|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:02:08 GMT 9
Về một ông Thành hoàng Vietsciences-Bùi Trọng Liễu 26/03/2007
Tóm tắt :
Bài này viết về sự tích ông Thành hoàng "Thôn Tư", tổng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, vùng quê của tác giả. Thời điểm là đầu thế kỉ 18, lúc một số người rời quê cũ đến khai hoang vùng đất bồi ven biển để lập nên những làng mới. Câu chuyện khởi đầu bằng một cặp vợ chồng không con, nuôi một con hổ..., chuyện xen lẫn sự việc và tín ngưỡng dân gian. Tác giả dựa trên một tài liệu ghi trong gia phả họ Đỗ làng Quyết Trung.
Tôi may mắn được anh bạn đồng hương cho đọc một đoạn gia phả của dòng họ Đỗ của anh 1. Trong gia phả này có sự tích của ông Thành hoàng « Thôn Tư » khá lạ, nên muốn tôi viết ra đây, vì nghĩ rằng nếu không, e sau này khó ai được biết.
Như tôi có viết trong bài « Làng xưa » (Thời Đại số 1, 1997, trang 155-177), quê nội tôi là làng Nhuận ốc, tổng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình (địa danh trước những năm 1950) 2. Tên Bồng Hải chỉ có từ 1839, còn trước đó, có lẽ mang tên Đống Hải. Thuở mới lập làng ở vùng đất bồi lấn ra biển này, có những phường, những thôn, ... với những tên gọi đơn giản (như thôn tư, thôn năm, ba phường), sau thành địa danh, dần dần mới có những tên làng văn vẻ. Theo Đại Nam nhất thống chí, năm Minh Mạng thứ 20 (tức 1839), chia Bồng Hải làm 9 xã, trong đó có Nhuận Ốc và Quyết Trung. Họ Bùi tôi ở Nhuận Ốc, còn Quyết Trung có họ Đỗ. Ông tổ 10 đời của tôi đến khai khẩn vùng đất biển này, lập nên « phường Tốp » vào khoảng đầu thế kỉ 18, mà tôi ước đoán là vào khoảng những năm sát sau đạo dụ của chúa Trịnh Cương 3. Nay đọc gia phả họ Đỗ, thấy chỉ đoán sớm hơn khoảng một chục năm, như vậy có thể tạm coi là phù hợp.
Ông tổ họ Đỗ (trong gia phả không chép tên) vốn quê ở xã Gia Miêu đạo Thanh Hoa (sau này là tỉnh Thanh Hoá), đỗ Tạo sĩ 4 đời vua Lê Thuần Tôn (1732-1735), lúc đó chúa Trịnh Giang, con chúa Trịnh Cương, đang cầm quyền. Ông không làm quan, theo anh ra Bồng Hải lập ấp. Ông giàu có, lại có tình hào hiệp, mà lại không có con ; ông cùng anh và dân trong vùng lập đền « Thôn Ba » thờ hai ông tiến sĩ triều Lê, làm chùa Đọ thờ Phật (« Đọ » có lẽ là do đọc trệch từ chữ Đỗ), và mở chợ để dân buôn bán, lại xây đình ở chợ làm nơi dân làng họp bàn công việc. Trong đình thờ ông Thổ thần, trước cửa đình trồng một cây xanh to, nên tục gọi là Chợ Xanh, sau trở thành địa danh. Khi ấy, vùng này mới chỉ khai khẩn từ Chợ Xanh lên đến Văn Thịnh 5, còn trở xuống thì là rừng sậy, thỉnh thoảng lại có chỗ có cây cối um tùm.
Một hôm phá rừng, thấy một con hổ con bị lạc, ông bắt đưa về nhà nuôi. Ông bà không có con, quí hổ như con. Hổ có linh tính, biết yêu quí ông bà, ông đi xa về, hổ ra tận cổng đón. Khi hổ đã lớn, thú tính dữ tợn, nhưng đối với ông bà lại rất ngoan ngoãn, biết nghe lời, nhiều khi bậy bạ, ông gọi mắng, hổ phục xuống như xin lỗi. Ban ngày ông bà đi vắng, dặn hổ coi nhà, không ai dám vào. Gặp năm mất mùa đói kém, trộm cướp như ong, các nhà giàu có đều bị cướp phá, duy nhà ông nhờ có hổ coi nhà, trộm cướp không dám bén mảng. Ông có cái « dè đó » 6 cắm suốt cả một khúc sông, nơi gọi là xóm Ba Phường 7. Quãng này ăn thông ra bể, rất được nhiều cá. Những kẻ vô lại, đêm thường rủ nhau ra lấy cắp. Bị trộm luôn như vậy, ông mới sai hổ ra bờ sông coi « dè đó » ban đêm. Thấy bóng người đàng xa, hổ gầm thét, không ai dám qua lại khúc sông cắm « dè đó » đó. Lâu không có người qua lại, ông e hổ lơ là trong việc canh phòng, nên muốn thử hổ. Một đêm, ông mới lặn hụp từ phía bể vào gốc sông, giả vờ trộm cá. Hổ đương ngủ gật, thấy có người trộm cá, gầm lên rồi nhảy xuống sông cắn chết. Hôm ấy là ngày 18 tháng 2, không nhớ năm. Khi ngửi hơi biết là cắn nhầm, hổ bèn cõng xác ông, về đến một nơi thì ngưng lại nghỉ một lúc, có mấy giọt máu rơi ra đấy, (sau này dân làng xây tường bao bọc chung quanh, khoảng hơn một sào đất, gọi là « Nền Phúc »), rồi lại cõng tiếp vào rừng Vầu (tên chữ là Đồng Lăng) đặt ở trong rừng. Gần sáng, hổ về nhà kêu gào, như báo tin cho bà biết. Bà theo hổ vào rừng Vầu, thấy chỗ để xác ông, mối đã đùn lên thành một đống đất. Bà khóc lóc mắng hổ. Hổ phục xuống như lạy bà, rồi cong đuôi chạy vào rừng. Từ đó hổ đi không về nhà nữa, nhưng hằng năm cứ đến ngày giỗ, lại đưa về hươu nai hay cầy cáo, để trên mộ, rồi nằm gào khóc, rồi lại đi.
Sau khi ông mất, ba năm hết tang, bà mời kỳ lão và người trong họ đến, phân chia gia tài, cúng vào chùa Đọ một số của cải, rồi ở luôn chùa đó tụng kinh niệm Phật. Cách mấy năm sau, các làng Yên Cư, Yên Khê, đêm thường bị hổ về bắt lợn và trâu bò. Hổ tinh khôn, ai tìm cách đánh bẫy, liền bị hổ báo thù. Dân làng không sao được, phải lên trình quan sở tại, quan sai phường săn về bắt hổ, cũng không trị được mà còn bị giết hại. Sau phải làm bảng niêm yết ra khắp đường đi lối lại, hứa : ai có cách gì trừ được hổ, khỏi làm hại dân, thì lúc sống dân làng phụng dưỡng như cha mẹ, lúc chết lập đền thờ, và sẽ tâu lên triều đình để phong thưởng. Tin ấy đồn đến chùa Đọ, bà ngờ là hổ nhà mình, liền cùng với người nhà tới Yên Cư, nói với dân làng là có cách trừ được hổ, chỉ cần làm cho bà một căn nhà sàn ở giữa lối hổ thường qua lại, bà ở trong nhà ấy sẽ trù liệu cách trị hổ. Dân làng theo lời. Khi nhà sàn làm xong, bà ra ở một mình. Một đêm đã khuya, trời sáng trăng suông, thấy gió tanh, rồi một con hổ to hơn con bò từ xa đi tới. Hổ đánh hơi biết có người trong nhà nên gầm thét, đi lượn vòng quanh. Bà ở trong nhà nhìn ra khe cửa, nhận đúng ra hổ mình nuôi, mới nói vọng ra : « Có phải con của già đấy không, con làm gì thế ? ». Hổ nghe tiếng bà, liền chạy lại nằm phục bên cửa. Bà vội mở cửa ra, đến xoa đầu hổ nói : « Con đi lâu không về nhà, để mẹ mong nhớ ; từ ngày cha con mất đi, mẹ đêm ngày phiền muộn; con lại đi biệt, không ai nương tựa, mẹ phải nương nhờ cửa Phật. Nay con về tàn phá vùng này, dân làng cam kết rằng ai trừ được con thì lúc sống dân làng nuôi dưỡng như nuôi cha mẹ, lúc chết lập đền thờ. Nay mẹ tuổi già, không chỗ nương nhờ ; con nên thương mẹ, kíp bỏ xứ này đi vào rừng núi kiếm ăn, để dân làng thay con phụng dưỡng mẹ, thế mới là con có nghĩa ». Hổ nghe xong, nước mắt ràn rụa, gầm lên mấy tiếng rồi vẫy đuôi đi thẳng. Sáng ra, dân làng kéo nhau đến xem, thấy hai con nai đặt trước cửa. Bà đem chuyện hổ về lúc ban đêm, kể với dân làng và cam đoan từ nay, không phải lo nạn hổ nữa. Quả nhiên từ đấy, dân được yên ổn. Dân làng giữ lời hứa, xin rước bà về phụng dưỡng. Bà từ chối, xin trở về chùa Đọ để tu hành. Nhưng dân làng khẩn khoản, lập chùa để bà tu tại chỗ, đó là chùa Yên Khê. Mấy năm sau bà mất, dân làng nhớ ơn, lập đền thờ, gọi là đền Báo Ân. Theo tác giả của đoạn gia phả, đền ở sát đường cái, chỗ cây số 8, từ xóm Thông, Yên Cư, lên tỉnh lị Ninh Bình. Trong đền có đôi câu đối của ông Vũ Ích Khiêm, (người làng Yên Khê, đỗ cử nhân triều Tự Đức, làm quan đến Tuần phủ, nên gọi là cụ Tuần Yên Khê), kể rõ công đức của bà. Tục truyền chỗ đền Báo Ân, chính là chỗ ngày xưa dân làm cái nhà sàn để bà ở trừ hổ.
Trở lại chuyện ông. Mộ ông ở trong rừng Vầu, tục gọi là rừng Cấm, vì hổ thường về thăm mộ, không ai dám vào chặt cây kiếm củi 8. Ông mất ít lâu, những người đi bể và dân xóm Ba Phường, cùng những người được ông giúp đỡ thuở trước, đắp một cái bệ đất ở chỗ ông đặt « dè đó » thuở trước, để cầu ông phù hộ ; dần dần tin ông hiển linh, người các nơi bị bệnh thường kéo đến bệ thờ cầu khẩn. Đến năm Cảnh Hưng thứ 36 (1776) đời vua Lê Hiển Tông, đại hạn, 3 tháng không mưa, sông ngòi khô cạn, ruộng đồng không cầy cấy được. Các quan tỉnh thần sức cho các làng rước các vị thần lên tỉnh để làm lễ cầu đảo, trong 3 ngày vẫn không mưa. Các kỳ lão trong vùng mới trình quan việc ông thường hiển linh mà chưa được sắc phong thần, nay đang lúc chưa mưa, xin cho đến chỗ bệ thờ cầu đảo. Quan tỉnh nghe lời, cho đến bệ thờ ông đảo vũ. Đêm ấy mưa to, nước đầy đồng ruộng, dân tình vui vẻ. Việc ấy tâu lên, triều đình sức cho dân lập đền thờ. Đền xây trên nền nhà cũ của ông 9, tục gọi là đền « Thôn Tư », trong đền có tấm biển đề « Đỗ tộc Tổ thần » từ thời Cảnh Hưng, và nhiều hoành phi câu đối, trong đó có đôi câu đối chữ Nho của ông Khiếu Năng Tĩnh, còn gọi là cụ nghè Trực Mỹ, đỗ tiến sỹ thời vua Tự Đức, làm quan Tế tửu Quốc tử giám, sau làm phụ đạo cho vua Thành Thái. Hai vế của câu đối đó như sau:
Diệc kỳ tai Chu Bất Phục 10 thị vân dao, nãi văn thần vật báo ân, vạn cổ Đồng Lăng linh tích tại,
Sở kiến giả Lê Cảnh Hưng triều dĩ hậu, lịch kỳ thánh công biểu đức, nhất phường Xanh thị huệ phương dân.
Nghĩa là :
Lạ lùng thay, cũng như chuyện ông Chu Bất Phục ngày xưa, đấy là thần hổ đền ơn, muôn đời về sau chỗ mả Vầu dấu thiêng còn đó,
Nay thấy sắc vua Lê Cảnh Hưng và các triều sau, ban cho, mới biết công đức ông sáng tỏ, khắp cả dân chợ Xanh đều được đội ơn.
Đến năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), Phan Bá Vành khởi loạn ở miền bể Nam Định. Quan Tham biện Nguyễn Công Trứ đưa quân đi đánh dẹp, quan Hiệp trấn Nguyễn Hữu Thuần 11 tiếp viện và tải lương theo sau. Đương tiết tháng chạp mưa phùn, gió may thổi mạnh, thuyền lương đến khúc sông Đáy gần đền ông thì không tiến lên được, mà việc binh lương thì khẩn cấp. Quan Hiệp trấn không biết làm sao, trông lên bờ sông thấy ngôi đền, gọi thuyền chài lại hỏi thăm, mới biết là đền ông, bèn ra đầu thuyền khấn rằng : « Nay giặc Ba Vành tàn phá lương dân, tôi phụng mệnh đi tiếp viện [...]. Xin Thần giúp cho thuận gió, để thuyền lương kịp đến quân doanh, xong việc sẽ xin tâu lên Triều đình phong tặng ». Khấn vừa dứt lời, tự nhiên gió đông nam thổi lên, mưa tạnh hẳn, thuyền thuận gió, chỉ nửa ngày đến được quân doanh. Trận ấy, quân Phan Bá Vành tan vỡ. Việc tâu lên, triều đình phong tặng ông làm Trung đẳng thần. Đến đời vua Thành Thái phong lên Thượng đẳng thần ; sắc phong ông là: Đương cảnh Thành hoàng, tuyên võ tướng quân, thượng kỵ đô uý, hùng dũng anh linh, thông minh chính trực, gia phong quang ý, gia tặng trác vỹ, dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.
Hồi còn nhỏ về quê, tôi cứ nghe loáng thoáng nghe nói tới ông Thành hoàng ăn trộm, mãi đến nay đọc mới vỡ lẽ rằng đây là ông Thành hoàng « giả vờ » ăn trộm [cá] bị hổ vồ. Lại nhớ thuở ấy thấy bà nội tôi hay nói 2 câu : « Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán ». Câu trên là nói chuyện hổ, và làm tôi có những suy nghĩ liên quan 12.
Tổng Bồng Hải có 9 xã nhưng chỉ có 7 Thành hoàng là: Ông « Thần cụt đầu » tương truyền là ông Phạm Tử Nghi, tướng nhà Mạc 13 ; hai ông tiến sĩ triều Lê (không nhớ là hai ông nào), nhưng thờ chung một đền ; bà Tống hậu 14 ; ông Thánh Tản Viên ; một ông Thổ thần sở tại ; và ông Thành hoàng hổ vồ kể trên. Xưa, hàng năm vào ngày 9 tháng 2 âm lịch, dân 9 xã rước 7 vị thần ra đền Chợ Xanh tế lễ 7 ngày đêm, phí tổn 9 xã chia nhau đóng góp 15. Nhưng nghe kể, thì chỉ có ông Thành hoàng hổ vồ là được chú ý hơn cả.
Những việc xảy ra, tuy chưa quá xa xăm , nhưng bao năm binh hoả, dấu vết có còn gì không, để có thể kiểm chứng ? Ngày nay, tôi cứ tiếc rằng thuở nhỏ nghe loáng thoáng mấy câu chuyện, sao không hỏi các bậc già cả cho kỹ, vì bây giờ biết hỏi ai ? Nhưng nghĩ lại, thì lại tự an ủi rằng, giá ngày xưa có hỏi, chắc gì đã được trả lời 16 . Định cư vĩnh viễn ở phương xa, nhắc lại câu chuyện cũ quê nhà, phải chăng cũng như níu lấy một sợi dây vô hình bền bỉ, còn nối mình với cố hương ?
Lời bổ sung :
Trong tạp chí Xưa và Nay số 117 (tháng 6/2002), trang 21, bài « Số phận một địa danh lịch sử », tác giả Khải Nguyên cũng kể làng Phúc Đậu (nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh) có câu chuyện tương tự về hổ vồ nhầm một ân nhân của mình, với địa danh « Lòi hổ huyệt » vv. Và kể là con trai người nông dân bị hổ vồ nhầm này là Nguyễn Tuấn Thiện, sau theo Lê Lợi đánh quân nhà Minh. Tôi không biết, khi viết cuốn tiểu thuyết « Mảnh đất lắm người nhiều ma », nxb Hội nhà văn, tác giả Nguyễn Khắc Trường sử dụng câu chuyện hổ từ nguồn nào. Chú thích :
1 Xin chân thành cám ơn anh Đỗ Minh Tiết và gia đình đã cho tôi được đọc và sử dụng đoạn gia phả này. Phần tra cứu về ông Thành hoàng ở Bồng Hải là do cụ Đỗ Bằng Đoàn (1905-1986), thân sinh của anh, dịch từ ngọc phả chữ Nho của đền thờ Thành hoàng « Thôn Tư » tổng Bồng Hải và ghi chép lại. Ông cụ cũng là đồng tác giả của cuốn Việt Nam Ca trù biên khảo, Saigon 1962, xưa là chức sắc tổng Bồng Hải, nên biết rõ chuyện vùng này. Đoạn tài liệu nói trên tồn tại dưới dạng đánh máy, có kèm mấy dòng chữ Nho viết tay, do con cháu tìm thấy sau khi ông cụ đã mất.
2 Theo Đại Nam nhất thống chí, tên trấn Thanh Hoa nội/ngoại (tên Thanh Hóa là tên sau này) có từ cuối thế kỉ 16. Sau, Thanh Hoa ngoại được đổi thành đạo Ninh Bình (1806, Gia Long thứ 5) rồi thành trấn Ninh Bình (1829, Minh Mạng thứ 10) , rồi thành tỉnh Ninh Bình (1831, Minh Mạng thứ 12).
3 Đó là đạo dụ (1719) về « phép bình lệ », nghĩa là người thêm vào sổ cũng không tính, người chết cũng không trừ, số hộ khẩu tăng giảm bất thường, mà nguyên ngạch vẫn theo như cũ, vì vậy dân phải gánh vác nặng nề, dần dần đi đến chỗ nghèo khó phiêu tán ... (ghi trong Đại Việt sử ký tục biên). Trong bài « Làng xưa », tôi tính khoảng cách trung bình giữa 2 thế hệ là 25 năm. Nếu tính khoảng cách đó là 23 hay 24 năm thì thời điểm ông tổ 10 đời họ Bùi tôi đến khai khẩn lập làng mới, trùng hợp với thời điểm ghi trong gia phả họ Đỗ.
4 Tạo sỹ là người thi đỗ về khoa thi võ. Thí dụ như Huy quận công Hoàng Đình Bảo (người giúp bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, tranh ngôi chúa cho Trịnh Cán, và sau bị kiêu binh giết chết), vốn đỗ tạo sỹ.
5 Văn Thịnh là quê của bà nội tôi, cách làng tôi chừng dăm cây số.
6 Tôi tra từ điển, không thấy có « dè đó », chỉ thấy « đó », như đã biết. Hỏi thăm mới biết « dè đó » là tên gọi của một hệ thống dụng cụ bắt cá có qui mô gồm nhiều « đó ».
7 Theo tác giả của đoạn gia phả đó, thì khúc sông này thuộc cái đoạn gọi là xóm « Ba Phường » làng Phụng Công (Phụng Công là một trong 9 xã của Bồng Hải). Tên « Ba Phường », có lẽ là địa danh của nơi ranh giới của 3 phường, khi lập làng thuở xưa.
8 Theo tài liệu của cụ Đỗ Bằng Đoàn, rừng Vầu, trên một quãng đất cao, trước kia có hàng trăm cổ thụ um tùm. Đến đời Thành Thái (1889-1907), đặt đồn để kiểm soát khúc sông Đáy. Đồn cách mộ khoảng nửa cây số, lính đồn vào săn bắn, và chặt cây làm củi, nên sau này rừng bị chặt hết cây. Trong tài liệu còn ghi rõ là Nền Phúc ở « trước cửa nhà ông bá Phàn, bên tay trái đường cái làng Phụng Công đi xuống làng Nhuận Ốc ». Nhưng đó là địa điểm vào những năm 1930-1940, nay người đã mất đi, ruộng đất đã chia lại, đường sá đã đắp khác, làng xã đã đổi tên, còn biết được ở nơi nào?
9 thuộc địa điểm làng Phùng Thiện, một trong 9 xã của tổng Bồng Hải ; hồi tôi rời quê ra đi năm 1949, tên này còn tồn tại. Thời Cảnh Hưng thì chưa có tên Phùng Thiện, tên thuở trước là gì thì không biết.
10 Tôi không nhớ sự tích ông này, chỉ biết lõm bõm là ông này người nhà Tống bên Tàu, chắc cũng nuôi hổ gì đó. Nếu ai biết, xin chỉ giùm.
11 Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì lúc ấy vua sai Tham biện Thanh Hoa là Nguyễn Công Trứ, Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận cùng với Hiệp trấn Bắc Thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh. Tôi ghi lại tên "Thuần" theo gia phả họ Đỗ, nhưng cũng chú thích tên "Thận" cho kỹ. Hay là cùng một chữ Nho, nhưng hai cách đọc ?
12 Câu dưới làm tôi liên tưởng đến một câu chuyện phương Tây. Chắc có bạn đọc biết truyện « Người thổi sáo », đại khái như sau : Thuở xưa, ở thành phố Hameln nước Đức, có xảy ra tai hoạ chuột, chuột nhiều đến mức chỗ nào cũng có, chúng gặm khoét phá phách đến mức dân chúng không chịu nổi ; ông thị trưởng và chức sắc mới treo biển cầu người có giải pháp trừ chuột. Một ngày kia, có một chàng trai từ đâu đến, nói có phép trừ chuột, nhưng hỏi muốn biết phần thưởng ra sao. Thị trưởng và chức sắc hứa nếu thành công sẽ trả một ngàn đồng tiền vàng. Hai bên giao ước xong, chàng trai kia bèn rút trong bọc ra một chiếc sáo, và bắt đầu thổi, vừa thổi sáo vừa đi qua khắp phố phường. Chuột nghe tiếng sáo, như bị hấp dẫn mê mẩn, chuột to chuột nhỏ kéo nhau ra đường theo người thổi sáo, dẫn chúng ra sông lội xuống nước. Đàn chuột theo sau cũng lội xuống chết đuối hết. Khi đã diệt xong chuột, người thổi sáo trở lại lĩnh thưởng. Thoát được nạn chuột, cả thành phố mở tiệc ăn mừng. Nhưng chẳng ai nghĩ đến lời hứa trả công cho « người thổi sáo ». Chàng này mấy lần nhắc ông thị trưởng và các chức sắc về món ngàn đồng tiền vàng, nhưng họ khất lần. Họ nghĩ rằng món tiền to như vậy, để tiêu xài hội hè cho sướng, cần gì đến lời hứa. Hiểu tâm địa bọn kia, « người thổi sáo » bèn rút trong bọc ra một cây sáo khác. Thổi lên, bao nhiêu trẻ em trong thành phố bị tiếng sáo quyến rũ, như mê hồn, mặc lời khuyên can đe doạ ngăn cấm của mẹ cha, lũ lượt bỏ ra đường bước theo « người thổi sáo » ra khỏi thành, đi mãi đi mãi, không bao giờ trở lại ...
Tất nhiên, câu chuyện này mang tính huyền thoại và ngụ ngôn. Nhưng có thuyết cho rằng nó có một nguồn gốc, dựa trên sự tích của cái được gọi là cuộc « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » (la Croisade des enfants) : Câu chuyện khởi đầu từ nước Đức, vào năm 1212, một người lái rượu bia ở Cologne, tên là Nicolas, nói rằng anh ta thấy một vị thiên thần (ange) hiện ra, kêu gọi anh ta đi giải phóng Thánh địa (nơi có mộ Chúa Ki-Tô, lúc đó đang trong tay người Hồi giáo ở Cận Đông). Hàng ngàn người hưởng ứng. Phong trào này lan sang Pháp. Tháng sáu 1212, một thiếu niên chăn cừu ở Cloyes tên là Etienne kể rằng cậu ta thấy Chúa hiện ra, có bức thư gửi cho vua Pháp. Tin đồn ra, khoảng 3 vạn người từ khắp nơi theo cậu ta đổ dồn về kinh thành. Nhưng vua Philippe Auguste giải tán phong trào. Sau đó khoảng những năm 1250-1252, mới xuất hiện ra truyện « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » : theo truyện, nhiều trẻ em từ nhiều nơi nước Đức và nước Pháp, tụ tập, lũ lượt kéo nhau sang tận Thánh địa, để rồi thất bại ; những trẻ sống sót bị giặc cướp bắt và bán làm nô lệ... Truyện « Người thổi sáo » đã mang tính huyền thoại, lại dựa trên truyện « Thánh chinh chữ thập của trẻ em » cũng mang tính huyền thoại, vì theo mấy sử gia ngày nay thì có lẽ cuộc thánh chinh này xuất phát từ những nông dân nghèo sống bên lề xã hội trong cảnh phụ thuộc, nghĩa là những người mà thuở đó tiếng latinh gọi là pueri, gây nên sự lẫn lộn với nghĩa « trẻ em » . Theo sử, tất cả có 8 cuộc thánh chinh chữ thập « chính thức », từ thế kỉ 11 đến thế kỉ 13 của châu Âu Ki-Tô giáo nhằm mục đích chiếm lại Thánh địa đang trong tay người Hồi giáo. Cuộc « thánh chinh chữ thập của trẻ em » xảy ra vào khoảng đầu cuộc « thánh chinh chữ thập [chính thức] thứ 5 ». Tôi dùng từ « chính thức » để chỉ việc có tổ chức, do vua chúa phát động, có quân đội, vũ khí, thuyền bè, hậu cần, vv.
Nếu tôi nhắc truyện « Người thổi sáo » phương Tây này nhân dịp viết về truyện « ông Thành hoàng Thôn Tư », thì mục đích để nói rằng cốt truyện có thể có một phần sự thật, còn lại là hư cấu, nhưng sự thật là bao nhiêu ? Còn về sự tương phản về kết luận (một đằng thì báo ân, một đằng thì bội ước), xin chớ tìm ở đó đặc điểm của phương Đông, phương Tây, vì như vậy là kỳ thị một cách thô thiển. Kìa như truyện « Tấm Cám » và truyện « Lọ lem » (Cendrillon), nghe nói là xưa kia cùng chung một gốc, sang phía Đông thì « chị xui em xuống hố, giội nước sôi cho chết rồi đem em làm mắm », sang phía Tây thì « chị tha thứ cho em, rồi tìm nơi khá giả mà gả chồng », đâu có phải là tại bản sắc phương nào!
Bản cổ nhất của truyện « mất chiếc hài » mà tôi đọc được có lẽ là chuyện bà hoàng hậu Ai Cập, Nit-aou-Qrit, vợ vua Mentesouphis (2390 trước Tây lịch). Không biết có bản nào cổ hơn không. Tôi lại nhớ đến những truyện ngụ ngôn thuở nhỏ đọc trong các cuốn giáo khoa thư, cứ ngỡ là truyện « ta ». Sau này lớn lên, đọc thêm sách mới biết rằng một số truyện ấy là chế biến từ truyện ngụ ngôn phương Tây đã có từ lâu lắm, có thể là từ thời ông Esope (người Hy Lạp, thế kỉ thứ 6 trước Tây lịch).
Lại liên tưởng đến tín ngưỡng dân gian ở ta ở thế kỉ 18: lúc đó ở phương Tây đã là Siècle des Lumières (thế kỉ [của các triết gia] Ánh sáng).
13 Tôi nhớ mang máng thuở nhỏ nghe kể : ông thua trận, đầu đã đứt khỏi cổ, ông lấy tay giữ đầu trên cổ, cưỡi ngựa chạy đến vùng này, gặp người đàn bà, ông hỏi : « Đầu ta thế này, sống được không ? » , bà kia trả lời : « Đầu lìa khỏi cổ, sống sao được », ông liền lăn ra chết. Tương truyền rằng đền thờ ông ở làng Phụng Công là nơi ông chết. Nhưng thuở ấy, chưa có tên làng Phụng Công, và chưa chắc gì đất làng ấy cũng đã có. Tôi có sự nghi vấn vì trong cuốn sách Bắc Ninh địa dư chí của Đỗ Trọng Vĩ (1829-1899), bản dịch của Đỗ Anh Tuấn, nxb Văn hoá Thông tin 1997, có sự tích Lữ sứ quân, có đền thờ ở xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh : ông họ Lữ tên Đường, cuối đời Hậu Ngô, ông xưng là Lữ Tá công, (sứ quân số 9 trong danh sách 12 sứ quân trong cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim), chiếm vùng Tế Giang (sau là Văn Giang). Tương truyền rằng khi vua Đinh Tiên hoàng dẹp các sứ quân, ông thua bị đứt cổ, lấy tay mà giữ. Khi chạy, gặp một hàng nước, bà hàng nước hỏi : « Như thế này vẫn còn sống được không ? », ông đáp : « Thần thì không biết được đâu », rồi hoá . Tôi nghi rằng có thể là vùng tôi, khi lập làng mới, bắt chước đặt tên làng là Phụng Công, cũng bắt chước thờ luôn cả ông thần Lữ sứ quân của tỉnh Bắc Ninh, và sau lẫn với ông Phạm Tử Nghi chăng ?
14 Có lẽ là bà Thiên hậu ( ?) mà tôi có viết trong phần chú thích bài « Nhân đọc 2 lời bình về việc học của người xưa » đăng trong Thời Đại số 4, 1999.
15 Làng Nhuận Ốc quê tôi xưa không có Thành hoàng. Mãi đến cuối thế kỉ 19, có vụ ông đồ H. đến ở dạy học ở nhà ông họ tôi, vô cớ lấy dao tự mổ bụng chết, cả làng sợ, các chức sắc mới xây đền, rước « chân nhang » đền Thánh Tản Viên làng bên cạnh về thờ.
16 Ngay như hồi 1970, được mời về làm việc trong nước, tôi được tổ chức đi thăm Thanh Hoá, có ghé Sầm Sơn, ở đó có đền « Thần độc cước ». Khi vào thăm đền, thấy mấy ông già đang tế lễ . Vừa ngỏ ý muốn xem tượng « Thần độc cước » này, đã bị mấy ông sừng sộ, cự nự rằng ngài thiêng lắm, bom Mỹ ném không trúng, chớ hỗn kẻo ngài hành vv. Lúc đó, Cách mạng đã 25 năm rồi, lại vào thời chiến tranh đùng rầm... Huống hồ thuở xưa.
(Bài của Bùi Trọng Liễu đăng trong tạp chí Thời Đại số 7, 2002)
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:08:52 GMT 9
Trồng ngườiVietsciences-Bùi Trọng Liễu 09/01/2008 Tết năm Canh Tý (1960), Ong Hồ Chí Minh phát động phong trào "trồng cây" (kéo dài một tháng từ 6/1/1960 đến 6/2/1960, cám ơn anh ĐT nhắc tôi chi tiết này). Ong Hồ lại có câu nổi tiếng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". (Cụ là người thâm hiểu Hán học, chắc Cụ lấy từ điển tích Quản Trọng thời Xuân Thu. Quản Trọng sinh năm 725 trước Công nguyên, mất năm 645 trước Công nguyên, là nhà chính trị và nhà tư tưởng lớn của Trung quốc, tướng quốc nước Tề, giúp vua Hoàn Công, làm nên nghiệp bá. Kế sách của Quản Trọng là : "Kế sách cho một năm, lấy việc trồng lúa làm đầu. Kế sách cho mười năm, lấy việc trồng cây làm đầu. Kế sách cho trọn đời, lấy việc trồng người làm đầu . Lúa, thì trồng một gặt một. Cây, thì trồng một hái mười. Người, thì trồng một gặt trăm". Nguyên văn trong sách Quản tử của ông, phiên âm là : "Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập niên chi kế mạc như thụ mộc. Chung thân chi kế mạc như thụ nhân. Nhất thu nhất hoạch giả, cốc dã. Nhất thu thập hoạch giả, mộc dã. Nhất thu bách hoạch giả, nhân dã"). Lợi ích của việc trồng cây, và nhất là việc "trồng người", thật đã quá rõ. Nhưng vấn đề chính cho hiện nay là "trồng người" như thế nào đây, vì hô khẩu hiệu không thì không đủ. Tháng 1 năm 1946, Ong Hồ có nói câu : "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Tôi nghĩ rằng chữ "được" trong câu "ai cũng được học hành" này không chỉ mang ý nghĩa tinh thần "không bị cấm", mà còn mang ý nghĩa được nâng đỡ về mọi mặt, kể cả vật chất. Bước đầu "trồng người", phải là từ đó. Thoạt mới nghe tưởng như là dễ, là hiển nhiên. Thế nhưng ngày nay, 63 năm sau, sao lại vẫn còn có người mù chữ, sao vẫn có học sinh phải bỏ học vì gia cảnh, ngay ở bậc phổ cập ? Chiều ngày chủ nhật 30/9/2007, nhân chuyến công du tại Pháp, có buổi gặp gỡ của ông Thủ tướng với Việt kiều tại Sứ quán Việt Nam tại Paris. Trả lời một câu hỏi về học phí, ông Thủ tướng nói : "Tiểu học và Trung học Cơ sở không phải đóng học phí". Tôi không phải là người duy nhất nghe thấy lời này. Nhưng tôi lại thấy có người giải thích : phải biết phân biệt "học phí" với các "phí" khác như chi phí học tập, chi phí cho việc tu sửa trường học, bàn ghế, dụng cụ, sinh hoạt này nọ mà các gia đình "phải tự nguyện" đóng góp, ngay cả trong hệ công lập. (Hệ tư lập thì tôi không bàn, ai có tiền cứ việc trả ; tôi chỉ nói hệ công lập, vì nó hoàn toàn thuộc Nhà nước). Và trong cả các cấp học cao hơn nữa, cũng thấy đang có đề án tăng học phí từ phía Bộ, thậm chí còn nghe có người dùng một cụm từ "tiền nào của nấy" làm như trí tuệ có thể là một thứ hàng hóa thuận mua vừa bán, cứ có tiền là mua được. Lại có người nêu vấn đề cổ phần hóa trường công, trong đó có các đại học công lập. Có lẽ đấy là một số người chủ trương nhân dân "trồng tiền" để họ gặt lãi, chứ đâu có phải là "trồng người". Nếu gia đình người dân phải tự mình lo "trồng người" cho con cháu mình, trong khi còn tồn tại một bộ máy quản lý Giáo dục Đào tạo lớn và một ngân quỹ công đồ sộ từ thuế của dân, thì "Quốc sách hàng đầu" của nhà nước có ý nghĩa gì ? Lại có một giai đoạn, hình như chưa chấm dứt được, người ta trọng số lượng thay vì trọng chất lượng, cho nên mới đẻ ra những các loại nhầm chưa sửa được xong : "học sinh ngồi nhầm lớp", "nhà giáo đứng nhầm lớp", "nhà quản lý giữ nhầm ghế". Đấy là "trồng thành tích", không phải là "trồng người". Lại có khía cạnh này nữa. Sao lại có việc đạo văn, có luận án tiến sĩ không hợp trình độ, có mạo nhận, có tiếm xưng, có "học giả bằng thật" – nếu sự mạo bằng cấp, tiếm xưng, còn có thể giải thích là sự gian lận cá nhân, thì việc "học giả bằng thật" không thể do đương sự tự tạo ra ; nó phải có một sự phối hợp, hoặc đồng lõa, hoặc chủ trương nào đó mới có thể xảy ra (do "lợi nhuận trên hết" ?) – sao lại có quan chức do bằng cấp dỏm mà được bổ nhiệm và vẫn nhởn nhơ với địa vị ? Trí tuệ không phải là cứ có thế mạnh là có thể giành chiếm đoạt được. Nếu để tồn tại mấy sự việc này, thì là "trồng quan chức" chứ đâu có phải là "trồng người" ! Có câu chuyện cũ . Cũng năm 1960, Ong cụ về thăm quê. Theo www.hanoimoi.com.vn/vn/66/153843/ kể : Về đến nhà khách Tỉnh ủy Nghệ An, vừa trò chuyện, cụ vừa nhìn ra con đường dẫn vào nhà khách, thấy có nhiều bông hoa rực rỡ, nở đều, ngay ngắn hai bên. Bất chợt, cụ đi ra, dùng tay nhổ nhẹ một cành lay-ơn. Cành hoa nhẹ bẫng, không có chút rễ nào (cành hoa cắm xuống đất, giả như cây trồng). Gọi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy tới, cụ nghiêm giọng nói: “Đây là một việc làm thiếu chân thực và lãng phí. Tưởng các chú trồng hoa thì hay, có lợi cho môi trường. Nào ngờ, vì Bác vào thăm nên các chú phải mua bông này về "trồng". "Trồng" hình thức nó sẽ chết. Đây là một căn bệnh phô trương hình thức. Đón Bác như thế này Bác không vừa lòng !”. Tôi cũng mang máng nhớ ai đó kể trong một bài viết nào đó, thời ông Diệm còn là tổng thống, ông đi kinh lý, địa phương cũng "cắm cây" để chứng tỏ họ quan tâm trồng cây. Thấy kể là Ngô tổng thống đi qua không phát hiện ra. "Trồng người" ngày nay có khác "trồng cây, trồng hoa" kiểu ấy không nhỉ ? Ta có câu chuyện cổ tích dân dã : Hổ hỏi trâu đang cày cho người ở ruộng : "Mày to lớn vậy mà sao bị người xỏ mũi bắt đi cày ?". Trâu trả lời : "Tại người nó có trí khôn". Hổ hỏi người : "Trí khôn mày đâu, phải đưa nộp tao, nếu không thì tao ăn thịt mày". Người đáp : "Trí khôn tôi để ở nhà, để tôi chạy về lấy ra mang nộp ông. Nhưng nếu tôi chạy về nhà, thì ông ăn thịt mất trâu của tôi. Vậy để tôi trói ông vào gốc cây đã, rồi tôi về nhà lấy trí khôn ra nộp ông". Hổ đồng ý. Người trói hổ vào gốc cây, rồi lấy bắp cày vừa phang vào hổ vừa bảo : "Trí khôn của tao đây", vv. Thời nào cũng có "hổ", mà lại là hổ dữ. Vấn đề là "người" hiện nay có biết "trí khôn" của mình để đâu không, để mà trị hổ ? Cho nên, "trồng người", thời này lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nhưng không hiểu một số người nghĩ gì về "trồng người" khi người ta hô hào học tập "tư tưởng HCM" ? Đã đăng một phần trong tạp chí Hồn Việt số tháng 1/2008
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 3:33:54 GMT 9
HƯƠNG SẮC QUÊ MÌNH Nữ Sĩ SONG THU Lãng Nhân Khuê danh Phạm Thị Xuân Chi, tự Hữu Lan, bút hiệu Song Thu, bà vốn người làng Đông Phồn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, Trung Việt. Sinh năm 1899, thân phụ là Phạm Phú Lâm, tổ phụ là Phạm Phú Thứ, thượng thư dưới triều Tự Đức; cháu gọi bà bằng cô ruột là đại úy phi công Phạm Phú Quốc, tử nạn trong một phi vụ đánh cộng sản năm 1965. Vỡ lòng học chữ nho, đến 13 bà theo chương trình Pháp Việt, bãi khóa theo phong trào quốc gia, rồi tiếp tục chữ nho dưới sự dìu dắt của hai thày Lê Bá Trinh và Trương Hữu là những người ái quốc nóng lòng chống ngoại xâm. Hai ông hun đúc cho bà khuynh hướng cách mạng ngay từ lúc tuổi còn thơ. Năm 19 tuổi, bà đứng ra làm con thoi đi về giữa khoảng Trung và Bẳc, để thông tin và phổ biến những tài liệu quốc sự nhận được từ ngoại quốc. Khi biết mình bị mật vụ để ý, bà tránh sang Cao Miên và Ai Lao, sau lại lò dò về Hà Nội. Ở đây nương náu ít lâu thấy không ổn, bà đáp xe lửa lên Vân Nam. Cũng lại gặp khó khăn, bà tìm dường xuống Nam Vang và bị đưa về Sàigòn, giam cầm và tra tấn. Ít lâu sau được trả tự do. Qua mấy lần như thế mà bà vẫn không đổi chí, có bài thơ: Tự Trào Ta nghĩ khen ta cũng có tài Hai bàn tay trắng kém gì ai! Gặp cơn nguy biến không hề sợ Phải bước phong ba chẳng chút nài Tiền của tiêu pha vừa bữa một Cháo cơm lếu láo đủ ngày hai Phong trần dù đến bao nhiêu nữa Son sắt lòng này há dễ phai! Khi phải bỏ nhà đi trốn tụi mật vụ, bà ngậm ngùi: Lìa cảnh cũ Một bước ra đi, một bước ngừng Đoái nhìn chốn cũ lệ rưng rưng Nghiêng bàu tâm sự, nghiêng không cạn Gạt giọt ly sầu, gạt khó ngưng Non nước thương ai màu ủ dột Cỏ hoa mến khách vẻ bâng khuâng Cho hay cảnh cũng trêu người nhỉ Gánh nọ trần ai nặng quá chừng? Vì bà thông thạo chữ Hán lại có thành tích chống Pháp nên khi quân đội Nhật tới miền Nam, tướng Tùng Tỉnh cho mời hợp tác trong bộ tham mưu. Bà ngại ngùng, nhưng rồi ưng thuận vì thấy có cơ hội giúp những đồng chí bị Pháp giam giữ. Quả nhiên bà cứu được cả trăm người. Có điểm đặc biệt là bà từ chối, không nhận lương của Nhật, chỉ bằng lòng dọn đến ở một căn nhà tiện nghi hơn nhà cũ mà thôi. Bà phân trần: - Hợp tác với Nhật vì Nhật đã giúp Việt Nam ta lấy lại tự do và độc lập, chứ đâu phải là đi làm mướn, lương lậu làm gì cho nhẹ thể quốc gia! Đến ngày Nhật thua, trước khi rời Việt nam nhân viên bộ tham mưu mời bà dự bữa tiệc từ biệt. Vãn tiệc viên chỉ huy trịnh trọng nói: - Những đồ đạc trong nhà này cùng tiền bạc trong tủ sắt kia, chúng tôi xin tặng lại lão nữ sĩ. Cả súng nữa để đề phòng... Bà cảm động, nhưng cương quyết: - Tôi đến đây là vì đại nghĩa, chứ không vì tư lợi, chắc quý vị đã biết. Vậy tôi xin chân thành tạ ơn quyến cố chứ không dám nhận lãnh gì hết... - Nếu bà không nhận, chúng tôi sẽ cho đốt hết. - Tùy nơi quý vị! Họ nhìn nhau, kinh ngạc. Sau, một người láy cái xắc của bà, nhét đầy trong đó giấy bạc 500 và một cái súng nhỏ, mang ra xe, mời bà lên để chở về nhà. Khi đến nơi, khóa cửa lại, người Nhật để xắc lên bàn, ôn tồn nói: - Thời loạn, bà ơi! Nên đề phòng bất trắc! Nói rồi quầy quả ra đi. Bà tần ngần một lúc sau sai người gọi một thanh niên quen thuộc đến để trao tặng khẩu súng, còn thì thu xếp nhà cửa để tản cư về Bình An. Cả trăm người tản cư một đường với bà, được bà chu cấp cho đầy đủ, nhờ số tiền của Nhật. Số tiền này còn giúp bà thoát hiểm: từ Sàigon về Bình An phải qua nhiều trạm, nào Lao Động, nào Đông Dương, nào Cứu Quốc, trạm nào cũng hạch giấy phép của Ủy ban Nhân dân, bà chỉ việc lấy ra ở mỗi trạm dăm tờ và nói: - Đây, anh bỏ vào quỹ Cứu Quốc dùm tôi, gọi là chút đóng góp của một phụ nữ vô danh. Thế là được khoát tay cho đi tức thì? Nhưng đến khi tình thế tạm yên bà trở lại Sàigon thì mớ giấy 500 đã bay hết, bà trạnh niềm cảm cựu trong một thiên luật Đường: Xưa kia hoa quả nở dầy vườn Giờ trở về đây hóa ruộng nương Ngọn núi trông theo người viễn khách Dòng sông trôi mãi bóng tà dương Lâu dài năm âý, kìa hoang thổ Miêú vũ hôm nay, nọ chiến trường Ngừng bước nhìn xem phong cảnh cũ Mộng hồn ngơ ngẩn cuộc tang thưong... * * * Thêm vào sự thấy biết sâu sắc, bà còn có tài mẫn tiệp “bảy bước thành thơ" như Tào Thực khi xưa. Một hôm đến thăm bà bạn mới ở Sóc Trăng về, băng máy bay, nhân cử tọa đông văn nhân nam nữ và chủ nhân tả lại cảm tưởng ngồi phi cơ, nhìn xuống đồng ruộng chen nhau như các màu trên áo cà sa, lùm cây tròn như hạt châu, bà ứng khẩu ngay tám câu: Đất bằng chốc đã lên mây Tu luyện ngàn năm cũng thế này Mảnh áo cà sa trăm khoảnh đất Tràng châu An Lạc mâý vòm cây Giang hồ lang miếu lưng tròng góp Vũ trụï kiền khôn một túi dầy Dòm xuống chúng sanh còn lặn hụp Lòng ta đâu nỡ lại phương Tây! Thơ vừa nhất khí, lại đượm mùi đạo vị, không đành về phương Tây với Phật, còn muốn làm bồ tát cứu chúng sinh, thêm vào đó ý niệm chính trị chống Pháp. Tám câu lưu loát như chơi mà thật bao hàm... Tài mẫn tiêp của bà nhiều người còn thán phục qua câu chuyện vui sau đây trong làng ký giả hồi 1930: Năm ấy kinh tế bất đầu khủng hoảng, bà cùng một ký giá và một giáo sư lâm cảnh khan tiền tiêu Tết, rủ nhau ra chợ Bến Thành viết câu đối thuê. Một bàn bày ra giấy đỏ mực tàu, bà ngồi ghế giữa, hai ông hai đầu cầm sãn bút đại tự chờ viết. Chợt có ba người nói tiếng Bắc đi dạo xem Tết, dừng lại xin câu đối. Hai ông nhìn nhau chưa biết viết câu nào hợp cảnh thì bà đọc ngay: Hội bằng hữu ư xuân viên Tự cố hương chi lạc sự (1) Ba người vỗ tay khen: - Hay quá, hợp thời hợp cảnh, xin viết ngay đi... Nghe tiếng cười vui, nhiều người dừng lại coi, một ông già quần áo đen, khăn rằn, ngỏ lời xin một câu, nếu hay sẽ tặng l0 đồng. Bà lại đọc luôn: Sơn hà phong cảnh nguyên vô dị Thành quách nhân dân bán dĩ phi (2) Rồi tự tay bà viết, nét thật bay bướm. Rõ là một tay "bút pháp đã tinh" nổi tiếng ở Sài thành. Chúng tôi từng có dịp nhờ đến hoa tay của nữ sĩ: khi nhà in áp dụng phương pháp in màu khá thành công, nữ sĩ đã "tay tiên một vẩy" viết đôi câu đối: Muôn vẻ như in tờ giấy trắng Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh (3) Treo ở văn phòng, được nhiều người khen “mặn mà nét bút càng nhìn càng tươi" Sau quãng đời bôn ba làm cách mạng và giúp Nhật chống Pháp, rồi khi gặp biến huy hoắc tiền tài cho vẹn tình người, nữ sĩ vui cảnh thanh bần với con gái là Nguyễn Thị Thu Hường bút danh Phương Đài, và con nuôi là Phạm Xuân Hoàng. Tuy đã vào bậc cổ hi, nữ sĩ yếu ớt gày còm nhưng tiếng nói vẫn sang sảng, lời thơ vấn vương lòng trắc ẩn như trong bài chữ Hán: Xuân Cảm Ba đào cổn cổn chấn nhân hoàn Xuân sắc tiêu diều bất nhẫn khan Giáp mã tung hoành phao đại địa Yên vân già tế biến không gian Bình nguyên mạn thảo oanh khô cốt Cự uyển danh hoa thất cựu nhan Thành bại bách niên liêu nhĩ nhĩ Huyết hòa lưu thủy hưởng sàn sàn mà bà tự dịch ra quốc âm: Ai gây sóng gió suốt nhân hoàn Cho cảnh ngày xuân kém vẻ vang? Yên giáp nghênh ngang phơi đại địa Khói mây mờ mịt phủ không gian Cỏ hoang đồng ruộng bao xương trắng Hoa đẹp vườn xưa lợp nhụy vàng Thành bại trăm năm rồi cũng thế Dòng sông cuồn cuộn máu hòa chan... Chúng tôi thắc mắc về nguyên ủy nữ sĩ Phương Đài, thì được một người có liên hệ với gia đình này, cho hay: thời kỳ bà Song Thu bị mật vụ Pháp theo dõi gắt gao, một đồng chí đưa bà đến tá túc nơi ông Nguyễn Viết Liêm, tri huyện ở một huyện trong tỉnh Mỹ Tho. Ông này tuy làm quan nhưng là người có tâm huyết lại văn nhã phong lưu nên sẵn lòng để bà mai danh ẩn tích ngay trong huyện lị. Thế rồi lẽ hằng thanh khí, "tài tử với giai nhân là nợ sẵn", một dây một buộc dẫn cô Thu Hường ra chào đời. Nhưng hai bên không kết thành một đôi, vì bà huyện ghen tức đến uất nghẹn mà lìa trần. Do đó nữ sĩ ở lại cũng không đành, bế con đi để tránh miệng tiếng, nhất là cho ông huyện, mặc cho ông này hết lời cầu bà nán lại. Và cũng do đó, chúng tôi phỏng đoán ý nghĩa hai chữ Song Thu (màu thu bên cửa sổ): Phải chăng hai chữ bất đầu mấy câu Kiều: SONG THU đã khép cánh ngoài Tai còn đồng vọng mâý lời sắt đinh Nghĩ ngươi, thôi lại nghĩ mình Cám lòng chua xót, lại tình bơ vơ... Lần lữa nắng mưa, canh chầy lưỡng lự, cuối cùng nữ sĩ đã rời Sài thành, dứt áo ra đi, vào năm 197 l, thọ 73 tuổi. Chú thích: (l) - thoát ở câu "Hội đào lý chi phương viên, Tự thiên luân chi lạc sự" của Lý Bạch trong bài “Xuân dạ yến đào lý viên tự" nhưng đây là "Họp bạn bè nơi vườn xuân, nói chuyện vui về quê cũ” (2) – thoát từ bài “Tòng Tây chinh” của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Lão độn trùng thử loạn ly, dự tham nhung quách nhân dân dị tích thì” (Già đần độn gặp thời loạn lạc, Gắng theo quân bàn bạc mưu cơ, Nhân dân thành quách khác xưa, Núi sông phong cảnh vẫn như độ nào...) (3) – thoát từ bài thơ “Vịnh bức tranh tố nữ” của Hồ Xuân Hương – hai chữ “Đôi lứa” đổi ra “muôn vẻ” cho hợp cảnh. Lãng Nhân
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2017 1:08:30 GMT 9
GIAI THOẠI VỀ CỤ TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ Giai Thoại Làng Văn Năm 1902, vua Thành Thái tuần du Bắc Hà kết hợp làm lễ trấn yểm cầu sông Cái Long Biên Hà Nội mà người Pháp đặt tên là Pôn- Đuyme, lấy tên viên Toàn quyền Đông Dương thời kỳ này, dự lễ trấn yểm có Vua nên tất cả các quan lại đại thần, các vị đại khoa ở Bắc Hà phải có mặt. Cụ Nguyễn Khuyến (Tam Nguyên Yên Đổ) mặc dù đã rời quan trường từ mùa thi 1892; song, là quan đại thần, lại đỗ Đại Khoa ( 3 lần đỗ đầu) với hàm Tổng đốc Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) dù cụ đã cáo quan trên đường đi nhậm chức vì lý do “đau mắt”, cũng được triệu về HN bái yết nhà vua và dự lễ. Tất cả các quan khi bái yết nhà vua đều phải tuân theo nghi lễ của triều đình, nghĩa là phải quỳ lạy (phủ phục) và hô “vạn tuế”, đến lượt cụ Tam Nguyên thật trớ trêu cho cụ bởi bà Chánh phi vợ của Thành Thái là con gái TS Nguyễn Trọng Hợp (người làng Kim Lũ, Thanh Trì, Hà Đông, làm tới chức Văn minh điện Đại học sĩ, hàm chánh nhất phẩm, dân địa phương thường gọi là Nghè Lử hoặc Văn Minh Lử), trước đây đã đính ước với con trai cả của cụ là Nguyễn Hoan đỗ Phó bang, sau vì 1 lý do nào đó nên ko thành. Nay nếu buộc phải thực hiện nghi lễ (điều đó là bình thường theo lễ vua-tôi), nhưng nếu lễ vua mà ko lễ vợ vua là ko ổn, mà lễ vợ vua hóa ra cụ phải lễ con dâu trượt của mình, sẽ là trò cười và hơn thế ko thể ko có những bình nghị chẳng hay ho gì, ảnh hưởng đến uy tín nhà nho Đại khoa như cụ 32 GIAI THOẠI VỀ CỤ TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ. Đem theo sĩ khí của nho sĩ Bắc Hà, cụ bái yết nhà vua và chỉ vái 2 cái, ko quỳ lạy như các vị khác, việc làm như vậy là phạm tội “khi quân” tức là khinh vua, có thể bị chém đầu! Có lẽ nhà vua biết uẩn khúc này nên thông cảm chỉ quở trách nhẹ, còn cụ Tam Nguyên thưa: – Muôn tâu Hoàng Thượng, thần giờ chỉ như 1 con trâu già, xin đức Khâm thượng khai ân! Nhà vua mỉm cười. Song, để giữ phép vua, phép nước và cũng là để giữ uy tín của triều đình. Hơn thế nhà vua còn biết tài ứng khẩu thành thi của cụ nên truyền thánh chỉ: – Vậy khanh hãy làm bài thơ “Vịnh trâu già”, nếu hay trẫm miễn tội. Cụ ung dung đọc bài thơ theo Đường luật thất ngôn bát cú “Vịnh trâu già” như sau: Một nắm xương khô một nắm da, Bao nhiêu các ách đã từng qua. Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa, Tai nặng buồn nghe Ninh Tử Ca. Sớm thả Vườn Đào chơi đủng đỉnh, Tối về thôn Hạnh thở nghi nga. Có người toan giết tô chuồng mới, Ơn đức vua Tề lại được tha. Bài thơ “xuất khẩu” trên quả là tài tình hiếm có, rất đúng niêm luật, sát đầu đề dù đó là đề tài khó. Hay hơn ở chỗ cụ đã ví mình, một vị quan lại ko còn mẫn cán với triều đình như xưa, nay chỉ như 1 con trâu già, trâu phế canh ko còn tác dụng gì với nhà nông nữa. Bởi nay chỉ còn có da bọc xương do cả đời kéo cày mắc ách, làm lụng vất vả, ăn giả làm thật như trong “Lục súc tranh công” đã tả đó là 2 câu mở đầu. Đến câu 3-4, cụ dùng điển tích Trung Quốc để mở rộng ý rằng con trâu còn có công với nước. Đó là chuyện Điền Đan thời Chiến quốc, một tướng nước Tề khi bị nước Yên sang đánh chỉ còn có 1 thành. Điền Đan dụng mưu dùng mồi rơm có tẩm dầu buộc vào đuôi trâu, mài sừng sắc nhọn hoặc gắn kiếm sắc vào sừng, đốt lửa cho trâu sợ xông vào quân Yên. Quân Yên sợ bỏ chạy, nước Tề được phục quốc ~~> Nếu không có trận hỏa công đó chắc chắn nước Tề bị tiêu diệt. Hoặc Ninh Tử chính là Ninh Thích khi chưa làm quan, có tài nhưng ko ai biết đến. Ông làm nghề chăn trâu, thường gõ sừng trâu để hát, nói lên chí lớn của mình, để sau đó Quản Trọng dùng làm tướng nước Tề. Hai câu 5-6 của bài thơ có từ Vườn Đào, thôn Hạnh xuất xứ từ chuyện Vũ Vương đánh Trụ đã dùng trâu để vận chuyển rất đắc lực. Sau khi diệt Trụ, ông đã ra lệnh 3 năm cấm giết trâu, buổi sớm cho chăn ở Vườn Đào, tối về cho nghỉ ở thôn Hạnh Hoa, 1 làng đẹp của TQ xưa, lại có nghề nấu rượu nổi tiếng ngon như “Tam Quốc chí” đã tả. Câu kết “Ơn đức vua Tề” nhắc lại sự tích Tề Tuyên Vương thấy lính dắt trâu đi qua trước thềm, con trâu run rẩy sợ hãi, vua hỏi thì được biết hị dắt trâu đi giết lấy máu làm sơn tô chuồng mới, bèn ra lệnh tha trâu ko giết. Nguyễn Khuyến ví mình như là 1 con trâu già mà người ta chỉ nhăm nhăm muốn giết để ăn thịt, liệu ông ( chỉ vua Thành Thái) có tha mình như vua Tề đã tha trâu ko giết thịt? Thành Thái là 1 ông vua tiến bộ, biết được ưu tư của cụ, lại cảm cái khí khái nhà Nho. Nhà vua đánh giá cao bài thơ rất hay và khen câu ” Ơn đức vua Tề”, vì vậy ko những tha tội mà còn thưởng hậu. ( st từ Tạp chí Ngân Hàng) Nguyễn Khuyến – Yên Đổ Tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp Nguyễn KhuyếnThi sĩ Nguyễn khuyến Cụ tên thật là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Minh Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam (quê nội của cụ là làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Thân sinh cụ là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là Cụ Mền Khởi, đỗ ba khoá tú tài và làm nghề dạy học. Thân mẫu cụ là Trần Thị Thoan (1799-1874), con cụ Trần Công Trạc, từng đỗ sinh đồ (Tú-tài) thời Lê Mạt. Thuở nhỏ, cụ cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị. Năm 1864, cụ đỗ đầu Cử Nhân (tức Hương Nguyên) trường Hà Nội. Năm sau cụ trượt thi Hội và thi Đình nên phẫn chí ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871 cụ mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Từ đó, cụ thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Năm 1873, cụ được bổ làm Đốc Học rồi thăng Án Sát tỉnh Thanh Hoá. Năm 1877 được thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, cụ bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toàn tu Quốc Sử Quán. Cụ cáo quan về ở ẩn tại Yên Đổ vào mùa thu 1884 và qua đời tại đấy ngày 5 tháng 2 năm 1909. Cụ để lại cho hậu thế các tập thơ văn Quế Sơn Thi tập, Yên Đổ Thi tập, Bách Liêu Thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế và câu đối. Nơi sinh và ảnh hưởng về con đường học vấn của Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến được sinh ra, cất tiếng chào đời tại Ông ngoại (tức cụ đồ Trần Hữu Tập) được ông Ngoại nuôi nấng dạy giỗ đến năm lên 9 tuổi mới cùng cha mẹ trở về Yên Đổ – Bình Lục – Hà Nam. Lại nói về thân mẫu của Nguyễn Khuyến, cụ Trần Thị Thoan được sinh ra trong một dòng họ có truyền thống Khoa cử ông tổ đời thứ tư là Hoàng Giáp Trần Hữu Thành (Đỗ năm 1586 làm quan đến Chức Đề Hình giám sát Ngự sử đời Vua Mạc Mậu Hợp) bởi thế cho nên sau khi chồng mất sớm bà phải tần tảo khuya sớm nuôi các con và phụng dưỡng mẹ chồng nhưng với quyết tâm của bà là sự học của Nguyễn Khuyến phải tựu thành. Cũng vì lẽ đó mà Nguyễn Khuyến rất có hiếu với mẹ. Còn nói đến sự học của Nguyễn Khuyến thì ông đã học tới 3 người thày ở Ý Yên. Người thày thứ nhất, người đặt viên gạch nền móng đầu tiên cho con đường học vấn của ông không ai khác chính là ông ngoại – cụ đồ Trần Hữu Tập. Người thày thứ hai mà ông thụ học là Tiến Sỹ Đốc Học Tỉnh Nam Định Hoàng Kim Chung người làng Đô Hoàng xã Yên Thành – Ý Yên – Nam Định ngày nay. Một người rất giỏi văn chương đã từng được ông Vua hay chữ như Tự Đức còn phải ban khen. “Văn chương Nam Định đã tường Còn e hai tiếng chuông vàng Ý Yên” (Kim Chung tức là chuông vàng) một dòng họ có truyền thống khoa cử mà hậu duệ của ông sau này là các ông Hoàng Nhượng Tống yếu nhân trong Quốc dân Đảng. Hoàng Trung Tích nguyên trưởng ty Giáo dục Nam Hà. Hoàng Đình Huống nguyên Trưởng ty Lâm nghiệp Phú Thọ và là cha đẻ của nhà thơ Liệt sỹ Hoàng Minh Chính với bài thơ “Đi học” nổi tiếng đã được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc. Người thày thứ ba là Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị, một chí sỹ yên nước người xã Yên Thắng huyện Ý Yên – Nam Định. Ông đã từng mộ quân xin với triều đình được đánh Pháp, nguyện vọng của ông không được triều đình chấp thuận và bắt ông phải giải giáp binh sỹ vì lúc này triều đình đã có chủ trương đầu hàng Pháp. Có lẽ vì nặng tình với quê mẹ Ý Yên nên trước khi mất Nguyễn Khuyến dặn con cháu để mộ mình trên đỉnh núi Phương Nhi thuộc xã Yên Lợi – Ý Yên – Nam Định hướng mộ nhìn về Từ Đường quê nội Ở Yên Đổ. Từ vị trí mộ như một điểm trung tâm Phía Đông Bắc nhìn về từ đường quê nội cách khoảng 14 km, Phía Tây Bắc cách quê ngoại khoảng 5 km. Phía Nam cách quê Thày Phạm Văn Nghị ở Yên Thắng khoảng 11 km. Phía Tây cách quê Thày Hoàng Kim Chung khoảng 6 km và phía Đông Nam Cách quê bạn đồng môn là Tam Nguyên vị xuyên Hàng Bích San khoảng 16 km. Phải chăng đây có phải là chủ ý của Nguyễn Khuyến từ đỉnh núi Phương Nhi như một điểm trung tâm nhìn về quê nội, quê mẹ và quê các Thày dạy của mình. Nếu đúng như vậy thì âu cũng là tấm lòng hiếu kính của ông đối với công cha nghĩa mẹ ơn thày. Đất Ý Yên – Nam Định là nơi ông đã được sinh ra và gắn liền tuổi thơ tại nhà ông ngoại, nơi có những người thày hun đúc nên tài năng nhân cách của Nguyễn Khuyến, nơi có người mẹ lý tưởng gắn với một câu chuyện tâm linh, nơi lưu giữ phần mộ ông nội, ông Ngoại của Nguyễn Khuyến và phần mộ ngay của chính ông trên đỉnh núi Phương Nhi. Mượn lời nhà giáo đã nghỉ hưu hiện sống tại Thị trấn Bình Mỹ – Bình Lục – Hà Nam và là chắt ngoại của cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến. Ông nói “Ý Yên mới là quê đích thực theo nghĩa chôn nhau cắt rốn, còn Yên Đổ là nơi ở mà thôi”. Theo tôi nói như vậy có thể chưa thật khả dĩ nhưng có thể nói Ý Yên Nam Định là quê hương thứ hai của danh nhân văn hóa Nguyễn Khuyến theo mọi nghĩa. Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam,
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2017 1:12:41 GMT 9
NĂM VỊ TAM NGUYÊN TRONG LỊCH SỬ KHOA CỬ LỊCH TRIỀU VIỆT NAMTRẦN BÍCH SAN cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=441&Itemid=53Trong suốt 845 năm khoa cử lịch triều, kể từ khoa thi đầu tiên Minh Kinh Bác Học mở ra năm Ất Mão 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông tới khoa thi cuối cùng năm mậu ngọ 1918 ở Trung Kỳ, chỉ có 5 người được vinh dự mang danh hiệu Tam Nguyên tức đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội và Đình. Đó là các vị Đào Sư Tích, Lê Quí Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến và Vũ Phạm Hàm. Danh hiệu khác với học vị. Đỗ đầu một kỳ thi thì được mang danh hiệu "Nguyên". Đỗ đầu kỳ thi hương là Giải Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Hội là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình là Đình Nguyên. Học vị là đẳng cấp cao thấp của văn bằng. Thấp nhất là Tú Tài cao hơn là Cử Nhân (dưới triều Lê Trung Hưng là Sinh Đồ và Hương Cống). Thi Hương chỉ đỗ Tú Tài hoặc Cử Nhân, ai đỗ Cử Nhân mới được phép thi Hội ở kinh đô. Nếu đỗ thi Hội, thi Đình thì được học vị Tiến Sĩ. Học vị Tiến Sĩ lại chia ra nhiều cấp khác nhau với ba giáp là đệ nhất, đệ nhị và đệ tam. Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp còn gọi là Tiến Sĩ Cập Đệ chỉ lấy có ba người, cao nhất là Trạng Nguyên (trùm đầu), thứ nhì là Bảng Nhãn (mắt bảng), thứ ba là Thám Hoa (thăm hoa). Dưới đời nhà Nguyễn học vị Trạng Nguyên bị bãi bỏ, do đó từ năm 1822 trở về sau Bảng Nhãõn là học vị cao nhất (dưới triều vua Gia Long chỉ có thi Hương, mãi đến năm 1822 vua Minh Mạng mới mở khoa thi Hội). Thứ đến là Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp còn gọi là Tiến Sĩ Xuất Thân không hạn chế số người, nhiều hay ít tùy theo khoa. Đỗ đầu đệ nhị giáp có học vị là Hoàng giáp. Sau cùng là Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp còn gọi là ĐồngTiến Sĩ Xuất Thân (tức là Tiến Sĩ thường). Đến đời Minh Mạng kể từ khoa thi năm 1829 sợ bỏ xót nhân tài nên cho những người trúng cách nhưng không đủ phân điểm được đỗ Phó Bảng. Phó Bảng là học vị cao hơn Cử Nhân nhưng dưới Tiến Sĩ (vua Tự Đức gọi là Tiến Sĩ bất cập hay nôm na là Tiến Sĩ đỗ vớt). Phân biệt như thế để biết rằng tuy cùng là Tam Nguyên nhưng học vị cao thấp khác nhau. Trong 5 vị Tam Nguyên có 3 vị đỗ đệ nhất giáp còn 2 vị kia đỗ đệ nhị giáp. Người có học vị cao nhất là Đào Sư Tích đỗ Trạng Nguyên, thứ nhì là Lê Quí Đôn và Vũ Phạm Hàm (Lê Quí Đôn đỗ Bảng Nhãn và Vũ Phạm Hàm đỗ Thám Hoa nhưng vì dưới triều nhà Nguyễn không có học vị Trạng Nguyên nên Thám Hoa tương đương với Bảng Nhãn của các triều khác). Trần Bích San và Nguyễn Khuyến có học vị thấp nhất trong năm vị tam nguyên vì chỉ đỗ Hoàng Giáp, tức tam nguyên nhị giáp. TAM NGUYÊN TRẠNG NGUYÊN ĐÀO SƯ TÍCH Đào Sư Tích người hạt Tây Chân Cổ Lễ, tức làng Song Khê, huyện An Dũng, Tỉnh Bắc Ninh ngày nay (Theo Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục trang 18). Năm Giáp Dần 1374 vua Trần Duệ Tông (1374-1377) mở khoa thi Tiến Sĩ, học vị Tiến Sĩ bắt đầu có từ năm này. Kỳ thi Đình được tổ chức tại hành cung Thiên Trường (thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay). Khoa này có tất cả 50 người đỗ Tiến Sĩ, Đào Sư Tích đỗ đầu từ thi Hương đến thi Đình là vị Tam Nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử lịch triều Việt Nam. TAM NGUYÊN DUYÊN HÀ LÊ QUÍ ĐÔN (1726-1784) Lê Quí Đôn (1) sinh năm 1726 tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường người làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình bây giờ. Ông là con cả Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ (1694 - 1781) đậu Tiến Sĩ năm 1724 đời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái thứ 5, làm quan đêán Hình Bộ Thượng Thư. Lê Quí Đôn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 18 tuổi đậu Giải Nguyên, năm 1752 đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Bảng Nhỡn là vị Tam Nguyên thứ hai lúc mới 27 tuổi. Lúc đầu Lê Quí Đôn được bổ làm Hàn Lâm Viện Thị Thư vào năm 1753, rồi khi thì làm quan ở các trấn, khi ở trong triều, ông được thăng dần lên tới Công Bộ Thượng Thư vào năm 1784 là năm ông mất. Năm 1760 đi sứ sang Tàu, các danh sĩ Trung Hoa và sứ thần Đại Hàn rất khâm phục sự ứng đối và văn tài của ông. Những bài tựa của các danh sĩ Trung Hoa trong một số tác phẩm của ông đã được viết trong thời gian hai năm đi sứ này (1760-1762). Từ năm 1769 đến 1770 Lê Quí Đôn có công tiễu trừ các đồ đảng của Lê Duy Mật ở Thanh Hoá và Nghệ An. Năm 1775 sung chức Tổng Tài Quốc Sử Quán coi việc tục biên quốc sử với Nguyễn Hoàn. Sau đó ông được cử vào Thuận Hóa làm Tham Thị cùng Bùi Thế Đạt chống nhau với quân Tây Sơn. Ông mất năm giáp thìn 1784 hưởng dương 59 tuổi. Lê Quí Đôn là một nhà thông thái và bác học về đời Lê mạt. Với kiến văn quảng bác ông trứ thuật và biên tập rất nhiều sách về lịch sử, địa dư và văn hóa. Các tác phẩm gần 80 quyển của ông hầu hết viết bằng chữ nho, thi văn bằng chữ nôm chỉ còn truyền lại một câu đối, một bài thơ, một bài kinh nghĩa và một bài văn sách (2). Các tác phẩm bằng Hán Văn của ông có thể chia làm 5 loại: Loại 1: các tác phẩm bàn về Tứ Thư và Ngũ Kinh của Nho Giáo - Dịch Kinh Phu Thuyết (Lời bàn nông nổi về Kinh Dịch) gồm 6 quyển. - Thư Kinh Diễn Nghĩa (Giảng Nghĩa Kinh Thư), gồm 3 quyển, có bài tựa của ông đề năm 1772 và có khắc in. Loại 2: các tác phẩm khảo cứu về cổ thư: - Quần Thư Khảo Biện (Xét bàn các sách), có bài tựa của ông đề năm 1757 cùng với Chu Bội Liên (danh sĩ Trung Hoa) và Hồng Khải Hi (sứ thần Cao Ly) đề năm 1761. - Thánh Mô Hiền Phạm Lục (Chép về mẫu mực các bậc thánh hiền) gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi đề năm 1761. - Vân Đài Loại Ngữ (Lời nói chia ra từng loại ở nơi đọc sách) gồm 4 quyển, có tời tựa của ông đề năm 1773. Loại 3: Các Tác Phẩm Sưu Tập Thi Văn: - Toàn Việt Thi Lục (Chép đủ thơ nước Việt) gồm 15 quyển là một sưu tập thi ca của gần 200 nhà thơ nước ta từ đời nhà Lý đến Hậu Lê, mỗi thi gia đều có phần tiểu truyện. Tác phẩm này ông phụng chỉ của Vua Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 29 để biên tập. Đây là một tác phẩm rất quí hiếm cho văn học sử Việt Nam. - Hoàng Việt Văn Hải (Bể văn ở nước Việt của nhà vua), sưu tập các bài văn hay. Loại 4: các tác phẩm khảo cứu về sử địa: - Lê Triều Thông Sử (hay Đại Việt Thông Sử) có bài tựa của ông đề năm 1789 trong đó ông cho biết cách thức biên tập bộ sử này. Chủ ý của ông là viết sử theo thể "Kỷ Truyện" (phỏng theo lối viết của Tống Sử) (3) gồm các phần Đế Kỷ viết theo thể biên niên chép việc vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng (từ 1418 đến 1527). Sau đó là các phần Chí viết về các vấn đề trọng đại, và phần Liệt Truyện chép tiểu truyện các nhân vật. Bộ sử này có thực hiện xong như ông đã nói trong bài tựa hay không, chỉ biết hiện nay còn truyền lại các phần Đế Kỷ gồm 2 quyển viết từ năm Lê Lợi khởi nghĩa (1418) đến năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), phần Nghệ Văn Chí gồm 1 quyển chép về sách vở văn chương, phần Liệt Truyện viết về danh thần dưới đời vua Lê Thái Tổ, nghịch thần từ cuối đời Trần đến nhà Mạc và tiểu sử các vua nhà Mạc từ Mạc Đăng Dung trở xuống (1527-1677). - Phủ Biên Tạp Lục (Chép lẫn lộn về chính trị cõi biên thùy) gồm 6 quyển, có bài tựa của ông viết năm 1767. Bộ sách này chuyên khảo về lịch sử, địa dư, phong tục, chính trị của các tỉnh phía giữa Trung phần ngày nay (Thuận Hóa và Quảng Ngãi). - Bắc Sứ Thông Lục (Chép các việc đi sứ Tàu) gồm 4 quyển có bài tựa của ông đề năm 1763, chép các công văn, thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, ứng đối khi đi sứ sang Tàu từ 1760 đến 1762. - Kiến Văn Tiểu Lục (Chép vặt những điều thấy nghe) gồm 12 quyển ghi chép những điều ông ghi nhận được trong khi đọc các sách về lịch sử hoặc văn minh nuớc ta từ cuối đời Trần đến đời ông. Loại 5: Các thơ văn do ông sáng tác: - Quế Đường Thi Tập (các bài đều có chú thích) - Liên Châu Thi Tập gồm 4 quyển với hơn 400 bài thơ của ông và các bài xướng họa của các thi giaTrung Hoa và Đại Hàn khi ông đi sứ Tàu. - Quế Đường Văn Tập gồm 4 quyển. TAM NGUYÊN VỊ XUYÊN TRẦN BÍCH SAN (1838-1877) Trần Bích San (4) sinh năm 1838, còn có tên gọi là Tam Nguyên Bến Nứa, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định. Trước khi theo học Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị tên ông là Trần Tằng Tiễu, vì thấy ông văn hay hạnh tốt nên thày dạy đổi tên cho là Trần Bích San. Năm 1864 ông đỗ Giải Nguyên trường Nam Định lúc mới 26 tuổi. Năêm sau, 1865 vào kinh thi đỗ luôn Hội Nguyên và Đình Nguyên Hoàng giáp. Đỗ đầu ba kỳ thi liên tiếp như thế gọi là liên trúng tam nguyên, vua Tự Đức ban tên hiệu cho ông là Hy Tăng để so sánh với Vương Tăng đời nhà Tống bên Tàu cũng đỗ tam nguyên liên trúng như ông. Năm 1867 Trần Bích San được bổ làm Tri Phủ Thăng Bình, rồi đổi đi Điện Bàn. Mấy tháng sau được thăng Án Sát tỉnh Bình Định. Năm 1868 ông được triệu về kinh sung chức phó chủ khảo. Vì có lỗi trong lúc làm Án Sát ông bị giáng chức xuống Tri Phủ. Năm 1869 ông lại được vời về triều đảm nhiệm quyền Hộ Bộ Sự Vụ, rồi sau giữ quyền Lễ Bộ Sự Vụ. Năm 1870 Trần Bích San được cử đi sứ Trung Hoa để thương thuyết về việc buôn bán với Hương Cảng. Năm 1872 ông cáo quan về quê chịu tang cha. Hết 3 năm tang, ông trở vào kinh sung chức Đại Lý Tự, rồi Nội Các Sự Vụ. Vài tháng thăng Thị Lang Bộ Lại rồi chỉ ít lâu sau được bổ đi làm Tuần Phủ Hà Nội. Trong chức vụ này ông thường xuyên có dịp giao thiệp với người Pháp. Có lần Phó Thủy Sư Đô Đốc Dupré ở Sài Gòn ra ghé thăm xã giao ông. Dupré dắt theo một con chó. Ông ra đón Dupré vào công đường. Chủ khách vừa an tọa thì con chó cũng nhảy lên nằm trên ghế đối diện. Ông cho đó là dụng ý của Dupré muốn bỉ mặt mình nên nổi giận phủi áo đứng dậy không tiếp Dupré nữa và sai lính đánh chết con chó. Năm 1877 có cuộc đấu xảo ở Ba Lê, ngoài việc cử Nguyễn Thành Ý, lãnh sự ở Sài Gòn đem sản vật sang Pháp trưng bày, vua Tự Đức còng ngỏ ý muốn cử một phái đoàn ngoại giao sang Pháp để tỏ tình hữu nghị. Dupré ưng thuận nhưng yêu cầu Nam Triều cử Tuần Phủ Hà Nội là Trần Bích San làm chánh sứ. Vua Tự Đức triệu ông vào kinh để trao sứ mạng. Khi biết hành trình phải ghé Sài Gòn nhờ phương tiện đường thủy của Dupré để sang Pháp, e rằng Dupré sẽ trả thù làm nhục lây đến quốc thể mà lệnh vua không thể trái, ông ngán ngẩm sự đời nuốt giấy bản tự vẫn. Thi hài Trần Bích San được đưa về làng Vị Xuyên mai táng, lúc đó ông mới 39 tuổi. Trần Bích San mất sớm lại thiên nhiều về văn thơ chữ Hán nên chỉ để lại có tập Tam Nguyên Vị Xuyên Thi Tập gồm hơm 100 bài thơ bằng Hán Văn, không thấy có văn hoặc thi phẩm bằng chữ nôm. TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ NGUYỄN KHUYẾN (1835-1910) Nguyễn Khuyến (5) thường được gọi là ông Nghè Và hay Tam Nguyên Yên Đổ, hiệu là Quế Sơn, sinh năm 1835, trước tên là Nguyễn Tất Thắng, người làng Yên Đổ tục gọi là làng Và (sau này là làng Vị Hạ), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tổ phụ là Nguyễn Mại đậu Tiến Sĩ sung chức Hiến Sát Sứ triều Lê. Thân phụ ông là Nguyễn Lệ đậu 3 khoa Tú Tài, gần 40 tuổi mới sinh hạ ra ông. Từ nhỏ đã rất thông minh và chăm học, nổi tiếng thần đồng. Năm 12 tuổi đã thuộc Kinh Sử, 14 tuổi văn lý đã thông, 15 tuổi đỗ đầu kỳ hạch tỉnh. Hai năm sau sửa soạn thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang. Sau đó cửa nhà sa sút túng thiếu lại rủi mấy khoa thi Hương sau đều rớt nên phải đi dạy học để độ nhật. Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị mến tài chu cấp cho ăn học. Năm 1864 đỗ Giải Nguyên trường Hà Nội nhưng năm sau thi Hội trượt, rồi lại hỏng luôn hai khoa nữa nên đổi tên là Nguyễn Khuyến để tự răn mình. Đến khoa thi năm 1871 ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Hoàng Giáp. Lúc đầu Nguyễn Khuyến được sơ bổ Nội Các Thừa Chỉ rồi làm Đốc Học Thanh Hóa, tiếp đó được thăng Bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ông chính sự cần mẫn, thanh liêm lại có tài thao lược trong nhiều vụ tiễu trừ giặc giã. Một lần ông dâng sớ xin về hưu nhưng vua Tự Đức không chấp thuận, triệu về kinh làm Sử Quán Toản Tu. Năm 1882, Pháp lấy cớ thông thương uy hiếp Hà Nội, ông được cử làm Thương Biện lo việc giao thiệp và thương thuyết với Pháp. Sau đó sung chức Tổng Đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Tình hình trong nước lúc đó rất nguy ngập, Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883. Năm sau, 1884 vua Tự Đức băng hà triều đình Huế phải ký hòa ước Patenôtre công nhận cho Pháp quyền bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Năm sau, 1885 Nguyễn Khuyến lấy cớ đau mắt cáo quan xin về quê sống đời thanh bần nông thôn. Sau khi bình định các nơi, Pháp tìm cách mua chuộc sĩ phu để thu phục nhân tâm nên ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ Văn Báo nhiều lần mời Nguyễn Khuyến ra làm quan nhưng ông nhất định khước từ. Để Pháp khỏi nghi ngờ, ông nhận sự thăm hỏi của phe hợp tác với Pháp và cho con là Phó Bảng Nguyễn Hoan nhận một chức nhỏ. Ông lại giúp người con chấm giải thi Thơ ở Hưng Yên và có lúc phải dạy học trong dinh của Hoàng Cao Khải. Ông mất năm canh tuất 1910 hưởng thọ 75. Nguyễn Khuyến là nhà thơ trào phúng lẫy lừng trong văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỷ thứ 19. Về chữ Hán, Nguyễn Khuyến có Quế Sơn Thi Tập, về văn nôm ông làm đủ loại, để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm đặc sắc về thi ca, phú, câu đối, hát nói (44 bài thơ đường luật, 2 bài phú, 5 bài hát nói, 1 bài văn tế, 2 bài lục bát và nhiều câu đối) TAM NGUYÊN ĐÔN THƯ VŨ PHẠM HÀM (1864-1910) Vũ Phạm Hàm (6), thường được gọi là Thám Hàm, sinh năm giáp tí 1864, người làng Đôn Thư huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông, năm giáp thân 1884 đời vua Kiến Phúc đỗ Giải Nguyên lúc mới 21 tuổi. Năm 29 tuổi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên Thám Hoa năm nhâm thìn 1892 đời vua Thành Thái. Sau khi đỗ ông được cử vào làm cho Đồng Văn Nhật Báo, rồi được bổ Đốc Học Hưng Hóa, kế tiếp là Đốc Học Ninh Bình, Đốc Học Hà Nội. Sau đó ông được thăng Án Sát Hưng Hóa rồi đổi về Án Sát Hải Dương. Ở Hải Dương vì có sự xích mích với viên Công Sứ Pháp nên công vụ khó khăn phải xin cáo quan về hưu. Ít lâu sau, năm 1910 ông tạ thế lúc mới 46 tuổi. Vũ Phạm Hàm nổi tiếng có trí nhớ dai và tư tưởng thâm sâu, nhưng tác phẩm của ông không có bao nhiêu. Không thấy ông để lại một tác phẩm nào cả về chữ Hán lẫn chữ nôm ngoài mấy bài thơ chữ nho và một số câu đối. TRẦN BÍCH SAN CHÚ THÍCH: (1) Giai thoại về Lê Quí Đôn Lê Quí Đôn thuở nhỏ thông minh khác thường, mới 2 tuổi đã nhận biết được 2 chữ "hữu, vô". Lên 5 tuổi bắt đầu học Kinh Thư, học đâu nhớ đấy chỉ một lần là thuộc, lên 6 tuổi biết làm thơ văn. Năm ông 7, 8 tuổi, một hôm có quan Thượng tìm đến thăm cha ông là Trung Hiếu Công Lê Phú Thứ, nhân gặp một đứa trẻ nên hỏi thăm đường. Lúc đó Lê Quí Đôn đang tắm truồng bèn giang hai tay, hai chân ra đố quan Thượng nếu biết được là chữ gì thì sẽ dẫn đường. Quan Thượng thấy đứa trẻ hỗn xược không thèm trả lời. Lê Quí Đôn cười ầm lên chê là chữ "Thái" dễ thế mà không biết. Quan Thượng lúc vào nhà mới biết thằng nhỏ là con bạn mình, muốn thử tài bèn cho gọi ông lên mắng cho một trận rồi bắt phải làm một bài thơ tự trách mình trong đó mỗi câu đều phải có tên một thứ rắn, làm không làm được sẽ bị đánh đòn vì tội hỗn láo. Ông ứng khẩu làm bài thơ nôm "Rắn Đầu Biếng Học": Chẳng phải liu điu cũng giống nhà Rắn đầu biếng học chẳng ai tha Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ Nay thét mai gầm rát cổ cha Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra Từ nay Châu, Lỗ chăm nghề học Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia Một hôm Lê Quí Đôn đến chơi nhà Lý Trưởng thấy trên bàn có quyển sổ biên tên những người thiếu thuế. Ông mở ra coi thấy người thì thiếu năm bảy đấu thóc, người thì vài quan tiền. Ít lâu sau nhà Lý Trưởng bị cháy ra tro, quyển sổ thiếu thuế cũng bị thiêu hủy. Khi gặp ông, người Lý Trưởng than không biết tra cứu vào đâu để đòi tiền. Ông bèn đọc lại từ đầu đến cuối cho chép lại. Người Lý Trưởng chưa dám quyết nhưng đến khi chiếu theo sổ đi thu các món nợ thì đúng cả, không ai than phiền khiếu nại gì, lúc đó mới tin. Trong dịp đi dạo phố ở kinh đô Thăng Long với bạn, nhân gặp một đám ma đi ngang, người bạn đố ông làm câu đối khóc người không quen. Ông ứng khẩu đọc ngay: Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích lẽ đâu mà khóc mướn ? Tưởng sự bách niên dừng nghĩ lại, não can tràng cho nên phải thương vay ! Khi Lê Quí Đôn được cử đi sứ Trung Hoa một danh sĩ Tàu nghe tiếng anh tài nước Nam nên muốn thử. Một hôm mời ông đi vãn cảnh chùa xem văn bia. Chùa này ở cạnh bờ sông buổi chiều nước dâng lên ngập cả bia. Khi ông mới xem xong thì nước thủy triều đã dâng lên phủ lấp không còn thấy bia nữa. Khi về vị danh sĩ Tàu hỏi ông về bài văn bia, ông đọc lại nguyên văn không thiếu một chữ. Tương truyền khi Lê Quí Đôn đỗ Bảng Nhãn ông cho treo tấm bảng trước cửa nhà với hàng chữ "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn" (trong thiên hạ ai không biết chữ nào cứ đến hỏi). Khi Trung Hiếu Công mất có một cụ già từ xa đến điếu tang, yêu cầu ông đem giấy bút ra viết câu đối mà cụ làm để khóc thân phụ ông. Ông vâng lời đem giấy bút chờ viết. Ông cụ đọc: - Chi Lê Quí Đôn do dự không biết viết chữ "Chi" nào vì chữ nho có tới mười mấy chữ "Chi" khác nhau. Ông cụ lại đọc tiếp: - Chi Lê Quí Đôn đành hỏi: - Bẩm chữ Chi nào ạ ? Lúc đó ông cụ mới mắng ông là đỗ tới Bảng Nhãn mà chữ Chi không biết viết thì nếu có ai thấy tấm bảng treo trước cửa nhà vào hỏi chữ Chi thì sao? Sau đó ông cụ đọc một hơi nguyên câu đối: Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi? nghĩa là: Đâu đâu hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó Đó đó ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu? Giai thoại trên có thể do người đời sau đặt ra với dụng tâm răn người có tài không nên kiêu ngạo. Giai thoại trên trái ngược với bản tính của Lê Quí Đôn vốn là người trung thực, khiêm tốn và có lòng nhân. Ông thường hay giúp đỡ bà con họ hàng, bạn bè. Người nào nghèo ông thường tư cấp cho ít nhiều. Nhưng đối với chính bản thân ông lại rất tiết kiệm, thường chỉ mặc áo vải ăn cơm rau. Ông rất thích đọc sách, dù làm quan cao trong triều nhưng đêm nào cũng đọc sách đến khuya mới đi ngủ. Khi về trí sĩ ông cho làm một cái nhà tranh ngoài đề 2 chữ "Cấn Trai" để tỏ ý mình. (2) Bài thơ "Rắn Đầu Biếng Học" ông làm lúc còn nhỏ, bài Kinh Nghĩa có đề là "Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử" (Về nhà chồng phải kính phải răn chớ trái lời chồng), bài Văn Sách hỏi về câu "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen". (3) Cách chép sử của Trung Hoa có 2 loại là biên niên (chép các việc xảy ra theo thứ tự năm tháng) và kỷ truyện (phần kỷ chép các việc của vua, phần truyện chép liệt truyện các nhân vật). Thể biên niên bắt đầu từ sách Tả Truyện, thể kỷ truyện bắt đầu từ bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên. Bộ sử này chia ra phần Kỷ viết về các vị hoàng đế, phần Niên Biểu liệt kê năm tháng, phần Thư chép chính sự, phần Thế Gia chép về công hầu, phần liệt truyện chép về sĩ thứ. Bộ Tống Sử của Thảo Khắc Thác đời Nguyên cũng viết theo thể kỷ truyện gồm Bản Kỷ, Chí, Biểu và Liệt Truyện. (4) Giai thoại về Trần Bích San Trần Bích San là người con chí hiếu, khi làm Tri Phủ An Nhơn ở miền Trung thấy địa phương có lụa nổi tiếng, ông thửa một tấm rồi sai người đưa về Bắc biếu mẹ. Mẹ ông chiêu đãi người mang lụa chu tất rồi gửi lại cho ông một gói đồ. Giở gói ra ông thấy còn nguyên tấm lụa và một cái roi mây. Ông hiểu ý thân mẫu mắng mình là đi xa làm công sai mà dĩ công vi tư. Ông nằm xuống tự đánh mình đủ ba roi rồi hướng về quê Vị Xuyên lạy tạ mẹ (theo di cảo của Hoàng Đạo Thúy 1900-1994, chưa xuất bản). Năm 1875 lúc Trần Bích San đang làm Tuần Phủ Hà Nội, linh mục Trần Lục (tên thật là Trần Hữu Triêm) ở Phát Diệm mới được phong làm Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ tới thăm. Trong lúc trò chuyện, muốn thử tài vị Tam Nguyên, linh mục đưa ra một vế đối nói rằng đã nghe được muốn đối nhưng khó quá, nhân dịp gặp nhà đại khoa nhờ đối giùm. Vế ra như sau: Ba cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều cụ chẳng sợ ai Vế ra khó vì có tới 3 chữ "cụ'. Chữ "cụ" lại có ba nghĩa khác nhau. "cụ" là "cụ đạo" tiếng gọi các linh mục ở miền Bắc, "cụ" còn có nghĩa là "sẵn sàng", là "sợ hãi". Ý và lời của vế ra vừa ngạo mạn, vừa ngạo nghễ của người đang đắc thế. Trần Bích San từ chối vì e rằng vế đối khiếm nhã. Linh mục Trần Lục cho là Trần Bích San không đối nổi nên càng nài ép, nại cớ đây là chuyện văn chương "văn hành công khí" không có gì phải e ngại. Ông bèn ứng khẩu đối: Một đạo há hai đường, đạo trộm cắp đạo còn nói láo! Dùng chữ "đạo" đối với chữ "cụ" là tuyệt hay. Chữ "đạo" cũng có 3 nghĩa như chữ "cụ": "đạo" là cố đạo", đạo là "con đường", là "trộm cắp". Ý và lời mỉa mai kẻ tu hành vượt qua đạo hạnh, xu thời mà còn lên mặt đắc chí. (Trích một đoạn sử về việc Pháp chiếm Hà Nội lần thứ nhất năm 1873: Sau khi hạ xong thành Hà Nội ngày 19/11/1873, Francis Garnier quyết định đánh chiếm toàn bộ 4 tỉnh châu thổ sông Hồng. Ngày 26/11 Trung Úy Balny d'Avricourt chiếm Phủ Lý, Trung Úy Esmez chiếm Phủ Thường rồi Phủ Bình và Hoài Yên. Hai ngày sau 28/11, Pháp chiếm Hưng Yên không tốn một viên đạn, Bắc Ninh và Thái Nguyên cũng xin hàng. Ngày 4/12 Thiếu Úy De Trentinian dưới sự yểm trợ của tàu Espingole của Trung Úy Balny d'Avricourt hạ thành Hải Dương. Hôm sau, 5/12 Chuẩn Úy Hautefeuille được Linh Mục Trần Lục hướng dẫn xuống chiếm thành Ninh Bình không tốn một viên đạn. Viên sĩ quan này chĩa súng vào màng tang vị quan thủ thành đe dọa nếu không đầu hàng sẽ bắn vỡ sọ. Linh Mục Trần Lục còn tuyển mộ được 150 lính đến giúp Hautefeuille bảo vệ an ninh) (5) Giai Thoại Về Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến và Trần Bích San là hai học trò xuất xắc của Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị. Khoa thi Hương năm 1864, Tam Đăng họp các môn sinh vào dặn dò trước khi thi. Ông dặn Nguyễn Tất Thắng lấy thủ khoa trường Hà Nội, còn Trần Bích San lấy thủ khoa trường Nam Định rồi khi vào kinh thi Hội cố giật cho được Tam Nguyên. Tan ra, Yên Đổ buồn bực than với Trần Bích San. Vị Xuyên trấn an là thường ngày tài mình vẫn kém bạn, sở sĩ thày nói như vậy là có dụng ý khuyến khích mình mà thôi. Khoa thi Hương năm ấy quả nhiên Nguyễn Tất Thắng đỗ giải nguyên trường Hà Nội, Trần Bích San đỗ giải nguyên trường Nam Định. Năm sau vào kinh thi Hội, Trần Bích San đỗ luôn Tam Nguyên còn Nguyễn Tất Thắng thì trượt. Sau khi đổi tên là Nguyễn Khuyến để tự răn, đến hai khoa sau ông mới đỗ Tam Nguyên. Khi Yên Đổ về thăm thày, Tam Đăng hội các môn sinh lại và giải thích cho biết văn thơ của Vi Xuyên hàm xúc nghiêm mật, còn của Yên Đổ thì tài hoa phóng túng, mỗi người một vẻ không ai hơn ai, nhưng văn cử nghiệp cần nghiêm mật vì thế mà Vị Xuyên đỗ sớm hơn Yên Đổ. Khi về trí sĩ Yên Đổ sống hòa minh với dân gian ở nông thôn. Gần đến Tết, ông hàng xóm bảo con mang một cơi trầu sang thưa với cụ Tam Nguyên xin một câu đối về thờ ông bà. Người con bưng cơi trầu sang, lúc đó Yên Đổ đứng bên này bờ dậu đã nghe biết. Ông vui vẻ bảo: Bố anh đã làm xong câu đối rồi ta khỏi phải làm. Người con còn đang ngơ ngác không hiểu, ông bảo lấy bút ra chép. Ông đọc một câu đối gần như nguyên văn lời ông bố dặn con: Kiếm một vơi trầu thưa với cụ Xin đôi câu đối để thờ ông Có một anh đi làm bồi cho Tây, khi về làng vênh váo, huyênh hoang ra mặt ta đây. Trời nóng nực xuống sông tắm chẳng may bị chết đuối. Yên Đổ gửi một câu đối viếng như sau: Hôm nọ sống về làng, mặc áo địa, đi giầy tây, nhởn nhơ ra dáng nhỉ! Ngày nay chết đầu nước, úp tấm thiên, vùi đất thịt, sâm xoẳn đứt đuôi rồi! Câu đối mừng ông quan chột mắt mới đậu Phó Bảng võ: Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi Câu đối mừng nhà mới của một ông coi chợ (khán thị): Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tích tằng xưng tị ốc Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay được vểnh râu tôm Đây là một câu đối duy nhất trong kho tàng câu đối nước ta vì vế trên hoàn toàn chữ Hán, vế dưới toàn bằng chữ nôm. Câu đối viếng Tú Xương: Kìa ai chín suối xương không nát Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn (6) Giai thoại về Vũ Phạm Hàm Vũ Phạm Hàm tuổi trẻ đỗ cao nên tự phụ, thí sinh nhiều người đứng tuổi có ý không phục nên khi ra đầu bài thi ông thường dùng điển tích hiểm hóc, ý nghĩa ngoắt ngoéo cốt cho học trò phải phục sự uyên bác của mình. Có lần ông ra đầu bài văn sách chỉ có 8 chữ ở sách Hán làm cả trường mắc mẹo. Đầu bài ra: Ngụy du vân mộng, quả chấp tín phủ ? Phép làm văn sách thí sinh phải đưa ra lý lẽ, lập luận ngược lại ý của quan trường. Nhưng việc Hán Cao Tổ giả đi chơi Vân Mộng để bắt Hàn Tín (tạo cơ hội cho Hàn Tín làm phản để bắt) là chuyện có thật không thể cãi là không có được. Thí sinh làm bài đều tìm cách chứng minh là việc Hán Cao Tổ đi chơi Vân Mộng không phải để bắt Hàn Tín. Ai cũng nghĩ chữ "Tín" của đầu bài chỉ "Hàn Tín". Nhưng chữ "chấp tín" có nghĩa là "giữ điều tín" (không phải bắt Hàn Tín). Đầu đề thực ra có nghĩa là "Việc Hán Cao Tổ đi chơi Vân Mộng có phải là giữ điều tín không?". Nhưng đã "ngụy du" thì "chấp tín" thế nào được, "đi chơi giả vờ" thì không cần giữ điều tín nữa vì bài bàn về việc ngụy du Vân Mộng chê Hán Cao Tổ có câu "quân nhân chấp tín, thân nhân chấp trung" (nghĩa là làm quan phải giữ điều tín, bày tôi phải giữ điều trung) dẫn ở Tả Truyện ý nói Hán Cao Tổ bạc đãi công thần là bất tín. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Bảo Vân, Giai Thoại Câu Đối, Quê Hương, Canada, 1983. - Cao Xuân Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục, Lê Mạnh Liêu dịch, Bô QGDG, Sài Gòn, 1962. - Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Hà Nội, 1944, Bộ Giáo Dục tái bản, Sài Gòn 1968. - Hoàng Đạo Thúy, Di Cảo (chưa xuất bản), nhật báo Lao Động, 14/2/1997, T/P HCM. - Lãng Nhân, Chơi Chữ, Cơ sở xuất bản Zieleks, Hoa Kỳ, 1978. - Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập, Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1966. - Lê Văn Siêu, Văn Học Sử Thời Kháng Pháp, Trí Đăng, Sài Gòn, 1974, Xuân Thu tái bản, Hoa Kỳ, 1991. - Nguyễn Hoàn, Uông Sĩ Lăng, Võ Miên, Phan Trọng Phiên, Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục, Tạ Thúc Khải dịch, Bộ QGDG tái bản, Sài Gòn, 1962. - Nguyễn Quang Thắng, Khoa Cử và Giáo Dục Việt Nam, Văn Hóa, Hà Nội, 1998. - Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, 1962-1966, cơ sở xuất bản Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ. - Phan Kế Bính, Nam Hải Dị Nhân, Thanh Niên tái bản, T/P HCM, 1999. - Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Vĩnh và Thành, Hà Nội 1928, Bộ Giáo Dục tái bản, Sài Gòn, 1971. - Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945, quyển 1, Văn Hóa, Hoa Ký, 1999.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2017 1:17:55 GMT 9
PHAN THANH GIẢN -THÂN THẾ và SỰ NGHIỆP
Phan Thanh Giản vốn dòng dõi nho gia. Lúc còn nhỏ, ông được một nhà sư nuôi dạy. Lớn lên, cụ theo học với nhiều bậc túc nho. Vì vậy, tư duy của Phan Thanh Giản tất nhuần thấm tư tưởng của Phật Thích Ca và Khổng Tử khiến cụ trở thành một nhân vật suốt đời sống với đạo Từ Bi và với đức Nhân, Trí, Dũng của hai vị đại triết nhân này. Lúc sắp trao thành cho quân Phú Lãng Xa tức quân Pháp, nhằm tránh cho lê dân khỏi bị nạn binh đao trước mắt, cụ đã để lại một bức thư tuyệt mệnh trong đó có câu: “Hỡi các quan và lê dân! Các người có thể sống dưới sự điều khiển của người Phú Lãng Xa. Những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi. Nhưng lá cờ ba sắc[cờ Pháp] không thể bay phất phới trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (Trích thư của cụ Phan gửi cho hai vị quan Tổng Đốc Miền Tây) Do sự kiện Pháp quân chiếm mất thành trong lúc điều đình mà vua quan triều Nguyễn hồi đó đã giáng cách cụ để trút trách nhiệm mất đất lên vai cụ. Sau này, khi Việt Minh Cộng Sản cầm quyền, cụ cũng bị gán tội phản quốc và do dó, Tượng Phan Thanh Giản dựng tại sân Trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ bị chính quyền Cộng Sản đập bỏ ngay sau 30 Tháng Tư, 1975; ảnh cụ bị đạn của cán bộ CS bắn xuyên qua tim (coi: Đặc San Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ, Houston, Texas, 2007, trang 23-24 ).
PHAN THANH GIẢN Vậy thì, Phan Thanh Giản là ai? Cụ được nuôi dưỡng và dạy dỗ như thế nào? Con đường thi cử của cụ như thế nào? Cụ làm quan với những chức vụ gì? Tại sao cụ bị giáng chức tới năm lần? Tại sao cụ trao thành Vĩnh Long cho Pháp và uống thuốc độc tự vẫn. Tại sao một số các vua quan Triều Nguyễn lên án cụ? Tại sao Đảng Cộng Sản VN đã lên án cụ? Hiện nay cụ được CSVN phục hồi danh dự của cụ như thế nào? Người dân tôn vinh cụ như thế nào? Cụ có xứng đáng được vinh danh là bậc đại trí, đại dũng, và đại nhân không?
THÂN THẾ PHAN THANH GIẢN Phan Thanh Giản sinh Giờ Thìn, Ngày 12 tháng Mười, Bính Thìn (1796), đời Lê Cảnh Hưng; mất vào đêm mồng Bốn rạng ngày mồng Năm tháng 7 năm Đinh Mão (1867) sau khi tuyệt thực 17 ngày rồi uống thuốc độc tự vẫn; hưởng tho 72 tuổi. Linh cữu an táng tại làng Bảo Thạnh, Kiến Hòa. Phan Thanh Giản lấy tên tự là Tịnh Bá và Đạm; hiệu là Lương Khê; biệt hiệu là Mai Xuyên. Sau khi thi đậu, cụ cưới vợ người đầu tiên người làng Cần Giuộc. Bà này mất, cụ tục huyền với bà Trần Thị Hoạch ở Quảng Trị và đưa vợ về Kiến Hòa để lo phụng dưỡng cha mẹ. Trong dịp này, cụ làm một bài thơ để tạ ơn vợ đã thay cụ báo hiếu cha mẹ. Từ thuở vương xe mối chỉ hồng Lòng này ghi tạc có non sông Đường mây cười tớ ham dong ruổi Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng Ơn nước, nợ trai đành nỗi bận Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng (tham khảo: Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh, 1967) Tương truyền tổ phụ cụ Phan Thanh Giản là Phan Thanh Tập, hiệu là Ngẫu Cừ, sống dưới đời Nhà Minh.Sau đó Phan Thanh Tập di cư sang Việt Nam cư ngụ tại Phủ Hoài Sơn, Bình Định. Phan Thanh Tập có một con trai là Phan Thanh Ngạn tục kêu là Xán. Năm 1771, gia đình ông Ngạn di vào Nam, ngụ ở Thanh Trông, Định Tường. Sau dời về Mân Thích, Vĩnh Thanh, Vĩnh Long; rồi lại dời về Huyện Bảo An, Hoằng Trị, Vĩnh Long. Cuối cùng, ông lại dời về thôn An Hòa, Tân Thạnh, Vĩnh Bình., phủ Định Viễn, Trấn Vĩnh Thạnh; nay là xã Bảo Thạnh, Bai Tri, Bến Tre. Ông cưới vợ là bà Lâm Thị Bút sinh hạ ra Phan Thanh Giản. Năm 1802, Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì bà mẹ qua đời. Bà mẹ kế là bà Trần Thị Dưỡng rất yêu quý ông và cho ông thụ giáo với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi. Năm 1815, cha của Phan Thanh Giản bị tù oan. Phan Thanh Gian xin với quan cho ông được ở tù thế cho cha. Quan không thể giúp được nhưng tạo cơ hội cho ông ở gần cha và trau giồi kinh sử. Sau khi cha mãn tù, Phanh Thanh Giản ở lại Vĩnh Long tiếp tục học để tạo sự nghiệp. SỰ NGHIỆP Năm 1825, cụ đậu Cử Nhân Khoa Ất Dậu.Năm sau, cụ đậu Đệ Tam Giáp đồng Tiến Sĩ. Cụ là người đậu Tiến Sĩ khai khoa ở Nam Bộ. Cụ từng giữ nhiều chức vụ: dưới ba triều Minh Mạnh, Thiệu Trị, và Tự Đức: Lang Trung Bộ Hình, Tham Hiệp Quảng Bình và Giám Khảo Thi Hương Thừa Thiên; Hiệp Trấn Quảng Nam, Hàn Lâm Viện, Phó Sứ sang Nhà Thanh, Đại Lý Tự Khanh Cơ Mật Viện, Kinh Lược Trấn Tây, Bố Chánh Tỉnh Quảng Nam, Hộ Lý Tuần Phủ Quan Phòng, Nội các Thừa Chỉ, Tả Thị Lang Bộ Hộ, Thị Lang Bộ Hộ, Binh Bộ Tả Thị Lang, Tham Tri Bộ Binh, Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hà Nội, Hình Bộ Thượng Thư, Lại Bộ Thượng Thư, Kinh Lược Sứ, Nam Kỳ Kinh Lược Phó Sứ, Gia Định Tuần Vũ (coi giữ Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, và Hà Tiên), Chánh Tổng Tài Quốc Sử Quán biên soạn bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc Tử Giám Sự Vụ, được cử đi sứ tại Pháp, Trung Hoa, và nhiều nước khác. Năm 1852, Vua Tự Đức ban cho cụ tấm kim khánh khắc “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” [Ngay Thật, Công Bằng, Cẩn Thận, Siêng Năng]. Cụ bị giáng chức 5 lần. Lần thứ nhất lúc cụ bị thất bại khi dẹp loạn Cao Gồng ở Chiên Đàn, phía bắc Quảng Nam. Lần thứ hai cụ bị giáng chức vì can gián Vua Minh Mạng trong chuyến ngự du Quảng Nam với lý do là dân tình Quảng Nam lúc đó đang đói kém. Lần thứ ba cụ bị giáng vì lỗi thuộc viên sơ ý không đóng dấu triện vào một tờ sớ. Lần thứ tư cụ bị giáng vì ông không ký vào bản án Cơ Mật Viện buộc tội Tổng Đốc Bình Định xin vua hủy bỏ bản tuồng Lôi Phong Pháp lý do vở tuồng có lời lẽ bôi bác, chế nhạo Trời, Đất, và các Thần Minh. Lần thứ năm, cụ bị kết tội bất cẩn khi ông làm Phó Chủ Khảo Trường Thi Thừa Thiên. Cuối cùng, cụ bị giáng cách vì thực dân Pháp tráo trở chiếm đoạt thành Vĩnh Long trong lúc còn đang diều đình. Thực tế, cụ xét thấy tình thế không thể cứu vãn được nữa và để cứu lê dân trước mắt khỏi bị nan binh đao, nên cụ trao thành cho Pháp rồi uống thuốc độc tự vẫn. Vua và một số quan lại xiểm nịnh lên án cụ nặng nề khiến cho sau này Đảng Cộng Sản lợi dụng cơ hội cũng biếm nhục cụ đủ điều. Nhưng tấm lòng son sắt của cụ đối với quốc gia và dân tộc đã được trời xanh soi sáng và ngày nay tên tuổi của cụ đã được phục hồi. Xét cuộc đời và sự nghiệp văn thơ, chính trị của cụ, cụ quả xứng đáng là một bậc đại trí, đại nhân, và đại dũng. Mặc dầu trên vai cụ nhiều gánh nặng quốc gia phải chu toàn, cụ Phan vẫn hoàn tất nhiều tác phẩm rất giá trị về văn học và chính trị như sau: Lương Khê Thi Thảo (454 bài thơ); Lương Khê Văn Thảo; Sứ Thanh Thi Tập; Tây Phù Nhật Ký; Ước Phu Thi Tập; Tích Ung Ca Hội Tập; Sứ Trình Thi Tập; Việt Sử Thông Giám Cương Mục; và Minh Mạng Chính Yếu. Năm 1864, lúc làm Kinh Lược trấn nhậm Vĩnh Long, cụ Phan và Nguyễn Thông phụ tá xây dựng Văn Thánh Miếu thờ Đức Khổng Tử và Văn Xương Các làm nơi hội họp xướng họa thi văn. Tại Vĩnh Long ngày nay, Tòa Văn Xương Các có thờ chân dung của cụ và bài vị của Võ Trường Toản. Năm 1966, Tỉnh Trưởng Vĩnh Long Huỳnh Ngọc Diệp và thân hào nhân sĩ tỉnh dựng tượng đồng để tưởng nhớ công đức của cụ.
VÀI NÉT VỀ ĐẤT NAM KỲ THUỞ XA XƯA Đất Nam Kỳ xưa kia được khai khẩn và mở mang do công lao của ai?Theo tài liệu trong cuốn Vĩnh Long Xưa và Nay của Huỳnh Minh (1967) thì, kể từ năm 1679, xẩy ra có một số tướng sĩ Nhà Minh, Trung Quốc chạy sang Việt Nam lánh nạn khủng bố của Nhà Mãn Thanh. Họ được Chúa Nguyễn Hiền Vương ở Huế chấp thuận cho vào khai khẩn miền Nam. Nhóm thứ nhất do Huỳnh Tấn dẫn đầu đến lập nghiệp tại khu vực Bà Rịa và Biên Hòa bây giờ. Nhóm thứ hai do Dương Ngạn Địch dẫn bộ hạ theo dường sông vào định cư ở Gò Công, Định Tường. Nhóm thứ ba do Mạc Cửu lập nghiệp ở Hà Tiên. Đến thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1725- 1738) mới có thêm đất Vĩnh Long (1732). Nam Kỳ dưới thời Chúa Nguyễn được mở mang khai khẩn và được chia làm 3 dinh (Dinh: là đơn vị hành chánh tương đương với Vùng hay Khu ngày nay) và một trấn. Đó là Biên Dinh (Biên Hòa), Phiên Dinh (Gia Đinh), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long), và Hà Tiên Trấn (Hà Tiên). Đất Vĩnh Long được hình thành từ năm 1732 dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Chu (1725-1738) mang tên là Châu Định Viễn, thuộc Long Hồ Dinh [Long Hồ Dinh, và mở thêm 4 huyện là Long Xuyên, (Cà Mâu), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), và Trấn Di (Bắc Bặc Liêu)] Đất Vĩnh Long hay là Châu Định Viễn hồi đó rất rộng lớn bao gồm một phần Bến Tre ở phía bắc và Trà Vinh ở phía nam, và là bộ mặt văn hóa của Miền Tây (tương tự như thành phố Tây Đô Cần Thơ bây giờ). Cho tới năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thua và phải dâng Chúa Nguyễn Phúc Khoát hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công). Hai phủ này sáp nhập vào Châu Định Viễn. Thế là hồi đó, đất Vĩnh Long bao gồm cả Tân An và Gò Công bây giờ. Năm 1759, một lần nữa, Nặc Tôn (con Nặc Nguyên) lại dâng thêm đất Tầm Phong Long tức vùng Châu Đốc và Sa Đéc bây giờ. Các miền đất mới này lại được sáp nhập vào Châu Định Viễn, Long Hồ Dinh. Công lao mở mang đất mới này là của Nguyễn Cư Trinh, một vị quan tài kiêm văn võ. Để bảo vệ hữu hiệu hơn và vì tính cách quan trọng về giao thương, Nguyễn Cư Trinh cho dời Long Hồ Dinh qua Tầm Bào (nay là Thị Xã Vĩnh Long) và chọn nơi này làm thủ phủ của Miền Tây. Tại đây, khoảng những năm đầu của thập niên 1770, đã diễn ra nhiều trận đánh giữa quân của Nguyễn Lữ (Tây Sơn) và quân của Tống Phước Hiệp, Nhà Nguyễn có trợ lực của quân Xiêm. Năm 1787 quân Chúa Nguyễn bắt đầu thắng thế và lấy được Thành Gia Định, rồi chiếm được toàn Miền Nam. Từ đó đất Miền Nam chính thức mang tên là Gia Định và chia làm 4 trấn: Phiên Trấn (tức Gia Định cũ), Biên Trấn (Biên Hòa), Vĩnh Trấn hay Hoằng Trấn (Vĩnh Long, Châu Định Trấn, hay Long Hồ), và Định Trấn (Cần Thơ, Sóc Trăng, Bặc Liêu). Năm 1808, Vua Gia Long đổi tên Hoằng Trấn thành Vĩnh Thanh Trấn và ấn định thêm một trấn mới nữa là Hà Tiên Trấn gồm Hà Tiên, Rạch Giá và Cà Mâu. Trong đời Gia Long, đất Vĩnh Long được cai quản bởi 3 vị Tổng Trấn là Quận Công Nguyễn Văn Nhân (1801-1805); Tổng Trấn Lê Văn Duyệt (1806-1815); và Tổng Trấn Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức (1816 — 1819). Năm 1820, Vua Minh Mạng lên ngôi, đất Vĩnh Long vẫn mang tên là Vĩnh Thanh Trấn cho tới năm 1832 mới đổi tên thành Vĩnh Long Trấn. Đây là giai đoạn Vua Minh Mạng hài tội Lê Văn Duyệt một cách độc đoán mặc dầu Lê Văn Duyệt đã qua đời khiến dân chúng bất mãn và con nuôi của ông là Lê Văn Khôi công phẫn nổi lên chống Triều Đình. Ngay sau khi Tổng Trấn Lê Văn Duyệt mất, Vua Minh Mạng bãi bỏ chức vụ Tổng Trấn Gia Định và chia đất Miền Nam thành 6 tỉnh gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh gồm 3 tỉnh Miền Đông là Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh Miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Mỗi tỉnh đứng đầu là quan Tuần Phủ. Hai hay ba tỉnh có một quan cai quản gọi là Tổng Đốc. Dưới thời Tự Đức, nhà vua đặt ra một chức để cai quản toàn Miền Nam gọi là Kinh Lược Đại Sứ. Năm 1850 (Tự Đức Thứ Ba), Thượng Thư (Bộ Trưởng bây giờ) Bộ Công Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh Lược Đại Sứ Nam Kỳ, kiêm Tổng Đốc Định-Biên (Gia Định + Biên Hòa), kiêm Tổng Đốc Long-An (Vĩnh Long + An Giang). Năm 1851, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh Lược Phó Sứ phụ tá cho Nguyễn Tri Phương. Bấy giờ Phan Thanh Giản đặt Tổng Hành Dinh tại Thành Vĩnh Long và bắt đầu từ đó cụ khởi sự trách nhiệm đối phó với ý đồ xâm lấn của thực dân Pháp. Bối Cảnh Xã Hội: Triều Đình Cấm Đạo và Bế Môn Tỏa Cảng - Dân Tình Bất Mãn - Tây Phương Gây Hấn Nước ta khởi sự dính líu với người Pháp bằng Hiệp Ước Versailles ký ngày 28.11.1787 giữa Chính Phủ Pháp và Bá Đa Lộc, đại diện cho Nguyễn Ánh tức vua Gia Long sau này.Trong chuyến đi, Bá Đa Lộc dẫn theo Hoàng Tử Cảnh, 4 tuổi, làm con tin. Nội dung hiệp ước: Pháp giúp cho Nguyễn Ánh 4 tầu chiến, 1200 lính, 200 pháo binh, 250 lính Phi , quân trang, quân phí, v.v. Đổi lại, triều đình phải dành cho Pháp quyền sở hữu tuyệt đối về Cảng Hội An và Đảo Côn Lôn. Tuy nhiên vì tình thế nước Pháp rối loạn nên hiệp ước không thi hành được. Bá Đa Lộc phải vận động một số tư bản Pháp hùn nhau bỏ tiền mua tầu và súng sang giúp Nguyễn Ánh. Trong thời gian đầu sau khi thành công trong việc triệt hạ Nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước, Vua Gia Long còn tỏ ra biết ơn và ưu đãi người Tây Phương. Trong một lá thư viết hồi tháng 7.1802, giáo sĩ Labartette nhận định: “Nhà vua [Gia Long] ưu đãi đạo thánh của chúng ta vượt quá sự mong muốn. Nhà vua biết ơn sâu xa Bá Đa Lộc - người đã cứu giúp bản thân nhà vua và dòng họ ông - và mỗi lần nhắc tới giám mục thì ông lại rưng rưng nước mắt”. Nhưng trong một lá thư viết vào năm 1812 thì giáo sĩ bày tỏ một sự e ngại : “Chừng nào nhà vua còn trị vì thì chúng tôi vẫn còn hy vọng được tự do hành đạo. Nhưng sau khi nhà vua mất đi thì e rằng mọi việc sẽ thay đổi hết.” Sự kiện này chứng tỏ Vua Gia Long trong lòng không ưa gì người Pháp. Điều e ngại này đã trở thành sự thật. Sau này, Giáo sĩ Louvet ghi nhận: “Năm 1817, Gia Long chọn ông Hoàng Chi Đảm [tức Minh Mạng] nối ngôi. Sự lựa chọn này bị phần đông quan lại chỉ trích [trong đó có Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt] và trở thành một tai họa lớn cho quốc gia và cho nhà thờ ở xứ sở này. Ông vua kế vị Gia Long đã quyết tâm cự tuyệt người Phương Tây và nền văn minh của họ. Ông ta xô đẩy triều đình lao vào việc tàn sát đẫm máu. Để rồi sau 40 năm dẫn đến cuộc can thiệp của người Pháp và sự phân liệt quốc gia. Chưa bao giờ vua Gia Long lại thiếu ý thức bằng cái ngày ông ta quyết định một sự lựa chọn như vậy, mặc dầu những viên quan cận thần nhất đã hết sức ngăn cản Vua.” Thực vậy, ngay sau khi Gia Long nằm xuống, vua Minh Mạng thi hành ngay chính sách bài Gia Tô Giáo và “bạch quỷ” Tây Phương: lãnh sự Pháp không được thừa nhận; đặc sứ Pháp không được tiếp kiến; thuyền trưởng Pháp không được lên bờ; giáo sĩ bị tử hình v.v. Vua Minh Mạng từ chối ký kết hiệp ước thương mại với vua Louis XVIII và nói với ông Chaigneau, một viên quan Pháp phục vụ cho triều đình bấy giờ rằng: “Cần gì có hiệp ước thương mại. Nước Pháp ở quá xa nước chúng tôi. Làm sao thần dân của chúng tôi lại có thể đi buôn bán với người của nước ông được?” Ông Chaigneau nhắc nhở: “Nếu nhà vua từ chối ký hiệp ước thì nước Pháp sẽ có ý nghĩ không tốt về nhà vua.” Vua Minh Mạng trả lời: “Người ta không thể đòi hỏi khác được vì tôi không muốn ký một hiệp ước mà xem ra nó chẳng có ích lợi gì.” Sau này Minh Mạng có thay đổi tư duy, cử người sang Pháp điều đình, nhưng bị vua Pháp từ chối tiếp kiến vì vua Pháp coi “Minh Mạng là kẻ thù của Gia Tô Giáo.”Vua Thiệu Trị và Tự Đức kế vị sau đó càng tỏ ra kỳ thị “bạch quỷ” tây phương ngặt nghèo hơn và sự “cởi mở” hay “mở cửa” đón tây phương của triều đình sau đó mới áp dụng thì đã muộn. Bắt đầu từ năm 1850, Nã Phá Luân III quyết định thực hiện dùng võ lực xâm chiếm VN. Tóm lại, sự bất tài và tinh thần thủ cựu và tự tôn của các vua Triều Nguyễn thể hiện trong chính sách bế môn tỏa cảng, bài bác Gia Tô Giáo, và khinh miệt người Tây Phương là những nguyên nhân chính dẫn tới sự kiện dân tình bất bình, đất nước loạn lạc, và rồi mất vào tay Pháp. Thật vậy, trong thời vua Gia Long có tới 70 cuộc nổi dậy; trong thời Minh Mạng có tới 230 cuộc tạo loạn; và trong 7 năm ngắn ngủi của Thiệu Trị có 50 cuộc nổi loạn; và trong thời Tự Đức có 40 cuộc nổi dậy. Tiếng oán thán cùa dân chúng thể hiện trong bài hịch của Nông Văn Vân: Mười lăm năm đức chính có chi? Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán Tiếng oan hào kêu dậy đất không lông
PHÁP KHỞI HẤN CHIẾM VĨNH LONG: PHANH THANH GIẢN LÃNH SỨ MẠNG ĐIỀU ĐÌNH RỒI TỰ VẪN Ngày 22.4.1857, Napoléon III quyết định thành lập “Hội Đồng Nam Kỳ” với nhiệm vụ duyệt xét lại Hiệp Ước Versailles nhưng thực chất là hợp thức hóa việc đem quân qua xâm chiếm nước ta. Ngày 31.8.1858, Đô Đốc Rigault de Genouilly phối hợp với quân Tây Ban Nha bắt đầu nổ súng vào Cảng Đà Nẵng.Viên Trấn Thủ Đà Nẵng được lệnh “an binh bất động”. Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng Chỉ Huy mặt trận Đà Nẵng - Quảng Nam. Ngày 10.2.1859, Pháp đánh chiếm Vũng Tầu và ngày 17.2 Pháp tiến đánh Thành Gia Định. Lúc này cuộc chiến giữa Trung Hoa và Pháp nổ ra khiến Pháp phải rút một phần lực lượng ở Đà Nẵng và Saigòn qua Trung Hoa. Triều đình lúc đó không nắm được cơ hội ngàn năm một thuở này để tổng phản công; lại để cho Tướng chỉ huy Mặt Trận Gia Định lúc đó là Tôn Thất Hiệp “án binh bất động” với hy vọng “làm nản lòng địch”! Sau này, Nguyễn Tri Phương được điều động thay thế Tôn Thất Hiệp lại chủ trương “công và Thủ” tức là vừa đánh vừa giữ. Ông cho đắp đồn Kỳ Hòa dài 3000 mét, ngang 1000, chia làm 5 khu ngăn cách nhau bằng hàng rào gỗ. Thành xây bằng đất sét cao 3 mét 50, dày 2 m. Ngày 25.10.1860, chiến tranh Trung Hoa kết thúc, quân Pháp lại trở qua nước ta và quyết nhanh chóng thôn Nam Kỳ. Ngày 23.2.1861, quân Pháp mở cuộc tấn công phá đại Đồn Chí Hòa. Tướng Charner, Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp, ghi trong nhật ký: “Quân địch kháng cự rất mãnh liệt ... Quân ta tổn thất khá nhiều: 225 lính bị loại khỏi vòng chiến. Ngày 12.3.1861, quân Pháp coi như đã chiếm xong vùng Gia Định. Một báo cáo của Tổng Chỉ Huy Nguyễn Bá Nghi gửi về Triều Đình Huế tâu: “Tình thế đã đến lúc “đánh và giữ” đều không được. Trừ một chước Hòa, tôi chỉ còn chịu tội.” Trong giai đoạn chống Pháp này, toàn dân khắp nơi đều tự động nổi lên chiến đấu. Nhưng các lực lượng này phần lớn là tự phát và không có kết hợp với nhau. Một tác giả Pháp, Pallu de la Barrière, ghi chép rằng: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến. Cuộc kháng chiến có cơ sở và hệ thống khắp nơi. Có thể nói rằng có bao nhiêu người Việt thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến. Đúng hơn là phải xem mỗi người nông dân đang bó lúa là một trung tâm kháng chiến. (Xem: Histoire de L'expédition de Cochinchine en 1861, Paris, 1864, tr. 248).
HÒA ƯỚC 5.6.1862: MẤT BA TỈNH MIỀN ĐÔNG Đồn Kỳ Hòa bị mất.Nguyễn Tri Phương bị trọng thương phải đưa về Kinh chữa trị. Ngày 1.4.1861, Quân Pháp thừa thắng tiến đành Định Tường. Triều đình sai Nguyễn Tri Phương đem hai vệ quân phối hợp với quan của Nguyễn Ba Nghi vào cứu viện. Quân cứu viện chưa tới nơi thì quân Pháp đã tiến đánh Thành Vĩnh Long ngày 20.3.1862. Tổng Đốc Trương Văn Uyển bỏ thành chạy. Như vậy, kể từ tháng 9 năm 1858 đến tháng 3, 1862, Pháp quân chiếm được 4 thành: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, và Vĩnh Long. Trước tình thế đó, triều đình cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đứng ra thương thuyết chuộc lại đất. Do đó, Hòa Ước ngày 5/6/1862 ký tại Saigon hình thành gồm 12 điều khoản trong đó có điều khoản quy định 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, và Đảo Côn Lôn tức Côn Đảo phải nhượng đứt cho Pháp. Ngoài ra triều đình còn phải trả cho Pháp và Tây Ban Nha trong vòng 10 năm một khoản tiền bồi thường chiến phí là 4 triệu đồng tương đương với 288 ngàn lượng bạc. Đổi lại, Pháp sẽ trả lại Vĩnh Long với điều kiện Triều đình phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Trong phái bộ Việt Nam đi ký hòa ước có một linh mục người Việt tên là Đặng Đức Tuấn, người kể lại sự kiện ký hòa ước trong bài “Lâm Nạn Phụng Quôc Hành” như sau: Làm hai tập nữa dâng vào Thánh Thượng ngự lãm định giao cuộc hòa Dạy quan Cơ Mật truyền ra Tư cho các tỉnh hay qua chuyện này Triều đình đã định làm vầy Sai Đặng Đức Tuấn vào Tây giảng hòa ... Vì còn nhiều việc khả nghi Chưa biết bàn định lẽ gì cho hay Thượng quan đòi Tuấn hỏi ngay Tây xin làm vậy, Tuấn bày làm sao? Tuấn rằng “Ông Lớn lượng cao Sớ tâu Hoàng Đế xin vào Đồng Nai Cho tôi tùng phái với Ngài Tôi dám quả quyết không ai làm gì Hòa đặng thì ta hòa đi Bằng hòa chẳng dặng, ta thì về ngay Quan Lâm vào tấu nội ngày Vua ban sắc hạ y rày lời xin Quan Phan ở cửa nghe tin Cũng vào thính chỉ đặng in như lời (Xem: Tinh Hoa Công Giáo Ái Quốc Việt Nam, 1970, Saigon, Lam Giang, Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn). Việc chuộc 3 tỉnh bất thành, Vua Tự Đức và nhóm quan lại nịnh thần đã khiển trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp không làm tròn nhiệm vụ nhưng vẫn cử Phan Thanh Giản làm Tổng Đốc Vĩnh Long và chỉ thị tiếp tục cố gắng tìm cách thương thuyết lại với Pháp. Nhưng các nỗ lực thương thuyết đều không có kết quả. Đời sau có kẻ dựa vào việc Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký vào hiệp ước trên mà quy tội cho hai ông bằng câu “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khi dân” (Phan, Lâm bán nước, triều đình coi thường dân chúng) và sau đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng lợi dụng câu nói trên để lên án cụ Phan là phản quốc. Tuy nhiên, trong vài thập niên gần đây đã dấy lên nhiều cuộc hội thảo đòi Cộng Sản VN phải phục hồi danh dự cho cụ Phan. Ngày 4 tháng Ba, năm 1863, để tìm cách chuộc lại 3 tỉnh Miền Đông, Vua Tự Đức bèn cử Phan Thanh Giản dẫn đầu phái đoàn đáp Tầu L'Européen qua Pháp điều đình với Hoàng Đế Napoleon III. Cùng đi với cụ Phan có Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, và 53 tùy viên trong đó có Trương Vĩnh Ký làm thông dịch viên. Trước khi lên đường, cụ Phan làm bài thơ Thuật Hoài đễ giãi bày tấc lòng như sau: Chút nghĩa vương mang phải gắng đi Tang bồng đành rõ chí nam nhi Thuyền ngô phơi phới giăng hòn bạc Khói đá phăng phăng lướt tích ti La Hán dang tay chờ khách đến Tướng quân ghé mắt hẹn ngày về Phen nay miễn đặng hòa hai nước Nỗi tớ xin đừng bận bịu chi!
Đề nghị giảng hòa tố cáo tâm trạng tuyệt vọng của Tự Đức nếu không muốn nói đó là thái độ đầu hàng. Tình trạng hòa hoãn này làm cho các quan đầu tỉnh bó tay không dám động tĩnh gì. Lợi dụng tình thế đó, quân Pháp súc tiến chiếm đoạt Nam Kỳ. Sau một tháng điều đình (khoảng giữa tháng 6 đến giữa tháng 7), Aubaret, đại diện chính phủ Pháp và Phan Thanh Giản ký bản hiệp ước gồm 21 điều khoản. Đại cương: Pháp trả lại cho nhà vua ba tỉnh miền đông nhưng vẫn làm chủ Saigon, Thủ Dầu Một, và Mỹ Tho. Triều đình Huế phải thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên lục tỉnh. Các diều khoản khác về thương mại, truyền giáo, v.v. vẫn giữ nguyên như trong Hòa Ước 1862. Thỏa ước Aubaret-Phan Thanh Giản này bị nhiều nhân vật Pháp trong đó có Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa Chasseloup Laubat cực lực phản đối.Một trong ba bức thư hiện tìm thấy tại Kho Lưu trữ Quốc Gia Paris, Pháp khẩn thiết yêu cầu không cho Phan Thanh Giản chuộc đất nói lên ý đồ của thực dân Pháp muốn trước sau thôn tính nước ta. Nội dung lá thư được sơ lược như sau: “Tôi thừa nhận phái bộ An Nam hiện đang ở Paris là cơ hội cho các điều đình về thương mại tất yếu sẽ dẫn tới việc chinh phục hoàn toàn toàn xứ này.Nhưng không phải vì vậy mà chúng ta rút đạo quân viễn chinh về nước để đổi lấy một khoản bồi thường chiến phí dù khoản đó lớn đến bao nhiêu đi nữa ... Việc chinh phục dứt điểm Nam Kỳ sẽ mở rộng ảnh hưởng của Pháp ... Phan Thanh Giản, sứ giả của An Nam đầu tiên và đồng thời cũng là Phó Vương của ba tỉnh còn lại và là Tổng Đốc Vĩnh Long. Tốt hơn hết là chúng ta lôi kéo cho được nhân vật quan trọng này ...” Cuối cùng Napoléon III quyết định hủy bỏ tạm ước.Tuy nhiên, về phía triều đình Huế, Vua Tự Đức lại cử Phan Thanh Giản làm Khâm Sai Đại Thần ở ba tỉnh miền tây và tiếp tục thi hành lệnh giải giới quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn. Kết quả của hành động này giúp Pháp chóng và dễ dàng thôn tính nước ta mà trước mắt là chiếm ba tỉnh miền tây: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên khiến Phanh Thanh Giản đã không thể làm gì hơn là bỏ trống thành cho Pháp rồi tự vẫn. MẤT BA TỈNH MIỀN TÂY: PHANH THANH GIẢN TUYỆT THỰC TỰ VẪN Tờ mờ sáng ngày 17.6.1867, Tướng Pháp De Lagrandière hội 1400 quân tại Định Tường rồi kéo qua vây hãm Thành Vĩnh Long đồng thời trao tồi hậu thư buộc Phan Thanh Giản dự cuộc hội đàm ngay trên tầu của Pháp.Cuộc hội đàm diễn ra ngắn ngủi và bất lợi, cụ Phan xin đình lại để hỏi ý kiến Triều Đình. Lợi dụng lúc cụ Phan xuống tầu điều đình, quân Pháp đổ bộ chiếm thành Vĩnh Long. Rồi những ngày kế tiếp, quân Pháp kéo rốc xuống chiếm An Giang và Hà Tiên một cách dễ dàng. Trong tình cảnh đó, cụ Phan ung dung vào ngụ trong một chòi tranh và bắt đầu tuyệt thực.Thật đúng là thái độ của bậc hiền nho, quân tử: “thung dung tựu nghĩa” có nghĩa là bình thản đón cái chết cho tròn nghĩa. Triều đình Huế nhận được tin mất ba tỉnh miền tây bèn gửi chiếu chỉ vào bãi chức cụ và cho đục tên cụ trên bia tiến sĩ ngoài Huế để trút hết trách nhiệm của triều đình lên vai cụ. Cuộc tuyệt thực kéo dài tới 17 ngày mà cụ vẫn chưa chết. Có lẽ nỗi oan ức phải nín lặng đã khiến cụ không dễ gì nhắm mắt. Cuối cùng cụ phải uống thuốc độc và ra đi vào lúc nửa đêm mồng 4 rạng mồng 5 tháng 7 năm Đinh Mão (1867); lúc đó cụ được 72 tuổi. Linh cữu của cụ Phan được đem về mai táng tại làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre.Rất nhiều quan An Nam và Pháp tới phân ưu. Cụ Tú Tài Nguyễn Đình Chiểu ở Chợ Ba Tri làm một bài thơ khóc cụ, coi cụ như một vị trung thần vị quốc vong thân. Non nước tan tành hệ bởi đâu? Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu Ba triều công cán vài hàng sớ Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu Trạm bóng ngày chiều, tin điệp vắng Thành Nam, đêm quạnh bóng quyên sầu Minh tinh chín chữ lòng son tạc Trời đất từ đây mặc gió thu
Sau khi cụ Phan mất, các con của cụ là Phan Tôn, Phan Liêm vâng lời di chúc tuyệt đối không hợp tác với Pháp mặc dầu người Pháp hứa ban cho nhiều bổng lộc. Hơn thế nữa, hai ông còn đứng lên gọi đàn, tổ chức nghĩa quân kháng Pháp tại Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre. Sau đó hai ông ra Hà Nội chiến đấu trong hàng ngũ của Nguyễn Tri Phương. Hai ông bị bắt làm tù binh ngày 20.11.1873, rồi được trao trả cho Triều Đình Huế sau Hòa Ước năm Giáp Tuất (1874). Cụ Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ lòng cảm phục nghĩa khí của Phan Liêm, Phan Tôn qua 10 bài thơ điếu Phan Công Tòng Tử Nghĩa ở Giồng Gạch. Trích mấy câu như sau: Trống nghĩa Bảo An nghe sấm dậy Cờ đề Công Tử guộng mây qua Trái với sự dự đoán của Pháp, sau khi cụ Phan qua đời, nghĩa quân nhiều nơi, hết nhóm này tới nhóm khác, liên tục nổi lên chống Pháp như Đinh Sâm ở Láng Hầm, Phong Điền, Cần Thơ; Phan Lữ, cháu cụ Phan tử trận tại làng Phù Ngải, huyện Bảo An, Bến Tre. Ngày 16.6.1868, Nguyễn Trung Trực nổi lên ở Rạch Giá và Phú Quốc. Năm 1870 đến 1872, Quản Hớn lập chiến khu ở 18 Thôn Vườn Trầu tại Gò Vấp, Hóc Môn, Bà Điểm. Nguyễn Hữu Huân người Định Tường khởi nghĩa từ 1859. Năm 1864 ông bị bắt và bị đày đi Cayenne (Nam Mỹ). Trở về, ông lại tiếp tục chiến đấu. Cuối cùng Nguyễn Hữu Huân bị bắt giải về xử tử tại Bến Tranh, Mỹ Tho ngày 19.5.1875. GÁN GHÉP TỘI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHAN THANH GIẢN. Triều đình Nhà Nguyễn gán ghép tội cho cụ Phan như thế nào? Trước hết phải kể tới sự kiện triều đình Tự Đức gán ghép tội cho cụ. Sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh miền Nam, Triều Đình Tự Đức trút hết trách nhiệm cho cụ về tội để mất thành với những lời buộc tội rất nặng nề như: “Xét phải tội chết chưa đủ che được tội.” và quyết định: “truy đoạt lại chức hàm và đẽo bỏ tên ở bia tiến sĩ, để mãi mãi cái án giam hậu.” Sự thật cụ Phan có đầu hàng Pháp và để mất thành không? Các nhà phân tích sử liệu sau này căn cứ vào tư cách và nhân cách cao quý của cụ Phan để đưa ra kết luận là: Trước họa xâm lược của Pháp, vua tôi triều Nguyễn tỏ ra rất bị động và lúng túng. Trong triều chia ra người chủ chiến, kẻ chủ hòa, người lo chống giữ lâu dài. Vua Tự Đức thì tỏ ra phân vân và có thái độ chủ hòa hơn là chủ chiến nên nhà vua đã cho lịnh “tư cho quan Kinh Lược không đánh nhau với quân Pháp, tự phải rút lui. Tư liệu lịch sử cho thấy Phan Thanh Giản không đầu hàng và không nộp thành cho giặc như miêu tả trong một số tư liệu của Pháp. Việc mất ba tỉnh Miền Tây là hậu quả của chủ trương sai lầm của Vua Tự Đức. Tuy nhiên, năm 1886, Vua Đồng Khánh cho khôi phục nguyên hàm và khắc lại tên cụ trên bia tiến sĩ. Đảng Cộng Sản VN đã lên án cụ Phan và phục hồi danh dự cho cụ như thế nào? Trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945-54, Đảng Cộng Sản VN muốn đưa ra “đấu tố” trên tòa án văn học chính trị một nhân vật điển hình để răn đe tư tưởng chủ hòa của quân, dân, cán, chính.Đảng đã cho Viện Trưởng Viện Sử Học, Giáo Sư Trần Huy Liệu, viết bài lên án cụ Phan. Tháng 10.1963, Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử công bố bài viết tổng kết của GS Trần Huy Liệu với nhan đề “Chúng Ta Đã Nhất Trí về Nhận Định Phan Thanh Giản”.Qua bài đó, Trần Huy Liệu đã lên án cụ Phan rất gắt gao và đầy hắc ám: “Công đức đã bại hoại thì tứ đức [bốn Đức của Vua Tự Đức ban cho cụ Phan: Liêm, Bình, Cẩn, Cán] còn gì là đáng kể?”; “Phan trước sau vẫn rơi vào thất bại chủ nghĩa, phản lại quyền lợi tối cao của dân tộc, của nhân dân.” và “Phan đã dâng hiến thành cho giặc”. Khi Miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản, do những lời kết tội thâm độc đó, tất cả những gì liên hệ đến cụ Phan như thơ văn, đền thờ, tượng đài, tên trường học, tên đường phố, v.v. đều bị các cán bộ hay chính quyền địa phương thẳng tay triệt hạ. Năm 1994, trước những dư luận nổi lên từ nhiều phía trong và ngoài nước yêu cầu phục hồi danh dự cho Phan Thanh Giản, một cuộc hội thảo được tổ chức tại Vĩnh Long có lẽ là vì nơi đây còn di tích của cụ để lại như Văn Miếu và Văn Xương Các (có chân dung của cụ đặt tại đây) trong khu đất Văn Thánh ở Long Hồ.GS Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử VN, đọc bài tổng kêt có đoạn như sau: “Chúng ta đều nhất trí không nên quy kết cho ông cái tội “bán nước' hay “phản bội tổ quốc”. Ngày 16 tháng 8 năm 2003, một cuộc tọa đàm diễn ra tại Saigòn do Tạp Chí Xưa & Nay tổ chức với chủ đề - và cũng chính là nhan đề của cuốn sách - “Thế Kỷ thứ 19: Nhìn Về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản”. Khoảng trên một trăm nhân vật tham dự buổi tọa đàm này trong đó có những cán bộ đảng viên cao cấp như: Võ Văn Kiệt, Trần Văn Giàu, và Trần Bạch Đằng. Không thấy có bài tổng kết nào được đưa ra trong cuộc hội họp này. Tuy nhiên, sau đó, nguyên cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt viết một bài đăng với tựa đề “Những Suy Nghĩ Sau hai cuộc Hội Nghị về Nhân Vật Phan Thanh Giản” trong có đoạn viết: Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, cụ đã tự làm bản án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đòi thanh sạch đáng để lại gương soi cho hậu thế. Sau cuộc tọa đàm tháng 8/2003, tôi đã về thăm mộ cụ PTG và thắp nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ Cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều. [trích bài “140 Năm Sau” của Nguyễn Như Hùng (Santa Clara, CA) đăng trong Đặc San PTG & ĐTĐ Cần Thơ, tr. 23] Như vậy, phải chờ tới 40 năm kể từ cuộc hội thảo lần thứ nhất vào năm 1963 trong đó Trần Huy Liệu gắt gao lên án cụ PTG là “chủ bại”, “phản lại quyền lợi của dân tộc”, “dâng thành, hiến đất cho giặc”, đến năm 2003, Đảng CSVN mới cho Võ Văn Kiệt nói lên lời cải tội cho cụ Phan rằng cụ là người yêu nướcthương dân. Cộng Sản VN có thực tâm phục hồi danh dự cho cụ Phan không?- Không. Vấn đề phục hồi danh dự cho cụ Phan cũng như phục hồi danh dự cho nhóm Nhân Văn Giai Phẩm của cụ Phan Khôi thực ra chỉ là những hành động mà người CS làm cho có hình thức và vì nhu cầu của tình thế cần vuốt ve dư luận bất mãn của đông đảo quần chúng mà thôi. Nên nhớ một sự thật là người cộng sản không bao giờ thật tâm làm bất cứ một điều gì cả. Họ dối trá ngay cả với chính bản thân họ để tồn tại.
TỔNG KẾT Trong hậu bán thế kỷ thứ 19 tức là thời của cụ Phan Thanh Giản, nước ra lâm vào một tình trạng vô cùng loạn lạc: các vua Triều Nguyễn chỉ lo hưởng thụ; triều thần chia rẽ bè phái; nhiều cựu công thần bị bạc đãi; lòng dân bất phục triều đình; nhiều hào kiệt nổi dậy chống triều đình; và đặc biệt là quân Pháp xâm lấn. Phan Thanh Giản là người có tiếng là tài đức vẹn toàn nên được bổ dụng vào nhiều chức vụ quan trọng.Nhưng chính vì các đức “Liêm, Bình, Cẩn, Cán” mà cụ không có tiền để “quà cáp” với các quan trên nên cụ bị nhiều quan trong triều ganh ghét. Đời cụ bị tới năm lần giáng cấp, nhưng cụ vẫn không bất mãn (như trường hợp của Cao bá Quát), không hề ca thán, và cụ vẫn chăm lo phục vụ. Tại sao một viên quan bị giáng cấp nhiều lần như vậy mà vẫn được nhà vua cử làm chánh sứ đi Pháp, đi Trung Hoa? Tại sao không phải là một vị quan nào khác trong hay ngoài hàng ngũ tôn thất? Như vậy rõ ràng cụ phải là một nhân vật độc đáo của thời đại không ai thay thế được: cụ phải là con người bao gồm đủ cả ba đại đức Nhân, Trí, Dũng và đó chính là ba đức lớn của người quân tử, của kẻ Sĩ mà Khổng Tử đã nói tới trong sách Luận Ngữ rằng “có thể đem vận mệnh quốc gia mà giao cho họ; dẫu có gặp nguy hiểm đến tính mạng thì cũng không làm dao động được họ.” Một câu hỏi khác: tại sao cụ không vượt thoát ra ngoài để tiếp tục chiến đấu?- Không, cụ không thể làm như vậy được giản dị là vì những lệnh vua Tự Đức đã ban ra là “hưu binh”, “giải giáp”, và nhà vua còn lệnh cho PTG dụ Trương Định giải tán lực lượng nghĩa binh chống Pháp. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có cái chết mới giải thoát cho cụ cái sứ mạng không thể làm được (mission impossible) là lấy lại các tỉnh miền tây đã lọt vào tay quân Phú Lãng Xa. Nhưng, tại sao cụ lại chọn cái chết kéo dài bằng tuyệt thực mà không tự vẫn ngay với một chén thuốc độc? - Rõ ràng là cụ muốn tỏ ra bình thản đón cái chết - cái mà thường ai cũng sợ - để chứng tỏ với nhóm triều đình khiếp nhược và với bọn quân Pháp hung hãn rằng giống nòi Việt vẫn có những con người coi cái chết nhẹ như lông hồng và không thể khuất phục họ được. Cái chết từ từ đó chính là cái chết mang ý nghĩa trong câu nói “Thung dung tựu nghĩa” vậy. Nhìn lại cuộc đời sự nghiệp của cụ Phan Thanh Giản, chúng ta sẽ có lỗi nếu không làm cho thật sáng tỏ con người của cụ, một con người có đầy đủ phong cách của một bậc hiền nhân, quân tử không tì vết. Cụ quả có dư điều kiện để xứng đáng phải được vinh danh là một danh nhân trên thế giới như trường hợp của cụ Nguyễn Trãi đã được UNESCO của Hiệp Quốc năm 1980 công nhận là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới.
HẢI BẰNG HOÀNG D. BÌNH (Arizona)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2019 3:11:02 GMT 9
Sao người Việt lót “thị” cho gái, lót “văn” cho trai?29/10/2018 Văn hoá/Xưa Dansaigon Cùng tìm hiểu tại sao người Việt lót “thị” cho gái, lót “văn” cho trai? 1. Thị Nói tới thị xin mọi người trở về cái thời hồng hoang, ăn lông ở lổ của bộ lạc và thị tộc. Xã hội khi đó rất lạc hậu nên cần người, sanh đẻ rất khó nuôi, thành ra vai trò người đờn bà rất quan trọng. Thị tộc mẫu hệ là hình thức thị tộc đầu tiên và phổ biến của xã hội loài người. Người phụ nữ có vai trò lớn, là người đứng đầu gia đình và các thị tộc. Thị tộc phụ hệ là giai đoạn kế tiếp thị tộc mẫu hệ, ra đời từ thời kỳ đồ đá. Dân tộc Việt phải nhắc tới Hồng Bàng Thị (鴻龐氏) dịch ra là họ Hồng Bàng, nhưng ý nghĩa ban đầu là “người mẹ Hồng Bàng”. Bên Tàu có, như: “Phục Hi thị” 伏羲氏, “Thần Nông thị” 神農氏, “Cát Thiên thị” 葛天氏, “Hữu Hỗ thị” 有扈氏 cũng là kiểu này. Nữu Hỗ Lộc thị thời nhà Thanh là một trong bát kỳ, Sùng Khánh Hoàng thái hậu dòng tộc Nữu Hỗ Lộc thị là thân mẫu của Càn Long Hoàng đế. Hòa Thân, một nhân vật đầy quyền lực cũng thuộc Nữu Hỗ Lộc thị. Thị là một danh xưng mặc định cho người đờn bà. Cả Tàu lẫn Việt đều chỉ đại từ nhơn xưng ngôi thứ ba số ít chỉ phụ nữ là”y thị”. Thành ra có những cách gọi, xưng hô đờn bà như bà Trần Thị,Nguyễn Thị,Lý Thị, Vương Thị. Nên nhớ Việt tộc là một tộc khá cá biệt của thế giới văn minh, chúng ta theo chế độ mẫu hệ dài hơn người Tàu nữa, Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh là bằng chứng. Tôi đã từng nói Việt tộc ta trường tồn là có một phần “mẫu hệ”, nhờ mẫu hệ mà 1000 năm bị Tàu đô hộ ta không mất gốc. Cái chế độ mẫu hệ ở Việt Nam ta từ hồi Bà Trưng, Bà Triệu và tới nay đã là phụ hệ khi con mang họ cha. Tuy nhiên con mang họ cha là lý thuyết thôi, trong gia đình quyền lực của các bà vẫn bao trùm. Đọc thêm Chuyện Ông Lãnh và 5 bà vợ nức tiếng Sài Gòn Cái câu “Hỏi má mày” nghe trong xóm làng hơi bị nhiều. Ông bà xưa VN ta có câu : ”Mua heo chọn nái mua gái chọn dòng” là vì thế. Người Việt mình rất nhơn văn, không có tục bó chưn đau đớn như Tàu, chẳng có tục tùy táng người hầu, vợ lẽ sau khi chết… Việt cổ có tục xâm mình ,ăn trầu và nhuộm răng đen. Người Việt đặt tên con gái thì bưng nguyên chữ 氏 thị vô làm chữ lót một cách bất di bất dịch. Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu Tống Thị Lan, bà là chánh thất vua Gia Long, là mẹ đẻ của hoàng tử Cảnh. Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc –tên thường gọi là Bà Từ Cung là thứ thất của vua Khải Định –mẹ của vua Bảo Đại… rồi bà Nguyễn Hữu Thị Lan, bà Bùi Thị Xuân, Ngô Đình Thị Hiệp… Người Việt đặt lót thị nhiều chứ người Tàu không thấy kiểu này. Nói vầy cho dễ hiểu nè, Việt đặt là Bành Thị Chơi,Tàu đặt tên là Bành Sướng Chơi và Tàu kêu thông dụng là bà Bành thị. Không phải con gái là cứ đặt thị, có người không lót chữ thị, tùy ý thích thôi. Thí dụ như : Bà Đạm Phương nữ sử tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh là cháu nội vua Minh Mạng. Ca sĩ Quỳnh Giao tên thiệt là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang là cháu sơ vua Minh Mạng. Nhưng lại có bà Tôn Nữ Thị Ninh. Cái tên này hay nè? Công Tằng Tôn Nữ Tạ Thị Đánh Đu Tòn Ten Bong Lòng Đèn Lấp La Lấp Lánh Như Ánh Thuỳ Dương Ta nghe Thị Mẹt, Thị Màu, Thị Nở, Thị Hết, Thị Bẹt là một dạng gọi trỏng của người VN. Nhưng thị cũng là một cái họ riêng dù hiếm hoi. Vua Minh Mạng cho người Khmer họ Thị Kết luận: Lót chữ thị 氏 là dấu vết và nhắc nhớ tới mẫu hệ của Việt tộc ta. 2. Văn Văn ra đời sau chữ thị vì phụ hệ đi sau mẫu hệ. Trong Nho giáo xưa thì học là giỏi, trau dồi học vấn,văn ôn võ luyện. Võ thì mạnh bạo, nhưng sát phạt, không dám khoe, văn thì phải khoe. Ông bà ta quan niệm học hành thi cử tiến thân. “Trai nam nhơn thi chữ Gái thục nữ thi tài” Chữ 文 Văn xuất xứ đầu tiên nghĩa là “chữ”. Chữ tượng hình là chữ bắt chước hình tượng các loài mà đặt ra kêu là “văn” 文, gộp cả hình với tiếng gọi là “tự” 字. Văn tự là chữ viết, thành ra ta có Anh Văn, Pháp Văn,Hoa Văn… Văn còn là“văn minh” 文明, “văn hóa” 文化. Người xưa tôn thờ sao Văn Xương, Văn Khúc vì tượng trưng cho thông minh, hiếu học, học giỏi, văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, thành đạt. “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em đợi, mười thu em chờ” Người Việt thích lót chữ văn cho con trai là muốn con mình học giỏi, thi đậu, thành đạt. Các bạn nên hiểu là bên Tàu cũng có lót chữ văn, tuy nhiên không nhiều như Việt mình, thí dụ Triệu Văn Trác, Mã Văn Tài. Nhưng con gái mà tên Phạm Văn Phương thì cũng lạ. Văn cũng là một cái họ khá phổ biến của người Tàu và VN, thí dụ Văn Thiên Tường. Nhưng cũng như thị, người Việt không phải cứ con trai là lót chữ văn. Thí dụ như Hồ Quý Ly có con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương. Nhà Lê Sơ, con cháu Lê Lợi đặt tên là Lê Nguyên Long, Lê Bang Cơ, Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành… Chúa Nguyễn thì lót chữ Phúc cho con, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Khoát… Vua Minh Mạng thì làm bài phiên hệ “Miên-Hường…” đặt cho con. Họ Ngô thì lấy chữ Đình lót cho con: Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm… Túm lại: Chữ lót văn là như vậy đó “Đêm qua chớp bể mưa nguồn Hỏi người tri kỷ có buồn hay chăng Cá buồn cá lội tung tăng Em buồn em biết đãi đằng cùng ai?” Nguyễn Gia Việt/Dansaigonxua
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:35:21 GMT 9
TỤC NGỮ, PHONG DAO VÀ ĐỊA VỊ CỦA NÓ TRONG VĂN HỌCPhan Khôi Người ta hay nói tục ngữ luôn với phong dao. Nhưng hai thứ đó khác nhau cả về hình thức và về tinh thần. Nay hẵng xét về tục ngữ trước. Tục ngữ hay ngạn ngữ là những câu ngắn, ghép từ bốn chữ giở lên đến mười mấy chữ là cùng, mỗi câu có một ý nghĩa dạy về luân lý thông thường, mà không rõ tác giả của nó là ai. Thật thế, mỗi một thứ tiếng trên thế gian đều có những câu tục ngữ mà không biết ai đặt ra cũng không biết lưu hành từ đời nào. Người ta cho nó là những điều từng trải của cả một dân tộc đã được thể hiện ra bằng lời nói, và, sau khi lọc lõi, đã được công nhận là đúng rồi mới lưu truyền lại. Không nên lẫn lộn tục ngữ với “thành ngữ”. Trong thứ tiếng nào cũng lại có những lời lập thành, tiện dụng trong khi nói hoặc viết, hình thức của nó không khác tục ngữ mà thực ra không phải tục ngữ. Những lời ấy có tên riêng là thành ngữ. Không gì tiện bằng theo cái nguyên tắc này để phân biệt hai thứ ấy: hễ câu nào có ý nghĩa về luân lý hoặc cạn hoặc sâu mới là tục ngữ; còn câu nào để diễn đạt một ý tưởng hình dung một trạng thái thì chỉ là thành ngữ mà thôi. Vậy những câu như: Bỏ chín làm mười; Nợ hư chúa Chổm; Trông như trông mẹ về chợ,... đều là thành ngữ không phải tục ngữ, vì chính nó không có dạy ta một luân lý nào. Lại cũng không nên nhận cho “phương ngôn” tức là tục ngữ. Hai danh từ này khác nhau xa lắm, bởi nó là hai vật. Phương ngôn để chỉ những tiếng nói riêng của một xứ một miền đồi với “quốc ngữ” là tiếng nói chung của một nước. Vậy như trong tiếng ta, cha, mẹ là quốc ngữ, mà ở Bắc Kỳ cũng có gọi cha bằng bố, gọi mẹ bằng bầm, bằng u, Nam Kỳ cũng có gọi cha bằng tía, gọi mẹ bằng má thế thì những tiếng bố, bầm, u, tía, má đều kể là phương ngôn của hai xứ Bắc và Nam Kỳ. Phương ngôn chỉ là một danh từ để phân biệt về tiếng nói như vậy thì rất không đáng đem mà hiểu làm một với tục ngữ vậy. *** Tục ngữ nước ta theo hình thức mà chia, có hai loại: một là những câu không vận, một là những câu có vận. Những câu không vận về phần ít, như: ngọt mật chết ruồi; nương đâu nát giậu đó; ăn trái nhớ kẻ giồng cây v.v... đại khái đều là những câu không quá mười chữ.
Những câu có vận lại chia làm hai: một là yêu vận, vận ở giữa lưng câu; một là cước vận, vận ở cuối câu. Như: ăn xưa chừa nay; ăn cây nào rào cây ấy; chó cậy gần nhà, gà cậy gần vườn: vận ở những chữ xưa, chừa, nào, rào, nhà, gà, đều ở giữa lưng câu. Lại như trèo cao té đau; chữ tài liền với chữ tai: đau ở cuối câu vần với cao, tai ở cuối câu vần với tài.
Tục ngữ dùng cước vận thuộc về phần rất ít. Hầu hết những câu có vận đều dùng yêu vận, nhất là những câu dài. Như: cha mẹ nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệp nói thừa; khôn cho người ta giái, dại cho người ta thương, đừng lương ương người ta ghét.
Tục ngữ có vận, cái đó hình như cũng là một cái đặc sắc của tục ngữ nước ta. Trong tiếng Tàu hay tiếng Tây tục ngữ phần nhiều không vận mà có vận lại là phần ít.
***
Theo tính chất mà chia, tục ngữ có hai loại: một là quan hệ với luân lý, một là quan hệ với lịch sử. Loại trước thuộc về phần nhiều, loại sau chỉ là phần ít.
Trong loại tục ngữ quan hệ với luân lý lại có thể chia làm hai hạng: một là những câu bản lai nó là tục ngữ; một là những câu vốn là câu thơ mà về sau thành ra tục ngữ. Hạng trước tức là tục ngữ thường, không phải giải thích; chỉ giải thích hạng sau.
Trong tiếng Pháp có những tục ngữ vốn là câu thơ của thi nhân nào đó bởi truyền tụng lắm mà về sau thành ra, người ta gọi là “des vers passés en proverbes”, thì trong tiếng ta cũng vậy. Như câu chữ tài liền với chữ tai vừa kể trên và câu khi nên trời cũng chiều người nguyên là câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà bây giờ đã trở nên tục ngữ rồi. Lại câu thương người khác thể thương thân, người ta thường nhắc đến, ai cũng tưởng là tục ngữ bản lai chứ không ngờ nó vốn là câu trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi. Ấy cũng như câu dẫu xây chín cấp phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người, là một câu trong truyện Quan Âm Thị Kính mà ngày nay đã trở nên câu phong dao, đàn bà trẻ con dùng làm câu hát thường.
Còn những tục ngữ có tính chất lịch sử, tức là những câu được đặt ra do một việc nào đó xảy ra có quan hệ đến quốc gia xã hội, bắt đầu lưu hành ở nhất thời mà mãi về sau lưu truyền đến hậu thế. Những tục ngữ thuộc về hạng này không phải hiếm, chỉ vì sử sách thất truyền, nên bây giờ ta khó mà tìm ra lai lịch đó thôi.
Thôi kể ra đây một ít câu có quan hệ với lịch sử gần nay. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc vào Nam khuyên Nguyễn Văn Huệ đem binh ra đánh Bắc, thì người Bắc đều mắng Chỉnh là thằng cõng rắn cắn gà nhà. Lúc Nguyễn Văn Nhạc cùng Văn Huệ là em ruột đánh nhau tại Quy Nhơn, Nhạc ở trên thành nói xuống với Huệ rằng: “Nồi da xáo thịt, lòng em sao nỡ!” Người ta cho hai câu tục ngữ ấy bởi hai việc trên lịch sử ấy mà thành ra.
Tuy vậy, hai câu ấy còn có thể ngờ được rằng nó vốn có từ xưa mà trong lúc đó được đem ra dẫn dụng; chữ đến những câu này thì mới tin được rằng quả bởi thực sự đương thời mà sinh ra.
Dưới triều Chúa Nguyễn Duệ Tôn, Trương Phước Loan làm Quốc phó, nắm cả binh quyền trong tay, làm ra nhiều việc tham tàn bạo ngược, nhân dân trong xứ vì oán họ Trương mà không phục cả triều đình. Thừa dịp ấy, anh em Nguyễn Nhạc dấy binh đánh Phước Loan, nhân “bắt cóc” được Hoàng Tôn Dương đem về tôn làm minh chủ để hiệu lệnh trăm họ, nên người bấy giờ đều hướng về Tây Sơn mà không tự biết. Mỗi khi quân hai bên kéo đi đánh nhau ở đâu, người ta bảo nhau rằng: Binh triều, binh Quốc phó; binh ó binh Hoàng Tôn, thế rồi câu ấy trở nên câu tục ngữ lưu hành trong một thời và, đến bây giờ còn chép trong sử sách (bình ó là binh không có huấn luyện kỷ luật gì, chỉ đông người la ó lên, như nói “binh ô hợp”).
Trong vòng ba mươi năm nay ở xứ ta cũng có hai việc lớn quan hệ về quốc gia, tức là vua Thành Thái bị phế và lăng vua Dực Tôn bị phạm, thì do đó đã sinh ra câu tục ngữ phế quân không Khả, đào mả không Bài. Bởi việc này gần đây có nhiều người biết rõ nên ở đây không cần tường thuật làm chi.
Những tục ngữ có tánh chất lịch sử ấy không có công dụng bằng những tục ngữ thông thường. Trong khi nói chuyện hay làm văn người ta có thể trưng dẫn những tục ngữ thông thường để làm chứng cho lời lẽ của mình được; nhưng đến tục ngữ có tánh chất lịch sử thì chỉ khi nào nhắc đến đoạn lịch sử có quan hệ với nó mới trưng dẫn được mà thôi.
Tôi muốn kết thúc đoạn trên này bằng một cái biểu phân loại cách sơ lược hầu cho tỉnh mắt độc giả: (xem hình ở comment)
***
Phong dao tức là những câu hát người ta thường hát trong khi làm cỏ, hái dâu, chèo đò, giã gạo, ru em... Nó làm bằng thể lục bát, là một văn thể riêng của tiếng Việt Nam; ngày nay muốn tìm nguồn gốc của lục bát ở đâu ra mà tìm không được, rốt cuộc chúng ta phải nhận những câu phong dao là tổ của văn thể ấy. Cái danh từ ấy do chữ Hán: phong là phong tục, dao là hát. Vậy phong dao là những câu hát mà trong đó có ghi lấy ít nhiều dấu vết của phong tục trong một nước hoặc một miền.
Phong dao cũng như tục ngữ, không rõ ai là tác giả. Phần nhiều câu phong dao chuyên một mặt tả tình. Đại khái đời xưa có những người nhân việc gì cảm xúc, bèn đặt ra câu hát để tả tâm tình của mình; mà rồi câu hát ấy lọt vào tai những người khác cũng cảm được tâm tình của họ, thành thử đắp đổi truyền miệng cho nhau và lưu hành đến ngày nay.
Thử cử ra một câu làm lệ:
Ngó lên ngó xuống thì vui, Ngó về quê mẹ ngùi ngùi nhớ thương!
Câu ấy chắc bởi người nào vì ở xa mẹ mà làm ra. Nhưng cái lòng nhớ thương ấy ai ai cũng có nên ai ai nghe đến câu hát cũng phải biểu đồng tình và lắp đi lắp lại, ngâm nga phúng tụng như của mình đặt ra. Vả, phong tục của một nước có chuộng điều hiếu thảo, người ta có đồng tình cho sự thương mẹ là một nết tốt thì câu ấy mới được nhận là câu hát hay mà lưu truyền lại chứ. Thế thì câu hát chẳng phải ghi dấu vết của phong tục là gì.
Trong hạng phong dao tả tình ấy, những câu nói về trai gái hay vợ chồng chiếm một phần lớn, chẳng khác trong Quốc phong của Kinh Thi bên Tàu những bài thơ tình chiếm số nhiều. Phong dao cũng có những câu dạy luân lý, nói chính trị, từ quốc gia triều đình đến sĩ nông công thương, hầu hết mọi phương diện trong xã hội, chẳng nhiều thì ít, không có một phương diện nào là thiếu sót. Lại có những câu hát trẻ con là thứ phong dao có vẻ tự nhiên và ngộ nghĩnh vô cùng. Chưa nói đến cái hay, chỉ nói cái nhiều, cũng đủ thấy chỗ đặc sắc của phong dao xứ ta.
***
Ngoài những câu quan hệ với phong tục, luân lý, phong dao còn có những câu giống như tục ngữ, có tính chất lịch sử nữa. Ấy là bởi thuở xưa, khi nhân dân trong nước đang tha thiết về một ý nguyện gì hay muốn kỷ niệm một việc chi, có kẻ nhân đó đặt ra câu hát mà rồi câu hát ấy được lưu truyền mãi đến ngày nay. Chính trong một câu phong dao đã gọi sự lưu truyền như thế là “ngàn năm bia miệng”! Thử kể một vài câu:
Nhông nhông ngựa ông đã về, Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn.
Truyền rằng lúc vua Lê Thái Tổ khởi binh đánh đuổi người Minh, từ Thanh Hóa kéo quân ra Hà Nội, đóng binh tại bãi Bồ Đề là nơi bờ sông Nhị Hà về mạn Gia Lâm ngày nay, nhân dân hoan nghênh quân đội của ngài, vui lòng cắt cỏ nộp để ngựa ăn hàng ngày nên mới có câu hát ấy.
Lạy Trời mau thổi gió nồm Cho thuyền chúa Nguyễn thuận buồm chạy ra!
Đó là câu hát của dân gian xứ Thanh xứ Nghệ về cuối đời Tây Sơn, vì không chịu được chánh lệnh hà khắc của Nguyễn Quang Toản nên mong vua Gia Long mau mau đem binh ra cứu vớt mình khỏi cảnh lầm than.
Thương em, anh cũng muốn vô Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang Phá Tam Giang ngày rày đã cạn Truông Nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm...
Đó là câu người ta ghi nhớ công ơn ông Nguyễn Khoa Đăng, quan Nội tán dưới triều chúa Hiển Tôn, đã làm nên những việc tiện lợi cho dân được nhờ.
Có những câu phong dao tất nhiên có quan hệ về lịch sử mà vì lâu ngày sự tích thất truyền, làm cho ta đọc đến không hiểu nói gì. Như câu:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Con bế, con bồng, con dắt, con mang. Bò đem húc lộn bò vàng, Hai con húc chắc đâm quàng xuống sông.
Thằng bé chạy về bảo ông:
Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi!
Câu này thấy chép trong sách Thanh Hóa quan phong của Vương Duy Trinh, [c] ngày nay người đàng ngoài cũng thường hay hát đến. Nhưng nghĩa nó thế nào thật chưa hề có ai cắt được ra.
Còn có một thứ câu hát lưu hành trong một thời, ý nghĩa giống như một câu sấm, như một lời tiên tri, mà về sau cũng thường hay ứng nghiệm. Những câu như thế không gọi phong dao mà gọi là “đồng dao”.
Đồng dao nghĩa là câu hát của trẻ con. Luận về đồng dao, trong một cuốn sách xưa của người Tàu có nói rằng: “Khi trong nước sắp có sự biến loạn thì ngôi sao huỳnh hoặc trên trời sa xuống biến làm đứa con nít, truyền những câu hát ám chỉ về sự biến loạn sắp xảy ra. Những con nít khác bắt chước hát theo, rồi câu hát dần dần truyền khắp...”. Ấy là lời hoang đàng, không thể tin được.
Nhưng những câu đồng dao mà về sau được ứng nghiệm thì trong sách thỉnh thoảng thấy cũng có chép.
Như lúc Hậu Lê trẻ con hay hát câu này:
Tây sang rồi Tây lại về Giặc đến Bồ Đề rồi giặc lại tan
Câu ấy đến hồi cuối Cảnh Hưng đầu Chiêu Thống thì đã được ứng nghiệm. Anh em Tây Sơn kéo binh ra Thăng Long rồi lại kéo về, và Tôn Sĩ Nghị đem mấy muôn binh đến đóng tại bãi Bồ Đề thì bị Nguyễn Huệ đánh tan vỡ mà chạy.
Lại trước đây đây xứ ta có lưu truyền câu này:
Bao giờ sen mọc biển Đông, Cha con nhà Nguyễn ẵm bồng nhau đi.
Thì người ta cũng cho là đã được ứng nghiệm. Nó chỉ vào việc vua Thành Thái và vua Duy Tân bị đày ra hải ngoại trong lúc đâu đâu cũng thấy có một thứ bèo mà tục kêu là “sen Nhật Bản”.
Nếu những câu đồng dao quả có ứng nghiệm thì nó cũng là một cái hiện tượng lạ giữa vũ trụ và ở trong phạm vi học vấn của chúng ta, chúng ta không có thể cho là dị đoan mà không nghiên cứu vậy.
II
Phần trước lược giải về tính chất của tục ngữ phong dao. Đây nhẫn sau gióng theo từng đặc điểm của văn học mà chỉ rõ ra tục ngữ phong dao cũng có đủ những đặc điểm ấy để chứng minh rằng nó chiếm một địa vị rất cao trong văn học.
Người Việt Nam ta thuở xưa không có một quan niệm chân xác về văn học; vả lại lúc bấy giờ cái công cụ dùng làm văn học là chữ Hán, không phải quốc âm; thế mà trong tục ngữ phong dao lại trình bày ra đủ các ngón kỹ thuật về văn học: há chẳng phải là một sự lạ? Cho được cắt nghĩa điều đó, nếu chẳng nói là bởi cái sức hoạt động tự nhiên của một thứ ngôn ngữ văn tự hay là bởi cái bản năng của một dân tộc thì chẳng còn biết nói làm sao.
Ngày nay mỗi lần chúng ta nhắc đến những câu tục ngữ phong dao mà chúng ta cho là hay thấm thía, là mỗi lần chúng ta lặp đi lặp lại nó không nhàm và cứ nắc nỏm khen người xưa khéo đặt, chúng ta khen hay nhưng không hiểu tại sao mà hay. Ở đây tôi có dịp giải thích rằng một câu tục ngữ, một câu phong dao mà hay, là tại nói có hàm súc ít nhiều ý nghĩa về văn học chữ không có gì khác.
***
Muốn thấy rõ điều đó, trước phải biết qua thế nào là cái ý nghĩa văn học.
Chúng ta nói hay viết bằng một thứ ngôn ngữ văn tự nào, là để biểu cái tình của mình, đạt cái ý của mình. Bình thường, sự biểu tình đạt ý chí cần cho vừa đủ hiểu nhau là được. Nhưng khi nào ta biểu tình đạt ý bằng một cách có lý thú hơn, xuất sắc hơn, làm cho ngoài sự hiểu nhau lại còn sinh ra mỹ cảm nữa, ấy là khi ta đã bước sang địa phận của văn hóa rồi.
Cái ý nghĩa văn học là thế đó. Nó là sự biểu tình đạt ý khác với bình thường, có lý thú, xuất sắc, làm nẩy được mỹ cảm.
Thử lấy một cái lệ chứng cho dễ hiểu. Khi ông đọc một bổn nhật ký, thấy dưới một ngày mùa đông, tác giả chép: “Hôm nay trời lạnh lắm; mặt trời lặn lúc năm giờ rưỡi chiều, thì ông có cảm tưởng ra sao?” Tôi chắc rằng ông hiểu tác giả muốn nói gì rồi, nhưng dễ thường không có một cảm tưởng gì thoáng qua trong khi ông đọc câu ấy hết, vì câu ấy không đủ sinh cho ông một cảm tưởng. Trái lại, cùng một ý muốn đạt mà câu thơ Xuân Diệu trong tập Thơ Thơ vừa xuất bản: “Hôm nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm” nếu ông có đọc đến, ông phải lấy làm khoái chá lắm. Hẳn ông cũng như tôi, đến câu ấy, phải ngừng lại một vài giây mà khen lao tác giả.
Thế thì rõ lắm rồi. Câu của bổn nhật ký là sự đại ý theo bình thường còn câu thơ Xuân Diệu là sự đạt ý đầy lý thú, xuất sắc, cảm được ông và tôi, chính nó là văn học.
Thâm hơn nữa, câu nhật ký là chất mà câu thơ Xuân Diệu là văn. Chất, phải nói theo sự thực, mặt trời lặn thì nói “lặn”. Còn văn, có thể nói sai sự thực, miễn không hại thì thôi, nên không nói “lặn” mà nói “đi ngủ”. Chỉ có người ta mới đi ngủ. Xuân Diệu làm mặt trời hóa ra người ta, đồng loại với ông và tôi nên chúng ta dễ cảm hơn.
Cho mặt trời đi ngủ cũng như cho con cáo biết nói, hòn núi biết gục đầu, những đóa hoa biết hôn nhau: ấy là một kỹ thuật của văn học, người ta gọi bằng nhân hóa hay nhân loại hóa.
Trong tục ngữ phong dao cũng từng có một đôi khi nhân loại hóa như vậy.
“Cơm tẻ mẹ ruột”, làm hột cơm ra một người thân thiết nhất với chúng ta: “nói như nói với đầu gối”, làm đầu gối ra một người dại.
Lại như: “Non xanh bao tuổi mà già, vì chưng sương tuyết hóa ra bạc đầu”. Khi chúng ta đọc câu phong dao này, không tưởng hòn núi là hòn núi nữa mà tưởng hòn núi là một trang thanh niên: một trang thanh niên vì đã trải qua nhiều cảnh gian nan ưu hoạn, làm cho trán nhăn tóc bạc đi, người già trước tuổi.
***
Văn học còn có một kỹ thuật nữa là làm cho trong một câu nói, lời ít mà ý nhiều. Tục ngữ phong dao thật đã đạt được mục đích ấy.
Như: theo thường tình, những kẻ nào đương ở trong vòng hoạn nạn khốn đốn mà khai ra sự hoạn nạn khốn đốn của mình thì thường là nói thêm, nói gian, không thật. Cái ý hơi phiền phức, dông dài, khó biểu thị lắm, nhưng tục ngữ chỉ tóm lại trong bốn chữ “tù van đĩ khóc” là đủ rồi. Lại, theo thường tình, những người giàu, những kẻ làm quan sang thì hay mần ngơ với những việc xảy ra chung quanh mình, vì sự phiền lụy đến mình, không muốn can thiệp tới. Cái ý ấy, tục ngữ cũng chỉ phát biểu bằng bốn chữ “Giầu điếc sang đui” là đủ rõ.
***
Văn học còn có một kỹ thuật nữa là làm cho những ý trừu tượng hóa ra vật cụ thể. Cái kỹ thuật này hệ trọng lắm. Vì cái gì cũng vậy, hễ nói là trừu tượng thì người xem phải nhọc trí lắm mới hiểu: mà đã làm nó ra cụ thể thì xem qua khắc hiểu, vả lại có phần thích thú hơn.
Như thương hại một người kia không có quyền lợi gì mà nhỡ gặp phải tai vạ lại là tai vạ lớn (như chức lý trưởng chẳng hạn). Ấy là một ý trừu tượng khó làm cho người hiểu một cách thân thiết. Tục ngữ bèn làm ra cụ thể mà nói rằng “Quyền rơm vạ đá”. Nhờ chữ “rơm” và chữ “đá” là vật có trước con mắt và sự khinh trọng của nó phản nhau, làm cho cái ý rõ rệt ra và trở nên đẹp đẽ thêm. Câu “miệng hùm gan sứa” cũng thế, cũng là một câu làm ra cụ thể do cái ý trừu tượng rằng khinh bỉ một người nào đó nói lời bạo dạn mà kỳ thật nhát gan.
Văn học còn có một kỹ thuật nữa là dùng lối phản ngữ, nghĩa là nói trái lại, vốn khen mà chê, vốn chê mà khen, tức tiếng. Pháp gọi là “ironie”. Cái lối phản ngữ này thường thấy trong nhiều câu phong dao.
Như:
Ở đời Kiệt, Trụ sướng sao, Có rừng nem béo, có ao rượu đầy. Ở đời Nghiêu, Thuấn khổ thay, Giếng đào mà uống, ruộng cầy mà ăn.
Mới nghe qua, như là tác giả hâm mộ đời Kiệt, Trụ và hờn ghét đời Nghiêu, Thuấn. Nhưng trái lại, tác giả nói thế chỉ để cho độc giả hiểu rằng cái khổ ấy mới thật là cái sướng, còn cái sướng ấy thật ra chỉ là cái khổ mà thôi.
Dùng phản ngữ đến như câu phong dao này mới thấy tài tình:
Đồn rằng quan tướng có danh, Cỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai. Ban khen rằng ấy mời tài, Ban cho cái áo với hai đồng tiền. Đánh giặc thì chạy vào tiên, Xông vào trận tiền cổi khố giặc ra. Giặc sợ, giặc chạy về nhà; Giở về gọi mẹ mổ gà khao quân.
Làm một ông tướng đánh giặc, chỉ vì “cỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai” mà “có danh”, thì cái danh ấy nó to tát và xứng đáng là dường nào! Ông tướng đã thế thì “ban hai đồng tiền” và “mổ gà khao quân” là sự tự nhiên lắm!
Cũng chưa bằng:
Ngồi buồn đốt một đống rơm, Khói lên nghi ngút chẳng thơm chút nào! Khói lên thấu đến Thiên Tào, Ngọc hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm?
Tôi không biết cái tâm tư, cái trí não của người tác giả câu này làm bằng gì mà nghĩ ra được cái điều rất nỗi oái oăm đến thế! Đốt rơm thì thơm sao được mà lại còn phải nói “chẳng thơm”! Ra gì thứ đốt rơm mà cũng động phiền đến “Ngọc hoàng phán hỏi”! Ai từng trông thấy những cuộc cách mạng không đáng gọi là cách mạng mà cũng bị pháp luật trừng trị cho thẳng tay, thì mới biết câu phong dao này dùng một lối phản ngữ có ý sâu sắc đến bậc nào!
***
Văn học còn có một kỹ thuật nữa là bỡn chữ, tiếng Pháp gọi là “à jeu de mots” nghĩa là dùng những chữ đồng âm dị nghĩa hoặc dị âm đồng nghĩa mà đối chọi nhau để nẩy ra một ý ngộ nghĩnh. Lối này thì trong phong dao ta hay dùng đến lắm.
Như:
Trăng bao nhiều tuổi trăng già? Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? Đầu năm ăn quả thanh yên, Cuối năm ăn bưởi, cho nên đèo bòng.
Tác giả khéo vận dụng những chữ: trăng già, núi non, thanh yên, bưởi, đèo bòng mà thành ra câu hay, chứ kỹ thuật trong đó không có ý nghĩa gì cho lắm.
Nhưng cũng dùng lối bỡn chữ mà như câu này thì hay đến tuyệt đích vì ngoài sự dùng chữ khéo léo còn có ý vị sâu cay:
Bà già đi chợ Cầu Đông,
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Ông thầy xem quẻ đoán rằng:
Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn!
Văn học sử ta ngày xưa chuyên trọng về mặt kinh điển và điển cố. Về mặt ấy, phong dao cũng không chịu bỏ sót, có nhiều câu cũng lấy ở kinh, truyện, sử sách mà làm ra. Như những câu:
− Ai về nhắn họ Hy, Hòa,
Nhuận năm, sao chẳng nhuận và trống canh?
− Em là con gái kẻ Đằng,
Bên Tề bên Sở, biết rằng theo ai!
− Chuổi cùn cắp nách khăng khăng,
Có ai hỏi đến thì văng ngàn vàng.
Câu thứ nhất lấy ở Kinh thư; câu thứ nhì lấy ở Mạnh Tử; câu thứ ba lấy ở Cổ văn, nguyên văn bằng chữ Hán là “Gia hữu tệ trửu, thưởng chi thiên kim”.
Trong văn học của Tàu và của ta thuở xưa vốn chưa hề có cái thể truyện ngắn hay là đoản thiên tiểu thuyết. Thể ấy có ở xứ ta mới vài mươi năm nay do văn học Pháp truyền sang. Ta nên công nhận rằng cái bài “Sống chết mặc bay” của ông Phạm Duy Tốn đăng trong Nam phong là bài thứ nhất của văn thể ấy. Ấy thế mà, lạ lắm! Trong phong dao ta cũng đã có một vài câu in hệt như văn thể ấy, chỉ khác một điều là nó có vần!
Có nhiều người còn chưa biết truyện ngắn là gì hay là hiểu lầm nó. Họ tưởng đâu kể một chuyện gì có đầu có đuôi mà viết chỉ độ vài ba trang giấy, thế là truyện ngắn đó. Không phải.
Truyện ngắn là dùng ít chữ kể lấy một việc gì hay một tình tiết gì của một người hay một xã hội hay một thời đại mà là cái có đặc sắc nhất để làm cho biểu lộ cái cá tánh của người ấy, của xã hội ấy hoặc của thời đại ấy ra. Đó là phần tinh thần của truyện ngắn: còn làm bằng tản văn hay vận văn, phần ấy chỉ là hình thức.
Nếu hiểu như thế thì trong phong dao ta đã có cái truyện ngắn này rất hay:
Em là con gái đồng trinh,
Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè.
Ông Nghè sai lính ra ne.
− Trăm lạy ông Nghè: tôi đã có con!
− Có con thì mặc có con,
Thắt lưng cho giòn, theo võng cho mau!
Đó, tác giả chỉ lấy một ít tình tiết của một cô gái quê trong khi đi bán rượu đem kể cho ta nghe, chứ không phải là một sự tích có đầu có đuôi gì cả. Thế mà những nỗi bất bình trong xã hội Việt Nam dưới thời đại Tự Đức giở về trước, quan lại hoành hành ra sao, phụ nữ chịu áp bách ra sao, có phải đã trình bày hết thảy ra cho ta thấy không? Có ai tưởng được rằng trong những câu hát đầu đường xó chợ của dân quê mà lại có được ngòi bút tài hoa lại còn “kinh tế” nữa đến như vậy!
***
Sau một hồi nghiên cứu về tục ngữ phong dao, tôi thấy ra nó có cái địa vị trong văn học vững vàng mà rực rỡ, như trong bài này tôi đã nói. Vậy tôi muốn có nhiều người nghiên cứu thêm nữa, có lẽ sẽ phát kiến nhiều cái trọng yếu và quý giá hơn nữa chăng.PHAN KHÔI Nguồn: Tao đàn, Hà Nội, s. 9 & 10 (16 Juillet 1939), tr. 769 – 775; s. 11 (16 Aout 1939), tr. 871 – 877). Chú thích Chúa Nguyễn Duệ Tôn tức Nguyễn Phúc Thuần (ở ngôi: 1765-1775)
Chúa Nguyễn Hiển Tôn tức Nguyễn Phúc Chu (ở ngôi: 1691-1725), còn gọi là chúa Quốc.
[c] Vương Duy Trinh (? - ?) quan chức triều Nguyễn, tác gia 2 cuốn biên khảo chữ Hán Thanh Hóa kỷ thắng và Thanh Hóa quan phong (soạn 1903, khắc in 1904)
Nguồn: lainguyenan.free.fr/pk1938-42/index.html
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:39:28 GMT 9
Hồn Đại Việt, Giọng Hàn Thuyên Nguyễn Hiến Lê
Một trong những nét đẹp nhất mà cũng đặc biệt nhất của đạo Nho, không thấy trong các triết học khác, là gây được cái truyền thống tiến vi quan, thoái vi sư. Học là để tu thân, mà tu thân là để giúp nước, bằng "chính" và "giáo". Gặp thời loạn không thể thi thố tài đức để cứu dân được thì trở về dạy dân để chuẩn bị cho một thời khác.
Khổng tử đã tạo nên truyền thống ấy: ông là người đầu tiên mở các lớp tư thục bình dân ở Trung quốc, vừa làm chính trị vừa dạy học, khoảng sáu mươi bảy tuổi, biết đạo mình không nhà cầm quyền nào muốn theo, mới quay về chuyên việc dạy học. Nội điểm đó, ông cũng được tôn là "vạn thế sư biểu" rồi. Ông "khai lai" rồi Mạnh Tử "kế vãng". Đời của Mạnh cũng y hệt đời ông, cũng bôn ba các nước chư hầu cho tới già rồi cũng trở về dạy học và có lần thốt ra câu bất hủ này: Người quân tử có ba niềm vui mà một trong ba niềm đó là được các anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ (đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi).
Trong hơn hai ngàn năm, hết thảy các nhà Nho chân chính ở Trung hoa cũng như ở Việt nam, hữu danh cũng như vô danh, từ Đổng Trọng Thư, Vương Dương Minh, Chu Văn An, Nguyễn Khuyến đến các ẩn sĩ, các thầy đồ đều giữ được truyền thống Khổng Mạnh, tự gây một uy tín rất lớn trong dân gian, không có một chút đặc quyền, cao quí mà vẫn bình dân, chỉ giúp đồng bào mà không mưu lợi cho bản thân, nghèo mà được trọng hơn vua chúa, không tổ chức mà lại chặt chẽ, vững bền vì không tranh với ai, một giai cấp kỳ dị không giống một giai cấp nào trong lịch sử nhân loại: giai cấp sĩ phu. Văn minh nhân loại ngày nay không sao tạo nổi giai cấp đó nữa: các giáo sư đại học không sao có được uy tín với dân như các cụ đồ của ta ngày xưa, đó là một điều đáng tiếc.
Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa.
Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông sinh trưởng trong một gia đình Nho gia ở Hà Tiên. Hà Tiên là một nơi hẻo lánh, xưa tuy là tỉnh, nhưng chỉ lèo tèo như một cái quận ở biên giới, gần như cách biệt hẳn với các tỉnh khác: hồi đầu thế kỉ muốn lên Sàigòn phải mất ba ngày, nói chi tới Huế và Hà Nội. Nhờ vậy mà Hà Tiên giữ được nhiều nếp cổ, ít chịu ảnh hưởng Tây Phương, sau thể chiến thứ nhất mới có trường sơ học Pháp Việt dạy tới lớp ba (sơ đẳng), sau thành trường Tiểu học. Nhưng Hà Tiên có đủ sông hồ, núi biển, là một tiểu vũ trụ, và từ 1736 đã có Chiêu Anh Các mà vị "nguyên soái" thi đàn này, Mạc Thiên Tích, tuy gốc Trung Hoa mà lại biết quí trọng văn thơ Nôm, giỏi thơ Nôm.
Đông Hồ mồ côi sớm, được ông bác, cụ Hữu Lân dạy dỗ, coi như con. Tôi còn giữ được một bức thứ rất cảm động của thi sĩ kể nỗi tiếc nhớ ông bác. Cụ Hữu Lân văn hay chữ tốt mà cũng thích thơ Nôm: chính cụ sưu tập được một bản chữ Nôm Song tinh bất dạ mà Đông Hồ đã phiên âm, hiệu đính đôi chỗ và xuất bản 1962 (nhà Bốn Phương). Chịu hai ảnh hưởng của quê hương và gia đình đó, Đông Hồ đã sớm thích thơ văn Hán và Việt, nhắt là Việt, vì như ông vẫn thường ân hận: "chữ Hán, chữ Pháp đều được học rất ít".
Khoảng 15-16 tuổi, ông bắt đầu được biết tạp chí Nam Phong, mê nó, đọc rất kĩ từng số một để học thêm và khi Phạm Quỳnh theo tấm gương của các cụ trong Đông Kinh Nghĩa Thục, đề cao tiếng Việt, thì Đông Hồ hưởng ứng liền, hô hào quốc dân học tiếng Việt, đích thân mở một học xá, cũng như một nghĩa thục, để dạy tiếng Việt. Đó là ảnh hương thứ ba.
Ảnh hưởng cuối cùng là ảnh hưởng của thi hào Ấn Rabindranath Tagore. Năm 1901 Tagore lập một tịnh xá gần Calcutta, đặt tên là Santiniketan (có sách dịch là Nhà Tự Do, có sách lại dịch Nhà Hoà Bình) để dạy một số thanh niên đạo giải phóng tinh thần, sống gần thiên nhiên. Nhờ đọc Nam Phong, Đông Hồ biết được Tagore đã dùng tiếng Bengali mà sáng tác nhiều tập thơ bất hủ được giải thưởng Nobel; và lời này của Tagore "Có học tiếng mẹ đẻ thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được" càng làm cho ông vững tin chủ trương của mình (l)
Mới đầu ông làm giáo viên lớp ba ở Hà liên. Ta nên nhớ chương trình tiểu học hồi ấy dạy bằng tiếng Pháp, mỗi tuần chỉ có vài giờ "Annamite", tức Việt ngữ. Ông dạy ở trường Tiểu học đâu được tám chín năm (từ 1924 hay 1925 đến 1933) và ngay từ đầu ông đã bất mãn về chương trình: trẻ Việt mà sao không được học tiếng Việt lại phải học tiếng Pháp, phải tụng những câu như: "Nos ancêtres sont des Gaulois" (Tổ tiên chúng ta là người Gaulois - người xứ Gaule), nên tuy phải theo chương trình nhưng ông vẫn chú trọng tới tiếng Việt hơn, khuyến khích học sinh tin tưởng ở tương lai tiếng Việt mà trau giồi tiếng Việt.
Học sinh lớp ba hồi ấy ở một tỉnh nhỏ, hẻo lánh, chắc có em mười bốn mười lăm tuổi nên đã hiểu biết ít nhiều và ông đã đào luyện một số khá về Quốc văn, tập cho họ viết báo, có bài được đăng trên Nam Phong năm 1925.
Ông theo đúng chương trình nên các cấp trên không trách ông vào đâu được, nhưng chắc cũng không ưa ông. Thấy một tuần lễ chỉ có vài giờ tiếng Việt, ít oi quá, một hai năm sau ông mở Trí Đức học xá dạy toàn tiếng Việt cho bất kì người nào muốn học. Buổi khai giảng vào ngày 30.10.1926. Năm đó ông mới hai mươi tuổi!
Học xá mỗi tuần giảng hai buổi tối. Ngày lễ hay chủ nhật ông thường dắt học sinh đi thăm mười cảnh đẹp ở Hà Tiên mà nhóm Chiêu Anh Các hồi xưa ngâm vịnh, là những nơi có di tích lịch sử, để sống gần thiên nhiên như chủ trương của Tagore.
Tôi không rõ ông có lập chương trình giảng dạy gì không, nhưng Nam Phong số 115, tháng ba năm 1927, có đăng trọn bài diễn văn của ông đọc ngày 19.11.1926 ở học xá, vạch rõ mục đích của học xá: là khai trí tiến đức và dạy "chữ Quốc ngữ", dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ trong việc khai trí tiến đức ấy.
Vách bên tả lớp học treo câu cách ngôn của Chu Hi, triết gia Trung hoa đời Tống:
"Ở đời có ba điều đáng tiếc: một là hôm nay bỏ qua, hai là đời này chẳng học, ba là thân này lỡ hư."
Vách bên hữu treo câu của Phạm Quỳnh:
"Tiếng là nước: tiếng còn thì nước còn, tiếng mất thì nước mất..."
Tôi đoán lối dạy của ông cũng không khác lối dạy của các cụ trong Đông Kinh Nghĩa Thục non hai chục năm trước đó: lựa một bài thơ, một áng văn hoặc một thời sự, một truyện cổ làm đầu đề giảng của mỗi buổi, rồi liên miên bàn về cách xử thế tu thân, về lòng yêu nước, về cách đặt câu, dùng chữ v.v...
Chắc mỗi tuần có một bài luận Quốc văn mà ông chịu khó sửa kĩ, rồi tuyển những bài khá nhất để giới thiệu trên báo Nam Phong.
Học xá mở được tám năm, từ 1926 đến 1934, theo nữ sĩ Mộng Tuyết thì có ba lần khai giảng hết thảy: lần thứ nhất cho các học sinh lớp nhất (2), các lần sau cho học sinh lớp ba, tức lớp của Đông Hồ. Mỗi khoá chắc chỉ được mươi học sinh vì Hà Tiên là một thị trấn nhỏ; nhưng cũng có một số ở xa học theo hàm thụ, và tiêu đề trên các thư từ hàm thụ là bốn câu thơ dưới đây:
Ríu rít đàn chim kêu, Cha truyền con nối theo. Huống là tiếng mẹ đẻ. Ta có lẽ không yêu?
Dĩ nhiên, ông bi nhà cầm quyền nghi kị, theo dõi. Hồi đó dạy Việt ngữ là một điều quái gở. Ai cũng ham học được ít câu tiếng Tây để "tối sâm banh sáng sữa bò" mà sao lại dạy Việt ngữ? "Tổ tiên ta là người Gaulois" mà sao lại học tiếng "Annamite"? Chính một học sinh của ông khi phải từ biệt Thầy và bạn đề về quê ở Biên Hòa, đã viết những hàng này mà Đông Hồ chép lại trong bài Nhớ Tết Hạ Nguyên, Nam Phong số 135, tháng 11-12 năm 1928:
"Nói đến công của chữ Quốc ngữ khi sắp từ biệt nhà học xá này thì cảm động đến chảy nước mắt mà khóc được vì Quốc văn ở buổi bây giờ, muốn học cũng khó lắm thay! (...) Trường nào là trường có dạy thứ chữ ấy? Thầy nào là thầy chịu dạy thứ hữ ấy? Ai chẳng biết chữ Quốc ngữ ở các trường nhà nước ngày nay phải ở vào địa vị rất thấp hèn mà chịu cái số phận khinh khi, rẻ rúng: như thế thì còn ai là người thiết đến việc dạy dỗ thứ chữ ấy nữa làm gì?..."
Theo nữ sĩ Mộng Tuyết, chỉ có một lần ông Đông Hồ bị cấp trên cảnh cáo. Năm đó, không nhớ rõ năm nào, một tờ báo (có lẽ là tờ Việt Dân) sắp ra, đăng quảng cáo rằng trong tòa soạn có Đông Hồ, một giáo viên ở Hà Tiên, lại in hình Đông Hồ nữa. Viên đốc học liên tỉnh miền Tây, người Pháp, tức tốc tới Hà Tiên điều tra, chìa tờ quảng cáo cho Đông Hồ coi, hỏi vặn đủ điều, rốt cuộc bảo: "Ừ, về văn học thì được, chứ chính trị thì đừng đấy."
Nhưng đọc bài tựa tập Bông hoa cuối mùa (tác giả là môn sinh của ông, tên là Thạch San), tôi chắc ông còn bị nhiều cảnh ép buộc, cấm đoán nữa, nên 1934 học xá mới phải tự đóng cửa:
Hội nghiên bút tao phùng đâu nữa, Lệ văn chương giọt ứa cảm hoài; Mịt mù trong cõi trần ai. Cao sơn lưu thủy ai người tri âm?
.........
Thôi đành chịu người thua cảnh ngộ, Cảnh không may, thực khó mà nên. Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng!
Nam Phong số 162.
Cảnh không may đó là cảnh nào? Ba bận lỡ làng là làm sao? Hồi ông còn thì tôi không hỏi mà ông cũng không kể. Ông không kể vì ông khiêm tốn, ít muốn tự khoe; mà tôi không hỏi vì nghĩ ông còn thọ ít gì cũng dăm năm nữa, không gấp gì. Bây giờ muốn hỏi thì không biết hỏi ai.
Học xá thọ được bấy nhiêu năm cũng đã là hãn hữu, một phần vì ông không làm chánh trị, một phần nữa vì qui mô nhỏ bé, nhà cầm quyền không đáng ngại. Học xá thôi giảng nhưng lớp hàm thụ thì vẫn còn: ai thích văn cứ gởi thư hỏi han và gởi văn thơ cho ông sửa.
Trí Đức học xá được nhiều người biết, nhờ những bài giới thiệu đăng trên báo Nam Phong: Gia đình giáo dục kí, số 115, Nhớ Tết Hạ nguyên, số 135, Bài kí về giáo dục, số 157, v.v...; lại đào tạo được một số môn sinh hồi đó viết quốc văn đã khá lắm, không hiểu tại sao sau này không ai sáng tác gì cả, trừ nữ sĩ Mộng Tuyết. Nhưng phải nhận rằng ông Đông Hồ không gây nổi một phong trào: tại thiếu địa lợi chăng? Hà Tiên là một nơi hẻo lánh, nhân tài hiếm mà đồng chí không đông. Hay là tại thiếu thiên thời? Lúc đó ảnh hưởng tiếng Pháp đương lên mạnh. Nhưng sáng kiến đó, nhiệt tâm đó, đức kiên nhẫn đó, một người đương thời, Trọng Toàn đã ghi lại trong bài Một người có công với quốc văn, Nam Phong sổ 173; và bây giờ chúng ta nên ôn lại để nêu cho đời sau tấm gương của một người từ năm hai mươi tuổi, giữa thời toàn thịnh của thực dân Pháp, đã "tự nguyện làm một người tri kỉ với Quốc Văn, (...) cùng với Quốc văn ước nguyền sông núi." (Nam Phong số l35). Mà riêng đối với môn sinh của ông thì công của ông thực lớn. Trên mộ bằng cẩm thạch Ý đại lợi của ông ở nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi, chúng ta đọc hai câu này của một môn sinh Trí Đức học xá:
Ân sâu nghĩa nặng tình dài, Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?
Chỉ được một người khóc như vậy thì cả một đời, dù không có sự nghiệp gì khác, cũng khả dĩ là vô hận rồi.
*
Trí Đức học xá đóng cửa, chức giáo viên tiểu học cũng đã từ bỏ năm trước - năm bá phụ ông qui tiên - ông lên Sàigòn cho ra tờ tuần báo Sống (1935). Báo viết kĩ, in kĩ, chỉ sống được ba mươi số, nhưng cũng đã đánh dấu được một tiến bộ trong ngành: tờ đó là tờ đầu tiên ở Nam in trúng hỏi ngã, và cho tới bây giờ, vẫn chưa có tờ nào chú trọng đến chánh tả hơn. Dĩ nhiên, ông phải đích thân sủa trên bản nháp của người gởi bài, rồi sửa trên ấn cảo của nhà in. Ai ở trong nghề mới thấy được công việc của ông cực nhọc, mất thì giờ ra sao.
Thất bại, năm sau ông về Hà Tiên ẩn cư non mười năm. Sau quốc biến 1945, ông chèo một mình chiếc xuồng ba lá lênh đênh trên các sông rạch miền Tây, sau cùng trôi giạt tới Sàigòn lập nhà xuất bản Bốn Phương, nhà sách Yiễm Yiễm, và ra tờ Nhân loại (l953). Tờ này in cũng như tờ Sống mà cũng không thọ, được hai mươi hai số rồi phải ngưng. Trong mục Chữ và Nghĩa ông kí tên là Đồ mọt sách, đưa ra nhiều nhận xét lí thú về tiếng Việt.
Năm 1964, ông đã dẹp hết công việc xuất bản, phát hành sách, vè nghỉ ngơi ở Quình Lâm thư thất gần hồ tắm Chi Lăng thì một tin làm nhiều người ngạc nhiên: ông nhận lãnh việc giảng về Văn học miền Nam cho Đại học Văn khoa Sài gòn. Người ta ngạc nhiên vì năm ấy ông đã gần lục tuần, đã bỏ nghề dạy học ba chục năm, mà ông lại vào hạng thi sĩ phong lưu nhất nước. Tôi tuy ít khi ra khỏi nhà mà cũng nghe được những lời một số người trách ông này nọ; ông cũng biết rằng những lời ấy tới tai tôi, nhưng không khi nào ông đính chính với tôi mà tôi cũng chẳng hỏi.
Những chuyện đó tôi thường gác ngoài tai: mỗi người có một chí hướng, một lối sống, một hoàn cảnh, một tâm sự, một sở thích, tới hàng ruột thịt cũng khó hiểu được mình thì phê phán thế nào chẳng có điều bất công. Nhưng tôi cũng đoán thầm rằng ông vốn là một nghệ sĩ, cần có sự bó buộc, thúc bách nào đó mới làm một công trình nghiên cứu dài hơi được, và ông nhận việc giảng dạy ở Văn khoa đã tự buộc mình phải soạn cho xong một cuốn về Văn học miền Nam.
Tôi đoán không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Tháng chín năm 1967, nghĩa là sau khi ông dạy ở Văn khoa được ba năm, ông gởi tặng tôi một tập Đào lý giá xuân phong.
Tập này quay ronéo, in trên giấy đánh máy dày, chỉ gồm 12 trang, không hiểu tại sao lại đánh số từ 319 đến 330. Nhưng bìa in typo màu vàng, phía trước có dấu son "Lâm Đông Thủy Cổ Nguyệt" (3) và hàng chữ: "Tuyển lục ít vần thơ Đại học", phía sau có đề: Giá thuần nhất: 40đ. Tôi không chắc rằng tập đó gởi bán ở các tiệm sách, có lẽ chỉ để tặng bạn bè; sinh viên Văn khoa ai có muốn một bản thì góp chút phí tổn ấn loát, thế thôi.
Lật tờ bìa rồi, tới một tờ giấy mỏng màu hồng, in bằng bản kẽm, có bốn chữ Hán: Đào lý xuân phong, và tên cùng triện son của tác giả.
Tập gồm 9 bài, 8 bài thơ và một bài đoản văn làm từ 1965 đến 67. Tôi để ý đến ba bài: Xuân phong ngâm ở đầu tập, Vàng son hoa nở hai mùa và Tiếng Việt huy hoàng.
Tôi nhận thấy ông trở lại nguồn hứng của ông trên ba chục năm trước hồi ông lập Trí Đức học xá. Ông lại nhắc đến "giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt":
Duyên gặp gỡ tương tri thuở nọ, Khúc nam huân ngọn gió khéo đưa, Cung đàn dìu dặt tiếng tơ, Hàn Thuyên Đại Việt hồn xưa bàng hoàng
(Xuân phong ngâm)
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Nền móng văn chương cổ điển, Đặt đây viên đá đầu tiên, Xây dựng tương lai còn hẹn
(Tiếng Việt huy hoàng - 1967)
Vậy thì cái việc dạy cho Văn khoa chỉ là để nối lại cái "tình duyên lỡ làng" ba mươi năm trước, chỉ là để kêu gọi "Hồn Đại Việt", đề cao "Giọng Hàn Thuyên" và trước sau ông chỉ nghĩ tới Quốc văn, giữ mối tình "tri kỉ với Quốc văn", "mối duyên nợ thâm trầm với Quốc ngữ" như ông đã viết trong Nam Phong số 135 và 162. Không biết trong thâm tâm, ông có tự hào là người đi tiên phong không? Công việc ông "đơn thương độc mã" khởi xướng hồi hai mươi tuổi bây giờ đã thực hiện được. Tôi nghĩ, chính quyền nếu có những người thực sự hiểu văn hóa Việt Nam, thực tâm yêu "giọng Hàn Thuyên" thì khi dời Văn khoa từ Hà Nội vô đây, tất phải mời ông ngay làm khoa trưởng hay giáo sư thực thụ mới phải, vì ai có lòng với tiếng mẹ đẻ hơn ông, có công với giọng Hàn Thuyên hơn ông? Ông nhận chức giảng viên Văn khoa vì đám thanh niên Văn khoa, vì muốn tiếp tục "xây dựng tương lai" cho "Tiếng Việt huy hoàng" đấy.
Ở một nước biết trọng văn nhân thi sĩ như nước Pháp thì bốn câu:
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên Nền móng văn chương cổ điển, Đặt đây viên đá đầu tiên, Xây dựng tương lai còn hẹn.
đã được khắc trên phiến đá Ngũ Hành Sơn mà dựng trước di chỉ Trí Đức học xá ở Hà Tiên hoặc khắc lên bảng đồng trong phòng diển giảng ở Đại học Văn khoa Sàigòn rồi.
Đọc Đào lý xuân phong tôi thích nhất bài Xuân phong ngâm. Bài đó viết theo thể song thất lục bát, thể hoàn toàn Việt Nam, lời đẹp mà hơi buồn, cho tôi cảm tưởng rằng tác giả là một ông đồ Nho thời cuối Lê hay đầu Nguyễn, chán ngán sự đời mà tìm cái vui trong sự dạy dỗ thanh niên.
Ông nhắc lại tuổi niên thiếu, say mê tiếng mẹ:
Tiếng mẹ với tiếng đàn náo nức, Hồn thơ chung hồn nước xôn xao, Hồn phong nhã, tiếng thanh tao, Nguồn thơ Quốc ngữ nao nao biển lòng.
Rồi khi ông sáng lập Trí Đức học xá: Vườn Trí Đức thành Phương (4) ngõ rộng, Hạt quốc văn gieo giống tinh hoa. Trải bao gió lộng sương pha. Tốt tươi hồng hạnh, rườm rà quế lan.
Bây giờ đây:
Một thoáng đã sông dời núi đổi. Trăm năm chi biển nổi dâu chìm. Bóng xưa ngày cũ không (5) tìm. Nhắc cho thêm gợi những niềm nhớ nhung.
Nhưng nhìn đám thanh niên ông đào tạo thì ông lại vui:
Đây thế hệ anh hoa tuấn tú. Đêm ngày đang vui thú sách đèn. Say sưa nghĩa lý thánh hiền. Đông Tây kim cổ triền miên mộng vàng. Đang đợi những huy hoàng cao cả. Đang bắt tay luyện đá vá trời. Một trời mực đậm sơn tươi. Một trời Đại học, một trời Vân Khoa.
Khúc ngâm dài 60 câu chấm dứt ở những vần tràn trề hi vọng ấy. Khi tỏ với ông những cảm tưởng của tôi về bài thơ - bài thơ thanh nhã, tóm tắt được chí hướng cùng cuộc đời của ông ấy - tôi mỉm cười, bảo: "Bác thực có huyết thống nhà Nho, chỉ thích làm một ông đồ, chỉ sung sướng khi có một số anh tài để dạy dỗ". Ông lộ vẻ mừng, cho tôi là tri kỉ.
*
Khi xây mộ cho ông, nữ sĩ Mộng Tuyết hỏi tôi nên lựa bốn câu này: Vũ trụ mang mang trời đất, Thời gian dằng dặc đêm ngày, Một thoáng cổ kim chớp mắt, Nghìn thu dâu bể trao tay.
hay sáu câu:
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên. Nền móng văn chương cổ điển. Vũ trụ thiên thu vạn vật, Cảo thơm hiển hiện trước đèn. Đất nước nghìn năm văn hiến Lâu đài tiếng Việt huy hoàng.
để khắc lên mộ, là nữ sĩ đã hiểu rõ tâm sự, nguyện vọng suốt đời của chồng. Tôi đã do dự hồi lâu rồi đáp nên lựa bốn câu trên. Tôi không nói ra - hay đã nói mà quên chăng? - nhưng lúc đó tôi đã nghĩ: sáu câu cuối nên để cho môn sinh khắc thì phải hơn.
*
Mấy năm cuối cùng, ông thường phàn nàn sao thấy buồn quá, không hiểu vì đâu:
"Gần đây tôi cứ thấy lòng buồn mà rộn, không biết buồn về điều gì và rộn về điều gì" (2-3 II 1967) "Mấy hôm nay tâm hồn tôi như có gì bất thường"... Đã thấy lâng lâng niềm giản dị, Hồn tan theo nước, ý theo mây.
Khi làm câu thơ đó, cách đây đã hơn 25 năm, mà đến bây giờ mới thấy gần đúng" (5 VI 1967).
Và ông bảo chỉ còn mỗi vui là được "các bác vào chơi". Các bạn khác mải lo sinh kế, còn tôi thì rất sợ ra khỏi nhà, sợ thấy xe cộ và rác rưởi, nên cái vui được chuyện trò với bạn thân may lắm mỗi tháng ông được hưởng một lần. Đời Tống, một đạo sĩ đi sáu tháng trời từ Hoa Bắc tới Hoa Nam để thăm Tô Đông Pha. Mà ngay thời tôi còn nhỏ, một cụ đồ đi trọn một ngày đề thăm một ông bác tôi. Cái văn minh cơ giới này làm hư con người thật!
Nhưng tôi nghĩ ít nhất mỗi tuần ông cũng được vài giờ vui với các môn sinh ở Đại học, và một trong những lúc vui nhất của ông là ngày gần Tết năm nào đó, một bọn thanh niên cả trai lẫn gái quây quần chung quanh ông ở phòng khách Quình Lâm thư thất, thân mật như con đối với cha, nghe ông kể chuyện về đời ông và nhìn những ngón tay búp măng trắng trẻo nổi gân xanh của ông chấm ngọn bút vào nghiên mực, đưa thoăn thoắt trên tờ giấy điều.
Tôi chắc chắn không có một giáo sư Đại học nào ở Việt Nam hiện nay có thái độ và tấm lòng đó đối với sinh viên. Có thể rằng giờ này đây, môn sinh ông quên gần hết những điều ông giảng về Văn học miền Nam, về nhóm Chiêu Anh Các, nhưng suốt đời họ, họ sẽ không bao giờ quên được cái phong độ cái chân tình Nho gia của ông, cũng như tôi không bao giờ quên được dáng dấp ung dung, khoan hòa, nụ cười hồn nhiên, rất tươi, chiếc khăn xếp, chiếc áo the thâm rất giản dị của cụ Bùi Kỷ, thầy học cũ môn Quốc văn của tôi ở trường Cao đẳng Công chánh. Chính những nét đó mới là bài học đáng quí nhất của bậc làm thầy vì chính nó mới ảnh hưởng lâu bền đến tâm hồn ta, tới nhân sinh quan của ta. Nhiều người có thể thay Đông Hồ về môn Văn học miền Nam, nhưng cái không khí của giáo sư Đông Hồ, của "thầy đồ" Đông Hồ thì không ai tạo nên nổi. Các sinh viên Văn khoa có thấy mất ông là mất cả một truyền thống không?
Tôi nghĩ trời đã lựa cho ông một cái chết rất hợp với cuộc đời của ông mà có lẽ cũng rất hợp ý ông nữa: ông ngất đi trong khi ngâm thơ về hai Bà Trưng, giữa giảng đường Văn Khoa trong cánh tay môn sinh. Đúng như câu của Lương Khải Siêu: "Chiến sĩ tử ư sa trường, học giả tử ư giảng tọa"
Viết ở Saigon ngày 1.3.70 Nhân ngày giỗ đầu Đông Hồ
Nguyễn Hiến Lê (Mười Câu Chuyện Văn Chương) (NXB Văn Nghệ 1986)
(1) Coi bài "K.E. Kripalami tiếp xúc với Đông Hồ..." trong cuốn Đăng Đàn - Mặc Lâm xuất bản - 1970. 2) Lớp của thầy giáo Trọng Toàn, bạn thân của Đông Hồ, vì chỉ có thầy là khuyến khích học sinh học thêm ở Trí Đức học xá. 3) Thủy cổ nguyệt tức là chữ hồ. (Đông Hồ) 4) Tức Hà Tiên. 5) Tôi ngờ là khôn.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:40:46 GMT 9
Phong tục đưa Ông táo về trời và Cúng giao thừa ngoài trời
Theo phong tục cổ truyền của người Việt thì Táo quân gồm hai ông và một bà, tượng trưng là 3 cỗ, “đầu rau” hay “chiếc kiềng 3 chân” ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng đế (hay ông Trời).
Táo quân cũng còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ nơi gia đình mình cư ngụ và thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Vị Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể.
Lễ vật cúng Táo quân gồm có: mũ ông công 3 chiếc (2 mũ cho 2 Táo ông và 1mũ Táo bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ dành cho Táo bà không có cánh chuồn. Những mũ này được trang trí với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những dây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy. Màu sắc của mũ, áo hay hia ông Táo thay đổi hàng năm theo ngũ hành. Thí dụ:
Năm hành kim thì dùng màu vàng Năm hành mộc thì dùng màu trắng Năm hành thủy thì dùng màu xanh Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ Năm hành thổ thì dùng màu đen
Những đồ “vàng mã” này (mũ, áo, hia, và một số vàng thỏi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó ngưòị ta lập bài vị mới cho Táo quân.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo quân một con gà luộc. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ỷ nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang.
Ngoài ra, để các ông và bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép hãy còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Gon cá chép này sẽ được “phóng sinh” (thả ra ao họ hay ra sông) sau khi cúng. Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ỏ miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.
Theo truyền thuyết, xưa có hai vợ chồng nghèo phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy chồng mới, còn người chồng cũ vẫn nghèo khó. Trong một lần đi xin ăn, tình cờ người chồng cũ ta gặp lại người vợ cũ và được hậu đã. Đúng lúc đó, người chồng mới về bắt gặp và sinh lòng nghi ngờ. Người vợ uất ức đâm đầu vào đống lửa chết, ngưòi chồng cũ cảm thương chết theo. Người chồng mới sau cũng nhảy vào lửa chết. Ngọc hoàng cảm kích phong cho ba người làm Táo quân – Vua Bếp. Vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia đình thường mua hai mũ ông, một mũ bà và ba con cá chép để cúng với quan niệm rằng, Táo quân cưỡi cá chép về chầu trời, tâu với Ngọc hoàng mọi việc trong năm, cầu may mắn.
Phong tục Cúng giao thừa ngoài trời
Phút giao thừa là phút giây thiêng liêng nhất vì đây là thời khắc trời đất, vũ trụ, không gian, thời gian giao hoà. Người xưa tin rằng mỗi năm có một vị Hành khiển trông coi việc nhân gian. Hết năm thì vị thần năm cũ bàn giao công việc cho vị thần năm mới. Cho nên phải cúng giao thừa ở ngoài trời để tiễn đưa thần năm cũ và đón rước thần năm mới.
Có 12 vị Hành khiển và 12 vị Phán quan. Phán quan là vị thần giúp việc cho các vị Hành khiển. Mỗi vị làm một năm dưới dương gian và cứ sau 12 năm thì lại có sự luân phiên trở lại.
1. Năm Tý: Chu vương Hành khiển, Thiên ôn hành binh chi thần, Lý tào phán quan. 2. Năm Sửu: Triệu vương Hành khiển, Tam thập lục thương hành binh chi thần, Khúc tào phán quan. 3. Năm Dần: Ngụy vương Hành khiển, Mộc tinh hành binh chi thần, Tiêu tào phán quan. 4. Năm Mão: Trịnh vương Hành khiển, Thạch tinh hành binh chi thần, Liễu tào phán quan. 5. Năm Thìn: Sở vương Hành khiển, Hỏa tinh hành binh chi thần, Biểu tào phán quan. 6. Năm Tỵ: Ngô vương Hành khiển, Thiên hao hành binh chi thần, Hứa tào phán quan. 7. Năm Ngọ: Tần vương Hành khiển, Thiên mao hành binh chi thần, Ngọc tào phán quan. 8. Năm Mùi: Tống vương Hành khiển, Ngũ đạo hành binh chi thần, Lâm tào phán quan. 9. Năm Thân: Tề vương Hành khiển, Ngũ miếu hành binh chi thần, Tống tào phán quan. 10. Năm Dậu: Lỗ vương Hành khiển, Ngũ nhạc hành binh chi thần, Cự tào phán quan. 11. Năm Tuất: Việt vương Hành khiển, Thiên bá hành binh chi thần, Thành tào phán quan. 12. Năm Hợi: Lưu vương Hành khiển, Ngũ ôn hành binh chi thần, Nguyễn tào phán quan.
Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật. Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam… thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Vào giờ phút ấy ngang trời quân đi, quân về tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Vì thế các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Vì vậy đồ lễ không cần bày vẽ cầu kỳ, thậm chí chỉ cần chén rượu, nén hương mà thành tâm thành ý là được. Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
Nguồn: tuvisomenh.com
TÂM LÝ NGÀY TẾT Phạm Quỳnh (Pháp ngữ) - bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh
Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào.
Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT.
“TẾT”, chữ màu nhiệm thay! Như đã chứa chất biết bao niềm vui mừng của cả một dân tộc vô tư vui vẻ, cứ mỗi năm, đến kỳ xuân tới là quên cả hết thẩy những nỗi lo lắng khó khăn của năm cũ để sẵn sàng hoan hỷ bước vào năm mới với chứa chan hy vọng.
Vậy thời ý nghĩa của ngày TẾT, của cái thực thể huyền bí ấy mà người ta sùng bái như một vị thần thánh có sức mạnh đến nỗi có thể khiến cho cả một dân tộc, trong khoảng mấy ngày tròn, đã cùng một tâm hồn, cùng một tình cảm, mà nhất là cùng một hy vọng tin tưởng ở ngày mai, hy vọng và tin tưởng mà nhiều khi họ rất cần phải có, để đương đầu với một cuộc đời vất vả bấp bênh…
TẾT không phải chỉ là ngày đầu năm mà thôi, vì nếu kể cả những ngày sửa soạn linh đình trước và những cuộc vui đùa giải trí sau, thì TẾT ít ra cũng phải kể tất cả là ba tuần. Nhưng dù sao tâm trạng của người ta mà ngày TẾT đã gây nên chưa dễ đã xóa nhòa trong chốc lát, và ta cũng nên thử nghiên cứu xem, để tìm hiểu giá trị đặc biệt của ngày lễ long trọng ấy.
TẾT không phải hoàn toàn không có nghĩa lý, mà lại còn bao trùm cả một “triết lý”.
Trong một năm bốn mùa liên tiếp nối nhau và đó là một hiện tượng tự nhiên rất quan trọng cho một dân tộc nông nghiệp. Theo như thuyết “Vũ trụ khai tịch” xưa, khoảng thời gian đông qua xuân tới là đánh dấu một thời kỳ hoàn toàn đổi mới, người và vạn vật thiên nhiên như sống lại và cùng nhau thông cảm trước sự đổi mới vui tươi để hăng hái đón mừng xuân mới. Trong mấy ngày cổ truyền ấy, con người ta phải hoàn toàn đổi mới, lột hết những gì cổ hủ của con người cũ đi mà tự tạo nên một tâm hồn mới mẻ; phải đuổi hết những tư tưởng yếm thế, phải tạo ra những ý vui, chỉ nói những lời ngọt ngào dễ thương, quên hết những hận thù, để đối với ai, – dù là kẻ thù chăng nữa- cũng một lòng khoan hồng bác ái. Như thế là ta đã góp phần vào sự gây dựng vũ trụ điều hòa, và do đó gây dựng hạnh phúc của xã hội và đồng thời hạnh phúc của chính mình. Những lời nặng nhẹ, những cử chỉ không hợp phép, những sự buồn bực, bất bình thổ lộ ra trong những ngày TẾT không những trái với lễ độ cổ truyền và rất kỵ trong những ngày tốt lành nhất của một năm ấy mà lại là một sự phản bội đối với vạn vật thiên nhiên, và như thế kẻ đã phạm tội ấy sẽ bị tai họa.
Dị đoan lại khiến cho người ta tin rằng tất cả những gì xẩy ra trong mấy ngày đầu năm đều có ảnh hưởng huyền bí, hay, dở đến cả một năm. Vì vậy sáng sớm ngày đầu năm, người khách đầu tiên đến nhà có thể coi như đã đem đến cho gia đình ấy hạnh phúc hay tai họa, tùy theo nếu người ấy là một người sướng hay khổ, có chức phận trong xã hội hay không, giàu hay nghèo, con cháu đông đủ hay hiếm hoi, tính nết tốt hay xấu, nhiều may mắn hay không…Một người có tang vừa đau khổ, một người rủi ro vừa bị thất bại trong công việc làm ăn…chớ nên đến thăm ai trong buổi sáng đầu năm vì sợ có thể sẽ đem lại rủi ro đến cho người ta. Để khỏi phải có những sự bất ngờ chẳng hay, người khách đầu tiên đến “xông đất” mỗi nhà, nghĩa là người khách có thể coi như sẽ đem lại may mắn hay rủi ro đến cho gia đình, đều được chủ nhà sắp đặt trước. Người ấy sẽ được lựa trong những bà con bè bạn thân thiết và là người được coi như có hạnh phúc đầy đủ, vừa giàu sang phú quí lại con cháu đầy đàn, để sáng sớm đầu năm làm “sứ giả” đem Hạnh phúc đến cho cả gia đình.
HẠNH PHÚC! Hạnh phúc là cái mộng đẹp mà hết thảy chúng ta ai cũng mong ước. Ở nước Nam này, mỗi năm xuân tới, người ta kêu gọi, cầu khẩn, tìm kiếm Hạnh phúc bằng đủ mọi cách. Họ ca ngợi Hạnh phúc trên những câu đối đỏ chói treo trên tường bên những cánh cửa nhà. Màu đỏ là màu tượng trưng điểm lành, điểm tốt, vì vậy từ sân nhà cho đến trên bàn thờ, mỗi gia đình, chỗ nào cũng rải rác đầy xác pháo đỏ cùng những cánh hoa đào. Người ta cũng thế, ai cũng có vẻ tạo ra một vẻ mặt sung sướng, vui tươi, niềm nở như để dễ quyến rủ cái Hạnh phúc nó như cái bóng phảng phất khó lòng mà nắm được, tựa hồ như con chim hoàng oanh của nhà thi sĩ nọ, ríu rít hót ca trên cành liễu này rồi phút chốc đã lại bay qua cành liễu khác. Thật không cái gì cảm động bằng cái lòng nguyện vọng thiết tha của cả một dân tộc, nguyện vọng đến được một đời sống thanh nhàn hạnh phúc, mà tất cả đều mơ ước, nhưng dễ mấy ai đã tới được!
Vậy thì TẾT là gì? Là lời kêu thiết tha của cả đàn dân Việt trong dịp vạn vật đổi mới, nói lên lòng tin tưởng ở năm mới sẽ đến, và sự khát khao một đời sống thảnh thơi sung sướng.
Ngày TẾT lại còn có một ý nghĩa khác nữa. Ngày TẾT còn là sự thánh hóa, sự ca tụng, tán dương chủ nghĩa gia tộc và sự thờ phượng tổ tiên. Với tư cách này TẾT có thể coi như một thiết lập có liên hệ mật thiết với sự thành lập gia tộc ở nước Việt Nam ta. Mấy ngày TẾT chính là những ngày mà cả đại gia đình đông đủ sống quây quần tụ họp làm một. Gia đình Việt Nam thường có cha mẹ, anh chị em, hay là cả ông bà cô chú, có khi lại có cả cụ nội ngoại ở cùng cả một nhà. Những gia đình có con cháu đi làm xa trong cả năm, đến kỳ TẾT đều trở về đông đủ dưới mái nhà của tổ tiên. Những hôm đó trên bàn thờ trang hoàng rực rỡ, những bài vị ghi tên tuổi các vị tổ tiên đã mất, đều được mở ra chưng bày, những đèn hương sắp lên nghi ngút, những đồ mã tượng trưng nén vàng nén bạc để cung hiến tổ tiên được chất thành từng đống.
Vì TẾT không phải chỉ là ngày vui cho người sống mà còn cả cho người chết nữa. Chính trong những ngày TẾT các vị tổ tiên ông bà đều về sống chung với gia đình con cháu. Hôm ba mươi Tết, mỗi gia đình đều có một lễ thỉnh mời tổ tiên về. Rồi cứ mỗi ngày hai lần, dâng lễ cúng cơm cùng nước trà bánh trái. Đến ngày thứ ba là ngày cúng tiễn biệt, để rồi hồn của tổ tiên lại trở về nơi chín suối, mang theo lời chúc tụng cùng tâm sự của con cháu mà các ngài vừa được chung sống trong mấy ngày Tết vừa qua, và tuy từ biệt ra về, tổ tiên vẫn không quên phù hộ và che chở cho con cháu bằng một cách huyền bí.
Trong mấy ngày Tết, người sống và người chết lẫn lộn chung sống dưới mái gia đình. Bà con bạn bè đến thăm viếng nhau ngày Tết, trước hết không quên đến kính cẩn lễ trước bàn thờ tổ tiên rồi mới cùng nhau chúc tụng năm mới.
Tết với những tượng trưng và nghi lễ của ngày ấy đã ghi vào đời sống của chúng ta một giai đoạn vui sướng, mà giai đoạn ấy chúng ta có cái may mắn là cứ mỗi năm ta lại được sống lại một lần. Sống mấy ngày hoan hỷ vui chung cả quốc dân, tự thấy mình đã cũng chia sẻ sự vui sướng ấy và cùng thông cảm với tất những người đồng chung về một ý thức, một tư tưởng, đó là niềm vui không phải nhỏ; niềm vui ấy, chính ngày Tết đã đem lại cho ta, và ta sẽ không bao giờ quên ơn.
Riêng về phần tôi, mõi lần ngó về dĩ vãng, nhớ lại những ngày thơ ấu, những năm của tuổi trẻ đã qua, ngày Tết đã để lại cho tôi toàn những kỷ niệm êm đềm.
Một ngày kia nếu phải bỏ phiếu để bãi bỏ cái ngày lễ ấy đi, thì dù ai biện lẽ phải gì hay ho tốt đẹp đến đâu, tôi cũng bỏ phiếu chống sự bãi bỏ ấy, mặc dầu họ có thể cho tôi là một anh thủ cựu bướng bỉnh hay liều lĩnh.
Thượng Chi (Phạm Quỳnh)
Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:47:28 GMT 9
Thơ, Tuồng, Truyện, Tích Sơn Nam
Người Pháp đến, chữ quốc ngữ được phổ biến, ngành ấn loát hoạt động khá sớm so với Bắc Kỳ hoặc Trung Kỳ. Thoạt tiên là nhà in của chánh phủ thuộc địa kế đến là nhà in của tư nhân người Pháp, người Việt. Nhà in của người Pháp chú trọng việc đấu thầu những dịch vụ công sở, nhưng khi rảnh rang cũng cho ra các ấn phẩm bằng chữ Quốc ngữ: Imprimerie commerciate Rey, Curiol ot Cie, Claude et Cie, Imprimerie Saigonaise, Imprimerie de l’Union. Phát Toàn, J. Viết. Bấy giờ, theo luật lệ thì ấn phẩm khỏi phải kiểm duyệt nhưng phần trách nhiệm đặt vào chủ nhà in và sở Mật thám! Chánh phủ thuộc địa khinh thường những tác phẩm viết bằng chữ Việt. Nha Văn khố hoặc Thư viện Sài Gòn chú trọng vào sách và tài liệu bằng Pháp ngữ, nhằm phục vụ những người Pháp hoặc những người Việt viết Pháp văn. Vì vậy, nhiều ấn phẩm hồi cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ XX ở Nam kỳ bị thất lạc, may ra một đôi vị hiếu cổ có lòng tưởng vào chữ Quốc ngữ còn sưu tầm được. Những ấn phẩm Quốc ngữ ấy về giá trị nội dung thì không đồng đều, nhưng không phải là không có tác phẩm lớn. Lúc bấy giờ, ở Nam Kỳ lúa gạo xuất cảng nhiều, nhà nước khuyến khích khẩn đất, lại còn phát triển giao thông, đặc biệt là đường thủy. Giới tiểu điền chủ, hương chức hội tề ở làng hoặc công chức đều dư khả năng tài chính để mua sách.
Nói theo ngôn ngữ bình dân, đây là giai đoạn của "Thơ, Tuồng, Truyện, Tích". Để phục vụ số thân chủ đông đảo này, các nhà in đã tung ra hàng loạt ấn phẩm. Nói thơ là thú giải trí bình và thông dụng. Đây là những chuyện viết theo lối lục bát, người nói cứ trình bày theo giọng "nói thơ Vân tiên" người không biết chữ có thể lại gần nghe được. Vì câu chuyện bằng thơ kéo dài hàng mấy trăm câu nên người nói và luôn ả người nghe cần có tiện nghi tối thiểu hoặc nằm võng, hoặc ngồi trên bộ ván, hoặc ngồi dựa cột. Ai muốn phong lưu thì giăng võng bên vườn cây ăn trái, được hưởng bóng mát và cơn gió nhẹ giữa buổi trưa người bức, bên cạnh là mương vườn với sông nước lăn tăn. Nói thơ lai là hình thức trình diễn để xin tiền ở chợ, người mù lòa cứ học thuộc lòng, nói theo tiếng đàn độc huyền.
Truyện tức là truyện Tàu, dịch lại, in từng cuốn mỏng, "Nói" là đọc lại nhanh, nhưng không quá nhanh đến mức người nghe không theo dõi kịp câu chuyện. Khi hết một hồi, người nói thường tạm nghỉ lấy hơi, uống trà, ăn bánh. Giọng "nói truyện" lần hồi trở thành một thứ nhạc (như trường hợp trẻ con đọc bài thuộc lòng hoặc người lớn đọc kinh). Nói với giọng hấp dẫn, dừng hơi đúng lúc, xuống giọng đúng hơi thì người nghe thêm phần thích thú. Truyện Tàu thường là quá dài, cuộc nói truyện cứ kéo ngày này qua ngày kia. Ai không tiền mua thì mượn đem về mà nói cho bà con trong nhà trong xóm nghe. Quyển sách lần hồi bị bóp mềm, muốn cho khỏi bị gãy lưng phải cập thêm hai thanh tre nhỏ cho sách được cứng. Nhiều cuốn được chuyền tay đến mức đen đúa vì bụi bậm, giấy lần hồi trở nên mềm như giấy bản.
Trước tiên, xin lược kê một số quyển thơ xuất bản từ năm 1909 và trước đó độ ba năm.
- Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân Cống Hồ, Dương Ngọc, Đào Trinh-Luông Sanh, Lâm Sanh Xuân Nương, Lâm Sanh - Lâm thoại, Lang Châu, Mụ Đội, Nam Kinh Bắc Kinh, Nam Kỳ, Mục Liên Thanh Đề, Ngọc Cam Ngọc Khổ, Nữ Trung báo oán, Phạm Công Cúc Hoa, Quan Âm diễn ca, Tam Nương, Thạch Sanh Lý Thông, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tống Tử Vưu, Trần minh khố chuối, Cha mẹ dạy con . .
Ngoài ra còn những quyển thơ lấy thời sự làm đề tài như. Thành Thái ngự du Gia Định, Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca, Đường lên núi Điện Bà.
Lại còn những sách viết theo văn xuôi về Sử ký hoặc dạy chữ Nho như Huấn tử cách ngôn. Hoặc sách dạy đờn kìm, những bản đờn tranh và bài ca hoặc câu hát đối, sách dạy xem tướng gà nòi (Kê Kinh). Hoặc là vè, là phú.
Năm 1914, đã thấy xuất hiện trên thị trường Gò Công Phong vịnh, thơ sáu Nhỏ, Văn Thánh Gẫm tử đạo, Hoàng Trừu, thơ Thập Điện, thơ Vân Tiên ghiền, thơ Vợ lớn bé đánh ghen, thơ Năm Tỵ . .
Lục Vân Tiên tái bản nhiều lần, Sải Vãi in bằng chữ Quốc ngữ. Hát đối thì vừa sưu tầm vừa sáng tác thâm. Một số thơ nói trên do Đặng Lễ Nghi biên soạn, Kiều Phú, Kiều án là hình thức phổ biến nhứt của truyện Kiều.
Truyện Tàu dịch ra quốc ngữ lần đầu tiên có lẽ là truyện Tam Quốc, khởi đăng trong Nông Cổ Mín Đàm (trước năm 1904).
Bộ Đông Châu liệt Quốc ra mắt lai rai suốt 23 năm mới đủ bộ, từ 1906 đến 1929 (ba cuốn 8, 9, 10 ra nhằm lúc Âu châu đại chiến, những năm 1914, 1915, 1917). Dịch giả của bộ này gồm nhiều nho sĩ: Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần đình Nghi, Nguyễn Kỳ Sắt; nhà xuất bản cũng thay đổi, thí dụ như quyển thứ nhất do Imprimerie Saigonnaise (1906), quyển thứ ba do Huỳnh Kim Danh xuất bản tại nhà in Phát Toàn, quyển thứ 7 tại nhà in Schneider, quyển thứ 14 tại nhà in Xưa nay của Nguyễn Háo Vĩnh.
Bộ Tái Sanh duyên ra mắt, quyển 1 do Nguyễn Văn Đẩu dịch (nhà in Saigonnaise năm 1906) rồi lần lượt Nguyễn An Khương và Nguyễn chánh Sắt tiếp tục dịch đến quyển chót số 11 (năm 1919 do nhà Phát Toàn xuất bản). Đại Minh Hồng Võ do Trần phong Sắc dịch, ra mắt năm 1907. Anh Hùng Náo Tam Môn Giai cũng Trần phong Sắc dịch, Hừnh Khắc Thuận xuất bản năm 1907 do nhà in Marcellin Rey. Nhạc Phi, thuyết Đường năm 1910, Phong Kiếm Xuân Thu diễn nghĩa do Trần Công HIển dịch gồm 11 cuốn, bắt đầu cuốn 1 năm 1907; chung Vô Diệm do Nguyễn Chánh Sắt, năm 1909-1910; Sự tích Bàng Quyên Tôn Tẩn do Ba Kè Bùi Thế Tích dịch, nhà in Saigonnaise in năm 1909.
Năm 1909, trong thư mục của nhà Phát Toàn ghi thêm: Bắc Tống, Bạch Xà, Chinh Đong, Dương Văn Quảng bình Nam, đông Hớn, La thông tảo Bắc, Ngủ Hổ bình Nam - bình Tây, Phong Thần, Quần Anh Kiệt, Tam Hạ Nam Đường, Tây Du, Tây HỚn, Tam Quốc (tới thứ 25), Thủy hử, Thuyết Đường . .
Tuồng, tức là tuồng hát bội, năm 1909 đã thấy: Đinh Lưu Tú, Gia Trường, Kim Thạch Kỳ Duyên, Từ Linh Thi Ân Báo Nghĩa, tuồng Cờ Bạc, Sơn Hậu (đủ ba thứ), Trần Trá Hôn, tuồng ô Thước, Trần Bồ. Năm 1914, thấy rao các tuồng đã in như Kim Long Xích Phụng tuồng, tuồng Phong Thần, Nhạc Phi, tuồng Tam Quốc (đương Dương Trường Bản, Phó hội Giang Đông, Phục Huê Dung đạo, Cầu hôn Giang Tả).
Ngoài ra, còn vẽ "Bá hoa bá quả" sách thuốc gia truyền ngoại khoa cứu cấp, bản đờn kìm, hoặc Truyện đời xưa, Tiếu lâm, Tiếu đàm. Truyện đời xưa mới. Truyện đời xưa Arabe, Sử ký Đại Nam Việt, Sử ký Để thiên, Huấn tử cách ngôn.
Từ 1906 đến 1914, mục lục thơ tuồng truyện thêm phong phú hơn. Các vị nho sĩ, thức giả biết đánh vào nhu cầu bình dân và đã thành công lớn. Người trung lưu dốt chữ Nho, dốt chữ Quốc ngữ ở thôn quê có thể thưởng thức được tinh hoa Á Đông và chút ít hương vị Tây phương.
Đây không hẳn là theo đuôi quần chúng, nhưng là gợi thêm những thị hiếu mới, nâng cao trình độ.
Nội dung của thơ, tuồng, truyện, tích trong giai đoạn này dều theo nguyên tắc căn bản là phải "có hậu" tức là ân thì đền, oán thì trả, người nịnh về sau bị bại lộ chân tướng, người trung mắc hàm oan được thắng thế ở hồi kết cuộc. Vài cuốn thơ khiến nhà cầm quyền Pháp lưu ý và cấm lưu hành: thơ Văn Đoan chàng Lía, kể chuyện chàng Lía làm lọan thời Minh Vương (chúa Nguyễn) tuy có hiếu, có chí nhưng lại chết, cuộc nổi loạn bất thành. Hoặc chuyện thầy Thông Chánh giết tên Biện lý Pháp Jaboin ở Trà Vinh rồi bị hành quyết, hoặc thơ Năm Ty, thơ Sáu nhỏ kể lại thành tích của hai tay anh chị, ăn ở thuỷ chung với bạn bè, rốt cuộc bị hại. Nếu theo công thức "có hậu" thì những chuyện trên không có hậu cho lắm, nhưng đồng bào lúc bấy giờ hiểu ngầm rằng những nhân vật trong thơ đều có "gan ruột", có "nghĩa khí"; nếu trong kiếp này chưa được mãn nguyện thì kiếp sau họ cũng được đền bù, bao nhiêu người đang hoan nghinh, không dám chê bai họ. người đặt thơ thường là rào đón, nhưng người đọc vẫn nghĩ tới cốt truyện. tinh thần trung cang nghĩa khí của Thiên Địa Hội được khơi dậy mạnh. Chưa kể đến thơ Cậu Hai Miêng (không rõ năm ấn hành đầu tiên) ca ngợi thành tích ngang tàng của cậu Hai con Lãnh binh Tấn ra tay dẹp cường hào ác bá, theo Tây nhưng dám ăn thua với những tay sai của Tây, lấy độc trị độc. Người bình dân luôn cả người trí thức đã quan niệm vấn đề "có hậu" một cách sâu xa. Ngày xưa muốn có hậu thì nhân vật phải được tiên ông, tiên bà dứu hoặc nhà vua, ông phú hộ bổng dưng hối cải mà xét lại sự tình. Trong một nước bị thực dân Pháp cai trị, những cốt truyện mang tính cách thời sự thì phần kết cuộc chỉ có thể "có hậu" trong ý chí vương lên của từng độc giả, và chỉ "có hậu" thật sự khi thực dân vắng bóng, bằng hành động cụ thể của đồng bào.
Nếu năm 1906 tạm được xem là khởi điểm của phong trào nói thơ, nói truyện lần hồi lan rộng trong giới bình dân, thì đó cũng là năm khởi điểm cho phong trào đờn ca tài tử. Trước kia, cầm kỳ thi hoạ là thú vui của kẻ sĩ để "di dưỡng tính tình". Nhờ chữ Quốc ngữ (phổ biến bài ca, với lời ca mới) nhưng đặc biệt nhờ mức sống khá giả của giới trung lưu ở thôn quê mà việc đờn ca trở thành phổ thông. Những bản nhạc cổ đểin điệu Huế - mà ông Tấn sĩ Phan Hiền Đạo nổi danh là người biểu diễn khá tài hoa - lần hồi được giới mộ điệu ưa thích. Lại có những thầy đờn giỏi như Nguyễn Liên phong và con là Nguyễn Tòng Bá tiếp tục chế biến. Thầy đờn tha hồ đi dây, giới mộ điệu đón rước ân cần, chẳng riêng gì ở Mỹ Tho là đất văn vật mà luôn cả ở Vĩnh Long, tận Sóc Trăng.
Phong trào Đông Du nổi lên rồi cuộc Minh Tân rầm rộ đòi "di phong dịch tục" thay đổi nếp sống cho hợp với trào lưu mới, tranh thương, mở mang công nghệ, học tập điều khiển xí nghiệp nhỏ. Trước kia, những buổi trình diễn bài bản cổ điển được ưa thích như Tứ Đại cảnh, Tứ Đại oán, Văn Thiên Tường, Tây Thi . . chỉ thu hẹp trong phạm vi bạn bè, trong nhà lúc uống rượu hoặc dưới thuyền lúc thưởng trăng trên sông dài. Nhưng người cổ suý cho phong trào Minh Tân bấy giờ đem đờn ca tài tử trình diễn cho bạn bè và thân chủ ở khách sạn (cơ quan kinh tài, tập họp của phong trào) vào cuối năm 1908; buổi chiều lại còn tiết mục hát thuật (ảo thuật) xen kẽ. Phong trào tan rã nhưng thú đờn ca vẫn phát triển mạnh, lời ca lấy đề tài ở điển tích Tô Huệ chức cẩm hồi văn, Bá Lý Hề, lục Vân Tiên, truyện Thúy Kiều.
Điệu ca ra bộ (vừa ca vừa diễn xuất ) rồi hình thức "hát chặp" ra đời (ca ra bộ với đôi ba người trình diễn một hoạt cảnh ngắn thâu hút cảm tình của từng nhóm nhỏ. Bấy giờ sự du nhập của văn chương Pháp, vài hài kịch được phổ biến trong trường học, những tuồng cổ điển với màn, cảnh bố trí rõ rệt, đồng thời có cảnh "sơn thủy" thích hợp. Một số người am hiểu Tây học hợp tác với các nhân sĩ đã cho ra mắt sân khấu cải lương. Cải lương là sửa đổi, canh tân hình thức sân khấu cũ của ta là Hát bội. Tuồng tích đặt ra giữa khoảng Âu châu đại chiến thứ nhất - với sự tham gia của người theo Tây học, thân Pháp. Và của những người tham gia phong trào Duy Tân. Tung tích bại lộ tuy được trả tự do nhưng thấm mệt - không tranh đấu về mặt chính trị, bèn làm công tác văn hóa. Hát bội lần lần bớt thu hút dân chúng, tuồng cải lương tỏ ra phong phú và có khả năng thích ứng với mọi từng lớp đồng bào. "tuồng Tàu" cho những người thích truyện Tàu. "tuồng Tây" với nghĩa là tuồng nặng về tả chân, đem con người của thời hiện tại ra phô bày, với áo lớn ,cà vạt, tuy dùng những bản cổ điển nhưng xem vào có những lớp đối thoại như thoại kịch. Người viết tuồng cải lương bắt đầu chú trọng vào việc bố trí nhân vật, phân phối màn, lớp, cách kéo màn, hạ màn hoặc chậm hoặc lẹ, cũng là ánh sáng sân khấu, đặc biệt là tranh cảnh (bấy giờ gọi là sơn thủy). So với hát bội, những động tác của diễn viên được phần tự nhiên, gần thực tế, câu văn dễ hiểu hơn. Gánh hát cải lương thi nhau trình diễn lưu động từ Sài Gòn tới các tỉnh lớn và một vài chợ quận giàu có. Ở làng ở tỉnh, lại còn gánh hát nhỏ. Phương tiện di chuyển thoạt tiên là đường thủy, sắm ghe lớn để chở đồ đạc, có tàu kéo vì vậy mà gọi là ghe hát. Cùng với tuồng cải lương, bài ca Vọng cổ cũng phát triển, tiết tấu thêm phong phú, trữ tình.
Với Vọng cổ, lần hồi ở thôn quê những điệu hò đối đáp, hò giã gạo giảm uy thế. Cũng như từ khi cải lương ra đời, các hình thức nói thơ, nói truyện cùng là hát bội dường như đứng lại. Hai hình thức văn nghệ mới quả là sự biến chuyển đáng kể theo chiều hướng tốt.
Số nhà in dồi dào lại cung cấp kịp thời những bổn tuồng cải lương ngắn vàn hững bài ca vọng cổ giúp cho dân ở nơi hẻo lánh có thể tổ chức đờn ca vui vẻ, khi rảnh rang hoặc lúc đám ma, đám giỗ, đám cưới. đĩa hát, máy hát phổ biến khá mạnh; mỗi làng quê ít ra cũng có năm bảy người đủ sức mua sắm. thoạt tiên tiếng hát thâu ở Sài Gòn, gởi về Pháp ép ra đĩa nhựa.
Một trong những người ủng hộ việc sáng lập ngành sân khấu cải lương là Hồ Biểu Chánh. Năm 1910, ông cho ra tập thơ đầu tiên: U tình Lục những không thành công; từ 1910 đến 1920 làm báo rồi viết tiểu thuyết. Nói chung, ông giỏi tài phóng tác tiểu thuyết Pháp đến mức đọc qua ai cũng tưởng là chuyện xảy ra ở miền Nam. Tiểu thuyết của ông một thời được mọi giới ái mộ, đọc là hiểu ngay; ông tả tâm lý, tả cảnh rất linh động. Ở những gia đình trước kia thích nói truyện Tàu, tiểu thuyết của ông được tiếp đón, xem như là những truyện hiện đại hóa, vẫn là "có hậu".
Nếu yêu nước nồng nhiệt, thiết thực, chuộng tiến bộ, hướng về đại chúng là bản sắc của kẻ sĩ khi hành động về văn hóa thì về mặt chánh trị, vẫn là như thế.
Thiên Địa Hội tạo ra được Phan Xích Long dám yêu cầu tòa xử tử hình ngay, và nhiều nhân vật khác điển hình là hương hào Hầu bị can vào tôi chống Pháp (vụ phá khám Biên Hoà 1916) đã nói khẳng khái trước giờ hành quyền: "ta sanh làm tướng, chết làm thần. Chào bà con ở lại mạnh giỏi." Hai Sở cùng bị xử một lượt, thách thức trước mũi súng của thực dân khi thọ án tử hình: "Cứ bắn ta đi, Sở này không sợ đâu! Cái chết, ta thị như qui tân gia" (coi như về nhà mới vậy thôi.). Có thể kể thêm trường hợp anh hùng Thiên Địa Hội nhóm Nghĩa Hưng ở vùng Chợ Kiển (Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn thời trước); cơ mưu bại lộ sắp bị bắt nhưng anh em thề sanh tử bất ly, trốn thì được nhưng lại lo vợ con bạn bè bị liên lụy, chi bằng khuyên bảo họ cứ đi nơi khác; anh em ở lại, tìm một căn chòi ở gần ngã ba chợ Trạm mà nghỉ ngơi.
Năm anh em kết nghĩa này làm thịt con heo mà ăn uống no say, chỉ còn nồi cháo lòng là món ăn cuối cùng. Chờ hửng sáng, đoán chừng bọn tay sai của thực dân sắp lùng bắt, họ tự ray rắc thuộc độc vào nồi cháo, mỗi người ăn một vài tô rồi ngã lăn ra chết.
Hồi xảy ra phong trào Duy Tân 1907, miền Nam nặng óc tôn quân. Về sau, phong trào tàn lụn, thực dân khủng bố gắt gao nhưng thân hoà nhân sĩ và đồng bào vẫn hăm hở đón rước ông Cường Để vào năm 1913, đến mức ông phải ngạc nhiên. Ông về Sài Gòn, lén lút đến Chợ Mới (chợ Gạo?) rồi qua Vĩnh Long bằng tàu thủy. Dưới tàu, ông nghe ba người nọ bàn tán với nhau về tin thực dân Pháp treo giải thưởng phong chức đốc phủ cho ai bắt được ông. Một trong ba người - vì không biết người ở cạnh nãy giờ ngồi lắng nghe chính là Cường Để - trả lời công khai với mấy người bạn kia:
" - Có chuyện như thế ư? Tôi đây năm trước từng sang Nhựt có được biết đức Ông. Bây giờ nếu gặp vẫn còn nhớ mặt. Nhưng dù cho làm quan to mấy đi nữa, tôi cũng chẳng nỡ lòng nào "bán" đức Ông. Đức Ông là người vì nước vì dân, mình là người dân phải nên hết lòng ủng hộ. Đứa nào dám "bán" Đức Ông, ta đây quyết không tha."
Ông Cường Để bình luận:
"Người này có từng sang Nhật thật không thì chẳng rõ, nhưng khi ấy thì bỉ nhân ở bên cạnh mà không nhận ra. Tuy vậy giọng nói và thái thì biểu hiện cái đặc tính trung thực và sốt sắng của người Nam Kỳ một cách đáng yêu"
Đến Vĩnh Long, ông Cường Để được một chiến sĩ từng Đông Du đón rước bí mật đưa về làng. Tuy là bí mật nhưng ông Cường để vẫn phải đụng đầu với vài thanh niên đã từng qua Nhựt. Ông trú ngụ tại nhà của Huỳnh Quang Thành, tuyệt nhiên không cho ai đến ra mắt. Nhưng một việc buồn cười xảy ra:
"Sáng hôm sau, bổng nghe tiếng trống rầm làng. Lệ làng ấy, hễ gặp khi có việc quan trọng thì đánh trống cái, triệu tập tất cả người làng ra đình để nghe báo cáo hoặc cùng bàn bạc.
"Huỳnh quang Thành ra đình, người làng đã đông, mấy thanh niên kể trên đang diễn thuyết hô hào:
"-Vua ta hiện đã về đây, ở nhà xã trưởng. Chúng ta là thần dân, người có của kẻ có công, phải đem cả ra mà hiến cho vua.
"Huỳnh Quang Thành vội vàng chạy về nói cho bỉ nhân biết. Mấy người thanh niên kia có lòng tốt song chưa hiểu biết việc đời, cho nên có cái hành động ngộ nghĩnh như thế khác nào tuyên bố cho người Pháp biết chỗ bỉ nhân trú ngụ. Họ vốn có ý hoan nghinh bỉ nhân, mà thành ra hoan tống".
Cũng trong dịp này, một phú hộ (nên hiểu là đại điền chủ) ở Vĩnh Long tên là Lâm Bình - từng qua Nhựt đem theo hai đứa con trai nhờ ông Cường để cho đi học - đến nơi ông Cường Để đang ẩn trú để nói:
"- Thưa ngài, tôi không giàu có chi song một năm có hoa lợi hơn vạn bạc. tôi định chỉ lưu một nửa ăn tiêu, còn một nửa xin hiến ngài dùng làm việc nước. gần đây tôi có làm được một tòa nhà kiểu Tây, tôi ở từng dưới, trên gác bỏ không. Xin rước ngài về đó ở, chớ ngài ở thuyền thế này thì khổ quá".
Một thân hào khác là cha của Lưu Do Hưng vì ái mộ ông Cường Để nên trước khi từ trần muốn hiến cho ông 30 vạn bạc, nhưng không biết giao cho ai đem đi.
Đúng là tinh thần trọng nghĩa lớn, như trường hợp ông Trần Chánh Chiếu vì quá nồng nhiệt mà trên mặt báo vào thời Minh Tân cho đăng tải những bài lộ liễu, chửi mắng công khai tổng đốc Lộc "ăn cơm chúa phải múa tối ngày, ăn cây nào rào cây ấy, nếu quan Tổng đốc cực chẳng đã mới ra tay bắt đội quản, và các quan đàng cựu chém giết đày lưu, bắt vợ bắt con làm khổ khắc, thậm chí bắt không đặng quan cựu rồi lại bắc buộc đàn bà, hoặc bắt con nít còn hôi sửa mà tra cho nó khai ra, bởi vậy cho nên mang lấy tiếng thị phi, cũng vì thực lộc thì phải báo ân, nên làm cho đến thế .. " Lại còn bài báo khen ngợi liệt sĩ Nguyễn Trung Trực cùng phó tương Lâm Văn Ky, ám chỉ rằng nếu còn sống thì hai ông ấy ắt sẽ tham gia phong trào Duy Tân. Mặc dầu là đại điền chủ, công chức hoặc hương chức hội tề, chiến sĩ Duy Tân trong Nam vẫn nhắc nhở đến đời sống thiết thực của đa số đồng bào nghèo kém: phô bày cái khổ của giới tá điền, một năm 12 tháng mà phải chịu cảnh thất nghiệp đến bảy tám tháng. Hoặc kêu gọi cải cách tận gốc rễ nếp sống vật chất và tinh thần do thời phong kiến lưu lại, được thực dân dung túng: bỏ tục ăn trầu, bỏ tục đạo tì khiên quan tài với nghi thức rườm rà, chống nạn tảo hôn, chế độ hà khác mẹ chồng hành hạ nàng dâu, chống việc cúng đình, để nghị đúc tượng những người có công với đất nước để chưng bày nơi công cộng. Thậm chí đến mức đề nghị bỏ những nghi thức tốn kém khi thờ Phật hoặc thờ cúng ông Quan Công ...
° ° °
Nồng nhiệt yêu nước, quá sốt sắng trước việc nghĩa là thái độ tốt nhưng có thể đem lại vài hậu quả xấu: nguội lạnh khi việc lớn không thành, lửa rơm, làm không xong thì không muốn tiếp tục.
Và quá chú trọng vào chuyện thực tế thì thường bỏ quên những kế hoạch có tánh cách chiến lược, không vạch chương trình dài hạn, đụng đâu làm đó, không phân biệt chi tiết và đại cuộc.
Có tác phong bình dân , hòa mình vào đại chúng vẫn chưa đủ. Phải biết tổ chức, biết huấn luyện đại chúng: lý thuyết mặc dầu là trừu tượng nhưng muốn đi đường dài thì phải nắm chắc định hướng cho bằng được.
Về mặt văn chương, lý luận, người miền Nam ít chú trọng xây dựng tác phẩm lớn khả dĩ thoả mãn giới trí thức. Cải lương, hát đối với thơ bình dân vẫn là chưa đủ. Truyện Tàu tuy hay, bố cục hấp dẫn - với những nhân vật đầy đủ nét điển hình và cá tính - nhưng làm sao thay thế được những truyện lấy đề tài trong thực tế mà hàng ngày ta đang sống? Thoại kịch, tiểu thuyết viết theo kỹ thuật Tây phương là những bộ môn cần thiết không kèm, tuy nó ít hấp dẫn giới bình dân và số người thưởng ngoạn chỉ có hạn lúc bấy giờ.
Nguồn: trích “Cá Tính của Miền Nam – Sơn Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:49:34 GMT 9
Anh Em Kết Nghĩa, Hoạn Nan Tương Cứu, Sanh Tử Bất Ly Sơn Nam
Một nẻo đường khá độc đáo để cho phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ Lục Tỉnh phát triển và tìm sinh lực là Thiên Địa Hội. Khởi đầu, Nam Kỳ là đất dung thân của người Trung Hoa bài Mãn phục Minh. Rồi lại là nơi đón nhận những người phục Minh. Sau đó, là nơi đón nhận những người Trung Hoa đến làm rẫy và nắm việc thương mãi khi người Pháp mới đến.
Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển ở nông thôn, tuy là việc tu niệm được đơn giản hóa nhưng vẫn cần vài hình thức tối thiểu. Thiên địa Hội chỉ nặng về hình thức trong buổi lễ gia nhập đầu tiên, rồi thì người trong Hội cứ tha hồ làm ăn như bao nhiêu người khác. Về tổ chức, Hội kiểm soát kỹ từng người, lại còn kỷ luật nghiêm nhặt về bảo mật phòng gian. Mọi thủ đoạn đều tốt, miễn nhằm vào mục đích bảo vệ và phát triển hội!
Hội phát triển từ thành thị đến thôn quê, mỗi nhóm nhỏ đều có người đặc trách về quân sự, dọ thám.
Về nét chánh, nhiều tài liệu đã đề cập rồi, vẫn là chờ vị cứu thế, vua nhà Minh xuất hiện. Đại khái anh em kết nghĩa, thề hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly, ai vi phạm nội quy là bị đánh đập hoặc xử tử; trong việc giao thiệp, chú trọng vào mật hiệu, ám hiệu; đã là người trogn Hội thì phải tin cậy nhau đến mức tối đa, mọi việc bất hòa không được nhờ tòa ản xet xử mà phải đưa giải quyết trong nội bộ.
Người trong Hội giúp nhau về sanh kế, vốn liếng. Chúng tôi muốn nêu ra những tài lệiu cụ thể để tìm hiểu phần nào Thiên Địa HỘi ở Nam Kỳ, khi người Pháp mới đến.
Mãi đến nay, trong dân gian nhiều người cho rằng cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa huân, của Nguyễn Trung Trực đều có sự hậu thuẫn của Thiên Địa Hội, đến những chùa miễu, những công ty thương mãi lớn, hoặc những tổ hợp nhỏ chơi hụi mượn tiền đều là Thiên Địa Hội! Chưa kể đến cuộc tranh chấp giữa Gia Long và Tây Sơn, với vài toán quân theo Thiên Địa Hội. Hoặc có người cho rằng trong đạo quân Nguyễn Huệ có bọn Thiên Địa Hội thừa dịp mà trả thù nhà Thanh qua trận Đống Đa!
Về cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Thiên Địa Hội đã tham gia. Trường hợp của Thủ Khoa Huân lại rõ rệt hơn, bấy giờ người Trung Hoa theo Thiên Địa Hội được giới bình dân Việt Nam gọi là Chệt trường phát.
KHI THỰC DÂN CHÚ Ý VÀ PHÁT GIÁC
Từ năm 1869, viên Giám đốc Nội vụ nhiều khả năng, am hiểu tình hình Nam kỳ nhất là Paulin Vial đã lưu ý các tham biện nên theo dõi một vài hội kín. Có lẽ đến năm 1875, thực dân ở Nam Kỳ mới đặt thành vấn để, sau khi bắt được vài vụ Thiên Địa Hội, trước tiên là vụ Trương Đế Điển, người Triều Châu ở Biên Hòa thuộc nhóm Nghĩa Hòa Công ty. Lại còn người Triều Châu tên là Hứa Thanh ở Chợ Lớn cũng sa lưới. Sau khi phối kiểm, thực dân thấy rằng ở Hà Tiên, bên kia biên giới Cao Miên cũng Thiên Địa Hội. Nếu chỉ là người Huê kiều thì không đáng ngại, nhưng hoạt động của Hội kín lại mang tính chất chánh trị. Từ mấy năm qua, một nhân vật tên là Kim, tục danh là Quản Kim hoặc Ngô Quan Kim hoạt động ráo riết chống Pháp, đang cư ngụ ở Măng Thít (Vĩnh Long) chứa chấp những phần tử đáng tình nghi. Quản Kim này từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, bị bắt ở đảo Phú Quốc, đày ra Công Đảo rồi trốn về. Quản Kim đã ra Bình Thuận từ trước, trong hàng ngũ nghĩa quân từng được phong chức Quản. Đa số người Triều Châu và Phước Kiến, sau khi nhập cảnh vào lãnh thổ Nam Kỳ dường như bị bắt buộc vào Hội. Vùng Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh và khu vực hai bờ sông Hậu đặt dưới quyền của một nhân vật quan trọng mang biệt danh là Hồng Bằng Phi, thương cư ngụ tại Sa Đéc. Các chủ tỉnh được lệnh theo dõi hội kín và dùng biện pháp cứng rắn để đối phó.
Chủ tỉnh Chợ Lớn cho biết là có hai ông bang (thuộc bang Triều Châu) đã xin yết kiến để tố cáo một lãnh tụ Thiên Địa Hội tên Tsiao Sen (sau đổi là (Tsiao Hen) đang hoạt động tại Chợ Lớn, cưỡng bách giới Huê kiều ở địa phương phải gia nhập.
Trong tình trạng dọ dẫm, thực dân cố gắng khai thác các nguồn tin. Theo ý kiến và tài liệu của Emile Puech, chủ tỉnh Hà Tiên (đã từng ở Long Xuyên dẹp cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa) thì Thiên Địa Hội đã có mặt trước khi người Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Các hội viên họp thành đảng cướp khá mạnh, hoành hàn hvùng biển vịnh Xiêm La, hệ thống bao gồm đường hàng hải từ Hương Cảng, cù lao Hải Nam, Tân Gia Ba, Xiêm, Cần Giọt (Kampot), Rạch Giá, Sài Gòn, Hà Tiên. Hàng năm họ tụ họp để cúng tổ vào ngày 25 tháng giêng âm lịch. Lễ cúng diễn ra vào lúc đầu canh ba. Theo lời bọn dọ thám kể lại thì người cầm quyền lớn nhứt là lão Kiếm, từng bị xữ chặt đứt tay trái về tội ăn cướp từ hồi 30 năm trước. Bọn tay em ướcl ượng chừng 25 người. Lão kiếm là chúa đảng danh dự; chúa đảng hoạt động thật sự là người Minh Hương tên là Tăng Bộ, còn mang tên Việt là Huỳnh Văn Bửu, cỡ 41 tuổi đã hoạt động trước khi người Pháp đến, từ Hà Tiên đến tận mũi Cà Mau. Chúa đảng lập sổ, xướng danh từng người khi chia số tiền cướp bóc được. Ai túng tiền để làm ăn thì dịp này có thể mượn trước của ngân quỹ chung, với tiền lời 3 phân mỗi tháng, năm sau, họ đem tới trả, kẻ vắng mặt luôn luôn có nhờ một người khác trả giùm. Sau đó là lễ cắt cổ gà, uống rượu pha máu gà và tro của lá bùa vừa đốt. Rồi vào khoảng 4 giờ sáng, chúa đảng lên đàn, cắt lá gan của con heo mà chia đồng phần cho anh em ăn, gan còn sống, tiêu biểu cho lá gan của kẻ thù. Chủ tỉnh Puech giải thích: kẻ thù của họ năm nay có thể là Thống đốc Nam Kỳ! Sau đó, cả bọn giải tán bằng tiệc rượu, uống say mèm hoặc tha hồ hút á phiện, nằm tại chỗ.
Chủ tỉnh cho biết thêm ở cái Tàu Thượng và Cái Tàu Hạ (Sa Đéc) có hai ngôi chùa làm trụ sở họp mặt của bọn cướp theo Thiên Địa Hội, hằng năm họ tụ tập cúng tổ rồi chia tiền.
Để kết thúc bản báo cáo trên, chủ tỉnh Hà Tiên hứa là sẽ rình bắt cuộc hội họp cửa bọn hải tặc vịnh Xiêm La trong vài ngày sắp tới. Nhưng hắn không làm được.
Viên hội đồng quản hạt là Nguyễn Thành Trung giải thích với cấp trên về nguồn gốc Thiên Địa HỘi: Ngày xưa, đời Tam quốc xảy ra giặc Huỳnh Cân, ba người xưng là thiên công tướng quân, Địa công tướng quân và Nhân công tướng quân họp lại xưng là tụ Nghĩa Hội hoặc Huyết Bái HỘi. Bọn người theo hội kín ngày nay gọi là Chệt trường phát (để tóc dài), không cạo đầu thắt bím như người Mãn thanh. Bên Trung Hoa, vùng Tứ Xuyên, Hiệp Tây, Vân Nam, Qưới Châu đã từng bị hội kím làm loạn suốt hai năm, nhằm năm Nhâm Tý, Quí Sửu. Họ đưa ra câu sấm truyền:
Nhứt sĩ anh hùng xuất
Song thiên nhật nguyệt khai
Và câu Thiên khia ư tý
Địa tịch ư Sửu.
Đến đời vua Hàm Phong, ở tỉnh Quảng Đông, dân Triều Châu rủ nhau lập hội kín, một số người phỏng theo tổ chức của hội mà lập đảng cướp biển, gọi là giặc Tàu Ô. Hai ưtớng cướp Tàu Ô nổi danh là Cao Bằng Phi và Huỳnh Quốc Lập kiểm soát con đường biển từ Huế vô tới Kampot (Cao Miên), về sau chúng bị giết nên tạm yên.
Tài liệu do ông hội đồng quản hạt nói trên cung cấp trùng hợp với tài liệu của chủ tỉnh Puech về chi tiết cướp biển.
Đến khi quyển sách khảo cứu của Schlegel phổ biến ở Nam Kỳ thì nhà cầm quyền địa phương mới hiểu rành hơn. Quyển sách này được Giám đốc Nội vụ yêu cầu Tham biện xuất công quỹ ra mua làm tài liệu. Sách biên soạn với những tài liệu do nhà cẩm quyền thực dân ở Hà Lan sưu tầm, sau khi phát giác những hoạt động của Thiên Địa Hội của Hoa kiều ở Nam Dương. Thiên Địa Hội khởi đầu từ cuộc hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm, đời vua Ung Chánh. Cách tổ chức của hội cùng nguyên tắc hoạt động khác nhau về chi tiết, tùy địa phương và trình độ của từng lãnh tụ, nhưng mục đích chánh vẫn là lập một chánh quyền, một tòa án riêng, không nhìn nhận chế độ, luật lệ đương thời.
KHI NGƯỜI HUÊ KIỀU NẮM QUYỀN CHỦ ĐỘNG CHỜ DỊP TIẾP TAY VỚI QUÂN CỜ ĐEN Ngoài những nhóm lẻ tẻ bị phát giác tại Sài Gòn - Chợ Lớn, thực dân Pháp rất quan tâm về tình hình ở phía mũi Cà Mau. Bấy giờ, tỉnh Bạc Liêu chưa thành lập; phần đất cao ráo thuộc Bạc Liêu chưa thành lập; phần đất cao ráo thuộc Bạc Liêu ngày nay giáp ranh với Sóc Trăng là nơi mà người Triều Châu đến mua bán, làm rẫy, làm ruộng (tỉnh Sóc Trăng ngày xưa ăn qua vùng Vĩnh Châu). Lúa đã tốt (gạo Ba Thắc), dân địa phương gồm đa số người Miên thì hầu như không biết việc thương mãi. Người Triều Châu đến làm ăn dễ dàng, nắm độc quyền mua bán lúa gạo để cung cấp cho mấy chành ở Chợ Lớn, nắm luôn các phương tiện chuyên chở cùng việc mua bán lúa tạp hóa sỉ và lẻ. Đồng thời, họ cũng khai thác ruộng muối, xây lò hầm than. Nếu hồi cuối thế kỷ thứ XVII, đời HIền Vương, nhóm bài Mãn phục Minh của Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu một mình một chợ làm ăn ở Biên Hòa, Mỹ Tho, Hà Tiên thì vào cuối thế kỷ htứ XIX, người Huê Kiều cũng tung hoành, đến làm vua một cõi phía Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Trong số 12.484 dân Triều Châu và bộ toàn cõi Nam Kỳ (trừ Sài Gòn - Chợ Lớn) , riêng tỉnh Sóc Trăng (và một phần của Bạc Liêu ngày nay) chiếm đến 5.300 người, tức là non một nửa. Thực dân phỏng đoán ở Sóc Trăng còn đến 6.000 người Triều Châu khác trốn thuế, chưa ghi vào bộ.
Từ năm 1877, nhà cầm quyền ở Sóc Trăng nhận ra sự hoạt động của Thiên Địa HỘi. Nhưng đến 1880, tình hình trở nênrối rắm lạ thường, các nhóm Thiên Địa HỘi dậy giặc chòm, họ không xúc phạm đến công sở, không đụng tới lính mã tà nhưng đánh nhau giữa các phe phái: Thiên Địa Hội thuộc Nghĩa Hưng (Kèo Xanh) đánh với Thiên Địa Hội Nghĩa Hòa (Kèo vàng). Cuộc tranh giành ảnh hưởng này có lẽ xảy ra từ khi họ chưa qua Nam Kỳ, là mối thù truyền kiếp giữacác lãnh tụ lớn, các lãnh tụ nhỏ cứ tiếp tục thanh toán (mãi đến nay, chưa thấy tài liệu nào giải thích rõ).
Thiên Địa Hội ở vùng Sóc Trăng lúc đầu chỉ gồm người Huê Kiều và người Minh hương (Hoa liều lai việt hoặc Miên). Tháng 9-1880, họ đánh nhau có chừng 50 đến 60 người cầm gậy gộc; riêng về Bạc Liêu, có 3 người bị thương nặng phải gởi đi Chợ Lớn điều trị. Ngoài bọn cầm gậy gộc, còn nhiều người đi theo yển trợ về tinh thần, hò hét. Nên nhớ là người Hoa Kiều am hiểu nhiều môn phái võ thuậ,t số người cầm gậy toàn là võ sĩ được tuyển chọn. Lúc họ đánh nhau, hương chức làng và lính mã tà giữ thái độ không can thiệp và không đến giải tán. Hai nhóm rút luui sau khi mỏi mệt, không tố cáo với nhà cầm quyền. Tháng 11 cũng năm ấy, lại đánh nhau giữa hai phe Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa tại đường phố chợ Sóc Trăng, lần này có xung đột nhỏ với hương chức hội tề. Ngày 2 tháng 12 năm ấy tại Bãi Xàu, chừng 100 người dậy giặc ngoài đường, rồi đến 17 tháng 12, chừng 400 người lại đánh nhau giữa đường phố tỉnh lỵ. Thống đốc Nam Kỳ chấp thuận phạt bằng tiền tám bang Hoa Kiều ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bãi Xàu, Trà nho, Bố Thảo, Lai Tâm, Rạch Gòi, Láng Dài. Mặc dầu thỉnh thoảng có lục soát, bắt bớ, tịch thu tài lệiu, tống xuất về Trung Hoa hoặc đày ra Côn Đảo, Thiên Địa HỘi cứ phát triển về tổ chức. Ở nơi đất rộng người thừa từ Đại Ngãi tới mũi Cà Mau, bọn "anh hùng" xuất hiện từng toán chừng ba bốn chục người để đốt nhà, cướp giựt, ăn cắp lúa bó (vừa gặt xong). Nên hiểu đây là việc làm nhứt cử lưỡng tiện của họ: vừa có tiền xài, vừa hăm dọa được những người chưa chịu theo hội. Đầu tháng 1-1882, chánh quyền ở Nam Kỳ gởi một pháo hạm cỡ nhỏ đến đại Ngãi để thị oai, vì vậy mà bọn báo động tạm trốn tránh, tình hình trở nên khả quan.
Năm 1882, khi tình hình ở Bắc Kỳ sôi động thì thực dân ở Nam Kỳ phát giác nhiều người Việt gia nhập thiên Địa HỘi. Một nghĩa quân từng lãnh bằng cấp tên là Phạm Văn Ngoạn (còn tên riêng là Chí, ở An Hòa Đông, tổng An Mỹ, tỉnh Sa Đéc) bị bắt về tội hoạt động cho hội kín. Ông thầy thuốc Tòng ở rạch Cái Đôi (Vĩnh Long) mộ người theo Thiên Địa Hội dưới uqyền chỉ huy của một Hoa kiều là Trần Ngãi. Từ Mỹ Tho, Nguyễn Văn nở đến xin gia nhập, được ông thầy Tòng phong chức đốc binh. Tháng 4 năm ấy, 22 người bị bắt về tội tham gia hội kín bị đày ra Công Đảo, chỉ có 2 người Minh Hương kỳ dư là người Việt - trong đó có 2 người thuộc họ Phạm đang lãnh phận sự oci xóc phần hộ hoàng tộc họ Phạm, tại Sơn qui (Gò công). Và người ở Sa Đéc, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Gò Công.
Trong phúc trình về an ninh, viên Giám Đốc nội vụ báo động với Thống đốc Nam Kỳ rằng người Hoa kiều đang tuyển mộ, ép buộc người Việt vào Thiên Địa HỘi. Viên Giám đốc cũng thắc mắc không hiểu tại sao Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa lại chống nhau như rồi tại Sóc Trăng, họ ăn thua ở năm sáu địa điểm khác nhau. Tháng 5 cũng năm 1882, viên cai tổng Định Chí (Sóc Trăng) báo cáo rằng tất cả 18 làng trong tổng gồm người Hoa Kiều, Minh Hương và người Việt đều theo thiên Địa Hội không sót một làng nào cả. Từ Cần Thơ, chủ tỉnh Nicolai nổi tiếng là giỏi giắn và trầm tĩnh báo cáo là tất cả làng trong tỉnh, kg chừa một làng đều có Thiên Địa HỘi. "Ngay trong lễ gia nhập, hội viên thề nguyền sẽ khởi loạn. Đầu mối của phong trào là từ trên Chợ Lớn phát triển xuống . . .
Tuy nhiên, thực dân tạm yên tâm vì chưa thấy hành động chánh trị nào rõ rệt chứng tỏ họ chống Pháp. Phía Sóc Trăng, sát mé biển hoang vu thuộc tổng Thạnh Hòa (sau là Bạc Liêu), thực dân thoe dõi một cuộc tập họp qui mô của Hoa kiều đang cất chòi rải rác, canh phòng cẩn mật, số người lui tới thường trực đến 3 hoặc 400. Đầu tháng 7-1882, mẻ lưới tung ra với viên cai tổng dẫn đường, một viên đội mật thám cùng 12 nhân viên tháp tùng, ngoài ra còn hơn 50 dân tuần đi theo yểm trợ. Bị bao vây thình lình, mấy người Hoa kiều ấy chống cự mãnh liệt bằng gậy gộc. Nhơn viên mật thám bắt 17 người đang tẩu thoát và khi xét trong căn chòi có vẽ bí mật lại gặp trọn ổ 19 người đang nấu á phiện lậu và một số tài liệu liên quan đến hội kín. Số người bị bắt là 76, toàn là dân Triều Châu.
Tại Sài gòn - chợ Lớn, từ lâu thực dân theo dõi, bắt những nhóm lẻ tẻ, tịch thâu tài liệu. Quan trọng nhất là việc khám xét và tịch biên hai căn nhà số 127-129 đường Lareynìere (Sài Gòn) được xem là sào huyệt quan trọng của nhóm Nghĩa Hòa, 7 người bị đề nghị trục xuất về tàu.
Nhóm Nghĩa Hưng ở Sài Gòn và Chợ Lớn với đầu não là người Phước Kiến hoạt động tích cực, với xu hướng chánh trị rõ rệt, torng khi nhóm Nghĩa Hòa chiếm nhiều uy thế ở Sóc Trăng, Bạc Liêu chỉ nặng về hoạt động kinh tài.
Từ hai năm trước, một nhóm Nghĩa Hưng bị phát giác (15-3-1880), 23 người bị bắt nhưng được thả ra hai tháng sau. Người trong hội lợi dụng tật tham những của viên chức Việt và Pháp, cứ lo hối lộ, nhờ vài người có uy tính bảo lãnh là xong vì thiếu yếu tố về mặt pháp lý; họ bảo vô hội là để tương trợ làm ăn, biên lai thâu tiền chỉ là biên lai chơi hụi hoặc góp tiền cúng chùa Ông, chùa Bà. Người Phước Kiến thường tới Chợ Lớn, về Tàu rồi trở ra giả danh mua bán, mang theo nào là sản phẩm ; mỹ nghệ bằng đá, bằng sứ, sơn mài, tơ lụa, đến những nhà khá giả mà bán rồi lợi dụng cơ hội tuyên truyền vận động ; "Họ sẽ gởi đại diện ra Bắc Kỳ để gặp bọn Cờ Đen" .
Cảnh sát Chợ Lớn lại báo cáo rằng giới Hoa kiều đang bàn tán về nguồn tin của báo ở Hồng Kông loan tin ở Bắc Kỳ hiện đang xảy ra ác chiến giữa liên quân Cờ Đen, Cờ Vàng, Cờ xanh chống quân Pháp: quân Pháp chết 75, bị thương 12 và một số bị chết đuối. Nguồn tin khác của cảnh sát Chợ Lớn cho biết một nhơn vật của nhóm Cờ Đen tên là Xuân Hu hoặc Chu Tcheng Seng từ Tân Gia Ba đến, đi Sa Đéc rồi lên Sài Gòn. Thiên Địa Hội thuộc Nghĩa Hưng cùng phe đảng với nhóm Cờ Đen đang hoạt động chống Pháp ngoài Bắc. Vì vậy mà người theo Nghĩa Hưng phấn khởi, cho là thời ơc đã đến "triều đình quyết định ngày rằm tháng chạp âm lịch năm nay sẽ khởi nghĩa" Nhóm Nghĩa Hưng ở Chợ Lớn tuyển mộ thêm người, lãnh tụ của họ có thể là Kỳ Ao, trong căn cước ghi là Diệp Kỳ Thủy. thực dân bắt Kỳ Ao nhưng người trong Nghĩa Hưng lại tin chắc lãnh tụ này sẽ được luật sư Vinson danh tiến lúc bấy giờ lãnh ngoại hầu tra. Lại còn tin khác đồn đãi rằng người cầm đầu lớn nhất của nhóm Nghĩa Hưng là Huỳnh Coi đang ẩn lánh tại Hà Tiên vừa nhận lá thư mật từ bên Tàu gởi qua cho biết Lý HỒng Chương đã rời Quảng Tây, với cánh quân ước 15.000 người từ tháng 9 âm lịch, để tăng cường hoc đạo quân nàh Thanh đang có mặt tại Bắc Kỳ, đương đầu với pháp. Vì sợ giặc giã xảy ra đến nơi nên bấy giờ dân chúng không thích trữ tiền mà tích trữ vàng; một lượng vàng trị giá 32 đồng.
Tuy nhiên, vài tháng sau chẳng có gì quan trọng xảy ra ở Nam Kỳ. Giới bình dân Hoa kiều ở Chợ Lớn lại loan tin: quân Pháp không bao giờ chiếm Bắc Kỳ được vì đạo quân do Lý Hồng Chương cầm đầu sẽ tái chiếm với lực lượng 120.000 người! Và khi người Tàu chiếm Bắc Kỳ rồi thì bọn Pháp phải nhượng bộ, người theo Thiên Địa Hội bị trục xuất sẽ trở về Chợ Lớn làm ăn như trước.
Rõ ràng là lúc quân Pháp đánh Bắc Kỳ, người theo Thiên Địa Hội ở Chợ Lớn quá lạc quan, toan lợi dụng cơ hội làm áp lực với chánh phủ thuộc địa để rồi họ nổi lên tại Chợ lớn, giành quyền tự trị.
Những lời đồn đãi của nhóm Nghĩa Hưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Tướng Cờ Đen là Lưu Vĩnh phúc (thuộc hạ của Ngô Côn, tướng của Thái Bình Thiên quốc) chạy sang Bắc Kỳ, lập được thành tích vẻ vang là lần lượt giết Francis Garnier và Henri Tivìere. Nhà Thanh vẫn xem Việt Nam là phiên thuộc nên cho quân sĩ tràn biên giới và tiến sâu chiếm vài vị trí trong nội địa. Trung Hoa và Pháp tranh chấp nhau, Lý Hồng Chương với danh nghĩa là Thự Lý thông thương đại thần cùng với Công sứ Pháp điều đình giằng co, trong khi chiến tranh cứ xảy ra ở chiến trường Trung Hoa. Thoạt tiên Pháp bày trận ở Phúc Châu trong khi quân Tàu giành được chiến thắng đáng kể ở Lạng Sơn.
Sau cùng, vì Hạ nghị viện ở Pháp bỏ phiếu tăng thêm ngân sách dùng vào việc chinh phục Bắc Kỳ và cũng vì Trung Hoa đang gặp nhiều rắc rối ở Tây Tạng nên Lý Hồng Chương và đại diện Pháp là Patenôtre dứt khoát ký hòa ước Thiên Tân (tháng 6-1885) theo đó quân Tàu chịu rút lui về bên kia biên giới. Nhờ hiệp ước này, một số người theo thiên Địa Hội được Pháp ân xá cho trở về làm ăn. Họ không còn tham vọng chánh trị. Những anh em kết nghĩa Hoa kiều trước kia chỉ còn hoạt động trong phạm vi hùn hạp làm ăn, chơi hụi, giành ảnh hưởng kinh tế hoặc buôn lậu. thỉnh thoảng, xảy ra vài cuộc thanh toán mà người ngoại cuộc thấy là vô lý nhưng chẳng qua là vì tự ái thời trước giữa nhóm Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa.
THIÊN ĐỊA HỘI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NHỮNG BIẾN TƯỚNG PHỨC TẠP Trong thời gian gia nhập Thiên Địa Hội với người Trung Hoa, người Việt học được kinh nghiệm về tổ chức và tác phong mới. Sự sụp đổ về chánh trị khiến cho anh hùng Thiên Địa Hội hoang mang. Trước kia là chí hướng cao cả (liên kết với giặc Cờ Đen), trong hiện tại chỉ còn là sanh kế và bầu máu nóng nhưng nếp sống cũ vẫn còn đó. Ta thử xem qua những lời thề:
" Khi vô hội có hai tuần lạy, trước lạy bốn, sau lạy tám. Bốn lạy trước mang ý nghĩa:
- Lạy trời đất làm cha mẹ - Lạy mặt nhựt mặt nguyệt làm chứng. - Lạy Đào viên kết nghĩa làm anh em . - Lạy để giáo kết: người nào bụng xấu thì trời đánh chết.
Tám lạy sau gợi ý:
- Lạy lòng trời làm chứng . - Lạy thể giữa trời - Lay noi theo ông Quan Công - Lạy giao kết anh em chung, lấy chữ Hồng làm họ - Lạy để hứa rủ anh hùng làm anh em. - Lạy thề đồng lòng đánh vua nhà Thanh, giúp vua nhà Minh. - Lạy xưng vương về nhà Minh.
Vể kỷ luật, người trong hội phải thông suốt các điều khoản:
- Coi việc trong làng cũng tỏ rõ như mặt kiếng. - Việc trung ngãi rất công, không tư vị, cứ luận công lao mà thưởng. - Không phân biệt bà con và người dưng, cứ lấy lẽ ngay mà xét đoán. - Chớ tham của người mà làm lợi cho mình, cũng không lấy thế mạnh mà khinh rẻ người yếu. - Như có sự bất bình thì đem tới hội, lấy lẽ ngay mà ph án đoán, người nào có công trận thì gia cao quyền tước, chẳng khá nói dối mà bỏ trốn công việc, muốn làm việc gì thì đồng bàn bạc với nhau.
Sau đây là lời thề:
- Khi rút cây gươm ra, thề với nhau rằng: cây gươm nó cũng bén như nước, như ta ngó thấy cây gươm này thì ta phải sợ, đừng dối trá mà bỏ cái niềm ngay lành. Ta theo Thiên Địa Hội, lấy họ Hồng để sau này ta giết vua nhà Thanh.
- Khi rút cây gươm đưa lên thì coi nó sáng cũng như mặt trời mặt trăng, như đưa cây gươm lên thì đưa cho ngang đầu, lấy lời thề làm trọng. Đã là anh em với nhau thì lấy sự ngay thẳng làm chắc, nếu ai không ăn ở ngay thẳng với anh em thì cây gươm này sẽ chém chết.
- Khi đốt hương thì khói lên thơm tho lắm, ta nguyện cùng năm ông tổ, quyết lòng giết vua nhà Thanh.
- Thuở trước có Đào viên kết nghĩa làm ba anh em là ông Lưu, Quan, Trương. Anh em ta có bùa, đem bùa ấy vô rừng thì cọp thấy cũng sợ.
- Làm người phải có trung nghĩa, người trong hội của chúng ta gặp nhau làm dấu hiệu là biết ngay. Ta là bọn trung nghĩa, không ai giết ta cho đặng.
- Anh em ta đầu đội trời chân đạp đất, anh phải có lòng ngay, em phải có sự can đảm.
- Tay ta cầm cây hương mà vái cho đặng tám lần, đi khắp ngũ hồ tứ hải thì xứ nào ta cũng là anh em.
- Nhân dịp cúng quảy (vào buổi kết nạp), uống rượu thì ta uống hai chén mà thôi. Ngày bữa nay ta gặp anh em, biết ngày mai ta còn gặp không?
- Cúng quảy rồi ăn uống xong, từ giã anh em mà ra đi, bây giờ còn thấy mặt anh em thì ta bịn rịn, hể khuất mặt anh em rồi thì ta cứ đi xa. Ta đi qua xứ khác rồi thì anh em phải nhớ với nhau. Bởi vậy, ta uống ba chén trước khi ra đi.
- Ta đút gươm trở lại trong vỏ thì xem cây gươm trong như nước, ta phải giữ chí cho bền mà đánh vua nhà thanh.
Ở Sài gòn, nhiều cuộc xáo trộn diễn ra với qui mô nhỏ, anh hùng của hội kín nhờ học được phương thức hoạt động bí mật, dùng ám hệiu nhứt là dám liều chết nên khuấy rối trong những xóm lao động , bày ra cướp bóc, thanh trừng giữa ban ngày tại Phú Nhuận, chợ Cầu Ông Lãnh trên sông Sài Gòn, ở Đất Hộ . . Thanh danh Thiên địa Hội bị sứt mẻ không ít; bọn làm bồi cho Tây, bọn cầm đầu nài ngựa thao túng ở Trường đua tha hồ khoát nạt. Lại còn những nhóm hội kín sống bằng nghề chứa bạc, gìn giữ sòng bạc cho chủ hoặc bảo vệ mấy ổ mại dâm. Người nào có tiền mà không biết điệu nghệ với anh em trong hội thì bị họ mượn tiền không bao giờ trả.
Vào năm 1888, hội Van Xe phát triển, lộng hành từ bình Đông, Phú Lâm, minh Phụng trở ra An Bình (Chợ lớn) khiến tám ông Hộ trưởng ở các vùng nói trên cầu cưú với nhà đương cuộc Chợ Lớn - Sài Gòn. Vạn tức là hình thức "nghiệp đoàn" theo kiểu vạn lưới vạn chài, vạn cấy. Vạn này thâu nạp những người đánh xe ngựa, loại xe thông dụng nhất ở Sài Gòn - Chợ lớn lúc bấy giờ. Người trong Vạn thề sống chết có nhau, một người bị hà hiếp là cả bọn kéo tới binh vực vô điều kiện, khi thấy lính cảnh sát, họ chạy trốn rất nhanh. Chủ xe phải dùng những người của Vạn đưa vào, không được dùng người ngoài. Ngoài những người sống bằng nghề đánh xe, vạn còn kết nạp bọn bồi bếp, người làm công ở hiệu buôn, cứ đóng tiền thì được che chở không ai hiếp đáp. Nơi nào có gánh hát hội trình diễn là họ kéo tới khuấy rối, nếu chủ gánh biết phải quấy đưa cho một chút tiền thì yên. Họ kiểm soát luôn những ổ mãi dâm và tống tiền những người ra vào. Ai nói xâu họ, họ đánh. Vì chiếm độc quyền phương tiện chuyên chở, họ tự ý đập đồ, dọc đường dừng lại để xin thêm tiền, không cho thì làm nhục, chửi mắng. Đặc biệt nhứt là người trong xóm lao động, bạn hàng chợ nếu gây gỗ nhau thì phải nhờ họ phân xử, đóng tiền cho họ. Ai đến nhờ cảnh sát hoặc cò bót phân xử, họ lại đánh đập bằng củ chì, bằng roi cá đuối hoặc họ giết. Trụ sở của Vạn gọi là Tân Hưng hội quán, đóng ở ngôi miếu vùng Tân Hưng. Khi cần ăn nhậu và kiếm thêm tiền xài, họ bày ra lệ cúng miễu để đi lạc quyên bừa bãi khắp đô thành, ai không cho là họ trả thù: họ gop tiền trong giới bạn hàng, giới chủ tiệm Sài Gòn (tức là khu chợ Cũ ngày nay) , chợ Cầu Ông Lãnh, vùng Khánh Hội, những người sống trên ghe thuyền và đặc biệt là những chủ chứa gái điếm. Thực dân ra tay bắt cả bọn, được biết người cầm đầu là bếp Tốt, Sáu Còn. Hai tên này lợi dụng hình thức cúng tế ở miễu để hợp thức hoá những chức vụ: chủ hội, hương nhứt, hương nhị, hương ba, hương tư rồi bày thâm chánh hội, phó hội, tri khách, trị sự, hương hội và phó tổng lý biện . . .
Ngoài hội Vạn Xe khá tiêu biểu cho sanh hoạt của bọn anh hùng bị lưu manh hoá, còn nhiều nhóm du đảng tổ chức khéo léo với kỷ luật chặt chẽ (gọi là luật giang hồ, điệu nghệ). Họ tụ tập đông đảo, che mắt nhà cầm quyền bằng cách tổ chức đám giỗ, cúng miễu Ngũ hành hoặc giả vờ bày chuyện mời thầy pháp đến chữa bệnh. Tình hình ở các tỉnh ra sao? Chúng tôi không sưu tầm được tài liệu nào cụ thể trong khoảng thời gian sau năm 1882. Thực dân ra lệnh cho các tỉnh kê khai và theo dõi thật kỹ những hội cúng miễu, cúng đình. Từ lâu, những hội này mặc nhiên là hợp pháp vì mang tánh chất thuần tuý về tín ngưỡng, mỗi đình có hương chức đình với chức vụ chánh bái, bồi bái v.v. . . Chủ tỉnh Bến Tre là Sandret (người am hiểu khá rành rẽ tình hìnhdân chúng Mỹ Tho, qua cuộc khởi loạn của ông Năm Thiếp) đưa ý kiến: sự liên kết giữa người Việt và người Hoa Kiều nhất định là có hại cho nhà nước, chưa thành vấn đề lớn nhưng trong tương lai sự liên kết ấy sẽ thành tựu. Trong hiện tại, hoạ chăng là có sự thông đồng ngấm ngầm giữa người Hoa Kiều chủ chứa sòng bạc và công chức Việt Nam ăn hối lộ.
Viên chủ tỉnh nói trên lại ngạc nhiên và cương quyết áp dụng kỷ luật, thuyên chuyển một vài viên chức Việt và lính mã tà về tội chơi hụi với người Hoa Kiều, những uyển sổ của người chơi hụi lại bị tình nghi là hình thức góp tiền cho Thiên Địa Hội .
Về người Hoa Kiều ở tỉnh, chỉ riêng chợ Bạc Liêu là xảy ra náo loạn: người Hoa kiều ở tỉnh lỵ này đồng loạt bãi thị, đóng cửa tiệm để phản đối việc phạt vạ của chủ tỉnh, khi ra lệnh mỗi nhà phải giữ vệ sinh trước cửa, để phòng bệnh thời khí đang lan tràn.
Nhưng ở thôn quê và chợ nhỏ, Thiên Địa HỘi do người Việt cầm đầu lại phát triển ngấm ngầm theo mức nhà nước thực dân lâm vào trận hỏa mù, không phân biệt đâu là mục đích, đâu là phương tiện. Một số hương chức hội tề tham gia vào hội để được yên thân hoặc chính họ đóng vai quan trọng.
Hội viên gặp nhau nhanh chóng, dùng mật hiệu, khi tụ khi tán, hoặc ở ngoài ruộng, hoặc ở quán rượu rồi lại đi. Họ gần như không dùng giấy tờ, ngoại trừ một số sổ sách ghi tiền bạc thâu xuất, nhưng lại che giấu, giả như là đóng tiền hụi hoặc thâu xuất lúc mua bán. Thư từ qua lại nếu có thì vắn tắt và dùng lời lẽ bóng gió, con dấu của hội lại khắc những chữ khó hiểu hoặc là ám hiệu, thoạt xem qua tưởng là con dấu tiệm buôn.
Hội bị đặt ra ngoài vòng phát luật nhưng nhiều người dám theo và hương chức làng yểm trợ vì lý do: khi bị bắt trong lúc ấu đả, thanh toán bằng võ lực thì họ tự nhận là ra tay vì thù oán cá nhân, theo lối du đãng để rồi bị buộc tội nhỏ với lý do làm náo động làng xóm, đánh nhau vì nợ nần, cờ bạc.
Nhờ đó bộ tham mưu chánh trị cầm đầu bên trên ít khi bị bắt quả tang. Thực dân nhìn nhận có hội kín những chỉ trong phạm vị tương tế hoặc chỉ là nhóm du đãng hoành hành tạm thời tại địa phương. Hơn nữa, vào đầu thế kỷ thứ XX, từ Bắc chí Nam đang phát khởi một phong trào nhiều thực lực hơn Thiên Địa Hội, đó là phong trào Duy Tân đang lôi cuốn được nho sĩ và điền chủ, công chức, khiến thực dân bận tâm đối phó.
Không giấy tờ sổ sách hoặc biên bản thì khó mà tổng kết cụ thể. Hơn nữa , người torng hội nếu bị bắt, thật tình cung khai thì chỉ cung cấp được những chi tiết phiến diện cục bộ. Những tài liệu mà thực dân tịch thâu được từ các tỉnh, các làng ở mềin Tây hoặc ở Chợ Lớn đều giống nhau, không đem thêm gì mới mẻ, đại khái một cây gươm, một vài bộ truyện tàu, năm bảy cái bằng cấp in theo công thức giống nhau hoặc vài tờ giấy ghi chép lời thề, mật hiệu, ghi việc xuất tiền hoặc những con dấu giống như của hiệu buôn.
Thực dân tìm cách vu cáo rằng Thiên Địa Hội đáng giải tán, hội viên đáng ở tù nhiều năm chỉ vì thành phần của họ gồm đa số là du đãng, có tiền án về trộm cắp, xâm phạm tài sản của người khác. Chúng không dám phủ nhận rằng đầu não của Thiên Địa Hội lắm khi gồm những người yêu nước; người dân thích vô hội chỉ vì muốn sống trong bầu không khí riêng, với luật lệ riêng tách ra khỏi bộ máy chính quyền mà thực dân đã áp đặt.
Chúng tôi xin trích dẫn một số tài liệu mà Henri Dusson, tên chánh án nặng óc thực dân đã chịu khó tổng kết về tình hình trong tỉnh Long Xuyên năm 1909 để rồi báo nguy về Thiên Địa Hôi.
Theo ý kiến của hắn thì Thiên Địa Hội phát triển mạnh vì nhà nước thuộc địa đã kêu án quá nhẹ những người theo phong trào Minh Tân (Duy Tân) của Trần Chánh Chiếu vào tháng 4-1909 Trần Chánh Chiếu được miễn tố cùng với bao nhiêu bạn bè khác do bản án của tòa án Mỹ Tho. Dân chúng nô nức, được trớn, tin rằng vào hội kín để chống đối nhà nước thì không bao giờ bị ở tù nhiều năm, nếu hoạt động kín đáo. So với tội trạng của Trần Chánh Chiếu, họ chỉ là người hiền lành và ít nguy hại.
Về danh xưng, có hai nhóm quan trọng ỏơ Ong xuyên:
1. Nhóm Nghĩa Hưng thường dùng con dấu khắc bốn chữ Nghĩa Hưng công ty, người Việt gọi là Kèo Xanh. Kèo (theo nghĩa cột kèo) cà cái vành của mui ghe, làm sườn để lợp lá hoặc đóng ván phía trên. Người thuộc Nghĩa Hưng dùng màu xanh sơn vào cây kèo thức nhất của mui ghe.
Từ nhóm Nghĩa Hưng này tách ra một chi nhánh là Hoà Xuân gọi là Kèo Đỏ, kèo của mui ghe dùng để di chuyển hoặc mua bán luôn luôn sơn màu xanh ở vành thức nhứt (màu chánh của Nghĩa Hưng) nhưng lại có thêm cây kèo thứ nhì sơn màu đỏ. Nhóm Nghĩa Hưng gồm đa số người Hoa Kiều gốc Phước Kiến. Đôi khi họ có những chi nhánh gọi là Nhơn Hưng hoặc Đồng Hưng.
2. Nhóm Nghĩa Hòa, với cây kèo sơn màu vàng (Kèo Vàng) đa số là người Triều Châu.
Nhóm Nghĩa quân của người Hẹ (Akas) thực lực không không đáng kể.
Về chánh trị, hội kín ở Long Xuyên theo đường lối phò vua. Trong số tài liệu bắt được, có bài hịch kêu gọi các lớp sĩ nông đánh đổ thực dân Pháp "xứ Nam Kỳ giống như nước Trung Hoa đời Hán, đời Đường. Thực dân là bọn Hung Nô, bọn rợ Đột Quyết. Vua Tự đức là thông minh tuyệt vời, 13 tỉnh đã liên kết lại. Từ năm 1905, trong hội đã loan tin rằng người Nhật sẽ tràn qua Nam Kỳ; người Nhật theo Thiên Địa Hội ,ai theo thì sau này được sống, được phong làm quan để rồi được Nhật trợ giúp đánh đuổi thực dân Pháp!
Về sự phát triển của hội, tài liệu trên cho biết: tỉnh Long Xuyên gồm tất cả 60 làng, chỉ 5 làng là có thể có hội kính, 42 làng kia chia làm hai loại, loại thứ nhất là 35 làng bị ảnh hưởng nặng, thứ nhì là 17 làng bị ảnh hưởng ở mức vừa phải.
Trong cấp lãnh đạo ,người Hoa kiều hoặc Hoa Kiều lai là thiểu số, người Việt chiếm đa số, thường là hương chức hội tề đương nhiên hoặc hương chức cựu, Tại làng thời Thuận, (tổng định Mỹ) niều tín đồ Thiên chúa đã theo hội kín hoặc nhóm Nghĩa Hưng.
Trong làng, lúc đầu cần vài người hoạt động tích cực, sau đó cứ thuyết phục và hăm dọa để rồi những kẻ cầu an hoặc chống đối cũng lần lượt theo hội để khỏi bị hiếp đáp, vì thấy mình là thiểu số. Hương chức làng, người có uy tín, có đạo đức được chọn trước. Ai không theo thì bị phá rối liên miên: đốt nhà, đánh đập công khai hoặc lén lút, đốn cây ăn trái, phá đám mạ, đập lu hũ trong nhà. . .
Nguồn: trích “Cá Tính Của Miền Nam – Sơn Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:50:37 GMT 9
Văn Quốc Ngữ Của Trương Vĩnh Ký
1. Phần Văn Cũ
Xét những tác phẩm quốc văn của Trương Vĩnh Ký chúng ta phải công nhận ở ông trước một phần quan trọng thuộc về nhà văn cũ. Đó là phần vận văn hay biền văn: thi, phú, hịch. Ta hãy đọc mấy liên mở đầu bài Phú Trương Lương của ông :
Thương thay người nho nhã. Kinh thay người nho nhã.
Gặp thuở nhuận Tân – Vốn dòng lương tá,
Chung đỉnh năm triều ân ái, nặng sa trung lỗi dịp phò xa – Lược thao ba cuốn tri mưu, xa Bái hạ tìm người trưởng giả.
Đẩy đưa tấc lưỡi, đáng bậc đế sư - Xốc vác năm năm dựng nền vương bá.
Nghiệp Hán thù Hàn vẹn vẻ nặng lời Huỳnh thạch ước xưa – Đường danh nẻo lợi thờ ơ nhẹ bước Xích tòng thong thả...
Tác giả đã khai thác một đề tài cổ điển - trường hợp Lưu Hầu tá Hán diệt Tần rồi tịch cốc tu tiên – hẳn với một dụng ý ký thác tâm sự. Phải chăng ông muốn nói ông cũng đã mượn tay người Tây để trả thù Nam triều về việc sát đạo? Chúng ta không nghĩ như vậy. Trương Vĩnh Ký như chúng ta đã nhận xét trên không phải là một tín đồ Thiên chúa cực đoan. Ông vẫn cốt yếu là một nhà nho trung dung, một con người quốc gia tự đặt mình trong hàng ngủ sĩ phu đất nước. Cái khởi hứng cho ông ở đây có lẽ chỉ là khuôn mặt nho nhã khả kính khả ái của Trương Lương (ông cũng họ Trương), con người mưu cao trí rộng, biết đường tiến thối, biết rút mình ra khỏi – cũng như ông – một trường hợp lương tâm khó khăn. Đi với Tây để chống tổ quốc và triều đình ư? Không đúng. Chống lại Tây ư? Cũng không đặng. Ông đã đem hết tài trí ra giàn xép cho hai bên đương sự nghe ra, hiểu con đường phải đi, rồi ông khước từ tất cả mà rút lui. Trí là ở chỗ đó, ở chỗ "minh triết bảo thân". Đường lối ấy tỏ rõ trong những ngày ông tham gia Cơ mật viện ở Huế rồi rút về, được vua Đồng Khánh tặng hiệu Nam trung ẩn sĩ. Nhất là ở thời kỳ sau đó ông về Saigon sống lặng lẽ ở Chợ quán, đặt tên nhà ninh là Trương ẩn sĩ lư, vùi thân vào việc khảo cứu, biên viết. Và cũng trong bài Ngư tiều trường điệu này :
Non vòi vọi nước mênh mênh, Non nước dầu ta dưỡng tính tình
Sướng mắt trăm trùng biếc biếc - Trái tai một giải xanh xanh.
Chẳng có tiên cũng có rồng khi thiêng đất cấu – Đã không quê lại không tục chốn lạ trời. dành.
Hi Di lánh đầu đuôi chiếc lá – Gia Cát nằm để luống lều tranh.
Đây cũng là động đó cũng là nguồn, đời sao vắng chân nhân, đời sao không xử sỉ - Kìa thời ấy non nọ thời ấy nước, ai đã thôi tể tướng, ai đà cất tiên sinh ?
Tuy nhiên người ẩn sĩ họ Trương này chẳng thể đóng vai ngư tiều quên phắt thế sự hoặc lấy chữ trí Trương Lương mà tự an ủi tự bảo chữa. Ở ông cũng như tất cả những người trí thức ra hợp tác với Tây thời ấy, cái án trước lương tâm không dể chối bỏ. Nhất là đối với ông, biết mình tài cao học rộng, có ý thức về trách nhiệm mình trong giai đoạn, án ấy lại càng đặt ra gay gắt. Hai chữ công và tội vẫn thường đè nặng lên lượng tâm ông, ảm ảnh ông cho đến lúc chết, như thấy trong bài thơ Tuyệt mạng này:
Quanh quanh quẩn quần lối đường quai, Xô đầy người vô giữa cuộc đời. Học thức gởi tên con sách mọt, Công danh rút cuộc cái quan tài. Dạo hòn lũ kiến men chân bước, Bò xối con sùng chắc lưỡi hoài. Cuốn sổ bình sanh công với tội, Tìm nơi thầm phán đề thưa khai.
"Đọc kỹ ta thấy vô hạn cảm khái, vô hạn sầu bi, hiện ra cái vẻ điếu tử minh ai mà cái nỗi tâm sự nan minh như còn trông sau ta có người tri kỷ" Lời Huyền mặc đạo nhân trong Đồng-Nai số 33 tháng 6 – 1933)
Tóm lại những bài thi phú ở trên cho ta thấy phần nào tư tưởng tâm sự của một Trương- vĩnh-Ký nho sĩ vào buổi giao thời, cũng đặt ông vào hàng ngũ nhà văn nôm đồng thời. Tuy văn ông viết ra bằng quốc ngữ và tác giả ở học thức đã vượt xa nhà nho gia đồng thời, song ở tư tưởng, ở cảm hứng, ở nghệ thuật, ông đã là nhà văn nôm trăm phần trăm. Nghĩ lại điều đó cũng chẳng đáng lạ: ông sinh ra vào đời Minh - Mệnh, lớn lên giữa thời cực thịnh của khoa cử triều Nguyễn, Nho giáo. Hán học đương bắt đầu phát triển ở Nam kỷ. Ông chính là thuộc thế hệ Tôn-tho-Tường; Phan-văn-Trị. Tuy con đường học vấn không đưa ông tới khoa cử, nhung giáo dục mà ông thọ nhận từ thơ ấu là một giáo dục nho gia.
2. Phần Văn Mới
Đáng coi là văn mới của Trương - vĩnh - Ký chỉ là 2 tác phẩm: Chuyện đời xưa và Chuyến đi Bắc Kỷ năm Ất Hợi.
Chuyện đời xưa thuật tại những truyện cổ tích Việt-Nam căn cử vào truyền thuyết dân gian, nhằm mục đích giáo huấn hoặc giải trí. Truyện nầy rất được hoan nghênh, tác giả sinh tiền đã in đến ba lần, Ông nói khiêm tốn trong bài tựa ông muốn «góp nhặt trợn trạo truyện kia truyện nọ in ra để cho con nít tập đọc chữ quốc ngữ cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng annam coi mà tập hiểu cho quen».
Nay đọc lại 74 chuyện đời xưa ấy ta thấy đều là những truyện có tính cách Việt Nam, tác giả đã lượm lặt ở truyền thuyết thuật kể bình dân, truyện từ ngoài Bắc đem vào như: Cống Quỳnh, Từ Thức, truyện riêng của vùng Gia Định như Tả quân, cọp Hậu giang, Hát bội... Làm một việc ông cho là tầm thường song Trương-vĩnh-Ký thật đã có công ghi chép lại những giai thoại bình dân ấy làm một thứ của bảu dân tộc. Vài chục năm sau, Nguyễn-văn-Ngọc mới tiếp tục bằng bộ Truyện cổ nước Nam trong đó có nhiều truyện ta ngờ ông Ôn Như đã chép lại của ông Sĩ Tái.
Về hình thức có thể coi đây là bước đầu lối truyền ngắn, nhất là bước đầu của văn xuôi quốc ngữ. Ý tác giả muốn viết như người ta nói, nghĩa là khác với văn chương nhà nho (của chính tác giả) trong thi phi, đầy thuật biển ngẫu, đầy điển tích và chữ Hán, ông muốn viêt câu nói annam ròng, diễn lại lời nói trơn tuột ở cửa miệng bình dân, Ta phải nhận rằng chép lại lời nói bình dân không khó, khó là sao xếp đặt lời ấy cho ra văn. Trường - vĩnh - Ký đã đem áp dụng cách chấm câu của văn Tây để cho lời nói ấy được gãy gọn, mạch lạc, nhưng kết quả trái lại: ta thấy một lối văn lủng củng, khi cộc lốc, nhát gừng, khi lôi thôi, lòng thòng, bất chấp những trùng điệp, không phân biệt cách trực ngữ với gián ngữ, không ra một cú pháp nào. Chỉ có thể nói là một câu văn xuôi mới phôi thai.
Chuyến đi Bắc kỷ năm Ất Hợi là một tập hồi ký, du ký, ông ghi tại những điều mắt thấy tai nghe trong dịp ra Bắc hơn tháng trời năm 1876. Ông đến viếng những danh lam thắng cảnh của nơi ngàn năm văn vật đề nghiên cứu lịch sử, thăm hỏi truyền thuyết, rồi vừa tả cảnh trước mắt, vừa dẫn tích đời xưa. Đọc nhiều trang người ta cảm thấy con mắt quan sát tinh tế của nhà khoa học, đồng thời cũng thấy cái chủ ý mua vui của người đi xa muốn góp nhặt những điều kỳ nơi xứ lạ hầu làm quà cho độc giả quê mình.
Kết Luận Về Sự Manh Nha Văn Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ
Ta thấy như vậy công lao mấy văn gia Nam Kỳ đóng góp cho văn học mới lúc khai sanh không phải không đáng kể. Họ đã đề xướng lên những công việc mà rồi nhóm Nam Phong ngoài Bắc tiếp tục như: phiên âm văn nôm cũ – khảo cứu về văn hóa và chế độ nước nhà – sưu tầm những ca dao, cổ tích của ta – dịch thuật ngoại văn ra văn quốc ngữ. Họ lại làm được một việc mà nhóm Nam Phong không dám làmh ấy là cuốn tự vị Việt Nam. Tuy nhiên điều làm chúng ta ngạc nhiên là công cuộc của họ không được hưởng ứng, không được tiếp tục ở ngay Nam Kỳ. Quốc văn mới sau đó, ở đây chìm vào một tình trạng đình đốn. Nói ngay về chính tả quốc ngữ, T. v. Ký, H. T. Của viết rất có qui tắc, đánh dấu trúng, phân biệt các khuôn âm cuối. Chính chữ quốc ngữ mà họ điển chế đó sẽ đem ra ngoài Bắc dạy người miền Bắc. Song ở trong Nam, sau đó người ta viết quốc ngữ rất cẩu thả, không mấy ai nghĩ đến tôn trọng từ vị của T. v. Ký hay H. T. Của. Ông Phan Khôi trong một bài báo trên Phụ nữ tân văn (số 28 năm 1929) phải lấy làm tiếc về tình trang có thể nói làthoái bộ ấy.
Kể cũng đáng ngạc nhiên. Sau việc đề xướng do Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của người ta chờ đợi ở miền Nam một sự nảy nở tốt đẹp của văn học mới. Song những mầm manh nha lui dần. Quốc văn miền Nam sau đó lâm vào một tình trạng ngưng trệ và nghèo nàn hết sức. Tại sao vậy ?
Vì Nam Kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của văn học, nhất là văn học quốc gia. Gia định là đất mới. Dân chúng vừa thưa ít, vừa chưa được thuần nhất. Luống cày nho gia chưa đào xới được sâu thì người Pháp đến. Sự sáng tác văn học, sự ưa chuộng văn chương, sự trồng trọt thi văn ở đây chưa có truyền thống sâu xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng. Hai ông Trương, Huỳnh là những vì sao mọc quá sớm. Họ dóng lên những tiếng chuông có giá trị, song "điệu cao họa quả". Người ta không thể làm cuộc cách mạng một mình cũng không thể làm trong một nhóm. Làm cách mạng văn học cũng vậy, phải có quần chúng, phải có tiềm lực trong quá khứ. Không kể chính sách học thuật của người Pháp ở Nam kỳ sau đó khuynh hướng về đường Tây hóa rõ rệt. Chữ Pháp được dạy ngay ở bậc tiểu học. (Hai ông Trương, Huỳnh xướng ra việc biên khảo học thuật như trên hẳn là muốn đề làm tài liệu cho một nền học Việt Nam, nhtrng nền học này đã không được thiết lập nên công việc ấy bị bỏ rơi). Người thượng lưu, nhất là người không có gốc gác Nho gia – mà càng về sau những người ấy lại càng là số đông–đi thẳng vào Tây học, không có cảm tình với quốc văn vốn bắt rễ từ Hán học. Quốc văn do đó trong nhiều năm về sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong hình thức báo chí phổ thông, với trình độ trí thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dãi. Những người thức giả lưu tâm đến quốc văn sau đó lại phải quay ra miền Bắc để đón tiếp những sáng tác mới cũng như phong trào văn học mới.
Phạm Thế Ngũ Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, tập III Văn Học Hiện Đại 1862-1945
Huỳnh Tịnh Của Và Pho Quốc Âm Tự Vị Của Ông
Xây đắp cho văn quốc ngữ trong buổi đầu ở Nam kỳ, ngoài Trương Vĩnh Ký còn một người nữa cũng đáng kể là Huỳnh Tịnh Của (thường ký tên Paulus Của) người tỉnh Bà Rịa (nay Phước Tuy), giỏi chữ Hán và chữ Pháp. Năm 1861 ông được bổ làm Đốc phủ sứ, coi việc phiên dịch văn án. Ngoài công việc viên chức chính phủ, ông còn lưu tâm đến quốc văn, quốc ngữ.
Cũng như Pétrus Ký, ông muốn đem thứ Việt tự latinh mới thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm và mạnh dạn mở lối bằng cách viết văn quốc ngữ. Ông giữ chân biên tập thường xuyên cho tờ Gia Định báo trong nhiều năm và để lại các tác phẩm quốc ngữ: Chuyện giải buồn, Đại nam quốc âm tự vị, Tục ngữ cổ ngữ. Ngoài ra theo ông Cordier đã viết trong tập văn tuyển Morceaux choisis d'auteurs annamites (xuất bản lần đầu ở Hanoi năm 1932) thì Paulus Của còn là tác giả những sách sau đây (bây giờ thất truyền cả): Gia lễ quan chế, Bạch viên tôn các truyện, Ca trù thể cách, Chiêu quân cống Hồ truyện, Thơ mẹ dạy con, Thoại Khanh Châu Tuấn truyện, Quan âm diễn ca.
Ta có thể chia những tác phẩm của Huỳnh Tịnh Của lành ba loại :
1.– Loại phiên âm, chuyển tự sang quốc ngữ những truyện nôm xưa như Bạch viên, Chiêu quân... 2.- Loại sáng tác: Chuyện giải buồn.
3- Loại biên khảo: Gia lễ, Ca trù, Quốc âm tự vị...
Tác phẩm phiên âm nay thất truyền cả, song cũng không có gì quan trọng. Cũng như Pétrus Ký, ông nhận thấy mấy truyện nôm, ngâm khúc ấy là thức ăn ưa thích của dân chúng nên đem chuyển tự ra quốc ngữ vừa để tiếp tục cái chủ đích giảng luân lý của nho gia xưa vừa nhằm phổ biến thứ chữ mới vào công chúng bình dân rộng rãi.
Sáng tác của ông có Chuyện giải buồn in lần đầu năm 1880. Sau ra tiếp cuốn dưới năm 1885, Toàn tập có 112 truyện. So với Chuyện đời xưa của T.V. Ký có nhiều điểm khác nhau. Những truyện của H.T. Của đa số rút ở sách Tàu như Trang Tử, Chiến quốc... nhất là những truyện ma quỷ, linh dị đều lấy ở Liêu trai. Có khi tác giả dịch ngay ở Hán văn ra. Như vậy không có tính cách đặc sắc quê hương như trong tác phẩm của T.V. Ký. Chú ý giáo huấn luân lý và truyền bá tư tưởng Hán học của tác giả thấy rõ, nhất là qua những truyện về cuối. Cũng vì vậy nên lối văn cũng khác. T.V. Ký nghĩ ra mà viết, mà muốn viết một câu Việt văn thật là nôm na như lời xuất khẩu bình dân, còn H.T. Của thường dựa theo câu văn chữ Hán nên lời văn phảng phất nhiều cái cú pháp vặn Hán.
Về tác phẩm biên khảo, những cuốn Gia lễ quan chế, Ca trù thể cách. Tục ngữ, Cổ ngữ, nay thất truyền cả song mấy nhan đề đó đủ chứng tỏ tác giả muốn đi vào nghiên cứu văn hóa cổ truyền của dân tộc, chính là công việc và chủ trương của nhóm Nam Phong sau này. Về biên khảo, H.T. Của để lại một công trình đáng chú ý hơn cả là bộ Việt Nam quốc âm tự vị. Trong bài tựa, ông cho biết ông đã được một người Pháp, ông Lande, giúp ý kiến và phương pháp. Mới đầu ông định làm cả phần đối chiếu tiếng Pháp, nhưng mấy người Pháp cộng tác với ông trong ý định ấy đều phải đổi ra Bắc Kỳ nên ông đành làm một mình phần tiếng Việt. Ông âm thầm làm trong bốn năm, đến 1893 thì xong, bèn xin với Thống đốc Nam Kỳ cử một ban duyệt y rồi đưa ra Hội đồng Thuộc địa biểu quyết ngân khoản cần thiết để in. Cuốn trên (từ A đến L) ra đời năm 1895. Cuốn dưới (từ M đến X) năm sau. Mỗi cuốn khổ lớn (24x31) dày lối 600 trang được sắp thành hai cột. Mỗi tiếng Việt bên cạnh cách viết quốc ngữ, mà tác giả căn cứ vào đề xếp thứ tự theo vần a, b, c còn chua cả cách viết Hán hoặc Nôm. Tác giả không phân biệt tiếng theo tự loại mà chỉ chia ra làm Hán (chua là C), Nôm (N) và vừa Hán vừa Nôm (C và N). Tất cả những tiếng ghép đều được xếp dưới đề mục một tiếng chính và đơn, coi như thể một từ căn vậy.
Ngày nay mở pho Tự vị đồ sộ ấy của H.T. Của, ai cũng phải nhận ông đã đóng góp nhiều – có thể nói quá nhiều nữa - cho việc xây dựng quốc văn mới. Song công lao có đem lại sự tưởng thưởng xứng đáng không? Tác phẩm của ông có nhiều giá trị không? Giá trị một cuốn tự vị là trước hết ở chỗ tác giả có góp nhặt được đầy đủ các tiếng của một ngôn ngữ, nhất là những tiếng có giá trị văn học, và tác giả có định nghĩa được đúng, dẫn thí dụ được thích hợp hay không? Về phần đó ta thấy tự vị của H.T. Của không dở. Những cột dài về các tiếng thưởng như ăn, đi, ở, chứng tỏ ông đã có công sưu khảo và biện biệt. Ông lượm tiếng một mặt ở trong những áng văn nôm lịch triều (như Truyện Kiều, Lục văn Tiên), một mặt ở ngôn ngữ thông dụng bình dân. Phần trên chinh là phần từ ngữ văn chương từ miền Bắc, phần dưới in rõ màu sắc địa phương Nam, Trung. Thành ra kho ngữ vựng ông trưng bày xem ra khá phong phú. Đó là một ưu điểm. Về việc định nghĩa ông chủ trương làm vắn tắt. Ông phân biệt tự điển với tự vị. Tự điển theo ông phải dẫn nhiều điển cũ, câu xưa làm thí dụ, còn tự vị thì chỉ liệt kê các tiếng và định nghĩa một cách vắn tắt. Ý ông muốn làm tự vị chứ không làm tự điển thành ra phần dẫn chứng này có hơi sơ sài.
Tuy nhiên giá trị một cuốn tự vị cũng còn ở giá trị với công chúng và thời đại, ở chỗ nó có được quảng bá, được người ta công nhận, tra cứu, tuân theo hay không. Ở đây ta thấy công việc của H.T. Của không gây được tiếng tăm hay uy tín xứng đáng. Mấy chục năm sau khi ra đời nó vẫn nằm cao một chỗ trong thư viện. Các nhà văn quốc ngữ từ Bắc chí Nam, chẳng ai tra cứu nó để viết văn. Ngay mấy ông giáo họa hiếm dạy quốc văn cũng chẳng biết tới nó. Không phải vì nó dở. Mà vì tình trạng lộn xộn của quốc văn, vô kỷ luật của quốc ngữ, chậm tiến của quốc học. Tất cả cũng bởi sự kém vai vế của tiếng Việt trong một thời kỳ ngoại thuộc mà tiếng Pháp chiếm địa vị chủ nhân cao tọa.
Một cuốn tự vị không được biết đến tất nhiên chữ nghĩa của nó phải bị bỏ qua. Và tác phẩm của H.T. Của đối với chúng ta nay chỉ có giá trị chính yếu một tài liệu, cho ta hay tình hình tiếng nói và viết của người Việt vào cuối thế kỷ XIX miền Nam. Đành rằng phần lớn kho từ ngữ mà ông kiểm nhận đến nay vẫn còn thông dụng, song mở nhiều trang, ta cũng thấy những phần tử đã già xưa, qua thì, như những tiếng khái là con cọp (qua khỏi truông voi, trổ vòi cho khái), chạn là vóc (vừa chạn là vừa một lứa một vóc người), chằm là may kết (như chằm nón, chằm áo), ben là bì kịp (như ben theo, đua ben), dọn là thấp nhỏ (như người dọn, cây dọn), luỗi là mệt mỏi (như đói luỗi, mệt luỗi)... hỏi ngay nhiều người lớn tuổi ở miền Nam này cũng không hiểu nghĩa là gì. Đồng thời vô số tiếng báo chí và ngôn ngữ miền Nam nay hay dùng như đi cà nhắc, làm tàng, nói tía lia, xài quá xá... đều không được thấy trong tự vị H. T. Của. Đọc kỹ nhiều trang, ta lại thấy tiếng Việt như người ta nói và hiểu ở Gia Định thời ấy còn rất gần với tiếng Việt miền Bắc, như uống chè tàu, ăn rau ghém, ở hè ở chái, nói cạnh nói khóe, già kén chẹn hom... Thành ra có thể nói đưới triều Nguyễn, do sự thống nhất lãnh thổ, tiếng Việt có tính cách nhất trí hơn là về sau này với sự phân cách do người Pháp tạo ra. Nhất là những tiếng nôm xưa thuộc về thời Hán học như ghẽ (là phân biệt, dịch chữ Hán phân), thửa (dịch chữ kỳ, như an thửa mệnh), tầy (dịch chữ tề, như tầy nhau)... chứng tỏ tác giả cũng như lớp trí thức Gia Định bấy giờ mặc dầu tách ra khỏi cộng đồng quốc gia vẫn chia sẻ truyền thống Hán học của nhà Nho gia trên toàn quốc và ngôn ngữ văn nôm lịch triều để lại.
Tóm lại cuốn tự vị của H. T. Của là một tài liệu quí giá cho chúng ta ngày nay khảo về tiếng Việt, tra cứu những tiếng Nôm xưa, nhất là những tiếng nôm địa phương ở miền Nam. Ngay đối với những tiếng nay còn thông dụng, cách tác giả viết và giải thích nhiều chữ không phải không đem lại cho chúng ta bây giờ một ít ánh sáng về từ ngữ học. Như những tiếng thế chưng, ông đã giải là thế vi, giao để làm chứng (nay ta viết là thế chưn, coi như là thế chân, tức là viết sai hiểu sai vậy), bấc tử ông giải bấc là bức, bất tử là mặc may, ước chừng, khinh xuất (nay ta viết là bất tử và hiểu như không chết là sai vậy)... Người chủ trương làm một pho tự điển Việt - Nam xứng đáng ngày mai, tất nhiên có thể rút ích ở những kiến giải ấy cũng như ở đường lối, phương pháp, tài liệu của một người đi trước.
Công việc đi trước của H. T. Của quả là một công việc phi thường. Cuốn tự vị đồ sộ ông đã âm thần soạn một mình chính là cuốn tự vị Việt Nam đầu tiên. Trước H. T. Của người ta đã làm tự vị, nhưng đều là tự vị tiếng Việt dịch ra ngoại ngữ đối chiếu, như dịch ra tiếng La-tinh của các cố đạo thời xưa. Ngay T. v. Ký cũng chỉ làm tự vị Việt-Pháp, Pháp Việt, chủ đích chỉ là dạy người Việt học tiếng Pháp hoặc người Pháp học tiếng Việt, nhằm phục vụ việc thông dịch cho ngoại ngữ ngoại nhân mà thôi. Làm tự điển Việt, giải thích bằng tiếng Việt giả thiết làm cho người Việt Nam dùng để trau dồi tiếng nước minh, giả thiết tiếng ấy phải được học tập, nghiên cứu ở nhà trường, được dùng làm chuyển ngữ ở mọi ngành học thuật quốc gia, giả thiết tiếng ấy đã đạt tới một cao độ trưởng thành và phú túc, H. T. Của làm công việc ấy, chứng tỏ lòng tin tưởng của ông vào tiếng mẹ đẻ. Ta thấy công việc của ông quá sớm, quá táo bạo nữa. Hơn ba chục năm sau ta mới thấy một hội văn học ngoài Bắc là hội Khai Trí tiến đức nghĩ đến tiếp tục công việc. Và cho tới nay kể về tự điển Việt - Nam chúng ta vẫn chỉ có hai cuốn ấy thôi.
Phạm Thế Ngũ Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, tập III Văn Học Hiện Đại 1862-1945
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:53:31 GMT 9
Cánh buồm bể hoạn Vương Hồng Sển
Thức khuya mới biết đêm dài. Sống đến hôm nay 12-1-1975, bảy mươi ba tuổi, còn hơn một tháng nữa tới tết Ất Mão, là đã bảy mươi tư. Kiếp già, sống thừa, sao chưa chết để tránh thấy những bài dám chê ông Trương Vĩnh Ký. Đọc Bách Khoa III XVII "Trương Vĩnh Ký trong quỹ đạo xâm lăng văn hoá Pháp". Rồi đọc Bách Khoa R. IV-XVIII "Trương Vĩnh Ký, bài học cho kẻ hợp tác".
Đọc suốt hai bài, lấy làm tội nghiệp cho nhà học giả tiền bối miền Nam. Cũng may nhớ lại để an ủi, vừa đọc nơi chương 46, trong quyển quý giá "Tiếng hát sông Hương" của cụ Ung Bình Thúc Giạ Thị, do bà Tôn Nữ Hỷ Chương xuất bản năm 1972, nay mới gởi biếu. Đọc thấy hai bài như vầy:
1) Văn hào Trương Vĩnh Ký:
"Đạo đức văn chương là ông Trương Vĩnh Ký Có tân thơ, có báo chí, có tự vị rõ ràng. Thanh danh rạng giữa dinh hoàn. Học xưa biết trước chỉ đàng cho hậu sinh"
2) Thi gia Tôn Thọ Tường:
"Nhả ngọc phun châu, có nhiều câu kiệt tác, Hào đoan lỗi lạc, có nhiều đoạn danh ngôn. Một tay thi sĩ tiếng đồn, Cuối đời vua Tự Đức là ông Tôn Thọ Tường".
Thì ra kẻ khen người chê đều có, và gẫm lại không lý cụ Ưng Bình là con dòng cháu giống, học lực uyên thâm, cụ thấy xa hiểu rộng hơn nhiều và kể về thuật xét đời cụ há đi thua nhà hậu sanh dám đại ngôn kia? Lại cười cho mình đứng giữa hai thế kẹt: kẹt giữa thế hệ trên như cụ Ưng Bình uyên bác một lòng kính trọng người xưa, kẹt giữa thế hệ dưới ngựa con háu đá, té ra chê khen là quyền thiên hạ, chỉ nực cười cho mình là thế hệ hèn, sợ mãi: lúc nhỏ sợ cha mẹ, sợ thầy, trông về già được hết sợ, nay tuổi gần xuống lỗ, cái sợ cũng chưa tha: sợ đám trực chửi thầy. Hai ông Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường mà có người đòi hạ bệ, thì mình là cái thá gì? Nhưng xét lại trong đời cạo giấy của mình đã trải., tôi chưa đánh đĩ kiếp người tuy trót đã làm tôi mọi ăn cơm chánh phủ Tây ngót hai chục năm dư, - nên tôi thẳng thắn tiếp tục chép ra đây khoảng đời tôi, nạp tài liệu sẵn cho người kia, muốn chửi tôi thì chửi.
Nhắc lại khi còn thuộc Pháp, kể về công chức cao cấp làm việc ở Toà Bố (nay đổi gọi toà hành chánh, và công chức đổi gọi cán bộ, chung qui danh từ tuy đổi chớ cũng một kiếp người cạo giấy kiếm cơm), lúc ấy cũng như bao nhiêu người đi trước và bao nhiêu kẻ đồng thời, tôi nào phân biệt thế nào là thương nước, và tự xét chánh phủ nào trên mảnh đất nầy, cũng vẫn cai trị và mình vẫn phải phục tùng, vẫn cho mình cơm ăn áo mặc. Duy mấy cậu sanh sau khỏi kiếp đô hộ, không thương bọn già nặng lời chỉ trích, chứ thuở ấy muốn làm Di Tề thấy hơi khó, bất thọ phạn Châu, nhưng rau Vi lại cũng mọc trên đất nhà Châu chớ mấy thứ? Thuở ấy trong hàng bồi Tây, mỗi thư ký chánh ngạch đều nuôi hy vọng trở thành huyện phủ, mỗi lính quèn đều ấp ủ trong túi cây gậy lính nhà đại tướng (chaque soldal loe danh sa giberne le bâton de maréchai). Ai đâu tôi không rõ, nuôi ác tâm thi đậu làm quan lớn, dễ hách dịch bóc lột, "làm dân chi phụ mẫu", nhưng đối với tôi, nói ra nay chẳng hổ lòng, tôi chỉ mong lên ngạch cao ăn lương lớn, dễ bề ăn xài, nhứt là mua sắm đồ xưa cho phỉ chí. Những năm khoảng trước 1925, trường cao đẳng dạy luật và hành chánh ở Hà Nội (école supcrieure de droỉt ét d'administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người dùng, thì chức huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký soái phủ lâu năng, nhưng bắt buộc những người nầy phải qua hai kỳ thi đổ lửa:
a) Khoa nhứt gọi "examen de culture générale", khảo về học lực phổ thông, tương đối dễ mà khó, vì phải có thực tài, viết và nói tiếng Pháp thật cứng mới mong trói lọt. Tuy vậy vì là khoa khảo khí thường (examen), nên không nghe nói cần đánh phép. Khoa nầy năm 1927, tôi thi có một keo, may thời được chấm đậu đầu. Không biết nên gọi may hay là rủi, vì ngựa mơ háu đá, tôi ỷ tài phách lối, sau vì tiếc đeo đuổi theo hoài, quả tôi chưa từng thấy biển nên lội trong rạch ngòi mà tưởng mình là thợ giỏi,
b) Khoa kế, gọi "concours professionnel", (khảo về chuyên nghiệp và khả năng) khoa nầy thật gắt mấu, số thí sinh càng ngày càng nhiều, số lấy đỗ càng ngày càng sụt, vì vậy từ năm 1929 về sau, có nạn đánh phép, nay gọi phải nhờ đức Thánh Trần hộ mạng, thì mới mong thoát khỏi búa rìu giám khảo được, làm ngư vượt võ môn, cá chép biến thành rồng. Nói chí đáng không nên quơ đũa cả nắm phao cho hết thảy đều vậy, và cũng có nhiều bạn công phu nhiều, học tận tuỵ và thi với thực tài, vẫn đậu tự nhiên, nhưng số nầy rất ít. Nay việc cũ đã qua, bàn lại vô ích nhưng thiết tưởng đời nào cũng thế, vả lại tôi có chủ tâm muốn vạch những lỗi cũ của mình, dầu có người chửi, tôi cũng xin cúi đầu nhận tội và sám hối, nghĩ như vậy nên tôi vẫn phép ra đây, cho đúng câu: "Hơn nửa đời hư". Tại sao tôi mù quáng, không bỏ cuộc tìm con đường khác xuất thân. Rõ là hư, còn chối cãi gì nữa được. Nhưng trong thâm tâm, lúc ấy tương lai vận mạng nước nhà còn mịt mù, việc lấy lại độc lập như nay chưa thành vấn đề, đường công danh các bạn đồng bối và tôi đều nghĩ như nhau, làm việc kiếm cơm độ thê nhi, với nghề cạo giấy, thì chánh phủ nào cũng vậy, cũng đều một thế.
Trước năm 1926, người đậu khoa phổ thông thuộc số ít, nên ai đậu khoa nầy thì kể như chắc nắm chức huyện trong tay. Ngờ đâu, đến lượt tôi, đậu rồi năm 1927, bị bắt chờ đến năm 1929, đúng bốn năm trong chức vụ mới được thi và cũng từ năm 1929, gặp nạn kinh tế khủng hoảng mà chớ, thêm sĩ tử có bằng tú tài được thi chung với bọn tôi gốc thư ký và xui xẻo nhất là số tuyển chọn hạn chế có bốn người. Quả tôi đã quá ngây thơ và ngu muội, mãi tin nơi sự công bằng của giới quan trường thời đó. Kỳ thi tuyển khả năng từ 1929, tiếng rằng thi để chọn người rành việc hành chánh, kỳ trung đó là cửa mở rộng cho sự hối lộ, quan trên ăn theo đàng quan, bóp cổ bọn cò ke lục chốt lấy lại phần nào, và quan dưới tức thơ ký và tú tài, muốn đậu được bổ huyện hạng ba thì phải có lễ mễ, mặc sức vơ vét và tom góp lại sau. Những con gà không của và đá đòn trơn như tôi, sức mấy mà thi đỗ, tức ăn độ bao giờ?
Năm 1929, bài tôi là ai khá lắm, nếu tôi làm như người ta, nghĩa là nếu tôi chịu tốn một số tiền như người ta đòi hỏi nói sau đây, thì có lẽ tôi có hy vọng được chấm đậu cũng chưa biết chừng. Nguyên lai số điểm đậu, theo nguyên tắc, ít nhứt là phải trên số 412 điểm. Thế thì số điểm của tôi, lên đến 460 điểm tức dư chưng đậu. Nhưng vì số tuyển hạn chế chỉ lấy chỉ cỏ bốn người, phần kỳ thi nầy như đã nói là thi con cua (concours), nên mấy anh Tô Văn Qua, Trần Văn Chi, Thái Ngươi Xàng và tôi có tên trong bảng vi bằng năm 1929, hiện tôi còn giữ được. Nói thiết tỷ, nếu một trong bốn đứa chúng tôi, có dư tiền đánh phép cho thật đúng chỗ, thì cũng dám "soán ngôi" của anh số 4 Ngô Văn Hoá nào đây, được lắm chớ chẳng không. Nhưng nói mà chơi vậy thôi, chớ tài nào cải số, với ban giám khảo lang-sa năm ấy (1929) mà chánh chủ khảo là tham biện Bussière tỉnh Thủ Dầu Một.
Tôi còn nhớ rõ, năm đó, sau khi thi xong các bài viết, buổi chiều tôi đưa vợ tôi lúc đó là Tuyết, đến ăn cơm Tây nhà hàng Yeng-Yeng, cơm rồi đưa nhau về phòng trọ ở khách sạn Tân Hoà đường Bonard (nay là Lê Lợi). Vừa nhắm mắt dưỡng sức, vì mai nầy còn chịu một trận thử lửa hạch miệng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Đó là bác Năm Mỹ, người ân nhân năm xưa cho tôi ở trọ ăn cơm tháng, nay đến thăm hỏi han vụ thi cử... Bỗng bác bảo tôi hãy đưa cho bác bốn ngàn đồng (4.000$00), thì sẽ đậu. Ông đốc phủ chủ quận Bến Cát (N.X.H) - bác Năm nói - ổng thấy danh sách có thể chấm đậu (admissible) có tên mầy, nay tao lãnh lịnh đi kiếm mầy, mầy đưa bốn ngàn cho ổng thì ổng nói một tiếng với chủ khảo là quan thầy của ổng, tức mầy được đậu tức thì.
Lúc ấy, tôi còn trẻ, sẵn tánh bộc trực và háo thắng, tôi khinh bỉ cười mà đáp rằng: "Thưa bác, bốn ngàn không dễ gì kiếm. Nếu tôi có, tôi sẽ mua một chiếc xe Citroen ba đầu nặng (ba chỗ ngồi), tôi và vợ tôi chiều chiều hóng gió chẳng là khoái hơn. Tôi không lo lót, vì hối lộ rồi ăn lại nhà nghèo, xấu hổ và thẹn với lương tâm.
Bác Năm khuyên tôi không được nên giận bỏ ra về, nhưng chưa đầy một giờ sau thì quay lại, dịu giọng cất nghĩa cho tôi nghe dịp may ngàn năm một thuở, phen nầy ông đốc phủ vì thua bài quá (ông đánh me), chịu bớt còn hai ngàn thôi, và cam đoan khi nào tôi thấy có tên trong bảng hổ, sẽ chi tiền. "Đ.m, như vậy là tốt quá bực, anh Năm hãy nói với nó, thuở nay các bác đàn anh đều dùng cây cầu ấy, khuyên nó đừng tưởng giỏi dùng cách khác, uổng công!". Đó là mấy lời nói nặng của ông N.X.H, nói với bác Năm và bảo bác nói nhắn lại cho tôi nghe. Nhưng nói và khuyên cách mấy cũng không đặng, nên bác bỏ ra về và không đến thăm tôi cho đến ngày thi rồi tôi trở về Sa Đéc.
Sáng bữa sau tôi vào phòng thi hạch miệng, tôi có cảm giác không khí ngột ngạt nặng nề. Tôi đang ngồi chùm nhúm với các bạn sĩ tử, thuật lại câu chuyện xảy ra đêm rồi, anh em bàn ra tán vào đứa thì không tin, đứa thì khen nhẹ giá sao tôi không y theo cho an phận, bỗng đến phiên ông chủ khảo bất tay làm việc và trước tiên ông gọi tên tôi lên cho dự thi. Nhưng thay vì hạch hỏi trong phạm vi khả năng, ông mời tôi trình giấy thuế thân cho ông khám. Đó là một việc bất thường và ngoại lệ, vì sĩ tử chỉ có hai mươi ba người, và thảy đều biết mặt nhau, đâu có sự trồng tréo giả mạo gì được. Chủ khảo đọc trên tờ thuế thân (như tờ căn cước ngày nay), thấy tôi sanh năm 1904, vào năm 1929 đúng hai mươi lăm tuổi, ông bầu môi nhưng không nói gì, trả lại giấy thuế và mời tôi bắt thăm chọn đề tài. Tôi quên nói kỳ thi nầy rất quan trọng, sĩ tử có 23 người nên đề tài câu hỏi được viết sẵn trên giấy rời, cuốn tròn lại và đặt trong lòng ruột chiếc đỉnh đồng, lá thăm nào bóc rồi là loại luôn, không dùng lại nữa, để lãnh sự trùng điệp. Đề tài tôi chọn được là "Le budget régional" (sổ công nho địa hạt). Tôi đang đứng diễn giải nghe giòn giã, bỗng ông chủ khảo ngắt ngang và hỏi tôi một cách bất ngờ: "Xin vui lòng cho biết thầy giữ chức việc gì tại toà bố và ở tỉnh nào?". Tôi thành thật thưa: "Dạ, tôi hiện làm việc ở toà bố tỉnh Sa Đéc và có phận sự trông nom về công nho địa hạt". Ông vụt vỗ bàn cười lớn và phân bua: "Hèn chi anh nói nghe suôn sẻ và rành mạch quá! Như vậy là trúng tủ anh rồi. Nhưng đây là kỳ thi về khả năng công chức cao cấp và Uỷ ban chúng tôi có trách nhiệm tuyển chọn người xứng đáng, nhứt là tránh sự may rủi. Vậy thì anh hãy nói qua "công nho tài chính nhượng địa Quảng Châu Loan" để xem thực tài của anh ra thế nào, như anh nói được tôi sẽ cho điểm cao".
Và tức nhiên vì tôi khinh thường không nghiên cứu vấn đề "Le budget du Kouang-tchéou-wan" và không trả lời ổn thoả. (Mà tôi dám chắc trong đám sĩ tử kỳ thi đó cũng đều bí lối như tôi). Và kết quả là tôi thi rớt.
Năm ấy thi rồi về tỉnh Sa Đéc, trong tai tôi còn văng vẳng câu khuyên nhiều ý nghĩa của vị chủ khảo là tham biện Thủ Dầu Một Bussière: "Thầy còn trẻ quá, mới hai mươi lăm tuổi đầu, còn đủ thì giờ để già dặn thêm. Đường công danh thầy còn dài, và tương lai hy vọng thầy còn tràn trề. Thầy nên nhẫn nại... Hãy xem mấy bạn đồng khoa với thầy ngồi dưới kia, người nào cũng đầu hai thứ tóc, mà còn lận đận nơi trường ốc. Kẻ trước tới người sau cũng tới, lo gì? Theo tôi, thầy nên nhường chỗ cho họ, qua sang năm tôi sẽ nhớ đến thầy nếu tôi còn được cử làm chủ khảo như năm nay. Hề hề! Phàm trái cây, phải đợi chín muồi mới là trái ngon?"
Như vậy, thử hỏi nếu đêm rồi tôi ưng thuận chịu lo hối lộ cho chim mồi là ông Phủ Bến Cát, thì bữa nay tôi có hy vọng gì khỏi bị tham biện Thủ Dầu Một Bussière hỏi câu hóc búa và cứu độ cho tôi đậu không?
Tại sao tôi không sớm tỉnh ngộ và chịu hiểu câu nói đầy ý nghĩa của chủ khảo, nửa đùa nửa thật, nửa khuyên tôi nên biết điều, nửa dạy tôi ẩn nhẫn đợi thời. Nhưng nay việc rồi tôi xét lại, chẳng qua đó là luật nhơn quả, đó là then chốt. Không có vậy, làm sao có chuyện viết thành sách "Hơn nửa đời hư".
Đại phàm rượu phải uống cho đến cặn, và tôi xin thuật lại đây tường tận nỗi mờ ám của tôi xin chớ trách tôi dài dòng và như vậy mới thấy những hư hèn của tôi, và ai là khách đã qua cầu mới biết.
Suốt mười bốn năm bất tận, tôi ngu muội đeo đuổi theo nghiệp khoa cử hư danh, từ năm 1929 đến năm 1942, mà chưa tỉnh mộng, cứ tin thi mãi có ngày đậu. Ngờ đâu ngày nay nghiệm ra và giác ngộ đã trễ, thi concours professionnel, tiếng rằng thi chọn người có khả năng chức nghiệp, kỳ trung là thi mánh khóe, ai giỏi chạy chọt là có phần may "tới nơi tới chốn", chớ dễ gì lấy tài "trơn" ra ứng cử, khác nào con gà đá độ không cựa mà dám so tài với gà "cựa chuối bén ngót như dao", mình thi tài mà họ thi tiền thì mình thua là cái chắc.
Tại sao lúc đó tôi không bỏ nghề cạo giấy, sang qua nghề khác ít cạnh tranh như nghề làm báo hay viết lách chẳng là hơn. Nhưng như đã nói, tôi ngu tối, vẫn ngây thơ hiểu rằng nghề làm thơ ký cho chánh phủ vẫn là nghề trong sạch như muôn nghề khác, miễn mình ở giữa đám bùn lầy mà không nhiễm tật xấu, hối lộ ăn của đút, thì lương tâm vững vàng.
- Kỳ thi thứ 2: mở ngày 1-12-1931. Sĩ từ 27 người. Chủ khảo là ông Estèbe, tham biện chủ tỉnh Tân An, phụ tá chủ khảo là ông Bunou, đầu Phòng Nhứt dinh Thượng Thơ (Nội vụ) và giám thị kỳ thi viết là ông Đốc phủ Ngô Văn Chiêu, người đầu tiên từ Hà tiên đem về Sài Gòn thuyết xây ghế cầu cơ, tức nguồn gốc của đạo Cao Đài sau nầy. Kết quả có năm người đậu.
Năm nay tôi thi rớt là đáng kiếp vì suốt năm 1931, tôi mảng lo việc gia tài cho Tư là người vợ nay đã ly dị. Năm nầy có một sĩ tử gặp dịp may hiếm có là bài viết kỳ 3, thảo lại bức thư trả lời một vấn đề nào đó, thì ông T, gặp bản giáp (minute de lettre) bỏ quên sót lại trong hồ sơ, ông đánh liều chép y rồi thủ tiêu bản giáp, bài được chấm nhứt hạng. Mãi lâu sau ông Võ Văn Nhiều mới thuật lại.
Kỳ thi thứ 3: Mở ngày 1-3- 1933 - Số sĩ tử quên ghi. Có ba người đậu.
Năm nầy, thi rồi hồ sơ đều niêm lại không cho ai biết, kết quả tuyên bố rất trễ. Có một người chỉ có công dò giấy số cho bà thống đốc Krautheimer mà nên công danh. Riêng tôi, công đăng hoả mấy tháng trời, học đến xếp ve mà vẫn phủi tay không, tuy chủ khảo là tham biện Le Strat trước nhậm ở Sa Đéc, có biết học lực và tánh tình tôi, nhưng không giúp ích được gì.
Kỳ thi thứ 4: Mở ngày 16-12-1935 - Chủ khảo, gặp Bussière lại nữa, và kỳ nầy ông cũng xét giấy thuế thân tôi mà không xét người nào khác: tại sao?
Phụ khảo: Ông Nay de Touris, sở kho bạc và ông Monvoisin, dinh Thượng Thơ.
Giám thị kỳ thi viết: Ông đốc phủ Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung).
Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhứt quyết không "liều như đánh bài", chỉ tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.
Kỳ thi thứ 5 - Mở ngày 24-8- 1937 - Chủ khảo: Ông Roger.
Phụ tá giám khảo: Ông Nadal đầu phòng Ba và ông Josa đầu phòng Tư, dinh Thượng Thơ.
Cử tử có hai mươi tám người, mình rớt số 28 vì tội dám cãi lý với giám khảo. Số lấy đậu là bốn người, cũng quên biên danh tỉnh để lại, vì buồn tủi. Từ năm nầy, vẫn thi đi cho lấy có, nhưng đã thất niềm tin và tự chủ. Lại nữa, bề thế đã đổi thay, gia tư khá hơn.trước, nhờ ăn gia tài của Bà Phủ An Sốc Trăng là nội tổ người bạn nay đã ly dị. Tình thế nay đổi đời, nhưng không dám quên tri ân người đã khuất. Cũng từ đây, say mê đồ cổ, mỗi lần thi rớt là an ủi mua về một cổ ngoạn đáng giá, bất ngờ nay trở nên một thành công lớn, còn lớn hơn buổi xưa thớt đậu. Ô hô! Thời da? Mệnh da? Chẳng qua vì vận thời, không nên trách cứ vào số mạng và nên tự tin vào sức của mình tự tạo là hơn.
Kỳ thi thứ 6 - Mở liền năm sau, ngày 1-6-1938, nên các cử từ đều không dự bị kịp. Ông Larivière, tham biện tỉnh Bạc Liêu làm chủ khảo. Phụ tá giám khảo gồm ông Nadal đầu phòng Ba và ông Kresser, đầu phòng Tư, dinh Thượng Thơ. Kỳ nầy đăng cáo thị lấy sáu người đậu, nhưng ông Larivère do có cảm tình và từng thấy cách tôi làm việc tại toà bố Cần Thơ, nên sau khi thi, ông không tuyên bố kết quả mà lập biên bản đề nghị lên quan thống đốc xin tuyển thêm ba người đậu số 7 là tôi, số 8 là Trang và số 9 là ông Hải, viện cớ cả ba đều có số điểm trên trung bình và đáng được chấm đậu. Rủi cho tôi, lúc đó lại có thơ rơi tố cáo tôi: a) Lo lót tiền bạc (năm trăm đồng) cho một cò-mi làm việc tại phòng nhơn ty và biết đầu đề bài thi viết, b) Tôi có hạnh kiểm xấu, bỏ vợ nghèo cưới vợ giàu, c) Đã mua chuộc tham biện Le Strat kỳ thi năm 1933 v.v...
Vì vậy, ông Larivière nổi giận, thay tờ vi bằng khác, lại bỏ tôi ra và chấm đậu tám người. Đây là một bài học đau thương, vì tôi giàu có nên có người ganh ghét ám hại, khi tôi kêu oan thì sự đã trễ, nên xử chìm xuống, hứa lại kỳ sau.
Kỳ thứ 7: Mở ngày 19-2-1941. Kỳ nầy có đến hai ban giám khảo: a) Ban giám thị gồm ba ông: Kerjean, Le Pellisier và Trịnh Đình Quý, coi thi, b) Ban giám khảo thi và chấm bài, gồm ba ông: Goutcs, tranh biện Chợ Lớn; Rolland, ngạch điền thổ và Mialin, đầu phòng Nhứt, dinh Thượng Thơ.
Kỳ thi nầy có một cải cách là cho thi ứng đáp trước khi thi ám tả. Cử tử cả thảy là hai mươi người nhưng qua kỳ hạch miệng chỉ còn lại có tám người, trong số ấy có tôi. Nhưng khi thi xong ba bài viết đến chiều ngày 22-2-1941, ông Rebouillat, chủ sự phòng Nhơn ty, đã quen với tôi lúc ở Cần Thơ, nay ông cho hay tôi rớt nữa, và các số điểm của tôi là:
Kỳ ứng đáp, nôm na gọi thi hạch miệng. Hành chánh (d'aministralion générale) 10 Tài chính (régime financier) 15 Luật (d'roit) 16 Sử địa (géographie) 18 Hành chánh địa phương (administration provinciale) 12 ___
71
Thi viết Bài thứ nhứt, số điểm và hệ số 11 x 5 = 55 Bài thứ hai 11 x 3 = 33 Bài thứ ba 8 x 5 = 40 Bài thứ tư 11 x 5 = 55 Bài thứ năm 11 x 3 = 33 ___________
216
Cộng: 287
Theo nguyên tắc phải có 312 điểm là bực trung mới đậu, và tôi thiêu 25 điểm, trong số đó có ba người đậu.
Hôm biết được kết quả, tôi phải gọi xe kéo đưa về nhà vì quá buồn. Hôm sau không còn lòng nào làm việc, định xin thôi về nhà vui thú điền viên nhưng ông Rebouillat cho hay lúc nầy tình hình nghiêm trọng, chánh phủ không chấp nhận cho tôi đâu mà hòng làm đơn vô ích. Ông lại cho hay trong một bài viết tôi có dùng một câu chữ la-tinh mà ban giám khảo nghi là "không tự nhiên ắt có tá tha nhơn làm bải giùm" nên cho điểm nhỏ (8 x 5), vì vậy mà rớt.
- Kỳ thi thứ 8 và kỳ chót - Mở hội thi ngày 21-7-1942. Ban giám khảo gồm có: Wolf, tham biện chủ tỉnh Thủ Dầu Một, chánh chủ khảo và Freyssenge và Bealvais, đầu phòng nơi dinh Thượng Thơ, giáp ất phó chủ khảo.
Cử tử 24 người gồm bốn tú tài và 20 thơ ký đã đậu khoa phổ thông (culture générale), trong số có các bạn quen cũ là Nguyễn Đình Hào, Dương Văn Hưng, Hồ Văn Mạnh, Nguyễn Văn Vạng, Dương Văn Ký, Trần Văn Hưng, v.v...
Năm nay tôi rớt đau nhứt và nhục nhã nhứt vì bị loại vòng đầu trong kỳ hạch miệng. Và kỳ thi chấm đậu có ba người cũng quen biết và không nhớ rõ là ai, nhưng trong số đó có anh Dương Văn Ký. Một anh nữa là Nguyễn Văn Giáo nhưng sau cuộc đảo chính dưới trào thủ tướng Nguyễn Văn Thinh, anh được bổ nhiệm làm huyện và lần lên đốc phủ đó là việc khác.
Riêng tôi, thất bại về thi cử, kể bảy lần trước thì lòng có buồn tức thật vì có thể đậu nhưng bị ganh tị hoặc bị nghi ngờ việc nầy việc nọ mà rớt. Duy đến kỳ thứ tám nầy, rớt rồi lòng không buồn ức nữa mà chỉ chán chê cho cử nghiệp lao đao lận đận, khi biết mình luôn luôn bị dìm, bị đè đầu xuống thì mong gì đâu? Việc làm đầu tiên là ngày 25-7-1942 ôm mớ sách học thi cả thảy tám cuốn, đem lại hiệu Tín Mỹ đường La Grandière bán được hai mươi bảy đồng, chiều lại đem tiêu vèo trong một bữa cơm Chợ Lớn, tống khứ cái giấc mê đồ ham làm huyện làm phủ, trong khi tài không có mà miệng thế gièm pha thì nhiều. Cái nghề làm huyện để cai tri dân, đâu phải để dành cho những kẻ dại dột như tôi muốn trong sạch và không chịu đi theo con đường vạch sẵn, là phải lo lót để thi đậu rồi vơ vét mót máy gỡ vốn lại sau. Tôi nói đây không có ý quơ đũa cả nắm và xin chừa những anh có thực tài, đi thi và đậu do sức riêng, tức không cậy thần cậy thế. Lúc đó tôi rất tự tin nơi tuổi trẻ và nơi công lao ăn học, tưởng rằng "có công mài sắt có ngày nên kim", nhưng nói mãi nhàm tai, tôi xin chịu tội lúc nhỏ duy có một chữ xứng đáng đánh dấu cuộc đời "phân nứa kiếp" của tôi, đó là chữ "Hư" to tướng.
Và cuốn sách nầy, lấy nhan là "Hơn nửa đời hư" là vì vậy.
Viết đến đây, miệng đắng lưới khô, lỡ khóc lỡ cười, vừa nhớ vừa thấm thía câu bất hủ trong Cung Oán:
Cánh buồm bể hoạn mênh mang, Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh!
Còn nhiều câu nữa đều hay và dạy đời, nhưng mình không nên ngâm, vì dẫu cho giọng tốt cũng nên câm miệng lại, vì rõ là "thằng Hư!".
Cám ơn đã được thi rớt!
Nguồn: trích “Hơn Nữa Đời Hư – Vương Hồng Sển” ảnh: Gọc giả Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:54:41 GMT 9
Hối lộ Vương Hồng Sển
Hối lộ là một độc dược thâm căn cố đế, mọc gốc mọc rễ từ nhiều đời, không biết Đông có trước hay Tây có trước, duy biết nay đã tràn đồng, nước nào cũng có, đời nào cũng có, dây dưa thời bình như thời loạn, lúc thạnh như lúc suy.
Trước đây, lúc Nam Kỳ còn hội đồng Quản hạt, trong một phiên nhóm đại hội, lão De la Chevrotière là thực dân hạng nặng, công kích hàng phủ huyện và mấy ông thông phán toà án, rằng họ không ăn lương bao nhiêu mà ông nào cũng ruộng tột nhà lầu cùng khắp, trong khi các quan toà, quan chánh án Pháp về hưu nghèo khổ. Lão đờ Xa cu chê đang ngon nhớn, ông Nguyễn Phan Long đứng dậy nói có một tiếng mà lão tự nhiên ngồi xuống trơ cả mặt: "Xin lỗi, danh từ "pot-de-vin" phải chăng người gô-loa có sẵn? Chớ phải nào của ông cha chúng tôi bày đặt!".
Danh từ "pot-de-vin" (hũ rượu), tức là hối lộ theo Pháp, ý chừng xưa đã có tục dâng rượu nguyên vò, nguyên hũ, nguyên chai, để mua chuộc lòng người, sang qua nước Thổ Nhĩ Kỳ là xứ sản xuất á phiện chế ra ma tuý, danh từ haschich đẻ ra bakchick, cũng dùng ám chỉ thứ mê hoặc lòng người. Không mê bằng rượu thì mê bằng thuốc hút, hít hay nuốt hoặc thẩu đều cùng một thể.
Trong cuốn dạy Pháp văn Cours Gradué của ông Trương Minh Ký, in năm 1893 đọc lúc nhỏ, dưới nhan là "Thanh dạ văn chung", có thuật một chuyện ông quan thanh liêm viếng một ông bạn có tật ăn của đút, khuyên ông nầy nay có con, không hay kềm thúc, e có ngày đãng sản khuynh gia. Ông quan giàu mà tham, trả lời một câu tôi còn nhớ mãi: "Nếu mình làm quan thanh liêm, dầu làm cho tới bực đại thần, cũng không hậu súc. Nay tôi làm ra sự nghiệp nầy, thì làm sao cũng không khỏi bác tước của dân, tích lấy của phi ngãi. Bởi vậy ông trời giả thủ nơi con tôi, khiến cho nó phá bằng phẳng vậy thì là "Thiên phú bất đạo chi gia", để cho cha con tôi toạ hưởng của phi ngài hay sao" (Ấu học khải mông của ông Trương Minh Ký soạn (Cours Gradué), nhà Imprimerie Nouvelle Sài Gòn xuất bản năm 1893, trang 303, dưới bài ký tên ông Paulus Của).
Có người trọn đời không nhận của hối, khi trở về già túng bấn, thấy bạn đồng liêu từng nhận tiền lì xì nay vợ con đều ấm no, bất giác than "nếu dè mình cũng làm như họ!" Một lời nói khiến bao nhiêu tiếng thơm trong sạch đều trôi sông trôi biển, vì xã hội có thể tha thứ một con điếm ăn năn, nhưng vẫn không dung một ông quan ưa ăn vụng.
Tích cũ nói ông huyện tuổi Sửu, trách vợ sao lại nói mình tuổi Tý, khiến nên con chuột dân cúng nhỏ xíu sao bì nói tuổi sửu, con trâu to kềnh, tích nầy cho thấy đời trước không dốt khoa châm biếm và luôn luôn túi tham không đáy. Một tích cay chua không kém và trì thời hơn kể rằng có một ông tỷ phú chuyên sản xuất xe tăng thiết giáp đến thương lượng với một ông bộ trưởng coi về quốc phòng, ông tỷ phú đề nghị bán món hàng giết người ấy cho chánh phủ, ông bộ trường còn dụ dự sẵn đang thèm thuốc hút, ông tỷ phú rút ví dâng thuốc trong có một điếu không phải thuốc vấn mà là một ngân phiếu một triệu cuốn tròn. Ông bộ trường xem rồi lắc đầu nói bình sanh không hút thuốc lá ông tỷ phú hiểu ý, hẹn dâng xì gà; ông bộ trường chịu liền và cả hai đồng ký tên mua bán thứ binh khí sát sanh, sống bây nhờ chết bây chịu, miễn tiền tao bỏ túi, một triệu chê ít, mười triệu, hai chục triệu ừ liền. Tích nầy thâm, vì qua mặt sự dòm hành tả hữu, vì dâng thuốc hút không ai dè đó là dâng ngân phiếu.
Nhưng hãy khoan mừng vội. Đừng nói "dâm bôn khỏi lỗ vỗ vế", đừng tưởng ăn hối lộ "qua khỏi truông trổ bòi cho khái", ăn hối lộ không luôn dễ như vậy đâu. Một đời chắt mót ăn từ cắc từ xu bòn tro đãi trấu, kèo nài từ đồng, có một ông ở Vĩnh Long Phán Hợi, ngày xưa dân cho hai chục đồng xin sang bộ đất, ông đòi thêm cho được năm chục đồng và lật mặt chiếc cà-rá xoàn đeo nơi tay để đánh giá hạng mình là hạng bự, sau lại sanh con, con phá sản, sanh gái, gái theo trai, của Tào đổ âm ty, chúng nó phá hết sạch khi ông ta nằm xuống. Quả là thiên đạo chí công. Không nữa, gởi của gian vào nhà băng, không dám ghi tên thật, sau bị lật gọng, ú ớ không nói được thì cũng trời kia có mắt?
Người công chức, nếu làm đúng vai tuồng, đều trải thân giúp nước, nước đó mà cũng là xã hội đó. Người vai lớn làm việc lớn, ích quốc lợi dân; ăn trên ngồi trốc đủ sướng hơn người. Người vai nhỏ gánh vác việc nhỏ, anh phu quét đường, anh lính ngăn giặc cả thảy đều góp công bào chừa việc quốc gia, việc làng xóm, không một bộ phận nào thừa, cả thảy chung nhau như chiếc máy đổng hồ, lấy ra một con ốc thì máy kia tê liệt.
Trong Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Ký có kể chuyện đút sáp cho cọp ăn khỏi chết là thâm thuý nhứt. Chuyện kể lại thằng hát bội kia nó giễu cái nầy xâm những quan hay ăn hối lộ. Nó ra sân khấu nói với thằng bạn của nó: "Ý cha chả! Hôm trước tôi đi ăn ong về, gặp ông cọp, tưởng đã xong đời đi rồi".
Thằng kia đáp: "Huỷ! Vậy thì còn gì mầy". Nó trả lời: "Mà may, tao có vác một bó sáp trên vai, tao mới chàng hãng ra, tao đút sáp ra đằng sau, ổng chạy theo ổng táp, mắc nhai sáp, tao chạy trượt đi khỏi! Xí hụt!".
Câu chuyện vắn xủn mà ác lắm. Ăn đàng sau tức ăn dưới trôn. Đi làm một chuyện gì, tỉ như nay ta đi làm áp phe, giả cớ gọi đi ăn ong. Quan thì gọi ổng nầy ổng kia và muốn cho ổng ăn cứ chàng hãng ra, đút cái ấy dưới háng ổng vẫn táp như thường. Bây gió thành ngữ "đút sáp" đã quá xưa, vì ong rừng sáp bánh trẻ em ít biết và chỉ bọn già cỡ tôi hoạ may hiểu được.
Cái tích ông Tam Tạng đi thỉnh kinh, đến Lôi Âm Tự, Phật tổ đã dạy phát, nhưng vì không có lễ mễ nên hai ông ác Nan Ca Diếp phát kinh trắng (bạch tự) té ra trên cõi Phật cũng biết đòi.
Sau đây là hai vụ ăn hối lộ mà tôi đây là chánh phạm. Tôi lấy công tâm mà nói. Người đọc xin cũng lấy công tâm xét giùm:
Một đời tôi là ai công chức, trước sau ba mươi bảy năm cực trần ai, ngày nay sực tỉnh thấy mình không khác một con đĩ già tuy quá tuổi nhưng còn chút trinh bạch. Nghĩ ra hay giỏi, còn trinh làm sao được khi đã trải thân đi khách đủ mặt: Tây, Hữu, Diệm, Kỳ! Còn tệ thì nhắm cũng chưa tệ mấy, vì ngót hai mươi năm (1923-1943) ăn lương của Pháp và mười bảy năm (1947-1964) làm công nhựt nơi Viện bảo tàng, tôi dám khoe chưa nhận một đồng xu hối lộ.
Nay về già, tay cầm cuốn sổ hưu bổng tỷ lệ, nhớ lại cái kiếp làm trâu ngựa đã mòn vai chai cổ, hồi tưỏng lại âu cũng là tiền căn hậu kiếp. Mà cũng vì hoàn cảnh bắt buộc, chạy giặc hết tiền mượn cha trở lại đút đầu vào tròng công chức để sống. Nhưng đèn nhà ai nấy sáng, chuyện chén cơm nồi gạo, nói nhiều làm chi cho tốn thêm bọt oáp.
Ăn hối lộ, không bị bắt tại trận, gọi là may mắn. Nhưng sự ô nhục tự làm hèn phẩm giá, từ trong lương tâm ẩn tàng đời đời kiếp kiếp, sống để bụng chết đem theo, làm sao gột rửa cho ra?
Không ăn hối lộ thì nhờ. Ai tra ai khảo mà hòng phanh phủi, tự đức? Chưa chắc gì khỏi ăn, vì người dâng có nhiều hình thức:
- Khi nhận một bao gạo thơm đầu mùa của đứa trẻ con nhà giàu đem biếu thì thầy giáo đã nhận của lễ trá hình; khi không thể từ chối - từ chối sợ mích lòng - một chục hột gà so của gia quyến người bịnh dâng ông bác sĩ, có nên gọi ông bác sĩ nhận của đút hay chăng? Một đứa trẻ khác ôm một giỏ ổi chín và chuối rục đến tặng thầy mà rằng: "Má tôi sai tôi đem cho thầy mớ nây, vì ở nhà heo nó cũng khứng thèm ăn!".
Theo tôi tưởng một khi heo nó không thèm ăn, thì của ấy, thầy giáo, nếu là tôi, tôi không chê vậy.
Một ông quan văn hay võ, nhận một vỏ đạn chưng trong phòng làm chiến lợi phẩm tịch thu của địch, hoặc một chục bưởi dịp Tết hay một chục xoài đầu mùa, một gói trà thơm của Hương Cảng, của Đài Bắc, nhận một toa thuốc gia truyền trị bịnh no hơi, đều là nhận hối lộ cả.
Và chăng chữ "bổng" thường đeo chữ "lộc". Bổng lộc, hai chữ đi đôi. "Bổng" là tiền lương chính thức của quan lại, "lộc" là lộc trời cho, ai được nấy hưởng. Xanh xanh trên kia là trời, mà thằng đần cũng là trời. ý dân là ý trời, lòng dân là lòng trời và của dân là của trời. Dân cho được phép hưởng, duy chăng nên đòi. Chỉ khó phân biệt thế nào là cho và thế nào là ép buộc. Cả hai cách nhau có một tấm màng trinh.
Chị thơ ký con đùm đề, chồng đi lính xa, nhận một chục hộp sữa nuôi con của ông cai thầu muốn gấp lãnh tiền phát cho cu-li, nhẹ tội hơn một ông trường trai nuốt sâm yến của mấy mụ goá chồng chuyên nghề cho vay cắt cổ.
Bây giờ chuyện gì đem ra nói cũng đều sợ đụng chạm. Chi bằng dem chuyện của mình, dẫu nói không ai tin, nhưng nói đề hả hơi cũng tốt.
Sự thật tôi tự xiết lấy tôi, cũng không hay gì hơn ai và có phần cũng giống như ai: bụng vẫn ghét hối lộ, ai mà không ghét? Nhưng nếu có cách dâng nhã, gói ghém, không đến lộ liễu, ai chớ tôi ắt khó chối từ. Ghét bởi đó là việc xấu, người đang đào thải; còn ưa là vì ai cũng đều có tánh hám tiền. Đừng làm như ông kia, bình sanh không lấy một cây kinh gút hay một cây viết chì trong sở, nhưng khi gần chết, Thống đốc Nam Kỳ đến viếng hứa cung cấp cho ba chục mẫu lương điền trong Chợ Lớn ông cười nhắm mất đi xuôi.
Trước khi chê bai việc người làm. hãy tự xét mình có thật quả trong sạch không trước đã, nếu thật sạch muốn phỉ nhổ vào người thì mặc. Bằng như vẫn cũng là bọn ăn của dân, miễn đừng đục khoét là được rồi. Đứa rủi bị bất thì ngồi tù bị chế giễu. Đứa may chưa bị thì ngồi nhà nghí ngố, cười ruồi, thế thôi!
Phần tôi, đến tuổi hưu mà chưa táp được tôi không cho là hay. Tôi hư trong bụng tôi biết. Có lẽ tại kiếp tôi là con đĩ làm cao, đòi quá mắc nên không ai thèm kêu đi khách. Bộ mặt của tôi buổi đó, tôi nhớ lại, không khác mặt gái giang hồ làm dáng, kịp đến già, chữ trinh còn đây là vì xấu xí không ai thèm. Cho ít sợ tôi la, cho nhiều thì người ta tiếc.
CHUYỆN THỨ NHỨT - ĐÂY CÓ NÊN GỌI LÀ HỐI LỘ CHĂNG?
Nãy giờ nói nghe mạnh miệng, chớ nếu có thật ăn hối lộ thì làm sao chạy án? Nhắc lại năm 1923 tôi ra làm thơ ký thí sai nơi Trường Máy. Năm 1924, tôi và Lạc thơ ký nơi Khám đường tục danh là Khám Lớn Sài Gòn, cả hai được bổ nhiệm thơ ký thiệt thọ hạng sáu, lòng mừng từ đây khỏi bị thí sai sai thí, nên tôi đi tìm Lạc để chia vui. Cuối tháng chín, tôi lãnh lương gần trăm bạc trong tủi đếm từ đồng, xọc xạch sáu mươi chín đồng lẻ mấy cắc, vì họ trừ mấy xu con niêm. Cộng với một trăm ngoài tiền Ba tôi cho làm tiền tuỳ thân, thì cả thảy được gần hai trăm đồng, giàu hóm. Mừng mừng tủi tủi. Mừng vì đây là bổng lộc của chánh phủ cấp cho. Tuổi ấy, thời buổi ấy, cũng chưa biết phân biệt chánh phủ nào với chánh phủ nào, duy biết theo lối văn chương chập chũm, thì đây cũng tạm cho là "phấn nước ơn vua"(?). Mừng rồi lại tủi vì bình sanh muốn lựa nghề thanh cao, làm lương y cứu nhân độ thế, làm giáo sư dạy dỗ kẻ đến sau, té ra trở nên một thơ ký quèn cho Tây. Cái số đứng đường, để cho người sai, đón đưa tiếp khách, không làm sao tránh được. Mặc cho số kiếp.
Có sẵn tiền trong túi, nhớ anh đậu số 4 lọt Khám Lớn là Lạc, bạn đồng song năm trước ở Chasseloup, nên tôi đi ngay lại đường Lagrandière (Gia Long, chỗ Thư viện quốc gia ngày nay). Đến cửa khám, thấy người ta bu đông nghẹt nơi bên cạnh, vì ngày ấy là ngày cho viếng thăm tội nhơn. Một cô thiếu nữ Tàu ăn mặc sang trọng, xinh đẹp như hoa, đứng gần một chiếc ô tô Delage bóng lộn, nhưng cớ sao mặt mày ủ dột, vừa thấy tôi bỗng sụt sè như muốn bày tỏ chuyện gì. Tôi bước lại gần, cô cầm một gói đồ có bao tờ nhựt trình, tuy chưa biết tôi là ai, nhưng đã nói tiếng Phắp cắt nghĩa muốn gởi gói ấy vô cho cha chồng, ngặt cô chưa xin được giấy phép. Lúc ấy tôi vừa háo tháng vừa có tật ưa nịnh đàn bà, cô lại xinh đẹp quá, nên tôi lãnh mạng đại, vì chuyện chi chớ chuyện gánh bàn độc mướn, ai không biết, chớ tôi là số một. Bữa ấy tôi mặc một bộ đồ tussor mới may và diện thật kẻng. Thấy bộ gió của tôi và nghe tôi trâm một câu tiếng Tây trong trẻo, muốn vào thăm thơ ký Lạc làm việc nơi văn phòng ông chánh chúa ngục Agostini, viên đội Tây gác cửa lật đật mở cửa cho tôi vào không xét không tra, nhưng đến chừng tôi bước qua khỏi ngạch, viên đội khoá cửa lại nghe cái rầm, khoá hai tua, tôi thấy cửa quá dày và cái chìa khoá to lớn khác thường, trong lòng thấy nao nao, định thối bộ lui gót thì viên đội dường như biết ý nhoẻn miệng cười và nói một câu pha lửng: "Không sao đâu. Anh vô đi rồi lát nữa tôi mở cửa cho mà về". Yên tâm rồi, việc làm đầu tiên khi gặp Lạc là tôi xin Lạc trao gói đồ tận tay người thừa lệnh. Để cho Lạc ân cần hơn, tôi nói dối đó là người thân bên vợ tương lai. Lạc niềm nở bao nhiêu thì tôi lật đật lửi đửi bấy nhiêu vì lòng đi thăm bạn của tôi đã mất. Tôi chỉ nóng báo tin cho người đẹp rằng sứ mạng đã xong và tôi chỉ sợ người đẹp bỏ về. Cô gái đi xe Delage cám ơn líu lo bằng một câu tiếng Tàu, nhưng tôi nhớ mãi sau đó cô hỏi tôi địa chỉ bằng tiếng Pháp giọng học sinh trường nữ Marie-Curie. Khỏi nói tôi đã đưa danh thiếp của tôi trong ấy có ghi rõ địa chỉ và số đường sở tôi làm.
Vài ngày sau, đang giờ làm việc một buổi chiều, có người mời tôi ra phòng khách trường máy. Đó là một bác tài xế vận âu phục chỉnh tề, trao tôi một bức thơ chữ Pháp có ký tên là chủ nhân một đại dược phòng danh tiếng trong Chợ Lớn. Trong thơ cám ơn tôi đã giúp tận tình thân nhơn y trong khám đường hôm trước và ân cần mời tôi thứ bảy tuần sau thế nào cũng đến dùng cùng y một bữa cơm Tàu thân mật tại đại tửu lầu Đức lợi (Teck-Lỹ) đường Quảng Đông nay là đường Triệu Quang Phục, trong thơ nhấn mạnh và gạch một hàng chữ "mời tất cả quý quyến cùng đến dự" nguyên văn chữ Pháp "avec toute votre famille".
Đã nói tôi có tánh bép xép và mau mẩn trong mọi chuyện, cho nên việc làm đầu tiên khi nhận tấm thiệp là đi rêu rao khoe khoang khắp anh em trong sở, lại còn làm tài khôn chạy lên phòng nhì (2è Bureau) dinh Thượng thơ, mời mọc bao nhiêu bạn bè mới quen cũng mời, vì thân quyến tôi trên nầy không có: "Mấy anh muốn ăn cơm Tàu không tốn tiền, hãy nhớ ra đón tôi tại ga xe lửa điện đầu chợ Bến Thành, thứ bảy tuần sau, đúng bảy giờ tối, bao nhiêu người tôi cũng đài thọ nổi". Cố nhiên tôi có mời Lạc và ông Phủ Hiệu của Khám Lớn.
Đúng ngày hẹn, bảy giờ kém mười lăm, tôi ra ga Chợ Mới lúc ấy đặt tại chỗ bót Lê Văn Ken, tôi thấy một nhóm "chết đói" mười một người, với tôi là đủ chục mười hai, vừa trẻ vừa sồn sồn, bạn cũ năm xưa cũng có mà bạn mới quen trên dinh Thượng thơ vài trữ tôi biết tôi đã mời lỡ thì đã muộn. Xe chạy, kéo nhau cuốc bộ đến đường Quảng Tống Cái (nay là Triệu Quang Phục) chưa chi tôi đánh lô tô trong bụng vì nghe tiếng kèn song hỷ và tiếng trống Bắc cấu từ trong khách lầu xổ giòn điếc tai. Ngó lên cửa sổ lầu đại khách đường từng nhứt thấy treo một cây cờ chữ lớn rõ là liệu kỳ của nhà đại dược phòng N.T.Đ. Tôi rờ bóp biết chục hai trăm bạc của tôi còn gần đủ, nay nếu vì danh dự, vì thể diện dâng hết cho bọn ma đói nầy thì cũng đành. Tôi mạnh dạn kéo rốc lên thang. Đến từng lầu nhứt, thấy cách dọn dẹp sang trọng quá, bàn ghế trải ngăn nấp trắng phễu, tôi đếm sơ có trên mười cỗ bàn dọn kiểu bát tiên, tôi đâm ra sợ khan, vừa nghi đó là chỗ dành đại quan viên tiệc cưới hay tiệc tân quan khánh bạ nào đó vừa sợ trong bụng nếu ăn nơi đây, sang trọng làm vầy, ắt tổn phí tính nhiều, chi bằng kéo cả lũ lên từng lầu ba là hạng bình dân, may ra hai trăm đồng của mình cũng còn lại chút ít lây lất đến cuối tháng.
Chúng tôi rần rộ kéo lên lầu như nhóm lính bạt ti xăng đi xét nhà. Vừa tới đầu thang thì có một chú Ba Tàu ăn vận theo thầu xáng tửu lầu chận lại lễ phép hỏi đi đâu mà đông dường vậy.
Tôi cẩn thận rút thiệp mời chìa ra và đáp đi ăn tiệc do thơ mời của ông mỗ.
Chú Ba Tàu nhoẻn miệng cười bày ra hai hàm răng giả bịt vàng vàng khè, rồi chỉ tay mời xuống từng lầu chỗ có treo cây đại kỳ, mới ngán.
Tám giờ gõ, kiến cấn bụng từ lâu, anh em đòi ăn như giặc, vì mấy đĩa đậu phộng rang và hột dưa đỏ đã hết sạch Tôi giả lờ làm tỉnh kêu "mì" cho đỡ tốn. Nghe có tiếng dạ rân, giây lát thầu xáng bưng lên mười hai tô mì, mỗi tô đều có đồn đột gân nai vi cá và giò heo Bắc thảo. Tôi húp mì mà sợ cho hai trăm đồng bạc của tôi sẽ bay theo mười hai tô nầy, nên nuốt không vô. Tôi thầm trách thầu xáng muốn trách mình, hễ kêu mì thì đem thứ mì đoàn thể công cộng, một tô xộn xên tiết kiệm cho người ta nhờ, ai cầu vẽ viên cách vật, mỗi người mỗi tô cho thêm báo.
Đến chín giờ cũng chưa thấy ông chủ đại dược phòng đến. Mẹ ôi! Nếu ông không đến, tức ông khinh rẻ mình. Có nên giận chăng? Giận lẩy sẩy cùi! Đừng giận mà hư việc. Thầm vái giây lát ông đến thì mọi việc êm xuôi, chuyện gì mà khổ tâm vô ích.
Đồng hồ gõ chín giờ mười lăm. Anh em thúc: "Ăn bậy cái gì rồi về, khuya rồi". Chuyến nầy tôi kêu rành rẽ hai đĩa cơm rang Dương châu hay Cantonnais gì đó, thứ nầy ăn mau no và chắc không quá số tiền hai trăm đồng mình có. Cơm đem lên ăn vừa được nửa chừng, bỗng ông chủ cao lâu đi chơi về, ghé chào khách quý ăn tiệc phòng sang ông thấy chỉ có mười hai Ớ Nam Dành, tuy vậy ông niềm nở bắt tay từng người và hỏi sao bữa tiệc kém hào hứng, có phải vì thức ăn kém ngon chăng? Tôi tỏ thật và phiền vì người chủ mời mà không có mặt khiến khách mất vui.
Ông chủ tiệm nghe tôi nói chưa dứt câu vụt cười xoà, sai thầu xáng mau mau dẹp hai đĩa cơm rang và cắt nghĩa: "Theo phong tục Tàu, nó (tức chủ nhân đại dược phòng, người đứng ra mời khách), nó không đến đâu, đừng chờ nó thất công Nếu nó đến, sợ có mặt nó, mấy ông ăn uống không tận tình. Nó không đến là nó có ý kính trọng khách đó? Ăn nhiều thêm nữa đi! Ăn chết cha nó đi! Kêu dội thêm đồ ăn ngon, ăn nhiều nhiều đi! Ăn ít như vầy, tôi lỗ vốn, hề hề, chết cha đi còn gì. Ăn nữa đi mà. Ăn hết gia tài của N.T.Đ, nó cũng không nói, sợ cái gì. Các chú đãi khách là vậy đó mà".
Tuy lời nói không thanh bai nhưng giải được nỗi lòng, và mười hai cái mặt khách nở lớn như mười hai cái đĩa bàn cỡ hai tấc.
Lạc Khám Lớn có rượu đã ngà ngà, trách tôi dại dội: "Bày đặt kêu mì, kêu cơm rang, nay đã cành hông, còn nuốt sao vô?".
Tôi mượn anh Phán Thành và Năm Xuân Trường Máy chạy xuống lầu, thổi kèn lập binh (sonner le rappel), chạy gõ cửa từng nhà, gọi các bạn cũ còn thức, đứa nào có cơ ngơi trong phố gần khách lầu, thằng Trân Xã Tây nhà ở đường Trần Hoàng Quân, kỹ sư Hiệp, hội đồng Phát, anh Tư Phước, ông giáo Đồng, dặn súc miệng sơ lên đây ăn tiếp tay một bữa cho người Tàu kiên oai và cũng cho lại gan ông chủ nhà thuốc lớn có ý khinh đời. Nhưng trời đã khuya, lúc ấy hơn mười giờ, nhà nhà đều ngủ, đã làm một giấc, và gọi người nào cũng đều ngái ngủ say ke, không ai khứng đóng vai đạo binh hậu tập!
Ông chủ cao lâu gọi thầu xáng sai lấy nước nóng có ướp dầu eau de Cologne cho chúng tôi rửa mặt, sai gọi gấp hai tên tẩm quách đấm lưng và bóp vai vuốt ngực o bế mười hai con gà đá chồng độ khác! Thiếu một điều nói xin lỗi. Ông muốn chúng tôi chọc ọe trả hết mì cơm, để cho bao tử mệt làm việc lại như lúc chưa ăn!
Ông bày biện đủ phương pháp của ông biết, nhưng chúng tôi ăn uống uể oải, mười hai đứa chia ra ngồi hai bàn dọn hai mâm vì vèo mà thức ăn còn ê hề không sứt mẻ phần nào. Chủ tiệm lắc đầu than lỗ như bộng. Rồi ông sai bưng lên hai mâm đèn đặt trên hai bộ ván thứ gọi là sập ba thành dành cho tiên ông đi mây về gió, ông gọi hai á múi đến làm thuốc và mời mọc: "Hút chơi ít điếu cho mau tiêu".
Mười hai giờ, chúng tôi kéo nhau xuống lầu. Chủ tiệm còn thức cầm nán lại, lấy bàn toán ra gõ lắc các tính tiền rồi lắc đầu, đưa tay mời chúng tôi trở lên phòng như cũ. Chuyến nầy ông sai dọn lại nắp bàn mới, triệt hết ly chén, lấy trà thơm chén sứ ra dâng khăn nóng lau mặt lại nữa, rồi dạy lấy hai ống sành ra môi ống có để sẵn một mớ thẻ tre giẹp giẹp mỏng mỏng y như thẻ xin xâm các chùa Tàu. Tôi không hiểu chuyện chi còn mảng chần chờ ông cắt nghĩa đây là cách mời "hoa khôi biết nói" vì á múi quá đông nên phải bày ra cách nầy để tránh tiếng vị tư vị kỷ, các á múi cũng vui mà các phì phà chảy (con hát) cũng không cự nự.
Tôi nghe lời rút thăm trúng bốn cô mại mại như có tên rất đẹp: Cúi Ên (Quế Anh), Dục Nụi (Ngọc Nữ), Á Ngò (Cô Nga) và Hồng Hứ (Hồng Ngư). Giây lát có bốn cô gái lên phòng, toàn dưới tuổi hai mươi, hai cô tay ôm mỗi người một cây hồ điệp cầm, hai cô nhỏ tuổi tay cầm quại tay cầm khăn nhỏ che miệng làm duyên. Ngặt nổi đôi bên ngôn ngữ bất đồng nên chẳng có thú vị chi cả.
Các cô chào chúng tôi rồi ngồi một bàn riêng, rồi lên dây đàn như để trả nợ quỷ thần. Hai cô ca eo éo, chúng tôi như vịt nghe sấm. như trâu nghe đàn. Hết tốp nầy kế tốp khác, cả bốn cô cũng muốn thi thố tài năng, nhưng phong tục Tàu đứa nào đi lại Ớ Nàm thì kể như bị ô nhiễm, bọn họ tẩy chay luôn sau nầy vô phương làm ăn, nên gái Tàu ít dám nhảy dù với con trai Việt. Lạc Khám Lớn lim dim ngủ gà ngủ gục. Th. Trường Máy kéo ống vố rồi lấy á phiện nướng đặng bỏ túi đem về nhà, Tôi bị ma men hành, lại gần một á múi vừa đụng nhẹ vào má. Nhưng như bị điện giựt tôi nghĩ "ái" một tiếng y như con búp bê có lò xo kêu, cô hết hồn, và tôi cũng cụt hứng.
Nhưng bữa tiệc dẫu vui đến đâu cũng không thể kéo dài được mãi. Đến hai giờ khuya, mòn mỏi quá chúng tôi xin về. Ông chủ quán phen nầy lắc bàn toán, cười cười cho hay bữa tiệc giá bảy trăm sáu chục đồng, nên chi ông tặng mỗi đứa chúng tôi một chai eau de Cologne hay ai thích thì một hộp xì gà Corona, để tính chẵn tám trăm với ông chủ đại dược phòng. Hai trăm bạc của tôi vẫn còn.
Một tuần sau tôi mới được biết mặt ông chủ nhà thuốc. Xe ghé trước cửa Trường Máy. Ông người còn trẻ, có vẻ rất sang, và tánh tình nhã nhặn. Tôi trách ông bữa tiệc làm quen hoá bữa tiệc khinh thường, ông tạ lỗi nói y lời chủ hiệu cao lâu đã nói hôm trước.
Ông thú thật trong gói tôi đưa vô khám có chứa một bức thơ quan trọng, ơn tôi giá đáng ngàn vàng. Tôi nghe mà hết hồn cho việc làm tắc trách hôm trước, giỡn với lửa mà không ngờ. Ông mời tôi đến nhà nhưng từ ấy tôi không gặp ông nữa, bóng hồng thì đã vầng bặt từ lâu.
Bây giờ mới biết vì chuyện vô khám thăm bạn học cũ, tôi đã phạm hai tội: một tội đem thơ kín còn tội kia xin cho tôi tự bào chữa. Tôi không có nhận tiền và việc không có sấp đặt trước.
Theo tôi, đây là lộc trời dành một cảnh du nhập Thiên Thai tân thời tiếc thay tôi và các bạn tôi không có số để tận hưởng. Nàng tiểu thơ trước học Marie Curie quá nhã nhặn đã trả ơn tôi một cách quá hậu, nhưng thưa tiểu thơ, một cái liếc của cô còn hơn gấp mấy số bạc ngàn do cha cô đã phí.
2. CHUYỆN THỨ NHÌ - MỘT VỤ HỐI LỘ HỐI CẢI KỊP THỜI.
Năm 1929, tôi nghèo cúng lắm. Trong nhà thiếu trước hụt sau, mắc nợ ba trăm đồng bạc thôi, mà quanh đi quẩn lại tháng nầy qua tháng kia, vẫn vá víu mãi không trả nổi. Hỏi mượn một trăm của nầy, của Khôn, Khanh, anh em bạn tốt trong sở, đem đắp chỗ kia, cứ quây quần như vậy không khác đắp bờ đê, chung qui nước vỡ bờ vẫn tiếp tục.
Ác nghiệt nhứt là trong tay có sẵn tiền mới là nguy hiểm, vì tiền ấy là của công, tiền trong kết bạc toà bố, chánh phủ giao tôi giữ với chức vụ ký lục phát bạc (comptable, agent de paiement).
Chức nầy trước kia giao phó cho quan lại lang-sa đứng hàng thứ ba trong tỉnh sau vị tỉnh trưởng Pháp gọi Chánh Tham biện (ông Chánh) và sau vị Phó Tham biện (ông Phó). Qua đến thời bình, nhiệm vụ bớt gay cấn, chức nầy mới phó thác cho người Nam coi, vì vậy còn lại danh từ nôm na gọi ký lục phát bạc là ông công táp.
Thỉnh thoảng trong cơn gấp rút, tôi có ký bông khi mượn mười đồng làm vốn đi đánh bài, khi khác mượn hai chục để mua đồ xưa, nhưng tôi cân làm sao số tiền mượn không quá lương tôi lãnh, có bề gì, rủi thanh tra xét tủ, mất mát đôi ba chục, đổ thừa làm mất, bất quá thường tiền chớ không đến nỗi bắt tội hà lạm thụt két.
Cái năm 1929 ấy tuy vậy mà tôi hạnh phúc nhứt đời duy không biết để mà tận hưởng: ngoài sở chúng bạn yêu vì, quan trên trọng dụng, trong nhà có vợ đẹp, gia đình tuy thiếu hụt nhưng đầm ấm, cái hoạ ngoại tâm vẫn chưa nẩy mầm.
Nhưng cũng bởi nghèo túng, cho nên tinh thần thường dao động. Mặt khác bản tánh vốn ngay thẳng nhờ cha mẹ khéo dạy từ nhỏ, rốt lại không được sự dao động xưa. Tôi xin thuật lại như sau một vụ toan ăn hối lộ may thời đến phút chót ngưng lại kịp.
Nguyên từ lâu, ông cai tổng cao niên trên Cái Tàu thượng, L.H.H., làm mất lòng tín nhiệm của ông chánh phủ tỉnh tên là F.Barloli. Trước khi về nghỉ bên Pháp, ông nầy để mật thư lại cho ông chánh kế nhiệm là ông L. Pech đề nghị nên giải nhiệm ông cai tổng, viện cớ là tuổi già, khả năng chống cộng kém. Tôi quên nói lúc ấy là lúc bắt đầu có nạn cộng sản tại Sa Đéc, nhứt là ở Cao Lãnh và Cái Tàu thượng, nhưng nhẹ thôi, như bày cho dân không đóng thuế, xin bớt thuế, vân vân. Tụ tập la ó ban đêm bởi ban ngày lặn mất, để chờ tối hôm sau tuyên truyền thuyết mới nơi một làng khác. Họ dùng ớt chín kết làm tràng hoa cờ đỏ búa liềm thả trôi sông trên bè chuối hoặc treo băng-đơ-rôn phản đối nơi chỗ hẻo lánh chớ chưa hề có bạo động lớn đến xảy ra án mạng. Sở dĩ có mật thư cũng vì chút tư thù, ông cai không dâng lễ mễ nào trong khi ông chánh F. Barloli, có tiếng là người ham ăn của đút. Thậm chí mấy thầy ở toà bố, trừ những người có khả năng không sợ bị hớp hồn, chớ thầy nào yếu bóng vía đều phái cúng kiễng lễ vật mới được bình an. Ông chánh cũ có mượn của một thầy cai tổng một con bò sữa để mỗi sáng có sữa tươi cho ông pha cà phê; khi ông về xứ mời thầy cai đến lãnh bò về, ông cũng tìm cách khen thầy cai hào hiệp bằng cách ép thầy cai mua giùm hai cái xe đạp của con ông thôi dùng; bao nhiêu ấy đủ thấy thủ đoạn cao cường của một ông chăn dân có nhiều mánh khóe. Cũng vì thầy cãi L.H.H. không chịu dùng kế "cho mượn bò lấy sữa" mà biến ra cai hoạ tâm thư đề nghị sa thải ông.
Trong hồ sơ để lại, ông Cai H. đã 54 tuổi, cũng đáng tuổi về hưu, nhưng tôi không tin nơi hồ sơ và có ý muốn biết mặt ông cũng như muốn biết thêm về ông để dễ bề định đoạt; nghiệt nỗi ông ít đến toà bố, mỗi tháng lãnh lương do tay tôi phát, ông cũng ít năng đến lãnh hoặc nhờ người khác lãnh thế thành thử giữa ông và tôi cuộc tiếp xúc dường như không có.
Cái hoạ sau lưng ông cai và càng cấp bách nguy hiểm hơn là ông có một phụ tá cộng sự viên là bang biện phó tổng H.T.S. rấp ranh giành chỗ ông mà ông chẳng hay biết.
Nay nói về nguyên tắc, muốn cho về hưu một vị cai tổng thì ít nữa phải viện khá nhiều lý lẽ vững vàng, tỉ như tuổi già, sức yếu, khả năng làm việc thiếu kém v.v... Trong hồ sơ tôi cầm trên tay, các lý lẽ ấy đã hội gần đủ: tuổi về hưu theo nguyên tắc là 55 mà ông đã tuổi 54; ông thường xin nghỉ việc để đi chơi khi Đà Lạt, khi Vũng Tàu, sau mấy giấy phép sao lục ngờ ngờ còn trong hồ sơ lại là những chứng cớ hùng hồn rằng ông thường bịnh hoạn, tuy mấy lần làm quan chánh đến tổng giản dân ông đều có mặt ứng hầu, nhưng những lần có tụ tập hay bạo động chỗ nào, thường thầy bang H.T.S. lãnh đi thế, ngờ đâu mấy việc vặt ấy nay trở thành cáo trạng tố cáo ông cai ít hoạt động, không bằng thấy phó xốc vác hơn. Ông phố không lánh nặng, ông cai ưa tìm nhẹ. Còn một phần thừng điểm của ông cai già là ông có uy thế dân trong tổng kính vì.
Trong khi ấy, ông bang biện phó tổng tuy trẻ hơn một chút nhưng gia thế sự nghiệp cũng tương đương chẳng kém sút gì ông cai. Cái thua điểm của ông nhỏ nầy là uy tín không bằng ông lớn, kể về hành chánh và kỉnh nghiệm thì ông trẻ vẫn thua ông già.
Trong những buổi tôi tiếp xúc với anh em trong sở, tôi hỏi thăm kín thì phần đông cho là ông cai có tánh kiêu, hơi khó chịu, thua ông bang biện biết đãi bôi chiều chuộng dễ chịu hơn; dễ chịu với khó chịu đây tượng trưng, sau tôi rõ lại, là một ông ưa cho trái cây trong vườn làm quà (thầy bang S.) còn một ông tánh sẵn rít lại có nho phong, không muốn nhờ lễ mễ bấc cầu giao thiệp gây cảm tình. (ông cai H.); Cái sẩy nẩy cái ung là vậy.
Một chi tiết nhỏ làm tôi giựt mình là cả hai đều: một ông S. là cha vợ của giáo sư cử nhân khoa học, anh Cang vốn cùng tôi người đồng xứ, và cũng đồng song, còn ông H., vốn thân phụ của anh Lê Hồng Đô, một bạn đồng trường Đô học ban lang-sa (quartier européen), tôi học ban bản xử (quartier indigène) nhưng cả hai cùng học đờn vĩ cầm cùng một thầy là Sersot; về điểm cảm anh đồng song, tôi cho cả hai đều cùng một điểm không ai hơn kém.
Cân đi xét lại, tôi thấy thầy bang chạy chọt quyết làm cho ông cai về vườn để thầy lên thay thế làm cai tổng thực thụ. Ông cai vô tình, không biết mình suýt mất chức, việc giải nhiệm còn giữ kín, tuy ông không tìm giáp mặt tôi nhưng có lẽ sao chiếu mạng của ông còn tốt khiến nên gặp tôi sẵn tánh quân tử Tàu muốn học đòi tế khổn phò nguy hơn là trợ Trụ trợ Kiệt, để mà vi bạo, vi ngược.
Cho hay kẻ cố tình rình người vô ý, trong khi thầy cai thụ động, thì trái lại thầy bang tinh khôn hơn, nên cậy người thân tín là anh Tám Hoài dọn đường trước bằng cách đưa thầy đến nhà tôi, ban đầu nhắc lại việc thầy là nhạc gia của Cang để "nhìn bà con" xưng hô bác cháu; kế đó thầy đi ngay vô đề hứa xong việc sẽ dâng tôi ba trăm bạc mặt xài chơi, và sau rồi đánh một đòn tâm lý thật nặng là đinh ninh việc rồi tôi sẽ có một cặp choé sơn thuỷ không ai có. Đó rồi thầy tả sự tích cặp chóe làm cho tôi thêm mê mẩn tâm thần, nào là nét vẽ tinh vi đúng là cổ vật đời Kiền Long, nào là trước kia cặp chóe vốn của ông huyện Đước là một danh sĩ cựu trào đàng ta, sau ông Đước thiếu nợ nên gật nó qua tay ông bang Sển tức ông Thái Viêm Thành, nhột hào trường trong vùng. "Nếu thầy, ủa cháu, muốn chơi chóe thì chỉ có cặp nầy là tối nhứt hạng trong xứ không ai hơn. Để thủng thỉnh bác rảnh, bác sẽ nói với ông Sển nhường cặp chóe lại cho bác thì thế nào nó cũng về tay cháu. Cháu chưa biết ông bang Sển, để rồi bữa nào bác sẽ rước cháu lên nhà ông ấy chơi một chuyến để làm quen. Ông Sển có cái duyên lạ lùng về đồ cổ là ông thừa hường, vì gật nợ, bao nhiêu của sưu tập của ông huyện Đước, mà mỗi món đều có chạm nơi đáy hai chữ tử âm "H.Đ" "(Huyện Đước)".
Ông S., và anh Tám Hoài ra về, tôi không hứa điều gì với ông duy với anh Tám tôi đã nói hai tiếng thòng đầy ý nghĩa là để coi Đại phàm lòng dục vọng của mỗi người có giới hạn. Nếu bao nhiêu chưa đủ xiêu, thêm cứ thêm nữa thì có ngày cũng đến.
Với người thường, một tô mì đã đủ no, nhưng gặp đứa khỏe, năm ba tô cũng chưa vừa, cái dạ dày, cái bao tử của thằng nầy nó thun giãn không chừng; khéo tâm lý là người có mắt để đo lường cho đúng. Cái tham của ông bộ trưởng chê hút thuốc lá thì hãy biếu ông xì gà nguyên hộp. Đứa nào tham gái thì hãy lấy sắc giục lòng.
Với kẻ không hám tiền, một cặp chóe đã gieo vào đầu óc tôi một món thuốc độc còn lợi hại dữ tợn bằng mười thuốc phiện. Ai có qua cầu mới hay, và người chưa hút xin hãy khoan cười người ghiền gập. Đối với tôi, tiền bạc tôi không ham nhưng chỗ yếu của tôi là ham đồ cổ. Một con đĩ không khác, thập thò muốn đi khách mà chỉ đợi giá cao.
Bù qua chế lại, vụ nầy nếu tôi làm xong tức cho về hưu một ông cai mà hồ sơ đã chín mùi, và cất nhắc ông Sum nầy, thì tôi vừa có tiền ba trăm bạc trả nợ, thêm có hai món vật ao ước bấy lâu, vì tiếng đồn về ông huyện Đước vang dội trong trí óc tôi từ thuở nhỏ. Nói chi đáng lương tâm tôi lúc đó đã đi vắng, nói đúng hơn tôi chưa thấy gì là cắn rứt, dĩ nhiên làm theo hồ sơ có sẵn mà tội vạ gì. Tôi vừa là phạm nhơn vừa là quan toà, tôi xử lấy tôi, thảo nào tôi không cho tôi trọng án.
Khi ông chánh Bartoli rời tỉnh Sa Đéc thì giấy ở Sài Gòn gởi ông chánh mới là ông Louis Pech đến thay. Ông Pech trước có làm chủ tỉnh ở Sốc Trăng, ông có một trai út đến học riêng với ông đốc Gros. Phòng cậu học ăn thông với lớp nhì của ông giáo Chức mà tôi đang từng học, và hai đứa tôi từng quen biết nhau vì cậu thường qua mượn tôi cục tẩy mực. Một hôm thay vì trả, cậu rán mất bỏ vào mồm nhài luôn cục tẩy, và cho đến nay tôi còn nhớ mãi anh Tây con ăn gôm tẩy mực. Bữa bàn giao công việc giữa hai ông đầu tỉnh cũ và mới, thừa dịp tôi hỏi thăm tin tức cậu ấm bây giờ ra sao. Ông Pech có thiện cảm nhiều với tôi từ đó, ông tuổi chưa đến lục tuần, người có phong độ quân tử, tôi chưa gặp người chủ nào ăn nói hiền lành nhã nhặn như ông nầy. Ông có cách làm việc cũng mới. Thường lệ công văn mỗi thầy phải đem lên tận văn phòng quan chủ tỉnh đãi lịnh và hầu chữ ký; đàng nầy ông bổn thân sớm và chiều hai buổi đi đến bàn làm việc từng người, ôn tồn hỏi han rối ký lên tại chỗ, việc nào cấp bách mấy thầy được lên trình bày và ông giải quyết tức thì, nhờ vậy người dân không chờ đợi và cả thảy đều bằng lòng. Từ ngày ông đến trấn nhậm, cứ đúng mười lăm giờ là có ông đến phòng bút toán, tôi nhường chỗ tôi cho ông ngồi, ông đàm đạo với tôi ngót nửa giờ rồi mới lên văn phòng ở lên lầu toà bố. Cử chỉ thân mật ấy làm cho các bạn tôi đều lé mắt nể tôi, vì thuở nay muốn được thân thiện thì phải đút sáp, chỉ có ca tôi như nầy, chính tôi cũng lấy làm lạ, sau tôi hỏi, ông cười đáp: "Thầy đồng chạn với con tôi nên tôi nhớ con mà thương thầy?". Một bữa nọ, ông gọi tôi lên văn phòng nói chuyện tâm tình và ướm lời mời tôi vô ở chung trong dinh. Ông lấy cớ dinh quá rộng, ông sống độc thân, có bịnh đau tim, vì vậy mỗi lần từ dinh ra toà bố ông phải ghé văn phòng tôi để nghỉ mệt, gia đình ông đều ở lại bên Pháp, phu nhân đã từ trần, tiểu thơ còn đang học và cậu ấm mà tôi quen thì đang tuổi thi hành quân dịch. Gặp người khác, tôi dám chắc, nếu được mời như vậy ắt đã lập tức nhận lời ngay, để mặc tình tác oai tác phúc, vì có mấy thuở tôm dựa cửa rồng, thơ ký quèn mũi tẹt ở chung một dinh với quan tham biện chủ tỉnh. Nhưng tôi điềm nhiên xin để vài ngày suy nghĩ. Trong thâm tâm mặc dầu u tôi là thằng hư, nhưng lúc ấy tôi sáng suốt và lý luận thầm, cái chỗ ấy bất quá là vai tuồng đày tớ ruột gẫm không sang trọng gì. Thêm là ai sao được tự do vì lúc đó tôi mê lâm bài thín cầu và đêm nào không chà bài đêm ấy tôi ngủ không ngon giấc. Vài ngày sau tôi lên thú thật, một lẽ quan trọng tôi xin nói và ông Pech cũng nhìn nhận tôi có lý là tôi còn trẻ quá, vợ tôi còn nhỏ hơn tôi nữa, nay hai đứa ở chung với ông, đỡ tốn đã đành rồi, nhưng sợ thiên hạ đàm tiếu dị nghị.
Chớ chi tôi độc thân thì khỏi nói. Việc ông sống cô thân, sau đó tôi giải quyết bằng cách chọn hai người bồi trung tín vào phụng sự sớm tối và rất may hai người nầy không phụ lòng tôi tiến dẫn.
Từ ngày tôi biết ông chủ tỉnh có lòng ái đới, tôi dạn dĩ thêm và đã trực ngôn nhiều lần và tôi nói gì ông nghe nấy. Một việc như sau, tôi chắc không ai dám làm và nay nhắc lại tôi còn ghê rợn cho cái liều lĩnh của tuổi trẻ: Tôi chờ ông chủ quận châu thành Sa Đéc gởi công văn nhắc lại vụ cho về hưu cai tổng Cái Tàu thượng vì kém khả năng và già yếu khi ấy tôi lấy hồ sơ ông cai H., ra dọn lại tử tế sấp xếp giấy tờ có thứ tự phân minh, xong rồi tôi để hết tâm tư thảo nảo thơ đề nghị cho ông về hưu y như lời quan chủ quận yêu cầu với lý lẽ ôn hoà nhưng bố trí đanh thép. Tôi đọc đi đọc lại nảo thơ nhiều lần, chép lại sạch sẽ rồi ôm hết lên trình quan chánh chủ tỉnh. Ông Pech đọc chăm chỉ, phê y không sửa đổi chữ nào. Tôi mừng và hãnh diện về lối hành văn đắc thể của mình, lật đật đem xuống qua phòng khác bổn thân đánh máy chớ không giáo cho đả tự viên vì đây là công văn mật phải giữ nhẹm.
Chiều nội ngày ấy tôi dâng lên lần chót cho ông chánh ký tên, xong rồi tôi ôm xuống lầu thì đã bốn giờ chiều, chỉ còn vô sổ đánh số thứ tự và cho tuỳ phái đem qua sở bưu điện gởi lên cho quan thống đốc chấp thuận, ra chỉ thị ban hành quyết định giải nhiệm theo thủ tục hành chánh là dứt khoát vụ nầy. Nếu xong tôi sẽ co ba trăm bạc trả nợ và có một cặp chóe, sướng quá.
Nhưng thay vì gởi đi, tôi lại đổi ý, cất hết hồ sơ luôn bức thơ có mang chữ ký của ông Pech ký rồi vào tủ sắt, nói dối với thầy Giỏi nơi văn phòng là công văn "ông chánh chưa ký tên" rồi bỏ đó về nhà.
Đêm ấy tôi không nhẩm mắt. Cờ đã về tay không chịu phất lại đâm ra suy nghĩ nát óc, trong lòng muốn đổi cuộc thế lại khác, bản tánh tôi thuở nay là vậy. Tôi trằn trọc trằn xa, lăn lộn không yên mà cũng không dám cho vợ biết. Trí óc rối loạn: một đàng lương tri bừng dậy, bây giờ việc đã gần xong, mới thấy việc mình làm là lếu; một đàng thì lòng dục vọng xui quấy, ba trăm bạc và cặp chóe tuy chưa thấy nó ra sao, nhưng cứ nhảy lung tung trong mắt như tôm tươi đựng trong rổ, lẩn quẩn tôi cứ nhớ: có tiền trả dứt nợ thêm có vật lạ để chơi cũng thích, nhưng làm sao quên cha mẹ mình thuở nay chưa làm điều gì quấy, nay sanh ra mình, có nên vì chút hối lộ đành chôn vùi danh giá dòng họ hay chăng? Dẫu người ngoài không biết, nhưng còn lương tâm nữa chi? Cái lẩm cẩm tánh quân tử Tàu tôi chưa dứt khoát.
Khổ tâm nhứt là việc đã rồi, giấy tờ đã ký xong, mới làm sao đây? Phải làm cách nào, phải trình bày lập luận làm sao cho thuận tai ông chánh, xin huỷ bức công văn đã ký, đổi lại bức phúc trình khác đề nghị phản ngược lại vừa khác ý kiến quan chủ quận vừa trái mật thư quan chánh cũ Bartoli, nay đổi lại xin cho ông cai tổng H., được tiếp tục làm việc y như cũ. Bạc và chóe, tiền và đồ xưa, chúng mi là giống gì hại ta thế nầy?
Qua bữa đó, vô sở tôi định cầm hồ sơ lên ông chánh nhưng ông không ra khách trọn buổi sáng. Trưa về tôi nuốt cơm không vô.
Lúc đó tôi còn đủ thì giờ gởi bức thơ kia đi, mặc cho sự việc trôi theo định mạng, nhưng tôi cũng không làm như vậy. Chiều mười sáu giờ, ông Pech có mặt, tôi đánh liều xách hồ sơ lên và bình tĩnh trình bày tự sự với ông như vầy:
- Thưa ông, đây là hồ sơ ông cai tổng H, mà ông đã xem xét rồi. Sở dĩ tôi trình lại là vì trọn đêm tôi không ngủ, nghĩ lại tôi còn quá ngây thơ e không đủ tư cách để quyết đoán về khả năng ông cai H., trong khi tôi chưa tường tận về sức khỏe và cách làm việc của ông nầy. Thú thật tôi chưa biết mặt ông H, mà chỉ vội xin cho ông về hưu chiếu theo giấy tờ trong hồ sơ. Nay tôi đến yêu cầu ông nhơn một dịp mai đi giãn dân sẽ đến tận Cái Tàu thường lấy theo kinh nghiệm của ông sẵn có mà coi mặt ông cai tổng và tự ông quyết đoán lấy việc nầy.
Tôi định chắc ông Pech sau khi nghe tôi nói như vậy, sẽ nổi lên một trận lôi đình và bắt tội tôi vi lịnh của người, ngờ đâu ông để tôi nói dứt lời rồi ông đứng dậy bắt tay tôi, vỗ vai tôi mà rằng:
- Tôi khen thầy đó. Xin thầy giữ y tánh nết tốt ấy mà ăn ở đời. Thầy là một công chức trẻ tuổi mà đã có một quyết đoán nhứt là một can đảm khác thường. Tôi đây là một công chức già đã từng bị người ta vì phe đảng cho tôi về hưu một cách oan ức. Tôi đã bỏ ra hai năm tranh tụng và nay thắng kiện mới được trở vô làm sau mấy năm bị treo giò vô cớ. Nhờ thầy gan dạ giúp tôi ngày nay khỏi lầm lạc và có dịp giải oan cho một công chức có lẽ ở trong tình trạng bị hàm oan, bị hiểu lầm như tôi thuở nọ. Thầy hãy để hồ sơ đó lại cho tôi.
Cố nhiên ông H, khỏi bị cách chức, nhưng tôi mất cặp chóe và ba trăm bạc. Nhưng đổi lại trong lòng tôi thấy sảng khoái, dường nhưcởi nhẹ một sức nặng ngàn cân đè trên tim. Về sau ông S., vẫn được lên làm cai tổng, ông H., rồi cũng đúng lệ về hưu thâm niên vô sự và cả hai không người nào biết việc tôi đã làm. Việc nầy tôi chỉ tâm tình nói lại với một bạn quá cố là anh Lâm Văn Khôn quê ở Bình Thuỷ (Cần Thơ). Khôn dạy tôi như vầy:
- Mầy lớn gan lắm, dám nói đi rồi nói lại với ông chủ tỉnh. Rủi ông bắt tội mới làm sao gỡ? Mầy chưa biết để tao nói lại cho nghe. Tại toà bố Sa Đéc như hiện nay thì:
- Sở thuế thân là ngon nhứt và no đủ nhứt. Cứ tính mỗi bài chỉ (lá thuế) thầy Quì xin năm cắc thôi, trong tỉnh mỗi năm tỷ dụ có hai chục ngàn dân đinh đến tuổi chịu thuế, trong số kể sơ mười ngàn đứa biết điều thì Quì sơ sơ cũng có năm chục ngàn đồng là tệ nhứt, còn sướng hơn làm chủ quận;
- Sở sanh ý, mỗi tiệm đầu năm đi xét ba tăng, không kể phần ông phó tham biện làm chủ tỉnh ông ta ăn bao nhiêu, bẫm hay nhẹ, không cần biết tao đây tao làm thơ ký Uỷ ban, tao kiếm cũng có từ mười lăm đến hai chục ghim;
- Sở xuất khẩu, thuế thân chức, với bảy bang các chú và chà-và anh Quới rồi anh Lễ. Anh Quới ốm vì ít ăn, anh Lễ mập vì táp dữ, cũng đều có mỗi năm một số huê lợi sướng hơn chủ điền, vì mấy chú Ba Tàu có tiếng là ngọt nhứt;
- Sở đo lường, mỗi chiếc xe hơi thôi không kể, chỉ kể mấy ngàn chiếc ghe trong tỉnh, mỗi chiếc muốn nhập bộ đều có lệ sẵn, chú Năng rồi chú Nam mập thầy, nhưng họ xách thước đi đo rồi tính thuế mà không được bao nhiêu khó bì tụi tao làm bài chỉ thuế thân và làm sanh ý ba tăng;
- Sở giữ bộ trâu bò, cũng thế. Thầy ký Có coi về bộ nầy có tiếng là ke ré cắc rắc nên thiên hạ gán cho thầy danh từ "thầy ký bộ trâu", thì đủ hiểu; tiếng tuy nghe xấu nhưng được nhiều tiền; quanh năm có mấy trăm ngàn, đổ đồng mỗi con một đồng bạc.
- Sở công nho làng thì ai cũng biết làng muốn khỏi bị làm khó dễ vì làng có cách ăn của làng thì cũng phải chia lại với ông phán Kinh, tuy ông là người có đạo đức, mỗi sáng mỗi đọc kinh mỗi chiều mỗi đạp xe đi nhà thờ;
- Sở hành chánh về ông huyện Học, là oai nhứt vì tay mặt của ông chánh tức gầnmặt trời tuy nấng táp có khi có chừng nhưng tâu ra lâu vô cũng do ông huyện. Xin giấy sắm súng xin vô bộ dân Tây thì chai vì đều người biết chuyện, nhưng mấy ông hương chức muốn được vinh thăng huyện hàm, phú hàm, hoặc muốn tiến cử làm hội đồng tỉnh hay cử làm sung biện, ban biện, phó tổng đều phải đội mâm có sấp nhiều bộ lư hoặc cỡi voi đến nói chuyện, lư và voi là giấy bạc một trăm buổi ấy, không dám dùng tiếng lì xì sợ nhẹ thể quan, và dùng danh từ "dâng bánh sáp", nghe như lễ cúng thần;
- Sở điền thổ gọi là sở địa bộ, ông huyện Đảnh có tiếng là thanh liêm, nhưng cũng không tránh được nhà giàu họ tự dâng quà cáp khi gạo thơm đầu mùa, khi khác cam bưởi, xa-cu-chê hoặc cho mượn xe hơi hay khi ông lên chức đi lễ thăng quan thật hậu; ông không đòi nhưng tại dân muốn, từ chối là thất sách vì e nỗi mếch lòng, mất tiền thì có, mấy lấy dư tụi nó la làng. Lâu lâu có một dịp thì hưởng, mấy lại làm cao không chịu táp, mấy thằng làm mặt thanh liêm là mấy thằng dại. Mấy tưởng mấy ở sạch, sẽ có người khen, mấy không biết ông Bartoli táp có danh, ông đã úp bộ cho rằng từ chủ quận đến lon-ton toà bố đều ăn hối lộ. Chính ông chánh Bernard trước kia có vợ Việt còn ăn công khai hơn nữa, ông có sắm một chiếc tam bản cho linh chèo để dành rước từ bên sông mé chợ những ai muốn sang sông qua "nói chuyện" với ngài thì khỏi tốn tiền đò, và ngài nhận lễ tại trong dinh cho thêm phần kín đáo, ngài mập cho đến mặt bàn phải khoét lỗ chứa cái bụng nước lèo ngài mới với ký tên tới mặt giấy tờ, khi đi tiêu phải dùng khăn bàn lông kéo như kéo đờn cò chớ tay ngài với không tới trôn, và khi lên thang lầu phải có hai tên tuỳ phái đỡ cái bụng phệ nâng lên thì ngài mới bước lên nấc thang được, y như trên sân khấu lúc Đổng Trác bước lên xe loan hay lên ngai rồng. Riêng ông chánh Le Strat vẫn ngạo mạn, gọi mấy thầy toà bố là lòng tong cá chốt và gọi mấy ông chủ quận là cá xà cá mập toàn loại hoặc ăn dơ hoặc ăn hám. Một mình mầy muốn sạch quả là ngu hết chỗ nói. Muốn sạch muốn tu thì lên núi Tà Lơn hay núi Cô Tô. Ở chợ phải theo chợ và ở đâu cũng vậy luôn luôn phải biết tuỳ thời. Mầy muốn sạch trong đám dơ thì hoặc mấy sẽ bị chúng ám hại cho á khẩu, hoặc thét rồi mầy phải dơ theo chúng thì mới được yên thân.
Khôn dứt lời cười xoà rồi bỏ qua. Nghe vậy tôi nhớ lại mới đó có một hôm, tôi làm thơ ký thị sự đấu giá cung cấp xăng nhớt cho địa hạt, có ông bang Lý Ứng thay vì đóng vào ngân khố tiên ký quỹ hai chục đồng, bởi gấp quá nên ông ghìm một tờ giấy bạc trong bao thơ như vậy là thạp lệ, khi mãn cuộc đấu, ông Lý Ứng không thầu được nên xuống phòng bút toán đòi tờ giấy bạc lại; tôi trả lời rằng tôi không thấy, ông và tôi nói chuyện dang ca rồi đưa lên ông chánh đối nại, tôi ỷ y không nhận số tiền nầy, nhưng ông Bartoli đưa chúng tôi trở lại phòng đấu giá, chỉ giỏ rác, tôi cúi xuống lượm phong bì Lý ứng thì quả trong bao thơ đã xé còn tờ giấy 20$ ràng vàng. Ông Bartoli cười bước trở về phòng, vừa nói: "Je croyais que c'était pour vous?" (Tưởng đây là tiền dành cho thầy!) Cha mẹ ôi! Té ra ông lại hiểu tiền ấy không phải là tiền ký quỹ mà vốn là tiền lo lót cho thầy thơ ký Uỷ ban và vì ông có cảm tình với tôi nên cố làm như không thấy để tôi có thì giờ thâu lượm lại, nếu ông ghét tôi thì đã dựng chứng và làm khó dễ tôi lúc khui mở bao thơ kia rồi.
Bức công văn xin sa thải, ông Pech ký ngày 23 tháng mười một, đến cuối năm ông còn mở tiệc tiếp tân đãi sâm banh nhơn viên toà bố và chủ quận. Nhưng sau tết tây ông ngả bịnh rồi đột ngột từ trần trên dưỡng đường Grall ngày 11-2- 1930, vì bịnh đau tim bộc phát.
Từ đó tôi dửng dưng. Tôi vẫn hư, nhưng chỉ muốn hư một mình và không muốn kéo ông bà cha mẹ hư theo. Nămi 1931 tôi được ăn một phần gia tài của bà Phủ An để lại. Tôi trở nên khá đến dư giả thì còn ăn lúc nhúc làm chi? Tôi muốn án cho đáng ăn ngặt nỗi không ai cho. Sau nầy muộn rồi nên từ chối luôn chớ cái hư vẫn còn chất chứa trong bụng.
Những trang trên tôi viết về vài cách thức nhận hối lộ của cuộc đời công chức trào Pháp thuộc. Tại tôi sống dai chưa chết, nay nghe tiếng bấc tiếng chì cũng đáng, nhưng cũng phải để cho minh oan, không phải cả thảy đều hỏng hết. Ngày nay tôi đã về hưu, không khác một thằng chết đuối được cứu sống, cho mặc quần áo ám ngồi dựa mé sông xem ke khác còn chới với trong cuộc ba. Đọc lại bài "Lão kỵ qui y" của ông Tôn Thọ Trường, tôi lấy làm cảm xúc với hai câu kết thúc: "Ngoảnh lại lầu xanh thương những kẻ, Trầm luân chưa thoát nợ hồng nhan", bất giác tôi xót thương cho thân phận các cán bộ quốc gia bây giờ, quả là cười đau khóc hận. Ngày xưa công chức đú đởn mập thây, bơ sữa tràn trề, lương tuy ít nhưng nhờ đồng bạc lớn, sống còn hơn điền chủ bậc trung. Ngày nay tội nghiệp cho ai, lương mấy chục ngàn nghe lớn mà bao gạo đã hơn hai chục. Xáp ve như rệp đói mà khi cần, nắm đầu bắt gác phòng bầu cử, cơm nước tự túc lấy, đông quá ai nuôi cho hết; đến khi tức giận, nắm đầu ra chửi. Cũng may chửi đổng vì còn phòng sau nầy xin mầy một lá thăm. Ai ăn bám ở đâu no béo thì nhờn công chức thấp bé giả như không biết và chỉ biết nghe chung. Cũng may khi chửi, nói động đến con Lạc cháu Hồng, thì đứa chửi với đứa nghe cũng cùng một dòng giống. Tôi nay xót xa muốn hiểu được nỗi lòng của suốt hơn hai trăm ngàn công chức nhỏ, sống tăm tối tạm bợ khổ cực khắp nơi trong xứ, từ anh phu quét đường, ăn sáng một gói xôi NĂM CHỤC ĐỒNG BẠC không đủ nhét kẽ răng, trưa uống nước lã chiều về thồn ba hột cơm nguội, đến anh khá hơn một chút, làm việc nơi toà hành chánh hoặc đó là đả tự viên, hoặc đó là thơ ký biên chép, dầu là tổng trưởng bộ trưởng phương diện quốc gia, dầu là phu quét sân rút nước hầm cầu, cũng đều là công bộc của xã hội, nhưng tôi có cảm tình nhiều với kẻ thấp vì cốt tử tôi là một tên phán già với cuốn sổ hồi hưu tỷ lệ, những chức tôi kiêm nhiệm như giáo sư đại học, quản thủ Viện bảo tàng, tôi đã trả hoặc cho ngủ êm trong hồ sơ không nhắc tới nữa. Các anh nếu có bị chửi, có tôi nghe với, không chết chóc ai đâu mà sợ, chỉ thương hại giùm chúng càng lớn họng càng tổn đức. Tôi đã thấy gần hết rồi. Đứa giựt một ố bánh mì chó chê thì bị gởi vào trại cải huynh, ông bất tham nhũng mà quà tết đầy nhà, dưa hấu để thúi, bưởi ngon chất đến tháng hai vẫn còn, gà vịt đầy sân toàn là lễ mễ của môn sanh dâng thầy lấy thảo. Theo tôi, mồi thuốc rồi giữ luôn quẹt máy đắt tiền, mượn sách rồi quên trả, đều là cách thức hối lộ mà không cho nói trúng tên.
Đời nay không thiếu chi người cán bộ trong sạch vì bẩm sinh ghét ăn dơ cũng có, hoặc vì tánh nhút nhát "sợ ông cò" cũng có, hoặc vì tánh "rét-lô" cũng có, nhưng thảy đều kể chung một giỏ cá mè, vì dễ gì phân liệt nhơ và sạch.
Người nào hết tham lam được ngồi chung với Phật một bàn. Nhưng Phật gỗ trên bàn vẫn không tránh được bọn gian tham lại gần cúng vái. Chúng tưởng dâng hoa huệ trắng. hoa lai dơn đắt tiền rồi che đậy được lương tâm. Đời nay tà nguỵ dẫy đầy, phật Chúa đâu thèm ngó. Tu hành mà ăn yến ăn sâm phải đợi bàn tay xinh xinh của mấy bà goá phụ trốc đút tới miệng, tu mà thích tôm chua. Có ông trước đây tột phẩm trong hàng lại còn đòi phẩm cao hơn, mặc áo tía chưa chịu muốn đòi mặc hồng y. Mồm ngậm xì gà, ông ngồi xe tột từ xứ Vãng lên đây thăm em ở trong phủ nội, ông quở vang sao có trang trí vuông phòng dành cho ông tốn trên mười triệu bạc, chúng bay hãy đem ghế bố lại đây cho ta ngơi". Đều là giả dối cả. Cũng cá mè được thể lại dám chê cá chốt ăn dơ. Hãy đi học lại thuyết nhân vị. Khi muốn xây dựng quốc gia, biết thương tiếc của công, ông tướng võ có phận sự giừ gìn bờ cõi, ông quan văn có trách nhiệm đem cưm no áo ấm cho dân, nhưng chớ quên bớt xa xỉ xuất dương, bớt tiếp tân lãng phí, một tên cu li biết khoá nước chảy dư là tắt đèn phải lúc cũng đủ được cám ơn. Nhưng người làm lớn rồi ca tụng gièm pha mà cả vú lập miệng em, quên mình trước khi hoá bướm vẫn là con sâu bò lúc ngúc. Nhưng phần tử tốt còn lại: mặc dầu bị lời nặng nhẹ, xin chớ ngã lòng; hãy nuốt tủi quên buồn, trách nhiệm với thê nhi còn đó. Thương hại thay cho kẻ nào nay ăn trên ngồi trốc, quáng mắt ăn tham để gây tiếng xấu mang chung trong giới quan trường.
Lại đành khinh miệt đám nhỏ đàn cai, giẻ rách đỡ nóng tay, lại quên rằng trong một xã hội không khác trong một cái máy đồng hồ, thiếu một con chốt nhỏ hay là khi bánh xe con không ăn khớp với bánh xe lớn, cả bộ máy tinh vi đều tê liệt, đừng tưởng mình là kim đàng trên mặt đồng hồ chạy được mình ên.
Sức chịu đựng là một đức tánh tốt của người công chức thấp hèn, quân bị hiếp, nhưng xin đừng thối chí. Vui với gia đình, một ngày kia trời lại sáng.
Tôi bình sanh ghét đạo đức giả mà đành hôm nay nói chuyện triết lý suông. Nhưng mấy ai nghe lời một công chức già đã vào tuổi phế thải.
(Viết tặng người bạn tri kỷ Lòng An để nhớ hai ông Lê Hồng Huân và Huỳnh Tấn Sum). Nguồn: trích “Hơn Nữa Đời Hư – Vương Hồng Sển”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:55:39 GMT 9
Parc Maurice Long là Vườn Ông Thượng Thì Chưa Đúng Vương Hồng Sển
Vườn ông Thượng, cũng gọi công viên Tao Đàn. Tôi không hay giỏi hơn ai, chỉ được cái già (tuổi 92) và là mọt sách. Tôi lại ham nói, nay xin nói về công viên, tên Pháp gọi "Parc Maurice Long" và có một tên Tây nữa là "Jardin de la ville".
Theo tôi hiểu "parc" là vườn, công viên, hoa viên, gọi như vậy đều được. Có người đã nói và có lẽ nói ẩu là vườn Tao Đàn, có người gọi là vườn ông Thượng, và Thượng đây là toàn quyền Pháp tên Maurice Long.
Tôi nghe thì tức tức, nhưng cãi cọ, cãi giống làm chi, vì cũng là người kiếm cơm bằng viết lách như nhau. Nay tôi nói như dưới đây, nghe hay không, cũng mặc. Theo tôi tra cứu trong sách đã có, thì Maurice Long làm toàn quyền cõi Đông Dương đến hai kỳ, lần 1 từ 21-2-1920 đến 17-11-1920; và lần thứ 2, từ 1-4-1921 đến 14-4-1922. Nhưng Maurice Long khi từ Pháp trở lại kỳ nhì, khi Tàu đến Colombo, ông vướng bịnh và tắt thở ngày 15-1-1923, quan tài được chở về Pháp theo chiếc André Lebon. Cho hay làm đến chức toàn quyền mà cũng bị giặc trời như ai, quả trời xanh có mắt.
Còn danh từ "vườn ông Thượng", theo tôi, ông Thượng đây là vì kính trọng không dám gọi tên và chỉ gọi theo chức tước, Thượng đây là ông Tả-quân có lăng mộ thờ nơi Bà Chiểu, ngài có miếu thờ trấn chận trước dinh tòa bố của Tây mà không bị Tây phá, và ngày xưa, đất của ngài, chạy dài suốt từ Lăng-miếu đến khỏi dinh Toàn-quyền Tây cũ và ăn lấn luôn vườn Tao Đàn nên dân chúng gọi "vườn ông Thượng" là vậy. Năm 1920, học trò trường Chasseloup-Laubat bỏ trường làm "reo" (grève) lần thứ nhứt ở đây, có tôi trong số nghịch ngợm nầy, thì đã có danh từ "vườn ông Thượng" từ lâu, từ đời cổ hỷ nào cũng không chắc.
Nay tôi xin trích dẫn ra đây lai lịch Parc Maurice Long, nhưng không chỉ tôi cóp theo sách nào.
Đầu tiên, vườn nầy vẫn thuộc và dính liền với hoa viên dinh Toàn-quyền cũ. Vào năm 1869, Phó Thủy-sư đô-đốc Contre-Amiral Ohier, với trách nhiệm làm toàn quyền, ra lịnh cắt đứt phần sau của hoa viên và giao cho đô-thành làm vườn công cộng cho dân chúng dạo chơi, nhưng suốt ba chục năm trường, đô-thành nhận lãnh mà không làm gì theo ý Toàn-quyền là phải nối dài đường Taberd (nay là đường Nguyễn Du) chạy nối giáp tới đường Verdun (C.M.T.8 nay) và khai thông vườn với ba cổng (cửa) lớn Taberd, Verdun, Chasseloup (nay đã có rồi).
Đến năm 1899, hoa viên nầy bị bỏ rơi, đô-thành không thiết tha đến, và vì vậy, có việc vườn bị cắt đất bán chia tam xẻ tứ, và nảy ra có:
- Hội Hiếu nhạc "société philharmonique" chiếm một khoảnh (1896) nay là Quốc-gia âm-nhạc.
- Hội Tam Điểm (Loge Maçonnique) chiếm một phần (1897) và năm nầy có đường Miss Cavell (nay là đường Huyền Trân công chúa);
- Cùng một lúc, có một thực dân Pháp đề nghị xin mướn trọn hoa viên trong 15 năm để lập vườn trồng cây va-ni, và cho dân được dạo chơi trong vườn, chừng ấy đô-thành mới tỉnh ngộ và không chấp nhận lời bao thầu như vậy.
- Năm 1902, Câu-lạc-bộ Thể thao "Cercle Sportif" thành lập chiếm một phần…
Đến ngày 26-2-1923, hội đồng đô thành mới thật thức dậy và để tưởng niệm Toàn-quyền làm khá nhiều việc ích cho xã hội, đã đặt tên là Parc Maurice Long.
Nhưng vườn vẫn còn bị chia cắt vì thống đốc Krautheimer, năm 1926 và 1927 lập nơi góc đường Chasseloup và Verdun Viện Dục-nhi "Institut de Puériculture", năm 1932 trở nên trụ sở bộ Y tế và hội A.M.A.S.
Đến đây, tôi nghẹt lối, không biết gì thêm nữa, duy nay còn dư chút giấy, tôi xin thêm về Maurice Long, Tây với Tây phá nhau, nên đã có báo đối thủ, nhạo chơi và đặt tên lại là Maurice Scieur de Long và "scieur de long" là thợ xả súc gỗ thành gỗ ván, nhưng toàn quyền vẫn cười và không giận.
Một đàng khác, năm 1947, từ Sốc Trăng tôi chạy lên đây, và khi chạy lên xóm Cù Lao ở chung với bà Năm Sa Đéc, trên đường Võ Di Nguy, mé trái, từ Viện bảo tàng về xóm, nơi một quán nhỏ bé của một anh thợ hớt tóc quen nhau từ ở Sốc Trăng, khi tôi ngồi cho thợ cắt tóc, chợt tôi thấy treo trên vách, một bức ảnh vẽ dầu màu, là ảnh Maurice Long, miệng ngậm ống điều cối, râu ria xồm xoàm, tóc tai bù rối, tôi chăm chú nhìn thật kĩ, nói ra đây thì tục, và đó là ảnh một con đầm lõa thể nằm lõa lồ, tóc thả xuống, hai vế dựng ngược lên, và mồm của toàn quyền Pháp là cửa mình của mụ đầm. Tôi nài mua, anh thợ hẹn sẽ bán, sau tôi trở lại thì anh thợ nầy dọn đi mất!
Viết thêm 26-9-93:
Công viên Tao Đàn, tên Pháp Parc Maurice Long, tên xưa vẫn là Vườn ông Thượng, và một lần nữa, tôi xin lặp lại rằng ông Thượng đây, chính là ngài Tả-quân có lăng mộ và miếu thờ ở Bà Chiểu, mà xưa kia không một ai dám gọi ngài bằng tên tộc, chính chức phẩm cũng tránh và kính nể gọi ông Thượng là đủ, thậm chí vì ngài làm thái giám, thì dân chúng ở đây cũng kiêng cữ không dám nói chữ "giám" và dùng chữ "giếm" để thay thế.
Một tên Pháp khác là Jardin de la ville, thì rất phân minh rồi, duy còn một danh từ mượn của tiếng Tây là "vườn Bờ-Rô". Bờ-Rô là gì, đến nay còn phân vân bất nhứt, mạnh ai nấy nói và giải thích, không ai nhượng cho ai:
- Một thuyết, do anh giáo Trần Văn Xường, dạy ở Chợ Lớn, nay đã khuất, Xường, tiếng Tàu, tức là Tường, vẫn cho rằng, hoặc người Tây coi sóc vườn có tên là ông Bureau, hoặc giả, ông nầy làm thêm văn phòng (bureau) và khi người phu làm vườn muốn lãnh tiền thì lên "bureau" mà lãnh, nên gọi vườn như vậy. Nay anh Xường đã không còn, tôi xin miễn luận.
- Một thuyết thứ 2 là theo như tôi đã nghe người tuổi tác dẫn giải cho biết, thì "Bờ-Rô" có lẽ do chữ "préau" của Pháp. Vả lại, hiển nhiên "Préau" là sân có lợp nóc để tránh mưa gió của các tu viện, bịnh viện, ngục thất và học đường, mỗi lycée nào cũng có, trường Chasseloup có một préau, không biết nay ra thế nào, và préau nầy ở mé đường Lê Quý Đôn, sát cửa vào.
Vậy tôi cin chừa danh từ "Vườn Bờ-Rô" cho người cao kiến dạy lại. Riêng như tôi biết và chứng cớ rành mạch thì nơi mé sân túc cầu, phía đường Huyền Trân, lúc đầu tôi thấy có một bệ khá cao và rộng, đời Tây, họ làm nơi diễn tuồng, diễn thuyết, có khi dọn làm sân đánh võ "boxe" và gọi "préau". Qua năm có bày hội chợ, gọi kermesse, lối những niêm 1930-35 gì đó, thì họ đặt thêm nhiều chậu kiểng cau vàng và lấy préau nầy làm "théâtre de verdure" - "rạp hát ngoài trời hoặc lộ thiên" gì gì đó, và vợ chồng tôi vẫn có đến dự.
Nay nói bắc cầu luôn qua vài địa danh tiếng Tây, nay đã lạc lối, tỷ như:
- Service de pyrotechnie, đã dịch "Sở kho đạn", tưởng khỏi cần dài dòng…
- Có 3 địa danh đều do chữ "ma" khởi đầu: thành "Ô Ma" là thành lính tập "tirailleurs", Pháp gọi Camp des Mares. Khu đất rộng bao la hà lãng, nay lấy làm trường Đại học Sư phạm, vân vân, trước kia thuở đàng cựu, có miếu thờ cô-hồn và Ngũ Hành, và nơi mé Nguyễn Cư Trinh, tôi có gặp một trại thật lớn lợp ngói có rất nhiều cột gỗ bị mối ăn, gọi Hiển-Trung-từ do chúa Nguyễn Ánh lập thờ công-thần (có thờ lính Pháp tên Manuel – Mạnh Hòe) nữa và đời Tây thì để luôn làm miếu của Trại Lính Tập, vì Hiển-Trung-từ nầy vẫn liệt vào hàng cổ-tích (monumments historiques), nhưng đến kỳ Tây trở lại thì nhà binh Tây dỡ bỏ…
Chính lối năm 1948 hay 1949, tôi đi với ông Pierre Dupont vào đây tìm miếu HIển Trung, có gặp một ngôi mộ cổ kiên cố và đã lạc lối khó biết đường về.
Khu Thành Ô Ma gồm khu rộng chung quanh theo tên cũ là đường Arras, Frères Louis, Nancy và đường xe lửa Biên Hòa - Hà Nội, mé đường ngang rạp chớp bóng thẳng lên nhà thương bà Từ Dũ ngày nay và dọc theo đường sắt cũ, trước kia thường ngập lụt, và gọi "Đường Nước Nhĩ" tên ấy chọn thật đúng, vì nước ứ đọng thường. Trong sách Trương Vĩnh Ký để lại và tạp chí Excursions et Reconnaissances cũ, có nói trước khi biến ra thành Ô Ma, thì Tây có lập sở Nuôi Ngựa (Haras) sau dời về Tân Sơn Nhứt.
Một địa danh cũ nữa là Mares aux Poissons, truy ra ngày xưa khi Tây qua đây, ngày được nghỉ lễ hoặc ngày chủ nhựt, để giết thì giờ, họ ít đi săn bắn vì ít an ninh, nên thông thường họ thích đi câu cá, còn phụ nữ Pháp thì chiều chiều ngồi xe song mã, thắng hai ngựa, chạy vòng chung quanh Sài Gòn/Gia Định và gọi Tours de l’Inspection, dạo vòng quanh đường tuần tra. Quan viên, nhứt là kỹ sư quan võ thì câu nơi Thành Ba Son, tiếng Pháp là Mares aux Poissons, nhưng đã có người diễn khác và rằng có một thợ tên "Son" thứ 3, nên đặt gọi Ba Son. Tôi biết một giai thoại có một thợ sở Ba Son, có tánh lập dị, thích hút xì-gà (cigar, thuốc cuốn để nguyên lá), và ngày nào, chiều ra sở đón xe lửa về Gò Vấp ai ai cũng vẫn thấy cụ ta ngậm xì-gà, sau mới rõ một tuần cụ chỉ ngậm duy nhứt một điếu, cứ lên xe là quẹt đốt rồi để tắt, v.v… chừng ấy dân Gò Vấp mới đặt tên cho cụ là "Ông Xi-gà tuần"!
Một thuyết nữa là Trại chữa ghe tàu Ba Son, Pháp vẫn gọi "Bassin de radoub", bassin là ụ nước, radoub là sửa chữa ghe tàu, từ Bassin biến ra Ba Son, dễ ợt!
Vậy tôi xin chừa độc giả mặc tình chọn lựa. Ngày xưa, chúa Nguyễn lập và tàu đi biển vẫn gọi tàu ô, vì lập nơi Ba Son, nên nay khó làm cầu bắc ngang qua Thủ Thiêm, khiến Thủ Thiêm ngó ngang Sài Gòn mà không phát triển được.
Một địa danh nữa là Ô Cắp tức Pháp là "je vais au cap", và cap là cap Saint-Jacques, tức đi Vũng Tàu. Tôi không cần nói dài, độc giả dư biết.
Còn 6, 7 cơ sở nhà binh cũ của Tây, xưa thuộc cơ mật, ít cho nói, nay xin kể mà không dẫn giải:
- IIème R.I.C Onxième Infanterie Coloniale là thành Sơn Đá, khu Đại học Lâm Nông tên chánh thức là Caserne Martin des Pallières (lập lối 1870 đến 1873). Sau khi binh Tây rút lui về xứ, tôi đề nghị và kiến trúc sư Lê Văn Lắm cắt thành Sơn Đá làm thông thương và có đường Đinh Tiên Hoàng nối dài tới Chasseloup như hiện nay.
- Khu lính thủy (Marine) gọi Garnier;
- Trại San-đầm Gendarmerie Le Lièvre;
- Khu Pháo-thủ (Artillerie) (camp Virgile);
- Tòa án nhà binh (Tribunal Militaire, Justice Militaire);
- Direction du Génie;
- Direction d’Artillerie;
- Bureau de recrutement La Grandière, v.v…
Khi Tây qua đây, ở miền Nam, vẫn do quan võ cai trị nên dinh họ ở gọi dinh phó soái, vì chánh soái, tức là quan toàn quyền Đông Dương. Chính trạng sư (luật sư) Blancsubé (đường Lăng Xi Bề) (1834-1888) năm 1879 tranh đấu và thắng được, giành quyền cai trị trả về quan văn mới bỏ chức Phó Soái (La-Lăng-De: de La Grandière) và gọi dinh thống đốc v.v… Blancsubé ở Tòa binh vực cho nhóm Chà bán vải, trước đây còn rao hàng "Première qualité! mêm xôi (Même chose) Blancsubé!" và vải bán vo vo.
Nguồn: trích “Tạp Bút Năm Quí Dậu 1993 – Vương Hồng Sển”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:56:52 GMT 9
Từ Thú Chơi Sách Qua Nghệ Thuật Chơi Sách Vương Hồng Sển
Năm 1960, tôi viết tập Thú chơi sách và nhờ ông bạn Phạm Việt Tuyền chủ Cơ sở báo chí và xuất bản Tự Do ra vốn in, nay bán đã hết. Đó là bước đầu chập chủm, việc nghe thấy còn sơ sài, nông cạn. Năm nay, 1993, với tuổi già 92, tôi viết tiếp tập nầy, chỗ hiểu biết, thú thật, không giàu hơn trước, có người đã trách tôi có gì thì nói ra hết và viết không biết chừa..., tiện đây, tật cũ không bỏ và nay lại "tóc tơ cạn kẽ đôi điều", còn sống tới ngày nào và nay biết thêm được chút gì xin nói hết ra đây, và nâng cao "Thú chơi sách" thêm lên một bậc và đổi lại là "Nghệ thuật chơi sách".
Việc của mình, xin nói trước. Gẫm lại cái tuổi trên chín mươi, ít có người đi tới, tuổi ấy có cái hay của nó và ít ai chịu biết là con người vào tuổi ấy, độ thuần nết lại, kẻ dữ thấy bớt hung hăng vì nhuệ khí đâu còn, còn người hiền càng thêm dịu tánh, muốn gần đạo lý và muốn lánh xa niềm tục lụy, và tự thầm trách hố đào đã sẵn và tại sao chưa trao gánh nặng cho xong.
Nhắc lại, năm 1984, tôi còn đi bách bộ cả mấy cây số ngàn không biết mệt, từ 21-4 đến 2-8-1984, tôi viết được 206 trang giấy đánh máy 21x28, lấy nhan là "Tôi và cuốn sách".
Qua năm 1989, tôi được 88 tuổi, viết lại từ 2-2 đến 3-4-1989 viết được 208 trang nữa, nhưng vẫn cất giữ trong tủ, nay tôi thâu gọn lại làm tập nầy, đổi ngược, lựa nhan "Cuốn sách và tôi" cho thêm nhã và đề "Nghệ thuật chơi sách" cho thêm gọn, thêm thanh.
Cẩn tự.
° ° °
Năm 1977, chợ Trời bày bán sách cũ, dọn ở khu Trường Tiến (Sở Công chánh), ngang trường Trung học Cơ khí (trường Máy Rosel cũ), tôi ra đó bắt gặp và mua được một bản quây Ronéo, khổ 28x42 nhan là "Tố Như Thi" (Thanh-hiên thi-tập, Nam Trung tập ngâm, Bắc Thành tạp lục) giá bán 15 đồng. Đem về nhà, ghi số mục lục 1696-E (9-8-1977), lật vào trong, có con dấu đỏ "B.s. Trần Ngọc Ninh".
Lòng mừng khấp khởi, nếu ông Ninh không chạy, làm sao mua được sách nầy, sách nầy do Nhà xuất bản Hán văn học ở Hà Nội in năm 1965, ông N. không mua được nên quây Ronéo làm của, nhưng không giữ được, và nếu không có chợ Trời sa thải ra, làm gì mình có? Quả là có sắp đặt trước!
Nay tôi chép lại đây bài thơ in nơi trang 125, sách đã dẫn:
51. Mạn hứng
"Long vĩ cầu biên đa bạch âu, "Lam giang đường thượng hữu hàn nho. "Nhất sinh tử phú tri vô ích, "Mãn già cầm thư đồ tự ngu. "Bách tuế vi nhân bi thuận tức, "Mộ niên hành lạc tích tu du. "Ninh tri dị nhật tây lăng hạ, "Năng âm trùng dương nhất trích vô?
Bài thi nầy, Nguyễn Du viết khi còn lang thang vùng Hồng Lĩnh, năm tuổi vừa trên ba mươi, có lẽ viết năm 1796, dưới bài đã có bản dịch sẵn của Nguyễn Vũ Mỹ và Trần Thanh Mại, chép luôn lại đây:
Cảm hứng lan man
"Long-vĩ bờ bên một đám cò, "Sông Lam trên bến bác hàn nho. "Suốt đời thơ phú lòng vô bổ, "Đầy gió sách đàn chất mãi ngu. "Cuộc sống trăm năm coi mấy chốc, "Chuyên vui tuổi cả tiếc từng giờ. "Phía tây bãi cỏ khi nằm xuống, "Chén rượu trùng dương ai tưới cho?
Có chú thích sẵn: Long-vĩ-châu là bãi Long-vĩ, Lam-giang cũng gọi Long-giang (bãi nổi giữa sông Lam). "Mộ niên" đây là một cách nói, vì khi viết, tác giả chưa tới bốn mươi. Nay tôi là kẻ hậu sanh, Sển nầy học chưa tới đâu đâu mà dám viết về nghệ thuật chơi sách, trong khi tiền bạc thay giá, nhẹ hơn tờ giấy mót, lúc mua sách, còn xài tiền vụn, và đồng bạc rất cao giá, 15 đồng lúc đó, nay có bạc trăm bạc ngàn chưa mua được, và nay đồng giấy 200 đồng, cầm cho kẻ ăn xin, còn bị cằn nhằn: "Xin mười chỗ chưa đầy một bát cơm".
Tiếp theo đó, nhớ ngày 16-7-1977, tôi từ nhà ở Gia Định cũng thả rểu ở chợ Trời sách bỗng chỉ tốn có năm hào (0$50), tôi mua được một tập nhỏ Pháp văn nói về tiểu sử văn hào André Maurois (sách do Michel Droit soạn).
Về đọc, học được một sàng khôn... Nơi trang 102 có câu Pháp văn, tôi xin chép lại đây và cắp củm dịch lại cho các bạn nhỏ, có dịp học thêm:
"Conserver l’espérance, c’est également ne pas vieillir. La vieillesse, c’est plus encore que les cheveux blancs et les rides, ce sentiment qu’il est trop tard, que la partie est jouée, que la scène appartient désormais à une autre génération. La vraie maladie de la vieillesse, ce n’est pas l’affaiblissement du corps, c’est l’indifférence de l’âge".
Tôi dịch:
Conserver l’espérance, là còn nuôi hy vọng, ấy đó là mình vẫn chưa già. Cái già, không phải là vì mớ tóc bạc, là vì da đã trổ đồi-mồi, và đó là vì có quan niệm lầm lạc rằng đã muộn màng rồi, là canh bạc đã xên, là tấn tuồng đã vãn (mãn), là sân khấu đã về tay thế hệ khác... Không đâu không nên nói già là vì thân thể đã bạc nhược, chỉ biết già, và bịnh già là đúng ra mình không còn thiết tha với thế sự, cuộc đời đã buông xụi, khi nhựa sống đã cạn, là già, già hẳn...
Ấy đó tôi mê sách và chỉ tốn có năm hào (0$50), khỏi sang Pháp học tốn kém, khỏi ra Hà Nội, chỉ ru rú mà vẫn có sách quí, để viết và khuyến dụ, dụ người khác hãy mê sách như mình.
Trang sách ấy thuật rằng André Maurois, tên cúng cơm là Emile Hersog, sanh năm 1885 tại Elbeuf là nơi sản xuất loại nỉ trứ danh "drap d’Elbeuf". Vốn là học trò cưng của Emile Chartier, giáo sư dạy Triết trường Sorbonne, lừng lẫy với biệt hiệu nhắc đời là Alain (1868-1961). Hai thầy trò tương đắc và tương trợ lẫn nhau, nhờ Maurois mà Alain nổi danh thầy dạy giỏi, và nhờ học với Alain mà Maurois nổi danh cây bút thần sầu.
Khi mãn khóa Ở Sorbonne, Maurois hỏi ý kiến thầy, muốn tiếp tục học thêm ở trường Ecole Normale Supérieure nơi đường d’Ulm, là nơi đào tạo giáo sư cao học có tiếng là giỏi về văn chương. Nhưng Alain đã khuyên: "Nay trò đã cứng về văn, học thêm nữa ở Nọt-Manh-Súp, ích gì, bất quá sẽ trở nên một thầy đồ kênh kiệu. Thay vì vậy, trò vốn sanh trưởng ở Elbeuf, nơi đó ông thân của trò sẵn làm chủ hãng sản xuất nỉ tốt, thầy và thợ ở đó rất đông, tại sao trò không về đó học tập nghiên cứu về tâm lý của mấy người ấy. Khi thâm hiểu những người ấy rồi, thì lo gì trò không trở nên một nhà văn có biệt tài. Thầy đồ xoàng sao bì tài tử văn gia có bản lĩnh!"
Ấy đó bên Pháp, học hành như vậy và thầy dạy như vậy, có đâu như bên ni, học vay viết mướn, khi còn học trong trường thì học theo kiểu tôi gọi là "chó dắt đường, rủi nhiều hơn may", trên thì dạy nhồi sọ, không cho trẻ trồi đầu lên, còn dưới thì lớp vì cha mẹ nghèo không đủ sức nuôi, lớp thiếu thầy có kiến thức dẫn dắt, đường đi tự học trò mò lấy, có khiếu về toán, lại bắt học về văn, v. v... gần đây không xa, trào gọi đời Ngụy cũ, học nơi trường Thú y Hà Nội lên làm trưởng Nông Lâm Súc, một ông khác, học bên Pháp về môn cổ điển học hiệu, Pháp gọi Ecole des Chartes, về xứ nương bóng anh, vốn không biết chữ Nho, rước làm nơi thư viện đời Pháp thuộc, bỗng nhảy qua làm chánh trị, đẻ ra thuyết cần lao nhân vị, chết cha mồ tổ, bỏ nhà ra ấp, mất ruộng mất đồ cổ, ấy tôi mắc tội nói xấu người đã chết, duy xin biết tôi nay nói ra cái thiếu sót của tôi, và chí muốn của tôi, là xin các bạn trẻ, hãy mạnh dạn tự học, học chữ nước ngoài mới mong có ngày hữu ích cho xã hội.
Tôi kể lại đây một chuyện cũ. Sau ngày 30-4-1975, một học giả được cho sang Pháp, ông muốn hiến một bộ tự điển Pháp: "Dictionnaire de la Langue française" của Littré soạn, bản in lần đầu năm 1875 (Hachette Paris in), nhưng chánh phủ cũ làm phiền phức, ông bán phứt cho chệt ve chai với giá 30$00 ra chục đồng thời Thiệu, sau đó bộ sách lọt về tay tôi, nhưng tôi cứ chê lên chê xuống, rằng "sách quá cũ, thiếu những chữ mới", v.v... bỗng một luật sư (ông Lê Văn Trá) dạy tôi: "Tưởng anh sành sỏi, không dè quá dốt, bộ đó là sách đầu tiên, rất có giá trị, tại sao anh không gởi thơ mua xấp bổ túc gọi "partie supplémentaire" thì sách trở nên tân thời?". Tôi học khôn đã muộn.
Sách chữ Tây tôi mua hổ lốn lủ khủ cả mấy ngàn cuốn chung qui nên kể mấy cuốn sau đây, dám khuyên các bạn thông hiểu Pháp văn, nên tìm mua bổ túc sự học.
Sách của Alain là:
* Alphonse Allain. La Barbe et autres contes (m.l. 456, tủ 9) * Alain, sa vie, son oeuvre (PU 1962 (mục lục 218/44, giá mua 1 đồng, 7-7-1979) * Alain. Idées, Introduction à la Philosophie U.G.Editions (m.l. 218-A/163 đồng) * Alain. Les Idées et les Âges (Gallimard) (m.l. 218-A/17, ngày 31-X-1977, 2 đồng)
Sách của A.Maurois:
* Les silences du colonel Bramble * Climats (Grasset) * Terre promise (Flammarion) * Dialogues des vivants (Arthène Fayard) * Un art de vivre v.v...
Bạn cố giao đã khuất, Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê, đã dịch và viết trên trăm cuốn sách, cuốn tái bản sau rốt là "Sống đẹp" của Lâm Ngữ Đường, nhưng thiết nghĩ rừng Âu-Á làm sao lột dịch cho hết, tôi làm hỗn đâm rào, dịch lại đây một đoạn trích trong LIRE, n.105, Juin 1984 (để dò dịch được hay dịch sai, và các bạn nhỏ bổ túc thêm Pháp-ngữ:
"Cest animal étrange, le Français! Qu’est-ce qu’un Français, se demand-t-il. Réponse: Un être qui est avant tout, le contraire de ce que vous voyez."
Tôi dịch như vầy:
Anh chàng Français là cái thứ gì? Chàng ta tự hỏi và tự trả lời lấy: Tây u, Pháp nhân, Français là anh chàng vốn trái nghịch hẳn với anh chàng mà chính anh thường thấy.
"Observation capitale."
Và câu nầy quan hệ, đại sự lắm.
"La France est divisée en 43 millions de Français. Le Français est un homme qui place la France dans son coeur, mais sa fortune à l’étranger, qui passe son dimanche à se proclamer républicain et sa semaine à adorer la reine d’Angleterre et qui voit rouge au signal vert..."
Nước Pháp, Pháp quốc, vả chăng chia gồm làm 43 triệu dân. Duy tên dân Pháp là một người có thể nói: tâm trung gởi nốt vào tâm, nhưng sự nghiệp, của cải, vẫn thường gởi nơi nước ngoài, ngoại quốc, đúng là tên dân mà ngày chủ nhật một hai tuyên bố mình là người của dân chủ cộng hòa (républicain) mà thường nhật trong tuần lễ, mấy ngày khác, vẫn sủng ái bà Anh hoàng, đúng là một đứa vẫn thấy màu đỏ hồng, trong khi dấu hiệu đó là màu xanh lục. (Thú thật câu văn Pháp quá cao sâu khúc triết, tôi dịch không thoát và dám xin người cao niên dạy cho - VHS).
(theo báo Paris Match 19-26 juin 1954). (Câu văn Pháp nầy trích trong cuốn "Les camets du major Thomson, của Pierre Daninos, Hachette, mục lục 68, 1976).
Còn nhớ vài câu văn Pháp thâm trầm, theo tôi, cũng xin dịch nghĩa luôn:
"Toujours nous voulons chercher l’éternel ailleurs qu’ici; toujours nous tournons le regard de l’esprit vers autre chose que la présente situation et la présente apparence; ou bien nous attendons de mourir comme si tout instant n’était pas mourir et revivre. A chaque instant, une vie neuve nous est offerte. Aujourd’hui, maintenant, tout de suite, c’est notre seule prise".
Ta luôn tìm sự bất diệt vô thủy vô chung ở một nơi khác hơn là nơi hiện hữu; ta luôn đưa mắt nhìn về một nơi khác lạ hơn là nơi hiện tại và nơi tựa hồ như hiện thật, tưởng như chúng ta mong chờ cái chết sẽ đến mà quên lửng rằng hiện ta đang chết lần chết mòn tức chết lần hồi, mòn lần từng chút một, tức ta vẫn sanh-sanh hóa-hóa bất ngờ. Ngày nay đây, giờ nầy đây, tức khắc đây, ấy đó mới thật là cái sự gì mà ta nắm, bắt, chiếm được.
Alain, triết gia, thầy của André Maurois.
Về tình ái, ái tình:
"Un amour qui va très bien, c’est-à-dire cahin-caha, c’est difficile; mais un amour qui ne va pas, c’est l’enfer".
Một mối tình suôn sẻ, nghĩa là ạch đụi, đi cà-hê cà-ha, đã là ái tình chập chủm, nhưng khi trở chứng, cơm không lành canh không ngọt, thì tình ái ấy quả là địa ngục, dưới Diêm đài.
A.Maurois (Climats, tr.172).
Lời mẹ dạy con, trước khi về nhà chồng:
"Ne donne pas à ton mari l’impression que tu l’aime trop, ou tu es perdue".
"Đừng cho chồng mầy biết mầy thương nó chí tột mức thương, nếu nó mà biết được như vậy, thì đời con kể bỏ. Con sẽ mất hết, con ôi".
(Climats, tr.181)
"C’est comme le sel, nous ne savons même pas que nous en absorbons, mais supprimons-le de tous nos repasl et sans doute, nous mourrons."
Ái tình y như cục muối, muối vẫn xẵng lè, nhưng nếu không có muối, thì không xong. Ngày thường, thức ăn đều có nêm muối vào, ví thử đừng nêm, thì ta sẽ chết ngay.
(Climats, tr.228)
"La maladie est une forme de bonheur moral, parce qu’elle impose à nos désirs et à nos soucis des limites fermes."
Đau ốm, bệnh hoạn là một triệu chứng của sự hạnh phúc ta ấp ủ trong lòng; đau ốm là mức thắng tốp của sự ham muốn, lòng dục vọng.
(Climats, tr.230)
"L’amour supporte mieux l’absence ou la mort que le doute ou la trahison".
Nói vợ ái tình, thì thà chịu cảnh sanh ly, hoặc tử biệt, hơn là cảnh bán tín bán nghi và cảnh bị mọc sừng.
(Climats, tr.231)
(Dịch 20-9-1982, Climats là gì? Khó dịch cho thoát quá. Climat sát nghĩa là "khí hậu, phong thổ", nhưng Climats, đây là André Maurois viết một bộ tiểu thuyết về xã hội trong gia đình, v.v... tôi muốn dịch là "ấm lạnh phòng the", nhưng thấy chưa sát nghĩa và đi xa ý thâm của A.Maurois, thôi thì đành chịu và chờ người hay giải dạy thêm. (viết ngày 22-4-1993).
° ° °
Bị gián đoạn một thời gian vì rối rắm trong gia đình, nay 26-4 mới viết tiếp. Còn nhiều câu triết lý hấp dẫn lắm, nhưng nhớ lại làm sao cho hết?
Âu đành gián đoạn, khi nào nhớ sẽ viết và viết không cần có trật tự vì viết cho mình và cho con và cháu trong nhà. Chừa H. Miller lại vế sau...
Cuốn sách và tôi. Ban đầu, năm 1984, tôi chọn tựa là "Tôi và cuốn sách", năm ni 1993, thuần nết thêm, đặt khách đi trước cho được thêm nhã và viết như trên, "Cuốn sách và tôi".
Đời tôi có hai cái mê, mê ham cuốn sách từ tuổi ngây thơ, lớn lên đôi chút, mê cổ ngoạn, và nay rõ lại mê sách ít có tai hại như mê đồ cổ.
Nội chữ "mê" cũng đủ lắm chuyện. Có nhiều phụ nữ nhà văn sợ chữ "mê" và không dùng đến. Nhưng tôi từng viết "Năm chục năm mê hát", một cán bộ lên mặt thầy đời, khi Giải phóng vô đây, sau ngày 30-4-1975, y ta chê tôi viết "mê hát" là không được thanh, nhưng cùng một lúc ở Paris, có người thức giả vẫn khen "mê hát" là phải. Cho hay bá nhơn, bá tánh!
Tôi còn cất giữ quyển dạy chữ Pháp Méthode Boscq ba năm vào trường tỉnh Sóc Trăng học lớp khai tâm, năm 1908 gì gì đó Boscq là người Tây cù lao Cọt (Corse), vốn thọ giáo với Trương Vĩnh Ký nên biết và nói tiếng Nam rất rành.
Trong sách, Boscq lấy tỉ dụ vài câu, ngày nay tôi dịch không y ông dạy. Tỉ như Le père de Đá va à la pagode (Cha trò Đá đi chùa), tôi nay dịch: "Thầy ký Đức đi Dinh Cô" vì cha của Đá tên Đức, còn Dinh Cô là một chùa am ở Bà Rịa thuở đó. Còn như câu: Mr. Kính assiste à un match de boxe, tôi đã dịch ngay: "Bố vợ đi coi đánh nu-na" vì người dượng ghẻ của vợ tôi là ông Trần Văn Kính, mấy mươi năm về trước, nghề đánh bốc (boxe) là đánh nu-na chớ gì?
H. Miller nói nơi đoạn trên, viết hay mà dơ dáy lắm, nói tục không chừa. Tôi cảm và viết theo, vả lại một học giả nước Áo (Autriche) qua đây, chỉ lựa và mua ở chợ Trời toàn sách tục và bà đó dạy tôi "cái gì porno mới đúng thuộc Folklore, đích thị là tục-truyền của một địa phương, gọi Phong-tục-học cho nghe thanh, chớ cùng một thứ".
********* Cuốn Sách Và Tôi
Hôm trước tôi viết chưa đầy trang, bỗng bị gián đoạn, hôm nay 5-5-1993, tôi viết tiếp, và câu chuyện đã bị đứt khúc đầu Ngô mình Sở, âu cũng là số phận:
Trong cuốn Thú chơi sách, viết năm 1960, vì bài thơ Tôn Phu nhơn qui Thục tôi đã bị chế giễu và làm trò cười trong giới vọc vạch tập làm tám câu theo lối thơ Đường, hai bạn Thuần Phong Ngô Văn Phát và bạn thân Tế Nhị Lê Văn Chính, nay đã lui về chầu Diêm chúa, năm ni 1993, tôi vẫn chưa tởn, và xin trở lại bài Tôn Phu nhơn nầy nữa, và gẫm lại, viết về chánh trị thì nguy hiểm, chi bằng tìm dấu người xưa giữa hai ông Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường là tốt hơn. Trước tiên, xin thưa, tôi viết là tùy hứng, nhớ đâu viết đó và nếu có "hàm-bà-lằng loạn-xạ" thì cũng đành chịu, và xin độc giả tha thứ cho tuổi già.
Tôi nhớ lại anh Thuần Phong, tuổi chưa già lắm nhưng tại sao anh chọn chết đến ba lần, chết vì bịnh, rồi hỏa táng chết bị lửa đốt, rồi nghe đâu tro cốt anh yêu cầu được chôn vùi trong lòng Đồng Nai nước lạnh... và ngày tôi đến điếu tang trễ, lại thấy thờ anh với cây viết máy Sheeffers đắt giá, không biết có còn y chỗ cũ hay chăng? Trong khi ấy, anh Tế Nhị, khi lìa trần, lại xin quan tài màu trắng giữ lòng trinh bạch, khi cất đám lại có nhạc Tây đưa linh, và anh lên nằm gần mả Huynh và Đệ họ Ngô Đình trên vùng Lái Thiêu Sông Bé cao ráo, nhưng anh nằm nơi đó có vĩnh cửu hay chăng, vì năm rồi, chị quả phụ anh Chính từ Úc châu về, có ngỏ ý muốn đưa anh về nằm vùng Thủ Đức, gần gũi hơn, còn như đối với hai ông Trị và Tường, xin hỗn cho tôi gọi tắt cho gọn, họ Tôn sanh năm 1825 và mất năm 1877, lớn hơn Trị năm tuổi (Trị sanh năm 1830 và đến năm 1910 mới mất), và như vậy cái tin "Khóc đầu Hạng Võ" là tin trật lất, vì chết năm 1877 làm sao khóc năm 1910 được, và tiện đây xin thày lay luôn, bài "Vườn xuân vắng chúa lậu tin mai", theo tôi có lẽ là của họ Tôn thác lời khuyên con để nói trớ xin khất không theo Trương Định được, và có lẽ bài "Bái công khóc đầu Hạng vương" là thơ họ Tôn khóc tiếc Trương Định rồi nào việc lãnh binh Huỳnh Tấn xin Tây đừng giết Quản Trực vì Trực tài hay hơn Tấn thật nhiều, nhưng Tây đâu có nghe lời Tấn, vì oán ông Trực giết Tây quá nhiều vả lại một một hai hai, Nguyễn Trung Trực xin chịu tử hình hơn là hàng đầu ô nhục. Trực thọ hình tuổi vừa hơn ba mươi, anh hùng tử khí hùng nào tử.
Nay nhơn nhắc đến Hạng vương, tôi xin bắc cầu nói trở lại vế cái chết thật anh hùng có một không hai nầy. Theo truyện Tây Hớn, bản dịch của Nguyên Chánh Sắt (1908) do Huỳnh Trí Phú ra tiền cho Imprimerie Saigonnaise xuất bản, thuật rằng nơi trận Ô giang, binh tướng không còn, con Ô chùy đã nhảy xuống sông, không chịu lên thuyền của Đình trưởng, nàng Ngu Cơ cũng đã không còn, lực tàn binh hết, sức không còn, trí đang rối đến cực độ, bỗng thấy tướng bên Hớn là Lữ Mã Thông bèn gọi "cố nhơn" hai tiếng rồi rút gươm tự vận. Trong truyện không nói nhiều, nhưng nay luận thêm, đời ấy bày ra lệ thói dùng đầu lâu kẻ địch làm trận công để thăng cấp nên gọi "đầu lâu là thủ cấp", nhưng buổi ấy, uy danh Hạng vương còn quá nhiều, năm tướng cạnh của Lữ Mã Thông, bèn tranh chia nhau cắt hai tay, hai chân và khúc thân mình Hạng vương mang về chia công, và nói thêm, tên phản bội lớn khác như Tiêu Hà, với câu Hàn Tín từng than: "Sanh ư Hà, tử ư Hà", tên Tiêu Hà nịnh bà Lữ Hậu ấy, vẫn đầu thai làm Dương Tu, để cho hậu kiếp của Tín là Tháo chém cho hả giận.
Cho hay tin hay không tin là chuyện khác, dầu chi cũng được một chầu vui khi tửu đàm trà luận, Hạng vương thác vừa hơn ba mươi tuổi, Hoài Âm Hầu cũng chết tuổi vừa 34, éo le và khéo viết thay người sáng tác truyện xưa theo truyền khẩu mấy đời mấy miệng kể tích truyện xưa Ba Tàu. Đến đây xin trở lại chuyện luân hồi lộn kiếp như trong bộ "Trọng Tương vấn Hớn", dẫu cho rằng dị đoan, nhưng hủ lậu như tôi, xin thưa dị đoan như vậy cũng nên có và nên để dành, lưu truyền mà vô hại vô phạt, không chi cũng an ủi lòng kẻ còn gốc mê tín do ông bà tổ tiên để lại, từ Âu cũng có và từ Á vẫn còn hoài, tiếng "folklore" của Pháp, dịch ra là phong tục học, là tục truyện, là dã thặng của một địa phương. Bên Tây, khi ngồi giữa ban ngày bỗng nghe mặt bàn gỗ thinh không kêu "rắc" vẫn có người bỏ chạy, bên Tàu bên Ta cũng y một thế ấy, và vẫn nhang khói vái van thinh khổng thinh không, theo tôi, như vậy là không hệ gì đâu. Tôi đã từng thấy một nhà cách mạng nọ, đau nằm trên giường bệnh, không thốt lời gì nhưng vẫn nhắm mắt giả ngủ, để cho bà xã và người con gái đều từng đi kháng chiến nhưng nay thầm vái người khuất mặt cầu cho chồng cho cha qua khỏi cơn bệnh, không khác chiếc thuyền ra khơi lâm bão lớn, vẫn còn cho thuyền giữ được khúc bánh lái cầu an!
Tôi đã sa đà nói toàn chuyện bâng quơ, và nay xin kể thêm về tích ông thần địa phương thờ ở làng Vĩnh Thanh Vân cũ ở Rạch Giá là ông Nguyễn Trung Trực, đình làng nầy vẫn do một người Tây chính cống là bác sĩ Le Nestour đứng ra xin lập đình giả thờ linh ngư Nam Hải tướng quân (Cá Ông) nhưng kỳ trưng vị thần có bài vị để thờ là Nguyễn Trung Trực. Một buổi sáng, tôi ghi là ngày 3 mars 1976, nhơn ra chợ Trời bán sách cũ, tôi bỗng được anh Liễu, (tên người bán sách nay không biết còn mất thể nào), Liễu cứ theo nài ép, cố mời tôi mua hộ một cuốn sách đã mất trang bìa nên không rõ sách ấy nói gì, duy đã đóng bìa vén khéo, giá sách chỉ hai đồng (2đg giấy) thôi, tôi gượng gạo mua để làm vừa lòng Liễu, nhưng khi về nhà và dò lại, Liễu đã biếu tôi một cuốn giá trị rất lớn và đó là cuốn đã không còn nơi đất Lục tỉnh Nam kỳ nầy, và chỉ còn một cuốn duy nhứt (?) nay lưu trữ tại kho sách trung ương ở Hà Nội, và đó là quyển Pháp văn:
"Scènes de la Vie Annamite KHI-HOA", Recueil de nouvelles: le meurtre du Capitaine BARBÉ, la Surprise de Rạch Giá,... (etc) PARIS 1884, (livre très rare: un exemplaire à la Bibliothèque Centrale de Hà-nội, exposé à Saigon centenaire naissance J.B.E. LURO) Voir Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, n. ler et 2è trimestres 1940, p. 163).
Và đó là chút duyên của tôi với nghiệp hay thú chơi sách, và trong sách ấy có một đoạn kể NguyễnTrung Trực từng bị giam nơi Khám Lớn Sài Gòn và trong buổi bị tra khảo ông đã nhất quyết chịu thọ hình (chết chém) chớ không hàng giặc. (Ngày nay cuốn tàng trữ ở Hà Nội có còn hay chăng?)
Cuốn sách quèn giá mua hai đồng tiền giấy (2đg) ghi số mục lục 420 B (3-3-1976), giá thử nay có người giàu bạc triệu muốn được làm chủ, thà chịu chết và cứ ăn rau muống, người ấy đừng mong rớ tới.
Đã nói sa đà thì cứ sa đà luôn, tỉ như chuyện Thủ khoa Huân thọ tử hình, bao nhiêu sách và thi để lại đều ghi câu "chết tại Tho Giang"; cho hay Tho Giang tôi hiểu là sông Tiền Giang, khúc chạy ngang chợ hạt Mỹ Tho, nhưng kỳ trung, tôi sưu tầm ra Huân bị Tây chém tại Bến Tranh, nơi ông khai chiến, và Bến Tranh ấy là làng Phú Kiết (tên cũ) khúc Bảo Định chớ không phải Sông Tho. Cho hay việc cũ vừa hơn trăm năm, mà gốc tích đã sai lạc, nước Việt ta cho đến đời nào mới có được một cuốn tự điển có hình ảnh và không sai như quyển bé tí Petit dictionnaire Larousse của Pháp? Còn lâu!
Trích: Tạp Bút Năm Quý Dậu 1993
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:57:50 GMT 9
Những Kẻ Sĩ Hòa Mình và Đứng Về Phía Bình Dân Sơn Nam
Nói về văn chương Miền Nam, nhiều người nhắc đến Mạc Thiên Tứ, nhóm Chiêu Anh Các hoặc những bài thơ của Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Võ Trường Toản. Những tác phẩm nói trên không được phồ biến trong giới bình dân; chẳng qua là lúc đầu, việc làm văn chương thi phú chỉ thịnh hành trong giới trí thức. người ta chỉ nhớ tên của Mạc Thiên Tứ và nhan đề của mấy bài Hà Tiên thập vinh mà thôi; gần như chẳng ai thưởng thức, ngâm ngợi vì lời thơ còn thô, chưa thuần thục. Phải đợi đến ông Đồ Chiểu thì thi phú mềin Nam mới gây tiếng vang xa và thật sự được dân chúng thưởng thức, xem là món ăn tinh thần.
Bàn về ông Đồ Chiểu và Lục Vân Tiên thì đã có nhiều bài khảo luận, nhiều tài liệu rồi. Lời lẽ của Lục Vân Tiên dễ hiểu tuy chứa nhiều điển tích, nhưng lả điển tích phổ thông mà một ông đồ vô danh trong làng có thể giải thích được. Bài văn tế Vong hồn dân mộ nghĩa, văn tế Nam Kỳ sĩ dân với lời lẽ nôm na bổng dưng trở thành trang trọng và xúc động được mọi giới. dùng văn chương để "chở đạo". Nhiều kẻ sĩ tiếp tục truyền thống "chở đạo" ấy. Lúc Nam Kỳ gặp nạn ngoại xâm, hầu hết kẻ sĩ đều dấn thân, đến kẻ đầu hàng giặc như Tôn Thọ Tường cũng thú nhận tội lỗi công khai vì không thể nào chối quanh chối co. Nho sĩ đương thời bắt buộc họ Tôn phải tỏ thái độ, một là bạn hai là thù. Họ Tôn cố gắng thanh minh bằng vài hành động cụ thể: làm bài thơ vịnh chùa Cây Mai "Lặng lẽ chuông quen con bóng xế, tò le kèn lạ mặt trời chiều", hoặc bảo lãnh một vài bạn nho sĩ theo nghĩa quân bị bắt.
Đến những nho sĩ ở ẩn cũng tỏ thái độ, điển hình là ông Thủ khoa Nghĩa, tác giả Kim Thạch Kỳ Duyên (có Huỳnh Mẫn Đạt góp phần sáng tác, nhưng không hiểu tới mức nào); bổn tuồng này khó phổ biến vì qua nhiều chữ nho và điển tích. Nhưng khi thực dân đến, ông lên tiếng:
Ai khiến thằng Tây tới vậy à? Đất bằng bỗng chốc nối phong ba. Hẳn hòi ít mặt đền ơn nước Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà. Đá sắt ôm lòng cam với trẻ Nước non có mắt thấy cho già Nam kỳ chi thiếu người trung nghĩa, Báo quốc Cần Vương há một ta?
Ông Huỳnh Mẫn Đạt mượn lời người kỹ nữ đi tu để gởi gấm tâm tự. Về mặt xử thế ông tỏ ra minh bạch, biết vinh biết nhục.
"Lúc nhà nước lại thâu thủ Nam Kỳ, ngài (Huỳnh Mẫn Đạt) an phận dưỡng nhàn, không mang tiếng chi cả, hình trạng khô ngô ốm yếu, tánh nết hiền lành, hay làm thi quốc âm, tao nhã thiệp liệp lắm, ông Tôn Thọ Tường kính ngài là bực phụ chấp. có một ngày kia ngài lên Sài Gòn chơi, gặp lúc trời chiều, ngài đội cái nón ngựa, đứng coi Lang Sa thổi kèn tại Bồn kèn, gặp xe ông Tường đi, ngài lánh mặt bên gốc cây, không cho ông Tường thấy, ông Tường liếc mắt thấy ngài. Liền ngừng xe nhảy xuống mừa rỡ nghinh tiếp, trách ngài sao không ghé chơi; ngài tánh hay ngâm thơ nôm, liền ngâm một bài hát cú rằng:
Cừu mã năm ba dạo cặp kè Duyên sao giải cấu khéo đè ne. Đã cam bít mặt cùng trời đất, Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe. Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu. Lơ thơ già núp cội cây hoè. Sự đời thấy vậy thời hay vậy. Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.
"Ông Tường biết ý ngài rồi, liền ngâm trả lại một bài thi rằng:
Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều. Thế cuộc đổi đời càng lắm lắm. Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều Nước non dường ấy, tình chứng ấy, Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu. Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
"Rồi ông Tường rước ngài về chơi vài bữa" Tỉnh Vĩnh Long mất, ông Cử Trị làm bài thơ:
Tò le kèn thổi tiếng năm ba, Nghe lọt vào tai dạ xót xa Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói, Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa, Tan nhà cảm nỗi câu ly hận, Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa. Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ, Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.
Là kẻ thù về lập trường chánh trị với Tôn Thọ Tường, ông Cử Trị cứ hiên ngang thách thức khi gặp đốc phủ sứ họ Tôn:
"Cử Trị ăn ở lạ lùng, Áo quần xịt xạ điên khùng quá tay, Gặp Tường thời Trị mắng ngay. Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè. Hoạ thơ chống đối chê dè, Tai ngơ danh lợi chẳng nghe chẳng cầu . . Mặc dầu kêu ngựa, kêu trâu thích tình . . .
Một kẻ sĩ ở ẩn khi thực dân Pháp đến là ông Nguyễn Lạc, gọi nôm na là ông Học Lạc. Học Lạc giỏi làm thơ hài hước, luận theo sức văn học tài bộ thì sầm sì với ông Đồ Chiểu và ông Cử Trị. Ngài sau tị nạn binh hỏa đời lên ở tại chợ Thuộc Nhiêu, cất ba căn nhà lá dạy trẻ học trò chữ nho và chuyên y đạp, tế nhơn độ thế rất nhiều, tánh lại ruột gan khí khái, trượng nghĩa sơ tài, tôi gặp ngài tại chợ Thuộc Nhiêu, giao du với nhau lấy làm tương đắc, ngài thương tôi như con, bất kỳ là bài thuốc chi hay hay thì ngài đều chỉ cho tôi cả, ngài hơi thi quốc âm tao nhã lắm, lúc ấy ngoài chợ vàm Rạch Gầm rước tôi ra dạy chữ nho, tôi từ tạ ngài ra đi, ngài có tiễn hành một bài thi rằng:
Le the một cụm Thuộc Nhiêu giồng Chân bước ra đi mắt lại trông, Chỉ nhện lăng nhăng, cò vướng cánh, Bãi lau lẩn bẩn, cá quên sông. Tấm lòng qua lại cầu Bà Bếp Khúc ruột quanh co rạch Lão Tòng. Hai chữ tương tư đây nặng gánh, Nước non thăm thẳm biết hay không?
Ngay trong bài thơ cùng một vận, ca ngợi thú dưỡng nhàn ở giồng Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) được xem là một trong Ba Giồng, Học Lạc cũng gởi gấm ít nhiều tình cảm tha thiết.
Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng, Cánh Thuộc Nhiêu nhều khách ngợp trông, Đường cũ, ngựa biêu chơn ngán bước, Rạch cùng, cá lội mến quên sông Trướng văn lắm kẻ thêu rồng cọp, Miếu võ nhiều tay trí bá tòng. Cứng cáp thú quê vui tục cũ, Thềm dâu ruộng mía dễ cho không?
Trường hợp ông phan Thanh Giản được nhiều người biên luận, khen chê. Nhưng thiết tưởng không ai hiểu ông bằng người đương thời. Ông Đồ Chiểu và ông Cử Trị đều nổi danh là cứng rắn, lập trường chống Pháp rất dứt khoát. Nếu ông Phan Thanh giản quá hèn yếu hoặc phản quốc thì tại sao ông Đồ Chiểu lại làm đến hai bài thơ một chữ Hán, một chữ Nôm để điếu, so sánh ông với Phú Bật, Trường Tuần , hoặc "minh sanh chín chữ lòng son tạc, trời đất từ rày mịt gió thâu" Riêng về ông Cử Trị, qua bài thơ vừa dẫn, đã than thở "ngậm cười hết nỗi quan ta". Quan tức là quan Phan chịu trách nhiệm lớn khi thành Vĩnh Long mất.
Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch; trước khi mất, ông biết thân phận của người học giả sống trong thời kỳ khó khăn.
Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai, Xô đẩy người vô giữa cuộc đời. Học thức gửi tên con sách nát Công danh rốt cuộc cái quan tài. Dạo hòn, lũ kiến mau chân bước. Bò xối, con sừng chắc lưỡi hoài. Cuốn sổ bình sanh công với tội. Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.
Khi phong trào Duy Tân hoạt động công khai rầm rộ, ông Trần Chánh Chiếu cổ động lạc quyên đức tượng kỷ niệm ông Trương Vĩnh Ký với bài trong báo Lục Tỉnh Tân Văn nhan đề "ông Đốc Ký".
- "Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nứơc tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẻ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam, cho khỏi chỗ mích lòng nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo đặt sách này dịch sách kia cho kẻ hậu sinh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ . . !
- Ngoài những tác phẩm biên khảo mang tính cách bác học, ông Trương vĩnh Ký còn chú ý đến độc giả bình dân, lời văn theo lời ăn tiếng nói thông dụng lúc bây giờ. Chuyện đời xưa của ông cũng là Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của hãy còn được nhắc nhở.
Nguồn: trích “Cá Tính Miền Nam – Sơn Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:59:14 GMT 9
Sự Thành Hình Của Hệ Phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương Sơn Nam
Sau Thủ Khoa huân, phong trào chống Pháp đáng kể là cuộc khởi nghĩa của Ông và Khả ở tỉnh Mỹ Tho vào tháng 5 dương Lịch 1878, bao gồm vùng thuộc Nhiêu, Cai Lậy và Tân Hiệp. người điều khiển tối cao là ông Năm Thiếp, đản sanh tại làng Trà Tần đối diện với cù lao Năm Thôn (Mỹ Tho) vào khoảng 1831, tên thật của ngài là Ngô lợi, còn có tên là Ngô Viện. Người trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa gọi tôn là đức Bổn sư. Trong dân gian gọi là Năm Thiếp, vì trước ngày khai đạo, ông đã "bỏ cõi trần bảy ngày đên, còn chúth ơi ấm nơi chớn thủy rồi tỉnh lại". Và sau này "khi ngài đên núi Tượng (Thất Sơn) cũng thường xãy ra cảnh đi thiếp nhưng thời gian ngắn hơn. Mỗi lần đi thiếp, khi ngài tỉnh dậy là có những bí pháp truyền dạy tín đồ. Ông phát triển chủ thuyết của đức Phật Thầy Tây An trong hoàn cảnh đặc biệt; kháng pháp để đền ơn Tổ quốc (gọi là ơn quốc vương thủy thổ). Nghi thức tu hàn hcó vài nét khác với nghi thức của Bửu Sơn Kỳ Hương hồi thời Phật Thầy Tây an hoặc thời ông Trần Văn Thành ở Bảy Thưa. Lúc ở Mỹ Tho, ông đã liên lạc với vị lãnh tụ này và có đi núi tượng (Thất Sơn) nhiều lần.
Cũng như Đức Phật Thầy Tây An trước kia, tứ Ân Hiếu Nghĩa chú trọng phát triển phật giáo theo hình thức cư sĩ để cho nhiều người gia nhập được, không phân biệt quá rõ rệt giữa giáo phẩm và giáo dân (gọi là Bá Gia). Hình thức truyền giãng vẫn là dùng thể thơ lục bát:
Một trung thờ phật kính thầy, Hai trung thờ Chúa mình gầy chớ quên Ba trung phụ mẫu lưỡng toàn Ấy là ba chữ rõ ràng chẳng sai . . Ơn đồng bào được giải thích cặn kẽ và nhấn mạnh: Xin đừng ỷ phú hiếp bần ỷ mình sang trọng hiếp phần cô đơn. Thiên sánh thiên số, bớ dân, Sang giàu thì trọng, cơ bần thì khinh. . .
"Ngoài việc tu thân theo đạo Nho để trở nên người quân tử, đức bổn Sư còn khuyên tu Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Nhưng trong bốn ân: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào nhân loại, đức Bổn sư đặc biểu dương và xiển minh ân tổ tiên và ân quốc vương thủy thổ mà ngài lập thành một mối đạo mang danh là HIếu Nghĩa.
Tín đồ của ông Năm Thiếp lúc bầy giờ torng dân gian ẫn được gọi là người theo đạo Lành. Các phần tử tích cực thường thay đổi chỗ ở, nay đây mai đó, danh xưng của họ là thầy vãi. Trước khi có phong trào Thủ Khoa Huân, ở Gò Công, Mỹ tho đã xuất hiện đạo Lành ; năm 1874, thầy thập hoạt động ở vùng Lương Phú, bến Tranh. Đáng chú ý là thầy Thập chịu vô Thiên Chúa giáo nhưng đó là hình thức để che mắt nhà cầm quyền.
Năm 1877, ở vùng Trường đua cũ (Sài gòn) thực dân theo dõi một nhân vật tên là Đặng Văn Hợi, ông này tìm ra mạch nước thiêng, truyền rao cho dân tới múc về mà uống trị bịnh.
Ông Năm Thiếp và các cao đồ của ông giảng truyền rằng thời Mạt Pháp đến từ lâu rồi và đã tới lúc chuẩn bị lập đời Thượng ngươn. Người theo Tứ Ân dùng mật hiệu để nhận nhau, đại khái, họ cứ đưa ngón cái của tay mặt lên ngang mặt mà niệm hai tiếng "Mô Phật". Năm 1877, bịnh thời khí hoành hành, tính đồ tứ Ân phát bùa ngăn bịnh cho dân chúng. Ngày 16-2-1878 dương lịch (nhằm rhằm tháng giêng) ông Năm Thiếp họp những thầy vãi lãnh đạo phong trào ở các tỉnh Nam Kỳ về làng Hòa Khánh (Trà Lọt, Mỹ Tho). Để che mắt nhà cầm quyền, ông gọi đó là cuộc "làm chay". Số người tham dự có hơn 200. Ông rao là đời Minh Hoàng được thành lập, ai không theo thì bị thú dữ, cọp beo trong rừng ăn thịt. Trong cuộc ọp thứ nhì ngày 28 tháng 3 âm lịch tức là ngày 30-4-1878, ông phong cho Khả làm chánh tưởng, ông là phó tướng để điều khiển cuộc khởi nghĩa nhằm chiếm vùng Mỹ Tho, luôn cả tỉnh lỵ.
Bọn Pháp biết là đã xảy ra nhiều cuộc tụ họp dân chúng với khí giới thô sơ ở vùng Thuộc Nhiêu - Cai Lậy. Đồn Cai Lậy 9d7ợc tăng thêm 30 lính mã tà, 10 lính Pháp và một sĩ quan Pháp. Ngày 2 tháng 5 dương lịch 1878, một cánh quân khởi nghĩa thứ nhì xuất hiện ở làng Cửu Viễn, không xa chợ Mỹ tho. Hai cánh quân này bị giải tán và hai lãnh tụ là Ong và Khả lần lược bị Trần Bá Lộc bắt, thủ đoạn cố hữu của tên Việt gian này là bắt thân nhân của người trong cuộc, hăm dọa hương chức hội tề địa phương để họ điềm chỉ nơi ẩn náo của quân khởi nghĩa.
Viên giám đốc Nội vụ ở Sài Gòn ra lịnh cho các tham biện chủ tỉnh toàn Nam Kỳ truy nã ông Năm Thiếp (công văn ngày 29-5-1878), chánh quyền sẳn sàng xuất tiền đài thọ thêm cho các tỉnh để mướn bọn do thám, đồng thời cũng dành 1.000 quan tiền thưởng cho ai bắt được. Trong công văn này, ghi rõ tướng mạo ông Năm Thiếp: vóc người cao ráo ốm yếu, có ba chòm râu dài.
Bọn tham biện chủ tỉnh tha hồ bắt tín đồ để giam giữ vô điều kiện. Qua tháng 2 dương lịch 1889, tình hình Mỹ tho không được khả quan, tín đồ của ông Năm Thiếp cứ tụ tập bí mật, dân chúng không tin rằng người Pháp tiếp tục cai trị được cõi Nam Kỳ, những người cầm đầu đạo mối thường vắng mặt vào tháng 11 âm lịch để về núi Tượng mà "lãnh phép". Nhiều người trước kia theo phong trào đã được tha tội vì thiếu bằng cớ những khi xét nhà của họ thì gặp những bằng cấp, nhiều nhất là "lòng phái" của đạo Tứ Ân.
Chủ tỉnh Tân an cho rằng ông Năm Thiếp đang ở Châu Đốc nhưng chủ tỉnh Châu Đốc sai người len lỏi đến núi Tượng tìm mãi mà chẳng thấy gì cả. đến tháng 9 năm 1879 thì chủ tỉnh này bảo là Năm Thiếp đang ở núi Tượng những vừa vắng mặt đi qua địa phận Cao Miên, có lẽ sẽ về.
Màn lưới do thám được siết lại, rốt cộc không thâu được kết quả gì ráo. Chẳng qua là ông Năm thiếp được tín đồ và đồng bào mến mộ, khi đang ở núi Tượng, Châu Đốc thì tín đồ loan tin rằng ông đang ở Mỹ Tho; khi ông ở Tân An thì có tin đồn ông đang ở núi Tượng oặc Sa Đéc, vì vậy bọn Pháp bị đánh lạc hướng. Cuối năm 1879, chủ tỉnh Mỹ Tho lại bão rằng đạo Lành tuyên truyền mạnh trong tỉnh. Ông Năm Thiếp vừa đến phú Kiết là trở lại núi Tượng, tới cuối năm sẽ về, ông thường di chuyển bằng ghe lồng như người buôn bán, ghe có ba người chèo và có hai vệ sĩ. Buồn cười nhứt là hai tên Việt gian từng lập thành tích trong việc đàn áp bà bắt bở Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, đã tốn người, tốn của mà không thu nhập được kết quả gì. Nhơn viên do thám đắc lực của đốc phủ Lộc là Hai Phép lãnh trách nhiệm theo dõi ông Năm Thiếp đã đến núi Tượng, nhưng bị cảm hóa rồi theo phe kháng Pháp luôn, không trở về. Đốc phủ Đỗ Hữu Phương cho I Minh hương tên Bửu mua 3.000 xâu chuỗi bồ đề từ Chợ Lớn len lỏi xuống núi Tượng giả vờ như sùng đạo rồi cúng cho bổn đạo những vẫn không biết tung tích ông Năm Thiếp ra sao.
Đến mức chót, các viên chủ tỉnh Tân An, Mỹ tho chỉ còn biết thù vặt, bắt bớ những người trước kia theo Tứ Ân, viên giám đốc Nội vụ phải bực mình, không cho bắt bớ vu vơ nữa vì đó là thủ đoạn tống tiền của những viên chức ở thôn quê hoặc bọn mật thám.
***************** Làng An Định, Căn Cứ Của Đạo Tứ Ân và Của Phong Trào Cần Vương Toàn Nam Kỳ
Núi Tượng là ngọn đồi nhỏ thuộc hệ thống Thất Sơn giáp ranh tỉnh Hà Tiên, gần bờ kinh Vĩnh Tế, có thể liên lạc qua Cao Miên dễ dàng. Núi cao 145 mét, dài 600 mét, bề ngang phỏng chừng 400 mét, so với núi Cấm hoặc núi Dài thì nhỏ bé. Ở thung lũng núi Tượng và núi Dài, đất hẹp trồn tỉa được. Qua phía Hà Tiên là vùng đất mênh mông nhiều phèn và ngập lụt với rừng tràm từng lõm to và những khu vực đầy bàng.
Có thể nói trước khi ông Năm Thiếp đến thì núi Tượng còn hoang vu mặc dù dân Việt đã khẩn hoang, làm rẫy ở các đồi núi lân cận. Ngoài lý do khí hậu (bệnh rét rừng) còn rắn rít, vài con cọp, con beo. Nước uống là vấn đề gần như nan giải. Mùa nắng, trong vòng đôi ba tháng phải gánh nước từ xa đến. Sườn núi thì thâu được huê lợi, nhưng chỉ làm rẩy vào mùa mưa mà thôi, mùa nắng không có nước tưới.
Ông Năm Thiếp dò xét núi Tượng từ khi chưa có cuộc khởi nghĩa do ông chủ trương năm 1878 ở Mỹ Tho. Trước sự khủng bố mỗi lúc một gắt gao, nhiều tín đồ theo ông tới núi Tượng mà lập nghiệp, chờ cơ hội thuận lợi. đây là chiến lược cố thủ, che giấu và bổ sung lực lượng Bấy giờ thực dân chưa hoàn thành hệ thống đường sá quanh chân núi vùng Thất Sơn, chỉ có đường mòn dùng cho xe bò chuyển lúa gạo và hoai bắp mà thôi. Thực dân Pháp đã tạm nhẹ lo: nhóm Tứ Ân đang rút lui vào một địa phương nhỏ bé xa xôi, muốn kéo lên Sài Gòn hoặc đến các tỉnh lỵ miền Tiền Giang, quân khởi nghĩa gần như là không có phương tiện. Về phía ông Năm Thiếp thì vùng núi tượng khó sống, thiếu nước uống nhưng dễ bố trí phòng gian, giữ bí mật, lại dựa lưng vào biên giới với vùng đất bao là, núi non hiểm trở, thực dân chưa củng cố được bộ máy cai trị ở thôn ấp bên Miên. Và ngay ở vùng Thất Sơn, nơi người Miên tập trung thành sóc đông đảo gần như thuần nhứt, bọn Pháp ở Châu Đốc vẫn chưa kiểm soát được dân số và nhân tâm. Thôn xóm Miên gần như tự trị, mấy viên cai tổng Miên tha hồ tung hoành như thời trước với hủ tục phong kiến; ngoài chợ Châu Đốc, thực dân có mua chuộc được một người Miên biết chữ Quốc ngữ, ham tiền bạc, đó là viên huyện Cuey Kiên.
Vào tháng 12-1879, hơn một năm sau khi cuộc khởi nghĩa bất thành, tại chân núi Tượng đã thành hình một vùng "xinh đẹp" mà chủ tỉnh Châu Đốc thấy cần đặt vấn đề hợp thức hoá. Làng này thành lập không có xin phép trước, ruộng rẫy không trưng khẩn theo luật định. Dân chúng muốn xin ghi vô bộ điền, đóng thuế và lập làng gọi là An định. Viên giám đốc Nội vụ đưa ý kiến: nên cho người địa phương thỏa mãn nguyện vọng, nhưng đề phòng trường hợp họ lập một khu vực tự trị như tình trạng của những làng Cao Miên ở Thất sơn. Đến cuối tháng ấy, chủ tỉnh Châu Đốc được tin là ông Năm Thiếp có mặt tại núi Tượng với vài trăm đệ tử trung thành đang tuyên truyền sách động và bố trí canh phòng; việc nạp đơn xin hợp thức hóa chỉ là thủ đoạn để che giấu tung tích mà thôi. Chủ tỉnh đích thân đến thám sát vùng núi Tượng vào ban đêm, rình rập rồi đến gần với chiếc xuồng nhỏ. Khi mặt trời mọc, ông ta ngạc nhiên khi nhận ra làng tân lập này quá xinh đẹp, với khoảng 150 nóc gia vừa cất xong ở chân núi Tượng, chung quanh mỗi nhà là mấy đám rẫy ươi tốt, trồng khoai lang, thuốc hút. Theo sự nhận xét của chủtỉnh thì dân ở đây như bận rộn việc tu bổ nhà cửa, chí thú làm ăn. Ông ta đi chung quanh núi Tượng dò xét thật kỹ đểrồi kết luận: dân chúng không bộc lộ điều gì chứng tỏ họ đang ngấm ngầm vận động chống nhà nước và không có bằng cớ nào để hồ nghi rằng Năm Thiếp đang hiện diện tại núi Tượng. Bấy lâu "chỉ là sợ sệt và lo xa quá đáng mà thôi". Nên cho phép dân lập làng ấy.
Tháng 11 năm sau, chủ tỉnh Châu Đốc báo cao: Nghe đồn có một người "An Nam" đang biểu diễn những phép lạ ở vùng thất Sơn, dân chúng thường tụ họp với ông này"
Vào khoảng tháng 8-1881, chủ tỉnh Châu Đố tìm 10 người dân đang cư ngụ tại núi Tượng theo lời yêu cầu của chủ tỉnh Tây An. Họ bị truy nã về tội khởi loạn hồi năm 1878, cuộc hành binh diễn ra, bắt được đủ 10 người theo danh sách nhưng tuyệt nhiên chẳng tìm được tung tích ông Năm Thiếp.
Tháng sau, họ lại mở ra cuộc hành binh tương tự để bắt thêm vài người, theo lời yêu cầu của chủ tỉnh Mỹ tho về tội cũ hồi năm 1878. Thừa dịp này, chủ tỉnh Châu Đốc đi sâu hơn để tìm hiểu những người dân "bất hảo" ở núi Tượng. Bọn do thám len lỏi vào làng An Định, báo cáo rằng ông Năm Thiếp biết thuật tàng hình, đang ở chỗ này nhưng lát sau lại thấy xuất hiện ở chỗ khác, xa hơn. Ai gặp thì ông vui vẻ đón tiếp và sẳn sàng cho biết nơi cư trú, một ngôi nhà tuyệt nhiên không có tàng trữ dáo mác hoặc bất cứ khí giới nào. Hỏi thì ông trả lời là không cần dáo mác nhưng trong một tương lai chưa biết chắc ngày nào, ông sẽ đánh đuổi thực dân Pháp khỏi Nam Kỳ với phép mầu nhiệm của ông.
Cũng theo báo cáo này, chủ tỉnh Châu Đốc đề nghị là nên để nguyên tình trạng: không nên quá sợ sệt những cũng không nên chế giễu, đánh giá quá thấp khả năng của ông Năm Thiếp. Nếu cứ lục soát hành quân bắt bớ thì nhân tâm xao xuyến, chẳng yên, làm như không biết, để rồi thình lình bắt sống nếu quả thật ông là người có thật bằng xương bằng thịt chớ không là một nhân vật siêu phàm mà tín đồ bịa đặt để lạc hướng nhà cầm quyền.
Viên giám đốc Nội vụ đã phê: đồng ý là không nên sợ hãi cũng như không nên chế giễu. Nhưng nếu để y nguyên tình trạng mà không hành động thì có hại. Tâm lý người "An Nam" là ưa tinh những chuyện vô lý và huyền bí. Muốn cho dân chúng thức tỉnh, tốt hơn hết là tìm cách bắt sống Năm Thiếp, để đánh tan những lời đồn đãi về ông ta.
Tháng sau, chủ tỉnh Châu Đốc vẫn lạc quan khi viếng làng An Định; dân chúng nơi đây làm lụng cần cù, tiếp tục khẩn đất hoang, đáng được khích lệ nên hợp thức hoá để họ trở thành sở hữu chủ. Đó là nhà nước xây dựng thêm về an ninh cho làng này theo nghĩa: có làm chủ sở đất thì họ thoả mãn, không nghĩ tới chuyện làm loạn nữa).
Nhưng đồng bào lúc bấy giờ như chờ đợi một biến cố lớn. Ở Bắc Kỳ, quân Pháp công hãm thành hà Nội lân thứ nhì, tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn. Việc chờ đợi quân sĩ triều đình vào Nam có thể là tuyệt vọng, tuy nhiên một số quân từ Trung Kỳ, trước kia là người Nam Kỳ tỵ nạn sẽ trở vào! Dân chúng thêm háo hức vì điềm trời như liên tiếp báo hiệu một sự thay đổi, phải chăng là ngày Hạ ngươn gần chấm dứt?
Thời đàng cựu, bịnh thời khí là tai hoạ thường xuyên, lại thêm bệnh trái giống. Mỗi năn, dân chết khá nhiều, nhưng với mức độ vừa phải. Năm 1882, cùng với việc thành Hà Nội mất, vài tháng sau là xảy ra dịch thổ tả. Mọi khi, bịnh dịch xảy ra khi nắng gắt sắp chấm dứt qua mùa mưa. Lần này torng hai tháng 8 và 9 năm 1882, giữa mùa mưa dầm dề, bịnh ngặt lại đột nhiên hoành hành. Riêng ở tỉnh cần Thơ trong hai tháng nói trên, tại tổng An Trường số người chết là 1.243, ở tổng Định Bảo, 721 và ở tổng Định Thời là 512. Ở tỉnh Châu Đốc tháng 1-1883 (nhằm tháng chạp ta), bịnh thổ tả làm 223 người chết. Tháng 11-1882, lúc bịnh đang hoành hành trong toàn cõi Nam Kỳ, sao chổi lại mọc. Chủ tỉnh cần Thơ nhận xét : năm 1877, cũng vì nạn thiên thời hoành hành mà ông Năm Thiếp phát bùa ngừa bệnh cho dân rồi khởi xướng cuộc dấy loạn ở Mỹ Tho. Nếu giờ đây chánh phủ phát thuốc cho dân ngừa bịnh thì sẽ có tác dụng về mặt chính trị. Bịnh không phát triển , dân không còn lý do để xúc động.
Cuộc khởi loạn bất thành của Lê Văn Viên, của ông đạo Tư Nguyễn Văn Vi khiến thực dân để phòng gắt gao. Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở làng An Định chỉ biết hoạt động ngấm ngầm và chờ thời cơ.
Tạm yên được chừng một năm thì vào đầu 1885, đốc phủ Lộc lại báo cáo với chủ tỉnh Mỹ Tho là có thể xảy ra những cuộc rối loạn ở các tỉnh miền Tây, loạn quân phá chợ, ngăn chận các chuyến ghe buôn, người cầm đầu vẫn là ông Năm Thiếp hiện đang ở núi Tượng. Nguồn tin ấy tương đối xác thực.
************** Tín Đồ Ở An Định Liên Kết Với Phong Trào Chống Pháp Bên Cao Miên
Vương quốc Cao Miên lọt vào vòng thống trị của thực dân Pháp bắt đầu với hiệp ước 11-8-1863, rồi đến thỏa ước bổ túc ngày 17-6-1884, vì nhà vua tỏ ra quá nhu nhược. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên do ông hoàng Achar Soa cầm đầu kéo dài suốt ba năm, quấy nhiễu vùng Téang, chiếm vùng Cần Vọt (Kampot). Nhiêu trận giao phong với qui mô nhỏ diễn ra thường xuyên ở khu vực giữa Nam Vang và vinh Xiêm La. Rồi về sau lại tan rã khi ông hoàng này thử kéo quân về chiếm kinh đô Nam Vang (tháng 8-1866). Cũng năm ấy, để tiếp sức với phong trào đánh đổ thực dân Pháp, ông hoàng Pucombo nổi lên, vì ông đã từng xuất gia ở chùa nên nhiều vị sư sãi và nông dân hưởng ứng theo, suốt hai năm liên tiếp gây khó khăn cho thực dân, nhiều phen quân khởi nghĩa tiến sát thành Oudong và kinh đô Nam Vang. Một điểm đáng lưu ý là ông hoàng và cũng là tu sĩ Pucombo này đã liên kết với Trương Huệ (cậu hai quyền, con trai của Trương Định) để cùng chống Pháp ở phía biên giới Tây Ninh.
Một cuộc khởi nghĩa quan trọng khác dấy lên do ông hoàng Si-Vatha (có nơi âm là Si-Vothia) gây rối ở tỉnh Thbeng, bị đàn áp như ông hoàng này lại tiếp tục, non một năm sau khi có thỏa ước 1884.
Thoạt tiên, vào đầu 1885 phong trào kháng Pháp dấy lên ở tỉnh Kratíe và tỉnh Kompong Cham, vì Si-Vatha có uy tín và có linh nghiệm nên cuộc kháng chiến bùng nổ với qui mô rộng rãi, quy tụ đến 5.000 người với khi giới thô sơ, dùng chiến thuật du kích khi tụ khi tán, tập hợp và bổ sung lại kịp thời. Hai năm sau, thực dân Pháp dẹp không tận gốc được, binh sĩ Pháp bị hao mòn sức khỏe khi xông pha vào nơi rừng rậm (bịnh rét rừng, bịnh kiết). cuộc khởi nghĩa kéo dài mãi tới năm 1887, đến sau nhờ sự trung gian của nhà vua mới dẹp xong.
Thực dân ở Châu Đốc đoán trước là ông hoàng si-Vatha sẽ gây được ảnh hưởng mạnh và lôi cuốn mấy tổng gồm đa số người Miên ở biên giới; nếu quân sĩ của ông hoàng tràn qua Nam Kỳ thì khó ngăn chống; theo kinh Vĩnh Tế, đồn bót của Pháp quá yếu kèm, người Miên ở Thất Sơn là lực lượng đáng kể, có đến 4.000 dân đinh. Bấy giờ thành kiến giữa người Việt và người Miên hãy còn, đó là dư âm của những cuộc giao tranh Việt - Miên. Đặc biệt là vào đời minh Mạng và Thiệu Trị, ở Thất Sơn người Miên đã nổi loạn chống triều đình Huế, tướng Nguyễn Tri phương từng đến dẹp loạn mang theo lực lượng hùng hậu là 5.000 người.
Người Việt và người Miên bên này bên kia biên giới đã xóa bỏ tị hiềm nhỏ nhen. Và đồng bào đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với sự lãnh đạo của ông Năm Thiếp lại cương quyết nổi lên kháng Pháp, liên kết với phong trào của ông hoàng Si-Vatha. Tình hình ở ngoài Huế lại là yếu tố quan trọng khiến cho đồng bào ở An Định xúc động. Thực dân đang làm áp lực mạnh tại kinh đô, để rồi vua Ham Nghi phải xuất bôn.
Tháng 4-1885, quân của ông hoàng Si-Vatha khuấy động tỉnh Tréang, tập trung tại Tà Keo.
Khoảng cuối tháng 5 -1885, người Miên ở Thất Sơn, đồng bào ở làng An Định và người Miên từ bên kia đất Cao Miên nổi lên. Họ chiếm nhanh chóng một đồng Pháp ở biên giới: đồn Phú Thạnh. Bọn Pháp ở Châu Đốc cho toán quân của đại úy Ferussec đi thám sát nhưng không dám tới nơi, rồi đàn hrút lui. Chủ tỉnh Châu Đốc hối tiếc và lo ngại: trước kia vì đánh giá loạn quân quá thấp nên cho cánh quân quá yếu đi thám sát. Phải chi đem chừng 200 quân với thiếu tá Goulias cầm đầu thì tái chiếm đồn Phú thạnh quá dễ dàng, trấn an được dân chúng. Ngoài vùng núi Tượng và đồng bào Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn vài làng khác với người Việt cũng tham gia, đặc biệt là vùng sát biên giới (Tịnh Biên) bờ kinh Vĩnh Tế. tuy không tái chiếm được đồn Phú Thanh nhưng toán quân thám sát của đại úy Ferusccec bắn giết và đốt nhà của người Việt lẫn người Miên, đặc biệt là làng An Định.
Vài ngày sau, qua tháng 6-1885, chủ tỉnh Châu Đốc đi thanh sát vùng Thất Sơn, xác nậhn rằng đồng bào đang hoang mang lo sợ. Đây là vùng gồm tất cả bốn tổng đa số người Miên và tất cả bốn viên cai tổng người Miên đều ủng hộ trực tiếp quân khởi nghĩa từ bên kia biên giới (của ông hoàng Si-Vatha). Về phía dân chúng, phỏng định chừng 2 hoặc 300 người Miên làm loạn, trong số ấy có đứa con trai của viên cai tổng Miên ở Thành Ý bị thương, rể của viên cai tổng này cũng tử trận, ngoài ra còn 2 người Miên bị giết trong cuộc tảo thanh vừa qua ở làng Thuyết Nạp, 1 ở Xuân Tề, 2 ở Tú Tế, 1 ở Vĩnh Trung, 1 ở Yên Cư, 2 ở Bích Tri, 1 ở làng Trác Quan.
Phía Hà Tiên, dọc theo biên giới ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa Si-Vatha cũng làm cho nhà cầm quyền lo ngại. Từ tháng 4-1885, ở biên giới có ba làng (mỗi làng tỷ lệ đồng bào Miên đến 9/20) đã theo lãnh tụ của họ là Phủ Nghét và phần đông người Việt ở tại chợ Hà Tiên cũng có cảm tình với vị lãnh tụ người Miên này. Một cựu phó tổng ở Hà tiên ó uy tín tên là Nguyễn Văn Thừa cùng 80 người thân tín đã mưu toan chở chừng 300 người Miên qua bên kia biên giới tiếp tay khởi nghĩa nhưng bị phát giác kịp thời: theo kế hoạch thì cuộc tấn công Hà tiên sẽ xảy ra từ ngày 2-6 đến 12-6-1885 với cao điểm là đốt chợ tỉnh lỵ. Phong trào ở Hà Tiên gặp thuận lợi là một khi vượt biên giới gia nhập vào quân khởi nghĩa Miên thì nhà cầm quyền ở tỉnh không đủ lực lượng truy nã. Năm sáu vị hương chức hội tề ở nhiều làng khác nhau đã vượt biên giới, sau này bị bắt. Lãnh tụ Nghét ở Cao Miên tuy làm tri phủ của nhà nước Pháp nhưng lại làm loạn, ngoài ra trong vụ này có sự tham gia đắc lực của lãnh tụ Thiên Địa Hội người Trung Hoa là quản Khiếm bấy lâu hùng cứ vùng Cần Vọt (Kampot).
Phía Thất Sơn, quân của thiếu tá Goulias cứ tảo thanh, một số đồng bào Việt theo quân khởi nghĩa bên Cao Miên chịu hồi cư và trình diện, trước tiên là đồng bào ở hai bờ kinh Vĩnh Tế. Riêng về làng an Định do tín đồ Tứ Ân dày công khai khẩn thì có 120 dân đinh hồi cư. Chủ tỉnh Châu Đốc thử điều tra lý lịch của 22 người thì thấy mỗi người đều có quê quán khác nhau ở các tỉnh Nam Kỳ, chẳng một ai là người của tỉnh Châu Đốc. Ý kiến của chủ tỉnh là không nên cho họ trở về sào huyệt cũ là làng An Định; lần sau nếu họ còn làm loạn, nhà nước nên tỏ thái độ cứng rắn hơn vì sự khoan hồng sẽ đem lại nhiều hậu quả tai hại.
Tháng sau (8-1885), dân hai bờ vĩnh Tế trở về khá đông , tu bổ nhà cửa lại (đã bị quân Pháp đột cháy), dân làng Vĩnh Lạc thì gom về gần chợ Châu Đốc. Riêng làng An Định, tổng cộng dân đinh trình diện trước sau lên đến con số 204 người, tính luôn viên xã trưởng. Nhưng một thảm trạng lại xảy ra. Vì giặc Pháp , dân làng không canh tác được, lúa thóc dự trữ lại bị đốt sạch, bốn tổng người Miên ở Thất Sơn và mấy làng ở bờ kinh Vĩnh Tế bị nạn đói, gạo bán với giá cao, nhiều người phải vô rừng lên núi đào củ nừng mà ăn lấy lất qua ngày (lúc bấy giờ 1 đồng bạc mua được 2 giạ lúa). Chủ tỉnh Châu Đốc tháng sau lại thắc mắc về làng An Định: hồi cư thêm tất cả 258 dân đinh, "toàn là dân bất hảo, chống đối sự khai hóa của người Pháp, họ ở tứ xứ gom về và tất cả đều theo đạo Phật, nhưng là Phật tử có nhiệt tâm đến múc cuồng tín (ám chỉ đạo Tứ Ân của ông Năm Thiếp) Họ ra vẻ chí thú làm ăn về hình thức mà thôi, gặp cơ hội là họ khởi loạn nữa"
Bọn Pháp cho đóng một đồn lính ở Vĩnh Lạc để sẵn sàng ngăn chận những cộc đột nhập từ bên Cao Miên. Tháng sau, khi đồn vừa cất xong là bọn Pháp hay tin xã đông (xã trưởng làng An Định) và một người nữa cũng ở An Định (tên là Năm Trước) nhận được lịnh của Hai Phép (một nhân viên do thám của Phủ Lộc, đã quy thuận theo ông Năm thiếp) toan tấn công. Năm 1996, vào đầu năm, phong trào bên Cao Miên như phát khởi, dân chúng từ bên này qua Cao Miên mua gạo lại gặp nhiều toán "loạn quân" bắt họ làm xâu.
Theo sự điều tra, đó là cánh quân thuộc ông hoàng Si-Vatha, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Pus-nou-Luc-Chluc gồm chừng vài trăm người đi lưu động. Rồi thỉnh thoảng bọn Pháp ở Châu đốc lại phát giác vài toán quân khởi loạn người Miên đột nhập thình lình qua lãnh thổ Nam kỳ với súng ống, gươm dáo, có khi họ cưỡi ngựa.
Tháng 4-1885, một toán người Miên và vài người dân làng An Định (theo loạn quân hồi năm ngoài) có võ trang đến trú đóng tại xóm Chroui Sleng sát bờ kinh Vĩnh Tế, đối diện với làng An Nông (Tịnh Biên, thuộc lãnh thổ Nam Kỳ). Cầm đầu là phó nguyên soái Bùi Văn thuận, xuất thân thợ rèn. Họ tiến sát bờ kinh, gọi hương chức làng An Nông để báo rằng sẽ chiếm làng này. Dân ở An Nông và mấy làng kế cận hoảng sợ, kéo nhau về gần núi Sam mà lánh nạn, cạnh chợ Châu Đốc.
Tháng 4-1885, một toán người Miên và vài người dân làng An Định (theo loạn quân hồi năm ngoài) có võ trang đến trú đóng tại xóm Chroui Sleng sát bờ kinh Vĩnh Tế, đối diện với làng An Nông (Tịnh Biên, thuộc lãnh thổ Nam Kỳ). Cầm đầu là phó nguyên soái Bùi Văn thuận, xuất thân thợ rèn. Họ tiến sát bờ kinh, gọi hương chức làng An Nông để báo rằng sẽ chiếm làng này. Dân ở An Nông và mấy làng kế cận hoảng sợ, kéo nhau về gần núi Sam mà lánh nạn, cạnh chợ Châu Đốc.
Cuối tháng 5-1886, phó nguyên soái Thuận chỉ huy một toán quân gồm 30 người người Việt mặc sắc phục như lính mã tà, với súng ổng đầy đủ và 20 nghĩa quân người Miên cũng có súng đầy đủ, đột nhập làng An Nông, đúng theo lời cảnh cáo trước. Họ bắt ba người hương chức ội tề ở An Nông; giết một, một trốn thoát, còn người thứ ba đem về lãnh thổ Cao Miên, giao cho một ông hoàng nổi loạn Cao Miên (không rõ tên), sau nhờ lo hối lộ mà được tha thội trở về. Bọn Pháp tin chắc đây là cuộc thanh trừng chính trị vì bọn người làm loạn không cướp phá tài sản của dân. Những người hương chức này năm ngoái đã bắt thân nhân của Bùi Văn Thuận rồi áp giải cho viên Công sứ Pháp ở Nam Vang, nhằm mục đích áp đảo tinh thần của người khởi nghĩa, theo sách lược của phủ Lộc.
Sau biến cố trên, bọn Pháp cho xây cất thêm một đồn ở An Nông (Tịnh Biên) sát bờ Vĩnh Tế. Ngày 2-6-1886, viên chỉ huy tiểu khu Châu Đốc với lực lượng chừng 40 lính hiệp với toán quân trú đóng tại Vĩnh Lạc (do thiếu uý Grimaud chỉ huy) tiến qua lãnh thổ Cao Miên để truy nã. Lực lượng Việt - Miên do phó nguyên soái Thuận chỉ huy rút về phía Bantay Méas. Ngoài cuộc đánh phá từ bên kia biên giới, lãnh tụ Miên là Pos Luc Nop tái xuất đánh phá vùng sóc Som, bọn Pháp ở Châu Đốc phải gởi cánh quân 60 lính đến giải tán.
Hơn hai tháng sau, phó nguyên soái Thuận lại xuất hiện từ vùng Tra Lop, chừng 6 cây số bên kia biên giới. bọn Pháp truy nã đốt phá sào huyệt và giết tại trận được hai thuộc hạ, một người nữa là đề đốc Danh bị bắn gãy chân, giải về Chợ Quán (Sài Gòn) để điều trị rồi lấy khẩu cung.
Thống đốc Nam Kỳ yêu cầu chủ tỉnh Châu Đốc dán yết thị, khuyên bọn người làm loạn ra đầu hàng nhưng chỉ có 5,6 người Việt chịu trở về. bọn Pháp hơi lạc quan khi hay tin đồn đãi là phó nguyên soái Thuận đã bị ông hoàng người Miên là Keo Menobo bắt, ông hoàng này là thuộc hạ của ông hoàng khởi nghĩa Si-vatha. Phải chăng lúc bấy giờ ông hoàng Si-Vatha đã sắp sửa giải binh, sau khi thương nghị xong xuôi với vua Cao Miên đương thời (Vua theo Pháp, ông hoàng Norodom).
Nhưng đó là nguồn tin thất thiệt vì phó nguyên soái Thuận hãy còn hoạt động.
Làng An Định bị giải tán.
Tín đồ Tứ Ân cứ tập hợp rộn rịp bất thường, thực dân được báo cáo là cuộc dấy loạn lại sắp diễn ra ngay trên địa phận tỉnh Châu Đốc, Chủ tỉnh Châu Đốc muốn tỏ thái độ dứt khóat nên đánh điện tín về Sài Gòn yêu cầu được gặp viên giám đốc Nội vụ để bàn về một kế hoạch hết sức quan trọng; đối phó với tín đồ Tứ Ân ở núi Tượng, nơi có ngôi chùa nổi danh toàn cõi Nam Kỳ mà ông Năm Thiếp đang cư ngụ "uy tín tinh thần của ông hãy còn mạnh, ông là giáo chủ của tôi giáo mới" và "theo lời đồn đãi của một số nho sĩ già chống đối sự khai hóa của Pháp thì chùa nói trên là trung tâm điểm để phát khởi một phong trào phục hưng cho dân An Nam.
Thực dân còn nghe tin có toán quân gồm người Miên và người Việt do một ông hoàng Cao Miên cầm đầu đang xuất hiện trên lãnh thổ tỉnh Châu Đốc, giữa núi Trà Sư và núi Dài. Thiếu tá Peignaux cầm đầu toán quân gồm linh Pháp (thuộc thủy quân lục chiến) và lính tập bổn xứ đến tảo thanh, giết vài người và bắt một số cầm tù. Sau khi hạch hỏi, bọn Pháp thấy rõ là không thấy ông hoàng Cao Miên nào cả, loạn quân gồm đại đa số là người Việt cư ngụ ở làng An Định.
Cuộc hành binh qui mô nói trên diễn ra từ ngày 13 đến ngày 29 tháng 5-1887, cứ tiến vào An Định. Tên Việt gian lợi hại là cai tổng Trương Văn Keo thừa dịp này trổ tài điểm chỉ và trả thù cá nhân. Bọn Pháp muốn một số người điềm chỉ và dẫn đường, chọn đem theo vài người biết chữ Nho, biết tiếng Miên: viên chỉ huy Pháp thừa dịp thử cỡi voi.
Chùa chiền ở An Địn h bị đốt sạch một lần chót, đồng bào Tứ Ân bị tập trung để kiểm soát từng người về tên họ và lý lịch để rồi bị tống xuất trở về quê quán.
Bảng ke khái chính thức nêu ra 407 gia đình ở An Định gồm tất cả nam, phụ, lão ,ấu là 1.990 người của 13 tỉnh khác nhau ở toàn cõi Nam Kỳ; Sa đéc 16 gia trưởng, Bến Tre 26, Sài Gòn (nên hiểu là tỉnh Gia Định ngày nay) 16, Tân An 24, Vĩnh Long 30, Mỹ Tho 55, Chợ Lớn (tỉnh Chợ Lớn ngày xưa) 76, Gò Công 14, Long xuyên 35, Cần Thơ 14, Sóc Trăng 1, Hà Tiên 2, Châu Đốc 98.
Làng An Định là thành quả tinh thần của những người yêu nước toàn cõi Nam Kỳ, tuy là xa xôi hẻo lánh nhưng người ở Chợ Lớn, Gia Định vẫn đến, với tỷ lệ khá cao.
Thống đốc Nam kỳ chỉ thị cho các chủ tỉnh theo dõi những người vừa được đưa về quê cũ, nhưng đồng bào Tứ Ân lúc bấy giờ tìm cách trốn ở lại để cùng tranh đấu bên cạnh đức Bổn Sư. Thí dụ như trường hợp tỉnh Bến Tre, trong danh sách ghi là 24 gia đình, nhưng chỉ 11 gia trưởng về trình diện tại nhà mà thôi.
Về mặt hành chánh, làng An Định bị chánh thức giải tán, lãnh thổ của làng nhập qua làng kế cận là Ba Chúc.
Từ đó, đức Bổn Sư (ông Năm Thiếp) và các tín đồ phải ẩn lánh. Bọn Việt gian như cai tổng Keo tha hồ bắt bớ, đắc lực nhứt là viên huyện Cuey Kiên (người Miên). Bọn này cứ dẫn lính mã tà đi lục soát trên núi, bắt trâu bò của dân mà làm tiệc. Bọn Pháp không thấy gì lạ bên này biên giới, nhưng hai nhân vật ở trong đất Miên xa chừng 20 cây số ngàn tại vùng núi Phnom Ba Giông vẫn htường liên lạc về núi tượng. Nhân vật thứ nhứt là Hai Phép, tay dọ thám mà phủ Lộc đưa vào hàng ngũ đạo tứ Ân từ năm 1880 nhưng về sau lại hối cải, theo phe đức Bổn Sư. Nhân vật thứ nhì là ông Từ Phong ,già trên 60 tuổi, học hành giỏi, từ năm 1866-1867 tham gia những cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Long, Sa Đéc, Gò Công. Năm 1868, ông bị bắt tại Vũng Liêm, lãnh án lưu đày chung thân qua Nam Mỹ Châu (Cayenne), được ân xá, sau đó về cư ngụ tại tỉnh Chợ Lớn rồi đến núi Tượng liên lạc với đức Bổn Sư.
Năm 1889, đề đốc Bùi Văn Thuận bị bắt tại giồng Ba Tha, thực dân kết án 30 năm lưu đày ra Công Đảo. Nhờ lời khai mà ta biết thêm là Bùi Văn Thuận được phong chức bởi viên chỉ huy khởi nghĩa tên là Pus nou-Luc Chluc (dưới quyền ông hoàng Si-Vatha) lãnh trách nhiệm hoạt động ở tỉnh Tréang. Bấy giờ, người Việt Nam lãnh "bằng cấp" của người Miên để khởi nghĩa với danh chánh ngôn thuận, Bùi Văn Thuận lãnh chức Phó nguyên soái có lẽ vì chức Chánh nguyên soái trên nguyên tắc thuộc về người chỉ hư Miên, vì ở lãnh thổ Miên. Lãnh tụ thứ nhì là Lê Văn Quý bị bắt rồi chết tại khám đường Châu Đốc. Thực dân ra lịnh tập nã những người quan trọng còn sót lại. riêng về ông Năm thiếp thì ẩn lánh khéo léo, cai tổng Keo nhiều lần theo dõi tận núi Két nhưng không gặp.
Ngài viên tịch năm 1890, từ thuở thiếu niên đến ngày sau cùng luôn luôn tích cực chống Pháp. Tương truyền rằng sau khi phong trào Cần Vương ở miền Trung thất bại, một chiến sĩ từ miền Trung len lỏi vào để mưu đồ tiếp tục nghiệp lớn. Ngài cố ý lánh mặt vì thấy tình hình không còn thuận lợi. Chiến sĩ vô danh ấy vốn là cần thần của vua Hàm Nghi, vì không gặp nên đành ngậm ngùi ra đi, để lại bài thơ như sau:
Cửa thiền rày đã bặt hơi bon, Quê hạc hương bay kiểng vẫn còn Tiếng trống quân canh đâu lặng lẽ? Kèn chiêu muôn dặm hãy còn non. Dưới hố mưa lấp sen tơi tả, Trên đỉnh sương sa đá mỏi mòn. Ngàn thuở điểm đã ghi dạ ngọc, Chín trùng non nước biệt tôi con.
Giáo thuyết Bửu Sơn Kỳ Hương được Bổn Sư áp dụng sát với hoàn cảnh miền Nam với phong trào Cần Vương, liên kết với người Cao Miên. Đây là thái độ sáng tạo nhập thế, gần như vô điều kiện; đừng nghĩ tới chuyện xa xôi, hãy cố gắng tu tập. Hội long Hoa tức là ngày đất nứơc độc lập, không còn bóng quân ngoại xâm. Hình bóng đức Phật Di Lặc và hình bóng của Tổ quốc đã hòa hợp như là một. Cõi tiên, cõi cực lạc không phải là ở bên Tây Tạng, ở Ấn Độ nhưng là ở ngay làng mạc mà ta đang sinh sống, một cõi thiên đường tại thế.
Làng An Định ngày nay là một viện Bảo tàng sống. Những nét mà thực dân ghi chép trên công văn, trong báo cáo chỉ là thiếu sót nghèo nàn so với nền chùa, những hốc đá, những con đường mòn và nụ cười hồn nhiên của đồng bào địa phương. Đồng bào ở đây ít chịu khoe khoang, ghi chép. Còn nhiều pho kinh, đặc biệt là những bài văn có giá trị về văn chương ,về sử liệu, điển hình nhứt là Văn Vườn Dâu ghi lại những ngày tị nạn lận đận của đồng bào đã vượt biên giới , qua Cao Miên với đức Bổn Sư. So sánh sự kệin trong bài văn với tài liệu, công văn thời Pháp thuộc, rồi phối hợp với trí nhớ của ông già bà cả địa phương, lần hồi chúng ta thấy rõ rệt hơn những nét đẹp, yêu đời, yêu Tổ quốc của đồng bào hồi cuối thế kỷ qua.
Cụ Phan Bội châu đã am hiểu tình thế và đánh giá đúng mức phong trào Cần Vương của miền Nam nên vào năm 1903 đã vào tận Thất Sơn để gặp tại ngôi chùa nọ một người nặng lòng non nước, họ Trần.
Thực dân Pháp cố ý đánh giá thấp những việc vừa kể trên. Đại khái, chúng nhìn nhận đã đốt một ngôi chùa ở làng An Định.
Các vị thức giả đa số ở miền Bắc, miền Trung hoặc ở Sài Gòn thì đòi hỏi những tài liệu đáng tin cậy khi nghe những giai thoại về Thất Sơn huyền bí.
Chúng tôi đã cố gắng giải đáp. Phong trào nói trên tuy không có chiều rộng những quả thật có chiều cao và chiều sâu. Và dư âm hãy còn mạnh ở Hậu giang .
(sách thiếu . .?) không phải từ dưới Sóc Trăng. Và nếu không đề phòng thì trong hai năm tới ở Nam Kỳ sẽ có một chánh phủ bí mật, có thể gây nhiều rắc rối nghiêm trọng cho nhà nước.
Một ông hội đồng quản hạt quả quyết rằng mục đích của Thiên Địa Hội không phải là để tương tế, vì nếu tương tế thì tại sao người Hoa Kiều không rũ người Hoa Kiều mà lại rủ người Việt gia nhập theo? Luật lệ hiện hành quá nhẹ nên hội viên không sợ. đến mức chót, Thống đốc Nam kỳ báo cáo tình hình cho Tổng Trưởng Hải quân và Thuộc địa bên Pháp: "Trước kia đã có Thiên Địa Hội, nhưng giờ đây lan tràn, kết nạp người Việt lẫn người Cao Miên. Họ dùng thủ đoạn mua chuộc bằng tiền bạc, tương trợ người nghèo, ai không gia nhập thì bị hăm doạ. Luật lệ quá dễ dãi với họ, trước kia thời đàng cựu, mỗi năm ở Nam Kỳ nhà vua xử trảm trung bình từ 200 đến 300 người, từ năm rồi ,chánh phủ thuộc địa không xử tử người nào hết!" Thống đốc nam Kỳ tỏ ra bi quan: "không nên nghĩ đến chuyện tận diệt Thiên địa Hội vì ở bên Trung Hoa mặc dầu áp dụng những hình phạt cực kỳ ác độc, hội ấy vẫn còn hoạt động. tốt hơn hết là chú trọng tới khu vực xa xôi khó kiểm soát mà Thiên địa Hội dựa vào để hoạt động, đó là vùng Sóc Trăng, Cà Mau rộng cỡ 12.000 cây số vuông.
Nguồn: Trích “Cá Tính Miền Nam – Sơn Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:00:17 GMT 9
Thất Sơn Huyền Bí, “Cảnh Tiên” Tại Thế Của Các Chiến Sĩ Cần Vương Sơn Nam
Khi xã hội nông nghiệp tổ chức theo lối cổ truyền bị lung lay trước sự xâm nhập của một hệ thống kinh tế có thể lực hơn như hệ thống tư bản thì xảy ra khủng hoảng, chẳng những về kinh tế mà còn cả về tâm lý. Kẻ sĩ (trong đó có tu sĩ) và nông dân, điền chủ lần lần bị mất vai trò quan trọng; giới thương gia, kỹ nghệ gia, giới cho vay, những người đảm trách dịch vụ, chuyển chỡ giao thông chi phối nhanh chóng và nắm guồng máy chánh trị. Phản ứng của xã hội nông nghiệp cổ truyền là tự vệ, hoặc là cải cách, hoặc là cách mạng. Những tín ngưỡng của xã hội phong kiến cổ truyền là không còn hợp thời. Vài vị Hoạt phật (Phật sống) xuất hiện để cứu thế, phổ độ chúng sanh, mong cứu vãn cơ cấu nông nghiệp cổ truyền với vài sự cải cách.
Bên Âu Châu, bên Mỹ Châu, những phong trào "cứu thê" này thường xảy ra, các nhà nghiên cứu xã hội xem đó là đề tài hấp dẫn. Vị cứu thế xuất hiện (Messie) được dân chúng địa phương rầm rộ tham gia và tích cực ủng hộ, ngài rao giảng những lời tiên tri thường mà Thượng đế sắp đặt (sao chổi mọc, bệnh dịch hoành hành, núi lở . . ). Ở Nam Kỳ Lục Tỉnh từ đời Tự Đức và đến khi người Pháp chiếm cứ bằng võ lực, một phong trào khá mạnh bùng nổ ra, mang tánh chất độc đáo trong hoàn cảnh địa phương khá phức tạp. Chúng ta nghe đến những danh từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật sống, Phật thầy, Đức Bổn sư hoặc ông đạo này ông đại kia rao giảng, gây nhiều thắc mắc cho chánh quyền hồi cuối đời Tự Đức và người Pháp.
Người quá thiên về khoa học thì cho là chuyện khó tin. Người trong cuộc thì tự tôn cho rằng sự thật lần hồi phải thắng, vì vũ trụ càn khôn biến chuyển theo qui luật riêng không ai cưỡng lại được; hết xuân hạ thu đông thì mùa xuân trở lại, theo vòng tròn. Thượng ngươn, Trung ngươn đến Hạ ngươn để rồi có hội Long Hoa, tại lập đời Thượng ngươn.
Bà Maria Isaura Pereira De Queiroz đã dày công nghiên cứu và tổng kết các phong trào Cứu thế phổ độ của toàn thế giới. Chúng tôi xin tóm lược để gợi ý qua vài phong trào tiêu biểu, một ở Ý Đại Lợi, một ở Nam Mỹ, rất tiếc là tác giả ấy không nói đến trường hợp ở nước Việt Nam ta.
Khoảng năm 1870, vùng phía Nam xứ Toscane (Ý) còn sống trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu, thất học, đạo Thiên Chúa ở đây chưa được thuần thục, trong dân gian hãy còn nhiều thần thoại mê tín cố hữu. Nhiều "ông đạo" đi giảng trong xóm, hoặc tu luyện riêng biệt trong rừng; dân ở địa phương sống nghèo nàn, ít giao thiệp với các vùng phụ cận.
Nhưng lúc bấy giờ nhà vua bắt đầu thi hành những chủ trương nhằm thống nhứt các địa phương. Các cơ sở kỹ nghệ và thương mãi lớn bắt đầu phát triển, đời sống dân chúng ở nơi xa xôi hẻo lánh bị xáo trộn; phải đóng nhiều sắc thuế mới, góp phần vào việc xây đắp và tu bổ những đường giao thông, trong khi mùa màng thất bát liên tiếp. David Lazzaretti xuất hiện tự xưng là đấng Cứu thể, loan truyền rằng nay mai một nước Cộng hòa của Thượng đế thành hình. Giáo chủ Lazzaretti đã có vợ con nên không được chấp nhận vào hàng giáo phẩm. Ông ta thất vọng rồi công kích nếp sống không vợ con của các linh mục đương thời. Thoạt tiên, ông đến các vùng phụ cận La Mã, sống cô độc như một tu sĩ chịu khổ hạnh rồi trở về quê, lập ra ba nhóm tín đồ.
- Nhóm thứ nhứt gồm những người tự nguyện sống tập trung như các dòng đạo thời Trung cổ. Non 100 tiểu điền chủ tự nguyện hiến tất cả các đất đại cho đạo, sau những ngày làm việc đồng áng, họ tụ họp để đọc kinh. Việc đời và việc đạo xen kẽ nhau theo thời khóa biểu nhứt định.
- nhóm thứ nhì theo qui chế khá dễ dãi, tập hợp để thành một kiểu hợp tác xã, cứu trợ nhau khi cần. người trong đạo phải đóng nguyệt liễm, hết thức ăn thì đến kho của nhà đạo mà lãnh, khi đau yếu thì được trợ cấp. Mỗi năm, họ đến Thánh địa vài lần mà đọc kinh, lo việc đạo hạnh.
- Nhóm thứ ba quan trọng hơn, cũng do giáo chủ Lazzaretti điều khiển gồm những tín đồ hăng hái tình nguyện tập trung đất đai, nông cụ, gia súc, cũng làm việc và chia nhau huê lợi, đồng thời tuân theo một thời khoá biểu thống nhứt về tu học. Tài sản được coi là công cộng, họ ra sức cày bừa một lượt, nhờ vậy mà năng suất cao, mùa màng thu hoạch khá hơn khi canh tác riêng rẽ. Vì tự xem là một tiểu uqốc riêng biệt nên họ không chịu đóng thuế cho chánh phủ trung ương ở La Mã và họ cũng không chịu đi xem lễ ở nhà thờ thuộc Ki tô giáo. Họ đọc kinh và tu học với các chức sắc ở địa phương do Lazzaretti đặt ra, dưới quyền tối cao của ông òn có 12 vị sứ đồ trung kiện. Và họ chế biến ra một loại sắc phục khác với những người nông dân "ngoại đạo"
Ba nhóm nói trên cùng một giáo chủ nương dựa nhau về mặt tinh thần và kinh tế mà sống. Lần hồi, dường như họ đã đạt được mục đích là cứu vớt cho cơ cấu xã hội cổ truyền không bị tan rã trước cao trào thống nhứt lãnh thổ, thống nhứt thuế má, phát triển giao thông mà chính phủ trung ương đã đặt ra. Họ duy trì quyền tự trị địa phương.
Uy thế của giáo chủ David Lazzaretti càng tăng, nhiều nhân sĩ và người giàu có sẵn sàng ủng hộ tiền bạc và phương tiện để ông đi du lịch và in ra các tác phẩm hoàng dương đạo pháp. Từ năm 1876 về sau, Lazzaretti trở nên tích cực và hung hãn hơn, ông công khai công kích chánh quyền trung ương, cho rằng chánh quyền này đi sai đường lối của chúa Kitô, đồng thời ông tuyên bố thành lập một quốc gia riêng, mang danh nước Công hòa của Thượng đế (République de Dieu). Ông tự xưng là người lãnh trách nhiệm vì thiên hạ trong thời Mạt Pháp. Lời tiên tri này ứng nghiệm với tình thế: mùa màng trong nước gặp những phen thất bát liên tiếp, đức Giáo hoàng Pie IX và vua nước Ý là Victor Emmanuel lần lượt băng hà. Thừa thắng xông lên, Lazzaretti cùng với 3.000 tín đồ trung kiên bèn diễu hành đến thành phố kế cận để cướp chính quyền, số tín đồ này không mang khí giới mà chỉ trương lên những cờ xí và hình ảnh. Họ bị lực lượng cảnh sát chận lại, giáo chủ Lazzaretti tử trận. Nhưng cái chết lại gây thêm uy thế cho giáo chủ Lazzaretti vì hồi sanh tiền, ông đã tiên đoán cái chết của mình để rồi ông sẽ phục sinh, tạo lập một thiên đường ở cõi thế.
Các nhóm giáo dân tự trị do ông lập ra lần lượt bị giải tán, không làm chánh trị nữa nhưng về mặt tốn giáo họ vẫn tiếp tục sanh hoạt riêng biệt, do người cam niên nhứt trong họ đạo lần lượt kế vị nhau , và người lãnh đạo cuối cùng đã mất vào năm 1943.
Ở Nam Mỹ châu, huyện thoại về sự phục sinh của vua D.Sebasstiao tiêu biểu cho tinh thần dân tộc Bồ Đào Nha cùng những lời sấm truyền được phát động thành phong trào mạnh mẽ, đặc biệt là ở Brésil, nơi người Bồ Đào Nha di cư lập nghiệp khá đông và mang theo những tín ngưỡng từ chánh quốc. Nhiều "ông đạo" rao giảng sự phục sinh của vua d.Sebastiao, cho rằng vua này sẽ ban bố hạnh phúc và tiền bạc cho tín đồ. Năm 1817, ông đạo Sylvestre José dos Santos đi tới vùng Pernambuco rao giảng rằng khi nào ông gom đủ 1.000 tín đồ thì vua D.sebastiao sẽ xuất hiện để lập bộ đội nhằm giải phóng thành Jérusalem, lúc ấy địa cầu này sẽ trở thành một Thiên đàng; người nghèo khó trở thành giàu, kẻ nào đang giàu thì sẽ giàu thêm lên. Hàng giáo phẩm của ông 12 ông "hiền", số tín đồ thoạt tiên lên đến 400, ông tuyên bố thành lập trước tiên một thành phố nồng cốt mang danh là ‘thành phố của Thiên đàng ở hạ giới". Lúc đầu, tín đồ của ông tu hành theo nghi thức do chính ông bày ra. Cuộc tập họp của tôn giáo mới này khiến chánh quyền địa phương lo ngại, quân đội được phái tới để giải tán, tín đồ chống cự mãnh liệt để rồi gần như bị tàn sát trọn vẹn.
Năm 1834, có phong trào ủca ông đạo Joao Ferreira nhằm mục đích tạo lập Thiên đường ở tại thế. Lại còn phong trào của Joao Maria (năm 1844), của Antonio conselheiro (năm 1873) với nội dung tương tự nhưng thâu hút nhiều tín đồ, hoạt động chánh trị hăng hái hơn.
Việc xuất hiện những đấng Cứu thế là hiện tượng thường có qua lịch sử nhân loại từ Âu sang Á. Ở Trung Hoa, ta hẳn nghe đến Thiên quốc của Hồng Tú Toàn, và ở Việt Nam thì miên Nam là vùng mang vài nét đặc thù. Đất mới khẩn hoang; đời Minh Mạng, đời Thiệu Trị, đời Tự Đức vùng biên giới Việt - Miên gặp nhiều tai hoạ chiến tranh co cuộc tranh chấp với Cao Miên, chiến trường là vùng An Giang; Phật giáo đời nhà Nguyễn nói chung đã suy đồi, một tôn giáo mới là Thiên Chúa giáo đã gây được cơ sở ở cù lao Giêng, Năng Gù, Bò Ót bên sông Tiền và sông Hậu.
Thuyết "hội Long Hoa" được phổ biến và trở thành động lực thực tế để chấn hưng Phật giáo, khởi đầu từ An Giang.
- "Nói đến Hội Long Hoa tức là nói đến đức Phật Di Lặc, vì theo đức Phật Thích Ca cho biết torng kinh Di Lặc thì thời kỳ Mạt pháp có đức Phật Di Lặc ra đời, là vị Phật thứ năm trong tiền kiếp, lập nên hội Long Hoa, mở ra truyền thuyết pháp hóa độ chúng sanh.
"Trong kinh chỉ nói đức PHật Di Lặc ra đời vào thời kỳ Mạt pháp nhưng không nói rõ là vào khoảng nào, cho nên về ngày giờ lập hội Long Hoa có nhiều giải thuyết khác nhau, mỗi người hiểu một cách . . Vả chăng trong kinh điển còn chia từ lúc Phật ra đời về sau làm ba thời kỳ: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp và phỏng định thời kỳ Chánh pháp là 500 năm, thời kỳ tượng pháp là 1.000 năm và thời kỳ Mạt pháp là 10.000 năm. . Cứ theo Phật lịch mà tính thì hẳn chúng ta ở vào thời Mạt pháp, nhưng thời kỳ này lại kéo dài đến một muôn năm, thế nên phái Thiền gia chưa tin đức Di Lặc hạ sanh trước khi thời kỳ Mạt Pháp chấm dứt.
"Tin tưởng hội Long Hoa lập ra trong một ngày gần đây chăng, chỉ có giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương và Cao Đài giáo.
"có thể nói đức Phật Thầy Tây An, vị sáng lập ra giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương là người thứ nhứt đã báo hiệu và đánh thức người đời rằng thời kỳ Hạ ngươn sắp mãn để bước sang thời kỳ Thượng ngươn, tức là thời kỳ Đức Di Lặc hạ sanh lập nên hội Long Hoa, như ngài (đức Phật Thầy Tây An) cho biết:
- Hạ ngươn đã cận người ôi,
Nay cho giáng bút để thôi coi đời"
Đức phật Thầy Tây An là nhân vật có thật, đản sanh năm 1807, tịnh diệt năm Bính Thìn (1856), ngài gây được ảnh hưởng ở vùng khá rộng theo biên giới Việt - Miên (SaĐéc, Long Xuyên, Châu Đốc). Lúc còn tại thế, ngài hướng dẫn tín đồ đi khẩn hoang lập nghiệp nhiều trại ruộng phía núi Két, Láng Linh, Đồng Tháp Mười, Cái Dầu.
"Chủ trương của Phật Thầy là lấy đạo Phật làm căn, nhưng không thờ cốt Phật, không gõ mõ tụng kinh, không đầu tròn áo vuông, không hành nghề thầy đám, không cúng kiến chè xôi và tu đâu cũng được. Theo giáo lý của ngài thì người tu cốt tránh ác làm lành, rửa lòng trong sạch, giữ tâm tịnh và hằng thực thi bốn ân lớn:
- Ân tổ tiên cha mẹ. - Ân đất nước - Ân Tam bảo - Ân đồng bào nhân loại"
Cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa 1873
Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương nêu những nguyên tắc thiết thực gắn liền đời và đạo, cá nhân và gia đình, gia đình với đồng bào nhân loại và đặc biệt là với Tổ quốc (ân đất nước). Người tu hành tham gia sản xuất, cày cấy như bao nhiêu người khác. Khi người sáng lập viên tịch, Bửu Sơn Kỳ Hương đã có sinh lực mạnh, lý thuyết và thực hành đi đôi nhau. Thực dân Pháp đến, chiếm trọn Nam Kỳ Lục Tỉnh. Những sự xáo trộn về chánh trị, kinh tế, xã hội diễn ra. Dưới mắt người nông dân miền Nam thuở ấy, rõ ràng là thực trạng nhân tâm ly tán của thời Mạt pháp: "Hạ ngươn giáp Tý đầu tiên. Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào:. Giáp Tý tức là 1864, hai năm sau khi miền Đông Nam Kỳ chánh thức nhương cho Pháp. Theo truyền thuyết của giáo hệ, Bửu sơn tức là núi quí báu, tức là Thất Sơn mà đỉnh linh thiêng nhứt là núi Cấm; Kỳ Hương tức là mùi thơm lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ thành lập tại đó.
Người tín đồ tin tưởng rằng; cõi Tiên ,cõi Thiên đường sẽ hiện ra tại thế gian này, trong thời rất gần trên lãnh thổ của tỉnh An Giang gần biên giới. Một đệ tử của Phật Thầy Tây an là Trần Văn Thành (về sau được tôn xưng là đức Cố Quản) tích cực vận động tín đồ và đồng bào khởi nghĩa với qui mô khá lớn và liên tục. Ông là quản cơ đời Tự Đức, từng đóng vai trò tích cực trong cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá năm 1868. Thoạt tiên, ông chiếm cứ, đóng đồn ở chung quanh đồng Láng Linh. Năm 1871, lần đầu tiên thực dân cho tên đốc phủ Trần Bá Lộc truy nã. Sau đó, ông bố trí những cơ sở phòng thủ hiểm trở hơn. Bọn do thám cho biết hình dáng ông Trần Văn Thành: "Vóc to lớn, mạnh khỏ, gương mặt nghiêm nghị, nhìn thấy làp hải kính trọng và ngưỡng mộ, hăng hoạt động, rất thông minh. Ông lập ra một đạo gọi là đạo Lành. Trong hầu hết các tỉnh ở đất Gia định đều có tín đồ. Tín đồ từ các nơi vì tôn kính ông nên tới mật khu, mang theo nào lúa gạo, sắt (để rèn khí giới). . .
. . .Dân ở làng lân cận bảo vệ ông bằng cách giữ bí mật và không ai đi lọt vào vùng cấm địa" Tháng 2 dương lịch 1872, một môn đệ của ông đi trong tỉnh (Long Xuyên) để phát bùa và một thêm tín đồ. Tháng 4 năm 1872, chủ tỉnh Long Xuyên ra lịnh cho cai tổng Lý Mul (người Miên, làm việc cho Pháp) theo dõi những người tới lui câu cá hoặc đặt lờ đặt lọp ở ngọn Mạc Cần Dung, rồi chín tên chủ tỉnh này phối kiểm các tin tức, ra lịnh bí mật, tránh những hành động quá non có thể làm cho đối phương đề phòng trước. Nhưng cai tổng Lý Mul không được yên tâm, hắn sợ tình thế trở nên rối rắm vì ở mật khu xảy ra quá nhiều cuộc tụ họp đông đảo mà bọn do thám của hắn không tài nào len lỏi vào được. Ở Bảy Thưa, ngày như đêm, để đối phó, lo rèn khí giới, ây đặp đồn lũy, dự trữ thêm nào gạo muối, lương thực. Tri huyện Trần Bá Tường nóng lòng muốn lập công, nên đích thân len lỏi đến gần mật khu rồi báo cáo là đồn lũy đã xây đắp khá kiên cố, tuy nhiên chỉ cần vài người lính mã tà đi với ông ta là có thể dẹp được. Nhưng cai tổng Lý Mul lại can gián.
Chủ tỉnh Long Xuyên là Emile Puech lo bố trí cuộc tảo thanh. Hắn xin quân tiếp viện thêm 40 người từ Cần Thơ, dưới tay hắn đã có chừng 60 lính mã tà. Ngày 19-3-1873, bọn lính mã tà lên đường, mỗi đưa mang theo bốn ngày lương thực và 40 viên đạn. Tên chủ tỉnh chia lính ra từng toán nhỏ, tiếp tay với hắn có đại uý Guyon. Trần Bá Tường lãnh một cánh quân, phó quản Hiếm (phó quản lính mã tà) cũng lãnh một cánh. Hiếm trước kia từng chiến đấu bên cạnh ông Trần Văn Thành thời đàng cựu, rồi đầu thú bọn Pháp.
Khoảng 6 giờ sáng ngày 20-3-1973, bọn Pháp đến cách đồn chánh của mật khu Bảy Thưa chừng hai cây số ngàn, lính mã tà nạp đạn sẵn và được lịnh không nổ súng vô cớ, trừ khi nào đối phương chống cự. Trong đồn, nghĩa quân đã sẵn sàng chờ đợi, tiếng tù và vang lên và nghĩa quân bắn trước. Đến sát đồn, tên chủ tịch tỉnh Puech mới giựt mình vì đối phương quá đông và chiến đấu với phong độ cao. Để đề phòng sự thất bại, chủ tỉn hra lịnh cho hai cánh quân nhỏ (trong đó có huyện Trần Bá Tường) phải tập trung lại. Trần Bá Tường thú nhận là đối phương có khí giới tương đối đầy đủ. Theo lịnh của chủ tỉnh, phải tiết kiệm đạn dược, chờ dịp tốt hãy xung phong.
Ông Trần Văn Thàn vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ.
Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Trần Văn Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng.
Chừng hai giờ sau (9 giờ sáng), cuộc chiến như kết thúc, quân Pháp chiếm đồn. Viên cai tổng Lý Mul, huyện Trần Bá Tường bấy lậu đã từng ra trận vẫn kinh ngạc trước sự gan lì của đối phương và giải thích: đó là ảnh hưởng tinh thần của ông Trần Văn Thành đối với tín đồ.
Bọn Pháp thấy tại trận 10 xác chết của nghĩa quân , 5 người bị thương và bắt sống được 2 người, tịch thâu khá nhiều súng, gươm giáo, lúa gạo, ghe xuồng.
Chúng ước lượng lực lượng nghĩa quân chừng 400 hoặc 500 và than phiền là không thắng trận hoàn toàn. Nghĩa quân chạy thoát quá nhiều vì cánh quân tiếp viện của tỉnh Châu Đốc không chịu tới kịp thời.
Một chi tiết đáng chú ý là phó quản Hiếm và bọn mã tà của y bắt thêm được 13 nghĩa quân: tất cả những người này đều là dân từ Bến Trẻ, từ Trà Vinh đến hưởng ứng chánh nghĩa của ông TRần Văn Thành.
Bọn pháp còn tịch thâu một số giấy tờ, xác phận rằng ông có liên lạc với nhiều tỉnh ở Nam Kỳ để khởi nghĩa, ông đã từng ở Rạch Giá (vụ Nguyễn Trung Trực) và ở Vũng Liêm (có lẽ vụ giết chết tên chủ tỉnh Salicetti).
Rõ ràng là khi người Pháp đến, giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương đã gây được sự tin cậy của đồng bào và trở thành nơi nương tựa tinh thần cho nghĩa quân từ các nơi muốn tiếp tục chiến đấu chống ngoại xâm.
Tháng sau, ngày 22-4-1873, một nghị định được ban hành do đô đốc Dupré nghiêm cấm không cho dân chúng được theo đạo Lành vì đạo này xúi giục dân đi lạc khỏi đường ngay nẻo chánh. Nghị định nói trên cũng cho biết còn nhiều người đi truyền giảng đạo này ở toàn Nam Kỳ, hàng giáo phẩm của đạo cũng như tín đồ sẽ bị phạt theo luật đàng cựu, xem như là gian đạo sĩ, phiến loạn.
Tại sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?
Vài tài liệu của Pháp dịch là đạo dạy việc làm lành (làm lành lánh dữ). Có người cho là đạo của ông Trần Văn Thành nhưng người Pháp nói trại ra đọc theo giọng Pháp? Nhưng chúng tôi đã thấy nhiều công văn của Pháp lúc sau cũng ghi là đạo Lành. Nên nhớ lúc bấy giờ người Pháp đã mua chuộc được một số nho sĩ thân hào để làm cố vấn cho họ trong việc nội trị, lẽ nào người Việt lại lầm lẫn? Theo thiển ý chúng tôi, đương thời ông Trần Văn Thành được gọi là ông quản Thảnh. Có lẽ đồng bào lúc bấy giờ gọi trại ra, vì cử tên ông nên Thành đổi ra Lành. Hoặc đó là danh xưng riêng mà người trong đạo cố ý đặt ra để che mắt nhà cầm quyền, khiến chúng khó có lý do đàn áp hoặc ngăn cấm; vô đạo chỉ là để làm điều lành thôi, chớ không phải để chống Pháp như ông Trần Văn Thành của phải Bửu Sơn Kỳ Hương.
******************
Khi Việc Đời Đã Đến
Nếu Bửu sơn Kỳ Hương đã qui tụ được một số đông tín đồ trung kiên để báo đáp ơn Tổ quốc thì dân gian lúc bấy giờ cũng chờ cơ hội để nổi lên đánh bọn Pháp và bọn Việt gian. Trong phong trào kháng Pháp hồi cuối thế kỷ thứ XIX ở Nam Kỳ, chúng ta chú ý vài chi tiết: người tham gia khởi nghĩa theo danh từ đương thời là ứng ngãi (ứng nghĩa) hoặc quân một nghĩa. Kháng Pháp là làm ngãi (làm nghĩa) tức là chiến đấu cho nghĩa lớn.
Qua những khẩu cung của người tham gia kháng Pháp , thời ấy thì đi mộ quân ứng nghĩa là :rủ anh em lo việc đời", thời cơ đến thì gọi là "việc đời đã đến" hoặc "việc đời gần lắm". đây không phải là mật hiệu nhưng là quan niệm yêu nước rõ rệt: phải xả thân lo cho đời, quên việc riêng tư.
"Việc đời đã đến" vì hoàn cảnh trở nên thuận lợi; năm 1882, binh Pháp đánh vào thành hà Nội, tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn nhưng năm sau công việc bình định ở Bắc Kỳ vẫn chưa thành, quân nhà Thanh còn khá mạnh mẽ ở vùng biên giới Việt _ Hoa. Thừa lúc Pháp bận việc binh ở Bắc Kỳ, người yêu nước ở Nam Kỳ Lục tỉnh tin rằng họ có dịp tốt để quấy rối và khôi phục đất nước. Bấy lâu, từ 1867, một số sĩ phu Nam Kỳ không đành sống trong vùng do giặc kiểm soát nên tị địa ra tỉnh Bình Thuận để lo kế lâu dài; liên lạc về tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa với chủ trương sẽ phát động khởi nghĩa khi thời cơ thuận lợi, đồng thời bày ra việc khẩn hoang để tự túc về lúa gạo. Kế hoạch ấy được ông Nguyễn Thông (người quê ở Tân An, đậu cử nhân năm 1849), từng là huấn đạo ở An Giang, làm đốc học ở Vĩnh Long đảm trách. ở Bình Thuận, ông Nguyễn Thông được vua Tự Đức phong chức Dinh điền sứ, triều đình chuẩn y một kế hoạch lớn theo đó ông đề nghị "lập đồn điền khai khẩn miền Tây Nguyên, từ biên giới Cao Miên đến Quảng Trị, thâu nạp những dân lưu ngụ, nhứt là dân từ Nam kỳ ra. Nhưng kế hoạch này không thực hiện được vì triểu đình Huế bị Thống đốc Nam Kỳ phản đối, vả lại ông Nguyễn Thông lâm bịnh nặng.
Cuối năm 1882, một viên chỉ huy quân sự trở về Nam Kỳ nhằm mục đích khuấy động phong trào. Đó là Lê Văn Viên năm ấy tuổi cỡ 60, quê ở vùng Cái Bè (Định Tường), trước kia đã thông thạo vùng Đồng Tháp Mười, từng là thống binh vào năm 1866 dưới quyền của Thiên Hộ Dương; trong vụ khởi loạn ở Vĩnh Long năm 1869, ông từng là phó đề đốc. Khi Pháp khủng bố gắt gao, ông trồn về miền Trung.
Thừa lúc có rắc rối ở Bắc Kỳ, ông vào Nam với chức An Hà hộ đốc, đến Sa Đéc, gặp nghĩa quân cũ, đồng thời cũng tìm cách liên lạc với những bạn ở Vĩnh Long. Vài phong trào nhỏ nổi lên, trong vòng chuẩn bị; một thanh niên nhiều tâm huyết là Nguyễn Văn Nở (năm ấy mới 27 tuổi) từng đến Vĩnh Long để gia nhập Thiên Địa Hội, lo gây cơ sở ở vùng Cái Thia, tỉnh Định Tường. Nguyễn Văn nở nghĩ ra kế hoạch ám sát đốc phủ Lộc vào dịp hắn đi dự lễ lạc thành một công sở làng. Một phong trào khác thành hình; Nguyễn văn Tường trước kia đã tham gia kháng Pháp, sau đầu hàng, dạy chữ nho. Tường bèn liên lạc với Trần Văn Cương (Cương còn bí danh là Nguyễn Hữu Hùng). Cương là người khí phách, trước kia làm tổng binh, bị Pháp bắt đày qua Cayenne ở Nam Mỹ châu năm 1872, sau mươi năm bị lưu đày (vền ăm 1882) ông hoạt động trở lại ở vùng Long Hưng, Rạch Gầm.
Nhóm thứ tư là của Nguyễn Văn Vi, còn có tên là Nguyễn Văn Hay và Nguyễn Kế Trung, ngoài đời gọi là ông đạo Tư, hoạt động cho phái Bửu Sơn Kỳ Hương rất đắc lực, đã từng làm đội cố vấn cho Trần Văn Thành. Khi thất trận, Nguyễn Văn Vi trở về quê quán ở vùng Cái Bè, Nguyễn Văn Vi liên lạc với Lê Văn Vang, tục danh là Tám Vang (năm 1883, khoảng 60 tuổi) từng làm chức đội nhứt. Khi thất trận Bảy Thưa, ông Lê Văn Vang lần hồi lưu lạc tới Nam Vang (kinh đô Cao Miên) trú ngụ tại Bưng đồng, làng Long Hội. Nguyễn Văn vị đến Nam Vang gặp Lê Văn Vang mà hỏi ý kiến và cho biết thêm là phong trào đang lên, Lê Văn Vang tán thành, hứa sẽ trở về Cái Dầu (Châu Đốc) mà điều khiển. Theo khẩu cung của Lê Văn Vang thì khi được hỏi có phải là đạo Lành không, ông trả lời: "Tôi thật người đạo Lành, nguyên trước tôi lãnh bùa Bửu Sơn Kỳ Hương là bùa của Quản Thành đã phát cho tôi"
Đạo binh do ông Trần Văn Thành tổ chức ở Bảy Thưa gồm tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương, mang danh là Binh Gia Nghi (chữ nho là Gia Nghị Cơ). Khi Nguyễn Văn Vi hỏi ý kiến về danh xưng của đạo binh sắp thành lập để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa chung ở Mỹ Tho, ông Lê Văn Vang khuyên Nguyễn Văn Vi nên gọi là Giang Nghị, chớ không dùng chữ Gia Nghị lúc trước.
Tại sao có sự đề nghị thay đổi danh xưng này? Chúng tôi phỏng đoán là vì giữ bí mật, nhưng lý do chánh vẫn là muốn hòa mình vào phong trào chung. Giang có nghĩa là tỉnh An Giang, cơ bình thời đàng cựu thường lấy một chữ trong tên của tỉnh, ghép vào một chữ khác. Tuy nhiên trong một số văn kiện vẫn dùng danh xưng là Gia Nghị hoặc Gia Nghị cơ, trụ sở trung ương của cơ này là Thiên Sơn Trung Tự (chùa Thiên Sơn Trung), thỉnh thoảng có văn kiện ghi rõ là "Thiên Sơn Trung Gia Nghị tam quan hiệp đồng" ngụ ý là lịnh được ba vị chỉ huy tối cao bàn bạc kỹ lưỡng rồi mới ban ra. Tên của ông quản Thành được nêu lên, nhưng ghi là Trần Vạn Thành. Theo lời truyền khẩu của tín đồ, ông này chỉ mất tích sau trận Bảy Thưa chớ không chết.
Đáng chú ý là Nguyễn Văn Vi tuy thuộc hàng giáo phẩm của Bửu Sơn Kỳ Hương những vẫn liên lạc mật thiết với các phong trào ngoài tôn giáo của mình, trong một tờ trình mà thực dân bắt gặp, không ghi rõ năm, ông đề nghị với cấp trên của mình là nên liên kết với Thiên địa Hội vì đó là tổ chức có thực lực.
Bốn nhóm nói trên gây được ảnh hưởng tâm lý sâu rộng trong tỉnh Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long và trung tâm vẫn là vùng Cái Bè, một vị trí chiến lược. đốc phủ Trần Bá Lộc báo cáo với chủ tỉnh Mỹ tho:
-"Dân gian đồn đãi là nhà nước (Pháp) đánh Bắc Kỳ thì chắc có lẽ vua An Nam cho phép kẻ cừ nghịch trấn ở Bình Thuận thuộc về ông Điền Nông quản thúc bấy lâu nay trở về khuấy rối. . "
- "chừng ba bốn tháng nay quân hoang dã đã thông với quân hoang Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên toan lấy Vĩnh Long khi quan trên rút lính Lang Sa và lính tập . . "
- "Dân chúng đợi quan trào vào mà dấy loạn . . "
- "Trường bố Mỹ Tho ít người đến làm việc là quân nghịch đồn ngoài Huế tràn vào. . "
Cuộc khởi nghĩa không thành tựu nhưng về nội dung rõ ràng là có sự đoàn kết nhất trí của đồng bào miền Nam. Hòa hợp nhau, không câu nệ về lý thuyết, tín ngưỡng: bài Mãn phục Minh, hoặc phò Thanh diệt Tây dương, hoặc đón chờ hội Long Hoa thời Mạt pháp, hoặc gìn giữ xã tắc đều là một . Đạo và Đời gắn liền nhau. Đốc phủ Trần Bá Lộc bắt trong các nhóm trên tất cả là 135 người: 103 người mà hắn cho là nghịch, 16 người thuộc vào hạn tri gian nhi bất tố (tức là biết kẻ gian mà không chịu tố cáo), 16 người là thân nhân của những người cầm đầu phong trào. Vì thiếu bằng cớ cụ thể về mặt pháp lý vã cũng vì không muốn làm cho nhân tâm náo loạn. Thống đốc Nam kỳ ra quyết định ngày 26-11-1883 chỉ lưu đày 14 người ra Côn Đảo; mấy người kia được thảra ngay. Trong số bị đày có ông đạo Tư tức Nguyễn Văn Vi.
Trên giấy tờ là như thế; trong thực tế, nhiều người bị đốc phủ Lộc bắt giam ở dinh quận, tra tấn tàn nhẫn rồi thả ra. Riêng một làng Thạnh hưng, tổng Phong Phú (Cái Bè) số người bị bắt lên đến 73 người, một người nọ bị bắt, cổ mang gông, tay bị trói đã nhảy xuống sông mà tự tử.
Được hỏi về trường hợp bị quyến rũ tham gia phong trào, vài bị can cùng khai như sau:
- Thầy Vi nói rằng: "Việc đã gần lắm, chú phải kiếm chút giấy chi mà giữ mình ngày sau. Tôi trả lời: thầy sao tôi cũng vậy".
- Trùm Tập kêu tôi tới nhà mà nói với tôi rằng: "Việc đời đã đến, em út có tình theo tao mà làm việc nghĩa không? Tôi trả lời rằng: "tôi không việc việc ra thế nào mà phóng theo. Để thủng thẳng sau sẽ hay, hễ anh làm sao thì tôi cũng vậy."
- Đến nhà tôi, danh (tên) nớ hỏi tôi rằng: "Việc đã đến, anh có tính ra với người ta hay không? Tôi nói rằng không dám thì danh Nở nói: Nếu mà anh không dám làm, anh phải kiếm cho tôi ít người . . "
Có người trên 70 tuổi đã bỏ nhà để tham gia phong trào, không bắt được ông lão này thì đốc phủ Lộc bắt người con, tuổi đã 52. Người con khai: "cha tôi nói với tôi: thôi bây giờ thiên hạ người ta đi làm nghĩa, tao đi với người ta, còn nhà của mày, tao giao cho mày giữ lấy mà làm ăn.
Nguồn: Trích “Cá Tính Miền Nam – Sơn Nam”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:01:20 GMT 9
Nhận Xét Về Ca Dao Hậu Giang Sơn Nam
Trong số những ca dao xuất xứ từ miền Hậu Giang, có lẽ loại « sấm vãn » là xưa nhất. Không đi sâu vào nội dung, chúng ta chỉ ghi nhận vài điểm : Vãn là bài thơ, văn vần. Sách xưa nêu rõ thí dụ : Nhị độ Mai, Vãn (Les pruniers refleu-ris, poème tonkinois). Bản in địa phận Sài Gòn 1894, hoặc hựu viết, Vãn viết trong tuồng hát bội. Vì lối phát âm không rõ ràng của người miền Nam nên Vãn bị lầm là Giảng và Sấm Giảng nghĩa là một bổn văn vần truyền khẩu tiên đoán thiên cơ, giảng giải đạo lý.
Vài đoạn thơ gọn gàng dưới đây đủ chứng tỏ mức diễn đạt của vài tu sĩ hồi đầu thế kỷ XX :
Hai Võ phân nói thiệt thà : « Kinh kệ áo dà, để lại chốn đây E khi đi có gặp Tây, Nó coi thấy đặng, sắp bây không còn ». Tính thôi đã một buổi tròn, Xuống thuyền ra biển, hỡi còn canh hai !
(Vãn núi Tà Lơn của ông Cử Đa)
Hư nên các việc tỏ bày Tôi không có ép có nài chi ai, Thương thay ông lão Bán Khoai Lên non xuống núi hôm mai dạy đời Thân sao nay đổi mai dời Xóm kia làng nọ, khổ thay thân già ! Nam mô đức Phật Di Đà Khiến người trở lại thảo gia của người Bạc bảy đâu sánh vàng mười Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
(Vãn ông Sư Vãi Bán Khoai)
Nhưng các loại thơ truyền khẩu kể trên vì quá mang nặng tâm lý địa phương nên thiếu tánh chất phổ biến. Vùng Hà Tiên, Châu.Đốc vốn là một biên trấn với nền kinh tế nông nghiệp tự túc. Từ xưa, kiều bào Việt Nam đã khai thác tận vùng biên giới Kampot, núi Tà Lơn (chaine de l’Eléphant). Lúc ban sơ, Mạc Cửu đến miền duyên hải vịnh Xiêm La với hoài bão bài Mãn phục Minh.
Năm 1787, sử chép việc Hà Hỉ Văn thuộc Thiên Địa Hội đem đoàn Tàu Ô đến qui phục chúa Nguyễn Ánh ở đảo Cổ Cốt. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều đạo sĩ Việt Nam cố gắng biến chuyển khẩu hiệu « bài Mãn phục Minh » trở thành lý luận chống thực dân Pháp. Họ phát triển và áp dụng các quan điểm về phong thủy vào vùng Thất Sơn, Cửu Long, dùng những danh từ : Hớn Chúa, Minh Chúa v.v…
*
Bên cạnh những ẩn sĩ, còn nhiều khách tục, những kiều bào tha phương cầu thực. Vào khoảng 1916, họ nhắn vọng về cố quốc :
Tà Lơn xứ rày con tạm ở Nghiệp lưới chài nhiều tháng náu nương Gởi thơ cho cha mẹ tỏ tường Cùng huynh đệ đặng cho hãn ý Kể từ con đăng trình vạn lý Đến bây giờ có bảy tháng dư Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt … … …
Vận bất tề nay trẻ nổi trôi Thời bất đạt nên con xa xứ Con cũng biết mười ơn vẹn giữ Dạ lâm bền ba thảo ghi lòng Câu tam niên nhủ bộ bất vong Nghĩa thập ngoạt lòng con lo trả Khó vì nỗi anh thì một ngã Cực lòng thay em ở một nơi Bảy ngày Xuân con chịu tả tơi Ba bữa Tết khoanh tay ngồi ngó … … …
Việc ở ăn nhiều nỗi đắng cay Vái Trời Phật xin về quê cũ Xứ hiểm địa, chim kêu vượn hú Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan Ngó dưới sông : cá mập lội dư ngàn… Nay con tới nơi nguồn cao nước đục Loại thú cầm nhiều thứ chỉnh ghê ! Giống chằng tinh lai vãng dựa bên hè Con gấu ngựa tới lui gần xó vách …Bầy chồn cáo đua nhau lúc ngúc Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên… …Trên chót vót, nai đi nối gót Đôi vượn bạch nựng con thảnh thót Cặp dã nhơn kêu tiếng rảnh rang Ngó sau lưng : con kỳ lân mặt tợ như vàng Nhìn trước mặt : ông voi đen huyền tợ thổ. Hướng Đông Bắc, con Công kêu tố hộ, Cõi Tây Nam, gà rừng gáy ó o…
Còn nhiều câu khác vừa tả chân vừa hài hước ; đọc bài vãn Tà Lơn, hẳn thân nhân của thi sĩ vô danh nọ cũng mỉm cười, được an ủi phần nào. Ác thú ở Tà Lơn tuy nhiều thứ nhưng thi sĩ vẫn sống nhăn như người đi du ngoạn ở thảo cầm viên, ngày xuân.
*
Ngoài miền đồi núi An Giang, ở Hậu Giang còn một miền địa lý thứ nhì ăn suốt bờ biển Kiên Giang, phần lớn Ba Xuyên và toàn tỉnh An Xuyên. Nơi đây, đất quá thấp vì mới bồi, các rạch nhỏ bắt nguồn từ biển để theo thủy triều đổ vào đồng sình lầy. Dưới sự đốc suất của Thoại Ngọc Hầu, kinh Vĩnh Tế và kinh Núi Sập (Thoại Hà) đã hoàn thành từ đầu thế kỷ XIX, dẫn nước ngọt từ Hậu Giang đem tưới các ruộng vườn xa lánh, vừa rửa cho đất sạch phèn, vừa giúp việc lưu thông vận tải. Bài vè kinh Vĩnh Tế nói lên công trình khó nhọc của tiền nhân đã phục dịch giữa nơi khí hậu bất lợi. Từ làng quê đến chỗ đào kinh, họ phải qua nhiều vùng nguy hiểm dễ làm mồi cho sấu cọp. Rất tiếc là bài vè ấy mới sáng tác lúc sau nên giá trị về sử liệu quá kém cỏi.
Đáng chú ý hơn hết là việc đào kinh bằng phương tiện cơ giới « phối hợp kỹ thuật cơ giới Tây Phương và đức kiên nhẫn, siêng năng của người Việt » hồi đầu thế kỷ thứ XX.
Kinh Xà No (Phong Dinh) khởi công đào năm 1901, hoàn tất năm 1903. Hệ thống kinh Xáng Ngã Năm, Ngã Bảy (Phong Dinh) thành hình từ 1906-1908.
Nhờ vậy tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh) đứng hạng nhứt ở toàn Nam kỳ về sản xuất lúa gạo. Lúa gạo bán tăng giá. Mức sống của mọi từng lớp lên cao. Những người dân hai Huyện (trai Nhơn Ái, gái Long Xuyên) bấy lâu nổi tiếng là người dinh (dân sang trọng, chánh gốc, ở vùng dinh quan chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh) gặp cơ hội thuận lợi để di cư khắp vùng mới đào kinh Xáng để làm thầy dạy hò hát.
- Đời phải đời thạnh trị Cuộc phải cuộc văn minh Kìa là gió mát trăng thanh Nầy bớ em ơi ! Biết đâu nhân đạo bày tình cho vui… - Nước bích non xanh Người bạn lành khó kiếm Đây em cũng có hiếm, chẳng lựa đặng chỗ nào Mãn lo mua bán ra vào Cần Thơ…
Đa số các thầy vốn là đào kép hát bội, giải nghệ – được học trò rước đem về nhà để dạy hò – dạy ăn tiền.
Trong ngôn ngữ bình dân, không nghe nói đến danh từ ca dao. Căn cứ vào nhạc điệu, trường hợp sử dụng, họ gọi đó là hát đưa em, hát huê tình, hát đối, hò chèo ghe, hò xay lúa, hò cấy.
Câu hát đưa em :
- Chờ em cho mãn kiếp chờ Chờ cho rau muống vượt lên bờ trổ bông. Có thể đưa ra đồng lúa, trên sông rạch để trở thành câu hát đối. Và khi gặp người đáp lại khéo léo :
- Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ Ai biểu anh chờ mà anh kể công ơn. Thì cả hai vế được gìn giữ đem về nhà trở thành câu hát đưa em.
Xu hướng « kéo dài, bổ túc các câu sẵn có » đã tạo thêm được nhiều câu hát đưa em đáng lưu ý :
- Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm - Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu.
Hoặc :
Khế với chanh một lòng chua xót Mật với gừng một ngọt một cay - Ra về bỏ áo lại đây Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng - Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa.
Người thọ giáo không cần học vỡ lòng về luật bằng trắc, yêu vận, cước vận vì ai nấy đã từng thở không khí lục bát và các biến thể của loại thơ ấy từ khi nằm trên võng.
Theo quan niệm các thầy thì câu hát đối đáp chia ra ba loại, tùy sở trường, sở đoản từng người mà áp dụng.
1. HÒ VĂN dùng cách ngôn Khổng Mạnh (trích trong Minh Tâm Bửu Giám) để gợi hứng, gieo vần :
Vật bạc tình bất thủ Nhơn phi nghĩa bất giao Anh nguyền thưởng bậu một dao Răn phường lòng dạ mận đào lố lăng…
Hoặc :
Tay cầm quyển sách Minh Tâm anh đọc : Thiện ác đáo đầu chung hữu báo Cao phi viễn tẩu khả nan tàng Từ khi anh xa cách con bạn vàng Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
2. HÒ TRUYỆN dùng điển tích trong truyện Tàu để gợi hứng gieo vần hoặc nêu câu hỏi :
Văng vẳng bên tai Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền ? Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa Từ trên trời xuống mặt nước mấy trăm ngàn thước ? - Từ mặt nước xuống âm phủ đi mấy ngày đường ? Một bộ Tây Du mấy cuốn ? Một cuốn mấy trương ? Một trương mấy hàng chữ ? Nói cho có ngăn có ngữ, gái má đào mới chịu thua ! - Đó ở dưới thuyền buôn, thả luông tuồng theo nhịp Có phải là : Ngũ Hồ ký tính Đào Công vi nghiệp Tứ hải ngao du Yến Tử Phòng Linh đinh nay lớn mai ròng Vậy đà có chốn loan phòng hay chưa ?
3. HÒ MÉP dùng lời lẽ nôm na, không điển tích, không cách ngôn.
Đèn tọa đăng để trước bàn thờ Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim Trách ai làm cho thế nọ xa tiềm Em xa người nghĩa mà nằm điềm chiêm bao.
Lúc đầu, loại hò văn và hò truyện được ưa chuộng Truyện Tây Du, Phong Thần, Tiền Đường, Hậu Tống, sách Minh Tâm Bửu Giám lần lần xây dựng cho mọi người một vốn liếng về cổ học, nhân bản của Á đông. Việc phổ biến ấy ngày càng thêm sâu rộng nhờ mức sống của nông dân và tiểu thương lên cao, nhờ phương tiện chữ quốc ngữ. Bắt đầu ấn hành từ đầu thế kỷ tại Sài Gòn ; các bản dịch ấy phải đợi non 30 năm sau mới thấm vào giới trung lưu và bình dân ở thôn quê Hậu Giang – như thế kể cũng nhanh chóng.
Nam thanh nữ tú tung ra tất cả tri thức của mình để thi tài biểu diễn. Đó là tật chung của kẻ mới làm giàu, ưa khoe của, « xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ ». Thật bực mình khi nghe những câu hò dẫn chứng nhiều điển tích sai lạc, vô nghĩa hoặc nhiều cách ngôn của Khổng Tử, Tư Mã Ôn Công với danh từ lẫn lộn, ép vận, sai văn phạm cổ văn. Nhưng chúng ta chưa bi quan : trước ánh sáng của nghệ thuật, loại hò mép nôm na (không điển tích không chữ Hán) vẫn là hình thức cao nhứt, khó thành công nhứt dành riêng cho những người có chân tài, những người trầm tĩnh. Họ đã khéo léo đưa ra những câu hò từ miền Tiền Giang, Trung Phần để bẻ lại. Bẻ là uốn nắn cho hợp tình hợp cảnh :
Ai về Giồng Dứa qua truông, Gió đưa bông sậy để buồn cho em.
đã trở thành :
U Minh Rạch Giá thị quá sơn trường Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai.
Và hình ảnh mơ hồ của cây cầu Trường Tiền ngoài Huế :
Cầu cao ba mươi sáu nhịp (?) Em theo không kịp
Nhắn lại cùng chàng :
Cái điệu tào khang Sao chàng vội dứt Đêm nằm thao thức Tưởng đó với đây Biết nơi nao cho phụng gặp bầy Cho le gặp bạn Ruột đau từng đoạn Gan thắt chín lần Đôi ta như chanh với khế, như quế với gừng Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi !
Để thêm phần duyên dáng và để biểu diễn nghệ thuật bắt vần, nhiều người trổ tài, môi những câu hò ngắn sẵn có. Môi tức là kéo dài thêm câu hát, đặt thêm nhiều đoạn lơ lửng, vô thưởng vô phạt hoặc có dụng ý :
Anh thương em Thương quấn thương quít Bồng ra gốc mít, bồng xít gốc chanh Bồng quanh đám sậy, bồng bậy vô mui Bồng lủi sau lái. Bồng ngoái trước mũi (v.v…) Để em nằm xuống đây Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng Miệng đắng cơm hôi Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi Bây giờ em vinh hiển, em bắt anh bán nồi làm chi ?
Ba hình thức hò văn, hò truyện ; hò mép đã tổng hợp trong một câu :
Tay cần cục mực, cây viết vàng Vẽ phụng vẽ loan Vẽ Tiết Đinh San Vẽ chàng Lâm Sĩ Vẽ bông hoa thị Vẽ chữ đại tường Đem về cắm trước đầu đường Người đi qua thấy rõ chữ kim tương (?) Kẻ bước lại xem tường văn võ Trách ai chận ngõ lấp truông, ngăn mây đón gió Để con bạn nọ phải thua buồn vì tiếng thị phi.
*
Theo thời gian, từ hình thức đơn giản trong sáng, câu hò lần lần trở nên nặng nề, mang nhiều chữ nho, điển tích nhưng nghèo ý nghĩa. Lắm người tuy nổi danh hò hay, hát giỏi nhưng thật ra họ chỉ thành công nhờ làn hơi thiên phú, nếu chép lời văn ra mực đen giấy trắng thì rõ ràng là nghèo vần điệu, trùng ý, lải nhải, quá sáo :
- Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa tào khang
Đêm nằm van vái, vái van ông Tơ hồng cùng bà Nguyệt lão, xui khiến cho tôi cưới đặng con vợ đồng lòng, đồng tâm, đồng chí, phu xướng phụ tùy, phụ tùy phu xướng v.v…
Thế sự ngày càng đổi thay, nếp sống xáo trộn ít nhiều là điều dĩ nhiên. Năm 1938, 1940, nếu được dịp dự một buổi lễ thành hôn ở vùng kinh Xáng Ngã Năm, Ngã Bảy, ta càng ngạc nhiên hơn. Đó là những xóm chạy thẳng ở hai bên đường giao thông thủy bộ, làm ruộng làm rẫy nhưng cũng bán hàng xén, hớt tóc, trong gian nhà có cửa sổ, có đèn « măn sông ». Bộ quần áo mặc ngủ (pyjama) và đôi giày « săn đan » trở thành lễ phục chánh thức (thay thế cho khăn đóng áo dài) khi chàng rể ra mắt bà con hai họ và bái từ đường ! Lúc đãi tiệc, một cậu thanh niên đứng dậy trình bày với cử tọa bài « văn chúc » theo kiểu :
« Thưa quí ông, quí bà, quí cô bác, các bạn thanh niên, mấy chị phụ nữ.
« Hôm nay là ngày… tháng… là ngày lễ thành hôn của bạn tôi là Mỗ sánh duyên cùng cô Mỗ. Trong khi hai họ sum vầy dự tiệc, tôi là người tài thô trí thiển lẽ thì phải lẳng lặng để nghe người trí thức giải bày « tâm lý » để cho tôi là kẻ thiếu học được dịp học thêm, nhưng tôi xin mạn phép đọc bài văn chúc nầy. Sách có câu chữ rằng : Châu Trần nhứt thôn vi kết hảo, Tấn Tần lưỡng quốc dĩ thành hôn… Tôi rất đáng khen bạn tôi biết vâng lời giáo huấn, chẳng học thói Sở khanh, đợi đến tuổi trưởng thành cho cha mẹ định đôi mới gọi rằng lưỡng toàn trung hiếu. Tôi thầm khen cô Mỗ biết giữ câu tiết trinh liêm sỉ và biết giữ danh giá cho cha mẹ, chẳng học thói chơi hoa nhà ta nhơ tiết… Thưa quí ông, quí bà, cô bác, các bạn thanh niên, mấy chị phụ nữ, tới đây, tôi xin « gát bút » và ngưng lời… »
Tới phần giải trí của buổi lễ một cụ già mặc áo « bành tô » xin trình bày bài « Vè thời sự » mới sáng tác.
Thí dụ như :
Ất Hợi niên (1934) chánh ngoạt Chợ Phước Long đại ách rõ ràng Người tha phương đem đến tai nàn Ngày 29, cuối tháng giêng năm đó Tám giờ rưỡi, chợ đương đông đen đỏ Chiếc xáng Năn (Nantes) múc tới ngang chành Chết máy rồi, thấy thợ soạn sành Xúm nhau lại sửa sang máy móc Ông Tây (coi) máy chăm nom săn sóc Chỉ đầu kia đầu nọ lăng xăng Nồi « xốt de » thiếu nước không bằng Cặp rằng (coi) lửa bẩm ông : Nước ít ! Rủi bữa đó ghe nước về không kịp Còn ông Tây nóng việc không phòng Biểu chụm càn, chạy đỡ cũng xong… Rồi lát nữa ghe nước về sẽ lấy Rủi nhiều việc, đồng hồ kẹt máy Củi chụm hoài không thấy đúng giờ … … …
Nghe cái rầm như đất lở trời nghiêng Người trong chợ thiếu điều té ngửa… …Nghe hết rền, thiên hạ đến coi Thương hại thay mười mấy mạng người Ông phó xáng văng xuống kinh gần chết Nhờ thầy Kiệt mau chơn lội vớt Chớ phải không hồn lặn âm cung Vớt lên bờ mình mẩy lấm bùn Đứng run rẩy tiếng tây quên nói. … … …
Chừng xáng nổ người bay trên mười thước Ba người đó, có hai người dài phước Bay lên rồi bay rớt xuống sông Còn một người bay bổng trên không Cũng may quá rớt nhằm bùn nước …Ngồi ngẫm nghĩ tình đời thêm mệt Câu nhân tình ấm lạnh điếc tai Nghe người đồn lộn xộn vắn dài Kẻ nói nọ, người nói kia mà đặt để Đầu trật trúng xin quí ông miễn lễ Tôi bận việc nhà không quan sát được rõ ràng… »
Tiếng vỗ tay vang rân khi dàn cổ nhạc bắt đầu lên dây. Buổi đờn ca kéo dài đến quá nửa khuya. Nhiều người vẫn chưa về, ngồi lì mãi tại chiếu, thách đố uống rượu, thưởng tài lẫn nhau qua câu vọng cổ Bạc Liêu, hát mãi mà không thỏa mãn !
*
Vì bản Vọng Cổ Bạc Liêu như bức chân dung không bao giờ vẽ xong. Nó giống như tranh tố nữ chỉ có đôi mắt u buồn là rõ rệt ; mái tóc, làn môi, nếp áo thì để chìm trong sương khói, mặc ai muốn thêm bớt tô điểm thế nào cũng được. Ngay cái tên của nó cũng đáng bàn cãi. Vào năm 1923, ông Cao Văn Lầu khởi tác bản Hoài Lang bằng chữ hò của điệu Lưu Thủy Trường, lời ca không ngoài ý tứ của điển tích Tô Huệ trông chồng. Bản Hoài Lang lần lần đổi tên, thêm nhịp để nuôi nấng những tình cảm phức tạp hơn. Điệu hò đối đáp đã tìm được ở bản Hoài Lang một hình thức tương đối sang trọng mà nương náu. Người ca không cần bới óc tìm điển tích, cách ngôn hoặc luyện tài để bẻ, để môi như trước. Bài và bản Vọng Cổ là điệu hò bào chế sẵn – như món đồ hộp – tập trung và phát triển những sầu muộn mà họ muốn giải bày mãi mãi.
Bản Vọng Cổ Hoài Lang đứng vững trong lòng dân tộc nhờ căn bản quê mùa của nó, căn bản của tiếng hát câu hò. Ở đây ta hiểu « quê mùa » theo nghĩa : tánh chất nông thôn, miền lục tỉnh. Quê mùa là một sắc thái văn hóa, một nhu cầu tình cảm tất yếu của người ở thôn quê và cũng là của người ở thành thị (provincialisme). Nó sống, không ngưng động quá lâu ở sắc thái cố định nào cả.
Nhưng văn minh kỹ thuật lan tràn thêm sau đệ nhị thế chiến. Chân trời hiểu biết của giới bình dân không còn bị hạn chế ở Minh Tâm Bửu Giám, truyện Tam quốc, Tần Đường nữa đâu ! Thiết tưởng ngày nay người yêu ca dao chớ nên phí thì giờ và tâm trí để du lịch về đồng quê vì mùa gặt hái của hò truyện, hò văn… đã mãn, chỉ còn lại cảnh « tót rả rơm khô ». Thà cứ ở đô thành ngồi nghe những buổi truyền thanh Vọng Cổ qua làn sóng điện, hoặc dừng bước lãng du, ghé rạp xem tuồng cải lương vào những lớp « áo não, lâm ly, gay cấn » để thông cảm với cô đào chánh đang cau mày cố gắng vô Vọng Cổ cho thật ngọt thật mùi trong lúc ánh đèn đổi màu ! Tiếng vỗ tay của thính giả rộ lên để chào đón một thế giới tình cảm quen thuộc nhưng chưa nhàm, một thiên đàng đã mất nhưng đang sống lại trong ảo giác ! Bình tĩnh mà xét, ta thấy người đẹp đứng « chết bộ » khi ca sáu câu Vọng Cổ quá dài, hai tay nàng chỉ biết xòe ra, nắm lại, quơ lên, quơ xuống như cố gắng tìm cho được một cây chèo, một cây nọc cấy, một cái dàn xay lúc hò hát xa xưa là bám cho đỡ ngượng ngập. Tuy mái tóc đã uốn theo kiểu Brigitte Bardot, nàng vẫn là cô đào thuở trước sùng bái ông tổ hát bội, tôn trọng những điều cấm kỵ thần bí (không đem trái thị vào hậu trường, không đi guốc vông, thổi ống tiêu…) Y phục ánh sáng chỉ là hình thức phù du nay vầy mai khác, duy có đôi mắt chung thủy của nàng đang hướng về khán giả như để dò hỏi trong tương lai : đôi mắt đẹp như những vì sao lấp lánh trong vòm trời nghệ thuật, từ xưa cho đến tận bao giờ ?
Trích: Nói Về Miền Nam – Sơn Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:02:32 GMT 9
Sách báo Đông Dương tại nhà sách cổ ở PhápChế độ nộp lưu chiểu tại Đông Dương chỉ được chính phủ thuộc địa bắt đầu áp dụng từ năm 1922, trong khi tại Pháp, nộp lưu chiểu đã được quy định trong các đạo luật 24/07/1793 và 19/07/1881 về xuất bản, báo chí và phân phối ấn phẩm. Chính vì vậy sách báo được in ấn trước năm 1922 tại Đông Dương không được thống kê đầy đủ và nằm tản mát tại các phòng ban của chính quyền thuộc địa, tại địa phương hoặc nằm trong thư viện của tư nhân, hầu hết là công chức và thương nhân người Pháp sống tại Đông Dương lúc bấy giờ. Ngoài số sách báo, tài liệu lưu trữ được bảo quản tại các thư viện nhà nước (BnF), trường học và cơ sở nghiên cứu (Inalco, EFEO), Hội Thừa sai Paris (Société des Missions étrangères de Paris) hoặc các cơ quan lưu trữ (Archives nationales), rất nhiều sách báo cổ, quý hiếm được lưu giữ trong các hiệu sách cổ, như hiệu sách Opiomane, chuyên về phương Đông, đặc biệt là Đông Dương. RFI tiếng Việt đã có buổi nói chuyện với ông Ghislain de La Hitte, chủ hiệu sách Opiomane (Paris), để hiểu thêm về thị trường ít được biết đến. *** RFI : Thưa ông Ghislain de La Hitte, từ 15 năm nay, ông sưu tập và bán sách cổ về phương Đông, trong đó có Đông Dương, ông thấy thị trường này phát triển thế nào ? Và đây có phải là một thị trường lớn không ? Ông Ghislain de La Hitte : Nhìn chung, thị trường sách cổ bị gạt bên lề. Có thể nhận thấy là ngày càng có ít hiệu sách và người bán sách do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong số các nguyên nhân chính, đó là công nghệ kỹ thuật số mà chúng tôi đang phải đối đầu. Điều này dẫn đến việc khi tìm một thông tin gì đó, người ta quen có được một thông tin đã được gọt dũa và soạn thảo sẵn. Người ta ít thiên về đọc hơn so với trước đây. Còn về sách cổ, đây là một thị trường rất nhỏ. Có rất ít người làm nghề này tại Pháp và trên thế giới. Tại Pháp, hiện có hai nhà sách, so với chừng 5-6 nhà cách đây 15 năm. Nhiều người đã bỏ nghề do thời thế. Còn nếu chỉ kể số người bán sách chuyên về hướng dẫn du lịch vùng Viễn Đông thì chỉ có vài người trên thế giới. Còn về câu hỏi nghề này hiện sống ra sao ? Giống như nhiều ngành nghề khác, sách có chất lượng cao vẫn luôn bán chạy. Còn những sách có chất lượng trung bình thì khó bán hơn. Thêm vào đó là trong mảng sách cổ xảy ra một tai tiếng tài chính liên quan đến các bản viết tay với một vụ lừa đảo có quy mô lớn về kim tự tháp Ponzy. Việc này đã làm toàn lĩnh vực nói chung mang tiếng, và đặc biệt là về giá vì trong vụ lừa đảo trên, giá bán đã bị thồi phồng lên rất nhiều. Vì vậy, nghề bán sách cổ bị tác động rất nhiều. RFI : Tủ sách của ông chuyên về phương Đông, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và đặc biệt là Đông Dương. Những loại sách nào được bán chạy nhất ? De La Hitte : Tôi không thể nói được sách nào tôi bán chạy nhất vì chúng đều thuộc loại khá hiếm nên tôi không bán nhiều. Nhưng tôi có thể nói những tiêu đề nào bán được dễ nhất. Trên thực tế, không hẳn là những tác phẩm cổ nhất là bán chạy nhất, trái với những gì người ta vẫn nghĩ, bởi vì những tác phẩm có từ thế kỷ 17-18 thường được các gia đình lưu giữ, bảo quản và truyền lại cho con cháu nên chúng thường được chăm chút rất cẩn thận. Ngược lại, có một số tác phẩm nhỏ, tài liệu giấy lại thường không được lưu giữ, phần lớn bị vất đi. Chính vì vậy, chúng lại trở nên vô cùng hiếm và được lùng ráo riết. Những cuốn được tìm kiếm nhiều nhất trong số đó thường là những tác phẩm mang tính giải trí, như các tạp chí cổ. Sở hữu các tạp chí được phát hành từ lâu là điều gì đó thú vị với một số khách hàng vì thông tin được xử lý ngày này qua ngày khác, vì có nhiều tranh biếm họa hoặc quảng cáo luôn bắt mắt… Một ví dụ khác là loại sách hướng dẫn du lịch, chúng có nhiều thông tin thiết thực, làm sống lại cả một thời kỳ. Thường thì cả hai loại ấn phẩm này, tạp chí hay hướng dẫn du lịch, sau vài năm người ta đều vất hết, nên khó tìm được và được bán chạy hơn cả. Ngoài ra, người ta còn sưu tập nhiều tác phẩm giới thiệu về những mối quan hệ của Pháp với các nước phương Đông, như những trao đổi đầu tiên giữa Pháp và Trung Quốc hay với Nhật Bản và Đông Dương. Đông Dương chiếm một phần rất quan trọng trong tủ sách của tôi do mối quan hệ liên quan đến lịch sử giữa Pháp và Đông Dương. Trung Quốc cũng tương tự do vị trí địa lý nên có rất nhiều tác phẩm về hai địa điểm này. RFI : Khách hàng của ông là những ai ? Dường như ngày càng có nhiều người Việt quan tâm đến sưu tập sách cổ ? De La Hitte : Khách hàng của tôi là cơ quan, trường học, cũng có các nhà nghiên cứu nhưng không đông lắm. Ngoài ra còn có những cửa hàng sách lớn ở Nhật Bản, Trung Quốc. Họ mua rồi bán lại cho các cơ quan và trường đại học trong nước. Cuối cùng phải kể đến khách hàng cá nhân, đủ thành phần. Nếu là người Pháp, điều thú vị là sau khi hiểu họ hơn, hầu hết mỗi người đều có một câu chuyện riêng với đất nước mà họ sưu tập sách. Ví dụ một người sưu tập sách về Nhật Bản hay Việt Nam thường có vợ hoặc chồng là người Nhật, người Việt. Cũng có những khách hàng người Pháp, thời trẻ sống ở đất nước mà họ sưu tập sách. Họ cho đó là những năm tháng đẹp nhất đời mình. Họ lưu luyến và muốn sống lại thời kỳ đó qua những cuốn sách về đất nước mà họ quan tâm. Cuối cùng, trong số khách hàng của tôi còn có công dân ở các nước liên quan, ví dụ người Hàn Quốc thì mua sách về Hàn Quốc, người Việt Nam mua sách về Đông Dương để tìm lại nguồn cội. Khi tôi bắt đầu nghề này cách đây 15 năm, tôi có khá nhiều khách hàng người Việt, chủ yếu là Việt Kiều. Nhờ vậy mà tôi phát hiện ra không chỉ có người Việt sống ở Canada, Mỹ hay Pháp mà có rất nhiều người sống ở bán đảo Scandinavia, ở Thụy Sĩ hoặc Úc. Khoảng 10 năm trở lại đây, ngày càng có nhiều đơn đặt mua từ Việt Nam, ở miền Bắc như Hải Phòng, Hà Nội, hoặc ở Sài Gòn. RFI : Xin ông giải thích rõ hơn về khách hàng Việt Kiều ! De La Hitte : Phải nói là khách hàng Việt Kiều của tôi đều rời Việt Nam trong những năm 1970 và giờ ít nhất họ đã 50 hoặc 60 tuổi. Với họ, tìm mua sách cổ về Đông Dương là cách làm tự nhiên, rất đỗi con người để tìm lại nguồn cội, tự hỏi mình là ai, từ đâu đến. Chính điều này góp phần làm gia tăng lượng khách Việt Kiều. Về phần thị trường Việt Nam, đúng là không có nhiều, thậm chí là gần như không còn nhiều sách tại Việt Nam, một mặt do các lý do chính trị, mặt khác do điều kiện khí hậu, ẩm ướt nên sách bị hư hỏng nhiều. Vì thế, rất nhiều ấn bản của trường Viễn Đông Bác Cổ và nhiều hội nghiên cứu Đông Dương, nếu không bị chính những người sở hữu trước hủy đi thì cũng bị hủy vì lý do chính trị, nếu không cũng bị mối gặm nhấm. Hậu quả là những bộ sưu tập đẹp mắt và sinh động về Đông Dương không tồn tại ở Đông Dương nữa mà nằm ở Pháp. Đó là những tác phẩm được người Pháp hoặc người Đông Dương thời kỳ đó mang về Pháp. RFI : Ông duy trì và mở rộng bộ sưu tập của mình như thế nào ? De La Hitte : Tôi tìm sách báo ở bất kỳ nơi nào có người bán. Có thể là ở những nơi công cộng như chợ hoặc các phòng bán, cũng có thể mua lại từ đồng nghiệp không chuyên về một khu vực địa lý như tôi. Họ khó bán được một cuốn sách chuyên về phương Đông trong khi tôi lại có những khách hàng tiềm năng. Một nguồn cung cấp khác là các cá nhân. Tôi mua được cả bộ sưu tập của những người quá cố, thường là đàn ông, và vợ của họ bán bộ sưu tập sách đó đi. Đây là những trường hợp đặc biệt với những câu chuyện khá xúc động về cuộc đời họ, ví dụ họ chào đời ở Đông Dương và chỉ trở về Pháp trong những năm 1970 với bộ sưu tập sách của mình trong hành trang. Thường họ sống ít nhất 40 năm ở Hà Nội, theo học trường Albert Sarraut, vì thế họ có rất nhiều điều muốn kể lại. Chính họ cung cấp cho chúng ta những bằng chứng quý giá và xúc động về thời kỳ đó. Tiếc là những con người này giờ không còn nhiều nữa ! Nguồn: vi.rfi.fr/viet-nam/20180907-sach-bao-dong-duong-tai-nha-sach-co-o-phap
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:03:35 GMT 9
Phụ Nữ Việt Nam Theo Chuyện Cổ Tích Lê Văn Hòe
Chuyện cổ-tích là những chuyện truyền-khẩu từ đời này sang đời khác, trải bao nhiêu thế-hệ, in sâu vào đầu óc quốc-dân, hầu như là sử mà không phải sử, hầu như là chuyện bịa-đặt hoang-đường mà không phải là bịa-đặt hoang-đường. Cổ-tích ở giữa hai thứ đó, nửa hình như có thật, nửa hình như tưởng-tượng ra. Nhưng nó vẫn là phản-ảnh của tinh-thần một dân-tộc, với tất cả cái màu-mè, cốt-cách của dân-tộc ấy.
Chuyện cổ-tích của dân-tộc này thì kể thế này, chuyện cổ-tích của dân-tộc khác thì kể thế khác, dù nhiều khi cốt chuyện vẫn là cốt chuyện chung, chẳng hạn như nạn Hồng-Thủy hoàn cầu, dân-tộc nào cũng truyền-khẩu, nhưng mỗi nơi truyền-khẩu một khác nhau.
Vậy thì, ta phải nhận rằng chuyện cổ-tích là cái hồn chung của một giống-nòi phát-tiết ra, vĩnh-viễn, bất-diệt, nếu nòi-giống ấy vẫn còn.
Chuyện cổ-tích đã là chuyện riêng của từng dân-tộc, thì nhân-vật trong chuyện cũng là người riêng của từng quê-hương.
Như vậy, chuyện cổ-tích cũng có thể cho ta ít nhiều tài-liệu để kê-cứu về tính-tình người Việt-Nam, thuần-túy. Ở đây chúng ta mượn cổ-tích để xét riêng về chị em bạn gái nước nhà.
CHUYỆN TRẦU CAU Xưa có hai anh em họ Cao, anh là Tân, em là Lang, cha mẹ mất sớm, ở với nhau rất mực thân yêu, không hề rời nhau một bước. Sau anh được thầy học mến, gả con gái cho. Từ khi có vợ, Tân lãnh-đạm với em. Lang trơ-trọi ở đời, lấy làm buồn, bỏ nhà đi. Đi mãi đến bờ một con sông rộng mênh-mông. Thuyền bè không có. Lang thất vọng, ngồi khóc. Khóc mãi chết rạc đi, hóa làm một hòn đá. Thấy em đi mãi không về, Tân lấy làm nhớ, đi tìm. Đi mãi thế nào cũng lại gặp con sông, thấy phiến đá liền ngồi lên nghỉ, có ý đợi thuyền bè để qua sông. Nhưng làm gì có thuyền bè, chàng buồn-chán ngồi khóc, không chịu trở về, khóc chết rạc đi, hóa làm cây cau. Vợ ở nhà thấy chồng đi mãi không về, rất lấy làm thương nhớ, liền cũng đi tìm. Cũng gặp sông, nàng ngồi lên phiến đá dưới bóng cây chờ đợi, rồi thất-vọng, nàng khóc rạc người đi hóa làm cây trầu không… Sau vua Hùng-Vương đặt lệ ăn trầu để kỷ-niệm một nhà tiết-nghĩa.
CHUYỆN CÔNG-CHÚA TIÊN-DONG Công-chúa Tiên-Dong là con gái vua Hùng-Vương thứ ba, nhan-sắc tuyệt trần, 18 tuổi rồi mà vẫn chưa kén được kẻ xứng đôi vừa lứa.
Một ngày kia về tiết mùa hè, công chúa ngự thuyền chơi bãi Chử xá rồi sai buông màn tắm sông. Thình-lình gặp Chử-đồng-Tử ở đó, liền lấy làm chồng. Được tin công chúa lấy đứa hèn-hạ, Vua tức giận vô cùng. Tiên-Dong không dám về, cùng chồng buôn bán ngoài bể sau gặp Phật truyền phép lạ, vợ chồng đều thành tiên, đi đến đâu chỉ lấy cái gậy chống xuống đất rồi che cái nón lên làm nhà. Dân-gian có câu hát rằng :
Yêu nhau chẳng lọ chiếu giường,
Có một cái nón che sương cũng tình.
CHUYỆN TRƯƠNG-CHI Ngày xưa có anh Trương-Chi,
Người thì thật xấu hát thì thật hay.
Trương-Chi hát hay lắm. Ngày ngày câu cá trên sông, anh thường cất dọng hát những điệu du-dương trầm-bổng, déo-dắt véo-von, khiến cho cô Mỹ-Nương, con gái quan Thừa-Tướng, cấm-cung trên lầu tây ở bên sông, nghe mà ngây-ngất. Cô tương-tư thành bệnh. Quan Thừa-Tướng cho đòi Trương-Chi tới dinh hát cho Ngài nghe. Dọng hát vừa cất lên thì bệnh Mỹ-Nương mười phần khỏi chín. Nhưng thấy mặt chàng, thì nàng không muốn nhìn, khiến Trương-Chi thất vọng đâm đầu xuống sông tự tử.
CHUYỆN VŨ-THỊ Xưa ở hạt Nam-Xang Hà-Nam có người con trai tên là Trương-Sinh, lấy vợ là Vũ-thị-Thiết. Vợ chồng lấy nhau được non năm trời, thì Trương-Sinh phải đi lính. Vũ-Thị có mang được vài tháng, năm sau sinh đứa con trai đặt tên là Đản. Nàng nuôi mẹ chồng và nuôi con thơ, thật là vất vả. Rồi mẹ chồng mất, nàng lo-liệu ma-chay đủ lễ. Chồng xa, nhà vắng, cảnh buồn tênh, con lại hay quấy khóc. Nhớ chồng, tối tối thắp đèn lên, nàng thường trỏ vào bóng mình đó là « cha Đản » để dỗ con. Mấy năm sau, cha thằng Đản đi lính về, Đản không theo, bập-bẹ nói đó không phải là cha Đản. Cha nó là người đêm đêm đến nhà ngồi bên mẹ nó kia ! Vũ Thị bị chồng ngờ là có ngoại-tình, mà không hiểu vì cớ gì, liền deo mình xuống sông Hoàng-giang để tỏ lòng trinh-bạch.
CHUYỆN TÔ-THỊ Chồng nàng Tô phải đi thú xứ Lạng. Nàng ở nhà nuôi mẹ chồng và con thơ. Mấy năm sau mẹ chồng chết, nàng lo-liệu việc ma chay rất là chu-đáo. Rồi nhớ chồng, nàng bế con lặn-lội thiên sơn vạn thủy, nhất định lên tận Lạng-Sơn tìm. Vì bẵng đi 5,6 năm trời không được tin-tức. Tới nơi, thì chồng nàng phải sang Tàu.
Thất vọng, nàng ẵm con lên đỉnh núi cao, nhìn sang bên kia ải Nam-Quan, mong ngóng. Một ngày, hai ngày… nàng cứ đứng xững đó trông chồng, không chịu xuống. Có người biết chuyện, động lòng thương, định lên núi khuyên nàng bế con xuống, nhưng lên tới nơi, thì thấy cả hai mẹ con nàng đều đã hóa ra đá từ lâu.
Trích: Lược Luận Về Phụ Nữ Việt Nam – Lê Văn Hòe
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:04:40 GMT 9
Lễ Tết Nguyên-Đán Chôl-Chnăm-Thmây Của Đồng Bào Miên Châu Giang Tử
NÓI đến xứ Chùa Tháp, người ta liền hình-dung đến kỳ-quan Đế-Thiên Đế-Thích, Biển Hồ, « Cầu Saigon » …, hay những đền tháp, chùa chiềng (Wach) với kỹ-thuật kiến-trúc rập khuôn mang một sắc-thái trầm lặng cơ-hồ như phảng-phất những gì huyền ảo... Người ta cũng không quên trong những ngày xa xưa, xuôi thuyền dọc theo bờ sông Cửu-Long, dưới tàn cây « thốt-lốt », hàng cây dừa cao nghệu rũ bóng xuống mặt nước phẳng lờ và càng thấm-thía hơn nữa qua giai-thoại bình-dân được phổ cập trong câu hát tâm-tình mà ít người miền Nam nào không thuộc lòng :
« Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái mà có con… »
Người Miên nhìn chung đều mang sắc-thái bình dị, có lẽ ảnh hưởng nơi tập-tục tôn-giáo mà phần đông đều theo Phật phái Tiểu Thừa. Ngôi chùa nổi tiếng tại kinh đô Chùa Tháp gọi tên là « PA-LOUN » (theo âm Việt) vẫn được du khách nhắc nhở đến… Cũng như những hình ảnh đặc-biệt của những chiếc áo cà-sa vàng chói của sư-sãi và trang phục cổ-truyền đồng-bào Miên mặc trong các ngày lễ tôn-giáo. Hình ảnh nói trên chúng ta có thể nhìn thấy tại miền Nam nước nhà khi đóng vai-trò du-khách và lần lượt ta ghé thăm các tỉnh vùng hạ lưu sông Cửu-Long như Vĩnh-Bình (Trà-Vinh), Ba-Xuyên (Sóc-Trăng), Châu-Đốc, Cần-Thơ, Bạc-Liêu, Rạch-Giá v.v… qua các tập thể Việt gốc Miên mà sinh-hoạt của cộng đồng vẫn giữ nề nếp cổ-truyền và sắc-thái cá biệt thường do các vị Đại Đức « Mekon hay Amoukou » lãnh-đạo tinh-thần.
Do đó, đồng-bào rất chú trọng đến các ngày lễ tôn-giáo thường được ấn-định rõ ràng trong Miên lịch hằng năm – Ngày các lễ nhỏ tại gia, có những lễ lớn tổ chức trọng thể tại Chùa thí-dụ như các lễ :
- Visak-Bôchéa (rằm tháng 4)
- Chôl-Wasa (lễ cấm phòng sư sãi)
- Phchum-Bânh hay Đôn Ta (cúng ông bà)
- Ork-Ombok
- He-Ka-Thinh
- He-Fka… v.v…
Và nhất là lễ Tết Nguyên-đán được gọi là : « CHÔL-CHNĂM-THMÂY » mà hằng năm đồng-bào đều tổ chức rất linh đình, tận hưởng suốt 3 ngày trường.
ĂN TẾT THÁNG BA Quen với khí tiết mùa xuân, tiễn đưa năm cũ, tiếp đón năm mới và tận hưởng mấy ngày Tết đầu tháng giêng, chúng ta có thể ngạc nhiên với sự kiện trái ngược nêu trên. Sự thật như trên đã nói, chịu ảnh hưởng của đạo Phật tiểu-thừa, Miên lịch căn cứ nơi sự kiện tuổi của Đức Phật lúc sanh tiền và cũng là một cách để kính cẩn nhắc nhở công đức của Đức Phật, vì trong thâm tâm mọi người đều quan-niệm ngày này chính là ngày « CHỊU TUỔI » của tất cả mọi tín hữu. Vì thế ngày Tết còn được gọi giản-dị là ngày lễ chịu tuổi. Phật lịch Miên ấn-định sẵn ngày giờ vào Tết (thí-dụ như năm I966 tức Phật lịch 2.509, ngày Tết sẽ nhằm đêm I3/4/I966 tức là 23/3 Âm lịch Bính Ngọ. Theo tập tục, người ta kể trong tháng nầy : từ mùng một đến rằm là « KƠTT » và từ I6 về sau là « RÔCH ». Và đêm I3 rạng I4, tức là 8 rạng 9 RÔCH vào lúc 2Ig45 là giờ vào Tết, và cứ tận hưởng suốt thời gian 3 ngày tròn. Trong dịp nầy nếu tại xứ Chùa Tháp tưng bừng tở mở thì đồng-bào Việt gốc Miên của chúng ta bao giờ tổ chức cũng linh-đình và trọn vẹn tận hưởng.
CHUẨN BỊ KỸ LƯỠNG Đã có lịch minh định sẵn và tuần tự theo thời-gian, kế-tiếp nhau các lễ lộc trước đã được cử hành, nên lễ tết chịu tuổi như được báo trước cho mọi gia-đình nhờ đó, người ta bắt đầu chuẩn bị sớm. Lẽ tất nhiên trước nhất là chùa chiền, nhà cửa. Người ta lo quét tước, phát quang cỏ rác sạch sẽ tứ phía, lau chùi mọi nơi nhất là các nơi thờ phượng có tính-cách tôn kính thường được các cấp chức-sắc chăm sóc tỉ-mỉ để tỏ lòng tôn kính. Nhìn chung là cả một sự lột-xác vì toàn thể đã có vẻ đẹp và mới mẻ rực rỡ.
Nhà nhà ai cũng không quên lo chuẩn-bị làm bánh trái thường dùng như bánh ích, bánh tét, bánh phòng. Cũng cần nên chú ý là người ta phải lo sẵn hai thứ bánh trái, hoa quả vì một để kính dâng các sư-sãi theo lễ-tục và một để ăn uống tại nhà, đãi đằng bà con, thân thuộc, và cả người bạn gia-đình lân cận. Các người đàn ông thì lo tìm củi khô để xử dụng trong mấy ngày nầy. Mặt khác các bà mẹ cũng còn phải lo may sắm cho chính mình, con cháu trang phục mới như áo cổ đứng, có bâu, nút thắc chỉ màu cho các bậc phụ lão, các loại « Co ma » đặc-biệt, cũng như các loại « chăn-hum » (Sampot) quí giá – Nói tóm, là suốt năm làm lụng, buôn bán tảo tần để dành chi-dụng cho ba ngày tết chịu tuổi.
NGÀY CHÍNH LỄ TƯNG BỪNG Bắt đầu từ ngày vào Tết tức là ngày đầu Tết, cũng là ngày chánh, toàn thể tín hữu đều áo chăn tha thướt màu mè sặc sỡ, tay bâng quả bánh trái, hoa quả lũ lượt đến chùa. Dĩ nhiên nơi nầy phủ màu trang nghiêm, khói hương nghi ngút vì dù đông nhưng mọi người kính cẩn trang lặng tuyệt đối. Thường thì các vị sư cả chủ lễ. Đồng-bào trước nhất mang hoa quả và nước hoa đến làm lễ « tắm Phật ». Tuần tự ai đến trước làm trước, có khi từng cá nhân, từng gia-đình hoặc cũng có thể hợp lại cùng làm lễ một lúc.
Hồi kinh ngân nga thánh thót chúc mừng Đức Phật, đồng-bào lũ lượt tiếp tục lễ Phật và trai tăng… và cứ như thế kéo dài suốt buổi sáng.
Qua buổi chiều dành cho việc thăm viếng, chúc tụng lẫn nhau, hội hàng đình đám hả hê vui vẻ. Do đó các cuộc vui chơi được tổ chức rình rang. Có khi phân biệt từng khu vực, xóm làng đối diện nhau mời qua lại, ăn thua được cuộc bằng tiền bạc, đồ vật hay bò, hoặc xe bò… qua các cuộc bắn chàm, kéo dây, thẩy boule v.v… cũng có người thần đỏ hả hê vui, cũng có người vận đen ủ rũ sạch túi…
Đặc-biệt là việc tổ chức vũ « Lâm-Thon ». Nhà khá giả bỏ tiền ra thuê nguyên một ban về diễn tại chùa hay khu vực của mình, nếu không thì mò tới xem tại nhà hát… Cũng có thể người ta tổ-chức nhảy « Lâm-Thon » tại đám tiệc mà tiếng nhạc ngũ âm khi tấu lên nghe dập dình kích thích thực khách một cách say cuồng. Người người mời lẫn nhau, tự do ấm cúng xoay quanh như trên piste vũ-trường dưới ánh đèn huyền ảo. Các cuộc vui như thế thường được kéo dài đến suốt đêm… Và ngay cả bạn hữu người Việt lân cận hay quen biết thường đều được mời tham-dự một cách thân mật và thoải mái, mà có lẽ nếu đã có một dịp thưởng-thức, chung vui, thì thật khó mà quên được…
Và cứ như thế mà kéo dài cuộc lễ và trò vui cho đến ngày thứ 3 mới chấm dứt. Công cuộc xuất hành làm ăn lại tuần-hoàn trong cương-vị cũ. Nhưng có khác là mỗi người đều biết là mình đã tiếp nhận thêm tuổi, nhờ đó mà già dặn hơn lên, để dễ dàng thành-công trọn vẹn hơn trong các nghiệp-vụ.
Mọi người nắm lấy vận may trong niềm tin-yêu đó để rồi bắt tay vào việc, hướng trọn về một cái lễ tết : « CHÔL-CHNĂM-THMÂY » khác ở sang năm...
Mùa xuân Bính Ngọ 67.
(Trọn vẹn mừng Chế Tâm)
XI-I-I967 CHÂU-GIANG TỬ Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:05:46 GMT 9
TẾT LÀO... Ở... XỨ LÀO PHẠM TRỌNG-NHÂN
NHỜ ở định-mệnh hay tại vì định-mệnh, tôi đã may mắn hay không may mắn có dịp sống nhiều loại Tết. Có Tết Việt-Nam ở Việt-Nam, có tết tha-hương trong xứ-sở, có Tết Việt-Nam ở xứ người, và sau hết là Tết người ở xứ người... Trong loại này, đối với tôi, có lẽ Tết Lào ở xứ Lào là thú-vị nhất và thi-vị nhất... Thi vị, và tế-nhị, xét về nội-dung cũng như hình-thức, qua nhãn-tuyến tâm-lý, chánh-trị, tôn-giáo, hay tín-ngưỡng...
Muốn thấu-hiểu những khía cạnh đó về Tết Lào, trước hết cần phải biết đại-cương về lịch Lào và các lễ chánh ở xứ Lào.
*
Tại Lào, có ba loại lịch : dương-lịch, âm-lịch, và lịch Lào. Dương-lịch và âm-lịch thì ai nấy đã đều biết rõ. Riêng về lịch Lào qui-định thật phức-tạp : tháng tính theo tuần trăng, còn năm lại căn-cứ vào liên-quan giữa mặt trời và trái đất xoay vần. Chúng ta không cần biết rõ chi-tiết, mà chỉ nên nhớ là ngày đầu năm Lào thường trùng vào một ngày khoảng hạ-tuần tháng II hay thượng-tuần tháng chạp dương-lịch. Tuy vậy, Tết Lào không nhằm tháng chạp dương-lịch, mà lại nhằm khoảng trung-tuần tháng 4 dương-lịch : về điểm này, chúng ta sẽ cùng nghiên-cứu và thưởng-thức sau.
Có cả thảy II lễ quan-trọng trong một năm, đa-số đều có tánh-sách tôn-giáo, có một lễ tính theo liên-quan giữa mặt trời và trái đất, là lễ Tết (tiếng Lào kêu PIMAY, nhằm tháng 4 dương-lịch). Còn I0 lễ khác đều tính theo tuần trăng, trong số có 9 lễ nhằm đúng ngày trăng tròn : có lẽ là do mỹ-ý thuở ban đầu, người ta muốn dân-chúng được trảy hội dưới ánh trăng, di-chuyển dễ-dàng từ làng này qua làng khác.
9 lễ nhằm đúng ngày trăng tròn là :
- Đêm trăng tròn tháng giêng 29 : lễ THAT IN HANG tại Ban That, tỉnh Savannakhet.
- Đêm trăng tròn tháng hai : lễ THAT SIKHOTABOUN tại Thakhet, tỉnh Khammouane.
- Đêm trăng tròn tháng ba : lễ MAKHABOUCA kỷ-niệm lời dạy trước các môn-sinh, ba tháng trước khi đức phật qui-thăng Nát-bàn. Ngoài ra, tại tỉnh Champassak có hội Vat-Phou.
- Đêm trăng tròn tháng sáu : lễ VISAKHABOUCA, kỷ-niệm ngày đức Phật qui-thăng Nát-bàn. Riêng tại Vientiane tổ-chức lễ BOUN BANGFAY bắn pháo cầu mưa, để mùa màng được dồi-dào tươi tốt.
- Đêm trăng tròn tháng bẩy : lễ BOUN BOUPHA PETA-PHALI, thờ cúng tổ tiên.
- Đêm trăng tròn tháng tám : lễ KHAO PHANSA, vào mùa cấm phòng, trùng với đầu mùa mưa.
- Đêm cuối tuần trăng tháng chín (đêm thứ I4 kể từ khi trăng tròn) lễ HO KHAO PADAP DIN, các linh-hồn xấu số, vô chủ, nhận tặng phẩm.
- Đêm trăng tròn tháng I0 : lễ HO KHAO LALAK, gần giống như trên, nhưng tặng phẩm được chia rút thăm giữa các vì sư-sãi.
- Đêm trăng tròn tháng II : lễ OK PHANSA, ra mùa cấm phòng, trùng với cuối mùa mưa. Tại Vientiane, có lễ nước, thi thuyền kết bông thắp đèn, và đua thuyền giữa các tay chèo danh tiếng trong hàng tỉnh.
- Đêm trăng tròn tháng I2 (hạ tuần tháng II dương-lịch) : lễ THAT LUANG. Tại Vientiane, lễ được tổ-chức cực-kỳ long-trọng, vì vừa kỷ-niệm ngày thành-lập thành-phố Vientiane, vừa kỷ-niệm ngày xây tháp That-Luang thế-kỷ thứ XVI dưới triều Vua Setthathirath. Có rước đèn, hội chợ, suốt trong một tuần lễ. Thường năm nào Việt-Nam cũng có gửi trưng bày sản-phẩm và trình-diễn văn-nghệ.
*
Như đã ghi ở trên, Tết Lào nhằm khoảng trung tuần tháng 4 dương-lịch, từ ngày 6 tháng 5 tới ngày 5 tháng 6 theo lịch Lào. Tết này, người Lào còn gọi chữ là PIMAY, và gọi nôm là « Tết tháng năm ». Nói rõ hơn và ngược lại, ngày đầu năm theo lịch Lào nhằm tháng chạp dương-lịch, nhưng Tết Lào lại được diễn ra năm tháng sau, nghĩa là tháng tư dương-lịch. Và đó là một đặc-biệt thi-vị của Tết Lào, mà chúng ta không khỏi ngạc nhiên.
Người Lào bản tính hồn-nhiên dung-dị, giải-thích như sau. Đầu năm Lào, đêm bắt đầu dài hơn ngày : ăn Tết, thật chẳng khác nào vô-tình đi sâu vào tối-tăm vô-tận, làm ta liên-tưởng tới khổ-ải buồn-sầu. Trái lại, kể từ tháng năm lịch Lào, nghĩa là tháng tư dương-lịch, ngày bắt đầu dài hơn đêm : các nhà thiên-văn-học quyết-định ăn Tết vào dịp này, như để tiến tới ánh hào-quang, đồng nghĩa với vui-tươi may-mắn.
Bởi vậy, cái vui tươi đó được diễn-tả, bộc-lộ, tận-hưởng trên toàn-quốc, từ dân cho chí vua, thật say sưa nồng-nhiệt. Dường như có một sợi dây vô-hình thông cảm, giữa hết thảy các tầng lớp dân-chúng và trời đất cỏ cây đổi mới.
Lễ Tết PIMAY diễn ra trong ba (hay bốn) ngày liên-tiếp. Ngày đầu kêu MU SANG KHAN PAY, là ngày thần năm cũ ra đi, đại-khái có thể so-sánh với Tết ta Vua Táo về chầu Trời. Ngày thứ hai (có năm được nhân hai, nghĩa là cộng thêm một ngày nữa) kêu MU NAO, là ngày trung-gian, bắc cầu giữa hai năm cũ mới. Ngày thứ ba (hay thứ tư, nếu ngày thứ hai được nhân hai, tùy năm) kêu MU SANG KHAN KHUNE, là ngày thần năm mới tới nơi nhận chức. Xem như vậy thì hai vị thần không gặp nhau, và không có « lễ bàn giao », vì đã có ngày trung-gian cách bức.
Trước ngày Tết, nhà ai nấy được cọ rửa sạch-sẽ, thu dọn gọn-gàng. Công việc được thực-hiện với rất nhiều công-phu và trọng-thể, vì ai nấy tin như vậy sẽ trút bỏ được những bụi bặm tối tăm cũ, để đón tiếp những gì gọi là tinh-khiết và sáng-sủa sẽ tới nơi.
Ngày Tết, dân-chúng nô-nức mang y-phục mới và đẹp rủ nhau đi chùa, dự lễ tưới nước các tượng Phật để ai nấy mát-mẻ. Nước trong để ở chậu, có tẩm hoa hay pha chất thơm ; và nhà chùa đã cho chuyển tượng sẵn ra sân để trên một chiếc kiệu hay chiếc kệ, dưới một tấm lều bằng vải. Các ngày sau, có thể tượng sẽ được rước tuần-hành trong khu xóm, và dân-chúng hân-hoan thi đua tưới nước. Ai nấy cung-kính nghiêng mình trước tượng Phật từ-bi, và cầu khẩn sẽ may mắn, giàu có, khỏe mạnh. Nói tóm lại, cũng như tại Việt-nam, chúng ta đi chùa cầu Phúc, Lộc, Thọ.
Trong ngày Tết, họ hàng thân-thuộc đi thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Ai nấy hân-hoan, tươi-tỉnh, tin và mong rằng hân-hoan và tươi tỉnh đó sẽ tiếp-tục lâu dài. Tại nhiều gia-đình quyền-quý, người ta còn long-trọng tổ-chức lễ Baci để cầu chúc ai nấy được làm ăn may mắn, sức khỏe rồi rào... : chúng ta sẽ có dịp nói rõ về tục-lệ khả-ái này, có tánh-cách vừa xã-giao, vừa tôn-giáo.
Những ngày sau là dành cho các trò vui chơi công-cộng. Các thanh-niên (phoubao) và thanh-nữ (phousao) cười đùa tưới nước vào nhau, như mặc-nhiên cầu chúc cho ai nấy trút hết bụi bặm, và được mát mẻ. Tưới nước như vậy không chỉ riêng giữa thanh-niên thanh-nữ Lào, mà còn nhằm cả các người lớn tuổi, thổ-dân hay ngoại-quốc... Bởi vậy người ngoại-quốc tới thăm viếng xứ Lào vào dịp Tết, cần phải hiều rõ tục-lệ này : được một nàng Phousao dễ thương tưới nước mà không lấy thế làm vinh-dự và không biết cảm ơn, có thể gây mầm ngộ-nhận đáng tiếc. Hơn nữa, ngay nhãn-tiền, các cô còn có thể hợp-lực cùng các trai làng, tưới nước vào khách cho đến khi khách chịu thua, ăn năn hay biết thưởng-thức cử-chỉ đẹp đó của các cô. Đôi khi, các thanh-niên thanh-nữ tinh-nghịch hơn, không những chỉ tưới nước, mà còn lấy dây trói buộc gốc cây đòi tiền thưởng, hay cho kiến đốt, hoặc xé áo quần.
Tục-lệ này không phải được toàn-thể mọi người, nhất là ngoại-quốc, thưởng-thức tán-thành. Vì vậy, có nhiều người đành ở nhà, không ra phố, hay có thì cũng tránh những nơi có thể bị tưới nước, hoặc đi có che dù cần-thận, và đáp xe lên kính kỹ-càng.
Tại các sân chùa hay trên bãi cát bên bờ Cửu-Long-giang, người ta thi nhau đắp các tháp cát, trên ngọn có trưng những tấm giấy in hình các con vật trong năm. Và ai nấy cầu Trời Phật cho được sống lâu, tiền bạc dồi-dào, như các hạt cát hằng-hà sa số...
*
Nhưng có lẽ tại Luang-Prabang, Tết được cử-hành hân-hoan long-trọng nhất. Luang-Prabang là nơi nhà Vua và Hoàng-Gia ở ; còn Vientiane chỉ là thủ-đô hành-chánh và chánh-trị.
Ngoài những cuộc vui kể trên được diễn ra tại bất cứ nơi đâu trên Vương-Quốc, Luang-Prabang còn có những nghi-lễ và tập-quán đăc-biệt. Cho nên có thể nói là chưa ăn Tết tại Luang-Prabang thật cũng như chưa biết rõ tục-lệ Tết của xứ Lào.
Tết tại Luang-Prabang tiếp-diễn luôn trong hai tuần-lễ. Đoàn voi của nhà Vua diễn hành ngoài phố. Trong khi dân-chúng nô-nức ra chợ mua đồ ăn thức dùng : mua càng nhiều, để dùng hay đem tặng, ấy là có thể hy-vọng sẽ phong-lưu giàu có. Ngưởi ta còn mua các sinh-vật rồi đem phóng-thích : mua cá mang trả về giòng sông, hay mua chim đem thả bay trong nắng mới, mà cầu nguyện được nhiều phúc lộc, hay mơ mộng nhìn cá lặn chim bay mà tưởng tượng tới những nơi nào huyền-diệu, không có trên thế-gian này. Ta hãy ngắm một thiếu nữ Lào, áo xiêm diêm-dúa, nhẹ-nhàng thò tay vào lồng lấy từng chiếc bồ câu để thả bay trong gió nhẹ ; chim bỡ ngỡ với nền tự-do mới có một cách không ngờ, trước khi bay lên một cành cây gần cạnh, rồi say sưa liều-lĩnh bay xa, để rồi không trờ lại... Khung cảnh nên thơ chẳng khác nào bức tranh thiếu nữ Việt-Nam, bẽn-lẽn đang xin thẻ, kín-đáo lo-âu hỏi thăm về việc tình-duyên...
Trong Hoàng-cung, lễ Baci được tổ-chức để cầu phúc cho cả Hoàng-gia và các viên-chức cũng như toàn dân-chúng... Rồi nhà Vua cùng với một số tùy-tùng đi dự-lễ tẩy trần các tượng Phật, tại các chùa Viçoun, Xieng Thong, Vat Mai và Sangkhalok. Dọc đường, nhà Vua, và cả đoàn tùy-tùng có thể được dân-chúng cung-kính hoan-hô tưới nước thơm... Có một lần, hình như một Hoàng-tử đã « được » dân-chúng xé áo...
Lễ tẩy trần tượng Phật tại Vat Mai long-trọng nhất. Tượng Phra Bang được đưa từ trên bệ xuống một chiếc kiệu để ở sân chùa. Một ống nước hình rồng, phun nước, tên gọi Hang Lin, đầu rồng đặt ngay trên pho tượng : dân-chúng tới đổ nước vào đuôi rồng cho nước từ từ chảy trên tượng Phật.
Ngoài ra, còn đám rước, ông và bà thần POU GNEU GNA GNEU là tổ tiên của hết thảy mọi người Lào, tuần-hành nhảy múa, đầu mang mặt nạ, mình bận áo vải thô, theo điệu của âm-nhạc cổ-xưa, hòa nhịp rỡn đùa với một đầu sư-tử. Và cả người lẫn sư-tử quỳ chúc thọ nhà Vua, nhân-danh hết thảy các người Lào quá-khứ, hiện-tại và tương-lai... Nói tóm lại, đại-cương chẳng khác nào múa lân của ta ở Saigon, ngày Tết đến...
Rồi sau hết, ngày 9 và ngày I5, tại Hoàng-cung, nhà Vua mở tiệc khoản đãi các vì sư-sãi được tưới nước phép cầu phước.
*
Năm vừa qua là lần đầu tôi ăn Tết Lào ở xứ Lào. Vì thực ra, khi còn là sinh-viên, tôi đã từng có dịp ăn Tết Lào ở Pháp. Và tôi xác-nhận là ăn Tết Lào ở xứ Lào thật thi-vị và thú-vị : lễ có tánh-cách vừa tôn-giáo, vừa dân-tộc, có ảnh-hưởng cả đến chánh-trị, thật tế-nhị vô cùng.
Trước hết, là sự liên-quan hòa-điệu giữa lòng người với cảnh trời : lòng người vui khiến cảnh trời thêm tươi ; và cảnh trời tươi khiến lòng người thêm hớn hở. Có thề nói : Têt Lào, ấy là linh-hồn của dân-tộc Lào ; và nếu không có Tết, nguồn sinh-lực tất sẽ thuyên-giảm, và lòng tin cũng do đó suy-vi... Và từ Thượng tới Hạ Lào, đại-cương, đâu đâu cũng đều một phong-tục, một nghi-lễ...
Nhà Vua và thần-dân bắc cầu giao-cảm, không phải trong hiện tại chật hẹp, mà còn cả trong quá-khứ xa-xôi, và tương-lai không bờ bến. Khi đoàn sư-tử múa chúc thọ nhà Vua, ấy là nhân-danh toàn-thể dân-tộc, kể cả những người đã khuất núi và những kẻ hậu-sinh... Rồi đến khi nhà Vua mở-tiệc nơi Hoàng-cung khoản-đãi các vì sư-sãi và tưới nước phép cầu phước cho người đồng-bối, ấy cũng lại là đối với toàn-thể quốc-gia và quốc-dân, vì chúng ta không nên quên Phật-giáo là quốc-giáo, tại Lào.
Người dân Lào bản tính hồn-nhiên giản-dị, lại vị-tha và hiếu-khách. Cho nên nhân dịp Tết, người ta càng dễ cùng nhau thông cảm trong hân-hoan, mời nhau vui chơi ăn uống..., không phân-biệt giai-cấp hay tuổi-tác, mặc dù chỉ quen sơ, hay một đôi khi không hề quen biết. Mà nhịp cầu móc nối đầu tiên nhiều khi chỉ là một vụ tưới nước, làm ướt cả áo quân ; và khách được tưới nước, ví dụ như trong lòng có tiếc bộ quần áo mới, thì bề mặt ra vẻ hân-hoan, hớn-hở.
Trên đây có nói : không phân-biệt giai-cấp ; hay tuổi-tác. Mà thực đúng như vậy. Người dân tưới nước vào nhà Vua hay ông Thái-tử ; người lính trơn xé áo hay tưới nước chủ tướng của mình, thật là dân-chủ.. Không ai cho như vậy là mình hỗn-xược, hay bị cấp dưới hỗn-xược đối với mình.
Một buổi sáng, tôi nhận được điệp-văn của Bộ Ngoại-Giao cho biết, đại ý : « các nhân-viên ngoại-giao ngoại-quốc và vợ có mặt tại Luang-Prabang nhân dịp Pimay, sẽ được Nhà Vua tiếp-kiến vào buổi tối. Ngoài ra, một chương-trình đã được sắp đặt để giải-trí các tân khách ; viếng thăm thác nước, đi chùa, xem rước, v.v... Nên mang y-phục thể-thao để đi chơi rừng, và dạ-phục để dự tiệc trong Hoàng-cung ».
Lời lẽ trầm-lặng, thanh-bình, không có vẻ gì sốt-sắng. Và tôi thiển-nghĩ : có thể đi cũng được, mà không đi cũng được. Vì không phải là Nhà Vua mời, mà cũng không phải là nghi-lễ thường-xuyên... (Đối với quốc-tế và ngoại-giao-đoàn, Bộ Ngoại-Giao Vương-quốc Ai-Lao đã thông-báo Tết dương-lịch là Tết chánh-thức, và ngoại-giao-đoàn chỉ chúc Thọ Nhà Vua vào dịp này mà thôi).
Nhưng khi lên tới Luang-Prabang, không ai ngạc-nhiên là Đại-sứ các nước bạn đều cố mặc đông đủ, đa số có bà vợ cùng đi. Ngoài các Đại-sứ, người ta còn thấy một số nhân-viên ngoại-giao khác và tùy-viên quân-lực... Và ta nhận-chân điểm tế-nhị sau đây : Nhà Vua không muốn phiền-hà các nhà ngoạỉ-giao phải di-chuyển bận-rộn trong việc nghỉ lễ, nhưng các nhà ngoại-giao tôn-kinh Nhà Vua, nên trừ trường-hợp bất khả-kháng, vẫn lên Luang-Prabang chúc thọ...
(Cũng như một lần khác, Nhà Vua công-du, phi-cơ cất cánh từ 5 giờ sáng. Bộ Ngoại-Giao thông-báo : Nhà Vua không muốn phiền các Đại-sứ tiễn đưa vì giờ quá sớm. Nhưng sau, các Đại-sứ vẫn ra phi-trường, chào tiễn. Có ở xứ Lào, có được chiêm-ngưỡng Nhà Vua qua các cuộc kinh-lý, cử-chỉ tươi vui, hồn-nhiên, dung-dị mà vẫn tôn-nghiêm, đối với thần-dân chẳng khác nào người cha gia-đình đứng trước đàn con thân mến ; hay được trực-tiếp yết-kiến Quốc-Vương và Hoàng-Hậu ; mới hiểu được một phần nào lòng dân Lào tôn-kính và sùng-bái Nhà Vua đến mức nào. Không một cử-chỉ lỗi-điệu, không một tuyên-bố lộng-ngôn, đi đến đâu cũng chỉ lấy nụ cười im-lặng nhưng thành-thực và hùng-hồn bao nhiêu, để chinh-phục lòng người...)
Chúng tôi tới phi-trường Luang-Prabang, rồi về khách-sạn. Ngay buổi tối, đi dự một buổi dạ-hội do Tòa Tỉnh-trưởng khoản đãi. Có khiêu-vũ Tây-phương, có nhẩy múa và ca hát những cổ-điệu xa xưa. Khung cảnh thật giản-dị, thanh-bình, mà hấp-dẫn biết bao : các nàng « phousao » xiêm-y có thêu chỉ vàng, tóc kết thành búi cao trên đỉnh đầu, chiếc trâm và sợi dây vàng kết hoa trắng nổi bật trên màu tóc đen huyền, đi lại, nói cười, hồn-nhiên, vui-vẻ... Thỉnh thoảng lại có một vài cô, có lẽ là do thịnh-tình và chỉ dẫn của ông Tỉnh-trưởng, tới mời một vài quan-khách cùng biểu-diễn vũ-điệu Lamvong...
Sáng hôm sau, ngày Tết chánh, chúng tôi đi thăm thác nước Nam-Dong, cách thủ-phủ Luang-Prabang chừng 35 cây số, đi toàn đường rừng và núi. Tắm, bơi, lội, hay đứng thu hình dưới dòng thác chảy. Rồi ăn cơm trưa, và lại nhảy múa Lam-vong. Trong số các quan khách, có đủ cả từ Tổng-trưởng, Tướng lãnh, cho đến các thanh-niên nam-nữ, cùng hòa nhịp sống, vô-tư, vui-vẻ. Tôi đang nói chuyện với một vài anh bạn, thì có tiếng cười to nói lớn, làm tôi ngoảnh lại. Thiếu-tướng chỉ-huy quân-khu Luang-Prabang vừa bị các nàng thôn-nữ xé áo. Không những áo ngoài, mà cả tới chiếc áo lót mình ! Thiếu-tướng lắc đầu, cười, rồi chạy xuống phía dưới đồi, uống rượu…
Tôi chưa kịp « trấn-tĩnh tâm-thần », thì từ phía sau, có tiếng thiếu-nữ thất-thanh gọi đích đanh. Tôi quay lại, và bị ngay một bàn tay xinh đẹp bôi nhọ nồi lên hai má. Theo sau đó, là một chuỗi cười khả-ái của các người đẹp, mà hai vai « chánh-phạm » là một bà bác-sĩ và một bà nghị-sĩ... Rồi ai nấy, xa gần cùng họa tiếng cười theo.
Một bà nói : Có lẽ lần đầu Ông Đại-sứ bị bôi nhọ nồi...
Tôi chưa kịp trả lời, thì bà kia đã tiếp theo : Nhọ nồi còn là khá... Có thể còn bị xé áo...
Tôi nói : Tôi đã đề-phòng, mặc áo kaki rất dày...
Một bà thứ ba góp lời : Dù kaki dầy đến đâu cũng vẫn bị như thường...
Rồi bà nghiến hai hàm răng, làm hiệu là nếu không xé nổi thì sẽ cắn áo cho rách mới nghe...
Tất cả những cử-chỉ đó tịnh không cho ta ý-niệm bị phá vì đều đượm vẻ thân-tình, trìu-mến.
Trên đuờng về, chúng tôi bị tưới nước. Vị sĩ-quan hướng dẫn lên kính xe để tránh « nạn ».
Tới Luang-Prabang, chúng tôi đi xem rước. Không những đi xem rước, mà còn hòa mình với đám rước. Sau, tôi được biết ông Đại-sứ Anh bị xé rách áo, như ông Thiếu-tướng hồi ban sáng …
*
Buổi tối, chúng tôi mang lễ-phục, vào Hoàng-cung, chúc Thọ nhà Vua, và dự tiệc.
Trong sân, các đèn màu ẩn-hiện mắc trên cành cây, nằm trong búi cỏ. Chúng tôi vào phòng chánh trong điện, đứng chỗ theo Nha Nghi-Lễ xếp đặt. Quốc-Vương và Hoàng-Hậu cùng với Đông-cung Thái-tử và Công-chúa tiến bước chào mừng vị tân khách ngoại quốc đứng hàng đầu. Đối với các văn-võ bá-quan ngồi xổm trên gót chân, cúi đầu chắp tay chào, nhà Vua thân tình cầm tay từng người mời đứng dậy. Rồi chừng 200 vị cả chủ lẫn khách, ra ngoài thềm gạch lớn, hóng mát và thưởng-thức đám rước rồng từ trên núi Phousi ở phía trước từ từ xuống, tiến về phía Hoàng-cung. Lúc đó khoảng 8 giờ tối. Mấy trăm ngọn nến rung-rinh theo nhịp phách, và rồng dài lớn có điểm các ngọn đèn màu ở đầu, ở lưng, ở đuôi, nhẹ-nhàng uyển-chuyển như trong một khung-cảnh thần-tiên thơ-mộng...
Rồng đến phía trước điện, quỳ chúc thọ Hoàng-gia và chào quan-khách. Nhà Vua cảm ơn, ra hiệu cho rồng được rút lui, Các thường dân đứng ở sườn núi hay ngoài đường phía trước Hoàng-cung, hò reo, vui-vẻ đợi chờ...
Nhà Vua tiến về phía tòa nhà ở phía tay trái. Có tới gần hai ngàn người đã ngồi sẵn trên các dãy ghế, thấy nhà Vua ra, đều đứng dậy chắp tay cuối đầu chào. Chúng tôi đi theo sau Hoàng-gia, cùng tiến về phía khán đài : các chỗ đã được dành sẵn, có ghi tên theo chức vị...
Cuộc trình diễn bắt đầu. Các đoản-kịch, các điệu dân-ca, các màn vũ cổ hay đấu võ. Nhưng huy-hoàng huyền-ảo nhất là cảnh diễn lại một đoạn thần-thoại trong kinh Phật, với sự tham-dự của lối hai chục nam nghệ-sĩ và tám chục cô vũ-nữ. Các cô vũ-nữ xinh tươi, với những chiếc trâm cài lóng-lánh, chiếc xiêm có thêu chỉ vàng, với nụ cười vô-tư, tiến thoái theo điệu nhạc xưa từ mấy ngàn năm cũ... Các cô tiến tới khán đài danh-dự dâng hoa lên Hoàng-Hậu... Trong một bầu trời sao sáng, có gió thổi triền miên, và các ngọn đèn điện mờ đủ các màu ở hai bên sân khấu.
Chừng II giờ khuya, phần văn-nghệ bế-mạc.
Nhà Vua mời các quan-khách dùng tiệc, uống rượu. Đồ ăn thức uống bày la-liệt trong cung, và cả ngoài sân, dưới các vòm cây, bên bụi cỏ. Món « Khaopoun » quốc-túy được các quan-khách thưởng-thức nhất. Món tựa như « thang » của ta ngày Tết ; nhưng dùng ít nước canh hơn, và có nhiều mùi vị trái ngược hòa lẫn với nhau. Ấy là chưa kể mỗi tỉnh ở Lào lại có một lối làm « Khaopoun » riêng, nhưng theo nhận-xét chung thì « Khaopoun » tại thủ-phủ Luang-Prabang ngon hơn hết...
Tiệc tàn vào lối nửa đêm. Và ai nấy bắt đầu khiêu-vũ. Quốc-Vương và Hoàng-Hậu ra về. Nhưng các Hoàng-tử ở lại, cùng góp vui với quan-khách cho đến sáng...
*
Trên đây có nói tới lễ Baci tổ-chức trong Hoàng-cung nhân dịp Tết. Thần dân cầu phước cho Nhà Vua, và Nhà Vua ban phước cho hết thảy mọi người, cùng là cầu cho được dân-an quốc-thái.
Thực ra, lễ Baci không phải chỉ tổ-chức riêng ở nơi cung cấm, và cũng không phải chỉ nhân dịp Tết. Các gia-đình quyền-quý cũng tổ-chức lễ Baci, nhân dịp đẻ con trai, sinh con gái, mừng tiễn người thân sắp ra đi hay đón người thân mới trở về... Tổ-chức tại nơi quyền-quý, lễ kêu là « Baci ». Tổ-chức tại các nơi thường-dân, lễ kêu là « Soukhouan ». Nhưng nội-dung lễ không ngoài mục-đích cầu an, ban phước, gặp may...
Baci hay Soukhouan là một lễ có tánh-cách đặc-biệt Lào, vì không có thấy tại Thái-Lan hay Cambodge, mặc dù ba nước này có nhiều phong-tục có vẻ giống nhau. Baci hay Soukhouan là những cơ-hội rất thuận-tiện, ý-nghĩa và nên thơ, lại có đượm một phần nào tín-ngưỡng, để người dân Lào chất phác, qua những tiếng cười ròn rã và giữa các bông hoa cành lá dịu thơm, cùng chứng tỏ lòng quảng-đại và biểu-lộ ý-niệm tha-thiết yêu đời. Dù quyền-quý giàu sang, hay bình-thường thanh-bạch, nhưng đã ngồi dự-lễ Baci hay Soukhouan, là người dân Lào tự-nhiên như có cảm-giác phóng-khoáng tin tưởng, khiến những quan-niệm về giai-cấp, ngôi-thứ, giàu nghèo, nếu không xóa bỏ được hoàn-toàn thì ít ra cũng giảm đi nhiều lắm. Có người bạn Lào thi-sĩ còn bình-luận với tôi : Baci hay Soukhouan còn là những dịp thuận-tiện để thanh-niên nam-nữ làm quen với nhau, dưới con mắt giám-sát khoan-hồng nếu không phải là khuyến-khích của các bà mẹ hiền từ. Và đã có biết bao nhiêu cuộc tình-duyên bắt nguồn từ những lễ Baci hay Soukhouan.. để rồi sinh con đẻ cái, vuông tròn, đông-đảo... Đó là những khóe mắt nhìn đời kèm theo những nụ cười tin-tưởng ; những mầm tha-thứ hay quên-lãng về những xích-mích nhỏ nhoi không đáng kể ; để vạn sự nhất nhất đều hướng về và trông cậy vào phép nhiệm-mầu của các đấng thiên-thần và đức Phật từ-bi...
Soukhouan có nghĩa là tiếp-đón linh-hồn, vì linh-hồn thường ham sống đời phóng-khoáng, không chịu ở trong khuôn-khổ chật-hẹp của thân-thể người ta.
Bất cứ người bạn Lào nào cũng có thể kể cho chúng ta nghe câu chuyện sau đây.
« Hai người cùng vượt qua một khoảnh rừng rậm. Một người mệt mỏi, nằm ngủ dưới bóng cây. Một lúc sau, người còn thức thấy có con dế từ đầu bạn đi ra. Dế bò quanh các gốc cây, lần theo bờ suối, rồi một lúc sau trở về chỗ cũ. Lúc đó, người bạn đang ngủ bỗng tỉnh giấc, vươn vai kêu : ngủ thật ngon giấc ! Tôi nằm mê, thấy rừng rậm và tắm mát bên giòng suối... »
Do đó, người Lào tin rằng linh-hồn thường hay di-chuyển, lang-thang, và ta phải luôn luôn kêu gọi về với thân-thể. Trẻ con đau ốm là vì linh-hồn đi vắng, nên cha mẹ làm lễ Soukhouan để gọi hồn về. Không phải toàn thân-thể có một linh-hồn chung, mà mỗi bộ phận, mỗi cơ-thể, có một linh-hồn riêng. Vì vậy, nên có những Baci hay Soukhouan mà người chủ lễ đọc rất lâu, rất dài, vì kêu gọi tên từng bộ-phận, từng cơ-thể...
Ngày giờ đã được chọn. Các mâm bạc có đế để chồng lên nhau, mâm dưới cùng to rộng nhất, và kích thước các mâm trên cứ tuần-tự rút bớt dần cho tới ngọn. Trên các mâm bạc, có bày những lá tết thành hình đều đặn, hoa buộc với nhau đủ các màu. Lại có cả hương, nến, cơm, trứng luộc, kẹo, bánh, v.v.. và các sợi dây trắng treo rủ theo với lá, hoa..
Các bà con bè bạn ngồi xung quanh, xếp chân bằng tròn về phía trước hay gập hai chân ra phía sau, trên thảm màu đỏ hoa hay chiếu trải ngay dưới đất.
Người chủ lễ thường là một vị có tuồi, tóc bạc, đã theo đòi Phật-học nhưng không được đến chốn đến nơi, đọc kinh thỉnh các vị thần, gọi hồn, rồi cầu-xin, chúc-tụng...
Ví dụ : thỉnh các vị thần, như sau.
« Thần các ngọn núi, các giải sông, giòng suối
Hãy phù hộ cho chúng tôi
Hãy nghe lời chúng tôi cầu-khấn
Và nhận những lễ vật chúng tôi tâm-thành dâng-tặng nơi đây... »
Hoặc gọi hồn đang vơ-vẩn lạc đường, ở bờ sông sườn núi :
« Hôm nay là ngày lành tháng tốt, nhà Vua thắng trận trở về thành.
Chúng tôi đã chọn ngày này để dâng lễ vật : trứng luộc, khoai lang, củ đậu, bánh dừa, thịt gà, gạo mới. Lại còn có cả rượu ngon và nhiều món cao-lương khác.
Giờ này thật thuận-tiện và chúng tôi mời hồn sớm trở về.
Dù hồn có lặn dưới sông sâu, lạc trong sương sớm, lội giữa giòng suối chảy, bay bổng trong tầng mây cao.
Mời hồn hãy sớm trở về, bằng ngả đường quang mà chúng tôi đã dọn.
Hồn hãy gắng : lội nếu nước nông, bơi nếu sông sâu ; ví như có gặp rừng rậm, xin đừng lạc lối ; có gặp nhà mát, xin đừng dừng bước nghỉ chân ;
Chớ cả sợ loài ma quỷ ; hãy can-đảm mà đi ;
Hãy sớm trở về nơi đây, với bà con, thân thuộc,
Nhà cao làm bằng gỗ trơn và đẹp, do cả đoàn voi đã chuyên chở về.
Cha, mẹ, chú, bác, cô, dì, cậu, mợ, anh, em, đang chờ đợi, với cả tình thương vô bờ bến.
Hãy thưởng thức các món ăn ngon này.
Hãy ở lại mà đừng đi đâu nữa… »
Rồi sau đó, là những lời cầu chúc, chân-thành, sốt-sắng.
Vị chủ lễ và một số người khác trong ban tổ-chức, nghĩa là trong gia-đình, lần lượt chống tay lê chân tiến tới từng người ngồi quanh các mâm lễ vật. Người hành lễ trao cho người chịu lễ một bó hoa, hoặc một quả trứng, hay một bát gạo, củ khoai v.v… Hai người chắp tay sá chào nhau trước khi trao hay nhận thực-phẩm, và trao hay nhận thực-phẩm xong, người chịu lễ một bàn tay để dọc ngang vầng trán, còn tay kia đưa ra để người hành lễ buộc một sợi dây trắng, vừa buộc vừa khấn-khứa, cầu xin, chúc tụng. Trong khi ấy, các người xung quanh cố-gắng với tay để có thể trực-tiếp hay gián-tiếp chạm tới khuỷu tay người chịu lễ, hy-vọng các lời cầu chúc kia cũng sẽ vọng tới mình được hưởng-thụ một phần nào. Buộc hay nhận sợi dây trắng vào cổ tay xong, hai người lại sá chào cảm ơn nhau, và người chủ lễ tiếp tục hành-trình, buộc dây cho người khách khác…
Tuy không có luật lệ nào hữu-định, nhưng thường khi trong thực-tế, nam buộc dây cho nữ, và ngược lại. Hơn nữa, người ta thường buộc dây cho phái nữ và cho thượng khách nhiều hơn. Cũng vì lẽ đó, sau lễ Baci hay Soukhouan ra về, mà không có được một sợi dây ở cổ tay, người ta như có cảm tưởng không vui. Và cũng theo lý-luận đó, người ta có thể kiêu-hãnh một phần nào khi nhận được nhiều dây hơn các bạn.
Lệ thì các sợi dây đó, người nhận phải giữ nguyên vẹn trong ba ngày ba đêm. Xong, mới được gỡ ra, chớ không được cắt bằng dao hay kéo ; rồi đem cất ở một chỗ cao ráo, để cầu may.
Trong thực-tế, nhiều khi ta không thể giữ hết thảy các sợi dây cầu may đó, nếu nhận được quá nhiều hay gặp trường hợp có nhiều buổi lễ liên-tiếp. Ta có thể gỡ các sợi dây, cất đi, và chỉ giữ lại một sợi tượng-trưng.
Trên đây có nói tới người hành lễ cầu chúc trước khi và trong lúc buộc dây cho người chịu lễ. Lời cầu chúc đó lắm khi thật hồn-nhiên, và thật nên thơ.
Chúng ta hãy thưởng-thức một đoạn như sau :
« Cầu chúc sao cho cơ-thể được cứng rắn như gỗ trên rừng, như hàm sư-tử, như cặp ngà voi,
Hãy sống một ngàn năm, một vạn năm. Và hãy giàu có, tiền như rừng, bạc như bể : nhiều ngựa, nhiều voi, nhiều đồ ăn, thức uống.
Nếu đau yếu, sẽ khỏi ngay tức thì,
Nếu bị ràng buộc, sẽ tức khắc tự-do ; nếu ở đẳng cấp thấp, sẽ thăng tiến ; nếu hiếm hoi, sẽ có con…
Sẽ phú, sẽ quý, như trong lòng mong muốn,
Sẽ rất thần-thế, danh-tiếng vang lừng, muốn gì được nấy, không thiếu một thứ gì : Sức khỏe, sống lâu, hạnh-phúc, đời đời… »
Và để chấm hết câu chuyện Tết, mặc dù đây là Tết Lào ở xứ Lào, tôi cũng mạn phép cầu chúc các bạn thực-hiện được những điều như vậy, nhận dịp Tết Việt-Nam, ở Việt-Nam…
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|