|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:35:26 GMT 9
Suu Tam Sinh ra ở tỉnh Nghệ An. Là người Việt Nam đầu tiên học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia Paris từ năm 1891 đến năm 1894, là một trong các học trò của giáo sư J.L.Georomèrés về trường phái cổ điển. Lế Văn Miến là danh họa Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuật vẽ tranh sơn dầu phương Tây, theo hệ thống phương pháp của trường học Pháp cuối thế kỷ 19. Một số tác phẩm của ông cho thấy bút vẽ của ông là mô tả vững vàng, chính xác và kinh nghiệm trong lĩnh vực mầu sắc và ánh sáng. Ða số các tác phẩm của ông là các bức chân dung của bạn bè và người thân. Vài năm sau ông không vẽ nữa mà bắt đầu dạy học ở Vinh và ở Huế. Ông là hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám ở Huế. Hai tác phẩm chính của ông ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam: "Bình Văn" (Sơn dầu, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) - "Chân dung Thầy đồ (Tú Mền)" (Sơn dầu, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). ********************** Lê Văn Miến - Hoạ sĩ “ Sinh bất phùng thời “ , Người thầy của các danh nhân . Nguyễn Khắc Phê Cho đến nay, sau 60 năm tròn nằm lặng lẽ, lẩn khuất giữa vùng đồi hoang dại bên dòng sông Ô Lâu (huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế ), tên LÊ VĂN MIẾN đã được trân trọng đặt cho một con đường ở phường Tây Lộc, thành phố Huế. Tuy vậy, nhiều người - kể cả cư dân sống trên con đường mang tên cụ, vẫn chưa biết Lê Văn Miến là ai! Giữa cả biển thông tin với các phương tiện nghe nhìn chen vai thích cánh hoạt động náo nhiệt 24/24 giờ một ngày thì vài bài báo, một cuốn sách mỏng in một-hai ngàn bản (*), quả là “muối bỏ biển”. Vậy mà cuộc đời cụ Lê Văn Miến, lại có biết bao điều đáng cho hậu thế noi theo. Từ hai mươi năm trước, trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng, cụ Lê Văn Miến đã được thể hiện không chỉ với tư cách một thầy giáo được cậu học sinh lỗi lạc Nguyễn Tất Thành ngưỡng mộ mà còn là người được cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc tin cậy. “...Con nghe danh thầy đã lâu, nay con lại vinh dự được gặp thầy...Thầy là gương sáng về cốt cách người Nam để chúng con noi theo: thầy đã từng du học ở bên Tây, ăn cơm Tây, nói tiếng Tây, nhưng không hề thấy thầy đã bị trừ đi một phần nào cái cốt cách dân tộc... Không có lớp các thầy, những người như thầy, thì đâu có lớp chúng con... ” Nguyễn Tất Thành đã nói về cụ Miến như thế. Còn cụ Phó Bảng Sắc trước ngày đi Bình Khê nhận chức đã gửi gắm hai người con trai đang sống ở Huế cho cụ Miến... Hồi ấy, thiên hạ “ồn ào” quanh hình bóng nửa thật nửa hư của một cô gái trong trái tim chàng thanh niên rời bến cảng Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước, nên ít ai để ý đến vai trò người thầy họ Lê. Ngày Nguyễn Tất Thành rời Trường Quốc học Huế ra đi, Sơn Tùng chỉ miêu tả thầy Miến đến chia sẻ tâm sự với người học trò yêu quý: “Con hãy đi theo tiếng gọi của lòng con.” Nhưng từ mối thâm giao giữa hai gia đình họ Nguyễn và họ Lê, từ mối quan hệ gắn bó giữa hai thầy trò, một người hiểu văn hoá Pháp sâu sắc mà cũng căm ghét thực dân Pháp sâu sắc như thầy Miến hẳn đã góp phần không nhỏ “định hướng” cho Nguyễn Tất Thành, gợi cho chàng chọn nơi dừng chân đầu tiên trên lộ trình tìm đường cứu nước là Tổ quốc của cuộc Cách mạng 1789 – nơi đã dương cao ngọn cờ “Tự do-Bình đẳng-Bác ái” vào thời đó. Vậy Lê Văn Miến là ai mà có thể đóng được vai trò ấy? * Từ làng Ông La đến Paris: Lê Văn Miến xuất thân từ một gia đình nhà nho yêu nước, quê làng Ông La, xã Kim Khê, huyện Nghi Lộc (Nghệ An), vùng đất có truyền thống hiếu học và cách mạng. Thân phụ là cụ Cử Lê Huy Nghiêm, thời gian nhậm chức tri huyện tại Phú Lộc là bạn tâm giao với cụ Phan (lúc này, cụ Phan Đình Phùng bị cách chức quan Ngự sử, thường vào Phú Lộc chơi...). Sau khi đổi ra Sơn Tây, cụ lại bày tỏ thiện cảm và giúp đỡ cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám và Nguyễn Thiện Thuật, không chịu kết án và tha bổng cụ Hà Văn Bao – một lãnh tụ của nghĩa quân – nên bị cách chức. Về sau, cụ được cử làm Đốc học Hải Dương, rồi thăng Án sát Hải Dương, nhưng không bao lâu, cụ về chịu tang thân phụ và không chịu ra làm quan nữa. Lê Văn Miến là người con thứ 3 trong gia đình 12 anh em. Năm 1888, nhằm đào tạo những quan chức cao cấp trung thành với chúng, thực dân Pháp cho tuyển chọn một số thanh niên đưa sang học Trường Thuộc địa (Ecole Coloniale) ở Paris. Ba người được chọn lần đó là Hoàng Trọng Phu (con Hoàng Cao Khải), Thân Trọng Huề (con Thân Trọng Nhiếp – một vị quan to ở Triều đình Huế và người thứ 3 là Lê Văn Miến. Thoạt đầu, cụ Nghiêm định cho người con thứ hai là Lê Huy Thản đi. Nhưng ở độ tuổi 16, Lê Huy Thản đã có chính kiến rõ ràng, thù ghét Tây ra mặt, nên cụ Nghiêm đã cho Lê Văn Miến đi thay, sau khi khai tăng thêm 2 tuổi (để đủ 16 tuổi). Không có cứ liệu nào để biết vì sao cụ Nghiêm lại phải cử Lê Văn Miến đi thay cũng như động cơ du học của chàng trai xứ Nghệ này. Nhưng từ truyền thống của quê hương và gia đình, từ mối quan hệ “nhân-quả”, chúng ta có thể suy đoán một cách chắc chắn là chàng trai họ Lê đã được thân phụ gửi gắm những ý nguyện tốt lành, có ích cho đất nước. Là người ít tuổi nhất lớp, nhưng Lê Văn Miến được bạn đồng học nể trọng không chỉ vì học giỏi mà còn vì anh sớm tỏ rõ khí phách không khuất phục trước cường quyền. Lê Văn Miến đã lãnh đạo học sinh các xứ thuộc địa học cùng lớp bãi khoá, kéo đến Bộ Thuộc địa đấu tranh chống hành vi kỳ thị chủng tộc của viên Hiệu trưởng. Cảnh sát Pháp phải dùng ngựa và xịt nước giải tán. Với chí hướng ấy, sau khi tốt nghiệp, Lê Văn Miến đã không chịu về nước làm quan như Hoàng Trọng Phu (sau lên chức Tổng đốc Hà Đông) và Thân Trọng Huề (sau trở thành Thượng Thư Bộ Học). Anh xin ở lại theo học Trường Mỹ thuật Paris – một trường Mỹ thuật có tiếng nhất ở châu Âu thời ấy . Là người thanh niên Việt Nam đầu tiên học ở đây, lại bị theo dõi hồ sơ về vụ bãi khoá, bị viên Hiệu trưởng Jérome đối xử có phần khắt khe, nhưng Lê Văn Miến vẫn đạt thành tích cao trong học tập, nghỉ hè được đi du lịch các nước châu Âu. Năm 1895, sau khi tốt nghiệp xuất sắc hai trường danh tiếng của nước Pháp, theo tiếng gọi của quê hương và tình yêu đất nước, chàng trai họ Lê đành chia tay với Paris, mang theo mớ tóc vàng mà một cô bạn cùng lớp đã cắt tặng chàng trước lúc chiếc tàu thuỷ kéo còi rời bến cảng Marseille. * Tìm đường: Trở về nước, tránh nghiệp làm quan, nghề vẽ cũng khó có đất sống khi khắp nơi dân chúng nghéo đói, thất học, Lê Văn Miến đã phải trăn trở tìm đường mất mấy năm. Ngay khi mới bước chân lên bến cảng Sài Gòn, chàng đã gặp một “bức tranh” hiện thực xót xa, uất ức mà có vẽ nên được cũng không có chỗ treo lúc đó. Ấy là cảnh một tên Pháp to béo, hơi thở nồng mùi rượu, nghênh ngang ghếch chân ngồi trên một chiếc xe kéo, tay cầm chiếc can gõ nhịp lên đầu anh phu xe hối thúc chạy cho nhanh. Đây cũng chính là hình ảnh trong một bức ký hoạ của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ) 27 năm sau. Lúc này, cụ Lê Huy Nghiêm cũng đã từ quan về Kim Khê. Trong nước, cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng và nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở miền Bắc bị thất bại. Sau 5-6 tháng trú tại quê nhà, Lê Văn Miến ra Hà Nội xin làm thuê tại nhà in Seheider trên bờ Hồ Tây – cơ sở in đầu tiên do Pháp xây dựng ở Hà Nội. Với chức trách hoạ sĩ, hẳn là Lê Văn Miến đã lo phần trình bày, minh hoạ sách báo in ở đó. Ngoài giờ làm việc, nhiều người biết tiếng chàng trai Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Paris, đã tìm đến nhờ vẽ tranh truyền thần cho ông bà, cha mẹ, nhưng chàng chỉ nhận vẽ cho một số ít người thân... *Phẩm giá người nghệ sĩ và những bức tranh vô giá: Mặc dù Lê Văn Miến là một hoạ sĩ “sinh bất phùng thời” và bản thân cụ - nói theo ngôn ngữ hiện đại - chỉ làm hội hoạ bằng “ tay trái”, nhưng sự nghịêp hội hoạ của cụ cũng tạo nên danh giá mà nhiều nghệ sĩ mong ước. Giới nghiên cứu nghệ thuật biết đến cụ trước hết với tư cách tác giả hai bức tranh “Chân dung cụ Tú Mền” và bức “Bình văn” (còn có tên là “Buổi học chữ Nho xưa”) hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bức “Bình văn” đã được chọn in ở bìa cuốn sách lớn “100 hoạ sĩ Việt Nam thế kỷ 20”. Nhà nghiên cứu Thái Bá Vân, trong bài viết kể lại việc phát hiện bức tranh “Bình văn” năm 1971 tại một căn nhà ở phố Khâm Thiên (thật may mắn là chỉ mấy tháng sau khi bức tranh được đưa vào Bảo tàng thì căn nhà ấy bị bom B.52 Mỹ đánh tan!) đã nhận xét: “... Chưa thấy một hoạ sĩ nước ngoài nào dựng được hình và cử chỉ người Việt với thần thái chính xác, sâu và trân trọng như thế... Đối với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam , hoạ sĩ Lê Văn Miến với bức tranh “Bình văn” là một cái mốc mà lịch sử mỹ thuật nước nhà chỉ có thể coi là thuận lợi và đẹp đẽ. Nó làm cho hội hoạ hiện đại Việt Nam có thêm một phần tư thế kỷ tuổi đời...” Theo Thái Bá Vân chứng minh thì đến nay, bức “Bình văn” vừa có trăm tuổi thọ. Đáng tiếc là thời gian và điều kiện bảo tồn tác phẩm mỹ thuật hạn chế, nên màu sắc, đường nét bức tranh không còn giữ được thần thái như xưa. Có một điều lạ là bức chân dung cụ Nguyễn Khoa Luận với chất liệu phấn màu, cỡ 60x80cm, cũng có tuổi thọ tương tự, hiện treo ở chùa Ba La (Phú Thượng, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) lại còn như mới nguyên! Liệu có phải hương khói nhà chùa đã tạo nên môi trường bảo tồn tranh tốt nhất? Điều này xin được dành cho các nhà nghiên cứu mỹ thuật trả lời. (Cụ Nguyễn Khoa Luận là nhạc gia của hoạ sĩ và là ông nội của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn. Sau khi thi đỗ cử nhân và học Trường Quốc Tử Giám, cụ được cử giữ chức Bố Chánh tỉnh Thanh Hoá. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương và giặc Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi, cụ treo ấn từ quan, bỏ đi tu! Cụ qua đời năm 1900, như vậy bức chân dung cụ còn “thọ” hơn bức “Bình văn”.) Nhiều tác phẩm của hoạ sĩ Lê Văn Miến đã bị mất, nhưng những câu chuyện thể hiện khí phách, tài năng của cụ lưu lại mãi trong tâm trí nhiều thế hệ. Lúc dạy ở Trường Quốc học Huế, viên Công sứ tỉnh Thừa Thiên nhờ hoạ sĩ vẽ chân dung cho vợ và con ông ta. Vừa khó thoái thác, vừa là dịp tỏ cho quan đầu xứ người Pháp biết tài năng của dân Việt, hoạ sĩ đã không vẽ chân dung bình thường như viên công sứ yêu cầu mà trổ tài dựng một bức tranh nghệ thuật thật sự, có thể đặt tên là “Mẹ con người đàn bà Pháp và con mèo nhỏ”. Vẽ xong, viên công sứ hỏi tiền công,, hoạ sĩ đòi 30 đồng (bạc Đông Dương, thời đó cũng có thể gọi là một gia tài nho nhỏ), nhưng ngay lúc đó, hoạ sĩ đã gọi người thợ mộc, đưa cho ông ta tất cả số tiền ấy để trả công đóng khung. Về sau, hoạ sĩ nói với con trai là bác Lê Văn Yên rằng: “Nó có học mà chẳng hiểu gì về mỹ thuật cả, lại thiếu phép lịch sự tối thiểu, tao lấy 30 đồng cho người thợ mộc ngay trước mắt nó cho nó mở mắt!” Bức tranh có tiếng là “rất thần tình” ấy khiến nhiều người Pháp đua nhau tìm đến, nhưng hoạ sĩ nhất mực từ chối. Cả với nhà vua, hoạ sĩ cũng không chiều luỵ, khi đó là con người không đáng kính trọng. Hoạ sĩ đã từng vẽ chân dung cho vua Thành Thái, cho Đào Tấn, nhưng thời làm Tế tửu Quốc Tử Giám, vua Khải Định vời vào cung nhờ vẽ chân dung. Với người khác thì đó là dịp may mắn để cầu cạnh thăng quan tiến chức; trái lại, Lê Văn Miến đã thoái thác, viện cớ mắt yếu không vẽ được! Những tác phẩm của cụ có thể gọi là “vô giá”, trước hết vì sinh thời, hoạ sĩ vẽ tranh không phải để bán, người có chức có tiền cũng không “mua” được cụ; phần nữa, nào ai định giá được những tác phẩm đã mất, số ít còn lại thì đã trở nên tài sản quý hiếm của quốc gia, không ai đem ra mua bán. *Người thầy của các danh nhân: Trong cuộc đời 70 năm, sự nghiệp mà cụ Lê Văn Miến bỏ nhiều tâm huyết nhất lại là nghề giáo. Người đưa cụ đến ngành giáo chức là ông quan-nghệ sĩ Đào Tấn. Đó là năm 1899, Đào Tấn đương chức Tổng đốc An-Tĩnh, Trường Pháp-Việt được thành lập ở Vinh và Lê Văn Miến được cử làm Đốc giáo (hiệu trưởng). Ba năm sau (1902) khi Đào Tấn được cử làm Thượng thư Bộ Công, vì duyên nợ với vị Tổng đốc yêu nghệ thuật (và có thể cả vì sự nghiệp lớn mà vua Thành Thái cùng Đào Tấn đang âm thầm chuẩn bị) Lê Văn Miến phải tạm xa mái trường vừa thành lập ở Vinh để vào Huế làm Hành Tẩu – một chức quan nhỏ thuộc Bộ Công. Không có chứng tích nào để biết được trong thời gian này chàng hoạ sĩ họ Lê đã đóng góp gì vào những công trình kiến trúc-nghệ thuật ở hoàng cung. Chỉ còn một dòng trong bài viết của giáo sư Lê Thước tưởng niệm người thầy cũ: “...Với chức vụ ấy, cụ Lê Văn Miến đã vẽ nhiều tranh và bản đồ trong nội phủ, trong ấy có cả những mẫu súng mà Thành Thái muốn đúc.” Mối quan hệ mật thiết giữa Thành Thái-Đào Tấn-Lê Văn Miến cùng những việc làm “bí mật” của họ đã bị mật thám Pháp theo dõi. Năm 1904, Nguyễn Thân bức Đào Tấn phải về hưu và đẩy Lê Văn Miến trở ra Vinh. Nhưng trở về quê hương Nghệ Tĩnh – cái nôi của nhiều phong trào cách mạng, thấy “quan” Đốc giáo họ Lê giao lưu với nhiều chí sĩ yêu nước nổi tiếng như Ngô Đức Kế, Lê Huân, Đặng Nguyên Cẩn..., năm 1907, cùng với việc bắt vua Thành Thái đi đày và đàn áp phong trào yêu nước ở khắp nơi (chỉ riêng tại Nghệ Tĩnh, các chí sĩ vừa nêu tên đều bị bắt), thực dân Pháp điều cụ Miến vào dạy Trường Quốc học Huế. Theo giáo sư Lê Thước, chúng không bắt Lê Văn Miến, một phần do viên Công sứ ở Nghệ An lúc đó là Sestier, vốn là bạn học cũ của cụ tại Trường Thuộc địa, y đã tìm được cách cư xử khôn ngoan, vừa được tiếng là người biết quý tình bạn cũ, vừa cắt đứt mọi quan hệ của cụ Miến với các đầu mối hoạt động bí mật. Tại Trường Quốc học, khi cụ Phó bảng dẫn hai anh em Tất Đạt, Tất Thành đến gửi gắm cho Lê Văn Miến (cụ Phó bảng từng quen biết thầy hồi ở Vinh, khi cả hai thường lui tới các tổ chức chính trị trá hình ở Vinh như Hoan Châu học hội, Triều Dương thương điếm) chính thầy Miến đã nói: “...Tôi sẽ có vinh dự được làm một người thầy học của trò Nguyễn Tất Thành...Không phải bất cứ ai học chữ Tây rồi cũng ra làm tay sai cho Tây đâu...” (Theo “Búp sen xanh” của Sơn Tùng) Đây là chi tiết của nhà tiểu thuyết, nhưng nhiều bằng chứng cho biết trong suốt 30 năm theo nghề giáo chức, cụ Miến luôn giữ tròn nghĩa khí của một kẻ sĩ, khiến các “quan Tây” cũng phải vì nể. Giáo sư Lê Thước và ông Lê Thanh Cảnh - học trò của cụ Miến từ năm 1910, cho biết: trong khi giảng bài, cụ thường dùng tiếng Việt, không nói tiếng Pháp; cụ xem thường tay Hiệu trưởng là Logiou, vốn xuất thân là tên lính viễn chinh, đã bị nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám bắt sống; cả khi quan Khâm sứ đến Trường, mời cụ lên gặp, cụ cũng khước từ, lấy cớ “tôi đang bận dạy, không thể lên được.” Trớ trêu thay, quan Khâm sứ lúc đó lại chính là Sestier vừa được thăng chức. Lát sau, chính y phải đến lớp cụ đang dạy, ôm chầm lấy thầy Miến, cụng tai, cụng má rất thân mật và hỏi: -“Sao không đến thăm tôi, khi nghe tôi làm Khâm sứ ở đây?” –“Khó thăm mà cũng vô ích!” Thầy Miến đáp vậy và sau đó không hề bước chân đến Toà khâm. Thời gian ở Trường Hậu Bổ (1913-1921) cũng như ở Trường Quốc Tử giám (1921-1828), dù làm Trợ giáo, Đốc giáo hay Tế tửu (tương tự như Viện trưởng Đại học quốc gia), cụ Miến vẫn giữ tròn nghĩa khí của một kẻ sĩ. Trong một kỳ thi tốt nghiệp ở Trường Hậu bổ, thầy Miến đã đánh hỏng người cháu của quan Thượng thư Bộ Lễ kiêm Bộ Học, đồng thời là ông gia của nhà vua, vì người này đem theo tài liệu để chép; một lần khác, cụ đánh hỏng một người con ông anh ruột, vì sức học chưa đạt, làm cho tất cả quan trường và Hội đồng coi thi kinh ngạc. Những năm giữ chức Tế tửu Quốc Tử giám, cụ luôn thể hiện cảm tình và sẵn sàng giúp đỡ những người cách mạng yêu nước, như đã tạo điều kiện tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh, khuyến khích sinh viên lui tới thăm nom và giúp đỡ cả vật chất cho cụ Phan Bội Châu đang bị an trí ở dốc Bến Ngự... Trong gần 30 năm làm nghề giáo, “sản phẩm” cụ để lại cho đời sau là rất nhiều học trò đã trở nên những tên tuổi lớn, những nhân vật lịch sử của đất nước. Ở trên đã nhắc tới người thanh niên lỗi lạc Nguyễn Tất Thành, giáo sư Lê Thước; còn có thể kể tiếp: Lê Đình Thám, Lê Đình Dương, Trần Trọng Kim, Lê Văn Kỷ, Trần Đình Nam, Nguyễn Đình Chi, Phạm Phú Tiết, Nguyễn Đình Ngân, Hồ Đắc Khải, Nguyễn Huy Nhu, Võ Liêm Sơn... Tất nhiên, những thành đạt của các tên tuổi nêu trên còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, nhưng “nhất tự vi sư" - cụ Miến thì không chỉ dạy chữ; bài học về lòng yêu nước, về nghĩa khí của một kẻ sĩ mà cụ Miến gieo trồng cho bao thế hệ học trò hẳn có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của họ. Do mắt bị mờ, cụ Miến phải xin nghỉ hưu sớm. 15 năm cuối đời, cụ phải sống trong cảnh mù loà buồn nản, luôn thay đổi chỗ ở, những mong tìm được lối thoát, tìm bạn tâm giao. Cho đến năm 1939, học trò cũ 3 trường Quốc học, Hậu Bổ, Quốc Tử giám đã góp tiền mua tặng cụ gian nhà lợp ngói gần sông Ô Lâu, cách ga Phò Trạch vài trăm mét. Đặc biệt, có một học trò cũ thường xuyên tới thăm cụ; đó là ông Nguyễn Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm. Sau khi Nguyễn Tất Thành rời Huế, ông Đạt bị “an trí” ở Thừa Thiên do có tư tưởng bài Pháp. Cụ Miến không có may mắn được chứng kiến ngày đất nước độc lập và người học trò yêu quý hồi nào trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng có một chi tiết con trai cụ Miến kể lại, chứng tỏ cụ vẫn dõi theo và biết chàng đã tìm ra con đường cứu nước. Ấy là một ngày, ông Đạt - chắc là nghe nguồn tin thất thiệt của báo chí thực dân - hấp tấp tới bên giường cụ Miến nói với giọng đau đớn: “Thầy ôi! Nguyễn Ái Quốc nó đã chết rồi!”... Mối thâm giao giữa hai thầy trò đến mức cụ Miến đã uỷ thác cho ông Đạt đi hỏi vợ cho con trai và lúc cụ qua đời (ngày 6/6/1943), ông Đạt đã ở luôn bên cạnh, lo chôn cất, để tang như con trong nhà... 60 năm đã qua từ ngày đó! 60 năm, cụ Miến nằm lặng lẽ trên một ngọn đồi bên sông Ô Lâu, một vùng quê hẻo lánh, xa phố phường, suốt mấy chục năm chỉ biết có chiến tranh và bom đạn... Có phải vì thế mà thiên hạ biết đến cụ muộn màng. Cho đến hôm nay... Trường An - Huế 4/2003 Trong Hiện thực & sáng tạo tác phẩm văn nghệ.NXB Hội Nhà Văn- 2006
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:38:39 GMT 9
Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh Nguyễn Phan Chánh – người đặt nền móng cho tranh lụa Việt Nam Các họa sỹ bậc thầy Việt Nam luôn để lại những dấu ấn cá nhân về mặt bút pháp. Nếu như Tô Ngọc Vân tài hoa, mẫu mực; Nguyễn Sáng chính xác, ngang tàng; Nguyễn Tư Nghiêm thâm trầm, khúc chiết; Dương Bích Liên chắt lọc, tinh tế; Bùi Xuân Phái nặng tình, run rẩy… thì nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh chân phương, bình dị, thấm đẫm hồn quê. nguyen phan chanh Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892, là một danh họa trong nghệ thuật tranh lụa. Ông là người đầu tiên mang vinh quang về cho tranh lụa Việt nam. Xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp đào tạo, nhưng Nguyễn Phan Chánh lại thành công và thành danh ở lĩnh vực tranh lụa, một loại hình nghệ thuật mang đậm chất Á Đông, từ chất liệu cho đến cách tạo hình. Ông chỉ tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây: hình họa, đường nét, màu sắc, bố cục, cách xử lý ánh sáng, luật xa gần… qua các giáo sư Victor Tardieu và Joseph Inguimberty như một phương tiện kỹ thuật mang tính phổ quát. Trên nền tảng đó, ông tạo dựng cho mình một phong cách hội họa bác học theo tinh thần của thời đại mới mà vẫn bám sâu gốc rễ văn hóa vào nguồn mạch văn hóa mỹ thuật truyền thống đã phát triển rực rỡ hàng ngàn năm của dân tộc. Sinh ra và lớn lên từ một làng quê nghèo của huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh, thuở bé Nguyễn Phan Chánh học chữ Nho ở quê nhà, rồi vào Huế học Trường Sư phạm Đông Ba. Năm 1922, sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Phan Chánh ở lại Huế dạy học. Và… một thôi thúc lạ đời đã đưa Nguyễn Phan Chánh đến với hội họa. Ông ra Hà Nội thi đỗ vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa I (1925 – 1930) cùng với Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Lê Văn Đệ… Và từ đấy, chúng ta có Nguyễn Phan Chánh – họa sỹ. choi o an quan Nguyễn Phan Chánh người đặt nền móng cho tranh lụa Việt Nam Chơi ô ăn quan – tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Phan Chánh Trong những năm đầu của khóa học, Nguyễn Phan Chánh không mấy thành công ở chất liệu sơn dầu. Chính thầy Victor Tardieu, với phương châm “bảo tồn tính dân tộc” trong giảng dạy hội họa, đã nhận thấy tư chất ông không hợp với lối vẽ sơn dầu phương Tây nên khuyên ông chuyển sang lối vẽ phương Đông truyền thống và giúp ông tìm hiểu về hội họa cổ Trung Quốc. Những năm cuối ở trường, Nguyễn Phan chánh miệt mài tìm tòi, nghiên cứu, thể nghiệm chất liệu lụa và đã tiến một bước dài trong việc cách tân nền hội họa việt Nam với một loạt tác phẩm có giá trị ra đời: Bữa cơm, Em bé cho chim ăn, Lên đồng, Những người hát rong… Đặc biệt, bức Chơi ô ăn quan, trên cái nền lụa trắng ngà chỉ có hai màu nâu, đen, Nguyễn Phan Chánh làm người xem ngỡ ngàng khi vẽ những em bé chơi trò mà không nghịch ngợm, chăm chú và điềm tĩnh, ngây thơ mà tư lự… đã gây tiếng vang lớn trong cuộc triển lãm đấu xảo Paris năm 1931. Từ đó Nguyễn Phan Chánh chuyên sáng tác và nổi tiếng về tranh lụa, dùng lụa để phản ánh hiện thực đã khẳng định được phong cách cùng khuynh hướng nghệ thuật hiện thực dân tộc. bữa cơm mùa thắng lợi - nguyễn phan chánh Bữa cơm mùa thắng lợi Khác với tranh sơn dầu hay sơn mài, bột màu… nghệ sỹ có thể mặc sức thả bút theo dòng xúc cảm đang tuôn trào, nghệ sỹ khi vẽ tranh lụa phải lắng lòng để chuyển tải cảm xúc. Do đó cảm hứng sáng tạo thường diễn ra chậm. Từ những đặc tính của lụa: cách diễn hình và sắc mơ màng, thơ mộng… đòi hỏi nghệ sỹ ngoài đức tính kiên nhẫn, cần cù còn phải có một thái độ nghiêm cẩn, tỷ mỷ, cầu kỳ trong từng nét vẽ, tạo loang mới có thể làm nên một bức tranh lụa đẹp lung linh, mờ ảo, mỏng manh, thanh thoát. Nguyễn Phan Chánh là bậc thầy về lĩnh vực này. Tranh ông nền nã với những gam màu nâu đen, vàng đất, xám nhẹ thấm đẫm chất lụa đã làm nên một phong cách nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh trữ tình, độc đáo. Tài năng Nguyễn Phan Chánh thể hiện ngay trong cách nhìn. Ông nhìn bằng tâm tưởng, thấy được những điều mắt ta không thấy, hoặc thờ ơ bỏ qua: vẻ đẹp đời thường. Đó là những cảnh: Rửa rau cầu ao, Em bé chơi chim, Hai thiếu nữ đội nón thúng quai thao, Thiếu nữ chải tóc, Hái rau muống, Rửa khoai, Tối cho con bú, Đêm trăng lu, Kỳ lưng, Tắm ao… Với bố cục thông thoáng và sự gia công tinh tế của phương Đông hợp hòa cùng sự chính xác, khoa học phương Tây, giữa diễn tả và gợi tả. Nguyễn Phan Chánh đã tẩm tâm hồn chúng ta trong hồn quê dân dã. Tranh ông mang lại sắc thái êm ả, thanh thản, bình dị, trữ tình. Về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, nhà văn Ba Lan Z.Kwecinska nhận xét: Xem tranh, chúng ta có cảm giác như nghệ sỹ đang tâm sự những câu chuyện của đời mình. Ông như muốn chia sẻ những khát vọng, hoài bão và tình yêu cuộc sống, con người. Mỗi bức tranh như một bài thơ. Tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh thật êm dịu, mát mẻ. Phải có một nghị lực phi thường, một sức sống mạnh mẽ, họa sỹ mới giữ được sự bình thản, êm đềm ở một đất nước luôn có chiến tranh. Quả là lời nhận xét đắt giá, tinh tường! rửa rau cầu ao - nguyễn phan chánh Rửa rau cầu ao Nguyễn Phan Chánh là một trong những họa sỹ hàng đầu của tranh lụa Việt Nam. Và cũng là người gióng tiếng chuông lớn cho hội họa Việt Nam ở nước ngoài. Sự thuần tính cách việt xuyên suốt gia tài hội họa của ông đã đánh thức biết bao kỷ niệm êm đềm về quê hương, xứ sở. Ngày nay, nông thôn Việt Nam đã đổi thay nhiều, cả phong cách lẫn hồn người. Vì thế những bức tranh lụa Nguyễn Phan Chánh như một dấu tích tâm hồn dân tộc sẽ còn nuôi lòng nhiều thế hệ. Tháng 8 và tháng 9 năm 1982, mừng thọ hoạ sĩ 90 tuổi, Bộ Văn hoá Việt Nam cùng Bộ Văn hoá Tiệp Khắc, Bộ Văn hoá Hungary tổ chức triển lãm 47 tác phẩm của các thời kỳ sáng tác của Nguyễn Phan Chánh tại Praha, Bratislava, Budapest, Bucharest. Tháng 7 năm 1983, phòng tranh Nguyễn Phan Chánh được trưng bày tại Viện Bảo tàng Phương Đông ở Moskva. Nguyễn Phan Chánh mất năm 1984, được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Lao động hạng 3, Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất. *********************** Sinh vào cuối thế kỷ trước ở Trung bộ Việt Nam. Từ thời thơ ấu họa sĩ đã được rèn luyện trong nền nghệ thuật viết chữ (calligraphie). Ơở tuổi 14, họa sĩ đã đi tới các chợ để bán những bức tranh cuộn đầu tiên của mình, và với chúng họa sĩ đã kiếm thêm được tiền cho gia đình nhiều hơn là bằng việc viết chữ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trường Cao đẳng Mỹ thuật được thành lập ở Hà Nội. Họa sĩ đã được nhận vào trường với tư cách là người duy nhất thi đỗ trong số hàng trăm thí sinh của Trung kỳ lúc ấy. Nhà trường dành ra 10 chỗ cho "những người bản xứ" trên toàn Đông Dương. Ơở đây, vào năm thứ tư của khoá học. Nguyễn Phan Chánh đã làm quen với tranh lụa, cái mà về sau đã trở thành niềm say mê, số phận và nội dung cuộc sống của con người này. Khi tên công sứ Bắc kỳ yêu cầu họa sĩ vẽ mặt hàng thực dụng cho chúng, Nguyễn Phan Chánh đã bỏ Hà Nội ra đi. Việc là này đã cản trở họa sĩ tham gia phòng tranh 1938. Song đối với giới nghệ sĩ và các nhà phê bình nghệ thuật Pari thì các tác phẩm của Nguyễn Phan Chánh đã vẽ rất quen biết và được thừa nhận từ triển lãm thuộc địa 1931. Trong những năm của cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1945-1954), họa sĩ tạm thời xa cách những tấm lụa thân yêu của mình, vì trong vùng kháng chiến nơi họa sĩ ở bấy giờ, không có lụa dùng cho tranh. Với tinh thần và kỹ thuật tranh dân gian, họa sĩ đã làm áp phích về đề tài chống thực dân. Sau hiệp định Giơ ne vơ, họa sĩ Nguyễn Phan Chánh trở về Hà Nội với tranh lụa. Kỹ thuật này từ lâu đã là một kỹ thuật được các họa sĩ Đông Phương ưa chuộng, nhất là ở Trung Hoa và Nhật Bản. Mấy nét bút lông về hoa cúc, một cánh cỏ trên đồng lúa, những mái chùa và các đám mây nhỏ, chất dịu nhẹ và lãng mạn - đó đã là mệnh lệnh của khuôn sáo, Nguyễn Phan Chánh đã giữ riêng cho mình. Đề tài của họa sĩ là con người, người nông dân của vùng châu thổ sông Hồng. Cô thôn nữ tắm cho con, một phụ nữ gách thóc, người con gái nghiêng mình xuống nước... từ chủ đề cho đến độ đậm giảm bớt trong gam màu của họa sĩ, tới các màu sắc kín đáo của những cô thôn nữ vùng châu thổ và ngay cả các cánh đồng lúa sau mùa gặt hái. ** Hồi ký của danh họa Nguyễn Phan Chánh Về những bức tranh của tôi ** Ký ức về người cha ** Danh họa Nguyễn Phan Chánh và giáo sư Victor Tardieu Danh họa Nguyễn Phan Chánh và giáo sư Victor TardieuHọa sĩ Nguyễn Phan Chánh gắn liền hồn mình với chủ đề dân dã cũng như phương pháp, kỹ thuật phương Đông. Theo bài viết của nhà phê bình mỹ thuật người Pháp Jean Tardieu thời bấy giờ trên họa báo Ilustrations số Noel 1932 ở Paris, “Đứng đầu họa sĩ ở Hà Nội là Nguyễn Phan Chánh... sự khẳng định tài năng của họa sĩ có nguồn gốc sâu xa là ông luôn trung thành với nền văn hóa dân gian của mình". Người viết bài báo này là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, giáo sư - họa sĩ Victor Tardieu. Là người Pháp chịu trách nhiệm nhà trường của chế độ thực dân, nhưng về bản thân ông, ông có công lớn đào tạo nên một đội ngũ họa sĩ trứ danh Việt Nam. Chủ trương của Victor Tardieu, sinh viên phải học theo đúng chương trình như các trường mỹ thuật châu Âu, nhưng trong sáng tác thì hướng về chất liệu á Đông. Ông công bố những bài tốt nghiệp sẽ được thực hiện bằng hình thức nghệ thuật dân tộc. Chính với nhãn quan của người hiệu trưởng đầy tài ba và giàu lòng ưu ái này đã phát hiện ra một Nguyễn Phan Chánh, trong khi sinh viên Nguyễn Phan Chánh hãy còn trong bối rối như gà vướng tóc. Hiệu trưởng Vitor Tardieu sang Trung Quốc mua những tác phẩm Trung Hoa cổ đại từ Vân Nam. Ông sưu tầm tranh lụa đời Đường, đời Tống..., tranh khắc gỗ màu Nhật Bản thế kỷ 17. Rồi mua bút vẽ, đặt giấy dó làng Bưởi... để rồi những tác phẩm tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh lần lượt ra đời. Những bức tranh lụa mềm mại mang sắc thái phương Đông - đặc biệt rất Việt Nam trong khuôn khổ những luật lệ của nền khoa học đương đại làm ngạc nhiên giới nghệ thuật phương Tây, khi phòng triển lãm hội họa Việt Nam mở ở Paris (đất thánh của nền nghệ thuật châu Âu và thế giới) vào năm 1932. Từ chỗ đứng ngày nay, ta thử quay lại thời điểm xã hội lúc ấy, với những đối tượng mà danh họa Nguyễn Phan Chánh phản ánh lên tranh. Đó là toàn lớp người ở đẳng cấp thấp với những sinh hoạt quá bình thường, chẳng có gì lạ lẫm đáng nói nhất là với tiếng nói nghệ thuật, như: Ăn cơm, Cho con bú, Hái rau muống, Rửa rau ở cầu ao, Lên đồng bắt ma... Trong khi bối cảnh thời 1930 - 1945, cách sống mới, con người mới đang dấy lên như sóng biển ồn ào, cuốn hút những nhà sáng tác văn học nghệ thuật. Đề tài tranh tượng thời này hầu hết là những phụ nữ tân thời thành thị nhàn rỗi, ăn chơi, phô diễn thân thể và áo quần cải cách... Phong trào "Âu hóa" che lấp tất cả. Trong khi đó Nguyễn Phan Chánh vui với cái vui bình dị dân dã, như: Chơi ô ăn quan, Cho chim ăn... Nghệ thuật thì thế, còn với cuộc sống đời thường chàng sinh viên này chỉ khăn xếp áo the và đôi guốc mộc..., ông sống với những gì quen thuộc hàng ngày chứ không hề lập dị. Mà cũng chẳng một ai nghĩ rằng ông cao ngạo khác người như vài nhà thơ thuở ấy. Nhưng ai hiểu cho ông, những người bạn đồng học bước lên từ những "trường Tây" ở Hà Nội, văn minh và sang trọng? Năm 1932 cuộc triển lãm ở Paris đã giới thiệu Bước đầu có một nền hội họa Việt Nam. Tên tuổi họa sĩ Nguyễn Phan Chánh vang xa từ đó. Nhiều công ty ở Pháp đưa tranh của ông sang triển lãm ở Milan (ý), San Francisco (Mỹ) và Tokyo (Nhật Bản) vào những năm 1942 - 1944. Về một góc độ nào đó người ta biết đến Việt Nam mà tụ điểm là Nguyễn Phan Chánh. Nhân vật nâu sòng và bút pháp phương Đông là của riêng ông. Cá tính nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh đã thuyết phục khách thưởng ngoạn khó tính nhất của đất Paris một thời. Có thể khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: Nếu không có Hiệu trưởng Victor Tardieu thì không có Nguyễn Phan Chánh, danh họa Việt Nam. LÊ THANH TRỪ
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:43:10 GMT 9
Tô Ngọc Vân Một trong những họa sĩ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hình hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt nam. Tên tuổi của họa sĩ Tô Ngọc Vân gắn liền với nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Tấm lòng chân thành đối với nghệ thuật và tình yêu đất nước đã khơi nguồn để ông đến với hội họa và trở thành một trong những nghệ sĩ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hình hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng Chạp 1906. Hà Nội là chiếc nôi của cuộc đời và nghệ thuật Tô Ngọc Vân. Đi nhiều nơi trong nước và sang cả Cam-pu-chia dạy học, nhưng Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội vẫn là nơi ông chứng kiến nhiều nhất nỗi đau, niềm vui trong đời sống. Nơi ấy đã nuôi ông lớn lên để gắn mình với những sự kiện nghệ thuật của đất nước đến trọn đời. Thuở còn là một cậu bé con nhà nghèo. Tô Ngọc Vân phải đến sống nhờ nhà bà cô, quá tuổi mới được đến trường học chữ. Tuổi thơ khắc nghiệt đã sớm tạo cho ông ý chí tự lập, sống một mình trong ý nghĩ, tình cảm. Đôi lúc rảnh rang, ông đến rạp cải lương xem hát và rất mê các bậc anh hùng, nghĩa hiệp được tái hiện trên sân khấu. Về đến nhà là cậu bé ấy cầm gạch non vẽ đến mê mãi hình các nhân vật sân khấu đã in đậm vào tâm trí. Đang học trung học năm thứ ba, ông bỏ học đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926, ông trúng tuyển vào Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương với tất cả lòng nhiệt thành và ham yêu cái đẹp. Những năm trên ghế nhà trường, Tô Ngọc Vân tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với sự hăng say không biết mệt mỏi. Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt là chất liệu sơn dầu, có sức cuốn hút mạnh mẽ, bởi ông nhận thức nghệ thuật của môn này đã giúp diễn đạt được những tình cảm rạo rực, xao xuyến trong tâm hồn của nghệ sĩ đứng trước cảnh vật. Với Bức thư (1931), Tô Ngọc Vân đã tỏ thiện cảm với những cô gái lao động nền nã bên khung cửi qua những tình cảm kín đáo, đoan trang. Đó là sự dè dặt của một khuynh hướng. Sau này Tô Ngọc Vân thể hiện sâu đậm hơn người phụ nữ với sự đồng cảm trân trọng. Đây là lúc họa sĩ vẽ nhiều về phong cảnh đẹp bằng sơn dầu như Aánh Mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu... Thành công của họa sĩ không chỉ ở trong nước mà còn góp phần mang tiếng nói của nghệ thuật Việt Nam đến với nhiều nước. Năm 1931, tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng danh dự ở Triển lãm hội họa Pháp và được thưởng huy chương vàng ở Triển lãm thuộc địa tại Paris. Họa sĩ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp Trường cao đẳng mỹ thuật năm 1931. Dù nhiều người biết tiếng, ông vẫn không tìm được chỗ làm, phải sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tòa báo ở Hà Nội. Năm 1935 ông mới được Pháp bổ nhiệm đi dạy vẽ ở trường Xi-xô-vát (Phnôm Pênh). Năm 1938, Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở Trường trung học Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Đề tài chủ yếu trong những sáng tác trước cách mạng của Tô Ngọc Vân là người đàn bà thành thị. Từ tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng, với cái nhìn lơ đãng dưới hoa, nắng bên bờ ao, đến người thiếu nữ bâng khuâng - tranh Tô Ngọc Vân không gợi lên một chân dung nhân vật cụ thể, chỉ như biểu tượng về sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Người phụ nữ được ông thể hiện với lòng trân trọng trước đối tượng, không sa vào khoái cảm nhục thể, hay cũng không quá mơ hồ, ẻo lả, kiêu sa như người phụ nữ trong tranh của các họa sĩ đương thời. Kháng chien 1945 bùng nổ và thắng lợi, rồi cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp đã lay động Tô Ngọc Vân đoạn tuyệt với đề tài cũ, bắt đầu giai đoạn sáng tác mới, mở đầu là bức tranh thể hiện hình tượng do ong Hồ lãnh tụ cs VN . Sự trăn trở trong quá trình sáng tác đã bộc lộ khi ông viết những dòng xúc động: "Cuộc kháng chiến đã làm xiêu đổ nhiều giá trị tư tưởng cũ. Chúng tôi muốn đổ máu, chúng tôi muốn đoạn tuyệt với cái dĩ vãng nghệ thuật mà giờ nghĩ tới sự chuyển hướng đó, chúng tôi cảm thấy khó khăn nặng nề như chuyển một trái núi...". Tô Ngọc Vân đi vào cuộc sống kháng chiến với tất cả những băn khoăn, day dứt của người nghệ sĩ cũ, đồng thời lại được thực tế vừa cụ thể, vừa nghiêm khắc đòi hỏi ông nhận thức chỗ đứng của mình trong sự nghiệp của dân tộc. Ông tham gia cải cách ruộng đất, rồi đi chiến dịch, làm nhiệm vụ của người chiến sĩ. Một thời kỳ sáng tác khỏe khoản lạc quan bắt đầu. Họa sĩ đã phát hiện trong những con người bình dị, mộc mạc một vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng. Từ tình cảm cách mạng, Tô Ngọc Vân đã xây dựng nên những con người mới, thành công rõ rệt của hiện thực cách mạng mang dáng nét của thời đại. Đó là điều ông đã đi trước các đồng nghiệp của mình. Sáng tác của ông sẽ còn phong phú biết bao nếu ông không bị bom địch giết hại vào buổi trưa ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở chân đèo Lũng Lô. Toàn bộ tác phẩm của ông được tặng giải nhất tại Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1954. Cái mốc cuối cùng của Tô Ngọc Vân thật rực rỡ trong sáng và kiêu hãnh, tự hào. Một họa sĩ bậc thầy, một trí thức Việt Nam đi theo cách mạng đã hy sinh cho Tổ quốc, cho nghệ thuật, một cách vinh quang, trọn vẹn.. ******************* Họa sĩ Tô Ngọc Vân Tô Ngọc Vân (1908-1954) là một họa sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả bức Thiếu nữ bên hoa huệ. to-ngoc-van Ông còn có những bút danh Tô Tử, Ái Mỹ. Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 1908 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội. Một vài tài liệu viết ông sinh năm 1906. Năm 1926, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc thế hệ đầu tiên của trường, tốt nghiệp khóa 2 năm 1931. Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế… Ông hợp tác với các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị… Từ 1935 đến 1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa sáng tác. Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc. Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông còn được xem là một trong những họa sĩ lớn của hội họa Việt Nam, nằm trong “bộ tứ” nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn). Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc(Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Khmer. Tem Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam. Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện Biên Phủ. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:49:21 GMT 9
Lê Thị Lựu (1911-1988) Sinh ra tại tỉnh Hà Bắc. Là một nữ họa sỹ thuộc thế hệ đầu tiên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng, khoá 3 (1927-1932). Bà đã sống và làm việc tại Pháp từ năm 1940. Phụ nữ và con trẻ là chủ đề chính trên các tranh lụa của bà. Kiểu mẫu hoàn thiện tinh tế với kỹ thuật cổ điển. Bà có các tác phẩm được lưu tại các bộ sưu tập cá nhân ở ngoài nước. * Thành viên của Hội nữ họa sỹ và điêu khắc Pháp. * Trước khi sống ở Pháp, bà đôi khi dạy tại các trường Bưởi, Hàng Bài và Hồng Bàng ở Hà Nội, và ở trường Mỹ thuật Sàigòn-Gia Ðịnh. Bà mất tại Pháp. Một số tác phẩm chính : "Mẹ và con" (Lụa) "Mẹ và con" (Mầu phấn)
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:51:29 GMT 9
Nam Sơn (1890-1973) Là một họa sỹ người Hà nội chuyên về sơn dầu, mực nho và bột mầu theo trường phái Phương Ðông cổ. Ông có tác phẩm được trưng bầy ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Louvre, Paris. * Cuộc triển lãm tranh đầu tiên của ông cùng với hoạ sỹ Thang Trần Phênh tại Nhà Triển lãm Hà nội năm 1923 * Từ năm 1925 đến năm 1927 học tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia Paris và được đào tạo một năm tại Jean Pierre Laurens’ năm 1932. * Từ năm 1929 đến năm 1945 là trưởng trợ giáo tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương * Năm 1931 - Ðoạt huy chương bạc tại triển lãm Mỹ thuật của các nước thuộc địa ở Paris. * 1935, 1936 - Tham gia triển lãm Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật và công nghệ xúc tiến (SADEAI). * 1942 - Sang Nhật, tại đây ông đã vẽ được nhiều tranh. * Vào những năm 1960 ông vẽ nhiều tranh mực nho. Ông để lại một số tác phẩm. Trong đó một số được đánh giá cao như: "Cô gái" (bột mầu, sưu tập Nguyễn Văn Lâm)
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:53:49 GMT 9
Lê Văn Ðệ (1906-1966) Sinh ra tại tỉnh Bến Tre. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương, khoá đầu (1925-1930). Ông đã học thêm ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia Paris năm 1931. Là một trong các hoạ sỹ Việt Nam nổi tiếng ở nước ngoài. đặc biệt trong tranh lụa, kỹ năng về nghệ thuật cảm hứng và ấn tượng sâu tôn giáo. Ông có tác phẩm ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Aix-la-Chapelle, Vatican, Luxembourg, và các nơi khác nữa. * 1932 - Ðoạt giải ba tại Triển lãm Mỹ thuật Paris * 1935 - Mở trưng bầy tranh tại Rome * 1936 - Ðoạt giải nhất tại Triển lãm báo chí công giáo thế giới tại Rome. Ông được mời phục chế bên trong toà Vatican và các công tr�nh kiến tr�c kh�c tại ��ng Dương v� ��ng Nam � * 1939 - Ông về Việt Nam, mở phòng tranh tại Hà nội, sau đó rời Việt Nam đến sống và làm việc tại Pháp. * 1954-1966 - Là Giám đốc trường Cao đẳng Mỹ thuật Sài gòn Một vài tác phẩm chính: " Cô gái trên cầu ao" (Tranh lụa, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ) *************** Lê Văn Đệ (1906 - 1966) Lê Văn Đệ (1906-1966) Trong lịch sữ mỹ thuật Việt Nam, Lê Văn Đệ được nhắc đến như một nghệ sĩ bậc thầy, tiêu biểu cho xu hướng cổ điển và tân cổ điển Việt Nam. Sinh trong một gia đình nhà nho ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, thân sinh là Lê Quang Hòe, cai tổng Minh Đạt, hàm Tri huyện. Ông là con thứ 10 trong số 13 anh chị em. Lúc nhỏ, học ở trường tiểu học ở quê nhà, sau lên học ở Trường Tabert, Sài Gòn. Ngay từ thời còn ngồi trên ghế nhà trường trung học, ông đã được bạn bè ngợi ca về tài vẽ nhanh và đẹp. Năm 1925, sau khi tốt nghiệp trung học, ông thi vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội. Cùng với Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tường Tam, Lê An Phan… ông trúng tuyển trong số 10 người, trong tổng số 400 thí sinh dự thi. Trong những năm theo học ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật, ông luôn được xếp vào hạng sinh viên xuất sắc của trường và đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp. Năm 1931, ông được một học bổng sang Pháp học tại Trường Mỹ thuật Paris, dưới sự hướng dẫn của giáo sư J.Pierre Laurence vẽ tranh sơn dầu. Trong những năm học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong giới nghệ thuật tại thủ đô ánh sáng này và ông đã đoạt giải thưởng hội họa do Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức. Với thành tích rực rỡ này, ông được nhận tiếp một học bổng đi tu nghiệp thêm về hội họa tại Ý và Hy Lạp. Năm 1933, tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 - một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức tranh Trong gia đình của ông để treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg. Năm 1936, tại một cuộc triển lãm tranh do tổ chức báo chí Công giáo bảo trợ tại Roma, có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới, trong số đó có nhà danh họa Bouleau (Pháp), tác phẩm của Lê Văn Đệ được tặng giải nhất. Do đó, ông được mời phụ trách một nhóm 11 kỹ sư và 20 họa sĩ làm nhiệm vụ vẽ, chạm trổ, trang hoàng trong điện Vatican. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý và nhiều nước đánh giá cao. Năm 1938, ông trở về nước, vừa sáng tác vừa tiếp tục nghiên cứu hội họa dân tộc và các nền hội họa phương Đông. Bức tranh Thiếu nữ ngủ ngày của ông là một tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ. Công lao lớn nhất của Lê Văn Đệ là đã sáng lập ra Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, làm cho việc giảng dạy và đào tạo cán bộ mỹ thuật ở miền Nam được nâng cao và phong phú hơn. Năm 1954, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định thành lập, ông được cử làm Giám đốc đầu tiên của trường. Tác phẩm của ông thiên về khuynh hướng cổ điển và tân cổ điển, mặc dù ông nắm khá chắc kỹ thuật và có kiến thức uyên bác về khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của châu Âu. Ông say mê nghiên cứu thủ ấn họa của Nhật Bản và các trường phái hội họa nguyên thủy châu Âu, nhưng sở trường nhất của ông vẫn là tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa. Trong kỹ thuật tranh lụa, ông đã có những tìm tòi độc đáo như dùng màu sắc thiên nhiên thay thế cho màu hóa học, để làm tăng thêm chất hiện thực và vẻ mềm mại của loại tranh này. Đánh giá về ông, giới họa sĩ cho rằng hai cố họa sĩ đàn anh xuất thân từ Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đem lại vinh dự cho Việt Nam là hai ông Lê Văn Đệ và Nguyễn Gia Trí. Nhiều tác phẩm của ông hiện được lưu giữ tại các bảo tàng một số nước châu Âu như: bức Trong gia đình (sơn dầu), 1934 - Viện Bảo tàng Luxemburg ở Paris, bức Đức Mẹ và bức Bà Thánh Madeleine dưới chân thập giá - Viện Bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican, bức Mẹ và con - Viện Bảo tàng Mỹ thuật Aix La Chapelle… Là một người bình dị, thích cái đẹp thôn dã, giàu lòng vị tha, ngoài chức vụ Giám đốc Trường Mỹ thuật, ông Đệ lúc sinh thời còn là Phó hội trưởng Hội hoa kiểng Việt Nam - một ngành có liên quan nhiều đến mỹ thuật như kiểng bonsai, hòn non bộ và vườn cảnh. Ông từ trần ngày 16-3-1966 tại Sài Gòn.
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:55:40 GMT 9
Lê Phổ ( 1907) Sinh ra tại tỉnh Hà Tây. Là một trong những người đầu tiên tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng, khoá học 1925-1930. Chuyên tranh lụa và sơn dầu. Từ năm 1936 ông sống và làm việc chủ yếu ở Pháp. Chủ đề chính là hoa và phụ nữ đẹp mơ màng và qúi phái. Các tác phẩm của ông được trưng bầy tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Cận đại Paris, Bảo tàng Oklahoma (USA), và ở các bộ sưu tập tư nhân, chủ yếu ở Mỹ. * 1933 - Là giáo sư trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng. Ông đã sang Trung Hoa và nhiều nước Châu Âu. Ðã tham gia các cuộc Triển lãm tranh quốc tế. * 1937 - Tham gia Triển lãm Mỹ thuật của các nước thuộc địa tại Paris với vai trò là giám đốc vùng Ðông Dương. * 1941 - Tham gia Triển lãm lớn tại Algeria cùng với hoạ sỹ Mai Thứ. * 1957-1958 - Mở triển lãm tranh tại Lyon, Avignon, Nice và Bordeaux cùng với họa sỹ Nhật Bản Foujita. Một số tác phẩm chính: "Thiếu nữ với hoa Lan" (Tranh lụa) "Tĩnh vật" (Sơn dầu)
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:57:18 GMT 9
Trần Văn Cẩn (1910-1994) Sinh ra tại Hải Phòng. Là một trong các họa sỹ nổi tiếng thuộc thế hệ đầu của nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, ông còn góp phần vào nghệ thuật và công việc đào tạo. Tốt nghiệp khoá 7 trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng (1931-1936). Kiểu mẫu hiện thực, trữ tình. Trình độ cao về sơn dầu, sơn mài và chất liệu lụa. Nhiều tác phẩm được trưng bầy tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, các bộ sưu tập cá nhân trong và ngoài nước. * Giải thưởng Lớn tại Triển lãm của Hội Mỹ thuật và Công nghệ xúc tiến (SADEAI), 1935. * Giải nhất tại Phòng Triển lãm của nhóm FARTA năm 1943. * Giải nhất tại Triển lãm Nghệ thuật Toàn quốc từ năm 1946 đến 1951 * Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam từ 1954 đến 1964. * Giải nhất tại Triển lãm Nghệ thuật Toàn quốc năm 1957. * Tổng thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam, khoá đầu (1958-1983) * Cộng tác viên của Viện Mỹ thuật của nước Cộng hoà dân chủ Ðức từ năm 1978. * Chủ tịch Hội nghệ sỹ tạo hình Việt Nam, khoá 2 (1983-1989) Một số tác phẩm chính: " Em Thuý" (Sơn dầu, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) Danh họa Trần Văn CẩnDanh họa Trần Văn Cẩn (1910 – 1992) là người giữ cương vị Tổng Thư ký Hội Mỹ thuật Việt Nam lâu nhất trong lịch sử Hội từ trước đến nay, 26 năm, từ năm 1957 đến 1983. Ông không chỉ là một nhân cách đức độ, một người lãnh đạo xuất sắc của Hội Mỹ thuật Việt Nam, một người thầy mẫu mực của Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội. tran-van-can Trên hết, ông vẫn là một họa sĩ tài năng, với những tác phẩm mang lại thành công lớn lao cho nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại từ khi nền mỹ thuật ấy mới ở giai đoạn bắt đầu. Sinh tại Kiến An (Hải Phòng), đã học Trường Bách Nghệ, rồi đi làm ở Sở cá Nha Trang, ông say mê nghề vẽ từ nhỏ. Rồi năm 1931, thi vào Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương, vẽ trở thành nghiệp của ông. Vào quãng giữa những năm 40 của thế kỷ trước, câu “Nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn” (Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn) cho thấy công chúng đã sớm khẳng định Trần Văn Cẩn vào hàng những bậc thầy của hội họa thời đó và tất nhiên, cả về sau này. Cho đến ngày mất, ông vẫn giữ vị trí đại thụ trong làng mỹ thuật. Mùa đông sắp đến. Sơn mài của Trần Văn Cẩn Suốt 60 năm sáng tạo bền bỉ, Trần Văn Cẩn để lại một gia sản hội họa đồ sộ (mà ông gọi đó là món quà mọn dành cho người vợ cuối cùng của ông) với hàng nghìn bức tranh nhiều chất liệu. Những tác phẩm nổi tiếng của ông đã nằm trong Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia luôn được coi là báu vật của đất nước: Em Thúy (sơn dầu); Hai thiếu nữ trước bình phong (lụa); Gội đầu (khắc gỗ); Tát nước đồng chiêm (sơn mài); Nữ dân quân vùng biển (sơn dầu); Công nhân hầm lò (sơn dầu); Con đọc bầm nghe (lụa); Mùa thu đan áo (sơn mài); Thằng cu đất mỏ (sơn mài); Mưa mai trên sông Kiên (sơn mài); Trong lòng đất (sơn mài)… Sự đa dạng về chất liệu là một hướng đi của Trần Văn Cẩn từ rất lâu, khi học trong Trường cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương, ông đã say mê nghiên cứu lụa và khắc gỗ trong khi học sơn dầu. Sơn mài là một tìm tòi không dứt ra được của ông. Cùng với Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Phạm Hậu, Nguyễn Khang…, Trần Văn Cẩn mày mò thể nghiệm, pha chế nguyên liệu từ sơn ta, tìm ra được một bảng mầu rực rỡ chưa từng có trong sơn mài mỹ nghệ truyền thống và góp phần đưa sơn mài thành một chất liệu quý giá không thể thiếu trong sáng tạo mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Bài tốt nghiệp Trường cao đẳng Mỹ thuật Ðông Dương năm 1936 của Trần Văn Cẩn chính là một tranh sơn mài, bức bình phong có tên là “Vinh quy hiện đại” mà đậm chất dân tộc. Cách mạng Tháng Tám làm cháy lên tinh thần yêu nước vốn có trong con người ông. Như nhiều họa sĩ yêu nước trong thời kỳ ấy, Trần Văn Cẩn tham gia Văn hóa cứu quốc, ông cùng Nguyễn Ðỗ Cung, Nguyễn Sáng hào hứng vẽ tranh cổ động quanh Hồ Gươm. Những tranh cổ động cỡ lớn của ông: Phá xiềng; Cứu nông dân, trừ giặc đói; Ba kỳ thống nhất có tác dụng động viên tâm lý rất lớn đối với công chúng thời kỳ đó. Ðặc biệt, bức tranh rộng hàng mấy mét vuông Nước Việt Nam của người Việt Nam treo suốt mấy tầng nhà Ðịa ốc Ngân hàng, phố Ðinh Tiên Hoàng ngày nay, là một tác phẩm thể hiện rất rõ lòng yêu nước và tình cảm lớn lao của một họa sĩ thường có phong cách êm dịu, yêu cái đẹp thông thường, thiếu nữ, hoa trái, phong cảnh… bỗng bừng lên khát khao cách mạng và quyết tâm dấn thân vào con đường nghệ sĩ – chiến sĩ. Ði theo kháng chiến, làm công tác tuyên truyền ở Từ Sơn, Bắc Ninh, ở Liên khu II; tháng 7 năm 1948, tại Ðại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất, ông được bầu vào Ban thường vụ Hội Văn nghệ, phụ trách ngành mỹ thuật. Ông còn là giảng viên Trường Mỹ thuật Kháng chiến. Họa sĩ Tô Ngọc Vân hy sinh, ông đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam suốt 15 năm sau. Là đại biểu Quốc hội khóa II, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng thẩm định nghệ thuật của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và của các Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc trong nhiều năm, được bầu là Viện sĩ của Viện Hàn lâm CHDC Ðức trước đây, nhưng ông vẫn bình lặng là một họa sĩ, vẽ không ngừng. Vừa tận tụy lo toan công việc chung, vừa đến những nơi khó khăn ác liệt, ngay cả trong chiến tranh để ký họa, sống và yêu bằng trái tim. Trần Văn Cẩn mãi mãi là niềm tự hào của các nghệ sĩ tạo hình Việt Nam. ********************** Kỷ niệm 100 năm ngày sinh danh hoạ Trần Văn Cẩn (13/8/1910- 13/8/2010): Khúc minuet dành cho “Em Thúy” Trần Trung Sáng Em Thúy là tên gọi một bức tranh sơn dầu do họa sĩ Trần Văn Cẩn sáng tác năm 1943. Bức tranh này được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Trần Văn Cẩn cũng như là một trong những đại diện tiêu biểu của tranh chân dung Việt Nam TK 20. Bức tranh “Em Thúy” Em Thúy - nhân vật trong tranh chính là một bé gái chừng 8 tuổi, với nét đẹp ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng. Thúy ngồi khép nép trên chiếc ghế mây, hai tay đặt vào nhau ở đùi, đôi vai gầy nhỏ bé, gương mặt biểu cảm, hướng về phía trước bằng đôi mắt trong veo, ánh lên niềm tin vào cuộc sống... Qua bao nhiêu năm tháng, bức tranh vẫn luôn gây xúc động người xem bởi một tình cảm trìu mến, thiết tha, như vang vọng tiếng nói về lòng nhân ái của con người. Điều thú vị và độc đáo hơn cả, là sau gần 70 năm ra đời, bà Minh Thúy, người đã đi vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam với hình ảnh “Em Thúy” vẫn còn đó - một người đàn bà Hà Nội tóc đã pha sương, song gương mặt vẫn phảng phất nét đẹp thanh lịch, nền nã, tưởng chẳng thể phai nhòa... Theo bà Minh Thúy, vào năm 1943, hồi lên tám tuổi, bà là con gái một gia đình công chức sống ở 23 phố Hàng Cót. Họa sĩ Trần Văn Cẩn, vốn là người bác cùng sống ở đó. Trong mấy đứa cháu, ông đặc biệt yêu quý bé Thúy nhất. Thường ngày, cứ mỗi lần đi học về, là Thúy phải ngồi vào ghế, làm mẫu cho bác Cẩn vẽ. Và bức tranh “Em Thúy” đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Kháng chiến bùng nổ. Gia đình “Em Thúy” sau khi từ nơi tản cư trở về Hà Nội thì bức tranh ấy bị thất lạc. Gia đình bà đã phải chuộc lại bức tranh từ một nhà buôn. Trước đó, ông này mua được từ nhà một người thợ cạo. “Em Thúy” trở về với gia đình chủ nhân một thời gian. Cuối cùng họa sĩ Trần Văn Cẩn tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật VN, lưu giữ đến tận ngày nay. Trong sự nghiệp của mình, danh họa Trần Văn Cẩn có rất nhiều tác phẩm về đề tài thiếu nữ, nhưng dường như khi nói về ông, người ta lại nhắc ngay đến “Em Thúy”, bởi tác phẩm này chính là thông điệp giản dị về tình yêu, về khát vọng hòa bình, tựa một luồng ánh sáng nhân văn giữa những loạn lạc của tội ác, thức tỉnh cái thiện của lòng người trong cõi u mê, cuồng bạo… Theo nhà phê bình Thái Bá Vân, hình tượng cô bé trong Em Thúy phản ánh thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn vào những năm 1940 khi họa sĩ mang nhiều nỗi niềm trước công cuộc Âu hóa ở Việt Nam. Ngoài bức chân dung vẽ Minh Thúy năm 8 tuổi, họa sĩ Trần Văn Cẩn còn có một bức tranh khác vẽ Thúy lúc cô 24 tuổi, nhưng đa giới thưởng ngoạn, kể cả người mẫu trong tranh đều chỉ ấn tượng sâu đậm với “Em Thúy” đầu tiên. Caroline Fry phục chế “Em Thúy” tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam Năm 2003, do Em Thúy bắt đầu tình trạng xuống cấp, các nhà chuyên môn đã đề nghị đưa bức tranh này ra nước ngoài để bảo quản phục chế, nhưng Bộ văn hóa lúc này không đồng ý. Một năm sau, bức tranh được giao cho chuyên gia phục chế người Úc Caroline Fry tiến hành phục chế tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Theo đánh giá của Fry, Em Thúy thể hiện một gương mặt giản dị nhưng đáng yêu, hiện thân của tuổi trẻ, với đôi mắt đầy tin tưởng như muốn giao tiếp với mọi người, bức tranh cũng thể hiện ảnh hưởng từ phong cách dùng bố cục không đối xứng của họa sĩ Henri Matisse (người Pháp). Tuy nhiên, bà Caroline nói: "Mặt tranh bẩn do bụi, muội thuốc lá, phân côn trùng, toan không bền chắc, rất dễ rách, sợi vải bị hư hỏng nhiều. Toan chùng, lớp sơn tranh nứt nhiều, có nhiều lớp bong sơn do điều kiện môi trường nóng ẩm làm biến đổi lớp toan, phá vỡ tính liên kết của mặt sơn". Bức tranh đã được phục chế qua bảy bước: Lập hồ sơ về hiện trạng tranh, chụp ảnh; ổn định tranh: củng cố lớp vệ sinh tranh; làm ẩm bằng men tự nhiên, dùng dao cạo bỏ các vết bẩn bám chắc, loại bỏ các lớp sơn bóng bằng hoá chất và các vết phục chế cũ; xử lý vết bong sơn, quét lớp sơn bảo quản, bù đắp phần sơn bị mất, sơn lại bằng mầu nước và sơn bảo quản chuyên dụng; làm khung mới; chụp ảnh và làm báo cáo cuối cùng. Bức tranh sau khi phục chế hoàn chỉnh đã được chính thức bàn giao cho Bảo tàng Mỹ thuật ngày 28/6/2004. Bà Caroline dự kiến, bức tranh có thể sẽ duy trì tình trạng tốt trong khoảng 20 năm. Trước thời điểm nói trên, nhạc sĩ người Anh Paul Zetter (Phó Giám đốc Hội đồng Anh, người đã giúp mời Caroline Fry bảo quản phục chế lại Em Thúy), lấy cảm hứng từ bức tranh, đã sáng tác bản nhạc Khúc minuet dành cho Em Thúy. Paul Zetter cho biết, lần đầu tiên nhìn thấy “Em Thúy”, ông như bị “sét đánh”, bị mê hoặc, bởi “Như nhìn thấy tuổi thơ của mình, thấy những xáo động nội tâm của mình…đến rơi nước mắt bởi sự mộc mạc, giản dị tuyệt đối của bức tranh”.. Paul nói rằng, có một điều gì vô cùng bí ẩn trong bức tranh này và anh muốn thể hiện nó bằng âm nhạc. Trong bản nhạc, có những cao trào như một cơn bão, là cảm nhận mãnh liệt của tác giả khi đứng trước ánh mắt nhìn trong trẻo đến diệu kỳ của “Em Thúy”, một gương mặt của cô gái nhỏ Việt Nam trong thời kỳ đất nước chiến tranh, loạn lạc... Bà Minh Thúy Khi viết bài hát giản dị theo điệu valse tặng cho bức tranh, Paul ao ước được gặp nhân vật của “Em Thúy”. Lạ lùng thay, Paul tâm sự với một người bạn mà không biết đó chính là người con trai thứ hai của bà Minh Thúy. Do đó, chính Paul lại là người đầu tiên đôn đáo tìm mọi cách quyên góp, vận động bạn bè, và mời nhà chuyên môn sang Việt Nam giúp phục chế lại bức tranh tại bảo tàng. Kể lại những kỷ niệm đáng nhớ về “Em Thúy”, bà Minh Thúy cho biết: vào năm 1983, trong một lần ghé thăm gia đình một người bạn ở Sài Gòn, tình cờ, có người nói sao gương mặt bà trông rất giống một tranh vẽ trên tờ lịch xuân. Bà nhìn lên trên tờ lịch treo trên tường, thì nhận ra ngay bức tranh “Em Thúy”. Sau đó, người bạn đã tặng bà tờ lịch đem về lưu giữ làm kỷ niệm đến bây giờ. Bà Thúy bộc bạch, bà thật hạnh phúc, nhờ người bác kính yêu, danh họa Trần Văn Cẩn, mà cuộc đời bà đã được cái “duyên” để bước vào thế giới nghệ thuật đẹp như giấc mơ và đầy tràn cảm xúc./. Ngày đăng: 13.8.2010
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 6:58:39 GMT 9
Phạm Văn Ðôn (1917) Sinh ra tại Hà Nội. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng, khoá 13 (1939-1944). Ðặc biệt trong tranh chạm khắc, ông nghiêng về nghiên cứu và khai thác tranh Việt nam truyền thống. * Tác phẩm của ông được trưng bầy ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Ðức, Nga, Hungary và ở các nơi sưu tập cá nhân ngoài nước. * Giải thưởng Mùa Ðông tại "Salon Unique" Triển lãm Mỹ thuật năm 1943 và Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1951. * Giảng dạy tại trường đại học Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1957-1989. * Giải thưởng lớn "Intergraphik" tại Cộng hoà dân chủ Ðức năm 1980. * Cùng tổ chức Triển lãm cùng với nữ điêu khắc Nguyễn Thị Kim tại Hà Nội năm 1986 và năm 1993, ở Ba Lan năm 1989 và Bangkok năm 1993. Một số tác phẩm chính : "Mâm ngũ quả" (Khắc gỗ mầu)
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 7:00:41 GMT 9
Lương Xuân Nhị (1913) Sinh ra tại Hà nội. Là một họa sỹ, giáo sư, nhà giáo nhân dân. Một trong những người tốt nghiệp đầu tiên tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng, khoá 7 (1932-1937). Hỗ trợ cho việc đưa việc vẽ sơn dầu vào Việt Nam. Các tranh sơn dầu và lụa của ông đầy tinh thần Phương Ðông trong kiểu mẫu cao quý và đẹp. Tác phẩm của ông được trưng bầy ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng ở Paris, New York, Tokyo và ở nhiều bộ sưu tập cá nhân trong và ngoài nước. Tham gia triển lãm mỹ thuật ở Việt Nam và ở nước ngoài từ năm 1936. * Huy chương bạc (1935), Huy chương vàng (1936) do hội Mỹ thuật và công nghệ xúc tiến (SADEAI) trao. * Giải thưởng danh dự tại Triển lãm của SADEAI, năm 1937. * Giảng bài tại Ðại học Mỹ thuật Việt Nam (1955-1981). * Uỷ viên Ban chấp hành của Hội Mỹ thuật Việt Nam, khoá 1 và khoá 2 (1957-1989) * Phó Chủ tịch Hội Văn Học và Nghệ thuật Hà Nội. Một số tác phẩm chính : "Ðồi cọ" (Sơn dầu, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) "Chân dung thiếu phụ trẻ" (Than chì)
|
|
|
Post by NhiHa on May 16, 2010 7:03:58 GMT 9
Bùi Xuân Phái Sinh ra tại hà Nội. Nổi tiếng trong và ngoài nước. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng, khoá 15 (1941-1946). Chuyên vẽ tranh sơn dầu và bột mầu. Bị ảnh hưởng của trường phái vẽ tranh Paris. Ông thành công lớn trong tìm tòi nét đẹp của Hà Nội cổ kính và thể hiện một cách cô đọng, đa dạng và phong phú mầu sắc. Tranh chân dung của Bùi Xuân Phái có ảnh hưởng mạnh. Ông cũng là nhà minh họa lỗi lạc. Bắt đầu vẽ tranh đường phố và tham gia vào Triển lãm tranh ở Tokyo từ khi ông vẫn còn là sinh viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Ðông Duơng. Nhiều tranh của ông được cá nhân trong nước và ngoài nước sưu tập . Bùi Xuân Phái (1921-1988) * Giải thưởng mùa đông tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1946. * Giảng viên tại trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, năm 1956 và 1957 * Giải thưởng mùa đông tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1980. * Giải thưởng mùa đông cho minh họa cuốn sách Hề chèo (Hề chèo Toàn quốc) tại Leipzig. Một số tác phẩm chính : buixuanphai(tp) 01.gif (28912 bytes) buixuanphai(tp) 02.gif (29213 bytes) " Cổng Ô quan Chưởng" (Sơn dầu, sưu tập Nguyễn Văn Lâm) "Phố Chả Cá" (Sơn dầu, sưu tập Ðức Minh)
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:30:34 GMT 9
Đình làng Nam Bộ Bùi Thụy Đào Nguyên
Đình làng hay đình thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. Kiểu thức
Không như ngôi đình làng ngoài Bắc là một kiến trúc gỗ đồ sộ, gồm 5-7 gian; ngôi đình Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi nhà sát liền nhau theo kiểu sắp đọi [1]; và thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, tiện việc đi lại, ít bị chi phối bởi thuật phong thủy.
Ngày nay, đình thần Nam Bộ có lối kiến trúc khá đa dạng, bởi sau khi bị hư hại bởi thời gian & chiến tranh; kiểu thức truyền thống chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy đã ít nhiều thay đổi, nhưng một ngôi đình ở Nam Bộ, lần lượt từ ngoài vào trong đại để như sau:
- Cổng đình có kiểu dáng không chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái lợp ngói, hoặc trên hai trụ có đặt cặp lân bằng sành tráng men. - Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp.
- Sân đình thường có đàn thờ Thần Nông (tức Tắc thần), có nơi lập đàn tế chung với thần Thần Đất (tức Xã thần) gọi là đàn Xã Tắc [2]. Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân), miễu thờ Hội đồng hoặc miễu thờ nữ thần (có thể là một trong các nữ thần sau: Năm Bà ngũ Hành, Chúa Xứ Nguyên Nhung, Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Tiên, Chúa Ngọc...).
- Ngôi đình chính thường là ba hoặc nhiều nếp nhà tứ trụ (tức nhà vuông có 4 cột cái, một gian, hai chái), cùng kiểu cùng cỡ, bố trí theo kiểu "trùng thềm điệp ốc". Mái đình thường lợp ngói âm dương hoặc ngói ống kiểu Trung Quốc, ngói kiểu vảy cá (kiểu Pháp, có sau năm 1920); trên nóc thường gắn những hình sành tráng men màu như Lưỡng long tranh châu, chim phượng ngậm cuốn thư, lân mẹ dạy lân con, cá hóa long, bát tiên, ông mặt trời, bà mặt trăng, con nạ (một loài thủy quái theo truyền thuyết); nhằm tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng.
Bên trong mỗi đình có cách phân chia hơi khác nhau, nhưng thường là có ba gian chính: -Vỏ ca (gian trước), dành làm nơi xây chầu & hát Bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên. -Vỏ qui còn gọi vỏ cua hay nhà chầu (gian giữa), có nơi như Đình Phú Nhuận (thành phố Hồ Chí Minh), đặt bàn thờ Hội đồng ngoại [3]; có nơi như Đình Mỹ Phước (Long Xuyên, An Giang) đặt bàn thờ 18 đời vua Hùng, bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; và cũng có nơi dùng làm chỗ cho các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát Bội) hoặc hội họp.
-Chính điện hay Chính tẩm (gian cuối), là gian được coi là mỹ thuật nhất ở đình, gồm hoành phi, câu đối, khám thờ, các bao lam và các mảng phù điêu...Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, tinh tế. Ở gian này, đối tượng thờ chính là Thành Hoàng làng; ngoài ra có nơi như Đình Mỹ Phước có thờ thêm Hội đồng nội.
Ngoài ra, ở hiên phụ (cất dọc theo các gian chính), có thờ thêm Tả ban, Hữu Ban, Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền...Và tùy theo diện tích đình, mà có thể có thêm: -Nhà hậu hay nhà hội, để hương chức, ban tế tự hội họp; để dân làng qui tụ chuẩn bị lễ cúng tế.
-Nhà trù (nhà bếp) và nhà ở của ông Từ giữ đình v.v...
Bày trí
Tuy mỗi nơi có đôi chút dị biệt, nhưng việc bày trí thờ thần ở đình phải tuân thủ mấy nguyên tắc sau. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì:
- Câu đối ở đình chỉ trạm triện rồng hoặc tứ linh (long, lân, qui, phụng). - Bát bửu là 8 món quí báu gồm: bút, sách, quạt, gươm, lẵng hoa, đàn và sáo, bầu rượu, túi thơ. Có nơi là: pho sách, ngọc như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt, phất trần.
- Cửa võng (bao lam) thường chạm lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trăng), hoặc là: lục long ngự thiên (sáu con rồng bay về trời), ngũ phụng hàm thư (năm con phụng ngậm tờ thư).
- Bàn thờ thần Thành hoàng có ngai chạm hai con rồng, với cái long vị hình chử nhật (thần vị) mô phõng dáng người ngồi, ghi tên hiệu của thần...Trước long vị, đặt cái gương nhỏ, tượng trưng cho cái hốt mà vị quan cầm che trước mặt mỗi khi vào chầu vua. Ngoài ra, ở đây còn có tráp đựng sắc phong[4], tam sự hoặc ngũ sự (Tam sự là cái lư để đốt trầm và hai cái chân đèn. Ngũ sự thì có thêm hai ống cắm nhang), bình, khay, kỷ tam sơn là ba khối vuông (khối giữa nhô lên) dùng để lư hương, trầu, rượu, gợi bóng dáng ba ngọn núi.
Ở đây còn có vài tàn lọng, cờ vía, đồ lỗ bộ, mũ cùng quần áo thờ. Hai bên hương án thường là đôi hạc đứng trên lưng rùa. Nếu thần là quan võ, có nơi còn có chưng cái giá, trên để ba thanh gươm cán dài, gọi là gươm vía hoặc gươm cẩn và ngựa...Chiêng trống là dụng cụ cần thiết khi tế lễ. Cái mõ là một khúc cây dài khoét bọng, dấu ấn của thời xưa, dùng để đánh lên báo động khi trong làng xảy ra hỏa hoạn, hoặc có giặc cướp... Tế lễ
Tùy theo tập quán của từng địa phương, không nơi nào giống hệt nơi nào, nhưng nhìn chung ở đình làng Nam Bộ thường diễn ra các cuộc lễ như sau:
- Lễ Niêm ấn & lễ Khai sơn [5]: Xưa, vào ngày 25 tháng Chạp, hương chức làm lễ rửa con dấu, bỏ vào hộp niêm kín. Kể từ ngày này, công việc hành chính trong làng đều đình chỉ cho đến mồng 7 tháng Giêng. Lễ Khai sơn (hay Khai hạ, Khai ấn), được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Xưa ngày này có lễ Hạ nêu và lễ Khai ấn. Hương chức làm lễ làm lễ Khai sơn xong, thì lấy cuốc bổ vài nhát tượng trưng gọi là động thổ, cho dân theo đó mà khởi sự cày cấy, trồng trọt; và các công việc hành chính trong làng trở lại bình thường.
- Lễ Bầu ông: Thuở Nam Bộ còn hoang vu, nhiều người sợ cọp nên mỗi làng chỉ cử đến Hương chủ, vì chức Hương cả phải nhường cho cọp (tục lệ này có ghi trong Minh điều hương ước ban hành năm 1852). Và bởi cọp là hương chức đứng đầu, nên hàng năm, tùy theo đình chọn ra một ngày [6] để làm lễ "Bầu ông": cúng một con heo trắng, kèm theo một tờ cử hương chức. Gần đây, tục cúng Cả cọp vẫn còn nhưng chỉ nhằm cầu an cho bá tánh.
- Lễ Tam Nguyên (hay Tam Ngươn): là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn: tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.
- Lễ Hạ điền và Thượng điền: Đây là hai lễ lớn trong năm (Xuân Thu nhị kỳ). Hai lễ này chính là sự biến đổi từ tập tế xuân (Xuân tế) và tế thu (Thu tế). Ở Nam Bộ, lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai trương việc cày cấy, trồng trọt. Lễ Thượng điền, được cử hành vào cuối mùa mưa, lúc mùa màng đã có kết quả. Hai lễ này mang tính chất lễ nghi nông nghiệp rõ rệt. Bên cạnh việc cầu Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình; là lễ cúng Thần Nông, Hậu Tắc, Vũ Sư, Phong Bá, Điển Di...Thông thường, lễ Hạ điền long trọng hơn lễ Thượng điền.
Ngoài ra ở đình Nam Bộ còn có các lễ nhỏ khác, như: Giỗ hậu và Giỗ các anh hùng lịch sử; lễ vía Bà (các nữ thần được phối tự); và các lễ khác gọi chung là Tứ thời tiết lạp, gồm: Nguyên Đán, Hàn Thực (3 tháng Ba âm lịch), Thanh Minh (trong khoảng tháng Ba âm lịch), Trung Thu (rằm tháng Tám âm lịch), Trùng Cửu (mồng 9 tháng Chín âm lịch), Trùng Thập (mồng 10 tháng Mười âm lịch), Trừ Tịch (30 tháng Chạp âm lịch)... - Lễ Kỳ yên Đây là lễ chính trong năm. Lệ phổ biến là 3 năm cúng lớn một lần, gọi là Đại lễ Kỳ yên (Tam niên đáo lệ Kỳ yên). Sách Gia Định thành thông chí chép: Mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu, cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy.
Ban quí tế Tên cũ là Ban Hương chức hội tề, hay Ban tế tự, gồm nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì đại khái chia ra làm ba loại hương chức:
- Hương chức loại 1: tức hương chức Hội chánh, gồm có: Kế hiền (Hội trưởng); Chánh bái (hay Chánh niệm hương), Phó bái, Bồi bái, Tiên bái (bốn chức chung lo việc ngoại vụ); Chánh tế, Phó tế, Bồi tế (ba chức chung lo việc nội vụ). - Hương chức loại 2: tức hương chức Hội tề, gồm có: Giáo sư (cố vấn mọi mặt), Hương quan (cố vấn nghi lễ, tục lệ), Hương lễ (chỉ huy ban lễ sinh), Hương nhạc (chỉ huy ban nhạc lễ), Hương văn ( soạn thảo văn tế), Hương ẩm (tổ chức tiệc tùng), Thủ bổn (lo việc sổ sách và kiểm tra lễ vật), Thủ từ (giữ đình, lo việc đèn nhang mỗi ngày).
- Hương chức loại 3: tức hương chức Hội hương hay Ngoại hội tề, gồm những người phụ giúp việc đình miếu.
Một điều khác lạ là ở Nam Bộ, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quí khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Một điều khác nữa là ở Nam Bộ không hề phân biệt dân cố cựu, dân ngụ cư. Dân mới cư ngụ đôi ba năm, vẫn có thể được cử làm hương chức. Và ở đây cũng không hề có trường hợp bắt họ phải làm "thằng mõ".
Có thể nói Ban quí tế đình miếu ở Nam Bộ là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn. Tuy có nơi, họ bị mang tiếng là bọn xôi thịt; nhưng đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác; bổn phận nhiều hơn quyền lợi. [7]
Ý nghĩa
Đình là thiết chế văn hóa tín ngưỡng của làng xã thời xưa, là nơi thờ thần Thành hoàng, được sắc phong theo ý nghĩa là thần phù hộ cư dân một làng. Ngoài ra, ngôi đình còn là nơi thờ các vị phúc thần, thần linh, danh nhân lịch sử, Tiền hiền, Hậu hiền (những người có công thành lập và xây dựng làng xã); là nơi dân làng đến lễ bái cầu mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn, là nơi tụ họp dân làng, yến ẩm, vui chơi... Trong một giai đoạn ngắn của lịch sử hành chánh, ngôi đình còn là trụ sở hành chánh của làng xã.
Trích thêm nhận định của các nhà nghiên cứu.
- Sơn Nam:
Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng "lưu dân tập thể", mặc dù làng lắm gạo nhiều tiền...[8] Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch: Ngôi đình ở Nam Bộ gần như thống nhất từ đầu với lịch sử ngôi làng ngay từ lúc mới thành lập. Công trình này là nhân chứng và là một lực lượng (ít nhất là về tinh thần) vào sự hình thành, phát triển của vùng đất mới này. Ngoài ra, đình còn biểu hiện sinh hoạt luân lý, đoàn kết, hội hè của những kẻ tha phương...[9] Nguyễn Đăng Duy: Đình Nam Bộ không có ruộng công. Kinh phí cho hoạt động thờ thần, hội làng đều do các các nhà hảo tâm, do dân làng tự nguyện đóng góp. Đặc biệt, ở đây việc ăn uống, chỗ ngồi không bị phân ra ngôi thứ quá khắt khe như ở các đình đền ngoài Bắc. Cái khác nữa, là các đình ở ngoài Bắc, thường chỉ thờ một nhân thần hoặc một nhiên thần; còn ở Nam Bộ, đình là trụ sở của một tập hợp thần linh đa tạp. Tất cả được hỗn dung tổ hợp từ nhiều nguồn, nhiều phía. Có thể tạm phân ra như sau:
- Từ ý thức biết ơn, biểu dương các người có công giữ nước, dựng làng.
- Từ ý thức hiếu nghĩa đối với tổ tiên.
- Từ ý thức nhớ về cội nguồn vẻ vang.
- Từ ý niệm thiêng liêng phong sắc cho thần.
- Từ ý niệm thờ thần gắn với không gian nghề nghiệp.[10]
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích [ 1 ] - Đọi: từ cổ, tương đương chữ chén bát ngày nay.
[ 2 ] - Xã thần (Thần Đất,社) và Tắc thần (tức Thần Nông, 稷 ) là hai vị thần của nền văn minh lúa nước.
[ 3 ] - Hội đồng nội và ngoại, theo Sơn Nam gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi v.v...(Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 28).
[ 4 ] - Nhiều đình không để sắc phong ở tráp, mà để ở nhà một hương chức có uy tín để tiện bảo quản. Khi có lễ, mới cử đoàn đi rước sắc về đình.
[ 5 ] - Có thể tục có nguồn gốc từ các thôn làng ở gần núi nên có tên là lễ Khai sơn.
[ 6 ] - Đình làng Trà Tân ở Cai Lậy, làm lễ "Bầu ông" ngày 17 tháng Ba (âm lịch), Đình làng Tân Tĩnh ở Mỹ Tho làm lễ ngày 16 tháng Giêng (âm lịch).
[ 7 ] - Lược theo Trương Ngọc Tường, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, in kèm trong Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 80-83. ở sách Kiến thức phục vụ thuyết minhdu lịch, tên chức danh trong Ban quý tế có hơi khác.
[ 8 ] -Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 21
[ 9 ] -Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr. 351.
[ 10 ] - Lược theo Văn hóa tâm linh Nam Bộ, tr. 103-117.
Tài liệu tham khảo
- Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992.
- Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam , Nxb Trẻ, 2005.
- Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995.
- Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997.
- Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 4:18:08 GMT 9
Phim Kim Vân Kiều là bộ phim truyện đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam vào năm 1923. Điện ảnh du nhập vào Việt Nam khoảng năm 1898 với những rạp chiếu bóng do người Pháp xây dựng. Sau đó cũng đã có những phim tài liệu quay ở Việt Nam khai thác phong cảnh, phong tục, hội hè... của Việt Nam. Đến năm 1923, công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma) mới thực hiện cuốn phim truyện đầu tiên Kim Vân Kiều. Đây là đề xướng của một người Pháp là Famechon và có sự cộng tác của một người Việt được ghi tên là Mr Vĩnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Cốt truyện phim được lấy từ tác phẩm của Nguyễn Du, được Famechon chuyển thể thành kịch bản điện ảnh và không có sự thay đổi đáng kể nào về tình tiết. Phim dài 1500 m, phần ngoại cảnh được quay ở các vùng phụ cận của Hà Nội: dinh Từ Hải là sân chùa Láng, nơi Kiều viếng mộ Đạm Tiên là nghĩa trang Yên Thái, cổng làng Thọ là nhà Tú Bà. Các vai diễn do các đào kép của ban tuồng Quảng Lạc đảm nhiệm. Phim được công chiếu vào ngày 14 tháng 3 năm 1924 tại nhà Cinéma Palace phố Tràng Tiền. Đạo diễn: Diễn viên: Mục lục [ẩn] 1 Nội dung 2 Bình luận của báo chí 3 Xem thêm 4 Liên kết ngoài [sửa]Nội dung Xem thêm: Kim Vân Kiều [sửa]Bình luận của báo chí Báo L'Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) bình luận: "Tối qua, hãng ICF đã đưa ra trình diễn trên màn ảnh cuốn truyện thơ cổ điển Kim Vân Kiều. Tác phẩm vô cùng hấp dẫn, mang lại vinh dự cho các nhà đạo diễn, các nghệ sĩ diễn viên và cho cả những nhà kỹ thuật quay phim". Báo Indépendance Tonkinoise (Bắc kỳ Độc lập) viết: "Nếu như ở góc độ thuần túy Việt Nam, sự trình diễn trên màn ảnh làm mất mát từ tiểu thuyết một phần khá lớn cái chất văn chương và chất thơ tạo nên cái đẹp của nguyên tác, thì đối với đầu óc phương Tây, Thúy Kiều được đưa lên màn ảnh đã thay chất thơ bằng những hành động sống, và chúng ta phải thừa nhận rằng, theo góc độ này, mục đích nhắm tới đã đạt được. Phim truyện này đã bắc cầu cho công chúng Pháp đến với tác phẩm văn chương Việt Nam sẽ làm toại ý nhiều người và sự thành công của nó là chắc chắn". Báo L'Opinion (Dư luận) nhận xét: "Với phim truyện Kim Vân Kiều, chúng ta chứng kiến một sự kiện nghệ thuật mà tầm quan trọng thật khó đong đo trong lịch sử nghệ thuật điện ảnh. Nghệ thuật phương Tây và nghệ thuật châu Á vừa đánh dấu sự gặp gỡ nhau trong phim này". Tờ Hữu Thanh viết: "Hồi 4 giờ rưỡi hôm 14 Mars (tháng 3) này, Hội Indochine Film có đem chớp thử Kim Vân Kiều tại nhà Cinéma Palace phố Tràng Tiền. Hôm ấy là hôm chớp thử nên chỉ mới có mấy nhà văn chương và mấy nhà báo Tây, Nam đến xem mà thôi". Báo Trung Bắc Tân Văn: "Số là lần này là lần thứ nhất mới có một bản chớp bóng dùng một sự tích An Nam, dùng con hát An Nam đóng, lấy những nơi thắng cảnh tự nhiên của An Nam làm cảnh trí, là lần đầu. Cái nghề chớp bóng xưa nay người An Nam chúng ta chưa từng biết; các phương pháp, các lề lối đều là phải tin cấp ở nhà chuyên môn Tây, người ta bảo thế nào là phải thì cứ thế mà làm. Những lẽ mình bàn góp vào cho hợp với sự tích, hợp với phong tục An Nam ta, thì cũng phải để tuỳ nhà chuyên môn người ta lượng nghĩ mà châm chước mà thôi, chứ mình không bắt buộc được người ta phải theo ý mình... Và bản chớp bóng này, hiệu Indochine Film làm ra cốt để chớp ra cho khách châu Âu xem nhiều hơn là khách bản quốc, cho nên phần nhiều những chỗ chúng ta cho là hay thì quý hiệu lại bỏ đi không chụp, mà có nhiều chỗ lại thêm thắt ra để người Âu châu dễ hiểu... Nói tổng lại thì cái tinh thần truyện Kim Vân Kiều ở trong bản chớp bóng này mất cả, chỉ còn trơ mấy cách hoạt động dễ hiểu nhất cho con mắt những người không có cảm tình gì với truyện Kim Vân Kiều mà thôi... Kế đến hôm qua, bản quán chủ nhiệm đi xem, thấy các quý quan khen là hay, là được, thì cũng mừng cho quý hội đã khéo thừa được một sự hiểu sai truyện Kim Vân Kiều mà làm nên một bản chớp bóng hay". Sáu tháng sau, bộ phim được đưa vào trình chiếu ở Sài Gòn. Đông Pháp thời báo ngày 24 tháng 9 năm 1924: "Tối hôm 19 Septembre (tháng 9) vừa rồi, nhà chớp bóng Casino bắt đầu chớp bản Kim Vân Kiều mà sở Indochine Film đã có công luyện tập từ năm ngoái tại Hà Nội. Hôm đó người đi coi rất đông, các ghế đều chật như nêm khiến cho bao nhiêu người đến chậm phải chen chúc nhau đứng mà coi... Trong bản chớp bóng có ba nhân vật quan trọng là Kim-Vân-Kiều, chỉ có vai nàng Kiều là hình dung đặng đôi chút cái diện mạo tư dung của Kiều. Song, tiếc cho vai chàng Kim chẳng khác chi một anh ‘ngốc’, diện mạo đã chẳng ra chi mà đến thái độ mới lại khả bỉ sao... Trong bản chớp bóng, ký giả chỉ xin phục riêng có vai đóng Hoạn Thư là tài tình... Dáng dấp đã khéo, mà cử động lại thần tình... thiệt không những hình dung đặng Hoạn Thư mà cái thái độ có thể in như các nhân vật đóng ở các bản chớp bóng bên Tây... Còn đến như vai đóng Từ Hải thì mới lại khả ố nữa, rõ ra mặt một “thầy đội” chứ không có cái vẻ chi là nhà đại tướng"
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 4:27:27 GMT 9
Điện ảnh Việt Nam Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Điện ảnh Việt Nam bắt đầu từ năm 1923, khi xuất hiện bộ phim đầu tiên Kim Vân Kiều do người Pháp và người Việt cùng thực hiện. Trước đó, điện ảnh đã du nhập vào Việt Nam từ cuối thập niên 1890. Từ năm 1925 xuất hiện những hãng phim Việt Nam, có những bộ phim Việt Nam hợp tác với nước ngoài. Đến thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc với những diễn viên như Trà Giang, Thế Anh, đạo diễn Hải Ninh, Nguyễn Hồng Sến đã thực hiện những bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nổi gió, Em bé Hà Nội... ghi dấu ấn cho nền điện ảnh Cách mạng. Miền Nam với Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Lê Dân, Lê Mộng Hoàng đã thực hiện Chân trời tím, Loan mắt nhung, Người tình không chân dung... đạt được doanh thu cao và giành những giải thưởng trong các liên hoan phim châu Á. Sau năm 1975, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Nguyễn Hồng Sến tiếp tục thực hiện những bộ phim như Ván bài lật ngửa, Cánh đồng hoang... thu hút được nhiều khán giả, giành được giải thưởng trong những liên hoan phim quốc tế. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng của thập niên 1990, gần đây điện ảnh Việt Nam lấy lại được khán giả với những bộ phim ăn khách như Gái nhảy, Những cô gái chân dài... Một số bộ phim Việt Nam đã được khán giả nước ngoài biết tới, trong đó nhiều phim của các đạo diễn Việt kiều. Mùi đu đủ xanh của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng đã được đề cử giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1994. Mục lục [ẩn] 1 Giai đoạn khởi đầu 1.1 Điện ảnh du nhập vào Việt Nam 1.2 Những phim đầu tiên 1.3 Phim truyện đầu tiên 1.4 Bộ phim đầu tiên của người Việt 1.5 Phim nói 2 Giai đoạn 1945-1954 3 Giai đoạn 1954-1975 3.1 Miền Bắc 3.1.1 Giai đoạn 1959-1965 3.1.2 Giai đoạn 1965-1975 3.2 Miền Nam 3.2.1 Giai đoạn 1954-1960 3.2.2 Giai đoạn 1960-1970 3.2.3 Giai đoạn 1970-1975 4 Giai đoạn sau 1975 4.1 Thời kỳ mở cửa 4.2 Điện ảnh hải ngoại 4.2.1 Điện ảnh tại hải ngoại 4.3 Điện ảnh Việt Nam đương đại 5 Ghi chú 6 Tham khảo 7 Liên kết ngoài [sửa]Giai đoạn khởi đầu [sửa]Điện ảnh du nhập vào Việt Nam Phố Hàng Quạt, Hà Nội - nơi có rạp Tonkinois từ năm 1921 Điện ảnh du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Ngày 28 tháng 12 năm 1895, nền điện ảnh được khai sinh với buổi chiếu của hai anh em Auguste và Louis Lumière tại tầng hầm quán Grand Café ở Paris. Đầu năm 1896, anh em nhà Lumière mở một lớp học trong 6 tháng đào tạo quay phim để truyền bá phát minh mới này. Một trong những học viên đầu tiên đó là Gabriel Veyre, sau khi qua Thượng Hải đã đến Hà Nội. Ngày 28 tháng 4 năm 1899 Gabriel Veyre đã tổ chức buổi chiếu phim đầu tiên[1] tại Hà Nội miễn phí cho công chúng vào xem. Báo L'Avenir du Tonkin số ra ngày 29 tháng 4 năm 1899 xuất bản tại Hà Nội có tường thuật đầy đủ về buổi chiếu phim này. Sau đó, những buổi chiếu tiếp theo được thực hiện ở các khách sạn, nhà hàng lớn nhân những ngày lễ quan trọng hoặc sự kiện chính trị nào đó. Khán giả điện ảnh hầu hết là các quan chức, viên chức, chủ công ty công nghiệp và doanh nghiệp, đơn vị quân đội Pháp chiếm đóng thuộc địa. Dựa theo một số tài liệu, báo chí, hồi ký thì thỉnh thoảng có một vài buổi chiếu phim ở nơi công cộng cho dân bản xứ mua vé vào xem như các ngày hội, chợ phiên, quay sổ xố. Trên báo chí Việt Nam đã đăng quảng cáo những buổi chiếu phim bán vé tại một số địa điểm công cộng. Rạp chiếu phim đầu tiên tại Việt Nam là rạp Pathé, do một người Pháp là Arte[2] xây dựng tại Hà Nội, cạnh hồ Hoàn Kiếm, khánh thành ngày 10 tháng 8 năm 1920. Tiếp đó tới rạp Tonkinois bắt đầu từ 1921... Thời ấy, người ta gọi những buổi trình chiếu phim là buổi trình diễn "trò chớp bóng". Để thiết lập độc quyền khai thác mạng lưới chiếu bóng, ngày 11 tháng 9 năm 1923 người Pháp thành lập hãng Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma, IFEC) và năm 1930 Công ty Chiếu bóng Đông Dương (Societé des cinéthéâtre d’Indochine). Một số Hoa kiều cũng bỏ vốn xây dựng những rạp nhỏ, chủ yếu chiếu phim thuê của người Pháp và một số ít phim của Hồng Kông, Trung Quốc. Đến năm 1927, tại Việt Nam có 33 rạp chiếu bóng ở các đô thị như Hà Nội 4 rạp, Hải Phòng 2 rạp, Huế 2 rạp, Chợ Lớn 4 rạp, Sài Gòn 4 rạp, Cần Thơ 2 rạp... Một số người Việt Nam bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh mới này. Người đầu tiên là nhà tư sản Vạn Xuân. Năm 1936 ông đã bỏ tiền xây rạp chiếu bóng Olimpia - nay là nhà hát Hồng Hà trên phố Hàng Da ở Hà Nội. Đến năm 1939, số lượng rạp chiếu phim lại Việt Nam lên tới con số 60. Những năm trước 1930, mỗi rạp chỉ lắp đặt một máy chiếu phim. Khi hết một cuộn phim thì các đèn trong rạp bật sáng và người thợ máy thay cuộn phim mới để chiếu tiếp. Màn ảnh được làm bằng những mảnh vải trắng may lại, xung quanh viền vải xanh thẫm hoặc đen. Khán giả ngồi trên những ghế tựa hoặc ghế băng có dựa lưng bằng gỗ. Sàn phòng chiếu bằng phẳng và màn hình được đặt trên phía cao khiến khán giả bị mỏi cổ khi xem phim. Một vài rạp không có ghế ngồi. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "...rạp Family ở phố Hàng Buồm. Rạp này có hai hạng, coi mặt chính thì phải trả hai xu, coi mặt trái thì chỉ mất nửa tiền, cả hai hạng đều không có ghế, khán giả ngồi xệp xuống đất mà coi". Từ nửa cuối thập niên 1930, một số rạp mới có ban công và sàn được làm dốc, các hàng ghế được bố trí lệch nhau. Các rạp cũng được trang bị quạt máy và phân cấp thành hai loại: sang và bình dân. Những bộ phim đầu tiên được trình triếu ở Việt Nam đều là phim câm. Đến khoảng giữa thập niên 1930, khán giả mới được xem phim nói với bộ phim đầu tiên là Phía Tây không có gì lạ được xây dựng theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Erich Maria Remarque. Nhưng khi đó, để xem được phim nói, chỉ giới trí thức, sinh viên, học sinh trung học mới nghe được tiếng Pháp và đọc được phụ đề Pháp ngữ. Trong khoảng thời gian Thế chiến thứ hai từ 1939 đến 1945, giao thông đường biển từ Pháp tới Việt Nam bị Đức và Nhật phong tỏa, ảnh hưởng đến việc vận chuyển phim. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam, nắm quyền cai trị Đông Dương. Khoảng thời gian này một số chủ người Pháp bán lại các rạp chiếu bóng cho những người Hoa ở Hà Nội, Sài Gòn. Các chủ người Hoa bắt đầu nhập phim từ Hồng Kông, Singapore vào chiếu ở Việt Nam. [sửa]Những phim đầu tiên Những phim đầu tiên được sản xuất ở Việt Nam là do người Pháp thực hiện. Sớm nhất là những đoạn phim được quay để sử dụng trong những cuốn phim giới thiệu sinh hoạt ở các thuộc địa Pháp do hãng Pathé phát hành ngay từ năm 1897. Tiếp đó là những phim tài liệu khai thác phong cảnh (Phong cảnh tại Kinh đô Huế), phong tục, hội hè, đình đám (Hội Kiếp bạc, Đám ma bà Thiếu Hoàng) hoặc các nhân vật thời thượng trong xã hội đương thời (Cô gái Bắc Kỳ). Năm 1916 Toàn quyền Ðông Dương là Albert Saraut đã yêu cầu Bộ Chiến tranh Pháp cử một Ðoàn điện ảnh quân đội sang Việt Nam để quay phim giới thiệu về cuộc sống, phong tục, phong cảnh đất nước Việt Nam. Từ 1916 đến 1918 đoàn Điện ảnh quân đội Pháp đã quay được 20 phim phóng sự, tài liệu. Những phim này chủ yếu giới thiệu với công chúng Pháp hình ảnh về thuộc địa của mình để kêu gọi các nhà đầu tư, kinh doanh Pháp quan tâm đến việc khai thác thuộc địa. Đoàn Điện ảnh quân đội Pháp còn tổ chức các buổi chiếu phim ở các vùng nông thôn, thành thị, biên giới, tuyên truyền cho sức mạnh của người Pháp, vận động dân thuộc địa đi lính sang Pháp, mua công trái đóng góp cho nước Pháp tiến hành chiến tranh. [sửa]Phim truyện đầu tiên Bộ phim truyện đầu tiên là Kim Vân Kiều do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện năm 1923. Tác phẩm của Nguyễn Du được đưa lên màn bạc với diễn viên là các đào kép tuồng của ban Quảng Lạc, Hà Nội. Phim dài 1.500 m với phần ngoại cảnh được quay ở các vùng phụ cận Hà Nội và làm hậu kỳ tại Pháp. Kim Vân Kiều mắc phải nhiều sai lầm về nội dung, phần diễn xuất cũng chẳng có gì khác hơn hát trên sân khấu, đào kép thì ăn mặc và cử chỉ như hát tuồng. Phim Kim Vân Kiều công chiếu lần đầu với một số khán giả hạn chế và bị phần lớn báo chí khi đó chỉ trích. Tờ Hữu Thanh 15 tháng 3 năm 1924, viết: "Hồi 4 giờ rưỡi hôm 14 Mars (tháng 3) này, Hội Indochine Film có đem chớp thử Kim Vân Kiều tại nhà Cinéma Palace phố Tràng Tiền. Hôm ấy là hôm chớp thử nên chỉ mới có mấy nhà văn chương và mấy nhà báo Tây, Nam đến xem mà thôi". Ngày 15 tháng 3 năm 1924, tờ Trung Văn: "Số là lần này là lần thứ nhất mới có một bản chớp bóng dùng một sự tích An Nam, dùng con hát An Nam đóng, lấy những nơi thắng cảnh tự nhiên của An Nam làm cảnh trí, là lần đầu. Cái nghề chớp bóng xưa nay người An Nam chúng ta chưa từng biết; các phương pháp, các lề lối đều là phải tin cấp ở nhà chuyên môn Tây, người ta bảo thế nào là phải thì cứ thế mà làm. Những lẽ mình bàn góp vào cho hợp với sự tích, hợp với phong tục An Nam ta, thì cũng phải để tùy nhà chuyên môn người ta lượng nghĩ mà châm chước mà thôi, chứ mình không bắt buộc được người ta phải theo ý mình." Sau thất bại của Kim Vân Kiều, năm 1925 IFEC tiếp tục thực hiện cuốn phim hài ngắn là Toufou có độ dài 600 m. Vai chính Toufou do một diễn viên người Việt lai Trung Quốc tên Léon Chang đóng. Phim nhại theo cách diễn xuất của Vua hề Charlie Chaplin và bị báo chí lẫn khán giả chỉ trích. Không nản lòng, IFEC cố gắng làm một bộ phim dài về Việt Nam. Đó là phim Huyền thoại bà Đế[3] năm 1927 dài 1.000 m. Phim do Paul Numier viết kịch bản dựa theo một câu chuyện dân gian nói về một cô gái bị cha mẹ, họ hàng nghi ngờ là hư hỏng nên buộc phải chết, sau đó được giải oan và dân làng lập miếu thời gọi là Bà Đế. Đạo diễn bộ phim là Georges Specht[4], còn vai chính một cô gái Pháp lai đảm nhiệm, các diễn viên Việt chỉ đóng vai phụ. Bộ phim này tiếp tục thất bại, vai chính bị chê là lố lăng, nội dung nhiều sai lạc ngớ ngẩn. Dù được gửi sang trình chiếu ở Pháp, Huyền thoại bà Đế vẫn thua lỗ về doanh thu. Sau thất bại của ba phim liên tiếp, Công ty Phim và Chiếu bóng Ðông Dương thôi không nghĩ đến chuyện làm phim nữa. [sửa]Bộ phim đầu tiên của người Việt Năm 1924, ông Nguyễn Lan Hương, chủ tiệm ảnh Hương Ký ở Hà Nội, mời một chuyên viên người Pháp về dạy cho mình rồi thực hiện bộ phim hài Đồng tiền kẽm tậu được ngựa. Bộ phim dài 6 phút, phỏng theo tác phẩm La laitière et le pot au lait (Cô gái và bình sữa), truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Phim thứ hai của Hương Ký cũng là phim hài với tựa phim là Cả Lố. Nhưng phim đang quay dở dang lại phải bỏ, vì có sự bất đồng giữa Hương Ký và diễn viên đóng phim. Sau đó, Hương Ký còn quay phim tài liệu Ninh Lăng dài 2.000 m về đám tang vua Khải Định. Tiếp đó là phim Tấn tôn đức Bảo Đại, dài 800 m, về lễ đăng quang Hoàng đế Bảo Đại. Tuy được hoan nghênh, nhưng vì không có thị trường nên không đủ bù đắp vào số vốn đã bỏ ra thực hiện phim. Phim chiếu ở Hà Nội được 27 ngày, doanh thu khoảng 5.000 đồng tiền Đông Dương, trong khi chi phí sản xuất gần 30.000 đồng[5]. Nhờ gây được tiếng vang, Nguyễn Lan Hương được Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đặt hàng làm hai phim phóng sự quay tại Trung Quốc. Một trong hai phim là Đám tang tướng Đường Kế Nghiêu, năm 1929. Nhưng sau đó không thấy ông Nguyễn Lan Hương làm phim tiếp, mà trở về với nghề nhiếp ảnh của mình. Có những ý kiến cho rằng lý do là vì tác động của người Pháp, họ không muốn một hãng phim Việt Nam thành công trong khi họ liên tục gặp thất bại. Hãng phim Hương Ký biến mất sau vài năm tồn tại. Từ đó, hoạt động sản xuất phim của người Việt Nam ngưng hoạt động suốt 7 năm liền từ 1930 đến 1936. [sửa]Phim nói Những năm cuối thập niên 1930, Việt Nam hình thành một lớp trí thức mới, tiếp thu văn hóa Pháp. Nhiều phong trào văn học, sân khấu, âm nhạc nở rộ. Từ cuối 1936, nhiều nhóm thanh niên có ý định làm phim, bắt đầu cho những phim nói đầu tiên của Việt Nam. An Nam Nghệ sĩ đoàn do một số thanh niên yêu điện ảnh thành lập. Họ tự học điện ảnh qua sách vở đặt mua từ bên Pháp. Đầu năm 1937, một thương gia người Hoa giàu có ở Hải Phòng tên Trịnh Lâm Ký đã tiếp xúc với An Nam Nghệ sĩ đoàn, bàn việc đưa một đoàn diễn viên Việt Nam sang Hồng Kông quay phim. Nhưng việc không thành vì xảy ra cuộc chiến Trung-Nhật. An Nam Nghệ sĩ đoàn tiếp tục vận động những người giàu có ở Hà Nội bỏ tiền ra làm phim, nhưng không có kết quả. Cuối tháng 11 năm 1937, An Nam Nghệ sĩ đoàn ký được một hơp đồng làm phim với Công ty điện ảnh Nam Trung hoa (The South China Motion Pictures Co.) để sản xuất bộ phim truyện dài Cánh đồng ma. Kịch bản phim Cánh đồng ma do Đàm Quang Thiện viết, bút danh trên phim là Nguyễn Văn Nam. Đàm Quang Thiện vốn là một sinh viên Y khoa, muốn qua kịch bản chứng minh thuyết di truyền trong y học, nhưng Công ty điện ảnh Nam Trung Hoa cùng đạo diễn người Trung Quốc Trần Phì đã tự ý sửa nội dung kịch bản, biến nó thành một phim trinh thám với nhiều máu và đàn bà. Các nghệ sĩ Việt Nam phản đối nhưng không kết quả, phải diễn theo những nội dung không có từ trước trong kịch bản. Thực hiện trong 13 ngày, Cánh đồng ma hoàn thành giai đoạn quay vào ngày 30 tháng 1 năm 1938. Sau Cánh đồng ma, 6 diễn viên người Việt ở lại Hồng Kông để quay tiếp Trận phong ba, một phim Hồng Kông nhưng nói về một người Việt. Trận phong ba được gấp rút hoàn thành và công chiếu trước Cánh đồng ma nhưng không thành công, bị khán giả la ó. Chiếu sau Trận phong ba một tháng, tháng 7 năm 1938, Cánh đồng ma ra mắt và cũng bị dư luận và báo chí chê trách. Trong đoàn làm phim Việt Nam sang Hồng Kông khi đó có nhà văn Nguyễn Tuân, ông đóng một vai rất phụ trong Cách đồng ma và khi về viết bút ký Một chuyến đi[6]. Sau Cánh đồng ma, các nghệ sĩ trong An Nam Nghệ sĩ đoàn còn tham gia hai phim truyện nói tiếng Pháp do Hãng Franco Film thực hiện tại Việt Nam rồi không tiếp tục hoạt động nữa vì không có ai dám bỏ vốn ra làm phim tiếp. An Nam Nghệ sĩ đoàn chỉ tồn tại trong 2 năm, họ được ghi nhận như những người Việt Nam đầu tiên hợp tác làm phim với nước ngoài. Cuối năm 1937, chủ hãng đĩa hát Asia là Nguyễn Văn Đinh đã cho ra đời Hãng phim Châu Á (Asia Film) tại Sài Gòn. Ông bỏ tiền mua máy móc thiết bị từ bên Pháp về để sản xuất phim có tiếng cỡ 35 mm đầu tiên tại Việt Nam. Đầu năm 1938, hãng Asia Film khởi quay bộ phim đen trắng 35 mm Trọn với tình có độ dài 90 phút. Đạo diễn là Nguyễn Văn Danh, tức Tám Danh xuất thân từ nghệ sỹ sân khấu cải lương. Kịch bản, quay phim và dựng phim do giám đốc hãng là Nguyễn Văn Đinh thực hiện. Phim được quay và làm hậu kỳ hoàn toàn tại Việt Nam do các chuyên viên kỹ thuật Việt Nam đảm nhiệm mà lực lượng nồng cốt là các kỹ thuật viên của hãng đĩa Asia. Tuy không thành công như mong đợi, nhưng khi tung ra chiếu vào đầu năm 1939, Trọn với tình cũng thu hút được người xem vì đây là một bộ phim nói 35 mm đầu tiên tại Việt Nam, do người Việt Nam sản xuất. Sau Trọn với tình, Nguyễn Văn Đinh còn cho ra tiếp ba phim nữa do mình tự viết kịch bản, tự đạo diễn, tự quay phim, dựng phim. Đó là Cô Nga dạo thị thành (1939), Khúc khải hoàn và Toét sợ ma (1940). Nghệ thuật và kỹ thuật của cả 3 phim đều không hơn gì Trọn với tình. Từ năm 1940, hãng phim Châu Á ngừng hoạt động cho đến thập niên 1960 mới hoạt động trở lại tại Sài Gòn. Năm 1939, một hãng phim mới ra đời nữa tại Sài Gòn là hãng Việt Nam Phim với bộ phim truyện ra mắt có tên là Một buổi chiều trên sông Cửu Long do Nguyễn Tấn Giầu viết kịch bản, đạo diễn, quay phim. Phim được quay 16 mm, có độ dài 90 phút với âm thanh ngoài phim. Nhạc, lời, tiếng động được thu vào đĩa, khi chiếu được bật lên cùng hình ảnh. Một buổi chiều trên sông Cửu Long chỉ ra mắt được vài buổi ở Sài Gòn và Mỹ Tho. Cuối năm 1939, Nguyễn Tấn Giầu lại bắt tay làm tiếp phim truyện hài Lão thầy pháp râu đỏ và phim tài liệu Đèo Ngang tức cảnh[7]. Cả hai phim này cũng chết yểu như Một buổi chiều trên sông Cửu Long. Sang năm 1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương, người Việt Nam không còn ai đứng ra làm phim. Các rạp chỉ còn chiếu chủ yếu phim Nhật và các nước đồng minh của Nhật. [sửa]Giai đoạn 1945-1954 Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Tuy kinh tế Việt Nam khi đó kiệt quệ và vừa trải qua nạn đói năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam vẫn xây dựng bộ phận Điện ảnh và Nhiếp ảnh thuộc Bộ Thông tin - Tuyên truyền. Hoạt động chủ yếu của bộ phận này là tổ chức đoàn chiếu phim lưu động chiếu ở những nơi công cộng và lập toa xe Điện ảnh đi chiếu phim dọc Quốc lộ 1 từ Bắc vào Nam với một máy chiếu Débri 16 mm và hai bộ phim tài liệu về phái đoàn Phạm Văn Đồng tại Pháp do Việt kiều gửi về. Thời gian này tại Pháp, họa sĩ, nhà quay phim Mai Trung Thứ cùng các Việt kiều khác tổ chức nhóm điện ảnh Sao Vàng, quay được nhiều phim tài liệu: Hồ Chủ Tịch tại Pháp, Hội nghị Fontainebleau, Sinh hoạt của 25.000 Việt kiều tại Pháp. Trong nước các nhà làm phim cũng ghi được những phim lịch sử như Hồ Chủ Tịch từ Pháp trở về (1946), Trận đánh tại Ô Cầu Dền (1946)... Nghệ sĩ Kim Xuân Sau khi cuộc chiến Việt - Pháp bùng nổ, một số nhà làm phim Cách mạng ở cả miền Nam và miền Bắc tiếp tục thực hiện được những phim tài liệu: Trận Mộc Hóa (1948), Trận Đông Khê (1950), Chiến Thắng Tây Bắc (1952)... Trong đó, phim Trận Mộc Hóa do Khu 8 ở miền Nam thực hiện, được xem là phim đầu tiên của nền Điện ảnh Cách mạng, đã được đem chiếu tại Liên hoan Thanh niên thế giới New Delhi, Ấn Độ năm 1950[8]. Ngày 15 tháng 3 năm 1952, trên chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 147/SL thành lập Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam. Những hoạt động của các nhà làm phim điện ảnh Cách mạng thời kỳ này chỉ dừng lại ở thể loại phim tài liệu ngắn, như Giữ làng giữ nước quay năm 1953, Điện Biên Phủ năm 1954. Tại các thành thị nơi vẫn thuộc quyền kiểm soát của Pháp, mạng lưới các rạp chiếu bóng do người Pháp và Hoa kiều làm chủ tiếp tục chiếu các phim của Pháp và các nước Đồng Minh sản xuất. Điện ảnh vẫn được khán giả yêu thích nhưng không có bộ phim Việt Nam nào được thực hiện. Đến năm 1953, Công ty Kim Chung Điện ảnh sản xuất phim Kiếp hoa. Kịch bản phim do bầu Long, trưởng đoàn cải lương Kim Chung viết, nghệ sĩ Kim Xuân trong vai Ngọc Thủy. Đạo diễn phim là người Hồng Kông do ông Long mời về. Tiền đầu tư cũng là từ doanh thu của đoàn Kim Chung. Kiếp hoa giành được thành công, không chỉ chiếu ở Hà Nội, phim còn vào Sài Gòn rồi các tỉnh miền Tây. Sự thành công về thương mại của Kiếp hoa kéo theo những tư nhân khác bỏ vốn mời đạo diễn và quay phim Hồng Kông về làm phim. Ông Hà Quang Định, chủ gánh cải lương Ái Liên, cùng vợ là Ái Liên thực hiện phim Nghệ thuật và hạnh phúc và Phạm Công - Cúc Hoa. Những diễn viên thời kỳ này đa phần xuất phát từ các đoàn hát hoặc ca sĩ như Phùng Há, Ái Liên, Kim Chung, Kim Xuân, Bích Hợp... [sửa]Giai đoạn 1954-1975 Hiệp định Genève năm 1954 chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Tại miền Bắc, với sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam, điện ảnh được Nhà nước cấp kinh phí sản xuất những bộ phim mang tính tuyên truyền, được gọi là điện ảnh Cách mạng. Những bộ phim này được mang tới các liên hoan phim ở những nước xã hội chủ nghĩa và đã giành được nhiều thành công. Ở miền Nam, hình thành một thị trường điện ảnh với nhiều hãng phim tư nhân. Thị trường này, có thời kỳ suy thoái, có giai đoạn phát triển mạnh mẽ đã sản xuất các bộ phim thuộc nhiều thể loại, đề tài phong phú. Nếu như ở miền Bắc năm 1959 mới xuất hiện bộ phim truyện đầu tiên thì ở miền Nam, điện ảnh đạt tới thời kỳ đỉnh cao ngay từ năm 1957 với nhiều bộ phim được sản xuất, trong đó có phim màu đầu tiên của Việt Nam là phim Lục Vân Tiên[9]. Những đại diện của điện ảnh miền Nam tới tham dự các liên hoan phim ở Châu Á và trong khu vực cũng đã nhận được nhiều giải thưởng. [sửa]Miền Bắc Bài chi tiết: Điện ảnh Cách mạng CS Máy chiếu phim 35 mm đầu tiên do Liên Xô CS tài trợ Sau năm 1954, các nhà làm phim của miền Bắc vẫn tiếp tục với các phim tài liệu. Một vài phim tài liệu ngắn mang tính lịch sử như Hội nghị quân sự Trung Giã, Tù hàng binh dưới chế độ ta, Tiếp quản Thủ đô và các phim thời sự về sinh hoạt của tù binh Âu - Phi, trao trả tù binh ở Tuyên Quang, Việt Trì, Sầm Sơn. Năm 1955, các phim tập trung phản ánh cuộc sống thay đổi sau chiến tranh, chống di cư, chuyển quân tập kết. Từ năm 1956, phim thời sự ra đều hàng tuần. Năm 1959, bộ phim tài liệu Nước về Bắc Hưng Hải của đạo diễn Bùi Đình Hạc đã đạt huy chương vàng ở liên hoàn phim Moskva. Một phương thức để phổ biến điện ảnh khi đó là các buổi chiếu bóng lưu động: phim được chiếu ở một khu đất trống với một màn ảnh được dựng lên, máy chiếu được chạy nhờ máy phát điện. Nhiều đơn vị chiếu bóng được thành lập tới các vùng nông thôn và cả thành thị phục vụ khán giả. Năm 1954 khi cuộc chiến Việt-Pháp kết thúc, toàn miền Bắc có 26 rạp và 23 đội chiếu bóng lưu động. Năm 1955 tăng lên 37 rạp và 37 đội chiếu bóng. Năm 1963, 46 rạp và 11 bãi chiếu phim ngoài trời, 269 đội chiếu bóng phục vụ 112.804.000 lượt người xem. Năm 1964 số lượng tăng lên tới 48 rạp và 11 bãi chiếu phim và 277 đội chiếu bóng nhưng số lượt người xem giảm xuống còn 77.414.720. Hoa Kỳ bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, vì lý do an ninh các đội chiếu bóng và bãi chiếu bóng không tập trung đông người nữa. Năm 1956, tổ chức điện ảnh được tách riêng làm hai bộ phận: Xưởng phim Việt Nam và Quốc doanh phát hành phim và chiếu bóng Việt Nam. Cũng trong thời gian này, Cục Điện ảnh được thành lập. Năm 1957 báo Điện ảnh xuất hiện. Đến năm 1959, Trường Điện ảnh Việt Nam, Nhà máy cơ khí điện ảnh, Xưởng phim Hoạt hoạ và búp bê Việt Nam, Xưởng phim Thời sự, tài liệu Trung ương lần lượt ra đời. Một số hoạt động văn nghệ khác được coi như bước chuẩn bị cho phim truyện. Phan Nghiêm, từ Việt Bắc về Hà Nội đã cải biên, quay và thu thanh tại chỗ vở kịch Lòng dân bằng phim 16 mm, sau đó hòa âm tại Tiệp Khắc. Xưởng phim Việt Nam cũng đã làm thử một số tiểu phẩm. Đầu tiên, đạo diễn Phạm Kỳ Nam, quay phim Trần Thịnh cùng các diễn viên Tuệ Minh, Hoà Tâm, đã dựng và quay tiểu phẩm về Võ Thị Sáu. Tiểu phẩm thứ hai dựa theo truyện ngắn Thư nhà của nhà văn Hồ Phương. Tiêu phẩm này được mang tên Người chiến sĩ (còn có tên khác là Cô lái đò bến Chanh), đạo diễn Trần Công, quay phim Khương Mễ cùng các diễn viên Phi Nga, Huy Công, Cam Ly, Khang Hy. Tiểu phẩm thứ ba có tên Nhựa sống nói về hoạt động của học sinh sinh viên nội thành thời gian thuộc quyền kiểm soát của Pháp. Đạo diễn Phạm Kỳ Nam, quay phim Thẩm Võ Hoàng. Các vai chính do Bích Vân, Trần Phương và Tự Huy đóng. Năm 1958, đạo diễn Mai Lộc làm bộ phim Biển động. Kịch bản do soạn giả cải lương Ngọc Cung viết, nội dung về cuộc khởi nghĩa thất bại ở Hòn Khoai, Cà Mau năm 1940. Phim hoàn thành nhưng khi duyệt hòa âm thì không được thông qua. Trong cuốn sách Điện ảnh Việt Nam thuở ban đầu đạo diễn Mai Lộc viết lại: "Phim không được thông qua vì nội dung phim không phù hợp với đường lối chính trị lúc bấy giờ, là đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, mà phim lại mô tả một cuộc nổi dậy thất bại tại miền Nam. Vì thế bộ phim truyện đầu tay của chúng tôi đã thất bại...". Một số kịch bản phim truyện khác cũng đã được viết, nhưng chưa kịch bản nào được dựng thành phim. [sửa]Giai đoạn 1959-1965 Chung một dòng sông (1959) Năm 1959 được coi là điểm mốc với sự ra đời của bộ phim truyện điện ảnh Cách mạng đầu tiên: Chung một dòng sông. Từ năm 1958 một bộ phim truyện đã được triển khai. Kịch bản đầu tiên mang tên Tình không giới tuyến, của tác giả Cao Đình Báu viết từ đầu năm 1957, nói về mối tình bị chia cắt của hai nhân vật Hoài và Việt sống trên đôi bờ sông Bến Hải. Ban đầu Tình không giới tuyến chỉ là một cốt truyện sơ lược. Sau khi được góp ý kiến, Cao Đình Báu và Đào Xuân Tùng đã sửa chữa và hoàn chỉnh kịch bản đổi tên thành Chung một dòng sông. Vợ chồng A Phủ (1961) Cốt truyện Chung một dòng sông đơn giản, nhưng đề cập đến vấn đề thời sự khi đó. Theo hiệp định Genève, sông Bến Hải trở thành giới tuyến tạm thời phân chia hai miền Nam Bắc. Hai nhân vật chính Vận và Hoài yêu nhau nhưng bị dòng sông chia cắt. Đạo diễn phim là Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân (tức Phạm Kỳ Nam), quay phim Nguyễn Đắc, họa sĩ thiết kế Đào Đức. Chung một dòng sông được công chiếu ngày 20 tháng 7 năm 1959 đã giành được nhiều thiện cảm của khán giả. Năm 1960 cũng là năm đánh dấu của phim hoạt hình với bộ phim đầu tiên Đáng đời thằng cáo. Tiếp đó đến các phim Chiếc vòng bạc, Chú thỏ đi học... được sản xuất. Sau Chung một dòng sông, các nhà làm phim Cách mạng tiếp tục thực hiện các bộ phim truyện khác. Đề tài lớn nhất trong giai đoạn này là cuộc Chiến tranh Việt-Pháp vừa kết thúc. Từ năm 1959 đến 1964, có 18 bộ phim thì 11 nói về đề tài trên: Vợ chồng A Phủ (1961), Lửa trung tuyến (1961), Chim vành khuyên (1962), Chị Tư Hậu (1963), Kim Đồng (1964)... Ngoài ra, đề tài xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc cũng được đề cập đến trong các phim: Khói trắng (1963), Cô gái nông trường (1960), Vườn cam (1960)... Cho tới tận 1964 thì Chung một dòng sông vẫn là phim duy nhất về đề tài Chiến tranh Việt Nam. Trong những năm đầu, ngoài Phạm Kỳ Nam từng học đạo diễn ở Học viện Điện ảnh Pháp (Institut des hautes études cinématographiques), các nghệ sĩ còn lại chỉ tự học, làm quen với điện ảnh bằng những phim tài liệu trước đó. Đến năm 1962 mới xuất hiện lớp nghệ sĩ thuộc khóa đạo diễn đầu tiên của trường Điện ảnh Việt Nam. Một khó khăn khác là sự yếu kém của kịch bản, lý do văn học Cách mạng thời kỳ này cũng rất yếu, với phần lớn là truyện ngắn, rất ít truyện dài hay tiểu thuyết. Trong những phim thời kỳ đó, Vợ chồng A Phủ làm từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Tô Hoài, Chị Tư Hậu, Chim vành khuyên được xem là thành công. Về diễn viên, ngoài những nghệ sĩ sân khấu chuyển sang điện ảnh như Phi Nga, Danh Tấn, Tuệ Minh, Trung Tín, Văn Phức, Mai Châu, Thu An... giai đoạn này đã xuất hiện những gương mặt mới sẽ là trụ cột của điện ảnh Cách mạng giai đoạn sau: Trà Giang, Lâm Tới, Đức Hoàn... [sửa]Giai đoạn 1965-1975 Áp phích Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972) ở Nhật Bản Từ cuối năm 1964, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, Chiến tranh Việt Nam bước vào thời kỳ khốc liệt nhất. Điện ảnh miền Bắc với nhiệm vụ tuyên truyền bắt đầu quay lại đề tài về cuộc chiến đang diễn ra. Thời kỳ này đội ngũ làm phim đã đa dạng và trưởng thành hơn. Ngoài lớp nghệ sĩ thứ nhất, xuất hiện lớp nghệ sĩ thứ hai là những người được đào tạo tại trường Điện Ảnh Việt Nam khóa đầu tiên. Thế hệ nghệ sĩ thứ ba là những nhà làm phim học ở Đại học điện ảnh Moskva về nước năm 1962. Giai đoạn này, phim tài liệu vẫn đóng vai trò quan trọng. Một số phim đã đạt giải thưởng tại các liên hoan phim quốc tế như: Lũy thép Vĩnh Linh của đạo diễn Ngọc Quỳnh đạt huy chương vàng Liên hoan phim Moskva năm 1971, Đầu sóng ngọn gió của đạo diễn Ngọc Quỳnh, Du kích Củ Chi của đạo diễn Trần Nhu, Đường ra phía trước của đạo diễn Hồng Sến cũng thành công tại các kỳ Liên hoan phim Moskva. Những người dân quê tôi của đạo diễn Trần Văn Thủy đoạt giải Bồ Câu Bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig năm 1970... Ngành phim hoạt hình cũng giành được hai giải thưởng quốc tế. Nổi trội là các phim Mèo con, Chuyện ông Gióng, Con sáo biết nói, Kăm Phạ - Nàng Ngà, Con khỉ lạc loài. Nối gót Chung một dòng sông, năm 1965 Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất phim Trên vĩ tuyến 17 với hai đạo diễn Lý Thái Bảo và Nhất Hiên. Phim bị đánh giá là đơn giản, không để lại dấu ấn gì. Năm 1966, hãng thực hiện phim Nổi gió dựa trên vở kịch cùng tên của tác giả Đào Hồng Cẩm. Đạo diễn bộ phim là Huy Thành với quay phim Nguyễn Đăng Bẩy. Đây là bộ phim đầu tiên của miền Bắc nói về cuộc chiến tranh với bối cảnh miền Nam. Nổi gió còn giới thiệu cho khán giả hai tài năng diễn xuất là Thế Anh, trong vai Trung uý Phương và Thụy Vân, vai chị Vân. Năm 1972, đạo diễn Hải Ninh thực hiện bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm. Đây là bộ phim truyện dài 2 tập đầu tiên của Việt Nam do Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất. Vai chính Dịu trong phim do diễn viên Trà Giang thể hiện. Vĩ tuyến 17 ngày và đêm đã giành được giải của Hội đồng hoà bình Thế giới Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1973. Cũng trong liên hoan phim này, Trà Giang đạt giải nữ diễn viên xuất sắc. Năm 1974, đạo diễn Hải Ninh tiếp tục có một phim đáng chú ý khác là Em bé Hà Nội. Ngoài hai diễn viên nổi tiếng là Trà Giang và Thế Anh, vai em bé Hà Nội do diễn viên Lan Hương diễn xuất. Bộ phim được xem là đã khắc họa thành công đời sống của Hà Nội trong những ngày chịu sự tấn công của Không quân Hoa Kỳ. Một số bộ phim đáng chú ý khác của giai đoạn này có thể kể đến: Đến hẹn lại lên (1974) của đạo diễn Trần Vũ, Tiền tuyến gọi (1969) cùa Phạm Kỳ Nam. Ngoài những bộ phim dài, điện ảnh miền Bắc còn sản xuất các bộ phim ngắn với mục đích tuyền truyền như Cô giáo Hạnh (1967), Biển gọi (1967), Một chiến công (1968), Em Phước (1969), Bức tranh để lại (1970), Chị Nhung (1970)... Từ năm 1970, Liên hoan phim Việt Nam bắt đầu được tổ chức và định kỳ 2 hoặc 3 năm một lần. Lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội, giải Bông sen vàng đã được tặng cho khoảng 60 tác phẩm điện ảnh[10], trong đó có Nổi gió, Người chiến sĩ trẻ và Nguyễn Văn Trỗi. Lần thứ hai được tổ chức năm 1973, có gần 40 tác phẩm được Bông sen vàng. Trong giai đoạn 1965 đến 1975, tổng cộng điện ảnh miền Bắc đã sản xuất 49 phim truyện.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 4:35:11 GMT 9
Miền NamỞ miền Nam Việt Nam, với thị trường tự do nên các hãng phim chủ yếu sản xuất phim thương mại phục vụ khán giả với nhiều thể loại như hành động, tình cảm, tâm lý xã hội, kinh dị... Khi người Mỹ chính thức tham chiến vào Chiến tranh Việt Nam, cùng với quân đội họ đã mang theo cả văn hóa Âu Mỹ và những công nghệ kỹ thuật mới vào Việt Nam. Điều này ảnh hưởng đến văn hóa nói chung trong đó có điện ảnh. Một yếu tố khác có ảnh hưởng tới điện ảnh của miền Nam thời kỳ này là sự phát triển mạnh của cải lương những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Rất nhiều nghệ sĩ điện ảnh xuất thân từ cải lương. Từ năm 1954 tới 1975, có những giai đoạn hoàng kim, như năm 1957, các hãng phim tư nhân điện ảnh miền Nam sản xuất 37 phim. [sửa]Giai đoạn 1954-1960 Chúng tôi muốn sống (1956) Năm 1955, Phòng Điện ảnh được thành lập. Đến năm 1959 Trung tâm Quốc gia Điện ảnh thuộc Nha Thông tin ra đời, với một đội ngũ những người làm phim gồm 19 đạo diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Đa số những người này được cố vấn Mỹ dạy tại chỗ hoặc đi tu nghiệp ở nước ngoài trong hai năm từ 1957 đến 1959. Bên cạnh đó còn mời chuyên gia của Philippines đến Sài Gòn hợp tác với một số hãng tư nhân thực hiện những phim tuyên truyền cho chế độ. Trung tâm Điện ảnh chính là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền Nam. Điện ảnh khi đó chủ yếu dành cho giới thành thị. Rạp chiếu bóng, mỗi ngày thường chiếu theo xuất, thứ bảy có xuất chiều, chủ nhật thêm xuất sáng. Để thu hút khán giả, các rạp thường mở nhạc các ca sĩ Paul Anka, Andy William, Elvis Presley, Patti Page... Giới trí thức thành thị khi ấy bị ảnh hưởng bởi lối sống Pháp. Các phim tình cảm Pháp thịnh hành, rồi đến những phim miền Tây của Mỹ, phim ca nhạc Ấn Độ. Giai đoạn 1955 đến 1958, nhiều hãng phim tư nhân được thành lập, tập trung sản xuất loại phim tâm lý xã hội, cổ tích và các đề tài gia đình, truyền thuyết nặng về giải trí. Đây là giai đoạn nở rộ phong trào làm phim cải lương, thần thoại, truyền thuyết, với nhiều bộ phim khơi gợi lòng tự hào của người Việt trong việc ủng hộ phim do người Việt làm ra. Nổi bật nhất trong phong trào làm phim này là các hãng Việt Thanh thành lập năm 1955, Văn Thế năm 1956, Tân Việt điện ảnh năm 1957 do ông Bùi Diễm làm giám đốc. Ngoài ra còn có các hãng phim Trường Sơn, Đông Phương, Liên Hiệp, Viễn Đông, Alpha, Hương Bình... Các hãng tư nhân sản xuất phim mạnh mẽ, giới thiệu với công chúng một thế hệ diễn viên mới như Kim Cương phim Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề; Trang Thiên Kim phim Mục Liên thanh đề, Trương Chi; Lê Thị Nam phim Đồng ruộng miền Nam; Kim Lan phim Người mẹ hiền; Thu Trang phim Lục Vân Tiên; Mai Trâm phim Chúng tôi muốn sống; Khánh Ngọc phim Ràng buộc, Ánh sáng miền Nam; Xuân Dung phim Kim trai thời loạn; Kim Hoàng phim Tiền thân Đức Phật Tổ; Thiên Kim phim Huyền Trân công chúa; Túy Phượng phim Thạch Sanh Lý Thông... Cuối năm 1956, đạo diễn người Mỹ Joseph L. Mankiewicz tới miền Nam Việt Nam thực hiện phim Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American, 1958), bộ phim đầu tiên chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Graham Greene. Đạo diễn Vĩnh Noãn của phim Chúng tôi muốn sống cũng được mời hợp tác cho bộ phim này. Nhưng bộ phim không thành công, bị nhận sự phản đối bởi chính Graham Greene. Diễn viên Laurence Oliver, người được chọn ban đầu, cũng ủng hộ nhà văn và từ chối tới Việt Nam tham gia bộ phim. Năm 1957 là năm điện ảnh miền Nam hoạt động mạnh nhất. Chỉ trong năm 1957, các hãng phim tư nhân đã sản xuất hơn 37 phim. Do điều kiện trong nước yếu kém về mặt kỹ thuật nên đa số những phim trắng đen, 35 mm. Nếu muốn tạo được sự chuẩn mực về kỹ thuật đều phải thâu thanh tại nước ngoài. Thành công nhất về doanh thu giai đoạn này Quan Âm Thị Kính. Một bộ phim ăn khách khác là Kiếp hoa (1953) của hãng Kim Chung với hai diễn viên Kim Chung và Kim Xuân, được xem là phim nội địa hay nhất. Diễn viên nữ số một là Kim Cương, người tham gia nhiều phim nhất những năm 1954 đến 1960. Dịp Giáng Sinh 1957, phim Người đẹp Bình Dương của hãng phim Mỹ Vân với chiến dịch quảng cáo rầm rộ mang đến cho công chúng ngôi sao tương lai Thẩm Thúy Hằng. Cũng năm 1957, Kiều Chinh lần đầu xuất hiện trong phim Hồi chuông Thiên Mụ của đạo diễn Lê Dân, hãng Tân Việt. Năm 1957 cũng là năm đầu tiên Việt Nam sản xuất phim màu Eastman A Color, với cuốn phim Lục Vân Tiên do Tống Ngọc Hạp và Thu Trang (hoa hậu hội chợ Thị Nghè) sản xuất và giữ vai chính, gây sôi nổi một dạo, báo chí phê bình khá nhiều. Nhưng đến cuối năm 1957, hoạt động sản xuất phim chững lại. Giai đoạn 1958 đến 1960 là giai đoạn thấp nhất của điện ảnh miền Nam so với đỉnh cao là năm 1960. Con số 39 nhà sản xuất phim chỉ còn 9 hãng hoạt động cầm chừng, mỗi năm sản xuất một hai phim, thiếu vốn, phim lỗ, chính sách thuế... Riêng một điểm sáng là phim Đứa con của biển cả đoạt giải thưởng đặc biệt của Liên hoan phim Berlin 1959[11]. Phim này do Trung tâm Quốc gia Điện ảnh thực hiện. Những phim khác trình chiếu có tính cách phóng sự hơn là truyện gồm có Y phục phụ nữ (tiến trình cải biến y phục cổ truyền của đàn bà Việt), Non nước Hương Bình (phong cảnh đất Thần kinh), Sơn mài Việt-Nam (phim màu), Xuân về (phong tục ngày Tết), Điệu xòe sơn cước (vũ điệu người Thái Bắc Việt), Múa tứ linh, Hát bộ, Điệu hò Miền Trung[1]... Chính phủ dùng những độii chiếu phim lưu động để phổ biến phim ở thành thị lẫn nông thôn. [2] Trong khi đó trên thương trường, b áo chí cũng không còn ủng hộ điện ảnh trong nước. Các phim nhập khẩu thao túng thị trường, chiếu trong 120 rạp chiếu bóng tại miền Nam khi ấy. Số lượng phim ngoại nhập vào Sài Gòn từ năm 1954 đến 1960 lên tới 1.850 bộ, trong đó phim Mỹ chiếm tới 85-90%. Vào năm 1962, phim Mỹ chỉ còn đạt được 15,4%, trong khi phim chưởng Hồng Kông và tâm lý xã hội loại "sướt mướt" của Đài Loan lên tới 40,8%. Phim của các nước khác cũng được yêu thích trong thời kỳ này là phim ca nhạc, thần thoại Ấn Độ, phim hiệp sĩ của Nhật Bản. [sửa]Giai đoạn 1960-1970 Thẩm Thúy Hằng Trong giai đoạn khó khăn, vẫn có những người đam mê điện ảnh. Như nhóm Bọn Trẻ của Nguyễn Long và Hoàng Anh Tuấn đã cùng bạn bè góp vốn làm phim. Nguyễn Long với bộ phim dài 100 phút Mưa lạnh hoàng hôn (1961) giới thiệu gương mặt diễn viên Mai Ly. Hoàng Anh Tuấn với phim Trời không muốn sáng. Để cạnh tranh lại với phim Ấn Độ, Hồng Kông... Thái Thúc Nha điện ảnh hóa cải lương với những phim Oan ơi ông Địa (1961), vai chính là Thẩm Thúy Hằng hay Bẽ bàng (1961) với Kim Cương. Nhưng do yếu kém về kỹ thuật và được thực hiện vội vàng, hai phim này cũng bị báo giới chê bai. Khoảng 1962, 1963 điện ảnh miền Nam bắt đầu hồi sinh trở lại. Nhiều hãng phim mới xuất hiện cùng các dự án làm phim. Thời kỳ này các phim bắt đầu sử dụng kỹ thuât phim màu đơn. Hãng phim Alpha tiên phong với Mưa rừng (1962) có Kim Cương cùng Kiều Chinh. Sau đó là bộ phim tốn kém Đôi mắt người xưa của hãng Liêm Phim, được thực hiện trong ba năm từ 1962 đến 1964. Đây cũng là phim đầu tiên Thanh Nga tham gia, tuy nhiên khánh giả lại biết tới cô với Hai chuyến xe hoa được trình chiếu trước vào 1963. Đạo diễn Lê Mộng Hoàng cùng kịch sĩ Năm Châu thực hiện Tơ tình do hãng Mỹ Vân sản xuất năm 1963. Tơ tình có sự tham gia của Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Mai Ly và nữ ca sĩ Thanh Thúy. Đây là một bộ phim nặng về âm nhạc, trong phim Thẩm Thúy Hằng trong vai ca sĩ Lệ Trinh. Sau thành công lớn về mặt doanh thu của Tơ tình, hãng Mỹ Vân làm tiếp phim Bóng người đi (1964) do Năm Châu đạo diễn. Phim này Thẩm Thúy Hằng diễn xuất cùng Thành Được, Út Bạch Lan. Năm 1969, Liên Ảnh Công Ty thực hiện bộ phim màu màn ảnh rộng Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ. Về mặt kỹ thuật đây là bộ phim có những tiến bộ vượt bậc. Ngoài những diễn viên điện ảnh tên tuổi Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Đoàn Châu, phim Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ còn qui tụ các diện viên và soạn giả cải lương như Lê Khanh, Thanh Cao, Ngọc Điệp, Tư Hề, Văn Lượng. Cũng năm 1969, một bộ phim khác đạt kỷ lúc bán vé là Chiều kỷ niệm. Đây là bộ phim đầu tay của nhóm Thẩm Thúy Hằng với đạo diễn là Lê Mộng Hoàng, lời thoại do nghệ sĩ Năm Châu viết. Phim đen trắng, 35 mm dài 1 giờ 45 phút. Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Hùng Cường, phim cũng có sự tham gia của các tên tuổi cải lương Năm Châu, Phùng Há, Bảy Ngọc, Thanh Tú... Chỉ trong tuần lễ công chiếu đầu tiên tại rạp Rex, Chiều kỷ niệm đã thu về 1 triệu đồng. Sau vài tuần, con số doanh thu lên tới 10 triệu. Vào những năm này, để có nhạc cảnh và ca khúc trên phim, các hãng thường đặt các nhạc sĩ như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh viết. Giọng ca do các ca sĩ như Thái Thanh, Hoài Trung... thể hiện để diễn viên xuất hiện trên phim nhép miệng. Nhưng phim khác đáng chú ý trong giai đoạn này có thể kể đến: Loạn, Yêu (1964), Dang dở (1965), Giã từ bóng tối (1969), Trai thời loạn (1969)... Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Thanh Nga, Kim Cương, điện ảnh còn ghi nhân những tên tuổi Kim Vui, Mộng Tuyền, Thảo Sương, Kim Xuân, Thanh Lan, Thiên Trang, Ngọc Minh... Đạo diễn sung sức nhất thời kỳ này là Lê Mông Hoàng. Năm 1966, tại Đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 13, nữ diễn viên Xuân Dung đã được trao tặng giải thưởng nữ Diễn viên Xuất sắc nhất với vai diễn trong phim Đôi mắt người xưa do hãng Liêm Phim sản xuất. Đây là giải thưởng quốc tế lớn đầu tiên của các diễn viên điện ảnh miền Nam. [sửa]Giai đoạn 1970-1975 Thanh Nga Cuối thập niên 1960 ở miền Nam, trong khi cải lương ngày càng sa sút thì điện ảnh lại phát triển mạnh mẽ, bước vào thời kỳ hoàng kim. Với hơn 30 hãng phim hoạt động, kinh doanh điện ảnh thực sự có lãi. Số lượng phim tăng lên nhanh chóng: năm 1970 có 6 phim, năm 1971 có 24 phim và đỉnh cao là năm 1972 với 29 phim. Các hãng phim đã nhìn xa trông rộng, biết tìm đối tác, hợp tác cùng các nước trong khu vực để sản xuất. Nếu như trước đây, các hãng phim muốn nhập phim nước ngoài thì phải tự mình sản xuất một phim trong một năm, thì từ năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho phép nhập phim tự do. Mặc dù vậy, việc làm phim trong nước với nhiều dự án vấn phát triển mạnh mẽ. Ngoài các diễn viên cải lương, điện ảnh còn chứng kiến sự lấn sân của các diễn viên kịch, ca sĩ như: Bạch Tuyết với những phim Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya, Lan và Điệp, Con ma nhà họ Hứa; Băng Châu, Bạch Liên với Men tình mùa hạ, Hoa mới nở; Như Loan với Đời chưa trang điểm; Phương Hồng Ngọc với Nắng chiều, Nàng; Phương Hoài Tâm, Thanh Lan với Tiếng hát học trò, Trường tôi; Trang Thanh Lan với Xa lộ không đèn; Ngọc Đan Thanh với Quái nữ Việt quyền đạo; Mai Lệ Huyền với Gác chuông nhà thờ, Ly rượu mừng; Tuyết Lan, Quốc Dũng với Trường tôi; Kiều Phượng Loan, Bạch Lan Thanh... Từ năm 1970, điện ảnh Việt Nam Cộng hòa liên tục cử nhiều đoàn đi tham dự các liên hoan phim quốc tế tại Tây Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia... Được sự quan tâm của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, năm 1970, Giải thưởng Điện ảnh ra đời. Các hãng Mỹ Vân, Cosunam phim, Việt Nam Phim, Giao Chỉ phim... xin phép những dự án xây dựng phim trường. Từ cuối 1969, các phim sản xuất bắt đầu là phim màu, thường được in tráng ở nước ngoài, nhiều nhất là ở Nhật Bản. Chính phủ còn miễn thuế nhập cảng phim nhựa màu, tạo điều kiện cho các nhà làm phim. Liên tiếp trong các năm 1971, 1972, 1973, 1974 ở các kỳ liên hoan phim trong khu vực, Việt Nam Cộng hòa đều gặt hái được những giải thưởng tôn vinh các diễn viên Kiều Chinh, Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương... Giai đoạn này, đề tài làm phim cũng đa dạng hơn, phục vụ thị hiếu đông đảo khán giả. Con mà nhà họ Hứa sản xuất trong hai năm 1972 và 1973 là bộ phim kinh dị đầu tiên của Việt Nam. Phim của Dạ Lý Hương phim, đạo diễn Lê Hoàng Hoa với các diễn viên Năm Châu, Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm... đã thắng lớn về doanh thu. Những bộ phim hài như Năm vua hề về làng (1974), Tứ quái Sài Gòn (1973), Sợ vợ mới anh hùng (1974) đều là những phim ăn khách, thu hút khán giả tới rạp. Khi đó điện ảnh võ thuật Hồng Kông đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ nên một số nhà làm phim cũng đi theo hướng này. Tiêu biểu như Long hổ sát đấu (1972), Hận thù, Quái nữ Việt quyền đạo. Một số tác phẩm văn học cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh như Trống mái (1971), Gánh hàng hoa (1971) dựa theo tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, Điệu ru nước mắt (1971), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971) của nhà văn Duyên Anh, Chân trời tím (1970) của Văn Quang. Một đề tài hấp dẫn nữa là khai thác thế giới giang hồ, vũ nữ với những phim Sau giờ giới nghiêm (1972), Xa lộ không đèn (1972), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971), Mãnh lực đồng tiền (1971)... Cùng với đó phản ánh đời sống của giới trẻ thành thị Loan mắt nhung (1970), Hoa mới nở (1974), Hè 72, Anh yêu em... Loan mắt nhung năm 1970 của đạo diễn Lê Dân được xem là bộ phim chân thực hấp dẫn phản ánh đúng một bộ phận thanh thiếu niên Sài Gòn thời ấy. Phim dài 1 giờ 45 phút, phỏng theo truyện xã hội đen của Nguyễn Thụy Long, người đã sống một thời gian dài cùng du dãng và gái điếm. Với các diễn viên Huỳnh Thanh Trà trong vai Loan mắt nhung, Thanh Nga trong vai Xuân, người yêu của Loan mắt nhung, Ngọc Phu trong vai Thanh Italy, Kim Xuân vai Dung... phim có nhiều tình tiết éo le, những cảnh vũ trường ăn chơi của Sài Gòn. Kiều Chinh trong Người tình không chân dung (1971) Cuối năm 1969, đầu 1970, Liên Ảnh công ty bỏ ra một số tiền khổng lồ 14 triệu đồng cho Lê Hoàng Hoa làm phim Chân trời tím dựa theo tiểu thuyết của Văn Quang. Ban đầu Liên Ảnh công ty mời Kiều Chinh đóng vai Liên và đạo diễn được chọn là Hoàng Vĩnh Lộc, nhưng do thời gian chuẩn bị quá lâu nên hai nhân vật này bận phim khác đã từ chối. Về sau được thực hiện với các diễn viên Hùng Cường vai Phi, Thanh Lan vai Phượng, Kim Vui vai Liên, Ánh Nga vai Loan. Ca khúc chính của bộ phim là nhạc phẩm Nửa hồn thương đau[12] rất nổi tiếng của Phạm Đình Chương. Bộ phim được quay 3 tháng trời, với 100 xe tăng, 45 máy bay trực thăng, 300 xe cơ giới đủ loại, 600 diễn viên chính phụ và đã thu vào 94 triệu đồng[13]. Bên cạnh đó, một số phim ca ngợi hình ảnh người lính quân đội Cộng hòa, tuyên truyền cho chính quyền miền Nam như Người tình không chân dung (1971), Xin nhận nơi này làm quê hương (1968), Người về từ đỉnh núi... Người tình không chân dung của hàng Giao Chỉ phim thực hiện năm 1970 do Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn. Kiều Chinh trong vai chính Mỹ Lan, một phát thanh viên giữ mục Tâm tình chiến sĩ trên đài phát thanh dấn thân vào chiến trường tìm người yêu. Tuy được thực hiện với một kinh phí hạn hẹp, nhưng phim đã đoạt giải chủ đề phim xuất sắc nhất và nữ tài tử chính khả ái nhất tại Đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 17 tổ chức tại Đài Bắc vào ngày 6 tháng 6 năm 1971. Cuối năm 1974, hoạt động làm phim vẫn diễn ra sôi động. Lê Hoàng Hoa làm bộ phim kinh dị Giỡn mặt tử thần với Thẩm Thúy Hằng, Phương Uyên. Thẩm Thúy Hằng cũng cùng với đạo diễn Lưu Bạch Đàn lên kế hoạch hợp tác với Nhật Bản quay bộ phim Tình khúc thứ 10, Hòn vọng phu... Ngày Điện ảnh Việt Nam 14 tháng 9 năm 1974, Thái Thúc Nha làm chủ tịch đã phát động phong trào ủng hộ điện ảnh với khẩu hiệu "Người Việt xem phim Việt". Hãng phim Mỹ Vân xây dựng hoàn chỉnh phim trường lớn ở xa lộ Biên Hòa. Dịp tết 1975, màn ảnh Sài Gòn nhộn nhịp với nhiều phim mới được công chiếu: Hải vụ 709, Từ quê ra tỉnh, Nữ quái sợ ma... Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 chấm dứt nền điện ảnh của miền Nam Việt Nam thời kỳ này. Cho đến tận khi đó, một vài bộ phim như Giỡn mặt tử thần... vẫn chưa kịp công chiếu. [sửa]Giai đoạn sau 1975 Sau năm 1975, miền Bắc và miền Nam thống nhất kéo theo những thay đổi của điện ảnh Việt Nam. Tại Sài Gòn, trước khi được đổi tên, những nhà làm phim miền Bắc được tiếp nhận những tranh thiết bị, máy móc kỹ thuật của miền Nam. Họ cùng với những nghệ sĩ của miền Nam như các đạo diễn Lê Mộng Hoàng, Lê Hoàng Hoa... các diễn viên Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương, Nguyễn Chánh Tín, Lý Huỳnh... hợp thành một đội ngũ làm phim đông đảo. Đề tài làm phim cũng đa dạng. Ngoài những phim về Chiến tranh Việt Nam, cũng có những phim nói về đề tài đô thị miền Nam. Trong giai đoạn này, điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong nền điện ảnh Việt Nam. Xưởng phim Giải phóng - thành lập từ tháng 1 năm 1962 - được mở rộng quy mô, sản xuất nhiều loại hình phim, đổi tên thành Xưởng phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu được thành lập với tiền thân là hãng phim Alpha của Sài Gòn trước 1975. Cơ quan Phát hành phim và chiếu bóng Giải phóng chuyển thành Chi nhánh Phát hành phim Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm tư liệu phim các tỉnh phía Nam được thành lập để quản lý, lưu trữ các phim của điện ảnh miền Nam trước 1975, đến tháng 9 năm 1979 trở thành Cơ sở II của Viện Tư liệu phim Việt Nam - nay là Viện Nghệ thuật và Lưu trữ Điện ảnh. Nguyễn Chánh Tín trong Ván bài lật ngửa Bộ phim đầu tiên được ra đời Bên lề 30 - 4. Tiếp đó, Đài truyền hình thành phố thực hiện phim Cô Nhíp (1976) của đạo diễn Khương Mễ. Hãng phim truyện Việt Nam có Ngày lễ thánh do Bạch Diệp biên kịch và đạo diễn với các diễn viên Trà Giang, Như Quỳnh, Tuệ Minh, Trần Phương. Cũng năm 1976, Hãng phim truyện Việt Nam còn thực hiện một bộ phim đáng chú ý khác là Sao tháng tám, đạo diễn Trần Đắc, diễn viên Thanh Tú, Đức Hoàn, Lê Dũng Nhi. Ngoài 350 rạp chiếu phim, điện ảnh còn được phố biến nhờ 1.400 đội chiếu bóng lưu động. Đề tài chính của điện ảnh Việt Nam giai đoạn này vẫn là cuộc chiến tranh vừa kết thúc. Những bộ phim tiếp theo Mối tình đầu (1977), Mùa gió chướng (1978), Mẹ vắng nhà (1979)... và Cánh đồng hoang (1979) của Xưởng phim Tổng hợp là bộ phim dấu ấn nhất trong thời kỳ này. Cánh đồng hoang do nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, đạo diễn phim là Nguyễn Hồng Sến. Trước đó hai người đã hợp tác trong Mùa gió chướng, bộ phim đầu tay của Nguyễn Hống Sến trên vai trò đạo diễn, cũng là kịch bản đầu tay của Nguyễn Quang Sáng. Lấy bối cảnh vùng Đồng Tháp Mười, bộ phim phản ánh đời sống của một gia đình trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Hai diễn viên chính của Cánh đồng hoang là Lâm Tới và Thúy An. Cánh đồng hoang đã giành được nhiều giải quan trọng trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 năm 1980 và Huy chương vàng tại Liên hoan phim Quốc tế Moskva, 1981. Sang thập niên 1980, đề tài làm phim đã thực sự đa dạng. Đạo diễn Phạm Văn Khoa có hai bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học, Chị Dậu (1980) từ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Làng Vũ Đại ngày ấy (1983) từ Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao. Đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng đã thực hiện những bộ phim được chú ý, Thị xã trong tầm tay (1982), Bao giờ cho đến tháng Mười (1984) và Cô gái trên sông (1986). Một tác phẩm điện ảnh dấu ấn trong giai đoạn này là bộ phim dài hơi Ván bài lật ngửa của đạo diễn Lê Hoàng Hoa do Xưởng phim Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh sản xuất. Ván bài lật ngửa được thực hiện từ năm 1982 tới năm 1987, gồm 8 tập: Đứa con nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng trên cao nguyên, Cơn hồng thủy và bản tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời cảnh cáo cuối cùng, Cao áp và nước lũ, Vòng hoa trước mộ. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý. Vai điệp viên Nguyễn Thành Luân do Nguyễn Chánh Tín và vai Thùy Dung do Thúy An và Thanh Lan thể hiện. Ván bài lật ngửa đã giành được Giải đặc biệt tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 6 năm 1983, Bông sen bạc và nam diễn viên chính xuất sắc tại lần thứ 7 năm 1985. Từ tháng 4 năm 1975 đến năm 1985, điện ảnh Việt Nam đã thực hiện 149 bộ phim truyện ra mắt công chúng. Mỗi năm còn trung bình 12 phim hoạt hình và nhiều phim tài liệu [sửa]Thời kỳ mở cửa Đến cuối thập niên 1980, khi Việt Nam bước sang giai đoạn Đổi mới thì điện ảnh rơi vào thời kỳ khủng hoảng. Những năm trước, trong thời kỳ bao cấp, các hãng phim được nhà nước cấp kinh phí để sản xuất phim, khâu phát hành phim do cơ quan khác quản lý. Đây là một trong những lý do làm giảm chất lượng phim. Thời kỳ này, sự cắt giảm ngân sách của Nhà nước làm cho điện ảnh không đủ kinh phí để sản xuất phim. Việc phân cấp các rạp và đội chiếu bóng về cho tỉnh, thành và quận, huyện được từ đầu thập niên 1980, tới thời gian này được thực hiện triệt để. Nhà nước bắt đầu xóa bỏ bao cấp dành cho điện ảnh, chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch toán kinh tế, có sự tài trợ một phần của Nhà nước. Các máy móc thiết bị làm phim đã cũ kỹ, tiền của Nhà nước đầu tư cho điện ảnh cũng bị thất thoát. Trong khi điện ảnh rơi vào bi kịch thì thể loại phim video mới xuất hiện và nhanh chóng đạt tới thời kỳ hoàng kim, thu hút một số lượng khán giả rất lớn. Số lượng máy video tăng nhanh và rạp chiếu phim không còn sức hút với khán giả. Nhiều hãng phim điện ảnh chỉ còn sản xuất một hai phim một năm, và chuyển sang làm phim video. Dòng phim này chủ yếu ở miền Nam, rất nhiều bộ phim thương mại được sản xuất ồ ạt, nội dung đơn giản, thường được gọi là dòng "phim mỳ ăn liền". Dòng phim này cũng kéo theo một thế hệ diễn viên ngôi sao mới như Lý Hùng, Diễm Hương, Việt Trinh, Lê Công Tuấn Anh, Lê Tuấn Anh, Công Hậu, Thu Hà... Một thời gian đầu, các phim mỳ ăn liền hướng tới các đề tài dân gian, những câu chuyện cổ tích như Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh... Khi thể loại phim võ thuật của Hồng Kông du nhập vào Việt Nam mạnh mẽ, các nhà làm phim cũng sản xuất hàng loạt những phim võ hiệp dã sử Thăng Long đệ nhất kiếm, Lửa cháy thành Đại La, Tráng sĩ Bồ Đề... Không chỉ dùng phim video, một vài phim như Thăng Long đệ nhất kiếm là phim điện ảnh. Thời kỳ cuối cùng, cùng là giai đoạn mạnh mẽ nhất, là những bộ phim tình cảm sướt mướt, bi lụy, những cuộc tình tay ba ngang trái: Sau những giấc mơ hồng, Em không dối lừa, Sau cơn mưa trời lại sáng, Tóc gió thôi bay... Cho đến giữa thập niên 1990, do nhu cầu và thị hiếu khán giả thay đổi, dòng phim này bắt đầu đi xuống. Lê Công Tuấn Anh Giai đoạn này số lượng phim điện ảnh được sản xuất giảm đáng kể. Số lượng rạp chiếu phim cũng giảm bớt. Nhiều rạp chiếu phim bị phá bỏ, hoặc chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác, biến thành vũ trường. Một vài tác phẩm thành công của thời kỳ này có thể kể đến Người đi tìm dĩ vãng chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà văn Chu Lai với các diễn viên Trần Lực, Thanh Mai, Lê Công Tuấn Anh, Thương Tín; Đêm hội Long Trì (1989) được chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, đạo diễn Hải Ninh, diễn viên Hoàng Cúc, Lê Vân; Tình khúc 68 (1988) của đạo diễn Lê Mộng Hoàng với Thương Tín, Phan Vũ và Vị đắng tình yêu (1991) của Lê Xuân Hoàng. Vị đắng tình yêu được Hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 1991, do Lê Xuân Hoàng đạo diễn với các diễn viên Thuỷ Tiên, Lê Công Tuấn Anh, Lê Cung Bắc, Y Phụng, Phước Sang... Vai Quang "Don Quixote" là vai diễn dấu ấn của Lê Công Tuấn Anh. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 10 năm 1993, Vị đắng tình yêu đã giành nhiều giải quan trọng: Bông sen vàng, Đạo diễn xuất sắc, Nam diễn viên chính xuất sắc. Đây được xem là một bộ phim vừa thành công về doanh thu lẫn nghệ thuật. Năm 1992, có hai bộ phim Pháp được thực hiện ở Việt Nam. Người tình (L'Amant) của đạo diễn Jean-Jacques Annaud dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras với sự tham gia của nữ diễn viên Pháp Jane March và diễn viên Hồng Kông Lương Gia Huy. Bộ phim thứ hai là Đông Dương (Indochine), đạo diễn Régis Wargnier và hai ngôi sao Catherine Deneuve và Vincent Perez. Diễn viên người Pháp gốc Việt Phạm Linh Đan trong vai Camille, con gái nuôi của Eliane Devries - vai do Catherine Deneuve thể hiện. Đông Dương đã được trao giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1992. Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp Nhà nước được Chính phủ phê duyệt và bước đầu triển khai. [sửa]Điện ảnh hải ngoại Bài chi tiết: Điện ảnh hải ngoại Mùi đu đủ xanh (1993) Từ những năm ngay sau 1945, đã có những thước phim của các Việt kiều Pháp gửi về Việt Nam. Đó là những phim tài liệu về Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh ở Pháp, hay về đời sống của những Việt kiều. Đầu thập niên 1950, có những thanh niên Việt Nam sang Pháp học về điện ảnh. Sau khi tốt nghiệp, một số về nước làm phim, như đạo diễn Phạm Kỳ Nam của miền Bắc, Lê Dân, Hoàng Anh Tuấn, Lê Mộng Hoàng của miền Nam. Một số khác ở lại Pháp làm phim, nhưng không có thành công đáng kể. Đạo diễn Việt kiều đầu tiên được giới điện ảnh nước ngoài chú ý đến là đạo diễn Lê Lâm với bộ phim ngắn Long Vân Khánh Hội làm năm 1980 tại Pháp. Bộ phim nói về một người lái tàu hỏa phải thực hiện công việc trong khi người vợ ở nhà đang hấp hối. Long Vân Khánh Hội được giới thiệu trong chương trình Triển vọng của điện ảnh Pháp tại Liên hoan phim Cannes năm đó. Ba năm sau, Lê Lâm làm tiếp phim Tro tàn của đế chế. Bộ phim là một hoài niệm của tác giả về quê hương trong mối quan hệ với những người Pháp thông qua nhân vật viên sĩ quan và người nữ tu sĩ Pháp, do nữ diễn viên nổi tiếng người Pháp Dominique Sanda thủ vai. Trong mười năm sau đó, Lê Lâm không làm phim nữa và cũng không có tên tuổi của đạo diễn người Việt nào được nhắc đến trong hoạt động điện ảnh ở nước ngoài. Mở đầu cho làn sóng các đạo diễn Việt kiều về Việt Nam làm phim là Hồ Quang Minh. Vào năm 1985, đạo diễn Hồ Quang Minh từ Thụy Sĩ về nước thực hiện bộ phim Con thú tật nguyền của Hãng phim Giải Phóng. Tiếp đó ông làm các bộ phim Trang giấy trắng (1991), Bụi hồng (1996) và mang những phim này tham dự một số liên hoan phim quốc tế. Năm 1993, đạo diễn trẻ người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim đầu tay Mùi đu đủ xanh (L'Odeur de la papaye verte) tại Pháp. Bộ phim nói về một cô gái, từ khi còn bé tới lúc trưởng thành, ở Sài Gòn trong thập niên 1950. Trong một khung cảnh nhỏ hẹp, cốt truyện đơn giản, tác giả đặc biệt chú ý đến hình ảnh và màu sắc. Và ngay từ tác phẩm đầu tay này, Trần Anh Hùng đã thành công. Mùi đu đủ xanh giành được giải Trẻ và giải Camera vàng trong Liên hoan phim Cannes năm đó. Sang năm 1994, phim được đề cử tranh giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất và giành được giải César cho tác phẩm đầu tay. Ba mùa (1999) Năm 1995, Trần Anh Hùng trở về Việt Nam làm phim Xích lô (Cyclo). Xích lô có sự tham gia của nhiều diễn viên Việt Nam cùng ngôi sao điện ảnh Hồng Kông Lương Triều Vỹ. Khác với bộ phim trước, bối cảnh của Xích lô là Thành phố Hồ Chí Minh trong thập niên 1990 với nhiều bạo lực, tệ nạn. Phim đã giành đươc giải Sư tử vàng và giải FIPRESCI tại Liên hoan phim Venezia năm 1995. Năm 1999, Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim thứ ba cũng ở Việt Nam, Mùa hè chiều thẳng đứng (À la verticale de l'été) với sự tham gia của nhiều diễn viên Việt Nam nổi tiếng: Lê Khanh, Như Quỳnh, Trần Quang Hải, Lê Tuấn Anh... Với ba phim, tuy giành được những thành công ở nước ngoài, Trần Anh Hùng không được nhiều khán giả Việt Nam biết tới. Các nhà làm phim trong nước đánh giá phim Trần Anh Hùng ít bản sắc Việt Nam[14]. Cũng năm 1999, đạo diễn Việt kiều Mỹ Tony Bùi về nước làm Ba mùa (Three Seasons), một bộ phim với ba câu chuyện nhỏ xen kẽ với nhau. Ba mùa có sự tham gia của diễn viên người Mỹ Harvey Keitel trong vai một cựu chiến binh Mỹ trở lại Việt Nam tìm con gái, và các diễn viên Việt Nam như Đơn Dương, Ngọc Hiệp... Ba mùa được công chiếu rộng rãi ở Việt Nam và đã thu hút được khán giả. Phim đoạt cả hai giải của khán giả lẫn giám khảo tại Liên hoan phim Sundance. Năm 2001, Tony Bùi đứng ra làm nhà sản xuất cho bộ phim đầu tay của anh mình là Timothy Linh Bùi mang tên Rồng xanh (Green Dragon). Bộ phim nói về những người Việt tị nạn sau biến cố tháng 4 năm 1975 với sự tham gia của ngôi sao Hollywood Patrick Swayze, diễn viên Đơn Dương, các diễn viên hải ngoại Lê Thị Hiệp, Kathleen Luong. Rồng xanh vấp phải sự phản đối của Nhà nước Việt Nam và sau bộ phim này, diễn viên Đơn Dương rời Việt Nam sang định cư tại Hoa Kỳ. Trước đó Đơn Dương cũng tham gia một bộ phim Hollywood khác nói về Chiến tranh Việt Nam là Chúng ta là những người lính (We Were Soldiers 2002) cùng Mel Gibson. Sang thập niên 2000, làn sóng các đạo diễn Việt kiều về nước làm phim trở nên mạnh mẽ. Như Hồ Quang Minh với Thời xa vắng (2004), Việt Linh với Mê Thảo - Thời vang bóng (2003), Nguyễn Võ Nghiêm Minh với Mùa len trâu (2004), Đoàn Minh Phượng với Hạt mưa rơi bao lâu (2005). Phim của những đạo diễn này đã giành được nhiều giải thưởng tại Liên hoan phim Việt Nam và họ cùng với các nhà làm phim trong nước tạo nên nền điện ảnh Việt Nam đương đại. [sửa]Điện ảnh tại hải ngoại Vượt sóng (2006) Bên cạnh những đạo diễn về Việt Nam làm phim, một số nhà làm phim Việt kiều thực hiện các bộ phim ngay tại hải ngoại. Sau 1975, nhiều người Việt rời Việt Nam định cư ở nước ngoài. Một số diễn viên Việt kiều tham gia vào nền điện ảnh nơi họ định cư. Kiều Chinh giành được nhiều vai diễn nhỏ tại Hollywood. Năm 1993, Lê Thị Hiệp đóng vai nữ chính bên cạnh Tommy Lee Jones trong bộ phim nói về Chiến tranh Việt Nam Trời và đất (Heaven & Earth, 1993) của đạo diễn nổi tiếng Oliver Stone. Tại Pháp, Phạm Linh Đan giành giải César cho Nữ diễn viên triển vọng trong phim De battre mon cœur s'est arrêté năm 2006. Cảnh sát người Pháp gốc Việt Nguyễn Văn Lộc đóng vai chính trong một số sê-ri phim truyền hình dựa theo cuốn tự truyện của chính ông. Các diễn viên trẻ như Johnny Trí Nguyễn, Dustin Nguyễn cũng tham gia nhiều phim của Hollywood.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 4:37:02 GMT 9
Một vài diễn viên mang một phần dòng máu Việt khác giành được nhiều thành công, như Chung Lệ Đề nổi tiếng ở Hồng Kông; Maggie Q tham gia diễn xuất trong những bộ phim lớn của Hollywood như Nhiệm vụ bất khả thi 3 (Mission: Impossible III, 2006), Die Hard 4 (2007). Năm 2003, một đạo diễn trẻ Victor Vũ thực hiện bộ phim thứ hai của mình là Một buổi sáng đầu năm (First Morning). Trước đó anh đã làm một phim ngắn tên Firecracker vào năm 1997. Một buổi sáng đầu năm được thực hiện đơn giản, nhưng về nội dung tác giả lại muốn đề cập đến nhiều khía cạnh cuộc sống của người Việt tị nạn. Bộ phim, với sự tham gia của những diễn viên trẻ của điện ảnh hải ngoại là Johnny Trí Nguyễn và Kathleen Lương, đã không để lại dấu ấn gì. Năm 2004, Victor Vũ làm Oan hồn (Spirits), một phim thuộc thể loại kinh dị mang đậm chất Á đông. Oan hồn được báo chí Việt Nam nhắc đến và Victor Vũ đã mang bộ phim này tham dự một số liên hoan phim. Năm sau 2006, Victor Vũ tiếp tục sản xuất bộ phim kinh dị Thế giới huyền bí tập 1 là Tình yêu bất biệt (Mysterious World, Episode 1: Love Never Die). Tại Pháp, một đạo diễn trẻ gốc Việt là Kim Chapiron. Anh bắt đầu là một người thiết kế web trước khi bước chân vào điện ảnh. Những bộ phim đầu tay của Kim Chapiron Tarubi, l'Arabe Strait (2000) et La Barbichette (2002) đã tham dự nhiều liên hoan phim như Locarno, Cicuito Off Venice, Les Lutins du Court-Métrage. Năm 1995, cùng Romain Gavras, Kim Chapiron thành lập hội nghệ sĩ Kourtrajmé, tập hợp nhiều tên tuổi nổi tiếng: tay guitar Nguyên Lê, diễn viên Vincent Cassel... Sheitan, phim dài đầu tay của Kim Chapiron do Vincent Cassel sản xuất có sự tham gia diễn xuất của Vincent Cassel và Monica Bellucci. Thời điểm 2007, tác phẩm mới nhất của Kim Chapiron là video clip France à fric cho ca sĩ nhạc rap Rockin' Squat. Bắt đầu năm 2005 và chính thức ra mắt năm 2007, đạo diễn Hàm Trần với bộ phim Vượt sóng (Journey from the Fall - Hành trình từ sự sụp đổ) đã giành được sự chú ý của cộng đồng người Việt hải ngoại. Phim được trình chiếu rộng rãi tại Hoa Kỳ và đã đoạt được doanh thu cao nhất cho mỗi rạp[15]. Bộ phim nói về cảnh ngộ của những người trong trại cải tạo ở Việt Nam sau 1975 và sau đó là những thuyền nhân. Vượt sóng có sự tham gia của Kiều Chinh, Nguyễn Long và diễn viên, nữ ca sĩ Diễm Liên. Kinh phí sản xuất bộ phim này cũng do cộng đồng người Việt ở Mỹ tài trợ. Vào năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế lần đầu tiên được tổ chức ở vùng Little Saigon của Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Sau đó Đại hội được tổ chức hai năm một lần. Đây là đại hội điện ảnh duy nhất dành riêng cho các nhà làm phim gốc Việt trên toàn thế giới. Ngoài những nhà làm phim Việt kiều, một số đạo diễn trong nước như Pham Nhuệ Giang, hay Bùi Thạc Chuyên cũng đem phim tới dự. Năm 2007, đại hội được tổ chức ở trường Đại học California tại Irvine với 51 phim gồm 13 phim dài, 36 phim ngắn. Ngoài những phim thực hiện trong nước như Sống trong sợ hãi của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên, Dòng máu anh hùng của hãng phim Chánh Phương, còn có những phim điện ảnh hải ngoại Vượt sóng (Journey from the Fall) của Hàm Trần, Bụi đời (Dust of Life) của Lê Văn Kiệt. [sửa]Điện ảnh Việt Nam đương đại Gái nhảy (2003) Từ giữa thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam bắt đầu bước dần ra khỏi thời kỳ khủng hoảng. Số lượng phim tăng lên. Ngoài những phim tiếp tục khai thác đề tài chiến tranh như Hà Nội, mùa đông năm 1946 (1997) của Đặng Nhật Minh, Ngã ba Đồng Lộc (1997) của Lưu Trọng Ninh, Đời cát (1999) của Nguyễn Thanh Vân, Ai xuôi Vạn Lý (1996) của Lê Hoàng... các nhà làm phim đã hướng tới những đề tài đương đại: Vương Đức với Những người thợ xẻ (1998), Nhuệ Giang với Thung lũng hoang vắng (2000), Đỗ Minh Tuấn với Vua bãi rác (2002)... Năm 2000, Liên hoan phim Châu Á-Thái Bình Dương được tổ chức ở Hà Nội. Điện ảnh Việt Nam đã giành được nhiều giải quan trọng: Phim hay nhất cho Đời cát của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, hai diễn viên Mai Hoa và Hồng Ánh trong Đời cát đạt hai giải dành cho nữ diễn viên chính và nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Trước đó, năm 1999, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai của Trần Văn Thủy đạt phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim Châu Á-Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan. Nhưng hầu hết những bộ phim này, với tư duy làm phim cũ, đã không kéo được khán giả tới rạp, các phim làm ra tiếp tục thua lỗ. Nhà nước vẫn cấp kinh phí để sản xuất những phim kỷ niệm các ngày lễ lớn. Những bộ phim đó thường được thực hiện với kinh phí lớn, nhưng ít được khán giả quan tâm, thậm chí các tên phim Ký ức Điện Biên, Giải phóng Sài Gòn còn làm khán giả tưởng nhầm là phim tài liệu. Ký ức Điện Biên (2004) kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ được đầu tư 13 tỷ đồng, khi công chiếu thu hút rất ít khán giả. Trong ba ngày chiếu tại rạp Đống Đa Thành phố Hồ Chí Minh chỉ bán được 60 vé. Tại Hà Nội, ngoài hai suất chiếu phục vụ công ích cũng chỉ chiếu được tám suất doanh thu, bình quân 25, 30 vé[16]. Sau đó Nhà nước có văn bản chỉ đạo các cơ quan, doanh nghiệp tổ chức xem phim. Tuy thế, tại lễ trao giải Cánh diều vàng 2004, với Ký ức Điện Biên Đỗ Minh Tuấn vẫn nhận giải Đạo diễn xuất sắc nhất. Vào cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, nhiều rạp chiếu phim được nâng cấp, trang bị hiện đại. Trung tâm Chiếu phim Quốc gia được xây dựng mới ở Hà Nội. Một làn sóng phim nước ngoài tràn ngập vào Việt Nam với những bộ phim ăn khách của Mỹ, Hàn Quốc, Hồng Kông. Khán giả Việt Nam bắt đầu lấy lại thói quen tới rạp chiếu phim. Năm 2001, đạo diễn người Úc Phillip Noyce tới Việt Nam quay bộ phim Người Mỹ trầm lặng (The Quiet American) chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Graham Greene. Phim có sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng của Hollywood là Michael Caine và Brendan Fraser. Vai nữ chính trong phim do diễn viên Việt Nam Hải Yến đóng. Những cô gái chân dài (2004) Đầu thập niên 2000, các nhà làm phim Việt Nam cũng cố gắng làm những phim thu hút khán giả. Người đi đầu trong trào lưu làm phim thương mại là đạo diễn Lê Hoàng với Gái nhảy (2003) của Hãng phim Giải phóng. Năm 2001, Lê Hoàng nhận kịch bản Trường hợp của Hạnh của biên kịch Ngụy Ngữ. Ban đầu ông định làm phim theo phong cách bán tài liệu, sau đó chuyển dần sang hướng phim xã hội và lấy tên phim là Gái nhảy. Được công chiều vào dịp Tết đầu năm 2003, Gái nhảy với hai diễn viên chính Minh Thư và Mỹ Duyên đã thu hút một số lớn khán giả. Tuy gặp phải sự phê bình mạnh mẽ của báo chí và đồng nghiệp, phim vẫn đạt kỷ lục về doanh thu, khoảng 12 tỷ đồng[17]. Những năm tiếp theo, Lê Hoàng tiếp tục sản xuất những phim ăn khách khác như Lọ lem hè phố (2004), Nữ tướng cướp (2005), Trai nhảy (2007). Điện ảnh trở thành một thị trường với nhiều hãng phim tư nhân tham gia. Trong đó có những hãng phim lớn mạnh như hãng Thiên Ngân và hãng Phước Sang. Năm 2004, Thiên Ngân tung ra Những cô gái chân dài của đạo diễn Vũ Ngọc Đãng với một chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Bộ phim có nhiều điều mới so với điện ảnh Việt Nam: một trang web riêng cho phim, cuộc thi vẽ poster, soundtrack được làm riêng cho phim với ca sĩ nổi tiếng. Những cô gái chân dài là bộ phim nói về giới người mẫu, các vai chính cũng do những người mẫu nổi tiếng Anh Thư, Xuân Lan, Dương Yến Ngọc, Thanh Hằng, Ngọc Nga đảm nhận. Không chỉ thành công về thương mại, Những cô gái chân dài còn là bộ phim tư nhân đầu tiên tham gia Liên hoan phim Việt Nam và đã đạt giải Bông sen bạc tại liên hoan phim lần thứ 14 năm 2005[18]. Những năm 2005, 2006, thị trường phim Việt Nam trở nên sôi động với nhiều bộ phim, phần lớn của các hãng tư nhân: Khi đàn ông có bầu (2005), 1735 km (2005), Chiến dịch trái tim bên phải (2005), Đẻ mướn (2006), 2 trong 1 (2006), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (2006)... Để thu hút khán giả, các hãng phim đã mời những ca sĩ, người mẫu nổi tiếng tham gia. Ngoài những đạo diễn Việt Kiều như Hồ Quang Minh, Việt Linh, Nguyễn Võ Nghiêm Minh... một số nhà làm phim trẻ Việt kiều cũng về Việt Nam làm phim: Nguyễn Nghiêm Đặng Tuấn có 1735 km (2005), Ringo Le có Chuyện tình Sài Gòn (2005) và gần đây là Charlie Nguyễn có Dòng máu anh hùng (2007) với sự tham gia của Johnny Trí Nguyễn, Dustin Nguyễn, Ngô Thanh Vân, Nguyễn Chánh Tín. Một số rạp chiếu hiện đại tiếp tục được xây dựng. Trong đợt chiếu phim Tết 2007, với những bộ phim thương mại: Võ lâm truyền kỳ, Trai nhảy, Chuông reo là bắn, điện ảnh Việt Nam giành được khán giả trước những phim nước ngoài. [sửa]Ghi chú ^ "Điện ảnh Việt Nam". Thê giới Tự do Tập X Số 4. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. ^ "Thành-tích của Bộ Công-dân vụ, Nha Thông-tin, Việt Tấn Xã" Hồ sơ thành tích hoạt động 7 năm của Chính phủ (1954-1961). Sài Gòn: Nha Thông tin, 1961. Tr 96-97 ^ Theo bài Ðiện ảnh Việt Nam - Bước khởi đầu của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Trong bài Sơ lược lịch sử điện ảnh Việt Nam của Phạm Ngọc Trương trên Điện ảnh Việt Nam thì từ năm 1898, trên báo chí Việt Nam đã đăng quảng cáo những buổi chiếu phim bán vé tại một số địa điểm công cộng. ^ Theo bài Rạp chiếu bóng Pathé trên Bách khoa toàn thư Việt Nam ^ Các tài liệu còn nhắc tới các tên khác như Bà Đế, Sự tích Bà Đế - Báo Hà Nội mới. ^ Theo bài Ðiện ảnh Việt Nam - Bước khởi đầu của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Một vài tài liệu khác viết Georges Spesct là nữ diễn viên chính. ^ Bên lề... chuyện cải lương trên báo Người Việt ^ Theo của nhà văn Tô Hoài ^ Còn ghi Bà Huyện Thanh Quan trên Đèo Ngang - Sơ lược lịch sử điện ảnh Việt Nam của Phạm Ngọc Trương trên Điện ảnh Việt Nam ^ Nhiều nghệ sĩ phản ứng với cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam trên Vietnam Net ^ Về cuốn phim màu Lục Vân Tiên năm 1957 trên báo Người Việt ^ Những thành tựu của điện ảnh Việt Nam trên trang của Bộ Văn hóa - Thông tin ^ "Điện ảnh Việt Nam", Thế giới Tự do, số 4 Tập X trang 29 ^ Bài Trần Thiện Thanh về với Chân trời tím của nhà văn Văn Quang. ^ Đạo diễn Lê Hoàng Hoa: "Tôi đã làm phim theo đơn đặt hàng quá nhiều" trên báo Thanh Niên Online ^ Đánh giá của đạo diễn Nguyễn Khải Hưng trong Dòng phim Việt kiều: Làm phim bằng con mắt người khác ^ Tuần đầu 24 tháng 3 2007, Vượt sóng được trình chiếu tại 4 rạp, đạt doanh thu 87.442 USD, là số doanh thu cao nhất cho mỗi rạp cho tất cả những phim được trình chiếu tại Bắc Mỹ vào tuần đó (21.861 USD Mercury News). Khi được chiếu mở rộng vào những tuần sau đó, doanh thu được tăng cao hơn (IndieWIRE) ^ Phim Ký ức Điện Biên: Một thất bại đáng buồn trên báo Tuổi Trẻ ^ Đạo diễn Lê Hoàng ăn Tết lớn trên báo Người Viễn Xứ ^ Lần đầu tiên hãng phim tư nhân tham gia trên Người Viễn Xứ [sửa]Tham khảo Ðiện ảnh Việt Nam - Bước khởi đầu của đạo diễn Đặng Nhật Minh Sơ lược lịch sử điện ảnh Việt Nam phần I, phần II, phần III của Phạm Ngọc Trương trên Điện ảnh Việt Nam Lịch sử điện ảnh Việt Nam và miền Nam của Lê Quang Hoài Tâm đăng trên báo Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh Bước đầu của phim truyện Cách mạng của Vũ Quang Chính Điện ảnh Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 trên trang của Bộ Văn hóa - Thông tin Điện ảnh Cách mạng Việt Nam trên trang của Bộ Văn hóa - Thông tin Lịch sử điện ảnh Việt Nam trên trang của Bộ Văn hóa - Thông tin Điện ảnh hải ngoại và đôi nét chấm phá trên trang của Đảng Cộng sản Việt Nam Dòng phim Việt kiều: Làm phim bằng con mắt người khác trên trang của Bộ Văn hóa - Thông tin
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 6:44:38 GMT 9
Gốm Việt Nam trên thị trường Gốm quốc tế vào thế kỷ 14 đến thế kỷ 17Bản đồ thời thịnh của gốm đầu thế kỷ 11 Từ sau khi độc lập thoát khỏi sự cai quản của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 10. Nghệ thuật đồ gốm Việt Nam bắt đầu phát triển và có những sắc thái riêng biệt mặc dầu ảnh hưởng của loại gốm thời Đường và Tống sau này vẫn thể hiện ít nhiều trên các loại gốm sản xuất ở đồng bằng Bắc bộ. Đồ gốm Việt Nam bắt đầu đi vào thương mai quốc tế vào khoảng cuối thế kỷ 13 hoặc đầu thế kỷ 14 (1). Lý do chính yếu là các vua đầu nhà Minh ngăn cấm thương mại đến các cảng phía Nam với các nước vùng Trung Đông và Đông Nam Á. Để thỏa mãn nhu cầu thị trường, kỷ nghệ đồ gốm ở các vương quốc như Ayuthaya (Thái Lan), Pegu (Miến Điện) và Việt Nam phát triển mạnh và thay thế nguồn đồ gốm từ Trung Hoa. Chính trong khoảng thời gian này cho đến giữa thế kỷ thứ 17, một loạt đủ các loại đồ gốm và men được sản xuất ở Việt Nam mang một ít sắc thái đồ gốm Trung Hoa cuối thời Nguyên và Minh. Kỷ nghệ đồ gốm Đông Nam Á tàn dần vào đầu thế kỷ 17 dưới sự bành trướng và cạnh tranh của các nước thương mại Âu châu ở thị trườg Đông Nam Á. Sự bành trướng này, tiêu biểu là sự thành lập công ty Đông Ấn Hòa Lan (Dutch East-India Company, V.O.C) vào năm 1602, đánh dấu một trang mới của nền thương mại hàng hải vùng Đông Nam Á. Trong bài này, các loại và sắc thái của đồ gốm Việt Nam xuất khẩu trong giai đoạn nói trên sẽ được tóm tắt, cũng như các di tích khai quật hoặc hiện có ở các nước chung quanh. 1. Thương mại vùng Đông Nam Á và các nơi sản xuất đồ gốm Đông Nam Á là nơi chuyển tiếp quan trọng trong nền thương mại hàng hải giữa Trung Hoa và vùng Trung Đông. Người Trung Hoa ưa chuộng những vật lạ và hiếm như ngọc, ngà voi, sừng tê giác, gia vị. sản xuất ở các vùng Trung đông, Ấn Độ và các nước ở phia Nam Trung Hoa. Ngược lại Trung Đông và Ấn độ là thị trường tiêu thụ những sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa như tơ, lụa, đồ mỹ nghệ, vàng.. Từ thế kỷ thứ 3 và 4, con đường thương mại hàng hải quốc tế nối liền Trung Hoa và thế giới Ấn độ, Trung Đông chạy từ các hải cảng ở vịnh Ba Tư và Hồng Hải đến bờ biển Ấn Độ, tới Tich Lan (Sri Lanka), vịnh Bengal và bán đảo Mã Lai. Hàng hóa sau đó được trao đổi ở một số địa điểm dọc theo eo đất Kra và chuyên chở qua bờ biển phía đông của bán đảo Mã Lai. Hàng hóa Trung Đông từ đó tiếp tục cuộc hành trình đến Trung Hoa qua vịnh Thái Lan và bờ biển Phù Nam trên những thuyền Mã Lai. Phù Nam là một trạm nghĩ quan trọng trên đường đến Nam Trung Hoa và là một nơi buôn bán sầm uất phát đạt, qui tụ nhiều thương gia quốc tế (3). Di tích các thành phố Phù Nam dọc bờ biển Nam Việt Nam đã được tìm thấy ở gò Óc Eo gần Rạch Giá, và trong năm 1982 ở các địa điểm trong tỉnh Kiên Giang do viện Bảo Tàng Thành Phố Hồ Chí Minh khám phá. Chum cổ thế kỷ XIV - XV (Nằm trong bộ sưu tập của gosanh.vn) Vào khoảng thế kỷ thứ 15, một sự đổi biến quan trọng là sự chuyển hàng qua bán đảo Mã Lai lần lần được bãi bỏ, thay vào đó là con đường qua eo biển Malacca tới biển Java rồi thẳng lên Trung Quốc. Chặng nghỉ cho các thuyền buôn là vùng Đông Nam đảo Sumatra và từ đó phát triển ra đế quốc Srivijaya huùng mạnh (3) phát đạt nhờ sự buôn bán với Trung Hoa đời Đường. Đến đầu thế kỷ 11, Srivijaya yếu dần vì sự cạnh tranh của các vương quốc mới ở đất liền như Angkor và Pagan, hai nền văn minh rực rỡ trong giai đoạn này. Quyền lực của Srivijaya ở Sumatra chuyển qua vương quốc hùng hậu Majapahit ở Java. Buôn bán trong giai đoạn này đạt đến điểm cao dưới triều Tống ở Trung Hoa. Với nền kinh tế dựa rất nhiều vào thương mại ở biển Nam, triều đình nhà Tống khuyến khích và tích cực tham gia vào sự buôn bán rất có lợi này. Cũng trong giai đoạn này đồ gốm Trung Hoa bắt đầu là một món hàng xuất khẩu quan trọng để thay thế sự thâm hụt mất mát nặng nề tiền vàng và tiền đồng ra khỏi nước qua sự buôn bán với Trung Đông và biển Nam. Việt Nam lúc bấy giờ sau khi độc lập và dưới triều Lý bắt đầu tự phát triển nhưng vẫn còn cô lập và chưa bước vào quỹ đạo thương mại hàng hải trong vùng. Hàng gốm Trung Hoa, đặc biệt là hàng gốm xanh cây (greenwares), bắt đầu xuất hiện rất nhiều ở các nước chung quanh biển Nam. Thuyền buôn Trung Hoa đi khắp vùng từ bờ biển vương quốc Chămpa, vịnh Thái Lan, đảo Sumatra, Java tới Ấn Độ Dương. Từ cuối thế kỷ 13, dưới triều Nguyên Mông Cổ con đường buôn bán hàng hải giữa Trung Hoa và biển Nam được chia ra làm hai đường, đường Đông và đường Tây. Hai con đường này được miêu tả trong quyển Nam Hải Chí viết vào năm 1304. Con đường hàng hải phía Tây ở biển Nam vẫn giữ liên lạc thương mại truyền thống với Ấn Độ, Trung Đông từ biển nam Trung Hoa qua eo biển Malacca hoặc eo biển Sunda tới Sri Lanka, Ấn độ và Trung Đông. Con đường hàng hải mới mở ở phía Đông chạy từ biển nam Trung Hoa tới Phi Luật Tân, bờ biển phía bắc đảo Borneo, đảo Sulawesi, quần đảo Molucca, đến tận đảo Timor và phía Tây của đảo Java. Sự thiết lập con đường này mở ra một thị trường mới và lớn cho hàng hóa và đồ gốm Trung Hoa. Kỷ nghệ đồ qốm Trung Hoa trong giai đoạn này phát triển mạnh và đi vào sản xuất khối lượng để thỏa mãn đòi hỏi của thị trường Đông Nam Á. Sự phục hồi của triều đại bản xứ ở Trung Quốc dưới sự thành lập triều Minh chứng kiến một sự thay đổi lớn lao và quan trọng trong lịch sử buôn bán đồ gốm ở Đông Nam Á. Sự buôn bán tư nhân giữa người Hoa và người ngoại quốc bị đình chỉ và ngăn cấm. Người Hoa không được phép tham gia vào thương mại quốc tế. Sắc lệnh năm 1371 ngăn cấm người Hoa ra khỏi hải phận Trung Hoa và hàng hóa ngoại quốc bị cấm dùng trong nước. Luồn sóng chống thương mại chưa từng thấy này ở triều đình có một ảnh hưởng trì trệ nặng nề vào nền thương mại quốc tế. Trong giai đoạn từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, đồ gốm Việt Nam và Thái Lan xuất hiện nhiều ở thị trường Đông Nam Á thay thế nguồn đồ gốm Trung Quốc. Từ đời Lê đến Trịnh Nguyễn phân tranh ở Việt Nam, sự buôn bán trao đổi hàng hóa với các nước ngoài càng ngày càng được nới rộng và phát đạt. Đặc biệt là Việt Nam trong giai đoạn này xuất khẩu nhiều đến Trung Đông, Âu Châu qua con đường hàng hải phía Tây và Phi Luật Tân, Borneo, Sulawesi, Java qua con đường hàng hải phía Đông (các hiện vật và di tích tìm được ở các vùng kể trên sẽ được bàn ở phần sau). Hàng hóa trao đổi với nước ngoài đi qua các cửa khẩu ở cả đàng Trong và đàng Ngoài. Các cửa khẩu buôn bán ở Thanh Hóa, Hội An, Qui Nhơn là những cửa khẩu chính. Hàng gốm xuất khẩu Việt Nam được chuyên chở qua các kho chính như Ayuthaya. Sự khai quật của các thuyền xưa đắm gần bờ biển Thái Lan cho thấy các hàng gốm Việt Nam được chuyên chở rộng rãi trong vùng. Các nơi sản xuất đồ gốm quan trọng ở Việt Nam là Bát Tràng, Chu Đậu (Hải Dương), Tam Tố (Thanh Hóa), và Gò Sành, Sa Huỳnh, Qui Nhơn sau này ở đàng Trong. Bát Tràng là nơi sản xuất đồ gốm, gạch ngói, gạch lót từ nhiều thế kỷ trước. Sự khai quật thực hiện bởi O. Janse từ năm 1934 đến 1939 ở đồng bằng Bắc bộ cho thấy sự hiện diện của truyền thống đồ gốm địa phương từ khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 3 (2). Bát Tràng cũng có được nhắc đến trong ca dao Việt Nam: Khi nào anh lấy được nàng Thì anh mua gạch Bát Tràng về xây Xây dọc rồi lại xây ngang Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. 2. Loại và sắc thái đồ gốm Việt Nam Khi nói đến đồ gốm, ta chia ra làm hai loại tổng quát: - Đồ gốm đất (earthenware, stoneware) - Đồ gốm men (porcelain, enamel) Đồ gốm Việt Nam gồm đủ loại hình thái như các loại đồ gốm Trung Hoa nhưng khác biệt và dễ dàng nhận diện vì cách cấu tạo và sự trình bày có một phong thái phóng khoáng và một tinh thần độc lập. Chum cổ thế kỷ XIV - XV (Nằm trong bộ sưu tập của gosanh.vn) Hình dáng gốm Việt Nam gồm có dĩa, đĩa, tô, chén, lọ, chai và bình. Ngay cả những kiểu đặc biệt tạo ra bởi nghệ nhân đời Minh như hũ hình conic và chén có bệ của thời kỳ 1403-1424 cũng có tương đương trong các loại đồ gốm Việt Nam. Đồ gốm đất Việt Nam được cấu tạo dày và chắc hơn đồ gốm đất Trung Hoa. Thân hình cấu tạo bên ngoài màu nâu và ít có bị lẫn chất bụi hoặc sạn. Dưới chân đồ gốm đất hoặc là để nguyên hoặc được tráng một lớp trơn không màu hoặc một lớp tráng oxide sắt màu nâu. Có đủ loại các lớp trán trên đồ gốm Việt Nam. Loại đồ gốm tráng một màu là những loại thông dụng được xuất khẩu trong thời kỳ đầu. Trắng, xanh cây, đen và nâu là những loại thông dụng và được biết nhiều. Sự tiến triển của kỷ thuật đồ gốm trong giai đoạn đầu là sự trình bày bằng lớp oxide sắt đen và nâu dưới lớp tráng. Sắc thái trình bày rất thanh thoát và giản dị so với lối trình bày trên đồ gốm Trung Hoa. Sự chuyển tiếp từ lối trình bày bằng oxide sắt đến cách dùng cobalt xanh trời là một sự cải tiến quan trọng trong nghệ thuật đồ gốm Việt Nam và chứng kiến một mức độ sản xuất về xuất khẩu chưa từng có trong lịch sử đồ gốm Việt Nam. Nghệ thuật dùng Cobalt xanh trời trên đồ gốm đạt đến điểm cao vào giữa thế kỷ thứ 15. Điển hình là binh gốm tráng men xanh trời và trắng đề năm 1450 ở viện bảo tàng Topkapu Sarayi, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ). Sự hiểu biết của người Việt Nam về cách dùng cobalt xanh trời trong nghệ thuật trình bày đồ gốm được ước đoán vào khoảng đầu thế kỷ 14 dựa trên các hiện vật gốm trắng xanh trời và trắng, trinh.bày theo kiểu các loại gốm dùng oxid sắt trong thời kỳ trước. Sự chuyển biến từ những loại đồ gốm tương đối đơn giản đến các loại có nghệ thuật cao như chiếc bình gốm ở Istanbul dường như nhờ những kinh nghiệm học hỏi được từ Trung Hoa đã được phát triển từ thế kỷ trước và cách dùng cobalt. Sự thu thập kỷ thuật dùng cobalt xanh trời có thể xảy ra trong lúc triều Minh tạm chiếm và đô hộ Việt Nam trong các năm 1407-1427 trước khi Lê Lợi dành lại quyền tự chủ. Các kiểu trình bày như viền hoa, cúc, sen, viền kiểu chữ Hán trên các đồ gốm xanh trời dưới triều Nguyên và Minh đều có được thể hiện trên các đồ gốm xanh trời Việt Nam ở thế kỷ 15. Sự khác biệt rõ ràng giữa đồ gốm Việt Nam và Trung Hoa được thể hiện trong lối trình bày phong cảnh và chim nước. Những kiểu trình bày Việt Nam có đặc tính thanh thoát, sáng tạo độc lập khác hẳn với sự xếp đặt phong cảnh, sinh thú của lối trình bày Trung Hoa. Chim, cá, ngựa và nai là những sinh thú thường được trình bày cũng như các con vật huyền thoại như lân và phượng. Rồng tuy vậy lại rất hiếm trong các lối trình bày. Con cá trong đồ gốm Việt Nam, không giống cá kiểng đỏ của đồ gốm Trung Hoa, mà là con cá bông của sông ngòi Việt Nam. Đến giữa thế kỷ 15, đồ gốm xanh trời và trắng chiếm vị trí hàng đầu trong những hàng xuất khẩu. Cũng trong khoảng thời gian nay, một loại đồ gốm mới xuất hiện với cách dùng men trắng, chủ yếu màu đỏ và xanh trời, và thường phối hợp với lớp trình bày xanh trời ở lớp dưới. Lớp men trắng này được cấu tạo trên lớp thứ nhất ở một nhiệt độ lò đốt thấp hơn lớp đầu và có khuynh hướng dễ bị tan hỏng khi bị chôn vùi dưới đất hoặc lúc tiếp xúc với vài chất hóa học Nguyễn Hoàng Tú (Theo sưu tầm)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 17, 2011 8:28:56 GMT 9
Tiếc Thương và Vá Cờ TIẾC THƯƠNG ... Khoảng năm 1965, Việt Cộng tấn công vào một đồn lính ở Củ Chi, ngoại thành Sài Gòn. Chúng tôi đến giải vây. Khi Việt Cộng rút đi, họ để lại 6 xác chết không đầu của những người Nhân Dân Tự Vệ. Chúng tôi đến chỗ để xác thì thấy một cô gái khóc lóc thảm thương, đang lần mò tìm xác chồng. Tôi giúp cô tìm thẻ bài để nhận diện, sau đó cho cuốn xác tất cả lại đem về. Hôm sau tôi đến nhà cô gái mong có thể chụp một tấm hình của cô nhưng cô vẫn khóc lóc thảm thương quá nên không thực hiện được. Khi về dưỡng quân ở rừng cao su Ngã Ba Ông Tạ, tôi nhờ con gái tôi, lúc đó 11 tuổi tìm giúp một người bạn gái nào đó có một hoàn cảnh tương tự như cô gái ở Củ Chi để dựng tấm hình ‘Tiếc thương’. Cô Tâm là người con gái mà con tôi tìm được. Hiện nay cô đang sống tại thành phố Oklahoma. Lúc đó cô mới 19 tuổi, ý trung nhân của cô trong một chuyến bay nhảy toán ngoài Bắc bị Bắc Việt bắn rơi máy bay và bị bắt làm tù binh. Tôi đến gặp gia đình cô và xin phép được mời cô đi chụp hình với tôi. Gia đình cô đồng ý. Chỗ chụp hình là một quán bia ở xa lộ Biên Hòa. Tôi nhờ một anh bạn biết thổi sáo và nói anh ta ngồi phòng bên cạnh chơi những bản nhạc chiêu hồn như chương trình đài Saigon. Con tôi cũng ở đó, đọc những lá thư của ý trung nhân cô Tâm viết cho cô. Tôi chải tóc cho cô như trong hình, đưa tấm thẻ bài cho cô cầm, tấm thẻ bài này tôi mua chợ đen, một tấm thẻ bài được làm từ thời Pháp. Trong không khí u buồn, và bị tác động bởi tiếng sáo não lòng cùng với những lời lẽ trong bức thư của ý trung nhân, cô ta khóc nấc lên. Những giọt nước mắt lăn trên má, rớt xuống tay là những giọt nước mắt thật. Hai giọt nước mắt trên tấm thẻ bài là do tôi tạo ra. Chụp được 6 tấm thì cô tỉnh lại, không khóc nữa. Ðây là tấm hình lúc cao điểm nhất khi cô ấy nấc lên... VÁ CỜ ...Tôi quen với anh chị Hải Bằng, chị bằng lòng làm người mẫu cho tôi chụp bức hình ‘Vá cờ’ này. Tôi mua một cái nón sắt ở chợ trời, mượn cây súng trường của anh bạn Bùi Ðức Lạc là cả một chuyện khó khăn. Tôi dùng hai thứ đó làm hậu cảnh. Lá cờ được tôi đốt lỗ chỗ để chị ấy vá. Chị cứ ngồi vá cờ và tôi cứ chụp. Ðến động tác như trong hình thì tôi nói chị giữ nguyên động tác đó, tôi mở hé cửa sổ chỉ cho một phần ánh sáng rọi vào lá cờ, rọi vào nón sắt. Tuyệt vời. Bức hình chỉ có một ý nghĩa duy nhất: Chúng ta hãy vá lại những mảnh đời, những mảnh tình, những đơn vị chia rẽ, vá lại tình đoàn kết... Nguyễn Ngọc Hạnh (Nhiếp ảnh gia)
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 3:40:36 GMT 9
họa sĩ Nguyễn Ðình ThuầnWednesday, February 23, 2011 3:42:24 PM ‘Ảnh hưởng của trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật trong 20 năm nghệ thuật miền Nam’Du Tử Lê LNÐ: Nói tới sinh hoạt của 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, từ 1955 tới 1975, chúng tôi nghĩ, ta không thể không nói tới vai trò hay, ảnh hưởng của các trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật ở thời điểm đó.
Vì thế, chúng tôi đã có cuộc nói chuyện với họa sĩ Nguyễn Ðình Thuần, tốt nghiệp khóa 14 (1974) trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế. Ông hiện đang cự ngụ tại miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Trân trọng kính mời quý bạn đọc, theo dõi cuộc nói chuyện của chúng tôi.DTL. -Du Tử Lê (DTL): Thưa anh Nguyễn Ðình Thuần, nếu không kể trường Mỹ Thuật Ðông Dương thành lập tại Hà Nội năm 1925 bởi một họa sĩ người Pháp, tên Victor Tardieu thì, sự thành hình của những trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Việt Nam, ở miền Nam ra đời trong những hoàn cảnh và thời điểm nào? Học trình bao nhiêu năm? Họa sĩ Nguyễn Ðình Thuần. -Nguyễn Ðình Thuần (NÐT): Thưa anh, như tôi biết, sau khi đất nước bị chia đôi bởi Hiệp Ðịnh Genève năm 1954 thì Trường Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật (QG/CÐMT) được thành lập tại tỉnh Gia Ðịnh, thuộc miền Nam tự do. Vài năm sau, trường QG/CÐMT Huế cũng được thành lập. Ðó là năm 1957. Trường này được đặt trực thuộc Viện Ðại học Huế. Về sau, trường CÐMT Huế lại tách rời Viện Ðại Học Huế để trực thuộc Nha Mỹ Thuật-Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa. Ðây là 2 trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật của miền Nam VN thời trước tháng 4, 1975; với học trình kéo dài 4 năm. -DTL: Ðể được theo học một trong 2 trường QG/CÐMT như anh mới cho biết, sinh viên có phải trải qua một kỳ thi văn hóa nào không? Nếu có thì điều kiện văn hóa đòi hỏi trước khi được nhận cho thi tuyển là gì? -NÐT: Theo cuốn kỷ yếu của trường CÐMT Huế thì chúng ta có thể tóm tắt một số điều lệ liên quan tới điều kiện thi tuyển như sau: Giai đoạn từ 1957 tới 1970: Muốn được nhận đơn thi tuyển vào trường CÐMT, thí sinh phải có bằng Trung Học Ðệ Nhất Cấp, hoặc chứng chỉ tương đương. (Chứng chỉ đã học hết lớp Ðệ Tứ.) Giai đoạn từ 1970 đến 1975: Căn cứ theo Nghị định số 273/QVK/VH/NÐ đề ngày 3 tháng 8 năm 1971 về việc tổ chức các trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật thì: Ðể được thi nhập học năm thứ nhất, thí sinh phải có văn bằng Tú Tài một, hoặc chứng chỉ tương đương, kèm theo học bạ lớp 11 hay lớp 12. Về tuổi tác, nam thí sinh phải hạn tuổi từ 18 tuổi (tính đến ngày 31 tháng 12 của năm nhập học) trở xuống. -DTL: Xin anh cho một ví dụ? -NÐT: Tôi thí dụ niên khóa 1974-1975, trường chỉ thu nhận đơn của những thí sinh nào có năm sinh từ 1956 trở xuống. Hạn tuổi này do Bộ Quốc Phòng ấn định. Ngoài ra, nam thí sinh còn phải có: Giấy chứng chỉ hợp lệ tình trạng quân dịch. Giấy thỏa thuận cho phép của phụ huynh, nếu thí sinh dưới 21 tuổi. Vẫn theo nghị định tôi vừa kể trên thì các trường CÐMT Huế và Saigon còn được mở thêm CÐMT Cấp 2. Học trình kéo dài 3 năm. Tổng cộng học trình là 7 năm cho cả hai cấp. Chương trình CÐMT cấp 2 bắt đầu có từ niên khóa 1970-1971. Ðồng thời, trường CÐMT cũng mở thêm ngành Sư Phạm Mỹ Thuật Trung Cấp và Cao Cấp nữa. -DTL: Mục đích của ngành Sư Phạm Mỹ Thuật là gì? Ai được phép ghi tên học? -NÐT: Thưa anh, mục đích cung cấp giáo sư Hội Họa cho các trường trung học. Ðể có thể tham dự những khóa Sư Phạm Hội Họa này, học viên phải là các họa sĩ tốt nghiệp Cao Ðẳng Mỹ Thuật. -DTL: Với những điều kiện thi tuyển như anh kể, mỗi khóa của các trường CÐMT có nhiều sinh viên không anh? -NÐT: Theo lời kể của họa sĩ Nguyễn Thị Thịnh, người tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 CÐMT Gia Ðịnh thì, trung bình trường CÐMT Gia Ðịnh tuyển khoảng từ 20 tới 30 sinh viên. Riêng trường CÐMT Huế là trường mà tôi theo học khóa 14, ra trường năm 1974 thì, tương đối ít hơn. Do đó, căn cứ vào cuốn kỷ yếu của trường, tôi thấy số sinh viên ra trường không nhiều! Tôi xin đưa một ví dụ như khóa 1 của trường CÐMT Huế, chỉ có 9 người. Khóa 2, có được 13 người, v.v... Ở đây, tôi cũng xin mở một dấu ngoặc rằng khóa 2 CÐMT Huế, chỉ có 1 sinh viên theo học ban Ðiêu Khắc, đó là cố điêu khắc gia Mai Chững. -DTL: Trải qua 20 năm, thời gian học của các trường CÐMT của chúng ta có thay đổi gì không anh? -NÐT: Thưa anh không. Căn bản vẫn là 4 năm như tôi đã nói. Nhưng tôi nghĩ, có lẽ cũng nên thêm rằng, riêng giai đoạn từ 1957 tới 1970, sinh viên phải học qua lớp Dự Bị trước khi thi tuyển chính thức vào năm thứ nhất. Tuy nhiên, những sinh viên theo học lớp dự bị không chính thức (chỉ dự thính) cũng được phép thi vào năm thứ nhất. Tất nhiên, những sinh viên này ít có hy vọng thi đậu vì không nắm vững căn bản kỹ thuật! Ví dụ trong các bài thi vào năm thứ nhất, có bài thi vẽ Khỏa Thân. Bài thi này có hệ số 10. Bỏi thế, nếu không biết cách đo đạc tỷ lệ về Anatomie thì rất khó được điểm cao. Tóm lại thưa anh, chương trình học chính thức khi ấy, chỉ còn có 3 năm mà thôi. Nhưng sau năm 1970 thì chương trình học không còn lớp dự bị nữa mà, vào năm thứ nhất ngay. -DTL: Với bốn năm học chính thức, chương trình được chia ra làm sao, thưa anh? -NÐT: Thưa anh, chúng tôi phải học khá nhiều môn khác nhau. Kể ra và nếu đi vào chi tiết thì rất dài dòng. Tôi chỉ xin tóm lược học trình đó như sau: 1. Về phương diện chuyên môn: - Năm Thứ I và năm thứ II: Học Hội Họa, Ðiêu Khắc (vẽ khỏa thân là chính), Khảo Cổ Họa, Tốc Họa, Thủy Mặc, Cơ Thể Học, Phối Cảnh Học, Trang Trí Tổng Quát, Trang Trí Nội Ốc. - Từ năm thứ II đến năm thứ IV có thêm môn Kiến Trúc. 2. Về phương diện văn hóa: Về phương diện văn hóa, ngay từ đầu khóa học, sinh viên phải chọn lấy cho mình một trong hai sinh ngữ chính là Anh văn hoặc Pháp văn. Kế tiếp chương trình học văn hóa của từng năm, được phân chia như sau: Năm thứ I: Gồm những môn như Triết Học Ðại Cương, Sử Việt Nam và Thế Giới, Ðại cương văn minh Việt Nam. Riêng môn Lịch Sử Mỹ Thuật thì năm nào cũng có trong chương trình học của chúng tôi. Nói cách khác là kéo dài từ năm thứ I tới năm thứ IV. Tranh Nguyễn Ðình Thuần. Năm thứ II: Sinh viên bắt đầu được học môn Thẩm Mỹ Học. Môn học này cũng kéo dài tới hết năm thứ IV. Ðồng thời, chúng tôi cũng bắt đầu được học môn Văn Học Nghệ Thuật VN và, môn này cũng được dạy cho tới hết năm thứ IV. Qua năm thứ III: Sinh viên được chọn ban (chuyên môn.) Trường CÐMT có tất cả 4 ban là: Ðiêu Khắc, Sơn Dầu, Sơn Mài, Và Lụa. -DTL: Ban nào ít sinh viên theo học nhất thưa anh? -NÐT: Ðó là ban Ðiêu Khắc. -DTL: Còn ban được sinh viên chọn nhiều nhất? -NÐT: Là ban Sơn Dầu. -DTL: Như vậy, phải chăng ở hai năm chót, sinh viên chỉ tập chú vào về ngành hay ban mà mình đã chọn? -NÐT: Vâng. Ðúng vậy. Ở hai năm cuối, chúng tôi thực tập sáng tác theo thể loại mà mình đã chọn. Thí dụ, tôi chọn học ban Sơn Dầu thì tôi chỉ học chuyên về tranh sơn dầu mà thôi -DTL: Có sinh viên nào bị loại khi đang học nửa chừng? -NÐT: Như tôi biết thì không thưa anh. Tuy nhiên, đôi khi cũng có một hai sinh viên xin nghỉ học vì lý do đau ốm, hoặc tới hạn tuổi phải thi hành quân dịch... -DTL: Còn lúc thi ra trường thì sao? Tôi muốn hỏi có ai bị đánh rớt? -NÐT: Cũng có chứ anh. Có người rớt vì lý do hạnh kiểm. Có người rớt vì học lực kém. Nghĩa là số anh em đó không có đủ điểm trong các học kỳ. -DTL: Họ có thể xin học lại? -NÐT: Thưa có. Nếu sinh viên ấy vẫn còn trong tình trạng hợp lệ quân dịch.
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 3:43:26 GMT 9
‘Ảnh hưởng của trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật trong 20 năm nghệ thuật miền Nam.’
Du Tử Lê
(Tiếp theo và hết) -DTL: Thưa anh Nguyễn Ðình Thuần, khi chúng ta gọi trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật thì, tôi có thể hiểu là chúng ta cũng có trường... Trung Ðẳng hay Trung Cấp Mỹ thuật? Tranh Nguyễn Ðình Thuần. -NÐT: Ðúng vậy thưa anh. Miền Nam của chúng ta cũng có trường Trung Cấp Mỹ Thuật. Tôi thí dụ như trường Trung Cấp Mỹ Thuật Gia Ðịnh. Theo tác phẩm “Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại” của tác giả Huỳnh Hữu Ủy thì trường Trung Cấp Mỹ Thuật Gia Ðịnh được thành lập từ năm 1913. Trường này cũng còn được gọi là trường Mỹ Thuật Trang Trí Gia Ðịnh. (1) Vẫn theo tác giả Huỳnh Hữu Ủy trong tác phẩm vừa kể thì, thoạt tiên, trường đó có tên là Trường Nghệ Thuật Bản Xứ Gia Ðịnh (École d'Art Indigènes de Gia Ðịnh). Cứ sau mỗi lần cải tổ, tên trường lại thay đổi. Trường lần lượt có những tên khác như trường Hình Họa Chạm Khắc và Ðồ Họa (École de Dessins et de Gravures.) Rồi trường Nghệ Thuật Thực Hành (École d' Arts Appliqués). Và sau cùng thì trường mang tên là trường Nghệ Thuật Trang Trí và Ðồ Họa Gia Ðịnh (École d'Arts Decoratif et de Gravures de Gia Ðịnh). -DTL: Nhân tiện, nếu được, xin anh cho biết số năm học và chương trình học, tất nhiên, tổng quát thôi, của trường Trung Cấp Mỹ Thuật Gia Ðịnh? -NÐT: Vâng thưa anh. Học trình của Trường Mỹ Thuật Trang Trí Gia Ðịnh kéo dài 4 năm. Sau khi tốt nghiệp trung cấp, nếu muốn tiếp tục, họ sẽ phải thi để lên Cao Ðẳng Mỹ Thuật. Ðiển hình cho trường hợp này là điêu khắc gia Dương Văn Hùng. Ông hiện cư ngụ tại quận hạt Orange County. Ðiêu khắc gia Dương Văn Hùng kể rằng, riêng ông, ông chỉ học có 3 năm trung cấp và đã thi đậu vào trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Gia Ðịnh. -DTL: Ngoài ra, tôi cũng được biết, dường như chúng ta còn có một trường gọi là trường Mỹ Nghệ Thực Hành ở Bình Dương, phải không anh? -NÐT: Vâng. Chúng ta có đến hai trường Mỹ Nghệ đầu tiên được thành lập tại miền Nam Việt Nam. Ðó là trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một, và trường Mỹ Nghệ Biên Hòa. Theo cuốn “Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại” của Huỳnh Hữu Ủy, cũng như căn cứ theo lời kể của điêu khắc gia Dương Văn Hùng thì năm 1901, trường Mỹ Nghệ ở Thủ Dầu Một được thành lập. Trường chuyên tâm vào việc tạo dựng những đồ trang trí bằng gỗ, như giường, tủ, bàn, ghế... Ngay khi trường mới mở đã có 40 học viên ghi tên học và làm việc. Một số ít đã có tay nghề trước đấy. Chương trình học gồm các môn như Gỗ (Ébénisterie), Ðiêu Khắc (Sculture), Khảm Xà Cừ (Incrustation,) Ðúc Ðồng (Fonderie de Bronze). Còn trường Mỹ Nghệ Biên Hòa thì ra đời năm 1907. Khởi đầu có khoảng từ 40 đến 50 học viên. Trường đào tạo những nghệ nhân chuyên làm gốm, sứ, theo kỹ thuật và phương pháp giảng dạy cũ của lò Cảnh Ðức Trấn ở Giang Tây, Trung Hoa. -DTL: Nếu tính đến tháng 4, 1975, anh có biết hai trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Saigon và Huế, mỗi nơi có được bao nhiêu khóa? -NÐT: Như tôi biết thì Gia Ðịnh có 17 khóa. (Riêng khóa 18 thuộc niên khóa 1974-1975, thì chỉ mới bắt đầu.) Huế có 14 khóa (và khóa 15 dang dở...) -DTL: Một cách chủ quan, xin anh cho biết tại sao số sinh viên tốt nghiệp CÐMT thì nhiều mà trở thành họa sĩ thì lại rất ít? -NÐT: Theo tôi thì trường CÐMT là nơi trang bị cho các họa sĩ những kiến thức căn bản về kỹ thuật và lý thuyết, để từ đó họ đi vào sáng tác. Nhưng khi tốt nghiệp rồi, một số không theo đuổi nghề nghiệp, hay phải bỏ cuộc vì nhiều lý do lắm! Chẳng hạn như không còn đủ điều kiện miễn dịch. Họ phải gia nhập quân đội vì đất nước chiến tranh. Có người gặp hoàn cảnh gia đình không thuận lợi. Có người không còn hay giảm thiểu đam mê hội họa... Riêng phái nữ thì phải lo gia đình, con cái... Nói chung, những người đó không có đủ thời giờ để ôn tập, chắt lọc, suy nghiệm về ngành nghệ thuật mà họ đã theo đuổi, nên đành buông xuôi. -DTL: Anh có thể cho biết một số tên tuổi họa sĩ tốt nghiệp ở cả hai trường CÐMT Saigon và Huế? -NÐT: Tôi xin kể một số tên tuổi mà tôi nhớ ra được ngay lúc này. Như họa sĩ Trương Thị Thịnh (tốt nghiệp thủ khoa khóa 1, Saigon 1954-1958). Họa sĩ Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Ðỗ Quang Em. Họa sĩ Nguyên Khai, học khóa 3, CÐMT Huế, nhưng tốt nghiệp CÐMT Gia Ðịnh. Ðiêu khắc gia Trương Ðình Quế cũng vậy. Ông học khóa 1 ở Huế rồi chuyển vào Saigon và tốt nghiệp trường CÐMT Gia Ðịnh. Họa sĩ Hồ Hoàng Ðài tốt nghiệp khóa 1 Gia Ðịnh, sau trở thành giáo sư CÐMT Huế. Các họa sĩ Tôn Nữ Liên Tâm, Hồ Thị Kim Quỳ đều tốt nghiệp trường CÐMT Gia Ðịnh. Tôi cũng chợt nhớ tới cố họa sĩ Hiếu Ðệ (Nguyễn Tánh Ðệ) tốt nghiệp khóa 1, CÐMT Gia Ðịnh... Về những họa sĩ nổi tiếng, từng tốt nghiệp trường CÐMT Huế thì tôi xin tạm kể có các họa sĩ như họa sĩ Tôn Thất Văn, thủ khoa khóa 1 (1957-1961), họa sĩ Nguyễn Thanh Trí, tốt nghiệp ưu hạng, cũng khóa 1. Họa sĩ Trịnh Cung (Nguyễn Văn Liễu) tốt nghiệp khóa 2, cố điêu khắc gia Mai Chững tốt nghiệp khóa 2 (1961-1962). Họa sĩ Ðinh Cường, tốt nghiệp khóa 3 (1962-1963). Họa sĩ Rừng (Nguyễn Tuấn Khanh) tốt nghiệp khóa 4 (1963-1964).... -DTL: Thưa anh, tôi muốn được biết anh nghĩ gì về một vài sinh viên bỏ ngang chương trình học, nhưng họ lại rất nổi tiếng sau này. Thí dụ, họa sĩ Nguyễn Trung. Có người còn cho rằng, có thể chúng ta đã có một Nguyễn Trung khác, nếu ông theo học một cách nghiêm chỉnh, cho tới khi tốt nghiệp! -NÐT: Theo tôi, cũng có vài trường hợp sinh viên đã không thể tiếp tục theo đuổi việc học, vì hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác. Nhưng nếu họ nắm vững được phần nào căn bản về kỹ thuật, cộng thêm khả năng thiên phú và, vẫn theo đuổi việc sáng tác rồi gây được tiếng vang hay nổi tiếng, thì cũng hiếm lắm anh ạ. Trường hợp họa sĩ Nguyễn Trung, theo tôi là do tài năng hiếm có. Thêm nữa, anh ấy đã đoạt giải thưởng hội họa Quốc Gia trong lúc vẫn còn theo học tại trường CÐMT Gia Ðịnh. Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng nên nói thêm rằng, có một điều không thành luật lệ rõ ràng ở trường CÐMT là: Sinh viên đang theo học ở trường không được gửi họa phẩm của mình tham dự trong bất kỳ một cuộc triển lãm nào ngoài công chúng! Có thể họa sĩ Nguyễn Trung bực bội về điều này, nên sau khi được trao giải thưởng, anh đã bỏ ngang, không tiếp tục việc học nữa? -DTL: Nhân nói về những họa sĩ bỏ ngang việc học ở các trường CÐMT, tôi muốn hỏi ý kiến của anh về những họa sĩ nổi tiếng, nhưng họ không theo học, không tốt nghiệp một trường CÐMT nào? Tôi thí dụ trường hợp của Cao Bá Minh. -NÐT: Thưa anh theo tôi, đó là những họa sĩ tự học bằng cách tìm hiểu hội họa qua sách vở, qua bạn bè. Họ tự tìm tòi bằng vào niềm đam mê hội họa của họ. Họ nghiên cứu kỹ thuật kèm theo năng khiếu thiên bẩm. Nhưng những người này có thể phải trải nghiệm một thời gian dài hơn, vì kiến thức, chuyên môn không được hệ thống hóa, thiếu phương pháp từ trường ốc. Bù lại, vẫn theo tôi, họ được tự do, không bị ràng buộc bởi những ước lệ của trường ốc trong sáng tác. Khi nói điều này, cũng là lúc tôi nghĩ tới một số họa sĩ được huấn luyện chính quy ở các trường ốc. Nhưng sáng tác của họ cho thấy, họ chỉ lập lại những gì đã học được. Với những người không may rơi vào trường hợp đó, thì có phải rõ ràng rằng, sự học lại là một rào cản khiến cho họ không thoát ra được? Trở lại với những họa sĩ nổi tiếng dù không theo học một trường lớp nào, ngoài Cao Bá Minh, hiện cư ngụ tại Orange County, tôi còn biết một số họa sĩ nổi tiếng khác như cố họa sĩ Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn. Như các họa sĩ Hoàng Ðăng Nhuận, hiện ở Huế. Như họa sĩ Lê Thánh Thư, hiện ở Saigon v.v... -DTL: Một cách thẳng thắn và công bình, theo anh thì đâu là những điểm được của các trường CÐMT? -NÐT: Thưa anh, câu hỏi của anh khiến tôi chợt nhớ tới câu châm ngôn: “Không thầy đố mày làm nên.” Ai cũng phải học cả. Theo tôi, như đã nói lúc nãy, trường là nơi nhằm đào tạo, trang bị cho ta kiến thức. Tôi nghĩ, chúng tôi may mắn có trường để học, tích lũy kiến thức, biết được căn bản để phát triển mọi mặt. Thử nhìn xem thưa anh, nếu không có trường Mỹ Thuật thì nền hội họa Việt Nam đến hôm nay sẽ như thế nào? Những thế hệ đi sau sẽ được đào tạo theo phương pháp nào? Những họa sĩ tự học, họ chỉ lo vấn đề sáng tác của họ một “cách khác.” Nhưng muốn họ truyền đạt, hướng dẫn cho lớp đi sau thì bằng phương pháp nào? Có được hệ thống hóa không? Và như vậy, chúng ta đã thấy được trường ốc quan trọng như thế nào rồi! -DTL: Hội họa Việt Nam hiện đại là một bộ môn nghệ thuật tương đối trẻ so với một số bộ môn nghệ thuật khác. Nó được hình thành theo cung cách huấn luyện kỹ thuật Tây phương. Do đó, cho ta có thói quen chia trường phái. Tôi thí dụ như trường phái ấn tượng, trừu tượng, siêu thực, lập thể v.v... Câu hỏi của tôi là, anh có thấy sự phân chia đó là hợp lý? Chính xác? Thích ứng với hoàn cảnh thực tế của hội họa Việt Nam? Không biết câu hỏi của tôi có rõ ràng không, anh Nguyễn Ðình Thuần? -NÐT: Câu hỏi của anh rõ lắm. Tôi xin trả lời tóm tắt thế này: Dựa theo quan điểm học thuật về kỹ thuật của Tây phương, tôi nghĩ có lẽ chúng ta khó tách rời sự phân loại các khuynh hướng hội họa của chúng ta khỏi những trường phái hội họa vốn đã thành hình lâu đời ở phương Tây. Như anh nói, nền hội họa đương đại của chúng ta sinh sau, đẻ muộn nên rất khó phủ nhận rằng chúng ta không bị ảnh hưởng. Vì vậy, sáng tác nào cũng mang hơi hướm của các trường phái ở Tây phương. Tuy nhiên, họa sĩ Việt Nam thường biểu đạt tâm cảm, rung động của nội tâm Ðông phương bằng kỹ thuật của Tây phương. Tôi muốn nói, dù bằng hay, dưới hình thức nào, thì các họa sĩ Việt Nam vẫn diễn đạt tình cảm, sự vật, con người qua tranh của họ một cách trung thực tính chất Việt Nam thưa anh. -DTL: Câu hỏi chót, thưa anh, theo tôi, vì các họa sĩ Việt Nam tự căn bản đã được trang bị kỹ thuật cũng như lý thuyết về hội họa của Tây phương, cho nên, có người cho rằng, các họa sĩ Việt Nam, ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều họa sĩ Tây phương, trải qua từng thời kỳ hay từng giai đoạn sáng tác của mỗi họa sĩ. Cái nhìn riêng của anh về nhận xét này, như thế nào? -NÐT: Thưa anh, như tôi đã trả lời ở câu hỏi trên, tôi vẫn nghĩ không một họa sĩ nào của chúng ta mà không bị ảnh hưởng bởi những họa sĩ, họa phái của tây phương một cách tự nhiên, dọc theo từng thời kỳ sáng tác của họ. Tuy nhiên, sau những giai đoạn này, nếu người họa sĩ có tài năng thực sự, thì họ sẽ tách rời được, khỏi cái cũ để tự tìm cho mình một đường hướng mới mẻ hơn. -DTL: Trong tình thần của câu trả lời vừa xong của anh, tôi xin cầu chúc anh, cũng như các họa sĩ Việt Nam ngoài hay trong nước, tiếp tục tìm được cho mình những đường hướng sáng tác mới mẻ hơn, cho nền hội họa của chúng ta thêm phần rạng rỡ... -NÐT: Cám ơn anh về lời chúc đẹp đẽ ấy. Du Tử Lê ghi, thuật. (California, tháng 2, 2011) Chú thích: (1) Tác phẩm này do Hội VAALA, California, xuất bản, năm 2008.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 4:26:13 GMT 9
Thái Tuấn, 1918- 2007 Đặng Tiến Nguồn riêng của Diễn Đàn sáng nay đã báo tin buồn : họa sĩ Thái Tuấn, vừa qua đời tại SG lúc 13 giờ chiều, giờ địa phương, ngày 26 tháng 9, 2007, sau một tuần được cấp cứu, và các bác sĩ tận tình điều trị bệnh phổi lâu năm, tại bệnh viện Đại học Y Dược. Anh thọ được 90 tuổi và là một khuôn mặt tiêu biểu cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam, một bóng dáng thân thương đối với người Việt tại Pháp, nơi anh tạm cư từ 1984, theo diện đoàn tụ gia đình. Cuối năm 2005, anh về dưỡng già tại TP SG, tiêp tục vẽ, và năm rồi, đã triển lãm 16 bức sơn dầu lớn tại phòng tranh Tự Do. Vào năm 1998, ngày sinh nhật 88 tuổi (ta) anh đã phải vào viện cứu cấp tại Orléans, nơi anh sinh sống với con cái từ ngày sang Pháp. Ngoài lớp bạn bè cùng lứa tuổi với anh, hiện nay còn lác đác với lá mùa thu, giới văn học nghệ thuật Việt Nam đã quan tâm đến sức khỏe và cảnh ngộ của một tài danh luống tuổi... Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công, sinh ngày 11-9-1918 tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội – trong một gia đình công chức khá giả – đồng tuế và đồng môn với họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Anh có vào học trường Mỹ Nghệ Gia Định, và theo lớp dự bị tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, cùng khóa với Phan Tại, Đặng thế Phong, khoảng 1938-1940, rồi bỏ dở. Thời chiến tranh chống Pháp, Thái Tuấn về sống ở quê ngoại Thanh Hóa, vẽ tranh cổ động, quảng cáo và quan hệ với nhiều nhà văn kháng chiến như Thanh Châu, Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân. Sau hiệp định Genève 1954, anh di cư thẳng từ Thanh Hóa vào Sài Gòn, sống vào nghề vẽ quảng cáo và trang trí. Mãi đến khoảng 1956-1957 anh mới thật sự vẽ tranh sơn dầu nghệ thuật và dùng bút danh Thái Tuấn. Cùng với các họa sĩ di cư khác : Ngọc Dũng, Duy Thanh, Tạ Tỵ, Thái Tuấn đã góp phần xây dựng nền hội họa hiện đại tại Sài Gòn, được xem như có tham vọng làm thủ đô một nền văn hóa mới. Bốn họa sĩ nói trên đều là nhà văn, nhà thơ ; riêng Thái Tuấn thường viết lý luận về hội họa và mỹ thuật trên các báo Sáng Tạo, Bách Khoa, và Văn, thịnh hành lúc đó ; bài viết của anh ít tính cách kỹ thuật và chuyên môn, nên nhẹ nhàng, cởi mở và phổ quát, giúp nhiều độc giả làm quen với hội họa, là một ngành nghệ thuật mới đối với đại chúng. Những bài viết kết hợp với tác phẩm hội họa đẹp và dễ hiểu, tạo cho Thái Tuấn một uy tín : anh tham gia hội đồng giám khảo ở nhiều giải thưởng và phòng tranh. Những cuộc triển lãm cá nhân 1958, 1970, 1973 được dư luận đánh giá cao – về nghệ thuật và thương mãi. Thái Tuấn đến với sơn dầu ở tuổi bốn mươi, nên tranh anh ít sắc cạnh, khai phá, mà giàu chất hoài niệm và tính văn học, tạo không gian thoáng rộng, u hoài, thi vị. Đề tài, ưu tiên là phụ nữ trong nhan sắc, dáng dấp, cử chỉ, y phục thuần túy Việt Nam trên nền màu sắc dịu nhẹ, dung dị mà tế nhị. Nhan sắc ở đây chủ yếu không phải chỉ là nữ sắc mà là một thoáng đẹp giữa trần gian. Thái Tuấn vẽ nét đẹp của phụ nữ hơn là phụ nữ đẹp, người đàn bà hóa thân làm vẻ đẹp trong tranh, diễm ảo mà hư ảo, một thoáng hồng nhan, như một lời thơ. Họa sĩ Đinh Cường, tâm giao và thâm giao với anh từ non nửa thế kỷ, đã có lần nhận xét Thái Tuấn biến bức tranh thành một cấu trúc tiềm ẩn (1). Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu, mà vẫn nhìn ra (ca sĩ) ; anh thường tâm sự : vẽ người mà không vẽ người. Vẽ như không vẽ mới đã... (1) Đinh Cường, Thái Tuấn Cội Nguồn, báo Ngày Nay (Mỹ) số 354, ngày 01/11/1996. Vẽ phụ nữ, Thái Tuấn quan tâm đến mái tóc, đôi khi mái tóc vận hành cấu trúc bức tranh, như bức Cội Nguồn, 1970 ; nhưng mái tóc trong tranh còn là một trời thu tạnh mơ say hương nồng. Anh có bức chân dung thiếu nữ, 1964, đặt tên bằng tiếng Pháp « Tes Yeux » (Mắt Em) , nhắc câu thơ mắt em là một dòng sông ; 1974 bức Bông Hồng Bạch, là hồn của bông hường trong hơi phiêu bạt, như một lẵng hoa vắng cả bông hoa / un bouquet absent de fleurs, theo một ý của Mallarmé. Đến với hội họa ở tuổi bốn mươi, trải qua nhiều kinh nghiệm văn chương, Thái Tuấn để lại nhiều họa phẩm phảng phất chất văn học – có khi là một bài hát, như Dư Âm, hay Dòng sông cũ (vẫn xuôi niềm thương… ) Tiếng Pháp gọi họa sĩ là artiste-peintre ; ở Thái Tuấn, chất artiste nhiều hơn chất peintre, anh là nghệ sĩ hơn là họa nhân, anh là thi sĩ vẽ tranh, gọi anh là họa sĩ - thi nhân, như một Vương Duy thời Đường, có lẽ đúng. Trong mỗi họa sĩ, có một nghệ sĩ và một nghệ nhân : nghệ nhân lấy bức tranh làm đối tượng, nghệ sĩ lấy Cái Đẹp làm cứu cánh. Mà chữ Đẹp viết hoa là cõi Vô Cùng. Từ đó mỗi bức tranh Thái Tuấn dù đã hoàn tất và toàn bích, vẫn còn, vẫn là nỗi chờ mong – thiếu vắng. Đó là cách đọc những khoảng mông mênh trong tranh Thái Tuấn, những trời thu xanh ngắt, quạnh vắng chiều sông, nắng chia nửa bãi, để mộng tàn lây, nhớ nhà châm điếu thuốc… một không gian tư lự, u hoài và mơ ước trong mùa xuân chưa đi, mùa thu chưa đến. Đời Thái Tuấn là một bức tranh duy nhất và dở dang. Vẽ hoài mãi vẫn chưa xong một vạt trăng tơ, một tà nắng lụa. Giới phê bình thường nhận xét : tranh hiện đại, tây phương của Thái Tuấn vẫn giàu chất Á Đông và dân tộc. Thật ra anh không mấy chủ tâm vào truyền thống, trường phái hay dân tộc tính, thậm chí trong thời kỳ sáng tác dồi dào nhất, những năm 1960-1970, anh còn hờ hững với dân tộc, định hình trong biên giới và lịch sử. Sau này, 1984, ra nước ngoài, ở tuổi xế chiều, anh mới hoài vọng về cảnh nông thôn và nông dân Bắc Bộ hồi đầu thế kỷ trước. Và đề tài quê hương mới rõ nét như một ám ảnh. Ngày nay nhiều người đòi hỏi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật, với những luận điệu có khi thô sơ. Để lý luận được khách quan, ta thử đối chiếu với một đề tài tương tợ : nghệ thuật và tôn giáo. Nhà văn công giáo thuần thành Jacques Maritain trong sách Nghệ Thuật và Kinh Viện đã nhắc nhở các nghệ sĩ, đại khái : nếu anh dùng nghệ thuật để phụng vụ đức tin, hay dùng tín ngưỡng để phục vụ nghệ thuật, thì hoặc là anh làm hỏng tranh, hoặc là anh làm rối đạo. Chuyển lý luận ấy sang chuyện dân tộc, cũng vậy thôi. Maritain càng nói rõ : trên lý thuyết nghệ thuật là siêu thời gian và siêu không gian, supra tempus, supra locum.(2) Nhưng trong thực tế, nghệ thuật do đề tài và cội rễ, thuộc một thời đại và một xứ sở. Những tác phẩm toàn cầu nhất, nhân đạo nhất đều mang rõ rệt dấu ấn của tổ quốc. (2)Jacques Maritain, Art et Scholastique, báo Les Lettres, tháng 9-10, 1919, in lại 1935, trang 115 va 130, nxb Louis Rougart, Paris. Về Thái Tuấn, Đinh Cường còn lưu ý : anh là người ngoan đạo nhưng không thấy anh đi nhà thờ. Màu sắc dân tộc e cũng cùng một cội nguồn, là những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra. Do đó mà Thái Tuấn vẽ cái gì rồi nó cũng ra dân tộc ; vì suốt đời anh chỉ vẽ thuần một giấc mơ. Con người làm chủ, kiểm soát, điều khiển được tư tưởng, thậm chí tình cảm, nhưng không ai làm chủ được giấc mơ. Giấc mơ là cái gì không thể chia chác, và cũng không thể tái lập. Nhưng dường như các nghệ sĩ có khả năng sống lại, và làm sống lại trong một bức tranh. Nếu ai cho tôi một từ, chỉ một từ thôi trong tiếng Việt để mô tả tranh Thái Tuấn, tôi sẽ xin chữ « thơ mộng », thơ của tuổi thơ và mộng làm bươm bướm. Nếu là tiếng hán việt, tôi sẽ dùng chữ « hoài vọng » ; hoài những bến xuân xưa và vọng về Miền Đẹp bồng đảo xa khơi. Tranh Thái Tuấn là miền, là niềm an tịnh vô biên. Mỗi bức tranh Thái Tuấn là một tâm cảnh dạt dào tâm cảm, một thời khắc im lặng dặt dìu âm hưởng. Nhưng hôm nay, chiều nay, giờ này , niềm lặng im bổng òa vỡ thành tiếng khóc Đặng Tiến Orléans, 20/10/2005, viết lại 26-9-2007 Ảnh : Thái Tuấn & Đặng Tiến (2005) Theo diendan.org Thư tịch : Thái Tuấn, Câu Chuyện Hội Họa, nxb Cảo Thơm, 1967, Sài Gòn. Thái Tuấn, Tuyển Tập Tranh và tiểu luận, nxb Vaala, 1996, California. (Có phụ lục phần phê bình, giới thiệu của nhiều tác giả khác). Thái Tuấn, Nguồn Mỹ Cảm, tạp chí Văn, số 93, 1967, Sài Gòn. Thái Tuấn, trả lời phỏng vấn Huỳnh Hữu Ủy, tạp chí Văn, số 199, 1972, Sài Gòn. Huỳnh Hữu Ủy, Bóng dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân Bính Tý, 1996, California. Phan thị Đỗ Quyên : Xem tuyển tập tranh và tiểu luận Thái Tuấn, tạp chí Thế Kỷ 21, số 91, tháng 11/1996, California.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 6:57:02 GMT 9
Cá hóa rồng trong mỹ thuật cổ Việt Nam Nguyễn Thu Thủy Trong nghệ thuật tạo hình, đề tài cá hóa rồng đã có mặt trong các đồ án trang trí từ khá sớm. Vào thời Trần, đề tài cá hóa rồng có mặt trên các di vật ở chùa Côn Sơn, chùa Xuân Lũng. Đề tài này còn được thể hiện thành các tượng nhỏ đặt trên đao mái của tháp mộ thời Trần ở di chỉ Xuân Hồng. Trong nghệ thuật tạo hình, đề tài cá hóa rồng đã có mặt trong các đồ án trang trí từ khá sớm. Vào thời Trần, đề tài cá hóa rồng có mặt trên các di vật ở chùa Côn Sơn, chùa Xuân Lũng. Đề tài này còn được thể hiện thành các tượng nhỏ đặt trên đao mái của tháp mộ thời Trần ở di chỉ Xuân Hồng. Thời Lê sơ (thế kỷ XV), điển hình có bức chạm đá cá hóa rồng trên sóng nước tại mặt ngoài thành bậc đàn Nam Giao (Hà Nội). Thời Mạc (thế kỷ XVI) còn lưu lại bức chạm gỗ hình hai cá hóa rồng chầu mặt trời tại đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang), thời Lê Mạt (thế kỷ XVIII) còn lưu lại bức chạm đá hình hai cá hóa rồng đớp ngọc quý trên trán bia chùa Linh Quang (Hải Phòng). Và đặc biệt những phát hiện gần đây nhất chính là các hoa văn cá hóa rồng được tìm thấy trên các đĩa gốm được khai quật từ tàu đắm cổ ở Cù lao Chàm có niên đại thế kỷ XV. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, trên dãy núi Giăng Màn, Hương Khê, Hà Tĩnh có một thác nước lớn tên là Vũ Môn, gồm 3 bậc, mỗi bậc cao vài trượng, đứng xa mấy trăm dặm vẫn trông thấy như một làn khói sừng sững trên nền núi xanh. Sự tích cá hóa rồng gắn với thác vũ môn được lưu truyền lâu đời trong dân gian Việt Nam. Vào một năm, trời hạn hán nhưng số rồng quá ít, không đủ làm mưa cho muôn loài. Long Vương tổ chức kỳ thi vượt vũ môn. Con vật nào 3 lần vượt vũ môn thành công sẽ được ban phép hóa thành rồng, phun nước làm mưa cứu giúp muôn loài. Khi cuộc thi được loan báo, các con vật đều rất náo nức nhưng chỉ có cá chép là chăm chỉ luyện tập. Đến ngày thi đấu, đại diện các loài đều bị loại, chỉ có cá chép là vượt vũ môn thành công và hóa thành rồng. Cá chép hóa rồng phun nước tạo ra gió táp mưa sa, muôn loài sung sướng, sự sống hồi sinh. Nội dung câu chuyện tuy ngắn gọn nhưng lại hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và trở thành biểu tượng của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công của các sĩ tử. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Hữu (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) nhận xét: "Hình tượng cá hóa rồng đặc biệt phát triển vào thời Lê sơ. Cách thể hiện và chất liệu sáng tác cũng phong phú hơn hẳn. Có thể lý giải vì hình tượng cá hóa rồng là biểu tượng của việc học hành, thi cử đỗ đạt, gắn với tích Ngư dược vũ môn của Nho giáo. Thời Lê sơ là thời kỳ đỉnh cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam. Đây là thời kỳ Nho giáo được đề cao, việc tổ chức khoa cử Nho học rất tập trung và bài bản. Năm 1442, để khuyến khích, biểu dương khoa cử Nho học, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng bia tiến sĩ đặt tại Văn Miếu, khắc tên những vị thi đỗ trong mỗi khoa thi". Đồ án trang trí cá hóa rồng thời Lê sơ thuộc cạnh ngoài thành bậc đàn Nam Giao (Hà Nội) mô tả một hồ sen rộng lớn với nhiều sóng nước xáo động và đùa giỡn trên sóng nước là một đôi uyên ương và hai con cá đang hóa rồng. Cả hai con cá đầu đã thành rồng, đuôi thì đang còn là đuôi cá, còn thân phần lớn bị chìm khuất dưới nước. Đầu rồng ở đây rõ ràng nhất là chiếc sừng hai nhánh, hai dải đuôi bờm bay dài ra sau gáy, một chùm râu bay ngược từ dưới cằm lên, đôi mắt lồi to cùng chiếc mũi sư tử và cái tai dài hình lá. Còn cá ở đây thấy rõ phần đuôi với bộ vây đuôi chải đều ra hai phía, với các lớp vẩy sắp xếp thành nếp theo kiểu cài răng lược. Chất cá ở đây còn thấy rõ ở phần dưới của đầu với những dấu vết của mang, vẩy và vây lưng. Giữa sự chao động của sóng, hình cá hóa rồng vẫn rõ nét, vẫn ăn khớp với nhau hợp lý và sinh động. Điều thú vị là đồ án hoa văn cá hóa rồng giữa sóng nước ở đàn Nam Giao Hà Nội còn được thể hiện trên thành bậc phía sau điện Kính Thiên trong Thành cổ Hà Nội. Các nhà nghiên cứu trước đây chưa có dịp vào Thành cổ để khảo sát nên hầu như hoa văn cá hóa rồng ở đây ít được nhắc tới. Mây và sóng nước, hai loại vật chất vũ trụ thường gắn với rồng, là môi trường tồn tại và vận động của rồng. Trong bất cứ hình thức nào, các đồ án này đều toát lên ấn tượng về loài vật huyền thoại được sánh ngang với rồng - vị chủ của nguồn nước. Có thể nói các đồ án hoa văn mây và sóng nước cùng với hình tượng cá hóa rồng, mây hóa rồng trong điện Kính Thiên đã được các nghệ nhân xưa khéo léo chạm trổ đạt tới đỉnh cao của tinh hoa mỹ thuật truyền thống Việt Nam. Phù điêu cá hóa rồng ở thềm bậc điện Kính Thiên. Theo TPO
|
|
|
Post by phungthithuy1994 on May 7, 2016 0:57:13 GMT 9
|
|