|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:29:19 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
Ta hãy nghe ông Đôn kể lại chi tiết để biết rõ lòng dạ ông lúc đó:
"Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1955, Nguyễn Văn Vỹ hấp tấp mời ký giả đến tuyên bố rằng quân đội cũng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh Ngô Đình Diệm bị nhóm Nguyễn Bảo Toàn, Nhị Lang, Trình Minh Thế lấn quyền. Báo chí và đài phát thanh cũng loan tin này. Tôi phân vân lo lắng. Một bên là Bình Xuyên đang nổ súng, có Bảo Đại và Pháp đang che chở, một bên là Ngô Đình Diệm sắp bị khống chế, bây giờ quân đội lại tính đảo chánh. Sự lộn xộn này chắc chắn sẽ dẫn đến những tệ hại khôn lường cho quốc gia. Tôi điện thoại mời Lê Văn Tỵ lại cùng với Nguyễn Hữu Có và Dương Văn Đức. Đến nơi, Lê Văn tỵ hỏi:
_ Các anh đang làm gì đó?
Nguyễn Văn Vỹ trả lời:
_ Tôi đảo chánh.
_ Anh lấy gì để đảo chánh?
_ Quân đội.
Ông Tỵ lột sao của mình bỏ xuống bàn:
_ Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu! (trang 129).
Rồi tiếp theo, tác giả trình bày ý định của mình ở những trang sau:
" Tôi quyết định phải dẹp loạn Bình Xuyên. Tôi đã ra lịnh chiến đấu với quân Bình Xuyên từ mấy ngày nay. Tôi không thể tiếp tay bất kỳ ai lật đổ Ngô Đình Diệm, thay bằng tướng cướp Bảy Viễn để đoàn quân vô kỷ luật ấy lộng hành. Tôi quyết định chọn con đường tôi tính mấy ngày nay nên cùng với Lê Văn Tỵ tuyên bố ủng hộ Ngô Đình Diệm. Đài phát thanh loan đi lời tuyên bố của chúng tôi. Các anh em tướng tá đang thảo kế hoạch đảo chánh nghe, họ đang đợi tôi về để hỏi lại cho rõ ràng.
"Họp xong tôi trở về tư dinh Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi vô gặp các anh em đang ăn cơm trưa, nhiều người tức giận tôi nhưng tôi giải thích rằng nếu đảo chánh sẽ rối loạn thêm, nhất là tình thế đang sôi động với Bình Xuyên. Tôi ra đi, anh em giải tán. Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó bay qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.
“Tôi ra lịh tiểu đoàn Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của đại úy Lâm Quang Thơ xoay sang đi đánh Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y" (trang 130).
Người đọc phải công nhận đây là một hành động sáng suốt và hợp lý của đại tá Trần Văn Đôn lúc bấy giờ. Thử hỏi lúc đó, với tư cách làm tham mưu trưởng, chỉ cần một mình ông Đôn thôi ngả về phe đảo chánh Nguyễn Văn Vỹ thì tình hình sẽ biến chuyển trầm trọng đến mức độ nào? Có lợi cho ai? Tương lai miền Nam đi về đâu? Nguyễn Văn Vỹ nếu thành công thì sẽ làm được gì ích quốc lợi dân? Tương lai những người trẻ chúng tôi chẳng lẽ lại giao phó trong tay tên tướng bất tài này ư? Đâu có được! Tôi còn nhớ đêm 29.4.55, Bình Xuyên nổ súng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và khu Pétrus Ký, Thiếu Tướng Trình Minh Thế đã tổ chức buổi họp báo sáng hôm sau tại bản doanh ở đường Trương Minh Giảng (Eyriaud des Vergnes cũ) để minh xác lập trường ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Báo chí đã tường thuật và nhắc đến một câu chí lý của ông Thái Lân tức Nhị Lang, cố vấn chính trị kiêm phát ngôn viên của tướng Thế: "Cuộc gây hấn đêm qua chỉ có lợi cho cộng sản!"
Tuy nhiên muốn hiểu rành mạch căn nguyên của biến cố trọng đại này, tôi xin trích vài đoạn tường thuật khác của tác giả mà tôi không đồng ý (có lẽ vì tác giả không đi vào chi tiết hay không nắm vững tình hình dinh Độc Lập trước đó).
" Vào Dinh Độc Lập cùng với Lê Văn Tỵ, Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Vỹ, tôi đã thấy Nhị Lang, Trình Minh Thế và nhiều người khác đang họp. Tôi đoán họ đang họp để xác định việc ủng hộ Ngô Đình Diệm và truất quyền Bảo Đại. Chắc họ đã nghe biết tin Bảo Đại đưa Nguyễn Văn Vỹ nắm tổng tham mưu trưởng, gọi Ngô Đình Diệm qua Pháp...
" ... Trần Trung Dung vội vàng bước vô nói:
“ _ Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!
“ Lúc đó bên ngoài Nhị Lang chĩa súng vào Nguyễn Văn Vỹ và đang lột sao của Vỹ. Ngô Đình Diệm vội kéo Nguyễn Văn Vỹ vào phòng ngồi với chúng tôi. Ngô Đình Nhu ngưng họp đi ra đi vô can gián:
“ _ Thôi đừng nóng, mấy ông tướng đang họp bàn chuyện với cụ." (trang 125)
Giữa tình thế giằng co gây cấn này, ông Đôn sợ nguy hiểm đến tánh mạng mình, vì phỏng đoán nếu hành động phi thường của ông Nhị Lang thanh toán xong ông Vỹ thì cũng có thể quay qua uy hiếp luôn cả mình, nên ông Đôn bèn điện thoại kêu cứu Đỗ Cao Trí lúc đó đang chỉ huy tiểu đoàn Nhảy Dù phục ở Chợ Lớn chưa ra mặt ủng hộ ông Diệm công khai và đang còn lưng chừng, đem quân “bao vây” dinh Độc Lập để làm hậu thuẫn, bảo vệ an ninh cho cá nhân mình (?). Ông viết tiếp:
“ Ngô Đình Diệm bực mình vì khó xử, đòi bỏ ra ngoài ngủ với những người lính gác. Ngô Đình Nhu cũng tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi biết giờ phút đó, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đứng giữa, một bên thì tiêu biểu cho Ủy Ban Cách mạng, vừa được đại hội các đoàn thể bầu ra để ủng hộ mình, một bên là các tướng tá đang có quân đội trong tay. Chỉ vì hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà tình thế trở nên rối rắm." (trang 126)
Tôi không đồng ý với lối lập luận này của tác giả. Tôi cho là hành động phi thường, lanh trí quyết định chớp nhoáng của ông Nhị Lang “chỉa súng lột lon tướng Vỹ” hôm đó là rất hợp lý, hợp tình. Bởi bì nếu không có mũi colt 45 của Nhị Lang thì chắc là tướng Vỹ đã thành công áp đảo thủ tướng Diệm từ chức, đưa Bảy Viễn lên làm thủ tướng, thì lúc đó chắc là "tình thế" sẽ trở nên vô cùng hỗn độn, rối rắm bội phần hơn là ông Đôn tưởng! (kế hoạch của Bảo Đại, trang 124).
Tiếp theo tác giả viết:
“Quyết định truất phế Bảo Đại của Đại Hội không có sự hiện diện của Ngô Đình Diệm, lại thêm chuyện chĩa súng đòi bắn và lột lon Nguyễn Văn Vỹ ngay trong Dinh Độc Lập, rõ ràng là họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm.
"Việc anh em tướng tá chúng tôi tình cờ vào dinh giúp nhiều cho Ngô Đình Diệm trong việc lấy lại quyền hành. Khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ mới nghe lời Ngô Đình Diệm, hết còn hống hách." (trang 128).
" .... Chuyện không ngờ là Đại hội quyết định quá mạnh mẽ và ông Nhị Lang lại có hành động làm tổn thương đến tự ái của các tướng tá. Chính ông quyết định này và hành động chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay.
" Trước tình thế này, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bối rối phải can gián giàn xếp cho được lòng cả hai bên. Đến 11 giờ, họ – những nhân vật trọng yếu trong Liên Minh của Trình Minh Thế và của các giáo phái võ trang như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang. Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ, Nguyễn Thành Phương – mới đồng ý để chúng tôi ra về sau khi dùng cơm với họ." (trang 128).
Chính vì lập trường chưa được rõ rệt trong giờ phút đó nên ông Đôn đã bị Liên Minh hiểu lầm là về ohe tướng Vỹ, và cũng bị Liên Minh "tạm giữ" tại dinh cùng với số phận tướng Vỹ. Nhưng ông Đôn lý luận rằng "họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm", khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ hết còn hống hách" và ông Đôn còn cho rằng quyết định của Hội Đồng Nhân Dân Cách mạng mà ông Nhị Lang làm tổng thư ký, cùng việc "chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay" là sai lạc và không thực tế. Ông Đôn quên rằng lúc đó tướng Thế và tướng Phương cũng đã điều động mấy tiểu đoàn quân trực thuộc cơ hữu và bọc hậu phía sau dinh Độc Lập tại đường Trần Quý Cáp (Testard cũ) chăng? Chính sự cuơng quyết của ông Nhị Lang và của hai vị tướng này mới làm cho Đỗ Cao Trí dịu lại và tình thế bớt cang thẳng, khi Trí thấy ông Diệm đã có hậu thuẫn quân sự, gây đổ máu cũng không ích gì mà còn thiệt lấy thân. Kết quả là Đỗ Cao Trí sau đó được vinh thăng Trung Tá chỉ huy thực thụ liên đoàn Nhảy Dù có trung tá Nguyễn Chánh Thi phụ tá! Ngoài ra như trên đã nói, quyết định của Đại Hội là hợp lý và hành động hy hữu của ông Nhị Lang chính là hau yếu tố cần thiết để cứu ông Diệm ra khỏi cơn ngặt nghèo và nâng cao uy tín của ông Diệm đồng thời củng cố thêm quyền hành của ông. Thủ tướng Diệm sau đó nghiễm nhiên trở nên hợp pháp đại diện cho nhân dân miền nam vì lý do quyết định của Đại Hội Đồng (chứ không còn dính líu gì đến quyết định của Bảo Đại như lúc trước nữa; mà Đại Hội Đồng là ai? Chính là do toàn dân bầu ra trong một phiên họp khoáng tại Tòa Đô Chánh một ngày trước đó, để thay mặt nhân dân mà quyết định vận mệnh đất nước vậy). Ông Đông chắc không thấu rõ khía cạnh căn bản pháp lý đó mà chỉ đứng về “tự ái cá nhân” nên đã có những nhận xét hời hợt một chiều. Tôi còn nhớ những ngày Trưng Cầu Dân Ý 23.10.55, một ký giả Pháp của nhật báo JEO (Journal d' Extreme Orient – Viễn Đông Nhật Báo, xuất bản tại Sài Gòn) đã hỏi ông Diệm nghĩ gì về sắc lệnh của phế chế Bảo Đại, do Nguyễn Đệ đánh điện về cách chức – thủ tướng của ông đã do ông ta bổ nhiệm? Ông Diệm đã điềm nhiên trả lời: " Ca c' est du passé" (Điều đó thuộc về quá khứ). Nhiều người cho đó là một câu trả lời ý vị và tuyệt diệu!
Để chứng minh cho lời giải thích trên tôi muốn trích dẫn lại đây lời diễn dịch của chính người trong cuộc, “tác giả chủ động” cuộc chĩa súng kia. Đó là nhà văn, nhà cách mạng lão thành Nhị Lang đã mô tả tỉ mỉ sự việc diễn tiến trong pho lịch sử ký sự giá trị "Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế" (12):
" Khi tôi tới nơi vào khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi bắt gặp một số đông sĩ quan Quân Đội Quốc Gia ước chừng 50 người đang ngồi chật cả phòng khách ở từng dưới dinh Độc Lập. Trên lầu, chúng tôi lại thấy thiếu tướng Lê Văn Tỵ đang ngồi trong một phòng khách nhỏ với một tướng lĩnh khác mà tôi không biết tên. Thấy hơi lạ, tôi bèn nhờ đại úy tùy viên Tạ Thành Long kín đáo đi dò xét tình hình xem tại sao thủ tướng Diệm lại định tiếp kiến một lúc quá nhiều sĩ quan như vậy. Tạ Thành Long tìm hiểu được lý do, vội vàng hốt hoảng trở lại cho hay là Tướng Nguyễn Văn Vỹ (người cùng ngồi với tướng Tỵ) đã thừa lệnh Bảo Đại cướp đoạt quyền binh trong tay tướng Tỵ từ lúc chiều, và được tướng Tỵ cùng các sĩ quan kia hộ tống vào dinh Độc Lập để cướp đoạt nốt quyền lãnh đạo chính phủ trong tay thủ tướng Diệm! Như thế có nghĩa là số người này hoàn toàn đồng lõa với tướng Vỹ, kéo nhau vào đây tuy không gươm dao, nhưng rõ ràng là muốn lấy số đông gây áp lực bao vây thủ tướng Diệm như bao vây một con chim nhỏ để bắt buộc ông đằng nào cũng phải nhượng bộ, rời khỏi chính quyền. Cần nhắc lại rằng, Bảo Đại không những triệu thỉnh thủ tuớng Diệm sang Pháp, mà còn đòi cả tướng Lê Văn Tỵ cũng phải bỏ cả nhiệm vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại đặc phong cho tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Quốc Gia, một điều mà các tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ và Nguyễn Thành Phương đã công khai phản đối bằng một quyết nghị chung. Hành động như trên, quả thực Bảo Đại đã vượt ra ngoài phạm vi thể chế buổi đương thời. Vì một chế độ với Quốc Trưởng, với thủ tướng, thì chức tổng tư lệnh phải thuộc về tay Quốc Trưởng, còn người cầm đầu quân đội chỉ có thể là tổng tham mưu trưởng mà thôi. Gia chi dĩ, thủ tướng Ngô Đình Diệm khi lãnh đạo chính quyền với điều kiện “thừa lệnh Đức Quốc Trưởng” tức là mặc nhiên đã là người thay mặt quốc trưởng một cách hợp pháp, và mặc nhiên nắm quyền tổng tư lệnh tối cao. Vậy tại sao Bảo Đại còn phong chức tổng tư lệnh cho tướng Nguyễn Văn Vỹ nữa?
Phụng Hồng
(còn tiếp)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:38:13 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
Ta hãy nghe ông Đôn kể lại chi tiết để biết rõ lòng dạ ông lúc đó:
"Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1955, Nguyễn Văn Vỹ hấp tấp mời ký giả đến tuyên bố rằng quân đội cũng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh Ngô Đình Diệm bị nhóm Nguyễn Bảo Toàn, Nhị Lang, Trình Minh Thế lấn quyền. Báo chí và đài phát thanh cũng loan tin này. Tôi phân vân lo lắng. Một bên là Bình Xuyên đang nổ súng, có Bảo Đại và Pháp đang che chở, một bên là Ngô Đình Diệm sắp bị khống chế, bây giờ quân đội lại tính đảo chánh. Sự lộn xộn này chắc chắn sẽ dẫn đến những tệ hại khôn lường cho quốc gia. Tôi điện thoại mời Lê Văn Tỵ lại cùng với Nguyễn Hữu Có và Dương Văn Đức. Đến nơi, Lê Văn tỵ hỏi:
_ Các anh đang làm gì đó?
Nguyễn Văn Vỹ trả lời:
_ Tôi đảo chánh.
_ Anh lấy gì để đảo chánh?
_ Quân đội.
Ông Tỵ lột sao của mình bỏ xuống bàn:
_ Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu! (trang 129).
Rồi tiếp theo, tác giả trình bày ý định của mình ở những trang sau:
" Tôi quyết định phải dẹp loạn Bình Xuyên. Tôi đã ra lịnh chiến đấu với quân Bình Xuyên từ mấy ngày nay. Tôi không thể tiếp tay bất kỳ ai lật đổ Ngô Đình Diệm, thay bằng tướng cướp Bảy Viễn để đoàn quân vô kỷ luật ấy lộng hành. Tôi quyết định chọn con đường tôi tính mấy ngày nay nên cùng với Lê Văn Tỵ tuyên bố ủng hộ Ngô Đình Diệm. Đài phát thanh loan đi lời tuyên bố của chúng tôi. Các anh em tướng tá đang thảo kế hoạch đảo chánh nghe, họ đang đợi tôi về để hỏi lại cho rõ ràng.
"Họp xong tôi trở về tư dinh Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi vô gặp các anh em đang ăn cơm trưa, nhiều người tức giận tôi nhưng tôi giải thích rằng nếu đảo chánh sẽ rối loạn thêm, nhất là tình thế đang sôi động với Bình Xuyên. Tôi ra đi, anh em giải tán. Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó bay qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.
“Tôi ra lịh tiểu đoàn Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của đại úy Lâm Quang Thơ xoay sang đi đánh Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y" (trang 130).
Người đọc phải công nhận đây là một hành động sáng suốt và hợp lý của đại tá Trần Văn Đôn lúc bấy giờ. Thử hỏi lúc đó, với tư cách làm tham mưu trưởng, chỉ cần một mình ông Đôn thôi ngả về phe đảo chánh Nguyễn Văn Vỹ thì tình hình sẽ biến chuyển trầm trọng đến mức độ nào? Có lợi cho ai? Tương lai miền Nam đi về đâu? Nguyễn Văn Vỹ nếu thành công thì sẽ làm được gì ích quốc lợi dân? Tương lai những người trẻ chúng tôi chẳng lẽ lại giao phó trong tay tên tướng bất tài này ư? Đâu có được! Tôi còn nhớ đêm 29.4.55, Bình Xuyên nổ súng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và khu Pétrus Ký, Thiếu Tướng Trình Minh Thế đã tổ chức buổi họp báo sáng hôm sau tại bản doanh ở đường Trương Minh Giảng (Eyriaud des Vergnes cũ) để minh xác lập trường ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Báo chí đã tường thuật và nhắc đến một câu chí lý của ông Thái Lân tức Nhị Lang, cố vấn chính trị kiêm phát ngôn viên của tướng Thế: "Cuộc gây hấn đêm qua chỉ có lợi cho cộng sản!"
Tuy nhiên muốn hiểu rành mạch căn nguyên của biến cố trọng đại này, tôi xin trích vài đoạn tường thuật khác của tác giả mà tôi không đồng ý (có lẽ vì tác giả không đi vào chi tiết hay không nắm vững tình hình dinh Độc Lập trước đó).
" Vào Dinh Độc Lập cùng với Lê Văn Tỵ, Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Vỹ, tôi đã thấy Nhị Lang, Trình Minh Thế và nhiều người khác đang họp. Tôi đoán họ đang họp để xác định việc ủng hộ Ngô Đình Diệm và truất quyền Bảo Đại. Chắc họ đã nghe biết tin Bảo Đại đưa Nguyễn Văn Vỹ nắm tổng tham mưu trưởng, gọi Ngô Đình Diệm qua Pháp...
" ... Trần Trung Dung vội vàng bước vô nói:
“ _ Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!
“ Lúc đó bên ngoài Nhị Lang chĩa súng vào Nguyễn Văn Vỹ và đang lột sao của Vỹ. Ngô Đình Diệm vội kéo Nguyễn Văn Vỹ vào phòng ngồi với chúng tôi. Ngô Đình Nhu ngưng họp đi ra đi vô can gián:
“ _ Thôi đừng nóng, mấy ông tướng đang họp bàn chuyện với cụ." (trang 125)
Giữa tình thế giằng co gây cấn này, ông Đôn sợ nguy hiểm đến tánh mạng mình, vì phỏng đoán nếu hành động phi thường của ông Nhị Lang thanh toán xong ông Vỹ thì cũng có thể quay qua uy hiếp luôn cả mình, nên ông Đôn bèn điện thoại kêu cứu Đỗ Cao Trí lúc đó đang chỉ huy tiểu đoàn Nhảy Dù phục ở Chợ Lớn chưa ra mặt ủng hộ ông Diệm công khai và đang còn lưng chừng, đem quân “bao vây” dinh Độc Lập để làm hậu thuẫn, bảo vệ an ninh cho cá nhân mình (?). Ông viết tiếp:
“ Ngô Đình Diệm bực mình vì khó xử, đòi bỏ ra ngoài ngủ với những người lính gác. Ngô Đình Nhu cũng tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi biết giờ phút đó, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đứng giữa, một bên thì tiêu biểu cho Ủy Ban Cách mạng, vừa được đại hội các đoàn thể bầu ra để ủng hộ mình, một bên là các tướng tá đang có quân đội trong tay. Chỉ vì hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà tình thế trở nên rối rắm." (trang 126)
Tôi không đồng ý với lối lập luận này của tác giả. Tôi cho là hành động phi thường, lanh trí quyết định chớp nhoáng của ông Nhị Lang “chỉa súng lột lon tướng Vỹ” hôm đó là rất hợp lý, hợp tình. Bởi bì nếu không có mũi colt 45 của Nhị Lang thì chắc là tướng Vỹ đã thành công áp đảo thủ tướng Diệm từ chức, đưa Bảy Viễn lên làm thủ tướng, thì lúc đó chắc là "tình thế" sẽ trở nên vô cùng hỗn độn, rối rắm bội phần hơn là ông Đôn tưởng! (kế hoạch của Bảo Đại, trang 124).
Tiếp theo tác giả viết:
“Quyết định truất phế Bảo Đại của Đại Hội không có sự hiện diện của Ngô Đình Diệm, lại thêm chuyện chĩa súng đòi bắn và lột lon Nguyễn Văn Vỹ ngay trong Dinh Độc Lập, rõ ràng là họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm.
"Việc anh em tướng tá chúng tôi tình cờ vào dinh giúp nhiều cho Ngô Đình Diệm trong việc lấy lại quyền hành. Khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ mới nghe lời Ngô Đình Diệm, hết còn hống hách." (trang 128).
" .... Chuyện không ngờ là Đại hội quyết định quá mạnh mẽ và ông Nhị Lang lại có hành động làm tổn thương đến tự ái của các tướng tá. Chính ông quyết định này và hành động chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay.
" Trước tình thế này, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bối rối phải can gián giàn xếp cho được lòng cả hai bên. Đến 11 giờ, họ – những nhân vật trọng yếu trong Liên Minh của Trình Minh Thế và của các giáo phái võ trang như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang. Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ, Nguyễn Thành Phương – mới đồng ý để chúng tôi ra về sau khi dùng cơm với họ." (trang 128).
Chính vì lập trường chưa được rõ rệt trong giờ phút đó nên ông Đôn đã bị Liên Minh hiểu lầm là về ohe tướng Vỹ, và cũng bị Liên Minh "tạm giữ" tại dinh cùng với số phận tướng Vỹ. Nhưng ông Đôn lý luận rằng "họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm", khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ hết còn hống hách" và ông Đôn còn cho rằng quyết định của Hội Đồng Nhân Dân Cách mạng mà ông Nhị Lang làm tổng thư ký, cùng việc "chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay" là sai lạc và không thực tế. Ông Đôn quên rằng lúc đó tướng Thế và tướng Phương cũng đã điều động mấy tiểu đoàn quân trực thuộc cơ hữu và bọc hậu phía sau dinh Độc Lập tại đường Trần Quý Cáp (Testard cũ) chăng? Chính sự cuơng quyết của ông Nhị Lang và của hai vị tướng này mới làm cho Đỗ Cao Trí dịu lại và tình thế bớt cang thẳng, khi Trí thấy ông Diệm đã có hậu thuẫn quân sự, gây đổ máu cũng không ích gì mà còn thiệt lấy thân. Kết quả là Đỗ Cao Trí sau đó được vinh thăng Trung Tá chỉ huy thực thụ liên đoàn Nhảy Dù có trung tá Nguyễn Chánh Thi phụ tá! Ngoài ra như trên đã nói, quyết định của Đại Hội là hợp lý và hành động hy hữu của ông Nhị Lang chính là hau yếu tố cần thiết để cứu ông Diệm ra khỏi cơn ngặt nghèo và nâng cao uy tín của ông Diệm đồng thời củng cố thêm quyền hành của ông. Thủ tướng Diệm sau đó nghiễm nhiên trở nên hợp pháp đại diện cho nhân dân miền nam vì lý do quyết định của Đại Hội Đồng (chứ không còn dính líu gì đến quyết định của Bảo Đại như lúc trước nữa; mà Đại Hội Đồng là ai? Chính là do toàn dân bầu ra trong một phiên họp khoáng tại Tòa Đô Chánh một ngày trước đó, để thay mặt nhân dân mà quyết định vận mệnh đất nước vậy). Ông Đông chắc không thấu rõ khía cạnh căn bản pháp lý đó mà chỉ đứng về “tự ái cá nhân” nên đã có những nhận xét hời hợt một chiều. Tôi còn nhớ những ngày Trưng Cầu Dân Ý 23.10.55, một ký giả Pháp của nhật báo JEO (Journal d' Extreme Orient – Viễn Đông Nhật Báo, xuất bản tại Sài Gòn) đã hỏi ông Diệm nghĩ gì về sắc lệnh của phế chế Bảo Đại, do Nguyễn Đệ đánh điện về cách chức – thủ tướng của ông đã do ông ta bổ nhiệm? Ông Diệm đã điềm nhiên trả lời: " Ca c' est du passé" (Điều đó thuộc về quá khứ). Nhiều người cho đó là một câu trả lời ý vị và tuyệt diệu!
Để chứng minh cho lời giải thích trên tôi muốn trích dẫn lại đây lời diễn dịch của chính người trong cuộc, “tác giả chủ động” cuộc chĩa súng kia. Đó là nhà văn, nhà cách mạng lão thành Nhị Lang đã mô tả tỉ mỉ sự việc diễn tiến trong pho lịch sử ký sự giá trị "Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế" (12):
" Khi tôi tới nơi vào khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi bắt gặp một số đông sĩ quan Quân Đội Quốc Gia ước chừng 50 người đang ngồi chật cả phòng khách ở từng dưới dinh Độc Lập. Trên lầu, chúng tôi lại thấy thiếu tướng Lê Văn Tỵ đang ngồi trong một phòng khách nhỏ với một tướng lĩnh khác mà tôi không biết tên. Thấy hơi lạ, tôi bèn nhờ đại úy tùy viên Tạ Thành Long kín đáo đi dò xét tình hình xem tại sao thủ tướng Diệm lại định tiếp kiến một lúc quá nhiều sĩ quan như vậy. Tạ Thành Long tìm hiểu được lý do, vội vàng hốt hoảng trở lại cho hay là Tướng Nguyễn Văn Vỹ (người cùng ngồi với tướng Tỵ) đã thừa lệnh Bảo Đại cướp đoạt quyền binh trong tay tướng Tỵ từ lúc chiều, và được tướng Tỵ cùng các sĩ quan kia hộ tống vào dinh Độc Lập để cướp đoạt nốt quyền lãnh đạo chính phủ trong tay thủ tướng Diệm! Như thế có nghĩa là số người này hoàn toàn đồng lõa với tướng Vỹ, kéo nhau vào đây tuy không gươm dao, nhưng rõ ràng là muốn lấy số đông gây áp lực bao vây thủ tướng Diệm như bao vây một con chim nhỏ để bắt buộc ông đằng nào cũng phải nhượng bộ, rời khỏi chính quyền. Cần nhắc lại rằng, Bảo Đại không những triệu thỉnh thủ tuớng Diệm sang Pháp, mà còn đòi cả tướng Lê Văn Tỵ cũng phải bỏ cả nhiệm vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại đặc phong cho tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Quốc Gia, một điều mà các tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ và Nguyễn Thành Phương đã công khai phản đối bằng một quyết nghị chung. Hành động như trên, quả thực Bảo Đại đã vượt ra ngoài phạm vi thể chế buổi đương thời. Vì một chế độ với Quốc Trưởng, với thủ tướng, thì chức tổng tư lệnh phải thuộc về tay Quốc Trưởng, còn người cầm đầu quân đội chỉ có thể là tổng tham mưu trưởng mà thôi. Gia chi dĩ, thủ tướng Ngô Đình Diệm khi lãnh đạo chính quyền với điều kiện “thừa lệnh Đức Quốc Trưởng” tức là mặc nhiên đã là người thay mặt quốc trưởng một cách hợp pháp, và mặc nhiên nắm quyền tổng tư lệnh tối cao. Vậy tại sao Bảo Đại còn phong chức tổng tư lệnh cho tướng Nguyễn Văn Vỹ nữa?
Phụng Hồng
(còn tiếp)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:39:11 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
Ta hãy nghe ông Đôn kể lại chi tiết để biết rõ lòng dạ ông lúc đó:
"Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1955, Nguyễn Văn Vỹ hấp tấp mời ký giả đến tuyên bố rằng quân đội cũng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh Ngô Đình Diệm bị nhóm Nguyễn Bảo Toàn, Nhị Lang, Trình Minh Thế lấn quyền. Báo chí và đài phát thanh cũng loan tin này. Tôi phân vân lo lắng. Một bên là Bình Xuyên đang nổ súng, có Bảo Đại và Pháp đang che chở, một bên là Ngô Đình Diệm sắp bị khống chế, bây giờ quân đội lại tính đảo chánh. Sự lộn xộn này chắc chắn sẽ dẫn đến những tệ hại khôn lường cho quốc gia. Tôi điện thoại mời Lê Văn Tỵ lại cùng với Nguyễn Hữu Có và Dương Văn Đức. Đến nơi, Lê Văn tỵ hỏi:
_ Các anh đang làm gì đó?
Nguyễn Văn Vỹ trả lời:
_ Tôi đảo chánh.
_ Anh lấy gì để đảo chánh?
_ Quân đội.
Ông Tỵ lột sao của mình bỏ xuống bàn:
_ Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu! (trang 129).
Rồi tiếp theo, tác giả trình bày ý định của mình ở những trang sau:
" Tôi quyết định phải dẹp loạn Bình Xuyên. Tôi đã ra lịnh chiến đấu với quân Bình Xuyên từ mấy ngày nay. Tôi không thể tiếp tay bất kỳ ai lật đổ Ngô Đình Diệm, thay bằng tướng cướp Bảy Viễn để đoàn quân vô kỷ luật ấy lộng hành. Tôi quyết định chọn con đường tôi tính mấy ngày nay nên cùng với Lê Văn Tỵ tuyên bố ủng hộ Ngô Đình Diệm. Đài phát thanh loan đi lời tuyên bố của chúng tôi. Các anh em tướng tá đang thảo kế hoạch đảo chánh nghe, họ đang đợi tôi về để hỏi lại cho rõ ràng.
"Họp xong tôi trở về tư dinh Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi vô gặp các anh em đang ăn cơm trưa, nhiều người tức giận tôi nhưng tôi giải thích rằng nếu đảo chánh sẽ rối loạn thêm, nhất là tình thế đang sôi động với Bình Xuyên. Tôi ra đi, anh em giải tán. Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó bay qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.
“Tôi ra lịh tiểu đoàn Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của đại úy Lâm Quang Thơ xoay sang đi đánh Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y" (trang 130).
Người đọc phải công nhận đây là một hành động sáng suốt và hợp lý của đại tá Trần Văn Đôn lúc bấy giờ. Thử hỏi lúc đó, với tư cách làm tham mưu trưởng, chỉ cần một mình ông Đôn thôi ngả về phe đảo chánh Nguyễn Văn Vỹ thì tình hình sẽ biến chuyển trầm trọng đến mức độ nào? Có lợi cho ai? Tương lai miền Nam đi về đâu? Nguyễn Văn Vỹ nếu thành công thì sẽ làm được gì ích quốc lợi dân? Tương lai những người trẻ chúng tôi chẳng lẽ lại giao phó trong tay tên tướng bất tài này ư? Đâu có được! Tôi còn nhớ đêm 29.4.55, Bình Xuyên nổ súng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và khu Pétrus Ký, Thiếu Tướng Trình Minh Thế đã tổ chức buổi họp báo sáng hôm sau tại bản doanh ở đường Trương Minh Giảng (Eyriaud des Vergnes cũ) để minh xác lập trường ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Báo chí đã tường thuật và nhắc đến một câu chí lý của ông Thái Lân tức Nhị Lang, cố vấn chính trị kiêm phát ngôn viên của tướng Thế: "Cuộc gây hấn đêm qua chỉ có lợi cho cộng sản!"
Tuy nhiên muốn hiểu rành mạch căn nguyên của biến cố trọng đại này, tôi xin trích vài đoạn tường thuật khác của tác giả mà tôi không đồng ý (có lẽ vì tác giả không đi vào chi tiết hay không nắm vững tình hình dinh Độc Lập trước đó).
" Vào Dinh Độc Lập cùng với Lê Văn Tỵ, Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Vỹ, tôi đã thấy Nhị Lang, Trình Minh Thế và nhiều người khác đang họp. Tôi đoán họ đang họp để xác định việc ủng hộ Ngô Đình Diệm và truất quyền Bảo Đại. Chắc họ đã nghe biết tin Bảo Đại đưa Nguyễn Văn Vỹ nắm tổng tham mưu trưởng, gọi Ngô Đình Diệm qua Pháp...
" ... Trần Trung Dung vội vàng bước vô nói:
“ _ Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!
“ Lúc đó bên ngoài Nhị Lang chĩa súng vào Nguyễn Văn Vỹ và đang lột sao của Vỹ. Ngô Đình Diệm vội kéo Nguyễn Văn Vỹ vào phòng ngồi với chúng tôi. Ngô Đình Nhu ngưng họp đi ra đi vô can gián:
“ _ Thôi đừng nóng, mấy ông tướng đang họp bàn chuyện với cụ." (trang 125)
Giữa tình thế giằng co gây cấn này, ông Đôn sợ nguy hiểm đến tánh mạng mình, vì phỏng đoán nếu hành động phi thường của ông Nhị Lang thanh toán xong ông Vỹ thì cũng có thể quay qua uy hiếp luôn cả mình, nên ông Đôn bèn điện thoại kêu cứu Đỗ Cao Trí lúc đó đang chỉ huy tiểu đoàn Nhảy Dù phục ở Chợ Lớn chưa ra mặt ủng hộ ông Diệm công khai và đang còn lưng chừng, đem quân “bao vây” dinh Độc Lập để làm hậu thuẫn, bảo vệ an ninh cho cá nhân mình (?). Ông viết tiếp:
“ Ngô Đình Diệm bực mình vì khó xử, đòi bỏ ra ngoài ngủ với những người lính gác. Ngô Đình Nhu cũng tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi biết giờ phút đó, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đứng giữa, một bên thì tiêu biểu cho Ủy Ban Cách mạng, vừa được đại hội các đoàn thể bầu ra để ủng hộ mình, một bên là các tướng tá đang có quân đội trong tay. Chỉ vì hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà tình thế trở nên rối rắm." (trang 126)
Tôi không đồng ý với lối lập luận này của tác giả. Tôi cho là hành động phi thường, lanh trí quyết định chớp nhoáng của ông Nhị Lang “chỉa súng lột lon tướng Vỹ” hôm đó là rất hợp lý, hợp tình. Bởi bì nếu không có mũi colt 45 của Nhị Lang thì chắc là tướng Vỹ đã thành công áp đảo thủ tướng Diệm từ chức, đưa Bảy Viễn lên làm thủ tướng, thì lúc đó chắc là "tình thế" sẽ trở nên vô cùng hỗn độn, rối rắm bội phần hơn là ông Đôn tưởng! (kế hoạch của Bảo Đại, trang 124).
Tiếp theo tác giả viết:
“Quyết định truất phế Bảo Đại của Đại Hội không có sự hiện diện của Ngô Đình Diệm, lại thêm chuyện chĩa súng đòi bắn và lột lon Nguyễn Văn Vỹ ngay trong Dinh Độc Lập, rõ ràng là họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm.
"Việc anh em tướng tá chúng tôi tình cờ vào dinh giúp nhiều cho Ngô Đình Diệm trong việc lấy lại quyền hành. Khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ mới nghe lời Ngô Đình Diệm, hết còn hống hách." (trang 128).
" .... Chuyện không ngờ là Đại hội quyết định quá mạnh mẽ và ông Nhị Lang lại có hành động làm tổn thương đến tự ái của các tướng tá. Chính ông quyết định này và hành động chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay.
" Trước tình thế này, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bối rối phải can gián giàn xếp cho được lòng cả hai bên. Đến 11 giờ, họ – những nhân vật trọng yếu trong Liên Minh của Trình Minh Thế và của các giáo phái võ trang như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang. Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ, Nguyễn Thành Phương – mới đồng ý để chúng tôi ra về sau khi dùng cơm với họ." (trang 128).
Chính vì lập trường chưa được rõ rệt trong giờ phút đó nên ông Đôn đã bị Liên Minh hiểu lầm là về ohe tướng Vỹ, và cũng bị Liên Minh "tạm giữ" tại dinh cùng với số phận tướng Vỹ. Nhưng ông Đôn lý luận rằng "họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm", khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ hết còn hống hách" và ông Đôn còn cho rằng quyết định của Hội Đồng Nhân Dân Cách mạng mà ông Nhị Lang làm tổng thư ký, cùng việc "chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay" là sai lạc và không thực tế. Ông Đôn quên rằng lúc đó tướng Thế và tướng Phương cũng đã điều động mấy tiểu đoàn quân trực thuộc cơ hữu và bọc hậu phía sau dinh Độc Lập tại đường Trần Quý Cáp (Testard cũ) chăng? Chính sự cuơng quyết của ông Nhị Lang và của hai vị tướng này mới làm cho Đỗ Cao Trí dịu lại và tình thế bớt cang thẳng, khi Trí thấy ông Diệm đã có hậu thuẫn quân sự, gây đổ máu cũng không ích gì mà còn thiệt lấy thân. Kết quả là Đỗ Cao Trí sau đó được vinh thăng Trung Tá chỉ huy thực thụ liên đoàn Nhảy Dù có trung tá Nguyễn Chánh Thi phụ tá! Ngoài ra như trên đã nói, quyết định của Đại Hội là hợp lý và hành động hy hữu của ông Nhị Lang chính là hau yếu tố cần thiết để cứu ông Diệm ra khỏi cơn ngặt nghèo và nâng cao uy tín của ông Diệm đồng thời củng cố thêm quyền hành của ông. Thủ tướng Diệm sau đó nghiễm nhiên trở nên hợp pháp đại diện cho nhân dân miền nam vì lý do quyết định của Đại Hội Đồng (chứ không còn dính líu gì đến quyết định của Bảo Đại như lúc trước nữa; mà Đại Hội Đồng là ai? Chính là do toàn dân bầu ra trong một phiên họp khoáng tại Tòa Đô Chánh một ngày trước đó, để thay mặt nhân dân mà quyết định vận mệnh đất nước vậy). Ông Đông chắc không thấu rõ khía cạnh căn bản pháp lý đó mà chỉ đứng về “tự ái cá nhân” nên đã có những nhận xét hời hợt một chiều. Tôi còn nhớ những ngày Trưng Cầu Dân Ý 23.10.55, một ký giả Pháp của nhật báo JEO (Journal d' Extreme Orient – Viễn Đông Nhật Báo, xuất bản tại Sài Gòn) đã hỏi ông Diệm nghĩ gì về sắc lệnh của phế chế Bảo Đại, do Nguyễn Đệ đánh điện về cách chức – thủ tướng của ông đã do ông ta bổ nhiệm? Ông Diệm đã điềm nhiên trả lời: " Ca c' est du passé" (Điều đó thuộc về quá khứ). Nhiều người cho đó là một câu trả lời ý vị và tuyệt diệu!
Để chứng minh cho lời giải thích trên tôi muốn trích dẫn lại đây lời diễn dịch của chính người trong cuộc, “tác giả chủ động” cuộc chĩa súng kia. Đó là nhà văn, nhà cách mạng lão thành Nhị Lang đã mô tả tỉ mỉ sự việc diễn tiến trong pho lịch sử ký sự giá trị "Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế" (12):
" Khi tôi tới nơi vào khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi bắt gặp một số đông sĩ quan Quân Đội Quốc Gia ước chừng 50 người đang ngồi chật cả phòng khách ở từng dưới dinh Độc Lập. Trên lầu, chúng tôi lại thấy thiếu tướng Lê Văn Tỵ đang ngồi trong một phòng khách nhỏ với một tướng lĩnh khác mà tôi không biết tên. Thấy hơi lạ, tôi bèn nhờ đại úy tùy viên Tạ Thành Long kín đáo đi dò xét tình hình xem tại sao thủ tướng Diệm lại định tiếp kiến một lúc quá nhiều sĩ quan như vậy. Tạ Thành Long tìm hiểu được lý do, vội vàng hốt hoảng trở lại cho hay là Tướng Nguyễn Văn Vỹ (người cùng ngồi với tướng Tỵ) đã thừa lệnh Bảo Đại cướp đoạt quyền binh trong tay tướng Tỵ từ lúc chiều, và được tướng Tỵ cùng các sĩ quan kia hộ tống vào dinh Độc Lập để cướp đoạt nốt quyền lãnh đạo chính phủ trong tay thủ tướng Diệm! Như thế có nghĩa là số người này hoàn toàn đồng lõa với tướng Vỹ, kéo nhau vào đây tuy không gươm dao, nhưng rõ ràng là muốn lấy số đông gây áp lực bao vây thủ tướng Diệm như bao vây một con chim nhỏ để bắt buộc ông đằng nào cũng phải nhượng bộ, rời khỏi chính quyền. Cần nhắc lại rằng, Bảo Đại không những triệu thỉnh thủ tuớng Diệm sang Pháp, mà còn đòi cả tướng Lê Văn Tỵ cũng phải bỏ cả nhiệm vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại đặc phong cho tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Quốc Gia, một điều mà các tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ và Nguyễn Thành Phương đã công khai phản đối bằng một quyết nghị chung. Hành động như trên, quả thực Bảo Đại đã vượt ra ngoài phạm vi thể chế buổi đương thời. Vì một chế độ với Quốc Trưởng, với thủ tướng, thì chức tổng tư lệnh phải thuộc về tay Quốc Trưởng, còn người cầm đầu quân đội chỉ có thể là tổng tham mưu trưởng mà thôi. Gia chi dĩ, thủ tướng Ngô Đình Diệm khi lãnh đạo chính quyền với điều kiện “thừa lệnh Đức Quốc Trưởng” tức là mặc nhiên đã là người thay mặt quốc trưởng một cách hợp pháp, và mặc nhiên nắm quyền tổng tư lệnh tối cao. Vậy tại sao Bảo Đại còn phong chức tổng tư lệnh cho tướng Nguyễn Văn Vỹ nữa?
Phụng Hồng
(còn tiếp)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:43:19 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
“Khi nghe biết được biến cố trọng đại như trên, ai nấy bàng hoàng sửng sốt. Biết được người đeo lon thiếu tướng lạ mặt kia là Nguyễn Văn Vỹ, tôi liền nảy ra ý kiến bắt ông ta tại chỗ. Tôi chỉ kịp bàn qua vài câu với các tướng Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương, và cả hai ông đồng ý gật đầu cho tôi ra tay. Thế là tôi lặng lẽ tiến ra hành lang phía sau dinh Độc Lập, khi tới chỗ phòng khách nơi ông Vỹ đang ngồi tư lự, tôi nhanh nhẹn rút khẩu súng colt 45 trong chiếcc cặp ra, chĩa thẳng vào người tướng Vỹ, ra lệnh: "Giơ tay lên! Không tôi bắn"
tướng Tỵ trông thấy trước, vội đứng ngay lên và tướng Vỹ cũng hoảng hốt đứng lên theo, hai tau giơ cao khỏi đầu. Tướng Tỵ liền liều mạng chạy lại ôm lấy tôi, năn nỉ can thiệp để cứu Vỹ. Nhưng tôi sợ ông ta thừa cơ đoạt súng, nên đưa tay trái gạt ông ra và bảo: "Việc này không liên hệ tời thiếu tướng, xin đừng làm trở ngại!" Mặt khác tôi gọi Hồ Hán Sơn và bảo: "Hãy bốc hộ ga lông của ông này cho tôi!"
“Thủ tướng Diệm liền được báo tin. Oâng tất tả chạy vào ôm lấy tôi ngay trước mũi súng, và hổn hển nói: "Tôi xin ngài! Tôi xin ngài đừng làm đổ máu tại đây! Việc gì còn có tôi đây giải quyết, xin ngài đừng nóng giận!" ...
" ...Tướng Thế và tướng Phương dùng điện thoại liên lạc về hành dinh, ra lệnh cho các đơn vị võ trang sẵn sàng ứng chiến ..." (trang 306 – 307)
Tại sao thủ tướng Diệm lại đi che chở và bênh vực kẻ thù toan "đảo chánh" ông? Ta hãy nghe Nhị Lang giải thích tiếp:
"Chẳng qua thủ tướng thấy rõ ngay trong chốc lát rằng khi mà tướng Vỹ đã phải giơ tay đầu hàng trước mũi súng của tôi, thì ắt là thế lực và uy tín cá nhân của ông ta chẳng còn gi. Bộ hạ của ông ta không dám làm càn, bởi không muốn ông ta bị hạ sát ngay. Do đó mà thủ tướng tạm đóng vai quân tử đối với kẻ thù, để có thì giờ tìm một giải pháp êm đẹp, không gây đổ máu tại Dinh Độc Lập. Trong lúc ngồi điều đình tôi thấy thủ tướng luôn luôn ngả theo các ý kiến của tôi, và cứ trông đợi nơi tôi một thái độ ít cứng rắn hơn. Thủ tướng cũng không thể không nhận chân sự phản bội trắng trợn của tướng Lê Văn Tỵ ..." (trang 312 – 313)
Qua những dòng diễn tả trên, người đọc đã nhận chân được cung cách xử sự quân tử của TT Diệm, thái độ của kẻ sĩ thời loạn luôn luôn bao dung đối với cấp dư?i và hành động chẳng đặng đừng của ông Nhị Lang. Ta lại còn thấy rõ bộ mặt thật và lòng dạ bất chính của "Người anh cả trong QLVNCH" sau này.
Kết thúc chương này, Nhị Lang còn viết thêm về những khuôn mặt phản trắc thời đó như muốn hé mở cho ta thấy:
" ... Về phía quân đội, tôi nhận ra nhiều khuôn mặt đã theo tướng Vỹ chiều hôm qua, và tôi tự hỏi không biết họ sẽ "trung thành" với thủ tướng Diệm tới mức độ nào?" (trang 315)
Tôi cũng lại tự hỏi không biết lúc đó có mặt tướng Trần Văn Đôn không. Nếu có, không biết ông Nhị Lang có ám chỉ ông này không? Nếu quả thật đúng như vậy thì ta sẽ không lấy làm lạ gì sau này, ông Đôn lại đi móc nối bè lũ để tạo ra trang sử nhơ nhuốc này ngày 1.11.63! Ôi thế thái nhân tình là thế đó! Hỡi ôi!!!
Như trên đã nói, tôi hoàn toàn bác bỏ ý kiến và nhận định thiếu khách quan của ông Đôn cho rằng hành động chỉa súng của ông Nhị Lang là “quá khích”. Để vấn đề được minh bạch hơn, xin mời độc giả đọc tiếp lập trường của ông Nhị Lang lúc đó:
" ... Người Liên Minh chúng tôi sống 5 năm trong rừng núi, quen với cuộc đời đầu đội trời chân đạp đất, dù rằng gian nan chồng chất. Khi về thành, trông thấy bọn chân tay cũ của Pháp tung hoành, chúng tôi không tài nào chịu nỗi. Tới lúc nghe thấy tướng Vỹ toan làm chuyện đảo điên đất nước, lại thêm một tướng lĩnh quân đội quốc gia như Lê Văn Tỵ đầu hàng đối phương vô điều kiện, riêng lòng tôi thật lấy làm căm giận ... Thoáng trong giây phút, tôi tự hỏi mình, nếu Nguyễn Văn Vỹ đã cướp quyền trong tay Lê Văn Tỵ, và nếu lát nữa đây, Vỹ lại cướp luôn quyền lãnh đạo chính phủ của thủ tướng Diệm, thì số phận đoàn quân Liên Minh của chúng tôi sẽ như thế nào đây?
"Chúng tôi chỉ vì cảm phục thủ tướng Diệm, vì động lòng trước mối tình tri ngộ thắm thiết của ông, mà lìa bỏ chiến khu về thành. Nếu bây giờ thủ tướng Diệm bị đối phương áp đảo phải nhượng quyền, rồi hoặc chết, hoặc ra đi với hai bàn tay trắng, thì anh em chúng tôi quả thật là những kẻ khờ dại, bỗng không biến thành "đứa con côi", bị ném vào giữa một đám người xa lạ đầy mưu cơ xảo quyệt, sớm muộn chúng tôi cũng sẽ chết. Việc ấy không thể xảy ra được. Cần phải ra tay trước. Hơn nữa, xét theo hoàn cảnh buổi đương thời, đem một Ngô Đình Diệm ra để so sánh với những Bảo Đại đầy tội lỗi với nước non, thử hỏi tôi nên chọn ai đây? Ngô Đình Diệm không làm tay sai cho Pháp, chưa hề phạm tội với giống nòi. Người ấy đang có sứ mạng đương đầu với hiểm họa cộng sản, đang lo định cư hàng triệu đồng bào Bắc Việt thì có lẽ nào chúng tôi lại nỡ bỏ ông để xu phụ phe đối nghịch? Chúng tôi sở dĩ liều mình ủng hộ Ngô Đình Diệm là ủng hộ con người đạo đức ấy ...” (trang 316 – 317)
Rồi Nhị Lang kết luận với lời nhận xét như là một bản án kết tội những kẻ đã lật đổ ám hại “con người đạo đức ấy”; đã đặt quyền lợi cá nhân mình trên quyền lợi tối thượng của quốc gia dân tộc; đã cam tâm cúi đầu làm tay sai cho ngoại bang mà không có một đường lối, chính sách rõ rệt sau ngày đảo chánh:
" ... Thí dụ ông Diệm là người không xứng đáng khiến các anh chủ trương lật đổ, thì mai đây chẳng những các anh không tìm được “Minh quân thánh đế”, mà trái lại, các anh sẽ bắt gặp hàng chục "Ông Diệm" khác ghê gớm hơn! Nhưng tôi cam quyết với các anh, chỉ trong vòng 5 năm trở lại đây thôi, hoặc chậm nhất là 10 năm, ông Diệm sẽ lại được suy tôn là anh hùng dân tộc! ....
"Quả nhiên, tôi nào có nói sai? Chưa đầy 4 năm sau cái chết của ông Diệm, khi tên quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu – một đồng lõa đắc lực của bọn Dương Văn Minh trong cuộc hạ sát Diệm Nhu – chiếm ghế chủ tịch của cái gọi là "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia" thì ngay giữa lòng thủ đô Sài Gòn đã phát sinh phong trào "Phục hồi danh dự cho cố tổng thống Diệm". Khắp nơi tổ chức truy điệu, cầu hồn cho ông. Nhục nhã thay, chính bản thân tên Thiệu chẳng những không dám ra tay đàn áp phong trào ấy, mà hắn còn lén lút cho vợ hắn đi ngả sau, tham dự lễ cầu hồn ông Diệm, người mà hắn phản bội mấy năm trước." (trang 318)
Trích dẫn dài dòng những đoạn trên, cũng một "nhân chứng" thứ hai mà cũng là của một nhân vật quan trọng buổi đương thời đã xoay chuyển tình thế góp công không nhỏ vào sự tạo dựng nền Đệ Nhất Cộng Hòa, tôi muốn để độc giả có thêm tài liệu lịch sử đối chiếu trong một tinh thần khách quan nhận xét và phê phán lịch sử. Và tôi cũng muốn chứng minh rằng, ông Đôn đã lý luận sai lầm khi nghĩ rằng "mình vào dinh Độc Lập là để giúp đỡ ông Diệm l?y lại quyền hành" như ông đã viết. Và cũng không lần nữa, tôi muốn xác định lại quan điểm của người viết là cuộc đảo chánh 1.11.63 là một lỗi lầm to lớn đưa đến thảm họa lưu vong ngày nay để đánh đổ những luận điệu đề cao xuyên tạc từ trước đến nay.
Về cái chết lịch sử của cố trung tướng Trình Minh Thế, thay vì cần phải mô tả tỉ mỉ thì trái lại ông Đôn đã có ý kiến sơ sài, không đúng sự thật. Tác giả viết:
“Trong cuộc lễ, Ngô Đình Diệm trao cờ quốc gia cho Trình Minh Thế. Khi Trình Minh Thế cầm lá cờ không hiểu sao lá cờ bị rớt. Tôi lo ngại cho điềm bất thường. Chỉ mấy tháng sau, Trình Minh Thế tử trận trong lúc đánh Bình Xuyên trên cầu Bình Lợi.
"Sau cuộc qui thuận của Trình Minh Thế, Ngô Đình Nhu và lansdale không ngừng vận động các giáo phái võ trang trở về yểm trợ cho Ngô Đình Diệm ..." (trang 122)
“Gần hai tháng chiến đấu quân đội Quốc Gia mới đẩy lui được quân Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn Chợ Lớn. Lửa đạn làm thiệt hại một số nhà cửa của đồng bào và một số chiến binh quốc gia tử thương, trong đó có thiếu tướng Trình Minh Thế tử trận vào ngày 3 tháng 5 năm 1955.
"Có giả thuyết cho rằng Trình Minh Thế bị ám hại. Theo tôi dựa trên nhận xét và quan sát chiến trường, điều đó không đúng. Hỏa lực Bình Xuyên bên kia cầu bắn qua khá mạnh, quân đội bên này cầu không có ai tiến tới, Trình Minh Thế là tướng du kích chiến, không quen đánh xáp lá cà, xung phong tiến trước để quân lính tiến theo, nên bị bắn khi tiến lên cầu.
"Tôi tổ chức quốc táng cho Trình Minh Thế, đưa về Tây Ninh có Ngô Đình Nhu tiễn đưa linh c?u tới nơi mai táng." (trang 130 – 131)
Trước hết có một điểm sai lầm cần đính chính ngay là chiến trường lúc đó xảy ra tại cầu Tân Thuận trên đường đi xuống Nhà Bè về miệt Bình Đông và Bình Quới. Cầu này bắt ngang một nhánh sông của sông Sài Gòn chảy qua vùng Bình Xuyên cầu chữ Y là nơi Bảy Viễn làm sào huyệt. (chính nhờ con sông nhỏ này mà khi bị ta bao vây, Bảy Viễn đã thừa lúc đêm tối dùng thuyền nhỏ trốn về rừng Sát cùng với "Cố Vấn Chính Trị" như Trần Văn Ân, Hồ Hữu Thường ... Ngoại trừ Viễn trốn thoát qua Pháp nhờ tàu chiến Pháp vớt khi ra sông Lòng Tão, toàn bộ tham mưu của Viễn đã bị bắt sống trong chiến dịch "tảo thanh tiễu trừ phiến loạn" Hoàng Diệu do đại tá Dương Văn Minh làm tư lệnh. Sau chiến dịch, đại tá Minh được TT Diệm vinh thăng thiếu tuớng trong lễ quốc khánh 26.10.1955, sở dĩ có chiến dịch này là vì khi về Rừng Sát, tàn quân Bình Xuyên đã chận cướp của thuơng thuyền Nam Việt 7000 lít dầu khi tàu này di chuyển trên sông Lòng Tão ngang qua Rừng Sát trên đường tiếp liệu ra Đà Nẵng). Khi trốn được lên tàu Pháp, Viễn đã nói với một phóng viên (13) tờ Paris Match, người đã viết một bài xuyên tạc trước đó với tựa đề giựt gân “Sài Gòn attend d' heures en heures la chute du gouvernment Diệm" (Sài Gòn đợi chờ từng giờ sự sụp đổ của chính phủ Diệm): "Diệm peut me chercher dans 10 ans sans me trouver!" (Diệm có thể truy lùng tôi 10 năm mà không tìm thấy tôi). Và tướng Thế đã tử trận ngay bên này cầu, khi đang ló đầu lên pháo tháp của một chiếc thiết giáp để quan sát chiến trường trước khi cho lệnh tiến qua cầu. Còn cầu Bình Lợi là cầu bắc qua sông Đồng Nai trên hướng đi liên tỉnh lên Biên Hòa và Thủ Dầu Một (Bình Dương).
Điểm thứ hai mà tôi muốn đề cập tới là danh từ "qui thuận" mà tác giả dùng trong trường hợp này đã làm mất tính cách thiêng liêng và ý nghĩa của buổi quốc lễ ngày hôm đó. Thực vậy, hai chữ “qui thuận” có ý nghĩa đầu hàng vô điều kiện. Nó hàm chứa một ý nghĩa xấu xa, thất bại của kẻ thù trước sức mạnh của đối phương. Vì thế theo tôi ở đây ta nên dùng chữ "hợp tác" thì đúng hơn, như một số người đã dùng để tránh lầm lẫn đáng tiếc. Trong danh từ “hợp tác” đã bao hàm ý nghĩa bình đẳng, tương quan cán cân lực lượng, khi nhận nhau là bạn thì sẵn sàng đến với nhau để cùng nhau hợp lực hoàn thành đại sự, cùng nắm tay nhau khi hữu sự, v.v... Hơn thế nữa, hai chữ “hợp tác” đã nói lên tình bạn, đồng đội cùng đi một đường, cùng chung một chí hướng. Vậy theo tôi nghĩ, danh từ "hợp tác" xử dụng trong trường hợp này mới đúng nghĩa.
Nhưng điều này cũng dễ hiểu thôi, vì ông Đôn từng là dân Tây nên ít thông hiểu rành mạch về ý nghĩa sâu sắc của Việt ngữ nên đã dùng sai nghĩa, đúng như trong lời nói đầu ông đã cẩn thận thanh minh: "Tôi không phải là nhà văn chuyên nghiệp ... nên quyển sách này chắc chắn có những câu vụng về." (trang 12)
Tuy nhiên, nghĩ cho cùng dầu sao chăng nữa, sự hiện diện của hai chữ trên chắc chắn sẽ gây nhiều ngộ nhận đáng tiếc về sau, nhất là ở một cuốn "hồi ký lịch sử" do chính một ông tướng nguyên tổng tham mưu trưởng QLVNCH viết, nghĩa là người đã từng có trách nhiệm trực tiếp trong việc “quốc gia hóa” đoàn quân liên minh đã từng tạo lập nhiều chiến công hiển hách "bài phong, đả thực” một thời. Đó là một điều đáng buồn. Người chết khuất mặt đã đành. Nhưng còn người sống, nhất là ông Nhị Lang sẽ nghĩ gì khi đọc đến chương này của VNNC? Sở dĩ tôi muốn dài dòng ở đây là vì tôi muốn nhấn mạnh đến sự thận trọng trong lúc dùng danh từ thích hợp theo hoàn cảnh. Tôi còn nhớ hồi đó báo chí Sài Gòn và ngay cả Phủ Thủ Tướng chỉ dùng danh từ "cộng tác" thay vì "hợp tác" thôi, thế mà, ông Nhị Lang đã phải mất nhiều thì giờ đính chính. Ta hãy nghe ông Nhị Lang giải thích rõ ràng hơn:
"Tôi luôn luôn nhấn mạnh tới hai chữ "hợp tác" chứ không phải "cộng tác" như báo chí Sài Gòn ngộ nhận khi mới biết tin ... Sở dĩ chúng tôi tranh đấu tới cả một danh từ nhỏ nhặt, cũng vì chúng tôi không muốn cho đời ngộ nhận chúng tôi "chạy theo bã lợi danh" bỗng không mà bỏ cả cuộc đời độc lập thênh thang đi làm tay chân cho một thế lực khác. Mà chúng tôi không muốn chứng tỏ với thủ tướng Diệm, với ông cố vấn Nhu, rằng chúng tôi nhận lời mời trên cương vị một "đồng minh" ngang hàng trên tình hiểu biết và tương kính nhau. Có thế thì việc trở về của chúng tôi mới có ý nghĩa, mới giúp chính quyền tăng thêm uy thế! (14)
Rất tiếc một vấn đề tế nhị như thế mà tác giả đã không quan tâm đến.
Tiếp theo khi đề cập đến cái chết của tướng Trình Minh Thế, ông Đôn đã không tin là có ám hại. Hồi đó chính người viết cũng đã nghe rất nhiều giả thuyết, nhiều nguồn tin mâu thuẫn đối nghịch nhau chỉ muốn quan trọng hóa vấn đề mà đưa ra những lời bình luận vô căn cứ theo nhãn quan của mình. Tôi nghĩ rằng bây giờ chỉ có ông Nhị Lang, người đã từng chiến đấu bên cạnh tướng Trình Minh Thế trong bao nhiêu năm trời mới đủ thẩm quyền nói lên nguyên nhân cái chết đó. Oâng Nhị Lang đã lý luận rằng, một viên đạn Carbine duy nhất bắn vào lỗ tai bên phải xuyên thẳng qua mắt trái, tròng mắt bay mất. Oâng viết: " ... Cứ theo vị trí kể trên, thì viên đạn đi xéo từ bên phải ở phía sau, trúng ngay lỗ tai, mà người bắn ra viên đạn ấy không thể cách xa hơn 10 thước, và ắt đã núp dưới chân cầu, sau lưng mục tiêu. Tướng Thế chết gục tức khắc, không kịp thốt ra một lời nào ..." (15)
Như vậy, giả thuyết ông Đôn cho rằng tướng Thế tử trận là vì "hỏa lực Bình Xuyên quá mạnh" không còn đứng vững được nữa.
Những kẻ bắn ra viên đạn quái ác kia là ai? Ta hãy nghe tiếp Nhị Lang vén màn bí mật:
"Thủ phạm chính thi hành vụ ám sát kia là cựu tướng M.H.X người mà 8 năm sau đã thay mặt bọn Dương Văn Minh hạ sát cả hai anh em Diệm Nhu buổi sáng ngày mồng 2 tháng 1 năm 1963, trước rạp hát Kim Chung ở đường Hồng Thập Tự ...
" M.H.X. là một nhân viên tình báo nổi tiếng phục vụ cho quyền lợi Pháp ở Việt Nam. Tên này chưa hề ra trận mạc bao giờ, mà vẫn lên tới cấp tướng của Pháp đủ biết hắn ta được lòng tin cậy của Pháp như thế nào ... M.H.X sai bộ hạ phục sẵn dưới cầu, thừa lúc chiến sự đang sôi nổi hỗn loạn, bắn ngay một phát súng Carbine từ đằng sau tới, rồi biến vào nhà dân gần đó. (16)
Như vậy là trắng đen đã rõ như ban ngày. Người đọc lại rất lấy làm tiếc là hình như ông Đôn không muốn phanh phui sự thật (hay không dám?) cố tình che giấu tội lỗi sát nhân tày trời của một người bạn đồng đội (?). Với trách nhiệm của ông Đôn thời bấy giờ, ông không thể chối cãi rằng ông "không biết rõ" hay quy tội cho Bình Xuyên được.
(còn tiếp)
Phụng Hồng
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:44:32 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN Phụng Hồng (tiếp theo kỳ trước) Ngoài những sai lầm trầm trọng về lập luận kể trên, tác giả còn phạm vào những lỗi lầm khác mà tôi nghĩ là ông đã thiếu thận trọng kiểm chứng trong lúc viết một cách vội vã. Điều này đã làm giảm giá trị cuốn sách không ít. Trước hết người đọc đã bắt gặp lác đác đó đây những câu văn què (phrases boiteuses) sai văn phạm, thí dụ như: “Năm 1947, tôi đang làm việc Sở Nghiên Cứu Lịch Sư û(Service des Études Historiques của Pháp.” (trang 52). “Năm 1965 lúc chúng tôi bị bắt buộc phải ở Đà Lạt vì những vụ chỉnh lý, biểu dương lực lượng ở Sài Gòn.” (trang 390) ... chứng tỏ tác giả ít chú trọng đến cách hành văn cho đúng quy luật. Vài lỗi chính tả thông thường, nhầm lẫn giữa hai danh từ “đảo chánh” với “cách mạng”, những lời chú thích sơ sài, không sát với thực tế ở những bức hình lịch sử mà tác giả từng là một nhân chứng quan trọng, làm cho người đọc thêm ngỡ ngàng. Nhiều tên họ viết sai như: Phan Hòa Hiệp chứ không phải “Phạm” (trang 235), đại tá Tôn Thất Khiên, chứ không phải “Khiêm” (trang 386) (ông này sau ngày Sài Gòn thất thủ, bị kẹt lại và bị Việt cộng bắt đi cải tạo tại làng Cô Nhi Long Thành (15 NV), 2 tháng sau đó bị giải đi một nơi bí mật khác và bị kết án tù 30-4-1975 năm khổ sai ...), đại tá Hoàng Trọng Trị chứ không phải “Trí” (trang 456). Về vụ “chính biến Nhảy Dù” của đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh, ông Đôn đã có hai nhận định sai lầm: ông cho rằng, đại tá Trần Thiệm Khiêm đem quân về “dàn sau lưng quân Nhảy Dù. Thấy quân Nhảy Dù không còn hăng say, lưng chừng và mất tinh thần, đại tá Trần Thiện Khiêm liên lạc với Nguyễn Khánh, rồi ngã theo ông Diệm nổ súng vào quân đảo chánh.” (trang 154). Sự thật không đúng như vậy. Ngược dòng thời gian, ta nhớ lại rằng cuộc đảo chánh khởi sự lúc 3 giờ sáng ngày 11.11.60. Đến 10 giờ, TT Diệm kêu cứu trên đài đặc biệt của Phủ Tổng Thống qua tần số riêng cho các Tư Lệnh Quân Khu và nêu đích danh “đại tá Trần Thiện Khiêm đem quân về Phú Lâm chờ lệnh ...” (Đại tá Khiêm lúc này đang làm Tư Lệnh Quân Khu V Cần Thơ và được TT Diệm tin dùng). Trên đường tiến về thủ đô, khi đi ngang qua Cai Lậy để chờ qua phà Mỹ Thuận, đại tá Khiêm đã liên lạc với thiếu tá trung đoàn trưởng TR/Đ BB T.V.K., thuộc SĐ 2 BB (nguyên đồn trú tại Sơn Chà Đà Nẵng) đang hành quân tại đây. Do một sự tình cờ, máy truyền tin trung đoàn cũng bắt được mật lệnh này. Vì cũng là người Công Giáo, lại đảng viên Cần Lao, nên thiếu tá K. đã sẵn sàng. Do đó đã điều động ăn nhịp với cánh quân của Đ.tá Khiêm mà không gặp trở ngại nào. Lúc đó tôi là y sĩ trưởng của đơn vị nên đã theo sát cuộc hành quân chớp nhoáng này. Hơn nữa, Đ.tá Khiêm vốn ghét ông Thi nên thay vì “chờ lệnh ở Phú Lâm”, bèn đi thẳng lên Sài Gòn, phục tại vườn hoa Tao Đàn, sau lưng Dinh Độc Lập! Dọc đường lại “móc nối” thêm Chiến Đoàn Thiết Giáp của Thiếu Tá Lâm Quang Thơ ở Mỹ Tho. Oâng này lại quá hăng, tuyên bố một câu “xanh rờn” sẽ cho xe tăng mình nghiền nát “những thằng rằn ri” (ám chỉ quân phục Nhảy Dù). 6 giờ chiều hôm đó chúng tôi đã có mặt tại Sài Gòn, đóng rải rác dọc theo đường Hồng Thập Tự và Lê Thánh Tôn yểm trợ, cho Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ. Chính vì sự có mặt đông đảo và mau lẹ như thế mới làm cho quân Nhảy Dù “mất tinh thần”, vì trước đó họ đã được cho biết đem quân đi “cứu TT Diệm đang bị lâm nguy”. Sau này họ mới biết mình đã bị phỉnh gạt. Nói tóm lại mục đích chúng tôi về “cứu TT Diệm” đã được quyết định ngay từ đầu, trước khi xuất quân. Điểm thứ hai ông Đôn cho rằng đã bị hàm oan trong âm mưu đảo chánh này, vì sự có mặt của mình tại Sài Gòn thời gian đó là tình cờ về họp hàng tháng mà lại do Đại Tá Dương Ngọc Lắm, tư lệnh SĐ 2, thuộc quân đoàn I (nghĩa là thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của ông) báo cáo với TT Diệm để lập công. Điều này cũng không đúng vì lúc đó Đại tá Lắm đang tham dự với Trung Đoàn 4 để chống đảo chánh và đã được TT Diệm trọng thưởng rồi thì hà tất ông Lắm còn cần chi phải lập công nữa? Vả chăng khi đã biết vậy, và khi đã được “giải oan” rồi, tại sao ông Đôn không dùng quyền hạn Tư Lệnh của mình mà cách chức ông Lắm? (3 năm sau ông này mới rời chức TL/SĐ 2 để về làm Tổng Giám Đốc ĐPQ&NQ). Đây là một nghi vấn (trang 156). Trang 228, ông Đôn viết: “Lúc tối tôi có dặn thiếu tướng Lê văn Kim cho mời các Bộ trưởng Chánh Phủ đương kiêm vô trình diện tại bộ tổng tham mưu, nhưng gần sáng mà chưa thấy ông nào tới ...”. Thực ra lúc quá khuya hôm đó, đài phát thanh đã loan tin “đã có một số quý vị bộ truởng như Trần Đình Đệ, bộ trưởng hiện có mặt tại bộ TTM ... Bộ trưởng phụ tá quốc phòng và phủ TT Nguyễn Đình Thuần có mặt sớm nhất! Cũng cần nói thêm là trong suốt chương trình này (Tôi và cuộc Cách mạng 1963), tác giả không hề ghi lại nguyên văn những bài kêu gọi và tuyên bố của Hội Đồng Tướng Lãnh ngỏ cùng đồng bào, bài kêu gọi TT Diệm từ chức ... và nhất là bài cùng đồng bào toàn quốc nói rõ lý do tại sao quân đội đứng lên đảo chánh ... (Nếu tôi không lầm thì bản tuyên cáo đó có đoạn: “... Hôm nay là ngày toàn thể quân đội thể theo nguyên vọng của toàn dân đứng lên lật đổ chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm, ngày mà đồng bào mong đợi đã đến ...”) Đó là một thiếu sót vô cùng quan trọng để lưu lại cho hậu thế tìm hiểu thực chất cuộc đảo chánh. Muốn làm một nhân chứng vọ tư tất phải biết điều căn bản tối thiểu đó. Trang 230: “Vào lối 7giờ rưỡi trong lúc tôi gắn cấp bậc thiếu tướng cho đại tá Nguyễn Văn Thiệu ...” người đọc cần đánh dấu hỏi ở chỗ này, vì năm 1967, ông Tôn Thất Đính, chủ nhiệm nhật báo Công Luận đã viết một bài nhan đề “một bản án dành cho những người làm cách mạng” đã in một tấm hình chụp rõ ông đang gắn cấp bực thiếu tướng cho Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó đang làm chủ tịch UBLĐQG, hình như ông Đính muốn trưng tấm hình này ra là để trêu tức ông Thiệu, tại dinh Gia Long sáng ngày 2.11.63 (vì lúc đó ông này đang chỉ huy 1 cánh quân của SĐ 5 tiến chiếm Dinh Gia Long), với lkờ chú thích dưới tấm ảnh đề cao ông Đính xem ông Thiệu như đàn em! Về vụ “Biến Động Phật Giáo Miền Trung” năm 1966, trang 372, có nhiều chi tiết quan trọng mà tác giả không đề cập tới. Phải thành thật mà công nhận rằng lúc đó ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Quang đang lên cao, mà trung tướng Nguyễn Chánh Thi đương kiêm tư lệnh QĐ1?VICT lại là người có uy tín của phe Phật Giáo. Đó là cái gai của CIA cần phải nhổ đi (vì nghề của chàng là không bao giờ chịu có một cái gì uy tín quá mạnh ở một nước chư hầu cả, vì thế sẽ khó thao túng, khó bảo ...) vì thế đã bật đèn xanh cho Nguyễn Cao Kỳ làm. CIA lại biết rõ trước việc hạ bệ tướng Thi gây ra bất mãn trong đại đa số quân nhân Phật tử tại Huế và Đà Nẵng. Vì thế đó cũng là một cái cớ để đàn áp phong trào Phật Giáo luôn. Ông Kỳ đã tuyên bố một câu rất thất nhân tâm: “Chúng tôi coi như Đà Nẵng đã bị cộng sản chiếm và chúng tôi cần phải giải phóng!” trước một số đông ký giả trong và ngoài nước. Trong lúc đó Viện Hóa Đạo lại tổ chức biểu tình làm tình hình thêm căng thẳng. Binh sĩ không còn lo gì đến việc chống cộng nữa mà “vác súng vô chùa” tử thủ, oái oăm tuân lệnh “mấy thầy”! Câu nói của ông Kỳ như “lửa cháy thêm dầu”, rút cục chỉ có thằng cộng sản là trục lợi thôi. Vì một người dù ngu dốt đến đâu cũng không thể hiểu rằng vùng ICT đang có hai sư đoàn B (1&2), một liên đoàn BĐQ, cộng thêm những tiểu đoàn cơ động biệt lập khác trấn giữ lại bị cộng sản chiếm được. Đó là một điều hết sức vô lý là một ông chủ tịch UBHPTU thông minh không bao giờ nói. Khi thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra thế tướng Tôn Thất Đính làm tư lệnh trong một cuộc thị sát tại Mang Cá Huế (Bản doanh bộ TL/SĐ1), ông Cao đã suýt bị Th/U Nguyễn Đại Thức liều lĩnh bắn chết, nếu không có viên phi công trực thăng Mỹ cạnh đó bắn chết Th/U Thức trước (vì thế sau này SĐ1 đã lập “chiến đoàn Nguyễn Đại Thức gồm những quân nhân Phật tử ly khai). Kết quả là tiềm năng chống cộng không còn, một số đơn vị trưởng không phải là công giáo bị thuyên chuyển ra khỏi vùng. (chỉ có quân nhân công giáo là được ở lại mà thôi). Tướng Thi bị cách chức vĩnh viễn. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, TL/SĐ1 Huế bị giáng cách xuống Đại Tá. Một điều đau lòng nhất là sau đó trên đường ra hành quân diệt cộng tại Mỹ Chánh, thiếu tướng Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng TĐ4 TQLC là đơn vị đã hăng say đàn áp ở Đà Nẵng, đã bị một quân nhân Phật tử thuộc SĐ1 bắn chết (ông này đã có công trong cuộc tấn công dinh Gia Long ngày đảo chánh). Ở Đà Nẵng những ngày sau đó còn có tin đồn sẽ có những ban cảm tử hăm dọa giết trung tá TQLC Nguyễn Thành Yên, tư lệnh chiến đoàn B/TQLC kiêm quân trấn trưởng Đà Nẵng, người đã cho lệnh bắn nát các chùa tỉnh hội Đà Nẵng. Như vậy, đàn áp Phật Giáo trong vụ này có lợi gì? Người ta đã thắc mắc quá nhiều với câu hỏi: TT Diệm chỉ mới động đến lá cờ Phật Giáo mà phải trả 1 giá quá đắt. Ngược lại, tập đoàn Thiệu-Kỳ tấn công chùa là nơi thờ tự tôn nghiêm của đạo giáo, lại còn huênh hoang tuyên bố sẽ ‘cho xe tăng cày nát Viện Hóa Đạo, nếu mấy thầy cứ tiếp tục nhịn ăn” (! ) thì lại vẫn cứ phây phây tại chức, thế là nghĩa làm sao? Người đọc rất lấy làm buồn mà không thấy nhân chứng Trần Văn Đôn lên tiếng. Phải chăng đã có một bàn tay “lông lá” che chở? Trang 392: Cần bổ khuyết thêm: Tướng Thi thả Phạm Văn Huyên (Thú y sĩ) và Tôn Thất Dương Kỵ (nguyên giáo sư dạy quốc văn , Sử Địa tại trường trung học Khải Định Huế. Sau ngày 30-4-1975 ông này xuất hiện tại Sài Gòn với chức vụ Tổng Thư Ký Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình của tên Trịnh Đình Thảo) qua cầu Hiền Lương vì tội thân cộng. Trang 394: cần phải nói rõ Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội đã không đem lại kết quả khả quan cho đời sống binh sĩ, mặc dù họ phải đóng mỗi tháng 100 đồng khấu trừ vào tiền lương. Tham nhũng lem nhem, giấy tờ không phân minh, lại bị mất mát một số tiền khá lớn, đến nỗi Nguyễn Văn Thiệu phải ngưng chức đương kim tổng trưởng quốc phòng là Nguyễn Văn Vỹ (chủ tịch) để giao cho tướng Nguyễn Văn Hiếu đang làm tư lệnh phó QĐIII/V3CT điều tra. Ông này đã bị tướng Nguyễn Văn Toàn toa rập hạ sát tại văn phòng vì toan tố cáo đích danh tập đoàn tham nhũng này (chi tiết này do chính cụ Nguyễn Văn D, thân sinh tướng Hiếu tiết lộ với người viết khi vào trại cải tạo Long Thành). Trang 455: Người đọc đã không tài nào hiểu nỗi thái độ của ông Đôn lúc bấy giờ. Tình thế đã vô cùng khẩn trương, mấy sư đoàn thiện chiến đã tan rã, quân nhân các cấp lạc ngũ. Vùng 1 và 2 đã mất, với cương vị ông Đôn lúc bấy giờ, nếu ông là người ái quốc chân chính, người ta đang chờ đợi ở ông những hành động thiết thực hơn. Tại sao ông không xách đầu mấy thằng tư lệnh vùng như Ngô Quang Trưởng, sư đoàn trưởng như Nguyễn Đức Khánh, Nguyễn Duy Hinh, tham mưu trưởng như Hoàng Mạnh Đáng ... ra pháp trường mà xử tử có hơn không? Thay vì làm như vậy, ông lại giao cho tên tướng bất tài, bợ đỡ là Lê Nguyên Khang “điều tra tại sao vùng I thất thủ !!” Chao ôi giặc cộng đã tràn vào Ngã Ba Chú Ía rồi, mà còn điều tra nỗi gì? Ông Đôn đâu có làm nhân chứng cho vụ thương bệnh binh nổi loạn ngày 29.3.75 tại Tổng Y Viện Duy Tân, khi Ngô Quang Trưởng tối hôm trước còn hứa hẹn đủ điều với chỉ huy trưởng, nhưng khuya lại đã chuồn lẹ ra tàu Hải Quân rồi! Còn thằng tham mưu trưởng QĐI là Hoàng Mạnh Đáng thì bỏ máy điện thoại ra ngoài để khỏi bị quấy rầy. Đánh đá kiểu gì kỳ vậy? Chúng nó bây giờ còn đủ can đảm để ngắm chân dung đức Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ không? Than ôi! Tiền nhân xưa đã dạy: “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh!” Nhưng ngày nay giặc đến nhà thì tướng tá lo “điều tra” rồi tà tà ra tàu .... Hanthingy!!! Dĩ đào di thượng sách mà! Con cháu bà Trưng, bà Triệu như thế ư? Trang 468: Cần thêm một chi tiết khá hấp dẫn về chuyện quân cảnh TQLC Mỹ đã hộ tống Thiệu và Khiêm lên Tân Sơn Nhất để đáp phi cơ đặc biệt qua Đài Loan có mang theo 16 tấn vàng (bản tin đài BBC tối 25.4.75). Ba ngày trước đó vợ Thiệu và vợ Khiêm đã qua trước. Trang 474: có nhiều chi tiết ông Đôn thuật lại không đúng và không rõ về vụ “có ba ohi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa làm phản ... sau mới biết máy bay đó của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa còn lại ở Đà Nẵng ...” Thực ra có đến 6 chiếc Skyraider A37 của ta bỏ lại ở phi trường Phan Rang, do Nguyễn Thành Trung (phi công phản loạn dội bom Dinh Độc Lập sáng 9/4 rồi bay về Phan Rang lúc đó đã thất thủ. Trung được Việt cộng thăng đại úy nhưng sau này vẫn bị ra rìa) hướng dẫn bay vào dội bom phi trường TSN. Trung lái một chiếc đi đầu, còn những chiếc kia do phi công Bắc Việt đã từng lái Mig 17 điều khiển. Trong lúc đó, ông Minh đang nhận bàn giao từ ông Hương (4 giờ 15 chiều 28/4). Tại phi trường Phan Rang, ta đã bỏ lại hầu như nguyên vẹn không cụ, vũ khí, đạn dược và phi cơ phản lực chiến đấu ... Việt cộng đã triệt để khai thác nguồn tiếp liệu này. Chúng đã xử dụng nơi đây như là bàn đạp để tấn công Sài Gòn, chứ không phải Đà Nẵng, vì Phan Rang chỉ cách Sài Gòn 20 phút bay. Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh SĐ6 KQ cũng bị bắt tại đây cùng với Tr/tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (không thấy ông Đôn nhắc đến tên ông Sang. Hai ông này liền sau đó bị Việt cộng giải ra Hà Nội trình diện trong một cuộc họp báo quốc tế). Trang 484: người ta được biết tối 29.4, trung tướng Vĩnh Lộc với tư cách là tân tổng tham mưu trường QLVNCH đã lên đài truyền hình đọc một bài nhật lệnh rất dài, chửi Thiệu và Cao Văn Viên cùng các tướng tá khác mà ông cho là nhát gan, hèn yếu đã bỏ chạy và kêu gọi quân nhân các cấp còn lại giữ vững tinh thần chiến đấu đến hơi thở cuối cùng (!?). Nhiều người bỗng dưng lên lại tinh thần cao độ, kể cả người viết bài này. Không dè một sĩ quan thân cận hôm sau đã cho tôi hay là nửa đêm hôm đó, ông Lộc cho lệnh khóa chặt cổng chính bộ TMM, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thế rồi ông chuồn mất! Mãi 9 giờ sáng 30-4, ông Minh mới được báo cáo, liền đề cử chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (vô danh tiểu tốt) lên thay thế. 9 giờ 30, ông này lên đaì Sài Gòn kêu gọi các đơn vị QLVNCH trên toàn lãnh thổ miền Nam “hãy giữ nguyên vị trí cũ và không được nổ súng”. Trang 485: Cần nhấn mạnh một điểm ở đây là ở chương này “Những điều nghe biết sau 30-4-1975”, ông Đôn chỉ nghe kể lại một chiều nên đã thiếu sót và sai lạc. (Ông Hạnh được miễn cải tạo và về đạp xe lam bán rau cải chợ Cầu Ông Lãnh. 10 giờ 30 sáng 30-4 trở đi, ông Minn lên đài đọc đi đọc lại nhiều lần lời kêu gọi “bên kia” về “nhận bàn giao chính quyền” (!) Tiếp theo người ta còn nghe những lời kêu gọi của những tên chính khách xu thời yêu cầu mọi người ra trình diện, kể cả tên Hoàng Châu, chủ nhiệm Nhật Báo Độc Lập, đại diện nghiệp đoàn ký giả. 11 giờ đoàn xe tăng Nga PT76 (loại chiến xa chúng đã xử dụng trong chiến dịch Hạ Lào Nam Sơn 719 (1972) và trong trận đánh Ban Mê Thuộc) do đại úy VC Bùi Quang Thận (tên này là em Đ/U VC Bùi Quang Tùng trong trận Điện Biên Phủ) húc đổ cổng sắt chính Dinh Độc Lập, tiến sâu vào sân cỏ húc đổ luôn cả cột cờ đang phất phới lá cờ vàng 3 sọc đỏ. Tôi và anh phóng viên hãng AP G. Esper không nén được xúc động, cầm được nước mắt. Lúc này tại phòng khánh tiết, ông Minh và các thuộc hạ trong “tân chính phủ” đã tề tựu đông đủ để “bàn giao chính quyền” như Lý Quý Chung (bộ trưởng Thông Tin), Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan (tu xuất), DB Lê Bình Duyên, nhiều dân biểu TNS thuộc phe Ấn Quang cùng những bộ mặt quen thuộc cũ muốn ở lại “hòa hợp hòa giải” để kiếm chút “cơm thừa canh cặn”. Không khí vô cùng buồn tẻ và hiu hắt như trong một nghĩa địa lúc hoàng hôn! Tên Đại Đội Trưởng Thận, với thái độ hung hăng của giặc cuớ rừng rú chưa từng thấy, một tay cầm khẩu AK47, xông ra trước bao lơn treo lá cờ MTGP, bắn chỉ thiên một tràng đạn rồi quay vào xấc xược hỏi: _ Dương Văn Minh đâu? Ông Minh tiến lên: _ Chính tôi đây. Các ông đừng vội vã. Chúng tôi đã mở sẵn cổng để đón các ông vào bàn giao chính quyền thì cần gì phải phá gãy cửa sắt. Chúng tôi đang chờ các ông ... Tên chính trị viên tiểu đoàn cướp lời: _ Các anh còn gì nữa mà bàn giao? Các anh phải đầu hàng. Chúng tôi đã tiến 2000 cs rồi. bây giờ từ Lộc Ninh về đây chỉ còn 300 cs nữa thôi thì không có lý do gì chúng tôi dừng lại để thương thuyết! Mọi người hiện diện đều tái xanh mặt. Lúc đó là 11g 30 đúng trên chiếc đồng hồ của tôi. 4 giờ chiều, ông Minh đọc bản tuyên bố đầu hàng “quân đội giải phóng” “vô điều kiện”. Giọng ông run run, thê lương như ai điếu. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc lời kêu gọi mọi người hãy “hân hoan đón chào quân đội cách mạng...!” Đến đây tôi thấy cần phải cực lực bác bỏ hai quan niệm sai lầm của ông Đôn p trang 486 và 487. Oâng Đôn đã viết: “Ai cứu dân chúng Sài Gòn khỏi đổ máu? Không phải Kissinger. Không phải đại sứ Mỹ. Không phải đại sứ Pháp. “Sài Gòn không đổ máu là nhờ Dương Văn Minh” (trang 486). (còn tiếp) Phụng Hồng
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:47:08 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo và hết)
Tôi hoàn toàn không đồng ý. Nên nhớ rằng người ta trao quyền hành cho ông là không phải để ông “lo đưa vợ con trốn ra ngoại quốc theo tàu hải Quân cùng bạn bè thân thuộc (tr.483 – 484) rồi tuyên bố đầu hàng cho được việc. Anh em chúng tôi đã bỏ lại tất cả tài sản mồ hôi nước mắt cùng vợ con từ các vùng chiến thuật về Sài Gòn không phải để ngồi khoanh tay chấp nhận đầu hàng giặc, hoặc thương thuyết với giặc. Ngay cả bây giờ và mãi mãi về sau cũng thế. Đó là một sự thật hiển nhiên. Còn bảo rằng nếu không đầu hàng, Sài Gòn sẽ bị pháo kích nặng và dân chúng chết nhiều. Điều này lại càng không đúng và không đứng vững được. Xưa nay trong binh pháp và quan niệm chiến trường, không bao giờ người ta nói đến điều này và vẫn chấp nhận, vì quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc là tối thượng. Vì sống dưới chế độ cộng sản, người dân vẫn mất tài sản và vẫn bị đổ máu chết chóc như thường. Một bằng chứng hùng hồn nhất mà VNNC không ghi lại (rất tiếc) là sáng 30-4 tại ngã tư Bảy Hiền, mấy Tiểu Đoàn Dù còn lại đã đơn độc anh dung đẩy lui nhiều đợt tấn công của Việt cộng khi chúng tiến về đường Lê Văn Duyệt. Đến khi hết đạn, một số sĩ quan đã tự tử, một số khác bỏ về miền Tây .... cứ để cho chúng pháo kích bừa bãi như chúng đã từng làm – mà chắc gì chúng dám làm? – để cho những thằng đã từng nằm vùng che giấu những tên đặc công ám sát tại Đô Thành trong vụ Mậu Thân (như tiệm phở Bình Ngọc Hiền, thượng úy tình báo Việt cộng, anh cựu trung tá Dân Biểu Trần Ngọc Châu, nguyên tỉnh trưởng Kiến Hòa và thị trưởng Đà Nẵng) mở trắng con mắt ra. Và đến lúc đó chính nhân dân sẽ nổi dậy quật nguợc lại bọn chúng và phần thắng lợi cuối cùng sẽ đến với chính nghĩa. Tiếc rằng ông Minh đã không thấu hiểu được điều căn bản đó. Đấy là chưa kể ỏ khắp các nơi vẫn còn nhiều đơn vị ưu tú chống cự đến những ngày hôm sau. Chúng tôi không cần có “tổng tham mưu trưởng” hay “tổng tư lệnh” mới chiến đấu được. Chúng tôi đã tự lực chỉ huy đương đầu với giặc trong bao nhiêu năm trời trong lúc các ngài vơ vét đầy túi tham ở trung ương. Xin các ngài hãy nhớ kỹ điều đó mỗi khi mở miệng nói đến “trung lập hòa đàm”!
Tiếp theo ông Đôn lại viết: “Năm 1955 ở Bangdoung lúc có hội nghị Phi Liên Kết Á Phi, ông Nerhu thủ tướng Ấn Độ dự định tổ chức một bữa tiệc thân mật khoản đãi hai phái đoàn Nam và Bắc Việt Nam. Trước ngày đi dự, tướng Trình Minh Thế, một nhân viên phái đoàn bảo ông Nguyễn Văn Thoại trưởng phái đoàn hủy bỏ buổi tiệc đó. Oâng Thoại không đồng ý thì tướng Thế rút súng lục ra để trên bàn dọa bắn. Buổi tiệc gặp gỡ thân hữu đó phải hủy bỏ .... Tôi không cho rằng sau buổi tiệc đó thì hai miền Nam Bắc sẽ hòa thuận, nhưng thái độ hung hăng của tướng Thế xuất phát từ sự xúi biểu của phe phái muốn chủ động trong cuộc chiến cũng như chủ động trong Hòa Bình ở Việt Nam.” (trang 487)
Người đọc có cảm tưởng rằng ông Đôn muốn đổ lỗi cho tướng Thế vì “hung hăng quá khích” (?) mà “hai phe thù nghịch cùng một nước” đã mất cơ hội “tốt đẹp” để gặp nhau “hòa hợp, hòa giải”, như lời con gái thủ tướng Nerhu nhận định sau hội nghị chăng?
Để trả lời cho lối lẫp luận này cũng như lời đổ lỗi vô trách nhiệm kia đối với vị anh hùng suốt đới chống cộng đã khuất mặt chốn dạ đài, tôi chỉ xin nhắc lại đây lời khẳng định của một tên cán bộ cao cấp Viện Sử Học Hà Nội khi nói đến chuyện tại trại cải tạo Long Thành năm 1976: “Những phong trào yêu nước cổ võ hòa bình, đòi quyền sống, hòa hợp hòa giải ... tại Sài Gòn trước đây đều được nghiên cứu chỉ đạo kỹ bởi Bác và Đảng. Đó chẳng qua là một hình thức trá hình để thêm vây cánh trong lòng địch mà thôi ...”
Như vậy hành động và ý chì cương quyết của Tướng Thế cản trở ông Thoại là vô cùng xác đáng và hợp lý vậy.
Trang 490: tưởng cũng nên nói lại cho rõ: trong ngày 30-4, chuẩn tướng Lý Tòng Bá là tư lệnh sư đoàn 25BB đóng ở Gò Dầu Hạ, trên đường lên Tây Ninh (quốc lộ 22). Oâng này đã bị bắt sáng hôm đó. Còn tướng Lê Minh Đảo là tư lệnh SĐ 9. Tháng 6.75, sau khi chúng tôi vô trại cải tạo rồi thì được người ngoài đưa tin mật vào cho hay phu nhân tướng Đảo đã làm một chuyện phi thường: cầm đầu một phái đoàn hùng hậu gồm vợ con các sĩ quan bị đi cải tạo đã “quá một tháng tiền ăn” mà chưa thấy về, đến chất vấn tên Võ Văn Kiệt lúc đó làm “Chủ Tịch Uûy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh”. Anh em trong tù rất phấn khởi vì nhận thấy sự chống đối đã bắt đầu.
Trang 492: tướng quân y là y sĩ chuẩn tướng Phạm Hà Thạnh (chứ không phải Nguyễn), nguyên cục trưởng Cục Quân Y cuối cùng. Bác sĩ Thanh này đã từ trần vì bệnh hoạn và kiệt lực trong thời gian cải tạo.
***
Ở đây tôi không muốn bàn sâu về thuyết “Dân Tộc Tự Tồn” mà ông Đôn, người khai sinh ra nó đã tự hào lả rất hợp thời từ sau Tết Mậu Thân 68 để biến miền Nam trung lập, không liên kết với ai (!?), vì sợ lạc đề. Chỉ xin được nói một lời là đã có một số người am hiểu tình hình hồi đó khi nghe tin này đã bỉu môi phì cười mỉa mai cho rằng ông Đôn đang còn non nớt, chưa hiểu tí ti gì về cộng sản cả. Một số người thức giả khác lại nghiêm khắc lên án ông Đôn đã phản bội đồng đội đã hy sinh cho ông lên tướng. Vì ông không có thân nhân chết trong vụ Mậu Thân nên ông đã không căm thù cộng sản.
Một điều thắc mắc của người đọc nữa là không hiểu sao ở phần cuối sách, tác giả lại cổ xúy cho “giải pháp Bảo Đại”, một giải pháp đã quá lỗi thời, đối với một phế chế đã không mấy tốt đẹp, với một dĩ vãng tàn tệ đã để lại ấn tượng xấu xa trong lòng người dân Việt suốt hơn một phần ba thế kỷ! Người ta đã không hiểu ông Đôn muốn gì khi tổ chức tiếp đón ông Bảo Đại tại Mỹ, cuộc tiếp đón đã gây ra nhiều trah giành ảnh hưởng, lủng củng nội bộ xuýt đi đến xô xat đổ vỡ trong nhiều cộng đồng. Thật là một chuyện cuời ra nước mắt. Hơn nữa, vua Bảo Đại là người mà 35 năm trước đây, ông Đôn đã theo giòng lịch sử làm tròn nhiệm vụ trung thành với đường lối TT Diệm bằng cách áp dụng câu vè “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ thùng” (tức là phiếu màu lục in hình Bảo Đại thì vất vào sọt rác, còn phiếu màu đỏ in hình ông Diệm thì bỏ vào thùng phiếu) trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10 năm 1955 (Bảo Đại là vua ăn chơi lãng tử, nhu nhược (trang 73 – 48) Trong thời gian làm tư lệnh quân khu 2 ở Huế cũng như làm tư lệnh QĐI/VICT tại Đà Nẵng, ông Đôn đã bị nhiều tai tiếng về lối giao du thân mật với nhiều vợ sĩ quan cũng như nữ nhân viên thuộc quyền. Bởi ông Đôn là người bặt thiệp, xã giao rộng lại đẹp trai nhất trong hàng tướng lãnh nên ông đã thành công chinh phục nữ phái. Tôi đã cố gắng tìm hiểu và được biết người ta than phiền nhiều ông Đôn có khi xao lãng các cuộc diễn tiến hành quân và thường hay tổ chức “picnic”, ăn chơi nhảy đầm lén lút tại CLB sĩ quan Đà Nẵng để đi đến những vụ “ái tình lẻ vụng trộm” (vì thế sau ngày 1.11.63, chính ông Đôn đã ký nghị định cho phép khiêu vũ trở lại và lý luận rằng đây là một lối thể thao kiểu lành mạnh (!?), đã bị cấm bằng một dự luật của bà Nhu).
Sau ngày chỉnh lý, tướng Khanh có đưa ra một danh sách “nhân tình cũ” của ông Đôn đã làm cho người tinh ý liên tưởng tới cô M. ở nhà sách Nam San Quảng Ngãi, bà TM, vợ bác sĩ Phạm DĐ, ái nữ Đ/U Th., quản lý CLB, bà Ng. ở Khu Tu Bổ, các cô Th., H., NPT/QĐI, bà H. Ng., vợ Tr./U Tr. (ông này sau được thăng đến Đại tá làm chánh văn phòng, còn bà H.Ng thì làm bí thư (trang 456).
***
Truớc khi gấp cuốn VNNC lại với trang cuối cùng để cất vào một góc nào đó trong chồng sách cũ vì tôi không muốn đọc lại lần thứ hai nữa, tôi muốn được nói thêm đôi cảm nghĩ chót. VNNC là một cuốn sách tầm thường, tầm thường như cuộc đời làm tướng của tác giả nó. Nó đã không đáp ứng được lòng mong đợi của người đọc bấy lâu. Nó còn có nhiều khuyết điểm. Có nhiều chương lại không nói lên hết sự thật. Người đọc có cảm tưởng tác giả muốn tránh né trách nhiệm ở những khúc quanh lịch sử quan trọng.
Ta có thể trách cứ ông Đôn đã không biết thi hành sứ mạng, chu toàn nhiệm vụ một tướng lãnh khi vận nước nổi trôi, đi vào thời điểm quyết định với kẻ thù. Thay vì hô hào chiến đấu diệt giặc, ông lại đi cổ võ trung lập, thương thuyết với kẻ thù. Chưa hết, ông còn giết thì giờ vàng ngọc trong một tình thế cấp bách nhất bằng cách vận động với người ngoại quốc (Brochand, Chirac, Martin ...) để ủng hộ, hậu thuẫn cho giải pháp điều đình. Chính sự kiện này đã làm cho tên tuổi của ông lu mờ và phần đông uất ức bất mãn trước ngày mất nước. (Một số sĩ quan cũ từng phục vụ ở BTL/QĐI đã gợi ý với tôi tìm cách giết ông Đôn ngày 26/4 cũng như một số thương bệnh binh ở TYV/DT đã áp lực cầm chân tôi ngày 29/3 đòi giết cho được tướng Ngô Quang Trưởng, khi biết ông này đã bỏ đi từ khuya, họ mới thả tôi ra. Và tôi cũng không biết nhờ một phép lạ nào mà thoát được?)
Tại sao ta lại cứ đi cầu hòa với giặc, trong lúc giặc cứ tiến lần về Sài Gòn? Một tên cán bộ Hà Nội vào năm 1977 đã tiết lộ: “Ông Diệm chết đi là xem như chúng tôi đã lấy được miền Nam rồi.”
Tại sao cứ hô hào “trung lập hóa miền Nam” như ý tưởng ngu xuẩn của De Gaulle mà không trung lập hóa miền Bắc? Tại sao chúng nó đòi ông Thiệu từ chức mà ta không đặt điều kiện Phạm Văn Đồng phải từ chức? Tại sao chunùg nó cứ hỗn xược đòi phải có ông Minh mới thương thuyết? (nhưng mỉa mai thay, tối 28/4, sau khi ông Hương làm lễ bàn giao xong, tên Nguyễn Văn Hiếu, trưởng phái bộ hòa đàm La Celle St Cloude lại nói: “Bây giờ đã quá muộn, và ông Minh cũng chỉ là người của Mỹ!), mà ta lại cứ ngồi câm không đòi Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng giải ngũ? Tại sao và tại sao?
Xin được nhắc lại một lần chót nữa ở đây là Vận mệnh nước Việt Nam phải cho chính những người Việt Nam quốc gia chân chính, không cộng sản mới đủ thảm quyền định đoạt, chứ không phải do một tên De Gaulle, Brochand, Chirac, Martin ... nào đó bàn hội được!
Chúng ta đã bị đầu cơ lãnh đạo bởi những tên bất tài vô tướng, ăn cháo đái bát, lừa thầy phản bạn, vì quá dốt nát nên đã ngây thơ tin tưởng sự “tử tế” của kẻ thù. Chính trường miền Nam trước 1975 như một canh bạc bịp mà chủ sòng lưu manh đang giở mọi trò gian xảo bỉ ổi nhất để lường gạt thế mà thảm thương thayn con bạc ngây thơ cứ lao đầu vào tưởng bở tổ xả láng để rồi cuối cùng nuốt hận lưu vong chua cay, làm trò hề cho địch thủ đắc chí.
Như vậy, qua VNNC chúng ta đã thấy gì? Chỉ toàn những hành động hèn nhát, trung lập, mưu toan bắt tay với kẻ thù. Oâng Đôn không phải là một tướng anh hùng, giữ đúng tiết tháo, liêm sĩ con nhà võ. Vì nếu có, ông đã tuẫn tiết khi bị hạ nhục trong đêm chỉnh lý để giữ vẹn toàn tiếng thơm. Trái lại ông chỉ có những hành động tiêu cực kêu than buồn thảm mà thôi (trang 290 – 291 – 293 – 294).
Những vấn đề mấu chốt vẫn chưa có kết luận. Những nghi vấn vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng. Oâng Đôn luôn luôn tự nhận mình có công với đất nước, và phủ nhận những hành động tội lỗi của mình. Thử hỏi trong lúc chính quyền Ngô Đình Diệm đang trên đà chiến thắng cộng sản Bắc Việt với quốc sách Ấp Chiến Luợv, kế hoạch đinh điền, chiến dịch hành quân đại quy mô ..., thì những người tự nhận mình là “lãnh tụ tranh đấu”, những tướng nhưng ông Đôn đã làm được gì? Ông đã từng nói sợ đảo chánh, cân nhắc lợi hại để rồi cuối cùng ‘chọn đảo chánh để cứu nước” nhưng rốt cuộc nước vẫn mất vào tay giặc. Bên công bên tội, bên nào nặng hơn? (trang 186 – 187)
Sau ngày đảo chánh, một người bạn phe Ấn Quang biết tôi cũng là một Phật tử thuần thành, đã nói: “Nếu ông Diệm còn, miền Nam sẽ theo Công Giáo hết!” Thay vì phụ họa luận điệu đó, tôi đã quắc mắt hỏi lạilàm anh ta ngạc nhiên: “Giữa công giáo và cộng sản, anh chọn bên nào?”
Ngày nay khi đã “thấm mệt” trên bước đường lưu vong, chắc người bạn kia đã thấy rõ nhận xét nông nỗi của mình. Tôn giáo nào cũng khuyên răn tín đồ làm lành. Chỉ có cộng sản mới khuyến khích bạo lực, đâm chém, biểu tình để gây đổ máu huynh đệ tương tàn.
TT Diệm đã nằm xuống. Chiếc thiết vận xa M113 định mệnh và 3 tấc đất hẻo lánh trong Bộ TTM đã quá đủ để lịch sử phê phán công minh ai phải ai trái.
Ngày nay ông Đông cũng đã nằm xuống. Tôi muốn ông an nghỉ để lắng nghe chiếc áo quan luận định cuộc đời binh nghiệp và chính trị của mình.
Phụng Hồng
(Winter Park, Florida)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2009 6:52:39 GMT 9
The Future of American Power How America Can Survive the Rise of the Rest By Fareed Zakaria
From Foreign Affairs , May/June 2008
-------------------------------------------------------------------------------- Summary: Despite some eerie parallels between the position of the United States today and that of the British Empire a century ago, there are key differences. Britain's decline was driven by bad economics. The United States, in contrast, has the strength and dynamism to continue shaping the world -- but only if it can overcome its political dysfunction and reorient U.S. policy for a world defined by the rise of other powers. FAREED ZAKARIA is Editor of Newsweek International. This essay is adapted from his book The Post-American World (W. W. Norton and Company, Inc., © 2008 by Fareed Zakaria).
On June 22, 1897, about 400 million people around the world -- one-fourth of humanity -- got the day off. It was the 60th anniversary of Queen Victoria's ascension to the British throne. The Diamond Jubilee stretched over five days on land and sea, but its high point was the parade and thanksgiving service on June 22. The 11 premiers of Britain's self-governing colonies were in attendance, along with princes, dukes, ambassadors, and envoys from the rest of the world. A military procession of 50,000 soldiers included hussars from Canada, cavalrymen from New South Wales, carabineers from Naples, camel troops from Bikaner, and Gurkhas from Nepal. It was, as one historian wrote, "a Roman moment."
In London, eight-year-old Arnold Toynbee was perched on his uncle's shoulders, eagerly watching the parade. Toynbee, who grew up to become the most famous historian of his age, recalled that, watching the grandeur of the day, it felt as if the sun were "standing still in the midst of Heaven." "I remember the atmosphere," he wrote. "It was: 'Well, here we are on top of the world, and we have arrived at this peak to stay there forever. There is, of course, a thing called history, but history is something unpleasant that happens to other people. We are comfortably outside all of that I am sure.'"
But of course, history did happen to Britain. The question for the superpower of the current age is, Will history happen to the United States as well? Is it already happening? No analogy is exact, but the British Empire in its heyday is the closest any nation in the modern age has come to the United States' position today. In considering whether and how the forces of change will affect the United States, it is worth paying close attention to the experience of Britain.
There are many contemporary echoes. The United States' recent military interventions in Somalia, Afghanistan, and Iraq all have parallels in British military interventions decades ago. The basic strategic dilemma of being the only truly global player on the world stage is strikingly similar. But there are also fundamental differences between Britain then and the United States now. For Britain, as it tried to maintain its superpower status, the largest challenge was economic rather than political. For the United States, it is the other way around.
Through shrewd strategic choices and some sophisticated diplomacy, Britain was able to maintain and even extend its influence for decades. In the end, however, it could not alter the fact that its power position -- its economic and technological dynamism -- was fast eroding. Britain declined gracefully -- but inexorably. The United States today faces a problem that is quite different. The U.S. economy (despite its current crisis) remains fundamentally vigorous when compared with others. American society is vibrant. It is the United States' political system that is dysfunctional, unable to make the relatively simple reforms that would place the country on extremely solid footing for the future. Washington seems largely unaware of the new world rising around it -- and shows few signs of being able to reorient U.S. policy for this new age.
BRITANNIA'S DEMISE
Today, it is difficult even to imagine the magnitude of the British Empire. At its height, it covered about a quarter of the earth's land surface and included a quarter of its population. London's network of colonies, territories, bases, and ports spanned the globe. The empire was protected by the Royal Navy, the greatest seafaring force in history, and linked by 170,000 nautical miles of ocean cables and 662,000 miles of aerial and buried cables. British ships had facilitated the development of the first global communications network, via the telegraph. Railways and canals (the Suez Canal most importantly) deepened the connectivity of the system. Through all of this, the British Empire created the first truly global market.
Americans often talk about the appeal of their culture and ideas, but "soft power" really began with Britain. The historian Claudio Véliz points out that in the seventeenth century, the two imperial powers of the day, Britain and Spain, both tried to export their ideas and practices to their western colonies. Spain wanted the Counter-Reformation to take hold in the New World; Britain wanted religious pluralism and capitalism to flourish. As it turned out, British ideas proved more universal. In fact, Britain has arguably been the most successful exporter of its culture in human history. Before the American dream, there was an "English way of life" -- one that was watched, admired, and copied throughout the world. And also thanks to the British Empire, English spread as a global language, spoken from the Caribbean to Cape Town to Calcutta.
Not all of this was recognized in June 1897, but much of it was. The British were hardly alone in making comparisons between their empire and Rome. Paris' Le Figaro declared that Rome itself had been "equaled, if not surpassed, by the Power which in Canada, Australia, India, in the China Seas, in Egypt, Central and Southern Africa, in the Atlantic and in the Mediterranean rules the peoples and governs their interests." The Kreuz-Zeitung in Berlin described the empire as "practically unassailable." Across the Atlantic, The New York Times gushed, "We are a part, and a great part, of the Greater Britain which seems so plainly destined to dominate this planet."
Britain's exalted position, however, was more fragile than it appeared. Just two years after the Diamond Jubilee, Britain entered the Boer War, a conflict that, for many scholars, marks the moment when British power began to decline. London was sure that it would win the fight with little trouble. After all, the British army had just won a similar battle against the dervishes in Sudan, despite being outnumbered by more than two to one. In the Battle of Omdurman, it inflicted 48,000 dervish casualties in just five hours while losing only 48 soldiers of its own. Many in Britain imagined an even easier victory against the Boers. After all, as one member of Parliament put it, it was "the British Empire against 30,000 farmers."
The war was ostensibly fought for a virtuous reason: to defend the rights of the English-speaking people of the Boer republics, who were treated as second-class citizens by the ruling Boers. But it did not escape the attention of London that after the discovery of gold in the region in 1886, these republics had been producing a quarter of the world's gold supply. In any event, the Boers launched a preemptive strike, and war began in 1899.
Things went badly for Britain from the beginning. It had more men and better weapons and was fielding its best generals (including Lord Kitchener, the hero of Omdurman). But the Boers were passionate in defending themselves, knew the land, and adopted successful guerrilla tactics that relied on stealth and speed. The British army's enormous military superiority meant little on the ground, and its commanders resorted to brutal tactics -- burning down villages, herding civilians into concentration camps (the world's first), sending in more and more troops. Eventually, Britain had 450,000 troops fighting a militia of 45,000.
The Boers could not hold back the British army forever, and in 1902 they surrendered. But in a larger sense, Britain lost the war. It had suffered 45,000 casualties, spent half a billion pounds, stretched its army to the breaking point, and discovered enormous incompetence and corruption in its war effort. Its brutal wartime tactics, moreover, gave it a black eye in the view of the rest of the world. At home, all of this created, or exposed, deep divisions over Britain's global role. Abroad, every other great power -- France, Germany, the United States -- opposed London's actions. "They were friendless," the historian Lawrence James has written of the British in 1902.
Fast-forward to today. Another superpower, militarily unbeatable, wins an easy victory in Afghanistan and then takes on what it is sure will be another simple battle, this one against Saddam Hussein's isolated regime in Iraq. The result: a quick initial military victory followed by a long, arduous struggle, filled with political and military blunders and met with intense international opposition. The analogy is obvious; the United States is Britain, the Iraq war is the Boer War -- and, by extension, the United States' future looks bleak. And indeed, regardless of the outcome in Iraq, the costs have been massive. The United States has been overextended and distracted, its army stressed, its image sullied. Rogue states such as Iran and Venezuela and great powers such as China and Russia are taking advantage of Washington's inattention and bad fortunes. The familiar theme of imperial decline is playing itself out one more time. History is happening again.
THE LONG GOODBYE
But whatever the apparent similarities, the circumstances are not really the same. Britain was a strange superpower. Historians have written hundreds of books explaining how London could have adopted certain foreign policies to change its fortunes. If only it had avoided the Boer War, say some. If only it had stayed out of Africa, say others. The historian Niall Ferguson provocatively suggests that had Britain stayed out of World War I (and there might not have been a world war without British participation), it might have managed to preserve its great-power position. There is some truth to this line of reasoning (World War I did bankrupt Britain), but to put things properly in historical context, it is worth looking at this history from another angle. Britain's immense empire was the product of unique circumstances. The wonder is not that it declined but that its dominance lasted as long as it did. Understanding how Britain played its hand -- one that got weaker over time -- can help illuminate the United States' path forward.
Britain has been a rich country for centuries (and was a great power for most of that time), but it was an economic superpower for little more than a generation. Observers often make the mistake of dating its apogee by great imperial events such as the Diamond Jubilee. In fact, by 1897, Britain's best years were already behind it. Its true apogee was a generation earlier, from 1845 to 1870. At the time, it was producing more than 30 percent of global GDP. Its energy consumption was five times that of the United States and 155 times that of Russia. It accounted for one-fifth of the world's trade and two-fifths of its manufacturing trade. And all this was accomplished with just two percent of the world's population.
By the late 1870s, the United States had equaled Britain on most industrial measures, and by the early 1880s it had actually surpassed it, as Germany would about 15 years later. By World War I, the United States' economy was twice the size of Britain's, and together France's and Russia's were larger as well. In 1860, Britain had produced 53 percent of the world's iron (then a sign of supreme industrial strength); by 1914, it was making less than 10 percent.
Of course, politically, London was still the capital of the world at the time of World War I, and its writ was unequaled and largely unchallenged across much of the globe. Britain had acquired an empire in a period before the onset of nationalism, and so there were few obstacles to creating and maintaining control in far-flung places. Its sea power was unrivaled, and it remained dominant in banking, shipping, insurance, and investment. London was still the center of global finance, and the pound still the reserve currency of the world. Even in 1914, Britain invested twice as much capital abroad as its closest competitor, France, and five times as much as the United States. The economic returns of these investments and other "invisible trades" in some ways masked Britain's decline.
In fact, the British economy was sliding. British growth rates had dropped below two percent in the decades leading up to World War I. The United States and Germany, meanwhile, were growing at around five percent. Having spearheaded the first Industrial Revolution, Britain was less adept at moving into the second. The goods it was producing represented the past rather than the future. In 1907, for example, it manufactured four times as many bicycles as the United States did, but the United States manufactured 12 times as many cars.
Scholars have debated the causes of Britain's decline since shortly after that decline began. Some have focused on geopolitics; others, on economic factors, such as low investment in new plants and equipment and bad labor relations. British capitalism had remained old-fashioned and rigid, its industries set up as small cottage-scale enterprises with skilled craftsmen rather than the mass factories that sprang up in Germany and the United States. There were signs of broader cultural problems as well. A wealthier Britain was losing its focus on practical education, and British society retained a feudal cast, given to it by its landowning aristocracy.
But it may be that none of these failings was actually crucial. The historian Paul Kennedy has explained the highly unusual circumstances that produced Britain's dominance in the nineteenth century. Given its portfolio of power -- geography, population, resources -- Britain could reasonably have expected to account for three to four percent of global GDP, but its share rose to around ten times that figure. As those unusual circumstances abated -- as other Western countries caught up with industrialization, as Germany united, as the United States resolved its North-South divide -- Britain was bound to decline. The British statesman Leo Amery saw this clearly in 1905. "How can these little islands hold their own in the long run against such great and rich empires as the United States and Germany are rapidly becoming?" he asked. "How can we with forty millions of people compete with states nearly double our size?" It is a question that many Americans are now asking in the face of China's rise.
Britain managed to maintain its position as the leading world power for decades after it lost its economic dominance thanks to a combination of shrewd strategy and good diplomacy. Early on, as it saw the balance of power shifting, London made one critical decision that extended its influence by decades: it chose to accommodate itself to the rise of the United States rather than to contest it. In the decades after 1880, on issue after issue London gave in to a growing and assertive Washington.
It was not easy for Britain to cede control to its former colony, a country with which it had fought two wars and in whose recent civil war it had sympathized with the secessionists. But it was a strategic masterstroke. Had Britain tried to resist the rise of the United States, on top of all its other commitments, it would have been bled dry. For all of London's mistakes over the next half century, its strategy toward Washington -- one followed by every British government since the 1890s -- meant that Britain could focus its attention on other critical fronts. It remained, for example, the master of the seas, controlling its lanes and pathways with "five keys" that were said to lock up the world -- Singapore, the Cape of Good Hope, Alexandria, Gibraltar, and Dover.
Britain maintained control of its empire and retained worldwide influence with relatively little opposition for many decades. (In the settlement after World War I, it took over 1.8 million square miles of territory and 13 million new subjects, mostly in the Middle East.) Still, the gap between its political role and its economic capacity was growing. By the twentieth century, the empire was an enormous drain on the British treasury. And this was no time for expensive habits. The British economy was reeling. World War I cost over $40 billion, and Britain, once the world's leading creditor, had debts amounting to 136 percent of domestic output afterward. By the mid-1920s, interest payments alone sucked up half the government's budget. Meanwhile, by 1936, Germany's defense spending was three times as high as Britain's. The same year that Italy invaded Ethiopia, Mussolini also placed 50,000 troops in Libya -- ten times the number of British troops guarding the Suez Canal. It was these circumstances -- coupled with the memory of a recent world war that had killed more than 700,000 young Britons -- that led the British governments of the 1930s, facing the forces of fascism, to prefer wishful thinking and appeasement to confrontation.
World War II was the final nail in the coffin of British economic power: in 1945, the United States' GDP was ten times that of Britain. Even then, Britain remained remarkably influential, at least partly because of the almost superhuman energy and ambition of Winston Churchill. Given that the United States was paying most of the Allies' economic costs, and Russia was bearing most of the casualties, it took extraordinary will for Britain to remain one of the three major powers deciding the fate of the postwar world. (The photographs of Franklin Roosevelt, Joseph Stalin, and Churchill at the Yalta Conference in February 1945 are somewhat misleading: there was no "big three" at Yalta; there was a "big two" plus one brilliant political entrepreneur who was able to keep himself and his country in the game.)
But even this came at a cost. In return for its loans to London, the United States took over dozens of British bases in Canada, the Caribbean, the Indian Ocean, and the Pacific. "The British Empire is handed over to the American pawnbroker -- our only hope," said one member of Parliament. The economist John Maynard Keynes described the Lend-Lease Act as an attempt to "pick out the eyes of the British Empire." Less emotional observers saw that the transition was inevitable. Toynbee, by then a distinguished historian, consoled Britons by noting that the United States' "hand will be a great deal lighter than Russia's, Germany's, or Japan's, and I suppose these are the alternatives."
THE ENTREPRENEURIAL EMPIRE
Britain was undone as a global power not because of bad politics but because of bad economics. Indeed, the impressive skill with which London played its weakening hand despite a 70-year economic decline offers important lessons for the United States. First, however, it is essential to note that the central feature of Britain's decline -- irreversible economic deterioration -- does not really apply to the United States today. Britain's unrivaled economic status lasted for a few decades; the United States' has lasted more than 120 years. The U.S. economy has been the world's largest since the middle of the 1880s, and it remains so today. In fact, the United States has held a surprisingly constant share of global GDP ever since. With the brief exception of the late 1940s and 1950s, when the rest of the industrialized world had been destroyed and its share rose to 50 percent, the United States has accounted for roughly a quarter of world output for over a century (32 percent in 1913, 26 percent in 1960, 22 percent in 1980, 27 percent in 2000, and 26 percent in 2007). It is likely to slip, but not significantly, in the next two decades. Most estimates suggest that in 2025 the United States' economy will still be twice the size of China's in terms of nominal GDP.
This difference between the United States and Britain is reflected in the burden of their military budgets. Britannia ruled the seas but never the land. The British army was sufficiently small that Otto von Bismarck once quipped that were the British ever to invade Germany, he would simply have the local police force arrest them. Meanwhile, London's advantage over the seas -- it had more tonnage than the next two navies put together -- came at ruinous cost. The U.S. military, in contrast, dominates at every level -- land, sea, air, space -- and spends more than the next 14 countries combined, accounting for almost 50 percent of global defense spending. The United States also spends more on defense research and development than the rest of the world put together. And crucially, it does all this without breaking the bank. U.S. defense expenditure as a percent of GDP is now 4.1 percent, lower than it was for most of the Cold War (under Dwight Eisenhower, it rose to ten percent). As U.S. GDP has grown larger and larger, expenditures that would have been backbreaking have become affordable. The Iraq war may be a tragedy or a noble endeavor, but either way, it will not bankrupt the United States. The price tag for Iraq and Afghanistan together -- $125 billion a year -- represents less than one percent of GDP. The war in Vietnam, by comparison, cost the equivalent of 1.6 percent of U.S. GDP in 1970, a large difference. (Neither of these percentages includes second- or third-order costs of war, which allows for a fair comparison even if one disputes the exact figures.)
U.S. military power is not the cause of its strength but the consequence. The fuel is the United States' economic and technological base, which remains extremely strong. The United States does face larger, deeper, and broader challenges than it has ever faced in its history, and it will undoubtedly lose some share of global GDP. But the process will look nothing like Britain's slide in the twentieth century, when the country lost the lead in innovation, energy, and entrepreneurship. The United States will remain a vital, vibrant economy, at the forefront of the next revolutions in science, technology, and industry.
In trying to understand how the United States will fare in the new world, the first thing to do is simply look around: the future is already here. Over the last 20 years, globalization has been gaining breadth and depth. More countries are making goods, communications technology has been leveling the playing field, capital has been free to move across the world -- and the United States has benefited massively from these trends. Its economy has received hundreds of billions of dollars in investment, and its companies have entered new countries and industries with great success. Despite two decades of a very expensive dollar, U.S. exports have held ground, and the World Economic Forum currently ranks the United States as the world's most competitive economy. GDP growth, the bottom line, has averaged just over three percent in the United States for 25 years, significantly higher than in Europe or Japan. Productivity growth, the elixir of modern economics, has been over 2.5 percent for a decade now, a full percentage point higher than the European average. This superior growth trajectory might be petering out, and perhaps U.S. growth will be more typical for an advanced industrialized country for the next few years. But the general point -- that the United States is a highly dynamic economy at the cutting edge, despite its enormous size -- holds.
Consider the industries of the future. Nanotechnology (applied science dealing with the control of matter at the atomic or molecular scale) is likely to lead to fundamental breakthroughs over the next 50 years, and the United States dominates the field. It has more dedicated "nanocenters" than the next three nations (Germany, Britain, and China) combined and has issued more patents for nanotechnology than the rest of the world combined, highlighting its unusual strength in turning abstract theory into practical products. Biotechnology (a broad category that describes the use of biological systems to create medical, agricultural, and industrial products) is also dominated by the United States. Biotech revenues in the United States approached $50 billion in 2005, five times as large as the amount in Europe and representing 76 percent of global biotech revenues.
Manufacturing has, of course, been leaving the country, shifting to the developing world and turning the United States into a service economy. This scares many Americans, who wonder what their country will make if everything is "made in China." But Asian manufacturing must be viewed in the context of a global economy. The Atlantic Monthly's James Fallows spent a year in China watching its manufacturing juggernaut up close, and he provides a persuasive explanation of how outsourcing has strengthened U.S. competitiveness. What it comes down to is that the real money is in designing and distributing products -- which the United States dominates -- rather than manufacturing them. A vivid example of this is the iPod: it is manufactured mostly outside the United States, but most of the added value is captured by Apple, in California.
Many experts and scholars, and even a few politicians, worry about certain statistics that bode ill for the United States. The U.S. savings rate is zero; the current account deficit, the trade deficit, and the budget deficit are high; the median income is flat; and commitments for entitlements are unsustainable. These are all valid concerns that will have to be addressed. But it is important to keep in mind that many frequently cited statistics offer only an approximate or an antiquated measure of an economy. Many of them were developed in the late nineteenth century to describe industrial economies with limited cross-border activity, not modern economies in today's interconnected global market.
For the last two decades, for example, the United States has had unemployment rates well below levels economists thought possible without driving up inflation. Or consider that the United States' current account deficit -- which in 2007 reached $800 billion, or seven percent of GDP -- was supposed to be unsustainable at four percent of GDP. The current account deficit is at a dangerous level, but its magnitude can be explained in part by the fact that there is a worldwide surplus of savings and that the United States remains an unusually stable and attractive place to invest. The decrease in personal savings, as the Harvard economist Richard Cooper has noted, has been largely offset by an increase in corporate savings. The U.S. investment picture also looks much rosier if education and research-and-development spending are considered along with spending on physical capital and housing.
The United States has serious problems. By all calculations, Medicare threatens to blow up the federal budget. The swing from surpluses to deficits between 2000 and 2008 has serious implications. Growing inequality (the result of the knowledge economy, technology, and globalization) has become a signature feature of the new era. Perhaps most worrying, Americans are borrowing 80 percent of the world's surplus savings and using it for consumption: they are selling off their assets to foreigners to buy a couple more lattes a day. But such problems must be considered in the context of an overall economy that remains powerful and dynamic.
EDUCATION NATION
"Ah, yes," say those who are more worried, "but you are looking at a snapshot of today. The United States' advantages are rapidly eroding as the country loses its scientific and technological base and suffers from inexorable cultural decay." A country that once adhered to a Puritan ethic of delayed gratification, the argument goes, has become one that revels in instant pleasures; Americans are losing interest in the basics -- math, manufacturing, hard work, savings -- and becoming a society that specializes in consumption and leisure.
No statistic seems to capture this anxiety better than those showing the decline of engineering in the United States. In 2005, the National Academy of Sciences released a report warning that the United States could soon lose its privileged position as the world's science leader. The report said that in 2004 China graduated 600,000 engineers, India 350,000, and the United States 70,000 -- numbers that were repeated in countless articles, books, and speeches. And indeed, these figures do seem to be cause for despair. What hope does the United States have if for every one qualified American engineer there are more than a dozen Chinese and Indian ones? For the cost of one chemist or engineer in the United States, the report pointed out, a company could hire five Chinese chemists or 11 Indian engineers.
The numbers, however, are wrong. Several academics and journalists investigated the matter and quickly realized that the Asian totals included graduates of two- or three-year programs training students in simple technical tasks. The National Science Foundation, which tracks these statistics in the United States and other nations, puts the Chinese number at about 200,000 engineering degrees per year, and the Rochester Institute of Technology's Ron Hira puts the number of Indian engineering graduates at about 125,000 a year. This means that the United States actually trains more engineers per capita than either China or India does.
And the numbers do not address the issue of quality. The best and brightest in China and India -- those who, for example, excel at India's famous engineering academies, the Indian Institutes of Technology (5,000 out of 300,000 applicants make it past the entrance exams) -- would do well in any educational system. But once you get beyond such elite institutions -- which graduate under 10,000 students a year -- the quality of higher education in China and India remains extremely poor, which is why so many students leave those countries to get trained abroad. In 2005, the McKinsey Global Institute did a study of "the emerging global labor market" and found that 28 low-wage countries had approximately 33 million young professionals at their disposal. But, the study noted, "only a fraction of potential job candidates could successfully work at a foreign company," largely because of inadequate education.
Indeed, higher education is the United States' best industry. In no other field is the United States' advantage so overwhelming. A 2006 report from the London-based Center for European Reform points out that the United States invests 2.6 percent of its GDP in higher education, compared with 1.2 percent in Europe and 1.1 percent in Japan. Depending on which study you look at, the United States, with five percent of the world's population, has either seven or eight of the world's top ten universities and either 48 percent or 68 percent of the top 50. The situation in the sciences is particularly striking. In India, universities graduate between 35 and 50 Ph.D.'s in computer science each year; in the United States, the figure is 1,000. A list of where the world's 1,000 best computer scientists were educated shows that the top ten schools are all American. The United States also remains by far the most attractive destination for students, taking in 30 percent of the total number of foreign students globally, and its collaborations between business and educational institutions are unmatched anywhere in the world. All these advantages will not be erased easily, because the structure of European and Japanese universities -- mostly state-run bureaucracies -- is unlikely to change. And although China and India are opening new institutions, it is not that easy to create a world-class university out of whole cloth in a few decades.
Few people believe that U.S. primary and secondary schools deserve similar praise. The school system, the line goes, is in crisis, with its students performing particularly badly in science and math, year after year, in international rankings. But the statistics here, although not wrong, reveal something slightly different. The real problem is one not of excellence but of access. The Trends in International Mathematics and Science Study (TIMSS), the standard for comparing educational programs across nations, puts the United States squarely in the middle of the pack. The media reported the news with a predictable penchant for direness: "Economic Time Bomb: U.S. Teens Are Among Worst at Math," declared The Wall Street Journal.
But the aggregate scores hide deep regional, racial, and socioeconomic variation. Poor and minority students score well below the U.S. average, while, as one study noted, "students in affluent suburban U.S. school districts score nearly as well as students in Singapore, the runaway leader on TIMSS math scores." The difference between the average science scores in poor and wealthy school districts within the United States, for instance, is four to five times as high as the difference between the U.S. and the Singaporean national average. In other words, the problem with U.S. education is a problem of inequality. This will, over time, translate into a competitiveness problem, because if the United States cannot educate and train a third of the working population to compete in a knowledge economy, this will drag down the country. But it does know what works.
The U.S. system may be too lax when it comes to rigor and memorization, but it is very good at developing the critical faculties of the mind. It is surely this quality that goes some way in explaining why the United States produces so many entrepreneurs, inventors, and risk takers. Tharman Shanmugaratnam, until recently Singapore's minister of education, explains the difference between his country's system and that of the United States: "We both have meritocracies," Shanmugaratnam says. "Yours is a talent meritocracy, ours is an exam meritocracy. We know how to train people to take exams. You know how to use people's talents to the fullest. Both are important, but there are some parts of the intellect that we are not able to test well -- like creativity, curiosity, a sense of adventure, ambition. Most of all, America has a culture of learning that challenges conventional wisdom, even if it means challenging authority." This is one reason that Singaporean officials recently visited U.S. schools to learn how to create a system that nurtures and rewards ingenuity, quick thinking, and problem solving. "Just by watching, you can see students are more engaged, instead of being sthingy-fed all day," one Singaporean visitor told The Washington Post. While the United States marvels at Asia's test-taking skills, Asian governments come to the United States to figure out how to get their children to think.
THE GRAY ZONE
The United States' advantages might seem obvious when compared with conditions in Asia, which is still a continent of mostly developing countries. Against Europe, the margin is slimmer than many Americans believe. The eurozone has been growing at an impressive clip, about the same pace per capita as the United States since 2000. It takes in half the world's foreign investment, boasts strong labor productivity, and posted a $30 billion trade surplus in the first ten months of 2007. In the World Economic Forum's Global Competitiveness Index, European countries occupy seven of the top ten slots. Europe has its problems -- high unemployment, rigid labor markets -- but it also has advantages, including more efficient and fiscally sustainable health-care and pension systems. All in all, Europe presents the most significant short-term challenge to the United States in the economic realm.
But Europe has one crucial disadvantage. Or, to put it more accurately, the United States has one crucial advantage over Europe and most of the developed world. The United States is demographically vibrant. Nicholas Eberstadt, a scholar at the American Enterprise Institute, estimates that the U.S. population will increase by 65 million by 2030, whereas Europe's population will remain "virtually stagnant." Europe, Eberstadt notes, "will by that time have more than twice as many seniors older than 65 than children under 15, with drastic implications for future aging. (Fewer children now means fewer workers later.) In the United States, by contrast, children will continue to outnumber the elderly. The United Nations Population Division estimates that the ratio of working-age people to senior citizens in western Europe will drop from 3.8:1 today to just 2.4:1 in 2030. In the U.S., the figure will fall from 5.4:1 to 3.1:1."
The only real way to avert this demographic decline is for Europe to take in more immigrants. Native Europeans actually stopped replacing themselves as early as 2007, and so even maintaining the current population will require modest immigration. Growth will require much more. But European societies do not seem able to take in and assimilate people from strange and unfamiliar cultures, especially from rural and backward regions in the world of Islam. The question of who is at fault here -- the immigrant or the society -- is irrelevant. The reality is that Europe is moving toward taking in fewer immigrants at a time when its economic future rides on its ability to take in many more. The United States, on the other hand, is creating the first universal nation, made up of all colors, races, and creeds, living and working together in considerable harmony. Consider the current presidential election, in which the contestants have included a black man, a woman, a Mormon, a Hispanic, and an Italian American.
Surprisingly, many Asian countries (with India an exception) are in demographic situations similar to or even worse than Europe's. The fertility rates in China, Japan, South Korea, and Taiwan are well below the replacement level of 2.1 births per woman, and estimates indicate that the major East Asian nations will face a sizable reduction in their working-age populations over the next half century. The working-age population in Japan has already peaked; by 2010, Japan will have three million fewer workers than it did in 2005. The worker populations in China and South Korea are also likely to peak within the next decade. Goldman Sachs predicts that China's median age will rise from 33 in 2005 to 45 in 2050, a remarkable graying of the population. And Asian countries have as much trouble with immigrants as European countries do. Japan faces a large prospective worker shortage because it can neither take in enough immigrants nor allow its women to fully participate in the labor force.
The effects of an aging population are considerable. First, there is the pension burden -- fewer workers supporting more gray-haired elders. Second, as the economist Benjamin Jones has shown, most innovative inventors -- and the overwhelming majority of Nobel laureates -- do their most important work between the ages of 30 and 44. A smaller working-age population, in other words, means fewer technological, scientific, and managerial advances. Third, as workers age, they go from being net savers to being net spenders, with dire ramifications for national savings and investment rates. For advanced industrialized countries, bad demographics are a killer disease.
The United States' potential advantages today are in large part a product of immigration. Without immigration, the United States' GDP growth over the last quarter century would have been the same as Europe's. Native-born white Americans have the same low fertility rates as Europeans. Foreign students and immigrants account for 50 percent of the science researchers in the country and in 2006 received 40 percent of the doctorates in science and engineering and 65 percent of the doctorates in computer science. By 2010, foreign students will get more than 50 percent of all the Ph.D.'s awarded in every subject in the United States. In the sciences, that figure will be closer to 75 percent. Half of all Silicon Valley start-ups have one founder who is an immigrant or a first-generation American. In short, the United States' potential new burst of productivity, its edge in nanotechnology and biotechnology, its ability to invent the future -- all rest on its immigration policies. If the United States can keep the people it educates in the country, the innovation will happen there. If they go back home, the innovation will travel with them.
Immigration also gives the United States a quality rare for a rich country -- dynamism. The country has found a way to keep itself constantly revitalized by streams of people who are eager to make a new life in a new world. Some Americans have always worried about such immigrants -- whether from Ireland or Italy, China or Mexico. But these immigrants have gone on to become the backbone of the American working class, and their children or grandchildren have entered the American mainstream. The United States has been able to tap this energy, manage diversity, assimilate newcomers, and move ahead economically. Ultimately, this is what sets the country apart from the experience of Britain and all other past great economic powers that have grown fat and lazy and slipped behind as they faced the rise of leaner, hungrier nations.
LEARNING FROM THE WORLD
In 2005, New York City got a wake-up call. Twenty-four of the world's 25 largest initial public offerings that year were held in countries other than the United States. This was stunning. The United States' capital markets have long been the biggest in the world. They financed the turnaround in manufacturing in the 1980s and the technology revolution of the 1990s, and they are today financing the ongoing advances in bioscience. It is the fluidity of these markets that has kept American business nimble. If the United States is losing this distinctive advantage, it is very bad news.
Much of the discussion around the problem has focused on the United States' regulation, particularly post-Enron laws such as Sarbanes-Oxley, and the constant threat of litigation that hovers over businesses in the United States. These obstacles are there, but they do not really get at what has shifted business abroad. The United States is conducting business as usual. But others are joining in the game. What is really happening here, as in other areas, is simple: the rise of the rest. The United States' sum total of stocks, bonds, deposits, loans, and other financial instruments -- its financial stock, in other words -- still exceeds that of any other region, but other regions are seeing their financial stock grow much more quickly. This is especially true of the rising countries of Asia, but even the eurozone is outpacing the United States. Europe's total banking and trading revenues, $98 billion in 2005, have nearly pulled equal to the United States' revenues. And when it comes to new derivatives based on underlying financial instruments such as stocks or interest-rate payments, which are increasingly important for hedge funds, banks, and insurers, London is the dominant player already. This is all part of a broader trend. Countries and companies now have options that they never had before.
In this and other regards, the United States is not doing worse than usual. It functions as it always has -- perhaps subconsciously assuming that it is still leagues ahead of the pack. U.S. legislators rarely think about the rest of the world when writing laws, regulations, and policies. U.S. officials rarely refer to global standards. After all, for so long the United States was the global standard, and when it chose to do something different, it was important enough that the rest of the world would cater to its exceptionality. The United States is the only country in the world other than Liberia and Myanmar that is not on the metric system. Other than Somalia, it is alone in not ratifying the Convention on the Rights of the Child. In business, the United States did not need to benchmark. It was the one teaching the world how to be capitalist. But now everyone is playing the United States' game, and playing to win.
For most of the last 30 years, the United States had the lowest corporate tax rates of the major industrialized countries. Today, it has the second highest. U.S. rates have not gone up; others have come down. Germany, for example, long a staunch believer in its high-taxation system, has cut its rates in response to moves by countries to its east, such as Austria and Slovakia. This kind of competition among industrialized countries is now widespread. It is not a race to the bottom -- Scandinavian countries have high taxes, good services, and strong growth -- but a quest for growth. U.S. regulations used to be more flexible and market-friendly than all others. That is no longer true. London's financial system was overhauled in 2001, with a single entity replacing a confusing mishmash of regulators, which is one reason that London's financial sector now beats out New York's on some measures. The entire British government works aggressively to make London a global hub. Regulators from Warsaw to Shanghai to Mumbai are moving every day to make their systems more attractive to investors and manufacturers. Washington, by contrast, spends its time and energy thinking of ways to tax New York, so that it can send its revenues to the rest of the country.
Being on top for so long has its downsides. The U.S. market has been so large that Americans have assumed that the rest of the world would take the trouble to understand it and them. They have not had to reciprocate by learning foreign languages, cultures, or markets. Now, that could leave the United States at a competitive disadvantage. Take the spread of English worldwide as a metaphor. Americans have delighted in this process because it makes it so much easier for them to travel and do business abroad. But it also gives the locals an understanding of and access to two markets and cultures. They can speak English but also Mandarin or Hindi or Portuguese. They can penetrate the U.S. market but also the internal Chinese, Indian, or Brazilian one. Americans, by contrast, have never developed the ability to move into other people's worlds.
The United States is used to being the leading economy and society. It has not noticed that most of the rest of the industrialized world -- and a good part of the nonindustrialized world as well -- has better cell-phone service than the United States. Computer connectivity is faster and cheaper across the rest of the industrialized world, from Canada to France to Japan, and the United States now stands 16th in the world in broadband penetration per capita. Americans are constantly told by their politicians that the only thing they have to learn from other countries' health-care systems is to be thankful for their own. Americans rarely look around and notice other options and alternatives, let alone adopt them.
Learning from the rest is no longer a matter of morality or politics. Increasingly, it is about competitiveness. Consider the automobile industry. For more than a century after 1894, most of the cars manufactured in North America were made in Michigan. Since 2004, Michigan has been replaced by Ontario, Canada. The reason is simple: health care. In the United States, car manufacturers have to pay $6,500 in medical and insurance costs for every worker. If they move a plant to Canada, which has a government-run health-care system, the cost to them is around $800 per worker. This is not necessarily an advertisement for the Canadian health-care system, but it does make clear that the costs of the U.S. health-care system have risen to a point where there is a significant competitive disadvantage to hiring American workers. Jobs are going not to low-wage countries but to places where well-trained and educated workers can be found: it is smart benefits, not low wages, that employers are looking for.
For decades, American workers, whether in car companies, steel plants, or banks, had one enormous advantage over all other workers: privileged access to American capital. They could use that access to buy technology and training that no one else had -- and thus produce products that no one else could, and at competitive prices. That special access is also gone. The world is swimming in capital, and suddenly American workers have to ask themselves, What can we do better than others? It is a dilemma not just for workers but for companies as well. When American companies went abroad, they used to bring with them capital and know-how. But when they go abroad now, they discover that the natives already have money and already know how.
There really is not a Third World anymore. So what do American companies bring to Brazil or India? What is the United States' competitive advantage? This is a question few American businesspeople thought they would ever have to answer. The answer lies in something the economist Martin Wolf noted. Economists used to discuss two basic concepts, capital and labor. But these are now commodities, widely available to everyone. What distinguishes economies today are ideas and energy. A country can prosper if it is a source of ideas or energy for the world.
DO-NOTHING POLITICS
The United States has been and can continue to be the world's most important source of new ideas, big and small, technical and creative, economic and political. (If it were truly innovative, it could generate new ideas to produce new kinds of energy.) But to do that, it has to make some significant changes. The United States has a history of worrying that it is losing its edge. Today's is at least the fourth wave of such concern since World War II. The first was in the late 1950s, a result of the Soviet Union's launching of the Sputnik satellite. The second was in the early 1970s, when high oil prices and slow growth convinced Americans that Western Europe and Saudi Arabia were the powers of the future. The third one arrived in the mid-1980s, when most experts believed that Japan would be the technologically and economically dominant superpower of the future. The concern in each of these cases was well founded, the projections intelligent. But none of the feared scenarios came to pass. The reason is that the U.S. system proved to be flexible, resourceful, and resilient, able to correct its mistakes and shift its attention. A focus on U.S. economic decline ended up preventing it.
The problem today is that the U.S. political system seems to have lost its ability to fix its ailments. The economic problems in the United States today are real, but by and large they are not the product of deep inefficiencies within the U.S. economy, nor are they reflections of cultural decay. They are the consequences of specific government policies. Different policies could quickly and relatively easily move the United States onto a far more stable footing. A set of sensible reforms could be enacted tomorrow to trim wasteful spending and subsidies, increase savings, expand training in science and technology, secure pensions, create a workable immigration process, and achieve significant efficiencies in the use of energy. Policy experts do not have wide disagreements on most of these issues, and none of the proposed measures would require sacrifices reminiscent of wartime hardship, only modest adjustments of existing arrangements. And yet, because of politics, they appear impossible. The U.S. political system has lost the ability to accept some pain now for great gain later on.
As it enters the twenty-first century, the United States is not fundamentally a weak economy or a decadent society. But it has developed a highly dysfunctional politics. What was an antiquated and overly rigid political system to begin with (now about 225 years old) has been captured by money, special interests, a sensationalist media, and ideological attack groups. The result is ceaseless, virulent debate about trivia -- politics as theater -- and very little substance, compromise, or action. A can-do country is now saddled with a do-nothing political process, designed for partisan battle rather than problem solving.
It is clever contrarianism to be in favor of sharp party politics and against worthy calls for bipartisanship. Some political scientists have long wished that U.S. political parties were more like European ones -- ideologically pure and tightly disciplined. But Europe's parliamentary systems work well with partisan parties. In them, the executive branch always controls the legislative branch, and so the party in power can implement its agenda easily. The U.S. system, by contrast, is one of shared power, overlapping functions, and checks and balances. Progress requires broad coalitions between the two major parties and politicians who will cross the aisle. That is why James Madison distrusted political parties, lumping them together with all kinds of "factions" and considering them a grave danger to the young American republic.
Progress on any major problem -- health care, Social Security, tax reform -- will require compromise from both sides. It requires a longer-term perspective. And that has become politically deadly. Those who advocate sensible solutions and compromise legislation find themselves being marginalized by their party's leadership, losing funds from special-interest groups, and being constantly attacked by their "side" on television and radio. The system provides greater incentives to stand firm and go back and tell your team that you refused to bow to the enemy. It is great for fundraising, but it is terrible for governing.
THE RISE OF THE REST
The real test for the United States is the opposite of that faced by Britain in 1900. Britain's economic power waned even as it managed to maintain immense political influence around the world. The U.S. economy and American society, in contrast, are capable of responding to the economic pressures and competition they face. They can adjust, adapt, and persevere. The test for the United States is political -- and it rests not just with the United States at large but with Washington in particular. Can Washington adjust and adapt to a world in which others have moved up? Can it respond to shifts in economic requirements and political power?
The world has been one in which the United States was utterly unrivaled for two decades. It has been, in a broader sense, a U.S.-designed world since the end of World War II. But it is now in the midst of one of history's greatest periods of change.
There have been three tectonic power shifts over the last 500 years, fundamental changes in the distribution of power that have reshaped international life -- its politics, economics, and culture. The first was the rise of the Western world, a process that began in the fifteenth century and accelerated dramatically in the late eighteenth century. It produced modernity as we know it: science and technology, commerce and capitalism, the agricultural and industrial revolutions. It also produced the prolonged political dominance of the nations of the West.
The second shift, which took place in the closing years of the nineteenth century, was the rise of the United States. Soon after it industrialized, the United States became the most powerful nation since imperial Rome, and the only one that was stronger than any likely combination of other nations. For most of the last century, the United States has dominated global economics, politics, science, culture, and ideas. For the last 20 years, that dominance has been unrivaled, a phenomenon unprecedented in history.
We are now living through the third great power shift of the modern era -- the rise of the rest. Over the past few decades, countries all over the world have been experiencing rates of economic growth that were once unthinkable. Although they have had booms and busts, the overall trend has been vigorously forward. (This growth has been most visible in Asia but is no longer confined to it, which is why to call this change "the rise of Asia" does not describe it accurately.)
The emerging international system is likely to be quite different from those that have preceded it. A hundred years ago, there was a multipolar order run by a collection of European governments, with constantly shifting alliances, rivalries, miscalculations, and wars. Then came the duopoly of the Cold War, more stable in some ways, but with the superpowers reacting and overreacting to each other's every move. Since 1991, we have lived under a U.S. imperium, a unique, unipolar world in which the open global economy has expanded and accelerated. This expansion is driving the next change in the nature of the international order. At the politico-military level, we remain in a single-superpower world. But polarity is not a binary phenomenon. The world will not stay unipolar for decades and then suddenly, one afternoon, become multipolar. On every dimension other than military power -- industrial, financial, social, cultural -- the distribution of power is shifting, moving away from U.S. dominance. That does not mean we are entering an anti-American world. But we are moving into a post-American world, one defined and directed from many places and by many people.
There are many specific policies and programs one could advocate to make the United States' economy and society more competitive. But beyond all these what is also needed is a broader change in strategy and attitude. The United States must come to recognize that it faces a choice -- it can stabilize the emerging world order by bringing in the new rising nations, ceding some of its own power and perquisites, and accepting a world with a diversity of voices and viewpoints. Or it can watch as the rise of the rest produces greater nationalism, diffusion, and disintegration, which will slowly tear apart the world order that the United States has built over the last 60 years. The case for the former is obvious. The world is changing, but it is going the United States' way. The rest that are rising are embracing markets, democratic government (of some form or another), and greater openness and transparency. It might be a world in which the United States takes up less space, but it is one in which American ideas and ideals are overwhelmingly dominant. The United States has a window of opportunity to shape and master the changing global landscape, but only if it first recognizes that the post-American world is a reality -- and embraces and celebrates that fact.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2009 6:56:31 GMT 9
Executive Compensation: What Obama's Plan Means The Administration's attempt to deal with excessive pay is more about procedure than substance and will allow most companies to self-govern By Ben W. Heineman Jr. www.businessweek.com/managing/content/feb2009/ca2009026_208794.htm?chan=rss_topStories_ssi_5Managing History No Friend to Obama Exec Comp Plan Fixing Executive Compensation Excesses Executive Compensation: What Obama's Plan Means Layoffs: Stopping Survivor Guilt Don't Let Top Talent Get Away Story Tools post a comment e-mail this story print this story order a reprint suggest a story digg this save to del.icio.us linkedin connections Despite headlines along the lines of "Obama Caps Exec Pay," the Administration's executive compensation initiative sets relatively few fixed, substantive requirements for most companies receiving funds under the Troubled Asset Relief Program (TARP). Primarily, it imposes procedural requirements. To wit: that boards of directors and senior executives develop positions on pay levels, on whether compensation creates undue risk, on "clawbacks" of pay for financial misstatements, and come up with policies on luxury items—and then disclose the results and the reasoning; seek shareholder approval in some instances; and have CEOs certify company compliance with the new approach. TARP Forces Company Hands The new compensation rules appropriately force TARP companies to focus on some of the issues that caused the financial meltdown and to make their answers transparent in the belief that in this climate, excess pay will invite public or shareholder denunciation. These proposals should be seen as just the opening regulatory shot in what will be a months-long or even multiyear debate on a variety of regulatory mechanisms—such as capital requirements, a product approvals process, an enhanced Fed role in evaluating risk to the financial system—that would limit or constrain business decision-making. These various regulatory responses would seek to address the immediate causes of the financial-sector meltdown that has thrown the global economy into crisis: e.g., the failure of risk functions; internal conflicts of interest rather than checks and balances; leadership failures; and a lax culture. Business must ultimately address the root causes: a failure to balance risk-taking with risk management, and to fuse high performance with high integrity. In addition to opening the "deal with the causes" debate, the executive comp reforms are a necessary political precondition for using the second tranche of TARP money to deal with the direct effects of the meltdown—lack of credit and liquidity—and to gain support for the stimulus package. Given the public's white-hot anger over the financial sector's unwillingness or inability to ease credit since TARP I and seemingly tone-deaf acts by corporations receiving taxpayer dollars (indiscriminate use of corporate jets, for example), the forthcoming proposals on TARP II will likely be dead on arrival if they don't appear to be tough on executive compensation. Senator McCaskill's Hard Cap The reforms also provide a more moderate alternative to any number of draconian and ill-conceived provisions that could be attached to the stimulus package in the Senate, such as Senator Claire McCaskill's proposal to set a hard cap of $400,000 (the same as the President's salary) on total compensation for all employees of every institution receiving funds under TARP. With its emphasis on procedural requirements, the Administration is being political in another sense. By leaving it to boards, senior officers, and shareholders to address issues, design programs, and make disclosures, the Administration for now avoids imposing a set of detailed, substantive rules whose effects will be uncertain, and allows the private sector to develop a variety of responses appropriate to each corporation. These responses will then be considered as part of a longer-term regulatory reform process (also announced this week) for the alignment of compensation with proper risk management and long-term value and growth. The main provision from the Administration illustrates the problems of applying fixed, substantive rules in complex circumstances. For companies receiving future "exceptional financial assistance" from TARP, pay for senior executives is capped at $500,000 and additional compensation may be provided through restricted stock that vests only after the government is repaid (or other negotiated conditions, as yet undefined, are satisfied).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2009 7:00:03 GMT 9
Executive Compensation: What Obama's Plan Means (page 2 of 2)
Managing History No Friend to Obama Exec Comp Plan Fixing Executive Compensation Excesses Executive Compensation: What Obama's Plan Means Layoffs: Stopping Survivor Guilt Don't Let Top Talent Get Away Story Tools post a comment e-mail this story print this story order a reprint suggest a story digg this save to del.icio.us linkedin connections This "exceptional assistance" is defined as special deals negotiated one-on-one with companies, such as those made with AIG (AIG), Citigroup (C), and Bank of America (BAC), though the new rules apply only to future special arrangements.
This prospective "hard" cap may only apply to a few companies in the future (and only if there are more special negotiations), and it will not apply to many executives who were part of the problem in the past because the government cannot unilaterally modify their contracts.
Who Would Run Bank of America? The Administration contends that allowing restricted stock on top of the $500,000 cap will create incentives for sound risk management. But senior executives in future "exceptional" cases may have to wait for an indeterminate period before repayment can occur and restricted stock vests. Or they may decide to take actions to pay back the government that are not the best deployment of capital in terms of accelerating vesting. Amid such limits and uncertainties, will troubled institutions be able to attract new talent—people not implicated in the past mistakes—to provide critical leadership?
For example, if Bank of America needed new "exceptional assistance" under TARP and if CEO Ken Lewis were asked to leave, could a new executive team be assembled for $500,000 per person and a very uncertain payday in restricted stock?
For companies participating in TARP's "generally available capital access programs" (under which the same terms apply to all recipients), the $500,000 cap and restricted-stock rules may be avoided if they disclose compensation arrangements and explain why the comp plans do not encourage "excessive and unnecessary risk-taking." Thus, for "regular TARP recipients," there will likely be no cap—just more complex disclosure language.
Time for "Say on Pay" In addition, if requested by shareholders (a virtual certainty), regular TARP recipients will have to submit these alternative pay arrangements to shareholders for nonbinding "say on pay" votes. Such "say on pay" proposals are likely to be approved by shareholders of regular TARP recipients in any event. (The average vote in favor of such proposals in all sectors in 2008 before the meltdown was more than 40%—and a number of companies have already adopted such a process.) Whatever the pros and cons of "say on pay," its time has clearly come in financial services.
Regular TARP recipients must also review and disclose reasons that the compensation arrangements "do not encourage excessive and unnecessary risk-taking"—not just for executives but for all employees, such as floor-traders.
In addition, regular TARP recipients must have "clawback" provisions relating to their top 25 "senior executives" that allow the companies to recover bonuses and incentive compensation from those who "knowingly engaged in providing inaccurate information relating to financial statements or performance metrics used to calculate their own incentive pay." Again, this requirement reflects an existing trend. Per 2008 proxy statements, 27 of the Dow 30 companies had clawback provisions. If the Administration is concerned about integrity, it should require companies to broaden this clawback provision to include any intentional violation of law.
Finally, in response to the political uproar, the initiative requires the boards of regular TARP recipients to adopt a policy on luxury items such as private aviation and office renovations; to require CEO certification for items outside the policy; and to make the policy public. (All these procedural requirements are final and have immediate effect on any new "exceptional assistance" companies—but these rules for regular TARP recipients won't take effect until after a short notice-and-comment period.)
Key Executive Compensation Questions Whether these executive compensation provisions help address the fundamental issue of balancing risk-taking with risk management and fusing high performance with high integrity turns on a number of questions. They include:
• Will the TARP companies address issues creatively and in good faith?
• Will their disclosures be clear and coherent (and not obfuscatory boilerplate)?
• Will public and shareholder response be rational in a time of tremendous economic dislocation?
• Will these reforms fit coherently with other complex financial changes being considered to ensure the safety and soundness of the global financial system, such as structural changes in regulatory institutions, capital requirements, regulatory approval of certain products, and more disclosure of off-balance-sheet items and for private equity/hedge funds?
• Will talent move to boutiques, foreign banks, or other non-TARP financial companies?
• And, at the end of the day, will there be the right balance between public and private roles, between innovation and creativity and risk management and discipline?
The generally sensible procedural requirements (if not the rigid substantive requirements) in the Administration's executive compensation reforms are just the first chapter—maybe even just the first paragraphs—in what will be a long and complex story about the governmental responses to the risk and integrity causes of the financial crisis.
Ben W. Heineman Jr. is GE's former senior vice-president for law and public affairs and is currently a senior fellow at Harvard Law School and at Harvard's Kennedy School of Government. He is the author of the book High Performance with High Integrity (Harvard Business Press, June, 2008).
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:33:53 GMT 9
ĐỌC “NHẬT KÝ AN LỘC” CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN QUÝ
Đặng Trần Huân
Nhật Ký An Lộc của bác sĩ Nguyễn Văn Quý mới ra mắt thật sự là một cuốn nhật ký vì được viết từ 30 năm trước, ngay chính những ngày tác giả có mặt trong thời gian tử chiến 1972 ở Bình Long.
Nguyễn Văn Quý cho biết ông chỉ có ý định viết cho mẹ, các em ông và nếu có con để chúng biết về những gian khổ của ông tại Bình Long trong thời gian chiến cuộc đỏ lửa 1972 trên chiến trường Nam Việt Nam (trang 342). Nhật Ký An Lộc tuy không ghi từng ngày, tháng nhưng đầy đủ diễn tiến ba tháng tỉnh lỵ An Lộc bị bao vây, bị cô lập nhưng đã cầm cự quyết liệt và cuối cùng chiến thắng.
Nếu cuốn sách chỉ thuần túy là một cuốn nhật ký về đời riêng của mình từ lúc ấu thơ cho tới hiện tại thì cũng chả có gì đáng nói vì một bác sĩ tuy là một khuôn mặt cộng đồng nhưng Nguyễn Văn Quý không phải là một danh ca hay một siêu sao điện ảnh có đời tư sôi nổi, có những cuộc tình bốc cháy mà mà những người ái mộ tò mò muốn biết.
Mở trang đầu Nhật Ký An Lộc ta có thể tưởng như đang đi vào cuộc đời tác giả từ thuở ấu thơ. Nhưng phần này chi vỏn vẻn có vài dòng mà thôi. Sau đó nội dung sách cuốn hút ta từ khi lúc sinh viên Nguyễn Văn Quý tuy đã tốt nghiệp bác sĩ và đủ điều kiện nhưng không xin miễn dịch mà xin nhập ngũ Khóa 10 Y Sĩ Trưng Tập. Ông nhận công tác tại bệnh viện tiểu khu Bình Long ở tỉnh lỵ An Lộc ngày 13. 4. 71 và đúng ngày đó một năm sau Việt cộng tấn công Bình Long mà ông cho là với ông đó là một trùng hợp lạ lùng.
Nhật Ký An Lộc được viết với giọng văn rất thành thực, chân tình và nội dung bao chùm nhiều chi tiết khi anh hùng, khi bi thảm, đau thương trong mặt trận An Lộc mà trước nay chưa nghe ai kể.
Trong vòng vây, bác sĩ Quý tậân tình cứu chữa các chiến hữu với những điều kiện ngặt nghèo về phương tiện, có lúc ông đã phải dùng dây ny lông cột miệng bao cát để làm chỉ may vết thương sau giải phẫu và đại úy Nghi là người đầu tiên chịu sự thí nghiệm này, rồi tới các trường hợp sau nữa đều an toàn (tr. 288). Những đoạn mô tả sự tận tâm của người y tá Biệt Động Quân với đồng đội thương binh từ đơn vị xa tới (tr.115), điều ki?n làm việc trong bệnh viện khi không đèn, không điện thoại là những cảnh rất xúc động. Hãy nghe ông kể về một trường hợp thương tâm trong hàng trăm tường hợp:
Một người lính mặt mũi đầy cát bụi tới kéo áo tôi lại gần một chiếc cáng. Anh ta có vẻ xúc động lắm, nước mắt quanh tròng.
- Bác sĩ cứu giùm thiếu úy đại đội trưởng của em... Tụi nó còn nằm như rạ ngoài kia.
Tôi quỳ xuống bên băng ca. Một người nằm thiêm thiếp, mặt mũi tái xanh chắc chắn bị kích xúc rất nặng. Tôi thấy hai cẳng chân bị thương nát tới đầu gối. Vết thương đầy bùn đất. Cẳng chân trái chỉ còn là một đống thịt xương vụn nát dính vào đầu gối bằng mấy sợi gân trắng hếu. Nhìn nét mặt người thương binh thấy hơi quen quen. Tôi ngó xuống bảng tên: UY. Tôi ngửng phắt lên nắm vai anh lính:
- Có phải thiếu úy đại đội trưởng 212 không?
- Dạ phải.
Thôi rồi, tôi thấy lạnh buốt trong lòng. Một niềm thương cảm xót xa làm tôi thấy cay ở mắt. Tháng trước gặp Uy lần đầu tiên, ăn nhậu với Uy. Uy nói tôi và Uy có họ với nhau. Uy là em họ tôi ... Trong bữa tiệc tôi không tiện hỏi kỹ. Tôi nghĩ bao giờ về Sài Gòn hỏi lại người nhà cho chắc chắn (tr. 141, 143)
Thế rồi dù tận tình cứu chữa tác giả cũng đành phải cắt một phầân ba trên cẳng ngừơi em họ gặp lại ở chiến trường.
Trong hoàn cảnh bề bộn với những ca mổ, vị bác sĩ tuy mang trách nhiệm nặng nề nhưng có lúc lo sợ như ai, một tình cảm của thất tình.
Và hãy nghe tác giả dí dỏm nói tới cái sợ của người nữõ tù binh cộng sản về đạn của đồng chí của cô:
Những hôm bị pháo kích tôi đi ngang qua phòng cô ta thấy cô ta mặt mũi xanh rờn vì sợ, chui xuống gầm giường bệnh, một cánh tay vẫn bị khóa chặt vào thành giường, khiến mọi cử động của cô rất khó khăn. Tôi nghĩ bụng thì ra cô cũng sợ pháo của các đồng chí của cô (tr.157).
Trước ngày An Lộc bị bao vây, Ban An Ninh tỉnh giải tới bệnh việân tiểu khu hai tù binh bị thương có một nữ tuổi trạc 20. Tác giả đã mổ cho họ,ï săn sóc họ như người dân không phân biệt bạn, thù. Sau khi mổ họ được đưa ra phòng hậu giải phẫu.
Người nữ tù binh tỏ vẻ hoài nghi những người bắt giữ mình nhưng dần dần rồi hiểu và khi giải trở lại an ninh tỉnh cô đươc gỡ còng và đi lại tự do như mọi người thì cô vui vẻ trở lại.
Trong những trường hợp khác bộ đội Việt cộng bị còng nhưng chắc là các cấp chỉ huy của họ nói là "tự nguyện". Một hôm lợi dụng pháo kích lắng dịu, bác sĩ Quý và bác sĩ Diệm đi lên hướng Lộc Ninh quan sát chiến trường. Sau khi đi qua một dẫy mộ của chiến sĩ Biệt Cách Dù, ông chú ý tới những xác xe tăng địch gần đó.
Tôi chợt thấy một xe tăng tương đối còn mới dù đã qua gần một tháng trời mưa nắng... Tôi nhảy xuống xe, tiến về chiếc xe tăng. Vì chiếc xe bị bom thả trúng, chúi mũi xuống hố bom cũng khá sâu. Tôi thấy pháo tháp hơi bật ra về phía bên trái. Tôi và ông Diệm trèo lên nhìn vào bên trong chiếc xe tăng. Tôi thấy một bộ xương người ngay chỗ của tài xếâ. Chiếc xương sọ gục xuống bên tay lái. Cổ xương chân trái có một sợ dây xích cột vào cần lái xe (tr. 367, 368).
Thử hỏi giá dụ anh chàng lái xe tăng đó vào được An Lộc trong chiến thắng liệu cấp chỉ huy của anh trong cơn lửa đạn đã quăng mất tiêu chùm chìa khóa thì ai mở "cái còng tự nguyện" cho anh để ăn mừng?
Trong tình trạng bị bao vây đường tiếp tế duy nhất là thả dù, có những lần đồâ tiếp tế rơi vào vùng địch, đồ tiếp tế quá nặng đè chiến sĩ ta chết bẹp, hoặc đang thiếu lương thực quân sĩ reo mừng ùa ra tìm thực phẩm trong cái dù vừa rớt xuống khi mở ra lại thấy toàn là đạn và lựu đạn (tr.162).
Bên cạnh những nấm mồ chiến sĩ biệt kích đươc đồng đội không ngại hiểm nguy chôn trang trọng bên lề đường thì có những xác khác cả người lớn, trẻ em, quan, lính dồn về nhà xác của bệnh việân. Mới đầu ở nhà quàn, rồi sang tới nhà xe, rồi tới sân sau bệnh viện và ngang hông phòng y tế. Xác để lâu ngày xình thối và lên tới con số 300. Cuối cùng đành phải giải quyết bằng cách cho xe ủi đất đào hai hố lớn, mang nhữõng xác chết lên xe rồi hất xuống những hố đó. Đấy là ở tiểu khu. "Ngoài ngã ba Xa Cam dọc theo vườn cao su, trung đội chung sự tiểu khu còn đào thêm một hố chôn tập thể ... nghe nói hố đó chứa chừng gần một ngàn xác" (tr. 209).
Thấy những thương vong của quân dân ta như vậy ai cũng phải đau lòng mặc dù công trường 9 của địch bao vây An Lộc đã bị B. 52, phi pháo và viện binh ta tiêu diệt chỉ còn hơn một tiểu đoàn (tr. 313).
oOo
Miệt mài làm không kịp những việc chuyên môn của mình, nhưng lúc thảnh thơi, lúc nghỉ ngơi tác giả cũng có nhiều nhận xét tinh tếâ về sự việc quanh mình. Ông phục tổng thống Thiệu có trí nhớ khá tốt khi tác giả trả lời là đã phục vụ tại bệnh viện tiểu khu Bình Long thời gian tác giả làm trưởng đoàn chiến sĩ xuất sắc năm 1972 trong dịp kỷ niệm cách mạng 1 tháng 11. Tổng thống ngạc nhiên nói với tác giả "Tôi cũng lên đó, hình như tôi không gặp bác sĩ ". Ông Thiệu nói đúng, khi ông thăm mặt trận An Lộc tháng 7. 72 là tuần lễ Nguyễn Văn Quý được đi phép (tr. 420). N?u tác giả phục ông Thiệu có trí nhớ tốt trong cuộc tiếp tân này, thì trong dịp đó Nguyễn Văn Quý cũng nhậân thấy trong phái đoàn nữ sinh đón chiến sĩ có cả “nữ sinh lớn” là nghệ sĩ Mộng Tuyền mà tổng thống soắn suýt, cười nói hơi lâu (tr.422).
Lần trung tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh phó quân khu tới ủy lạo chiến sĩ, ông chỉ bắt tay bác sĩ Quý mà không nói một tiếng nào. Tác giả cho là rất lạ nhưng vẫn phải mời vị chỉ huy sang thăm phòng mổ của mình. Khi gõ cửa bên trong có tiếng xột xoạt lạ tai. Khi cửa mở thì trước mắt phái đoàn là:
Căn phòng mà tôi cứ yên chí là đã dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp và không có ai thì ngay trước mắt mọi người là một cái võng mắc xéo qua phòng trên cái bàn mổ dã chiến, vợ anh Sáu Xòm mà cái bụng chửa sắp đến này sanh to vượt ngực đang ngồi trên võng nhìn ra cửa tỉnh bơ (tr. 344).
Tác giả chỉ còn biết xin lỗi trung tướng và đã hiểu sự lạnh lùng của ông. Bác sĩ Quý biết là không thể và không đủ thì giờ để thanh minh nỗi oan Thị Kính của mình. Giá trong một cuốn hồi ký của một tác giả khác chắc chẳng ai dại gì mà kể những chuyện vô ý đó trên mặt giấy.
Là một cuốn sách đầu tiên, đã viết đã từ 30 năm tất nhiên không thể tránh được những câu trùng lặp hay những đoạn không rõ ràng gây thắc mắc.
Xin dẫn chứng một ví dụ: Khi nói tới trung tá Nguyễn Đức Liên, Nguyễn Văn Quý viết:
Nhìn năm ngôi sao đỏ chót thẳng hàng trên túi áo của anh tôi phục lắm. Trên túi áo tôi chỉ có một ngôi sao (tr. 409).
Chính tôi đã sững sờ nghĩ thầm sinh viên y khoa Nguyễn Văn Quý chỉ mới tương đương cấp thiếu úy mà sao lại đeo sao. Và trong ngành y QLVNCH đã có ông trung tướng nào đâu mà ông Nguyễn Đức Liên đeo tới 5 sao thống tướng. Tôi bày tỏ thắc mắc này với một vài anh bạn trong ngành quân y mới biết là khi học y khoa các sinh viên đeo sao theo năm học: năm thứ nhất một sao, năm thư hai hai sao v . v ... Như vậy tránh làm sao cho độc giả dân sự hoặc ngay cả sĩ quan quân đội nhưng không rõ về ngành quân y khỏi thắc mắc. Đúng là một cuốn nhật ký của riêng mình nên Nguyễn Văn Quý đã coi đó là chuyện bình thường ai cũng phải biết, ai cũng phải nhớ nội quy của Trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, thời Việt Nam Cộng Hòa.
Về chính tả cũng còn sót nhiều lỗi chẳng hạn như: nước mắt đoanh tròng (tr. 141), bụng chữa (tr. 344), Leon Tolstoil (tr. 343) ... Nên viết nước mắt lưng tròng hay quanh tròng, bụng chửa với dấu hỏi (?). Về tên Tolstoi có trở ngại khi viết bằng tiếng Pháp với hai chấm trên chữ "I", đề nghị nên thống nhất dùng tiếng Anh Leo Tolstoy như khi viết về các tác giả ngoại quốc khác. Nhưng cái lỗi ấn loát có thể khiến tác giả buồn là tất cả các trang trong sách đều viết đúng tên NguyễnVăn Quý với chữ Y dài thì chình ình ở ngoài bìa tên tác giả viết thành Quí với I ngắn. (Ở Việt Nam Bộ Giáo Dục cộâng sản từ lâu rồi đã ra hẳn một văn bản quy định trừ một số ít từ còn đa s? Y dài bắt buộc phải thay bằng I ngắn).
Bỏ qua những lỗi lầm nho nhỏ, Nhật Ký An Lộc không còn là một cuốn hồi ký riêng tư mà chính là một phóng sự sống ba tháng trong địa ngục An Lộc. Đọc Nhật Ký An Lộc ta không gập những chuyện khô khan, chuyện đao to búa lớn của chiến lược, chiến thuật mà bị lôi cuốn vào những chuyện nhỏ hàng ngày bằng một giọng kể rất thành thực và chân tình.
Trong mười năm qua tôi đã đọc vài chục hồi ký bằng Việt ngữ viết về cuộc chiến Việt Nam nhưng chưa cuốn nào khiến tôi thích thú như Nhật Ký An Lộc mặc dù hành văn đôi lúc khiến ta phải chau mày nhưng nội dung phong phú, chân thật, không giấu diếm, không phô trương, mà chỉ là sự thật, những sự thật rất mộc mạc, không trang điểm, không cường điệu.
Nhật Ký An Lộc dày 470 trang kể cả 22 trang hình màu và đen trắng chụp ngay tại chiến trường hồi đó. Giá bán tại Mỹ: 24 mỹ kim. Liên lạc Nhà xuất bản Văn Nghệ, Westminster, CA, Hoa Kỳ. Phôn: (714) 934 - 8574.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:35:15 GMT 9
www.bbc.com/vietnamese/multimedia/2011/09/110925_hoangducnha_part2.shtmlĐỌC BÁO DÙM CÁC BẠNKý Điệu phụ trách Quyển sách của cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn cao Kỳ "Buddha’s Child" – My Fight to Save Việt Nam vừa tung ra thì có sóng gió liền. Từ Âu Châu và Hoa Kỳ. Dĩ nhiên tại Hoa Kỳ nhiều Việt kiều phản ứng nhiều nhất. Chê nhiều hơn khen. Quyển này in ra và được viết bằng Anh Ngữ viết chung với Marvin J. Wolf dầy 376 trang do côngty in ấn St.Martin’s Press vào tháng 5 năm 2002. Bạn cầm quyển sách này, hình Nguyễn cao Kỳ mặc đồ complet đen ghi những dòng là "Former Prime Minister of South Việt Nam " (nghĩa là Thũ tướng) chúng ta suy nghĩ điều gì? Chức vụ Thủ tướng đối với người ngoại quốc là chức vụ không quan trọng gì lắm nếu chính phủ đó còn có Tổng thống cao hơn, còn nếu ở chế độ có Vua như bên Anh thì chức vụ Thủ tướng mới là quan trọng, như Thủ tướng Churchill hay Tony Blair gần đây. Họ dịch hay để danh từ Thủ tướng như vậy không đúng lắm. Chức vụ cao nhất và cuối cùng của Nguyễn cao Kỳ là Phó Tổng thống VNCH người cao hơn là Nguyễn văn Thiệu với chức vụ Tổng thống VNCH. Sau đây là mộït phần trích dịch từ báo Thời Luận số ra ngày July 14,2002. Người viết là Vũ thụy Hoàng. Vũ thụy Hoàng viết 2 quyển sách "Saigon tuyết trắng: Việt Nam tháng 4,1975 và Quê hương thương ghét: Nỗi lòng người Việt hải ngoại". Cựu Thủ tướng Nguyễn cao Kỳ, người hùng từng chế ngự sân khấu chính trị Miền Nam Việt Nam giữa thập niên 1960, tự nhận đã phạm một lỗi lầm lớn nhất trong đời "mà tới nay ngày nào cũng hối tiếc. Lỗi lầm ấy là vào năm 1967 ông đã rút lui không ứng cử Tổng thống và sau đó đứng Phó Tổng thống trong liên danh ứng cử với Trung tướng Nguyễn văn Thiệu. Theo ông Kỳ vào năm 1965-1967 với chức vụ Thủ tướng, ông đã nắm giữ hết quyền bính trong tay, điều hành guồng máy chính phủ, quyết định các vụ bổ nhiệm và thuyên chuyển, còn ông Thiệu là nguyên thủ quốc gia mà chẳng có quyền hành gì, chỉ có hư vị mà thôi. "Quốc trưởng Thiệu, một Trung tướng đã thi hành lệnh của tôi". Thiếu tướng Kỳ viết khi kể lại vụ ông quyết định cách chức Tổng trưởng Quốc Phòng của Trung tướng Nguyễn hữu Có rồi bảo ông Thiệu làm. Năm 1967 ông Kỳ có ý định ứng cử Tổng thống với tư cách đại diện quân đội và tin chắc ông sẽ thắng. Ông ngạc nhiên khi thấy Ông Thiệu loan báo cũng tranh cử. Thấy nguy cơ thất bại nếu quân đội có hai ứng cử viên đối địch nhau, một số tướng lãnh đã gặp riêng ông Thiệu để yêu cầu ông Thiệu đừng ra tranh cử. Trung tướng Nguyễn đức Thắng, người ủng hộ ông Kỳ đã gặp Trung tướng Thiệu để ngăn cản và hai người to tiếng “suýt đánh nhau” (theo sách viết). Ông Kỳ và nhiều tướng lãnh trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia lúc đó họp bàn và quyết định cho tướng Thiệu giải ngũ, đưa đại tướng Cao văn Viên lên chức Quốc trưởng. Khi quyết định này sắp sửa được loan báo và thấy ông Thiệu "sắp khóc" ông Kỳ đột nhiên nói "Tôi sẽ trở về Không Quân. Các ông có thể cử Trung tướng Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống." Lời nói bất chợt trong khoảng "một phần mười ngàn giây đồng hồ, nhanh hơn nháy mắt" và đến nay vẫn còn là một bí hiểm đối với tôi theo lời thuật của Kỳ. Ông cũng không hiểu tại sao ông lại quyết định như vậy. Ông giải thích có lẽ thấy ông Thiệu khóc và vì lòng từ tâm của con nhà Phật mũi lòng thương hại mà ông quyết định như vậy. Ông cho rằng nếu lúc đó ông ngậm miệng thì thế giới đã đổi khác. Sau khi ông Kỳ cho biết không ra ứng cử, một số tướng lãnh đã yêu cầu ông đứng chung liên danh với ông Thiệu. Trung tướng Hoàng xuân Lãm đã bóc lon ra, nếu ông Kỳ không chịu đứng chung liên danh với ông Thiệu. Ông Kỳ rút cục đồng ý. “Đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi. Từ năm 1975 đến nay không một ngày nào mà tôi không hối tiếc". Vụ ông Kỳ đứng Phó cho ông Thiệu làm nhiều người lúc đó ngạc nhiên. Sách báo hồi ấy như sau này thường cho rằng Mỹ thích ông Thiệu hơn Kỳ nên đã ngầm vận động để ép hai Tuống Thiệu Kỳ đứng chung với nhau. Tướng Kỳ phủ nhận điều này. Ông Kỳ cũng tự trách mình ngốc biết bao khi ông còn bỏ qua cơ hội khác vào lúc chót để ngăn chặn ông Thiệu làm Tổng thống. Ông kể lại khi liên danh Thiệu Kỳ đắc cử với 35% số phiếu bầu, việc hợp thức hóa cuộc bầu cử tại Quốc Hội. Mật Ước: Cuốn sách cũng tiết lộ rằng Ông Thiệu sau khi được ông Kỳ đứng chung liên danh, đã bị buộc phải ký một "mật ước" với nhóm tướng lãnh thuộc một Hội Đồng mà không phải Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia mà cũng không phải Hội Đồng Quân Lực. Chỉ tướng nào ký tên mới biết có mật ước và có Hội Đồng. Mật Ước định rõ hội đồng được chọn lựa úng cử viên ra tranh cử và ứng cử viên khi đắc cử rồi phải luôn luôn tuân hành đường lối của Hội đồng. Giữ chức chủ tịch của hội đồng bí mật này, ông Kỳ cho rằng ông có quyền hơn ông Thiệu. Hẳn vì có mật ước này má quyền hành và thế mạnh của ông Kỳ vẫn tồn tại nhiều tháng sau khi ông Thiệu đắc cử Tổng thống. Nội các đầu tiên dưới thời Tổng thống Thiệu do Thủ tướng Nguyễn văn Lộc cầm đầu, cũng như những chức vụ then chốt trong guồng máy chánh quyền, đều chịu ảnh hưởng của ông Kỳ. Nhưng mật ước về sau không còn hiệu lực. Khi đắc cử rồi, ông Thiệu có Hiến Pháp hậu thuẫn, đã dần dần không đếm xỉa gì đến mặt. Ông Kỳ và nhóm tướng lãnh trong hội đồng bí mật mật ước không dám đem ra tiết lộ vì đi ngược quyền lợi Hiến Pháp, phản dân chủ làm trò cười cho thiên hạ và Mỹ bất bình. Ở đây ông Kỳ nhìn nhận thua mưu ông Thiệu. Ông Kỳ cũng hối tiếc cả vụ ông không ra tranh cử với ông Thiệu năm 1971. Năm đó ông Kỳ bị Tối cao pháp Viện loại ở vòng niêm yết lần đầu vì không hội đủ chữ ký của các địa diện dân cử theo luật bầu cử, chỉ có hai ứng viên đối đầu là đương kim Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và Đại tướng Dương văn Minh. Nhưng ông Minh sau đó rút lui vì cho rằng ông Thiệu đã bố trí sẵn bộ máy gian lận bầu cử. Tối cao Pháp Viện được Thiệu vận động để tránh nạn độc diễn nên để lại tên ông Kỳ ứng viên Tổng thống. Nhưng ông Kỳ cũng rút lui mặc dầu được đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đề nghị góp hai triệu mỹ kim vào quỹ tranh cử. Ông Kỳ cũng nói rằng nếu ông ra tranh cử thì ông cũng có cơ may thắng cử vì ông được lòng dân chúng và ông Thiệu không dám gian lận. Ông cũng viết ông Thiệu thắng cử năm 1971 đã định đoạt số phận của Việt Nam. Cuốn sách nhiều trang đã mô tả ông Thiệu là người xảo quyệt, một chính trị gia một tay mưu mẹo nhưng không phải là một tay chiến đấu. Theo ông Kỳ, ông Thiệu sợ ông cũng như sợ Mỹ vì biết tôi có thể đảo chánh và bắn ông ta nếu ông ta làm nguy hại quốc gia. Ông tố ông Thiệu là tay tham nhũng và bổ nhiệm tay chân vào những chức vụ kiếm nhiều tiền. Cuốn sách ra đời 7 tháng sau ông Thiệu từ trần, nên độc giả không có dịp nghe lời đáp của ông Thiệu. Bay bướm: Là tự truyện, cuốn sách đã trình bày ông Kỳ là con người can đảm, dám làm dám nói, thích đương đầu với khó khăn, giỏi đối đáp với các tay chống đối, những người viễu tình. Ông phi bác những từ gọi ông là đồ tể, giết trẻ con, hại phụ nữ. Ông nhận mình là "người không suy nghĩ nhiều, thay vì bàn luận và tham khảo tôi hành động". Theo lời Kỳ thì nhiều lãnh tụ quốc gia như quốc vươngTháilan, thủ tướng Úc đại Lợi, Tổng thống Tưởng giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Tổng thống Đại hàn Phác chính Hy cho tới Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, Richard Nixon, cả nghĩ sĩ William Fullbright nổi tiếng chống đối chiến tranh Việt Nam và Ngoại trưởng Henry Kissinger người đi thương thuyết đi tới hòa ước Paris năm 1973. Ông Kỳ kể lại vụ ông cách chức Trung tướng Nguyễn chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu I và vụ ông đích thân chỉ huy cuộc hành quân chớp nhoáng để dẹp lực lượng chống đối Phật Giáo ở miền Trung năm 1966. Vì một số binh sỉ Mỹ không được thông báo nên suýt xảy ra cuộc đụng độ. Quân hai bên đã hờm súng sẵn và máy bay Việt-Mỹ đã quần thảo nhau trên trời. Đại tướng Lewis Walt tư lệnh Mỹ ở quân Khu I vội vã xin gặp Kỳ ở phi trường Đà Nẵng. Tướng Kỳ đã làm bẻ mặt tướng Walt bằng lời giảng giải về hệ thống chỉ huy khiến tướng Walt đổ mồ hôi hột. Tướng Kỳ tự coi là: "lãnh tụ Việt Nam đầu tiên không tham nhũng, không làm giàu cho bạn bè hoặc gia đình, không nhận hối lộ, không buôn lậu". Ông lập luận rằng ông được toàn quyền sử dụng quỹ đen tương đương với 46 triệu Mỹ kim, cần gì phải buôn lậu. Ông kể các phi công Việt Nam thường mua hàng hóa như radio, đồng hồ về bán kiếm lời, nhưng có lần qua Singapore ông chỉ mua cho mẹ một chiếc radio mà thôi. Ông cũng kể việc cách chức một Tổng Giám Đốc Hõa Xa của người anh họ vì những bê bối tại Hỏa Xa, còn việc không bổ nhiệm một người bà con làm Đại sứ vì người đó không đủ khã năng. Qua cuốn sách người đọc được biết tướng Kỳ là một phi công ưu tú và tài ba, từng đỗ đầu khóa học tại Marakech, từng tham gia những phi vụ nguy hiểm thả biệt kích ra miền Bắc Việt Nam thời Tổng thống Diệm. Ông đã trỗ tài lái máy bay để tránh Radar của Bắc Việt bằng cách bay sà sà mặt biển khiến trùm tình báo Mỹ ở Việt Nam hồi đó là William Colby xanh mặt. Lúc phi cơ đáp xuống, Colby bảo ông Kỳ “lần sau đi với Kỳ, tôi phải mang theo cần câu”. Trong sách này viết cho biết Kỳ là tay mê gái, một tay ăn chơi hào hoa bay bướm. Hồi đi học lái máy bay ở Avord bên Pháp, ông thường cùng bạn bè đến Paris vào cuối tuần, lai vãng các hộp đêm, ăn xài rộng rãi nên được các tiệm gọi là "Hoàng Tử". Một lần ông dành dụm được 200 ngàn quan Pháp, định mua xe citroen. Lúc đến hộp đêm được xếp ngồi hàng đầu sát sân khấu, thấy cô ca sỉ mới và xinh đẹp, ông liền chạy ngay đến tiệm kim hoàn mua chuỗi hột xoàn về tặng cô. Nhìn cô ca sỉ lên sân khấu đeo chuỗi hột xoàn, ông liền gọi champagne đãi hết mọi người trong tiệm. Sau đó ông dẫn cô đi chơi mấy nơi khác. Đến khi ông về, bạn bè mới hỏi xe thì ông nói uống hết tiền xe rồi. Tại Việt Nam ông rủ cô chiêu đãi viên Hàng không Việt Nam đi chơi, nhưng cô mắc bận phải làm trên chuyến bay đi Đàlạt. Ông liền lấy khu trục cơ skyraider mà ông chưa hề lái thử bao giờ để theo chuyến bay Hàng Không Việt Nam đó, để phi cơ bay sát chiếc kia, hai cánh chỉ cách nhau vài phân khoảng 10 phút cho tới khi khuôn mặt xinh đẹp của cô chiêu đãi viên hiện ra cửa sổ phi cơ thì ông mới chịu bay về. Lần khác ông lái trực thăng xà thấp ở khu đường Lê Lợi, quạt tung bụi và lá làm giao thông tắc nghẽn chỉ cốt cho cô bồ biết là ông đến trễ hẹn. Sáng sau Thủ tướng Nguyễn Khánh gọi ông Kỳ vào la lối và bảo tìm xem tên phi công nào gây náo loạn Trung tâm Saigon tống cổ nó ra khỏi Không Quân và nhốt tù nó. Khi nghe ông Kỳ trả lời "chính tôi mà", tướng Khánh liền đổi giọng "lại anh nữa! Anh làm gì ở đó vậy?" Tại Mỹ, John Sununu Tham Mưu Trưởng Tòa Bạch Ốc thời Goerge W. Bush bị mất chức vì dùng phi cơ của Tòa Bạch Ốc về thăm gia đình. Tổng Giám Đốc FBI William S. Sessions bị xa thải vì dùng công xa chở vợ đi mua sắm (năm 1993). Cuốn sách "Buddha’s Child" còn vài tiết lộ khác. Nhóm Tướng Lãnh Trẻ sau khi bị Đại Sứ Maxwell Taylor xài xể về vụ giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia vào tháng 12 năm 1964 đã định cùng tướng Khánh mở cuộc họp báo để trục xuất tướng Taylor về nước. Cuộc họp báo chừng 10 phút thì Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon liền năn nỉ Đại tướng Khánh đừng đuổi Đại sứ Taylor đi. Vợ Ngoại trưởng Trần bửu Kiếm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị bắt giam về tội gián điệp. Colby CIA Mỹ liền đến năn nỉ Kỳ nói rằng bà ta bằng lòng làm gián điệp hàng hai. Tướng Kỳ trong cuốn sách cho rằng ông được nhiều người yêu mến cả trong lẫn ngoài nước và ngay trong cả Cộng Đồng Việt Nam. Kỳ hy vọng "một ngày nào đó Việt Nam sẽ lại cần tôi". Ông cũng mong có một ngày được trở về nước để giúp kiến thiết quốc gia và xây dựng lại quê hương. Ông cho hay "sức khỏe rất tốt, năng lực còn cao, ăn uống vẫn như trẻ và cân nặng như hồi còn làm Tư Lệnh Không Quân." Ông hiện làm công việc tham vấn và thích chơi golf.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:35:58 GMT 9
Vài sự sai lầm:
1.- “Tướng Nguyễn Khánh cầm quyền được 9 ngày thị bị phe Dương văn Minh đẩy đi. Khánh trốn khỏi Saigon và năm tuần sau trở lại nắm chánh quyền "Thật sự là sau khi hạ bệ Dương văn Minh, thì 9 ngày sau Nguyễn Khánh lập Nội Các, đặt Ông Minh làm Quốc Trưởng cho hư vị mà thôi. Bảy tháng sau tướng Khánh bỏ lên Đàlạt viện cớ dưỡng bệnh, sau những cuộc biểu tình xuống đường của sinh viên Phật Giáo, Công Giáo tiếp theo vụ Hiến Chương Vũng Tàu. Nguyễn xuân Oánh được cử làm Thủ tướng. Nhưng một tuần sau Tướng Khánh từ Đàlạt trở xuống Saigon nắm lại quyền, giải tán Tam Đầu Chế gồm có Dương văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần thiện Khiêm được thành lập trước đó một tháng.
2.- Tướng Kỳ cứu tướng Khánh trong vụ đảo chánh chống tướng Khánh
Khi tướng Khánh bị xe tăng đuổi ở Tân sơn Nhứt, tướng Kỳ đã kéo tướng Khánh lên máy bay chạy thoát trong gang tất trong lúc xe tăng đậu cản ở phi đạo. Đây là sự sai lầm. Xe tăng đậu cản ở phi đạo là do tướng Lâm văn Phát và Phạm ngọc Thảo vào năm 1965 tháng 2, chớ không phải cuộc đảo chánh của tướng Dương văn Đức vào tháng 9 năm 1964.
3.- Ông Trần văn Hương làm Thủ tướng tháng 12 năm 1964. Ông Hương được Thượng Hội Đồng cử làm Thủ tướng tháng 10 năm 1964, nhưng tướng Khánh và nhóm tướng Trẻ giải tán Thượng Hội Đồng thì bị Đại sứ Taylor kêu lên hết mà khiển trách, lúc đó không tướng nào nói tiếng Anh sõi ngoại trừ Nguyễn cao Kỳ.
4.- Tướng Cảnh Sát Nguyễn ngọc Loan bị thương vài ngày sau trận Mậu Thân. Thật sự tướng Loan bị thương khi Việt Cộng tấn công đợt 2 vào Saigon vào tháng 5 năm Mậu Thân.
5.- Tướng Kỳ lập trường Y khoa đầu tiên tại Việt Nam. Thật sự nơi này Kỳ nói xạo vì ai ai cũng biết trường Y khoa lập đầu tiên tại HàNội và có từ thời Pháp.
6.- Quyển sách này nói đến bà Nhu Trần lệ Xuân mà Kỳ cho tên họ mới là Chương xuân Lệ (Trần văn Chương là cha ruột của Trần lệ Xuân)
7.- Ngoại trưởng Trần văn Đôn thật sự là Ngoại trưởng Trần văn Đỗ.
8.- Trưởng phái đoàn Việt Nam hòa đàm tại Paris là Phạm đăng Lâm chớ không phải Lâm văn Phát, Lâm văn Phát là tướng đảo chánh năm 1964.
Điều kỳ lạ là hai tháng trước khi sách của Nguyễn cao Kỳ tung ra "Buddha’s Child" thì Hà Nội tung ra sách về Nguyễn cao Kỳ với nhan đề là "Tướng Râu Kẽm" dầy 423 trang, pha trộn óc tưởng tượng vào số sự kiện có thực của bối cảnh chiến tranh. Sách này viết theo nửa hư nửa thật nên không có sự giá trị nào về tài liệu. Sách này nói Ông Kỳ là một anh hùng hão hán, ngổ ngáo, hiếu chiến, ăn nói trịch thượng và có duyên và gọi Ông Kỳ là "giặc nhà Trời."
Trong phần giới thiệu, cuốn sách này (sách Tướng Râu Kẽm) nói bao quát về tướng Kỳ có đoạn tướng Kỳ thổ lộ với bạn bè là "muốn trở về Việtnam sống những ngày cuối đời trên mãnh đất quê hương." Trong phần kết luận của cuốn sách viết "Tội phản bội Tổ quốc, phản bội dân tộc là tội bất lương nhất, ô nhục nhất và bị đời đời nguyền rủa”. Hà Nội cho in cuốn sách này là do trùng hợp hay chủ ý?
Như nhiều cuốn tự truyện khác hay Hồi ký khác, cuốn "Buddha’s Child" ngoài việc trình bày thân thế, sự nghiệp, tư tưởng và suy nghĩ của tác giả, đã cho người đọc biết thêm nhiều về cá tính của Tướng Kỳ, đồng thời rọi thêm ánh sáng vào vài khía cạnh một số biến cố ở ViệtNam khoảng giữa thập niên 1960. (Vũ thụy Hoàng)
Sau đây là lời bình luận của Người Thứ Năm của Tuần báo Đại Chúng mà Ký Điệu ghi lại cho bạn đọc rõ:
1.- Nguyễn cao Kỳ lúc làm Thủ tướng tuổi rất trẻ nếu so với lịch sử Thế Giới thì người trẻ nhất là Alexandre the Great, người kế là Nguyễn cao Kỳ của Miền Nam ViệtNam.
Tuổi quá trẻ mà quyền nghiêng thiên hạ của Nguyễn cao Kỳ không phải là do sự tài giỏi mà do nhiều sự may mắn phi thường của lá số Nguyễn cao Kỳ hay là vận số Miền Nam cần phải như vậy mới có kết cuộc thê thảm như vậy hay chăng?
2.- Nguyễn cao Kỳ thật sự giống như Lữ Bố thời Tam quốc vậy. Lữ Bố cũng do sự phản phúc cha nuôi mà thành danh trên thiên hạ vào thời đó, Nguyễn cao Kỳ cũng không tránh khỏi chuyện này, Kỳ phản Nguyễn Khánh và rất nhiều bạn chiến đấu nhưng khác màu áo, nhưng kết cuộc Kỳ không bị rơi đầu như Lữ Bố. Tào Tháo bắt được Lữ Bố và nói với tả hữu "hắn giỏi nhưng là tên phản thần, không dung mạng được". Như trường hợp Ngụy Diên cũng vì phản mà bị chặt mất đầu bởi cận tướng.
Nguyễn văn Thiệu không đủ khả năng như Tào Tháo nên để yên Kỳ và Kỳ làm nhiều chuyện bất lường hậu quả.
3.- Nguyễn cao Kỳ có hạnh kiểm và đạo đức thấp kém mà những danh tướng không bao giờ nên bắt chước chuyện này. Lúc đắc thời thì xua đuổi bà vợ gốc nghề "Cave" mà Kỳ tường lấy tiền tiêu xài không biết sót. Hai đứa con Kỳ học tại trường Taberd Saigon, rất phách lối, hàng ngày giờ ra chơi thường lấy "walky talky" (máy vô tuyến như CB hiện giờ) mà các Thày dòng rất bất bình, nhưng sau cùng cũng bị "sortie" vì học lực quá kém, y như con cưng của Huỳnh văn Cao vậy.
4.- Bà vợ mới sau khi lên thì chồng đã có uy quyền hiển hách làm nghề chiêu đãi viên, đã có đời chồng nhưng Kỳ đoạt mất. Rồi khi qua Hoa Kỳ thì bà này ở tại Santa Ana, California và lấy một tay tài xế của Kỳ và mở cây săng Arco, tên Trung sĩ này ăn chơi nên bà chiêu đãi viên này phải bán luôn.
5.- Kỳ lấy vợ bạn thân khi làm nghề đánh cá tại Texas rồi sau đó hình như bà này mở một quán ăn tại Rosemead, California lấy tên là "Miss Saigon". Sau đó bán nốt vì Kỳ đánh bài rất dữ tại Casino Las Vegas. Rồi khai phá sản cũng vì vụ này mà ra.
6.- Kỳ khi lên ngôi Thủ tướng, quyền nghiêng thiên hạ thì Kỳ muốn sa thải tất cả những công chức mà Kỳ cho là trên 45 tuổi cần phải thay hết vì già nua, chậm chạp. Nên Kỳ không có một bộ óc lão thành mà hướng dẫn, và như vậy đám Kỳ phải thân bại danh liệt.
7.- Cùng một tuổi trẻ mà quyền nghiêng thiên hạ là Alexandre the Great và Kỳ. Alexandre the Great có tôn sùng một vị hiền triết làm Thầy chỉ hướng và tư tưởng đó là Aristote, còn Kỳ thì không có một ông Thầy nào chỉ dẫn tư tưởng của Kỳ nên Kỳ bị thân bại danh liệt.
8.- Lúc Kỳ bị Thiệu đá văng khỏi dinh Độc Lập, thì Kỳ lui về chốn hang Hùm là Căn cứ Phi Long gần phi trường Tân sơn Nhứt. Thiệu không làm hại được, nhưng Thiệu cần phải đề phòng mọi chuyện của Kỳ, nên Thiệu nhờ Phó Tổng thống Trần văn Hương vào Phi Long nằm nhờ chữa bệnh mắt, lúc đó có bệnh xá Hoa Kỳ rất nổi tiếng về mắt. Trần văn Hương vào căn cứ Phi Long của Nguyễn cao Kỳ và mật báo đến gắn dụng cụ nghe lén từ tư dinh Kỳ bằng đường điện thoại. Nên mọi chuyện gì Kỳ nói thì Thiệu đều nghe hết. Nhờ Nguyễn cao Kỳ chia trí thông minh của Nguyễn văn Thiệu nên Nguyễn văn Thiệu đã thiếu trí tuệ cứu nước nay bị chia thêm trí nên không còn đủ sáng suốt mà suy nghĩ mọi đường đi nước bước của Việt Cộng và CSBV HàNội. Đáng lý Hà Nội nên đề cao Kỳ với sự ăn nói ẩu tả và việc làm bất ngờ nên Thiệu không còn lý trí mà tính ván bài của Hà Nội tung ra.
9.- Nguyễn cao Kỳ nói qua Phi Châu học tại trường huấn luyện không quân và đỗ đầu thủ khoa khóa phi công. Nhưng Kỳ không cho biết khóa đó dạy lái máy bay loại gì?
Chớ Người Thứ Năm biết đời Phi Công mà dân lái máy bay rất khâm phục là "Năm Con Phượng Hoàng của VN về Phi Công". Năm con Phượng Hoàng đó là "Phan phụng Tiên, Lưu kim Cương, Lê bá Định..." mà không có tên Kỳ. Năm Phụng Hoàng này tốt nghiệp rất cao điểm về loại Skyraider (Đại tá Lê bá Định có lần đóng trên Pleiku. Phi trường Cù Hanh). Kỳ lái Skyraider lần đầu tiên để cua “hostess de l’air” suýt đụng với phi cơ Hàng Không Dân Sự Air Việt Nam và kéo theo nhiều cái chết vô tội của hành khách trên đó. Nên chắc chắn Kỳ qua Phi Châu học trường dạy lái phi cơ tại Marakech chắc chắn không phải học lái phi cơ Skyraider và bảo đảm không có loại phản lực cơ A-37 hay F-5 được. Có thể học lái loại phi cơ Cessna gọi là máy bay "Bà già" mà ta thường thấy bay rề rề trên bầu trời Miền Nam VN.
10.- Một người lính chiến đấu ngoài biên ải, áo quân chua lè so với một vị tướng Thành Đô áo quần bảnh bao, hoa hòe hoa sói, lưng đeo khẩu súng ngắn nòng rulô và cổ choàng khăn phula màu tím, bay xong một phi vụ thì vào khiêu vũ trường mà nhảy đầm canh thâu suốt sáng. Không hiểu chúng ta nên kính trọng người nào đây? Tướng Kỳ nên nhớ đất nước chiến tranh đời trai bắt buộc phải thi hành nghĩa vụ quân sự mà cứu quê hương, cho nên mầu áo binh chủng nào cũng nghĩa vụ nặng như nhau. Một anh lính nghĩa quân mà tuân hành nhiệm vụ canh gác hay đánh trả sự tấn công của quân địch đáng khâm phục hơn một tướng lãnh áo quân bảnh bao hay đánh quần vợt tennis trong lúc quân sĩ của mình đang đánh những trận nguy hiểm tại HạLào hay đã chận được sự chiếm đóng Kontum của địch quân mà vị tướng cẫu trệ khác đang nhảy đầm với vũ nữ từ Saigon lên ăn khao tại Vũ trường Phượng Hoàng Pleiku năm nào (xin hỏi lại tướng Lý tòng Bá thì rõ tên tướng cẫu trệ này). Tướng Kỳ thuộc loại tướng kiêu binh kiêu tướng. Như ngày xưa có một vị tướng rất trẻ tài cao như Kỳ vậy họ là Lâm, phó nguyên soái Quốc dân Đảng, vì hùng khí ngu muội của mình mà bắt giam Tướng Tưởng giới Thạch đang đánh Mao trạch Đông gần tàn hơi, nên quân Mao từ thua chuyển thành thắng. Chính tên tướng này làm thay đổi lịch sự Trung Hoa từ tốt sang xấu.
11.- Tướng Kỳ ít đọc sách nên không thấy những bức hình lịch sử Trung Hoa. Nhìn tướng Tưởng giới Thạch, áo quần bảnh bao, uy dũng hào khí ngất trời, giầy ống đen rất đẹp cưỡi con ngựa trắng và áo choàng màu nâu xám hào khí ngất trời. Còn một bên là một đám lính khố rách áo ôm, y như đám người homeless vô gia cư của Mao Trạch Đông, điều đáng buồn chính đám lính khố rách áo ôm này rượt vị tướng áo quần bảnh bao cưỡi ngựa trắng là Tưởng giới Thạch chạy gần chết đuối qua eo biển Bạch Mã Đài Loan. Đám lính khố rách áo ôm này họ có một lòng kỷ luật và tuân hành thượng cấp, còn tướng Kỳ thì không. Tướng Kỳ đúng là một mẫu tướng kiêu hãnh tự cao tự đại và bất tuân quân phong quân kỷ và mệnh lệnh của Thượng Cấp. Lúc đó Kỳ nắm quyền tư lệnh Không quân VNCH và Hoa Kỳ không có trang bị loại vũ khí phòng không nên Kỳ mặt sức tự cao tự đại với huynh đệ chi binh của mình và Đồng Minh, nhưng gặp bên địch với đầy đủ vũ khí phòng không và tên lửa thì khác.
12.- Lúc Kỳ còn làm Phó Tổng thống và được chia cơ ngơi tại Dinh Độc Lập nên Kỳ thường dùng trực thăng riêng của mình mà gầm rú động cơ khác thường chọc giận Bà Thiệu nên ngày kia bị Thiệu đá cho ra rìa, nếu lúc đó Kỳ suy nghĩ với cương vị của mình làm cách nào mà chống được địch thủ bên phương Bắc thì khác.
13.- Khi Nguyễn cao Kỳ được giao trách nhiệm qua Paris làm trưởng đoàn đàm phán thì vợ chồng Kỳ ăn mặc rất đắt tiền, nào là mua cho vợ một bộ áo ngự hàn bằng lông chồn trắng, thật sự Miền Nam VN khí hậu rất nóng về mùa Hè và mùa Đông cũng không đến nổi phải dùng áo lạnh da chồn trắng làm chi. Và báo chí Tây Phương mỉa mai là "liệu lương của Phó Tổng thống không biết bao nhiêu tháng mới đủ mua cái áo đắt tiền này cho vợ”. Lúc đó Kỳ chế ra một bộ áo một loại áo riêng cho mình gọi là "áo lãnh tụ". Loại áo bắt chước hoàn toàn loại áo của Chu ân Lai vẽ kiểu ra, là cổ ngắn, màu đen, có 4 túi. Trong khi đó nhóm Bà Bình và tên Lê đức Thọ thì ăn mặc giản dị, Bà Bình mặc áo dài, vải rất tầm thường và khi rãnh thì nhóm này đánh cờ tướng với nhau còn nhóm Kỳ thì đang trượt trên sàn nhảy Dancing Paris sang trọng. Mặc dầu biết nhóm Bà Bình và nhóm Lê đức Thọ đang giả hình. Nhưng những người có đầu óc thương nước thì không khỏi đau lòng Sỉ Diện Quốc Gia bị tên tướng Kỳ và bà vợ Hostess de l’air tàn phá sạch bách. Mặc dầu kế của Nguyễn văn Thiệu đẩy Nguyễn cao Kỳ sang Paris cho nhục cặp vợ chồng này, nhưng Thiệu cũng nên nghĩ đừng nên đem Quốc Thể VN mà giao cho tên này làm dơ bẩn được. Hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu.
14.- Nguyễn cao Kỳ trong quyển sách tự thuật là không tham nhũng, không buôn lậu chuyện này Kỳ nói cho con nít tin mà thôi. Người Thứ Năm có một người Bác họ quen. Vị này làm trong Kiểm Hải Quan Thuế Toàn Quốc lúc đó đang làm việc tại Cảng Tân sơn Nhứt, nhóm Quan Thuế này được mật tin là có một cuộc chuyển hàng "á phiện 60 kg từ Lào về Tân sơn Nhứt". Vị này đón phi cơ hàng không dân sự Air ViệtNam từ Vạn tượng về, nhưng không có phi vụ ngày này. Và đúng 6 giờ chiều thì có một chuyến phi cơ từ Vạn Tượng về Tân sơn Nhứt và có đem 60 kg Á Phiện nhưng phi cơ này là phi cơ quân sự nên không đáp tại Tân sơn Nhứt mà đáp vào phi trường quân sự Phi Long kế bên. Và cũng chính vị này khui ra vụ Dân biểu VNCH đi công tác đem lịch ở truồng về VN. Tên dân biểu này là Nhữ văn Úy mà ngày xưa tướng Đỗ cao Trí đòi đấu súng bắn nhau như bên Tây Phương ngày xưa khi danh dự bị xúc phạm.
15.- Cô con gái Kỳ tốt nghiệp Đại học Hoa Kỳ chắc chắn học xong lớp Politic-Science (mà University bắt buộc phải có). Một cảnh tượng tướng Nguyễn ngọc Loan dùng súng lục rulô ngắn nòng mà bắn một tù binh Việt Cộng đang bị còng tay quặt sau lưng... sách vở có in hình này và tất cả phim Hoa Kỳ nói về chiến tranh Việt Nam đều có chạy hình ảnh này. Tướng Loan đáng lẽ phải ra Tòa Án Quân Sự hay Tòa Đại Hình Liên Hiệp Quốc về tội bắn tù binh trong tay, trái với Hiệp Ước Geneve về Tù Binh. Lúc đó chúng tôi đang học lớp này thì những người bạn học cùng lớp khác màu da hỏi như sao "Anh thấy hình ảnh này nói điều gì?" Cứng họng không trả lời được, Danh dự Quốc Gia và niềm hãnh diện của người lính chiến VNCH bị tên tướng Loan này chà đạp. Tướng Loan với chức vụ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH có muôn ngàn cách thủ tiêu tên này, nhưng đừng để hình ảnh mọi rợ này in mãi mãi trên sách vỡ và Video trên toàn Thế giới. Cô con gái Kỳ nên biết tướng Loan này là cộng sự viên đắc lực nhất của tướng Kỳ. Chủ sao thì tớ vậy, làm mọi chuyện nhục quốc thể trước khi suy nghĩ cho kỹ mọi hậu sự ra sao.
16.- Quyển sách tự thuật của Tướng Kỳ mang tên là "Buddha’s Child" là sai hoàn toàn từ nghĩa bóng đến nghĩa đen. Danh từ chung “Con Cầu Tự” là dành cho gia đình khá giả giàu có theo Đạo Phật ngoài Bắc thì nhiều hơn. Gia đình khá giả hay giàu có sợ không con nối dõi mà hưởng của giàu có này, nên thường lên Chùa khấn vái Phật mà xin được có con trai nối dõi. Còn gia đình nghèo, cơm không đủ ăn, nghe nói bà vợ có thai thì hoảng hồn lo sợ hơn là vui mừng nên gia đình nghèo không có chuyện lên Chùa xin con nối dõi Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện giàu có cần con nối dõi. Người Tây Phương họ trực tánh khi đọc chữ "Buddha’s Child" là họ nghĩ ngay là "Con của Phật". Thật sự Thích Ca Mâu Ni khi mang danh hiệu Phật thì Ngài không có con, vì Ngài đã đoạn Dục, còn trước khi đi tu Ngài là Hoàng Tử thì Ngải có đứa con độc nhất. Sau đó đứa con trai độc nhất này đi tu theo Cha và mất sớm khi vào tuổi thanh niên. Đứa con đó tên là "La hầu La" (Lahura /sách Anh) Nhưng trong lúc tu hành Đức Phật thường gọi tên chớ không gọi là con. Như trường hợp em trai Đức Phật là Anan, Đức Phật thường nói: "Nầy! Ananta nghe người ta thường nói như vầy". Còn nghĩa thứ hai là sự hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma là từ thế kỷ 14, một vị chân tu Tây Tạng sau khi nối ngôi của Tống Cáp Ba (Tsongkhapa) tên là Gendun Drup. Vị này lập ra học thuyết: "luật tái sanh" của Đạt Lai Lạt Ma theo đó khi chết thì linh hồn vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ nhập vào đứa bé trai sơ sanh như là một hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm (Bodhisatva Avalokitsera) nên người Tây Phương sẽ nghĩ là Đạt Lai Lạt Ma đầu thai hay là con của Phật. Thật sự tại Việt Nam người ta ít gọi cậu bé "Cầu Tự" này là con của Phật hết. Người ta thường nói "Bộ mầy là con của Trời cháu của Phật phải không?". Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. Xem lại Tự điển Anh Việt và Việt Anh. Tướng Kỳ bảo đảm không thuộc về diện này theo nghĩa bóng hay nghĩa đen vì lý do đơn giản Kỳ không phải là người theo Đạo Phật nếu kể từ cấp trên của Kỳ.
17.- Trong quyển “Buddha’s Child” tướng Kỳ mong được về quê hương VN mà giúp đỡ. Thật sự hiện nay Việtnam có chương trình TOKTEN (Transfer of Knowledge Through Expatriate Nationals) do Liên hiệp Quốc đề xướng và tại Hà Nội có văn phòng tại đường Bà Triệu, cách xa không bao nhiêu Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường do Bộ trưởng Chu tuấn Nhạ cai quản. Chương trình TOKTEN này hiện nay không cần lắm cho những kỹ sư thuộc về Công Nghệ Thông Tin vì hiện nay Công ty Microsoft và Côngty Oracle đang tranh dành ảnh hưởng tại đây và trình độ Công Nghệ Thông Tin của VN rất khá cao hơn Đài Loan nếu so về Internet/ Web Sites. Và Kỳ không thuộc diện Knowledge này. Kỳ có thể bớt đánh bài tại Las Vegas mà dành tiền giúp chương trình của nữ nghệ sĩ Kiều Chinh và cựu Đại Sứ Petersen là "Một ngôi trường cho trẻ em nghèo tại Vùng khô cằn sõi đá Miền Trung" hiện nay chương trình này đang xây xong ngôi trường thứ 61 cho em nghèo tại Miền Trung. Người sáng lập chương trình này là một anh lính chiến thương phế binh Hoa Kỳ, anh bị mất đôi chân tại chiến trận Miền Trung. Anh không giận nước Việt Nam, và anh mong mõi xây được một ngôi trường nhỏ cho em nghèo VN. Anh qua đời và chương trình này được Kiều Chinh tiếp nối. Hiện nay cơ quan này đặt tại Florida/USA. Nhưng người Thứ Năm quả quyết Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện này kể cả chương trình TOKTEN và Chương Trình Một Ngôi Trường cho Trẻ Em Nghèo tại VN.
18.- Chúng tôi cũng hy vọng ngày tàn của CSVN nếu Kỳ được mời về nước giúp ý kiến. Một lời nói có thể: “Hưng Vong và Táng Quốc". Kỳ có thể về giúp Hà Nội và nói vài lời Táng Quốc thì chế độ CSVN tại Hà Nội sẽ táng theo lời nói của Kỳ và chúng ta "Tết này sẽ gặp nhau tại VN" như người Israel nói "Năm này ta sẽ gặp nhau tại Jerusalem". Chúng tôi còn nhớ lời Kỳ nói tại Hố Nai/ Saigon "Tôi không qua Mỹ vì không quen uống sữa, uống sữa sẽ đau bụng. Tôi thích ăn mắm tôm thôi.”
19.- Quyển "Buddha’s Child" nên mượn tại Thư Viện Hoa Kỳ còn nếu mua để làm của riêng và nghiên cứu thì nên mua Bộ Tam Quốc Chí có đoạn “Lữ Bố hí Điêu Thuyền" thì hay hơn.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 5, 2009 16:42:29 GMT 9
Ngô Đình Nhu: Hiệp thương Nam-BắcĐài Tiếng nói VNHN – Phỏng vấn Minh Võ Ông Ngô Đình Nhu tiếp xúc với đại diện của nước Pháp và Bắc Việt năm 1962 về vấn đề hiệp thương giữa Nam-Bắc Việt Nam. Người hỏi là nhà báo Hồng Phúc Lê Hồng Long, chủ nhiệm báo Thế Giới Ngày Nay. Cuộc phỏng vấn này đã được phát thanh ngày chủ nhật 07/10/2007 trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại. Hỏi: Trong cuộc mạn đàm giữa ông và ông Cao Xuân Vỹ đăng trên DCVOnline mới đây, ông Cao Xuân Vỹ có nói đến cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu với ông Pinay, đại diện Tổng Thống Pháp Charles De Gaulle và sau đó với Phạm Hùng, cán bộ cao cấp của Việt Cộng, sau này từng là thủ tướng Bắc Việt. Nhiều độc giả rất quan tâm đến vấn đề chính trị tế nhị này. Theo ông, các cuộc tiếp xúc này ảnh hưởng thế nào đến tình hình chính trị Việt Nam vào thời gian đó? Đáp: Theo tôi nghĩ đây là dịp để những người Mỹ không ưa Tổng Thống Diệm và đặc biệt có ác cảm với ông Nhu vin vào chuyện này để tìm cách lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa. Trong lần tiếp xúc với ông Cao Xuân Vỹ vừa qua, ông Vỹ có nói một điều không được tôi ghi trong bài đã đăng trên Đàn Chim Việt. Ông Vỹ bảo tôi, khi bàn với ông Nhu về đề nghị của Bắc Việt muốn hai miền hiệp thương, ông Pinay đã nói nửa đùa nửa thật: “Coi chừng người Mỹ họ mà biết chuyện này, họ sẽ đảo chính các ông đấy!” Dĩ nhiên một số người Mỹ trong chính quyền Kennedy đã muốn làm đảo chính từ 3 năm trước cơ. Nhưng lần này họ cũng có thêm ít nhất là một cái cớ hợp lý để giải thích với dư luận. Hỏi: Ông có thấy là hai anh em ông Diệm tự mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất không? Trước kia, năm 1955, ông Hồ đã nhiều lần đề nghị hai mìền hiệp thương để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956. Lúc ấy các ông đã cực lực từ chối. Thì tại sao bây giờ lại tán thành? Đáp: Đúng ra năm 1955 Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã từ chối vì lý do miền Bắc không có tự do, và cũng viện cớ không ký hiệp định Giơ Neo, thì không bị ràng buộc bởi hiệp định đó trong vấn đề tổng tuyển cử. Ông Diệm khi nhận lời cựu hoàng Bảo Đại về chấp chánh năm 1954, ông đã biết mình phải làm gì để cứu ít nhất nửa nước khỏi hoạ Cộng Sản, vì ông đã quá hiểu thế nào là một nền chuyên chính vô sản, và các biện pháp tàn bạo của chế độ ấy. Cho nên không thể nào ông để cho một cuộc tuyển cử không công bằng, không có tự do này đưa nốt miền Nam cho Cộng Sản Quốc Tế. Vì ông cũng biết rõ ông Hồ là tay sai của Quốc Tế CS, chẳng thực tâm yêu nước, mà chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhiều thành phần dân tộc để chiến đấu cho ảo tưởng chế độ đại đồng của Mác. Hơn nữa cũng phải nhìn nhận là lúc đầu trong những năm 1954–1955 Miền Nam còn nhiều khó khăn chồng chất. Dân số lại ít hơn miền Bắc nhiều, nếu chấp nhận tổng tuyển cử ngay thì khó thắng được. Nhưng đến năm 1963 thì miền Nam đã vượt xa miền Bắc về mọi mặt. Tôi chỉ nêu vài con số. Ví dụ số nước có tòa đại sứ ở Saigon lúc ấy là 81, gần gấp đôi số nước có bang giao với Hànội. Trong khi dân miền Bắc không đủ gạo ăn thì Saigon xuất cảng gạo, từ 70.000 tấn vào năm 1955 đã tăng lên đến 340,000 tấn xuất cảng vào năm 1962. Số lượng gia súc trong 7 năm đã tăng tới 500 lần. Thịt gia súc như heo, gà, vịt xuất cảng trong năm 1961 đã trị giá gần 140 triệu đồng (vào khỏang 4 triệu Đô la, tính theo giá chính thức là > 35 Đồng một Đôla.). Và còn nhiều ưu điểm khác không kể xiết. Sài Gòn xưa Nguồn: airsceneuk.org.uk -------------------------------------------------------------------------------- Để nói lên một cách cụ thể về cảnh thanh bình trù phú của miền Nam thời ấy tôi xin trích dẫn chỉ một đoạn vắn thôi của tác giả Hồ Sỹ Khuê, một người vốn chê ông Diệm là độc tài và kỳ thị tôn giáo, thậm chí đàn áp Phật Giáo. Ông Hồ Sỹ Khuê nói về cảnh thanh bình phồn thịnh ấy như sau. Đây tôi đọc từ cuốn sách đồ sộ của ông nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong đó có nhiều câu đại loại như thế này: “Cuộc sống hằng ngày con nhà nông không còn đầu tắt mặt tối quá đáng. Thanh niên miệt vườn dùng quen tay nên biết ham chuộng máy móc. Nhờ giao thông tiện lợi hơn xưa, nên rành cảnh sống phố phường, mà không phải so bì hơn kém. Giáo dục mở mang. Trường ốc mở rộng thêm nhiều. Trẻ em miệt vườn trước không qua bậc tiểu học, nay đi vào trung học là chuyện bình thường. Báo chí sách vở lan tràn khắp nơi, mở rộng tầm hiểu biết phổ thông. Người lớn trẻ con đều thạo tin tức thế giới và chuyện xảy ra hằng ngày trong nước. Không còn mấy ai chìm trong vòng ngu tối nữa... “Nông thôn không còn bần cố nông. Thành thị cũng không bao giờ còn gọi là vô sản được....“ Đây là một cảnh sống của dân lao động ở thành thị được ông mô tả như sau: “Tài xế tắc xi nhưng trưa đến không kể khách, nằm gác chân xem báo. Đạp xích lô nhưng mỗi chìều ngồi nhậu nhẹt lai rai bàn chuỵện thời cuộc với xóm giiềng. Những cảnh sống như thế xóa sạch mọi đẳng cấp thầy thợ trong xã hội, tạo một không khí hòa đồng vươn cao. Con em lao động đã bắt đầu vào đại học, làm giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, sánh vai cùng bạn bè đồng lứa, xuất phát từ đủ mọi thành phần xã hội.....Thực thế, dân Miền Nam thời Cộng Hòa Nhân Vị có một cuộc sống vât chất đầy đủ.... Đầy đủ. Chưa đúng. Thừa thãi.” Ông Khuê còn viết nhiều rất nhiều nữa về cảnh thanh bình phồn thịnh của miền Nam trong cuốn Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tôi nghĩ, trong cảnh phồn thịnh như thế, nông thôn không còn bần cố nông, thành thị hết vô sản, nếu hiệp thương để tuyển cử tự do miền Nam có nhiều hy vọng sẽ thắng. Hỏi: Thế còn cuộc sống ở miền Bắc thì sao? Đáp: Tôi không có số liệu chính thức.Thực ra số liệu chính thức do CS đưa ra nhiều khi cũng chẳng đáng tin. Nhưng cứ đọc mấy truyện của một số nhà văn nhà thơ thì cũng đủ thấy cuộc sống ở miền Bắc, không phải chỉ thua miền Nam, mà là rất bi đát khó có thể tưởng tượng nổi. Ví dụ chỉ cần đọc Nỗi Oan của Đào Hiếu, Con Bò Thải và Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của Phùng Gia Lộc, Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, hay Ông Tướng Về Hưu, và Con Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp thì sẽ rõ. Ngọc, vai chính trong Nỗi Oan mới 12 tuổi đã phải leo xuống giếng sâu thăm thẳm, đường lên trơn trượt để múc nước, gánh nước. Rồi khi lớn lên thấy trong làng “sao mà lắm người tự tử thế? Nhiều người tự thắt cổ. Có người nhảy xuống giếng mà chết. Người sống thì mùa đông chui vào đống lá khô cho đỡ rét... Gia đình cậu Chính của Hằng vai chính trong Thiên Đường Mù bữa ăn chỉ có một đĩa rau muống luộc và một đĩa nhộng rang hành chia ra làm 3 ô, mỗi ô chỉ có 15, 16 con bé tí bằng đầu đũa. Thằng anh chọc đũa vào phần của thằng em bị mẹ dở đầu đũa gõ vào đầu thắng anh. Thằng anh khóc ré lên... Con bò của hợp tác xã trong Con Bò Thải của Phùng Gia Lộc thì gầy nhom, chả bù cho khi nó chưa vào hợp tác xã thì béo tốt. Cái cảnh cha chung không ai khóc ở các hợp tác xã quá tàn tệ. Nếu thu hoạch có khá đôi chút thì cũng chỉ béo mấy kẻ trong ban quản trị. Xã viên vẫn đói meo. Đặc biết dân quê nghèo đến độ trẻ con đã chín mười tuổi cũng không có quần. Không chỉ có thơ của Nguyễn Chí Thiện tả trẻ con trong tù lon ton không phải mặc quần. Mà cả chuyện Cô Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp cũng tả cảnh một bé gái 12 tuổi cởi truồng cầm đầu một tóan 6,7 đứa trẻ ban đêm cũng trần truồng đi ăn trộm mía của hợp tác xã. Còn con trai mới 14 tuổi đã phải đi cầy. Mà lại còn là thợ cầy chủ lực của hợp tác xã. Tối đến về nhà lại còn phải đi đào đá ong! Trong Ông Tướng về hưu một nhân vật nói mỗi ngày trong nước có cả ngàn người chết khắc khỏai, chỉ ước được chết nhanh như lính. “Lính các anh sướng, đòm một phát. Sướng!“ Chỉ mấy hàng đã đủ đau lòng. Có lẽ tin tức tình báo cũng cho ông Diệm biết tình cảnh đó. Nên nếu hiệp thương được, mà có dịp chia bớt phần lúa gạo, vải vóc ở miền Nam cho dân quê miền Bắc, thì đã là một cử chỉ bác ái, từ thiện rồi. Hơn nữa ai cũng biết ông là một nhà ái quốc, rất thương dân. Hỏi: Ông có nghĩ rằng khi tính chuyện hiệp thương với Hồ Chí Minh, là ông Nhu đã mắc mưu trúng kế của con cáo già rồi không? Đáp: Quả quýt dầy đã có móng tay nhọn. Tôi nghĩ ông Nhu không thể không biết mưu mô của CS. Và ông cũng phải tính toán kỹ lắm trước khi dấn thân vào những cuộc tiếp xúc nguy hiểm như vậy, nhất là vào mật khu của Việt Cộng không có hộ tống vũ trang. Chắc rằng trong các cuộc thương lượng ở Paris năm trước, có các nhà lãnh đạo Pháp Quốc bảo đảm, ông Nhu đã có thể có một sự tin tưởng nào đó, cũng như phải tự tin lắm, mới giấn thân như vậy. Chứ ông Nhu không phải con người xốc nổi, làm liều. Vả lại cũng vì nhiệt tình mong ước tránh được một cuộc xung đột vũ trang rộng lớn, trong đó có thể sẽ có sự tham dự của lực lượng vũ trang đáng kinh sợ của các đại cường. Chính ông Đỗ Mậu, tác giả “hữu danh vô thực“ của cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Văn Nghệ xuất bản tại Nam Cali năm 1993) đã trích đăng một lá thư riêng của một người bạn của ông, trong đó có nói đến những lời cố Tổng Thống Diệm nói với ông Võ Như Nguyện là một đồng chí của Tổng Thống rằng, “Vả tôi với chú Nhu có ý dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp, nhưng đều là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản....“ Trong cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê tôi đã trích dẫn đầy đủ hơn và đã có lời bình. Ông Đỗ Mậu trích lại bức thư của người bạn này để chứng minh Tổng Thống Diệm có ý định thỏa hiệp với Cộng Sản, bán đứng miền Nam. Nhưng tôi lại thấy đây là bằng chứng cho thấy anh em ông Diệm thực sự yêu nước, thương dân, không muốn chíến tranh tiếp tục, mở rộng, gây thêm tang thương, chết chóc. Hỏi: Ông có nghĩ rằng, nếu anh em ông Diệm không bị giết, và Hoa Kỳ ủng hộ ông trong việc hiệp thương với Bắc Việt thì Miền Nam sẽ không bị mất vào tay Cộng Sản không? Đáp: Rất tiếc rằng lịch sử không có chữ nếu hay chữ giả sử. Hơn nữa để trả lời câu hỏi hóc búa này tôi phải tự đặt mình vào địa vị hai ông mới thỏa đáng và công bình. Nhưng lại cũng tiếc rằng tôi không phải là một chính khách, chỉ viết báo, nghiên cứu và theo rõi thời cuộc với một nhãn quan hạn chế. Có thể nào ông miễn cho tôi khỏi trả lời câu hỏi này không? Hỏi: Đã đành là thế. Nhưng ông vừa nói ông từng nghiên cứu và theo rõi thời cuộc, vậy cứ như những gì ông nghiên cứu được, ông cứ thử đưa ra một nhận định và ước đóan tương đối thực tiễn xem sao? Đáp: Đã vậy, thì xin ông cũng như qúy thính giả hãy coi như đây chỉ là phỏng định về tình hình có thể đã xảy ra trong dĩ vãng, theo nhãn quan của tôi mà thôi. Theo tôi biết thì nhiều người chê ông Diệm quá ngay thẳng dễ bị lừa. Còn ông Nhu thì quá kiêu ngạo lại có ảo tưởng. Nhưng ngược lại cũng có người khen ông Nhu là có nhiều mưu lược và trầm tĩnh. Và nhiều người hơn nữa khen ông Diệm là người có viễn kiến chính trị như một nhà tiên tri, kiến thức về chiến lược sách lược quân sự của ông cũng rất là uyên bác. Tôi chỉ xin nêu lên vài danh tánh và sự việc mà hiện tôi còn nhớ. Tôi không nhắc lại lời ca tụng của những danh nhân Mỹ như 3 vị Tổng Thống Mỹ là Dwight Eisenhower, Richard Nixon, Lyndon B. Johnson, Thống Tướng Maxwell Taylor hay đại sứ Frederick Nolting, hay nữ ký giả tên tuổi Marguerite Higgins, hay nhất là học giả, sử gia, nữ Tiến Sĩ Ellen Hammer là những người ai cũng biết là rất ngưỡng mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi chỉ xin trưng dẫn mấy nhà báo Mỹ, Anh, Pháp, Úc đã từng chỉ trích nặng nề ông Diệm là độc tài gia đình trị, và coi ông thua kém ông Hồ. Tôi muốn nói đến những Stanley Karnow, Bernard Fall, Dennis J. Duncanson, Denis Warner. Người Việt thì có ông Hồ Sỹ Khuê đã nêu trên. Tất cả những người trên đều nêu những bằng chứng cho thấy ông Diệm có một viễn kiến chính trị như nhà tiên tri. Bernard Fall đã trưng dẫn một bản tin tình báo của Pháp năm 1948 đã phúc trình rằng ông Diệm lúc ấy đã biết trước Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam, rồi Bernard Fall phê rằng viễn kiến đó rõ ràng là một lời tiên tri mà lúc ấy (1948) chẳng ai để ý. Karnow cũng khen ông Diệm đã tiên tri là phe Quốc Gia sẽ thua ... Về phía người Việt, có ông Hồ Sỹ Khuê đã nêu lên ít nhất là 3 trường hợp chứng tỏ ông Diệm nhìn trước thời cuộc như một nhà tiên tri. Riêng nhà báo Úc Denis Warner, trong cuốn The Last Confucian, --gọi ông Diệm là Nhà Nho Cuối Cùng-- đã thuật lại trường hợp ông Diệm chỉ cho ông trên bản đồ thấy chiến lược chiến thuật của Việt Cộng ở vùng Việt Bắc hồi 1948-50 ra sao. Ông cũng nhắc lại lời Tổng Thống Diệm nói về chiến lược của Mao Trạch Đông mà ông (Tổng Thống Diệm) cho rằng rất đơn sơ nhưng trên thế giới lại chỉ có hai người hiểu nổi là Che Guevara và Hồ Chí Minh. Phân tích kỹ nhận định này thì thấy ông Diệm phải là một người rất am tường về lịch sử và chiến lược mới có thể có một nhận xét trong một lúc về 3 nhân vật Cộng Sản trong chỉ một câu nói như vậy. Một người không nghiên cứu kỹ về Mao Trạch Đông, về Hồ Chí Minh, về Che Guevara, và phong trào Cộng Sản ở Nam Mỹ, thì không thể nào dám nói lời khẳng định như đinh đóng cột với một nhà báo nổi tiếng của Úc như Denis Warner. Hỏi: Tôi cũng nghĩ ông Diệm là một lãnh tụ có tài mới có thể dẹp tan nạn thập nhị sứ quân trong một năm, rồi sau đó, tạo lập được một miền Nam trù phú và tương đối an bình chỉ trong vòng mấy năm. Nhưng nếu thực hiện 6 giai đoạn để hiệp thương theo kế hoạch của Tổng Thống Diệm, như tự do trao đổi thư tín, tự do đi lại thăm viếng giữa hai miền, nhất là tự do chuyển cư từ Bắc vào Nam, thì sẽ chẳng khác gì mở toang cửa cho CS xâm nhập để rồi sau đó nó đánh phá mình thì sao? Trong số 3000 dân mà ông Nhu ước tính sẽ bỏ miền Bắc để di cư vào Nam sinh sống, thế nào chẳng có hàng trăm cán bộ tính báo gián điệp của Cộng Sản. Phạm Hùng và Ngô Đình Nhu Nguồn: DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- Đáp: Trước khi thực hiện 6 giai đoạn hiệp thương tất nhiên đã phải có một thỏa hiệp chấm dứt các hành động vũ trang chống phá lẫn nhau. Từ chỗ có những tiếp xúc giữa ông Nhu với Phạm Hùng sẽ có thể dẫn đến một cuộc họp thượng đỉnh giữa hai nhà lãnh đạo tối cao hai miền. Hay ít nhất cũng phải có một văn kiện ký kết giữa các bộ trưởng ngoại giao hai miền trước sự chứng kiến của các quan sát viên quốc tế. Cho nên việc gián điệp xâm nhập dù có cũng chỉ là những hoạt động thông thường không có nguy cơ đưa đến những xung đột vũ trang công khai được. Vả lại nếu miền Bắc có phái điệp viên vào Nam được một cách dễ dàng, thì miền Nam cũng có thể đưa gián điệp vào miền Bắc vậy. Tắt một lời, khi đã thỏa hiệp được với nhau thì chẳng những nguy cơ lan rộng chiến tranh không còn, mà còn có thể ngăn chặn hay giảm thiểu được những hành động quấy phá lẻ tẻ nữa. Dầu sao thì để đi tới đựơc một thỏa hiệp như thế đường đi dĩ nhiên còn dài chứ không thể thành tựu được chỉ qua một lần tiếp xúc giữa ông Nhu và Phạm Hùng. Trong khi đó thì cả hai bên đều phải tính tóan điều hơn lẽ thiệt, tìm hiểu thiện ý của nhau, thông cảm nhau hơn mới có thể thành đạt. Tóm lại đây là một cuộc đấu trí cam go, chứ không dễ dàng. Hỏi: Việc hai bên thù địch tính chuyện hòa giải thường phải có trung gian, và khi thưong thuyết cũng cần có người chứng kiến. Ví dụ hiệp định Giơ Ne Vơ trước khi Pháp và Việt Minh ký kết, thì đã có những cuộc thảo luận, bàn cãi, mặc cả kéo dài nhiều tháng. Vậy trong việc ông Nhu tiếp xúc với đại diện của Hà Nội, ngoài các nhà lãnh đạo Pháp quốc ra như Tổng Thống De Gaulle và ông Pinay ra có còn nước nào biết không? Đáp: Theo Tiến sĩ Ellen Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì trong buổi tiếp tân ra mắt của tân ngoại trưởng Trương Công Cừu vào cuối tháng 8 năm 1963, ông Nhu đã tiếp xúc với trưởng đoàn Ba Lan trong ủy hội Quốc Tế Kiểm Sóat Đình Chiến (ICC) là luật sư Mieczyslaw Maneli, lúc ấy có sự hiện diện của các đại sứ Ấn Độ, đại sứ Pháp, đại sứ Ý và đại diện Vatican. Đúng ra Maneli đã từ Hà Nội vào Saigon vào mùa xuân, trước đó khá lâu. Nhưng khi một số nhà ngoại giao, trong đó dĩ nhiên có đại sứ Pháp Lalouette, tiếp xúc được với Maneli để khuyên ông ta nên gặp ông Ngô Đình Nhu thì vụ Phật Giáo bùng nổ. Cho nên mãi đến cuối tháng 8 hai người mới có dịp gặp nhau tại buổi tiếp tân. Tiến Sĩ Hammer thuật lại rằng lúc ấy Maneli đang nói chuyện với đức Giám mục Asta, đại diện tòa thánh Vatican, thì thấy ông Ngô Đình Nhu cũng đứng đó không xa, đức Giám mục liền kéo Maneli đến giới thiệu với ông Nhu. Lập tức 3 nhà ngoại giao khác cùng tiến về phía họ. Đó là các ông Lalouette, đại sứ Pháp, D'Orlandi, đại sứ Ý và Goburdhun, đại sứ Ấn Độ, cũng là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Sóat Đình Chiến. Tưởng cùng cần lưu ý là tân đại sứ Mỹ là ông Henry Cabot Lodge cũng có mặt trong cuộc tiếp tân này và cũng đứng cách đó không xa lắm. Tiến Sĩ Hammer thuật lại nhiều điều trao đổi giữa hai người. Nhưng trong đó tôi chỉ chú ý tới việc ông Nhu nhấn mạnh đến mục đích đem lại hòa bình. Và trong lời đối thoại với Maneli, mà nhiều nghe được, ông Nhu thẳng thắn phê bình các chế độ thực dân, còn nhấn mạnh không chỉ phê bình người Tầu mà thôi, khiến nhiều nhà ngoại giao có mặt tự hỏi, không biết có phải ông nhắm gián tiếp đả kích cả Hoa Kỳ hay không. Còn Maneli thì hứa sẵn sàng giữ vai trò tích cực nhất. Sau đó Maneli nhận được giấy mời đến gặp ông Nhu tại dinh Gia Long vào ngày 02/09/1963. Về cuộc gặp gỡ này thì không thấy có tài liệu nào cho biết nội dung ra sao cả. Hỏi: Có tài liệu nói Maneli có gặp ông Nhu tại nhà riêng của ông đại sứ Lalouette trong ngày 14/07/1963, tức là ngày Quốc Khánh của Pháp. Ông có tin tức gì về nội dung cuộc gặp gỡ này không? Đáp: Tin này do tờ Jeune Afrique (Châu Phi Trẻ) loan. Nhưng chính Maneli đã phủ nhận trong tác phẩm The War Of The Vanquished (Cuộc chiến của những kẻ chiến bại). Hai người gặp nhau lần đầu trong buổi tiếp tân của Ngoại Trường Trương Công Cừu. Và lần thứ hai, cũng là lần chót, vào ngày 2-9-63 tại dinh Gia Long. Hỏi: Về phía nhà cầm quyền miền Bắc, phản ứng của họ ra sao, và những đìều kiện họ đưa ra là gì? Đáp: Theo bà Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì khi ông Goburghun, đại sứ Ấn đi Hà Nội với tư cách chủ tịch Ủy Ban Kiểm Sóat Đình Chiến, đến gặp ông Hồ Chí Minh thì thấy ông ta chẳng những không thấy có gì ngăn cản cuộc hiệp thương với Saigon, ông ta còn bảo đại sứ Ấn: “Ngô Đình Diệm là người yêu nước theo cách của ông ta...hãy bắt tay ông ấy thay tôi, nếu gặp.“ Về ông đại sứ Ấn này, thì chính Maneli cũng cho rằng ông ta, cũng như dân Ấn đứng hẳn về phía anh em ông Diệm và sẽ rất buồn nếu “mất lá bài này“. Cho nên Goburghun, cũng như Lalouette, tìm mọi cách để tránh đảo chính. Nhất là ông Lalouette đã nhiều lần cố thuyết phục ông Cagot Lodge, nhưng không thành công. Khi Maneli đến Hà Nội trình bày kế hoạch theo sự hướng dẫn của các ông Lalouette và Goburghun, thì chỉ hai ngày sau Hà Nội đã có đáp ứng: Hà Nội sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng sẽ sẵn sàng trình lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền. Còn điều kiện, Hà Nội chỉ cần thấy Mỹ rút khỏi miền Nam, thì sẵn sàng bàn thảo về bất cứ vấn đề gì? Hỏi: Về nội dung các cuộc thương thuyết, ông có tài liệu nào về tin đồn hồi ấy rằng sẽ có một chính phủ liên hiệp quốc cộng, hay một thứ liên bang Đông Dương không? Đáp: Theo tôi, có lẽ tin đồn này phát xuất từ báo cáo của Maneli. Trong cuốn sách nói trên, Maneli có viết rằng ông ta hỏi Phạm Văn Đồng trước mặt ông Hồ về một khả năng có một thứ chính phủ liên bang với miền Nam, hay một thứ chính phủ liên hiệp không, thì Phạm Văn Đồng trả lời là, mọi sự đều có thể thương lượng trên cơ sở nền độc lập và chủ quyền tối thượng của dân tộc. Mấy lời trên, tác giả Maneli đã trích dẫn báo cáo tối mật của ông ta chỉ gửi cho chính phủ CS Balan, và tòa đại sứ Liên Xô ngày 10/07/1963. Cũng về tin đồn này còn có một nguồn tin khác liên quan đến câu chuyện giữa tướng Nguyễn Khánh và trưởng nhiệm sở CIA ở Saigon lúc ấy là John Richardson. Họ bàn về một lời tuyên bố nào đó của ông Hồ Chí Minh. Người ta còn đồn rằng trong năm 1963 đã có một hội nghị tại Cam Bốt để bàn về vấn đền Liên Bang này trong hội nghị đó có đại diện của ông Hồ và đại diện của ông Nhu. Nhưng không có chi tiết gì cụ thể về những tin đồn này. Hỏi: Ông có tin rằng ông Hồ được hòan toàn tự do để thương lượng mà không bị Liên Xô và Trung Cộng ngăn cản không? Đáp: Từ khi Khrutshchev hạ bệ Stalin rồi đưa ra 5 nguyên tắc sống chung, thì áp lực của Liên Xô trên các nước chư hầu có giảm bớt. Hơn nữa Khrutshchev đã từng đề nghị cho cả Việt Nam Cộng Hòa thời ông Diệm vào Liên Hiệp Quốc, thì có lẽ lúc ấy Liên Xô không chống việc hai miền hiệp thương với nhau, để làm giảm bớt sự căng thẳng, chẳng những giữa hai miền mà cả giữa hai khối Đông Tây nữa. Còn Trung Cộng, thì ta đã biết họ vẫn có thiện cảm với chính quyền Ngô Đình Diệm, ngay từ khi vừa thành hình. Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã nhiều lần đề nghị lập bang giao giữa Nam Việt và Bắc Kinh. Nhưng dầu sao thì trong vấn đề này xin để Maneli có ý kiến: Trong báo cáo tối mật ngày 10-7-63 Maneli nói hai bên muốn có thể đi tới một thỏa hiệp mà không có sự tham dự của các đại cường. Về phản ứng của Liên Xô, Maneli trích lời của ông đại sứ nói với Maneli răng, có lý do để nghi rằng người Việt họ muốn thu xếp riêng với nhau. Còn về phía Trung Quốc, thì qua cuộc tiếp xúc với sứ quan Trung Cộng ở Hà Nội, Maneli cho rằng Trung Cộng không biết gì về cuộc tiếp xúc giữa Saigon và Hà Nội. Nhưng Maneli lại thêm rằng, hoặc giả họ biết nhưng không chấp nhận. Rồi Maneli phê một câu làm lời kết luận của chương sách dài 20 trang về cuộc gặp gỡ giữa ông với ông Ngô Đình Nhu: Xét về mặt chính trị mà nói thì việc Hà Nội hành động mà không có sự chấp thuận của Bắc Kinh là điều có ý nghĩa nhất. Hỏi: Điều này đối với tôi hơi khó tin. Theo tôi nghĩ, chẳng những Trung Cộng mà cả đàn em của ông Hồ cũng không thể chấp nhận cho ông ta tự ý thương lượng với chính quyền Miền Nam. Không biết ông có tin là ngoài hai bản di chúc ông Hồ để lại, được nhà cầm quyền Hà Nội công bố, còn có một bản di chúc ông ấy viết tay không? Trong bản di chúc này, mà người ta bảo đã đựoc giảo nghiệm tự dạng thì chắc chắn là của ông Hồ thật. Trong bản di chúc này ông Hồ có nói đến việc ông có một cô con gái với một người Pháp và về việc ông tính chuyện thương lượng với ông Ngô Đình Diệm, và vì vậy ông đã bị nhóm Lê Duẫn hiếu chiến hãm hại, từ đó về sau mất hết quyền hành. Đáp: Tôi cũng có nghe nói đến bản di chúc viết tay này rồi cũng đi tìm đọc thì thấy không đáng tin lắm. Tôi cũng có hỏi mấy cựu cán bộ cao cấp Cộng Sản ở hải ngoại thì họ cũng nói có biết có một di chúc như vậy, nhưng văn phong không phải của ông Hồ. Theo tôi nghĩ, muốn kiểm chứng xem đây có phải là di chúc thật hay không, nên tìm người con gái của ông Hồ để hỏi cho ra lẽ. Nhưng tôi nghĩ, nếu bà ấy còn sống, nay cũng đã ngoài 90 rồi. Tiếc rằng những người đưa bản di chúc này ra trên báo, đã không trưng dẫn được xuất xứ đáng tin cậy. Vì vậy rất khó tin. Riêng chúng tôi vẫn nghĩ ông Hồ vẫn còn đầy đủ quyền lực vào những năm cuối đời. Trong cuốn Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp chúng tôi đã để hẳn một chương để chứng minh điều đó. Hỏi: Hiệp thưong từng đã là một cạm bẫy làm cho các đảng phái quốc gia hồi 1945 sa vào mà trở thành thân bại danh liệt, khiến đa số bị hại hay phải chạy trốn sang Tầu. Ông có nghĩ anh em ông Diệm có tài để không mắc bẫy không? Đáp: Ông Diệm đã không sa bẫy lúc ấy. Các ông Hùynh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại đều nghe lời dụ dỗ của ông Hồ ra hợp tác. Các đảng phái quốc gia như Việt Quốc, Việt Cách của các ông Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần v.v... đều mắc bẫy tham gia chính phủ liên hiệp và nhận 70 ghế ở quốc hội mà không được bầu. Nhưng như tôi từng viết chỉ có ông Diệm không mắc bẫy. Chính Hồ Chí Minh đã mời ông Diệm giữ chức bộ trưởng Nội Vụ mà bị ông Diệm từ chối thẳng thừng, trong lúc đang ở trong tay sinh sát của ông Hồ. Đó là trước kia, lúc ông ở vào cái thế thập tử nhất sinh, hoàn toàn trong tay ông Hồ, mà ông còn không nhượng bộ để mắc bẫy. Còn bây giờ ông Diệm đã có một nửa nước phồn thịnh và hùng mạnh hơn ông Hồ. Nếu có hiệp thương là hiệp thương ở thế mạnh, thì sao lại phải sợ. Hơn nữa bất cứ một cuộc xung đột vũ trang hay chính trị nào cũng đều phải đi tới một cuộc thương thuyết để chấm dứt xung đột. Đặc biệt là cuộc xung đột giữa ý thức hệ CS một bên, và bên kia là thế giới tự do, cuộc xung đột bao trùm khắp hoàn vũ cũng đã kết thúc bằng một loạt những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và thương thuyết giữa các nhà lãnh đạo hai bên. Thì lúc ấy dù bên nào đi bước trước để mở đường cho một giải pháp chính trị cũng đều đáng hoan nghênh. Tuy nhiên cũng phải thú thực rằng có nhiều người coi việc ông Hồ tặng ông Ngô Đình Diệm cành đào dịp xuân Qúy Mão (1963) cũng tương tự như Vương Dõan, trong truyện Tam Quốc, tặng cho Đổng Trác con hát ả đào Điêu Thuyền, khiến Lữ Bố vì ghen mà giết cha nuôi. Họ cho rằng cành đào tượng trưng và mở đầu cho những cuộc tiếp xúc giữa hai miển đã làm cho người Mỹ ra tay hạ ông Diệm. Nhưng riêng tôi không nghĩ thế. Hỏi: Nhiều sử gia Mỹ cho rằng ông Nhu tiếp xúc với Bắc Việt là cố ý làm “săng ta“ với Mỹ, khi thấy áp lực của Mỹ quá nặng. Ông có nghĩ như vậy không? Đáp: Nếu chỉ nhìn vào những diễn biến trong mấy tháng giữa năm 1963, thì suy đóan như thế cũng có lý. Nhưng thực ra người Mỹ đã muốn thay ông Diệm hay ít nhất cố làm áp lực để đưa ông Nhu ra ngoại quốc từ lâu trước đó. Và hai anh em Tổng Thống Diệm cũng đã có những toan tính về một kế hoạch hòa bình qua những cuộc tiếp xúc ngoại giao được bộc lộ từ năm 1962 trước kia rồi. Người Mỹ muốn hạ ông Diệm, không phải vì ông đàn áp Phật Giáo, cũng không phải vì ông định đi đến một giải pháp với Bắc Việt. Mà theo tôi nghĩ, lý do chính họ muốn hạ ông Diệm vì ông không đồng ý cho họ đem quân ồ ạt vào Việt Nam. Ông Diệm muốn dần dần tiến tới hiệp thương với Bắc Việt chỉ vì muốn tìm kiếm cho nhân dân Việt Nam một nền hòa bình, dù tạm thời và giới hạn chăng nữa, còn hơn là càng ngày càng dấn sâu vào một cuộc chiến mỗi lúc một thêm ác liệt. Nhất là khi mà số người ngoại quốc càng ngày càng gia tăng mãi, như từ 1962.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 17, 2009 4:09:47 GMT 9
Phim thời sự Chiến tranh VN
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 19:48:08 GMT 9
Phạm Ngọc Thảo (I)“Thật nguy hiểm khi chọn theo phe nào. Lý do chúng tôi không có lịch sử Việt Nam do người Việt Nam viết là vì anh không thể nói sự thật. Vì thế, toàn bộ sách trên giá của tôi đều do người nước ngoài viết.” - Phạm Xuân Ẩn Nguyễn Văn Lục Phạm Ngọc Thảo trong bối cảnh chính trị miền Nam Tìm hiểu Phạm Ngọc Thảo là tìm hiểu con người ấy trong bối cảnh chính trị miền Nam mà trong đó con người có chút lý tưởng có thể rơi vào tình trạng bị dằng co và sâu xé. Không phải dễ dàng gì tuổi trẻ chọn lựa lúc ban đầu dấn thân vào cuộc chiến dành độc lập, chống thực dân Pháp mà xem ra không có một chọn lựa nào khác dần dần cuộc chiến tranh ấy đổi mầu trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ Quốc-Cộng. Nhiều người thanh niên ở trong tình trạng trở tay không kịp. Chọn lựa dứt khoát ấy, đứng về phía bên này hay bên kia, rất nhiều thanh niên trí thức tiểu tư sản đã trải qua và mỗi người mỗi kinh nghiệm. Con đường mà Phạm Ngọc Thảo trải qua thật chông gai và không dễ dàng vì rất có thể bị nghi ngờ và lợi dụng. Phía miền Nam, thời ông Diệm đã có cả một chính sách khoan nhượng và khôn ngoan thực dụng là xử dụng lại những người kháng chiến cũ. Tuy nhiên, nó có thể là con dao hai lưỡi quay lại cắt cổ mình lúc nào không hay. Đó là trường hợp những Vũ Ngọc Nhạ, Vũ Hạnh và vô số trí thức cũng như nhà báo. Nhưng trường hợp những Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn là những trường hợp thuộc chủng loại riêng không thể máy móc xếp loại. Chính vì thế mà có bài viết này. Albert Phạm Ngọc Thảo (1922 ‒ 1965) Nguồn: LIFE -------------------------------------------------------------------------------- Và cộng sản có thể đã lợi dụng cái chết của ông cho những ý đồ riêng của họ như xoa dịu cánh kháng chiến miền Nam đã bị xóa sổ sau 1975. Bốc thơm như phía Hà Nội đã làm đối với người đã chết có thể là một bội phản và một sỉ nhục cho chính ông Phạm Ngọc Thảo. Nhưng hùa theo họ mà bôi bẩn ông vị tất đã là điều hay. Cái khen của Hà Nội đôi khi chỉ là những ngôn từ đã tẩm thuốc độc. Tin làm gì. Tin là mắc mưu họ. Bài viết của tôi mượn lời Phạm Xuân Ẩn, một điệp viên cộng sản được người cộng sản xếp lên hàng đầu khi trả lời giáo sư Thomas Bass trong cuốn sách mới nhất về Phạm Xuân Ẩn, The spy who loved us. Phạm Xuân Ẩn muốn nhắn gửi cho người cộng sản một bài học: Tôi không tin các ông, vì các ông không dám nói sự thật. Trên kệ sách của tôi, chỉ có sách do người ngoại quốc viết. Vì thế có thể nói toàn bộ sách vở bất cứ thể loại nào, từ văn học, triết học, sử học, chính trị của chính quyền cộng sản đều thiếu một điều: Không dám nói sự thật. Sau này, cái khổ cho người Việt Nam là cái gì cũng phải viết lại. Sử viết lại, Văn học nhìn lại, Văn Hóa làm lại. Đạo đức phải khôi phục Con người Việt Nam phải xây dựng lại. Và phải mất mấy thế hệ ? Cho nên, tất cả những sách viết về các gián điệp cộng sản đều không thật cho nên Phạm Xuân Ẩn đã phải nói trắng ra như thế. Phạm Xuân Ẩn, bất kể ông là loại gián điệp gì, ông trước hết là một người nhân bản. Ông tuyên bố, “Tôi chưa bao giờ là người cách mạng.” “Tôi là người lãng mạn, yêu tổ quốc và quê hương đến chết.” Chỗ nào là yêu đảng, yêu bác đâu ? Cho đến lúc chết, ông sống khốn khổ bị canh chừng, bị nghi ngờ, bị cô lập, kiểm thảo, không biết số phận mình ra sao? Rồi bỗng chốc được bốc lên đến tận mây xanh và đã có lúc, ông phải hùa theo bản hòa tấu đó. Nhưng trong bản tấu khúc đó có lúc ông để loộ mong muốn lúc chết đừng chôn ông bên cạnh những người cộng sản. Viết bài này, tôi thấm thía với một xác tín, có những con người lý tưởng và tôi mến phục những người như Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn và không đếm xỉa đến những người khác như Ba Quốc, Vũ Ngọc Nhạ, v.v... Chỉ cần đọc lại những dòng viết về Phạm Xuân Ẩn trong suốt những ngày 28 và đến trưa 29 tháng tư trong nỗi tuyệt vọng và cuối cùng Ẩn đã đẩy được ông Trần Kim Tuyến lên máy bay. Ấy là chưa kể tướng Trần Văn Đôn, đại tá Nguyễn Văn Bầu cũng được Phạm Xuân Ẩn lo liêu cho đi như vậy. Chúng ta cần hiểu rằng, ngoài cái tình bạn chân tình nếu có đi nữa. giữa Phạm Xuân Ẩn và Trần Kim Tuyến. Ta phải nghĩ thêm cho Ẩn là ông lo sợ cho bạn mình, người như Trần Kim Tuyến ở lại chắc sẽ bị cộng sản tàn bạo làm thịt. Trong sự cứu người, có viễn tượng ghê sợ sự tàn ác của cộng sản khi chiếm miền Nam. Đó là điều ta phải nghĩ tới cho ông. Cứu Tuyến chính là tự cứu mình ra khỏi ảo ảnh. Cho nên có lẽ cần phải công bằng với ông Ẩn hay ông Thảo. Phải hiểu như thế mới hiểu được con người Phạm Ngọc Thảo hay Phạm Xuân Ẩn. Trên hết họ là những con người hơn là nhãn hiệu người cộng sản. Một lẽ nữa tôi viết bài này vì mới đây tôi nhận được một bộ sách gồm 2 tập về Ngành Đặc Biệt, N.Đ.B (The Special Branch) của cựu Trung Tá Nguyễn Mâu gửi tặng. Ngành Đặc Biệt của VNCH giống như một thứ F.B.I. của Mỹ hay K.G.B. của Nga. Tác giả, trung tá Nguyễn Mâu là cựu chỉ huy trưởng ngành này. Trong sách, tác giả đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến tình báo và phản tình báo cũng như Chương trình Phượng Hoàng. Đặc biệt, tác giả dành một phần để viết về những tài liệu tình báo cộng sản nhằm tô hồng những cá nhân như Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Trịnh Công Sơn, Kim Cương. Những việc hư cấu hay bịa đặt này là truyện thường tình nằm trong chính sách của Đảng từ trước tới nay. Chẳng hạn, trường hợp bộ trưởng Thông tin Tuyên truyền Trần Huy Liệu (1946-1948) “hư cấu” thiếu niên anh hùng Lê Văn Tám tự tẩm xăng vào người rồi chạy vào đốt kho xăng của Pháp ở Thị Nghè. Nhưng cái được gọi là kho xăng ở Thị Nghè trong câu truyện anh hùng Lê Văn Tám thật ra chỉ là một trạm xăng cung cấp xăng dầu, không có lính canh phòng. Một trạm xăng và một kho xăng dầu đã hẳn là khác nhau xa lắm. Một đứa trẻ không cách gì có thể lọt vào một Kho xăng rồi tự tẩm xăng vào người để đốt kho xăng? Hơn nữa, khi tự tẩm xăng rồi châm quẹt đốt thử hỏi đứa trẻ chạy chạy được mấy bước? Vậy mà câu truyện hư cấu lâu dần trở thành như một truyện có thật không cần kiểm chứng lại nữa.. Cuốn sách của cựu trung tá Nguyễn Mâu có thể coi như một tài liệu theo trí nhớ quan trọng về tình báo của VNCH bên cạnh tài liệu của ông Dương Văn Hiếu của Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung. Nhưng có một thiếu sót không tránh được là tất cả các tác giả viết về chính trị hay tình báo về VNCH như Lâm Lễ Trinh, Đỗ Mâu, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, Nguyễn Cao Kỳ, Hồ Văn Kỳ Thoại, Bùi Diễm, Huỳnh Văn Lang, Võ Long Triều và những người trẻ hơn như Liên Thành thì đều viết theo trí nhớ. Không có người nào có điều kiện may mắn mang theo các tài liệu tối mật của VNCH. Ngay cả trường hợp TT Nguyễn Văn Thiệu có thể mang cả tài sản ra ngoại quốc mà đến mấy lá thư trao đổi với TT Nixon cũng không kịp mang theo? Như thế thì nói chi đến các người thừa hành. Cũng không ai kịp nghĩ hoặc ra lệnh phải đốt tất cả các tài liệu mật ấy để khỏi rơi vào tay cộng sản. Toàn bộ các hồ sơ mật như Hồ sơ cụm tình báo chiến lược A22 còn để lại nguyên vẹn tại đấy. Nói ra bây giờ thì có vẻ như trách cứ và không hiểu hoàn cảnh rối bời trong cơn hoảng loạn lúc đó. Nhưng về phía Mỹ, theo F. Snepp, trong Decent Interval, tòa đại sứ Mỳ đã cho đốt tất cả các tài liệu không mang về Mỹ được. Cũng theo Lm thư ký tòa khâm sứ Sài Gòn, Lm Thụ đã chở được hơn 10 chục thùng tài liêu sang Vatican trước đó hai tuần. Tòa khâm sứ làm được, tại sao ta làm không được? Cũng không ai có thói quen viết nhật ký ghi lại từng ngày, từng việc mà họ đã biết hay chính họ là người trong cuộc. Nói thế tôi không quên là tất cả các cuộc hành quân lớn nhỏ đều đã phải gửi bá cáo về Tổng Tham Mưu? Như một thứ nhật ký hành quân? Cho dù có gửi bá cáo thì nhiều bá cáo cũng mang tính cách hình thức và không thể có những nhận định, đánh giá về tình hình quân sự một cách xác đáng của một thứ chuyên gia phân tích tình hình được. Có lẽ chỉ có một vài người như nhà báo Nguyễn Kỳ Nam và cụ Đoàn Thêm và một vài người viết sau này dựa phần lớn trên tài liêu của Mỹ. Nhưng cho dù cộng sản có muốn bôi nhọ tình báo VNCH thế nào qua những cuốn sách gián điệp rẻ tiền thì xét về mặt hữu hiệu, phải nhìn nhận Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung đã bắt trọn gói hàng trăm, có nghĩa là hầu hết cán bộ cao cấp nhất của tình báo cộng sản như Trần Quốc Hương, tự Mười Hương, tự Trần Ngọc Trị Chhính ủy được đặc phái đại diện cục tình báo chiến lược (TBCL) Việt Cộng vào Nam. Mười Hương bị đoàn công tác đặc biệt miền Trung (CTĐBMT) bắt vào tháng 6-1958. Đại tá Lê Câu, chỉ huy cục 2 quân báo, bị bắt năm 1961, do sư gài bãy của Phạm Bá Lương, một cán bộ đã quy chánh cũng như rất nhiều cán bộ khác như Vũ Ngọc Nhạ, bị bắt năm 1958. Đến năm 1961, Nhạ quy thuận về làm việc cho chính quyền quốc gia, Phạm Bá Lương thì làm công cán ủy viên bộ ngoại giao, v.v... Theo ông Dương Văn Hiếu thì “toàn bộ tổ chức tình báo chiến lược của họ bị sụp đổ kéo theo cả hệ thống Đảng bộ liên khu ủy 5 và một phần Xứ Ủy Nam Bộ. Phạm Hùng, Ủy viên bộ chính trị, Trưởng ban Miền Nam phải xin triêu tập Bộ Chính trị để nghe y bá cáo về tình hình miền Nam.” ( Trích phụ bản 1 trong sách Dòng Họ Ngô Đình. Nguyễn Văn Minh, Trang 448 ) Đó là một sự thật không chối cãi được. Tôi mong muốn những tài liệu về Đoàn công tác đặc biệt miền Trung được phổ biến rộng rãi hơn để đánh tan một số dư luận hiểu lầm là mật vụ Cần Lao, ác ôn. Xin ghi thư của Lê Duẩn gửi anh Mười Cúc và Trung ương cục miền Nam. Thư đề ngày 7 tháng 5 1962 có đoạn Lê Duẩn viết như sau, “Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng nhìn lại bước đường đã qua trong 8 năm, cách mạng vẫn không ngừng phát triển. Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5, tình hình khó khăn đến mức tưởng như cách mạng không thể duy trì và phát triển được” (Trích Thư vào Nam, Lê Duẩn, trang 29,) Vậy mà người cộng sản vẫn huyênh hoang về những thành tích tình báo của họ, Đó là căn bệnh huyênh hoang của họ. Căn bệnh ấy vẫn kéo dài cho đến bây giờ. Căn bệnh cộng sản. Tuy nhiên có hai điều đáng tiếc. Sau cuộc đảo chánh 01/11/1963, tướng Mai Hữu Xuân, tân tổng giám đốc cảnh sát đã ra lệnh giải Dư Văn Chất, Trang Công Doanh tức đại tá Văn Quang, Minh Vân Nguyễn Đình Quảng, hàm đại tá và đồng bọn thuộc tình báo khu 5, tình báo chiến lược cục 2, quân báo trung ương VC về Tổng Nha Công An và sau đó tất cả bọn họ đã được trả tự do vào tháng 6, năm 1964. Sau này, Dư Văn Chất đã hướng dẫn tiền quân Việt cộng vào chiếm Sài Gòn ngày 30/04/1975. Cay đắng nhất là thả một số tù binh lãnh án tử hình ngày 24/05/1962 mà chính quyền miền Nam chưa thi hành án. Sau này chính những người này ngồi xử tử hình người thanh niên dũng cảm Trần Văn Bá vào tháng 01, 1985 cùng với hơn 20 đồng chí của ông Đúng là thả sói về rừng. Tôi không hiểu được quyết định của các vị tướng lãnh thời đó như thế nào? Và sau đó thì cộng sản xâm nhập vào khắp mọi tổ chức, đoàn thể, tôn giáo. Tôi chỉ muốn nhắc lại nhận định của Arthur J. Dommen trong The Indochinese experience of the French and the American khi ông viết: “The overthrow of President Ngo Dinh Diem was the greatest Communist victory since Dien Bien Phu.” (trang 572) Kể từ sau 1963 màn lưới tình báo của VNCH tỏ ra không còn hữu hiệu nữa. Điều đáng tiếc thứ hai, những loại người làm tình báo “kiểu Vũ Ngọc Nhạ”, vốn chỉ là nhân viên quèn tại tổng nha Giao thông công chánh, y chỉ vì khôn ngoan đóng kịch biết núp bóng vài chiếc áo chùng thâm khờ khạo như linh mục Nguyễn Đức Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, Hoàng Quỳnh đã giới thiệu Nhạ với ông Nguyễn Văn Hướng mà bỗng chốc Nhạ đươc đưa vào làm cố vấn cho ông Nguyễn Văn Thiệu. Nhạ lại làm ra vẻ “bạn bè” với TT Nguyễn Văn Thiệu, can thiệp cả vào những việc ghen tuông của bà Thiệu. Thật là nhơ nhớp, láo khoét. Từ đó kéo theo một bày đoàn của y như Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật vào phủ Tổng Thống. Riêng Huỳnh Văn Trọng, theo nhà báo Vĩnh Phúc thì cũng do “ông Cha nhố nhăng Nhuận” ở Phú Nhuận giới thiệu với bà Thiệu. Tuyền là đi cửa tắt, làm việc nhố nhăng gửi gắm qua bà Thiệu. Thế mới chết. Ông Thiệu thì tưởng rằng làm như vậy thì lấy được cảm tình của công giáo qua mấy ông cha hữu danh vô thực trên. Công giáo có người đại diện chính thức là TGM Nguyễn Văn Bình. Có bao giờ TGM Bình đi làm những việc nhố nhăng ấy? Qua điện thoại, tác giả Nguyễn Văn Minh, văn phòng chỉ đạo thời ông Ngô Đình Cẩn cho tôi biết, đến lúc ấy, Lm Hoàng Quỳnh còn chạy ra Huế mong gỡ tội cho Nhạ. 20 năm Việt Nam Cộng Hòa, những chiếc áo đen và áo nâu, cổng chùa và cổng nhà thờ trở thành ngõ đi ra cho những mưu cầu chính trị nhỏ nhen của những loại người câu vinh ít tài, kém cỏi. Chỉ mong rằng bài học 20 năm đó giúp các vị sau này biết chở về chỗ ngồi của mình. Cổng chùa, cổng nhà thờ nên khép lại chỉ dành chỗ cho những người đến đó cầu kinh, hành đạo. Xin bỏ quên mấy cha cố, nói ra thêm bực mình. Ông Ngô Đình Nhu chống giáo trị là vì vậy. Mặc dầu vậy, bộ mặt thật của Nhạ cũng vẫn bị phát giác một lần nữa và vào ngày 28/11/1969, Tòa án mặt trận vùng III chiến thuật, tại số 3 Bạch Đằng với bốn bị can chính là Hai Long (tức Nhạ), Trọng, Thắng, Hòe và khoảng 40 người liên can. Tòa án kết án Nhạ, đứng đầu cụm tình báo A22 chung thân khổ sai, đầy ra Côn Đảo cùng với toàn bộ cụm A22 (Trích tóm lược Dòng họ Ngô Đình, ước mơ chưa đạt, Nguyễn Văn Minh, Phần phụ bản 1, của Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt miền Trung, trang 440-448) Trong cuốn Hồ sơ một điệp viên, trang 202, trích lại báo Trắng Đen đưa tít: “Các bị can tươi cười như đi dự đám cưới” Thắng và Hòe nói to: Chúng tôi được vinh dự ra tòa lãnh án. Rất tiếc là không có án tử hình (Trích như trên, trang 207) Hòe đập tay vào thùng xe, nói lớn với các con qua cánh cửa sắt, “Cười đi con! Cười đi con! Ba sẽ về.” Mấy dòng ghi tóm tắt trích dẫn để bạn đọc thấy cái lố lăng của họ. Càng đọc càng bực mình. Không phải chỉ bực mình. Khinh. Điều quan trọng là kể từ sau 1975, số phận những linh mục Hoàng Quỳnh ra sao? Ngay cả Vũ Ngọc Nhạ, đai tá Lê Câu, Dư Văn Chất, đại tá Văn Quang, Minh Văn, v.v... Họ đều chung số phận “cựu tù mật vụ” và bị thất sủng. Và kể từ đó họ đã cho ra đời tác phẩm: Bội phản hay chân chính nhằm biện minh cho các cựu tù chính trị cộng sản bị bắt dưới thời mật vụ Ngô Đình Cẩn do Mười Hương chủ xướng. Tuy nhiên, nếu so sánh với sách tình báo của Mỹ thì sách tình báo của VNCH thật ít ỏi và nghèo nàn trong khi sách về tình báo của Mỹ thì nhiều vô số kể như: The politics of Heroin in Southeast Asia của Alfred W. Mc Coy, The C. I.A, A forgotten history của William Blum, in Viet The secret wars of America’s commmandos, Nam của John L. Plaster, The secret War against Ha Noi của Richard H Shultz. Jr. The CIA and the Cult of Intellignece của Victor Marchetti and John D. Marks. Ấy là chưa kể những tác giả quen thuộc đối với phần đông dân chúng Việt Nam như F. Snepp, Daniel Ellsberg, v.v... Phần lớn những tác giả Mỹ viết với tính cách chuyên nghiệp và tiết lộ cho người đọc những bí mật chính trị từng được che dấu như trường hợp Tài liệu mật của Daniel Ellsberg. Vì thế, những tài liệu và thông tin họ đưa ra có giá trị chứng liệu lịch sử. Trong khi đó, Hà Nội cũng có một số sách viết về tình báo hoặc là dịch, hoặc cóp nhặt, hoặc phóng tác. Chẳng hạn, có một vài cuốn như Ngô Đình Nhu mà trong đó viết về nhân vật Phạm Ngọc Thảo, sách in ở Hải Ngọai, đề nhà xuất bản Nguyễn Thị Muôn. Soạn giả ký tên hiệu là FW.0. Cuốn khác là Ông cố vấn, Hồ sơ một điệp viên, tác giả Hữu Mai, nxb Quân Đội Nhân Dân. Với bộ film Ván bài lật ngửa, một bộ film hư cấu mà nhân vật chính Nguyễn Thanh Luân, chính là hình ảnh anh chín T. tức Phạm Ngọc Thảo đã bị bôi vẽ đến độ trở thành khôi hài, tác dụng ngược. Ngoài ra còn có cuốn của Thành Đoàn như Trui rèn trong lửa đỏ do nhiều người viết và tài liêu: Thành đoàn: một thời kỳ hoa lửa tương đối it khoác lác. Phần đông các tác giả phía cộng sản đều dùng biệt hiệu và ký tên giả như FWO hay Hữu Mai, v.v... “Tác giả chỉ là bút hiệu của một nhóm người, gọt dũa lại các tài liệu, cân nhắc các sự kiện để cố gắng trình bày sự việc một cách khách quan, không ngả vào phe nào cả mà chỉ nhằm vào tài cán của con người.” (Trích Ngô Đình Nhu, soạn giả FW.09, phần mở đầu). Một cuốn khác viết về Phạm Xuân Ẩn, tương đối tử tế với nhan đề: Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải, nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2002. Nhưng vấn đề chính yếu ở đây là họ đã viết sai sự thật, viết gian trá, bịa đặt. Họ cố tình thổi phồng các hoạt động tình báo của các ông Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ. Phạm Xuân Ẩn sau này được phong tướng, Nghệ sĩ Kim Cương được phong là Thượng tá công an nằm vùng. Vũ Ngọc Nhạ bị Đoàn công tác mật vụ bắt từ năm 1958 đến 1961, vậy mà trong sách Ông Cố vấn thổi phồng là Nhạ cũng làm cố vấn cho TT Ngô Đình Diệm. Như vậy là trong dinh độc lập thời ông Diệm có đến hai cố vấn: cố vấn Ngô Đình Nhu và cố vấn Vũ Ngọc Nhạ. Xin trích lại đoạn văn sau đây, “Thiếu tướng (chỉ Trần Thiện Khiêm) bàn với ông giáo cũng như bàn với tôi (Hoàng Quỳnh). Cha Hoàng ngần ngừ giây lát rồi nói tiếp, “Ông giáo ngày trước là cố vấn chính trị của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, một ‘cần lao gộc’, với ông thiếu tướng coi như người nhà, tôi không cần giấu diếm.” Khiêm nói: “Lần đầu tiên hân hạnh được gặp ông giáo, nhưng tôi đã nghe nói nhiều về ông giáo.Tôi vừa trình bày với cha Tổng, bừa nay tới Bình An cũng với cha KhổngTiến Giác, để xin những lời chỉ giáo về tình hình chính trị hiện thời” (Trích Ông cố vấn, Hồ sơ một điệp viên, Hữu Mai, trang 21-22, nxb Quân đội Nhân Dân 1989). Phần Phạm Ngọc Thảo, mãi đến năm 1987, nghĩa là 12 năm sau 1975, nhà nước cộng sản mới truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ với quân hàm đại tá. Mộ ông đựoc cải bốc và đưa về nghĩa trang TPHCM, trên đồi Lạc Cảnh, Thủ Đức. Tỉnh Bến Tre đã xếp Phạm Ngọc Thảo vào trong danh sách những anh hụng liệt sĩ hay tướng lãnh, nhà văn ở tỉnh. (Năm 1987, Nhà nước Cộng sản Việt Nam truy tặng Phạm Ngọc Thảo danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. ‒ DCVOnline trích Wikipedia.org). Phần Kim Cương nằm vùng hồi nào, hoạt động những gì? Không có một tài liệu, sách vở nào ghi lại. Đặc biệt không được chính thức ghi trong Địa Chí Văn Hóa thành phố Hồ Chí Minh cũng như trong Trui rèn trong lửa đỏ. Việc chính là họ muốn biến những nhân vật trên trở thành “kẻ thù” đối với người Việt hải ngoại. Việc thứ hai là họ muốn tự đề cao họ tài ba, xuất chúng. Vì thế, những Văn Cao, Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Kim Cương có thể biến thành những nạn nhân bất đắc dĩ của họ lúc còn sống và ngay cả lúc đã chết. Trong cuộc tranh cãi sôi nổi về Trịnh Công Sơn những ngày gần đây, tôi nhận thấy có một thiếu sót đáng kể, thiếu sót không thể bỏ qua: Cả hai phía bênh và chống Trịnh Công Sơn đã coi nhẹ vai trò của cộng sản trong vấn đề này. Thật ra, cộng sản muốn phô trương, chứng tỏ hoạt động tình báo của cộng sản ở Việt Nam đạt tới mức “siêu đẳng”, đồng thời hạ thấp vai trò của tình báo VNCH. Chính vì thế mà người Mỹ qua Stanley Karnow cho rằng phải đợi sau chiến tranh, người ta mới phát giác ra được Phạm Ngọc Thảo là gián điệp cho cộng sản, “Colonel Pham Ngoc Thao was revealed after the war to have been a secret Communist agent” (Trích Viet Nam, a History, trang 271) Nhưng ai phát giác ? Và Larry Berman mới có thể viết The perfect Spy về Phạm Xuân Ẩn. Đọc cuốn này, tôi không tìm thấy nội dung những tài liệu được chuyển giao cho cộng sản Hà Nôi là những tài liệu gì? ngày tháng? mã số? Ảnh hưởng tai hại cuộc các tài liệu bị phát giác gây thiệt hại cho quân đội VNCH như thế nào trong các cuộc hành quân? Tôi cũng không thấy Larry Berman chứng minh được gốc gác những nguồn tài liêu ấy? Cung cấp từ các cơ quan nào của VNCH? Ai là người đã cung cấp các tài liệu đó cho Phạm Xuân Ẩn? Và cuối cùng ảnh hưởng tai hại của các tài liệu bị phát giác đã gây tổn thất cho quân đội Mỹ và VNCH trong các cuộc hành quân ra sao? Hay đó chỉ là những “Loại tin tức hành lang” của giới nhà báo Mỹ trong mỗi buổi sáng ngồi với nhau ở quán cà phê? Cũng vậy, khi dịch cuốn Decent Interval của Franks Snepp, sách khổ lớn, chữ nhỏ, dày 600 trang. Ông Ngô Dư đã dịch cuốn này với nhan đề: Cuộc tháo chạy tán loạn, nxb TPHCM. Sách in khổ nhỏ, cắt dầu đuôi còn lại có 375 trang. Điều đáng tiếc là cuốn sách này đã được ông Bùi Tín hiệu đính và giới thiệu vào tháng 12/1984, dưới bút hiệu Thành Tín. Cái lối viết như thế làm người ta đánh giá thấp cả những người như Bùi Tín. Phần F. Snepp, nhắc lại truyện này, ông chỉ cười và không đưa ra lời bình luận nào. Phần tác giả trung tá Nguyễn Mâu đã dùng những tài liệu của tình báo Ngành Đặc Biệt để phản bác tài liệu cũng như cách “dựng đứng” truyện của sách báo ở Việt Nam. Công việc làm này tôi cho là cần thiết, phá tan những luận điệu tuyên truyền, bôi bác của người cộng sản. Ngoài tác giả Nguyễn Mâu, còn có ông Trần Đỗ Cung với tư cách là bạn học với Phạm NgọcThảo tại trường Quốc Học Khải Định vào năm 1939. Và theo ông Trần Đỗ Cung, Thảo cho rằng: “Anh cũng bàn về cái quá khích và vô nhân bản của Marx-Lê Nin với chủ trương bạo lực quá độ và duy trì chính quyền bằng bạo lực.” Nhưng cho dù Phạm Ngọc Thảo có ghét cộng sản thời niên thiếu cũng không đủ là lý do đủ nếu sau này Phạm Ngọc Thảo ngả theo cộng sản. Riêng ông Lê Tùng Minh, dựa trên phần lớn tài liệu phía cộng sản bài Từ Phạm Ngọc Thảo đến Phạm Xuân Ẩn có nhiều chi tiết sai lầm không chấp nhận được Một bài viết khác của nhà báo Tú Gàn cho rằng cỡ những điệp viên cao cấp như Trần Quốc Hương hay đại tá Lê Câu cũng đã bị đoàn công tác đặc biệt tóm gọn thì một người như Phạm Ngọc Thảo làm được gì? Bài viết sau đây, xin bắt đầu phá tan rất nhiều “Huyền thoại chung quanh ông Phạm Ngọc Thảo” trong cuốn Ngô Đình Nhu và trong Ván bài lật ngửa. Làm gì có truyện Giám mục Ngô Đình Thục cử một linh mục đi đón Albert Phạm Ngọc Thảo như đón một chính khách: “Thảo sắp sửa đổi xe đi Sài Gòn thì một chiếc xe Citroen đen hối hả đỗ lại bến xe Cần Thơ. Trên xe bước xuống một người nhỏ nhắn, đeo kiếng cận, bận áo chùng đen, đeo tượng Chúa - một linh mục. Ông ta nôn nả chạy hỏi chiếc xe từ Phụng Hiệp lên mà Thảo vừa đi - đó là chiếc xe thơ chạy sớm nhât. Linh mục đến bên chỗ Thảo và ông Sáu đứng, lễ phép hỏi, giọng Huế: - Xin lỗi quý vị ở Phụng Hiệp lên đây, vị nào là kỹ sư Albert Phạm Ngọc Thảo. Thảo chào ông linh mục, nhận tên mình. Linh mục mững rỡ: - May quá, tôi đoán chừng ông kỹ sư đi chuyến xe thơ. Quả đúng, Đức giám mục mời ông kỹ sư về tòa giám mục. Dạ, có xe riêng.” ( Trích Ngô Đình Nhu, Fw.09, trang 23) Non một thế kỷ lừa dối, đã đến lúc họ phải biết nghĩ lại, bởi một lẽ giản dị không thể cứ mãi mãi lừa dối dân chúng được nữa.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 19:54:48 GMT 9
Phạm Ngọc Thảo trong bối cảnh chính trị miền Nam 1. Gia đình Phạm Ngọc Thảo với những mối liên hệ tôn giáo và chính trị. Phải hiểu rõ gốc gác gia đình Phạm Ngọc Thảo (tên khai sinh Albert Phạm Ngọc Thuần con thư 8 của điền chủ Adrian Phạm Ngọc Thuần - DCVOnline) mới hiểu rõ được những hành trạng cũng như những hoạt động của ông sau này. Dựa vào nguồn tư liệu của chính gia đình Phạm Ngọc Thảo và những người từng sát cánh bên ông ta, chúng ta biết được Phạm Ngọc Thảo thuộc một gia đình khá giả, hoàn toàn Tây hóa, theo Thiên Chúa giáo thuần thành và tất cả con cái anh em đều học thành tài và học ở bên Tây như Gaston Phạm Ngọc Thuần (tức Phạm Ngọc Hiền, Ðại Sứ Mặt Trận Giải Phóng ở Ðông Ðức – DCVOnline trích Hồi Ức Trần Đỗ Cung) học Chasseloup Laubat như Thảo. Ông nội của ông Thuần là sĩ quan cho Tây, ông ngoại làm thông dịch viên Tôi muốn nhấn mạnh ở đây một lần nữa cả hai đều là theo Thiên Chúa giáo và tiêu biểu cho thành phần trí thức công giáo trong Nam và ngoài Bắc. Họ có thể đứng trong hàng ngũ Việt Minh để chống Pháp, nhưng theo cộng sản thì lại là chuyện khác. Thực tế là đa số những người đã trót theo Việt Minh sau này đã rời bỏ đảng cộng sản. Phạm Ngọc Thảo (thứ hai từ trái sang) trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 410 tại miền Tây Nam Bộ năm 1952. Nguồn: baophuyen.com.vn -------------------------------------------------------------------------------- Trong Nam có các trí thức công giáo tiêu biểu như Phạm Ngọc Thuần, Thái Văn Lung, luật sư. Ông Lung đảm nhận chức thủ lãnh Thanh niên tiền phong, Ngoài ra còn có Nguyễn Thành Vinh, Nguyễn Tự Do. Riêng Thái Văn Lung đã bị Pháp bắt, tra tấn và chết trong tù vào tháng 7-1946, lúc vừa tròn 30 tuổi. Ba người kia đều sau này theo kháng chiến. Theo Phạm Ngọc Thuần, cứ 100 linh mục trong Nam thì có độ 10 người ngả theo kháng chiến. Những người khác tỏ ra rất nghi kỵ và chống lại Việt Minh. Trong số ấy có 3 linh mục vốn là anh em. Đó là các linh mục Phạm Bá Luật và các em là Sang và và Kinh. Thêm vào đó là các linh mục Võ Thành Trinh, Lê Đình Hiển, Lương Minh Ký, Phạm Bia Vàng, Hồ Thành Biên, Huỳnh Kim Đức và Toàn Năng. (Trích Phỏng vấn Gaston Phạm Ngọc Thuần ở Paris, ngày 21/3/1990 của Trần Thị Liên trong Les catholiques Vietnamiens pendant la guerre d'indépendance 1945-1954, trang 99) Miền Trung lúc ấy có nhóm Ngô Đình Diệm, Trần Văn Lý chống cả Tây lẫn Việt Minh. Ông Diệm chống Tây đến cực đoan. Riêng Phan Văn Giáo, nổi tiếng hung thần miền Trung, một nhân vật công giáo được coi là “thiết yếu quan trọng, gắn liền với Bảo Đại”. Hay là “Người gần gũi nhất của Bảo Đại”, trong đó có việc cung cấp tiền bạc cho Bảo Đại. Bảo Đại trong hồi ký Le Dragon d’Annam cũng nhìn nhận khi ở Hồng Kông, Giáo là bầy tôi thân cận của ông. (Xem Le Dragon d’Annam, Bảo Đại, trang 170) Ngoài Bắc ngoài Nguyễn Mạnh Hà, bạn của Phạm Ngọc Thuần còn có Nguyễn Đệ, Ngô Tử Hạ, Vũ Ngọc Trân (con của tổng đốc Vũ Ngọc Oánh, thường được gọi là cụ Thượng Oánh) và Nguyễn Huy Lai. Ông Nguyễn Đệ và Nguyễn Huy Lai tỏ ra thân Tây hơn Nguyễn Mạnh Hà. Ngô Tử Hạ, chủ nhà in một khuôn mặt công giáo có tiếng ở Hà Nội và được bầu làm chủ tịch Quốc Hội vào ngày 6-1- 1946. Sau này, ông Nguyễn Đệ là cánh tay mặt của vua Bảo Đại (vào năm 1950 đến khi cả hai sang Pháp) trong nhiều năm ở Đà Lạt cũng như sau này ở bên Pháp. Ngoài Bắc còn có linh mục Kỷ theo kháng chiến từ đầu. Các giám mục Phạm Ngọc Chi, địa phận Bùi Chu và Lê Hữu Từ, địa phận Phát Diệm cùng một số linh mục như Hoàng Quỳnh, Đệ, Xuyên, Hàm thì chủ trương đi hàng đôi với cả Tây lẫn Việt Minh để giữ được tư thế độc lập. Ngoại trừ Gm Từ vẫn chủ trương cứng rắn với người Pháp và bằng mọi giá giữ được tính cách trung lập giữa cả Pháp lẫn Việt Minh. Nhưng sau này các Lm Quỳnh, Hàm đều ngả theo Tây. Lm Hàm cung cấp tin tức tình báo quân sự của Việt Minh cho Pháp. Lm Hoàng Quỳnh hợp tác với Tây, cung cấp huấn luyện tự vệ cho Tây đi ngược lại đường lối của đức cha Từ. (Xem thêm Les catholiques Vietnamiens, Trần Thị Liên trang 181), Phần gia đình Phạm Ngọc Thảo đã có anh đi theo kháng chiến, một lẽ nào đó đã thuận tiện để Phạm Ngọc Thảo đi theo con đường của anh mình. Vì thế, khi cách Mạng tháng 8 bùng nổ thì Pham Ngọc Thảo như nhiều thanh niên trí thức khác quyết định vào bưng biền gia nhập vào Đoàn Thanh niên cứu quốc. Nhưng vì gốc gác gia đình nên cộng sản nghi ngờ theo Tây và định thủ tiêu như trường hợp họ đã thủ tiêu Bùi Quang Chiêu và 4 người con, cậu ruột của gia đình vợ của Thảo vào những ngày đầu kháng chiến. Thảo đã bị trói và ném xuống sông, nhưng may cho Thảo là ông đã tháo gỡ kịp giây trói và bơi vào bờ phía bên kia và nhờ đó sống sót (Trích phỏng vấn Phạm Ngọc Thuần, ngày ngày 20/1/1990, trang 70 như trên) Chi tiết này cũng được người bạn thân nhất của Thảo, học cùng lớp với Thảo ở trường Chasseloup Laubat do chính Thảo kể lại cho Truong Như Tảng như sau: “But on the way I was arrested by a group of local guerrilas in My Tho. Of course, they didn’t known me, and with my French suit and identity papers, thay thought i must be come sort of French agent. So They decided to get rid of me. They tied me hand behind my back and attached a block of stone to the ropes. Then they threw me into the river. I was sure I ‘d had it. Somehow, as I was going down, I had managed to get my hands free so that I could swim to the opposite bank and scramble out. Boy, where they pissed off” (Trích A Viet cong Memoir, Truong Nhu Tang, trang 43-44) Một người đã từng chứng kiến cảnh thủ tiêu, ám sát các người Quốc Gia, nhất là chính Thảo là nạn nhân suýt mất mạng, có lẽ nào, ông có thể quên được thảm trạng ấy? Bằng chứng là Phạm Ngọc Thảo đã không bao giờ gia nhập đảng cộng sản, mặc dù chuyện đó không khó khăn gì trong giai đoạn ấy? Ông Lê Tùng Minh dựa “trên những tài liệu lá cải Z21” của cộng sản cho rằng, Phạm Ngọc Thảo được gia nhập đảng cộng sản ngay tại mặt trận, “Phạm Ngọc Thảo đã được đảng ủy tiểu đoàn 404 do Trần Văn Tiên làm bí thư, kiêm chính trị viên tiểu đoàn kếp nạp Phạm Ngọc Thảo vào đảng ngay ngoài mặt trận (Trích Từ Phạm Ngọc Thảo đến Phạm Xuân Ẩn, Lê Tùng Minh, danluận.org/node/804) Những chi tiết nêu trên về gốc gác gia đình Phạm Ngọc Thảo đi ngược hẳn những điều đà được viết trong sách Ngô Đình Nhu coi Phạm Ngọc Thảo là người của họ và được Ngô Đình Nhu móc nối hai năm trước 1954, đồng thời đón tiếp trọng hậu ngay từ đầu và chính Ngô Đình Nhu về tận Vĩnh Long gặp Thảo. Một sĩ quan Việt Minh, dù xuất sắc, lấy gì để Ngô Đình Nhu trọng đãi như vậy? Phải chi đó là Đức Phạm Công Tắc hay một thiếu tướng Trịnh Minh Thế đi cho cam. Tôi nghĩ rằng tìm hiểu gốc gác gia đình, việc đào tạo giáo dục, kinh nghiệm tôn giáo của Phạm Ngọc Thảo là khởi điểm cần thiết cho việc tìm hiểu con người thật của Phạm Ngọc Thảo sau này. Cây có gốc, người có cội nguồn, đi tìm cội nguồn là tìm về bản lai diện mục của con người Phạm Ngọc Thảo. Xin đọc thêm vai trò của Thanh niên Tiền Phong trong phần chú thích (1) và (2) ở phần footnote 2. Việc Phạm Ngọc Thảo ở lại miền Nam thay vì tập kết ra Bắc Theo tài liêu chính thức trong Minh Hải 30 năm chiến tranh giải phóng cho thấy cộng sản có chính sách hẳn hoi về việc “ai đi tập kết, ai ở lại” theo Nghị Quyết ngày 07/09/1954 như sau: “Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là từ đấu tranh chính trị lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện dân chủ. Khi chuyển quân tập kết, Đảng bộ Bạc Liêu còn lại trên 10.000 đảng viên. Về lực lượng võ trang, các đồng chí cán bộ xã đội, du kích đã không tập kết mà ở lại địa phương. Ta để lại nhiều chiến sĩ của bộ đội địa phương tỉnh, huyện và 200 cán bộ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn, rút từ các tiểu đoàn 307, 410. Khi chuyển tầu Stavropol cập bến Sầm Sơn, Thanh Hóa, đồng chí Lê Đức Thọ lại cho nguyên 1 tiểu đoàn theo tàu trở lại miền Nam về Cà Mau cùng với nhiều cán bộ binh vận. Chiếc tàu Stravropol cuối cùng ở sông Ông Đốc, chở các cán bộ và chiến sĩ tập kết ra Bắc. Công khai lên tàu đi tập kết, đồng chí Lê Duẩn, bí thư Trung Ương cục và đồng chí Võ Văn Kiệt, bí thư liên tỉnh ủy đã bí mật trở về Đất mũi. Nhưng trong tài liệu Những sự kiện lịch sử Đảng cho thấy họ đã viết trái ngược hẳn như sau, “Trong chuyến đó đi áp chót của đoàn tập kết do tàu Kelinski của Ba Lan vận chuyển, đồng chí Lê Duẩn công khai lên tàu, vẫy chào tạm biệt đông bào, đồng chí tiễn đưa. Nhưng nửa đêm, trước lúc tàu nhổ neo, ca nô ra đón đồng chí trở lại Cà Mau. Lúc chia tay, đồng chí Lê Duẩn nhờ đồng chí Lê Đức Thọ bá cáo với bác Hồ với Trung ương đảng, ‘Tình hình miền Nam rất phức tạp, việc chia cắt có thể kéo dài 15, 20 năm, không thể giải quyết sớm hơn’” (Trích trong Lớn Lên với đất nước, Vy Thanh, trang 570-575) Trong sách Ngô Đình Nhu thì được viết lại như sau, “Sáng sớm, Thảo rời tàu Arkengels về Vàm Sông Đốc. Anh vẫy tay chào toàn thể tiểu đoàn đứng trên thành tàu. Quyến, Sa khóc ồ. Đã đến lúc Thảo rời chiến khu, tuy thời hạn tập kết vùng Cà Mau mới già một nửa. Về thành sớm quá không có lợi, mà trễ cũng không haỵ. Thảo viết cho giám mục một thư ngắn. Anh bảo là vào ngày 10 tháng 12, buổi trưa, anh sẽ chào giám mục tại Vĩnh Long, trên đường từ Cần Thơ về Sài Gòn, không đòi hỏi đưa đón gì cả.” (Trích Ngô Đình Nhu, trang 11). Trong các tài liệu trích dẫn trên, tài liệu nào đúng, tài liệu nào giả? Theo ông Phạm Ngọc Thuần, anh của Thảo, qua bài phỏng vấn của nhà báo Vĩnh Phúc, tác giả Những huyền thoại và Sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm thì Phạm Ngọc Thảo ở lại miền Nam là do chỉ thị của đảng. Nhưng khi ở lại miền Nam có quay về thực sự với Quốc Gia hay không thì ông Thuần trả lời không biết rõ. (Trích Những Huyền thoai và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 186). Nhưng trong khi tâm sự với Trương Như Tảng thì Thảo cho rằng, chính Thảo quyết định ở lại miền Nam và không muốn ra Bắc vì không tin có tổng tuyển cử và sẽ bị dính cứng ở Hà Nội, “After Geneva I was assigned to the Joint Cease-Fire Commission when that work was done, I decided I didn’t want to go North, So I stayed. I was afraid there wouldn’t be any unification election and I certainly didn’t want to get stuck in Ha Noi.” (Trích A Vietcong Memoir, Truong Nhu Tang, trang 44). Và xem ra trong cuộc thảo luận tay đôi tiếp với Trương Như Tảng, Thảo mong muốn tìm thấy ở ông Diệm một người yêu nước để phục vụ. Và theo hướng đó, Thảo mong muốn ông Diệm đi theo đường hướng đó và không có chỗ nào cho thấy Thảo ở lại vì theo chính sách và chỉ đạo của đảng cộng sản cả. Vậy, việc Thảo về với Quốc gia là theo quyết định cá nhân của Thảo và do sức ép của gia đình và do sự bảo trợ của giám mục Thục “Father Thuc liked me so much that he decided to protect me. He’s the one who arranged this situation for me.” (Trích như trên trang 45). Sau này Trương Như Tảng đi về hướng những kẻ chống lại chính quyền Quốc Gia, phần Thảo, “For his part, Albert stayed in the army, winning the confidence of his superiors and widening his circle of contact.” (Trích như trên, trang 46). Nếu những dòng tâm sự trên của Phạm Ngọc Thảo là đúng thì tất cả những luận điệu của các sách cộng sản đều là những tuyên truyền giả dối và huyênh hoang khoác lác.. Để có thể trả lời khẳng định về vấn đề này, có lẽ cần tìm hiểu thêm về con người Phạm Ngọc Thảo qua người Anh và những bạn bè cũng như những người đã từng cùng sát cánh với ông như Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến, Phạm Ngọc Thuần, v.v... 3. Con người Phạm Ngọc Thảo Ý kiến của Gaston Phạm Ngọc Thuần Theo trả lời phỏng vấn với tác giả cô Trần Thi Liên, ngày 27/01/1990, tại Paris, ông Phạm Ngọc Thuần nhìn nhận Phạm NgọcThảo là người nhiệt huyết, dám làm, xông pha không ngại khó khăn, luôn nhận lãnh những công tác khó khăn và nguy hiểm tại Cần Thơ và Sóc Trăng. Ông Phạm Ngọc Thảo là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 410 chứ không phải tiểu đoàn 303 như tài liệu ở trên viết và Phạm Ngọc Thảo rất được Lê Duẩn tín nhiệm. Nhưng trước khi theo kháng chiến, Thảo là một tín hữu nhiệt thành, “Il était avnat tout très nationaliste, mail il n’aimait pas les communistes. Le seul concept de dictature du prolétariat le révulsait. Il avait un idéal démocratique. De ce pont de vue, on avait une confiance limitèe en lui.” (Trích Les catholiques, Tran Thi Liên, trang 114). Trước hết ông là người yêu nước và không ưa thích gì người cộng sản. Khái niệm độc tài vô sản làm ông Thảo khó chấp nhận. Bởi vì ông có lý tưởng dân chủ. Chính vì điểm này, đảng cộng sản không hoàn toàn tin tưởng vào ông. Và chính Thảo klhông bao giờ ông tin theo hết mình vào đường lối chính trị của cộng sản. Khi được nhà báo Vĩnh Phúc yêu cầu ông Phạm Ngọc Thuần xác nhận xem Thảo có phải là người đã bỏ hàng ngũ cộng sản. Ông Thuần im lặng không trả lời và sau đó thay vì trả lời bằng tiếng Việt thì đã trả lời bằng tiếng Pháp như sau, xin tạm dịch: Thảo luôn luôn dè dặt và đề phòng đối với đảng cộng sản vì thấy họ độc tài chuyên chính không dân chủ. Nó thấy tôi cũng vậy (cười) Và đợi khi đã tắt máy ghi âm, ông Thuần mới thổ lộ như sau, Tôi thù cộng sản tận đáy sương tủy và xin lỗi người viết vì có những câu hỏi tôi không trả lời được.” (Trích Những Huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 185). Những lời tâm huyết của Phạm Ngọc Thuần, anh ruột Phạm Ngọc Thảo, một cựu đại sứ của cộng sản tại Đông Đức có giá trị hơn bất cứ luận thuyết hay tài liệu nào của phía cộng sản. Ý kiến của cựu Đại tá Nguyễn Mâu Theo cựu Đại tá Nguyễn Mâu, trưởng Ngành Đặc Biệt (N.Đ.B.) “Đối với đệ nhất Cộng hòa, chúng ta có thể nói Phạm Ngọc Thảo đã tỏ ra trung tín. Từ năm 1955 cho đến cuối năm 1962, không một chứng tích nào được tìm thấy nói lên sự phản phúc của đương sự đối đối với chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm” (Trích N.Đ.B, Ngành đặc biệt Nguyễn Mâu, Tập 1, trang 131). Đã thế, theo tác giả Nguyễn Mâu: “Khi Phạm Ngọc Thảo làm tỉnh trưởng tỉnh Trúc Giang (Bến Tre) đã công khai xử bắn một cán bộ đặc công cộng sản toan phá nổ nhà mày điện tại tỉnh lỵ. Việt Nam Công Hòa đã bắt giữ hàng vạn đặc công, xung kích, nhân viên ban ám sát, nhưng đây là lần đầu tiên với chủ trương và đề nghị của Phạm Ngọc Thảo, một đặc công cộng sản bị tử hình tại chỗ với một bản án được tuyên xử cấp thời.” (Trích như trên, trang 130). Tác giả Nguyễn Mâu còn nêu ra trường hợp khi Nguyễn Khánh thả tự do cho bà Bùi Thị Nga, vợ của Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch Mặt trận giải phóng miền Nam ngày 4 tháng 1 năm 1965 thì Phạm Ngọc Thảo đã thông báo cho C.I.A. biết. Sau đó Nguyễn Khánh bị hạ bệ. (Trích trang 187). Cũng giống như lập luận của ông Trần Kim Tuyến sau này, tác giả Nguyễn Mâu cho rằng nếu thực sự Phạm Ngọc Thảo là cộng sản thì khi bại lộ, ông ta dễ dàng trốn thoát ra bưng như trường hợp các điệp viên đại tá Lê Câu, Trần Quốc Hương. Hai người này khi bại lộ đã rút về căn cứ trong chiến khu cộng sản. Ngược lại, Phạm Ngọc Thảo đã hết đường về với cộng sản về khu 9 hay U Minh Hạ, vì thế, ông đã phải ẩn náu tại dòng tu Phan Xi Cô ở Thủ Đức. Nhà dòng này ở gần khu rừng Chồi rất để trốn vào chiến khu. Phạm Ngọc Thảo đã không làm. (Trích như trên, trang 139). Chi tiết này không đúng. Tôi có liên hệ với các vị linh mục trách nhiệm thì họ cho biết ở Thủ Đức có 3 cơ sở tôn giáo: Dòng Đồng Công, dòng Phan xi cô, thuộc Chợ Nhỏ và Đan viện Si tô. Phạm Ngọc Thảo không trốn ở ba nơi này mà trốn ở Đan viện Phước Lý, thuộc xã Nhơn Trạch, Biên Hòa. Và ông kết luận đây chỉ là màn hề cuối cùng hoàn tất vở hài kịch do bộ chính trị Việt Nam cộng sản bảo trợ. Ý kiến của bác sĩ Trần Kim Tuyến Theo lời nhà báo Vĩnh Phúc, Phạm Ngọc Thảo chỉ được găp và quen biết Trần Kim Tuyến khi ông Thảo được cử đi làm Tỉnh đoàn trưởng Bảo An ở Vĩnh Long vào cuối năm 1956. Từ đó, mỗi khi về Sài Gòn, Thảo đều ghé thăm ông Trần Kim Tuyến và trở thành bạn thân thiết. Vậy dưới mắt một người làm tình báo như Trần Kim Tuyến thì Phạm Ngọc Thảo có thể là một gián điệp nhị trùng không? Dưới mắt ông Trần Kim Tuyến thì Phạm Ngọc Thảo không phải là cộng sản vì những lý do sau đây: (a) Một lần từ Kiến Hòa vê, Phạm Ngọc Thảo báo cho ông Trần Kim Tuyến ngày giờ họp, địa điểm của nhóm Lê Duẩn. Nhưng khi công an Long Xuyên bố trí để giăng bắt thì đám cán bộ cộng sản đã dời di rồi. Quan sát cho thấy dấu vết sinh họat chứng tỏ có buổi họp đó. Nhưng theo lời ông Cao Xuân Vĩ thì chính ông Ngô Đình Nhu quyết định để cho Lê Duẩn lọt lưới vì ông cho rằng bắt Lê Duẩn này còn Lê Duẩn khác. Chỉ cần cho họ biết, mình thừa khả năng bắt mà mình không bắt. Phần Phạm Ngọc Thảo tỏ ý buồn trách Trần Kim Tuyến về việc này. Chỉ việc này thôi cho thấy Phạm Ngọc Thảo đã phạm phải một tội không thể tha thứ, không có đường về: vì đã phản bội lại tổ chức của cộng sản. Trong hai cuộc chính biến 11/11/1960 và 1/11/1963, Phạm NgọcThảo đều rất tích cực cứu mạng ông Diệm. Chính Phạm Ngọc Thảo thúc đẩy Trần Thiện Khiêm từ Mỹ Tho đem quân về “cứu giá” sau khi ông Tuyến yêu cầu bằng điện thọai nhờ Phạm Ngọc Thảo làm việc đó. Trương Như Tảng cũng xác nhận như sau: At the same time, Albert Thao was speeding down highway Number 4 toward My Tho to describe the situation to Khiem personnally and urge him to intervene. By ten o’clock the next morning, lead elements of Khiem’s division were engaging rebels paratroopers, and the coup leaders were fleeing toward Cambodgia” (Trích A Viet cong Memoir, Truong Nhu Tang, trang 49). Sau này nhờ bá cáo tốt đẹp của Phạm Ngọc Thảo mà Trần Thiện Khiêm được ông Diệm trọng dụng. (b) Trong những giờ phút sinh tử như thế mới định rõ được ai là bạn, ai là kẻ phản bội. Một điều chắc chắn là Thảo đứng về phía những người cứu giá ông Diệm không phải với tư cách một gián điệp cộng sản. (c) Trong cuộc chính biến 1963, chính Phạm Ngọc Thảo đem xe đến nhà Mã Tuyên để đón ông Diệm, nhưng không gặp, vì hai ông đã ra nhà thờ cha Tam rồi. Một người cộng sản không bao giờ làm như thế mà còn lợi dụng để giết ông Diệm. (d) CIA tin dùng Phạm Ngọc Thảo. Nếu CIA cũng không biết thì quả thực Phạm Ngọc Thảo quá giỏi. Trong tài liêu của CIA nhan đề Central Intellignece Agency. Office of Current Intellignece, 28 August 1963 có ghi như sau về Phạm Ngọc Thảo: “Said to be agressive and dynamic, recently reported coup plotting in two camps. Was ex-Viet Minh (with a brother an official in DRV) but is not known to be pro-Viet cong as alleged by some of his enemies) Nếu là điệp viên cộng sản thì khi bị truy nã và trốn ở Hố Nai, tại sao Phạm Ngọc Thảo không lợi dụng dịp này trốn ra bưng một cách dễ dàng.(Trích tóm lược Những huyền thọai và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 163-186) Ý Kiến của ông Huỳnh Văn Lang Có thể người biết rõ về Phạm Ngọc Thảo là ông Huỳnh Văn Lang. Nhưng ông Huỳnh Văn Lang coi việc Thảo về với Quốc gia là điều bình thường đến không còn thắc mắc nữa. Chính ông và một số bạn bè cũng đã bỏ kháng chiến nên việc Thảo bỏ kháng chiến có gì là lạ. Nhưng những điều mà ông Huỳnh Văn Lang đã giúp đỡ gia đình Thảo tự nó nói lên thái độ tin tưởng vào Phạm Ngọc Thảo như thế nào? Ông Huỳnh Văn Lang do yêu cầu của giám mục Ngô Đình Thục đã kéo Phạm Ngọc Thảo về lam việc ở viện Hối Đoái. Chẳng những thế, sau này chủ trương tờ Bách Khoa, ông Huỳnh Văn Lang cũng kéo Hoàng Minh Tuynh và Phạm Ngọc Thảo ra làm tờ báo. Hoàng Minh Tuynh phụ trách viết về chính trị và tôn giáo, Phạm Ngọc Thảo viết khoảng chừng 20 bài về chiến thuật quân sự, v.v... Chẳng những thế, ông Huỳnh Văn Lang còn dùng bà Phạm Thị Nhiệm, vợ của Pham Ngọc Thảo như thư ký tòa soạn. Phạm Thị Nhiệm (St. Diego Zoo) Nguồn: photobucket.com -------------------------------------------------------------------------------- Trong một lá thư viết cho tôi, đề ngày 05-01-08 để bổ túc thêm một vài thiếu sót trong trong bài viết của tôi: Từ Huỳnh Văn Lang đến Lê Ngộ Châu, ông Huỳnh Văn Lang đã nói rõ như thể đề cao vai trò của bà Phạm Thị Nhiệm, vợ ông Thảo như sau: “Khi nói về tiến trình hình thành tờ Bách Khoa, Báo Tân Văn đã bỏ qua một giai đoạn mà có hai người đã đóng góp một vai trò thiết yếu không thua gì người sáng lập. Tôi muốn nói đến chị Phạm Ngọc Thảo hay Phạm Thị Nhiệm, em gái giáo sư Phạm Thiều, trường Petrus Ký Sài Gòn. Người đầu tiên giữ chức vụ thư ký tòa soạn và giới thiệu, nếu không nói là đem vào Bách Khoa những nhà văn như Nguyễn Hiến Lê, bác sĩ Nguyễn Văn Ba, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và nhất là anh Nguyễn Hữu Ngư (Nguyễn Ngu Ý). Chính anh này là em nuôi của giáo sư Phạm Thiều đã giới thiệu Bùi Giáng, Nguyễn Thị Hoàng.” Lá thư trên cho thấy mối liên hệ thân thiết, tin tưởng giữa Huỳnh Văn Lang và Phạm NgọcThảo. Cũng theo nhà báo Vĩnh Phúc, chính Huỳnh Văn lang gọi điện thọai cho bác sĩ Trần Kim Tuyến để giới thiệu Phạm Ngọc Thảo trước khi ông Thảo đi nhận chức tỉnh đoàn trưởng Bảo An. Nhưng có hiểu lầm là khi Phạm Ngọc Thảo đến nhà Trần Kim Tuyến thì thấy ông này “lè phè” quá như một anh nhà quê, mặc quần áo pyjama ra tiếp khách. Ông Thảo tưởng là Trần Kim Tuyến coi thường mình cho thư ký ra tiếp nên đã bỏ ra về và than phiền với Huỳnh Văn Lang. Hiểu lầm sau đó được giải tỏa và sau đó hai người trở thành đôi bạn thân thiết, cùng chí hướng trong nhiều nhiệm vụ công tác sau này. Cũng chính Huỳnh Văn Lang giúp đỡ để Phạm Ngọc Thảo có thể mua được ngôi nhà với giá rẻ trong hẽm đường Tự Đức, Đa Kao của một người Pháp. Riêng trong tập Hồi ký 3 cuốn, Nhân Chứng một chế độ, ông Huỳnh Văn Lang cho thấy ông và Phạm Ngọc Thảo đã có dự mưu làm cuộc đảo chánh để loại trừ vợ chồng ông Ngô Đình Nhu hòng cứu vãn chế độ Đệ nhất Cộng hòa. Dì Nhiên, không có chỗ nào cho thấy ông Huỳnh Văn Lang cho rằng Phạm Ngọc Thảo là người của phía bên kia. Nói chung, hầu như tất cả những ai đã gặp, đã làm việc với Phạm Ngọc Thảo thì đều cho rằng ông không phải là người của cộng sản. Đặc biệt nhất là ý kiến của ông Trần Kim Tuyến qua lời tường thuật của nhà báo Vĩnh Phúc. Ý kiến Trương Như Tảng Có thể Trương Như Tảng là một trong số những người bạn “tối thân thiết” vượt trên tất cả những người trên như Trần Kim Tuyến,Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, v.v... mà không ai ngờ tới. Và dưới mắt Trương Như Tảng, có nhiều phần Phạm Ngọc Thảo làm việc cho phía bên kia. Viết ra điều này, tôi hy vọng soi rọi thêm một chút sự thực chung quanh huyền thoại Phạm Ngọc Thảo. Và tôi cũng nhìn ra được con người thật của Thảo qua những trao đổi tâm sự với Trương Như Tảng. Chính qua những bạn bè thân thiết mà nhừng tâm sự nỗi niềm được bộc lộ. Vì Thảo đến nhà Trương Như Tảng thường xuyên như cơm bữa, có khi ăn ngủ ở đấy, tâm sự ở đấy, âm mưu ở đấy, những lo toan ở đấy, tiết lộ những kế hoạch, những việc sẽ làm của Thảo cũng ở đấy. Những điều này, dù là thân, Thảo không thể nói với Huỳnh Văn Lang, Trần Thiện Khiêm hay Trần Kim Tuyến. Thảo tâm sự với Trương Như Tảng tại sao lại về với ông Diệm. Thảo nghĩ gì về người Mỹ và chính sách của họ. Công việc của Thảo trong hai lần đảo chính ông Diệm cho thấy tấm lòng của Thảo ở chỗ nào. Tấm lòng ấy vượt trên những toan tính, âm mưu chính trị vốn không thể có được nơi một người cộng sản. Những ân tình đối xử qua lại với giám mục Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm sẵn sàng nghe lời mặc dầu không muốn. Những ngời như Trần Kim Tuyến, Huỳnh Văn Lang, Trần Thiện Khiêm, Trương Như Tảng và rất nhiều bạn bè khác cho thấy Thảo trước hết là một con người có tâm đạo hơn là một người cộng sản. Nơi bản tính, nơi tấm lòng của Thảo. Không có chỗ cho một người cộng sản trú ngụ. Và đổi lại Thảo cũng được bạn bè che chở, tin tưởng. Phạm Thị Nhiệm, Sandra Dee, Phạm Ngọc Thảo (Phim trường Universal, 1962) Nguồn: tsutpen.blogspot.com -------------------------------------------------------------------------------- Riêng tướng Khánh cho biết khi Thảo làm tỉnh trưởng Bến Tre, ông làm ở quân khu Cần Thơ, ông Khánh đã đưa một người phản gián của ông lên Bến Tre nằm một tháng để dò xét có sự liên hệ của Phạm Ngọc Thảo với Mặt trận Giải phóng Bắt được không? Bắt không được! Khôn lắm! Lại còn khuynhhướng Nam Kỳ phục hưng: Phát, Lắm, Đức, Thanh. Họ chống tôi vì cho tôi là binh mấy người Bắc như Kỳ. Lạ lắm. Phạm Ngọc Thảo đích thực là là điệp viên cộng sản mà qua mặt cả CIA, CIA không biết à? Muôn mặt anh ơi ! Ông Thảo có những bạn ở trong CIA.Ông Thảo được CIA tổ chức ở Washington cùng với ông Khiêm để về đảo chánh tôi. (Trích Những huyền thọai và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vinh Phuc, trang 180) Nhưng lần đảo chính do các tướng lãnh chủ xướng 1963, Thảo đã tham dự tích cực và đã tâm sự với Trương Như Tảng những lo âu của mình cho thấy là công việc khó nhất là thuyết phục được Tôn Thất Đính ngả theo phía các sĩ quan đảo chánh và Đỗ Mậu đã làm được công việc thuyết phục được Đính. Bữa ăn tối 31 tháng 10, Thảo cho Trương Như Tảng biết cuộc đảo chính hoãn lại vào lúc 1 giờ trưa ngày 1-11-1963. Đêm 28 tháng 10, 1963, Thảo đã đến ngủ ở nhà Trương Như Tảng vì sợ bị ông Nhu bắt.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 20:04:06 GMT 9
Phạm Ngọc Thảo trong bối cảnh chính trị miền NamPhần Trương Như Tảng đã không ngần ngại gọi Thảo là Master Spy và tìm cách chứng minh điều ấy và có nhiều điều không hẳn là không đáng tin cẩn. Tuy nhiên, Tảng không đủ sâu sắc để hiểu Thảo, chưa đủ có một tấm lòng để hiểu Thảo. Thảo “rất dễ hiểu” nếu người ta có một tấm lòng để hiểu thì nhiều truyện xem ra rõ như ban ngày. Chỉ nội việc một mình tức tốc lái xe xuống Mỹ Tho, không ngại nguy hiểm, thuyết phục Trần Thiện Khiêm về cứu giá ông Ngô Đình Diệm đủ hiểu được con người của Thảo như thế nào. Một tuần lễ sau ngày đảo chánh ông Diệm, Thảo đã mời Trương Như Tảng đến ăn cơm tối tại nhà và trong bữa ăn ấy, Thảo giới thiệu một sĩ quan không quân trẻ cùng với một bà vợ trẻ đẹp. Trong bữa ăn đó, họ thảo luận chung quanh việc làm thế nào để cất nhắc Nguyễn Cao Kỳ lên đứng đầu không quân và Thảo tin là sẽ giàn xếp được với các tướng lãnh về việc này. “Not long afterward, Albert’s effort bore fruit. The air force commander, Colonel Mai, received a sudden and unwelcome posting as military attaché the the Vietnamese embassy in Bonn, and the career of the mustached thirty-three-old Ky began its meteoric rise.” ( Trích A Viet cong memoir, Truong Nhu Tang, trang 54). Tất cả những chi tiết này chưa bao giờ được ai tiết lộ ra. Bản thân ông Kỳ, trong cả hai cuốn sách của ông không hề nhắc tới cái “công” của Thảo đã cất nhắc ông lên. Ông viết “Big Minh beckoned me over” At the meeting we talked about the air forcẹ He said, “And we all realized that the guy we named chief is not a good man and he is not popular. And everyone agreed that you are the right man for this job. So, from now you are the air force commander,” he said... Perhaps because of my role in the coup, I was promoted to colonel. A few months later I pinned on the silver star of a brigadier general” (Trích Buddha’s Child, Nguyen Cao Ky, trang 98) Trương Như Tảng cũng như một số không ít người thường nghĩ rằng khi Phạm Ngọc Thảo được chỉ định làm tỉnh trưởng Bến Tre, một tỉnh vốn nổi tiếng dữ dằn trong thời kỳ Việt Minh chống Pháp và sau này VNCH. Trương Như Tảng viết lập lờ như sau, “Many years later I heard reports that Albert and the guerrilas had had a secret understanding to stabilize the region so that it could be used as a Vietcong rest and staging area. Whether this was true, or whether Albert had simply arranged a pause in local activity to enhance his own credibility with Diem, I don’t known. But as long as he was chief, Ben Tre was pacified, becoming perhaps the most peaceful of south Viet Nam’s provinces. After Albert’s departure, it quickly regained its reputation as a violent place, once more unsafe for Diem’s soldiers” (Trích A Viet cong memoir, Truong nHu Tang, trang 49) Trước hết tôi có nói chuyện với một vị cựu trung tá VNCH về tình hình an ninh vào những năm 1961, theo vị này, tình hình an ninh nói chung là tương đối mà các vị chỉ huy quân đội có thể di chuyển ban đêm vào những xã quận không mấy nguy hiểm. Đại tá Lê Minh Đảo, lúc làm tỉnh trưởng,Thiếu tá Đỗ Mười đã từng vào mật khu cộng sản không mang súng. (Trích NĐB, Nguyễn Mâu, trang tập 2, trang 111) Hay việc Phạm Ngọc Thảo xử án tử hình tại chỗ một đặc công cộng sản toan phá nổ nhà máy điện (Trích như trên, trang 134, tập 1). Nhưng điểm quan trọng là bác sĩ Trần Kim Tuyến cho biết người đầu tiên tung ra cái tin “cộng sản giúp cho Phạm Ngọc Thảo cơ hội lập công” chính là Huỳnh Văn Cao. Ông Cao là tư lệnh quân khu 4 và mâu thuẫn với Thảo. “Khi được thuyên chuyển ra khỏi Vĩnh Long và được chỉ định làm tỉnh trưởng Bến Tre thì Phạm Ngọc Thảo lo sợ chạy đến năn nỉ Trần Kim Tuyến để xin không phải về Bến Tre, vì sợ cộng sản sẽ trả thù, ám sát ông. “Phạm Ngọc Thảo đã năn nỉ Trần Kim Tuyến để nhờ xin với ông Nhu cho mình được ở lại Vĩnh Long, vì “sang bên đó chắc tôi chết, xin cho tôi miễn đi” Nhưng ông Tuyến không biết những uẩn khúc bên trong, nên nói hùa vào. Đến khi sang Bến Tre, đụng chạm với thực tế đầy nguy hiểm và nhận thấy có mưu toan muốn hại mình, Phạm Ngọc Thảo lại nhiều lần tâm sự với Trần Kim Tuyến: ‒ Tôi đã nhận lệnh Đức cha và Tổng thống về Kiến Hòa bấy lâu nay. Tôi đã hết sức cố gắng. Nhưng nói thật với anh, bây giờ tôi không thể cố gắng thêm được nữa. Anh làm sao nói dùm tôi đi. Tôi nói thật là nếu còn ở lại, thế nào cũng có ngày tôi chết, bởi vì hễ tôi xin lực lượng cho bất cứ nơi nào, ông Cao cũng không bao giờ cho tôi cả. Tôi biết làm sao đươc... Về sau, ông Tuyến chỉ lưa lời an ủi và nhận thấy ông Cao có ý vận động để đẩy ông Thảo ra khỏi Kiến Hòa. Và Tổng thống đã nghe lời ông Cao cho Phạm Ngọc Thảo đi.” (Trích Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 167-169) Những chi tiết vừa nêu trên không hiểu đã đủ thuyết phục cho thấy Thảo không có giàn xếp gì với cộng sản trong khi về làm tỉnh trưởng Bến Tre? Và chính Trương Như Tảng cũng không dám khẳng định rõ về điều này, “Whether this was true, or whether Albert had simply arranged a pause in local activity to enhance his own credibility with Diem. I don’t known. (Trích như trên, trang 49). Tất cả những suy nghĩ của Tảng chỉ là những suy diễn mà thôi. Và không ai khẳng định được điều này ngay cả Phạm Nhọc Thảo, trừ sự tuyên truyền của Trần Bạch Đằng và tướng Huỳnh Văn Cao. Những ai làm việc với tướng Huỳnh Văn Cao nay có thể nào cho thấy nhận xét của tướng Cao là dựa trên sự thật nào? 4. Về cuộc đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 và cái chết của Phạm Ngọc Thảo. Có rất nhiều dư luận chung quanh việc đảo chánh của nhóm Phạm Ngọc Thảo cũng như về cái chết của ông. Phần đông các tài liệu đều mặc nhiên công nhận Phạm Ngọc Thảo có tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh các tướng lãnh và khi thất bại đã bỏ trốn rồi bị bắt và bị thủ tiêu. Trong sách Buddha’s Child có ghi lại rõ ràng Thảo giữ vai trò thuyết khách những người tham gia cuộc đảo chánh như Nguyễn Cao Kỳ, ông Kỳ đã gi lại cuộc đối thoại với Phạm Ngọc Thảo như sau, “Thao came in and after the preliminaires spent severall minutes earnestly tried to persuade me that the coup was in the best interst of the country, that he merely sought to replace a government that was not working. May be you are right about Khanh, but replacing him with Phat is even worse, I replied”. Và ông Kỳ đã từ chối tham gia đảo chánh như sau, “Right now only the communists benefit from our infighting. So don‘t talk non sense to me. If you to do something for your country, ask Phat to send his troops back to their bases and fight the communists I Paused for a moment and looked right at Thao.“ Otherwise, tomorrow I will destroy all of you”. Finally he understood.The next morning at eight, Thao told me that Phat ‘s troops were heading back to their garrisons “. Thao came to an unhappy end. After this abortive putsch, he went underground, but was nabbed by civilian police in Saigon. He died in jail a few weeks later, probably from a beating.” (Trích Buddha’s Child, Nguyen Cao Ky, trang 115-116) Trong Hồi ký chính trị của trung tá Phạm Bá Hoa, viết ngày 15 tháng 7, 2004 nói rõ hơn về vai trò của Phạm Ngọc Thảo và tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Thảo ở Mỹ với vai trò tùy viên văn hóa tòa đại sứ đã về Việt Nam tham gia vào cuộc đảo chánh và nếu đảo chánh thành công thì tướng Khiêm cũng quay trở về. Và sau đây là cuộc. đối thọai giữa Đại tá Phạm Bá Hoa và trung tá Lê Hoàng Thao: Th. tướng Lâm văn Phát, “Mỹ xúi” đảo chánh Nguồn: nguyentin.tripod.com -------------------------------------------------------------------------------- ‒ Thiếu tướng Phát ở đâu anh Thao? ‒ Bên căn cứ không quân. Ổng bắt được ông Khánh rồi. Tôi cho anh biết là có ông Thảo bên Mỹ về làm vụ này đó nghe. Xong là “sếp” về ngay. “Sếp” mà trung tá Thao vừa nói là đại tướng Trần Thiện Khiêm đang làm đại sứ Việt Nam công hòa tại Hoa Kỳ. Còn Thảo tức trung tá Phạm Ngọc Thảo cũng đang làm việc tại tòa đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ. Sau này, trung tá Hoa có gọi điện thoại với tướng Trần Thiện Khiêm vào tối 21-10-2003. Câu truyện diễn ra như sau: ‒ Thưa anh Tư, em xin hỏi anh Tư trong vụ thiếu tướng Phát đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965, theo lời trung tá Lê Hoàng Thao nói với em là là có Trung tá Phạm Ngọc Thảo từ tòa đại sứ Việt Nam công hòa tại Hoa Kỳ về tham gia, dự trù khi thành công thì anh Tư về cầm quyền. Điều đó có đúng không anh Tư? ‒ Trời ơi. Bây giờ chú hỏi anh mới biết là tại sao lúc có mấy anh nhà báo của Mỹ nhất là tờ Washington Post theo phỏng vấn anh. Họ hỏi anh biết gì về cuộc đảo chánh đó? Anh trả lời là anh không biết gì hết và đang chờ tin tức từ Việt Nam. Còn cái vụ ông Thảo về Việt Nam là do ông Khánh (trung tướng Nguyễn Khánh) gởi công điện gọi ông Thảo về gấp đó. Anh có nghe nói là khi ông Thảo về tới phi trường Tân Sơn Nhất, được người nào đó cho biết là ông Khánh đã phái người chận bắt ông Thảo đem đi giết, nên người đó giúp ông Thảo chạy trốn luôn. Về sau bị nhóm nào đó bắt được và giết chết”. Khi ông Phát qua Mỹ thì tướng Khiêm hỏi tại sao đảo chánh hồi 1965. Ông Phát trả lời thật ngắn là “Mỹ xúi”. Trung tá Phạm Bá Hoa sau đó đã giải thích về cái chết của trung tá Phạm Ngọc Thảo như sau: “Ngày 18 tháng1 năm 2004, đài tiếng nói Việt Nam Hải ngoại do ông Hồng Phúc phỏng vấn tôi về cuộc chỉnh lý ngày 30/01/1964, nhưng ở phần đầu người xướng ngôn có đọc bức thư của bác sĩ Bùi Dũng từ Paris, con trai của cựu đại tá Bùi Dzinh đã tham gia đảo chánh ngày 19/02/1965.Theo đó thì khoảng tháng 7 năm 1965, trung tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt khi ông trốn ở vùng Biên Hòa và ông bị giết sau đó. Theo một vị đã trả lời trong cuộc phỏng vấn cũng của đài tiếng nói Việt Nam hải ngoại là do bà Bùi Dzinh tới lui thường xuyên thăm chồng nên bị lộ tung tích (lúc ấy cựu đại tá Bùi Dzinh, cựu đại tá Đỗ Văn Diễn và trung tá Phạm Ngọc Thảo cùng trốn chung trong một căn nhà hẻo lánh). Bác sĩ Dũng cho biết, thật ra người tới thăm thường xuyên là là bà Đỗ Văn Diễn nên bị lộ tung tích chớ không do bà Bùi Dzinh, tức mẹ của bác sĩ Dũng” Chi tiết của trung tá Hoa ở trên cho biết có đến hai người cùng trốn với Phạm Ngọi Thảo, nhưng vì lý do gì lại chỉ giết có mình Phạm Ngọc Thảo? Phần trích đoạn của tướng Kỳ và của trung tá Phạm Bá Hoa có nhiều chỗ đối chọi nhau khó hiểu ai đúng ai sai. Tôi xin được đi lại diễn tiến từ tháng 8 năm 1964 cho đến ngày tướng Phát đảo chánh ngày 19 tháng 2, 1965. Tình hình chính trị vào năm 1964 thật vô cùng rối ren. Ngoài Huế, vào ngày 28 tháng 8, 1964, các giáo sư ở Huế khẩn cấp ra thông cáo số 4 mà nội dung: Không thừa nhận Tam đầu chế. Sau đó các giáo sư hội họp và thành lập Hội đồng Nhân Dân cứu quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến làm chủ tịch. Vĩnh Kha, Tôn Thất Hanh phó chủ tịch, các ủy viên gồm Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Đình Tế, Mai Văn Lễ, Cao Văn Chuẩn, Vũ Ngọc Tường... Tại Sài Gòn, Bộ giáo dục ra thông cáo ra lệnh đóng cửa các trường Đại học, Trung Học, Tiểu học công và tư cho đến khi có lệnh mới. Tướng Đỗ Mâu cạo trọc đầu để kêu gọi ngưng xung đột đổ máu. Trong khi đó bạo động xảy ra vào ngày 29/08/1964 vài giờ trước khi Hội Đồng Quân đội cách mạng ban hành các quyêt định. Kết quả bạo động xảy ra trước Bộ Tư lệnh làm 7 người chết và 39 bị thương. Sau hai ngày Đại Hội, Hội đồng quân đôi cách mạng đã giải tán HĐQĐCM và thành lập ban Lãnh đạo quốc giạ Ký tên: Trung tướng Dương Văn Minh, Trung tướng Nguyễn Khánh và đại tướng Trần Thiện Khiêm, ngày 27 tháng 8, 1964. (Tóm tắt các tin tức trên các báo Chính luận, trích lại trên người Việt Online trong mục Ngày này năm cũ.) Đặc biệt báo Chính Luận ngày 30-8-1964 có trích đăng buổi họp báo có mặt của đại tá Phạm Ngọc Thảo, lúc bấy giờ là đặc trách Nha báo chí phủ Thủ tướng. Sau đó ông Khánh xuất hiện thông báo xin tữ chức thủ tướng chính phủ. Điều này cho thấy giữa tướng Khánh và đại tá Thảo có mối liên hệ chặt chẽ như cánh tay mặt của tướng Khánh. 11 tháng 9, 1964, bác sĩ Trần Kim Tuyến phải ra tòa đại hình cùng với các ông Trương Quảng Văn, Đinh Văn Thuận, Nguyễn Duy Bách, La Ngọc Diệp, Nhan Văn Quang, Đặng Văn Tơ bị tố giác là nhận hối lộ, hối mại quyền thế (liên quan đến việc cấp giấy phép khai thác lâm sản). Vậy mà chỉ khoảng nửa năm sau, tháng 2-1965, đại tá Thảo bằng mọi gía phải triệt hạ Nguyễn Khánh?. Theo đại tá Nguyễn Mâu vì “Tướng Nguyễn Khánh trở thành quẫn trí manh nha bắt tay với kẻ thu cộng sản. Ngày 4 tháng 1 năm 1965, ông ta đã trả tự do cho bà Bùi Thị Nga, vợ của Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch Mặt trận giải phóng miền Nam. Bà Nga có sứ mạng trao một thư viết tay của chồng bà cho tướng Nguyễn Khánh. Tất cả được bố trí trong bí mật hoàn toàn. Ý đồ mạo hiểm của ông Nguyễn Khánh bị đại tá Phạm Ngọc Thảo biết được và báo cho cơ quan tình báo Trung ương Mỹ CIA... Lập tức, đèn xanh được bật cho ông Thảo đánh hạ Nguyễn Khánh bằng tất cả những phương thức khả dĩ hoặc đảo chánh hoắc ám sát.” (TríchNĐB, ngành đặc biệt , Nguyễn Mâu, tập 1, trang 137). Ông Nguyễn Mâu còn chú thích thêm là nguồn tin cung cấp cho Thảo chưa thuận tiện, vì người đưa tin hiện nay đang còn sống dưới chế độ cộng sản. Nếu sự kiện được đại tá Mâu nêu ra là thật thì Phạm NgọcThảo quả thực là một người quốc gia chân chính. Tôi chỉ thắc mắc ai đã ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo triệt hạ tướng Khánh? Tướng tá Việt Nam hay CIA? Phần Trương Như Tảng viết lại việc đảo chánh này như sau. Sau khi chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu ra đời mà đằng sau có sự điều động của tướng Khánh. Đại tướng Khiêm đi làm đại sứ tại Mỹ kéo theo Phạm Ngọc Thảo. Trương Như Tảng viết, “One morning, in late December 1964, three months after these frenzied doing. Albert showed up at my door with a suitcase in his hand. I was flabbergasted. Troi oi ! My God. I shouted. “What in the world are you doing here? “Oh”, Albert replied nonchalantly, “I just got in from the airport. Khanh’s people almost had me.” Nguyen Khanh had apparently reconsidered the advisability of keeping two such potentially dangerous individuals as Albert and Khiem together, even half a world away, and had ordered Albert back to Saigon, planning to arrest and (so Albert thought) execute him. Despite the risks, Albert had decided to come back, making arrangements to elude Khanh’s police and take the offensive himself. (Trich A Viet cong Memoir,Truong Nhu Tang, trang 57) Sau đó, Thảo nhờ Tảng liên lạc với một nữ dược sĩ ở đường Lê Lợi và Thảo ẩn náu ở đấy và điều động liên lạc những nơi cần thiết, trong đó có liên lạc với tướng Nguyễn Cao Kỳ. Khánh lo sợ sự có mặt của Thảo ở Sài Gòn.. Tảng đã sắp xếp để Thảo có thể nói chuyện với Nguyễn Cao Kỳ ở đường Hàm Nghi. Qua cuộc điện đàm, Kỳ chgo biết ông “trung lập giữa hai bên”, vì Khánh đối xử tốt với ông ta. Đây là nội dung điện đàm: “Hello Kỳ.This is Pham Ngọc Thảo. Ky, Listen to me Khánh is screwing things up royally. I’m going to get rid of the son of pregnant dog I want to known what your position is on it? Ky’s initially emotional greeting gave way to more cautious tones. “Khanh’s treated me well. Between you and him, I’m neutral. I consider you both good friends” (Trích A Viet cong memoir, Truong Nhu Tang, trang 60) Và để chuẩn bị cho cuộc “chỉnh lý”, chữ dùng của Phạm Ngọc Thảo, cuộc chỉnh lý chính trị cuối cùng của cuộc đời ông, Phạm Ngọc Thảo đã chuẩn bị cho vợ con rời Việt Nam sang Hoa Kỳ với sự chấp thuận của sở di trú Hoa Kỳ trong thàng 2-1965. Một người cộng sản chính hiệu có làm như thế không? Phạm Xuân Ẩn cũng đã cho vợ con di tản ngày 20 tháng 3, 1975 trong đoàn di tản của báo Time. Họ có một điều gì giống nhau? Và điều gì khác nhau? Riêng phần Trương Như Tảng, mặc dầu là bạn thân tình với Phạm Ngọc Thảo, nhưng trong suốt 20 năm miền Nam, chưa bao giờ Trương Như Tảng được nghe bạn mình nói về những liên hệ cá nhân hay công tác với phía cộng sản. Thảo có thể nói đủ thứ về miền Nam, nhưng không một lần nhắc đến các họat động cộng sản.Vì thế, dù đặt tên chương viết về Phạm Ngọc Thảo là A master Spy, Trương như Tảng đành kết luận như sau về Phạm Ngọc Thảo: “Although at this point we had not yet revealed our NLF identities to each other, our friendship and the sympathy of our view allowed us to discuss matters freely”... But up until that moment we had avoided any mention of the subject. (Trích như trên trang 50). Cuối cùng thì Trương Như Tảng chỉ có thể nói được Phạm Ngọc Thảo là một người yêu nước tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam. Về cái chết của Phạm Ngọc Thảo và ai đã giết Phạm Ngọc Thảo. Tướng Khánh đã lưu vong, chỉ còn lại hai người đang nắm quyền lực: tướng Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Cao Kỳ. Phần tướng Kỳ vốn đã có giao tình với Phạm Ngọc Thảo từ trước. Hơn nữa theo trung tá Nguyễn Đức Cung, Phạm Ngọc Thảo đã nhắn với ông giúp liên lạc với tướng Kỳ để nhờ che chở. Trung tá Nguyễn Đức Cung đã e ngại và lỡ hẹn. Số phận Thảo đã được an bài. Trong cuốn Twenty Years and Twenty Days, ông Kỳ đã minh bạch như sau: “Thao and Phat fled, hiding for two years in Catholic villages. Thao met a grisly end. When polce discovered where he was hiding they persuade Thao’s bodyguard, a man actually paid by the police to report on Thao, to meet him at a rendez-vous, where the man Thao had trusted shot him in the neck and left him for dead. But when the police arrived, Thao had vanished. He had only been wounded. However, police found him twenty-four hours later and threw him in jail, where he was shot on orders from general Thieu. It was, I believe, Thieu who had earlier arranged for the bodyguard to shoot him. When I became prime minister, I granted amnesty, bringing Phat out of hiding. During the last few weeks before the fall of Saigon he came often to my house to offer his cooperation in helping to overthrow Thieu. To my knowledge, Phat is still in Saigon.” (Trích Twenty years and twenty days, Nguyen Cao Ky, trang 64) Nhà báo Vĩnh Phúc cũng đã gián tiếp đẩy cái trách nhiệm giết Phạm Ngọc Thảo là do quyết định của tướng Thiệu, “Riêng về cái chết của Phạm Ngọc Thảo sau này, vẫn còn là một điều bí mật mà người có thể đưa ra lời giải đáp thỏa đáng là cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Còn sự kiện phe cộng sản làm rùm beng về công trạng của Phạm Ngọic Thảo trong vai trò do thám miền Nam, cũng cần phải xét lại ý đồ của họ.” (Trích Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 178). Vậy thì vì lý do gì ông Nguyễn Văn Thiêu đã ra lệnh giết ông Phạm Ngọc Thảo? Chỉ vì sợ không phải sợ như sợ một người cộng sản. Vì nếu là cộng sản, ông sẽ mời ra Côn Đảo Như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng. Có thể ông sợ vì Phạm Ngọc Thảo có thể lật cái ghế ngồi của ông. Giết Thảo là trừ hậu họa, trừ được một mối lo. Bài viết đến đây đã dài và đã đủ. Tôi nhận thức rõ một điều là tất cả những sĩ quan cao cấp quân đội VNCH như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Khánh cho đến các nhân vật chính trị hàng đầu như Ngô Đình Diệm, Trần Kim Tuyến, Cao Xuân Vỹ đều không một ai kết tội Phạm Ngọc Thảo là theo cộng sản. Chỉ phía bên kia, sau hơn 10 năm, họ phục hồi cho Phạm Ngọc Thảo, bốc mộ, an táng vinh danh ông vào hàng gián điệp kiệt xuất đứng hàng thứ tư. Chỉ nội điều này thôi đủ rõ Phạm Ngọc Thảo đứng về phía nào khi còn sống?
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 3:18:47 GMT 9
“Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm”: Sự thức tỉnh muộn màng Phạm Đình Trọng “…Thật đau xót cho thời cuồng tín, mê muội, người Việt say sưa giết người Việt! Đau xót về một thời bi kịch của dân tộc để phải thức tỉnh về nhận thức…” Viết về cuộc chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm đòi hỏi phải có cái nhìn công bằng, khách quan, lý trí, thoát khỏi thân phận công cụ tuyên truyền. Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn đã có được cái nhìn đó trong trường ca “Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm”, tập trường ca vừa được Nhà xuất bản Văn Học phát hành cuối năm 2009. Những năm sáu mươi, bảy mươi thế kỷ hai mươi, hầu hết đàn ông Việt Nam đã trưởng thành đều mặc áo lính của cả hai bên chiến tuyến, đều là lính của hai đội quân đang đối đầu tiêu diệt nhau, lính Quân đội Việt Nam Cộng hòa và lính Quân đội Nhân dân Việt Nam khi còn ở miền Bắc, lính quân giải phóng khi vào chiến đấu ở miền Nam. Không là lính, họ là đồng bào, nhiều người còn là họ hàng, anh em ruột thịt. Nhưng chiến tranh hút họ vào lính, đẩy họ thành kẻ thù đối kháng của nhau: “Bộ đội nghĩa vụ quân sự Chọi nhau với lính quân dịch Cộng hòa!” Bộ đội Quân đội Nhân Dân Việt Nam Quân đội Việt Nam Cộng Hòa Những học trò vừa tốt nghiệp trung học, những sinh viên đang học dở đại học bị động viên vào lính cầm súng ra trận. Những người lính có chữ đó, nhiều người có năng khiếu văn chương và tâm hồn nhạy cảm đã cầm bút viết về cuộc chiến, viết về thân phận con người, thân phận quê hương đất nước trong chiến tranh và họ đã làm nên đội ngũ nhà văn, nhà thơ quân đội của cuộc chiến tranh đó. Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Thái Thăng Long, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Trần Nhương, Nguyễn Thái Sơn… Họ đều là bầu bạn thân thiết cùng thế hệ với tôi và tôi đã đọc đầy đủ trường ca của họ viết về cuộc chiến tranh mà chúng tôi là người lính ngoài mặt trận. Phải đến trường ca “Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm” thì cuộc chiến tranh vẫn được gọi là chống Mỹ cứu nước mới được nhận ra bản chất thực là cuộc nội chiến tương tàn, là bi kịch lớn của dân tộc Việt Nam, là sự tái diễn thảm cảnh đau thương người Việt giết người Việt đã từng xảy ra ở thời những vương triều suy vong: “Lính họ Trịnh Đàng Ngoài Đánh lính họ Nguyễn Đàng Trong Lính Tây Sơn Nguyễn Huệ Chém giết lính Nguyễn Ánh Gia Long”. Thời công nghiệp, điện tử, chiến tranh không còn chỉ là động tác của cơ bắp chém, đánh như thời Trịnh, Nguyễn, thời Tây Sơn nữa mà là ấn nút, nhấn cò, động tác nhẹ nhàng cuối cùng sau chuỗi những thu nạp dữ liệu, phân tích, tính toán điện tử: ”Lọat hỏa tiễn rời bệ phóng Nổ tung trong căn hầm bên trại giặc chen chúc người”. … ấn nút, nhấn cò, động tác nhẹ nhàng và… hủy diệt, chết chóc của động tác nhẹ nhàng ấy Hiệu quả hủy diệt, chết chóc của động tác nhẹ nhàng ấn nút ấy không còn tính bằng hàng đơn vị mà phải tính bằng hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn nhân mạng: “Người Việt miền Bắc Người Việt miền Nam Mỗi ngày Bao nhiêu bom đạn Mấy ngàn người chết!” Trước đó, trường ca viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo… chỉ mới soi rọi vào góc khuất trong đời sống tâm hồn tình cảm của người lính, người mẹ, người vợ, mới khám phá những hoàn cảnh nghiệt ngã, những tâm thế chênh vênh của con người cá thể trong xoáy lốc chiến tranh: “Vắng anh, chị bị thừa ra Trong giỗ tết họ hàng nội ngoại (Hữu Thỉnh – Trường ca “Đường tới thành phố”) Thử thách với người chồng ngoài mặt trận là bom đạn, còn thử thách với người vợ ở quê lại chính là nhan sắc của chị: “Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy Cứ sợ đắm vì chị còn nhan sắc!” (Hữu Thỉnh – Trường ca “Đường tới thành phố”) Trường ca “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh mang rõ dấu ấn của ngòi bút tài hoa và bộc lộ tấm lòng hồn hậu nhân văn của người viết và sự hồn hậu nhân văn ấy dành cho những thân phận cá thể. “Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm” của Nguyễn Thái Sơn là nỗi bận tâm, nỗi đau đáu cho số phận dân tộc bị xô đẩy vào cuộc nội chiến thảm khốc, lâu dài! Vì mối quan tâm là số phận cả dân tộc, “Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm” không có nhân vật cụ thể mà chỉ có hai nhân vật ước lệ: Người đàn ông ra trận và người đàn bà ở lại làng quê. Hai nhân vật ấy như hai cá thể ước lệ cho thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, như hai ông bà ước lệ cho tổ tiên dân tộc Việt Nam, ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Những tâm trạng sâu kín, những tình cảnh quẫn bách được nhắc đến trong trường ca là cuộc sống không bình thường, trái tự nhiên mà người đàn ông và đàn bà ước lệ phải chịu đựng do họ phải sống thiếu nhau vì chiến tranh. Người đàn ông ngoài mặt trận không phải chỉ khổ vì nằm gai nếm mật, sốt rét, bom đạn mà còn khổ vì: “Chúng tôi Những người lính đàn ông con trai Mười chín, ba mươi tuổi … Chúng tôi không e ngại bất kể điều gì Chỉ khổ vì dư thừa năng lực đàn ông!” Nỗi khổ của người đàn bà ở làng quê vắng bóng đàn ông càng âm ỉ thiêu đốt: “Những người đàn bà khao khát tình yêu Da thịt có gai, có lửa … Những người đàn bà sung mãn Đêm uống “nước sông” Ngày ăn “cơm nhạt”!” Khao khát mà chỉ có “nước lã”, “cơm nhạt”, chỉ có cuộc sống chay tịnh! Họ phải khỏa lấp sự trống vắng, thiếu thốn, xả nỗi khát khao vào những công việc bất thường, nặng nhọc: “Gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn Xay vài thúng thóc Giã nửa nong ngô!” Bom đạn khốc liệt! Cái chết đến từng phút từng giây: “Không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử Dễ như người lính Nhanh như người lính Nhiều như người lính Đương nhiên, mặc nhiên, tất nhiên, hồn nhiên như người lính!” chúng tôi. . . tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ (giày của anh bộ đội QNDVN) chúng tôi. . . ẩn trong giọt sương, tiêu dao trên ngọn sóng! (giày của anh lính VNCH) Chết chóc như thế nên người đàn ông trở thành hồn ma cũng là lẽ đương nhiên: “Chúng tôi sống bình thường rồi chết Chưa xấu cũng chưa kịp tốt Không thành ma quỉ, chẳng hóa thánh thần Không phải xuống địa ngục Không được lên Thiên Đàng Tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ Ẩn trong giọt sương, tiêu dao trên ngọn sóng!” Người đàn bà lấy chồng ở với chồng được hai đêm: “Mười chín năm con gái Làm đàn bà hai đêm!” Người đàn ông thành hồn ma rồi thì người đàn bà đành sống cô quả: “Có chồng hai đêm Chị chỉ là người đàn bà tập sự Mười năm Mười lăm năm Hai mươi mốt năm Vẫn chỉ sống như thời con gái!” Cuộc nội chiến đau lòng như vậy thì đâu có gì để ồn ào khoe khoang, để lỉnh kỉnh huân chương, xênh xang mũ áo phô trương nhỉ? Người lính miền Bắc mang súng AK, nói tiếng Việt. Người lính miền Nam mang súng AR15, cũng nói tiếng Việt. Hai người lính cùng một tiếng mẹ đẻ Việt Nam mà tìm mọi cách tiêu diệt nhau, mang cái chết đến cho nhau. Cái chết đến từ khẩu AR15: Súng AR-15 – Made in USA Súng AK – Made in China “Chùm đạn AR15 bắn gần khoan vào trán Găm giữa ngực Những người lính đội mũ tai bèo đổ gục!” Cái chết đến từ khẩu AK: “Tốp lính Sài Gòn lò dò đặt chân lên sườn đồi Hứng trọn những lọat đạn AK vào đầu, vào ngực!” Người giết và người bị giết đều là người Việt: “Người Việt thắng trận huy hoàng Bại trận Cũng là người Việt!” Người bị giết dù ở phía nào thì người Mẹ Việt Nam vẫn phải nhận lấy nỗi đau chết chóc: “Năm Nhâm Tý – bảy hai Máu binh sĩ Sài Gòn Máu quân giải phóng Đỏ sông Thạch Hãn Ướt sũng gạch vụn Cổ Thành!” Thật đau xót cho thời cuồng tín, mê muội, người Việt say sưa giết người Việt! Đau xót về một thời bi kịch của dân tộc để phải thức tỉnh về nhận thức. “Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm” là sự thức tỉnh đó. Sự thức tỉnh cần thiết mà muộn màng! Phạm Đình Trọng
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 3:26:20 GMT 9
Hoa Kỳ và chiến tranh Việt Nam Hoa Kỳ và chiến tranh Việt Nam Lê Quế Lâm “… Năm 1953, tướng Eisenhower, đảm trách trọng trách lãnh đạo Hoa Kỳ, tiếp tục chủ trương ngăn chận CS của vị tiền nhiệm. Ông tuyến bố không thể để cho ĐD rơi vào tay CS …” Nói đến chiến tranh VN, chúng ta liên tưởng đến hai sự kiện quan trọng. Đó là Tài liệu Mật Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) và Hiệp Định Paris 1973. Pentagon Papers là sử liệu chính thức của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (HK) thường gọi là Ngũ Giác Đài, qua đó chúng ta sẽ hiểu được lý do nào mà chính phủ HK đã can dự vào cuộc chiến VN. Tài liệu được soạn thảo theo lịnh của Bộ trưởng Quốc phòng HK McNamara. Nó được xếp vào loại Mật được lưu trữ trong văn phòng bộ trưởng QP. Tài liệu dày 7 ngàn trang cộng với 40 ngàn trang phụ bản, ghi lại các văn kiện chính thức của chính phủ HK qua 5 trào tổng thống từ Franklin D. Roosevelt đến Lyndon B. Johnson, tức trong giai đoạn đang diễn ra Thế chiến II đến đầu năm 1968. Pentagon Papers được dư luận chú ý khi nó được tiết lộ trên báo New York Times và Washington Post hồi tháng 6/1971. Đây là bí mật quốc phòng có liên quan đến cuộc chiến mà TT Nixon đang tìm cách kết thúc, do đó Nixon yêu cầu Bộ Tư Pháp ra lịnh hai báo trên ngưng phổ biến. Báo chí dựa theo Tu chính án 1 trong Hiến Pháp, theo đó “Cấm Quốc hội (cơ quan quyền lực cao nhất) vi phạm đến quyền tự do tín ngưỡng và ngôn luận cũng như quyền tự do báo chí và tự do hội họp và kiến nghị”. Trong chế độ Hoa Kỳ, tự do ngôn luận và tự do báo chí được coi như Đệ Tứ Quyền. TT Nixon đưa vụ kiện giữa báo chí và Hành pháp lên Tối cao Pháp viện phân xử. Ông cho rằng Tu chính án 1 không đề cập đến việc lấy trộm và phổ biến rộng rải những tài liệu mật của quốc gia. Tối Cao Pháp Viện với tỉ số 6/3 đã phán quyết: những quyền tự do căn bản của con người được ghi trong Hiến pháp và Bản Tuyên ngôn Dân quyền là những quyền bất khả xâm phạm, không ai có thể nại ra bất cứ lý do gì kể cả an ninh hoặc bí mật quốc gia để tước đoạt những quyền đó. Còn Hiệp Định Paris 1973 sẽ giúp chúng ta hiểu được cung cách mà TT Nixon kết thúc chiến tranh VN. Việc tiết lộ Tài liệu Mật Ngũ Giác Đài ảnh hưởng nặng nề đến việc kết thúc chiến tranh VN. Hai sự kiện trên có liên hệ chặt chẻ kế tiếp nhau, vì đó là đường hướng chiến lược của HK mà bước ngoặc chuyển hướng là thời điểm tháng 3/1968. • McNamara rời khỏi Ngũ Giác Đài sau hơn 7 năm giữ chức vụ Bộ trưởng Quốc Phòng (21/1/1961 đến 29/2/1968, qua hai trào TT Kennedy và Johnson) để đảm nhận chức vụ Chủ tịch Ngân hàng Thế giới. • Đại tướng Westmoreland chấm dứt vai trò Tư lịnh Quân đội HK tại VN tức Cơ quan Quân sự viện trợ Mỹ tại VN (MAC/V – 20/6/1964-7/1968), trở về Bộ QP giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân. • TT Johnson tuyên bố không bố không tái ứng cử nhiệm kỳ 2 và cho biết ông sẽ triệu hồi Đại sứ HK tại Moscow là Llewellyn Thompson cúng với Harriman, đứng đầu phái đoàn HK tham dự cuộc đàm phán với Bắc Việt. Trước khi đề cập đến những diễn tiến tiếp theo về việc chấm dứt chiến tranh, chúng tôi xin được trình bày về nguyên ủy việc HK can dự vào cuộc chiến VN. VN đứng ngoài sự can dự của HK và LX trong và sau Thế chiến II Trong Thế chiến II, khi tiến hành cuộc chiến chống Đức, Ý, Nhựt, TT Roosevelt còn quan tâm đến một cuộc chiến khác trong tương lai xuất phát từ tham vọng của Đệ Tam Quốc tế CS. Từ 1919 QTCS đã chú ý đến phong trào giải phóng thuộc địa ở phương Đông. Lenin coi đó là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, sẽ góp phần đánh bại các nước thực dân đế quốc, lật đổ chủ nghĩa tư bản, đưa chủ nghĩa CS đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1924 ông Hồ Chí Minh với tư cách đại biểu các nước thuộc địa trở thành Ủy viên QTCS. Năm 1931 ông vâng lịnh QTCS trở về nước thành lập Đảng CS Đông Dương. Vì lẽ đó, TT Roosevelt mong muốn sau khi Thế chiến chấm dứt, các dân tộc Đông Nam Á phải được độc lập, không còn bị đô hộ bởi các cường quốc nữa. Ông đề cao vai trò các nước ĐNÁ đã cùng Đồng minh chống sự xâm lăng của Nhựt và có ý muốn thực hiện một “Châu Á của người Á” được xây dựng trên tinh thần quốc gia của mỗi dân tộc. Khi họp bàn chiến sự với hai Đồng minh Anh Pháp, TT Roosevelt luôn khuyến cáo họ phải thay đổi chính sách thuộc địa, vì đó là mầm móng của chiến tranh và là nhược điểm của các nước Tây phương. Ông nói: “Đã đến lúc các chính phủ phải nghe lời nói của các dân tộc thuộc địa, nếu chúng ta cứ mặc tình để hàng triệu con người lại rơi vào chế độ nô lệ thuộc địa trá hình thì một cuộc chiến khác sẽ xảy ra”. Đối với ba nước Đông Dương, Roosevelt muốn đặt nó dưới sự ủy trị của quốc tế trong một thời gian để các nước này chuẩn bị đón nhận sự độc lập hoàn toàn. Nhưng giới thống trị Anh và TT Churchill sợ nếu đặt Đông Dương dưới sự ủy trị của quốc tế sẽ ảnh hưởng đến sự thống trị của họ đối với Ấn Độ và các thuộc địa khác. Anh và Pháp hứa khi chiến tranh chấm dứt, họ trở lại thuộc địa cũ, thương lượng với những người bản xứ và trao trả độc lập cho các thuộc địa để duy trì ảnh hưởng của mình. Dựa vào lý do Pháp đã đầu hàng Đức và không có quân tham chiến chống Nhựt ở Thái Bình Dương; còn Đông Dương nằm trong mặt trận Hoa Nam do Trung Hoa (Quốc Dân Đảng của Thống chế Tưởng Giới Thạch) lãnh đạo, Đồng Minh quyết định giao cho Trung Hoa và Anh Quốc, vào ĐD giải giới Nhựt khi Thế chiến chấm dứt. Lúc đầu TT Roosevelt không tán thành việc Pháp trở lại ĐD, nhưng vì sự hợp tác Đồng Minh và cũng quá mệt mõi với cuộc chiến, vào lúc cuối đời (ông từ trần ngày 12/4/1945) ông cũng không phản đối việc Anh đứng ra giúp Pháp tái chiếm các nước ĐD. De Gaulle đưa ra Tuyên ngôn 24/3 (1945) hứa sẽ cho các nước ĐD được tự trị trong Liên Bang ĐD thuộc khối Liên Hiệp Pháp. Ba tuần trước khi Nhựt đầu hàng, lãnh tụ 5 nước Đồng Minh gặp nhau lần chót ở Postdam (Đức) từ 17/7 đến 2/8/1945 để chia ảnh hưởng ở Viễn Đông: HK chiếm đóng Nhựt; Đảo Sakhalin và Kouriles giao cho LX; Đài Loan, Mãn Châu và Nội Mông trả lại cho Trung Hoa; LX và HK tạm thời chiếm đóng Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm phân ranh; Trung Hoa vào giải giới Nhựt ở ĐD từ vĩ tuyến 16 trở lên, phía Nam do quân Anh đảm trách. Hội Nghị Postdam 1945: Stalin, Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman và Thủ tướng Anh Winston Churchill Một ngày trước khi hội nghị Postdam khai mạc, Anh Mỹ yêu cầu Nhựt đầu hàng. Nhựt không đáp ứng. Ngày 6/8/1945 HK cho thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima. Hai ngày sau LX tuyên chiến với Nhựt, Hồng quân chia làm 4 mũi tiến vào Đông Bắc Trung Quốc, trong khi hạm đội Thái Bình Dương đổ bộ lên Bắc Triều Tiên. HK vội cho nổ trái bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki, Nhựt hoàng cùng Nội các chiến tranh họp quyết định đầu hàng vào sáng 10/8/1945. Nhờ đó, mưu đồ “dấy máu chia phần” của Stalin bất thành, một số nước Đông Á khỏi lọt vào tay LX như các nước Đông Âu. Trước đó, tại ĐD, ngày 9/3/1945 Nhựt đảo chính Pháp. Hôm sau, Đại sứ Nhựt Yokohama đến Huế yết kiến vua Bảo Đại và thông báo việc trao trả độc lập cho VN. Ông yêu cầu VN hợp tác với Nhựt trong công cuộc xây dựng khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á. Bảo Đại cử Trần Trọng Kim thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của VN. Sau khi Nhựt đầu hàng, tại Tân Trào (Thái Nguyên) từ 13 đến 15/8/1945, Đảng CSVN quyết định tổng khởi nghĩa giành chánh quyền trước khi quân ĐM vào ĐD giải giới Nhựt. Chủ trương của HCM là giành chính quyền từ tay Nhựt và Chính phủ Trần Trọng Kim, ông sẽ đứng ở vị trí chủ nhà tiếp quân Đồng Minh. Trong khi đó TT Trần Trọng Kim chuẩn bị việc củng cố sức mạnh để nói chuyện với ĐM, ông kêu gọi các viên chức nhà nước, các đảng phái quốc gia: “thống nhất lực lượng sau lưng chính phủ để bảo vệ nền độc lập, đừng để bị tròng ách nô lệ một lần nữa”. Ngày 17/8/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, Tổng hội Công chức tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ ở Công trường Nhà hát lớn Hà Nội, có 15 vạn người tham dự để ủng hộ chính phủ TTK. Cán bộ Việt Minh do Xứ ủy CS Bắc Kỳ chỉ đạo bất thần chiếm lấy diễn đàn cuộc mít tin. Họ báo tin Phát xít Nhật đầu hàng, kêu gọi nhân dân ủng hộ Mặt trận VM, đả đảo chính phủ TTK là tay sai Nhựt, và chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tình thế tại Sàigòn cũng tương tự. Ngày 21/8/1945, trên 20 vạn đồng bào tham dự cuộc biểu tình do Mặt trận Quốc gia Thống nhất bao gồm các đảng phái, đoàn thể, tôn giáo không khuynh hướng CS, tổ chức. Sau cuộc biểu tình nầy, Việt Minh kêu gọi đồng bào các vùng phụ cận Sàigòn xuống đường biểu tình rầm rộ hơn vào ngày 25/8/1945. Trong cuộc biểu tình nầy, cán bộ CS giương cao các biểu ngữ “Chính quyền về tay Việt Minh”. Mặt trận VM cho ra mắt Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ gồm 9 người trong đó có 7 đảng viên CS do Trần Văn Giàu làm chủ tịch. Ngày 2/9/1945 tại Hà Nội, ông HCM tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày 6/9/1945, lực lượng Hoàng gia Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sàigòn. Đến nơi Gracey thảo luận ngay vấn đề Nam Bộ với đại diện VM là Phạm Ngọc Thạch và Cedile vừa được De Gaulle bổ nhiệm làm Ủy viên Cộng hòa Pháp ỏ Nam bộ. Tướng Gracey yêu cầu VM giải giới lực lượng Dân Quân, giao cho Nhựt trách nhiệm ổn định trật tự, duy trì an ninh để hai bên Việt Pháp đàm phán. Cuộc đàm phán bất thành vì VM đòi Pháp nhìn nhận VN độc lập, còn Pháp chủ trương tái lập chủ quyền, sau đó cho Nam Kỳ được tự trị theo Tuyên ngôn 24/3 của De Gaulle. Tại bắc vĩ tuyến 16, giữa tháng 9/1945 18 vạn quân Tưởng Giới Thạch do Lư Hán, Chu Phát Thành và Tiêu Văn chỉ huy tiến vào miền Bắc giải giới Nhựt. Tiêu Văn được mật lịnh của Tưởng giúp Nguyễn Hải Thần lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập chính quyền quốc gia thân TH. Hai tổ chức nầy từ Trung Quốc trở về nước, chậm mất 21 ngày sau khi VM đã tạm thời đặt xong chính quyền các cấp. Trước sự việc đã rồi, Tiêu Văn đề nghị HCM cải tổ chính phủ lâm thời, thành lập chính phủ liên hiệp với hai đảng trên. Trong thời gian này, Pháp cũng sẽ trở lại Trung Hoa tái lập chủ quyền ở các phần đất mà triều đình nhà Thanh đã nhường cho Pháp. Do đó Hiệp ước Pháp Hoa được ký ngày 28/2/1946, hai bên thỏa thuận một sự trao đổi: Pháp giao hoàn các nhượng địa ở TH lại cho chính phủ Trùng Khánh (Tưởng Giới Thạch), đổi lại Pháp sẽ thay thế TH đóng quân ở bắc Vĩ tuyến 16 để Pháp đặt trọn quyền ảnh hưởng ở VN. Đầu tháng 3/1946 Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp đến Hà Nội thảo luận với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về việc thay quân Trung Hoa và tương lai chính trị VN. Hai bên đã ký Hiệp ước Sơ bộ ngày 6/3/1946 trước sự chứng kiến của các phái bộ Trung Hoa, Anh và Mỹ. Pháp công nhận nước VNDCCH là một nước tự do có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, và là một thành phần của Liên Bang ĐD thuộc khối LHP. Riêng Nam bộ là cựu thuộc địa của Pháp nên Pháp tạm thời quản lý để chờ cuộc trưng cầu dân ý dân chúng Nam bộ. Pháp cam kết sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý này. Để tiến tới một hiệp định chính thức và toàn bộ, phái đoàn VNDCCH do Nguyễn Tường Tam dẫn đầu gặp phái đoàn Pháp tại Hội nghị trù bị Đà Lạt từ 19/4 đến 10/5/1946. Phái đoàn VNDCCH phản đối thái độ của Pháp khi D’Argenlieu, Cao ủy Pháp ở ĐD, đứng ra chủ tọa cuộc họp giữa ba phái đoàn Pháp, VNDCCH và Nam Kỳ (Cộng hoà Nam Kỳ). Cuộc đàm phán sau đó được chuyển sang Paris để khai thông các bế tắc. Phái đoàn VNDCCH do Phạm Văn Đồng đứng đầu lên đường sang Pháp ngày 31/5/1946 tham dự hội nghị Fontainebleau. Ngoài ra ông HCM cũng đến Paris tham dự cuộc đàm phán thể theo lời mời của thủ tướng Pháp Felix Gouin. Hội Nghị Fontainebleau, tháng 7 và 8, 1946 hoàn toàn thất bại Vì những bất đồng, hội nghị Fontainebleau bế tắc. Trước khi phái đoàn VNDCCH về nước, do yêu cầu của ông HCM, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Moutet đã ký với ông HCM một văn kiện gọi là Tạm ước (Modus vivendi) ngay trong đêm 14/9/1946 tại tư thất Moutet. Trong tạm ước 14/9 chính phủ VNDCCH thừa nhận giá trị Thỏa ước 6/3, công nhận nước Cộng hòa Nam kỳ cho đến khi có cuộc trưng cầu dân ý. Hai bên thỏa thuận giữ thái độ thân thiện cho đến tháng Giêng 1947 là thời hạn cuối, hai bên sẽ tái tục cuộc đàm phán để kết thúc vấn đề VN một cách chính thức. Rất tiếc việc nầy không xảy ra, cuộc xung đột Việt Pháp diễn ra ở Hải Phòng kéo dài đến Hà Nội trong đêm 19/12/1946. Hôm sau ông HCM ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”, chấm dứt hoàn toàn mọi nổ lực nhằm giải quyết vấn đề độc lập của VN bằng con đường hòa bình. Trong cuộc xung đột Pháp -Việt Minh ở Nam Kỳ và cuộc đàm phán giữa Pháp và chính phủ HCM hồi năm 1945/46, Hoa Kỳ giữ thái đô trung lập. Họ không muốn dính líu đến Đông Dương, nhưng hết sức quan tâm đến diễn biến tình hình ở đây. Trong công điện gởi Sứ quán HK ở Paris, Ngoại trưởng Marshall nhắc nhở: “Chúng ta hoàn toàn thừa nhận lập trường là Pháp có chủ quyền ở ĐD và chúng ta không muốn tỏ ra là mình đang tìm cách phá hoại lập trường đó. Đồng thời chúng ta không thể nhắm mắt trước thực tế là có hai bên trong vấn đề nầy. Việc Pháp tiếp tục có mặt ở ĐD phản ảnh một giải pháp thực dân đã lỗi thời và nguy hiểm ở khu vực đó. Mặt khác chúng ta không được làm ngơ trước thực tế là ông HCM có quan hệ trực tiếp với cộng sản và đương nhiên chúng ta không muốn thấy các chính quyền của thực dân đế quốc lại được thay thế bằng triết lý và tổ chức chính trị do Kremlin chỉ đạo và kiểm soát” (1) Với quan điểm trên, tháng 9/1945 TT Truman từ chối lời yêu cầu của De Gaulle xin HK cung cấp phi cơ và tàu thủy để chở quân Pháp sang ĐD. Sau đó HK cũng bác bỏ yêu cầu của Paris xin cung cấp vũ khí để giúp Pháp chống VM. Truman cũng làm ngơ trước những lời kêu gọi của ông HCM hồi tháng 8 và 9/1945 yêu cầu HK “một quán quân về dân chủ” hãy can thiệp để VN trở thành một nước được Mỹ bảo hộ trong một thời gian trước khi độc lập như trường hợp Phi Luật Tân. (2) HK can dự vào cuộc chiến tranh Pháp và Việt Minh HK hoàn toàn đứng ngoài cuộc trong vấn đề ĐD cho đến năm 1948. Từ giữa năm này quan hệ Đông Tây bắt đầu căng thẳng (khởi đầu chiến tranh lạnh), chính giới HK hết sức quan tâm trước sự bành trướng của Liên Xô ở Đông Âu và tỏ ra lo ngại ông HCM đi theo CS. Nhưng các báo cáo của Bộ Ngoại giao xác nhận họ không tìm ra được bất cứ bằng chứng cụ thể nào cho thấy ông HCM thực sự đã nhận chỉ thị của Kremlin. Tuy nhiên “nếu có một mưu đồ do Moscow chỉ huy ở ĐNÁ thì ĐD quả là một trường hợp bất thường chưa hề có”. (3) Vì vậy HK gây áp lực mạnh hơn buộc Pháp chấp nhận cho các nước ĐD được độc lập khá hơn. Một nền độc lập được cho là cần thiết để làm hậu thuẫn cho chủ nghĩa quốc gia có thể phát triển, nhờ đó HK hy vọng sẽ khuyến khích dân chúng VN tích cực ủng hộ ông Bảo Đại là người không CS, để thay thế ông HCM và tổ chức VM. Ông BĐ có thể thực hiện “một giải pháp chính trị công bằng với những người quốc gia ôn hòa, do đó sẽ giảm bớt những hiểm họa do việc các phong trào đấu tranh giành độc lập có thể bị phe cực đoan thao túng”. Dù vậy HK vẫn chưa ủng hộ Thỏa ước Élysée 8/3 (Pháp thừa nhận VN độc lập thống nhứt trong khối Liên Hiệp Pháp) vì sợ ông Bảo Đại quá yếu. Trong điện gởi Sứ quán HK ở Paris, Bộ Ngoại giao nhấn mạnh “Trong lúc nầy chúng ta không thể đưa nước Mỹ đi cam kết một cách vô điều kiện để ủng hộ chính phủ của một người bản xứ khi mà chính phủ nầy không phát huy được tín nhiệm đối với nhân dân VN, có thể cuối cùng trở thành một chính phủ bù nhìn, tách rời dân chúng và chỉ tồn tại nhờ sự có mặt của giới quân sự Pháp” (4) Đến đầu năm 1950, ba tháng sau khi Mao Trạch Đông chiến thắng ở Hoa Lục, Trung Cộng công nhận chính phủ HCM (18/1) Mao công khai ủng hộ CSVN, đặt hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm hậu phương cung cấp lương thực, vũ khí, đạn dược cho bộ đội VM. Ngày 30/1/1950 Liên Xô và các nước CS Đông Âu công nhận chính phủ HCM. Lúc đó HK và các nước Tây phương mới chính thức đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Quốc Gia Việt Nam do cựu hoàng BĐ lãnh đạo (7/2/1950). Chính quyền Truman công nhận chính phủ BĐ là chính phủ hợp pháp của VN. Ngoại trưởng Acheson đề cao chính phủ nầy đã thể hiện rõ nét “tinh thần quốc gia đích thực” và cho rằng ông HCM là kẻ thù không đội trời chung của nền độc lập các nước bản xứ ĐD. (5) Giữa tháng 2/1950, Pháp chính thức yêu cầu HK viện trợ quân sự để bảo vệ ĐD. Trong phiếu đệ trình TT Truman, Ngoại trưởng Acheson nêu ý kiến “Trước mắt Mỹ phải lựa chọn hai điều, hoặc là ủng hộ các chính phủ hợp pháp ở Đông Dương hoặc là đương đầu với sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở phần đất còn lại của lục địa Đông Nam Á và có thể sang cả hướng Tây”. (6) Hội đồng An ninh Quốc gia HK cũng khuyến cáo chính quyền Truman mở rộng viện trợ cho Pháp ở ĐD. Theo quan điểm của Hội đồng, sự viện trợ nầy “rất quan trọng đối với lợi ích an ninh của Mỹ, nên cần phải thực hiện tất cả mọi biện pháp thực tế để ngăn chận CS bành trướng thêm nữa ở ĐNÁ. Đông Dương là khu vực then chốt và đang bị trực tiếp đe dọa. Các nước láng giềng như Thái Lan và Miến Điện có thể rơi vào ách thống trị của CS, nếu ĐD bị một chính quyền CS kiểm soát, cán cân ở ĐNÁ lúc đó sẽ gặp nguy cơ trầm trọng”. (7) Ngày 8/5/1950 Mỹ báo tin sẽ cung cấp viện trợ cho Pháp ở ĐD bắt đầu bằng một ngân khoản 10 triệu đôla. Tuy nhiên đến ngày 28/6/1950 TT Truman mới ký đạo luật viện trợ quân sự cho ĐD sau khi CS gây chiến ở Triều Tiên (Cao Ly), vượt vĩ tuyến 38 tấn công Nam Triều Tiên (25/6/1950) Chiến tranh Việt Pháp tiếp tục bùng nổ lớn. Đầu năm 1950 ông HCM đi Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để cầu viện Mao và Stalin viện trợ vũ khí chống Pháp, thì năm 1951, Tướng De Lattre de Tassigny, Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở ĐD đi Hoa Thạnh Đốn xin chiến cụ chống VM. Đảng CSĐD mà HCM giải tán năm 1945, đã hoạt động trở lại với danh xưng Đảng Lao Động VN. Tư tưởng Mao được ghi vào điều lệ của Đảng. Bản Chính cương của Đảng Lao động VN được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II thông qua hồi tháng 2/1951 xác nhận: “Việt Nam là tiền đồn phe Xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”. (8) Trong khi đó tại HK năm 1952 Hội đồng An ninh Quốc gia ra tuyên bố: “Bất cứ xứ nào ở ĐNÁ mất vì sự xâm lược của CS cũng sẽ có hậu quả tâm lý, chính trị, kinh tế nghiêm trọng. Nếu không phản công có hiệu lực và kịp thời thì việc mất bất cứ xứ nào thôi chắc chắn cũng sẽ đưa tới sự khuất phục tương đối mau chóng hoặc một sự sắp hàng với CS của tất cả các nước còn lại trong nhóm quốc gia nầy”. (9) Năm 1953, tướng Eisenhower đảm trách trọng trách lãnh đạo HK, ông tiếp tục chủ trương ngăn chận CS của vị tiền nhiệm. Ông tuyến bố không thể để cho ĐD rơi vào tay CS vì “chúng ta có ở đó một loạt quân bài Domino, nếu vắng đi một quân thì chắc chắn các quân bài kia sẽ rụng theo ngay”. VN đã trở thành chiến trường giữa Thế giới Tự do và Quốc tế CS. Một cuộc chiến chắc chắn sẽ lâu dài và đẫm máu. Tuy nhiên cuối tháng 7/1953 cuộc chiến Triều Tiên chấm dứt. Hiệp định đình chỉ chiến sự được ký tại Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày 27/7/1953: Triều Tiên trở về nguyên trạng cũ, bị chia cắt tại vĩ tuyến 38. Tuần lễ sau, Liên Xô đưa ra đề nghị giải quyết cuộc xung đột ở Á Châu bằng con đường thương lượng. Sau đó vào ngày 24/8/1953 trong bài diễn văn về Triều Tiên, Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai nói rằng “Đình chiến Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực để giải quyết các cuộc xung đột khác”. (10). Bốn tháng sau, Ngoại trưởng LX Molotov đề nghị với ba ngoại trưởng Anh Pháp Mỹ mời Trung Cộng tham dự một cuộc họp chung với bốn cường quốc để giải quyết các vấn đề căng thẳng của thế giới. HK chấp nhận sự có mặt của TC nhưng chỉ giới hạn vào khuôn khổ những vấn đề có liên quan đến Viễn Đông mà thôi. Cuối cùng bốn ngoại trưởng Anh, Pháp, Mỹ, Nga đồng ý ngồi chung với đại biểu TC tại Genève để giải quyết dứt khoát vấn đề Cao Ly và thảo luận việc ngừng bắn ở Đông Dương. Hội nghị Genève khai mạc ngày 9/5/1954. Hai tuần đầu, hội nghị thảo luận về Triều Tiên, họ quyết định TT vẫn bị chia cắt như Đồng minh đã qui định hồi năm 1945, không có điều khoản đề cập đến việc thống nhất đất nước nầy. Về ĐD, hội nghị kết thúc bằng ba hiệp định đình chỉ chiến sự ở ba nước ĐD, chớ không phải là hiệp ước hòa bình. Kèm theo là Bản Tuyên bố cuối cùng (bế mạc) của hội nghị với các nội dung chính: Pháp rút khỏi ĐD; Cao Miên và Lào trung lập; VN bị tạm thời chia đôi. Mục đích căn bản của hiệp định về VN là để đình chỉ chiến sự, giới tuyến quân sự 17 chỉ có tính tạm thời hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay lãnh thổ. Việc giải quyết các vấn đề chính trị sẽ do nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng gặp gở thương lượng một năm trước khi tổ chức cuộc tổng tuyển cử vào tháng 7/1956 với những điều kiện cần thiết bảo đảm nhân dân VN có thể tự do bày tỏ ý muốn của mình. Hội Nghị Genève chia đôi đất nước Hai ngày trước khi bế mạc, Trưởng đoàn Quốc gia VN, bác sĩ Trần Văn Đổ tuyên bố trong phiên họp toàn thể: “Chính phủ Quốc gia Việt Nam không chấp nhận sự chia cắt lãnh thổ” và khước từ ký kết vào bất cứ thỏa ước ngưng bắn nào được Pháp và Việt Minh ký kết. Trước đó vào cuối tháng 6/1954, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Foster Dulles cuơng quyết không đến hội nghị để ủng hộ Pháp theo yêu cầu của Thủ tướng Mendès France, ông tuyên bố “không muốn dính líu đến một kế hoạch mà hậu quả là ném vào tay cộng sản hàng triệu con người Việt Nam”.(11) Ngày bế mạc hội nghị 20/7/1954, Trưởng đoàn HK Smith báo cho hội nghị biết chính phủ HK sẽ không ký tên vào Bản Tuyên bố bế mạc hội nghị. Vì hòa bình, HK chấp nhận giải pháp ngưng bắn, giải quyết chiến tranh ĐD dựa trên việc chia cắt VN…Nhưng HK không chấp nhận giải pháp có tính cách tạm thời chỉ nhằm xoa dịu các cường quốc. HK chỉ bằng lòng phổ biến một Tuyên bố riêng xác định: • Cam kết tôn trọng những điều khoản của hiệp định, hứa sẽ không dùng vũ lực hay đe dọa vũ lực để làm thay đổi thỏa ước. HK coi bất cứ hành động xâm lược mới nào xâm phạm đến các thỏa ước nói trên đều là sự đe dọa nghiêm trọng đối với nền hòa bình và an ninh thề giới. • Về vấn đề tổng tuyển cử tự do, HK cho rằng nếu sự chia cắt lãnh thổ phản lại ý nguyện người dân bản xứ thì HK sẽ tiếp tục tìm kiếm sự thống nhất thông qua một cuộc tổng tuyển cử tự do do LHQ giám sát, nhằm bảo đảm cho mọi người dân hành xử quyền chọn lựa của mình một cách trung thực. • Về lời tuyên bố của Đoàn Đại biểu QGVN, họ không ký hiệp định nên không bị hiệp định ràng buộc, HK nhắc lại quan điểm cố hữu của mình là “dân chúng được quyền quyết định tương lai của mình” và HK sẽ không tham gia bất cứ một sự sắp đặt nào để ngăn cản điều đó. (12) Vì HK từ chối không ký tên vào Bản Tuyên bố bế mạc, nên các phái đoàn đồng ý xóa bỏ vấn đề chữ ký, chỉ kể ra trên những dòng đầu của Bản Tuyên bố danh sách các nước tham dự hội nghị. Cục diện MNVN sau HĐ Genève 1954 và sự can thiệp của HK “Giới tuyến quân sự tạm thời và quyền tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống” - thực chất theo nhận xét của Giáo sư Hans Morgenthau, môt phân tích gia HK về các vấn đề quốc tế - “cũng là giới tuyến phân chia về chính trị. Nói tóm lại thì việc gì xảy ra cho Đức và Triều Tiên ngay sau 1945 thì đã xảy ra cho Việt Nam năm 1954”. (13) Tháng 8/1954, TT Eisenhower chấp nhận kế hoạch của Hội đồng ANQG về việc HK giúp MNVN gồm ba điểm: Về quân sự, giúp MN tạo dựng quân đội quốc gia đủ mạnh để bảo vệ MN. Về kinh tế, sẽ viện trợ trực tiếp giúp VN phát triển dất nước. Về chính trị, HK sẽ hợp tác chính phủ Ngô Đình Diệm thiết lập các cơ cấu dân chủ và mở rộng thành phủ chính phủ. Tháng 8/1955, TT Ngô Đình Diệm trả lời đề nghị của chính phủ Hà Nội về việc hiệp thương thống nhất đất nước. Theo ông “tổng tuyển cử tự do là một định chế hòa bình và dân chủ, nhưng với điều kiện tiên quyết là sự tự do sinh sống và tự do đầu phiếu phải được bảo đảm”. Ông giải thích thêm: “Người ta không thể làm được điều gì xây dựng vấn đề này khi mà chế độ CS ở miền Bắc vẫn không cho phép người dân của họ hưởng những quyền tự do dân chủ”. Ngay bước đầu Bắc Việt đã vi phạm quyền tự do công dân. Họ không cho người dân miền Bắc được tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống theo tinh thần hiệp định đình chỉ chiến sự. Sau đó qua chiến dịch “cải cách ruộng đất”, chính quyền CS miền Bắc đã tiến hành kế hoạch khủng bố tàn bạo trong phạm vi rộng lớn . Tài liệu chính thức tiết lộ có trên 170 ngàn người đã bị giết một cách dã man. Hai năm sau Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi thêm một công hàm yêu cầu Tổng Thống Diệm hiệp thương để thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ông Diệm trả lời “khi nào miền Bắc chấm dứt khủng bố, phá hoại và thực thi dân chủ thì khi đó mới có có thể tổ chức tổng tuyển cử được”. Cuộc tổng tuyển cử bất thành, từ tháng 4/1956, hai đồng chủ tịch hội nghị Genève 1954 là Liên Xô và Anh Quốc đều nhìn nhận “tổng tuyển cử thực ra không quan trọng bằng việc duy trì hòa bình”. Để rảnh tay đối với vấn đề nội bộ, từ năm 1956 lãnh tụ LX Khruschev chủ trương hòa hoãn với Mỹ qua chiêu bài “chung sống hòa bình”. Do đó LX từ chối yêu cầu của Hà Nội đòi phải tổ chức tổng tuyển cử mà còn đề nghị thu nhận hai nước VN vào LHQ như là hai quốc gia riêng biệt dù có sự khác biệt về thể chế chính trị của hai miền Nam Bắc (14). HK với lập trường cứng rắn đã có từ năm 1954: “HK không dự phần vào hiệp ước xây dựng trên sự xoa dịu, HKcũng không bao giờ thừa nhận sự hợp pháp đối với sự kiểm soát của CS trên bất cứ phần đất nào tại Đông Nam Á” nên đã bác bỏ đề nghị của LX. Từ tháng 6/1956, thất bại trong kế hoạch đấu tranh chính trị đòi chính phủ Diệm thi hành Hiệp Định Genève, Lê Duẩn đề ra “Đường lối Cách mạng Miền Nam” với chủ trương vận dụng tôn giáo (Cao Đài, Hoà Hảo) để khuấy động và dùng vũ lực thôn tính Miền Nam. Trong kế hoạch “đấu tranh chính trị và quân sự song hành” từ 1957 CS bắt đầu thực hiện chính sách khủng bố, bắt cóc sát hại những viên chức xã thôn, khống chế các vùng nông thôn hẻo lánh, xây dựng hạ từng cơ sở và lực lượng dân quân hình thành chiến tranh du kích. Từ tháng 4/1958 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động ở Hà Nội quyết định mở các cuộc tấn công quân sự qui mô ở MN, đồng thời gia tăng các hoạt động khủng bố khiến TT Diệm phải áp dụng biện pháp mạnh, ban hành Luật 10/59 đặt CS ra ngoài vùng pháp luật. Đây là một trong những lý do làm cho người Mỹ đả kích chính phủ Diệm, họ cho rằng vì luật nầy mà tình hình Miền Nam trở nên nghiêm trọng. Tháng Giêng 1959, hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ Đảng LĐ ở MB đã ra quyết nghị thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam và hô hào dùng bạo lực lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Chính phủ Hà Nội cũng không dấu diếm ý định của mình. Ngày 12/9/1959 TT Phạm văn Đồng đã nói hai lần với Lãnh sự Pháp George Picot: “Các ông cần nhớ cho rằng ngày mai chúng tôi sẽ có mặt ở Sàigòn”. Sau đó vào tháng 11/1959, ông Đồng nói với Erich Brown, Đại sứ Gia Nã Đại trong Ủy hội Kiểm soát Đình chiến ĐD “Chúng tôi sẽ tống cổ Mỹ ra biển”. Tháng 9/1960 CSVN triệu tập Đại hội Đảng lần thứ III, ban hành nghị quyết thành lập MTGPMN nhằm “giữ vững tiền đồn của phe Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Nam Á và góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa”. Ba tháng sau MTDTGPMN ra đời do một nhân vật MN lãnh đạo, luật sư Nguyễn Hữu Thọ. ông Sihanouk, ông Nguyễn Hữu Thọ, ông Phạm Văn Đồng và ông SouphanouvongTrong diễn văn ngày 6/1/1961 Khruschev lên tiếng ủng hộ Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, đặc biệt tại Cu Ba, Algérie và MNVN. Hai tuần sau, trong diễn văn nhậm chức TT Kennedy gián tiếp trả lời LX: “HK sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với mọi chướng ngại, ủng hộ mọi đồng minh, đối đầu với mọi kẻ thù để bảo vệ sự tồn tại và thành công của tự do”. Khi can thiệp vào Nam Việt Nam, TT Kennedy đã tiên liệu những khó khăn của cuộc chiến này. Đó là cuộc chiến xâm lược của CSBV được che dấu dưới hình thức chiến tranh giải phóng, khởi đầu bằng các cuộc nổi dậy của dân chúng MN, dùng chiến thuật du kích để chống lại chính quyền VNCH, để thế giới tưởng đó là cuộc tranh chấp nội bộ của dân chúng MNVN nhằm bó tay không cho HK can thiệp. Lúc đầu, HK viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự và gởi cố vấn đến giúp chính phủ Diệm. HK dự kiến, nếu viện trợ và cố vấn tỏ ra không hữu hiệu trong việc ngăn chận cuộc xâm lăng trá hình của CS, HK sẳn sàng bước thứ hai: trực tiếp tham chiến nhằm tạo những điều kiện khả dĩ giúp người dân Nam VN chiến thắng cuộc chiến của chính họ, như nhận định của TT Kennedy hồi tháng Giêng 1961: “Chiến tranh VN chỉ có thể thắng được nếu nó là cuộc chiến tranh của người VN. Nếu không, nó có thể trở thành cuộc chiến của người da trắng và chúng ta sẽ thua như người Pháp trước đây”. (15) Ngoại trưởng Dean Rusk, TT Lyndon B. Johnson, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara Từ tháng 9/1961 các đơn vị VC với quân số tập trung từ 500 đến 1000 tên bắt đầu tung ra hoạt động. Chúng đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Thành và gây tổn thất nặng cho quân chính phủ ở tỉnh Đắc Lắc. Trước sự lớn mạnh của CS, các giới cao cấp Mỹ càng áp lực mạnh đòi TT Kennedy đưa lực lượng quân sự can thiệp trực tiếp vào VN. Tướng Lemnitzer, Chủ tịch Hội đồng TMT Liên quân trong văn thư gởi Bộ trưởng Quốc phòng McNamara nhận định “Ngoại trừ can thiệp trực tiếp, không còn cách nào khác để có thể lật ngược thế cờ ở VN”. Biện pháp ngăn chận xâm lược và tái lập hòa bình theo quan điểm của TT Kennedy và Phó TT Johnson là “biện pháp đã được áp dụng ở Triều Tiên”, nghĩa là quân đội Mỹ phải trực tiếp can thiệp (16). HK không thể đưa quân vào Nam VN theo kiểu Triều Tiên vì CSBVchưa công khai xâm lược, vả lại TT Diệm cũng chống lại sự can thiệp trực tiếp của HK. Ông đã nói thẳng với Phó TT Johnson “VNCH không muốn Mỹ nhúng tay vào công việc quân sự và không chấp nhận quân chiến đấu Mỹ hiện diện ở MNVN”.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 3:28:05 GMT 9
Trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) đầu năm 1963 đánh dấu bước lớn mạnh của VC khi họ chấp nhận đương đầu với chiến thuật thiết xa vận và trực thăng vận của quân đội Cộng hòa tại đồng bằng sông Cửu Long với quân số nhiều lần gấp bốn lần. Trước viễn ảnh chính quyền tự do ở MN sụp đổ, Mỹ dùng áp lực can thiệp mạnh hơn, yêu cầu TT Diệm cải tổ chính phủ, loại bỏ cố vấn Ngô Đình Nhu. Theo họ, ông Nhu là nguyên nhân làm cho tình hình Nam VN tồi tệ. Ông Nhu phản công lại bằng cách mượn giải pháp trung lập của Pháp để gây sức ép với HK, tuyên bố muốn thương thuyết với Hà Nội để chấm dứt chiến tranh.
Báo New York Herald Tribune diễn tả kế hoạch của Nhu với Pháp như là một âm mưu nhằm đánh bại chính sách của Mỹ, khiến dư luận HK lên án dữ dội sự phản bội của Diệm đối với Mỹ, càng hỗ trợ mạnh mẽ chính quyền Kennedy ủng hộ cuộc đảo chính quân sự. HK cho rằng “cuộc chiến VN không thể thắng được nếu còn hai ông ấy cầm quyền”. Chính quyền Kennedy sợ anh em ông Diệm có thể thương thuyết với BV, buộc Mỹ rút khỏi NVN mà không có chiến thắng. Điều này “cũng chẳng khác gì một cuộc chiếm quyền của CS”.
Khi TT Diệm bị lật đổ, Chủ tịch MTGPMN Nguyễn Hữu Thọ mừng rỡ tuyên bố " Người Mỹ đã làm giùm chúng tôi điều mà chín năm chúng tôi không làm được” Ông ví cuộc đảo chính 1/11/1963 “chẳng khác nào quà tặng từ trên trời rơi xuống”. Chớp thời cơ tốt đó, ông Hồ Chí Minh tin rằng giờ chiến thắng đã đến, ông gởi quân chính quy vào Miền Nam thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ. (17)
Từ cuối năm 1964 đến đầu tháng Giêng 1965, một Trung đoàn của Sư đoàn 9 VC tấn công vào một khu vực được xem là hậu cứ an toàn của quân chính phủ, liên tiếp xa luân chiến với 7,8 tiểu đoàn TQLC, ND và BĐQ được thiết giáp và phi pháo yểm trợ. Sáng sớm mùng 7/2/1965 Cộng quân mở cuộc cuộc pháo kích dữ dội vào căn cứ trực thăng và trại cố vấn Mỹ gần phi trường Pleiku làm 8 binh sĩ chết và 108 bị thương. Đây là trận tấn công lớn nhứt của VC vào lực lượng yểm trợ HK, đúng vào lúc thủ tướng Liên Xô Kosygin viếng thăm Hà Nội. Lúc bấy giờ McGeorge Bundy, Cố vấn ANQG của TT Johnson đang có mặt ở Sàigòn. Từ bản doanh tướng Westmoreland, ông điện yêu cầu TT Johnson có những biện pháp trả đũa tức khắc. Bundy coi đây là lý do mở đầu chiến dịch dội bom BV. Đến thời điểm này như nhận xét cuả một ký giả Mỹ thì “chỉ còn một khả năng có thể ngăn chận sự sụp đổ của chế độ Sàigòn. Đó là sự can thiệp của lực lượng quân sự Hoa Kỳ”. (18)
Trước khi can dự trực tiếp vào Việt Nam, Hoa Kỳ đã nói rõ mục tiêu của họ là hòa bình. Họ yêu cầu Bắc Việt ngồi vào bàn đàm phán, giải quyết vấn đề miền Nam VN bằng đường lối hòa bình dựa trên cơ sơ tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân MN và không có sự can thiệp từ bên ngoài. Để thực hiện mục tiêu trên, từ tháng 3/1965 HK từng bước tăng quân vào MN và mở rộng việc oanh tạc MB nhằm áp lực Hà Nội chấp nhận đàm phán. Sau trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, với những tổn thất nặng nề, Hà Nội có những chỉ dấu cho thấy họ chấp nhận đàm phán. TT Johnson bày tỏ thiện chí là hạn chế việc ném bom MB (chỉ từ vĩ tuyến 20 trở vào) và mời Hà Nội tham dự đàm phán với Mỹ. Nhiệm vụ hoàn tất, ông Johnson không tái ứng cử nhiệm kỳ 2, để người kế nhiệm thực hiện việc rút quân Mỹ, kết thúc chiến tranh VN bằng một hiệp định hòa bình thông qua con đường thương lượng. (Xin đọc tiếp: “HK kết thúc chiến tranh VN và cái Trí của những người lãnh đạo dân tộc”)
Lê Quế Lâm
Chú thích:
(1) The Pentagon Papers, Published by The NY Times, Bantam Books, NY, 1971, PP 7/8
(2) Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, Picador, London, 1990, P.147
(3, 4) The Pentagon Papers, P.9/10
(5) Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, P. 170
(6, 7) The Pentagon Papers, P.9 & 6
(8)Trường Chinh, Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Việt Nam, Nxb Sự Thật Hà Nội, 175, Tr. 239 (Trích báo Sự Thật của Việt Minh số 128 ngày 18/2/1950)
(9) The Pentagon Papers, P. 27
(10)Tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với Campuchia, Văn kiện Bộ Ngoại giao của nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia công bố ngày 10-7-1984) Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1984, Tr.14)
(11) The Pentagon Papers, P. 48
(12) US Department Of State, American Foreign Policy, 1950-1955, Basic Documents, Government Printing Office, Washington, DC, 1957, I, PP 785/9
(13) Hans Morgenthau, The 1954 Geneva Conference: An Assessment, NY, 1965, P.69)
(14) Stanley Karnow, Vietnam: A History, Penguin Books, Victoria, 1984, P.224
(15) Arthur M. Schlesinger Jr, A Thousand Days, Andre Deutsch Ltd, London, 1965, P. 476
(16) Lyndon B. Johnson, The Vantage Point, Perspectives of the Presidency, Redwood Press Ltd, London, 1972, P.53
(17) Richard M. Nixon, No More Vietnam, Arbor House, NY, 1985, P. 72.
(18) Neil Sheehan, A Bright Shinning Lie, P.382
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 6:28:27 GMT 9
Khi nào một quốc gia bị diệt vong, một dân tộc bị mất nước? Song Chi Trong bài “Những suy nghĩ từ sự kiện bộ phim “Lý Công Uẩn-đường đến thành Thăng Long” tôi có viết rằng ở Việt Nam sự lệ thuộc về văn hoá nước ngoài, đâu phải đến bây giờ mới xảy ra. Tuy nhiên, bài viết nói trên chủ yếu chỉ đề cập đến lĩnh vực phim ảnh, cụ thể là sự ảnh hưởng từ phim truyền hìnhTrung Quốc và cả Hàn Quốc đối với phim truyền hình Việt Nam. Song, phim ảnh chỉ là một lĩnh vực rất nhỏ trong đời sống mọi mặt của một quốc gia, thực tế là hiện nay, sau 65 năm dài dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang bị ảnh hưởng, phụ thuộc về mọi mặt từ phía nước láng giềng Trung Quốc. Lệ thuộc Trung Quốc về mọi mặt Về kinh tế, cán cân thương mại giữa Việt Nam-Trung Quốc quá chênh lệch, (mọi người có thể dễ dàng vào Google để tìm hiểu những thông tin chính xác về vấn đề này), nhập siêu từ Trung Quốc chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt Nam, hàng hoá Việt Nam xuất sang Trung Quốc thường là hàng thô, hoặc rau quả tươi sống, kim ngạch xuất khẩu thấp còn khi nhập về lại nhập những thứ như sắt thép, phân bón, vật tư nông nghiệp, hoá chất, vải sợi…, giá cao dẫn đến tổng kim ngạch nhập khẩu cao…Không chỉ những loại hàng hoá “nặng” tiền như vừa kể mà cái gì do Trung Quốc làm ra cũng có mặt ở Việt Nam, từ hũ xì dầu, gói bột nêm, rau quả tươi, đồ chơi trẻ em… cho tới cây tăm tre cũng có, tuồn qua Việt Nam bằng đủ mọi con đường từ chính thức đến buôn lậu, từ thành thị đến vùng quê hẻo lánh…góp phần làm cho đời sống của các doanh nghiệp nhỏ và bà con nông dân Việt nam thêm khó khăn. Trong lĩnh vực đấu thầu thì Trung Quốc luôn luôn bỏ giá thầu thấp, lại biết chi “hoa hồng” rất đậm nên rất nhiều công trình lớn, trọng điểm về điện, xi măng, hoá chất…ở Việt Nam đều rơi vào tay các công ty Trung Quốc, như hầu hết các công trình xây dựng nhà máy nhiệt điện lớn từ Bắc vào Nam-từ nhà máy nhiệt điện Cẩm Phả, Hải Phòng, Quảng Ninh, Duyên Hải…trong đó nhà máy nhiệt điện Vĩnh Hưng tại tỉnh Bình Thuận có tổng số vốn đầu tư đến1,75 tỷ dollars. Và người dân cũng không quên những dự án do Trung Quốc đầu tư bị dư luận lên án dữ dội nhưng nhà nước Việt Nam vẫn cho triển khai như dự án khai thác bauxite tại Lâm Đồng hay vụ nhiều tỉnh phía Bắc cho các công ty Trung Quốc, Đài Loan thuê rừng đầu nguồn dài hạn; mới đây nhà nước Việt Nam lại còn chuẩn bị cắt đất ở vùng biên giới để làm khu kinh tế chung giữa hai nước-cụ thể là vùng đất thuộc tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam và tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, mở đường cho hàng hoá Trung quốc càng dễ dàng thâm nhập vào Việt Nam, chưa nói đến sự nguy cơ về an ninh quốc gia và sự vẹn toàn lãnh thổ v.v… Về văn hoá, phim Trung Quốc tràn ngập trên màn ảnh nhỏ cả nước, (đến mức có nhiều nhà giáo dục, nhà trí thức đã phải lên tiếng lo ngại rằng trẻ em Việt Nam bây giờ nhiều khi thuộc sử Tàu hơn cả sử Việt nhờ…xem phim lịch sử, dã sử của Tàu!), sách truyện Trung Quốc đủ các thể loại võ hiệp kỳ tình, điều tra phá án, tiểu thuyết tình cảm lãng mạn nhẹ nhàng hay táo bạo về sex…tràn ngập ở các hiệu sách lớn nhỏ. Vào tháng 4.2009 nhà nước Việt Nam còn chấp thuận cho mở thí điểm Học viện Khổng tử tại Việt Nam, đây thực chất là một cơ quan truyền bá văn hoá Trung Quốc ở nước ngoài do nhà nước Trung Quốc tài trợ nhằm mở rộng ảnh hưởng của nền văn hoá Trung quốc… Về chính trị? Điều này thì rất nhiều nhà trí thức cho đến đảng viên cộng sản lão thành, tướng tá trong quân đội của chính quyền đều đã lên tiếng cảnh báo từ lâu, và rất nhiều lần: chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có một nhà cầm quyền nào bị xỏ mũi dắt dây, bị chơi xấu, bắt nạt…bởi một nhà nước ngoại bang nặng nề trong suốt nhiều năm như thế, chưa bao giờ có một “triều đại” nào hèn hạ, khiếp nhược trước ngoại bang đến thế! Mất đất, mất đảo, mất biển…đã đành, tàu bè của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đánh chìm, ngư dân Việt Nam bị lính Trung Quốc đánh, cướp, bắt nộp tiền chuộc…nhà cầm quyền cũng chẳng dám lên tiếng mạnh, còn cấm báo chí đưa tin nhiều về những chuyện này, sinh viên học sinh biểu tình chống Trung Quốc thì bị công an đàn áp, những người viết báo, viết blog phản đối Trung Quốc thì bị chính quyền gây áp lực làm cho mất việc, cuộc sống khốn đốn hoặc phải vào tù vì những tội danh nguỵ tạo như tội “trốn thuế” của blogger Điếu Cày… Sự mất cảnh giác, lệ thuộc từ trong ý thức hay tinh thần nô dịch ngoại bang đã từ từ thấm vào não bộ, linh hồn của những người lãnh đạo từ trên xuống dưới, khiến họ để xảy ra hàng loạt sự việc không thể hiểu nổi, từ vụ báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam lại đưa tin “theo quan điểm của Trung Quốc” về Hoàng Sa, pano kỷ niệm ngày Quân đội nhân dân Việt Nam lại lấy hình lính Trung Quốc, trang phục mới thay đổi sau ngày 22.12.2009 của một số quân, binh chủng trong quân đội Việt Nam rất giống với quân phục của lính Trung Quốc, phim lịch sử Việt Nam lại để cho người Trung Quốc làm…, thậm chí những người lãnh đạo nhà nước Việt Nam còn tổ chức kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội đúng vào ngày Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa! Lòng yêu nước bị thui chột Khi nào một quốc gia bị diệt vong, một dân tộc bị mất nước? Khi đông đảo người dân chỉ biết lo cho cuộc sống và quyền lợi của cá nhân và gia đình; khi nhà nước và những người lãnh đạo đất nước đó hèn hạ, khiếp nhược trước ngoại bang, thậm chí đã bị mua chuộc, nên chỉ nghĩ đến quyền lợi của đảng phái, của nhóm lợi ích mà không nghĩ đến vận mệnh đất nước. Điều đó rõ ràng đang xảy ra tại Việt Nam hôm nay. Về phía nhà nước Việt Nam, có lẽ không cần phải chứng minh nữa. Về phía người dân, từ trước đến nay người Việt Nam vẫn tự hào rằng dân tộc mình có truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc, lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh liên tiếp chống lại các thế lực ngoại xâm để giữ vững quyền độc lập tự chủ cho quốc gia. Song, thực tế hiện nay lại cho chúng ta thấy một sự thật đáng buồn rằng lòng yêu nước ở người Việt Nam vẫn còn nhưng không thể hiện được hết sức mạnh quật khởi của nó vì nhiều nguyên nhân: số đông người Việt đang sống trong nước do bị bưng bít thông tin, không nắm vững tình hình cũng như thực chất của mối quan hệ giữa hai nước Việt-Trung nên bàng quan, hoặc có biết mà mũ ni che tai, cho rằng chuyện chính trị, đối ngoại là chuyện của nhà nước lo, người dân chỉ lo chuyện kiếm sống cũng đã hết hơi rồi còn tâm trí đâu nghĩ đến điều gì khác; bên cạnh đó, chính sự khiếp nhược của nhà nước đã làm thui chột ngọn lửa nhiệt tình yêu nước ở người dân, khi họ bức xúc lên tiếng về những nguy cơ đến từ phương Bắc thì lập tức bị bịt miệng, cách này hay cách khác, khiến họ thêm nản lòng không còn muốn nói nữa. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng nước tuy nhỏ, yếu nhưng nếu lòng dân thu về một mối, quyết tâm chống lại kẻ xâm lược thì chúng ta sẽ chiến thắng, bảo toàn bờ cõi giang sơn và ngược lại. Làm nhụt chí khí, tinh thần quật cường của người dân, điều đó hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của các thế hệ lãnh đạo Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam! Còn lòng tự hào dân tộc ở người Việt Nam? Nếu như tinh thần yêu nước của người Việt Nam hôm nay bị chính sách hèn hạ khiếp nhược của nhà nước Việt Nam làm thui chột đi, thì đời sống xã hội và thực trạng tụt hậu, thua kém về nhiều mặt ngay cả với các nước lánh giềng nhỏ bé chung quanh đã làm cho lòng tự hào của người Việt bị tổn thương, dẫn đến nhiều hiện tượng trái nghịch đáng buồn. Như tâm lý vọng ngoại ở rất nhiều người-cái gì của ngoại cũng tốt, từ cái tăm tre mà dán mác ngoại cũng dễ bán chạy hơn (!) cho đến làm phim cũng nhái theo phim Hàn phim Tàu, lời hát thì chen lẫn tiếng Việt và tiếng Anh, tên ca sĩ, nghệ sĩ cũng nửa Tây nửa ta mới sang…Đã có những bài báo kể những mẩu chuyện về cách ứng xử khác hẳn nhau đối với khách của các cô nhân viên trong các cửa hàng cho đến tiếp viên hàng không, khi thấy khách ngoại quốc thì nụ cười rất tươi, giọng nói dịu dàng hết mực, liên tục “sorry, thank you” mà với khách Việt thì… Khi bài viết “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” của nhân vật Đỗ Ngọc Bích xuất hiện trên báo BBC vào tháng 4.2010, đông đảo người Việt Nam từ trong và ngoài nước đã không thể không lên tiếng, bày tỏ sự phẫn nộ của mình trước những lập luận chứng tỏ một sự kém hiểu biết và một tâm thế nô dịch ngoại bang lộ liễu đến vậy ở một tác giả hoàn toàn là người Việt, sinh ra và lớn lên tại Việt Nam. Còn tôi, tôi chợt nghĩ: không biết liệu có những ai khác suy nghĩ kiểu như cô Bích này không? Một nhà nước tự chọn cho mình con đường đi sai lầm trong quan hệ với ngoại bang đến nỗi bây giờ khó bề rút chân ra, mối nguy mất nước đã rất lớn. Nhưng khi một dân tộc thờ ơ với vận mệnh của chính nước mình, mất đi lòng kiêu hãnh, tự hào dân tộc là nguy cơ mất nước lớn hơn gấp bội. Thật ra tôi không tin rằng trong giai đoạn trước mắt Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam. Trung Quốc cần có thêm thời gian để lớn mạnh hơn nữa, vả chăng, trong thời đại ngày nay, có rất nhiều cách để khống chế, thu lợi, “bắt hồn bắt xác” một quốc gia, một dân tộc khác mà không cần phải dùng đến chiến tranh. Còn đến thời điểm cần dùng vũ lực, vừa để tìm chỗ luyện quân, vừa dằn mặt thế giới, chính thức lên tiếng với thế giới rằng một cường quốc quân sự mới, một đế chế lãnh đạo mới đã xuất hiện…thì với Trung Quốc, có sự chọn lựa nào dễ dàng, thuận lợi hơn Việt Nam? Đụng đến các nước khác, từ Thái Lan nhỏ bé cho đến Nam Hàn, Nhật Bản, Nga, Ấn…đâu phải dễ chơi? Lịch sử dường như cũng có những điềm báo của nó. Phải chăng vận nước đến ngày lao đao nên xui cho những người lãnh đạo Việt Nam mới dở khôn dở dại hết tính đến chuyện dời đô về tận chân núi Ba Vì, xây trục Thăng Long hình mũi tên bắn thẳng vào Trung tâm hành chính quốc gia (theo cách nói của Tiến sĩ kiến trúc sư Trần Trọng Hanh)…May mà vấp phải sự phản đối quyết liệt của dư luận, nhà cầm quyền Hà Nội mới tạm lui bước nhưng ai mà biết sự tạm lui đó là bao lâu khi một ví dụ sờ sờ trước mắt: dự án xây dựng đường cao tốc Bắc Nam tốn kém, đầy phiêu lưu mới bị Quốc hội bác bỏ trong tháng 6.2010 thì nay, trong Dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 của Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN lại thấy có câu“Nhà nước tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng đường bộ và đường sắt cao tốc Bắc-Nam”! Lại cũng là điềm báo: nước đến ngày tàn khi “triều đình” gạt bỏ mọi lời nói phải, bắt người yêu nước vào tù còn kẻ phá hoại bất tài thì trọng dụng, việc lớn không lo chỉ lo đi bịt miệng người dân bằng mọi cách; hết ra Quyết định 97/2009/QĐ-TTg bịt miệng giới trí thức, khoa học lại ra Thông tư số 04/2010/TT-TTCP Quy định Quy trình xử lý đơn khiếu nai, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị liên quan đến khiếu nại, tố cáo trong đó có quy định cấm khiếu nại tập thể, như vậy là bịt miệng người dân thấp cổ bị oan sai hết đường khiếu kiện; hết tìm cách chặn tường lửa, phá hoại các trang mạng “lề trái” lại bôi nhọ uy tín những cá nhân cất tiếng nói chỉ trích chế độ… Cuối cùng, có một điều khác nhau căn bản giữa sự tồn tại của hai chế độ chính trị độc đảng với đường lối, thể chế rất giống nhau tại Trung Quốc và Việt Nam: đó là Đảng cộng sản Trung Quốc cũng gây ra vô vàn tội ác, sự sai lầm cho nhân dân của họ, nhưng nếu ĐCSTQ có tồn tại thêm vài thập niên nữa thì cũng chẳng có quốc gia nào chiếm được Trung Quốc nhưng nếu ĐCSVN mà tồn tại thêm một thập niên nữa thôi thì Việt Nam mất nước là điều chắc chắn! Song Chi
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2010 4:24:49 GMT 9
Cứ 10 năm một lần: NGỒI LẠI BÊN NHAU Sau mỗi cuộc chiến, phe nào cũng có các cựu chiến binh. Trận chiến tranh Nam Bắc Việt Nam thực sự có thể kể từ Hiệp định Genève 1954 ấn định chia đôi đất nước cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Trải qua 21 năm từ chuẩn bị cho đến cuộc chiến nổi dậy qua du kích chiến, vận động chiến rồi tấn công quy ước. Cuối cùng quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tan hàng theo mệnh nước. Tiếp theo là di tản, tù đày, vượt biên, HO và đoàn tụ. Số phận cựu chiến binh cộng sản sau 75 cũng không khá, ngoại trừ một số cán bộ và đảng viên. Trong khi sĩ quan miền Nam đi tù thì sĩ quan miền Bắc phục viên cũng không có tương lai. “Ðầu đường đại tá vá xe, cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen”. Nhưng ở đây, nhân dịp vị Đại tướng 85 tuổi Trần Thiện Khiêm lần đầu tiên họp mặt với đại hội Tập thể chiến sĩ tại miền Nam California, tôi xin nói chuyện về cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại. Ðây cũng không phải là lần đầu anh em ngồi lại bên nhau. Ngôi sao Nguyễn Cao Kỳ. Ðầu thập niên 80, các hội cựu quân nhân với đa số thành phần chiến binh di tản từ 1975 đã kết đoàn. Sau 5 năm lưu vong, đời sống anh em tạm thời ổn định, bắt đầu nhớ về quê hương và nhớ về đồng đội. Ở đâu có đủ một tiểu đội là ngồi lại thành một bàn. Tại San Jose hội Không quân, Hải quân, Nhảy dù là các tổ chức tiên phong. Ða số xây dựng trên tinh thần tương trợ, quan hôn tương tế. Anh em chạy 75 được người Hoa kỳ bảo trợ nay quay ra bảo trợ người mới đến. Một số anh em khắc khoải hờn vong quốc đã không cam chịu cảnh suốt đời đất khách quê người. Thêm một lần, tôi xin nhắc lại con đường về phục quốc đấu tranh võ trang khởi đi từ Trần văn Bá (Âu Châu), Võ đại Tôn (Úc Châu) và Hoàng cơ Minh (Mỹ Châu). Một sự tình cờ lịch sử là ba người anh hùng tìm đường về đại diện cho cả ba miền đất nước. Tại Hoa kỳ, cựu chiến sĩ Cộng hòa đã cất tiếng gọi đàn, mở rộng vòng tay. Ðại tá thiết giáp Hà Mai Việt mời anh em về họp mặt tại Texas để chính thức ra mắt một Tổng hội cựu Chiến sĩ đầu tiên. Thiếu tướng Không quân Ðặng đình Linh được bầu làm chủ tịch. Ngôi sao sáng của Đại hội là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ mời được Đại tướng Cao văn Viên và Trung tướng Trần văn Ðôn về dự. Trong bài nói chuyện, với sự cảm xúc cố hữu ông Kỳ đã khóc. Ông Viên lên tiếng xin lỗi toàn quân. Ðó là Đại hội cựu Chiến sĩ đầu tiên của đa số anh em di tản 75. Chứa chan tình cảm với đầy hy vọng nhưng rồi lại không có đoạn kết.Tướng Nguyễn cao Kỳ, ngôi sao của Đại hội toàn quân lần đầu tiên từ thập niên 80 ngày nay ra sao. Thiết tưởng chẳng cần nói thêm. Ðời lính già sống lâu, chỉ thấy thêm nhiều chuyện đau lòng. Tổng Thống Thiệu ra quân. Mười năm sau, vào đầu thập niên 90, một đại hội toàn quân quy mô được hình thành tại California. Chưa bao giờ San Jose lại có dịp đón tiếp một số lượng đông đảo các tướng lãnh như thế. Có cả Ðại tướng Cao Văn Viên, các Trung tướng, các Thiếu tướng và quan trọng hơn hết có cả ngôi sao rực rỡ nhất hải ngoại là Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu. Các nhà lãnh đạo một thời của miền Nam đang nuôi ảo tưởng có thể đòi hỏi quốc tế và Hoa kỳ đưa Việt Nam trở lại với sự cam kết theo Hiệp định Paris 1973. Nhưng sự kết hợp trong Đại hội hoàn toàn chỉ có hình thức. Không phải vì có sự chống đối, mà chính vì nội dung không thực tế nên một lần nữa, anh em lại tan hàng. Sự trăn trở vẫn còn nguyên. Ngày tháng của Quốc trưởng. Qua đến năm 2000, Đại tướng Nguyễn Khánh nguyên là Quốc trưởng đầu tiên của miền Nam Việt Nam đã có cơ hội ra mắt tại Nam Cali với tổ chức Nguyễn Hữu Chánh. Trong vai trò tự phong làm thủ tướng, ông Chánh đã đưa Đại tướng Nguyễn Khánh trở lại ngôi Quốc trưởng tại hải ngoại. Mặc dù đã có nhiều bài báo phanh phui những mánh khóe bịp bợm, nhưng phong trào của chính phủ Nguyễn hữu Chánh vẫn có cả trăm người tin tưởng và Đại hội thường quy tụ cả ngàn người. Trong đó gồm cả các chức sắc, tướng lãnh cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa. Sự ngây thơ không phải là độc quyền của tuổi thiếu niên hay anh em cấp dưới. Lúc đó Đại tướng Nguyễn Khánh là ngôi sao rực rỡ của phong trào Nguyễn Hữu Chánh. Niên trưởng của tôi dường như cũng biết hết sự tình, nhưng tiếng vỗ tay và ánh đèn sân khấu vẫn còn khả năng hấp dẫn tuổi cao niên. Mỗi lần Đại hội hay mỗi lần tập hợp xuống đường, phong trào này đã đạo diễn chụp hình hàng trăm thiếu nữ Việt Nam áo trắng cờ vàng vẫn được thế giới mạng xử dụng trong mọi trường hợp. Giòng đời vẫn trôi qua, lịch sử Việt Nam Cộng Hòa kéo dài tại hải ngoại sẽ còn lưu lại một bức hình đáng giá. Năm 2010, thủ tướng xuất hiện. Như vậy là cứ 10 năm một lần, anh em cựu quân nhân lại thấy có một vì sao của thời xưa xuất hiện. Lần này Đại tướng Khiêm đến với đại hội Tập thể chiến sĩ Việt nam Cộng Hòa. Ông gặp gỡ báo chí, dự bửa cơm thân mật, nhận lời làm cố vấn. Còn chuyện sau này sẽ ra sao chưa ai biết. Dư luận khá ồn ào, có người thông cảm, có người phê bình chỉ trích thậm tệ hết sức tàn nhẫn. Nhưng về cuộc đời và sự nghiệp thực sự của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm thì những người biết chuyện không nói hết, những người nói ra cũng chưa biết hết chuyện. Cuộc đời chính trị hết sức may mắn của ông vui nhiều hơn buồn. Nhưng để lại những thành tích cho quốc gia thì buồn nhiều hơn vui. Sau cùng, một câu hỏi đặt ra là, ý nghĩa thực sự của việc Đại tướng Khiêm xuất hiện là chuyện gì. Phải chăng Mỹ đã tính chuyện với Việt Nam và bây giờ là lúc tìm đến Việt nam Cộng Hòa. (?) Thắc mắc này từ ngày xưa, cũng đã được thiên hạ đưa ra cứ 10 năm một lần. Thời kỳ 80 phải chăng CIA tính dùng ông Kỳ qua đại hội Texas. (?) Thời kỳ 90 ông Thiệu xuất hiện do Mỹ dự trù trở lại hiệp định Paris. (?) Qua 2000 chính phủ của chú Chánh tuyên bố úp mở là có Mỹ đứng sát sau lưng Thủ tướng lưu vong để ủng hộ Đại tướng Quốc trưởng.(?) Nếu những chuyện không tưởng như thế đã không xảy ra mấy chục năm trước thì ngày nay người Mỹ dùng các cựu chiến binh cao niên Việt Nam Cộng Hòa với niên trưởng 85 tuổi của anh em ta để làm việc gì. Sao anh em lại có thể tiếp tục ngây thơ vô tội như thế? Sự thực là chẳng hề có yếu tố Hoa Kỳ trong thế giới Việt Nam Cộng Hòa di tản trong suốt 35 năm qua và vĩnh viễn về sau. Sức mạnh của cộng đồng Việt Nam - nếu có - phải trong khuôn khổ người công dân Mỹ gốc Việt. Riêng phần chiến sĩ cộng hòa đã đành nếu bạn nhập ngũ một ngày cũng là lính. Người lính mặc áo trận năm 75 lúc 18 tuổi ngày nay cũng đã là cựu quân nhân trên 50 tuổi. Nhưng trên thực tế, đa số cựu chiến binh VNCH tại Hoa Kỳ bây giờ đã hưởng tiền già hoặc sắp hưởng tiền già, hoặc tiền hưu bổng vào lớp tuổi lục tuần. Phần lớn các nhà lãnh đạo quân đội, các tướng lãnh ở lớp tuổi bát tuần. Rõ ràng là lực bất tòng tâm. Không phải là lúc ôm mộng lấp bể vá trời. Cũng chẳng ai đòi hỏi những người anh hùng mỏi mệt chúng ta phải thi hành những sứ mạng lớn lao như thế. Nhu cầu hết sức cần thiết và đơn giản là anh em ta ngồi lại bên nhau.Vì vậy sinh hoạt của các hội đoàn quân đội, các khu hội, các tổng hội quân binh chủng, các đơn vị vùng, tại khắp năm châu bốn bể, dù trong hay ngoài tập thể, đều là những sinh hoạt lành mạnh, hợp với hoàn cảnh thực tế. Trong tinh thần xây dựng như thế, tôi xin viết lời bình luận về tổ chức Tập Thể vừa họp xong đại hội bất thường. Ðường trường xa, muôn vó câu bay... Cách đây 7 năm, một số niên trưởng trong quân đội đã ngồi lại bàn tính xây dựng một cơ cấu kết đoàn giữa các cựu quân nhân và các khu hội, tổng hội quân binh chủng. Một trong các nhu cầu then chốt là tìm người lãnh đạo. Bất cứ nhân vật nào thì cũng sẽ bị búa rìu dư luận phê phán, chê bai. Tuy nhiên sau cùng cũng tìm ra được những nhà lãnh đạo có vẻ đủ điều kiện và điều quan trọng là can đảm nhận lời. Tướng Lê Minh Ðảo, người anh hùng cuối cùng của mặt trận Long Khánh, cựu tù chính trị lâu năm nhận lời làm vai trò then chốt. Ngoài ra còn có giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, khoa bảng nổi danh nhận làm chủ tịch quản trị. Xin coi như ông Ðảo là sĩ quan bộ binh đóng vai chính. Ðại hội mở ra khí thế tưng bừng và được khá nhiều đoàn thể quân đội hưởng ứng. Tập thể ra đời, mở rộng tổ chức và kiện toàn. Họp tới họp lui từ địa phương đến trung ương được vài năm thì tướng Ðảo từ chức vì lý do sức khỏe. Ðại tá không quân Nguyễn Xuân Vinh kiêm nhiệm luôn việc điều hành. Từ bộ binh, lá cờ Tập thể chuyển qua không quân. Ngày xưa các Tư lệnh làm việc chỉ tay năm ngón. Tất cả trông cậy cấp dưới chạy việc từ tham mưu đến binh đoàn. Ngày nay Tư lệnh chỉ có một mình, đường lối thì đao to búa lớn nhưng lấy phương tiện đâu mà lên đường. Dậm chân tại chỗ để giữ được anh em là may. Rồi đến khi vị chủ tịch không quân từ chức. Từ bên trong, anh em đều biết, các nhà vận động suốt nhiều tháng trường cố gắng tìm người ra thay thế. Lập danh sách năm vị anh hùng của quân lực Việt nam Cộng Hòa trong hàng ngũ đại tá được coi là tương đối trẻ trung. Tuổi từ khoảng 75 hay 76. Tất cả đều từ chối. Tập thể đứng ở ngã ba dường. Hoặc là cứ đại hội rồi bầu ra bất cứ ai, hoặc là tan hàng. Xem như thế vai trò lãnh đạo tương đối gọi là chính thức tại hải ngoại vô cùng khó khăn. Tại sao không ai nhận công tác lãnh đạo? Xin trả lời: Tuổi già sức yếu, phương tiện không có, hoài bão lớn lao, đánh phá tưng bừng và còn gì nữa xin bổ túc cho đầy đủ một danh sách dài... Nhưng sau cùng dường như một người ít vấn đề nhất trong số anh em cựu chiến sĩ đã nhận lời thử thách. Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại chấp nhận ra làm việc. Trong lá thư ngỏ ông viết rằng ra ngồi với anh em để anh em tiếp tục ngồi lại với nhau. Mục tiêu đơn giản và chân thành. Phải nhìn lại trong hàng ngũ lãnh đạo của tập thể ta có thể thấy sự cô đơn của những người tâm huyết nhiệt thành. Vị đô đốc hải quân 90 tuổi Trần văn Chơn trong ghế chủ tọa. Tướng Nguyễn khắc Bình, ngôi sao trẻ trung của quân đội ngày xưa, nay cũng đã 80 tuổi. Và thêm phó đề đốc Thoại. Các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa khác đều không có mặt. Nhiều tên tuổi đã ra đi. Không còn ai là cựu tổng thống. Không còn ai là các tư lệnh Vùng của thời kỳ 75. Có vị già yếu, hoặc là đã chán chường. Chỉ cần đến để gặp anh em, nhưng các ngài cũng quản ngại. Trong hoàn cảnh đó tướng Khiêm xuất hiện, gọi là để khích lệ tinh thần. Nào ngờ mang nặng quá khứ với nhiều vấn đề, lại thêm 35 năm tránh né cộng đồng nên đã bị dư luận chỉ trích kịch liệt. Một người anh em đi dự đại hội về đã nói một câu đáng đồng tiền bát gạo. Nói rằng:”Anh em ra ngoài phơi nắng cộng đồng mấy chục năm nay, nghe chửi đã nhiều. Bây giờ cũng là dịp niên trưởng đại tướng ra phơi nắng để nghe chửi với anh em cho biết đá vàng. Gọi là chia ngọt xẻ bùi.” Như vậy phải chăng kỳ này anh em mời niên trưởng ra là để phơi nắng ông Thầy. Cùng vui hưởng những tràng pháo tay và những lời chửi rủa. Anh em sinh hoạt, bị nắng cháy gần thành than, nhờ niên trưởng ra chịu đạn thay cho anh em một thời gian. Tiếng gọi từ biển Ðông. Từ khi Tập thể thành hình, có một vị sinh hoạt từ đầu nhưng chẳng mang chức vụ chính thức. Nếu có hỏi đi hỏi lại thì ông chỉ nhận là liên lạc viên. Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình năm nay 80 tuổi, sinh quán Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre. Ông đã kiên trì trong vai trò kiến trúc sư xây dưng ngôi nhà Tập thể. Ðể có thể gác bỏ ngoài tai những lời phê phán, công việc đầu tiên của vị sĩ quan cao cấp về tình báo an ninh của VNCH là cắt đứt Internet. Tướng Bình yểm trợ ông Lê Minh Ðảo, tư vấn cho Đại tá Vinh và ông tình nguyện làm tài xế cho Đô đốc Trần Văn Chơn. Mối chân tình sâu đậm với ông cựu Tư lệnh hải quân cho đến nỗi trong anh em, ông Chơn cũng gọi luôn ông tài xế Bình là Đô đốc. Từ khi ông Vinh từ chức, tướng Bình đôn đáo tìm người ra gánh vác tập thể. Hết sức kiên trì, tận tụy và nhiệt thành, ông đã suy tư đi tìm nhà lãnh đạo cho giai đoạn mới. Thời cơ mới rất thời sự chính là tiếng gọi từ biển Ðông. Thành quả rất đáng kể lần này của tướng Bình có được vị chủ tọa là Đô đốc nguyên Tư lệnh hải quân. Ðồng thời ông mời được Đại tướng Trần thiện Khiêm xuất hiện. Và sau cùng tình thế đưa đẩy Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, quê Gò Công ra nhận công tác. Từ nay tạm thời ông Bình có thể ngủ yên và đến lượt ông Thoại mất ngủ. Là tướng lãnh trẻ trung của hải quân Việt Nam Cộng Hòa, Đề đốc Thoại đã từng có thành tích chỉ huy các chiến dịch biệt kích hải bên kia vỹ tuyến, trước khi làm Tư lệnh hải quân Vùng I trong trận Hoàng Sa. Thân phụ là cụ Hồ Văn Kỳ Trân và ông nội là Hồ Biểu Chánh. Trong thời đệ nhất cộng hòa, ông Thoại là sĩ quan tùy viên của Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Khác với nhiều vị tướng lãnh, suốt 30 năm qua, ông Thoại có cơ hội tiếp tục làm việc trong công tác chỉ huy và quản trị tại các cơ quan Hoa Kỳ. Ông là người của nguyên tắc và hiểu rõ thể thức sinh hoạt chính thức của hội đoàn. Dù vậy, ra nhận trách nhiệm lãnh đạo Tập thể trong tuổi về hưu quả thực là một hành động bất thường. Nguyên do chính vì anh em, nhưng thực sự ông rất nể trọng vị Tư lệnh hải quân tóc bạc 90 tuổi. Tướng Trần văn Chơn, người chỉ huy trực tiếp của ông Thoại thời kỳ Hoàng Sa 74 đã nhắc đến 60 chiến sĩ hải quân chết tại biển Ðông. Những tin tức thời sự về biển Ðông ngày nay đã đưa tâm tư người lính biển về với chiến tích oai hùng 36 năm trước. Ông Chơn nói rằng xin Đề đốc Thoại hãy vì các chiến binh nằm lại Hoàng Sa mà nhận lời. Sau Bộ binh Lê Minh Ðảo, qua Không quân Nguyễn Xuân Vinh, bây giờ đến Hải quân Hồ Văn Kỳ Thoại lên phiên. Ông Thoại có bà vợ là giáo sư dạy học nhiều năm tại Mỹ. Bà rất hết lòng yểm trợ phu quân. Thuận vợ, thuận chồng tát biển Ðông cũng cạn. Tát cạn biển Ðông lúc đó thiên hạ cùng thấy rõ, Hoàng Sa, Trường Sa gắn liền vào Việt Nam ra sao. Nhưng ngay bây giờ, ông bà cùng chuẩn bị đón nhận búa rìu dư luận... Một cái tóc là một cái tội. Bất cứ người nào ra nhận trách nhiệm đều có thể lãnh búa tạ. Cuộc đời binh nghiệp cũ được đưa ra bình luận. Ðời sống 35 năm qua cũng là cả vấn đề. Anh làm gì bấy lâu nay. Anh chạy trước thì có tội bỏ anh em. Anh ở tù thì có thể thiếu tư cách, có thể đã khiếp nhược trước kẻ thù. Một cái tóc là một cái tội. Ở cái đất nước tự do này, chửi bới được hiến pháp bảo vệ trong tu chính án dân quyền. Và chửi thượng cấp ngày xưa là một cái thú vô cùng hấp dẫn. Phần lớn các bài báo và tham luận của anh em viết về quân đội thường đề cao chiến binh và mắng chửi tướng tá đã trở thành cái mốt rất thời thượng. Nhưng tôi cũng xin nói một lần để các bạn rõ. Các bạn liệt kê vô tội vạ danh sách tướng bẩn tướng sạch, tướng anh hùng tướng hèn nhát. Kể tội tá xấu tá đẹp, tá hiên ngang ở lại hay tá nhục nhã chạy làng, phần lớn đều không phải như vậy. Thành ngữ "thấy vậy mà không phải vậy" chính là hình ảnh của quân đội. Khi phải nói lại cho thế hệ tương lai, ta có thể nói rằng, Chúng ta đang ở thời đại của người biết chuyện không nói. Kẻ nói nhiều lại là người không biết chuyện. Các bạn có giận thế hệ đàn anh xin vui lòng chửi bới toàn thể hàng tướng tá, để anh em chúng tôi cùng chia xẻ theo tình nghĩa huynh đệ chi binh. Nếu cứ tuyên dương hay lên án theo danh sách lếu láo chính là những lầm lẫn chết người. Quân đội nào cũng thế, có kẻ xấu người tốt. Nhưng đã cùng trong hàng ngũ, nếu không phải chính phạm làm mất nước thì ta cũng là tòng phạm. Nước mất nhà tan, dậu đổ bìm leo. Chửi nữa đi em. Các em chửi là đúng quá. Nhưng cần ghi nhận rằng tội của thế hệ đàn anh làm mất nước là quan trọng nhất. Còn tội chạy trước chạy sau, dốt nát, ăn chơi, ngậm miệng ăn tiền, ba cái lẻ tẻ đó chỉ là thứ yếu. Tập thể ngày nay chẳng qua cũng chỉ là di sản về già của cuộc binh đao. Chẳng khác gì ngày xưa quân đội cũng lẫn lộn cả người xấu kẻ tốt. Trong buổi hoàng hôn, anh em ta đã ngồi lại bên nhau. Nếu không làm nên cơm cháo gì, thì cũng nên ngồi lại cùng nghe thiên hạ chửi, hầu vơi được phần nào trách nhiệm tội lỗi với non sông. Xin các bạn ngồi lui vào, dành cho tôi một chỗ hàng đầu. Chẳng phải vì tôi nhiều tội hơn anh em, chẳng qua mình đã phơi nắng nghe chửi hơn 30 năm, trở thành điếc không sợ súng. Chửi nữa đi em... May ra giúp các niên trưởng siêu thoát ngay trong cõi trần gian. Chửi nữa đi em... Giao Chỉ - San Jose.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 15:24:41 GMT 9
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882 - 1951) Mặc hoàng bào dù chẳng được làm vua ! *** Trần viết Ngạc Những vị nào say mê khoa tướng số, tử vi thử chấm lá số tử vi cho Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, hy vọng có thể giải thích vì sao ông có quá nhiều cơ hội đưa ông đến ngôi thiên tử mà rốt cục chẳng có lần nào thành. Cường Để sinh ngày 11 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (28.2.1882), trực hệ của Đông cung Cảnh, con trưởng vua Gia Long. Cơ hội đầu tiên khiến Cường Để có thể lên ngôi vua là vào năm 1894 khi ông mới 12 tuổi. "Kinh đô thất thủ" (23 - 5 Ất Dậu - 1885), vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành ra Tân Sở ban dụ Cần Vương. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày. Phan Đình Phùng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê đồng thời là người, đốc thúc và phối hợp phong trào Cần Vương của cả nước, cho người vào Huế mời Hàm Hoá Hương công Tăng Nhu ra thay vua Hàm Nghi. Vì cớ tuổi cao Tăng Nhu ủy cho con là Cường Để đi thay mình. Phái viên của Cần Vương là Cử nhân Hồ Quý Châu, người Quỳnh Lưu, vào Huế để rước Cường Để, chẳng may giữa đường lâm bệnh từ trần. Năm sau, cuộc khởi nghĩa Hương Khê thất bại (1895). Nói về sự kiện này, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để than thở: "... vì thế mà bỉ nhân lỡ mất cơ hội đầu tiên hiến thân cho tổ quốc" (1) Năm 1903, Cường Để 21 tuổi. Hai cơ hội làm vua đến cùng một lúc. Hai điạ vị đối lập; làm vua cách mạng và làm vua bù nhìn! Cần một ngọn cờ quân chủ cho đảng sắp thành lập, Phan Bội Châu lân la đến các vị trong hoàng tộc ở Huế. Như "con cháu nhà Hiệp Hoà, con cả vua Đồng Khánh... nhưng chưa có ai là tâm hợp cả... nhân có bạn tôi là tú tài Hồ Thiệp, người Quỳnh Lưu, rủ nhau lấy cớ xem tướng số, vào nhà Kỳ Ngoại Hầu, bắt đầu khưi múi nói bằng tướng mệnh, dò được người ấy sẵn có chí lớn (TVN nhấn mạnh)... Hầu rất biểu đồng tình, liền ăn thề đình ước với nhau" (2). Và năm sau, khi Duy Tân hội thành lập (1904), Cường Để được tôn làm Hội chủ, vị vua cho tương lai. Cũng năm này, muốn phế vua Thành Thái, Khâm sứ Huế đã thăm dò Cường Để như là ứng viên thay thế nhưng mãi bốn năm sau thực dân mới phế vua Thành Thái (1907), lúc đó Cường Để đang ở Nhật Bản! Một sự kiện mà nếu không có tư liệu thì không thể tin được: Đó là khi tìm người thay vua Thành Thái, một vị thượng thư trong triều đình đã đề nghị với người Pháp rước minh chủ Duy Tân hội Cường Để đang lưu vong ở Nhật về làm vua. Vị thượng thư đó là Nguyễn Hữu Bài. "Trong các đề nghị, đề nghị của thượng thư bộ Công người Thiên Chuá giáo là đáng chú ý.nhất. Trong số các đồng sự, ông ta là người duy nhất đã minh bạch đề nghị là cần ưu tiên cho Cường Để hiện đang tị nạn tại Nhật lên ngôi vua" (3) Giải thích cho điều này, tài liệu mật của Pháp cho biết từ khi Pháp đặt nền bảo hộ, có một giao ước ngầm giữa một số người trong hoàng tộc và giới tín đồ Thiên Chúa giáo nhằm đưa một người thuộc dòng dõi Đông cung Cảnh lên ngôi vua! (4) Năm 1907 cũng là năm du học sinh Nam Kỳ bắt đầu sang Nhật. Còn nặng đầu óc quân chủ, các du học sinh Nam Kỳ lạy Cường Để năm lạy theo lễ quân thần mỗi lần hội kiến! (5) Đó cũng là lý do xuất hiện tấm ảnh Cường Để và Phan Bội Châu: Vị Tổng lý ngồi trong khi Hội chủ lại đứng bên cạnh ! Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt, bị an trí ở Bến Ngự. Cường Để tiếp tục làm Hội chủ Việt Nam Quang Phục Hội cho đến năm 1939, và Quang Phục Hội được cải tổ thành Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Nam Phục Quốc Hội. Theo cương lĩnh mới, Phục Quốc Hội chủ trương thiết lập nền quân chủ lập hiến và vị vua tương lai không ai khác hơn là Cường Để đang giữ chức vụ Uỷ viên trưởng trọn đời trong Ban chấp hành Trung ương VNPQH. Quốc kỳ không còn là cờ Ngũ tinh liên châu (1912) mà là lá cờ chữ vương (...) đỏ trên nền trắng. Thời cuộc đã không ủng hộ Cường Để khi Nhật bắt tay với Pháp, bỏ rơi Kiến Quốc quân khiến Trần Trung Lập hy sinh ngày 26/12/1940 tại Lục Bình, Lạng Sơn. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, ai cũng tưởng Nhật đưa Cường Để về làm vua nhưng Nhật lại dùng lá bài Bảo Đại! Người đã gây xúc động cho Cường Để trong những ngày tháng cuối đời trên đất Nhật là Ngô Đình Diệm. Từ năm 1943, Ngô Đình Diệm đã cử Phan Thúc Ngô sang Nhật gặp Cường Để và Ngô Đình Diệm trở thành đại diện của Việt Nam Phục Quốc Hội trong nước (6) Ngày 14.8.1950, Ngô Đình Diệm cùng anh là Giám mục Ngô Đình Thục từ Rome sang Tokyo, hội kiến với Cường Để. Komatsu Kiyoshi có mặt trong buổi hội kiến đó kể lại: "Buổi hội kiến đã nâng đỡ tinh thần Cường Để ngoài sức tưởng tượng. Vừa mới thấy Cường để, Ngô Đình Diệm liền quỳ xuống và phát biểu: "Tâu Hoàng thượng, Ngài phải làm vua!" và Cường Để đã tuôn hai giòng lệ cảm kích!" (7). Không còn có cơ hội để Cường Để thực hiện mơ ước của mình vì ngày 6/4/1951, ông đã qua đời do bệnh ung thư gan. Trần Viết Ngạc Chú thích: (1) - Tùng Lâm (Matsubayashi) - Cuộc đời cách mạng Cường Để, nhà in Tôn Thất Lễ xb, Sài Gòn, 1957. Trang 10 (2) - Phan Bội Châu, Tự phán, NXB Anh Minh, Huế, 1956. Trang 35 (3) - Note sur l'agitation anti - française dcpuis dix ans et le parti nationaliste annamite. Trung tâm lưu trữ quốc gia (A.O.M) ở Aix-en-Provence (Pháp).Trang 15 (4) - Tlđd, trang 2 (5) - Tlđd, trang 27 (6) - Kỷ niệm 100 năm Phong trào Đông Du, NXB Tân Văn, Đông Kinh, 2005. Trang 228 (7) - Trần Mỹ Vân - A Vietnamese Royal Exile in Japan Prince Cường Để (1882 - 1951), NXB Routledge, London& New York, 2005. Trang 213.
|
|
|
Post by NhiHa on May 8, 2011 1:40:01 GMT 9
Jorn Rusen Giải nghĩa lịch sử Lê Hải dịch và chú thích Giới thiệu: Giáo sư người Đức Jorn Rusen hiện đang là một trong số những lý thuyết gia sử học hàng đầu thế giới, thuộc trào lưu những người viết sử sau giai đoạn mà Francis Fukuyama và nhiều người khác mô tả là lịch sử đã cáo chung. Hiện đang là chủ tịch Viện Nghiên cứu Cao cấp về Các khoa học Nhân văn (Institute for Advanced Studies in the Humanities) ở Essen, ông cũng đồng thời là người khởi xướng và biên tập cho loạt sách [1] nghiên cứu lịch sử thế giới theo nhân sinh quan mới, bắt đầu từ năm 2002, mà đến nay – mùa Thu năm 2008 – tập sách thứ 11 vừa được xuất bản. Bản gốc tiếng Anh của bản dịch này là lời tựa cho tất cả các tập sách được xuất bản trong series này, cũng có thể coi là tuyên ngôn cho một hệ tư tưởng đang ngày càng phổ biến trong làng sử gia phương Tây. Giai đoạn bắt đầu của thế kỷ 21 cũng là lúc khái niệm “lịch sử” chuyển tải những nội dung trái ngược nhau trong tư duy. Từ một phía, 10–15 năm qua ghi nhận rất nhiều lời tuyên bố là lịch sử đã cáo chung [2] . Khi nói đến những thay đổi về cơ bản của diễn biến chính trị toàn cầu trong hai năm 1989–1990, hay về hậu hiện đại, hoặc thách thức đối với vai trò áp đảo của phương Tây từ phía xu hướng phản thuộc địa và đa văn hóa, “lịch sử”, như chúng ta từng biết theo truyền thống phương Tây, bị tuyên bố đã chết, đã lạc hậu, đã bị vượt qua, và đã đến hồi kết thúc. Từ phía còn lại, có cả một làn sóng toàn cầu của những khám phá về mặt học thuật trong các lĩnh vực có thể coi là “mang tính lịch sử” một cách tự nhiên: quá trình xây dựng bản sắc cá nhân và bản sắc tập thể [3] thông qua ký ức; ứng dụng và chức năng trong văn hóa, xã hội và chính trị của “phép kể quá khứ”; cùng các kết cấu tâm lý của ghi nhớ, ức chế và hồi tưởng [4] . Ngay cả các ngành học có vẻ như kêu gọi “kết thúc lịch sử” (toàn cầu hóa, chủ nghĩa hậu hiện đại, tư tưởng đa văn hóa) cũng nhanh chóng biến thành hiện tượng “lịch sử” rất tự nhiên. Hơn vậy, “lịch sử” và “ký ức lịch sử” còn xâm nhập không gian văn hóa đại chúng (từ các kênh truyền hình chuyên về lịch sử cho đến phim Hollywood). Chúng trở thành những yếu tố quan trọng hơn bao giờ hết trong các cuộc tranh luận đại chúng và đàm phán chính trị (ví dụ các bàn cãi về dư âm của cuộc chiến ở Nam Tư cũ, hay thảo luận về quá trình thống nhất châu Ấu hoặc những di sản từ các chế độ toàn trị). Nói cách khác, hơn bao giờ hết từ sau ngày “lịch sử” bị khai tử, “các vấn đề lịch sử” có vẻ như đang quay lại báo thù. Tình thế tiến thoái lưỡng nan này đòi hỏi phải có một hướng đi mới, hoặc ít nhất là một thể hiện mới về mặt lý thuyết. Hơn vậy, nó đòi hỏi phải có một hệ thống lý thuyết mới cho ngành sử học. Lý thuyết này không chỉ dành riêng cho một phân ngành bên trong ngành sử, cũng không phải là một tập hợp có hệ thống các định nghĩa, “qui luật” và luật lệ có giá trị phổ quát. Điều cần thiết là một ngành học đa ngành và liên văn hóa. Ngay tại thời điểm mà lịch sử bị tuyên bố là “đã qua”, cái ngay lập tức kết thúc chính là lý thuyết lịch sử. Phê bình theo phương pháp nhiều chiều (deconstruction) của Hayden White [5] đối với trường phái kể chuyện của các sử gia trong thế kỷ 19 có thể được coi là lời cuối cho lý thuyết lịch sử – khi mà lời phê bình cho tuyên bố của ngành về tính hợp lý đã đặt ra điểm kết thúc cho ý thức hợp lý của ngành; vì phê bình đó không phải là ý thức hợp lý theo luật nhân quả (rational self-reflection). Tuy nhiên, từ cuối thập niên 1980s, “nghiên cứu mang tính phê phán về ký ức lịch sử” bắt đầu nhân rộng bên trong ngành lý thuyết lịch sử [6] . Nhưng mà bên trong phân ngành này người ta bỏ sót vấn đề là bất kỳ khảo sát nào vào ký ức lịch sử trong bối cảnh văn hóa khác nhau đều không chỉ là nghiên cứu mang tính đột phá, mà còn là viên gạch cho cả một lý thuyết bao quát hơn trong lịch sử. Bất kỳ phân tích nào đối với dù ngay cả một tình trạng đơn giản của ký ức lịch sử cũng không thoát khỏi các vấn đề thuộc về về lý thuyết và triết học cho môn lịch sử [7] . Và ngược lại: các tư duy trừu tượng nhất của các triết gia sử học cũng ngay lập tức gặp phải một phản ví dụ tự nhiên nhất trong quá trình ghi nhớ (ví dụ, khi cha mẹ kể lại các trải nghiệm trong quá khứ cho con cái nghe, hay khi một cộng đồng dân gốc Phi châu nhớ lại thời thuộc địa và công cuộc giải phóng). Cho đến khi nào chúng ta không công nhận mối liên hệ tự nhiên giữa lý thuyết lịch sử rắc rối nhất và các vận hành của ký ức lịch sử ẩn thân sâu nhất trong văn hóa và cuộc sống hàng ngày của con người, chúng ta sẽ tiếp tục bị mắc kẹt trong tư duy tuyến tính, vốn coi biến thể văn hóa của ký ức chỉ đơn giản là các đối tượng lý thú cho nghiên cứu hơn là nhận ra đó như là các ví dụ “làm thế nào để giải nghĩa lịch sử”. Bộ sách Making Sense of History đặt mục tiêu làm cầu nối bắc qua khoảng trống giữa lý thuyết lịch sử và các nghiên cứu về ký ức lịch sử. Đóng góp trong đó là hầu hết các ngành học về văn hóa và xã hội, khai phá một phạm vi rộng lớn các hiện tượng thuộc về một lãnh vực có thể đặt tên là “giải nghĩa lịch sử” (Historische Sinnbildung). Bộ sách không chỉ vượt ranh giới giữa các ngành học, mà còn giữa các nền văn hóa, xã hội, chính trị và lịch sử bao quanh đó. Thay vì giản lược ký ức lịch sử xuống thành một dạng mới nào đó của ngành “cấu trúc thực tế” xã hội hay văn hóa, đóng góp của bộ sách chính là soi sáng các hiện tượng cụ thể trong ký ức lịch sử: tìm cách diễn giải chúng như các ca nghiên cứu trong ngành nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm đang dần hình thành để “giải nghĩa lịch sử”. Theo trục chung đó, các bài luận lý thuyết không chỉ muốn thiết lập một hệ thống lý thuyết và phương pháp mới trong nghiên cứu lịch sử, mà còn đưa ra các cách nhìn so sánh, liên ngành, và liên văn hóa nhằm giúp thông hiểu cái có thể gọi là “công trình toàn cầu về ký ức lịch sử”. Công việc này không đòi hỏi phải loại trừ các đánh giá phê bình đối với chức năng làm công cụ cho hệ tư tưởng của ký ức lịch sử, nhưng mục tiêu chính của bộ sách không phải là đi tìm các hệ tưởng hay định nghĩa chính trị, cũng không phải là phương pháp luận tách rời hệ tư tưởng về “giải nghĩa lịch sử”. Nói cách khác, bộ sách có ý định nghiên cứu các hoạt động văn hóa liên quan tới quá trình tạo ra nghĩa cho lịch sử trong vai trò một thể đặc biệt quan trọng của suy nghĩ và hành động của con người, một ngành học có thể đóng góp vào các loại hình thông hiểu qua lại mới. Trong thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng, mà chủ yếu thể hiện trên bình diện kinh tế và chính trị (và rất ít trên bình diện văn hóa) thì việc xây dựng các dạng thức như vậy là nhiệm vụ khẩn cấp. Sử gia, chuyên gia nhân học, triết gia, các nhà xã hội học, tâm lý học và lý thuyết gia văn chương, cũng như các chuyên gia trong những ngành như truyền thông và nghiên cứu văn hóa [8] , cùng nhau khám phá các vấn đề như sau: Cái gì tạo ra “ý” (sense) và “nghĩa” (meaning) cho lịch sử? Trong những nền văn hóa khác nhau thì các khái niệm về “thời gian” (time) giữ vai trò tiềm ẩn như thế nào? Dạng đặc biệt nào của “nhân sinh quan” (perception) chuyên chở các khái niệm đó và liên quan với những vấn đề chung nào? Đâu là phương pháp thường dùng nhất để diễn tả ý nghĩa lịch sử? Rộng khắp từ các quan điểm chung cho đến lập luận lý thuyết cho các ca nghiên cứu, các bài viết đề cập tới rất nhiều vấn đề liên quan tới câu hỏi về “ý nghĩa lịch sử”, bao gồm các đề tài như bản sắc tập thể, tâm lý và phân tâm học của ký ức lịch sử, hay không gian liên văn hóa của tư duy lịch sử. Nói chung, các bài viết đều thể hiện rằng ký ức lịch sử không phải là chức năng riêng biệt của các hoạt động văn hóa mà con người dùng để thể hiện chính mình trong thế giới họ sinh ra, mà các ký ức đó còn bao gồm những ngành nghiên cứu đặc biệt trong tư duy đương đại của đời sống con người. Các ngành này xét quá trình tâm lý nối kết quá khứ, hiện tại và tương lai từng được phương Tây tổng quát hóa và thể chế hóa, được coi là các phạm trù đặc biệt trong văn hóa mà chúng ta gọi là “lịch sử”. Trong số các khả năng đặc biệt của con người như tư duy, hành động, và đau khổ đòi hỏi phải có “tư duy lịch sử” đặc biệt gồm có (1) quá trình xây dựng và duy trì bản sắc tập thể, (2) quá trình tái xây dựng qui luật tư duy sau thảm họa và các sự kiện hủy diệt hàng loạt, (3) thách thức phải tạo ra qui luật tư duy được thể hiện bởi, và thông qua quá trình đối đầu với các nhóm cực đoan khác, và (4) kinh nghiệm chung về thay đổi và thỏa hiệp. Theo đúng mục tiêu chung của bộ sách Making Sense of History là mô tả một khu vực nghiên cứu liên ngành mới (chứ không phải đưa ra một lý thuyết riêng), các tập sách được thiết kế không phải nhằm để tạo ra các khu vực chung và chức năng của quá trình ghi nhớ lịch sử như khởi đầu cho một cách tiếp cận mới cho ngành sử ký; thay vào đó, khai phá các khu vực này trong tư cách các nhánh nhỏ của ngành nghiên cứu “các nền văn hóa sử”. Ví dụ như một điểm tập trung là phạm trù bản sắc tập thể (collective identity). Các quan điểm lý thuyết và vấn đề phổ quát được xem xét đặc biệt trong mối quan hệ qua lại với bản sắc, với cái khác (otherness) và tính đại diện. Cùng lúc, các ca nghiên cứu về quá trình hình thành bản sắc giới tính (đặc biệt là với phụ nữ), về bản sắc sắc tộc, và các loại hình khác nhau cùng sân khấu chính trị của bản sắc dân tộc cũng được được đính kèm. Các bài luận về vấn đề này sẽ nhằm mục tiêu chỉ ra rằng bất kỳ khái niệm nào về “bản sắc” như đang bị tách rời khỏi biến đổi lịch sử không chỉ kéo theo các vấn đề về lý thuyết, mà còn bỏ qua thực tế là đa số các dạng hiện đại của bản sắc tập thể bao gồm khả năng tự chuyển đổi theo thời gian. Do vậy, các bài luận sẽ không coi bản sắc là công cụ để phân biệt, mà là một “hoạt động” văn hóa cụ thể đang diễn ra của sự khác biệt. Mục tiêu sẽ là chứng minh khả năng sản sinh của “ý nghĩa” là điểm khởi đầu cho nhận thức luận, cũng như chính nó là một khu vực nghiên cứu lý thuyết và thực hành. Một số tập sách sẽ tập trung vào quá trình hình thành “thời gian” [9] và “lịch sử” trong tâm lý, phân tích mối liên hệ qua lại giữa ký ức, đạo đức và tính nguyên bản trong các loại hình khác nhau của câu chuyện lịch sử hay hồi ký. Các thành quả từ những nghiên cứu tâm lý thực hành (về sự phát triển của nhận thức hiện tại và lịch sử ở trẻ em, hay cơ chế tâm lý của quá trình tái dựng các kinh nghiệm trong quá khứ) sẽ được thảo luận trong ánh sáng của các nỗ lực muốn phác thảo một lý thuyết tâm lý cho khái niệm nhận thức lịch sử quanh phạm trù “cốt truyện” và “cấu trúc kể chuyện của thời gian lịch sử”. Một tập sách đặc biệt sẽ dành cho các tiếp cận từ môn phân tâm học để nghiên cứu ký ức lịch sử, xét lại các tranh cãi trước đây về mối quan hệ giữa phân tâm học và lịch sử, cũng như giới thiệu các công trình nghiên cứu gần đây. Thay vì chỉ đơn giản đưa ra một số góc nhìn từ ngành phân tâm học, vốn có nhiều khả năng được tiếp nhận và vận dụng trong một số khu vực của ngành nghiên cứu lịch sử, tập sách này cũng sẽ kết hợp các nhân sinh quan lịch sử với phân tâm học, chẳng hạn như khám phá ngay chính lịch sử của ngành phân tâm học, cũng như không gian “nhận thức” tiềm ẩn và chuyển giao các vấn đề khoa học và phi khoa học của ký ức lịch sử. Hơn vậy, tập sách cũng sẽ nhấn mạnh đặc biệt đến các dạng thức tổng quát hóa vượt ranh giới (transgenerational) của trí nhớ, về phạm trù của vết thương lòng như khái niệm then chốt trong ngành này, và về các ca nghiên cứu có thể mở hướng cho nhiều nghiên cứu mới. Trong kế hoạch sẽ có một tập hợp các bài viết tập trung đặc biệt vào không gian liên văn hóa của tư duy lịch sử, khái quát hóa các nền văn hóa sử học từ Ai Cập cổ đại cho đến Nhật Bản hiện đại. Với quan điểm khuyến khích nghiên cứu so sánh, tập sách sẽ gồm những bài luận tổng hợp và các ca nghiên cứu được soạn thảo nhằm đưa ra các diễn giải so sánh trên cơ sở các tài liệu cụ thể, cũng như khả năng áp dụng hệ thống lý thuyết đó vào các so sánh mới. Dưới ánh sáng của các thành tựu hiện tại của hệ thống quan điểm thế giới xoay quanh vấn đề sắc tộc (ethnocentrism), tập sách này sẽ tập trung vào câu hỏi là các nghiên cứu văn hóa và xã hội sẽ phản ứng như thế nào trước thách thức này. Mục tiêu sẽ là phản biện lại lối tư duy lấy sắc tộc làm trung tâm bằng cách bắc cầu cho khoảng trống hiện nay giữa quá trình toàn cầu hóa nhanh chóng – thể hiện qua tăng trưởng hơn bao giờ hết về mức độ lệ thuộc kinh tế và chính trị giữa các quốc gia và các châu lục – và mức tăng trưởng tương tự theo chiều thiếu hụt mối thông hiểu qua lại giữa các thể chế văn hóa. Các bài luận sẽ cố gắng chỉ ra sự cần thiết phải liên lạc liên văn hóa [10] cả về cơ sở chung của nhiều nền văn hóa sử, lẫn sự khác biệt giữa chúng. Sự liên lạc này có vẻ không chỉ là có thể, mà còn điều kiện cần đầu tiên cho bất kỳ phép thử nào muốn giảm bớt khoảng cách văn hóa trên bình diện chính trị, bất kể là giữa các quốc gia hay bên trong các xã hội ngày càng đa văn hóa mà chúng ta đang sống. Điểm nhấn đặc biệt của bộ sách về vấn đề khác biệt văn hóa và liên lạc liên văn hóa thể hiện ý đồ của nhóm biên tập muốn vượt khỏi các mối quan tâm nằm trong định chế khoa học. Vấn đề liên lạc liên văn hóa là một thách thức lớn, và cũn là hi vọng lớn cho một công trình nhắm tới một hệ thống lý thuyết chung cho hiện tượng chung về “nhớ lại quá khứ”. Mặc dù trên thực tế “khác biệt văn hóa” từng là cụm từ thường gặp trong thập niên 1990s, đề tài này vẫn còn chứa đựng một mâu thuẫn cũng tương tự như tình hình hiện nay của phạm trù “lịch sử”. Các nước đã công nghiệp hóa gần đây tăng cường can thiệp chính trị và kinh tế vào nghị trình của phần còn lại của thế giới. Về phía mình, các nước đang phát triển cùng các nước cựu hoặc đang cộng sản phải nhận ngày càng nhiều (có lúc bắt buộc) các cơ cấu chính trị và kinh tế hiện đại. Vậy mà quá trình tạm gọi là hữu nghị qua lại trên bình diện chính trị và kinh tế lại đi kèm với mức độ thiếu kiến thức đáng kể, hay thậm chí thiếu cả sự quan tâm, về bối cảnh lịch sử và văn hóa của các quốc gia liên quan. Cho nên, các dạng chính thức đang tồn tại về liên lạc liên văn hóa, vốn thường bị đòi hỏi trong các bàn cãi của dư luận, lại thiếu đúng cái “văn hóa” trong đó, khiến đề tài và các vấn đề được phân tích trong bộ sách này (bản sắc, ký ức, hoạt động văn hóa, lịch sử, tôn giáo, triết học, văn học) nằm ngoài cái đang được liên lạc một cách rõ ràng – như thể các vấn đề đó không ảnh hưởng đáng kể tới các nghị trình chính trị và kinh tế. Tuy vậy, nhìn từ phía còn lại, các tiếp cận phổ biến từ phía các lý thuyết gia trong ngành văn hóa và những triết gia thuộc trường phái phê bình ở phương Tây thường cho rằng nói chung không thể liên lạc liên văn hóa trên một mặt bằng chung về “bản sắc văn hóa” – đặt cơ sở trên giả thiết là không tồn tại một mặt bằng chung như vậy (hiện thực hóa khái niệm “khác biệt”) – hoặc chính trị hóa các khác biệt văn hóa theo cách mà chúng bị hạ thấp xuống mức thuần túy vật chất nhằm xây dựng các vị trí cho đối tượng văn hóa. Mặc dù các hiểu biết tự thân được coi là “phê bình”, các tiếp cận khoa học này lộ ra là có tương ứng với quá trình loại trừ “văn hóa” trên bình diện trao đổi chính trị và kinh tế giữa các quốc gia. Do vậy, lý thuyết về văn hóa có lẽ phản ứng lại quá trình loại trừ văn hóa bằng cách loại trừ chính mình. Bộ sách Making Sense of History này có ý định đối phó với quá trình loại trừ đó bằng cách đưa ra một phương pháp nghiên cứu văn hóa mà trong đó khái niệm “văn hóa” được coi trọng đặc biệt mà không hòa tan nó vào nền chính trị bản sắc hay quá trình hiện thức hóa khái niệm cho rằng không thể bắc cầu cho “các khác biệt”. Cùng lúc công trình cũng nhằm mục tiêu tái giới thiệu phạm trù “lý thuyết lịch sử” không còn tách rời ra khỏi ký ức lịch sử và quá trình ghi nhớ như các hoạt động văn hóa cụ thể nữa, mà tìm cách khám phá các hoạt động đó, diễn giải chúng như các mối nối khác nhau của một nỗ lực toàn diện (nếu đa dạng) để “giải nghĩa lịch sử”. Do đó, bộ sách Making Sense of History cho rằng mỗi đóng góp khoa học cho vấn đề liên lạc liên văn hóa cần mở cửa trở lại với các đối thoại khoa học vào chính bản chất lịch sử (historicity) và bối cảnh văn hóa, cũng như các kiến thức mới về những hoạt động văn hóa khác, nhưng không mang tính hàn lâm, về “hình thành ý nghĩa” như các hình thức cũng quan trọng đối với tư duy của con người (human orientation) và quá trình tự hiểu về bản thân (các hoạt động mà chức năng chung của nó cũng không khác bao nhiêu so với các đóng góp của chính các tư tưởng khoa học). Dạng tuyên ngôn mới cho các thảo luận khoa học hiện đại thể hiện trong nhiều bối cảnh văn hóa, với ý định đặt điểm khởi đầu cho liên lạc liên văn hóa, là một công việc không thể đáp ứng toàn bộ, hay thậm chí chỉ phác thảo, trong một bộ sách vài quyển. Vì vậy, bộ sách Making Sense of History nên được coi là phép thử đầu tiên để vẽ ra lãnh vực nghiên cứu phù hợp với các ý định chung vừa kể: ngành học của “các nền văn hóa lịch sử”. Ý tưởng cho bộ sách này được hình thành trong quá trình nghiên cứu dự án có tên “Giải nghĩa lịch sử: Nghiên cứu liên ngành trong kết cấu học, logic và chức năng của nhận thức lịch sử – Phép so sánh liên văn hóa”, vốn đã kết thúc thành công. Dự án này được thực hiện ở Trung tâm nghiên cứu liên ngành (Zentrum fur interdisziplinare Forschung; ZiF) của Đại học Bielefeld, Đức, trong hai năm 1994–1995. Công trình được giúp đỡ một phần từ Viện nghiên cứu cao cấp về nhân loại ở Essen, thuộc trung tâm khoa học mang tên Northrhine Westfalia (Kulturwissenschaftliches Institut Essen; KWI). Công trình bao gồm một loạt các hội thảo và nhóm thảo luận. Các luận văn được chọn lọc tạo thành sườn chính cho các tập sách trong bộ sách này. Công việc phân loại, biên tập và hoàn chỉnh các bộ sách mất nhiều thời gian mà tập đầu tiên (bản tiếng Anh) vừa được xuất bản năm 2002. Cuộc tranh luận đang tiếp diễn trong ngành nhân văn về các cơ sở của nó và đặc biệt là về vai trò và chức năng của lịch sử không hề thay đổi đã xác nhận tâm điểm của bộ sách là đã đặt ra những vấn đề cơ bản trong cách giải nghĩa của tư duy lịch sử [11] . Bản tiếng Việt © 2008 talawas [1]Do NXB Bergahn Books xuất bản, trang bìa và giới thiệu sơ lược được trình bày trên trang mạng www.berghahnbooks.com/series.php?pg=maki_sens > [2]Nổi bật nhất là quan điểm của triết gia Mỹ gốc Nhật Francis Fukuyama, được trình bày đầu tiên qua essay mang tên The End of History? đăng trên tạp chí chính trị quốc tế The National Interest năm 1989 và sau đó xây dựng lên thành tập sách xuất bản năm 1992: The End of History and the Last Man. Hệ thống lý luận của Fukuyama được nối tiếp từ nền tảng triết học Friedrich Hegel. [3]Mời đọc thêm bài phân tích về mối quan hệ giữa bản sắc cá nhân và bản sắc tập thể từ góc nhìn xã hội học của Jerzy Szacki, Lê Hải dịch: “Bản sắc tập thể hay Bản sắc xã hội của cá nhân”. [4]Trào lưu này của các sử gia Hoa Kỳ cũng có thể dễ dàng ghi nhận qua làn sóng bùng nổ các tập sách giải nghĩa lại lịch sử Việt Nam, đơn cử như: Mark Bradley và Marilyn Young biên tập (2008) Making Sense of the Vietnam wars: Local, National and Transnational Perspectives NXB ĐH Oxford; Hồ Tài Huệ Tâm biên tập (2001) The Country of Memory: Remaking the Past in Late Socialist Vietnam NXB ĐH California; Trần Tuyết Nhung và Anthony Reid biên tập (2006) Vietnam: Borderless Histories NXB ĐH Wisconsin; Duncan McCargo biên tập (2004) Rethingking Vietnam: State, party and political change in Vietnam NXB Routledge... Có thể coi tuyên bố của Keith Taylor (phần nào được giải thích qua bài phỏng vấn dành cho đài BBC, được lưu ở địa chỉ Internet www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2003/09/030912_keithtaylor.shtml) là cột mốc ghi nhận bước ngoặt về lý thuyết sử học khi từ bỏ cách nhìn bản sắc thống nhất mà ông đã từng trình bày trong tập sách (1991) The Birth of Vietnam, NXB ĐH California, hay các sử gia chuyên về Việt Nam cùng thời như David Marr, Emile Durkheim và D.R.Sardesai. Nếu trước kia bản sắc tập thể (bản sắc dân tộc) là một điểm qui chiếu không đổi cho sử gia thì nay bản sắc cũng là một thay đổi mang tính lịch sử theo chiều thời gian, và bản sắc cũng không còn là một khối đơn vị, tự thân tạo thành từ nhiều thành phần khác nhau (ví dụ như phân tích của Amin Maalouf) và mang tính chất khác nhau khi đi từ tầm xã hội xuống từng tập thể và mỗi cá nhân (ví dụ như phân tích của Jerzy Szacki). [5]Lý thuyết gia sử học chịu nhiều ảnh hưởng của phép duy vật biện chứng lịch sử, hiện là giáo sư của ĐH Stanford và ĐH California ở Santa Cruz. GS Hayden White nhận thấy lịch sử luôn là một kịch bản được dựng lại, ít nhiều theo một trong bốn loại hình: chuyện tình, truyện châm biếm, hài kịch và bi kịch. Sử gia không chỉ là người tìm hiểu quá khứ mà còn phần nào tạo dựng ra lịch sử theo một trong bốn hệ tư tưởng được chấp nhận: bảo thủ, tự do, cực đoan và vô chính phủ. [6]Ví dụ như công trình của sử gia Mác-xít Eric Hobsbawm, viết theo ký ức cá nhân hoặc từ góc nhìn không lấy phương Tây làm trung tâm – showFile.php?res=12616&rb=0302 [7]Ký ức (memory) là phạm trù đang là tâm điểm tranh cãi và được tìm giải pháp lý thuyết từ nhiều ngành học cùng lúc: triết học, khoa học nhận thức, tâm lý học, nhân học, văn chương, chính trị và xã hội học, cùng các ngành nhỏ và các liên ngành hình thành trong quá trình nghiên cứu một trường hợp cụ thể. [8]Cultural studies: tên ngành học do lý thuyết gia Mác-xít Stuart Hall thành lập ở Anh trong thập niên 1970s và nhanh chóng phát triển trên thế giới, nghên cứu truyền thông và xã hội qua mô hình ngữ pháp và mối quan hệ ngữ nghĩa cùng cốt truyện: showFile.php?res=12761&rb=0104 [9]Thời gian không đơn giản là một trục tuyến tính mà trong các ngành khoa học xã hội còn được chia ra thành nhiều dạng thức khác nhau. Ví dụ đơn giản có thời gian thực mà mỗi người sống theo nhịp của môi trường tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, mùa màng... và thời gian do các nghi lễ qui định, du nhập qua tôn giáo hay từ nền văn hóa khác như lịch Tây, đồng hồ và chuông nhà thờ, rằm, Tết và lễ Phật Đản. Thời gian cũng có thể được ghi nhận hoặc thể hiện qua không gian (ví dụ như các công trình xây dựng nối tiếp nhau qua năm tháng), vật chất (ví dụ như thay đổi về chất và lượng của cùng một mặt hàng) hoặc phức tạp hơn là qua cách sắp xếp trình tự (ví dụ theo cốt truyện, theo nhân vật, sự kiện, hay theo thứ tự nào khác) trong ký ức của mỗi cá nhân, hay trong ký ức tập thể được 'vật thể hóa' qua các hoạt động văn hóa như lễ hội. Ví dụ lịch sử hiện đại và hậu hiện đại của Việt Nam đang được một số trường phái ghi nhận thông qua chiều tâm linh, đơn cử như các công trình của: Kwon Heon-ik (2008) Ghosts of War in Vietnam, NXB ĐH Cambridge; Shaun Malarney (2002) Culture, Ritual and Revolution in Vietnam, NXB ĐN Hawaii; Đỗ Thiện (2003) Vietnam Supernaturalism: Views from the Southern Region, NXB Routledge; Nguyễn Thị Hiền và Karen Fjelstad biên tập (2006) Possessed by the Spirits: Mediumship in Contemporary Vietnamese Communities, SEAP; Philip Taylor (2007) Modernity and Re-enchantment: Religion in Post-revolutionary Vietnam, ISAS... [10]‘Intercultural communication’ trong nguyên bản tiếng Anh, là tên của một trường phái trong khoa học và cũng là một chuyên ngành nhỏ, có lúc còn được gọi là cross-cultural communication, ghi nhận và nghiên cứu sự thay đổi khi thông tin được dịch chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Có thể lấy ví dụ cụ thể như các hệ giá trị, khái niệm và tư tưởng phương Tây khi du nhập vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 thường rất khác so với bản gốc vì đã qua hai lần chuyển dịch qua trung gian tiếng (văn hóa) Hán hoặc Nhật. Trong phạm vi bài viết này tác giả muốn đề cập đến độ rơ giữa các khái niệm và hệ thống lý luận cơ sở cùng văn hóa làm nền tảng cho nó, khác nhau không chỉ giữa các quốc gia cùng là phương Tây mà còn có lúc giữa các trường đại học nằm ở các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia, những cơ sở khiến người ta hiểu khác nhau khi đề cập tới cùng một khái niệm như lịch sử. [11]Tiếp theo là một paragraph cám ơn những người đã đóng góp vào bộ sách, có chỉnh sửa tùy theo mỗi tập sách. Nội dung trong tập thứ ba cùng biên tập với Jurgen Straub như sau: “Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với các nhân viên của Trung tâm Nghiên cứu Liên ngành tại Đại học Bielefeld, cũng như nhân viên của Viện Nghiên cứu Cao cấp về Các khoa học Nhân văn ở Essen. Tôi cũng muốn cám ơn các biên tập và đồng biên tập của từng tập sách trong bộ sách này, và tất nhiên là tất cả những ai đã đóng góp nỗ lực cùng kiên nhẫn để hoàn thành nó. Cuối cùng, tôi muốn cám ơn bà Angelika Wulff đã giúp quản lý điều hành, và vợ tôi, Inge, đã ủng hộ nhiệt tình bằng cách giúp biên tập bài viết của tôi.” Tập sách thứ 11 về cách diễn tả quốc gia qua lịch sử, truyền thông và nghệ thuật đang được xuất bản vào mùa thu năm nay. Nguồn: books.google.com/books?id=aN75LNV4SLsC&pg=PA1&dq=making+sense+of+history&ei=kecISb_CM4HYtgP8iPmiAg#PPR7,M1
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 8:33:59 GMT 9
Danh sách Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trong lịch sử 20 năm tồn tại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1955-1975) đã có 44 vị được phong hàm Trung tướng và Phó Đô Đốc. Người nổi tiếng nhất là Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, sau này làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Cao Hảo Hớn Chung Tấn Cang - Phó Đô đốc Dư Quốc Đống Dương Văn Đức Đặng Văn Quang Đồng Văn Khuyên Hoàng Xuân Lãm Lâm Quang Thi Lê Nguyên Khang Lê Văn Kim Linh Quang Viên Lữ Mộng Lan Mai Hữu Xuân Ngô Du Ngô Quang Trưởng Nguyễn Bảo Trị Nguyễn Chánh Thi Nguyễn Đức Thắng Nguyễn Hữu Có Nguyễn Ngọc Lễ Nguyễn Văn Hiếu Nguyễn Văn Hinh Nguyễn Văn Là Nguyễn Văn Mạnh Nguyễn Văn Minh Nguyễn Văn Quang Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Toàn Nguyễn Văn Vỹ Nguyễn Viết Thanh Nguyễn Vĩnh Nghi Nguyễn Xuân Thịnh Phạm Quốc Thuần Phạm Xuân Chiểu Phan Trọng Chinh Thái Quang Hoàng Tôn Thất Đính Trần Ngọc Tám Trần Thanh Phong Trần Văn Đôn Trần Văn Minh Trần Văn Trung Trình Minh Thế Vĩnh Lộc - Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
|
|