|
Post by Can Tho on Aug 26, 2016 1:03:31 GMT 9
Đánh giá lại T Thong Ngô Đình DiệmTiến sĩ Edward Miller Viết cho BBCVietnamese.com từ Dartmouth College Nhiều sử gia tiếp tục có đánh giá lại về nhân vật Ngô Đình Diệm Mọi cố gắng tìm hiểu lịch sử Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đều cần bắt đầu với Ngô Đình Diệm, nhà sáng lập và là tổng thống đầu tiên của VNCH. Ông cũng phủ bóng lên những tranh luận về nguồn gốc cuộc chiến Việt Nam, bắt đầu từ cuộc nổi loạn chống lại chính thể Diệm. Đa số sử gia xem vụ lật đổ và ám sát Diệm tháng 11.1963 là sự kiện cột mốc giúp mở đường cho sự leo thang và "Mỹ hóa" cuộc xung đột giai đoạn 1964-65. Dù quan trọng về lịch sử như thế, nhân vật này vẫn được ít người hiểu đúng. Cho tới gần đây, hầu hết sách học thuật về ông Diệm chủ yếu dựa vào nghiên cứu các văn bản chính phủ Mỹ và các nguồn khác của Mỹ. Vài năm qua, một số học giả bắt đầu dùng nguồn tư liệu Việt Nam (gồm cả hồ sơ VNCH được lưu ở Việt Nam). Chúng đã đem lại một số góc nhìn mới có giá trị về quyết định và chính sách của Diệm giai đoạn 1954-1963. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp trước 1954 của ông Diệm vẫn ít được khảo sát; các học giả vẫn còn tìm cách xác định những kinh nghiệm và tư tưởng đã định hình suy nghĩ của ông. Nói cách khác, chúng ta đã biết nhiều về những gì Diệm làm, nhưng vẫn vất vả để hiểu ông ta là ai. Do các học giả thiếu một cách hiểu đậm tính lịch sử về Diệm và động cơ của ông, nên diễn giải của họ về nhà lãnh đạo thường rất giản đơn, thậm chí trở thành châm biết. Ba bức biếm họa trở nên nổi trội trong giới nhà báo, sử gia và nhiều cây bút viết về Diệm từ thập niên 1960. Một số tác giả mô tả Diệm như bù nhìn Mỹ, được giới chức Mỹ dựng lên để phục vụ mục tiêu địa chính trị của Washington. Những người khác lại nói Diệm không phải là sản phẩm của chính sách ngoại giao Mỹ, mà là của "truyền thống" Việt Nam. Theo quan điểm này, Diệm là kẻ phản động lạc hậu không hề quan tâm chuyện hiện đại hóa; những tư tưởng trị quốc của y bắt rễ từ những lề thói của thời kỳ trước thuộc địa. Cách diễn giải thứ ba, tỏ lòng sùng kính hơn hai thái độ trên, mô tả Diệm như một anh hùng hiểu đúng nhu cầu và khao khát của người dân miền Nam. Cách nhìn này khẳng định sự sụp đổ của Diệm năm 1963 không phải vì khiếm khuyết của ông mà vì hành động ngu ngốc của các đồng minh Mỹ, những kẻ đã phản bội ngay khi nhà lãnh đạo sắp sửa chiến thắng kẻ thù. Tổng thống Eisenhoweer và Ngoại trưởng John Foster Dulles đón tiếp ông Diệm tại phi trường Washington năm 1957 Thoạt nhìn qua, mỗi cách nhìn kể trên đều có vẻ khả tín. Nhưng khi xem xét kỹ, rõ là tất cả chúng chỉ bóp méo hơn là tiết lộ bản chất nhân vật. Cụm từ "Mỹ-Diệm", được sử dụng bởi người cộng sản, diễn tả cô đọng nhất quan điểm rằng Diệm chỉ là con rối của Mỹ. Nhưng không chỉ người Cộng sản mới xem Diệm là sản phẩm của chính sách Mỹ. Khi Diệm còn sống, nhiều người Việt và Mỹ cho rằng ông này buộc phải đi theo chỉ thị của Washington để bảo đảm tiếp tục được hưởng viện trợ kinh tế và quân sự. Dĩ nhiên, sau khi Diệm bị lật trong cuộc đảo chính có Mỹ bảo trợ, luận điệu Mỹ-Diệm bớt thuyết phục. Nếu Diệm chỉ là con rối của Mỹ, tại sao Washington khuyến khích nhóm tướng lĩnh hạ bệ ông ta? Dù vậy, một số tác giả vẫn khẳng định luận điệu này ít nhất cũng có một phần đúng. Những người viết này lập luận ngay cả nếu Diệm không phải là bù nhìn sau 1954, ông ta nhờ Washington nên mới nắm được chính quyền. Theo đó, Diệm giống như một quái vật Frankenstein của Mỹ - các lãnh đạo Mỹ bí mật sắp xếp để ông chiếm quyền ở Sài Gòn với hy vọng ông sẽ tuân lời, nhưng rồi nhận ra muộn màng rằng họ không thể kiểm soát ông ta. Cho dù vẫn còn được một số giới ưa chuộng, lý thuyết bù nhìn này không đứng vững. Các tài liệu giải mật của Mỹ chứng tỏ Diệm rất chống đối lời khuyên của Mỹ, và ngay từ đầu đã thường bất tuân lời Washington. Ví dụ, trong cuộc "khủng hoảng giáo phái" 1954-55, sứ quán Mỹ ở Sài Gòn thúc giục Diệm thỏa hiệp với chỉ huy các lực lượng vũ trang đe dọa lật đổ ông. Không nghe lời Mỹ, Diệm buộc xảy ra nổ súng và rồi đánh bại các đối thủ - và như thế, ông càng tin là phải nghe chính mình. Sự miễn cưỡng làm theo chỉ thị của Mỹ càng thêm sâu sắc vì ông biết mình có được chức thủ tướng miền Nam là do nỗ lực riêng, chứ chẳng phải nhờ vào mưu toan của Mỹ. Chưa ai tìm được bằng chứng là giới chức Mỹ đã ép cựu hoàng Bảo Đại chọn Diệm làm thủ tướng mùa xuân 1954. Bằng chứng ta có được cho thấy quyết định của Bảo Đại chủ yếu là do sự vận động và quyền mưu của Diệm. Vị quan cổ lỗ? Tương tự, luận điệu nói Diệm là sản phẩm của "truyền thống", hay ông là người "phản hiện đại", cũng không thuyết phục hơn. Đúng là Diệm thường xuyên và thành kính nói về lịch sử và văn hóa truyền thống Việt Nam. Chúng ta đã biết nhiều về những gì Diệm làm, nhưng vẫn vất vả để hiểu ông ta là ai. Edward Miller Tuy nhiên, Diệm nhấn mạnh ông không xem quá khứ Việt Nam là nền tảng cho tương lai đất nước. Ông tuyên bố: "Chúng ta sẽ không quay lại phiên bản vô ích của quá khứ quan lại, mà sẽ áp dụng những gì tốt nhất của di sản vào tình hình hiện đại." Toàn bộ hoạt động xây dựng quốc gia của Diệm trong thời gian nắm quyền - bao gồm ban bố hiến pháp 1956, thành lập Quốc hội, các chương trình Khu trù mật và Ấp chiến lược - nhằm để cổ vũ sự hiện đại hóa đời sống chính trị, xã hội, kinh tế của miền Nam. Chắc chắn Diệm rất nghi ngờ cả tư tưởng tự do lẫn Marxist về biến đổi xã hội, và đúng là ông là nhà bảo thủ. Nhưng lại không chính xác khi mô tả ông là kẻ phản động, với nghị trình duy nhất là phục hồi lề thói chính trị và xã hội của những thế kỷ trước. Hiền nhân? Trong ba diễn giải, có lẽ ít thuyết phục nhất là luận điệu mô tả Diệm như một hiền nhân được sự ủng hộ rộng rãi của người dân nông thôn miền Nam. Những người cổ vũ quan điểm này đã đúng khi nói Diệm rất quan tâm cuộc sống của người nông dân, và rằng ông thực lòng muốn cải thiện đời sống của họ. Nhưng chỉ việc Diệm quan tâm những vấn đề như thế không đủ giải thích vì sao ông theo đuổi những sách lược nhất định, và nó cũng không chứng tỏ được gì về thành công hay thất bại của những sách lược đó. Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Tướng Maxwell Taylor gặp Tổng thống Kennedy ngày 24.9.1963 trước khi tới Sài Gòn Trên thực tế, nỗ lực biến cải đời sống nông thôn của Diệm không thành công như ông và các ủng hộ viên đã nói. Điều này hiện rõ qua lịch sử của chương trình Dinh điền (tái định cư) giữa thập niên 1950. Theo chương trình này, dân cư nông thôn được đưa vào các khu định cư của chính phủ ở miền tây đồng bằng Sông Cửu Long và vùng Cao Nguyên. Khi cho nông dân nghèo có đất ở những khu vực thưa dân này, Diệm tin rằng ông đang cải thiện đời sống, và cũng dạy cho dân giá trị của sự tự lập và chăm chỉ. Nhưng đời sống ở các khu định cư lại chật vật, nhiều khu đặt ở các vùng hẻo lánh, đất cằn cỗi, không đủ nước. Chương trình cũng chịu họa vì các viên chức địa phương tham ô và tàn nhẫn. Kết quả, nó thất bại trong cố gắng thu phục niềm tin vào chính phủ và giảm bớt hỗ trợ cho đối phương Cộng sản. Những khiếm khuyết của chương trình Dinh điền (và sau này là Khu Trù mật và Ấp chiến lược) đã bị lợi dụng không chỉ bởi phe cộng sản mà cả bởi nhóm Phật giáo những người tổ chức biểu tình lan rộng chống chính phủ năm 1963. Kết luận Các học giả cần phân tích Ngô Đình Diệm trong bối cảnh lịch sử mà ông sống. Nguồn gốc tư tưởng và chính sách của Diệm không thể tìm thấy ở Washington, trong quá khứ Việt Nam hay thậm chí trong sự thông cảm với nông dân. Niềm tin và tham vọng của Diệm được gọt dũa trong thời gian và hoàn cảnh khi ông trưởng thành - những thập niên cuối cùng của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến là thời gian khơi men chính trị và tri thức ở Việt Nam. Những chủ đề như giải phóng dân tộc, cải cách văn hóa, hiện đại được tranh luận sôi nổi chưa từng thấy, và nhiều người Việt bắt đầu tìm kiếm những hình thức hoạt động chính trị mới. Diệm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những đổi thay đó, nhưng các học giả chưa hiểu rõ sự biến đổi trong tư tưởng của ông giai đoạn này. Ít nhất có ba luồng tư tưởng dường như đã ảnh hưởng Diệm về xã hội và chính trị giai đoạn 1920 và 1930. Khi đã bỏ qua những mô tả biến dạng xưa cũ, chúng ta mới có thể hiểu được nhân vật phức tạp này, một người đóng vai trò trung tâm trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Edward Miller Đầu tiên là sự trỗi dậy của một hình thức chủ nghĩa dân tộc mới của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc Công giáo được gắn với gia đình Diệm và đặc biệt với anh trai, Hồng y Ngô Đình Thục. Diệm cũng gần gũi với Nguyễn Hữu Bài, một nhân vật Công giáo mà nổi tiếng đã khuyên Diệm treo ấn từ quan năm 1933 để phản đối chính sách của Pháp. Luồng tư tưởng thứ hai ảnh hưởng Diệm thời gian này là Khổng giáo. Hiểu biết của Diệm về Khổng giáo được định hình nhờ tình bạn với Phan Bội Châu, người trải qua những năm cuối đời ở Huế. Thời gian này, cụ Phan viết nhiều tác phẩm, cho rằng giáo huấn của Khổng giáo có thể áp dụng cho xã hội Việt Nam hiện đại - cũng là quan điểm mà sau nay Ngô Tổng thống cổ vũ. Cuối cùng và quan trọng nhất, trong những năm này Diệm lần đầu tiên tiếp xúc khái niệm "chủ nghĩa Nhân vị", một học thuyết mượn từ triết lý Thiên Chúa giáo Pháp. Ngô Đình Nhu hướng dẫn ông đến với lý thuyết ấy, và đây cũng là người sau này thuyết phục anh trai đưa học thuyết thành hệ tư tưởng chính thức của chính phủ Diệm. Giới học giả vẫn còn phải khám phá nhiều điều về Diệm, và những năm tới chắc chắn sẽ đem lại những tiết lộ mới. Tuy nhiên, các sử gia cần làm nhiều hơn, không chỉ là tìm kiếm các nguồn tài liệu mới về Diệm. Họ cũng phải cân nhắc những cách diễn giải mới về cuộc đời, chính sách và tư tưởng của ông. Chỉ như thế chúng ta mới có thể có những giải thích thuyết phục hơn về những thành công và thất bại của Diệm. Khi đã bỏ qua những mô tả biến dạng xưa cũ, chúng ta mới có thể hiểu được nhân vật phức tạp này, một người đóng vai trò trung tâm trong lịch sử hiện đại Việt Nam và trong cuộc chiến Việt Nam. Về tác giả:Ông Edward Miller lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Harvard năm 2004 với nghiên cứu về nhân vật Ngô Đình Diệm. Ông đã sống, làm việc ở Đài Loan, Singapore và Việt Nam. 'Tâm Tư Tổng thống Thiệu'Nguyễn Xuân Nghĩa Gửi cho BBCVietnamese.com từ California Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (bên phải) đã chịu nhiều sức ép từ Hoa Kỳ Vào thời điểm này, nhiều người Việt Nam lại có thể Bấm trông đợi vào Hoa Kỳ như một sức mạnh có khả năng quân bình tương quan lực lượng ngoài Biển Đông. Có thể lắm, nếu đó là vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Trong khi chờ đợi, hãy nhìn lại trang sử cũ, khi Hoa Kỳ dùng Việt Nam làm bàn đạp để nói chuyện với Trung Quốc. Rồi cho bàn đạp này tuột xuống biển. Sách mới của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, cuốn "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" có thể giúp cho một cái nhìn về giai đoạn đó. Xin nhắc lại rằng ngay từ cuối năm 1967 - trước khi tranh cử Tổng thống năm 1968 - ông Richard Nixon đã viết trên tờ Foreign Affairs (số tháng 10) rằng: "Về lâu dài [Hoa Kỳ] không thể mãi mãi để Trung Quốc nằm bên ngoài cộng đồng các quốc gia để nghiền ngẫm sự hoang tưởng, ôm ấp hận thù và đe dọa các nước láng giềng". Sau khi đắc cử, ông thận trọng chuẩn bị việc giải vây và kéo Trung Quốc ra khỏi tình trạng bế quan toả cảng, để sẽ đứng cùng phe với Hoa Kỳ. Mục đích của Nixon là giải toả tình trạng cô lập của quốc gia đông dân nhất địa cầu - khi đó có hơn 500 triệu dân - hầu lập thế liên minh Mỹ-Hoa trong mối quan hệ tay ba giữa Hoa Kỳ, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Liên bang Xô viết. Ông thành công mỹ mãn, với cái giá là đẩy một đồng minh là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ra khỏi Liên hiệp quốc. Còn đồng minh kia, "tiền đồn thế giới tự do" là Việt Nam Cộng Hoà, thì bị đẩy xuống biển. Câu chuyện ấy khiến người ta cần nhìn lại để còn nhìn tới. Là Giáo sư danh dự về kinh tế học tại Howard University ở thủ đô Hoa Kỳ, ông Nguyễn Tiến Hưng từng làm Tổng trưởng Kế hoạch của Việt Nam Cộng Hoà. Khi miền Nam hấp hối, ông được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trao cho các mật thư cam kết của Tổng thống Nixon và phái đi vận động viện trợ của Hoa Kỳ mà không thành. Có lẽ đây là lần đầu mà một cách gián tiếp độc giả có thể nhìn ra tâm tư của ông Thiệu Nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa Tỵ nạn từ năm 1975, ông vừa dạy học vừa thu thập các chứng liệu về mối quan hệ giữa Việt Nam Cộng Hoà với Hoa Kỳ, và đã xuất bản ba cuốn sách. Thứ nhất là cuốn "The Palace File", xuất bản năm 1986, được Cung Thúc Tiến dịch sang Việt ngữ thành "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", kể lại sự bội tín của Hoa Kỳ với miền Nam tự do. Cuốn thứ hai xuất bản năm 2005, "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", nói rõ hơn về những tình tiết của sự bội phản. Cuốn thứ ba sẽ ra mắt ngày 16 tháng 5 này tại California nói về khung cảnh lịch sử đó và về tâm tư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mỗi cuốn lại cung cấp thêm những văn kiện đã được Hoa Kỳ giải mật hoặc được tác giả sưu tập và kết hợp thành một chuỗi dài của thảm kịch. Số phận miền Nam Cuốn "Tâm Tư Tổng thống Thiệu", dày hơn 700 trang với rất nhiều tài liệu mới, được Thư khố Hoa Kỳ giải mật sau này và đặc biệt là 150 trang tài liệu Anh ngữ để giới trẻ tham khảo. Riêng tựa đề cuốn sách cũng khiến tác giả đắn đo vì Nguyễn Tiến Hưng vừa muốn trình bày những dữ kiện lịch sử về miền Nam, về Tổng thống Thiệu và về chính sách Hoa Kỳ với Việt Nam, nhưng cũng đề cập tới tâm lý và con người của ông Thiệu, một nhân vật ông có nhiều chia sẻ riêng tư trước khi ông Thiệu tạ thế vào năm 2001. Bố cục cuốn sách gồm bốn phần và một lời kết về thân phận Việt Nam. Trong phần một, tác giả trình bày một số diễn tiến dẫn tới việc Tổng thống Thiệu phải từ chức và rời Việt Nam. Độc giả có dịp tìm hiểu những uẩn khúc trong các quyết định rút quân, nào Đà Nẵng, Huế, Pleiku, hay những hy vọng bừng sáng sau trận Xuân Lộc, rồi những vận động bên trong để cố cầm cự cho tới khi miền Nam thực tế bị bức tử. Rồi bị giao nộp gần như nguyên vẹn cho Cộng sản Bắc Việt. Tổng thống Nixon khi còn cầm quyền tại Tòa Bạch Ốc Phần hai mới truy nguyên lên chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam từ thời Tổng thống Lyndon Johnson đến Richard Nixon. Lồng bên trong là những tính toán của Hoa Kỳ với Trung Quốc. Con đường đối thoại giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh thực ra mở đầu tại Việt Nam và Hoa Kỳ đóng cửa Sài Gòn để mở cửa vào Bắc Kinh. Kết luận là bốn năm hoà đàm để đưa tới Hiệp định Paris năm 1973 chỉ là hư vô - vô ích. Trong phần ba, tác giả Nguyễn Tiến Hưng tập trung vào con người Nguyễn Văn Thiệu, một nhân vật đa nghi và những nguyên nhân sâu xa của sự đa nghi, đặc biệt với Hoa Kỳ, ông Thiệu đã dự tính rồi lại bỏ ý định viết hồi ký. Ông không quan tâm đến dư luận Mỹ, cũng chẳng muốn phân bua giải thích với người Mỹ về những lập luận hàm ý đổ lỗi cho Việt Nam Cộng Hòa và bản thân mình. Nhưng ông chú ý đến dư luận của người Việt Nam, nhất là của các chiến binh trong quân đội, và muốn giãi bày cảm nghĩ của mình với họ. Có lẽ đây là lần đầu mà một cách gián tiếp độc giả có thể nhìn ra tâm tư của ông Thiệu. Phần thứ tư có thể khiến độc giả tại miền Nam ngậm ngùi vì đề cập tới những thành tựu của Bấm Việt Nam Cộng Hoà và những cơ hội bỏ lỡ cho một nước Việt Nam phú cường và tiến bộ. Có lẽ đây là một niềm an ủi muộn màng: ông Thiệu không toại nguyện, phải sống lưu vong tại Anh rồi tại Mỹ. Ông lâm bệnh tại Hawaii ngay khi Mỹ bị vụ khủng bố 9-11. Sau khi phi trường Boston được giải tỏa sau vụ khủng bố thì ông mới được trở về nhà. Và sau đó tạ thế.... Tổng kết lại về con người Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng số phận của miền Nam, tác giả Nguyễn Tiến Hưng đưa ta về hiện tại, về đối sách của Hoa Kỳ tại Iraq hay Afghanistan... Đây là một tài liệu hấp dẫn và hữu ích cho độc giả hiểu thêm về Hoa Kỳ và có một cách đánh giá về ông Nguyễn Văn Thiệu, một người mà thảm kịch cũng phần nào là số phận bi thảm của miền Nam. ***************** NHỮNG GIÒNG CUỐI CHO “Người muôn năm cũ” October 22, 2021: Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng Mùa Đông năm 1976, chúng tôi bay sang London, Anh, để thăm ông bà cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước khi đi, chúng tôi viết thư cho ông biết ngày giờ tới phi trường Heathrow và số chuyến bay. Ông trả lời là sẽ có người ra đón. Tới nơi thì vừa ra cửa đã thấy ông đứng ngay ở đó vẫy tay chào. Thật là cảm động gặp lại ông sau hơn một năm trời và sau bao nhiêu biến cố. Sau khi bắt tay nhau thật chặt và trao đổi mấy lời thăm hỏi, ông tự lái xe đưa chúng tôi về nhà. Đây là một căn nhà nho nhỏ, xinh xinh nằm ở vùng Surrey, ngoại ô London. Một cái bảng treo trên cửa với mấy chữ khá lớn “The White House.” Chúng tôi hỏi ông là bảng này vẫn có từ trước hay ông treo vào? Ông nói villa bên này hay mang tên cho dễ nhận, và cái bảng này là của chủ cũ để lại. Ông tự tay xách giúp cái valise và đưa chúng tôi lên một phòng trên lầu hai, vặn hộp sưởi điện cho ấm, rồi dặn là nếu thấy vẫn còn lạnh thì cứ vặn thêm cái hộp sưởi thứ hai. Buổi chiều hôm ấy ông nói nên đi ngủ sớm cho đỡ mệt sau chuyến bay dài từ Washington, DC và nói là sáng hôm sau thì cứ thủng thẳng lúc nào dậy cũng được. Sáng hôm sau, từ trên tầng thứ hai xuống nhà, chúng tôi thấy ông đang đọc báo. Còn bà thì loay hoay trong bếp. Chỉ mấy phút sau đã thấy hai tô hủ tiếu đúng hương vị miền Nam và cà phê thơm phức bày trên bàn. Bà Thiệu là người Mỹ Tho mà hủ tiếu Mỹ Tho thì ngon có tiếng. Bà mời chúng tôi tới ăn cho nóng. Khi hỏi sao bà không cùng ăn thì bà nói: “Tôi ăn rồi, để cho hai ông dễ nói chuyện.” Câu nói giản dị nhưng phản ảnh thật rõ cái lối sống của bà trong suốt thời gian 10 năm ông là người lãnh đạo của VNCH. Chúng tôi không biết nhiều nhưng có cảm tưởng là bà luôn luôn xa cách, không xen vào chính trị, vào những công việc của ông, chỉ đứng sau để lo cho gia đình và tham gia vào công việc xã hội. Trong thời gian chúng tôi làm việc ở Dinh Độc Lập thì ít khi thấy bà xuất hiện, kể cả khi Tổng Thống Thiệu tiếp khách xã giao ngoại quốc. Ngồi xuống bàn ăn buổi sáng hôm ấy, thấy ông hết còn căng thẳng như những buổi ăn sáng hồi Tháng Ba, Tháng Tư năm trước. Chỉ hơn một năm không gặp mà thấy ông cũng có phần già đi, tuy phong độ vẫn còn chững chạc như ngày còn tại chức. Còn bà thì hầu như không thay đổi. Vẫn trẻ trung, vẫn dịu dàng, nồng ấm. Lưu lại nhà ông bà cả tuần lễ, chúng tôi bắt đầu bằng những câu chuyện vui vui về các món ăn bên Anh, bên Mỹ, nhiều khi không hợp khẩu vị. “Tổng thống còn nhớ cái món ‘pín voi hầm thuốc bắc’ không,” tôi hỏi. Ông hỏi lại là tôi ăn món ấy bao giờ? Khi tôi nhắc là ăn trong bữa tiệc mừng sinh nhật của ông cuối năm 1974 gần ven sông Sài Gòn, ông nhớ ngay và phá ra cười: “Ừ thì họ nói là pín voi chứ tôi cũng chẳng biết là pín gì.” Trong bữa cơm chiều, bà Thiệu cho ăn canh chua, cá kho tộ. Năm 1976 thì ở London cũng chưa có chợ búa Việt Nam nên bà phải cố gắng thì mới có được gia vị để nấu ăn. Hình như là phải nhờ người từ bên Pháp gửi sang. Bà nói ông thích ăn canh chua nấu với lá me non như mẹ ông thường nấu ở Phan Rang, nhưng “làm sao tôi tìm được lá me non ở bên Anh.” Để làm cho ông vui, tôi gợi ý nói đến một đề tài mà ông rất ưa thích: hải sản, làng chài và ngư nghiệp ở Việt Nam. Ông kể lại những kỷ niệm đi câu cá ở sông Sài Gòn và đôi khi câu được cả cá thu ở ngoài Côn Sơn. Bệnh viện Vì Dân Còn bà thì hay nói đến bệnh viện Vì Dân. Đối với bà thì đây là một niềm vui lớn và nó còn ghi dấu ấn trong tâm trí. Đây cũng là một di sản quý hóa mà bà để lại cho người dân, nhất là những người nghèo. Chúng tôi đã có dịp tới thăm nhà thương này và thấy nó được xây cất theo tiêu chuẩn quốc tế, được trang bị rất hiện đại, với 400 giường bệnh. Người khám bệnh và chữa bệnh luôn được miễn phí. Các bác sĩ, y sĩ, y tá được chọn lọc cẩn thận. Ngoài ra, lại còn những sinh viên y, dược, xung phong làm việc từ thiện. Bà kể là sở dĩ nảy ra ý muốn xây một bệnh viện là vì bà hay vào nhà thương Chợ Rẫy thăm bệnh nhân. Nhiều khi thấy hai người phải chen chúc nhau nằm trên một cái giường nhỏ, làm bà hết sức mủi lòng. Vì vậy, ba bỏ ra nhiều công sức đi vận động để xây nhà thương như là một bước đầu để cải thiện nền y tế Việt Nam. Tài trợ cho bệnh viện này hoàn toàn không dính dáng gì đến ngân sách quốc gia mà do sự đóng góp của những cơ quan từ thiện, những người có lòng hảo tâm trong nước cũng như ngoại giao đoàn. Bà nói tới sự đóng góp đặc biệt của bốn tòa tòa đại sứ Đài Loan, Nam Hàn, Nhật, và Hòa Lan. Bà đi vận động xây nhà thương là do sự đam mê công tác xã hội, hoàn toàn không có mục đích chính trị như một số người đồn thổi. Ném bom Dinh Độc Lập Nói tới chính trị, có một biến cố làm bà rúng động và còn nhớ mãi. Đó là vụ ném bom Dinh Độc Lập ngày 8 Tháng Tư, 1975 do một phi công VNCH nổi loạn thực hiện. Một trong hai quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc dinh, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống ăn sáng ở một bàn nhỏ ở ngoài hành lang, lấy đôi đũa gắp sợi bánh đầu tiên trong bát phở nóng thì cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang máy để xuống lầu hầm. Bà Thiệu kể lại là ngay chỗ gần thang máy, một quả bom “dài thòng” rơi sát bên nhưng không nổ. Đầu Tháng Tư là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía đòi ông Thiệu phải từ chức. Ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc đảng Dân Chủ “thân chính” tại Quốc Hội quay lại chống ông. Về biến cố ngày hôm ấy, bà kể là trái bom rơi trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nơi khi những tấm thảm dầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong cái phòng của gia đình “vì cháu bé người làm đang lo sắp xếp quần áo đã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy, không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang.” Một lúc sau mới có sĩ quan đến giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở. “Ông già định ở lại” Chưa tới hai tuần sau vụ ném bom, ngày 20 Tháng Tư, 1975, Đại Sứ Graham Martin của Mỹ, theo chỉ thị của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, tới Dinh Độc Lập thuyết phục ông Thiệu từ chức (với kế hoạch là để Đại Tướng Dương Văn Minh lên thay) và nói: “Nếu ông không chịu từ chức thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này.” Ông Thiệu hỏi ông Martin: “Nếu tôi từ chức thì liệu viện trợ có đến hay không?” Ông Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng cũng có thể.” Ông Thiệu kể lại rằng ngày hôm sau, ông mời các tướng lãnh đến Dinh Độc Lập. Trong buổi họp, ông cho họ biết về những chuyện Đại Sứ Martin đề cập tới. Ông Thiệu nói nếu các tướng lãnh coi ông như một chướng ngại vật cho hoà bình của đất nước thì ông sẽ từ chức. Không ai phát biểu gì hết. “Thế là đã rõ họ không muốn tôi ngồi lại ghế tổng thống nữa, cho nên tôi tuyên bố từ chức để Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay, theo đúng Hiến Pháp.” Chiều ngày 22 Tháng Tư, 1975, ôngThiệu lên TV tuyên bố từ chức. Với tâm tư thật cay đắng, ông tố cáo Hoa Kỳ đã thất ước, đã phản bội VNCH, và nói các ông đã cắt hết quân viện, “để chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là một hành động vô nhân đạo.” Trong bài diễn văn từ chức, ông nói sẽ cùng với nhân dân và quân đội chiến đấu, và “tôi từ chức nhưng tôi không đào ngũ.” Vậy tại sao ông lại ra đi? Nhiều anh em chiến sĩ và đồng hương vẫn còn đặt vấn đề “ông Thiệu đào ngũ” cho nên chúng tôi đã viết chi tiết về bối cảnh lịch sử của việc Tổng Thống Thiệu ra đi (sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 18). Ông ra đi ngày 25 Tháng Tư là vì chính tân Tổng Thống Trần Văn Hương đã làm áp lực, yêu cầu ông phải ra đi. Ông Thomas Polgar (giám đốc CIA ở Sài Gòn) cũng thuật lại là Tổng Thống Hương gọi cho ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Việt Nam, vì “nếu không, Cộng Sản sẽ nói tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không Thiệu.” Về phía Đại Tướng Dương Văn Minh thì lúc ấy chưa lên tổng thống, cũng muốn ông Thiệu phải ra đi. Trong cuốn “Decent Interval,” tác giả Frank Snepp (nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn) viết lại (trang 435): “Ông Minh yêu cầu tướng Charles Timmes là người của CIA phải làm cách nào để ông Thiệu đi lưu đầy (He asked the CIA’s Timmes to see to it that Thiêu was sent into exile).” Nhân tiện có một cơ hội: Tổng thống Đài Loan là ông Tưởng Giới Thạch vừa qua đời. Tổng Thống Hương liền viết sắc lệnh: “Nay đề cử cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đại diện tổng thống VNCH đến Đài Bắc để phân ưu cùng chánh phủ và nhân dân Trung Hoa Dân Quốc nhân dịp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tạ thế…” Bản văn do Đại Tá Cầm viết tay. May mắn là Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận (một người trong đoàn tùy tùng đi theo cựu Tổng Thống Thiệu) còn giữ được một bản sao của sắc lệnh này. *** Chỉ ba tuần trước đây, ngày 26 Tháng Chín, khi viết một đôi lời về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhân dịp lễ giỗ lần thứ 20 của ông, chúng tôi có nói: “Rất tiếc rằng vì lý do sức khỏe, ngày hôm nay phu nhân Tổng Thống Thiệu không thể tới đây để dự buổi lễ tưởng niệm này. Trong cảnh về hưu cô đơn ở gần San Clemente, California, thỉnh thoảng chúng tôi có tới thăm bà. Bà sống rất thanh đạm và một mình với một con chó, trong căn nhà nhỏ bé. Trong bếp chúng tôi thấy mì ăn liền Mama chất đầy từng đống. Bà nói cũng không buồn vì quen rồi. Quen từ lúc “ông già’ còn làm tổng thống. Bà hay dùng hai chữ “ông già” để nói về người chồng. Có lần chúng tôi hỏi bà về ngày bà ra đi khỏi Sài Gòn, bà kể: “Ông già định ở lại.” Hỏi thêm thì bà nói: “Sau khi từ chức, ông già mặc cái quần xà lỏn và nói: ‘Mẹ con mày đi đi, tôi ở lại.’” Chúng tôi chưa hề biết chuyên này nên hỏi thêm thì bà mới kể: “Ông già ngậm một cái cục gì ở trong hàm răng.” Chúng tôi giật mình, vì ý bà muốn nói là ông ngậm một loại thuốc độc mà điệp viên thường dùng để phòng hờ trường hợp phải đối đầu với tình huống bi cực nhất. Dọn sang Mỹ sau khi ông Ronald Reagan lên ngôi Ông bà Thiệu chọn nước Anh để lưu vong trong giai đoạn đầu. Chính phủ Anh cũng rất kính trọng đời sống riêng tư của ông và gia đình. Bà Thiệu kể lại là ngay từ khi tới London, chính phủ đối xử với gia đình ông bà rất chu đáo, lại còn cử một đại úy coi về an ninh để tiếp cận và yểm trợ, hướng dẫn ông cùng gia đình về đời sống xã hội trong thời gian tới trên một năm. Gia đình chỉ dọn sang Mỹ dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan. Bối cảnh là như thế này: Sau Hiệp Định Paris, Tổng Thống Richard Nixon mời ông Thiệu sang thăm Hoa Kỳ. Nhưng ông Nixon lại mời ông về tư dinh là Casa Pacifica ở San Clemente chứ không đón tiếp ông với tư cách là một vị quốc trưởng ở Washington, DC. Tiệc khoản đãi ông Thiệu ở Casa Pacifica chỉ vỏn vẹn có 12 người, kể cả chủ lẫn khách. Lý do đưa ra là “không đủ chỗ ngồi.” Điều yên ủi đối với ông Thiệu là thái độ và tình cảm của Thống Đốc Ronald Reagan lúc đó. Trước đó, ông Thiệu đã đón tiếp ông Reagan nồng hậu khi ông thăm viếng Sài Gòn. Nhân dịp này, ông có tặng ông Reagan một cặp ngà voi và nói đùa với ông: “Một ngày nào đó, ngài sẽ lên voi.” Năm 1976, ông Reagan ra vận động làm ứng cử viên của đảng Cộng Hòa để tranh chức tổng thống, nhưng ông không được đảng chọn, và thua ông Gerald Ford dù rất ít phiếu. Vì uy tín của đảng Cộng Hòa xuống quá thấp trong thời Nixon và thời Ford, cho nên ông Jimmy Carter trúng cử. Dưới triều đại Carter, uy tín của Hoa Kỳ lại tiếp tục suy giảm hơn nữa, phần lớn vì thù địch đã coi thường nước Mỹ sau khi tháo chạy khỏi Việt Nam. Sau cùng thì ông Reagan thắng trong cuộc bầu cử Tháng Mười Một, 1980. Ngày 20 Tháng Giêng, 1981, ông Reagan lên ngồi chắc trên lưng voi và lời tiên đoán của ông Thiệu đã đúng. Ra đi sau biến cố 9/11 Ở Boston khi chớm Thu thì cũng đã bắt đầu lạnh. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ông bà Thiệu thành hôn, cháu Nguyễn Quang Lộc mời bố mẹ sang du lịch bên Hawaii. Vừa tới nơi vài hôm là biến cố 9/11 xảy ra. Bà Thiệu kể lại là ông rất “lo ra” khi thấy chiếc máy bay cất cánh ngay từ phi trường ở Boston (là nơi ông đang cư ngụ) rồi đâm vào Trung Tâm Thương Mại Quốc tế tại New York và một chiếc khác lại nhào vào Ngũ Giác Đài. Xúc động này ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe của ông. Trong mấy năm ông bị bệnh tim, bà Thiệu phải lái xe chở ông vào nhà thương. “Tiếc rằng không còn bệnh viện Vì Dân để chị săn sóc cho ông già,” bà tâm sự. Bây giờ tuổi đã cao, bà phải lái xe ban đêm một mình trên xứ người, đi vòng vèo khá lâu mới tới bệnh viện. Bà kể có hôm mãi tới 1 giờ sáng mới về tới nhà. Lúc về lại phải đi tìm xe ở dưới cái hầm nhà thương tối lù mù nên bà còn sợ ma, có lúc phải đi giật lùi. “Thôi thì cũng còn tôi để lái xe cho ông tổng thống,” bà nói cho ông vui hôm sau trở lại nhà thương thăm ông. “Cám ơn bà,” ông Thiệu nhoẻn nụ cười đáp lại. Sau vụ 9/11, ông rất muốn rời Hawaii để trở về Boston ngay, nhưng tất cả các máy bay đều án binh bất động, cả tuần sau mới về được. Về tới nhà thì bệnh ông thêm nặng. Thứ Năm, ngày 27 Tháng Chín, 2001, ông bị té xỉu, rồi hôn mê. Tại Trung Tâm Y Tế Beth Israel Deaconess, ông đi vào giấc ngủ ngàn thu chiều Thứ Bảy, 29 Tháng Chín, 2001. Tổng Thống Thiệu ra đi chưa tới ba tuần sau biến cố 9/11. Trong một bài bình luận thật dài đăng trên mạng với tựa đề “Nguyễn Văn Thiệu và Cuộc Khủng Bố 11 Tháng Chín,” tác giả David Bennett bình luận: “Cái chết của ông Thiệu trong Tháng Chín vừa qua nêu lên một câu hỏi: Liệu Hoa Kỳ có quyết tâm để chiến thắng cuộc chiến chống khủng bố này (tại Afghanistan) hay không…và liệu Hoa Kỳ có nhất định giúp xây dựng lâu dài một quốc gia Afghanistan hay không?” Lúc ấy thì ở thế giới bên kia, ông Martinô Nguyễn Văn Thiệu đã có câu trả lời. Sau khi ông mất, trong cảnh cô đơn giá lạnh ở Boston vào mùa Đông, chúng tôi cùng người bạn là Tiến Sĩ Tạ Văn Tài ở đại học Harvard University đến thăm bà. Bà sống đạm bạc, vẫn giữ nguyên bộ xa lông cũ kỹ nay đã sờn. Trên một cái bục cao bà để hình ông và một chai rượu xâm banh. Hỏi về chai rượu thì bà kể là cứ mỗi năm khi đến ngày kỷ niệm thành hôn của hai vợ chồng, ông mua một chai sâm banh, tự tay mở ra và mời bà uống với ông một ly, dù bà không biết uống rượu. Như vậy là bà muốn cùng ông giữ lại suốt đời cái kỷ niệm không bao giờ nhạt nhòa. Bà nói là người ta dèm pha là ông già với bà này cô kia, nhưng bà cũng chẳng để ý vì “tía đi rồi tía lại về.” Nghe vậy, anh bạn Tài phá ra cười, còn tôi thì lúc ấy cũng không hiểu tía là gì nên không cười. Thì ra con người bình dị, hiền hậu vùng đồng bằng Cửu Long còn khoan dung cả với người chồng. *** Có lần ông Thiệu hỏi người Mỹ nghĩ thế nào về ông, chúng tôi nói về một hai khía cạnh: Khen có, chê có, rồi thêm: “Tôi nghe một tướng Mỹ nói là tổng thống nhu nhược.” Ông Thiệu hỏi tại sao? Tôi trả lời là ông ấy nói “Tổng thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm gương.” Ông nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: “Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu.” Xét ra thì trong suốt thời gian 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không có tội nhân nào phải ra pháp trường. Trên bàn thờ nhà bà Thiệu ở Newton, Massachusetts, vẫn còn treo một cái bảng với phương châm do chính ông viết rồi cho người thêu chữ thật to “Đức Lưu Quang” (Ánh sáng của đạo đức tồn tại mãi). Bà luôn chỉ vào đó mà dạy con cái phải ăn ở cho có đức. Nếu chúng ta tin rằng mọi việc trên cõi đời này đều do Trời an bài xếp đặt, thì Trời cũng phù hộ ông Thiệu trải qua nhiều nguy hiểm trong gần 10 năm chèo lái con thuyền miền Nam Việt Nam qua bao nhiêu sóng gió. Theo như những chuyện ông kể lại thì đếm ra cũng có tới sáu lần ông bị đe dọa làm ông cảnh giác về đảo chính. Như vậy thì Trời cũng đã giúp cho bà Thiệu không phải trở thành quả phụ của một tổng thống khi còn đương nhiệm. Ngày 15 Tháng Mười, 2021, bà đã theo ông về thế giới bên kia. Ở đó thì “Cô Bảy Mỹ Tho” Nguyễn Thị Mai Anh sẽ mãi mãi được gần “Cậu Tám Phan Rang” Nguyễn Văn Thiệu. [đ.d.] ********************************************* Cựu ngoại trưởng Vương Văn Bắc qua đờiLuật sư Vương Văn Bắc Luật sư - Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoàng Sa và Trường Sa Cựu Ngoại trưởng của Chính quyền VNCH trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng nhất ở thập niên 1970, ông Vương Văn Bắc đã qua đời. Tin từ Pháp cho hay luật sư Vương Văn Bắc qua đời tại Paris hôm 20/6. Sinh năm 1927, quê Bắc Ninh, ông Vương Văn Bắc cũng từng làm đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh Quốc năm 1972. Báo chí của người Việt ở hải ngoại cũng nhắc rằng ông Vương Văn Bắc có mặt trong phái đoàn của Chính quyền VNCH tham dự hòa đàm Paris năm 1973 và thay ông Trần văn Lắm làm Tổng trưởng Ngoại giao sau đó. Nhân danh quốc gia Được biết vào tháng 1/1974, ông đã lên án trước thế giới hành động xâm lấn của Trung Quốc và tuyên bố tác khẳng định chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên quần đảo Hoàng Sa sau vụ tiến chiếm của hải quân Trung Quốc cộng sản. Văn bản này hiện được nhiều trang web tiếng Việt ở nước ngoài lưu lại có nội dung như sau: Sự kiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những phần tử bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là một sự kiện hiển nhiên và không chối cãi được Bộ trưởng Vương Văn Bắc Ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng bỗng nhiên lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam Cộng Hòa. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa đã bác bỏ đòi hỏi vô căn cứ đó. Mặc dầu vậy, trong những ngày gần đây, nhà cầm quyền Trung Cộng không những đã không rút lại sự đòi hỏi vô lý của mình lại còn ngang nhiên xâm phạm vào chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa bằng cách cho người và tàu bè xâm nhập vào vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond) thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands) của Việt Nam Cộng Hòa. Thậm chí bọn người này còn dám đặt chân lên các hòn đảo này, dựng chòi và kéo cờ Trung Cộng, trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa." Nhân danh chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, Luật sư - Ngoại trưởng Vương Văn Bắc nói: "Trước những sự vi phạm thô bạo đó, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam Cộng Hòa rất công phẫn và quyết không dung thứ. Sự kiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những phần tử bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là một sự kiện hiển nhiên và không chối cãi được, căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử và pháp lý quốc tế..." Cũng vào giữa năm 1974, ông Vương Văn Bắc đã phát biểu tại Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Kỳ III về Luật Biển ở Caracas gồm 150 nước tham dự về Hoàng Sa và Trường Sa. Theo lời kể của ông Bấm Trần Văn Khởi, nguyên Tổng Cục Trưởng Dầu Hỏa và Khoáng Sản VNCH thì ông Bắc đã "lưu loát trình bày nội dung khúc chiết lập trường chính thức của Việt Nam Cộng Hòa để đưa vào biên bản của Liên Hiệp Quốc". Như thế, vẫn theo ông Khởi trong bài trên trang web của mình, "Lịch sử Hoàng Sa- Trường Sa ở Liên Hiệp Quốc, trước đây đã có tuyên bố Trần Văn Hữu ở San Francisco 1951, nay lại ghi thêm tuyên bố Vương Văn Bắc ở Caracas 1974". Theo các báo tiếng Việt ở Mỹ, vào những giờ phút nóng bỏng nhất của chế độ VNCH Sài Gòn, tháng 4 năm 1975, ông Vương Văn Bắc được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử sang Ảrập Saudi để tìm cách vay tiền cho Việt Nam Cộng Hòa. Khi Sài Gòn thất thủ, ông Vương Văn Bắc bị kẹt lại ở Anh Quốc lúc ghé thăm gia đình trên đường về nước. Sau cuộc chiến Việt Nam, ông định cư tại Pháp cho tới lúc qua đời.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2016 1:11:17 GMT 9
Bà Nhu như tôi từng biếtBà Trần Lệ Xuân sinh năm 1924 tại Hà Nội trong một gia đình danh giá: thân mẫu của bà là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và em họ của vua Bảo Đại, nhà vua cuối cùng của triều Nguyễn.
Thân phụ của bà là Luật sư Trần Văn Chương, người từng giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ.
Thời bé, bà Trần Lệ Xuân học trường Albert Sarraut và tốt nghiệp tú tài Pháp.
Năm 1943 bà kết hôn với ông Ngô Đình Nhu đồng thời bắt đầu theo Công giáo. Ông Ngô Đình Nhu là em trai và là cố vấn cho Tổng thống VNCH lúc đó là ông Ngô Đình Diệm, vì vậy bà Trần Lệ Xuân còn được gọi là 'Bà Cố vấn'.
Vì Tổng thống Diệm không có vợ, nên bà cũng được coi là Đệ nhất Phu nhân VNCH (1955-1963).
Với các phát biểu và hành động thẳng thừng, nhiều khi bị chỉ trích là bất cẩn và quá khích, bà bị cáo buộc "lộng quyền", và có người cho rằng đã góp phần làm tăng sự bất mãn đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, dẫn tới cuộc đảo chính ngày 01/11/1963.
Khi xảy ra đảo chính và cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu, bà Trần Lệ Xuân và con gái lớn là Ngô Đình Lệ Thủy đang công cán nước ngoài. Kể từ đó, bà sống lưu vong, không quay trở lại Việt Nam.
Những năm cuối đời, bà sống tại Rome, Ý.Bà Trần Lệ Xuân Người được coi là như là cựu 'Đệ nhất Phu nhân' của nền Đệ nhất Cộng hòa ở miền Việt Nam, bà Trần Lệ Xuân, vừa qua đời ở tuổi 87. Bà là vợ của ông Ngô Đình Nhu, em trai Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tin bà Trần Lệ Xuân qua đời được loan báo tới các phương tiện thông tin đại chúng từ luật sư Trương Phú Thứ, một trong số ít người có tiếp xúc, trò chuyện với bà trong những năm gần đây. Từ Seattle, Hoa Kỳ, ông Trương Phú Thứ cho BBC biết: LS Trương Phú Thứ: Tôi được biết bà Nhu nằm viện đâu chừng ba tuần lễ trước khi qua đời. Khi bà thấy mệt quá thì bác sỹ họ đưa vào trong nhà thương nằm trong tình trạng rất yếu, gần như không nói được nữa. Tới Chủ nhật vừa rồi thì tôi nhận được điện thoại của gia đình bà từ bên Rome, nói bà đã qua đời vào lúc 2 giờ sáng giờ địa phương. Tất cả ba con của bà đều có mặt lúc ấy. Trước khi mất khoảng ba năm, bà Nhu ở nhà với con trai cả là Ngô Đình Trác, tại Rome (Ý). Cô con gái út là Ngô Đình Lệ Quyên cũng ở nhà đó, trong tầng hầm. Cả gia đình ở với nhau rất vui vẻ hòa thuận. Vậy cho nên bà qua đời là cả gia đình có mặt. Con trai thứ của bà Nhu là Ngô Đình Quỳnh thì sống và làm việc bên Bỉ. BBC: Vậy thông tin nói bà Trần Lệ Xuân sống một mình trong biệt thự xa hoa lộng lẫy mà bạn của bà tặng thì là tin thất thiệt? LS Trương Phú Thứ: Tin đó cũng như tin mà một vị tự xưng là sử gia tung ra, rằng bà Nhu có tới 17 tỷ Mỹ kim từ những năm 1960-1961. Tôi chỉ hỏi liệu hồi đó mang cả Sài Gòn ra bán có thu được 17 tỷ Mỹ kim hay không! Thứ hai nữa, sau vụ đảo chánh 1963 bà Nhu phải ở trong một căn phòng studio chật chội, không có phòng ngủ, với bốn đứa con, chứ làm gì có lâu đài xa hoa như họ nói. Cũng như là thông tin bà bị mất trộm một số tiền lớn ở Rome, hay năm 1963 bà đi mua đồ trang sức trị giá 30.000 đôla ở New York mà quịt không trả... Toàn chuyện họ bày đặt ra, đâu có được. BBC: Thưa, lần cuối cùng ông có tiếp xúc với bà Trần Lệ Xuân là khi nào? BÀ CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU Sinh năm 1924 tại Hà Nội Tốt nghiệp tú tài trường Albert Sarraut Kết hôn với ông Ngô Đình Nhu năm 1943 Sống lưu vong từ năm 1963 sau khi có đảo chính ở miền Nam Việt Nam LS Trương Phú Thứ: Lần cuối tôi nói chuyện với bà là chừng cách đây hơn hai tháng. Lần ấy bà còn khỏe lắm, tiếng nói khỏe và rất to, trong cuộc nói chuyện bà còn cười rất vui vẻ. Vậy mà tôi cũng không ngờ bà suy sụp mau lẹ như vậy. BBC: Và các cuộc nói chuyện của ông với bà Trần Lệ Xuân là để bàn thảo về cuốn sách của bà ấy phải không ạ? LS Trương Phú Thứ: Vâng, đúng là như vậy. Bà Nhu viết bằng tiếng Pháp vì tiếng Việt bà viết không được giỏi nhưng tiếng Pháp của bà thì anh bạn tôi là Nguyễn Kim Quý, tiến sỹ văn chương Pháp, phải công nhận là lối hành văn của người rất giỏi Pháp văn. Bà học trường Tây, có tú tài phần hai và cũng sống ở Pháp nhiều năm. Hồi tôi đi thăm bà lần đầu bên Paris năm 2002, bà sống một mình trong một căn hộ bên đó. Lại nói về điều kiện sinh sống thì căn hộ đó của bà trông cũng rất bình thường, không thể so được với nhiều căn hộ bên Mỹ, mà lại tận trên tầng lầu thứ 11. Người già mà có tiền ai người ta chịu sống như vậy chứ? Cuốn sách của bà Nhu thoạt ra dự tính sẽ phát hành vào tháng 9 năm nay, thế nhưng với cái chết đột ngột của bà thì chúng tôi phải tạm hoãn phát hành để truy cứu cho thật cẩn thận, không thể vội vàng được. Vậy cho nên cuốn sách chắc sẽ ra trễ hơn độ dăm ba tháng. BBC: Lần đầu tiên ông yết kiến bà Trần Lệ Xuân thì ấn tượng của ông như thế nào ạ. Ông có ngỡ ngàng vì người thực khác xa với tưởng tượng không? LS Trương Phú Thứ: Cái hình ảnh mà hồi xưa chúng ta hay xem trên báo chí là hình ảnh một phụ nữ 28-29 tuổi, trẻ và đẹp. Nhưng hình ảnh của bà Nhu khi tôi gặp bà lần đầu là hình ảnh một bà cụ, tất nhiên là có khác nhau. Tôi thì không ngỡ ngàng, vì biết ai cũng phải như thế, con người ta ai mà chẳng phải già đi. Tất nhiên vẻ đẹp bên ngoài thì không thể giống như hồi xưa. Bàn tay người Mỹ Bà Trần Lệ Xuân trước tượng Hai Bà Trưng - hình trên tạp chí LIFE Bà Trần Lệ Xuân khi còn ở Sài Gòn BBC: Thế nhưng còn sự quyền uy của người phụ nữ từng được cho là một thời khuynh đảo chính trường, ông có cảm thấy điều này không ạ? LS Trương Phú Thứ: Thực ra, bà Ngô Đình Nhu có quyền lực gì? Giống như một cô ca sỹ, hát một bài có người khen kẻ chê, thì bà Nhu cũng vậy. Bà là vợ của một ông cố vấn, thậm chí còn không có sự bổ nhiệm chính thức của chính phủ. Vì ông cố vấn là em của ông tổng thống nên ông giúp ông tổng thống mà thôi chứ đâu có giấy tờ gì. Nói vì bà Nhu khuynh đảo mà chế độ sụp đổ là điều sai lầm. Quyết định lật đổ chính quyền Đệ nhất Cộng hòa và thủ tiêu anh em ông Tổng thống Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, không phải là quyết định của người Việt Nam, mà là của người Hoa Kỳ. Đó là quyết định của một nhóm siêu quyền lực đứng sau tòa Bạch ốc của Hoa Kỳ, vì lợi ích của nước Mỹ mà họ làm vậy. Ông Ngô Đình Diệm hay ai khác lúc đó làm tổng thống thì chắc đều chung số phận ấy cả. Mà chúng ta thấy, ông Tổng thống J.F. Kennedy, chỉ có trì hoãn hoặc từ chối thi hành đòi hỏi của nhóm quyền lực đó mà cũng bị ám sát chết dưới con mắt chứng kiến của hàng nghìn người. Tổng thống Mỹ còn như vậy, huống hồ là tổng thống của nước Việt Nam? BBC: Vâng nhưng thưa ông, chúng ta cũng không thể quên rằng bà Nhu được coi như Đệ nhất Phu nhân một thời vì ông Ngô Đình Diệm không lập gia đình, bà còn là dân biểu, Chủ tịch Hội phụ nữ. Và nhiều người cũng chưa quên những câu phát ngôn gây tranh cãi của bà, như trong chiến dịch đối với Phật giáo, vụ Hòa thượng Thích Quảng Đức... LS Trương Phú Thứ: Tôi thì thấy rằng đa số vụ, người ta muốn nhắm vào ông tổng thống, nhưng không biết làm cách nào. Ông Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải thánh nhân, tất nhiên ông cũng có sai lầm. Nhưng họ không bới móc tấn công được gì ông ấy, nên họ quay ra tấn công bà Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, trong các cuộc nói chuyện của tôi với bà Nhu, chúng tôi không bao giờ nói chuyện chính trị cả, ngay cả những chuyện xảy ra với bản thân bà lúc đó. Chúng tôi nói những chuyện khác, những điều rồi sẽ nằm trong cuốn sách sẽ phát hành trong tương lai. (Còn tiếp) Dòng họ Ngô Đình: (hình năm 1963, từ trái sang) Cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, em gái tổng thống Diệm, bà mẹ (ngồi), bà Trần Lệ Xuân, ông Ngô Đình Cẩn. Hàng con cháu: Trác, Quỳnh, Lệ Quyên, Lệ Thủy
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2017 2:24:08 GMT 9
TT. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN QUANG? TT. Thích Trí Quang Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có Thích Trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ”PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT” là một ổ cán bộ CS nằm vùng trước mũi của chính quyền. Vì giới quân nhân cầm quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này, khiến cho miền Nam bị rữa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng. Theo tôi biết, hiện nay ở hải ngoại, nhóm sư tăng đệ tử của Trí Quang, đa số là người miền Trung, trà trộn trong cộng đồng người VN tị nạn rất đông, cấu kết rất chặt chẽ, tạo thành một lực lượng, nếu mai sau thời cơ đến sẽ xử dụng. Tuy mang danh nghĩa tu hành, nhưng nhóm tăng sĩ Ấn Quang ở khắp nơi hải ngoại chỉ chuyên tâm nô nức ganh đua xây chùa bằng tiền cúng dường, vay mượn không lãi dài hạn của bá tánh. Có nơi con số lên tới hàng chục triệu, và thường xảy ra những cuộc tranh chấp, chửi bới nhau chí chóe... Đây là một hiện tượng đáng để các giới đồng bào khắp nơi hải ngoại phải đặc biệt quan tâm, cảnh giác đối với các tu sĩ đó trước khi quá muộn, như trường hợp Trí Quang. Bởi chính đức Phật đã dạy trong tạng luật ”MAHÃVIBHANGA”, đoạn Một: Có 5 hạng cướp thì hạng Tỳ Khưu không lo tu hành chân chính, chỉ ăn ngon mặc đẹp, chuyên lo xây chùa chiền, tu viện cho nguy nga đồ sộ bằng tiền của bá tánh là một hạng cướp nguy hiểm nhất. Vì tên tướng cướp thường còn bị pháp luật xét xử. Trong khi đó tên cướp mặc áo cà sa vẫn được tự do, đi đến đâu vẫn được bá tánh cúng dường vật thực ngon lành, tinh khiết, y phục, chỗ ở tốt đẹp, và xưng hô cực kỳ cung kính... (theo TÌM HIỂU PHẬT GIÁO, chương 14, Phật giáo với hàng tăng lữ của soạn giả Maha Thong Kham Medhivongs, Phật giáo nguyên thủy). Như trên tôi đã nói: TT Trí Quang là một cán bộ CSBV nằm vùng, đã chụp được thời cơ thuận lợi nhất là vụ treo cờ Phật Giáo, để nổi lên đánh phá miền Nam . Thực ra chẳng phải đến bây giờ dân chúng miền Nam mới biết tông tích của TT Thích Trí Quang, một cán bộ CSBV đội lốt tu hành, đã phát động cuộc đấu tranh năm 1963, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô. Tông tích và đường lối mượn danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống độc tài gia đình trị họ Ngô, mở đường cho sự rối loạn và sụp đổ của miền Nam vào tay CSBV năm 1975 của TT Trí Quang đã được một số người biết từ lâu. Nhưng hoàn cảnh chánh trị ở VN, từ năm 1963 cho đến 1975, đã không cho phép một ai có đủ can đảm để nói lên sự bí mật này. Nguyên do chẳng phải bản tánh cầu an, khiếp nhược của con người, mà còn bởi nhiều yếu tố khác nữa. Những người am tường thời cuộc đều nhận thấy rằng, vào khoảng thời gian ấy, trong không khí chánh trị hỗn độn như thế, giới Phật giáo đấu tranh miền Trung đã trở nên một lực lượng chánh trị vô địch, các tu sĩ miền Trung đã trở thành những kiêu tăng, dám giết người nhân danh ”đạo pháp”, chẳng khác gì các kiêu binh kiêu tướng, và tệ nạn tham nhũng, hối lộ bành trướng khắp các giai tầng chế độ, thì việc phanh phui bí mật cuộc đời của TT Trí Quang ra trước công luận lúc bấy giờ chỉ là một việc làm vô hiệu quả, đồng thời còn là một hành động tự sát một cách ngu đần. Hơn thế nữa, bạn đồng minh Mỹ đến VN với danh nghĩa giúp chúng ta “ngăn làn sóng đỏ”, nhưng tiếc thay, họ lại chỉ là một anh chàng khổng lồ mù lòa, với võ khí là cơ quan CIA trong tay nhưng chẳng khác nào khẩu súng nước trẻ con chơi. Những người khôn ngoan chẳng ai dám tin vào họ! Bạn đọc hãy tưởng tượng, ngay cả đến Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một cao tăng đã có một địa vị vững chắc trong khối Phật Giáo VN và cả trên trường quốc tế, thế mà trong thời gian còn ở VN vẫn phải làm thinh “mũ ni che tai”, tránh voi không xấu mặt nào. Sau năm 1975, khi ra hải ngoại sống cuộc đời lưu vong, Hòa Thượng Thích Tâm Châu vẫn tiếp tục “thủ khẩu như bình”, mãi cho đến năm 1994, Hòa Thượng mới công bố quyển “BẠCH THƯ”, trong đó có kể lại đôi điều liên quan đến TT Thích Trí Quang và phái Phật Giáo đấu tranh miền Trung, sau hiệp thành tổ chức gọi là: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO V.N. THỐNG NHẤT”, trụ sở đóng tại chùa Ấn Quang, nên còn gọi là phe “PHẬT GIÁO ẤN QUANG”. Phe nhóm này chủ trương đấu tranh bạo động, gây rối loạn không ngừng ở khắp miền Nam , theo sách lược của CSBV. Đối với HT Tâm Châu, mặc dù là đồng đạo, nhưng phe Phật Giáo Ấn Quang vẫn dùng thủ đoạn khủng bố để uy hiếp tinh thần. Nơi trang 24, của Bạch Thư, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau: ”Tôi về tới VN Quốc Tự (VNQT), bước chân vào cửa văn phòng viện trưởng Viện Hóa Đạo (VHĐ) của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: ”YÊU CẦU CÁC THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU”. Tôi định lên chánh điện VNQT lễ Phật, tại đây có mấy vị tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện VNQT và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của họ. Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA. Và người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có sư cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.” Trang 25, HT Tâm Châu viết tiếp: ”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời... TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật Tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của quân đội chính phủ, cho các cán bộ CS nằm vùng trà trộn tẩu thoát... Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa. Đem Phật ra đường rồi, TT Trí Quang vào tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau chính phủ đưa TT Trí Quang vào Sài Gòn, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tài (* Đến đây, tôi xin mở dấu ngoặc để nói thêm về dưỡng đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, để bạn đọc hiểu rõ hơn. Tôi quen với vợ chồng bác sĩ Tài từ năm 1965, khi tôi với Hồ Ngọc Cứ và Nguyễn Duy Tài cùng ra tranh cử Hội Đồng Đô Thành. Tôi biết cả nguyên nhân tiền bạc, do đâu mà vợ chồng BS tài đã có để lập nên nhà bảo sanh này. Nhưng đó là chuyện riêng của bà tài, đã xả thân để gầy vốn cho chồng làm ăn, nên tôi không đề cập vào đây làm chi). Tôi chỉ đề cập đến BS Tài. Vì hành động của ông ta liên quan đến chánh trị và gắn bó với Trí Quang. Đó là một nhà bảo sanh tư, nằm trên đường Duy Tân, nổi tiếng chuyên môn các dịch vụ phá thai bất hợp pháp, với giá cắt cổ. Những sản phụ nào gần chết mà không đủ tiền cũng đừng hòng được nhận bệnh. Một hôm, thảm cảnh thương tâm sau đây đã xảy ra: một trung sĩ ở trong xóm nhà thờ Tân Định, sau đường Hiền Vương, góc ngã ba Duy Tân, có vợ sanh khó, mất máu quá nhiều đến ngất xỉu mê man rồi. Người chồng đem vợ đến dưỡng đường Duy Tân của BS Tài gần đó xin cứu cấp. Bác Sĩ Tài đòi phải đóng tiền trước đủ 18.000 đồng mới cho nhập viện. Viên hạ sĩ quan nghèo, không đủ tiền, lạy lục xin cho đóng trước vài ngàn, còn lại sẽ trả sau. Bác sĩ Tài trả lời lạnh lùng: ”Không có tiền thì đem đi nhà thương thí, chớ đem đến đây làm gì?!” Và nhất định không nhận bệnh. Sản phụ đó chết. Người chồng đau đớn quá, mỗi chiều chiều, dắt bầy con thơ nheo nhóc đến trước dưỡng đường BS Tài ngồi khóc kể, réo đích danh Nguyễn Duy Tài chửi bới thậm tệ. Chuyện này đã kéo dài cả tháng trời. Những ai có dịp qua lại đường Duy Tân, ngang dưỡng đường Nguyễn Duy Tài thời đó đều không khỏi chạnh lòng khi chứng kiến cảnh thương tâm đó. Vậy, chuyện Nguyễn Duy Tài chứa chấp, nuôi dưỡng, săn sóc Thích Trí Quang trong bảo sanh viện Duy Tân chẳng qua chỉ là một hành vi ”mậu dịch tình cảm” giữa bọn người quyền thế, giàu có, bất lương với nhau. Quả nhiên, ít lâu sau, Nguyễn Duy Tài đã được khối Phật Giáo Ấn Quang cài vào một danh sách tranh cử Thượng Viện, rồi trở nên nghĩ sĩ, đại diện cho phe nhóm Phật Giáo Ấn Quang. Sau ngày 30. 4. 75, ra hải ngoại, tôi không lấy gì làm lạ khi thấy vợ chồng BS Nguyễn Duy Tài, ở Paris, liên hệ chặt chẽ với TT Thích Minh Tâm, (thuộc nhóm ”Phật Giáo Thống Nhất” miền Trung!). TT vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức) cho đến khi chánh phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4.66, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3.9.66... Tại miền Trung, TT Trí Quang cho tuyên truyền rằng: ”Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ Kim" và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao kỳ, đem quân đội ra tàn sát Phật Tử miền Trung... tại Sài Gòn TT Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ Kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ Kim. Thực ra, tôi chưa được một đô la của Mỹ, chứ nói chi đến vạn đến triệu...” Về chuyện Phật giáo Ấn Quang đem người và khí giới đến đánh chiếm và đốt phá VNQT, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau: ”Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng như Kiều Mộng Thu v.v... đột nhập vào VNQT bắt TT Viện trưởng VHĐ Thích Thiện Tường cùng với rất đông chư tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang. Ngày hôm sau Nha Tuyên Úy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VNQT... Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VNQT một lần nữa. Lần này họ bắt hết tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VNQT, và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự...” (trang 28) Về hành động của phe Ấn Quang đánh phá, đốt chùa, bắt nhốt tăng chúng, HT Tâm Châu viết: ”Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VNQT chia rẽ giáo hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn GHPGVNTH. Thực như câu phương ngôn của VN thường nói: ”Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng“. Cậy đông lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả ra chi cả! Cho đến nỗi những vị tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng giáo hội, cũng như các vị tăng ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay... Về vấn đề này, chính HT Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: ”CS từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng“... Khi quân CS từ rừng về Sài Gòn đã có gần 500 tăng ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón...” (trang 29). ...”Ngày 19.5.75, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.” (trang 30). Nói về tinh thần đấu tranh của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 22: ”Trong lúc xáo trộn, TT Trí Quang kéo thầy Quảng Độ (biết tiếng Anh), sư Bửu Phương (biết tiếng Miên) chạy xuống Tân Châu và đang định chạy sang Kamphuchia, thì Sài Gòn trở lại yên ổn, các vị lại trở về.”... Nhận xét về hành vi trốn chạy của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 34, đoạn 3, nguyên văn như sau: ”Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà thượng tọa cư ngụ tại đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau TT cùng hai vị tùy tùng trở về Sài Gòn thì ai cũng biết. Để xác tín việc này, ĐĐ Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho TT Trí Quang ngày 31. 12. 73 như sau: ”Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chánh phủ Nguyễn Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình hình biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các thượng tọa khác... Gần cuối lá thơ, ĐĐ Thích Quảng Thành với tính tình trung trực đã viết: ”Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa (Thích Trí Quang) với nhân vật “NHẠC BẤT QUẦN“, trong tiểu thuyết nổi danh của Kim Dung. Nhạc Bất Quần là chưởng môn của một võ phái nổi tiếng và được giới giang hồ xưng tụng là “Quân Tử Kiếm“, vì lối đánh và đường kiếm của ông rất quân tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một “ngụy quân tử“, với những mưu mô và thủ đoạn cực ác và cực nham hiểm”... (trang 35). NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH CỦA TRÍ QUANGNhân Bạch Thư này, tôi xin giới thiệu thêm về lai lịch, nguồn gốc của Trí Quang, một tên CS nằm vùng hạng gộc, đã tạo nên bao nhiêu biến cố bi thương cho đất nước suốt từ 1963 đến 1975. TT Trí Quang sanh năm 1922, năm nay đã 75 tuổi, tại làng Diêm Điền (còn gọi là Nại Hiên hay Kẻ Nại), thị xã Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo khổ nổi tiếng ở miền Trung. Hầu hết dân làng đều làm nghề nông, thợ mộc, hay làm thuê làm mướn, để kiếm sống qua ngày. Vì phong thổ, dân làng Diêm Điền có tật nói ngọng, như dân làng Thổ Ngọa, nên đi đến đâu mở miệng ra cũng khó lẫn. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính bảo thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích. Trong quá khứ, khi phong trào Văn Thân nổi lên, năm 1885, dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau đến đốt nhà thờ Sáo Bùn, nằm về phía Nam Đồng Hới, của Thiên Chúa Giáo, tạo nên một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu sống mấy trăm giáo dân trong đó. Sau trận đốt phá, giết chóc tàn bạo này của dân làng Diêm Điền, số giáo dân còn sống sót, đã phải chạy lên phía Bắc Đồng Hới lập nên một giáo xứ mới, gọi là Tam Tòa. Khi phong trào Việt Minh nổi lên, làng Diêm Điền đã dễ dàng trở thành “CÁI NÔI” của Cộng Sản, và dân làng này đều trở thành những tay Cộng Sản rất quá khích và khát máu. Đến năm 1947, khi quân Pháp đã tái chiếm Đồng Hới, vãn hồi an ninh, trật tự, và thiết lập đồn bót canh gác khắp tỉnh Quảng Bình, nhưng từ khoảng thời gian 1947 đến 1954, vẫn không một ai dám bén mảng đến làng Diêm Điền. Vì kẻ nào đã lạc bước đến làng đó đều kể như bị thủ tiêu luôn. Trong hoàn cảnh bần cùng ấy của làng Diêm Điền, TT Trí Quang đã xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là người anh cả của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha mẹ đặt tên cho là Phạm Văn Bồng. Ba người em của ông cũng đã được cha mẹ đặt tên cho. Nhưng vì gia cảnh quá túng quẫn, cha mẹ không nuôi nổi các con, nên người con trai lớn tên Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em lớn nhà họ Phạm đã xuất gia, qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình, cũng thuộc thị trấn Đồng Hới. Bởi nhân duyên ấy, nên về sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được HòaThượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang, Minh, Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại. Nhờ nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang và Phạm Minh đã được học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu cảnh hất học. VỢ PHẠM CHÁNH LÀM NỘI ỨNG ĐÁNH ĐỒN Đến năm 1945, khi phong trào Việt Minh nổi lên trên toàn quốc, Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu hành, tham gia kháng chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa, nên Phạm Minh đã được phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã, tại địa phương. Còn hai người em, tên Phạm Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Đội. Chẳng bao lâu sau, Phạm Chánh được kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du Kích. Nhưng đến ngày 4. 6. 47, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, thuộc phía Tây thành phố Đồng Hới. Lúc bấy giờ Phạm Chánh mới 21 tuổi. Còn người em út, tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội CSBV vẫn còn sống cho đến năm 1954, khi chia cắt đất nước. Sau khi Phạm Chánh đã bị Tây bắn chết, người vợ của Phạm Chánh cũng là một kháng chiến quân, đã từ chiến khu quay trở về làng Diêm Điền, xin phép được hồi cư, với lý do được gần gũi phụng dưỡng cha mẹ chồng. Điều nên biết là vợ của Phạm Chánh lúc bấy giờ còn rất trẻ, và là một thiếu phụ nhan sắc mặn mòi. Vợ Phạm Chánh cầm đơn xin giấy phép hồi cư, lên Đồng Hới, gặp thiếu úy Huỳnh Công Tịnh. Lúc bấy giờ TU Huỳnh Công Tịnh đang giữ nhiệm vụ trưởng Phòng Nhì của Trung Đoàn Nguyễn Huệ, bộ chỉ huy đóng ở Đồng Hới, đã nhận đơn và bắt cô ta phải làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa. Vợ Phạm Chánh tuân thủ, cam kết đủ mọi điều. Nhưng TU Huỳnh Công Tịnh vẫn còn nghi ngờ, nên ngầm ra lịnh cho thượng sĩ Phạm Phòng phải theo dõi sát hành tung của đương sự. Đồng thời TU Huỳnh Công Tịnh cũng ra lịnh cho trưởng đồn Diêm Điền biết sự hồi cư rất khả nghi của vợ Phạm Chánh, để đề phòng chu đáo. Quả nhiên, chỉ vài tuần lễ sau khi mới hồi cư, vợ của Phạm Chánh đã tìm cách lân la đến đồn Diêm Điền, làm quen với các binh sĩ trong đồn. Nhiều khi cô nàng còn đùa cợt lả lơi, ra chiều khêu gợi tình tứ với anh em binh sĩ. Không bao lâu sau, cô nàng tiến gần đến mục tiêu hơn. Vợ Phạm Chánh đem thân xác trẻ đẹp, còn hấp dẫn của mình ra để thực hiện Mỹ Nhân Kế, suồng sã bắt nhân tình với viên trưởng đồn. Trong những lần gần gũi thân mật, viên trưởng đồn nhận thấy cô nàng đã để lộ nhiều hành vi khả nghi như hay hỏi han về tình trạng binh sĩ trú đóng trong đồn, chú ý theo dõi các cuộc hành quân, và nhất là cô nàng đặc biệt quan sát các vị trí phòng ngự chung quanh đồn, các công sự chiến đấu trong đồn v.v... Vì thế viên trưởng đồn đã ngầm báo cáo cho TU Huỳnh Công Tịnh biết, để phác họa sẵn một chương trình “tương kế tựu kế”. Về mặt địa thế, đồn Diêm Điền nằm về phía Tây, cách thành phố Đồng Hới khoảng một cây số, và là một trong những đồn vòng đai bảo vệ thành phố. Khi đã nắm vững được tin tình báo, quân Cộng Sản Việt Minh sẽ kéo tới tấn công đồn Diêm Điền, lập tức trung đoàn Nguyễn Huệ liền âm thầm mở cuộc bủa vây, bố trí các địa điểm phục kích chung quanh đồn, đồng thời bố trí các loại súng phóng tạc đạn, súng cối, và các loại trọng pháo đều nhắm vào đồn. Tối hôm đó, như thường lệ, vợ của Phạm Chánh lại vào đồn ngủ với viên trưởng đồn. Khoảng 2 giờ sáng, khi đặc công đã thi hành xong kế hoạch cắt hàng rào kẽm gai, gỡ xong một số mìn chung quanh đồn, vợ Phạm Chánh liền dùng lửa làm ám hiệu, để cho đặc công ở ngoài bò vào trong đồn. Khi biết chắc đặc công CS đã bò vào sát đồn, viên trưởng đồn mới vùng dậy phóng ám hiệu cho các đơn vị phục kích đồng loạt khai hỏa phản công. Đến lúc bấy giờ, vợ của Phạm Chánh mới biết được kế hoạch của mình đã bại lộ, liền nhảy vào ôm ghì lấy viên đội trưởng. Giữa tiếng súng nổ ròn tứ phía như pháo ran, và tiếng súng cối nổ ì ầm chung quanh đồn, lúc bấy giờ hai người hãy còn trần truồng như nhọng, ôm nhau vật lộn xà ngầu. Cuối cùng viên trưởng đồn đã vớ được khẩu súng lục giấu sẵn dưới giường, bắn chết vợ của Phạm Chánh. Sáng hôm sau, dư luận cả thành phố Đồng Hới đều xôn xao bàn tán về vụ quân CS Việt Minh đã tấn công hụt đồn Diêm Điền. Người ta cũng thì thào bàn tán không ngớt về chuyện vợ của Phạm Chánh, đã dùng Mỹ Nhân Kế, làm nội gián trong vụ tấn công đồn Diêm Điền, nhưng mưu sự bất thành, và người góa phụ, em dâu của TT Trí Quang, đã bị bắn chết tại trận trong lúc thân xác còn lõa lồ. Vài ngày sau, bà mẹ của Thích Trí Quang đã bị cơ quan an ninh địa phương bắt giam mấy tuần lễ liền, để tra vấn về vụ người con dâu làm nội ứng trong vụ đánh đồn Diêm Điền. Nói về Phạm Minh, người em kế của Trí Quang, đã đi theo Việt Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Theo ký giả Robert Shaplen, đã viết trong quyển “The Lost Revolution” (Nhà x.b. Harper and Row, 1965), có đoạn kể rằng: Khoảng tháng 5, 1964, sau khi nhà Ngô sụp đổ, người em trai kế của Trí Quang, tên Phạm Minh, vốn là một ủy viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo, đội tên “Thích Diệu Minh” đã cùng với một cán bộ của MTGPMN lén vào chùa Từ Đàm thăm Trí Quang... TRÍ QUANG BỊ BẮTĐể giúp đồng bào nắm vững được các hoạt động chánh trị thiên Cộng liên tục của Trí Quang, khởi từ thập niên 30 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay CSBV, tôi thiết tưởng cần phải mời bạn đọc theo tôi lùi về dĩ vãng, từ khi Trí Quang còn là một tu sĩ trẻ tuổi. Tuy khởi đầu, cậu bé Phạm Quang nghèo khổ đã được HT Phổ Minh cho nương nhờ cửa Phật, để có chỗ ăn học. Ở Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết HT Phổ Minh là một vị cao tăng, đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tu. Nhưng ngài chỉ thông thạo Hán Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây học. Dù vậy, đến năm 1945, HT Phổ Minh lại không theo CSVM. Ngài đã ở lại vùng Pháp chiếm đóng, trong khi nhiều tăng sĩ Phật Giáo đã đi theo kháng chiến. Trong thời gian này, khoảng năm 1934, bác sĩ Lê Đình Thám (thân phụ của ông Lê Đình Duyên, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, cựu giáo sư trung học, cựu đổng lý Bộ Thông Tin, thời Nguyễn Khánh làm thủ tướng, cựu dân biểu thời đệ nhị Cộng Hòa), đã cùng với Thượng Tọa Thích Mật Thể lập ra trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào tạo tăng sĩ. Năm 1942, lúc đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi, đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, giám đốc trường. Năm sau, 1943, Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp. Nên biết HT Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc đảng này còn hoạt động trong bóng tối. Đến năm 1945, sau khi VM cướp chánh quyền, HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS, trong đó có Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...Về phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc kháng chiến”, và ra lịnh cho quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn v.v..., thì vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang trở về nơi sinh quán, làng Diêm Điền. Một thời gian ngắn sau, Trí Quang lại theo chân TT Thích Mật Thể ra Vinh. Nhưng Trí Quang chỉ ở Vinh có vài tháng, rồi lại quay trở về Diêm Điền, để giữ chức chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Bình. Đến năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Đồng Hới, Trí Quang rời làng Diêm Điền, đến cư ngụ tại làng Trung Nghĩa, vì Diêm Điền nằm quá gần thành phố, nên rất khó khăn thực hiện công tác bí mật. Trong thời gian này, Trí Quang hoạt động cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo và Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí Quang và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòa. Tuy bị trói giật cánh khủyu, nhưng không hiểu làm cách nào nửa đêm Nguyễn Tịch đã tự cởi trói và trốn thoát mất dạng. Ít lâu sau Trí Quang cũng đã được Pháp trả tự do. Riêng tên Toại Béo, vì trong thời gian hoạt động cho VMCS, đã chỉ điểm cho CSVM giết hại nhiều anh em hoạt động chánh trị quốc gia, chống CS, nên khi bị bắt, Toại Béo đã phải trả nợ máu. Quân Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn, rồi chặt đầu, đem bêu ở chân Cầu Dài, phía Nam thành phố Đồng Hới. Về sau, Pháp còn đem chiếc đầu lâu của Toại Béo về bêu ở cổng Quảng Bình Quan, nằm về phía Tây thành phố. Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang lại bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí mật và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh. Lần này Trí Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa. Sau lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang nhận thấy quê hương Đồng Hới không còn là nơi dung thân với những hoạt động bí mật được nữa, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ đó, bề ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng ngấm ngầm bên trong ông vẫn tiếp tục hoạt động cho CSVM. TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNHKhoảng năm 1953, CSVM khởi sự chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Một mặt vẫn đánh nhau kịch liệt với Tây, mặt khác CSVM mở chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải ngoại, để áp lực Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình được CS lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạo. Ở miền Nam, Trí Quang đã hoạt động tích cực để ủng hộ ủy ban này. Đến năm 1954, sau Hiệp Định Genève, luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa Bình” để yểm trợ cho đường lối chánh trị của CSBV. Ở Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế, do Trí Quang thành lập, ngay từ giây phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có sự tham gia của một số trí thức miền Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v... Lúc này ông Diệm đã về nước chấp chánh. Ngày 29. 8. 54, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2 điểm: yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam , và phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève. Gần một tháng sau, ngày 21. 9. 54, Phong Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc. Trước tình thế đó, bắt buộc chánh phủ Ngô Đình Diệm phải tỏ thái độ. Ngày 7.11. 54, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào này. Ở Sài Gòn, LS Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị bắt. Ở Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng lưới an ninh. Nhưng, ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn lại muốn nhân dịp này noi gương Gia Cát Lựơng, trổ tài “thất túng, thất cầm” Mạnh Hoạch. Ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Cẩn tin chắc rằng: với những tài liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữa. Đến ngày 9. 2. 55, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ra lịnh tống xuất 26 nhân vật đầu xỏ của PTHB ra Hải Phòng, trao cho CSBV. Nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến và Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Văn Đẳng... Như thế, ta không lấy làm lạ chẳng bao lâu sau, Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà Ngô trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh viện trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công ty bào chế thuốc tây OPV, tiền bạc vô như nước lụt! Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi giữ chức tỉnh trưởng. Từ năm 1955 đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế. Riêng Trí Quang thì được Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho thêm phần khang trang, mỹ lệ. Nên biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “Ấn Tôn Tự” bị coi như phạm húy). Vì là một ngôi cổ tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ, nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã bắt đầu bị hư mục. Bởi thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung, nhất là dân Huế, không còn ai lấy làm lạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẫn đã đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với TT Trí Quang. Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm thêm hào quang và làm tăng thêm uy tín cho Trí Quang. Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng Nhì Pháp trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã nắm gọn được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai lầm hoàn toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn. Ông đã chơi trò chánh trị, muốn bắt chước Gia Cát Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, nhưng rất tiếc, tài trí của ông Cẩn không sánh được với Khổng Minh. Còn Trí Quang lại là một tay cán bộ CS thâm căn cố đế, thì không bao giờ có thể trở thành Mạnh Hoạch được. Như vậy, nói theo kiểu người Tây phương, ông Cẩn đã “đùa với lửa”, còn nói theo kiểu VN ta thì ông Cẩn đã chơi trò “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, chẳng trước thì sau anh em nhà ông Cẩn cũng sẽ bị Trí Quang tiêu diệt, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. TRÍ QUANG VÀ CHẾ ĐỘ TT DIỆM Cho đến nay ai cũng biết T.Th. Ngô Đình Diệm đã bị quân đội, theo lệnh của Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, gỉa thiết, nếu bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ O.Diệm thì dù cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc thêm ba đầu sáu tay cũng không làm nên chuyện. Nhưng trên thực tế, ta phải nhìn nhận rằng, lúc khởi đầu Trí Quang và Thiện Minh đã chủ động trong việc phản đối lệnh giới hạn việc treo cờ Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản năm 1963. Chẳng bao lâu sau cuộc phản đối này đã được sự hộ trợ tích cực của tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở Huế và một số tỉnh ở miền Trung, biến thành cuộc đấu tranh chánh trị, núp dưới danh nghĩa Phật Giáọ Đặc biệt nhất là sự yểm trợ của một số cán bộ cao cấp CS nằm vùng gồm: Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hồ Cầm... Trong thời gian Trí Quang dùng Phật Giáo để đấu tranh, dân xứ Huế ai cũng thấy Võ Đình Cường, Nguyễn Trực, và Tống Hồ Cầm đều là những cánh tay mặt và tay trái của Trí Quang. Nhưng trên thực tế, các cán bộ CS cao cấp ấy đều là “cố vấn trực tiếp chỉ đạo” của Trí Quang. Vì thực chất Trí Quang chỉ là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học, với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình độ Hán học của một nhà Nho, và cũng không có chút hiểu biết gì về Tây học. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm thông dịch viên. Với căn bản đó, nên tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn hẹp, nhất là trên bình diện chánh trị quốc tế. Theo hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng viên CS thâm niên. Cường đã được kết nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Viện đại học này tọa lạc ở gần đầu cầu Trương Minh giảng. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác tuyên vận trong giới Phật Giáo miền Trung. Suốt trong thời gian từ 1947 cho đến 1965, Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần, nhưng đều được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự do. Kể từ cuối năm 1963, tựa vào thế lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình Cường đã ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh của chế độ đệ nhị CH miền Nam. Sau năm 1975, Võ Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của khối PG thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, tp Sài Gòn. Về phần Thích Nhật Thiện, bí thư của Trí Quang, tuy là tay chân thân tín của Trí Quang, nhưng sau ngày 30.4.75, cũng đã bị CSBV bắt giam để điều tra, vì bị tình nghi đã hoạt động gián điệp cho CIA Mỹ. CSBV đã căn cứ trên sự kiện, đêm ngày 22. 8. 63, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Công An Cảnh Sát vây bắt tất cả sư sãi trong các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... không một ai thoát được, duy chỉ có Trí Quang, đã nhờ Thích Nhật Thiện đem đi trốn trong cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ. (Trong tác phẩm VNNC của Trần Văn Đôn cũng có ghi điều này). Vậy, phải chăng Thích Nhật Thiện đã có móc ngoặc với CIA Mỹ? Còn Trí Quang thì sao? Đó là những vấn nạn trầm trọng cho cả hai thấy trò Trí Quang và Nhật Thiện! Ngoài ra, tôi còn được biết thêm Thích Nhật Thiện, tên thật là Lê Mậu Chí, còn gọi là Hàm, sanh quán tại Thừa Thiên. Trước di cư năm 1954, Lê Mậu Chí đã làm công an thuộc ty CA Đồng Hới, rồi chuyển vào ty CA Khánh Hòa. Tại đây, vì gian díu tình ái lăng nhăng, Lê Mậu Chí đã bị đổi ra chi CA Sông Cầu. Không bao lâu sau, năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải luôn khỏi ngành CA. Mất việc, Lê Mậu Chí mò vào Sài Gòn, xin xuất gia đầu Phật, và học thêm Anh Văn. Khoảng các năm 1963 đến 65, Thích Nhật Thiện trụ trì tại một ngôi chùa thuộc quận Nhì, gần khu chợ Cầu Muối. Trong thời gian này, khi ra tranh cử ở quận Nhì, tôi và Hồ Ngọc Cứ thường gặp Thích Nhật Thiện. Theo dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ khởi đầu, lúc tháng 5. 1963 cho đến ngày miền Nam mất vào tay CSBV, người ta nhận ra các phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng Sản đã được Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng triệt để. Cao điểm của cuộc đấu tranh Phật giáo miền Trung đã đạt được là đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC” sặc mùi Cộng Sản, và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, do toàn cán bộ CS nằm vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến, chủ tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao Huy Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đang ở Pháp)... Vì cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc sụa mùi CS, và lộ liễu quá, nên khó thu hút được các thành phần khác, nên chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như đảng CSVN cải danh thành đảng Lao Động vậy! Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của HĐNDCQ, ra đời với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm mục tiêu thừa thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình trị áp bức nổi dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu mục tiêu lớn, toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa hiệp với một số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ TRỊ”, làm cho chế độ miền Nam bị tê liệt. Trong thời gian, kể từ sau ngày 1.11.63 trở đi Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một lãnh chúa quyền khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể mặt. Điều này ai cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Dương Văn Minh, một cán bộ CS nằm vùng ở trong Nam giống hệt như Trí Quang nằm vùng ở miền Trung, đến giờ phút cuối cùng, ngày 30.4.75, vẫn còn phải “nhất bộ tam bái” đến “HOÀNG CUNG ẤN QUANG” chầu chực Trí Quang cả ngày lẫn đêm, để lãnh chỉ thị! Căn cứ trên các sự kiện kể trên, ta mới có thể hiểu được cách chính xác, vì sao sau ngày chế độ nhà Ngô sụp đổ, các tay chân thân cận của gia đình họ Ngô như: BS Lê Khắc Quyến đã không bị kết tội “DƯ ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ”, Nguyễn Cao Thăng, đã kinh tài cho Ngô Đình Cẩn và đảng Cần Lao mà không bị rụng sợi lông chân nào, lại còn được hưởng trọn gia tài OPV của Cẩn để lại. Riêng vụ nổ trước đài Phát Thanh Huế, chỉ riêng một mình thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng Nội An, cấp thừa hành của tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, bị đưa ra tòa truy tố và bị tù khổ sai chung thân. Trong khi đó, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, kiêm thị trưởng thành phố Huế, người chịu trách nhiệm toàn bộ hành chánh và an ninh tại địa phương lại được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, rồi về sau lại còn được chuyển về bộ Quốc Phòng giữ chức Công Cán Ủy Viên, thời tướng Đôn làm tổng trưởng. Bạn đọc có biết tại sao không? Vì Đẳng vốn là tay chân bộ hạ thân tín từ lâu của Trí Quang trong các Phong Trào Hòa Bình đấy! CẤU KẾT GIỮA TRÍ QUANG VÀ LÊ KHẮC QUYẾNTrong phong trào Phật Giáo đấu tranh miền Trung năm 1963, do Trí Quang và một số tăng ni nằm vùng và toàn thể cán bộ CS trong chi bộ Thuận Hóa của Lê Khắc Quyến tích cực yểm trợ. Bọn CS nằm vùng này biết rõ hơn ai hết, các thầy trong chùa Từ Đàm chỉ có một số PT giới hạn, nhưng không có cán bộ xách động đấu tranh chuyên nghiệp. Bọn CS có cán bộ thành thạo việc xách động quần chúng, biết cách tổ chức đấu tranh có qui củ. Trong khi đó quần chúng VN đại đa số đều nghèo khổ, không có địa vị, nên thường dễ dàng nghe theo lời tuyên truyền rỉ tai, và dụ dỗ của CS nằm vùng. Nếu có kẻ nào cứng đầu, không nghe, bọn CS nằm vùng không ngần ngại gì áp dụng ngay biện pháp hù dọạ Có khi chúng dùng chính bàn tay của cơ quan an ninh và chánh quyền địa phương mù quáng, để thực thi những lời hăm dọa của chúng, khiến cho người dân thấp cổ bé họng chẳng còn biết nương tựa vào ai, phải khiếp sợ ngấm ngầm CS. Ngay trong giai đoạn đầu, bọn cán bộ CS nằm vùng kể trên đã xuất hiện với lý do chính đáng là ủng hộ triệt để yêu sách của Phật Giáo, nguyện hy sinh tranh đấu cùng các tăng ni, Phật tử, rồi lại còn hô hào vận động thêm quần chúng tham gia đông đảo hơn nữạ Sau đó các thầy được đề cao lên đến tận chín tầng mây xanh, tưởng chừng như đức Phật Thích Ca sống lại cũng không bằng. Trong trường hợp này, dĩ nhiên các thầy đều không khỏi sướng rên lên. Vì các thầy đâu đã thành Phật hay Bồ Tát gì. Trong bụng ông thầy tu nào cũng vẫn có một phần cơm và một phần cứt như mọi chúng sinh thôi! Từ đó các thầy chẳng khác nào những con cá đã ngậm phải lưỡi câu vô hình của bọn CS nằm vùng. Khi chợt biết ra, các thầy muốn nhả lưỡi câu trong họng cũng không còn kịp nữa. Vả lại, một khi đã được "thần thánh hoá" rồi còn ai dại gì muốn quay đầu trở lại, hiện nguyên hình làm một tên phàm phu tục tử nữả! Aáy là chưa kể đến yếu tố TT Trí Quang chính là một cán bộ CS gộc. Điều này, tôi sẽ chứng minh trong một đoạn tớị Sau hơn 20 năm lưu vong, đồng bào tị nạn ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã biết hết cả rồi. Trong đoạn này, tôi cần phải chứng minh cho mọi người thấy rõ cuộc đấu tranh của PG miền trung đã bị CS nằm vùng thao túng và lộng hành từ đầu đến cuối, như đang giữa thủ đô cờ đỏ sao vàng Hà Nộị Các sư Trí Quang, Thiện Minh chỉ là những kẻ cho mượn danh nghĩa, các chùa Từ Đàm, Diệu Đế chỉ là diễn trường của những vở bi hài kịch, và lá cờ PG chỉ là một cái vỏ bọc ngoài của một cái nhọt chánh trị đã tới hồi cương mủ, phải được xì ra. Nếu bạn đọc là những người từng theo dõi thời cuộc nước nhà trong những tháng từ 5 đến 11, năm 1963, chắc hẳn chưa quên tờ báo "LẬP TRƯỜNG", với nhóm cán bộ CS nằm vùng đứng đầu là BS Lê Khắc Quyến. Ngay từ lúc này, chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh em nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đã đào tẩu thiên đàng CS, chạy qua Paris rồi!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình Cường, cư sĩ PG, tác gỉa cuốn "ÁNH ĐẠO VÀNG"... đã nhập cuộc. Hiện nay Lê Khắc Quyến đã chết rồi, nhưng các đồng chí của ông ta vẫn còn sống và đang hoạt động cho CS. Bây giờ Võ Đình Cường đang phụ trách báo "GIÁC NGỘ", ở đường Nguyễn Đình Chiểu, (tên cũ Phan Đình Phùng) là một tờ báo của tổ chức PG quốc doanh Hơn thế nữa, nhóm CS nằm vùng này lại còn lập ra một tổ chức nhân dân hoàn toàn rập khuôn theo kiểu CS, với cái danh xưng cũng nồng nặc mùi CS là: "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC". Chính Lê Khắc Quyến đã đứng tên chủ tịch của Hội Đồng. Nhóm ấy đã núp dưới danh nghĩa PG đấu tranh, lợi dụng tình thế rối loạn ở miền Trung, ngày 21. 9. 1964 đã tụ tập và kéo nhau đến đánh chiếm đài phát thanh Huế, đốt phá nhiều cơ sở chánh quyền ở Huế và Qui Nhơn... Đêm 23.1.65, bọn "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC" của Lê Khắc Quyến còn kéo nhau đến phòng thông tin Mỹ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ, gây thiệt hại trên 5000 quyển sách. Khi đó, ông phó lãnh sự Mỹ hay tin, đến nơi lo chữa cháy để cứu sách trong thư viện cũng đã bị bọn tay chân bộ hạ của Lê Khắc Quyến chọi đá vào ông ta, khiến ông ta đã bị thương trầm trọng, phải đưa vào nhà thương cấp cứụ Hành động lợi dụng danh nghĩa PG đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bọn Lê Khắc Quyến và HĐNDCQ của hắn đã phá rối nền trị an ở Huế đến cùng cực. Những ai đã từng ở Huế trong thời gian này đều không khỏi ngao ngán, tưởng chừng như là một nơi "VÔ CHÁNH PHỦ" hay CSBV sắp vào tiếp thu đến nơi rồi! Mặc dù Lê Khác Quyến và đồng bọn đã hành động phản bội quân dân miền Nam cách trắng trợn và công khai như thế - chỉ còn thiếu việc kéo cờ đỏ sao vàng lên Ngọ Môn Quan nữa mà thôi! - nhưng hắn vẫn không bị điều tra, và chẳng gặp chút khó khăn nào trước chánh quyền và luật pháp. Ngược lại, bọn độc tài quân phiệt Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu... vẫn còn trọng dụng và ưu đãi hắn. Ngày 8. 9. 1964, Lê Khắc Quyến và Tôn Thất Hanh đã được bổ nhiệm vào cái gọi là: "THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUỐC GIA". Sau đó Lê Khắc Quyến lại còn được đổi vào Sài Gòn cho làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính, trong Chợ Lớn. Vây, Lê Khắc Quyến là aỉ Nhân dân cố đô Huế không ai lạ gì ông bác sĩ đã được hưởng nhiều ơn mưa móc nhất của gia đình nhà họ Ngô trong suốt 9 năm trờị Đồng thời người dân xứ Huế cũng thừa biết ông ta là người "thân với bên kia"! LÊ KHẮC QUYẾN LÀ AI.Ngay từ khi ông Diệm chưa về nước chấp chánh, năm 1952, BS Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà họ Ngô mời làm y sĩ riêng cho thân mẫu của ông Diệm. Đến khi ông Diệm về nước, làm thủ tướng, rồi làm tổng thống, quyền uy lừng lẫy một thời, ở ngoài Trung, ông LK Quyến ra vào dinh Phủ Cam hàng ngày như ra vào nhà của ông. Ngoài những ưu đãi về vật chất và thế lực chánh trị, LK Quyến còn được ông Diệm tặng riêng cho một chiếc xe du lịch hiệu Mercedes, trị gía khoảng 200.000 đồng. Thời kỳ 1955-56, loại xe này được qui định là xa xỉ phẩm, cấm nhập cảng cho quần chúng xử dụng. Xe đó thuộc chế độ ưu tiên nhập cảng, chỉ dành riêng cho chánh phủ và một số dân biểu gia nô trong quốc hội đệ nhất Cộng Hòạ Tưởng cũng nên nhắc lại một chút dữ kiện để bạn đọc trẻ tuởi ở hải ngoại dễ hình dung trị gía của số tiền 200.000 đồng VN thời 1955-56. Lúc ấy, người công chức chỉ được lãnh mỗi tháng khoảng 1.800 đồng. Với số lương đó, người ta có thể nuôi được vợ và một đứa con! Nhờ dựa vào thế lực nhà Ngô, LK Quyến còn được dạy học tại đại học Y Khoa Huế, và sau đó kiêm luôn chức khoa trưởng Y Khoa, thuộc viện đại học Huế. Trong thời kỳ này chi bộ Thuận Hoá, dưới quyền chỉ huy của cán bộ LK Quyến vẫn âm thầm hoạt động, thật kín đáo, để không bị lộ tung tích. Dù bận rộn một lúc nhiều chức vụ, nhiều công việc quan trọng, như: y sĩ riêng cho bà thân mẫu TT Diệm, giáo sư, khoa trưởng phân khoa y học, bác sĩ LK Quyến vẫn cố gắng duy trì phòng mạch của ông, đã mở từ trước năm 1952, tại gần cửa Thượng Tứ, Huế. Vì chính nơi đây là trạm giao liên, đồng thời còn là trạm cứu thương, đặc biệt dành cho các cán bộ CS cao cấp thường lén về nằm điều trị. Phòng mạch của LK Quyến đã được trang bị chẳng khác nào như một bệnh xá, có nhiều giường điều trị, với đầy đủ tiện nghi tối tân cấp cứu và giải phẫu ngoại khoa. Bệnh nhân, nếu là thường dân, muốn đến phòng mạch của BS Quyến để khám bệnh phải xin thẻ trước, lấy số trước, hoặc phải lấy ngày, giờ hẹn trước. Nhưng các cán bộ CS, đồng chí của BS thì được ưu tiên nhận bệnh và ưu tiên điều trị, không cần phải có một thủ tục nàọ Bởi các bệnh nhân đặc biệt ấy đã được thông báo trước bằng giao liên, hay bằng mật mã, ám hiệu, hoặc bằng khẩu hiệu đặc biệt của cơ sở, trong trường hợp nghiêm trọng và cấp bách. Tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình, cụ thể, mà tôi đã biết được. Dĩ nhiên, còn vô số trường hợp khác nữa, mà tôi không biết hết. Vào khoảng mùa Hè, năm 1952, một cán bộ CS hạng gộc, tên Oanh, thuộc xã Hương Bình, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, con ông Viên Tứ, khá nổi tiếng ở Huế, đã bị “cảm sốt cấp tính” rất nặng, có thể nguy đến tính mệnh, đã được BS Quyến đặc cách nhận bệnh, và chữa trị trong phòng riêng của phòng mạch, không ghi vào sổ nhận bệnh hay danh sách bệnh nhân. Tóm lại không để lại một dấu vết nào của tên Oanh trong hồ sơ. Nhân viên trong phòng mạch của BS Quyến đều là cán bộ giao liên của CS. Ngoài một người y tá đàn ông, tên Nuôi, còn có một nữ y tá tên Thảo, người ở thôn Vỹ Dạ, Phú Vang, đã có chồng đi tập kết. Đến sau năm 1954, nữ y tá Thảo của BS Quyến cũng bỗng nhiên biến mất khỏi phòng mạch, không ai biết đi đâu, và cũng chẳng ai tìm ra tông tích. Về sau, trong thời kỳï Tết Mậu Thân, người dân đất Thần Kinh mới đột nhiên hoảng vía khi thấy vợ chồng nữ y tá Thảo thình lình xuất hiện. Theo tôi, người biết rõ tông tích của BS Lê Khác Quyến nhất, hiện nay còn đang sống ở Pháp, là ông Võ Như Nguyện, người đã từng giữ chức giám đốc Công An Trung Phần từ trước năm 1954. Còn thiếu tướng Đỗ Mậu, tuy đã từng nắm chức vụ giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một thời gian khá lâu dài, dưới thời đệ nhất CH, nhưng cũng đã tỏ ra không biết gì nhiều về mặt trái của LK Quyến. Có thể TT Đỗ Mậu đã e ngại tư thế của LK Quyến, y sĩ điều trị riêng cho thân mẫu của tổng thống Diệm, và là người đã được ông Cẩn rất trọng nể, nên không dám sờ đến. Trong quyển hồi ký VNMLQHT, khi đề cập đến những biến động dữ dội tại miền Trung, dưới thời kỳ tướng râu dê Nguyễn Khánh cầm quyền, tác gỉa cũng chỉ nhận xét về BS Lê Khắc Quyến bằng một câu đơn giản như sau: "Trong hàng ngũ đấu tranh Phật Giáo, trước hết có các ông Lê Khắc Quyến, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một phần tử thân kháng chiến mà nhiều người ở Huế biết rõ." (trang 912). Về mặt nổi LK Quyến làm chủ tịch HĐNDCQ, nhưng về mặt chìm, LK Quyến còn là chi bộ trưởng của chi bộ Thuận Hoá của CSBV. Thành phần cán bộ đảng viên gồm những người có tên sau đây: Tướng Lê Văn Nghiêm, trước năm 1954, khi quân Pháp vừa thất trận Điện Biên Phủ, đồng thời cũng là lúc mặt trận chánh trị Quốc-Cộng ở VN đang sôi động nhất, đã vội vã đem dâng toàn bộ bản đồ hành quân, có chấm tọa độ sẵn, trao cho người thân tín đem ra khu cho CS. Người đó là thầu khoán Nguyễn Ngọc Bang, một đồng chí của Lê Khắc Quyến và Lê Văn Nghiêm. Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiêm đang mang lon trung tá. Ông ta vốn xuất thân lính khố xanh. Nhờ đã lập được nhiều công trạng hữu ích cho cách mạng từ nhiều năm qua, nên sau năm 1975, cựu tướng Lê Văn Nghiêm đã không bị quân CSBV bắt đi học tập cải tạo như hàng trăm ngàn sĩ quan khác trong quân đội Ngụy quyền miền Nam . Ông ta đã được CSBV ưu đãi cho ở nhà hú hí với vợ con, tại đường Lý Thường Kiệt, ở Huế, cho đến khi chết. Lê Văn Nghiêm vốn là bạn thân với BS Lê Khắc Quyến, Nguyễn Ngọc Bang và Thân Nguyễn Ngọc Bang vốn làm nghề thầu khoán xây cất, khá nổi¼Trọng Phước tiếng ở miền Trung. Vào khoảng năm 1984, Nguyễn Ngọc Bang đã được sang Mỹ tị nạn theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng ông ta đã qua đời khoảng năm 1991. Một cán bộ CS khác tên Trí, làm nghề thợ mộc, có xưởng mộc tại đường Nguyễn Hoàng (tên cũ) ở Huế. Trong vụ tàn sát ở Huế dịp tết Mậu Thân, tên Trí đã lập thành tích lớn, một tay đã giết khá nhiều người.Theo hồi ký của tướng CS Lê Minh (nay đã chết) có đoạn ghi nguyên văn như sau: ”Riêng chuẩn bị cho Mậu Thân chúng tôi đã đưa 200 khẩu súng với chất nổ C4 vào bên trong nhà anh Lê Hữu Trí, Minh-Cận đều chứa vũ khí ”.Ngoài ra, tôi còn được biết thêm: Tên Trí đã hoạt động cho CS từ thời Pháp còn ở VN, rồi đến đệ nhất và đệ nhị CH không hề bị khó dễ. Tôi càng ngạc nhiên khi thấy các cơ quan an ninh dân sự lẫn quân sự đều làm lơ trước những hành động phi pháp của hắn. Tôi thấy, trước khi vụ tết Mậu Thân diễn ra, nếu chính quyền VNCH ở địa phương bắt tên Trí và đồng bọn, thì hàng vạn đồng bào ở cố đô Huế đâu đã bị chết thảm trong bàn tay tàn ác của quân CSBV! (Vậy mà tướng Trưởng, lúc bấy giờ là người có trách nhiệm bảo vệ Huế, còn dám trơ trẽn chạy tội, tuyên bố với báo chí là ông ta đã áp dụng chiến thuật... ” dụ địch”! Tội ấy với lời nói ngu xuẩn này thực đáng đem ra xử bắn tại chỗ theo quân pháp ). Sau ngày 30.4. 75, người dân xứ Huế đã thấy tên thợ mộc Trí, một đồng chí trong chi bộ Thuận Hóa của BS Quyến, đã xuất hiện hoạt động công khai cho chánh quyền CS tại địa phương. Ngoài ra, chi bộ Thuận Hoá của BS Quyến còn có 2 vợ chồng tên Hiển, làm nghề bào chế thuốc tây (préparateur en pharmacie). Vào khoảng năm 1950-51, tên Hiển đã bị Tây hành quân, phục kích bắn chết trong một đêm kia tại bến đò "BA BẾN", nằm về phía quận Hương Thủỵ Còn người vợ của Hiển, sau đó cũng đã bị khai trừ ra khỏi đảng, không hiểu vì lý do gì. Hiện nay người đàn bà này đang sống tị nạn tại Canada, gần chỗ tị nạn của mấy người con của BS Quyến, và mấy người con của tướng Lê Văn Nghiêm.Nếu bạn đọc còn chưa hài lòng về những thành tích nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma CS của bác sĩ Lê Khắc Quyến, thì đây, tôi xin kể tiếp một bằng chứng nữa:Chuyện không may này bất ngờ đã xảy ra vào khoảng cuối năm 1962. Hôm ấy, ty Công An tỉnh Thừa Thiên đã trình sang tòa hành chánh tỉnh một công văn "MẬT" có liên quan đến BS Quyến. Người tiếp phát công văn "MẬT" ấy là Công Tằng Tôn Nữ Như, một nữ tu xuất, em của ông Bửu Đồng (ở Đức*) và là chị của ông Bửu Sao (ở Orlando, Mỹ), con ông Ưng Trạo, có trách nhiệm trước tiên vô sổ công văn, ghi trích yếu, rồi mới phân phối ra, đệ trình lên cấp thẩm quyền giải quyết. vì công văn "MẬT" này có tầm mức quan trọng đặc biệt, nên giới chức trong tòa tỉnh đã phải cấp tốc trình thẳng lên ngay cho ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng duyệt xét. Nội dung công văn MẬT ấy như sau: -"Một xe chở đầy thuốc tây đã bị lật trên lộ trình Cầu Hai - Lăng Cô, quốc lộ 1, thuộc địa phận quận Phú Lộc. Người phụ trách chuyến xe chở thuốc tây này tên là Phạm Văn Nhân, nhân viên tùng sự tại bệnh viện Huế. Trong cuộc thẩm vấn sơ khởi của công an, Phạm Văn Nhân khai là chở thuốc tây cung cấp cho chi y tế quận Phú lộc, theo lệnh của BS Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện..."Theo tường trình của công an tỉnh thì lời khai của Phạm Văn Nhân hoàn toàn sai sự thật. Vì 2 lẽ sau đây:- Vấn đề giao thuốc tây cho các Chi Y Tế thuộc phần việc và trách nhiệm của Ty Y Tế tỉnh, tuyệt nhiên không liên quan gì đến bệnh viện Huế, dưới quyền điều khiển của BS Quyến. - Chi Y Tế Phú Lộc nằm tại Truồi, quận lỵ, chứ không phải Cầu Hai - Lăng Cô. Nên biết rằng từ Lăng Cô đến đèo Hải Vân không xa mấỵ Nơi đây vốn là địa điểm giao liên quan trọng của Cộng Sản suốt trong thời kỳ chiến tranh.Theo tường trình của công an tỉnh thì đây là vụ tiếp tế thuốc tây cho CS, và bởi thế nên công an đề nghị nên cần phải thẩm vấn BS Quyến, rồi lập các thủ tục cần thiết chiếu theo luật định.Vì công văn này chỉ là bản sơ trình, nên cần phải được cấp trên cho phép tiến hành thủ tục thẩm vấn, nhiên hậu mới có thể thiết lập hồ sơ theo luật định. Sau khi hồ sơ đã hoàn tất mới tái trình lên tòa tỉnh và các cơ quan thẩm quyền liên hệ, để thực hiện giai đoạn chót của thủ tục là truy tố can nhân và tòng phạm ra tòa án. Nhưng công văn MẬT này của Ty Công An tỉnh đã bị một bàn tay cao cấp nào đó trong guồng máy chánh quyền thủ tiêu luôn. Thế là nội vụ bị xử chìm xuồng, và tội tiếp tế thuốc tây cho CS của BS Quyến cũng được ếm nhẹm luôn. Điều đáng nói thêm ở đây, nhân viên có trách nhiệm tải thuốc tây cho CS tên Phạm Văn Nhân lại chính là cháu ruột của Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ đang làm thủ tướng chánh phủ CSBV, anh em với giáo sư Việt Văn Phạm Văn Diêu, ở Sài Gòn. Anh Phạm Văn Diêu lớn hơn tôi vài tuổi và đã dạy chung với tôi trong nhiều trường tư thục ở Sài Gòn. Dịch vụ tiếp tế thuốc tây cho CS ở miền Nam, trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhất là dưới thời các tẩu tướng tham nhũng, thối nát cầm quyền, đã trở thành gần như "CÔNG KHAI PHỔ BIẾN". Chẳng tin, xin cứ hỏi các ông bà chủ các viện bào chế như: Trang Hai, La Thành Nghệ, Nguyễn Cao Thăng, Trương Văn Chôm, và các dược sĩ như: Ngô Khắc Tĩnh, Trần Văn Lắm, cựu chủ nhân nhà thuốc tây Cường Lắm, ở góc đường Thủ Khoa Huân và Lê Thánh Tôn, gần tiệm vàng con cọp Nguyễn Thế Tài...thì rõ! Để có một cái nhìn chính xác về biến động miền Trung, tôi nhận thấy cá nhân ông Diệm là người có tư cách đạo đức hơn hẳn nhiều người khác mà tôi đã có dịp biết. Ông Ngô Đình Nhu xứng đáng là người trí thức, có mưu lược, tư tưởng phóng khoáng, quan niệm về tôn giáo và chánh trị rất dứt khoát. Hai ông ấy không cuồng tín và chủ trương kỳ thị tôn giáo như ông Ngô Đình Thục. Nên nhớ là vào khoảng năm 1956-57, tổng thống Ngô Đình Diệm đã duyệt y việc thành lập Phật giáo thống nhất, cho phép các khuôn hội, Niệm Phật Đường mở cửa tự do, và các Phật tử trên toàn quốc dược tự do đi lại hành lễ, không có ai cản trở hay làm khó dễ điều gì. Như thế chắc chắn lệnh cấm treo cờ trong dịp lể Phất Đản năm Qúi Mão là do sự đốc thúc của ông Thục. Ông Thục muốn phục vụ đắc lực "nước Chúa" của ông, nhưng không ngờ lại di hại cho toàn thể các em trong gia đình ông, khiến những người này đều bị chết thảm! Riêng ông Thục đã may mắn thoát thân, khỏi bị nhân dân đòi nợ máu, ngay trong khi biến cố trọng đại của đất nước còn đang diễn tiến. Ngày xưa, nếu nhà vua mù quáng mà có được bầy tôi trung thành, nghĩa khí, như Biển Thước dám mắng tận mặt vua Tần Vũ Vương, thì dù cho ông vua có hôn mê, đần độn đến đâu cũng phải tỉnh ngộ, và đất nước lo gì không có ngày hưng thịnh. Ngược lại, ngay từ đầu, triều đình nhà Ngô đã bị bao vây bởi một số linh mục di cư chỉ biết có quyền lợi trước mắt. Đến khoảng cuối thập niên 50 sang đầu thập niên 60, triều đình này lại bị bao vây bởi một lũ văn quan, võ tướng bất tài, nhưng lại đặc biệt giỏi về tài nịnh hót, bợ đỡ. Đứng đầu sổ gia nô là các ông: Trương Vĩnh Lễ, cựu chủ tịch quốc hội bù nhìn, Nguyễn Phương Thiệp, tổng thơ ký quốc hội, Bùi Văn Lương, nguyên tổng ủy trưởng Dinh Điền, sau làm bộ trưởng Nội Vụ, thay thế thẩm phán Lâm Lễ Trinh. Về phía quân đội thì có Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao, Trần Thiện Khiêm... đã từng được coi như con nuôi của ông Diệm. Riêng Trí Quang và Lê Khắc Quyến cũng là những kẻ đã được hưởng ơn mưa móc rất dồi dào của chế độ. Nhưng về sau chính những kẻ thọ ơn ấy đã âm mưu giết chủ của họ. Lòng dạ con người thật là phản trắc vô thường. Đáng ghê sợ thật! TRÍ QUANG CHO MINH CỒ LEO CÂY THA MỠ BÒ!Từ lâu Dương Văn Minh đã đặt hết kỳ vọng vào TT Trí Quang, coi Trí Quang như một cố vấn chỉ đạo đặc biệt, một trung gian thế lực, để thiết lập mọi thương thảo với quân CSBV.Mặt nạ “NẰM VÙNG” và “THAM VỌNG CÁ NHÂN” của Dương Văn Minh và Trí Quang mãi đến phút chót của Sài Gòn mới được hai người ấy tự tay gỡ xuống. Theo lời của tướng Nguyễn Hữu Có, lúc ấy đang đóng vai phụ tá cho ông Minh, kể lại nguyên văn như sau: -"Ngày 29.4.75, là ngày tôi vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên Ấn Quang. Lệnh thầy (Trí Quang) bảo đến lúc nào là đi lúc đó. Tội nghiệp cho Minh Cồ làm tổng thống nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh miệng của tiểu đoàn trưởng thôị Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh Cồ làm tổng thống hay Thích Trí Quang đâỷ...Tôi nhớ có một lần họp tại Ấn Quang do Thích Trí Quang chủ tọa cùng một vài thầy chùa khác, tôi không biết mặt và tên. Phía bên này có Minh Cồ, ông Mẫu, Lý Chánh Trung. Tôi ngồi sau lưng Minh Cồ (gần như cố vấn quân sự của Minh Cồ). Thích Trí Quang nhìn tôi với cặp mắt nhỏ, sâu, đầy nham hiểm, lườm một cái để chuyển sang hướng khác. Mình cũng biết chứ, “thầy” có ưa gì mình đâu vì vụ “bàn thờ Phật“ xuống đường 1966 và vụ biến động lớn miền Trung đâu có thể xóa đi trong đầu óc Trí Quang với ba tên “Thiệu-Kỳ-Có”. Rõ ràng với tôi, Trí Quang không bao giờ ưa và tôi nghĩ rằng nếu ”thầy“ có dịp là trả thù. Tuy biết phận mình, nhưng Minh Cồ đâu còn ai bên cạnh trong việc đánh đấm? Hơn nữa, lúc đó có lẽ Minh Cồ cũng hiểu rằng chỉ có tôi mới thực sự vì ông ta, vì chính cái thành công của ông ta là cái thành công của tôị Ở đời ai cũng có tham vọng lớn cả và luôn luôn nghĩ rằng mình sẽ đạt được. Cũng chính vì thế mà đã lắm chuyện. Thực sự hôm nay ở trong tù tôi nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả năng quá hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện... Ngày lịch sử trong đời làm chánh trị của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là ngày 29.4.75, vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi phải đến "HOÀNG CUNG ẤN QUANG" 5 lần và lần nào cũng với nội dung là "THẦY" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn thảo việc thành lập Chánh Phủ Liên Hiệp... Sở dĩ đêm 29.4.75 có chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của Thích Trí Quang nàỵ Sau lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang về dinh Độc Lập chờ ý “thầy”. Mệt mỏi thật, Minh Cồ ngồi nơi bàn tổng thống bên cạnh một dàn điện thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất dễ nhận ra là cái dành riêng cho “thầy“. Đường dây cho “thầy“ không phải là ưu tiên Một mà ưu tiên “super“, có thể nói đối với Minh Cồ là “over super“. Chúng tôi mỗi người một chỗ ngồi nghỉ hoặc ngả lưng trên sofa chờ tin tức (phái đoàn bên kia tới để họp bàn). Rõ ràng lời “thầy“ vừa mới nói: ”Tổng thống cũng như quí ngài đây yên chí, tôi đã cho người liên lạc được với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và họ đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn đang trên đường đến đây, vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ và khi họ đến là tôi điện thoại ngay...” Ra về, tôi thấy nét mặt của Minh Cồ còn hy vọng nhiều, ông Mẫu thì thinh thinh ít nóịLý Chánh Trung đến giờ phút ấy vẫn hớn hở, riêng cá nhân tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn tại nội thành Sài Gòn đã đến lúc phải nổ tung và không thể tránh khỏi... 4 giờ 30 sáng 30.4.75, Minh Cồ sốt ruột không thể chờ thêm được nữa phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy” trong khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một. Minh Cồ càng quýnh hơn: -”Thưa thầy, tôi tổng thống Dương Văn Minh, muốn biết ý kiến thầy, sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng tôi đang có mặt hết tại đây, tình hình hiện tại quá lộn xộn, xin thầy quyết định thế nào chớ, tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không thể nói gì với bên kia được...” Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại: -”Thưa tổng thống, cũng như tổng thống là tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật của ổng hay nói dối) và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chánh trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là tổng thống, hơn nữa là một đại tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của đại tướng, chứ giải pháp chánh trị của tôi coi như chấm dứt, và nếu từ giờ phút này nếu có chuyện gì xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do tổng thống, à quên đại tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này đại tướng rất rành giỏi hơn tôị Xin chào tổng thống...”Minh Cồ chỉ trả lời gọn một câu:”Thầy giết tôi rồi!” và cúp máỵ Lúc đó là 5 giờ kém 15 sáng 30.4.75 “... (trích trong bài "TÂM TÌNH TƯỚNG CÓ TRONG NHÀ TÙ HÀ TÂY" của nhà báo CS Hồ Văn Quang ghi lại). TRÍ QUANG DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN Hiện nay Thích Trí Quang hãy còn sống ở Việt Nam . Nhưng từ 1975 cho đến bây giờ, đã 23 năm qua, không ai nghe nói đến một hoạt động nào, hay một lời tuyên bố nào của người tu sĩ này. Ngay cả những vụ chống đối CSVN về việc thành lập tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh của các tăng sĩ chính thống, người dân VN trong và ngoài nước chẳng ai thấy tên Trí Quang tham dự. Cụ thể hơn nữa, trong đơn “XIN CỨU XÉT NHIỀU VIỆC”, đề ngày 25. 6. 92, của Hòa Thượng Huyền Quang gửi cho nhà cầm quyền CSVN, đã được phổ biến rộng rãi khắp trong nước và hải ngoại và đã gây nên một làn sóng dư luận chống đối CS mãnh liệt, ta cũng không thấy HT Huyền Quang nhắc nhở gì đến Trí Quang. Vậy Trí Quang đã và hiện đang làm gì ở VN? Dư luận về Trí Quang ở hải ngoại cũng rất vụn vặt và mâu thuẫn. Người thì cho là Trí Quang đã lui về tu hành chân chính, không tranh đấu nữa, đã tịnh khẩu... Có người còn suy đoán có lẽ Trí Quang đã bị CS giam lỏng, quản chế... Dĩ nhiên trong vụ này, tôi cũng như các bạn đều không ai biết gì chính xác về thân phận của Trí Quang trong thời gian sống dưới chế độ CS. Nhưng căn cứ trên một số tài liệu tiết lộ từ trong nước, chúng ta có thể tìm hiểu được phần nào. Vậy xin cống hiến bạn đọc để cùng nhau suy ngẫm. Theo bài báo “CON ĐƯỜNG KHÚC KHỈU” của Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp đặc trách Ban Tôn Giáo Vận đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kể lại những thành tích của ông ta trong thời gian còn hoạt động bí mật thì sau ngày 30. 4. 75, Trí Quang đã bị CSVN liệt vào thành phần “CIA CHIẾN LƯỢC”. Đỗ Trung Hiếu đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1956, và là mộ cán bộ nằm vùng, hoạt động trong khối Phật Giáo ở miền Nam, đặc trách theo dõi các cuộc đấu tranh của Phật Giáo từ năm 1963. Vì thế Hiếu đã quen biết rất nhiều tăng sĩ thế lực thuộc cả hai phe Ấn Quang của Thích Trí Quang và Việt Nam Quốc Tự của HT Thích Tâm Châu. Đỗ Trung Hiếu kể, khi được lịnh vận động khối Phật Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), (tức tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh), ông ta đã trình bày vai trò quan trọng không thể thiếu của Trí Quang với các thượng cấp chỉ huy trực tiếp làTrần Bạch Đằng và Xuân Thủy. Lúc bấy giờ Xuân Thủy đang giữ chức Bí Thư Trung Ương Đảng, kiêm trưởng ban Dân Vận Trung Ương, còn Trần Bạch Đằng làm Phó Trưởng Ban. Khi nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần thiết của Trí Quang trong tổ chức GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và không đồng ý cho Trí Quang tham dự vào tổ chức này. Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc loại “CIA CHIẾN LƯỢC”, không thể nào dùng được. Ít lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, cũng hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người không thể xài được. Kết quả, ngày 4. 11. 1981, đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN (quốc doanh) gồm có sự tham gia của phe Ấn Quang, tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, đã bầu ra một Hội Đồng Trị Sự như sau: chủ tịch HT Thích Trí Thủ, phó chủ tịch HT Thích Trí Tịnh, còn HT Thích Đôn Hậu làm phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của Hội Đồng Chứng Minh...Như vậy, bạn đọc đã thấy rõ, trong suốt cuộc chiến Quốc - Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên được rất nhiều công trạng lớn với CSVN, nhưng chỉ vì một chút nghi vấn không biện minh được của cái đêm 22. 8. 63 oan nghiệt, cuộc đời của Trí Quang đã bị các đồng chí của ông ta đem chôn vùi âm thầm vào trong bóng tối. Vậy cái đêm 22. 8. 63 là cái đêm gì? Đêm 22. 8. 63 là đêm mà Công An, Cảnh Sát, và Mật Vụ nhà Ngô đã ập vào các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... để hốt hết các tăng ni, duy chỉ sót có một mình... Trí Quang! Về sau bí mật mới được tiết lộ là: trong đêm ấy, bí thư Thích Nhật Thiện đã đem Trí Quang chạy trốn vào cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ, và được đại sứ Cabot Lodge che chở... Chính vì thế sau ngày 30.4.75, CSBV đã bắt giam ngay Thích Nhật Thiện để điều tra, vì CS nghi Thích Nhật Thiện đã làm tay sai cho Mỹ. Kể từ khi Thích Nhật Thiện bị bắt, Trí Quang không khỏi lo sợ cho thân phận mình, chẳng khác nào con cá nằm trên thớt, nên phải giả vờ suốt ngày ngồi Thiền, và tịnh khẩu...Nếu bạn đã đọc đoạn “HT Thích Tâm Châu nói về TT Trí Quang” ở trên rồi, hẳn bạn sẽ nhận ra đây chỉ là một phản ứng kiểu con Đà Điểu, theo thói quen của Trí Quang mỗi khi gặp cảnh nguy nan, sợ hãi mà thôi!...
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2017 1:23:42 GMT 9
Mở Lại Hồ Sơ 3 Vụ Án: TRẦN VĂN VĂN, NGUYỄN VĂN BÔNG, TRẦN VĂN BÁ
(Nén hương cho sĩ khí Trần Văn Bá) Nhiều năm đã trôi qua nhưng một số câu hỏi vẫn chưa được trả lời về hai vụ ám sát dân biểu Trần Văn Văn (1966) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (1971) cũng như án tử hình của nguyên chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Pháp Trần Văn Bá (1985). Cả ba nạn nhân đều gốc Miền Nam Việt Nam. Vì những vụ này liên hệ đến lịch sử, đánh dấu ba giai đoạïn nhiễu nhương khác nhau của đất nước, nên người viết đã thu thập một số tài liệu, mong có thể giúp soi sáng phần nào một hồ sơ chứa đựng nhiều giả thuyết.
I - Dân biểu Trần Văn Văn và nhóm Caravelle. Trần Văn Văn là một tiêu biểu điển hình cho giới trí thức Miền Nam thời Pháp thuộc và trong giai đoạn đấu tranh dành thống nhứt và độc lập cho xứ sở. Ra đời tại Long Xuyên năm 1907, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng thương mãi Paris (HEC) và sau khi trở về nước, hùn với kỹ sư Kha Vạng Cân lập ra hảng đúc kim khí Cân & Văn trước 1945. Kha Vạng Cân bỏ theo kháng chiến, được bổ nhiệm Bộ trưởng kỹ nghệ trong Chính phủ Hồ Chí Minh và về sau, thất sủng. Trần Văn Văn có lúc giữ chức Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch trong chánh phủ Bảo Đại và là một nhân vật cốt cán của đảng Phục Hưng do Trần Văn Hương thành lập. Ngày 26.6.1954, theo lời mời của Bảo Đại, chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước với chức Thủ tướng có toàn quyền chính trị và quân sự. Sau khi dẹp Bình Xuyên và giáo phái, truất phế Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955, bác bỏ ngày 20.7.1956 việc tổng tuyển cử hai miền quy định bởi Hiệp ước Genève, ông tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa ngày 26. 10.1956. Từ 1956 cho đến nửa năm 1959, tình hình an ninh trong xứ được vãn hồi tương đối nhờ những cải cách xã hội, tảo thanh của Quân đội quốc gia và vì một phần quân đội Bắc Việt rút về trên vĩ tuyến 17. Tuy nhiên một thời gian sau, Việt cộng xây dựng lại được cơ sở hạ tầng tại nông thôn với các cán bộ không tập kết. Ngày 26.1.1960, cách tỉnh lỵ Tây ninh lối 12 cây số, chúng chiếm đồn Trảng Sập, gây thiệt hại nặng về nhân mạng và võ khí cho sư đoàn 21. Mặt khác, sự lộng quyền của một số đảng viên Cần lao và chính sách đàn áp của Chính phủ bắt đầu gây bất mãn trong quần chúng. Nhóm Tự do Tiến bộ xuất hiện - gồm nhiều nhà trí thức đối lập - trong đó Trần Văn Văn là một người đầu đàn vì giao thiệp rộng, có uy tín và mưu trí. Sau nhiều tuần thảo luận và tiếp xúc trong vòng bí mật, sáng ngày 26.4.1960, hai ông Phan Khắc Sửu và Trần Văn Văn, âu phục chỉnh tề, bất thần đến trước cổng Dinh Độc Lập, đại lộ Thống Nhứt Sài Gòn, nhờ quân phòng vệ chuyển đến Tổng thống Ngô Đình Diệm một bản tuyên ngôn mang chữ ký của 18 nhân sĩ thưộc nhiều khuynh hướng chính trị, xong họ đi thẳng đến khách sạn Caravelle, ở trung tâm Saigon, họp báo. Báo giới ngoại quốc và các Tòa Đại sứ được mời tham dự nhưng không cho biết trước địa điểm, hẹn sẽ được hướng dẫn khi đến giờ. Caravelle được chọn vì an toàn. Để đánh lạc hướng cảnh sát, báo chí Việt được mời nhóm riêng tại một khách sạn Chợ lớn. Theo bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, hiện ở Virginia, tiết lộ, ông được giao phó thảo ra bản tuyên cáo (dựa vào các ý kiến thu thập trong nhóm Tự do Tiến bộ) với sự giúp đỡ của giáo sư Trần Văn Hương và ông Trần Văn Văn. Trần Văn Tòng, trưởng nam của cố dân biểu Trần Văn Văn, hiện giữ trong tay bản chính được (cố) ký giả Bernard Fall dịch ra ngoại ngữ để phổ biến. Nội dung văn kiện này chỉ trích quyết liệt các sai lầm của chính quyền Diệm về chính trị, hành chính, xã hội và quân sự, gây ra tình trạng bất mãn trong dân chúng, suy thoái của chế độ và làm giãm tiềm lực đấu tranh chống cộng. Tuy nhiên, ngoài việc đòi hỏi thực thi dân chủ và chấm dứt gia đình trị, những đề nghị cải cách tương đối khiêm tốn. 18 nhân vật ký tên bản tuyên ngôn gồm có : Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Lê Ngọc Chấn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Đổ, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Lý, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Lương Trọng Tường và linh mục Hồ Văn Vui. Mười trong số đó là cựu ân nhân, đồng chí, bạn thân và Bộ trưởng từng hợp tác với ông Diệm. Cố vấn Ngô Đình Nhu mỉa mai gọi họ là « chính khách xa-lông, chính khách phòng trà ». Lời kêu gọi của các trí thức đối lập này, tiếc thay,không được chính phủ xét đến. Tuy nhiên, bản tuyên cáo báo động Caravelle có tiếng vang ở quốc ngoại và trong quân đội. Một chuỗi biến cố liên tiếp xảy ra sau đó: Cuối tháng 10.1960, Tổng thống Diệm cải tổ nội các vì có bất đồng nội bộ, bốn bộ trưởng ra đi: Nội vụ (Lâm Lễ Trinh), Quốc phòng (Trần Trung Dung), Thông tin (Trần Chánh Thành) và Tư pháp (Nguyễn Văn Sĩ) sau một thủ tục điều tra do các bộ này khởi xướng về những lạm quyền của đảng Cần lao. (đọc Hoàng Lạc & Hoàng Mai Việt trong tác phẩm Blind Design, Why America lost the VN War?, chương The Lottery scandal, trang 131, và trong hồi ức Đỗ Mậu « VN máu lửa, quê hương tôi », trang 259}. Lối hai tuần sau, ngày 11.11.1960. nhóm Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Nguyễn Chánh Thi, Hoàng Cơ Thụy và Phan Quang Đán đảo chính nhưng thất bại. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận : nhóm Caravelle không có liên hệ gì đến vụ mưu loạn nhưng cơ quan an ninh Nhà nước thừa cơ hội để câu lưu nhiều thành viên của tổ chức này tại trại Ô Ma (Aux Mares). Ngày 20.12.1960, Mặt trận Giải phóng Miền Nam được thành lập. Tháng 2.1961, lực lượng võ trang Giải phóng Miền Nam chính thức hoạt động. Ngày 27.2.1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc lập và cuối cùng, ngày 1.11.1963, Quân đội lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, đưa Miền Nam Việt Nam vào một cuộc phiêu lưu hỗn loạn. Khi nhóm sĩ quan trẻ, mệnh danh « Jeunes Turcs », lên nắm quyền, vào năm 1966, Trần Văn Văn đắc cử dân biểu Quận 3 Saigon trong Quốc hội Lập hiến. Không thuộc đảng phái nào, cố vấn của Hội Liên Trường mà đa số đoàn viên là dân Miền Nam, Văn thường chỉ trích tại diễn đàn Nguyển Cao Kỳ, Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, và các hành vi lạm quyền của cảnh sát - công an do Đại tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy. Sau vụ Loan cho câu lưu bác sĩ Nguyễn Tấn Lộc vì lý do ông Lộc (gốc Nam) kỳ thị địa phương sa thải một số nhân viên người Bắc trong Bộ Y tế, cuộc tranh chấp Nam-Bắc nổ lớn. Tổng trưởng Kinh tế-Tài chánh Âu Trường Thanh cầm đầu năm tổng trưởng khác (gốc Nam) từ chức để phản đối: Nguyễn Văn Trường (Giáo dục), Trương Văn Thuấn (Vận tải), Trần Ngọc Liểng (Xã hội) Võ Long Triều (Thanh niên) và Nguyễn Hữu Hùng (Lao động). Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên không đồng ý về quyết định này. Dư luận cho rằng Trần Văn Văn giật giây, để đòi thay thế Nguyễn Ngọc Loan. Ngày 7.12.1996, vào buổi sáng, ông Văn bị hai kẻ lạ mặt đèo nhau trên chiếc Honda bắn chết khi xe hơi của ông trờ tới góc đường Phan Đình Phùng và Mạc Đỉnh Chi. Đài phát thanh Saigon tố cáo Việt Cộng chủ mưu vì bắt được Võ Văn Én. Trong một cuộc họp báo, với dáng người tật nguyền, mắt gần mù lòa, mặt rỗ chằng chịt, Én chịu nhận bản án tử hình và khai rằng MTGP sai y và một đồng chí về thành để thi hành nhiệm vụ: y lái xe (mới tập), còn tòng phạm ngồi phía sau thì cầm súng bắn. Trong nguyệt san Quê Mẹ, Paris, đầu năm 1986, chủ bút Võ Văn Ái ghi lại rằng hành vi và ngôn ngữ của Én làm cho dư luận nghi rằng đây là một sự dàn cảnh của cơ quan điều tra. Ba ngày liên tiếp 7, 8 và 9.12. 1966, Đài Hànội tố cáo « Dù khác chính kiến, dù không đồng quan điểm chính trị với ông Trần Văn Văn, chúng ta không bao giờ can dự vào việc ám sát ông Văn, đây là hành động dơ bẩn của bọn tướng lãnh khát máu ở Sàigon ». Bà quả phụ Trần Văn Văn (hiện sống ở Paris) vẫn ấm ức tin rằng Võ Văn Én chỉ là con chốt thí, con cò mồi, cho nên ngày 10.1.1967, bà đã gởi thơ xin Tổng thống Thiệu ân xá cho Én. Đây là cách gián tiếp tố cáo Kỳ-Loan mưu sát chồng bà. Trong bài « Nhớ lại cái chết bi thảm đầy nghi vấn của ông Trần Văn Văn » đăng năm 1978, trong số 58 nguyệt san Vì Nước, Paris, ký giả Hoàng Ngọc Giao ghi lại lời khai của C. trưởng ban Bài trừ Du đảng (một tổ chức của « Chính phủ ngưởi nghèo » của Nguyễn Cao Kỳ) thú nhận y được cấp trên chỉ thị giết Trần Văn Văn. Theo Giao, về sau , để phi tang, C. bị thủ tiêu trong một tai nạn xe hơi được sắp đặt (đọc Tuyển tập Trần Văn Bá). Đâu là sự thật ? Trần Văn Văn có phải là một nạn nhân của phe quân phiệt gốc Bắc? hay Côïng sản đã giết Văn để gây ly tán và nghi kỵ trong chính trường Miền Nam? hay vì CS Bắc Việt sợ Trần Văn Văn quy tụ được một lực lương quốc gia đa số gốc miền Nam có khả năng lôi cuốn quần chúng hơn tổ chức bù nhìn của chúng là Mặt trận Giải phóng miền Nam? Đầu tháng chạp 2004, tại Hoa Thịnh Đốn, Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên xác nhận với tác giả bài này rằng nhóm Caravelle không liên hệ, trực tiếp hay gián tiếp, đến vụ đảo chính Tổng thống Diệm và cũng không hợp tác với chính phủ quân nhân trong giai đoạn đầu của « cách mạng ». Tháng 9.1965, Bác sĩ Viên là nhân vật đầu tiên và duy nhứt của cánh Tự do Tiến bộ nhận tham chánh trong chức Phó Thủ tướng của nội các Nguyễn Cao Kỳ, sau khi lấy ý kiến của các đồng chí trong nhóm Caravelle. Ông kể lại với người viết: Ngày 1.11.1963, khi hay tin đảo chính thành công, Trần Văn Văn liền điện thoại cho ông, « vừa nói vừa cười hô hố » : « Viên ơi, « thằng Minh Cồ», nó giết lão Diệm rồi, bây giờ nó không biết phải làm gì !! »
II - Bí ẩn quanh vụ mưu sát Gs Nguyễn Văn Bông. Khác với Trần Văn Văn thuộc một gia đình khá giả, Nguyễn Văn Bông có một thời niên thiếu cơ cực. Cha của Bông làm nghề thợ bạc, ly dị với mẹ Bông là một thợ may, cả hai đều tái giá sau đó và có con riêng. Bông sống với ông, bà nội, khi mới lên ba, tại làng Kiến Phước, tỉnh Gò công, nơi Bông ra đời năm 1931. Lúc 14 tuổi, để có tiền vào trung học, Bông lên Saigon xin một chân quét dọn và đánh máy trong trường Huỳnh Cẩm Chương, lao công ban ngày, tối đi học, để dành tiền mua một vé tàu hạng ba qua Pháp. Tại Paris, Bông phải làm bồi bàn (cùng với Nguyễn Ngọc Huy) tại tiêm ăn La Table du Madarins của « anh Mười » để sinh sống. Chàng học trò khó Nguyễn Văn Bông xuất sắc, lấy xong bằng Tú tài thì vào Đại học Sorbonne, theo ngành Luật và Chính trị học. Có một lúc, Bông làm phu khuân vác đêm tại Nhà Lồng Paris hay Les Halles, và bị bệnh lao, phải nằm nhà thương. Với tinh thần tự tin, tự lập, Bông thành công vẻ vang, Năm 1963, thay vì nhận chức phụ tá giáo sư tại Pháp, Thạc sĩ luật khoa Nguyễn Văn Bông quyết định trở về Việt Nam để đấu tranh và phục vụ. Trước khi hồi hương, Bông đã hứa hôn với nữ sinh viên Thu Vân tức là bà Nguyễn Văn Bông sau này, tác giả Mây Mùa Thu (MMT), vừa xuất bản tại Hoa Thịnh Đốn. Đây là dịch bản tiếng Việt của hồi ký tiếng Anh Autumn Cloud (Capitol Books, VA, 2001). Tại trường Luật và Quốc gia hành chánh Saigon, Gs Bông dạy môn luật Hiến pháp và Khoa học chính trị. Sau ngày đảo chính 1.11.1963, Bông được bổ nhiệm Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chánh và lao mình vào chính trường với sự hổ trợ của Nguyễn Ngọc Huy, tiến sĩ chính trị học, một đồng chí từ ngày ở Paris. Huy lãnh đạo đảng Tân Đại Việt (TĐV), Bông sáng lập Phong trào Quốc gia cấp tiến (PTQGCT) vào mùa xuân 1969, hai tổ chức hoạt động chặt chẽ với nhau và mang nhãn hiệu đối lập với chính phủ đương nhiệm. Trong hai năm 1970 và 1971, PTQGCT phát triển mạnh. Phần đông đảng viên và cảm tình viên là cựu sinh viên Quốc gia hành chánh nắm giữ những chức vụ cốt cán tại Miền Nam Việt Nam. Cương lĩnh PTQGCT cổ võ cho một nước VN thống nhứt dưới một chế độ dân chủ, với quyền bình đẳng giữa các công dân, tôn trọng nhân quyền, triệt tiêu nạn tham nhũng và cải tổ hành chánh. Về kinh tế, Phong trào chủ trương đẩy mạnh phát triển, cải cách điền địa, canh tân thuế vụ và khuyến khích đầu tư. Về an sinh xã hội, Phong trào đòi hỏi một chế độ quân dịch công bằng, giáo dục miễn phí và cưởng bách và sự phục hồi uy tín của giáo giới. Tháng 9.1971, PTQGCT và TDC đưa được vào Hạ viện 21 dân biểu, một lực lượng đáng kể. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử Gs Huy tham gia, với tư cách cố vấn, vào phái đoàn đàm phán với Bắc việt tại Paris. Uy tín của Nguyễn Văn Bông lên như diều. Bất thần, vào cuối 1969, xảy ra một vụ mưu sát: một trái bom nổ cạnh bên phòng làm việc của Gs Bông tại tầng hai Học viện quốc gia hành chánh. Ông Bông không bị thương tích nặng nhờ được che chở bởi một cái bàn viết khi ngã xuống. Nhưng lối một năm sau, ngày 10.11. 1971, Gs Bông không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần trong vụ mưu sát thứ hai, mặc dù ông được toán an ninh bảo vệ khá chặt chẽ. Vào giờ ăn trưa ngày vừa nói, kẻ ám sát thảy một trái bom dưới sườn xe hơi của Gs Bông, trên đường Cao Thắng, Saigon, nơi có đèn đỏ, làm xe nổ tung và gây thiệt mạng cho ông Bông, người tài xế và ba vệ sĩ. Trong hồi ký MMT, trang 148 và tiếp theo, bà Nguyễn Văn Bông ghi: Ngày hôm trước, 9.11, Tổng thống Thiệu gởi người anh là ông Nguyễn Văn Kiểu, đại sứ tại Đài loan, đên tận nhà để thảo luận. Khi ông Kiểu ra về, Bông cho (vợ) biết ông đã « chấp thuận làm Thủ tướng cho TT Thiệu », thay thế tướng Trần Thiện Khiêm. Chỉ 15 phút sau, báo chí điện thoại xin xác nhận tin này, ký giả Pháp Francois Nivolon của France Soir cũng gọi phôn để chia vui. Bà Bông ghi nơi trang 148 và 152: « Đến mùa thu 1071, ông Thiệu thấy rằng để nâng cao sự ủng hộ bên trong và chống trả hữu hiệu CS Bắc Việt, ông phải liên minh với một chính phủ liên hiệp mạnh. Anh Bông cũng có ý kiến như vậy, sự thật anh đã đúc kết một chương trình đối lập rộng lớn cho PTQGCT mà anh hy vọng các lực lượng chống Cộng sẽ quy tụ xung quanh...Vài tháng sau, hai thanh niên Việt Cộng bị bắt. Một trong hai người, có tên Nguyễn Hữu Thái, là lãnh tụ nhóm sinh viên trường Kiến trúc Đại học Saigon. » Sự việc đáng lưu ý là trong chương cuối cùng của hồi ký MMT, nhan đề « Những suy tư về cuôc chiến VN và thời kỳ hậu chiến », trang 270-276, bà Bông viết: "tháng 7.1971, Kissinger (K) qua Saigon vào lúc TT Thiệu lo tái tranh cử và trước khi K chuẩn bị viếng thăm Bắc kinh. Kissinger gặp vợ chồng Bông « lần đầu tiên » trong một buổi tiệc tại dinh của Đs Elsworth Bunker, sau khi K vừa viếng Thiệu và Khiêm trong ngày. Bữa sau, K gặp riêng Bông. Sau đó, - bà Bông viết - « báo chí Saigon suy đoán rằng anh Bông sẽ là vị Thủ tướng kế tiếp được Kissinger và chính phủ Mỹ hổ trợ. Mọi người VN lúc đó đồn rằng bất cứ vị lãnh tụ miền Nam nào mà không được Mỹ ủng hộ sẽ không thể tồn tại lâu được; ký ức về những gì đã xảy ra cho TT Diệm và người em vẫn chưa phai mờ. Cả hai ông đã bị giết chết trong một cuộc đảo chánh của các tướng lãnh miền Nam năm 1963 với sự chấp thuận của Mỹ. Vài tuần sau khi gặp ông Kissinger, vào khoảng 9 giờ tối, ngay lúc anh Bông đi dự tiệc, một người lạ điện thoại cho tôi biết tánh mạng anh Bông sẽ lâm nguy. Y nói anh Bông phải lập tức trở về nhà, xong y cúp điện thoại làm tôi quá run sợ. Đêm đó, ông Khương Hữu Điểu, giám đốc Ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ, mời anh Bông để gặp tại nhà một nhóm ngưới quan trọng, tất cả đang nắm những địa vị then chốt và được xem như những người trẻ chủ trương cải cách.» Như thế, tin đồn K và Hoa kỳ áp lực Thiệu thay thế Khiêm bằng Bông đã xảy ra lối hai tháng trước vụ hạ sát Bông ngày 10.11.1971. Trong hồi ký chót Ending the VN War, (Simon & Schuster. NY, 2001), chính K cũng đã xác nhận: Ngày 21.10.1972, tức là trước khi tiếp K qua hôm sau tại Dinh Độc lập Saigon để chấp nhận bản dự thảo Hiệp ước Paris, TT Thiệu đã điện thoại tố cáo - với một giọng hằng học - K và phụ tá Alexander Haig tổ chứùc, theo tin tình báo, đảo chánh Thiệu. Trước đó, ngày 6.2.1972, trong một bức thơ riêng cho TT Thiệu, Nixon cũng đã viết không úp mở như sau: “Chúng tôi không muốn thấy tái diễn tại VN biến cố ghê tởm năm 1963” (ám chỉ vụ thảm sát TT Diệm). Điểm chót nên ghi: Như mọi người đều biết, Đảng Đại Việt đóng vai trò quan yếu chẳng những trong vụ biến loạn 1.11.1963 mà còn trong các vụ chỉnh lý và đảo chính liên hồi về sau. PTQGCT của Bông và đảng Tân Đại Việt của Huy cũng xuất phát từ đó và có nhiều đảng viên và cảm tình viên chẳng những trong chính giới, Quân đội mà còn trong Quốc hội năm 1971. Bs Nguyễn Lưu Viên kể với người viết: "Đầu năm 1975, quân đội rút vô trật tự khỏi miền Trung. Thiệu chấp nhận cho Trần Thiện Khiêm từ chức thủ tướng mà tướng Khiêm giữ từ ngày1.9.1969. Thiệu yêu cầu Khiêm đề nghị người thay thế. Trong danh sách nạp trình, Thiệu phê bình từng nhân vật. Đến tên Nguyễn Ngọc Huy, Thiệu gạch bỏ và cuối cùng, chọn...Nguyễn Bá Cẩn, không nguy hiểm." Năm 1997, trong môt buổi gặp gỡ tại Houston, tác giả bài này có hỏi TT Thiệu: "Trong chính giới, phía dân sự, tổ chức nào xem như đã “phản bội” ông?" Một phút suy nghĩ, Thiệu trả lời: “Nhóm Huy – Bông”. Vì họ không giữ lời giao kết sẽ giúp xây dựng đảng Dân chủ (của Thiệu) nếu Thiệu giao cho họ nắm Học viện quốc gia hành chánh (là lò đào tạo các cán bộ trong guồng máy cai trị). Về sau, Bông và Huy hoạt động chống Thiệu. Mộng của cả hai chắc chắn không ngưng nơi cái ghế Thủ tướng mà còn nhắm cao hơn nữa. Thiệu và anh là Nguyễn Văn Kiểu đều gia nhập Đại Việt nhưng Đại Việt có nhiều phe phái. Ngoài ra, Thiệu cũng là một đảng viên Cần lao. Sau 1980, tác giả bài này có dịp hỏi cựu Quốc trưởng Nguyễn Khánh tại Californie về tin Gs Bông là một trong số luật gia đã từng giúp thảo ra Hiến chương Vũng Tàu cho ông Khánh (văn kiện này, về sau, bị chính ông Khánh hô “đả đảo” khi sinh viên chống đối dữ dội). Tướng Khánh (cười) trả lời (vòng quanh): “ Ông Trần Chánh Thành không phải là người duy nhứt đã giúp tôi.” Gs Bông qua đời khi vừa 41 tuổi, để lại hai trai và một gái. Sau 1975, bà quả phụ Nguyễn Văn Bông nhủ danh Thu Vân (30 tuổi khi chồng bị ám sát) tái giá với Lacy Wright, một nhà ngoại giao Mỹ, nay đã về hưu tại Virginia. Bà lấy tên mới Jackie Bông Wright và hiện hoạt động hăng hái về xã hội, nhân quyền. Trong một buổi phỏng vấn có thu hình ngày 11.12.2004 tại Hoa Thịnh Đốn, bà Bông cho người viết biết thêm: "Tháng 9.1995, K, chủ tịch công ty tư vấn Kissinger & Associates và một phái đoàn viễn thông Mỹ viếng Ba Tây. Trong một buổi tiếp tân do đại sứ Lacy Wright tổ chức, khi biết bà đại sứ gốc Việt Nam, Kissinger nói: “Tôi lấy làm buồn khi gặp người Việt. Nước Mỹ đã bỏ rơi VN.” Để tưởng nhớ thầy cũ, sau 1975, Chi hội cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh định cư tại Ontario, Gia Nã Đại, đã chung tiền đúc tượng của Gs Nguyễn Văn Bông. Với sự đồng ý của “Bà Năm”, thân mẫu Gs Bông hiện sống ở miền Nam Californie, tượng này được an vị tại Trung tâm Cư sĩ Phật giáo thành phố Westminster. Ai giết Gs Nguyễn Văn Bông? Và vì sao? Jackie Bông Wright đưa ra một số giả thuyết và cho biết nhận định như sau: 1) Nhiều người nghi Quân đội là thủ phạm, vì Bông thường tố cáo Quân đội “tham nhũng và bất tài.” Phe quân nhân tại chức sợ bị thanh lọc và không dễ dàng rút lui. 2) Có dư luận cho rằng Trung ương tình báo Mỹ chủ mưu, vì Nixon lo ngại Bông sẽ cản trở kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh bằng cách kéo dài cuộc chiến. 3) Hồi ký MMT, trang 153 ghi: “Tôi còn nói với đại sứ Martin Herz (một bạn thân gặp ở Hoa Thịnh Đốn mùa hè 1972) rằng nhiều người khác nghi giáo sư Huy, người cộng sự chính trị với anh Bông vì Huy muốn anh Bông dang ra xa, bởi vì đảng của ảnh giờ đây rất mạnh và sẵn sàng đứng lên nắm quyền trong một dịp nào đó. Ông Huy không còn cần anh Bông nữa nên muốn thay thế ảnh. Ông (Huy) muốn thành lập một liên minh với quân đội, hoặc với các nhóm khác mà anh Bông chống, thành lập sau lưng ảnh. Một vài chính trị gia còn nói ông Huy có chương trình hành động được dấu kín: nắm lấy chính quyền bằng mọi giá. Ông Martin hỏi tôi có nghi ông Huy có dính líu gì trong cái chết của anh Bông không? Tôi trả lời: “Không. Tôi không tin rằng ông Huy có thể làm một việc khủng khiếp như thế.” 4) Sau hết, bà góa phụ Nguyễn Văn Bông nêu ra một số dữ kiện về chuyện Việt Cộng sắp xếp vụ ám sát ngày 10.11.1971: a) Năm 1976, báo Giải Phóng có đăng một bài của ký giả thiên tả Ý Tiziano Terziani phỏng vấn Nguyễn Hữu Thái và đồng bọn, chúng xác nhận chính chúng đã giết gs Bông. b) Một người chị ruột của bà Bông tên “chị Năm Lý”, theo kháng chiến từ lâu, cho biết CS giết Bông vì Bông được CIA ủng hộ. c) Một chị khác của bà Bông là bà bác sĩ Nguyễn Văn Tạo - hiện ở Paris - được anh chồng là tướng VC Nguyễn Văn Tây cho hay năm 1985 rằng các thủ phạm giết ông Bông đã được chính phủ Hà Nội tặng huân chương sau 1975. Đại sứ Bunker cũng xác nhận gíáo sư Bông là nạn nhân của Cộng sản. Cái chết của Trần Văn Văn và Nguyễn Văn Bông chứng minh thêm một lần nữa kỳ thị Nam-Bắc là một yếu tố không thể coi thường trong chính trường VN, không chỉ riêng trong Nam mà còn bên kia vĩ tuyến 17. “Hội chứng” này khi ẩn, khi hiện, có lúc nổ tung như trong giai đoạn Nam kỳ quốc của Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Măt trận giải phòng miền Nam (trước và sau 1975) và ngay cả trong cách dùng người của Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh... Các đảng phái chính trị có tiếng tại VN (Đại Việt, VN Quốc Dân đảng, Cần lao, Cộng sản..v..v..) cũng không tránh được tệ nạn đáng tiếc này. Thời hậu CS sắp đến, đây là một vấn đề thực tế, cần nghiên cứu để tìm giải pháp.
III – Cộng sản xử tử hình Trần Văn Bá. Sinh ngày 14.5.1945 tại Sa đéc, Trần Văn Bá là thứ nam của cố dân biểu Trần Văn Văn và vừa tròn 17 tuổi khi thân phụ bị thảm sát ngày 7.12.1966. Ngày 2.1.1967, Bá qua Paris, đoàn tụ với anh là kỹ sư Trần Văn Tòng, ghi tên vào trường trung học Carnot và sau đó, Michelet để chuẩn bị lấy bằng Tú tài. Vì rớt hạch miệng tại trường Cao đẳng thương mãi HEC, Bá đổi qua môn kinh tế và thi đậu bằng cử nhân tại Đại học Assas (thiên hữu) năm 1971. Bá được tuyển dụng làm phụ tá giáo sư tại trường Đại học Nanterre, nổi tiếng thiên tả, mặc dù Bá hoạt động hăng hái trong phong trào sinh viên Việt chống cộng. Bá không bô trai, hom hem gầy yếu, độc thân, ít nói. Sau cái vó “con cóc chết”, Bá cởi mở, chân tình, lạc quan, luôn luôn xung phong lãnh việc khó, giúp mọi người, bởi thế, thu hút cảm tình mọi giới. Vì mang một vết son lớn trên tráng, Bá được bạn bè tặng cho biệt danh Bá Đầu Đỏ. Ăn bận xuềnh xòang, không thích cua gái, sống khắc khổ trong một căn gác nghèo tại Bourg-la-Reine, Bá thường la cà nơi tiệm cà-phê Châlet du Parc, tại Parc Montsouris để tán gẩu với bạn học cũ tại Lycée Yersin Đà Lạt. Bá mê Adam Smith, thích xem phim xưa loại Le Pont de la Rivière Kwai, La Grande Illusion, Pour qui sonne le glas… Ngoài việc giảng huấn, Bá xông xáo hoạt động thanh niên, tổ chức trại hè Nối Vòng tay lớn 1973, và cổ động trí thức thành tài về nước phục vụ. Năm 1972, Bá đắc cử chủ tịch Tổng hội sinh viên VN, giữ chức này bốn khóa, cổ võ xây dựng công đồng, chống tuyên truyền của cộng sản Hànội...Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ. Mất tòa Đại sứ, mất Câu lạc bộ, mất trụ sở, Ban chấp hành Tổng hội sinh viên rút về ngoại ô Paris, trên lầu 6 của một chung cư, đường Maréchal Joffre. Giới người Việt ở Pháp hoang mang tột độ. Ngày 30 tháng tư, trong cảnh hỗn loạn, Bá (30 tuổi) giữ bình tĩnh, chạy đến Phòng lãnh sự VNCH, đại lộ de Villiers Paris. Ông Đại sứ tự ý giải nhiệm. Tòa Đai sứ tuyên bố đóng cửa chính thức ngày thứ sáu. Nhưng Tổng hội sinh viên vẫn tồn tại, đưa lưng gánh vác một gia tài tủi nhục. Với một số bạn, Bá phụ đốt các hồ sơ, cấp phát chứng thơ cần thiết cho kiều bào, chuyển sách vở, phim ảnh vể những điểm mật của Tổng hội sinh viên. Bá tuyên bố: “Sinh viên tiếp tục đấu tranh. Hãy giúp chúng tôi!” Tới phút chót, lúc 6 giờ chiều, Đại sứ Nguyễn Duy Quang trao cho Bá một ngân phiếu khiêm nhượng, tiền dư bạc thừa, quỹ đen, quỹ đỏ. Sáng thứ hai, khi đại diện của Tổng hội ra băng để lãnh thì trương mục của Sứ quán đã đóng từ tuần trước! Bá không nản chí, luôn luôn đứng đầu mũi dùi. Dù thiếu phương tiện, dù bị hăm dọa từ mọi phía. Tổng hội sinh viên cắn răng hoạt động. Tết 1976, Bá và các bạn tổ chức biểu tình đả đảo Hà Nội tại Salle de la Mutualité với khẩu hiệu “Ta Còn Sống Đây!” Tổng hội xoay qua đón tiếp, giúp đỡ và ủy lạo – với tiền ít nhưng lòng nhiều! – các đợt sóng thuyền nhân đầu tiên. Bá chỉ huy, tổ chức (đôi khi...”xà ngầu”), và phát ngôn không hùng hồn nhưng chinh phục mọi người vì tân tụy hết mình, làm việc bất kể giờ giấc, cắt liên lạc với mẹ, anh và chị sống tại Paris. Năm 1977, khi Phạm Văn Đồng viếng Paris, Bá và các bạn xuống đường, đánh lộn bằng gậy, gộc, cây, búa với phe Việt kiều cộng sản, Tây cộng và sinh viên ngoại quốc thiên cộng, đông hơn. Kết quả: cuộc triển lãm và hội thảo CS tại cư xá sinh viên quốc tế đường Jourdan phải hủy bỏ. Vì lý do an ninh. Bá nói: “Người ta nói chúng tôi nhận tiền của CIA, bị Bắc Kinh giựt giây. Không ai biết tôi đang khám phá con người thật của tôi.” . Rồi mẹ của Bá vượt đến Pháp trong số thuyền nhân. Bá mất việc làm, phải nhờ anh là kỹ sư Tòng phụ cấp. Tòng hỏi Bá: “ Đây có phải là lúc chống cự như vậy hay không? Cậu sẽ phải lội qua đại dương!”. Bá cười: “Đó là con đường ít bị kẹt nhứt. Khi Hồ, Giáp và Đồng bắt tay vào business của họ, họ chỉ là 4 hay 5 người. Lúc đó, đảng CS yếu xìu, dân nghèo đã khuyến khích họ ” Đúng thế, Bá nghĩ rằng vấn đề dân chủ và thuyền nhân phải được giải quyết tại Việt Nam, bằng sự tranh đấu bên trong. Nếu người Việt không tự giúp, ai sẽ giúp họ? Nói là làm. Lối 1979, Bá biệt tích tại Pháp. Tin đồn Bá bí mật bay qua Bangkok, vào Thái lan, Cam bốt, Việt Nam. Bá về bưng. Ngày 6.6.1982, Bá viết thơ từ nước Thái: “Tôi vẫn mạnh khoẻ. Rất khó, khó thật. Nhưng tôi thấy tôi mạch lạc với chính tôi và đoàn kết với đất nước tôi, nghèo nàn, khốn khổ, đói rách. Tương lai Việt Nam tùy thuộc nơi thành phần đối kháng bên trong, không phải nơi các chính trị gia lưu vong.” Trong môt bức thơ khác, Bá than: “Điều khủng khiếp nhứt là sự cô đơn. Tìm đâu ra những giá trị nhân bản, tôn giáo, trí tuệ? Đừng nói những gì chúng tôi đang làm là vô bổ.” Chiều 11.9.1984, có tin Trần Văn Bá bị bắt với (cựu phi công) Mai Văn Hạnh tại Minh Hải trong lúc công tác, trên chiếc xe hơi của một cán bộ cao cấp CS. Vì bất cẩn hay vì bị gài bẫy? Ngày 8.1.1985, tại Nhà Hát lớn Saigon, trụ sở của Hạ viện cũ thời quốc gia, Tòa án Nhân dân Tối cao - sắp xếp như một trò hề công lý, một vở tuồng cải lương - tuyên xử Bá và 20 can phạm khác thuộc Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải Phóng Việt Nam về tội “phản bội tổ quốc, chống phá cách mạng”. Các “chiến lợi phẩm tịch thu được từ các kháng chiến quân” được triển lãm ở nơi đây. Nhà chức trách còn đặt nhiều máy phóng thanh tại công trường Lam Sơn để dân chúng – trên 1000 - theo dõi diễn tiến của vụ án từ bên ngoài. Trong bản cáo trạng, công tố viện Trần Tế cho biết: ngay từ đầu tháng giêng 1981 cho đến tháng 9.1984, cơ quan an ninh Nhà nước đã phát hiện được “mười toán gián điệp” xâm nhập vào VN với sự hổ trợ của Trung quốc, Thái lan và Hoa kỳ. Tổng cọng 119 người, bị bắt giam hoặc giết chết. Cá nhân Bá bị truy tố về tội đã chỉ huy, từ 1981 cho đến tháng 9.1984, nhiều nhóm kháng chiến xâm nhập VN, một chuyến đường bộ từ Thái lan về An giang với sự giúp đở của phe Pol Pốt và chín chuyến đường biển từ Thái đến mật cứ ở Minh Hải và Phú Khánh, đưa lậu vào VN hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược. Báo Quân đội Nhân Dân số 8456 ghi: “Bá, người thấp, gầy, ra trước Tòa lúc 15 giờ ngày 14.12.1984, thường chỉ nói rất ngắn, rất nhanh” Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ mười nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp vào giờ chót nên thoát nạn. Ngày 27.12.1984, ông họp báo tại khách sạn sang trọng Lutétia, Paris với tư cách ủy viên đối ngoại của Mặt trận nói trên. Trước báo chí ngoại quốc đông đảo, Túy – trên ngũ tuần - xác nhận lãnh tụ Mặt trận còn ở trong xứ và một số chiến sĩ của tổ chức đã bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đã xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán binh Việt cộng. Theo ông Túy, không có nước nào giúp. Súng đạn do chính cán bộ hồi chính CS cung cấp hay binh lính CS bán lại. Trong số 21 người bị xử, có hai cựu cán bộ cao cấp CS. Đồng minh của Mặt trận là kháng chiến Khờ-me. Mặt trận không có liên lạc với nhóm Hoàng Cơ Minh nhưng nếu cần, sẵn sàng giúp đỡ. Trả lời một câu hỏi, Túy cho biết Mặt trận, trong giai đoạn hiện tại, chưa chủ trương thiết lập những vùng giải phóng mà chỉ chú trọng xây dựng những cơ cấu nhỏ để từ đó, xâm nhập vào guồng máy và hàng ngũ bộ đội CS. Đáp một câu hỏi khác, Túy xác nhận số võ khí do CS trưng bày tại Tòa án là thực nhưng “chúng tôi còn nhiều hơn thế nữa.” Điểm đáng lưu ý: Bản cáo trạng có ghi Mặt trận của Lê Quốc Túy được sự hậu thuẩn của cố Thủ tướng Trần Văn Hữu, nhóm Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang và nguyên nghị sĩ Hòa Hão Lê Phước Sang (đọc bài Vụ án Yên Báy 84 của Trần Phổ Minh, trong Tuyển tập Trần Văn Bá). Triệu Quốc Mạnh, một trong các luật sư (quốc doanh) được chỉ định để biện hộ thí cho nhóm bị can, làm cho các khán giả nực cười khi y tuyên bố: “Các can phạm đã vi phạm luật. Không ai bào chữa cho họ được vì họ là những người tội đồ phản quốc”. Nơi đây, xin mở dấu ngoặc: thời Quốc gia, Mạnh là phó Biện lý Toà án Gia Định, cán bộ nằm vùng CS, được Trần Ngọc Liễng gởi gấm với Dương Văn Minh. Minh, trong 48 giờ đồng hồ phù du cầm quyền, trao cho Mạnh chỉ huy cảnh sát tại Thủ đô, Mạnh lẹ tay thả hết tù chính trị để lập công với Hà Nội nhưng sau đó, vẫn bị thất sủng, về sanh sống trong giới thầy cãi. Tại phiên Tòa, Hồ Thái Bạch bị đàn áp bằng dùi cui khi lớn tiếng phản đối. Huỳnh Vĩnh Sanh bị bịt miệng khi hô to “VN Cộng hòa muôn năm!” Sau bốn ngày diễn trò bịp bợm, Tòa tuyên án 1) Tử hình: Trần Văn Bá, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch 2) Chung thân: Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ. 3) từ 8 đến 20 năm tù: 13 kháng chiến quân còn lại. Nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở ngoại quốc để phản đối nhà cầm quyền cộng sản, Đức Giáo hoàng và Tổng thống và Thủ tướng Pháp cùng nhiều nhân vật chính trị và tôn giáo trên thế giới can thiệp. Ngày 4.1.1986. lúc 19 giờ 35, bà goá phụ Trần Văn Văn, 71 tuổi, mang biểu ngữ “Sauvez mon fils, Hãy cứu con tôi!” đến Toà Đại sứ CSVN, đường Boileau, Paris 16, xin gặp Nguyễn Cơ Thạch nhưng tên đại sứ này lánh mặt. Mười bốn hội đoàn thanh niên tại Đan Mạch, Đức, Thụy sĩ, Bỉ và Pháp xuống đường tố cáo Hà Nội. Trần Văn Tòng, anh của Bá, phối hợp một Ủy ban quốc tế để tranh đấu cho các tội nhân. Lễ cầu an được tổ chức khắp nơi. Dưới áp lực quốc tế, nhà cầm quyền Việt nam đổi án tử hình của hai can phạm có Pháp tịch là Mai Văn Hạnh và Huỳnh Vĩnh Sanh thành khổ sai chung thân. Trần văn Bá (mặc dù mang sổ thông hành Pháp), Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch bị hành quyết tại khám đường Thủ Đức ngày 8.1.1985. Một thông cáo vắn tắt của Nhà nước cho biết tin này. Xác của các tử tội không được trả lại cho gia đình, theo Trần Văn Tòng nói với người viết bài. Trên 3.000 đồng bào VN biểu tình tuần hành tại Paris ngày 10.1.1985 từ Maison de la Radio, quận 16, đến trước sứ quán Việt cộng để tỏ sự căm phẫn với bạo quyền Hànội. Hiện nay Lê Quốc Túy ở đâu ? hoạt động ra sao? Không ai được biết. Vụ án Trần văn Bá và chiến hữu làm sống lại khí phách của vụ Yên Bái năm 30. Đây là vụ Yên Bái 84. Vụ đầu, kháng thực dân Pháp. Vụ sau, chống độc tài cộng sản, ghê tởm hơn nhiều. Liệt sĩ thời đại mới Trần Văn Bá đã gieo hạt giống tốt. Bá không hy sinh vô bổ. Gương của Bá đáng ghi vào sử xanh. Chống Pháp và Mỹ, Cộng sản đã thắng, vì đã bịp được dân. Chống dân tộc Việt, ngày nay nhận thấy mặt trái Xã hội Chủ nghĩa, Cộng sản chắc chắn sẽ thảm bại phen này. Thảm bại chua cay!
LÂM LỄ TRINH Xuân Ất Dậu, Thủy Hoa Trang, California)
THƯ TỊCH: 1-Tiểu luận “Vấn đề địa phương trong chính trường Việt Nam” của Lâm Lễ Trinh, trong tạp chí Thế Giới, Houston ngày 18.5.2001 và Nhân Văn Hải Ngoại, 6.2001 2-Ký ức “Mây Mùa Thu” của Jackie Bông Wright, Virginia, 7.12.2004 3-« Tuyển tập Trần Văn Bá » 14 mai 1945 – 8 janvier 1885, Paris. (gồm nhiều bài báo) 4-« Trần Văn Bá Tương hội » Paris, 2.8.1999 5-« Việt Nam máu lửa, Quê hương tôi », hồi ký của Hoành Linh Đổ Mậu, CA 1986 6-« Blind Design, Why America lost the VN War?» by Hoàng Lạc & Hà Mai Việt, 1996 7-"Bí mật Hậu trường chính trị Miền Nam, 1954- 1975” của Đặng Văn Nhâm 1999
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 8:58:21 GMT 9
Hồi ký cuả Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger viết về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu 1981Mỹ có tiếp tục chừng chừ với Hà Nội như đã từng với Bắc Việt nam 1973 ? Kissinger viết về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào năm 1981, Kissinger ghi lại trong hồi ký nhận xét của ông về cá nhân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong thời gian ông Thiệu viếng thăm Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1973 : "…Cái ông ta cần là tiếp tục chiến đấu cho đến khi kẻ xâm lăng cuối cùng ra khỏi lãnh thổ. Đây không phải là điều sai của ông nhưng công luận Hoa kỳ thì lại không chấp nhận…. …Chúng ta biết rằng Băc Việt sẽ gia tăng sức ép, nhưng chúng ta đã không gia tăng lực lượng chống trả và quốc hội chúng ta sẽ bỏ phiếu bắt buộc chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến này vô điều kiện nếu chúng ta vượt quá giới hạn… …Ông Thiệu luôn nhìn vào chuyện trước mắt là quan trọng nhất. Cái gần nhất với ông không phải là hòa bình sau cùng mà là địch quân trước mắt… … Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ quan ngại vào những điều mong manh về sau này… …Ông Thiệu càng lúc càng ghét cay ghét đắng tôi vì vai trò kiến trúc sư của tôi về thỏa ước hòa bình này. Trong lúc này tôi chỉ biết thông cảm sâu xa về nỗi bực tức của ông, nhưng chúng ta không có chọn lựa nào khác. Hoa Kỳ không thể phủ quyết khi Hà nội đã chấp thuận, những điều khoản rất hòa bình chúng ta đã đề ra với sự chấp thuận của ông Thiệu cho thời hạn ba năm. Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta …Rõ ràng hàng triệu bàn chân trốn chạy về vùng ông Thiệu kiểm soát tránh xa vùng đất CS chiếm đóng tức đã bầu cho ông ta rồi. Thói thường hay đổ tội cho việc dội bom của chúng ta nhưng sau này chắc hẳn một điều là đó là phản ứng đối với tính bạo tàn của chế độ CS… …Làn sóng di dân ào ạt vào thời đại chúng ta luôn luôn phát xuất từ các nước CS chứ không hề theo chiều ngược lại. Thê mà vẩn còn những thói khinh mạng, xúc phạm cùng đối xử bất xứng để dành cho cho bạn bè Tây phương chúng ta như trường hợp ông Thiệu năm 1973… …Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông. Ông nổi bật với thỏa ứớc 1973 trong đó Hà Nội phải từ bỏ những đòi hỏi về chính trị từ bao lâu nay mà quay lại cho vấn đề ngưng bắn còn tốt hơn chúng ta mong đợi, tuy còn bấp bênh theo kỳ vọng của ông… … Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên văn: terrible loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi… … Thực sự, chẳng còn gì nhiều để bàn thảo thêm nữa . Ông chẳng hề kêu van về công chuyện chúng ta bỏ lại cho ông và ngay cả cái dã tâm từ phía Hà Nội. Nhưng ông đưa ra một một sự kiện thưc tế trước mắt chúng ta là vi phạm từ phía Bắc Việt. Về riêng tư TT Nixon có bảo đảm với ông-cũng như TT đã từng công bố vào hôm 15 tháng Ba và vài nơi khác – rằng TT sẽ chống lại những vi phạm trắng trợn đó bằng vũ lực nếu thấy cần thiết. Cùng một lúc TT(tức Nixon) vừa năn nỉ vừa dọa dẫm ông Thiệu bắt miền Nam phải thi hành những điều khoản của hiệp định đề ra. .. Khi máy bay của ông cất cánh khỏi California, ông đã khui rượu uống mừng ghi nhớ sự hài lòng cùng khuây nguôi của ông từ cuộc nói chuyện với ông Nixon. Dù tánh ông hay nghi ngại cùng các dấu hiệu khó khăn tương lai đang tới dần–gồm thái độ do dự của chúng ta đối với sự vi phạm hiệp định của Hà Nội và lưỡng lự viện trợ kinh tế cho miền Nam – thế mà lòng tin của ông không bao giờ thay đổi rằng Hoa kỳ sẽ đáp ứng viện trợ cho miền Nam trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là niềm tin từng được các đồng minh khác của Hoa kỳ ấp ủ xưa nay, lòng trung thành từng tạo dựng nên một trong các giá trị căn bản của Hoa Kỳ chúng ta đối với thế giới thế nên chúng ta gắng làm sao đừng để nó vuột mất…" (Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little Brown, 1981. Từ trang 309 đến trang 315. Bản dịch của Xuân Khê). 2.- Kissinger recorded in his memoirs commented on individual President Nguyen Van Thieu in Thieu time visited the United States in April 1973: "... What he needs is to keep fighting until the last invader out of the territory. It is not a wrong thing but his public, the United States does not accept .... ... We know that North Vietnam will increase the pressure, but we did not rise to fight back and force the parliament we will vote imperative we step out of this war if we unconditionally reached limit… ... THIEU always look at something immediate is the most important. The closest one to him is not the final peace which is the immediate enemy ... ... After the ceasefire, we will withdraw the army on the other side of the hemisphere, and his nation remains a military situation continues to sacrifice for the fragile hope of independence in Indochina. We were sure that our measures will restrain the ambitions of Hanoi. But his eyes only concern us on the fragility of the latter ... ... THIEU increasingly detested me because as my architect of the peace agreement. During this time I just know deep sympathy for his frustration, but we do not have any other choice. The United States can not veto as Hanoi has approved, these terms are very peace we have set out with the approval of Thieu for period of three years. Until today I respect him as a mirror Us fascinating of someone dare fight for the freedom of his nation, one who was later defeated by circumstances beyond his personal arms, country Mr. and even outside our decision ... ... Clearly, millions of feet fleeing the region Thieu control away from occupied lands ie CS voted for him already. Habits are often blamed for the bombing of but later we surely one thing that it was a reaction against calculated brutality of the communist regime ... ... The wave of immigrants rushing into our time always comes from the communist country, but not in the opposite direction. Nevertheless still the custom network contempt, insult and treat unworthy to spend for our Western friends as Thieu 1973 cases ... ... As a miracle comes from courage, Thieu was trying to steer the country in this tough stage, fighting against enemies trying to invade heart and reassuring allies do not understand him . He featured in the 1973 accord that Hanoi must abandon political demands had long since turned to the problem that a ceasefire is better than we expected, though still precarious his expectations ... ... About privacy but I spend less sympathetic about Thieu but I respected him because he is a fighter who persist in terrible loneliness (Originally: terrible loneliness) after the withdrawal of the United States. He accepted the sympathy and understanding for his meager. That does not make him wear qualities go ... ... Really, there is nothing more to discuss further. He did not moan about things we leave to him and even the malice from Hanoi. But he gave a one facts before us is a violation of the North Vietnamese. About privacy Nixon has assured him-as well as TT had announced on Monday 15 March and elsewhere - that the President will fight this blatant violation by force if necessary. TT at the same time (ie Nixon) has implored both Thieu began intimidating southern debtors the terms of the proposed agreement. When his plane took off from California, he has opened alcohol drink to remember satisfaction with his calming relief from the conversation with Mr. Nixon. Although his identity or doubt with the difficult future signs are coming down-including the attitude of our hesitation to violate the treaty of Hanoi and hesitant economic aid to South Vietnam - so that hearts His message never changed that the United States will meet for Southern aid in case of emergency. It is also the belief ever other allies of the United States traditionally cherished, loyalty ever created one of the fundamental values of the United States for the world we so we do not try to do so let it go ... " (Kissinger, Henry. Years of Upheaval. 1st ed. Boston: Little Brown, 1981. From page 309 to page 315. The translation of Xuan Khe)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 22, 2021 4:53:26 GMT 9
Những Ngày Tù Chung Với Ông Đạo Dừa Tác giả : Hòang Ngọc Giao Nguồn: Bolsa Hồi Ký * Viết theo lời kể của Joseph Cao ở Paris để tặng những chiến sĩ can trường của đất nước.
Tôi biết về ông Đạo Dừa rất ít. Trước kia, có một dạo tôi hiểu lầm ông. Nói hiểu lầm thì không đúng lắm : Tôi đã đánh giá sự đấu tranh của ông một cách phiến diện, hời hợt. Tôi được biết ông tên Nguyễn Thành Nam, một nhà trí thức tân tiến, đỗ bằng kỹ sư Canh Nông ở Pháp, có tinh thần ái quốc cao. Ông thành tài về nước, không làm việc cho Pháp, dấn thân vào cuộc cách mạng dân tộc. Vào thuở tôi còn mài đũng quần nơi những lớp trung học Pháp, tên tuổi của ông đã lẫy lừng, tương lai rạng ngời hào quang. Người Pháp ở Đông Dương rất ưu đãi dân thuộc địa thông thạo Pháp ngữ. Từ các công sở đến tòa án, hễ ai nói thông được tiếng Pháp kể như nắm được chiếc chìa khóa vàng trong tay, vào cửa nào cũng thông cũng lọt. Huống chi đối với những nhà khoa bảng xuất thân từ những đại học ở "chánh quốc" áo gấm về nước ! Với cái tài ấy, cái thế ấy, giá khéo luồn lọt một tí, làm gì chẳng thừa miếng đỉnh chung ? Nhưng ông kỹ sư Nam ấy lại không đem cái tài học của ông làm việc cho Pháp. Ông cũng không dùng cái vốn liếng văn hóa Tây phương gây lợi cá nhân, cho có được vợ đẹp con ngoan, cho có trang trại giàu sang trưởng giả, hoặc khai khẩn dinh điền màu mỡ cò bay thẳng cánh... Ông đã rũ bỏ cảnh phồn hoa quyến rũ, dứt lìa văn minh vật chất ông có thể thụ hưởng thừa thãi, để về một cồn vắng... trèo lên ngồi trên ngọn cây dừa mà tu, và thành là ông Đạo Dừa ! Tôi từng nghe mấy người anh bà con, cùng ở Pháp về chuyến tàu với ông, không ngớt bàn tán về hành động ấy của ông: - Kỹ sư Nam ở Bến Tre tính gì thế ? Toan làm chính trị ? Hay muốn chóng nổi danh ? - Hắn bất hợp tác với nhà cầm quyền ư ? Chủ trương tranh đấu bất bạo động như thánh Gandhi bên Ấn Độ à ? Bối cảnh chính trị ở Việt Nam khác xa với bên ấy lắm cơ mà ! - Hay hắn lập dị ? Cũng muốn tỏ ra ta đây anh hùng cách mạng ? Tôi nghe nói mà chán ngắt cho mấy ông anh họ ấy. Họ còn ham thụ hưởng, có dám dấn thân như thế đâu. Cũng có kẻ xu thời, làm chính trị sa lông. Thứ chánh trị không tốn kém gì, không hy sinh nguy hiểm gì, mà lại được tiếng là kẻ thức thời. Tôi là lớp trẻ vừa trưởng thành, vừa mới hiểu biết, trong thập niên 30-40. Chúng tôi thường thao thức theo tiếng gọi thức tỉnh của hồn nước, của các bậc tiền bối yêu nước như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng, ông Phan Châu Trinh, Tăng Bạt Hổ... Và cái chết oanh liệt của các bậc anh hùng Yên Bái Nguyễn Thái Học, Ký Con... đã khơi dậy lòng yêu nước khắp nơi. Chúng tôi sống trong ký túc xá, giữa bốn bức tường kín học đường, song cũng biết được đại khái những hoạt động của các ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Hồ Văn Ngà... và vô số nhà trí thức Trung Nam Bắc... đã không chạy theo vinh hoa phú quý thuở bấy giờ mà lại dấn thân làm quốc sự. Những quyển sách quốc cấm như Phan Đình Phùng, Con hùm Yên Thế Hoàng Hoa Thám, Giặc Cờ Vàng... được chúng tôi lén lút chuyền tay nhau, nửa đêm chun vào cầu tiêu, xem mê mệt không thôi. Phong Trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục với những tổ chức đưa thanh niên du học nước ngoài, những trường bí mật đào tạo nhân tài đất nước đã nhiều đêm là mộng trắng canh trường của lòng trai háo hức dấn thân vào phiêu lưu của chúng tôi. Chúng tôi không còn lòng học hành nữa. Cái học trong nước, dẫu đến cao đẳng, cũng chỉ để làm nô lệ. Chúng tôi từng chứng kiến, căm hờn và ứa lệ, khi trông thấy đang trong giờ giảng bài, vị giáo sư đáng kính mến bỗng bị lính kính, mật thám Pháp vào lớp, xích tay lại dẫn ra xe ... Giữa cái buổi giao thời đặc biệt ấy của đất nước, bọn thực dân cai trị cố tình bên trên đè ép xuống, dân chúng ở dưới ngộp ngạt trôi mình, có một số thanh niên Tây học, đâm ra hoang mang mất hướng. Một số bỏ sở làm lương to, đi lên núi Cấm tu hành, hoặc toan luyện bùa phép chống lại súng đạn, hoặc toan tìm hậu duệ các tiền bối kháng Pháp thời xưa ? Một số lại ủy mị hơn, tìm quên lãng hận mất nước trong làn khói phù dung ! Một số tìm đường trốn ra nước ngoài, cố sao móc nối được một anh thủy thủ ngoại quốc có tàu buông neo ở Nhà Rồng, năn nỉ sao cho anh ta thương tình dấu dưới hầm tầu để đi được thoát. Nếu rủi ra khơi rồi mà thuyền trưởng hay được, bất quá hắn xiềng chân lại, chờ đến một bến cảng nào đó thì tống khứ lên bờ, miễn đừng trong thuộc địa của Pháp thôi, là cũng sướng đời rồi ! Tuy không nói nhiều ngoại ngữ, chỉ biết tiếng Pháp rất hạn chế trong thương trường quốc tế, nhưng những thanh niên mạo hiểm vẫn tin tưởng ở sức lực và bàn tay tháo vát của mình để có thể kiếm được cái ăn qua buổi, miễn không ngửa tay xin ăn. Mà dù không kiếm sống được, chết đói xứ lạ là cùng, còn hơn sống nô lệ nơi quê nhà vốn nổi tiếng vựa lúa Châu Á ! Tôi có một số bạn bắt mối được với một bạn thủy thủ tàu buôn Pháp, bọn này đòi 50 đồng mới cho xuống tàu. Ba đứa đều là học sinh, còn trong cảnh cơm cha áo mẹ, làm sao có đến một số bạc to lớn như thế ? Bán cả đồ đạc, quyên góp khắp bạn bè mãi mới được 40 đồng, định sẽ năn nỉ xin bớt, chắc bọn chúng cũng chịu, nhưng khi đem tiền ra bến, hỡi ôi, con tàu buôn hôm nọ đã nhổ neo, ra lòng sông Sài Gòn rồi ! Sở dĩ tôi nói lên việc này là để cùng quý bạn hình dung lại thời điểm ấy của những công dân Việt Nam, như dòng sông Cửu Long đợt sóng này nối tiếp đợt sóng khác, đã ý thức được những việc cần phải làm của người bị trị. Quyền yêu nước không phải ở một người, ở một đảng phái nào. Bây giờ, người ta tha hồ tô hồng, chuốt lục lịch sử đảng họ. Bẻ cong cả lịch sử. Phủ nhận công ơn của những người ngoài đảng ta ! Các văn sĩ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa tán tụng tận mây xanh về việc đi tìm đường cứu nước của "bác", làm như chỉ có "bác" của họ mới độc đáo đi nước ngoài. Ở Sài Gòn, có một dinh thự to tát và tráng lệ của thực dân Pháp bỏ lại bến Nhà Rồng, đáng lẽ thuộc về nhân dân đang thiếu nhà ở, thì đảng lại làm thành ngôi nhà kỷ niệm nơi xuất xứ đi ra nước ngoài của lãnh tụ. Để thờ những vật vớ vẩn ! Sao không thờ bao nhiêu bậc tiền hiền cách mạng trước "bác" hoặc đồng thời với "bác", tài ba hơn và sự hy sinh cống hiến nhiều hơn ? Cổ nhân bảo : luận anh hùng, chớ luận vào thành công hay thất bại, phải luận vào sự tiên phong khởi đầu. Những người thắp sáng, những nhà khai hoang, trong lãnh vực thương nước yêu nòi mới thực hiển hách. Cũng như nơi tuyến đầu, người lính trước tiên nhận diện được quân thù mà cảnh giác cho bạn đồng ngũ, dù có bị bắn ngã chết, vẫn giữ công đầu ! Tổ quốc Việt Nam không quên ơn những người con ấy. Dầu hiện nay, họ bị bôi nhọ, hay xuyên tạc. Trong số đó có ông Đạo Dừa. Với một năm ở tù chung ở khám Cần Thơ, tôi mới thật sự biết ông. Khâm phục ông nhẫn nại, kiên quyết và bất khuất hơn người. Trước kia, tôi chỉ biết ông có chí hướng hơn người. Ông tìm con đường tranh đấu riêng. Ông không theo phe này, lập hội kín nọ. Ông làm cách mạng quần chúng. Lấy số đông dân chúng làm hậu thuẫn. Ông pha màu tôn giáo vào chính trị, và ông đã khởi xướng lên một mình. Một loại tôn giáo hòa đồng. Thực chất là lấy tình thương bao la để khuyến dụ và cảm hóa mọi người. Ông đã gặt hái ít nhiều thành công. Lúc bấy giờ, tôi vẫn còn cho ông là một con người đáng tôn kính, song có phần lập dị. Nhân một dạo, tôi có dịp đi đò máy từ bến bắc Rạch Miễu sang tỉnh lỵ Bến Tre, khi con đò chạy ngang qua một cái cồn đất nọ, người đi đò cùng trầm trồ trỏ tay bảo : - Ông Đạo Dừa ngồi trên đọt dừa đó, thấy không ? Ổng ngồi mấy năm nay rồi. Mặc nắng mưa, trưa tối ! Một bà lão già nói bằng giọng cung kính: - Ai cũng tưởng ổng chịu không nổi, mà chết rồi! Nhưng người ta vẫn thấy ông ngồi trơ trơ đó. Mà ông phải nhà nghèo hèn gì, con nhà giàu sang, danh giá. Vậy mà ông lại đi tu. Nói là để độ đời ! Tôi hỏi lại: - Tây để cho ông làm như vậy sao? Ông ra vẻ chống đối như vậy, bỉ mặt cho người Pháp ở Đông Dương lắm. - Mèn ơi, họ bắt ổng giam vô tù mấy lần. Ổng tịnh khẩu, không thèm nói chuyện. Nhưng viết giấy hỏi Tây là ổng có tội gì mà bị bắt ? Đụng chạm nhân quyền sao đó ! Tây cãi không lại lý của ổng, phải thả ổng ra. Ổng lại trèo lên cây dừa mà ngồi. Tây giận lắm, sai người đốn bỏ cây dừa của ổng. Mất cây dừa đó, ổng lại trèo lên cây dừa khác. Mèn ơi, ai trông thấy ổng trèo dừa mà hổng thương đứt ruột ! Tây lại sai người đốn dừa nữa, ổng lại ngồi trên cây khác. Đốn hết dừa cù lao này, thì ổng sang qua cù lao kia. Bến Tre là xứ dừa mà. Không lẽ Tây đốn hết dừa của tỉnh? Thằng Tây đành chịu thua ổng luôn. - Rồi ổng ăn gì ? - Ổng chỉ uống nước dừa, có khi ăn thêm vài trái chuối để sống. Vậy nên người ta mới kêu ổng là ông Đạo Dừa. - Thời buổi lộn xộn, ổng ngồi hoài như vậy, không sợ nguy hiểm ? - Ổng hổng sợ. Mà dân cũng thương ổng, ngấm ngầm bảo vệ cho ổng. - Ổng tịnh khẩu hoài, không mở miệng nói chuyện? Không thuyết pháp sao? Vậy làm sao truyền đạo ? - Ổng không nói. Chỉ viết ra trên giấy. Nói chuyện cũng bằng giấy tờ. Vậy mà đệ tử đông lắm. Ở khắp nơi, đâu cũng có. Cả ở Lục tỉnh, ở miền Trung nữa. Vì đạo của ông tốt một cái là thờ kính ông bà, tôn trọng lễ nghĩa và ăn ở hòa mục với mọi người. Tôi chăm chú nhìn lên ngọn dừa khi phà chạy ngang mé cồn. Trên ngọn một cây dừa cao, một hình bóng người nhỏ thó, mặc áo vải vàng, ngồi thu lu trên một giạt bằng cây to, trông thấy bấp bênh lơ lửng. Trời trưa nắng như hun đốt, mắt nhìn lên lóe sao. Thế mà bóng người nọ vẫn ngồi xếp bằng an tọa, tịnh nhiên. Ông ngồi như thế đã mấy năm trời? Gương kiên nhẫn của ông thật đáng phục ! Tôi vì bận việc ở Bến Tre, đến xế chiều mới xuống phà trở sang tỉnh Mỹ Tho. Ông Đạo Dừa vẫn ngồi trên ngọn dừa nơi cồn đất nọ. Ngọn gió chiều thổi lộng lòng sông rộng. Cây dừa trông từ xa thấy chao đảo. Thế nhưng ông đạo vẫn ngồi bằng an, tâm tư vắng lặng vào cõi hư vô nào? Hay ông đang nghiền ngẫm một thế cờ hay để giải thoát cho đất nước, cho con người ? Bên kia bờ tỉnh lỵ Mỹ Tho đang sáng choang ánh đèn phồn hoa, lại có tiếng ca nhạc từ đài phát thanh nào đó phát ra âm điệu xa vời quyến rũ, mê ly. Như tất cả giục giã con người đừng hoài phí tuổi xuân, cứ quyện hồn vào những hoan lạc, say sưa ... Tôi bất giác ngước nhìn hình bóng ông Đạo Dừa ngồi nơi hoang tịch nọ. Cái bóng dáng gầy còm của người trí thức ngậm câm tiếng nói ấy lại có một sức mạnh huyền vi rọi xuống lương tâm con người. Cảnh giác người đời đừng mê bả béo mồi thơm mà quên hờn mất nước ! Mãi lâu sau đó vì bị kẹt, tôi mới lại có dịp về miệt Tiền Giang. Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường những người đàn ông có, đàn bà có, già có, trẻ có, mặc quần áo bằng vải màu vàng hoặc màu già, áo thì là áo bà ba gài nút ở giữa hay là vạt miễng, có người để tóc dài chít khăn màu vàng. Những người ấy ăn nói lễ phép, từ tốn và thân thiện. Tôi hỏi ra mới biết đấy là đệ tử của ông Đạo Dừa. Ông Đạo chủ trương hòa đồng tôn giáo. Ông thờ các bậc sáng thế. Phật Thích Ca ông cũng trọng, Chúa Ki Tô ông cũng kính, cả đến Lão Tử ông cũng theo, Khổng Tử ông cũng học... Tất cả các vị có lòng từ bi, bác ái, yêu thương nhân loại, xả thân vì chúng sanh, ông đều phụng thờ. Đó là tình thương yêu phải học tập, phải noi theo. Đệ tử của ông rải rác khắp nơi. Họ hành đạo và truyền đạo với lòng tin vững chắc, dù phải gặp rất nhiều khó khăn, cả những hiểm nguy. Vì trong cái thế giới nhiễu nhương, còn lắm người nhắm mắt chạy theo thế lực kim tiền, thì trái tim thương yêu của người thiện lương dù mở rộng mấy cũng ít có người cảm thông. Rồi sau đó, tôi lại gặp một số đệ tử của ông Đạo Dừa trong cảnh nhà tù ! Hỏi đến Thầy họ, Thầy họ chắc cũng bị cầm giữ đâu đó. Họ vẫn không rời chiếc áo bà ba vạc miễng của họ. Sau lưng áo, họ vẽ hai chữ Tu Tù thật lớn. Họ lặng thinh, không nói gì. Ai muốn hiểu sao hiểu. Có thể bảo là vì tu nên mới bị tù. Có thể có nghĩa ở tù vẫn cứ tu. Lại có nghĩa lấy việc ở tù làm công quả học thành đạo. Theo họ, họ bảo tu cho đất nước hòa bình, con người thương yêu con người hơn. Chỉ có tình thương yêu mới khai trừ họa chiến tranh. Chỉ có tình thương yêu, mới san sớt đồng đều, mới thông cảm nhau, không cần đấu tranh giai cấp ! Tôi hỏi người đệ tử của ông Đạo Dừa: - Nghe nói Thầy anh muốn làm người hòa giải ? - Phải. Cậu Hai yêu nước thương dân, không nỡ nhìn triệu triệu thanh niên ở hai phía bị nướng thiêu trong nạn nồi da xáo thịt. Chiến tranh đã hơn ba mươi năm, dân chúng điêu linh, xã hội tàn hoại, đất nước nghèo khổ lắm rồi, sao người ta lại không chịu ngưng tay ? - Thấy anh tin là hai bên có thể ngồi lại với nhau? - Cậu Hai tin ai cũng có lòng yêu nước thật sự. Lòng yêu nước đứng trên quyền lợi của bè cánh, đảng phái. - Và Thầy anh tin "bác Hồ" sẽ từ bỏ đảng cộng sản? Hay đặt quyền lợi của đảng, của Nga Sô, của Trung cộng ra ngoài để cứu nước cứu dân ? - Nếu ông Hồ yêu nước, ông phải làm như vậy ! Tôi khẽ thở dài: - Thầy anh chủ trương tốt, nhưng tình hình chính trị phức tạp lắm, lại thêm lòng dạ tham lam của con người, tham vọng của quốc tế... Không như việc Thầy anh nuôi con mèo chung với con chuột một lồng... - Thú vật còn biết dung nhau, con người lại không thể sao? Việc nước nhà mình đã đến lúc mình phải tính với nhau, không cần đến anh Mỹ, anh Nga, anh Tàu chen vào nếu họ không có thiện chí giúp đỡ ! - Tôi sợ Thầy anh ôm mãi cái không tưởng ấy. Giá mà thành được như thế, người dân Việt nào lại không thích ? Về sau, tôi lại nghe tin ông Đạo Dừa trở về Cồn Phụng, tức là cái cồn đất ông trèo lên ngồi trên cây dừa mấy mươi năm về trước. Khi ấy cồn đã có đông dân cư tụ tập. Nhà ở khang trang. Dân tình dễ sống. Có văn hóa. Có tình người. Có trật tự. Có cả mấy người Mỹ tu ở đấy. Ai trông thấy tướng đi lênh khênh của họ trong bộ quần áo bà ba màu vàng may rộng khổ mà vẫn thấy túm bó, với đôi bàn chân đi đất rón rén của họ, đều phải che miệng cười. Nhưng là cái cười đầy thiện cảm, thân ái. Họ gặp ai cũng chắp tay cúi đầu, nói trọ trẹ : - Chào ông !... Chào bà !... Chào anh !... Chào chị !... Mạnh giỏi ! Nơi Cồn Phụng còn treo một biểu ngữ to Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Đó là một câu sấm xưa từ mấy trăm năm, mà người ta cho là trong bài sấm Trạng Trình, tiên đoán về hậu vận nước nhà. Nhưng không ai hiểu câu sấm ấy ứng vào thời kỳ nào? Sao không đánh nhau mà thành? Và cái thành ấy có lợi cho phe nào? Tôi thầm nghĩ ông Đạo Dừa đưa lên câu biểu ngữ để kêu gọi ngưng chiến. Nơi bến cồn có đậu một chiếc tàu sắt mà ông Đạo Dừa cho trang trí theo mỹ thuật Việt Nam và đặt tên là thuyền Bát Nhã. Trên con thuyền rộng lớn ấy, nơi phía trước, ông bầy ra nhiều hàng ghế sắt cho du khách ngồi. Nhiều phái đoàn ngoại quốc đến phỏng vấn ông, thu băng, quay phim. Ông ngồi nơi chiếc ghế đặt phía trước, có hai đệ tử đứng hai bên. Chính hai đệ tử nọ trả lời những câu hỏi của khách, thỉnh thoảng ông mới biên vào giấy cho họ phát biểu thêm những chi tiết. Tôi đến nhằm lúc hết giờ phỏng vấn, nhưng cũng được đệ tử của ông nói về chánh kiến của đạo. Ông nhận ra tôi, chỉ mỉm cười. Nụ cười hiền hòa và thân thiết. Ông vẫn không ngớt tay lẫy những hột bắp, để sau đó tự ông nấu lấy ăn. Trước kia ông chỉ uống nước dừa. Dạo sau này, vì làm việc nhiều, vì đệ tử khuyên lơn, ông mới ăn thêm buổi ngọ (buổi trưa) bằng bắp nấu. Tôi trông thấy ông gầy ốm quá, thân hình nhỏ thó, đôi tay khẳng khiu, mặt thỏn như trẻ nít, song đôi mắt tinh anh sáng rực khác thường. Các phóng viên truyền hình ngoại quốc không ngớt tỏ vẻ kinh ngạc và thán phục trước một ông già ốm tong teo như cây sậy mà lại có một mãnh lực chịu đựng kiên cường. Tự ông làm ra thức ăn cho ông, tuy rằng đệ tử của ông rất đông. Nếu ông để cho họ phục dịch, chắc họ sung sướng lắm. Nhưng ông chủ trương có làm mới có ăn, ông phải tự tay làm lấy thức ăn cho ông. Nếu ông bị rủi ro nằm bệnh ngày nào, ngày đó ông nhịn đói. Không ai khuyên lơn, năn nỉ ông được một miếng nào. Tôi trông thấy những việc ông làm, lòng vơi bớt đi những thành kiến thắc mắc về ông. Ông thật sự thể hiện tình thương yêu to lớn. Ông xót xa đau đớn khi thấy chiến tranh kéo dài, dân tộc điêu linh tang tóc, đất nước kiệt quệ tài nguyên, lẽ ra có thể làm dân giàu, nước mạnh! Nhưng giữa khi đôi bên say chiến, nhất quyết một được một thua, tiếng gọi hòa bình của ông chỉ là tiếng gào khản trong sa mạc! Rồi đây, Cồn Phụng của ông, nơi ông tạo được một xã hội kiểu mẫu nho nhỏ ấy có được yên? Thân phận của ông và bầy đệ tử rồi sẽ nổi trôi, chìm ngụp thế nào trong cảnh biến loạn tang thương của đất nước ? Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái ngày uất hận của người Việt tự do ! Cộng sản đã thôn tính được miền Nam Việt Nam, và chỉ qua một thời gian ngắn đã làm cho toàn quốc đói rách và sa đọa hơn bao giờ hết ! Tôi lại gặp ông Đạo Dừa trong ngục thất Cần Thơ. Đầu tiên, tôi trông thấy ông, cũng như tôi, bị liệt kê vào thành phần tối nguy hiểm và bị biệt giam. Tức là nhốt trong co-nét, thùng sắt to tướng đựng đồ viện trợ của Mỹ hồi xưa. Mỗi người một co-nét. Nằm ngồi, ăn uống, ỉa đái -- xin lỗi độc giả -- cũng tại chỗ. Cửa co-nét đóng lại, mình một mình trong tối bưng, trơ trọi và... thối bung ! Không trông thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Không biết ngày tháng, thời khắc. Thỉnh thoảng mới được chúng mở cửa co-nét dọn dẹp vệ sinh. Ôi mừng ơi là mừng. Mừng trông thấy được ánh sáng. Trông thấy những vật cử động sao lạ mắt quá chừng ! Mới biết rằng mình còn sống ở nhân gian ! Bọn cai tù, bọn cán bộ, đối xử rất tàn nhẫn. Chúng ngoài miệng nói khoan hồng mà lòng thâm như rắn độc. Vô cớ cũng chửi rủa hạ nhục. Chúng như thể rửa hờn giai cấp bằng trút lên đầu kẻ sa cơ, thất thế dưới tay chúng. Chúng oán ghét ông Đạo Dừa vô cùng. Chỉ có ổng thản nhiên và coi thường chúng. Chúng càng đọa đầy ông bao nhiêu, ông càng quyết liệt và quật cường bấy nhiêu. Quyết không chịu thua chúng. Và lắm lần hành hạ ông mãi không xong, chúng phải chịu thua ông. Ông phản đối chúng bằng cách gõ cái ca uống nước vào cửa co-nét... xèng xèng... xèng xèng... có khi cả ngày không ngớt tiếng... Tên lính gác bực mình quát hỏi : - Làm gì om sòm thế ? Giờ này khuya rồi, làm thế ai ngủ được ? Tiếng nói chậm rãi và rắn rỏi của ông Đạo Dừa đưa ra sau cửa co-nét: - Cậu ơi, tôi thương cậu lắm... - Tôi chả cần ông thương ! - Có ai ngăn trở được tình thương ? Cậu không cần tôi thương là quyền cậu. Còn tôi thương cậu là quyền tôi. Tôi thương cậu chỉ là một kẻ tay sai. Như thiên lôi, lịnh trên bảo đánh đâu là phải làm vậy thôi. Thương cậu chiến đấu mấy năm trời, vào sanh ra tử biết bao lần, rốt cuộc cũng chỉ là anh lính gác, thương cậu chức vụ bé nhỏ quá, không làm sao giải quyết nổi chuyện của tôi ... - Nhưng ông muốn gì ? - Thương cậu quá ! Cậu không giải quyết nổi, hỏi làm gì. Cậu kêu người lớn hơn cậu lại cho tôi nói chuyện. - Giờ này mấy đồng chí cán bộ ngủ cả rồi. - Tôi thương cậu quá ! Như khỏi cần nói chuyện với anh lníh gác, ông Đạo Dừa lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ nhịp đều như tiếng mõ hồi một. Mấy người bạn tù gần đấy giật mình thức giấc, thì thầm bảo nhau : - Cậu Hai lại tranh đấu nữa rồi Bọn quản giáo, cán bộ rồi đây khổ sở với cậu không ít ! Những người bị "học tập cải tạo" bất đắt dĩ ấy tuy phải làm lụng cực nhọc ban ngày, ban đêm cần giấc ngủ cho lại sức, song không phiền hà khi phải thức giấc vì tiếng khua lon của ông Đạo Dừa. Trái lại, họ rất thích cảnh ông Đạo Dừa chống báng lại bọn hung tàn giết người không gớm tay ấy. Chỉ có ông Đạo Dừa mới dám làm, mới không biết sợ, không khuất phục trước uy vũ. Ông gõ lon gọi mãi cho đến khi tên lính canh phải đi gọi tên cán bộ cai tù đến. Tên này quát tháo lên : - Ông muốn gì ? Giọng nói của ông Đạo Dừa từ trong co-nét đưa ra, mềm mỏng, ngọt ngào : - Tôi thương chú cán bộ quá. Thương chú đang ngủ ngon giấc mà bị dựng dậy vì tôi. Nhưng đành phải gọi chú nửa đêm, nửa hôm như thế này là vì tôi bị... bỏ đói ! Bọn quản giáo, thường ngày hay sừng sộ, mắng chửi phạm nhân. Với ai dầu già lão, bạc phơ tóc trắng, chúng cũng gọi là anh, tức là tử tế lắm rồi. Song đặc biệt chúng lại gọi ông Đạo Dừa là ông. Tên cán bộ bực tức bảo : - Ai bỏ đói ông ? - Không bỏ đói tôi, sao không cho tôi uống nước dừa ? Tên cán bộ mở cửa co-nét, chỉ tay về ổ bánh mì và lon sữa : - Không có nước dừa nhưng có bánh tây và sữa đây thôi ! - Tôi không ăn những thứ đó. Tôi chỉ uống nước dừa. Ông trả lời rất quả quyết. Tên cán bộ cầm ổ bánh mì lên xem có bị cắn mất miếng nào hay chăng ? Lại bưng lon sữa xem xét tỉ mỉ. Hắn nghi ông Đạo Dừa giả bộ không ăn, nhưng kỳ thật đã nhấp nháp chút ít rồi giả bộ làm khó. Nhưng ổ bánh mì vẫn y nguyên, cả lon sữa cũng vẫn còn đầy. Mùi bánh và mùi sữa đưa vào mũi hắn, thơm ngon đến nỗi hắn phải nuốt nước bọt đến đánh ực một cái trong cổ họng. Hắn ăn no đầy đủ thế mà thấy ổ bánh và sữa ngọt bùi, béo bổ phải thèm rỏ dãi, thế mà lão già ốm nhom kia lại có gan cóc tía, đã đói rã ruột, vẫn chẳng thèm rớ tới. Gã dằn ổ bánh mì và lon sữa xuống nền sắt co-nét, sầm nét mặt bảo : - Ngon bổ thế này mà ông chê. Chả có thứ khác đâu ! Ông Đạo Dừa vẫn ngọt ngào : - Tôi thương chú cán bộ ! Chú nhỏ chức quá, không giải quyết được vấn đề của tôi. Thương đã làm mất giấc ngủ của chú. Thôi chú về ngủ lại đi. Để tôi gọi cấp trên của chú. Tôi thương chú ít quyền quá !... Và rồi ông lại gõ lanh canh... lanh canh... Gõ đến sáng vẫn không dứt tiếng. Tên trưởng trại phải đến gặp ông : - Ông đòi hỏi chuyện ngoài luật lệ của nhà tù. - Mấy chú bỗng dưng giam cầm tôi, giam cầm hàng ngàn người vô tội, có theo luật lệ nào không ? - Mấy người có nợ máu với nhân dân. Còn ông là tay sai của CIA. - Chú có biết CIA là thế nào mà mở miệng ra là buộc tội cho mọi người. Ai làm sở Mỹ là CIA ? Tiếp xúc với người Mỹ là CIA ? Biết tiếng Ăng-lê cũng là CIA ? Học thức một chút cũng CIA. Chỉ có bần cố nông mới không là CIA ? Thế hồi Việt Minh còn ở chiến khu Việt Bắc, có Mỹ trợ lực cho cũng là CIA ? Bác Hồ lúc ấy cũng CIA ? - Này ông đừng nói bậy mà khốn !... Cứ nói đến việc ông kêu đói. Tại ông chê thức ăn đặc biệt của nhà tù cho ông dùng.... - Ê, không phải à. Thức ăn đó Tín hữu của tôi gởi cho. Tôi thương chú Trưởng trại nói sai. Cố tình bóp méo sự thật. Tín hữu của tôi sợ tôi bị bỏ đói chết nên mới gởi vào cho dừa nước, bánh mì, sữa ... Tôi không ăn bánh mì sữa, chỉ muốn nước dừa thôi. Tôi thương Trưởng trại không giải quyết nổi việc này, thì tôi gọi cấp Đảng ủy của quản giáo vậy! Và ông lại gõ lanh canh... lanh canh.... Bọn cai tù nghiến răng căm tức lắm mà không làm gì đặng ông. Chúng không muốn ông bị chết đói để khỏi bị mang tiếng. Nhưng ông Đạo Dừa cũng biết như vậy, vẫn kiên trì mà sống. Như thể thi gan luôn cả đến cái chết. Trưởng trại và bọn quản giáo phải họp khẩn cấp. Dừa trái thì có sẵn do đệ tử của ông Đạo Dừa gởi vào, nhưng ai chặt cho ông uống? Lũ răng đen mã tấu chặt đầu người thì sành, nhưng chặt quả dừa đâu có biết ! Chúng đâu dám phát dao cho ông. Nhỡ ông lấy dao rạch bụng tự tử thì sao ? Bàn cãi mãi, chúng mới nẩy ý kiến tìm trong số tù gốc người Bến Tre ra chặt dừa cho ông. Chúng gọi anh NVA ra, bảo đem dừa đến cho ông uống. Anh này ngơ ngác, bảo : - Tôi có biết chặt dừa đâu ? - Anh là dân Bến Tre mà không biết chặt dừa ư ? - Tôi chèo đò. Có vườn dừa đâu mà biết chặt. Có anh TVT tình nguyện ra. Anh này trước có bán dừa, biết cách thức. Anh chỉ cần dựng đứng trái dừa, bổ ba nhát dao, chặt xéo nơi núm dừa thành tam giác, bật tung núm dừa ra, không một giọt nước sóng sánh ra ngoài. Anh bưng quả dừa đến bên ông Đạo. Tuy anh không phải là đệ tử, anh cũng cung kính bảo nhỏ: - Cậu Hai uống đi để mà sống. - Cám ơn em. Tụi này bạo phát, bạo tàn. Qua sẽ không sống đến ngày đó. Qua biết chúng quyết làm cho qua chết. Nhưng thể xác thời chết chứ tinh thần thời không ! Bọn Việt cộng hành hạ ông Đạo Dừa đủ cách. Chúng lôi ông ra để tắm rửa cho ông: Ông ở dơ quá không chịu tắm rửa, không thay đổi quần áo, hôi hám kinh tởm quá. Lại chí rận, bọ chét cùng mình, lây bịnh nguy hiểm cho cả khám ! Chúng cầm vòi nước xịt vào ông. Nước xịt rất mạnh, làm ông té lăn lốc. Ông cố gắng bò dậy. Lại bị nước bắn tung người đi, lăn cuồng như bông vụ. Ông không hề rên rỉ, than van một tiếng. Vẫn gượng ngồi dậy, lại té lăn. Chúng cười ầm lên. Ông vẫn cương quyết không khuất phục. Bọn tù chúng tôi nhìn ông, xót thương biết mấy, và khâm phục ông không lời nào cho xiết. Ông bao giờ cũng ngẩng cao đầu không cúi luồn. Cả đời ông bị tù đầy cũng lắm, ông sợ gì lũ trẻ ranh muốn giết ông mà khỏi mang tiếng này ! Chả bù trong khám, biết bao kẻ xưa kia giầu sang danh giá, oai quyền hống hách, bây giờ khúm núm sợ sệt trước lũ cán bộ ngu dốt : - Dạ bẩm thưa cán bộ, em lỡ lầm, lần sau không dám. Xin cán bộ rộng lòng tha thứ một phen. Một điều dạ thưa, vâng bẩm, khúm núm, sợ sệt, như muốn thun người nhỏ bớt đi. Uốn lưng khòm cong lại, cầu an, tắc trách, thủ phận mình, quên đồng bạn. Lại còn một hạng khác, ti bỉ hơn, cam làm ăng-ten cho thù. Phản bạn, bội tình đồng ngũ, nghĩa bạn bè, để được một lời hứa sẽ cứu xét cho về sớm, hoặc được một vài ân huệ cỏn con... Ôi, điếm nhục ! Tôi nhìn gương can cường của ông mà lại xấu hổ cho mình. Mới bị tù đầy vài bận thôi mà tôi tưởng rằng hãnh diện lắm. Tù Pháp thuộc tôi có ở. Tù Nhật Bổn tôi cũng đã nếm mùi. Rồi lại tù Việt Minh vào măn 1945, lại còn hai năm vướng mắc trong nhà tù của chế độ trước vì chống nạn độc tài tham nhũng nữa ! Nay lại vào khám Cần Thơ, bị liệt vào thành phần biệt giam nguy hiểm, biết chừng nào được ra? So với các bậc cách mạng xả thân tranh đấu thời trước, tôi nào có ăn nhằm gì ? Trừ lúc ở tù Việt cộng những năm ấy ra, cảnh ngồi tù Nhật Bổn là đáng nhớ nhất. Năm ấy 1942, tôi bị Hiến binh Nhật bắt giam ở "Chambre de Commerce" ở bến sông Sài gòn, sau này là Thượng Nghị Viện của chế độ trước. Vì tội rải truyền đơn chống thực dân, cả Pháp lẫn Nhật, mà bọn Hiến binh nghi tôi là gián điệp Trùng Khánh. Chúng giam vào phòng Thương Mại ấy, hai bên là chỗ giam người có song gỗ chắn trước mặt, chừa một lối đi ở giữa. Mỗi sáng, 7 giờ, tụi Nhật cho chúng tôi đem thùng vệ sinh ra đổ xong lại bưng vào căn phòng giam hẹp của mình. Chúng bắt ngồi xếp bằng, thẳng lưng lên, tay để nơi đầu gối, không được nhúc nhích. Sáng ngồi tới 12 giờ trưa, được nghỉ ngơi cơm nước. Cơm thì được phát một chén gạo Thái Lan dẻo như nếp, có nêm tí muối. Chiều 2 giờ ngồi đến 6 giờ mới được nghỉ ngơi, cơm nước như khi trưa. Tối lại phải ngồi từ 7 giờ đến 9 giờ mới có quyền nằm xuống. Khi ngồi, phải ngồi yên như pho tượng. Nếu mỏi mệt khom lưng, nghiêng quẹo người, hay lệch đầu qua bên là bị một côn gỗ gõ đánh cốp trên đầu như bị sét đánh, tá hỏa tam tinh! Đó là thằng đội Trâu, thân hình trùng trục như con trâu nước, đầu vấn khăn lông trắng, dưới bẹn thắt cái khố, đi qua lại nơi khoảng đường giữa, vai vác cây gậy gỗ tròn và nặng. Nó thường đập chẩy máu đầu tội nhân. Đấy là chỉ trừng phạt sơ sài về tội ngồi không thẳng thắn thôi. Còn khi bọn Nhật tra khảo để lấy lời cung khai thì thật kinh khủng rởn cả tóc gáy. Cứ hai thằng Nhật thân hình như hộ pháp quần một phạm nhân; vật, ném, tung, hứng... nạn nhân của chúng như quả bóng rổ ! Thường thì có máu đổ, nạn nhân chết giấc năm ba phen mới tạm được buông tha cho về khám. Khi ấy tôi còn trẻ, háo động, làm sao ngồi yên tĩnh như thế từ giờ này sang giờ khác được. Nên cũng đã nếm mùi côn gỗ bao nhiêu phen. Một hôm tôi trông thấy có một con gián bò ở kẹt song gỗ. Tôi mừng như bắt được vàng. Có được một sự sống động dưới mắt. Trông nó chạy tới chạy lui, cũng đỡ buồn trong cảnh hoang lương, tịch mịch. Dầu rằng khít bên đó cũng có nhiều bạn đồng cảnh, nhiều pho tượng sống ! Tôi khi ấy chưa biết trầm tĩnh, nhẫn nhục của người luyện công tĩnh tọa. Dẫu có nén lắm, lòng vẫn xôn xao không định. Đến nay, trông thấy ông Đạo Dừa nhẫn nại, trầm tĩnh và xem thường bạo tàn, vũ lực của chúng, tôi mới thấy đó làm gương cho mình. Quyết không ủy mị, buồn rầu, khổ đau, rên rỉ dưới bạo tàn. Ông Đạo Dừa bị xịt nước ướt loi ngoi, nằm im trong vũng nước lênh láng, da thâm tím lại. Nhưng một lát sau ông lại lồm cồm bò dậy. Lại ngồi xếp bằng ngay ngắn, ngẩng cao đầu. Trông thấy hình dáng gầy gò, ốm nhom của ông, da bọc trơ xương như cái xác ướp khô mà đôi mắt vẫn linh động, vẫn ảnh hiện tình nhân đạo, vị tha bao la ... Ông thường chống đối bọn Việt cộng : - Các anh mà cách mạng cái gì ? Cách mạng gì không biết thương dân, yêu nước, cam làm tay sai ngoại bang. Cách mạng gì mà giam cầm hàng triệu người vô tội ? Làm hằng triệu người tán gia bại sản, tan nát gia đình ? Làm cho sáu mươi triệu đồng bào phải rách rưới đói nghèo, không trông thấy ánh sáng hy vọng nào, một tương lai tốt đẹp nào. Thiên đường hứa hẹn của cộng sản các anh là hố thẳm muôn đời chôn vùi dân tộc ! Bọn chúng giam nhốt ông vào chuồng chó. Đó là một nơi nhỏ hẹp bên vòng rào, có mái thiếc che thấp, có giây chì gai bao quanh. Trước kia nơi đó nhốt chó nên có danh từ chuồng chó. Ban ngày nắng rọi xuống mái thiếc nung nóng như lò lửa. Đêm đêm về, gió khuya lạnh buốt như cắt da. Đến chó ở đấy còn chịu không nổi huống chi con người. Nhưng ông Đạo Dừa vẫn bền bỉ chịu đựng. Mềm dẻo như cây sậy giữa phong ba. Dầu cho cuồng phong, nghịch khí đến đâu, cây sậy tạm thời phải cong, phải ngả nghiêng, oằn oại trước bạo lực đàn áp hung tàn, nhưng không đổ gẫy ! Bọn Cộng sản chỉ muốn ông Đạo Dừa khuất phục chúng, thốt ra lời hứa hẹn với chúng không tranh đấu nữa, không chống đối nữa. Chúng chẳng những buông tha ông, còn cho ông những ơn huệ đặc biệt, hậu hĩ hơn người. Xưa kia, Pháp không mua nổi ông, Nhật không dụ dỗ ông nổi, Việt cộng nào đáng gì để ông nghe theo ! Cuối năm đó tôi bị chuyển trại. Khi đi ngang qua chỗ ông ngồi, tôi khẽ cúi đầu như chuyển lời nói qua tâm tưởng với ông: - Cậu Hai ráng gượng sống... Ông mỉm cười nhân hậu. Nụ cười ngậm ngùi vĩnh biệt! Mấy năm sau, tôi được trả tự do. Không tội gì, mà mất tự do rồi được trả ! Và sau ba chuyến vượt biên cam go, tôi thoát ra được nơi vùng trời tự do. Nhờ vẫn đeo đuổi chí hướng phục quốc, tôi lê một giò qua nhiều nơi Âu, Mỹ, cả Á Châu. Khi đến địa phương nào có trồng cây dừa, tôi bất giác nhìn lên ngọn cây, liên tưởng đến ông Đạo Dừa. Hình bóng của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thành Nam hiện ra mờ ảo trước mắt tôi. Gầy gò ốm yếu, tưởng chừng gió thổi cũng bay như ông, ngờ đâu lại có lòng sắt đá kinh người ! Tôi nghe như văng vẳng bên tai những lời nhỏ nhẹ của ông: - Tôi thương mấy chú lắm, mấy chú Việt Cộng ơi. Mấy chú ngu dại lắm. Mấy chú không biết bạo tàn, bạo diệt ! Chỉ có nhân nghĩa mới trường tồn ! Năm 1988, tôi gặp một người bạn mới vượt biên sang, bảo rằng ông Đạo Dừa đã tịch ! Tôi bỗng nhiên cay xè mắt, đôi giòng lệ tiếc thương chan hòa ... Cộng sản Việt Nam phạm rất nhiều lỗi lầm đối với Quốc gia, Dân tộc, trong đó có sự giết hại nhà chí sĩ hiếm có Nguyễn Thành Nam. Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam là người trí thức cuối cùng đã hạ mình xuống tin tưởng vào thiện chí của Việt Cộng, dẫu sao cũng có lòng xúc động trước cảnh huynh đệ tương tàn... Nhưng ông đã mang mối thất vọng đấy xuống tuyền đài ... * Đến hôm nay, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, có một thiểu số trí thức thơ ngây cụ hoặc hoạt đầu, đang toan luồn lưng, cụp gối hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam bá quyền và ngoan cố. Các vị ấy có biết chăng đang vô tình nối giáo cho giặc ? Cùng a tòng vào tội phản dân, hại nước ? Xin hãy xem gương chiến đấu can cường của ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam và vô số chiến sĩ cách mạng đã bị Việt cộng hãm hại chết, để làm đài soi lại lương tâm mình ! Kẻ hèn này, cùng đồng bào trong và ngoài nước, rất mong được vậy lắm thay ! Hoàng Ngọc Giao
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 30, 2021 2:57:02 GMT 9
De Gaulle và Việt Nam * Tác giả Pierre Journoud. ---------------------------- Tiến sĩ sử học Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, Pierre Journoud là nghiên cứu viên ở Học viện Nghiên cứu Chiến lược trường Đại Học Quân sự Pháp, đồng thời cũng là cộng tác viên nghiên cứu Trung Tâm Lịch sử Châu Á hiện đại. Cuốn sách viết về đường lối và cách đối xử của De Gaulle đối với Mỹ và hai miền Nam Bắc Việt Nam trong những giai đoạn ông nắm quyền từ năm 1945 và nhất là từ sau 1961. Sách dày 543 trang với 100 trang liệt kê danh sách các chú thích và các tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp, Mỹ, Canada… .được ấn hành tháng Tư năm 2011, là công trình luận án tiến sĩ của ông. Luận án được giải thưởng Jean Baptiste Duroselle dành cho những luận án được coi là nổi bật nhất về lịch sử bang giao quốc tế. Trong bản dịch này tôi xin bỏ những phần nói về những mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ về vấn đề việt Nam mà chỉ lược dịch những phần nói về quan điểm và đường lối của De Gaulle đối với Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông từ chức tổng thống đệ Ngũ Cộng hòa Pháp năm 1969. Có thể nói đường lối này vẫn được những người kế tiếp ông theo đuổi cho tới năm 1975. Nhưng cũng phải nói là cách nhìn của De Gaulle về Việt Nam từ khi nắm quyền lần đầu đến sau Hiệp định Geneve 1954 – vì đố kỵ với Mỹ – đã thay đổi rất nhiều: Hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, De Gaulle vẫn còn mang nặng đầu óc thực dân và chỉ có mục đích duy nhất là bảo tồn đế quốc Pháp, muốn vậy phải canh tân và đổi mới đế quốc dưới cái vỏ Liên Hiệp Pháp và phải thoả mãn một phần nào khác vọng của các dân tộc bị trị. Phải đợi đến năm 1966 trong cuộc viếng thăm Phnom Penh De Gaulle mới trở thành quán quân của quyền dân tộc tự quyết. Cuốn sách cũng phanh phui nhiều bí ẩn trong những diễn biến ở miền Nam, đặc biệt là về hòa thượng Thích trí Quang, về liên lạc giữa ông Nhu và giải phóng miền Nam và sự nhất trí giữa Pháp và Mỹ trước khi có Hội nghị Paris. ———————————————————- De Gaulle Tháng 12 1945 : một hi vọng lớn bị kết liễu? Ngày 26-12-1945 chiếc máy bay Lockheed Lodestar trên đường bay về đảo Réunion bị rớt ở M’Baiki giữa khu rừng nhiệt đới thuộc nước Cộng Hoà Trung Phi bây giờ. Trong số 6 người tử nạn có một hoàng thân Việt Nam 45 tuổi. Vị hoàng thân này có một quá khứ lừng lẵy và óc thông minh chính trị có thể, với sự hưởng ứng của mọi người Việt, đi đến một thoả hiệp với De Gaulle để đưa nước Việt Nam ra khỏi chế độ thực dân. Làm hoàng đế Annam từ 1907 đến 1916 dưới vương hiệu Duy Tăn, hoàng tử Vĩnh San bị chính quyền Pháp đầy ra đảo Réunion khi cầm đầu một cuộc nổi loạn đòi độc lập cho đất nước mình. Trong gần 30 năm bị đầy ải, sống một cách khiêm nhường với số tiền trợ cấp ít ỏi và một nguồn đam mê là ngành vô tuyến điện. Khác với vua cha, hoàng đế Thành Thái (1889-1907), cũng bị Pháp truất phế và đưa đi đầy cùng với con, Vĩnh San không vứt bỏ văn hoá Pháp và cũng không chịu thoái vị nên vẫn là vị hoàng đế cuối cùng hợp pháp của Việt Nam. Nhờ giỏi về vô tuyến điện nên Vĩnh San đã bắt được lời kêu gọi của De Gaulle trên đài BBC ngày 18-6-1940, gia nhập nhóm kháng chiến, bị chính quyền thân Đức bắt cầm tù. Khi đảo Réunion trở về với nước Pháp Tự do, thì tình nguyện ký khế ước nhập ngũ hải quân trên tàu phóng ngự lôi Léopard với chức vô tuyến trưởng. Tuy nhiều lần Vĩnh San xin ra tiền tuyến nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi ngờ cái quá khứ quốc gia phiến loạn của ông, nên chỉ cho ông gia nhập chính thức quân đội Pháp tháng Một 1944 với chức vị chuẩn úy. Không những Vĩnh San gặp khó khăn trong quân đội mà ngay ở bộ Thuộc địa, tổng trưởng bộ này cũng chống đối sự có mặt của hoàng thân ở Paris mặc dầu có sự can thiệp của De Gaulle. Tháng 9-45 Vĩnh San kết liễu chiến tranh với chức vị tiểu đoàn trưởng trong đội quân chiếm đóng nước Đức và được trao tặng huân chương Kháng chiến. Cũng thời gian ấy Vĩnh San cho đăng trên báo Combat (Chiến đấu) một chúc thư chính ttrị trong đó ông khởi xướng Việt Nam phải đạt được độc lập và thống nhất. Cũng vì Paris tiếp tục chống đối những đòi hỏi đó, Vĩnh San Vĩnh San đã viết trên báo này những hàng gần như là tiên tri: “Tôi nghĩ rằng tương lai gần nhất của Đông Dương phải được đặt trên tình bạn và lợi ích chung chứ không phải trên ý tưởng ngự trị. Tôi nghĩ rằng những người mất kiên nhẫn sẽ kêu gọi sự trọng tài có vụ lợi của Trung Quốc và Mỹ. Để khỏi mất kiên nhẫn tôi nghĩ nước Pháp phải chứng tỏ thiện chí của mình… chứng tỏ bằng cách bỏ những hàng rào chia cắt Bắc, Trung, Nam…” Vĩnh San cũng tỏ ra là có óc thực dụng chính trị khi nói thêm: “tôi thiển nghĩ làm đúng bổn phận người An Nam khi tôi tạo được trong đầu mỗi người dân quê từ Lạng Sơn tới Huế tới Cà Mau ý nghĩa của tình huynh đệ. Không cần biết là mối tương thân đó được thể hiện bất cứ dưới chế độ nào, cộng sản, xã hội, quân chủ, vương quyền. Cái cốt yếu là tránh đắt nước bị phân chia từng mảnh một. Ngày 14-12-45 thiếu tá Vĩnh San gặp De Gaulle trình bày ý kiến của mình. Tướng De Gaulle bị ông chinh phục có vẻ chấp thuận những điểm đại cương. Không chấp nhận về hình thức sự thống nhất Việt Nam, nhưng De Gaulle cũng tạo cho Vĩnh San ý tưởng là sau 1 thời gian nhất định, Pháp sẽ chấp thuận Việt Nam đi đến thống nhất. Theo một vài chứng nhân, cái chết bất ngờ của Hoàng thân Vĩnh San đã làm De Gaulle thất vọng một cách sâu xa, vì cái ý định bí mật của ông muốn dựa vào Vĩnh San để giải quyết vấn đề Đông Dương mỗi ngày một thêm khó khăn, bỗng nhiên trở thành mồ côi. Theo hồi ký của tưóng De Boissieu ( con rể De Gaulle ), thì đó cũng là một trong những nguyên nhân làm De Gaulle từ bỏ chức vụ lần đầu ngày 20-1-46? Chọn lựa chiến tranh Khi tướng Leclerc đến Sài Gòn tháng 10-45, De Gaulle dặn là phải phô trương sức mạnh trước khi đàm phán, nhưng cũng dặn là phải thận trọng khi tiến quân, tránh những đụng độ với người Việt. Mặc dầu 3 tuần trước khi Leclerc đến, Jean Cédile, ủy viên cộng hoà tại Nam Kỳ, quyền đại diện nước Pháp, đã cảnh báo là ” các lãnh đạo Việt Nam đều rất cứng đầu về từ ngữ độc lập “; người đồng sự với Cédile nhẩy dù xuống Bắc Kỳ bị bắt. Khi được thả tháng 11, Pierre Messmer (Lnd: sau này là thủ tướng Pháp) cũng nói như vậy về sự quyết tâm của những người theo Hồ Chí Minh : “từ các giáo viên, thư ký sinh viên, kế toán viên…, không ai chịu một sự nhượng bộ nào cả. Những người này đều thành thật, phần nhiều là trung trực có khi tỏ ra rất can trường, sẽ không bao giờ chịu đầu hàng cả “. Messmer kết luận là chỉ có thoả hiệp với Việt Minh mới khỏi mất mặt. Cuối tháng 12-45, đến lượt Jean Sainteny cảnh báo chính phủ là sẽ có đụng độ to lớn nếu Pháp muốn tái lập chủ quyền của mình bằng sức mạnh. De Gaulle vẫn nuôi hi vọng là khi chủ quyền Pháp được tái lập lại ở Việt Nam, Pháp sẽ có thể đàm phán trong vị thế mạnh. Để có thể thực hiện ý định chính trị của mình và bảo vệ nó khi rời bỏ chức vụ, De Gaulle biết là có thể trông cậy vào sự trung thành của những người đại diện mình. De Gaulle bênh vực đến tận cùng đô đốc d’Argenlieu, Cao ủy kiêm Chỉ huy trưởng quân đội Pháp tại Đông Dương khi ông này bất đồng với tướng Leclerc mà theo hệ thống, phải ở dưới quyền d’Argenlieu. Đầu năm 1946, De Gaulle rời bỏ chính quyền với hi vọng sẽ được mời lại. Thật ra lập trường của De Gaulle về Đông Dương cũng không khác gì những đảng phái chính trị Pháp hồi bấy giờ. Ngoại trừ một vài nhóm cực tả, ngay cả ĐCS Pháp cũng không sẵn sàng chịu tách một phần đất nào ra khỏi đế quốc. Trong một cuộc thăm dò ý kiến hồi tháng 9-45, 63% người dân Pháp vẫn muốn Pháp giữ Đông Dương. Những người thân De Gaulle sau này muốn mọi người tin chỉ có De Gaulle mới có thể có đủ khả năng chơi ” lá bài Hồ Chí Minh ” nếu còn nắm quyền chính. Người ta có quyền nghi ngờ : từ khi từ bỏ chính quyền lần đầu, De Gaulle cứ nhắc đi nhắc lại là chế độ này ( lnd: đệ Tứ Cộng hoà Pháp ) sẽ không cưỡng lại được với một lực lượng cách mạng nào và sẽ không tránh khỏi, nếu phải điều đình với Hồ Chí Minh, sẽ khó mà không phải từ bỏ mọi quyền của Pháp ở Việt Nam và phó mặc những người dân còn tin cậy vào nước Pháp phải nằm dưới ” chủ nghĩa Mác-Lê và dưới sự chi phối của Moscou “. Đó cũng là lí do mà De Gaulle viện ra để khuyên Leclerc nên từ khước đề nghị của thủ tướng Paul Ramadier, tháng 11-46, thay thế d’Argenlieu. De Gaulle cho là tương lai của Leclerc không phải nằm trong những cuộc chiến ở đồng ruộng Đông Dương mà là hoạt động chính trị. Leclerc tỏ ra khá sáng suốt về chính trị Đông Dương khi quên cái hung hăngi ban đầu là phải làm yếu Hồ Chí Minh trước khi nghĩ đến đàm phán: Được thủ tướng Léon Blum phái đi thẩm tra ở Việt Nam cuối tháng 12-46, Leclerc đưa ra ý kiến rất rõ ràng : ” chống cộng sản chỉ là một đòn bẩy không có điểm tựa nếu không giải đáp được vấn đề chủ quyền quốc gia của Việt Nam “. Ngày 19-12-46, cùng một lúc với các nơi khác trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam, 2000-25000 dân quân tự vệ và quân đội Nhân dân tấn công bất ngờ khu người Âu ở Hà Nội. Nhiều người Âu bị giết hay bị bắt làm con tin. Cuộc tiến công chỉ được đẩy lui sau nhiều tuần xáp lá cà giành nhau từng khu phố một. Người ta coi đó là khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương. Chiến tranh có thể tránh được, theo sử gia Stein Tonnesson. Nhưng chắc chắn là nhiều người muốn nó xẩy ra, trong số đó có De Gaulle. De Gaulle đích thân tán thành cuộc thử lửa này và nghĩ là quân đội Pháp sẽ mau chóng làm chủ tình thế : Từ nay trở đi d’Argenlieu sẽ là người chủ cuộc, có thể mặc sức hành động và giải quyết vấn đề. De Gaulle còn sợ được tiếp nối lại sự đàm phán giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet, tổng trưởng bộ Hải ngoại trong chính phủ Félix Gouin. Leclerc lại vừa mới gửi thông chi cho chính phủ nói là phải từ bỏ chính sách dùng võ lực và phải thật sự cố gắng dung hoà quyền lợi Pháp và quyền lợi Việt Nam của Hồ Chí Minh mà ông cho lả một nhà quán quân về ý tưởng độc lập và là một người ái quốc “. Ông dặn dò Cao ủy Émile Bollaert lần cuối (lnd: trước khi chết) là phải ” điều đình với bất cứ giá nào “. Cũng thời gian đó De Gaulle lập ra đảng Tập hợp Nhân dân Pháp tháng Tư năm 1947. Rứt khoát với cái chính sách đồng hoá có từ thời cộng hoà 1848, De Gaulle đưa ra chính sách gọi là ” liên kết tuần tự ” với các xứ trong Liên hiệp Pháp. Tuy vậy De Gaulle vẫn lấy cớ là cần phải bảo vệ Liên hiệp Pháp và chống cộng, ủng hộ đô đốc d’Argenlieu trong việc tách rời Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. D’Argenlieu cho là Nam kỳ đứng về phương diện lịch sử, địa dư và kinh tế không phải là một phần đất Việt Nam và vin vào đó để phá hoại Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau, tạo điều kiện cho một nền quân chủ lập hiến mà De Gaulle đã nghĩ đến từ 1945 còn d’Argenlieu thì nghĩ đến cựu hoàng Bảo Đại từ năm 1946-1947. Khi được Jean Sainteny cho biết dự định đó của d’Argenlieu, lãnh sự Mỹ ở Hà Nội tiên đoán là cái đó chỉ đưa đến sự toạ lập một chính phủ bù nhìn và một cuộc chiến tranh, trái với sự mong đợi của người Pháp. Giải pháp Bảo Đại được thành hình năm 1947. Mặc dầu vẫn nghi ngờ Bảo Đại, rút cục De Gaulle cũng ngả theo lá bài Bảo Đại trong bối cảnh thế giới mỗi ngày một mang dấu ấn chiến tranh lạnh, nhất là khi cộng sản Trung Quốc toàn thắng và khi Pháp thua trận Cao Bằng. Mãi đến năm 1953, sau khi Staline chết, tình hình thế giới mới đỡ căng thẳng. Nhưng để chống lại sự quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương làm mọi ảnh hưởng Pháp sẽ bị loại trừ, De Gaulle mới nghĩ đến chuyện điều đình với Hồ Chí Minh. Tuy vậy De Gaulle vẫn cho là nên đặt ưu tiên thương lượng thẳng vói Trung Quốc và Mỹ. Tháng 3-54 khi chiến tranh Đông Dương đi vào giai đoạn quyết định cuối cùng với trận Điện Biên Phủ, De Gaulle đã tin chắc là ” áp phe ” Đông Dương coi ” như là đã kết liễu “, chỉ còn ” kiếm cho nó một thủ tục chôn nó cho đúng hình thức “, ” phải hiểu là Pháp không còn giữ được Đông Dương nữa, Đông Dương không còn là của mình nữa “. Nhưng De Gaulle cũng coi như tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội Pháp, là Hiệp định Genève tốt hơn người ta tưởng. Những nguyên tắc về độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước Việt Nam, Cam Bốt và Lào được công nhận một cách long trọng. Qua Hiệp Định Genève, Pháp có khả năng giữ được ảnh hưởng mình ở miền Nam và có trhể đứng làm trung gian giữa hai miền như hi vọng của những người theo De Gaulle. Ở miền Bắc, De Gaulle cũng tán thành một ” sự hợp tác về kinh tế, văn hoá và, có thể một ngày kia, chính trị “. Tháng 8-54, De Gaulle khuyến khích Jean Sainteny nên nhận chức vụ Tổng đại diện chính phủ Pháp ở Hà Nội . Sau khi chiến tranh Cao Ly và chiến tranh Đông Dương kết thúc, De Gaulle đổi hẳn đường lối, muốn bắt cầu với những nước cộng sản Đông Nam Á và nghĩ đến chuyện công nhận Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. De Gaulle muốn nước Pháp có một đường lối chính trị độc lập ở Á châu và đóng một vai trò xây dựng trong sự thống nhất Việt Nam. Thật là ngoạn mục sự thay đổi lập trường của De Gaulle, một người mà từ trước tới nay vẫn được coi là thuộc phái bảo thủ đã biết vượt qua được lòng tự ái của mình ! Khi đọc cuốn ” Lịch sử một cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ ” của J. Sainteny, De Gaulle tự công nhận là mình đã sai lầm, đã không hỗ trợ toàn vẹn những cố gắng điều đình với Hồ Chí Minh và đã nói to với Sainteny để mọi người nghe thấy : ” Thật vậy, Sainteny, ông rút cục là người sẽ có lý “. Ngô Đình Diệm lên cầm quyền chính, giữa huyền thoại và thực tại Ngày 16 tháng 6, chưa tới 48 giờ sau khi Mendès France được tấn phong thủ tướng, Ngô Đỉnh Diệm được Bảo Đại ủy thác thay thế hoàng thân Bửu Lộc để thành lập chính phủ. Ngay sau khi ký Hiệp định Genève, Paris đã báo cho tân thủ tướng quốc gia liên kết Việt nam là Pháp chỉ công nhận nội các mới thành lập của Ngô Đình Diệm là chính phủ hợp pháp. Vậy mà sao chỉ chưa đầy một tháng sau khi được tấn phong, chỗ nào Diệm cũng bị coi là bù nhìn của Mỹ ? Hình ảnh sai lầm về Diệm đã mọc rễ trong ký ức của nhiều người, nhất là những người theo De Gaulle, khi thấy sự ủng hộ và sự hiện diện của Mỹ đi ngược lại với ý định và quyền lợi chính trị của Pháp. Diệm không phải chui ra từ cái mũ của một thuật sĩ. Năm 1950, sống lưu vong ở Mỹ, Diệm đã nhân cơ hội tiếp xúc với giới ưu tú Mỹ, đặc biệt là với các thượng nghị sĩ John Kennedy và Mike Mansfield, với giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan, với cựu giám đốc OSS William Donovan và nhất là với hồng y giáo chủ Francis Spellman. Cuộc đấu tranh của Ngô Đình Diệm để thành lập một ” lực lượng thứ ba ” chống cộng và chống thực dân lấy được cảm tình những người này. Là một người cương quyết đòi cho được độc lập quốc gia không một chút nhân nhượng, hệt như những người cộng sản đã bắt ông và giết anh ông, Ngô Đình Khôi, năm 1945. Ông đã tạo ra được một tiếng vang khi từ chức hượng thư bộ Lại hồi còn trẻ, tháng 9-33, để phản đối sự lộng quyền của viên khâm sứ Pháp đã ngăn cản mọi dự định cải cách Ông cũng từ chối sự mời mọc của Bảo Đại khi còn chiến tranh Đông Dương vì thấy là không đủ tự do với các nhà cầm quyền Pháp. Ông là người không phải dễ để bị thao túng. Trong tập Hồi ký của mình Bảo Đại cũng không giấu là đã có mời Diệm lãnh đạo chính phủ : ” Chúng tôi không còn trông cậy vào Pháp được nữa. Ở Genève, người Mỹ là đồng minh độc nhất của chúng tôi…”. Nhưng sự lựa chọn Diệm cũng có lí do chính trị đối với trong nước : quá khứ của Diệm và sự hiện diện của em ông là Ngô Đình Nhu đứng đầu Phong trào Thống nhất Quốc gia, cho phép hi vọng lôi kéo được một số người quốc gia có tiếng là triệt để. Ở Pháp Ngô Đình Nhu được mọi người biết hơn Diệm vì theo học ở trường đại học Pháp điển ( École des Chartes ) và có kết nối bạn bè trong khoảng thập niên 1930 với Jacques Bénet, bạn kháng chiến của François Miterrand và là đảng viên đảng Xã hội Pháp. Qua sự trung gian của ông này, Nhu tiếp xúc với nhiều lãnh tụ đảng Xã hội và hi vọng qua những người này, ông anh lớn của mình, người mà Nhu cho là chính trực nhất, tượng trưng tinh thần quốc gia đích thực nhất, sẽ đạt được quyền hành Trong chiến tranh, Nhu tiếp tục trao đổi thư từ với Jacques Benet và có đàm phán nhiều lần với những cộng sự viên của thủ tướng Joseph Laniel và tổng trưởng bộ Ngoại giao Georges Bidault tháng Ba 1954. Hai người này quyết định hội đàm riêng với Ngô Đình Diệm qua sự trung gian của Trần Chánh Thành và cả ba đều thoả thuận những điểm căn bản. Tuy vậy Laniel và Bidault vẫn còn ngần ngừ chưa nói với Bảo Đại. Phải đợi đến tháng 6-54 khi chính phủ của 2 ôg này có lẽ sắp bị lật đổ hai người này mới nói với Bảo Đại là nên tấn phong Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại chấp thuận ngay. Theo hồi ký của Alain Griotteray phụ tá chính trị đối nội Việt Nam thuộc bộ Quồc gia liên kết, người đã gặp riêng nhiều lần Diệm: “quyền lực thật sự ( ở Việt Nam ) hồi đó nằm trong tay chính quyền Pháp. Hoàng đế ( sic ) không thể bổ nhiệm Diệm nếu chính phủ Pháp chống đối. Người Pháp cũng có thể dùng áp lực tài chính đối với Bảo Đại ( theo Newsweek mỗi năm Bảo Đại nhận được của Pháp số lương là 500 ngàn đô la ). Nói tóm lại sự chọn lựa Diệm là cả Pháp lẫn Việt, nhưng đó là một chọn lựa nhằm mục đích thoả mãn Hoa Kỳ. Cái trớ trêu là De Gaulle và những người thuộc phái De Gaulle chỉ giữ ở Diệm hình ảnh một ” con nộm “chống Pháp được Mỹ đặt ra.mà không biết là người tổng thống Nam -Việt Nam chỉ tăng tốc độ cho một quá trình giải thực ( dân ) không thể tránh được trong khi vẫn dành một chỗ quá là quan trọng cho những quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Nam -Việt Nam. Luận cứ De Gaulle dưới sự thử thách của các sự kiện Cần phải trở lại nguồn gốc của sự tranh cãi ngay sau chiến tranh thứ Hai mới chấm dứt để hiểu mối oán giận của tướng De Gaulle và những người theo ông đối với người Mỹ. Trong khi oanh tạc Đông Dương trong khung cảnh của cuộc chiến tranh chống Nhật, Mỹ đã gửi nhiều đội OSS hợp tác với những nhóm kháng chiến chống Nhật để làm những hoạt động hoạt động tình báo và khuynh đảo. Vì vậy mà năm 1945 OSS cung ứng cho những người tranh đấu đòi độc lập Việt Minh khá nhiều vật liệu võ khí. Biết sự quan trọng của tuyên truyền, đồng thời cũng biết là tổng thống Roosevelt có ý muốn tách Đông Dương ra khỏi chính quyền Pháp để đặt dưới quyền giám hộ quốc tế, Hồ Chí Minh đã khéo biết khai thác sự liên kết bề ngoài này với Hoa Kỳ .Những trưởng nhóm OSS đi công tác cũng tin chắc như tổng thống của họ là chế độ thuộc địa không thể sống sót được sau khi chiến tranh kết liễu và người Pháp không thể cứ khăng khăng giữ thuộc địa trong khi người Anh, người Mỹ đang tính bỏ những thuộc địa ở Á châu. Sau khi Roosevelt chết ngày 12-4-45, Truman mỗi ngày một bận tâm về mối nguy hiểm Liên Xô ở Á châu, nên đổi hướng, quyết định đứng giữa không thiên về bên nào ở Đông Dương. Quyết định đứng trung lập này của Truman tới quá chậm và quá thời hạn để xoá bỏ được cảm tưởng của những quân nhân và thường dân Pháp phải chịu đựng một mình cuộc tấn công của Nhật 9-3, là đồng minh Mỹ đã phản bội mình, thiên về sự thành công cướp chính quyền ở Hà Nội hơn là số phận của người Pháp. Ký ức của những người Gaullistes hồi ấy là Hoa kỳ không những không làm dễ dàng cho sự người Pháp trở lại Đông Dương, mà còn trực tiếp góp phần tăng cường sức mạnh của kẻ địch mình là Việt Minh. Chiến tranh Đông Dương chỉ làm tăng sự nghi ngờ của người Pháp đối với người Mỹ. Bắt đầu từ 1947-1948 và nhất là sau chiến thắng của Mao tháng 10-49, một vài hữu trách chính trị và quân sự Pháp mới quyết định phải nhờ Mỹ giúp đỡ về vật liệu và tài chính. Tháng Hai 1950, sau khi công nhận các Quốc gia liên kết Việt Nam, Cam Bốt và Lào, Mỹ mới chính thức quyết định giúp Pháp. Nhưng một khi đã để cho Mỹ vào cuộc, dù có muốn chỉ nhờ Mỹ giúp đỡ về vật chất, người Pháp đã mở chốt cho một quá trình sẽ đưa đến sự phó mặc Đông Dương dưới ảnh hưởng Mỹ. Sau Hiệp định Genève, Mỹ được thể chui vào lỗ hổng Đông Dương khiến Pháp bực tức đến cùng cực, nhất là những người thân De Gaulle. Để tránh cuộc khủng hoảng bang giao giữa Pháp và Mỹ, Pierre Mendès France chính thức công nhận thế thượng phong của Mỹ ở Đông Nam Á. Thỏa hiệp giữa tướng Ely và Collins ngày 13-12-54 bắt Pháp cam kết là phải thừa nhận sự tự chủ hoàn toàn của quân đội Quốc gia Việt Nam và đặt các cố vấn và huấn luyện viên quân sự Pháp dưới quyền trưởng nhóm MAAG ( Military Assistance Advisory Group ) là tướng O ‘ Daniel. Những huấn luyện viên Pháp được mau chóng thay thế bằng những huấn luyện viên Mỹ. De Gaulle và nước Việt Nam của Ngô Đình Diệm : một mối liên lạc lập lờ Bận lo giải quyết những vấn đề tế nhị và khẩn cấp từ chuyện Hiến Pháp đệ Ngũ Cộng hoà đến chiến tranh Algérie, tướng De Gaulle (lnd : trở lại chính quyền mùa Xuân năm 1958 ) ủy thác cho bộ Ngoại giao và cho những tổng trưởng có liên quan trực tiếp quản lí hồ sơ Đông Dương trong việc tái phục lại ảnh hưởng Pháp và làm cân bằng lại sự hiện diện của Mỹ mỗi ngày một lớn. Ông không chống đối lại sự tăng gia những mối liên lạc với Việt Nam Cộng hoà trong khi sự bang giao với Hà Nội vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng mà nguyên nhân chính là các chính phủ đệ Tứ Cộng hoà trước nay vẫn dành ưu tiên cho Sài Gòn và vì chiến tranh Algérie. Tháng 11-59, tổng trưởng bộ Tài chính của De Gaulle, Antoine Pinay ký một loạt thoả ước mới về tài chính, kỹ thuật và văn hoá với chính phủ Diệm. Những tranh cãi về ruộng đất và tài chính được giải quyết trọn vẹn. Trong bức thư cám ơn thủ tướng Michel Debré, Diệm gợi ý là về phần mình, sẵn sàng làm sâu rộng mối bang giao Pháp-Việt. Tình trạng kinh tế và xã hội ở Nam-Việt Nam hồi đó đáng lo ngại, căng thẳng với Mỹ về vấn đề kinh tế mỗi ngày một lớn, viện trợ Mỹ bị các cố vấn của Diệm chỉ trích là không kiến hiệu và sau chót là Diệm thấy quyền hành của mình quá mong manh nên cũng muốn tìm ở Pháp một chỗ dựa. Sau đảo chính hụt 11-11-60 mà ngay toà đại sứ Hoa kỳ cũng không tỏ vẻ mạnh mẽ chống lại như sự mong đợi của anh em Diệm, Nhu khẳng định với đại sứ Pháp Roger Lalouette là ” nếu nước Pháp muốn, giờ của Pháp đã điểm ở Việt Nam “. Để lời nói đi đôi với viêc làm, chính phủ Diệm làm dễ dàng sự nhập cảng hàng Pháp mặc dầu Mỹ ráng giấu sự không bằng lòng của mình. Trong địa hạt quân sự, Diệm cũng có vẻ chỉ trích phương pháp của các huấn luyện viên Mỹ và cho là phương pháp chống chiến tranh du kích của Pháp thích hợp hơn. Mỗi ngày Diệm một thêm bực tức về sự vụng về và ngược thời của viện trợ Mỹ, cũng như vòng cương tỏa của Mỹ mỗi ngày một quá đỗi sau cuộc viếng thăm của phó tổng thống Johnson tháng 5-61, và của tướng Taylor tháng 10-61, Diệm tâm sự với Roger Lalouette là ông muốn ” cân bằng lại sự chi phối của Mỹ bằng sự hiện diện của một cường quốc thứ ba, ưu tiên là Pháp, hay Pháp cùng Anh “. Quai d’Orsay ( bộ Ngoại giao Pháp ) biết là Diệm bất lực trước sự mất an ninh mỗi ngày một lớn, nên mỗi ngày một trở lên độc đoán, thất nhân tâm, bị cả 2 phía đe doạ :phía những người chống cộng quá khích muốn dựa vào Mỹ nhiều hơn, phía những người theo Pháp muốn dân chủ và trung lập. Nhưng bộ ngoại giao Pháp bị phó mặc, phải tự định đoạt lấy đường lối trong sự giao thiệp với Sài Gòn nên chỉ có cách đứng ở thế trung dung, thoả mãn một vài đòi hỏi của chính phủ Sài Gòn, đồng thời cũng tránh những liên lạc cá nhân quá thân thuộc.. Có lẽ cũng vì vậy mà De Gaulle tiếp tục từ chối không tiếp Diệm hay Nhu ở điện Élysée mặc dầu nhiều nhân vật Pháp có mối liên lạc mật thiết với Diệm từ trước tới nay như Marius Moutet ( Tổng trưởng bộ Hải ngoại năm 1946-47 ), Antoine Pinay, bộ ngoại giao Pháp… Những người này tự cho mình trách nhiệm nhắc lại với De Gaulle là năm 1959 tổng thống trước De Gaulle là René Coty có ngỏ ý mời Diệm qua thăm Paris. Mùa Xuân 1960, Roger Lalouette, đại sứ Pháp, chuyển lời của phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ muốn Diệm qua thăm Pháp hay nếu không được thì cho chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ cũng là chủ tịch hội Pháp-Việt Nam qua thăm. Một năm sau, tổng thư ký điện Élysée trình bày lí lẽ mong De Gaulle chấp thuận cho Ngô Đình Nhu vào yết kiến trong triển vọng một cuộc thăm viếng Paris. Lí lẽ đưa ra : Ngô Đình Nhu là một người thấm nhuần văn hoá Pháp và là một người có ảnh hưởng lớn ở Nam-Việt Nam đến nỗi những người thân cận cho là đây mới là đầu não của chế độ, Diệm chỉ là ông … trưởng phòng ! Về phía Nhu, Nhu cũng muốn có sự giúp đỡ của Pháp để giành lại được một chút tự do đối với Mỹ đang hăm dọa đẩy ông xa người anh để gia tăng sự giám hộ của Mỹ trên đất nước. Nhu chỉ được vào yết kiến thủ tướng Michel Debré chưa đầy một giờ ngày 24-6-61. Khi trở về Nhu tuyên bố rất hài lòng về cuộc thăm viếng… mặc dầu gặp ” chống cự trên đỉnh ” . Cái chống cự này làm Diệm buồn rầu vì Diệm là người thành thực ngưỡng mộ De Gaulle. Diệm đã có một lần tâm sự với Lalouette là ảnh hưởng của De Gaulle ở những nước trong thế giới thừ Ba vừa lớn, vừa sâu rộng, vừa lâu dài là vì De Gaulle từ chối thỏa hiệp với những sức mạnh của hỗn độn và không đứng lại ở những quyền lợi vật chất nhất thời. Nhưng nếu Diệm khen ngợi De Gaulle rất cương quyết với cộng sản ở Âu Châu, rất có óc độc lập và hợp tác với các nước nói tiếng Pháp, thì Diệm cũng rất tiếc là ở Á châu De Gaulle đã nhượng bộ trước tiếng kèn trung lập mà Diệm đồng hoá với một đường lối chính trị yếu ớt và với chủ nghĩa thất bại. Roger Lalouette người mai mối giữa Bắc- và Nam- Việt Nam Đầu hè, chính phủ Diệm phải đương đầu với cơn khủng hoảng lớn nhất : cuộc nổi loạn hoà bình của những người Phật giáo. Bị chính trị hoá mau chóng, cuộc xung đột trở thành công khai giữa các nhà sư được sự hỗ trợ của một phần dân chúng và chế độ thân công giáo của Diệm. Chính phủ Nam-Việt Nam đổ tội cho cộng sản thâm nhập mọi chỗ đã tạo ra và nuôi nấng cuộc nổi loạn. Nhiều cựu tổng trưởng trong chính phủ Diệm lại tố cáo ngược lại là chính CIA đã đổ dầu thêm lửa. Sự kiện nhà sư Thích Trí Quang trốn vào nhà một nhân vật ngoại giao Mỹ, rồi trú ẩn ở sứ quán Hoa Kỳ, chứng tỏ có bàn tay Mỹ nhúng vào. Nhiều bằng chứng tình báo Pháp thâu thập được, vạch rõ vai trò của người Mỹ. Hoàng thân Bửu Hội khi đó làm đại sứ Việt Nam Cộng hoà ở Maroc và ở nhiều xứ Phi châu có mẹ là môt sư bà đang sửa soạn tự thiêu, khẳng định là có sự hiện diện của nhân viên CIA trong chùa Xá Lợi và các nhân viên này đang tận tay “làm việc các nhà sư ” Hoàng thân thuyết phục Diệm chấp thuận cho một phái đoàn của Liên Hiệp quốc tới Sài Gòn điều tra. Đến Sài Gòn ngày 10-10-63, phái đoàn này đưa ra kết luận là không có đàn áp Phật giáo. Cũng theo giáo sư luật Đại học Varsovie Maneli, trưởng đoàn đại diện Ba Lan tại Ủy hội đình chiến năm 1963, thì CIA hỗ trợ những người Phật giáo chống Diệm trái với ý của ngay cả của đại sứ Nolting. Các cơ quan Mỹ thì lại giải thích hoàn toàn khác : Hành động đàn áp của Diệm đã làm một rắc rối nhỏ ở địa phương thành một khủng hoảng chính trị, có thể làm đổ sập nền tảng của chế độ. Toà Bạch Ốc nhân cơ hội không ” xuống thang ” như đã giao ước với Nhu nữa : Lẽ ra theo đúng kế hoach thì phải bớt lần lần số nhân viên quân sự Mỹ từ 14 ngàn xuống còn 1500 cuối năm 1965. Trước sự từ chối của Diệm không chịu cho Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ, Kennedy đem Cabot Lodge thuộc đảng Cộng Hoà ngày trước là đối thủ tranh cử với mình, thay thế đại sứ Nolting vì bị coi là quá gần Diệm. Triển vọng quân đội Mỹ tới làm cả hai bên đều sợ : Sài Gòn còn một chút tính hợp pháp và một chút độc lập sẽ mất hết. Hà Nội đã trông thấy sự thành công trong việc khuynh đảo miền Nam, cũng lo sợ là cuộc chiến tranh sẽ kéo dài khiến khó mà ra khỏi được sự chế ngự mỗi ngày một lớn của Bắc Kinh và thoát được một cuộc khủng hoảng kinh tế khá trầm trọng. Người Pháp cũng chia sẻ với cả hai bên mối lo nghĩ đó nên còn tin tưởng vào một giải pháp chính trị và hài lòng khi nghe những lời tuyên bố khá ôn tồn của cả hai bên bờ vĩ tuyến số 17 : Tháng 9-62, Hồ Chí Minh tuyên bố với chủ tịch Ủy hội Quốc tế Ấn độ là muốn bắt tay với Diệm được coi là một người ” yêu nước theo kiểu của mình “. Phạm Văn Đồng thì gợi ý là đai diện Pháp Jean François de la Boissière nên viếng thăm Sài Gòn và trong tương lai sẽ tiếp đón Roger Lalouette ở Hà Nội. Diệm cũng vậy, khi bàn cãi với đại sứ Pháp cũng không gạt ra ngoài một cách dứt khoát triển vọng một giải pháp hoà bình, nhưng muốn mình là người khởi xướng. Những người cầm quyền Việt Nam muốn Pháp đặt nhịp cầu đầu tiên ? Triển vọng đó khá quyến rũ Paris, nhưng Á đông vụ bộ ngoại giao dư biết là chuyện đó sẽ làm tăng thêm ảnh hưởng của những người trong bộ máy chính quyền Mỹ muốn thay thế Diệm bằng một chính phủ hoàn toàn được dùng để phục vụ những mục tiêu của Washington. Roger Lalouette là một nhà ngoại giao lão luyện và rất rành rẽ về những vấn đề Việt Nam. Ông biết một hành động quá lộ liễu sẽ làm Diệm bị thay thế rất mau lẹ để nhường chỗ cho một chính phủ hoàn toàn theo đường lối của Washinton. Ông quyết định trao cho giáo sư Maneli, người mà ông tin cậy, một kế hoạch ba giai đoạn cho Việt Nam : mở cuộc đối thoại giữa Hà Nội và Sài Gòn ; đặt những trao đổi kinh tế và văn hoá ; tổ chức những cuộc hội đàm về chính trị. Maneli quyết định chuyển tin ra Hà Nội nơi mà ông đi đi về về nhiều lần. Phạm Văn Đồng khẳng định là ông lúc nào cũng sẵn sàng mở cuộc hội đàm, công khai hay bí mật, và tất cả đều thương lượng được “trên căn bản độc lập và chủ quyền quốc gia “. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị cho Xuân Thủy, tổng trưởng ngoại giao làm một danh sách hàng hóa có thể trao đổi với miền Nam. Maneli tương đối lạc quan, trở lại Sài Gòn nhất quyết gặp Nhu. Phạm Văn Đồng cũng đề nghị Diệm, để chứng tỏ thiện chí của mình, cho lập lại trao đổi kinh tế và văn hoá giữa hai miền. Miền Bắc sẵn sàng cung cấp than đá không đặt điều kiện nào với giá rẻ hơn giá trị trường thế giới để đổi lại gạo, thực phẩm và cao su. Phải đương đầu với một cơn hạn hán trầm trọng, Hà Nội cũng muốn thoát khỏi viện trợ của Trung Quốc, trở thành quá bao trùm từ khi Trung Quốc và Liên Xô tuyệt giao.. Ngày 1-6-63, Roger Lalouette thông báo cho tổng thống Diệm những điều mật mà Maneli thâu thập được. Điện Élysée cũng được thông báo về công việc mai mối của người đại sứ của mình và không tỏ dấu hiệu gì là không muốn Lalouette tiếp tục làm chuyện đó. Trong buổi trao đổi riêng với đại biểu Ba Lan nhân dịp tân tổng trưởng ngoại giao Nam-Việt Nam Trương công Cừu mới nhậm chức, Nhu đề nghị tiếp Maneli ngày 2-9. Sài Gòn lúc đó sống trong bầu không khí quá căng thẳng, bị chìm đắm trong những tiếng đồn là sẽ có đảo chính và đang có những mặc cả thầm kín.. Tướng De Gaulle ” trở lại ” sân khấu Đông Dương Bằng một bản tuyên bố long trọng, tổng trưởng bộ Thông tin Alain Peyrefitte đọc ngày 29-8-63, vị tổng thống Cộng hoà Pháp quốc mở lại cái hồ sơ Đông Dương nóng bỏng : ” Những biến cố trầm trọng đang diễn ra ở Việt Nam được nước Pháp chú tâm theo dõi với đầy cảm xúc và muốn thật tâm chia xẻ với dân tộc Việt Nam những thử thách mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng. Trong tình trạng hiện tại ở Á châu, dân tộc Việt Nam, một khi có thể khuyếch trương mọi hoạt động của mình trong hòa bình, thống nhất, độc lập với bên ngoài, và hoà hợp với các nước lân bang, sẽ có thể đóng một vai trò cho sự tiến bộ của riêng mình và cho sự thông cảm quốc tế… Lẽ tất nhiên là sự lựa chọn phương cách đi tới những mục tiêu đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước Pháp sẵn sàng, trong phạm vi có thể được của mình, tổ chức với đất nước này một cuộc hợp tác hữu nghị. ” Phủ nhận một cách rõ ràng việc chia đôi Việt Nam, đồng thời cũng gắn liền với nhau hoà bình, thống nhất và trung lập, De Gaulle khuyến khích mọi người Việt Nam tự giải phóng khỏi ảnh hưởng quá mức của các thế lực ngoại bang : ảnh hưởng của ” cộng sản quốc tế ở miền Bắc (nhất là Trung Quốc khi đó chế ngự tất cả ) ; ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở miền Nam. Tuy vậy bản tuyên bố 29-8 không tạo ra được sự phấn khởi cho các đương sự. Hà Nội tỏ ra lãnh đạm và phải một tháng sau Phạm Văn Đồng mới công khai cám ơn De Gaulle về sự ông tuyên bố tiếp tục hỗ trợ Hiệp định Genève. Ở Nam- Việt Nam, ngược lại,, bản tuyên bố được đăng trên trang đầu tờ Việt Nam Báo. Báo chí Sài Gòn cho là De Gaulle có ý muốn khích lệ chế độ và muốn cổ võ chế độ độc lập với Mỹ hơn. Để chứng tỏ mình là ngưòi hiểu rõ tinh thần bản tuyên bố, Nhu tuyên bố với báo chí ngày 11-9-63 là những ý định của tướng De Gaulle – người có những ” cái nhìn hoàn vũ “, người ” biết thiết kế những dự án vĩ đại ” – mà sau này, sau một kỳ hạn, chủ tâm của ông sẽ tạo ra được ” một phương thức, cũng phải qua một kỳ hạn lâu dài, cho sự thống nhất xứ sở ” Lẽ tất nhiên là Washington là nơi tiếp nhận tồi tệ nhất lập trường của De Gaulle. Người Mỹ cũng bối rối về phương hướng chính trị của Pháp về Việt Nam và cũng trách cứ De Gaulle đã không giữ lời cam kết với Kennedy năm 1961 là không bao giờ biểu lộ công khai lập trường của mình. De Gaulle, Lalouette và buổi chiều tàn của anh em Ngô Ngày 24-8-63 toà Bạch Ốc gửi điện thư dặn dò đại sứ Lodge tìm một giải pháp để thay thế Diệm khiến CIA thấy như được cho phép, khuyến khích một số hữu trách quân sự Nam-Việt Nam làm đảo chính. Được báo tin là cuộc đảo chính chống anh em Diệm sẽ xẩy ra tức thời, Lalouette khuyên Lodge nên nhẫn nại vì Lalouette luôn luôn cho Diệm là hi vọng cuối cùng của hoà bình, vì là người duy nhất có thể đạt được một thoả hiệp với Giải phóng miền Nam và Hà Nội. Ông tiên đoán hạ bệ Diệm là một sai lầm không cách nào mà sửa được vì bất cứ một chính phủ nào khác cũng sẽ phụ thuộc Mỹ nhiều hơn và sẽ không để một chút hi vọng gì cho một giải pháp hoà bình. Lalouette nằm trong một nhóm nhỏ những người tán thành, đầu tháng 9, những cuộc gặp gỡ giữa Nhu và Maneli, người trung gian của Ủy hội Quốc tế. Ngày 3-9, sau khi đưa bản tuyên bố ngày 29-8 cho Diệm, Lalouette nói chuyện với Diệm 3 giờ. Diệm hét ầm lên : ” người ta nói, đang có dự định một cú bạo lực ( coup de force ). Người ta nói, tính mệnh tôi bị lâm nguy. Không thể tưởng tượng được là người ta có thể dùng đến những thủ đoạn như vậy đề chống chính phủ một nước bạn…”. Để che giấu sự sửa soạn làm cuộc đảo chính, Lodge nói với Lalouette là ông ta sắp đi gặp tổng thống Kennedy để xin gia hạn cho Diệm Nhu, ông ta thêm : ” Nhu bằng lòng từ chức, bỏ Sài Gòn sống ở Đà Lạt. Nhưng Nhu không chịu rời bỏ Việt Nam vì không muốn mất liên lạc với GPMN (lnd : chuyện ông Ngô Đình Nhu bắt liên lạc với Phạm Hùng là có thật). Không thừa nhận chế độ mới ở Sài Gòn Không thể đưa ra đây những chi tiết cuộc đảo chính ngày 1-11-63 chống Diệm và ngày 2-11 anh em Diệm bị giết. Paris được yêu cầu công nhận chính phủ lâm thời đứng đầu là Nguyễn Ngọc Thơ, cựu phó tổng thống của Diệm. Trong số 80 nước có liên lạc noại giao với Việt Nam Cộng Hoà dưới Diệm, 30 nước đã công nhận chế độ mới. Sài Gòn mong muốn sớm nhận được một dấu hiệu tích cực đến từ Pháp vì Pháp vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở Nam-Việt Nam. Paris chỉ chính thức nhận thư của chính phủ Sài Gòn ngày 16-11, 10 ngày sau khi tiếp được thư. Paris chỉ nói là sẽ tiếp tục những giao thiệp thường xuyên. Vì ngại thiện cảm ban đầu đối với nước Pháp trở thành ác cảm có hại cho quyền lợi nước Pháp, ban giám đốc Á châu sự vụ bộ ngoại giao thỉnh cầu De Gaulle nhiều lần trong tháng 11 là nên công nhận chế độ mới. De Gaulle vẫn làm thinh. De Gaulle thật ra nhìn xa hơn và đúng hơn nhiều nhà ngoại giao. Giải pháp trung lập mà ông đưa ra có thể tránh cho Nam-Việt Nam một cuộc chiến tranh lâu dài và một sự bỏ rơi phũ phàng không còn gì là phẩm giá. Có lẽ trong thâm tâm, tướng De Gaulle hi vọng trung lập hóa riêng biệt 2 miền, Bắc Việt và Nam Việt. Nhưng ông cũng như người Mỹ, biết là rất khó khăn Bắc Việt chịu bỏ chế độ cộng sản và sự trung lập của Nam Việt cũng khó mà được Bắc Việt tôn trọng, đồng thời cũng khó mà hãm được ý định ngự trị đang chớm nở của Trung Quốc. Tướng De Gaulle chỉ đề ra cái đỡ tệ nhất : Sau một kỳ hạn, sự thống nhất Việt Nam sẽ do người cộng sản thực hiện dưới cái vỏ trung lập. Ý đồ trung lập của tướng De Gaulle nằm trong những mưu toan chính trị – quân sự ở Sài Gòn Ngày 29-1-64, Lodge báo cho bộ ngoại giao Mỹ là tướng Khánh, tư lệnh quân đoàn I Quân đội Quốc gia Việt Nam quả quyết với ông là đã khám phá được trong chính phủ Nam- Việt Nam một âm mưu trung lập do Pháp gợi ý. Những tướng thân Pháp, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân bi coi là có dính líu. Lodge tin Khánh là một trong những tướng có khả năng nhất và khác với tướng Trần Văn Minh, sẽ ngả theo kế hoạch chiến tranh bí mật và thả bom Bắc Việt của lầu Năm góc. Lodge đem Khánh và gia đình vào tòa Đại sứ lánh nạn và hứa nếu cần sẽ di tản cả gia đình ra khỏi nước bằng máy bay. Đảo chính ( của tướng Khánh ) xẩy ra ngày 30-1. Trước ngày đó Washington đã làm áp lực xuống De Gaulle, làm như là nhóm tướng tá Nam Việt bị coi là có ý tưởng trung lập có thể xử sự theo lệnh hay theo ý của De Gaulle. Theo nhiều bằng chứng mà các nhà ngoại giao và các cơ quan tình báo thâu thập được, thì trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng, ngay sau Đảo chính 1-11, đã có 2 phái theo 2 xu hướng khác nhau : xu hướng thiên về giải pháp của Pháp ( Dương văn Minh, Lê văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỹ ), xu hướng trung thành với đường lối của Mỹ ( Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hữu Có, Phạm xuân Chiểu, Đỗ Mậu ). Nội bộ quân đội trước đã rất mong manh, nay có thể bị coi là đã tan vỡ. Tham vọng chính trị của các tướng lãnh quân đội được thả giàn và những cuộc đảo chính nối tiếp nhau để các tướng lãnh thay nhau vơ vét viện trợ Mỹ mỗi ngày một kếch xù. Để tránh Nam- Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản quá mau chóng, Johnson thấy cần phải thuyết phục De Gaulle với bất cứ giá nào để De Gaulle tuyên bố là kế hoạch trung lập hoá Nam Việt không phải là ngay tức khắc. Johnson kiếm được một đồng minh là Gaston Deferre úng cử viên tổng thống đảng xã hội Pháp năm 1965. Được tiếp ở toà Bạch Ốc, Deferre chỉ trích thẳng cánh chính sách trung lập hoá Đông Nam Á của De Gaulle và cho là De Gaulle chỉ có mục đích làm Mỹ lúng túng. Deferre hứa là khi trúng cử sẽ tức khắc đi đến Washington hỏi ý các đồng minh trước khi quyết định đường lối chính trị của mình ! Paris nghĩ là sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Nam-Việt Nam và sự hăm doạ leo thang chiến tranh trong một kỳ hạn ngắn có thể là những quân bài chủ của Tây phương nếu – và chỉ nếu – đặt mục đích tối hậu là thương lượng. Sự hoà hoãn của Liên Xô có thể giúp ích cho việc đó. Là siêu cường quân sự độc nhất ở Thái Bình Dương, Mỹ phải đối đầu với thế lưỡng nan của một cuộc chiến tranh với Trung Quốc mà Mỹ vẫn coi như là một cường lực thuộc thủa sơ khai, hung bạo, hiếu chiến và nuôi óc bành trướng. Nhưng để tránh một kịch bản chiến tranh, đổi lại với một sự cam kết rõ ràng là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng một thứ trung lập nào đó, Paris tin chắc là Mỹ có thể điều đình thẳng thắng với cả hai, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc.. Nếu khó mà có thể nghi ngờ thái độ hoà hoãn của Liên Xô cho tới đầu năm 1965, thì cho tới bây giờ vẫn khó mà biết được ý của Trung Quốc về những đề nghị đàm phán của Pháp. Trong số các nhà sử học có người khẳng định là, với mục đích loại trừ những kẻ thù theo ” chủ nghĩa xét lại “, Mao nghĩ đến chiến tranh nhiều hơn là hoà bình, nhất là sau chuyện vịnh Bắc bộ. Nhiều người khác lại nhắc lại là CHNDTQ đã khuyên Hà Nội thận trọng trước những gây hấn của Mỹ vì Trung Quốc thật sự sợ bị lôi cuốn vào một cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ. Ít nhất là tới đầu năm 1965, Trung Quốc khuyên đồng minh của mình nên để ngỏ cửa cho sự điều đình. Phân tích lập trường của Hà Nội cũng ngần ấy khó khăn :Các nhà lãnh đạo VNDCCH, một mặt muốn mở cửa điều đình với những thủ lãnh mới của Sài Gòn, một mặt, ngay từ tháng 12- 63, đưa ra quyết định tăng cường áp lực quân sự tại miền Nam. Bộ Chính trị đảng Lao Động có vẻ chia rẽ : nhiều nhân vật như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và có lẽ cả tướng Giáp tán thành giải pháp trung lập miền Nam để tránh một cuộc chiến tranh lâu dài và ác nghiệt. Tuy nhiên với sự vươn lên của Lê Duẩn trong lúc sức khoẻ của Hồ Chí Minh bắt đầu suy đồi, bộ Chính trị đã bị bẻ theo hướng thân Trung Quốc. Tiếp theo là một làn sóng thanh trừng trong nội bộ Đảng, trong giới trí thức và sinh viên. Chỉ mấy tuần sau, bộ Chính trị chuẩn y gửi những đơn vị tác chiến đầu tiên của QĐNDVN vào miền Nam. Bắc Việt cũng bắt đầu phải tập sự ngoại giao làm sao giữ được thăng bằng giữa 2 cường quốc địch thủ cùng trong phe cộng sản. Bắc Việt cũng không muốn trở lại bàn hội nghị nữa vì cảm thấy là nạn nhân của Hội nghị Genève năm 1954. Đại sứ Mai Văn Bộ bộc lộ rõ ràng mối oán giận của các nhà hữu trách VNDCCH đối với Bắc Kinh và sự ngờ vực đối với Paris, khi phê phán : ” Ở Genève chúng tôi đâu có nhờ người Trung Quốc thương lượng. Họ đã chiếm chỗ của chúng tôi “. Lý Văn Sáu, cựu đại biểu phái đoàn Giải phóng miền Nam trong hội đàm Paris cũng nói lại là nhiều người Việt coi Hội nghị Genève là một bức chế. Ý chí muốn xích lại gần Hà Nội Ngày 1-7-65, Mai Văn Bộ khẳng định với Nanac’h, giám đốc Á châu sự vụ bộ Ngoại giao là chính phủ của ông muốn bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước Pháp. Ngày 24- 1-66, Hồ Chí Minh gửi một lá thư cho tướng De Gaulle yêu cầu De Gaulle dùng ” uy thế của mình để làm ngưng lại cho kịp thời những âm mưu nham hiểm mới của Mỹ ở Việt Nam và ở Đông Dương “. De Gaulle viết thư trả lời ” chủ tịch Hồ Chí Minh ” ngày 8-2. Ngày 15, bức thư trả lời được chính thức đăng trên báo chí với những lời lẽ rất hoà giải và lễ độ làm ngạc nhiên và bực mình những giới có liên hệ với Nam-Việt Nam. Không chỗ nào mà những lời chỉ trích sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam được giới truyền thông nói tới nhiều bằng trong bài diễn văn Phnom Pênh. Nếu 73% dân Pháp đồng ý với nội dung bài diễn văn đó thì cũng có nhiều chính khách, nhà báo, nhà ngoại giao tiếc là De Gaulle chỉ cáo giác một bên là Mỹ và như vậy khó có thể đứng làm trung gian giữa 2 bên được. Mendès France cho bài diễn văn vô ích, không thực tế. Tuy Mendès France cùng quan điểm với De Gaulle về cách hay nhất để làm mất sự sợ hãi giữa Mỹ và Trung Quốc là trung lập hóa toàn thể Đông Nam Á, Mendes France khác De Gaulle về phương cách : cho cách hay nhất là De Gaulle nên đi thẳng đến Hà Nội, Washington hay Bắc Kinh để trình bày những đề nghị của mình ngõ hầu làm giảm bớt những nghi ngờ và những đối kháng. Báo chí Trung Quốc im hơi lặng tiếng về cuộc viếng thăm Cam Bốt của De Gaulle vì các nhà lãnh đạo CHNDTQ coi Hiệp định Genève là đã lỗi thời trong khi De Gaulle vẫn muốn dựa vào nó. Sainteny móc nối một đường dây cho tương lai Sainteny, tổng trưởng bộ Cựu chiến binh trong nội các Pompidou từ 1962 đến 1966 được De Gaulle tin cậy vì là người đã tham dự nhiều về công chuyện Việt Nam và thỉnh thoảng vẫn có liên lạc với những nhà ngoại giao người Việt và người Mỹ công cán ở Paris. Ông nói với người Mỹ là Việt Nam thống nhất có lợi cho Tây phương : ” biên thùy ” Nam Bắc được mở, những thành phần không cộng sản trong nước sẽ được lợi thế vô kể vì, theo kinh nghiệm của ông khi còn ở Hà Nội, đa số người dân miền Bắc không thích hệ thống cộng sản. Cũng vì De Gaulle biết Sainteny được các lãnh tụ cao cấp Bắc Việt như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng mến chuộng nên ngày 24-2 ông được De Gaulle trao cho một bức thư cầm tay cho chủ tịch nước VNDCCH, nói là De Gaulle muốn có những tiếp xúc mới và chỉ giữa 2 người với nhau. Sainteny được Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao, phó thủ tướng tiếp ngày 4-7, và sau đó được chính thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Ngày hôm sau 5-7, Sainteny được tiếp chuyện riêng chỉ giữa 2 người với Hồ Chí Minh ở Chủ tịch phủ. Cảm tưởng của Sainteny là chủ tịch VNDCCH không còn giữ quyền chính nữa mà giao phó cho Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh có vẻ thất vọng về bức thư của De Gaulle. Tuy không có ảo tưởng gì về những lời khuyên của mình, Sainteny cũng cảnh giác những người đối thoại về hậu quả của một cuộc tranh đấu đến tận cùng, có thể làm lụn bại Việt Nam hay làm Việt Nam rơi hoàn toàn vào quĩ đạo Trung Quốc. Rút cục những cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, có vẻ hữu ích cho mối bang giao Việt – Pháp nhiều hơn là tìm được một giải pháp ngoại giao. Ảnh hưởng của Bắc Kinh bao trùm Hà Nội lúc đó. Bắc Kinh thúc đẩy tiếp tục chiến tranh để hưởng lợi : Mỹ bị thua một nước nhỏ, sẽ mất hết uy tín ở phương Đông, bang giao giữa Washington và Moscou sẽ bị lục đục, sự tùy thuộc Bắc Kinh về viện trợ sẽ mỗi ngày một lớn. Nhưng cái khốc liệt nhất là các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang mở những cuộc thanh trừng các tầng lớp tư sản, trí thức, sẽ tiếp tục đem chiến tranh Việt Nam ra để biện bạch. Tuy nhiên khi Sainteny gặp Phạm Văn Đồng lần thứ hai, lần đầu tiên Phạm Văn Đồng nói sẽ ngưng xâm nhập nếu Mỹ ngừng thả bom. Bộ Ngoại giao Mỹ không giấu nổi sự ngạc nhiên và bằng lòng. Dean Rusk ra huấn thị cho đại sứ Mỹ gặp Sainteny để làm sáng tỏ những câu nói của Phạm Văn Đồng. Một ủy ban đàm phán do Averell Harriman cầm đầu ủy nhiệm Giáo sư Henry Kissinger, ngôi sao đang lên của Washington và cũng là chỗ quen biết của vợ Sainteny, Claude Dulong, lo việc này. Kissinger gặp Sainteny ngày 13-6-1966 trước khi ông trở lại Á Đông. Nói tóm lại Sainteny đã không trở về với 2 bàn tay trống. Cuộc viếng thăm Hà Nội của ông đã cho toà Bạch ốc thấy ông là người trung gian có tiềm năng. Toà Bạch Ốc tưởng đã gạt bỏ được mãi mãi vai trò trung gian của chính phủ Pháp sau bài diễn văn Phnom Penh. Một đường dây đầy hứa hẹn : Pennsylvania Pennsylvania là mật mã của một đuờng dây bí mật trong đó có tên của 2 người Pháp không thuộc ngành ngoại giao bên cạnh tên của giáo sư Kissinger : Hebert Markovich và Raymond Aubrac. Marcovich là một nhà vi sinh vật học thuộc viện Pasteur Paris, Aubrac là nhân viên cao cấp của FAO ( Tổ chức Liên Hiệp Quốc về thực phẩm và canh nông ). Aubrac được mời vào đường giây này vì là cựu kháng chiến và là chỗ thân tình của Hồ Chí Minh. Hai sứ giả Pháp được Henri Kissinger nhờ nhắn tin với Hà Nội là chính phủ Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom Bắc Việt với điều kiện là VNDCCH không tăng cường thâm nhập Nam Việt. Kissinger nhấn mạnh chữ ” ngưng tăng cường thâm nhập ” thay vì ” ngưng thâm nhập “. Tới Hà Nội ngày 21-7 hai trung gian Pháp được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đón tiếp, lấy cớ để tái lập sự liên lạc giữa viện Pasteur Paris và viện Pasteur Hà Nội. Ngày 24, 2 người được gặp Phạm Văn Đồng. Marcovich đưa tin của Kissinger cho thủ tướng VNDCCH. Aubrac nói thêm vào là vấn đề kiểm soát sự thâm nhập phải được giải quyết và Mỹ hoan nghênh những đề nghị của Hà Nội. Thủ tướng hỏi ” Làm sao họ biết được chúng tôi ngừng thâm nhập ?” Marcovich trả lời là với máy bay trinh thám có thể kiểm soát được một phần. Buổi chiều Aubrac được Hồ Chí Minh tiếp. Sau 15 phút hàn huyên về gia đình Aubrac mà Chủ tịch biết rất rõ từ khi còn ở nhà Aubrac năm 1946, Hồ Chí Minh bắt đầu bằng một bài thuyết trình về lịch sử, địa dư và địa lí chính của cuộc chiến tranh, rồi Hồ Chí Minh trở lại những câu chuyện thường và có ý nói là những chi tiết về thuơng lượng đều do thủ tướng Phạm Văn Đồng nắm giữ. Ngày hôm sau 2 người gặp lại Phạm Văn Đồng. Ông lập lại với 2 người là ngưng chiến đòi hỏi phải ngưng thả bom vô điều kiện, vô thời hạn và Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Marcovich ngắt lời và có ý cho là thiếu thực tế. Phạm Văn Đồng đành phải nói rõ ràng : Quân đội Mỹ có thể ở lại cho tới khi đạt được một thoả hiệp chính trị ở Nam Việt. Nếu cần phải bàn bí mật thì bàn tuy không thích hội đàm bí mật ( chỉ giữa Mỹ và Bắc Việt ). Không cần phải có sự tham dự của GPMN khi những vấn đề được đem ra bàn không dính dáng gì tới Nam-Việt Nam. Khi trở về Paris, Aubrac và Marcovich vội vã tường thuật cho Kissinger nghe. Những lời nói của Phạm Văn Đồng được Washington cho là thực tế và khích lệ : đàm phán bí mật, không có sự hiện diện của GPMN, quân đội Mỹ vẫn có thể ở lại miền Nam cho đến khi những vấn đề chính trị được giải quyết, thành lập một chính phủ liên hiệp trong đó có.những nhân vật của chính phủ Sài Gòn. Một lần nữa toà Bạch Ốc đã không cho là cần thiết phải giảm bớt nhịp độ thả bom miền Bắc song song với sự tiến bộ đạt được của đường giây Paris. Rội bom ác liệt nhất trong chiến dịch Rolling Thunder là từ ngày 20 đến 23-8. Chính phủ VNDCCH từ chối tiếp thư của các sứ giả Pháp gửi cho Mai Văn Bộ. Đường giây bị tắt ngấm. Sự trỗi lên của đường dây Manac’ h Tháng 10-1967, Manac’h nhận lời Mỹ đóng vai trò trung gian không chính thức giữa sứ quán Mỹ ở Paris và tổng đại diện VNDCCH để chuyển vận thư tín và thúc gấp cuộc đối thoại. Manac’ h nhận được khẳng định của Bộ ngày 8-12 : ” Nếu Mỹ ngưng thả bom, sẽ có thể có những cuộc hội đàm
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2022 16:44:23 GMT 9
X92 ĐIỆP VIÊN SỐ 1 CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ….. Võ Văn Ba
Các bài viết của baó chí Viet Nam đã huyền thoại hoá Phạm Xuân Ẩn, một nhân viên tình báo của Bắc Việt hoạt động tại Sài Gòn.Tuy nhiên,theo Frank Snepp, nhà phân tích tình báo của CIA ,làm việc lâu năm tại Việt Nam ,cũng chính là người trực tiếp đưa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất tháng Tư năm 75 thì X92 tức Võ Văn Ba mới là "vàng ròng",là điệp viên số 1.Nếu so sánh Phạm Xuân Ẩn với Võ Văn Ba là một sự xúc phạm đến Võ Văn Ba. Còn theo , John Sullivan,một nhân viên tình báo Mỹ khác nhận xét: Võ Văn Ba là điệp viên giỏi nhất mà chúng ta từng có ở Việt Nam. Võ Văn Ba là ai và đã có những thành tích gì để được những chuyện viển tình báo lão luyện nước ngoài đánh giá như vậy?
Theo hồ sơ ,Võ văn Ba sinh năm 1923 taI Mộc Hoá,Kiến Tường, sau lưu lạc về vùng Long Hoa Tây Ninh và là một cán bộ VC. Nhưng khi ở trong hàng ngũ nầy, Võ Văn Ba nhận thấy những việc mà "cách mạng" làm chỉ là ám sát, khủng bố người dân vô tội, không phải là cách chính nghĩa. Từ đó ông ta lơ là và được Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà móc nối.Cấp trên ,điều khiển Võ Văn Ba là Thiếu tá Phan Tấn Ngưu, Chỉ huy Trường Cảnh sát Đặc biệt tỉnh Tây Ninh, về phía Mỹ cũng có một nhân viên tình báo làm việc tại Tây Ninh điều khiển Võ văn Ba . Võ Văn Ba đã có mặt trong các buổi họp của Trung ương Cục miền Nam. Từ đó tin tức của ông mới chính xác và có giá trí cực lớn. Thành tích: -Mậu Thân 68:Chính Võ Văn Ba là người báo tin cho Cảnh sát Quốc gia là VC sẽ mở tấn công đồng loạt toàn miền Nam vào giao thừa Tết Mậu Thân 68. Tin này, thiếu tá Phan Tấn Ngưu đã lập tức báo cáo về Tổng Nha Cảnh Sát để phân tích. Người Mỹ cũng được cung cấp tin nầy, nhưng họ không đánh giá cao khá năng xảy ra. Tuy nhiên tướng Nguyễn Ngọc Lọan Tư lịnh Cảnh Sát Quốc gia thì tin và ra lịnh cho lực lượng cảnh sát toàn quốc cắm trại 100%. Đó là lý do vì sao Mậu Thân 68 Cảnh sát đã sẵn sàng ứng phó và VC đã không chiếm được bất cứ Ty, Chi, cuộc cảnh sát nào trên toàn quốc. -Đánh chiếm Tây Ninh: Vào tháng 12 năm 1971 sau cuộc hợp với Trung ương Cục, Võ Văn Ba cho biết VC có kế hoạch đánh chiếm tỉnh Tây Ninh, đặc biệt là Tòa thánh phải chiếm cho bằng được để mặc cả với Sài Gòn tại hiệp định Ba Lê. Kế hoạch đánh chiếm chi tiết, vũ khí, đơn vị, nội công ngoại kích sẽ thực hiện như thế nào. Tin nầy được báo cáo cho Tổng thống và ông ra lịnh cho đại tá Lê Văn Thiện, Tỉnh trường Tây Ninh phải phòng thủ Tây Ninh bằng mọi giá. Vì kế hoạch phòng thủ nầy quá chặt chẽ nên VC đã không tấn côn Tây Ninh năm 72 mà chuyển sang mặt trận An Lộc. -Hiệp định Ba Lê 1973:Vào tháng 10 năm 1972, sau khi họp với Trung ương Cục, Võ Văn Ba đã tức tốc chuyển một tin tức quan trọng là bản sao nghị quyết của Bộ Chính Trị ở Hà Nội, nội dung đang có một cuộc gặp gỡ thương thuyết bí mật giữ Lễ Đức Thọ là Kisssinger. Trong đó có một điều khoảng không thể chấp nhận đó là: Người Mỹ,VNCH chấp nhận cho quân Bắc Việt ở lại lãnh thổ miền Nam ! Tin này lập tức được chuyển về Phủ Tổng Thống. Ông Thiệu đã nổi giận vì Mỹ đã "xỏ lá" miền Nam, ông đã liên hệ với Hoa kỳ và phản đối quyết liệt. Để xoá dịu, Mỹ đã ném bom miền Bắc để chứng tỏ Mỹ vẫn là đồng minh đáng tin cậy. -Chiến thắng năm 1975: Vào tháng 1 năm 75 Võ văn Ba đã chuyển nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, Trung Ương cục biến thành nghị quyết 12 để thi hành nghị quyết nầy ở miền Nam: Hội nghị Ba lê có hay không cũng chỉ là điều kiện để Mỹ rút quân,cái chính là phải "giải phóng miền Nam". Báo cáo nầy đã khiến Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lập tức triệu tập Hội đồng An Ninh Quốc Gia để tìm cách ứng phó. Tất cả diễn biến quân sự diễn ra của VC đều đúng như vậy. Từ sau khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà rời bỏ miền Trung vào tháng 3 năm 73, X92 đi họp trung ương Cục liên tục và các báo cáo đều chính xác. Truy tìm. Bắc Việt hoài nghi trong hàng ngũ cấp cao của họ đã có nội gián và ra lịnh phải truy tìm. Theo báo chí Việt Nam thì một điệp viên cao cấp của họ đang làm việc tại Sài Gòn là Nguyễn Văn Tá (tức Ba Quốc) được giao nhiệm vụ săn lùng nội gián vào năm 1972. Ông ta có đủ thẩm quyền để vào Nha điệp báo thuộc Phủ Đặc ủy trung ương tình báo, vừa mở tủ hồ sơ để tìm thì bất ngờ có người vào nên phải dở dang. Ba Quốc sau đó bị VNCH phát hiện là nội gian, ông ta phải bỏ trốn trước khi bị bắt. Khi quân đội Bắc Việt chiếm văn phòng Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ở Sài Gòn, Cục Trưởng Cục Tình Báo của Bộ Công an là Viễn Chi, nói là đã tìm thấy hồ sơ Võ Văn Ba trong ngăn khóa của Nguyễn Khắc Bình, Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia. Tin nầy theo Thiếu tá Phan Tấn Ngưu nhận xét là không đúng sự thật là vì tất cả tên tuổi của các cảm tình viên, mật báo viên, tình báo viên đều mã hoá dù người ở chức vụ cao nhất của Cảnh sát Quốc gia cũng không biết tên, người thật ngoài đời ngoại trừ người điều khiển trực tiếp Ba. Bại lộ. Văn phòng CIA tại Tây Ninh, có một phiên dịch được cảnh sát Quốc Gia cung cấp tên là Nguyễn Sĩ Phong, người miền Bắc, lý lịch đã được nghiên cứu cẩn thận và điều kiện bắt buột là người nầy không có họ hàng, bạn bè gì ở Tây Ninh. Anh ta đã đạt tất cả các đòi hỏi về an ninh, nhưng sau đó anh lấy vợ Tây Ninh nên được Tổng Nha Cảnh sát chuyển về Ban Mê Thuộc làm tại Tổng lãnh sự vùng II, về tổ chức là anh được thăng cấp, nhưng sự thật là hoàn cảnh của Phong sau khi lấy vợ Tây Ninh khả năng bảo mật X92 đã không còn. Vào ngày 10 tháng 3 năm 75, CS chiếm Ban Mê Thuộc, cả gia đình ông Phong chạy đến nhà Paul Struharik,người Mỹ duy nhất ở đây nên ngôi nhà bị bao vây, ông Phong bị bắt và khai làm việc cho CIA. Phong bị khai thác từ đó ông khai ra x92. X92 Võ Văn Ba bại lộ, bị bắt ngày 01- 5-1975. Những ngày cuối cùng của năm 1975, Võ Văn Ba đã được để nghị rời Việt Nam với mọi điều kiện thuận lợi nhưng ông đã từ chối vì lý do lớn tuổi, khó hội nhập ở xứ sở xa lạ. Tuy nhiên,như một giao ước với Ông Phan Tấn Ngưu, chỉ Huy Trường Cảnh sát đặc Biệt Tây Ninh, ông Ba nói:"Nếu thân phần bại lộ tôi sẽ tự sát ". Và điều nầy có thề là nguyên nhân cái chết của ông sau khi đã bị bắt. Di chuyển: Để tránh bại lộ,X92 thường được đưa về Sài Gòn bằng máy bay. Mỗi lần như vậy, ông bước qua một cánh cửa được giao ước trước ở bịnh viện Tây Ninh, sau đó nằm trên băng ca, phủ khăn kín, được 4 nhân viên an ninh giả làm y tá, cũng không được phép thấy mặt ông khiêng ông ra xe rồi lên máy bay đợi sẵn bay về Sài gòn. Tại đây,ông vẫn được hoá trang và tuyệt đối chỉ ở trong 1 phòng được chỉ định. Tại Tây Ninh, theo Thiếu tá Phan Tấn Ngưu thì hình thức Hộp thư di động thường được dùng với X92. Đó là một chiếc xe lôi quen thuộc ở Tây Ninh được cảnh sát đặt biệt giả danh, chạy trên một tuyến đường định trước. Dọc đường sẽ dừng lại 2 lần rước 2 nữ sinh ôm cặp sách giống nhau đi học. Tới khi xuống xe, 2 nữ sinh nầy đã trao đổi nhau cặp. Trong đó là báo cáo của Võ văn Ba . Ưu,Yếu điểm: Ưu điểm là X92 có trí nhớ phi thường. Các nghị quyết đảng ông đọc qua là nhớ và tài hiện hoàn toàn chính xác, kể các các con số, tên các đơn vị, số lượng, loại vũ khí sẽ được VC dùng. Khuyết điểm: Võ Văn Ba có yếu điểm là thích bia Budweiser và thuốc lá Salem. Võ văn Ba luôn đề nghị được "thưởng" 2 loại nầy khi làm xong một công tác. Đó là 2 đặc điểm khác lạ so với các nông dân tại vùng ông ta sinh sống. Chiến cuộc đã tàn gần 50 năm, nhưng trong đó vẫn còn những câu chuyện kỳ thú của những con người tận trung với lý tưởng đã đóng góp những khả năng đặc biệt của họ để miền Nam tồn tại cho tới năm 1975. Họ sống lặng lẽ,chết âm thầm, nhưng chiến công thật là to tát. Tổ quốc ghi ơn những ai đã nằm xuống cho miền Nam thân yêu, Tự do, chan chứa tình người, Công bằng và Bác ái. Riêng Phan Tấn Ngưu, dù cũng đủ điều kiện để rời Việt Nam, nhưng ông cũng từ chối vì không thể bỏ lại những đồng đội đã sống chết với ông. Phan Tấn Ngưu đã bị bắt vào đêm 30 tháng Tư năm 1975 tại Tòa Thánh Tây Ninh, ông bị đưa ra Bắc, mãi đến nam1992 mới được thả tự do. Tổ quốc ghi ơn. FB Đất Mẹ
|
|
|
Post by Can Tho on May 23, 2022 2:24:33 GMT 9
Chuyện đi tù cải tạo của võ sư Lê Sáng, chưởng môn Vovinam Tác giả: Vũ Ánh
Sau 1975, võ sư chưởng môn đi tù mất 13 năm(1975-1988) và các võ đường Vovinam(Việt võ đạo) năm 1990 mới được phép hoạt động trở lại Cho đến nay, tôi vẫn không biết lý do ông vào tù nhưng với số năm tù của ông thì có thể đoán ông có một chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà Chuyện đi tù cải tạo của võ sư Lê Sáng, chưởng môn Vovinam Tác giả: Vũ Ánh Tôi biết Võ sư Lê Sáng Chưởng môn phái Việt Võ Đạo tức Vovinam từ lúc còn mới chập chững bước vào nghiệp báo bổ qua lời giới thiệu của một môn sinh của ông lúc đó mới mang chuẩn Hồng đai Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ. Sau đó có một vài lần đến võ đường của Vovinam gần nơi tôi làm việc để xem Quỳnh Kỳ dạy võ cho các môn đệ của anh và đến tổ đường Vovinam ở 31 đường Sư Vạn Hạnh để xem Quỳnh Kỳ học võ với võ sư Chưởng môn Lê Sáng. Rồi sau đó, miệt mài với nghề nghiệp, với chiến trường nên tôi không còn hình ảnh nào với môn phái này nữa suốt trong thời gian chiến tranh. Cho mãi đến năm 1976, khi tôi từ biệt giam ở nhà tù Chí Hòa ra ngồi tù ở phòng tập thể số 14 khu ED thì gặp lại võ sư Lê Sáng. Khoảng thời gian này, buồng giam 14 khu ED là một buồng giam có nhiều điểm đặc biệt về tù nhân. Chẳng hạn như trong số hơn 60 tù nhân, có cựu Thủ Tướng VNCH Phan Huy Quát và con trai là Phan Huy Anh, Phó Đại sứ Nam Hàn tại VNCH (rất tiếc tôi đã quên mất tên vị này), linh mục Trần Hữu Thanh (người cầm đầu phong trào tố cáo tham nhũng), Võ sư Suzuki một người Nhật nhưng quốc tịch Việt Nam chuyên dạy môn karate cho cảnh sát quốc gia và quân đội VNCH, Chủ tịch Dân Xã Đảng Phan Bá Cầm, cụ Nguyễn Phan tổng giám đốc công ty bột giặt NET, Lưu Nhật Thăng, một chủ báo Hoa ngữ ở Chợ Lớn từng là thư ký của Kim Dung, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng ở Hong Kong, ông Tám Mộng người được nói là cầm đầu một trong những lực lượng vũ trang của Phật Giáo Hòa Hảo, ông Nguyễn Thế Thông giáo sư Anh văn rất nổi tiếng của Saigon vào thời đó. Năm 1976, ghẻ bắt đầu hoành hành tại khắp các khu ở nhà tù Chí Hòa và riêng buồng 14 khu ED. Ghẻ kềnh ghẻ càng, ghẻ khủng khiếp. Ghẻ làm da hư hại nặng có thể gây tử vong, và một trong những nạn nhân đầu tiên của dịch ghẻ là cựu Thủ tướng Căm Bốt Sơn Ngọc Thành. Trong buồng giam chỉ có võ sư Lê Sáng là coi như bị nhẹ nhất chỉ ở kẽ ngón chân và ngón tay. Có lẽ thấy ông còn mạnh và quắc thước nên ghẻ có vẻ kiêng nể ? Vì phòng chật và nóng như lò than nên ban đêm Lưu Nhật Thăng thường dựa vào tường ngủ đứng, còn võ sư Lê Sáng thì ngồi tập và điều tức rất kín đáo tại chiếu nằm của mình. Ông tránh để giám thị canh gác phòng giam nhìn thấy ông tập, bởi vì vào thời đó, nếu bọn coi trại giam biết ai có võ chúng sẽ gây phiền hà vô cùng. Ông ít nói chuyện, hay ngồi trầm ngâm với chiếc điều cầy. Nhưng với đám tù chính trị còn thanh niên như chúng tôi thì ông không ngại gì khi giảng giải về phái võ mà ông là Chưởng môn. Võ sư Lê Sáng không bao giờ đề cập đến quyền cước của môn phái mà ông chỉ nhấn mạnh đến tinh thần của nó. Ông nói nhiều đến điều gọi là “cách mạng tâm thân” để giữ vững tinh thần anh em chúng tôi và để hướng về tương lai. Võ sư thường nhấn mạnh : “Ở trong tù, đói khát như thế này thì làm sao gia đình thỏa mãn nhu cầu cho chúng ta được. Phải biết sống về tinh thần. Thực phẩm chỉ là phụ đệm”. Dĩ nhiên, chúng tôi hiểu rằng nói thì dễ nhưng làm rất khó. Nhưng nhìn dáng dấp ông lúc nào cũng vững chãi, đường bệ, với hàm râu dài, nụ cười rất tươi, đôi mắt sáng quắc, ăn nói không thừa, không thiếu, giọng nói mạnh, sang sảng nhưng ôn tồn, lịch sự ngay cả khi trả lời những câu hỏi rất thiếu giáo dục của bọn cán bộ trại giam, chúng tôi vững tin ở cách rèn luyện tinh thần mà ông thường chỉ dạy cho anh em trẻ chúng tôi. Võ sư Lê Sáng là người rất uyên bác về thơ đường. Có nhiều buổi tối ông ngâm thơ Đường cho chúng tôi nghe, nhưng anh em thích nhất là khi ông ngâm bài “Hồ Trường”. Nhiều anh em đã không tránh được ngậm ngùi mỗi lần nghe ông ngâm bài thơ này. Ông cũng ít kể chuyện, nhưng khi nghe ông kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung hay kể về bộ Tam Quốc Chí, anh em trong buồng giam theo dõi một cách hào hứng, có thể quên đói và quên hẳn cảnh tù đầy. Sống trong môi trường bị giam hãm như vậy, mỗi hành động của những tù nhân nổi tiếng trong buồng giam 14 khu ED đều bị chú ý. Chẳng hạn như cứ vào mỗi buổi sáng, vị phó đại sứ Nam Hàn sửa lại bộ quần áo tù cho chỉnh tề rồi ông bước lại chiếu nằm của ông Phan Huy Quát bắt tay vị cựu thủ tướng này, cúi gập đầu xuống để chào và sau đó hai người mới thăm hỏi sức khỏe của nhau. Võ sư Lê Sáng nói với chúng tôi : “May ra mà trong cảnh nhiễu nhương hỗn tạp, giậu đổ bìm leo này, trong buồng giam còn có được những hình ảnh đẹp đẽ của nền văn minh”. Khi chúng tôi bị chuyển lên trại Hàm Tân Z-30C vào những tháng đầu của năm 1977, đám lính giải giao thường dùng dây xích cứ 5 người một rồi khóa vào chân ghế ngồi trên những chiếc xe đò. “Xâu” đầu tiên được đưa lên xe gồm những người mà tôi còn nhớ rõ, đó là Võ sư Lê Sáng, ông Phan Bá Cầm, nhà báo Lâm Tường Dũ, Đoàn Bá Phụ (cựu trung úy Nhảy Dù) và tôi. Lên đến trại Hàm Tân, chúng tôi và Võ sư Lê Sáng vẫn được phân phối vào một trại lao động. Sau khi ở Hàm Tân Z-30C được vài tháng thì võ sư Lê Sáng bị dẫn vào nhà kỷ luật và bị cùm lần thứ nhất trong đời tù chỉ vì ông có bộ râu dài. Viên cán bộ an ninh trại cho gọi thợ hớt tóc (cũng là mấy anh em tù cải tạo) đến. Võ sư Lê Sáng ôn tồn : “Cán bộ muốn cạo thì xin cứ thi hành, nhưng tôi không vi phạm nội qui của trại, cán bộ nên nhớ như thế nhé”. Ông đứng im lặng như một gốc cây, mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Tý. Nhưng khi thợ hớt tóc vừa đến gần ông thì Tý gọi giật lại : “Thôi. Cứ để cho anh ấy để râu nhưng đem cùm xem có chịu cạo râu không”. Võ sư Lê Sáng bị cùm hai tuần lễ nhưng kể từ sau đó không ai trong trại giam còn để ý gì đến râu tóc của võ sư Lê Sáng nữa. Khó khăn thứ hai của Chưởng môn Việt võ đạo là do chính tiếng tăm của ông. Không hiểu nhóm công an vũ trang chuyên canh gác tù ở các bãi lao động bàn tán với nhau như thế nào mà không một tên nào dám đi gần ông. Tại bãi lao động, một tù cải tạo phải đứng cách xa lính canh 5 thước, khi phải báo cáo xin đi tiểu tiện, nhưng riêng võ sư Lê Sáng phải đứng cách vệ binh 10 thước. Biết được điều đó nên võ sư Lê Sáng rất thận trọng trong đi đứng tại bãi lao động để tránh hiểu lầm. Một lần buổi sáng tập họp trước cộng trại giam để xuất trại đi lao động, võ sư Lê Sáng bị kêu ở lại trại để “làm việc”. Buổi trưa khi lao động về, chúng tôi túm lại hỏi ông xem có chuyện gì, nhưng ông chỉ cười và nói : “Chẳng có chuyện gì cả. Vài học trò cũ của tôi từ Bắc vào thăm”. Sau này, trong những lúc ngồi nói chuyện riêng tư vào những ngày nghỉ lao động, võ sư Lê Sáng cho biết là Hà Nội nghe tiếng ông, muốn vào thăm ông và cho người thử thách, nhưng ông từ chối vì, theo lời ông, “tôi học võ để rèn luyện tinh thần, không phải là để thi đấu, tôi là chưởng môn mà còn đi dương danh là một lỗi lầm với môn phái, tôi không làm điều ấy”. Chúng tôi ở với nhau ở Hàm Tân Z-30C đến năm 1979 thì bị chuyển trại theo phương án 4 tức được lọc lựa ra và đưa vào danh sách “chết” tức là danh sách không thể cải tạo được, và không bao giờ được xét tha theo quan điểm của trại giam. Thế là đang đêm chúng tôi lại bị gọi tên, bị xiềng đưa lên xe đò và đưa lên A-20 Xuân Phước, tức trại trừng giới. Tôi đã viết khá nhiều điều về trại này, nên ở đây tôi chỉ nói đến hoàn cảnh của Chưởng môn Việt võ đạo khi bị đưa đến cái trại nổi tiếng khủng khiếp này trong suốt giai đoạn I, từ 1980 cho đến cuối 1988. Đến A-20 được 3 tháng thì Chưởng môn Vovinam Lê Sáng vào cùm ngay. Lần vào cùm này không do bất cứ một lỗi lầm về nội qui của võ sư Lê Sáng mà chỉ vì ông được sự kính nể và quí mến của anh em trong trại từ tập trung cải tạo, tù chính trị có án hay tù hình sự, ở cách ông cư xử và chia sẻ đói khổ với anh em, ở tinh thần vững chãi để đối phó với mọi hoàn cảnh khó khăn cùng quẫn trong tù, ông cũng không hé ra một lời nào có thể xâm hại đến người khác. Trong bối cảnh này, bọn trại giam nhắm vào việc triệt hạ những thần tượng của tù cải tạo. Cũng chỉ vì thế mà Chưởng môn Việt võ đạo Lê Sáng vào cùm hết một năm. Khi ra khỏi nhà kỷ luật, sức khỏe của cụ có sa sút, nhưng giọng nói vẫn sang sảng và đôi mắt vẫn sáng quắc. Ra khỏi nhà kỷ luật hôm trước thì hôm sau ông đi lao động ngay. Võ sư Lê Sáng nói : “Ra ngoài cho khỏe”. Quả thật sức khỏe của võ sư Chưởng môn Vovinam phục hồi rất nhanh. Ông nói : “Vì khí trời”. Khi võ sư Lê Sáng về tiếp tục sinh hoạt ở đội lao động được vài tuần lễ thì tôi cùng một số bạn khác vào nằm cùm mãi cho đến năm 1985 mới gặp lại võ sư Lê Sáng tại phân trại B của A-20 để chuẩn bị chuyển trại. Trước Noel 1985, chúng tôi chuyển trại về Z-30A nằm trong phương án đặc biệt mà Hà Nội đã thỏa thuận với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đó là thỏa thuận về chương trình HO. Võ sư chưởng môn Việt Võ Đạo Lê Sáng được thả tại Z-30A, trước thời gian tôi cũng như một số anh em khác từng làm tờ Hợp Đoàn, tờ báo chui ở A-20 bị “điệu” về trại Phan Đăng Lưu để chờ ngày ra tòa. Nhưng cuối cùng, vụ án được hủy bỏ và chúng tôi được đưa trở lại Z-30A tiếp tục nằm trong nhà kỷ luật. Năm 1988, tôi được thả về và ít lâu sau có đến tổ đường của Vovinam trên đường Sư Vạn Hạnh để thăm võ sư Chưởng môn. Lúc này tổ đường Vovinam đã được củng cố. Các môn sinh người ngoại quốc từ Âu châu và các môn sinh Vovinam từ khắp Việt Nam đã lục tục kéo về để ra bái lậy Chưởng môn. Trong câu chuyện thăm hỏi tôi, ông cứ nhắc mãi đến “cách mạng tâm thân” và tính nhân bản của Việt võ đạo. Bây giờ, cụ Lê Sáng đã ra người thiên cổ. Cụ thọ 91 tuổi. Trong bức hình chụp Võ sư Lê Sáng mà các bạn ở Việt Nam gởi cho, tôi thấy đôi mắt võ sư Chưởng môn Việt võ đạo vẫn sáng quắc như ngày nào. Tôi viết những kỷ niệm trên với Võ sư Chưởng môn Việt võ đạo trong thời tù để gọi là đại diện cho một số anh em cựu tù của trại Hàm Tân Z-30C, A-20 và Z-30A bái vọng cố quốc để tiễn đưa cố võ sư Chưởng môn. Bởi trong những đêm tối ấy, ông vẫn như ngọn đèn sáng dẫn dắt tinh thần anh em chúng tôi. Cố võ sư Chưởng môn là một người cả đời hy sinh cho Việt võ đạo và đây cũng là lý do ông cụ không bao giờ lập gia đình. Tuy nhiên, cụ có rất nhiều đứa con tinh thần vì trong tù chúng tôi đều gọi Võ sư Chưởng môn Vovinam là bố, “Bố Lê Sáng”. Vả lại ngày nay, trên khắp thế giới, hàng chục ngàn môn sinh Vovinam cũng đang thổn thức vì những mất mát không có gì bù đắp được cho môn phái vì sự khuất bóng của Võ sư Chưởng môn.
Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải). Ảnh tư liệu TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM · Binh Nguyen ·
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2024 6:25:37 GMT 9
Tướng Toàn Và Tôi (Tướng Toàn trong mắt một sĩ quan tùy tùng) – Quế Chi Hồ Đăng Định. Phạm Tín An Ninh April 20, 2022 phamtinanninh.com/?p=6278www.westpointcoh.org/interviews/we-fought-with-our-hearts-and-minds-a-vietnamese-veteran-achieves-the-american-dreamTrung Tướng Nguyễn Văn Toàn (1932 – 2005) Quế Chi Hồ Đăng Định Lời Thưa Trước: Cuộc chiến tranh Nam Bắc đã qua gần 40 năm rồi, những vết thương chiến tranh theo thời gian đã bớt mưng mủ, những đau thương ngộ nhận lẫn hận thù ân oán cũng theo tháng ngày dần dần nhạt phai. Là một cựu sĩ quan của Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa, tôi quyết định viết lại những dòng hồi ức này, ngoài việc làm tròn lời hứa với Cố Trung Tướng Nguyễn văn Toàn thuộc “Bên thua cuộc”, cấp chỉ huy trực tiếp của mình, tôi cũng muốn nói lên những sự thật mà tôi có cơ duyên được biết về ông sau khi ông đã qua đời vì tuổi già và bệnh tật ở nơi xứ người vào năm 2005, bỏ lại đằng sau một đời đầy tai tiếng. Tuy đây chỉ là những dòng kỷ niệm, những hồi ức riêng tư, nhưng vì Tướng Nguyễn văn Toàn là vị Tướng đã từng giữ những chức vụ chỉ huy quan trọng các Đại Đơn vị của Quân Đội Miền Nam cho đến ngày tàn chiến cuộc, thế nên viết chi về ông cũng không thể không nhắc đến các nhân vât quan trọng khác trong chính quyền và Quân Đội Miền Nam. Ông đã từng giữ chức: – Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh , bản doanh ở Quãng Ngãi (1967) – Tư Lệnh Quân Đoàn 2 Vùng 2 Chiến thuật bản doanh ở Pleiku (1972) – Tư Lệnh Quân Đoàn 3 Vùng 3 Chiến Thuật bản doanh ở Biên Hòa và kiêm Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh (1975). Vì vậy tôi viết lại đây những chuyện có thật, những nhân vật có thật dù còn sống hay đã qua đời vói tất cả tên thật và chức vụ đương thời của họ, tuyệt đối không thêm bớt. Riêng về những nhân vật liên quan đến đời tư của ông Tướng tôi xin được phép viết tắt tên của họ để tránh những hệ lụy không cần thiết cho tất cả mọi người. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về những dòng ký ức này và sẵn sàng đối thoại với những ai hoài nghi ngòi bút của tôi gian dối hoặc hư cấu. Huế ngày 29 tháng 9 năm 2014. Quế Chi Hồ Đăng Định 1.-Vài dòng tiểu sử- Từ hơn mười năm nay lòng tôi cứ mãi băn khoăn, nhiều đêm thao thức chỉ vì chưa làm tròn một lời hứa với một người anh, một vị chỉ huy cũ của mình: Cố Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn của Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa trước năm 1975. Năm 2003 , ông Tướng (cách gọi thân mật mà anh em chúng tôi, những người gần gũi ông thường dùng mỗi khi nhắc tới ông), đã từ thành phố West Covina miền Nam Tiểu Bang California bay lên thành phố Seattle, tiểu bang Washington miền Tây Bắc nước Mỹ thăm tôi. Cùng đi với ông là anh Hồ văn Châu, cựu Trung Tá thuộc cấp thân tín của ông và anh Võ văn Tùng, cựu Thiếu tá, vừa là thuộc cấp vừa là bạn thời thơ ấu của ông Tướng. Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của ông Tướng có phần suy sụp, hằng tuần phải vô ra bệnh viện đôi lần. Gặp lại nhau sau gần 30 năm xa cách, những kỷ niệm cũ, những hình ảnh xưa được bốn thầy trò, bốn anh em khêu gợi lại rõ ràng như chuyện mới xảy ra hôm qua. Trong nổi vui mừng tái ngộ cùng niềm hưng phấn tột cùng, tôi đã buột miệng hứa với ông Tướng là sẽ viết lại những kỷ niệm này, sẽ kể lại hơn một ngàn ngày được làm việc dưới quyền ông Tướng và sống chung chan hòa trong tình anh em thân thiết từ Pleiku cho đến Sài Gòn-Biên Hòa cách đây gần 45 năm. Nhưng năm tháng cứ lạnh lùng trôi, lòng tôi vẫn cứ mãi ray rức, băn khoăn mà tôi vẫn không viết được chữ nào như lời đã hứa cả. Nguyên do một phần vì bận bịu mưu sinh trong đời sống hối hả với những yêu cầu cao của một xã hội văn minh như nước Mỹ; phần khác là vì không khí chính trị ở Hải ngoại vẫn đang còn sôi sục thắng thua, mà trong lòng người hải ngoại cũng còn quá nặng nề, hận thù, ân oán cả thù lẫn bạn. Oái ăm thay ! Tướng Toàn là một trong những vị Tướng của Miền Nam mang quá nhiều tai tiếng. Nào là tham nhũng, ăn chơi trụy lạc, dâm ô, thậm chí có lần người ta buộc ông vào tội hiếp dâm nữa. Ngoài ra còn có một vài tờ báo ở Sài Gòn gán cho ông cái tội Tổ chức Hành Quân vào rừng lấy quế để xuất khẩu sang Hồng Kông và từ đó gán cho ông cái biệt danh: “Quế Tướng Công”. Có thể ông bị hàm oan nhưng ai biết? ai hay ? mà khổ thay những tai tiếng đó đã được phổ biến rộng rãi và lập đi lập lại nhiều lần trên báo chí Sài Gòn cũ, dù có hay không, đúng hay sai cũng đã tạo thành định kiến trong đầu đại đa số quân nhân cũng như trong dân chúng Miền Nam Việt Nam trướcc năm 1975. Giờ đây trước vong linh ông Tướng, tôi xin phép ông ( cũng là phần nào từ ý thúc dục của ông một năm trước khi ông qua đời tại California-Hoa Kỳ), được kể lại những điều mắt thấy tai nghe, những điều tôi được biết về ông Tướng trong hơn 3 năm cuối cùng của cuộc chiến Việt nam. Tôi không bao giờ quên những tháng ngày được làm việc dưới quyền ông và được ông đối đãi và thương mến như một người em thân thích. Luôn mang trong tim lòng quý mến và biết ơn ông nhưng với tinh thần Tôn Trọng LẼ PHẢI và SỰ THẬT, trong dòng Hồi Ức này nếu có những nhận định thẳng thắn hay tôi có viết về những điều không hoàn hảo của một Con Người sống giữa Trần Gian thì cũng xin Ông Tướng nơi chín suối mĩm cười tha thứ. Tướng Toàn sinh năm 1932 , tuổi Nhâm Thân, là con thứ của cụ Nguyễn văn Chất, một công chức Sở Bưu Điện thời Pháp thuộc, nhà ở đường Hàng Me (nay là Phạm Ngũ Lão), gần Tòa Khâm Sứ Huế. Con Đường hàng Me này thời học sinh của chúng tôi nổi tiếng với những Người Đẹp Trà Mi – Kiều Mi – Nga Mi – Diệm Mi – Phố Châu – Như Mai v.v. mà chắc rằng những cậu học trò Huế năm nào, nay đã là những lão ông thất , bát tuần dù ở bất cứ phương trời nào e cũng chẳng thể nào quên đượcnhững giai nhân nổi tiếng một thời này. Tướng Toàn có 3 anh em ruột (cùng một cha mẹ) là anh Nguyễn văn Liêm, kỷ sư điện Phú Thọ về sau là Trung Tá Truyền Tin, người em trai là Nguyễn văn Chân du học Pháp, cũng đỗ kỷ sư, lấy vợ đầm, ở lại bên Pháp luôn hơn 60 năm ni. Riêng Tướng Toàn từ thuở nhỏ còn đi học ở Trường Việt Anh là đã có ý thích sống đời quân ngũ, rất thông minh và cũng rất gan dạ. Theo lời những người bạn ông kể lại thì cậu học trò Toàn bắn Ná Cao su rất hay, cứ mỗi lần đi học về ngang qua Tòa Khâm là Cậu rút ná ra bắn vào những trái cây chín trong khuôn viên Tòa Khâm rồi liều lĩnh leo hàng rào sắt vào lượm chiến lợi phẩm mà quên đi sự nguy hiểm là mấy thằng lính Tây đen mặt rạch sẵn sàng bắn bỏ kẻ xâm nhập. Ông nhập ngũ khóa 3 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt nhưng vì bị bịnh nên ông lại phải trở về nhà và nhập ngũ lại khóa 5, sau khi tốt nghiệp ông được gửi đi học chuyên ngành Thiết Giáp tại Trường Thiết Giáp Saumur nổi tiếng (Pháp Quốc). Cụ Chất tuy là một công chức nhưng lại có thêm nghề tay trái là thợ chuyên môn về máy móc điện lạnh. Năm 1950, ba tôi ngoài việc kinh doanh iiệm ăn, bán dĩa hát , máy hát quay tay hiệu La Voix de Son Maitre (hình con chó ngồi bên cái Loa), ba tôi còn mở thêm nhà máy làm nước đá và Kem cây để cho các em nhỏ bỏ vào phích Cà Rem mang chạy đi bán khắp cả Thành Phố Huế và vùng Phụ Cận như Kim Long, An Hòa, An Cựu, Vỹ Dạ.v..v.. Thành ra mọi việc liên quan đến nhà máy nước đá và kem cây, các vấn đề điện nước chi trong Tiệm Ăn ba tôi đều giao cho Cụ Chất và hai người trở thành bạn bè của nhau từ đó. 2-Mùa hè đỏ lửa 1972 – Mùa hè năm 1972, chiến sự vô cùng sôi động, cái mùa hè mà nhà văn Phan Nhật Nam đặt tên là Mùa Hè Đỏ Lửa, thì tôi đang làm Đại Đội Trưởng một Đại Đội Bộ Binh của Sư Đoàn 23 BB. Cả Sư Đoàn cùng Liên Đoàn II Biệt Động Quân , Lữ Đoàn II Kỵ Binh , Liên Đoàn 20 Công Binh, tất cả đang hành quân trong vùng rừng núi Chư Pao, cố mở đường khai thông Quốc Lộ 14 để giải tỏa thành phố Kontum đang bị vây khổn. Chiến trường quá khốc liệt và đẩm máu, thương vong rất nặng nề. Tiểu đoàn tôi có tất cả là 22 Sĩ Quan từ Chuẩn Úy tới Đại Úy thế mà vừa tử trận, vừa bị thương phải đưa về tuyến sau hết 17 người. Có Đại Đội ( ĐĐ) không còn sĩ quan chỉ huy vì chưa kịp bổ sung nên phải cử một ông Thượng Sĩ hay Trung Sĩ coi sóc tạm thời ĐĐ đôi ngày chờ đến hạn kỳ tiếp tế. Một sĩ quan tiền sát pháo binh, nhà thơ Lâm Hảo Dũng đã phải than thở “Chư Pao ai oán hờn trong gió, Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường” Một tấc đường là một chiếc khăn tang thế thì đoạn đường dài mấy cây số dưới chân đèo Chư Pao đó đã đếm được bao nhiêu ngàn chiếc khăn tang của cả hai bên lâm chiến? Tôi chỉ bị thương nhẹ nên không được tản thương về hậu cứ nên cứ yên tâm nằm chờ đợi cái giây phút cuối cùng của đời mình nếu chiến trường cứ tiếp tục đẫm máu hằng ngày như vậy. Một anh bạn tôi, Trung Úy Lê Minh Đức Đại Đội Trưởng ĐĐ I bị một viên đạn xuyên qua phần mềm bắp vế chân phải, không nguy hiểm đến tính mạng nếu được tản thương kịp thời. Sau khi được Thiếu Úy Quán, Sĩ Quan Trợ Y băng bó (làm ga rô buộc chặt vết thương tạm thời cầm máu ), Đức mắc võng nằm cạnh tôi chờ máy bay trực thăng tản thương (Medivac). Mười lăm phút sau tiếng cánh quạt trực thăng kêu phành phạch trên bầu trời, Đức vùng dậy, xách ba lô nằm lên băng ca để cho mấy cậu lính của tôi khiêng ra bãi đáp trực thăng (Landing Zone). Trời Cao Nguyên thực lạ lùng, nhiều khi bầu trời đang trong veo, bỗng chốc mây đen kéo đến hoặc sương mù đổ xuống dày đặc là bầu trời trở nên đen kịt hàng giờ. Quả nhiên mươi phút sau thì phi công trực thăng phi đoàn Thần Tượng thông báo cho mặt đất biết là do sương mù, trực thăng không đáp được, sợ hết xăng, hẹn sáng mai trở lại và nói lời tạm biệt. Đức buồn bã trở về nằm bên tôi, suốt đêm chàng hút thuốc liên miên, hết điếu này đến điếu khác,chàng kể chuyện tình yêu dang dở thời học trò, chuyện học hành thi cử lận đận thời sinh viên, những nhọc nhằn gian khổ đời lính chiến cho đến khi cả hai chúng tôi chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị giữa rừng khuya ầm ì tiếng súng, dưới ánh sáng lập lòe của những đóm mắt hỏa châu. Sáng sớm thức giấc nhìn bạn đang còn ngủ say tôi mừng thầm, nhưng khi lay bạn dậy để đón trực thăng thì mới hay Đức đã ra đi tự bao giờ trong giấc ngủ mê, trong chiếc võng sũng máu đông cứng một màu đen thẩm. Viên đạn oan nghiệt đã phạm vào một động mạch chủ mà ngoài mặt trận không có đủ phương tiện y khoa để mổ xẻ và cầm máu. Vẫn biết mỗi người có một số mệnh nhưng sao tôi vẫn không ngăn nổi giòng nước mắt tiếc thương tuôn trào, tiếc thương cho người bạn vắn số và cũng buồn thương cho thân phận của chính mình không biết ra sao ngày mai? Đang tuyệt vọng như một con thú rừng mắc bẩy mà không có cách chi thoát ra thì thực bất ngờ, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ra lệnh cho tôi về trình diện Thiếu Tướng Tư Lệnh vừa mới nhậm chức. Về sau tôi mới biết là do sự vận động của em tôi, Đại Úy Hồ Đăng Xứng Đại Đội Trưởng ĐĐ Tổng Hành Dinh Q. Đoàn II đã xin thẳng với ông Tướng khi đưa tiển ông Tướng lên đường đi nhậm chức tại phi trường Đà Nẵng. Ngày đầu tiên tôi về trình diện Đại Tá Trần văn Cẩm, Tân Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II ( sau này là Chuẩn Tướng khi nắm giữ chức vụ Tư Lệnh SĐ 23 BB). Tôi được đưa về làm việc tại Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) Quân Đoàn II. Có một sự kiện đáng ghi nhớ trong khoảng thời gian ngắn ngủi làm việc ở đây là vào khoảng 7 hay 8 giờ tối môt ngày tháng 7 năm 1972, tôi nhận được một báo cáo từ căn cứ hỏa lực 41, nằm giữa đường Kontum-Pleiku, có một chiếc trực thăng rơi trong khu rừng gần căn cứ. Tôi liên lạc với Sư Đoàn 6 Không quân ở phi trường Cù Hanh, báo tin cho Cố Vấn Mỹ thì được biết đó là chiếc trực thăng của ông Cố Vấn Trưởng của Quân Đoàn John Paul Vann và ông ta đã bị tử thương . Ông này là chuyên gia chống du kích chiến và tuy trong quân đội Hoa Kỳ ông chỉ mang hàm Trung Tá nhưng lại là một tay CIA hạng gộc. Là Cố Vấn Trưởng của một QĐ nhưng ông ta luôn luôn mặc thường phục, khi đi ra mặt trận thì khoác thêm cái áo giáp chống đạn. Ông ta rất can đảm và thường tự mình lái trực thăng khi nghe tin một tiền đồn nào đó đang bị tấn công, bay trên mặt trận và thả đạn dược hoặc các đồ tiếp tế cho đơn vị đang giao tranh. Ngoài việc là Sĩ Quan trực ở TTHQ, hằng ngày tôi còn có nhiệm vụ nhật tu (ajourner tiếng Pháp hay update tiếng Mỹ) bản đồ hành quân của văn phòng Đại Tá Tham Mưu Trưởng (TMT/ QĐ), chỉ rõ nơi đóng quân hoặc hành trình di chuyển của các đơn vị BẠN cũng như của ĐỊCH, chỉ rõ các cuộc đụng độ trong ngày.v.v… Một hôm, ông Tướng bước vào phòng TMT/QĐ, tôi được Đại Tá Cẩm giới thiệu lần đầu tiên với ông Tướng là anh của Đại Úy Xứng thì ông Tướng vui vẻ chào hỏi và ra lệnh cho tôi qua làm việc ở Văn Phòng Tư Lệnh (VPTL) của ông. Trước mắt tôi là một người đàn ông cao lớn, mập mạp, oai vệ, mắt một mí như người Đại Hàn. Ông Tướng nói một thứ tiếng Huế rặt, giọng nói sang sảng và chậm rãi và nụ cười khanh khách, rộng mở. Bên cạnh ông là người Sĩ Quan Tùy Viên người Tàu Chợ Lớn tên Đổ Đức, tốt ngiệp khóa 23 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (sau tôi 4 khóa) , anh ta cũng to cao như ông Tướng. Có một hôm, Đức rãnh rỗi, cao hứng mặc thường phục, áo chim cò, quần Jean , ghé qua Câu Lạc Bộ Phượng Hoàng trước mặt Tư Dinh Tư Lệnh, ngồi uống nước và xem khiêu vũ thì một vài sĩ quan tưởng lầm là ông Tướng ngồi đó nên len lén rút lui ra về; một vài người cứng cựa hơn thì đến chào Tướng Tư Lệnh cho phải phép khiến cậu Đức nhà ta cải chính rối rít rồi cũng bỏ chạy luôn. Công việc trong VPTL rất nhiều , tôi có nhiệm vụ đọc tất cả văn thư từ các Phòng Ban và các đơn vị trực thuộc QĐ đệ trình lên Tư Lệnh, rồi viết một phiếu trình nhỏ tóm tắt nội dung văn kiện để trình Tư Lệnh quyết định. Ông Tướng đọc rất nhanh rồi ký duyệt hoặc bút phê đôi dòng chỉ thị ngắn gọn và chính xác cho các đơn vị liên hệ thi hành. Nhiều khi tôi rất thán phục và thường nhủ thầm rằng các vị công chức tốt nghiệp Trường Quốc Gia Hành Chánh hay là vị nào dù cho có giỏi về hành chánh cách mấy đi nữa e cũng chỉ giải quyết sự việc nhanh gọn chừng ấy thôi. 3.-Tình Bạn -Tình Người – Kỷ niệm đầu tiên mà tôi nhớ hoài là ông Tướng tỏ ra một người rất cứng cỏi, không hề sợ hải dư luận hoặc những lời đe dọa của một số con sâu trong làng Báo chí ở Sài Gòn trước năm 1975. Một số người đã lạm dụng Đệ Tứ Quyền để phục vụ cho lợi ích cá nhân hay phe nhóm, họ đã giết danh dự, tên tuổi, uy tín của rất nhiều người bằng ngòi bút vu khống, bôi nhọ vô lương tâm của họ chỉ vì đồng tiền mà ông Tướng đã nhiều lần là nạn nhân của họ. Một buổi sáng mùa thu, Pleiku sương mù, văn phòng tôi tiếp một nữ phóng viên trẻ, có nhan sắc của một tờ nhật báo có tiếng ở Sài Gòn. Cô ta xin gặp Tướng Tư Lệnh để phỏng vấn tình hình chiến sự trong Quân Khu. Trong cuộc trò chuyện cô ta tỏ ra rất khôn ngoan, vừa có vẻ đòi hỏi QĐ cấp vé máy bay Hàng Không Viet Nam cho cô về lại Sài Gòn khi xong việc, vừa đưa ra cái mồi nhử là sẽ viết rất tốt về một vị Tướng đang cầm quân ngoài mặt trận. Nhưng cô ta cũng không quên nhắn nhe là cô ta cũng có thể phanh phui nhiều sơ sót, nhiều sai phạm của các đơn vị mà cô ta có rất nhiều tài liệu trong tay. Tuy rất bực mình nhưng tôi vẫn phải làm tròn nhiệm vụ tường trình cuộc nói chuyện của cô phóng viên kèm theo lời nhận xét của tôi với ông Tướng. Ông Tướng chỉ nói vắn tắt: “Nói với Đại Úy Lượng Phi hành đoàn trực thăng chuẩn bị bay lên Kon Tum. Không có thì giờ tiếp báo chí! Bảo cô ta ra khỏi Bộ Tư Lệnh ngay, nếu không thì cho Quân Cảnh chở cho cô ta tới bến xe đò rời khỏi Pleiku tức khắc.” Khi nghe tôi lập lại lệnh ông Tướng, cô phóng viên tái mặt, đúng dậy bỏ đi một mạch không nhìn lại một lần. Phải chăng vì tính thẳng thắn và cứng cỏi như vậy nên ông Tướng đã là nạn nhân của báo chí trong suốt cả cuộc đời binh nghiệp? Giữa chồng văn thư cao ngất hàng ngày, một hôm tôi đọc được một lá thư của một Thiếu Tá tên Long vừa ở tù Quân Lao Nha Trang ra và được phép trở lại phục vụ trong Quân Đội. Ông ta viết thư xin người bạn cũ nay là Thiếu Tướng Tư Lệnh QĐ giúp đỡ. Ông Tướng liền ra lệnh cho tôi: “Ông Thiếu Tá này là bạn cũ học cùng khóa với tôi đó! Anh nói với Trung Tá Phán Trưởng Phòng Tổng Quản Trị QĐ sắp xếp cho ông ta một công việc nào đó không quan trọng, không được giữ chức vụ chỉ huy.” Ông Tướng thường nói là người ta gõ cửa thì mình phải mở, nhưng việc chi cũng có giới hạn của nó. Hai tháng sau ngày nhậm chức, chiến trường tạm lắng dịu, ông Tướng bảo tôi: “ Anh gọi Đại Úy Tự phi công và phi hành đoàn máy bay Caribou C123 chuẩn bị máy bay đi Nha Trang. “Tôi phải xuống thăm Trung Tướng Đống một tí”. Trung Tướng Đống mà ông Tướng nói đây là Trung Tướng Dư Quốc Đống hiện giờ đang giữ chức Chỉ Huy Trưởng Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang (CHT/THSQ/NT). Tướng Đống đã giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù (SĐND) nhiều năm mà SĐND lại là một đơn vị thiện chiến và gan dạ nhất của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, không biết có bất đồng chi với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên bị nghi ngờ, bị thất sủng, bị cách chức Tư Lệnh để ra Nha Trang coi sóc một Trường huấn luyện tân binh mà Trường Hạ Sĩ Quan NhaTrang lại nằm trong lãnh thổ Quân Khu II , trực thuộc dưới quyền Thiếu Tướng Tư Lệnh QĐ II & QK II. Thành ra Trung Tướng lại dưới quyền Thiếu Tướng éo le như vậy. Cũng cần nói thêm Trung Tướng Dư Quốc Đống, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn và Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu là ba người bạn học cùng khóa 5 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Từ trên máy bay Caribou bước xuống phi trường nha trang nắng cháy, Tướng Toàn (2 sao) đã thấy Tướng Đống (3 sao) đứng dưới chân cầu thang máy bay cùng với tất cả Sĩ Quan cao cấp của Bộ Tham Mưu Nhà Trường dàn chào. Sau khi 2 vị Tư Lệnh chào nhau, Tướng Toàn bước tới bắt tay Tướng Đống và vui cười nói: “ Ô Trung Tướng ! Bọn mình là anh em, là bạn bè mà Trung Tướng làm chi nghiêm trọng rứa ?” Tướng Đống với nét mặt cứng cỏi, nước da sạm đen , trông rất ngầu, đúng là một vị tướng trận mạc, nhưng lại có một nụ cười rất hiền hòa từ tốn trả lời với một giọng miền Nam rất ấm : “Không ! Lễ nghi bắt buộc (protocol) mà toa (toi). Moa (moi) đi đón một ông Tư Lệnh Vùng và là Đại Biểu Chính Phủ nữa, đâu phải chuyện chơi! đâu có loạng quạng được !” Thế mới thấy những chính khách dân sự , không hề mặc áo lính thường chê những quân nhân , hay phe quân sự là những kẻ “Võ Biền”, hung hăng, thô lậu là qúa chủ quan và thiên kiến. Những quân nhân , đại diện là những Tướng Lãnh mà tôi đã từng biết, từng được gặp gỡ, họ cũng rất thông minh, rất hiền hòa và đối xử với nhau rất cao thượng (noble), lịch sự, rất thấu tình đạt lý. Tướng Đống lần lượt giới thiệu các Sĩ Quan trong BTM của mình với Tướng Toàn như là: “Đây là Đại Tá X Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Đây là Trung Tá Y Trưởng Phòng 1, Trung Tá A Trưởng Phòng 4 ….v.v và v.v” Đến trước mặt một ông Trung Tá, dáng người nhỏ thó, nói tiếng Huế nhỏ nhẹ như con gái thì Tướng Toàn quay sang nói với Tướng Đống: “Ông Trung Tá Hoàng Công Thụ ni là bạn học của tôi đây ! Xin Trung Tướng cho ông Thụ lên Pleiku với tôi có được không?” Tướng Đống O.K. lập tức và ra lệnh cho Trung Tá Thụ chuẩn bị ba lô bay lên Pleiku với Tướng Toàn ngay chiều hôm đó. Lên đến Pleiku nhân lúc Phòng Tổng Thanh Tra QĐ chưa có người phụ trách, Ông Tướng giao cho ông Thụ chức vụ đó để chờ….thời. Nói là chờ thời vì sau này ông Tướng đã đặc cách ban cho ông Thụ một chức vụ mà mọi sĩ quan cấp Tá đều mơ ước: Chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng. Theo con mắt nhìn của tôi đây là một trong những sai lầm của ông Tướng. Dụng nhân cũng như dụng mộc, phải dùng người đúng chỗ, phải dùng gỗ đúng nơi. Ông Tướng đã vì tình riêng mà đề bạt, đã dùng người không có khả năng để giữ những chức vụ quan trọng như vậy trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Một người đã bị kỷ luật khi làm Quận Trưởng mà nay được đề bạt lên làm Tỉnh Trưởng , trong khi ông Tướng chỉ nghĩ giúp Bạn chơ không có một đồng xu trong cái áp phe (affair) này. Tôi còn nhớ như in 2 cuộc điện thoại, cuộc điện thoại đầu tiên từ chiến trường Gia Nghĩa tỉnh Quảng Đức. Ngay tại mặt trận, ông Tướng đã gọi điện thoại cho Tổng Thống Thiệu nguyên văn như sau : “ Thưa Tổng Thống! vì chiến trường Cao Nguyên sôi động, tôi cần những sĩ quan có khả năng đánh giặc, tôi xin Tổng Thống thay 3 vị Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng 3 tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng và Darlak.” Tổng Thống Thiệu hỏi: “Anh muốn thay 3 ông cũ bằng 3 ông mới nào ?” -“ Dạ thưa Tổng Thống , tôi muốn xin cho Đại Tá Nguyễn Trọng Luật hiện ở Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh giữ chức Tinh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Darlak. Trung Tá Nguyễn văn Nghìn hiện là Trung Đoàn Trưởng Trung 4 Sư Đoàn 2 BB giữ chức Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Đức kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Đức. Trung Tá Hoàng Công Thụ Tổng Thanh Tra QĐ II làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Lâm Đồng” Ngay ngày hôm sau, cuộc điện thoại thứ hai gọi thẳng về tư dinh Tư Lệnh, hôm đó tôi đang ngồi trực điện thoại, nhận được điện thoại của ông Bửu Viên Đổng Lý Văn Phòng Bộ Nội Vụ của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm xin gặp ông Tướng. Nội dung cuộc điện đàm như sau đây: “ Thưa Trung Tướng , Đại Tướng Trần Thiện Khiêm Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đồng ý bổ nhiệm Đại Tá Luật và Trung Tá Nghìn làm Tỉnh Trưởng . Riêng trường hợp ông Trung Tá Thụ thì Đại Tướng chỉ thị cho tôi hỏi lại Trung Tướng vì ông Trung Tá này đã bị phạt vì không làm tròn nhiệm vụ khi giữ chức vụ Quận Trưởng”. Tướng Toàn trả lời một cách dứt khoát: “ Anh Viên thưa lại với Đại Tướng, Trung Tá Thụ là bạn của tôi. Tôi bảo đảm ông ta sẽ làm được việc.” Thế là 2 hôm sau công điện bổ nhiệm được ban hành và cả ba vị Sĩ Quan được đề cử lên đường đáo nhậm đơn vị mới. Dùng người cũng như chọn gỗ quý, người chỉ huy phải sử dụng, đặt để từng cá nhân vào những vị trí thích hợp đúng với khả năng của họ. Trong khi đất nước trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng mà ông Tướng vì tình bạn bè riêng tư lại giao phó cho những người không có khả năng chỉ huy, không có kinh nghiệm chiến trường, và không có tinh thần quyết chiến nếu không muốn nói là nhu nhược ra cầm quân thì làm sao có thể hy vọng họ hoàn thành nhiệm vụ được . Tôi xin đơn cử 2 trường hợp điển hình là 2 ông Tỉnh Trưởng Kontum và Lâm Đồng, chỉ vì tình đồng hương cũng như muốn nâng đỡ thuộc cấp và bạn bè mà ông đã tiến cử 2 ông “Trung Tá văn phòng” này. Một ông là Sĩ quan pháo binh được ông Tướng kéo về làm Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, suốt ngày sai lính chùi xe thiệt bóng loáng, chùi giày sáng như gương soi, ủi áo quần thẳng nếp sắc như dao vô ý đụng vào có thể đứt tay. Tối tối đi nhảy đầm bằng tiền của người khác, và về nhà gọi ngay cho bà vợ ở Đà Nẵng: ”Em ơi ! Anh vừa cho thằng Thượng sĩ X. mang về cho em cái bông xăng 2000 lít đó nghe! Khi mô hắn về tới thì em nhớ báo cho anh biết. “ Một phuy xăng 220 lít giá thị trường là 1 lượng vàng lá , 2000 lít tương đương với 9 phuy xăng là 9 lượng vàng tương đương với 9 tháng lương của một sĩ quan cấp úy như tôi . Số xăng này cũng do ông ta dựa oai hùm của ông Tướng để xin ở các đơn vị này đơn vị nọ trong QĐ. Ông Trung Tá kia thì cũng chẳng hơn gì, cũng không một ngày chiến trận, ốm o xo bại, nói không ra hơi, trông yếu ốm như một thư sinh trói gà không chặc, từng bị kỷ luật thế mà ông Tướng cũng chỉ vì tình bạn đã cho ông ta giữ chức Trưởng Phòng Tổng Thanh Tra Quân Đoàn. Cũng lợi dụng chức vụ xin đểu xăng, tôn, sắt, xi măng rồi cho xe chở về Sài Gòn cho vợ xây nhà, xây biệt thự . Chưa có chức vụ quan trọng mà đã tham ô nhũng lạm, thu vén riêng tư ghê gớm như vậy huống chi là chừ được giữ chức quan đầu một Tỉnh thì mặc sức mà tung hoành mà đục khoét công quỷ và tài nguyên quốc gia. Tôi viết những lời phê phán nặng nề này một cách có ý thức và hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi muốn mỗi chúng ta, trong những ngày cuối đời phải nhìn lại con người mình, tỉnh táo soi lại lòng mình, nằm gát tay trên trán để nhớ lại những việc mình đã làm trong quá khứ. Cái gì hay thì có thể mỉm cười hãnh diện, biết sám hối những lỗi lầm lớn nhỏ chứ chúng ta không thể cứ mãi u mê, dối người và dối ngay cả chính mình, cứ mãi tự mãn tự hào với cái vòng nguyệt quế lấp lánh hào quang không có thật. Riêng cá nhân tôi, cũng nhiều đêm thao thức, ray rức, băn khoăn với nhiều hối hận mỗi khi lần tìm về quá khứ. Là một sĩ quan cấp nhỏ không có quyền hành chi, lại là một sĩ quan tác chiến không có cơ hội và môi trường để tham ô nhũng lạm, nhưng suy cho cùng thì bản thân tôi cũng đã phạm tội tuy vô tình và cũng xin thành tâm sám hối. 4.- Tham ô và nhũng lạm – Năm 1970 tôi là một sĩ quan Đại Đội Trưởng một Đại Đội Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 45 Sư Đoàn 23 BB trú đóng ở Ban Mê Thuột nhưng đơn vị thường thường hành quân khắp 3 tỉnh Darlak, Pleiku và KonTum hàng tháng trời. Cứ mỗi 5 ngày thì được trực thăng chở đồ tiếp tế một lần gồm thức ăn, thuốc men, súng ống và đạn dược. Ngày mai là ngày tiếp tế thì hôm nay ông Trung sĩ Hạ Sĩ Quan ẩm thực ở Ban Mê Thuột đã gọi điện thoại cho tôi: “Thưa Trung Úy (T/u), tuần trước thịt bò rồi kỳ này T/u thích ăn thịt gà hay thịt heo? Ngoài các nhật báo thường lệ T/u thích đọc Tuần Báo Điện Ảnh hay Sân Khấu? Nguyệt San Bách Khoa hay Văn hoặc Văn học? Bia lon thì lon của Mỹ hay bia chai Con cọp của VN?.v.v…… Trong khi đó, những người lính trong đại đội tôi chỉ có một khúc cá hố dù đầu hay đuôi, thêm một miếng thịt heo mở nhiều hơn thịt, cũng chỉ vừa đủ nhét vào một lon sữa Guigoz cùng với mấy lát hành, ớt, tỏi cùng với hủ chao đựng nước mắm. Tất cả hầm bà lằng dộng vào trong lon sữa, chế thêm nước mưa hay nước suối , kho lên, rồi chan nước cá ăn với cơm, hết gạo thì ăn cơm sấy. Và cứ thế ngày này qua ngày khác, hết nước thì lại đổ thêm nước mưa hay nước suối mà chan cơm chờ kỳ tiếp tế tới. Ăn uống như rứa mà hàng ngày phải lội bộ trong rừng sâu hàng chục cây số, trèo đèo lội suối, trên vai vũ khí và đạn dược, xẻng, cuốc, mùng mền cá nhân tất cả nặng hàng chục ki lô nặng oằn vai, người lính bộ binh như những con lạc đà nhẫn nhục thồ hàng băng qua sa mạc. Giờ đây nghĩ lại thấy quá tội nghiệp, thương vô cùng người lính bộ binh năm xưa. Tiền ăn của một người lính hàng ngày là 42 đồng rưỡi, thế mà họ chỉ nhận được một cái đầu cá hố , môt miếng thịt heo bằng hai ngón tay mở nhiều hơn thịt với mấy tép hành ,vài quả ớt , củ tỏi, với hủ chao nước mắm tất cả ước độ 10 đồng, vậy thì còn 32 đồng rưỡi đi đâu ? Vì sao Vì HSQ ẩm thực đã lấy bớt 10 đồng bỏ vào túi riêng để bù lại số tiền mua chức này với ai đó mà tôi không được biết, cái chức tưởng là tầm thường này nhưng rất có giá vì vừa được sống an nhàn, an toàn ở Thành phố mà lại vừa có bổng lộc, có tiền mua vàng cho vợ cất nữa. Bớt thêm 10 đồng để tiếp tục cung phụng cho ai đó mà tiếp tục giữ chức, 10 đồng còn lại là dành cho gà vịt, thịt bò , thịt heo, bia bọt, báo chí cho Đại Đội Trưởng, người chỉ huy trực tiếp là Tôi nữa. Tuy chính mình không ra lịnh ăn bớt, ăn xén tiền ăn của lính, nhưng chính mình cứ làm thinh mà hưởng thụ nhởn nhơ, mà không hề biết, không hề chia sẻ nổi đau khổ của người lính là một điều không thể tha thứ. Giờ đây tôi chỉ xin cúi đầu nhận lỗi. Từ đó, nói chuyện tham ô nhũng lạm tôi nghĩ như là một thuộc tính của nền văn hóa đặc thù Á Đông. Ai có chức có quyền cũng mặc nhiên cho mình có quyền ăn của đút lót hoặc là những bổng lộc do chức quyền của mình mang lại. Vậy thì thử đặt câu hỏi xem có vị Tổng Thống, Thủ Tướng hoặc Đại Tướng Trung Tướng hay nói cách khác là có vị chức quyền quân sự hay dân sự nào dám cam đoan là mình không hề tham nhũng, không hề nhận tiền hối lộ dưới bất cứ hình thức nào trong khi mình còn tại chức không ? Anh không đích thân, không chường mặt ra nhận quà tặng, nhận tiền đút lót, nhưng vợ con anh hay đệ tử của anh nhận thì sao ? Anh có tội không ? Nói tóm lại không ai dám tự hào là mình trong sạch cả, vấn đề là tính nhân đạo hay vô nhân đạo mà thôi. Hơn nữa khi với quyền uy của mình , anh làm một hành động hợp pháp như ký giấy phép cho một công ty, một đơn vị kinh doanh nào đó , mang lại nhiều lợi lộc cho họ thì việc đền ơn đáp nghĩa như một sự tự nguyện là lẽ đương nhiên. Còn việc bán chức bán quyền, ra giá, o ép, thâm lạm công quỷ, đục khoét ngân sách, bán đứng tài nguyên quốc gia .v.v.. thì không có gì để bàn cãi nữa. Vậy thì kết luận lại là Tướng Toàn có tham nhũng không? có nhận hối lộ không? Tôi xin thẳng thắn trả lời ngay là có. Không có sao được, tôi chỉ đơn cử một sự kiện thôi. Nhân ngày sinh nhật của cháu Thịnh con trai đầu của ông Tướng tròn 12 tuổi (sinh năm 1960) thì một thương gia ở Sài Gòn đã gửi lên Pleiku một món quà sinh nhật đắt giá : một chiếc đàn Piano hiệu Yamaha của Nhật trị giá một triệu đồng , tương đương với 40 lượng vàng. Thành ra nói Tướng Toàn tham nhũng, ăn hối lộ cũng đúng nhưng có ông Tướng nào dám tuyên bố không tham nhũng? Hay như Báo chí Sài Gòn có lần tố Bà Vợ của Tướng Có, Tướng Phú đánh bài Tứ Sắc bằng tiền cấp giấy phép cho thanh niên trốn quân dịch. Hay là để mua một chức Tỉnh Trưởng mà có 3 ông Đại Tá chạy 3 đường: đường Bà Tổng Thống Thiệu , đường Bà Thủ Tướng Khiêm , đường ông Tướng Cố vấn Đặng văn Quang… 5.- Dâm Ô – Trụy Lạc và Hiếp Dâm- Như đã nói ở phần đầu, ông Tướng có một thân xác cao lớn như người ngoại quốc, với một sức khỏe sung mãn của một người đàn ông 40 tuổi. Vì thế ông Tướng có một đời sống sinh lý sôi nổi, nên ở đâu ông Tướng cũng có tình nhân mà ta tạm gọi là Bồ Nhí. Bản doanh Sư Đoàn 2 đóng ở Quãng Ngãi hay ở Chu Lai thì vợ con ông vẫn ở Đà Nẵng, bản doanh Quân Đoàn 2 đóng ở Pleiku thì vợ con ông cứ ở Nha Trang, thậm chí bản doanh Quân Đoàn 3 đóng ở Biên Hòa thì vợ con ông vẫn ở Sài Gòn. Trước hết là vì ông Tướng muốn vợ con ông an toàn, xa vùng lửa đạn nhưng phần khác là ông Tướng muốn tự do tung hoành. Lên xe tăng thăm các đơn vị Tùng Thiết (Bộ Binh hành quân chung với Thiết Giáp Binh) đang đụng địch trong rừng, bay trên trực thăng chỉ huy mặt trận dưới đất, ngồi xe Jeep đi thăm các đơn vị dưỡng quân chờ bổ sung sau các trận chiến ác liệt, tôi kém ông 8 tuổi mà theo ông suốt ngày cũng mệt bở hơi tai, thế mà ông cứ phom phom, tỉnh bơ. Bước vào Tư Dinh là ông đã kêu Thượng Sĩ Lượng, Quản Gia lấy xe ra phố chở cô Ng, người tình “em Pleiku má đỏ môi hồng”, mà nếu cô Ng, bận thì Cô H, cô nữ sinh mơ ước được làm “người tình của Tướng Lãnh” như trong tiểu thuyết của nhà văn nữ Lệ Hằng, cũng được. Tuy nhiên, không thể vì ông Tướng có một đời sống tình dục mạnh và có vẻ dễ dãi như thế mà buộc ông vào cái tội hiếp dâm cô Lê thị Tiếc ở Quãng Ngãi. Theo như lời kể của nhiều sĩ quan ở SĐ 2 thời đó thì đây chỉ là một mưu mô, một đòn thù mà các phe nhóm và đảng phái thời đó dựng nên để hạ độc thủ ông Tướng hầu giành chức giành quyền mà thôi. Với chức quyền và tiền bạc ông Tướng được rất nhiều người đàn bà, nhiều người con gái sẵn sàng hiến thân với những mục đích khác nhau mà ông Tướng cũng không dám hoặc là không đáp ứng nổi. Có những cô sinh viên, ca sĩ , tài tử điện ảnh thích thú và tự nguyện làm người tình của Tướng Lãnh như tôi đã từng biết và thấy không cần thiết phải kể tên ra ở đây. Thế thì hơi sức đâu mà phải dùng võ lực để hiếp dâm một cô tiếp viên của Câu Lạc Bộ Phượng Hoàng đã qua tay không biết bao nhiêu người đàn ông mà một ai đó đã sắp xếp đưa ông Tướng vào bẫy sập. Những điều vu khống đó thiếu sức thuyết phục, tuy được quảng bá trên báo chí Sài Gòn thời đó nhưng ông Tướng vẫn bình chân như vại, Ông Tướng thường nói mình không làm thì có chi mà sợ hãi , cần chi mà phải cải chính. Và người ta càng bôi lọ thì con đường tiến thủ của ông Tướng càng ngày càng thẳng tắp, lên cao. Hơn nữa nếu quả thật có vụ hiếp dâm đó thì không một ai có thể đỡ đòn cho ông Tướng, kể cả Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu cũng không thể nào bịt miệng binh sĩ, dân chúng và luật pháp. Nếu có chuyện hiếp dâm đó thì ông Tướng đã bị đưa ra Tòa Án Binh, bị lột lon và bi cho vào tù it nhất cũng cả chục năm. Đằng này, từ Chuẩn Tướng thăng lên Thiếu Tướng và sau đó là Trung Tướng Chỉ huy những Đại Đơn Vị của QĐVNCH. 6.- Chân dung người Sĩ Quan can trường- Sau 3 năm ở Mỹ, năm 1994 tôi vào làm nhân viên xếp sách (Page) của Thư Viện Lake Hill thuộc thành phố Bellevue, tiểu bang Washington. Nhiệm vụ của tôi là xếp sách, trả lại chỗ cũ nơi cuốn sách đã được người đọc (Patron) lấy ra đọc rồi quẳng đâu đó trong thư viện. Hằng ngày nhìn các cô cậu sinh viên, học sinh đủ mọi dân tộc Đông Âu, Nga, Pháp, Tàu ,Việt, Somalia hay Congo nhưng nay đã là dân Mỹ, ngồi đọc sách hay đang mãi mê lướt trên máy vi tính hay ôm sách nằm ngủ ngon trên bàn học, trong ghế salon bằng da, hoặc ghế bọc nhung sang trọng, tôi cứ ước chi mình được trẻ lại và ôm sách đi học trên xứ sở tự do, giàu sang và thanh bình này thì hạnh phúc biết bao! Tôi thường lợi dụng thì giờ nhàn rỗi để đọc sách, tôi thích đọc các sách báo viết về chiến tranh Việt Nam và Hồi ký của các danh nhân trên thế giới. Tình cờ tôi đọc được một số báo rất thú vị viết về một vài Tướng lãnh miền Nam VN, trong đó có hình ảnh và bài báo viết về Tướng Toàn, sau khi đọc xong tôi đã chụp hình (photocopy) gửi về Cali cho ông Tướng. Bài báo viết về sự chọn lựa khó khăn nhân vật sẽ đảm nhận chức vụ Tư Lệnh QĐ II của Tổng Thống Thiệu vào mùa hè năm 1972. Cuộc tấn công đồng loạt và vô cùng dữ dội của Quân Đội Miền Bắc ở An Lộc, Kontum và Quảng Trị đã dồn Quân Đội Miền Nam vào một tình thế bị động, lúng túng. Riêng ở Cao Nguyên và toàn vùng 2 chiến thuật, tình thế rất nguy ngập, Đại tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB tử trận tại Tân Cảnh , tỉnh Kontum đã bị mất 3 quận phía Bắc, chỉ còn kiểm soát được 3 quận phía Nam, thành phố Kontum bị vây khổn, thành phố Pleiku cũng bị đe dọa tấn công. Trong khi đó tướng Ngô Du Tư Lệnh QĐ II không có bản lãnh và gan dạ của một tướng cầm quân ngoài chiến trường. Ông ta nhu nhược và nhút nhát đến nổi không dám lên Văn Phòng Tư Lệnh (Thành Pleime) làm việc vì sợ…..địch pháo kích, không dám bay trực thăng ra tiền tuyến vì sợ SA-7 (hỏa tiễn cầm tay của Liên Sô) bắn rơi. Trước tình thế nguy nan như vậy, Tổng Thống Thiệu muốn thay thế Tướng Ngô Du bằng một ông Tướng gan dạ, có tài cầm quân cũng như có khí phách để mong thổi một luồng sinh khí mới vào một đạo quân đã rã rời và kiệt sức vì cuộc chiến vô vọng và quá dài lâu, nhưng chưa tìm được người như mong muốn, vả lại không một ai muốn nhận cái gân gà khó nuốt đó cả. Sư Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến đang mắc kẹt ở địa đầu giới tuyến Trị Thiên, lãnh thổ Vùng 2 lại quá rộng lớn, vừa rừng núi vừa đồng bằng bao gồm 12 tỉnh và Đặc khu Cam Ranh. Để bảo vệ một vùng lãnh thổ rộng lớn như vậy mà QĐ Miền nam chỉ có 2 Sư Đoàn 22 BB và Sư Đoàn 23 BB chống đỡ cọng thêm một Lữ Đoàn Biệt Động Quân, một Lữ Đoàn Thiết Giáp, với các Tiểu đoàn Địa Phương Quân trang bị vũ khí thô sơ, tinh thần và khả năng chiến đấu kém. Thế mà phải đối đầu với 5 Sư Đoàn chính quy của Quân Đội Miền Bắc cùng các đơn vị xe tăng tối tân với vũ khí cũng như pháo binh vượt trội, đó là chưa kể du kích quân của các Tỉnh Đội, Huyện Đội, Xã Đội nữa. Cuộc chiến rõ ràng không cân sức, nhất là sau khi ký Hiệp Định Paris, Quân Miền Nam không còn được sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ, cùng sự hạn chế, thiếu thốn mọi mặt kể cả vũ khí, đạn dược, xăng dầu .v.v. Tổng Thống Thiệu bèn hỏi ý kiến của ông Đại Sứ (ĐS) Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam và yêu cầu ông Đại Sứ đề nghị một vị Tướng giữ chức Tư Lệnh QĐ II. Khi nghe ông ĐS tiến cử Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn thì Tổng Thống Thiệu dãy nảy lên: “Ông Đại Sứ! Không được đâu! Tướng Toàn là người mang nhiều tai tiếng, giao phó cho ông ta những chức vụ quan trọng sẽ bị các Tướng Lãnh và dân chúng phản đối.” Ông ĐS Martin chậm rãi giải bày: “Thưa Tổng Thống! Tôi không bào chữa hay tranh luận về những lời đồn đãi hư thực đối với Tướng Toàn. Tôi xin kể cho Tổng Thống nghe một câu chuyện vui về lịch sử nước tôi. Trong cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ từ năm 1861 đến năm 1864, Đại Tướng Grant Tổng Tư Lệnh Bắc Quân là một người nghiện rượu, Trong văn phòng hay ngoài mặt trận luôn luôn có chai rượu Whisky bên cạnh. Đó là một tật xấu mà một vị Tướng cầm quân không nên có , nhưng ông ta lại là một vị Tướng tài ba lỗi lạc. Cứ mỗi lần nghe tin chiến thắng là Tổng Thống Lincoln ra lệnh gửi ngay ra chiến trường một thùng rượu Whisky tưởng thưởng vị Tướng tài ba. Tôi nghĩ rằng, giờ đây Tổng Thống cũng cần nghe tin chiến thắng”. Năm tháng sau khi nhận chức, Thiếu Tướng Toàn đã được Tổng Thống Thiệu vinh thăng Trung Tướng tại Mặt Trận vì đã giải vây được thành phố Kontum và đã giữ được Vùng 2 khỏi áp lực nặng nề của QĐBV. Ông Tướng khi cần thiết, dù ngày hay đêm vẫn bay ra tận tuyến đầu, ngay tận chiến hào, đến bên cạnh người lính đang ghìm súng dưới chiến hào, hỏi han, căn dặn, động viên, hứa hẹn, trấn an và khích lệ người lính: “Em cố gắng lên nghe, Quân Đoàn và anh luôn ở bên cạnh các em , dành cho các em tất cả sự yểm trợ cần thiết“. Một đêm nọ, được tin Quận Kiến Đức thuộc tỉnh Quảng Đức đang bị vây hãm, ông gọi tôi cùng bay trực thăng ra ngay trận địa và ra lệnh trực thăng đáp ngay xuống quận lỵ, nơi đặt Bộ Chỉ huy Trung Đoàn 53 BB, trước sự ngỡ ngàng và lo sợ xen lẫn mừng vui của Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Võ Ân và các sĩ quan tham mưu. Trung Tá Ân tỏ vẻ lo là rất nguy hiểm, sợ rằng không bảo đảm an toàn cho ông Tướng Tư Lệnh Vùng. Sau khi đã liên lạc thẳng với các cấp chỉ huy ngoài tiền tuyến, ông Tướng lên trực thăng ra về trong sự thán phục và tin tưởng của tất cả sĩ quan và anh em binh sĩ. Trong đêm tối yên ắng, trực thăng bay qua vùng rừng núi bao la giữa Quảng Đức và Pleiku tưởng chừng như vô tận. Nhìn xuống bên dưới là một khoảng không gian đen kịt, thỉnh thoảng đó đây, bập bùng ánh lửa của một vài buôn Thượng cô đơn nào đó giữa rừng già. Tôi tựa lưng vào thân máy bay thiu thiu ngủ nhưng thỉnh thoảng chợt giật mình thức giấc vì lo sợ, nếu có một quả tên lửa cầm tay SA-7 nào đó ở dưới đất bắn lên thì không khỏi tan xác. SA-7 là một loại hỏa tiển nhỏ có thể cầm tay của Liên Sô sản xuất mà tin tình báo cho biết đã được sử dụng trên chiến trường cao nguyên từ mấy tháng nay. À mà thôi! ông Tướng đã không sợ thì mình chỉ là tép riu, sợ chi? Mãi miên man suy nghĩ rồi rơi vào cơn mộng mị cho đến khi trực thăng đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh QĐ tôi mới tỉnh giấc. Như thường lệ hằng đêm, ông Tướng có thói quen gọi điện thoại về Nha Trang hỏi thăm vợ con vào lúc 9 giờ tối, đêm nay về tới Tư Dinh lúc nửa đêm, ông Tướng vội vã cầm điện thoại hỏi thăm sức khỏe và giải thích sự chậm trể vì bận chuyến bay đêm. Khi bà vợ hỏi anh không sợ bị hỏa tiển địch bắn rơi hay sao, thì ông Tướng đã thành thực trả lời. Ai mà không sợ chết nhưng trách nhiệm và bổn phận của người chỉ huy mình phải chu toàn để lương tâm không cắn rứt. Giờ phút này đây , anh em binh sĩ, quan cũng như lính đang ôm súng, nằm dưới giao thông hào bên bìa rừng, xó núi mà minh lại ở nơi an toàn, trong chăn êm nệm ấm là điều không đúng, không phải rồi. Nếu mình không tỏ ra quan tâm tới họ, không chia sẻ phần nào nổi hiểm nguy với họ thì nói ai tin? làm sao chỉ huy? Những lời nói và suy nghĩ đó đủ để chứng tỏ tấm lòng và tư cách của người chỉ huy với người lính ở tuyến đầu. Tôi lại biết thêm sự gan dạ và ý thức trách nhiệm của ông Tướng khi nghe cựu Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, cựu Tư Lệnh Quân Đoàn I (năm 1970), một người đàn anh, tâm tình với ông Tướng trước quan tài đang còn mở nắp và ông Tướng đang thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu : “Anh Toàn nì! Tôi với anh không bà con, không quen biết trước, rứa mà anh với tôi, suốt cuộc đời quân ngũ như có nợ nần chi nhau. Ràng buộc nhau từ cấp Úy đến cấp Tá cho dến Cấp Tướng. Tôi có giúp anh và anh cũng nhiều lần giúp tôi. Từ trong đáy lòng, khi mô tôi cũng mến phục anh về sự thẳng thắn, bộc trực và nhất là sự can đảm gan dạ của anh trong suốt cuộc đời binh nghiệp. Nhớ năm 1955, hồi hai đứa mình còn trẻ, anh Thiếu Úy tôi Trung Úy, cùng nhau đem xe Thiết giáp đi đánh Bình Xuyên giữa thủ đô Sài Gòn. Một chiếc xe bị đứt xích vì trúng đạn địch, tôi ra lệnh anh cho lính lên sửa chữa hoặc cho kéo xe qua một bên đường để đoàn xe phía sau tiến lên. Giũa làn mưa đạn và tiếng súng nổ bốn phía , tôi chợt thấy một dáng người cao lớn đang đứng sổng lưng, hò hét chỉ huy toán lính kéo xe. Một phút sau , tôi mới nhận ra người ấy là anh. Tôi giận dữ la rầy anh sao coi thường sinh mạng của mình như vậy thì anh từ tốn trả lời, mình mà không làm gương thì thằng lính nào dám xông ra, dám hy sinh ! Hình ảnh và lời nói của anh đã ghi sâu trong lòng tôi từ bấy đến nay. Anh đã làm tròn nhiệm vụ của một con người khác thường: Người Lính. Thôi hãy yên nghĩ ! Tạm Biệt ! Hẹn găp lại….” Cũng cùng chung một nhận định với Tướng Lãm, Em tôi, Đại Úy Hồ Đăng Xứng, tốt nghiệp khóa 21 Sĩ Quan Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đã thường tâm sự với thân nhân và bạn bè rằng em tôi suốt đời mang ơn ông Tướng, cái ơn cứu tử. Năm 1966, khi ông Tướng là Tư Lệnh SĐ2 BB thì em tôi là Đại Đội Trưởng Đại Đội Trinh Sát 4 (ĐĐT/ĐĐTS) của Trung Đoàn 4 ở Quảng Ngãi. Trong một cuộc hành quân đơn độc ĐĐTS bị địch bao vây, đơn vị đã ra sưc chống trả, cuối cùng hết đạn, kêu cứu khắp nơi mà không có đơn vị nào cứu viện, đành chờ chết hoặc buông súng đầu hàng. Bỗng nhiên, từ trên trời cao, một chiếc trực thăng xuất hiện và đáp ngay xuống thửa ruộng bên rừng dừa mà ĐĐTS của em tôi đang bị bao vây, ông Tướng bước xuống, ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc đang hoạt động quanh vùng đó: “ Thẩm Quyền đang ở đây, dùng tất cả sức mạnh vào đón Thẩm Quyền”. Thế là chỉ trong phút chốc , các đơn vị đồng loạt tấn công rồi chẳng bao lâu các đơn vị đã bắt tay với nhau, chiến trường im tiếng súng. Cả ĐĐTS và em tôi thoát chết hay khỏi bị bắt làm hàng binh. Đúng là cái ơn cứu tử. 7.- Mỹ danh QUẾ TƯỚNG CÔNG- Cũng trong khoảng thời gian này, không hiểu vì lý do gì mà Nhật Báo Sống và sau này là Sóng Thần , Tuần báo Đời, tất cả đều ở trong hệ thống báo chí của phe nhóm nhà văn Chu Tử, xuất bản ở Sài Gòn đã cho đăng những bài báo nổ như tạc đạn, tố cáo Chuẩn Tướng Nguyễn văn Toàn tham ô nhũng lạm và gán thêm cho ông một mỹ danh : Quế Tướng Công. Nội dung những bài báo này tố cáo Tướng Toàn Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB đã tổ chức những cuộc hành quân vào rừng Trà My (Quảng Ngãi) lấy võ cây quế rồi dùng xe quân sự vận chuyển ra Đà Nẳng cho lên tàu xuất khẩu sang bán ở Hồng Kông. Quế là một đặc sản, một vị thuốc quý hiếm trong ngành đông y và cũng là một chất liệu quý hiếm dùng trong ngành mỹ phẩm. Những ai ngây thơ tin vào những bài báo có tính cách vu khống và mạ lỵ này là những người không biết chi về cơ cấu tổ chức của Quân Đội VNCH cả. Một ông Tướng địa phương làm sao có thể tự tung tự tác dùng quân đội để ăn cắp tài sản của Quốc gia, rồi đem bán bỏ tiền vào túi riêng mà không một ai ngăn chặn, trị tội và trong 21 năm tồn tại, Miền Nam là một xứ sở vô luật pháp hay sao ? Bất cứ dù là Hạ Sĩ Quan hay Sĩ Quan tốt nghiệp ở bất cứ quân trường nào cũng biết đến những danh từ nhu Bản Đồ Hành Quân – Hồ Sơn Trận Liệt, Tình Hình Địch và Bạn .v.v… Bất cứ một cuộc hành quân lớn nhỏ nào đều phải được báo cáo theo Hệ Thống Quân Giai từ dưới lên hoặc là do lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ thị từ trên xuống. Hằng ngày nơi đóng quân của các đơn vị Bạn và các hoạt động của các đơn vị Địch đều phải được báo cáo đầy đủ lên đến các cấp chỉ huy, mà các sĩ quan ở các Trung Tâm Hành Quân có bổn phận phải cập nhật ( update). Một Tiểu Đoàn hành quân, là do Trung Đoàn chỉ huy trực tiếp, Sư Đoàn có trách nhiệm báo cáo mọi diễn biến từng giờ, từng ngày cho Quân Đoàn, cho Bộ Tổng Tham Mưu và trong nhiều trường hợp Tổng Thống vị Tư Lệnh tối cao cần biết thì cũng được báo cáo rõ ràng. Đó là chưa kể đến các cơ quan tình báo dân sự và quân sự, các đơn vị quân đội Đồng Minh Hoa Kỳ, họ cũng cần biết để tránh đụng độ hoặc oanh tạc nhầm lẫn. Họ theo dõi rất sát các hoạt động của Quân Đội VNCH để cho Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn báo cáo thẳng về Tòa Bạch Ốc nữa. Nếu có một cuộc hành quân lấy quế xuất khẩu thì ông Tướng 1 sao Nguyễn văn Toàn không thể làm một mình để bỏ tiền vào túi riêng được, kể cả ông Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I, hay ông Tướng 4 sao Cao văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng cũng không có khả năng làm. Theo thiển ý, nếu chuyện lấy quế xuất khẩu là có thật thì chỉ có một người có quyền ra lệnh, người đó là Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và nhà văn – nhà báo Chu Tử nên đội cái mũ làm bằng võ cây quế này cho Quế Tổng Thống. Nhiều lần ông Tướng tâm sự với anh em thân cận (entourage) là việc gì mình không làm, lương tâm mình không cắn rứt thì không cần thanh minh thanh nga chi cả, không cần cải chính, sự thật muôn đời là sự thật. 8.-Đàn Anh- Đàn Em – Thuộc Cấp và người Huế – Tuy nắm trong tay những chức vụ quan trọng và đầy quyền uy nhưng Tướng Toàn luôn luôn giữ lễ với quý vị tướng lãnh đàn anh, thâm niên, lớn tuổi dù nay họ không còn chức còn quyền nữa. Được thông báo cựu Trung Tướng Trần văn Đôn nay là Nghi sĩ Quốc Hội lên Pleiku, ông Tướng ngoài việc ra lệnh lo liệu cho Cựu Tướng Đôn mọi tiện nghi, ông Tướng đích thân lái xe ra phi trường Cù Hanh đón niên trưởng, trân trọng và chân tình. Một lần tình cờ gặp nhau trong vũ trường Duy Tân Đà Lạt, trong cơn ngà ngà say và ỷ mình là đàn anh trong Quân Đội, Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính, đã giải ngũ, cũng là nghị sĩ Quốc Hội, đã buông ra những lời cớt nhả, không lịch sự cho lắm với ông Tướng đương kim Tư Lệnh Vùng. Tướng Toàn vẫn vui vẻ nói cười với Tướng Đính rất lịch sự, một thưa Trung Tướng hai Thưa Trung Tướng, trong khi chính mình đang tại chức và Tướng Đính không còn ở trong Quân Đội nữa. Đối với đàn em hay bạn bè mà là người Huế nữa thì ông Tướng tìm mọi cách nâng đỡ hết mình đôi lúc quá đà, phạm sai lầm như trường hợp 2 ông Tá mà tôi đã đơn cử phần trên. Đi họp ở Phủ Tổng Thống ở Sài Gòn, được biết ý của Tổng Thống Thiệu là sẽ thăng cấp cho các Tư Lệnh Sư Đoàn từ Đại Tá lên cấp Chuẩn Tướng. Tướng Toàn về Pleiku xin với Tổng Thống Thiệu cho Đại Tá Trần Văn Cẩm, Tham Mưu Trưởng của mình ra nắm SĐ 23 BB, để chỉ ít lâu sau là thăng cấp Chuẩn Tướng. Nhận thấy Đại Tá Lê Trung Tường , thâm niên quân vụ, mang cấp Đại Tá quá lâu, ông Tướng tìm cách giúp đỡ, 8 tháng sau khi nhậm chức Tư Lệnh SĐ 23 BB, Chuẩn Tướng Cẩm lại được Trung Tướng Toàn kéo về Văn Phòng Tham Mưu Trưởng, giữ chức vụ cũ và đưa Đại Tá Tường ra giữ chức Tư Lệnh SĐ 23 để hy vọng lên Chuẩn Tướng. Quả nhiên 5 tháng sau, Đại Tá Tường được vinh thăng Chuẩn Tướng. Cả hai ông Tướng này đều là người Huế. Tính tình Tướng Toàn rất bao dung, vui vẻ và cởi mở, nụ cười khanh khách sảng khoái nên không khí làm việc dù trong Văn Phòng Tư Lệnh hay ở Tư Dinh khi mô cũng nhẹ nhàng dễ thở, trừ những giây phút căng thẳng nặng nề vì tình hình chiến sự nghiêm trọng. Tướng Toàn thích ăn ngon nhưng không phải là dân nhậu, thỉnh thoảng cũng nhâm nhi một ly rượu chát đỏ của Pháp hay một cốc nhỏ whisky để thả hồn mơ mộng theo khói thuốc xì gà Cuba. Đặc biệt là ông Tướng rất hòa đồng với thuộc cấp, trong những lúc thư giản, anh em chúng tôi , Trung uý, Đại úy hay Trung Tá, Đại Tá chi cũng dược ông Tướng cho ngồi ăn chung, chơi chung, xoa mạt chượt, đánh Domino, xập xám chi cũng được cả. Ông Tướng quan niệm, có làm thì phải có chơi để cho con người được thăng bằng và ngoài giờ làm việc chúng ta bình đẳng. Có lần Đại Tướng Cao Văn Viên lên thăm Cao Nguyên, tôi được tháp tùng và nghe ông Tướng nói với Đại Tướng Viên: “Thưa Đại Tướng, tuy cả nước có lệnh cấm mở Khiêu Vũ Trường, nhưng tôi vừa xin với Tổng Thống, Pleiku được đặc cách có cái Câu Lạc Bộ Phượng Hoàng, để cho anh em binh sĩ, quan cũng như lính có chỗ xã hơi sau những ngày đối diện với chết chóc trong rừng sâu. Vui chơi đêm nay rồi ngày mai trở về đơn vị hăng say chiến đấu….và Tổng Thống đã chấp thuận”. Tướng Viên ậm ừ: “Ông cho thì cứ làm!” Ông Tướng hay đùa vui với thuộc cấp, có lần Chuẩn Tướng Phan Đình Niệm (cũng người Huế) , Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB ở Qui Nhơn bay lên họp Quân Đoàn. Ông Tướng mời ăn cơm trưa thì Tướng Niệm từ chối vì ăn chay trường. Tướng Toàn hỏi đùa: “Ăn chay rứa có mèo mở chi không ?” -“Dạ thưa không !” “Rứa anh có đánh bài không?, có hút thuốc không ?” – “-Dạ thưa không !” Ông Tướng cười ha hả: “ Rứa răng anh không đi tu mà lại đi lính?” Tướng Niệm ấp úng trả lời lí nhí nghe không rõ, mặt đỏ thẹn thùng như con gái. Trong hơn một ngàn ngày làm việc với ông, tôi nhận thấy ông Tướng đã dành nhiều cảm tình và nâng đỡ rất nhiều cho người đồng hương, nhưng nói thế cũng chưa đúng hẳn vì những người gần ông nhất, thân tín nhất lại là người xứ khác. Như Trung Tá Hồ văn Châu, Trưởng Phòng 4 QĐ, đã di theo ông Tướng từ khi còn Chuẩn Úy cho đến khi mang lon Trung Tá là người Hội An Quảng Nam. Đại Úy Đỗ Đức, Sĩ Quan Tùy Viên, người xách cặp cho ông Tướng ngay khi mới ra khỏi Trường Sĩ Quan Thủ Đức là người Tàu lai Chợ Lớn. Trung Tá Y sĩ Lý Ngọc Dưỡng, Chánh văn Phòng Tư Lệnh lại là một người Bắc gốc Nùng Mông Cáy. Ngoài chức vụ chính thức, ông này còn là y sĩ riêng chăm sóc sức khỏe cho ông Tướng. Ông này lại có tài viết diễn văn và ăn nói rất hay nên lại được lòng ông Tướng dù anh em không thích vì ông ta sống không thực lòng như lời nói. 9.- Lời Tạ Lỗi Muộn Màng- Sau khi bị người Mỹ ép ký Hiệp Định Paris ngày 27/1/1973, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu ra lệnh cho các Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật phải lên các đài phát thanh và truyền hình địa phương để giải thích cho Quân Cán Chính và dân chúng trong Vùng trách nhiệm hiểu tình thế nước nhà. Vì sao Miền Nam phải đặt bút ký vào Hiệp Định Paris? Vì sao từ lâu nay Tổng Thống nói 4 không mà nay đảo ngược hoàn toàn thành 4 có. Tướng Toàn gọi Bác Sĩ Dưỡng và giao cho ông ta soạn bài diễn văn cho ông Tướng đọc trên các đài truyền thanh và truyền hình Qui Nhơn, rồi sau đó sẽ phổ biến rộng rãi khắp 12 tỉnh Vùng 2 và Đặc Khu Cam Ranh. Khi ông Tướng được Bác Sĩ Dưỡng trình bản thảo bài diễn văn, ông Tướng gọi tôi vào phòng cùng nghe và góp ý. Sau một hồi nhập đề rồi lý giải quanh co, BS Dưỡng cao giọng kết luận : “ Lập Trường của Tổng Thống Thiệu là..…” , bỗng nghe tiếng đập bàn và ông Tướng la lớn: “Ê ! Ông BS có điên không? Trong 6 chữ quan trọng mà ông phạm đến 2 lỗi nặng nề !” Cả hai chúng tôi đều ngơ ngác vì chưa nhận ra lỗi chi thì ông Tướng đã phân tích: “Thứ nhất BS viết Lập Trường của Tổng Thống Thiệu, rứa thì Miền Nam còn có lập trường của ai nữa? của Thủ Tướng Khiêm của Tướng Toàn nữa hay răng? BS phải viết là Lập Trường của Chính Phủ Việt Nam Cọng Hòa mới chính xác, mới chứng tỏ sự vững chắc, sự nhất quán của Miền Nam chơ! Lỗi thứ hai là 3 chữ Tổng Thống Thiệu, đó là cách dùng, cách gọi xách mé của giới báo chí và đối lập (cũng như họ đã từng gọi là Tổng Thiệu…vv…), còn tui là thuộc cấp của ông ta, khi cần đề cập đến ông , tôi phải gọi đầy đủ tên họ và chức vụ một cách trang trọng là Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu mới đúng chơ !!! Nói tóm lạ, phải sửa câu văn trên là:” Lập Trường của Chính Phủ VNCH….” Thực là một phản ứng nhạy bén, thông minh và chính xác mà tôi không thể ngờ tới khiến tôi vô cùng cảm phục. Tôi thường nghĩ rằng, một người chỉ huy, một vị lãnh đạo ắt phải có một tài năng ưu việt nào đó, từ trường học, trường đời hay do thiên bẩm, hơn hẳn người khác mới có thể vượt lên cao, trên hẳn đám đông không ít người tài giỏi của đất nước chúng ta. Ông Tướng đã từ giả cõi trần ai tục lụy nhiêu khê này gần 10 năm rồi, tôi mới làm tròn được lời hứa năm xưa. Xin ông Tướng xem như là lời tạ lỗi muộn màng. Cầu mong ông Tướng mĩm cười yên nghĩ trên Đồi Hồng (Rose Hill) của thành phố Các Thiên Thần (Los Angeles) xinh đẹp của xứ Cờ Hoa Mỹ Quốc. Một thi sĩ Pháp đã viết câu thơ : “ Kẻ Lưu Đày ở đâu cũng cô đơn” (L’ exile’ partout est seul) nhưng tôi tin rằng ông Tướng dù lưu đày, dù biệt xứ cũng chẳng cô đơn. Quế Chi Hồ Đăng Định Nguồn: www.vietnamvanhien.net
|
|