|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 4:00:13 GMT 9
Danh nhân văn hóa – lịch sử : Trương Vĩnh Ký Trương Vĩnh Ký, còn có tên J.B. Trương Chánh Ký, hoặc Pétrus Ký, sinh ngày 06.12.1837 tại làng Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Lên năm tuổi, Vĩnh Ký bắt đầu học chữ Hán. Đến chín tuổi cha mất. Lúc này, có một nhà truyền giáo người Pháp, thường gọi là cha Long, thấy cậu bé Ký có trí thông minh nên đem về trường dòng ở Cái Nhum dạy học chữ Latin. Năm 12 tuổi, Trương theo cha Hòe (tức linh mục Belleveaux) sang học tại Trường Pinhalu ở Phnom Penh.
Năm 1851, Trương được trường này cấp học bổng sang học tại Chủng viện Pinang ở Indonesia - một trung tâm đào tạo linh mục cho các nước Đông Nam Á. Tại Tổng chủng viện Pinang, Trương Vĩnh Ký trong quá trình học tập đã tỏ ra "có khả năng thu nhận khác thường" hệ thống tư tưởng và các tri thức khoa học tự nhiên cũng như xã hội đương thời, đến nỗi ngay các nhân vật có tiếng tăm lúc ấy cũng phải ngạc nhiên và khen ngợi trí thông minh và trình độ "học vấn uyên bác" của ông… Ông cũng tỏ ra là một người có năng khiếu về ngôn ngữ học. Ngoài các sinh ngữ Pháp, Anh, Latin, Hy Lạp, Ấn Độ, Nhật, ông còn thông thạo cả tiếng Y Pha Nho, Trung Quốc, Mã Lai, Lào, Thái, Miến Điện.Trương Vĩnh Ký hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực văn hóa, ngoại trừ 8 tháng hoạt động ở Viện Cơ mật của triều đình Huế và 8 tháng làm phiên dịch trong phái đoàn Việt Nam sang Pháp.
Tháng 2.1859, quân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông được giám mục người Pháp Lefèbre chỉ định làm thông ngôn cho bộ chỉ huy "Đoàn quân chiếm đóng" ở Nam Kỳ. Tháng 6.1863, thực dân Pháp cử ông làm phiên dịch cho phái bộ "chuộc đất” của triều đình do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp. Trong chuyến đi này, ngoài nhiệm vụ thông ngôn được đảm nhận một cách xuất sắc, ông còn tiếp xúc với một số nhân vật cao cấp của chính quyền Pháp, gặp gỡ một số nhà văn nổi tiếng như Victor Hugo, Littré, Renan… đi thăm nhiều nơi ở Pháp và một số nước khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ai Cập, Italia và được Giáo hoàng La Mã tiếp. Trong hành trình kéo dài 8 tháng, cả đi lẫn về, Trương Vĩnh Ký có dịp sống gần gũi với hai vị quan đại thần Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ; đó không chỉ là hai vị quan đại thần, mà còn là những nhân vật đáng kính về tài đức. Trương Vĩnh Ký cũng có cơ hội đề hiểu rõ hơn về nội tình đất nước và đồng bào của mình. Chính trong hồi ký sau chuyến đi này, Trương đã viết: "Tôi trở về với tâm hồn sung sướng vô cùng". Có thể nói chuyến đi này đã góp phần định hướng những suy tư và hoạt động của ông tìm về văn hóa dân tộc một cách tích cực hơn.
Sau khi chiếm xong 6 tỉnh Nam Kỳ, các "Toàn quyền đô đốc” (Geuverneurs – Amiraux) đã sử dụng Trương Vĩnh Ký như một quan chức An Nam đầu tiên của chính quyền Pháp đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như: giáo sư Pháp văn Trường Thông ngôn (1866 – 1868 ), chủ bút tờ Gia Định báo (1868), Giám đốc trường Sư phạm kiêm thư ký Hội đồng thành phố Chợ Lớn (1872), giáo sư quốc văn và Hán văn cho người Pháp và Tây Ban Nha ở Trường Tham biện Hậu bổ (Collège des administrateurs stagiaires – 1874)… Tháng 2.1876, Trương Vĩnh Ký được Toàn quyền Paul Bert cử làm giám quan cố vấn cho vua Đồng Khánh ở Viện Cơ mật đến tháng 10.1876 thì trở về Sài Gòn. Sau cái chết đột ngột của Paul Bert (11.11.1886), Trương Vĩnh Ký không còn được trọng dụng như trước. Ông dùng thì giờ còn lại để đọc sách, báo, nghiên cứu, viết sách và dạy ở Trường Hậu bổ và Trường Thông ngôn.
Trong lĩnh vực văn hóa, Trương Vĩnh Ký đã chứng tỏ có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, không chỉ trong khoa học xã hội mà cả trong khoa học tự nhiên. Đặc biệt về hoạt động sưu tầm, biên khảo, phiên âm, phiên dịch, ông đạt những thành tựu đáng kể. Ông dịch sách chữ Hán, phiên ra chữ quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Gia huấn ca, Lục súc tranh công… biên soạn Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài v.v…Ông có một năng lực làm việc phi thường. Trong khoảng thời gian 40 năm (1858 - 1898), Trương Vĩnh Ký đã để lại cho đời 118 tác phẩm, bao gồm sách nghiên cứu, sưu tầm, dịch, phiên âm trong đó có hàng chục quyển sách viết bằng Pháp văn. Ở buổi đầu giao tiếp giữa hai nền văn hóa Tây phương và Đông phương tại Việt Nam, một sự nghiệp đồ sộ như thế quả là hiếm có. Trương Vĩnh Ký có chân trong hàng chục hội khoa học châu Âu, ở cuối thế kỷ XIX J.Bouchot, một học giả Pháp, gọi ông là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho chí ở nước Trung Hoa hiện đại nữa”(1).
Ở nước ta trước đây, một số nhà nghiên cứu đã đánh giá những cống hiến của ông khá cao. Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký trong 3 tiếng “Bác học, Tâm thuật, Khiêm tốn"(2) và, trong lời tựa cuốn Trương Vĩnh Ký của Lê Thanh, ông cho rằng họ Trương là "một nhà lập ngôn bất hủ… một tay cự phách trong văn học, đã nổi tiếng là một nhà sư phạm". Vũ Ngọc Phan, trong tập Nhà văn hiện đại đã viết: "Còn Trương Vĩnh Ký thì thiệt là một nhà bác học. Ông không những là một nhà văn, một nhà viết sử, một nhà dịch thuật mà còn là một người giỏi về ngôn ngữ". Mặt khác, cũng có nhiều ý kiến phê phán, buộc tội họ Trương là đã cộng tác với thực dân, phản lại Tổ quốc, như Lê Thanh trong quyển Trương Vĩnh Ký, Trần Huy Liệu trong Lịch sử 80 năm chống Pháp, Phạm Long Điền và Nguyễn Sinh Duy trong quyển Cuốn sổ bình sanh của Trương Vĩnh Ký…
Những ý kiến trái ngược nhau tùy thuộc vào chỗ đứng, cách nhìn và đánh giá khác nhau của từng người đối với nhân vật lịch sử này. Cũng cần thấy thêm rằng do bản thân cuộc đời hoạt động của Trương Vĩnh Ký có nhiều điều phức tạp và rắc rối. Con người giàu tài năng và có sức làm việc to lớn như thế, đến cuối đời đã rơi vào hoàn cảnh nghèo nàn, túng bấn. Về mặt tinh thần, lúc sinh thời ông cũng đã bộc lộ nhiều băn khoăn, khắc khoải. Hai câu cuối của Bài thơ tuyệt mệnh như muốn gửi gấm tâm sự cho người đời sau, khi phẩm bình về sự nghiệp của ông:
Cuốn sổ bình sanh công với tội Tìm nơi thẩm phán để thừa sai
Ông mất ngày 01.9.1898 tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi. Hiển nhiên, Trương Vĩnh Ký đã có những sai lầm về chính trị, mặc dù hoạt động chính trị của ông rất ngắn ngủi so với hoạt động văn hóa. Nhưng những hoạt động ở lĩnh vực thứ hai này lại không thể tách rời với tư tưởng chính trị khá nhất quán của ông là phục vụ trung thành nước Pháp, như ông đã hơn một lần thừa nhận. Tuy nhiên không vì vậy mà ta xếp ông vào hàng những tay sai bán nước như Tôn Thọ Tường, Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc, từ đó đi đến phủ nhận toàn bộ những cống hiến của ông đối với văn hóa của dân tộc. Đáng chú ý nhất là những đóng góp vào sự phát triển và phổ cập chữ quốc ngữ ở giai đoạn ban đầu, vào lịch sử phát triển báo chí, cũng như trong lĩnh vực văn học và ngôn ngữ học v.v…Những năm gần đây, trong bầu không khí tinh thần cởi mở, đường lối đổi mới, một số công trinh nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký được đăng tải trên các tạp chí, hoặc in thành sách, thể hiện một quan điểm lịch sử khách quan và rộng rãi hơn, một cách nhìn bình tĩnh và khoa học hơn!
- Theo Website Bến Tre
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 4:03:49 GMT 9
Thượng Tân Thị (1879-1966), giai tế đất Vĩnh Long Lê Tương Ứng Thi sĩ Thượng Tân Thị tên thật là Phan Quốc Quang. Ông sinh ngày 16 tháng 7 năm 1879 tại làng Lại Nông, gần kinh thành Huế, năm Tự Đức thứ 32.
Thân mẫu là Tôn nữ Nguyễn Thị Xuân. Ông được gia đình nuông chiều từ bé, nhưng điều đó không gây ảnh hưởng xấu đến tâm tánh và đường học vấn của ông.
Văn tài sớm có, nhưng năm 21 tuổi đi thi Hương bị hỏng vì phạm trường quy kỳ văn sách. Rồi thêm nỗi buồn mất mẹ, ông bỏ xứ vào Nam, bôn tẩu nhiều nơi, có dịp kết bạn văn thơ với người đồng thanh khí.
Biệt tự Hương Thanh của ông ít được nhắc đến; còn biệt hiệu Hoài Nam Tử nhất là hiệu Thượng Tân Thị thì báo giới và thi gia Nam, Trung, Bắc đều có lòng mến mộ.
Theo lời mẹ dặn, ông đến Vĩnh Long tìm được người dì thứ sáu, định cư tại Cái Muối (xã Bình Hòa Phước, tỉnh Vĩnh Long) và được dì lo cho việc hôn nhân. Bạn đời của ông là bà Trương Thị Phòng, người hiền thục tại địa phương, sanh năm Nhâm Ngọ 1882, sống với ông đến năm Ất Vị 1955, sanh được 7 người con. Kiến thức của bà cũng rất đáng kể, vì từng chịu khó lên tận Sài Gòn trọ học. Duyên nợ Trung - Nam quả là “Loan phụng hòa minh, Sắt cầm hảo hiệp”!
Sống gắn bó với Vĩnh Long, ông được Đốc học Lê Minh Thiệp mến tài tiến dẫn dạy chữ Nho ở các trường Chợ Lách, Nhơn Phú rồi trường Ba Kè quận Tam Bình là nơi hai ông bà lập nghiệp lâu dài. Ông cũng có dịp dạy tại trường Trung học tư thục Bassac ở Cần Thơ một thời gian ngắn. Giáo sư Trần Văn Khê và vài người khác còn nhắc đến “những chữ Thánh Hiền” ông đã
truyền cho...
Từ năm 1949 ông rời Tam Bình về thị xã Vĩnh Long an hưởng tuổi già nơi nhà người trưởng nữ là bà Phan Thị Cầu cho đến khi qua đời năm Bính Ngọ (1966) hưởng thọ 88 tuổi. Khi ông bịnh nặng, người con trai (thứ tư) làm bác sĩ ở Sài Gòn về đưa lên bịnh viện nhờ các đồng nghiệp tận tâm chữa trị, nhưng không sao thắng được lẽ vô thường của người cao tuổi! Ông thanh thản ra đi, được an táng tại Sài Gòn, giữa sự mến tiếc của thân nhân và bè bạn văn thơ.
Báo chí Sài Gòn bấy giờ có đăng bài tưởng niệm ông. Dưới đây là vài đoạn trích trong tờ Đuốc nhà Nam:
“Ngày 22 tháng 8 năm 1966: Thi hào Phan Quốc Quang đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, để lại một nỗi tiếc thương vô bờ bến trong làng thi nước Việt (...) Thi hào đất Nam Trung còn đâu nữa!
Văn giới chịu tang!
...
Thi hào Phan Quốc Quang trước hết là một nhà ái quốc (...)
Tác phẩm của tiên sinh
gồm có:
- Thập thủ liên hoàn Khuê phụ thán
- Văn tế Tổ quốc
- Văn tế Hai Bà Trưng
- Và nhiều đối liễn khác
Thơ của tiên sinh rất là thâm thúy, cảm động, chứa chan tình ái quốc.
Tiên sinh nổi danh nhất nhờ ở mười bài Khuê phụ thán...
Thập thủ liên hoàn Khuê phụ thán được sáng tác tại Ba Kè tháng 3 năm 1919. Ông mượn tâm sự và thay lời bà Nguyễn Hoàng Phi, thứ phi của vua Thành Thái và là Mẫu Hậu của vua Duy Tân, để nói lên tâm trạng thương nhà nhớ nước, đau xót niềm đau dân tộc, khi vua Thành Thái và vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion, (Phi Châu) năm 1907 và năm 1910. Qua mười bài này ông đã khéo diễn tả:
Nỗi buồn một gia đình ly tán:
“Chồng hỡi chồng! Con hỡi con!
Cùng nhau chia cách mấy năm tròn
Ven trời góc bể buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non”
Lòng hận non sông bị chiếm:
“Hỡi chồng có thấu nỗi này chăng?
Sóng gió khi không dậy đất bằng.
Non nước chia hai trời lộng lộng
Cha con riêng một biển giăng giăng”
Tâm trạng xót xa khó xử của người thất thế:
“Cang thường gánh nặng cả hai vai
Biết tỏ cùng ai, ai hỡi ai!
Để bụng chỉ e tằm đứt ruột
Hở môi thì sợ vách nghiêng tai”.
Điểm nổi bật nhất là sau khi Khuê phụ thán ra đời, thi gia Nam, Trung, Bắc sôi nổi, kẻ xướng người họa, tạo nên một luồng sinh khí mới trong cả nước.
Mười năm sau, năm 1929, thi sĩ Tố Phang, người Bạc Liêu cũng có “Thay lời vua Thành Thái họa lại mười bài Khuê phụ thán của Thượng Tân Thị” (xem Thành ngữ Điển tích, Diên Hương, in lần 3, trang 182 - 185).
Tuy không sánh bằng ông Thoại Ngọc Hầu (lấy bà Châu Thị Tế) người con rể đất Cù lao Giài, Vũng Liêm, Vĩnh Long, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang cũng xứng đáng là rể hiền đất Vĩnh vì có công trong việc giáo dục ở địa phương, lại có tài danh trong thi văn giới góp thêm phần vinh dự cho tỉnh nhà. Phần đóng góp trực tiếp cho quê vợ đáng kể là bản dịch bài ký khắc trong bia đá rất có giá trị, dựng uy nghi tại Văn Thánh Miếu Vĩnh Long từ 1966 đến nay. Nhờ có bản dịch này, đăng trong Đại Việt Tạp chí của Hồ Biểu Chánh (số 5 ngày 1 tháng 12 năm 1942), người sau và du khách đến Vĩnh Long có thể biết được việc xây dựng Văn Thánh Miếu cũng như lịch sử văn học và giáo dục tỉnh nhà thời xưa.
Ông từng cộng tác với các báo: Đuốc nhà Nam, Đại Việt tạp chí, Nam Kỳ tuần báo... và là bạn thanh khí của các ông Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng, Hồ Biểu Chánh, Diệp Văn Kỳ. Bản thân ông là một tấm gương sống cho con cháu và hàng xóm. Cách xử sự rất ôn hòa, dạy con cháu bằng tình cảm đậm đà chớ không nghiêm khắc như phần nhiều các cụ nho khác. Ông sống giản dị, điều độ, không uống rượu, chỉ dùng trà với thuốc lào một cách chừng mực; nhờ thế mà tuổi thọ được cao.
Các con trai ông, có người từng phục vụ trong Tiểu đoàn 307 rồi sang ngành Tư pháp trước khi về hưu; có người công tác trong UBND...
Di cảo không nhiều. Ông chỉ để lại một vài bài thơ, thể song thất lục bát, có thể phân làm hai loại rõ rệt:
- Loại hoài cổ: Cụ Lương Khê, Lũy Thầy.
- Loại thời sự 1945 - 1950: Ô-bít thụt, Tết năm Kỷ Sửu 1950.
Trong bài sau cùng, ông nêu cao thành tích của dân quân Tam Bình qua mấy câu trích:
“... Chắc là bỏ cái Tết này
Chờ ngày độc lập vui vầyTết sau
Trong quân đội ai đâu giỏi quá
Súng F.M. bắn hạ máy bay
Trên cao rớt xuống loay quay...”
Bài này tập hợp tư liệu riêng và những gì còn giữ và biết được của chị Duy Châu Nguyễn Thị Trinh, cháu ngoại của Thi sĩ Thượng Tân Thị. Hy vọng có nhiều dịp bổ sung, đính chánh trong tương lai .
Văn Thánh Miếu Vĩnh Long,
ngày 20-8-2004
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:43:59 GMT 9
TỪ NỖI ÁM-ẢNH TỔ-TÔNG ĐẾN PHONG-TRÀO DÂN-CHỦ KHÔI-PHỤC VĂN-HOÁ DÂN-TỘC
Nguyên-Thái NguyễnVăn-Thắng, Who’s Who of American Inventors Viện-Trưởng Sáng-lập Viện KIANO Văn-Hoá Việt
Với chủ-đề “Từ nỗi ám-ảnh Tổ-Tông đến Phong-trào Dân-Chủ khôi-phục Văn-Hoá Dân-Tộc”, chúng tôi xin được phát-biểu qua 2 phần:
_ Phần đầu, chúng tôi xin được công-bố một thành-quả nhỏ nhằm "Xác-quyết về một khiá-cạnh Văn-Hoá Việt”. Đem Truyền-Thống Văn-Hóa Găy-Thần và Sách-Ưóc giải-phóng Dân-Tộc khỏi những xâm-thực cuả các Ý-thức-hệ ngoại-lai.
_ Phần kế tiếp, chúng tôi xin nói đến những vướng mắc làm cho Cộng-Sản Việt-Nam đã không thể thành-công qua 10 năm đổi mới, và những gì đã cản-trở các đoàn thể chính-trị trong, ngoài nước trên bước đường giải-trừ quốc nạn hiện nay.
Đồng Bánh-Chưng là phẩm-vật không thể thiếu trong dịp Tết cuả dân Việt. Trước năm 1988, khi còn ở Việt-Nam, cứ mỗi lần Tết đến, chúng tôi lãnh nhiệm-vụ nấu và vớt Bánh-Chưng nên hình ảnh Đồng Bánh-Chưng đã in đậm nét trong trí óc tôi. Nơi xứ lạ Hoa-Kỳ, ngày Tết Việt-Nam với tuyết rơi giá lạnh; đành rằng cũng có Bánh-Chưng đãy, nhưng không-khí Tết thì vắng hẳn. Muốn chìm vào hương vị Tết một tí, chỉ có cách đọc sách báo nói về Phong-tục Tết Việt-Nam; buồn một nỗi, có những báo Xuân nói về ngày Tết lại quên cả 2 chữ Bánh-Chưng; nói gì đến Bánh-Chưng 4 lạt!
Câu chuyện Bánh-Chưng Bánh-Dầy đã làm tôi chú ý thật nhiều. Cũng một câu chuyện mà có sách thì để tưạ là Bánh-Dày Bánh-Chưng, có sách lại để là Người Con Hiếu Thảo; hình vẽ Đồng Bánh-Chưng thì thường chỉ vẽ 2 lạt ngang dọc cho tiện. Riêng tôi, tôi nhớ đến những Đồng Bánh-Chưng lớn do cụ thân-sinh ra tôi gói, Bánh lớn và vuông vức, mỗi bề đẫy một gang-tay người lớn. Bánh lớn như vậy, phải buộc bằng 4 dây lạt; đó chính là hình ma-phương 9 ô (3x3=9). Ma phương 9 ô này đều được dân các nước Ả-Rập, Do-Thái, Âu, Mỹ, Phi, Á, Ấn coi trọng bởi vì nó chứa đựng các chữ biểu-tượng đấng Thượng-Đế của Tôn-Giáo họ, nó chính là Thập-Tự-Nhai hay Chữ-Vạn mà người ta quen gọi là những Linh-phù. Hình 9 ô của Đồng Bánh-Chưng Việt-Nam chứng-tỏ Nòi Việt cũng tôn-trọng hình ma-phương 9 ô này; đó chính là mẫu-số-chung cuả Văn-Minh Nhân-loại.
Đọc cuốn sách nói về nước Nhật có tựa đề “The whole Japan book”, trang 106, mục “Games” nói về Trò-chơi ở trong nhà, tác-giả nêu ra 3 loại trò-chơi thì cả 3 đều xuất-phát từ Trung-Hoa. Trước kia, đã có lần tôi được nghe vaì vị lớn tuổi nói với nhau là Việt-Nam ta có Cờ Vây; thật ra, theo sách "Games Ancient and Oriental and how to play them" cuả Edward Falkener thì đây là loại "The game of enclosing", tên Trung-Hoa là WEI-KI, khi truyền sang Nhật có tên là Cờ GO; thế mà từ đã lâu, tại Tokyo có viện Academy of Go.
Tự ái dân-tộc nổi lên, Tôi muốn làm một trò-chơi cho người Việt ta. Tôi được gợi hứng bằng câu chuyện Vua Hùng truyền ngôi cho người con thứ là Lang Liêu. Qua câu chuyện, tôi khẳng-định rằng Đồng Bánh-Chưng đó phải lớn; lớn mà gói “bộ” được (không dùng khuôn) thì mặt vuông cuả Bánh phải có cạnh bằng chừng 1 gang-tay, và phải buộc bằng 4 dây lạt. Thế là tôi dựa vaò hình vuông với 9 ô-vuông nhỏ này để chế-tạo trò-chơi. Chập hình ảnh cân-xứng cuả khuôn mặt con-người trên hình 9 ô-vuông và bắt đầu định-vị các biểu-tượng-tròn cuà 2 mắt, 1 mũi, 1 miệng trên đó, tôi có một quân vuông đầu tiên với trục đói-xứng-dọc. Nhận thấy quân trò-chơi mà vuông thì không đẹp và lại khó cầm; tôi gấp đôi hình vuông này theo chiều dọc là được một quân hình chữ-nhật với 18 ô-vuông, gồm 6 tầng, mỗi tầng 3 ô. Theo nguyên-tắc: Tầng nào có 1 khoanh-tròn thì khoanh-tròn này nằm ở ô giữa; tầng naò có 2 khoanh-tròn thì chia ra nằm ở 2 ô hai bên, đói-xứng nhau qua trục đói-xứng dọc. Cứ xếp-đặt như vậy trên những hình 18 ô vuông, tôi được 36 quân hoàn-toàn khác nhau. Kiểm-điểm các hình phối-trí trên nửa vuông cuả một quân, tôi thấy tựu-trung chúng chỉ có 8 hình chính. Tôi giật-mình, phải chăng đây là "8 Quái"? Suy nghĩ về cách chơi, chẳng lẽ lại bắt-chước các trò-chơi cũ: giống nhau kết với nhau? Tôi quyết-định cách-chơi là: Khác nhau kết-hợp với nhau! Cũng vì vậy tôi nhớ ngay đến một câu tục-ngữ “Ông đưa cuả kia, Bà chià cuả nọ" cùng với baì học triết-lý tối cổ cuả Cha Ông: "Có đi có lại mới toại lòng nhau" mà đặt tên trò-chơi là KIANO (viết hoa và ghép 2 chữ kia nọ với nhau!). Khi chơi cấp 3, là kết-hợp 3 tầng tương-ứng giữa 2 quân, ta lại tổng-hợp được 9 khoanh-tròn; là thể-hiện câu "Cửu cửu Càn Khôn dĩ định” cuả Đức Trạng-Trình Nguyễn Bỉnh-Khiêm nữa. Thế là tôi không ngần-ngại gì, thành-lập ngay "Viện KIANO Văn-Hoá Việt".
Với sự phát-kiến này, tôi đi đến kết-luận: Đồng Bánh-Chưng qúi ngay ở hình 9 ô do 4 lạt buộc bên ngoài. Khi dân ta cúng bằng Bánh-Chưng cũng chính là dân ta coi trọng (thờ) Đồng Bánh-Chưng vậy (cũng là thờ 8 quái, nhưng 8 quái cuả VIỆT DICH). Từ đó chúng tôi đã tuyên-cáo: Đồng Bánh-Chưng buộc bằng 4 lạt chính là hình chứa đựng 8 QUÁI, kết-cấu bằng những "nút" theo kiểu "kết thằng" như trong Hà-Đồ Lạc-Thư, đó cũng là khởi điểm Văn-Minh Triết-Dịch Nông-nghiệp cuả Nòi Việt. Đó là SÁCH ƯỚC!
Về Gậy-Thần.-
Thích thú từ câu chuyện Đồng Bánh-Chưng và Bánh-Dày, tôi đọc những bài viết về Đức Thánh-Gióng của một số tác-giả, thường thì họ tránh nói đến "ngựa phun lửa cháy làng" vì họ không biết khi cháy làng dân ta cũng chết lây thì làm sao, họ viết "ngựa phun lửa cháy rừng" cho yên chuyện. Họ đâu biết rằng khi nói Thánh "nhổ tre" có nghiã là khi Ngài đánh đuổi, giặc Ân phương Bắc chạy vào làng xóm và ẩn-núp trong dân (chưa nói đến do âm-mưu đồng-hoá và chủ-trương thu-nhặt và thiêu-hủy sách vở cuã người Việt, giặc đã đột nhập và ở trong nhà dân làng từ trước), lúc Ngựa cuả Thánh phun lửa cháy làng thì hẳn là giặc chết mà dân ta cũng chết lây. Ngay lúc đó Thánh nhổ tre và chú-nguyện, an 8 quái Việt Dịch vào, để cây tre trở thành GẬY THẦN; Ngài quét nhẹ đầu SINH ở phiá ngọn tre vaò người dân để cứu SỐNG họ (kiếm hay roi sắt không hề gẫy nhưng không còn đắc dụng nữa, Ngài quăng đi mà thôi). Dân làng sống lại, họ thấy một người cao lớn dùng cây tre (có những gióng) cứu họ, họ tuyên-xưng là THÁNH GIÓNG; và rồi 2 chữ thân thương này trở thành tên vị cứu-tinh, tên làng cuả Thánh trở thành Làng Gióng từ đó. Ấy vậy mà cũng có tác-giả thiếu hiểu biết, họ không nói đến chuyện Thánh Gióng nhổ tre, lại còn đặt tên truyện một cách ngớ-ngẩn là "Thiên Tướng Ngựa Sắt" nữa.
Sau khi dẹp yên giặc và cứu sống dân xong, Đức Thánh Gióng quăng tre lại và phi ngựa lên núi Sóc-Sơn mà Hóa. Có như thế mới diễn-tả được đúng và đầy-đủ ĐỨC ĐÔ CUẢ THÁNH NÒI VIỆT: Cứu đời một độ rồi mới đi vào tịch tĩnh, đó là Đạo Tiên vậy.
Theo sách "Nam Hải Dị Nhân” cuả Phan Kế Bính, Găy-Thần được mô-tả:
“Găy-Thần 9 đốt, hai đầu SINH TỬ; đốt giữa để chuyển-hoá”
Lại cũng may-mắn, tôi đọc được trong cuốn thơ “Đạo Trường Ngâm” cuả Lý Đông A :
“Gậy-Thần đốt trúc có hai đầu”.
Và "Để lại tàng cơ làm pháp-vật".
Với hai chỉ dấu trên đây và 8 hình-kỳ-diệu mà Đồng Bánh-Chưng gói-ghém, chúng tôi đã khôi-phục lại được hình ảnh Cây Găy-Thần, đã bị thất-truyền từ mấy ngàn năm.
SÁCH-ƯỚC và GẬY-THẦN là 2 BAÚ-VẬT CUẢ NÒI VIỆT, như mọi người đã được nghe noi nhiều lần.
Tổ-Tiên ta đã vận-dụng Sách-ước và Găy-Thần trong tâm-nguyện "Cùu Quốc Tồn-Chủng" để chúng ta còn CÓ đến ngày nay. Tìm lại Găy-Thần và Sách-Ước là niềm thao-thức cuả Dân-Tộc, đó cũng chính là "NỖI ÁM-ẢNH TỔ-TÔNG": Đòi lại ĐẤT-TỔ, đòi lại VĂN-TỔ !
Bây giờ đến phần thứ hai, chúng tôi xin nói về:
Những vướng mắc đã làm cho C.S.V.N.vẫn thất-bại sau 10 năm gọi là "đổi mới":
Như từ xa xưa, ít nhất là sau khi 1 triệu người miền Bắc di-cư vào miền Nam năm 1954, ai ai cũng đều nghe noí “Cộng-Sản tam vô”. Tam vô đó là: Vô Gia-Đình, vô Tổ-Quốc, vô Tôn-Giaó; laị thêm vaò khẩu-hiệu "Quốc-Tế Vô-Sản" nữa. Ngay trong thời-kỳ còn mạo-nhận là "kháng chiến", người Cộng-Sản cũng đã hô-hào "Tiêu thổ kháng-chiến" nhằm hủy-hoại những truyền-thống Văn-Hoá cuả Cha Ông, chẳng khác nào chủ-trương Hán-hoá cuả vua quan nước Tàu ngày xưa. Càng về sau, chúng ta càng thấy rõ CSVN muốn biến xã-hội Việt-Nam thành xã-hội loài vật. May thay, tiềm thức Dân-Tộc vẫn sống còn, cho dù CS trăm mưu ngàn kế muốn lôi kéo Dân-Tộc theo hướng đó, vẫn có những luồng sóng đáy thản hoặc bùng lên để làm cho CS thất-bại. Hồn-Sử-Việt đã không cho Việt-Cộng rảnh tay để thực-hiện kế-hoạch đem Dân-Tộc làm nô-lệ tuyệt-đói cho CS Quốc-Tế. Những sóng-đáy-tầng đó dâng lên từ ngay chính những cuộc đãu-tố trong đợt Cải-Cách ruộng đất, ở khởi-nghĩa Quỳnh-Lưu, ở Nhân Văn Giai-phẩm, ở những phong-trào mà VC gọi là Những Vụ Án Xét Lại và V. V . . . Chính vì những tác-động cuả Hồn-Sử đó mà một mặt CS Quốc-Tế không dám sấn-sổ nhảy vào, và mặt khác, CSVN chưa thi-hành được hết những thủ-đoạn gian-manh cuả họ đói với cả Dân-Tộc. Chúng tôi dùng chữ “cả Dân-Tộc” ở đây có nghiã là những người dân Việt hiền-lành, chất-phác đã thấm-nhuần qua nhiều đời những Truyền-thống Văn-Hoá, những giá-trị tâm-linh mà 18 triều Hùng-Vương đã truyền lại, những sức gốc cuả Cây Văn-Hiến; nơi đã dung-hoá nổi 3 luồng tư-tưởng Phật Lão Khổng từ các thời Đinh Lê Lý Trần Lê Nguyễn trước đây.
Cộng-Sản, Thực-dân và Ngoại-bang cũng đã và sẽ đều thất-bại trên đất nước Việt-Nam hình chữ S. Đó chính là hình Thái-Cực (bao-hàm nghiã ỏ trung-tâmõ) hay là Hình Lực Chuyển Động cuả Thiên-Thể, Thiên-Hà trong vũ-trụ. Những gì trái với Thiên-Điạ-Nhân, trái với đức Hiếu-sinh cuả Trời Đất, làm hại đến Con-Người Cửu Khiếu “Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định” thì sớm muộn gì cũng phải bị tiêu-diệt.
Chính-nghiã Dân-Tộc ở đâu?
Những Hịch Cần-Vương, những Biểu chém nịnh-thần, những lời cuả Hưng-Đạo-Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn-Trãi, những lời đanh thép cuả Con Dân Việt trước quốc-biến... Những gương Nguyễn-Thaí-Học, Trương-Tử-Anh, Phan-Bội-Châu, Huỳnh Phú-Sổ ... và gần đây hơn, những Hà-Ngọc-Lương, Nguyễn-Khoa-Nam, Lê-Nguyên-Vỹ v.v... đã là những chất-liệu tưới-tẩm cho Cây Văn-Hiến Việt, nếu chưa phát-triển được lên cao thì cũng làm chắc gốc bền rễ chờ một ngày nảy cành xanh ngọn mà đơm hoa kết quả. Đơn cử, vào những năm 44, 45, những người yêu nước chống cả Cộng-Sản và Thực-Dân bị chúng triệt hạ như thế nào. Những người khác ở thế yếu, không đương cự nổi khi Thực và Cộng kết bè, đành phải chạy sang Tàu. Ở làng xóm, có những tên cầm đàu Ban Tư-Pháp Khu dẫn đám du-kích cầm theo những que sắt đến xuyên vào các cót thóc trong nhà người ta mà tìm kiếm. Tâng công vơí CS đến thế mà rồi 1954 cũng phải bỏ CS, trốn theo người Di-Cư (ông ta có người anh theo Đệ-Tứ cũng đã bị Đệ-Tam CS giết hại rồi). Có những người, dù đã bị CS ra lệnh bắt, đám du-kích áp-tải vẫn thay nhau cõng qua những vũng lội; bởi vì, dù có làm việc dưới sự giám-sát cuả người Pháp, họ vẫn cư-xử vơí đói-phương bị lầm đường lạc lối, nhưng cũng là dân Việt, như thế nào.
Người Việt chúng ta là người luôn có thâm tình cố kết với làng xóm quê-hương. Ấy vậy mà năm 1954 đã có hơn triệu người phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Thế thì thử hỏi chính nghiã ở đâu?
Cuộc chiến Quốc Cộng keó dài, hết Mău-Thân 68 đến Muà Hè Đỏ Lửa 72, Việt-Cộng và bè lũ đến đâu là ngườI dân ghê tởm đến đó. Thế mà Miền Nam phải thi hành Hiệp-Định Paris mơí là lạ! Để đến 1975, Miền Bắc Cộng-Sản tiến quân chiếm Miền Nam như vaò chỗ không người. Tại đây, CSVN lại muốn áp-dụng cảnh đãu-tố ở Miền Bắc khi trước đói vơí dân Miền Nam. Lúc đó, một phen những người Miền Nam học cách ứng-phó theo người Bắc Di-Cư. Thế rồi CS bắt hàng triệu Quân Cán Chính miền Nam đi tù, mà họ gọi là "Học Tập Cải Tạo". Tôi từng noí vơí những người bà con từ miền Bắc vào: "Bắn giết thì đổ máu, bắt đi để đầy-đoạ cho đổ mồ-hôi sôi nước mắt, cho chết dần chết mòn, mồ-hôi qui ra máu thì cũng vậy mà thôi!". Thực-tế CS còn chủ-trương giết ngươì trong trại "cải-tạo" nữa.
Cũng vì bị chiếm đoạt mọi thứ một cách tức tủi như vậy, có một thành phần dân trong miền Nam (những người ở ngoài chính quyền cũ), do bị tuyên-truyền , bực-bội với chế-độ cũ, huà theo CS mà giở trò 30 đi bịp-bợm. Tuy vậy , vẫn còn những người tỉnh-táo, có thể họ cũng chẳng ưa gì chế-độ cũ nặng về ngoại-lai vong-bản, họ có được những kinh-nghiệm Đảng-phaí Dân-Tộc cuả Cha, cuả Ông. Nhũng người này còn triệt-để tin-tưởng vào tương-lai Dân-Tộc nên dù trong hoàn-cảnh nào, họ vẫn cố-gắng giữ-gìn nhân-cách; từ đó, họ tìm mọi cách không để cho xã-hội băng-hoại, điều mà CSVN luôn chủ-trương. Những người vô-danh đó, họ phản bác lại những tuyên-truyền cuả Cộng-Sản, cho dù có phải mất lòng ngay cả bạn bè mình. Họ vẫn ngang nhiên mắng những người bạn có tư-tưởng chủ bại, để rồi sau đó có phải “Dập đàu tạ tội” cũng đành. Họ giải-thích rằng “Việt-Cộng chỉ ăn tàn phá hại, có phải băng bó cho ai, có phải xây lại nhà cưả cho ai đâu” và "CS chiếm các nước khác bằng tiền pháo hậu xung, chúng chiếm Miền Nam, chiếm Sài-Gòn đâu có như vậy!” để đối lại tư-tưởng chủ bại “Thế là CS muôn năm rồi, các sách vở cũ mới, tiếng Anh, tiếng Pháp đều viết như thế!”. Khi VC dồn dân đi “Kinh tế mới” (để chúng dễ cướp cuả, y như chúng từng hô-hào "Tiêu thổ kháng chiến" trước kia) thì bọn vô-lại lại phụ-họa thêm "Chồng các bà đi học-tập mút muà, thôi đem tiền làm ăn vơí tôi đi, vượt biển với tôi đi . v . v .”, làm băng-hoại xã-hội, y như CS muốn. May thay, vẫn còn những kẻ, trước mặt là một cọc vàng, bên cạnh lại là người đẹp khẩn-khoản yêu-cầu "Ông có kỹ-thuật, tiền đây, mở công-ty làm kinh-tế 3 thành phần đi, kẻo chúng tôi bị đi kinh-tế-mới!”. Người đói-diện trả lời ngay “Đừng nge những kẻ thối mồm nói là chồng các bà đi học-tập mút muà mà huà theo nó; còn về việc làm ăn, tôi có chủ tâm lừa các bà tôi mới tổ-chức công-ty này công-ty nọ. Thời buổi này không làm gì được đâu; cố gắng dành-dụm, bán mớ rau mớ cỏ nuôi con chờ chồng thôi!”. Có phải đó là những “Anh-minh đuốc-tuệ đâu là xác thân” không? Có phải đó là Hồn Dân-Tộc không? Lúc này, cũng có những bậc tu hành, không vướng mắc vòng "học tập", đem đạo lý khuyên răn ngươì đời.
Cũng do Hồn Dân-Tộc thôi-thúc mà người ta không chủ bại, không buông xuôi, để mà nhận xét được rằng “Năm 1975 là đỉnh cao giả-tưởng cuả chế-độ Cộng-Sản (Quốc-Tế) tại Việt-Nam. Sau khi Miền Nam Việt-Nam được bỏ ngỏ, tuyệt đại đa số các Trung-Ương Uỷ-Viên (mà trước kia không được đi đâu, không được thấy gì) cuả các nước "Cộng-Sản Tiên-tiến (kể cả Liên-Xô) đều được “cho phép” đến Sài-Gòn; họ đều té ngửa vì nay mơí nhìn thấy và biết sự thật. Sự thật được phơi bầy, để có thể tạm so-sánh giữa 2 xã-hội, xã-hội "bị thống-trị và kềm kẹp" ở Miền Nam Việt-Nam và "Xã-Hội Dân-Chủ Nhân-Dân" ở các nước Cộng-Sản Đông-Âu. Thêm vào những đợt vượt biển bằng ghe nhỏ, những đợt vượt biên bằng chân đất và những thảm-trạng chết chóc cuả người dân Việt cả Nam lẫn Bắc trên đường vượt-thoát đó đã làm CS Quốc-Tế tan rã"
Đấy mới chính là sự hy-sinh, đóng-góp xương máu cuả Dân-Tộc Việt-Nam cho chính-nghiã Tự-Do mà bấy lâu nay những kẻ có phương-tiện khoa môi muá mỏ đã không biết rõ (vì họ còn thiếu tinh-thần Dân-Tộc), họ chỉ một mực theo đuôi, cho rằng “CS Quốc-Tế sụp-đổ ngay tại cái nôi cuả nó vì . . . “, họ đâu biết rằng do xương máu , đau-khổ cuả Dân-Tộc Việt-Nam!
Tóm laị, chính là những xương máu và mồ-hôi nước-mắt cuả Dân Việt đã làm sống lại Hồn Sử Việt, để CSVN không thể thành-công gì được nếu họ vẫn còn bám víu vào một chút Ý-Thức-Hệ Cộng-Sản không-tưởng.
Những lý-do khiến các Lực-Lượng Quốc-Gia "Dân-Tộc", trong cũng như ngoài, chưa thành công:
Ta phải kể ngay đến những kẻ vinh-thân phì-gia và chủ bại chạy trốn trong giai-đoạn 1975, rồi nhũng kẻ chỉ muốn thụ-hưởng, trước đây và sau này, họ đã từng phá-hoại tinh-thần Dân-Tộc. Một số những kẻ, khi đến được bến bờ Tự-Do (qua chặng đường đói khát, cướp bóc . . . , chết chóc) coi như mình”đã chết rồi”, họ bất cần đời. Những người như vậy, ở trong thì phản-bội người Quốc-Gia trong, ra ngoài thì cũng với quan-niệm "Thế là CS muôn năm rồi, còn mong gì gặp lại chồng vợ hay bạn bè nữa!", họ buông thả theo vật-tính (mà xã-hội Tây-phương dễ nẩy nở nhiều hơn) làm tan rã nền tảng gia-đình vốn đậm tính Văn-Hoá Việt-Nam. Ảnh-hưởng xấu từ những con người như thế, dần dà đa phần cộng-đồng hải-ngoại ham-chuộng Văn-nghệ thôi chớ không cần mấy đến Văn-Hoá và Tôn-Giáo. Cũng vơí Tinh-thần “Văn-nghệ” đó, người ta không cẩn-trọng trong nhiều sinh-hoạt lẽ ra cần cẩn-trọng; họ hời-hợt trong suy-tưởng, bơỉ vì "Không xong thì cũng có chết thằng Tây nào đâu!”(Boi vi le ra ho da chet roi kia ma). Trong các sinh-hoạt Văn-Hoá cũng như chính-trị, nếu có bầu-cử, người ta chỉ bầu theo lối “giơ tay” (huà theo), rõ ràng là sống ở xứ tự-do nhưng làm gì có tự-do. Tất cả những sinh-hoạt như thế được lập đi lập lại, từ buổi hội nhỏ đến buổi hội lớn, thì làm thế nào có tổ-chức có thực-lực và có người có thực-tài lãnh-đạo được. Bệnh lạm-phát lãnh-tụ là ở đó! keó theo những thờ-ơ và thất-bại.
Do những sinh-hoạt kiểu đó, đa phần tùy hứng mà mọc ra đoàn này thể nọ; những người "lãnh-đạo”đó, họ không biết đâu là sức-gốc, cái gì là Văn-Hoá, thế nào là Dân-Tộc. Trong xã-hội tiêu-thụ, giá aó túi cơm, họ bị dục-vọng chi-phối, cái gì đói với họ cũng đều là vay mượn cả, và họ lại tiếp-tục vay mượn. Cái dịch tệ-hại này làm cho sức-mạnh, gốc ở quần-chúng, ngày một kém đi. Riết rồi có người, khi trước còn có nhận-xét riêng thì sau này cũng buông xuôi; thậm chí có bọn vỗ ngực là "làm Văn-Hoá" mà cố-vấn cho các em sinh-viên đại-học diễn-tập những hoạt-cảnh làm cho những người hiểu biết truyền-thống Dân-Tộc phải xấu-hổ (bỏ dẫn-chứng).
Tóm lại, bao lâu người Quốc-Gia trong cũng như ngoài (nhất là bên ngoài, chỉ những người đã định-cư khá lâu mới tạm có phương-tiện mà "hoạt-động”; nhưng tiếc thay, họ đã rời nước lâu rồi, phần đông họ thích “Văn-Nghệ quàng vai bá cổ” hơn Văn-Hoá) còn có quan-niệm “Ở đâu mà nói đến ỏTư-cáchõ, lần sau chẳng có ma nào nó tới nữa!" (Lời một cụ bà lão-thành Cách-mạng) thì dù có thắng cũng sẽ thất-bại, bơỉ vì lúc đó Xác Việt còn nhưng Hồn Việt thì vắng rồi (như nỗi lo cuả một vị T.G.M. khả kính). Kinh nghiệm khắp nơi cho thấy: Thắng bằng Văn-Hoá mới là Vạn-Thắng, thắng bằng mượn sức người rồi ra cũng sẽ đi đến thất-bại.
Để kết thúc bài tham-luận này, một đề-nghị cấp-thiết là chúng ta phải có kế-hoạch ĐÒI LẠI VĂN, ĐÒI LẠI ĐẤT và VUN-BỒI SỨC-GỐC. Đó mới là Thắng-Nghiã lâu dài, ngoài ra chỉ là thành-công nhất thời mà thôi. Khi gốc Văn-Hoá không vững, những thành-công chính-trị, nếu tạm có, cũng chỉ như hoa chóng tàn vậy. Trong nước, những mảnh rách cuả ý-thức-hệ Cộng-Sản còn sót lại chắc-chắn vẫn có khả-năng ngăn-chặn các cựu đảng-viên CS về Nguồn; tất-yếu họ sẽ bại-vong. Còn như chúng ta (trong, ngoài) thì thế nào? Xin có thơ rằng:
Lắng tâm soi cho kỹ, phải đâu xa!
Rời cỗi gốc, nên lời thề chửa vẹn!
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Virginia 22202, ngày 23-4-1996
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 18:13:05 GMT 9
MỖI KỲ MỘT DANH NHÂN
(Hiểu biết là sức mạnh. Knowledge is Power)
Lạc Việt sưu tầm
Trước khi đi vào bài này, chúng ta đặt vài câu hỏi cho vui:
Đại học nào lâu đời nhất?
Đai học nào đến nay vẫn nổi danh nhất?
Phân khoa nào trong Đại học đó khó học nhất?
Chuyện này hơi khó, nhưng chỉ mộỉt câu trả lời mà thôi, đó là: Đại Học Cambridge bên London (U.K), sau đó là Oxford. Còn Phân khoa khó học nhất là: Applied Mathematics and Theorical Physics tại Cambridge luôn.
Bạn có thể tưởng tượng một chuyện khó tin nhưng có thật: một người tật nguyền, ngồi xe lăn tay, không nói được, không cử động được, chỉ còn duy nhất một bàn tay mặt mà thôi. Vâng không nói được, tiếng nói không còn nghe được, nghe như tiếng ú ớ thật xa vời từ cổ họng người đó. Vâng! người đó chính là Giáo sư Tiến sĩ Khoa Học Stephen Hawking. Năm 1982 Ông được Hội Đồng Giáo Sư Cambridge chọn ông làm Phân Khoa trưởng Phân Khoa Applied Mathematics and Theoretical Physics, lúc đó Ông mới 32 tuổi và đang ngồi xe lăn tay, nói chuyện bằng bàn tay trái với một máy phát âm được làm đặc biệt cho Ông.
Vào đầu tháng 1 năm 1974, Dennis Sciama, giáo sư Vật lý Không Gian (Astrophysics Cosmology) tại Oxford đang đi về lớùp học, thì Ông nghe tiếng người bạn gọi sau lưng, Giáo sư Martin Rees. "Anh có nghe tin gì không?", Martin Rees nói tiếp luôn: "Stephen làm đão lộn hết tất cả rồi."
Dennis Sciama giật mình: "Tên Stephen làm cái gì vậy?" Stephen Hawking lúc đó vừa được giáo sư Dennis Sciama giúp cho học trò của mình được thành công trong luận án Tiến sĩ của mình, và sau khi đậu Tiến sĩ thì Stephen được Hội Đồng Khoa tại Oxford hỏi mộỉt câu chót: "Sau khi đậu Tiến sĩ, anh có muốn điều gì nữa không?", ý ngầm của Hội Đồng Khoa là mong anh học trò trẻ tài giỏi của trường trở thành Giáo sư Giảng Huấn cho Oxford. Nhưng anh Stephen trả lời: "Tôi mong được chuyển sang Cambridge để được tiếp tục nghiên cứu thêm". Câu trả lời làm Hội Đồng Khoa giật mình, vì ai ai cũng đinh ninh sau một thời gian học cực khổ, thì Tân Khoa đều muốn đi làm, tìm việc tại các cơ sở lớn tại Anh quốc hay làm giáo sư tại một Đại học ngoại quốc nào đó. Vì Đại Học Oxford, khi Tân khoa ra trường đều được ngoại quốc mời làm Giáo sư cho trường họ hết. Trường Oxford danh trấn giang hồ mà!
Khi nghe Stephen Hawking muốn về Cambridge để nghiên cứu thêm, thì Hội Đồng đành chấp thuận cho anh được toại nguyện. Cambridge rất khó vào, vì nơi nầy chuyên đào tạo học giả mà Thế Giới vô cùng ngưỡng mộ nhất.
Dennis Sciama nghe bạn mình nói về Stephen vừa có một phát minh mới nào đó, Ông vội đến lớp sắp sửa dạy như thường lệ, ông cho học trò nghỉ một bữa, rồi vội ra khỏi trường đến gặp Stephen Hawking. Hai người trò chuyện trong văn phòng của Stephen rất lâu. Sau cùng Dennis Sciama ra về và mồ hôi lấm tấm đầy trán của ông. Ngay hôm sau, ông xin Khoa Trưởng Oxford cho mở họp báo tại Đại Giảng Đường Chánh Oxford, nhưng không hiểu sao tin loan nhanh đến tay các phóng viên báo chí tại London và tại Paris luôn. Họ xin được gởi người đến tham dự buổi thuyết trình quan trọng mà họ cho là quan trọng nhất Thế Kỷ từ khi con người khi ngó ra Vũ Trụ.
Lúc đó Stephen vừa được 31 tuổi, nhưng giới Khoa học Vật Lý Vũ Trụ trên giang hồ đã nghe danh anh từ trước rồi. Hôm đó có đài BBC, VOA, ABC, Reuteurs v.v...
Giảng đường ghế ngồi trên 2000 ghế đã không còn chỗ. Trên sân khấu có máy thu băng và nơi góc sân khấu có nhiều máy Cameras dành cho các Đài truyền Hình đang ngó vào.
Stephen Hawking sẽ nói về một đề tài mới lạ mà chưa ai từng nghe được, đó là: "Black Hole"...
Nói sơ về Oxford University. Thành phố Oxford cách Thủ đô London (Unied Kingdom) độ 50 miles. Thành phố này bọc quanh bởi hai con sông là Thames và Cherwell. Ox ford University là một tập hợp nhiều đại học quanh thành phố Oxford, gồm 35 colleges thuộc quyền, mà trung tâm Oxford University là University College. Lập năm 1249 nó là nơi xưa nhất trong quần thể Oxford University.
Đời sống tại đại học Oxford là một nỗi khổ cho Stephen Hawking, bạn bè quen từ trường cũ không còn nữa, còn những bạn học lạ toàn là những người lớn tuổi gần gấp đôi Stephen. Năm ấy anh mới 17 tuổi, sinh viên trẻ nhất Oxford. Nhưng chương trình lại càng làm Stephen chán hơn nữa. Sinh viên phải có mặt mỗi ngày tại lớp học để nghe giàng bài, sau đó đến một lớp có giáo sư phụ giúp giảng nghĩa lại bài vở mà giáo sư chánh vừa giảng sáng nay, mỗi nhóm được chia làm tổ nhỏ chừng 4, 5 sinh viên... mà họ gội là: "tuitorial".
Chỉ có kỳ thi đầu năm và cuối năm cho năm thứ nhất và năm thứ ba mà thôi, còn năm thư tư thì trình luận án. Nhưng đối với Stephen thì vấn đề này không có gì khó hết, bạn bè học mỗi ngày gần 9 tiếng, còn anh chỉ có 1 tiếng là đủ rồi. Năm đầu tiên Dr. Berman cho 6 sinh viên Vật lý của mình 13 bài toán, mà phải nộp hết trong tuần tới. Sinh viên giỏi chỉ làm đến toán thứ 10 là hết hơi rồi. Nhóm của anh, vào một hôm có đến hỏi anh bài làm thầy cho đi đến đâu rồi, anh trả lời tôi chưa làm bài nào hết, nhóm bạn học cười, không dè một anh con nít 17 tuổi này sao mà làm biếng quá vậy. Hwaking cũng thường vào lớp và anh ít khi ghi chép trên tập vở như mọi sinh viên khác, anh chỉ ngó ông Thầy trừng trừng mà thôi. Đến khi nộp bài cho giáo sư phụ tá, thì Hawking chỉ nộp trả lại quyển sách Vật Lý mà Thầy cho 13 bài toán trong đó, anh gạch đỏ và ghi bên lề như sau: "...bài này đặt câu hỏi sai... bài kia cho vận tốc dynamics không đúng... bài nọ nên sửa lại câu hỏi như vầy như vầy...". Có nghĩa là Stephen Hawking sửa lại sách giáo khoa của trường. Giáo sư phụ tá và Giáo sư chánh họp lại cuối ngày, suy nghĩ lại đọc lại bài toán đố trong sách Giáo Khoa... và họ biết trong này có nhiều vấn đề cần phải sửa lại. Từ đó ban Giáo sư bắt đầu ớn anh chàng trẻ tuổi này, và không còn nghĩ anh là kẻ lười biếng nữa.
Con đường vào Oxford của Stephen Hawking cũng kỳ lạ không kém, thân phụ của Stephen là một vị Bác sĩ hạng trung tại London, nhưng Bác sĩ Hawking thích sang Phi Châu nghiên cứu bệnh lý học của thổ dân Nam Phi, nên phòng mạch không đắt khách lắm. Bác sĩ Hawking muốn con mình trở thành Bác sĩ như ông ta vậy, nhưng người con lại không thích môn Vạn Vật chi cho lắm, nhưng để làm vui lòng người Cha, Stephen Hawking chịu học môn Vật Lý, Hóa Học, Toán Học mà môn Y Khoa cũng có thể xài được. Như vậy tạm yên lòng Bác sĩ Frank Hawking khi ông sang Phi Châu vài tháng..
Nhưng Bác sĩ Hawking muốn con mình tốt nghiệp ra Bác sĩ tại một Đại Học danh tiếng hơn trường học mà ông học ngày xưa, nên Ông dẫn đứa con 16 tuổi vào gõ cửa Oxford University, nơi nầy Ông có một người bạn quen ngày xưa đang làm Giáo sư VậtLý tại Oxford. Đứa con thi đậu kỳ thi tuyển một cách dễ dàng, trội nhất là Vật Lý và Toán Học, còn môn nhiệm ý khác thì gần như rớt... cái ạch. Nhưng Hội Đồng Khoa Tuyển Sinh đồng ý cho đứa bé quá thông minh mà từ trước tới giờ Họ chưa từng gặp. Nhưng Bác sĩ Frank Hawking lại muốn đòi thêm nữa là Đại Học Oxford phải trả tiền học phí cho con Ông, vì nó học quá giỏi mà? Như vậy là chuyện lớn rồi! Vào Oxford không phải là giàu có là người ta nhận đâu, phải thật giỏi hơn mọi sinh viên tại London mới được. Muốn được học bổng do Oxford cấp phát, thì phải thi cử mới được! Họ không thể cấp học bổng cho một sinh viên thật giỏi năm đầu tiên, rồi năm thứ nhì bỏ học... như vậy mất mặt Oxford lắm. Stephen Hawking phải qua kỳ thi tại Hội Đồng Khoa Trưởng, và thi 3 ngày liên tiếp. Stephen đậu dễ dàng, nhưng phải qua kỳ vấn đáp 6 giờ liên tiếp của các Giáo sư Vật Lý, Hóa Học và Toán Học. Thi xong Stephen Hawking về nhà chờ kết quả. Đến 10 ngày sau, Stephen nhận được công điện từ trường Oxford chuẩn bị một lần thi Vấn đáp nữa, nhưng kỳ này chỉ tốn 4 tiếng mà thôi. Xong xuôi, cậu bé trẻ được cho về nhà chờ kết quả. VậtLý anh được 100%, Toán Học thì 100% với lời khen tặng của Phân khoa Toán Học, còn Hóa Học thì tầm thường. Tháng 10 năm 1959, với số tuổi 17, Stephen Hawking được nhận vào Oxford và Oxford trả tiền anh đi học. Tin này tung ra như một quả bom nổ lớn cho thành phố Oxford (Oxford City) và cả 35 Colleges của Oxford luôn.
Học tại Oxford, Stephen Hawking thường làm Giáo sư phụ trách của mình nơm nớp... lo sợ vì chính anh dám sửa sách vở nhà trường cho thuận ý của anh. Và nhà trường đồng ý cho sửa lại sách Giáo Khoa, nhất là về Bài Tập Vật Lý mà Giáo sư thường cho học trò đem về nhà làm hàng ngày.
Năm thứ nhất, Hawking qua một cách dễ dàng, năm thứ hai cũng vậy. Nhưng đến năm thứ tư thì anh alị càng trễ nãi làm bài... vì anh đang bị một chứng bệnh mà Y Khoa chưa biết được. Mọt hôm anh đang lên lầu, để vào lớp học... thì anh té thang lầu. Chở vào nhà thương thì hôm sau anh mới nhớ lại mình bị cái gì. Anh bị mất trí nhớ trên 24 tiếng đồng hồ. Sau đó anh thường bị làm rớt ly trà mà đang uống tại cafeteria trường. Tệ hơn nữa anh lại có giọng nói ngọng nghịu, lần lần nói khó nghe.
Cha ruột đành phải chở anh vào nhà thưng đặc biệt tại St. Alton gần London. Bác sĩ khám không thấy gì, và phải lấy mẫu nước tủy sống và máu mà gởi đi phòng Thí nghiệm tại London. Nhưng sau đó Bác sĩ cho gia đình anh biết, Stephen Hawking mắc một chứng bệnh rất lạ mà chưa thấy tại United Kingdom. Chứng bệnh này gọi là: "ALS" (Amyotrophic Lateral Sclerosis) mà bên Mỹ người ta gọi là Hội Chứng: "Lou Gehrig" (Lou Gehrig là một danh thủ về baseball mà toàn thể dân ghiền baseball đều biết tên).
Bệnh này phá hư thần kinh tại trung tâm tủy sống và một phần trong Óc, tuy óc không bị gì, nhưng Óc không thể truyền lệnh cho cơ bắp nữa, nghĩa là bắp thịt không còn cử động được nữa. Khi Bắp thị không được cử động thì nó sẽ lần lần teo lại, và rút ngắn lại làm bệnh nhân phải khòm người, sức phát triển cơ thể tùy theo bắp thị, nếu bắp thịt không phát triển thì xương trong cơ thể cũng rút lại luôn. Bệnh nhân rút lại như một đúa bé 10 tuổi vậy. Cho dù năm 1970 Stephen Hawking phải dùng xe lăn (wheelchair) nhưng lần lần anh không phát âm được, lưỡi bắp thịt bị rút ngắn lại và không cử động nữa. Anh hoàn toàn mất tiếng nói, phải có người theo sát và giúp anh và hiểu ý anh và nói dùm anh.
Tệ hơn nữa là anh không ăn được vì bắp thịt cổ họng bị rút lại không cử động được, anh phải ăn bằng chất lỏng với một vòi nylon thọt sâu vào mỗi bữa ăn. Các bác sĩ đều cho rằng Stephen Hawking không qua khỏi... 2 con trăng này quá. Vì bắp thịt cơ dùng cho hô hấp sẽ không hoạt động được và Hawking sẽ chết vì ngộp thở như ai bịt mũi mồm vậy.
Trở lại Đại học Oxford, năm cuối cùng tại Oxford, Stephen Hawking thi cuối năm. Bài thi viết chưa được công bố, nhưng anh phải thi tiếp kỳ vấn đáp. Vấn đáp kéo dài 3 tiếng 45 phút và thi 3 ngày như vậy. Ngày chót Hội Đồng Giám Khảo hỏi anh: "Sau khi thi đậu ra trường, anh muốn Oxford một điều gì?" Stephen Hawking không ngần ngừ: "Tôi muốn vào Cambridge, mà Cambridge chỉ nhận những người ra trường Oxford với điểm Ưu Hạng mà thôi! Còn nếu tôi không được Ưu Hạng... thì tôi đành phải học lại Oxford về Khoa Học Vũ Trụ mà thôi. Nhưng tôi mong Quý vị Giám Khảo chấm tôi Ưu Hạng". Câu trả lời của Stephen Hawking làm toàn thể Hội Trường nín lặng... không ai dám nói một điều gì! Vì đây là một tự ái ngàn năm của Oxford, nói tóm là mộ Danh Dự của Oxford. Làm sao chấm một Sinh Viên cho dù giỏi cách mấy để... hắn ta qua trường khác... học tiếp, cho dầu hai trường này là Mặt Trời và Mặt Trăng trong làng Khoa bảng. Cambridge là Mặt Trời và Oxford là Mặt Trăng.
Điều ngạc nhiên là Hội Đồng Giám Khảo đều đồng ý phê điểm cho anh: "Ưu Hạng!" Tháng sau Stephen Hawking chuyển trường, anh sang Cambridge. Kỳ này anh gặp 6 người trong Hội Đồng Tối Cao Chọn Tiến Sĩ Nghiên Cứu tại Cambridge. Họ hỏi anh có dự định gì trong tương lai khi qua đây, chọn môn học nào? Lúc đó Thế giới về Cao học Vật Lý Vũ Trụ chỉ có hai con đường đi mà thôi. Một là chọn con đường Cực Nhỏ trong Nguyên Tử "Subatomic Particles", hai là con đường Cực Lớn "Cosmology". Còn Particles (Phân tử) chưa có một hệ thống gì vững chắc, chưa có nguyên lý và định đề nào ổn thảo cả, nếu tìm được loại phân tử cực nhỏ nào đó, cũng chỉ là xếp hạng nó vào bảng Nguyên Tố mà thôi, cái này không cần giỏi mà chỉ cần kiên nhẫn ngồi hàng ngày trong phòng thí nhgiệm với máy móc... và ngồi đếm giờ khi nó hiện trên phim Negative mà thôi, rồi tính toán vài con số... thế là phí giờ. Trong khi đó Vũ trụ đang bước đến một con đường vô cùng mới lạ nhờ Einstein. Einstein với "Thuyết Tương đối - General theory of Relative", nghĩa là Eisntein mới lập luận một chủ thuyết thôi, chớ chưa thành một định lý. Có nghĩa ai mà tháo được một phần vỏ này... là Thế Giới biết đến tên liền. Vả lại trên thế giới chỉ có 2 người... rành về Thuyết của Einstein mà thôi. Mọt người hiện là Fred Hoyle Giáo sư Tiến sĩ Phân khoa Trưởng Cosmology Cambridge, còn người kia là Giáo sư Phụ tá cho Fred Hoyle tên là Dennis Sciama (người mà vừa rảo bước trong hành lang định vào lớp học thì người bạn gọi giựt ngược nói là Hawking làm chuyện lạ nữa rồi đó!)
Khi Hội Đồng Tuyển Chọn Cambridge nghe Stephen Hawking chọn một con đường Cực Lớn về Vũ Trụ thì họ không lấy làm gì ngạc nhiên lắm. Thế là Hawking được nhóm học giả tại Cambridge mở rộng cửa đón anh vào.
Hawking lúc vào Cambridge, anh rất mong được Giáo sư Fred Hoyle dạy mình. Giáo sư Fred Hoyle lúc đó đang làm Phân Khoa trưởng Vũ Trụ Học tại Cambridge. Một vị giáo sư rất khó gặp, vì ông thường công du đến khắp Đại học trên thế giới khi có lời mời. Môn này rất mới vào khoãng thâp niên 70, ông viết sách rất nhiều. Mỗi quyển sách chính là sách giáo khoa cho Đại Học Paris hay tại Hoakỳ. Cambridge rất nể vị giáo sư này, và Stephen Hawking cũng ngưởng mộ ông luôn.
Nhưng ngày nhập học đầu tiên, Hawking thất vọng vì giáo sư hướng dẫn Hawking lại là vị phó Phân Khoa Trưởng, Dennis Sciama. Mặc dầu học vị của giáo sư này rất cao trong giới Vật lý Không gian trên thế giới. Đó làn năm 1962. Năm đầu tiên tại Cambridge cho Hawking rất vui, nhưng năm đó sức khỏe Hawking bắt đầu tệ hại. Lúc đó Cambridge chưa biết nhiều, nghĩa là chưa làm quen nhiều đến Hawking, một sinh viên rất ít ra ngoài chơi với bạn bè, rất ít tham dự những buổi tiệc làm quen theo thông lệ của sinh viên Cambridge. Còn Giáo sư Dennis Sciama giảng nghiệm viên cho Hawking thấy Hawking càng lúc càng ít nói, lời nói lại ngọng nghịu khó nghe. Cho đến Tết năm 1963, các sinh viên tề tựu tại Hội trường ăn mừng năm mới và chúc tụng các Thầy, thì Stephen Hawking làm rớt chai rượu và té nhào xuống sàn. Bệnh của anh đã bước vào con đường trầm trọng vô phương cứu chữa rồi. Năm đó anh dúng 21 tuổi.
Gia đình Hawking lấy làm lo ngại và đem anh vào nhà thương gần Cambridge, nhà thương này rất nổi tiếng vì gần Hoàng Cung Anh quốc. Trước đó anh có quen được một nữ sinh viên lúc học tại Oxford. Cô nữ sinh này rất mến Hawking vì anh thông minh ngầm và tánh tình hòa nhã nhất trường. Nay cô nữ sinh Jane Wilde thấy Stephen Hawking rất cần một nữ y tá chăm sóc sức khỏe cho anh và cho anh ăn uống. Cô Jane này tình nguyện bỏ học và đến nhà Hawking mà nuôi dưỡng anh. Đẩy xe lăn tay chở anh đến lớp học và chở anh về nhà. Thật tội nghiệp, nếu không có Cô Jane này thì Thế Giới chúng ta sẽ không có một thiên tài về Vật Lý Không Gian tên là Stephen Hawking. Sau đó hai người làm lễ thành hôn. Hawking và Jane Wilde có 3 người con, một gái và hai trai khỏe mạnh.
Trở lại một đề tài thuần túy khoa học một chút, vào năm 1931 thiên tài Vật Lý Albert Einstein làm chấn động thế giới tại Đại học Caltech, Pasadena, California. Về đề tà Thuyết Tương Đối (the Theory of general relative). Einstein cho biết Vũ Trụ chỉ có ba con đường phải đi mà thôi. Ba con đường đó là: "Vũ Trụ nở ra mãi" hay là "Vũ Trụ phải co rút lại", và "Vũ Trụ phải ở yên một chỗ" thế thôi. Nếu Vũ Trụ ở Yên một chỗ thì mọi đinh lý trên địa cầu này phải đúng, nghĩa là sức hút của Newton và giả thuyết của Einstein sẽ được minh chứng. Thuyết Tương Đối là vận tốc ánh sáng sẽ là một vận tốc không một gì vượt qua được, nó phóng đi với vận tốc 300 ngàn km trong một giây, nhưng nếu đi theo một vận tốc đo ... thì trong Vũ Trụ... cho ví dụ là cây thước được phóng đi theo vận tốc ánh sáng thì cây thước sẽ bị co rút lại chỉ còn 80 cm thay vì 100 cm tại địa cầu. Và ánh sáng bay đến từ một hành tinh thật xa, cho là một ngôi sao đi khi đi ngang Mặt Trời thì sẽ bị bẻ cong lại vì sức hút Mặt Trời Gravity vô cùng lớn...
Và tại Cambridge hay tại Âu Châu một người duy nhất hiểu vế thuyết Tương Đối của Albert Eisntein chính là giáo sư dạy Stephen Hawking đó là: giáo sư Dennis Sciama. Khi Hawking trở thành học trò của giáo sư Dennis Sciama, thì môn Vật lý mới mẻ này chưa có ai thấu hiểu hết, vì quá mới. Thuyết Tương Đối chưa có ai chứng nghiệm được.
Thuyết Tương Đối của Einstein cho biết ngay cả ánh sáng cũng bị một vật thể lớn kéo hay bẻ cong vì bị sức hút (gravity) của vật đó. Năm 1919 Thế giới rúng động vì thuyết này quá đúng. Năm đó có Nhật thực toàn diện xảy ra trên địa cầu, và một toán khoa học gia chuyên về thiên văn chụp được nhiều tấm hình khi họ di chuyển theo con đường đi của Nhật Thực. Nghĩa là Mặt Trời bị Mặt Trăng che lấp, không ánh sáng phát ra từ mặt trời. Và một ánh sáng của một vì sao thật xa chiếu đến Trái đất, điều kỳ lạ là nó bị bẻ cong lại... vì sức hút gravity của Mặt Trời. Một chuyện hy hữu. Lúc đó Thế giới nghĩ ràng ngôi sao nào ở vị trí A mà họ đinh ninh từ hàng trăm năm nay rồi từ khi họ tính được con toán học về Vũ trụ, nhưng nhờ Nhật Thực toàn diện nên thật sự ngôi sao này đúng lý là ở vị trí B thay vì A. Như vậy Thuyết Relative của Einstein được tính đúng.
Nhưng có một điều trái ngược với lời tiên đoán của Einstein là Vũ Trụ chỉ có hai con đường: một là co rút lại hai là bành trướng nở ra. Nhưng nếu co rút lại hay bành trướng ra, thì ánh sáng sẽ không bị bẻ cong bởi gravity của một vật thể lớn hơn. Nghĩa là Vũ trụ phải ở yên một chỗ thì ánh sáng đi tới từ một ngôi sao thật xa mới bị sức hút của Mặt Trời mà bẻ cong lại. Nghĩa là càng giảng nghĩa thì càng đi vào con đường cụt. Và Giáo sư Phân khoa Trưởng nổi danh của Cambridge là Fred Hoyle tán đồng quan niệm của Einstein là Vũ Trụ đứng yên không chuyển động gì cả và như vậy ánh sáng mới bị sức hút gravity bẻ cong lại được. Stephen Hawking khi còn học tại Oxford rất sùng bái vị giáo sư này, và anh mong được sang Camnrifge mà thụ giáo vị giáo sư này.
Nên nhớ lúc đó trên Thế giới chưa ai có một quan niệm Vũ Trụ bành trướng hay Vũ trụ co rút lại vì lúc đó con người chưa có dụng cụ hay máy móc nào minh chứng được.
Cho đến năm 1930, Hoakỳ họ làm được một Viễn vọng Kính có sức mạnh nhìn thấu Vũ Trụ qua hàng ngàn năm ánh sáng thì họ mới biết là Vũ Trụ đang bành trướng. Khi Eisntein biết được Vũ Trụ đang bành trướng vì nhờ Viễn vọng kính lớn nhất Thế giới tại Hoakỳ chứng minh được... thì Einstein thốt lên: "đây là một điều làm tôi vô cùng... choáng váng nhất đời" (the greatest blunder of my life).
Trởũ lại phần trên, tháng giêng năm 1974 khi giáo sư Dennis Sciama đang vào lớp học, thì một người bạn là giáo sư Martin Rees chạy tới nói nhỏ: "Anh chàng Stephen Hawking làm chuyện lớn nữa rồi" (lúc đó Hawking 32 tuổi vì được thiên hạ biết tiếng khá nhiều về Cosmology của anh. Anh đã được hàm học vị Tiến sĩ Vật lý Không gian và người ta gọi anh là Dr. Stephen Hawking).
Tháng hai 1974, tại Đại Giảng Đường Rutherford - Appleton Laboratory, gần Đại Học Oxford nhiều vị học giả hay đúng hơn là Bác học về Thiên văn và Vật lý trên thế giới tề tựu đến Đại Giảng Đường này theo lời mời của giáo sư Dennis Sciama. Người đến từ Pháp, người đến từ Hoakỳ, người đến từ Nga... họ rất háo hức đến nghe buổi diễn thuyết của Dr. Hawking. Một người tàn tật đang ngồi xe lăn tay, nói chuyện không được, phải có người thông dịch lại từ Hawking khi máy phát âm trợ cụ phát ra từ sau lưng xe lăn tay của Hawking. Dr. Hawking từ từ được một người đẩy xe lăn tay ra sân khấu Giảng đường, Hawking dùng xe lăn tay vào năm 1970, trong khi đó Đại Giảng Đường đã chật cứng người rồi, trên hàng ghế Danh dự là Giáo sư Khoa Trưởng Đại Học King College London, John Taylor (chính đại học này người ta xem như là trường Quốc Tử Giám vậy, vì các Hoàng tử hay Hoàng Thân Quốc Thích của triều đình Anh quốc đều tốt nghiệp tại đây). Ánh đèn sân khấu được tắt bớt, để cho máy chiếu phim và những miếng slide trong máy chiếu phóng hình lên màn ảnh. Đó là phần giảng nghĩa của Dr. Stephen Hawking. Đề tài: "Black Hole không hẳn là Black nó gần như Black vậy"... (nên nhớ Black Hole là danh từ của nhóm Hawking đặt ra, vì họ khám phá trước. Nó là một lỗ hổng trong vũ trụ, sức hút gravity mạnh đến nỗi ánh sáng không phát ra được, và khi ánh sáng không phát ra thì không thấy được, nên gọi là Balck Hole. Lúc đầu mọi người không tin nhưng sau này mới biết thiên tài của Hawking là đúng). Hawking trình bày trên mảnh phim chiếu "slide" với những công thức mới của anh. Vì lúc đó và hiện nay với một đề tài vô cùng kinh khủng như vậy, và chưa có một công thức Vật lý trên Địa cầu minh chứng được, hay nói tóm chưa có ngôn ngữ Vật lý nói chuyện cho người ta hiểu, thành thử Hawking phải tạo công thức mới cho đề tài này. Dr. Stephen Hawking giải thích tiếp: trong ngoài viền mép của Black Hole nó có một lực gọi là: "entropy" (entropy theo từ VậtLý là một năng lượng trong thể tỉnh - thermo energy) và vì có năng lượng energy nên nó phát ra radiation, và vì nó phát ra radiation nên nó không hẳn là hoàn toàn đen Black Hole.
Một quả bom nổ choáng váng tất cả các nhà bác học Vậảt Lý đang ngồi nghe trong giảng đường Rutherford-Appleton. Khi Dr. Stephen Hawking, người tàn tật ngồi trong xe lăn tay, với tiếng nói không nghe rõ, chỉ có người than cận dịch diễn cho Hawking. Khi Hawking dứt lời, cả Hội trường đều lặng người, kinh hoàng vì không ai đoán trước được đề tài của Dr. Stephen hawking nói, như vậy là một cuộc cách mạng thứ nhì từ khi Bác học Albert Eisntein nói về thuyết Tương đối.
Sau cùng, Dr. John Taylor, Khoa trưởng Đại Học King College (một trường nổi danh như Quốc tử Giám tại London), John Taylor đứng lên nói: "Dr, Hawking, thưa ông! chuyện ông nói hôm nay hoàn toàn sai lạc hết, chúng tôi không tin một điều gì ông nói ngày hôm nay, thưa Dr. Hawking). Và Dr. John Taylor cùng đoàn khoa học gia trường King College đùng đùng bỏ ghế ra về, không một lời từ giả hay bắt tay Dr. Stephen Hawking. Chuyện xảy ra điều này làm Hawking cũng bất ngờ không nói được, Dr. Stephen Hawking lặng người trên ghế wheelchair, rồi lặng lẻ Dr. Hawking rời Hội trường như mọi người cũng lặng lẻ rời hàng ghế dưới sân khấu. Buổi thuyết trình của Hawking không dè kết thúc một cách buồn thảm như vậy. Dr. Stephen Hawking đưa ra một định luật về Năng lực dành cho Vũ Trụ mà lúc đó chưa ai biết được, kể cả Eisntein, đó là luật: "Quantum Mechanics" dành riêng cho Astrophysics mới đây (1974), trong luật Quantum Mechanic có hai particles, một particle thuộc loại ảo (không thấy được) gọi là: "Virtual Particles" và một: "Anti-particles". Hai Particles này một cái xuất hiện ra thì bị va chạm liền thì bị cái kia nuốt mất (Virtual particles and anti-particles are created in pairs, but they immediately collide and annihilate one another). Nhưng trong một bầu trời phẳng ngang tại miệng Black Hole, thì một particles sau khi va chạm với nhau, chưa bị cái kia nuốt mất... thì nó bị lọt vào miệng của Black Hole rồi. Như vậy chỉ còn một particle cô đơn ngoài rèm miệng lổ đen (the boundary of Black Hole), như vậy sẽ phát ra Radiation. Điều này nói lên vào lúc đó không ai hiểu nổi, nên Khoa trưởng Đại Học King College, Dr. John Taylor không giận đùng đùng bỏ về sao được?
Qua tuần lễ sau, Chủ nhiệm nguyệt san Khoa học nổi tiếng tại Âu Châu là: "Nature and Science" điện thoại vào văn phòng Dr. Stephen Hawking nói rằng: "Giáo sư Khoa trưởng Đại học King College vừa gởi đến chúng tôi một bài viết bác bỏ lý thuyết của Ngài (Hawking) vừa nói tuần trước, cùng những công thức chứng minh là lời nói của Ngài là sai hoàn toàn. Vậy Ngài có ý kiến bác bẻ gì cần chúng tôi lên tiếng hay không?". Dr. Stephen Hawking trả lời không ngần ngừ: "Anh cứ việc cho đăng đi, vì thế giới khoa học không có một bạo lực nào ngăn cản nó phát tiếng nói được. Có tiếng nói, có chỉ trích thì Khoa học mới tiến bước được. Tôi không phiền lòng bài viết của Giáo sư Khoa Trưởng John Taylor đâu!". Bài báo tung ra khắp thế giới kể cả qua bên bức tường thép là Moscow, làm chấn động mọi Vật lý gia trên toàn cầu. Nhưng sau đó, nhờ máy móc bên Hoakỳ vừa làm được một hình chụp: "thermo entropy và bức xạ quang năng" chụp Black Hole thì cả thế giới đều đứng lên hoan hô giả thuyết của Stephen Hawking là hoàn toàn đúng. Tháng Ba năm 1975, Giáo sư Khoa Trưởng Đại học King College tại London, Dr. John Taylor viết một bức thư xin lỗi Dr. Stephen Hawking, và yêu cầu nguyệt san Nature and Science phải đăng nguyên bức thư này. Dr. John Taylor, Ông nói: "...chúng tôi, Khoa trưởng Đại học King College xin thành thật nhận lỗi, chúng tôi đã lầm một thiên tài Vật lý Vũ Trụ là Dr. Stephen Hawking! Vâng! Lý thuyết của Ông và công thức của Ông đã nói vào năm 1974 là hoàn toàn đúng. Ông là một kỳ tài mà tôi khâm phục nhất ngày hôm nay".
Bài báo đăng lên làm cảm động vô cùng nhóm Khoa Trưởng Đại Học Oxford và Cambridge, người cảm động nhất là giáo sư Tiến sĩ, Dr. Dennis Sciama. Dr. Sciama nói: "đây là một điều tuyệt vời nhất trong thế giới Vật Lý của chúng ta, chính anh Stephen Hawking là người tạo ra một công thức dành riêng cho Vũ Trụ mà ngay cả Dr. Albert Einstein cha đẻ thuyết Tương Đối "Relative" cũng khâm phục, vì Hawking tổng hợp lý thuyết của Einstein cùng công thức trong lý thuyết Quantum Mechanics một cách thành công trọn vẹn vậy. Anh Hawking đã cho Vật Lý gia chúng ta thêm một con đường cần học hỏi là: "Quantum Mechanics".
Với sự khám phá radiation của Black Hole nên khoa học gia ngày nay gọi radiation này là: "Hawking Radiation". Năm 1975 Stephen Hawking được mời vào Hội Hoàng Gia: "Royal Society" (tương đương Viện hàn Lâm Khoa Học cả Pháp vậy), lúc đó Hawking mới 32 tuổi, là người trẻ nhất trong Viện hàn Lâm Hoàng Gia Anh quốc. Stephen Hawking kỳ trước có sang Vatican theo lời mời của Đức Giáo Hoàng John Paul II, Dr. Stephen hawking có trình bày cho Ban Khoa Học của Đức Giáo Hoàng về sự thành lập của Vũ trụ từ một điểm mà Hawking gọi là điểm Đơn giản: "Singularity". Từ điểm nhỏ bằng kim tây, nó nổ lớn thành ra mộ tiếng Nổ lớn mà Khoa học gọi là: "Big Bang" và thành lập Vũ Trụ luôn. Hawking được Đức Giáo Hoàng trao giải gọi là: "Pius XII Medal" do Viện Khoa học mà ta gọi là: "the Potifical Academy of Science" tại Vatican, rồi Hawking được giải thưởng của Viện Hoàng Gia Không Gian "the Eddington Medal from the Royal Astronomical Society", và giải "Hughes Medal from Royal Society", tại Hoakỳ người ta trao giải Johns Hopkins, Dannie Heiemann (Đức), Maxwell. Đến năm 1978 Dr. Stephen hawking được giải thưởng của Hội Albert Einstein Award mà Hội nay trước đó chưa trao giải cho ai mà chỉ gởi bằng ban khen thôi. Giải Albert Einstein Award rất khó tương đương với Nobel vậy. Năm 1975 Đại Học Cambridge lập thêm một phân khoa mới nhất cho Trường, Phân khoa này tên là: "Gravitational Physics" và Cambridge mời Dr. Stephen làm Phân khoa Trưởng khoa này.
Vì sự bệnh hoạn đưa đến tật nguyền cho Dr. Stepehn Hawking, ông không nói được, không cử động được, chỉ ngồi xe lăn tay và nói chuyện bằng bốn ngón tay bấm vài nút máy trên tay vin của ghế lăn tay wheelchair, nên Trường Đại Học cấp cho ông một người hầu hạ, chăm sóc sức khỏe của ông. Họ không cần ông dạy học như những Phân khoa Trưởng cùng trường, mà họ cần ông khỏe là được rồi. Vì ông giỏi ngang hàng với Albert Einstein.
Năm 1979 Cambridge trao một chức vị mà từ khi Issac Newton mất đi chưa ai được là: "Lucasian Professor of Mathematics", học vị này trước đó trao cho Newton vào năm 1669 cho đến nay còn bỏ trống vì chưa ai xứng đáng được, cho đến khi người thứ nhì... người đó là Stephen Hawking.
Kỳ tới chúng tôi, nếu có dịp sẽ đi đến vài quyển sách gây chấn động giang hồ về sự thành lập Vũ Trụ và ngày tàn của Vật Lý Địa Cầu trong tương lai gần. Vì Vật Lý Địa Cầu ngày nay không còn xét ra đúng nữa so với vận tốc ánh sáng và tiếng nổ Big Bang. Vật Lý Địa Cầu chỉ còn đúng cho những Vật Lý gia năm mà Newton còn sống khi một trái táo rớt trên đầu Newton, nay đã gần 500 tuổi cổ xưa rồi. Vâng nếu có dịp!
Lạc Việt
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:19:28 GMT 9
Truyện Trạng Quỳnh với các dị bản Đông Nam Á - Võ Thu Tịnh -
Vào hạ bán thế kỷ thứ XIX đến tiền bán thế kỷ thứ XX, từ thành thị đến thôn quê ta, những câu chuyện nghịch ngợm, ranh mãnh của Trạng Quỳnh đã được mọi người ham thích, kể đi kể lại không bao giờ chán.
Trạng Quỳnh là một nhân vật do nhân dân hư cấu ra, nhằm mục đích chế diễu, chỉ trích áp bức, tham nhũng, chống lại uy quyền của đế quốc Trung Hoa, đả phá mọi hà khắc bóc lột của vua chúa quan lại thời bấy giờ.
Từ "trạng" do từ "trạngánguyên" mà ra, là học vị người đỗ đầu ở kỳ thi Đình (1), Nhưng có khi những người tài giỏi, xuất sắc, không đỗ trạng nguyên, cũng được nhân dân, hay nhà vua gọi là "trạng", như trường hợp Trạng Quỳnh chẳng hạn.
Giai thoại về Trạng Quỳnh khá nhiều, nhưng vì khuôn khổ bài nầy có hạn, không thể kể hết ra đây được. Chúng tôi chỉ dẫn một vài chuyện lý thú và tiêu biểu nhất để dẫn chứng mà thôi.
Quỳnh hạch tội Chúa Trịnh
"Một hôm trong phủ Chúa có tên lính hầu sơ ý làm bể chiếc độc bình rất quí. Chúa Trịnh tiếc rẻ quay quắt, giận dữ hỏi các quan: ? Ta thường nâng niu chiếc bình nầy như một gia bảo, nay tên lính hầu đánh bể, tội hắn có đáng chém không? Thấy Chúa nổi giận, các quan sợ sệt, vội vàng dạ răm rắp. Duy có Trạng Quỳnh bình tỉnh, quỳ xuống tâu rằng: ? Xin Chúa Thượng cho thần hài tội tên lính nầy, cho hắn khỏi oán than trước khi hồn về chín suối. Chúa chuẩn tấu. Quỳnh thét đao phủ lôi tên lính kia ra trước sân rồng, rồi cao giọng nói: ? Ngươi có ba tội đáng chết, đã biết hay chưa? Tội thứ nhất: Vô ý đánh bể độc bình của Chúa, ngươi chết đáng đời rồi! Nhưng chết đi, ngươi còn mang tội làm lưu tiếng xấu lại cho Chúa: là Chúa đã xem của trọng hơn người. Tội thứ hai: Ngươi lãnh án tử hình, rồi đây Trung Quốc và các lân bang sẽ phẩm bình bản án nầy là độc ác và khinh rẻ cả Chúa tôi nước ta. Tội thứ ba: Miệng thế lưu truyền đã đành, lại còn sử quan (a) có bổn phận ghi rõ cùng hậu thế rằng ngày nầy, tháng nầy, năm nầy, Chúa kết liễu một kiếp người chỉ vì một chiếc độc bình cổ. Với ba tội làm ô danh Chúa Thượng, thì phải đem chém đầu nó lập tức. Hỡi võ sĩ, khai đao ngay! Tên lính bị tử tội kia chưa kịp mở miệng xin tha, thì Chúa Trịnh đã thét: ? Thôi, tha cho nó. Chỉ đánh mươi trượng cũng đủ."
Chú giải - (a) Sử quan là một chức thời phong kiến có nhiệm vụ ghi chép một cách vô tư những hành vi, tốt hay xấu, của các vị vua. Vua và triều đình chọn người có tư cách và có công tâm đảm nhận chức ấy. Những điều sử quan ghi, được bỏ trong một hộp khóa kỹ, chìa khóa sử quan giữ, vua không có quyền xem.
Như đã nói trên, theo truyền thuyết, Quỳnh không đỗ được Trạng nguyên, nhưng chúa Trịnh vẫn trọng tài mà vời ra làm quan, và được dân gian khen xưng là Trạng. Quỳnh lại được Chúa cử đi sứ bên Trung quốc. Nhờ có tài, thông minh và lanh trí nên được vua Trung quốc sắc phong "Lưỡng quốc Trạng nguyên", gây được uy tín cho nước nhà. Sau đó Trung quốc gửi sứ sang nước ta, Quỳnh lại có dịp trổ tài để chống lại sự hạch sách áp bức của sứ giả, giữ được thể diện cho quốc gia:
Quỳnh mời sứ Tàu qua cổng chào
"Khi sứ thần Trung quốc sang nước ta, Quỳnh sai cất cổng chào, trên có ghi bốn chữ : "An Nam quốc môn". Sứ Trung quốc nhất định không chịu đi qua dưới các chữ ấy, buộc phải xóa bỏ đi. Quỳnh cho như thế là làm nhục quốc thể, và tuyên bố sẽ có cách dàn xếp.
Quỳnh liền ngầm sai vũ nữ xinh đẹp múa hát tại các quán ăn phía ngoài kinh thành, và tự mình trá hình làm người bán quán. Khi phái đoàn Trung quốc đến ăn nhậu, Quỳnh chọc giận, xua đuổi bọn vũ nữ đi nơi khác. Quan Chánh Sứ can thiệp, Quỳnh càng chọc giận thêm, quan Chánh Sứ ức quá đứng dậy đuổi bắt Quỳnh.
Khi túm được Quỳnh thì cả phái đoàn đã chui qua dưới các chữ "An Nam quốc môn" lúc nào không hay. Bấy giờ quan quân của ta ùa ra, kèn trống đón rước, rối rít cảm ơn quan Chánh Sứ đã vui lòng đi qua cổng. Lỡ bước rồi, quan Chánh Sứ đành xí xóa yêu sách của mình."
Theo truyền thuyết, Trạng Quỳnh là người đã có nhiều sáng kiến ích quốc lợi dân, đã tranh đấu với sứ Trung quốc để bảo vệ thể diện quốc gia, đã trêu ghẹo, chống đối tất cả những ai đã ức hiếp, bóc lột dân lành, từ Chúa Trịnh đến quan lại, các quan chấm thi, cho đến những người có trách nhiệm các đền thờ đã nhân danh thần thánh mà lấy tiền của dân gian để cho vay đặt nợ... Tuy vậy về sau, vua chúa, quan lại thời bấy giờ không thể chịu đựng được những chỉ trích, chế diễu làm tổn thương đến uy tín của chúng, nên Chúa Trịnh đã ra lệnh hạ sát Quỳnh. Trước khi chết, Quỳnh đã lập mưu làm cho Chúa phải chết theo.
Quỳnh và Chúa cùng chết một lần
"Một hôm, Chúa Trịnh hỏi Quỳnh: - Khanh có biết hậu vận của khanh, đến bao giờ thì... chết? Quỳnh thong thả đáp: - Tâu Chúa thượng, Chúa và tôi trung cùng chết một lần... Về nhà, Quỳnh dặn vợ con: - Số ta đến ngày nay là tận. Nếu ta chết thì không được khóc lóc, hoặc gây chấn động. Thi thể ta cứ đặt lên võng, lấy kim chống hai mắt, hai tay cứ để kẹp sách, giống như ngày thường ta nằm đọc sách. Đợi nghe tin Chúa chết mới làm lễ mai táng.
Vợ con nhất nhất tuân theo. Quả nhiên Chúa phao vu Quỳnh làm lọan, sai lính đem thuốc độc đến tận nhà, ép Quỳnh phải uống.
Xong Chúa cho một quan thân tín đến nhà dò xem động tĩnh thế nào, thì thấy vợ con Quỳnh chào hỏi vui vẻ, lại thấy Quỳnh đang nằm trên võng ở mé tây, tay cầm sách, mắt mở to, liền tức tốc trở về dinh thuật lại mọi chi tiết. Chúa nghi là viên Thái-y có lệnh pha thuốc độc đã chế lộn thuốc... bổ cho Quỳnh uống, nên đem thuốc ra le lưỡi nếm thử. Không ngờ thuốc độc quá mạnh, chỉ nếm một chút thôi mà Chúa đã sùi bọt mép, dãy dụa giây lát rồi chết luôn."á
Xét về lai lịch, có tác giả quả quyết rằng Quỳnh là một nhân vật có thật, ngưòi làng Yên Vực, họ Nguyễn, thông minh, tính ngang tàng, dự thi Cống Sinh (cử nhân) đỗ thủ khoa, nhưng về sau khi thi Đình, làm xong bài thi, còn dư giấy, Quỳnh viết thêm mấy câu thơ để bông đùa:
Văn chương phú lục đã xong rồi, Thừa giấy làm gì chẳng vẽ voi. Vẽ xuống vẽ lên nhằng nhịt đấy, Thằng nào cười tớ nó ăn bòi !
Nên dù bài thi làm rất hay, mà Quỳnh vẫn bị đánh hỏng.
Quỳnh có đến làm rể nhà họ Đoàn, nhưng vì Quỳnh không đối được câu "Da trắng vỗ bì bạch" của Đoàn Thị Điểm nên xấu hổ tự ý rút lui. (2) Hiện nay, chúng tôi chưa có thể kiểm chứng lại các sự kiện nầy. Có thể đây chỉ là một hiện tượng "lịch sử hóa" thường gặp trong văn chương truyền khẩu nước ta, như ở cổ tích Tấm Cám chẳng hạn, có kẻ đồng hóa Tấm với Ỷ Lan hoàng hậu đời Lê.
Các dị bản của Truyện Trạng Quỳnh
Điều mà chúng tôi đã biết một cách chắc chắn là cũng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở các nước xung quanh ta có những truyện giống như truyện Trạng Quỳnh: - Ai Lao có Truyện Xiêng Miêng, ở Thái Lan có Truyện Si Thanon Chay, ở Cao Miên có Truyện Thmenh Chey.
Có thể nói Truyện Trạng Quỳnh và các tác phẩm nầy họp thành một hệ (cycle) các tác phẩm mà dân gian ở bán đảo Đông Dương đã dùng lối trào phúng, chế diễu để chống lại chính quyền vua quan lúc bấy giờ.
Quả vậy, xét trong các tác phẩm nầy, có một số chuyện giống với các chuyện của Trạng Quỳnh chúng ta. Sau đây chúng tôi xin trích một số câu chuyện giống nhau giữa các dị bản dẫn ra:
1- Truyện Xiêng Miêng của Lào: Một hôm vua Lào phàn nàn ăn không biết ngon, Xiêng Miêng nói y có cách giúp vua được, xin vua đợi y đi lấy thuốc về uống đã, rồi hãy dùng cơm. Song Xiêng Miêng đi quá lâu không thấy về, vua đợi không được liền truyền đem cơm lên, và lần đầu tiên, vì thấy đói, nhà vua ăn một bữa cơm chưa bao giờ thấy ngon lành đến như thế! Khi Xiêng Miêng trở lại, vua hỏi thuốc đâu, y trả lời thuốc ấy nhà vua đã dùng rồi. Đó là "đói ", vì đói là thuốc hay nhất để chữa bệnh ăn không biết ngon. Đại khái truyện nầy cũng giống như chuyện "Món ăn đại phong" của Trạng Quỳnh.
Lần khác, vì bị Xiêng Miêng trêu ghẹo mãi, vua muốn chọc lại Xiêng Miêng. Vua ra lệnh các quan đem theo mỗi người một số trứng gà, nhưng dấu không cho Xiêng Miêng biết, để đến khi vua ngự ra sông chơi, thì sẽ ra lệnh cho các quan nhảy xuống nước, bơi lội, mọi người phải giả làm một con gà mái kêu "cục tác", vỗ cánh... lặn xuống nước để đẻ trứng, rồi trồi lên, đem trứng đến dâng cho vua. Tính rằng như thế, Xiêng Miêng không có đem trứng theo, sẽ bị bẽ mặt. Nhưng Xiêng Miêng lanh trí, y không kêu "cục tác", mà y gáy "ó o " như gà trống, rồi vỗ cánh, nghểnh đầu, bơi theo các quan "gà mái", nhảy chồm lên lưng đòi "đập mái ". Các quan hoảng sợ, có vị suýt bị chết chìm, kéo nhau lên kiện với vua. Vua hỏi, Xiêng Miêng đáp nhờ có y nên các quan mới có trứng mà dâng cho vua, chớ chỉ có gà mái, không có gà trống đập mái thì làm sao mà đẻ trứng được, chớ thật ra, phần y cũng có hai trứng dính trong người (!) mà y không thể nào dâng cho vua được. Vua nghe xong bật cười. Căn bản câu chuyện nầy phần nào cũng giống chuyện "Dê đực có chửa" của Trạng Quỳnh. (3)
2- Truyện Si Thanon Chay của Thái là một dị bản của Truyện Xiêng Miêng ở Lào, nên cũng có các mẩu chuyện vừa kể trên, giống với truyện Trạng Quỳnh của chúng ta. (4)
3-Truyện Thmenh Chey của Miên: Thmenh Chey dùng trâu nghé chống với trâu chọi, giống như trong chuyện "Sứ Tàu thách chọi trâu" của Trạng Quỳnh. Lại có chuyện vua Miên, vì tức giận gì Thmenh Chey, nên sai tất cả đàn bà trong cung đến "đại tiện" ở vườn của y. Nhưng Thmenh Chey xem bà nào lúc ấy "tiểu tiện", thì lấy gậy đánh túi bụi. Các bà hoảng sợ chạy về tâu với vua. Vua sai lính bắt Thmenh Chey đến hỏi nguyên do, y tâu rằng vì lệnh của vua chỉ truyền "đại tiện" mà thôi, chớ không thấy truyền cho "tiểu tiện", vì vậy bà nào vừa "đại tiện" lại vừa "tiểu tiện" là làm trái với lệnh của vua, cho nên y phải trừng trị. Vua không biết nói thế nào nữa, nên đành chịu vậy.
Trong truyện Trạng Quỳnh của chúng ta cũng có chuyện giống như thế, chỉ khác là những người Chúa sai đi "đại tiện" không phải là đàn bà trong phủ mà là quân lính, và sau đó Quỳnh liền lợi dụng số phân ấy để trồng cải. Khi cải lớn lên, xanh tốt, Quỳnh đem biếu Chúa, Chúa ăn, khen ngon, hỏi làm sao mà khéo trồng được như thế, Quỳnh trả lời đó là nhờ ơn Chúa cho lính ra vườn của Quỳnh bón phân kỳ vừa rồi. Chúa tức giận vô cùng, nhưng không thể nào bắt bẻ gì được. (5)
Có nhà khảo cứu Tây phương đưa ra giả thiết rằng các dị bản của truyện Si Thanon Chay (Trạng Quỳnh Lào), có thể bắt nguồn từ Dhanan-jayapandita Jataka của Ắn Độ, kể lại tiền kiếp của Phật Thích-Ca, khi còn là Bồ Tát, làm Cố vấn cho vua nước Dvaravati. Bồ Tát rất thông minh, tài giỏi, khôn ngoan và đã nhiều lần cứu khổn phò nguy cho quốc vương nước Dvaravati. Và có thể khi Jataka nầy du nhập vào vùng Thái, Miên, thì dân gian địa phương đã trích lại, đem biến đổi đi để xây dựng các Truyện Si Thanon Chay, Thmenh Chey. Về sau, các truyện ấy du nhập dần dần vào các nước lân cận để phát sinh các dị bản Xiêng Miêng hay Trạng Quỳnh. (6).
Tóm lại, có thể cho rằng các giai thoại về Trạng Quỳnh, cũng như về Xieng Mieng, Si Thanon Chay, Thmenh Chey đã góp phần vào việc điều hoà giữa xã hội nguyên thủy của các dân tộc bản xứ ở bán đảo Đông Dương với các thể chế, học thuyết, tín ngưỡng từ Trung Hoa, hay từ Ắn Độ du nhập vào.
Và đã hạn chế phần nào ảnh hưởng của các nước ngoài, hầu thích nghi hóa với môi trường địa phương, duy trì cho được thế quân bình ổn định giữa hai dòng quyền lực chính thống: văn hóa bản sắc địa phương và văn hóa ngoại lai. (7)
Đặc điểm chung của các tác phẩm Việt, Lào, Miên, Thái nầy là tính cách trào lộng cho vui tai, chửi đời cho hả hê, khoái trá. Độc giả càng cười trước những lố lăng, những tật xấu của người đời bao nhiêu, thì lại càng thấy công phẩn trước những bất công và những bộ mặt tiêu cực, sa đọa của những thể chế, nhân quần, xã hội bấy nhiêu!
Trào lộng vốn là khí giới của kẻ yếu dùng để chống lại những đối thủ lớn mạnh hơn mình, và ở đây hẳn là một phương tiện để bảo tồn văn hóa nguyên thủy của chúng ta khỏi bị đồng hoá với ngoại bang xâm lăng.
CHÚ THÍCH
(1)- Thí sinh trúng tuyển kỳ thi Đình, phân hạng cao thấp như sau: a) Đỗ hàng đầu (đệ nhất giáp): Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, gọi chung là tam khôi hay tiến sĩ cập đệ.- b) Những người đỗ hàng nhì (đệ nhị giáp) gọi là Hoàng giáp, hay Tiến sĩ xuất thân- c) Những người đỗ hàng thứ ba (đệ tam giáp) gọi chung là Tiến sĩ. Còn có danh là Đồng Tiến sĩ xuất thân- d) Những người trúng cách mà không cập phân, được đỗ phó bảng. a (2)- Trạng Quỳnh - Hoàng Trúc Ly, Los Alamitos, CẠ, Xuân Thu, 1991, tr. 8-36. (3)- Xiêng Miêng, traduction libre par Boun Thanh Vonghack, tạp chí Bulletin des Amis du Royaume Lao (B.ẠR.L.), Vientiane, No 7-8, 1972, p.p. 3 - 51. Xem thêm: Sieng Mieng, traduit par Lichtenstein J .(thèse pour le Doctorat de 3ème cycle, 1982), tạp chí Péninsule, Paris, No spécial 6-7, 1983, pp. 23 - 206. (4)- Chieng Mieng ou Si Thanon Chay, Schweisguth P. , Etude sur la littérature siamoise, Paris, Imprimerie Nationale, 1951, pp.271-273. (5)- La Merveilleuse Histoire de Thmenh Chey l'Astucieux, Conte Populaire Cambodgien, Bitard Pierre, Saigon, France Asie, 1956, Extrait de France Asie, Nos 116,117, 121-122 ( 46 pages). (6)- Sieng Mieng traduit par Lichtenstein Jean, Péninsule, s.đ.d., Dhananjayapandita jataka, p. 16. (7)- Népote Jacques ở bài giới thiệu bản dịch Sieng Mieng của Lichtenstein Jean, trong tạp chí Péninsule, s.đ.d., p. 10-12.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:34:09 GMT 9
Thay lời giới thiệu Thúy-Kiều vì Hiếu long đong, Còn Phan Thanh Giản đau lòng vì Trung. Phạm Quỳnh sự nghiệp bão bùng : Đời nay có Phạm Thị Nhung giãi bày, Dày công khảo cứu đêm ngày, Hiến đời đại tác phẩm này thiên thu,à Bình Huyên Cô Kiều với Phạm Quỳnh(Bài thuyết trình ngày 20-12-1992) của GS PHẠM THỊ NHUNG Năm 1992, tính ra đúng một trăm năm ngày sinh cụ Phạm Quỳnh, một học giả uyên bác, xuất sắc Pháp văn, tinh thông Hán tự. Gần hai mươi năm hoạt động trên trường văn trận bút, cùng trên diễn đàn ngôn luận, cụ đã nuôi được một tinh thần quốc gia cho dân tộc, và có công lớn trong việc đắp xây nền tảng cho văn học mới nước nhà hồi đầu thế kỷ XX. Để tưởng niệm học giả Phạm Quỳnh, ngày 20 tháng 12 năm 1992 tại vùng Paris, một số rất đông thân hữu cùng gia quyến cụ Phạm Quỳnh đã long trọng làm lễ kỷ niệm đệ nhất bách chu niên ngày sinh của cụ. Tôi rất hân hạnh được mời tham dự với một bài thuyết trình. Tôi đã nhận lời ngay, vì tự coi đó là bổn phận của một nhà giáo, đã từng dạy Việt văn nhiều năm tại quê nhà ; mặc dầu sau biến cố 1975, tôi đã tự ý về hưu non, đến lúc ấy đã trên mười bảy năm. Tôi cũng phải thú thực rằng sau khi nhận lời rồi thì lòng không khỏi băn khoăn lo lắng, vì biết nói gì đây trong một ngày lễ kỷ niệm đầy ý nghiã này : trăm năm mới có một lần! Rất may một hôm, tôi được một bà bạn sốt sắng dẫn đi Yerres, tới thăm thư viện của bà Phạm thị Ngoạn, tức nữ sĩ Liên-Trang, con gái của cố học giả Phạm Quỳnh, xem có cần tài liệu gì về ông cụ để bà Ngoạn cung cấp, vì tủ sách của bà có đầy đủ bộ Nam-Phong, từ số đầu đến số chót, cùng nhiều tài liệu khác nữa. Hôm đó tôi đã được bà Ngoạn giới thiệu một cuốn sổ tay nhỏ ghi năm 1922 của cụ Phạm Quỳnh. Trong đó, khoảng thời gian cụ Quỳnh du thuyết ở Paris, tôi đọc được mấy hàng chữ ghi vắn tắt những cuộc gặp gỡ giữa cụ với một số nhân vật cách mạng Việt Nam đang hoạt động tại Pháp như: Juillet - 13 Jeudi : ăn cơm an-nam với Phan văn Trường và Nguyễn AÔi Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins) Một trang khác : Juillet - 16 Dimanche : ở nhà Trường, Ái Quốc và Truyền đến chơi. Ngoài ra trong sổ tay còn ghi những cuộc tiếp xúc của cụ Phạm Quỳnh với một số chính khách và nhà báo. Tôi đoán họ là những người mà cụ Phạm Quỳnh đã nhờ vận động cho các buổi diễn thuyết dự tính được thành tựu. Sau đó, bà Ngoạn còn giới thiệu tập di cảo của cụ Phạm Quỳnh, dầy bốn mươi tám trang vở học trò, ngoài bìa có hai dòng chữ lớn : Kiến Văn Cảm Tưởng Hoa-Đường Tùy Bút Cả hai quyển này mầu giấy đã vàng úa (gần nửa thế kỷ rồi còn gì !). Tôi giở xem, đến gần trang cuối, thấy đề tựa "Cô Kiều với tôi ", thì thầm nghĩ ngay là bài này chắc ông cụ giốc hết bầu tâm sự đây, rồi vội vàng đọc một mạch à mới có ba trang giấy đã hết à bài viết còn dang dở, tôi ngẩn ngơ tiếc nuối. Bà Ngoạn kể :"Trong tình cảnh gia biến bối rối, cha và chồng bị bắt đem đi vì lý do mời lên họp ở toà Khâm rồi không thấy về, lành dữ chưa biết ra sao. Nhà cửa bị lục soát, sau đó các phòng ốc của toà nhà chính đều bị niêm phong, cả đại gia đình bị dồn vào ở trong ba gian nhà nhỏ thuộc khu phụ cận à Chẳng còn nhớ khi nào và trong hoàn cảnh nào tôi đã tìm thấy được hai kỷ vật quí báu này của ông cụ, ở trang chót có cái bút Waterman còn chặn ngang trên trang giấy viết dở." (Xin đọc ba trang thủ bút của Phạm Quỳnh kèm theo bài này) "Tâm sự thầy tôi khi trẻ giữ để bụng, lúc về chiều lại muốn thoát ra cho nhẹ, thì oan nghiệt của số phận đã bắt thác phải mang theo !" (Thầy tôi, bài của Phạm thị Hoàn (con gái thứ của học giả Phạm Quỳnh), đăng trong AÔi-Hữu số 115, tháng 6 năm 1992, xuất bản tại Paris). Đấy là lý do đã đưa tôi đến quyết định chọn đề tài "Cô Kiều với Phạm Quỳnh" để thuyết trình trong buổi đại lễ này. Tôi muốn lật lại chồng sách báo cũ, tìm vào chính những bài viết, những lá thư hay những câu trả lời trong các cuộc phỏng vấn của học giả Phạm Quỳnh, cùng dựa vào những lời phê bình của một số giáo sư, một số phê bình gia, tiểu thuyết gia và một số độc giả về cả hai phương diện hoạt động văn hoá lẫn chính trị của họ Phạm, đặc biệt là những lời khen chê quanh vụ án truyện Kiều, cộng thêm với sự nhận xét của riêng mình, tôi thử giải thích xem đâu là những cảnh ngộ trớ trêu, đâu là nỗi lòng ưu uất của học giả Phạm Quỳnh, trong suốt cuộc đời hoạt động không ngừng, từ thời tráng niên đến lúc về ở ẩn tại biệt thự Hoa-đường, khiến họ Phạm đã có ý xem mình là kẻ "một hội một thuyền" với cô Kiều. I. "Cô Kiều với tôi" Mở đầu cho bài nói chuyện "Cô Kiều với Phạm Quỳnh", tôi xin được giới thiệu và phân tích bài tản văn "Cô Kiều với tôi " của học giả Phạm Quỳnh. Đây là bài tuỳ bút thứ mười-một trong tập di cảo Kiến Văn Cảm Tưởng - Hoa Đường Tuỳ Bút mà Phạm Quỳnh - cựu Thượng thư bộ lại, kiêm Ngự tiền văn phòng đổng lý của vua Bảo Đại - đã thực hiện sau biến cố Nhật đảo chánh Pháp (tháng 3 năm 1945), khi ông rút lui khỏi chính trường về ở ẩn tại biệt thự Hoa-Đường, bên bờ con sông đào Phú-Cam, thuộc vùng An-Cựu, sát ngay thành phố Huế. Đặc biệt đây là bài văn cuối cùng của học giả Phạm Quỳnh, bài văn viết còn dang dở trước khi ông bị một nhóm người cách mạng bắt đi ngày 23-8-1945, rồi hạ sát tại khu rừng Hắc-Thu, thuộc tỉnh Quảng Trị sau đó vài tuần (Tài liệu Introduction au Nam Phong, Phạm thị Ngoạn, Extrait du Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Nouvelle série, Tome XLVIII, Nos 2 et 3, 2ème et 3ème trimestres 1973, page 209). 1) Phạm Quỳnh muốn xác nhận bốn câu thơ mào đầu, nói về tình cảnh của cô Kiều khi ra tu ở Quan-Âm Các, đã phản ảnh tâm sự của chính ông từ khi rời khỏi chính phủ lui về cuộc sống ẩn dật. Phạm Quỳnh viết : "Nàng từ lánh gót vườn hoa Dường gần rừng tiá, dường xa bụi hồng. Nhân duyên đâu nữa mà mong Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thời thôi à" "Sao mà truyện Kiều có lắm câu thiết tha, thấm thiá như vậy ! à Tưởng giá tự mình than thở cũng than thở như thế mà thôi. Mà bất cứ câu nào đoạn nào ; hễ ngẫu nhiên thích hợp là có cái âm hưởng lạ lùng như vậy à " 2) Phạm Quỳnh là người có một tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, và một trái tim đa cảm, rất dễ xúc động. Ta hãy nghe ông kể : "Hồi tưởng từ thuở nhỏ, mỗi khi nghe đọc một câu thơ iều, dù chưa hiểu nghiã, đã thấy cái âm hưởng lạ lùng, nó vang động trong lòng. Rồi từ đó cứ văng vẳng luôn bên tai, càng ngày càng tha thiết, thấm thía, có khi âm thầm não nuột như tiếng gọi xa xăm của một âm hồn tri kỷ tự chín suối đưa lên." Làm sao một cậu bé chưa hiểu được gì về ý nghiã của câu thơ Kiều mà đã bị cái âm hưởng, cái nhạc điệu của câu thơ quyến rũ, ám ảnh đến thế ? Nếu tìm hiểu tiểu sử Phạm Quỳnh ta sẽ bớt ngạc nhiên. Cậu bé Phạm Quỳnh chào đời được chín tháng thì mẹ khuất bóng, được chín tuổi thì cha cũng qua đời. Ta hẳn biết trong cuộc sống của đứa trẻ, không gì bất hạnh hơn là thiếu vắng tình âu yếm ngọt ngào, thiếu bàn taynâng giấc vỗ về của người mẹ, ca dao chẳng đã có câu : Con ở với bà, bà không có vú, Con ở với chú, chú là đàn ông. đủ biết không ai có thể thay mẹ được. Đã vậy, nếu lại mất cả cha thì dù có được sống đầy đủ vật chất, đứa bé vẫn cảm thấy hụt hẫng, mất nơi nương tựa về tinh thần, làm sao có thể sống hồn nhiên vô tư lự, hay yêu đời như những đứa trẻ bình thường khác ? Ca dao cũng đã có câu tả cảnh ngộ đáng thương này như sau : Có cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đờn đã đứt dây thì làm sao còn lên tiếng ca hát được nữa ! Trong thời thơ ấu, Phạm Quỳnh đã bị mồ côi cả mẹ lẫn cha, lại không anh chị em nên dù được bà nội thương yêu, cậu bé nhiều khi vẫn cảm thấy buồn tủi, cô đơn ; giữa lúc đó, vô tình nghe đọc một câu thơ Kiều (bà nội đọc Kiều, hay tiếng một bà mẹ trẻ đang hát Kiều ru con từ hàng xóm vẳng sang ?), bản tính vốn đa cảm, dễ xúc động nên cái âm hưởng đặc biệt "véo von, réo rắt mà nhịp nhàng" đến lạ lùng, kỳ diệu của câu thơ lục bát Kiều kia đã có sức tác động mãnh liệt vào tâm hồn Phạm Quỳnh, nó vuốt ve, vỗ về, an ủi được cõi lòng bơ vơ buổn tủi của cậu. Rồi từ đó những câu thơ Kiều trở thành nhu cầu cho đời sống tâm linh của Phạm Quỳnh, nó "cứ văng vẳng bên tai, càng ngày càng thiết tha, thấm thiá ", "như tiếng gọi xa xăm của một âm hồn tri kỷ tự chín suối đưa lên." Theo với thời gian, Phạm Quỳnh càng trưởng thành, vào đời càng gặp nhiều éo le, oan trái, ông càng hiểu rõ ý nghiã thâm trầm, thắm thiết của những câu thơ Kiều hơn ; để rồi cũng từ đó, cô Kiều, nhân vật chính trong kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, linh hồn của những câu thơ Kiều càng trở nên gắn bó, bất ly phân với ông. Phạm Quỳnh cảm cô Kiều đến tưởng như cô "sống luôn luôn bên mình, hầu như chi phối cả đời tình cảm của mình, đoán định cả cuộc thân thế của mình." Như thế, vô hình chung, Phạm Quỳnh đã xem định mệnh cô Kiều như định mệnh của chính ông. 3) Ngoài ra, Phạm Quỳnh còn cho ta biết, ông là người thứ nhất đem đối chiếu thân thế cô Kiều với thân thế Nguyễn Du mà nhận ra rằng :"Đoạn trường tân thanh là lời than vô cùng cảm động, vô hạn thiết tha của một văn sĩ có tài đau lòng vì cuộc đời ngang ngửa." 4) Còn đối với truyện Kiều, Phạm Quỳnh vì có cái tâm lý là người cùng cảnh ngộ với tác giả và người trong truyện nên ông đã phổ hết tình cảm vào đấy, cùng để nó bay bổng theo với tâm hồn lãng mạn của ông. Ông viết :"Lãng mạn cho đến đem cả chử nghĩa quốc gia căn cứ vào truyện Kiều ! Cho tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có quốc văn mới có quốc gia. Quốc văn ta thời tuyệt phẩm là truyện Kiều, trước sau chỉ có truyện Kiều, may có truyện Kiều, đáng quí báu vô cùng. Cho nên năm 1924, lần đầu tiên kỷ niệm cụ Tiên-Điền, trước hai ngàn người họp ở sân Hội Khai Trí, tôi trịnh trọng tuyên bố một câu : "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có điều chi nữa mà ngờ à" Và theo Phạm Quỳnh, câu đó chẳng phải là một lời vọng ngôn. Ông dẫn chứng : "Năm 1933, một văn sĩ Pháp nói về nước Ba-Tư làm lễ kỷ niệm thập bách chu niên thi hào Firdousi, tác giả sách Shahnameh (Đế-vương-lục), là một kiệt tác bằng tiếng Ba-Tư, nhờ sách đó mà tiếng Ba-Tư còn lưu truyền vang qua mấy mươi đời bị Ả-Rập đô hộ à" Có điều nên nói thêm, trong bản ngã của Phạm Quỳnh, khuynh hướng nghệ sĩ lãng mạn, đa cảm như đã được giới thiệu ở trên, chỉ là một khiá cạnh của cuộc sống, vì ngoài nó, còn có một khuynh hướng thứ hai, chủ về lý trí, mãnh liệt hơn, sẽ được nói ở phần sau. Tóm lại, qua mấy đoạn trong bài tùy bút "Cô Kiều với tôi" của học giả Phạm Quỳnh, chúng ta hẳn thấy, đây mới chỉ là những câu mở đầu của họ Phạm, nói tới các lẽ về tâm lý, về tình cảm đã đưa đến sự gắn bó giữa ông và cô Kiều ; Còn vì những lý do nào khiến Phạm Quỳnh có ý xem ông là kẻ "một hội một thuyền" với cô Kiều, thì ông ta chẳng bao giờ còn cơ hội để biện giải. Đây chính là phần mà tôi sẽ cố gắng thử trình bày trong bài thuyết trình này. (Còn tiếp) GS PHẠM THỊ NHUNG Xin đón đọc kỳ tới : - Hoàn Cảnh Lịch Sử Xã Hội VN Từ Cuối Thế Kỷ XIX Đến Đầu Thế Kỷ XX - Thân Thế, Chí Hướng, Hành Trang và Sự Nghiệp của Học Giả Phạm Quỳnh - Thời Làm Việc Tại Trường Pháp Quốc Viễn-Đông Bác-Cổ (École Francaise d'Extrême-Orient)
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:38:26 GMT 9
Cô Kiều với Phạm Quỳnh
- GS Phạm Thị Nhung -
Kỳ 2
II. Những Lý Do Nào Đã Khiến Học Giả Phạm Quỳnh Có Ý Xem Ông Là Kẻ "Một Hội Một Thuyền" Với Cô Kiều
Muốn cho vấn đề được sáng tỏ, chúng ta phải ngược dòng thời gian, đi lại từ đầu, nghiã là phải tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, sau đó, tìm hiểu thân thế, chí hướng, hành trạng và sự nghiệp của học giả Phạm Quỳnh, để có thể rút ra được một phần nào những nét tương đồng về tình cảnh giữa Phạm Quỳnh và cô Kiều, đã khiến họ Phạm muốn mượn cảnh ngộ éo le cùng tâm sự bi thương của nhân vật này đễ giãi bày nỗi niềm ưu uất của ông.
1) Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Năm 1856, thực dân Pháp bắt đầu bắn phá các đồn lũy ở cửa bể Đà Nẵng, sau liên tiếp đánh chiếm ba tỉnh miền đông (1862), rồi ba tỉnh miền tây Nam Kỳ (1867). Gần hai mươi năm sau, Pháp lại công phá thành Hà Nội (1882), tiến chiếm các tỉnh Bắc Việt và Trung Việt (1883-1884), rồi uy hiếp triều đình Huế. Để bảo vệ quê hương xứ sở, quan quân của ta ở khắp các chiến tuyến đã chống giặc quyết liệt. Biết bao anh hùng nghiã sĩ đã vị quốc vong thân mà nước vẫn không giữ được. Cuối cùng, triều đình đã phải chấp thuận nhượng hẳn đất Nam Kỳ cho Pháp (Hoà ước 1874), và công nhận quyền bảo hộ của họ trên toàn cõi Việt Nam (Hoà ước 1884).
"Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu." (Văn tế Tướng quân Trương Định của Nguyễn Đình Chiểu) nên các cuộc nổi dậy, tự động lập chiến khu võ trang chống Pháp của quân dân ta vẫn liên tiếp xẩy ra. Nhưng vì tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch quá, nên nửa sau cuối thế kỷ XIX, các tổ chức kháng chiến đã đi dần đến chỗ suy tàn.
Các vị vua tham gia kháng chiến đã bị đi đầy biệt xứ, các nhà ái quốc thì người trốn ra hải ngoại, kẻ tuẫn tiết, người bị chém bêu đầu, kẻ bị sát hại hay bị tù đầy hết cả.
Sau khi đã đè bẹp ta bằng võ lực, Pháp bắt đầu tính chuyện bình định, đặt nền móng cho cuộc đô hộ lâu dài. Hoà ước 1884 đã mất hết ý nghĩa vì thực quyền Pháp đã nắm hết, vua tôi triều đình Huế chỉ còn hư vị.
Trước thảm trạng ấy, những ai là kẻ quốc sĩ tất không đành lòng chỉ biết thở than hay tính chuyện lui về ở ẩn để giữ tiết tháo cho riêng mình, mà ngày đêm đã lao tâm khổ trí, cố tìm cho ra một giải pháp để cứu nước.
Giữa lúc đó, tiếng vang về cuộc chính biến 1897 ở Trung Quốc, tiếp theo là cuộc trỗi dậy của Nhật sau vụ chiến thắng Nga (1905), nhất là các tân thư của Nhật, Trung Hoa được lén lút truyền vào nước ta (truyền bá những tư tưởng dân chủ, cách mạng của Tây phương), đã làm cho kẻ sĩ nước ta giật mình thức tỉnh, tự hiểu ra rằng ta chưa thể đương đầu với Pháp bằng vũ lực được, mà muốn dân tộc sớm thoát khỏi cảnh nô vong thì từ nay ta phải cương quyết từ bỏ cái học u mê, từ chương cũ, và cấp thiết phải canh tân xã hội và học thuật theo Tây phương. Do đó phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu và Duy Tân của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời.
Phong trào của các cụ được dân chúng khắp ba kỳ hưởng ứng nồng nhiệt ; nhiều tỉnh đã lập chi nhánh hoạt động. Chính phủ bảo hộ nhận thấy Đ.K.N.T. đã trở thành một phong trào ái quốc và cách mạng, nên vội rút giấy phép 1908, và khủng bố nhân viên nhà trường.
Nhân vụ lính Pháp bị đầu độc ở Hà Nội (27-6-1908), và dân chúng nổi lên biểu tình kháng sưu thuế tại nhiều nơi ở miền Trung, Pháp lấy cớ các cụ xúi giục nên bắt hết các nhà lãnh đạo, làm án rồi đầy đi Côn đảo, như cụ Lương văn Can, người khởi xướng Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội à hay các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế ở miền Trung à
Chính trong hoàn cảnh lịch sử đen tối ấy của dân tộc, Phạm Quỳnh đã sinh ra và lớn lên.
2) Thân Thế, Chí Hướng, Hành Trạng và Sự Nghiệp của Học Giả Phạm Quỳnh
2.1 Thuở Học Trò (1892-1908)
Phạm Quỳnh, bút hiệu Thượng Chi, Hồng Nhân, Hoa Đường, Lương Ngọc ; sinh năm 1892 ; người làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương ; thuộc dòng dõi Nho gia khí tiết, đạo hạnh. Cha, ông, và kể cả tổ tiên nữa, đã mấy đời đều là những người văn học, chỉ theo nghề giáo, sống cuộc đời cần cù, thanh bạch.
Phạm Quỳnh mồ côi sớm, may nhờ được bà nội nuôi dạy và cho ăn học ở Hà Nội. Hết bậc tiểu học (12 tuổi), Phạm Quỳnh vào học trường Trung học Bảo hộ. Ngay từ thuởƯ học trò trung học ấy, Phạm Quỳnh đã tỏ ra là người chín chắn, có nghị lực và có ý thức về bổn phận của mình - Làm người An-nam là phải tập làm văn An-nam. "Tôi thuở nhỏ ham mê chữ tây lắm, khi ở nhà trường ra đã "tuy toe" làm thơ, làm văn tây rồi à nhưng đương ham mê như thế mà phẫn nhiên miễn cưỡng lại được, chợt tỉnh lại được mà tự nghĩ rằng văn mình nếu mình không tập thời có ngày lụn bại à Tôi ví như người nghiện văn tây mà tự mình bắt buộc à chỉ vì một chút khốn tâm, khốn tâm về văn quốc ngữ, chỉ vì một chút hi vọng, hi vọng có ngày mình cũng làm văn được như người." (Làm Văn, Nam Phong số 67, tháng 1-1923).
2.2 Thời Làm Việc Tại Trường Pháp Quốc Viễn Động Bác Cổ (EÔcole Francaise d'Extrême-Orient) (1908-1917)
Lớn khôn đôi chút, Phạm Quỳnh đã biết coi sự học là một nghĩa vụ mà đặt cho nó một mục đích chính đáng, cao thượng. Ông kể :"Từ khi khôn lớn biết nghĩ đến giờ chỉ nuôi một cái chí trong lòng, là đối với nhà làm thế nào nối được nghiệp ông cha, đắp được cái nền "sĩ phong" cho xứng đáng à đối với nước làm thế nào giúp cho quốc hồn được tỉnh táo, để mong cho quốc văn được sáng sủa à không dám đem cái chí nguyện mà hi sinh cho sự giầu sang." (Pháp Du Hành Trình Nhật Ký, Nam Phong số 90, 12-1924).
Nhưng muốn thực hiện cái chí ấy thì phải vươn lên, "học cho rộng, biết cho nhiều", "tham bác cả đông tây kim cổ", và "học không ngừng" vì "có học có biết mới làm nên". Còn cái học của nhà trường bấy giờ chỉ đủ cho người ta giựt được mảnh bằng kiếm sống, hay giành được chút địa vị trong xã hội mà thôi.
Thấu triệt được cái lẽ cao quí của sự học như thế, Phạm Quỳnh quyết tâm lo trau dồi thêm kiến thức.
Rất may, sau khi tốt nghiệp trường Bảo-hộ (1908), Phạm Quỳnh xin được vào làm việc tại thư viện trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ, liên tiếp gần mười năm trời (1908-1917). Sống giữa một rừng sách, Phạm Quỳnh tha hồ mà đọc, mà học hỏi.
Nhưng khi đọc sách thì một vấn đề khó khăn lại xẩy ra :
Đọc sách viết bằng chữ Pháp, đối với Phạm Quỳnh tất nhiên là dễ dàng rồi, vì đó là sở trường của ông ; chẳng vì tài Pháp văn ông đã giựt được chức "thủ khoa tây" trong kỳ thi Diplôme đầu tiên mở tại Bắc Kỳ đó sao ? Nhưng còn những sách viết bằng Hán-tự không lẽ lại bó tay, vì vốn liếng chữ Hán của Phạm Quỳnh lúc ấy bất quá "chỉ viết nổi hai chữ tên, còn thời mù mịt cả à Kỳ thi có một bài Hán-tự dịch ra chữ tâyn dịch "giỏi" đến nỗi chấm được nửa điểm (1/2). Đáng thì phải "0", hỏng "toẹt" không được đỗ à " (Pháp Du Hành-Trình Nhật-Ký).
Đây là thử thách thứ hai mà họ Phạm sẽ phải vượt qua. Nhờ vào trí thông minh hiếm có, lại nhờ ở sự quyết tâm gắng gỏi gia công học tập trong mấy năm liền, cuối cùng Phạm Quỳnh đã sở đắc được một vốn Hán-học vững vàng. Nó giúp cho ông không những tham khảo học hỏi thêm được nhiều điều về học thuật cùng những tư tưởng, triết lý thâm sâu hay cao thượng của Á-đông, nó còn giúp ông thấu rõ những cái hay, cái đẹp của tổ tiên mà hướng về nguồn cội.
Trong thời gian này, khi Đông -dương Tạp-chí ra đời (1913), Phạm Quỳnh đã tìm thấy ở ông Nguyễn văn Vĩnh một "đồng chí" trong tôn chỉ - phổ biến quốc ngữ - xây dựng quốc văn - và mở mang dân trí để phụng sự dân tộc.
Do đó Phạm Quỳnh đã hợp tác chặt chẽ với Đông Dương Tạp Chí bằng những bài biên dịch thiên về đường tư tưởng. "Ngay trong mấy số đầu Đông Dương Tạp Chí ông (Phạm Quỳnh) đã dịch những đoạn văn của Renan, Bossuet, Pascal à là những nhà văn lớn về tư tưởng và lý thuyết. Ngay từ bấy giờ (1913) giọng văn ông đã chín chắn khác thường" (Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại, Thăng Long tái bản, Sài Gòn 1960). Như thế đủ rõ lúc này Phạm Quỳnh viết văn đã nhằm đến mục đích nâng cao dân trí, và cố luyện cho quốc văn được vững vàng, tinh xảo.
Ngoài ra, Phạm Quỳnh còn viết cho Đông Kinh Nghĩa Thục "những bài biên khảo có tính cách thuần văn chương, bộc lộ cái băn khoăn của một nhà văn hoá trẻ tuổi trước sự xung đột, kình địch giữa hai thế hệ già với trẻ à" (Thanh Lãng, Trường hợp Phạm Quỳnh, Văn Học, 1963).
Lại cũng trong thời gian làm việc tại trường Bác Cổ, nhiều lúc có dịp nói chuyện với ông Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn, Phạm Quỳnh thường đem những vấn đề liên quan đến việc nước, việc nhà, việc quan, việc học ra nghị luận sôi nổi. "Ông biết tôi là người nhiệt thành, và cũng có bụng yêu : mỗi lần nói đến sự tương lai nước nhà, ông có ý muốn nghe hơn chuyện khác. Tôi vốn ít tuổi hơn ông, trong lời nghị luận không khỏi đường đột mạnh bạo, mỗi lần ông cứ để cho nói, mà xem ra lắm khi cũng cảm cái lòng thành của người bạn trẻ. Ông không cười sự nóng nẩy, mà thường ông lại khen cái bụng ngay." (Viếng ông Tuyết Trang, Thượng-Chi Văn-Tập III ).
Những điều này chứng tỏ ngay từ thuở làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ, chàng thanh niên mới lớn Phạm Quỳnh đã rõ ra là một kẻ sĩ có tâm huyết với vận mệnh quốc gia, dân tộc ; đã từng thao thức nhiều đến những vấn đề thời sự nóng bỏng của đất nước. Nhưng thay vì bi quan, yếm thế, Phạm Quỳnh như đã dự kiến được những giải pháp có thể canh cải, giải quyết được hoàn cảnh bế tắc về chính trị, cùng những xung đột tư tưởng về học thuật, luân lý Âu Á, mới cũ đang làm xáo trộn xã hội nước nhà bấy giờ, mà lòng háo hức nên biện luận sôi nổi, thuyết phục hăng say, gây được niềm tin yêu, hứng thú khi nghe chuyện của người bạn cùng sở.
Như đã được giới thiệu ở phần trên, trong bản ngã Phạm Quỳnh, ngoài khuynh hướng lãng mạn chủ về tình cảm, còn có một khuynh hướng thứ hai chủ về lý trí rất mãnh liệt. Nó được tạo nên trước tiên do sự giáo dục theo luân lý Nho-gia, truyền thống của gia đình (bà nội là đại diện), nó cũng là truyền thống văn hoá xã hội ta từ bao nhiêu thế kỷ nay, lấy trung, hiếu, nhân, nghiã, lễ, trí, tín làm phương châm cho cuộc sống mà thời đại Phạm Quỳnh vẫn còn được nhiều người xem trọng và duy trì.
Thêm vào đó, đến tuổi đi học, Phạm Quỳnh được theo Tây học, ông lại chịu ảnh hưởng bao nhiêu tư tưởng cao thượng và cũng rất thực tiễn của Tây phương, như tinh thần tự do, bình đẳng, quan niệm về danh dự, về nghĩa vụ làm người à ; cùng thâu thái được bao nhiêu kiến thức về khoa học, văn chương, học thuật của Pháp quốc. Sau nữa, hoàn cảnh vong quốc hiện tại cũng làm nẩy nở, khích động thêm ý thức về bổn phận đối với dân tộc của Phạm Quỳnh. Tất cả, vâng tất cả đó đã tạo cho bản ngã Phạm Quỳnh một khuynh hướng vững vàng thứ hai, chủ về lý trí. Chính khuynh hướng chủ về lý trí này đã lấn lướt khuynh hướng chủ về tình cảm, giành quyền chi phối, điều khiển những suy tư, những hoạt động của Phạm Quỳnh trong cuộc sống.
Hiểu như vậy, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Phạm Quỳnh còn là một cậu học sinh trung học đã có ý thức về trách nhiệm của mình, khi vừa ra trường đã biết đặt sự học thành một nghĩa vụ, và mong có ngày đem sự học của mình ra giúp nước, giúp đời.
(Còn tiếp)
GS PHẠM THỊ NHUNG
Xin đón đọc kỳ tới :
- Những tháng năm làm báo Nam Phong - Lý do và mục đích thành lập báo N.P. - Kiều và Phạm Quỳnh "bán mình" ra sao ? - Chính quyền bảo hộ với báo N.P.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:39:22 GMT 9
Cô Kiều với Phạm Quỳnh
GS PHẠM THỊ NHUNG
Kỳ 3
2.3. Những Tháng Năm Làm Báo Nam-Phong (1917-1932)
2.3.1 Lý Do Thành Lập Báo Nam Phong Năm 1917 phủ Toàn-Quyền Pháp, qua đại diện Louis-Marty, đề nghị Phạm Quỳnh đứng ra lập một tờ báo quốc văn làm cơ quan tuyên truyền tin tức trong nước.
"Mục đích chính trị cấp thời (là) phục vụ cho việc chiến thắng của Pháp trong trận giặc bấy giờ à Marty cũng nhắm một mục đích lâu dài hơn, là đem cái hay cái đẹp của văn minh Pháp tuyên truyền ra dân chúng dưới khẩu hiệu "khai hoá", gây một cơ sở vững chắc là cơ sở tinh thần cho cuộc bảo hộ."
Trước đề nghị ấy, Phạm Quỳnh nghĩ gì ? Nói một cách khác, đâu là những lý do chính yếu khiến Phạm Quỳnh chấp nhận đứng ra thành lập Nam-Phong Tạp-Chí ?
Qua bài phỏng vấn của Đào Hùng trên báo Phụ-Nữ Tân-Văn, Sài Gòn ngày 18-6-1931, Phạm Quỳnh cho biết : "Tôi sở dĩ nhận mở báo Nam-Phong là vì chính phủ tự lòng cho phép chớ không phải tôi yêu cầu. Vả tôi cũng muốn lợi dụng làm một cơ quan bồi bổ quốc văn." (Tài liệu Phạm Thế Ngũ, Lịch Sử Văn Học Việt Nam, q.III, Phạm-Thế xb 1965, in lần thứ 3, Phạm Ngũ Lão 1972)
Và qua một số bài của Phạm Quỳnh đăng rải rác trên Nam-Phong, ta dần dần phanh phui thêm được những lý do khác đã đưa ông tới quyết định chấp nhận hợp tác với Pháp thành lập tờ báo Việt ngữ này.
Thật thế, trong hoàn cảnh quốc phá gia vong bấy giờ, Phạm Quỳnh nhận thấy, Pháp không chỉ đánh bại ta bằng vũ lực, mà còn đang tấn công ta trên mặt trận văn hoá và giáo dục. Cái học cũ nay mai được bãi bỏ, cái học mới mỗi ngày một tràn lấn, các tư tưởng văn hoá tây phương đang được Pháp chủ tâm truyền bá sâu rộng trong đại chúng. Vẫn hay cái học mới ấy, những tư tưởng cấp tiến và thực tiễn của tây phương ấy, bấy giờ rất cần thiết cho ta trên đường văn minh tiến bộ để theo kịp người, các nhà ái quốc chẳng đã nhận thấy như thế, nên nhất trí cổ võ, truyên truyền đó sao ? Nhưng ta cần phải hiểu rằng chính nó cũng đang phá hoại tận gốc rễ ý thức hệ của dân tộc ta, đang làm sáo trộn xã hội ta.
Theo Phạm Quỳnh, nếu "đồng nhân" không được đưa đường, chỉ nẻo, thì sẽ dễ dàng đi vào cao trào duy tân một cách hấp tấp, vô ý thức, dần dần sẽ đi đến tình trạng bị "tiêu hồn", "mất gốc", "tây hoá", đúng theo sở ý của thực dân Pháp. Đó mới thập phần nguy hại, vì "xưa kia có mất nước, song hồn hãy còn, mà hồn còn thời nước không đến nỗi mất hẳn, nay có khác là nước mất mà hồn cũng thoi thóp thời nguy hiểm biết dường nào !"
Nhìn thấy trước mắt cả một "xã hội sốc nổi" giao thời Âu Á, cựu tân, bày ra lắm trò lố lăng, "thương phong hoá, bại cương thường", Phạm Quỳnh không khỏi rùng mình. Ông thầm nhủ :"Vận mệnh là vận mệnh chung cả một nước, mỗi người tất có một phần trong cái vận mệnh ấy à Mỗi người phải tuỳ theo sức, ghé vai mà gánh vác." Riêng ông :"Đường học mới được thiệp-liệp đôi chút, nền nếp xưa chưa đến nỗi xao lãng hẳn, tưởng cũng có một phần việc nhỏ trong cái công lớn lao tô-bồi cho tổ quốc" buổi ấy. Phần việc nhỏ đó chính là "đem hết trí tuệ mà nghiên cứu những vấn đề hiện thời, tìm phương pháp giải quyết cho thoả đáng à chỉ bảo cho đồng nhân biết". Theo Phạm Quỳnh, "nghĩa vụ đó đủ cao thượng, đủ xứng đáng cho kẻ trí thức nước ta tận tụy mà làm cho trọn." (Thơ Cho Bạn, 1919, Thượng-Chi Văn Tập, IV).
Sau hết, Phạm Quỳnh còn có một mục đích tối thiết nữa là dùng tờ báo làm phương tiện vận động, xây dựng văn hoá dân tộc, nhằm phát huy chủ nghĩa quốc gia, và gây lấy tinh thần tự lập cho quốc dân để mong có ngày giải phóng cho dân tộc :"Ta phải tìm cách gây lấy một nền tảng văn hoá riêng, tham bác cả hai tinh thần Âu Á à chính là một sự yếu cần cho lẽ sinh tồn à phải biết rằng dân tộc ta muốn tìm đường giải phóng, tìm đường tự lập, duy có cách đó mới mong kiến hiệu được... Xin quốc dân ta nhớ lấy rằng cứ tình thế nước ta ngày nay, vận động về đường chính trị không bằng vận động về đường văn hoá à" (Bàn phiếm về văn hóa Đông Tây, Nam Phong số 84, 1924).
Tóm lại, theo Phạm Quỳnh "cái vốn chung của một nước chính là gồm những công phu riêng của mỗi người" (Nghĩa Vụ Là Gì, 1917). Như thế không nhất thiết đánh giặc, hoạt động cách mạng mới là yêu nước, mà làm văn hoá có lợicho dân tộc, giúp "cho quốc hồn được tỉnh táo, cho quốc vận được sáng sủa" cũng là yêu nước !
Nhưng muốn hoạt động thì phải có phương tiện, hơn nữa, ngày nay mọi sinh hoạt của ta đều bị chính quyền bảo hộ kiểm soát gắt gao, hoạt động cách mạng văn hoá ôn hoà như nhóm Đông-kinh Nghĩa-thục cũng bị Pháp bóp chết. Vả lại, làm văn hoá không phải là một công tác ngắn hạn, nó đòi hỏi ta nhiều cố gắng và sự liên tục lâu dài. Nay tự dưng Pháp trao vào tay ta cái phương tiện cần có ấy để hoạt động, nó lại là cái bóng cho ta núp, sao ta không nắm lấy, lợi dụng nó để phục vụ cho cái lý tưởng hướng dẫn đại chúng và tài bồi cho nền văn hoá nước nhà ?!
Cái chí đã đặt ở việc nước như vậy nên Phạm Quỳnh biết "lấy việc thịnh suy nước nhà làm trọng hơn sự lợi hại cho mình" (Thư Cho Bạn). Thế là Phạm Quỳnh quyết định chấp nhận thành lập Nam-Phong Tạp-Chí, không quản ngại hợp tác với Pháp, dẫu rằng ợngười sáng lập và bảo trợ cho tờ Nam-Phong lại là Louis-Marty, trưởng toà chính trị phủ toàn quyền !
Phạm Quỳnh tự nghĩ, nếu mình đem hết cả tâm hồn, sức lực ra làm việc, thung dung mà tựu được cái nghĩa cả kia, thì rồi cũng có ngày tấm lòng son của mình đối với quốc gia dân tộc sẽ được quốc dân và sách sử xoi xét thấu.
Khi bắt tay vào việc thực hiện tạp chí Nam-Phong, Phạm Quỳnh đã phải đương đầu với nhiều vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và tế nhị.
Về thực tế, đây là một tờ báo của người Pháp lập ra, họ nhắm vào một mục đích rõ rệt là muốn dùng tờ báo, một cơ quan ngôn luận, để phục vụ cho quyền lợi chính trị của họ. Nhưng Phạm Quỳnh, chủ nhiệm kiêm chủ bút (về phần Việt ngữ) cùng những người cộng tác với tờ báo Nam-Phong có phải họ chỉ biết nhắm mắt phục vụ cho chủ trương ấy không ?
Tất nhiên là không ! Thật vậy, ngay bìa báo, nếu ta để ý nhận xét một chút, ta sẽ thấy có bao sự lủng củng ở bên trong, từ đó ta có thể đoán ra được là đã có sự tranh chấp giữa người Pháp người Việt, nói rõ hơn, là giữa Louis-Marty và Phạm Quỳnh. Nhưng cuối cùng mọi chuyện đã được dàn xếp, đôi bên đều phải chấp nhận nhau và cùng muốn lợi dụng nhau để tờ báo được ra đời.
Này nhé, trang nhất bìa báo, trên hàng chữ lớn NAM-PHONG được in đậm nét là mấy hàng chữ nhỏ viết bằng chữ Pháp :
L'Information Francaise
La France Devant Le Monde - Son Rôle Dans La Guerre Des Nations
Và ở phần cuối bìa báo là hình con gà trống Gaulois nổi bật trước một hình triện tròn, giữa hai vòng là ba chữ : Liberté-Égalité-Fraternité, biểu tượng và tiêu ngữ của Pháp quốc (xem phóng ảnh đính kèm trang sau).
Giở qua bià báo trang hai, trong phần ghi mục đích báo Nam-Phong, ta đọc được những dòng chữ :
"Mục đích của báo Nam-Phong là thể hiện cái chủ nghĩa khai hoá của Nhà-nước, biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An-nam, truyền bá các khoa học của Thái-tây, nhất là học thuật, tư tưởng Đại-Pháp, bảo tồn cái quốc tuý của nước Việt Nam ta à Báo Nam-Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An-nam."
Những dòng chữ này còn được đăng đi đăng lại không ngừng trên nhiều số báo Nam-Phong kế tiếp.
Như thế , chủ đích của chính quyền bảo hộ đã được phơi bầy "chình ình" ngay từ số ra mắt của Nam-Phong tạp chí rồi.
- Chủ đích cấp thời là lo việc tuyên truyền cho sự thắng lợi của Pháp trong cuộc Âu-chiến hiện tại.
- Chủ đích thứ hai là thực hiện chính sách khai hoá, gieo rắc văn minh Thái-tây, mà Toàn-quyền Albert-Sarraut đã đề ra.
Còn về phiá người Việt, trên bìa báo đó đã nói lên được những gì ?
- Dưới hai chữ tên báo NAM-PHONG in lớn, đậm nét, là hàng chữ nhỏ : Văn Học - Khoa Học - Tạp Chí.
- Liền đó, về phiá tay phải có ghi một câu danh ngôn của Tổng thống Mỹ Roosevelt bằng cả hai chữ Việt và Pháp :"Có đồng đẳng mới bình đẳng được", "Il n'y a que ceux qui sont des égaux qui sont égaux". Phạm Quỳnh coi đó là một châm ngôn nhắc nhở ông nhắm hoạt động của mình vào việc phổ thông giáo dục, nâng cao dân trí cho bằng người để mong sớm đưa dân tộc đến ngày tự do (Phạm Quỳnh trong Độc Thư Tạp Ký còn chép :"Trong kinh Coran của đạo Hồi có lời tuyên ngôn :"Trong bọn tôi tớ nhà ngươi, có kẻ nào biết làm đơn xin giải phóng thì ngươi xét có xứng đáng nên giải phóng cho nó". Hết thảy quyền tự do ở đời không phải kẻ làm chủ làm thày muốn hay không muốn cho mà được à Nói rằng biết làm đơn xin thì sẽ xét cho, nghĩa là trước hết phải biết đọc biết viết đã, phải cố gắng cho tới cái địa vị làm người tự do, biết trách nhiệm à biết bổn phận của mình, bấy giờ chí mình đã quyết thì quyền tự do của mình còn ai lấy được nữa." (Georges Deherme, T.C.V.T. II) )
Và trong đoạn văn nói về mục đích báo Nam-Phong, Phạm Quỳnh ngoài quyết tâm "giúp sự mở mang trí thức", còn chủ trương "Giữ gìn đạo đức trong quốc dân - bảo tồn cái quốc tuý của người Việt Nam - tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An-nam."
Rõ ràng đây chỉ là một vài vấn đề văn hoá của người bản xứ, chẳng dính gì đến chính trị cả, nên cuối cùng Louis-Marty chấp nhận được. Vả buổi ấy chính quyền bảo hộ chẳng đã cho dân An-nam được quyền làm văn hoá "miễn là không phạm đến chính trị thì tha hồ ngôn luận" là gì ? (Chữ dùng trong bài "Luận về chánh học cùng tà thuyết, Quốc văn - Kim Vân Kiều - Nguyễn Du" Ngô Đức Kế, báo Hữu Thanh số 21, ngày 1-9-1924).
Sau này, càng có dịp đọc những bài luận thuyết của Phạm Quỳnh liên quan đến vấn đề quốc văn, quốc học, quốc túy, ta càng hiểu được cái thâm trầm, cái ý nhị của họ Phạm muốn gửi gấm qua mấy câu đơn sơ đó. Phạm Quỳnh muốn nhắn cho độc giả ông biết rằng ông sẽ dùng chúng như một chiến thuật để "bẻ gãy", để "vô hiệu hoá" cái dã tâm của thực dân muốn truyền bá văn minh tư tưởng học thuật Pháp chẳng phải vì lý tưởng khai hoá "nhân đạo" gì, mà thực ra cốt đưa dân ta đến chỗ bị "đồng hoá" để đời đời làm nô lệ cho họ.
Lại nữa, chính những chi tiết xác định tờ Nam-Phong của chính quyền Pháp như vừa được trình bày ở trên, cũng như ở trang hai bìa báo (từ số 20 trở đi), phần giới thiệu những người sáng lập tờ Nam-Phong, tên Louis-Marty được xếp vào giữa Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác (Nguyễn Bá Trác còn là chủ bút phần chữ Nho cho tới khi ông được vời vào Huế làm quan (tháng 9-1919). Kể từ số 27 (9-1919) một mình Phạm Quỳnh lãnh trách nhiệm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Nam-Phong), với cả danh phận "Trưởng toà Chánh trị ở phủ Toàn quyền", Phạm Quỳnh cũng muốn "lưu ý" độc giả của ông rằng : Đã là báo của chính quyền bảo hộ, thì tất nhiên họ đòi hỏi phải có những bài viết nằm trong chính sách của họ, tuyên truyền ca tụng những cái hay cái đẹp của dân tộc họ, khen-lao những việc làm của chính họ. Phạm Quỳnh mong đồng bào sẽ hiểu và thông cảm cho tình cảnh éo le của ông mà đừng chấp nhất đến một số những lời nịnh nọt, tán tụng Pháp trong đó làm chi.
Phạm Quỳnh, một trí thức thông minh, tài hoa, đã phải bôi tro trát trấu ra hợp tác công khai với chính quyền bảo hộ, phải để chính ngòi bút của mình cùng vài ngòi bút khác của Nam-Phong viết một số bài "nịnh tây", hay nói như một số dư luận chống đối bây giờ là "hót tây", làm "bồi tây", hay tệ hơn nữa, là phải "đánh đĩ ngòi bút" để phục vụ cho quan thầy bảo hộ, cũng chỉ vì muốn mua chuộc cảm tình, lấy lòng tin của họ cho mình được yên thân lo việc phù thế giáo, cho mình được yên thân hoạt động văn hoá phụng sự dân tộc. Dầu đã được trang bị bằng những lý lẽ cao thượng thế nào chăng nữa, Phạm Quỳnh vẫn không khỏi có nhiều lúc đau lòng, thương thân, nỗi niềm không thể bày tỏ cùng ai. Cuối cùng ông đã tìm thấy ở cô Kiều một niềm an ủi : một người bạn tâm sự, một người đồng cảnh ngộ.
Như chúng ta đã biết, cô Kiều trong truyện Đoạn-Trường Tân-Thanh của Nguyễn Du là một thiếu nữ thông minh, tài hoa, diễm lệ tuyệt vời ; đã có một mối tình tha thiết với chàng Kim-Trọng ; chỉ vì gia biến, cô phải bán mình cho Mã-Giám-Sinh để lấy tiền hối lộ cứu cha, và giữ được vẹn toàn cho cả gia đình :
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
để rồi bị họ Mã lừa mà phải đầy đoạ trong kiếp gái lầu xanh.
Những đêm về sáng chợt tỉnh giấc, cô Kiều xiết bao tủi thương cho thân phận hiện tại của mình :
Mặt sao dầy gió dạn sương
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân.
đôi khi cô phải gượng sầu làm vui, nhưng vui làm sao được, vì có ai là người san sẻ nỗi niềm tâm sự :
Vui là vui gượng kẻo mà
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.
Như thế, qua một cái nhìn đại cương, ta thấy quả đã có sự tương ứng, trùng hợp giữa Phạm Quỳnh và cô Kiều từ giá trị nội tại, cảnh ngộ éo le đến tâm sự cô đơn. Từ đó ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy trong bài "Cô Kiều với tôi" Phạm Quỳnh đã viết những câu như "Cô Kiều đối với tôi có cái thanh khí thâm trầm à có khi âm thầm não nuột như tiếng gọi xa xăm của một âm hồn "tri kỷ" từ chín suối đưa lên à tưởng như người ấy sống luôn bên mình". Và mới hiểu vì sao trong nhiều đoạn văn viết bất cứ dưới đề mục nào, Phạm Quỳnh cũng thường xen vào một hai câu thơ Kiều, không chỉ để thêm "mặn mà", thêm "ý nhị", mà chính vì Phạm Quỳnh muốn cô Kiều luôn luôn hiện diện ở bên ông, để nâng đỡ và chia sớt với ông những nỗi vui, buồn trong cuộc đời.
(Còn tiếp)
GS PHẠM THỊ NHUNG
Xin đón đọc kỳ tới : - Hoạt động văn hoá và gây dựng một nền học mới của Phạm Quỳnh; - Phạm Quỳnh hô hào những gì ? - Ông phản đối những gì ?
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:40:09 GMT 9
Cô Kiều với Phạm Quỳnh
GS PHẠM THỊ NHUNG Kỳ 4
2.3.2 Hoạt Động Văn Hoá - Gây Dựng Một Nền Học Mới
2.3.2.1 Đắp xây cơ sở và vun trồng cho văn quốc ngữ.
Sau 15 năm thành lập báo Nam-Phong, Phạm Quỳnh chủ nhiệm kiêm chủ bút, qua bài Quốc Học với Quốc Văn (NP số 164, tháng 7-1931), đã xác định rõ lập trường thờ chủ nghĩa quốc gia, bằng những hoạt động phụng sự cho văn hóa nước nhà bấy nay như sau :
"Báo Nam-Phong từ ngày ra đời đến giờ vẫn theo đuổi một mục đích : gây lấy một cái tản-văn để vừa làm cơ quan vừa làm cơ sở cho quốc học sau này ; vì chúng tôi vẫn đinh ninh rằng không có quốc học thì không sao có độc lập về tinh thần được, không có độc lập về tinh thần thì không sao có được độc lập về chính trị được.
"Ấy quốc văn nó quan hệ cho quốc học như vậy, quốc học quan hệ cho quốc vận như vậy" thế nên "Nhà văn muốn thờ nước thì không có cái phương tiện nào hay bằng giúp cho nước có một nền quốc văn xứng đáng.
"Đó là cái chủ nghĩa của tôi bấy lâu nay, mà là cái tín điều thứ nhất trong đạo quốc gia của tôi vậy."
Lời xác định này đã soi sáng cho lý tưởng phụng quốc bằng văn hoá của Phạm Quỳnh khi nhận lời thành lập Nam-Phong. Thế nên vừa có phương tiện trong tay, Phạm Quỳnh thảo ngay một kế hoạch hoạt động lâu dài để tiến tới việc xây dựng một nền quốc học trong tương lai, mà cấp vụ đầu tiên là phải gây lấy một nền quốc văn xứng đáng.
Do đó báo Nam-Phong ngay số ra mắt, Phạm Quỳnh đã đặt vấn đề xây dựng quốc văn làm mục tiêu chính của tờ báo
"Vấn đề quan trọng nhất trong nước ta ngày nay là vấn đề văn quốc ngữ. Vấn đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể tấn tới, dân trí mới có thể mở mang, bước tiến hoá sau này mới có thể mong mỏi được. Đến ngày chữ quốc ngữ dùng làm quốc văn được thì người nước Nam mới thâu thái được các khoa học mới mà gây thành một nền học thích hợp với trình độ, mới phát biểu được tinh thần cốt cách của mình à Nói rút lại quốc ngữ có phát đạt thì nền quốc học mới gây dựng được, quốc dân ta mới không đến nỗi chung kiếp đi học mượn, viết nhờ như từ trước đến nay" (Văn Quốc Ngữ).
Để giải quyết vấn đề quốc văn "mới nở còn non nớt chưa đủ sức" buổi ấy, Phạm Quỳnh đã phải nỗ lực hoạt động trên nhiều lãnh vực.
Phạm Quỳnh cổ võ đồng bào tham gia chiến dịch gây dựng tài bồi cho văn quốc ngữ bằng cách viết văn, đọc văn.
Vì nhận thấy dân mình bấy giờ thường có thái độ "coi thường, coi khinh, thờ ơ " với văn quốc ngữ, vì lẽ : học dễ không đáng học - quá non nớt, yếu kém so với văn Tàu, văn Tây - vô tích sự vì không mưu sinh được, nên ông ra công kêu gọi bằng cách khơi động lương tâm và lòng ái quốc của họ.
Văn quốc ngữ nước ta ngày nay ví như đứa trẻ "đương buổi ấu trĩ này, phải có người chăm chút, phải có người trông nom, phải có người phù trì mà cũng phải có người tưởng lệ, thì mới mong ra khỏi tuần măng sữa, hết thời kỳ sài đẹn, mà đến tuổi lớn khôn mạnh mẽ."
Thế nên ông khích lệ những nhà Tây học, cùng những nhà cựu học, hãy "viết văn quốc ngữ, đem sở học, sở trường của mình đóng góp công đức vào việc xây dựng tô bồi cho nó."
Không những kêu gọi người viết văn, Phạm Quỳnh còn kêu gọi cả người đọc quốc văn (để phấn khởi người viết văn)ợ khi cho rằng "ngày nay người nào chịu tập văn nôm là làm một việc công đức, người nào chịu xem văn nôm là làm một việc nghĩa vụ. Công đức ấy, nghĩa vụ ấy, người có lòng có dạ với nước, há lại chẳng nên vui vẻ mà làm ru ?
Chữ quốc ngữ chính là cái bè từ để cứu vớt bọn ta trong bể trầm luân à Xin đồng bào chớ lãng bỏ, chớ khinh rẻ văn quốc ngữ. Tương lai nước ta chính ở đó." (Văn Quốc Ngữ, N.P. số 1, 1917)
Riêng phần Phạm Quỳnh, ông một lòng cung-cúc, tận tụy đắp xây cơ sở và vun trồng cho quốc văn : trước hết bằng những bài biên dịch thiên về đường tư tưởng, nghị luận, theo Phạm Quỳnh, "lúc quốc văn mới nhúm thành à ta cần phải dịch sách người hơn là làm sách mới "
Sao vậy ? Vì họ Phạm muốn nhắm vào những mục đích :
. Luyện cho câu văn quốc ngữ được "sắc sảo, mềm mại".
. Học lấy và truyền bá lối văn học vấn, văn nghị luận, thuyết lý mà ta chưa có.
. Sau nữa là có dịch, có đối chiếu với văn người mới biết mình thiếu tiếng gì mà phiên dịch, tân tạo những tiếng mới, bổ khuyết vào, cho quốc văn thêm phong phú.
Trong bài "Báo Nam-Phong Được Mười Tuổi " (N.P. số 119, 1927), nhóm biên tập cũng đã lưu ý về những điểm này như sau :
"Về việc đoàn luyện quốc văn, chúng tôi nghiệm ra, vận văn của nước ta nhờ các tiền nhân tập luyện đã đến bậc tinh xảo lắm. Thi ca mà như truyện Kiều thì sánh với thế giới tưởng cũng không kém. Duy tản văn xưa nay hầu như chưa có, mà tản văn mới là văn nghị luận, văn thuyết lý. Vậy việc cần cấp là phải gây ra một lối tản văn thích dụng cho sự truyền bá tư tưởng ngày nay. Cái khuyết điểm thứ nhất của văn quốc ngữ là còn thiếu các danh từ để chỉ những sự vật cùng nghĩa lý mới. Bởi thế nên trong mấy năm chúng tôi hết sức tra cứu các sách Tây, sách Tàu mà nhặt lấy hoặc dịch ra những chữ cần dùng, 'phát hành' kể có hàng ngàn tiếng mới."
Những chữ mới này đẵ được xuất hiện đều đặn trên mấy tờ "Tự Vựng" trong mỗi số Nam-Phong, được thích nghĩa rõ ràng, để giúp cho sự học trong nước và cho người làm văn khỏi dùng sai lầm. (Lê Thanh trong bài "Ba người thợ cần mẫn : Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Khắc Hiếu" đăng trênbáo Tri Tân số 172 ngày 28-11-1941, viết "Trong một câu chuyện văn chương, ông Đào Duy Anh cho tôi biết rằng cái mục Tự Vựng đã giúp sự học của ông rất nhiều và có lẽ chính những trang giải nghĩa danh từ mới ấy là cái mầm những từ điển của ôngà") Lâu dần chúng trở thành quen thuộc, thông dụng. Bao nhiêu chữ mới như : quan điểm, chủ nghĩa, xã hội, văn minh à đã thấy tái hiện trên sách báo, và làm công cụ diễn đạt tư tưởng cho người Việt chúng ta từ bấy lâu nay.
Lại nữa, câu văn quốc ngữ chưa có kỷ luật gì nên Phạm Quỳnh đã nêu ra vấn đề văn pháp, và gợi ý các nhà tân cổ học viết văn quốc ngữ nên biết những ưu, khuyết điểm của mình, bổ túc cho nhau để tạo một lối riêng cho văn quốc ngữ :
"Quốc văn ta đã chịu ảnh hưởng của chữ Hán trong mấy mươi đời, nay muốn gây dựng ra quốc văn phải nhân ảnh hưởng đó mà lợi dụng ra (những người chủ trương bỏ hết chữ nho cùng những lối văn nho đã dung hoà với quốc âm từ bao giờ đến giờ là nghĩ sai cả). Nay ta học tiếng Pháp nhiều, tất cũng phải chịu ảnh hưởng của Pháp văn"à "Người thuần cựu học thì có nhiều chữ dùng mà cách sắp đặt còn lộn xộn, không biết chấm câu theo lối mới, rất là quan hệ cho văn chương. Người thuần tân học thì thuộc phép đặt câu mà chữ dùng thường thiếu thốn, không đủ tiếng mà nói hết cái ý của mình."
Nay đem hai lối văn ấy mà "hoà lộn với nhau, lẫn cho nhau, nhờ đó mà không bao lâu quốc văn ta thành được, gồm cả tinh hoa của Âu Á " à Tuy "lấy Hán văn, Pháp văn làm mẫu " là cốt "theo thể thức hay, phương pháp khéo của người " còn mình vẫn phải "cố giữ lấy tinh thần riêng của tiếng An-nam mình ", đến thế quốc văn mới gọi là hoàn toàn được (Văn Quốc Ngữ).
Bảo vệ tiếng Việt
- Phạm Quỳnh hô hào chỉ nói ròng tiếng Việt.
Thấy phái Tây học có thói quen "hễ nói chuyện gì cao xa một chút thời dùng tiếng tây ", hay "đương nói chuyện tiếng ta đem pha ít nhiều tiếng tây vào ", Phạm Quỳnh phàn nàn lối nói chuyện đó không những "bác tạp khó nghe", mà "còn rất phương hại cho tiếng nói nước nhà, như vậy thời tiếng Việt Nam ta bao giờ mới thành văn được ?"
Và theo họ Phạm, "chỉ nên nói tiếng nước mình, không những dùng để nói những câu chuyện thường, phải dùng để nói những chuyện cao xa nữa, dầu lúc đầu có không đủ tiếng dùng, hơi khó một chút, mà dùng mãi thành quen ". (Bàn về diễn thuyết, 1921, Thượng Chi Văn Tập II)
- Phạm Quỳnh phản đối chủ trương dùng tiếng Pháp thay tiếng Việt.
Trong nước bấy giờ có người đề xướng lấy tiếng Pháp thay thế tiếng An-nam làm tiếng nói phổ thông trong nước, sau lại được một số trí thức tân học nhất là trong Nam hưởng ứng, Phạm Quỳnh đã cực lực phản đối qua bài Chữ Pháp Có Dùng Làm Quốc Văn Được Không ?(1918, T.C.V.T. VI) :
Người ta lấy cớ "tiếng An-nam ta nghèo ngặt, thiếu thốn không đủ dùng ",Phạm Quỳnh đã hết sức bênh vực nó mà cho rằng đó "là một câu nói hàm hồ à vì không khi nào tiếng nói trong nước lại không theo kịp trình độ của quốc dân. Tiếng nói trong nước nghèo là trình độ quốc dân thấp, nếu trình độ cao hơn tất tiếng nói phải giầu thêm cho xứng đáng à Thử đem một câu ca dao ta mà dịch ra tiếng tây, một lời tục ngữ ta mà dịch ra tiếng tàu, chắc cũng không sao mà hết ý nghĩa được. Như vậy chữ Pháp, chữ Nho lại nghèo hơn tiếng ta hay sao ?
"Nay phần nhiều nói tiếng ta nghèo chỉ vì ta chưa có đủ những danh từ về cách trí, khoa học, kỹ nghệ à Người mình cứ nên gia công giải cứu cho thật thâm, và thứ nhất là phải có cái chí muốn đem những điều mình học được nói ra tiếng mình à khiến cho người không học cũng có thể hiểu được, mỗi người mỗi làm như vậy, thiếu chữ gì thì đặt chữ mới ra cho gọn ghẽ, hoặc mượn chữ ngoài cho tiện dùng, như vậy thì mấy nỗi tiếng An-nam lại chẳng được phong phú bằng nhiều tiếng nước khác hay sao ?"
Huống chi "Quốc âm là tiếng nói tự nhiên đặc biệt của một giống người à Có nói bằng tiếng ấy mới tỏ được hết tâm tình à đã là đặc biệt chỉ riêng cho một giống người à thời tất biểu hiệu được tâm hồn của giống ấy à cho nên quốc âm tức là một biểu hiệu tự nhiên của quốc hồn ".
Như the,ã "Tiếng nói là phần cốt yếu làm thành một nước à nước sống về tiếng nói, tiếng nói còn, nước sẽ không thể mất được à"
à Coi như dân Ba-lan (Polonais), dân Tiệp Khắc (Tchèque) bên Âu-châu, tuy quốc thể không còn, người một giống làm tôi mấy nước, mà quốc âm vẫn giữ được, nên chủng tộc không đến nỗi mất, và nhờ cuộc chiến tranh này (1914-18) lại khôi phục được quyền độc lập, từ nay lại có tên trên bản đồ thế giới."
(Còn tiếp) GS PHẠM THỊ NHUNG
Xin đón đọc kỳ tới : - Phạm Quỳnh chống lại nghị định học vấn thi cử của Albert-Sarraut như thế nào ? - Ông đưa dân tộc lên đường tiến bộ bằng cách nào ? - Ông gửi thư cứu quốc, bàn về tinh thần lập quốc, ra sao ?
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:41:24 GMT 9
Cô Kiều với Phạm Quỳnh GS PHẠM THỊ NHUNG - Kỳ 5 - Thay lời giới thiệu Vận động tiếng Việt vào giáo dục, Xây gia đình, phong tục bảo tồn, Văn minh "tăng bổ" tâm hồn, Tài bồi cốt cách như cồn cát cao, Dùng biên dịch đưa vào quốc học Ý tây tàu tinh lọc cho thông, Quật cường nòi giống Tiên Rồng, Cùng nhau chuốt lục tô hồng sử xanh. - Bình Huyên -
2.3.2.2 Vấn đề dân tộc giáo dục Tất cả những hoạt động hướng về việc đắp xây cơ sở, và vun trồng cho văn quốc ngữ cũng chính là công việc cấp thời để gây lấy khí cụ tuyên truyền giáo dục trong quốc dân như Phạm Quỳnh đã xác định trong phần trả lời bài "Cảnh Cáo Học-Phiệt" của Phan Khôi, đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, số 67, năm 1930. "Tôi vốn là nhà văn, nhà học vấn, cái chủ nghĩa tôi phụng sự bấy lâu nay - kể trên dưới mười lăm năm trời, thật là dốc một lòng chuyên một dạ - chính là chủ nghiã quốc gia, nhưng chỉ phụng sự về văn hoá, chưa hề chuyển di sang vấn đề chính trị. "Tôi thiết nghĩ rằng muốn cho nước nhà được tiến bộ thì phải gây lấy khí cụ để tuyên truyền giáo dục. Cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục là ngôn ngữ văn tự trong nước..."
Và trong lời nói đầu của tờ Nam-Phong số ra mắt, Phạm Quỳnh đã nêu ngay vấn đề quốc dân giáo dục như sau: "Bản báo muốn à giúp cho sự học trong nước à Nước lấy dân làm gốc, trong dân nếu được nhiều người có cái thông thường học thức thì cái gốc trong nước tất được bền chặt, cái nền trong nước tất được vững vàng thêm lên ". Muốn thực hiện điều này thì phải cố vận động cho "tiếng Việt có địa vị hẳn hoi trong quốc dân giáo dục", đồng thời xúc tiến việc "mở mang dân trí." Ngày 22-12-1917, nghị định của Toàn quyền Albert Sarraut ấn định thể lệ mới cho việc học, việc thi trên toàn quốc: chữ Pháp được dùng thay thế cho chữ Nho, và tiếng Pháp được dạy ngay từ lớp khai tâm cho trẻ em được tiếp xúc thẳng với Pháp học.
Phạm Quỳnh thấy rõ đường hướng giáo dục có tính cách "đồng hoá" này của thực dân Pháp rất nguy hại cho tiền đồ của dân tộc, nó làm cho dân ta dần dần sẽ bị "tây hoá", "mất gốc". Vả muốn dạy khắp quốc dân không có chữ quốc ngữ không xong, mà không có khoa thi quốc ngữ thì lấy chi mà thưởng lệ cho người ta. Do đó ông đã "vận động ở báo tây, vì báo ta vô hiệu, để xin lấy chữ quốc ngữ dạy các trường tiểu học và cho thi tốt nghiệp tiểu học bằng quốc ngữ. Người ta lấy cái tội nghèo của tiếng An-nam mà phản đối". Phạm Quỳnh nêu vấn đề: "Tiếng An-nam có quả nghèo không? Anh em ta phải phá cho ra cái nghi án thiên cổ đó "(Làm văn, 1923, Thượng Chi Văn Tập III).
Và để đạt được mục đích mở mang dân trí, đưa dân tộc lên đường tiến bộ: - Phạm Quỳnh quyết đem những tư tưởng, học thuyết, khoa học văn minh của thái tây truyền bá ra, vì "Người ta ai cũng phải thay đổi, dân tộc nào cũng phải tiến hóa, phép sinh hoạt như thế à Lại sự tiến hoá ấy càng ngày càng khuynh hướng về Âu châu "(Bảo Thủ và Tiến Hoá, N.P. số 156). - Nhưng truyền bá bằng phương pháp biên dịch, tại sao vậy? Vì theo họ Phạm "Phàm những tư tưởng gì mà không nói được ra tiếng ta thì chưa phải là tư tưởng của mình, còn là tư tưởng mượn à Những tư tưởng trong sách tây, sách tàu phải diễn ra bằng tiếng ta cả, khác nào như qua cái óc ta lọc đi một lần, dễ cho sự tiêu hoá biết là nhường nào." - "Học văn minh học thuật của người chỉ là để "tăng bổ" cho mình chứ không phải để "tiêu nhập" vào người ", do đấy Phạm Quỳnh chủ trương "Sự tiến hoá muốn cho thực có ích lợi tất phải giữ lấy các nề nếp cũ của quốc gia, giữ lấy cái tinh thần cũ của dân tộc, không nên làm cho dân này, nước này đến mất cả cốt cách tinh thần đi, mà phải giúp cho biết tự nhận chân mình, giúp cho tài bồi cái cốt cách của mình, để cho vừa sống được trọn cái đời riêng của mình, vừa tiếp đón được cả các phong trào lớn đời nay." (Giảng nghĩa việc đồng hóa. N.P. số 163)
Chính vì chủ đích muốn duy trì những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc để ngăn chặn chính sách "giáo dục đồng hoá" của bảo hộ, Phạm Quỳnh đã làm công việc giữ gìn đạo đức trong quốc dân, và bảo tồn những gì mà ông gọi là quốc hồn quốc túy của dân tộc: "Chẳng phải là Nho học đã gây dựng gia đình, xã hội, quốc gia của ta ru? Chắc ngày nay Nho học đã nhiều phần cũ rồi, không hợp thời nữa, nhưng cũ là về phần hình thức mà thôi, còn phần cốt cách tinh thần, còn cái gốc đạo đức của Nho học thì cùng với núi sông mà sống mãi muôn đời "(Bàn Về Sự Dùng Chữ Nho Trong Văn Quốc Ngữ, N.P. số 20, 1919). - Gây dựng gia đình cho bền chặt: "Ngày nay tôn giáo mỗi ngày một suy, triết lý không còn gì bằng cứ, nhân tâm không biết lấy đâu làm bờ bến. Nếu không có gì làm quy tắc thì lòng người phất phơ, xã hội nguy hiểm. Đoái đi xét lại duy có gia đình là còn có thể giúp cho xã hội duy trì được. Nếu biết gây dựng cho bền chặt à lấy tình sâu nghĩa nặng mà ràng buộc nhau à thì thời thế nào suy di được, phong trào nào lay chuyển được? "(Bình Luận Tiểu Thuyết Les Roquevillards của Henry Bordeaux, N.P. số 2, 1917). - Bảo vệ phong tục tập quán cổ truyền: "Khoảng 1929-30, trong xã hội Việt Nam ta đang muốn Âu hoá triệt để, đã nẩy sinh ra một phong trào từ Nam đến Bắc hô hào dùng dương lịch, bỏ hẳn âm lịch và ngày Tết Nguyên Đán. Chống lại phong trào này, Phạm Quỳnh đã viết một bài thật dài, ca tụng Tết có nhiều ý nghĩa thâm thúy, thiêng liêng, Tết là gốc luân lý của gia đình." (Đặt Vấn Đề Với Ông Nguyễn văn Trung... Ái Linh trong Vụ AÔn Truyện Kiều) "à Tết còn là sự thánh hoá, sự ca tụng, tán dương chủ nghĩa gia tộc và sự thờ phượng tổ tiên à Mấy ngày Tết chính là những ngày mà cả đại gia đình đông đủ quây quần tụ họp à những hôm đó trên bàn thờ trang hoàng rực rỡ, những bài vị ghi tên tuổi các vị tổ tiên đã mất đều được mở ra trưng bày, những đèn hương sắp lên nghi ngút à các vị tổ tiên ông bà đều về sống chung với gia đình con cháu à" (Psychologie du Têt, N.P. số 149, 1930, Phạm Thị Ngoạn dịch) - Bắt chước đạo tu thân xử thế của các bậc hiền nhân quân tử nước nhà, "quốc túy chính là cái cách riêng căng-trì, cẩn-thủ, sửa mình ở đời à làm sao cho thực hành được cái lý tưởng đạo đức của các bậc thánh hiền trong nước vậy."(Cụ Nguyễn Bá Học, T.C.V.T. V) - Noi theo tinh thần lý tưởng về sự học của người xưa: "à Học như thế trước là để sửa mình, sau là tề gia, sau nữa là trị nước, may mà nên à thì đem cái học ra mà phò vua giúp nước, chẳng may không làm nên thì thiết trường dạy học trò cũng đem được cái học bình sinh vun trồng cho hậu tiến, duy trì được xã hội, gia đình à Ấy cái chí khí của kẻ sĩ nước ta ngày xưa như thế, ai bảo rằng không chính đại quang minh? " (Thơ Cho Bạn, 1919).
Lại nữa, Phạm Quỳnh tuy đã nhiều lần tuyên bố trên báo chí là ông chỉ làm văn hoá, không làm chính trị, thật ra đấy chỉ là một cách nói cho đúng với chính sách và làm yên lòng bảo hộ, vì ngoài vấn đề nâng cao dân trí và bảo tồn những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, Phạm Quỳnh còn luôn luôn hướng ngòi bút của mình vào sự giáo dục quốc dân về tinh thần tự phấn, tự cường, về ý thức trách nhiệm đối với hiện tình đất nước để mưu đường giải phóng cho dân tộc sau này: "Nước mình kém hèn đủ mọi đường, làm người có chí hãy nên nghĩ cách giúp nước trước đã, đó là sự cần cấp à phải gia công gắng sức làm sao để tự phấn, tự cường lên." (Thanh niên có nên buồn không?, N.P. số 68)
Nhất là thanh niên lại phải biết coi thường danh lợi mà đặt sự học cho một lý tưởng "cứu quốc" cao đẹp: "tiếp tục cái học thống cũ, và mở đường cho người mình tiến lên cõi văn minh tư tưởng mới, phải chấn loát tinh thần, đề khởi sự nghiệp, phá những thói mê hủ tục, sửa những nết tốt, tính hay, nói tóm lại là phải làm thuốc "bổ não" cho khỏi cái cố tật ủy mị suy đồi, đổi thành tính cương cường mãnh tiến chuộc lại được sự chậm trễ bấy lâu nay mà phấn phát bước lên cho theo kịp người. Bởi thế nên gọi là học cứu quốc, nghĩa là học để cứu nước khỏi yếu hèn mà nên mạnh mẽ " (Độc Thư Cứu Quốc, 1920, T.C.V.T. IV)
Ngay cả những bài biên dịch giới thiệu văn học, tư tưởng của nước ngoài, Phạm Quỳnh cũng lợi dụng lời bình luận để lái về quốc sự mà chiêu hồn nước. Như khi giới thiệu về tư tưởng lập quốc của Renan, một văn hào Pháp, Phạm Quỳnh viết: "à Cái lịch sử của ta à xưa kia quật cường bao nhiêu, bây giờ xem ra ủy mị bấy nhiêu, xưa kia vẻ vang bao nhiêu, bây giờ xem ra suy đồi bấy nhiêu à Tâm lý duy có một phương: là bồi bổ cái sức mạnh tinh thần, là nuôi nấng lấy cái quốc hồn kia cho mỗi ngày một mạnh mẽ, mỗi ngày một tỉnh tao lên. Đó là cái nghĩa vụ chung của cả quốc dân à Quốc hồn đã khôi phục thời mọi vấn đề chính trị sớm trưa ắt sẽ giải quyết xong. Cốt nhất là quốc dân phải tỉnh ngộ à dẫu gặp cảnh yếu hèn cũng chớ nên cam tâm yên phận, biết tin ở nước, tin ở mình, phấn phát tự cường, thời trở lực nào mà ngăn được cái sức mạnh tinh thần đó? Lại cốt nhất là phải đồng tâm hiệp lực với nhau cố kết cùng nhau, thời yếu mà cũng trở nên mạnh được à" (Bàn Về Cái Tinh Thần Lập Quốc, N.P. số 164, 1931)
(Còn tiếp) GS PHẠM THỊ NHUNG
Xin đón đọc kỳ tới: - Phạm Quỳnh giúp bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc; - Ca ngợi tiếng Việt và Văn Chương truyền khẩu; - Phát hiện nghệ thuật Truyện Kiều; - Khai Trí Tiến ĐứÔc Học Xá.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:30:07 GMT 9
MỘT VẤN ÐỀ NHÂN QUYỀN TRƯỚC NHÀ CẦM QUYỀN CSVN: TẠI SAO PHẢI PHỤC HỒI DANH DỰ CHO PHẠM QUỲNH ?
Ðặng Văn Nhâm
MỘT CÁI CHẾT BỊ BỎ RƠI TRONG QUÊN LÃNG!.
Mùa thu năm ấy đã đánh dấu cuộc khởi nghĩa anh dũng chống xâm lăng của toàn dân Việt từ Nam ra Bắc . Nhưng cũng mùa thu ấy, lịch sử dân tộc còn ghi đậm nét, không thể nào xóa được, nhiều dấu vết đau thương, tang tóc, đáng tiếc đã xảy ra trên quê hương, và đã khiến rất nhiều thường dân vô tội, từ giới bạch đinh, nghèo khổ không hề biết chính trị là gì, đến những nhà trí thức, những danh sĩ giàu tâm huyết đối với tiền đồ đất nước, đã bị đổ máu một cách vô cùng oan uổng, với tội danh hết sức mơ hồ" VIỆT GIAN"!
Trong số, tiêu biểu đáng kể nhất, vì ngậm ngùi oan khuất nhất, là cái chết cực kỳ đau thương và đen tối của học giả Phạm Quỳnh.
Cách nay không lâu, nhà báo lão thành Mạc Kinh Trần Thế Xương , nguyên chủ nhiệm nhật báo Dân Chúng thời đệ nhất CH ở miền Nam, đã viết:" Chúng tôi xin chọn lấy một, và nêu tên người văn nhân xấu số ấy không ai khác hơn là nhà học giả Phạm Quỳnh !
Ông đã bị chính quyền Việt Minh bắt vào mùa thu 1945, dùng xẻng cuốc đập nứt sọ và giữa phút hấp hối ngắc ngoải, hình hài ông bị đạp xuống đáy huyệt giao thông hào nơi khu rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị. Cũng bị hành quyết đồng giờ đồng ngày với Phạm quân còn có thêm cựu thượng thư triều đình Huế Ngô Ðình Khôi (bào huynh cố TT Ngô Ðình Diệm) và người trưởng nam là ông Ngô Ðình Huân.
Vụ thảm sát kinh hồn kia được đặt dưới sự giám sát của Tố Hữu, đại diện" cách mạng", đại diện đảng CSVN, đứng thi hành bản án- một bản án có một không hai trên cõi trần gian này. Và ngày sầu thảm ghê gớm ấy được ghi nhận:" mồng 7, tháng 9 d.l.1945"!
Phải đợi đến 11 năm sau, 1956, sau khi đất nước bị chia cắt và phong trào CS tập kết từ bên này vĩ tuyến 17 kéo về Bắc diễn ra rồi thì trong số tiểu đội " giải phóng quân" đất Thần Kinh ngày trước nhúng tay vào máu đã có kẻ động tâm vì ăn năn hối hận, vì lương tâm cắn rứt nên sự việc thê thảm động trời xanh kia mới hé lộ ra! Và nhờ thế, hai gia tộc Phạm và Ngô Ðình mới có cái may được bí mật chỉ dẫn tìm về cánh rừng huyết lệ năm xưa để thu thập 3 hài cốt ruột thịt, đem cải táng!
Riêng với trường hợp Phạm Quân, chiếc kính cận ngày xưa ông đeo hàng ngày, nay gẫy gọng, nhưng đã thành bảo vật vô giá đối với thân nhân huyết thống vì nhờ nó, các người con đã dễ dàng nhận ra hài cốt của ông cha nơi nấm mồ vô chủ bị san bằng..."( trích"Nỗi oan khiên của học giả Phạm Quỳnh", trang 69, tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn, số 13, tháng 12.98).
Bây giờ, khi bài này đến mắt độc giả khắp nơi , trong nước lẫn hải ngoại, thì tiết trời Âu cũng đã vào thu. Mùa thu năm 2000. Như thế tức là 55 lần lá rừng Hắc Thú đã đổi màu. Năm mươi lăm năm, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua. Năm mươi lăm năm ấy so với cuộc đời phù du của kiếp nhân sinh thì dài. Nhưng nếu đem đọ với chiều sâu giằng dặc của lịch sử dân tộc , kể từ ngày tổ tiên dòng dõi Lạc Việt khai quốc lập dân cho đến nay, thì chẳng thấm thía gì. Nhưng dù cho khoảng thời gian đã trôi qua, dẫu ngắn hay dài, thì vụ án thảm sát học giả Phạm Quỳnh vẫn còn luôn luôn trơ trơ bất biến trên trang sử đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và sẽ hiện hữu mãi mãi trong văn học sử của dòng giống Việt. Bụi thời gian, tuy có thể phủ lên tầng tầng lớp lớp, nhưng vẫn không sao xóa bỏ được vụ án thương tâm, đầy nghi vấn oan khiên này.
Nơi đây, không oán trách ai, không cả qui kết trách nhiệm cho một người nào, chúng ta biết rằng khởi đầu cuộc cách mạng hỗn loạn nào mà không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra, khiến cho những giọt máu của người dân vô tội phải đổ, để tô điểm cho cuộc cách mạng thêm vẻ bi ai, hùng tráng. Nhưng chúng ta vẫn không thể chẳng phàn nàn về thái độ dửng dưng, im lặng sau đó của các giới thẩm quyền VN trên cả hai miền Nam / Bắc. Suốt 30 năm qua, từ 1945 cho đến 1975, ở Việt Nam, kể từ quốc trưởng Bảo Ðại đến các chánh phủ Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Bửu Lộc, rồi đến Ngô Ðình Diệm...đã chẳng một ai đoái hoài đến cái chết bi thương đầy oan khuất của học giả Phạm Quỳnh.
Riêng đối với thành phần tướng lãnh đã từng thay phiên nhau lên cầm quyền ở miền Nam, từ 1963 đến 1975, như: Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm... chúng ta không bao giờ đặt một kỳ vọng nào nơi những người võ biền thô thiển ấy. Nhưng chúng ta vẫn không khỏi ngạc nhiên khi thấy hầu như toàn thể văn giới miền Nam, lẫn những nhà trí thức khoa bảng đã từng có thời tham dự chính quyền, vẫn không hề nhắc nhở gì đến vụ án Phạm Quỳnh. Một sự im lặng mang nhiều ý nghĩa xấu xa, kỳ quặc!
Trong 30 năm trời dài lê thê đó, nếu một Bảo Ðại hay Ngô Ðình Diệm, hoặc bất cứ một nhân vật nào khác trong chính quyền miền Nam đã khởi xướng lên vụ "minh oan cho học giả Phạm Quỳnh" thì chắc vong linh của người quá cố cũng đã được mỉm cười nơi chín suối. Như thế, nay chúng ta đâu phải làm lại việc ấy một lần nữa!
Còn về phần người CSVN, tại sao nơi đây chúng ta không vội đề cập đến ?
Chúng ta thừa hiểu, trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975, người CSVN đang bị lâm vào tình thế quân sự vô cùng khó khăn, và tình hình chính trị cực kỳ tế nhị. Hằng ngày người CSVN đang phải lo vơ vét các tầng lớp thanh niên, đem vào nướng trong chiến dịch"sinh Bắc, tử Nam", làm sao còn có thể nghĩ được đến sự minh oan cho học giả Phạm Quỳnh, mặc dù chính họ là phạm nhân đã gây nên sự đổ máu đáng tiếc đó? Chúng ta thông cảm!
Nhưng còn khoảng thời gian từ 1975 đến nay(2000), thời gian đã trôi thêm 25 năm nữa, thì sao? Các nhà cầm quyền CSVN vẫn làm lơ, không hề nhắc đến vụ án đó một lời nào. Thái độ này, chính bây giờ là lúc chúng ta phải bàn đến, và phải đặt vấn đề trực tiếp trước trách nhiệm lịch sử của các giới cầm quyền VN, và trước lương tâm của các giới hoạt động văn hóa trong nước lẫn hải ngoại.
Sau ngày 30.4.75, đất nước VN đã thống nhất, cuộc chiến cốt nhục tương tàn đã chấm dứt. Ðến năm 1986, noi gương lãnh tụ Liên Sô Michail Gorbatchev, các nhà cầm quyền cao cấp VN đã hô hào" cởi trói" và phát động phong trào" đổi mới". Lúc bấy giờ bất chợt không khí sinh hoạt văn hóa bỗng như bừng tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài nặng nề bằng chất ma túy. Người ta đã thấy xuất hiện trên văn đàn những Dương Thu Hương, Nguyễn Mạnh Bảo, Nguyễn Huy Thiệp v.v...Ai cũng hy vọng phong trào "cởi trói" đó sẽ dẫn đến một hành vi tối thiểu - song không thể thiếu !- của nhà cầm quyền văn hóa cao cấp miền Bắc là: Phục hồi danh dự cho học giả Phạm Quỳnh, một thiên tài văn học, đã đóng góp công lao rất lớn cho nền quốc học buổi phôi thai. Chẳng khác nào như hành vi của các giới cầm quyền Liên Sô thời Nikita Khrouchtchev, thời Michail Gorbatchev và thời Boris Yeltsin, đã phục hồi danh dự cho các nhà văn Nga Sô đã từng bị Stalin thảm sát cả hai cha con như Maxime Gorky, cùng với những nhà văn, đã bị chế độ đày đọa, đối xử bất công như: Boris Pasternak, Alexandr Soljenitsyne, Evgueni Evtouchenko... và khoa học gia Sakharov, cha đẻ bom H của Nga...
Thậm chí đến như những tên đồ tể Căm Bu Chia, Khiêu Sam Phan, Ieng Sary, Nuon Chea...sau ngày tổng tuyển cử 26. 7. 98 không bao lâu đã về Nam Vang cộng tác với Hun Sen, còn biết công khai nhắn gửi qua báo chí lời xin lỗi, rất đáng tiếc, đã từng nhúng tay vào máu của trên 3 triệu đồng bào vô tội :" Je suis désolé...Très désolé!..."
Trong khi đó, thực không ngờ, các nhà lãnh đạo CSVN đã từng chủ trương xua quân qua Cam Bu Chia dưới chiêu bài" thế thiên hành đạo", diệt trừ quân CS Khmer Ðỏ dã man, đã cam tâm thực hiện chính sách diệt chủng phi nhân với chính đồng bào ruột thịt của mình, ngay trên quê hương của mình, lại chẳng thốt được một lời nào như Khieu Sam Phan !
Ðáng buồn thay! mãi cho đến nay một phần tư thế kỷ đã trôi qua, đất nước đã thống nhất và hòa bình. Kẻ có công, người có tội với "cách mạng" đã được khu xử tương đối ổn thỏa phần nào. Nhưng còn vụ thảm sát học giả Phạm Quỳnh, năm 1945, đến nay tại sao vẫn còn bị bao trùm trong vòng bí mật?
Có gì lấn cấn trong đường lối chính trị của đảng, của nhà nước VN chăng? Dù sao, như trên đã nói, toàn bộ vụ án này đã đi vào lịch sử. Người làm văn học VN trong nước cũng như hải ngoại phải ý thức rằng : Mỗi bước tới trên con đường đời vô tận là mọi cảnh trí đều thay đổi, tâm hồn con người cũng thay đổi theo ngoại cảnh. Bây giờ ta nêu vấn đề này lên, không phải vì người xưa, càng không phải vì chuyện ân oán, đối nghịch chính trị đã qua, mà chỉ vì cái ước vọng soi đường cho hậu thế. Nay đặt vấn đề Phạm Quỳnh, ta mong rằng, trong tương lai, lịch sử dân tộc VN sẽ không còn dấu vết của bất kỳ một vụ án sát nhân nào dã man, vô tội vạ tới mức chẳng có điều tra thâm cứu, chẳng luận bàn, chí đến chẳng có cả sự công bố quang minh bản án ghi vắn tắt tội trạng. Như thế, tức thị ta nhắc nhở, kêu gọi, dặn dò các thế hệ tiếp nối sẽ không nên quá hèn, quá khiếp nhược, chịu nuốt nhục cúi đầu trước cường lực, để cho những kẻ lãnh đạo lạm quyền " giết người rồi lờ đi như không có gì xảy ra bao giờ!"
TẠI SAO PHẠM QUỲNH ÐÃ BỊ THẢM SÁT?
Nhắm mục tiêu đó, nay chúng ta có bổn phận phải đặt thẳng vấn đề " làm sáng tỏ vụ án Phạm Quỳnh" với nhà đương quyền VN, gồm các nhân vật lãnh đạo cao nhất nước: Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu, và Phan Văn Khải, trước công luận VN và lương tâm những nhà trí thức, hoạt động văn hóa và bảo vệ nhân quyền của nhân loại trên thế giới.
Câu hỏi đầu tiên, hoàn toàn vô tư, dành cho các cấp lãnh tụ cao nhất nước kể trên:" Học giả Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh thảm sát ngày 7. 9.1945, vì tội gì?"
Xét trong quá trình hoạt động của Phạm Quỳnh từ khi vào đời (xin đừng hiểu là ngày sanh 17. 12. 1892) cho đến ngày vĩnh viễn lìa đời ( 1908-1945), ta có thể tóm gọn trong hai hoạt động: Văn học và chính trị. Vậy, cái chết thảm của Phạm Quỳnh không thể ngoài hai nguyên cớ chánh trị hay văn học.
- VĂN HỌC.- Trước hết, không một ai, kể cả những người đã từng trực tiếp hay gián tiếp nhúng tay vào máu của cụ Phạm, mùa thu năm 45, có thể dùng bất cứ một bằng chứng nào để phản bác công lao vĩ đại của học giả Phạm Quỳnh.
Về văn học, xin mạn phép được kể vắn tắt vài điểm đặc biệt. Nên nhớ lúc bấy giờ đang là buổi giao thời giữa hai luồng Nho học( Tàu) và Tây học (Pháp). Từ ngàn xưa người VN chỉ có tiếng nói mà không có văn tự. Mãi cho đến khi người Pháp đô hộ, người VN mới được các nhà truyền giáo Gia Tô giúp phát minh chữ quốc ngữ. Thời cụ Phạm là lúc chữ quốc ngữ mới phôi thai, rất thô thiển và còn nhiều khiếm khuyết. Với tạp chí Nam Phong (1907-1932), cụ Phạm đã dày công kêu gọi, khuyến khích người VN nên cố gắng bảo tồn và phát huy ngôn ngữ, văn tự Việt.Cụ nói: "Tiếng nói là yếu tố quan trọng nhất trong thành phần một dân tộc và một quốc gia. Vì vậy, nên thời nào cũng thế, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có tiếng nói của mình; có những dân tộc, những quốc gia đã mất lãnh thổ , mất tư cách quốc gia, nhưng vẫn giữ được tiếng nói, nên họ không bị tiêu diệt..."
Từ đó cụ Phạm kích thích việc trau dồi, phát triển môn văn xuôi. Tại sao cụ lại sáng suốt kêu gọi như vậy? Bởi từ thế kỷ thứ XI, giới sĩ phu Nho học VN đã thấm nhiễm sâu xa cái học chế hủ lậu của Tàu, vốn chỉ chuộng "thi phú"(văn vần) mà ruồng rẫy "tản văn"(văn xuôi). Trong xã hội phong kiến chỉ có những người làm thơ hay mới hy vọng chiếm được bảng vàng, danh đề bảng hổ, mới mong có được vợ đẹp, con khôn"Thi trung hữu nữ nhan như ngọc, thi trung tuấn vũ, diêu tường" (trong thi có người con gái đẹp như ngọc, trong thi có nhà cao cửa rộng). Ngược lại, rất hiếm thấy người viết văn xuôi.Ngoại trừ kiệt tác " Bình Ngô Ðại Cáo" của Hưng Ðạo Ðại Vương... Vả chăng trong nền văn học Trung Quốc từ thời cổ xưa đến năm 1911,vốn phát sinh hai loại: "văn ngôn"(gồm những thứ chữ không dùng để nói, chỉ dùng trong kinh,sử và thi phú, sau này còn gọi là "cổ văn" ) và " bạch thoại"(tiếng nói trắng, nghĩa là nghĩ sao nói vậy, viết vậy, rất phổ thông trong dân gian, nhưng không được dùng trong lãnh vực văn chương, thi phú và khoa cử, hay chốn cung đình). Ðây , ta hãy nghe cụ Phạm kêu gọi:"Gây dựng tổ chức lấy một cái tản văn thích hợp với đời nay, vừa có cốt cách An Nam mà vừa có thể cách tân thời đủ dùng để diễn được cái tư tưởng mới, đó là cái cấp vụ hiện nay mà là cái bước đường thứ nhất trong việc gây dựng một nền quốc học sau này...Nhà viết văn mà lo cho nước nhà không có cách nào khác hơn là giúp cho nước nhà có một tiếng nói đoan trang... Văn quốc ngữ có phát đạt thì nền quốc học mới gây dựng được, mối tư tưởng mới mở mang được thì quốc dân ta mới không đến nỗi chung kiếp đi học mướn viết nhờ như từ xưa đến nay vậy!...Bởi vậy mà ngày nay người nào chịu tập văn nôm là một việc công đức, người nào chịu xem văn nôm là một việc nghĩa vụ vậy. Công đức ấy, nghĩa vụ ấy, người có lòng dạ với nước, há lại chẳng vui vẻ mà làm dư?!.. Báo Nam Phong từ khi mới ra đời đến giờ vẫn theo đuổi một mục đích đó: Gây lấy một cái tản văn An Nam để vừa làm cơ quan vừa làm cơ sở cho quốc học sau này; vì chúng tôi vẫn đinh ninh từ xưa đến nay rằng không có quốc văn thì không sao có quốc học được; không có quốc học thì không sao có độc lập về tinh thần được..."
Mặt khác, cụ Phạm còn tạo nên một phong trào thi đua dịch sách ngoại ngữ, cả tiếng Tàu và tiếng Tây.Chính cụ Phạm cũng đích thân tham gia đóng góp công lớn trong việc phiên dịch, và phân tách các tác phẩm đặc sắc của các văn hào lừng danh Pháp quốc như: Guy de Maupassant, Alfred de Vigny, Paul Bourget, Henri Bordeaux...và những vần thơ tuyệt mỹ của Baudelaire, Ronsard, Lamartine, Verlaine...Cụ Phạm lại còn nghiên cứu và dẫn giải cả kỹ thuật sáng tác kịch bản của Corneille, Molière, và Racine v.v...Từ đó văn giới VN mới có người lĩnh hội được thế nào là "coup de théâtre"( tạm dịch: đột biến sân khấu), và thế nào là " règle de trois unités"( phép ba yếu tố ) trong kịch nghệ.
Mặt khác, cụ Phạm còn ra công nghiên cứu và du nhập các lý thuyết của Montesquieu, Voltaire, J.J. Rousseau ...các triết lý của Descartes, Auguste Comte, Gergson, Carlton...Cụ Phạm cũng không quên dạy cho dân VN biết " túi khôn của Tây phương" qua những lời nói khuôn vàng thước ngọc của Épictète, Barrès, Lebon, Maurras và Lafontaine v.v...Tóm lại, trong lãnh vực văn học, chúng ta có thể khẳng định mà không chút lo ngại sai lầm gì Phạm Quỳnh là một nhân vật đã đóng góp công lao vĩ đại cho nên quốc học dân tộc. Như thế, năm 1945, chắc chắn người CSVN đã không thủ tiêu Phạm Quỳnh cách âm thầm như đã biết vì lý do văn học.
- CHÍNH TRỊ.- Vậy, chỉ còn lại độc nhất lý do chính trị. Ngay trước khi cuộc cách mạng mùa thu 45 bùng nổ, trong dư luận đã phao truyền: Phạm Quỳnh cộng tác với Tây, chủ trương xây dựng thể chế " quân chủ lập hiến" cho một nước VN,và làm thượng thư (tương đương chức thủ tướng) dưới triều Bảo Ðại. Sự kiện này đã hiển nhiên quá đỗi chẳng khác nào như mặt trời giữa trưa nắng mùa hạ. Thiết tưởng không cần biện bạch dài dòng. Nhưng, trong phạm vi này, một câu hỏi phải nghiêm túc đặt ra cho dư luận được sáng tỏ, và nỗi ƯNG / OAN của Phạm Quỳnh phải được minh định dứt khoát, không còn lởn vởn một nghi ngờ phảng phất nào nữa: "Các hành động cộng tác với Tây, chủ trương " quân chủ lập hiến" của Phạm Quỳnh có phải là tội phản quốc, phản cách mạng, chống lại cuộc kháng chiến dành độc lập cho dân tộc không?"
Theo tôi, căn cứ trên sử liệu đành rành, đã phổ biến khắp nơi trong nước lẫn hải ngoại, từ 1945 đến nay(2000), người VN có học nào cũng biết: Trong thời kỳ niên thiếu , Phạm Quỳnh đã tham gia phong trào" Ðông Kinh Nghĩa Thục", bị mật thám Tây bắt giam (1908). Sau đó người thiếu niên yêu nước họ Phạm được tha, vì chưa đủ tuổi thành niên.Trong toàn bộ báo Nam Phong ( 1907-1932) không hề đăng một bài báo nào bị hiểu lầm ngụ ý " đánh phá cách mạng, cản trở cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân".
Trong suốt thời kỳ làm quan ở Huế, Thượng Thư Phạm Quỳnh cũng không hề ra lịnh bắt giam, hay tra tấn bất cứ một phạm nhân nào, dù là thường phạm, chứ đừng nói gì đến việc sát hại những người yêu nước...
Nếu đã không thể cột buộc Phạm Quỳnh vào những tội " Việt Gian" tày đình đó, thì chỉ còn lại vấn đề bất đồng chính kiến: Cộng tác với Tây và làm việc cho Bảo Ðại.
Ðể cho đáo lý, cận nhân tình, chúng ta lại phải chịu khó phân tách riêng biệt từng trường hợp.
- CỘNG TÁC VỚI TÂY.- Phạm Quỳnh bị kết án "cộng tác với Tây", vậy Hồ Chí Minh có bao giờ cộng tác với Mỹ với Tây, hay với cả Tàu không? Ðây, những điều mà sử sách còn ghi:
- Khoảng hạ tuần tháng 8.1945, đại quân Trung Hoa Quốc Dân Ðảng gồm 2 binh đoàn chính quy, dưới quyền chỉ huy của tướng Lư Hán, vượt biên giới vào Bắc VN để giải giới quân đội Nhật, khiến các nhà lãnh đảo VM lo sợ, phải vội vàng tuyên bố giải tán đảng CS Ðông Dương, ngày 11.11.1945. Ðồng thời mở các cuộc lạc quyên" tuần lễ vàng,tuần lễ bạc" thâu góp tiền bạc của nhân dân đem cúng - kèm thêm cả gái đẹp ! - cho các tướng Tàu Lư Hán, Tiêu Văn...
- Cùng thời gian với quân Tàu ngoài Bắc, trước khi lực lượng Anh-Ấn của tướng Douglas D. Gracey đổ bộ vào miền Nam, các tù binh đồng minh Anh-Mỹ đã được "Ủy Ban Nhân Dân Nam Bộ" chiêu đãi o bế tận tình. Cán bộ VM trong Nam tổ chức những nơi khiêu vũ (hình thức thỏa mãn nhu cầu sinh lý trá hình), những hàng ăn dành riêng cho tù binh đồng minh. Tù binh được tha hồ nhảy nhót tưng bừng, uống rượu mạnh, ăn bánh ngọt miễn phí...Bồi bàn hầu hết đều là các sinh viên giả trang, để tuyên truyền, chiêu dụ...
- Trong khi quân Pháp đã đánh chiếm lại miền Nam, ngày 16.2.1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đi gặp Sainteny để chấp nhận nguyên tắc điều đình với Pháp. Ba ngày sau, 19.2.46, Sainteny trở lại gặp Hồ Chí Minh nêu vấn đề hợp tác Việt- Pháp cùng sự đổ bộ của Pháp lên Bắc VN.
- Ngày 6.3. 1946, Hồ Chí Minh ký với Sainteny hiệp định sơ bộ (để đánh lạc hướng dư luận quần chúng đang trong cơn hoang mang cực độ, CSVM đã dùng danh từ "modus vivendi" cho có vẻ..." bí hiểm". Thực ra nó chỉ là: Accords préliminaires!). Với hiệp định này, VM đã dành mọi sự dễ dàng cho cho quân đội Pháp đổ bộ lên phía trên vĩ tuyến 16, khiến dân chúng toàn quốc sôi sục bất mãn, cho rằng VM đã rước Tây trở lại! Vì thế chiều ngày 7.3.46, Võ Nguyên Giáp phải thay mặt chính phủ VM, ra giải thích trước quần chúng đang tụ tập đông đảo trong một cuộc mít tinh ở Hà Nội.
Ngày 22.3.46, quân đội Pháp điểm binh trước Cột Cờ Hà Nội, Võ Nguyên Giáp thay mặt cho chính phủ VM tới dự. Ngày 24.3.46, Hồ Chí Minh ra vịnh Hạ Long gặp Ðô Ðốc D?Argenlieu của Pháp. Ngày 28.5.46, chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ VM gồm 12 thành viêncùng kéo nhau sang Paris, để họp hội nghị Fontainebleau, khai diễn vào tháng 7 năm đó... Kể ra còn nhiều, nhưng chỉ xin tóm lược vài việc chính yếu đó thôi.
- HỢP TÁC VỚI BẢO ÐẠI.- Nếu Phạm Quỳnh bị thủ tiêu vì lý do đã hợp tác với Bảo Ðại, thử hỏi Hồ Chí Minh và các đồng chí thân cận của ông lúc bấy giờ có hợp tác với Bảo Ðại không? Ðây là những sự kiện rất cụ thể mà sử sách vẫn còn ghi:
- Ngày 2.3.46, chánh phủ liên hiệp kháng chiến, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, gồm : 1 phó chủ tịch và 11 bộ trưởng, ra đời dưới sự " cố vấn tối cao" của Bảo Ðại.
- Ngày 13.11.1946, chính phủ liên hiệp cải tổ, Hồ Chí Minh vẫn làm chủ tịch nhưng kiêm thêm chức bộ trưởng ngoại giao, gồm 10 bộ trưởng, 9 thứ trưởng, và 2 quốc vụ khanh. Lần này, mặc dù Bảo Ðại đã sang tàu, từ tháng 3.46, nhưng vẫn đứng tên" cố vấn tối cao" của chính phủ.
- Ngày 20.7.47, chủ tịch Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ, gồm 14 bộ trưởng, và 8 thứ trưởng, nhưng vẫn còn duy trì nguyên vị " cố vấn tối cao" của Bảo Ðại...
Tóm lại, căn cứ trên những sự kiện sơ lược nêu trên, ta nhận thấy trong thời gian từ 1945 đến 1947, chẳng những một mình Hồ Chí Minh , mà tòan bộ nhân vật đầu não của VM , đều đã hợp tác rất lâu dài và thắm thiết với cả Pháp lẫn Bảo Ðại. Nhưng ta vẫn không nông nổi, vội hồ đồ kết án người CSVM. Bởi chúng ta thừa hiểu hoàn cảnh bất đắc dĩ của người CSVM trong thời kỳ khó khăn ấy, tứ đầu thọ địch, nên họ bắt buộc phải chọn kế sách giai đoạn "ngộ biến tùng quyền". Cùng một nhãn quan chính trị đó, ta ném con mắt nhìn sang hoàn cảnh cô đơn của học giả Phạm Quỳnh, mà lòng ta không khỏi bồi hồi thương cảm. Trước Hồ Chí Minh một bước, họ Phạm đã bất đắc dĩ phải cộng tác với Pháp và chấp nhận vào Huế làm quan cho Bảo Ðại, giữa một bầu không khí ghen tương, đố kỵ nặng nề, chẳng qua cũng chỉ là một kế sách giai đoạn" mượn đò qua sông" để thực hiện hoài bão đưa đất nước và dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ cách nhẹ nhàng, êm đẹp, mà nhân dân không phải tốn hao nhiều xương máu trong khói lửa chiến tranh tàn bạo, kéo dài đến trên 30 năm mới dứt.
Như vậy, trong cuộc chiến đấu dành độc lập cho dân tộc, nếu phải giết một người nào về tội "VIỆT GIAN"(danh từ của VMCS thời 45), cộng tác với Tây và làm việc với Bảo Ðại trong giai đoạn khởi đầu, thì người đó chính là ai kia, chứ không phải Phạm Quỳnh !
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 7:22:26 GMT 9
Phạm Quỳnh-Nhà văn hoá Vietsciences-Nguyễn Phúc Vĩnh Ba Cùng đề tài: Phạm Quỳnh của Trần Văn Chánh và Phạm Tôn“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.” Đó là câu nói hàm súc và hay nhất khi đánh giá giá trị nhân bản và nghệ thuật lớn lao của tác phẩm này từ một học giả Việt Nam. Câu nói này không những bao hàm một am hiểu sâu xa, một nhìn nhận nghệ thuật về Truyện Kiều - một áng văn chương tuyệt tác có một không hai của nền văn học nước ta - mà còn nói lên một tinh thần yêu nước cao độ và rất sâu sắc. Trong câu nói này, ta còn thấy được người phát ngôn đã đánh giá cao và đúng vai trò của văn hoá, nhất là văn học trong sự sống còn của một tộc người sống trong nền văn hoá đó. Ta có thể rút ra nhiều điều bổ ích nữa từ quan điểm này trong thời kì hiện nay lúc mà đang có rất nhiều lời kêu gọi giữ gìn bản sắc dân tộc trước cao trào hội nhập và toàn cầu hoá. Vì sao truyện Kiều còn thì tiếng ta còn? Vì sao tiếng ta còn thì nước ta còn? Đó là những vấn đề rất thời thượng. Nhưng trước hết, học giả này là ai? 1. Sơ lược thân thế Phạm Quỳnh Ông là Phạm Quỳnh, Đổng lý Ngự tiền Văn Phòng, sau đó Thượng thư bộ Học rồi bộ Lại trong Cơ Mật Viện của triều Bảo Đại cho đến khi Nhật đảo chánh Pháp tháng 3/1945. Phạm Quỳnh sinh năm 1892 tại Hà Nội nhưng quê quán là người làng Thượng Hồng, xã Lương Ngọc, phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương. Ông là cha của 16 người con, trong đó có những ngườì nổi tiếng mà chúng ta đã biết như nhạc sĩ Phạm Tuyên, thầy thuốc nhân dân Phạm Khuê, tiến sĩ văn chương Phạm thị Ngoạn 1.. Xuất thân từ một gia đình Nho giáo, ông Phạm Quỳnh tốt nghiệp trường Thông Ngôn Hà Nội (trường Bưởi) rồi làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tại đây ông đọc được nhiều sách, trau dồi thêm Hán tự và viết bài cho Đông Dương Tạp Chí do Nguyễn văn Vĩnh làm chủ bút. Ông có bút hiệu là Thượng Chi, Hoa Đường, Hồng Nhân (người làng Thượng Hồng). Ông từng được Giải thưởng Văn chương Viện Hàn Lâm Pháp (Lauréat de L’Académie Française). Hai năm trước khi Đông Dương Tạp Chí bị đóng cửa (1919), ông đã cùng Louis Marty, Chủ sự Tổng cục An ninh Pháp tại Đông Dương và Nguyễn Bá Trác lập tờ báo riêng và làm chủ bút: Tạp chí Nam Phong. Năm 1922 ông được chọn làm Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức nhưng qua đầu năm 1925 ông Phạm Quỳnh ly khai với Hội, không đăng bài ở Kỷ yếu của Hội và diễn thuyết tại đây nữa. Cũng trong năm 1922 ông được cử sang Pháp với tư cách đại diện Hội Khai Trí Tiến Đức tham dự hội chợ triển lãm Marseille. Trong thời gian 3 tháng ở lại Paris ông đã diễn thuyết nhiều lần ở Nghị viện Pháp và Ban chính trị và luân lí của Viện Hàn lâm Pháp quốc. Tháng 11 năm 1932 ông vào Huế để tham chính, lãnh chức Đổng lí Ngự tiền văn phòng, Thượng thư bộ Học rồi thượng thư bộ Lại. Năm 1939, ông lại một lần nữa đi Pháp với Bảo Đại để điều đình với Chính phủ hầu mong lấy lại Bắc kỳ cho triều đình Huế. Kể từ khi chính phủ Trần Trọng Kim ra đời ông rút khỏi chính trường và có ý định trở lại nghiệp cũ. Ông Phạm Quỳnh để lại cho đời “Thượng Chi văn tập”, tuyển tập các bài viết rất có giá trị của một nhà báo được xếp vào lớp tiền phong của nền báo chí nước ta, và một số lượng các bài báo khác đã đăng tải trên Đông Dương và Nam Phong Tạp Chí. Trong thời kì phôi thai của chữ quốc ngữ, không mấy ai có thể quên được sự đóng góp của ông và các học giả như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Bá Trạc, Nguyễn Bá Trác, Trần Trọng Kim, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật,.. những người đồng thời với Phạm Quỳnh và cộng tác với ông trong tạp chí Nam Phong. 2. Phạm Quỳnh làm báo Khi làm chủ bút báo Nam Phong từ 1917 - 1934, lúc vừa 25 tuổi, ông chủ trương thuyết lập hiến, tiếp thu văn hoá phương Tây để nâng cao dân trí và lần hồi dành lại chủ quyền tự trị đất nước dựa vào hiệp ước Harmand 1883 và hiệp ước Patenôtre 1884 (tức là quốc gia độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp). Phạm tiên sinh đã đặt tên báo dựa vào bài phong dao (tương truyền do vua Thuấn sáng tác) trong Kinh Thi: “Nam Phong ca” Nam Phong chi huân hề 南 風 之 薰 兮 Khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề. 可 以 解 吾 民 之 慍 兮 Nam phong chi thời hề 南 風 之 時 兮 Khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề 可 以 阜 吾 民 之 財 兮 Dịch thơ: Gió Nam mát mẻ vậy thay Giải tan sầu muộn bao ngày của dân Gió Nam thổi đúng lúc cần Sẽ mang phú quí cho dân lâu dài. (Bản dịch của Vĩnh Ba) Qua bài thơ ta thấy được khát vọng của một nhà làm văn hoá hay tâm tình của một trí thức Tây học trong một thời kì đầy khó khăn của đất nước ta. Vậy “Gió Nam” là gì mà lại đem đến cho nhân dân một ơn ích lớn lao như thế? Theo ông Phạm Quỳnh, “Gió Nam” chính là nền quốc văn làm nền tảng cho nền quốc học của dân tộc Việt Nam. Ông viết, “Không có quốc văn thì không thể nào có quốc học. Không có quốc học thì không thể nào có độc lập tinh thần. Không có độc lập tinh thần thì không có độc lập chính trị.” 2 Trong bài viết “Quốc học và Chính trị” trên báo Nam Phong số 165,1921 ông nói rõ hơn: “Gầy dựng, tổ chức một nền tản văn thích hợp với đời nay, và có cốt cách An Nam, vừa có thể cách tân thời đủ dùng để diễn được các tư tưởng mới, đó là cái cấp vụ hiện nay, mà là cái đường thứ nhất trong việc gầy dựng một nền quốc học sau này vậy.... Nhà văn muốn thờ nước không có cái phương tiện nào hay bằng giúp cho nước nhà có một nền quốc văn xứng đáng. Đó là chủ nghĩa của tôi bấy lâu nay, mà là cái tín điều thứ nhất trong đạo quốc gia của tôi vậy.” Nay chúng ta có một nền quốc văn không thua kém gì ai thì xét trong buổi đầu mới manh nha của chữ quốc ngữ, của nền báo chí và của văn học viết, há không trân trọng sự đóng góp của Phạm tiên sinh sao? Về điều này, Vũ Ngọc Phan trong “Nhà Văn Hiện Đại” (NVHĐ) đã nhìn nhận: “Cái công của Phạm Quỳnh khai thác lúc đầu cho nền quốc văn có ngày nay, thật là một công không nhỏ....Trong 16 năm chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu mà từ Bắc chí Nam người thức giả đều phải lưu tâm đến...... Muốn hiểu những vấn dề về đạo giáo, muốn biết văn học sử cùng học thuật tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thi ca Việt Nam từ đời Lý, Trần, cho đến ngày nay, muốn biết thêm về lịch sử nước Nam, tiểu sử các đấng danh nhân nước nhà, muốn am hiểu các vấn đề chính trị, xã hội Âu Tây và cả những học thuyết của mấy nhà hiền triết Cổ La-Hy, chỉ đọc Nam Phong là có thể hiểu biết được...” (tr. 134, 136 tập 4, NXB Hội Nhà Văn). Tuy nhiên, ta cũng cần biết nền quốc học đó đã được xây dựng trên quan điểm nào? Trên hoành phi còn lại hiện nay ở chùa Vạn Phước, Huế, ta còn có thể thấy thủ bút 4 chữ “Thổ nạp Âu Á” 吐 納 歐 亞 của chính Phạm tiên sinh. Thổ nạp Âu Á là nhả ra những cái lạc hậu cũ và thu nhập vào những tinh hoa của văn minh phương Tây và phương Đông. Bốn chữ này có thể xem là bao quát được quan điểm của tạp chí Nam Phong, chỉ ra phương hướng xây dựng nền quốc học theo ý đồ của Phạm Quỳnh. Bút hiệu Thượng Chi của ông, theo giáo sư Tôn Thất Quỵ, là trích từ ba câu trong bài thơ “Trữ”, thiên Tề Phong, Kinh Thi cũng nói lên cái ý trên: Thượng chi dĩ quỳnh hoa hồ nhi 尚 之 以 瓊 華 乎 而 (Lại có thêm đá quỳnh hoa che khuôn mặt (xinh đẹp của cô gái - người viết thêm) Thượng chi dĩ quỳnh vinh hồ nhi 尚 之 以 瓊 榮 乎 而 (Lại có thêm đá quỳnh vinh che mặt) Thượng chi dĩ quỳnh anh hồ nhi 尚 之 以 瓊 瑛 乎 而 (Lại có thêm đá quỳnh anh che mặt) Thượng Chi có nghĩa là lại có thêm, cần có thêm tức thu nhập thêm những cái hay đẹp của các nền văn minh khác (các loại đá quỳnh - Quỳnh cũng là tên của ông, một cách chơi chữ tế nhị) bên cạnh bản sắc dân tộc đáng quý của chúng ta (khuôn mặt xinh đẹp của cô gái). Chính ông Phạm Quỳnh đã nói đến cái bản sắc dân tộc đó trong một bài diễn văn trước mặt thực dân Pháp tức Ban lý luận chính trị Viện Hàn lâm Pháp: “Chúng tôi là một nước có một nền văn hoá cũ, chúng tôi không phải là một tờ giấy trắng có thể viết gì lên cũng được. Tức là tờ giấy có sẵn chữ viết từ đời nào đến giờ. Nếu bây giờ viết đè lên một chữ mới lên trên e thành giấy lộn mất! Cho nên bây giờ khắp nơi dạy chữ Tây cho người An Nam từ thuở nhỏ cho đến lớn như các trường Pháp Việt ngày nay kết quả chỉ làm người An Nam mất tính cách An Nam mà chưa chắc đã hoá được Tây, hẳn thành ra là một giống lửng lơ thật nguy hiểm.” 3 Lần khác ông đã dám đứng trước Nghị Viện Pháp đặt vấn đề người Pháp phải tôn trọng chủ quyền và truyền thống văn hoá Việt Nam: “Dân tộc Việt Nam chúng tôi không thể ví như một tờ giấy trắng được đâu. Chúng tôi là một cuốn sách dầy đầy những chữ viết bằng thứ mực không phai đã hằng mấy mươi thế kỷ nay. Quyển sách cổ ấy có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên những dòng chữ cũ được. Vấn đề là phải giáo dục người Việt Nam thế nào cho vừa truyền được học thuật cao thượng đời nay vừa không đến nỗi khiến chúng tôi mất giống đi, mất cái quốc tính của chúng tôi đi, làm thành ra một dân tộc vô hồn, không còn có tinh thần đặc sắc gì nữa, như mấy thuộc địa cổ của người Pháp kia. ” 4 Quả là những lời diễn thuyết hùng hồn và sâu sắc vô cùng của một chiến sĩ tràn trề tình yêu đất nước trên mặt trận văn hoá. Truyện Kiều mà Phạm tiên sinh đề cập đến trong câu nói thời danh trên của ông chẳng qua là một biểu tượng của nền mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc ta, là bản sắc dân tộc quý giá mà muôn đời trước cha ông ta để lại được thể hiện qua thành tựu văn học. Nó thể hiện đỉnh cao của nền thi ca dân tộc mà thông qua đó ngôn ngữ, cách diễn đạt, tầm hiểu biết, trình độ cảm nhận của một tộc người đã bộc lộ. Rất nhiều điển cố, hình tượng văn học, thi ca ngôn ngữ Trung quốc được Việt hoá thành một vốn liếng văn hoá cho ta bên cạnh bản sắc riêng của dân tộc ta. Ta giữ được vốn liếng văn hoá tập quán đáng quý của cha ông qua yêu thích, trân trọng, giữ gìn, tìm hiểu truyện Kiều thì còn tiếng nói, còn dân tộc giống nòi, đó là một lẽ tất nhiên mà ai ai cũng nhận ra. Tiếc thay vì bất đồng quan điểm chính trị khiến cuộc bút chiến truyện Kiều đã xảy ra giữa các sĩ phu yêu nước thời đó. Bình tâm mà xét, ta thấy rằng Phạm tiên sinh rõ ràng muốn xây dựng và phát triển một nền quốc học dựa trên bản sắc tốt đẹp của dân tộc và có tiếp thu tiến bộ của cộng đồng nhân loại. Điều quan trọng hơn như ta đã thấy qua một số trích dẫn trên rằng cái mục tiêu cuối cùng ông Phạm Quỳnh muốn nhắm đến là một nền độc lập chính trị cho một quốc gia có dân trí. 3. Nam Phong tạp chí Nam Phong Tạp Chí với hơn 210 số, mỗi số hơn 400 trang là một số lượng tư liệu văn học đồ sộ. Tạp chí Nam Phong mỗi tháng xuất bản một kỳ, giá 4 hào tiền Đông Dương, in tại Đông Kinh ấn Quán số 14-16 Rue du Coton, Hà Nội.5 Tiền thân của Nam Phong Tạp Chí chính là “Âu châu chiến sử ” viết bằng Hán tự được phủ Toàn Quyền Pháp xuất bản và phát không tại Trung Quốc nhằm chống lại thế lực và tố cáo tội ác của phát xít Đức. Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác đã viết cho báo này. Về sau phủ Toàn Quyền bàn với ông mở ra một bản tiếng Việt nên Nam Phong mới xuất hiện. Phạm tiên sinh đã nói rõ ý đồ của ông khi nhận làm Nam Phong như sau: “Sở dĩ tôi nhận mở báo Nam Phong vì chính phủ tự lòng cho phép chớ không phải tôi yêu cầu. Vả tôi muốn lợi dụng làm một cơ quan bồi bổ quốc văn, cho thêm nhiều tiếng, cho đủ tài liệu để phiên dịch và truyền bá các tư tưởng Âu Tây...” 6 Theo nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên” (VNVHSGƯTB), tập III tr. 129 thì đối với ông Phạm Quỳnh, việc phiên dịch và truyền bá tư tưởng Âu Tây ấy là trong một mục đích rộng rãi hơn, mà ông từng ấp ủ từ ngày viết trên Đông Dương Tạp Chí, ấy là xây dựng cho nước nhà trong buổi Âu Á giao thoa một nền học thuật mới thay thế cho Hán học suy tàn. Luôn thể ông Phạm Quỳnh muốn dần dà gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn hoà dựa trên cơ sở văn hoá. Ngày nay Thượng Chi Văn Tập và Du Ký Việt Nam, Luận giải Văn học Triết học,vv... đã được tái bản có thể giúp ta thấy được sự nghiệp to tát của Nam Phong Tạp Chí. Ông Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đã phần nào thực hiện được cái tôn chỉ mà tờ báo đã đề ra: xây dựng một nền quốc văn khá vững vàng mang bản sắc dân tộc. Trong Tự điển Văn Học Việt Nam (NXB Văn Hoá - Thông in, Hà Nội, 1993) ông Phạm Quỳnh lại có tên bên cạnh các tác giả khác. Điều đó cho thấy nay ông đã được công nhận trở lại là một danh nhân văn hoá Việt Nam. Phạm Thượng Chi tiên sinh cũng như bao nhà yêu nước Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 đều biết rằng dân trí của ta đương thời còn lạc hậu. Nền Hán học đã bộc lộ sự bất lực của mình trước nền văn minh kĩ thuật phương Tây ngày càng tiến bộ. Ngay cả ở Trung quốc các chí sĩ như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,… đều từ bỏ chế độ phong kiến quân chủ để tìm đến các lí tưởng nhân quyền, dân chủ và tự do mà các triết gia phương tây như Montesquieu, Voltaire, J.Rousseau,… đề xướng. Nhưng để tiếp thu được các tư tưởng tiến bộ phương Tây và bảo thủ được cái quốc hồn quốc tuý thì không thể không xây dựng một vốn liếng ngôn ngữ Việt Nam nhằm diễn đạt các tư tưởng mới mẻ đó. Quả nhiên trong lãnh vực này Nam Phong đã đóng một vai trò quan trọng. Vũ Ngọc Phan trong NVHĐ đã nhận xét: “Ông là người đã chủ trương cái thuyết: đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hoá Âu Tây, để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm khuyết, để chọn lọc lấy cái hay của người mà dung hoà với cái hay của mình, ngõ hầu gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có cơ tiến hoá được.” (tr.98, tập 4, NXB Hội Nhà Văn) Có thể nói ông Phạm Quỳnh đã tiếp nối con đường được mở ra trước đó của Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông cùng quan điểm với cụ Phan Tây Hồ khi chọn con đường nâng cao dân trí, khai hoá cho đồng bào và đấu tranh bất bạo động. Trước khi rời Nhật Bản về nước, cụ Phan Chu Trinh đã tâm sự với các đồng chí trong phong trào Duy Tân: “Tôi có định kiến rồi, công việc chúng ta làm ngày nay chỉ nên chú trọng vào việc khai hoá cho đồng bào mình, tiến được bước nào chắc bước ấy, mới mong có hi vọng về sau. Còn như chủ nghĩa muốn làm mau, muốn lấy võ lực mà bạo động trong nước hay là sức người để nối quân cách mệnh, việc ấy tất nhiên phải thất bại, tiếp đến dân bị khủng bố, nhuệ khí bị nhụt đi. Không có ích gì, tôi không tán thành cái chủ trương ấy” 7 Giáo sư Phạm Thế Ngũ trong VNVHSGƯTB đã tóm tắt sự nghiệp văn hoá của Phạm Thượng Chi tiên sinh như sau: * Tác phẩm: - Văn dịch: Phương pháp luận (Descartes), Sách cách ngôn (Epictète), Đời đạo lí (P.Carton), Le Cid, Horace (Corneille), Thơ của Baudelaire, Tư tưởng của Barrès, Le Bon, Maurras,... - Khảo luận: Văn minh luận, Chính trị nước Pháp, Lịch sử thế giới, Luân lí học thuyết Thái Tây, Lịch sử và học thuyết của J.J. Rousseau, Montesquieu, Voltaire, Triết học của Auguste Comte, Triết học của H. Bergson, Văn học sử Pháp, Khảo luận về tiểu thuyết, Bình luận tác phẩm của P. Bourgel, H. Bordeaux, G. de Maupassant, Afred de Vigny, Phật giáo lược khảo, Người quân tử trong đạo Nho, Tục ngữ ca dao, Việt Nam thi ca, Khảo về truyện Kiều, Bàn về thơ Nôm, Hát ả đào, Khảo về chữ quốc ngữ, Chữ Nho với văn quốc ngữ, Hán Việt văn tự, Bàn về quốc học, Quốc học và quốc văn. - Văn du ký: Trẩy chùa Hương, Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình ký, Thuật truyện du lịch Paris, Du lịch xứ Lào. (Sđd tr. 134) * Công nghiệp: - Ông đã đấu tranh cho câu văn quốc ngữ. (Học tiếng Việt, viết văn quốc ngữ, luyện văn xuôi, văn nghị luận, dùng Hán Việt âm,...) - Ông đã khởi công xây dựng một nền học mới. (Học tập thâu thái Tây Phương, soạn Tự điển, phiên dịch sách vở nước ngoài,..) - Ông đã cùng giúp cho văn nghệ tiến bộ. ( Mở ra các diễn đàn tranh luận, đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều vấn đề như bản sắc dân tộc, quốc học, quốc văn,... còn giá trị đến ngày nay,..) - Ông đã lập được một tạp chí có giá trị: Nam Phong Tạp Chí. Theo nhà phê bình Thiếu Sơn “nhiều người không biết văn Tây văn Tàu có thể chỉ nhờ đọc Nam Phong mà có được cái trí thức phổ thông về văn chương và học thuật Đông Tây” hay nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong NVHĐ đó là một “bách khoa toàn thư “ (Sđd tr.244-247). Hơn 40 năm sau, năm 1972 giáo sư Thanh Lãng trong cuốn “Phê bình văn học, Thế hệ 1932“ đã viết “... Muốn hiểu văn học Việt Nam vào hồi này (1913 –1932) không gì tốt hơn cho bằng nhìn vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn, Nam Phong là tất cả văn hoá thế hệ 1913 –1932. Câu nói trên đây quả không phải là quá đáng. Bởi vì, từ 1932 trở về trước, các nhà văn của chúng ta chưa có thói quen viết sách xuất bản sách mà chỉ có thói quen viết văn trên báo chí. Vậy Nam Phong hầu như là cơ quan ngôn luận duy nhất (Đông Dương tạp chí đã đình bản năm 1919- ghi chú của người viết) đã liên kết tất cả các cây bút có thế giá đương thời, đến nỗi nếu đêm đốt hết Nam Phong đi thì nền văn học thế hệ 1913 –1932 có thể nói là bị bóc lột rỗng tuếch. Nói như vậy để các bạn ghi nhận thế giá và uy tín của Nam Phong nó to tát đến như thế nào.Thực vậy trong mười mấy năm trường Nam Phong hầu như giữ vai trò của một Viện Hàn Lâm. Điều gì Nam Phong viết ra đều hay, văn Nam Phong viết ra là đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là được tôn trọng, luật lệ Nam Phong đặt ra mọi người tuân theo, chữ Nam Phong chế mọi người dùng... Người ta coi Nam Phong là bực thầy.” (Sđd tr.16-17). Dẫu đây là một ý kiến có phần chủ quan nhưng Thanh Lãng cũng đã cho ta thấy được sự đóng góp có một không hai trong thời kì đầu của công cuộc phát triển nền quốc văn nước ta. Quả nhiên, Phạm Quỳnh đã thực hiện được ước nguyện của mình với Nam Phong Tạp Chí. Ông đã tập hợp được một số trí thức tân học và cựu học để xây dựng một nền quốc học, tạo được một cao trào nâng cao dân trí sôi nổi, gây được một thế lực dân tộc khá mạnh. Ta không nên hiểu những thành tựu của Nam Phong Tạp Chí là của riêng ông Phạm Quỳnh mà là dưới sự dẫn dắt lèo lái tài ba của ông. Một lớp thanh niên đông đảo đã hưởng được ơn ích từ sự mở mang từ kiến thức đến tinh thần qua đọc báo Nam Phong, làm cơ sở cho phát triển nền văn chương học thuật sau này. Để hiểu rõ hơn đóng góp của tạp chí Nam Phong trong thời kì văn học này đòi hỏi một công trình nghiên cứu nghiêm túc và dày công, điều đó ở ngoài nội dung của bài viết này. 4. Phạm Quỳnh tham chính Khi ông Phạm Quỳnh được ra chấp chính với chức vụ Đổng lý Ngự Tiền Văn Phòng, rồi Thượng Thư bộ Học tháng 11 năm 1932, trong dân chúng truyền tụng câu vè: “Giấc Nam Kha khéo bất bình / Bừng con mắt dậy thấy mình Thượng Thư.” Quả là oái oăm cho một học giả rất nghiêm túc như ông. Có phải vì tham chức quyền mà ông rời bỏ sự nghiệp văn học của mình chăng? Năm 1932 vua Bảo Đại về nước. Vị vua Tây học này đã thực hiện ý đồ tân hoá và trẻ hoá đội ngũ bằng cách thay 6 vị lão thần thượng thư của Cơ Mật Viện bằng những người trẻ tuổi “Âu Á kiêm thông” trong hai gương mặt sáng giá đó là các ông Phạm Quỳnh (bộ Học) và Ngô Đình Diệm (bộ Lại). Dân gian nhắc nhở sự kiện này qua bài thơ châm biếm: Năm cụ khi không rớt cái ình / Đất bằng sấm dậy xứ Thần Kinh. Tuy nhiên sự nghiệp chính trị của ông Phạm Quỳnh không phải là điều khiến ông được nhắc nhiều về sau. Trên website của Bộ Thông tin Văn Hoá hiện nay đã có đánh giá rất sâu sắc về những đóng góp của ông về mặt văn hoá. Còn về chính trị thì ta nên tham khảo ý kiến cách đây hơn 60 năm của Thống sứ Trung Kỳ Healewyn. Viên quan thầy người Pháp này đã không nhầm khi viết trong báo cáo ngày 08.01.1945 cho Toàn Quyền Decoux và Tổng đại diện Mordant về ông Phạm Quỳnh: “Viên Thượng Thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí, cho sự bảo trợ của Pháp, cho việc khôi phục quyền hành của triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của mình. Một lần nữa, vị Thượng Thư bộ Lại đã kịch liệt chỉ trích việc trưng thu gạo cho những người Nhật. Ông ta đã nhắc lại lời đề nghị của mình về xứ Bắc kỳ và sự giải phóng mà người Pháp đã hứa. Tôi đã nhận xét với Hoàng đế Bảo Đại là vị Thượng Thư bộ Lại của ông ta đã vượt quá chức trách của mình khi vẫn khăng khăng đòi mở rộng quyền hạn của Viện Cơ Mật. Ông ta đòi chúng ta phải triển khai trong thời gian ngắn những lời hứa về sự giải phóng tiến bộ theo một kỳ hạn chính xác và đòi chúng ta khôi phục cho nhà Vua những biểu hiện của một chủ quyền trải rộng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh còn doạ sẽ khuyến khích phong trào chống đối nếu như trong những tháng tới chúng ta không thương lượng với vua Bảo Đại về một thể chế chính trị cho phép chuyển chế độ bảo hộ thành một kiểu Commonwealth (Khối thịnh vượng chung) trong đó những chức vụ chính sẽ được giao cho người bản địa. Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp nhận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc Kỳ), khước từ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi lưu ý Ngài một điều là dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyến nổi của nền độc lập Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho đến nay, đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng nếu ông ta để cho mình bị cám dỗ bởi những lời hứa hẹn về thuyết Đại Đông Á của người Nhật Bản.” 8 Hoá ra việc viết văn làm báo rồi làm chính trị của ông Phạm Quỳnh đều phát xuất từ một tấm lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn và sâu sắc vì một nền văn hoá nước nhà, vì một nền độc lập chính trị cho Tổ Quốc. Để hiểu hơn nữa việc ông Phạm Quỳnh tham gia chính trị thì có lẽ ta tin được một người đương thời với ông: nhà văn Nguyễn Công Hoan. Trong “Đời viết văn của tôi” (NXB Văn Học, Hà Nội, 1971) Nguyễn công Hoan đã viết: “Khi viết truyện Kép Tư Bền tôi liên tưởng tới bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm chính là trường hợp Phạm Quỳnh! ... Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng chẳng vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, ông được cấp 600 đồng mỗi tháng. Món tiền này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng, trái với ý mình, để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn, ai không khóc thầm.” Bi kịch của Phạm Quỳnh là ở đây. Ông đã đem cái hồn nhiên của một người làm công tác văn học vào sân khấu chính trị, ôm cái ảo tưởng chân lí sẽ thắng cường quyền, tin vào việc đấu bằng nghị trường, bất bạo động sẽ giành được chủ quyền cho Tổ quốc Việt Nam mến yêu của ông. Ông đã quá thơ ngây khi trích dẫn ngay trên bìa báo Nam Phong lời của Roosevelt: Có ngang tầm với nhau mới có chuyện bình đẳng (Il n’y a que ceux qui sont des égeaux sont égeaux) và tuyên bố với Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp P.Reynaud nhân dịp ghé thăm Hà nội ngày 06.11.1931 dưới hình thức một bức thư ngõ rằng “chúng tôi là một dân tộc đang đi tìm tổ quốc mà chưa thấy tổ quốc ở đâu. Tổ quốc ấy, thưa Ngài Tổng trưởng, không thể nào là nước Pháp được” 9. Chính trị không giản dị như thế. Phạm Quỳnh biết mình lầm, vâng ông đã rất tiếc cho lòng tin của ông vào nước Pháp văn minh trí thức với lí tưởng công bằng, tự do và bác ái.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 7:26:57 GMT 9
5. Phong cách Phạm Quỳnh Sau khi đã hiểu được tâm tình của Phạm tiên sinh, ta nên tìm hiểu một chút về nhân cách của ông. Ông sống rất giản dị, không nặng nề phô trương hình thức và thế lực như ông Nguyễn Văn Vĩnh. Ông Phạm Thế Ngũ trong VNVHSGƯTB đã trích hai đoạn phóng sự của Đào Hùng đăng trên Phụ Nữ Tân Văn ngày 18.06.1931 và ngày 16.07.1931 để so sánh hai phong cách sống và làm việc của các ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh, cho ta thấy rõ ràng sự tương phản nói trên. Về ông Phạm Quỳnh thì “Hai căn phố lầu rộng lớn ở ngay đầu con đường Hàng Da, giữa có cổng sắt làm lối ra vào, qua phía tay mặt thì thấy tấm bảng có đề hai chữ Nam Phong bằng Hán tự, đó là nơi toà soạn báo NP; còn qua bên tay trái thấy có bóng đàn bà con nít tức nhà riêng của ông chủ nhiệm Phạm Quỳnh....... Buổi chúng tôi đến thăm thì tiên sinh tuy trong người khó ở nhưng ngài cũng gắng gượng khăn áo chỉnh tề ngồi tiếp chuyện chúng tôi trong hai giờ đồng hồ. Phạm tiên sinh tuổi ngoài 40, vóc vạc ốm o, dáng người hoà nhã, ăn nói cử chỉ mỗi điều đều có ý tứ giữ gìn, tỏ ra một người đã có công luyện tập tính nết cũng như câu văn theo cái khuôn khổ mực thước riêng. Sau đôi mắt kiếng, cặp mắt vui vẻ pha với nụ cười luôn trên miệng đã làm cho mất cái vẻ kiêu căng tự đại mà thông thường người ta vẫn có ý trách tiên sinh...”, còn về ông Nguyễn Văn Vĩnh thì “Tầng trên lầu là toà soạn báo Trung Bắc Tân Văn, Học báo và L’Annam Nouveau, người làm đông đúc, tiếng máy chữ rền tai, rõ là một nơi công việc bộn bề khác với cảnh tịch mịch trong toà soạn báo Nam Phong của ông Phạm Quỳnh. Thấy cảnh đủ biết tính người khác nhau như đen với trắng, bên ưa hoạt động, bên thú êm đềm. Vậy thì hai bên không hợp tác được với nhau cũng không lấy chi làm lạ và người xướng lên vấn đề lập hiến người tán dương trực trị cũng là lẽ thường... Nguyễn Văn Vĩnh tiên sinh đang ngồi nơi bàn giấy đọc các thư từ thì chúng tôi vào thăm. Tiên sinh năm nay tuổi đã ngũ tuần mà người coi sức lực mạnh mẽ lắm. Diện mạo khôi ngô, đôi mắt long lanh, cử chỉ tự nhiên, nói cười vui vẻ...” 10 Tương truyền, mỗi lần đọc sách Phạm tiên sinh đều ngồi ngay ngắn ở bàn trước một lò trầm và mặc khăn đen áo dài như đang cử hành một nghi lễ. Quốc phục khăn đen áo dài luôn luôn được ông mặc nhắc chúng ta đến tấm lòng yêu bản sắc nước nhà của Phạm tiên sinh. Cũng với bộ quốc phục đó trên đất Paris ông đã từng làm cho trí thức Pháp phải trầm trồ khen ngợi. Có người cho rằng đó là tính bảo thủ cố chấp nhưng nhìn nhận ở một góc độ khác, nhất là với một thanh niên Tây học ta mới thấy quí một nếp nhà còn được gìn giữ và tự hào. Điều nhắc nhở chúng ta là mới đây trong hội nghị APEC 2006 tại Hà Nội các nhà lãnh đạo lớn của thế giới như Nga, Mỹ , Trung Quốc, Pháp,.. đã hân hạnh được tặng và mặc bộ quốc phục như trên. Khi mới hai mươi mấy tuổi đầu, ông đã tập hợp được những người lớn tuổi cùng cộng tác. Chính ông đồ Nguyễn bá Học đã công khai khâm phục tài năng của người trai trẻ này qua câu nói “Bách tuế lão ô bất như sơ sinh phượng hoàng” (Con quạ già 100 tuổi cũng không bằng con phượng hoàng mới sinh). Khi khăn đen áo dài diễn thuyết trước Quốc Hội Pháp để đòi hỏi cho nền độc lập văn hoá của Việt Nam, ông Phạm Quỳnh chỉ là một ký giả quèn, tốt nghiệp trung học nhưng đã làm trí thức Pháp kinh sợ với ngôn ngữ khúc chiết, lí luận đanh thép và lòng yêu nước nồng nàn hơn các trí thức Việt Nam Tây học khác tại Pháp có bằng cấp cao hơn nhiều. Giải thích việc tránh cuộc bút chiến về truyện Kiều với ông đồ Ngô Đức Kế, ông Phạm Quỳnh đã nói, “Bất luận tài học ông Nghè Ngô như thế nào, ông có điều hơn đứt tôi là ông đã vì nước mà phải tù tội... Nếu thành ra một cuộc cãi lộn thì tất phải dùng tiếng nặng tiếng nhẹ, ông mục cho tôi là văn sĩ lóp lép thì tôi nể gì ông mà không tặng ông những tên nọ tên kia, thành ra một cuộc đấu khẩu hàng rau hàng cá còn ra sự thể gì.” 11 Không thích ông phải kể đến nhóm Phong Hoá. Họ đã làm vè như sau: Nước Nam có hai người tài/ Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai là sừ Uỳnh / Một sừ béo núng rung rinh / Một sừ lểu dểu như hình cò hương / Không vốn liếng chẳng ruộng nương / Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu... (Báo Phong Hoá số 14 ngày 22.07.1932). Phê bình một học giả từng diễn thuyết trước Nghị viện Pháp bằng thơ vè vớ vẩn như thế chỉ làm tăng thêm thế giá của ông Phạm Quỳnh. Một người nữa không mấy thích ông Phạm Quỳnh là Đổng lí Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè. Khi vua Bảo Đại sai ông soạn đạo Dụ cử Phạm Quỳnh làm người thay mặt Chính phủ Việt Nam giao thiệp với Tối cao Cố vấn Nhật và các nhà chức trách nói chung thì ông Hoè lại thảo tờ Chỉ (thấp thua 2 cấp: Chiếu, Dụ, Sắc, Chỉ) cử Lại bộ Thượng thư Phạm Quỳnh tạm thời làm nhiệm vụ liên lạc giữa hai bên. Phạm khắc Hoè viết: “Làm như vậy, tôi chắc rằng những chữ Chỉ, tạm thời, liên lạc thế nào cũng làm cho Phạm Quỳnh căm thù mình. Ấy thế nhưng sáng ngày 14.03.1945, khi gặp tôi trong buổi lễ cáo yết Liệt thánh, Phạm Quỳnh lại tỏ ra ngọt ngào với tôi hơn bao giờ hết. Và vào lúc buổi lễ kết thúc, ông thiết tha căn dặn tôi chiều hôm ấy trên đường đi vào Đại Nội, ghé qua bộ Lại nói chuyện.” 12 Thâm nho như Phạm Thượng thư mà lại xử sự như thế thật là quá mã thượng. Xét về hai mặt đức tài, ông Phạm Quỳnh đúng là một sĩ phu có thực học và công phu hàm dưỡng dẫu rằng ông thường tự khiêm tốn gọi mình là “một anh đồ nhà quê”. ( un lettré compagnard) 6. Nơi an nghỉ cuối cùng của Phạm Thượng Chi Ông Phạm Quỳnh mất năm 1945 khi mới 53 tuổi lúc đang mang trong lòng bao hoài vọng cống hiến cho nền văn hoá nước nhà sau khi rút khỏi vũ đài chính trị. Ông sống ở Huế khá lâu, 13 năm và cũng gởi nắm xương tàn trên đất Huế, chùa Vạn Phước. Chùa Vạn Phước nằm trên đường Điện Biên Phủ (xưa là đường Nam Giao) và bên hông phải của chùa Từ Đàm. Sinh tiền, Phạm Quỳnh thường lui tới chùa này lúc thư nhàn để đọc sách, nghỉ ngơi hoặc suy ngẩm nên rất thân tình với Hoà thượng trụ trì chùa lúc ấy. Chùa dành cho ông một gian nhỏ để làm thư phòng. Ông cũng rất thích nghiên cứu đạo Phật và đã viết cuốn Phật giáo lược khảo. Âu cũng là một thiện duyên mà giờ đây giác linh Phạm Tiên sinh còn nghe được tiếng chuông và lời kinh của đấng Từ Phụ. Sát ngay cổng ngoài của chùa về phía trái là mộ được cải táng của Phạm Thượng Chi. Hai trụ biểu ở cổng vào mộ có hai hàng chữ Nôm khắc trên đá hoa cương câu nói lừng danh của ông “Truyện Kiều còn tiếng ta còn” bên phải và”Tiếng ta còn, nước ta còn” bên trái do con cháu ông trùng tu năm 1992 (Ảnh 1). Mộ ông nằm dưới một tàn cây râm mát. Ở bình phong tiền có câu “Tiếng ta con, nước ta còn” viết bằng chữ Quốc ngữ (Ảnh 2). Tấm bia đá bên trong (Ảnh 3) ghi chính giữa dòng chữ Hán “Nam Phong chủ bút Phạm Quỳnh Thượng Chi di thể” (南 風 主 筆 范 瓊 尚 之 遺體 - Thân thể còn lại của chủ bút báo Nam Phong tức Phạm Quỳnh hiệu Thượng Chi), bên phải là dòng chữ “Ất Mùi niên thập nhị nguyệt thập bát nhật (乙 未 年 十 二 月 十 八 日 - Ngày 18.12. năm Ất Mùi, tức 09.02.1956) tức ngày cải táng ông từ làng Hiền Sĩ, Phong Điền, Thừa thiên-Huế vào Huế (có tư liệu nói ông được đem vào từ rừng Hắc Thú, Quảng Trị). Bên trái trên bia là hàng chữ “Nam, Phạm Bích đồng đệ muội đẳng cung chí” (男 范 璧 仝 弟 妹 等 恭 誌 - Con trai Phạm Bích cùng em trai em gái cung kính ghi). Trong chùa Vạn Phước cũng còn nhiều di vật của ông. Ở nhà học của tăng sinh là hoành phi có câu Thổ nạp Âu Á, thủ bút của ông (Ảnh 4). Có tư liệu cho rằng có một hoành phi tương tự hiện tại nhà của người con trai út là nhạc sĩ Phạm Tuyên. Trong hiên của điện thờ chính chùa Vạn Phước về phía trái khi đi vào còn có bức ảnh lớn hình Phạm tiên sinh đang làm việc tại văn phòng (Ảnh 5). Biệt thự Hoa Đường thuộc đường Hải Triều (xưa là đường Vạn Vạn) nhìn ra sông An Cựu và cách đường Phạm văn Đồng (xưa là Quốc lộ 1) về phía trái khoảng chừng 2 km. Ngày xưa đây là một ngôi nhà 2 tầng xây theo kiểu Tây mà bây giờ chỉ còn lại cái tháp nước bên hông nhà trơ gan cùng tuế nguyệt (Ảnh 6). Cả khuôn viên đã bị lấn chiếm bởi những người không bà con gì với Phạm Thượng thư. Tất cả là những căn nhà tôn lụp xụp hoặc nhà trệt thấp, nhỏ như một xóm lao động nghèo khó. Khó ai có thể tưởng tượng được đây từng là một biệt thự xinh đẹp của một quan đầu triều ngày nào. Dâu bể đã đổi thay nhưng lòng ngưỡng mộ Phạm Thượng Chi tiên sinh vẫn còn mãi trong lòng bao nhân sĩ Việt Nam. Ảnh 1: Cổng vào mộ Phạm Thượng Chi tiên sinh. Ảnh 2: Bình phong tiền trước mộ ông Phạm Quỳnh. Ảnh 3: Bia mộ Phạm Thượng Chi tiên sinh. Ảnh 4: Hoành phi “Thổ nạp Âu Á” tại chùa Vạn Phước, TP Huế. Ảnh 5: Di ảnh của ông treo tại chùa Vạn Phước. Ảnh 6: Nơi ngày xưa là biệt thự Hoa Đường. Tháng 05/2007
1. Bà là con thứ 6 của Phạm Quỳnh và là vợ của Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng. Ông Lãng là chủ bút Nam Phong ở giai đoạn cuối 1933 – 1934. Ông Lãng về sau đã theo tướng Nguyễn Sơn và tiếp tục các hoạt động văn hoá. Bà còn có bút hiệu là Liên Trang, đã từng viết một luận án tiến sĩ văn chương về Những đóng góp của Nam Phong tạp Chí trong buổi đầu của nền quốc học Việt Nam.
2. Nam Phong Tạp Chí số 146, tháng 7.19313. Pháp du hành trình nhật ký, ngày thứ Tư, 19.7.1922
4. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Quốc Học tùng thư, tập III, tr. 149
5. Theo nhà báo Xuân Ba, Tuổi Trẻ On line ngày 05.11.2005.
6. Phạm Thế Ngũ, sđd tr. 129.
7. Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê, NXB Lá Bối,Sàigòn, 1968.
8. Theo Xuân Ba, Tuổi Trẻ Online ngày 12.11. 2005
9. Báo Nam Phong số 166, Octobre 1931, phần phụ lục tiếng Pháp.
10. Phạm Thế Ngũ, sđd, tr. 127.
11. Phạm Thế Ngũ, sđd tr. 154.
12. Những ngày cuối cùng của triều Nguyễn, Trần Huy Liệu & Phạm Khắc Hoè, NXB Thuận Hoá, Huế, 1992, tr. 15.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 8:59:13 GMT 9
BÀI SỐ 10 TRONG 11 BÀI CUỐI ĐỜI
CỦA THƯỢNG CHI PHẠM QUỲNH:
10.- TƯ TƯỞNG KEYSERLING
Phạm Quỳnh
(Tháng 6 năm 1945)
—
Giữa trời nóng tháng sáu mà đọc sách triết lý Keyserling, quyết không phải là một cách tiêu khiển mùa hè. Vậy mà mấy bữa nay đã đọc hết một quyển dày ngót bốn trăm trang của nhà triết học Đức, đề là “Mặc khảo về Nam Mĩ” (Méditations sud-américaines). Kể thì cũng không phải là một cách mua vui ngày hè thật, vì tư tưởng sâu xa, lời lẽ khó hiểu, phải để ý suy nghĩ luôn không khỏi mệt trí. Có lẽ cũng không phải là ý nghĩa quá thâm trầm mà khó hiểu, chỉ vì cách lý luận phô diễn của tác giả kỳ khu (khó khăn – PT chú) mắc mỏ mà làm cho độc giả không nhẫn nại đến chán nản vậy. Lối hành văn của các nhà triết học Đức vẫn có tiếng là nghiêu khê (lắt léo, quanh co – PT chú) xưa nay: thật thế; đọc văn Keyserling như đứng giữa đêm tối mà chốc chốc có chớp loáng giữa trời, có nhiều câu sáng sủa sâu sắc lạ lùng, mà chìm đắm trong những đoạn mập mờ tối nghĩa. Mạch lạc không rõ ràng, cho nên phải để ý luôn cũng mệt. Nhưng cách tiêu khiển của người ta, mỗi người mỗi khác. Muốn bận trí cho khỏi nghĩ lan man đến chuyện khác, đọc sách Keyserling giữa trời hè nóng nực, cũng là một cách tiêu khiển riêng vậy.
Nước Đức, sau cuộc thất bại năm 1918, tâm hồn tán loạn, thần trí hoang mang, các nhà tư tưởng băn khoăn tự hỏi khống biết lẽ phải ở đâu, đường sống nẻo nào. Bá tước Hermann Keyserling là một tay lỗi lạc trong các văn nhân học giả đó, đã từng sáng lập ra một nơi học xá riêng để họp tập đồ đệ nghiên cứu về đạo lý đặt tên là “trường Đạo Lý” (Ecole de la sagesse), lại du lịch các nước để khảo sát về nghĩa lý các dân tộc. Cách khảo sát của ông là cách “mặc khảo”, mượn cảnh vật bề ngoài, lấy tình cờ quan sát mà trầm tư mặc tưởng, suy rộng đến nguyên lý sâu xa.
Ông tự hỏi: đời người có nghĩa không, và nghĩa đời người là gì?
Xét đời người phải xét đến sự sống, vì đời người là cái khoảng người ta sống trên mặt đất. Nhưng người ta cũng là một giống trong muôn vàn giống sinh vật khác; xét sự sống của người ta là xét sự sống của hết thảy các sinh vật trên mặt đất.
Các sinh vật bắt đầu sống thế nào? Nguyên thủy của sự sống thời mịt mù trong thời gian, không biết đâu mà dò xét cho được. Cứ xét các trạng thái có thể đoán được, thì có lẽ trạng thái gần với nguyên thủy hơn cả, là trạng thái những giống bò rạp (tức loài bò sát – PT chú), những loài máu lạnh: rồng rắn, thuồng luồng, mắt lờ đờ, mình quằn quại, lúc nhúc sinh sản trong những đầm lầy rừng rậm. Suốt mặt địa cầu, duy có châu Nam Mĩ là cảnh vật còn gần giống với cảnh vật hồi đầu, khi sự sống mới xuất hiện trên mặt đất: Thổ dân châu ấy là giống Tây Ấn Độ (Da đỏ), thì nay đã hầu tàn hết rồi. Hiện cư dân toàn là người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha sang thực dân đã mấy thế kỷ nay, sinh trưởng lâu đời, chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh mà hầu thành những dân tộc mới. Xét sinh hoạt và tâm lý các dân tộc ấy, như người Argentine, Brésil, Pérou, v.v… có thể trừu tượng mà ức đoán được trạng thái của sự sống hồi nguyên thủy thế nào. Sự sống ấy có mật thiết quan hệ với hoàn cảnh địa lý, với cảnh vật bên ngoài. Sự sống ấy liền với mạch đất, khí đất, toàn thuộc về đất (tellurique). Theo thuyết “âm dương” của triết học cổ nước Tầu, thì sự sống hồi đầu là toàn thuộc âm cả. Thuộc âm nên nặng nề, tối tăm âm thầm, lạnh lẽo, chính là tính cách sự sống của các giống bò rạp ở các đầm lầy đời thượng cổ vậy. Xét tâm lý người Nam Mĩ ngày nay cũng có tính cách thuộc âm như vậy. Đó là tính cách người đàn bà thuộc về thụ động. Cho nên sự sống của người đàn bà mà giữ được thuần tính chất đàn bà, vẫn là gần với trạng thái nguyên thủy, vì không đoạn tuyệt với đất, ứng với địa mạch, thuận với địa lý, thuần thuộc âm vậy.
Nay lại xét sâu hơn nữa mà thử nghiệm xem cái sống vì địa mạch, cái sống thuần âm đó, cái sống gần với nguyên thủy đó, nó biểu lộ ra những đặc tính gì.
Xét cho kỹ, nhận ra có ba tính cách như sau, tác giả gọi bằng những tên riêng lấy ở tiếng Tây Ban Nha ra: một là gana, tiếng này cũng khó dịch lắm, hẵng tạm dịch là “khuynh hướng”; hai là delicadeza, cũng tạm dịch là “cảm xúc”; ba tức là “cảm động” (chữ Pháp là émotion).
Sự sống nguyên chỉ biểu lộ ra ba cách đó mà thôi: loài sống vốn có một sức ngầm nó đưa đẩy cho nghiêng theo một đường, tức là gana, là cái khuynh hướng muốn sống; bị ngoài kích thích thì cảm xúc, như cây hàm tu thảo (Cây xấu hổ – PT chú), chạm đến thì thu rút lại ngay; nhưng kích thích mạnh thì có dao động đến cả thân thể, tức là cảm động, và ở những loại cao thì nhân đó sinh ra cảm tình, thành ra ái ố (Yêu ghét – PT chú). Tác giả chỉ nói có ba tính cách đó; nay xin lạm thêm một tính cách thứ tư nữa, là “phản động”, vì có cảm động tất có phản động lại, tức là đáp lại cái kích thích bên ngoài, hoặc thuận, hoặc nghịch.
Sự sống rút lại chỉ có thế mà thôi, chỉ là một mớ những khuynh hướng, cảm động và phản động tự nhiên, dường như vô ý thức vậy. Đã vô ý thức thì còn có ý nghĩa gì nữa?
Xét phần nhiều người cũng chỉ là quanh quẩn trong cái vòng sống tự nhiên đó mà thôi, và hết thẩy người đàn bà là sống như thế cả. Các dân tộc Nam Mĩ cũng thế. Mà cách sống đó là cách sống chân thiệt hơn cả, mà cũng là cách sống không có ý nghĩa gì cả.
Mà thiệt sự sống vốn không có ý nghĩa lý chi hết, không có nghĩa có lý đối với chi hết cả. Nghĩa lý là sự người ta ngẫu nhiên bịa đặt ra đó mà thôi.
Sự sống hồi đầu chỉ là một đám tối tăm lạnh lẽo, do mấy sức mạnh đơn sơ chuyển động, ngọ nguậy như con trăn khổng lồ nằm trong hang sâu vực thẳm…Một buổi nọ, không biết vì duyên cớ gì, cũng như không biết vì sao mà có sống, trong đám tối đó bật ra một cái tia sáng là tia sáng của Thần trí người ta. Sự tình cờ ấy đem lại cho loài người lắm chuyện lôi thôi. Tự đó mà sự sống vốn ù lì mù mịt thành ra có giác có tri. Tự đó mà loài người đương thiêm thiếp giấc mòng, vụt tỉnh lên hoạt động. Tự đó mới có cuộc đời, có lịch sử, mới khởi lên vấn đề nghĩa đời người. Nhưng đối với sự sống, đó toàn là trò chơi, là chuyền thừa cả, do Thần trí người ta vẽ vời bịa đặt ra, chứ đối với lẽ sống tuyệt nhiên không có quan hệ gì, mà thường thường lại là mâu thuẫn phản trái với sự sống vậy.
Thần trí đã can thiệp vào cõi sống – dương đã phối hợp với âm – chiếu sáng vào trong đám hỗn độn u âm, tiện thị (Ấy là- PT chú) là nhận thức sự sống, đã nhận thức liền muốn tổ chức, muốn tổ chức tức là lấy lý trí mà đặt cho sự vật thành thống hệ (Quan hệ của những sự vật có mối liên tiếp cùng nhau, tức hệ thống – PT chú) đời người có nghĩa lý.
Số là Thần trí, có cái đặc tính hay tưởng tượng, hay quan niệm. Tưởng tượng là tạo ra những hình tượng, quan niệm là trừu tượng mà hóa thành lý tưởng. Lý tưởng với hình tượng lại có sức mạnh muốn hiển hiện ra thực sự. Thành ra cuộc đời càng ngày xa với lẽ sống nguyên thủy, chỉ bằng cứ ở những lý tưởng cùng hình tượng huyền ảo do thần trí cấu tạo ra, lại do thần trí muốn đem ra diễn thành sự thực vậy. Nói tóm lại thời đời người là một tấn kịch, cuộc đời là một kịch trường, và người ta toàn là những vai đóng kịch cả. Đời người có nghĩa hay không, là chỉ đối với vai tuồng của người đóng, đối với bản tuồng của mỗi người diễn mà thôi, chứ đối với lẽ sống thiên nhiên trong Vũ trụ, thì chẳng có quan hệ mảy may gì cả. Không những thế: người ta nhiều khi mê man về trò chơi đó mà quên cả lẽ sống cốt yếu; cho nên thường phải cảnh cáo cho biết đó là chuyện giả, chuyện giả hết cả.
Thế là nghĩa làm sao? Nghĩa là sự sống vốn thuộc âm, không có nghĩa lý gì cả, cho đến ngày Thần trí (Esprit) – tức là khí Dương[1]- can thiệp vào, biến một cái thế giới tối tăm lạnh lẽo thành một vũ đài rực rỡ náo nhiệt, để cho loài người diễn một tấn tuồng thiên cổ li kỳ, thiên cổ đặc sắc, tức như thi hào nước Ý Dante gọi là cái “Hí kịch thành thần” (Divina Comedia) của Nhân loại vậy.
Nhưng phải nhớ rằng tấn tuồng đó không có quan hệ gì với sự sống cả, chỉ là cái trò chơi của người đời đặt ra để tiêu khiển trong cõi sống vậy. Nhưng cả giá trị của đời người, cả nghĩa lý của đời người là ở trong tấn tuồng đó…
Ấy tư tưởng của Keyserling như vậy. Tư tưởng ấy kể cũng li kỳ và cũng sâu sắc thật. Đây gọi là tóm tắt đại khái mà thôi, chưa chắc đã thấu hiểu được hết, mà nói ra cũng là thô lược vô cùng. Vì giá trị sách của Keyserling là nhân một việc nhỏ mà khái luận thành nghĩa lý sâu xa, dẫn chứng ba lan (Như sóng, tầng lớp trong văn chương khi lên khi xuống – PT chú), khiến cho người đọc phải nghĩ ngợi vô cùng. Nhưng cách lý luận không khỏi tần phiền (Nhiều, thường hay quấy quả – PT chú), mà cách hành văn có điều trắc trở, cũng khiến cho người đọc nhiều khi mệt trí não.
Đọc sách Keyserling quyết không phải là cách tiêu khiển mùa hè vậy. Thuật sách Keyserling cũng quyết không phải là cách tiêu khiển mùa hè vậy.
Nhưng đã trót tiêu khiển bằng cách đó, cũng phải vội vàng ghi chép lấy, gọi là kỷ niệm mấy ngày nóng nực lạ thường, giữa lúc thần trí bâng khuâng, lan man nghĩ ngợi những đường kia nỗi nọ xa gần…
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 9:02:53 GMT 9
TRẢ LỜI BÀI CẢNH CÁO CÁC NHÀ HỌC PHIỆT CỦA PHAN KHÔI TIÊN SANH Phạm Quỳnh
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhân các bạn đang đọc bài cuối trong 11 bài di cảo của Phạm Quỳnh, chúng tôi xin mời các bạn đọc thêm bài này, liên quan mật thiết đến “cuộc tranh luận về Truyện Kiều” nổi tiếng trong lịch sử văn học ta.
Nhiều năm rồi, người đọc đời sau đã biết đến các bài văn nảy lửa của cụ nghè Ngô Đức Kế kịch liệt chống lại chủ trương đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh như: Nền quốc văn (báo Hữu Thanh, tháng 4/1924) và bài Luận về chánh học cùng tà thuyết (báo Hữu Thanh, tháng 9/1924) bài này đã được đưa vào sách giáo khoa lớp cuối cấp trung học phổ thông cuối những năm 50 thế kỷ trước, “tố cáo” việc đề cao Truyện Kiều đã khiến cho “các gã thanh niên say đắm trong trời tình bể ái mà mềm nhũn cái lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa” (Từ điển Văn học Việt Nam, 2004). Đặc biệt, càng đông đảo người biết bài văn đanh thép của Phan Khôi Cảnh cáo các nhà học phiệt trên báo Phụ nữ tân văn số 62 (24/7/1930) và Trung Lập các số từ 6206 (26/7/1930) đến 6209 (30/7/1930), chỉ thẳng tên Phạm Quỳnh mà phê phán. Kế đó là bài của Huỳnh Thúc Kháng Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không? – Chiêu tuyết những lời bài báng cho một chí sĩ mới qua đời trên báo Tiếng Dân Huế, số 317 (17/9/1930) và Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 72 (2/10/1930). Nhưng, có điều là bài trả lời trên đây của chính Phạm Quỳnh, là đối tượng bị đả kích, phê phán, cũng đăng ngay trên báo Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 67 (28/8/1930) thì ngày nay lại ít người được đọc. Lạ thay, mà cũng tiếc thay.
—o0o—
Phan Khôi tiên sanh với tôi là chỗ quen biết cũ.
Từ khi tiên sanh dời Hà Nội vô Nam kỳ, không có dịp gặp nhau. Nhưng về phần tiên sinh, coi chừng vẫn nhớ đến tôi luôn. Khi viết báo Thần chung, khi viết báo Phụ nữ, tiên sanh thường nhắc đến tên tôi. Thậm chí có khi không sẵn đầu bài, tiên sanh lấy tôi làm đầu bài. Như mới đây, nhân tiên sanh soạn chưa xong “bài trả lời” ông Trần Trọng Kim về Nho giáo, tiên sanh lại sực nhớ đến tôi mà liền tặng cho cái huy hiệu làm lãnh tụ một đảng, tiên sanh đặt tên là đảng “học phiệt”, rồi nhân đó viết một bài đại luận để cảnh cáo cho những người trong đảng ấy.
Nếu về cảm tình người cũ mà Phan tiên sanh ân cần đến tôi như thế, tôi xin cám ơn.
Từ trước đến nay, sở dĩ tôi không trả lời tiên sanh là vì tiên sanh mới thỉnh thoảng tặng cho năm ba câu mát mẻ xa xôi mà thôi, xét ra cũng không có quan hệ gì.
Nhưng nay tiên sanh công nhiên làm án một phái cho là có tội với học thuật nước nhà, mà lại phân minh chỉ tên chỉ tuổi tôi là thủ lãnh, tức là thủ phạm trong phái đó, thì tôi dầu có muốn lên mặt kiêu căng cũng không thể sao làm thinh cho được.
Vả việc là việc quan hệ lớn, không phải chỉ thiết đến một cá nhân tôi thôi, mà thiết đến cả học giới trong nước, tất tôi phải cùng tiên sanh phân trần mấy lời, không thể để cho độc giả ngộ nhận được.
Vậy Phan tiên sanh kết án phái “học phiệt” về những tội gì?
Trước hết chữ “học phiệt” đó của tiên sanh tự đặt ra nghĩa là gì?
Tiên sanh cho nước ta có một bọn “học phiệt” tức cũng như nước Tàu có bọn “quân phiệt”, là một hạng người cũng sảo có(*) học vấn, có tư tưởng, nhưng phải cái tánh tự cao, tự phụ quá, dường như muốn chuyên chế dư luận, chỉ lên mặt làm thầy người ta, chớ không chịu người ta chỉ trích đến mình.
Tiên sanh buộc cho bọn đó hai cái tội: một là phàm ai nghị luận, chỉ trích, công kích, phẩm bình gì đến mình là cứ làm thinh hết thảy, người ta gọi đến tên mà “chửi” cũng không trả lời, đó là một cái thái độ rất khả ố, vì tỏ ra khinh người mà lại hèn nhát nữa; hai là chính vì cái thái độ khả ố đó mà cõi học nước nhà thành ra vắng vẻ lạnh lẽo không ai còn muốn bàn bạc cãi cọ gì nữa, rõ ra cái cảnh tro tàn khói tỏa, quạnh quẽ đìu hiu là cái cảnh chết.
Tiên sanh vì tiền đồ học thuật, hăm hở mạnh bạo đứng lên kết án phái “học phiệt” đó, lời lẽ nghiêm nghị như quan chưởng lý kết án đảng cộng sản vậy.
Vậy những bị cáo nhân là ai?
Tiên sanh chỉ nói phái “học phiệt” không có bao lăm người, mà không kể rõ có những ai, song kêu đích danh tôi là thủ phạm. Vậy có lẽ tiên sanh chỉ có ý muốn “gây sự” – xin miễn cho tiếng nôm na – riêng với tôi chăng?
Tiên sanh buộc tội cho tôi có cái dã tâm muốn chuyên chế dư luận, dường như muốn làm một tên Mussolini trong cõi học nước Nam nầy. Vậy ra tôi có oai quyền, có thế lực đến thế dư? Thế thì danh giá cho tôi quá! Dầu tiên sanh có đem cả đại đội đến mà công kích tôi, tôi cũng cam tâm mà lấy làm tự khoái.
Song phàm xử án công bằng, phải có chứng cớ hẳn hòi, chớ vì tình nghi, vì ác cảm với người nào mà kiếm cớ buộc tội cho người ta, thì cái án ấy không có giá trị gì nữa.
Tỉ như việc cộng sản. Ví chánh phủ vì không ưa người nào, sẵn lòng nghi, cho khám xét nhà, không thấy gì cả, chỉ bắt được mấy quyển sách Karl Marx hay Lénine, cũng buộc tội cho là muốn làm cộng sản, mưu nhiễu loạn cuộc trị an; như thế thì có phải là công bằng không?
Nay Phan tiên sanh đối với tôi mà khởi ra cái án “học phiệt” đó, có phải là chứng cớ rõ ràng không, hay là chỉ vì “tình nghi” mà bỗng dưng kết cấu ra? Có phải có sự thực hẳn hòi không, hay là chỉ là một cái “án về thái độ”, một cái “án về khuynh hướng” (procès de tendance) nghĩa là đoán phỏng chừng cái ý hướng của người ta mà đem lòng yêu ghét, buộc cho những tội không đâu?
Không biết chủ ý tiên sanh thế nào, nhưng trong bài đại luận của tiên sanh chỉ có thấy dẫn một việc làm chứng, là việc mấy năm trước ông nghè Ngô Đức Kế công kích tôi về Truyện Kiều, mà tôi cứ thủy chung làm thinh không trả lời; thế là phạm hai cái tội đã kể trên kia.
Ông nghè Ngô nay là người thiên cổ rồi. Kẻ khuất người còn, chuyện bao năm cũ kể ra làm gì? Nhưng Phan tiên sanh đã giở giói ra, thì tôi cũng phải nối lời phân trần cho rõ lẽ: xin vong linh ông Ngô chứng giám!
Họ Ngô với tôi vốn không có hiềm khích gì. Ông là người quốc sự phạm cũ, vì việc nước mà long đong chìm nổi trong bao năm, dầu người không đồng tư tưởng, đồng chánh kiến với ông cũng phải kính trọng cái thân thế của ông. Tôi cũng vậy, thủy chung vẫn coi ông như bậc đàn anh. Bấy giờ ông làm chủ bút báo Hữu Thanh mới lập. Báo Hữu Thanh là một cái tạp chí; báo Nam Phong của tôi cũng là một cái tạp chí. Báo Hữu Thanh ra sau, báo Nam Phong của tôi có từ trước. “Hàng thịt nguýt hàng cá”, là cái thói thường của bọn con buôn. Trong làng văn làng báo có khi cũng mắc phải cái thói đó. Xem chừng ra ngay từ đầu, báo Hữu Thanh đã không có ý thân thiện với chúng tôi rồi. Tôi đoán thế nào cũng có một cuộc phản đối. Nhân khi ấy hội Khai trí Tiến đức mới đặt ra lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền là tác giả Truyện Kiều. Việc nầy tự tôi khởi xướng, mà ông Trần Trọng Kim cũng là một tay chủ động. Bữa ông Trần và tôi diễn thuyết ở nhà hội Khai trí, có tới hai ngàn người đến nghe, coi ra hoan nghinh cổ võ lắm. Ông chủ bút Hữu Thanh có ý căm tức, liền viết bài phản đối Truyện Kiều và nhân thể mạt sát tôi. Tôi giận lắm, hăng hái muốn ra quyết chiến với họ Ngô một phen. Vì tôi ôn hòa thì ôn hòa thật, nhưng không đến nỗi nhu nhược mà bị người công kích không biết đối phó lại. Nhưng tôi nghĩ kỹ, rồi quyết hẳn làm thinh không trả lời. Ai cũng biết rằng họ Ngô không phải vì Truyện Kiều mà bình phẩm Truyện Kiều, chỉ là kiếm cớ để gây cuộc “cãi lộn” với tôi, trước là làm một cách quảng cáo cho báo Hữu Thanh, sau cũng để thỏa một cái lòng ác cảm riêng chăng. Truyện Kiều là một nền văn chương kiệt tác, xét Truyện Kiều phải đứng về phương diện văn chương mà xét, nay họ Ngô lại đứng về phương diện đạo đức, – mà là cái đạo đức rất hẹp hòi của phái hương nguyện, – thì rõ là chủ ý lập luận thiên đi, để có chỗ mà công kích người ta. Như vậy không phải là một vấn đề văn chương học vấn gì nữa, chỉ là một vấn đề cá nhân mà thôi. Tôi bèn định cứ làm thinh, không bắt lời, tựu trung có hai lẽ như sau:
1) Đã là một vấn đề cá nhân thì việc chỉ can thiệp đến hai người đối thủ với nhau mà thôi. Bất luận tài học ông Nghè Ngô thế nào, ông có một điều hơn đứt hẳn tôi: là ông là người đã vì nước mà phải tù tội. Trên cái cân dư luận của quốc dân, ông đã có sẵn 10 năm Côn Nôn ở đó rồi. Như vậy thì cuộc tranh luận không được ngang sức nhau nữa. Vả lại tự ý tôi cũng không muốn tranh luận với ông, vì dầu thế nào mặc lòng, tôi cũng vẫn kính trọng cái thân thế của ông; nếu đã thành ra cuộc cãi lộn thì tất phải dùng những lời nặng tiếng nhẹ ông mục cho tôi là “văn sĩ lớp lép”, thì tôi nể gì ông mà không tặng cho ông những tên nọ tên kia, thành ra một cuộc đấu khẩu hàng rau hàng cá, còn có sự thể gì nữa!
2) Lẽ nữa, – mà lẽ nầy Phan Khôi tiên sanh đoán trúng lắm, – là ông chủ bút Hữu Thanh đã lập tâm “gây sự” với tôi để làm cách quảng cáo cho báo ấy, thì tôi là chủ báo Nam Phong, khi nào tôi chịu mắc mưu đó! Tôi làm thinh không trả lời chính là một cách phá cái dã tâm của họ vậy.
Ấy đầu đuôi câu chuyện như vậy. Rút lại là một câu chuyện cá nhân, câu chuyện quyền lợi cả, không có quan hệ gì đến học vấn tư tưởng hết.
Bởi thế nên tôi cứ làm thinh, không hề đả động đến nửa lời. Làm thinh là không muốn cãi lộn vô ích, chớ không phải là khinh hay là sợ gì dư luận.
Ôi! Dư luận! Dư luận vẫn đáng kính trọng lắm. Nhưng Phan tiên sanh còn lạ gì dư luận ở nước ta từ trước đến giờ hãy còn ấu trĩ lắm. Nhiều người không biết phân biệt chuyện nghĩa lý với chuyện cá nhân, không biết rằng người thức giả thảo luận với nhau là để tỏ bày chân lý, chớ không phải là cốt để thắng lẫn nhau, như trong cuộc đấu võ vậy.
Tôi chắc rằng có người đọc bài Cảnh cáo của Phan tiên sanh nghĩ bụng rằng: “Ông nầy tất có bụng ghen ghét gì Phạm Quỳnh mới kiếm chuyện cãi lộn như vậy”. Lại chắc có người không ưa tôi mà nghĩ rằng: “Đáng kiếp! Đã bị ông Nghè Kế trị cho một lần, lại bị ông Tú Khôi trị cho một lần nữa!” Như vậy chẳng là oan cả cho hai bên dư? Câu chuyện nghĩa lý mà biến thành câu chuyện cá nhân đó.
Đối với một cái dư luận còn bỡ ngỡ như vậy, tưởng cũng không nên câu nệ cho lắm. Không nên coi thường dư luận, nhưng cũng không nên làm nô lệ cho dư luận. Có nhiều điều dư luận nhao nhao lên đó, mà người thức giả nên làm thinh.
Sau cuộc phản đối của ông Nghè Ngô, trong nước liền nổi lên cái phong trào chánh trị mới! Có người nối gót ông Ngô cũng đem lời nọ tiếng kia mà phẩm bình tôi. Tôi đều nhứt thiết làm thinh cả. Là vì những lời bình phẩm đó là toàn về cái thái độ chánh trị của tôi, mà tôi vốn không phải là nhà chánh trị. Chẳng biết từ nay về sau vì thời thế bắt buộc có phải thực lực ra làm chánh trị hay không, – đó là một cái nghĩa vụ, nếu phải làm thì cũng không dám từ, – chớ từ trước đến nay thì sở chí sở sự không phải chuyên chủ về mặt chánh trị; dầu có tham dự vào chút đỉnh, cũng chỉ là tham dự một cách gián tiếp, đứng về địa vị khách quan, để làm một món khảo cứu mà thôi.
Tôi vốn là nhà làm văn, nhà học vấn. Cái chủ nghĩa tôi phụng sự bấy lâu nay, – kể có trên dưới mười lăm năm trời, thật là dốc một lòng, chuyên một dạ, – chính là chủ nghĩa quốc gia, nhưng chỉ mới phụng sự về phương diện văn hóa, chưa hề chuyển di sang phương diện chánh trị.
Tôi thiết nghĩ rằng muốn cho nước nhà được độc lập, thì phải gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân. Muốn gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân thì phải có cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục. Cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục là ngữ ngôn văn tự trong nước. Bởi thế nên trong mười lăm năm nay, tôi không làm một việc gì khác cả: chỉ cúc cung tận tụy về một việc là cổ động cho quốc văn, tài bồi cho quốc văn, gây dựng cho quốc văn thành một nền văn chương đích đáng, có thể dùng làm cái lợi khí để truyền bá văn minh trong nước. Các bạn đồng chí trong Nam ngoài Bắc cũng đã từng công nhận cho cái công phu ấy không phải là vô ích.
Vì tôi chỉ chuyên chủ về một việc tài bồi quốc văn như vậy, cho nên thật không để chí vào việc chánh trị. Ai bình phẩm tôi về chánh trị là bình phẩm sai cả. Tôi cho là bất túc khinh trọng, nên không hề đối đáp, không hề cải chánh bao giờ.
Nhưng đến việc văn chương học vấn thì tôi rất vui lòng thảo luận. Bởi vậy Phan tiên sanh khởi ra cái án li kỳ là cái án “học phiệt” này, tôi liền cầm bút để cùng tiên sanh phân trần các lẽ. Tôi thật không dám khinh dư luận, nếu dư luận ấy là ở những người thức giả như tiên sanh.
Tiên sanh thấy cái cảnh tiêu điều, trong học giới nước nhà, lấy làm buồn, buồn sanh bực, bực bèn muốn quy cữu cho người nào, liền quy cữu cho tôi. Thế là tiên sanh phán đoán vội vàng: nếu trong cõi học nước nhà có kẻ nào là tội nhân, thì tôi đây không dám tự cao, cũng có thể cho là một kẻ nhẹ tội hơn cả.
Nhưng học giới nước nhà không phải ngày nay mới tiêu điều. Đương lúc khoa cử còn thạnh, đã có cái cảnh tiêu điều đó rồi, vì cái học khoa cử, chỉ là cái học để thi đỗ làm quan mà thôi, không phải là học thuật chơn chánh. Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta đã có gì? Không dám bội bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy có cụ Chu An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có giá trị? Nào đâu là những phái Vương học, phái Thiền tôn như ở Nhật Bản, cũng học chữ Tàu mà khám phá được nhiều điều người Tàu không nghĩ tới? Nước mình tịnh không có gì cả. Đó chẳng qua là bởi cái tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá. Lại bởi cái mô phỏng của người mình nữa. Xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay bắt chước người Tây. Xưa kia động nói là dương danh ông Khổng, ông Mạnh, ông Chu, ông Trình; ngày nay động nói là giở ra khoa học với lý luận, dân chủ với dân quyền! Nghe người ta nói mình cũng nói, chớ vị tất đã thấu hiểu đến chỗ tinh vi.
Ấy là cái hiểm tượng của học giới ta ở đó, ở cái tánh nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người nầy hay người nọ.
Nay muốn cho cõi học được vui vẻ sầm uất, không cần phải dùng đến những cách dương đông kích tây, nay công kích người này mai phản đối người nọ, để làm một trò chơi cho khách bàng quan.
Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây dựng cho nước nhà một nền “quốc học” đích đáng, không Tây mà không Nho, có cái tánh cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi giống. Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ trương đã lâu năm rồi.
Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ động lập một hội “Chấn hưng quốc học”, họp tập những người có chí học vấn trong Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên thi hành cho nước nhà có một nền quốc học xứng đáng không?
Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã nhau vô ích.
Phan tiên sanh nghĩ sao?
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 9:07:25 GMT 9
NĂM 16 TUỔI, PHẠM QUỲNH LẤY VỢ ĐỒNG TUỔI NHÂM THÌN. Dã ThảoLàng Thọ Vực, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh có ông ký lục Lê Văn Chấn và bà vợ họ Hoàng, gia đình cũng thường thường bậc trung, nhưng sinh được ba cô con gái da trắng nõn nà, môi đỏ như son, tóc đen nhánh, nổi tiếng xinh đẹp nhất làng. Cô cả, nhà gọi là cô Nhớn, tên Lê Thị Vân. Cô Nhỡ tên là Lê Thị Hợp, cô Bé, tên Lê Thị Mai. Con út là trai, tên Lê Văn Tốn (còn gọi là Xuân). Một hôm ba cô theo bạn rủ nhau đi xem bói. Thầy bói nói cô Nhớn, bấy giờ 14 tuổi, “số cô vất vả thời trẻ, nhưng về già thì sẽ thành nhất phẩm phu nhân, con cái đầy đàn, trai một cỗ, gái hai cỗ”. Cô Nhỡ thì thầy nói là “số long đong, ly hương biệt quán.” Cô Bé thì “căn quả tu thờ Phật, nếu lấy chồng thì sát đến … 9 đời chồng!”. Ba chị em cười rúc rích. Nhưng, sau này thì cô Nhỡ theo chồng là cựu học sinh Đông Du, phải lẩn tránh, lên sống lẻn lút ở các đồn điền cà phê trên Yên Bái. Cô Út trốn nhà, xin nương nhờ cửa Phật, sau này trở thành vị thượng tọa trụ trì có uy tín của chùa Cầu Bây bên Gia Lâm Hà Nội. Ông ký lục mất sớm, gánh nặng gia đình dồn cả lên vai bà mẹ và cô Nhớn. Nhà chỉ có mấy sào ruộng, cô Nhớn phải làm thêm hàng xáo, xay lúa giã gạo, làm tương, nuôi lợn, già…Khi giáp hạt thì thường thiếu ăn. Bà mẹ phải lên Hà Nội mượn tạm tiền bà chị cùng cha khác mẹ, thường gọi là bà Nhì lấy chồng họ Phạm, buôn bán ở nhà số 74 phố Hàng Áo, đến vụ gặt thì lại trả. Mỗi lần ra Hà Nội phải mất một ngày. Những khi ra ăn giỗ, bà mẹ thường dẫn cô Nhớn đi cùng, để biết họ biết hàng, khi cần thì thay mẹ đi. Họ Phạm bên nhà chồng bà Nhì có bốn chi, chi Cụ Lang Hàng Bún là cao nhất, rồi đến chi cụ Nhì, kế đến là các chi ông Tú, ông Cả Giới và ông Hai Kỳ. Chi ông Tú có cậu Phạm Quỳnh. Bấy giờ, Phạm Quỳnh đã tốt nghiệp trường Trung học Bảo Hộ (tức trường Bưởi) và đã đi làm nhân viên phiên dịch ở Trường Viễn Đông Bác Cổ. Phạm Quỳnh vẫn sống với bà nội và cụ Tú (vợ người cho gia đình ông nội Phạm Quỳnh thừa tự). Nhưng cả hai đều đã cao tuổi, lại chăm lo săn sóc mình từ khi lọt lòng, cho đến năm lên 9 không còn cả cha lẫn mẹ, chỉ còn trông vào hai cụ, nên Phạm Quỳnh thương hai cụ lắm, cũng mong có người cùng mình đỡ đần hai cụ lúc tuổi già. Các cụ trong họ thấy đôi trai tài, gái sắc đồng tuổi Nhâm Thìn, vừa tròn 16, nên đều vun vào cho đôi trẻ. Thế là thành mối lương duyên, ai cũng mừng; mừng nhất là hai bà cụ từng vắt kiệt sức tàn nuôi nấng Phạm Quỳnh. Cô Vân sinh đầu năm Thìn, mà Phạm Quỳnh sinh cuối năm, cho nên sau này ông thường nói đùa với các con là “Me hơn thầy một tuổi, cho nên Me bảo gì thầy cũng phải nghe theo…”. Hai vợ chồng trẻ sống cùng hai cụ bà ở nhà số I phố Hàng Trống và sinh ba con đầu lòng tại đây: Phạm Giao (1911), Phạm Thị Giá (1913) và Phạm Thị Thức (1915). Con trai thì đặt tên theo tên cha: cha là Quỳnh, thì con là Giao. Còn con gái thì đặt cho có tên mà gọi thôi. Con gái đầu, khi sinh ra mình trắng như cọng giá thì gọi là cái Giá. Con thứ cứ ngày ngủ, đêm thức suốt thì gọi là cái Thức. Tiếp đó là Phạm Bích (1919), Phạm Thị Hảo (1920), Phạm Thị Ngoạn (1921), Phạm Thị Bảy (mất lúc sáu tháng), Phạm Khuê (1923), Phạm Thị Chín (mất lúc chín tháng), Phạm Thị Hoàn (1926), Phạm Thị Yến (mất lúc năm tháng), Phạm Tuyên (1930), Phạm Thị Giễm (1932), Phạm Thị Lệ (1934), Phạm Tuân (1936) và Phạm Thị Viên (1938). Như vậy là có ba con gái mất lúc chưa đầy tuổi tôi, cho nên có khi thấy viết trong sách báo là Phạm Quỳnh có 13 con. Đến nay, các ông Phạm Giao, Phạm Bích, Phạm Khuê và các bà Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức, Phạm Thị Ngoạn đã qua đời, chỉ còn bà Phạm Thị Hảo và ông Phạm Tuân định cư ở Mỹ, các bà Phạm Thị Hoàn, Phạm Thị Giễm, Phạm Thị Lệ, Phạm Thị Viên định cư ở Pháp. Ở trong nước, chỉ còn một mình nhạc sĩ Phạm Tuyên. Cô Vân, ở nhà chuyên làm ruộng, xay lúa giã gạo, nuôi lợn, gà…không được đi học cho nên không biết cả chữ Nho lẫn chữ quốc ngữ. Nhưng cô có trí nhớ tuyệt vời, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và các truyện Nôm, trong đó tất nhiên có Truyện Kiều. Sau này bà đã giúp nhà văn, nhà báo Phạm Quỳnh nhiều trong việc cung cấp cho ông các tư liệu về văn hóa, văn học dân gian. Cho đến thời kháng chiến chống Pháp, có phong trào bình dân học vụ, một đứa cháu ngoại thương bà đã cố hướng dẫn bà ngoại viết cho được cái tên, kẻo ra đường, bị “thanh niên diệt dốt” bắt đi qua “cổng mù” thì tội quá. Cho nên bà biết viết độc một chữ Vân tên mình. Hồi ông làm báo Nam Phong, bà được làm thủ quĩ cho Hội Tế Sinh của bà Cả Mọc, chuyên làm từ thiện ở Hà Nội và vài tỉnh miền Bắc. Hằng ngày, việc thu chi của hội đều qua tay bà, bà nhớ kỹ, rồi tối về nói lại cho ông ghi vào hóa đơn, sổ sách, không hề sai bao giờ. Bà còn có tính kiên quyết, không tiếc cả thân mình khi cần phải hy sinh. Năm 1935, có mang lần thứ 15 được bảy tháng thì bà lên cơn hen nặng. Thường phải thức suốt đêm, ngồi tựa lưng vào con gái thứ mới thở được. Những lúc ấy, cái thai cứ rực lên, rất mệt mỏi. Phạm Quỳnh quá lo lắng, cho mời bác sĩ người Pháp là Piqueman đến khám. Ông ta nói là bệnh nặng lắm, phải cứu lấy người mẹ, kẻo chết cả mẹ lẫn con. Ông lựa lời nói lại với vợ thì bà nói ngay: “Tôi sống thì nó sống, tôi chết nó mới chết, chứ tôi không bao giờ chịu làm cái việc thất đức đó…” Và kể cho ông nghe giấc mộng khi sắp mang thai lần này. Bà đi xe kéo ở thành nội thì có đứa bé mặt trắng môi son cứ chạy theo mà xin cho về nhà. Bà nghĩ đã có 14 con rồi, nên xua tay. Thì đứa bé chạy thật nhanh, rồi nhảy tót lên xe, ngồi ngay vào lòng bà, ôm lấy bà. Tử đấy, Phạm Quỳnh càng lo chăm sóc vợ hơn mà không nhắc gì đến chuyện đó nữa. May mắn thay, bệnh bà thuyên giảm từng ngày và đủ tháng, đủ ngày, bà sinh một trai đúng như trong mộng. Cả nhà đều mừng, cứ gọi là “Chú mình”, sau này gọi trại ra là “chú Miềng”. Và cái tên cưng đó, đến nay (2009) vẫn quen dùng, kể cả hai vợ chồng ông Phạm Tuân cũng vẫn tự xưng như vậy. Rồi, trưa cái ngày định mệnh 23/8/1945 ấy, có mấy người mặc quân phục đến “mời ông ra làm việc tại trụ sở Ủy ban Khởi Nghĩa Thừa Thiên-Huế”, thì bà cũng có mặt. Thoáng thấy trên cánh tay một người mặc quân phục có đeo cái băng đỏ, bà như có linh cảm là việc chẳng lành, đã hét lên một tiếng thật to rồi ngất đi…Trong khi đó, ông thanh thản thay áo, đi theo họ, để rồi không bao giờ trở về nữa… Nhưng, sau cơn gia biến lớn, chính bà đã thu vén tài sản gia đình còn sót lại, cho bán tất cả sách ở chợ Đông Ba, rồi dẫn cả đoàn con, cháu 14 con người (trong đó có năm trẻ dưới 10 tuổi) từ Huế ra Hà Nội về nhà con gái trưởng. Để rồi cùng tản cư, sống những năm đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Bà chuyên làm nông nghiệp, giỏi lo toan việc nhà, đặc biệt có tài làm tương Bắc từ nếp và đậu tương rất ngon, ngọt. Cho nên khi tản cư, gia đình thiếu thốn, “thượng thư phu nhân” lại trở về nghề cũ: làm tương, bán cho dân làng. Bác sỹ Đặng Vũ Hỷ là con rể hiếu thảo, thu xếp cho mẹ vợ và các em cùng nhiều cháu nội ngoại tản cư về làng Vạn Lộc, phủ Xuân Trường, Nam Định, ở nhà cụ Chánh Đoán là người trong họ. Mấy năm tản cư, tiền nong cạn dần, cụ bà lại làm tương, và tương rất ngon, dân làng tìm đến mua nhiều, cụ phải làm hàng chum to mới đủ bán. Nhà có cổng lớn, dẫn vào ngõ trúc rồi mới đến sân to là chỗ cụ bà làm và bán tương. Cậu út Phạm Tuân khéo tay, mài gạch non, viết chữ đỏ ngay trên cổng quét vôi trắng “Ở đây có bán tương ngọt”. Từ đấy, càng nhiều người biết mà đến mua, không phải chỉ trông chờ vào truyền miệng như trước. Năm ấy, biết vợ nhớ mẹ và em, bác sĩ Đặng Vũ Hỷ cho người đón cụ và hai em trai, gái út về Thư Điền, Ninh Bình, nơi ông công tác và gia đình đang sống. Cụ bà ra đi, gọi cháu ngoại Tôn Nữ Việt An 15 tuổi lại dặn dò lo việc nhà, còn hàng chục miệng ăn, và đưa ít tiền cho cháu liệu chi tiêu tiết kiệm. Hai tháng sau, cụ về, cháu gái đảm đang đưa lại tiền cho cụ, không thiếu một xu. Lấy làm lạ, cụ hỏi vậy cả nhà lấy gì mà ăn. Thì cháu gái chỉ vào chum tương to đặt gần máng xối nước mưa. Hóa ra tiền bán tương đủ cho cả nhà chi dùng trong suốt thời gian bà ngoại đi vắng. Cụ mở nắp chum xem, thì thấy vẫn còn non nửa. Hỏi ra mới biết, chum tương càng dưới càng mặn, may mà … được nước mưa ở máng xối bắn vào những khi mưa to cho nên nhạt bớt mà tương vẫn ngon ngọt. Lại đã được tín nhiệm, có “thương hiệu” rồi, cho nên rất đông khách vốn lấy tương cà làm gia bản!. Thế là Phạm Quỳnh mười sáu tuổi đã lấy vợ đồng tuổi Nhâm Thìn, suốt đời sống hòa thuận, nhường nhịn nhau, bổ sung cho nhau mà tạo dựng nên một gia đình hòa hợp hạnh phúc. Cả khi ông không còn nữa, nếp nhà ấy vẫn còn, giản dị, cần cù, chân thành, không hề khệnh khạng quan cách bao giờ như người ngoài dễ lầm tưởng. Con cháu sống ở đâu cũng được nhân dân yêu mến, gần gũi, sẵn lòng giúp đỡ. Đó là cái đức của ông đã lưu lại ánh sáng về sau cho con cháu được nhờ. Đáng quí vậy thay nếp nhà mẫu mực ấy.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 9:10:12 GMT 9
MỘT SỰ BẤT TÍN… Nguyễn Trung Là người ham tìm hiểu lịch sử nước nhà, nhất là giai đoạn cận đại và hiện đại, lại kính yêu đến mức sùng bái Thượng Chi – Phạm Quỳnh, tôi rất mừng khi biết tin nhà xuất bản Thanh Hóa mới ra tập sách Cựu hoàng Bảo Đại. Càng mừng hơn, khi mua được tập sách dày đến ngót 400 trang khổ lớn 19x27cm, với giá 65.000đ. Đọc lướt qua các trang sách thấy dầy đặc những tên người, tên đất, ngày tháng cụ thể, rõ ràng, tôi tin là mình đã tìm được một cuốn sách đáng tin cậy, mặc dù chưa từng biết tác giả Hoàng Trọng Miên là ai, cũng chưa từng đọc tác phẩm nào của ông, nhưng đã cảm thấy kính trọng. Tôi đọc ngay những gì mình có biết chút ít, mong hiểu sâu hơn, hoàn thiện tri thức của mình về lịch sử nước nhà. Thì ngay trang 24, đã thấy viết: “Một chiếc xe hơi đen cắm cờ đỏ sao vàng chở hai đại biểu Ủy ban Tổng khởi nghĩa từ Hà Nội vào đang rẽ đám đông ngừng lại dưới lầu Ngọ Môn. Trần Huy Liệu và Huy Cận, đại diện Bắc Bộ cùng Tố Hữu, phó ủy Kỳ Bộ Việt Minh, theo nhau bước lên tầng cấp, chứng kiến lễ thoái vị sắp cử hành.” Thật kỳ lạ, vì đây là giai đoạn lịch sử quan trọng của nước nhà, lại xảy ra cách đây không lâu, người chứng kiến hiện còn sống rất nhiều, sách báo viết về sự kiện này càng không thiếu, hầu như không ai không biết là phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời vào Huế ngày ấy có ba người, mà người quan trọng thứ hai sau Trần Huy Liệu là Nguyễn Lương Bằng, và Tố Hữu lúc bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, không phải lấy danh nghĩa phó ủy Kỳ bộ Việt Minh để chứng kiến lễ thoái vị của Bảo Đại. Càng kỳ lạ hơn khi đọc tiếp trang 25, có viết: “Sau lễ thoái vị, ngỏ lời với bà con trong hoàng tộc, vị hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn nhấn mạnh: – Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ… Hai mươi năm bảy tháng mười tám ngày, niên hiệu Hoàng đế Bảo Đại thế là chấm dứt từ đây (25/8/1945)”. Trong khi ai cũng biết là ngày Bảo Đại thoái vị tại Ngọ Môn là ngày 30/8/1945! (Chúng tôi nhấn mạnh – N.T.) Thật không biết nói sao… Chẳng lẽ vì là tiểu thuyết, nên tác giả có toàn quyền…”hư cấu” tất cả! Tôi lại kiên nhẫn đọc tiếp, thì ra tác giả có kiến thức thật phong phú và có cả sự say mê nữa khi viết những trang mùi mẫn về… sinh hoạt tình dục của các vua, chúa triều Nguyễn. Trang 59, trang 60 và trang 61 kể rõ về công việc của Hỉ giám quan. “Viên chức này có nhiệm vụ hướng dẫn hoàng đế ngự đến cung hoàng hậu hay phi tần khi nhà vua cần sinh quý tử (…) Hỉ giám quan phải rất tế nhị, biết sử dụng các ám hiệu thay vì lời nói rỉ tai. Gặp ngày thích hợp hay không, Hỉ giám quan chỉ cần dùng ám lệnh là vua và các cung phi nhận ra ngay (…) hôm nào long thể bất an, không thể li cung thì trước cung vua, nội giám phải treo chiếc lồng chim hoàng yến, để cho Hỉ giám quan hôm ấy không phải lo tính toán giờ đại cát, hỉ thần và hoàng hậu cùng các cung phi biết trước đêm ấy vua không ngự đến. “Còn nếu trước cung hoàng hậu hay trước cung một bà phi nào có treo ngọn đèn lục, tức là báo hiệu đau bụng, treo dây kim tòng ngù chỉ lụa đỏ, tức là đang hành kinh (…) các cung còn lại, mỗi cung đều treo một cụm hoa, mùa nào hoa ấy, và cung nào “hành cát” nhất về đêm ấy sẽ treo đèn lồng có tua ngù. (…) Trước giờ vua xuất cung, có yến tiệc, đàn sáo, ca hát, nữ nhạc nhảy múa, rồi khi tới giờ Hỉ giám quan tới đón vua, bưng lư trầm đưa ngang trán dẫn đường, và theo sau vua là đoàn nữ nhạc. Tới cung đã được vua chỉ định, Hỉ giám quan rót một ly rượu kích thích dâng lên vua rồi đánh ba tiếng kẻng vàng báo giờ “Hoan khúc”, để mọi người lặng lẽ rút lui (…). Thấy nhà vua (Khải Định – N.T. chú) bất lực, Hỉ giám quan mới tìm cách tổ chức các trò luyến ái ở nội cung để vua thưởng thức bằng mắt. (…) Hỉ giám quan mới bắt chước ông Hoàng Sáu ở Kim Long, để bày trò cho vua thích thú. (…) Hôm nào ông Hoàng muốn gần gũi một người đẹp nào trong lịch sử thì truyền cho ban hát diễn sự tích có mỹ nhân danh tiếng xuất hiện để gợi hứng tưởng tượng cho mình giao hoan với kỳ nữ (…) song Khải Định chỉ có thể thưởng thức mỹ nhân bằng mắt và bằng tay, nên đành dẹp hoạt cảnh hậu trường của ông Hoàng Kim Long.” Càng bất ngờ hơn nữa, khi đọc trang 61 viết rất rõ ràng “lối hoạt dâm của phế đế Thành Thái, vua kế tiếp Đồng Khánh trong 19 năm ở ngai vàng, nhiều lần tỏ ra ngông cuồng, có tuyển vào cung một số đông mỹ nhân ở các nơi về làm phi. Mỗi lúc cao hứng, Thành Thái bắt tất cả cung phi cởi hết y phục nằm sấp thành một hàng dài sát nhau, để vua lăn lên trên, và ngừng lại ở người nào là chọn lấy người ấy. Trò chơi vương giả này, Hỉ giám quan tâu lên cùng Khải Định song nhà vua cũng chỉ lắc đầu không thi hành nổi.” Đọc đến đây, tôi không chịu nổi, bèn giở Từ điển bách khoa Việt Nam ra xem vua Thành Thái thật ra là người thế nào. Thì thấy viết rất rõ ràng như sau: “Thành Thái (tên húy: Nguyễn Phúc Bửu; 1879-1954), vua thứ 10 triều Nguyễn. Con vua Dục Đức. Lên ngôi năm 1889, đặt niên hiệu là Thành Thái. Có tinh thần yêu nước, liên hệ với phong trào Đông Du. Năm 1907, bị toàn quyền Đông Dương ép thoái vị, nhường ngôi cho con là Duy Tân (1907-16). Bị giam ở Vũng Tàu và đày đi an trí ở đảo Rêuyniông (Réunion, Châu Phi). Năm 1947, về nước. Mất tại Sài Gòn”. (Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa Hà Nội – 2005, tập 4, trang 158) Thật đáng phê phán là trong suốt ngót 400 trang sách của mình, Hoàng Trọng Miên chỉ viết về vị vua yêu nước này có một đoạn như đã trích. Thế hệ trẻ ít am hiểu về lịch sử nước nhà, sẽ nghĩ sao về vị vua này? Còn về nhà văn hóa Phạm Quỳnh mà tôi quan tâm tìm trong sách này thì sao… Tôi kiên trì tiếp tục đọc thì thấy trang 98 viết: “ Vào dinh, Phạm quân (chỉ Phạm Quỳnh- N.T. chú) để nguyên áo, rít một hơi thuốc lào trong chiếc điếu ống khảm, cần xe trúc rồi ngồi luôn xuống bàn thảo lời kêu gọi dân chúng ghi tên tùng chinh sang Pháp (…)”. Trang 99 viết: “Phạm Thượng thư vít lấy dóng trúc chiếc điếu ống, trong khi một tên lính hầu “Dạ” chạy đến, cho thuốc lào vào nõ, quẹt diêm. “Điếu thuốc lào kêu lóc cóc, họ Phạm vừa nhả khói vừa nói: – Tiên sinh đừng ngại (…)” Trang 124 cũng viết: “Phạm Thượng thư ngừng lại, kéo một hơi thuốc lào trong ống điếu bịt bạc, thở ra một cách khoan khoái, nói tiếp: – Người Nhật (…)”. Và trang 124 lại viết: “Phạm Thượng thư lấy thuốc lào cho vào nõ điếu, thong thả quẹt diêm, rít một hơi dài, từ từ nhả khói, rồi đáp: – Thái độ của ngài (…)” Rõ ràng tác giả cố tỏ ra là mình biết rất rành rẽ thói quen của Phạm Quỳnh “ một người nghiện thuốc lào nặng”. Vì không chỉ hút khi một mình ở nhà, mà ngay khi tiếp khách cũng không ngừng hút thuốc lào “kêu lóc cóc” ngay trước mặt khách, không khách khí chút nào. Có điều, bất cứ ai biết Phạm Quỳnh đều thấy là ông không nghiện bất kể thứ gì. Vì ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình và với xã hội, ông không làm bất cứ việc gì có hại cho sức khỏe vốn rất mỏng manh trong cơ thể yếu ớt từ thuở ấu thơ của mình. Ông không uống rượu. Không bao giờ hút thuốc, chứ đừng nói tới nghiện, mà lại là nghiện thuốc lào như tác giả mô tả say mê. Cũng không nghiện trà, mặc dù ông có uống. Vì ông uống trà ô long, trong cốc to, với mấy viên đường Hiệp Hòa, không phải uống trà đậm, trong chén hạt mít, mắt trâu, hoặc UTQ (“uống trà quạo”, kiểu Nam Bộ). Hóa ra Hoàng Trọng Miên không biết gì về con người Phạm Quỳnh thường ngày với những nếp sống thói quen, mà chỉ “hư cấu”, cốt bôi xấu Phạm Quỳnh được chút nào hay chút ấy. Còn về hoạt động chính trị của Phạm Quỳnh thì tác giả biết gì? Trang 93, có viết: “Trong chuyến đi Pháp năm 1938 (Lại “hư cấu” rồi, vì thực ra là năm 1939-N.T. chú) Bảo Đại sau khi nhờ bác sĩ giải phẫu trứ danh ở Paris chữa lành chân đau, đến Bộ Thuộc địa gặp Tổng trưởng George Mandel (…) Chán ngán thêm vì thân phận hoàng đế một nước bị trị, đến phải ngửa tay cầu xin chính quyền bảo hộ một ít chủ quyền nội bộ mà cũng không xong, Bảo Đại thề quyết từ đây gác bỏ hẳn chính trị, quốc kế dân sinh ra khỏi ngoài tai, và chỉ biết vui chơi thỏa thích tất cả những gì mà kẻ làm vua có thể hưởng thụ. Còn mọi việc triều chính thì phó mặc cho Ngự tiền văn phòng Nguyễn Đệ (Thật ra, bấy giờ Phạm Quỳnh vẫn làm chức vụ này, cho nên đã ký tờ trình đề nghị vua “khen thưởng lính khố xanh có công bảo vệ đảo Hoàng Sa” năm 1939, là sự kiện thời sự trong nước ta những tháng qua – N.T. chú) và Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh (Lại nhầm to, mãi năm 1942 Phạm Quỳnh mới được thăng Thượng thư Bộ Lại, bấy giờ, chỉ làm đại thần Ngự tiền văn phòng, tức thư ký riêng của vua, cho nên mới theo giúp việc khi vua công du nước Pháp năm ấy- N.T. chú) hai nhân vật của Pháp đặt bên cạnh nhà vua để kiểm soát, điều khiển hoạt động của Nam Triều.” (Chúng tôi nhấn mạnh – N.T.) Như vậy là nhà viết “tiểu thuyết lịch sử” Hoàng Trọng Miên chỉ chú trọng đến “hư cấu”, cốt làm sao cho tiểu thuyết của mình mùi mẫn, mặn mà…để câu khách một cách rẻ tiền mà không đếm xỉa gì đến sự thật lịch sử, dù lớn dù nhỏ! Vì thế, như dân ta có câu Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin, khó còn có ai tin được những điều khác tác giả viết trong sách. Một trong những “cái đinh” trong 136 trang sách chúng tôi đã đọc là một vấn đề lớn. Giống như tác giả kịch bản phim Ngọn nến hoàng cung hết lời ca ngợi Hoàng hậu Nam Phương yêu nước, thông minh, xinh đẹp, thương chồng, con hơn bất kỳ người phụ nữ Việt Nam nào trong lịch sử; trong Cựu Hoàng Bảo Đại, Hoàng Trọng Miên cũng ca ngợi đủ mọi tính tốt của Hoàng đế Bảo Đại, nào là yêu nước, thương dân, nào là muốn cải cách để dân giàu nước mạnh, nhưng không làm được gì, vì bị ngăn cản, mới sinh chơi bời. “Chưa chi họ đã đặt người canh chừng trẫm” (trang 81), “Đã không muốn trẫm làm chi hết thì trẫm bỏ mặc cho đó. (…) Mọi sáng kiến đều bị chặn lại bởi Ngự tiền văn phòng kiêm Thượng thư Bộ Giáo dục Phạm Quỳnh, do người Pháp đặt cạnh vua để kềm chế chủ trương phát triển của nhà vua muốn tách rời áp lực chi phối mạnh mẽ của Pháp.” (trang 84-85). Trang 114-115 viết: “Thượng thư Phạm Quỳnh (…) tiếp: -Tâu Hoàng thượng, theo tình thế này, nếu như Pháp nhượng bộ Nhật thì có thể đưa đến biến đổi lớn, Nam triều sẽ không tránh khỏi bị ảnh hưởng. – Nếu Pháp bó tay thì Nam triều làm chi được (…) – Thầy (Chỉ Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh -N.T. chú) báo tin cho trẫm hay thì trẫm cũng biết vậy thôi. Mọi việc triều chính thầy vẫn lo, cứ liệu lấy đó mà làm.” Và trang 116 viết: “Phạm Quỳnh cũng muốn nhà vua rời khỏi triều đình để ông được tự do hơn khỏi phải tâu trình lôi thôi, mặc dù chỉ là hình thức.” Đặc biệt nhất, có phần (từ trang 121 đến trang 128) thuật chuyện Phạm Quỳnh và con rể là Nguyễn Tiến Lãng “tâm sự” tại biệt thự Hoa Đường đầu năm 1945, nêu bật “lòng trung thành với chính phủ bảo hộ, hết lòng hết dạ với mẫu quốc Đại Pháp” của hai cha con. Tất nhiên, phần này, dài đến hơn 7 trang giấy in, tác giả hoàn toàn “hư cấu” theo “kiểu Hoàng Trọng Miên”, tức là hoàn toàn bịa đặt! Thật không còn ai dám tin, khi những điều ai cũng biết đều đã bị tác giả làm sai lệch, bóp méo, nói không thành có… Tiếc là Nhà xuất bản Thanh Hóa đã quá ưu ái, cho in tới 1000 cuốn ngay đầu năm 2009 này. Trên đây là vài ghi nhận của tôi, một người đã có lòng thành khi mua và đọc sách này. Tôi chỉ đọc được đến trang 136 thì … hết chịu nổi! Không thể đọc tiếp. Chẳng biết những trang từ 137 đến trang cuối 349, tác giả còn “hư cấu” thêm những gì nữa. Với tôi, như thế này đã là quá đủ để biết tác giả là người thế nào…Không hiểu “nhà tiểu thuyết lịch sử” Hoàng Trọng Miên còn viết những gì nữa ngoài quyển sách kỳ quái này… Cuối Lời nhà xuất bản in ở đầu sách Cựu Hoàng Bảo Đại, Nhà xuất bản Thanh Hóa có viết là” “Nhà xuất bản Thanh Hóa xin trân trọng gửi tới quý độc giả cuốn “Cựu Hoàng Bảo Đại” của tác giả Hoàng Trọng Miên và mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc gần xa.” Chẳng hay những ý kiến trên đây của chúng tôi có được coi là “đóng góp quý báu” không? Nhưng đã mất công đọc, mất công nghĩ, lại đã mất công viết ra đây, xin cứ gửi nhà xuất bản Thanh Hóa. Mong được thông cảm…
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 9:12:08 GMT 9
Giỗ Cụ Tiên Điền Nguyễn Du Phạm Quỳnh Lời dẫn của Phạm Tôn: Tối mồng mười tháng tám năm Giáp Tý (tức 8/9/1924) ấy, tại Hội quán cạnh Hồ Gươm Hà Nội, Hội Khai Trí Tiến Đức đã tổ chức lễ kỷ niệm Nguyễn Du lần đầu tiên và cũng trọng thể nhất trong lịch sử văn học nước ta. Đúng ngày giỗ của thi hào. Hơn hai nghìn người Việt và cả Pháp nữa đã đến dự. Chương trình mở đầu với bài phát biểu của của Tổng thư ký Hội Phạm Quỳnh, thay mặt Ban Văn học, nói về mục đích lễ kỉ niệm, bằng quốc văn và sau đó là bằng tiếng Pháp. Rồi học giả Trần Trọng Kim nói về tiểu sử Nguyễn Du và văn chương Truyện Kiều. Tiếp đó, các nghệ nhân nổi tiếng đương thời là Kép Thịnh và Đào Tuất kể Truyện Kiều và màn hát ả đào Bài ca Kỉ niệm do Nguyễn Đôn Phục soạn. Dưới đây, chúng tôi xin mời các bạn đọc bài phát biểu của Phạm Quỳnh, đăng trên báo Nam Phong số 86, tháng 9 năm 1924, từ trang 91 đến trang 94. Đầu đề là do chúng tôi đặt. Trụ sở Hội Khai Trí Tiến Đức tại Hà Nội. Ảnh chụp năm 2009, nhưng tòa kiến trúc năm xưa, nơi đã diễn ra lễ kỉ niệm Nguyễn Du, vẫn còn nguyên trạng —-o0o—- Thưa các Ngài, Hôm nay là ngày giỗ Cụ Tiên Điền Nguyễn Tiên sinh, là bậc đại thi nhân của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn chương tuyệt tác là truyện Kim Vân Kiều. Ban Văn học Hội Khai Trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp một người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quí báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi. Chúng tôi thiết nghĩ một bậc có công với văn hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ niệm chung của cả nước. Hiện nay suốt quốc dân ta, trên từ hàng thượng lưu học thức, dưới đến kẻ lam lũ làm ăn, bất cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công nghiệp của Cụ Tiên Điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác thành cho tiếng nước nhà. Muốn cảm cái ơn ấy cho đích đáng, hẵng thử giả thiết Cụ Tiên Điền không xuất thế, Cụ Tiên Điền có xuất thế mà quyển truyện Kiều không xuất thế, quyển truyện Kiều có xuất thế mà vì cớ gì không lưu truyền, thời tình cảnh tiếng An Nam đến thế nào, tình cảnh dân tộc ta đến thế nào? Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc, ví lại khuyết nốt thì dân tộc ấy đến thế nào? Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng sốt, rụng rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp rung đùi, lên giọng cao ngâm: Lơ thơ tơ liễu buông mành, Con oanh học nói trên cành mỉa mai, hay là: Phong trần mài một lưỡi gươm, Những phường giá áo túi cơm xá gì, bỗng thấy trong lòng vui vẻ, trong dạ vững vàng, muốn nhẩy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!… Có nghĩ cho xa xôi, cho thấm thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận mệnh nước ta có một cái quí giá vô ngần. Một nước không thể không có quốc hoa, truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái “văn tự” của giống Việt Nam ta đã “trước bạ” với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn tự văn khế phân minh, chứng nhận cho ta có cái quyền sở hữu chính đáng. Mãi đến thế kỷ mới rồi mới có một đấng quốc sĩ, vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế, rỏ máu làm mực “tá tả” một thiên văn khế tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được công nhiên, nghiễm nhiên, rõ ràng, đích đáng làm chủ nhân ông một cõi sơn hà gấm vóc. Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên Điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy. Gẫm trong người ấy báu này Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm! Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên của Cụ. Thiên văn tự tuyệt bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh vắng vẫn thường tỉ tê thánh thót trong lòng ta, như Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà vậy. Cái áng văn chương tuyệt tác cho người đời đó, an tri lại không phải là một thiên lịch sử thống thiết của tác giả? Truyện Kiều quan hệ với thân thế Cụ Tiên Điền thế nào, lát nữa ông Trần Trọng Kim sẽ diễn thuyết tường để các ngài nghe. Nay tôi chỉ muốn biểu dương cái giá trị của truyện Kiều đối với văn hóa nước ta, đối với văn học thế giới, để trong buổi kỷ niệm này đồng nhân cảm biết cái công nghiệp của bậc thi bá nước ta lớn lao to tát là dường nào. Đối với văn hóa nước nhà, cái địa vị truyện Kiều đã cao quí như thế; đối với văn học thế giới cái địa vị truyện Kiều thế nào? Không thể so sánh với văn chương khắp các nước, ta hẵng so sánh với văn chương hai nước có liền tiếp quan hệ với ta, là văn chương Tàu và văn chương Pháp. Văn chương Tàu thật là mông mênh bát ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên Điền ta biến hóa hẳn, siêu việt ra ngoài cả lề lối văn chương Tàu, đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi đát thảm thương, so với Cung oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây sương, nhưng Tây sương là một bản hát, từ điệu có véo von, thanh âm có réo rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn chương chân chính. Cứ thực thi truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự “kết cấu”. Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sành cách kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế, mà là một bức tranh thế thái nhân tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy. Xét về cách kết cấu thì văn chương nước Pháp lại là sở trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi văn kiệt tác của quí quốc, như một bài bi kịch của RACINE hay một bài văn tế của BOSSUET vậy. Đó là nói về cái thể tài văn chương. Còn về đường tinh thần thời trong văn học Pháp có hai cái tinh thần khác nhau, là tinh thần cổ điển và tinh thần lãng mạn. Tinh thần cổ điển là trọng sự lề lối, sự phép tắc; tinh thần lãng mạn là trong sự khoáng đãng, sự li kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh thần ấy, vì vừa có cái đạo vị thâm trầm của Phật học, vừa có cái nghĩa lý sáng sủa của Nho học, vừa có cái phong thú tiêu dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần bí của nhà chùa, sự khoáng dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự “phổ thông”. Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch RACINE hay là đọc văn BOSSUET. Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, “lẩy” Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ thường, kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự cao với thế giới là văn chương chung của cả một dân tộc 18,20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả. Như vậy thì truyện Kiều, không những đối với văn hóa nước nhà, mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quí. Văn chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ vang với thiên hạ, tưởng cũng là một cái kỳ công có một trong cõi văn thế giới vậy. Cái kỳ công ấy lại dũ kỳ nữa là ngẫu nhiên mà dựng ra, đột nhiên mà khởi lên, trước không có người khai đường mở lối, sau không có kẻ nối gót theo chân, đột ngột giữa trời Nam như cái đồng trụ để tiêu biểu tinh hoa của cả một dân tộc. Phàm văn chương các nước, cho được gây nên một nền thi văn kiệt tác, phải bao nhiêu nhà thơ, bao nhiêu nhà văn, trong bao nhiêu năm lao công lục lực, vun trồng bón xới mới thành được. Nay bậc thi bá nước ta, đem cái thiên tài ít có trong trời đất, đúc cái khí thiêng bàng bạc trong non sông, một mình làm nên cái thiên cổ kỳ công đó, dẫu khách thế giới cũng phải bình tình mà cảm phục, huống người nước Nam được trực tiếp hưởng thụ cái ơn huệ ấy lại chẳng nên ghi tạc trong lòng mà thành tâm thờ kính hay sao? Cuộc kỷ niệm hôm nay là chủ ý tỏ lòng quốc dân sùng bái cảnh mộ Cụ Tiên Điền ta; lại có các quí hội viên Tây và các quí quan đến dự cuộc là để chứng kiến cho tấm lòng thành thực đó. Nhưng còn có một cái ý nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ này, đốt lò hương, so phím đàn, chiêu hồn quốc sĩ. Thác là thể phách, còn là tinh anh, áng tinh trung thấp thoáng dưới bóng đèn, chập chừng trên ngọn khói, xin chứng nhận cho lời thề của đồng nhân đây. Thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh tao, quốc bộ ngày một tấn tới, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chi hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây!” P.Q
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:08:08 GMT 9
Lê Văn Hưu - nhà sử học lỗi lạc
Lê Văn Hưu người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Theo lời các cố lão địa phương thì đất Triệu Trung vốn là trang trại của vị tổ khai sáng dòng họ Lê - quan Trấn quốc bộc xạ Lê Lương thời Đinh Tiên Hoàng, đến nay đã được hơn hai mươi đời. Lê Văn Hưu là ông tổ thứ bảy của dòng họ này. Cuốn Lê thị gia phả hiện còn được bảo tồn, ghi ông sinh năm Canh Dần (1230) là người khôi ngô tuấn tú, tư chất thông minh. Một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài: Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở. Lê Văn Hưu liền đối: Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên. Bác thợ rèn ngạc nhiên khen ngợi mãi rồi tặng luôn một cái dùi thật xinh, lại kèm theo ít tiền để mua giấy bút. Năm Đinh Mùi, Lê Văn Hưu đi thi, đỗ Bảng Nhãn. Đây là khoa thi đầu tiên ở Việt Nam có đặt danh hiệu tam khôi (ba người đỗ đầu: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa). Năm ấy, ông vừa tròn 18 tuổi. Sau khi thi đỗ, ông được giữ chức Kiểm pháp quan (chức quan trông coi việc hình luật), rồi Binh bộ Thượng thư, rồi Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu. Ông cũng là thầy học của thượng tướng Trần Quang Khải, một trong những danh tướng của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông. Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, vào năm 1272, ông đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế (tức Triệu Đà 207 - 136 trước Công nguyên) (*) cho tới Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), tất cả gồm 30 quyển, được Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen. Đại Việt sử ký nay không còn, nhưng vẫn có thể thấy được thấp thoáng bóng dáng bộ quốc sử đầu tiên này trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngô Sĩ Liên, sử thần đời Lê, người khởi đầu việc biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư, đã căn cứ vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, tiếp đó là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên để biên soạn những phần liên quan. Trong bài tựa Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: "Văn Hưu là người chép sử giỏi đời Trần, Phu Tiên là bậc cổ lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên soạn lịch sử nước nhà, tìm khắp các tài liệu còn sót lại, tập hợp thành sách để cho người xem đời sau không có gì phải tiếc nữa, thế là được rồi". Tiếp đó, Ngô Sĩ Liên nói rõ, ông đã đem "hai bộ sách của tiên hiền" (tức là Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên) ra "hiệu chỉnh, biên soạn lại, thêm vào một quyển Ngoại kỷ, thành một số quyển, gọi là Đại Việt sử ký toàn thư". Như vậy, khó có thể phân định được đích xác đâu là nguyên văn Đại Việt sử ký trong bộ quốc sử lớn đời Lê này. Tuy vậy, rất may là trong Đại Việt sử ký toàn thư hiện đang lưu hành vẫn còn có 29 đoạn ghi rõ là lời văn của Lê Văn Hưu với mấy chữ " Lê Văn Hưu viết ". Qua nhưng trích đoạn đó, có thể thấy được phần nào khuynh hướng cũng như sắc thái ngọn bút chép sử của ông. Trân trọng công lao đánh giặc giữ nước của Tổ tiên, ông đã nhận định về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng với những lời lẽ rất mực hào hùng: " Trưng Trắc Trưng Nhị... hô một tiếng mà các quận Cửu Châu, Nhật Nam, Hợp Phố cùng sáu mươi nhăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay...". Đoạn ông ca tụng Ngô Quyền cũng thấm đượm lòng tự hào sâu sắc trước thắng lợi huy hoàng của dân tộc: " Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy... ". Quan tâm sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân, ông cũng đã nghiêm khắc phê phán những hành vi bạo ngược, trái đạo lý của vua chúa, như đoạn nhận xét về cấm lệnh " không cho con gái nhà quan lấy chồng trước khi dự tuyển vào hậu cung" của Lý Thần Tông (1128 - 1137), chẳng hạn: "Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất; thánh nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sát phu sát phụ không được có nơi có chốn... Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, đâu phải là tấm lòng của người làm cha mẹ dân!". Lê Văn Hưu mất ngày 23 tháng Ba năm Nhâm Tuất (1322), táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm (thuộc địa phận xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Hiện nay ở đó vẫn còn phần mộ với tấm bia dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), khắc ghi tiểu sử và một bài minh ca tụng tài đức, sự nghiệp của ông. Giáo sư Đặng Đức Siêu -------------------------------------------------------------------------------- * Khoảng trước năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc của dân tộc Việt rồi sáp nhập vào nước Nam Việt. Lê Văn Hưu, sau đó là các nhà sử học Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đều cho rằng Triệu Đà là vua nước Việt, xếp "kỷ nhà Triệu" như một triều đại chính thống trong lịch sử Đại Việt. Đây là một sự nhầm lẫn. Đến thế kỷ 18, Ngô Thì Sỹ (1726-1780) trong cuốn "Việt sử tiêu án" mới bác bỏ sai lầm này, khẳng định Triệu Đà "thực chưa từng làm vua nước ta" vì "nước Việt ở miền Nam Hải, Quế Lâm" không ở vị trí nước Việt Nam ngày nay***************************
Nhà sử học Phan Phu Tiên Phan Phu Tiên người làng Vẽ (Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), một làng trù phú nổi tiếng về nghề song, mây đan lát cổ truyền. Ông tên chữ là Tín Thần, tên hiệu là Mặc Hiên. Tại khoa thi cuối cùng của nhà Trần tổ chức ở Thăng Long vào năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái thứ 9 đời Trần Thuận Tông (1396), ông đã đỗ Thái học sinh. Ông là nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học và nhà giáo nổi tiếng, người có công lớn trong việc soạn thảo quốc sử đầu thời Lê, đồng thời cũng là người khởi đầu việc biên soạn bộ hợp tuyển thơ ca đầu tiên của Việt Nam. Sau khi thi đỗ, Phan Phu Tiên được vào làm việc ở Quốc sử viện và Quốc Tử Giám, hai cơ quan nghiên cứu học thuật và đào tạo nhân tài quan trọng bậc nhất đương thời. Sau suốt một thời gian dài tới trên 1/4 thế kỷ, kể từ cuối những năm 90 thế kỷ 14 cho tới năm 1429, ông mới lại dự thi khoa Minh Kinh dưới thời Lê Thái Tổ; sau đấy không thấy sách vở, tài liệu nào ghi chép gì thêm về người danh sĩ họ Phan này. Tình hình đất Việt lúc đó đang trải qua những cơn biến động dữ dội. Trong thời gian giữ chức Đồng tu sử ở Quốc sử viện, ông bắt tay vào biên soạn bộ Việt âm thi tập - công trình mở đầu việc nghiên cứu, giới thiệu thơ ca các đời ở Việt Nam. Niềm tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, lòng trân trọng đối với di sản tinh thần của tiền nhân và những nhận thức sâu sắc về vai trò của văn chương nghệ thuật đã thúc đẩy ông vượt qua mọi khó khăn, ra sức hoàn thành công trình có ý nghĩa lớn lao này. Mùa thu năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 đời Lê Thái Tổ (1433), bộ hợp tuyển Việt âm thi tập về căn bản đã hoàn thành. Phan Phu Tiên viết lời tựa với những lời tâm huyết như sau: "Trong lòng có chí hướng ắt sẽ thể hiện thành lời. Vì vậy, thơ là để nói lên cái chí của mình... Các bậc đế vương, công khanh, sĩ đại phu mấy đời gần đây, chẳng ai không quan tâm đến học thuật, vẫn thường sớm tối ngâm vịnh, diễn tả nỗi lòng sâu kín, đều có thi tập lưu hành ở đời nhưng do binh lửa nên đã thất truyền, tiếc thay!... Các bậc quân tử sau này có lòng sưu tầm rộng khắp, rồi xếp đặt thành quyển, thành tập, mới mong khỏi phải thở than vì bỏ sót mất hạt châu trong biển cả". Sách chưa kịp khắc in thì Phan Phu Tiên được cử giữ chức An Phủ sứ ở tỉnh ngoài (Thiên Trường, Hoan Châu). Việt âm thi tập được Thị ngự sử Chu Xa vâng lệnh triều đình biên soạn tiếp. Sau hơn 10 năm sưu tầm, chỉnh lý, sắp xếp, bản thảo Tân tuyển Việt âm thi tập do Chu Xa biên tập đã hoàn thành vào năm 1459, được Hàn Lâm học sĩ Lý Tử Tấn hiệu chỉnh, rồi cho khắc in. Theo bài tựa của Lý Tử Tấn thì Tân tuyển Việt âm thi tập thu thập được hơn 700 bài thơ (sắp xếp thành 7 quyển). Bản in lần đầu đã thất tán từ lâu. Hiện nay chỉ còn được thấy ba quyển đầu của lần tái bản năm 1729. Sau một thời gian làm quan ở tỉnh ngoài, năm 1448, Phan Phu Tiên lại được triệu về kinh, sung chức Quốc Tử Giám bác sĩ tri Quốc sử viện, vừa giảng dạy ở Quốc Tử Giám lại vừa trông coi công viện của Viện quốc sử. Năm ất Hợi, niên hiệu Diên Minh thứ hai đời Lê Nhân Tông (1455), vâng lệnh nhà vua, ông bắt tay vào biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên (nối tiếp theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu), chép việc từ đời Trần Thái Tông cho đến khi quân Minh rút về nước (từ năm 1226 cho tới năm 1427), gồm 10 quyển. Đại Việt sử ký tục biên nay đã thất truyền, nhưng Ngô Sĩ Liên đã dựa vào bộ sử này để biên soạn những phần có liên quan trong Đại Việt sử ký toàn thư. Ngoài Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký tục biên, tương truyền ông còn viết Quốc triều luật lệnh, Bản thảo thực vật toản yếu, cũng đều thất truyền. Toàn Việt thi lục do Lê Quý Đôn biên soạn có chép ba bài thơ của ông: Vi nhân cầu giáo (Làm người cần phải học tập), Hạ gián nghị đại phu Nguyễn ức Trai và Đương đạo Lương Phán quan nhậm mãn (Tặng ông phán quan họ Lương hết hạn nhậm chức), lời thơ bình dị nhưng chứa đựng nhiều ý tưởng khá sâu sắc, nêu cao truyền thống hiếu học, trọng nghĩa tình, chăm lo việc dân, việc nước của nho sĩ Việt Nam. Hiện nay ở làng Đông Ngạc (huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) có nhà thờ Phan Phu Tiên với bức hoành phi mang ba chữ Khai Tất Tiêu, nhắc nhở tới vinh dự của người đỗ đại khoa đầu tiên ở làng này. Giáo sư Đặng Đức siêu
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:37:22 GMT 9
Chu Văn An - người thầy mẫu mực Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong. (Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả. Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân). Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần. Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại. Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này. Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận. Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô. ( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải. Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa). (Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An). Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó. Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được". Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một đường phố và một trường trung học lớn của Hà Nội. Đó là phố Chu Văn An và Trường phổ thông Trung học Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven thời Pháp thuộc, đi từ đường Điện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái Học. Còn Trường trung học Chu Văn An nằm trên đường Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truyền đầy những giai thoại và truyền thuyết cổ xưa. Trường này nguyên trước là Trường cao đẳng tiểu học Bảo hộ (collège du protectorat) do thực dân Pháp lập từ năm 1907 để chống lại phong trào Đông kinh Nghĩa thục, nhưng nhân dân ta thường vẫn quen gọi là Trường Bưởi. Năm 1945, Cách mạng thành công, các nhà giáo và nhân dân Hà Nội đã nhất trí chọn tên nhà giáo dục mẫu mực Chu Văn An đặt tên cho trường. Đặng Kim Ngọc
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 9:40:01 GMT 9
Nguyễn Trường Tộ Người đi trước thời đại Sinh năm 1828, ở làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô, nhưng Nguyễn Trường Tộ học thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được giám mục Gauthier đưa vào chủng viện Tân ấp thuộc xứ đạo Xã Đoài để dạy chữ Hán cho giám mục, và được giám mục dạy lại cho chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm 1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để tạo điều kiện học tập, nâng cao kiến thức nhiều mặt. Hơn hai năm ở Paris, chẳng những ông hiểu biết nhiều về khoa học - kỹ thuật, có trình độ như một kiến trúc sư, một người biết khai mỏ, mà còn đọc rộng về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật, v.v... và tìm hiểu được một số hoạt động công nghệ của nước Pháp. Trên đường đi sang Pháp và trở về Việt Nam, Nguyễn Trường Tộ còn có dịp ghé qua Rome, dừng chân ở Singapore và Hongkong. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Tổ quốc, phải cập bến Sài Gòn, khi tỉnh thành Gia Định đã bị quân viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha chiếm đóng. Gần ba năm sống trong lòng địch, Nguyễn Trường Tộ bất đắc dĩ phải làm việc với quân Pháp, phiên dịch các công hàm trao đổi giữa triều đình Huế với Soái thủ Pháp ở Gia Định. Nhiều lần ông sửa bớt chữ nghĩa trong công hàm của đôi bên, tránh những lời lẽ quá khích, xúc phạm tới triều đình hoặc phương hại cho việc "tạm hòa". Nhiều lần ông tìm cách thông báo cho các sứ thần của triều đình như Nguyễn Bá Nghi, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ một số âm mưu quỷ kế của giặc Pháp. Năm 1863, Nguyễn Trường Tộ tìm cách thoát ra khỏi khu vực chiếm đóng của quân Pháp, liên hệ được với triều đình Huế. Từ đây cho đến cuối đời ông viết hàng loạt điều trần, luận văn, tờ bẩm, trình nhiều kiến nghị có tầm chiến lược nhằm canh tân đất nước, tạo thế vươn lên cho dân tộc để giữ nền độc lập một cách khôn khéo mà vững chắc. Hơn sáu mươi di thảo của Nguyễn Trường Tộ đã sưu tầm được, bàn về nhiều phương diện: - Về mặt kinh tế, Nguyễn Trường Tộ vạch ra đường lối làm cho "nước giàu mà dân cũng giàu". Ông khuyên triều đình ra sức mở mang nghề nghiệp, học cách làm ăn của các nước văn minh Tây Âu, tránh bế quan tỏa cảng, mời các công ty kinh doanh nước ngoài đến giúp Việt Nam khai thác tài lợi để có thêm của cải và học cho được kỹ thuật cũng như cách làm ăn tiên tiến của họ. Có như vậy mới giữ được độc lập trong tư thế làm chủ đón khách... (xem Dụ tài tế cấp bẩm từ). - Về mặt văn hóa - xã hội, Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình tìm mọi cách nâng cao văn hóa đất nước theo hướng coi trọng khoa học - kỹ thuật, để sớm nâng cao đời sống của nhân dân. Ông phê phán tình trạng kinh đô Huế luộm thuộm, mất vệ sinh, công thự dột nát, lương bổng quan lại quá ít ỏi,v.v... Ông nêu hàng loạt vấn đề quan trọng như: nên sáp nhập các tỉnh để giảm bớt số quan lại và có điều kiện tăng lương cho quan lại nhằm giảm tệ tham nhũng, khuyến khích tính liêm khiết; đề nghị sửa đổi chính sách thuế, đánh thuế nhà giàu nặng hơn nhà nghèo, đánh mạnh vào xa xỉ phẩm, mặt khác không nên cấm dân dùng đồ đẹp, đồ sang khiến cho văn vật ngày càng kém, áo xiêm ngày càng tồi; đề nghị sửa đổi chế độ thi cử, chú trọng bồi dưỡng nhân tài về nhiều mặt, thành lập các môn học thực dụng, dùng quốc âm trong công văn thay cho chữ Hán, lập địa đồ quốc gia và các tỉnh, kiểm kê dân số, lập trại tế bần, viện dục anh (nhà trẻ), v.v... (xem Điều trần về cải cách phong tục, Học tập bồi dưỡng nhân tài, Tế cấp bát điếu...). - Về mặt ngoại giao, Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới, để biết ứng xử một cách linh hoạt (xem Thiên hạ đại thế luận). Ông chỉ ra những mâu thuẫn giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha và khuyên triều đình nên chủ động mở rộng bang giao với nhiều nước, nhất là với nước Anh, để chế ngự bớt tham vọng và khả năng xâm lược của Pháp. Khi nước Pháp có sự biến lớn năm 1870 - 1871, vua Napoléon III mất ngôi, chế độ cộng hòa Pháp phục hồi, Nguyễn Trường Tộ nêu một loạt kiến nghị, hướng dẫn triều đình xúc tiến ngoại giao trực tiếp với Chính phủ Pháp, khéo léo đối phó, ngăn chặn bọn chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Soái phủ Sài Gòn, nhằm tìm cách thu hồi lại sáu tỉnh đã bị chiếm (xem Lục lợi từ và các tờ bẩm cuối năm 1866 đến tháng 2-1871). - Về mặt quân sự, Nguyễn Trường Tộ tuy là một người "chủ hòa", nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" hoặc hòa bình vô nguyên tắc. Năm 1867, ông khuyên triều đình "ra sức cải tu võ bị", đề phòng quân Pháp từ Nam Kỳ đánh lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nêu lên một chính sách quân sự có hệ thống như: trọng võ ngang trọng văn, quý trọng người lính, ưu đãi sĩ quan, biên soạn lý luận binh pháp, đào tạo cán bộ chỉ huy, tạo dựng một quốc thể về mặt binh bị, chuẩn bị điều kiện tác chiến trong thành phố, tìm cách dùng người trong vùng địch chiếm, v.v... Ngoài những bản điều trần và luận văn tạo nên một công trình trí tuệ vĩ đại vô giá, Nguyễn Trường Tộ còn để lại một số hoạt động thực tiễn xuất sắc như: Năm 1862 - 1863, ông thiết kế xây dựng tòa nhà nguyện của dòng tu nữ ở Sài Gòn. Năm 1864 - 1866, ông thiết kế xây dựng bốn ngôi nhà trong giáo khu Xã Đoài. Mấy công trình này của ông thuộc về những công trình kiến trúc đầu tiên theo kiểu châu Âu ở Việt Nam giữa thế kỷ 19. Cũng giữa những năm 60 thế kỷ 19, khi hoạt động ở quê nhà, ông đã giúp Tổng đốc Nghệ An Hoàng Tá Viêm đào Kênh Sắt, một công trình xưa kia Cao Biền rồi Hồ Quý Ly dự định làm mà không làm nổi. Ngoài ra, ông còn vận động dân chúng ở Xuân Mỹ, quê hương bên nhà vợ ông, cùng nhau dời làng từ trong núi rừng đầy lam chướng ra nơi thoáng đãng, thuận lợi canh tác. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ đã vượt hẳn lên trên tầm thời đại giữa thế kỷ 19 ở Việt Nam. Vua Tự Đức tuy đã có lúc triệu ông "vào kinh để hỏi việc lớn" và phái ông sang Pháp thuê thầy thợ, mua sách vở, máy móc, định du nhập kỹ thuật (năm 1866 - 1867), nhưng nói chung, triều đình nhà Nguyễn cũng như các nho sĩ, văn thân thời ấy chưa hiểu nổi luồng tư tưởng của ông, nên chưa coi trọng đúng mức những kiến nghị cách tân của ông. Trí tuệ lỗi lạc của Nguyễn Trường Tộ bị lãng quên như một luồng ánh sáng rọi vào đám sương mù dày đặc. Ông chết âm thầm ở làng quê Bùi Chu ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức thứ 24, tức 23 tháng 11 năm 1871.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 8:02:14 GMT 9
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) Hoàng Xuân Hãn sinh ngày 8 tháng 3 năm 1908, (tức ngày mùng 7 tháng giêng năm Mậu Thân) -trên giấy căn cước ghi sai, đề ngày 3 tháng 3 năm 1909-, tại thôn Yên Phúc, làng Yên Hồ, huyện La Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Con cụ Hoàng Xuân Úc, tú tài Hán học, và cụ bà Lê Thị Ấu. 1914-1917: Học chữ Hán và chữ quốc ngữ trong gia đình. 1917-1921: Vào trường tiểu học Vinh (học tiếng Pháp). 1921-1922: Học lớp nhất bậc tiểu học, và đỗ bằng tiểu học ở Thanh Hóa. 1922-1926: Học trường Quốc Học Vinh (trung học đệ nhất cấp, tương đương với lớp 6 đến lớp 9 hiện giờ). 1926: Ðậu bằng Thành Chung. 1926-1927: Vào năm thứ nhất trường Bảo Hộ tức là trường Bưởi (Trung học đệ nhị cấp), tương đương với lớp 10 bây giờ. Cũng trong năm này, tự học lấy để thi bằng Tú Tài Pháp, phần 1. 1927: Ðỗ Tú Tài Pháp, phần 1 (thi nhẩy, thí sinh tự do). 1927-1928 Ðược nhận vào lớp đệ nhất ban toán (Mathématiques élémentaires, Terminale bây giờ) trường Albert Sarraut Hà Nội. 1928: Ðỗ Tú Tài Pháp, phần 2, ban toán. 1928-1930 được chính phủ Ðông Dương cấp học bổng sang Pháp để học dự bị thi vào các Trường Lớn (Grandes Ecoles). Học Mathématiques Supérieures, Mathématiques Spéciales ở lycée Saint Louis, Paris. 1930: Ðỗ concours vào các trường: Ecole Normale Supérieure, rue d'Ulm (Trường Cao Ðẳng Sư Phạm) và Ecole Polytechnique (Trường Bách Khoa). Chọn học trường Polytechnique. Bắt đầu soạn cuốn Danh Từ Khoa Học. 1932-1934: Vào học Ecole Nationale des Ponts et Chaussées (Truờng Cầu Cống). 1934: Trở về Việt Nam 4 tháng. 1934: Sang Pháp. Trên chuyến tầu, gặp cô sinh viên Nguyễn Thị Bính sang Pháp học dược khoa. 1934-1936 trở lại Pháp; đậu cử nhân toán 1935, và thạc sĩ toán 1936. 1936: Kết hôn với cô Nguyễn Thị Bính, sinh ngày 6/10/1911 tại Hà Nội, sau này trở thành dược sĩ. 1936-1939 trở về nước. Dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi. Hoàn tất cuốn Danh Từ Khoa Học. Tham gia hội Truyền Bá Quốc Ngữ. Chống nạn thất học. Ðưa ra phương pháp mới để dậy chữ quốc ngữ. Ðặt các bài vè để học vần quốc ngữ, như: o tròn như quả trứng gà ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu 1939-1944: Vì chiến tranh, trường Bưởi phải rời vào Thanh Hóa. Tại đây tìm thấy những sử liệu về La Sơn Phu Tử và Vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp Lý Thường Kiệt. 1942 xuất bản Danh Từ Khoa Học. 1942-1943 trong ban chủ trương báo Khoa Học, viết những bài Tính đố vui cho học sinh trên báo Khoa Học. 1943: Ðại Học Khoa Học được thành lập tại Hà Nội. Hoàng Xuân Hãn dậy Cơ học (Mécanique) Tháng 4/1945 vua Bảo Ðại mời vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. 17/4/1945: Tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật. Từ 20/4/45 đến 20/6/45: Với chức bộ trưởng, thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú Tài bằng tiếng Việt. Dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng. Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, trở về dậy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội. 1945: Bắt đầu nghiên cứu Kiều. 16/4/1946 đến 12/5/1946: Tham dự hội nghị Ðà Lạt. 19/12/1946: Pháp Việt chiến tranh. Bị kẹt ở Hà Nội. Bị Pháp gạch tên trong sổ giáo sư. Trở về với công việc nghiên cứu. 1949: Xuất bản Lý Thường Kiệt 1951 sang Paris và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 51-54 đã giúp Thư Viện Quốc Gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Trong suốt thời kỳ ở Pháp (từ khi đi du học cho đến về sau), đã đi đến các nghĩa trang, trong các làng ở Pháp, tìm mộ bia của những người lính thợ chết ở bên này, để báo tin cho gia đình họ biết. Vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Ðịa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa Học Xã Hội (Paris, 1976-1987). Ðoàn Kết (Paris, 1976-1981). Diễn Ðàn (Paris 1991-1994). Công trình đồ sộ nhất là: Nghiên cứu Kiều (từ 50 năm nay), chưa xuất bản. 1952: Xuất bản La Sơn Phu Tử. 1953: Xuất bản Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo. 1954 sang Hội Nghị Genève, theo lời mời của các bạn Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Mạnh Hà, mong mỏi một giải pháp hòa bình: một chính phủ miền Nam có thể cộng tác với chính phủ miền Bắc để thực hiện việc thống nhất đất nước. Mất hồi 7giờ 45 ngày 10 tháng 3 năm 1996, tại bệnh viện Orsay, ngoại ô Paris. Hỏa táng chiều ngày 14/3/1996 tại nghĩa trang L'Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp Tác phẩm: Danh từ Khoa Học Lý Thường Kiệt Một vài ký vãng về Hội Nghị Ðà Lạt Thiên Tình Sử Hồ Xuân Hương Thi văn Việt Nam La Sơn Phu Tử Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo Cùng nhiều công trình nghiên cứu, biên tập và chú thích các tác phẩm văn cổ: Nghiên cứu Kiều Ðại Nam Quốc sử Diễn Ca (Lê Ngô Cát) Mai Ðình Mộng ký (Nguyễn Huy Tố) Văn tế Thập loại Chúng sinh (Nguyễn Du)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 8:26:18 GMT 9
Nguyễn Trãi Lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”Tranh truyền thần Nguyễn Trãi ở nhà thờ họ Nguyễn, làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội Sinh 1380 Thăng Long, Đại Việt Mất 19 tháng 9 năm 1442[1] Công việc Chính trị gia, Nhà thơ, Nhà địa lý học, Nhà sử học Quốc gia Việt Nam Giai đoạn sáng tác Nhà Hậu Lê Tác phẩm chính Bình Ngô đại cáo, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí -------------------------------------------------------------------------------- Chủ đề Văn học Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋), (1380–19/9/1442), quê ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông là con trai của ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào Bắc thuộc lần 4, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông được coi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá của Việt Nam. Mục lục [ẩn] 1 Cuộc đời 1.1 Thời thơ ấu 1.2 Làm quan với nhà Hồ 1.3 Mười năm phiêu dạt 1.4 Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn 1.4.1 Yết kiến ở Lỗi Giang 1.4.2 Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịch 1.5 Văn thần triều Lê 1.5.1 Công thần bị tội 1.5.2 Lão thần triều vua Lê Thái Tông 1.5.3 Vụ án Lệ Chi Viên 1.6 Chiêu tuyết 2 Gia đình 2.1 Vợ 2.2 Con 3 Tư tưởng Nguyễn Trãi 3.1 Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi 3.2 Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi 4 Sự nghiệp văn chương 4.1 Trước tác 4.1.1 Văn chính luận 4.1.2 Lịch sử 4.1.3 Địa lý 4.1.4 Thơ phú 4.2 Một số nhận định về văn chương Nguyễn Trãi 5 Nhận định 6 Tôn vinh 7 Chú giải 8 Chú thích và tham khảo 8.1 Ghi chú 8.2 Thư mục 9 Liên kết ngoài [sửa] Cuộc đời[sửa] Thời thơ ấuNguyễn Trãi sinh năm 1380, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc , nay là huyện Thường Tín, Hà Nội. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh, một nho sĩ hay chữ nhưng nghèo và mẹ là Trần Thị Thái, con gái thứ ba[2] của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán[3]. Mối lương duyên của thân phụ và thân mẫu Nguyễn Trãi là một ngoại lệ đối với những qui định hôn nhân khắt khe của tôn thất nhà Trần, Trần Nghệ Tông đã không cho Nguyễn Phi Khanh làm quan khi ông đỗ Thái học sinh vì ông là kẻ thứ dân mà lấy vợ giàu sang, cho rằng như vậy là phạm thượng[4]. Đôi vợ chồng trẻ có với nhau năm người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng[5] Nhưng chưa được bao lâu thì bà Trần Thị Thái qua đời. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con ăn học. Ở Nhị Khê, Nguyễn Phi Khanh đã ra công rèn cặp các con theo khuôn khổ Nho giáo mà có lẽ là Nho giáo Khổng Mạnh chứ không học Tống Nho vì Hồ Quý Ly đã bài bác Tống Nho là không thiết thực[6]. Tuy còn ít tuổi nhưng Nguyễn Trãi rất ham học. Điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc (家園樂): “ 故 園 亂 後 有 先 廬, 六 歲 兒 童 頗 愛 書。 Cố viên loạn hậu hữu tiên lư Lục tuế nhi đồng phả ái thư Dịch nghĩa : Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ Sáu tuổi con thơ rất thích sách[7] ” —Nguyễn Phi Khanh Phan Huy Chú nhận xét “ Ông tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả ” —Phan Huy Chú[8] [sửa] Làm quan với nhà HồNăm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, nhà Hồ thành lập. Cũng trong năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư[9], được trao chức Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám[10]. Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc, trong số đó có Nguyễn Phi Khanh. Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh. Trương Phụ ép Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng[8]. Nhiều tài liệu khác thì kể rằng, khi cha bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà.[11] [sửa] Mười năm phiêu dạtCuộc đời Nguyễn Trãi từ sau năm 1407 đến khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang để tham gia khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn là một ẩn số. Cho tới nay, chưa thấy được những tài liệu chính xác, đầy đủ về Nguyễn Trãi trong thời kỳ đó. Sử sách không chép cũng như chép không thống nhất và bản thân Nguyễn Trãi cũng không ghi lại điều gì cụ thể [12]. Nguyễn Trãi nói nhiều đến thập niên phiêu chuyển (mười năm phiêu dạt) lênh đênh ở nơi chân trời góc biển trong một số văn thơ của ông, áng chừng là để chỉ khoảng thời gian này. Tất nhiên con số mười năm chỉ mang tính tương đối[13]. Theo Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau khi ra hàng quân Minh, Trương Phụ muốn dụ dỗ ông ra làm quan nhưng Nguyễn Trãi từ chối. Trương Phụ tức giận, muốn đem Nguyễn Trãi giết đi nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, tha cho và giam lỏng ở Đông Quan, không cho đi đâu. [8]. Ông lòng giận quân Minh tham độc, muốn tìm vị chân chúa để thờ nhưng chưa biết tìm ở đâu, bèn trốn đi. Đêm ngủ ở quán Trấn Vũ cầu mộng, được thần báo cho tên họ Lê Thái Tổ, bèn vào Lam Sơn tham gia khởi nghĩa. Trần Huy Liệu trong sách Nguyễn Trãi cũng ghi lại tương đối giống vậy, nhưng dè dặt hơn, ông nhận xét rằng rằng Hiện nay vẫn chưa đủ tài liệu để khẳng định dứt khoát rằng trong khoảng thời gian từ năm 1407 đến năm 1417, Nguyễn Trãi ở luôn Đông Quan hay có đi đâu không ? [11]. Theo Nguyễn Lương Bích trong sách Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, dựa trên văn thơ của Nguyễn Trãi để lại và một vài ghi chép của Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục nói Nhà Hồ mất, ông về ở ẩn và Phạm Đình Hổ trong Tang thương ngẫu lục viết Nhà Hồ mất, ông tránh loạn ở Côn Sơn, Nguyễn Lương Bích khẳng định sau cuộc kháng chiến thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi đã đi lánh nạn trong một khoảng thời gian khá dài chứ không hề bị quân Minh bắt giữ. Ông đã từng lánh ở Côn Sơn và sau đó còn chu du ở nhiều nơi khác nữa[14] . Chùa Côn Sơn (Tư Phúc tự), nơi Nguyễn Trãi về ở ẩn trong những năm tháng đen bạc nhất của cuộc đời ôngNgoài ra, còn có một số người đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng sang Trung Quốc ở thời kì này[11], dựa trên một số bài thơ của ông có nhắc đến các địa danh ở Trung Quốc như Bình Nam dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở Bình Nam), Ngô Châu, Giang Tây, Thiều Châu Văn Hiến miếu[c](Thăm miếu thờ ông Văn Hiến ở Thiều Châu), Đồ trung kí hữu (Trên đường gửi bạn)... Tổng kết về giai đoạn này của cuộc đời Nguyễn Trãi, Nguyễn Lương Bích khẳng định
“ Những tư tưởng chính trị, quân sự ưu tú cùng nhiều quan điểm đạo đức, triết học của ông đã được củng cố và phát triển tốt đẹp trong thời kỳ này. Trên cơ sở của thực tiễn cuộc sống và những kinh nghiệm chiến đấu của các thời đại, đồng thời cũng rút ra từ tư tưởng nhân nghĩa của ông, Nguyễn Trãi đã xây dựng cho mình những quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược[15]. ” —Nguyễn Lương Bích [sửa] Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn[sửa] Yết kiến ở Lỗi GiangThời điểm Nguyễn Trãi lên Lỗi Giang[d] yết kiến Bình Định Vương Lê Lợi, tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hiện nay các tài liệu chưa được thống nhất.
Một số học giả cho rằng Nguyễn Trãi đã có mặt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ hội thề Lũng Nhai vào năm 1416[16]. Có người khẳng định Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn vào năm 1420[17] hoặc 1421 hay sau đó một chút[13][18]. Với một số phát hiện mới, đặc biệt là bản Đinh tộc ngọc phả của dòng họ Đinh Liệt thì Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn và Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ, đến Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân vào mùa xuân năm 1423. Đinh tộc ngọc phả cũng ghi chép một câu chuyện về sự ra mắt của Nguyễn Trãi. Khi ấy, quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba, lương thực thiếu thốn, quân sĩ mỏi mệt. Về phía quân Minh cũng lúng túng với việc đánh dẹp quân khởi nghĩa, có ý muốn giảng hoà. Ngày 6 tháng 4 năm 1423 (tức ngày 26 tháng 2 âm lịch năm Quý Mão) , Bình Định Vương cùng các tướng lĩnh hội bàn phương lược khởi nghĩa. Lê Sát, Lê Thụ, Đinh Bồ, Phạm Vấn kiên quyết muốn đánh nhưng Đinh Liệt chủ trương hoà hoãn để xây dựng lực lượng. Nguyễn Trãi theo Nguyễn Nhữ Lãm đẩy cửa bước vào, ung dung phân tích phải trái, khuyên Bình Định Vương nên giảng hoà với quân Minh làm thượng sách. Ý kiến ấy của Nguyễn Trãi nhanh chóng được chấp thuận[19]. Ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn trao cho vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn bản Bình Ngô sách, trong đó Nguyễn Trãi vạch ra ba kế sách đánh quân Minh[20] mà chủ yếu là tâm công (心 攻), đánh vào lòng người để đi đến chiến thắng[21]
Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện[20], ngày đêm dự bàn việc quân.
[sửa] Trù hoạch mưu lược, viết thư thảo hịchTháng 6 năm 1423[22][23], Lê Vận và Lê Trăn được Bình Định Vương cử làm sứ giả, mang lễ vật là năm đôi ngà voi cùng thư do Nguyễn Trãi viết đi cầu hoà. Lời lẽ trong thư rất mềm dẻo, khôn khéo[24], Tổng binh nhà Minh là Trần Trí chấp thuận ngay. Từ đây, mọi thư từ giao thiệp giữa quân Lam Sơn và quân Minh cũng như văn thư hiểu dụ các thành trì đều do một tay Nguyễn Trãi soạn thảo.
Nguyễn Trãi cũng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mật[25] (hoặc mỡ[17]) viết vào lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần (黎利為君, 阮廌為臣)[26], nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi, với ý đồ khiến kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần (黎利為君, 百姓為 臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi[25]. Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn hiếm hoi, Lê Lợi dẫn quân về Lam Sơn, nhanh chóng củng cố lực lượng. Năm 1424, Trần Trí biết rằng không thể chiêu dụ Lam Sơn đầu hàng, bèn bắt giữ sứ giả Lê Trăn, tuyệt giao với Lê Lợi. Cuộc khởi nghĩa bước vào một giai đoạn mới.
Chấp thuận ý kiến của Nguyễn Chích, tháng 10 năm 1424, nghĩa quân Lam Sơn tiến vào nam, tấn công đồn Đa Căng, thành Trà Lân và bao vây thành Nghệ An. Kết hợp với các hoạt động quân sự, Nguyễn Trãi đã viết nhiều thư cho Phương Chính để khiêu chiến với tướng này, hòng khiến quân Minh sơ hở. Tuy nhiên, thành Nghệ An vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Tháng 8 năm 1425, Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào Tân Bình, Thuận Hoá và liên tiếp giành được thắng lợi. Cho đến cuối năm 1425, không chỉ Nghệ An mà cả miền đất từ dãy Tam Điệp trở vào đèo Hải Vân đều thuộc địa bàn quản lí của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ còn cố thủ trong năm thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá chờ cứu viện[27].
Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi chia một bộ phận nghĩa quân Lam Sơn chia làm ba hướng, tấn công ra bắc và thắng quân Minh ở Tốt Động - Chúc Động. Bình Định Vương nghe báo tin, bèn tiến gấp ra Đông Quan, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi trở ra bắc. Đầu năm 1427, Lê Lợi phong cho Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư, kiêm chức Hành Khu mật viện sự. Đồng thời, ông cũng sai dựng một toà lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề, trên bờ sông Hồng, cao ngang tháp Báo Thiên, hàng ngày ngồi trên lầu trông vào thành Đông Quan xem xét hoạt động của quân Minh ; Nguyễn Trãi ngồi hầu ở ngay tầng dưới để bàn luận quân cơ và thảo thư từ đi lại[28].
Tại đây, Nguyễn Trãi đã viết hàng chục bức thư gửi vào thành Đông Quan chiêu dụ Vương Thông, gửi đi Nghệ An chiêu dụ Thái Phúc cũng như dụ hàng các tướng lĩnh nhà Minh ở Tân Bình, Thuận Hoá và một số thành trì khác. Kết quả đạt được rất khả quan : các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá ra hàng đầu năm 1427[29]. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã từng cùng với viên chỉ huy họ Tăng vào dụ hàng thành Tam Giang, khiến Chỉ huy sứ thành này là Lưu Thanh ra hàng vào khoảng tháng 4 năm 1427. Ông cũng đã đem thân vào dụ hàng thành Đông Quan năm lần[30] Quân Minh ở Giao Chỉ càng bị cô lập nhanh chóng, chỉ còn cố thủ được ở một số thành như Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô... mà thôi[31].
Cuối năm 1427, Minh Tuyên Tông xuống chiếu điều binh cứu viện Vương Thông, sai Liễu Thăng đem 10 vạn quân từ Quảng Tây, Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam, cùng tiến quân sang Việt Nam. Với trận Chi Lăng - Xương Giang, hai đạo viện binh của nhà Minh với số lượng lên tới hơn 10 vạn quân đã bị quân Lam Sơn tiêu diệt hoàn toàn. Quân Minh ở Việt Nam lâm vào tình thế khốn quẫn hoàn toàn, buộc phải đề nghị giảng hoà. Lúc bấy giờ, một số tướng sĩ đến yết kiến và khuyên Lê Lợi nên đánh thành Đông Quan, giết hết quân Minh để trả thù cho sự bạo ngược mà người Minh đã gây nên ở Việt Nam. Nhưng ý kiến của Nguyễn Trãi thì lại khác. Sách Đại Việt sử kí Bản kỉ thực lục, quyển X, tờ 44a-44b ghi rõ rằng
“ Duy có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của [Vương] Thông gửi về nước nói "Chớ tham chỗ đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm ; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được sáu, bảy, tám đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được ; tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được", nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặt chủ hoà. Vua [Lê Thái Tổ] nghe theo và hạ lệnh cho các quân giải vây lui ra[32]. ” —Đại Việt sử ký toàn thư
Nhờ đó, quân Minh nhanh chóng giảng hoà, tổ chức hội thề Đông Quan và rút toàn quân về nước. Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi hoàn toàn, nhà Hậu Lê được thành lập.
[sửa] Văn thần triều Lê[sửa] Công thần bị tộiĐầu năm 1428, ngay cả khi chưa chính thức lên ngôi vua, Bình Định Vương đã đại hội các tướng và các quan văn võ, định công ban thưởng. Nguyễn Trãi được ban cho quốc tính (họ Lê) và tước Quan phục hầu, tiếp tục giữ chức Nhập nội Hành khiển như cũ[33][34]. Ngày 29 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi ở điện Kính Thiên tại Đông Kinh, đại xá thiên hạ, giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo với cả nước về việc chiến thắng quân Minh[35].
Nguyên văn "Bình Ngô đại cáo" Trích trong Hoàng Việt Văn Tuyển phát hành năm 1825, bản lưu trữ tại thư viện Quốc gia Việt Nam
Sau khi thành lập, triều đình bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn phe cánh, dẫn đến một loạt vụ án phản nghịch liên quan đến các công thần. Đầu năm 1429, Trần Nguyên Hãn tự tử sau khi Lê Thái Tổ ban chiếu bắt giam ông nhân việc một số quan lại như Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá dâng sớ tố cáo Hãn mưu phản[36]. Hai năm sau, Lê Lợi tiếp tục sai giết Phạm Văn Xảo khi bọn Lê Quốc Khí tố cáo ông ngầm làm phản[36]. Những người mà bọn Lê Quốc Khí không bằng lòng đều bị vu cho là bè đảng của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, bị xử tử và tù giam rất nhiều[36].
Không rõ Nguyễn Trãi có bị vu cáo như vậy không, nhưng theo phỏng đoán của một số sử gia hiện đại[37] thì thời gian này Nguyễn Trãi đã bị bắt và hạ ngục[38]. Dựa vào thơ văn của ông như bài Oán thán kể lại tâm sự của Nguyễn Trãi khi bị tù đày vào hồi ông khoảng năm mươi tuổi (tức năm 1429) hoặc những lời trần tình xúc động trong bài biểu mà ông dâng lên vua Lê Thái Tông để tạ ơn được ban chức Gián nghị đại phu, rất có thể Nguyễn Trãi đã bị nghi ngờ có liên quan đến Trần Nguyên Hãn nên bị bắt, sau lại được tha[37]. Lê Thái Tổ tha cho Nguyễn Trãi, nhưng tước bỏ quốc tính của ông[39] và không trọng dụng ông nữa. Suốt thời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi không được làm một việc chính sự quan trọng nào cả[37], ngoại trừ việc thảo các chiếu biểu thay vua theo đúng chức phận của một vị quan Học sĩ ở Hàn Lâm viện[40]. Cuộc sống riêng của Nguyễn Trãi ở Thăng Long cũng rất nghèo túng, thiếu thốn[41]
“ Góc thành nam lều một gian No nước uống thiếu cơm ăn [..] Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải Góc thành nam lều một gian. ” —Thủ vĩ ngâm
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, an táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn. Lê Thái Tông xuống sắc chỉ sai Nguyễn Trãi, với tư cách là Vinh lộc Đại phu Nhập nội Hành khiển Tri Tam quán sự, soạn văn bia Vĩnh Lăng thần đạo bi[42].
[sửa] Lão thần triều vua Lê Thái TôngLê Thái Tông được chỉ định nối ngôi vua chỉ hơn một tháng trước khi Lê Thái Tổ qua đời. Điều này được một số nhà sử học hiện đại cho là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa ông và anh trai là Quận Ai Vương Lê Tư Tề, người sau này bị phế làm dân thường và chết một cách bí ẩn. Lê Sát, Phạm Vấn và Lê Ngân trở thành phụ chính đại thần, nhận di mệnh của Lê Thái Tổ để phò giúp vị vua trẻ tuổi.
Nhưng, Lê Thái Tổ cũng có một cố mệnh khác. Lê Quý Đôn cho biết rằng
“ Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi phụ chính ” —Lê Quý Đôn - Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi
Trần Huy Liệu phỏng đoán rằng, trước khi chết, Lê Lợi đã suy nghĩ lại và dặn dò Thái tử Nguyên Long phải đặt Nguyễn Trãi vào một chức vị khác trong triều đình[41].
Ngày 21 tháng 2 năm 1434, Lê Thái Tông bổ nhiệm 156 quan viên lớn nhỏ, trong số đó có Nguyễn Trãi[43]. Sau đó, ông lại được tiến cử vào dạy học cho Lê Thái Tông ở toà Kinh Diên.[44]. Năm 1435, Nguyễn Trãi dâng lên vua sách Dư địa chí, trong đó ông ghi chép khá đầy đủ về bờ cõi hành chính nước Đại Việt thời đó[45].
Tháng 2 năm 1437, vua Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi cùng với hoạn quan Lương Đăng sửa định nhã nhạc và qui chế lễ nghi trong triều đình. Đây vốn là công việc mà Nguyễn Trãi được Lê Thái Tổ sai làm từ trước, nhưng chưa kịp thi hành[46]. Ngay tháng ấy, Nguyễn Trãi đã dâng lên bản vẽ khánh đá và biểu tâu rằng
“ Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể thi hành. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu soạn nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật, khó được hài hoà. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cỗi gốc của nhạc vậy ” —Nguyễn Trãi
Tuy nhiên, vì bất đồng ý kiến gay gắt với Lương Đăng, chỉ bốn tháng sau, Nguyễn Trãi xin rút lui khỏi công việc này. Tháng 12 năm 1437, vua Lê Thái Tông cho ban bố các nghi thức lễ đại triều do Lương Đăng soạn định với triều đình, Nguyễn Trãi cầm đầu một nhóm văn thần như Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Nguyễn Liễu, Nguyễn Truyền dâng sớ phản đối. Kết quả, Nguyễn Liễu bị đày ra viễn châu do có lời phỉ báng hoạn quan trước mặt vua[47].
Không chỉ thất bại trong công tác chế định nhã nhạc, Nguyễn Trãi còn chịu nhiều định kiến từ các nhân vật nắm giữ quyền hành thời bấy giờ như Lê Sát, Phạm Vấn... Năm 1434, triều đình bận rộn với chuyến đi sứ sang nhà Minh, xin cầu phong cho vua Lê Thái Tông. Tờ biểu văn cầu phong do Nguyễn Trãi soạn, quan ở Nội mật viện là Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước muốn sửa đối vài chữ. Nguyễn Trãi không cho, giận dữ mắng hai viên quan ấy là tham lam vơ vét, dẫn đến nạn hạn hán đang hoành hành lúc bấy giờ[48]. Nguyễn Thúc Huệ đem nói việc đó với Lê Sát và Phạm Vấn, khiến hai người tức tối, trách mắng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi từ tạ nhưng Lê Sát vẫn giận không nguôi. Mâu thuẫn rắc rối đến độ, trong vụ án bảy tên trộm vào tháng 3 năm 1435, các quan đại thần đá việc và mắng xéo lẫn nhau . Số là bảy tên tội phạm này đều còn ít tuổi, đi ăn trộm chiếu luật đáng xử trảm, nhưng các quan còn ngần ngại vì phải giết nhiều người quá. Khi được vua Lê Thái Tông hỏi về cách xử lý, Nguyễn Trãi đã khuyên vua nên thi hành nhân nghĩa. Nhân lời tâu của Nguyễn Trãi, Lê Sát, Lê Ngân mỉa mai ông là có nhân nghĩa, có thể cảm hoá được kẻ ác thành người thiện, rồi yêu cầu Nguyễn Trãi nhận và giải quyết mấy tên tù ấy. Nguyễn Trãi bối rối từ chối, tự nhận rằng "Những kẻ ấy là hạng trẻ con ranh mãnh, ương ngạnh, pháp luật của triều đình còn không thể trừng giới được, huống chi bọn tôi ít đức thì cảm hoá thế nào được ?". Hồi lâu sau mới quyết định trảm hai tên, còn thì xử lưu đày[49].
Vì vậy, khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn[50]- nơi trước kia từng là thái ấp của ông ngoại ông - chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua[8]. Nguyễn Mộng Tuân từng đến chơi nhà ông và có câu thơ rằng
“ 一 條 水 冷 知 三 館 四 壁 家 貧 冨 六 經 Nhất điều thuỷ lãnh tri Tam quán Tứ bích gia bần phú lục kinh Nghĩa là
Nhà quan Tri Tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước Bốn vách trống trải xác xơ nhưng rất giàu sách vở
” —Nguyễn Mộng Tuân
Những năm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại Côn Sơn cũng là những năm mà Lê Thái Tông, tuy chỉ là một vị vua thiếu niên, nhưng đã nắm lấy quyền hành cũng như thẳng tay trừng trị Lê Sát, Lê Ngân và nhiều người trong phe cánh của họ[51]. Nhà vua cũng có những động thái tỏ ý trọng dụng lại vị lão thần Nguyễn Trãi.
Năm 1439, Lê Thái Tông mời ông ra làm quan, ban cho chức tước là Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự[52]. Ông cũng được giao cho việc coi giữ sổ sách, xét án kiện quân dân ở Tây đạo và Bắc đạo[53]. Nguyễn Trãi nhận mệnh vua, dâng biểu tạ ơn với sự hả hê thấy rõ[51]. Trần Huy Liệu cho rằng đây là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi[50]. Trong khoa thi Hội năm 1442, Nguyễn Trãi với danh nghĩa là Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Tri Tam quán sự ra làm Giám khảo và lấy đỗ Trạng nguyên Nguyễn Trực[50].
[sửa] Vụ án Lệ Chi ViênBài chi tiết: Vụ án Lệ Chi Viên Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông[54]. Nhà vua lúc đó mới hai mươi tuổi, đang độ thanh niên, không ai nghĩ rằng đó lại là chuyến tuần du cuối cùng của vua. Và kéo theo sau đám tang là một vụ án oan khiên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên[e] thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu thí nghịch.
Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 âm lịch năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và gia quyến đều bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 63 trong một hoàn cảnh bi phẫn và oan khuất.
[sửa] Chiêu tuyếtSau khi Nguyễn Trãi chết, đa phần những di cảo thơ văn và trước tác của ông đều bị tiêu hủy. Bản khắc in sách Dư địa chí bị Đại Tư đồ Đinh Liệt sai hủy[55] năm 1447[56]. Nhiều trước tác mất vĩnh viễn đến nay như Luật thư[57], Ngọc đường di cảo, Giao tự đại lễ,... Gia quyến Nguyễn Trãi cũng lưu tán khi biến cố Lệ Chi Viên xảy đến. Theo gia phả họ Nguyễn Nhị Khê, em trai Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Hùng chạy về Phù Khê, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Nguyễn Phù - một người con của Nguyễn Trãi - chạy lên Cao Bằng, đổi họ sang họ Bế Nguyễn. Bà vợ thứ năm của Nguyễn Trãi là Lê thị, đang mang thai, phải trốn về Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương[58]. Đặc biệt, bà vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là Phạm Thị Mẫn, lúc đó cũng đang mang thai, được người học trò cũ của chồng là Lê Đạt giúp chạy trốn vào xứ Bồn Man, sau về thôn Dự Quần, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Tại Đây, bà sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Để tránh sự truy sát của triều đình, Nguyễn Anh Vũ đổi sang họ mẹ là Phạm Anh Vũ[58].
Năm Nguyễn Trãi mất cũng là năm vua Lê Nhân Tông lên ngôi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Ngày 18 tháng 10 năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đảo chính, giết Lê Nhân Tông và Thái hậu, lên ngôi vua bốn ngày sau đó và trở thành vị vua thứ tư của nhà Hậu Lê. Thế nhưng, thời gian trị vì của ông kết thúc vào ngày 24 tháng 6 năm 1460 khi các quan đại thần như Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Lê Lăng,... tổ chức cuộc binh biến lần thứ hai chống lại Lê Nghi Dân. Gia Vương Lê Tư Thành được tôn lên ngôi vào ngày 26 tháng 6 năm ấy, trở thành vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê - Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là con trai của Lê Thái Tông với bà Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, người từng chịu ơn cứu mạng của vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ trong những ngày bà mang nặng đẻ đau vua Lê Thánh Tông năm 1442. Có lẽ vì thế, dù chưa từng và không thể gặp mặt Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông hẳn có sự chú ý đặc biệt với vị lão thần quá cố.
Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm oan khuất, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nguyễn Anh Vũ khi ấy đi thi đỗ Hương cống[58], bèn được nhà vua bổ nhiệm làm Tri huyện[59].
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn SơnNăm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm, ngày 8 tháng 8 năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu, chế văn truy tặng có câu
“ Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên Văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế
Dịch là
Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ
Truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau[60] ” [sửa] Gia đìnhNguyễn Trãi có 5 bà vợ và 7 người con trai[58]
[sửa] VợBà Trần thị Bà Phùng thị Bà Nguyễn Thị Lộ Bà Phạm Thị Mẫn Bà Lê thị . [sửa] ConNguyễn Khuê (con bà Trần thị) Nguyễn Ứng (con bà Trần thị) Nguyễn Phù (con bà Trần thị) Nguyễn Bảng (con bà Phùng thị) Nguyễn Tích (con bà Phùng thị) Nguyễn Anh Vũ (con bà Phạm Thị Mẫn) Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh, Phương Quất, huyện Kim Môn, Hải Dương (con bà Lê thị) [sửa] Tư tưởng Nguyễn TrãiNguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam[61], tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển[62], đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam[61].
Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống[61] hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo[63] (trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu[38]), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.
[sửa] Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiTư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh[6]. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê.
Tư tưởng nhân nghĩa : Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia[64]. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở : xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi[64]. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng[65]. Mệnh trời : Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân.[61] Tư tưởng nhân dân : Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam[66] Quan điểm sống : Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo : sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung[38]. Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho rằng
“ Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó[38] ” —Trần Đình Hượu [sửa] Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn TrãiẢnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lí[67]. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình[67]. Tư tưởng Lão - Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên[68].
Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý - Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc. Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung đình và dân gian. Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng - văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian[69].
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 8:28:59 GMT 9
Sự nghiệp văn chươngNguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn. [sửa] Trước tác[sửa] Văn chính luậnQuân trung từ mệnh tập là tập sách gồm những văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho các tướng tá nhà Minhtrong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, từ năm 1423 đến năm 1427. Bản khắc in năm 1868 chỉ ghi lại được 46 văn kiện. Năm 1970, nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp phát hiện thêm 23 văn kiện nữa do Nguyễn Trãi viết gửi cho tướng nhà Minh[70]. Bình Ngô đại cáo Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông (1433 - 1442) [sửa] Lịch sửLam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vấn đề tác giả của trước tác này vẫn còn chưa rõ ràng[71], dù cho đến nay nhiều người khẳng định rằng Lam Sơn thực lục là tác phẩm do Nguyễn Trãi nhưng điều đó vẫn chỉ mang tính phỏng đoán[72]. Văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn năm 1433Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng - lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ. [sửa] Địa lýDư địa chí là quyển sách về địa lý học cổ nhất còn lại của Việt Nam.[73] [sửa] Thơ phúỨc Trai thi tập là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có bài Côn Sơn ca nổi tiếng. Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục : Vô đề (192 bài), Thời lệnh môn (21 bài), Hoa mộc môn (34 bài), Cầm thú môn (7 bài). Đây là tập thơ nôm xưa nhất của Việt Nam còn lại đến nay[74]. Bằng tập thơ này, Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho văn học chữ Nôm của Việt Nam[75] Chí Linh sơn phú là bài phú bằng chữ Hán, kể lại sự kiện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1422. Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi làm vào năm 1428, kể về cuộc đời Trần Nguyên Đán. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có một số tác phẩm khác như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ nhưng đều không còn lại đến ngày nay. [sửa] Một số nhận định về văn chương Nguyễn Trãi“ Ông làm sách Dư địa chí thì cách phân biệt bờ cõi trong nước rõ ràng, làm sách Giao tự đại lễ ký thì đạo hiếu thờ trời sáng tỏ. Muốn mở lòng vua thì có câu nói nhân nghĩa, có bức vẽ khánh đá, muốn cho đời sống của dân đầy đủ, thì có làm ra sách khuyên dạy, có bàn đến việc tích trữ [thóc lúa] ở một kho chung[76]. ” —Đỗ Thị Nghi “ Từ đời Trần đến nay, những bậc tấn thân kể có hàng trăm hàng nghìn, nhưng từ chương nức tiếng trên đời chỉ có mấy người : Nguyễn Nhữ Bật khơi nguồn, Đào Sư Tích dẫn dòng nước đi, các ông Lý Chuyết Am, Nguyễn Cúc Pha khuấy đợt sóng lên, các bậc hiền giả như Trần Mật Liêu và Nguyễn Ức Trai giúp cho lớp sóng thêm cuộn mạnh, hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được nữa. Chính đó là sông Giang, sông Hán trong các sông và sao Ngưu, sao Đẩu trong các sao vậy[77] ” —Tô Thế Huy - Quần hiền phú tập tự “ Từ khoảng Thuận Thiên đến Hồng Đức, [...] lời nhanh ý mạnh, không quên quân thân là thơ của Lê Trãi ” —Bùi Huy Bích - Lữ trung tạp thuyết “ Văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế ” —Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí “ Lời thơ đều ôn nhã trung hậu, làm danh gia ở thời Lê sơ. Lời đặt chỉ cần khí phách, không cần chải chuốt [...] Tình tứ thấm thía, đủ là tay giỏi, không thể đem từng chữ từng câu ra bàn được ” “ Văn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn [...] Tiên sinh vốn không cố ý đúc chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa, đẹp đẽ, mạnh mẽ, dồi dào, không có cái gì có thể che lấp được. Cứ xem những tuyên cáo và mệnh lệnh viết trong quân thứ, những nghị luận bàn bạc nơi triều đình, lời nào cũng bao hàm đầy ý nhân nghĩa đạo đức. Những điều ấy có thể làm bài học chung cho đời ấy giờ và lưu truyền mãi mãi về sau[78]. ” —Nguyễn Năng Tĩnh “ Văn chương có đủ sức sửa sang việc đời thì mới đáng lưu truyền ở đời. Trong nền văn hiến nước Việt ta, Ức Trai tiên sinh chính là người có thứ văn chương ấy [...]. Văn chương của tiên sinh lúc còn ẩn náu thì đủ để nuôi chí mình, khi đã hiển đạt thì đủ để đem ra dùng cho đời ; khi còn giấu mình thì có thể khuây khỏa bản thân, lúc ra làm việc đời thì có thể thành được nghiệp lớn. Như thế nào phải là chắp nhặt lề lối cũ đem ra làm thứ hú họa mà được thành công đâu ! Than ôi ! "Trong trời đất không gì lớn hơn văn chương", cây nói ấy không phải chỉ là lời nói của một người mà thôi. Nhưng văn chương có đủ sức sửa sang việc đời thì thường vẫn hiếm có, thứ văn chương ấy há nỡ để chìm lấp mà không lưu truyền hay sao ?[79] ” —Ngô Thế Vinh [sửa] Nhận địnhNguyễn Trãi được đánh giá là một nhân vật lịch sử tài đức vẹn toàn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có đóng góp lớn vào thắng lợi chung của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cũng là một nhà văn hoá lớn của Việt Nam ở thế kỉ XV. Sau đây là một vài nhận định về ông. “ Nguyễn Trãi là người trung thành, giúp Thái Tổ dẹp loạn, giúp Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương đức nghiệp ấy, bản triều không ai sánh bằng. Không may, chỉ vì một người đàn bà mà bị tội oan, thật là đáng thương ” —Lê Nhân Tông “ "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo Nghĩa là "Lòng Ức Trai sáng sao Khuê ” —Lê Thánh Tông “ Nguyễn Trãi là cháu ngoại quan Chương Túc hầu nhà Trần và là con ông Nguyễn Phi Khanh, đỗ Tiến sĩ triều nhà Hồ, đã sẵn có thanh danh vị vọng. Khi vào yết kiến Bình Định Vương ở Lỗi Giang, liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng súy nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thượng thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất. Đối xử giữa khoảng họ Giáng, họ Quán điều lễ tốn nhiều công phu, nhưng vì tối về nghĩa "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót ! [...] Người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm cũng không thể mai một được ” —Lê Quý Đôn - Kiến văn tiểu lục “ Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị: chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao "mở nền thái bình muôn thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu"; võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, "yếu đánh mạnh ít địch nhiều ... thắng hung tàn bằng đại nghĩa"; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao: "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời" (Lê Quý Đôn), "văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế" (Phan Huy Chú). Thật là một con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta. ” —Phạm Văn Đồng [sửa] Tôn vinhNăm 1956, Bộ Văn hoá Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức lần đầu tiên lễ kỉ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông[80]. Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962[81]. Năm 1980, Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông[82]. Tem được phát hành tại Việt Nam nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông[58]. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá vào tháng 1 năm 1964.[83]. Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Toạ lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm. Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003.[83]. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Nguyễn Trãi cũng đã được đặt tên cho một con đường lớn ở Hà Nội, nối liền với quốc lộ 6 và tại nhiều thành phố khác ở Việt Nam. Ông là hình tượng ở nhiều tác phẩm nghệ thuật như vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi, vở kịch Đêm của bóng tối của Lê Chí Trung, tiểu thuyết Vạn xuân của Yveline Feray , bài thơ Đêm Côn Sơn của Trần Đăng Khoa... [sửa] Chú giải• a)^ Một huyện xưa ở phủ Tầm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc • b)^ Một châu quận ở Quảng Tây, Trung Quốc • c)^ Thiều Châu : là một châu quận thuộc Trung Quốc. Văn Hiến là Trương Cửu Linh • d)^ Lỗi Giang : tên một địa điểm nằm ở trên bờ sông Mã, giữa huyện Cẩm Thủy, Bá Thước và Quan Hóa (Thanh Hóa) • e)^ Nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. [sửa] Chú thích và tham khảo[sửa] Ghi chú^ Ngày tháng trong bài này đều lấy theo lịch Gregory đón trước ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 216, dẫn lại từ Băng Hồ di sự lục ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 18 ^ Ngô Sĩ Liên 1971, tr. 181 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 19. Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 39 thì ghi rằng chỉ có bốn người con là Nguyễn Trãi, Nguyễn Báo, Nguyễn Hùng và Nguyễn Ly. ^ a b Trần Huy Liệu 1966, tr. 49 ^ Phan Huy Chú 1961, tr. 74 chú thích rằng Đứa trẻ 6 tuổi trong bài này là Ức Trai ^ a b c d Phan Huy Chú 1960, tr. 192 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 49 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 20 ^ a b c Trần Huy Liệu 1966, tr. 21 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 58 ^ a b Nguyễn Lương Bích 1967, tr. 23-38 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 62-63 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 79-80 ^ Hoàng Xuân Hãn 1966, tr. 3-23. Đặng Nghiêm Vạn 1967, tr. 42-49. Phan Huy Lê trong sách Khởi nghĩa Lam Sơn (NXB Khoa học xã hội, 1988) cũng ghi tên Nguyễn Trãi vào danh sách người dự hội thề Lũng Nhai. ^ a b Trần Huy Liệu 1960, tr. 22 ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả, thế phả của họ Nguyễn Nhị Khê ^ “Đinh tộc ngọc phả (phần ba)”. Đinh Xuân Vinh. Truy cập 16 tháng 11 năm 2010. ^ a b Lê Quý Đôn, Toàn Việt thi lục, tiểu chú về Nguyễn Trãi ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 110 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 48 chép việc cầu hoà xảy ra vào khoảng cuối năm 1422 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 110} ^ a b “Đinh tộc ngọc phả (phần bốn)”. Đinh Xuân Vinh. Truy cập 16 tháng 11 năm 2010. ^ Nhị Khê Nguyễn tộc thế phả chép là Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần. Gia phả của nhà Lưu Nhân Chú ghi rằng chính cha Lưu Nhân Chú là Lưu Trung, anh rể Lưu Nhân Chú là Phạm Cuống và Lưu Nhân Chú mới là người nghĩ và thi hành kế này ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 114 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 30 và Lê Quý Đôn 2007, tr. 66 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 64 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Ức Trai thi tập tự của Trần Khắc Kiệm ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 64 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 47-48 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 60 ^ Trong Băng Hồ di sự lục do Nguyễn Trãi viết vào tháng 11 âm lịch năm 1429 thì chức tước đầy đủ của ông là Tuyên phong Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ (sảnh) Hữu Gián nghị Đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, ban cho kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, cho quốc tính, Lê Trãi ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 89 ^ a b c Lê Quý Đôn 2007, tr. 231-237 ^ a b c Trần Huy Liệu 1966, tr. 24 - 25 ^ a b c d Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 94-137 ^ Nguyễn Lương Bích 1973, tr. 533 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 193 ^ a b Trần Huy Liệu 1966, tr. 26 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 78 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 81 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 104 ghi rằng vua không chấp nhận đề nghị này của các quan đại thần. Tuy vậy, trong Ức Trai di tập tự của Trần Khắc Kiệm ghi chức quan của Nguyễn Trãi có chép là ông hầu giảng toà Kinh Diên và cầm đầu Ngũ kinh Bác sĩ ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 211. Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam cho rằng sách Dư địa chí nằm trong một bộ sách có nhan đề Quốc thư bảo huấn và phỏng đoán rằng đây có thể là một bộ sử lớn, bách khoa thư hoặc tùng thư ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 115 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 125 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 87 ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 103 ^ a b c Trần Huy Liệu 1966, tr. 29 ^ a b Trần Huy Liệu 1966, tr. 30 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 204. Chức Đề cử Tư Phúc tự (trông coi chùa Côn Sơn) có lẽ được Lê Thái Tông ban cho Nguyễn Trãi vào khoảng mười năm thanh chức, , tức khoảng năm 1430 đến những năm 1440 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 50, dẫn lại từ Trần Khắc Kiệm, Ức Trai di tập tự. Trần Huy Liệu 1966, tr. 29 thì ghi hai đạo là Đông đạo và Bắc đạo ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 131 ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 246 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 45 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 128 ^ a b c d e “Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi”. Nguyễn Khắc Minh. ^ Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 189 ^ Lê Quý Đôn 2007, tr. 309 ^ a b c d “Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi”. Doãn Chính. ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 74 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 78 ^ a b “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”. Lương Minh Cừ - Nguyễn Thị Hương. ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 144 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 56 ^ a b “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi”. La Kim Liên. ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 164-173 ^ “Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hóa Việt Nam”. Trần Quốc Vượng. ^ Nguyễn Trãi 1976, tr. 99 ^ Nhiều tác giả 1963, tr. 385 ^ Trần Văn Giáp trong Ức Trai quân trung từ mệnh tập bổ biên, Tài liệu đánh máy, Thư viện Quốc gia Việt Nam phê phán người đem Lam Sơn thực lục gán ghép cho Nguyễn Trãi là thiếu thận trọng ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1969, tr. 5 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 159 ^ Nhiều tác giả 2007, tr. 17 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 62 ^ Nguyễn Hữu Sơn 2007, tr. 63 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 148 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 147-148 ^ Trần Huy Liệu 1966, tr. 5 ^ “Nguyễn Trãi (1380 - 1442)”. ^ “Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi (1380 - 1980)”. ^ a b “Đền Nguyễn Trãi”. [sửa] Thư mụcNhiều tác giả (2006), Lam Sơn thực lục, Bản dịch, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội . Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, 2, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội . Ngô Sĩ Liên (1968), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, 3, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội . Lê Quý Đôn (2007), Đại Việt thông sử, Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin . Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Hà Nội: NXB Văn hoá - Thông tin . Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Bản dịch, 4, Hà Nội: NXB Sử học . Quốc sử quán triều Nguyễn (1969), Đại Nam Nhất thống chí, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội . Nhiều tác giả (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi : Nhân kỷ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Hà Nội: NXB Khoa học . Trần Huy Liệu (1966), Nguyễn Trãi, Hà Nội: NXB Khoa học . Hoàng Xuân Hãn (1966), Những lời thề của Lê Lợi, Sài Gòn: Tập san Sử - Địa số 1 - 2 . Nguyễn Lương Bích (1967), Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ bao giờ ?, Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 98 . Đặng Nghiêm Vạn (1967), Tìm thấy gia phả dòng họ Lưu Nhân Chú, Hà Nội: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 105 . Trần Văn Giáp (1970), Ức Trai Quân trung từ mệnh tập bổ biên, Hà Nội: Tài liệu đánh máy . Nguyễn Lương Bích (1973), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Hà Nội: NXB Quân đội Nhân dân . Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Hồ Chí Minh: NXB Khoa học xã hội . Phan Huy Lê (1988), Khởi nghĩa Lam Sơn, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội . Đinh Công Nhiếp (2010), Đinh tộc ngọc phả (phần ba), Đinh Xuân Vinh, www.hodinhvietnam.com/content.php?183-dinhtocngocpha3. Truy cập 16 tháng 11 năm 2010 .. Đinh Công Nhiếp (2010), Đinh tộc ngọc phả (phần bốn), Đinh Xuân Vinh, www.hodinhvietnam.com/content.php?184-dinhtocngocpha4. Truy cập 16 tháng 11 năm 2010 .. Nguyễn Hữu Sơn (2007), Nguyễn Trãi - Về tác gia và tác phẩm, Hà Nội: NXB Giáo dục . Nhiều tác giả (2007), Bài tập Ngữ văn 10 tập hai (nâng cao), Hà Nội: NXB Giáo dục . Tìm hiểu phả hệ dòng họ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khắc Minh, www.vietnamgiapha.com/faq/?mnu=2&id=4&fid=1011 .. Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, Doãn Chính, diendankienthuc.net/diendan/triet-hoc-phuong-dong/20498-ve-tu-tuong-triet-hoc-cua-nguyen-trai.html .. Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, Lương Minh Cừ - Nguyễn Thị Hương, www.vientriethoc.com.vn/?vientriet=articles_deltails&id=441&cat=44&pcat= .. Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, Trần Quốc Vượng, diendankienthuc.net/diendan/van-hoa-viet/12897-nguyen-trai-trong-boi-canh-van-hoa-viet-nam.html . Nguyễn Trãi (1380 - 1442), 1962, www.vietstamp.net.vn/Product/1574/ .. Kỷ niệm 600 năm năm sinh Nguyễn Trãi (1380 - 1980), 1980, www.vietstamp.net.vn/Product/1697/ ..
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 8:33:38 GMT 9
CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRÃI I. VÀI NÉT VỀ DÒNG DÕI NGUYỄN TRÃI: - Về dòng họ nội của Nguyễn Trãi, đến nay, chưa biết rõ lắm. Gia phả họ Nguyễn ở làng Nhị Khê chỉ ghi chép từ đời Nguyễn Phi Khanh trở xuống. Có nhiều nguyên nhân ẩn giấu gốc tích của họ Nguyễn ở làng Nhị Khê nhưng nguyên nhân trực tiếp vẫn là vụ án Lệ Chi viên, vụ án chính trị thảm khốc giết chết toàn gia tộc Nguyễn Trãi. Theo quyển Văn chương Nguyễn Trãi (Bùi Văn Nguyên), ông nội của Nguyễn Trãi là Nguyễn Minh Du có 3 người con: Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư và Nguyễn Ứng Long. Nguyễn Sùng và Nguyễn Thư đều là võ quan dưới triều Trần Phế Ðế, sau được Hồ Quý Ly trọng dụng. Riêng Nguyễn Ứng Long (1336- 1408) lại gặp nhiều trắc trở trên đường công danh, sự nghiệp. Ông rất thông minh, ham học, nổi tiếng hay chữ, thi đỗ nhị giáp tiến sĩ đời Trần Duệ Tông (Năm Long Khánh thứ 3, 1374) nhưng không được nhà Trần tuyển dụng phải trở về quê làm nghề dạy học. Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Nguyễn Ứng Long mạnh dạn đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh ra phục vụ triều đình nhà Hồ, giữ chức Hàn lâm học sĩ kiêm Tư nghiệp quốc tử giám. Giặc Minh sang, nhà Hồ thất bại. Cả triều thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh đều bị bắt về Trung Quốc. Cuối đời, ông chết ở Yên Kinh (TQ ) - Ông ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Ðán. Ông là người thuộc dòng hoàng tộc (Cháu 4 đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải), tính tình điềm đạm, khẳng khái, có thành tích xuất sắc chống giặc Chiêm Thành dưới thời Trần Nghệ Tông nên được vua nhà Trần giao cho chức vụ Tư đồ, quyền ngang Tể tướng. Tuy nhiên, khi ông lên nắm quyền, cơ nghiệp nhà Trần đã suy vi. Chán nản thời thế, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn năm 1385 (Xương Phù thứ 9) và mất năm 1390. - Ông ngoại và cha là những người trực tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi sau này. II. CUỘC ĐỜI NGUYỄN TRÃI Sống trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động phức tạp, cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với từng bước đi của lịch sử. Có thhể chia cuộc đời ông thành 3 giai đoạn: 1. Nguyễn Trãi- thời chuẩn bị bước vào đời: Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, quê quán làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương sau dời về làng Ngọc Ổi (Nhị Khê) huyện Thường Tín tỉnh Hà Sơn Bình. Ông là con thứ của Nguyễn Phi Khanh (Có sách nói là con trưởng). Tròn 6 tuổi, mẹ mất, ông phải về Côn Sơn ở với ông ngoại. Năm 1390, quan Tư đồ cũng mất, NT theo cha trở về sống ở làng Nhị Khê. Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân. 2. Nguyễn Trãi- thời đánh giặc cứu nước: - Năm 1400 thi đỗ Thái học sinh triều Hồ - Năm 1407, giặc Minh sang xâm lược, Hồ Quý Ly thất bại, Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về tìm đường cứu nước nhưng bị giặc giam nơi thành Ðông Quan suốt mười năm dài. - Năm 1416, ông tìm đến cuộc khời nghĩa Lam Sơn, dâng cho Lê Lợi tác phẩm Bình Ngô sách. Từ đó, ông gắn bó với phong trào khởi nghĩa Lam Sơn, tham gia xây dựng đường lối quân sự, chính trị phù hợp và đảm đương những nhiệm vụ quan trọng như soạn thảo thư từ địch vận, tham mưu, vạch ra chiến lược chiến thuật cho nghĩa quân. - 1428, kháng chiến thành công, ông được Lê Lợi giao cho soạn bài cáo Bình Ngô nổi tiếng. 3. Nguyễn Trãi- thời hòa bình. - Ðược phong chức vị cao trong triều đình và trở thành đầu tàu gương mẫu trong công cuộc xây dựng đất nước -Tuy nhiên, tài năng và đức độ của ông cũng bắt đầu bị bọn quyền thần ganh ghét. Ðặc biệt, sau vụ Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn Trãi bị bắt giam một thời gian ngắn. Thời kỳ này, ông bắt đầu cay đắng nhận ra sự độc ác của miệng đời: Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng người quanh nữa nước non quanh (Bảo kính cảnh giới 9) - Sau đó, ông được tha nhưng không còn được tin dùng. - 1433, Lê Thái Tổ mất. Ông chán nản xin về ở ẩn ở Côn Sơn - Khi Lê Thái Tôn lớn lên, hiểu rõ Nguyễn Trãi, nhà vua đã cho vời ông trở lại làm quan, giữ chức Tả gián nghị đại phu. - Rất mừng rỡ, ông viết bài Biểu tạ ơn hết sức xúc động và lại hăng hái ra giúp nước, chỉnh đốn kỷ cương, đào tạo nhân tài. - Năm 1442, vụ án Lệ Chi viên xảy ra. Nguyễn Trãi bị can tội giết vua, cả dòng họ bị tru di tam tộc. - Sau này, khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã tiến hành minh oan, phục hồi chức tước và sai Trần Khắc Kiệm tìm lại toàn bộ trước tác của Nguyễn Trãi. 4. Nhận xét chung: - Cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng nghỉ- chiến đấu chống bạo lực xâm lược và chống gian tà - Tư tưởng nhân nghĩa là đỉnh cao chói sáng trong thơ ông. Quan điểm xem văn chương là vũ khí chiến đấu thể hiện rõ trí tuệ sáng suốt của một thiên tài và bản lĩnh của một chiến sĩ dũng cảm. - Cuộc đời Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm mạnh dạn đổi mới, sáng tạo. B. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC Tác phẩm của Nguyễn Trãi dự đoán là rất nhiều nhưng đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi viên. Hiện nay, chỉ còn lại một ít có thể kể tên sau: I. VỀ VĂN - Tác phẩm Bình Ngô đại cáo ghi trong Lam Sơn thực lục và Ðại Việt sử ký toàn thư. - Quân trung từ mệnh tập: Ðây là một tập văn chính luận thư từ địch vận (Có hơn 70 bức thư, trong đó đa số các bức thư gửi cho tướng tá nhà Minh, phần còn lại là những thư từ viết gửi cho quân ta. - Văn loại gồm chiếu biểu làm thay cho Lê Lợi - Băng Hồ di sự lục soạn năm 1428 - Văn bia Vĩnh Lăng soạn năm 1435 - Dư địa chí soạn năm 1435 II. VỀ THƠ - Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán - Quốc âm thi tập, gồm 254 bài thơ Nôm (ước đoán, đây là quyển thơ Nôm duy nhất còn sót lại sau thảm án Lệ Chi viên.
|
|