thấy là nước lụt đã làm cho đất đai ở xứ Đàng Trong phì nhiêu, như chúng tôi vừa nói. Tuy nhiên, tôi thấy còn phải kể nhiều sự đặc biệt khác nữa. Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu nên mỗi năm có ba vụ lúa 1, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc. Quanh năm có rất nhiều và có đủ thứ trái cây như ở An Độ, vì xứ Đàng Trong có cùng khí hậu như ở An. Nhưng đặc biệt là cam ở Đàng Trong trái lớn hơn ở Châu Au to và rất ngọt. Vỏ rất dể bóc, mềm và ngon, cam có thể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm như trái chanh 2 ở Ý. Ở đây người ta cũng thấy một số trái khác người Bồ gọi là chuối, người khác gọi là vả An Độ. Theo ý tôi thì không xác đáng vì ở An không có cây nào được gọi là vả, và cây ở Đàng Trong không có gì giống cây vả của chúng ta, về thân cây cũng như về trái. Về thân cây thì nó giống như cây chúng ta gọi là “lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ” tuy cao lớn hơn, là rất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần hai lá cũng đủ để có thể che một người từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả người. Do đó mà có người muốn gọi cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy lá của nó để che giấu sự trần truồng của mình 3. Cây này trổ ngay trên ngọn một buồng gồm hai mươi, ba mươi hay bốn mươi trái cột chặt với nhau, mỗi trái về hình thù, bề dài và độ lớn, đều giống trái chanh thông thường ở Ý. Khi trái chưa hoàn toàn chín thì vỏ xanh và sau đó trở nên vàng giống hệt như chanh. Không cần dùng dao để bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ rất dễ dàng như bóc đâu mới hái. Mùi thì rất thơm, ruột vàng và khá cứng chắc như một trái lê bergam chín muồi của ta, dễ tan trong miệng. Do đó không thể nói là nó giống cây vả của chúng ta được, trừ vị thơm ngon và dịu ngọt. Cũng còn một thứ trái khác thuộc loại này, người ta sấy và ngâm rượu 4. Hàng năm, sau khi cây có trái, sẽ héo đi và một nhánh con trổ ở gốc để cho năm sau. Ở Ý chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng thực ra không có gì giống về cây cũng như về trái chuối này. Bây giờ chúng tôi nói tới cây (chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng không phải là cây người ta thấy ở những miền này). Trái này có rất nhiều ở hầu hết các tỉnh An Độ, nhưng ở Đàng Trong còn một thứ không thấy ở Trung Quốc cũng như ở khắp An Độ. Trái nó to, như trái chanh lớn nhất ở Ý và to đến nỗi chỉ căn một trái cũng đủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen và tròn, người ta nhai lẫn với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt cho dạ dày. Ở Đàng Trong cũng còn một loại trái cây nữa, tôi không thấy có ở An Độ, người ta gọi là cam 5. Về hình thù và chất vỏ, nó giống như lựu của ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng phải dùng thìa để múc và có vị thơm và có màu gần giống trái sơn trà chín. Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta, nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo. Họ không thiếu dưa, nhưng không ngon bằng dưa của ta, nên phải ăn với đường hay mật. Dưa gang hay dưa nước, như nhiều người gọi, rất to và rất tuyệt. Có một trái gọi là mít. Trái này cũng có ở An Độ, nhưng không ngon bằng trái ở Đàng Trong. Trái mọc ở trên một cây cao như cây hồ đào và cây dẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn nhiều. Trái to như trái bí ngô lớn ở Ý và chỉ cần một trái cũng đủ cho một người vác. Bề ngoài nó có hình thù của một nón thông, nhưng ruột thì dịu và mềm. Bên trong thì đầy những múi vàng có hột dẹp và tròn như đồng tiền ở Ý hay đồng “teston” (ở Pháp). Ở giữa mỗi múi có hạt 6 người ta bỏ đi không ăn. Có hai loại7, một loại người Bồ gọi là “giaca barca”, dóc hột, ruột cứng. Loại thứ hai không dóc hột và ruột không cứng bằng, rất mềm và nát như keo. Mùi vị của cả hai loại này rất ngon gọi là sầu riêng chúng tôi sẽ nói sau đây. Trái “durion” (sầu riêng) là một trong những trái ngon nhất hoàn cầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Bornéô và mấy đảo xung quanh. Không có gì để nói giữa cây này và cây mít. Bên ngoài, trái này cũng giống trái mít và trái thông của ta, cả về kích thước cũng như độ cứng của vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất trắng, còn mùi vị thì giống như món đông hạnh nhân của người Ý 8. Thịt và nước ngọt của nó được chứa trong mười hay mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn có nhiều múi thịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt dẻ lớn nhất của ta. Khi mở ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành thối, nhưng ở trong thì không có mùi và lại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra trước mắt tôi. Số là có một người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới Malacca thưởng thức trái này và không báo trước. Ông mở một trái ngay trước mặt vị giáo chủ. Mùi khá nặng và khó chịu xông ra làm cho giáo chủ ghê sợ và nản không dùng được. Nhưng lúc ngồi vào bàn tiệc, trong các món ăn có một món chỉ toàn là trái cây có mùi vị thơm giống món đông hạnh nhân làm cho giáo chủ dễ lầm cũng như bất cứ ai chưa được biết trước. Ông vừa đưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm thì thấy rất ngon làm ông bỡ ngỡ và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông hạnh nhân ngon đến thế. Chủ nhà mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào ngoài Thiên Chúa cao cả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà lúc đầu ông đã ghê sợ. Nghe tới đây vị giáo chủ sửng sốt và hết lời ca ngợi, ông dùng rất ngon miệng. Thế nhưng trái này ngon đến độ ngay ở Malacca là nơi sản sinh, nhiều khi giá lên tới một đồng “êcu” một trái. Xứ Đàng Trong còn có một loại trái khác người Bồ gọi là dứa. Và tôi biết trái này cũng rất thông thường ở khắp An Độ và ở Brésil. Tuy nhiên, vì tôi thấy người ta tả không đúng theo ý tôi lắm, nên tôi nghĩ là phải nói một chút. Trái này không trổ trên cây, cũng không do hạt giống, nhưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và lá hoàn toàn giống như cây các đông và atisô của ta. Trái hình tròn dài bằng chín ngón tay 9 và to như thể lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong thì dày như ruột cải củ, nhưng vỏ thì cứng hơn và sờm như vây cá. Khi chín bên trong vàng và sau khi lấy dao gọt vỏ thì ăn sống. Trái có vị chua dịu và khi chín thì thơm ngon như trái lê “bergam”. Ở xứ Đàng Trong còn một trái khác đặc biệt của xứ này người Bồ gọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc thẳng như cây dừa, rỗng ở trong và chỉ đâm lá ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở giữa các tàu lá, nảy các ngành nhỏ có trái. Trái có hình thù và kích thước của trái hồ đào 10, sắc xanh cũng như vỏ hồ đào, còn ruột thì trắng và cứng như trái dẻ 11 chẳng có mùi vị gì hết. Trái này không ăn một mình, nhưng ăn với lá trầu không, thứ cây rất thông dụng ở khắp An Độ, lá như lá thường xuân 12 ở Châu Au và thân bám vào cây chống như giống cây thường xuân. Người ta hái lá cắt thành từng miếng nhỏ và trong mỗi miếng để một miếng cau, như vậy mỗi trái có thể làm thành bốn hay năm miếng. Người ta còn thêm vôi với cau. Vôi ở xứ này không làm bằng đá như ở Châu Au, nhưng bằng vỏ sò hến 13. Vì trong nhà thường có những người chuyên lo việc bếp núc, chợ búa và các việc khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều có một người không có việc gì khác hơn là việc têm trầu, những người dùng vào việc này thường là đàn bà, nên gọi là các bà têm trầu. Những miếng trầu đã têm sẵn thì để vào trong hộp và suốt ngày người ta nhai trầu, không những khi ở trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc nói, ở mọi nơi, mọi lúc. Và sau khi đã nhai trầu lâu và nghiền trong miệng người ta không nuốt mà nhả ra, chỉ giữ hương vị và phẩm chất tăng thêm sức mạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái này được têm thành miếng rất thông dụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem theo một túi đầy trầu và mời người mình tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng cho ngay vào miệng. Trước khi người khách từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm trầu của nhà mình đem ra một túi để mời người khách đến thăm mình, như để đáp lại sự lịch thiệp mình đã nhận được. Do đó vì cần phải có sẵn coi trầu cau và có liên tục, nên cau cũng là một nguồn lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì cũng như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng ôliu. Họ cũng hút thuốc lá, nhưng thuốc lá không thông dụng bằng trầu cau. Cũng có đầy đủ các loại mướp và có cả mía nữa. Các trái cây ở Châu Au thì cho tới nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong. Tôi tin rằng nho và vả sẽ mọc được ở đây, những thứ rau như rau diếp, rau diếp xoắn, sú và những thứ rau tương tự hiện có ở Đàng Trong như ở khắp An Độ, nhưng chúng chỉ ra lá mà không có hạt và nếu muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Au qua. Thịt thà thì rất nhiều ở đây vì có vô số súc vật bốn chân nuôi trong nhà như bò, dê, lợn, trâu và các giống tương tự, và thú rừng như hươu nai to lớn hơn ở Châu Au, lợn rừng và mấy loại khác. Gia cầm như gà nhà và gà rừng rất nhiều ở thôn quê, chim gáy, chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu, thịt thơm ngon và sau cùng là mấy thứ khác ở Châu Au không có. Ngành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã qua nhiều đại dương, đã đi nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh được với xứ Đàng Trong. Và như tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển, nên có rất nhiều thuyền đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ, từng đoàn người chuyển cá từ biển tới tận miền núi, có thể nói trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì ít ra họ dùng tới hai mươi tiếng để làm việc này. Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” 14 gọi là balaciam 15 làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở Châu Au, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là thức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất nhiều balaciam (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải có một lượng lớn nước mắm và cũng do đó phải liên tục đánh cá. Cũng không ít sò, hến và các hải sản khác, nhất là một thứ họ gọi là cameron 16. Nhưng ngoài tất cả những gì đã nói, Thiên Chúa quan phòng còn dành cho họ một thức ăn hiếm và ngon, theo thiển ý tôi, chỉ có thể so sánh được với manna 17 Thiên Chúa dùng để nuôi dân riêng của Người trong sa mạc và thức ăn này rất đặc biệt chỉ có ở xứ Đàng Trong chứ không đâu có. Những điều tôi sẽ nói thì không phải bởi tôi đã nghe hay theo người khác kể lại, nhưng chính tôi có kinh nghiệm, tôi đã thấy và thường được ăn. Ở xứ này có một thứ chim be bé giống như chim én, nó làm tổ 18 ở các cồn đá và hốc đá sóng biển vỗ vào. Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát ra từ dạ dày, trộn cả hai thứ lại làm thành một thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để làm tổ. Tổ này khi đã khô cứng thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa xanh. Dân xứ này nhặt những tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và tan rã, rồi dùng làm đồ gia vị trộn với thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ nào khác làm cho các món ăn có một hương vị khác nhau tuỳ món như thể đã sẵn cho hồ tiêu, quế, đinh hương hay các thứ gia vị khác, như vậy chỉ một tổ yến mà có thể làm gia vị cho hết các thứ thịt, không cần thêm muối, dầu, mỡ hay thứ gì tương tự. Vì thế tôi nói, nó giống như manna, có hương vị của hầu hết các món thơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do công trình của một con chim bé nhỏ và một đàng là do tay các thiên thần của Thượng Đế nhào nặn. Thứ này nhiều đến nỗi chính tôi đã thấy người ta chất đầy mười chiếc thuyền nhỏ những tổ yến nhặc ở dọc các hốc núi đá, trong khoảng chưa đầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên chỉ có chúa độc quyền sử dụng, người ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số lớn cống vua Tàu là người rất chuộng. Dân ở đây không dùng sữa, họ cho là trọng tội nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo thiên nhiên thì sữa dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà không được sử dụng thứ lương thực dành riêng cho con. Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và chúng ta coi như độc, thí dụ con tắc kè, con vật này nhỉnh hơn những con đã phơi khô nhập cảng từ ngoại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã thấy người bạn tôi mua mấy con, buộc lại thành bó và đem nướng trên than hồng. Giây buộc đứt và chúng bò lê thê theo kiểu của chúng trên than hồng cho tới lúc thấy sức nóng thì chúng chống đỡ một chút vì lúc này rất lạnh, nhưng cuối cùng chúng bị thiêu và nướng chín. Thế là ông bạn tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da đã cháy, thịt nó rất trắng, ông bạn tôi nghiền thịt ra và trộn với một thứ “nước sốt” đem đun chín rồi bỏ bơ vào ăn như một thứ thịt rất thơm ngon. Ông mời tôi, nhưng tôi không dùng, chỉ nhìn theo mà thôi. Còn về tất cả những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, đất, vôi và những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đạp và quý họ mặc khỏi rách hay bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng có những cây dâu cao lớn người ta hái lá để nuôi tằm được trồng trong những thửa ruộng rộng lớn như cây gai ở bên ta, và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ trong một ít tháng là tằm được đưa ra nuôi ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ, làm thành những cái kén nhỏ với số lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà còn bán cho Nhật Bản và gửi sang nước Lào để rồi đưa sang Tây Tạng 19. Thứ lụa này tuy không thanh và mịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu. Nhà cửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ, nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ ở xứ này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các nơi đó. Trong vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường được dùng để làm nhà cửa và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước hay vùi trong bùn, và rất chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt nước và dùng làm neo tàu. Một thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun, loại thứ hai có mầu đỏ hung. Cả hai sau khi được lóc vỏ thì nhẵn và trơn không cần phải bào. Các cây đó gọi là Tin 20 và rất có thể người đó không lầm khi nói rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là gỗ chính vua Salomon đã dùng để dựng Đền thánh và chúng ta được biết qua Kinh Thánh rằng thứ cây này được gọi bằng một cái tên rất gần với tên này, ligna thying 21. Núi xứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này, thẳng tắp và cao ngất nghểu, như thể ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người ôm. Người Đàng Trong dùng gỗ này để dựng nhà và ai nấy đều có thể lên núi chặt tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều dựa vào hàng cột cao, chắc và đóng rất sâu, rồi lắp ván, nhưng người ta có thể tháo gỡ ra và thay thế bằng phên liếp, bằng tre, sậy đan rất tài tình để thông khí trong mùa nóng bức và một phần nào cho nước và thuyền qua lại tự do vào mùa lụt lội như chúng tôi đã nói ở trên. Họ cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh và nhiều hình hài khéo léo để tô điểm trang trí nhà của họ, họ chạm trổ và đẽo gọt gỗ ván rất công phu. Vì chúng tôi đang nói về cây cối và trước khi qua đề tài khác, tôi xin thêm ít điều về một loại gỗ vốn là món hàng quý nhất có thể xuất từ xứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó là thứ gỗ nổi tiếng gọi là aquila và calamba 22; cùng loại gỗ nhưng khác về tác dụng và sự quý chuộng người ta dành cho chúng. Loại cây này có rất nhiều, nhất là trên núi Kẻ Mọi, cây rất to và rất cao. Nếu gỗ cắt ở thân cây non thì là trầm hương, có rất nhiều và ai muốn lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng khi lấy ở gốc già thì đó là kỳ nam rất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên cho những cây đó mọc lên ở những ngọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được thảnh thơi già cỗi đi, không ai làm hại được mình. Thỉnh thoảng có ít cành gẫy và rời khỏi thân rơi xuống, hoặc vì khô quá hoặc vì già cỗi quá khi người ta nhặt được thì đã mục nát và mốc thếch. Nhưng đó lại là thứ có giá nhất và lừng danh nhất gọi là kỳ nam vượt hẳn thứ trầm hương thông thường rất nhiều về tác dụng và về hương thơm. Trầm hương thì ai cũng có thể bán tuỳ thích nhưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Thực ra ở chính nơi nhặt được, nó rất thơm, rất dịu, tôi đã muốn thử mấy miếng người ta cho tôi, tôiđem chôn dưới đất sâu chừng hơn năm chân 23 thế mà vẫn ngửi thấy hương thơm. Kỳ nam nhặt tại chỗ thì giá năm đồng đuca 24 một líu, nhưng ở hải cảng xứ Đàng Trong, nơi buôn bán thì đắt hơn, nghĩa là hai trăm đuca một líu. Nếu tìm được một tấm lớn có thể làm gối để gối đầu, còn hay làm gối dài 25 thì người Nhật mua tới ba trăm hay bốn trăm đuca một líu. Là vì người ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên dùng làm gối một thứ gì cứng hơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa hay sinh bệnh. Thường thì họ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta mong có được thứ gỗ quý nhất có thể sắm được 26. Trầm hương thì ít được trọng hơn và giá cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu chở đầy trầm hương cũng đủ cho thương gia trở nên giàu có và sung túc suốt đời. Thế nên phần thưởng lớn nhất chúa ban cho thuyền trưởng Malacca, đó là cho phép ông buôn trầm hương. Bởi vì người Bàlamôn và người Banian 27 ở An Độ có tục hỏa thiêu xác người chết bằng gỗ rất thơm, nên họ cần có ngay một số lượng lớn. Sau cùng, xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất dồi dào về mọi thứ. Phải nói thêm ở đây chút ít về các thú vật chúng tôi đã nói là có rất nhiều ở Đàng Trong, nhưng để khỏi nói nhiều, tôi chỉ xin nói về voi và tê giác, nhất là ở xứ này và nhiều chuyện kỳ lạ chưa bao giờ nghe thấy. Chú thích (1) Ba vụ lúa: chúng tôi chưa biết rõ việc này. (2) Chanh ở Ý lớn hơn chanh của ta, màu vàng chứ không xanh như ta. (3) Theo Kinh Thánh, sau khi phạm tội ăn trái cấm, tổ tiên thấy mình trần truồng và phải lấy lá che thân. (4) Có thể là một thứ chuối “ngự” thơm và nhỏ, hay một thứ trái cây nào khác. (5) Trái nói ở trên có thể là trái ổi còn trái “cam” này có thể là trái thanh long. (6) Có thể cho trái mít cũng thuộc về loại “sầu riêng” (7) Mít mật và mít dai (8) Món hạnh nhân tán nhỏ hòa với đường, rồi để vào tủ lạnh, món ăn rất sang của người Châu Au vào thời này. (9) “Pouce” cách đo thời xưa cũng như kiểu đo gang tay hay sải. (10) Tiếng Pháp: noix (11) Tiếng Pháp: châtaignes (12) Tiếng Pháp: lierre, thứ như nho dại, lá xanh và leo trên tường (13) Thứ vôi này có màu hồng (14) Nước sốt (sauce), một thứ nước dùng riêng đằng đặc gồm nước thịt và mỡ béo để tưới vào các thức ăn khô và nhạt. (15) Nước mắm rất danh tiếng của ta (16) Chúng tôi chưa rõ đây là thứ gì (17) Thức ăn từ trời rơi xuống, có mùi vị theo sở thích người dùng. (18) Chim yến, tổ yến. “Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cả con trong biển, rồi đêm đến nhả nước dãi thành những vành tròn hình xoáy ốc để xây tổ (Đỗ Tất Lợi: Những cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam, Hà Nội 1981, tr.945) (19) Vào thế kỷ 15, 16, 17 người Châu Au qua phương Đông nhất là Trung Quốc để buôn hồ tiêu và tơ lụa, vì thế có con đường gọi là con đường tơ lụa (route de la soie) (20) Gỗ lim (21) Chúng tôi chưa nghiên cứu xem danh từ này có nghĩa thế nào. Nếu là lim thì theo Đỗ Tất Lợi, sách dẫn, là những thứ cây mọc phổ biến của nước ta, nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền Trung. Còn thấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc. Thường người ta khai thác gỗ làm nhà, làm đồ dùng. Có thể cao hơn mười thước hoặc hơn nữa (tr.361) (22) Trầm hương: kỳ nam là loại trầm hương quý nhất, xem: Đỗ Tất Lợi, sd tr.449-450. (23) Pied: chân, cách đo thời xưa, chừng 0.3407m (24) Đồng tiền này thường đúc bằng vàng vào thế kỷ 13 tại Venise (Ý) lúc đó là một cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng. Líu: livre, tức nửa cân. (25) Gối dài là thứ gối theo suốt bề ngang của chiếc giường lớn. (26) Ở xứ nóng thường dùng gối mây hoặc gỗ, khác hẳn các xứ lạnh. (2) (27) Không rõ thuộc tôn giáo nào, còn đạo Bàlamôn là đạo chính yếu của An Độ.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:22:08 GMT 9
Chương 4 VOI VÀ TÊ GIÁC Rừng xứ Đàng Trong có rất nhiều voi, nhưng người ta không sử dụng được vì chưa biết cách bắt và luyện chúng. Vì thế phải đưa những con voi đã thuần phục và dạy dỗ từ nước láng giềng Campuchia. Voi ở đây lớn gấp hai voi ở An Độ. Chân và vết chân nó để lại đường kính đo được chừng nửa mét. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà voi thì dài tới 4.7m, đó là voi đực. Ngà của voi cái thì ngắn hơn nhiều. Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở xứ Đàng Trong to lớn hơn voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở Châu Au tới mức nào: ngà của các con voi này chưa được 8 tấc. Voi sống lâu năm. Một lần tôi hỏi tuổi một con voi tôi gặp thì người quản tượng đạp là đã sáu mươi tuổi ở Campuchia và bốn mươi ở Đàng Trong. Vì tôi đã di chuyển nhiều lần trên lưng voi ở xứ Đàng Trong nên tôi có thể kể lại mấy câu chuyện kỳ lạ, nhưng có thật. Voi thường chở tới mười ba hay mười bốn người, theo cách thức sau đây. Cũng như chúng ta thắng yên trên lưng ngựa, người ta cũng đặt trên lưng voi một bành lớn như cỗ kiệu trong đó có bốn chỗ ngồi và người ta buộc bằng chão sắt luồn dưới bụng voi như yên và đai ngựa. Bành có cửa mở hai bên và có thể chứa được sáu người, ngồi làm hai hàng, mỗi hàng ba người, một người ngồi ở đằng sau với hai người nữa, và cuối cùng là người ngồi trên đầu voi để điều khiển và chỉ huy gọi là quản tượng. Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng đã có mấy lần tôi theo đường thuỷ, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn nửa dặm. Thật là kỳ diệu đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng kiến một khối thịt rất lớn, rất to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội trong nước như một chiếc thuyền có chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực lắm, phần vì phải mang một khối lớn, phần vì khó thở đến nỗi để cho bớt nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy nước và tung lên rất cao làm cho người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong lòng biển cả. Cũng vì nó to lớn như vậy nên rất khó cúi mình. Thế nhưng nó cần phải khom xuống để cho hành khách tiện lên xuống. Nó không bao giờ khom nếu không có lệnh của quản tượng, và nếu trong khi nó khom xuống mà có ai còn quá nhởn nhơ mất thời giờ, hoặc còn chuyện vãn chào hỏi bè bạn hay làm việc nào khác, tức thì nó chồm chân đứng lên vì không thể đợi được. Như thế mới biết nó rất khó chịu khi phải giữ tư thế đó lâu. Không có gì phải bỡ ngỡ khi thấy quản tượng ra lệnh và nó thu xếp làm cho mình nó thành một thứ thang, có thể nói được như vậy, rất tiện cho người ta leo lên bành. Để làm bậc thứ nhất, nó đưa chân khá cao đối với đất. Nó giơ cổ chân cũng khá xa để làm bậc thứ hai, và để làm bậc thứ ba, nó gấp đầu gối lại. Bậc thứ bốn là cái xương ở bên hông hơi dô ra một chút, rồi nó lấy vòi đỡ bạn và đưa bạn tới chiếc xích buộc ở bành. Ở đây mới thấy rõ sự lầm lẫn của những người đã nói và còn để lại bút tích rằng voi không cúi mình được, cũng không nằm được, thế nên muốn bắt nó chỉ có cách độc nhất là cưa thân cây nó dùng để dựa mà ngủ, bởi vì khi thân cây đổ thì nó cũng ngã theo và cứ năm như thế không sao trỗi dậy được, nên làm mồi ngon cho người săn. Tất cả chỉ là chuyện huyền hoặc vì thực ra khi nó ngủ, nó không bao giờ nằm, tư thế đó không tiện cho nó và gây khó nhọc như chúng tôi đã nói. Thế nên, nó luôn ngủ đứng, đầu luôn luôn ngoe nguẩy. Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta nhấc mui bành đi để làm thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để chở vì là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển. Tôi cũng thấy những con khác nhổ những cây to lớn mà không mấy vất vả như thể chúng ta nhổ su hào hay rau diếp. Chúng cũng dễ dàng ném xuống đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy phố khi được lệnh trong trận chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để không cho ngọn lửa bén khi có hoả hoạn. Vòi nó dài so với bề cao của thân mình, nên không cần nghiêng hay cúi, nó dễ dàng lượm đồ vật dưới đất tuỳ ý. Vòi này gồm nhiều bó gân kết lại và xoắn với nhau, một đàng làm cho nó rất mềm dẻo và dễ xoay trở đưa ra khi cần để cầm những món đồ rất nhỏ, và đàng khác làm cho nó cứng và khoẻ như chúng tôi đã nói. Toàn thân mình nó bọc lớp da cứng và ráp, màu tro. Mỗi ngày nó thường đi được chừng mười hai dặm. Đối với những người không quen thì sự vận chuyển của nó gây khó chịu cũng như người chưa quen đi biển bị say sóng vì thuyền chòng chành. Về sự dễ bảo của voi thì tôi sẽ kể những việc kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để cho biết là người nói câu này rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior: trong các con vật khổng lồ, không con nào khôn bằng voi 1 vì thấy nó thực hiện được những việc làm cho người ta tưởng nó có trí thông minh và khôn ngoan. Trước hết, mặc dầu quản tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài chừng bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh truyền, thế nhưng thường thường họ điều khiển và chỉ huy bằng lời nói, đến nỗi tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có mấy con biết tới ba hay bốn thứ tiếng rất khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia trong đó nó đã sống. Thí dụ con voi đã đưa tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì gốc nó ở đó, rồi tinh thông tiếng Đàng Trong là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ khi thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn dò về hành trình và đường đi lối bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và sau cùng kể chi tiết tất cả các việc nó phải làm trong ngày. Và voi làm phận sự mình một cách chính xác như một người có lương tri và phán đoán có thể làm được. Đến nỗi sau khi voi coi như đã biết nơi phải đi thì nó cứ thẳng tắp thi hành bằng con đường ngắn nhất, không lần chần do sự tìm lối quá quen hay không bỡ ngỡ vì gặp sông lớn, rừng già hay núi cao. Nó cho rằng nó dễ dàng vượt qua hết, nó cứ lên đường và theo lộ trình, vượt hết mọi thứ khó khăn. Nếu gặp sông phải qua thì nó hoặc bước sang chỗ cạn hoặc ngoi lội chỗ nước lớn. Nếu phải qua rừng thì nó đè bẹp cành cây ngáng trở, dùng vòi nhổ cây dọn thành con đường rộng và dễ đi, rừng rậm rạp đến đâu đi nữa cũng có lối đi nếu thấy voi đã qua và đã mở đường. Tất cả những việc này voi làm theo lệnh của quản tượng, một cách dễ dàng, nhanh chóng và mẫn cán. Chỉ có một bất tiện cho con vật này và làm cho nó khổ sở, đó là khi có gai hay vật gì tương tự đâm vào bàn chân nó vốn mềm và nhạy cảm một cách lạ lùng, mặc dầu nó rất cẩn thận bước từng bước, khi qua nơi hiểm trở. Có lần trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp theo nhau, tôi nghe thấy các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình phải thận trọng khi đặt chân vì trong một quãng đường chừng nửa dặm chúng phải qua một bãi cát trong đó thường có gai. Nghe thế, các con voi đều cúi đầu, mở to mắt như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất. Chúng bước từng bước, rất chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới khi nghe báo là không còn phải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục hành trình như trước. Ngày hôm sau phải đỗ lại ở một nơi không có rừng cây nên mỗi quản tượng đều đem một bó cây tươi và khá lớn cho voi. Tôi rất thích thú nhìn xem một con dùng vòi với lấy cây một cách khéo hơn các con khác, rồi dùng răng bóc vỏ và ăn rất nhanh, rất ngon như chúng ta ăn trái vả hay một trái nào khác vậy. Ngày hôm sau, tôi ngồi trò chuyện với những hành khách khác, chừng hai mươi người. Tôi cho họ hay về sự thích thú đặc biệt của tôi khi thấy con voi ăn cành cây một cách ngon lành. Lúc ấy, quản tượng theo lệnh của người chủ voi lớn tiếng gọi con voi với cái tên của nó là gnin và vì nó ở hơi xa nên nó ngẩng đầu vểnh tai lắng nghe xem người ta muốn nói gì với nó. Quản tượng bảo nó rằng: mi làm vui lòng ông cha đi đường này đi, hôm qua ông đã thích thú nhìn mi ăn, bây giờ mi cầm lấy một cây như cây hôm qua và tới trước mặt ông ta và làm như mi đã làm. Quản tượng vừa nói dứt lời thì voi đã đến trước mặt tôi, vòi quấn một thân cây, rồi nhìn tôi trong đám người khác, giơ cho tôi coi rồi bóc vỏ và ăn, sau đó cúi đầu chào tôi và rút lui như thể mỉm cười, với những dấu hiệu thích thú và mừng rỡ. Còn tôi, tôi rất ngạc nhiên thấy ở nơi một con thú có nhiều khả năng hiểu biết và thi hành điều người ta truyền cho nó như vậy. Thực ra nó chỉ vâng theo quản tượng hay chủ nó mà thôi. Nó cũng không để cho người nào lạ leo lên cưỡi: nó mà thấy thì nó sẽ quăng bành xuống đất và dùng vòi mà sát hại người ấy. Vì thế, khi có người phải leo lên thì quản tượng lấy tai nó che mắt nó, tai nó to và xấu xí. Khi nó không chịu nghe lệnh truyền và không nhanh nhảu làm theo thì quản tưởng đứng hai chân trên đầu nó, đánh và trị nó rất nặng, rất cương quyết, lấy roi quất mạnh trên trán nó. Có lần mấy người chúng tôi cùng đi chung một voi chở chúng tôi, người quản tượng đánh nó như chúng tôi vừa nói, mỗi lần roi quất trên nó, chúng tôi tưởng như nó sẽ ném chúng tôi xuống đất. Thường thường người ta quất sáu bảy cái vào giữa trán nó, và mạnh đến nỗi làm voi rùng cả mình: phải nhận là nó rất kiên nhẫn chịu đựng. Chỉ có một trường hợp nó không vâng theo quản tượng và bất cứ ai, đó là khi nó bất thần động đực, vì lúc đó hình như nó không tự kiềm chế nổi, nó không chịu ai, nó lấy vòi ném bành và mọi người trong đó, nó giết, nó huỷ và phá vỡ tan tành. Thường thì quản tượng biết trước qua một vài dấu hiệu. Lập tức, mọi người xuống đất, tháo gỡ bành và để nó một mình ở một chỗ xa cho tới khi nó hết cơn. Sau đó, như thấy mình đã gây nên xáo trộn và như tự lấy làm hổ thẹn, nó cúi đầu chịu đánh đập như một kẻ phạm tội. Thời xưa người ta dùng voi rất có ích trong chinh chiến và đạo binh nào ra trận với những con vật như vậy thì thật là đáng sợ. Nhưng từ khi người Bồ tìm được cách ném tàn lửa và đuốc vào mũi chúng thì càng làm cho chúng gây hại hơn trước. Bởi vì chúng không thể chịu được lửa đốt làm cay mắt nên chúng đùng đùng chạy trốn và làm tan tác đạo binh, giết hại và phá phách tất cả những gì cản đường chúng. Voi nhà chỉ sợ hai con thú khác là voi rừng và tê giác, nó có thể thắng được tê giác, nhưng đối với voi rừng thì thường nó chịu thua. Tê giác là một thú vật có một cái gì giống bò và ngựa, nhưng lại to lớn như một con voi con. Mình nó đầy vẩy 2 như những yếm để tự che thân. Nó chỉ có một sừng ở ngay giữa trán, thẳng tắp và có hình kim tự tháp, còn chân và móng thì như bò. Khi tôi ở Nước Mặn một xã thuộc tỉnh Quy Nhơn, có biết một viên quan lần nọ đi săn tê giác ở trong khu rừng gần nhà chúng tôi. Ông đem theo hơn một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa cùng với tám hay mười con voi. Con tê giác ra khỏi khu rừng và một số đông địch thù, nó không những không tỏ vẻ sợ hãi mà còn thu hết sức lực giận dữ xông tới, thế là đạo binh phân tán làm hai cánh để cho con tê giác lọt vào giữa và chạy tới hậu quân có viên quan đứng chờ để giết nó. Viên quan ngồi trên lưng voi, voi cố lấy vòi chộp lấy tê giác, nhưng không sao làm nổi vì tê giác nhảy tứ tung, cố dùng sứng để đâm voi. Viên quan biết rõ tê giác vì có vẩy nên không dễ gì bị thương nếu chỉ đánh vào bên cạnh. Ông chờ đến lúc nó nhảy lên và phơi bụng ra, lúc đó ông nhắm, và rất thiện nghệ, ông ném ngọn đao đâm suốt từ bụng tới lưng, giữa tiếng hò hét vui mừng của cả đạo quân. Không chờ đợi gì nữa họ lập tức quơ một đống củi lớn, châm lửa đốt, trong khi vẩy con thú bị thiêu và thịt nướng chín thì họ nhảy múa chung quanh, mỗi người tiếp theo nhau xẻo thịt đang chín dần dần và ăn vui vẻ. Sau đó họ mổ lấy tim, gan và óc để dọn món mĩ vị đem hầu viên quan lúc này đã lui ra xa một chút, ở một nơi khá cao, vui mừng và thích thú nhìn xem cuộc vui. Còn tôi, tôi có mặt trong cuộc, tôi cũng có phần và phần của tôi là móng con vật viên quan cho tôi, móng đó cũng có những tác dụng và tính chất như móng voi, dùng làm thuốc chống ngộ độc một cách tuyệt diệu không hơn không kém sừng kỳ lân 3 Chú thích (1) Tiếng Latinh trong văn bản: “Elephanto belluarum nulla prudentior” (2) Theo Đỗ Tất Lợi, sách đã dẫn: “da nhẵn không sùi màu, biểu bì có rãnh nhỏ chia làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với nhau bởi nhiều nếp, nếp trước và sau vai cũng như nếp trước đùi kéo dài qua lưng. Nếp gáy tương đối kém phát triển. Màu da xám thẫm toàn thân” (Sd, tr.984) Thường có một sừng, nhưng cũng có tê giác hai sừng, Sd tr.985 (3) Tiếng Pháp “La licorne”. Nhưng kỳ lân phải chăng là thú hoang đường?
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:22:55 GMT 9
Chương 5 VỀ TÍNH TÌNH, PHONG HÓA, TỤC LỆ NGƯỜI ĐÀNG TRONG, CÁCH SỐNG, CÁCH ĂN MẶC VÀ THUỐC MEN CỦA HỌ Về màu da thì người Đàng Trong không khác người Tàu, tất cả đều có sắc xám xanh 1, nếu là người ở ven biển, còn những người khác từ nội địa cho tới biên giới Đàng Ngoài thì cũng trắng như người Châu Au. Về nét mặt thì cũng giống, như người Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói, họ không quá lùn như người Nhật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật là hơn họ về một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến trận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất cứ giá nào. Người Đàng Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân phương Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm, nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận. Tất cả các nước phương Đông đều cho người Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ ghét mặt đến nỗi khi chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng tôi như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi từ lâu. Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của Chúa Kitô đến rao giảng Phúc âm. Từ tính tình rất trọng khách và cách ăn ở giản dị đó mà họ rất đoàn kết với nhau, rất hiểu biết nhau, đối xử với nhau rất thành thật, rất trong sáng, như thể tất cả đều là anh em với nhau, cùng ăn uống và cùng sống chung trong một nhà, mặc dầu trước đó chưa bao giờ họ thấy nhau, biết nhau. Họ coi là một nết rất xấu, nếu ai ăn món gì dù rất nhỏ mịn mà không chia sẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một miếng. Họ có tính quảng đại, hay bố thí cho người nghèo, họ có thói quen không bao giờ từ chối, không cho kẻ xin bố thí. Họ nghĩ là sẽ không làm đủ bổn phận nếu từ chối, họ coi như bị ràng buộc bởi phép công bằng. Do đó có lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tàu và được cứu tại một cảng Đàng Trong. Họ không biết tiếng để xin người ta cho thức ăn để sống, họ chỉ cần học một chữ thôi cũng đủ, đó là chữ đói, có nghĩa là tôi đói. Bởi vì vừa nghe thấy người ngoại quốc than thở như vậy và đi qua các cửa nhà người dân mà kêu đói, thì tất cả đều động lòng thương và cho họ ăn, đến nỗi chỉ trong một thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều thức ăn dự trữ, đến khi chúa cấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì chẳng ai muốn đi vì họ quyến luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những người rộng rãi cho họ các thứ để sống mà không phải làm việc. Cuối cùng người thuyền trưởng buộc phải vác gậy đánh đập họ, thì họ mới chịu sửa soạn xuống tàu, đem chất trong tàu thóc gạo họ đã xin được, khi họ đi gõ cửa các nhà và kêu đói. Nếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng rãi hay cho, thì mặt khác họ lai hay xin những gì họ thấy. Thế nên khi họ vừa đưa mắt nhìn thấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ đem lòng thèm muốn và nói ngay xin một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ coi là rất bất lịch sự nếu người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và chỉ có một cái mà thôi. Ai từ chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do đó một là nên giấu đi, hai là sẵn sàng cho người nào xin. Một thương gia người Bồ không ưa cách cư xử lạ lùng đó, bởi vì hễ họ trông thấy ông cầm đồ vật gì đẹp trong tay là họ xin liền. Một hôm ông nhất quyết cũng làm thử như họ. Ông tới gần thuyền của một người đánh cá nghèo và để tay trên một cái rổ lớn đầy cá, ông nói bằng tiếng bản xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này. Chẳng nói chẳng rằng, người thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông đem về. Người Bồ đem về nhà, rất sửng sốt và khen ngợi lòng quảng đại của người Đàng Trong. Thực ra vì thương người thuyền chài nghèo khổ, nên sau đó ông trả tiền rổ cá theo giá của nó. Những từ ngữ về đối thoại, giao tiếp và lịch sự thì cũng giống như từ ngữ Trung Hoa. Người dưới rất kính trọng người trên, cũng như kẻ bằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả cách thức tỉ mỉ và những lời khen tế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt nơi người Trung Hoa, nhất là họ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi tác, bao giờ họ cũng nể người có tuổi hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế nào, bao giờ họ cũng nhường ưu tiên cho người già hơn. Vì thế có một lần mấy viên quan lớn tới thăm nhà chúng tôi, mặc dầu đã được người thông dịch cho họ biết là có một cha có tuổi hơn cả, nhưng không phải là Bề trên, thế nhưng không tài nào ngăn cản họ chào người có tuổi đó trước hết, sau mới chào Bề trên, là người trẻ tuổi hơn. Trong tất cả các nhà cửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn đến đâu đi nữa, người ta cũng giữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là ngồi trên chiếu trải trên đất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai là ngồi trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và mịn hơn, dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba là trên một thứ bục 2 cao hơn đất chừng tám tấc làm thành như cái giường và chỉ dành cho các quan và bậc chức vị bản địa hay những người lo việc thiêng liêng, như các cha dòng chúng tôi thường được ngồi. Vì người Đàng Trong tử tế và có tính tình hòa nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự do sống theo đạo của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen cách làm của người nước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và dễ dàng chuộng đạo giáo của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn với người Tàu, họ chỉ khen ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ mà thôi. Còn về y phục thì như chúng tôi đã nói, tơ lụa rất thông dụng ở xứ Đàng Trong đến nỗi ai cũng mặc hàng tơ lụa. Bây giờ chỉ nói về cách họ mặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ 3, phải nhận rằng cách mặc của họ tôi vẫn coi là giản dị hơn khắp cõi An Độ, vì họ không để lộ một phần nào trong thân thể, ngay cả trong những mùa nóng bức nhất. Họ mặc tới năm hay sáu váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia và tất cả có màu sắc khác nhau. Cái thứ nhất phủ dài xuống chấm đất, họ kéo lê rất trịnh trọng, khéo léo và uy nghiêm đến nỗi không trông thấy đầu ngón chân. Sau đó là cái thứ hai ngắn hơn cái thứ nhất chừng bốn hay năm đốt ngón tay, rồi tới cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai và cứ thế trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ ngắn hơn cái kia, để cho các màu sắc đều được phô bày trong sự khác biệt của mỗi tấm. Đó là thứ phái nữ mặc từ thắt lưng xuống bên dưới. Còn trên thân mình thì họ khoác vắt chéo như bàn cờ với nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một tấm voan rất mịn và rất mỏng cho người ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng khác mùa xuân vui tươi và duyên dáng, nhưng cũng không kém trịnh trọng và giản dị. Họ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp. Họ đội trên đầu một thứ mũ lớn riềm rộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông xa hơn ba hay bốn bước trước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến tuỳ theo gia thế của từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ làm gì khác khi phải chào hỏi những người mình gặp, ngoài việc cất nón đủ để trông thấy mặt. Đàn ông 4 thì không nai nịt, nhưng quàng cả một tấm, rồi cũng thêm năm hay sáu áo dài và rộng. Tất cả đều bằng lụa màu sắc khác nhau với ông tay rộng và dài như ống tay các tu sĩ Biển Đức. Còn từ thắt lưng trở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu rất khéo và rất đẹp. Thế nên khi ra phố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu có gió nhẹ thổi từ bên trong làm tung bay thì thực ra có thể nói là những con công xoay tròn khoe màu sắc đẹp của mình. Họ cũng để tóc dài như đàn bà, cho xõa tóc tới gót chân và cũng đội nón. Người có râu thì hiếm, họ không bao giờ cắt. Về điểm này, họ làm theo người Tàu. Họ còn để móng tay dài: người quý phái không bao giờ cắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu của sự quý phái, và để mình khác biệt với thường dân và thợ thuyền, những người này không để dài được vì vướng tay trong khi hành nghề, tỉ như kị mã để móng tay dài thì không sao nắm chặt dây cương trong lòng bàn tay. Họ không thể thưởng thức cách cắt tóc ngắn và cắt móng tay của chúng ta, họ nại lý do là thiên nhiên ban cho các thứ đó để trang trí bản thân con người. Có lần nói chuyện về tóc, họ bác bẻ chúng ta và không dễ gì đáp lại được lúc đầu. Họ nói, nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các ông khoe là các ông bắt chước hết mọi việc Người làm, nhưng chính Người để tóc dài theo kiểu người Nagiarét, như chính các ông quả quyết và cho chúng tôi coi hình ảnh, thì tại sao các ông không làm theo như Người. Họ nói thêm để cho có thế lực hơn nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài, như vậy là Người muốn cho chúng ta biết đó là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng hài lòng khi chúng tôi trả lời là bắt chước không phải là làm theo một cách lố lăng. Các văn nhân và tiến sĩ thì ăn mặc trịnh trọng hơn, không màu mè loè loẹt. Họ choàng lên trên tất cả một áo dài đen. Họ còn khoác một thứ khăn quấn cổ và ở cổ tay một khăn bằng lụa màu da trời, còn đầu thì thường đội một thứ mũ kiểu như mũ giám mục. Cả đàn ông đàn bà đều ưa cầm quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy lệ thôi. Người Châu Au chúng ta khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng màu trắng. Khi họ chào nhau, không bao giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là không lịch sự, cũng giống như người Tàu, họ cho đó là không phải phép đối với người thế gia và rất vô lễ. Vì thế, để cho hợp với họ các cha dòng chúng tôi đã thấy cần phải được đức giáo hoàng Phaolô V cho phép dâng thánh lễ đầu đội mũ trong những miền đất này.5 Sau cùng người Đàng Trong không đi dép cũng không đi giầy, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mấy giây lụa và khuy trên mu bàn chân như kiểu săn đan của ta để cho bàn chân không bị đâm: Họ cho rằng đi chân không không phải là không biết cách ăn ở, họ đi dép hay đi chân không thì chân họ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm, nhưng họ không ngại vì trước nhà họ bao giờ cũng có một chậu đầy nước để rửa chân. Còn kẻ đi dép thì phải để dép ở ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì trong nhà không cần, họ đã trải chiếu nên họ không sợ bẩn. 6 Dân Đàng Trong rất trọng những tục lệ của họ. Họ khinh những tục lệ của người ngoại quốc như người Tàu. Các cha không cần thay đổi y phục, thực ra không khác cách ăn vận chung ở khắp An Độ. Các ngài mặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon thường làm màu thanh thiên và ra nơi công chúng như thế không thêm áo dái hay áo choàng 7. Cũng không đi giầy như tục người Châu Au hay người bản xứ: vì giầy Châu Au thì làm gì có mà đi và cũng không ai biết làm 8, còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho người chưa quen, nên đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón nọ cách xa ngón kia, do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài nhất là trong lúc đầu, vì đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau một thời gian thì theo tính tự nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không có thấy khó chịu, mặc dầu phải đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen lắm đến nỗi khi trở về Macao, tôi không chịu được giầy, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân tôi vướng víu làm sao. 9 Thức ăn thông thường nhất của người Đàng Trong là cơm và thật là điều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà, vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại là cơm, họ xới thật nhiều cơm, ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm náp các món thịt như để theo nghi lễ. Lương thực chính yếu của họ là cơm như bánh mì là lương thực chính của chúng ta; họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm, không cần nước sốt hay món gì khác vì sợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ hay muối hay dầu mỡ hay đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước thôi để cho cơm không dính vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn, chỉ mềm một chút và dẻo. Họ còn kinh nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và ăn rất nhiều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi hỏi. Người Đàng Trong ngồi trên đất để ăn, chân xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm được khắc vẽ chạm trổ tỉ mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của người dùng. Mâm này không lớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng 10, cho nên trong bữa tiệc có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn riêng ở nhà họ cũng giữ như vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng chung một mâm. Họ không dùng dao hay xiên trong mâm, thực ra họ không cần dao, xiên. Họ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong bếp và thay vì xiên thì họ dùng những đũa nhỏ rất nhẵn nhụi họ cầm giữa các ngón tay để gắp một cách rất khéo léo, rất sành sỏi, nên không cần gì khác. Họ cũng không cần khăn ăn vì không hề dùng tay, không bao giờ lấy thịt mà không dùng đũa. Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa lân bang với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi đã nói trước đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở nhà mình. Và mặc dầu người mời là người nghèo, người ta không tin ông thành thực, nếu mỗi khách mời không có trong mâm ít nhất là một số các món ăn. Bởi vì họ có thói quen mời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba nghìn người. Cho nên tiệc này phải làm ở thôn quê là nơi có chỗ rộng để bày mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những mâm nhỏ như chúng tôi đã nói. Trên đó bày tới cả trăm món, vả trong những dịp này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với những thanh nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các món, gồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật bốn cẳng, gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong mùa. Nếu chẳng may thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và người ta không coi bữa ăn đó là bữa tiệc. Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc trên thì đứng hầu, khi chủ ăn xong thì tới phiên toán gia nhân bậc trên có đầy tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến lượt những người đầy tớ bậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất cả những món đầy rẫy đó và theo tục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho thoả thuê. Một mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê thỏa, còn thừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về nhà cho vợ con được no nê 11. Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây. Đàng Trong không có nho, do đó cũng không có rượu nho, họ dùng làm rượu một thứ gạo cất có mùi vị như rượu của ta, giống cả về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có rất nhiều rượu đến nỗi mọi người đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và không hề buồn vì không có rượu nho ở những miền này. Thế nhưng, những người khá giả thường có thói quen pha thêm một thứ rượu cất ở cây trầm hương làm cho mùi vị có một hương thơm đặc biệt, sự pha trộn này rất thành công. Trong ngày họ có tục dùng một thứ nước rất nóng, trong đó nấu một thứ rễ cỏ 12 gọi là trà, cũng là tên thứ nước uống đó, thứ nước này rất bổ và giúp cho tan các chất xấu trong dạ dày và làm cho dễ tiêu. Ngừơi Nhật và người Tàu cũng dùng, trừ ở Tàu, người ta không dùng rễ mà dùng lá và ở Nhật người ta tán nhỏ, nhưng hiệu lực thì cũng giống nhau và tất cả đều gọi là trà. Thật là một sự không thể tin được là người Châu Au chúng ta ở đây có rất nhiều thịt thà và dồi dào về đủ mọi thứ, thế mà chúng ta vẫn còn đói, còn khát, không phải vì thiếu thịt mà vì không quen với các thứ đó, bản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì và rượu nho một cách đột ngột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ cảm thấy như thế, nếu họ tới Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều thứ thịt ngon và rất dồi dào. Tôi kể ở đây một việc đã xảy đến với một quan cai trị xứ Đàng Trong. Ông này là bạn thân của chúng tôi, chúng tôi mời ông đến nhà chúng tôi dùng cơm và để tỏ mối thịnh tình khăng khít của tôi đối với ông thì chúng tôi dọn nhiều món theo lối Châu Au của chúng tôi. Ông ngồi vào bàn và thay vì như chúng tôi tưởng ông sẽ chiều ý chúng tôi mà khen ý tốt lành của chúng tôi và cảm ơn về sự mới lạ này, bởi vì chúng tôi đã không tiếc công, nên thử dọn cho ông hết các món liên tiếp. Thế nhưng không có món nào ông có thể dùng được, mặc dầu ông cố gắng tỏ ra hết sức lịch thiệp và thành tâm 13. Đến nỗi chúng tôi đành phải đem lên những món thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng cố gắng hết sức. Lúc ấy ông mới ăn ngon lành và hài lòng, còn chúng tôi mới thỏa dạ. Thế nên, về việc ăn uống cũng như về những gì chúng tôi đã nói như về việc đi chân không, bản tính tự nhiên cũng cho quen dần với nếp sống bản xứ, tập cho thành thục và làm rất đúng đến nỗi thức ăn ban đầu trở nên kỳ dị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi đã nghiệm thấy, khi tôi về từ những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng được ăn cơm xứ Đàng Trong mà tôi thấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây người ta đem cho tôi. Còn về thầy thuốc và cách chữa các bệnh nhân, tôi phải nói là có rất nhiều, người Bồ cũng như người bản xứ, và người ta thường thấy nhiều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu Au không chữa được thì đã được khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi một cách dễ dàng. Không ít lần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân, coi như xong rồi, thế nhưng bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ dàng nếu gọi được một lương y bản xứ. Phương pháp của họ là thoạt vào phòng người bệnh, họ ngồi nghỉ một lát gần giường bệnh, để cho dịu cảm xúc khi tới đây. Rồi họ bắt mạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ nói ông hay bà mắc chứng gì và nếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho biết, tôi không có thuốc chữa bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có thể chữa được bằng thứ thuốc nào của họ thì họ cũn cho biết, tôi có cách chữa ông, bà và trong bao lâu, tôi sẽ chữa ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ bàn về tiền thù lao cho lương y trong trường hợp khỏi bệnh. Tiền nhiều ít tuỳ theo tính chất và sự nặng nhẹ của bệnh và có lần hai bên có hợp đồng với nhau. Rồi chính lương y bốc thuốc, không cần tới dược sĩ, vì thế họ không có dược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ bí mật của các liều thuốc họ cho, vì thê họ hết sức giấu, một phần cũng vì họ không dám tin tưởng vào một người nào khác bốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu bệnh nhân phục hồi sức khoẻ trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả, thường diễn ra như vậy, thì buộc phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với nhau, nhưng nếu không khỏi thì lương y mất cả công, mất cả thuốc. Thuốc họ cho bệnh nhân uống thì không như thuốc chúng ta, vừa khó uống lại làm yếu và làm cho bụng ươn lười, nhưng dễ uống như canh 14 và cũng rất bổ, không cần ăn thêm món nào khác. Vì thế họ cho bệnh nhân uống mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh thoảng cho uống nước thịt. Các vị thuốc đó không biến đổi cơ thể, nhưng giúp các chức năng hoạt động thông thường, làm khô kiệt những chất hư mà không động tới người bệnh. Có một điều phải tường thuật lại ở đây vào chương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho mời lương y Châu Au tới và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh nhân coi như chết không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ, ông này hứa chữa trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong thời gian ông chữa bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì cực kỳ nguy hiểm và ông không thấy có thuốc nào trong y khoa có thể cứu thoát cơn nguy hiểm bệnh nhân đang chịu và chỉ cần điều kiện đó thôi. Hai bên thỏa thuận là lương y sẽ chữa khỏi trong vòng ba mươi ngày. Người bệnh uống thuốc theo đơn lương y cho và trong một ít ngày, bệnh nhân đã khỏi, nhưng không chịu nghe theo điều thầy thuốc đã cấm đoán rõ ràng. Thế là lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có sự thay đổi. Ông biết chắc là người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho biết là bệnh nhân phải chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không còn thuốc nào cứu chữa được nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền thù lao như đã thỏa thuận bởi vì người bệnh chết nhưng lỗi không phải tại thầy thuốc. Người ta xử việc này và tòa ra lệnh cho bệnh nhân phải trả tiền cho lương y, sau đó người bệnh nhắm mắt lìa đời. Họ cũng dùng cách chích máu, nhưng họ tiết kiệm máu hơn cách người ta làm ở Châu Au và họ không dùng kim chích thông thường: họ có nhiều lông ngỗng, trong đó có ghép những mảnh sứ nhỏ rất sắc và được dùng như những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và khi phải đâm vào mạch máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này, lớn nhỏ tuỳ theo nhu cầu và lấy ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch máu, mũi mảnh sứ chỉ đâm đủ theo nhu cầu mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn hết là khi đã lấy đủ máu thì họ không cần băng bó, không cần miếng gạc, không cần buộc cột gì cả: họ liếm ngón tay cái cho có nước bọt và ấn trên vết thương, làm cho da khép lại, máu ngừng tức thì và vết thương lành ngay. Được vậy tôi cho là do cách thức họ mở mạch máu với mũi sứ nhọn làm cho sạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng. Không nhiều nhà giải phẫu có nhiều bí quyết kỳ diệu. Tôi không muốn đưa ra chứng cớ nào khác bằng việc họ đã làm cho chính bản thân tôi và một bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã từ một nơi cao xuống và bên chỗ có dạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt đầu thổ ra máu và ngực tôi cũng bị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy liều thuốc theo cách bên Châu Au của chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt chút nào. Trong khi đó may có một thầy giải phẫu bản xứ tới, thầy lấy một thứ cỏ nào đó giống như cỏ xổ 15 làm thành một thứ cao và đắp trên dạ dày, rồi cũng sắc những thứ cỏ đó cho tôi uống, lại cho ăn sống nữa và trong mấy ngày tôi hoàn toàn hồi phục. Để thí nghiệm lại, chính tôi đập gãy chân một con gà mái ở nhiều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ làm thành cao và đắp trên những vết chân gãy, thế là sau ít ngày nó khỏi hẳn. Một con bọ cạp đã cắn vào cổ một bạn đồng sự của tôi và ở xứ này đây sẽ là vết tử thương. Tức thì cổ sưng vù và khi chúng tôi chuẩn bị làm phép sức dầu thì người ta mời một thầy giải phẫu tới. Thầy cho nấu tức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân người bệnh, lấy vải quấn chung quanh cho hơi và khói nóng không bay đi. Thế là hơi bốc lên tận vết thương và người đồng sự của tôi cảm thấy bớt đau nhức, cổ bớt sưng vù và được khỏe mạnh như thể chưa bao giờ bị đau. Người ta còn có thể thêm nhiều thí dụ tương tự, nhưng tôi chỉ nói rằng thuốc ở những miền này có hiệu lực hơn thuốc ở đây (Châu Au). Và riêng tôi, tôi có thể thêm rằng tôi đã đem theo tôi cây đại hoàng16 trong một hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt. Khi tôi về tới Châu Au sau hai năm hành trình, tôi thấy cây đại hoàng của tôi đã biến chất khiến tôi không nhận ra nữa, nguyên chất mất hết công dụng khi chuyển từ những xứ đó về xứ chúng ta. Chú thích (1) Bản Pháp văn “olivâtres” xám xanh như trái ô liu. (2) Cách thứ hai: một thứ võng? Cách thứ ba: khó tưởng tượng ra được, một thứ bục. Phải tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà vào thế kỷ 17, nhất là miền Nam lúc đó. (3) Về y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho rõ. Trong câu ngạn ngữ thường thấy “Mớ bảy mớ ba”, có thể nghĩ như vậy. (4) Cũng thế, y phục phái nam thời đó trong địa phương đó, như đã nói, có thể có ảnh hưởng người Chàm. (5) Một trong những điều xin Tòa thánh chuẩn là dâng Thánh lễ đội mũ như cách thức người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ cũng đội mũ. Đức Piô V (1504-1572) làm giáo hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng Đaminh và làm quan toà Inquisition trước khi ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực thi công đồng Trente, ban hành sách Giáo lý công đồng Trente, sửa lại sách Kinh nguyện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong hiển thánh năm 1712. (6) Theo tục người Châu Au, đi chân không là vô lễ. (7) Thời đó, bên Châu Au, linh mục ra ngoài đường phố thì khoác thêm một áo choàng. Philipphê Bỉnh có nói tới tục này trong sách “Sổ Sang chép các việc”. (8) Nhận xét rất đúng, người Việt Nam chưa biết đóng giầy như ở Châu Au. (9) Giáo sĩ quen nếp sống bản xứ: xem thêm việc ăn cơm. (10) Theo Borri thì trong khi hội họp đình đám vẫn mỗi người một mâm (11) Tục lấy phần về (12) Thường thì lá cây chứ không phải rễ. (13) Theo lịch sự, thì cho dù mình không thích nhưng cố gắng dùng và khen cái mối thịnh tình của người ta. (14) Không phải là canh, cũng không hẳn là cháo, nhưng là thứ “potage” bằng nước thịt hay nước các thứ rau nấu chín. (15) Mercurialle, theo Đỗ Tất Lợi thì có Mercurialis indica Lour (lộc mai) thuộc loại thầu dầu, không biết có phải vậy không? (16) La rhubarbe. Đỗ Tất Lợi, sd, về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp người ta làm mút với thân cây này.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:23:27 GMT 9
Chương 6 VỀ HÀNH CHÍNH VÀ DÂN CHÍNH NƠI NGƯỜI ĐÀNG TRONG Tôi sẽ nói vắn tắt đủ để hiểu biết một cách ngắn gọn. Bởi vì nếu tôi trình bày dài dòng quá thì tôi sẽ đi xa ý tôi đã định cho tôi trong bản tường trình này. Nói chung thì việc hành chính có cái gì giống như ở Nhật và ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật trọng nhiều về võ thuật hơn về học thuật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về học thuật và coi thường võ thuật. Người Đàng Trong không hoàn toàn xa người Nhật và lại cũng gần người Tàu, nghĩa là ở giữa và cũng theo tinh thần của dân tộc mình, vừa trọng võ vừa chuộng văn tuỳ theo cơ hội. Do đó họ thưởng và đặt lên các chức vụ và cấp bậc trong nước, khi thì là các tiến sĩ, lúc thì là các tướng sĩ, họ chỉ định và cắt đặt lúc thì người này khi thì người kia tuỳ theo nhu cầu. Xứ Đàng Trong có nhiều trường đại học1 trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng như ở Tàu. Họ cũng dạy các khoa, dùng những sách và tác giả như nhau, như Khổng Tử theo kiểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên thâm, với giáo thuyết sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng ta, chúng ta có Aristote2. Và thực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa đầy lý lẽ bác học, nhiều chuyện lạ, nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục ngữ và nhiều sự tương tự, tất cả đều bàn về thuần phong mỹ tục, như chúng ta có Seneca, Caton, và Ciceron 3. Phải mất nhiều năm học mới có thể đọc được các câu, các chữ, và các hình để viết. Cuốn sách họ chuộng hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết học luân lý gồm có đạo đức học, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú khi thấy và nghe họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca hát. Họ phải làm như thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng của nó, vì có rất nhiều, mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau. Vì thế, để đàm thoại với họ thì cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc và phép đối âm. Tiếng nói thông thường thì khác với chữ viết họ dạy và họ đọc khi học và viết. Cũng như ở nơi chúng ta tiếng bình dân chung cho tất cả thì khác, còn tiếng Latinh chỉ dạy trong trường thì khác 4. Đây là điểm khác với Trung Hoa, văn nhân hay quý phái cũng chỉ có một thứ tiếng nói gọi là quan thoại, nghĩa là tiếng các tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị. Còn chữ viết như chữ in trong sách thì có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác nhau. Vì thế các cha dòng Tên phải mất tám và có khi mười năm để học những sách ấy trước khi trở nên tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp với họ. Nhưng người Đàng Trong đã rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại chừng ba ngàn chữ họ thường dùng để viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự và những sự khác không liên quan tới sách in, thiết yếu phải soạn bằng chữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi hơn, mặc dầu về sách viết và sách in, họ gắng theo người Tàu, nhưng về các việc thường thức họ đã sáng chế ra bốn mươi tám chữ phối hợp với nhau để diễn đạt và trình bày tất cả những gì họ muốn, không hơn không kém gì những vần a, b, c của chúng ta. Nhưng mặc dầu có thứ chữ này, chữ Hán vẫn rất thông dụng ở Nhật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện lợn hơn để diễn đạt tư tưởng, nhưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta khinh chê coi như chữ của đàn bà. Việc phát minh tốt đẹp và tài tình về ngành in đã được thực hiện ở Trung Hoa và Đàng Trong trước khi được biết đến ở Châu Au, mặc dầu chưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ nhưng dùng cái đục hay dao mà khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà họ muốn in trên sách. Rồi họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho vào ép cũng như cách chúng ta làm ở Châu Au khi người ta in trên phiến đồng hay vật gì tương tự. Ngoài những sách chúng tôi đã nói là những luận thuyết về luân lý, họ còn có những sách khác, như họ nói, giảng về những sự thần linh như về việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ trụ, về linh hồn, về ma quỷ thần thánh và nhiều giáo phái khác, những sách này gọi là sách kinh khác với những sách đời gọi là sách chữ 5. Chúng tôi sẽ nói về lý thuyết các đạo chúa đựng trong những sách đó ở phần thứ hai bản tường trình này, như vậy đúng chỗ của nó hơn. Mặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong cũng giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ dùng những từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng khác nhau, nhưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và dồi dào hơn về nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành âm nhạc và có khả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau 6. Tiếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có biến cách các danh từ 7 nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay thế cho tất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động từ này như sau: tôi có, anh có, nó có 8. Họ chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ các thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi đã có; về thì vị lai: tôi hoặc sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có không bao giờ thay đổi 9. Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần, tôi đã học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải tội được nữa, tuy chưa được tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn 10. Nhưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của tôi, tôi đã nói rằng người Đàng Trong không những chỉ trọng các văn nhân, tán thưởng trình độ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những chức vụ cao và có thế giá, phát cho họ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý trọng những người can tràng, có giá trị và giỏi giang về võ bị. Nhưng họ cai trị và khác chúng ta, họ không có tục lệ làm như ở Châu Au chúng ta. Bởi vì đáng lý ra họ ban phát cho các tướng lãnh có tài có công, như người ta thường làm nơi chúng ta, một lãnh thổ, một bá tước địa, một thái ấp hầu tước để thưởng công họ, thì họ lại thưởng bằng cách đặt dưới quyền người họ thưởng một số nhân đinh và một số nhân khẩu và lính hầu nhất định của chính nhà vua 11. Những người này ở bất cứ nơi nào trong nước đều phải nhận người được thưởng là chủ, phải phục dịch bằng binh khí, trong tất cả mọi trường hợp người này cần tới, nộp tất cả các khoản thuế mà cho người này như trước đó họ nộp cho chính nhà vua vậy. Vì thế, thay vì chúng ta nói người này là chúa cai quản một địa điểm nào, là bá tước hay vương hầu cai trị một lãnh thổ nào thì họ lại nói người này là một nhân vật có năm trăm đinh, người kia có một ngàn đinh, chúa cứ tăng số đinh cho người này, người khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền, thêm thế giá, thêm nguồn lợi và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính hầu mới. Về các cuộc chiến tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở đây, tôi phải nói về một việc đáng được biết, có liên quan tới dân chính. Thứ nhất họ xét xử các sự việc rất nhanh chóng, như người ta thường làm trong quân đội và như người ta thường nói “trong thời chiến” (more belli), chứ không kéo dài nơi tòa án qua đường lối các quan tòa, các công chứng viên, các biện lý với tất cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm sai và các quan trấn thủ các tỉnh làm hết các chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi ngày bốn giờ liền, trong một cái sân đẹp và rộng, ngay giữa tư dinh của mình, hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều. Những ai tranh tụng thì tới đó, trình bày khiếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay quan trấn thủ tự vào cửa sổ mà nghe người này người kia lần lượt trình bày, kêu cả. Thường thì các quan này là những người có óc phán đoán ngay thẳng, biết nghe và có kinh nghiệm trong các vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách xác đáng, nhất là để ý tới ý kiến của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp nhận cho bên nguyên hay bên bị, nên họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ việc và tức thì không trì hoãn, họ lên tiếng công bố án xử và người ta tức khắc cho thi hành không khiếu nại hay hình thức tố tụng nào khác nữa, hoặc là án tử hình hoặc là án phát vãng hay phạt trượng, phạt tiền: các ngài lên án phạt tội mỗi người theo hình phạt luật định. Các trọng tội thông thường phải thú nhận và bị phạt nặng thì rất nhiều. Nhưng người ta trừng phạt nghiêm khắc nhất những kẻ gian dối, trộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ nhất thú nhận là đã vu cáo một người về một trọng tội mà người đó không phạm thì sẽ bị phát rất ngặt, nghĩa là chịu hình phạt đáng lý ra người kia phải chịu nếu thực sự đã phạm cái tội người ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta cáo gian đáng phải tử hình thì người cáo gian này sẽ phải xử tử. Và thực tế cho thấy cách xử này là cách tốt nhất để biết đích xác sự thực. Còn kẻ trộm cướp thì bị phạt chiếu theo của ăn trộm, ăn cướp, nếu chúng lấy một của gì quan trọng thì phải chém đầu, nếu là của không đáng giá bao nhiêu, thí dụ một con gà, thì bị chặt ngón tay nếu là lần thứ nhất, nếu còn tái phạm thì bị chặt ngón khác, nếu bị bắt lần thứ ba thì bị cắt tai, lần thứ tư thì bị cắt cổ. Kẻ ngoại tình, phái nam cũng như phái nữ bất kể, sẽ bị trừng phạt về trọng tội của họ bằng cách để cho voi giày theo cách thức như sau. Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một thửa ruộng và trước mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở giữa, tay chân bị trói, ở ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt kẻ sắp bị xử và thi hành án xử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn, rồi nắm và ép chặt tội nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người trông thấy, rồi tung lên cao và đón tội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt xuống và vì nặng nên cắm sâu vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống đất rồi dẫm chân lên và đạp cho tan nát. Voi làm việc này mà không bỏ sót một điểm nào làm cho mọi người có mặt sửng sốt và sợ hãi. Vì chứng kiến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải giữ trung thành trong đạo vợ chồng. Không phải ngoài đề vì chúng tôi vừa nhắc tới hôn nhân, nếu chúng tôi kể qua ở đây mấy đặc điểm riêng biệt để kết thúc chương này. Không bao giờ thấy người Đàng Trong, tuy còn là lương dân, lại kết hôn trong những bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự nhiên cấm đoán, rất ít trong bậc thứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị em họ 12. Những cấp bậc khác được phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có một vợ. Thực ra, những người giàu có, càng có thế giá và có của thì họ có tục lấy nhiều vợ mọn. Họ còn cho là biển lận và keo kiệt nhựng ai không cưới nhiều vợ khi mình có đủ tiền của để dễ dàng làm việc này. Những vợ mọn được gọi bà hai, bà ba, bà tư tuỳ theo thứ tự mỗi người. Tất cả đều là nàng hầu của bà vợ cả. Bà này được trọng nể là vợ đích thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này chọn các nàng hầu tuỳ theo ý mình và cưới về cho chồng. Hôn nhân của họ không bền chặt vì luật xứ Đàng Trong cho phép li dị, tuy không phải chỉ để tuỳ ý và tuỳ thích của bên này hay bên kia. Để ly dị, điều cần thiết phải làm trước tiên là chứng tỏ được tại sao mình xin ly dị, vì có nhiều tội nặng tỏ tường, nếu có tội thật thì được xin ly dị và lấy người khác. Vì chồng quản lý tài sản của vợ nên họ cũng bỏ nhà mình đến ở nhà vợ mới. Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các việc trong nhà, còn chồng ở trong gia đình chẳng làm gì, không vất vả gì và nếu chỉ có một vài đồng thi họ cũng bằng lòng vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và ăn mặc. Chú thích (1) Nhưng thực ra có hoàn toàn như Borri nói không? Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi. (2) Aristote nhà triết học thời danh Hy Lạp thế kỷ 4 tr.c.n. (3) Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca thế kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2 tr.c.n, Ciceron nhà hùng biện đại tài thế kỷ 1 tr.c.n. (4) Thời đó người ta còn dùng Latinh để giảng dạy ở các trường đại học, còn tiếng mẹ đẻ thì mới manh nha. (5) Kinh là kinh điển như Tứ thư, Ngũ kinh, còn sách là sách viết thông dụng không thuộc kinh điển. (6) Hoa ngữ có năm thanh, còn Việt ngữ có sáu thanh. (7) Chia động từ: conjugaison, biến cách: déclinaison, trong La ngữ. (8) Động từ tiếng Pháp avoir (có) j’ai (tôi có), tu as (anh có), il a (nó có), nous avons (chúng tôi có), vous avez (các anh có), ils ont (chúng nó có). (9) Một động từ avoir có thể thay đổi hình dạng rất nhiều tuỳ theo khi nói về hiện tại, quá khứ, tương lai, nghi vấn, truyền khiến v.v… (10) Borri thú nhận, tuy biết tiếng Việt, nhưng chưa đủ để giảng dạy giáo lý cho chu đáo. (11) Ở Châu Au nhà vua ban bổng lộc cho công hầu bá tước bằng đất đai thuộc quyền sở hữu của họ và họ có thể truyền lại cho con cháu. Ở Việt Nam, họ chỉ được lợi tức, nghĩa là thay mặt vua thu thuế các hộ, hoặc một trăm hoặc một nghìn hay hơn nữa. Họ không có quyền để lại cho con cháu, nhà vua vẫn giữ quyền sở hữu. (12) Thường gọi là anh em thúc bá. -------------------------------------------------------------------------------- Chương 7 LỰC LƯỢNG CỦA CHÚA ĐÀNG TRONG Như đã nói ở đầu bản ký sự này là Đàng Trong trước kia là một tỉnh tách rời khỏi xứ Đàng Ngoài. Cụ cố 1 của chúa đương thời đã vô cớ chiếm đoạt, lập nhà nước và phản nghịch cùng chúa Đàng Ngoài. Rồi họ trở nên mạnh dạn hơn khi được cung cấp trong một thời gian rất ngắn, nhiều thứ súng lớn tịch thu và lượm nhặt được do tàu và thuyền chiến bị đắm trôi dạt vào bờ biển: thực ra tàu người Bồ cũng như người Hòa Lan 2 thường đâm vào cồn đá và người bản xứ vớt được như ngày nay có thấy. Nguyên trong phủ chúa cũng có tới sáu mươi cỗ và có những cỗ rất lớn. Ngừơi Đàng Trong tinh xảo và có kinh nghiệm sử dụng, họ vượt cả người Châu Au đến nỗi họ chẳng làm gì khác mà chỉ ngày ngày bắn đạn giả và rất lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho là có thế lực đến nỗi vừa thấy những chiếc tàu của Châu Au chúng ta cập bến của họ thì liền bắn súng để thách thức, nhưng người của chúng ta biết rằng súng của họ chẳng địch lại được súng của chúng ta, nên người của chúng ta hết sức tránh né tầm bắn. Người của chúng ta biết rằng theo kinh nghiệm, ta có thể chắc chắn bắn vào chỗ nào ta muốn với súng của mình, còn họ với súng hỏa mai là một thứ gậy thì không nhằm bắn trúng được. Điều giúp chúa rất đắc lực trong cuộc dấy binh chống chúa Đàng Ngoài, đó là ngài có một trăm thuyền chiến và hơn nữa, chúa rất mạnh về đường biển, như đã mạnh về đường bộ vì có súng ống. Thế là chúa dễ dàng thi hành ý đồ và âm mưu chống chúa Đàng Ngoài là chủ mình. Việc họ buôn bán thường xuyên với người Nhật đã đem lại cho chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản, với nước thép rất tốt. Trong nước còn có rất nhiều ngựa, tuy thấp bé hơn, nhưng rất tốt và rất can đảm, dùng để cưỡi và bắn nỏ, hằng ngày không ngớt thao luyện. Thế lực của chúa rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể cho tuyển ngay được tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn còn sợ chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần. Vì thế, để có sự thỏa hiệp và giao hảo tột thì chúa nhận triều cống về những gì vương quốc của ngài có thể có cho xứ Đàng Ngoài, nhất là vàng, bạc, lúa gạo, cung cấp ván và gỗ để đóng thuyền chiến. Về binh pháp và cách cai trị trong chinh chiến thì cũng gần như ở Châu Au. Họ cũng giữ các luật lệ để huấn luyện binh lực, đánh du kích, tấn công và rút quân. Ngoài ra chúa còn chuẩn bị vũ khí liên tục và mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm. Vì thế mà vũ khí của Đàng Trong đã lừng danh và nổi tiếng khắp các nơi qua đường biển cũng như đường bộ. Ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như đã nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton. Và người ta sẽ không lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn có tới một trăm thuyền chiến có đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến khi người ta biết những thứ này đuợc thành lập như thế nào. Cần phải biết rằng người Đàng Trong không có lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ sai để chèo thuyền 3. Khi họ cần người để chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì tức khắc họ có thể tuyển mộ ngay được đủ số theo cách thứ sau đây: Họ ngấm ngầm phái đội trưởng và uỷ viên lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt ngay lập tức tất cả những trai tráng có sức cầm tay chèo và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa tới con nhà sang hay người có thế giá, bởi vì không ai được miễn. Việc này thực ra không khó khăn gì như lúc đầu người ta tưởng, vì thứ nhất họ được đối xử tốt trong thuyền cũng như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa, vợ con họ và cả gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết tất cả những gì họ cần, tuỳ theo cấp bậc, thanh thế, trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và những người này không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi cần và họ chiến đấu rất anh dũng. Để làm việc này, người ta trao cho mỗi người một súng hỏa mai hay musqueton với đạn, dao hay mã tấu. Người Đàng Trong không giả đò, họ rất hăng hái và dũng cảm, với mái chèo, súng và dao, họ can đảm tấn công và trong hỗn chiến, họ tỏ rõ lòng dũng cảm hiếm có của họ. Thuyền chiến của họ không lớn cũng không đặc biệt rộng như của ta, nhưng rất lẹ và được trang trí vàng bạc trông rất ngoạn mục. Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất thì toàn bằng vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị cao, và lý do là vì người thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất trận, thế cho nên rất hợp lý, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở chỗ nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền. Trong số những vũ khí tự vệ dùng trong trận chiến thì có những chiếc khiên nhỏ hình bầu dục, hoàn toàn rỗng, cao, có thể dễ dàng chắn cả thân người và rất nhẹ, dễ cầm và không hề vướng víu bận bịu chút nào. Cũng rất có ích cho việc bảo vệ thành trì ở xứ này, đó là cách thức họ dựng nhà chỉ toàn bằng ván và trên cột gỗ như chúng tôi đã nói. Nếu quân địch hùng mạnh kéo tới và họ không muốn chống cự, lúc đó mỗi người đem theo nồi niêu bát đũa và trốn lên núi, sau khi châm lửa đốt nhà và chỉ để lại không gì khác ngoài đống tro tàn. Quân địch không thể tìm ra được thứ gì để ăn và sinh sống nên họ phải rút quân về, và họ trở về dựng lại những căn nhà khác trong một thời gian rất ngắn và khôi phục lại thành phố như trước. Chú thích (1) Ông cố, chỉ Nguyễn Kim. (2) Coi Pierre Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viet Nam de du Campa EFEO, 1972. Tác giả chứng minh cụ thể là vào thế kỷ 16-17 thương gia người Bồ, Hà Lan thường đi dọc bờ biển Đàng Trong, rồi chiếu thẳng đi Macao hay Nhật Bản, ít khi lên tới Đàng Ngoài. Vì thế trong một thời gian, chưa ai để ý tới xứ Bắc. (3) Bên Châu Au người ta dùng tù binh khổ sai để chèo thuyền, vì thế nói đến galères là nói hình khổ nhục nhã, trái với Việt Nam, chèo thuyền chiến là việc của quân binh thiện nghệ.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:25:02 GMT 9
Chương 8 VỀ THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HẢI CẢNG Ở XỨ ĐÀNG TRONG Xứ Đàng Trong có rất nhiều thứ thuận lợi cho sinh hoạt con người như chúng tôi đã nói trước đây. Vì thế mà dân xứ này không ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để buôn bán, cũng như không bao giờ ra khơi quá xa đến độ không còn trông thấy bờ biển và lãnh thổ của tổ quốc yêu quý của họ 1, mặc dầu họ dễ dàng cho người ngoại quốc vào hải cảng của họ và họ thích thú thấy người ta tới buôn bán trong lãnh thổ của họ, không những từ những nước và tỉnh lân cận mà từ cả những xứ rất xa. Về vấn đề này, họ không cần phải dùng những mánh lới gì lớn, người ngoại quốc đủ bị quyến rũ bởi đất đai phì nhiêu và thèm muốn những của cải tràn đầy trong xứ họ. Không những người xứ Đàng Ngoài, xứ Campuchia và Phúc Kiến và mấy xứ lân cận đến buôn bán, mà mỗi ngày người ta còn thấy các thương gia đến từ những miền đất xa xôi như Trung Quốc, Macao, Nhật Bản, Manila và Malacca. Tất cả đều đem bạc tới xứ Đàng Trong để đem hàng hóa xứ này về. Thực ra không phải là mua hàng hóa mà là trao đổi với cùng một thứ bạc kể như hàng hóa, lúc cao lúc hạ tuỳ theo có nhiều hay có ít bạc, tuỳ theo có nhiều hay ít tơ lụa và những mặt hàng khác. Tiền dùng để mua mọi thứ là thứ tiền bằng đồng và tất cả đều có giá trị bằng gần một đồng “double” và năm xu của đồng này thì bằng một “êcu”. Đồng tiền này rất tròn, có khắc con dấu và biểu hiệu nhà vua. Mỗi đồng đều có lỗ ở giữa để xâu thành từng nghìn đồng, mỗi chuỗi hay mỗi dây giá bằng hai “êcu”. Người Tàu và người Nhật là những người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ phiên họp hàng năm ở một hải cảng và kéo dài tới chừng bốn tháng. Người Nhật chở trên thuyền của họ giá trị bằng bốn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở trong tàu họ gọi là “somes” 2, rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều hàng hóa khác của xứ họ. Chúa thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra và cả nước đều kiểm tra được rất nhiều mối lợi không thể tả hết. Vì người Đàng Trong không có đồ kỹ nghệ và thủ công nào, không biết kỹ thuật cơ giới, vì đất đai phì nhiêu và thổ sản dồi dào nên họ ăn không ngồi rồi, và mặt khác họ dễ dàng chuộc những của lạ từ các nơi khác đưa tới, nên họ rất hám và chạy theo mua cho bằng được với bất cứ giá nào. Họ không biết tiết kiệm tiền khi sắm những thứ thực ra chẳng đáng giá bao nhiêu, tỉ như bàn chải, kim khâu, vòng tay, hoa tai bằng thuỷ tinh và những hàng lặt vặt. Tôi nhớ có một người Bồ đem từ Macao tới Đàng Trong một lọ đầy kim khâu, tất cả chỉ giá hơn ba mươi “ducat”, nhưng đã được lời tới hơn một ngàn, vì ông ta bán mỗi chiếc một đồng “rêal” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Macao ông ta mua không tới một “double”. Sau cùng họ tranh nhau mua tất cả những gì họ thấy miễn đó là đồ mới lạ và từ xa tới, họ tiêu tiền một cách dễ dàng. Họ ham chuộng tất cả các mặt hàng mũ nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi và tất cả các loại áo của chúng ta vì rất khác các đồ vật của họ. Nhưng họ thích san hô nhất. Còn về hải cảng thì thật là lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm được hơn sáu mươi cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam 3. Người ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An). Các cửa biển cách nhau chừng ba hay bốn dặm, kế đó biển chia thành hai nhánh đi sâu vào đất liền chừng bảy hay tám dặm, làm thành như hai co sông luôn tách rời nhau để rồi cuối cùng gặp nhau và đổ vào một con sông lớn. Tàu bè từ hai phía tới cũng đi vào con sông này4. Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và phong tục của người Tàu và người Nhật cũng vậy. Hơn nữa, chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ. Vì thế người Bồ ở Macao mới có ý định sai một sứ giả tới chúa để nhân danh mọi người khẩn khoản chúa trục xuất người Hà Lan là địch thù của họ. Để làm việc này, họ dùng một thuyền trưởng tên là Ferdinand de Costa. Ông này đã thành công, dĩ nhiên với nhiều khó khăn. Ông đã làm cho chúa ra sắc lệnh cấm người Hà Lan tới gần lãnh thổ ngài, nếu không nghe thì nguy tới tính mạng. Nhưng vì người Bồ ở Macao sợ sắc lệnh đó không được tuân thủ nghiêm chỉnh, nên họ lại sai một phái đoàn mới tới Đàng Trong, để nắm chắc lệnh cấm đó. Họ cũng căn dặn đoàn đại biểu phải làm cho chúa hiểu là, vì ích lợi của ngài và nếu ngài không cẩn thận thì e rằng, với thời gian người Hà Lan vốn rất khéo léo và rất quỷ quyệt, sẽ dám xâm chiếm một phần xứ Đàng Trong như chúng đã làm ở mấy nơi trong nước An Độ. Nhưng có mấy người am hiểu tình hình xứ này bàn là không nên nói thế với chúa, nhưng cách thế đích thực phải dùng là cho phép người Hà Lan tới buôn bán trong xứ và mời cả nước Hà Lan tới nữa. Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ một nước nào trên thế giới. Thật là hoàn toàn trái ngược với vua Trung Hoa, ông này sợ tất cả, đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không cho phép buôn bán trong nước ông. Các sứ giả phải nại nhiều lý do mới được như ý sở cầu. Chúa Đàng Trong tỏ ra thích để cho người Bồ đến buôn bán ở nước ngài một cách lạ lùng. Và đã mấy lần ngài cho họ ba hay bốn địa điểm ở nơi phì nhiêu nhất và phong phú nhất trong vùng hải cảng Đà Nẵng, để họ xây cất một thành phố, với tất cả những gì cần thiết, cũng như người Tàu và người Nhật đã làm. Và tôi mạn phép nói lên cảm tưởng về việc này với hoàng đế công giáo 5, tôi xin nói rằng ngài nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp chúa Đàng Trong đã đưa ra và sớm xây cất ở đó một thành phố tốt đẹp, làm nơi an toàn và cư trú, lại dùng để nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi Trung Quốc. Cũng có thể giữ một hạm đội sẵn sàng chống lại người Hà Lan. Họ đi Tàu hay đi Nhật, dù muốn dù không, họ bó buộc phải qua giữa eo biển nằm trong bờ biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ Phú Yên và Quy Nhơn với những quần đảo Chàm. Đó là một ít điều tôi tưởng là nên tường thuật một cách chính xác về tình hình vật chất ở xứ Đàng Trong, theo sự hiểu biết của tôi, trong thời gian mấy năm tôi ở đó 6 như sẽ biết nhiều hơn trong phần thứ hai của bản tường trình này. Chú thích (1) Trong Lịch sử Đàng Ngoài, De Rhodes nói rõ hơn tại sao người Việt Nam không thành thạo ngành hàng hải, mặc dầu có nhiều bờ biển và nhiều hải cảng tốt, xem sd. ch.16, phần 1. (2) Thuyền mành hay thuyền tam bản? (3) Hội An (4) Hội An ở phía bắc sông Thu Bồn, gần cửa sông Cửa Đại. Hàng từ sông Thu Bồn, sông Vĩnh Điện, sông Trường Giang chuyển đến cũng dễ dàng. (5) Các vua Bồ, Tây, Pháp thời đó thường xưng mình là các vua hay hoàng đế công giáo (les rois catholiques). (6) Tức từ 1618 tới 1622
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:25:44 GMT 9
Chương 9 QUAN TRẤN THỦ QUY NHƠN ĐƯA CÁC CHA DÒNG ĐẾN TỈNH ÔNG CAI QUẢN VÀ CHO DỰNG MỘT TRÚ SỞ VÀ MỘT NHÀ THỜ CHO CÁC CHA Cha Buzomi, cha De Pina và tôi, chúng tôi bỏ Hội An để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và đối xử với chúng tôi một cách rất đặc biệt. Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt con người bắt buộc ông phải xử như thế. Ông dành một chiếc thuyền để phục dịch riêng cho một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng chiều đậu bến 1. Thường thì các hải cảng đều ở cạnh các thành phố đẹp nhất thuộc tỉnh Quảng Nghĩa. Nơi đây ông có quyền như ở Quy Nhơn, mọi người đều ra đón, chúc mừng và tỏ lòng quy phục ông với rất nhiều lễ vật quý và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh quan trấn thủ vì ông muốn thế. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy chúng tôi được trọng đãi và vì thế người ta quý mến chúng tôi, có thịnh tình với chúng tôi. Và đó cũng chính là điều quan trấn thủ muốn, ông cũng nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp phải xử trị một trọng tội nào đó. Chúng tôi chưa kịp mở miệng xin ân xá thì ông đã bằng lòng ban ngay rồi. Do đó chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không kém quan trấn thủ. Thấy chúng tôi có lòng bác ái và thương xót hết mọi người nên mọi người đều quý mến và tìm đến chúng tôi. Ngoài ra ông muốn trong suốt cuộc hành trình người ta đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là những quan lớn, tới đâu ông cũng cho tổ chức trò chơi và hội hè cho dân chúng, khi thì cho đấu chiến thuyền, lúc thì cho đua thuyền, đặt giải thưởng cho thuyền nào thắng cuộc. Không ngày nào ông không thân chinh sang thuyền chúng tôi. Ông rất thích trao đổi với chúng tôi, nhất là khi chúng tôi nói về sự cứu rỗi đời đời và về đức tin đạo thánh của chúng tôi. Cứ thế, rồi chúng tôi tới tỉnh Quy Nhơn. Nhưng chúng tôi còn phải đi mấy ngày đường nữa mới về được tới dinh quan trấn thủ. Ông muốn cho chúng tôi đi đường bộ để được thoải mái và vui thú. Thế là ông truyền đưa bảy cỗ voi tới, tất cả đều đã sẵn sàng. Ông còn muốn dành cho chúng tôi cái danh dự đặc biệt là mỗi người chúng tôi có riêng một cỗ voi, kèm theo một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa. Vì cuộc hành trình này chỉ là để tiêu khiển, nên chúng tôi đi mất tám ngày, tới đâu cũng được tiếp đón và đối xử như một ông hoàng, nhất là ở nhà một bà chị của ông, người ta tiếp chúng tôi rất long trọng trong một bữa tiệc rất linh đình. Không những vì có rất nhiều món khác nhau, mà còn vì có nhiều cách nấu nướng đặc biệt và nhiều thứ thịt thà, dọn theo bếp Châu Au 2 của chúng tôi, mặc dầu cả quan trấn thủ, cả mọi người trong nhà đều không dùng được. Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh. Sau tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón một cách rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành cho các ông hoàng bà chúa. Tám ngày tiệc tùng liên tiếp và cỗ bàn linh đình, ông còn để chúng tôi ngồi ngai của chúa. Chính ông, bà vợ và con cái ông săn sóc chúng tôi, ăn chung với chúng tôi, làm cho cả dinh đều bỡ ngỡ. Ai cũng đồng thanh quả quyết rằng người ta chỉ dành những danh dự này cho bản thân các chúa mà thôi. Đó là cơ hội cho mấy người nói và đồn thổi khắp xứ này rằng chúng tôi là những bậc đế vương tới xứ này để bàn những việc rất quan trọng. Nghe lời đồn đó, quan trấn thủ rất lấy làm hài lòng và tuyên bố trong cuộc họp chung các quan trong phủ rằng: thật ra các cha là con vua con chúa, tức là các thiên sứ đến những vùng đất này, không phải vì thiếu thốn hay cần thiết thứ gì, vì ở nước các cha không thiếu gì, trái lại, mọi của cải đều dư dật, nhưng chỉ vì các cha hăm hở sốt sắng cứu vớt các linh hồn. Viên quan đức độ này, khi hoàn toàn còn là lương dân, đã là người rao giảng Phúc âm. Ông làm cho mọi người nghe ông thì đều kính phục ông, nhất là ở bất cứ nơi nào người ta cũng coi ông là một người rất mực thông thái. Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc âm hơn, còn nếu ở trong tư dinh thì không dễ dàng cho công việc chúng tôi, vì ở xa tỉnh chừng một dạm rưỡi, trong miền thôn quê, theo kiểu ở đây. Quan trấn đã vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và ông đã buồn phiền khi phải xa chúng tôi: thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm, trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng tôi leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi. Ở đây chúng tôi cũng được tiếp đãi với tất cả sự sang trọng, quan trấn đã truyền phải dành cho chúng tôi. Nhưng vì không chịu được vắng mặt lâu hơn, ngay ngày hôm sau, ông thân hành đến thăm chúng tôi và kiểm tra xem người ta có sửa soạn nhà chúng tôi tươm tất và thuận tiện không. Ông còn nói với chúng tôi rằng chúng tôi là người ngoại quốc không có nhiều tiền bạc, không có nhiều của cải, không có đủ sự cần dùng, nên ông nhận cung cấp cho chúng tôi mọi sự cần thiết. Thế là ông truyền mỗi tháng người ta đem đến cho chúng tôi một món tiền khá lớn và mỗi ngày người ta đưa tới nào là thịt thà, cá mú, thóc gạo, không phải chỉ đủ cho chúng tôi mà còn cho các người thông ngôn và người làm nữa. Không chỉ có thế, ngày nào ông cũng gửi cho chúng tôi quà bánh, rất đầy đủ, không kể các đồ vật khác để bồi dưỡng chúng tôi một cách hậu hĩ. Để tỏ lòng trọng kính chúng tôi và tạo uy tín cho chúng tôi trước mọi người, một ngày nọ, ông mở một phiên tòa ngay trong sân nhà chúng tôi, theo cách thức được thực hiện ở Đàng Trong như chúng tôi đã nói. Trong phiên tòa này, ông phải xử mấy người phạm trọng tội, mỗi người đều được xử theo tính chất của tội phạm. Trong số các phạm nhân có hai người bị xử tử bằng vũ khí và phải chịu hình tên bắn. Nhưng trong khi người ta trói các người này thì chúng tôi can thiệp để xin ân xá cho họ. Ông liền tha ngay và truyền cho cởi dây trói tức thì. Ông tuyên bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá này cho một người nào cả. Nhưng vì những vị nhân đức này, ta không thể khước từ được. Rồi quay về phía chúng tôi, ông giục chúng tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để dựng một nhà thờ. Chúng tôi liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là rất hợp và rất tiện để làm việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư dinh ở ngoài thành phố. Ba ngày sau, người ta đến cho chúng tôi biết là nhà thờ đã được đem đến. Được tin đó chúng tôi rất vui mừng và sung sướng, chúng tôi ra khỏi nhà, hăm hở tới coi sự lạ lùng này, chúng tôi cũng muốn biết xem nhà thờ có thể đem đến bằng cách nào. Chúng tôi biết là nhà thờ phải được làm bằng ván lắp, theo họa đồ đã vẽ. Chúng tôi cũng được biết là tòa nhà này rất lớn và rất cao, phải được đặt trên những cột cao và lớn. Tức thì chúng tôi phát hiện ra trong cánh đồng một đạo quân trên một nghìn người khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi người lực lưỡng và khoẻ mạnh nhất khênh. Còn những người khác thì vác xà, người khênh ván, người khênh nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác. Tất cả đều trật tự mang đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tôi chật ních người. Chúng tôi niềm nở đón tiếp họ với niềm hân hoan các bạn có thể nghĩ được là như thế nào. Chỉ có một điều làm cho chúng tôi buồn phiền là trong nhà không có gì để ít ra cho họ ăn qua loa. Đám người rất đông này tuy được quan trấn trả công hậu hĩ nhưng chúng tôi cũng thấy xấu hổ và bẽ mặt nếu để họ ra đi mà không cho họ chút gì lót dạ. Nhưng chúng tôi không phải lo lắng lâu khi thấy mỗi người ngồi trên đồ vật người ta căn dặn phải kỹ càng giữ lấy và khi đã sẵn sàng họ mở khăn gói ra, trong đó có tất cả dụng cụ nhà bếp gồm có nồi, thịt, cơm và cá. Họ nhóm lửa và tự nấu nướng lấy. Không ồn áo. Không xin xỏ gì. khi họ ăn xong thì một người chủ thầu lấy dây đo địa điểm, đo khoảng giữa hai cột, rồi ông cho gọi người đem tới dựng vào chỗ. Sau đó ông gọi tất cả lần lượt khuân các bộ phận khác tới và mỗi người đem lắp xong là ra về ngay. Cứ thế, tất cả đều làm việc trong trật tự không nhầm lẫn. Ai cũng làm đúng cách thức, và tất cả khối lớn lao đó được dựng nội nhật trong một ngày, làm cho chúng tôi rất mực sung sướng. Nhưng hoặc là vì người ta làm quá vội vã, hoặc là vì người lắp đặt không cẩn thận nên ngôi nhà không đứng thẳng lắm, trái lại hơi nghiêng một chút. Người ta kể cho quan trấn biết, thế là ông cho gọi kiến trúc sư tới và truyền cho phải làm lại ngay, nếu không sẽ bị cắt gân chân và phải gọi tất cả ngần ấy thợ trở lại để làm cho xong. Kiến trúc sư tuân lệnh và cho dỡ hết, rồi với tất cả khéo léo và thận trọng hơn, ông cho làm lại thật đúng và trong không bao lâu công việc đã hoàn thành. Để biết rõ về quan trấn đạo hạnh đã tận tâm lo việc của chúng tôi và rất quý trọng công việc đó, thì tôi sẽ kể một việc rất đặc biệt để kết thúc chương này. Số là có những làn gió nồm rất nồng nực thường nổi lên và thổi liên tục vào các tháng sáu, bảy và tám gây nên một sức nóng bức lạ lùng làm cháy, làm khô héo và thiêu huỷ nhà cửa vì chỉ làm bằng gỗ. Do đó chỉ một tia lửa nhỏ vì vô ý hay do cách nào khác rơi vào thì cũng có thể làm lửa bốc lên ngay lập tức như châm diêm đốt vậy. Vì thế, thường xảy ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn ở khắp lãnh thổ trong ba tháng đó. Một khi lửa đã bén vào một nhà thì trong nháy mắt ngọn lửa từ nhà này sẽ lan sang hết các nhà khác, lần lượt thẳng tắp theo hướng gió thổi và biến tất cả thành tro một cách thảm hại. Để tránh nguy cơ này, nhất là tránh cho nhà thờ chúng tôi ở ngay giữa thành phố và cũng để cho người ta biết chúng tôi được quan trên quý trọng đến mức nào, ông ra sắc lệnh bắt tất cả các nhà ở cùng hàng với nhà chúng tôi, theo hướng luồng gió nóng thổi, phải dỡ mái xuống trong hai tháng đó. Và số nhà phải để trống mái đó nhiều đến độ có thể chiếm một khoảng rộng ít là hai dặm Ý. Và ông đã chủ ý ra lệnh như vậy để nếu lửa bén vào một nhà nào trong những nhà ấy thì dễ ngăn cản không cho nó bén sang nhà chúng tôi. Mọi người đều nghiêm chỉnh thi hành vì danh dự và sự trọng kính họ dành cho ông. Chú thích (1) Từ Hội An đi Quy Nhơn bằng đường biển (2) Các cha khoản đãi viên quan bằng các món ăn Au.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:26:16 GMT 9
Chương 10 QUAN TRẤN TỈNH QUY NHƠN QUA ĐỜI Công việc của chúng tôi tiến triển tốt đẹp ở thành phố này và có rất nhiều thành công. Khu truyền giáo ngay buổi đầu đã thu được thành quả tốt đẹp, như chúng ta đã thấy ở chương hai. Nhưng sau đó nổi lên cơn bão táp dữ dằn của cuộc bắt bớ do vụ hạn hán và mất mùa, tưởng như đã nhận chìm giáo đoàn. Bây giờ mọi sự thật là yên ổn và vui tươi do sự biệt đãi và che chở của quan trấn thủ Quy Nhơn. Và ruộng nho mới nở hoa, hứa hẹn một mùa quả rất thơm ngon. Nhưng bất thần xảy đến cái chết của quan trấn thủ, khác nào ngọn gió bấc khắc nghiệt làm tan tác và cuốn theo trong chốc lát tất cả các hy vọng tốt đẹp. Tai họa đã xảy đến như sau. Quan trấn một hôm cưỡi voi đi săn rất thích thú. Ông hứng chí đến độ không còn biết giữ gìn đã chạy suốt một ngày trong ánh nắng gay gắt của mặt trời. Nóng bốc lên đầu đến nỗi chiều hôm đó ông lên cơn sốt kịch liệt. Được tin, chúng tôi đến ngay phủ để thăm ông. Chúng tôi ở bên ông hai ngày, nài xin ông sửa soạn chịu phép thánh tẩy, như đã nhiều lần ông ngỏ ý muốn chịu, nhưng lại luôn cho biết là chỉ chịu khi nào ông thu xếp xong các công việc, nhưng ra ông chẳng thu xếp gì cả. Tới ngày thứ ba, ông mất trí và lên cơn hoảng hốt. Ông vẫn tiếp tục mê sảng trong ba ngày cho tới khi kiệt lực vì cơn bệnh, ông tắt thở khi chưa nhận phép thánh tẩy. Mọi người đều có thể hiểu một cách dễ dàng tai nạn này làm chúng tôi đau đớn đến chừng nào. Chúng tôi thấy mình ở trong một vương quốc xa lạ, bị bỏ rơi và thiếu thốn mọi trợ lực của loài người. Nhưng điều làm chúng tôi đau lòng hơn hết là thấy một người tắt thở trước mặt chúng tôi mà chưa chịu phép rửa tội. Người đó đã giúp đỡ chúng tôi và chúng tôi đã thăm nom săn sóc cho tới hơi thở cuối cùng. Về các nghi lễ ma chay phúng điếu chúng tôi không thể tường thuật hết các chi tiết vì sẽ không bao giờ cùng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:26:54 GMT 9
Chương 11 THIÊN VĂN Trước hết nên biết về một ít tục lệ thịnh hành trong xứ này có liên quan tới thiên văn học, nhất là về những thiên thực. Họ ham hiểu biết khao này đến nỗi trong viện đại học 1 của họ có những phòng rất rộng lớn để giảng khoa này một cách công khai và người ta trích ra nhiều tiền thưởng và dành cho các nhà thiên văn lợi tức đặc biệt gồm có nhiều ruộng vườn để làm một thứ tiền lương. Chúa có các nhà thiên văn của chúa. Hoàng tử có các nhà thiên văn của hoàng tử. Những người này chuyên chú học hỏi để rồi thông báo cho đúng thời kỳ có thiên thực. Nhưng họ không có bộ lịch cải cách và những khoa chuyên nghiệp bàn về sự vận chuyển của mặt trời và mặt trăng nên họ thường tính rất sai về mặt trăng và nguyệt thực, do đó thường thường họ nhầm tới hai hay ba giờ và nhiều khi, tuy hiếm hơn, tới một ngày trọn, còn họ chỉ tính đúng về điều chính yếu của thiên thực 2. Khi họ tính đúng thì họ được ban thưởng cho đất ruộng, trái lại nếu tính sai thì mất cả những ruộng đất đã được từ những lần trước. Khi có thiên thực, xứ này trở nên rất náo động. Trong thời gian đó, họ giữ những tập tục xung quanh mặt trời và mặt trăng. Họ sửa soạn các nghi lễ rất linh đình. Chúa được báo trước ra sắc lệnh cho tất cả các tỉnh trong nước và bắt các văn nhân cũng như thường dân phải chuẩn bị đợi ngày đó. Khi ngày đó tới thì tất cả các quan trấn tỉnh, các hàng quan khác, các tướng lãnh, kị binh và dân chúng cùng các viên chức, tất cả hội họp nhau trong mỗi thành phố và lãnh thổ. Nhưng cuộc tập họp chính yếu là ở trong phủ chúa, nơi có mặt tất cả các quan cao cấp trong nước, tất cả đều ra ngoài đem theo vũ khí và cờ hiệu. Chúa đứng đầu mặc y phục tang chế, rồi tất cả triều đình, họ nhìn ngắm mặt trời và mặt trăng, và trong khi thấy thiên thực thì họ quỳ xuống lạy một hay hai hay nhiều lần, nói mấy lời thương xót vị hành tinh đang chịu cực nhọc và thống khổ. Bởi vì họ cho rằng thiên thực không là gì khác, nếu không phải là mặt trời và mặt trăng bị con rồng nuốt và thay vì nói như chúng ta là mặt trăng bị khuất một nửa hay bị khuất hết, thì họ lại nói. Da an nua, da an het, có nghĩa là con rồng đã ăn một nửa, con rồng đã ăn hết tất cả. Cách nói của họ tuy có vẻ quá đáng, nhưng lại nói lên được cái cơ bản của thiên thực, cũng một nguyên tắc như chúng ta, nghĩa là do đường hoàng đạo là đường chính và là đường của mặt trời gặp đường của mặt trăng trong khi vận chuyển, đó là hai điểm gọi là đầu và đuôi của con rồng, như các nhà thiên văn thường nói, do đó dễ đi đến kết luận là họ cũng có cùng một lý thuyết với chúng ta về thiên thực, sử dụng cùng từ ngữ và tên gọi con rồng, họ cũng có những từ như Lâu (Aries), Tất (Taurus), Tĩnh (Gemini) và những từ khác để chỉ các cung hoàng đạo. Nhưng chúng ta hãy trở lại việc các dân tộc này thương xót các hành tinh: sau khi họ đã thờ lạy rồi thì chỉ còn nghe thấy tiếng súng hỏa mai, súng musqueton, súng đại bác người ta bắn, thứ nhất là từ phủ chúa, sau từ khắp kinh thành, hết các chuông đều đổ inh ỏi, nào kèn thổi, nào trống đánh, tóm tắt là người ta không bỏ một dụng cụ nào, kể cả soong nồi và những dụng cụ làm bếp khác mà không đem ra khu vang trong thời gian đó, nghe rất ồn ào và inh ỏi. Họ nói là làm thế để ngăn cản không cho con rồng nuốt mặt trời và mặt trăng hay để bắt nó phải nhả và mửa vật nó đã nuốt. Nói chung thì như vậy. Bây giờ tôi xin nói riêng đến việc có liên quan tới vụ nguyệt thực xảy ra ngày mồng 9 tháng 12 năm 1620 vào 11 giờ thiên văn, nghĩa là một giờ trước nửa đêm. Vào chừng thời gian này tôi đang ở Nước Mặn thụôc tỉnh Quy Nhơn, tại đây có một tướng lãnh cai quản khu chúng tôi ở. Một lần ông đến thăm chúng tôi, mấy ngày trước khi xảy ra nguyệt thực, chúng tôi có bàn về việc đó. Ông quả quyết là sẽ không có và ông cực lực bác lại lời chúng tôi, mặc dầu chúng tôi đã cho ông thấy sự thực bằng cách tính toán của chúng tôi và cả cách thức nguyệt thực sẽ xảy ra, tất cả đã được vẽ trong sách của chúng tôi. Nhưng không tài nào làm cho ông tin được. Ông rất cố chấp và quả quyết là nếu có nguyệt thực thì hẳn chúa đã cho biết trước một tháng trong toàn cõi, theo tục lệ. Bây giờ chỉ còn tám ngày mà vẫn chưa có sắc lệnh ban hành trong nước, như thế là dấu hiệu hiển nhiên cho thấy là không có nguyệt thực xảy ra. Mà vì ông cứ cố chấp quả quyết ngược lại những điều chúng tôi nói, nên ông thách chúng tôi, ai thua thì phải mất cho người được một Cabaia (là một thứ áo bằng lụa). Chúng tôi vui lòng thỏa thuận như thế, nếu chúng tôi thua, chúng tôi cũng sẽ vui lòng biếu ông chiếc áo dài còn nếu chúng tôi được thì thay vì áo dài, ông phải đến nghe giáo lý tám ngày 3 trong nhà chúng tôi và nghe những gì thuộc về đạo thánh của chúng tôi. Ông đáp, tôi bằng lòng và không những thế mà còn tin theo Kitô giáo nếu quả thực tôi thấy có nguyệt thực, và hơn nữa, ông nói: nếu những sự bí ẩn ở trên trời như các thiên thực, các cha hiểu biết xác đáng và chắc chắn, còn hiểu biết chúng tôi chỉ là sai lầm, thì là đạo của các cha và sự hiểu biết về Thiên Chúa thật, không thể không đích đáng và đạo của chúng tôi hoàn toàn sai lầm. Thời điểm xảy ra nguyệt thực mà chúng tôi đã tiên đoán đã đến, viên tướng lãnh đến nhà chúng tôi, đem theo nhiều học trò và nho sĩ để làm chứng về những gì sẽ xảy ra, nhưng vì nguyệt thực chỉ bắt đầu từ 11 giờ thiên văn, nên trong thời gian đó tôi đi đọc kinh nguyện, tôi cũng nhớ quay trở đồng hồ cát chừng một giờ trước. Nhưng họ liên tục đến gọi tôi như có vẻ thách thức ra coi nguyệt thực, họ cho rằng tôi lui vào nhà trong không phải để đọc sách nguyện mà để che giấu sự hổ thẹn vì thực ra không xảy ra. Họ rất bỡ ngỡ thấy tôi trả lời quả quyết là chưa tới giờ và phải kiên nhẫn một chút cho đến khi đồng hồ cát của tôi mà họ nhìn ngắm như một đồ vật từ ở thế giới bên kia rơi xuống 4. Và khi tôi bước ra ngoài, tôi chỉ cho họ thấy là vòng mặt trăng không hoàn toàn tròn như thường lệ vào lúc bắt đầu có nguyệt thực, rồi tối dần tối dần, thế là sáng tỏ sự thật như tôi đã tiên đoán. Viên tướng lãnh và các văn nhân đều ngạc nhiên về sự việc xảy ra, tức thì họ truyền lệnh cho người ta tới các nhà trong khu phố và tới khắp các phố phường loan tin có nguyệt thực, mọi người chạy ra để khua chuông đánh trống và làm các nghi lễ như thường lệ để cứu mặt trăng trong cơn nguy khốn. Một trường hợp tương tự đồng thời đã xảy ra, giữa những người và ở một địa điểm quan trọng hơn nhiều. Chúng tôi biết rằng các nhà toán học của chúa không biết nguyệt thực này, trái lại các nhà toán học của hoàng tử lần này chuyên chú học hỏi nên biết là có nguyệt thực ở Quảng Nam nhưng với một sai lầm quan trọng, không phải họ chỉ lầm hai hay ba giờ mà một ngày tròn. Họ công bố sẽ có nguyệt thực vào ngày Rằm nghĩa là một ngày trước khi xảy ra nguyệt thực thực sự. Cha Francois de Pina lúc đó đang ở trong phủ, cha báo tin cho một cận thần, ông này ở gần hoàng tử hơn các vị khác, lúc nào cũng theo ngài với tính cách người chủ nghi lễ, và theo chức vụ được gọi là ông nghè 5, và nhờ vị này thưa với ngài là nguyệt thực không thể xảy ra vào thời điểm như nhà chiêm tinh đã loan báo, mà là vào ban đêm hôm sau như cha Cristoforo Borri đã nói. Cha nhờ ông cho chủ ông là hoàng tử biết tin đó và cũng cho ngài thấy sự sai lầm của các nhà chiêm tinh. Nhưng ông nghè chưa tin lời cha cho lắm. Vì không hoàn toàn tin tưởng nên cũng không muốn nói. Thế rồi đến giờ các nhà chiêm tinh đã đoán thì chúa và cả phủ ra xem nguyệt thực theo cách thức của họ và cứu mặt trăng mà họ tưởng là sắp bị ăn. Nhưng thấy rõ là đã bị lừa, ngài rất giận các nhà toán học và truyền bớt một tỉnh lợi tức họ đã được theo tục lệ chúng tôi đã nói trên, khi họ tính sai. Bấy giờ ông nghè lợi dụng cơ hội thưa với chúa là đạo trưởng Tây dương đã nói với mình, trước khi xảy ra, là đêm sau mới có. Thế rồi ông nghè đến tìm cha để biết chắc chắn thời điểm nguyệt thực. Cha cho biết theo đồng hồ và các dụng cụ khác, là sẽ xảy ra đúng 11 giờ đêm sau. Nhưng ông cũng chưa lấy làm chắc và vì ngờ vực, ông không muốn đánh thức chúa khi chưa thấy rõ nguyệt thực bắt đầu. Chờ cho tới lúc đó ông mới chạy đến đánh thức ngài và vội vã cùng mấy người cận thần làm các nghi lễ kính bái và cúng tế theo tục lệ khi có nguyệt thực. Ông cũng không dám công bố biến cố này ra vì sợ làm mất uy tín của các nhà toán học và sách vở họ dùng. Sau khi nói về nguyệt thực thì chúng tôi xin kết thúc chương này bằng một vụ nhật thực xảy ra vào ngay 22 tháng năm năm 1621. Trong vụ này, các nhà thiên văn của chúa tiên đoán là sẽ xảy ra và kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Nhưng vì họ rất tín nhiệm chúng tôi về vấn đề này và để biết chắc chắn hơn, họ đến tìm chúng tôi để xem chúng tôi nghĩ sao. Tôi cho họ biết rằng chắc chắn sẽ có nhật thực và không gì xác đáng hơn. Chúng tôi cho họ coi đường vẽ trong lịch của chúng tôi. Nhưng tôi cố ý không nói cho họ biết là vì thị sai của mặt trăng với mặt trời nên trong xứ Đàng Trong không thể trông thấy được. Họ không biết thế nào là thị sai. Do đó theo sách và cách tính của họ, họ thường nhầm lẫn, không tìm đúng thời điểm. Tôi khất họ một thời gian ngắn để coi rõ lại điểm này. Tôi chỉ nói chung chung với họ là cần phải đo lại trời với đất để xem nhật thực có thể thấy được ở Đàng Trong hay không và như vậy tôi có ý hoãn câu trả lời cho tới lúc họ công bố có nhật thực. Sau cùng, họ thích thú vì thấy sách của chúng tôi phù hợp với ý kiến của họ và không đào sâu hơn nữa, họ chắc chắn là sẽ có nhật thực và đưa tin cho chúa. Chúa liền công bố sắc lệnh và truyền giữ và làm những việc theo thông tục. Khi sai lầm của các nhà thiên văn đã được phổ biến đi khắp nơi thì tôi cho biết là nhật thực này không thể xem thấy ở bất cứ nơi nào trong xứ Đàng Trong. Điều này đến tai hoàng tử. Để biết rõ sự thật, ông sai các nhà toán học đến hỏi ý kiến tôi và tranh luận về vấn đề này. Kết quả cuộc tranh luận là về phía họ, họ rất lúng túng và phân vân làm cho hoàng tử lưỡng lự, không biết trong lãnh thổ thuộc quyền ông, có nên theo ý kiến là sẽ có nhật thực như đức thân phụ ông đã công bố hay nên nói ngược lại. Điều làm ông khó xử hơn cả và là điều ông chú ý hơn hết, đó là không những các sách của họ mà cả sách của chúng tôi cùng nói là sẽ có nhật thực và ông sẽ mất uy tín nếu không công bố như thường lệ. Thế nhưng lòng tin tưởng vào lý thuyết của chúng tôi, trong dịp nguyệt thực mới xảy ra đây, ngăn cản không cho ông giải quyết. Đến nỗi để khỏi nghi ngờ, ông lại phái người tới hỏi chúng tôi một lần nữa để cho biết chúng tôi còn quả quyết nữa không. Tôi đáp là sau khi đã làm tất cả các phép toán và đã tính rất kỹ thì tôi thấy một cách không thể sai lầm rằng không một nơi nào trong nước ông có thể thấy nhật thực vì thế ông không phải lo lắng cho công bố gì nữa. Ngày đó trời đẹp, sáng và trong, không có chút mây nào. Vả lại vào tháng 5, mặt trời ở xứ này chiếu thẳng trên đầu và vào khoảng 3 giờ chiều, giờ phải xảy ra điều họ kể, giờ mọi người chịu nóng bức. Thế nhưng chúa không quên ra khỏi phủ với các cận thần, chịu mệt nhọc trong thời gian chờ đợi, nhưng không có chuyện gì xảy ra chúa bực tức đã khiển trách họ rất nặng lời và quở mắng họ rất nghiêm khắc. Họ tạ lỗi, và cho là nhật thực chắc chắn xảy ra, nhưng trong khi tính toán họ đã nhầm lẫn một ngày liên quan tới sự giao hội của mặt trăng và chắc chắn là ngày mai cũng vào giờ này sẽ có nhật thực. Chúa tin lời họ nói và ngày hôm sau vào đúng giờ này, chúa chẳng nhận thấy được gì ngoài cái nóng bức như ngày hôm trước. Các nhà toán học lại một phen nữa bị chúa trách phạt. Chú thích (1) Có thể là quá đáng không? (2) Trình độ nghiên cúu lịch và khoa học thiên văn của ta thời đó khá thấp kém. Xem Hoàng Xuân Hãn, Lịch và Lịch Việt Nam, tập san KHXH Paris 1982, tr.54-58 (3) Nghe giáo lý trong tám ngày. Có liên hệ tới Phép giảng tám ngày của De Rhodes không? (4) Hẳn không ngoa vì trình độ khoa học, cơ giới của ta thời đó quá thấp, ngay cả chúa Sãi cùng cận thần cũng không hơn. (5) Có thể lúc này Sãi vương có mặt ở Quảng Nam, vì ngài ở Ai tử thuộc Quảng Bình. Như vậy Borri thuật lại vụ nguyệt thực ở Quy Nhơn (Nước Mặn) và Quảng Nam nữa, lúc này có De Pina.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:27:24 GMT 9
Chương 12 ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở ĐÀNG TRONG Xứ Đàng Trong còn có nhiều đền chùa rất đẹp với tháp cao và lầu chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ bé đến đâu thì cũng có đền chùa thờ cúng thần Phật. Có những pho tượng rất lớn có vàng có bạc chứa chấp và tàng trữ ở trong. Thật không hơn không kém là một kho tàng thánh trong ngực hay trong bụng pho tượng. Không ai dám sờ mó vào trừ khi bị lâm vào cơn túng quẫn cùng cực. Một tên ăn trộm nào đó thò tay lục trong bụng tượng mà không nghĩ đến tầm quan trọng của việc phạm thánh, vì ở đây người ta vẫn quan niệm rằng làm như vậy là phạm thượng. Lại nữa họ đeo ở cổ nào là tràng hạt, chuỗi hột. Họ tổ chức rước sách, lễ lạt rất long trọng, để kính thần Phật như chúng ta thấy nơi những giáo dân sốt sắng nhất của ta. Và hơn nữa có những ông sãi có chức tương ứng với chức tu viện trưởng, giám mục và tổng giám mục cũng cầm gậy dát vàng dát bạc không khác những gậy chúng ta dùng trong Giáo hội. Tất cả giáo phái của họ không có mục đích nào khác ngoài việc tôn thờ Thượng Đế hay ao ước vinh quang và hạnh phúc đời sau hoặc công nhận hồn bất tử hoặc quả quyết mọi sự đều chấm dứt khi thân xác chết. Tất cả lương dân phương Đông đều công nhận hai nguyên lý này. Các giáo phái đếu phát nguyên từ kinh sách của một đại triết gia và nhà siêu hình học trứ danh gọi là Thích Ca. Vị này còn có trước Aristote 1 và không thua kém ông về tài trí và tinh thông các sự thiên nhiên. Với trí óc minh mẫn, ngài suy nghĩ về thiên nhiên và sự thành lập vũ trụ. Ngài chiêm ngưỡng nguyên lý và cứu cánh vạn vật, nhưng nhất là về bản thể con người làm chủ lâu dài đại thế giới này. Giáo thuyết ngài Thích Ca công bố được người Trung Hoa đón nhận. Họ rất mong muốn được giải thoát nên đã đón nhận giáo thuyết này và chủ trương thành mười hai giáo phái khác nhau trong đó có một giáo phái được người ta theo và sùng hơn cả và là phái chủ trương vạn vật là hư không họ gọi là Genfiu, thiền phái. Những người theo phái này có tục cùng nhau hẹn ngày về miền thôn quê để nghe một vài thượng tọa thuyết pháp về đề tài cực lạc. Thế nhưng bây giờ phải trở lại với người xứ Đàng Trong 2, họ không đón nhận toàn bộ thứ giáo lý quá khích và phi lí chối bỏ hình thức bản thể và quy mọi sự về hư không. Khắp nơi trong nước, tất cả đều công nhận hồn là bất tử và do đó có phần thưởng đời đời cho người lành và hình phạt trường cửu cho kẻ dữ, làm cho chân lý đó mờ nhạt đi vì đầy những điều vô lý và sai lầm. Thứ nhất họ không phân biệt hồn người dữ tách rời khỏi thân xác với các thần xấu và gọi tất cả là tà ma, và cho rằng không những thần xấu mà cả hồn người dữ đều tìm cách làm hại người sống. Thứ hai là một trong những phần thưởng của hồn người đã sống lành thánh đó à chuyển3 từ một thân này tới một thân khác tốt hơn, trọng hơn, như từ thân xác một người dân thường đến thân xác một đế vương hay quan cao cấp. Thứ ba là hồn người quá cố cần ăn uống và bồi dưỡng thân xác, do đó đôi khi trong năm họ có tục dọn cỗ bàn thịnh soạn và long trọng, con cái cúng tế cha mẹ đã khuất, chồng cúng tế vợ, bạn bè cúng tế người thân thích. Chú thích (1) Borri sánh Khổng Tử với Aristote, ở đây cũng coi Phật tổ như nhà hiền triết Hy Lạp đại tài Aristote (2) Tin tưởng của người Đàng Trong về hồn (3) Thuyết luân hồi
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:27:55 GMT 9
Chương 13 VỀ XỨ ĐÀNG NGOÀI Trong năm năm 1 ở Đàng Trong, tôi chuyên cần tìm hiểu và học để biết chắc chắn những gì liên quan đến Đàng Ngoài; ngôn ngữ là ngôn ngữ chung vì cả hai xứ đều thuộc về một quốc gia. Theo những câu chuyện những người từ Đàng Trong tới tỉnh Quy Nhơn, nơi tôi thường trú, kể lại, tôi sẽ chỉ thuật lại những gì cần thiết cho việc tìm hiểu xứ Đàng Trong và việc cai trị xứ này vẫn còn thuộc về Đàng Ngoài. Về địa thế, không kể Đàng Trong phụ thuộc vào Đàng Ngoài, thì gồm có 4 tỉnh có bề rộng và bề dài bằng nhau, ở giữa là kinh thành của Đàng Ngoài, tên kinh thành này cũng là tên cho cả nước 2, ở đây có triều đình và có vua cai trị. Kinh thành thì ở giữa có bốn tỉnh vâyquanh như một hình vuông góc, các tỉnh khá lớn, diện tích cả nước gấp bốn lần Đàng Trong. Phía Đông là vịnh Hải Nam, giữa có con sông lớn, thuyền bè đi lại được, nó bắt nguồn từ tỉnh Đàng Ngoài xa chừng 18 dặm, có một số thuyền Nhật Bản. Nước sông này thường dâng lên vào tháng sáu và tháng một, làm ngập hầu như cả nửa kinh thành, nhưng lụt này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Về phía Nam thì gần Thuận Hóa, như chúng tôi đã nói, thuộc về Đàng Trong; về phía Bắc thì giáp với Trung Quốc, nhưng không cần có luỹ tường che chở, vì thế sự giao thông đi lại giữa người Trung Hoa và người Đàng Ngoài rất thường xuyên, không cần tường luỹ, không cần cửa đóng then cài, họ đều buôn bán với các người ngoại quốc khác. Sau cùng, về phía Tây là nước Lào, nơi cha Alexandre de Rhodes người thành Avignon thuộc dòng chúng tôi đã từ Đàng Trong mà tới 3. Tôi cho rằng nước Lào cũng ở cạnh Tây Tạng là đất mới khám phá ra, tôi cũng cho là Tây Tạng cách xa và rộng ở cạnh nước Lào, theo vị trí thì thấy hai nước này đều rộng lớn. Cho nên tôi nghĩ là không thể có nước nào chen vào giữa hai nước đó và cũng vì các cha đã tới đó đều khẳng định là tỉnh cuối cùng của Tây Tạng, về phía Đông thì ở cạnh và thông thương với dân tộc bán nhiều tơ lụa và bát đĩa bằng đất nung tinh xảo và quý như ở Trung Quốc với nhiều hàng hóa khác, mà chúng tôi biết rằng là Đàng Ngoài có rất nhiều người thường bán cho người Lào. Về việc cai trị ở xứ này thì các vua chúa nối tiếp nhau như sau. Quyền tối cao của nhà vua thì ở trong tay một người gọi là bua, thế nhưng vị này không dính vào việc nước, ông trao tất cả quyền hành cho một người thân tín gọi là chúa với đủ mọi thế lực rộng lớn và biệt lập, khi hòa bình cũng như lúc chiến tranh, đến nỗi vị này hầu như không còn nhận ai là kẻ trên mình nữa. Nhà bua thì ngự trong đền, xa hết mọi việc trong nước, chỉ giữ lại cho mình một sự tôn sùng bề ngoài như thể một vị thần thiêng liêng với quyền ban hành luật pháp, chuẩn y sắc lệnh hay chỉ dụ. Khi chúa mất thì bao giờ cũng để cho con mình kế vị trong việc trị nước; thế nhưng thường xảy ra cái nạn, các người quản trị những người con đó cũng ham chức vị và cho giết đi để tranh giành quyền làm chúa 4. Thế lực của các chúa rất rộng lớn, vì đi liền với một nước rộng lớn có dân số đông gấp ba hay bốn lần dân Đàng Trong; còn quân đội thì như chúng tôi đã nói ở trên, có thể lên tới 80.000 người. Nên không khó gì khi chúa muốn thì chúa có thể cho mộ thêm cho tới 300.000 hoặc hơn với đầy đủ vũ khí, bởi vì các tướng lãnh trong nước như ở nước chúng ta có các công hầu bá tước, họ phải tự lực cung cấp đủ cho cuộc chiến tranh 5. Còn lực lượng của nhà vua thì không quá 40.000 binh lính hộ vệ; thế nhưng các chúa Đàng Ngoài và cả Đàng Trong đều công nhận ông là kẻ bề trên và cả một chúa khác chúng tôi đã nói ở phần một, ông này đã trốn lánh trong tỉnh giáp với Trung Quốc, mặc dầu ông vẫn luôn làm ngụy 6. Khi chúng tôi nói vương quốc này theo dòng truyền kế thì chúng tôi cũng nói về nhà vua, bao giờ cũng có thế tử kế nghiệp để giữ dòng truyền thống đế vương; đó là tất cả những gì tôi muốn vắn tắt nói về Đàng Ngoài theo những điều tôi được biết khi tôi trở về Châu Au. Chú thích (1) Lại một lần nữa, chúng ta xem năm 1622 là năm Borri bỏ Đàng Trong chứ không phải năm 1621, Đỗ Quang Chính cũng sai vì chỉ cho Borri ở Đàng Ngoài trong 3 năm, chứ không phải 5 năm (xem: Sd, tr.27) (2) Từ đời Lê, đổi Đông Đô thành Đông Kinh, và người ngoại quốc gọi xứ Bắc là Đông Kinh (Tunquim, Tonquin, Tonkin) (3) Thực ra không bao giờ De Rhodes tới Lào, chỉ có Raphael de Rhodes là người con tinh thần của Alexandre de Rhodes đã tới Lào rồi lập nghiệp ở xứ Bắc (xem Lịch sử việc truyền giáo Tây Tạng của Launay) (4) Thực ra chưa bao giờ xảy ra, con các chúa Đàng Ngoài thảy đều kế nghiệp cha: Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn… (5) Chế độ phong kiến ở Bắc cũng khác chế độ phong kiến ở Châu Au. Các công hầu bá tước chỉ có quyền trong khi sống, sau đó thuộc về nhà vua nhà chúa; các hoạn quan đứng đầu một tỉnh, sau khi mất thì thuộc về nhà vua; khi có đám rước thì chúa đi voi, còn vua đi kiệu; nhà chúa tổ chức hết các cuộc đón tiếp phái đoàn ngoại giao, các cuộc thi đua tập dượt, trừ có phái đoàn ngoại giao Trung Quốc thì thuộc về nhà vua. (6) Nhà Mạc ở Cao Bằng
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 7, 2009 17:28:30 GMT 9
KẾT LUẬN Bản tường trình nhỏ mọn này không thể không kích động những người ít thích đi khám phá các lãnh thổ mới và chỉ biết quý trọng xứ sở và đền đài riêng của mình, để họ có một ít kiến thức, đó là trong thế giới có biết bao điều đẹp đẽ, những điều này, tuy không vượt giới hạn của những điều tự nhiên, nhưng cũng có thể được gọi là những phép lạ của thiên nhiên. Đó chính là điều tôi đã trình bày, bởi chính mắt tôi đã thấy ở xứ Đàng Trong: lãnh thổ có khí hậu và các mùa khác nhau rất dễ chịu để ở. Lãnh thổ có rất nhiều đồng ruộng thênh thang và phì nhiêu, với mọi thứ lương thực, lúa thóc, trái cây, chim chóc và thú vật, biển thì vô số các loại cá rất thơm ngon. Lãnh thổ có khí hậu rất trong lành và dân cư chưa biết thế nào là dịch hạch. Lãnh thổ có rất nhiều vàng, bạc, tơ lụa, kỳ nam và các thổ sản khác rất có giá. Lãnh thổ phát triển thương mại rất mạnh, nhờ có các hải cảng và tất cả các quốc gia cập bến. Sau hết, lãnh thổ có dân cư dễ giao du, có tình và rất mực quảng đại. Người ta có thể tiếp xúc và sống an toàn, không những vì giá trị và đức can trường lớn lao của người Đàng Trong, được tất cả các nước lân cận đều công nhận, vì có lực lượng quân sự và tất cả các thứ vũ khí mà họ sử dụng rất tài tình và thiện nghệ không ai sánh kịp mà còn vì chính thiên nhiên như đã bảo vệ họ, bao bọc họ, một bên là biển trời cho để làm hào hố và một bên là dãy Trường Sơn Alpes và Pyrénées 1 hiểm trở của Kẻ Mọi. Đó là phần lãnh thổ người ta gọi là Đàng Trong. Người bản xứ thì thông minh đĩnh ngộ, họ dễ dàng và sẵn sàng đón tiếp hết các người ngoại quốc đến xứ họ và rất dễ dàng để cho mỗi người sống theo luật lệ riêng của mình, cũng không cần nghiên cứu tường tận về học thuật và chữ viết 2 của họ trước khi giảng dạy họ, như các cha dòng ở Trung Quốc phải làm và tiêu phí những năm đầu tiên là những năm tốt nhất, bởi vì chỉ cần học tiếng nói của họ, thứ tiếng rất dễ, như chúng tôi đã viết, đến nỗi chỉ trong một năm là đã có thể nói được dễ dàng 3. Những người bản xứ còn rất dễ giao thiệp, họ không chạy trốn khi thấy người ngoại quốc như các dân tộc khác ở các miền phương Đông. Họ có đến chùa, họ cúng tế và rước kiệu. Họ tin có hình phạt đời đời cho kẻ dữ và hạnh phúc trường cửu cho người lành. Chú thích (1) Dãy núi Alpes ranh giới Pháp – Ý, dãy núi Pyrénées ranh giới Pháp –Tây Ban Nha. (2) Chữ nho rất khó đọc đối với người ngoại quốc. Tiếng Việt tương đối dễ học, nhất là khi đã dùng thứ chữ phiên âm hay quốc ngữ. (3) Hẳn lúc đầu đã khởi sự một công cuộc ghi chép theo tự mẫu Latin. Như vậy dễ hơn rất nhiều.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 7:37:01 GMT 9
Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh với chuyến kinh lược năm Mậu Dần lịch sửVietsciences-Phan Đình Dũng 11/02/2010 Năm Mậu Dần lịch sử của xứ Đồng Nai: Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh với chuyến kinh lược năm Mậu Dần lịch sử Năm 1698, trở thành một mốc lịch sử quan trọng đối với vùng đất Nam bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Đó là khởi điểm cho một vùng đất chính thức hóa trong sự quản lý của một thể chế nhà nước mà cụ thể là sát nhập vào xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Tượng đài danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh Những ghi chép trong tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông, Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thư, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai tý xá, lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng 1.000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chính Châu trở vào Nam đến ở khắp nơi; đặt ra phường, ấp, xã, thôn; chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó, con cháu người tàu ở nơi Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập xã Minh Hương rồi ghép vào sổ hộ tịch”[1]. Mặc dầu sử sách ghi chép vắn tắt, song chắc chắn rằng những công việc mà thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực thi trong chuyến kinh lược đầy phức tạp, khó khăn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thiết thực cho công việc quản lý, phát triển vùng đất mới ở Phương Nam của đất nước. Với tầm nhìn chiến lược, định hướng phát triển bằng những cụ thể về hành chính, kinh tế, quân sự, chính sách an dân, hòa hợp với lợi ích dân tộc... Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lao to lớn trong việc hoàn tất về mặt pháp lý trước một sự thể: “Dân khai mở trước, nhà nước quản lý sau” ở vùng Đồng Nai - Gia Định, mở mang biên cương, lãnh thổ nước Việt trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động vào nửa cuối thể kỷ XVII. Vùng đất Đồng Nai - Gia Định vào thế kỷ XVI vẫn còn hoang sơ và một số tộc người bản địa sống thưa thớt. Từ cuối thế kỷ XVI, vùng đất này mới trở nên sôi động khi có sự xuất hiện của nhiều luồng di dân Việt từ vùng Thuận - Quảng tìm đến. Bên cạnh sự có mặt của lưu dân Việt, còn có sự có mặt của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên xin chúa Nguyễn cho phép định cư vào năm 1679. Từ khi có mặt trên vùng Đồng Nai từ thế kỷ XVI cho đến nửa thế kỷ XVII, lưu dân Việt là một nhân tố quan trọng cùng với sự có mặt của cộng đồng người Hoa là nhân tố tích cực góp phần tạo nên những cơ sở kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược, thiết lập bộ máy hành chính, phát triển vùng Đồng Nai - Gia Định. Huyện Phước Long với dinh Trấn Biên được nhắc đến trong việc thiết lập bộ máy của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 là tiền thân của tỉnh Biên Hòa trước đây và tỉnh Đồng Nai sau này. Thời bấy giờ, huyện Phước Long rộng lớn bao gồm những phần đất của các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, BÌnh Phước, một phần của Tây Ninh, Bình Thuận ngày nay. Có giả thiết cho rằng, Nguyễn Hữu Cảnh có dụng ý chọn mỹ từ khi đặt tên cho các vùng đất mới. Huyện địa đầu Nam Bộ là Phước Long với ý mong muốn nơi đây hưởng nhận phúc đức, vĩnh viễn sống trong cảnh sung túc. Ngoài ra, địa danh này còn một ẩn ý nữa là tôn vinh công ơn của các chúa Nguyễn, dòng họ Nguyễn Phúc khi chữ phước bắt đầu cho tên gọi. Đối với đất Đồng Nai, chuyến kinh lược năm 1698 dù ngắn ngủi nhưng những công việc mà Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện đã đem lại nhiều hiệu quả. Đất Đồng Nai chính thức có nền hành chính trong tổng thể chung của nhà nước do chúa Nguyễn quản lý. Việc thiết lập bộ máy hành chính đã làm thay đổi vị thế của cộng đồng cư dân Việt tại Đồng Nai. Qua chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh với việc khẳng định lãnh thổ, sắp xếp bộ máy hành chính thù di dân Việt từ thân phận lưu dân trở thành dân chính hộ, cộng đồng kiều dân Việt trở thành cộng đồng chủ nhân vùng đất mình đang sống. Người dân trên đất Đồng Nai ngày càng ý thức được về trách nhiệm của bản thân trên vùng đất từ nay đã thuộc quốc gia của mình và có ý nghĩa xây dựng và bảo vệ. Công việc thiết lập bộ máy hành chính đối với việc lập bộ đinh, bộ điền. Chắc chắn lần kinh lược Đồng Nai với những nhiệm vụ quan trọng này, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện nhiều công việc phức tạp, khó khăn như: tìm hiểu về thiên nhiên (địa lý, địa hình, đất đai, ao hồ, đường sá...), nhân văn (dân cư, mật độ phân bố từng vùng, thành phần dân tộc, xã hội...) để phân định ranh giới hành chính, thiết lập các đơn vị tương ứng để quản trị và đặt dựng các đồn tuần, cửa tấn để bảo vệ. Trước đây, người dân được tự do khai khẩn, trưng chiếm ruộng đất, chưa lập làng xóm thì Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành thiết lập phường ấp, xã thôn, ranh giới địa phận được chia cắt, quy định việc khai khẩn, chuẩn định thuế đinh, điền và lập sổ bộ, chấm dứt một thời lưu dân tự phát, tự quản đưa vào khung quy định của pháp luật. Không những khuyến khích những người dân vốn đã sinh sống trên vùng Đồng Nai - Gia Định khai khẩn ruộng đất, Nguyễn Hữu Cảnh còn chiêu mộ thêm dân từ Châu Bố Chính trở vào Nam đến ở và phân chiếm đất đai, tăng diện tích canh tác để việc vùng đất đầy tiềm năng kinh tế đi lên, tạo điều kiện phát triển thực lực của chúa Nguyễn về phía Nam. Nguyễn Hữu Cảnh còn xây dựng một lực lượng quân sự khá chính quy cho vùng đất mới. Mỗi dinh đều tổ chức lực lượng tinh nhuệ gồm cơ, đội thuyền thủy bộ có quân đội chính quy nhà Nguyễn và lực lượng địa phương để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chính thức quản lý. Một điều quan trọng không thể không nhắc đến của Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện trong chuyến kinh lược là thực hiện chính sách an dân, hòa hợp vì lợi ích dân tộc. Trên vùng đất Đồng Nai thời điểm lúc bấy giờ, ngoài số lượng dân Việt chiếm đông đảo còn có cả người Hoa, một số tộc người thiểu số. Sử sách cho chúng ta biết, đối với cộng đồng người Hoa - một thành phần dân cư đến khai khẩn sớm ở vùng Đồng Nai – Gia Định được Nguyễn Hữu Cảnh lập ra đơn vị hành chính riêng để ổn định, tạo thuận lợi cho họ yên tâm xây dựng cuộc sống. Ở dinh Trấn Biên, Nguyễn Hữu Cảnh đã lập xã Thanh Hà, cộng đồng người Hoa được ghép vào sổ hộ tịch. Từ đây, cộng đồng người Hoa trên vùng đất Đồng Nai với tư cách là một lưu dân kiều ngụ trên vùng đất khách xa lạ trở thành công dân của một quê hương đã bao dung họ trên hành trình đầy gian khổ để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp. Chính cộng đồng người Hoa cũng đóng góp nhiều nhân tài, vật lực với cư dân Việt khai khẩn, xây dựng và bảo vệ vững chắc vùng đất Đồng Nai - Gia Định trong những thời kỳ lịch sử. Với cương vị và nhiệm vụ được chúa Nguyễn giao phó kinh lược phương Nam, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã tỏ ra là một con người có tài thao lược, thực hiện xuất sắc ý định của chúa Nguyễn: nhanh chóng tạo nên sự ổn định, xác lập chủ quyền với vùng đất mới Đồng Nai - Gia Định. Những việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh cho thấy ông là một người có công trong việc khai sáng ra xứ Đồng Nai. Công lao to lớn ấy không chỉ là việc “tổ chức và sắp xếp lại giềng mối” mà còn thể hiện những chính sách về mọi mặt chính Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện: an dân, khuyến khích khai khẩn đất đai, ổn định xã hội... để không lâu sau đó, vùng rừng núi, sông rạch Đồng Nai trở mình, tràn đầy sức sống với phố xá, làng mạc trù phú. Những việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh là những nhân tố cơ bản, cần thiết thúc đẩy sự chuyển biến về kinh tế, xã hội, chính trị của đất Đồng Nai - Gia Định. Đồng thời, sau khi thiết lập bộ máy cai trị, bằng các biện pháp quân sự và chính trị, Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt nền tảng cơ bản, biến vùng đất mới của tổ quốc thành chỗ dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn tồn tại và đứng vững trong cuộc tranh chấp với Đàng Ngoài, chống lại phong trào Tây Sơn và cuối cùng thiết lập nên vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX. Thực hiện chuyến kinh lược phương Nam do chúa Nguyễn Phúc Chu sai phái vào năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh gắn liền tên tuổi của mình với vùng đất Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung. Với những công lao to lớn, chính Nguyễn Hữu Cảnh đã góp phần quan trọng trong tiến trình Nam tiến lịch sử thời các chúa Nguyễn. Là một danh tướng tài giỏi nhiều mặt, Nguyễn Hữu Cảnh đóng một vai trò quan trọng đối với việc mở mang lãnh thổ Việt Nam về phía Nam. Sau những năm cống hiến cho nước nhà, bôn ba trên trận mạc Nguyễn Hữu Cảnh mất vào năm 1700, để lại niềm thương tiếc không nguôi cho nhân dân. Đối với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai, công ơn của Nguyễn Hữu Cảnh thật sâu đậm. Ông xứng đáng được nhân dân tôn kính là Đệ nhất công thần xứ Đồng Nai. Lịch sử khai phá của vùng đất này mãi mãi khắc ghi công lao của ông là “tiền hiền của các bậc tiền hiền” đã khai sáng cho một vùng đất. Người dân vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai ngưỡng vọng, tôn kính và ghi nhớ công lao của Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh. Tại thôn Bình Hoành dinh Trấn Biên (nay thụôc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà), người dân đã đồng tâm lập miếu võ trang nghiêm, tôn ông như vị Thành Hoàng đầy hiển linh, luôn giúp cho xứ sở bình yên, thịnh vượng. Hơn 310 năm tính từ năm Mậu Dần lịch sử ấy, vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung đã có nhiều thay đổi, biến chuyển và phát triển. Trong dòng chảy lịch sử của vùng đất phương Nam, nhân vật Nguyễn Hữu Cảnh đã để lại dấu ấn sâu đậm của mình. Phan Đình Dũng [1] Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. NXB Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa. 1972. Dịch giả Tu trai Nguyễn Tạo.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:28:14 GMT 9
Ngôi Chùa Xưa - hay Kiến Tường cổ tự - K/S Sagant Phan -
Ngôi Chùa Xưa hay là Nơi sanh cũa Vua Minh Mạng
Vì câu chuyện nầy khá dài, chúng tôi không thể nói ngắn vài câu là trọn ý nghĩa nơi sanh cũa Vua Minh Mạng, nên quý bạn đành đọc một phần câu truyện nầy... mà chúng tôi có đăng tại vài tờ báo hãi ngoại... Khá lâu rồi... Đi làm 3 kỳ là xong Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay.
Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật. Nóng nóng lạnh lạnh (mà ngày nay gọi là sốt rét). Mặc dù Người giõi về cách bốc thuốc,nhưng với bệnh nầy thì rất khó rồi Uống thuốc Bắc thì rất đắc tiền, còn thuốc Nam thì " phước chủ may thầy ", toàn là nghe lời đồn toa nầy trị bệnh rất hay, toa kia không hay lắm.vv.. Uống nào là đọt lá ớt và là sầu đâu nhưng càng thêm mệt rũ người. Xóm người Miên bên kia sông giờ đây vắng vẽ đìu hiu. Người Miên họ bỏ sóc đi lên thành Lô Bích từ lâu rồi. Họ nói người " Duồn " không tố, họ đến quá đông, rồi họ cứ tự nhiên xem vùng đất nầy là nhà cũa họ mà không nghĩ gì đến những người Miên sống tại đây hàng chục năm trời có dư. Người " Duồn " họ lội xuống sông mà cứ tự nhiên chặt là dừa nước mà lợp nhà mà không xin ai hết. Họ nói " đất nầy thuộc chim trời cá nước mà? Đất cũa Trời Đất nào cũa ai đâu? ". Làm như vậy lần hồi người Miên họ ghét, và họ lần lựơt bõ xóm mà ra đi tay không. Nhà lá họ cất cao cẵng, và mặt tiền hay cữa cái thì họ đón ngoài sau từ đường sông đi lên nhà. Còn người Việt thì họ làm cữa cái họ đón từ con đường đất lộ nhõ mà vào trong nhà. Hai phương Trời cách biệt với nhau. Người Việt ăn cơm họ dùng đũa, còn người Miên thì tay họ bốc ăn cơm. Hạt gạo là phẩm vật quý cũa Trời Đất mà tại sao dùng đũa khều khều vậy? Khi người Miên cuối cùng rời xóm, thì lục cụ (sãi Miên) N’teak Klong cũng bần thần không ít. Ngôi chùa Miên " Traklacbưng " có mặt nơi đây trên 70 năm trời rồi, tự dưng đến ngày tàn - như Đế Thiên Đế Thích vậy, như vậy không làm lục cụ buồn rầu sao được? Ngài nhớ lại thời vàng son, nơi dòng sông lớn này, đến kỳ mừng con nứơc về, mà người Miên gọi là " Thnâycha Prong " nước dâng tràn ngập đến tận chân nhà sàn. Cá nhiều vô số, rồi kéo theo chim Trời bay đến làm tổ đầy cây me và cây sao dầu... như vậy thú rừng về nữa rồi. Người thợ săn cứ việc vác cung tên và lứoi bẫy... thế là thịt ăn không hết quanh năm. Cá quá nhiều ăn không hết thì phơi làm khô và làm mắm " bòhốc ", thịt rừng cũng vậy. Nơi xa là dòng sông to rộng, dùng đua ghe ngo mừng Thần Mưa rất dễ dàng. Có nơi thật xa người ta tham dự đua ghe Ngo bằng cách " ăn nhờ ở đậu nơi chùa Miên nầy. Họ đến hàng trăm người, chia làm 10 toán, mổi toán 10 người. Mổi toán là một chiếc ghe Ngo dài ngoằng, mủi cong vớt lên. Họ đậu ghe đầy khúc sông, có người không chịu ngũ trong chùa, họ nói " ngũ chùa không vui, không ca hát múa " lầmthôn " với mấy cô gái trẽ đẹp được - chùa bắt tụng kinh hoài - còn vui cái nước gì nữa? ". Trong sóc rộn rịp hẵn lên... Trái gái nườm nượp đến chùa, xin phước duyên và " coi bói luôn "... Mặc dầu chùa Miên không nhận thực phẫm để dành, nhưng họ dâng cúng cho chùa nào vãi vóc, cau khô... Cau khô thì đề dành nhai được, nhai với lá trầu xanh thì ngon lắm. Lại cò nhà dẩn đứa con trai vào chùa cho làm lể quy y... xì xụp lạy thành khẩn, đứa con trai được cạo đầu và tu vài tháng hay vài năm báo hiếu cho cha mẹ. Cha mẹ vui và sư lục cụ cũng mừng. Đua ghe thì họ mời lục cụ ngồi ghế danh dự. Khán đài dãn dị thôi. Dựng rạp bằng cây rừng và lớp nóc bằng lá dừa nứơc. Dãn dị nhưng oai nghiêm. Sư cụ làm lể khai quân... Rồi có tiếng trống nổi lên,... ghe Ngo hàng chục chiếc đang nằm hậm hực dưới bải sông. Như một bầy cá sấu đen lườn chờ chủ leo lên lưng là " Ùm " xuống nước lập tức. Sưlục cụ đánh Trống thì tất cả chuẩn bị trên bầy cá sấu đen hậm hực đó. Rồi có người đốt một cây pháo lớn. Pháo nổ là bầy cá sấu đen đó pohóng Ùm xuống sông, quẩy nước trắng cả một khúc trời giang sơn... Người trên bờ la hét khan cổ, bầy ghe Ngo ầm ầm quẩy sóng chạy hung dử ra khơi... Rồi phút cjhốc bầy ghwe nầy từ xa ầm ầm trở về > Người ta la làng nữa, đánh trống, dốt pháo... dân làng có gì khua được cho vang tiếng thì họ làm ngay. Nên khi hết cuộc đua thì nồi niêu soong chão " bầm vập " hết... Người thua kẻ thắng gì cũng nhậu tưng bừng... Sau đó sóc Miên trở về khung cảnh đìu hiu âm thầm như thường lệ. Chùa lên đèn và đánh mõ công phu như thường lệ.. đàn ông ra đồng ruộng với bò cày, đàn bà thì ôm con ru võng kẽo kẹt nơi xa... Bầy chim trời uể oãi bay dài nơi góc trời rồi đáp lên khu rừng nơi xa xóm. Dân Miên không bao giờ giết chim làm thịt. Họ nói chim là cũa Ông Trời bà Trời hay thần thánh dùng cởi đi chơi. Nhưng từ khi người Duồn về, từ một nhà, hai nhà đến chục nhà rồi trăm nhà... thì họ nói thịt chim ăn ngon lắm. Rồi họ thả vịt đến phá cả ruộng non cũa người Miên đang trổ lùa " đòng đòng ". Người Miên đến gặp lục cụ mà thưa kiện nhờ phân xử chuyện nầy. Lục cụ đành phãi xuống xóm người Việt mà gặp trưỡng xóm mới được. Dể chịu là ông trưỡng xóm biết lẽ phãi, ông mời lục cụ uống nước dừa rồi ông hứa sẽ nói với chủ vịt đừng cho đàn vịt đến phá lúa người Miên nữa. Lục cụ nhìn tướng người trưỡng xóm nầy.. Tướng người tầm thước, giọng nói hơi nặng, nhưng ánh mắt thì đôi lúc hiền đôi lúc cương quyết. Trưỡng Xóm nói họ là người từ đàng Trong mà vào lập nghiệp nơi nầy. Nơi đó là xứ nhiều đất đai khô cằn sỏi đá. Dân đông nhưng làm không đủ mà ăn. Mưa nơi đó rất ít và nạn châu chấu làm thất mùa hoài. Rồi hạn hán rồi lụt nữa... Còn nơi nầy là xứ Trời cho, thọt tay xuống nước là có cá... Lục cụ N’teak Klong mĩm cừơi vì câu nói cũa trưỡng Xóm người Việt " xứ Trời cho "... đâu phãi xứ Trời cho, xứ nầy của người Miên hàng trăm năm nay rồi. Mồ mã người Miên có cái tính được trên 200 năm có hơn... Nhưng bề gì trưỡng Xóm là người biết điều, Ông ấy nói là ông ấy giữ lời. Ông tên là Nguyễn Đạt, gốc Quãng Trị từ xa.
Nay thời vàng son đó trôi mất tiêu rồi. Người " Duồn " họ đào thệm kinh rạch nhõ vào khu vườn cũa họ, làm cho mực nước sông cái ngoài khơi cạn dần theo năm tháng. Mưa lại ít về nữa. Ít nước, thì ít cá - mà ít cá thì ít chim và thú rừng. Dòng sông cạn kiệt tài nguyên. Dân Miên họ bỏ đi là đúng, họ về lại thành La Vích mà người Duồn gọi là thành Nam Vang... Nơi đó họ gặp lại Vua cũa họ.
Sư lục cụ N’teak Klong lẩm nhẩm hồi kinh cầu an trong miệng. Lục cụ phãi quyết định dứt khoát trong ngày nay. Bỏ chùa hay cho chùa cho một người Việt nào đó. TRong đầu óc lục cụ tự nhiên nghĩ đến người Trưỡng Xóm Việt. Lục cụ đến gặp Nguyễn Đạt vào một buổi chiều...
Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay. Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật... Từ khi nhận chùa Miên đến nay cũng thấm thoát hơn chục năm trời có lẽ... Vì chùa dựng toàn loại cây tầm thường, nên mối mọt làm xập lần hồi hết., mưa gió bảo bùng. Lúc trước, khi còn người Miên thì dân làng rất đông. Trai nhiều mà gái cũng nhiều nữa.. Nhưng từ khi người Miên bõ xứ mà đi lên Cao Miên thì người Việt cũng bị " nạn " luôn. Giặc giã khắp nơi, nào là binh lính triều đình Tây Sơn, rồi binh lính nhóm Đông Sơn, rồi thêm tướng quân Tàu Dương ngạn Địch và Trần thắng Tài hùng cứ mổi người một phương. Kình chống nhau, giết hại lẩn nhau. Mai dốt nhà xóm nầy, mốt phóng hỏa thiêu rụi xóm kia.Trai làng bị bắt lính gần hết. Làng người Việt làn lần thiếu dân đinh, ruộng không người cày là chuyện thường. Chùa lâm vào cảnh túng quẩn lần hồi... Khngô còn ai bố thí cúng dường chi nữa. Bữa đói bữa no là chuyện thường. Trong Chùa chỉ còn lại có 4 người kể luôn phương trượng Thường Chiếu. Môt chú tiểu trẽ, mà ngày xưa ấy, lâu lắm rồi, cha mẹ đứa trẽ nầy bị giặc bắt đi người cha, rồi người mẹ bị giặc hiếp chết khi đứa trẽ vừa tròn 1 tuổi, bò quanh trong nhà... không cha không mẹ, đứa bé đói khóc 2 ngày trời. Nếu không nhờ phương trượng Thường Chiếu chèo ghe đi ngang qua, nhân dịp đi bốc thuốc cho một gia đình xóm trên nhờ. Tiếng khóc khàn khàn cũa đứa bé lim dần trong không gian, nhưng văng vẳng làm kinh hoàng đến phương trượng. Người lật đật quày nguợc ghe nhõ về nhà sàn đứa bé. Mình mẩy đứa bé bị kiến đỏ bu đầy người, hên là kiến chừa đôi mắt đứa bé mà không đốt cắn. Phương Trượng lật đật cổi áo choàng bên ngoài mà lau chùi đứa bé. Rồi người bồng đứa bé xuống ghe, chèo đến nhà người bệnh mà xin sữa cho đứa bé... Rồi ngừoi cùng 2 dân làng đến chôn xác người mẹ mà xác gần thành ương rữa. Chôn dưới gốc cây me kế góc vườn.. Sau đó dân làng phóng hõa đốt ngôi nhà xấu số đó vì không ai dám ở hết. Ma Quỉ hiện về hàng đêm khóc đòi con mà.Thầy có đến đọc kinh Vãng Sanh độ hồn vài lần, nhưng cũng không xong. Dân làng đành phãi đốt nhà đó ra tro.
Nay đứa bé nầy được đặt pháp danh là " Ngộ Đạt "... gần 15 tuổi rồi. Được Thầy dạy chữ Nho tụng đọc kinh công phu. Tánh hiền, ít nói, ít cười, ngoan ngõan dể thương. Nhưng một hôm khi ‘ Ngộ Đạt " hỏi Thầy cha mẹ con đâu rồi? Thì nước mắt Thầy rơi xuống lúc nào không hay. Thầy không biết được đâu con à !...
Người thứ ba trong chùa là chú Tư Cui. Người tầm thứơc, thuộc loại cũi lục âm thầm, ít cười, tối ngày lui cui lo trồng rau cho chùa. Từng bắp cãi thật to lớn, được chú Tư Cui gồng gánh xuống chợ nơi xa mà đồi gạo đem về nuôi chùa. Trước đó chú Tư làm nghề hầm than. Nghề nầy cực nhiều hơn vui. Lựa từng khúc cây đước nơi tràm ven rừng, phơi khô thời gian rồi chất đầy vào lò hầm. Hầm ngày đệm liên tục, chú Tư Cui ngưỡi mùi khói bốc ra từ cữa lò bịt kín là chú biết than chín hay chưa. Ngày kia chú Tư bổng nổi điên, cầm bó lữa đốt nhà cũa mình cháy hừng hực, chú định đốt thêm vài căn nhà lối xóm mới vui dạ. Lối xóm người tay búa tay dao bao vây chú định xơi tái chú rồi, nhưng người ta cũng ngại đến gần vì chú tay cầm bó lữa tay kia cũng cầm búa chặt cũi rừng to lớn lăm lăm. Sư cụ Thường Chiếu được lối xóm báo tin dữ. Sư Cụ đến gần, vừa đến vừa đọc kinh vang trời. Chú Tư Cui chưa kịp hiểu ý nghĩa kinh kệ thì thị bị thầy nhập nội, rồi bị Thầy xô xuống sông gần đó. Dân làng nhào xuống sông trói gô chú Tư Cui định giãi cho quan xử tội. Sư cụ Thường Chiếu xin lãnh chú về chùa nuôi. Từ đó đến giờ trên chục năm rồi. Tóc chú Tư giờ đây điểm hoa râm theo năm tháng ngày.
Vừa rồi chú đến gặp Thầy: " Thưa Thầy ! tối hôm rồi Hổ đến rình mình, dấu chân có lớn bằng cái tô canh vậy đó ". Thấy Thường Chiếu cười nhẹ: " Con đừng lo xa, Hổ nó lòng hại mình thì minh cũng chịu thôi. Con xem chùa mình tòan ván mõng, Hổ nó xô nhẹ cũng xập rồi, nếu nó bắt mình khi mình đang ngũ say thì làm sao đây? Nếu mình có nghiệp bị Hổ vồ thì cũng đành chịu nghiệp mà thôi. Luân hồi không cưỡng được đâu con ". Thầy định nói thêm nhưng Thầy im lặng. Thầy sợ chú Tư nói tin Chùa có Hổ rình rập thì thập phương bá tánh nào ai dám lên thăm chùa? Vã lại nơi xa phố Chợ Thầy Ngạn (Đề Ngạn = Thầy Ngoồn = SàiGòn) người người tấp nập mà có lần cọp về bắt nguyên một con ngựa cũa quan nơi đó đem đi mất., huống chi nơi nầy gần rừng gần sông gần tràm đước? Người thứ tư là Dì năm chột. Dì có đứa con gái độc nhất, ngày kia lấy chồng. Vợ chồng mần ăn khá giã, nhưng lại quên mẹ già nuôi mình tháng ngày khôn lớn. Họ bõ bà mẹ chơ vơ trong nhà chòi nhỏ rồi họ lên phố Chợ mần ăn. Nghe nói họ rất giàu, nhưng biệt âm tín từ đó. Bà mẹ lượm cũi mà bán độ nhật quanh vùng. Bq dùng rựa mà chặt những cành cây to, để khô rồi chất lại đem đi bán. Ngày kia một mãnh cây vụn văng từ khúi cũi đâm vào mắt bà làm bà đui một bên. Nghề lượm cũi hết thời, vì đi sâu vào rừng thì không được vì giậc nổi lên tứ phương trời. Họ cấm rừng.. không cho ai lai vãng vào đây. cuối cùng bà gỏ cữa chùa xin chùa nhận nơi nầy làm quê hương. Từ đó Bà lo nấu ăn bếp núc cho Chùa. Thầh đặt tên cho bà là Diệu Nghiệp. Kinh giãng nhiều nhưng bà chỉ thuộc nằm lòng bài Tán Hương Niệm Phật và vài câu Thủ Lăng Nghiêm, thế thôi. Vào một đêm hạ ngươn tháng 8... chú tiểu Ngộ Đạt nghe dộng cửa chùa gấp rút, chú tiều mở cữa ra thì đụng ngay nhóm quan quân triều đình Tây Sơn đến khám chùa.Họ đứng chật sân chùa, sắc khí hừng hừng. Đèn đuốc sáng choang... Chú tiểu vội chạy vaò hậu liêu báo tin cho Thầy. "- Thưa Thầy quan quân đến khám chùa gấp lắm, họ cầm đèn đuốc và khí giới sáng ngời, họ nói họ muốn gặp chủ chùa ". Sư Thường Chiếu vội xả thiền, Ngài tìm đôi dép cỏ xỏ chân vào Ngòai sân độ trên 20 người, tay cầm đuốc cháy phừng phực, khí giới hung hãn. Quan võ đến chào Ngài và nói " Xin Thầy cho chúng tôi xét chùa, chùa có chứa người nào lạ vào đây hay không? ".- Phương Trượng Thường Chiếu vội đáp: " Mô Phật ! bần tăng và chùa nghèo hổm rày không có một người khác nào vãng lại đến đây hết. Xin Quan cứ tự tiện vào xét chùa không sao ". Viên võ quan và vài tùy tòng cầm đuốc chai cháy phừng phực khói lữa tiến vào Niệm Phật Đường, rồi từng người vào hậu liêu xét từng nơi... Họ đến nhà bếp, họ mở tung nắp lu đựng gạo... họ nói " chùa gì nghèo dữ vậy không biết, trong lu còn vài chén gạo làm sao nấu cơm cho tụi mình đây? ". Rồi quan quân đi vòng ra sau chùa. Sau chùa là một hồ nước lớn, ăn thông với sông cái..thế thôi. Sau cùng viên võ quan đến chào Thầy và răn đe:" Chùa không có gì hôm nay. Nhưng nếu Chùa chứa chấp người lạ mà không thông báo cho chúng tôi thì chùa sẽ bị tai họa khôn lừờng đó. Thầy nên nhớ kỷ dùm. Thôi được ngày mai hay ngày mốt chúng tôi đến lần nữa và cho người cũa tụi tôi ngũ tại đây đó, Thầy nên chuẩn bị từ đây. " Đám quan quân hùng hổ đến, rồi hùng hổ lui. Họ mang danh nghĩa là quan quân triều đình Tây Sơn, nhưng họ còn nguy hiểm hơn trăm lần... họ là nhóm lính Đông Sơn cũa thượng tướng Đổ thành Nhơn. Chủ bị giết thì đám lính Đông Sơn nầy chia tam xẽ tứ liền... nhóm theo chúa Nguyễn, nhóm theo Tây Sơn, nhóm theo Nghĩa Hòa Đoàn cũa tàn quân tướng Tàu Dương ngạn Địch... Quân lính càng đông thì dân càng khổ. Ban ngày theo nhóm màu cờ nầy, trưa theo nhóm màu cờ kia, chiều theo nhóm màu cờ nọ. Lâu lâu ngay ngã tư con nước sông hồ có vài đầu lâu được cắm sào nhe răng trắng thấy mà ớn oan hồn. Nhiều xác người trôi sông, Thầy Thường Chiếu cho ngừơi vớt lên, chính tay Thầy làm lể chôn cất sau bìa rừng, một vài bài kinh kệ đơn lẽ hòa âm cùng tiếng mõ chùa bay vào hư vô, bay vào rừng sâu núi thẵm... Đời người vô thường, nhưng cái chết thì hữu thường, đủ cách, đủ loại... Quan quân đi rồi. Chùa trở lại không gian im lìm như xưa. Tiếng dế lại kêu ri rỉ nơi góc cây, tiếng uềnh oang cũa ểnh ương kêu buồn tha thiết. Sư Thường Chiếu vào phòng, Thầy định cầm chân nhang mà kéo ngọn bấc nơi dĩa đèn đậu phụng xuống thấp cho bớt ánh sáng hầu tiết kiệm dầu thắp đèn hàng đêm. Thì một tiếng kêu của con chim ré bay ngang nóc chùa. Thầy lẩm bẩm: "Tại sao lại có chim báo khách vào giờ nầy nữa cà? "... Thầy vừa chợp mắt chưa bao lâu thì Thầy nghe chú tiểu Ngộ Đạt đến gỏ cữa nói nhỏ: " Thưa Thầy có khách lạ vào sân chùa, họ đi đến 5 người nhưng có một phụ nữ... hình như bà nầy đang bị bệnh đi đứng khó khăn..Thầy tính sao? " Sư Thường Chiếu ngồi dậy, cơn chóng mặt và sốt nóng vì rét rừng đang hành Thầy mảnh liệt. Thầy nói: " Con mở cữa sau Chùa cho họ vào,, nhưng con dẩn họ coi chừng vì té xuống sông thì nguy lắm, coi chừng cá sấu rình mồi hoài nơi cây gáo sau chùa đó nghen con ". Nhóm ngừoi lạ 5 người. Họ hình như mất tinh thần và đói nữa. Một người đàn ông trung niên, dáng thấp người. Gương mặt dài, đặc biệt hai gò má có hai nốt rồi to và có lông mọc từ hai nột ruồi đó. Sư Thường Chiếu nói thầm: " Đây là quý tướng khác thường, nhưng sát quân, người nầy chắc là chúa Nguyễn rồi " Người đàn ông trung niên đó nói với sư cụ: " Chúng tôi có một phụ nữ gần sanh, Thầy giúp dùm ". THường Chiếu gật đầu " Mô Phật ! cửa chùa rộng mỡ, nhưng trước đó có quan quân Tây Sơn vừa khám chùa, xin quý vị cẩn thận "... Nghe nói có quan quân Tây Sơn thì nhóm người lạ nếy hơi biến sắc. Sư Cụ Thường Chiếu thấy một phụ nữ đang dựa cữa hậu liêu sau chùa, người như sắp sữa bất tỉnh nhân sự. Thầy vội nói với chú Tư Cui đaư bà nầy vào phòng riêng cũa Thầy. Chú Tư Cui hơi bất bình,nhưng vâng lời..Thầy nói theo " Bà nầy sắp lâm bồn, chùa nghèo không có giường chiếu chi nhiều, nhưng cứu mạng là trước hết. Cứ đem bà nầy vào phòng Thầy... " Chú Tư Cui cùng với Bà Diệu Nghiệp đở sãn phụ gần đang hôn mê vì ra máu quá nhiều, lại đi bộ nữa... sãn phụ đuối sức và hôn mê luôn. Đứa bé ra đời, điều đặc biệt là đứa bé chỉ khóc có một tiếng rồi im không khóc. Đứa bé biết tánh mạng nhiều người tùy theo tiếng khóc cũa mình, quân địch khắp nơi.
Bé được sư Thường Chiếu nấu cho chút nước cháo hòa tan với đừơng thẽ trong đêm khuya đó. Sư Thường Chiếu chính tay Ngài đở đẽ cho sãn phụ đó. Thầy gọi Bà Diệu Nghiệp dặn nhỏ: " Con vào trong xóm ráng xin sữa cũa bà mẹ nào đang cho con bú, nhưng con khá cẩn thận. Nếu quan quân biết được thì Thầy chết không sao, nhưng còn kéo theo nhiều người nữa kể luôn đứa bé nầy "...
Đứa bé ra đời vào ngày hạ ngươn tháng tám âm lịch, năm Tân Hợi (1791). Được Thầy đặt cho Pháp danh: " Ngộ Phúc "... Thầy lắc đầu: " Chúa tướng ra đời trăm sự yên, vạn sự thịnh... nhưng ngôi chùa này sẽ không còn nữa vì đã từng đón chân mạng thiên tữ rồi. Chùa không đủ phước trường thọ với thời gian... vì luật Trời đất mà... " Rồi 13 năm sau, đó là năm 1804 Cao Hoàng Đế GIa Long nhớ ơn chùa cưu mang và độ cứu con mình ra đời trong thuỡ hàn vi - Con mình là Hoàng tử Đãm... vì can đãm khộng khóc đề cứu mạng quan quân mình... Đãm là can đãm vậy... - chùa nghèo và mình cũng nghèo luôn. Cao Hoàng Đế gởi tặng chùa một tượng Phật bằng gổ mít, cao gần bằng đứa bé 5 tuổi. Sơn son thếp vàng. Cao Hoàng ban chiếu đổi tên chùa ra là chùa Kiến Tường. Sư ông mất vài năm sau đó.
Đến năm 1859 Thượng tướng Nguyễn tri Phương được lệnh đem quân về miền Nam chống giữ giặc Pháp. Đồn được lập nơi ngã tư khúc sông. Vào đêm khuya (ngày 6 tháng 12 năm 1860) có một toán quan quân Pháp từ nơi xa kéo về gần đồn. Quan quân Nguyễn tri Phương đón đường phục kích đoàn quân nầy. Bị lọt vào ổ phục kích quan Ba Barbe bị trrúng đạn chết. Qua ngày sau quân Pháp kéo đông tới, lớp đi tàu chiến lớp cởi ngựa và lính dõng theo sau... Họ không thấy ai hết ngoài ngôi chùa nghèo Kiến Tường..họ phóng hõa ngôi chùa nầy ra tro không còn nữa... Đúng như Phương Trượng Thường Chiếu tiên đoán..chùa không còn nữa... nhưng tượng Phật thì còn. Ngày nay tượng Phật bằng gổ mít cũa Vua Gia Long đang ngồi yên lặng hàng trăm năm tại Viện Khảo Cổ gần Thảo Cầm Viên Saigon.Tượng Phật còn nhớ gì ngày xưa đứa bé ra đời trong ngôi chùa Miên nghèo nầy hay không? Đứa bé đó là Vua Minh Mạng sau nầy..Khi Vua Minh Mạng lên ngôi thì bốn phương Thái Bình, trăm họ âu ca an hòa... Chùa được trùng tu và phong sắc nhiều lần bởi vua Minh Mạng... nhưng chục năm sau thì... cát bụi trở về với cát bụi... chùa Miên... rồi chùa Việt... rồi chùa Kiến Tường... Nay không còn nữa... cát bụi trở vế cát bụi... lời sư Thường Chiếu nói trúng cho chục năm sau nầy
Năm 67-68-69 tại Saigon là những năm sôi động. Sinh viên biểu tình liên miên, phong traò nhạc phản chiến bùng nổ khắp nơi. Tại phòng trà, tại vũ trường, tại câu lạc bộ sinh viên, tại các quán cà phê lộ thiên... nhạc phản chiến hay nhạc ngao ngán chiến tranh được nghe, được uống vào tâm can từng lời. Nào Trịnh công Sơn, nào Trương Thìn, nào Miên đức Thắng... phong trào Du ca Sinh Viên... ngần ngần đốt cháy tâm can thanh niên thiếu nữ Saigon. Trên bục gổ quán cà phê Văn, rồi sau đó lan đến sân khấu lớp SPCN thuộc Khoa Học Đại Học Đường mà Khoa Trưỡng là Giáo sư Nguyễn chung Tú đồng ý ngầm... nhạc họ Trịnh như nước vở bờ... ca sỉ Khánh Ly một giọng ca xa lạ, đến từ ĐàLạt được chấp cánh bay lên không gian sâu thẳm. Cô ngự trị nơi đó mà không có đối thủ - nhạc phản chiến kỳ cùng. Nhức nhối hai bên, bên Quốc Gia và bên Cộng Sản... Bài hay nhất trọn đời nhạc họ Trịnh là " Gia Tài cũa Mẹ "... Hai phe nghe thật nhức nhối vạn phần, phe Quốc Gia và phe Cộng Sản... .. 1000 năm đô hộ giặc Tàu... 100 năm đô hộ giặc Tây... 20 năm nội chiến từng ngày... Gia Tài cũa mẹ... một bọn lai căng..Gia Tài cũa Mẹ một lũ bội tình... Dạy cho con tiếng nói thật thà... dạy cho con chớ quên màu da... con chớ quên màu da... nước Việt... Khánh Ly gào lên và xoáy động tấm lòng trai trẽ bốn phương trời. Ai mà không rúng động khi nghe lời nhạc tiên tri nầy... Giờ đây di dân nước Việt đến bốn phương Trời... Đông Tây Nam Bắc... họ còn nhớ màu da vàng cũa họ hay không? Từ quán cà phê Văn trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa... kế nơi đó là đường Lê quý Đôn... kế xa xa là trtường Pháp lớn là Chasseloup-Laubat, nay là Trường Lê quý Đôn... gần ngã tư đèn xanh đèn đỏ... cách gốc cây me mà thân cây sơn màu trắng độ chừng 25 mét, thụt vào sâu... một gò đất nồng hơi cao hơn mặt đường một tí. Vâng nơi đó là chùa Khải Tường. Nơi mà hoàng tử Đãm ra đời trong ngôi chùa nghèo nàn, mà phương trượng là sư Thường Chiếu. Con đường Lê quý Đôn nối dài mà xưa đó là một con sông rộng... trăm năm trước chùa Miên đang đua ghe Ngo khi mùa nước nổi. sư lục cụ cầm dùi trống đánh tiếng trống vang trời, sau đó là phào nổ thì đoàn ghe lứot sóng ra khơi tranh tài... Rồi có tiếng Cọp đêm khuya về hống vài tiếng kêu văng vẳng, làm muôn thú vội vàng nín thở lặng im... Không gian chìm lần... vật đổi sao dời... Nay chùa Khải Tường không còn nữa, chỉ còn một dấu tích là gò đất hơi cao hơn mặt đường lộ tráng nhựa, nơi xa là nơi ngã tư đèn xanh đèn đỏ, gần đó là đường Lê quý Đôn... Thế thôi...
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:22:44 GMT 9
NHỮNG TIẾN TRÌNH CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC CHÀM
Thinh Quang
Nền văn hóa Chàm xuất hiện đồng thời hoặc trước cả nền văn minh của các dân tộc khác trong vùng. Theo Ðông Nam Á Sử Lược Thời Tiền Âu Châu được ghi nhận trong hai tác phẩm biên khảo Pararaton và Ngarakertagama giải thích về triều đại của Kertanagara, nhưng nhận định có khác nhau về nhân phẩm cũng như đường lối hoạt động của vị vương này có liên quan đến dân tộc Chàm với tầm mức khá quan trọng.
Pararaton cho rằng triều đại của Ketanagara ngắn ngủi và cũng chẳng có tiếng tăm gì. Còn Nagarakertagama thì ghi nhận triều vua này kéo dài đến năm 1293 và lập được nhiều thành ông đáng kể. Trong suốt một thời gian dài các triều đại này mở rộng bờ cõi kể cả cuộc chinh phục Malaya và cuối cùng là một đế quốc thành hình. Thành tích được xem là vĩ đại của tân đế quốc này là chiếm được Srivijaya.
Năm 1286 một tấm bia đá được tìm thấy ở ngay giữa hòn đảo trên dòng sông Batang , đó là tượng hình của Ðức Phật Amogapasalokesvara. Các dòng chữ khắc trên bia đá do bốn vị thượng quan Javamang sang Sumatra theo lịnh của kertanagara đặt tại Malaya, nhằm mục đích kéo quốc gia này vào cùng liên bang Indonesia để phô trương thanh thế và biến thành một đế quốc lớn mạnh khắp vùng Ðông Nam Á.
Theo ức thuyết của Moons đưa ra năm 1924 thì Kertanagara tự cung hiến cho thần Bairava là hậu quả của Hốt Tất Liệt tự cống hiến cho Phật Tina năm 1264 và tiếp theo là năm 1269. Lúc bấy giờ Kertanagara đã trở thành vương quốc hùng mạnh bằng thiết lập mối giao hảo với Chiêm Thành - một trong những quốc gia có một nền văn hóa cao và một binh đội đáng nễ sợ.
Các sắc tộc Ðông Nam Á gần như cùng một xu hướng tín ngưỡng. Ða phần giống nhau như sùng bái Quỉ Dạ Xoa của Ấn Ðộ, mà người ta thường gọi là Yaksas, vào thời kỳ Phật giáo chưa ra đời. Trước kia, người Chàm cũng như người Việt đều có tục cầu thần linh bằng hình thức "lên đồng" hoặc Charmanism hay Vu Nghiễn cũng cùng một ý nghĩa như nhau. Các đấng thần linh mượn xác đồng để nhập vào giải đáp các sự kiện của bất cứ người phàm nào muốn tìm hiểu về mọi sự kiện liên quan đến đời sống liên quan với cá nhân mình.
Tư tưởng của người Chàm chẳng khác gì như các sắc dân trong vùng Ðông Nam Á. Các diễn biến của lịch sử được ghi bên dưới đây có liên quan mật thiết với dân tộc Chiêm Thành, Nagarakertagama chép:"Khi Ketjasa Jayaverdhana lên ngôi vua được dân chúng khắp nơi hoan hỉ. Krom và Stutterheim coi bốn công nương đều là con gái của vua Kertanagara. Tấm bia đá ghi khắc cuộc hôn phối của các nàng công chúa có liên quan hay đúng hơn có tính huyền bí với các lĩnh thổ mà Kertanagara đã chinh phục được. Nhà vua tin tưởng là mình đã nhờ anh linh của quốc vương vào năm 1275 tự hiển thánh như là Phật Bhaira. Còn bốn Vương Hậu tiêu biểu đó là Bali, Malayu,Madura và Tanjungpura.
Người công nương thứ nhất được sắp xếp vị trí Chánh hậu. Bà tên là Dara Petak. Ðây là công chúa xứ Sumatra. Bà này hạ sinh được một hoàng tử đặt tên là Yaynagara về sau nối ngôi vua Kertarajasa vào năm 1320. Người thứ tư là công chúa Chiêm Thành - một bà Hoàng hậu được nhà vua sũng ái. Bà tên là Gayatri. Bà này sinh hạ được hai công nương. Năm 1291 đem về nước một trong hai nàng có tên là Tapasi gửi cho vua Chiêm,theo lễ nghi Yoga đúng với tập quán thờ phượng Phật Bhaira...
Xem các diễn biến trên cho ta thấy quốc gia Chiêm Thành có một tiềm lực khiến cho vị vương Kertanagara phải tìm cách cầu hòa. Các khoảng dâng hiến cho vua Chiêm đủ nói lên sự trọng vọng của một "đế quốc" hùng mạnh đối một quốc gia như Chiêm Thành - và xem đây là một đất nước có lắm điều phải học hỏi từ phong tục,tập quán đến văn học,nghệ thuật.
Chiêm Thành tức Champa ở giữa hai nước Phù Nam và Âu Lạc, mà hoàn toàn không bị ảnh hưởng, kể cả nền văn minh của phương Bắc tràn xuống. Họ có một nếp sống riêng biệt. Về đạo giáo thì ảnh hưởng Bà La Môn, tuy nhiên về văn học,nghệ thuật cũng như về nề nếp sống hoàn toàn độc lập chẳng giống với bất cứ quốc gia nào!
Các Tháp Chàm biểu trưng cho công trình nghệ thuật xây cất bằng loại đất sét đặc biệt tinh luyện không phải cần đến chất dẻo, hình ảnh được điêu khắc tinh vi hiện còn nằm rải rác dọc theo quốc lộ số 1. Các nhà khảo cổ đều ngạc nhiên khi đứng trước những hình tượng các vũ nữ nhảy múa, các vua chúa, thần linh v.v...tất cả đều có những đường nét điêu khắc thật tinh vi chẳng thua kém đối với các hình tượng của Ấn Ðộ hay Thái Lan hay các quốc gia trong khối Hồi giáo...
Tuy vậy, cũng có những nhận xét về tính nghệ thuật của Chiêm Thành, là phảng phất nghệ thuật của Ấn Ðộ./ Theo Cham Sculpture có đoạn:"Ấn Ðộ của xứ sở thầy tu và vũ nữ" (Engels) của khắc kỷ và khoái lạc. Còn nghệ thuật của Chàm là cả một sự huyền bí. Nếu chúng ta co ?ịp chiêm ngưỡng các hình tượng nữ thần ở Tam Kỳ, hay tấm mộ bia khắc đầy cả văn tự Chiêm Thành tại Mỹ Sơn (Quảng Nam-Ðà Nẵng); hoặc chiêm ngưỡng bức tượng Ðãn Sinh thần Brahma , tượng thần Khánh Chúc, phù điêu bệ tượng Ðông Dương được khắc từ thế kỷ thứ 9 hay Ravan - Phù điêu đài thờ Ðồng Dương hay Garuda, lá nhĩ ở Trà Kiệu, khắc từ thế kỷ thứ mười; tiếp đến tượng thần "Ðầu Con Rồng", "Ðầu Con Sư Tử" ở Trà Kiệu, tượng "U Ma vũ khúc" ở Chánh Lộ Quảng Ngãi v.v..cho thấy người Chàm có một trình độ khá cao mà các quốc gia trong vùng khó lòng sánh kịp.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 10:02:13 GMT 9
Vài nét về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ -Nguyễn Đức Hiệp Thiên phục khả phong (Hoành phi trong đình Minh hương Gia Thạnh) Trong lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Minh hương và Hoa từ xưa đến nay về kinh tế, văn hóa thật là to lớn. Bao nhiêu danh nhân Việt nam trong lịch sử là có gốc Minh hương, từ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Phan Xích Long.. đến những nhân vật có tên tuổi trong văn hóa nghệ thuật gần đây như Hồ Dzếnh, Trịnh Công Sơn, Vương Hồng Sễn, Lý Lan... Họ đã hòa nhập thành người Việt. Đã có nhiều tư liệu viết về Mạc Cửu và xứ Hà Tiên, với văn học Hà Tiên độc đáo, đỉnh cao của người Minh hương đến khai khẩn Nam bộ. Ở đây tôi sẽ chú trọng về người Minh hương và Hoa ở những vùng khác trên Nam bộ, chủ yếu là vùng Đồng Nai-Gia Định. Lịch sử ban đầu - Những nhân vật tiên phong khai phá Ngoài Hà Tiên, thì nơi phát triển đầu tiên của người Minh hương là xứ Đồng Nai, gồm Cù lao phố, Biên Hòa, Bến Nghé-Chợ Lớn. Nông Nại đại phố tức là Chợ Lớn của xứ Đồng Nai. Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông là Nông Nại. Một trong những người đến cùng thời với Trần Thượng Xuyên (hay còn gọi là Trần Thắng Tài) là ông nội của Trịnh Hoài Đức từ tỉnh Phúc Kiến. Trong miếu Quan Đế ngày nay, ông có tên trong danh sách những người sáng lập ra miếu này ở Cù Lao phố năm 1684 (nay là xã Hiệp Hoà). Miếu Quan Đế (Chùa Ông) hiện nay vẫn còn và là miếu thờ cổ nhất ở Nam bộ. Và cha của Trịnh Hoài Đức sau đó cũng góp công vào hương khói của chùa Quan Đế. Tư liệu quí giá và phong phú nhất về lịch sử khai khẩn Nam bộ là quyển Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Trịnh Hoài Đức lúc thiếu thời học với Võ Trường Toản. Trịnh Hoài Đức viết về Cù lao Phố (18): "Nông Nại (tức Đồng Nai) đại phố, lúc đầu do Trần Thượng Xuyên khai phá, tức Trần Thắng Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lát gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, ấy là một chỗ đại đô hội mà những nhà buôn bán giàu có ở đây là nhiều nhất hơn thảy những nơi khác". Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thượng Xuyên đến với quân đội, suy thoái từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Chợ Lớn, Bến Nghé (Sài Gòn) sau này. Trước khi Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn đưa đến cù lao Phố, đã có người Việt từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ vậy, khi Trần Thượng Xuyên đến cù lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc như người Mạ, người Khmer, Chăm cũng tới lui trao đổi hàng hóa. Trần Thượng Xuyên đến với quân sĩ và gia đ ình mang theo, nhiều binh sĩ này vẫn tiếp tục cầm vũ khí theo đuổi binh nghiệp nhưng một số lập nghiệp tại vùng đất mới. Sau một thời gian, thêm một số cư dân và thương gia đến sau, với vốn liếng để lập chợ. Cù lao Phố trở thành cảng sầm uất xuất nhập khẩu, với kho hàng dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua từ nhiều nguồn của cư dân sống trong vùng Đồng Nai như lâm sản, ngà voi, nai, heo rừng, sừng tê giác.. Nguyễn Hữu Cảnh, do chúa Nguyễn gởi vào sau này để cai quản vùng đất mới, đến Cù lao Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, nhưng trụ sở hành chánh và đồn binh đặt ở Sài Gòn. Ông Nguyễn Hữu Cảnh vào cù lao Phố với thủy quân. Khi ông mất ở Rạch Gầm, quan tài được đưa về Cù lao Phố, rồi từ đấy về miền Trung theo đường thủy, chôn ở quê ông là Quảng Bình. Chứng tỏ Cù lao Phố lúc đó là cảng quan trọng, sầm uất nơi cập bến của tàu bè khi đi và đến Đồng Nai, cửa ngỏ của Nam bộ. Hiện nay ở Cù lao Phố còn đền thờ mộ tượng trưng ông, do dân chúng thiết lập để nhớ ơn ông. Cù lao Phố bắt đầu suy thoái khi lưu dân càng xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long càng nhiều, biến vùng Mỹ Tho và các vùng phụ cận thành nơi sản xuất lúa gạo, cây trái, thủy sản lớn nhất của miền đất mới Gia Định - Đồng Nai. Hơn nữa Cù lao Phố thiếu hàng hóa đưa ra ngoài vì lâm sản dần dần ít đi và không còn là sản phẩm chính cần ở thị trường. Nhiều thương gia lần đời xuống Sài Gòn-Chợ Lớn để mua bán nguồn lúa gạo dồi dào của đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu dư để xuất đi nhiều nơi ở Đàng Ngoài và nhiều nơi khác mà lúa gạo là nhu yếu phẩm chính. Cù Lao Phố tàn lụi và chấm dứt khi quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đến tấn công, đốt phá phố cù lao và giết rất nhiều người Minh hương trong vùng. Đại Nam nhất thống chí ghi rõ quân Tây Sơn đến "dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá của cải chở về Quy Nhơn, từ đời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa được một". Những người sống sót đều chạy xuống vùng Bến Nghé và Chợ Lớn lập phố xá và chợ mới gần chợ Tân Kiểng. Từ đó Chợ Lớn càng trở nên phát triển hơn và là trung tâm thương mại ở Gia Định và miền Nam. Thương thuyền khắp nơi vào buôn bán và chở sản phẩm như lúa gạo đi các vùng và các nước như Trung quốc và Mã Lai. Năm 1822, khi người Anh ỏ Bengal (Ấn độ) và Singpapore gởi ông John Crawfurd vào Gia Định gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt để tìm hiểu về thương mại, Crawfurd có viết về Chợ Lớn (lúc đó gọi là Saigon) và Bến Nghé như sau “..Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng. . . . Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây.. . . Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp.”. Cũng theo Crawfurd thì ở Chợ Lớn nhà cửa của thương gia Trung Hoa đồ sộ hơn nhà cửa của người Việt nhiều. Đang khi John Crawfurd đi thơ thẩn, ba gia đình Trung Hoa loại khá giả nhất đã ra cửa mời ông vào chơi (20). Nếu cảng cù lao Phố vẫn còn thì đây là khu phố cổ thương mại thứ hai ở Việt Nam sau phố cổ Hội An, được thành lập với sự đóng góp lớn của người Hoa. Cách đây 14 năm (1993), mộ tướng Trần Thượng Xuyên được khám phá nằm ở Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, cạnh hữu ngạn sông Đồng Nai, mà tôi có dịp đến thăm (9). Đình Tân Lân, ỏ thành phố Biên Hòa, cạnh cù lao Phố là nơi thờ tướng Trần Thượng Xuyên có sắc phong của vua Minh Mạng. Được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa. Đình ở vị trí rất đẹp, trước măt đền là sông Đồng Nai với cây cổ thụ lớn ngay cạnh sông. Tân Lân là tên gọi của vùng bên phía chợ Biên Hòa nơi tướng Trần Thượng Xuyên xưa kia đóng quân, sử ghi là xứ Bàn Lân, sau đổi là Tân Lân. Bàn Lân có thể là do chữ Bằng Lăng nói trại ra. Cây bằng lăng là cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng Đồng Nai và Gia Định. Hiện nay cây bằng lan còn có thể tìm thấy trong các rừng còn lại ở Đông Nam bộ (như rừng Cát Tiên) và một vài tỉnh ở Tây nguyên (Lâm Đồng, Dak Lak). Văn hóa Có thể thấy được sinh hoạt văn hóa sinh động của người Hoa trước đây và hiện nay thì không có gì hơn là đến khu Chợ Lớn. Tôi đi cùng với một người bạn gốc Hoa vào Chợ Lớn thăm viếng các nhà văn hóa người Hoa. Trong Nhà truyền thống góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triễn lãm và các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống trước đây là nhà hát Tam Đa của người Hoa trong vùng. Cạnh nhà truyền thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà (Thiên Hậu) cho mượn. Chùa Thiên Hậu nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. Đường Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và là trung tâm Chợ Lớn. Phim “Người Tình”, phỏng theo tự truyện ‘L’Amant‘ của nhà văn nữ Pháp Margurette Durras, được quay ở đường này. Nhà Xã Tây ở cạnh đây (gọi là Xã Tây vì là tòa nhà hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập, xuất cảnh và giấy tờ). Vùng này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã. Anh Trần Đại Tân, người Triều châu, quê ở Sóc Trăng là người biết nhiều về lịch sử người Minh hương ở Nam bộ. Anh Tân tặng tôi quyển sách của anh viết về người Hoa ở Nam bộ (4). Nói chuyện về các địa lý và phố xưa cũng như các người Hoa danh tiếng trong lịch sử và hiện nay, như Trần Thành trước đây và Lý Ngọc Minh hiện nay, với xưởng gốm ở Bình Dương. Hoạt động của Hội gồm hội họa, thư pháp, nhiếp ảnh, xuất bản văn học. Ngoài ra còn có ban bảo trợ văn hóa người Hoa, với chi hội ca múa nhạc có trụ sở là nhà văn hóa Quận 5, gần Đại Thế giới, đường Trần Hưng Đạo. Từ hội quán, chúng tôi đi bộ đến thăm chùa Thiên Hậu do người Hoa Quảng Đông xây dựng, rất nhiều du khách nước ngoài viếng thăm. Kiến trúc chùa rất đẹp với các tượng trên nóc, mái chùa bằng sành sứ rất công phu và các tranh khắc trên tường là những tuyệt tác rất trang nhã của nghệ thuật người Hoa. Cạnh chùa Thiên hậu là đền Tam Sơn, trên đường Triệu Quang Phục, của người Phúc Kiến (Phúc Châu), nơi đây thờ Ngọc Hoàng, Quan âm, Quan công.., không có chữ quốc ngữ chỉ có chữ Hán trong và ngoài đền. Theo anh Tân, thì kế bên đền Tam Sơn, xưa kia có Thất phủ cổ miếu, nhưng đã bị phá đi, hiện nay là xí nghiệp in, chỉ còn lại một bức tường. Đây là một mất mác văn hóa to lớn. Đến Đình Minh Hương Gia Thạnh trên đường Trần Hưng Đạo, gặp lại bác Vương Quang Tâm, hiện nay là người cai quản đình mà năm trước tôi có đến. Đình là tòa nhà cổ nhất Saigon, xây năm 1789, được công nhận là một di tích lịch sử. Năm 1698, ở vùng này đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, làng Minh hương còn để lại câu ca dao Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương. Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên (có 2 di ảnh tướng Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16/1. Sau chánh điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời). Đình Minh hương Gia Thạnh cũng là nơi tề tựu, gặp gỡ của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Chùa Giác Lâm là ngôi chùa thuộc loại xưa nhất Saigon. Chùa nằm ở Phú Thọ Hoà kế quận 5 (nay là đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình), vẫn còn giữ nguyên không thay đổi nhiều sau bao năm từ lúc thành lập. Chùa được cư sĩ người Minh hương tên là Lý Thụy Long xây dựng vào năm 1744 ở vùng thanh vắng nhiều cây cối không xa chùa Cây Mai và Gò cây mai, một nơi thanh lam thắng cảnh của Gia Định mà Gia Định thi xã của Trịnh Hoài Đức thường hay nhóm họp làm thơ. Lý Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán nên người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm. Vì thế chùa còn có tên là Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm. Năm 1772 hòa thượng Viên Quang tới trụ trì, từ đó mới đổi tên chùa là Giác Lâm. Khi xưa lúc chùa được xây dựng như một cái am, xa cư dân, rất thanh vắng, cây cối rậm rạp, thích hợp cho sự tu dưỡng, tu hành. Trong quyển Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã miêu tả cảnh chùa như sau: "Chùa toạ lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!...". Chùa hiện nay được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Nghề làm gốm là nghề tiểu công nghiệp lâu đời, bắt đầu từ khi người Minh hương đến định cư ở xứ Đồng Nai. Hiện nay ở tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, đa số các chủ lò gốm là do người Việt gốc Hoa, hay Minh hương đảm trách. Họ đã làm nghề này cha truyền con nối bao nhiều đời cho đến nay. Đây là hai trung tâm gốm sứ lớn nhất Nam bộ với nhiều thợ, nghệ nhân người Hoa. Vào thế kỷ 18, đã tồn tại một trung tâm gốm sứ mang tên Xóm Lò Gốm ở vùng quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (phía Chợ Lớn). Xung quanh vùng này còn có nhiều địa danh như Lò Rèn, Xóm Lò Siêu, xóm Lò Gạch .. Địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Chợ Lớn, dùng ghe xuồng chở hàng sản xuất đến các tỉnh miền Tây (15). Gốm vùng Saigon-Gia Định-Đồng Nai ở thế kỷ 18,19 và 20 nổi tiếng có đặc thù riêng và nổi tiếng tốt mà nhiều nhà văn hóa sử, khảo cổ trước đây gọi là gốm "Cây Mai" (được biết đến qua những gốm xưa tìm được ở gò Cây Mai và khu vực đường Cây Mai, Chợ Lớn) nay được xếp loại và gọi chung là gốm Biên Hòa, Saigon. Ngày nay chỉ còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng Hòa Lục (phường 16 quận 8), gần làng Phú Định, nằm ven kênh Ruột Ngựa, của xóm Lò Gốm xưa. Cuộc khai quật năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm, trên một gò lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu.. (15) Ngày nay những nơi còn tiếp tục truyền thống gốm cổ truyền của người Hoa hiện nay còn rõ nhất ở những lò làm lu gốm ở Biên Hòa hoặc ở khu vực Q.9 TPHCM (Thủ Đức cũ, gần Công viên Văn hóa dân tộc đang xây dựng), và một số cơ sở nhỏ sản xuất đồ gốm gia dụng ở vùng Lái Thiêu. Ngoài ra, anh hưởng văn hóa mà người Minh Hương để lại sâu đậm nhất trong đời sống Nam bộ là ngôn ngữ. Tiếng Việt miền Nam được lưu dân Minh hương và Hoa mang vào bổ xung cho tiếng Việt thêm phong phú. Theo Bình Nguyên Lộc, những từ sau có nguồn gốc Minh hương (19) Các từ gốc Triều Châu Lẩu: Có nguồn gốc từ lẩu là một món canh của Triều Châu, đựng trong một thứ bát đặc biệt bằng Laiton. Tía: Chính các chú rể Triều Châu, lưu vong nhà Minh đã đưa ra danh từ Tía vào Nam, và bị ta hiểu là Cha. Hên: Do Hưng. Triều Châu đưa vào và họ đọc là Hinh thì đáng lý ta phải viết là Hênh. Xui: Tiếng nầy đất Bắc có nhưng vay mượn lâu đời hơn và nói là Xúi Quẩy. Do chữ Suy mà ra, đọc theo Triều Châu, Hên Xui = May Rủi. Khổ Tai: Một món ăn khác mà dân miền Nam rất ưa và họ gọi là KHỔ TAI. do người Triều Châu đọc Hô Tai (Hải Táo), một thứ rong biển mà họ nấu với đường để bán cho dân miền Nam ăn. Các từ gốc Quảng Đông Xí Mụi: do Quảng Đông gọi Xíu Mụi, chữ Nho là Tiêu Mai. Công xi: Công Ty, do Quảng Đông đưa vào. Hủ tiếu: Không biết chữ ra sao, nhưng do Quảng Đông đưa vào, họ nói là Phải, không hiểu sao ta lại biến thành Hủ Tiếu. Xíu Mại: Không biết chữ nghĩa ra sao, nhưng đa số các món ăn đều do Quảng Đông đưa vào. Chạp Phô: Chỉ là Tạp hóa. Nhưng chính người Quảng Đông lại cho nó cái nghĩa hạn chế là thực phẩm: trứng vịt, tôm khô, cá khô,v.v. còn các cửa hàng bán các thứ khác cũng tạp nhạp lại không được gọi là chạp phô. Giò Chá Quảy: Thật đúng là Dầu chá quảy tức con quỷ nướng trong dầu, chỉ loại bánh bột mì chiên mỡ. Ly: Cốc bằng pha lê, người Quảng Đông gọi là Pò Lý Púi, tức Pha Lê Bôi, ta nuốt hết, chỉ chừa lại Lý và đọc là Ly. Xì Thẩu: Chữ Nho là Sự Đầu, chủ sự, nhưng bị ta hiểu là Ông chủ. Điều này cho ta thấy miền Nam ban đầu chịu ảnh hưởng nhiều của phong tục, sinh hoạt, tập quán người Minh hương. Các tỉnh ở Nam bộ Trong năm 2007, tôi đã có dịp đi thăm một số tỉnh, thị xã ở Nam bộ, sau đây là một vài nét sơ lược về người Minh Hương và Hoa ngày nay ở các tỉnh Nam bộ Cần Thơ: Dọc bến Ninh Kiều, bên sông Hậu có chùa Ông của người Quảng Đông. Chùa được xây ở một vị trí khác cách đây hơn 70 năm, chùa được dời đến vị trí đẹp ở bến Ninh Kiều gần đây sau này. Kiến trúc chùa bên trong được xây theo chữ Quốc. Bên trái khi bước qua công là tượng tướng Mã Tiền đứng cạnh tượng ngưa, bên phải là tượng thờ ông Phước mang đến may mắn. Giữa đền thờ Quan Công. Dọc theo bến Ninh Kiều, đường Hai Bà Trưng, gần phía khu chợ ngày trước, còn vài nhà xưa của người Hoa và nhiều cửa tiệm của người Hoa trên các đường Châu Văn Liêm, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Võ Văn Tần đổ ra bến Ninh Kiều. Sau năm 1975, cộng đồng người Hoa ở Cần Thơ có ít đi nhiều so với trước. Sóc Trăng: Ngoài thị xã Sóc Trăng, có rất nhiều cửa hiệu bán bánh pía từ các cơ sở làm bánh pía An Thành, Tân Hưng, Công Lệ Thành... bánh pía là đặc sản Sóc Trăng của người Hoa Triều Châu làm ra. Nhiều vùng ở tỉnh Sóc Trăng, như huyện Vĩnh Châu, nơi có nhiều vườn nhãn, có rất nhiều người Khmer và Hoa cư ngụ, hơn cả người Việt. Đa số dân ở vùng này nói 3 thứ tiếng Khmer, Triều Châu, Việt. Thị xã Sóc Trăng nay đã trở nên phồn thịnh phát đạt, phố xá ban đêm rất đông đảo xe cộ. Đường Hai Bà Trưng gần chợ có nhiều cửa tiệm người Hoa, không khác gì đường Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn. Trên đường Trần Minh Phú góc đường Ngô Quyền là Hội tương tế người Hoa (18-20 Trần Minh Phú) gần bờ sông Sóc Trăng. Một trong những nhân vật văn hóa nổi tiếng sinh ra ở Sóc Trăng là ông Vương Hồng Sễn, người gốc Triều Châu. Ông đã ghi lại và sưu tập những chuyện xưa, sự kiện từ đầu thế kỷ 20 xảy ra ở Nam bộ và vùng Saigon Gia Định, để lại nhiều tài liệu quý giá. Hiện nay bộ sưu tập gốm của ông được đặt ở phòng mang tên Vương Hồng Sễn trong Viện Bảo tàng Lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo Lộc: Thị trấn lớn và trù phú nhất Lâm Đồng sau Đà Lạt là Bảo Lộc, giàu có nhờ các đồn điền trà và cafe chung quanh vùng. Ở đây có cộng đồng người Hoa khá đông so với các vùng khác trong tỉnh. Tôi có ghé vào tiệm bán trà, cafe Lâm Kim Hoa của người Hoa. Chủ là 2 chị em gốc Phúc Kiến, người chị đang ở Mỹ, có đồn điền mướn nhiều công nhân và người giúp việc ở tiệm trưng bày và thử trà, cafe. Gần Ninh Chữ, Ninh Thuận, có một nghĩa trang Triều Châu, ở Phan Rang cộng đồng người Hoa có khoảng từ 3000 đến 4000 người. Không thể liệt kê hết các nhân vật người Minh hương từ trước đến nay trong quá trình lịch sử nhiều thời đã đóng góp vào văn hóa Việt Nam như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Phan Thanh Giản, Mạc Thiên Tích, Vương Hồng Sển... Ở đây chỉ nêu lên vài nhân vật tiêu biểu của các thời kỳ đã qua trong lịch sử. Trịnh Hoài Đức Ông nổi tiếng và được nhớ đến nhiều trong lịch sử không phải là vì ông là một vị đại thần dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng được trọng dụng và làm đến chức Thượng thư bộ Hộ mà là vì tác phẩm “Gia Định thành thông chí “ có giá trị văn hóa, địa chí về miền Nam trong giai đoạn mở mang cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tác phẩm duy nhất này về miền Nam thời khai hoang mở đất, cho ta những tư liệu quí giá về con người, phong tục, đất đai, địa chí, lịch sử... Nếu nhà bác học Lê Quí Đôn có Vân Đài Loại Ngữ cho Bắc và Trung bộ thì Trịnh Hoài Đức có “Gia Định thành thông chí” cho giai đoạn miền Nam mở đất. Ngoài ra ông còn là một nhà thơ, để lại các bài thơ tả cảnh đất Gia Định trong tập thơ văn “Cấn Trai thi tập”. Ông là và các bạn thơ sáng lập “Bình Dương thi xã“ và là một trong “Gia Định tam thi” (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh) thường tập họp làm thơ ở những nơi như chùa Giác Lâm, gò Cây Mai (nay là Phụng Sơn tự, đường 3/2 Saigon), Minh hương gia thạnh, chùa Cây Mai..Trong bài thơ tả cảnh ở khu Đầm Sen (Saigon) cuối thế kỷ 18, cho ta thấy cảnh thanh tịnh, hoang sơ ở Saigon hơn 200 năm nay (11). Liên Chiểu Miên Âu Âm âm hạm đạm thủy trung tiêu Dục bãi sa âu liễm ngọc kiều Tầm mộng phù tung y lục cái, Vong cơ nhàn khách chẩm hương miệu Nặc tha xảo thước thu tang đỗ, Nhiệm nhĩ lưu oanh chức liễu điều, Du nữ thái liên hưu loạn động, Cựu minh do đãi trục lai triều Trịnh Hoài Đức (Cấn trai thi tập) (Dịch nghĩa: Chim âu (vịt trời, le le) ngủ ở Đầm Sen Hoa sen sum suê vươn cao lên trong nước Tắm xong, chim âu thu lông ngọc lại Tìm mộng, bước chân trôi nổi đi theo các lọng xanh Quên đời khách nhàn nhã gối đầu vào cỏ thơm, Gần chim thước khéo léo lấy vỏ gốc cây dâu (để làm tổ) Mặc chim oanh lanh lợi dệt cành liễu Các cô g ái đến hái sen đ ừng làm kinh động Hẹn cũ * còn chờ theo nước triều lên. ) * Hẹn cũ: Dịch chữ Hán “cựu minh” do điển “âu minh” chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có ước hẹn làm bạn với chim âu Năm 1825, ông mất ở Phú Xuân, linh cửu được tổng trấn Lê Văn Duyệt thân hành hộ tống đưa về quê mẹ ở Biên Hoà chôn ở phường Trung Dũng, không xa Cù Lao phố. Năm 1938, trường Viễn đông Bác cổ xếp mộ ông là di tích và hiện nay là di tích lịch sử quốc gia. Diệp Văn Cương, Diệp Văn Kỳ Diệp Văn Cương, hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, vì quê quán ông ở An Nhơn (gần Gò Vấp), Gia Định. Thuở nhỏ, Diệp Văn Cương giỏi chữ Hán và quốc ngữ nên được học bổng du học và đỗ tú tài ở Pháp. Ông về nước dạy tại trường Chasseloup Laubat (tục danh trường “Bổn quốc”)(1). Sau làm thông ngôn cho toà Khâm sứ Huế và là thầy dạy học cho vua Đồng Khánh. Ông lấy công chúa, Công nữ Thiện Niệm, con của Thoại Thái Vương Hồng Y, em vua Dục Đức. Ông có vai trò trong việc đưa vua Thành Thái lên ngôi, sau khi vua Đồng Khánh mất. Là một trí thức lớn ở miền Nam, năm 1868, ông là chủ biên tờ Phan Yên báo tại Sài Gòn. Tờ báo quốc ngữ thứ hai sau Gia Định báo (1865) do Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của chủ biên. Nội dung tương tự như Gia Định báo (lúc đầu bài trong Gia Định báo đa số là công báo của chính quyền Pháp), với tin địa phương và thư độc giả bằng chữ quốc ngữ, nhưng sau đó có các bài chính trị, nên báo bị đóng cửa. Tác phẩm của Diệp Văn Cương gồm có: Syllabaire quốc ngữ (sách vần quốc ngữ) (1919), Recueil de morale annamite (1917), dịch tập Phong Hóa từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ. Hãy nghe Vương Hồng Sển (1) kể về ông:“Gần tuổi về hưu, ông trở lại dạy Sử học và Việt văn trường Chasseloup-Laubat như trước. Kẻ viết bài này khi còn học lớp dưới, đã từng đứng nghe lóm ngoài cửa và ân hận không được thọ giáo cùng ông. Khoảng năm 1919, dạy sử học, ông lấy Sử Diễn Ca Lê Ngọc Cát ra bình chú, dạy Việt Văn ông đã biết đem những đoạn xuất sắc trong Kiều, Lục Vân Tiên, và Chinh Phụ Ngâm ra giải thích cũng là mới lạ. Người ông nẫm thấp hùng vĩ, lịch duyệt Bắc Nam, ông ngâm thi sang sảng, nói tiếng Tây rất "giòn", bình sanh sở thích hát bội, roi chầu bóng bẩy rất mực phong lưu, tuồng hát nằm lòng, cô đào anh kép phục sát đất! Vãn hát ông rước luôn đào để cả y phục và áo mão về nhà hát lại ông thưởng thức riêng.” Diệp Văn Kỳ, con trai của Diệp Văn Cương, đỗ cử nhân, luật sư, cũng là một nhà báo tiền phong rất có tiếng tăm như cha. Mua lại tờ Đông Pháp thời báo (1927) từ ông Nguyễn Kim Đính, sau đổi thành nhật báo Thần Chung, được sự cộng tác đắc lực của nhóm Nguyễn Văn Bá, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Đào Trinh Nhất, Trần Huy Liệu, Phan Khôi, v.v.. Từ khi làm chủ, ông đã chuyển Đông Pháp thời báo theo hướng một tờ báo đối lập và Đông Pháp thời báo trở thành tờ báo có rất đông bạn đọc khắp Nam, Trung, Bắc. Cũng như cha, ông viết nhiều, đôi khi cùng với Phan Khôi (dưới bút hiệu Tân Việt) và rất mê kịch, tuồng (13). Ông là nhà báo dân tộc, lên tiếng bảo vệ sự hợp nhất chữ quốc ngữ ở 3 kỳ chống lại sự chia rẽ trong những tranh luận tách riêng sách giáo khoa quốc ngữ ở trong Nam (14) và là người rất rộng lượng, giúp đở nhiều nhà văn, nhà báo như Mộng Đài, Tản Đà.. Ông giúp đỡ thi sĩ Tản Đà, khi Tản Đà thất bại làm báo “An Nam tạp chí” thiếu nợ phải vào Nam kiếm sống khoảng năm 1926, trong lúc tình cờ gặp Tản Đà đang lang thang trên đường Catinat (đường Đồng Khởi) trước nhà hàng Continental mà ông và một số bạn đang ngồi bên trong. Mến tài Tản Đà, ông cho 2000$ (một số tiền lớn thời đó) để Tản Đà trở ra Bắc trang trãi nợ nần và vào Nam viết cho tờ Đông Pháp thời báo. Ông trã rất hậu hĩnh mỗi tháng cho thi sĩ Tản Đà bằng tiền lương quận trưởng (12) và giúp đỡ định cư ở Saigon (Xóm Gà, Gia Định) trong ngôi nhà rộng, tĩnh mịch để thi sĩ có cảm hứng. Tuy vậy thi sĩ Tản Đà cũng có lúc báo sắp lên khuôn mà chưa thấy đưa bài. Ông Kỳ phải kêu tùy phái vào Xóm Gà để hối thúc bài. Tản Đà vẫn thản nhiên thốt một câu lịch sử để đời trong văn học “Làm thơ đâu phải bửa củi mà muốn lúc nào có lúc ấy”. Nhà thơ thời tiền chiến Mộng Đài cũng là một người thuở còn trẻ khi vào Saigon đã được ông giúp đỡ. Trong dịp cùng với nhà báo Hoa Đường xông đất đầu năm đến nhà Diệp Văn Kỳ thăm, Mộng Đài viết trong hồi ký như sau “Sau khi cho phép Hoa Đường múa “Gioọc” (“Giọc” là giọc tẩu, ống hút thuốc phiện) đầu năm, cụ Diệp quay lại nắm lấy tay tôi và bằng giọng thật ấm áp nói: -“Xừ Mạnh đến với anh, anh chẳng biết chúc gì cho chú em mà chỉ có mỗi bài thơ này tặng nhau ngày Xuân”. Rồi cụ Diệp cất tiếng cao ngâm bài thơ ứng khẩu ấy như sau: Cái kiếp trần duyên, kiếp đọa đày Non Tiên sao khéo lạc loài đây?! Trớ trêu thu thủy hoa in nguyệt Đỏng đảnh Xuân Tiêu liễu vẽ mày Sóng sắc lập lòe con nước động Gió hương phưởng phất cánh hoa lay. Trông em khó nổi vô tình được Mượn bút làm duyên để giải khuây. Ngâm xong cụ lấy bút viết ngay vào tờ giấy đoạn vào phòng trong bỏ trong phong bì đỏ ra trao tôi: -“Bài thơ này tặng em. Ý tứ của bài thơ thì em về chiêm nghiệm lấy”. Đêm hôm ấy tôi về đến nhà, mở ra để đọc lại cho vui. Không ngờ ngoài tờ thơ cụ viết, cụ còn để ngay ngắn tờ “Con Công” năm đồng ngay trong phong bì để lì xì cùng mấy chữ ngoằn ngoèo trong tờ giấy đỏ: “Cho người em cưng nhất của ta”. Cụ ký vào bên dưới”. Năm 1945, ông Diệp Văn Kỳ bị ám sát ở Trảng Bàng (Tây Ninh) vì bị coi là thân Nhật, uổng mất một tài năng trong lịch sử báo chí Nam kỳ. Ngoài số bài báo ông viết và viết chung với Phan Khôi, còn có tác phẩm để lại: Thần ái tình (Rabindranath Tagore), Diệp Văn Kỳ dịch, 1929. Biệt thự nhà ông trên đường Trần Hưng Đạo, được quân đội Nhật trưng dụng dùng làm nơi chỉ huy, sau quân đội Anh giải giới giao cho Pháp và được chế độ củ dùng làm Bộ Tổng Tham Mưu. Vương Hồng Sển Sinh ở Sóc Trăng, trong gia đình gốc Phúc Kiến đã định cư từ lâu đời ở Sóc Trăng. Ông là nhà văn rất Nam bộ trong cuộc sống và phong cách viết văn. Những tư liệu, dữ kiện, biến cố, nhân vật và nhận xét ông thâu thập trong suốt từ các năm ở thập niên 1920 cho đến hết thế kỷ 20 ở miền Nam và các nơi ông có dịp viếng thăm mà ông viết ra là những tài liệu lịch sử và văn hóa quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về những vùng đất, tỉnh thành ở miền Nam. . Khi còn trẻ ở Sóc Trăng, ông làm công chức Phó ban hành chánh của chính phủ thời Pháp thuộc rồi sau đó lên Saigon làm quản thủ thư viện trong Viện bảo tàng Saigon. Ông có trí nhớ rất giỏi từng chi tiết, rất mê sưu tầm tư liệu lớn, nhỏ và đồ cổ như đồ gốm sành, sứ. Cùng thời với Sơn Nam, ông ít viết truyện nhưng rất nhiều bút ký. Văn ông rất bình dân, dễ đọc và có duyên. Ngoài các nhân vật nổi tiếng ông có gặp và viết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Nhu .. ông còn viết về những người thân, người thầy, người bạn, quen biết trong sở làm, học đường, nhà trọ... đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Hãy xem một đoạn ông viết về Nguyễn An Ninh “ Tôi làm quen với ông Ninh nhờ mua báo bằng Pháp văn đối lập chống chánh phủ đương thời, gọi là La Cloche fêlée (Cái chuông rè) do ông một mình vừa chủ trương, vừa viết báo, và vừa bổn phận đứng khắp Sài Gòn, mình mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao lanh lẹ và chạy bán từ số, từ tờ cho mấy ông mấy thầy, bất chấp cách lườm ngó đầy ác ý và tiếng nặng nhẹ của nhóm thực dân, từ thằng biện chà gác đường đến thằng Cọt (Corse) ngồi nhà hàng uống rượu khai vị xưng mình là người cai trị da trắng mà sức học chưa có tới mảnh xẹt-ti-fi-ca (certificat)... Nhưng mỗi tuần vào khoảng tháng hai tháng ba tây năm 1926 cứ mỗi thứ hai và thứ năm lối bảy tám giờ tối không sót ngày nào, ai muốn gặp Ninh cứ lại trước nhà hàng Yeng yeng thì gặp, không trật bữa nào... Trước khi giáp mặt chị em, tôi thường mua một tờ Chuông Rè để lấy le. Nhưng ông Ninh sau khi bán cho tôi đều đều, lại lầm tưởng, cho tôi đúng là nhà ái quốc có gan, không nữa cũng một tay cừ nào đó có sạn trong đầu. Một đôi khi sau khi nhận của tôi một cắc bạc tiền mua báo, ông chồng báo qua tay trái và chìa tay mặt bắt tay tôi niềm nở như hai bạn tương tri cách mặt lâu ngày. Có mấy lần tôi thẳng thắng kéo tay mời ông vô dùng cơm Yeng Yeng, nhưng ông lắc đầu lia lịa, xổ một dọc tiếng Tây cám ơn không ngớt, và tỏ vẽ cảm động thật tình. Nói cho đúng lúc ấy ai ai đều ngán ông Ninh và không dám giao thiệp công khai, vì sợ liên lụy không nhỏ. Riêng tôi, tôi lại nghĩ lại. Lúc bấy giờ chưa ai biết là nhà ái quốc dám hy sinh tánh mạng như ngày nay đã rõ, lúc ấy ông là người ai cũng e dè không dám lại gần, trừ những người cùng một chủ nghĩa với ông, Việt Tha, Le Jean de la Bâtie, Paul Marchet, vân vân. Còn tôi, tôi vẫn phục ông thật tình ...” Những bút ký ông viết cho ta thấy toàn thể đời sống, suy nghĩ, văn hóa của thời bấy giờ rất sống động và quý giá về xã hội năm xưa. Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: Saigon xưa và nay, Hơn nữa đời hư. Khi ông mất, ông cống hiến hết thảy tài sản, tư liệu và đồ sưu tập của ông cho chính quyền thành phố. Hiện nay căn nhà của ông ở Saigon số 9/1 Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh, được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM quản lý, sử dụng. Theo báo Người Lao Động thì năm 2002, tức 6 năm sau khi VHS qua đời, qua căn nhà của cố học giả gần như vô chủ và bị xuống cấp nặng nề. Theo di chúc, ông hiến toàn bộ tài sản của mình tại ngôi nhà cho Nhà nước, nhưng do có tranh chấp về quyền thừa kế nên thời gian qua các cơ quan chức năng chưa quản lý ngôi nhà này. Chỉ có số cổ vật và sách quý được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp tạm thời cất giữ. Ngôi nhà cổ này hiện nay đã được trùng tu và có thể viếng thăm để hiểu và biết được cuộc đời của một con người rất Nam bộ đặc sắc đam mê văn hóa, nghiên cứu viết sách, hiến trọn đời mình cho sự đam mê ấy và những di sản quí báu mà ông để lại. Trong Viện bảo tàng lịch sử, Thảo cầm viên Saigon, có một phòng đặt tên Vương Hồng Sển, trưng bày những hiện vật quý mà ông bỏ cả đời để thu thập như các đồ gốm Trung hoa, men lam Huế.. Lý Lan Nhà văn Lý Lan, sinh năm 1957 ở quê mẹ Bình Dương, quê nội ở Quảng Tây. Trưởng thành trong Chợ Lớn và dạy học ở Cần Giuộc. Chị là nhà giáo và cũng là nhà văn viết nhiều truyện ngắn với giọng văn tinh tế, ý nhị và đượm tình người. Trong những năm ở thập niên 1980, tôi đã đọc các truyện và tuỳ bút của Lý Lan trên báo Tuổi trẻ, và các tập truyện như Nơi bình yên chim hót, Chút lãng mạng trong mưa. Những chi tiết trong đời sống thường ngày ở trong phố, ở người chung quanh trong xã hội Việt Nam mà thường ta không để ý, được chị viết rất ý nhị với văn trong sáng và cảm thông với người và cảnh. Một Thạch Lam mới trên văn đàn văn học Việt Nam. Các tác phẩm của Lý Lan rất được ưa chuộng, đánh giá cao và được coi là nhà văn chững chạc có tiếng với nhiều độc giả trong nhiều năm qua. Ngoài ra chị cũng viết các truyện thiếu nhi như quyển Ngôi Nhà Trong Cỏ (1984) được giải thưởng văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2005, tập thơ Là Mình được giải thưởng thơ hội Nhà Văn Thành Phố Hồ Chí Minh. Các năm gần đây chị cũng là dịch giả các bộ Harry Potter ra tiếng Việt. Lý Lan hiện đang sống ở Mỹ, cho rằng Hoa kiều trong giai đoạn trước 1975 có văn học tiếng Hoa riêng ở Chợ Lớn và chị đang khuyến khích các nhà văn gốc Hoa ở Việt Nam viết hình thành một văn học Hoa văn như các văn học Hoa văn khác ở Singapore, Mã Lai, Hongkong, Đài Loan và viết một tuyển tập (anthology) về văn học Hoa ở Việt Nam. Lý Lan thường viếng quê nhà và vẫn còn sáng tác, cộng tác với các báo và xuất bản các tác phẩm trong nước mà gần đây nhất là tác phẩm Miên man tùy bút. Kinh tế Hiện nay 30% doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh là do người Hoa làm chủ, như các công ty lớn Bitis, Sacombank và các cơ sở thương mãi Thuận Kiều Plaza, An Đông Plaza. Chúng ta cũng nên để ý là trong khi chủ người Hoa hiện nay của công ty nước uống lớn nhất ở Phi Luật Tân, St Miguel, còn đang sống cực nhọc trong “xóm nhà lá” ở Manila trước khi thành công phát triển công ty lớn nhất ở Phi Luật Tân thì ở Chợ Lớn thời gian đó, các thương gia giàu có người Hoa đã có văn phòng, khách hàng, đối tác ở Singapore, Đài Loan, HongKong. Họ đã thiết lập một hệ thống thương mại với các người Hoa khác trong vùng Đông Nam Á để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Tôi nhớ khoảng đầu thập niên 1970, những sản phẩm dầu gió sản xuất ở Chợ Lớn như dầu Nhị Thiên Đường được ưa chuộng và xuất khẩu qua thị trường Đông Nam Á, nhất là ở Thái Lan, cạnh tranh với những sản phẩm dầu của một công ty Singapore, nay nằm trong tập đoàn Temasek, mà bà chủ hiện nay trở thành có thế lực và giàu có bậc nhất ở nước này.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 10:03:14 GMT 9
(a) Giai đoạn trước 1975
Trước đây phần lớn kỹ nghệ nhẹ như sản xuất đồ gia dụng là tập trung ở Chợ Lớn, trước khi các vùng kỹ nghệ Thủ Đức, Biên Hòa, Bình Dương được thành lập trong đầu thập niên 1970. Những cơ xưởng sản xuất nhỏ này phần lớn do các gia đình người Hoa hoặc các tiểu thương gầy dựng. Những cơ xưởng này đã và hiện nay vẫn còn đóng vai trò quan trọng vào kinh tế vùng thành phố Hồ Chí Minh. Ngày xưa trước 1975, Saigon có thể là nền kinh tế phồn vinh "giả tạo" không có cơ sở vật chất, do tiền viện trợ nước ngoài đổ vào, nhưng kinh tế ở Chợ Lớn cơ bản là tốt và có thực lực dựa vào sự làm ăn cần cù, chăm chỉ và chuyên tâm của người Hoa.
Sau đây là tóm tắt về một số thương gia người Việt gốc Hoa từ thời Pháp thuộc tới nay (1).
(1) Chú Hỏa: Theo Vương Hồng Sển (1), tên thật là Hui Bon Hoa, ký âm theo tiếng Pháp sau khi nhập Pháp tịch, nên gọi "Chú Hỏa" như vậy cho đến đời đời (người miền Nam thường thân mật gọi các người Hoa là "Chú"), không rõ danh tánh theo Hán tư.. Lúc đầu là thợ dạo mua bán "lạc son", mua đồ cũ để chế biến và bán lạị Sau khi tạo dược một số vốn, hùn hạp với một người Pháp thầu khuếch trương các tiệm cầm đồ trong Nam kỳ và buôn bán bất động sản. Sau khi rã hùn, được chia một số tiền, làm chủ các sản nghiệp đất cát miền Lục Tỉnh. Các tài sản bất động sản ở trung tâm Saigon trên đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi của công ty Hui Bon Hoa được cho mướn. Công ty này được tiếng là rất "biết điều" và không eo sách, làm khó người mướn phố. Các con cháu của "Chú Hỏa" luôn luôn hòa thuận, gia tài giữ nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng một số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh khi ấy ngân hàng mới phát bạc.
Cùng thời với chú Hoả là một người Việt gốc Hoa nổi tiếng ở Lục Tỉnh, Chú Hỷ. Ông cạnh tranh với công ty Pháp, công ty Vận tải đường sông rạch "Compagnie des Messageries fluviales" chuyên chở hàng và người trên sông ngòi miền Tây nam bộ. Tàu Chú Hỷ giá vé rẻ hơn và hành khách được lo chu đáo. Bởi vậy có câu " Đi tàu Chú Hỷ, ở phố Chú Hỏa".
Hồi về thăm Việt Nam đầu năm 2007, tôi có viếng nhà của chú Hỏa ngày xưa (nay là viện Mỹ thuật thành phố), và có may mắn nói chuyện với chị giám đốc về đề tài chú Hỏa. Ngoài các toà nhà bên cạnh Viện, chú Hoả ngày xưa còn xây khách sạn Majestic ngay bến Bạch Đằng cạnh sông Saigon, Bệnh viện Saigon và các dinh thự khác ở Saigon, Vũng Tàu theo kiểu nhà Tây. Vào dịp viếng thăm Vũng Tàu, tôi có dự đám cưới con nhà văn Xuân Sách ở khách sạn Palace. Xưa kia khách sạn Palace là biệt thự của chú Hỏa. Ngày nay thì hiện đại nhưng mất đi dáng cổ kính của kiến trúc Tây ngày xưa. Giữa sân vào khách sạn giờ đây là một hồ bơi rất sang của khách san, nhưng bên cạnh vẫn còn cây cổ thụ to lớn mấy người ôm cũng không xuể, tàn lá xum xuê.
Ngày nay ta có thể đến thăm một căn nhà của chú Hỏa trên đường Phó Đức Chính, gần chợ Saigon. Toà nhà này hiện nay là Viện Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh trụ sở của bộ Văn hóa Thông tin thành phố đồ sộ không kém (xưa kia cũng là nhà của chú Hỏa). Giá vé vào cửa thăm quan rất rẽ (5000 đồng). Tòa nhà Bảo tàng Mỹ Thuật đồ sộ, rất đẹp, xưa kia là của chú Hỏa (Hứa Văn Bon). Tổng thống Mỹ Bill Clinton khi dến Saigon đã có viếng thăm Viện Bảo tàng Mỹ thuật này. Rất ít khách Việt, đa số là khách nước ngoài nhưng tuy vậy vẫn còn rất vắng vẽ. Giữa tòa nhà 3 tầng là một sân lớn, chung quanh là các phòng với sân balconỵ và hành lang nhìn mở ra phía sân trong.
Tòa nhà xây theo kiểu Pháp (chỉ có mái là có dạng Việt), rất kiên cố chắc chắn với trần cao. Các bậc thang làm bằng đá cẩm thạch (marble), giữa sân lobby vào cửa chính có 1 thang máy làm đầu thế kỹ 20, giống như thang máy cổỗ xưa ở Paris, vẫn còn chạy nhưng ít dùng. Tòa nhà này có rất nhiều phòng, mỗi phòng đều có đèn treo từ trần và lót gạch bông vẫn còn như xưa. Các tranh trưng bày trong Viện đa số về các sinh hoạt và chiến tích, thành tích trong thời chiến tranh chống Mỹ không có gì xuất sắc ngoài bức sơn mài to lớn "Vui xuân" của Nguyễn Công Trí (một nghệ sĩ tạo hình nổi tiếng của Trường Mỹ thuật Đông Dương mà xưa kia toàn quyền Pháp đã mua 1 bức sơn mài đặt trong phủ toàn quyền ở Hà Nội). Ở lầu hai có trưng bày đồ gốm, bàn ghế xưa và các tượng thờ trong vùng Saigon từ thế kỷ 19, 20. Đằng sau trên lầu 3 nhìn xuống sân vườn giữa tòa nhà, có trưng bày bức tượng ông Trương Vĩnh Ký (sau giải phóng được mang vào đây).
Trong lúc tôi đang xem gốm Biên Hòa, thì tình cờ gặp chị giám đốc Viện trong phòng triển lãm. Tôi hỏi về lịch sử gốm Biên Hòa và được chị tiếp chuyện. Qua đó tôi có góp ý với chị là các tranh nên có đề năm sáng tác (ngoài tên tác giả), chị cho biết sẽ có tập sách viết về lịch sử viện trong dịp 20 năm thành lập và các mục lục tranh và tiểu sử các tác giả. Nói chuyện với chị về huyền thuyết "con ma" nhà chú Hỏa ly kỳ rùng rợn về con gái chú Hỏa với bệnh cùi và huyền thuyết thuở hàn vi "đi bán ve chai". Tất cả đều không đúng sự thật. Chú Hỏa không có con gái chỉ có 3 người con trai và sau này đã về Tàu chết ở đó. Chú Hỏa làm việc với một chủ người Pháp, vì tính siêng năng và tốt nên ông chủ Pháp thương và đã giúp chú Hỏa vốn mở tiêm cầm đồ buôn bán. Tiệm cầm đồ đầu tiên là tòa nhà góc đường Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Bình, văn phòng ông ở trước cửa viện bên kia đường, trên một khu đất vẫn còn trống. Khi nhà ông được xây, thì từ chợ Saigon và phía đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, có thể thấy được biệt thự của ông. Ông xây 3 căn trên sát nhau trên đường Phó Đức Chính, mỗi căn cho một người con trai. Căn giữa (hiện nay là trụ sở Bộ Văn hóa Thông tin) cho người con trai lớn có đặt bàn thờ tổ tiên. Theo chị giám đốc thì trụ sở Bộ sẽ di về chỗ khác, giao tòa nhà (cũng đồ sộ với kiến trúc Pháp) lại cho bảo tàng Mỹ Thuật.
Cách đây vài tháng (khoảng cuối năm 2006), con cháu chú Hỏa về thăm và có nói là cũng thấy nhà đã được dùng cho công chúng và chưa có ý đòi lại tòa nhà và các tòa nhà chung quanh (đất gồm diện tích giữa 4 góc đường Lê Thị Hồng Gấm, Calmette, Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Bình).
Trên lầu ba là các phòng trưng bày hiện vật của nền văn hóa Óc Eo tìm được ở nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long (Rạch giá, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Tây Ninh...), phòng văn minh Champa với các phù điêu, tượng thần tìm được ở Trà Kiệu, Bình Định, và phòng trưng bày các gốm, tượng, đồ đồng Việt Nam.
Ở góc sân giữa tòa nhà là bức tượng đồng rất đẹp ông Quách Đàm, một người Hoa nổi tiếng ở Saigon. Người đã xây dựng chợ Bình Tây. Trên bức tượng ở ngực ông đầy huy chương. Trước đây tượng được đặt ở chợ, sau giải phóng, cũng như tượng Trương Vĩnh Ký, đã được mang về đây. Hai phòng bên cạnh sân giữa tòa nhà là hai phòng trưng bày tranh (gallery) để bán, chủ tiệm của phòng tranh bên trái có treo ảnh chụp của bà với tổng thống Clinton khi ông vào đây thăm viếng.
Hôm viếng thăm, tôi có dịp dừng lại nói chuyện với các du khách từ Pháp giải thích cho họ về bức tượng Petrus Ký và Quách Đàm và sơ lược tiểu sử của hai nhân vật lịch sử này. Phải nói là Viện Bảo tàng nên có hướng dẫn viên hay sách chỉ dẫn cơ bản về những hiện vật trong Viện để du khách có thể hiểu biết về nghệ thuật và học hỏi về các đặc thù nghệ thuật Việt Nam nói chung và thành phố nói riêng.
(2) Quách Đàm:
Miền Nam có câu nói về những người giàu có trong giữa thế kỷ 20 “Nhất Hỏa, nhì Đàm, tam Xường, tứ Ích”, cho thấy Quách Đàm là nhân vật thứ hai sau chú Hỏa. Xuất thân thuở hàn vi bán ve chai, kèm theo mua da trâu, vi cá và bong bóng cá. Ddàm nhờ lanh trí, nhập giới thương mại thấy việc mau lẹ hơn ai hết, nên làm giàu nhanh chóng.
Ông là người xây lập chợ Bình Tây hiện nay vẫn còn ở Chợ Lớn. Lúc đó Chánh tham biện Chợ Lớn thấy Chợ Cũ (hiện nay là nền nhà Bưu Điện Chợ Lớn, Quận 5) nhỏ hẹp, không đủ cho bạn hàng nhóm họp. Ông nghe biết được nên mua ngay vùng đất ruộng Bình Tây, biến đất ruộng thành đất thổ trạch châu thành, rồi cho người đến dâng miếng đất, chỉ đòi được xây chợ và cất phố kiểu buôn bán chung quanh chợ để cho mướn. Chính quyền đồng ý và sau này cơ sở phát triển còn cho phép tượng Quách Đàm được tạc và dựng ở chợ. Trụ sở của nhà buôn Quách Đàm nằm ở đường Quai de Gaudot (nay là đường Khổng Tử).
Về sau Quách Đàm rất giàu, xoay qua đứng bảo lảnh cho các con nợ nhà băng "Đông Dương Ngân hàng". Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, họ phải chịu cho Đàm một huê hồng qui định trước. Nhưng gặp năm kinh tế khủng hoảng 1929, các nhà buôn vỡ nợ không đủ sức trả bạc vay, nhà băng phát mãi phá sãn, lôi kéo sự nghiệp nhà họ Quách sụp đổ theo cơn khủng hoảng kinh tế trầm trọng ở Nam kỳ.
Sau này, khi Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên... Khách đi dường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve (bia) và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy "ngẫu" (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón! Quách Đàm được chôn ở gần chùa Giác Lâm giáp ranh Chợ Lớn và Gia Định (1)
(3) Mạc Phúc Sử:
Nổi tiếng với sản phẩm dầu cù là Macphsu. Dầu cù là Macphsu do ông làm chủ và sản xuất. Macphsu là tên ký âm bằng Pháp ngữ khi Mạc Phú Sử ra cầu chứng tại tòa. Vì không biết đọc, biết viết tiếng Pháp nên khi được hỏi dầu cù là cầu chứng tên gì, ông tưởng là nhân viên tòa hỏi tên mình là gì, ông bèn nói Mạc Phúc Sử và được người Pháp viết theo phiên âm Pháp ngữ là Macphsu. Sản lượng và tiếng tăm dầu cù là Macphsu rất lớn, ngoài thị trường miền Nam, Mạc Phúc Sử còn xuất cảng sang Lào, Cambodia, Singapore và Thái Lan.
(4) Trương Văn Bền, sinh năm 1883, trong một gia đình người Hoa gốc Triều Châu đến Việt Nam lập nghiệp từ đầu thế kỷ 19. Trương Văn Bền có dịp sang Pháp du học và đã học được nghề sản xuất xà bông. Năm 1918, ông dùng dừa có sẵn rất nhiều ở miền Tây Nam bộ để thành lập xưởng ép dầu dừa và từ đó sản xuất xà bông cục đáp ứng nhu cầu rửa ráy, giặt giũ của dân chúng hằng ngày. Khi cơ sở phát triển, năm 1932, ông cho xây một hãng lớn hơn và làm chủ nhân hãng xà bông “Trương Văn Bền”. Sản phẩm nổi tiếng nhất của hãng ông là xà bông thơm Việt Nam hiệu Cô Ba, rất thịnh hành ở miền Nam và sau đó trên khắp thị trường Đông Dương. Cô Ba tượng trưng cho một phụ nữ đẹp, giản dị, trong trắng của cô gái miền Nam trong huyền thoại. Xà bông Cô Ba cạnh tranh về chất lượng và giá thành rẽ đã đánh bạt được xà bông nước ngoài, nhập từ Pháp (17). Ông là người Hoa Triều Châu đi trước trong thương mại và làm gương cho những người sau này như Trần Thành. Ông Trương Văn Bền nổi tiếng như Bạch Thái Bưởi cùng thời ở miền Bắc và trở thành giàu có, có hạng ở Nam kỳ. Gia sản của ông tương đương với ông Phủ Kiểng ở Bến Tre, ông Kho Gressier Remy ở Sóc Trăng, hay gia đình Lâm Quang ở Trà Vinh. Ông Bền cũng chính là người xuất tiền cất một dãy phố 50 căn, gần Ngã Sáu Chợ Lớn, nằm góc đường Armans Rousseau và Général Lizé (nay là đường Ngô Gia Tự và Hùng Vương) (17).
Còn nhiều câu truyện của các doanh nhân người Hoa ở Chợ Lớn đã phát triển kinh doanh đóng góp vào nền kinh tế Việt Nam từ các năm xưa. Tôi trước đây có đọc một bài trong tạp chí nghiên cứu lịch sử hồi năm khoảng năm 1977 đã liệt kê nhiều nhà kinh doanh người Hoa, nhưng hồi ấy là đả phá họ, cho họ là tư bản bóc lột. Nay thì đã khác hẳn rồi, họ là những những người đã giúp cho nền kinh tế phát triển và có ích cho đất nước, xã hội. Trước 1975, có những tư sản Việt gốc Hoa cỡ lớn, kể sơ lược như sau (2):
(5) Trần Thành: Ông xuất thân từ gia đình nghèo qua Việt Nam đầu thế kỷ 20. Thuở còn thanh niên tìm việc ở Chợ Lớn, ông được vào làm công trong một xưởng chế biến dầu thực vật của một chủ người Hoa họ Trịnh, cạo rữa các thùng chứa. Được sự tín nhiệm của chủ, ông được giao trọng trách đi mua nguyên liệu chủ yếu là đậu nành và đậu phọng cho xưởng. Với uy tín của ông với nông dân và đối tác ở nông thôn miền Nam và cả ở Cao Miên (Cambodia), ông không những cung cấp hiệu quả kinh tế cho cơ sở xưởng chủ ông mà sau này khi được chủ giúp đỡ cho vốn ra riêng còn cung cấp cho các xưởng khác nữa.
Trong công việc làm ăn, ông coi trọng nhất là chữ tín. Ông nói:" Chữ TÍN. Làm nghề gì cũng phải giữ cho được chữ TÍN mới có thể thành công được. Ông lập ra hãng bột ngọt Vị Hương Tố. Được coi là “vua bột ngọt và vua mễ cốc”, ông được bầu vào chức vụ bang trưởng Triều Châu, khi tuổi chỉ mới xấp xỉ 40. Ông đại diện cho người Hoa liên hệ với chính quyền miền Nam Ngô Đình Diệm và sau này trong thập niên 1960-1970 và được chính quyền kiêng nễ. Ông giúp đỡ nhiều người có chí mượn vốn. Nhà ông lúc nào cũng có người đến xin ý kiến làm ăn. Ông đi thăm các nhà máy, xí nghiệp lớn ở Đài Loan, Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm tổ chức, điều hành các xí nghiệp cỡ lớn và nghiên cứu thị trường.
(6) Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem đánh răng hiệu Hynos cạnh tranh với các hãng kem Việt Nam hiệu Perlon và Leyna ở miền Nam và kem ngoại quốc như Colgate (Mỹ), C’est it (Pháp). Vào thập niên 1960, hồi tôi còn nhỏ khi được bác tôi dẫn ra Saigon và bây giờ vẫn còn nhớ là hình ảnh rất lớn trên cửa chính của chợ Bến Thành đường Nguyễn Huệ một anh “chà và” da đen cười tươi với hàm răng trắng đều và đẹp của kem đánh răng hiệu Hynos. Lúc đầu, vào mới hơn 20 tuổi, ông làm cho hãng kem nhỏ ít biết tiếng Hynos do một người Mỹ gốc Do Thái có vợ Việt Nam mở hãng sản xuất kem đánh răng ở Việt Nam. Sau này khi người vợ mất, ông chủ buồn rầu bỏ đi giao lại cho ông vì ông được tiếng là trung thành, cần cù làm ăn.
Vương Đạo Nghĩa là người Việt gốc Hoa tiên phong trong lãnh vực tiếp thị làm ăn kiểu Tây Phương. Ông là người biết được giá trị của thương hiệu và sự quan trọng của tiếp thị trong kinh doanh thương mại. Quảng cáo kem Hynos của ông xuất hiện ở khắp nơi từ thành thị đến nông thôn trên mọi phương tiện, ở các cửa hàng ăn uống, loa phóng thanh, dọc đường, chợ búa, báo chí, hệ thống truyền thanh và truyền hình, ngay cả trên các thùng xe vận tải chạy khắp miền Nam. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Trung Hoa vào quảng cáo, sau khi gặp lại người anh họ (con ông bác) ở Hong Kong là tài tử Vương Vũ và được ông mời đến Việt nam nhiều lần trong các dịp nghĩ hè. Người dân miền Nam khó có thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp nhưng tất cả bảo tiêu đã bị chết, chỉ còn Vương Vũ và khi ông mở xe hàng thì trong đó không phải là vàng bạc châu báo mà là các hộp kem đánh răng Hynos hay anh Bảy Chà cười toe toét với hàm răng trắng sáng chói có mặt khắp nơi trên các hang cùng ngõ hẻm. Thương hiệu Hynos gắn liền với kem đánh răng trong tâm trí người dân. Sản phẩm của hãng kem đánh răng Hynos có mặt khắp nơi tại Việt Nam, và sau đó ở thị trường Đông Nam Á và Hong Kong. Khác với các hãng và doanh nghiệp Việt Nam thời bấy giờ, ông đã trích ra nhiều hơn từ lợi nhuận vào quảng cáo thương hiệu, giới thiệu sản phẩm với tầm cỡ quốc tế, tương đương với quảng cáo của các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài như Coca-Cola, Seiko, Adidas...
(7) Trương Vĩ Nhiên,"vua ciné": Xuất thân từ một gia đình người Hoa, anh em họ Trương được ăn học và giáo dục theo phong cách quý phái người Hoa. Trương Vĩ Nhiên thấm nhuần đạo Phật và say mê triết lý Đông phương (11), có đầu óc phóng khoáng và nhạy cảm hiểu biết về tâm lý quần chúng và thị trường. Ông là chủ nhân hãng xuất nhập cảng phim Viễn Đông, đại lý độc quyền các phim của hảng phim nổi tiếng Shaw Brothers (Đài Loan) và Golden Harvest (Hồng Kông). Điện ảnh Hong Kong và Đài Loan cuối thập niên 1960, được coi là thời vàng son, đã sản xuất các phim dã sử kiếm hiệp thu hút khán giả nhiều nơi ở Đông Nam Á cạnh tranh và làm các hảng phim Âu Mỹ nể sợ và khâm phục. Ở miền Nam thời bấy giờ, các tài tử Lý Thanh, Trịnh Phối Phối, Khương Đại Vệ, Vương Vũ, Địch Long, Hà Lợi Lợi... với các phim Độc Long Đàm, Hiệp Khách Hành, Độc Thủ Đại Hiệp, Nhất kiếm trấn ải, Long hổ quyết đấu... đã chinh phục khán giả với doanh thu vượt kỷ lục hơn cả các phim Âu Mỹ thời đó như Cleopatre, Love Story, Romeo Juliet, Deux hommes dans la ville.. của các tài tử Liz Taylor, Ali Mc Graw, Steve McQueen, Alain Delon, Jean Belmondo..
Trương Văn Vĩ đã nhìn thấy trước qua sự say mê của người dân với các truyện võ hiệp Kim Dung và sau này Quỳnh Dao ở các nước Á châu và ông đã mua lại các rạp làm ăn ế ẩm, tân trang lại và làm chủ các rạp hát ciné ở nhiều nơi vùng Sài Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Palace, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Thủ Đô... (ngoài các rạp Rex, Văn Hoa Dakao, Văn Hoa Sài Gòn, Mini Rex A, B, C của ông Ưng Thi, trong hoàng gia nhà Nguyễn, chuyên chiếu phim cao cấp). Tất cả các rạp của Trương Văn Vĩ đều được sửa sang xây dựng mới mẻ, với hệ thống máy lạnh tốt, ghế ngồi bọc da, trang hoàng đẹp mắt và hấp dẫn khách hàng với hệ thống máy móc như máy chiếu, âm thanh, ánh sáng nhiều màu trong rạp, cả buvette (quầy giải khát) phục vụ ngay trong rạp, cùng các phương tiện quảng cáo đa dạng và quy mô. Bắt đầu từ năm 1966, Trương Vĩ Nhiên nhập cảng các loại phim võ hiệp, kiếm hiệp dã sữ Hồng Kông và Đài Loan, sau là phim tình cảm phỏng theo truyện của các tác giả nổi tiếng như Kim Dung, Ngọa Long tiên sinh, Quỳnh Dao.... Ông trở thành tỉ phú giàu có khi chỉ mới hơn 30 tuổi. Ông có ảnh hưởng rất lớn về nghệ thuật và văn hóa điện ảnh trong cuối thập niên 1960 và đầu 1970.
(8) L.N ("vua bột mì"): L.N giàu có bằng "cho vay lúa", nhập cảng thóc gạo miền Tây, kinh doanh bột mì . L.N xây dựng "Saigon kỹ nghệ bột mì công ty" (Sakybomi), hùn vốn vào công ty bột mì khác Viflomico. Để nắm độc quyền hai nhà máy cỡ lớn nhất ở Đông Nam Á này, L.N đã đóng cổ phần vào 3 ngân hàng: Trung Nam ngân hàng (100 triệu), Đồng Nai ngân hàng (40% cổ phần), Nông Doanh ngân hàng và vào hai công ty xuất nhập cảng Mỹ Liên (21 %), Hứa Nhuận Chân (70%), đồng thời lập hai công ty nhập khẩu 18 mặt hàng khác (3).
(9) Tập đoàn đại gia tộc họ Ông, chủ dầu cù là hiệu Con Cọp, được gọi là Cọp Saigon (Ông Nghiệp Hùng, Ông Nghiệp Sơ, Ông Nghiệp Kỳ, là con của Ông Tích). Ngoài ra tập đoàn này khống chế một nhà máy dệt lớn, một công ty vận tải đường bộ, đường sông, công ty xuất nhập cảng, một xưởng đóng tàu, một công ty bốc dở hàng ở Thương cảng Saigon, một ngân hàng và nhiều nhà cho thuê. Trong thời này cũng có nhiều tập đoàn và các nhân vật khác như các tập đoàn tư bản họ Trương, họ Mã, vua "xăng dầu" Lý Hớn, "vua cà phê" Trần Thiện Tứ, "vua vải sợ" Lưu Tú Dân, "vua thuốc lá" Siou Phong .... (b) Thời kỳ đổi mới sau 1975
Đất nước Việt Nam có nhiều người Hoa và Minh Hương giỏi, nhưng do những chính sách sai lầm, chính quyền trước đây đã đánh đổ họ qua mấy chiến dịch đánh tư sản sau 1975: vua thép, vua gạo, vua bột giặt, vua xà bông, vua bột mì ... đều bị đánh tan hoang bại sản. Trong khi trong thời gian ấy mấy người Hoa chủ các công ty lớn ở các nước Đông Nam Á như Temasek của Singapore, St Miguel của Philippines..) vẫn còn không bằng một góc các công ty Hoa ở Vietnam.
Ngày nay có một người Minh hương nổi tiếng không kém chú Hỏa, Trần Thành xưa kia. Đó là “vua gốm” Lý Ngọc Minh, chủ công ty gốm Minh Long ở Bình Dương. Kế thừa truyền thống nghề gốm của người Minh hương ở Gia Định- Đồng Nai, ngày nay các cơ xưởng làm gốm (đa số ở Biên Hòa và Bình Dương) tiếp tục phát triển làm gốm, nhất là sau giai đoạn Đổi mới, với các sản phẩm đặc sắc xuất khẩu đi nhiều nơi trên thế giới. Ông đã tạo những bộ gốm nổi tiếng Cẩm Tú, Sơn Hà, Hồn Việt ..Trước đây ông có nhờ gs Cao Xuân Phổ và Trần Quốc Vượng cố vần để ông tạo con rồng Việt Nam theo kiểu triều đại Lý - Trần, lúc cổ thành Thăng Long vừa được khám phá, trên sản phẩm gốm của ông. Công ty ông cũng là nơi làm các "cup" gốm làm quà tặng cho các nguyên thủ quốc gia tham gia Hội nghị APEC năm ngoái ở Hà Nôi.
Cuộc đời của ông Minh trước 1975 đến nay đã được dựng thành phim "Miền đất phúc" làm nhiều tập chiếu trên truyền hình Tp Hồ Chí Minh. Xuất phát từ một gia đình có truyền thống làm gốm sứ ở Tân Phước Khánh (Tân Uyên - Bình Dương), gia tộc Lý Ngọc Minh đã có ba đời theo nghề gốm sứ. Năm 1975, đất nước thống nhất nhưng thương mại tư nhân bị cấm và hạn chế. Trãi qua bao khó kh ăn, ông vẫn kiên trì sản xuất và đến khoảng những giữa thập niên 1980 và đầu 1990 sản phẩm của ông bắt đầu có mặt tại thị trường các nước Đông Âu và tư bản. Nay thì ông Lý Ngọc Minh là người chính phủ Việt Nam trọng vọng (Ủy viên của mặt trận Tổ quốc, đại biểu quốc hội, anh hùng lao động ...), công ty ông có gần 2000 công nhân làm việc và thương hiệu gốm Minh Long xuất khẩu qua nhiều nước làm các công ty Nhật, Hàn, Âu Mỹ gờm vì cạnh tranh và qua mặt họ.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 10:03:53 GMT 9
Chính Trị Từ lúc Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho vào miền Nam mở đất, lập nghiệp, người Minh hương tiên phong cùng lưu dân người Việt và dân bản sứ Khmer đã khai hoang mở mang bờ cỏi làm vùng đất Gia Định-Đồng Nai (tức cả miền Nam thuở đó) trở nên trù phú. Miền Nam trở thành miền đất hứa của nhiều dân nghèo từ miền Trung vào lập cuộc đời mới. Người Minh hương đã tham gia bình đẳng trung thành nhớ ơn phục vụ phò chúa Nguyễn ngay cả lúc Nguyễn Ánh phải trốn chạy Tây Sơn bôn ba khắp nơi ở vùng đất mới. Các tướng Minh hương như Châu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh .. là những tướng đã ra giúp Nguyễn Ánh trong cuộc tranh hùng với Tây Sơn. Vì sự giúp đỡ chúa Nguyễn, quân Tây Sơn năm 1783 đã giết rất nhiều người Hoa, hủy hoại hoàn toàn Cù lao phố, và năm 1785 lần nữa vào cướp giết, phá hủy cơ nghiệp người Hoa vùng Chợ Lớn, Mỹ Tho. Khi Gia Long (Nguyễn Ánh) lấy được giang sơn, trong hàng công thần phục vụ triều đình có rất nhiều người gốc Minh hương và nhà vua đã nhớ ơn và đãi ngộ xứng đáng. Nhân tài gốc Minh hương, từ Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức đến Trương Minh Giảng.. ra phục vụ triều đình và đất nước không phân biệt Việt hay Minh hương Tuy nhiên sau khi Gia Long mất, vua Minh Mạng không hài lòng với quyền tự chủ của tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vẫn theo chính sách của Gia Long cho người Hoa các bang được tự trị, và không có thuế thân. Sau khi tổng trấn Gia Định mất, chính sách hà khắc của Minh Mạng đối với Lê Văn Duyệt, và trung ương tập quyền bãi bỏ hết chính sách nhu hòa ngày trước gây bất bình với nhiều người ở Gia Định trước đây đã phò Gia Long kể cả người Minh hương, gốc Hoa, người Chăm, giáo sĩ truyền đạo người Pháp. Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bị dẹp mà trong hàng ngũ giúp Lê Văn Khôi có nhiều người Hoa, chính sách của Minh Mạng càng ngày càng khắc khe với người Hoa và người Minh hương. Trong tác phẩm thơ “Bốn Bang thư” của một người Hoa gọi là Bốn Bang (thực sự tên hiệu đại diện cho bốn bang Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nam) bị bắt và làm ra bài thơ dài 308 câu lục bát trước khi bị hành hình, có kể rõ về sự tình miền Nam trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi. Từ đó người Minh Hương và Hoa ít có tham gia vào triều đình chính quyền cho đến thời Pháp thuộc, họ chỉ chăm chú làm ăn vì đối với họ chánh quyền Việt và Pháp cũng không khác qua sự đối xử, phân biệt. Võ Tánh Một trong “Gia Định tam hùng” (Châu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh). người Minh Hương, tổ tiên trước kia ở làng Phước An (Biên Hòa) sau dời về Bình Dương, Gia Định. Thuở còn thanh niên, ông luyện tập võ nghệ, nổi tiếng là một võ sư cao cường có sức mạnh hơn người, một mình Võ Tánh đã dùng tay không đánh cọp tại 18 thôn Vườn Trầu . Đương thời, ông cùng với Đỗ Thành Nhân và Châu Văn Tiếp họp thành Gia Định tam hùng. Quân Tây Sơn thường nói rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tánh là anh hùng bậc nhất, không nên phạm đến". Vì không chịu khuất phục Tây Sơn, Võ Tánh chiêu tập nghĩa binh cùng với anh là Võ Nhân phất cờ khởi nghĩa tại 18 thôn Vườn Trầu (Gia Định), rồi kéo binh chiếm giữ cả vùng đất Gò Công. Sau khi người anh mất, ông rút quân về án giữ thôn Vườn Trầu. Nghĩa quân của Võ Tánh có đến mấy vạn người, chia thành 5 đoàn, được đặt hiệu là đạo quân Kiến Hạ. Khi Nguyễn Phúc Ánh từ Xiêm La trở về nước có mời Võ Tánh về giúp. Năm 1788, Võ Tánh cùng các bộ tướng đến bái kiến Nguyễn vương. Nguyễn Phúc Ánh mừng rỡ, phong cho Võ Tánh làm Tiền phong dinh Khâm sai Chưởng cơ và gả em gái là Ngọc Du công chúa. Ngay từ buổi đầu, Võ Tánh đã giúp Nguyễn Phúc Ánh nhiều công trạng: vây đánh và bắt được tướng của Tây Sơn tên Phạm Văn Tham (1789), đánh bại tướng Đào Văn Hổ và thu phục thành Diên khánh (1790). Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành (1794). Sau đó về lại Gia Định, ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân. Năm 1797, ông theo Nguyễn Ánh ra đánh Quảng Nam, thắng được tướng Nguyễn Văn Ngụ tại cửa Đại Chiêm (Cửa Đại), quân sĩ Tây Sơn về hàng rất đông. Thừa thắng, ông vượt sông Mỹ Khê (Quảng Ngãi), đánh bại Đô đốc Nguyễn Văn Giáp. Năm 1799, Võ Tánh lại theo Nguyễn Phúc Ánh ra đánh Qui Nhơn. Cùng với tướng Nguyễn Huỳnh Đức đánh thắng nhiều trận tại Thị Giả và cầu Tân An, giết được Đô đốc Nguyễn Thiệt và chiêu hàng Đô đốc Lê Chất. Thành Qui Nhơn được đổi tên là thành Bình Định và giao cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở lại trấn giữ. Lúc Võ Tánh cầm chân quân Tây Sơn tại thành Bình Định, Nguyễn Ánh đánh chiếm thành Phú Yên rất dễ dàng. Không lâu, quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Thái Phó Trần Quang Diệu, tướng giỏi của Tây Sơn phản công vây thành Bình Định. Nguyễn Ánh đưa binh ra giải cứu không nổi, cuộc bao vây măi kéo dài đến 14 tháng. Lâu ngày, trong thành binh sï thiếu lương thực rất nguy ngập. Ngày 7-7-1801, trong lúc bị vây ngặt, có người khuyên Võ Tánh bỏ thành mà chạy nhưng ông không chịu. Võ Tánh nói: "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thời sau này còn mặt mũi nào trông thấy Chúa thượng". Sau đó ông trao cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu một bức thư đại ý nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng thì đành liều chết ở dưới cờ, ta đâu có ngại. Còn như các quân sĩ không có tội tình gì, xin chớ nên giết hại". Tiếp theo ông lấy rơm cỏ chất dưới lầu Bát Giác (Bình Định), đổ thuốc súng rồi tự đốt mà chết. Quan Hiệp trấn Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc tự tử. Trần Quang Diệu đem quân vào thành, xúc động trước tấm gương tiết liệt của Võ Tánh, sai người làm lễ liệm tang tử tế và không làm tội hay giết hại một ai. Vua Gia Long, sau khi lên ngôi Hoàng đế, tưởng nhớ đến công lao của Võ Tánh cho lập đền thờ ở nền cũ lầu Bát Giác, sai người đưa di cốt của ông về chôn tại Phú Nhuận, Gia Định (nay nằm trong một hẻm ở đường Hồ Văn Huê, Saigon) và truy tặng tước Dực vận Công thần, Phụ quốc Thượng tướng công, Trụ quốc úy Thái trung liệt. Vua Minh Mạng truy phong làm Hoài quốc công. Ngày nay, người Bình Định vẫn còn lưu truyền câu hát nói lên cảm tình của dân với Võ Tánh: Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên Cảm thương quan Hậu thủ thiềng ba năm ! Châu Văn Tiếp Châu Văn Tiếp sinh năm 1738, tên tộc là Châu Doãn Ngạnh, quê huyện Phù Mỹ, Quy Nhơn. Khi Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn, gia đình ông dời về Phú Yên. Ông thông thạo 2 ngoại ngữ Xiêm và Miên. Sau ông chiêu mộ người, dựng cờ khởi nghĩa chống Tây Sơn. Cờ thêu bốn chữ lớn Lương Sơn Bá Quốc. Được Nguyễn Nhạc chiêu hàng nhưng sau đó tách ra theo chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định. Năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc ánh xưng vương tài Sài Côn (Sài gòn) phong ông làm khâm sai đại đô đốc, nổi tiếng trong gia đình tam hùng. Năm 1781, ông đánh ra Diên Khánh, nhưng thua rút về Phú Yên. Không lâu sau đó, Gia Định cũng thất thủ, ông theo Chúa Nguyễn sang Xiêm. Năm Giáp Thìn (1784), Chúa Nguyễn đưa binh Xiêm về chống nhau với Tây Sơn. Ông làm Bình tây đại đô đốc chưởng quản các đạo quân Xiêm trên sông Mang Thít (Vĩnh Long). Trong trận thủy chiến, ông bị tướng của nghĩa quân Tây Sơn là chưởng tiền Bảo giết chết. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, sắc sai Đặng Đức Siêu soạn văn tế và truy phong ông Tả là quân đô đốc tước quận công, lập đền thờ tại thôn An hội (nay là làng Tân Long Hội), tỉnh Vĩnh Long và được thờ nơi miếu Hiển Trung của nhà Nguyễn ở Huế. Trương Minh Giảng Trương Minh Giảng, sinh ở Bình Dương, thuộc trấn Gia Định. Đỗ cử nhân năm 1819, được bổ nhiều chức vụ, sau lên ch ức Thượng thư bộ Hộ. Ông là người văn võ song tài. Lúc Lê Văn Khôi nổi loạn ở Gia Định, vua Minh Mạng sai ông và tướng Phan Văn Thúy mang quân vào dẹp loạn. Sau đó, ông cầm quân đánh với quân Xiêm xâm nhập nước ta ở mặt trận Hà Tiên theo đường thủy và Châu Đốc và An Giang qua ngã Chân Lạp (Cao Miên). Lúc bấy giờ Xiêm đã chiếm đóng và cai trị Chân Lạp Ở mặt trận An Giang, tại sông Cổ Cắng Trương Minh Giảng và Nguyễn Văn Xuân đại phá quân Xiêm. Thắng thế tiến thẳng lên Nam Vang (Phnom Penh), đưa vua nước nầy là Nặc Ông Chân về nước. Sau đó, Trương Minh Giảng cho lập đồn ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Khi Nặc Ông Chân mất (1843), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Ông Chân là Ang Mey, tục gọi là Ngọc Văn công chúa lên làm Quận Chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra Trấn Tây Thành, chia làm 34 phủ huyện và cắt đặt người lo việc chính trị, kinh lý, thanh sát các việc buôn bán, đo ruộng đất và đặt các thứ thuế đinh, điền, thuyền bè... Không bao lâu, dân Chân Lạp nổi loạn dưới sự lãnh đạo của em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn, quan quân địa phương đánh mãi mà không dẹp nổi. Khi vua Minh Mạng mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi, sau một thời gian có nhiều khó khăn qua sự nổi dậy và chống đối của dân Chân Lạp mà Trấn Tây Tướng Quân (Trương Minh Giảng) không dập tắt được, một số triều thần tâu trình vua Thiệu Trị bỏ đất Trấn Tây, cho lệnh rút quân về An Giang. Năm 1841, Trương Minh Giảng về An Giang buồn phiền vì không giữ được thành Trấn Tây nên sinh bệnh rồi mất. Thật ra đây không phải là lỗi của ông mà vua Minh Mạng mới là người chịu trách nhiệm chính qua chính sách thật sai lầm, thiếu sáng suốt là thôn tính, xác nhập Chân Lạp vào Việt Nam. Một di sản để lại nhiều hệ quả ngoại giao tai hại sau này mà người Chân Lạp không quên cho đến ngày nay. Phan Xích Long Sinh năm 1893, Phan Xích Long tên thật là Phan Phát Sanh, con của Phan Núi, một người cảnh sát gốc Hoa tại Chợ Lớn. Từ thuở nhỏ Phan Phát Sanh đã tỏ ra là một tay anh chị hảo hán, trừ gian diệt bạo, nhờ đó đã kết nạp rất nhiều đàn em và trở thành đại ca. Tháng 3, năm 1913 (Quý Sửu), "đại ca" Phan Phát Sanh tự xưng Phan Xích Long, tự nhận là Đông Cung con vua Hàm Nghi và tự tôn làm Hoàng Đế cùng với một số đàn em làm cách mạng chống Pháp. Họ chế tạo lựu đạn, trái phá, dán truyền đơn khắp chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Tây kêu gọi dân chúng nổi dậy. Nhóm hội kín "Thiên Địa Hội" của Phan Xích Long đặt bom ở trụ sở bót cảnh sát, xưởng Ba Son, ở Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng... đến tận Nam Vang (Cao Miên) làm thực dân Pháp sợ hải trước sự lớn mạnh và bạo gan của phong trào Phan Xích Long. Chẳng may Phan Xích Long bị bắt tại Phan Thiết cùng một số đồ đệ và. bị xử án chung thân khổ sai về tội khủng bố, phá rối trị an, giam tại nhà lao khám lớn Saigon. Vụ án Phan Xích Long làm chấn động giới anh chị giang hồ mã thượng thời đó. Tháng 3-1916, thừa dịp Pháp đang bị Đức đánh tại mẫu quốc, một số đàn em dưới quyền của Hải Trí mặc áo đen, quần trắng, mang áo giáp da, trang bị bùa chú, tổ chức đánh phá Khám Lớn Sài Gòn để cứu "đại ca". Ban đầu rất nhiều thuyền nhỏ tứ xứ đến đậu chen nhau dưới gầm cầu Khánh Hội, đến ba giờ khuya là khởi sự. Dưới khẩu hiệu “Cứu đại ca”, các đồng đảng thảy đều uống bùa, cổ mang phù chú, tay cầm gươm mác, kéo lên Khám lớn Sài Gòn. Nhưng mã tấu và bùa chú không chống nổi súng đạn, nên ngoài một số bị chết tại trận, hầu như tất cả đều bị bắt, tất cả gồm 56 người. Vài ngày sau 56 "anh hùng" và "đại ca" đều bị xử tử và chôn chung trong một mộ ở Đất Thánh Chà (đường Hiền Vương, Chợ Lớn). Tiếng thơm vẫn còn lưu truyền trong giới giang hồ Chợ Lớn, tầng lớp lao động làm xấu hổ rất nhiều người trí thức, tự nhận làm cách mạng nhưng không có cái can đảm của những tay giang hồ hảo hán, với chí khí “trọng nghĩa khinh tài”, cùng chịu chết chung với nhau chứ không bỏ chạy. Trong dân gian, giai thoại về “tướng cướp” Phan Xích Long là đề tài của nhiều vỡ hát bội, hồ quảng hay cải lương sau này ở miền Nam. Trần Bội Cơ Trong kháng chiến chống Pháp, người con gái nữ sinh Trần Bội Cơ ở quận 5 (thành phố Hồ Chí Minh), người Hoa gốc Phúc Kiến, đã đấu tranh đòi bãi bỏ lệnh đóng cửa trường ngày 4/5 hàng năm. Chị bị bắt lúc đang diễn thuyết trước đám đông học sinh sau đó bị tra tấn và hy sinh lúc chỉ mới 18 tuổi, ngày 12/5/1950. Chị bị sát hại lúc cô em gái Trần Bội Anh đã về Vĩnh Long. Biết tình hình Sài Gòn bất ổn nên ba của chị, ông Trần Thủy Nam, tức tốc lên Sài Gòn định đón con gái về nhưng không kịp. Tại nhà xác Bệnh viện Chợ Rẫy, ông Nam đã ngất xỉu khi thấy thân xác không toàn vẹn của chị. Ngày 2-9-1950, chị được truy tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng 2. Sau ngày 30-4-1975, mộ chị được di dời từ Q.11 về nghĩa trang Lạc Cảnh, sau đó về yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM. Tổng luận Vùng đất Nam bộ khi mới khẩn hoang lập nghiệp, người Minh hương và người Hoa sau này cũng như dân Việt từ miền Trung vào tìm cuộc sống mới với những cư dân Miên, Mạ đã ở đấy trước đó. Để lại và quên đi những lầm than, sai trái, áp bức ở vùng đất mà họ phải ra đi, lưu dân sống mở vùng đất mới, họ dễ đồng cảm với nhau, không câu nệ và phóng khoáng coi những người cùng hoàn cảnh là anh em, coi vùng đất Nam bộ là quê hương mới. Tất cả coi nhau như anh em và chính thái độ này đã tạo ra phong cách đặc trưng của vùng đất này: thực thà, học hỏi lẫn nhau, phóng khoáng, thực dụng và không câu nệ. Một văn hóa mới đã được sinh ra dựa trên quan niệm và giá trị là mọi người đều bình đẳng không phân biệt với chí khí giúp kẻ cô thế, chống bất công và tinh thần hảo hán anh hùng “trọng nghĩa khinh tài”, không sợ, tiên phong tìm hay thử những cái mới, cái hay có thể áp dụng được làm tăng giá trị hay có lợi trong cuộc sống. Văn hóa Nam bộ đã có những đóng góp to lớn từ người Minh Hương trong nhiều lãnh vực, đúng hơn là con người nam bộ một phần là con người Minh hương. Trong lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị, họ đã có những đóng góp lớn lao và hòa hợp như mọi công dân Việt Nam. Tùy theo từng thời kỳ của lịch sử, sự đóng góp tài năng có lên xuống là do thái độ và chính sách của chính quyền. Đã có những thời kỳ họ bị nghi kỵ và đối xử không công bằng như những đối tượng ngoại vi của cộng đồng dân Việt. Những chính sách sai lầm này là những kinh nghiệm quý báu mà chúng ta nên suy ngẫm và học hỏi. Tham khảo (1) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Trẻ, 2002. (2) Vương Hồng Sển, Hơn nữa đời hư, Nxb Trẻ, 2003. (3) Cao Văn Lương, "Vài nét về giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ", Nghiên cứu lịch sử, số 2, tháng 3 và 4, 1976 (4) Phan An, Trần Đại Tân, Lưu Kim Hoa, Lê Quốc Lâm, “Gáp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam bộ”, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa-thông tin, 2006. (5) Trần Hồng Liên, “Văn hóa người Hoa ở Nam bộ”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2005. (6) Nguyễn Cẩm Thúy, Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ (từ thế kỷ 17 đến năm 1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà nội, 2000. (7) Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992. (8) Tsai Maw Kuey, Người Hoa ở miền Nam Việt Nam, Thư viện quốc gia, Paris, 1968. (9) Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Xuân Khoang - Phong tục Nam bộ xưa, tục thờ cúng thần thành hoàng tại làng thôn bắc bộ, Nxb Trẻ 1996. (10) Nguyễn Đức Hiệp, Thăm mộ Trần Thượng Xuyên, 213.251.176.152:8080/diendan/BanDocVaZD/thu-ban-111oc-15-1.2007/(11) Dương Đức Dũng, Những gương mặt tỷ phú Saigon trước năm 1975, Nxb Trẻ (12) Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Khuê - Trần Khuê, SàiGòn Gia Định qua thơ văn xưa, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987. (13) Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 2007. (14) Phạm Quỳnh, Một tháng ở Nam Kỳ, vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=2346&LOAIID=17&TGID=567(15) Lại Nguyên Ân, Một cuộc thảo luận về sách giáo khoa tiếng Việt trên báo chí Sài Gòn 1929–1930, Talawas 2006, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8049&rb=06(16) Nguyễn Thị Hậu, Đi tìm quá khứ Sài Gòn, Xóm Lò Gốm xưa, www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=5238&LOAIID=18&LOAIREF=5&TGID=1046. (17) Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ: Trương Văn Bền: nhà kỹ nghệ không bằng cấp kỹ sư, vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nnntn1n31n343tq83a3q3m3237nnn0n(18) Li Tana, P. Van d**e, Canton, Cancao and Cochinchina: New data and new light on eighteenth-century Canton and the Nanyang, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol.1, 2007, p.10-28. (19) Bình Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ, www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9922&rb=08(20) Vương Trí Nhàn, Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa trong sự hình thành tiểu thuyết Việt Nam trước 1930 www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8433&rb=0102
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 9:50:20 GMT 9
CÁC GIAI THOẠI VỀ CÁC NHÂN VẬT NAM Kỳ LỤC TỈNH Hứa Hoành Lời Mở Đầu Những chuyện kể ra trong sách nầy đều là chuyện thật không phải tiểu thuyết Các chuyện ấy xảy ra trên đất Nam kỳ trên dưới 100 năm nay, nhưng không có tài liệu chính thức nào ghi chép. Với ý định viết bộ sách về Nam Kỳ Lục Tỉnh, cho nên hơn mười năm qua, kể từ ngày còn trong trại tị nan tại Mã Lai, chúng tôi bắt đầu sưu tầm tài liệu. Các tư liệu ấy rải rác trong sách báo xưa, hoặc nằm trong ký ức của những vị cố cựu đất Nam Kỳ mà chúng tôi có dịp gặp gỡ. Lúc khởi sự viết, chúng tôi có ý định chia bộ sách làm 10 quyển, đều lấy tên "Nam Kỳ Lục Tỉnh". Sách ra đến tập 5, theo lời nhà xuất bản và một vài nhà sách khuyến cáo, kể từ tập 6 trở đi, mỗi quyển nên lấy một tựa đề khác, nhưng nội dung vẫn là những chuyện mới vừa khám phá, sưu tầm được. Nếu tiếp tục dùng tên cũ, bộ sách quá dài, độc giả sẽ ngán tiền, khó dám mua trọn bộ, mặc dù mỗi quyển đều độc lập với nhau, không có liên quan như một bộ trường thiên tiểu thuyết. Đam mê môn lịch sử từ hồi nhỏ, lớn lên tôi theo học môn sử địa, và sau cùng trở thành thầy giáo dạy môn này nhiều năm, đủ các lớp khác nhau, nên tôi rất ham thích môn lịch sử. Với thời gian và tuổi đời chồng chất, chúng tôi tích tụ được nhiều hiểu biết về lịch sử miền Nam, một lãnh vực từ trước tới nay bị lãng quên, nên cố thu thập ghi chép để dành. Mặc dầu quyển sách nói nhiều đến các biến cố lịch sử các nhơn vật lịch sử, nhưng đây vẫn không phải là một quyển sử mà chỉ có giá trị như "giai thoại". Tôi có ý định viết các giai thoại về Nam Kỳ tương tự như cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc viết về "Giai Thoại Làng Nho" mà thôi, nhưng chú trọng đến địa lý, các di tích, văn hoá, lịch sử cùng cảnh đẹp thiên nhiên của miền Nam. Tài liệu sử dụng, phần lớn là truyền khẩu, mới mẻ, mức độ chính xác rất hạn chế. Mỗi người kể lại chỉ biết một giai đoạn, một biến cố mà thôi. Các sự kiện ấy chưa bao giờ được kiểm chứng, đánh giá lại, nên chúng tôi không bao giờ dám coi đây là tài liệu lịch sử chính thức. Nó cũng như môn ngoại sử, chắc chắn có nhiều thiếu sót, sai lầm, không trung thực, nhưng nội dung vẫn giữ được cốt lõi của vấn đề. Trân trọng xin quý độc giả vui lòng lượng thứ cho những điều sơ sót vừa kể trên. Tác giả cũng trân trọng kính gởi đến quý vị có phương danh trong tác phẩm lời biết ơn chơn thành. Tác giả kính cáo. Hứa Hoành Phần 1 : CÁC GIAI THOẠI VỀ TỔNG ĐỐC LỘC, TỔNG ĐỐC PHƯƠNG, PHỦ CA, LÃNH BINH TẤN Năm 1984 tôi đến trại tỵ nạn Mã Lai. Tình cờ tôi có quen với cụ Nguyễn văn Vực, nguyên Chánh Sự Vụ Sở Thông Tin Đô Thành Sài Gòn dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lúc đó cụ Vực ngoài 60 tuổi, vượt biên có một mình, sống cuộc đời hiu quạnh của người già, gợi trí tò mò của tôi, nên tôi bắt đầu làm quen, bắt chuyện với cụ. Mối giao tình lần lần đậm đà. Khi chuyển qua trại ở Philippines, cụ bị bịnh "hở valve tim", phải ra điều trị tại bịnh viện Manila. Lại cũng tình cờ nữa, tôi được cử theo giúp đỡ trong khi cụ bịnh hoạn. Từ đó, chúng tôi một già một trẻ ăn chung, ngủ gần nhau. Hằng ngày cụ thường kể chuyện xưa tích cũ cho qua ngày đoạn tháng. Thấy cụ minh mẫn và cường kỳ, tôi xin phép ghi chép các chi tiết cụ kể ra. Có lẽ tự biết mình mắc một chứng bịnh khó trị, xung quanh không có thân nhân, lại tuổi cao, nên cụ sẵn sàng cho phép tôi sử dụng các chi tiết mà cụ đã kể với tôi trong thời gian chung sống nhàn rỗi ở Manila. Thỉnh thoảng tôi có dịp hầu chuyện với nhiều vị lớn tuổi ở miền Nam, tôi không quên kín đáo học hỏi thêm. Do đó, tôi có một số tư liệu tương đối ít người biết, hoặc không có sách vở đề cập tới. Trong một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang ngoài phố. Tình cờ thấy trên vỉa hè trước tiệm bày bán sách báo cũ giá 10c một quyển. Tôi lựa một hồi tìm gặp một quyển sách bụi bặm nhăn nheo nói về thời kỳ Pháp mới chiếm Nam Kỳ với nhiều chi tiết mới lạ với tựa đề "The French present in Cochinchina and Cambodia 1859-1909" của Milton Osborn. Trong sách có nhiều bức ảnh minh hoạ chân dung các nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ mà từ trước đến giờ chúng tôi chỉ nghe nhắc tới, chớ chưa thấy được hình ảnh. Quan niệm rằng xã hội nào cũng có người tốt kẻ xấu, chớ không thể thuần nhứt được, cho nên nhắc lại những kẻ đã nổi danh một thời trong lịch sử cận đại với mọi khía cạnh tốt xấu của nó, đều góp phần làm sống lại một thời kỳ đen tối của lịch sử. Các câu chuyện ấy gần như những giai thoại, một loại ngoại sử thiếu chính xác, nhưng không có cách gì khác hơn để kiểm chứng. Chúng tôi sưu tầm và viết lại người bài ký sự này như một loại kể chuyện đời xưa, còn việc khen chê để dành cho sử gia và các bậc thức giả. Với suy nghĩ như thế, tôi mạnh dạn viết loạt bài nầy cống hiến độc giả. Đây là tâm huyết của một người lưu vong còn nặng tình với quê hương. Mong rằng với lòng rộng lượng sẵn có, qúy độc giả sẽ sẵn lòng tha thứ cho những điều sai lầm, thiếu sót. Pháp đem quân gây hấn ở Bắc và Trung Kỳ, nhưng thật sự đặt chưn lên được phần đất Việt Nam trước tiên là ở Nam Kỳ. Điều đó có nhiều lý do: Thứ nhứt, Nam Kỳ ở xa kinh đô Huế, chắc sự phòng bị lỏng lẻo. Thứ nhì, đối với Pháp, Nam Kỳ là vị trí chiếm lược. Chiếm lược Nam Kỳ là khai thông sông Cửu Long để chiếm Miên, Lào và dọn đường đến Hoa Nam. Đó là mục tiêu của Pháp để chạy đua với công ty Đông Ấn Anh đang chiếm Ấn Độ, bành trướng qua Miến Điện, tràn xuống Mã Lai. Sự thành công của Pháp ở Nam Kỳ dễ dàng một phần do nhơn tâm ly tán. Nam Kỳ là đất mới, Nho học chưa đủ thời gian để bắt rễ. Khoa cử chỉ mới tổ chức hoàn bị vài khoá tại trường thi Hương Gia Định thì người Pháp đến. Số ông Nghè, ông Cử đại diện cho Nho giáo ở miền Nam rất hiếm, chỉ đếm được trên đầu ngón tay. So với miền Trung và Bắc, dân trí miền Nam thấp, và họ cũng ít hưởng được ơn vua lộc nước như dân ở miền ngoài. Có đọc truyện "Giai Thoại Làng Nho" của cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc mới thấy trong khoảng gần 100 giai thoại mà cụ sưu tập, chỉ có 4 hay 5 người miền Nam, còn bao nhiêu là những ông Cống, ông Nghè ở miền Trung và Bắc. Các đại thần ra giúp Nguyễn Ánh trung hưng cũng đều phát xuất từ Thanh Hoá trở vào. Chính những người đó vào Nam với khí tiết của kẻ sĩ, học vấn uyên bác của người đất kinh kỳ văn vật để pha trộn với lòng thẳng thắn bộc trực của người Nam. Pháp chiếm được miền Nam rồi, Nho học suy tàn mau chóng. Sĩ khí của người miền Nam phần lớn không phát xuất từ những tay khoa bảng, hay giữ những chức vụ cao trong triều đình. Các lãnh tụ chống Pháp như Nguyễn văn Lịch (Nguyễn Trung Trực), Thiên Hộ Dương, Lê Công Thành, Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự ...đều là những người ít học. Dân Nam Kỳ rất phân hoá vì nhiều nguyên nhân kể trên. Hơn nữa, Nam Kỳ có nhiều họ đạo, mọc gốc rễ từ lâu đời ở những nơi khuất lấp, bất tiện về giao thông như cù lao Giêng, Bồ Ót (Long Xuyên), Cái Mơn, Cà Nhum (Vĩnh Long) là những chỗ dựa tin cẩn của người Pháp khi mới chiếm được miền Nam. Thi hành chính sách cấm đạo của triều đình, các quan lại địa phương bắt bớ, tra tấn, giam cầm và lưu đày các giáo dân, vô tình gây chia rẽ lương, giáo. Trường hợp ra cộng tác với người Pháp của Trần Bá Lộc, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Trần Tử Ca là những thí dụ điễn hình. Năm 1862, khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã được nhượng cho Pháp rồi, gây ra biết bao cảnh tượng thương tâm: nhiều nghĩa quân bị sát hại, gia đình tan nát. Có những gia đình bỏ cả nhà cửa ruộng vườn, bồng bế nhau qua ba tỉnh còn lại tá túc. Trong khi đó, một số người có đạo Thiên Chúa, sẵn mối ác cảm với triều đình, âm thầm ở lại, hoặc mạnh dạn ra hợp tác. Có lẽ bài "thơ Nam kỳ" của tác giả vô danh là áng văn cổ nhứt miền Nam, viết bằng chữ quốc ngữ, nội dung rõ ràng cổ võ cho sự hợp tác với Pháp vì sự bạc đãi của triều đình. Nội dung không có nói tới lý do tôn giáo, nhưng chúng ta có thể hiểu ngầm rằng chính lý do ấy đã làm cho một số giáo dân ở miền Nam ngả theo Pháp. Pháp tìm ra được bài thơ này, nhờ Michel Đức Chaigneau, con ông Chaigneau, một phụ tá đắc lực cho vua Gia Long, dịch ra tiếng Pháp. Nội dung bài thơ tố cáo chính các quan lại địa phương làm cho mất nước vì chủ trương hẹp hòi, chia rẽ và khinh mạn họ. Trong "thơ Nam Kỳ" có những câu: "...Các quan lại là những nhà hiền triết, những bậc anh hùng tài đức, "Họ coi chúng ta (dân) như cỏ cây, như rác rến, "Họ hay dùng roi vọt đánh đập chúng ta, hơn là kháng chiến chống Pháp. "Chúng ta như sống trong cảnh cá chậu chim lồng...nên chúng ta (phải như chim khôn) tránh lưới, tránh dò. "Hãy để chúng tôi bày tỏ lòng tôn kính đối với cường quốc Pháp, vì 'tứ hải giai huynh đệ' ..." Bài "Thơ Nam kỳ" tiếp theo do nhà in Tân Định tái bản lần thứ nhất năm 1903. Bài thơ đầu được dịch từ văn vần chữ quốc ngữ ra chữ Pháp, rồi tác giả khác dịch ra Anh văn. Chúng tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh để quảng diễn lại nội dung. Tam sao thất bổn nhưng chắc chắn có những nét chính còn giữ lại, để chúng ta có một ý niệm rõ ràng: vì bạc đãi, chia rẽ, nghi kỵ giữa lương giáo của triều đình Huế, vô tình làm mất đi một hậu thuẩn lớn của dân chúng. Thấy rõ đó là cơ hội tốt, Pháp liền nắm lấy. Họ dùng người Việt cai trị người Việt ngay từ buổi đầu . Pháp mở rộng vòng tay đón những người bất mãn ra hợp tác, đặt họ vào địa vị có tiền bạc để họ tận tâm phục vụ. Để có thêm lý do vững chắc tin rằng người Công giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xâm lăng của người Pháp vào Nam Kỳ, chúng tôi xin dẫn chứng một khía cạnh khác. Khi đồn Chí Hoà thất thủ, triều đình Huế liền cử hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào thương thuyết với Pháp tại Sài Gòn Phái đoàn Pháp ngoài đại diện chính thức là người Pháp , còn có mấy người Việt sau đây: John Liễu, Trần Tử Ca và một người nữa không rõ tên họ, có đạo Thiên Chúa. Vừa thấy mấy người bản xứ đứng trong hàng ngũ kẻ thù, cụ Phan Thanh Giản giận lắm. Phía họ, khi thấy cụ Phan đại diện cho triều đình vừa bước vào phòng họp thì đứng dậy và chắp tay xá theo lối chào kính nhà vua bằng lễ nghi truyền thống. Cơn giận của cụ Phan tạm nguôi ngoai khi người Pháp giải thích rằng những người Việt này theo Thiên Chúa giáo (có nghĩa là họ trung lập). Người Công giáo ngả theo Pháp từng giai đoạn. Buổi đầu họ đứng trung lập trong cuộc tranh chấp. Rồi các hội truyền giáo khuyến khích, giải thích với họ rằng người Pháp sẽ có mặt lâu dài ở đây để bảo vệ họ, quyền lợi của họ và con cái họ khi có sự trả thù của quan lại triều đình. Từ đó, lớp người ra cộng tác với Pháp càng ngày càng đông. Những khuôn mặt bản xứ mới xuất hiện hồi cuối thế kỷ 19 trên chính trường miền Nam hầu hết là Công giáo. Ngoài ra còn có một hạng người khác cũng sớm ra đầu thú để xin hợp tác vì họ là những thành phần điền chủ giàu có. Gia đình họ trước đây nhờ các chức vụ như bá hộ, hộ trưởng, đội trưởng các đồn điền mà làm giàu mau chóng. Có thế lực dễ kiếm ra tiền. Có vốn cho vay sanh lời mau chóng. Có tiền họ mua thêm ruộng đất, hoặc siết ruộng đất của những người cầm cố không trả nổi. Họ cảm thấy cần được cái dù che chở của Pháp để bảo vệ quyền lợi cho gia đình và dòng họ. Nhớ lại những năm loạn lạc dưới thời Lê Văn Khôi chiếm cứ thành Phiên An, cũng như nhiều lần quân Xiêm cướp phá, vơ vét sạch tài sản của họ mà không ai can thiệp. Cho nên lần này họ rút kinh nghiệm và tìm một con đường mới để tiến thân và bảo vệ tài sản. Họ tự biết vốn không học nhiều chữ Hán, chỉ biết chữ Nôm và quốc ngữ, chắc chắn không được triều đình trọng dụng . Vì lẽ đó, họ đổi hướng, mạnh dạn ra hợp tác với tân triều cho hợp với thời thế. Hơn nữa luật pháp của triều đình quá phong kiến và khắt khe. Hằng năm triều đình ra lịnh hành quyết từ 200 đến 300 người riêng tại Nam Kỳ.. Nhưng khi người Pháp đã làm chủ ở đây, họ áp dụng luật nước Pháp tiến bộ hơn. Tình trạng xử tử các tội nhơn cũng giảm gần hết, chỉ trừ những trường hợp trực tiếp giết họ, bị họ bắt. Có lẽ đó cũng là dụng ý của thực dân trong giai đoạn đầu để mua chuộc người bản xứ. Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập đến các nhơn vật tiêu biểu là Trần Bá Lộc và con là Trần Bá Thọ, Trần Tử Ca, và Đỗ Hữu Phương. Tôi tin chắc rằng quý độc giả từng đọc qua những quyển danh nhơn tự điển nước nhà xuất bản từ trước tới nay, không dễ gì tìm ra tiểu sử các ông ấy. Lý do rất giản dị là vì quan niệm "văn dĩ tải đạo" (văn chương chở đạo lý) của người xưa. Các người trước tác sách vở ngày trước chỉ nhắc đến những gương danh nhơn, anh hùng liệt nữ mà thôi. Dụng ý của họ để răn dạy thế hệ mai sau. Đối với những nhơn vật kể trên, sĩ phu nước ta cho là những kẻ có tội với đất nước và dân tộc, nên không ghi chép lại những tấm gương xấu đó. Ngày nay, chúng ta quan niệm khác. Chúng ta muốn tìm hiểu sự thật và thành tâm, thiện chí làm công việc đó. Chúng ta muốn nhìn thấy những sự việc y như chúng đã xảy ra, dầu tốt hay xấu. Trong khi viết về những nhơn vật kể trên, chúng tôi lược bỏ những chi tiết mà các sách sử thường nhắc tới để tránh sự nhàm chán cho người đọc.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 9:51:25 GMT 9
TỔNG ĐỐC TRẦN BÁ LỘC (1838-1900) Các bạn có biết trong tỉnh Mỹ Tho có hai ngôi mộ chôn đứng là của ai không ? Xin thưa rằng ngôi mộ thứ nhất của một người con bất hiếu bị "trời trồng" chôn trong xã Khánh Hậu, sau này thuộc tỉnh Long An. Ngôi mộ thứ hai là của Trần Bá Lộc, đi tàu gần tới Mỹ Tho thấy ngôi mộ sừng sững ở đầu ngã ba sông. Trần Bá Lộc là một trong những người oán hận triều đình Huế chỉ vì gia đình ông có đạo, đã bị ngược đãi. Thân phụ Lộc là Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đổ Tú Tài vào Nam lập nghiệp với tư cách một thầy đồ. Ban đầu cụ Phước dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long) sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Đây là các xứ đạo lâu đời nhờ vào vị trí khuất lấp với bên ngoài, nên các giáo sĩ vẫn lén lút truyền đạo. Trần Bá Lộc chào đời tại đây năm 1838, cuối đời vua Minh Mạng. Lớn lên nhằm lúc triều đình cho thi hành một chánh sách cấm đạo khắt khe vì sự khiêu khích của người Pháp. Nhiều cố đạo bị bắt giam, có vị bị hành quyết như Thánh Minh bị giết năm 1854 tại bến đò Đình Khao (Vĩnh Long). Nhiều tín đồ bị đánh đập tàn nhẫn buộc phải bỏ đạo. Có kẻ bị lưu đày. Thân phụ Lộc, cụ Trần Bá Phước bị bắt giam tại Châu Đốc một thời gian rồi đày đi Bình Định. Năm đó Lộc 16 tuổi. Bao nhiêu thù hận Lộc đổ trút lên đầu quan lại địa phương và triều đình Huế. Càng thương cha bao nhiêu, Lộc càng căm thù bấy nhiêu. Theo nhận xét của người Pháp lúc còn học ở trường nhà dòng, người Pháp nhìn nhận rằng Lộc tỏ ra thông minh, có chí khí, học hành tiến bộ. Trong thời gian cha bị phát lưu tại Bình Định, giáo hội tiếp tục nuôi nấng và dạy dỗ Lộc. Mối cảm tình với thực dân phát sinh từ đó. Sau khi cưới vợ, một người có đạo Công giáo, được hơn một năm Lộc bị quan lại địa phương bắt bớ, đánh đập rồi giam luôn. Nhưng sau đó Lộc trốn thoát được. Lúc đó Pháp cũng vừa làm chủ tình thế ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cần mua chuộc người bản xứ ra hợp tác. Khai thác hận thù trong tâm của Lộc, giáo hội khuyên Lộc nên gia nhập hàng ngũ Pháp để tránh bị trả thù. Lộc âm thầm đem gia đình lên Mỹ Tho, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc che chở để sống trong lãnh thổ của Pháp. Cũng do sự tiến dẫn và giới thiệu của Marc, Lộc xin vào làm lính mã tà. Lộc lập nhiều thành tích nhờ dọ thám, điềm chỉ cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên Lộc được thăng Cai, rồi lên Đội rất nhanh. Năm sau, Lộc đã lập nghiệp vững chắc ở đây rồi, Pháp cấp cho Lộc một căn nhà lá, vợ thì nuôi heo kiếm thêm tiền. Từ đó, tiền bạc và địa vị của Lộc thăng tiến nhanh như diều gặp gió. Vốn có ác cảm với quan quân của triều đình, Lộc đàn áp các nghĩa quân không nới tay. Nhờ biểu lộ lòng trung thành với thực dân qua các vụ đánh dẹp, chém giết, lại biết chữ quốc ngữ, chữ Hán, cho nên mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865. Lộc là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ. Lúc nầy Lộc vừa đóng vai trò võ quan để bình định các cuộc khởi nghĩa cho Pháp, vừa giữ vai trò cố vấn cho Pháp về vấn đề an ninh lãnh thổ, hành chánh và chánh sách cai trị nữa. Kinh nghiệm cho biết rằng hễ kẻ có tài hay tự phụ. Lộc không thoát khỏi thông lệ đó. Khi đã thăng phủ, vẫn còn ngồi ở quận Cái Bè, Lộc lấn quyền cả người Pháp. Lộc coi như mình có quyền hành trên những người Pháp đang phục vụ tại đây. Ông ta viết đơn gởi cho Giám Đốc Nội Vụ đề nghị thăng cấp cho người Pháp trong quận, và coi đó như nhiệm vụ của mình. Ngồi quận Cái Bè trong 30 năm, công lao hãn mã đã nhiều, mà vẫn không còn tiến thân được nữa, điều đó chứng tỏ người Pháp không thích ông và dùng người có giai đoạn. Những cuộc đánh dẹp trong Đồng Tháp Mười, Vũng Liêm, Cầu Ngang, Rạch Giá, Phú Quốc...có thể nói bất cứ cuộc khởi nghĩa nào ở Nam Kỳ cũng có Lộc dẫn quân đi đàn áp dã man. Có một lần Lộc họp cùng Phủ Đức, ruồng bắt cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân ở vùng Gò Công lên đến Chợ Gạo, khiến cho cọp, chồn, nai chạy tán loạn vào các thôn xóm. Khi ngồi chủ quận Cái Bè, mỗi lần báo cáo điều gì lên Thống Đốc Nam Kỳ, Lộc luôn luôn dùng chữ "Phụng lệnh quan lớn Nguyên Soái", nịnh bợ cấp trên hết lòng. Theo Lộc, nhà cầm quyền cần dạy dân chúng về luân lý, đạo đức của Pháp. Lộc nói người Công Giáo luôn luôn trung thành với Pháp, chỉ có các phần tử theo Nho giáo mới làm loạn. Ông Durrwell nhận xét về Trần Bá Lộc như sau:"Lộc đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa, và thẳng tay dùng bạo lực để dẹp các cuộc bạo động. Dưới con mắt của người Pháp, Lộc là một trong những viên chức Việt Nam ra hợp tác đáng tín nhiệm nhứt, và là một thí dụ điển hình để những người Việt khác noi gương!" Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả người Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận mà không làm gì được. Có một lần Lộc đi dự lễ khánh thành một nhà việc làng ở Mỹ Tho, bị ám sát, nhưng thoát chết. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn núp, kêu họ ra đầu thú, nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Đối với Lộc, phương tiện nào cũng tốt miễn đạt tới mục tiêu thì thôi. Nhìn về nông thôn, theo báo cáo của Lộc với Thống Đốc Nam Kỳ, thì đó là một bức tranh ảm đạm:"Các viên chức làng xã thường thụt két, biển thủ tiền bạc để ăn xài riêng, hút á phiện và lạm dụng quyền hành. Mỗi khi bắt dân chúng làm sưu thì họ hàng với những người ấy được miễn, không ai dám kêu ca. Tiền bạc thâu góp trong các dịp lễ lạc, họ bỏ túi xài riêng". Lộc nói thêm:"Các món tiền trợ cấp cho dân quê đều vô túi mấy ông làng (Nên nhớ đây là tiền trợ cấp tử tuất cho gia đình những người lính đã theo Pháp bị tử trận). Khi trả lương cho họ, phải làm sổ sách hẳn hòi. Mỗi lần có lễ lạc như cúng đình là đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Sau cùng , làm sưu phải đồng đều". Với báo cáo đó, Lộc tỏ ra nắm vững tình hình ở thôn quê và am hiểu luật lệ hành chánh, vì lẽ đó nên Pháp rất tin cậy. Năm 1886, Lộc được Pháp điều động ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Xong việc, Lộc được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh và thăng hàm Tổng Đốc Thuận Khánh, nên dân chúng gọi ông là Tổng Đốc Lộc. Sau đó, Lộc về quê tại Cái Bè và Mỹ Tho. Lộc rất tự phụ, chê cả người Pháp là bất lực, kém hiểu biết tình hình địa phương. Cũng chính vì thế người Pháp không ưa ông ta, nhưng phải nhìn nhận rằng:"Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn". Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau:"người ta có thể phàn nàn lão già nầy về hành động dã man lúc trước nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn". (Hồ sơ Trần Bá Lộc của Durrwell, năm 1931) Toàn quyền Paul Doumer vào Nam nhiều lần. Lần nào ông ta cũng có xuống nhà thăm Lộc. Theo P.Doumer vào những năm cuối đời của ông ta, Lộc là một trong những người giàu nhứt ở Nam Kỳ. Trước khi chết, Lộc còn hơn hai ngàn mẫu ruộng và làm chủ cả cù lao Qưới Thiện. Để tưởng thưởng công lao hãn mã của Lộc, năm 1899, P.Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng với P.Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra P.Doumer còn cất nhắc Lộc trước khi chết được vào Hội Đồng Tối Cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ. Lộc mất năm 1900 trong sự lãnh đạm của Pháp lẫn Việt. Trước khi chết, Lộc dặn con phải chôn đứng. Đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày để khách khứa xa gần viếng thăm. Mỗi ngày đều có làm heo , bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bắt súng chào và đưa tới huyệt. Lộc chết không ai tưởng nhớ, nhưng người Pháp cho lấy tên Lộc để đặt tên cho một con kinh từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng do chính Lộc chỉ huy dân phu đào. Công việc đào kinh rất nặng nhọc, giữa đồng nhiều muỗi, vắt, đĩa và thiếu nước uống, khiến cho nhiều người chết vì bệnh sốt rét và dịch tả. Kinh Tổng Đốc Lộc đã góp phần làm cho vùng hai bên bờ kinh được phong phú. TRẦN BÁ THỌ Phải chăng cây độc không trái, hay ít trái, nên Trần Bá Lộc chỉ có một người con duy nhứt là Trần Bá Thọ. Theo cuốn "Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" thì từ năm 1886 trở đi Nam Kỳ đã bắt đầu gởi người du học qua Pháp. Bốn năm sau số du học sinh lên đến 90 người . Thọ là một trong những người du học đầu tiên đó, cùng với Huỳnh Công Miêng con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn (1). Thọ và người chú ruột là Trần Bá Hữu theo học trường Laseyne ở Pháp. Những người đi Pháp học trong buổi đầu không phải để lấy bằng cấp, mà chỉ học chữ Pháp đủ sức làm thông ngôn, giao dịch với Pháp mà thôi. Sau khi ở Pháp về, Trần Bá Thọ vừa làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, vừa lo quản lý ruộng đất khổng lồ của cha để lại. Cũng giống như cha, khi ra làm việc với Pháp, Thọ vẫn nóng tánh, hay có những ý kiến trái ngược với quyền lợi của Pháp. Trần Bá Thọ có một người con gái gả cho con trai út của cụ Trương Vĩnh Ký là Trương Vĩnh Tống. Trong thời gian làm hội đồng, Trần Bá Thọ có nhiều hoạt động đáng lưu ý. Trước hết, trong các phiên họp hội đồng, Thọ đưa ra nhận xét:"Vai trò cai tổng trong mỗi quận rất quan trọng, nhờ họ làm trung gian truyền lệnh từ quận xuống xã, và đốc xuất việc thâu thuế. Cai tổng do các làng bầu ra, nhưng phải được nhà cầm quyền cấp tỉnh hợp thức hóa. Mỗi cai tổng có phó tổng phụ tá. Thọ nói tìm và bổ nhiệm một cai tổng có khả năng không phải dễ, và Thọ cũng phàn nàn lương cai tổng quá thấp, nên khó kiếm người có khả năng, mà còn làm cho họ tham nhũng, hối lộ. Còn các ông làng, mỗi lần đi công tác lên tỉnh, lên quận mất nhiều ngày mà không có công tác phí, khiến họ phải ăn hối lộ". Trong một phiên họp hội đồng, Thọ nêu ý kiến báo chí sẽ tường thuật các phiên họp ấy cho dân chúng biết. Viên Thống Đốc Nam Kỳ chủ tọa trả lời rằng: "Me-sừ Thọ rất thông minh, nhưng không hiểu biết nội bộ. Nếu cho dân chúng biết mọi cuộc thảo luận của Hội Đồng Quản Hạt, chúng ta sẽ khó đạt mục đích. Cần phải giấu họ." Đã từng nghe dân chúng phàn nàn về việc làm của cha trước đây nên vào năm 1908, Trần Bá Thọ cho xuất bản quyển:"Nhị Thập Tứ Hiếu" bằng Pháp văn và Quốc ngữ để giáo dục dân chúng về luân lý, đạo đức của Nho giáo. Trong lời tựa sách, Thọ viết: "người Việt không kính trọng các kẻ hợp tác với Pháp và nói tiếng Pháp vì họ bị cô lập không nói được tiếng ấy và cũng không được giáo dục nữa." Trước kia, Lộc đã từng chủ trương dạy chữ Quốc ngữ cho người Công giáo . Thọ nói rằng vì thiếu sách nên ông phải soạn ra. Lập luận này bị ông Diệp Văn Cương không tán thành bằng cách nói rằng không có lý do gì mà không dạy Nho giáo bằng Pháp văn, trong khi tiếng Pháp chính là công cụ để khai hoá. Còn Hội Đồng Lê Văn Phát thì cho rằng cần duy trì tiếng Pháp để người Pháp hiểu sinh hoạt, lịch sử Nam Kỳ mà họ đang cai trị. Trong khi đó, Giám Mục Mossand phàn nàn nhờ hấp thụ văn hoá Pháp do nhu cầu cai trị, mà một số người tỏ ra ít trung thành với Pháp. Ông Diệp Văn Cương, du học Pháp, đổ Tú Tài 2, về làm Hội Đồng đã phản đối: "Lời tuyên bố xuất phát từ một vị đứng đầu Giáo Hội Truyền Giáo Nam Kỳ như một sự tố cáo tất cả người Việt du học bên Pháp đều chống lại Pháp, trong đó có tôi chẳng hạn. Điều đó không đúng." Dư luận Nam Kỳ cho rằng Trần Bá Thọ giống cha, lúc làm Hội Đồng dám ăn nói, tỏ ra cứng đầu, không nể nang ai hết. Về sau Thọ quy dân lập ấp, xây chợ, cất nhà ở Sa Đéc, lúc ấy thuộc phủ Tân Thành, nơi Lộc từng trấn nhậm và có rất nhiều đất đai. Dân chúng Sa Đéc còn nhắc đến Trần Bá Thọ bằng hai câu liễn đối: Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục na sáng tạo Quy dân lạc lợi, Hùng đường, Trần Bá Thọ kinh dinh Về sau, không biết buồn việc gia đình ra sao, Thọ dùng súng lục tự tử. Trần Bá Lộc còn hai người em trai khác là Trần Bá Tường và Trần Bá Hựu. Cả hai đều ra cộng tác với Pháp rất sớm, vì nhờ lập được nhiều thành tích đàn áp, bắn giết các nghĩa quân, nên được Pháp rất tin cậy. Trần Bá Hựu làm chủ quận Long Thành, còn Trần Bá Tường ngồi quận tại Long Xuyên. Năm 1875, Trần Bá Tường tham gia vào cuộc càn quét nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa Làng Linh do Phó Quản Cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Pháp nhiều lần dụ hàng, đem quan chức ra làm mồi câu nhử, mua chuộc nhưng Trần Văn Thành khẳng khái: Thà thua xuống láng, xuống bưng Bỏ ra đầu giặc, lỗi chủng quân thần Trong trận nầy, Trần Bá Tường có người dọ thám trước, rồi tự mình dẫn một cánh quân, phối hợp với quân của Quản Hiếm (một người Việt theo Pháp) đánh úp đồn Bảy Thưa là bản doanh của lãnh tụ Trần Văn Thành. Khu vực này được tổ chức phòng thủ kiên cố, và tinh thần chiến đấu của binh sĩ rất cao. Từ đó về sau người ta không còn nghe nhắc tới Trần Bá Tường nữa. Có một giai thoại về Trần Bá Thọ như sau: "Tại Gia Định có một sĩ phu tên Nguyễn Văn Thạnh quê quán ở Định Tường, đậu khoá thi Hương (cử nhân) làm quan tại Bình Thuận. Ông Thạnh là một nhà Nho có khí tiết. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ , Cử Thạnh từ quan trở về tìm cách liên lạc với nghĩa quân để tham gia. Ghe bầu của ông vừa vào cửa Cần Giờ thì bị quân Pháp khám xét. Sau khi lục soát, chúng tìm được nhiều mã tấu, gươm giáo giấu dưới khoang hầm. Âm mưu bại lộ , Cử Thạnh bị bắt giải về Sài Gòn . Nghe tin, Tôn Thọ Tường tới xin bảo lãnh, mời về nhà đãi tiệc để dụ dỗ. Thạnh khẳng khái từ chối. Tường không dám ép mà chỉ nói: - Nhân các hữu kỳ chí (Ai có chí hướng của người nấy) Mấy tháng sau, Cử Thạnh về quê sống ẩn dật. Lúc nầy Trần Bá Lộc đã ngồi chủ quận Cái Bè, nghe danh Cử Thạnh nên mời ông ta về nhà làm gia khách dạy con là Trần Bá Thọ. Cha nào con nấy, Trần Bá Thọ tuy còn là học trò, nhưng cũng bộc lộ nhiều cử chỉ ngang ngạnh. Một hôm thấy thầy đồ Nguyễn Văn Thạnh rậm râu, hay hút thuốc, Trần Bá Thọ liền tới gần và nói: - Thưa thầy, thầy có thể cho phép con ra một câu đối? - Được, trò cứ làm trước .- Cử Thạnh trả lời. Trần Bá Thọ liền đọc: "Râu ba chòm lém dém, miệng hút thuốc phì phèo". Nhìn lại thấy Thọ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đầu hói, tóc thưa, đi đâu cũng cầm ba-ton ra vẻ hống hách, nên Cử Thạnh ứng khẩu đối ngay: "Tóc vài sợi le the, tay cầm gậy ngúc ngắc." Chưa thoả mãn, Thọ xin thầy đối một câu nữa của hắn: "Phụ từ, tử hiếu, sanh con thế ấy là vàng" Bực mình, thấy đứa học trò ngạo mạn, Cử Thạnh liền đáp: "Tham phú, phụ bần, đụ mẹ thằng nào ở bạc!" Xấu hổ, từ đó Trần Bá Thọ không còn xấc láo với thầy học nữa.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 9:52:10 GMT 9
TỔNG ĐỐC ĐỖ HỮU PHƯƠNG (1838-1914) Đại lộ sang trọng và sầm uất nhất Chợ Lớn được đặt tên là "Đại Lộ Tổng Đốc Phương", có phải ông nầy là một người có công trạng đối với đất nước? Tên ấy được đặt ra dưới thời Pháp thuộc, vì nước Pháp coi ông ta như một người có công đóng góp lớn lao vào lịch sử nước Pháp. Đỗ Hữu Phương là một nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ khi người Pháp mới chiếm miền Nam. Tuy ông Lê Phát Đạt, tức ông Huyện Sĩ nổi tiếng giàu nhứt, theo sự sắp hạng của dân chúng Nam Kỳ, nhưng tiếng tăm của ông ít ai biết bằng Đỗ Hữu Phương. Tôi cũng nghe tên, "Rạch Ông Lớn", "cầu Rạch Ông", "chợ Rạch Ông" là những địa danh nằm ở bên kia cầu chữ Y cũng nhắc nhở đến Đỗ Hữu Phương, vì đất đai đó trước kia là của ông ta. Thân phụ Đỗ Hữu Phương không phải là quan lại, nhưng là người giàu nhất Chợ Lớn, gọi là bá hộ, còn bà mẹ dòng dõi con quan. Sinh năm 1838 tại Chợ Đủi, Đỗ Hữu Phương sống và lớn lên chứng kiến sự kế tục của 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với hoàn cảnh xã hội bất ổn triền miên. Khi Pháp đánh Gia Định, Phương đã đến tuổi trưởng thành, và cũng trốn lên Bà Điểm, Hóc Môn. Giống như trường hợp Trần Tử Ca, Đỗ Hữu Phương theo Pháp ngay khi đồn Chí Hòa thất thủ. Qua trung gian của người Việt có đạo, Đỗ Hữu Phương được tiến dẫn đến trình diện với Francis Garnier, lúc ấy đang là Tham Biện Chợ Lớn, rồi Phương theo Pháp luôn. Theo tài liệu dẫn ở trên:"Đỗ Hữu Phương liên tục phục vụ trong nên hành chánh thuộc địa cả văn lẫn võ, và có đôi lúc làm trung gian áp-phe trong các dịch vụ đấu thầu, mua bán giữa Pháp và Hoa Kiều". Chi tiết về cuộc đời của Đỗ Hữu Phương phần lớn rút trong tập hồ sơ cá nhân của Luro, có nơi Đỗ Hữu Phương làm Đốc Phủ Sứ hàm Tổng Đốc. Khi Pháp chiếm luôn 6 tỉnh Nam Kỳ, Phương từ chức bá hộ, lên làm Hộ trưởng ở Chợ Lớn. Lúc đó cả Sài Gòn, Chợ Lớn chia ra làm 20 hộ. Địa vị bá hộ lúc trước và chức hộ trưởng đương thời đã khiến Phương làm giàu rất nhanh. Phương là một trong những người cộng tác với tân triều không thuộc gia đình quan lại, chỉ thuộc hạng điền chủ giàu có mà thôi. Có thể nói cùng lãnh chức đội trưởng mã-tà một lượt, Đỗ Hữu Phương và Trần Bá Lộc cùng chạy đua để lập công với chủ mới. Năm 1861, Phương vẫn còn ngoại đạo. Lý do khiến Phương đứng về hàng ngũ Pháp, theo Vial, Giám Đốc Nội Vụ là sự giàu có cần được Pháp che chở. Theo luật phong kiến của Việt Nam, tất cả tài sản và đất đai đều thuộc quyền tối thượng của Vua, nên Phương cũng như Ca, ra hợp tác với Pháp là để bảo vệ quyền lợi của mình. Đỗ Hữu Phương rất khôn ngoan, khi mới đầu quân với Pháp cũng tham gia vài trận đánh để tạo niềm tin. Phương đã dẹp cuộc khởi nghĩa do con Trương Công Định lãnh đạo ở Hóc Môn. Chỉ trong vòng 9 năm, Phương lên chức Đốc Phủ Sứ nhờ có công phủ dụ các cuộc khởi nghĩa, hoặc dẫn binh đi đánh dẹp các nơi như Vũng Liêm, Rạch Giá. Hai biến cố khiến Phương củng cố thêm lòng tin cậy của Pháp là cải đạo Thiên Chúa và gia nhập Pháp tịch trước tiên ở Nam Kỳ (năm 1881). Nhiệm vụ quan trọng của Đỗ Hữu Phương là dọ thám, cấp báo tin tức những cuộc dự mưu khởi nghĩa, những nơi nào sắp gây náo loạn trong phạm vi Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tân An. So với Trần Bá Lộc, Phương còn lương tâm đối với đồng bào. Có lẫn Đỗ Hữu Phương bảo lãnh cho Thủ Khoa Huân, đem về nhà nuôi ăn ở dưới hình thức quản thúc. Trên nấc thang hoạn lộ, Phương tiến rất mau. Từ chức Hộ trưởng ban đầu, kế thăng Đốc Phủ Sứ, hàm Tổng Đốc, và năm 1872, qua sự đề nghị của Tham Biện Chợ Lớn, Thống Đốc Le Myre de Villers bổ nhiệm Phương làm hội viên Hội đồng Thành phố Chợ Lớn. Đến năm 1897, Phương là phụ tá cho xã Tây (một chức vụ như thị trưởng). Bấy giờ Hoa Kiều bắt đầu buôn bán, giao dịch nhiều với người Pháp, thấy Phương có thế lực, quen biết với những người giữ chức vụ then chốt, nên nhiều người nhờ cậy Phương chạy chọt việc nầy việc kia với số tiền đền ơn hậu hĩ. Phương đóng thêm vại trò áp-phe. Bấy giờ có một lãnh tụ Phật Giáo Tứ Ấn là ông Năm Thiếp xuất hiện trong dân chúng miền Nam, làm cho Pháp phải điên đầu. Theo lời kể của một vị cao niên thì có một ngôi chùa Phật Giáo Tứ Ấn ở núi Tượng (có lẽ là chùa An Định?) là trung tâm xuất phát các cuộc mưu toan khởi nghĩa, tấn công đồn bót, để "phục hưng cho dân An Nam". Trong nỗ lực tìm cách phủ dụ hoặc bắt bớ lãnh tụ Năm Thiếp, Phương và Lộc đều ráo riết lập công. Trong những năm 1865-75, ông Năm Thiếp xuất hiện nay chỗ nầy, mai chỗ kia, nhờ dân chúng che giấu lúc ẩn, lúc hiện làm cho Pháp phải bối rối mà không sao bắt được. Phương nghĩ ra một cách mềm dẻo bằng cách sai một tay chơn thân tính tên Bửu, người Minh Hương mua 3000 xâu chuổi bồ đề ở Chợ Lớn, giả làm một tín đồ sùng đạo, len lỏi vào tận núi Tượng ở Châu Đốc xin cúng để phát cho đồng bào. Sẵn dịp nầy Bửu dò la tin tức ông Năm Thiếp nhưng không có kết quả. Trường hợp Phủ Lộc làm một trò khôi hài hơn. Lộc sai bộ hạ là ông Hai Phép đi dò la tin tức ông Năm Thiếp ở Thất Sơn. Hai Phép gặp ông Năm Thiếp bị ông cảm hóa, trở thành tín đồ ngoan ngoãn, ở luôn, không về. Như vậy cả hai người thi nhau lập công đều thất bại. Đỗ Hữu Phương là người duy nhứt qua lại thăm viếng Pháp nhiều lần. Lần đầu tiên năm 1874, Phương qua Pháp dự hội chợ Paris. Ba lần đầu vào các năm 1884, 1889 và 1894 đi du lịch thăm con cái đang du học tại đó. Đỗ Hữu Phương đã "Pháp hóa hơn cả những người Pháp", theo lời nhận xét của bạn bè người Pháp của ông. Ông có tất cả 6 người con. Trưởng Nam là Đỗ Hữu Chẩn theo học trường Võ bị danh tiếng St-Cyr của Pháp sau làm Trung Tá trong quân đội Pháp. Ông là người Việt Nam đầu tiên và trẻ tuổi nhứt làm trung tá trong quân đội Pháp. Đỗ Hữu Chẩn mất vào Đệ Nhị Thế Chiến. Người con kế là Đỗ Hữu Vị, người phi công đầu tiên Việt Nam và cả Đông Nam Á. Ngay từ lúc thiếu thời, Đỗ Hữu Vị đã hấp thụ một nền văn hóa Pháp hoàn toàn. Tốt nghiệp trường Taberd, được thân phụ gởi qua Pháp du học tại trường Collège St.Barbe ở Paris. Đỗ Hữu Vị nói và viết Pháp văn như Pháp. Rồi Đỗ Hữu Vị chọn binh nghiệp như anh. Ba năm sau khi ra trường, Đỗ Hữu Vị mới xin theo học Không Quân. Lúc đó người Việt Nam làm sĩ quan cho Pháp rất hiếm. Chỉ có hai anh em Đỗ Hữu Chẩn, Đỗ Hữu Vị và Nguyễn Văn Xuân sau lên Trung Tướng. Nên nhớ lúc bấy giờ máy bay mới được phát minh, cho nên làm phi công là một việc rất phi thường. Đỗ Hữu Vị lại làm phi công tác chiến trong phi đoàn ở Maroc. Để cổ võ tấm gương người dân thuộc địa phục vụ cho mẫu quốc, Pháp gởi Đỗ Hữu Vị về Việt Nam lái máy bay biểu diễn ở Sài Gòn và Hà Nội, dân chúng khâm phục, hãnh diện và bàn tán sôi nổi. Thế Chiến Thứ Nhứt bùng nổ (1914-1918), Đỗ Hữu Vị trở qua Pháp tham dự các trận đánh với Đức. Trong một lần giao tranh tại sông Somme, Trung Úy Đỗ Hữu Vị bị thương nặng và từ trần sau đó. Ông được tưởng thưởng nhiều huy chương và truy thăng Đại Úy. Pháp cho in hình Đỗ Hữu Vị trên con tem phát hành khắp Đông Dương, và lấy tên ông đặt cho trường Kỷ Thuật Cao Thắng sau nầy. Đỗ Hữu Phương còn một người con trai nữa là Đỗ Hữu Trí, cũng có chức vụ trong nền hành chánh thuộc địa nhưng không rõ. Trong 3 người con gái, có một người gả cho con trai Tổng Đốc Hoàng Cao Khải ngoài Bắc. Hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 19, theo sự nhận xét của người Pháp:"Nam Kỳ ổn định về mọi mặt như mặt nước hồ thu. Sự giao thiệp giữa các viên chức ra hợp tác với tân triều và quan lại người Pháp, có thể nói là thân mật, mở ra một thời kỳ huy hoàng ở Nam Kỳ". Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ) nổi bật hơn những người Việt Nam khác đã ra cộng tác với Pháp, được Pháp tin cậy hoàn toàn và có một đời sống văn hóa nửa Tây nửa ta. Phương tận tụy với chủ mới và coi đó là một bổn phận để giữ lấy địa vị giàu sang cùng lòng tin cậy mà thăng quan tiến chức. Trong vấn đề cai trị, Phương luôn luôn chú trọng đến trị an của Sài Gòn, Chợ Lớn. Năm 1895, trong một báo cáo về tình hình an ninh Sài Gòn như sau:"Khắp Sài Gòn, du đảng càng ngày càng lộng hành. Chúng liên kết với nhóm Thiên Địa Hội để ăn hiếp dân chúng, làm tiền những người giàu có. Ai giận ghét người nào cho tiền, mướn chúng đánh phá. Những ai muốn ứng cử hội đồng mướn du côn canh chừng, nếu không bỏ thăm cho mình bị chúng chận đánh. Thậm chí chúng còn giả bộ mượn tiền nhà giàu từ năm ba chục trở lên, ai không cho mượn, chúng đốt nhà trả thù". Thế kỷ trước cũng không khác thế kỷ nầy bao nhiêu. Đối với con gái trong nhà, Đỗ Hữu Phương giáo dục theo truyền thống Nho giáo. Ông được tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh nhiều lần vào những năm 1874, 1884, 1889. Năm 1899, Phương về hưu và dùng thời gian còn lại làm công tác từ thiện. Ông sáng lập trường Nữ trung học Sài Gòn. Sau khi hưu trí, Toàn Quyền Paul Doumer cất nhắc Phương vào "Hội Đồng Tư Vấn Tối Cao Đông Dương" cùng với Trần Bá Lộc. Trước khi về hưu, Phương còn làm Phó chủ tịch "Hội Nghiên Cứu Đông Dương" (1883). Đây là nôi tập họp những người Pháp quan tâm đến Nam Kỳ, cùng với những người Việt Nam giàu có, giữ địa vị quan trọng trong chánh quyền thuộc địa hoặc là trí thức. Đến năm 1908, hội nầy có tất cả 260 hội viên, trong đó có 33 người Việt Nam, gồm những ông Hội Đồng Quản Hạt, nhơn viên hành chánh cao cấp, trong đó có Trần Bá Thọ. Riêng hai ông Pétrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Hùynh Tịnh Của là hội viên vĩnh viễn suốt đời. Một hội viên xuất sắc của hội nầy sau Pétrus Ký và Paulus Của là ông Lê Văn Phát. Chúng tôi được biết thêm tiểu sử một vị trí thức mới như sau:"Lê Văn Phát thuộc dòng dõi quý tộc, ra làm quan và hợp tác với Pháp rất sớm ở Nam Kỳ. Tài liệu không nói rõ ông quê quán ở đâu nhưng cho biết ông nội làm quan ở triều đình Huế lúc Pháp mới xâm lăng Nam Kỳ. Nhưng cha mẹ ông không ngăn cấm ông ra hợp tác với người Pháp. Ông sống đồng thời với Trương Minh Ký, Trương Vĩnh Ký, Hùynh Tịnh Của, có sức học uyên thâm, nhưng rất tiếc không thấy còn để lại tác phẩm nào. Ông là cây viết thường trực cho "Hội Nghiên Cứu Đông Dương"(Bulletin de la Société des Études Indochinoises). Mục đích của ông là làm cho nhà cầm quyền Pháp hiểu thêm về người Việt Nam hơn. Ông cũng là hội viên của "Hiệp Hội Đồng Minh Pháp" (Pháp Văn Đồng Minh Hội sau nầy). Theo ông, người Pháp đến làm chủ Nam Kỳ mà biết rất ít về xứ sở họ đang cai trị và sinh sống. Còn một số phụ nữ bản xứ có kiến thức văn hóa Pháp nhờ tiếp xúc với nền học vấn Pháp qua các trường Couvent, phần lớn là Công Giáo. Cùng vào năm 1908, có một hội viên mới là ông Bùi Quang Chiêu, về sau làm lãnh tụ đảng Lập Hiến. Ông nội và cha của ông Bùi Quang Chiêu làm quan cho triều đình Huế, chống lại Pháp. Chiêu được du học Algérie, và sau đó qua Pháp tiếp tục, đổ kỹ sư năm 1897. Những năm cuối đời của Đỗ Hữu Phương, Nam Kỳ rất ổn định. Miền nầy nhiều nhà giàu lớn, có thói quen ăn xài theo Pháp, khác với Trung và Bắc Kỳ. Nhà hàng Continental là nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Theo Pháp đó là chứng cớ rõ ràng về sự hòa hợp Pháp-Việt để pha trộn bản sắc giữa hai dân tộc. Riêng Đỗ Hữu Phương đã "Pháp hóa hơn cả người Pháp". Ông có thói quen ngồi nhà hàng Continental tán gẫu với bạn bè Pháp và rất hiếu khách. Mỗi lần khách tới nhà chơi đều được Phương đãi rượu sâm-banh, ăn bánh Petit Beurre và uống cà phê "De La Paix". Cụ Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về Đỗ Hữu Phương hay đến nhà hàng Continental, được cụ Trương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau: "Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán "Cà phê De La Paix" ...để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa..." Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20 ở Sài Gòn , nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đến đó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhập ở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộc địa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo. Một nhận xét khác về Ðỗ Hữu Phương trong quyển "En Indochine 1894-95" của P. Barthelémy có nói đến một cuộc thăm viếng Ðỗ Hữu Phương tại tư gia, đã ca tụng sự hiếu khách của ông ta như sau: "Khi viếng Chợ Lớn, đừng quên ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Quan Phủ bắt chước lối sống cực kỳ xa hoa của chúng ta. Ông là dân An-Nam, tuổi độ 50, tướng phốp pháp, có râu ngạnh trê, luôn luôn tự phụ. Ông không do dự trong việc cho con qua Pháp du học. Nhà ông nửa Tây, nửa ta." Căn nhà ngói 5 gian rộng lớn của ông ở ngay vị trí khách sạn Thủ Ðô, Chợ Lớn lúc trước nằm trên đại lộ mang tên ông. Toàn Quyền Paul Doumer mỗi lần vào Nam đều ghé nhà ông ăn nhậu. "người ông giống hệt nhà ông, bên ngoài trang trí theo lối Pháp, nhưng bên trong trang trí giữ phong tục bản xứ" . (Lời nhận xét của Paul Doumer) Cũng trong những lần ấy, không biết Ðỗ Hữu Phưong khéo léo thế nào mà xin được Toàn Quyền Paul Doumer cấp không cho 2223 mẫu ruộng ở làng Hoả Lựu (Chương Thiện) Những người xu nịnh cho rằng Ðỗ Hữu Phương là người giàu có danh giá gồm đủ "Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh": - Về Phú: ông giàu tột bực, chỉ thua ông Huyện Sĩ, đất ruộng hàng mấy chục ngàn mẫu. - Về Quý: làm quan đến tột đỉnh, tứ trụ triều đình của chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ, được ân thưởng Bắc Ðẩu Bội Tinh đến 3 lần. - Về Thọ: ông mất ở tuổi 76 - Về Khang: ông có nhiều con cháu nối nghiệp làm quan lớn. Con trưởng làm Trung Tá đầu tiên trong quân đội Pháp, con kế làm phi công đầu tiên của Việt Nam , và một người con gái gả cho Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu. Sui gia với ông là Hoàng Cao Khải, dưới con mắt của Pháp và tay sai là người danh giá nhứt Bắc Kỳ. Gia đình ông có 3 người đều làm Tổng Ðốc, ngoài hai người vừa kể, còn một người con nữa là Hoàng Mạnh Trí. Không biết ông Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu có công gì lớn đối với đất nước mà triều đình phong làm Thái Tử Thiếu Bảo, Hiệp Tá Ðại Học Sĩ. Riêng Hoàng Cao Khải được ban tước Quận Công, nhưng dưới triều vua Duy Tân (1907-1916) nhờ lập nhiều thành tích cho Pháp, nên thực dân đề nghị với triều đình phong cho ông làm Phó Vương. Rủi cho ông bấy giờ, Thượng Thư Cao Xuân Dục đang làm Phụ Chánh đại thần, đã phê vào đề nghị như sau:"Trên bầu trời không có hai mặt trời, thì trong một nước không thể nào có hai vua. Thần, Cao Xuân Dục không thể ký được ". Tuy vậy, nhiều người nịnh bợ thỉnh thoảng vẫn gọi Hoàng Cao Khải là Phó Vương. - Vê Ninh: ông sống ung dung nhàn hạ, hưởng thụ mọi tiện nghi và thú vui vật chất, không phải lo lắng bất cứ việc gì. Xin trích dẫn một giai thoại khác của cụ Vương Hồng Sển trong "Sài Gòn năm xưa" có viết: "Tết Nguyên Ðán, nhà ấy (Ðỗ Hữu Phương) có ra câu đối trao giải thưởng. Câu đối ra như vầy: "Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ "Ðỗ một nhà, ngũ phước tam đa". không biết quả thật chăng có người về sau gởi đến câu đối lại như vầy: "Cù Lao Rồng có lũ thằng phung "Phung một lũ: Cửu trùng bát nhã" nhưng người ấy không dám nhận giải thưởng. Khi Ðỗ Hữu Phưong mất , gia đình tổ chức đám tang rất trọng thể. Thi hài quàn nửa tháng mới chôn. Hàng ngày có hàng trăm khách viếng. Tang gia cho vật trâu, bò, heo liên miên cúng và đãi khách. Báo "Ðông Phương tạp chí" ra ngày 7 tháng năm 1914 có đăng một đoạn tả cảnh đám ma ấy như sau: "Ðúng 4 giờ chiều một khắc (15 phút) nghe lệnh quan Vệ úy Thạch hô: - Bọt-tê-am! (Portez armes!) Thoạt thấy quan phó toàn quyền và quan nguyên soái Nam Kỳ đi giá (cáng) tới, vào nơi linh sàng phủ ủy ít lời. Kế học trò hô: - Triệt linh sàng! Tức thì nhạc "fanfare" giọng bi ai trổi lên . Rồi động quan ra linh xa, chặn trước linh xa có bày các bàn phúng điếu treo trướng và tràng bông của thiên hạ đi đến có trên vài trăm cái.." (trích lại trong "Việt Nam tạp chí" số ra mắt tháng bảy 1989)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 9:53:11 GMT 9
HUỲNH CÔNG TẤN (1837-1874) Trước năm 1945, phía trước nhà lồng chợ Gò Công có một tấm bia đá lớn của Pháp dựng lên để kỷ niệm một người Việt có công tận tụy với nước Pháp :"À la mémoire de Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, Chevalier de Légion d'honneur, fidèle serviteur de la France" (Tưởng nhớ Huỳnh Công Tấn, Lãnh Binh, Bắc Ðẩu Bội Tinh, công bộc trung thành với nước Pháp). Ngày 9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Dân chúng Gò Công phẩn uất, kéo tới đập phá tấm bia ấy để xoá tan dấu vết của thực dân. Huỳnh Công Tấn là người quê quán tại Gò Công, sinh năm 1837 trong một gia đình nông dân ít học. Năm 1859 thành Gia Định thất thủ, Tấn mới 22 tuổi. Theo bức ảnh minh hoạ trong quyển sách :"Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" nói trên thì Tấn có một dáng dấp rất khác biệt với Đỗ Hữu Phương hồi trai trẻ. Nếu Phương có dáng dấp một thư sinh thì Tấn là con người cục mịch, gương mặt thô, vuông, hằn lên nét đanh ác. Tấn mặc bộ đồ đen . Lúc Gia Định mới thất thủ, Tấn gia nhập hàng ngũ nghĩa quân chống Pháp, dưới quyền chủ tướng Trương Công Định. Ba năm sau, phòng tuyến Chí Hoà bị hạ, triều đình Huế ký Hàng Ước 1862 nhường 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Mất địa bàn kháng chiến, Trương Công Định dẫn quân về Gò Công, dựa vào địa thế hiểm trở vùng Vàm Láng ("đám lá tối trời") để tiếp tục kháng Pháp. Trong một cuộc hành quân vùng Gò Công, Tấn gạt binh sĩ, rồi bỏ trốn qua Tân An. May mắn cho Tấn, ở đây hắn gặp một người bạn cũ tên Nguyễn Hữu Nguơn, đã đầu thú Pháp, hướng dẫn Tấn về Sài Gòn trình diện. Còn theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Vực cho biết:"Tấn vốn đam mê đàn bà con gái, hay chọc ghẹo, nên bị chủ tướng Định cảnh cáo. Có lần Định tát tai Tấn về việc nầy, nên Tấn sanh tâm thù oán. Từ đó Tấn tìm dịp trốn đi ra hàng giặc". Một tài liệu khác nữa nói rằng:"Trong lúc hai bên giao chiến, Tấn bị Pháp bắt. Để đoái công chuộc tội, Tấn xin cung khai đầy đủ mọi việc quân thư của Trương Công Định". Tài liệu nầy do Vial, Giám Đốc Nội vụ ghi lại trong tập hồ sơ "Lãnh Binh Tấn ngày 31 tháng bảy 1869". Để được Pháp tin cậy, Tấn ra tay dọ thám, chỉ điểm cho Pháp ruồng bố nghĩa quân. Chỉ một năm sau, Tấn lập được nhiều thành tích, Pháp cho Tấn làm đội trưởng. Quê dốt, không tham vọng nhưng rất tàn ác, Tấn không từ bỏ một dịp may nào để tiến thân và làm giàu. Có quyền trong tay, Tấn bắt người tình nghi, đánh đập để khảo của. Tấn làm giàu bằng cách tổ chức sòng bạc, chiếm đất của các điền chủ bỏ chạy qua miền Tây lánh nạn. Đồng thời, Tấn bắt thường dân làm sưu cho mình. Chỉ trong 10 năm, Tấn trở thành một người giàu có nhứt Gò Công. Bằng cách cướp đoạt, Tấn có hàng ngàn mẫu ruộng. Tấn lập công với Pháp bằng cách đem quân qua Cần Giuộc bao vây, bắt được lãnh tụ nghĩa quân Bùi Duy Nhứt. Với thành công mới, Pháp phong cho Tấn chức Lãnh Binh, là chức quan đàng cựu, coi tất cả binh lính trong một tỉnh. Có lẽ do lòng căm thù cá nhơn, Tấn coi nghĩa quân còn hơn kẻ thù, mặc tình bắt bớ, tra khảo, bắn giết không nương tay. Tấn làm nô bộc cho chủ Pháp rất hăng hái. Có lần Tấn dám chê bai Tham Biện Pháp là người bất tài vô dụng:"Bởi quan Tham Biện chúng tôi xưa nay là qua coi binh, chưa từng biết việc dân (hành chánh) cho nên việc quan làm thì làm bậy, nói thì chẳng thông lý sự, dường như kẻ ngu si dốt nát". Giám Đốc Nội Vụ thấy Tấn lạm quyền quá đáng, muốn tìm cách đổi Tấn đi miền Đông, nhưng Tấn lại lập thêm nhiều công trạng mới, nên được giữ lại. Người Pháp dùng Tấn như một tay sai đắc lực chớ không ưa Tấn. Trong một chuyến từ Gò Công về Sài Gòn bằng ghe bầu, Tấn bị bịnh và chết trên ghe, lúc mới 37 tuổi. Tấn có hai người con trai là Huỳnh Công Miêng và Huỳnh Công Viễn. Để nuôi dưỡng tay sai trung thành, Pháp cho Huỳnh Công Miêng qua pháp du học. Lúc về nước, Miêng theo Trần Bá Lộc đánh dẹp nhiều nơi. Sau đó Miêng chán nản, bỏ quan, trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi bằng "Cậu Hai Miêng". Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh miễn tử khắp Nam Kỳ. Mỗi lần hết tiền, Cậu Hai vào thăm các tham biện, chủ quận để hỏi tiền xài. Pháp nhớ công ơn cha cậu, nên cũng nể mặt, cho cậu ít nhiều. Cậu sống ngang tàng, không ai dám làm gì dù có phạm tội chút ít (Xin xem thêm "Nam Kỳ Lục Tỉnh" tập I). Cậu Hai mất năm 1895, chôn ở Sài Gòn. Cuộc đời Cậu Hai Miêng được dân chúng thán phục, truyền tụng sâu rộng bằng nhiều tập thơ "Cậu Hai Miêng". Trong quyển "Quốc Âm Hiệp Tuyển" của Lê Quang Chiếu (người Cần thơ) có bài thơ điếu Cậu Hai Miêng như sau: "Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng? "Ba mươi tám tuổi, dõi huỳnh tuyền, "Sao lờ Bến Nghé, xiêu người ngó, "Khói toả Cầu Kho, thảm vợ hiền' "Đứng bực phong lưu trời vội dứt, "Những trang hào kiệt đất không kiêng "Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền".
|
|