|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:06:46 GMT 9
Tục Thưởng Xuân Của Đồng Bào Chàm Hồi Giáo DOROHIEM
Như chúng ta đã biết, tại nước nhà hiện có một số đồng-bào Chàm sinh sống. Một phần lớn tại miền Trung (các tỉnh Ninh-Thuận và Bình-Thuận), một số khác định cư tại Tỉnh Tây-Ninh, Tỉnh Châu-Đốc (Nam-Phần) và một số đáng kể lập nghiệp tại Saigon.
Tại miền Trung, trải qua những giai đoạn thăng trầm của thời cuộc, đồng-bào Chàm Hồi-Giáo (tục gọi là người Ba-Ni) sống trong những thôn ấp riêng biệt, có những vòng rào kiên cố, hòa đồng với sắc thái huyền bí địa phương (như tôn thờ các đền tháp) nên việc hành đạo đã có phần lệch lạc đối với Hồi-Giáo chính thống 7. Trái lại, đồng-bào Chàm Hồi-Giáo Nam-Phần từ lâu nay đã có sẵn một hệ thống tổ chức thôn ấp hoàn mỹ dựa vào Hồi-Giáo-luật nên đã sẵn có một số phương tiện vật-chất lẫn tinh-thần cá biệt, với những vị lãnh đạo nguyên trước kia được đào tạo tại MÃ-LAI-Á hay Thành-địa MECCA (Arabie-Séoudite) nên sinh hoạt tôn giáo ở đây có liên hệ thường xuyên với các Trung-tâm Hồi-giáo thế-giới, qua trung gian của những người hàng năm xuất ngoại hành-hương Thánh-địa MECCA.
Do đó đồng-bào Chàm Hồi-giáo đã xử dụng niên lịch Hồi-giáo và hàng năm trong sinh hoạt của cộng đồng vẫn có năm tàn canh lụn, cũng có mùa xuân ngày Tết, vẫn tống cựu nghinh tân... mà đồng-bào gọi là « harei-Roya » (có nghĩa là giáp năm).
I–MỘT VÀI CHI TIẾT VỀ NIÊN LỊCH HỒI-GIÁO
Trong nhiều trường hợp người ta hay gọi là tắt là « Hồi lịch » cho nên dễ gây nên ngộ nhận là quyển lịch của Hồi-Quốc (Quốc-gia Pakistan). Sự thật gọi là lịch Hồi-giáo (muslim-calendar) vì các Quốc-gia Hồi-giáo thế-giới đều xử dụng đồng nhất. Nó cũng không có nghĩa chỉ một loại lịch mà tất cả các nơi đều nhập cảng và xử dụng, thật ra là căn cứ nơi một xuất xứ duy nhất gọi là « PHA-LẤT » (tài liệu căn bản tính thời gian, ngày tháng) do Trung-tâm Hồi-giáo thế giới (Wor’d Muslim Congress) lập ra và các vị TUAN vốn du học tại nơi này đã có một trình độ hiểu biết về giáo lý uyên thâm sẽ soạn lại thành niên lịch.
Tại Việt-Nam, hàng năm Văn-phòng Hiệp-Hội Chàm Hồi-giáo (Saigon) đều có ấn hành để phân phối trong tập thể, và công việc nghiên cứu thực hiện này do Tuan Haji SAHAT đảm trách.
Có sự trùng hợp với mùa trăng, nên lịch Hồi-giáo được xem như lấy tuần trăng làm đơn vị căn bản. Và trên toàn thể, cứ tháng 29, rồi đến tháng 30, luân chuyển mà không có nhuần. Do đó có những năm, lịch Hồi-giáo chỉ xê xích ngày tháng với dương-lịch và âm-lịch đôi chút mà thôi. Cũng nên nhắc ở đây, lịch Hồi-giáo có ghi cả ngày tháng dương-lịch nữa. Đó là một cố gắng đáng kể nhằm giúp đỡ cho tín-hữu mọi sự dễ dàng trong sự giao tiếp hàng ngày với đồng-bào Kinh.
Các ngày Thánh-lễ Hồi-giáo (đồng loạt với các quốc-gia Hồi-giáo thế-giới) đều có ghi rõ trong lịch, đấy là phương-tiện duy-nhất giúp cho cá-nhân vì sinh-kế rời khỏi thôn ấp của cộng-đông nhớ đến giáo-điều và tập-tục ràng buộc để thực-hành nghĩa-vụ. Vì thế người ta không ngạc-nhiên về những trường-hợp đồng loạt cử hành giáo-lễ của tín-đồ Chàm Hồi-giáo ở nơi nơi, thí-dụ như lễ nhập chay Ramadan, Nispu, Arwaoh, Moulod (sinh-nhật thánh-tổ Muhammad)… mà ngay một cá-nhân đơn lẻ cũng ít khi bỏ quên, dù đang sinh sống bất cứ nơi nào.
- Về ngày có thể so sánh với dương-lịch như sau :
Harei Đid : Chủ nhật,
Harei Sôm : thứ hai,
Harei Ngà : thứ ba,
Harei Buđ : thứ tư,
Harei djip : thứ năm,
Harei Sud : thứ sáu,
Harei chag : thứ bảy.
- Về tháng có những danh xưng và ý-nghĩa riêng :
Theo thứ tự, khởi đầu từ tháng giêng, như sau : Mubar-rom, Sgo-phar, Ro-bin-ul-wăl, Ro-bi-ul A-khir, Jăm-đui Awăl, Jăm-đui A-khir, Ro-jăp, Saa-ban, Ramadan, Săk-wăl, Zul-co-y-dha, Zul-Had-jah.
Trong tuần lễ, ngày thứ sáu còn gọi là « Zăm-ah » là ngày Thánh-lễ (tựa như ngày chủ nhật đối với Gia-tô-giáo). Tại các Thánh Đường Hồi-giáo (Madjis) đều có tổ chức lễ cầu-nguyện long-trọng quy tụ hầu hết tín đồ của tập thể thôn ấp. Cũng do đó ngày này đã trở nên ngày không « lành » đối với cuộc khởi công làm ăn, vì lẽ dễ hiểu là cá-nhân đó vì công-việc mà đã bỏ dỡ buổi Thánh-lễ, trái nghĩa-vụ mà ít cá-nhân tín-đồ nào dám vi-phạm.
Cũng trong quan-niệm trên, mọi sự xuất-hành làm ăn còn được khuyến cáo tránh trùng-hợp vào những ngày thứ tư cuối tháng (harei-Buđ-a-khir pou-làn) tựa như là mùng 5, I4, 23 của âm lịch được xem như ngày « hỏa ». Theo Đại-giảng luận (KITAB) đó là ngày nấu loại chì trừng-phạt những kẻ ít chịu làm lành tránh dữ của Thượng-đế (Allah), có nghĩa là tai-họa sẽ rơi xuống mà người đời không thể biết được ngày nào và sẽ nhắm vào ai.
2–NHỮNG NGHI-THỨC NGHINH TIẾP « HAREI-ROYA » Như trên đã nói, Roya có nghĩa là giáp một năm, nên đúng ra phải nói là lễ giáp năm. Nhưng cũng chính ngày này, tại MECCA hàng triệu tín-hữu Hồi-giáo tứ-phương đến hành-hương Thánh-địa bắt đầu cùng thực hiện các lễ-tục để rồi sau đó hồi-hương được mang tước-vị « HADJI » nên nó còn là ngày trọng đại mà cá-nhân nào cũng ao ước, do đó ngày lễ giáp năm còn gọi là « harei-Roya-Hadji ».
A. Công cuộc chuẩn bị « Tà-Tuồn Thun-Pà-Hầu » Do niên-lịch đặc-biệt trong nhà mà mọi người đều biết ngày đi tháng về, và chuẩn-bị kỹ-càng mọi sự việc, ngay cả công ăn việc làm để nghinh tân tống cựu. Thường thì những cá-nhân rời quê vì sinh kế nếu sắp xếp tiện đều trở về lần lượt ngay từ tháng chay Ramadan (khoảng tháng I0 hồi lịch) để không chỉ chuẩn-bị riêng tư-gia mà là cùng tập-trung nhân-lực và tài-lực vào công-tác trang-hoàng, chuẩn-bị cho ngôi Thánh đường chánh của tập-thể (madjis). Riêng về thanh-niên, trẻ con thì đảm-trách công-tác tập thể : phát quang vườn tược, đường lộ chính hướng về Thánh-đường và hồ nước thiêng (CULLAH) dành cho việc nước « sămbahyăng » ngày chính lễ.
Công tác chuẩn-bị này được chính thức soát xét lại đúng vào thứ hai mươi bảy tháng chạp (màlăm đoa-pa-lu-đa-chuh) cuối năm, chính đêm nay trẻ con sẽ làm lễ « chạy đèn » suốt từ đầu làng đến cuối làng với những điệu hát tiễn chân gọi là « PO-PƯ-PEÁ-PƯ » khoan nhặt từng hồi thật buồn bã. Riêng tại Thánh-đường một lễ cầu-nguyện được tổ-chức linh-đình nhằm tiễn chân năm cũ và xin Thượng-đế ban cho một năm mới an-lành, sung túc (Xem-ma-cư thun-pa-hầu). Kể từ ngày này, thường đã là những đêm không ngủ, và nhà nhà bắt đầu làm bánh trái dự trữ gồm nhiều thứ : nằm parăng, ha-pum, pây-kgah, cha-đoll, pây-nung, và nhất là loại bánh đặc-biệt « Đin-pà gòn » làm bằng loại nếp tốt nước cốt dừa, dồn đầy vào ống tre và thui cho đến chín, ăn rất béo và thơm tho lạ thường.
Các cô gái vào tuổi trăng tròn (vì không thể ra đường tự tiện đơn độc ban ngày) bắt đầu năn nỉ anh em đi tìm dùm lá « CHÀ MIỀN » để đem tán nhuyễn nhuộm cả móng tay và chơn (cách đêm đỏ hoe) biểu hiện cho một tia sáng hạnh-phúc tương-lai. Loại hoa đặc-biệt gọi là « Pà-ngư MLIH » cũng rất được quí trọng trong dịp này. Các cậu thanh niên muốn làm đẹp lòng nàng thôn nữ, cứ việc tìm cho nhiều về gửi tặng qua trung-gian của các bà hiền mẫu. Đây cũng là dịp mà các bà mẹ tìm tòi, nắm trông các nàng dâu tương lai. Hoa Mlih tượng-trưng cho sự trinh trắng, ngoài ra nó cũng là một biểu-hiệu cho cây « CRÊK » được xem cây thiêng của thời Chiêm-vương ngày trước 8 mà ngày nay không còn tìm thấy nữa. Các cô gái sẽ cài hoa Mlih trên búi tóc, kết chỉ đeo hay hòa thành nước thơm để sức và dâng cho đấng sinh thành tượng trưng cho tấm lòng trinh trắng và hiếu thảo trong đêm 30 rạng ngày Roya.
B. Mùng I, ngày tận hưởng trọn vẹn. Chuẩn-bị từ ngày hai mươi bảy tháng cuối cùng nên mọi việc đã hoàn tất trong ngày áp chót. Đêm 30, mọi tín hữu đều tập-trung tại Madjis để dự lễ nghinh tân, gồm có các lễ-tục :
- Tah-lèl : Cầu-nguyện cho linh-hồn các người quá vãng.
- Tak-Birr : cầu-nguyện tiếp đón năm mới an lành.
- Săl-vat : kêu gọi đấng ALLAH.
- Xướng kinh Cor’an qua cuộc thi tuyển.
- Thuyết-giảng đặc-biệt.
có thể kéo dài cho đến hừng đông. Mọi người đều xuống sông tắm gội, thoa nước thơm « Mlih » xem như gội rửa những cái loạng choạng của năm cũ. Trẻ con và cả người lớn bắt đầu mặc đồ mới, trang-sức cẩn thận (có thể gọi là cuộc thi đua). Khoảng 8 giờ sáng, trong khi đàn ông đến Thánh-đường thì đàn bà, con gái lo làm cơm nước để sau buổi lễ nhà nhà đều bưng đến tập-trung làm buổi tiệc đoàn kết của cộng đồng tại nhà giảng cạnh Thánh-đường đàn bà 9. Đây cũng là một trường-hợp thi đua, những nhà khá giả tự làm lấy một mình, kẻ túng thiếu có thể góp một phần vào đó.
Mọi người đàn ông đến hồ nước thiêng (Cullah) lấy nước làm thủ-tục sămbahyăng xong đều tập-trung vào Thánh-đường. Buổi hành-lễ chánh-thức bắt đầu. Một vị I-Mâm đứng lên Takbirr và thỉnh mời vị chủ lễ lên tọa trên bậc tam cấp (Mim-Barr). Vị này thường là người có trình-độ giáo-lý uyên-thâm, được Hakem chỉ-định sẵn, mặc áo dài tu-sĩ đầu quấn khăn Hadji, tay cầm gậy bắt đầu đọc bài-giảng « Khut-bah ». Nội-dung Khut-bit thường dựa vào một ít câu kinh Cor’an điển hình và khai-triển nhằm khuyên răn, nhắn nhủ tín đồ biết quý mến nhau, ăn ở hiền lành, lo củng cố đạo và làm tròn nghĩa-vụ đạo-giáo. Quan-trọng nhất là nghĩa-vụ hành-hương Mecca, mọi người được khuyến-cáo dành-dụm tiền bạc có đủ khả-năng kinh-phí hành-hương.
Trong lúc này, Thánh-đường im phăng-phắc, mọi người không ai chuyện trò, không xê dịch, mà chỉ chăm chú lắng nghe, một vài người thút thít khóc ròng… Bài-giảng chấm-dứt mọi người đổ xô lên tam cấp thỉnh vị « Kho-Tip » ấy xuống và thay phiên nhau ôm chầm hôn má tỏ tình biết ơn. Sau đó mọi người quay lại đụng ai cũng bắt tay nhau nói câu : « Sa-la-mu-a-lây-kum », nghĩa là bỏ chuyện cũ dung thứ tất cả cho nhau. Tất nhiên cũng có lễ Sămbahyăng tập thể liền đó và do một vị I-Mâm khác đứng trong « Mih-rap » hướng dẫn. Một hồi trống khoan thai từ đỉnh tháp báo hiệu chấm dứt buổi lễ với một giọng ngân dài lê-thê :
« Ollohu Akbar, Thượng-Đế tối vĩ đại. Tôi tin không có Thượng-đế nào khác, ngoài ALLAH ».
Tại các quốc-gia Hồi-giáo, chính lúc này, giáo-kỳ (nền xanh, sao lưỡi liềm trắng) được thượng lên đỉnh tháp theo sau những viên đại-bác rền trời 10. Một buổi cơm tập thể sau đó kéo dài đến xế trưa và sau đó là cuộc viếng thăm thân hữu, họ hàng, tay bắt mặt mừng, cùng xin xí xóa cho nhau những xích mích giận hờn của năm cũ. Buổi chiều dành nguyên cho lễ tảo mộ : con cái, thân quyến cùng phát quang sạch sẽ và lễ cầu-nguyện tổ-chức tại chỗ tiếp theo do một vị Tuan phụ trách (Đu-a) nhằm cầu-nguyện cho linh-hồn kẻ quá vãng được siêu-thoát trên Thiên-Đàng (Sôr-ka)…
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:07:38 GMT 9
QUAN THƯỢNG THƯỞNG XUÂN PHÙ LANG TRƯƠNG BÁ PHÁT
THÁNG bảy năm Nhâm-Thân I8I2, Gia-Long hạ lịnh cho Tả-quân Lê-Văn-Duyệt trấn nhậm Gia-Định tới năm Bính-Tí I8I6.
Quyền lực rộng, oai nghi lớn, Tả-quân Duyệt thực hành đúng vương-quyền của nhà Nguyễn ở trong xứ và trên Cam-bốt.
Trong việc cai-trị miền Nam có Trương-Tấn-Bửu làm phó (Hoàng-Việt, tr.329).
Bắt đầu lúc Tả-quân trấn nhậm, mối bang-giao giữa Việt và Xiêm còn ở điểm chết.
Năm Gia-Long thứ I2 (Quí-Dậu I8I3, sau tháng hai trước tháng sáu) vua Gia-Long xuống chiếu cho Tả-quân Duyêt, quan Hiệp-Trấn Ngô-Nhân-Tịnh đem chiến-thuyền hơn I3.000 quân sĩ đỡ đầu Quốc-Vương Cam-bốt là Nặc-Ông-Chân và gia-quyến đã chạy sang nước ta vì bị các em dùng thế lực quân Xiêm tranh giành ngôi trở về nước. Chiếu truyền ban Nặc-Ông-Chân 3.500 lượng bạc, 5.000 quan tiền, I0.000 hộc gạo.
Lịnh truyền xây cất lại thành Nam-Vang và Chưởng-cơ Nguyễn-văn-Thoại hay là Thoại-Ngọc-Hầu với hơn I.000 binh đóng giữ Nam-Vang cùng bảo-hộ nước Cam-bốt (Nhu Viễn, tr. 77, 79).
Quân ta đắp hai thành, dựng đài An-Biên ; trên đài có xây một căn nhà gọi là Nhu-Viễn-đường, để làm nơi cho Phiên-Vương bái vọng (Bản triều bạn... tr. 2I).
Phiên-Vương hay gọi khác là vua Cam-bốt Nặc-Ông-Chân.
Sách không nói hướng chánh của căn nhà ấy, song tác-giả đoán chừng là nó phải day mặt về phía Tây-nam, chiều đối chiếu lại vị-trí của Kinh thành Huế, vì khi vọng bái Vua Cam-Bốt phải day mặt về hướng Đông-Bắc. « Phiên-Vương dâng 88 con voi, Duyệt thấy rằng Phiên-quốc đang trong lúc xây dựng lại đất nước, kho-tàng hãy còn trống rỗng, nên xin chu trích một số bạc ở kho ra để hoàn lại giá 88 con voi ấy » (Bản triều bạn... tr. 2I).
Thời-gian cai-trị miền Đồng-Nai lần đầu, Tả-quân Duyệt làm cho Nặc-Ông-Chân phải một phen hồi hộp nhơn vụ Tết Nguyên-Đán.
Số là ngoài lễ cống hàng năm, Vua Cam-bốt còn phải xuống chầu nhơn dịp Tết Nguyên-Đán.
Năm ấy, Vua Miên xuống dự lễ ; thay vì ở trong thành Phan-Yên lại ra Sài-Côn thị (tức Chợ Lớn ngày nay) để nghỉ đêm.
Hôm sau trống điểm canh năm, Tả-quân và tiểu-trào hành-lễ tại Vọng-Cung lại vắng mặt Vua Cam-bốt. Tả-quân nhứt định không chờ, đến khi lễ tất, Vua Cam-bốt mới cho người đem lễ vật tiến vào. Tả-quân chiếu điển-lệ, phạt Vua Cam-bốt phải đóng ba ngàn lượng bạc tiền vạ mới cho về nước (V.H.Sển, tr.6I).
Lúc bấy giờ, thành Bến-Nghé xây cất rồi từ năm Canh-Tuất I790 (Sển, tr.48) gọi là Qui-Thành vì theo cặp mắt của khách từ trên cao ngó xuống, thấy nó như là con rùa lớn.
Qui-Thành có cả thảy tám cửa đổi tên qua lại, khiến bạn đọc phải rối óc. Tôi xin thông-dịch rành về tám cửa nầy.
Lúc xưa định phương hướng khác bây giờ nên tôi cũng phải tùy theo hồi ấy.
Tả (bây giờ thì hữu) hay là hướng Đông có hai cửa : Chấn-Hanh (ở lối cuối đường đường Lê-Thánh-Tôn bây giờ) và Cấn-Chỉ (lối đường Hồng-Thập-Tự bây giờ). Sau đời Minh-Mạng đổi lại : Hoài-Lai-môn và Phục-Viễn-môn.
Hữu (bây giờ thì tả) hay là hướng Tây có hai cửa : Đoài-Duyệt (ở gần góc đường Gia-Long và Công-Lý bây giờ) và Tốn-Thuận (ở gần góc đường Hồng-Thập-Tự và Công-Lý bây giờ).
Sau Minh Mạng xuống chiếu đổi lại : Tuyên-Hóa-môn và Định-Biên-môn.
Tiền (bây giờ thì Nam) cũng có hai cửa : Càn-Nguyên (cửa nầy ở ngã tư đường Tự-Do và Lê-Thánh-Tôn bây giờ) và Ly-Minh (ở gần đường Mạc-Đỉnh-Chi nếu đường nầy nối và đường Lê-Thánh-Tôn bây giờ).
Về lúc trào Minh-Mạng hạ chiếu thay lại : Gia-Định-môn và Phan-Yên-môn.
Hậu (bây giờ thì Bắc) cũng có hai cửa : Khôn-Hậu (cửa nầy nay ở lối góc đường Duy-Tân và Phan-Đình-Phùng bây giờ) và Khảm-Hiểm (gần góc đường Mạc-Đĩnh-Chi và Phan-Đình-Phùng bây giờ).
Trào Minh-Mạng, vua sửa lại : Cộng-Thìn-môn và Vọng-Khuyết-môn.
Xây cất Qui-Thành theo thể cách Vauban mà đặt tên tám cửa theo Tàu, vì mượn tên trong Bát-quái mà đặt.
Tóm lại, Qui-Thành nằm trong khoảng các con đường nầy :
- Đông, đại-lộ Cường-Để và Đinh-Tiên-Hoàng,
- Tây, đường Công Lý,
- Bắc, đường Phan-Đình-Phùng,
- Nam, đường Lê-Thánh-Tôn.
Duy có hướng Bắc thì tường thành không tới lề đường Phan-Đình-Phùng còn ba mặt kia tường thành đều chờm ra khỏi ba đường (Hình số III Bản đồ trong sách V.H.Sển).
Sau Minh Mạng truyền lịnh phá hủy Qui-Thành vì Lê-Văn-Khôi làm cách-mạng võ-trang ở Lục-Tỉnh Nam-Kỳ, từ tháng năm năm Quí-Tị (I833), rồi Khôi rút vào thành nầy cố thủ, đến tháng bảy năm Ất-Mùi (I835), Qui-Thành mới bị binh Trào đoạt lại. (Trần-Trọng-Kim, tr. I87 và I88).
Bạn đọc nhóm ý đặng chỗ nằm của Qui-Thành, bây giờ tôi xin tiếp tục nói về Tả-quân.
Công-thự của Tả-quân ở lối đường Thống Nhứt và Hàn Thuyên bây giờ nghĩa là gần tới dinh chủ-giáo chỗ nhà sách Liên-Châu bây giờ. Bà Tả-quân lại ở riêng ra, ngoài thành chỗ Dinh Độc-Lập bây giờ và gọi là Dinh Bà Lớn (Pétrus Ký, tr.29).
Trước ngày I6 tháng giêng, quan Thượng ăn chay, tắm gội cữ kiêng, giữ mình cho trong sạch, ý-tưởng không cong vạy.
Đến ngày ấy, Tả-quân mặc đồ đại-trào, vào Hoàng-Cung bái lễ (Ở trên cao ngó xuống Hoàng-Cung nầy có hình vuông vức, một cạnh ở vào lối lề bên trái đường Thống Nhứt, cạnh giao mặt ở lối đường Nguyễn-Du chạy dài qua khỏi đường Hai Bà Trưng, hai cạnh song song khác một cạnh khỏi đường Hai Bà Trưng chạy lên lề bên trái của đường Thống Nhứt, cạnh nữa chạy từ chỗ xéo đường Nguyễn-Du lên lề trái đường Thống Nhứt).
Sau ba tiếng súng thần công, Tả-quân lên kiệu trước mặt có binh đi xa xa và sau lưng có quân theo. Có khi Tả-quân ra cửa Càn-Nguyên hay gọi là Gia-Định-môn hoặc khi khác ra cửa Ly-Minh hay gọi khác là Phan-Yên-môn, hướng về phía Chợ-Vải nghĩa là hướng Tây, quẹo lên đường Công-Lý hiện nay, tiến về phía Mô Súng (chỗ nầy có tên khác là Đồng Tập Trận, hoặc là Đồng-Phú-Thạnh, tên nầy hiện nay còn dùng như đình Phú-Thạnh, Pháp thì gọi là « Đồng của Hình Nhiều Góc » (champ du polygone. Pétrus Ký, tr. I9) hoặc là Đồng Mả Mồ (plaine des Tombeaux) vì xưa kia chỗ nầy minh-mông đồng trống dẫy đầy Mả Mồ, không phân biết đặng ranh-giới).
Từng chập lính pháo-thủ bắn đại-bác, quân-sĩ chia hai mặt đánh nhau.
Tượng-binh cũng tập dượt, tấn thối có chiến-pháp, day trở có phương-lược.
Đây là ngày Tết, tượng-binh chỉ diễn-hành phô-trương vậy thôi.
Thời-giờ của Tả-quân có hạn, Tả-quân còn phải xem xét Thủy-Xưởng và chứng-kiến một cuộc tập thủy-chiến nữa.
Tập tượng-quân theo ngày thường như vầy :
«... Dùng voi trận thì dùng voi phá ba lũy tre ; sau lũy có quân lính có súng đứng nấp ; hỏa pháo, chiêng, trống, đồng thời hò hét khua giậy làm cho voi khiếp đảm. Khi một chiến lũy bị voi xông phá, quân sĩ lại lui về nấp ở chiến lũy sau.
Ở mặt lũy thứ nhất và giữa các mặt lũy khác đều có đặt những bồ-nhìn cầm gậy lam binh khí.
Mỗi con voi trên có quản tương, đằng sau voi có nhiều lính cầm gậy để thúc voi phải tiến và ngăn không cho lùi lại. Khi cả ba lũy đều bị voi xông qua được, quản tượng và quân sĩ lại hết sức hò hét quát tháo xua voi trở lại chỗ cũ và lập một trận giả khác. Cứ như thế tập đủ ba lần liền rồi mới lịnh truyền cho voi nghỉ... » (Tiên Đàm Nguyễn-Tường-Phượng, tr.48).
Bây giờ trở về với Tả-quân. Người đi vòng quanh theo hào thành (không biết hồi bấy giờ là đường gì, sau Pháp kêu là đượng Mọi (rue des Moĩs) và hiện nay là đường Phan-Đình-Phùng) xuống xem xét Thủy-Xưởng (chắc ở sở Ba Son bây giờ).
Mãn cuộc, Tả-quân vô thành có lẽ là cửa Cấn-Chỉ hay gọi khác là Phục-Viễn-môn.
Trong lúc những cuộc lễ, tập trận, thường-dân đốt pháo, gây tiếng động cốt là làm ồn-ào lên để đuổi tà ma quỉ mị ra khỏi nhà họ (Pétrus Ký, tr.I6).
Ngày thường Tả-quân còn coi đá gà, còn xem hát bội huống hồ chi ngày Tết là ngày vui vẻ nên Tả-quân thường giải-trí trong các trận đá gà và hát bội.
Trường gà cũng gọi là nhà hoa, trường hát bội cũng gọi là nhà hát, sân bắn ná gọi là trường ná đều ở ngoài thành tứ lối Tòa Tư Pháp bây giờ, dinh Độc-Lập và trường học J.J. Rousseau của Pháp hiện nay (Pétrus Ký, tr. 29, 32).
Có lẽ thời Tả-quân cai trị là thời vàng son của các tay đá gà và các nghệ-sĩ hát bội.
Lúc cai-trị Lục-Tỉnh lần thứ nhất nầy, có lần Tả-quân phải thân-chinh ra Quảng-Ngãi để trừ bọn mọi. Việc kể cũng là lạ và làm cho oai Tả-quân càng lên cao mà duy có « Bản triều bạn nghịch liệt truyện » nói đến mà thôi.
Số là năm Gia-Long thứ I4, Ất Hợi I8I5 (tháng sáu, Nguyễn Triệu, Văn Hóa Ng. S, số 45, I959) bọn mọi dữ ở tỉnh Quảng-Ngãi lại ra quấy nhiễu dân cư nơi biên-giới. Quan trấn-thủ Phan-Tấn-Huỳnh đem quân đánh với chúng bị thất-bại. Tổng-trấn Gia-Định Lê-Văn-Duyệt lại đem quân tới. Bọn mọi dữ biết tin, đều liền trốn hết. Duyệt tâu xin đắp thành Bình-Man, ngoài cắm chông, dưới chân thành thì đào hào, phía Bắc tới Gia-Tiên, giáp phủ Thăng-Bình tỉnh Quảng-Nam ; phía Nam tới Đồng Xanh, giáp phủ Y-Nhân (Đồng-Nhân) tỉnh Bình-Định, được 37.479 trượng ta, để sáu cơ-binh trấn-giữ.
Xét ra ông Lê-Văn-Duyệt tới Quảng-Ngãi tất cả bốn lần để kinh-lý các việc biên-giới. Bọn mọi dữ Thạch-Bích (Đá Vách) nghe được, liền trốn hết, không dám kháng-cự. (Bản triều..., tr.24, 25).
Thật ra, bốn tiếng « Nam tảo Bắc trừ » dùng đối với Tả-quân rất đúng lắm vậy.
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:08:28 GMT 9
NHỮNG LỄ HỘI Ở HÀ-TIÊN TRONG BA THÁNG MÙA XUÂN ĐÔNG HỒ
HÀ-TIÊN là miền duyên-hải ở về cực tây đất Lục-tỉnh, giáp giới với nước Xiêm-la và nước Cao-miên. Hà-tiên là một cõi đất biên đình tuyệt tái, nguyên là địa-bàn của giòng họ Mạc : Mạc Cửu và con là Mạc Thiên-Tích khai thác kinh doanh trong thế-kỷ thứ XVIII. Họ Mạc đến đây, chiêu thương lập ấp, biến một nơi hoang vu, trở thành một phụ-đầu phồn vinh, biến một chốn man dã thành một nước văn-hiến văn-chương. Hồi hai thế-kỷ trước, Hà-tiên nghiễm nhiên là một tiểu-quốc độc-lập, tự-chủ, có võ-công có văn-hiến, nổi tiếng phong-lưu tài-vận. Hà-tiên cũng nghiễm-nhiên là một hải-cảng, một thương-phụ sầm uất, chẳng những giao thiệp với các nước hải ngoại quanh miền Nam hải, mà còn giao thiệp với các nước Tây phương tiếp nối thời kỳ dọ dẫm qua Đông-phương, tiếp nối theo con đường tơ-lụa, con đường hương-liệu, đã bắt đầu từ ba bốn thế-kỷ trước đó.
Hà-tiên là đất lịch-sử, cổ nhất của miền Lục-tỉnh.
Như chúng ta đã biết, Hà-tiên nguyên là đất khai thác của đám người di cư tị nạn chính-trị Mãn Thanh từ Hoa-nam Trung-Quốc đến định cư. Người Tàu đến đâu là tổ chức ngay tại địa-phương đó đủ hết nhu-cầu sinh-hoạt cho họ. Họ gìn giữ nếp sống truyền-thống, cố hữu của họ rất chặt-chẽ bền-bĩ, cũng như gìn giữ tâm lý tâm-hồn của họ. Huống chi, thuở đám người Trung-hoa mới đến định cư ở Hà-tiên, thì người Việt-tộc nam tiến, từ Đàng-trong, từ Đàng-ngoài chưa đến kịp miền Tây Lục-tỉnh. Người Tàu họ đã đến chiếm đó trước sẵn rồi. Đất miền Tây, mà Hà-tiên là trung tâm, kể như là giang-san riêng biệt của người Hoa-nam. Họ nghiễm-nhiên là chủ-nhân-ông thời đó.
Trải qua gần ba thế-kỷ, mặc dầu trung-gian có chịu ảnh-hưởng sâu đậm, trực tiếp với người Việt-tộc, trên mọi phương diện chính-trị, văn-hóa, tôn-giáo, và chịu ảnh-hưởng ít nhiều gián-tiếp với hai dân-tộc láng giềng là dân-tộc Thái và dân-tộc Miên, nhưng mà nếp sống của người Tàu nơi đây hãy còn thấy rõ-ràng. Thấy rõ hơn hết là trong những dịp hội hè Tết nhất, tang tế thờ cúng.
*
Loạt bài này, chúng ta ghi sơ lược một vài nét khác biệt về các hội lễ lớn, trong dịp Tết và trong ba tháng mùa xuân. Chúng ta tuần tự kiểm điểm theo thời-lệnh :
I–Lễ Táo-quân
2–Lễ tuế-trừ
3–Lễ giao-thừa
4–Lễ Nguyên-đán
5–Lễ Thượng-nguyên
6–Lễ Tảo-mộ
LỄ TÁO-QUÂN Chúng ta bắt đầu về lễ Táo-quân.
Ở Hà-tiên, việc thờ Táo-quân không giống như các nơi khác.
Các nơi khác thờ Táo-quân thường thờ tại nhà bếp. Trên chỗ khuôn bếp, có kệ thờ, có treo bức tượng Táo-quân, áo mão như một vị quan triều, mà mặt của
Táo-quân thì thợ vẽ có ý vẽ đen đen, tượng trưng Táo-quân là vị Thần bếp, cho nên mặt mũi lọ lem. Mà dầu cho mặt Táo-quân không vẽ đen, rồi cũng phải đen, vì tượng Táo-quân treo thường trực ngay trên dàn bếp như vậy, mỗi ngày khói củi bụi than bám vào, làm sao mà sắc diện Táo-quân không đen-đủi.
Ở Hà-tiên thì việc thờ Táo-quân được cẩn thận và trọng vọng hơn. Không thờ bức tượng, không thờ tại nhà bếp. Một điều đó đủ tỏ lòng tôn kính đối với Táo-quân rồi.
Thường thì nhà nào, gian giữa phía trước, cũng dành thờ Thần thờ Phật. Bàn thờ tổ tông thì lại đặt về bên tả, bên hữu. Thờ Thần, phần nhiều thờ Quan-công. Thờ Phật, phần nhiều thờ Quan-âm. Bàn thờ Thần Phật này đặt ngay giữa nhà.
Ở Hà-tiên, phần nhiều nhà nhỏ hay lớn, nhà lá hay nhà gạch, đều cất ba căn. Cho nên, việc đặt bàn thờ Thần thờ Phật ở giữa nhà cũng tiện lắm. Bàn thờ Thần thờ Phật đặt tại căn giữa, dựa lưng vào tấm vách ngăn. Bức vách ngăn này thường lui sâu vào phía sau hàng cột cái, để chừa cho phần trước nhà rộng hơn phần sau nhà một ít.
Ngay sau tấm vách ngăn này, ngó ra hướng nhà sau, dành cho chỗ thờ Táo-quân.
Phía trước bức vách ngăn, thờ Thần, thờ Phật, thì có đặt bàn thờ, tủ thờ hẳn-hòi. Phía lưng bức vách ngăn, thờ Táo-quân, tuy cũng chiếm căn giữa nhà cẩn-thận, mà không khi nào có đặt bàn thờ. Mà chỉ đặt một tấm ván hình chữ nhật ; dài độ thước rưỡi, hai thước, rộng độ năm tấc, sáu tấc. Tấm ván đặt cao khỏi đầu người một với. Mặt ván, cạnh ván có khi bàu gọt chạm trổ nữa, như mà không khi nào có chưn, mà làm cách đóng giá vào vách, gác lên, theo kiểu « con xôn » hoặc là treo bằng hai sợi dây đánh bằng mây, bằng kẽm chắc-chắn, đủ sức chịu đựng một trọng-lượng kha khá.
Việc bàn thờ Táo-quân treo cao và không có chưn này là có dụng ý và có một công dụng thực tế. Luôn luôn phía dưới, trước bàn thờ Táo-quân, nhà nào cũng có kê một bộ ván ngựa nhỏ thấp. Bởi việc kê bộ phản này mà bắt buộc bàn thờ Táo-quân không có chưn, để chỗ cho bộ ván ngựa kê được sát vào vách, không vướng lối đi. Và bàn thờ Táo-quân phải treo cao lên vì khi đã kê bộ ván này dưới chỗ bàn thờ ; thì bàn thờ phải treo cao, là để cho việc đứng ngồi trên ván khỏi vướng, khỏi đụng đầu. Còn một việc thiết dụng hơn nữa là để tiện cho việc giăng mùng, ngủ ngay tại bộ ván ngựa đó.
Bàn thờ Táo-quân và bộ ván ngựa nhỏ này có nhiều công dụng. Ban ngày, bộ ván để nằm ngồi, ăn trầu uống nước, tiếp bè bạn thân, ban đêm là chỗ nằm ngủ như chiếc đi-văng bây giờ. Khi trong nhà có người bịnh-hoạn đau yếu, thì nằm tại chỗ đó cho thầy lang chẩn mạch, cho người nhà săn-sóc. Như vậy được rộng rãi sáng sủa hơn trong buồng gói, trong phòng ngủ. Tiện hơn hết là, buổi sáng buổi chiều, nhảy lên đó cắm nhang cho Táo-quân, lại khi có cúng kiếng thì bộ ván đó là chỗ đứng đặt phẩm vật, rót rượu, rót trà, khỏi cần đến ghế. Rồi phủ phục ngay tại bộ ván để mà vái lạy Táo-quân rất thân mật.
Tiện hơn nữa, là dành cho các người hay chữ trong nhà. Bộ ván đó là án thư, nằm đọc sách, mà bàn thờ treo của Táo-quân là tủ chè, là kệ sách tạm tạm. Để lên đó, bình trà bộ chén, gác lên đó những chồng sách đang đọc dở. Mỗi khi đọc xong, vói tay quăng lên đó. Mỗi khi muốn đọc, đưa tay lên đó, quơ xuống, vừa vừa tầm tay với. Giống như đi-văng có kệ sách, lối trang trí hện thời.
Bác tôi, Hữu-lân tiên-sinh, thuở sinh-tiền, rất thích chỗ để bàn thờ Táo-quân và bộ ván nhỏ này. Trên bàn thờ, nghiễm nhiên là một giá sách chất cao, và Bác nằm đọc sách luôn tại bộ ván trước bàn thờ. Bao nhiêu sách ngũ king tứ thư, bách gia chư tử, tiểu-thuyết ngoại-thư chất đầy kệ thờ, vì Bác đọc xong, không cất trả vào tủ, tiện tay cứ chất đống lên đó. Có người bạn đến chơi, nhìn lên bàn thờ nói đùa rằng :
- Ông Táo nhà họ Lâm này hay chữ hơn các ông Táo nhà khác !
Bác lấy làm thích, thường nhắc đi nhắc lại câu nói đùa đó làm vui. Và chồng sách của « ông Táo hay chữ » cứ càng ngày càng chất cao hơn thêm.
*
Đọc sách quanh năm cũng mỏi. Cũng đến ngày ông Táo phải nghỉ đọc sách, và phải nghỉ đến việc triều-thiên là phần vụ của ông. Đó là ngày 23 tháng chạp, ngày Táo-quân chầu trời. Bấy giờ bao nhiêu sách vở thánh hiền phải dọn dẹp đi. Lau quét bàn thờ, sửa sang chưn đèn lư hương bình hoa. Bức giấy thờ viết từ năm ngoái đã cũ rồi. Bây giờ phải thay vào tờ hồng-đơn mới đỏ tươi. Hàng chữ triện nét ngang, khuôn giẹp, màu mực xạ đen nhánh viết đè lên nền giấy hồng đơn rơi kim óng ánh. Bức giấy dán lên : một dòng chữ thờ tôn-kính : Đông trù tư mạng Táo-phủ thần-quân. Kèm thêm hai bên tả hữu, đôi câu đối :
Công bình hữu đức năng tư hỏa
Chánh trực vô tư khả đạt thiên
Câu trên nghĩa rằng : Công-đức của Táo-quân đã cung-cấp than lửa, đem đến cho mọi gia-đình ấm-áp no đủ. Táo-quân phân phát công bình ; không nhà nào hơn nhà nào kém. Táo-quân đối với nhà nghèo cũng như đối với nhà giàu, đồng nhất thể : Than củi, lửa đun, bếp nhà nào mà không thổi chín cơm, nấu chín cá.
Câu dưới nghĩa rằng : Táo-quân chánh trực công-minh, ghi chép những hành động của nhân-gian, báo cáo lên Thiên-đình, vẫn giữ vô tư, không thiên vị nhà nào. Táo-quân không vì cúng kiếng nhiều lễ vật mà nói tốt, cũng không vì nhà ít lễ vật mà nói xấu.
Đó là việc dọn bàn thờ Táo-quân ở nhà trên. Còn ở nhà bếp, cũng không phải là bỏ quên mà không dọn dẹp… Trước đó, từ đầu tháng chạp, mọi nhà đã lo nhồi đất sét cho nhuyễn, nặn ba bốn cái lò mới, nhỏ lớn đủ cỡ, hợp dụng. Chợ búa ngày trước ít có bán những lò bếp như bây giờ. Mà người Hà-tiên vốn tiết kiệm, người Hà-tiên vốn khéo tay, nhà nào cũng có thể đắp lò bếp được cả. Tự nặn lấy bếp gia dụng, được vừa ý hơn, và được bền bĩ hơn.
Tuy nói là bền chắc, bền chắc cách nào, dùng nấu nướng suốt năm, cũng hỏng, cũng nứt, cũng gẫy đầu, gẫy cổ, không thì cũng nứt nẻ đen xấu. Luôn luôn, đến cuối năm, là phải thay « ông lò » mới. Ngày 23 tháng chạp đó, ở nhà trên cúng tiễn Táo-quân, thì ở nhà bếp thay những « ông lò » mới lên khuôn bếp, đã quét tước sạch sẽ. Những lò bếp cũ không dùng nữa thì đem ra gởi ở gốc da, bụi tre sau vườn, không dám quăng bỏ bừa bãi vì sợ tội với Táo-quân. Việc gởi « Ông Táo » ở gốc cây cũng như việc gởi « ông Bình-vôi » vậy.
Lễ cúng tiễn Táo-quân vào đêm 23 rạng ngày 24 tháng chạp. Lễ vật thông thường là hương đăng hoa quả, tự nhiên không thể thiếu. Có nhà cúng thêm chè đậu, chè bán. Phần nhiều giữ tục lệ cổ truyền thì cúng món mì xọa nấu đường. Tiếng Tiều châu : Xọa là sợi chỉ. Mì-xọa thứ mì sợi nhỏ, dài lòng thòng cuốn quanh như con nhợ. Ở Saigon đây, tôi nghe gọi thứ mì này là mì chỉ. Nhưng mà mì chỉ ngày nay tinh tế hơn nhiều ; sợi mì nhỏ mịn và trắng trong hơn, cuộn từng cuộn nhỏ như con chỉ tàu, để sắp lớp trong hộp giấy, có buộc sợi chỉ đỏ trên mỗi con mì, trình bày trông khéo hơn nhiều. Còn thứ mì-xọa ngày xưa bán ở các hàng xén người Tàu, sợi to thô, vị mặn mặn. Mì luộc chín, nấu với nước đường, có nêm thêm ít cương trấp, tức là nước gừng dã, vắt vào nước đường. Chén mì xọa cúng Táo-quân trông thanh thanh, sợi mì nhạt nhạt, mặn mặn, nước ngọt ngọt, điểm chút cay cay thơm thơm, cũng có một mùi vị đặc-biệt của Hà-tiên.
Mì xọa, tuy tiếng là nấu để cúng Táo-quân, năm ba bát nhỏ mà thôi. Thực sự thì nhà nào cũng nấu nhiều. Vì tiện dịp, cúng ở bàn Thần bàn Phật, bàn Trời, bàn Tổ tiên. Đêm 23 tháng chạp này cúng kiếng xong rồi thì hôm sau, các đồ thờ, tế khí đều đem xuống hết, lo việc dọn bàn thờ ăn Tết. Việc chánh là việc lo đánh bóng các bộ đồ thờ bằng đồng : chưn đèn, lư hương. Có nhà nhiều đến năm sáu bộ lư to lớn. Mọi người trong nhà, ngày đêm bỏ công hết vào việc dọn bàn thờ, chùi lư đồng. Nhưng mà tiết mục chưn dọn bàn thờ, đón rước Tổ tiên ăn Tết này, sẽ kể về sau.
*
Bây giờ kể tiếp cho xong việc cúng Táo-quân.
Đại loại việc cúng tiễn Táo-quân, bằng món mì xọa nấu đường, phổ-thông là như trên đó. Có khi gặp trường hợp đặc-biệt. Nhà nào có con nít « bán cho ông Táo » mà đến tuổi trả lễ, thì phải tết Táo-quân đặc-biệt hơn.
Ở Hà-tiên có tục lệ « bán con nít cho ông Táo ». Nhà nào hiếm hoi, hoặc nhà nào sanh được con trai èo uột kó nuôi, thì có cách, khi mới sanh, đem ký bán cho ông Táo nuôi giùm. Nhờ đức tin-tưởng, mà cha mẹ an tâm. Bấy giờ thì vai-trò của ông Táo chẳng những phụ-trách việc lửa củi nhà bếp mà còn phụ-trách việc chăm nom săn-sóc sức khỏe và trí thức cho trẻ con nữa. Tin tưởng rằng đứa con nít nào được ông Táo nuôi chẳng những được mạnh giỏi tráng kiện mà trí-thức cũng sáng-sủa minh-mẫn, học hành tấn tới hơn.
Rồi hễ đến năm đứa nhỏ được ba tuổi thì cúng trả lễ một lần, đến năm bảy tuổi, cũng trả lễ thêm một lần nữa. Cho đến đứa nhỏ lên mười, thì mới cúng xin chuộc về. Vì đến tuổi đó kể như là đến tuổi đứa nhỏ đã mạnh giỏi được rồi, hết bịnh hoạn, hết ương yếu, cha mẹ tự nuôi được rồi, mà không cần đến sự phù hộ thiêng-liêng của Táo-quân nữa.
Gặp những năm cúng trả lễ 3 tuổi, 7 tuổi, thì ngoài món mì-xọa nấu đường, còn biện thêm món tam sanh. Tam sanh tức là ba con vật hi-sinh. Hi-sinh là vật cúng tế thần thánh nguyên đã có từ thời thượng-cổ. Tam sanh gồm có : một miếng thịt heo, tượng trưng cho loại thú, một cái trứng gà, tượng trưng cho loại cầm, một con tôm tượng trưng cho loài thủy tộc. Có nhà bày vẽ lễ ngũ sanh. Ngũ sanh thì : ba món trên đó, còn làm thêm một con cá và một con cua. Các món đó, đều luộc chín mà thôi, không cần nấu nướng gì hết. Đó là cúng trả lễ hai giai-đoạn đầu.
Đến khi đứa con trai mà Tết sắp đến đó được I0 tuổi, đã chắc chắn trưởng thành, tự cha mẹ nuôi lấy được rồi, thì mới làm lễ chuộc con về.
Lễ chuộc con này thì quan trọng hơn nhiều. Nhà nào dư dã thì thay miếng thịt bằng nguyên cả một con heo, cái trứng thay bằng cả một con gà hay con vịt. Số tôm cua cúng nhiều gia bội. Đã có thịt heo thì phải có mâm xôi nữa cho đủ bộ xôi thịt. Hương đăng trà quả long trọng tươm tất như những ngày đại lễ trong gia-đình.
Cha mẹ lễ tạ ơn Táo-quân, xin chuộc con về. Đứa con trai, thay quần áo mới, cũng lễ giã từ ông Táo nuôi, mà về luôn với cha mẹ ruột.
Việc ký bán con cho Táo-quân nuôi làm con đỡ đầu này, tôi thấy bán con trai, mà không thấy bán con gái. Tôi biết chắc vì tôi và một người cháu trai nữa là anh Trúc-Hà, khi nhỏ cũng được bán cho ông Táo nuôi đến I0 tuổi ; mà hai chị tôi thì không thấy có việc cho làm con ông Táo.
Đó là do ở tục trọng nam khinh nữ của người Tàu. Sanh con gái, có nuôi được hay không nuôi được, cũng không lấy làm quan hệ chi. Con trai được yêu quí hơn, cho nên phải lo lắng chăm nom đặc-biệt hơn.
Đến đây, chúng ta thấy rằng Táo-quân ở Hà-tiên, ngoài việc làm Thần than-củi bếp-nước, còn là Thần hộ-mạng cho đám nhi-đồng nữa. Vì thế mà Táo-quân ở Hà-tiên được tôn-kính, được thờ phụng trịnh trọng hơn là phải.
Theo những lễ tục như vậy, chúng ta thấy ở Hà-tiên không có truyền thuyết « một bà Táo và hai ông Táo », lễ cúng Táo-quân không có « hia đai mủ mảng », cũng không có « cò bay ngựa chạy » như ở các miền khác.
*
Tiện đây, chép một thi-thoại về Táo-quân. Đoạn trên, chúng ta có thấy câu đối thờ Táo-quân, ý tán tụng đức công-bình, lòng chánh-trực vô-tư của vị Thần này. Nhưng mà, không phải ai ai cũng đều bằng lòng Táo-quân cả đâu.
Mỗi năm, lần nào trong dịp cúng Táo-quân, tôi cũng được Bác tôi, Hữu-Lân tiên-sinh, kể cho nghe một thi-thoại vui vui :
Có một chàng thư-sinh nghèo, quanh năm thiếu thốn. Đến hôm 23 tháng chạp, tiễn Táo-quân triều thiên, không có tiền mua sắm lễ vật. Muốn chứng tỏ cho Táo-quân thấy rõ cảnh nghèo túng của chàng, nhân thể « trả thù » Táo-quân. Chàng múc một gáo nước lã và vào bếp lấy ra một que củi khói, gác ngang lên bàn thờ Táo-quân. Gáo nước lã thay cho chén trà rượu, que củi khói thay cho nén hương, cây nhang. Lễ mễ thật là dưới mức đạm bạc nữa. Xong, chàng thư-sinh viết một bài thơ tứ tuyệt, khấn rồi đốt đi :
Nhất chước thủy nhất chi yến
Táo-quân thướng tấu cửu trùng thiên
Ngọc hoàng nhược vấn nhân-gian sự
Vạn sự nhân-gian chỉ vị tiền
Nghĩa rằng : Một gáo nước lã và một que củi khói. Đó là lễ tiễn ngài vua Bếp lên chầu Trời. Nếu Ngọc-hoàng có hỏi chuyện nhân-gian như sao, thì xin ngài Táo-quân đừng giấu giếm mà tâu ngay thẳng rằng : Muôn việc ở thế gian này đều lấy đồng tiền mà giải quyết cả. Ý rằng người đời chỉ biết có tiền mà thôi ; ngoài ra, không có ân-tình, không có nhân-nghĩa gì hết.
Nếu muốn dịch thành văn vần, thì dịch dôi khổ hơn một chút, cho vui lời :
Nước lã một gáo, củi khói một que
Táo-quân lên đó, nói cho nghe Ngọc-hoàng
Trời mà phán hỏi chuyện nhân-gian
Tâu rằng : muôn việc nhân-gian
Chỉ có tiền bạc là hơn nhất đời
Ấy muôn việc ở đời, đời xưa cũng như đời nay, thực-tế chán-chường và bẽ-bàng như thế đó.
*
Táo-quân bây giờ, lên chầu Trời, muốn báo cáo với Thiên-đình chuyện thế gian, tưởng phải mệt hơn nhiều. Vì ở xã-hội chúng ta ngày nay, gia-đình nào cũng có không biết bao nhiêu chuyện rắc-rối, khó-khăn bao nhiêu điều bê bối ngầy ngà. Táo-quân ngày nay có lanh lợi, có tài giỏi, có khả-năng hơn Táo-quân ngày xưa hay không mà hòng kiểm soát cho nổi chuyện nhân-gian. Huống chi, ở thế-hệ ngày nay, bao nhiêu chuyện xảy ra, đâu có hiền lành, đâu có chậm-chạp như thời xưa nữa.
Ngày xưa, nếu có chuyện rắc-rối làm tổn thương danh-giáo gia-phong cũng chỉ xảy ra ở phạm vi trong vườn sau, trong xó bếp, trong bờ ruộng vườn cà, mà ngày nay thì luôn luôn xảy ra ở rạp xi-nê, ở đăng-xinh, ở phòng-trà, ở tiệm-kem, ở ngoài phố tà tà, ở giữa chợ Bến-Thành đông đúc, và ở biết bao nhiêu nơi chốn khác. Xe Honda, xe Solex, xe Vespa đèo nhau phóng như gió, chạy như bay, lại còn tài tráo-trở, quanh-co nhiều nẻo. Táo-quân nào mà theo dõi, mà coi chừng cho kịp những đứa « con nuôi tinh-thần » khả ái đó. Huống chi Táo-quân ngày nay còn bận-bịu bao nhiêu phiền vụ, bao nhiêu sinh kế, mang bách chớ có đâu nhàn rỗi, suốt ngày thung dung nằm đọc sách như thời xưa. Nhưng suy đi còn nghĩ lại, Táo-quân ngày nay đâu có phải ù-lỳ chậm-chạp nặng-nề như gạch nung, như đất nặn ngày xưa nữa. Mà Táo-quân ngày nay, hầu hết đều là bếp gaz lò điện, thì chân tay tất cũng nhanh nhẹn, tai mắt tất cũng lanh lẹ hơn Táo-quân ngày xưa nhiều lắm, thì chắc rằng Táo-quân ở Thành có đủ khả-năng, có đủ trực giác, có đủ tài-trí, có mưu cơ đáp ứng kịp thời với thời-thế trong xã-hội mới, và kiểm soát nổi những đứa con thế-hệ. Chúng ta tất có đủ lòng tin cậy mà bán chác mà gởi gắm chúng nó cho Táo-quân lắm.
Nếu ở Sài-gòn đây cũng bắt chước phong-tục Hà-Tiên, bán con cho Táo-quân nuôi, chẳng những bán những đứa con trai mà càng nên bán cả những đứa con gái. Bởi vì những đứa con « ái nữ » thiên kim tiểu thư bây giờ cũng trân trọng, cũng quí báu như ngọc như vàng chứ có kém gì con trai, có khi còn được kiều dưỡng hơn con trai nữa. Và phải đợi cho đến trên 25 tuổi mới sẽ chuộc về. Vì lẽ, những đứa con « hồng nhan thư sinh » bây giờ, chẳng những cần phải chăm nuôi thân thể, săn-sóc vật-chất chúng nó, mà còn phải chăm nom đạo-đức, nuôi dưỡng tinh-thần chúng nó. Còn cần phải giáo-dục tâm-hồn cho những đứa con thời-đại đó, tế nhị hơn, kỹ lưỡng hơn nhiều. Tế nhị kỹ lưỡng còn hơn sự giáo dưỡng những đứa con « bạch diện thư sinh » nữa.
Thế-hệ thanh niên, đang khủng hoảng nhất là con gái thời nay, nhiều hay ít đứa nào cũng đang trong cơn bịnh hoạn. Là một thứ bịnh thế-hệ, bịnh thời-đại rất nặng. Phải nuôi dưỡng săn-sóc chúng nó như nuôi dưỡng săn-sóc người bịnh mà là bịnh tinh-thần, bịnh tâm-hồn, bịnh sinh lí, thêm bịnh ngoan-cố, bịnh tự-tôn, bịnh kiêu-ngạo, bịnh tự-ái nữa, thì chỉ có việc bán đứt cho Táo-quân đem chúng nó vào xó bếp, để cho tay chân đen đủi mặt mũi lọ lem, may nhờ « công tư hỏa, đức đạt thiên » của Táo-quân mà chữa cho lành mạnh lại.
Thiết nghĩ, bịnh không phải hoàn-toàn do thế-hệ gây ra để tự chuốc bịnh vào thân mà nguyên-nhân bịnh-căn còn do xã-hội, do thời-thế, do cảnh-ngộ, do hoàn-cảnh nữa. Thế-hệ đang sắp chết đuối giữa giòng nước lũ, chỉ đợi một chiếc phù-phao thiêng-liêng ném xuống cho kịp lúc, ném cho đúng tầm tay với, cho níu được.
Mấy dòng kết luận hời hợt này, chép phỏng theo bài sớ Táo-quân, may được gởi đến Hội Bảo-vệ Nhân-phẩm phụ-nữ, Hội Bảo-vệ Luân-lý, Hội Bảo-vệ Văn-hóa dân-tộc và gởi đến cho gia-đình nào có những đứa con đang bệnh hoạn khó nuôi.
Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:09:18 GMT 9
Giai Thoại Về Thơ Khai BútThuật-giả Báng Sơn Theo tập-quán của các dân-tộc Á-Đông cùng chung cái Tết Nguyên-Đán, hầu hết cùng chung một quan-niệm là « Vạn sự khởi ư Xuân » (Muôn việc khởi đầu tự mùa Xuân). Mỗi khi gặp tiết Xuân sang, vì muốn chiêm nghiệm điềm hay điềm dở của những mùa hạ, mùa thu, mùa đông sắp tới nó sẽ ra sao ? Nhà nông thì chọn giờ động thổ vác cuốc ra đồng cuốc một vài lát lấy lệ ; người làm thợ thì mài sẵn cưa, đục, làm thử một vật gì chẳng hạn ; nhà thương mại thì chọn ngày giờ tốt để mở cửa hàng và hẹn người tốt vía đến thăm xông. Riêng có nhà nho thì lại sinh ra lắm chuyện hơn cả, nghĩa là ngoài cái thông-lệ viết câu đối đỏ dán ngay lên cột, lại còn có cả Ca-Trù, hoặc thơ Tự-Thọ, Tự-Trào để trào-phúng mình, hoặc mượn câu văn trào-phúng thiên hạ như bài « Nhập thể cục bất khả vô văn-tự », mà cái văn-tự ấy ông sợ người đời không thưởng-thức nổi nên mới quay lại để hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay ? Chua chát hơn nữa là những bài thơ nghe nó chúc nhau, chúc nhau bán chức mua quan thì ông quyết đi buôn lọng, vừa bán, vừa la cũng đắt hàng. Chúc nhau sinh năm đẻ bảy thì ông lại bảo : phố phường chật hẹp, bồng trống nhau lên nó ở non. Nói tóm lại, hễ ai nhắc đến lối thơ trào-phúng cũng đều đặt ông Tú-Xương đứng lên hàng đầu, trên cả Ba-Giai, Tú-Xuất. Bởi vì văn thơ của ông, bất-luận một tác-phẩm nào đó cũng chứa đựng một mầu mai-mỉa trào-phúng, chứ chẳng riêng gì thơ xuân, nên mới giữ được lá cờ vô-địch của Tao-Đàn trào-phúng mà tự bấy đến nay, hơn nửa thế-kỷ, cũng chưa có ai tranh giành được vậy. Nhưng nói riêng về giai-thoại của những vần thơ Khai-bút, cũng thuộc loại thơ trào-phúng, trào-phúng một cách thanh-tao, vui-vẻ, hợp với khí-hậu êm dịu của mùa Xuân, thì trong thời ấy lại cũng có một cụ đồ mà cụ Tú-Xương thường phải thán-phục là bậc thi-huynh (tức là đàn anh về thơ). Cái đàn anh đây không phải vì tuổi, vì cụ đồ lớn hơn cụ Tú mười mấy tuổi đầu, mà nó chỉ vì cái mối « thanh-khí tương-tầm », vì hai bên cùng sở trường và sở-thích về lối thơ trào-phúng mà trước kia đã cùng lao-đao về nghiệp lều chõng. Cái lao-đao ấy đâu phải là học đã toi cơm nhưng chửa chín, mà nó chỉ tại ở cái giọng văn trào-phúng, trào-phúng chẳng biết nể một ai. Đối với lối văn trường ốc mà cả hai ông chẳng chịu thay đổi thì chỉ có hỏng đầu nước, nên vẫn luôn-luôn cười gượng ngâm câu « Thi không ăn ớt thế mà cay ». Vì cái cay ấy, mà nó đưa hai ông đến chỗ « vong-niên chi hữu » (người bạn quên kể tuổi). Hơn nữa, trong thời-gian ấy, học vấn cũng đã bắt đầu canh-tân, thế mà hai ông vẫn cứ thủ-cựu : Chữ tây không biết, quốc ngữ cũng cho là chữ dây muống, học để làm chi ? Dẫu có nghe lỏm thuộc lòng mấy tiếng « cúng-hỉ » « mét-xì » thử hỏi xuất-dương sao được ? Bởi thế hai ông càng cay, càng cay thì lại càng đi sâu vào lối thơ trào-phúng. Nhưng lối thơ trào-phúng của hai ông nó lại có điểm khác nhau đặc-biệt. Hoặc giả nó vì hoàn-cảnh gia-đình của hai nhà thơ nó chẳng giống nhau. Bởi vì gia-đình cụ Tú thì bà Tú quanh năm buôn-bán ở mom sông, còn 5 cậu bé nhỏ tuổi, chẳng biết làm thơ, thành ra ông bị cô-lập. Cô-lập nên ông thường đem câu thơ chua-chát để mai-mỉa đời. Còn Cụ đồ Tiếu họ Đàm, vừa kể trên đây, thì ta « cố danh tự nghĩa » (Nhìn vào danh là biết nghĩa) biết cụ có tánh vui vẻ chừng nào ? Nhất là cụ lại có riêng một cái diễm-phúc của gia-đình. Gia-đình gồm 3 mạng, cụ với bà lớn, bà bé, mà cả ba cũng đều am một giọng thơ, giọng thơ trào-phúng, trào-phúng thanh-tao mà thấm-thía, nhưng không trào-phúng người đời. Lúc thì ông đem thân-thế của ông ra để tự trào, rồi bà lớn lại họa theo vần để bỡn-cợt ông và nói một cách xa-xôi nhẹ nhàng đến cả bà bé. Bà bé cũng đáng là tay địch thủ, cũng lại họa vần để chế biếm ông và cũng đem câu bóng bảy để đùa bà lớn quanh năm ngày tháng, lấy thế làm vui, thực là một đại gia-đình của thơ trào-phúng vậy. Thế rồi, một năm nhân gặp ngày tết Nguyên-Đán, nhà thơ vốn dĩ thanh-bạch, những món vật-chất : bánh chưng, giò, chả, dẫu chẳng đầy-đủ như ai, nhà thì lại hiếm trẻ con, cũng không tốn tiền để mua tranh pháo. May sao, hai bà lại có hoa tay, khéo nghề thêu dệt, nên cũng dành dụm được số tiền nhỏ, sắm-sửa một mâm đạm bạc để cúng gia-tiên. Còn ông thì cũng mua bút mực mới để viết bài thơ Khai-Bút vào mảnh hoa-tiên, đợi khi cúng xong, ngả cỗ xuống rồi thì mới ngâm nga trong khi chén thù, chén tạc để khỏi phụ cảnh tân Xuân. Thơ rằng : Năm mươi tư tuổi tưởng mình già ? Đời vẫn khen mình trẻ tựa hoa. Hội mở văn-minh đầu đã hói. Chữ nhìn quốc-ngữ mắt hơi nhòa. Ngứa nghề thỉnh-thoảng vài câu thống. Ngọt giọng ngâm-nga mấy chén khà. Nghĩ cái mình ta ghê gớm lạ ! Buổi đời tranh cạnh thế mà ta.. Bài thơ trên đây ông đã dùng thể tự-thọ tự-trào, đem mình ra làm cái bung-xung để cho hai bà châm chích, nên khi đọc xong câu thứ 6 rồi thì ông dừng lại, đỡ lấy chén rượu bà bé vừa rót thêm đầy, uống một hơi cạn, rồi mới ngâm tiếp hai câu cuối cùng, là câu cực kỳ ngạo-nghễ ! Bà lớn thấy ông ngâm xong rồi lại mỉm cười, đưa mắt nhìn hai chị em, hình như có vẻ thách họa ? Thì cũng mỉm cười đáp lại ngâm luôn bài họa như sau : Họa (bà lớn) Chưa già, ông cứ tảng ông già ? Còn kém tôi đây một tuổi hoa. Nói chuyện mua hầu, tai vẫn thính, Khuyên đi bảo trẻ, mắt kêu nhòa ? Văn chương giá đáng ba đồng kẽm, Danh lợi coi như một tiếng khà ! Chuốc chén mừng câu « xuân bất lão », Có chăng, dì nó khéo hơn ta... Bà lớn khi ngâm bài này cũng lại làm theo thái-độ của ông, cũng ngâm xong câu thứ 6 thì ngừng hẳn lại một lát, rồi mới đưa mắt nhìn ông để ngâm lên câu thứ 7, và nhìn sang phía bà bé để ngâm lên câu thứ tám rồi mới vỗ tay cả cười !!! Về phần ông đồ, đã có mục đích làm bia đỡ đạn, chẳng nói làm chi, riêng phần bà bé trong khi bất ý chẳng ngờ, bị ngay một đòn cân não, giá vào tay khác thì đã đỏ mặt tía tai nhưng cô vẫn giữ trọn vẻ ôn-hòa để xin đáp lại mối thịnh-tình của bà lớn đã chiếu cố. Họa rằng : Vui thú non quê chẳng biết già. Mùi đời ông cứ thoảng như hoa. Ngâm câu kinh sử dương đầu hói ? Hỏi chữ a, b, tảng mắt nhòa ? Rượu bữa nay còn, ừ chén đã, Gạo ngày mai hết, chỉ cười khà ! Cách ông như thế ông còn thọ. Khôn khéo phần ai chửa đến ta Đọc 3 bài thơ Khai-bút của gia-đình ông đồ Tiếu trên đây, chắc hẳn các bạn cũng đồng ý với tôi là bài của cô bé quả thực tài tình. Nhất là câu thứ 5, 6 : Rượu bữa nay còn, ừ chén đã, gạo ngày mai hết chỉ cười khà. Cái cười khà ấy chẳng những chỉ riêng một ông đồ Tiếu, mà đến trăm ngàn ông dài lưng tốn vải khác, đã chẳng có tài làm nên công chuyện lại hay ngâm hão với cười trừ. Đặc-biệt là câu thứ 8, cô ta đã trả lời bà lớn một cách êm đềm. Cô nói chén rượu tôi vừa chúc thọ cũng theo lễ tương kính như tân để giúp thêm phần hào hứng, đâu dám tranh khéo hơn ai, mà chị lại chẳng thông cảm ? Coi đó ta thấy cái gia-đình thơ này quả là kỳ-phùng địch thủ, và cũng chưa từng thấy có gia-đình nào lại có một cái thanh phúc như vậy. Thế rồi, ngay đêm Xuân ấy, vào quãng canh 3, tiếng pháo mừng Xuân đã ngớt, bốn bên im lặng như tờ, biết đâu trong gia-đình ấy lại còn có cuộc xướng họa cực kỳ thú vị mà ai nghe thấy ắt cũng vỡ bụng vì cười ! Nguyên vì gia-đình ông đồ chỉ có 3 gian nhà lá. Gian giữa bà lớn đóng dinh, gian bên tả thì ông đặt làm phòng sách, gian bên hữu là phòng của bà bé nghỉ ngơi, nhưng canh đã khuya bà vẫn còn ngồi khâu vá, chẳng biết vô tình hay là hữu ý, bà đã buột miệng ngâm câu : Bây giờ sông lặng nước yên Sào kia nhớ bến chống thuyền lại chơi... Giữa lúc ấy thì phòng bên tả ông cũng còn thức, nghe lọt câu trên, vội vàng ngó vào gian giữa, nghe tiếng bà lớn vẫn ngáy khò khò, ông mới khẽ khẽ họa vần đọc tiếp : Sào thì nhớ bến ai ơi ? Cách đồn quan phủ không xuôi được đò.. Chẳng ngờ ông vừa ngâm xong, thì ở gian giữa nghe có tiếng cười khúc-khích, nghĩa là bà lớn vẫn thức, rồi ngâm tiếp vận như sau : Sông kia ai cấm, ai do ? Có xuôi thì nộp thuế đò mà xuôi… Thế là vỡ chuyện, nhưng ông vẫn biết bà lớn đâu phải là người có tánh Hoạn-Thư chẳng qua muốn mượn việc đó làm cái đề-tài đặng cho tứ thơ phong-phú. Nên ông cũng lại nối vần : Chẳng buôn chẳng bán thì thôi ! Nộp quan hết vốn còn xuôi nỗi gì Ông vừa ngâm xong câu đó, bà lớn vỗ tay cả cười, lập tức đốt đèn mời ông ra ngay gian giữa và sang phòng bên kéo cô hai vào, rồi đem mâm rượu còn sót lúc ban ngày ra, 3 người cùng nhau thù-tạc và cùng xướng họa làm vui, cho mãi đến khi sáng bạch thì cũng vừa lúc có một nhà nho tay cầm chiếc ô, chân dận đôi giày Gia-Định đẩy cửa bước vào Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:10:10 GMT 9
BÓI ĐẦU NĂM HỒ-HỮU-TƯỜNG
A–Dân-tộc Việt-nam ta có những kho tang quí giá vô ngần. Ông cha đã lắm công phu mới tạo được, mới gìn cho đến… « ngày nay con cháu lấy làm chơi ». Hiển hiện, có bức địa đồ, mà xé rách nát mãi. Thi sĩ Tản Đà không buồn làm sao được ?
Vào thế kỷ thứ mười ba, quân Mông Nguyên vạn thắng, vó ngựa giẵm nát cỏ, từ cao nguyên trung bộ Á châu đến trung bộ Âu châu, cướp kinh đô thứ hai của đế quốc La Mã là Constantinople, rầm rộ kéo đến ngưỡng cửa Ai Cập của Phi Châu, chà đạp đế quốc Ba Tư và Ấn Độ, chinh phục nhà Tống, diệt nước Kim, tạo lập một đế quốc khổng lồ, cổ kim chưa từng có. Ngày nay, « đế quốc đỏ của cộng sản », về phần địa vực, còn nhỏ hơn nhiều, thêm rạn nứt bên trong. Thì bảo rằng oanh liệt, xưa Mông Cổ, nay cộng sản, ai oanh oanh liệt liệt hơn ?
Thế mà…
Thế mà quân Mông Nguyên kéo sang qua xâm lăng đất Việt. Đợt đầu vào năm I257. Nhờ lòng trời (giúp đỡ dân Việt bằng cách bủa bịnh tật làm cho chúng không chịu nổi chướng khỉ) hiệp với sức người, mà đợt xâm lăng ấy bị phá tan, mà đạo binh kiêu hùng ấy bại trận, mà chúng ngậm đắng nuốt cay, mà thêm vào số vạn thắng một trận thảm bại đầu tiên.
Thuở ấy có người thấy xa, thấy quân Mông Nguyên vì vạn thắng mà kiêu hùng, lẽ nào chịu nuốt hận của một cơn thảm bại ? Người bèn để hết tâm trí, nghiên cứu tất cả các loại binh thơ, từ Âm phù kinh của Hoàng đế cùng các biến thể do Khương Thượng, Phạm Lãi, Trương Lương, Khổng Minh, cho đến đủ bốn mươi ba chương binh pháp (xin nhấn mạnh nơi con số bốn mươi ba, vì hậu thế chỉ còn giữ được « thập tam thiên ») của Tôn Võ, suốt hơn hai mươi năm. Người rút hết tinh hoa của tiền nhân, thêm kinh nghiệm và suy tư riêng của nòi Việt, mà đúc kết thành hai tác phẩm.
Việc tìm kiếm quả thành sự thật. Hai mươi sáu năm sau, quả nhiên, quân Mông Nguyên lại kéo sang. Bấy giờ, người mới đem hai tài liệu ấy ra mà dạy dỗ sĩ tốt. Và hai lượt danh tướng Thoát Hoan của Mông Cổ thảy chạy dài.
Lần nầy các sử gia không ghi được sự giúp sức của Trời. Âu là ta phải kết luận rằng, chỉ có nhờ sức và tài của người mà thôi. Sức người, ấy là công phu và cố gắng của toàn dân. Còn tài ? Tài ấy nhờ hai bộ Binh thơ yếu lược và Vạn kiếp bí truyền mà người Việt thuở ấy rèn tập mà có được. Quả thật là kho tàng quí giá vô ngần, bởi vì nhờ binh pháp của Trần Quốc Tuấn, mà người Việt ngăn làn sóng vạn thắng của Mông Nguyên. Thử hỏi, có dân-tộc nào có thể trưng ra một binh pháp tài tình như vậy chăng ?
Thế mà, của báu ông cha xưa để lại, « ngày nay con cháu lấy làm chơi »… cho đến đỗi, ông Nguyễn Huyền Anh, trong quyển Việt-nam danh nhân tự điển, (tr. 337, cột 2, dòng I9) bảo rằng «… tuy đã thất truyền, nên hiện tại khó lòng mà lượng được giá trị nội dung ».
*
Thật ra, chưa hẳn là hai tác phẩm của Hưng Đạo đại vương đã hoàn-toàn thất truyền. Để chứng minh rằng Binh thơ yếu lược còn truyền đến ngày nay, tôi xin trích đăng những dòng đầu của tác phẩm ấy, thuộc về loại « bói đầu năm », trích từ thiên Thiên tượng : 天象 39.
I– « Chiếm nguyền đán thiên sắc vân khí bí pháp. Nguyền đán chánh nguyệt, sơ nhất nhật, tý thời, đăng lâu bí chiếm tứ phương. Hữu hoàng vân khí, hòa cốc đại thục. Bạch vân khí, hữu binh khởi. Nhược độc xuất kỳ phương hạ, tắc thị hữu phương binh khởi. Tứ phương vọng vô vân, nhi độc kiến xích bạch nhị sắc tương liên, xích vi huyết, bạch vi kim, sở giáng phương hạ tắc khởi loạn. Thanh sắc phong tai, Hắc sắc thủy tai. Chủ quốc cảnh bị ».
占元旦天色雲氣秘法.元旦正月初一日子辰,豋樓秘占四方.有黄雲氣和穀大熱白雲氣有, 兵起若獨出其方下則是方有兵起四方望無雲而獨見赤白二色相連.赤爲血.白爲金所降方下則起亂. 青色風灾黑色水灾主國警備.
Đối với các bạn đọc không rành hán tự, tôi xin tạm dịch như sau :
« Phép bí mật để xem khí trời và sắc mây trong tiết Nguyên đán. Tiết Nguyên đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý, lên lầu mà bí mật xem bốn phương. Nếu thấy khí mây màu vàng, thì năm ấy lúa trúng mùa lớn. Nếu thấy khí mây có sắc trắng, thì năm ấy có binh dậy. Nếu một vầng mây hiện ra một mình dưới một phương trời nào, thì ở phương ấy có binh dậy. Nếu trông bốn phương không có mây, mà chỉ thấy hai sắc đỏ trắng liền nhau, thì sắc đỏ tượng trưng cho máu, sắc trắng tượng trưng cho chất kim (gươm đao) : hai sắc trắng đỏ hạ xuống phương nào, thì phương ấy bắt đầu loạn. Sắc xanh là điềm có nạn gió bão. Sắc đen là điềm có nạn mưa lụt. Nước nào có điềm ấy phải phòng bị ».
Trước chúng ta, gần bảy trăm năm, có biết bao kẻ, thử giở Binh Thư Yếu Lược mà đọc mấy dòng đầu, vội vã xếp sách lại và buột miệng nói :
« Ông già nầy lẩm cẩm thật ! Ngày Tết, mồng một tháng giêng, trời tối đen như mực, chỉ có sao mà không có trăng, dầu có leo lên lầu mà xem khí sắc của trời và mây, làm sao mà thấy mây sắc trắng, sắc vàng, sắc xanh, sắc đỏ ? »
Suốt bảy trăm năm, đã có bao nhiêu người có thành kiến rằng ông già Trần Quốc Tuấn là một ông già lẩm cẩm, nên chi, bộ Binh Thư Yếu Lược chẳng ai thèm đọc, chẳng ai thèm gìn làm của báu của nước nhà.
*
Tôi cũng thuộc về hạng « già lẩm cẩm ». Ai đi thuở nhỏ học khoa học, trong phòng làm việc toàn là sách khoa học cao cấp, vị tất những ông hiện nay vỗ ngực xưng mình là khoa học và nhơn danh khoa học để chưởi tôi là phản khoa học, lại đọc nổi năm mươi trang mà ngáp không chảy nước mắt. Tôi lại thích đủ loại văn phản khoa học của ông già Trần Quốc Tuấn, để tìm hiểu những chỗ mà thế nhân gọi là « lẩm cẩm ». Đây xin chép một đoạn nữa.
« Thiên thời hành vân pháp :
Phàm vân giả sơn khí dã, nhân xúc thạch nhi khởi, vị chi thành vân giả. Cẩm thư vân : Tướng đương chánh đán, tý thời, đăng lâu vọng chiếm. Từ phương quang lãng, nhi độc trung thiên sở hiện thanh vân, thiên hạ cơ cẩn. Bạch vân quốc tang chi sự. Xích vân lưu huyết, thiên hạ khởi binh, di địch động tái. Hắc vân tạo thủy tai. Hoàng vân cát triệu. Nhược tứ tái phong trần, xích mãn sơn xuyên, tất giáng vũ dã ».
“天時行雲法 : 凡雲者山氣也, 因觸石而起為之成雲者.禁書云: “將當正旦子辰, 登樓望占四方光朗, 而獨中天所現青雲, 天下飢謹. 白雲國喪之事. 赤雲流血天下起兵,夷狄動塞. 黑雲潦水災. 雲黄吉兆. 若四塞風塵, 赤滿山川, 必降雨也”.
Xin miễn dịch và xin kể thêm bao nhiêu phép bí mật để bói đầu năm. Như phép « Nguyên đán lôi thinh » (ở miền Nam nầy, làm gì có tiếng sấm vào dịp tết để mà nghe ?), như phép « bát phong bí chỉ pháp lệ » trong ấy ông già lẩm cẩm nêu ra nào « hồng sắc ác phong », « huỳnh sắc phong », « hắc sắc phong », « sát tặc phong », « thần lịnh ác phong », « bại binh phong », « ác noãn phong », « thủy ác phong » (Làm gì mà thấy được màu sắc của gió, để đếm được tám thứ gió) và vân vân.
Đọc năm « lẩm cẩm » của Trần Quốc Tuấn, thét rồi cũng hóa ra lẩm cẩm theo, nên thử dịch những bài thi của ngài ra văn Nôm cho người bây giờ đọc mà ngâm nga chơi.
DỊCH NÔM :
I–Hồng sắc ác phong
Hốt nhiên thiên địa biến thành hồng Hiền sĩ tao phùng lụy tiết trung Hạn chí bất quá nhất bách nhật Nhất quốc lưỡng xứ tịnh tranh hùng
I–Gió sắc hồng
Bỗng dưng trời đất hóa ra hồng : Hiền sĩ chẳng ngờ gặp ngục gông Hẹn tới không ngoài trăm bữa ấy, Nước chia hai cõi quyết tranh hùng.
2–Huỳnh sắc phong
Bạo nhiên thiên địa biến thành huỳnh Tất hữu trung thần phi đạo vong Hạn chí bất quá tam tuần nhật Tứ phương tịnh khởi động yêu cuồng
2–Gió sắc vàng
Bỗng dưng trời đất hóa ra vàng Tất có trung thần phải chết oan Hẹn tới không ngoài ba tuần nhật Bốn phương yêu quái khởi làm ngang.
3–Hắc sắc phong
Hắc phong hốt khởi nhật thời hành Nhật nguyệt tinh-thần ám bất minh Hạn chí bất quá tam bách nhật Man di tất động khởi đao binh
3–Gió sắc đen
Gió đen bỗng thổi giữa trời quang Trời đất sao trăng phải tối ngang Hẹn tới trong vòng mười tháng nữa. Giặc man tắc khởi cuộc xâm lăng.
4–Sát tặc phong
Trận thượng tùy thời thuận ngã tùng Minh điều chiết thụ khởi kinh phong Tam quân cấp tiến tùng phong bệnh Giao chiến chi thời-đại hữu công
4–Gió giết giặc
Giữa trận tùy thời ta hãy theo. Nhành rung, cây gãy, gió hò reo : Ba quân gấp tiến theo chiều gió, Thời ấy giao chinh thắng lợi nhiều.
5–Thần lịnh ác phong
Trú trung đệ ngũ hiện thần phong, Khước trại bả thương tất đại hung Tiền đồ bất quá thập lý địa, Tất phòng lộ thượng phục binh hùng
5–Gió dữ theo lịnh của thần
Giữa ngày nổi ngọn gió thần phong. Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung, Trước mắt không hơn mười dặm đất. Phải phòng bên địch phục binh hùng.
6–Bại binh phong
Bài binh tứ kiến bại binh phong Ức diện dương trần tất đại phong Tam quân truyền lệnh thâu binh mã Giao chiến chi thời tất tổn vong
6–Gió làm bại binh
Ra binh đã thấy gió thua binh, Các bụi bay mũ, thật hãi kinh. Truyền lịnh ba quân về chốn cũ, Thời nầy giao chiến ắt hao mình.
7–Ác noãn phong
Hốt khởi cuồng phong thích hiện nhân Viêm nhiên sĩ tốt hạn lưu thân Kỳ trung bách nhật đương đại chiến Huyết địa lưu tinh tất loạn phân
7–Gió ấm ác hại
Bỗng trận cuồng phong thổi nướng người, Nóng ran : sĩ tốt đẫm mồ hôi, Trong vòng ba tháng, phòng chinh chiến, Thấy máu ba quân tán loạn rồi.
8–Thủy ác phong
Phá nhân tâm cốt hiện thủy phong Thuyền kiều thủy trận tất vô công Tam quân truyền lệnh vô nhãn trước Đề phòng tả hữu phục binh công
8–Gió mưa ác hại
Lạnh thấu xương người ấy thủy phong, Thuyền, cầu, thủy trận : chẳng nên dùng Quân dầu được lệnh, khôn thi thố, Binh phục bên đường phải khá phòng.
Phép xem gió đà như thế, mà hãy còn chín phép nhìn da trời, gọi « chiếm cửu tiên bí pháp ». Xin tạm dịch :
I–Bích sắc thiên
Đệ nhất bích thiên xuất loạn nùng, Đế vương điện thượng vấn quần công Hiện chi bất quá thập lục nhật, Tất nhiên biên tái động tây nhung
I–Bích sắc thiên
Thứ nhất trời xanh thẫm lạ lùng Vua cần lên điện hỏi quan cùng : Hiện điềm như vậy, mười lăm bữa Biên tái ắt phòng có giặc nhung
2–Hồng sắc thiên
Tự nhiên thiên địa biến sinh hồng Hiền sĩ tao phùng lụy tiết trung Nhược vô tự phạm cuồng phong khởi Bách nhật yên trần lưỡng quốc đồng
2–Hồng sắc thiên
Tự nhiên trời đất biến ra hồng, Hiền sĩ chẳng ngờ gặp ngục gông. Ví bằng chẳng có cuồng phong tới, Hai nước trăm ngày khởi chiến phong.
3–Hoàng sắc thiên
Cư nhiên thiên địa biến thâm hoàng Tất sát trung thần phi đạo vong Huyết lưu địa thượng tam bách nhật, Yên Tần lưỡng xứ động yêu cuồng
3–Hoàng sắc thiên
Bỗng nhiên trời đất hóa ra vàng Ắt có trung thần phải chết oan Đầy đất, máu lan mười tháng đủ Yên Tần yêu quái nổi làm càn.
4–Hắc sắc thiên
Cư nhiên thiên địa biến hôn mê, Chủ hữu âm mưu tác địch khi, Hạn chí bất quá tam thập nhật, Quyết nhiên tịch trắc mạc hồ nghi.
4–Hắc sắc thiên
Bỗng nhiên trời đất hóa đen sì. Chắc có gian thần mưu loạn chi. Hẹn tới không ngoài bốn chục bữa. Tự nhiên giảm bớt, chớ hồ nghi.
5–Hư kinh thiên
Thảo mộc điều hòa bất động thinh Cư nhiên hốt khởi nhược lôi minh Kinh trung bất ngoại tam tuần nhật Tứ phương cộng khởi động đao binh
5–Hư kinh thiên
Cây cỏ điều hòa lặng lẽ bao ! Tiếng vang như sấm tự trời cao. Kinh hoàng không quá ba tuần nhật. Cùng khởi bốn phương việc kiếm đao.
6–Khải môn thiên
Tuần phương Ngọc nữ khải thiên môn Cao hưởng nghiêm thanh đại khởi văng Hiệp bách nhật trung hữu tiên tấn Hốt nhiên tái thượng định phong trần Quốc trung thiên khải hung long lịnh Đế vương tiện bái thượng tướng quân
6–Khải môn thiên
Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh : Ngọc Nữ phương trời mở rộng thênh. Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm, Trăm ngày không tới ắt ra binh. Bỗng dưng phá giặc ngoài biên cảnh Hung lịnh trời ban xuống nước mình. Để khiến ba quân tuân tướng lịnh. Đăng đàn bái tướng mới thân chinh.
7–Thiên giáng binh khí
Thiên hình binh khí tợ đao sang Giáng hạ thiên biên tặc diệt vong Tướng tất tương binh tùng thử chiến, Tứ phương phát biểu tất lai hàng.
7–Giáng binh khí thiên
Mây trời hình dạng giống cưa dao : Thòng xuống chân trời giặc phải hao. Hướng ấy tướng binh đồng quyết chiến. Bốn phương tám sớ tất hàng đầu.
8–Thiên khí bất điều
Hạ hành đông lệnh bắc phiên tàng, Đông hành hạ lệnh nam chinh khởi Thu hành xuân lịnh ứng đông thảo Xuân tác thu lịnh quyết tây chinh
8–Khí bất điều thiên
Hạ hành đông lịnh bắc phiên ẩn Đông hành hạ lịnh ắt chinh nam Thu hành xuân lịnh giặc đông dậy Xuân hành thu lịnh giặc tây tràn.
9–Càn thiên sinh biến
Huyết nhiễm đình đình danh viết biến Âm dương sự biến chủ nan tri Tư thiên ngộ thực ngôn sai mậu Phần ngoại nhi ngôn chiết vật sai
9–Càn thiên sinh biến
Nhựt nguyệt máu hườm sắc đỏ gay, Âm dương có biến chủ không hay Tư thiên bày tỏ điều sai quấy. Lời nói bên ngoài phải xét suy.
Nếu phải trích dẫn những lối xem trời, trăng, mây, sao, gió của Trần Quốc Tuấn, giữ thật vững cái nguyên tắc « nói có sách », mặc dầu « mách chưa có đủ chứng », thì ít nữa cũng vài ngàn trang. Âu là dừng nơi đây mà bước sang qua địa hạt khác.
B–Ông đồ Nguyễn Thành Long, đêm ba mươi rạng mặt mồng một nầy, từ đầu hôm đến bấy giờ, chưa có ngủ. Cái đồng hồ con ngựa treo nơi cột nhà, đánh mười một tiếng. Ông lấy giấy, viết, nghiên mực ra, trải một miếng giấy hồng đơn to ra mà chiếm một quẻ Kỳ môn độn giáp, để xem năm nay trong xứ sẽ xảy ra việc chi.
Đứa con trai đầu lòng của ông, là hương hào Nguyễn Thành Hưng, chuẩn bị để chốc nữa, khi chuông đồng hồ đánh mười hai giờ sẽ cúng giao thừa, thấy cha đặt địa bàn, trí các sao, nói :
- Thưa cha, Kỳ môn độn giáp có tính được vài trăm năm chăng ?
- Có thể được. Nhưng không xác cho lắm. Muốn cho xác, phải dựa theo Thái Ất thần kinh. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Kiêm chiếm một quẻ « bói đầu năm », cho mỗi năm, liên tiếp mấy trăm năm, cho hết một vòng « Thái ất » là cụ làm được bài sấm lưu lại cho đến bây giờ... Nhưng bây giờ, có mấy ai nhẫn nại như Trạng Trình, làm lại hơn năm trăm quẻ « bói đầu năm » để viết sấm ?
Đứa con trai út của ông đồ, là cậu học trò Nguyễn Thành Phương, lem nhem ba chữ nho cho khỏi thẹn tiếng cha làm thầy, con bán sách, có một lối « bói đầu năm » khác. Chàng viết lên giấy ba chữ Nhật Nguyệt Minh và đếm nét :
- Nhật, bốn nét. Nguyệt, bốn nét. Minh, tám nét. Con số là 448. Trừ đi 384, còn lại 64.
Phương lấy cuốn Gia Cát thần toán ra mà tìm quẻ 64. Và đọc quẻ.
Hương hào Hưng thấy em làm vậy nói :
- Đáng lẽ, mầy phải ráng mà đặt một bài thơ chữ, rồi viết lên giấy, gọi là khai bút, đưa cho cha xem mà đoán cái quẻ đầu năm của mầy.
Phương đáp :
- Em làm sao mà đặt nổi một bài thơ chữ. Thì mượn thơ làm sẵn của Khổng Minh để lại. Em chép ra, ấy cũng là « khai bút » vậy.
C–Bà hương hào Hưng sắp bánh mứt vào dĩa xong, đặt vào mâm, thấy chưa đúng mười hai giờ, nên lại tủ sách lấy ra cuốn Truyện Kiều, hai tay cầm sách mà khấn. Khấn xong, bà giở sách ra, nhắm mắt lại, lấy ngón trỏ chỉ vào một trang, mở mắt ra mà đọc :
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa...
Còn thím Phương, thấy chị bạn dân « bói Kiều », cũng bắt chước lấy quyển Lục Vân Tiên ra mà bói. Thím bói được câu :
Đêm nằm thấy một ông Tiên
Đem cho liều thuốc mắt liền sáng ra
nên thím tin rằng năm nay thím sẽ hanh thông lắm.
D–Tiếng đồng hồ gõ đúng mười hai giờ. Chú An, người ở bạn của ông đồ, theo làm chân tay cho ông từ lúc để chỏm, có một lối « bói đầu năm » khác. Chú ngồi trong bóng tối, nơi góc cây xoài, lắng tai nghe con gì kêu trước hơn hết, sau tiếng chuông đồng hồ gõ mười hai giờ khuya.
Tùy theo « con gì ra đời », là chú An đoán rằng năm ấy sẽ làm ăn dễ dàng hay khó-khăn.
Nhưng thím nấu ăn chưa vội bói đầu năm. Thím chờ mùng ba, luộc gà để cúng tổ ra nghề, thím sẽ « coi chơn gà » ra thể nào. Thím tin rằng bói chơn gà là chắc hơn cả.
Còn con Bảy, vừa bưng mâm bánh mứt đặt xong để cho ông đồ khấn vái trời đất, thì nó ra bẻ một nhánh lộc mà bói.
*
Lúc tôi hồi nhỏ, tôi thấy chung quanh tôi, ở nơi làng quê mùa, người ta bói đầu năm như vậy.
Năm nay, I966, tôi không biết phải bói bằng khoa nào để đoán được số phận mình, số phận của toàn dân-tộc. Hay là phải leo lên tầng thượng của một cái « binh đinh » mười từng mà xem sắc của trời, của mây, của gió, như Hưng Đạo đại vương đã dạy trong Binh Thơ Yếu Lược ?
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:11:11 GMT 9
PHONG-TỤC TẾT NGUYÊN-ĐÁN CỦA MIỀN THƯỢNG Ở BẮC-VIỆT KIỀN-GIANG
NGUYÊN-ĐÁN là một cái tết chung của những nước bên Á-Đông cùng theo Nông-Lịch tức Âm-Lịch. Tục-lệ này có từ đời cổ mà lúc bấy giờ kêu là tế sạ (蜡祭), như trong Kinh Lễ đã chép : Một hôm đức Khổng-Tử cùng với học trò là thầy Tử-Cống đến coi lễ sạ, Ngài hỏi Tử-Cống rằng nhà ngươi có thấy vui không ? Tử-Cống thưa : Tứ (tên Tử-Cống) này chỉ thấy cả nước như điên cuồng, chứ còn vui ở chỗ nào thì con không được biết rõ.
Đức Khổng dậy rằng : « Đây là một ngày cho dân được hưởng ơn huệ, để bù đắp lại những nỗi vất vả của một trăm ngày, nhà ngươi đã hiểu sao được cái ý nghĩa đó ».
Bởi vì nhà nông cả năm đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn, ngày nay nông-vụ hoàn thành, lại gặp tiết xuân êm ả, người ta cũng nhân dịp đó để mở hội hè tế lễ, yến ẩm thỏa thuê cho bỏ những lúc.
Nước Việt-nam ta về tục ăn tết Nguyên-đán, ngoài Bắc cũng như trong Nam dẫu có khác nhau là do khí hậu nóng lạnh không đều, nhưng về ý-nghĩa nghinh xuân thì đâu cũng thế. Duy có tục-lệ ăn tết của đồng-bào Thượng ở nơi cùng cốc thâm sơn, vì sự đốt rẫy làm nương, ngày nay ở thung-lũng này, ngày mai ở thung-lũng khác, thì không chú ý mấy đến xuân. Còn những bản nào giáp với trung-châu thì tháng đầu xuân cũng mở hội hè tế lễ và có lắm chuyện ly kỳ, có khi kéo dài hàng tháng.
TỤC CHỌI TRÂU Tỷ như xã Bạch-Lựu ở về vùng Thượng thuộc tỉnh Sơn-Tây, mỗi năm dân làng nuôi sẵn 20 con trâu, trước ngày I8 tháng giêng người ta dựng dàn đóng rạp ở ngoài đồng ruộng, trước khi làm lễ tế thần, họ lấy ống nứa đút vào mồm trâu rồi đổ rượu vào cho nó uống. Khi thấy chúng đã hăng say, họ mới xua chúng vào trong róng. Cái róng độ một sào đất ở trước cửa đàn, chung quanh đóng bằng tre đực thiệt chắc để trâu húc nhau, hễ con nào thua thì đem giết thịt để tế thần, còn những con khác sẽ làm thịt sau để dân làng hưởng.
TỤC CƯỚP QUẢ CẦU Xã Châu-Lương thuộc huyện Cẩm-Khê, cứ ngày mồng 4 tháng giêng, dân cũng lập đàn ở giữa cánh đồng, rồi rước thần vị ra đó để tế. Giữa nền đàn có khoét 3 cái lỗ tròn, một lỗ ở giữa, hai lỗ ở hai bên. Trước khi làm lễ, họ lấy một quả cầu bằng mây đan tròn đặt ở lỗ giữa, già trẻ trong làng chia làm hai phái đứng chực hai bên để nghe hiệu lệnh. Khi nào nghe thấy một vị bô lão áo mũ tề-chỉnh đứng ở trong đàn xướng lên những câu : Trịch cầu quả hề, lưỡng bạn cộng tranh, dân an quốc thái, thọ khảo khang ninh (擲毬顆兮,兩伴共爭,民安國泰,壽考康寜) : Ném quả cầu hề đôi bên cùng tranh, dân yên, nước thịnh, thọ khảo khang ninh.
Viên kỳ lão vừa xướng dứt câu thì những già trẻ đứng ở hai bên chạy ùa cả vào, xô đẩy lẫn nhau tranh cướp quả cầu, bên nào cướp được thì đặt lên trên miệng lỗ bên ấy, gọi là buổi lễ đoạt cầu (cướp quả cầu).
Lễ đoạt cầu này mấy chục năm trước có một ký giả ở Hà-Nội đã lên tận nơi xem xét, trở về khen ngợi là cuộc nghinh xuân rất có ý nhị, khiến cho người coi cảm thấy tinh-thần thượng võ của Hai Bà Trưng hãy còn phảng phất ở vùng sông núi Cẩm Khê.
Còn như các bạn ở Đà-Giang Thất-Khê và những dân-tộc mán lèo, phần nhiều cũng giống như vùng thượng của huyện Bạch-Hạc, tết đến cũng chẳng trồng nêu, tế lễ không dùng vàng mã.
Thổ dân ở huyện Mỹ-Lương Bất-Bạt thuộc tỉnh Sơn-Tây lại lấy tháng Tý (II) làm tháng đầu năm, mồng 2 gọi là ngày sóc, còn ngày mồng I gọi là ngày hối tức là ngày trong, tết nhất tế lễ đều theo ngày đó, còn lịch của triều-đình phát chỉ để dùng vào việc quan.
Những khi tế thần có giết thịt heo thì đem heo ra đập chết rồi đốt cỏ để thui, như ta thui bò, thui dê, thui cháy hết lông rồi đem đóng cỗ. Rượu tết thì đầu tháng chạp đã nấu cơm nếp trộn lẫn với trấu và lá kim-anh, giã nhỏ bóp đều rồi bỏ vào trong cái vò hay cái chĩnh bằng sành, gắn kín miệng lại, đến ngày hội-ẩm mới dùng sừng trâu đong nước, đổ cho vừa cữ, rồi quấy cho đều, đợi khi lặng xuống chắt lấy nước trong, đựng vào một cái hũ lớn, chung-quanh miệng hũ, cắm sẵn một số cần trúc, bà con dự tiệc mỗi người ngậm lấy một cần để hút, ai uống không kịp sẽ phải phạt bù.
TRÒ BẮT HEO Xã Tích-Sơn thuộc huyện Tam-Dương thờ 7 vị thần trên núi Lỗ-Dinh, hàng năm cứ ngày mồng I tháng chạp họ đã lựa chọn lấy 4 con heo của nhà đàn anh trong xã, rồi chọn lấy nơi khô ráo sạch-sẽ làm chuồng để nuôi, chỉ cho ăn bằng cháo gạo. Và trong tháng chạp, người làng đều phải ăn chay tắm gội sạch-sẽ, đến ngày mồng 2 tháng giêng, vào quãng nửa đêm, thì thả heo ra cho dân làng đuổi, ai bắt được trước thì xẻo ngay lấy một miếng thịt mông của nó đem vào làm lễ tiến điện rồi thưởng cho người chiếm giải, còn thừa sẽ đem đóng cỗ làm lễ tế sau.
TỤC KÉO GIÂY Ngày mồng 3 tế xong, thì người trong làng, cha con anh em chia làm 2 tốp đông tây. Cha đứng bên đông thì con đứng bên tây ; anh đứng bên tây thì em đứng bên đông, tức là chia làm 2 giáp rồi đem một đoạn giây song dài hơn I0 trượng (40 mét), mỗi giáp bím lấy một đầu để kéo. Kéo luôn 3 lần, giáp nào kéo giáp kia sang được 3, 4 bước tức là bên ấy thắng cuộc. Bên đông thắng nhiều thì năm ấy được mùa, trái lại, bên tây thắng nhiều thì năm ấy mùa màng sẽ bị thất bát (sút kém). Đó là một cuộc du xuân để chiêm-nghiệm nông-vụ trong một năm vậy.
Trên đây là lược thuật về tục ăn tết của đồng-bào Thượng ở Bắc và Trung, tiếc vì hoàn-cảnh lúc này không đủ tài-liệu để tham khảo kỹ.
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
Thưởng Xuân Trên Cao-Nguyên với Rượu Cần Của Đồng-Bào Thượng Nguyễn-Trắc-Dĩ
Trong lúc mọi gia-đình đang chuẩn-bị đón xuân với đủ thứ kẹo, mứt, bánh chưng, bánh gai, bánh tét, trái cây v.v… và không quên rượu, thì trên Cao-nguyên, đồng-bào Thượng có nơi đã đón xuân, có vùng đang chuẩn-bị cho ngày lễ lớn đầu năm. Rượu Cần nắm giữ vai trò chính làm vui cho ngày Tết.
Rượu, Đông Tây, Kim Cổ, gặp nhau ở rượu. Các tay tổ rượu đã thưởng-thức hương-vị Mai-quế-lộ, Whisky, Champage, Vodka, đế…, giờ xin mời quí khách thưởng-xuân với rượu Cần của đồng-bào Thượng. Chắc chắn quí-vị được hài-lòng say sưa với mùi vị thích-khẩu, độc-đáo của từng vùng sơn-cước.
Trước hết, xin giới thiệu cùng quí độc giả những ngày Tết đầu năm của từng bộ-tộc Thượng, rồi vui đâu mời dừng lại đó.
Đồng-bào Thượng cúng bái quanh năm, nhưng tựu chung hàng năm vào tháng giêng, hai âm-lịch, bộ-lạc nào cũng có tổ-chức những ngày lễ lớn, phần đông gọi là « Lễ mừng lúa ».
Cuối tháng II, I2 Âm lịch thu hoạch xong vụ mùa. Lúa về là bắt đầu sửa-soạn « Mừng Lúa » để tạ ơn Nhang, ơn Thần lúa, Thần núi, Thần sông đã phù-hộ cho được nhiều lúa và trong năm được bình-an.
Ngày lễ thường không có ngày nhất định và mạnh nhà nào, nhà ấy tổ-chức, cả làng chung vui. Lần lượt hết nhà nọ tới nhà kia, thành ra có thể nói : những tháng Chạp, Giêng, Hai âm-lịch, có khi sang tới tháng Ba Â.L. là mùa Tết của đồng-bào Thượng mới đúng.
- Đồng bào Vân-Kiều, Tồi-Ôi (Quảng-Trị), Teu, Pacoh (Thừa-Thiên), K’Tu (Quảng-Nam – Quảng-Tín) mừng lễ A-Dza từ tháng II Â.L.
- Đồng-bào Hré, Kré, Khét, Takua (Quảng-Ngãi) ăn Mừng Lúa vào tháng Giêng Â.L.
- Đồng-bào Bonam cùng An-Lão (Bình Định), mừng Xuân bằng một cuộc lễ « Đâm-trâu Xây-cột » thật trọng thể.
- Đồng-bào Krem vùng Vĩnh-Thạnh (Bình-Định) tổ-chức lễ « Khấn đổ đầu năm mới » cũng vào tháng Giêng ta.
- Vùng người Chăm-Hrui (Vân-Canh – Bình-Định) và người Hroi (Phú-Yên) ăn Tết gần đồng thời gian với Tết Nguyên-đán của ta.
- Đồng-bào Bahnar Roh, Tolo, Alakong... (An-Túc – Bình-Định) mừng lúa ăn nhỏ nhưng lễ Tạ-Mả lại được tổ-chức trọng thể vào tháng Giêng, Hai Â.L.
- Người Sédang, Dié (Dakto, Daksut, Toum’rong) coi ngày « Tết Giọt Nước » quan-trọng nhất, tổ-chức vào tháng 2 Â.L.
- Người Djarai (Pleiku, Phú-Bổn) tổ-chức Tết Bơng-Tơ-Kuh-Thun thật linh-đình vào tháng Giêng.
- Người Rhadé (Darlac) tổ-chức lễ Estrat (Lễ Mãn Mùa) và mừng Xuân bằng lễ « Soi Yang-Choroh » thật lớn.
- Người Kaho, Churu, Cil (Đồng-Nai-Thượng) ăn Tết Lir-Bong (Mừng lúa về) vào khoảng đầu tháng 2 Â.L.
- Người Roglai (Khánh-Hòa, Ninh-Bình-Thuận) gọi lễ Mừng Lúa là « Lễ Ăn-Bùi ».
- Người Stieng (Phước-Long, Bình-Long) ăn lễ « Mừng Lúa Trúng » vào khoảng tháng giêng.
*
Bất cứ ở đâu và trong bộ-tộc nào, rượu cần là thứ không thể thiếu trong ngày Tết. Các vò rượu ngon nhất đều được dành đến ngày lễ trọng vừa kể hoặc khi thù-tiếp thượng-khách.
A–CÁC THỨ RƯỢU Rượu cần có nhiều thứ được chế-tạo bằng thổ-sản địa-phương như lúa, bo-bo, khoai-mì, bắp, đậu xanh hoặc trắng. Cách chế-tạo mỗi thứ một khác, đại lược như sau :
Rượu thóc : Thóc mới, đem về rửa sạch, ngâm vào nước, trộn với men rồi cho vào hũ. Lúc uống, đổ nước vào cho đầy rồi uống. Loại rượu thóc ngâm này thịnh-hành ở vùng Vĩnh-Thạnh (Bình-Định), một vài nơi khác cũng thấy làm rượu thóc, nhưng thường thóc được giã sơ qua và nấu chín để nguội rồi mới trộn với men làm rượu. Loại rượu thóc ngâm này chua và nếu không quen rất khó uống.
Rượu cơm : Đây là thứ rượu thịnh-hành nhất tại bất cứ nơi nào cũng thấy có. Thóc được giã cho long chấu, sàng, sảy qua loa rồi đem nấu thành cơm, giãi ra cho nguội và ráo nước. Thường cơm được để giãi chừng một đêm, hôm sau đem bóp với men và cho vào ghè. Có nơi không bóp hoặc trộn cơm với men mà cho từng lớp cơm và men vào ghè, cứ một lớp cơm lại một lớp men mỏng. Thường thường chỉ cho cơm rượu đến lưng ghè mà thôi, đoạn dùng lá chuối hoặc thứ lá cây nào lớn để phủ lên trên. Cơm rượu được vài ba hôm sẽ nở lên gần đầy ghè, và từ 5 bữa trở đi là đã có thể đem dùng được, nhưng muốn ngon và hết chua phải để lâu. Rượu càng để lâu càng tốt, càng ngọt và càng quí. Có nơi đồng-bào còn đem chôn để có thể dành được lâu. Tuy nhiên, rượu cơm có vùng thật ngon, có vùng uống đắng, đó là tùy cách lựa thóc và chế men của từng vùng và từng người chế.
Phương-pháp chế rượu cơm của đồng-bào Churu, Kabo (Tuyên-Đức – Lâm-Đồng) có phần kỹ hơn. Cơm thổi chín đem ra giãi, rồi lấy men trộn cho đều với cơm, sau đó, cho tất cả vào một cái gùi, đoạn lấy lá bịt lại, để từ I đến 2 ngày cho men thật ngấm với cơm rồi mới rỡ ra trộn với cám trước khi cho vào ghè. Miệng ghè lại được trám kỹ bằng một thứ tro đặc-biệt nhào với nước có chất dính.
Rượu Bo-bo – Kê : Thịnh-hành ở vùng của đồng-bào Sédang, Dié, Hré, Bahnar. Cách chế-tạo cũng giống như làm rượu cơm, nấu chín, trộn với men, ở vào ghè. Rượu kê của đồng-bào Sédang và Dié vùng Dakto, Daksut, Toum’Rong (Kontum) được tiếng là tuyệt hảo, các thương-lái kháo nhau rằng : Không kém rượu Champagne. Sự so sánh có phần quá đáng, nhưng dù sao cũng nói lên cái đặc-biệt của thứ rượu địa phương này.
Rượu cần : được chế bằng gạo nếp, bắp, khoai mì, khoai lang, đậu xanh, đỗ trắng, tùy theo thổ-sản từng địa-phương. Cách thức chế-tạo cũng giống như cách làm rượu cơm ở trên. Tuy nhiên, ở vùng Bình-Định làm rượu khoai, mì thường không luộc chín hẳn, đồng-bào cho rằng, để nửa sống, nửa chín rượu sẽ được ngọt hơn.
Ngoài những thứ rượu thông dụng trên, đồng-bào Teu, Vân-Kiều, Pacoh, K’Tu vùng Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Tín lại có các thứ rượu đặc-biệt :
Rượu Nứa : Lấy nước ở trong các cây nứa non ngâm với vỏ cây chuồn, để chừng I tuần thì uống được.
Rượu Mây : Lấy nước ở ruột cây mây tượng biến chế, pha lẫn với nước và hòa vào men làm rượu.
Rượu Đoác : Lấy nước ở buồng cây Đoác biến chế như làm rượu mây.
Các thứ rượu vừa kể, mỗi thứ có một hương-vị riêng, ngọt và có mùi nứa, đoác, mây, nhưng cũng không thích khẩu cho lắm.
B–CÁCH CHẾ MEN Hiện nay đồng-bào thường dùng men ở chợ đem về chế rượu, nhưng trước khi các thương-lái đem men lên vùng Thượng thì đồng-bào vẫn tự chế lấy men để dùng.
- Đồng-bào Hré (Quảng Ngãi) dùng rễ cây « Kơ-xi-blo » (cây giây men) để làm men. « Kơ-xi-blo » là một loại thảo bò trên mặt đất, lá tựa như lá trầu. Rễ Kơ-xi-blo được cạo sạch, lột lấy vỏ ngoài, còn bỏ ruột, đem phơi khô, giã nhỏ, trộn lẫn với giềng hoặc gừng và bột gạo rồi nắm lại thành từng bánh.
- Đồng-bào Bahnar vùng An-Túc (Bình-Định, gọi rễ cây men là Hiam, biến chế cho thêm gừng, ớt, trộn vào với gạo rồi viên thành từng viên nhỏ.
- Đồng-bào Rhadé dùng lá và củ gừng dại gọi là Kuach-Eya tán nhỏ trộn với gạo ngâm rồi viên thành từng viên nhỏ đem phơi khô làm men.
- Người Churu và Kaho dùng các thứ cây Dong Gak, Dong-Me, Dong-Krané và Dong-Se làm men.
Dong Me là một loại cỏ, thân cao từ I thước đến thước rưỡi, lá nhỏ như lá me rèng, hoa trắng. Rễ Dong-Me rửa sạch, sao cho vàng dùng làm men.
Dong-Se thuộc loại cây giây leo, có bông trắng và to, giây và hoa đều dùng làm men được cả.
Dong Gak là loại cỏ, thân cao, lá dài, đầu lá hơi tròn, có hoa trắng. Hoa và rễ Dong-Gak được đồng-bào lấy đem phơi khô, tán nhỏ làm men. Rễ Dong-Gak tuy làm men được, nhưng ít khi đồng-bào dùng nguyên rễ không, phải trộn thêm bột Hoa để rượu khỏi bị đắng.
Dong Krané cũng giống Dong-Gak nhưng hoa mầu ngà vàng, rễ, cây và là Dong Krané phơi khô, tán nhỏ đều dùng làm men được cả.
Các loại cây trên, sau khi đã tán nhỏ phải trộn chung với gạo rồi nắm lại, ủ bằng vải hoặc lá chuối, để chừng một tuần lễ cho lên mốc. Nếu mốc xanh thì rượu sẽ ngon và để được lâu, mốc vàng, rượu sẽ chua mất ngon.
Cách chế men và làm rượu của đồng-bào Thượng giản dị như vậy nên tửu độ thường nhẹ, nhưng nếu uống nhiều, những người tửu-lượng kém cũng không chịu thấu đến hai tuần rượu.
C–NGHI THỨC UỐNG RƯỢU Uống rượu cần là một thú tiêu-khiển đặc-biệt của đồng-bào Thượng. Trong những tháng nhàn rỗi, dù không phải ngày Tết, năm, ba người hàng xóm sang chơi, chủ nhà hào phóng, sẵn rượu cũng có thể vác luôn một ghè ra đãi. Hết ghè rượu, còn vui chuyện, cả chủ lẫn khách lại kéo sang thăm nhà khác và tiếp-tục khật khưỡng bên những vò rượu quanh bếp lửa, chuyện nở như pháo, cười như phá. Những bữa rượu bất thường này đôi khi cũng lôi kéo cả buôn nhập cuộc và cũng vui không kém ngày Tết.
Trong những ngày lễ hoặc trong những dịp có khách lạ tới thăm mà dùng tới rượu cần để đãi thì nghi-thức uống rượu lại là cả một vấn đề trịnh-trọng, phiền toái.
Đồng-bào Thượng cho rằng rượu cần không phải do người sáng chế mà do chính Yang (Trời) đã sai thần-linh xuống dậy cách chế-tạo. Ngay trong huyền-thoại về nguồn-gốc, người Rhadé đã kể như sau :
« Trời khai-sơn phá-thạch, thần Tạo-hóa (Yang) thấy người Rhadé không biết làm ăn gì cả, thổi cơm cũng không biết, nấu rượu cũng chẳng hay, hạt ngũ cốc thì cho là đắng không ăn, chỉ dùng cám làm thức ăn nhật dụng. Thần Tạo hóa liền phái con là Thần Y-Rim xuống khai-sáng cho người Rhadé.
Gặp người Rhadé, Thần Y-Rim nói : Yang phái ta xuống đây để dậy các người thổi cơm, làm rượu. Từ đó, ngày này qua ngày khác, Thần Y-Rim cố gắng dậy cho người Rhadé biết nấu cơm, thổi xôi để ăn.
Khi người Rhadé đã biết thổi cơm, nấu xôi, Thần lại dậy họ lấy gạo ngâm vào nước và dẫn họ vào rừng kiếm lá và củ gừng dại (Kuâeh Eya) đem về tán nhỏ, trộn với gạo ngâm và viên thành từng viên nhỏ đem phơi làm men, đoạn thổi cơm, trộn với men làm cốt rượu (Cua Eba). Đem đốt rượu đó bỏ vào ghè, chừng năm ngày sau lấy lá cây đậy lại, khi uống đổ nước vào ghè cho đầy, đoạn cấm một ống trúc nhỏ vào mà uống.
Thần Y-Rim còn căn dặn : khi nào các ngươi muốn có sức mạnh hay muốn vui vẻ để phá rừng, làm rẫy, dựng nhà thì các người cứ uống rượu này cho nhiều, yếu sẽ thành khỏe, buồn trở nên vui ».
Lòng tin đã đẻ ra rất nhiều nghi thức uống rượu rất phức tạp và tùy theo từng vùng, từng bộ-lạc, nghi thức uống rượu ngày Tết, ngày lễ hoặc đãi khách mỗi nơi một khác. Nếu kể cho hết cần có vài trăm trang sách.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ có thể mời độc giả du-xuân tại một Buôn Thượng của người Bonam vùng An-Lão – Bình-Định.
Du khách đến thăm một nhà nào trong buôn, chỉ trong chốc lát khách sẽ được cả buôn đổ tới đón tiếp. Khi chủ nhà bưng ghè rượu ra, lập tức mấy nhà lân cận cũng bê rượu tới đãi khách, một vài người khác đi lấy nước.
Các ghè rượu được buộc vào những cây cột cắm từ mặt sàn xuống đất. Chủ nhà lần lượt mở lá bịt miệng ghè ra, đoạn cắm những chiếc cần lút xuống tận đáy ghè. Cần rượu làm bằng thân cây lòng-bong khô đã được rút lõi. Các ghè rượu đã sửa-soạn xong, chủ nhà múc nước đổ đầy đến miệng ghè. Nước bao giờ cũng phải đổ đầy miệng ghè, nếu đổ vơi là không quí khách.
Các ghè rượu đã sửa-soạn xong, chủ nhà thay mặt tất cả những người có mặt mời khách, chúc khách mọi sự bình-an và được như ý trong thời gian thăm buôn. Sau đó, chủ nhà một tay phải cầm cần, tay trái đặt lên miệng vò, mắt ngước lên trời đọc lời chúc theo cổ-tục : « Mách ỏ rạ, mách tổ ỏ rạ, quệt am ỏ rạ » (Có nghĩa : anh em vui vẻ ăn uống, cùng cầu, cùng xin anh em thương yêu, xin trời cho, trời giúp).
Đọc xong lời chúc, chủ nhà trịnh trọng đặt một chiếc cần vào tay khách và tự lấy một chiếc khác, uống một hớp trước rồi mời khách nâng cần. Khách uống xong, những người chung quanh mới cầm cần để uống.
Nếu khách không có tửu lượng cao thì trong tuần rượu nhấp giọng này chớ có uống nhiều, những tay sâu rượu cũng chớ thấy rượu ngọt và quá nhẹ mà coi thường. Sang tuần thứ hai khách sẽ thấm.
Mỗi người nhấp giọng qua đợt một, chủ nhà sẽ lại lấy nước đổ cho đầy vò và lại mời khách. Lần này, chủ nhà cầm sẵn một tô nước, khách uống đến đâu lại đổ cho đầy tới đó. Khách không còn cách nào khác hơn là cố mà uống cho tô nước trên tay chủ nhà cạn mới thôi, mới thực-bụng với chủ. Những người khác thấy khách còn kham được nữa, rất có thể sẽ nhẩy vào, mỗi người chuốc khách một bát. Để đáp lại, khách cũng sẽ mời lại những người đã mời mình như vậy và chắc chắn không bao giờ bị từ chối.
Rượu cần tuy nhẹ hơn các loại rượu khác, nhưng với cách uống rượu chí-tình như vậy, dù là sâu rượu, khách cũng vẫn có thể ngã lắm. Nếu đã say, không thể kham nổi nữa, khách hãy nói thật, chủ nhà sẽ thông cảm chấm dứt cuộc vui.
*
Một năm đồng-bào Thượng có cả 3, 4 tháng thảnh thơi sau mùa gặt hái, đó là các tháng Một, Chạp, Giêng, Hai, Â.L. Trong những tháng này, lễ lạt, tết nhất liên-miên và rượu cần đã mang xuân bất tận đến cho đồng-bào Thượng. Quanh vò rượu, luôn luôn có những cuộc múa hát tưng bừng, chiêng trống inh ỏi và những tràng cười giòn tan, thanh thoát.
Nguồn: Tạp San Sử Địa số 5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:13:22 GMT 9
XUÂN QUA CÁC NẺO ĐƯỜNG SƠN CƯỚC Đỗ Văn Tú
VUI chung với niềm vui cổ truyền của toàn dân với « Nêu cao, pháo nỔ, bánh chưng xanh, thỊt mỠ, dưa hành, câu đỐi đỎ » hay « Bánh tét, dưa hỒng, la ve, cỦ kiỆu ». Ngày Xuân qua các nẻo đường Sơn-Cước cũng hoa đào nở khắp rừng xanh, mai vàng tung cánh nở, oanh líu lo ca, chim đua nhau hót, những hoa rừng rộn lên khúc nhạc yêu đương trong những dịp hội hè, tế lễ, hát xướng, múa ca sau những mùa lúa đã gặt xong, và bên Buôn, Bản lại vọng lên những câu hát tình tứ, thiết tha gợi cảm cùng những ngày vui say, ăn uống tưng bừng nhảy múa mà ta gọi là những ngày TẾT với nhiều tập tục đặc-biệt sắc thái địa phương của người dân quanh năm sống ở núi rừng cô quạnh.
Nhân ngày hội đầu Xuân, xin mời quý vị đi một vòng « TRƯỜNG-SƠN » thân mến để cùng chung vui với người bạn thiểu số thân thiết nhất MỘT MÙA XUÂN DÂN-TỘC KẾT ĐOÀN.
TẾT TRONG CÁC BẢN THÁI Người Thái ở vùng Thượng Du Bắc-Việt thuộc các tỉnh Sơn-La, Lai-Châu đón Xuân với rừng đào mọc hai bên bờ Suối, hay xa xa trên một ngọn đồi nhìn xuống tưởng chừng những tấm thảm hoa vẫn mịn màng trải suốt đến tận chân trời xa tắp, có những giòng suối kết tụ những cánh đào rơi tạo nên từng bè hoa lớn nhỏ bềnh bồng trên mặt nước, trôi qua khe đá, lẩn trốn vào rừng già sâu thẳm.
Bắt đầu mùa Tết của người Thái là TẾT CƠM MỚI (soong-săp). Khi lúa ngoài đồng chín vàng, ông Cai Tổng Thái (quân Mươn) họp dân lại ở Khu Rừng Cấm của Thổ Thần (pi-mươn), lấy lúa ngoài đồng về nấu xôi, giết trâu làm lễ cúng do thầy Mo Mường (pu mo mươn) đứng chủ lễ, người dân trong Bản ăn uống linh đình ba ngày liền rồi mới gặt lúa về nhà. Tiếp theo là Tết uống rượu (kin lao mao), tất cả dân làng đến tụ họp ở nhà Cai-Tổng, ăn uống, vui chơi, với những tiếng « khèn » theo lời ca điệu múa uyển chuyển nhịp nhàng của các sơn nữ, vào dịp này mọi người đều say túy lúy, rồi đến Tết ăn tiền (kim tiên) vào đầu tháng chạp, tế lễ để cầu trời đất, tổ tiên phù hộ cho được an khang, phát đạt. Điểm đặc-biệt có Tết ông Táo của người Thái trùng hợp với Tết cúng ông Táo của miền Xuôi vào ngày 23 tháng chạp, lễ vật gồm có, một con gà, một mâm xôi, một ghé rượu, ít vàng bạc giấy, hoa quả đem vào bếp cúng rồi ra núi tìm đá về bắc lại bếp khác.
Tết chính là Tết Nguyên-Đán (Nen bươn tiên) kéo dài đến hết trung tuần tháng giêng, mọi người mặc xiêm y mới nhất, đẹp nhất, và mổ trâu, heo, gà, bánh ăn uống mơ say linh đình, đặc-biệt trong đêm giao thừa sau khi làm lễ cúng tổ tiên thần thánh, là bắn súng hỏa mai để đuổi tà ma và đốt pháo đón mừng Chúa Xuân. Trong khi đó, các cô gái mang ống bương ra suối lấy nước « ĐẦU NIÊN » về dùng lấy hên. Trong dịp Xuân, những trò chơi cũng tiếp diễn với những hình thức và sắc thái đặc-biệt khác nhau như múa xòe, múa quạt, hoặc đánh bài, sóc đĩa. Trò chơi hấp dẫn và lôi cuốn các nam thanh, nữ tú là « Tung Cầu » còn được gọi là « Ngày hội còn ». Cuộc vui được chia làm hai phe, một bên Nam một bên Nữ, giữa là những người thổi khèn đánh trống, bên nam tay cầm quả cầu với giải ngũ sắc, nhắm tung về phía cô nào mà mình để ý, cô đó cũng có tình ý với mình cố bắt trái cầu và ném trả lại, mỗi lần ném trúng như vậy là những trận cười ròn rã với hàng tràng pháo tay tán thường. Cuộc vui tiếp diễn cho đến khi mệt mỏi, từng cặp bên nhau thủ thỉ tâm tình chuyện tương lai.
Sau ngày rằm tháng giêng là Tết ăn bánh (pin pang) dân làng trổ tài làm bánh, nhất là các cô Sơn-Nữ được dịp tỏ ra là nội trợ đảm đang, đúng ngày giờ hạn định, các loại bánh được đem đến nhà Cai Tổng thi, ai làm ngon nhất, khéo và đẹp mắt nhất sẽ được thưởng và được dân trong Bản hoan nghênh nhiệt liệt. Đây lại là một dịp để ăn uống, rượu chè, múa hát tưng bừng thỏa thích trước khi trở lại mực sống bình thường.
NGƯỜI MÁN VỚI CHỢ TẾT TAM LỘNG TAM LỘNG là tên của một xã thuộc tỉnh Vĩnh-Yên, những ngày thường trong năm, chợ Tam Lộng là trung-tâm trao đổi hàng hóa giữa đồng-bào Kinh Thượng, đến ngày 25 tháng chạp, phiên chợ Tết này biến thành chợ cưới của những lứa tuổi đôi mươi với những mối tình thầm kín ấp ủ hàng năm được dịp công khai bộc lộ và thừa nhận bởi các bậc phụ huynh, bô lão. Chợ cưới này còn được các thôn bản lân cận thuộc giòng Mán Lan-Tiên ở các tỉnh Thái-Nguyên, Tuyên-Quang về tham dự, có những người phải rủ nhau đi từ ngày hôm trước, vô chợ chỉ họp trong ngày 25 mà thôi. Có được ngắm các cô Sơn-Nữ trong ngày trăm hoa khoe sắc thắm này, mới thấy được cái đẹp hồn nhiên của những bông hoa rừng biết nói này. Cô nào cũng xiêm y mới đẹp lộng lẫy, yếm màu sặc sỡ chân tay và cổ đều đeo vòng bạc, cườm sà tích lẻng kẻng tranh đua với tiếng cười, giọng nói, lấp lánh thi ánh với những khóe mắt sàng ngời tình tứ hữu duyên. Có những cô nàng phải tự dệt lấy xiêm y để mặc hôm chợ Cưới để tỏ ra đảm đang khéo léo.
Còn các chàng trai thì hiên ngang trong những bộ trang phục thời danh với dáng điệu mạnh khỏe quắc thước, lanh lợi, nụ cười luôn luôn nở trên môi để chào đón người bạn trăm năm, có những chàng phải tần tiện hàng năm để có đủ tiền mua tặng người yêu những kỷ vật đáng giá.
Trong khi gặp nhau, hai bên trai gái chuyện trò vui vẻ mời mọc nhau ăn uống, hẹn hò nguyện sẽ nên lứa nên duyên, thành vợ thành chồng, đầu bạc răng long cho đến khi trời chiều xế bóng mới chia tay. Các cụ bô lão theo con cái ra về sau khi đã thỏa thuận với nhau những chi tiết về lễ vật, ngày giờ cưới hỏi và rượu chè say bí tỉ.
Các cô cậu giòng Mán này mong chợ Tết Tam Lộng hơn là những trò chơi Xuân hay những ngày tế lễ khác.
TẾT CỦA NGƯỜI NÙNG VỚI HÁT « HỘI CHÈ » Hàng năm cứ đến khi có gió heo may thổi về, trời lạnh quá là người Nùng bàn tính và sửa soạn ăn Tết. Người Nùng ăn Tết giống người Kinh, cũng bánh chưng và bánh lớn. Đến 25 tháng chạp là ngày lễ THƯỢNG CÚNG (Xưởng công), lễ này không cần gà, thịt, mà chỉ có bánh chưng, bánh lớn, hoa quả, mía cam, tuy không phải tuyệt đối nhưng không một ai dùng chuối trong lễ này.
Sau khi cúng giao thừa, vào khoảng 4, 5 giờ sáng mỗi gia-đình có một người mang thùng xuống sông hay suối, đem theo ba cây hương, một sắp tiền vàng. Trước khi gánh nước phải thắp hương khấn vái tứ phương và đốt tiền vàng và khi gánh nước về phải bỏ một cánh hoa vào thùng nước mà người Nùng gọi là gánh nước « HOA HỒNG ».
Ngày kiêng cữ nhất của người Nùng là ngày mồng ba vì ngày này là ngày đuổi « bần quỷ » tức quỷ nghèo. Sáng mồng ba, nhà nào nhà nấy quét nhà vừa hô « BẦN QUỈ XUẤT, PHÚ QUỈ NHẬP » tức là quỉ nghèo ra, quỉ giầu vào, ý nghĩa của cuộc quét « bần quỉ » là những tàn tích xui xẻo năm cũ đều bị đuổi đi hết, năm mới may mắn đến.
Nhân dịp xuân về, người Nùng tổ chức hát « HỘI CHÈ » để đón mừng xuân mới, những vai trò hoàn-toàn do nam giới đảm nhiệm gồm có :
- I hội chè Lang
- 2 hội chè Nương (nam giả gái)
- I đánh trống
- I đánh mõ
- I đánh tầm
- 2 thổi kèn.
Hai « Hội chè nương » cầm hai cái quạt phe phẩy múa theo nhịp trống, mõ, tầm, kèn và ca hát, mỗi lần « hội chè lang » hát xong là « hội chè nương », hát đáp lại – Nội dung các bài ca trong « Hội chè » hoàn-toàn tả cái đẹp của mùa Xuân, ca tụng chúa xuân đem lại niềm vui cho toàn dân. Tổ chức văn nghệ này qui tụ các thanh niên nam nữ các thôn làng lân cận và rất được các cô gái ái mộ si mê như các nam tài tử màn bạc bây giờ vậy. Vì hai hội chè nương là hai chàng trai hóa trang nên mỗi khi mãn hát các cô tìm cách để được chuyện trò ca tụng, làm quen. Cuộc vui kéo dài 5, 6 đêm cùng với các đề mục khác như cờ bạc, rượu chè, bài lá kéo dài cho đến trung tuần tháng giêng mới mãn dần và trở lại bình thường.
TẾT CỦA NGƯỜI MƯỜNG Sắc dân Mường có khoảng 7, 8 chục ngàn người, chiếm trọn tỉnh Hòa-Bình thuộc miền Trung Du Bắc-Phần, ở về phía Tây Bắc Hà-nội 7I cây số, I số khác cư trú quận Lạc-Thủy (Hà-Nam), 2 quận Hồi-Xuân (Quan-hóa) và Vùng Đèo Khế (Phú-Thọ). Hiện có khoảng gần I ngàn người sống ở hai ấp Đời Mới An-Lập và Đồng Xoài, quận Xuân Lộc, tỉnh Long-Khánh. Trước đây người Mường sống dưới chế độ phong kiến, bao gồm 2 giai cấp Quan Lang và Âu Mệ (bình dân).
Hàng năm dựa theo âm lịch, nhưng tính kém đi I ngày, cứ vào dịp cuối năm, dân Mường lại sửa soạn ăn Tết. Từ trung tuần tháng chạp đã rục rịch sắm sửa thực phẩm, mang mặc để đón Xuân. Tục thưởng xuân của người Mường có phần giống người Bắc. Tuy nhiên có một vài sắc thái đặc-biệt như sau :
Đêm 30, Giờ phút nghiêm trọng Đêm 30, mọi người phải ăn mặc sạch sẽ, dọn lễ, trước là cúng chay Đức Phật, sau dọn bánh trái, rượu, thịt để cúng tổ tiên. Đêm nay, mọi người đều thức để mừng tổ tiên về sum họp, ăn Tết cùng con cháu. Đúng nửa đêm, giờ giao thừa sẽ có đốt pháo hoặc bắn « tụ » (súng thần công) tục gọi là bắn « chàng tịch ». Cũng trong đêm nay, người ta thường thức canh chừng xem « con vật nào thức trước » (căn cứ vào sự cử động hoặc tiếng kêu của gia súc). Mỗi con vật thức trước được coi là điềm báo để suy đoán tình trạng năm mới : trâu thức trước năm đó sẽ được mùa ; mèo rừng rú sẽ nhiều cọp beo ; chó sẽ có nạn trộm cướp.
Những cuộc vui đầu xuân Xắc bùa – Sau mỗi năm thanh bình an lạc hoặc phong đăng hòa cốc, thì vào dịp đầu năm mới, người ta còn được nghe âm thanh trầm bổng của nhiều tiếng cồng (chiêng) hòa hợp. Đó là tiếng xắc bùa (đánh chiêng có nhịp điệu). Nhóm người « xắc bùa » chia làm hai bè : bè con, gióng hiệu lệnh (chừng 3 người đánh chiêng nhỏ) bè mẹ đánh đáp theo đều (gồm nhiều người đánh những chiêng lớn).
Một người trong bè mẹ mang chiêng lớn nhất, có thể tùy ý đánh dồn để gây thêm dư âm cho bè này. Ban « xắc bùa » cứ thế tiếp tục gióng họa tạo nên một âm thanh nhịp nhàng, sôi động, một thứ âm thanh thuần túy, đặc-biệt của ngày Tết, có thể gọi đó là tiếng vọng của cuộc đời, an lạc và ấm no của người Mường. Tôi muốn nhấn mạnh điểm này là để phân biệt các nhạc khí khác : ống tiêu, ống ôi, nhị hồ, đàn kèn chỉ dùng trong dịp tế lễ.
Rằng thường Nếu ban « xắc bùa » lưu động trong làng hoặc từ làng này qua làng khác rất có thể sẽ bị bắt buộc phải « rằng thường » có nghĩa là ca ví. Người « rằng thường » là một người thành thuộc về hát ví, đã từng luyện hát đối đáp, không những thuộc nhiều bài hát ví (mẫu) danh tiếng mà lại còn có khẩu khiếu, ứng đối và sáng tác nên những bài mới lạ thích nghi theo từng trường hợp. Người này cất tiếng hát với giọng ca ngân dài : « thương thuyết » hới lại thương nôống thương khôông ớ tôống phắng lặng ớ tôống lắng yên, yên tất yên mướng, yên vua lê vừa lanh chua » (thường thiết si lại thương nồng, thường không ở đồng phẳng lặng ở đồng lặng yên, yên đất yên Mường yên vua lại vừa lành chúa). Bài « rằng thương » có nhiều đoạn pha hình thức « nói lối » với nội dung ca tụng cảnh thanh bình, nói lý do và giới thiệu đoàn « xắc bùa » cùng khen ngợi gia chủ làm ăn thịnh vượng, sau hết đến phần « bổ bái » (kết thúc bản ca) là đoạn chúc Tết, nếu hợp lý, gia chủ có thể tặng tiền, gạo hoặc bánh chưng. Tiếng hát vừa dứt lại điểm thêm tiếng chiêng « xắc bùa » vang lên. Nếu sau một hồi tiếng chiêng ngưng mà mâm quà chưa thấy bưng ra ấy là bởi trong lúc « rằng thường », đã có một thầy « thường » bên gia chủ vẫn chú tâm theo dõi để hát đối đáp. Việc nhận quà tặng trở thành gay go và khó-khăn, nhưng đoàn « xắc bùa » đã quyết tâm đoạt cho bằng được để giữ tiếng và lấy may đầu năm. Thầy « thường » của đoàn cùng với một số tay em phụ tá, thay phiên nhau hát đối lại cho ăn ý : ví von, ra đòn sao cho địch thủ hết đường đáp lại là thắng.
Cót còn (ném đúm) Cũng trong dịp đầu xuân, người ta còn thấy từng toán thanh niên ăn vận khăn đóng áo dài rủ nhau tới những Mường (làng) mà họ để ý từ lâu. Có các cô thiếu nữ xinh đẹp để « cót còn » (ném đúm). Trái « còn » làm bằng vải nhiều màu khâu thành hình vuông như cái bánh chưng nhỏ, có cạnh chừng 5cm, trong đó nhồi cát. Mỗi (cạnh) góc trái « còn » có kết tủa chỉ ngũ sắc, chính giữa có giây cầm để vung lấy đà mỗi khi tung trái « còn » đi. Thường thường các cô gái đẹp, như bầy tiên nữ, có thói quen đầu xuân, vẫn hay nhởn nhơ rủ nhau ra đầu thôn nơi thảm cỏ xanh mướt để chờ đón các chàng trai tới « cót còn » cầu duyên. Bên các nàng thiếu nữ, sau phút do dự đã lên tiếng mời gọi khách : Năm mới, mới các chụ cót còn bôl dộng mận ụn mạng tán tôi vậy » (năm mới, thì các chú cót còn chơi với chị em chúng tôi nào). Bên thanh niên nhận lời. Trái còn giáo đầu được tung lên, vẽ nên những bóng cầu ái ân muôn sắc vì chính đây là một dịp giao cảm thuận lợi, để khi đêm (Xuân) về, từng cặp, họ sẽ cùng nhau dan díu yêu đương. Để rồi từ đó, những mối tình thơ mộng nhất và cao đẹp nhất đã nẩy nở trong những đêm huyền diệu buổi đầu xuân. Trở về với hiện tại, chúng ta hãy trông, sau phút giáo đầu, hai bên đã gieo « còn » nhắm trúng theo người mình lựa chọn. Để tránh gây hiểu lầm và khỏi bị chê cười, mỗi người phải hết sức nhanh nhẹn và khéo léo trong dáng điệu thanh nhã, cố bắt cho bằng được trái « còn » tung về phía mình. Từ những cặp ưng ý, sẽ vang lên trong nắng ấm, giọng cười dòn dã trong trẻo, những lời ngợi khen, tiếp theo tiếng thỏ thẻ, du dương đầy khiêm nhượng.
Uống rượu cần thi, đút bánh chưng Đêm về, từng cặp, mỗi nàng sẽ mời chàng tới nhà bà con nhờ cậy nào đó để tiếp đãi cho được tự nhiên, tránh cặp mắt nghiêm khắc của cha mẹ.
Họ sẽ thi nhau uống rượu ngọt như rượu nếp bỏ trong vò có cắm cần trúc. Trong bữa ăn, nếu chàng trai làm khách, tỏ ra dè dặt và ít tự nhiên, chính nàng sẽ tự tay gắp thức ăn hoặc bánh chưng đút cho chàng.
Bộ mẹng Cơm nước xong, mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ có chàng với nàng vẫn còn thức, tới ngồi bên nhau, cạnh bếp lửa hồng than nổ reo vui lách tách, vừa để sưởi ấm, vừa để hút thuốc lào chung một điếu cày tỏ lộ sự tâm đồng ý hợp. Sau vài giây say khói thuốc, khều thêm than, rồi kẻ cúi đầu, người tựa gối, họ bắt đầu « bộ mẹng ». Bộ mẹng chính là lối bày tỏ nỗi niềm tâm sự bằng thơ với giọng ngâm dịu dàng lúc thầm thì, lúc nhỏ nhẹ trong đêm. Chàng trai mở lời hoa nguyệt trước : « tếu chi pậu vị lỵ chi pâu rắng … pôóng hơi ! » (điều chị bậu ví, lý chi bậu sàng, bông ơi !). Giờ phút này, đôi uyên ương đã là hiện thân của nàng Nghê Nga và chàng Hai Mối, là hai trong ba nhân vật bất hủ của tình sử người Mường. Cuộc trò chuyện của đôi bên tuy thân mật nhưng hoàn-toàn trong sạch và đứng đắn cứ thế kéo dài thâu đêm tới tờ mờ sáng họ mới chia tay. Đây là bước đầu cuộc tình duyên của một cặp trai gái nguyện thề kết tóc xe tơ. Và kể từ đó, kỷ niệm thuở ban đầu đã khắc ghi trong tâm-hồn họ, để sau này họ có dịp ôn lại (trong mai sau) vào mỗi độ Xuân về.
Ngày 7 tháng Giêng : Khai hạ (mở cuộc vui) Ngày 7 tháng giêng : cả Mường ra miếu cúng « tháng váng » (thành hoàng). Kể từ đây các cuộc vui Xuân, những buổi hội hè, đình đám hay lễ Chùa (Mỗi Mường có riêng một ngôi chùa lớn). Những cuộc bắn bia hay đua ngựa được mở ra và có thể tiếp diễn trên hai tháng đầu xuân.
CÁC SẮC DÂN TÊU, PACOK (QUẢNG-TRỊ THỪA-THIÊN) MỪNG HỘI ADZA VÀ AYA Hàng năm sau mùa gặt hái, đồng-bào tổ chức ngày hội ăn uống linh đình để mừng kết quả mùa màng thu hoạch xong và chuẩn bị làm rẫy mới, sắc dân Têu Quảng-Trị có lễ Adza, người Pacok Thừa-Thiên có hội Aya. Trong dịp này tưng bừng náo nhiệt, giết trâu, cúng heo cùng các trò vui ca hát giữa nam nữ, các cụ già đánh chén rún rẩy chiếc phèn la và thi nhau đánh nhịp « chiêng » chù rù bằng đồng. Tại các nhà làng thì trang hoàng lộng lẫy cờ phướng rợp trời, ở những gia-đình giàu có, trịnh trọng bày những chiếc ché bằng sành quý giá lâu đời cùng với đồ đồng như xanh, nồi bung, nồi bẩy – những chiếc áo xưa như rồng năm móng của các quan lại thiên triều được các bô lão mang ra mặc một cách long trọng, thanh thiếu niên nam nữ bận áo mới có cườm ở hai hàng nút trông rất xinh đẹp, và những chiếc « Sinh » người Lào gọi là Phá-xà-Lùng được các cô mang ra chưng diện ba ngày Tết.
SẮC DÂN HRÉ (QUẢNG-NGÃI) VỚI HỘI NHẢY KẸP Những ngày lễ Tết của người Thượng Hré kéo dài I, 2 tháng, nhà giàu nấu 20, 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ hàng 2, 3 trâu bò đãi bà con trong thôn ấp. Tất cả dân trong làng tập trung ăn Tết ở nhà Tù Trưởng (Kà Rá) rồi lần lượt đến các nhà khác, đàn ông bao giờ trong nhà hết bánh, hết rượu mới thôi, vừa ăn uống, vừa ca hát nhảy múa, đàn ông vừa đánh « chinh » vừa nhảy, đàn bà con gái đeo ống bương, lấy hai tay vỗ vào hai đầu thành những tiếng bập bùng, một bên nam, một bên nữ vừa đi vừa uốn éo theo nhịp trống, miệng ca nhịp nhàng tạo nên một khúc nhạc u buồn, man dại đam mê. Ở một địa điểm khác, các thanh niên nam nữ có trò chơi hấp dẫn và đẹp mắt hơn đó là điệu « nhảy kẹp ». Dụng cụ gồm có hai đòn nhảy là hai ống tre hoặc nứa già độ hai thước, mắt được chuốt sạch sẽ và phơi khô để khi đập vào nhau kêu cho lớn tiếng. Hai người một nam một nữ ngồi điều khiển hai đầu đòn, cứ hai tiếng đáp xuống đất, rồi hai đòn đập vào nhau theo nhịp chiêng trống : khi nhảy hai người nam nữ quay mặt vào nhau, trong lúc hai ống bương đập hai tiếng xuống đất thì cặp trai gái bước hai bước vào trong và khi vừa bước ra ngoài thì hai ống đập vào nhau cái « cốp ». Cặp nào nhảy đúng nhịp trống như cặp lân đang dỡn nhau, có lúc hai người cùng nhảy về một phía, có khi giữa lúc tiếng « cốp » đập vào nhau thì hai người ở hai bên ống bương, trông thật là ngoạn mục. Sự nhịp nhàng uyển chuyển của đôi trai tài gái sắc không những làm cho chính họ thích thú mà còn làm cho mọi người xung quanh tán thưởng say sưa với những nhịp vỗ tay đều đều. Từng cặp lại từng cặp thay phiên nhau biểu diễn liên tục quên cả ngày giờ, vì đây không những là một trò chơi giải trí, biểu diễn nghệ thuật cho bà con mua vui mà còn là dịp để tỏ tình mây mưa gắn bó. Thế là sau ngày hội hè ăn uống vui chơi, giòng HRÉ theo chế độ mẫu hệ, cô gái nào để ý đến chàng trai lối xóm liền nhờ lái sang nhà trai dọ hỏi để chờ ngày nộp sính lễ và chọn ngày lành tháng tốt tạo hạnh phúc lứa đôi.
Tính tuổi bằng lá bánh tét Người Hré cũng dùng bánh tét để ăn Tết như người Kinh. Nhưng đặc-biệt là không có nhân – khi gói bánh, ngoài số bánh để đãi khách và bà con, hễ trong nhà có bao nhiêu người thì gói bấy nhiêu « bánh cữ » nữa. Bánh cữ của ai, người nấy ăn chứ không mời khách – Lá bóc ở bánh cữ ra bao giờ cũng đem buộc lại, lau rửa sạch sẽ, treo ở mái nhà nơi cửa ra vào, mỗi người treo cách nhau và có dấu riêng, để năm này qua năm khác, cứ đếm bao nhiêu gói lá là bấy nhiêu Tết đã ăn, bấy nhiêu tuổi đã có, khi chết đi các gói lá đó được đem treo ở mộ phần, có thể đếm số lá treo để biết tuổi của người quá cố.
NGƯỜI DÂN KOHO (Tuyên-Đức – Lâm-Đồng ăn Tết bên đống lửa) Ngày Tết của người Koho không hẳn là ngày I tháng giêng âm lịch như ở miền Xuôi. Sau mùa lúa, Chánh-Tổng cùng các bô lão trong Buôn chọn ngày ăn mừng, thế là tiếng chiêng trống nổi lên từng hồi, từng hồi kế tiếp, tạo nên một âm thanh dồn dập, để thay những tràng pháo hoặc súng thần công báo hiệu và triệu tập đồng-bào đến nhà Chánh-Tổng ăn mừng mùa lúa tốt.
Từng đống củi, gỗ được chất chồng giữa sàn nhà Chánh-Tổng, những cây nêu (Kơn dak) treo lủng lẳng, chạm trổ những hình thù thần thánh, hàng chục chóe rượu cần, một con trâu, heo đã chuẩn bị sẵn sàng. Đến khi mặt trời đã khuất sau đồi thông, tiếng chiêng trống nổi lên, ngọn lửa bắt đầu bám vào các ngọn củi khô phừng phựt cháy, thế là quanh lửa hồng từng đoàn người ca hát nhảy múa nhịp nhàng say sưa theo tiếng trầm bổng, u buồn rồn rập. Con trâu cột bên cây nêu được hy sinh, đem nướng bên bếp lửa, mùi thịt nướng thơm lừng làm cho mọi người hăng hái, hàng mấy chục cần trúc mọc tua tủa trên những chóc rượu ngọt lịm sẵn sàng. Mọi người vừa nhảy vừa ca theo nhịp vỗ tay đều đều, nhảy chán rồi vào uống rượu cần với thịt nướng, vừa ăn uống vừa chuyện trò vui đùa, cởi mở. Cuộc vui tiếp diễn, càng về khuya, sương càng lạnh, ngọn lửa gần tàn, cho đến khi rượu đã nhạt, thịt đã hết, người người say mèm, tiếng trống, tiếng đồng la uể oải, tiếng nói tiếng cười thưa dần, êm dần trả lại cho đêm rừng thâm u tịch mịch. Ngày hôm sau, mọi người lại qua ăn Tết ở các nhà khác, cứ thế cuộc vui ca hát nhảy múa bên đống lửa kéo dài cả tháng trời.
TẾT CỦA NGƯỜI BAHNAR Hàng năm cứ bắt đầu đốt rẫy, ngày gặt hái là dịp để cho đồng-bào Bahnar (tỉnh Kontum) giết trâu, mổ heo, uống rượu cần linh đình ngày này qua ngày khác, các cuộc vui ăn uống hát sướng nhảy múa tựu trung cũng gần giống các sắc dân khác, ngoài ra đồng-bào Bahnar Alakong còn có các lễ sau đây :
- Lễ tạ mả vào tháng I và 2 âm lịch.
- Lễ Mi Rah, khi trời bắt đầu mưa.
- Lễ Mi-Dak-Mat-Aton để cầu hồn cho người chết.
- Lễ Puc-Sodu để xua đuổi các hung thần.
- Lễ Nùng – Chàm để cầu mưa gió thuận hòa.
- Lễ Koh-Sa-Kopo-Tahal để cầu bình an vào tháng 6 dương lịch.
- Lễ Et-tojur-Sa sau mùa gặt hái.
Mỗi lễ đều có sát sinh để tế thần, những con vật hi sinh thường là trâu, bò, heo, gà v.v… thời gian hành lễ có khi kéo dài đến 3, 4 ngày. Âm nhạc dùng trong các ngày tế lễ, hội hè gồm có các nhạc khí cổ truyền như cồng, ma la, trống, khèn v.v…
*
Trên đây là những tục lệ cổ truyền của ngày xuân thanh bình xa xưa hoặc lẫn khuất trong tiếng súng giao thừa của cuộc chiến tranh đang tàn phá quê hương.
Xuân đến ngày hôm nay, pháo Tết còn nổ xen với tiếng rít của máy bay phản lực hòa với hỏa tiễn bay phá tung hậu cứ địch, để mong đem lại một cuộc sống thanh bình an lạc cho xứ sở trong tương lai, để những ngày xuân năm tới, những tập tục cổ truyền của dân-tộc lại trở về với miền đất thân yêu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:14:46 GMT 9
Mùa Lễ Tết Trên Cao Nguyên Nguyễn-Văn-Nghiêm
Tại các tỉnh Darlac, Pleiku và Phú Bổn, đồng-bào Thượng Rhadé và Jarai có những tiếng HRUÊ chỉ ngày, MLAN chỉ tháng, THUN chỉ năm. Lại cũng có những tiếng YĂN chỉ mùa, YĂN-BHANG chỉ mùa tạnh ráo (khoảng thời-gian từ tháng 2 đến tháng 4 dương-lịch), YĂN HƠJAN chỉ mùa mưa (khoảng thời-gian từ tháng 5 đến tháng II dương lịch). Còn khoảng thời-gian ở giữa YĂN HƠJAN và YĂN-BHANG (tháng I2 và tháng I dương lịch) được gọi là YĂN PUIH. PUIH do tiếng ANGIN PUIH là gió cuốn đi nên có thể dịch YĂN PUIH là mùa gió.
Trong những tiếng kể trên có tiếng MLAN ngoài ý nghĩa chỉ tháng, còn có nghĩa chính chỉ mặt trăng.
Như vậy đồng-bào Thượng Rhadé đã xem sự tròn khuyết tuần hoàn của mặt trăng để tính tháng và xem thời tiết để tính mùa.
Mỗi năm có 3 mùa, bắt đầu từ mùa tạnh ráo, gió xuân về, trời cao-nguyên trong vắt không gợn một chút mây, nắng vàng ấm, cây cối đâm chồi nẩy lộc hoa rừng đua sắc đua hương, đến mùa mưa trời vẫn mây đen, mưa xối cả xuống núi rừng, ngoài ruộng, rẫy lúa cỏ vươn cao trông thấy, rồi đến mùa gió bấc lạnh-lẽo thổi về, lá rừng đỏ vàng theo gió cuốn đi, trên đồi nương lúa nặng chĩu những hạt vàng, đồng-bào Thượng đem gùi ra tuốt lúa, xong là hết một năm.
Cách tính thời gian nói trên không riêng gì của bộ-lạc Rhadé mà còn của các bộ-lạc Thượng khác trên Cao-nguyên nữa.
Tuy nhiên vì chưa có lịch, nên đồng-bào Thượng không ấn-định rõ ngày nào là ngày đầu năm và cũng không có tục-lệ ăn Tết Nguyên-Đán vào ngày nhất định như đồng-bào Kinh mà lại có cả một mùa lễ Tết linh đình.
Trong lễ Tết của đồng-bào Thượng Rhadé và Jarai có 3 loại lễ Tết sau đây là quan-trọng hơn cả :
I–Lễ ăn cơm mói (Huă êsêi mrâo) 2–Lễ uống mừng năm mới (Mnăm Thun) 3–Lễ Bỏ mả (Mnăm lui Msat)
I–LỄ ĂN CƠM MỚI (Huă êsêi mrâo) Khoảng tháng I0 dương-lịch mùa gió sắp đến, lúa bắt đầu chín. Có nơi chín sơm, có nơi còn xanh.
Mỗi gia-đình đem gùi ra tuốt lấy một vài gùi lúa chín sớm, đem về phơi, giã lấy gạo tổ-chức lễ Huă êsêi mrâo.
Tùy theo sự giàu nghèo người ta giết gà, giết heo hay giết dê.
Lễ vật được đặt giữa nhà gồm một hay hai chóe rượu cần cột chặt vào một chiếc cọc, thịt và cơm để trên lá hay trên bát đĩa.
Gia chủ hoặc thầy cúng khăn áo chỉnh tề ngồi sổm trước lễ vật, hai bàn tay chắp lại miệng khấn như sau :
« Lạy Thần Mtâo Kla, Thần H'Bia Klu, Thần Aê Du, Thần Aê Diê, đã ban cho chúng con hạt giống, nào lúa, nào kê, nào vừng.
Chúng con cung thỉnh chư vị thần từ phía đông giải Ngân-Hà nơi nguồn gốc của lúa, của vừng, của kê. Xin chư vị thần giáng lâm chứng giám lúa Hdrô đã già, lúa Bla đã chín. Xin chư-vị thần thưởng-thức lễ vật gồm trứng gà, gạo Bla mới.
Lạy thần Aê Mghi ở dưới đất, thần Aê Mghăn ở trên trời, chư thần coi sóc hạt giống nào kê, nào vừng, nào lúa, xin cho chúng con mỗi năm đầy gùi đầy vựa.
Chúng con tuốt một bông lúa được đầy một nắm tay, tuốt một bó lúa được đầy một gùi. Xin chư thần đem lúa trồng những trái bầu đến làng phía tây, đem lúa trồng những bọc vải đến làng phía đông, đổ lúa tràn trề đầy gùi, đầy vựa, nào lúa cũ, nào lúa mới, chồng chất lên nhau, lúa đổ tràn tới nóc, ứ đầy khắp nơi. Xin chư thần đừng bao giờ để cạn lúa trong vựa, lúa cũ, lúa mới luôn luôn chồng chất lên nhau.
Chúng con kêu gọi chư vị thần suối nhỏ chảy trong các khe, chư vị thần sông lớn chảy trên sườn núi, hết thảy chư vị thần sông suối về hưởng thịt gà, lúa mới, lúa đầu tiên.
Trên đây là những lời khấn của chúng con, xin hết ».
Lễ xong lần lượt mọi người uống rượu cần, bắt đầu từ ông bà, cha mẹ, khách khứa, họ hàng rồi đến con cháu. Người ta vừa uống vừa ăn cho đến bao giờ chóe rượu cần đã nhạt, thịt gà, thịt heo, thịt dê, cơm mới không còn mới thôi.
Lễ ăn cơm mới được tổ-chức lần lượt hết nhà này đến nhà khác suốt mùa lúa chín chừng nào hết mùa gặt thì thôi.
Các bộ-lạc Thượng đã theo Thiên-chúa-giáo như đồng-bào Bahnar ở Kontum không còn cúng như trên nhưng cũng vẫn duy-trì tục uống rượu cần, giết gà, heo, dê như cũ.
Riêng những đồng-bào đã theo đạo Tin-Lành thì đã bỏ uống rượu, nhưng lễ cơm mới vẫn được tổ chức trọng thể, không cúng thần, chỉ cầu nguyện tạ ơn Chúa và uống nước ngọt thôi.
Trong những dịp lễ ăn cơm mới, từng đoàn con trai, từng đoàn con gái rủ nhau túm năm, tụm ba đi từ nhà này sang nhà khác uống rượu, ăn thịt, ăn cơm, mặt đỏ tưng bừng nô đùa vui vẻ.
2–LỄ MNĂM THUN
Đồng-bào Thượng Rhadé có câu ca dao :
- Leh đă êngoh, doh puôt, khuôt êa hlĩm hjan.
- Phung anak ÊDÊ-GA khăng huă blăm, mnăm thun, bỡng un kbao.
- Hết lạnh rồi, lúa tuốt xong, nước mưa nguồn đã cạn.
- Đồng-bào Thượng thường ăn lễ lớn, uống mừng một năm, giết trâu giết heo.
Nhưng lễ MNĂM THUN không phải là lễ của toàn thể mọi gia-đình như lễ ăn cơm mới. Chỉ những gia-đình Rhadé giàu có mới giết trâu heo, tổ chức lễ này để cầu cho gia-đình mạnh khỏe và làm ăn thịnh vượng. Tùy theo nhà giàu có, tùy theo số khách khứa họ hàng được mời đến dự, gia chủ giết một, hay hai ba trâu. Số trâu bò heo dê càng nhiều chừng nào, càng đánh giá tầm quan trọng của buổi lễ.
A–Trồng cột Blang Kbâo Gần đến ngày lễ MNĂM THUN gia chủ cử người vào rừng chặt cây tre, cây gòn (blang) về làm cột Blang kbâo. Cột Blang kbâo giống như cây nêu của đồng-bào Kinh nhưng ý nghĩa và sự hữu dụng của nó khác hẳn.
Một cột Blang trồng ở giữa cao 5-6 thước tây. Trên cùng là bàn thờ ông bà giống như một chiếc kiệu nhỏ của đồng-bào Kinh. Linh hồn ông bà sẽ ngự trị trên chiếc kiệu đó.
Dọc thân cột có cắm những lưỡi dao tượng trưng cánh tay Thần và I hình mặt trăng lưỡi lìm tượng trưng sức mạnh của Thần Linh.
Xung quanh cột blang có cắm 8 cành tre cao ngất đầu mỗi cành tre có I sợi dây tre có những tua bông treo lơ lửng và buông rũ xuống. Những dây tre ấy theo gió đung đưa ngụ ý chào mừng vong linh của Ông Bà về dự lễ.
Xung quanh chân cột blang là 4 cột blang ngắn để buộc trâu. Trên mỗi cột đều có vẽ những hình tượng trưng đàn chim bay, hoa knia, phên đan v.v… bằng nước vôi hòa với máu trâu.
Theo tục lệ cột blang phải xong trước buổi lễ I ngày. Khi dựng cột, gia chủ phải tổ chức lễ mời ông bà về ngự trị trên cột blang. Cột blang kbâo ở bộ-lạc Churu, Koho gọi là cột knơng. Khi dựng cột, thầy cúng phải vừa khấn vừa múa chạy xung quanh knơng.
Mỗi cột blang kbâo buộc một con trâu. Nếu giết ba trâu thì phải trồng ba cột blang kbâo.
B–Lễ chém trâu Đến giờ hành lễ mọi người đứng vây tròn xung quanh cột blang kbâo. Chiêng trống cồng nổi lên những điệu nhạc dồn dập như thúc dục người ta ra trận. Một thanh niên được lựa chọn để chém trâu.
Anh chạy theo con trâu vòng quanh cột blang, tay cầm con dao kgă, vừa chạy vừa múa dao, lừa lúc thuận tiện anh chém đứt khuỷu chân trái sau của con trâu. Bị đau con trâu chạy lồng lộn bằng 3 chân mau hơn. Anh lại chạy theo, vừa chạy vừa múa dao và lừa lúc thuận tiện chém nốt khuỷu chân bên phải của con trâu. Con vật ngã khuỵu hai khuỷu chân sau xuống đất lết quanh cột blang.
Người thanh niên thay kgă, bây giờ anh cầm trong tay I chiếc dáo dài. Anh vừa chạy theo trâu vừa múa dáo theo nhịp chiêng trống cồng trong khi mọi người reo hò vang trời dậy đất. Đúng lúc thuận tiện anh đâm mạnh chiếc dáo vào sườn con trâu. Anh phải tính làm sao cho mũi dáo đầu tiên ấy trúng ngay tim con vật, làm con vật chết ngay tức khắc, như vậy mới được dân làng khen là tài giỏi.
Con trâu vừa chết, những thanh niên lực lưỡng nhào ra phanh thây con trâu, sau khi thầy khua iêo yang đã hứng được một ít máu trâu vào trong một chiếc bát đồng có đựng rượu.
C–Lễ rửa chân
Thịt trâu được đem đến nơi hành lễ. Tại đó đã có 7 chóe rượu cột vào 7 chiếc cột chôn ở giữa sân. Người ta để thịt trâu trên tàu lá.
Gia chủ ngồi trước nơi hành lễ tay phải cầm một chiếc cần rượu, chân phải đặt trên một lưỡi búa có ý nghĩa cầu cho được mạnh như lưỡi búa. Thầy khua iêo yang tay trái cầm bát rượu hòa máu trâu, tay phải cầm một miếng bôn gòn. Thầy nhúng bông gòn vào bát, bôi lên chân gia chủ.
Nếu gia chủ là một vị có uy quyền cai quản dân chúng, thần cúng sẽ khấn như sau :
« Hỡi chư vị thần linh, chúng tôi cung thỉnh chư vị thần ở trên trời, chư vị thần ở dưới đất, chư vị thần ở hướng Đông, ở hướng Tây, ở hướng bộ-lạc Bih, ở hướng bộ-lạc M’Nông hãy đến hưởng những lễ vật trong buổi này. Kính xin chư vị thần linh che chở, bảo vệ cho chủ nhân của chúng tôi, người mà chúng tôi coi như cha mẹ đã sinh đẻ ra chúng tôi. Kính xin chư vị thần linh ban cho chủ nhân của chúng tôi được nhiều sức mạnh, được sống hạnh phúc và trường thọ.
Chúng tôi cũng kính xin chư vị thần cây cối, thần cây đa Hra, thần cây Anguê, thần các vị thuốc ban phước lành cho chủ nhân của chúng tôi. Hãy ban cho chủ nhân của chúng tôi đi tới đâu cũng được mọi sự sung sướng, chiếu phải trải ra, lễ tiệc phải linh đình, đông anh em, đông bè bạn, được tất cả mọi người giúp đỡ.
Trên đây là những lời cầu nguyện của chúng tôi. Xin hết ».
D–Lễ đeo vòng và uống rượu Sau lễ rửa chân, thầy cúng cầm một chiếc vòng đồng đeo vào tay gia chủ, miệng khấn :
« Hỡi chư vị thần linh, trên đây là vòng, dưới đây là rượu. Rượu đựng trong những chóe buộc chặc vào cọc. Vòng sẽ được đeo vào tay chủ nhân của chúng tôi. Kính xin chư vị thần linh ban cho chủ nhân của chúng tôi được sức mạnh, được mọi sự sung sướng, đầy đủ, được trường thọ như chiếc vòng này đã được làm dấu, đã được cúng trước chư vị thần linh và đã được đeo vào tay chủ nhân chúng tôi ».
Sau lễ đeo vòng, gia chủ uống rượu cần ăn thịt nướng.
Buổi lễ coi như xong, mọi người đắt đầu uống rượu cần, ăn thịt nướng, ăn trứng gà, cơm lam v.v… Trong khi đó chiêng trống cồng vang rền từng hồi, từng nhịp như muốn đưa âm thanh vươn lên cao, tỏa ra xa bao trùm lấy những mái nhà sàn và rừng núi.
Nhiều người đến dự lễ cũng mang theo rượu cần của họ. Người ta túm tụm xung quanh hàng trăm chóe rượu, những chiếc đầu châu vào nhau. Nơi đây kẻ lôi người kéo, nơi kia kẻ múc người mời. Những thanh niên thiếu nữ chạy đi chạy lại khiêng nước đổ vào những chiếc nồi đồng thật lớn để người ta múc thêm vào chóe rượu. Tiếng cười nói ồn ào xen với tiếng trống tiếng nhạc cồng thật là một buổi lễ tưng bừng náo nhiệt.
Người ta cứ ăn uống kỳ cho đến no đến say, mắt lừ đừ mặt đỏ gay, mãi đến khi trời tối mịt và buổi lễ mới chấm dứt.
Ở những bộ-lạc Jêh và Koho dân làng thường tổ chức lễ chém trâu tập thể. Năm I964 dân làng Jêh ở Daksut cũ chém I2 trâu. Trước chiến tranh trâu còn nhiều, có năm họ chém tới 27 con, và có khi lên tới cả 40 con.
Những lễ chém trâu tập thể như vậy thường linh đình hơn, và đã hấp dẫn rất đông dân làng các vùng lân cận đến tham dự.
Vài ngày sau buổi lễ, đồng-bào Churu còn có tục lệ cúng tiễn ông bà ở cột knơng. Sau đó cây knơng cũng như cây blang kbâo được để tự nhiên. Nếu nó không chết, mùa mưa đến cột gòn đâm rễ, nẩy mầm và một cây gòn mới mọc. Những người đi rừng, trông thấy những cây gòn mọc trên sườn đồi biết được rằng đã có một thời một Buôn sinh sống ở đây.
Cứ như thế, từ gia-đình giàu có này đến gia-đình giàu có khác, từ làng này đến làng khác, lễ MNĂM THUN được tổ chức suốt mùa tạnh róa, chừng nào mưa xuống mới thôi.
3–LỄ BỎ MẢ
Trong nếp sống tính ngưỡng của đồng-bào Thượng có lễ bỏ mả là quan trọng nhất.
Đồng-bào Kinh có tục lệ gìn giữ vĩnh viễn mồ mả của tổ tiên. Đồng-bào Thượng trái lại chỉ gìn giữ một thời gian rồi làm lễ bỏ mả.
Đồng-bào tin tưởng rằng người ta chết là do những ác thần gây ra. Người chết nằm trong mả như nằm trong nhà tù. Cần phải làm lễ bỏ mả linh đình để mua chuộc chư vị thần linh tổ chức tòa án phán xét linh hồn người chết, giải phóng cho linh hồn người chết được về Buôn của những người đã khuất và được tự do đi lại ở trên trời.
Từ ngày làm lễ an táng đến ngày lễ bỏ mả, thời gian có thể dài hay ngắn, kéo dài từ I đến 7 năm tùy theo sự giàu nghèo của gia-đình. Trong buổi lễ an táng, gia chủ hứa sẽ đem cơm ra mả và giữ gìn mả trong một thời gian. Hết hạn đã hứa họ tổ chức lễ bỏ mả.
Lễ bỏ mả luôn luôn được tổ chức trong mùa tạnh ráo. Gặt hái xong, họ chuẩn bị thóc gạo để nuôi quan khách, ủ men chuẩn bị rượu đủ cho khách uống.
A–Lễ báo cho người chết và công cuộc chuẩn bị làm lễ bỏ mả
Hai ngày trước ngày lễ bỏ mả người ta làm lễ báo cho người chết. lễ vật gồm một chóe rượu và cơm canh. Gia chủ khấn tin cho người chết biết kể từ ngày hôm nay họ bắt đầu đem dao, đem kgă vào rừng lấy vật liệu về làm nhà chòi, nhà cúng cơm, cột gơng kut, cột gơng klao vào hàng rào mả.
Sau lễ đó họ chia nhau thành nhiều toán, toán đi cắt tranh, toán đi chặt tre nứa, toán đi lấy cây, toán đi chặt vầu làm ống múc nước, toán đi lấy củi, toán giã gạo v.v…
Mọi việc phải xong suôi từ chiều hôm trước ngày lễ bỏ mả.
Mả đã được rào bằng những khúc cây rừng có quét vôi trắng chôn dựng đứng ken sát lại với nhau. Bốn cột gơng kut đã được tạc những hình cái nồi, cái giế, được vẽ những hình tượng trưng con mối, đàn chim bay, hoa kniă (một loại cây tựa soài rừng quả nhỏ bằng 2 ngón chân cái), bằng nước vôi hòa với máu trâu, bây giờ được chôn xuống 4 góc mả. Những nhà giàu còn tạc thêm tượng hình người, hình khỉ, hình voi đặt lên trên đầu cọc.
Hai cột gơng klao cao có khi tới 5 – 6 thước cũng đã được tạc hình quả bầu, cái giế, đầu con châu chấu, cái nồi, cái chỏ, đồ ôi, cái bát v.v... và cũng đã được vẽ những hình tượng trưng như ở cột gơng kut. Hai cột này được trồng ở hai bên mả theo hướng Đông Tây của áo quan. Một sợi dây bằng da trâu giăng ngang mả buộc vào hai cột.
Nhà cúng cơm bằng phên đan có vẽ những hình tượng trưng như cột gơng kut và gơng klao. Nhà đặt trên 4 chiếc cọc cao chừng I mét 6 ở giữa mả.
Những nhà nghèo chỉ tạc I cột gơng klao dựng giữa mả và đặt nhà cúng cơm lên trên. Hình ảnh ấy làm liên tưởng đến kiểu kiến trúc chùa I cột của đồng-bào Kinh.
Trên mả la liệt những chóe ghè, nồi niêu, bát đĩa, chai ly, áo vải v.v... Đó là phần gia tài chia cho người chết. Bốn xung quanh mả là bốn hàng chóe rượu cần được buộc vào bốn hàng cọc đóng thẳng tắp.
Đêm hôm đó tất cả gia-đình người chết và những người đến giúp việc đều ở lại trong nhưng chiếc nhà chòi dựng tạm ở ngay nghĩa địa. Họ đốt những đống củi để lấy ánh sáng và chuẩn bị « Mlam Mut », đêm nhập lễ.
B–Mlam Mut hay là đêm nhập lễ Cuộc chuẩn bị lúc chiều coi như đã xong, đêm hôm nay là đêm nhập lễ.
Tang chủ giết I con trâu, sửa soạn 5, 6 chóe rượu để làm lễ, và đặt cơm cúng vào trong nhà cúng cơm.
Xong lễ mọi người xúm lại uống rượu cần, ăn thịt trâu.
Chiêng trống cồng và dàn sáo đing tut của các thiếu nữ Rhadé được trổi lên. Trong đêm khuya tiếng âm vang đến tận những Buôn làng xa thẳm như báo tin, như mời mọc, như thúc giục mọi người đến dự lễ bỏ mả.
Từ những Buôn làng xa xôi ấy, ngay lúc trời còn tối đen như mực người ta đã ơi ới gọi nhau.
Ơ ơi nao be ta ! Ơ ơi nao tãn be !
Mau lên, mau lên đi dự lễ.
Trong đêm tối những ngọn đuốc bập bùng nối đuôi nhau ẩn hiện trong lùm cây như những con trăn lửa từ nhiều ngả tràn về nghĩa địa.
Bất cứ buổi lễ bỏ mả nào cũng đều hấp dẫn rất đông người đến dự, con số lên tới hàng trăm, hàng ngàn có khi tới 2.000 người.
Nghĩa địa mọi hôm im lìm vắng vẻ, hôm nay nhộn nhịp, náo nhiệt khác thường. Những người đến dự đều mang theo lễ vật. Vai họ oằn xuống dưới sức nặng của những chóe rượu, những gùi cơm lam v.v... Số chóe rượu trong buổi lễ vì thế lên đến hàng trăm, có khi đến 300 chóe. Còn số chiêng trống cồng cũng lên tới hàng chục bộ.
Tang chủ cũng lại quả cho mỗi người một vài khúc mía, một vài khúc cơm lam hoặc một vài củ khoai.
Người nào người nấy hôm nay đều mặc quần áo mới, màu đỏ màu đen chói chang dưới ánh nắng mùa hè. Các bà già và các cô thiếu nữ duyên dáng đeo đầy kiềng bạc, vòng bạc lớn ở cổ, ở cổ tay cổ chân.
C–Chính lễ bỏ mả
Khoảng 2 giờ chiều lễ chính thức bắt đầu. Tang chủ đứng trước mả và lễ vật vừa khóc vừa khấn lớn tiếng, giọng ê a buồn thảm. Thân nhân đứng vây xung quanh khóc lóc, kể lể thảm thiết như khóc người mới chết. Trong khi đó nhạc chiêng trống cồng vẫn rộn ràng lấn át cả tiếng khấn lẫn tiếng khóc.
Tang chủ khấn như sau :
« Lạy thần xác chết, hôm nay áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, đã chôn giấu rồi, các kũt cũng đã được tạc rồi, chúng tôi đem đến đây cho thần ăn, đem rượu đến đây cho thần uống, bởi vì từ nay chúng tôi sẽ bỏ thần, chúng tôi sẽ quay lưng lại với thần.
Đất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, thần ở trong áo quan, thần ở trong mả, nhà của thần ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, thần ở một miền đất khác, thần uống những giòng nước khác.
Xin thần đừng kêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con, đừng thương yêu cháu của thần nữa.
Từ nay chúng tôi sẽ không còn mang cơm, sẽ không còn mang nước, chúng tôi sẽ bỏ mả và không còn săn-sóc mả nữa.
Nếu thần muốn ăn cơm xin thần hỏi thần những vì sao, nếu thần muốn ăn thịt gà, xin thần hỏi thần mặt trăng, nếu thần muốn ăn thịt, ăn cá, xin thần hỏi thần cai quản trên trời, một vị thần khác sẽ săn-sóc thần, một vị thần khác sẽ trông nom thần.
Thần đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, thần là chim ó trong rừng rậm, thần là chim tlang Hêă sống ở phương nam.
Chúng tôi đã sửa sang mả rồi, đã tạc những cột kũt, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu, máu bò rồi.
Thôi ! Từ nay, thế là hết ! Thôi ! Từ nay, thế là hết ! Như lá m’nang đã lìa cành, lá Mtêi đã tàn úa.
Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than, không còn khóc nữa. Sẽ không còn đem cua, đem tôm, đem cơm, đem rau đến mả nữa. Sẽ không còn để tang, sẽ không còn kiêng cữ nữa. Chóe rượu cúng Ngok-bũ đã đặt xuống mả rồi, cây chuối, cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà (tượng trưng cho linh hồn thứ ba của người chết : chim Tlang hêa) đã được thả bay đi rồi, chúng tôi đã quên thần rồi, đã bỏ thần rồi.
Tôi chấm dứt lời khấn của tôi. Lạy thần xác chết ! »
Khấn xong tang chủ thả một con gà. Mọi người không ai được nhìn theo, mặc cho con gà bay vào rừng rậm. Từ nay nó sẽ là gà rừng, sẽ không được trở về trong Buôn, người ta sẽ xua đuổi nó vì tin rằng nó sẽ đưa bệnh dịch đến cho gà nhà.
Người ta đặt cơm cúng lên nhà để cơm, chôn chóe rượu cúng Ngok-bũ và trồng một cây chuối, một cây khoai môn lên trên mả.
Đồng-bào Thượng Jarai ở Phú-Bổn còn có tục cho thanh niên nhảy múa quanh mả để làm vui lòng vong linh người chết.
Buổi lễ chính thức như vậy đã hoàn-toàn xong. Mọi người bắt đầu vào tiệc.
Hàng ngàn người xúm xít quanh những chóe rượu cần. Những người có uy quyền, những người già lão uống trước, sau mới đến thanh thiếu niên và trẻ con.
Mỗi lần rượu trong chóe vơi đi họ lại múc nước lã trong những chiếc nồi đồng lớn đổ đầy vào chóe. Nhiều toán thanh niên nam nữ thay phiên nhau chạy đi chạy lại vác những ống tre, ống vầu, gùi trái bầu, khiêng nồi đồng đi lấy nước.
Những xâu thịt nướng, những gói thịt trâu thui, những gói lòng, gói tiết luộc, những gói cháo gạo giã, những gói trứng gà luộc, những ống cơm lam v.v...bầy la liệt xung quanh những chóe rượu.
Mọi người vừa uống vừa ăn, vừa lôi kéo mời mọc nhau, vừa cười nói ồn ào. Nhiều người có tài cất giọng ngâm những bài thơ kể chuyện cổ tích, chuyện anh hùng ca.
Hàng trăm chiếc cồng cũng được đánh lên. Nhạc rền inh ỏi nhịp nhàng một điệu lấn át cả tiếng cười nói, tiếng la hét, tiếng than khóc ở bên mả.
Chẳng bao lâu họ đã say be bét. Nhiều ông già bà lão cũng loạng choạng đứng dậy nắm tay nhau nhảy múa la hét như những bọn thanh niên.
Quang cảnh trở nên hỗn độn. Nhiều người quá say nằm lăn xuống đất mà ngủ.
Đêm đến họ đốt lên những đống lửa thật to. Ánh sáng đỏ hồng rực rỡ cả một góc trời. Người tỉnh rượu nối tiếp kẻ rượu say cứ ăn cứ uống, cứ la hét, cứ ca hát, nhảy múa đánh chiêng trống cồng suốt đêm cho đến mãi trưa ngày hôm sau mới ai về nhà nấy.
Tang chủ và gia-đình, tất cả đều mệt mỏi nhưng hoàn-toàn thỏa mãn tâm-hồn.
Cũng như lễ MNĂM THUN, lễ bỏ mả được tổ chức như thế liên tiếp từ Buôn này sang Buôn khác suốt mùa Blang.
*
Trên đây là những lễ Tết cổ truyền của đồng-bào Thượng ở Cao-Nguyên.
Từ năm I954 trở lại đây đồng-bào Kinh lên Cao-Nguyên mỗi ngày mỗi đông. Nhiều làng của đồng-bào Kinh đã ở xen lẫn với những Buôn của đồng-bào Thượng. Số học sinh, quân nhân, công chức Thượng cũng đã gia tăng gấp bội ở các thành phố quận lỵ.
Tết đến đồng-bào Kinh sang các Buôn mời những những đồng-bào Thượng quen biết đến làng mình uống rượu ăn cơm. Học sinh Kinh cũng mời học sinh Thượng bạn mình về nhà ăn mứt, ăn bánh. Những công chức quân nhân Thượng cũng ăn mặc quần áo mới, đến chúc Tết bạn hữu người Kinh. Gia-đình họ cũng mua sắm bánh mứt, rượu gà về ăn uống.
Tập tục ăn Tết Nguyên-Đán dần dần đã bắt đầu ảnh hưởng đến đồng-bào Thượng. Do đó trong ngôn ngữ của đồng-bào Thượng Jarai và Rhađé đã có thêm một tiếng mới « Bơng Tít » đúng với ý nghĩa tiếng « ăn Tết » của đồng-bào Kinh.
Tài liệu tham khảo - ALBERT MAURICE et G.M. PROUX, L’âme du ris, Bulletin de la société des études indochinoises, Tome XXIX, Sàigòn, I945.
- Docteur BERNARD Y.JOUIN, La Mort et la tombe, L’abandon de la tombe, Université de Paris, I949.
- Mục sư PHẠM-XUÂN-TÍN, Phong-tục đồng-bào Thượng, nhà in Văn-Hóa, Sàigòn, I957.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:15:41 GMT 9
Cổ Nhân và Các Tục-Lệ về Ngày Xuân Phạm Văn Sơn
Những dân-tộc có ý thức văn-minh, những dân-tộc tranh đấu nhiều cho cuộc sống thường thường yêu đời hơn mọi dân-tộc nào khác. Người ta đã nghĩ ra nhiều cuộc vui, nhiều tập tục đặc-biệt để làm thỏa mãn cuộc sống đến mức tối đa về vật-chất cũng như về tinh-thần.
Người ta giải trí cho bỏ những ngày làm vất-vả, mệt nhọc và cũng tìm cách cởi mở những thắc-mắc lo âu trong tâm-hồn. Đó là hai việc song hành bởi nếu đầu óc còn chứa ít nhiều ưu phiền thì ăn chơi vui sướng làm sao được.
Xét về các cổ tục, các cuộc vui xuân của tiền-nhân, chúng ta không thể không thấy quan-niệm của ông cha chúng ta là như vậy.
Đọc sách cũ, người ta thường nhắc câu « cổ nhân bỉnh chúc » tức là người xưa đốt đuốc đi chơi đo ngày giờ từ sáng đến chiều quá ngắn. Tại đây ta nên nghĩ rằng Cổ nhân ham vui không phải là vì quá phóng-túng lãng-mạn mà vì đã quá mệt mỏi sau những năm tháng tranh đua mệt nhọc cho sự no yên của nhà, của nước.
Cao-bá-Quát cũng như Nguyễn-công-Trứ đã từng biểu lộ ý-kiến này qua câu :
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù
Nghề chơi cũng lắm công phu…
Cận lai nhiều người nhìn thấy ngày giờ đi vùn vụt cũng hoảng hốt, tính ba vạn sáu ngàn có sống trọn vẹn cũng chẳng được là bao, huống-hồ « Nhân sinh thất thập cổ lai hề » :
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sồng-sộc nó thì theo sau…
Hôm nay, một ngày xuân nhật, mọi người chúng ta tưng bừng đón xuân vui-vẻ không khỏi có chút bồi hồi. Chúng ta hãy suy ngẫm những cổ tục về ngày xuân, về các trò vui trong ngày xuân để tìm hiểu ý nghĩa của nó.
Nước ta là một xứ nông-nghiệp, lúa gạo, ngô, khoai, đậu đỗ đứng hàng đầu thực-phẩm. Người dân phải chăm lo cấy cầy, cuốc xới mới được no đủ. Vì thế, chính quyền bao giờ cũng phải khuyến-khích nhân-dân chăm chỉ việc canh-tác. Đúng ngày lập xuân, xưa kia bao giờ nhà vua cũng cắt người tông-trưởng cầm roi vút vào người con thổ ngưu (trâu đất) theo ý-nghĩa trên đây rồi mới cùng các quan bước vào cung đình để yến-ẩm. Trong lúc này từ nơi kinh kỳ ra ngoài dân dã, người ta đốt pháo mừng xuân. Pháo là các ống lệnh chứa thuốc nổ bên trong, thường đốt ở ngoài sân hay ngoài ngõ (không như ngày nay pháo làm bằng giấy đỏ quấn thuốc nổ bên trong). Người ta đốt pháo ngoài mục đích cho những ngày xuân đầu năm được rộn-ràng náo nhiệt, vui cửa vui nhà còn ngụ ý xua đuổi tà ma và những sự đen đủi của năm cũ cũng như người ta trồng cây nêu ngoài sân, vạch những hình cung tên bằng vôi dưới đất. Người ta cũng tin rằng vào dịp đầu năm ma quỷ cũng được phóng thích để trở về dương-gian quấy đảo loài người nên phải tìm cách ngăn-chặn. Tiếng những cái khánh đất, chuông đất nung buộc trên ngọn nêu kêu leng-keng khi có gió thổi nhắc nhở chúng ta uy quyền của thần Phật, hình cung tên có mãnh lực của các vũ khí không thua gì những đạo bùa các thày pháp dán ngoài cổng ngõ.
Ngày 23 tháng chạp, nhà nào của chúng ta cũng làm lễ cúng táo công và tiễn đưa táo công lên thiên-đình không ngoài mục đích cầu xin táo thần phù hộ cho mình. Ta nhờ táo thần có lẽ do lúc này xã-hội Việt-Nam đã chấm dứt đời sống du-mục và bước sang giai đoạn định-cư bởi ta đã biết trồng lúa, làm rẫy. Ta đã tổ chức thành gia-đình nhỏ và cho rằng mỗi gia-đình phải chịu ảnh-hưởng của một ông vua bếp. Vua bếp có thể mang lại sự thịnh-vượng và sự che-chở cho gia-đình ta. Tục này đến ngày nay còn tồn tại nhất là ở các miền quê.
Ta thờ cúng tổ tiên rất siêng-năng, dĩ nhiên ta cho rằng vào dịp Tết, việc làm cỗ bàn long trọng để dâng lên bàn thờ là cần thiết vô cùng. Đây là cơ hội để con cháu nhớ ơn ông bà cha mẹ, những người đã khuất, bởi chúng ta cho rằng người chết chưa là hết. Trong cái thế-giới vô hình người chết vẫn luẩn quẩn với con cháu là những người sống để chăm nom, phù hộ. Lòng tri ân tiên-tổ đã buộc ta rất thành kính và còn khoảng thời gian nào lòng ta có thể thảnh thơi hơn để thông-cảm với các tiên-linh ?
Truyền thuyết về bánh chưng, bánh dầy, nhắc rằng người Việt vào những ngày tết Nguyên-Đán đã làm hai thứ bánh này cúng ông bà. Bánh chưng bọc lá xanh, hình vuông tượng trưng cho Đất. Bánh dầy hình tròn mặt nổi vòng lên màu trắng tượng trưng cho Trời. Sáng kiến này nói lên công ơn cho ông bà rộng lớn như Trời như Đất. Vua Hùng trong khi chấm giải về các món ăn cúng ông bà trong những ngày tết của 22 người con đã chấp nhận hai thứ bánh này do ý-nghĩa kể trên và đã chối bỏ các cao lương mỹ-vị khác như gân nai, tay gấu, nem công, chả phượng v.v… Người Đông-Phương, như ta thấy trong mọi hành động đều chú trọng vào phần tinh-thần nhiều hơn cả.
Do không đi sâu vào khoa-học, ta có nhiều tập-tục mê-tín, dị-đoan coi rằng nhiều hiện tượng trong trời đất như mua, nắng, sấm-sét và mọi sự ở thế gian này đều thuộc uy quyền của các thần thánh (đất có Thổ công, sông có Hà-bá, Thủy-thần, núi có Sơn-thần…) khiến ta phải kính sợ nếu không sẽ gặp tai họa. Theo ý niệm này mùa thu, mùa đông là hai mùa làm cho cỏ cây tiêu-sái, vạn-vật gần như ngừng sinh-hoạt. Vậy phải kiêng động thổ, tránh cày bừa, cuốc sới nhất là vào ngày tết là khoảng thời gian thần đất vắng mặt ở hạ giới.
Ta có tục xông đất. Xông đất cũng có hiệu quả cho sự rủi may trong một năm. Ta kiêng người đầu tiên bước chân vào nhà ta ngày mồng một Tết nếu như người ấy có đại tang, nếu người ấy đang ở vận xấu và tư đức hèn kém. Thói thường ta vận động cho được người đang ăn nên làm ra tới nhà chúng ta ngay sau khi tiếng pháo giao thừa vừa dứt vì từ giờ phút này năm mới bắt đầu.
Trước đây ở vài địa-phương người ta tổ-chức một phiên chợ Tết như chợ Đồng ở tỉnh Hà-nam, chở Phủ-giầy ở tỉnh Nam-Định (B.V.) cho mọi người đến trút cái đen đủi trong năm kể cả cái khờ dại, ngược lại còn có tin-tưởng đón hạnh phúc cùng cái khôn ngoan về với mình. Người ta lại mang các đồ vật, hàng hóa ra chợ này, bán đắt bán rẻ miễn là bán cho được.
Ở Nghệ-Tĩnh cũng có tục tương-tự. Người ta đem đồ ra bán vào ngày I đầu năm, kể cả kẹo bánh, từ mờ mờ sáng. Hàng bán cũng không cần được lãi. Người ta rao : « Ai mua đại ra mua ! Ai mua đại thì mua ! » và không đợi trả lời. Dĩ nhiên người bán có một sự mê-tín thì người mua cũng có sự mê-tín trái lại, nghĩa là mua không phải là mua đại về để hứng lấy cái không may mà mua được cái gì đầu năm mang về nhà là đón được cái may.
Bỏ qua những tập tục mê-tín, dị-đoan mà dân-tộc chúng ta còn khá nhiều, không ngoài nguyên-nhân chúng ta đã có một đời sống cố-cựu, ít văn-minh, chúng ta có nhiều cuộc vui vào ngày xuân và những tập-tục thực-tế tỏ ra ông cha chúng ta cũng có óc tổ-chức và suy xét rất cao xa và hợp-lý. Chúng tôi xin kể ra đây một số để chứng-minh cho ý-niệm đó, đồng thời xin nhắc rằng những tập tục các trò chơi này có rất nhiều dân-tộc tính có thể làm cho chúng ta hãnh diện là đằng khác nữa.
Mùa xuân là mùa của tình yêu !
Chữ « Xuân » của Trung quốc còn có nghĩa là trai gái vừa lòng nhau, yêu thương nhau. Vậy trong khi cỏ cây nảy mầm xanh ngọn, sinh hoa, sinh trái, mặt trời đem lại cho thế-gian ánh sáng đầm ấm, con người dầu muốn dầu không cũng phát triển mạnh nguồn sinh-lực. Tình yêu nhất là đối với cái tuổi còn non trẻ cũng phải đưa ra một trạng thái, một hiện tượng sinh-động.
Ở thôn-quê Việt-nam quanh năm tới ngày con người bị cột chặt với đồng ruộng cũng chờ có ngày xuân là ngày có nhiều hội hè đình đám cho trai gái gặp gỡ nhau, tìm hiểu nhau và đi đến hôn nhân. Lễ giáo phong kiến nghiêm chỉnh là như vậy mà trong dịp này cũng làm ngơ trước nguyên-tắc « Nam nữ thụ thụ bất thân » rồi trai gái rủ nhau đi chơi xa, hết làng này qua làng khác, tạo nên cái quang cảnh tưng bừng :
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm…
Trong dịp này trai gái không cứ là quen biết nhau sẵn, chỉ cần vừa mắt là đủ trở nên thân mật, truyện trò đùa rỡn tự do và công khai.
Đại-Việt sử-ký toàn thư ghi chép phong-tục nước ta vào ngày đầu Xuân có nhắc đến trò đánh đu (Đu ngô hay đu tiên) là lối đánh đu không phải chỉ có một người hoặc nam đánh đu cặp với nam, nữ cặp với nữ. Nữ thi-sĩ Hồ-xuân-Hương đã chẳng có bài vịnh trò đánh đu nam cặp với nữ đó sao ?
… Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng !
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc ruỗi song song…
Để mở cuộc giao-tình, trai gái mượn các lối hát : hát Dậm (lối hát ở Hà-tĩnh) hát Quan-họ (Bắc-ninh, Bắc-giang) để dạm ý nhau và cũng để thử tài nhau nữa, trước khi « đi sâu vào đại-sự ». Ngoài ra còn lối hát Đúm, hát Ví có tính cách dông dài hơn để thỏa mãn hơn về mặt phong tình, lãng-mạn. Hát Quan-họ có đặc-biệt hơn là có tục khi đôi bên trai gái phục tài, mến nhau thì tính luôn chuyện kết bạn, giao ước với nhau rằng sẽ hát với nhau mãi mãi (Theo Toán-Ánh, tác giả Phong lưu đồng ruộng, kết bạn với nhau phải nhân một ngày hội ở làng bạn gái, chàng trai mang đồ lễ đến đình lễ thần và ra mắt quan viên trong làng. Buổi lễ thần đó có đốt pháo, ăn uống linh đình như một ngày lễ cưới. Như thế họ bên gái công nhận bên trai kết bạn với con mình, sau đó bọn quan viên bên gái cũng sang yết thần ở làng bên trai cũng lại chè chén vui vẻ).
Đặc-biệt hơn nữa trai gái hát Quan-họ với nhau có thể chỉ do nghệ-sĩ-tính mà thôi nghĩa là không bó buộc đi tới hôn nhân. Ngoài ra để trở nên những đôi bạn tinh-thần, có khi người trai người gái đã có vợ có chồng rồi mà vẫn giao kết với nhau như thường.
Những cuộc vui chung của trai gái còn nhiều thứ khác nữa ngoài việc tiếng anh cất trước tiếng nàng cất sau. Đó là trò kéo co (kéo dây tập thể), một bên là con trai, một bên là con gái. Bên nào thua thì phải uống nước, bên nào được thì uống rượu.
Trò bắt trạch cũng là một trò rất cổ xưa, ngày nay nhường không còn tồn tại ; một trai một gái choàng cổ ôm nhau còn tay kia thò vào chum sâu, khoắng tìm trạch ở trong đáy chum (Sách chuyến đi Bắc-kỳ năm Ất hợi của Trương-Vĩnh-Ký có ghi chép).
Trò thi thổi cơm, thi luộc gà sao cho cơm thật ngon thật dẻo, và gà phải thật béo, chín tới mà không nức nở, đầu cánh phải sắp đặt có mỹ thuật, để tế thần được thịnh-hành ở làng Thổ-khối tỉnh Phú-thọ Bắc-Việt. Lại còn trò thi dệt vải, đánh cờ người lấy giải (giải là một vuông lụa đỏ và vài chục đồng bạc theo giá tiền mấy chục năm trước đây).
Đáng chú ý cuộc cờ đòi hỏi người chơi cờ phải nhiều mưu trí và khôn lanh mới thắng được địch thủ. Theo thông-lệ của bàn cờ giải phải đánh thử trước rồi mới đặt vào chung kết. Có nhiều khi được giải lại là một vài con gái mười bảy mười tám mà thua cờ là các ông già sáu bảy mươi từ những làng xa tới.
Tại các miền Thượng (Mường, Thái, Thổ v.v…) trai gái được tự do giao thiệp với nhau nhiều hơn nếu so với tình trạng miền Kinh. Trong những ngày đầu xuân có tục « tung còn ». Trò chơi này bắt buộc phải có một bên nam, một bên nữ. Còn là một quả cầu ngoài bọc vải màu trong nhồi trấu hay rơm cho nhẹ, một đầu có kết tua. Trên bãi cỏ, bên trai cũng như bên gái sắp hàng chữ nhất cách nhau mươi thước. Hai bên tung cầu qua lại, bên này tung thì bên kia phải bắt cho bằng được rồi tung trả lại. Nếu ai bắt trượt phải gán cho người tung một vật mình đang đeo trên người. Có người thua quá chỉ còn có một cái quần dính vào thân thể mà thôi. Tàn cuộc, người thắng trả lại đồ vật cho kẻ bại và bắt kẻ bại trận phải uống rượu phạt.
Tại Phủ-Quì (Nghệ-an), Lang-chánh (Thanh-hóa), Bảo-lạc (Cao-bằng), đồng-bào Mường còn tổ chức đi chơi hang Ré (ở Lang-chánh) và mang theo thực phẩm để lễ thần. Gái trai xúng-xính áo quần lịch sự thổi « Khèn » hát đúm, tung « Còn » uống rượu rồi từng cặp tìm nơi thanh vắng tình tự và đính-ước trăm năm.
Qua các cuộc vui này ai cũng nhận thấy cuộc sống phóng khoáng phù hợp với thiên-nhiên và đem lại hạnh phúc cho con người nhiều hơn và cũng hợp cả với chủ trương nhân đạo nữa…
Ngày tết vui chẳng riêng ai.
Nếu nam nữ thanh niên được cởi mở, được giải phóng để sống gần tạo vật, thông cảm với luật âm-dương hòa hợp cho thuận lẽ thiên-nhiên thì đám thiếu nhi cùng các cụ già cũng chờ mong ngày tết để thụ hưởng những cuộc vui dành riêng cho mình.
Trong dịp này các thiếu nhi họp nhau từng đám trước ngày tết nhành phường súc-sắc ; súc sẻ (từ Nghệ-tĩnh trở vào gọi là phường sắc bùa) gồm độ mười lăm người vào giờ giao thừa đi chúc tết các người trong họ và các chỗ quen biết. Nhà nào cũng đã sẵn phong bao bằng giấy đỏ gói một số tiền để tặng các em nhỏ trong khi đó ở miền Kinh có phường múa lân đi từng nhà múa cũng ngụ ý mừng tết và chúc tết. Người ta cũng tặng tiền như với những phường súc-sắc, súc sẻ.
Các cụ già thì có tiệc yến lão. Tục này có từ thời cổ xưa, thời mà chế-độ nhân-lão chánh trị còn thịnh. Tại kinh-sư cũng như ở các tỉnh, vua quan lựa một ngày xuân vào khoản trung tuần tháng hai, trích tiền kho đặt tiệc ở một công sở rồi mời các cụ già tại địa-phương xa gần đến dự ơn mưa móc. Ra về các cụ còn được tặng tiền và lụa tùy theo tuổi già nhiều ít (đây là các lão nhiều tuổi từ 60 trở lên). Ai già yếu quá không đi hưởng hoàng-ân được, thì các quan đưa tiền bạc, vóc lụa đến tận nhà. Tục này không còn nữa kể từ thời Pháp-thuộc.
Ngoài những trò vui hay thú chơi cho từng lớp người vào dịp Tết Nguyên-đán, còn nhiều cuộc liên-hoan công cộng. Tỉ-dụ tổ chức đi săn, tổ chức đánh cá ở các đầm hồ mở rộng cho nhiều gia-đình trong xóm làng mục đích cầu vui hơn là cầu lợi và còn có ý xem rủi may cho mỗi người, nghĩa là ai bắt được nhiều cá, săn được nhiều chim muông, người đó có thể sẽ hên suốt năm. Làng Ngư-xá (thuộc tỉnh Hà-đông), làng Phù-lưu (thuộc tỉnh Hà-tĩnh) đến ngày hội thì già trẻ, trai gái ùa ra sông ngòi hay ngoài đồng chăng lưới, úp nơm bắt cá. Bắt được bao nhiêu làm cỗ tế thần, còn lại bao nhiêu chia cho mỗi người hoặc nhiều hoặc ít. Tại Lang-Chánh (Thanh-hóa) cũng có tục này gọi là Tết cơm cá vào tháng ba. Món ăn đặc-biệt trong dịp này là lạng thịt những con cá lớn nhứt trộn với muối và gạo nếp đã ngâm sẵn bằng nước lá sả rồi đổ lên như đổ xôi (vì đồng-bào Lang-Chánh là Mường nên không dùng gạo tẻ như đồng-bào Kinh chúng ta).
Những cuộc vui kể trên đây đã biểu lộ một phần nào ý nghĩa lịch sử của Tết Nguyên-đán, ý nghĩa nhân đạo 28 và tinh-thần hòa-hợp với đời sống phóng khoáng của thiên-nhiên ; Tết còn bao gồm cả lòng tín ngưỡng đối với quỷ thần và sự hiếu thảo đối với tổ-tiên ; Tết lại có ý nghĩa đoàn kết xã-hội giữa mọi tầng lớp nhân dân khiến chúng ta thấy nhờ có các tục lệ này xã-hội Việt-nam đã thành một khối vững chắc, từng có hiệu lực chống trả với các biến chuyển, những giông tố từ bên ngoài xô tới qua bốn ngàn năm lịch-sử.
Người Việt-Nam có tính cần cù !
Người Việt-nam có tinh-thần tranh đấu !
Người Việt-Nam thông minh !
Và điểm nào nữa mà ta với người ngoại-quốc còn có thể đồng-ý với nhau nữa sau các nhận xét này ?
- Thưa tinh-thần cầu tiến !
Thật vậy, nếu dân-tộc này thiếu sót các điểm quan trọng kể trên, lại do vị-trí bất lợi bên khối Hán-tộc khổng lồ nhiều tham vọng đế-quốc và lân quốc Chiêm-thành hiếu-chiến từ đầu Công-nguyên thì nay còn gì nữa ?
Hầu hết mọi gia-đình trong dịp Tết Nguyên-đán tức Tết-cả, cái Tết bao gồm nhiều ý nghĩa thiêng-liêng và quan trọng có ảnh hưởng cho đời sống cá-nhân và quốc-gia, cha con chồng vợ đều khuyến cáo nhau cố làm ăn, sinh sống sao cho năm tới bằng năm bằng mười năm cũ. Ngay những lời chúc tụng đầu năm, đã như vậy để nhắc nhau gột rửa cái hư hèn, cái thoái hóa cho nó chìm sâu vào dĩ-vãng. Lời chúc tụng đã phản ảnh nguyện vọng thiết tha cho năm tới có ý nghĩa như là làm lại cuộc đời theo phương hướng sáng sủa hơn, con đường rộng rãi quang đãng hơn.
Ý chí cải thiện, cầu tiến được thực thi ngay từ trong những việc nhỏ hàng ngày, bắt đầu luôn từ lúc tiếng trống giao thừa vừa chấm dứt. Lúc này nhà cửa đã quét dọn sạch sẽ, được tô điểm bằng những giòng chữ lớn hoặc bay bướm cho có nhiều mỹ-thuật, hoặc có những ý tưởng cao cả, nghiêm trang nói lên những hy-vọng lớn lao của chủ-nhân. Những chậu cúc vàng thêm mầu sắc vui tươi cũng làm cho tâm-hồn thêm phần sảng-khoái.
Chủ-nhân là văn-gia thi-sĩ ư ?
Cái đề tài chính là kiểm điểm công việc đã qua, đã gặp trong năm cũ và các việc tốt đẹp sẽ làm trong những ngày sắp đến cho có sự tiến bộ. Người ta khai bút như vậy với tất cả mọi ý nghĩ tốt lành, từ tinh-thần đến hình thức. Thậm chí đến các thày thư-lại cũng cố đóng cái dấu sao cho rõ, cho tròn và ông quan khai ấn trước đây cũng lựa ngày lành tháng giờ tốt.
Chủ-nhân là nhà nông ?
Người ta không quên chúc thóc đầy bịch, ruộng đất thẳng cánh cò bay, tiền bạc như nước chảy.
Chủ nhân là nhà buôn ?
Người ta chúc : Nhất bản vạn lợi.
Với gia-đình nào thích con đàn cháu đống, câu chúc của bà con thân hữu là « Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn ». Tóm lại người ta ước ao năm mới sẽ có kèm theo sự đổi mới, tức là sự tiến bộ bằng năm bằng mười năm cũ. Người ta còn ước vọng sự tiến bộ ấy phải được thực hiện rất sớm trên các phương-tiện tăng phú, tăng quý, tăng phúc, tăng thọ v.v.. Người học trò phải thi đậu, cô gái tơ phải sớm có chồng, cụ già thêm sức khỏe, người làm quan thăng chức. Lời cầu chúc sao cho hợp với lòng mong đợi của người được chúc mới là hay, là quý…
Dân ta có nhiều cuộc giải trí lành mạnh, những cuộc vui xuân đầy ý nghĩa để nâng cao tinh-thần đạo đức, thượng võ không thua gì các cuộc vui hay các trò chơi của nhiều dân-tộc khác từ Đông qua Tây. Những cuộc giải trí này là của đại-chúng, trái lại cái xã-hội phú hào, phong kiến chỉ ưa đánh tài bàn, tổ tôm (tổ tôm điếm), đánh xóc đĩa, nghe hát ả-đào. Việc chơi cờ bạc này có khi đã làm cho người ta mắc công mắc nợ, đáng phải bài trừ, nhưng trước đây nó được công khai dung dưỡng.
Nhân nói đến cái trò vui công cộng, chúng ta không thể quên cái trò liếm chảo, leo cột mỡ dưới thời Pháp-thuộc đã làm con người mất hết nhân-cách vào những ngày kỷ niệm cách-mạng I4-7 của « nhà nước Bảo-hộ ». Phải chăng trò vui này cũng phản-ảnh phần nào cái bộ mặt nhọ nhem của đám quan lại thời đế-quốc ? Rồi chính một nhân-vật của giới này đã tiếp-nhận ý nghĩa của nó qua câu đối viếng viên Tổng-Đốc Thái-Bình họ Phạm từng nổi tiếng giỏi làm chúc-từ ca ngợi quan Tây như sau :
Vai nhọ tẻ cho làng cố-lão,
Đít-cua thôi vắng mặt danh thần !...
Những trò giải trí của bình dân trong ngày xuân không nhiều lắm, thực ra các trò như bơi trải, đánh vật, hát tuồng, hát chèo, hát ả-đào, ca vũ, đánh phết cũng có thể bày ra vào những tháng khác để cả làng liên hoan (tháng tám dân quê cũng rảnh rỗi nên cũng hay bày trò vui để thưởng thức với nhau). Người dân quê vốn ít được giải-trí đã cất công từ làng này qua làng khác, phủ này qua huyện khác, có khi cách nhau hàng mấy chục cây số cũng tìm đến, đủ hiểu sự thèm khát của bà con dân quê như thế nào.
Hầu hết đình đám hội hè ngày xuân không đâu thiếu món thi « Vật », nhất là ở tỉnh Vĩnh-Yên. Vật là môn chính cũng như ở Bắc-Ninh có hội là phải có cây đu và ca hát cho trai thanh gái lịch. (Theo Phong-lưu đồng ruộng của Toan-Ánh).
Vật là môn đứng đầu hàng. Võ sĩ ai nấy đều phải sở trường môn này, được tập luyện nhiều cho dẻo dai lại phải có sức khỏe. Tuy nhiên võ sĩ muốn thắng địch không phải khỏe, dẻo dai mà đủ, còn cần có những thế hiểm ; miếng hay mới hạ được đối-phương. Nguyên-tắc của trò vật cũng như nghề võ là phải dử địch thủ vào thế yếu thì làm ngã địch rất nhẹ nhàng, nghĩa là nhè địch có chỗ sơ hở thì khẽ gẩy địch cũng nhào. Do đó ta thấy các đô-vật hạng « ruồi » thắng những tay đô-vật hạng nặng là thường.
Môn đấu roi (Trung-bình-tiên) xưa kia rất thịnh-hành ở Bắc-Việt nhưng gần đây môn này được phổ-biến hơn từ Thanh-hóa trở vào. Chơi trung-bình-tiên gọi môn na hơn là đánh gậy. Phải có hai người đấu với nhau. Gậy dài trên ba thước đầu có quấn giẻ tẩm vôi trắng để đánh dấu vào mình đối-phương. Ai bị nhiều dấu trắng tức là bị trúng đòn nhiều là thua.
Môn « vật cù » giống môn bóng rổ ngày nay của Tây-phương. Người chơi cũng chia ra hai toán không quản bùn lầy lấm-láp, tranh nhau quả cầu bằng gốc tre sơn để ném lên rổ của phe đối-lập thường treo trên một ngọn tre cao vút.
Môn « đánh phết » là môn thể-thao rất sở-trường của dân làng Phù-đổng (tỉnh Bắc-Ninh) và làng Hiền-quan (tỉnh Phú-thọ) cũng tương-tự khúc côn cầu (Hockey) ngày nay. Người chơi cũng chia ra hai phe : mỗi phe cầm một cái gậy tre đầu uốn cong để đẩy trái cầu bằng gốc tre vào lỗ đối-phương canh giữ.
Người ta còn tổ chức các cuộc kéo dây, chạy thi, bắn nỏ, bắn bia bằng súng kíp. Cuộc thi bắn bằng súng kíp chỉ có ở trên các bản Mường như làng Đồng-lạc, châu Lang-Chánh (tỉnh Thanh-Hóa). Các làng ở ven sông hay có cuộc thi bơi trải. Thuyền dùng vào việc bơi trải là những con thuyền ghép bằng ván gỗ hình thoi rất nhẹ nhàng và dài năm bảy thước là ít. Tay chèo mỗi bên sườn thuyền cũng tới năm bảy người, đầu quấn khăn đỏ, khố đóng ngang lưng. Mỗi người cầm một tay chèo đẩy, chèo nhanh như máy mà tiến lên. Mỗi lần thi có tới một hai chục chiếc. Người đứng hai bờ sông vỗ tay reo khuyến khích. Trên mặt sông người dự thi cũng reo ầm-ĩ trong chiếc thuyền đua nhau lao trên mặt nước nhanh như tên đã gây nhiều sự hứng thú và vui vẻ như các cuộc đua xe máy, đua ngựa ở đô thành.
Giải thưởng cũng tùy theo khả-năng của làng. Người ta thường chú ý đến phần danh-dự hơn là thích ăn thua về tiền bạc. (Xưa kia giải thưởng thường là một vài quan tiền, vài vuông lụa hay nhiễu điều, có khi là một cây ô.v.v.. khán giả đứng ngoài đánh cá với nhau tiền trăm bạc chục như đánh cá ngựa ngày nay).
Lại có những trò chơi mà người ta bày đặt ra để thử tài thông minh hay sự mau trí khôn cũng được dân chúng rất hưởng ứng và hoan nghênh.
Xin kể cuộc thi thổi cơm hay thổi xôi.
Có hai lối thi : thi cá-nhân và thi tập thể. Người dự thi phải chạy cho nhanh đến giếng nước để lấy nước hay cướp cho được một lọ nước đã múc sẵn. Việc tiếp là kéo lửa bằng nòng tre hay giang rồi thì giã thóc ra gạo. Cuối cùng mới là việc nấu cơm. (Tục này ở làng Thị-cấm tỉnh Hà-đông), Ở nơi khác (làng Chuông cũng thuộc Hà-đông) người ta còn bày ra nhiều sự oái-oăm hơn là nấu cơm trên mặt nước, ăn mía lấy bã làm củi. Người dự thi ngồi trên chiếc thuyền thúng có mấy chiếc que diêm nhất định và một bó rơm bới ra chỗ có đóng chiếc cọc tre ngoài ao. Các cọc này nhô đầu lên khỏi mặt nước chừng nửa gang làm đòn rau. Người thi thổi cơm phải vừa làm sao cho thuyền khỏi trôi, lại vừa phải vo gạo, nhóm lửa. Đấy là cuộc thi dành cho đàn ông. Còn cuộc thi dành cho đàn bà gồm mấy việc sau đây : ăn mía để lấy bã làm củi, phải ẵm hay dỗ một đứa nhỏ chưa biết đi, phải chăn một con cóc buộc ở sát bếp sao cho nó không nhảy ra ngoài vạch vôi đã vẽ theo hình tròn trên mặt đất, gần chỗ thổi nấu...
Tại làng Tích-sơn (Hưng-hóa) làng Yên-đổ (Hà-nam) có cuộc thi đuổi lợn, đuổi cuốc trong ngày Tết vào mồng hai. Người ta được báo trước rồi đổ hết ra ngoài đồng. Ban tổ chức thả một con lợn khỏe mạnh để người ta đuổi bắt. Còn tục săn chim cuốc thì già trẻ lớn bé nai nịt gọn gàng chờ tiếng cồng nổi lên là chạy ra ngoài đồng để đuổi bắt. Giống chim cuốc như ta đã biết, lủi rất nhanh ở các ven hồ bờ ruộng hay ở các bụi rậm ; chúng ưa kiếm ăn ở chỗ vắng người, yên tĩnh nhưng khi nghe thấy tiếng huyên náo và bị đuổi thì rối trí ngay và ngã lăn ra, người ta mới bắt được.
Với trò bắt heo, đuổi cuốc, người ta cũng có sự mê tín là bắt được heo hay cuốc, dân làng năm mới sẽ được nhiều may mắn. Trên thực-tế trò này khuyến khích sự tháo vát, sự lanh lẹ. Nhưng bắt được cũng còn tùy ở may rủi nữa...
cận lai một ít làng còn giữ tục rước cái « nõn-nường » trong các hội hè tháng giêng (làng Khúc-lạc và Di-nậu tại tỉnh Phú Thọ Bắc Việt). Nõn-nường là cái gì ? Xin thưa là khúc gỗ đẽo thành hình sinh-thực-khí của đàn ông và đàn bà sau cuộc rước long trọng, người ta ra công tranh cướp, giành giật lấy của quý này hy-vọng được may mắn, chửa đẻ hay nuôi tằm tốt tay v.v....
Tục này đối với chúng ta ngày nay có vẻ kỳ dị nhưng không phải là khó hiểu. Nõn-nường tượng-trưng cho sự sinh-sản thì còn gì điển-hình hơn là cái sinh-thực-khí của con người ? Người ta tôn thờ nó để cầu nguyện cho được may mắn, sinh sôi nảy nở nhiều. Và nguyện-vọng này được hiện lên trên cái bức hình vẽ một cách thô sơ, mầu sắc lòe loẹt bán khắp chợ từ thành-thị đến thôn quê. Nào tranh gà, tranh lợn, tranh hái dừa, tranh cóc dạy học, tranh đám cưới chuột v.v...thảy đều gợi lên ý niệm sản suất và nói lên dân-tộc-tánh, đặc-biệt là tính chất vui tươi của dân-tộc.
Trên đây là những cuộc vui của đại chúng, những tục lệ cổ truyền và tết trong mùa xuân. Nếu gạt bỏ những yếu tố mê tín, ta thấy rõ ràng ý-nghĩa lành mạnh của cổ-nhân mặc dầu những tục lệ, những trò chơi này đã là những sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Dân-tộc của chúng ta quan niệm những ngày đầu năm phải là những ngày mở màn cho sự mới mẻ, tiến bộ, vui-vẻ, đoàn-kết, đẹp-đẽ, khỏe mạnh hơn những năm trước. Rồi người ta đã dùng những biện pháp thực-tế hay ảo tưởng để hy-vọng cho thân mình, cho nhà mình, cho làng mình và cả nước mình sẽ thịnh vượng, tốt lành hơn trước. Người ta cúng bái ông bà, rước sách thần linh hay làm những gì kỳ cục đi chăng nữa cũng chỉ là cầu cạnh sức mạnh huyền-bí giúp cho mình toại nguyện, đặc-biệt là trong việc tổ chức các trò vui đã tỏ ra một tinh-thần lạc quan để con người được cởi mở, yêu thương, bớt thù thêm bạn. Hơn thế nữa, quan niệm về Tết của dân-tộc chúng ta còn chống với triết-lý Phật, Lão coi đời là sông mê bể khổ, sống thêm nhiều chỉ là nối tiếp những chuỗi ngày phiền não (Lão Trang dạy con người vô vi, vô dục, thúc đẩy chúng ta xa rời cuộc sống). Với quan niệm này con người luôn luôn tiến, luôn luôn tranh đấu và tin tưởng vào tương-lai. Chắc chắn rằng do ý chí vui sống, cương quyết tranh đấu, tinh-thần đoàn-kết ấy, dân-tộc chúng ta đã tạo được một sức mạnh đầy đủ cho chúng ta chống trả với thời cuộc qua bao nhiêu thế-hệ tới ngày nay. Còn nói một cách chật hẹp, nếu ngày Tết chỉ là ngày ăn chơi, chúc tụng nhau thì cái Tết Việt-Nam còn mang nhiều chất vui tươi vào đời sống hơn là cái Tết của người Tàu hay của người Tây Phương và một số tập-tục cổ-truyền đáng giữ lại hầu duy trì lấy quốc hồn, quốc túy của dân-tộc.
PHỤ LỤC Chúng tôi xin biên chép thêm ra đây một vài tập tục cổ về ngày xưa kể từ thế kỷ thứ XI là khoảng thời gian quốc gia Việt-Nam đã tiến vừa về độc lập vừa về chính-trị, văn-hóa, xã-hội v.v.... Dân ta dưới đời Lý, Trần có nhiều phong-tục rất là thuần-phác, không khí tôn-giáo dưới hai triều-đại này bao trùm khắp cung-đình ra tới ngoài dân-giã. Nho giáo cũng bắt đầu thấm nhuần vào các tầng lớp xã-hội. Khắp nơi được an cư lạc nghiệp.
Ngày 30 Tết (tháng chạp) dân đốt pháo. Pháo ngày xưa chưa có làm bằng giấy bọc thuốc nổ như ngày nay mà là những ống lệnh chứa thuốc nổ và có ngòi. Người ta đốt pháo ở ngoài cổng, ngoài ngõ hay ngoài sân, rồi sửa soạn giết gà giết lợn làm cỗ cúng ông bà luôn ba ngày tết.
Mồng 5 tết trong cung vua có bày tiệc khai hạ. Từ quan đến dân đều đi lễ chùa, viếng đền đài, vườn hoa và phong cảnh trong địa phương.
Tháng hai quan cho dựng xuân-đài mướn phường chèo đến hát xướng ca múa cho mọi người cùng dự. Ngoài ra có đặt các trò chơi công cộng như đánh vật, chọi gà và đánh cầu lấy giải thưởng.
Đúng ngày lập xuân, vua cắt người tông-trưởng cầm roi vút vào con trâu đất (thổ ngưu) do mục đích khuyến nông rồi vua quan vui vẻ bước vào cung ăn yến.
Theo sách An-nam chí-lược (tác giả Lê-Tắc, người đời Trần) :
« ...Ngày mồng ba tết, vua ngự ra gác Đại-hưng xem các Thái Tử và nội thị đá cầu. Kẻ nào đá liên tiếp không rơi là thắng. Quả cầu tròn làm bằng gấm, to bằng nắm tay con nít, chung quanh quấn lụa.
Các quan lớn thì đánh cầu bằng tay trên ngựa – không ngờ môn đá cầu tức là đá kiệu. Ngày nay lúc đó rất thịnh-hành trong hàng quý-tộc và có lẽ trong cả dân gian nữa.
Người ta kể chuyện đời Lê có một ông quan đá cầu chúc thọ Chúa Trịnh với lời hứa mỗi một quả cầu là một năm thọ. Ông ta đứng trên thuyền, đá đến mấy trăm quả chưa mỏi chân ».
Môn đánh cầu bằng tay trên ngựa cũng là một trò chơi đặc-biệt của vua quan, khá phổ biến ở Đông-Phương xưa kia (với ta thì trò chơi này có từ đời Lý. Theo sách Lý-thường-Kiệt của Hoàng-xuân-Hãn, ta có thể nghĩ rằng ta nhập cảng trò này của cua quan xứ Chiêm-Thành). Người chơi chia ra hai phe. Ai nấy đều cầm cái trượng (gậy dài bằng gỗ và dẹp bản) đánh quả cầu cho nó chạy vào cửa của đối-phương là thắng. Lối chơi « Gôn » của Tây-Phương có phóng tác của Đông-Phương chăng ? Về hình thức tuy có khác chút ít nhưng đại-để thì giống nhau, và ngồi trên ngựa mà đánh cầu ta thấy có phần đẹp mắt hơn.
Phạm Văn Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:16:44 GMT 9
Cảm Tưởng Về Tết Trong Nam Vương-Hồng-Sển
Tuy cùng một gốc nhưng nước Việt ta, Bắc-Nam-Trung, vẫn thưởng Tết không đâu giống với đâu : Tết trong nam mộc-mạc sơ sài, không như tết miền Trung và ngoài Bắc, trước đây giữ nhiều lễ phép và kiêng-cử. Tuy không lạnh lẽo đến có tuyết rơi giá phủ, nhưng Trung và bắc, có đủ xuân-hạ thu-đông bốn mùa phân biệt : Các thi ông ngoài nớ hơn chúng tôi ở trong nam vì được thưởng Xuân trọn vẹn, khi chén rượu ấm lòng, khi câu thơ phấn khởi, khi nhắp chén trà hương đượm... và ngoài ấy mới thấy chiếc áo ngự hàn bằng dạ bằng nhung có mãnh lực làm tăng giá-trị con người và cũng làm khổ con người bằng cách bắt buộc mọi người phải tùy theo túi tiền, săn-sóc và chạy theo từ cái « ăn no mặc ấm ». Nhưng đã là « ăn Tết » đúng theo ý-nghĩa tục-lệ ông bà để lại, thì đâu đâu cũng như nhau, dùng dịp Tết nhứt để mừng đoàn-tụ gia-đình, tưởng-niệm cúng vái tổ-tiên đã khuất, há đợi gì : « Xuân từ trong ấy mới ban ra » ?
Mấy chục năm nay, chiến tranh không dứt, nhơn-tâm suy bại, khiến nên cái tết đã thay đổi rất nhiều và trở nên tạm bợ, ai ai cũng có ý-nghĩ « chờ hết giặc sẽ ăn tết lớn »... chớ trước kia, trước năm đảo-chánh I945, miền Nam dật lạc thái bình, tiền rừng bạc biển, ngày Xuân đối với con dân làm ruộng, quả là những ngày xả hơi và phải thừa dịp ấy, ăn chơi cho thỏa phỉ chí. Thời-tiết trong nam luôn luôn có tiếng là khoan-hậu : nóng đều đều, tuy không cho phép nhà giàu mượn dịp tra mãi bộ đồ dạ ấm đắt tiền, nhưng sức nóng mặt trời trong Nam không bao giờ đến cháy da phỏng trán, và ấm áp dễ chịu quanh năm. Tự cổ chí kim, chưa nghe có nạn chết rét vì thiếu y-phục, hoặc chết đói vì thiếu cơm. Bẻ cây cần trúc tạm, ra ruộng đứng nhắp chơi cũng có cá tươi kho đầy mẻ, đến ăn không hết. Còn nói chi làm siêng ra đồng quơ bậy bạ cũng đủ nấu nồi canh rau nhẹ lòng. Thiết-tưởng miền nam từ Đồng-nai đến vùng Cà-Mau, trước đây, trước khi bị nạn tranh-giành cấu xé như nay, quả là một Phật-địa, cảnh thiên-đường, cảnh cực-lạc giữa chốn trần-gian. Thuở ấy trong nam lúa thóc đầy đồng, cá tôm đầy dẫy, có đâu như ngày nay tuy đồng sống chung trên ruộng vườn mầu mỡ, mà phải ăn gạo viện trợ và ăn thịt heo ướp lạnh chở từ phương xa đem lại. Còn đâu cái cảnh cũ, tôm tép ăn không hết đến phải phơi làm « phân tôm » xa xí để dành bón trái dưa hấu ngọt lịm của bãi biển Bạc-Liêu hay dưa đất giồng Xoài-Cả-Nả (Sóc-Trăng) ? Ngày xưa dân Miền Nam không bao giờ thiếu ăn, không cần nhờ nhõi nước ngoài và hưởng nhiều Tết thú vị. Ngày nay Tết không cánh đã bay về đâu mất dạng và mỗi lần gió xuân phất mặt, dường như đã làm cho mình thêm tê-tái cõi lòng.
Mấy chục năm về trước, Miền nam gồm toàn người củi lụt làm ăn, đầu tắt mặt tối, quanh năm chơn lắm tay bùn, lặn lội eo sèo trong sình lầy nước thúi, chỉ có mỗi lần Tết đến mới có dịp nhớ đến ngôi nhà đang ở và ra công quyét tước dọn dẹp từ trên trang thờ đến bếp núc ông Táo ông Vôi, một năm chỉ có một lần ấy mà thôi. Nhà nào có vườn có sân thì đốn tre trồng nêu để nhắc lại cổ-tục chầu xưa, nhà nào ở chợ búa phố xá hẹp hòi thì cũng treo cờ trước cửa cho gió bay mấp máy thấy đủ vui mắt, nhưng nhà nhà bất luận sang hèn, dẫu ọp ẹp bằng tre lợp lá chằm lá khíu, cũng có đôi liễn mới dán đỏ cột và trên bàn thờ tổ tiên sao sao cũng có lộc-bình, quả-tử, nhứt là phải có bộ lư đồng và cặp chưn đèn thau o-bế chùi bóng nhoáng rất nên thơ. Nhớ đến phong-tục chùi lư mà tiếc hối buổi xuân thời : lúc nào còn bé thơ, mãi sợ nạn chùi lư vì mỏi tay thêm mất dịp đi xin bánh và đi lượm pháo tịt ngòi. Nay đã khôn già thì người lớn đã khuất hết, tiếc cho mình nay không còn cha mẹ để được bắt chùi lư ! Phong-tục dán liễn Tết nay đã lui lần vào dĩ vãng.
Gẫm lại xưa các nhà làm ăn vừa phát, vẫn nhà gỗ cột tre cột cây tạp nên ba bữa Xuân phải nhờ đôi liễn đỏ che cho cột gỗ bớt xấu xí và cũng vừa để khoe trong nhà còn hiếm kẻ độc-thơ-nhân :
« Thiên tăng tuế nguyệt, nhơn tăng thọ,
Đức mãn càn khôn, phước mãn môn »
vân vân... Ngày nay tân tiến, là tân tiến chỗ nào ? Sợ dán liễn phết hồ dơ cái mặt tiền và làm bẩn cột gạch, tường đá nhân tạo ! Lại cũng còn đâu đủ tài ăn học, đọc nổi câu Hán-văn hòng thưởng thức ý-nghĩa câu đối câu liễn ? Nhắc đến lư thờ mà tủi lòng : nhiều nhà khá giả có đến ba giàn giường thờ, nay không còn giữ được một. Lớp nào khi tản cư năm I945-46 đào đất chôn giấu lư xưa, khi hồi cư moi lên thì kẻ trộm nó đã moi trước lấy mất tự hồi nào, lớp lại thật thà tự tay dâng cúng cho đồng chí năm xưa tuần lễ thau đồng ái-quốc lấy đó làm súng đạn chống giặc Tây... nay nhớ ông bà muốn sắm mua lại cũng không có thợ khéo, chỉ có lư hàng chế-tạo dối trá, đồng xấu, kiểu không đẹp. Lối năm I920, bộ lư đồng năm tấc bề cao, giá độ năm chục đồng bạc lớn, nhưng năm chục đồng bạc ấy lớn thật, có bao nhiêu ấy mua sắm lung tung và giá trị năm chục đồng bạc I920 còn lớn hơn năm ngàn bạc ngày nay xa lắc ! Có thứ lư thau trơn dễ chùi, ở trên chóp đỉnh có đặt con lân giỡn trái châu, đứng nhe răng cười « cầu phúc », có thứ lư gồ ghề rất khó chùi cho bóng, vì lư làm theo kiểu « lư mắt tre », lư « trúc hóa lân ». Lư trơn láng thì phải lựa thứ kiểu thật rôm, xứng trái xứng bề cao. Lư mắt tre thì phải lựa cho được thật hùng-vĩ, bặm trợn, cân xứng y gốc tre già cỗi đã biến hình thành con thú, con lân. Muốn chùi lư cho bóng, lọ là phải có dầu bóng hiệu Tây-u cho thêm tốn nhiều tiền. Miễn có khế chua đập giập lấy nước chua chấm với tro bếp thật mặn, chấm với « cặt bần » cọ xát thật mạnh thì bao nhiêu ten rỉ cũng sạch. Lư khéo chùi là đến khi nào bóng sáng đến ngó thấy mặt tỏ rõ, nhưng bóng lộn không chưa đủ, thuở ấy con mắt mỹ-thuật còn kén thi nhau khoe khéo khoe tài. Giỏi chùi và biết « trau lư » là nhà nào lư bóng như kiếng soi thêm toàn trên da đồng, tìm không thấy lằn gạch lằn trầy, lằn rễ tre vằn sọc. Như đã nói, nhà cửa lớp xưa, mỗi năm chỉ đổi bộ mặt mới có một lần và phải đợi năm sau mới có dịp quét dọn lau mò hóng, quơ váng nhện lại lần nữa. « May sắm hà-rầm » và muốn có áo mới ; mặc tình đến tiệm, lựa hàng đặt may. Xưa muốn cắt áo phải tra lịch lựa ngày, và trẻ nít phải đợi đến Tết mới có dịp cha mẹ may cho cái quần lãnh Bắc-Thảo hay cái áo lá liễu bằng củng-xá hay hàng lụa Tứ-Xuyên bền chắc.
Ngày nay đâu còn hạnh-phúc mừng xuân đến « không nhắm mắt được » và tục chờ mau đến Tết để được bận đồ mới ! Tượng trưng « ăn Tết » đối với trẻ con buổi ấy là mỗi lần cận Tết, đêm nào cũng nghe cô bác « đỗ Tam-Hường » tiếng hột lút lắt ngà nhảy bồng trong tô da kiểu, tiếng xu bạc khua khi chung tiền, tiếng cười giòn khi đổ được Trạng-Nguyên, Bảng Nhản hoặc khiêm-tốn chỉ đỗ « Ngũ tử phò tứ », tức là sáu hột có năm mặt chữ « Ngũ » và một mặt tứ màu hồng.
Chiều ba mươi cúng « vào Khem » trong Nam cũng giản-dị đơn-sơ, không quá kiêng cữ như ngoài nớ, và « vào khem » đối với dân « lục tỉnh » mấy mươi năm về trước thì thâu gọn lại như nhà mấy ông mấy thầy tức nhà quan quyền thì rước ông bà nội ngày ba mươi hoặc trưa hoặc chiều đều được, còn như nhà thường dân, dân dã, thì vẫn rước vào đầu hôm một lượt như nhau. Cứ từ chạng vạng tối bắt đầu phải giữ gìn cho trong nhà bình tịnh, không nên cười lớn và khi nói phải lựa lời, cử chỉ phải thanh bai lễ giáo vì hiểu rằng vào khem trong nhà có rước vong ông bà quá vãng về sống chung ba ngày xuân nhựt với con cái, nên phải thủ lễ. Lại nữa cũng tin-tưởng, tin rằng đêm ba mươi rạng mồng một Tết, có ông Hành cũ và mới đến nên trong nhà nhỏ lớn đều kiêng không « động đất ». Cái cổ-tục « hai nhà bàn giao việc đã qua và sắp đến, ông Hành giao việc » đã phai mờ trong trí óc mộc mạc dân Nam, có họa chăng độ mấy mươi năm trước nhớ có một tờ báo Xuân nào đó, ngạo mạn dám vẽ hình bìa ông Táo-quân cũ quần áo rách nát và khói đóng đen xì, Táo cũ chưn bước ra cửa tránh chỗ nhà trong cho vị Táo-quân mới áo mão xúng-xính đỏ loe-loét, tuy vẽ chơi làm vậy mà đã đụng chạm vào cổ-tục, và phàm đã bất kính thì lần hồi những tục xưa lệ tốt cũng khó được bảo tồn. May sao, tuy vậy, nhiều gia-giáo ngày nay còn giữ được lệ cấm nói tục-tĩu ba ngày Tết và bớt rầy la con cháu khi lâm lỗi buổi đầu xuân, ý tốt muốn giữ là mong năm mới và suốt năm ăn nói thanh bai thì sẽ trọn năm không xúi quảy.
Nhưng ngày nay xem cho kỹ, cái thị hiếu và cái sở cầu hai thế-hệ xưa và nay đã đổi khác, xưa quen thắp đèn dầu dĩa mỡ, nay toàn dùng điện dùng neon, cho đến thôn quê cũng một vài nơi có máy điện viện trợ chạy nghe xành-xạch, xưa kia ngày Tết là ngày tưởng niệm vong linh ông bà, con cháu thừa dịp ấy qui tụ về nhà chung để giáp một năm thấy mặt mừng nhau khỏe mạnh, nay đà đổi khác thừa dịp Tết người lớn tha hồ đi nghỉ mát, cặp tay nhơn tình đưa nhau ra bãi biển giỡn sóng hay lên non hứng gió, ông bà tổ-tiên phú mặc cho vợ con hiu quạnh cúng quảy lấy lề. Tết Bính-Ngọ đã qua, Tết Đinh-mùi sắp đến, cũng như bao nhiêu tết khác nếu còn được hưởng, đều là Tết điện sáng vàng, neon sáng xanh, nhưng biết đâu chừng cái sáng sủa văn minh tân thời chỉ sáng bề ngoài để càng thêm thấy rõ nạn chiến tranh dai-dẳng không thôi, giết chóc kéo dài không dứt và trong lòng coi rẻ mạng người và sặc mùi bôn danh trục lợi chợ đen chợ đỏ hơn bao giờ cả, sao bì được những Tết cổ-lỗ năm xưa tuy thắp mỡ dầu mà trong lòng thơ thới sáng sủa hơn nay nhiều. Thậm chí tuy thắp đèn dầu mù-u hay dầu cá, có năm I93I-I935 kinh tế khẩn bách, đến vùng Mỹ-thuận và Sa-Đéc thắp đến dầu mỡ chuột tanh rì, nhưng vậy mà dẫu sao cũng lúa gạo chứa đầy mái đầy thùng, cá mắm cả lu, và tết đến lại có dịp vặn máy hát thức xem đèn dầu, tim bằng cỏ bấc trổ bông báo điềm lành và nhờ đêm thanh tịnh không tiếng súng nổ mà cũng không tiếng máy bay rầm rầm, nên cổ-nhân canh chừng mới biết được « con thú gì ra đời » : gà gáy đem lại thăng bình hay chuột túc con bày điềm sang năm sung túc. Mỗi dịp tết đến, dẹp đèn chong leo lét, lấy trong tủ cây đèn họng ba mươi Huê-kỳ ra thắp, hy vọng sang năm mới trong nhà trong cửa sáng suốt hơn năm rồi có đâu như ngày nay tuy đã vượt xa cái cảnh tối tăm cũ, nhưng dẫu nhà sáng hơn thật nhưng nhiều gia-đình vẫn nội tâm bê bối còn rối rắm hơn bao giờ. Và mãi bao giờ còn ruồng xét ráp bố, bắt bớ, đánh qua càn lại, thì đâu có yên-ổn cho dân cư làm ăn vui Tết : thà sống âm thầm như buổi trước mà nhẹ lòng đỡ lo hơn.
Ngày xưa trông mau đến Tết đặng về quê thăm nhà. Ngày nay đướng xá bế tắc thêm bị lụt bị đào, thôn xã bất an, còn đâu cảnh từ hai mươi lăm hai sáu Tết, nôn nao nhộn nhịp băng đường, kẻ ở Lục-Tỉnh trồi đầu về Sài-Gòn, kẻ ở Kinh thành lại hơ hãi lội về quê ăn Tết ! Ngày xưa bên Trung-quốc tải qua đây hoa-quả đặc-biệt : trái hồng khô hai xu, trái hồng tươi và trái cam Tàu (cam Quảng-Đông dính vỏ, cam Triều-Châu tróc lóc), mỗi trăm trái chỉ có sáu bảy đồng bạc mà ông bà thuở ấy đã le lưỡi than mắc không dám mua ăn, nay Tàu đã nhuộm đỏ, dân Nam không được phép chơi với mầy và tao ăn quả nho tươi Âu Mỹ, mỗi ký giá bạc trăm bạc ngàn và trái lê trái táo ngoại bang tuy lạ miệng nhưng vẫn nhớ cam Tàu có cái hậu thanh thanh mát đóc giọng. Bởi xưa ham uống rượu Trung-hoa, hiệu « Ngũ-gia-bì » nên khiến dân ta say ngủ ly-bỳ, và thích uống « Mai-quế-lộ » nên thường túy lúy nằm đo đường té lộ. Khách tân thời đua đòi theo Âu-Mỹ, có độ uống sâm-banh cổ-nhác, nay day qua chai ba góc hay chai vuông huýt-ky. Sao cho bằng uống mỹ-tửu quốc-hồn : rượu đế lậu đặt tại Thủ-Đức với nếp đầu mùa, do các chị đàn bà Bắc tải xuống chợ Bà Chiểu và để đánh lạc mắt nhà đoan, giả bụng chữa, độn bụng thè lè, chớ kỳ thật chị mang bong bóng trâu phơi khô, trong chứa hai ba chục lít rượu nếp chánh hiệu có bọt. Xứ Cai-Lậy (Mỹ-Tho) nay đánh lung-tung – trước đây có đặt rượu đậu nành nước trắng trong khe, mùi thơm ngon ngọt có thua gì rượu Tây, rượu lục-vị, Pháp-danh là Anisette.
Ngày nay tiếng súng nổ quanh đêm suốt năm lấn át mất tiếng chày giòn quen tai cận Tết giã gạo làm bánh phồng dịp dầu Xuân và khói lửa chiến chinh đã dập tắt lửa cuối năm nấu bánh tét bánh chưng. Ngày nay muốn ăn những bánh khiêu gợi Tết, đã phải nhờ quán khách làm sẵn, chớ còn đâu lửa reo vui mắt bữa chưng bánh chung quanh gia-đình đoàn tụ, ông kỹ-sư tóc hoa râm, đứng chờ bánh nói chuyện với nhà học giả quá mùa, xúm xít gần bà mẹ tuy lụm cụm nhưng không khứng bỏ tục cổ truyền. Hai ông tân nhơn vật tuy bụng chứa đầy văn minh Âu-Mỹ, nhưng trong lòng thỉnh thoảng vẫn thèm vẫn nhớ miếng bánh phồng nướng bằng lửa rơm thơm ngát, hay miếng bánh nhưn đậu giữa có cục mỡ béo bùi của đòn bánh tét gói và nấu tại gia, bánh ấy tuy xấu mặt nhưng hương-vị đặc-biệt đã đánh lui các bánh tây bánh ngoại-quốc dồn vào kẹt tủ buổi Tân Xuân.
Ngày nay miền nam càng tiến hóa bao nhiêu càng đi xa lần và lãng quên những phong-tục cũ, độ nào phải chờ Tết đến mới có dịp cho trẻ con thấy đồng xu đỏ au và bạc cắc phong gói trong tờ giấy làm gói « lì xì » tân niên. Được vài ba gói trẻ đã mừng húm, nhờ vậy mà con nít chóng lớn và người lớn thấy vậy cũng phấn-khởi thấy đời thêm vui. Ngày nay đổi đời, trẻ con đi học đã có bạc ngàn bỏ túi, và thử cho trẻ một tờ giấy bạc năm trăm, chưa thấy nó mừng bắng lớp trước đây, được thưởng nửa đồng bạc đã cắp ca cắp củm để dành và đó là sưu-tập-phẩm cà-rô-bi (roupie) hiếm có.
Mấy năm gần đây có tục-lệ đầu năm đi xin xăm nơi miếu Tả-Quân trong Gia-Định, báo hại các bà di-cư ham hái lộc như thuở nào ở ngoài kia, báo hại kiểng cây kiểng gốc trong Lăng trụi lủi lá cành. Xin lộc là một phong-tục cổ kính của xứ có hoa đào hoa hồng hoa thủy tiên. Đất Nam-Trung ít bông nhiều lá làm gì có hoa chời chở để hái lộc ?
Nhắc lại một phong-tục nhỏ trong Nam. Ba ngày Tết trong nầy ăn dồn thịt kho, thịt lạp xường và vịt phơi khô, nhiều ngày quá nên lợm giọng, vì thế qua ngày mồng bốn Tết có lệ « cúng tất », tết nhà tết cửa – Ngày ấy nấu bữa cơm cúng đất đai ông bà, lễ tất, đại để có tục lệ cắt giấy kim ngân ra hình vuông hình hồ-lô để dán vào cột cửa tủ bàn và dâng lên bàn thờ Tổ-tiên « nồi cháo cá ám ». Cũng thì cháo cá nhưng cháo nấu kiểu cá luộc chần thì vẫn cá luộc sơ và xắt khúc, không để nguyên con, còn trái lại « cháo cá ám » là nấu nồi cháo rất kỹ, cá để nguyên con không chặt ra khúc và khi nấu nồi cháo vẫn không đậy nắp vung (nấu ám). Theo tôi đây là món thuốc vệ-sanh trừ độc của ông bà lưu truyền lại, vì ba ngày tết ăn mỡ đã nhiều, qua mồng bốn ăn tô cháo ám có rau ghém chát xắt nhỏ, chuối cây non và rau thơm, vừa nhẹ lòng khoan khoái thêm ngon miệng, trở bữa, nghệ-thuật bí quyết trường sanh là đó !
Nay cũng thấy bớt đi cái tục « cung chúc tân xuân ». xưa có lệ sáng mồng một thay nhau vái lạy ông bà lối xóm và chúc nhau bằng cánh thiệp viết tay có để tên họ và câu chúc cổ truyền. Nay đã thôi đi « cung hỷ » và quen nhờ nhà bưu điện đem thơ giùm, làm cái việc trả nợ quỉ thần, báo hại mỗi lần Tết người đem thơ mỗi lần đổ quạu.
Người Việt ta vì quá đua đòi chạy theo cái mới lấy cái Tết Dương-lịch làm lớn và thuần phong cổ tục về Tết âm-lịch đã mất lần hồi. Tục thờ kiếng ông bà đã xem nhẹ hơn xưa và cái lễ Tết là lễ nhớ người chết đã trở nên ngày xả hơi vui chơi của người sống. Chúng ta có thể giản-dị-hóa phần nào những gì phiền phức rườm rà, nhưng không nên để cho mất ý nghĩa của cái Tết cổ truyền của một xứ lấy việc nông-tang làm gốc, chớ nên quá duy-vật mảng ăn chơi vui sướng cho mình mà quên câu « mộc bổn thủy nguyên » trước có ông bà sau mới có ta vậy. Theo tôi, ngày Tết Nguyên-Đán phải được bảo tồn với bao nhiêu cổ-tục của nó.
I3 XII-66
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:17:39 GMT 9
Nhai – Thoại về Câu Đối Tết Tô-Nam Nguyễn-Đình-Diệm
NHỮNG tài liệu hùng hồn xác thực để chứng minh ai là tác-giả một câu đối tết tuyệt diệu ngày xưa.
Theo lệ thường niên gần cuối tháng chạp, thành thị cũng như thôn quê, đâu cũng xôn xao sắm tết, ngoài món nêu cao pháo điện, giò chả bánh chưng, người ta vẫn không quên được món câu-đối đỏ. Các nhà yêu văn mỗi khi nhắc đến chuyện câu-đối đỏ thì cũng không quên nhắc đến câu đối của cụ Nghè Chu viết cho người chủ mành Nghệ trước đây già nửa thế-kỷ mà ai cũng phải ca tụng là câu độc đáo, chẳng những từ đấy về trước, mà cả từ đấy về sau, chẳng còn câu nào có thể sánh kịp !
Thế mà lạ thay ! Không hiểu căn cứ vào đâu ? Hay bởi những tay hiếu sự lập dị ? lại bảo vế trên là của cụ Nghè ; còn vế dưới kia cụ không tìm được chữ đối, phải nhờ cụ Cử hay cụ đồ nào đó đối giúp.
Câu truyền ngôn trên theo ý riêng rôi thì nó đã làm thương tổn văn danh của bậc thi hào quá cố, nếu nó là câu thất thiệt chẳng cũng ân hận lắm sao ? Vì thế chúng tôi phải cố công tìm kiếm cho ra sự thực.
May sao trước đây độ hai chục năm, khi còn ở ngoài đất bắc, chúng tôi thường hay qua lại bến đò Hưng-Yên, có được quen biết một cụ đồ già ở ngay chợ Gò thuộc huyện Kim-Động ; Thấy cụ nhớ nhiều chuyện cũ, tôi bèn hỏi rõ nguyên ủy về câu đối ấy có đúng như lời đồn lại rằng do cụ Nghè và mấy cụ nữa hợp sức mới làm nên được hay không ?
Hỏi xong thấy cụ tỏ ý bất mãn, phủ nhận những lời truyền ngôn, rồi cụ thuật lại một cách rất là tỉ mỉ như sau :
Cụ nói khoảng cuối năm Nhâm-Dần (I902) hay là Quý-Mão (I903) gì đó, lâu ngày tôi không nhớ rõ. Chỉ nhớ được rằng lúc ấy quan Nghè Chu-mạnh-Trinh đương làm Án-sát Hưng-Yên, mà cụ là học trò quan Nghè, lúc nào cũng ở bên cạnh. Năm ấy có một ông chủ mành Nghệ chở hàng ra bắc bán xong, vào khoảng 20 tháng chạp định trở về quê ăn tết, vì không thuận gió, đành phải đỗ lại ở bến Hưng-Yên, cùng với mấy chục thuyền mành chúng bạn, bỏ neo xếp hàng chữ nhất một quãng khá dài, thuyền nào cũng đã cắm một cây nêu cao ngất, từ hôm 27-28 đã nghe tiếng pháo nổ giòn, khiến cho quang cảnh bến đò trở nên tưng bừng náo nhiệt khác hẳn cái tết mọi năm. Nên lúc bấy giờ người ta đã gọi nó là một cái tết nổi của phố Hiến, mà trong đám tết nổi đó thì người đáng kể nhất là cái tánh cầu kỳ của ông chủ thuyền mành nọ.
Bởi vì năm ấy hàng bán hết, thu được lợi nhiều, ông định ăn tết lớn hơn chúng bạn hàng mành, các món nhai vị đã mua ở trên Hà-Nội cả rồi, nay phải đỗ lại Hưng-Yên thì ngày 28 gặp phiên chợ tết, ông lại lên phố xem có thứ gì hay hay. Sau khi dạo khắp phố phường, nhận thấy nhà nào cũng dán câu-đối đỏ rực. Nghĩ mình dẫu theo nghề nghiệp thương mại, nhưng mà cùng mạch thư-hương, nay gặp tiết xuân, lẽ nào chẳng có lấy dăm ba chữ…
Nghĩ thế ông bèn rẽ sang chỗ viết câu đối bán tết, thấy mấy ông đồ đương lúi húi viết ; Chữ hán thì câu « Niên nhiên tăng phú quí », đối với « Nhật nhật hưởng vinh hoa ». Chữ nôm thì câu « Oanh ca yến múa mừng Xuân trẻ », đối với « Nước thịnh dân giàu hưởng phước chung ». Đại để câu nào cũng tả màu xuân sặc sỡ, không hợp tình cảnh cái tết tha nhang của mình.
Riêng có một câu « Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng », đối với « Xuân mãn càn khôn phước mãn ». Câu này sự thực nó là câu cũ, nhưng sao mỗi vế lại cắt cụt đi một chữ dưới đuôi (câu trên cắt mất một chứ Thọ, câu dưới cắt mất chữ Đường) ? Thấy khách chú ý câu đó, ông đồ mỉm cười một cách hóm hỉnh cho biết : chính câu đối này nó đã đưa ông đến trước tụng-đình xuýt nữa bị nguy.
Nguyên sáng hôm qua có một thiếu phụ góa chồng giàu có vào hạng thứ nhất thứ nhì trong hạt, đến mua câu đối dán tết. Tôi bèn dùng ngay câu cũ, rồi theo cách thức của Yên-Sơn Ngoại-Sử thường cắt bớt đi chữ cuối để cho câu văn được kêu và thêm già dặn.
Chẳng ngờ khi bà đem về treo ở ngoài cửa thì có kẻ nào độc miệng cắt nghĩa xuyên tạc ta rằng : Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng 天增歲月人增 : Trời tăng năm tháng người thêm ; Xuân mãn càn khôn phúc mãn 春滿乾坤福滿 : Xuân khắp non sông bụng phổng. Đó chữ phúc nghĩa là phúc lộc mà họ xuyên tạc ngay ra chữ phúc là bụng phổng tức là có bầu, chửa hoang, rồi họ buộc cho nhà nho đã nói xúc phạm đến phần tiết trinh của người quả phụ, khiến cho bà ấy nổi trận Tam-Bành, mượn họ làm đơn đi kiện. May nhờ quan Án tức là quan Nghè Chu-mạnh-Trinh rất mực công bằng, quở trách bà ấy không được nghe xằng kiện bậy, và bắt bà ấy bồi thường danh dự cho nhà nho I quan tiền kẽm đây này.
Ông đồ kể qua câu chuyện rồi mời chủ thuyền mua giúp vài câu. Nhưng ông chủ thuyền không thấy câu nào hợp với tình cảnh của mình nên vẫn do dự. Ông đồ thấy thế bèn giới thiệu ngay : Ví bằng hoa-ông muốn có văn hay thì phải vào nơi quan Nghè ; còn chúng tôi viết văn bán chợ chỉ có thế thôi. Nhưng ông nên nhớ : Văn chương quan Nghè mỗi chữ giá đáng ngàn vàng, chứ không rẻ rúng như văn của chúng tôi đâu nhé.
Chủ thuyền thấy ông đồ giới thiệu như vậy lập tức về lấy 5 lạng bạc với 4 bao trà thượng hảo kèm theo một đôi liễn tàu, đưa vào trong dinh quan Nghè để xin câu-đối.
Hỏi qua lai lịch và ý muốn xong, Ngài gọi quân hầu đem bút mực ra, rồi Ngài viết ngay một vế. Vừa viết đến chữ cuối cùng của vế trên thì lính hầu vô bẩm : Cụ cử ở bên Phủ-Lý sang chơi. Ngài vội đặt bút xuống bàn thì cụ đã vào tới nơi chào hỏi : Ồ ! quan bác cũng chơi câu đối tết đó sao ? Ngài đáp : Không, chúng mình còn chơi chữ với ai mà tết với nhất. Câu này đệ viết cho bác lái mành Nghệ đương ngồi chờ kia…
Cụ cử ngâm đi ngâm lại vế trên không ngớt khen hay và giục : Vậy bác viết nốt vế dưới xem nào ? Vế trên bác đã tập cổ để nói về cảnh, tất nhiên vế dưới cũng phải tập cổ để nói về tình. Tìm được câu nào khả dĩ cân đối được với câu trên tưởng cũng khó lắm ! Âu là bác để phần tôi…
Cụ Nghè vội vàng gạt đi mà rằng : Vế dưới đệ cũng tìm được chữ đối xong rồi, khoái lắm ! khoái lắm ! Vậy xin bác đừng đọc vội. Chúng ta hãy theo như cách Khổng-Minh và Chu-Công-Cẩn ngày trước, mỗi người đều ra một chỗ, để viết câu mình dự nghĩ vào trong bàn tay, thử xem văn tài của bác và tôi có giống nhau chăng.
Quả nhiên, sau khi viết xong cùng quay lại chỗ cũ, cùng xòe bàn tay ra coi, thì hai câu viết trong hai bàn tay không sai một chữ nào cả ! Hai cụ vỗ tay cả cười, rồi đem viết ngay vào liễn. Câu đối ấy như sau 2 :
望春春可憐 3 嶺樹重遮千里目 4
Vọng xuân xuân khả liên, lĩnh thụ trùng dà thiên lý mục.
欲歸歸未得 5 孤舟一繫故園心 6
Dục qui qui vị đắc, cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Nghĩa là :
Trông xuân xuân đáng thương, cây núi ngăn đôi nghìn dặm mắt.
Muốn về về chửa được, con thuyền buộc một mối tình nhà.
Về phần ông chủ mành Nghệ, ngồi nghe các cụ đàm đạo văn chương. Nhất là lại được mục kích một lối chơi chữ bằng cách hợp-chưởng (合掌 : hợp bàn tay) như Khổng-Minh và Chu-Du đã thử nhau bằng một chữ hỏa (火 : hỏa công) ở trong bàn tay, thì ông lấy làm một sự hi hữu (ít có) trong đời. Nhân vì năm ấy được đại phát tài, nên phần hào hứng cao đến tột độ : Ông lại móc túi lấy ra 4 lạng bạc nữa để xin 4 chữ viết vào hoành-phi treo giữa, còn hai vế đối thì treo hai bên. Hai cụ liền cho 4 chữ : Xuân-Lai Giang-Thượng 春來江上 : Xuân tới trên sông. Câu này nguyên văn trong Đường-thi là : « Xuân-lai giang-thượng kỷ nhân hoàn » : Xuân tới trên sông đã mấy người trở về ? Chủ thuyền mành thấy hợp với tình cảnh của mình, lấy làm khoái trí, bái lãnh đem về. Thế là nguyên khoản câu đối đỏ, ông đã tiêu mất 9 lạng bạc, với 4 bao trà. Thời ấy khen ông là người đã biết chơi chữ lại biết tiêu tiền, thực hiếm có vậy.
Chủ mành bái lãnh câu đối trở ra ngoài rồi, hai cụ lui vào nhà trong đã thấy mâm rượu dọn sẵn, trong khi chén thù chén tạc, cụ Nghè nhắc lại : Lão chủ thuyền kia thực cũng có duyên văn tự, nên mới gặp dịp bác sang, cả hai chúng mình cho hắn đôi câu đối ấy, quả thực tuyệt diệu ; nhất là 4 chữ Xuân-lai giang-thượng : Xuân tới trên sông, khác nào mình đã đem cả mùa xuân đổ vào khoang thuyền của hắn. Xem ra hắn cũng là tay biết thưởng hương vị trong đám con thuyền Nghệ-An, nên đã tỏ vẻ hớn hở vui mừng như kẻ bắt được ngọc báu.
Biết đâu những áng kỳ văn kỳ bút, nó chả là điềm báo trước sang xuân hắn chả phát tài gấp I0 gấp I00 ?
Giả thử ngay lúc bấy giờ mình bảo hắn phải tạ thêm mấy lượng chắc rằng hắn cũng xin vâng.
Vậy nay nhờ trời đệ đã có sẵn thiên quan thiên lộc thì món nhuận bút 9 lượng bạc kia, đệ xin kính biếu đại-huynh để sang năm mới làm vốn « quân-tử chi-du » (có câu Hà-sào quân-tử chi du 蝦巢君子之遊 : Tổ-tôm là món chơi của người quân-tử). Đó là bất phí chi huệ (不費之惠 : làm ơn huệ mà không tốn của mình), xin bác vui lòng…
Cụ cử mỉm cười đáp : Trên đã ban huệ, kẻ dưới đâu dám chối từ… Sự thực thì số nhuận bút ấy đâu phải là nhỏ ; đối với vốn tổ-tôm còm của nhà nho, thì cứ đánh rền đến hàng chục năm cũng chưa hết vậy.
Nói tóm lại : Nhai thoại về câu đối đỏ trên đây, từ ấy đến nay thường thấy truyền ngôn : câu trên là của cụ Chu-Mạnh-Trinh, còn câu dưới là của cụ Cử bên Phủ-Lý hay là của một ông đồ nào đó. Nay nhân có người đã được mục kích kể lại như thế, thì câu vế dưới là câu của cả hai cụ. Chứ cụ Nghè Chu là người đã chiếm giải nhất về bài phú và 20 bài thơ vịnh truyện Kiều, thì cụ có nghèo chữ đâu mà phải vay mượn ?
Tô-Nam Nguyễn-Đình-Diệm
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:18:34 GMT 9
Lễ Tiến Xuân – Nghênh Xuân Dưới Triều Nguyễn Phan Khoang
VÌ chính-sách trọng nông, các triều-đại ta xưa kia, mỗi năm ngoài lễ Tịch-Điền ra, còn làm lễ Tiến Xuân và Nghênh Xuân nữa.
Năm Kỷ-Sửu, Minh-mạng thứ I0 (I829), Triều Nguyễn mới bắt đầu làm lễ Tiến Xuân, Nghênh Xuân.
Trước đó, bộ Lễ tâu rằng : …Xét Thanh-điển, ngày lập Xuân cung tiến Mang-thần 1 và trâu đất đặt trên núi xuân, đều bày trên một cái án. Nghinh xuân là để dẫn hòa-khí đến, và cũng là một cách gây dựng, giúp đỡ, còn lấy roi đánh trâu là có ý khuyên việc cày cấy, ngụ ý trọng nông vậy. Nay Hoàng-thượng ta chăm lo nguồn sống của dân, để tâm đến việc canh nông, vậy có gì có quan hệ đến sự khuyến khích đến ngành nông thì có lẽ nên phỏng theo thời xưa, châm chước mà làm. Lễ Tiến Xuân, ngoài Mang-thần và trâu đất ra, còn có Núi Xuân, ấy là điểm lới của thời thăng bình, xin hàng năm sai quan hữu ty chế ba Mang-thần, 3 trâu đất, 2 Xuân-sơn, trước ngày Lập-xuân một ngày, phủ Thừa-thiên lập đàn làm lễ trước ở đông-giao, gọi là lễ Nghênh Xuân. Lễ xong, rước một Mang-thần, một trâu đất và một Núi Xuân để ở bộ lễ. Đến ngày Lập-xuân, quan các Bộ, quan Phủ Doãn và Khâm-thiên-giám, đều mặc triều-phục, đem đến cửa Tiên-thọ và cửa Hưng-khánh, viên Thái-giám tiếp nhận, dâng lên, ấy là Tiến Xuân.
Còn một Mang-thần và một trâu đất thì bày ở Phủ thự, quan Phủ Doãn đánh vào con trâu ba roi để tỏ ý khuyến khích việc cày cấy. Vua y theo lời xin. Và từ đó, hàng năm, cứ đến ngày Thìn sau tiết Đông-chí thì Khâm-thiên-giám Hội-đồng với Võ-khố lấy đất nước ở phương Tuế-đức mà chế ba Mang-thần, 3 trâu đất, dùng gỗ dâu làm cốt. (Tuế đức là thần tốt đức thần, trái với hung thần trong năm ấy, ví dụ như năm Giáp, năm Kỷ thì đức-thần ở phương giáp, tức là phương đông, năm Ất, năm Canh thì đức-thần ở phương Canh, tức là phương tây ; năm Bính, năm Tân thì đức-thần ở phương Bính, tức là phương nam ; năm Đinh, năm Nhâm thì đức-thần ở phương Nhâm, tức là phương bắc ; năm Mậu, năm Quí thì đức-thần ở phương Mậu, tức là Trung-ương). Rồi xem thánh kiến năm ấy và ngày Lập-xuân thuộc Can gì, Chi gì mà tính theo ngũ hành và âm-luật để biện rõ hình sắc. Thân trâu cao 4 thước để tượng trưng 4 mùa ; cái cốt từ đầu đến đuôi dài 8 thước để tượng trưng 8 tiết, đuôi dài I thước 2 tấc để tượng trưng I2 tháng. Mang-thần cao 3 thước, 6 tấc, 4 phân để tượng trưng 365 ngày ; cái roi làm bằng cành liễu, dài 2 thước 4 tấc để tượng trưng 24 khí.
Năm Nhâm-Thìn, Minh-mạng thứ I3 (I832), tháng 9, vu dụ bộ Lễ rằng các địa-phương, về việc cày tịch điền và nuôi tằm, đã chuẩn cho theo lời bàn của Bộ mà thi hành. Nhưng còn việc làm trâu đất và Mang-thần, bản ý là muốn chăm sóc việc gốc, khuyến khích nghề nông, ở Kinh đã làm trước thì các địa-phương cũng nên thi hành một thể cho phù hợp với cổ lễ. Vậy bộ Lễ nên bàn để tâu lên.
Các quan bộ Lễ bèn tham khảo điển lễ nhà Thanh, tâu xin lấy ngày lập xuân năm nay bắt đầu cử hành ở các tỉnh. Vua y theo.
Từ đó, hàng năm, đến ngày thìn sau tiết đông-chí thì Tổng-đốc, Tuần-vũ, Trấn quan sở tại, sai ty Chiêm-hậu Hội-đồng với cục Công-tượng lấy đất, nước ở phương Tuế-đức, chế-tạo một con trâu đất và một Mang-thần, cốt ở trong và hình-thức ở ngoài thì làm theo như thể-thức ở Kinh. Trước kỳ lập xuân chọn nơi lập đàn, trông hướng đông, ở ngoài quách phía đông tỉnh thành hoặc trấn thành trước tiết lập xuân một ngày, để trâu đất, Mang-thần ở đàn ấy, và đặt án ở sảnh-thự. Đến ngày lập xuân thì Tổng-đốc, Tuần-phủ, Trấn-quan dẫn các quan văn, võ dưới quyền mình, đều mặc áo đội mũ thường triều, đem trâu đất và Mang-thần tới đàn làm lễ đón xuân. Rồi lại mang về dinh thự ; Tổng-đốc, Tuần-phủ, Trấn-quan đứng trước sân cầm roi đánh con trâu đất ấy 3 roi, để tỏ ý khuyến khích việc cày ruộng, đoạn để yên ở trong cung đường. Từ đó, hàng năm, khi lễ đón Xuân đã xong thì đem trâu đất và Mang-thần năm trước chôn ở chỗ đất sạch-sẽ.
PHAN KHOAN (Trích dịch Đại Nam thực lực chính biên đệ nhị kỷ)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:19:28 GMT 9
Bài vọng cổ vua : Tình anh bán chiếuDù ghiền hay không ghiền vọng cổ, ở miền Nam hễ nhắc đến vọng cổ thì người ta nghĩ ngay đến Tình Anh Bán Chiếu, tới Út Trà Ôn và tới Viễn Châu. Đây là một bài ca ngoại hạng của làng vọng cổ, ngoại hạng vì nó được xem như bài phổ biến nhất trong tất cả các bài vọng cổ, và đặc biệt là vì bài ca này đã đưa hai người lên ngôi báu: “Vua ca vọng cổ Út Trà Ôn” và “Vua viết lời vọng cổ Viễn Châu”. Soạn giả Viễn Châu tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh năm 1924 tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ông thành thạo từ nhỏ đàn tranh và đàn guitar phím lõm, đặc biệt tuyệt kỷ đàn tranh của ông đã được xem là độc nhất vô nhị, và đến hiện tại chưa có người thế nổi. Nếu với nghệ danh Bảy Bá ông được xem là nhạc sĩ bậc thầy, thì với nghệ danh Viễn Châu ông đã leo lên ngôi báu với vương hiệu là “Vua viết lời vọng cổ”. Vua viết lời vọng cổ Viễn Châu Tài năng đo ni đóng giày của ông cũng xếp hàng thượng thừa, vì nhờ những bài vọng cổ của ông mà rất nhiều nghệ sĩ thời vàng son của cải lương đã thành danh như : Út Bạch Lan, Thanh Hương, Thanh Nga, Ngọc Giàu, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Minh Cảnh, Thanh Sang, Phương Quang, Minh Vương... Viễn Châu là một soạn giả cổ nhạc hi hữu. Hi hữu vì đến hiện tại ông đã là tác giả của gần 70 vở cải lương lớn nhỏ và trên dưới 2 000 bài vọng cổ, lập kỷ lục chưa ai phá nổi trong làng sân khấu cải lương! Hi hữu là vì khán giả cải lương xưa nay có thói quen là chỉ quan tâm đến nghệ sĩ, tên tuồng hay tên bài ca mà ít quan tâm đến tên soạn giả, thậm chí nghệ sĩ biểu diễn có khi còn không biết mình đang ca bài của soạn giả nào, ấy vậy mà người mộ điệu cải lương Miền Nam từ già đến trẻ ai mà không biết soạn giả Viễn Châu! Nếu soạn giả Viễn Châu là hi hữu thì bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu của ông lại càng hi hữu. Hi hữu vì Viễn Châu có đến 2000 bài vọng cổ, ấy thế mà khi nhắc đến Viễn Châu là người ta nghĩ ngay đến Tình Anh Bán chiếu. Hi hữu là vì bài ca này không chỉ làm bất tử tên tuổi của ông, mà còn đưa vào huyền thoại người được mệnh danh là “Vua ca vọng cổ Út Trà Ôn”. Lãng du cùng Tình Anh Bán Chiếu Bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu có nội dung đơn giản. Bài ca là tâm sự của một thanh niên đến từ Cà Mau làm nghề bán chiếu, khi ghe chiếu anh cặp bến ở Ngã Bảy Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang, anh được một cô gái đặt làm đôi chiếu, được cô dẫn vào tận phòng riêng để đo ni chiếc giường. Thời gian trôi qua, khi anh trở lại giao chiếu như giao hẹn thì cô gái đã sang ngang. Cô sang ngang mà có biết đâu anh bán chiếu đã thầm thương trộm nhớ, và anh cảm thấy tủi cho thân phận bán chiếu của mình. Có nhiều câu chuyện được thêu dệt xung quanh chuyện tình anh bán chiếu. Có người còn mạnh dạng cho rằng, soạn giả Viễn Châu một lần nọ khi ghé qua Ngã Bảy Phụng Hiệp đã gặp anh bán chiếu thất tình, ông đến trò chuyện và biết được câu chuyện tình dở dang của anh nên đã viết nên bài ca Tình Anh Bán Chiếu. Thế nhưng, theo soạn giả Viễn Châu, thì vào năm 1959, nghệ sĩ Út Trà Ôn về ký hợp đồng với hãng dĩa Hồng Hoa. Bà chủ hãng đĩa mới đề nghị Viễn Châu viết gấp một bài đặc biệt cho Út Trà Ôn ca với mục đích là “làm náo động thị trường”. Viễn Châu tìm trong trí nhớ và nhớ ra có một lần ông đi từ Bạc Liêu về Sài Gòn, tới khu chợ nổi Phụng Hiệp thì xe hơi bị chết máy, phải đậu lại sửa, khi ngồi nghỉ, Viễn Châu chợt thấy một anh chàng tay ôm đôi chiếu bông đứng mệt nhọc giữa trưa nắng như chờ ai trước một căn nhà đóng kín, xa xa lại có một đám cưới. Hình ảnh đó đã gây ấn tượng mạnh trong lòng một nghệ sĩ đầy cảm xúc như Viễn Châu và ông đã hóa thân thành anh bán chiếu nọ để được yêu, được tâm sự. Thế là bài ca Tình Anh Bán Chiếu đã ra đời. Nội dung bài ca khá đơn giản. Có người còn cho rằng, khi nghe kỹ rõ ràng thấy tình tiết câu chuyện phi lý, vì anh bán chiếu có cớ gì để thất tình, anh và cô gái nọ chưa từng hò hẹn với nhau mà chỉ là quan hệ người bán chiếu và người đặt mua chiếu mà thôi. Thế thì tại sao bài ca lại đi sâu vào lòng người đến thế? Lại được người mộ điệu say mê đến thế? Đến mức trở thành bài vọng cổ được phổ biến nhất đến thế? Đến mức làm bất tử tên tuổi hai ông vua của làng cổ nhạc Miền Nam đến thế? Câu trả lời có lẽ trước tiên nằm ở cái gọi là “tâm hồn nghệ sĩ”. Tình yêu vốn không có qui luật nên yêu đơn phương cũng không có qui luật, mà tình yêu của nghệ sĩ lại càng không có qui luật. Tâm hồn nghệ sĩ vốn dễ xao động và dễ đồng cảm với những cung bậc hỉ nộ ái ố của cuộc đời, huống chi đối với một nghệ sĩ lớn như Viễn Châu, với 2000 bài ca và được người mộ điệu yêu thích, thì thử hỏi cái tâm hồn nghệ sĩ đó ở Viễn Châu nó mới “mong manh” đến dường nào. Còn nói về nội dung thì chính cái nội dung đơn giản của bài Tình Anh Bán Chiếu đã khiến nó dễ dàng đi vào lòng người, nhất là người miền sông nước Nam Bộ vốn mộc mạc và giàu tình cảm. Có một điều ta có thể khẳng định chắc chắn rằng, một bài ca muốn được người mộ điệu yêu thương và ghi nhớ đòi hỏi trước hết phải “chạm” được cảm xúc của người mộ điệu, tức phải tìm được sự đồng cảm của người mộ điệu, nói cách khác là người nghe tìm được chính mình trong bài vọng cổ. Sự phổ biến “kỳ lạ” của Tình Anh Bán Chiếu suốt hơn nửa thế kỉ nay là một minh chứng hùng hồn rằng Viễn Châu đã “chạm” được cảm xúc của người Nam Bộ, tức đến cái tính mộc mạc trong cuộc sống đời thường nhưng không kém “sự dạt dào cảm xúc” trong tình yêu đôi lứa. Vua ca vọng cổ - Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn Út Trà Ôn sinh năm 1919 tại làng Đông Hậu, huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long. Ông là con thứ mười trong gia đình và cũng là cuối cùng, tức thứ Út theo cách gọi của người Nam Bộ. Năm 1937, ông được giới thiệu với đài phát thanh Sài Gòn và từ đó chính thức có nghệ danh là Út Trà Ôn, một kiểu lấy tên vừa để nhớ gia đình vừa để nhớ quê hương Trà Ôn của ông. Xuất thân nhà nghèo nông thôn, Út Trà Ôn bắt đầu một sự nghiệp lẫy lừng trên sân khấu cải lương từ năm 18 tuổi. Cách diễn xuất của ông mộc mạc, chân phương, lại là người rất khó tính trong nghề, luôn có chí cầu tiến học hỏi, bởi vậy ông là một bậc thầy trong diễn xuất. Vỡ tuồng ghi đậm dấu ấn nhất trong lòng người mộ điệu là vỡ “Tuyệt Tình Ca” ông đóng cặp với Sầu nữ Út Bạch Lan, Bạch Tuyết và Thanh Sang thì đóng vai hai đứa con là Trường An và Long Hồ. Lớp ca diễn để đời là lớp ông tái ngộ vợ hiền sau nhiều năm xa cách, Út Trà Ôn ca với Út Bạch Lan ba câu vọng cổ, đây là ba câu vọng cổ để đời của hai nghệ sĩ bậc thầy này. Út Trà Ôn mở đầu bằng 4 câu nói lối như sau: “Tôi đứng đây tưởng chừng như đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, lúc mình quay xuồng trở lại với hai con. Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn, con nước lớn lục bình trôi rời rạc”, Cải lương chi bảo Bạch Tuyết nhận xét: khi nghe ông ngâm đoạn này, cô cảm thấy được ngay trước mắt cảnh rời rạc của lục bình trôi trên sông Mỹ Thuận. Quả thật như vậy, đúng là ông đã đưa trọn tình cảm và nghệ thuật ca cổ thượng thừa vào lời ca để nó trở nên truyền cảm một cách thần sầu đến như vậy. Ấy thế nhưng khi nhắc đến Út Trà Ôn người mộ điệu nghĩ ngay đến cái tài ca vọng cổ của ông, một giọng ca và một cách ca mà đến hiện tại vẫn chưa có người kế tục xứng đáng. Năm 1960, ký giả Trần Tấn Quốc, người lập giải Thanh Tâm danh giá cho sân khấu cải lương, đã mở cuộc thăm dò ý kiến độc giả, và Út Trà Ôn đã được chọn là “Đệ nhất danh ca”. Báo chí, đồng nghiệp và người mộ điệu phong cho ông là “Vua ca vọng cổ”. Danh hiệu “đệ nhất danh ca” thì dù đã có đôi lần báo chí sau này tổ chức bầu chọn cho những nghệ sĩ thế hệ sau ông, nhưng đến hiện tại hễ nhắc đến “Đệ nhất danh ca” thì không hiểu sao người ta lại nghĩ ngay đến Út Trà Ôn. Còn cương vị “Vua ca vọng cổ” thì hầu như vẫn nghiễm nhiên được người mộ điệu dành cho Út Trà Ôn. Đi vào kỹ thuật ca, ta thấy Út Trà Ôn có giọng đồng, trầm. Kiểu ca và giọng ca của ông đã được xếp thành một trường phái ca vọng cổ riêng và luôn được xếp hàng đầu khi có người tìm hiểu về các trường phái ca vọng cổ. Ông được xếp đầu cũng đúng thôi vì trước Út Trà Ôn rõ ràng chưa có giọng ca nào được nổi danh như ông. Út Trà Ôn cũng chính là nghệ sĩ tiên phong trong việc phổ biến vọng cổ nhịp 32, một bài bản phổ biến nhất hiện nay. Út Trà Ôn ca chân phương, mùi mẫn, hùng tráng, âm vực rộng, không ngân mà thường "hơ" đúng chất tài tử, phân nhịp độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ca và diễn. Đây là trường phái ca mẫu mực, không lạng bẻ, kiểu cọ. Giọng ca này hoàn toàn tương thích với bản chất của bài vọng cổ là “tự sự”, là “chân phương hoa lá”. Nghe Út Trà Ôn ca ta không cần nhìn ông diễn cũng có thể cảm nhận được rõ ràng sắc thái tình cảm mà người viết gửi gắm, người nghe không còn chú ý đến nhịp nhàng tới câu mấy nữa, mà bị ru hồn bởi nội dung bài hát mà ông “tự sự” và bởi kỹ thuật ca điêu luyện, cách xấp chữ và ca chẻ nhịp độc nhất vô nhị. Thế hệ sau cũng có nhiều người theo trường phái ca này, nhưng để gọi là kế thừa xứng đáng thì quả thật chưa có ai. Soạn giả Viễn Châu nhận xét về giọng ca Út Trà Ôn như sau: “Cách rèn giọng của anh được người trong nghề kính phục vì biết tạo âm vực đủ để khi phát âm được tròn vành rõ chữ. Anh còn có khiếu sắp văn chẻ nhịp….Nếu lắng nghe Út Trà Ôn ca và có óc phân tích, bạn sẽ nhận biết ngay thế mạnh của anh trong câu vọng cổ là chữ “hơ” điêu luyện và dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã chất chứa sự giàu có của làn hơi”. Út Trà Ôn bất tử cùng Tình Anh Bán Chiếu Nếu nhắc đến Vọng Cổ lập tức người yêu thích hay không yêu thích cổ nhạc đều nghĩ ngay đến bài Tình Anh Bán Chiếu, mà hễ nhắc đến Tình Anh Bán Chiếu thì lập tức nghĩ đến Út Trà Ôn và Viễn Châu. Tên tuổi Út Trà Ôn trước khi đến với bài Tình Anh Bán Chiếu cũng đã có tiếng rồi, thế nhưng với bài Tình Anh Bán Chiếu thâu ở hãng dĩa Hồng Hoa, giọng ca Út Trà Ôn đã thật sự làm chấn động làng cổ nhạc, và bài ca này đã làm bất tử tên tuổi của ông. Sau Út Trà Ôn đã có nhiều nam nghệ sĩ thuộc hàng “đại gia” trong sân khấu cải lương ca lại bài Tình Anh Bán Chiếu, dù rằng mỗi người mỗi vẻ, mỗi người có cái hay riêng, thế nhưng không hiểu sao hễ nghe Út Trà Ôn ca Tình Anh Bán Chiếu thì người nghe mới thấy “đã cái lỗ tay”. Vì sao thế, có lẽ bởi vì giọng ca Út Trà Ôn là chân phương, buồn bả nên hoàn toàn thích hợp để thể hiện một bài vọng cổ chân phương buồn bả như Tình Anh Bán Chiếu, còn những kiểu ca lạng bẻ, kiểu cọ rõ ràng là không thích hợp với bài hát này. Nói cách khác, ta có thể tìm thấy tất cả những đặc trưng của giọng ca Út Trà Ôn qua Tình Anh Bán Chiếu. Chiếu Cà Mau, Ngã Bảy Phụng Hiệp và Tình Anh Bán Chiếu Chỉ một bài vọng cổ chưa đầy mười phút nhưng đã đưa hai người lên “ngôi báu”, đồng thời còn làm bất tử một “người” khác đó là “chiếu Cà Mau”. Mới mở đầu bài ca Viễn Châu đã viết : “Chiếu Cà Màu nhuộm màu tươi thắm, công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu, chiếu này tôi chẳng bán đâu, tìm cô không gặp tôi gối đầu mỗi đêm”. Ta bàn thêm một chút về “Chiếu Cà Mau” để hiểu rõ thêm bài Tình Anh Bán Chiếu. Xưa kia, tại làng Tân Thành (nay là xã Tân Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau) đã hình thành làng chiếu Tân Thành, trải dài gần chục cây số dọc bờ sông Cái Nhúc bởi một số quân binh của vua Gia Long trên đường đi cầu Xiêm đã chán ghét chiến tranh, tìm đến lập nghiệp. Thời kỳ cực thịnh, chiếu Tân Thành đã vang danh khắp Nam kỳ lục tỉnh, ghe xuồng xuôi ngược trên dòng sông Cái Nhúc, lớp mang hàng ra chợ Cà Mau bỏ cho vựa, lớp xuôi về Ngã Bảy ra Phụng Hiệp, Phong Điền bán. Bởi vậy chiếu Tân Thành cũng là đại diện cho chiếu Cà Mau. Nhờ Tình Anh Bán Chiếu mà vùng Ngã Bảy Phụng Hiệp cũng trở nên nổi tiếng ngoài sức tưởng tượng, đến mức mà một lãnh đạo của Huyện Phụng Hiệp thốt lên: “Nhờ bài vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu mà Ngã Bảy Phụng Hiệp được nổi danh khắn vùng Nam Bộ”. Ngã Bảy Phụng Hiệp là môt vùng kinh sáng thuộc huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang. Tại đây có Chợ Nổi Phụng Hiệp nổi tiếng được đề cập trong bài Tình Anh Bán Chiếu. Chợ Nổi Phụng Hiệp từng một thời là đầu mối giao thương lớn của miền cực nam, và hiện tại là một địa điểm du lịch nổi tiếng của vùng đất này. Đây là một nơi giữa đồng quê sông nước đầy ấp phù sa dễ gây xúc cảm tâm hồn nghệ sĩ : ”Bảy sông dồn nước, cuồn cuộn nước Phù sa lớp lớp, quyện phù sa” (Ca dao) Và nhờ có Viễn Châu và Út Trà Ôn mà miền đất này bên cạnh phù sa triễu nặng còn chất chứa thêm nỗi lòng của Tình Anh Bán Chiếu : « Sông sâu bên lỡ bên bồi, tình anh bán chiếu trọn đời không phai. » (Hai câu kết bài Tình Anh Bán Chiếu) Như vậy, ở Tình Anh Bán Chiếu, ta có thể tìm thấy trọn vẹn những tinh hoa trong làng hơi điêu luyện, cách ca chân phương với lối nhấn nhá chẻ nhịp thần sầu của Vua ca vọng cổ Út Trà Ôn, tìm thấy trọn vẹn lối viết vọng cổ đảm bảo được cái hồn « tự sự » của bản vọng cổ với bố cục rõ ràng khúc chiết, lời văn rất nên thơ và rất « vô khuôn » của Vua viết lời vọng cổ Viễn Châu. Một bài ca vọng cổ chỉ có 6 câu với chưa đầy 10 phút nhưng đã đưa người ca là nghệ sĩ Út Trà Ôn và người viết là soạn giả Viễn Châu lên « ngôi báu » và đã làm bất tử tên tuổi của hai ông cùng với nghề chiếu Cà Mau và Ngã Bảy Phụng Hiệp. Cái « liên danh » Tình Anh Bán Chiếu-Út Trà Ôn-Viễn Châu-Chiếu Cà Mau-Ngã Bảy Phụng Hiệp đã trở nên bất tử trong lòng người mộ điệu cải lương nói chung và vọng cổ nói riêng. Bấy nhiêu thôi cũng đủ khằng định rằng, bài Tình Anh Bán Chiếu Xứng đáng là “Bài vọng cổ vua” của làng cổ nhạc Miền Nam. Ngày nay, số lượng bài ca vọng cổ ra đời nhiều vô kể, thế mà đa phần đều làm thất vọng người nghe. Trong khi đó, đến hiện tại, người yêu cổ nhạc ai mà không mê Tình Anh Bán Chiếu và giọng ca Út Trà Ôn. Điều đó khẳng định rằng, nếu biết khai thác cái chất tự sự, mộc mạc và chân phương của bản vọng cổ thì bản vọng cổ vẫn luôn có sức hút phi thường. Nguồn: vi.rfi.fr/van-hoa/20121124-tinh-anh-ban-chieu-bai-vong-co-vua
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:20:26 GMT 9
Kiên Giang : Lối viết cải lương mang đậm chất thơMiệt U Minh đã sản sinh ra hai cây bút lừng danh trong đời sống văn hóa Nam Bộ, đó là nhà văn - nhà nghiên cứu Sơn Nam và nhà thơ - soạn giả Kiên Giang. Nếu Sơn Nam là nhà văn “rặc ròng” Nam Bộ, thì Kiên Giang cũng là nhà thơ Nam Bộ “rặc ròng”. Chất thơ và chất Nam Bộ đã thấm sâu trong tâm hồn Kiên Giang, để khi ông bước vào lĩnh vực sáng tác cải lương, ông đã tạo được cho mình một lối sáng tác rất riêng: lối sáng tác mang đậm chất thơ. Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1929, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Ông lấy tên quê hương để làm bút danh cho mình. Kiên Giang là bút danh khi ông làm thơ, còn khi viết báo và soạn tuồng, thì ông lấy tên là Hà Huy Hà. Tuy vậy, cái tên Kiên Giang đã trở nên quen thuộc và mọi người vẫn quen gọi ông là Kiên Giang - Hà Huy Hà, hay chỉ đơn giản là Kiên Giang. Tuổi thơ của Kiên Giang trải qua những nhọc nhằn ở vùng U Minh Thượng, nơi cha mẹ ông phải tảo tần gian khó để nuôi ông ăn học. Nhà thơ chân quê Nam Bộ Cái tên Kiên Giang bắt đầu được biết đến trên thi đàn miền Nam Việt Nam từ năm 1955. Kiên Giang đã để lại cho đời nhiều bài thơ thuộc hàng tuyệt tác. Nét đặc sắc ở thơ Kiên Giang, đó là nó « rặc ròng » Nam Bộ. Lời thơ chân chất, bình dị, nhưng rất diễm tình, rất nên thơ. Thử đọc lại mấy câu sau đây : Chiều chiều gió đẩy gió đưa, Nhìn xem lá mạ mà mơ duyên nồng. (Quán giữa đồng) Hay là : Ngày thơ xé mắm ăn bần chín Bóng mát lung linh chở khẳm xuồng (Chậu nhỏ đựng đầy hồn cố thổ) Thật không thể nào Nam Bộ hơn được nữa! Và cũng thật không thể nào tả những điều bình dị mà nên thơ hơn được nữa ! Trong rất nhiều bài thơ của Kiên Giang, mỗi khi nhắc về ông, người ta nghĩ ngay đến hai tuyệt tác: Hoa trắng thôi cài trên áo tím và Tiền và Lá. Đây là hai chuyện tình buồn, rất buồn, nhưng đẹp và rất đẹp. Người mộ điệu làm sao khỏi thấy lòng tê tái khi đọc những vần thơ : Xe tang đã khuất nẻo đời Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu Từ đây tóc rũ khăn sô Em cài hoa trắng lên mồ người xưa (Hoa Trắng thôi cài trên áo tím) Hay như : Kiếp tôi là kiếp làm thơ, Vốn riêng chỉ có muôn mùa lá rơi. Tiền không là lá em ơi! Tiền là giấy bạc của đời in ra. Người ta giấy bạc đầy nhà, Cho nên mới được gọi là chồng em. (Tiền và lá) Cả hai bài thơ này đều đã được phổ nhạc và được nhiều thế hệ ca sỹ thể hiện. Riêng về cổ nhạc, hai bài thơ cũng đã được chuyển lời vọng cổ và được nhiều người yêu mến. Soạn giả cải lương : Thơ trong nhạc, nhạc trong thơ Bên cạnh sự nghiệp thi ca, Kiên Giang còn là một soạn giả lừng danh một thời với Năm Châu, Viễn Châu, Hà Triều - Hoa Phượng, Quy Sắc. Đặc biệt, hai soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng được xem là đệ tử của ông. Cũng giống như các soạn giả khác, những vở cải lương của Kiên Giang thường là những chuyện tình buồn. Thế nhưng, nét đặc sắc của Kiên Giang đó là, lời văn trong các vở tuồng lúc nào cũng đơn giản, mộc mạc, gần gũi với bà con Nam Bộ. Một điều đặc biệt hơn cả, mà mỗi khi người ta nghe là biết ngay tuồng tích của Kiên Giang, đó là : lời văn chân phương mộc mạc nhưng thấm đẫm chất thơ, những chuyện tình buồn gần gũi với đời thường nhưng lại rất thi vị. Trong nhiều vở tuồng thành công của Kiên Giang, nổi tiếng nhất là hai vở Người vợ không bao giờ cưới và Áo cưới trước cổng chùa. Người vợ không bao giờ cưới hay còn được gọi là Sơn nữ Phà Ca, là câu chuyện tình của một công tử miền xuôi tên là Mộng Long cùng với cô sơn nữ kiều diễm Phà Ca. Chàng trai miền xuôi trong một chuyến đi săn đã gặp gỡ và phải lòng cô sơn nữ. Thế nhưng, do sự phân chia giai cấp và những mưu tính lợi danh mẹ cha, mà hai người không được trọn chữ đá vàng. Phà Ca nuốt lệ vào lòng để nhìn người yêu đi cưới cô vợ giàu sang. Người mộ điệu vẫn còn thấy lân lân với những câu thơ khi hai người hội ngộ: Đói lòng ăn nữa trái sim, Uống lưng bát nước đi tìm người thương. Hoặc còn nghe văng vẳng đâu đây lời than xé lòng của Phà Ca khi Mộng Long đi lấy vợ: Ngày mai đám cưới người ta, Cớ sao sơn nữ Phà Ca lại buồn. Trái sim là một loại trái rừng, có vị ngọt nhưng hơi chát. Ăn Sim xong là phải uống nước ngay để tránh bị nghẹn. Một điều bình thường và bình dị như thế mà khi đã vào tay Kiên Giang rồi nó trở nên lung linh quá, nên thơ quá, đẹp đẻ quá. Còn những câu than thở của cô sơn nữ khi người yêu lấy chồng cũng vậy, nó quê mùa lắm, nhưng đã trở nên thi vị và diễm tình qua ngòi bút của Kiên Giang. Mấy mươi năm trước, lời ngâm này đã làm đau xé không biết bao nhiêu con tim người mộ điệu qua giọng ca bi ai của Sầu Nữ Út Bạch Lan. Đây là một vai diễn để đời của Út Bạch Lan, đến mức mà người mê cải lương vẫn thường hay gọi cô là Sơn Nữ Phà Ca. Vai diễn Phà Ca cũng là một vai để đời của Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga. Vai diễn này đã giúp cho Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm vào năm 1958, mở đầu cho một sự nghiệp chói lọi sau này. Vở tuồng đã ra đời trên nửa thế kỷ, thế mà sức sống hiện tại vẫn còn mạnh. Bà con mê cải lương Nam Bộ, dù già dù trẻ, hầu như ai cũng biết đến Sơn Nữ Phà Ca. Mấy mươi năm nay, mỗi lần cầm cây đờn ghi ta phím lõm lên, là ông cụ nhà tôi tay đờn miệng cứ ca một khúc Sương Chiều trong Sơn Nữ Phà Ca : « Mộng Long ơi anh có thấy chăng đóa hoa rừng, nở giữa đồi sim…. ». Áo cưới trước cổng chùa cũng là một tuyệt tác đậm chất thơ của Kiên Giang. Vở tuồng này ông viết về một ngôi chùa ở quê hương Kiên Giang của ông, đó là chùa Phù Dung. Bên cạnh ngôi chùa hiện vẫn còn ngôi mộ của một người phụ nữ tên là Dì Tự, người được cho là thứ thiếp của tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích. Soạn giả Kiên Giang đã dựa vào một giai thoại về người phụ nữ này để viết vở cải lương Áo cưới trước cổng chùa. Nội dung vở tuồng Áo cưới trước cổng chùa kể về mối tình thơ mộng của cô gái miền biển Kiên Giang tên là Xuân Tự với anh thanh niên cùng xóm tên gọi Tô Châu. Cha của hai người là tri kỷ của nhau, nên đã chỉ phúc giao hôn cho Xuân Tự và Tô Châu từ nhỏ. Cha của Xuân Tự mất sớm, cha của Tô Châu là Hải Lâm cố gắng lo liệu đám cưới cho hai người để trọn lời hứa với người đã khuất. Thế nhưng, số trời xui khiến, Xuân Tự được tổng trấn yêu thương. Rồi sau đó bao giông bão cuộc đời ập đến, Xuân Tự trở nên tật nguyền và phải giấu mẹ đi tu tại chùa Phù Dung. Xuân Tự có một người chị nuôi cùng lớn lên từ nhỏ là Phương Thành. Do Xuân Tự đã quy y, nên mọi người mới bàn nhau gạt mẹ của Xuân Tự mà đem Phương Thành thay thế Xuân Tự để tổ chức đám cưới đúng ngày hai bên đã dự kiến, vừa để an ủi vong linh người quá cố, vừa để có người chăm sóc cho mẹ của Xuân Tự vốn bị mù lòa và đau yếu. Màn cuối là màn hay nhất của vở tuồng này. Ngày đó, Xuân Tự tay nương gậy trúc từ chùa trở về nhà dự đám cưới chị, và mang cho chị chiếc áo cưới màu xanh nước biển mà cô đã chuẩn bị từ lâu cho đám cưới của mình. Tuy nhiên với linh cảm của một người mẹ, cuối cùng mẹ của Xuân Tự đã phát hiện ra sự thật. Mẹ con ôm nhau mà nứt nở. Đám cưới cuối cùng cũng diễn ra, Xuân Tự lạy từ biệt mẹ già trở lại chùa Phù Dung tiếp tục đời kinh kệ. Thật đúng là « Áo cưới trước cổng chùa ». Ta thấy chỉ cái tên tuồng cũng đã rất thi vị và đầy hình ảnh. Lời văn trong vở tuồng thì cũng rất nên thơ và mộc mạc theo kiểu Kiên Giang. Người mộ điệu vẫn còn nhớ như in câu ngâm của chị em Xuân Tự khi lên chùa : Tay bưng quả nếp lên chùa, Thắp hương lễ phật xin bùa cầu duyên. Hai câu thơ này phổ biến đến mức mà có người còn lầm tưởng là ca dao. Hay như hai câu ca trong màn kết Xuân Tự nói với mẹ già, cũng thấm đẫm nước mắt và nhưng đầy ý thơ : Mẹ tin con đã vu quy, Dẫu rằng Xuân Tự quy y lâu rồi. Xuân Tự là một trong những vai diễn ấn tượng của Nữ hoàng sân khấu Thanh Nga. Lệ Thủy cũng tỏa sáng với vai Xuân Tự tại đoàn 2-84. Ngoài ra, vở tuồng này còn góp phần làm tỏa sáng nhiều tên tuổi khác : Tô Kim Hồng (vai Phương Thành), Lương Tuấn (vai Tô Châu), Diệp Lang (vai Hải Lâm), đặc biệt là nữ nghệ sĩ Thanh Nguyệt đã xuất thần với vai diễn mẹ của Xuân Tự. Những bài vọng cổ lai láng tình thơ Ngoài cải lương, Kiên Giang còn nổi tiếng với nhiều bài vọng cổ đặc sắc, có thể kể ra : Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai nuôi mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò gạch, Cô gái miền Tây ... Ta thấy những bài vọng cổ của Kiên Giang hầu hết lấy cẩm hứng từ cuộc sống nông thôn Nam Bộ. Tuy nhiên, lời văn thì hoàn toàn bình dj mà không quê mùa, người nghe cảm nhận được ở tác giả có một sự trau chốt ngôn từ rất cẩn thận. Tuy nhiên, do cái chất Nam Bộ đã thấm vào máu của Kiên Giang, nên lời vọng cổ của ông càng chọn lọc thì càng lộ rõ chất Nam Bộ. Và do cái chất thi vị đã thấm sâu trong tâm hồn Kiên Giang, nên lời vọng cổ của ông rất nên thơ, rất trữ tình. Hai bài vọng cổ được nhiều người biết đến nhất của Kiên Giang, đó là bài Trái Gùi Bến Cát và Tiền Và Lá. Bài Trái Gùi Bến Cát được ông viết từ một câu chuyện có thật của một người phụ nữ ở Lái Thiêu. Người phụ nữ này đi Lộc Ninh (Bình Phước) mua bán để nuôi con nhỏ và người chồng đang ốm đau. Ngày nào cũng vậy, sáng tinh mơ cô đón xe lửa lên đường đi buôn bán, tối mịt cũng trở về bằng xe lửa. Mỗi bận như vậy, cô thường mua mang về cho đứa con nhỏ thứ trái cây mà đứa con yêu thích: trái gùi ở Bến Cát Bình Bương. Thế nhưng, một hôm nọ, sau khi bán xong, do đói khát, cô vừa mua xong xâu gùi chín cho con, khi đón xe lửa trở về, cô bị trượt chân té xuống đường ray và bị xe lửa cán qua mà trên tay vẫn còn nắm chặt xâu gùi. Bài vọng cổ mở đầu bằng một lối vè rất dân dã Nam Bộ : Nghe vẻ nghe ve, ai về Bến Cát Nghe con trẻ hát: Sài Gòn, Lộc Ninh; Tang tính, tang tình, trái gùi Bến Cát … Tiếp theo đó là bốn câu thơ cũng rất dân dã: Mẹ đi chợ chớ ở lâu, Bận về mẹ nhứ mua xâu trái gùi. còn chờ xe lửa kéo còi, Ra ga đón mẹ lấy gùi ăn chơi. Thật sự không còn có thể Nam Bộ hơn được nữa. Chưa hết, sau khi vợ mất, người chồng sống trong cảnh nhớ nhung triền miên. Đây là nỗi niềm của người chồng được Kiên Giang mô tả ở câu vọng cổ số 5: Bao chiều tàu lại tàu qua, Khói tàu vơ vẫn xót xa tiếng còi. Khi nhìn khói quyện mây trời, Ngỡ người vợ cũ về nơi chân thêm. Người nghe cảm nhận được ở đây một nỗi buồn tê tái nhưng là một nỗi buồn rất thi ca. Nghệ sĩ Minh Cảnh được xem là người thể hiện thành công nhất bài vọng cổ này. Trong sáng tác của Kiên Giang, từ thơ tới vọng cổ, ta thấy mẹ là chủ đề xuyên suốt. Hình ảnh người mẹ được ông nâng niu, trân quý. Khách thơ làm sao quên được những vần thơ về mẹ rất đặc sắc của Kiên Giang : Chày khuya làm mỏi canh sương Nện từng nhịp mạnh mở đường chữ thơm (Cối khuya) Hay như : Mẹ rắc hoàng hôn theo gạo trắng Cám bay phương phất quyện hương cau Nghiêng nghiêng bóng xế sau lưng Mẹ Gạo trắng như màu tóc trắng phau. (Sàn gạo) Kiên Giang đã đưa thành công hình ảnh người mẹ trong những bài thơ của ông vào những bài vọng cổ do ông sáng tác, để có được những lời vọng cổ và những hình ảnh đẹp và đầy chất thơ ca, như bài Trái Gùi Bến Cát bên trên rõ ràng là một tuyệt tác về mẹ của Kiên Giang. Về tình yêu đôi lứa, Kiên Giang cũng có một tuyệt phẩm để đời, đó là bài Tiền Và Lá. Bài này ông phát triển từ bài thơ cùng tên của chính ông. Nội dung bài ca kể về một chuyện tình buồn của một đôi trai gái cùng lớn lên từ thuở ấu thơ : Hồi bé thơ, anh hay rủ em ra cất nhà chòi bên bờ giếng, anh lấy đất nắn tượng người để bán, em nhặt lá vàng rơi làm tiền để mua tượng. Khi lớn lên, em mới phát hiện ra rằng, tiền không phải là lá, và thế là ngày xưa em dùng lá để mua tượng hình nhân do anh nắn, còn bây giờ em đã bị người ta dùng tiền thật mua đi mất rồi. Chúng ta thấy, đó một chuyện tình buồn, nhưng đã được Kiên Giang thi vị hóa với những hình ảnh so sánh rất đỗi gần gũi đời thường mà lại rất nên thơ. Bài thơ đã hay, mà khi Kiên Giang viết thành vọng cổ lại càng hay. Bài thơ viết theo thể lục bát, với lời lẽ bình dị và chân quê. Có lúc người ta còn tưởng bài thơ Tiền Và Lá là của nhà thơ chân quê Bắc Bộ Nguyễn Bính. Nhưng rõ ràng, xem lại lời lẽ trong bài thơ, ta thấy rằng, nếu không phải một người sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ, không lấy Nam Bộ làm cái chất trong tâm hồn và tính cách, thì không thể có được những lời thơ “rặc ròng” Nam Bộ như vậy được. Trở lại bài vọng cổ Tiền Và Lá, Kiên Giang đã khéo léo đưa được chất thơ vào trong bài vọng cổ. Và khi nghe, người mộ điệu có lúc thả hồn phiêu lãng để không còn biết là mình đang lạc vào thế giới của thi ca hay những cung bậc bổng trầm của bài vọng cổ. Chẳng hạn như Kiên Giang đã khéo léo đưa trọn vẹn 6 câu lục bát trong bài thơ vào bài vọng cổ, khiến người mê vọng cổ rất thích thú : Tiền không là lá em ơi! Tiền là giấy bạc của đời in ra . Người ta giấy bạc đầy nhà, Cho nên mới được gọi là chồng em. Nhớ em những buổi chiều hôm, Anh gom lá đốt khói lên tận trời. Kiên Giang hiện tại tuổi đã ngoại bát tuần. Những bài thơ, những vở cải lương hay những bài vọng cổ của ông vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các thế hệ người mộ điệu. Đến hiện tại, người mê thơ vẫn còn ngậm ngùi với Hoa trắng thôi cày trên áo tím, với Tiền Và Lá, người mê vọng cổ-cải lương vẫn còn xao xuyến với Sơn nữ Phà Ca, Chiếc Áo Trước Cổng Chùa, với Trái Gùi Bến Cát, với Tiền và Lá, hay với nhiều bài khác nữa. Sáng tác đừng xa rời thực tế Dù nói về thơ ca hay vọng cổ-cải lương, thì lối sáng tác của Kiên Giang vẫn mang đậm chất bình dị, gần gủi và rất nên thơ. Đặc biệt, tinh hoa của Kiên Giang tập trung ở cái chất thuần Nam Bộ của ông. Có người còn so sánh : Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê Bắc Bộ còn Kiên Giang là nhà thơ chân quê Nam Bộ. Và Kiên Giang đã đưa được cái chân quê Nam Bộ này vào những tác phẩm của ông để tạo được nét đặc sắc riêng. Nói về vọng cổ-cải lương, ta thấy rằng nét đặc sắc của Kiên Giang thể hiện ở hai điểm: bình dị và thi vị. Ông đã vận dụng cái chất nông thôn Nam Bộ, vốn là bản chất của ông, để sáng tác, bởi thế lời văn rất bình dị. Ông đã chuyển tải thành công cái thi vị của cuộc đời, vốn đã ăn sâu trong tâm hồn của một nhà thơ như ông, để viết nên những lời ca đầy thi vị. Và chính cái bình dị đã khiến cho bài ca của ông trở nên gần gũi, chính cái chất thi ca đã khiến cho các tác phẩm vọng cổ-cải lương của ông trở nên đẹp và thơ mộng, làm say lòng người mộ điệu. Nhìn lại lịch sử cải lương 100 năm qua, có thể nói rằng, Kiên Giang là soạn giả điển hình cho lối sáng tác “thơ trong nhạc, nhạc trong thơ”. Lối sáng tác của Kiên Giang là một tấm gương sáng cho thế hệ soạn giả cải lương hiện tại. Bởi dù muốn dù không cũng phải thừa nhận rằng, một trong những nguyên nhân khiến cho cải lương mất đi sức hấp dẫn, đó chính là các bài vọng cổ và những vở cải lương được sáng tác ngày nay hình như thiếu chút thi vị, và thường có lời văn quá bóng bẩy văn chương, mà lại còn đề cập đến những chủ đề quá xa vời đối với người mê cải lương vùng sông nước Nam Bộ. Nguồn: vi.rfi.fr/van-hoa/20130817-kien-giang-loi-viet-cai-luong-mang-dam-chat-tho
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:21:31 GMT 9
« Tiên học lễ hậu học văn » tại Việt NamTừ thập niên nay, tấm biển « Tiên học lễ hậu học văn » được xuất hiện trở lại tại nhà trường Việt Nam sau nhiều năm vắng bóng trên dãy đất hình chữ S. Huấn từ này đã đưa Tiến sĩ Nguyễn Dư, nguyên là giáo sư trường kỹ sư « Centrale » Lyon trở về thời thơ ấu khi ông tình cờ đọc được ở một trường tiểu học tại Nha Trang. Một hiện tượng khác đáng nghi ngờ hơn là « xóm văn hóa, văn minh ». Với lối viết lúc trào phúng lúc nghiêm túc, nhà giáo Nguyễn Dư chia sẻ những hy vọng và hoài nghi của ông qua bài « Tiên học lễ hậu học văn » mà RFI xin trân trọng giới thiệu dưới đây. Thật bất ngờ ! Đang lang thang, dạo chơi tại Nha Trang bỗng thấy câu « Tiên học lễ, hậu học văn » được chăng tại sân chơi của một trường học. Lâu lắm rồi mới thấy lại câu nói của thời xa xưa. Xưa ơi là xưa. Xa lắc xa lơ. « Tiên học lễ, hậu học văn » dắt tôi về thăm lại cái lớp năm trường tiểu học Quang Trung năm 1949-1950 ngoài Hà Nội. Trường Quang Trung, bố mẹ quen gọi là trường Hàng Kèn, nằm tại ngã tư Trần Quốc Toản và Quang Trung. Gần hồ Ha-Le (Halais, tên cũ của hồ Thiền Quang). Từ nhà 112 phố Lê Lợi đến trường cũng không xa lắm. Đủng đỉnh qua ngã năm Gia Long, xuống hết cái dốc Trần Quốc Toản là đến. Trường có một toà nhà chính, sân chơi, thêm một gian ở góc sân. Văn phòng của thầy hiệu trưởng (ông giáo Thành mặc áo dài ta, bố mẹ bảo ông có họ với Mợ Cả) và các lớp học khác chia nhau « chiếm » toà nhà chính. Trừ lớp năm, bị đẩy ra ở cái gian cuối sân. Một mình một cõi. Tôi không nhớ năm ấy mình có bao nhiêu « đồng môn ». Chắc cũng xấp xỉ 60 đứa. Sở dĩ tôi đưa ra con số 60 là vì từ tiểu học cho đến hết trung học, ngoài Bắc cũng như trong Nam, chưa năm nào tôi có dưới 50 bạn học. Chẳng phải lớp học nước ta vĩ đại, chứa được nhiều của quý cho đời. Tất cả chỉ là nhờ vào tài sắp xếp, nhồi nhét của người kê bàn, đặt ghế. Có nghe ai phàn nàn gì đâu. 100% cha mẹ có con học trường công, trường nhà nước đều hài lòng. Có điên mới chê cái này, đòi hỏi cái kia. Lớp học đầu đời của tôi có gì hay ho, dễ thương hơn các lớp khác không ? Nếu được phép nói thẳng, nói thật thì tôi nói huỵch toẹt là không. Tất cả mọi chuyện đều bình thường. Nhưng tôi thích cái lớp học bình thường ấy. Buổi học đầu tiên, thầy cầm thước vừa chỉ vừa đọc câu « Tiên học lễ, hậu học văn » dán phía trên cái bảng đen. Rồi thầy giảng nghĩa. Giảng xong, thầy gõ thước xuống bàn, dặn cả lớp : - Ở nhà phải lễ phép với bố mẹ, ra đường phải lễ phép với mọi người. Hiểu chưa? - Dạ, hiểu rồi ạ ! Suốt tháng đầu tập đánh vần và tập viết. Trọ trẹ. Sai lên sai xuống. Giun bò, gà bới đầy trang vở. Tháng sau tiến lên… học thuộc lòng, viết chính tả. Rồi ì ạch leo lên đỉnh cao của… tính cộng, tính trừ. Bắt đầu chỉ có một số, sau tăng lên hai số, ba số. Vất vả quá. Chẳng có gì đặc biệt. Thế mà cách xa gần nửa trái đất, hơn nửa đời người, tại sao đôi lúc vẫn còn nhớ… Bốn năm học ở trường Quang Trung, chỉ nhớ một mình cái lớp ấy ? Nhớ thầy Ân. Nhớ thằng Việt, thằng Huyền… Chập chờn. Lung linh. Nhớ hai cái thước của thầy. Cái to để kẻ hàng bảng đen. Cái nhỏ để… đánh học trò ! Eo ơi ! Đứa nào cũng sợ cái thước này. Không tin cứ hỏi thằng Việt. Thằng Việt to lớn nhất lớp. Nó cao hơn tôi cả cái đầu. Chẳng mấy đứa ưa thằng này vì nó cậy khoẻ hay bắt nạt bạn bè. Hôm ấy cũng như những ngày khác. Giờ ra chơi, sân trường ồn ào như vỡ chợ. Chỗ này chơi bi, chơi quay. Chỗ kia đánh đáo, đuổi nhau. Thằng Việt không chơi gì cả. Nó kéo « đàn em » đi phá thối. Ván bi của tôi đang sôi nổi hào hứng thì thằng Việt từ đâu chui ra, lững thững đi ngang chỗ chơi. Nó « lỡ » đụng văng hòn bi của tôi. Thằng mất dạy toét miệng ra cười… xin lỗi. Trông thật là đểu. Một lát sau nó lại đi qua. Lại đụng văng bi của tôi. Tức quá, tôi chồm lên vừa chửi vừa đấm một cú vào mặt nó. Nhưng, có lẽ nó đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ dịp để ra tay. Lập tức nó quơ tay trái siết cổ tôi, tay phải đấm liên tiếp ba bốn quả vào má vào mồm tôi. Đau quá. Tôi chỉ còn nước khóc gào lên để cầu cứu. Thấy vậy, cả đám đứng xung quanh xúm vào ôm thằng Việt, gỡ tôi ra. Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, tôi mắm môi, lấy hết sức thụi một cú vào mồm thằng… đáng ghét. Một hồi trống nổi lên. Hết giờ chơi. Xếp hàng vào lớp. Vẫn còn đau. Mồm sưng, suýt chảy máu. Trong đầu tôi bỗng loé lên một cách trị thằng Việt. Phen này ông cho mày… biết tay ông. Xin lỗi, đang hăng tiết vịt nên ăn nói… vô tội vạ. (Viết hồi kí mà!). Xin sửa lại. Ông vừa được… biết tay mày. Ông không thèm… cho mày biết tay ông. Phen này ông cho mày… mắc bẫy. Diệu kế của ông như vầy… như vầy… Hạ hồi sẽ biết tay nhau! Tất cả lục đục vào chỗ ngồi. Thầy gõ thước lên bàn. Cả lớp im lặng. Sân khấu kéo màn. Tôi độc diễn trò… ấm ức khóc. Không to quá, không nhỏ quá. Vừa đủ… đến tai thầy. Quả nhiên, thầy trợn mắt nhìn tôi. Thế là trúng kế! Chết mày rồi, Việt ơi. Thầy đập thước xuống bàn, quát to : - Dư, tại sao khóc ? - Thưa thầy, anh Việt đánh con. - Có ai thấy anh Việt đánh anh Dư không ? - Thưa thầy có ạ. Anh Việt cậy khoẻ bắt nạt anh Dư, đánh anh Dư sưng vù cả mặt. - Việt, lên đây ! Hoá ra thằng Việt cao to, khoẻ như thế mà cũng biết sợ. Nó cúi mặt, lấm lét đi lên, khoanh tay đứng trước mặt thầy. Thầy Ân mắng thằng Việt « Có học phải có hạnh ». Thầy giảng : - Đi học bắt nạt bạn, mai sau ra đời bắt nạt, ức hiếp người khác, như thế là người có học nhưng không có hạnh kiểm. Chỉ là một thằng khôn vặt, du côn. Không tốt. Từ nay phải nhớ, bắt nạt bạn là một thói xấu. Cả lớp nghe chưa? - Nghe rồi ạ ! Thầy bắt thằng Việt chìa bàn tay ra. - Bắt nạt bạn, bị phạt ba thước. Thước đầu, thằng Việt nhăn mặt, xoa xoa bàn tay bị đánh vào mông. Thước thứ hai, nó vừa xoa vừa khóc rống lên. Nó khóc có lẽ còn to hơn tôi khóc lúc bị nó đánh. Thước thứ ba, cả lớp im phăng phắc nhìn thằng Việt co rúm người. Khóc không ra tiếng. Bàn tay bị đánh rơi thõng xuống, nó phải lấy tay kia đỡ lên. - Lần sau còn bắt nạt bạn sẽ bị phạt gấp đôi, nghe rõ chưa ! Thằng Việt mếu máo, gật đầu lia lịa. Sau trận đòn, thằng Việt đổi tính. Hết hung hăng. Hiền lành… như cục đất. Cả lớp, không còn đứa nào dám bắt nạt đứa nào. Thầy nghiêm. Phạt nặng. Khôn hồn thì đừng đùa với kỉ luật của thầy. Tôi thích cái lớp học ấy có lẽ vì cảm thấy được an toàn, được cái thước của thầy bảo vệ. Từ ngày không còn sợ bị bắt nạt, tôi đâm ra… thích đi học. Nhưng phải nói ngay rằng thích đi học vì đến trường được chơi bi, đánh đáo chứ không phải để cắm đầu vào học. Thằng Việt bị bạn bè ghét bao nhiêu thì ngược lại thằng Huyền được bạn bè thích bấy nhiêu. Thằng Huyền hay cười, viết chữ đẹp. Thầy Ân cho nó làm trưởng lớp. Gần đến Tết ông Công ông Táo, thằng Huyền đưa ra ý cả lớp chung tiền mua bánh chưng, mứt, hạt dưa, « mừng tuổi » thầy. Mỗi đứa đóng một đồng. Đứa nào không có đủ thì đóng năm hào cũng được. Không đóng thì thôi, không sao cả. Mấy ngày sau, thằng Huyền đưa tiền nhờ mẹ mua các thứ. Cuối buổi học tất niên thằng Huyền giơ tay xin phép thầy. Rồi « phái đoàn » do nó bàn tính, sắp đặt, lễ mễ bưng đồ lên chúc Tết thầy. Thằng Huyền ấp úng nói : - Cả lớp xin kính chúc thầy sang năm mới khoẻ mạnh « bằng năm bằng mười năm nay » để tiếp tục dạy dỗ chúng con. Thầy Ân cám ơn. Giọng thầy hơi run run. A ha, học trò được thầy cám ơn. Làng nước ơi, trẻ con được người lớn cám ơn kia kìa. Cả lớp mặt mày đứa nào cũng hớn hở. Thầy chúc tất cả sang năm mới chăm học, ngoan ngoãn « bằng hai bằng ba năm nay ». Buổi học đầu năm mới thầy Ân mang một gói kẹo đến mừng tuổi cả lớp. Thằng Việt được thầy sai phát cho mỗi đứa một cái. Việt ta hãnh diện lắm. Có ngoan mới được thầy sai như thế chứ ! Thầy bảo cất kẹo vào túi. Tan học mới được ăn. Gần cuối năm học, phải học thuộc lòng bài : Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Thầy nói núi Thái Sơn ở bên Tàu. Cao lắm. Đứa nào cũng thuộc làu làu bài Công cha. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết, nói đúng hơn là chẳng cần biết núi nằm ở đâu, cao bao nhiêu. Người Việt có một đặc tính là hay tự hào. Tự hào có non sông gấm vóc. Rừng vàng biển bạc. Người Việt tự hào dùng hàng Việt. Đề nghị thêm…tự hào dùng sông núi Việt để dạy trẻ con Việt. Dạy rằng : Công cha như dãy Hoàng Liên Nghĩa mẹ như nước Hương, Tiền chảy xa Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Dãy núi Hoàng Liên (Hoàng Liên Sơn, Phăng-Xi-Păng) thuộc tỉnh Lào Cai miền Bắc. Núi cao 3142m. Cao nhất Việt Nam. Cao hơn cả ngàn lần núi Pi của các nhà Toán học (Pi = 3,14). Sông Hương thơ mộng của thành phố Huế, miền Trung. Sông Tiền tấp nập tàu ghe của thành phố Mỹ Tho, miền Nam. Công cha, nghĩa mẹ Việt Nam bao trùm cả ba miền đất nước. Khỏi phải dùng hàng Made in China. Năm 1954 gia đình tôi di cư vào Sài Gòn. Được đi máy bay. Máy bay thật chứ không phải máy bay giấy. Lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây, Thị Nghè không đủ chỗ để nhận hết đám Bắc kì. Phải… thi tuyển. Lần đầu đi thi. Hồi hộp. Rồi cũng xong. Cũng trót lọt. Tôi háo hức hội nhập. Học nói giọng Sè-Goòng. Bập bẹ học vồ cá bụi tre (vocabulaire, ngữ vựng). Chả vồ được con nào. Chữ cô trả cô. Em quên ráo trọi rồi, cô à! Hết năm học phải thi bằng tiểu học. Thi vào đệ thất Trần Lục. Thi hoài dzậy ! Tập tễnh bước sang một thế giới khác. Thế giới của người lớn làm chính trị. Học trò làm… hậu thuẫn. Đi « truất phế Bảo Đại ». Đi « bài phong, đả thực ». Đi « tố Cộng ». Đi đón Lý Thừa Vãn… Thứ hai hàng tuần thầy Cương mặc đồng phục « Thanh Niên Cộng Hoà » làm lễ chào cờ, « suy tôn Ngô Tổng Thống ». Rồi thời gian lặng lẽ trôi. Tôi trôi qua Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An, Đại học Khoa Học, Đại học Sư Phạm. Học hành bê bối, chẳng đâu vào đâu. Năm 1964, tấp tểnh người đi tớ cũng đi. Đi du học bên Pháp. Hoàn toàn xa lạ. Ù ù cạc cạc. Cha mẹ ơi ! « Ai bảo đi tây là khổ, Đi tây sướng lắm chứ ! ». Một thằng vừa câm, vừa điếc, vừa không có tiền thì… đến Tết Congo mới sướng. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Bấm đốt tay, bỗng giật mình. Người khác thì phải thuê nhà rộng mới đủ chỗ để chứa những cái khôn học được. Còn mình thì… sao vẫn chưa khôn ? Uổng cơm cha mẹ. Uổng bánh mì của Pháp. Nhưng cũng tự an ủi, vớt vát một tí. Không học được cái khôn nhưng thỉnh thoảng cũng học được cái hay của thiên hạ. Có lần, học được một bài học đáng đồng tiền bát gạo. Lần ấy, bài làm đúng mà lại bị điểm xấu. Chuyện gì lạ vậy ? Làm sai… được điểm tốt à ? Sống ở hành tinh nào vậy ? Xin báo cáo như sau : Bài làm đúng, ban đầu được 16 điểm. Nhưng bị ông trợ giáo ghi bằng mực đỏ « giống bài của… », chỉ còn 8 điểm. Mất một nửa. Thấy tôi ngạc nhiên, ông nói : « Tôi biết là bạn anh chép bài của anh. Nhưng hai bài giống nhau thì cả hai người đều có lỗi. Tôi phạt đồng đều cả hai ». Tôi bực mình nhưng đành cứng họng. Ông trợ giáo có lí. Tôi phải trả giá (rẻ như bèo) cho một bài học hay. Học được một điều : Ăn hối lộ và đút lót hối lộ, cả hai cùng có tội. Phải bị trừng phạt (thật nặng) như nhau. Không có lửa làm sao có khói. « Tiên học lễ, hậu học văn » ngày xưa bị nhiều người xấu lợi dụng. « Người ta ở đời nhờ có cha mẹ sinh ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một mối luân thường của Á Đông ta. Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dở. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hoá nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trướng, gõ đầu năm ba đứa để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ » (1). Con sâu làm rầu nồi canh. Mấy thầy khôn vặt, sinh sống bằng nghề bắt nạt học trò. Thật đốn mạt ! Đến thời bị Pháp cai trị, các ông làm nghề godautre (gõ đầu trẻ) cũng được xã hội coi trọng. Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng làm nghề này trong một thời gian dài. Không biết Nguyễn Công Hoan hồi nhỏ được các thầy dạy dỗ ra sao. Đến lượt mình đi dạy học thì thầy Hoan dạy dỗ học trò những gì ? Không ai biết rõ đời tư của Nguyễn Công Hoan. Ông được cả nước công nhận là một nhà văn lớn, tác giả của rất nhiều truyện ngắn, truyện dài nổi tiếng. Sau này Nguyễn Công Hoan có dịp viết hồi kí. Thể loại khác, bút pháp khác. Đôi lúc Nguyễn Công Hoan đốp chát thẳng thừng, quên cả « Tiên học lễ, hậu học văn ». « Khải Định là một thằng vô học, chỉ chơi bời. Năm 1919, nó đã ''ngự giá Bắc tuần''. Nó nghĩ ra cách ăn mặc rất ngộ nghĩnh : Vàng từ đầu đến chân. Nón lợp vải vàng, có đính long ly quy phượng bằng vàng. Khăn vàng. Áo màu vàng, thêu kim tuyến, ngắn trên đầu gối. Hai vai đeo ngù quan binh Pháp bằng vàng. Thắt lưng to bản giát vàng. Ghệt đính vàng. Giày tây da vàng, có gài cái sắt thúc ngựa bằng vàng. Tay đeo bốn chiếc nhẫn vàng mặt đá màu lớn. Ra Hà Nội, nó ngồi cùng xe với toàn quyền Sa-rô. Mình cứ tưởng đống rơm, không biết là người. (…) Nó ra Bắc để ký nhường cho Tây Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng làm nhượng địa » (2). Trong cùng cuốn sách, ở một trang khác Nguyễn Công Hoan lại nói « Ngộ nghĩnh nhất là bộ quần áo nó (chỉ vua Khải Định) mặc ra thăm Bắc Kỳ năm 1917, gọi là ngự giá Bắc tuần ». Nguyễn Công Hoan nhớ hai năm khác nhau, 1917 và 1919. Tôi tò mò muốn biết vua Khải Định ngự giá Bắc tuần năm nào? Khải Định nhường Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp ngày nào? Về chuyện nhường đất, Cao Xuân Dục chỉ chép vắn tắt : - Tháng 8 năm Mậu Tý (1888) đem xứ Hàn (Tourane) làm đất nhượng địa Đại Pháp (3). Trần Trọng Kim chép đầy đủ hơn : - Tháng 8 năm Mậu Tí (1888) Triều đình ở Huế ký giấy nhường hải cảng Đà Nẵng, thành thị Hà Nội và Hải Phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa là từ đó việc cai trị và pháp luật ở ba thành thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về nước Nam nữa (4). Sử của ta không chép ngày. Tài liệu của Pháp cho biết rõ ràng hơn. - Ngày 1/10/1888 dương lịch, vua Đồng Khánh kí giấy nhường đứt Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp (5). Chuyến tuần thú Bắc hà (inspection impériale) của Khải Định được Orband tường thuật chi tiết. Xe lửa chở phái đoàn rời Huế lúc 12g30 ngày 19/4/1918 (nhằm ngày 9/3 âm lịch), đến ga Hà Nội lúc 17g ngày 26/4 và trở về đến Huế vào chiều ngày 9/5/1918 (6). Sử của ta cũng chép đầy đủ chuyến ngự giá Bắc tuần của vua Khải Định. Chuyến đi diễn ra từ ngày mồng 9 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm Đinh Tị (1918) (7). Vua Khải Định ra Bắc năm 1918 (chứ không phải 1917 hay 1919 như Nguyễn Công Hoan nhớ). Mục đích của nhà vua là tham quan, thăm dân cho biết sự tình. Việc kí nhường cho Pháp ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng làm nhượng địa đã được vua cha Đồng Khánh làm từ 30 năm trước rồi (1888). Nguyễn Công Hoan có lẽ vì nóng giận, mất bình tĩnh, đã vu oan cho vua Khải Định. Ngoài thằng vô học Khải Định, Nguyễn Công Hoan còn điểm mặt một xâu những thằng tai to mặt lớn khác như thằng công sứ Thái Bình Minault, thằng chánh lục lộ Đông Dương Puyane, thằng toàn quyền Sarraut… Mẹ tôi sốt ruột cắt ngang: - Cụ nào mà ăn nói hăng thế? Giậu đổ bìm leo, đánh võ miệng thì ai đánh chả được! Các cụ vẫn nói: Đánh giặc mà đánh tay không, Thà về xó bếp giương cung bắn mèo. Bọn trẻ sinh sau đẻ muộn không có được cách xưng hô của nhà văn viết hồi kí, kể chuyện chống phong kiến, thực dân, đế quốc. Thời Pháp còn tạm chiếm Hà Nội tụi nhóc con phải ê a: Hỡi các cậu bé con Đang lúc tuổi còn non Các cậu phải chăm học Có học mới nên khôn. Muốn nên khôn thì phải học. Dạ. Muốn học thì phải nhờ thầy. Dạ. Không thầy đố mày làm nên. Dạ. Trở về làng cũ học cày cho xong. Không được ! Sao thầy khinh nhà nông thế. Tay chân thầy như thế kia thì cày bừa cái gì ? Không biết chữ thì chỉ phải chịu tiếng ngu. Không có ăn thì thầy cũng chết nhăn răng. Phong kiến cho thầy ngồi chiếu cao. Thôi thì… trăm sự nhờ thầy. Thầy ra thầy thì may ra trò nên người. Thầy không ra thầy thì… bỏ mẹ cả lũ. Xưa cũng như nay, nhà nào phúc đức thì gặp được « Nhất tự vi sư, bán tự vi sư ». Vô phúc thì vấp phải « Nhất tự…tiên sư, bán tự… tiên sư nhà thầy» ! Có người nghĩ rằng xã hội bây giờ tiến nhanh quá, « đổi mới » chóng cả mặt. Tuổi trẻ thích ứng không nổi. Vì vậy mới phải đặt ra « xóm văn hoá », « tuyến phố văn minh ». Dò hỏi thì được biết « gia đình văn hoá » là gia đình vợ chồng không chửi nhau, bố con không đánh nhau, không làm phiền láng giềng. « Văn minh » là ra đường không vứt rác, không đái bậy, không lấn chiếm lề đường… Suy diễn một cách gián tiếp là khuyến khích mọi người tìm đọc « Quốc văn giáo khoa thư » và « Luân lý giáo khoa thư » của trẻ con ngày xưa. Nhiều phụ huynh trẻ ngày nay bỡ ngỡ trước cái khuôn vàng thước ngọc lạc hậu « Tiên học lễ, hậu học văn » của giáo lí phong kiến. Ta đã mất nhiều thời gian, nhiều thế hệ mới phá bỏ được nó. Bây giờ lại có người muốn đi giật lùi sao? Có điên mới đi giật lùi. Phải tiến, phải « chồm lên phía trước » chứ. Miễn là đừng chồm như ngựa bất kham. Nguyễn Dư (Lyon, 7/2013) (1)- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp tái bản, 1990, tr. 212. (2)- Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr. 140-142. (3)- Cao Xuân Dục, Quốc triều sử toát yếu, Văn Học, 2002, tr. 526. (4)- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, Miền Nam tái bản, tr. 345. (5)- Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 225). (6)- Richard Orband, Voyage de S.M. Khải Định dans le Nord-Annam et au Tonkin, BAVH, Juillet-Septembre 1918. (7)- Quốc sử quán triều Nguyễn, Đồng Khánh, Khải Định chính yếu, Nguyễn Văn Nguyên dịch, Thời Đại, 2010, tr. 275-276. Nguồn: vi.rfi.fr/van-hoa/20130906-«-tien-hoc-le-hau-hoc-van-»-tai-viet-nam
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 19:24:21 GMT 9
Dương Vân Nga : Đời luận anh hùngTrong lịch sử phong kiến Việt Nam, các nhân vật nữ không được nhắc đến nhiều như các đàn ông. Đấy không phải là vì phụ nữ nước ta kém tài, mà vì họ luôn bị ràng buộc trong cái lễ giáo trọng nam khinh nữ của các vương triều phong kiến. Thế nhưng, đến với Lưỡng triều Hoàng hậu Dương Vân Nga thì lại khác. Bà là hoàng hậu của hai Triều Đinh và Lê. Bà là người từng có quyết định ảnh hưởng đến cả vận mệnh dân tộc. Và cũng là người hứng chịu búa rìu của cái việc “đời luận anh hùng”. Dương Vân Nga là một nhân vật lớn trong lịch sử Việt Nam. Thế mà, ngay chính bà cũng không thoát được cái vòng “trọng nam khinh nữ” của các sử gia phong kiến. Các bộ sử lớn như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn không hề dành phần riêng nói rõ về thân thế của bà như trường hợp những nhân vật nam khác. Đến thời đương đại này, các sử gia mới ra sức tìm hiểu nguồn gốc xuất thân của bà. Nhưng kết quả thu được chẳng có bao nhiêu bởi sử cũ không chép lại thì thế hệ hiện tại lấy gì mà tra khảo. Xuất thân của Dương Vân Nga Trong thực tế đó, xuất thân của Dương Vân Nga vẫn còn là đều bàn cãi. Bà có lẽ là người của vùng đất Hoa Lư, Ninh Bình. Sử cũ chỉ ghi bà họ Dương, còn tên thì hiện có hai thuyết: Dương Vân Nga và Dương Ngọc Vân. Tuy nhiên, theo như tên ghi ở Đền thờ Vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư, thì bà tên là Dương Vân Nga. Có người cho rằng, cái tên Dương Vân Nga được phổ biến trong dân gian và nhờ vào các vở cải lương nói về Dương Vân Nga. Thế nhưng, xét thấy ngôi đền nói trên được xây dựng cách đây trên dưới 300 năm, còn cải lương thì chưa được 100 tuổi, bởi vậy cái tên Dương Vân Nga ất phải có trước cải lương. Hơn nữa, người Việt Nam đã quá quen với cái tên Dương Vân Nga, các sử gia khi đề cập đến bà cũng hay dùng tên Dương Vân Nga. Bởi vậy, ở đây xin được dùng cái tên quen thuộc là Dương Vân Nga. Quê quán của Dương Vân Nga hiện cũng chưa rõ lắm. Có người nói ở Ninh Bình, có người lại bảo là Thanh Hóa. Năm sinh của bà hiện vẫn là một ẩn số. Sử cũ chỉ chép rõ ràng năm mất của bà là năm 1000. Nhiều sử gia ước đoán bà thọ khoảng từ 55-60 tuổi. Như vậy, năm sinh của bà có thể là trong giai đoạn 940-945. Nhường ngôi cho người ngoại tộc Các chi tiết liên quan đến nguồn gốc xuất thân của Dương Vân Nga còn khá mù mờ, nhưng trái lại sự kiện bà nhường ngôi nhà Đinh vào tay Lê Hoàn và là hoàng hậu của hai Triều Đinh-Lê thì các bộ sử đều chép rõ với những lời khen chê khác nhau. Về việc Dương Vân Nga nhường ngôi cho Lê Hoàn, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục đều chép: “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân. Khi (triều đình) đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: " Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ (mới 6 tuổi-LP), chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn".Quân sĩ nghe vậy đều hô "vạn tuế ". Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980), giáng phong vua (Đinh Toàn-LP) làm Vệ Vương”. Sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hồi đầu thế kỷ 20 cũng chép lại sự việc như trên. Trần Trọng Kim cũng nhấn mạnh đến sự kiện sau đây: “Vệ Vương mới có 6 tuổi lên làm vua, quyền chính ở cả Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, Lê Hoàn lại cùng với Dương Thái Hậu tư thông. Các quan đại thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lời nhận xét của sử thần Ngô Sĩ Liên như sau: “Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam cương là đạo thường của muôn đời, không thể một ngày rối loạn. Khi Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương tuy còn nhỏ nhưng vẫn là vua, thế mà Đại Hành tự xưng là Phó Vương, rắp tâm làm điều bất lợi. Đạo làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm thì ắt phải giết. Đó là phép của sách Xuân Thu, người người điều được nêu lên mà thi hành. Nguyễn Bặc, Đinh Điền sao có thể nhẫn tâm điềm nhiên mà nhìn ? Rồi lui về dấy quân hỏi tội, mưu giữ xã tắc, thế là bầy tôi trung nghĩa đấy. Việc không xong mà chết, thế là bề tôi tử tiết đấy”. Khâm Định nhà Nguyễn thì tỏ ra nghi ngờ về việc mọi người cùng nhau suy tôn Lê Hoàn lên ngôi, khi có giọng mỉa mai rằng: “Bờ cõi Bắc Nam tuy có khác, nhưng vận hội vẫn như nhau: nhà Lê thì có chuyện khoác áo long cổn, nhà Lý thì lời sấm truyền ghi trên thân cây, sao mà giống chuyện với bên Tống thế! Hay là người làm sử thấy thế, gò ép gán gẩm vào với nhau để cho thần dị câu chuyện, chứ trời kia có ý làm ra như thế đâu?”. Lưỡng Triều Hoàng hậu Khi ở ngôi, vua Đinh Tiên Hoàng lập đến 5 Hoàng hậu, Dương Vân Nga là một trong số 5 Hoàng hậu đó. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn theo điển của vua Đinh mà lập đến 5 người làm Hoàng hậu. Tuy nhiên, điều nhạy cảm là Lê Hoàn lại phong cho Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng Hậu, tức tên hiệu của vua Đinh Tiên Hoàng. Theo Nho Giáo mà nói, thì rõ ràng là việc lấy vợ của vua trước là điều đáng phê phán. Bởi vậy mà Đại Việt Sử Ký toàn thư chép lời bàn nặng nề như sau: “Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chổ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đàu mối họa đó sao?” Khâm Định nhà Nguyễn thì chép lời bàn: “Đại thắng minh là tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành lấy hiệu vua cũ đặt cho vợ mình: Thật là không còn kiêng nể chút gì cả! Sử sách ghi chép, để cười nghìn thu”. Đến việc năm 1001, Lê Hoàn mang quân đi đánh Cử Long: Vệ vương Đinh Toàn đi theo. Sử cũ chép : « Bấy giờ quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung, chĩa tên, toan bắn, chiếc tên rơi xuống; chúng lại giương cung, dây cung đứt. Chúng sợ, rút lui. Nhà vua đi thuyền ven sông đuổi theo. Quân giặc ở hai bên bờ đánh khép lại. Quan quân bị hãm ở sông. Vệ vương Toàn trúng phải mũi tên bay, mất tại trận. Nhà vua kêu trời ba tiếng, rồi thân ra đốc chiến: quân giặc thua”. Đinh Toàn là chúa cũ của Lê Hoàn, nhưng khi nhường ngôi cho Lê Hoàn đã bị giáng xuống làm Vệ Vương. Về sự việc Đinh Toàn mất nói trên, Khâm Định nhà Nguyễn chép lời phê như sau: “ Lê Hoàn lợi dụng cơ hội, đã cướp lấy nước người ta, lại không khéo đối đãi chúa cũ, đẩy vào chỗ chết, thế nào mà Toàn chẳng đến tử vong? Còn việc cất tiếng kêu trời, gieo mình xuống đất, chỉ là một ngón giả trá. Thật khó che đậy được công luận nghìn thu”. Ta thấy các sử gia phong kiến luôn có thái độ phản đối việc Dương Vân Nga nhường ngôi cho Lê Hoàn, nên mới có những lời nặng nề như vậy. Quyết định cứu nguy cho toàn dân tộc Việc Dương Vân Nga nhường ngôi nhà Đinh cho Lê Hoàn lợi hại thế nào ? Để trả lời cho câu hỏi này, ta cần xem xét bối cảnh lịch sử của sự kiện này. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vào năm 968, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị gian thần Đỗ Thích giết hại. Con trai nhỏ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn được tôn lên ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn được nắm quyền nhiếp chính, chỉ huy quân đội của cả nước và tự xưng là Phó vương. Các đại thần nhà Đinh như Đinh Điền và Nguyễn Bặc bất mãn với điều đó nên phát binh làm phản và bị Lê Hoàn đánh dẹp. Bên ngoài thì nhà Tống phát binh đánh xuống, toan chiếm nước Đại Cồ Việt. Trong bối cảnh nền độc lập quốc gia bị đe dọa như vậy, Dương Vân Nga với tư cách là Thái hậu nhiếp chính đã quyết định tôn Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế. Lịch sử đã chứng minh, đây là một quyết định sáng suốt, có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Khi quân Tống tràn sang xâm lấn, vua Đinh Toàn chỉ là cậu bé 6 tuổi, trong khi Dương Vân Nga thì dù sao cũng là đàn bà nên không thể vùng vẫy trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ như xưa kia được. Các tướng có tài từng sát cánh Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc thì đã nổi loạn chống Lê Hoàn và đã bị giết. Lê Hoàn lại nắm trong tay đến 10 đạo quân, và như sử sách đã chép là ông rất được lòng quân. Ông lại là tướng có tài. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Hoàn đã thân chinh đánh lui quân Tống phía Bắc, bình quân Chiêm ở miền Nam, cứu lấy giang sang Đại Cồ Việt. Có phải chỉ một mình Dương Vân Nga muốn tôn Lê Hoàng lên làm vua còn bá quan và quân sĩ thì không muốn ? Nếu quả thật chỉ một mình Dương Vân Nga muốn điều đó thì bà cũng không thể tự tiện quyết định việc nhường ngôi nhà Đinh cho người ngoại tộc, bởi chuyện nhường ngai vàng đâu phải là chuyện nhỏ, bởi còn đó bá quan văn võ nhà Đinh, còn đó gia tộc họ Đinh. Như câu chuyện đã kể bên trên về sự nhường ngôi, thì dù chỉ trích hành động này, nhưng hai Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhà Hậu Lê và Khâm Định nhà Nguyễn cũng phải ghi nhận rằng : « Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế ». Một điểm cần nhấn mạnh nữa là, việc Lê Hoàn lên ngôi phải hợp lòng quân và lòng dân lúc ấy. Bằng chứng là ông đã chỉ huy quân dân đánh thắng quân xâm lược phương Bắc. Nếu Lê Hoàn không được sử ủng hộ của ba quân và của nhân dân, thì ông lấy đâu đủ sức mạnh mà chiến đấu chống lại một kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong bất kì cuộc chiến chống ngoại xâm nào của Việt Nam, nếu không được lòng dân và lòng quân, thì tự nhiên sẽ thất bại, như trường hợp của Nhà Hồ của Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần dẫn đến chỗ trong nước « chính sự phiền hà » để trong nước « lòng dân rối loạn », và để đất nước rơi vào tay của giặc Minh. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã tỏ ra là một minh quân. Nếu trong sự nghiệp chống ngoại xâm, ông nổi tiếng với các chiến công « Phá Tống, Bình Chiêm », thì việc nội trị ông cũng là người tài giỏi. Chính ông khởi đầu cho Lễ tịch điền, tức lễ mà vua đích thân xuống cầm cày, một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Lê Hoàn cũng là vị vua mở đường cho công cuộc đào kênh rạch khai thông đường thủy và lấy nước phục vụ nông nghiệp. Về ngoại giao, Lê Hoàn đã có chính sách ngoại giao mềm dẽo khôn khéo. Sử cũ đã ghi lại việc Lê Hoàn nhận chiếu nhà Tống mà không quỳ lạy, sứ Tống cũng phải lơ đi. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhà vua còn bố trí cho sư Pháp Thuận giả làm người chèo đò ra đón sứ giả Lý Giác. Câu chuyện hai người đã mượn bài thư Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vương đời Đường để nối vần đối đáp với nhau nhân có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, đã khiến Lý Giác rất thích thú và bị chinh phục, đã trở thành giai thoại thú vị trong lịch sử bang giao và văn học. Sau đó, về Lý Giác đã làm một bài thư gửi tặng ngỏ ý « tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống ». Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận định: « Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy ». Sử gia Lê Văn Hưu, dù phê phán việc Lê Hoàn lên ngôi, cũng phải thừa nhận tài năng của Lê Hoàn : « Đại Hành Giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện , Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được ». Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí đã nhận định : “Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng”. Ngay như Trần Trọng Kim là một sử gia rất sùng Nho, cũng thừa nhận những chiến công « phá Tống, bình Chiêm » của Lê Hoàn. Và cũng thừa nhận việc Lê Hoàn bình loạn đảng trong nước và ca ngợi : « Thanh thế vua Đại Hành lúc bấy giờ rất là lừng lẫy ». Lê Hoàn phong cho Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu, việc này bị các sử gia phong kiến chê trách, cho là bất kính với vua trước là Đinh Tiên Hoàng, vì tên hiệu của Đinh Tiên Hoàng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Ta thấy, ở đây Lê Hoàn giữ lại tước hiệu cũ cho Dương Vân Nga. Không chỉ việc đó, khi lên ngôi, Lê Hoàn đã lấy niên hiệu là Thiên Phúc, mà Thiên Phúc lại chính là niên hiệu của Đinh Toàn, con trai của Đinh Tiên Hoàng, người tiền nhiệm của Lê Hoàn. Tại sao ở đây ta không cho rằng, Lê Hoàn có thái độ lưu luyến triều Đinh nên đã giữ lại những tên đó, và để khẳng định là ông lên ngôi là vì tình thế ép buộc, là vì vận mệnh xã tắc ? Những chiến công chống ngoại xâm, bình nội loạn, xây dựng kinh tế đã cho thấy Lê Hoàn thật sự là một ông vua vì nước. Sử gia đương đại Nguyễn Khắc Thuần trong Việt Sử Giai Thoại đã cho rằng : « Đinh Tiên Hoàng mất, vua nối ngôi là Đinh Toàn chỉ mới được sáu tuổi, Lê Hoàn làm Phó Vương, giữ quyền nhiếp chính, ấy là vì sự thể lúc đó buộc phải làm như vậy. Sau, vận nước lâm nguy, xã tắc không thể phó thác cho Đinh Toàn bé nhỏ, chư tướng cùng Dương Thái hậu tôn Lê Hoàn lên ngôi, và Lê Hoàn đã vui nhận ý tôn lập đó, ấy cũng bởi sự thể lúc bấy giờ buộc phải làm như vậy đó thôi. Ai lên ngôi để hưởng cuộc đời nhung lụa, còn Lê Hoàn lên ngôi trước hết là để nhận lấy sứ mệnh vinh quang mà cực kì khó khăn, đó là chỉ huy cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng, bảo vệ nền tự chủ và thái bình cho xã tắc, kính thay ». Không dùng ánh mắt riêng tư để nhìn chuyện muôn nhà Đến đây ta có thể nói rằng, thái hậu Dương Vân Nga đã sáng suốt và có quyết định đúng đắn khi trao ngai vàng nhà Đinh lại cho Lê Hoàn. Đặt giả thuyết rằng những lời đồn đại về việc bà là người tình thuở hàn vi của Lê Hoàn, hay là bà đã tư thông với Lê Hoàn khi làm Thái hậu, là đúng, thì quyết định nhường ngai vàng của bà cũng vẫn là một quyết định lịch sử trọng đại, có lợi cho toàn đại cục lúc bấy giờ. Nhờ quyết định đó, mà nước Đại Cồ Việt đánh thắng ngoại xâm, dẹp được nội loạn, trở nên phồn thịnh. Nếu Dương Vân Nga lúc đó đặt lợi ích gia tộc lên trên lợi ích quốc gia, tức là khư khư giữ ngôi cho đứa con trai 6 tuổi của mình khi đất nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, thì vận mệnh đất nước sẽ ra sao ? Đương nhiên, theo giáo điều Nho Giáo thì việc thay quyền đổi chủ như trên luôn bị phê phán. Bởi vậy mà các sử gia Nho Giáo đã không tiếc lời chỉ trích việc Lê Hoàn lấy ngôi nhà Đinh. Thế nhưng, cũng chính các sử gia này đã thừa nhận những chiến công « phá Tống, bình Chiêm » và việc xây dựng đất nước phồn thịnh của Lê Hoàn. Xưa nay, cái việc « đời luận anh hùng » luôn lắm bề rối rắm, việc khen chê luôn rất khó phân biệt ai có lý hơn ai. Xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đến mức mà việc đánh giá anh hùng cũng phân làm hai loại : nam thì mới được gọi « anh hùng », còn nữ nhi thì phải gọi là « anh thư ». Thế nhưng, xin được gọi Dương Vân Nga là một «anh hùng », vì bà phải có đủ can đảm và sáng suốt để có được một quyết định đúng đắn mang tầm vóc lịch sử như vậy. Bà đã có cái nhìn lấy đại cục làm trọng. Bà đã không đem ánh mắt riêng tư để nhìn việc của muôn nhà. Và cái chuyện « không đem ánh mắt riêng tư để nhìn việc của muôn nhà » của Thái hậu Dương Vân Nga quả là một bài học có giá trị ở mọi thời đại. Lê Phước Nguồn: vi.rfi.fr/van-hoa/20130927-duong-van-nga-doi-luan-anh-hung
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 15, 2019 0:55:51 GMT 9
Mục-liên bản hạnhHoàng Xuân-Hãn Phiên âm từ bản nôm, hiệu-đính và chú-thích Dẫn Sau đây là chuyện đức Bồ-tát Mục-liên soạn bằng Việt-ngữ xưa , theo thể lục-bát, để Phật-tử nhớ và tôn-sùng một vị La-hán có tiếng rất hiếu-hữu, đã cứu mẹ ra khỏi Địa-ngục. Cũng nhờ hành-động của Ngài mà nay có lễ Vu-lan ngày rằm tháng bảy để báo-hiếu cho tổ-tiên. Bồ-tát người Bắc-Ấn-độ, vốn tên Maudgalyâyana, hoặc Moggalâna. Người Trung-quốc đã phiên ra chữ Hán mà ta đọc là Mục-kiện-liên hoặc gọi tắt là Mục-liên. Mục-liên là một trong mười vị đệ-tử cao nhất của đức Phật. Là con nhà phú-hữu, trái ý với cha mẹ, Ngài đi tu đạo Bà-la-môn, thành bực thầy có tới năm mươi đệ-tử, và nổi tiếng giỏi các phép thần-thông. Nhưng chưa toại ý với đạo-lí mình đã học, Ngài kết bạn với một đồng-chí xá-lị-phất (cariputra ) đến kinh-đô Vương-xá-thành ( Radjagriha ) của nước mình Ma-kiệt-đề (Magadha ) để học-hỏi sáu thầy Bà-la-môn nổi tiếng. Nhưng cũng không toại nguyện. Trong sáu thầy ấy, có San-xà-da ( Sajaya ) mách cho biết rằng thái-tử Thích-ca-mâu-ni (çakyamouni) đã tu đắc-đạo và sắp tới Vương-xá-thành thuyết-pháp. Hai người bèn đợi. Lại có bạn của Xá-lị-phất là Át-bệ ( Açvajit ) đem đạo-lí của đức Phật kể lại cho nghe, hai người xin qui-y và theo đức Phật, rồi nên hai vị đệ-tử rất cao trong Phật-giáo. Đức Phật đã rất chú-trọng đến hai người, khẳng-định rằng cả hai sẽ thành Phật, và coi Mục-liên là đệ-tử thần-thông bậc đầu. Phật-tử đời sau chú-ý nhất vào truyền-thuyết chuyện bà mẹ Mục-liên, tên là Thanh-đề, bị đày vào ngục A-tì vì bà có ác-tâm. Mục-liên thương mẹ, bèn xin Phật giúp đi cứu. Phật bảo nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư-tăng "ra hạ" mà làm lễ trai-đàn xin chư-tăng cầu xá tội cho mẹ. Phật lại cho một cái gậy bít thiếc có phép mở cửa khi gậy gõ vào, và Phật trỏ cho Mục-liên biết mẹ bị giam ở ngục nào? Nhờ vậy, Mục-liên tìm được nơi mẹ bị đày; rồi nhờ ngục-tốt gọi mẹ ra nhận mặt. Thanh-đề nói không có con nào tên Mục-liên. Mục-liên phải giải-thích rằng đó là hiệu sau khi tu chứng-quả. Mẹ mừng và ra ngục với con. Mục-liên mời mẹ ăn chuối. Bà bóc vỏ, vứt xuống đất, những tù-nhân khác muốn lượm ăn. Bà bèn lấy chân dày cho nát. Con biết mẹ còn nghiệp-chướng; lòng buồn, nhưng cũng làm phép dâng mẹ bát cơm trắng. Mẹ mừng, và ăn cơm; nhưng khi cơm sắp vào miệng thì lại hoá ra than. Phật cũng không độ được kẻ ác-tâm; Thanh-đề lại phải luân-hồi làm kiếp chó để tự-tu thêm. Nhờ con tu-hành, chư-tăng giúp cứu, ba năm sau, bà mới trở lại kiếp người. Văn-kiện sau đây kể lại chuyện nầy bằng quốc-âm, thể lục-bát dễ hiểu, dễ nhớ để giáo-hoá phật-tử nước ta. Giá-trị bản văn không hơn những chuyện cổ-tích bằng văn lục-bát đời Lê còn lại ngày nay. Chữ vần nhiều nơi chọn vụng. Quí là về phương-diện cổ-ngữ Việt. Trong chính-văn ngắn-ngủi , chỉ có 162 vế ( 1134 từ) mà văn-bản còn giữ được khá nhiều từ cổ (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "t.c." trong vòng đơn), hoặc nghĩa cổ, hoặc âm cổ bằng cách đổi âm trắc ra âm bằng (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "b.â." trong vòng đơn). Một tính-cách khác của Phật-giáo đời Lê cũng thấy trong văn nầy: ấy là "Tam giáo tĩnh hành": những quan-niệm Lão và Khổng được ghép vào trong chuyện Phật-giáo. Ví như nói đến lễ Trung-nguyên, tức rằm tháng bảy, nói đến chữ Nhân trong cách xử-thế, lại không quên ơn Vua và chúc nước vững-bền. Tuy văn-bản nôm không mang thời-điểm khắc, nhưng chữ nôm cổ, từ-ngữ cổ vẫn còn. Vả lại tôi được thấy bản in nầy đóng cùng với một sách khác có tựa khắc năm 1731 (Vĩnh-thọ tam niên), một loại sách có chữ nôm mà tự-dạng còn mới hơn, dùng bởi các thiền-sư Tam-giáo để làm những lễ trai-đàn (tên sách làCung-văn dịch đình bài-biện các đàn). Tôi nghĩ rằng văn-bản nầy đáng được coi là khắc tự đời Lê, trước 1731. Chữ khắc khá chính-xác, tuy rằng cũng có chữ không thành hình hoặc lầm ra chữ khác. Có chữ mà tôi chữa vì chắc sai hoặc nghi sai, thì tôi sẽ dùng ám-hiệu "ng." trong vòng đơn, nghĩa là: nguyên là. Trong bản phiên-âm, tôi cũng chú-giải những từ tối nghĩa, viết bằng chữ xiên trong vòng đơn liền sau những chữ ấy. Tôi cũng sẽ xếp các từ được chú-giải ấy vào một phần tự-vựng đặt cuối sách. Sau các từ, sẽ có những số mã trỏ vế mang từ ấy và có chữ mang cả chú-thích nữa. sau nầy, nếu có nhịp, tôi sẽ phiên âm bài tựa sách Cung văn dịch đình bài biện các đàn và cho phụ vào đây. Ngày 4 tháng 9 năm 1994 , PL 2538 Hoàng Xuân-Hãn Mục-liên tu đạo 1 Tích xưa Đức Bụt Mục-Liên Thương mẹ tìm đến Tây-thiên tu-hành Ba năm chứng-quả viên-thành Một bát một mình nhẫn-nhục từ-bi Mẹ ác bị đày 5 Thanh đề (tên mẹ) từ thủa sinh-li (sinh ra) Tội nặng, sa ngục A-tì khốn thay ! Diêm-vương đôi-hỏi (vặn tra) đòi ngày (nhiều ngày) Dương-gian thiện ác, biết hay ca (t.c. : tại) lòng Khán-quan kiểm-bộ tiên-đồng ( kẻ coi sổ giữ ngục) 10 Mở sổ ròng-ròng biết sự ngay gian Thanh-đề nết ở đá-đoan (t.c. đa-doan) Thấy người đói khát cơ-hàn chẳng thương Sát-hại lục-súc ngưu dương (trâu dê) Tổn tha vật-mệnh (sinh-mệnh chúng), phỉ (nhạo) thường báng tăng 15 Cho nên quả-báo chẳng hằng (quái gở) "Nhị tác nhị thụ" (mầy làm mầy chịu), đọa chưng (rơi vào) U-đồ (đường tối:Âm-phủ) Mục-liên tìm mẹ Con tìm mười cửa Phong-đô Chẳng thấy từ-mẫu, biết hồ (biết là) làm sao Trở về bạch Bụt thấp cao : 20 ((Còn có ngục nào, vâng phép lại đi )) Bước qua khỏi dặm Bách-kì Coi thấy cửa ngục thành-trì ghê thay ! Tích-trượng (gậy bít thiếc) cầm ở ca (t.c: 8) tay Gõ vào cửa ngục, mở bày song-song 25 Ngưu-đầu ngục-tốt (kẻ giữ ngục có đầu trâu) tây đông Vâng phép đều cùng phóng xá tội-nhân Thấy mẹ khổ-hải (bể khổ) trầm-luân Bằng dao cắt ruột mười phần quặn đau Thanh-Đề mới bảo trước sau: 30 (( Mẹ phải cơ-cầu (đói khổ), nhiều nỗi gian-nguy (( Từ ngày thác xuống Âm-ti (( Mẹ phải cầm ngục A-tì khốn nay (( Ơn con báo-bổ làm chay (( Phá được ngục nầy, mẹ mới thoát thân 35 (( Chẳng còn bén chút phàm-trần (( Tổ-tiên nội ngoại, song-thân hoà đồ (tất cả) (( Được ngồi cửu-phẩm (cao chín bậc) Tiên-đô (( Tống-thực Thiên-trù (bếp Trời cho ăn), hỉ-xả từ-bi )) Cứu mẹ khỏi tù Mục-Liên thủa ấy mới ( ra? ng. là) đi 40 Tìm chẳng thấy mẹ, ngồi thì hoà (cả) lo Mười tám cửa ngục rạc (t.c. giam) tù Thương mẹ thay là! Tìm chẳng thấy đâu Dòng-dòng nước mắt thấm bâu (t.c. tay áo; ng: dâu) (( Mẹ ơi mẹ hởi ! ở đâu ? Thương nầy ! )) 45 Bụt bảo Mục-Liên rằng bay (t.c. như vầy) : (( Mẹ Ngươi bấy-chầy (bấy lâu) cầm ở Phong-đô (( Mười tám cửa ngục rạc tù (( Non cao cồn-cộn, Phong-đô rái dàng (đáng sợ) ! )) Mục-Liên coi thấy chẳng đang 50 Tay cầm tích-trượng gõ ngang cửa tù Thanh-Đề ra hỏi sự-do: (( Người nào hay đến Phong-đô chốn nầy ? )) Mục-Liên thưa lời rằng bay (45) (( Tớ đi tìm mẹ chốn nầy, là Nuôi (t.c. thưa Ông) 55 (( Bụt đã bảo tớ mọi lời (( Ơn Nuôi (t.c. Ông, Bà) đòi bảo mẹ nầy ra đây )) Quỉ-sứ (ng: Ơn sứ) vào bảo một giây (chóng) : (( Có Mục-Liên Thầy tìm mẹ phu-nhân )) Thanh-Đề mãng (t.c. nghe) tiếng, than thân : 60 (( Mục-Liẽn tên ấy, phu-nhân khôn (khó) nhìn (( Dương-gian, là vóc (thân) con min (t.c. ta) (( Tên thì (ng: ngày) chẳng phải Mục-Liên đâu là )) Quỉ-sứ khi ấy lại ra: (( Mục-Liên chẳng phải con bà thân-sinh )) 65 Mục-Liên lại bảo phân-minh Dẫn-dụ sau trước chân-tình cho hay: (( Mẹ sinh ra vóc (61)thật rày (( Xuất-gia làm Thầy, cải hiệu Mục-Liên (( Đêm ngày thương mẹ đi tìm 70 (( Bụt cho một trượng tích-kim (thiếc) con gầy (gậy b.â.) (( Thấy vậy tìm đến chốn nầy (( Ơn Nuôi (56) ngày rày bảo Mẹ ra đây )) Quỉ-sứ vào bảo một giây (57) Thanh-Đề mừng giã các rày tù-nhân : 75 (( Con tôi có nghĩa thập-phân (hoàn-toàn) (( Xin ra cho biết, kẻo phần đợi trông )) Thanh-Đề ra cửa Đông-phong Mục-Liên coi thấy cúc-cung (cúi mình) tạ-từ Đôi hàng nước mắt bằng mưa 80 Ôm mẹ hoà (t.c. mà) khóc qua ư (t.c. quá chừng) thương nầy: (( Thì-vần (vận b.â.) quả-báo chẳng tây (t.c.tư, riêng) (( Nhị tác nhị thụ" (16), ai rày chịu cho (( Bấy-chầy (46) Mẹ thác Phù-Đồ (Âm-phủ) (( Mẹ ôi! Quả-báo Phong-Đô nhật-dà (dạ b.â.: đêm ngày) 85 (( Áo-ăn (ăn-mặc) làm thấy xấu-xa (( Ba năm tù-rạc thật là gian-nguy (( Bây-giờ chẳng có của chi (( Thì-trân quả-thực (trái ngon đúng mùa) Mẹ thì xá (t.c. hãy) ăn)) Mẹ còn tính ác Lòng (mẹ) còn toan ( nghĩ ) dữ làm ngần (t.c. quen) 90 Ăn chuối bỏ vỏ; tù-nhân ăn mày Chẳng cho, lấy chân đạp dày Mục-Liên coi thấy, thương thay cong (t.c. : trong) lòng : (( Thể-âu (t.c. hẵn là) quả-báo làm xong (t.c. thật thế) (( Ước làm sao khỏi thoát vòng u-minh )) 95 Mục-Liên niệm-cứu hương-kinh Hoá bát cơm trắng, hoá hình mẹ ăn Thanh-Đề chịu chẳng làm ngần (89) Và chưa đến miệng, cơm rày (liền ?) ra than Mục-Liên nước mắt hoà (t.c. cả) chan (đầy) 100 (( Mẹ ơi mẹ hởi! Bàn-hoàn (bâng-khuâng) thương thay! (( Thể-âu (93) quả-báo còn chầy (t.c. lâu) (( Mẹ con nhiều nỗi đắng cay trăm đường )) Mẹ bị thêm kiếp chó Thanh-Đề chịu những tư-lương (lí-luận) Đọa làm thân chó, chực trường (dài) ba năm 105 Dòng dòng nước mắt chiêu đăm (t.c. tả hữu) Chịu làm thân chó cổ câm (kim) khác loài No (t.c.đủ) ngày mới được làm người Vì chưng quả-báo chẳng sai đâu là Thụ tội khốn-khổ ai qua 11O Rày mới cốc (t.c.: biết) tính, sự nầy biết hay Nhớ ơn có Mục-Liên Thầy Minh tâm kiến tính (rõ tâm thấy tính) thuả nầy ai qua Dựng làm Thủy Lục trai-gia (lễ chay thủy bộ) Kim-ngân châu-báu phát ra làm ngần (89) 115 Trước là báo đức từ-thân Sau là Thất-tổ (bảy đời trên cha) trầm-luân hoá-hồn Mục-liên cứu mẹ Cùng nhờ Đại-Pháp Không-môn Bao nhiêu hoành-mệnh (sinh mệnh) đẳng-hồn thoát ra Tụng kinh liên-tiếp nhật-dà (84) 120 Khai phương (mở lối), phá ngục khắp hoà (cả) làm nơi (các chỗ) Chuyển luân (quay bánh xe) Pháp, trống vang trời Thỉnh Thập-phương Phật hộ nơi chứng-đàn (đàn cầu xin) Thinh-văn (đệ-tử được nghe Phật) Bồ-tát hai bên Đồng trợ công-đức mạn-viền (viên b.â: đầy đủ) thuả nay 125 Tụng kinh Huyết-bồn (tên kinh gán cho Mục-liên) khi nay Trung-Nguyên (lễ rằm tháng bảy) xá tội thoát rày Phong-Đô Bao nhiêu địa-ngục lao-tù Cùng được thoát cả Tiên-đô thanh-nhàn Mục-Liên cứu mọi người Mục-Liên nhớ đức Từ-nhan 130 Mãn-viên (124)bát-độ (dựng đặt) trai-đàn tiến-tu Huyết-bồn (125) đẳng chúc Cửu-Ngu (chín đời si-mê ?) Nhiễu đàn tam táp (đi quanh đàn ba vòng) Phong-Đô rành-rành Bao nhiêu tù-ngục lạc-hình (trại giam) Bụt liền xá tội, siêu-sinh làm ngần (89) 135 Thanh-Đề từ ấy thoát thân Khỏi loài cầm thú cổ-câm (kim) từ rày Nhờ ơn có Mục-Liên Thầy Các các môn ngục đều rày hoá Tiên Ai ai hưởng lộc tự-nhiên 140 Thất- tổ Cửu-huyền (chín đời trước) đều được hoá sinh Lễ trung-nguyên và dòng tam-giáo Cam-lồ (sương ngọt) nước rưới tĩnh-thanh (trong-trẻo) Làu-làu kim-tướng (mình Phật) toạ bình (màn che) liên-hoa Thiều (đàn), tiêu (sáo), nhạc vỗ, xướng ca Bảy hàng cây báu rà-rà nở đua 145 Trung-Nguyên (126) phóng-xá lao tù Mục-Liên tiếp-dẫn, Diêm-phù sạch không Từ rày đắc đạo thành công Muôn năm hưởng phúc, Quốc-trung khoẻ bền Viên-dung (thông suốt) báu-phiệt (bè từ-bi) vạn tuyền 150 Hữu tội, vô tội, thoát liền lâng-lâng Thủy thanh (nước trong) nguyệt hiện trừng-trừng (suốt suốt) Một cơn gió thổi quét chưng (t.c. ấy) bụi trần Ai ai đội đức Hoàng-ân (nhà Vua) Thập-bát địa-ngục làm ngần (89) hỉ-hoan 155 Ngưu-đầu, mã-diện thiên ban (nghìn thứ quỉ giữ ngục) Đều thì phóng-xá khải-hoàn (thắng về) Thiên-quân (đồn Trời) Khuyên người thiện-tín xa gần Xá (t.c. hãy) tu cho chín, chữ nhân chớ dời Độc dữ quả-báo vô-sai 160 Ai hoà (t.c. mà) giữ được, ấy mai được tuyền Hạnh nầy truyền để thiên niên (nghìn năm) 162 Mục-Liên thành Phật, thành Tiên chép làm ./. Nam Mô a-di-đà phật Thiên-Tử Vạn vạn niên chi thọ Paris ngày trước Trung-nguyên năm Giáp Tuất Phật-lịch 2538 (C.l. 1994) Hoàng Xuân-Hãn phiên-âm từ bản Nôm và chú-thích Nguồn: chimviet.free.fr/vanco/hxhan/hxhp051.htm#muclientudao . *********************************************************************************** Ý NGHĨA VU LAN HT. Thích Thanh Từ Phật tử khi nghĩ tới công ơn cao siêu vời vợi của cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hết dạ đền đáp. Nếu không đền đáp được nhiều ít ra cũng năm, mười phần chớ không thể nào chúng ta bỏ mặc cha mẹ ra sao thì ra, đó là không biết đạo nghĩa. Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình. Những lỗi lầm đó hoặc là các ngài thấy, các ngài nghe cho đến chưa thấy, chưa nghe mà chỉ nghi thôi cũng cứ chỉ. Nếu mình thấy đó là lỗi thật thì mình thành tâm sám hối chớ không dám cãi, không dám bỏ qua. Bởi vậy nên ngày này chư Phật rất vui vì thấy chúng đệ tử có tâm hồn phục thiện, biết cải hối những lỗi lầm. Do đó cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ. Đó là ý nghĩa thứ nhứt. Ý nghĩa thứ hai, ngày này là ngày gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật. Bởi vì theo tinh thần kinh Vu Lan, ngày rằm tháng Bảy chính là ngày Tôn giả Mục Kiền Liên tìm thấy mẹ đang sinh trong kiếp ngạ quỷ khổ đau, mà tự bản thân Ngài cứu không được. Ngài mới nhờ Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ. Nhân đó Phật dạy muốn cứu mẹ thoát khỏi tai ách, phải nên cúng dường chư Tăng, Ni. Nhờ lực gia trì của Tăng, Ni phụ giúp cho mẹ Ngài chuyển đổi tâm ác, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Với lòng thành kính của người con thảo, Ngài đã thực hiện đúng những lời Phật dạy và mẹ Ngài cũng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Chính nhờ lòng thành đó mà đến rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ của chúng Tăng, Phật dạy chúng ta nên cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng phụ lực mà thân mẫu trong nhiều đời được siêu thăng. Nên ngày này còn gọi là ngày Báo hiếu. Trong mùa này, mỗi Phật tử chúng ta nhớ lại công ơn cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng cực khổ, cho nên chúng ta nhờ sức chú nguyện của chư Tăng, Ni, nếu cha mẹ có sa vào đường khổ thì nhờ phúc đức này được thoát khỏi. Còn nếu cha mẹ không đi trong đường khổ thì nhờ phúc đức này mà được tăng trưởng thiện căn. Nếu cha mẹ hiện tiền cũng nhờ đó mà tăng trưởng tuổi thọ và phát tâm Bồ đề. Đó là ý nghĩa báo hiếu của người con Phật. Bởi vậy ngày Vu lan còn có tên là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày mà mọi người đều ăn năn, xin cải đổi sám hối, mong các vị lớn tha thứ cho. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm cầu nguyện cho các vong nhân được khỏi những kiếp khổ đau. Tôi đã kể sơ qua về ý nghĩa của ngày lễ Vu lan rồi. Bây giờ đi sâu hơn về hạnh hiếu của người con Phật. Nhiều khi quý Phật tử thắc mắc, Phật dạy làm con phải hiếu thảo với cha mẹ nhưng quý thầy, quý cô lại bỏ cha bỏ mẹ đi tu, như vậy là bất hiếu rồi, làm sao dạy Phật tử có hiếu được? Không phải vậy. Mới nhìn chúng ta thấy như là bất hiếu nhưng trái lại là chí hiếu. Tại sao? Vì đi tu không có nghĩa là tìm nơi an nhàn để thụ hưởng yên ổn cho riêng mình, mà vì thương cha thương mẹ, thương chúng sinh; muốn tu làm sao tự bản thân mình giải được những phiền não khổ đau, rồi sau đó giúp cha mẹ và hướng dẫn mọi người hướng về con đường đạo đức, bỏ đi những điều tội lỗi. Đó là đền đáp công ơn cha mẹ. Theo thế gian, hiếu thảo với cha mẹ là lo đủ mọi thứ, nào là cơm ăn, áo mặc, giường chõng, thuốc men… nhưng có người nào lo mà cha mẹ khỏi chết không? Dù nuôi kỹ cách mấy rồi chết cũng phải chết. Theo tinh thần đạo Phật, chúng ta không chỉ có mặt ở một đời này mà còn có mặt ở vô số kiếp về trước và sau nữa, nên mất thân này sẽ mang thân khác. Do đó nếu ngay thân này không biết làm lành thì e rằng đời sau sẽ đọa những đường khổ. Bởi vậy người tu phải làm sao thức tỉnh cha mẹ hướng về con đường lành, để cho cha mẹ có mất đi thì sẽ được hạnh phúc, an vui trong những đời sau. Tôi thí dụ như cha mẹ năm sáu mươi tuổi, có con mười mấy tuổi phát tâm đi tu, ban đầu cha mẹ buồn trách nhưng sau đó lại tự xấu hổ. Vì nghĩ rằng con mình còn nhỏ nhưng không ham ăn, không ham danh lợi còn mình già rồi mà vẫn chưa thức tỉnh. Nghĩ vậy, tự nhiên mình cũng bắt chước, lần lần bớt ham ăn, lại tập ăn chay, bớt ham danh lợi, nhờ vậy mình tu từ từ. Rõ ràng, lúc đầu thì thấy con như dở nhưng càng về sau lại thấy càng hay. Cho nên phần nhiều những gia đình có con đi tu thì dần dần cha mẹ và gia quyến cũng bắt chước tu theo. Đó là tinh thần hiếu đễ của người xuất gia. Người ở thế gian cứ nghĩ nuôi cha mẹ được ấm no, đầy đủ là có hiếu nhưng quên rằng tuổi thọ cha mẹ có giới hạn, tới mức độ nào rồi cũng phải đi. Cho nên làm sao vừa lo cho hiện tại được ấm no mà nghĩ tới tương lai, sau khi cha mẹ bỏ thân này được thân sau cũng phải sáng sủa, tốt đẹp hơn nhiều. Đó mới gọi là người biết lo chân chính, lâu dài. Như vậy tinh thần của người tu không phải là bỏ cha mẹ mà là thương cha mẹ. Vì muốn hướng cha mẹ về đường lành, hướng thân quyến phát tâm Bồ đề nên mới đi tu. Với truyền thống người Việt Nam ta, hiếu thảo là một điều rất thiêng liêng, rất cao cả. Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết. Thuở xưa cha ông chúng ta cũng từng răn dạy những điều đó. Tôi dẫn một ít đoạn trong ca dao, tục ngữ để quý vị thấy hiếu thảo là một điều hết sức quan trọng: Nuôi con chẳng quản chi thân Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ. Qua bốn câu này, quý vị thấy người bình dân Việt Nam đối với công ơn cha mẹ rất là thắm thiết. “Nuôi con chẳng quản chi thân”, khi cha mẹ nuôi con thì không nghĩ gì tới mình hết, miễn con khỏe mạnh là cha mẹ vui. Con bệnh hoặc bị phiền não hay tật nguyền gì đó thì cha mẹ buồn khổ. Cha mẹ muốn hy sinh thân mình cho con được khỏe mạnh. Dù cực khổ, khó khăn đến mấy cũng vẫn không nề, không chán. Câu sau “Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”, thật thấm làm sao! Những năm trước bốn mươi lăm, ở Việt Nam mình kinh tế rất là chật vật, quý vị nào có ở miền quê mới thấy cảnh cha mẹ nghèo ở nhà lá rách, giường chiếu chỉ có một đôi thôi. Con nhỏ chừng một, hai tuổi ban đêm có bệnh hay đái dầm. Khi đái dầm thì ướt, ướt mà không có chiếu thay nên mẹ nằm bên ướt, để con chỗ khô ráo cho nó ngủ ngon. Cái tình của người mẹ quê như vậy, người không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ làm sao cho con ngủ ngon giấc, con được khỏe mạnh, con chóng lớn lên. Người mẹ xưa đã sống trong cảnh cơ cực đó nên mới nói lên được câu này “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”. Người mẹ lúc nào cũng trải thân mình cho con cái, quên cả mọi khổ sở, mọi đau đớn, miễn làm sao cho con ăn ngon ngủ được, đó là yên lòng mẹ. Cha mẹ đối với con đã không kể thân, không nghĩ tới phần của mình thì làm con cái phải làm sao? Chúng ta là con, muốn đền được ơn đó thì phải nhớ câu “biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, lên non xắn đá xây lăng phụng thờ”. Khi cha mẹ chết rồi mình mới lớn khôn, nhớ ơn cha mẹ không biết làm sao cho nên cạy đá, xây lăng thờ cha phụng mẹ, đó là nói theo người thế gian. Còn nói theo tinh thần đạo Phật thì nếu cha mẹ chết rồi, chúng ta ráng làm điều lành, điều phước để hồi hướng cho cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sinh tiền, chúng ta lo lắng cho cha mẹ được ấm no, được hạnh phúc, biết quy hướng về Tam bảo, đó là bổn phận của người con hiếu. Lại một bài nữa: Công cha nghĩa mẹ cao vời Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta Nên người, ta phải xót xa Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao. Nghĩa là công ơn cha mẹ rất cao vời, không có gì sánh được. Cha mẹ có khi nào nghĩ rằng tôi nuôi nó chừng ba năm, bảy năm rồi bỏ nó muốn ra sao thì ra đâu. Từ thuở còn bé, nằm nôi cho tới khi lớn khôn, có đôi bạn, có con, vẫn cứ lo. Hết con tới cháu, cho tới đầu bạc phơ, rồi tới ngày tắt thở mới thôi. Như vậy để thấy thâm tình cha mẹ đối với con không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy bổn phận làm con ta phải làm sao? “Nên người, ta phải xót xa”, khi lớn khôn rồi nghĩ đến công ơn cha mẹ như trời cao, biển rộng. Ân nghĩa đó nặng nề sâu thẳm chớ không phải là thường. Cho nên người Phật tử khi nghĩ tới công ơn cao siêu vời vợi của cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hết dạ đền đáp. Nếu không đền đáp được nhiều ít ra cũng năm, mười phần chớ không thể nào chúng ta bỏ mặc cha mẹ ra sao thì ra, đó là không biết đạo nghĩa. Trong đạo Phật thường nhắc nhở, trong năm tội ngũ nghịch thì tội bất hiếu với cha mẹ là đầu. Tôi dẫn một câu chuyện hiếu thảo hơi lạ để quý Phật tử thấy rõ ý nghĩa công ơn cha mẹ như đã nêu. Ngày xưa có anh chàng nọ vừa dở, vừa không gặp thời, làm ăn đâu thất bại đó. Gia đình một vợ năm bảy con, nuôi không xuể, thiếu hụt đủ thứ. Cạnh bên có người láng giềng rất hào hiệp, mỗi khi anh túng quẫn anh qua nhà ấy vay mượn, mượn rồi không có tiền trả. Thời gian sau túng quẫn nữa anh lại qua nữa, nhưng rồi cũng không có tiền trả. Tuy nhiên người hảo tâm kia vẫn cứ cho mượn hoài, đến khi anh nhà nghèo già và chết. Khi ấy anh bị lôi xuống Diêm vương, ngục tốt tra khảo sổ sách thì thấy anh nợ người láng giềng quá nhiều, Diêm vương liền ra lệnh: “Bây giờ chú mầy phải sinh trở lại làm trâu kéo cày để đền trả nợ trước”. Anh chàng đó nói: - Không được, cho làm trâu không đủ trả, xin cho tôi làm cha nó mới đủ trả. Diêm vương ngạc nhiên quá: - Tại sao đã thiếu nợ người ta mà còn đòi làm cha người ta nữa? Anh chàng liền giải thích: - Nếu làm trâu thì sống bảy tám tuổi, cao lắm mười hai tuổi là chết. Mười hai năm kéo cày trả nợ không đủ. Chỉ có làm cha là tôi lo cho đến hết đời, nuôi nấng họ đến hết đời. Hết đời tôi rồi, còn dư bao nhiêu tiền của để lại cho họ luôn. Nếu tôi còn sống dai thì nó có cháu, có chắt tôi cũng nuôi tất. Như vậy mới khả dĩ trả hết bởi nợ to quá. Như vậy quý vị thấy làm cha còn nặng hơn làm trâu nữa. Vì làm trâu chỉ giới hạn bảy tám năm hay chín mười năm thôi, còn làm cha là suốt một đời, trả hoài cho đến đời cháu nữa. Và có ai chửi mắng gì mình cũng nhận chịu luôn. Nhận hết mọi việc như vậy mới đủ trả. Câu chuyện có tính cách khôi hài, nhưng qua đó chúng ta thấy công ơn của cha mẹ không thể kể hết, phải không? Cho nên người ta bảo kiếp làm cha mẹ đối với con còn hơn kiếp trâu ngựa nữa chớ không phải là vừa. Vậy mà nhiều khi con không nhớ, không biết, còn phụ rẫy, bạc bẽo lại với cha mẹ nữa. Thật là tội lỗi biết bao! Đã không biết ơn cha mẹ thì ơn xã hội chắc càng không biết. Nếu người không biết ơn nghĩa gì hết thì con người đó gọi là con người gì? Con người vô ơn bạc nghĩa! Đã là người vô ơn bạc nghĩa thì còn dùng được chỗ nào? Bởi vậy muốn thành một người tốt đối với xã hội, trước hết chúng ta phải là người con hiếu thảo với cha mẹ. Do biết thương cha mẹ nên mình không đánh lộn, cãi lộn, hút thuốc, uống rượu, làm những việc hư thân khiến cha mẹ buồn. Nhờ thế mà mình thành một người tốt trong xã hội. Thế nên hiếu thảo là bước đầu để xây dựng gia đình tốt đẹp, xã hội văn minh, quốc gia cường thịnh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 4:21:50 GMT 9
Ngôi mả ‘chôn đứng’ ở Nam bộLần theo dấu chân người rong ruổi đất phương Nam, người bình dân miệt này còn lưu truyền câu chuyện “Đứa con giết mẹ bị Trời trồng chết đứng”. Truyện đại thể rằng: Có một tên cố nông, nhà nghèo nhưng không biết lo làm ăn lại hay ngỗ nghịch với mẹ. Ngày kia, hắn được bạn bè rủ đi nhậu. Hắn giao đứa con chừng 3 – 4 tuổi cho mẹ hắn trông coi. Bà mẹ già lẩm cẩm đã để đứa con của hắn té sông mà chết. Khi hay tin, hắn trở về hung hăng cầm phảng rượt chém mẹ, bà già hoảng hốt bỏ chạy. Chẳng may, chân vấp phải bờ đất té nhào. Hắn giơ phảng lên khỏi đầu thì cũng là lúc Trời hóa phép “trồng” đứng hắn như vậy. Hắn đau đớn rên la mấy ngày rồi chết. Dân làng thương tình nên dùng xi măng trét lại thành cái mả đứng. Ở vùng Tiền Giang có cái mả đứng như thế. Song, trong dân gian còn một cách lý giải về chuyện mả đứng, trời trồng gắn với chủ nhân của của nó là tên Việt gian khét tiếng Trần Bá Lộc. Dân gian tin rằng do tên này quá ác, nên trước khi qua đời hắn sợ bị “đào mồ cuốc mả” nên trối lại phải chôn nhiều ngôi mộ giả để… không ai biết. Còn việc mả chôn đứng là bởi Trần Bá Lộc cao ngạo đòi chôn đứng để “chống mắt nhìn đời”. Sự thật thì không biết sao, có điều bia miệng về sự gian ác của hắn để lại đến nay vẫn chưa hề mai một. Đọc thêm Sài Gòn năm xưa, tại sao có chữ ” Gái bán hoa ” ? “ Trong số những “đại Việt gian” theo thực dân Pháp giết hại nhân dân, đàn áp các phong trào khởi nghĩa ở Nam Bộ, thì Trần Bá Lộc là tay sai tàn ác nhất. Trần Bá Lộc là con Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đỗ tú tài vào Nam dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long), sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Khi thực dân Pháp xâm chiếm, Lộc đem gia đình lên Mỹ Tho, làm nghề bán cá cho quân Pháp, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc giới thiệu để xin vào làm lính mã tà. Trần Bá Lộc. Lộc lập nhiều thành tích nhờ do thám, chỉ điểm cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên được thăng chức làm cai, rồi lên đội rất nhanh. Mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865, cũng là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ (ngạch công chức cao nhất dành cho người Việt Nam dưới thời pháp thuộc. Với ngạch này có thể làm tới chức Phó chủ tỉnh). Trên một tấm bia gắn trên mộ Lộc, chính quyền thuộc địa đã ghi nhận “công” của Lộc đã tham gia trong hầu hết những cuộc đàn áp nghĩa quân ở Nam Kỳ. Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả quân Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn nấp, kêu họ ra đầu thú. Nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Chính từ sự tàn ác của Lộc, năm 1886, Lộc được Pháp điều ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Nhà văn Sơn Nam phân tích: “Khi Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa, Trần Bá Lộc ở xứ Nam Kỳ lại hăng máu, xin đem quân ra đánh dẹp. Việc này xúc phạm đến tự ái của quân Pháp, các công sứ Pháp và Nguyễn Thân, tay Việt gian đắc lực ở miền Trung. Vì cho rằng tại sao dẹp một cuộc khởi loạn ở miền núi xứ An Nam, lại cần đến chi viện?. Nhưng vài tên Pháp đầu sỏ đã ủng hộ việc ấy. Thế là Trần Bá Lộc huênh hoang, cho khắc con ấn với chữ Tổng đốc Thuận Khánh để sử dụng, đồng thời lại chiêu mộ hơn ngàn lính mã tà, đưa vào trại Ô Ma ở Sài Gòn để tập dượt”. Với thủ đoạn từng áp dụng ở đảo Phú Quốc khi vây bắt nghĩa quân Nguyễn Trung Trực năm 1868, đàn áp cuộc khởi nghĩa Thủ Khoa Huân năm 1875 ở Mỹ Tho, Lộc bắt bớ rồi tra tấn thân nhân của nghĩa quân và của chính Mai Xuân Thưởng… Trần Bá Lộc cho bắt người thân nghĩa quân rồi trói bỏ vào cối đá cho lính dùng chày giã để lung lạc tinh thần của các thủ lĩnh kháng Pháp, … Nhiều quan chức người Pháp không ưa Lộc vì sự tàn ác đến man rợ, nhưng cũng thừa nhận rằng: “Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn”. Đọc thêm Những câu chuyện ly kỳ và động trời trong Tử Cấm Thành Mộ đứng là của Trần Bá Lộc, ngôi mộ thấp hơn là của Trần Bá Thọ (con trai Lộc). Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau: “Người ta có thể phàn nàn lão già này về hành động dã man lúc trước, nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn”. Toàn quyền Paul Doumer vào Nam lần nào cũng xuống nhà thăm Lộc. Để tưởng thưởng “công lao” của Lộc, năm 1899, Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra Doumer còn cất nhắc Lộc, trước khi chết được vào Hội đồng tối cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ. Lộc chết năm 1899, đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày, mỗi ngày đều làm heo, bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bồng súng chào và đưa tới huyệt. Sĩ phu Cái Bè có câu đối mai mỉa Trần Bá Lộc như sau: “Tả quân quốc ư lưỡng kỳ, Nam tảo Bắc trừ, thứ nhật niễu hùng nan dụng võ/ Bão lê dân ư Ngũ Hiệp, tư qui sinh ký, kiêm triêu chấp phất hận vô văn”. Tạm dịch nghĩa: “Giúp việc cho thực dân Pháp và triều đình Huế; đánh phá trong Nam ngoài Bắc, ngày ấy niễu hùng này hết đường dùng võ/ Cai trị dân Ngũ Hiệp, sống ở chết về, muốn nhắc đến công nghiệp mà không có cái văn nào tả xiết”. Theo Út Tẻo/Dân Việt
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 4:33:10 GMT 9
Sài Gòn muôn màu muôn vẻ với cuộc sống và cách ăn vận hằng ngày của người Sài Gòn xưa.Tôi tự hỏi, người Sài Gòn là như thế nào, vài người lớn tuổi cho rằng làm gì có người Sài Gòn tuy thành phố trải qua hơn 300 năm tuổi, để trả lời câu hỏi này không dễ dàng trong một bài viết ngắn chỉ dựa trên những cảm nghĩ nhận xét chung chung. Người sinh ra ở Sài Gòn, tức nhiên là người Sài Gòn. Người sinh sống ở các tỉnh khác về Sài Gòn lập nghiệp vẫn tự nhận mình là người Sài Gòn. Và không ít nhận xét của nhiều người cho rằng để nhận ra người Sài Gòn “thứ thiệt” hãy nhìn vào cách ăn vận. Tất nhiên, cách phân biệt này chỉ là một góc nhìn nhỏ trên bức tranh văn hoá xã hội địa dư rộng lớn của một vùng đất bao dung người lưu dân tứ xứ. Người bạn sống ở Q. 11, Sài Gòn kể hồi nhỏ vẫn thường ghé sang nhà ông nội chơi. Ðó là một căn nhà nhỏ sống theo kiểu tam đại đồng đường. Bà cố, ông bà nội và các cô chú còn tuổi đi học. Cho đến khi anh được bảy tám tuổi gì đó mới nhận ra bà cố ở nhà thì mặc áo bà ba nhưng khi đi chợ thường thay một chiếc áo dài thâm, trên tay có khi cắp cái rổ mây, có khi xách cái giỏ đan bằng tre. Chợ không xa nhà chừng độ vài trăm mét, đâu cần phải thay áo dài cho thêm rườm rà không giống các bà các bác trong xóm mỗi khi đi chợ đều mặc chiếc áo bà ba cho thoải mái. Gia đình ông nội từ Sa Ðéc lên Sài Gòn sống từ giữa thập niên 1950, đâu phải là điền chủ, công hay tư chức mà bà cố ăn vận kiểu cách như lớp người thượng lưu. Khi lớn lên, anh nhìn lại thì mới nhận ra chiếc áo bà cố mặc năm xưa chỉ là loại vải đen bình dân nhưng có lẽ do thói quen ăn vận khi bước chân ra khỏi nhà dù gần hay xa người Sài Gòn cần ăn mặc cho phải cách. Cách ăn vận áo dài khi ra ngoài phố của bà cố còn giữ được đến thế hệ anh bạn không gì là lạ. Các bà các cô thời đó vẫn thường mặc trang phục áo dài đi làm hay đi mua sắm ngoài phố. Ðó là lớp người có cuộc sống kinh tế tương đối khá giả và lúc đó chiếc áo dài đã thay đổi kiểu cách khá nhiều, chứ lớp người bình dân như bà cố anh thì ít ai mặc áo dài bình dị đi chợ mỗi ngày. Tôi xin nói rõ, ít chứ không phải không có. Nhớ vào giữa thập niên 1960, tôi vẫn thường bắt gặp một vài cụ già đi chợ hay đi ra phố mặc áo dài rất đỗi bình dân, đầu cột khăn vuông, chân mang guốc mộc. Ðó liệu có phải là cách ăn vận đúng điệu của người Sài Gòn như anh bạn từng nghĩ về bà cố của mình? Cách ăn vận áo dài của bà cố anh chỉ là do thói quen từ xưa khi còn sống ở quê trong một gia đình trung nông có vài ba mẫu ruộng. Xem lại hình ảnh những sinh hoạt chợ quê xưa cách nay một thế kỷ, không ít các bà buôn bán ở chợ, thậm chí người đi mua sắm, mặc chiếc áo dài vải thô. Chiếc áo dài gắn liền với người phụ nữ từ hai ba trăm năm trước, nó vừa kín đáo vừa tôn dáng vẻ thướt tha của giới tay yếu chân mềm. Do vậy bản thân chiếc áo dài sơ khai không định hình nên giai cấp giàu nghèo. Chỉ khác nhau, người lớp lao động bình dân mặc vải thô, người tầng lớp khá giả giàu có mặc tơ lụa. Do ngày xưa người ta không dệt được khổ vải rộng, chỉ có khổ vải rất hẹp, nên mới có áo dài tứ thân (hai vạt sau ghép lại thành tà áo, hai vạt trước rời nhau, nếu cần có thể buộc lại để tiện cho việc đồng áng). Theo lịch sử chiếc áo dài truyền thống Việt Nam, nhìn chiếc áo dài có thể phân biệt được tầng lớp phụ nữ lao động và phụ nữ sống ở thị thành (ít lao động). Chiếc áo ngũ thân ra đời từ chiếc áo tứ thân. Hai vạt trước và hai vạt sau được may liền nhau, vạt thứ năm may dưới vạt trước xem như một mảnh áo lót. Người lao động mặc áo tứ thân, người thành thị mặc áo ngũ thân. Và từ sau đó, chiếc áo dài còn thay đổi nhiều kiểu cách cho hợp thời thượng. Gia Ðịnh – Sài Gòn là vùng đất hai mùa mưa nắng, thời tiết cũng góp phần làm thay đổi cách ăn mặc chứ tôi không nói đến thời trang. Trời nóng ăn mặc sao cho thoải mái, từ đó các bà ít còn cột khăn vuông trên đầu mà lại quấn khăn vuông. Nó vừa gọn vừa thông thoáng chỉ để che nắng ngay trên đỉnh đầu, không cần dùng đến thì thả xuống vai, có thể dùng lau mồ hôi trán hay lau sơ cái miệng ăn trầu. Ngay cả cái khăn đội đầu của người phụ nữ lớn tuổi sống ở Sài Gòn cũng có thể phân biệt người từ đâu đến. Người Bắc lần đầu di cư vào Sài Gòn khoảng năm 1945 hay di cư ồ ạt sau hiệp định Geneve 1954. Phụ nữ lớn tuổi miền Bắc thường mặc áo dài hoặc áo cánh màu tối, quần vải lãnh đen, đầu chít khăn mỏ quạ, mãi đến hai ba thập niên sau vẫn còn phổ biến. Hiện nay chiếc khăn mỏ quạ không còn phù hợp như một thứ trang phục phụ của người phụ nữ miền Bắc nữa. Trong khi đó, người phụ nữ miền Nam chịu ảnh hưởng cách ăn vận của người miền Trung từ lâu (do lớp người dân Ngũ Quảng di dân vào khai phá đất phương Nam và những đợt di dân sau này). Chiếc nón lá, khăn vuông đội đầu của người phụ nữ miền Nam và người miền Trung không còn ranh giới, vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các cô gái đi làm trong trang phục áo dài và cánh đàn ông mặc đồ tây trắng trên phố năm 1948 tại Sài Gòn. Còn cách ăn vận của cánh đàn ông ở Sài Gòn có thể phân biệt vùng miền như cách ăn vận của người phụ nữ? Mấy ông bạn lớn tuổi kể rằng rất dễ nhận biết: “Thời người Bắc di cư vào Sài Gòn, đàn ông lớn tuổi thường mặc bộ đồ vải nâu có hai túi, chân mang guốc, tay phe phẩy cây quạt lá khi rong chơi ngoài phố, còn đàn ông bình dân miền Nam hay dân lao động sống ở Sài Gòn cũng mặc bộ đồ vải đen hay vải trắng, đi dép có quai hoặc mang guốc mộc. Ngoại trừ những người công chức hay tư chức ăn vận theo kiểu phương Tây, chân mang giày. Công chức thường được cấp mỗi năm hai bộ đồ tây. Ông bạn lớn tuổi của tôi kể chuyện ngày xưa ở Ðức Hoà hồi thập niên 1940, thuở đó nhiều vùng quê Nam bộ còn nghèo khó lắm. Thanh niên làm đồng chỉ mặc chiếc quần xà lỏn, trời mát thì cởi trần, trời nắng thì mặc thêm chiếc áo cụt tay nhuộm màu tối. Ðàn ông lớn tuổi cũng vậy, chỉ có cái quần cụt và cái áo dài tay màu đen, đi chân không. Ðám thiếu nữ ngoại trừ sống trong các gia đình khá giả ăn vận áo bà ba trắng, quần lĩnh đen chứ không có mặc đồ bộ bông hoa như sau này. Con nhà nông nghèo mặc đồ vải thô, thường chọn màu tối. Khi Tết nhất hay trong làng có đám tiệc tùng, tuỳ theo tính chất quan trọng mà họ chọn cho mình một bộ trang phục. Ðàn ông, thanh niên nhà lao động nghèo mặc kiểu quần tây ống suông, lưng quần thường cột dây vải không có dây nịt, áo sơ mi cổ lật, tay dài, bên dưới có hai túi áo, may rộng tựa kiểu pyjama ngày nay, chân mang guốc. Khá giả hơn hoặc làm việc cho chính phủ thì áo sơ mi, quần tây, mang giầy, đầu đội nón cối trắng hay nón nỉ. Ngoại trừ đi đám cưới thì mới có vài người mặc áo sơ mi đeo cà vạt, ít có người mặc đồ vest. Ðàn bà, thiếu nữ mặc áo bà ba hay áo dài màu sắc rực rỡ, quần sa-tanh đen bóng; già thì đội hay quàng khăn choàng, trẻ thì rẽ tóc kẹp ngang, chân mang guốc.Đọc thêm Báo chí Sài Gòn thời xưa Ngay cả sau này, tuy cuộc sống ở quê có chút phát triển, giới thiếu nữ lên Sài Gòn vào thập niên 1960, ăn vận áo dài không khác các cô Sài Gòn nhưng người ta vẫn dễ nhận ra qua mái tóc thả dài kẹp ngang chứ không cắt tóc ngắn, uốn lọn hay thả suối tóc dài như các cô Sài Gòn thứ thiệt. Trong cuốn Sài Gòn chuyện đời của phố, tác giả Phạm Công Luận viết về chuyện ăn mặc của người Sài Gòn ở những năm đầu thập niên 1970. Bài viết miêu tả tỉ mỉ hình ảnh cách ăn vận của người Sài Gòn từ già đến trẻ, đủ mọi thành phần trong đó còn phảng phất nét quê mùa của những người Nam bộ. “Cậu Bảy Nheo đến trước, nhìn khỏe mạnh trong chiếc áo montagut mới toanh màu vàng nhạt… Cậu làm ở sở Mỹ, có tiền nên thích xài loại áo này, giá không rẻ vì nhập cảng từ bên Pháp. Cậu Bảy ngồi nói chuyện với dượng Hai Mỹ, chủ sự Hãng hàng không Air Việt Nam, còn gọi là “Air con rồng”. Ngày Tết, dượng Hai mặc áo sơ mi trắng thắt cà vạt hẳn hoi. Sau đó là ông ký giả nhựt trình, trong xóm gọi là chú Tư. Hôm nay ông vẫn bận cái áo bốn túi màu kaki như mọi ngày nhưng là áo mới coóng. Rồi đến thầy Hai răng vàng, bận sơ mi soa Pháp trắng, bỏ áo vô quần tây đen, mang giầy đen, nhìn trẻ trung. Thầy chuyên chạy “áp phe” thuốc tây… Ðến buổi chiều mùng ba, nhà tôi tiếp mấy chú là bà con xa từ xã Tân Thạnh Ðông miệt Hóc Môn. Ba ông chú, chú Sáu, chú Bảy, chú Tám bận ba bộ đồ bà ba đen y chang nhau trông rất ngộ. Chú Sáu co chân lên ghế ngồi kiểu nước lụt, rút thuốc rê ra quấn hút. Có buổi chiều sau Tết, ông Thầu (làm nghề thầu khoán) từ đầu ngõ đi vào thăm ba tôi. Ông bận bộ pyjama màu ruốc lợt, có viền màu nâu ở tay áo và gần miệng túi. Tay phải ông chống “can” bằng gỗ lên nước bóng, tay trái cầm ống điếu. Ở nhà, ba tôi bận bộ đồ bà ba trắng ra tiếp ông…”. Tôi xin dừng ở đây, không đi xa hơn chuyện ăn vận của giới nam hay nữ, già hay trẻ các thành phần xã hội từ khi các trào lưu mốt phương Tây xâm nhập nhiều vào đời sống của thành phố Sài Gòn vào những năm đầu thập niên 1960. Những hình ảnh ăn vận của người Sài Gòn xưa cũ dù đã mất đi nhưng vẫn còn đọng lại trong ký ức của nhiều người như một mảng văn hoá nhỏ của vùng đất Gia Ðịnh – Sài Gòn ngày trước. Sài Gòn Xưa
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 4:39:52 GMT 9
Tại sao phụ nữ Saigon xưa hay ngồi một bên ở sau xe máy – xe đạp?Khi xem lại các hình ảnh về Saigon xưa, chúng ta hay bắt gặp hình ảnh quen thuộc của các bà, các cô ngày xưa ngồi sau xe máy để hai chân sang một bên. Đó là một nét đẹp kín đáo, dịu dàng của người phụ nữ xưa và nay. Năm 1972, chính quyền Viet Nam Cong Hoa còn ban hình một quy định chính thức là người ngồi sau xe phải ngồi một bên, cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên từ trước đó rất lâu, như một nét văn hoá lâu đời, người phụ nữ miền Nam vẫn có thói quen ngồi sau xe chỉ một bên, nếu ngồi hai bên là sẽ bị đánh giá là… vô duyên mất nết. Ngồi kiểu này là “mất duyên” rồi Ở Saigon ngày xưa, cách đi đứng hay ăn mặc mang tính tự do, thoải mái như phụ nữ như thời nay đều sẽ không được khuyến khích. Theo quan niệm xưa, ăn mặc là yếu tố luôn luôn được xét kỹ để lượng định “nết” có đứng đắn hay không. Cách đi đứng ngoài đường và thái độ cư xử ở những nơi công cộng cũng là “nết” của người phụ nữ. Ngày trước rất hiếm khi gặp một nhóm thiếu nữ hoặc phụ nữ Saigon nào ra đường mà cười nói, đùa giỡn, la hét, ngả ngớn như ngày nay. Nếu cười thì phải lấy tay hay khăn tay (khăn mouchoir) che miệng lại. Cười lớn tiếng hay há to miệng ra sẽ bị nhận ngay hai tiếng “mất nết”. Cách ứng xử này là những bài học được dạy ở nhà trường. Ngoài ra thì gia đình cũng là nơi đầu tiên phải chịu trách nhiệm về các hành vi của người con gái trong nhà. Từ đó mà người ta thường nói rằng “con nhà gia giáo” là như vậy. Những chàng thanh niên mới lớn của Saigon xưa hẳn sẽ không thể quên hình ảnh những nữ sinh Trường Gia Long, Trưng Vương… trước khi leo lên baga xe đều vén tà áo dài, nhẹ nhàng ngồi lên xe do người nhà (hoặc người tình) chở. Một hình ảnh thướt tha đầy mê mị của chiếc áo dài thời ấy khi những đứa con trai mặt đầy mụn nhìn thấy một cô gái nhẹ nhàng phất tay vén tà áo để lộ những bí mật dưới tà áo đó… Theo nhacxua.vn
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2020 19:06:26 GMT 9
Phạm Đình Lân Chuyện về họ của người Việt Namwww.caidinh.com/Nói về họ của người Việt Nam chúng ta tạm tóm tắt một vài đặc điểm chính như sau: 1. Tất cả các họ ở Việt Nam đều được tìm thấy ở Trung Hoa. Những họ cổ xưa như họ Trưng, Âu, Lạc, Dương, Vương, Triệu, Cù, Nông, Nùng, Đoàn, Lữ, Phụng, Chu hay Châu v.v. được tìm thấy ở miền trung du, thượng du Bắc Bộ và ở Guangdong (Quảng Đông), Guangxi (Quàng Tây), Yunnan (Vân Nam), Zhejiang (Chiết Giang), trên đảo Hainan (Hải Nam) xưa là Hợp Phố. Họ Việt Nam Ngô Lê Lý Trần Hồ Hà Tạ Mạc Mã Hoàng (Huỳnh) Hồng Liêu Uông Trịnh Nguyễn Triệu Lạc Lưu Đặng Trương (Trang) Vương Viên Linh Tống Dương Giang Châu Họ Trung HoaWu Li Lee, Li Chen (Zhen) Hu He Xia Mo Ma Huang Hong Liao Wang Cheng (Zheng) Yuan Chao (Zhao) Lo Liu Deng Zhang Wang Yuan Ling Song Yang Jiang Chou (Zhou) v.v. Những họ mà người Việt hiện mang chưa hẳn là họ gốc. Điều dễ hiểu là Việt Nam là quốc gia có nhiều chinh chiến, nội chiến, nổi loạn nên rất khó gìn giữ họ gốc của mình vì một lý do đặc biệt nào đó. Trong quá trình Nam Tiến có nhiều người Việt Nam mang họ Chế, họ Trà… của người Chăm hay họ Sơn, họ Thạch… của người Khmer. Lê Văn Khôi, dưỡng tử của tổng trấn Lê Văn Duyệt, gốc người Cao Bằng, tên thật là Bế Văn Khôi. Chắc chắn hậu duệ của Nguyễn Trãi và Cao Bá Quát thay tên, đổi họ sau khi có bản án tru di tam tộc năm 1442 và 1855 để được an thân. Ngày xưa tỷ lệ người biết chữ Hán để viết gia phả rất nhỏ nên chỉ có gia đình các nho gia, quan lại mới có gia phả. Con cái sinh ra được ghi chép họ, tên, ngày, tháng, năm và giờ sinh kỹ lưỡng để xem tử vi. Số người này rất nhỏ. Chinh chiến làm cho gia phả bị thất lạc. Có người phải thay tên đổi họ và thay đổi nơi cư trú để bảo toàn an ninh và tánh mạng. Giấy tờ chữ Hán không khả tín 100% khi chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thịnh hành trong nước từ hậu bán thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX vì khó minh định thời gian, loại giấy dùng và cách hành văn trong văn kiện để xác nhận đó là thật hay giả, bản chánh hay bản mới viết v.v. 2. Xã hội Việt Nam ngày xưa là xã hội đa thê. Chỉ có con của chánh thất mang họ cha mà thôi. Các con dòng thứ không được giữ họ cha nghĩa là đương nhiên bị loại ra khỏi quyền phân chia gia tài khi người cha mất. Đó là trường hợp cùng cha nhưng lại mang hai họ khác nhau, phức tạp pháp lý của chế độ đa thê. Dưới thời Pháp thuộc chỉ có các công chức mới chú trọng đến việc lập hôn thú và khai sinh cho con để lãnh lương và lo giấy tờ cho con cái học hành. Ngoài xã hội vẫn có nhiều cặp vợ chồng chung sống nhau nhưng không có hôn thú. Khi sinh con đứa trẻ mang họ cha miễn là được cha nhìn nhận. Luật gia đình ban hành năm 1959 qui định con của những cặp vợ chồng không có hôn thú không được mang họ của cha. Nhiều trường hợp bất thường xảy ra trong những gia đình không có hôn thú: trong cùng gia đình, cùng cha, cùng mẹ nhưng những người con sinh trước 1959 mang họ cha và những người con sinh sau 1959 mang họ mẹ. Tình trạng nầy chấm dứt sau năm 1963. Việc mang họ cha quan trọng đối với những gia đình giàu có và quyền tước. Về phương diện vật chất mang họ cha để được quyền dự phần vào việc phân chia gia tài. Về mặt tinh thần đó là danh dự của người xuất thân từ những vọng tộc. *** Các họ thường thấy ở Việt Nam là họ của các vương triều trong lịch sử. Tượng Ngô Quyền trong đền thờ ông ở thôn Cam Lâm (https://vi.wikipedia.org/) Ngô Quyền là người sáng lập ra triều Ngô sau khi đánh bại quân Nam Hán đem lại độc lập cho nước nhà (938). Họ NGÔ ở nước ta cũng không nhiều vì vương triều nhà Ngô tương đối ngắn ngủi (939 - 944 rồi 950 - 965). Ở Trung Hoa nhiều người mang họ Ngô của Wu Fu Cha (Ngô Phù Sai). Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam mang họ Ngô liên hệ với Wu Fu Cha hơn là với Ngô Quyền gốc ở Sơn Tây. Họ DƯƠNG ở nước ta là họ của Tiết Độ Sứ Dương Diên Nghệ, chủ tướng và nhạc phụ của Ngô Quyền. Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha, con của Dương Diên Nghệ, làm nhiếp chánh. Ông soán ngôi nhà Ngô và xưng vương từ năm 945 đến 950. Đền thờ Tiết Độ Sứ Dương Diên Nghệ ở Thanh Hóa (http://hoduongvietnam.com.vn/) và Tượng vua Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư (https://en.wikipedia.org/) Họ ĐINH được tìm thấy nhiều trong cộng đồng người Mường ở Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Đó là họ của Đinh Bộ Lĩnh, người sáng lập ra nhà Đinh, gốc ở Ninh Bình, sau khi đánh dẹp 12 sứ quân năm 968. Nhà Đinh chỉ kéo dài 12 năm (968 - 980) trong lịch sử nên họ Đinh không đông đảo khắp nước. *** Tượng vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư (https://vi.wikipedia.org/) Số người mang họ LÊ ở Việt Nam rất đông. Họ Lê hiện hữu ở Việt Nam dưới ba triều Lê khác nhau tổng cộng 383 năm: - Nhà Tiền Lê khai sáng bởi Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành vào năm 980 và chấm dứt năm 1009. - Nhà Hậu Lê do Lê Lợi tức Lê Thái Tổ khai sáng sau khi đánh đuổi quân Mình ra khỏi bờ cõi. Nhà Hậu Lê kéo dài từ năm 1428 đến 1527. Lê Lợi lên ngôi sau khi Trần Cao tức Hồ Ông, một tôn thất của nhà Trần, bị giết chết. Các bô lão gởi kiến nghị cho nhà Minh để xin Minh đế sắc phong An Nam Quốc Vương cho Lê Lợi vì con cháu nhà Trần không còn ai nữa. Trong hàng ngũ kháng chiến chống quân Minh có hai công thần, một văn, một võ là con cháu của nhà Trần: Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn. Cả hai là cháu của Trần Nguyên Đán. Nhà Hậu Lê đã nhổ hai cây gai này bằng một bản án tru di tam tộc dành cho Nguyễn Trãi năm 1442 và cái chết ám muội dưới sông nước của tướng Trần Nguyên Hãn (1429) để tránh tội nói dối với nhà Minh. - Nhà Lê Trung Hưng kéo dài từ 1533 đến 1788. Đây là thời kỳ các vua Lê vô quyền trước chúa Trịnh. Vào thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, có hai tôn thất nhà Lê Trung Hưng nổi lên chống triều Nguyễn. Đó là Lê Duy Lương nổi dậy vào năm 1833 dưới triều vua Minh Mạng. Ông oán ghét triều Nguyễn vì năm 1817 vua Gia Long ra lịnh xử tử cha ông là Lê Duy Hoán cùng với con trai của Đô Thống Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên. Vua Minh Mạng có ác cảm với họ Lê vì ghét tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt (1), tổng trấn Bắc Thành, Lê Chất (2) và dư đảng nhà Lê ở miền Bắc. Hai vị tổng trấn này bị xử án dưới triều vua Minh Mạng sau khi chết. Mộ của hai vị ấy bị san phẳng. Dưỡng tử của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi dậy ở Nam Kỳ năm 1833. Cuộc nổi loạn thất bại. 1800 người trong thành Gia Định bị giết sạch chôn trong ngôi mộ tập thể gọi là mả ngụy (1835). Nhiều người mang họ Lê khiếp sợ đổi sang họ khác đặc biệt là họ Nguyễn. Năm 1854, dưới triều vua Tự Đức, một tôn thất khác của nhà Lê là Lê Duy Cự nổi lên chống triều Nguyễn. Cao Bá Quát tham gia cuộc nổi dậy được gọi là Giặc Châu Chấu (3) nên bị ‘tru di tam tộc’. Một số tôn thất nhà Lê bị đày vào Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Năm 1861 một người không rõ nguồn gốc theo đạo Thiên Chúa tự nhận là tôn thất nhà Lê dưới tên Pierre Lê Duy Minh hay Lê Duy Phụng hay Tạ Văn Phụng, nổi lên chống triều đình. Đó là lý do tại sao vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức không có thiện cảm với họ Lê. *** Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm (https://vi.wikipedia.org/) Họ TRỊNH được biết đến ở Việt Nam từ thời Nam Bắc Triều (Bắc Triều: nhà Mạc. Nam Triều: nhà Lê Trung Hưng với sự trợ giúp của Trịnh Kiểm). Tổ tiên của các chúa Trịnh là Trịnh Kiểm gốc ở Thanh Hoá. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo sớm mồ côi cha. Nhờ có năng khiếu chỉ huy quân sự thiên phú ông được Nguyễn Kim cho phép ông cưới con gái của ông là Ngọc Bảo. Họ Trịnh không làm vua nhưng làm chúa. Chúa lấn quyền vua. Họ Trịnh quyết định việc phế lập các vua Lê. Thậm chí có khi còn giết vua nữa. Họ Trịnh nắm quyền ở Nam Triều từ năm 1545 đến 1590 và ở Bắc Hà từ 1591 đến 1786 tổng cộng 240 năm. Người Trung Hoa có nhiều người mang họ Trịnh gọi là Zheng (Quan Thoại). Họ Trịnh của người Việt gốc Hoa không liên hệ gì đến họ Trịnh gốc Thanh Hóa cà. *** Tượng đài vua Lý Thái Tổ (ảnh Internet) Họ LÝ ở Việt Nam do Lý Công Uẩn đại diện. Ông gốc ở Bắc Ninh, được nhà sư Lý Khánh Vân nuôi dưỡng và dạy dỗ trong chùa. Năm 1009 vua Lê Long Đĩnh mất. Các tướng lãnh và sư Vạn Hạnh ủng hộ ông lên ngôi. Đó là vua Lý Thái Tổ, người khai sáng ra nhà Lý (1010 - 1225). Trước Lý Thái Tổ có Lý Bôn đánh đuổi quân nhà Lương (Liang) và xưng vương. Đó là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Tổ tiên của Lý Nam Đế là người Hán lánh nạn ở Giao Châu khi Trung Hoa có loạn Wang Mang (Vương Mãng). Lý Nam Đế (vua: 544 - 548) là người sáng lập ra nhà Tiền Lý. Nhà Tiền Lý kéo dài từ năm 544 đến 602 không liên tục vì có một thời gian dài Triệu Quang Phục tức Triệu Việt Vương đảm nhận trọng trách lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng từ phương Bắc (548 - 571). Họ Lý là họ của Lý Đam (Li Dan 571 - 471 trước Tây Lịch) tức Lão Tử (Laozi) hay Thái Thượng Lão Quân, tác giả Đạo Đức Kinh, nền tảng của Đạo Giáo (Taoism). Họ Lý cũng là họ của người khai sáng ra nhà Đường (Tang) (618 - 907) là Li Yuan (Lý Uyên) ở Trung Hoa. Ở Trung Hoa họ Lưu và họ Lý rất đông. Đó là hai họ khai sáng ra nhà Hán và nhà Đường. Nhà Lý suy vi dưới triều vua Lý Huệ Tôn. Năm 1225 vương quyền từ trong tay Lý Chiêu Hoàng rơi vào tay người chồng 08 tuổi, Trần Cảnh, theo kế hoạch của Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ hù doạ khiến vua Lý Huệ Tôn khiếp sợ phải tự tử chết mặc dù không còn tại vị và đã sống trong một ngôi chùa ở Thăng Long. Trần Thủ Độ ra lịnh chôn sống các tôn thất nhà Lý ở thôn Thái Đường, Bắc Ninh, năm 1232. Nhiều người họ Lý đổi ra họ Nguyễn. Dưới triều Lý, Ngô Tuấn (tên thật của Lý Thường Kiệt) được ban quốc tính nhờ có nhiều chiến công nên được mang họ Lý của vua. Đó là danh tướng Lý Thường Kiệt (1019 - 1105). Ngày nay họ Lý được tìm thấy phần lớn trong cộng đồng người Việt gốc Hoa. Họ Lý này khác với họ Lý gốc ở Bắc Ninh. *** Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều (ảnh Internet) Tổ tiên của nhà TRẦN là Trần Lý, một ngư phủ giàu có và có uy tín ở Nam Định. Ông là nhạc phụ của vua Lý Huệ Tôn, vị vua cuối cùng của nhà Lý. Ông là cha của Trần Thừa. Trần Thừa có hai người con là Trần Liễu và Trần Cảnh. Cả hai đều là rể của vua Lý Huệ Tôn. Trần Liễu cưới công chúa Thuận Thiên. Trần Cảnh cưới công chúa Chiêu Thánh tức Lý Chiêu Hoàng. Do sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, cả hai đều có vợ không đầy 10 tuổi! Nếu Lý Huệ Tôn chọn công chúa Thuận Thiên nối ngôi thì Trần Liễu có triển vọng làm vua. Lý Huệ Tôn chọn Chiêu Thánh lên ngôi tức Lý Chiêu Hoàng khi mới lên 07 tuổi. Trần Thủ Độ tìm cách buộc Lý Chiêu Hoàng trao ngôi báu cho chồng là Trần Cảnh khi ông mới lên 08 tuổi! Nhà Trần không có Trần Thái Tổ. Trần Cảnh lên ngôi tức là vua Trần Thái Tôn. Ở tuổi này ông không thể tự nhiên ngồi trên ngai vàng với tư cách vì vua đầu tiên của nhà Trần nếu không có một Trần Thủ Độ quyết đoán, mưu lược và đầy thủ đoạn tàn độc hậu thuẫn. Triều Trần kéo dài 175 năm (1225 - 1400). Dưới triều Trần có tiến sĩ Nguyễn Thuyên làm bài Văn Tế Cá Sấu khiến con sấu rời khỏi sông Phú Lương. Vua Trần Nhân Tôn thấy công việc này giống như Hàn Dũ đã làm năm 830 nên cho phép ông đổi họ Nguyễn sang họ Hàn. Nguyễn Thuyên trở thành Hàn Thuyên (1282). Như đã biết Trần Thủ Độ diệt các tôn thất của nhà Lý trong cuộc thảm sát ở thôn Thái Đường, dùng lời đe dọa khiến Lý Huệ Tôn phải treo cổ mà chết. Ông tư tình với hoàng hậu Trần Thị Dung, bà con cùng dòng máu họ Trần với ông, và chung sống với bà sau khi vua Lý Huệ Tôn thoái vị và tu trong chùa. Ông buộc vua Trần Thái Tôn chung sống với chị dâu, công chúa Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, anh ruột của nhà vua, đang có thai. Từ năm 1390 đến 1400 nhà Trần suy vi. Những gì Trần Thủ Độ gây ra cho nhà Lý được Lê Quí Ly (sau này là Hồ Quí Ly) lập lại cho nhà Trần. Nhà Lý suy yếu khi thái tử Sam tức vua Lý Huệ Tôn sau nầy chạy loạn đến Hải Ấp và sống trong nhà của Trần Lý. Thái tử Sảm yêu con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung. Khi lên ngôi vua Lý Huệ Tôn phong cho Trần Thị Dung làm hoàng hậu. Bao quanh nhà vua là những thành viên của gia đình hoàng hậu. Vua Lý Huệ Tôn và hoàng hậu Trần Thị Dung không có con trai mà chỉ có hai người con gái. Đó là công chúa Thuận Thiên và Chiêu Thánh tức Lý Chiêu Hoàng. Lê Quí Ly được vào triều đình nhà Trần vì có hai người cô là ái phi của vua Trần Minh Tôn. Một người là mẹ của vua Trần Nghệ Tôn (vua: 1370 - 1372) và một người là mẹ của vua Trần Duệ Tôn (vua: 1372- 1377). Năm 1372 vua Trần Nghệ Tôn nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tôn để lên làm Thái Thượng Hoàng. Một người em họ của Lê Quí Ly là hoàng hậu của vua Trần Duệ Tôn. Uy thế của Lê Quí Ly càng lên cao vì Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn rất tín nhiệm ông. Năm 1377 vua Trần Duệ Tôn tử trận khi chinh phạt Chiêm Thành. Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn đưa thái tử Hiển, con vua Trần Duệ Tôn, lên ngôi tức vua Trần Phế Đế (vua: 1377 - 1388) Lê Quí Ly chuyên quyền xúi giục Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn thắt cổ vua Trần Phế Đế vì vua âm mưu chống lại ông (1388). Thái tử Trần Ngung, người con út của Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn, được đưa lên ngôi tức vua Trần Thuận Tôn (vua: 1388 - 1398). Hồ Thành Ngâu, con gái của Lê Quí Ly, là hoàng hậu của vua Trần Thuận Tôn. Năm 1396 Lê Quí Ly bắt vua Trần Thuận Tôn dời đô về Tây Đô ở động Yên Tôn, Thanh Hoá, và buộc vua phải thoái vị để đi tu tiên (1398). Ngôi báu rơi vào thái tử Án, 03 tuổi! Đó là Trần Thiếu Đế, cháu ngoại của Lê Quí Ly. Phụ chính đại thần là Lê Quí Ly. Cựu vương Trần Thuận Tôn bị Lê Quí Ly cho người giết chết dù đã thoái vị và tu Tiên theo Đạo Giáo (Taoism). Các tôn thất nhà Trần như Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hãn tìm cách giết Lê Quí Ly. Âm mưu bất thành, 370 tôn thất nhà Trần bị giết chết ngoại trừ gia đình Trần Nguyên Đán, thông gia với Lê Quí Ly. Năm 1400 Lê Quí Ly cướp ngôi nhà Trần và lập ra nhà Hồ (1400 - 1407). Một số người họ Trần hoảng sợ đổi sang họ Hồ hay họ khác. Một số khác tìm cách trốn tránh Hồ Quí Ly. *** Hồ Quí Ly (1336-1407 - baotanglichsu.vn/)Tổ tiên Lê Quí Ly vốn họ HỒ gốc ở Zhejiang (Chiết Giang) và sống qua nhiều đời ở Nghệ An. Về sau họ Hồ sa sút và được sự giúp đỡ của ông Lê Huấn, một người giàu có và quyền thế ở Nghệ An. Từ đó dòng họ Hồ được cải sang họ Lê. Khi lên ngôi Lê Quí Ly cải họ Lê của ông thành họ Hồ. Để ghi nhớ nguồn gốc Zhejiang (Chiết Giang) của tổ tiên Lê Quí Ly đổi thành Hồ Quí Ly. Như vậy gia đình ông đã đổi họ từ Hồ sang Lê rồi từ Lê sang Hồ. Hồ Phi Phúc, thân phụ của Hồ Thơm tức Nguyễn Huệ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà cách mạng Hồ Học Lãm là những nhân vật danh tiếng họ Hồ gốc ở Nghệ An không biết có liên hệ huyết thống gì với Hồ Quí Ly không? Tổ tiên của ông Hồ Phi Phúc được đưa vào Qui Nhơn vào thế kỷ XVII khi quân họ Nguyễn vượt qua sông Gianh mở cuộc Bắc tiến tấn công vào Nghệ An. Hồ Học Lãm là một nhà cách mạng có uy tín hoạt động ở Trung Hoa. Ông là đại tá trong quân đội của Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch). Ông thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) năm 1936 tại Nanjing (Nam Kinh). Bí danh Hồ Chí Minh là bí danh của đại tá Hồ Học Lãm. Ông là người yêu nước dùng uy tín cá nhân trong quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng để giúp đỡ cho các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động trên lãnh thổ Trung Hoa bất luận thuộc khuynh hướng chánh trị nào (Đông Dương Cộng Sản Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội). *** Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi Phụng Thờ Tại Đền Trần Hưng Đạo, Sài Gòn (https://mactoc.com/) Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi là người Việt Nam mang họ MẠC đầu tiên được biết đến trong lịch sử. Ông gốc ở Hải Dương, đậu trạng nguyên năm 1304. Người khai sáng ra nhà Mạc là Mạc Đăng Dung, một người đánh cá gốc ở Hải Dương được chấm đậu Đô Lực Sĩ. Lợi dụng sự suy vi của nhà Hậu Lê với nhiều loạn lạc trong nước ông soán ngôi nhà Hậu Lê và lập ra nhà Mạc năm 1527. Họ Mạc có nhiều thù địch với họ Lê, họ Nguyễn và họ Trịnh. Sự kình chống giữa ba họ Lê- Nguyễn - Trịnh như là kình chống giữa hai trục Hải Dương và Thanh Hoá. Hải Dương là sinh quán của họ Mạc. Thanh Hoá là sinh quán của họ Lê, Nguyễn và Trịnh. Sau khi rời khỏi Đông Đô năm 1591 (Thăng Long - Hà Nội) họ Mạc chạy lên Cao Bằng và được nhà Minh (Ming) ủng hộ nên còn tồn tại ở đó đến năm 1677. Nhà Thanh (Qing) không ủng hộ họ Mạc vì họ Mạc ngả theo Wu San Gui (Ngô Tam Quế). Chúa Trịnh sát phạt họ Mạc. Để tránh sự theo dõi và trừng phạt đẫm máu của họ Trịnh nhiều người mang họ Mạc phải đổi sang họ Phạm. Ở Hải Dương, tỉnh sinh quán của họ Mạc, có hai nhân vật lịch sử họ Phạm được danh thơm là danh tướng Phạm Ngũ Lão vào thế kỷ XIII đời nhà Trần và tiến sĩ Phạm Đình Trọng vào thế kỷ XVIII thời vua Lê Chúa Trịnh. Do chiến công oanh liệt và danh thơm của Phạm Ngũ Lão, một công dân Hải Dương, mà họ Mạc được đổi thành họ Phạm chăng? *** Tượng Định Quốc Công Nguyễn Bặc thờ tại Đại Hữu (Ninh Bình - ảnh: nghiencuulichsu.com/)Nhân vật lịch sử họ NGUYỄN đầu tiên là tướng Nguyễn Bặc đời nhà Đinh (thế kỷ X). Tiếp theo là các tướng Nguyễn Hoằng Dụ và Nguyễn Kim (thế kỷ XVI). Họ Nguyễn thực sự nổi bật trong lịch sử khi Nguyễn Hoàng, con của Nguyễn Kim, và một số người Thanh Hoá vượt Hoành Sơn thành lập một giang san độc lập với nhà Lê. Nguyễn Hoàng được gọi là Chúa Tiên (1600- 1613). Chúa Nguyễn ở Đàng Trong hay Nam Hà gồm 10 vị: 1. Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1600 - 1613) 2. Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi (1613 - 1635) 3. Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng (1635 - 1648) 4. Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền (1648 - 1687) 5. Nguyễn Phúc Trăn tức Chúa Nghĩa (1687 - 1691) 6. Nguyễn Phúc Chu tức Quốc Chúa (1691 - 1725) 7. Nguyễn Phúc Trú tức Chúa Ninh Vương (1725 - 1738) 8. Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Võ Vương (1738 - 1765) 9. Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định Vương (1765 - 1777)- Tây Sơn khởi nghĩa năm 1771. 10. Nguyễn Phúc Ánh (1777 - 1801) (chỉ có ảnh hưởng trên đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long mà thôi). Mười vị chúa Nguyễn đứng đầu trong guồng máy chánh trị ở Đàng Trong 201 năm (1600 - 1801) bị đứt quãng từ năm 1771 đến 1801 (30 năm nội chiến với nhà Tây Sơn). Năm 1802 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tức là vua Gia Long. Triều Nguyễn có 13 đời vua: Gia Long (1802 - 1820), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1848), Tự Đức (1848 - 1883), Dục Đức (1883), Hiệp Hòa (1883), Kiến Phúc (1884), Hàm Nghi (1884 - 1885), Đồng Khánh (1885 - 1889), Thành Thái (1889 - 1907), Duy Tân (1907 - 1916), Khải Định (1916 - 1925), Bảo Đại (1925 - 1945) ngự trị trên một Việt Nam thống nhất trong 143 năm. Thực tế chỉ có vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị ngự trị trên một lãnh thổ thống nhất rộng 330.000 km2. Dưới triều vua Tự Đức, Nam Kỳ mất vào tay người Pháp vào năm 1862 rồi 1867. Vương quyền nhà Nguyễn không còn ở Nam Kỳ từ đó. Năm 1884 Trung Kỳ và Bắc Kỳ trở thành đất bảo hộ (protectorat). Các vua nhà Nguyễn vẫn còn trên đất bảo hộ nhưng thực tế vô quyền. Họ Nguyễn có vai trò quan trọng trên sân khấu chánh trị Việt Nam được 344 năm. Họ Nguyễn rất đông ở Việt Nam nhất là vùng đất chạy dài từ Quảng Bình vào đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long vì: - họ Nguyễn có công khai thác và nới rộng 60% diện tích nước ta. - các Chúa Nguyễn đều đắc nhân tâm nên được dân chúng yêu mến. Đàng Trong trở thành vùng đất Tự Do trọng dụng người có thực tài chớ không nặng về giai cấp xã hội. Trường hợp Đào Duy Từ là một điển hình. Trước khi khởi nghĩa ba anh em nhà Tây Sơn đổi họ Hồ của cha ra họ Nguyễn của mẹ, bà Nguyễn Thị Đồng, ý thức rằng dân chúng rất mến các Chúa Nguyễn. Vì vậy Nguyễn Nhạc không dám đả động đến họ Nguyễn mà chỉ nhắm vào sự lộng quyền và thối nát của quốc phó Trương Phúc Loan. Nếu Chúa Nguyễn không đắc nhân tâm thì với một vùng đất mới, tổ chức quốc phòng lỏng lẻo, rời rạc làm thế nào chống cự lại quân họ Trịnh? Chánh sách đắc nhân tâm cống hiến cho Đàng Trong nhiều tướng lãnh giỏi như Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật và quân sư hữu tài hữu đức như Đào Duy Từ. Nhân dân đoàn kết một lòng nên họ Nguyễn chẳng những cầm cự họ Trịnh hữu hiệu mà còn mở những cuộc hành quân vượt sông Gianh tấn công vào Nghệ An. Tổ tiên họ Hồ của ba anh em Tây Sơn được đưa từ Nghệ An vào Qui Nhơn sau cuộc hành quân này (1655). - Ở miền Bắc ảnh hưởng của vua Lê, Chúa Trịnh vẫn còn quan trọng. Số người mang họ Nguyễn không đông bằng số người theo họ Nguyễn từ vĩ tuyến 18 trở vào Nam. Các Chúa Nguyễn rất đắc nhân tâm. Nhân dân no ấm; cuộc sống ổn định nên nhiều người muốn mang họ Nguyễn vì yêu mến các vị lãnh đạo của mình. Các vua nhà Nguyễn, sau 30 năm nội chiến đẫm máu với nhà Tây Sơn, trở nên nghiêm khắc, bảo thủ và đa nghi nên thường dùng hình phạt đẫm máu để răn đe dân chúng. Vua Gia Long chẳng những không rộng lượng với kẻ thù như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và con gái mà còn tỏ ra thiếu khoan dung đối với các công thần như Nguyễn Văn Thành (về bài thơ ngông nghênh của con là Nguyễn Văn Thuyên), Đặng Trần Thường. Sự đối xử của vua Minh Mạng đối với công thần như Lê Văn Duyệt, Lê Chất bằng những bản án phán xử người chết làm cho người bàng quan suy nghĩ ít nhiều về sự thiếu rộng lượng của người lãnh đạo. Việc hủy sạch thành Gia Định và giết sạch những người theo Lê Văn Khôi nổi loạn năm 1835, việc giết đạo dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, những cuộc đàn áp đẫm máu những cuộc nổi loạn của Lê Duy Lương thời Minh Mạng, Lê Duy Cự, bản án tru di tam tộc của Cao Bá Quát thời Tự Đức làm cho những người họ Lê hay họ khác khiếp sợ phải nghĩ đến việc đổi sang họ Nguyễn như một phương cách tìm đường sống. Khác với thời Chúa Nguyễn lần này nhiều người chuyển sang họ Nguyễn vì sợ vua chớ không phải vì yêu mến. Dưới mắt người Tây Phương, NGUYỄN ám chỉ người Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thời cận đại phần lớn mang họ Nguyễn: Bảo Đại tức Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Văn Thiệu. **** Việc thay đổi họ, tên vẫn thường xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Ngoài việc đổi tên họ, các văn thi sĩ còn có bút hiệu. Các nhà cách mạng hoạt động bí mật có bí danh. Người ta biết Nhất Linh mà không biết Nguyễn Tường Tam hay biết Bình Nguyên Lộc mà không biết Tô Văn Tuấn. Trong xã hội Khổng Giáo, để tôn kính một danh nhân, người ta không gọi tên vị ấy mà gọi biệt hiệu như cụ Sào Nam tức Phan Bội Châu (do câu: Việt điểu Sào Nam chi); cụ Tây Hồ tức Phan Châu Trinh v.v.. Ở Trung Hoa người ta tránh gọi tên Quốc Phụ Sun Yatsen (Tôn Dật Tiên) mà gọi ông là Sun Zhongshan (Tôn Trung Sơn. Zhongshan <Trung Sơn>. là làng sinh quán của Sun Yatsen chớ không phải là tên hay biệt hiệu). Người Việt Nam gọi nhà khoa bảng Nguyễn Khuyến là Tam Nguyên Yên Đổ (Yên Đổ, xã sinh quán của ông trong tỉnh Hà Nam. Tam Nguyên: thủ khoa Hương thí, Hội thí và Đình thí). Trên lãnh vực chánh trị người ta biết Trường Chinh mà không biết Đặng Xuân Khu. Henry Kissinger thương thuyết mật với Lê Đức Thọ. Ông biết Lê Đức Thọ nhưng không biết Phan Đình Khải v.v.. Các vị ấy dùng và duy trì bí danh như tên thật của mình và quần chúng bên ngoài chỉ biết các bí danh ấy chớ không biết tên thật của các vị ấy. Lê Hữu Trọng được cải sang họ Lý. Sau này người ta biết Lý Tự Trọng chớ không biết tên gốc Lê Hữu Trọng (1914- 1931). Họ Lý ở đây là họ của Lý Thụy, bí danh của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh sau này) khi hoạt động ở Guangzhou (Quảng Châu) năm 1925 bên cạnh Borodin. Phần kết luận này củng cố những nhận xét trên trang đầu của bài viết. . Phạm Đình Lân, F.A.B.I. ______________ (1) Vì Lê Văn Duyệt không ủng hộ việc lên ngôi của Thái tử Đảm tức vua Minh Mạng sau này và vì chém đầu Huỳnh Công Lý, thân phụ của một ái phi của nhà vua! (2) Vì là một quân nhân hữu công giữ chức vụ quan trọng ở Bắc Thành, địa bàn cai trị của vua Lê chúa Trịnh trước kia, ông dễ bị nghi ngờ phản lại triều đình. Sự nghi ngờ dựa vào: 1. quá khứ của ông: ông là tướng lãnh của Tây Sơn đầu hàng theo Nguyễn Ánh 2. sự thân thiện giữa hai tổng trấn Lê Chất và Lê Văn Duyệt. (3) Giặc Châu Chấu: Gọi như thế vì lúc ấy châu chấu tàn phá mùa màng trên bình nguyên sông Hồng.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 24, 2022 1:16:32 GMT 9
Hoàng Xuân-Hãn Phiên âm từ bản nôm, hiệu-đính và chú-thích Bồ-tát Mục-liênchimviet.free.fr/vanco/hxhan/hxhp051.htm?fbclid=IwAR3jEtQ9FX1_GZPI2KJczbFL60HhFcrqCh5zSYABZOIzkeizvJuBIrXEDrU#muclientudaoSau đây là chuyện đức Bồ-tát Mục-liên soạn bằng Việt-ngữ xưa , theo thể lục-bát, để Phật-tử nhớ và tôn-sùng một vị La-hán có tiếng rất hiếu-hữu, đã cứu mẹ ra khỏi Địa-ngục. Cũng nhờ hành-động của Ngài mà nay có lễ Vu-lan ngày rằm tháng bảy để báo-hiếu cho tổ-tiên. Bồ-tát người Bắc-Ấn-độ, vốn tên Maudgalyâyana, hoặc Moggalâna. Người Trung-quốc đã phiên ra chữ Hán mà ta đọc là Mục-kiện-liên hoặc gọi tắt là Mục-liên. Mục-liên là một trong mười vị đệ-tử cao nhất của đức Phật. Là con nhà phú-hữu, trái ý với cha mẹ, Ngài đi tu đạo Bà-la-môn, thành bực thầy có tới năm mươi đệ-tử, và nổi tiếng giỏi các phép thần-thông. Nhưng chưa toại ý với đạo-lí mình đã học, Ngài kết bạn với một đồng-chí xá-lị-phất (cariputra ) đến kinh-đô Vương-xá-thành ( Radjagriha ) của nước mình Ma-kiệt-đề (Magadha ) để học-hỏi sáu thầy Bà-la-môn nổi tiếng. Nhưng cũng không toại nguyện. Trong sáu thầy ấy, có San-xà-da ( Sajaya ) mách cho biết rằng thái-tử Thích-ca-mâu-ni (çakyamouni) đã tu đắc-đạo và sắp tới Vương-xá-thành thuyết-pháp. Hai người bèn đợi. Lại có bạn của Xá-lị-phất là Át-bệ ( Açvajit ) đem đạo-lí của đức Phật kể lại cho nghe, hai người xin qui-y và theo đức Phật, rồi nên hai vị đệ-tử rất cao trong Phật-giáo. Đức Phật đã rất chú-trọng đến hai người, khẳng-định rằng cả hai sẽ thành Phật, và coi Mục-liên là đệ-tử thần-thông bậc đầu. Phật-tử đời sau chú-ý nhất vào truyền-thuyết chuyện bà mẹ Mục-liên, tên là Thanh-đề, bị đày vào ngục A-tì vì bà có ác-tâm. Mục-liên thương mẹ, bèn xin Phật giúp đi cứu. Phật bảo nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư-tăng "ra hạ" mà làm lễ trai-đàn xin chư-tăng cầu xá tội cho mẹ. Phật lại cho một cái gậy bít thiếc có phép mở cửa khi gậy gõ vào, và Phật trỏ cho Mục-liên biết mẹ bị giam ở ngục nào? Nhờ vậy, Mục-liên tìm được nơi mẹ bị đày; rồi nhờ ngục-tốt gọi mẹ ra nhận mặt. Thanh-đề nói không có con nào tên Mục-liên. Mục-liên phải giải-thích rằng đó là hiệu sau khi tu chứng-quả. Mẹ mừng và ra ngục với con. Mục-liên mời mẹ ăn chuối. Bà bóc vỏ, vứt xuống đất, những tù-nhân khác muốn lượm ăn. Bà bèn lấy chân dày cho nát. Con biết mẹ còn nghiệp-chướng; lòng buồn, nhưng cũng làm phép dâng mẹ bát cơm trắng. Mẹ mừng, và ăn cơm; nhưng khi cơm sắp vào miệng thì lại hoá ra than. Phật cũng không độ được kẻ ác-tâm; Thanh-đề lại phải luân-hồi làm kiếp chó để tự-tu thêm. Nhờ con tu-hành, chư-tăng giúp cứu, ba năm sau, bà mới trở lại kiếp người. Văn-kiện sau đây kể lại chuyện nầy bằng quốc-âm, thể lục-bát dễ hiểu, dễ nhớ để giáo-hoá phật-tử nước ta. Giá-trị bản văn không hơn những chuyện cổ-tích bằng văn lục-bát đời Lê còn lại ngày nay. Chữ vần nhiều nơi chọn vụng. Quí là về phương-diện cổ-ngữ Việt. Trong chính-văn ngắn-ngủi , chỉ có 162 vế ( 1134 từ) mà văn-bản còn giữ được khá nhiều từ cổ (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "t.c." trong vòng đơn), hoặc nghĩa cổ, hoặc âm cổ bằng cách đổi âm trắc ra âm bằng (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "b.â." trong vòng đơn). Một tính-cách khác của Phật-giáo đời Lê cũng thấy trong văn nầy: ấy là "Tam giáo tĩnh hành": những quan-niệm Lão và Khổng được ghép vào trong chuyện Phật-giáo. Ví như nói đến lễ Trung-nguyên, tức rằm tháng bảy, nói đến chữ Nhân trong cách xử-thế, lại không quên ơn Vua và chúc nước vững-bền. Tuy văn-bản nôm không mang thời-điểm khắc, nhưng chữ nôm cổ, từ-ngữ cổ vẫn còn. Vả lại tôi được thấy bản in nầy đóng cùng với một sách khác có tựa khắc năm 1731 (Vĩnh-thọ tam niên), một loại sách có chữ nôm mà tự-dạng còn mới hơn, dùng bởi các thiền-sư Tam-giáo để làm những lễ trai-đàn (tên sách làCung-văn dịch đình bài-biện các đàn). Tôi nghĩ rằng văn-bản nầy đáng được coi là khắc tự đời Lê, trước 1731. Chữ khắc khá chính-xác, tuy rằng cũng có chữ không thành hình hoặc lầm ra chữ khác. Có chữ mà tôi chữa vì chắc sai hoặc nghi sai, thì tôi sẽ dùng ám-hiệu "ng." trong vòng đơn, nghĩa là: nguyên là. Trong bản phiên-âm, tôi cũng chú-giải những từ tối nghĩa, viết bằng chữ xiên trong vòng đơn liền sau những chữ ấy. Tôi cũng sẽ xếp các từ được chú-giải ấy vào một phần tự-vựng đặt cuối sách. Sau các từ, sẽ có những số mã trỏ vế mang từ ấy và có chữ mang cả chú-thích nữa. sau nầy, nếu có nhịp, tôi sẽ phiên âm bài tựa sách Cung văn dịch đình bài biện các đàn và cho phụ vào đây. Ngày 4 tháng 9 năm 1994 , PL 2538 Hoàng Xuân-Hãn Mục-liên tu đạo 1 Tích xưa Đức Bụt Mục-Liên Thương mẹ tìm đến Tây-thiên tu-hành Ba năm chứng-quả viên-thành Một bát một mình nhẫn-nhục từ-bi Mẹ ác bị đày 5 Thanh đề (tên mẹ) từ thủa sinh-li (sinh ra) Tội nặng, sa ngục A-tì khốn thay ! Diêm-vương đôi-hỏi (vặn tra) đòi ngày (nhiều ngày) Dương-gian thiện ác, biết hay ca (t.c. : tại) lòng Khán-quan kiểm-bộ tiên-đồng ( kẻ coi sổ giữ ngục) 10 Mở sổ ròng-ròng biết sự ngay gian Thanh-đề nết ở đá-đoan (t.c. đa-doan) Thấy người đói khát cơ-hàn chẳng thương Sát-hại lục-súc ngưu dương (trâu dê) Tổn tha vật-mệnh (sinh-mệnh chúng), phỉ (nhạo) thường báng tăng 15 Cho nên quả-báo chẳng hằng (quái gở) "Nhị tác nhị thụ" (mầy làm mầy chịu), đọa chưng (rơi vào) U-đồ (đường tối:Âm-phủ) Mục-liên tìm mẹ Con tìm mười cửa Phong-đô Chẳng thấy từ-mẫu, biết hồ (biết là) làm sao Trở về bạch Bụt thấp cao : 20 ((Còn có ngục nào, vâng phép lại đi )) Bước qua khỏi dặm Bách-kì Coi thấy cửa ngục thành-trì ghê thay ! Tích-trượng (gậy bít thiếc) cầm ở ca (t.c: 8) tay Gõ vào cửa ngục, mở bày song-song 25 Ngưu-đầu ngục-tốt (kẻ giữ ngục có đầu trâu) tây đông Vâng phép đều cùng phóng xá tội-nhân Thấy mẹ khổ-hải (bể khổ) trầm-luân Bằng dao cắt ruột mười phần quặn đau Thanh-Đề mới bảo trước sau: 30 (( Mẹ phải cơ-cầu (đói khổ), nhiều nỗi gian-nguy (( Từ ngày thác xuống Âm-ti (( Mẹ phải cầm ngục A-tì khốn nay (( Ơn con báo-bổ làm chay (( Phá được ngục nầy, mẹ mới thoát thân 35 (( Chẳng còn bén chút phàm-trần (( Tổ-tiên nội ngoại, song-thân hoà đồ (tất cả) (( Được ngồi cửu-phẩm (cao chín bậc) Tiên-đô (( Tống-thực Thiên-trù (bếp Trời cho ăn), hỉ-xả từ-bi )) Cứu mẹ khỏi tù Mục-Liên thủa ấy mới ( ra? ng. là) đi 40 Tìm chẳng thấy mẹ, ngồi thì hoà (cả) lo Mười tám cửa ngục rạc (t.c. giam) tù Thương mẹ thay là! Tìm chẳng thấy đâu Dòng-dòng nước mắt thấm bâu (t.c. tay áo; ng: dâu) (( Mẹ ơi mẹ hởi ! ở đâu ? Thương nầy ! )) 45 Bụt bảo Mục-Liên rằng bay (t.c. như vầy) : (( Mẹ Ngươi bấy-chầy (bấy lâu) cầm ở Phong-đô (( Mười tám cửa ngục rạc tù (( Non cao cồn-cộn, Phong-đô rái dàng (đáng sợ) ! )) Mục-Liên coi thấy chẳng đang 50 Tay cầm tích-trượng gõ ngang cửa tù Thanh-Đề ra hỏi sự-do: (( Người nào hay đến Phong-đô chốn nầy ? )) Mục-Liên thưa lời rằng bay (45) (( Tớ đi tìm mẹ chốn nầy, là Nuôi (t.c. thưa Ông) 55 (( Bụt đã bảo tớ mọi lời (( Ơn Nuôi (t.c. Ông, Bà) đòi bảo mẹ nầy ra đây )) Quỉ-sứ (ng: Ơn sứ) vào bảo một giây (chóng) : (( Có Mục-Liên Thầy tìm mẹ phu-nhân )) Thanh-Đề mãng (t.c. nghe) tiếng, than thân : 60 (( Mục-Liẽn tên ấy, phu-nhân khôn (khó) nhìn (( Dương-gian, là vóc (thân) con min (t.c. ta) (( Tên thì (ng: ngày) chẳng phải Mục-Liên đâu là )) Quỉ-sứ khi ấy lại ra: (( Mục-Liên chẳng phải con bà thân-sinh )) 65 Mục-Liên lại bảo phân-minh Dẫn-dụ sau trước chân-tình cho hay: (( Mẹ sinh ra vóc (61)thật rày (( Xuất-gia làm Thầy, cải hiệu Mục-Liên (( Đêm ngày thương mẹ đi tìm 70 (( Bụt cho một trượng tích-kim (thiếc) con gầy (gậy b.â.) (( Thấy vậy tìm đến chốn nầy (( Ơn Nuôi (56) ngày rày bảo Mẹ ra đây )) Quỉ-sứ vào bảo một giây (57) Thanh-Đề mừng giã các rày tù-nhân : 75 (( Con tôi có nghĩa thập-phân (hoàn-toàn) (( Xin ra cho biết, kẻo phần đợi trông )) Thanh-Đề ra cửa Đông-phong Mục-Liên coi thấy cúc-cung (cúi mình) tạ-từ Đôi hàng nước mắt bằng mưa 80 Ôm mẹ hoà (t.c. mà) khóc qua ư (t.c. quá chừng) thương nầy: (( Thì-vần (vận b.â.) quả-báo chẳng tây (t.c.tư, riêng) (( Nhị tác nhị thụ" (16), ai rày chịu cho (( Bấy-chầy (46) Mẹ thác Phù-Đồ (Âm-phủ) (( Mẹ ôi! Quả-báo Phong-Đô nhật-dà (dạ b.â.: đêm ngày) 85 (( Áo-ăn (ăn-mặc) làm thấy xấu-xa (( Ba năm tù-rạc thật là gian-nguy (( Bây-giờ chẳng có của chi (( Thì-trân quả-thực (trái ngon đúng mùa) Mẹ thì xá (t.c. hãy) ăn)) Mẹ còn tính ác Lòng (mẹ) còn toan ( nghĩ ) dữ làm ngần (t.c. quen) 90 Ăn chuối bỏ vỏ; tù-nhân ăn mày Chẳng cho, lấy chân đạp dày Mục-Liên coi thấy, thương thay cong (t.c. : trong) lòng : (( Thể-âu (t.c. hẵn là) quả-báo làm xong (t.c. thật thế) (( Ước làm sao khỏi thoát vòng u-minh )) 95 Mục-Liên niệm-cứu hương-kinh Hoá bát cơm trắng, hoá hình mẹ ăn Thanh-Đề chịu chẳng làm ngần (89) Và chưa đến miệng, cơm rày (liền ?) ra than Mục-Liên nước mắt hoà (t.c. cả) chan (đầy) 100 (( Mẹ ơi mẹ hởi! Bàn-hoàn (bâng-khuâng) thương thay! (( Thể-âu (93) quả-báo còn chầy (t.c. lâu) (( Mẹ con nhiều nỗi đắng cay trăm đường )) Mẹ bị thêm kiếp chó Thanh-Đề chịu những tư-lương (lí-luận) Đọa làm thân chó, chực trường (dài) ba năm 105 Dòng dòng nước mắt chiêu đăm (t.c. tả hữu) Chịu làm thân chó cổ câm (kim) khác loài No (t.c.đủ) ngày mới được làm người Vì chưng quả-báo chẳng sai đâu là Thụ tội khốn-khổ ai qua 11O Rày mới cốc (t.c.: biết) tính, sự nầy biết hay Nhớ ơn có Mục-Liên Thầy Minh tâm kiến tính (rõ tâm thấy tính) thuả nầy ai qua Dựng làm Thủy Lục trai-gia (lễ chay thủy bộ) Kim-ngân châu-báu phát ra làm ngần (89) 115 Trước là báo đức từ-thân Sau là Thất-tổ (bảy đời trên cha) trầm-luân hoá-hồn Mục-liên cứu mẹ Cùng nhờ Đại-Pháp Không-môn Bao nhiêu hoành-mệnh (sinh mệnh) đẳng-hồn thoát ra Tụng kinh liên-tiếp nhật-dà (84) 120 Khai phương (mở lối), phá ngục khắp hoà (cả) làm nơi (các chỗ) Chuyển luân (quay bánh xe) Pháp, trống vang trời Thỉnh Thập-phương Phật hộ nơi chứng-đàn (đàn cầu xin) Thinh-văn (đệ-tử được nghe Phật) Bồ-tát hai bên Đồng trợ công-đức mạn-viền (viên b.â: đầy đủ) thuả nay 125 Tụng kinh Huyết-bồn (tên kinh gán cho Mục-liên) khi nay Trung-Nguyên (lễ rằm tháng bảy) xá tội thoát rày Phong-Đô Bao nhiêu địa-ngục lao-tù Cùng được thoát cả Tiên-đô thanh-nhàn Mục-Liên cứu mọi người Mục-Liên nhớ đức Từ-nhan 130 Mãn-viên (124)bát-độ (dựng đặt) trai-đàn tiến-tu Huyết-bồn (125) đẳng chúc Cửu-Ngu (chín đời si-mê ?) Nhiễu đàn tam táp (đi quanh đàn ba vòng) Phong-Đô rành-rành Bao nhiêu tù-ngục lạc-hình (trại giam) Bụt liền xá tội, siêu-sinh làm ngần (89) 135 Thanh-Đề từ ấy thoát thân Khỏi loài cầm thú cổ-câm (kim) từ rày Nhờ ơn có Mục-Liên Thầy Các các môn ngục đều rày hoá Tiên Ai ai hưởng lộc tự-nhiên 140 Thất- tổ Cửu-huyền (chín đời trước) đều được hoá sinh Lễ trung-nguyên và dòng tam-giáo Cam-lồ (sương ngọt) nước rưới tĩnh-thanh (trong-trẻo) Làu-làu kim-tướng (mình Phật) toạ bình (màn che) liên-hoa Thiều (đàn), tiêu (sáo), nhạc vỗ, xướng ca Bảy hàng cây báu rà-rà nở đua 145 Trung-Nguyên (126) phóng-xá lao tù Mục-Liên tiếp-dẫn, Diêm-phù sạch không Từ rày đắc đạo thành công Muôn năm hưởng phúc, Quốc-trung khoẻ bền Viên-dung (thông suốt) báu-phiệt (bè từ-bi) vạn tuyền 150 Hữu tội, vô tội, thoát liền lâng-lâng Thủy thanh (nước trong) nguyệt hiện trừng-trừng (suốt suốt) Một cơn gió thổi quét chưng (t.c. ấy) bụi trần Ai ai đội đức Hoàng-ân (nhà Vua) Thập-bát địa-ngục làm ngần (89) hỉ-hoan 155 Ngưu-đầu, mã-diện thiên ban (nghìn thứ quỉ giữ ngục) Đều thì phóng-xá khải-hoàn (thắng về) Thiên-quân (đồn Trời) Khuyên người thiện-tín xa gần Xá (t.c. hãy) tu cho chín, chữ nhân chớ dời Độc dữ quả-báo vô-sai 160 Ai hoà (t.c. mà) giữ được, ấy mai được tuyền Hạnh nầy truyền để thiên niên (nghìn năm) 162 Mục-Liên thành Phật, thành Tiên chép làm ./. Nam Mô a-di-đà phật Thiên-Tử Vạn vạn niên chi thọ Paris ngày trước Trung-nguyên năm Giáp Tuất Phật-lịch 2538 (C.l. 1994) Hoàng Xuân-Hãn phiên-âm từ bản Nôm và chú-thích
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:11:57 GMT 9
Tại sao người ta thường gọi người đàn bà dữ là “sư tử Hà Đông”.
AN CHI: Từ điển thành ngữ điển cổ Trung Quốc do Lê Huy Tiêu biên dịch (Hà Nội, 1993) đã giải thích như sau:
“Ngày xưa có một người tự xưng là Long Khâu tiên sinh, rất sợ vợ, nhà thơ Tô Đông Pha làm một bài thơ trêu ông ta: “Long Khâu cư sĩ cũng đáng thương/ Nói có nói không đêm chẳng ngủ/ Bỗng nghe Hà Đông sư tử rống/ Gậy chống rời tay lòng hoang mang” (Xem Dung Trai tùy bút, quyển 3 của Hồng Mại đời Tống). Hà Đông là quê hương của Liễu Thị, vợ Long Khâu tiên sinh, nay thuộc phía Nam tỉnh Sơn Tây. “Sư tử hống” là câu nói của nhà Phật, biểu thị uy nghiêm. Long Khâu tiên sinh bình thường vẫn nói về Phật nên Tô Đông Pha mượn tiếng nhà Phật để trêu ông. Đời sau dùng “Hà Đông sư hống” (sư tử Hà Đông gào rống) để chỉ người vợ hay ghen, đanh đá, bạc ác, hung hãn (Sđd, tr.186, câu 693). Nguyên văn tiếng Hán của bài thơ là:
Long Khâu cư sĩ diệc khả liên Đàm không thuyết hữu dạ bất miền Hốt văn Hà Đông sư tử hống Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Long Khâu cư sĩ chính là Trần Tháo, tự Quý Thường, người Vĩnh Gia, đời Tống, vợ là người đàn bà họ Liễu (Liễu thị là người đàn bà họ Liễu chứ không phải là họ và tên của vợ Trần Tháo), tính hay ghen lại hung dữ. Một hôm, Tháo thết tiệc đãi khách, có ca kỹ đàn hát; nàng họ Liễu bèn vung gậy đập tường mà la hét om sòm, khiến cho khách khứa bỏ đi về cả. Vì vậy Tô Đông Pha mới làm bài thơ trên đây để vịnh chuyện này mà trêu chọc Trần Tháo.
Sư tử hống là ẩn dụ mà Kinh Phật dùng để chỉ tiếng thuyết pháp sang sảng và uy nghiêm của Đức Phật. Long Khâu cư sĩ Trần Tháo là người thường thích nói chuyện nhà Phật (cư sĩ là người tu tại gia) nên Tô Đông Pha mới dụng tâm dùng ba tiếng sư tử hống để ám chỉ sự la hét của nàng họ Liễu. Ngoài ra, nhà thơ còn có ý đối sư tử với rồng nữa: Long Khâu là gò Rồng. Vị cư sĩ náu mình ở gò Rồng mà lại được nghe tiếng sư tử gầm thì còn gì thú vị bằng.
Địa danh Hà Đông đã được Từ nguyên và Từ hải giải thích khác với Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc. Theo hai quyển từ điển đó thì Hà Đông không phải quê hương của vợ Trần Tháo. Đó là hai tiếng mà Tô Đông Pha mượn ở một câu thơ của Đỗ Phủ. Câu đó là:
Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu
nói về một người con gái họ Liễu người Hà Đông. Thi sĩ họ Tô đã mượn hai tiếng Hà Đông của câu thơ này làm định ngữ cho danh từ sư tử để ám chỉ vợ Trần Tháo vì người đàn bà này cũng họ Liễu. Chúng tôi cho rằng cách giải thích của Từ nguyên và Từ hải đúng hơn. Và câu thơ của Tô Đông Pha quả là thâm thúy và tế nhị vì nó không có lấy một tiếng nào trực tiếp đả động đến phu nhân của Long Khâu cư sĩ cả.
Gút lại, xuất xứ của mấy tiếng sư tử Hà Đông là bài thơ trên đây của Tô Đông Pha. Nhà thơ đã dùng mấy tiếng đó để ám chỉ vợ của Trần Tháo rồi người đời mới dùng chúng để chỉ người đàn bà hay ghen và hung dữ nói chung.
An Chi KTNN 153, 10-1994
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2023 7:13:40 GMT 9
Nói “mút chỉ cà tha” thì ai cũng hiểu. Nhưng “cà tha” là gì và hai tiếng này bắt nguồn từ đâu? Có phải là nói trại âm của hai tiếng “cà sa”?
AN CHI: Hai tiếng cà-tha đã được Lê Ngọc Trụ giảng là “xâu chuỗi hột to, dài, mang ở cổ, có tác dụng là bùa trừ ếm tà ma quỉ-quái”. Tác giả đã cho thí dụ: “Thầy pháp đeo dây cà-tha” (Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam, TPHCM, 1993, tr.497). Tuy nhiên dân gian vẫn còn có lối hiểu bình thường là cái bùa (chứ không nhất thiết là xâu chuỗi). Chẳng hạn, khi nghe nói “vô cà tha rồi đó” thì có thể hiểu là “đã có yểm bùa rồi đó”. Dân Nam Bộ đã mượn từ cà-tha ở tiếng Khmer katha mà Dictionnaire cambodgien-français của J.B. Bernard (Hong Kong, 1902) giảng là “amulette” (bùa). Vậy cà tha là bùa.
Còn cà sa, mà dạng đầy đủ là cà sa duệ, là âm Hán-Việt của những chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm tiếng Sanskrit kāsāya, nghĩa gốc là vải hoặc y phục nhuộm màu đỏ sẫm. Trong tiếng Pali thì kāsāya lại có nghĩa là nhuộm màu da cam, là áo màu vàng. Danh từ cà sa đã được Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn giảng như sau: “Ấy là bộ áo nhà sư đạo Phật, hiệp lại là ba cái: Tăng-già-lê, cái áo tràng; uất-đa-la-tăng, cái giữa; an-đà-hội, cái áo trong, áo lót”. Nghĩa thông dụng của cà sa hiện nay là “áo mặc ngoài của nhà sư (rất dài và rộng)” (Từ điển tiếng Việt 1992).
KTNN 140, ngày 01-6-1994
Nhớ trận bão năm Thìn
Miền Nam vẫn được xem là vùng đất có khí hậu ôn hòa, quanh năm nắng ấm. Mưa to bão lớn ít xuất hiện. Tuy nhiên, trận bão năm Giáp Thìn (1904) được xem là trận cuồng phong mạnh nhất từng đổ bộ vào khắp vùng Nam Kỳ khiến 3,000 người chết, gây thiệt hại nặng nề về tài sản.
Tác giả Mỹ Xuân có viết một bài báo mô tả khá chi tiết về cơn bão năm Thìn (1/5/1904) đăng trong Nam Kỳ tuần báo, số ra ngày 8/6/1944, tức sau 40 năm trận thiên tai đi qua. Một thời gian dài như vậy, vẫn khiến người ta nhớ lại trận cuồng phong khủng khiếp tàn phá gần như toàn bộ vùng duyên hải miền Tây và Sài Gòn. Ðiều này, đủ cho thấy tầm quan trọng của thiên nhiên tác động đến cuộc sống con người to lớn như thế nào. Bài báo chủ yếu mô tả cơn bão hoành hành tại Sài Gòn là chính.
Hôm ấy cũng đúng vào ngày bầu cử Hội đồng thành phố. Chiều hôm trước là ngày khánh thành tuyến xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp. Trong bài diễn văn của mình, một quan chức Sài Gòn dõng dạc tuyên bố: “Nam Kỳ vốn là Phật địa, không bao giờ có bão lụt tàn phá như các xứ thuộc địa khác. Ấy là sự bảo đảm thịnh vượng chung cho xứ sở, cho mọi người, mà cũng là một hạnh phúc riêng cho các công ty xe lửa…”. Sáng 1/5/1904, suốt từ sáng đến trưa trời Sài Gòn mưa lâm râm. Ðến đầu giờ chiều gió bắt đầu thổi mạnh và đến 15h gió càng dữ dội hơn. Người dân Sài Gòn cứ ngỡ là trời dông lớn chứ không ai nghĩ đến bão lụt. Xe ngựa, xe kéo, khách bộ hành kiếm chỗ trú ẩn hoặc chạy về nhà, đường sá vắng tanh. Mới 16h chiều, trời đã tối sầm, điện bị cúp. Ở các nhà hàng, quán cơm, người ta phải đốt đèn cầy hoặc đèn dầu nhưng gió mạnh khiến đèn liên tục bị tắt.
Cuộc bầu cử hôm ấy vắng mặt tới trên 400 cử tri do thời tiết xấu, kết quả kiểm phiếu bị huỷ bỏ và phải dời lại Chủ Nhật tuần sau. Bài báo tường thuật: “Ðến 17h chiều, trận dông mưa mới thật kịch liệt cực điểm. Dông gió tung rớt mái nhà, đốn ngã cây cối, đứt mất dây điện và dây thép, nhận chìm tàu ghe, cột đèn hay cột dây thép xiêu ngã liệt địa. Ðường sá vắng teo không người lai vãng, tiếng dông mưa thổi ào ào như trời than đất thở”.
Mưa to gió lớn đến nỗi nhiều con ngựa đang kéo xe hoảng sợ bứt dây cương, quăng xe chạy tháo thân. Có xe bị lật nhào kéo theo cả con ngựa nằm té sải cẳng. Hầu hết các xe đều gãy gọng, bay mui, phu xe bỏ chạy tán loạn. Dọc theo sông Sài Gòn, tàu, sà lan, ghe tam bản, ghe chài, ghe lồng đứt dây, trôi ra giữa sông bị sóng gió đánh ập, va đập nhau mà chìm. Ðến 19h, các tàu lớn Canebiere, Adour và Hop Sang bị sóng đẩy lên bờ nằm ngả nghiêng. Chiếc Patroclus đang đậu ở Thủ Thiêm đứt dây neo, chạy ra giữa sông đụng chìm 4 chiếc ghe chở đá, đâm thủng một chiếc ghe chài chở lúa, nhận chìm khoảng một chục chiếc tam bản trước khi chìm xuống bến Nhà Rồng.
Còn ở miền Tây Nam Kỳ thì sao?
Trong ký ức sâu thẳm của vài thế hệ trước truyền miệng kể lại cho thế hệ sau nghe về trận bão kinh hoàng năm xưa trở thành câu cửa miệng mỗi khi nhắc đến “bão lụt năm Thìn”. Má tôi, là thế hệ sau nhưng mỗi khi Sài Gòn có trận giông bão lớn lại nhắc chuyện xưa cho con cháu nghe. Sự mô tả tuy không đầy đủ như những gì báo chí tường thuật nhưng cũng đủ làm người nghe hồi hộp mỗi khi giông gió nổi lên, mưa trút nước ngập tràn, đất trời tối đen.
Những nhân chứng ngày xưa hoá ra người thiên cổ, còn lại chăng là vài ba tài liệu sách báo xưa, cũng như những ngôi nhà cổ thuộc những tỉnh vùng duyên hải như Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng hay Bạc Liêu… Những ngôi nhà tuổi đời hầu hết trên trăm tuổi, gồng mình trong giông bão và là niềm tự hào mỗi khi được hỏi chuyện bão lụt năm Thìn xảy ra có làm hư hao ngôi nhà cất toàn bằng gỗ, vật liệu dễ bị giật sập khi gặp bão táp phong ba. Có lần tôi đến thăm ngôi nhà trăm cột ở Cần Ðước Long An, nghe chủ nhà kể một bên chái nhà làm lại mới sau bão năm Thìn, gió thổi tốc mái. Nhưng ngôi nhà không hề hấn. Cũng như tôi ghé qua Thạnh Phú, Bến Tre, lấy tư liệu về ngôi nhà cổ đẹp to lớn nhất vùng. Chủ nhà đang bệnh nằm trên phản, vừa kể chuyện bão lụt ngày xưa và chỉ cho xem những tấm ngói âm dương bị gió cuốn đi, phải thay bằng ngói khác. Khác nhau ở chỗ, ngói cũ có in hình bông hoa trang trí phía dưới, còn ngói mới thì không. Chủ nhà nào cũng tự hào ngôi nhà của mình tuy cất bằng gỗ nhưng gió bão mạnh cỡ nào cũng không lay chuyển.
Ðó là nhà gỗ truyền thống của những người giàu có thuở đó, chắc chắn lắm. Còn dân chúng bình thường nhà tranh vách lá, gió cuốn bay mù trời. Trong lần đi Tiền Giang, sẵn tiện xẹt về xem dinh tỉnh trưởng Gò Công. Người phụ trách văn hoá thị xã kể cho nghe về chuyện xây dinh tỉnh trưởng và người Pháp muốn trùng tu vì tuổi đời dinh thự hơn trăm năm cũng như trải qua trận bão năm Thìn, hẳn có hư hao. Dinh thự xây bằng gạch chắc chắn, không hề suy suyển, hình dáng xưa còn nguyên vẹn. Lúc ấy, người ta lấy dinh cho thuê làm nhà nuôi yến.
Trận bão năm Thìn quét dọc vùng duyên hải miền Nam từ Sài Gòn xuống tận Cà Mau, nhưng hai tỉnh Gò Công và Mỹ Tho thiệt hại nhiều nhất. Ông Nguyễn Ngọc Liêng soạn ra một bài thơ rằng: “Mỹ Tho trận bão thình lình, / Cơ trời xui khiến dân tình xót xa. / Giáp Thìn nhằm tiết tháng ba, / Sớm mai mười sáu trời đà mưa giông. / Tưởng là phong vũ bất đồng,/ Chỗ này thì có, nơi không đâu chừng …”
Thật ra tháng Ba trời có bão chẳng gì kỳ lạ. Tháng Ba là tháng âm lịch chứ ngày xảy ra bão là ngày 1 tháng 5 dương lịch. Mùa bão xứ nhiệt đới thường bắt đầu vào tháng 5 cho đến tháng 12. Bão đến sớm một chút cũng là chuyện bình thường. Ngoài mưa gió giông giật, trận bão năm Thìn có sóng thần xảy ra ở vùng cửa biển. Nhiều làng gần bờ biển bị dòng hải lưu cao 3.5 mét đổ ập vào bờ cuốn trôi nhà cửa. Người chết rất nhiều. Và sau thời điểm này một số câu ca dao được sáng tác ghi nhớ sự kiện này: “Gặp em đây mới biết em còn / Hồi năm Thìn bão lụt, anh khóc mòn con ngươi”. Hay “Dốc nào cao bằng dốc Châu Ðốc / Gió nào độc bằng gió Gò Công/ Một trận đông phong xiêu vợ lạc chồng / Em nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi”.
Trong quyển “Gò Công xưa và nay” của Huỳnh Minh và “Gò Công cảnh cũ người xưa” của Việt Cúc đã viết về trận bão lụt năm Thìn này, như sau: “Từ 10 giờ cho đến 3 giờ chiều ngày 16-3 âm lịch, mưa không ngớt hạt. Từ 4 giờ chiều cho đến về đêm, gió càng ngày càng thổi mạnh, trốc gốc cây, trốc nóc nhà, tường xiêu vách đổ. Sóng chụp cao 3.5m, cuốn mất nhà cửa và người ra biển. Rắn rít bò khắp nơi, cắn chết nhiều người”.
Nhà cửa lần lượt bị sập, ngói bay trốc nóc, tường xiêu vách đổ ầm ầm. Lúc đó người thì lo việc tỉa bắp trồng khoai ngoài đồng ruộng, kẻ thì đang hành nghề đánh cá nơi biển khơi. Trong làng đang làm lễ cúng thần xây chầu hát bội thì cuồng phong nổi dậy ầm ầm, mây mù tứ phía, mưa tuôn xối xả, sóng nước tràn vào rất mau. Một lượn sóng chụp đứng lên cao cuốn mất nhà cửa, có nhà ở gần biển chết trọn cả gia đình. Nước dâng thật nhanh, lên cao 3m, ngập lút cả ngọn cây, ở Vàm Láng ghe đưa cao tận nóc nhà, bốn phía chỉ thấy trời nước mênh mông. Không chỉ các ghe mà cả tàu sắt cũng bị quăng lên bờ. Nhiều người mắc kẹt trên các ngọn cây, hai ba ngày quần áo rách tả tơi, đói khát.
Ðèn đường, dây thép (điện thoại, điện tín) ngã đổ khắp nơi, thậm chí dinh tỉnh trưởng cũng đều sập đổ. Cây cối gãy rạp la liệt bít cả lối đi, xác người nằm vất vưởng theo vệ đường hoặc bị mắc kẹt trong các bụi lùm. Ðêm về đèn đuốc tối thui, nhà nhà vang tiếng khóc: “Mới hay chết hết mẹ cha, / Kẻ đi tìm vợ người thời tìm con. /Chẳng biết ai mất ai còn / Phen này thịt nát xương mòn trời ôi!”.
Trang Nguyên Nguồn: Báo Trẻ Online
|
|