Post by Can Tho on May 23, 2009 6:09:26 GMT 9
Thay Lời Kết
Lịch Sử Còn Dài...
Bùi Diễm
(Source : Báo Hoa Lư)
LTS: Ðây là phần kết của cuốn sách dầy hơn 600 trang, "Gọng Kìm Lịch Sử", của cựu Ðại Sứ Bùi Diễm sẽ được phát hành trong nay mai bởi nhà xuất bản Phạm Quang Khai. Hoa Lư xin chân thành cảm ơn cựu Ðại Sứ Bùi Diễm, với một sự ưu ái đặc biệt, đã cho phép Hoa Lư đăng phần kết của cuốn sách sắp được phát hành này của ông. Hoa Lư cũng xin phép được giới thiệu với các bạn trẻ trên thế giới, những người còn nặng lòng và mong mỏi một Việt Nam tự do và phú cường, hãy đón đọc cuốn "Gọng Kìm Lịch Sử" được viết bởi chính tác giả là người trong cuộc, để chúng ta có một cái nhìn hiểu biết và chín chắn về những sự kiện lịch sử liên quan đến những thăng trầm của đất nước trong khoảng thời gian 1944 đến năm 1975.
Trong cuốn sách bằng Anh ngữ In The Jaws of History được viết từ năm 1985, tôi đã dùng chương 36 trên đây, chính yếu là để trả lời một số lập luận sai lầm của các nhóm thiên tả hay phản chiến trong dư luận Hoa Kỳ về cuộc chiến tại Việt Nam. Tôi xin nhắc lại bối cảnh đó ở đây, trước khi đi sâu hơn vào hoàn cảnh của Việt Nam, khi trang sử của thời 45-75 đã được giở qua.
Tiếng súng đã chấm dứt từ 1975, nhưng trong các cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam từ đầu thập niên 80 mà tôi có dịp tham dự, nhiều người, đặc biệt trong giới giảng dậy tại các Ðại Học Mỹ, vẫn tiếp tục duy trì và bào chữa cho lập trường của họ, mặc dầu nhiều chứng cớ cụ thể sau cuộc chiến đã chứng tỏ họ sai lầm. Vì danh dự chung của người Việt, tôi nghĩ rằng cần phải trả lời những luận điệu này, và đó là lý do thúc đẩy tôi viết cuốn In The Jaws of History. Chương 36 của cuốn đó đã một phần nào tóm lược quan điểm của tôi khi nhìn lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong ba thập niên, từ 1945 đến 1975.
Vì mục tiêu chủ yếu là nêu ra một số sự thực trong quá khứ, để trả lời nhiều lập luận sai lầm, cuốn sách bằng Anh ngữ thực ra thiếu phần nhận xét hay suy tư về một số vấn đề vẫn thường là mối ưu tư chung của mọi nguời trong chúng ta, mỗi khi nói đến tương lai của đất nước. Cuốn sách chỉ gồm có một số cảm nghĩ và trình bầy cái nhìn có giới hạn và rất sơ lược của tôi về những gì đã được nhìn thấy từ lúc mới lớn lên, và đặc biệt về chính sách của Hoa Kỳ trong thời kỳ can thiệp vào Việt Nam. Từ ngày chiến tranh chấm dứt cho tới nay đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian khá dài để cả một thế hệ người Việt ra đời. Trong khi đó, cục diện thế giới đã thay đổi và tại Việt Nam, tình hình cũng khác trước.
Trên bình diện quốc tế, sự sụp đổ của hầu hết các chế độ Cộng Sản ở Ðông Âu, và bất ngờ hơn nữa, sự tan rã của Liên Bang Xô Viết, thành trì của cả khối Cộng Sản Quốc Tế từ hơn 70 năm, đã thay đổi hoàn toàn cán cân lực lượng giữa hai khối Ðông Tây. Chiến tranh lạnh đã kết thúc, thế lưỡng cực đã tan biến, và còn lại chỉ có Hoa Kỳ, nay được xếp vào hạng siêu cường quốc về cả hai phương diện quân sự và kinh tế.
Ðồng thời với, và có thể là một phần động lực của những biến chuyển lịch sử trên đây, những tiến bộ về kỹ thuật điện tử từ hai thập niên trở lại đây, đã đưa một phần rất lớn nhân loại vào một thời đại thông tin nhanh chóng chưa từng thấy. Sự việc đó cũng đã khiến các chế độ độc tài không còn ngăn cấm được người dân trong nước đón nhận những tin tức hay trào lưu tư tưởng tiến bộ của thế giới bên ngoài như tự do, nhân quyền và dân chủ. Và cũng vì những tiến bộ này mà ngày nay hầu hết mọi vấn đề đều có tính cách toàn cầu, và không ai còn nói tới nền kinh tế của một nước (dầu lớn như Hoa Kỳ) hay một khối (như khối Liên Hiệp các nước Âu Châu), mà phải nói tới kinh tế toàn cầu.
Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của những thay đổi mọi mặt ở thế giới bên ngoài. Ðể sống còn, từ cuối thập niên 80, họ đã phải từ bỏ những chủ trương lỗi thời của quá khứ để ngả theo khuynh hướng kinh tế thị trường, mặc dầu đây mới chỉ là những bước nửa chừng, chưa dứt khoát vì vẫn sợ mất độc quyền chính trị đang có trong tay.
Vốn đã bi quan về tình hình đất nước vì biết rõ bản chất của chế độ Cộng Sản, và hiểu rõ việc xoay đổi lại thời cuộc chống lại chế độ độc tài chuyên chính này không phải là dễ sau khi họ đã chiếm miền Nam, tôi lại còn buồn hơn nữa vì những sự thật được phát giác về sau. Người dân không những bị nhồi sọ, kìm kẹp, một nguyên nhân chính khiến cho miền Bắc đã bị đoàn ngũ hóa và động viên cho cuộc chiến xâm lược miền Nam, họ còn phải sống rất cơ cực trong những năm chính chiến. Sau 1975, cuộc sống của toàn thể mọi nguời đã không được cải tiến, mà hàng trăm ngàn người miền Nam lại còn bị cầm tù, ngược đãi tàn tệ hay bị chế độ Cộng Sản cố tình hạ nhục trong các trại cải tạo. Tâm trạng đau buồn đó của tôi đã phần nào được ghi lại trong cuốn In The Jaws of History. Từ thời điểm đó đến nay, những đổi thay cũng cần được ghi nhận thêm, vì có thể báo hiệu cho nhiều chuyển động khác trong tương lai.
Trong những năm từ 1989 đến 1991, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thành trì của khối Cộng Sản Quốc Tế bắt đầu vỡ vụn: trước hết là các chế độ Cộng Sản ở Ðông Âu theo nhau sụp đổ, rồi đến lượt Liên Bang Xô Viết bị tan rã. Cuối năm 1991, tôi có dịp viếng thăm Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Ba Lan. Tìm hiểu về những lý do đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của các chế độ Cộng Sản ở những nước này, trong nhiều tuần lễ tôi tiếp xúc với nhiều giới khác nhau, nhất là với thế hệ các thanh niên đã sinh ra dưới chế độ Cộng Sản, do đó từ trước tới nay ít biết về thế giới bên ngoài, trong số có cả những sinh viên Việt Nam được Hà Nội gửi đi học ở ngoại quốc.
Qua những buổi tiếp xúc này, nhận xét đầu tiên của tôi là có lẽ trước đây tôi đã quá bi quan, nghĩ rằng những dân tộc đã bị Cộng Sản thống trị sẽ khó lòng thoát khỏi vòng kìm kẹp vì bị bưng bít, nhồi sọ với những hiểu biết sai trái và lại bị kiểm soát quá chặt chẽ, từ trong mỗi gia đình cho đến xóm làng, khu phố. Kinh nghiệm của chính lớp người trẻ này, theo như lời thuật lại của họ, cho tôi thấy rằng con người vẫn là con người. Nếu được thấy những chân trời khác vòm trời Cộng Sản, ước muốn của con người vẫn là tự do, vẫn là dân chủ. Dân chủ đến mức nào, trong điều kiện cụ thể ra sao thì chưa ai rõ, nhưng ước vọng tự do thì rõ rệt là một nhu cầu tự nhiên. Nhờ vào thông tin nhanh chóng của thời đại tín học, không một dân tộc nào có thể bị bưng bít như thời trước nữa. Ngoài ra, một khi đã tỉnh ngộ thì người dân hết sợ hãi, và công an, mật vụ có tổ chức chặt chẽ đến mấy chăng nữa thì cũng có thể bị tràn ngập và phải bó tay thúc thủ. Trong trường hợp "cách mạng nhung" như ở thủ đô Tiệp Khắc, mọi việc xẩy ra chỉ nội trong vài ngày, mặc dầu quân đội và công an của chế độ Cộng Sản Tiệp Khắc vẫn còn đó và ở các nước Cộng Sản Ðông Âu khác, người ta cũng thấy những diễn biến tương tự kéo sập đổ nhà cầm quyền.
Ðột biến lịch sử là chuyện không ai ngờ tới. Ai là người có thể đoán trước được, rằng chỉ trong vòng thời gian chưa tới hai năm, cả một khối những nước Cộng Sản Ðông Âu và Liên Xô lại sụp đổ? Trong lịch sử, người ta đã thấy nhiều biến động xẩy ra từ những chuyện không đâu. Tại Việt Nam cũng vậy, vì cái "nhân" của sự sụp đổ đã sẵn có, nếu có thêm được cái "duyên" thì chuyện bất ngờ rất có thể xẩy ra. Nhưng ngay cả trong trường hợp không có chuyện bất ngờ, thì chỉ nhìn vào những biến chuyển tự nhiên của con người từ thế hệ này qua thế hệ khác để thích ứng với thực tế khách quan của thế giới bên ngoài, chúng ta cũng có thể tin tưởng hơn vào tương lai của dân tộc. Dầu có muốn cưỡng lại, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng không thể cản nổi đà tiến hóa tự nhiên đó.
Thành thực mà nói, thì sau chuyến viếng thăm Ðông Âu và được nhìn tận mắt những gì đã xẩy ra ở những nước trong vùng ấy, những cảm nghĩ của riêng tôi có phần lạc quan hơn trước. Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, nhất là vào lúc hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi, trong khi đó thì hàng trăm ngàn người khác phải chịu cảnh lao tù, khổ nhục trong các trại cải tạo, quả tôi có trải qua một thời kỳ bi quan và ngờ vực. Nhưng lúc này, có lẽ bớt bị ám ảnh bởi quá khứ và hướng về tương lai nhiều hơn, ngoài ra lại còn thêm được nhiều bài học mới, nên tâm trạng tôi cũng thay đổi, nhìn thấy ánh sáng nhiều hơn là bóng tối và nghĩ rằng những thay đổi theo chiều hướng tốt đưa tới tự do và dân chủ ở Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
Sau khi thất trận ở miền Nam, nếu vì lý do thất trận mà người Việt quốc gia có thể nghi ngờ về chính nghĩa của mình, thì ngày nay nhờ vào những gì đang xẩy ra ở Việt Nam, và đã xẩy ra trên thế giới, chính nghĩa đó càng ngày càng sáng tỏ. Trong đời sống của một dân tộc, và đặt vào chiều dài lịch sử, thời gian vài ba chục năm thực ra chỉ là một khoảnh khắc. "Ðất có tuần, dân có vận", các cụ mình từ xưa đã dạy như vậy. Chỉ tiếc rằng, khi theo đuổi một chủ thuyết không tưởng, những người Cộng Sản đã đẩy cả dân tộc vào một cuộc chiến không cần thiết về nhiều phương diện, làm tiêu hao tiềm lực của nhiều thế hệ người Việt ở trên cả hai miền.
Ngoài ra, nếu có suy ngược về những mục tiêu đã khiến người Việt Nam tranh đấu trong cả thế kỷ nay, thì độc lập là một khát vọng chung của mọi nguời. Và giải pháp của người Cộng Sản cuối cùng cũng được coi như đã thành hình. Nhưng điều đó có là độc lập thật sự chăng, khi mà ngày nay nhiều kế sách hay dự án, dù là do Hà Nội thi hành, cũng nằm ngoài phạm vi quyết định của người Việt Nam hay của chính những người lãnh đạo ở Hà Nội? Thứ nữa, liệu có phải chỉ có người Cộng Sản mới đem lại độc lập cho quốc gia không? Sau Thế Chiến II, nhiều quốc gia trên thế giới từng bị thực dân cai trị đã giành lại được độc lập sớm hơn Việt Nam hàng chục năm mà cũng không phải theo đường lối Cộng Sản, và khi so sánh với các quốc gia đó thì tình trạng đói khổ và thua kém của Việt Nam đã chứng tỏ rằng dân tộc Việt Nam đã phải trả một giá quá đắt khi bị đẩy vào đường lối của những người Cộng Sản. Hơn nữa, và nói cho cùng thì hạnh phúc con người cũng là mục tiêu, và phải là mục tiêu tối hậu. Nền độc lập của Cộng Sản không đem lại hạnh phúc, vì người dân vẫn sống trong bần cùng đói khổ. Họ không những không có tự do mà còn bị áp bức nghiệt ngã hơn cả dưới thời ngoại thuộc. Nền độc lập đó chỉ có giá trị hình thức, mà nỗi khổ đau và sự lụn bại của dân tộc thì là một thực tế bi đát.
Trong mấy chục chương của cuốn sách này, tôi nghiệm thấy một điều chua xót. Ðó là người Việt quốc gia luôn luôn bị đặt vào những trường hợp éo le khó xử. Hợp tác với Cộng Sản thì không xong, ở với Cộng Sản cũng không được, mà tạm thỏa hiệp với Pháp thì khổ tâm và mang tiếng, đến khi nhờ cậy vào Hoa Kỳ thì cũng chẳng thành. Viết như vậy, tôi không có ý bào chữa cho lỗi lầm của những người đã từng lãnh đạo miền Nam. Nhưng dựa vào những lỗi lầm đó để nói rằng xã hội miền Nam thối nát và lên án tất cả những người sống ở miền Nam là tay sai cho ngoại bang, hay tham nhũng, thì là điều bất công và không đúng. Khi miền Nam thất trận thì những người ở vị trí càng cao càng có trách nhiệm nặng. Nhưng không phải chỉ có họ mới là người có trách nhiệm. Khi "quốc gia hưng vong" thì đến người "thất phu cũng hữu trách", cho nên chúng ta không nên đơn giản trút hết trách nhiệm cho cá nhân người này hay người khác. Trách móc hay công kích nặng nề bằng những lời lẽ quá đáng không mang lại lợi ích gì, mà chỉ làm giảm thiểu công lao của đại đa số những người miền Nam đã tuần tự và kiên nhẫn trong gần 30 năm, để xây dựng được một quốc gia có quy củ nền nếp không thua kém gì những nước đã từng ở vào cùng cảnh ngộ ngay sau Thế Chiến II, hay làm lu mờ những sự hy sinh anh dũng của hàng trăm ngàn chiến sĩ trong Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Trên thế giới, trong số các quân đội thua trận, có được bao nhiêu tướng tá hay binh nhì đã tuẫn tiết để khỏi bị rơi vào tay địch. Tôi nghĩ đến trường hợp của các tướng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, của Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, nhưng còn biết bao nhiêu trường hợp của những quân nhân không tên khác?
Ngay cả đối với Hoa Kỳ cũng vậy, chúng ta nên có thái độ bình tĩnh và công bằng hơn. Trong suốt thời gian can thiệp vào Việt Nam, các chính quyền kế tiếp của Hoa Kỳ đã có nhiều lỗi lầm. Ðây là những lỗi lầm tai hại cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam, và chính người Mỹ ngày nay cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, không nên vì những lỗi lầm đó mà kết luận rằng dân tộc Hoa Kỳ đã cố tình bắt tay với Cộng Sản, phản bội miền Nam Việt Nam. Thất bại của Hoa Kỳ nằm trong phần thực hành nhiều hơn là trong mục tiêu hay bản chất của chính sách can thiệp. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong chính sách Hoa Kỳ không phải chỉ có trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Ngay cả thời nay, trong rất nhiều trường hợp, chính sách Hoa Kỳ cũng đầy những mâu thuẫn, và hàng ngày theo dõi đời sống của "xã hội cởi mở" Hoa Kỳ, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Nhìn một cách khác, thì trong cái may cũng có cái rủi, và ngược lại... Trong quá khứ, miền Nam may mắn dược Hoa Kỳ, một nước giàu mạnh và có truyền thống tự do dân chủ, hỗ trợ cho cuộc chiến vì tự do của mình, nhưng điều không may là lại gặp phải một đồng minh quá lớn, thiếu tinh tế. Sau khi chủ quan ôm lấy mọi việc để giải quyết theo phương cách của mình, và thấy làm không xong, đồng minh đó chán nản bỏ cuộc. Công bằng mà nói, nếu không kể đến những ảnh hưởng xấu của sự can thiệp, kể cả tính chất quá đáng của một nền văn minh vật chất không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, thì trong hơn hai thập niên, mức sống của người dân miền Nam cũng phần nào được cải thiện nhờ nguyên tắc tự do kinh tế, và cả những khoản viện trợ của Hoa Kỳ khi chiến cuộc lan rộng và gây cản trở cho việc sản xuất. Chính không khí sinh hoạt cởi mở và thoải mái của miền Nam trong hơn 20 năm tự do đó đã khiến miền Nam lúc này đang là đầu máy kinh tế tạo ra nhiều đổi thay ở trong nước.
Dầu sao thì sự can thiệp của Hoa Kỳ phải được coi là một bài học cho dân tộc và các nhà cầm quyền Việt Nam về sau này... Tiếc thay người mình không mấy ai chịu khó nhìn vào những lỗi lầm của mình trước khi nhìn vào lầm lỗi của người. Ngoài ra, một số người lại có thêm một tật xấu khác. Khi nguyền rủa người Mỹ thì không hết lời, và bất kể sự thật hay công bằng, nhưng khi chạy theo người Mỹ thì cũng hết mình, không cần biết đến bản chất bất trắc của chính trị Hoa Kỳ ra sao. Hoa Kỳ là một siêu cường quốc giàu mạnh, có nhiều ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế, một xã hội cởi mở, có truyền thống dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Nếu nhờ vả được họ để nâng cao đời sống người dân và thực thi dân chủ thì không nên bỏ qua cơ hội. Nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ tính chất phức tạp và thường xuyên thay đổi của xã hội và chính trị Hoa Kỳ. Nên nhớ rằng kèm theo với bất cứ một sự trợ giúp nào cũng có những ràng buộc, vả lại không phải bất cứ thứ gì của Hoa Kỳ cũng là hoàn hảo tốt đẹp hay phù hợp với xã hội mình. Từ thể chế chính trị cho đến lối sống, Hoa Kỳ không nhất thiết đã là mẫu mực để người Việt Nam nhắm mắt bắt chước. Những bài học đó, giờ đây hẳn đã phải rõ ràng hơn cho mọi người trong chúng ta, sau khi cả triệu người đã có cơ hội sinh sống tại đây.
"Hết cơn bĩ cực, đến hồi thái lai". Từ đầu thập niên 40 đến nay, trong hơn nửa thế kỷ, Việt Nam đã phải chịu quá nhiều cơ cực, và khi bóng đêm đang trở thành đen đặc nhất, có lẽ trời cũng bắt đầu hừng sáng. Trong những năm gần đây, dầu cho nhà cầm quyền Cộng Sản buộc lòng phải "đổi mới", thì chính việc "đổi mới' đó cũng đưa đến nhiều đổi thay ngoài ý muốn của họ. Nói chung, người dân có đời sống dễ thở hơn trước, nên cũng có nhiều giải pháp ứng phó trước đây khó có thể mường tượng được. Nói một cách cụ thể hơn, người dân không còn sợ hãi chế độ như trước nữa, một khi họ trông thấy là những biện pháp giải tỏa nửa vời của chế độ đưa dẫn tới những bất công, họ chống đối để công khai bầy tỏ sự bất mãn. Những vụ biểu tình phản kháng như ở Thái Bình, Ðồng Nai trong thời gian gần đây chính là hậu quả tự nhiên của một xã hội đang chuyển mình.
Theo định nghĩa, đột biến là biến cố đột ngột xẩy ra ngoài sự tiên liệu của mọi người, như hiện tượng "cái xẩy nẩy cái ung" đã từng thấy trong lịch sử. Nhưng, ngoài biến cố bất ngờ đó, có một yếu tố bất khả kháng cũng đáng để chúng ta để ý. Nhà cầm quyền Cộng Sản sẽ khó có thể cưỡng lại khuynh hướng tự nhiên là phải nới lỏng sự kiểm soát người dân. Vì đã chót ngả theo kinh tế thị trường, chế độ chỉ có thể gặp hai ngả đường: hoặc là rơi vào khủng hoảng nếu thoái lui về tình trạng tập trung quản lý như trước, hoặc là phải tiếp tục việc đổi mới và thu hẹp dần phạm vi kiểm soát người dân. Trong trường hợp thứ nhất, khủng hoảng kinh tế hay xã hội đều dẫn tới khủng hoảng chính trị vượt khỏi khả năng chống đỡ của nhà cầm quyền. Trong trường hợp thứ hai thì khi chế độ thu hẹp dần phạm vi kiểm soát, sức năng động của xã hội và lòng khao khát tự do của con người sẽ mở rộng ảnh hưởng của người dân trên cả hai phương diện kinh tế và chính trị, với hậu quả tất nhiên là quyền lực sẽ tuột dần khỏi tay nhà cầm quyền. Tất cả chỉ là vấn đề thời gian, mà cũng chẳng cần tới sự xâm nhập từ bên ngoài của những "thế lực thù nghịch" hay một âm mưu "diễn biến hòa bình" nào đó như nhà cầm quyền vẫn ưa tố cáo.
Ðặt vấn đề của đất nước vào khung cảnh của những đổi thay tất định như vậy, vấn đề dân chủ mà nhiều người ở trong và ngoài nước vẫn khát khao trông đợi thực ra là vấn đề lâu dài. Dân chủ phải là kết quả của những đấu tranh và xây dựng liên tục, bền bỉ, và đòi hỏi sự kiên nhẫn lẫn tinh thần dung hợp của mọi người. Từ chỗ mong muốn và đòi hỏi đến chỗ thực thi dân chủ, người ta phải trải qua một chặng đường dài, và sẽ gặp nhiều chông gai trắc trở. Trước hết phải có tinh thần tương nhượng và thực tập dân chủ ngay cả với những người theo đuổi cùng mục đích chung trên những ngả đường khác nhau. Ngoài ra, mọi người cũng cần hiểu, như cựu Thủ Tướng Anh Quốc Churchill đã nhận định: "Dân chủ chỉ là một thể chế ít tệ hại nhất trong số vài ba thể chế mà nhân loại đã thử nghiệm" Dân chủ không phải là chế độ hoàn hảo, lý tưởng, mà chỉ có thể hình thành sau nhiều giai đoạn thử nghiệm để dung hợp với tình trạng cụ thể của từng xã hội.
Trong suốt giai đoạn thử thách đó, Việt Nam cần có sự cởi mở về tâm lý để chấp nhận những dị biệt của một thế giới đa dạng và một xã hội đa nguyên, đồng thồi cũng cần sự khai phóng kiến thức để tìm ra những phương pháp tốt đẹp nhất, hay nói một cách khiêm tốn hơn, ít tệ hại nhất, cho quốc gia và xã hội. Trong một thời gian quá lâu, người Việt Nam chỉ biết có đấu tranh, do đó dễ trở thành cực đoan, điều đó là một trở ngại lớn cho tinh thần dân chủ. "Tôi muốn có dân chủ, nhưng phải là dân chủ theo ý của tôi" là một phản ứng phá vỡ tinh thần cởi mở cần thiết cho dân chủ.
Về nhu cầu khai phóng trí tuệ, chúng ta cũng cần phải đồng ý với nhau rằng, muốn canh tân đất nước để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại vào thế kỷ tới, Việt Nam cần nhiều "chất xám". Ðào tạo chất xám cho xã hội phải là trọng tâm cố gắng của bất cứ nhà cầm quyền nào trong tương lai trước mắt. Do những biến cố đau lòng mà cũng là ngẫu nhiên của thời cuộc, một số thanh thiếu niên theo cha mẹ ra ngoại quốc tỵ nạn từ hơn hai chục năm trở lại đây, nay đã thành tài và có cơ hội thực tập cũng như trưởng thành trong những xã hội tân tiến. Ðó là chất xám quý báu cho tương lai xứ sở, nếu thế hệ trẻ này muốn trở về và có điều kiện để phục vụ một cách hữu hiệu.
Về ý muốn trở về thì tôi thấy có, vì trong những năm gần đây, qua những cuộc tiếp xúc với các thế hệ trẻ ở hải ngoại, tôi nghiệm thấy một điều rất phổ biến là, ngoại trừ một thiểu số thiếu sự hướng dẫn của cha mẹ quá bận rộn vì công việc làm ăn sinh sống, đa số tuổi trẻ Việt Nam đều tự nhiên khao khát làm một cái gì tốt đẹp cho Việt Nam. Thiện chí muốn đóng góp vào việc xây dựng quê cha đất tổ là một nguồn vốn tinh thần đáng mừng và đáng cổ võ. Nhưng còn điều kiện để cho thế hệ trẻ đó có thể đóng góp một cách thực sự hữu ích thì điều đáng buồn, là cho tới nay nhà cầm quyền trong nước chưa bao giờ đánh giá được đúng mức nguồn vốn quý giá này của dân tộc đang sống ở hải ngoại. Họ chỉ nghĩ đến những biện pháp lợi dụng nhất thời, và còn có thái độ thiếu đạo đức, thiếu sáng suốt, đòi hỏi những những nguời Việt ở hải ngoại phải chui qua cánh cửa chính trị của chế độ Cộng Sản. Họ chưa thoát khỏi được lý luận "yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa" nên chưa thể nào thuyết phục được mọi người góp phần vào công cuộc tái thiết và phát triển xứ sở.
Tuy nhiên, nếu nghĩ xa một chút thì những vấn đề trên đây cũng chỉ là những trở ngại giai đoạn mà thôi... Sự đổi thay tại Việt Nam là một điều tất nhiên và sự đào thải của chế độ Cộng Sản cũng vậy. Trong khi đó thì vấn đề chấn hưng và canh tân đất nước vẫn còn nguyên vẹn ở đó. Qua những dịp đi nói chuyện tại các đại học Mỹ, tôi đã có nhiều cơ hội gặp gỡ lớp người trẻ Việt Nam và vui mừng nhận thấy họ rất quan tâm đến quê hương; họ thường mong muốn tìm hiểu về hiện tình đất nước, và điều có thể làm được mà cũng hết sức cần thiết, là giúp họ mở rộng phạm vi giao tiếp và cung cấp cho họ những tin tức chính xác và trung thực về hiện tình Việt Nam. Rồi sau đó, cùng với họ tổ chức những sinh hoạt nghiên cứu để sửa soạn cho tương lai. Hô hào chống cộng là một chuyện, nhưng sửa soạn cho tương lai lại là một chuyện cần hơn nữa, vì Việt Nam thời hậu Cộng Sản chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Khi những trang của cuốn sách này được khép lại, tôi cũng xin có lời tâm sự. Nếu trước đây hơn 20 năm, lúc phải bỏ nước ra đi tôi bi quan bao nhiêu thì giờ đây tôi lạc quan bấy nhiêu. Tôi tin tưởng rằng trong một tương lai không xa, cơ hội sẽ đến với những người muốn đóng góp để xây dựng một nước Việt Nam thật sự tiến bộ và dân chủ, một xã hội công bằng và thịnh vượng cho mọi người dân Việt. Trang sử của thời 1945-1975 đã khép lại, nhưng đồng thời cũng mở ra một trang sử mới, mà tôi thành thật tin rằng sẽ không còn đen tối u buồn như trang sử mà thế hệ tôi đã nhìn thấy...
Lịch Sử Còn Dài...
Bùi Diễm
(Source : Báo Hoa Lư)
LTS: Ðây là phần kết của cuốn sách dầy hơn 600 trang, "Gọng Kìm Lịch Sử", của cựu Ðại Sứ Bùi Diễm sẽ được phát hành trong nay mai bởi nhà xuất bản Phạm Quang Khai. Hoa Lư xin chân thành cảm ơn cựu Ðại Sứ Bùi Diễm, với một sự ưu ái đặc biệt, đã cho phép Hoa Lư đăng phần kết của cuốn sách sắp được phát hành này của ông. Hoa Lư cũng xin phép được giới thiệu với các bạn trẻ trên thế giới, những người còn nặng lòng và mong mỏi một Việt Nam tự do và phú cường, hãy đón đọc cuốn "Gọng Kìm Lịch Sử" được viết bởi chính tác giả là người trong cuộc, để chúng ta có một cái nhìn hiểu biết và chín chắn về những sự kiện lịch sử liên quan đến những thăng trầm của đất nước trong khoảng thời gian 1944 đến năm 1975.
Trong cuốn sách bằng Anh ngữ In The Jaws of History được viết từ năm 1985, tôi đã dùng chương 36 trên đây, chính yếu là để trả lời một số lập luận sai lầm của các nhóm thiên tả hay phản chiến trong dư luận Hoa Kỳ về cuộc chiến tại Việt Nam. Tôi xin nhắc lại bối cảnh đó ở đây, trước khi đi sâu hơn vào hoàn cảnh của Việt Nam, khi trang sử của thời 45-75 đã được giở qua.
Tiếng súng đã chấm dứt từ 1975, nhưng trong các cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam từ đầu thập niên 80 mà tôi có dịp tham dự, nhiều người, đặc biệt trong giới giảng dậy tại các Ðại Học Mỹ, vẫn tiếp tục duy trì và bào chữa cho lập trường của họ, mặc dầu nhiều chứng cớ cụ thể sau cuộc chiến đã chứng tỏ họ sai lầm. Vì danh dự chung của người Việt, tôi nghĩ rằng cần phải trả lời những luận điệu này, và đó là lý do thúc đẩy tôi viết cuốn In The Jaws of History. Chương 36 của cuốn đó đã một phần nào tóm lược quan điểm của tôi khi nhìn lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong ba thập niên, từ 1945 đến 1975.
Vì mục tiêu chủ yếu là nêu ra một số sự thực trong quá khứ, để trả lời nhiều lập luận sai lầm, cuốn sách bằng Anh ngữ thực ra thiếu phần nhận xét hay suy tư về một số vấn đề vẫn thường là mối ưu tư chung của mọi nguời trong chúng ta, mỗi khi nói đến tương lai của đất nước. Cuốn sách chỉ gồm có một số cảm nghĩ và trình bầy cái nhìn có giới hạn và rất sơ lược của tôi về những gì đã được nhìn thấy từ lúc mới lớn lên, và đặc biệt về chính sách của Hoa Kỳ trong thời kỳ can thiệp vào Việt Nam. Từ ngày chiến tranh chấm dứt cho tới nay đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian khá dài để cả một thế hệ người Việt ra đời. Trong khi đó, cục diện thế giới đã thay đổi và tại Việt Nam, tình hình cũng khác trước.
Trên bình diện quốc tế, sự sụp đổ của hầu hết các chế độ Cộng Sản ở Ðông Âu, và bất ngờ hơn nữa, sự tan rã của Liên Bang Xô Viết, thành trì của cả khối Cộng Sản Quốc Tế từ hơn 70 năm, đã thay đổi hoàn toàn cán cân lực lượng giữa hai khối Ðông Tây. Chiến tranh lạnh đã kết thúc, thế lưỡng cực đã tan biến, và còn lại chỉ có Hoa Kỳ, nay được xếp vào hạng siêu cường quốc về cả hai phương diện quân sự và kinh tế.
Ðồng thời với, và có thể là một phần động lực của những biến chuyển lịch sử trên đây, những tiến bộ về kỹ thuật điện tử từ hai thập niên trở lại đây, đã đưa một phần rất lớn nhân loại vào một thời đại thông tin nhanh chóng chưa từng thấy. Sự việc đó cũng đã khiến các chế độ độc tài không còn ngăn cấm được người dân trong nước đón nhận những tin tức hay trào lưu tư tưởng tiến bộ của thế giới bên ngoài như tự do, nhân quyền và dân chủ. Và cũng vì những tiến bộ này mà ngày nay hầu hết mọi vấn đề đều có tính cách toàn cầu, và không ai còn nói tới nền kinh tế của một nước (dầu lớn như Hoa Kỳ) hay một khối (như khối Liên Hiệp các nước Âu Châu), mà phải nói tới kinh tế toàn cầu.
Chế độ Cộng Sản ở Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của những thay đổi mọi mặt ở thế giới bên ngoài. Ðể sống còn, từ cuối thập niên 80, họ đã phải từ bỏ những chủ trương lỗi thời của quá khứ để ngả theo khuynh hướng kinh tế thị trường, mặc dầu đây mới chỉ là những bước nửa chừng, chưa dứt khoát vì vẫn sợ mất độc quyền chính trị đang có trong tay.
Vốn đã bi quan về tình hình đất nước vì biết rõ bản chất của chế độ Cộng Sản, và hiểu rõ việc xoay đổi lại thời cuộc chống lại chế độ độc tài chuyên chính này không phải là dễ sau khi họ đã chiếm miền Nam, tôi lại còn buồn hơn nữa vì những sự thật được phát giác về sau. Người dân không những bị nhồi sọ, kìm kẹp, một nguyên nhân chính khiến cho miền Bắc đã bị đoàn ngũ hóa và động viên cho cuộc chiến xâm lược miền Nam, họ còn phải sống rất cơ cực trong những năm chính chiến. Sau 1975, cuộc sống của toàn thể mọi nguời đã không được cải tiến, mà hàng trăm ngàn người miền Nam lại còn bị cầm tù, ngược đãi tàn tệ hay bị chế độ Cộng Sản cố tình hạ nhục trong các trại cải tạo. Tâm trạng đau buồn đó của tôi đã phần nào được ghi lại trong cuốn In The Jaws of History. Từ thời điểm đó đến nay, những đổi thay cũng cần được ghi nhận thêm, vì có thể báo hiệu cho nhiều chuyển động khác trong tương lai.
Trong những năm từ 1989 đến 1991, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thành trì của khối Cộng Sản Quốc Tế bắt đầu vỡ vụn: trước hết là các chế độ Cộng Sản ở Ðông Âu theo nhau sụp đổ, rồi đến lượt Liên Bang Xô Viết bị tan rã. Cuối năm 1991, tôi có dịp viếng thăm Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi và Ba Lan. Tìm hiểu về những lý do đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của các chế độ Cộng Sản ở những nước này, trong nhiều tuần lễ tôi tiếp xúc với nhiều giới khác nhau, nhất là với thế hệ các thanh niên đã sinh ra dưới chế độ Cộng Sản, do đó từ trước tới nay ít biết về thế giới bên ngoài, trong số có cả những sinh viên Việt Nam được Hà Nội gửi đi học ở ngoại quốc.
Qua những buổi tiếp xúc này, nhận xét đầu tiên của tôi là có lẽ trước đây tôi đã quá bi quan, nghĩ rằng những dân tộc đã bị Cộng Sản thống trị sẽ khó lòng thoát khỏi vòng kìm kẹp vì bị bưng bít, nhồi sọ với những hiểu biết sai trái và lại bị kiểm soát quá chặt chẽ, từ trong mỗi gia đình cho đến xóm làng, khu phố. Kinh nghiệm của chính lớp người trẻ này, theo như lời thuật lại của họ, cho tôi thấy rằng con người vẫn là con người. Nếu được thấy những chân trời khác vòm trời Cộng Sản, ước muốn của con người vẫn là tự do, vẫn là dân chủ. Dân chủ đến mức nào, trong điều kiện cụ thể ra sao thì chưa ai rõ, nhưng ước vọng tự do thì rõ rệt là một nhu cầu tự nhiên. Nhờ vào thông tin nhanh chóng của thời đại tín học, không một dân tộc nào có thể bị bưng bít như thời trước nữa. Ngoài ra, một khi đã tỉnh ngộ thì người dân hết sợ hãi, và công an, mật vụ có tổ chức chặt chẽ đến mấy chăng nữa thì cũng có thể bị tràn ngập và phải bó tay thúc thủ. Trong trường hợp "cách mạng nhung" như ở thủ đô Tiệp Khắc, mọi việc xẩy ra chỉ nội trong vài ngày, mặc dầu quân đội và công an của chế độ Cộng Sản Tiệp Khắc vẫn còn đó và ở các nước Cộng Sản Ðông Âu khác, người ta cũng thấy những diễn biến tương tự kéo sập đổ nhà cầm quyền.
Ðột biến lịch sử là chuyện không ai ngờ tới. Ai là người có thể đoán trước được, rằng chỉ trong vòng thời gian chưa tới hai năm, cả một khối những nước Cộng Sản Ðông Âu và Liên Xô lại sụp đổ? Trong lịch sử, người ta đã thấy nhiều biến động xẩy ra từ những chuyện không đâu. Tại Việt Nam cũng vậy, vì cái "nhân" của sự sụp đổ đã sẵn có, nếu có thêm được cái "duyên" thì chuyện bất ngờ rất có thể xẩy ra. Nhưng ngay cả trong trường hợp không có chuyện bất ngờ, thì chỉ nhìn vào những biến chuyển tự nhiên của con người từ thế hệ này qua thế hệ khác để thích ứng với thực tế khách quan của thế giới bên ngoài, chúng ta cũng có thể tin tưởng hơn vào tương lai của dân tộc. Dầu có muốn cưỡng lại, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng không thể cản nổi đà tiến hóa tự nhiên đó.
Thành thực mà nói, thì sau chuyến viếng thăm Ðông Âu và được nhìn tận mắt những gì đã xẩy ra ở những nước trong vùng ấy, những cảm nghĩ của riêng tôi có phần lạc quan hơn trước. Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, nhất là vào lúc hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi, trong khi đó thì hàng trăm ngàn người khác phải chịu cảnh lao tù, khổ nhục trong các trại cải tạo, quả tôi có trải qua một thời kỳ bi quan và ngờ vực. Nhưng lúc này, có lẽ bớt bị ám ảnh bởi quá khứ và hướng về tương lai nhiều hơn, ngoài ra lại còn thêm được nhiều bài học mới, nên tâm trạng tôi cũng thay đổi, nhìn thấy ánh sáng nhiều hơn là bóng tối và nghĩ rằng những thay đổi theo chiều hướng tốt đưa tới tự do và dân chủ ở Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
Sau khi thất trận ở miền Nam, nếu vì lý do thất trận mà người Việt quốc gia có thể nghi ngờ về chính nghĩa của mình, thì ngày nay nhờ vào những gì đang xẩy ra ở Việt Nam, và đã xẩy ra trên thế giới, chính nghĩa đó càng ngày càng sáng tỏ. Trong đời sống của một dân tộc, và đặt vào chiều dài lịch sử, thời gian vài ba chục năm thực ra chỉ là một khoảnh khắc. "Ðất có tuần, dân có vận", các cụ mình từ xưa đã dạy như vậy. Chỉ tiếc rằng, khi theo đuổi một chủ thuyết không tưởng, những người Cộng Sản đã đẩy cả dân tộc vào một cuộc chiến không cần thiết về nhiều phương diện, làm tiêu hao tiềm lực của nhiều thế hệ người Việt ở trên cả hai miền.
Ngoài ra, nếu có suy ngược về những mục tiêu đã khiến người Việt Nam tranh đấu trong cả thế kỷ nay, thì độc lập là một khát vọng chung của mọi nguời. Và giải pháp của người Cộng Sản cuối cùng cũng được coi như đã thành hình. Nhưng điều đó có là độc lập thật sự chăng, khi mà ngày nay nhiều kế sách hay dự án, dù là do Hà Nội thi hành, cũng nằm ngoài phạm vi quyết định của người Việt Nam hay của chính những người lãnh đạo ở Hà Nội? Thứ nữa, liệu có phải chỉ có người Cộng Sản mới đem lại độc lập cho quốc gia không? Sau Thế Chiến II, nhiều quốc gia trên thế giới từng bị thực dân cai trị đã giành lại được độc lập sớm hơn Việt Nam hàng chục năm mà cũng không phải theo đường lối Cộng Sản, và khi so sánh với các quốc gia đó thì tình trạng đói khổ và thua kém của Việt Nam đã chứng tỏ rằng dân tộc Việt Nam đã phải trả một giá quá đắt khi bị đẩy vào đường lối của những người Cộng Sản. Hơn nữa, và nói cho cùng thì hạnh phúc con người cũng là mục tiêu, và phải là mục tiêu tối hậu. Nền độc lập của Cộng Sản không đem lại hạnh phúc, vì người dân vẫn sống trong bần cùng đói khổ. Họ không những không có tự do mà còn bị áp bức nghiệt ngã hơn cả dưới thời ngoại thuộc. Nền độc lập đó chỉ có giá trị hình thức, mà nỗi khổ đau và sự lụn bại của dân tộc thì là một thực tế bi đát.
Trong mấy chục chương của cuốn sách này, tôi nghiệm thấy một điều chua xót. Ðó là người Việt quốc gia luôn luôn bị đặt vào những trường hợp éo le khó xử. Hợp tác với Cộng Sản thì không xong, ở với Cộng Sản cũng không được, mà tạm thỏa hiệp với Pháp thì khổ tâm và mang tiếng, đến khi nhờ cậy vào Hoa Kỳ thì cũng chẳng thành. Viết như vậy, tôi không có ý bào chữa cho lỗi lầm của những người đã từng lãnh đạo miền Nam. Nhưng dựa vào những lỗi lầm đó để nói rằng xã hội miền Nam thối nát và lên án tất cả những người sống ở miền Nam là tay sai cho ngoại bang, hay tham nhũng, thì là điều bất công và không đúng. Khi miền Nam thất trận thì những người ở vị trí càng cao càng có trách nhiệm nặng. Nhưng không phải chỉ có họ mới là người có trách nhiệm. Khi "quốc gia hưng vong" thì đến người "thất phu cũng hữu trách", cho nên chúng ta không nên đơn giản trút hết trách nhiệm cho cá nhân người này hay người khác. Trách móc hay công kích nặng nề bằng những lời lẽ quá đáng không mang lại lợi ích gì, mà chỉ làm giảm thiểu công lao của đại đa số những người miền Nam đã tuần tự và kiên nhẫn trong gần 30 năm, để xây dựng được một quốc gia có quy củ nền nếp không thua kém gì những nước đã từng ở vào cùng cảnh ngộ ngay sau Thế Chiến II, hay làm lu mờ những sự hy sinh anh dũng của hàng trăm ngàn chiến sĩ trong Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Trên thế giới, trong số các quân đội thua trận, có được bao nhiêu tướng tá hay binh nhì đã tuẫn tiết để khỏi bị rơi vào tay địch. Tôi nghĩ đến trường hợp của các tướng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, của Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện, nhưng còn biết bao nhiêu trường hợp của những quân nhân không tên khác?
Ngay cả đối với Hoa Kỳ cũng vậy, chúng ta nên có thái độ bình tĩnh và công bằng hơn. Trong suốt thời gian can thiệp vào Việt Nam, các chính quyền kế tiếp của Hoa Kỳ đã có nhiều lỗi lầm. Ðây là những lỗi lầm tai hại cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam, và chính người Mỹ ngày nay cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, không nên vì những lỗi lầm đó mà kết luận rằng dân tộc Hoa Kỳ đã cố tình bắt tay với Cộng Sản, phản bội miền Nam Việt Nam. Thất bại của Hoa Kỳ nằm trong phần thực hành nhiều hơn là trong mục tiêu hay bản chất của chính sách can thiệp. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong chính sách Hoa Kỳ không phải chỉ có trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Ngay cả thời nay, trong rất nhiều trường hợp, chính sách Hoa Kỳ cũng đầy những mâu thuẫn, và hàng ngày theo dõi đời sống của "xã hội cởi mở" Hoa Kỳ, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Nhìn một cách khác, thì trong cái may cũng có cái rủi, và ngược lại... Trong quá khứ, miền Nam may mắn dược Hoa Kỳ, một nước giàu mạnh và có truyền thống tự do dân chủ, hỗ trợ cho cuộc chiến vì tự do của mình, nhưng điều không may là lại gặp phải một đồng minh quá lớn, thiếu tinh tế. Sau khi chủ quan ôm lấy mọi việc để giải quyết theo phương cách của mình, và thấy làm không xong, đồng minh đó chán nản bỏ cuộc. Công bằng mà nói, nếu không kể đến những ảnh hưởng xấu của sự can thiệp, kể cả tính chất quá đáng của một nền văn minh vật chất không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, thì trong hơn hai thập niên, mức sống của người dân miền Nam cũng phần nào được cải thiện nhờ nguyên tắc tự do kinh tế, và cả những khoản viện trợ của Hoa Kỳ khi chiến cuộc lan rộng và gây cản trở cho việc sản xuất. Chính không khí sinh hoạt cởi mở và thoải mái của miền Nam trong hơn 20 năm tự do đó đã khiến miền Nam lúc này đang là đầu máy kinh tế tạo ra nhiều đổi thay ở trong nước.
Dầu sao thì sự can thiệp của Hoa Kỳ phải được coi là một bài học cho dân tộc và các nhà cầm quyền Việt Nam về sau này... Tiếc thay người mình không mấy ai chịu khó nhìn vào những lỗi lầm của mình trước khi nhìn vào lầm lỗi của người. Ngoài ra, một số người lại có thêm một tật xấu khác. Khi nguyền rủa người Mỹ thì không hết lời, và bất kể sự thật hay công bằng, nhưng khi chạy theo người Mỹ thì cũng hết mình, không cần biết đến bản chất bất trắc của chính trị Hoa Kỳ ra sao. Hoa Kỳ là một siêu cường quốc giàu mạnh, có nhiều ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế, một xã hội cởi mở, có truyền thống dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Nếu nhờ vả được họ để nâng cao đời sống người dân và thực thi dân chủ thì không nên bỏ qua cơ hội. Nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ tính chất phức tạp và thường xuyên thay đổi của xã hội và chính trị Hoa Kỳ. Nên nhớ rằng kèm theo với bất cứ một sự trợ giúp nào cũng có những ràng buộc, vả lại không phải bất cứ thứ gì của Hoa Kỳ cũng là hoàn hảo tốt đẹp hay phù hợp với xã hội mình. Từ thể chế chính trị cho đến lối sống, Hoa Kỳ không nhất thiết đã là mẫu mực để người Việt Nam nhắm mắt bắt chước. Những bài học đó, giờ đây hẳn đã phải rõ ràng hơn cho mọi người trong chúng ta, sau khi cả triệu người đã có cơ hội sinh sống tại đây.
"Hết cơn bĩ cực, đến hồi thái lai". Từ đầu thập niên 40 đến nay, trong hơn nửa thế kỷ, Việt Nam đã phải chịu quá nhiều cơ cực, và khi bóng đêm đang trở thành đen đặc nhất, có lẽ trời cũng bắt đầu hừng sáng. Trong những năm gần đây, dầu cho nhà cầm quyền Cộng Sản buộc lòng phải "đổi mới", thì chính việc "đổi mới' đó cũng đưa đến nhiều đổi thay ngoài ý muốn của họ. Nói chung, người dân có đời sống dễ thở hơn trước, nên cũng có nhiều giải pháp ứng phó trước đây khó có thể mường tượng được. Nói một cách cụ thể hơn, người dân không còn sợ hãi chế độ như trước nữa, một khi họ trông thấy là những biện pháp giải tỏa nửa vời của chế độ đưa dẫn tới những bất công, họ chống đối để công khai bầy tỏ sự bất mãn. Những vụ biểu tình phản kháng như ở Thái Bình, Ðồng Nai trong thời gian gần đây chính là hậu quả tự nhiên của một xã hội đang chuyển mình.
Theo định nghĩa, đột biến là biến cố đột ngột xẩy ra ngoài sự tiên liệu của mọi người, như hiện tượng "cái xẩy nẩy cái ung" đã từng thấy trong lịch sử. Nhưng, ngoài biến cố bất ngờ đó, có một yếu tố bất khả kháng cũng đáng để chúng ta để ý. Nhà cầm quyền Cộng Sản sẽ khó có thể cưỡng lại khuynh hướng tự nhiên là phải nới lỏng sự kiểm soát người dân. Vì đã chót ngả theo kinh tế thị trường, chế độ chỉ có thể gặp hai ngả đường: hoặc là rơi vào khủng hoảng nếu thoái lui về tình trạng tập trung quản lý như trước, hoặc là phải tiếp tục việc đổi mới và thu hẹp dần phạm vi kiểm soát người dân. Trong trường hợp thứ nhất, khủng hoảng kinh tế hay xã hội đều dẫn tới khủng hoảng chính trị vượt khỏi khả năng chống đỡ của nhà cầm quyền. Trong trường hợp thứ hai thì khi chế độ thu hẹp dần phạm vi kiểm soát, sức năng động của xã hội và lòng khao khát tự do của con người sẽ mở rộng ảnh hưởng của người dân trên cả hai phương diện kinh tế và chính trị, với hậu quả tất nhiên là quyền lực sẽ tuột dần khỏi tay nhà cầm quyền. Tất cả chỉ là vấn đề thời gian, mà cũng chẳng cần tới sự xâm nhập từ bên ngoài của những "thế lực thù nghịch" hay một âm mưu "diễn biến hòa bình" nào đó như nhà cầm quyền vẫn ưa tố cáo.
Ðặt vấn đề của đất nước vào khung cảnh của những đổi thay tất định như vậy, vấn đề dân chủ mà nhiều người ở trong và ngoài nước vẫn khát khao trông đợi thực ra là vấn đề lâu dài. Dân chủ phải là kết quả của những đấu tranh và xây dựng liên tục, bền bỉ, và đòi hỏi sự kiên nhẫn lẫn tinh thần dung hợp của mọi người. Từ chỗ mong muốn và đòi hỏi đến chỗ thực thi dân chủ, người ta phải trải qua một chặng đường dài, và sẽ gặp nhiều chông gai trắc trở. Trước hết phải có tinh thần tương nhượng và thực tập dân chủ ngay cả với những người theo đuổi cùng mục đích chung trên những ngả đường khác nhau. Ngoài ra, mọi người cũng cần hiểu, như cựu Thủ Tướng Anh Quốc Churchill đã nhận định: "Dân chủ chỉ là một thể chế ít tệ hại nhất trong số vài ba thể chế mà nhân loại đã thử nghiệm" Dân chủ không phải là chế độ hoàn hảo, lý tưởng, mà chỉ có thể hình thành sau nhiều giai đoạn thử nghiệm để dung hợp với tình trạng cụ thể của từng xã hội.
Trong suốt giai đoạn thử thách đó, Việt Nam cần có sự cởi mở về tâm lý để chấp nhận những dị biệt của một thế giới đa dạng và một xã hội đa nguyên, đồng thồi cũng cần sự khai phóng kiến thức để tìm ra những phương pháp tốt đẹp nhất, hay nói một cách khiêm tốn hơn, ít tệ hại nhất, cho quốc gia và xã hội. Trong một thời gian quá lâu, người Việt Nam chỉ biết có đấu tranh, do đó dễ trở thành cực đoan, điều đó là một trở ngại lớn cho tinh thần dân chủ. "Tôi muốn có dân chủ, nhưng phải là dân chủ theo ý của tôi" là một phản ứng phá vỡ tinh thần cởi mở cần thiết cho dân chủ.
Về nhu cầu khai phóng trí tuệ, chúng ta cũng cần phải đồng ý với nhau rằng, muốn canh tân đất nước để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại vào thế kỷ tới, Việt Nam cần nhiều "chất xám". Ðào tạo chất xám cho xã hội phải là trọng tâm cố gắng của bất cứ nhà cầm quyền nào trong tương lai trước mắt. Do những biến cố đau lòng mà cũng là ngẫu nhiên của thời cuộc, một số thanh thiếu niên theo cha mẹ ra ngoại quốc tỵ nạn từ hơn hai chục năm trở lại đây, nay đã thành tài và có cơ hội thực tập cũng như trưởng thành trong những xã hội tân tiến. Ðó là chất xám quý báu cho tương lai xứ sở, nếu thế hệ trẻ này muốn trở về và có điều kiện để phục vụ một cách hữu hiệu.
Về ý muốn trở về thì tôi thấy có, vì trong những năm gần đây, qua những cuộc tiếp xúc với các thế hệ trẻ ở hải ngoại, tôi nghiệm thấy một điều rất phổ biến là, ngoại trừ một thiểu số thiếu sự hướng dẫn của cha mẹ quá bận rộn vì công việc làm ăn sinh sống, đa số tuổi trẻ Việt Nam đều tự nhiên khao khát làm một cái gì tốt đẹp cho Việt Nam. Thiện chí muốn đóng góp vào việc xây dựng quê cha đất tổ là một nguồn vốn tinh thần đáng mừng và đáng cổ võ. Nhưng còn điều kiện để cho thế hệ trẻ đó có thể đóng góp một cách thực sự hữu ích thì điều đáng buồn, là cho tới nay nhà cầm quyền trong nước chưa bao giờ đánh giá được đúng mức nguồn vốn quý giá này của dân tộc đang sống ở hải ngoại. Họ chỉ nghĩ đến những biện pháp lợi dụng nhất thời, và còn có thái độ thiếu đạo đức, thiếu sáng suốt, đòi hỏi những những nguời Việt ở hải ngoại phải chui qua cánh cửa chính trị của chế độ Cộng Sản. Họ chưa thoát khỏi được lý luận "yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa" nên chưa thể nào thuyết phục được mọi người góp phần vào công cuộc tái thiết và phát triển xứ sở.
Tuy nhiên, nếu nghĩ xa một chút thì những vấn đề trên đây cũng chỉ là những trở ngại giai đoạn mà thôi... Sự đổi thay tại Việt Nam là một điều tất nhiên và sự đào thải của chế độ Cộng Sản cũng vậy. Trong khi đó thì vấn đề chấn hưng và canh tân đất nước vẫn còn nguyên vẹn ở đó. Qua những dịp đi nói chuyện tại các đại học Mỹ, tôi đã có nhiều cơ hội gặp gỡ lớp người trẻ Việt Nam và vui mừng nhận thấy họ rất quan tâm đến quê hương; họ thường mong muốn tìm hiểu về hiện tình đất nước, và điều có thể làm được mà cũng hết sức cần thiết, là giúp họ mở rộng phạm vi giao tiếp và cung cấp cho họ những tin tức chính xác và trung thực về hiện tình Việt Nam. Rồi sau đó, cùng với họ tổ chức những sinh hoạt nghiên cứu để sửa soạn cho tương lai. Hô hào chống cộng là một chuyện, nhưng sửa soạn cho tương lai lại là một chuyện cần hơn nữa, vì Việt Nam thời hậu Cộng Sản chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Khi những trang của cuốn sách này được khép lại, tôi cũng xin có lời tâm sự. Nếu trước đây hơn 20 năm, lúc phải bỏ nước ra đi tôi bi quan bao nhiêu thì giờ đây tôi lạc quan bấy nhiêu. Tôi tin tưởng rằng trong một tương lai không xa, cơ hội sẽ đến với những người muốn đóng góp để xây dựng một nước Việt Nam thật sự tiến bộ và dân chủ, một xã hội công bằng và thịnh vượng cho mọi người dân Việt. Trang sử của thời 1945-1975 đã khép lại, nhưng đồng thời cũng mở ra một trang sử mới, mà tôi thành thật tin rằng sẽ không còn đen tối u buồn như trang sử mà thế hệ tôi đã nhìn thấy...