|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 4:56:36 GMT 9
Báo Ðất Tổ và H.T. Thiện Minh Wednesday, October 24, 2012 Viên Linh Khoảng cuối tháng 10, 1978 đài BBC loan đi một cái tin đơn giản: “Thượng Tọa Thích Thiện Minh, chiến lược gia của Phật Giáo Ấn Quang, đã chết trong nhà tù tại thành phố HCM.” Trong thực tế, ông mất ngày 17 tháng 10, và xác được tìm thấy giữa cỏ cây trong một cánh rừng ở Hàm Tân (Phan Thiết) vào ngày hôm sau. Thượng Tọa Thích Thiện Minh (1922-1978) và bầy chim bồ câu trắng. (Nguồn: Quảng Ðức) Sở dĩ cái tin khiến cho người viết phải ghi nhớ, và tìm tòi thêm tài liệu, vì khoảng 1966, người viết gặp thượng tọa khi tới trụ sở Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử ở đường Công Lý cùng với anh Huỳnh Bá Huệ Dương, chủ nhiệm nhật báo Ðất Tổ. Tờ báo này lúc ấy được coi là diễn đàn tranh đấu của Phật Giáo mà người viết nhận trông coi tòa soạn, vì lệnh ông thầy cũ thời còn ở Chu Văn An Hà Nội, Giáo Sư Vũ Khắc Khoan, vào lúc dầu sôi lửa bỏng đã nghiêm nghị bảo học trò: “Cậu phải nhận làm tờ báo, vì chỉ còn có cậu.” Nghề làm báo cho người cầm bút cái tự do chọn lựa, và sự tự do đương sự đạt được tỷ lệ thuận với nghiệp vụ, từ lúc làm phóng viên tới khi làm ký giả biên tập, và nhất là khi trở thành thư ký tòa soạn hay chủ bút một tờ báo. Lúc đầu tôi đã từ chối vì thế đứng của nó: Phật Giáo tranh đấu đang từng ngày từng tháng đả kích chính quyền quân nhân, trong khi là một nhà văn, nhà báo, con đường của tôi không cùng đường với các nhà vận động chính trị, dù hữu hay tả. Nhưng một mặt thầy Khoan đã giới thiệu, gần như chỉ định, hơn nữa, còn một ông thầy khác của tôi thời đệ nhị cấp ở Hồ Ngọc Cẩn là Giáo Sư Lữ Hồ nói vào, ông lại là người mỗi ngày viết một bài quan điểm nơi trang nhất, tôi khó mà từ chối. Tờ báo ở tình trạng nguy hiểm đến nỗi mỗi buổi trưa, một cái xe hai mã lực nhấp nhổm chạy qua cửa tòa soạn ở đường Phạm Ngũ Lão, người lái xe có khi nhấn còi, có khi không, cho xe chạy chậm lại, không hề đậu hẳn, và trong khi xe chạy, ném vào tòa soạn một cuộn giấy bao quanh bằng một sợi cao su. Rồi xe chạy thẳng về phía đường Ðề Thám. Ðó là cách thầy Lữ Hồ giao bài Quan Ðiểm, hay bài “Film du Jour” - chuyện hàng ngày - cho tôi. Không bao giờ nói được một lời với nhau, song tôi biết ông vui, vì thấy ông là thấy hàm răng Fernandel nở rộ trắng nhởn. Sau này tôi biết Thượng Tọa Thích Thiện Minh chính là đầu não của Ðất Tổ, và tôi được đưa đến gặp thượng tọa. Ba năm sau khi Hà Nội chiếm được Sài Gòn, ngày 13 tháng 4, 1978, cộng sản bắt giam Thượng Tọa Thiện Minh, cố vấn Viện Hóa Ðạo, giam giữ tại trại T20 tại số 4 Phan Ðăng Lưu, Bình Thạnh. Tài liệu chính thức của giáo hội chép: “Sau vài tháng giam giữ ở trại giam T20, CSVN đã chuyển Hòa Thượng Thích Thiện Minh sang khám Chí Hòa, ở đây nhà nước ra lệnh tra tấn hòa thượng đến chết... Sau đó [họ] đã âm thầm đưa xác hòa thượng ra trại cải tạo Hàm Tân (Phan Thiết). Ba hôm sau, nhà nước mới thông báo cho Hòa Thượng Thích Trí Thủ thay mặt Viện Hóa Ðạo ra Hàm Tân nhận xác. Theo Hòa Thượng Trí Thủ và vài vị tăng sĩ tháp tùng thuật lại thì xác Hòa Thượng Thiện Minh bị bầm tím, có dấu hiệu của sự đánh đập và siết cổ.” (Phật Giáo Việt Nam, biến cố và tư liệu, (1975-1995), Phật lịch 2540 -1996, Văn phòng II Viện Hóa Ðạo, Los Angeles, trang 23). Theo một bài trên báo Hoa Ðàm, có thêm chi tiết: “Hình ảnh cuối cùng của HT Thiện Minh mà người ta thấy là một thi thể được che phủ kín mít nằm tại một khu rừng ở Hàm Tân ngày 18 tháng 10, 1978. HT Trí Thủ, viện trưởng VHÐ, nhìn thi thể của Th.T Thiện Minh lần chót [cho biết]... thi thể bầm đen và râu tóc trắng xóa mọc dài. (Quảng Thành, Tưởng nhớ HT Thiện Minh, Hoa Ðàm số 7, 9 tháng 10, 1993). Sau cuộc chính biến tháng 11, 1963 một hai tháng, tại Sài Gòn báo chí mọc lên giống như một loài hoa đất bừng nở sau một trận mưa dài. Trong thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, từ 1954 tới 1963, báo chí có tự do, song số báo hiện diện ít oi, có sẵn một số cung cách hoặc từ thời Pháp ở “Sè goòng,” hay từ Hà Nội đem vào, có thể kể Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, Tiếng Chuông của Ðinh Văn Khai, Buổi Sáng của Tam Mộc, Tự Do của Tam Lang-Mặc Ðỗ, Ngôn Luận của Hồ Anh, trong đó các báo có khuynh hướng Thiên Chúa Giáo La Mã chiếm ưu thế. Ngay từ 1964, chưa đầy một năm sau chính biến ảnh hưởng của Phật Giáo, số nhật báo ra nhiều hơn, ồn ào hơn, có thể kể Sống của Chu Tử, Tiến của Ðặng Văn Nhâm, Tiếng Vang của Quốc Phong, Tin Mới của Nguyễn Ang Ca, Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, Dân Ta của Nguyễn Vỹ, Ðất Tổ của Huỳnh Bá Huệ Dương (Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử), Ðuốc Nhà Nam, trong đó các báo có khuynh hướng Phật Giáo gặp thời. Nhưng tới thời Ðệ Nhị Cộng Hòa, với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, các báo của vài chủ nhiệm Công Giáo (như Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm, Hòa Bình của LM Trần Du) khỏe khoắn hơn nhiều báo khác. Thời này, “cách mạng thành công” tức là sau 1964, các chủ báo thuộc thành phần ô hợp hơi nhiều, đến nỗi chính phủ phải ra các nghị định như muốn làm chủ nhiệm phải có 7 năm hành nghề ký giả (sắc luật 10/64), tuy thế, sự ô hợp ấy còn rất nghiêm minh so với các chủ báo Việt ngữ ở hải ngoại thời báo chợ, nhiều người xuất thân chuyên gia sửa hộp số xe hơi, chụp hình dạo trước chợ ABC, hay giám đốc tiếp thị cửa hàng cà phê xóm nhỏ, v.v... Công và tội của các lãnh tụ tôn giáo, chính trị, quân sự không phải là việc đánh giá của kẻ đương thời, chưa đủ thời gian thẩm định, và cũng không có thẩm quyền để thẩm định. Thượng Tọa Thích Thiện Minh từng lãnh đạo Phật Giáo, trong có Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử ở dưới quyền, và có tờ nhật báo Ðất Tổ trong tay. Bài viết này, nhân kỷ niệm ngày kỵ của ông, chúng tôi nhắc đến một khía cạnh của báo chí đương thời, trong đó diễn đàn Ðất Tổ đã được sự tham gia của một số văn nghệ sĩ trí thức. Tôi còn nhớ một đặc phái viên của Ðất Tổ là ký giả Nguyễn Khắc Nhân, bạn thiếu thời của tôi. Năm 1966 anh làm Ðất Tổ cùng tôi và sau này ra hải ngoại, anh làm chủ nhiệm báo Người Việt ở San Diego, lấy tin tức từ Người Việt Quận Cam. Anh đã bán lại tờ Người Việt San Diego cho người khác, và hiện đã về hưu, nửa năm ở San Diego, nửa năm ở Sài Gòn. Một hôm năm 1966 vừa đi dự họp báo của ông Nguyễn Cao Kỳ về, anh cười cười thú vị: “Cha Kỳ nhắn tụi mình, bảo tao, là các anh Ðất Tổ, chúng ta cùng còn trẻ cả, tại sao không ngồi lại nói chuyện với nhau, mà các anh cứ viết những bài chửi chúng tôi quá đáng.” Ý Nguyễn Khắc Nhân như là có nên thảo luận với nhau không, tôi đoán như thế. Nhưng chỉ tuần lễ sau đó thôi, người trẻ râu kẽm ra lệnh đóng cửa báo Ðất Tổ. Hòa Thượng Thích Thiện Minh tên khai sinh là Ðỗ Xuân Hàng, người Quảng Trị, xuất gia năm 10 tuổi, tốt nghiệp Cao Ðẳng Phật Học và từ 1952 từng cầm đầu phái đoàn ra Hà Nội họp ở chùa Quán Sứ để đi đến việc thành lập Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc. Sư ông Nhất Hạnh có làm bài thơ khóc bạn nhan đề Mây Trắng Thong Dong trong có đoạn như sau: Nhớ thuở xưa - khi ngươi còn là đám bạch vân bay thong dong ta theo nguồn múa ca đi về đại dương mênh mông, [...] Kịp đến khi thấy trần gian quằn quại lệ chảy thành dòng thì ngươi biến thành mưa, nhỏ giọt tuôn tràn đêm đông Hai bàn tay ngươi dập nát, thương ôi, xích xiềng vẫn chưa tháo được [...] Hiên ngang không lùi bước chừ, dù phía trước dày đặc hầm chông ngươi thản nhiên đưa mắt nhìn bạo lực chừ, như nhìn vào khoảng không. Sống chết là chi chừ, ép uổng nhau sao được? ... Bây giờ thoát đi, xiềng xích không còn buộc nổi chân thân, ngươi trở về kiếp xưa mây trắng, thảnh thơi trên bầu mênh mông. (VL, 10.2012, viết tặng anh Huỳnh Bá Huệ Dương)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 5:13:42 GMT 9
Tiếng nói từ những nạn nhân của cuộc chiến Đông Dương lần thứ haiTác giả: Nguyễn Văn Lục Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- : Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi. Tôi đã dọc. Cái nhan đề cuốn sách làm tôi ngạc nhiên. Và cũng có thể là cớ sự cho một số người Việt Hải Ngoại “nổi giận”. Chắc hẳn nó có một dụng ý gì!! Cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm tàn bạo và cực kỳ bi thảm nhất lịch sử VN với hàng triệu người người nằm xuống cuối cùng chỉ là câu chuyện của Bên thắng cuộc? Cuộc chiến tranh thật sự đơn giản và bình thường đến như thế chăng! Tác phẩm được chia làm hai cuốn: cuốn một viết dính dáng nhiều đến đời sống của nhân dân miền Nam sau 1975 như chế độ học tập cải tạo, đánh tư sản, vượt biên, đi kinh tế mới. Những đề tài đó trở thành mục tiêu phê phán của một số người Việt hải ngoại. Cuốn hai nói đến sinh hoạt nội bộ của đảng cộng sản- đặc biệt các tranh chấp, đánh phá nhau, hoặc đố kỵ nhau giữa các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn-vv. Tất cả nội dung cuốn hai được tóm gọn và biểu dương trong cái được gọi là Quyền lực trong tay những người lãnh đạo. Đây cũng là phần lợi thế về tài liệu của tác giả do những tiếp xúc, phỏng vấn vv Nhưng vẫn không tránh khỏi bi sa lầy vào nhiều tình tiết không đáng viết ra. Có thể cộng đồng người Việt chỉ chú trọng tới cuốn một. Còn Hà Nội thì cả hai. Tôi chia sẻ với tác giả như một lời thú nhận trong một câu ngắn: Viết để vượt qua nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi về phía tác giả đối với chế độ cộng sản hiện hành mà ai đã trải qua đều biết là không dễ dàng gì ! Viết được như vậy phải chăng là điều đáng quý rồi.Tác giả nói lên được câu đó để thấy nỗi khó khăn của người cầm bút. Một nỗi khó khăn không chỉ riêng tác giả mà của nhiều thế hệ đi trước tác giả. Tác giả cố gắng trỉnh bày sự kiện thay vì bầy tỏ thái độ của tác giả trong mỗi vấn đề. Đây là điều không dễ, vì mỗi sự kiện nêu ra đều được lọc sàng bởi bộ óc đã được thảo trình (programmé) của định chế, cuản tác giả và nhất là của mỗi người đọc. Tóm lại có một tần số (code) dể chấp nhận hay không chấp nhận của người người đọc nó. Việc nổ bùng tranh cãi là vì cái Code trong mỗi người!! Điều thứ hai trong cách trình bày sự việc xảy ra sau 1975 như các vấn đê Học tập cải tạo, chính sách đổi tiền và nhất là tình trạng bi thảm của những người vượt biên- mặc dầu có những trích dẫn sai lầm- Nó cho thấy tác giả có một sự tôn trọng thẳng thắn dè dặt và chừng mực đối với thể chế miền Nam. Nhất là tác giả có sự tôn trọng những nỗi đau của người miền Nam sau “giải phóng”. Sự chia xẻ ấy là quý báu và nên được nhìn nhận. Mặc dù thế không bao giờ là đủ. Nỗi nhục vẫn còn đó sau nhiều năm tháng chưa rửa hết. Một số vấn đề được tác giả đề cập tới- như một lời trần tình cũng khá là thuyết phục- trung thực trong một số trường hợp và thiện ý muốn mở ra cũng có. Viết để”vượt qua nỗi sợ hãi” như lời tác giả phân trần, phải chăng đó là một trong những chặng đường khó khăn nhất của người cầm bút trong nước? Và cuốn sách như một số trường hợp của những tác giả đã nổi danh đều chỉ có thể được in và xuất bản ở Hải Ngoại. Điều chắc chắn cuốn sách gây được chú ý vì nội dung sách không trình bày một cách bài bản, giáo điều cũng không thấy được sự khoe khoang thành tích- như nhiều cuốn sách đã xuất bản. Nó tránh cho người đọc cảm giác đang đọc một cuốn sách tuyên truyền. Nó có thể là bước mở đường cho mối tương giao giữa viết và đọc thưởng bị gãy khúc ở phần đông sách vở trong nước. Phần tôi viết không phải để khen hoặc để chê vì việc ấy đã có nhiều người làm rồi. Tôi nhận thấy cuốn sách cũng gây được dư luận trái chiều và phản ứng chính thức từ hai phía: Phía kẻ thắng và kẻ thua. Ông Đỗ Quý Doãn- viên chức có thẩm quyền trong nước- muốn dùng luật pháp để nói chuyện “ phải quấy”, răn đe với tác giả. Tờ Sài gòn Giaỉ Phóng cũng đã chính thức lên tiếng. Và hiển nhiên sẽ còn nhiều tờ báo trong nước lề phải hùa theo! Đứng ở quan điểm người cộng sản thì đây là một cuốn sách có vấn đề. Vì nó phê phán có ý chê trách những chính sách Học tập cải tạo, đi kinh tế mới, dánh tư sản mại bản, vấn đề thuyền nhân vv.. Vì thế họ sẽ còn dùng đủ biện pháp trong quyền hạn của họ để trù dập tác giả như trường hợp Dương Thu Hương, Bùi Tín. Đây là dấu hiệu đáng lo cho tác giả và đáng mừng cho tương lai dân tộc VN, vì càng ngày càng có nhiều người biết tôn trọng sự thật, biết nói không với cộng sản. Trong tương lai, có thể ông sẽ bị xua đuổi, bôi bẩn và trở thành những thành phần bị gạt ra bên lề. Con đường dành cho ông sẽ là con đường của những Bùi Tin, Vũ Thư Hiên đã từng trải qua chăng? Nhưn ngay bây giờ, không thể đồng hóa ông với trường hợp những người đi trước ông như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên được. Những Bùi Tín, họ đã ý thức và chấp nhận bước qua cái lằn ranh phân chia hai bên và họ đã khẳng định thái độ cũng như chỗ đứng của họ bằng những bài viết hay sách vở của họ- từng giai đoạn một-. Ông nhà báo Huy Đức chưa đủ tầm cỡ nhận thức để có thể xếp loại ông ngang hàng được! Phía bên kia qua tờ Người Việt- Một trong những tờ báo lớn và lâu đời nhất ở quận Cam, qua phó chủ nhiệm tờ báo Đinh Quang Anh Thái- coi cuốn sách có nhiều tài liệu và được đánh giá như một Best-seller!! Cộng thêm hai ông Hùng và Dũng. Tôi không biết nhiều về ông Hùng, nhưng biết rõ về ông Trần Hữu Dũng qua mạng Viet-studies của ông. Ông THD không tiêu biểu cho trí thức hải ngoại càng không tiêu biểu cho cộng đồng những người đã từng liều mạng bỏ trốn cộng sản. Ông từng đứng hẳn về phía bên kia với cốt cách “ di truyền” từ người cha để lại. (Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp). Nếu coi ông Trần Hữu Dũng như “phe ta” thì tội cho Nguyễn Chí Thiện quá. Vì thế, từ nay những giỗ chạp Nguyễn Chí Thiện, xin những ai đó đừng đến!! Tôi chỉ yêu cầu có thế thôi!! Xin mời bạn đọc vào mạng viet-studies để hiểu rõ thêm về ông Trần Hữu Dũng. Trước đây tôi đã viết bài:Trí thức phải biết ngượng, chắc nhiều phần có tên ông ấy bên cạnh các ông Cao Huy Thuần,Trần Hải Hạc, Vũ Quang Việt, Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Ngọc Giao, Thái Thị Kim Lan trong Thời Đại Mới. Họ viết và họ đọc với nhau. Đúng hơn họ viết cho chính họ, tự soi gương chỉ thấy mình. Họ chưa bao giờ biết chia sẻ với hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và hàng triệu triệu người còn là nạn nhân của cộng sản. Họ chưa bao giờ nói xa gần hoặc bênh vực người tỵ nạn cộng sản hoặc lên tiếng bênh vực những người bất đồng chính kiến trong nước hiện nay. Họ từng về VN, từng nhận những bằng khen dành cho họ nhằm mục đích tuyên truyền cho cộng sản. Họ chưa phải là kẻ thù của chúng ta- nhưng cũng không thể là bạn của Người Việt Hải ngoại. Nhưng chính người Cộng sản cũng không nuốt nổi họ dù họ nhiều phen mon men gạ gẫm. Họ là những thứ nửa mùa, thành phần indésirables cả hai phía .. Cuộc biểu tình trước tờ báo Người Việt ngày chủ nhật 20 tháng giêng vừa qua là một dấu hiệu hay một triệu chứng báo hiệu đặt ra vấn đề những người đi biểu tình chống đối cuốn sách của Huy Đức hay chống đối báo Người Việt? Hay chống đối cả hai? Sự khen ngợi, hãnh tiến đến gây sốc qua một vài phỏng vấn tạo ra những phản ứng ngược trong cộng đồng. Giả dụ cuốn sách được ai khác in ấn thì chưa chắc đã có những phản ứng như vậy!! Nhưng nếu cứ thích có scandal như một lối tiếp thị thì lại là một lẽ khác. Tôi không bằng lòng những cuộc biểu tình như thế. Nhưng tôi không đủ can đảm đứng trong tòa soạn tờ Người Việt để cảm thấy “vui và hạnh phúc” khi nhìn đám người biểu tình bên ngoài. Tôi chỉ nghĩ rằng: Đừng coi thường nhân cách những người xuống đường. Họ có thể có phản ứng không đáng. Nhưng điều chắc chắn tâm họ trong trắng, lòng họ thẳng và không dễ gì Cộng sản có thể mua chuộc được họ, nhưng ai có thể bảo đảm rằng cộng sản không mua dễ dàng những kẻ đang làm truyền thông!! Nỗi lo là ở chỗ đó, nỗi mừng cũng ở chỗ đó!! Viết một cuốn sách thu góp ý kiến và tài liệu từ nhiều người trong mục đích thông tin, thật khó để đáp ứng được sư mong đợi của nhiều người từ hai phía. Và nhất là không tránh được những phản ứng có điều kiện do quá khứ nhiều năm tồn tích lại của những người dân miền Nam. Tất cả giá trị của cuốn sách này có được hay không là nhờ số lượng tài liệu và các cuộc phỏng vấn. Nhưng tài liệu nhiều chưa đủ mà tài liệu phải mang tính chất khả tín của nguồn tài liệu. Đọc cho kỹ nhận xét này thì giá trị cuốn sách còn lại bao nhiêu? Tác giả một cách gián tiếp đã mở đầu cuốn sách với những lời cảm tạ đến những ai đã giúp tác giả hình thành cuốn sách này. Chỉ riêng những vị lãnh đạo hàng đầu trong nước tôi đếm ra được khoảng 40 người. Và cũng khoảng 40 người nữa là trợ lý hay phụ tá, chuyên viên hoặc vợ hoặc con cái các vị lãnh đạo trên. Và khoảng gần 30 người nữa gồm các bộ trưởng, các vị tướng tá từng có vai trò trong việc tiến hành kết thúc chiến tranh sau 30 tháng tư và sự hình thành những chính sách được tiến hành ở miền Nam. Và sau chót là phần tài liệu với các tập Hồi ký đủ loại. Đặc biệt Hồi ký của bà bà Ngô Thị Huệ, phu nhân của TBT Nguyễn Văn Linh và bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của TBT Lê Duẩn. Tôi thử đi tìm tên tuổi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Dương Thu Huong, Phạm Thị Hoài và hàng trăm các tác giả bất đồng chính kiến trong nước. Nhưng không thấy mấy tên tuổi. Bấy nhiêu chứng từ, tài liệu vấn đề đặt ra là liệu những tài liệu ấy có đủ bảo đảm cho sự trung thực của các sự kiện được tiết lộ không? Về phía người Việt hải ngoại, chúng ta cũng không nên trông chờ một cuốn sách viết theo “ khẩu vị” của chính mình. Sự dị ứng của một số người Việt hải ngoại có thể hiểu được. Tựa đề cuốn sách dễ gây ra hiểu lầm đến nỗi nhiều người thấy không cần đọc. Không đọc không có nghĩa là người ta dốt đâu mà chỉ muôn bầy tỏ một thái độ chính trị dứt khoát. Nhưng vì trách nhiệm người cầm bút, tôi đọc kỹ cuốn sách thì tôi tin chắc rằng cuốn sách không phải là món hàng do Hà nội xuất khẩu ra hải ngoại. Hà nội có thể không dại dột làm như vậy. Tài liệu thì có nhiều, nhưng căn bản là tài liệu báo chí trong nước. Các cuộc phỏng vấn cũng thực hiện với những nhân vật lãnh đạo trong nước? Người ta có quyền đặt nghi vấn, liệu mức độ trung thực được bao nhiêu phần trăm? Có nhà báo cho rằng không chắc đã được 10% độ khả tín !! Để chứng minh được điều này thì chúng ta cần đưa ra một số thông tin dẫn chứng kẻo oan cho người ta. Đó phải chăng củng là mục đích của bài viết này. Chúng ta đừng quên rằng phần tài liệu phía Mỹ có khoảng 6000 tài liệu đủ loại viết về VN để chúng ta có thể so sánh, kiểm điểm. Chẳng hạn như vấn để Hòa Đàm Ba Lê, các trận chiến tết Mậu Thân, Mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, các trận ném bom Bắc Việt đã có vô số tài liệu để tra cứu. Chẳng hạn hòa đàm Ba Lê mà căn cứ nhiều vào cuốn: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ, Kissiger tại Paris do Lưu Văn Lơi và Nguyễn Anh Vũ viết thì phải đặt nghi vấn. Vì đây là cuốn sách mà quan điểm nhỉn từ Hà Nội. Cuôn sách do ông Lưu Văn Lợi chấp bút. Ông Lợi nguyên là thành viên trong phái đoàn cộng sàn tại Hòa đàm Ba Lê. Có một câu tôi đọc để thấy cái “dối trá” của ông Lê Đức Thọ. Trong buổi lễ ký kế, Kissinger có tặng cho LDT cây bút. Ông Thọ cũng tặng lại cây bút của mình và nói:Tôi tăng lại ông cây bút này- và xin ông nhờ cho ký rồi phải giữ lấy lời. Ai trong hai người này cần giữ lời hứa? Họ chỉ mong ký cho xong, loại được Mỹ là họ yên một bề, tiếp tục tiến hành chiến tranh”giải phóng” miền Nam, trang 403 Tiện đây, xin gửi hai địa chỉ để quý vị tham chiếu tài liệu. Tài liệu thứ nhất là Viet Nam War Bibliography: Writings by and about Important Communist Leaders.Tài liệu thứ hai là: Vietnam war bibliography Edwin F. Moise.. Cái nhiều của nhà báo Huy Đức có lẽ chú trọng và tập trung vào một số được gọi là “ những chi tiết, những câu chuyện ngoài sách vở, những âm mưu toan tính nhạy cảm”, phần đời tư. Nhiều tài liệu trích dẫn thuộc loại vụn vặt, bên lề. Chẳng hạn cuộc đời tư của ông Võ Văn Kiệt, chuyện vợ con như chuyện gả bán can thiệp chỉ xảy ra ở trong nội bộ đảng. Đến ông Lê Duẩn cũng thế. Nó choán chỗ không ít. Nhiều tài liệu lại khó mà kiểm chứng được. Tỉ dụ bao nhiêu người đi kinh tế mới? Lấy ở đâu ra con số 600 kiến trúc sư và sinh viên sẽ hỗ trợ chiến dịch đi kinh tế mới. Chẳng hạn khi trích dẫn tài liệu về trận “ Điện Biên Phủ trên không”, tác giả làm sao chỉ trích dẫn tài liệu chính thức của các cơ quan trong nước? Chẳng những thế, sự trích dẫn ấy nó rất có thể trở thành trò cười cho các người viết khảo cứu như tôi sẽ trình bày sau này. Tài liệu là cái có thể làm nên tác giả mà cũng là cái chôn vùi tác giả. Tôi chỉ muốn nêu ngay ra đây như một bằng cớ về lời tuyên bố của viên phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo được trích dẫn trong sách. Ông Hảo huyênh hoang lấy điểm với kẻ chiến thắng rằng ông là người có công giữ 16 tấn vàng còn nằm ở trong ngân hàng! Trích chươngII: Cải tạo. ”Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà, ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói:” Tôi có việc muốn nhờ ông truyền đạt đến Cách Mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được. Hai là về nạn thất thoát chất xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại, nhưng không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”. Tuy nhiên giữ như thế nào, ông Hảo không nói !! Phải hỏi cho ra lẽ chứ. Ông Hảo cần giải thích ông có trách nhiệm giữ được vàng không cho ông Thiệu chuyển ra ngoại quốc với tư cách gì? quyền hạn gì? thủ tục nào ? Sự can thiệp ấy xảy ra như thế nào khi ông tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo ngăn cản không cho vàng xuất kho? Nó chỉ cho thấy ông tiến sĩ không biết gì về thủ tục hành chánh khi xuất kho !! Nó cần bao nhiêu chữ ký từ tổng thống đến thủ tướng, đến Tổng trưởng tài chánh và cả Tổng giám đốc ngân hàng đến hai người giữ chìa khóa hầm chứa vàng? Đây thực sự chỉ là một sự “ nhận vơ” muốn lập công của tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo !! Câu chuyện 16 tấn vàng phải lùi lại hai năm trước trong một tình thế tuyệt vọng về viện trợ khẩn cấp đã bị Quốc Hội Mỷ cắt giảm. TT Nguyễn Văn Thiệu đã điều động luật sư Vương Văn Bắc tiếp xúc để vay tiền của Saudi Arabia .. Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tiềm năng dầu khí VN trải dài trên một diện tích 500.000 cây số vuông . Năm 1973, VNCH đã cho đấu thầu tìm kiếm khai thác dầu hỏa với những tín hiệu kết quả rất tốt ..Ước tính cho đến 1975, có 20 dàn khoan bắt đầu hoạt động. Báo chí nói tới nhiều và người dân miền Nam phấn khởi hy vọng. Nhưng cuối cùng mọi cố gắng đều quá trễ, VN tính vét những đồng tiền cuối cùng của VNCH là 16 tấn vàng như tiền thế chân ở ngoại quốc. Tin tức bị tiết lộ ra ngoài và các hãng thông tấn ngoại quốc bắt đầu vào cuộc và loan tin thất thiệt. Chính quyền đã lên tiếng cải chính, nhưng xem ra vô hiệu .. Đại sứ Martin đã tiếp tay TT. NVT để thực hiện công việc chuyển vàng này. Theo ông Nguyễn Tiến Hưng, TT. NVT chỉ thị dùng vàng để mua tiếp liệu, súng đạn. Và Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia, ông Lê Quang Uyển đã nhận chỉ thị nhờ đại sứ Martin thu xếp chuyện này từ ngày 17 tháng tư, 1975. Thật sự thì số vàng ấy tương đương với số tiền 120 triệu đô la có là bao đối với vận mệnh của một quốc gia? Tuy vậy nó đã được chính TT Nguyễn Văn Thiệu nhờ đại sứ Martin chuyển ra ngoại quốc như tiền “ thế chân” để xin Quốc Hội Mỹ cứu xét tăng viện cho VN để mua đạn dược. Sự thế chấp ấy bao gồm: - Tiềm năng dầu lửa - Tiềm năng xuất cảng gạo - Khoản tiền của vua Haled hứa cho vay - Và số vàng dự trữ của Ngân hàng quốc gia. Sự việc sau đó không thực hiện được theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng theo lời trần tình của đại sứ Martin trong cuốn Testimony của ông. Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, trang 312. Tiếp tay với tin đồn thất thiệt, Hà Nội cho phép dịch cuốn Decent interval, của Frank Snepp . Lúc bấy giờ F. Snepp có bổn phận lái xe trong việc hộ tống ông Thiệu ra khỏi nước. F. Snepp đã viết lại những giây phút cuối cùng của TT. NVT như sau . Xin trích dẫn cả hai cuốn sách: “ Moments later, several burly aides scrambled out a patch of woods at the edge of the compound, each hefting a mammoth suitcase They demandd we open our car trungks for them and insited on stacking the luggage themselves. The clink of metal on metal broke through the stilness like muffled wind chimes as thay heaved the bags in to place:.. Decent Interval, Fran Snepp, trang 438 Và sau đây là bản dịch tóm tắt Cuộc tháo chạy tán loạn: “Mấy phút sau, mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một vali nặng đi đến chỗ chúng tôi, bảo chúng tôi mở cửa xe, để tự họ xếp vali vào Khi họ để vali xuống, có tiếng kim loại va vào nhau”. Cuộc thao chạy tán loạn, Frank Snepp, nxb TPHCM, trang 284 Từ mấy cái vali nặng có tiếng kim khí va chạm vào nhau trở thành câu chuyện 16 tấn vàng được ông NVT lén lút chở sang Đài Loan. Không ai dám khẳng định ông TT Thiệu là người trong sạch, nhưng câu chuyện 16 tấn vàng là một câu chuyện dựng đứng bôi nhọ ông NVT thì ít mà nhằm bôi nhọ lãnh đạo miền Nam của chính quyền cộng sản. Sau này, cả tướng Văn Tiến Dũng cũng viết lại bôi bác về chuyện này . Mãi cho đến năm 2006, khi báo Tuổi Trẻ trong nước có loạt bài phỏng vấn ông Huỳnh Bửu Sơn, người trách nhiệm giữ chìa khóa cửa tầng hầm số 3 và số 6, nơi có giữ 16 tấn vàng. Số vàng đã được bàn giao cho người đại diện chính quyền là ông Hoàng Minh Duyệt với giấy tờ ghi nhận đầy đủ. Sau đó, cố vàng đã được chuyên cơ Il 18 chở ra Bắc!! Vấn đề còn lại là người ta hỏi xem số vàng ấy có thực sự nhập kho nhà nước không và sau đó được dùng vào việc gì? Cái đó thì nhà nước cộng sản dấu kín như bưng, cái đó là điều mà nhà báo Huy Đức phải hỏi cho ra lẽ. Ông Bùi Tín đã có dịp hỏi ông Trường Chinh về chuyện 16 tấn vàng. Ông Trường Chinh cho biết có biết chuyện này, nhưng trong mấy năm khó khăn đã cấu véo hết tấn này đến tấn khác để mua lương thực nay chẳng còn gì. Trả lời như ông Trường Chinh là một trả lời vô trách nhiệm của người lãnh đạo! Trích Blog Bùi Tín Các nhà lãnh đạo của chế độ cộng sản làm điều gì cũng bí bí mật mật, đôi khi chỉ là lệnh miệng, không có giấy tờ chứng minh nên những tiết lộ của nhà báo Huy Đức gây được sự chú ý như một bùng nổ thông tin. Và có lẽ đó là lý do thành công của tác giả. Vì vậy gây được một dư luận chú ý- chỉ một điều đó thôi cũng là một thành công của cá nhân tác giả. Nhưng thành công của tác giả không có nghĩa là thành công của tác phẩm. Tôi nhận thấy lối viết của Huy Đức khác và ngược với lối viêt của Nguyễn Huy Thiệp hay Dương Thu Hương. Nó không bạo liệt, không phá phách. Nó tỏ ra chừng mực, tỏ vẻ khách quan bằng cách cách dựa vào tài liệu sách báo và phỏng vấn. Nó vừa như kẻ ở trong cuộc và vừa như kẻ ở ngoài cuộc. Tuy nhiên sự thành công ấy cũng không qua khỏi lẽ thường của xu hướng thời thượng: Đó là xu hướng tả khuynh và thị hiếu. Sau dây là một vài bằng cớ. Thời VNCH có hàng vài trăm nhà báo, nhà văn cũng nổi tiếng lắm. Nhưng vào thời điểm chiến tranh ở cường độ ác liệt thi có một số trí thức trong phong trào phản chiến- như bắt mạch được xu hướng thời đại- họ nổi lên như cồn. Họ là những Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang, Trịnh Công Sơn- những khuôn mặt quen thuộc trên báo chí hằng ngày-. Các nhân vật quốc tế, các nhân vật lãnh đạo Mỹ đến VN thể nào cũng dành thời giờ đến thăm họ, phỏng vấn họ. Các tờ Hành Trình, Đất Nước bán chui vẫn được nhiều người đọc và chuyền tay nhau đọc. Tôi còn giữ được nhiều bài báo, ngay cả sách xuất bản ở miền Băc viết khen cũng như phê bình Nguyễn Văn Trung. Đăc biệt Trần Văn Giàu viết hẳn một cuốn sách nhan đề: Nhận định về cuốn Nhận Địn IV của Nguyễn Văn Trung. Tôi cũng còn giữ được những bài báo trên tờ Hành Trình được các giáo sư đại học Mỹ dịch ra tiếng Mỹ cho sinh viên đọc. Hồ sơ tạp chí Hành Trình, Sài gòn 1964-1965, Nguyễn Văn Trung giới thiệu . Cũng vậy, trong thời chiến tranh, những nhà báo Mỹ nổi tiếng đều là những ký giả phản chiến mà tiếng nói của họ ảnh hưởng tới dư luận Mỹ, ngay cả tòa Bạch Ốc. Họ là những Bernard Fall, David Halberstam, Malconm Browne và Stanley Karnow.. Họ ăn khách vì đường lối thiên tả của họ cũng như một Jane Fonda, các sinh viên Mỹ phản chiến Sam Brown, David.. (Xé thẻ thương binh). Sự nhộn nhịp hiện nay về cuốn sách của nhà báo Huy Đức là bản sao lại những gì Dương Thu Hương, Bùi Tín đã sống đã trải qua. Bản thân tôi rất thích những bài biên khảo của Dương Thu Hương- một ngòi bút có mức độ thượng thừa về lòng can đảm, về ngôn ngữ bạo liệt, về lối trả lời đao thép và sách vở của bà cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong đó cái tài năng hẳn là có, giá trị sáng tạo văn học hẳn cũng là có. Nhưng nó vẫn dành một chỗ nào đó cho tính cách thời thượng và thị hiếu của dư luận quần chúng. Vậy mà nay đến cuốn Chốn Vắng của bà Dương Thu Hương thì tôi không đủ can đảm đọc hết cuốn sách. Quả thực đã có một thời như thế cho các thành phần phản chiến, cho Dương Thu Hương, cho mỗi tác giả và mỗi tác phẩm!! Và cũng sẽ một thời như thế cho Huy Đức. Chúng ta chờ xem. Nhưng tôi vẫn hy vọng sau này chúng ta cũng sẽ có được một Liu Xiaobo, một Vaclav Havel một công việc mà chỉ những ngưởi trong cuộc ở trong nước mới làm được! Phần tôi, tôi nghĩ còn nhiều điều trong cuốn sách chưa nói đủ hoặc có tránh né, không đụng tới, hoặc không đủ điều kiện tiếp cận. Với hơn 30 năm-40 năm với một chế độ khép kín, che dấu, xuyên tạc, tuyên truyền nhiều khi đến vụng về. Nhiều sự kiện lịch sử, nhiều con số đã được diễn giải sai lạc, tùy tiện. Đã hẳn, tác giả hơn ai hết, sống trong lòng chế độ đó phải nắm rõ những khó khăn ấy? Phải viết sao, viết thế nào, viết cái gì và không nên viết cái gì củng thật không dễ cho tác giả. Nhà báo Bùi Tín cho rằng tác giả Huy Đức mới chỉ đạt được 1/3% sự thật là một đánh giá không sai. Mặc dầu còn thấp!! Ánh sáng sự thật nào có thể có sức soi sáng đủ bức màn u tối đó? Trăm điều thì 99 điều dối trá, ngàn điều tuyên truyền!!, 10 năm, hai mươi năm đến 30, 40 năm vẩn tiếp tục bôi xóa lịch sử của một thứ Sử phi sử. Sau này ai sẽ là người có lòng và tầm mức để viết lại sự việc. Phải chăng đó là trường hợp nhà báo Huy Đức? Nhiều sự kiện được trình bày lại phần lớn dựa trên tài liệu, báo chí trong nước-nhất là nhật báo mang tính cách thông tin cập nhật, nhiều sự kiện không kiểm chứng được- hay thông qua các cuộc phỏng vấn các người lãnh đạo- dễ mang tính đồng phục nói theo bài bản. Đến nỗi càng phỏng vấn nhiều nhân vật, có thể càng kéo sự thật ra xa. Dĩ nhiên trong số những người ấy- trong một chừng mực nhất định- nhiều nhân vật có chỉ số khả tín cao như thủ tướng Võ Văn Kiệt, chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An, các nhà văn Nguyên Ngọc, ông Đoàn Duy Thành, Trần Quang Cơ, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Trọng Vĩnh, ông Vũ Kỳ hoặc các ông Lê Đăng Doanh, vv.. Cho nên nhà báo Huy Đức phải là người thế nào để có thể sàng lọc, vượt lên trên những thông tin một chiều, nhiều thông tin sai lạc này? Xem ra không dễ cho tác giả. Tôi chia sẻ hoàn cảnh viết của tác giả và xin nêu ra một số vấn đề cần bổ túc. Cái bổ túc theo nhận định của tôi là tác giả thiếu một viễn kiến chính trị về chế độ cộng sản cũng như bản chất thật của chế độ ấy nên dễ xa đà vào những chuyện có phần vặt vãnh và nhiều trích dẫn rất “ ngây thơ vô số tội”. Tác giả trích dẫn một số tài liệu mà tôi nghi ngại có thể có thái dộ “ ngụy tín”, mập mờ và gây hiểu lầm cho người đọc. Thật sự, khó có thể chấp nhận lối trích dẫn tài liệu như thế. Tỉ dụ, trong phần viết về Cải Tạo, tác giả trích dẫn một số các tác giả như Tạ Chí Đại Trường, Duyên Anh, Phan Nhật Nam cũng là tốt. Nhưng đồng thời cũng trích dẫn những bài báo đăng trên tờ Sài Gòn Giải Phóng và Tin Sáng nhằm tuyên truyền cho chính sách Học tập cải tạo như phần trích dẫn bài phỏng vấn bà “LQL” của Phan Bảo An. Phan Bảo An chính là Phan Xuân Huy, cựu dân biểu Đà Nẵng được coi như kẻ chạy cờ của một số tổ chức trước 1975 và chạy cờ sau 1975- về tù cải tạo chẳng hạn. Tin Sáng trích dẫn Như sau: “Không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè”. Bài báo kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều hòa và lành mạnh như em đã thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước” Người chồng có vợ được nêu tên trong sách của ông Huy Đức đã viết thư phản đối và được đăng trên báo Sài Gòn Nhỏ .. với lời phản biện của hai cựu sĩ quan là Lê Quang Liễn, và Nguyễn Văn Nghiêm. Tờ Sài Nhỏ, số ra ngày mồng 4 tháng một, năm 2013 với bài viết của Đào Nương” Bên thắng cuộc” cần gì nơi “ Bên thua cuộc” đã đăng tải hai lá thư của hai sĩ quan VNCH: Lê Quang Liễn và Nguyễn Văn Nghiêm phản bác ông Huy Đức vì trích đăng Phan Xuân Huy với lời lẽ xuyên tạc thô bỉ khi cho rằng: - Trại tù như một trại hè - Ca tụng về cuộc sống lành mạnh ở trại tù - Đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An … Bên thắng cuộc cần gí nơi “ Bên thua cuộc”, Đào Nương, Sài gòn nhỏ, số phát hành tại Montreal, số 282 Ông Huy Đức đã trả lời là ông Lê Quang Liễn đã hiểu lầm và hy vọng trong lần xuất bản sẽ bổ xung tư liệu. Lời trả lời của nhà báo Huy Đức khiến tôi thất vọng Ông cần minh bạch và rõ rệt hơn trong những trích dẫn như vậy . Để chứng minh sự tuyên truyền về sự nhân đạo của trại Học Tập cải tạo, tôi xin trích dẫn lá thư Lettre aux amis d’Occident, trong đó cũng nhóm người của Tin Sáng như Nguyễn Hữu Hiệp, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Trần Ngọc Liễng. Lá thư gửi những người bạn Âu Châu có đoạn như sau: “Không phải là những người tù khổ sai, cũng không phải là những người tù chính trị và những trung tâm này mà chúng tôi có đến thăm một vài nơi, không có giống chút nào với những trại tập trung . Ở đây, người ta học tập và làm việc . Người ta nghe đài radio và đọc báo. Những chuyến viếng thăm của gia đình, việc gửi thư và gửi quà được cho phép. Một phần lớn những người học cải tạo đã được trở về với đời sống bình thường . Dĩ nhiên, đối với gia đình và cá nhân những người ấy thì đây là một thử thách lớn lao . Nhưng sự tham gia vào xã hội mới có cái giá phải trả”. Vivre au Viet Nam, Alain Ruscio, Lettres aux amis d’Occident, trang 229-230 Tôi thiết nghĩ hơn ai hết, nhà báo Huy Đức phải hiểu văn phong và ngôn từ của người cộng sản trong trường hợp này phải hiểu thế nào về thực trạng nhà tù cải tạo!! Chỉ buồn là mấy người trí thức theo cộng sản vừa nêu tên ở trên đã chịu nhục để viết những lời dối trá như thế để bênh vực cho chế độ cộng sản! Thật tội nghiệp cho họ. Tội nghiệp lây cho cả những Trần Hữu Dũng, Nguyễn Mạnh Hùng khi giới thiệu cuốn sách này. Việc phỏng vấn một số nhỏ vài nhân vật miền Nam để cân bằng giá trị cuố sách là ngụy biện. Nó không tiêu biểu được 10%. Các cựu nhân vật của miền Nam trước 1975-do hoàn cảnh hạn chế của tác giả ở trong nước chẳng tiêu biểu gì cả. Những nhân vật ấy một số không nhỏ thuộc thành phần thứ ba chấp nhận ở lại trong nước- không mang tính tiêu biểu của miền Nam. Tôi đọc phần tài liệu sách vở mà nhiều người cho là quý giá, núi tài liệu, tôi không đồng ý cho lắm vì nó cỏn thiếu nhiều tài liệu quy chiếu vế phía các tác giả ngoại quốc. Xem ra vài người đọc và chính tác giả đã tỏ ra dễ dãi và bằng lòng với những tài liệu ấy. Nhiều vấn đề xảy ra sau 1975 đã không được viết một cách đầy đủ như: việc truy diệt có hệ thống giáo hội Thiên Chúa giáo và phật giáo rập khuôn những đường lối, chính sách đã làm khi tiếp thu miền Bắc năm 1954 đã làm. Việc Câu Lạc bộ những người kháng chiến. Việc thống nhất và việc dẹp bỏ MTDTGPMN vvv.. hay việc xé rào của ông Võ Văn Kiệt với sự cố vấn của nhóm được gọi là: Nhóm chiều thứ sáu. Về chính trị đối ngoại, họ đã bỏ lỡ cơ hội về vấn đề bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ thời TT. J. Carter và những cơ hội bị bỏ lỡ trong việc Hội nhập vào thế giới. Từ đó đã dẫn đưa đến sự cô lập VN trong suốt gần 20 năm. Việt Nam bị cô lập, bị cấm vận với các nước Tây Phương. Nếu khôn ngoan ra, Việt Nam rất có thể là một Nam Tư ở Châu Á sau 1975, không vất vả đi giây với Trung Quốc và Liên Xô và hướng đi ra biển Thái Bình Dương bắt tay với các cường quốc như Mỹ. Bắt tay dược với Mỹ rồi thì có thể làm ăn buôn bán với các nước vệ tinh lớn nhỏ như Nhật, Đại Hàn, Singapore và các láng giềng. Những vấn đề lớn có tính cách toàn diện liên quan đến số mệnh đất nước VN hình như chưa được nhà báo Huy Đức quan tâm cho đủ. Như dự định của riêng tôi, tôi sẽ viết đầy đủ về tình trạng các tôn giáo dưới chế độ cộng sản sau 1975- về Câu lạc bộ những người kháng chiến vv.Về tính chính danh của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai. Về sự tranh chấp quyền lực đi đến trù dập, bôi nhọ, vu cáo đến thanh toán nhau trong nội bộ đảng . Cho đến nay sau nửa thế kỷ, những vấn đề tôn giáo chính trị, mối tương quan chính quyền và tôn giáo vẫn chưa giải quyết xong, nhiều biện pháp gây căng thẳng, bất an mà các tôn giáo vẫn nhẫn nhục chịu đựng hết năm nay qua năm khác. Những âm mưu hiểm độc biến Giáo hội Phật giáo thành Giáo hội Quốc doanh năm 1981 vẫn bị che đậy cho đến bây giờ. Rồi vấn đề Câu lạc bộ người kháng chiến Nam Bộ đã gây bất mãn và hàng ngàn những cựu kháng chiến Nam bộ đã rũ áo lìa đảng. Rồi vấn đề giải thể MTGPMN-một tổ chức hữu danh vô thực được dựng lên và xóa bỏ ngay sau 30 tháng tư, 1975. Về phía các nhà văn có Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Ngô Ngọc Bôi, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Trung Tú, Hà Văn Thùy, Phùng Gia Lộc, Hoàng Hữu Cát, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Quang Lập. Rồi những tiếng nói của giới trí thức như Hà Sĩ Phu, Lê Ngọc Trà, Lại Thiên Ân, Bùi Tín, tướng Trần Độ, tướng Đặng Vũ Hiệp, Trần Xuân Bách, Nguyễ Hộ, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang ở đâu? Mặt khác, Hà Nội lại tìm cách đu giây với Hoa Kỳ khi bị Bắc Kinh làm khó dễ và nay với Nhật, Ấn Độ để có thêm bảo đảm vùng ảnh hưởng quân sự và chính trị, nhưng lại vẫn lo sợ mối đe dọa” diễn biến hòa bình” của Hoa Thịnh Đốn. Họ đành dứt khoát đặt vận mệnh đất nước chủ yếu làm sao giữ được nồi cơm của họ. Trình bầy sơ lược như trên cho thấy tầm nhìn của tác giả về một VN ngang tầm thế giới thu hẹp vào mấy lãnh đạo như cải cách vượt rào của một Võ Văn Kiệt được coi là sáng tạo tiến bộ, cởi mở !! Nhưng thực tế thì chỉ cần một chuyên viên kinh tế trước 1975 có thể tiến hành không mấy khó khăn những “phép lạ Hy Lạp “ ấy về kinh tế. Nay tác giả có dịp ở nước ngoài, có khả năng đọc ngoại ngử, tôi hy vọng với những tài liệu khá đầ đủ về phía Mỹ, tác giả có điều kiện sửa lại những sai lầm đáng nhẽ tránh được!! Tuy vậy, có những thông tin sai lầm theo tôi không thể chấp nhận được!! Giá trị cuốn sách giảm đi một nửa vì những thông tin này. Và tôi hy vọng phần xuất bản kế tiếp, nhà báo Huy Đức cần can đảm nhận những khuyết điểm này và sửa chữa lại. Tôi xin nêu ra hai trường hợp tài liệu làm điển hình. Khuyết điểm thứ nhất: Về sự có mặt của Bùi Tín ngày 30/4 tại Dinh Độc Lập Đây chỉ là một vấn đề rất nhỏ đối với ông Bùi Tín- sự kiện một nhà báo có mặt vào cái giờ phút lịch sử ấy. Nhỏ có thể đối với cá nhân ông Bùi Tín. Nhưng lại quá lớn đối với nhà nước cộng sản. Vì nó đụng chạm đến uy tín Đảng. Vì thế người ta cũng đành lòng bất chấp dư luận, bất chấp sự thật và xóa trắng sự có mặt của ông Bùi Tín. Thử hỏi những sự kiện lớn hơn thì cách hành xử của nhà nước cộng sản sẽ như thế nào? Không phải chỉ có một tài liệu đề cập đến biến cố 30-4 tại dinh Độc Lập có dính dáng đến ông Bùi Tín. Sách nào hễ đã viết cũng đề cập tới. Có nhiều và có rất nhiều! Chính cá nhân người viết bài này, tin vào thông tin của Stanley Karnow, tác giả Viet Nam, A History, tôi đã viết như sau trtong cuốn sách Lịch sử còn đó: “Ngồi trên một chiến xa vào dinh Độc Lập, ông Bùi Tín chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là một sĩ quan cao câp trong đơn vị, ông tiếp nhận sự đầu hàng này. Tôi chờ các ông từ sáng nay để trao quyền hành lại cho các ông. Đại tướng Minh đã nói như thế khi ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao quyền hành . Quyền hành của các ông còn đâ để mà giao. Ông không thể giao một cái mà ông không có .“ Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu nói sau đây: “Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại . Chỉ có người Mỹ là bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mầng, vì chiến tranh đã không còn nữa ttren6 quê hương chúng ta” – Stanley Karnow, Viet Nam, A History, trang 669. Và từ 30 năm nay, tôi vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện- dù chỉ một lần-.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 5:20:59 GMT 9
Nhưng hiện nay, ở trong nước coi nhà báo Bùi Tín là thành phần persona non grata nên cố tình gạt ông ra khỏi câu chuyện tiếp thu Dinh Độc Lập ngày 30 tháng tư. Câu nói lịch sử của Bùi Tín nay rơi vào cửa miệng ông chính ủy Tùng. Phải chờ đợi bao nhiêu lâu nữa để ông Chính ủy Tùng lên tiếng về việc này? Trong chương trình của WGBH- một chương trình mà tác giả có trích dẫn trong sách của ông- chương trình về Viet Nam History, có hai lần họ phỏng vấn Bùi Tín. Chẳng lẻ tác giả lại không đọc? Lần thứ nhất vào năm 1981, Bùi Tín trả lời các vấn đề liên quan đến chiến trận Điện Biên mà ông có tham dự ở sư đoàn 304, rồi Đường mòn Hồ Chí Minh, Tết Mậu Thân 1968, về Cải cách ruộng đất vvv.. Chương trình phỏng vấn Bùi Tín năm 1983 về sự kiện ông có mặt ở Dinh Độc Lập trong ngày 30/4/1975. Trong những tài liệu này, chúng ta được nghe từ chính cửa miệng của ông Bùi Tín khi trả lời phỏng vấn của chương trình truyền hình PBS television. Phỏng vấn Bùi Tín năm 1983 trong chương trình truyền hình tại Hà Nội đã xác định rõ điều đó. -Viet Nam television History, gồm 11 tập. A companion to the PBS Television Series. Phỏng vấn khá đầy đủ các nhân vật có vai trò lịch sử trong cuộc chiến từ mọi phía. Việc tìm hiểu cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, mặc dầu tập tài liệu còn giới hạn, không thể không đọc tập tài liệu này. Tải liệu thứ ba Cruel April của Olivier Todd. Ông vốn là một ký giả viết cho tờ Nouvel Observateur và thân cộng sản. Năm 1973, ông đã vào mật khu cộng sản, vùng Cà Mâu cùng với ký giả Ron Moreau. Khi trở về, ông đã hoàn toàn thất vọng về cái được gọi là “MTGPMN”, ông viết và trích dẫn câu nói của Bùi Tín: “My views of the war changed radically …I came back convinced that I’ d been wrong. “Minh gets the good-guy-bad-guy treatment. First, friendly: Colonel Bui Tin, normally a journalist, is the highest-ranking NVA officer present and must therefore receive the surrender.” You have nothing to fear, “ he says. Among Vietnamese, there are no victors and vanquished. Only the Americans have been conquered. If you are patriots, consider this a moment of joy. The war is ended foy our country”. Olivier Todd, Cruel april, The Fall of Sai gon, trang 376 Tài liệu thứ tư củaLarry Engelmann. Ông đã cung cấp cho chúng ta hai bức hình quý giá nhất- những bức hình cho thấy không chối cãi được về sự có mặt của Bùi Tín trong giờ phút đó. Bức thứ nhất chụp ông Bùi Tín đứng xoay lưng, đội mũ, tay áo sắn lên quá cùi chỏ, tay trái đeo đồng hồ và cầm một xấp giấy- đối diện ông Bùi Tín là ông Dương Văn Minh, mặc áo đen cùng với Vũ Văn mẫu. Hình thứ hai, ông Bùi Tín cùng với ba đồng đội chụp hình trên nóc dinh Độc Lập, người ta nhận ra ông dễ dàng vì tay trái đeo đồng hồ trong khi những người khác không ai có đồng hồ, tay ông sách một cái cặp. Những bức hình này cho tôi tin chắc là ông Bùi Tín có mặt ở Dinh Độc Lập ngay từ lúc đầu. Larry Angelmann, Tears before the rain: An oral History of the Fall of South Viet Nam, trang hình tài liệu. Cũng trong cuốn sách của Angelmann, có chương XVIII, dành cho những kẻ thắng trận có tên Bùi Tín, tướng Trần Công Mân, ông Trần Bạch Đằng, Nguyễn Son.Trong đó, ông Bùi Tín cho hay năm 1975, ông vào miền Nam cùng với tướng Văn Tiến Dũng với tư cách một nhà báo. Ông cùng với ba chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập. Và sau đây lập lại nguyên văn câu nói của ông mà hầu như bản thân tôi đã thuộc lòng: “I have been waiting since early this morning to transfer power to you”. He said. And, of course, I said the now-famous line “There is no question of your transferring power. Your power has crumbled. You have nothing in your hands to surrender and so you cannot surrender what you do not posses”. Larry Angelmann, Ibid, trang299-300.. Phần tôi, nếu ông Huy Đức không làm rõ vấn đề này thì những lời lẽ trân trọng của tôi khi viết về ông xin được rút lại và xin rút lại cả bài viết này, vì nó không đáng để tôi khổ nhọc đọc và viết!! Cuối cùng, xin trưng dẫn một nhân chứng có mặt trong sáng ngày 30 tháng tư, tại Dinh Độc Lập. Dân biểu Đối lập Lý Quý Chung, tổng trưởng thông tin trong chính phủ 48 giờ Dương Văn Minh. Ông Lý Quý Chung viết có một số chi tiết không nhắc tới ông Bùi Tín, ở vào tình thế lúc đó, biết rõ những ai ở phía bên kia hẳn cũng không phải là dễ: “.Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng v.v… Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá sung sướng thấy cuộc chiến tranh kéo dài triền miên trên quê hương mình đã kết thúc. Tính cả thời Pháp đô hộ là 117 năm! Nhưng trong nước mắt ấy có cả những giọt xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng! Dù rằng tôi cũng đã sẵn sàng tinh thần để chấp nhận tình thế này, nhưng khi nó diễn ra, lòng vẫn không thể không nhói đau! Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại Dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ trên sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và trung tá cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn. Trước ống kính của truyền hình Nhật, chúng tôi cùng tái hiện lại những diễn tiến tại Dinh Độc Lập 15 năm về trước: …Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: “Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh”. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ Giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: đi thang máy chung với một người bộ đội. Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Trước đây tôi có vào Dinh Độc Lập nhiều lần nhưng chưa bao giờ lên đến sân thượng. Bước ra khỏi thang máy, tôi nhìn thấy ngay khu vườn hoa của bà Nguyễn Văn Thiệu mà có lần bà đã than phiền tướng Kỳ, lúc còn làm phó tổng thống, đã làm hư hại nó do mỗi ngày tướng Kỳ đi làm đều đáp trực thăng riêng xuống đây. Thời điểm đó, văn phòng của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ còn đặt chung trong Dinh Độc Lập. Cách thang máy không xa, ở phía trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình. Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi. Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc Dinh Độc Lập – cột cờ chính thức của Dinh – còn thấy xuất hiện hai hay ba chiến sĩ bộ đội đứng phất cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác cũng nhận là mình đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ. …Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải Dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: “Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng”. Ông Minh trả lời rằng sáng này ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”. Lúc này trong những người chứng kiến cuộc đối thoại, có một người mặc thường phục đứng bên cạnh kỹ sư Tô Văn Cang – một trí thức Sài Gòn có quan hệ với Mặt Trận. Người mặc thường phục tự giới thiệu mình là người hoạt động cách mạng nội thành và nói với viên chỉ huy bộ đội: “Ông Minh là người hoạt động cho hòa giải hòa hợp dân tộc. Anh nên đối xử nhẹ nhàng với ông”. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên chính thức của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Tôi chuẩn bị bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng anh Thạch Phen gọi tôi lại. Anh Thạch Phen trả cho tôi cái cặp da tôi đã nhờ anh cầm giùm lúc nãy. Anh Phen tưởng tôi quên. Thật sự tôi vẫn nhớ nhưng tôi thấy chẳng cần thiết phải lấy lại. Trong cặp là toàn bộ số tiền tôi đã lãnh một ngày trước đó ở Hạ nghị viện trước khi toà nhà lập pháp này đóng cửa. Trong những ngày cuối cùng, chủ tịch Hạ nghị viện đã ký rút ra gần hết số tiền thuộc ngân sách của Hạ nghị viện và ứng trước tiền phụ cấp và đủ các thứ tiền khác thành một cục phát cho tất cả các dân biểu. Tôi nhớ số tiền đó hình như tương đương cả 7-8 chục triệu tiền bây giờ. Phụ cấp hàng tháng của một dân biểu nghị sĩ lúc đó là rất cao trong xã hội. Tôi định bỏ luôn cái cặp vì nghĩ tiền của chế độ Sài Gòn sẽ không còn xài nữa. Tôi miễn cưỡng lấy lại cái cặp trên tay dân biểu Thạch Phen. Trước khi rời Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: “Vợ tôi vẫn đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm”. Viên chỉ huy đáp “Anh hãy an tâm”. Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến Đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe Jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và ông Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi “Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại”. Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ. Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 13 giờ 30. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Vào lúc 17 giờ 30, luật sư Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống Sài Gòn trở vào Dinh Độc Lập trình diện. Ông Huyền đã rời Dinh Độc Lập nửa giờ trước khi quân đội giải phóng vào Dinh. Đài phát thanh Sài Gòn nằm ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Cổng chính lúc đó mở ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ra khỏi đài, tôi rẽ qua đường Phan Đình Phùng, đi bộ ngược về hướng trung tâm thành phố vì tôi không còn xe riêng, taxi cũng không có. Dáo dác tìm “Honda ôm” cũng không ra. Một tay cầm áo vét và một tay xách cái cặp da đầy “giấy lộn” (trong đầu tôi vẫn nghĩ thế) chẳng biết vứt đi đâu. Trong đầu tôi rất lộn xộn: mừng vui lẫn buồn tủi. Cái hình ảnh được anh em ôm lấy và hô lên “Mình thắng rồi” nhưng trong tư thế hai tay giơ cao đầu hàng vẫn quay tới quay lui trong đầu”. Lý Quý Chung, Hồi ký không tên, Talawas.org Xin lưu ý bạn đọc, cuốn Hồi ký không tên của Lý Quý Chung được phép xuất bản và in ở trong nước năm 2005- thời gian mà ông Bùi Tín đã trốn được ra nước ngoài. Tôi đã có viêt một bài nhan đề: Hồi ký của im lặng . Vì tôi thấy cuốn Hồi ký bị quý ông Trần Bạch Đằng cắt xén nhiều quá!! Nhưng tôi không có điều kiện chắc chắn xem đoạn văn viết về Dinh Độc lập có bị cắt xén không. Trên đây là tất cả những tài liệu về việc tiếp thu Dinh Độc Lập mà từ trước đến nay không ai phủ nhận vai trò của ông Bùi Tín. Tôi thấy bất nhẩn khi trong sách của ông Huy Đức bỏ quên và không nhắc tới. Trong khi đó nhà báo Huy Đức đã trình bầy rất chi tiết về trường hợp của các sĩ quan như Bùi Văn Tùng, Phạm Xuân Thệ, Bùi Quang Thận, Nguyễn Tất Tài. Theo đó cũng đã xảy ra những tranh chấp giữa Bùi Quang Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ về chuyện cờ quạt. Ông cũng đã nhắc tới buổi “ Tọa đàm khoa học xung quanh quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975” tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19-10-2005. Một sự việc như thế có hằng 40,50 chục nhân chứng mà nay phải mở buổi tọa đàm cho thấy sự kiện nào cũng bị bóp nặn! Ông cũng đã nhắc tới trường hợp những ông Nguyễn Nhã, Nguyễn Hữu Thái như những nhân chứng khác. Tôi mong muốn là nhà báo Huy Đức cần lên tiếng về sự có mặt hay không mặt của ông Bùi Tín trong ngày 30-4. Trong trường hợp ông giữ im lặng thì liệu những lời giới thiệu trân trọng coi cuốn sách là chứa đựng nhiều tài liệu nhất từ trước tới bây giờ, một “ kho tàng quý báu” nay làm quy chiếu cho những nhà nghiên cứu sau này có phải là những lời phô trương quá đáng hay không!! Về phía ông Bùi Tín, tôi đã liên lạc và ông Bùi Tín đã lên tiếng. Ông BT xác nhận lại một lần nữa và sau đây xin phép ông BT trích lại nguyên văn: K/Gui anh Ng V LUC, Cam ơn anh đã có email hỏi vê Bên Thang Cuoc. Cuốn sách công phu, nhưng do người viết không trực tiếp sống trong cuộc, chỉ nghe lại, gián tiếp, người khác kể, nên sơ xuất không ít. Riêng về tôi, tôi không muốn cải chính gì vì không cần không đáng, chỉ là chi tiết. Tôi không quan tâm chuyện cá nhân nữa. Nay là chuyện trước mắt, tương lai của dân tộc mới đáng kể. 30/4/75 tôi đã kể quá nhiều rồi, quá đủ rồi, tôi kể với café, với đàn chim Việt, với RFI, RFA và BBC, VOA rồi. Tôi vừa trả lời 1 bạn trẻ ở Canada, xin gui anh tham khảo Chuc anh luôn mạnh Bui tin From: Lienbat@aol.com To: phamthe@hotmail.ca, vinhxbui@gmail.com CC: basamvn@gmail.com, lienlacdanlambao@gmail.com, macviethong@yahoo.com Sent: 31/12/2012 20:19:24 Paris, Madrid Subj: Anh Pham The than Anh Thê thân, tôi rât mừng nhận được email của bạn. Tôi không còn quan tâm đến chuyện cá nhân. Trong chiến tranh hàng triệu người chết, mình được may sống sót, tôi cũng thoát chết 4 lần, chỉ trong gang tấc, nên tôi luôn nghĩ đến công ơn của các đồng đội không còn; Mà phần lớn lại là những người dũng cảm, có ý chí nhất, xả thân nhất, chất bơ trong thanh niên thời đại. Tôi cho tranh dành công lao là đáng hổ thẹn; Huống gì ngày hôm đó Trung tá Bùi văn Tùng dục tôi vào gặp, tôi không nhận, vì tôi không được trên giao việc ấy, và tôi bận ngồi ở bàn giấy chính của tổng thống để viết bài báo gửi gấp về HàNội. Bài báo mở đầu là : Tôi viết bài báo này trên tầng 2 dinh độc lập. Viết xong cả 2 trung tá Nguyễn Văn Hân trưởng ban bảo vệ Quân đoàn 2 và Trung tá Bui Văn Tùng chính ủy lữ doàn 2 xe tăng lại mời tôi vào chính thức gặp họ, vì cả 2 cho rằng phải có sỹ quan cao cấp – từ thượng tá hay đại tá trở lên nếu chưa có ông tướng nào vào kịp, thì cuộc nhận đầu hàng mới có giá trị. Lúc ấy họ đã ở đài phát thanh về.lại trong phòng khách. Lúc ấy tôi mang quân hàm thượng tá. Viết xong bài tôi nhận vào; Trung tá Hân báo trước : Các vị chú ý một sỹ quan cao cấp vào gặp các vị. Tôi vào, còn nói 1 chiến sỹ cầm AK đứng ngoài cửa, không nên vào. Khi ông DV Minh nói :Chúng tôi chờ quý ông từ sáng đặng chuển giao chính quyền, thì tôi nói ngay : Chính quyền quý ông đã sụp đổ, không thể giao cái gì không còn trong tay. Sau đó thấy họ buồn tôi nói ngay: hôm nay là ngày vui, chiến tranh chấm dứt, ai có lòng yêu nước cũng có thể coi ngày hôm nay là ngày vui của dất nước. Chỉ có người Mỹ là thua, toàn dân tộc vN ta thắng… Sau đó tôi hỏi chuyện ông Minh và ông Mẫu – ông Minh về 1 ngày chơi mấy xet tennis, collection hoa phong lan bao nhiêu rồi… cho bình thường không khí. Ngay sau đó ông phó thủ tướng Ng V Hảo mời tôi gặp riêng chính thức bàn giao về nguyên tắc 16 tấn vàng sau khi ông Hảo xin ý kiến ông Minh rồi ông Mẫu..Ngày 2-5 một IL 18 vào kiểm tra, nhận số vàng đó , do tôi điện ngay bằng morse trại Davis cho thiếu tương Lê Quang Đạo phó chủ nhiệm Tông cục chính trị, là chef của tôi. Sau này tôi có gặp nhiều lần anh Bui v Tùng, gặp cả vợ và em gái vợ trong đoàn văn công qk5. Anh Tùng bị gán cho những lời nguyên si của tôi. Tôi không giận, không buồn cải chính, vì tôi cho là cãi cọ đôi co về chuyện cá nhân này đáng xấu hổ lắm.Có thể do Bộ Quoc Phong và ban Tuyên huân muốn sửa lại lịch sử vì họ cho là tôi đã “phản bội ” chống đối họ. Tôi không bao giờ phản dân, tôi phản đối kẻ phản dân. Tất cả lời tôi gặp nội các DVMinh tổ làm phim QGPhong ghi và quay đầy đủ, trong bộ phim Hừng đông trên thành phố SàiGòn. Anh Huy Đức có thể tìm hiểu nếu muốn. Có mấy bức ảnh rút ra từ bộ phim ấy. Sau này tôi còn gặp ông Mẫu 3 lần ở Sài Gòn, gặp ông Minh và bà cụ ông Minh đến 5 lần, còn đánh tennis voi ông ấy. và nhắc lại những kỷ niệm 30-4. Nay còn ông Hảo có thể còn nhớ rõ. Tôi gưi email này cho các anh Vinh, Dân, ở mang basam,danlambao nhờ các anh chuyển cho anh Huy Đức. Tôi không trách anh HĐ vì anh ấy không có mặt, chỉ lượm lặt, thu nhặt, gián tiếp, so sánh, theo lời kể, với những động cơ khác nhau , nên có lầm lẫn là bình thường.Huy Đưc dám làm việc lớn là đáng khen, đáng phục rồi. Cũng nhờ cô Mạc Việt Hồng lưu giữ giúp nhé. Tôi cho tất cả là quá khứ, quan trọng là tương lai tự do dân chủ của toàn dân. Chào bạn Pham The nhé. Hẹn gặp dịp Têt này. Rat quy mến Bui tin (Trích thư liên lạc với nhà báo Bùi Tín) Đọc xong hai lá thư của ông Bùi Tín, tôi thấy lòng mình nhẹ đi bởi vì sự thật đã được trả về cho lịch sử. Và tôi nghĩ rằng những thông tin sai lầm như trên khi được phát hiện sẽ là những thiếu sót lớn nhất sát hại tác phẩm và tác giả. Khuyết Điểm thứ hai: Trận Điện Biên Phủ trên không Đã có rất nhiều những bài báo, những nhân chứng ở Hà Nội viết về cuộc dội bom B.52 này. Người viết trân trọng những tâm tình và những mất mát gây ra trong 12 ngày đêm của người dân Hà Nội. Nhưng điều mà mọi người dù là nạn nhân, dù là nhân chứng cần phải có là lòng Tự Trọng. Chúng ta không cần nói thêm, không cần nói quá mà nói đúng sự thật. Những điều trích dẫn sau đây cho thấy chúng ta đã không làm được điều đó. Thay đổi một vài con số có đáng gì, có thay đổi được diện mạo cuộc chiến tranh không? Cái bệnh thiếu lòng tự trọng, tôi thấy được ngay cả nơi những vị tướng như Võ Nguyên Giáp khi ông bá cáo về những tổn thất trong trận Điện Biên Phủ và nhất là trận Vĩnh Phúc Yên. Trận mạc thì có thắng có thua, không lẽ trận nào ta cũng thắng? Trong trận Vĩnh Phúc Yên, binh lính của tướng Võ Nguyên Giáp như những cây đuốc sống chết vì bom Napalm lần đầu tiên được sử dụng. Thật kinh hoàng. Vậy mà xem ra vị đại tướng không thấy được sự kinh hoàng đó. Indochine 1951, La bataille de Vinh Yen (Premiere victoire du Général De Lattre De Tassigny en Indochine. Sẽ trình bày chi tiết khi viết về tướng Võ Nguyên Giáp Và sau đây là trích dẫn tài liệu của tác giả về 12 ngày đêm Mỹ bỏ bom Hà nội. Tác giả Huy Đức viết: « Đêm 28-12-1972, Tướng Giáp duyệt bản Thông cáo Chiến thắng do Cục Tuyên huấn dự thảo, theo đó: “Chỉ trong 12 ngày đêm, quân và dân ta đã bắn rơi 77 máy bay hiện đại, trong đó có 33 máy bay B52; 5 F111; 24 phản lực; 3 máy bay trinh sát; 1 máy bay lên thẳng; tiêu diệt và bắt sống hàng trăm giặc lái Mỹ ». Sáng 29-12-1972, các đài báo cho phát bản Thông cáo nói trên và Báo Quân Đội Nhân Dân đăng xã luận gọi “chiến công vĩ đại” này là “trận Điện Biên Phủ trên không”. Tác giả Huy Đức đã ghi chép tỉ mỉ diễn biến 12 ngày đêm Mỹ bỏ bom Hà Nội. Cái sai lầm là những con số. Cái sai lầm là coi đó là một chiến công vĩ đại. Khi Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội thì mục đích chính là ép Hà Nội quay lại bàn Hội Nghị. Ngày 13 tháng 12, Lê Đức Thọ quay trở về Hà Nội và Hội đàm Ba Lê phải ngừng lại. Chính vì lý do đó, Nixon quyết định cho bỏ bom Hànoi. Trong hồi ký của Nixon có ghi rõ 16 mục tiêu ở Hà nội và 13 ở Hải Phòng nhằm: các phương tiện giao thông vận tải, các trung tâm truyền tin và đài phát thanh Hà Nội cũng như cảng biển. Mémoires Richard Nixon, trang 534 ! « Le 14 décembre, je donnai l’ordre, qui devait etre éxécuté trois jours plus tard, de procéder à de nouvelles poses de mines à Hai phong, de reprendre les reconnaissances aériennes, et les raids be B.52 sur des objectifs militaires à Hanoi et Haiphong. Thật vậy, với chừng đó chuyến bom xuất kích, chừng đó bom đạn, liệu thành phố Hà Nội còn có thể có một ngôi nhà còn đứng vững? Thay vì chỉ có 1600 nạn nhân, con số có thể lên tới vài trăm ngàn người? Trong cuốn sách mới được xuất bản nhan đề «Đối mặt với B.52 ghi nhận con số nạn nhân không phải 1600 mà nay là 2380. Khi coi cuốn film, Điện Biên Phủ trên không, nhạc sĩ Tô Hải đã chế diễu một cách chí lý: lúc ấy muốn được an toàn, thay vì sơ tán, cứ ngồi lại ở Hà Nội là an toàn nhất!! Xin nhắc lại là trước khi đạt được Hiệp định Ba Lê, cộng sản Bắc Việt đã chịu đựng một trận mưa bom trên bầu trời Bắc Việt trong suốt 12 ngày đêm dịp lễ giáng sinh năm 1973. Hà Nội đã kịp cho sơ tán 1/3% dân chúng Hà Nội ra khỏi thành phố . Hơn 700 lượt xuất kích của máy bay chiến lược B.52 cuối cùng chỉ gây thiệt hại số người thương vong vào khoảng 1600. Gia đình chị Nguyễn Thị Đức, theo Ha Nội archives cho thấy có cả thảy 7 người chết. Lòng căm thù dấy lên về sự tàn ác này. Theo ông Nguyễn Cơ Thạch, sau đợt tấn kích này, hai bên lại họp lại và Kissinget đã ngỏ lời xin lỗi và cho biết ông không tham dự vào quyết định này của TT Nixon và cũng không thể thay đổi được quyết định này. Lê Đức Thọ trả lời mọi người Mỹ trách nhiệm về sự tàn khốc này như một cách diệt chủng !! Cho đến nay, Hà Nội đang ăn mừng 12 ngày đêm « Điện Biên Phủ trên không ». Đây chỉ là dịp khoe khoang. Họ đã cho trình chiếu phim tài liệu: 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không ..Họ khoe thành tích bắn rơi 35 máy bay B.52. Xem phim truyền hình của Hà Nội hiện đang chiếu lại nhiều lần để kỷ niệm 40 năm trận «Điện Biên Phủ trên không». Nhưng tài liệu ngoại quốc cho hay, B.52 xuất trận khoảng 700 lần và chỉ có 15 B.52 bị bắn hạ. - Trích Les 1001 batailles, trang 926. Tác giả Huy Đức đưa ra con số 33 máy bay. Tài liệu phim của Hà Nội đưa ra con số 35 máy bay và người Mỹ đưa ra con số 15 máy bay thì trong ba số đó có hai số ảo, số phịa. Tôi vẫn tự hỏi có cần phải viết phịa ra như thế không? Để làm gì? Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên Hằng cũng đưa con số 15 máy bay cho hay: “Binh, on the other hand, prefers to remember the powerful effect of people’s diplomacy at this juncture in the war. With 27 U.S. aircraft shot down, including 15 B-52s (the North Vietnamese claimed 81 aircraft shot down, including 34B-52s), 44 captured American pilots (one of whom died in captivity) and another 42 killed or missing in action, not to mention the damages wrought on North Viet Nam, including more than 2,000 civilians killed and more than 1,500 wounded, public outrage forced Nixon to end the bombing campaign and his approval ratings plummeted”. Lien Hang T. Nguyen, Hanoi’s war, trang 296 Thật khó kiếm ra điều gì mà người cộng sản nói đúng sự thật. Hỉnh như trong thuật ngữ của người cộng sản không có từ Sự Thật Tôi cũng chịu khó ngồi đọc cuốn sách nhan đề: Bắn rơi tại chỗ máy bay B.52 do các vị như trung tướng Bằng Giang, thiếu tướng Phùng Thế Tài, thiếu tướng Hoàng Phương, Đại tá Văn Giang, đại tá Vũ Trọng Cảnh, đại tá Văn Duy, thượng tá Đặng Tuất. Tôi xin được trích dẫn trường hợp đại úy phi công Phạm Tuân như sau: Trên bản đồ, những vệt chì đen ngoằn ngòe bao lấy tốp 14. Một tốp tiêm kích địch đang chặn đường bay của Phạm Tuân. Đài M kịp thời cải hướng bay: -702 !Tốc độ. Hướng… Thực hiện đúng phương án chiến đấu và ý kiến thống nhất trong sở chỉ huy truyền đi, Tuân bí mật vượt qua bọn tiêm kích khống chế khu vực để tiến vào mục tiêu chính. Một lát sau, Phạm Tuân bá cáo: - Hồng Hà! 702 đã thấy mây đen. - Sở chỉ huy nhắc: - 702! Chú ý phân biệt mây đen và sương mù. - TiếngTuân bình tĩnh: - Hồng Hà! 702 thấy rõ ba tốp mây đen. - Đúng là PhạmTuân đã phát hiện được B.52 trong cái mớ hỗn độn các loại máy bay địch trên bầu trời đêm nênh mông. Đồng chí Phạm Tuân đang chiếm ưu thế về độ cao và tốc độ. Thời cơ rất thuận lợi. Chúng tôi trao đổi vài câu ngắn. Đồng chí Trần Hanh ra lệnh tiếp: - -702! tăng lực! - Đồng chí sĩ quan dẫn đường liên tiếp thông báo cho Phạm Tuân: - 702! Mây đen, phía trước 12 kilô mét… 6 kilô mét.. - Máy bay ta đang đè lên đầu lũ tiêm kích hộ vệ, lao thẳng tới “siêu pháo đài bay” . - Bỗng tiếng đồng chí Phạm Tuân vang lên: - Hồng Hà! 702 xin phép được công kích! - Giây phút quyết định của trận đánh đã đến. Đồng chí Trần Hanh ung dung bóp công tắc ống nói. Giọng anh đĩnh đạc, rắn rỏi, nhưng không dấu được vẻ xúc động: - 702! Cho phép công kích ! Theo đúng phương án. - Nghe rõ! Tiếng Tuân đáp lại kiên quyết. - Sau vài giây, sở chỉ huy ra–đa thông báo: Tín hiệu tốp địch 14 đã bị xóa trên màn hiện sóng. Các tốp địch đã vòng”(11) Bắn rơi tại chỗ máy bay B.52, Hồi ký, trang 331-332 nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội- 1978 Để bổ túc thêm những chiến tích về việc bắn hạ máy bay chiến lược B.52 năm 1973, xin được trích dẫn về việc quân đội nhân dân tỉnh Quảng Bình, ngay từ năm 1959 đã tiêu hủy hai hàng không mẫu hạm của Mỹ như thế nào. Thực hiện chủ trương chiến lược nói trên, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập Đoàn 559 với nhiệm vụ “Mở đường giao liên, mở đường vận tải quân sự, để chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam”.
Trich trên dcvonline. Net Đây là một việc bịa đặt trắng trợn đến ngu xuẩn. Mỹ chỉ có 11 Hàng không mẫu hạm mà bị bắn chìm hai!! Câu hỏi đặt ra ở đây là có bao nhiêu phần trích dẫn tài liệu trong cuốn sách của nhà báo Huy Đức là đáng tin cậy? Để chấm dứt phần tài liệu về máy bay B.52 này, xin trích dẫn quan điểm của Nguyễn Kỳ Phong, một chuyên viên về quân sự của Mỹ viết: «Với kết quả đắc cử trong tay, ngày 14 thang 12, 1972, Nixon quyết định cho Hà Nội thấy họ không có lựa chọn nào khác. Đi ngược lại những cố vấn quân sự của Bộ trưởng Quốc phòng Laird, ban tham mưu liên quân và tư lệnh Thái Bình Dương, ngày 17-12, Nixon ra lệnh khai triển cuộc hành quân không lực Linebacker II tiếp theo. Trong ba ngày đầu dội bom, hỏa tiễn địa không của Bắc Việt bắn rớt 14B.52. Khi thấy Ban tham mưu liên quân và bộ tư lệnh Thái Bình Dương nao núng, Nixon ra lệnh cho đô đốc Moorer tiếp tục cường độ oanh tạc và bắt vị tham mưu trưởng liên quân này phải đích thân chịu trách nhiệm về kết quả của chiến dịch oanh tạc. Sau mười một ngày dội bom, hơn một ngàn phi vụ chiến thuật và 770 phi vụ chiến lược B-52, Lê Đức Thọ xin trở lại bàn hội nghị lần cuối «. Nguyễn Kỳ Phong, Vũng lầy của Bạc Ốc, trang 396-397 Phần tôi, tôi chỉ muốn nhắc họ ý kiến của ông Võ Văn Kiệt: “Theo cách mà chúng ta đang làm để kỷ niệm những ngày lịch sử hiện nay, tôi e rằng chúng ta đang lại lặp lại những gì mà chúng ta đã làm trước đó. Lịch sử cũng như cuộc sống, cái đúng cái sai nói một lần người ta hiểu; nói hai ba lần người ta im lặng; nhắc lại quá mức cần thiết thì có thể gây ra sự phản cảm. Trong khi đó theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao nhiêu điều cần nói, biết bao việc cần làm” Những đòi hỏi mới của thời cuộc. Võ Văn Kiệt Ibid Trong khi Hànoi tưng bừng kỷ niệm 40 năm Trận Điện Biên Phủ trên không thì có một người không mừng mà người cộng sản cố tình quên. Tôi chỉ cần đưa ra một câu chuyện, đúng ra là một bản tin thời sự- giống như một tin tức vụn vặt đến không đáng nói tới-. Vậy mà nó đủ để phá vỡ những điều mà người cộng sản đang rêu rao những ngày gần đây, bất kể sự thật. Đó là câu chuyện Jane Fonda còn được gọi một cách thân mật là Hanoi Jane đã từng cùng với Jean Baez cất tiếng hát trong hầm trú ẩn tại khách sạn Métropole. Trong cái căn hầm ấy, ngày nay, người ta còn nhìn thấy tấm bảng đồng ghi lại kỷ niệm của Jean Baez với bài hát của cô: Where are you now my son. Người ta đã vinh danh hết lời những người Mỹ phản chiến được đại diện vởi hai ca sĩ, nghệ sĩ trên. Họ gọi đó là những người nghệ sĩ . Quá là đẹp. Quá là lãng mạn chính trị. Nhưng sự thật cho thấy đã có thay đổi. Jane Fonda thập niên 1970 không phải Jane Fonda năm 2012. Mới đây không lâu, tôi đọc được một bài phỏng vấn Jane Fonda, trên tờ Paris Match có dành một câu hỏi chót của ký giả Dany Jucaud như sau: - Cuối cùng, xin hỏi bà một câu, điều gì làm bà hối tiếc trong cuộc đời của bà? -Tôi đã không ứng xử như một người mẹ mẫu mực. Tôi đã cố vớt vát lại điều đó với các cháu của tôi. Điều thứ hai, vâng là khi tôi ở Hà Nội, năm 1972 .. Tôi đã để cho người ta chụp hình, tươi cười, ngồi trên một dàn phóng hỏa tiễn nhằm đến các binh sĩ Mỹ mà không hiểu rõ điều tôi đã làm …Tôi đã trả giá rất đắt về bức hình đó và người ta bây giờ vẫn còn trách móc tôi. Cho đến khi chết, tôi vẫn còn hối hận vì đã chụp bức hình đó. Trả lời phỏng vấn của Jane Fonda, Paris Match, số 3268, tháng giêng 2012 Câu trả lời của Jane Fonda- như một lời thú tội nói thay cho nhiều người, trong đó có lãnh đạo của Mỹ, thanh niên phản chiến Mỹ, cũng như mốt số thành phần trí thức thiên tả- những thành phần trí thức tả khuynh trong những vận động tôn giáo, chính trị, xã hội của miền Nam VN trước 1975. Tất cả đã phải trả giá đắt trong cuộc chiến này. Trong đó có cái giá phải trả cho sự bị lừa dối. Riêng dân miền Nam trả giá cho những bất cập và những toan tính và chính sách của người Mỹ trước 1975 .. Sau 1975, trả giá cho những hệ lụy đủ loại với người cộng sản. Trong cuộc chiến tranh vừa qua, có điều gì người cộng sản đã nói thật? Khuyết điểm thứ ba: Quá chi tiết mà quên cái đại thể Cái lẽ nữa là tác giả đi vào nhiều chi tiết có tính thời sự lan man, dẫn đưa vào những tình tiết- dù sống động- dù lôi kéo người đọc- Nhưng lại không đưa ra được mục đích và bản chất các cuộc chiến tranh ấy cũng như những sai lầm ý thức hệ trong việc quản lý đất nước sau 1975. Tôi có cảm tưởng tác giả dễ dãi hoặc tham lam khi trích dẫn tài liệu. Việc nói rất dông dài về cuộc đời tư và đời công của ông Võ Văn Kiệt đã chiếm ngự hầu như toàn bộ cuốn sách. Bóng dáng ông Kiệt như bao trùm tác phẩm mà thực sự chỗ ấy phải dành cho vai trò TBT. Lê Duẩn mới đúng. Đáng nhẽ, tác giả nên viêt hẳn một cuốn sách để viết về ông Võ Văn Kiệt thì hay hơn. Vai trò TBT Lê Duẩn chưa được trình bầy đầy đủ nếu không nói là thiếu sót.- Mặc dầu có chương dành cho TBT Lê Duẩn-. Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên Hằng đã dành hầu như cả cuốn sách của bà: Hanoi’s war để nói về những tranh chấp nội bộ Trung ương Đảng- đặc biệt tranh chấp giữa Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn. Trong một dịp trả lời phỏng vấn của đài VOA, Bà Nguyễn Thị Liên Hang nói: «Khi bắt đầu cuộc nghiên cứu, tôi lấy làm sửng sốt về những gì mà tôi khám phá được, những điều chúng ta vẫn chấp nhận là sự thực khi được học về chiến tranh Việt Nam trên đất Mỹ…Tôi phát hiện ra rằng có nhiều điều hoàn toàn sai sự thực. Chẳng hạn, một điều đơn giản là từ hồi nào tới giờ, tôi được học rằng ông Hồ Chí Minh là người lãnh đạo Bắc Việt Nam, rằng ông là vị lãnh tụ hướng dẫn cuộc cách mạng và là người làm quyết định… nhưng trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận ra rằng trên thực tế, người làm các quyết định quan trọng, lãnh đạo miền Bắc là một nhân vật khác ít tiếng tăm hơn trên trường quốc tế, đó là Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn. Tôi có thể lập luận rằng chính ông Lê Duẩn mới là người lãnh đạo miền Bắc.” Vẫn theo Giáo sư Liên Hằng thì cùng với cánh tay mặt của ông, là ông Lê Đức Thọ, ông Lê Duẩn cai trị chế độ miền Bắc với một bàn tay sắt, và coi ông HCM và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một người hùng cách mạng khác, là những đối thủ, là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền hạn của ông ở Hà Nội. Chính ông Lê Duẩn đã gạt ông Hồ Chí Minh và Tướng Giáp cùng với các ủng hộ viên sang một bên, trong khi làm hầu hết các quyết định quan trọng nhất trong cuộc chiến”. VOA phỏng vấn giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng Trong cuốn sách của bà NTLH, bà cũng đưa ra nhận xét như sau: “Altrhough the General offensive and General Uprising was a risky strategy with litlle chance of success, Le Duan forged ahead and cut down his detractors (foremost among them Ho Chi Minh and Vo Nguyen Giap) by launching the largest purge in Party History, one that remains relatively unknown.With the sussessful conclusion of the Revisionist Anty-Party Affair and the passage of the General Offensive and General Uprising resolution by early 1968, Le Duan could look forward to reaping the fruits of his labor in the Lunar New year “. Nguyen Thi Lien Hang, Hanois war, trang 109 Vũ Thư Hiên trong Đêm giữa ban ngày cũng dành một phần cuốn sách của ông để nói về vấn đề này. Ông viết: “Người ta ví triều đại Lê Duẩn như thời vua L:ê-Chúa Trịnh . Vào những ngày lễ, ngày tế cứ trông số xe đậu truoc71c cung Vua và phủ Chúa mà biết quyền lực thực sự nằm trong tay ai” Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, trang 358 Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Trong nỗi lo lắng về quyền lực của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lồ lộ như một hiểm họa. Chính vì thế Lê Duẩn- Lê Đức Thọ bao giờ cũng nhất quán trong mục tiêu hạ uy thế tướng Giáp. Cả hai hiểu rất rõ rằng vị trí cao nhất trong Đảng lẽ ra phải thuộc tướng Giáp, chứ không thuộc về họ và tướng Giáp bất cứ lúc nào cũng có thể thay thế họ, một khi họ trượt chân“. Vũ Thư Hien, Ibid, trang 364 Merle L. Pribbenow II với đề tài: Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn của kế hoạch tấn công tết Mậu Thân. Trong đó đề cập đến một cuộc tranh luận dai dẳng và sự biến mất của Võ Nguyên Giáp. Bài tham luận viết: Trong giai đoạn kế hoạch chiến lược đang thành hình cũng như trong những ngày khởi đầu làn sóng đầu tiên của cuộc Tổng tấn công chiến lược Mậu Thân, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp thường xuyên vắng mặt khỏi bộ Tổng hành dinh và không dự những cuộc họp quan trọng của Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương, hay các cuộc họp chung của tiểu ban năm người trong Bộ chính trị tổ chức với quân ủy Trung ương..(..) Mặc cho những phản đối của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp và nhiều người khác, tiến trình lập kế hoạch vẫn được thực hiện với một nhịp điệu gấp gáp với Lê Duẩn và Văn Tiến Dũng ở vị trí chỉ huy và đến cuối tháng tám kế hoạch đã thành hình ». Trong chuyên đề: Nhìn lại cuộc chiến 1954-1975, Talawas.org bài của Merle L. Pribbenow
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 5:24:03 GMT 9
Trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, William .J Duiker cũng tiết lộ Lê Duẩn đã có ý định thay thế ngay cả ông Hồ Chí Minh- một nhân vật cách mạng cựu trào bằng Nguyễn Chí Thanh và đặt để ông Hồ vào vai trò « vô thưởng vô phạt » như Giám đốc cơ quan nghiên cứu về chủ thuyết Mác- xít-Lênin. Phần Lê Duẩn, dĩ nhiên, ông nắm quyền kiểm soát toàn đảng: Rumors even circulated in Hanoi that Le Duan planned to replace Ho Chi Minh as president with Nguyen Chi Thanh, while relegating the veteran revolutionary to an innocuous position as director of Marxist-Leninist studies. Le Duan, of course. Woudl retain control over the Party ». William J.Duiker, Ho Chi Minh, trang 537 Có thể nói, TBT Lê Duẩn là nhân vật chính- nhân vật chủ chốt đứng trên cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp từ năm 1960 cho đến 1975 trong các quyết định Chiến dịch Tổng công kích và tổng nổi dậy Tết Mậu Thân, Mùa hè đỏ lửa và chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 và kéo dài cho đến Giai đoạn Đổi Mới. Trong bài TBT Lê Duẩn như tôi biết, Lê Đức Anh kết luận: “Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng, của bác Hồ, anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất chèo lái con thuyề cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, cập bến vinh quang“. TBT Lê Duẩn như tôi biết, ky II, đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam , vietbao.vn Trong bài Đại tướng Võ Nguyên Giáp với bốn đều tiết lộ cho thấy vào năm 1971, từ bên kia bờ sông Thạch Hãn, phía cộng sản, chiến dịch do Lê Duẩn chủ xướng, cứ vào lúc 5 giờ 30 chiều có một đại đội khoảng 135 người vượt sông tăng cường cho việc tấn công cổ thành Quảng Trị.Thường họ đi không về đủ số. Trong 60 ngày đêm, sự hy sinh lên đến con số 10 ngàn người. Có nhiều khả năng cho đây là một sự hy sinh và tổn phí vô ích do hiếu thắng, chủ quan và thiếu chuẩn bị điều nghiên. Nó không có dấu hiệu gì cho thấy đây là một cuộc chiến thắng hiểu theo nghĩa nào cũng được. Trần Khải Thanh Thủy trong bài viết về tướng Võ Nguyên Giáp, Sự mâu thuẫn và tranh chấp nội bộ giữa Võ Nguên Giáp và Lê Duẩn là điều không dấu diếm được được ai. Về mặt nội bộ, phe cánh của Lê Duẩn đã dìm Võ Nguyên Giáp xuống tận đất đen. Những người đứng về phía VNG càng ngày càng thất thế, giữ nổi mạng sống đã là may mắn. Vai trò của ông trong trận chiến Đông Dương 2 đôi khi chỉ có tính cách hình thức. Trong trận chiến Tết Mậu Thân, ông phải đi chữa bệnh dài hạn ở ngoại quốc. Chúng tôi sẽ trình bày cặn kẽ khi viết về Võ Nguyên Giáp. Tuy nhiên đối với quốc tế, đứng sau Hồ Chí Minh là Võ Nguyên Giáp. Lê Duẩn không bao giờ hạ được uy tín của Võ Nguyên Giáp đối với thế giới bên ngoài. Cuốn sách vì thê mất quân bình về lượng thông tin, về tính liên tục lịch sử(chronologie) và phân phối tài liệu. Vì thế ta không lạ gì, tác giả bị sự quyến rũ của tài liệu một cách lộ liễu. Tác giả không tiên liệu được cái chính cái phụ, nhiều khi lấy cái tiểu tiết trở thành đề tài chính, thiếu những cái nhìn focus, tập trung và sâu sắc vào đường lối, mục tiêu của đảng. Tôi nêu một trường hợp. Việc tác giả đã dành một thời lượng không nhỏ để nói về vụ án Cimexcol- Minh Hải và Dương Văn Ba như thể một câu chuyện quan trọng. Nó có lý do của nó: Một cách gián tiêp, tác giả đứng về phía ông Võ Văn Kiệt. Trong sự đố kỵ giữa Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt một cách nào đó nói về sư dị biệt cá tính và sự xung khắc miền. Khi no đủ, những yếu tố tiềm ẩn- tính địa phương- trước đây trong hoàn cảnh chiến tranh, nó tạm ngủ yên-. Nhưng khi có quyền hành trong tay, những yếu tố ấy công khai bộc phát theo nghĩa chia phần hưởng lộc. Một cách nào đó ta hiểu được như trong vụ Câu Lạc bộ Những người kháng chiến cũ hay Mặt trận giải phóng miền Nam. (Tôi nhớ đâu đây trong hồi ký Lữ Phương, ông ta đố kỵ với một lãnh đạo miền Bắc ở mật khu) hay như những mâu thuẫn cá tính giữa Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Những mâu thuẫn miền cũng xảy ra một cách lộ liễu khi các cán bộ miền Bắc vào tiếp thu miền Nam khi về các tỉnh. Tinh thần đồng chí trong chiến tranh tạm bỏ quên một bên cho những mâu thuẫn, tranh chấp mang tính địa phương với những đố kỵ, nhỏ nhen, bè phải vì quyền lợi. Ít lắm người ta cũng thấy, ông Võ Văn Kiệt có thể là người ít thấm nhuần nhất về lý thuyết Mác Xít, sau 1975 thường có khuynh hướng chơi với cánh miền Nam bất kể phần lớn bọn họ là người thuộc chế độ cũ- dù mang nhãn hiệu đối lập hay thành phần thứ ba. Khi ra làm thủ tướng, phải coi dư luận người trong đảng thế nào khi ông mang theo hai cố vấn về kinh tế ra miền Bắc, trong đó có Võ Hoàng trong nhóm chiều thứ sáu? Điều ấy cũng đã xảy ra tương tự trong một thời kỳ rất ngắn ở miền Nam, sau khi lật đổ ông Ngô Đình Diệm. Một nhóm người miền Nam cũng tự đặt mình vào cái gốc gác miền Nam để minh chứng vị thế của họ. Từ đó cũng nảy sinh ra vấn đề “kỳ thị » giữa Nam Bắc. Một nhóm thiểu số trí thức Nam Kỳ, năm 1964 đã lập ra Hội Liên trường và nhất là nhóm có tên Phong trào Phục Hưng miền Nam. Thoạt đầu do sự muốn lôi kéo một số nhân vật miền Nam vào trong nội các của mình, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã nhờ trung gian linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm tờ báo Xây Dựng giới thiệu kỹ sư Võ Long Triều vốn cũng là người Thiên Chúa giáo, nhưng là người miền Nam và không có tì vết dính dáng đến chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. Và Võ Long Triều đã kéo được một số những người khác như giáo sư Nguyễn Văn Trường, Âu Trường Thanh, Khương Hữu Điểu, Âu Ngọc Hồ, Nguyễn Văn Bông, Trương Văn Thuấn và Trương Thái Tôn vào nhóm. Và những người năng động nhất là Nguyễn Văn Trường và Lý Chánh Trung đều được đề cử là Tổng Trưởng và Đổng Lý văn phòng bộ Giáo dục. Đặc biệt có thêm cụ Trần Văn Hương được coi như « lãnh tụ và thường được gọi là «ông già gân ». Vì vai trò của ông Nguyễn Văn Trường và Lý Chánh Trung ở bộ giáo dục nên đã lôi kéo thêm một số không nhỏ các giáo chức trung học vào trong nhóm Liên Trường. Sau này nhiều người trong bọn họ giữ những chức vụ lớn nhỏ như Hiệu trưởng, giám đốc, khu trưởng học khu giáo dục. Sự kỳ thị và bè phái là có thực trong một giai đoạn nhất thời ở bộ Giáo dục mà nạn nhân đầu tiên là giáo sư Trần Ngọc Ninh và khoảng hơn 20 giáo chức trung học trong đó có Lê Đình Điểu, Đỗ Quý Toàn, Hà Tường Cát- có thể có Phạm Phú Minh(đều ở báo Người Việt) Cũng từ những chỗ dựa vào miền, địa phương này mà một số không nhỏ bọn họ được hưởng những đặc ân như đi tu nghiệp ngoại quốc, đã đắc cử vào các chức vụ dân biểu. Tôi có thể ít lắm nêu tên tuổi được gần 20 vị mà hiện nay đều còn sống đã được hưởng những đặc lợi mà những người khác không có được.. Nhưng tôi nghĩ rằng, đó là thời nhất thời nông nổi mà những vị ấy cũng muốn quên nên không cần nhắc lại. Cũng cần nhấn mạnh thêm là thời VNCH, sau 1963, có hai cửa ngõ đi vào chính trị tương đối dễ dàng là : cổng chùa và cổng nhà thờ và gốc địa phương. Vì thế tôi hiểu được tại sao tác giả đã dành một số trang nhiều như thế để viết về vụ án Dương Văn Ba. - Lẽ thứ nhất, tác giả được những người thuộc phe cánh của ông Võ Văn Kiệt là những người thuộc thành phần thiên tả miền Nam cũ như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung cung cấp tài liệu như Hồi ký của Ngô Công Đức, nhất là Hồ Ngọc Nhuận với cuốn Đời và cuốn : Chuyện một vụ án. Tác giả cũng là người có được những tài liệu riệng của ông Võ Văn Kiệt. - Lẽ thứ hai dùng vụ án này để bênh vực gián tiếp những người của ông Võ Văn Kiệt.. Ngô Công Đức trước khi chết có một cuốn sách rất mỏng vài chục trang mang tựa đề Tự Bạch . Lý Quý Chung với cuốn nhật ký Hồi Ký Không Tên được nhà nước cho xuất bản trước khi chết. Hồ Ngọc Nhuận với cuốn Đời và Chuyện một vụ án. Họ cùng chia xẻ những giai đoạn làm các báo Đại Dân Tộc, Tin Sáng cũ 1968. Sau 1975, họ cũng được các ông Võ Văn Kiệt, Tạ Bá Tòng, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng nâng đỡ và bảo đảm cho họ khỏi đi học tập cải tạo. Nhưng được học tại chỗ và chỉ kéo dài trong một tuần, từ ngày 15-8 đến 22-8, tại đường Phùng Khắc Khoan. Nhân đây xin trích dẫn một vài đoạn trong chúc thư cuối đời của dân biểu Ngô Công Đức tỏ ra sự hối tiếc đã di theo cộng sản: «Cuộc chiến giải phóng miên Nam, thống nhất đất nước là một may mắn. Nhưng cái may mắn ấy cũng mang theo tai họa. Thoát được cảnh chết nhưng một số phải bị tù đầy và chết oan giữa biển cả. Họ là những người từng có đời sống như chúng tôi ở miền Nam này, từng yêu thương như cha mẹ sinh thành. Tôi cố tạo tình đoàn kết, nhưng tiếng nói của trí thức, của người tôn giáo lúc đó, không có giá trị trước sự hô hào của đấu tranh giai cấp, giai cấp nông dân chủ yếu, người chiến thắng nhưng đầu óc hẹp hòi lẫn phong kiến. Rồi miền Nam phải rước lấy một chế độ đã từng được áp đặt bao nhiêu thập niên ở miền Bắc, gây nhiều chết chóc đau thương oan uổng, gây nghi kỵ và gian dối, gây nghèo đói giữa một dân tộc thông minh và cần cù.. (..)May mắn thay, người cộng sản sống ở miền Nam đã làm thay đổi sự suy nghĩ của đảng cộng sản. Công cuộc đổi mới đất nước chính là cuộc giai phóng miền Bắc khỏi một chế độ đã thất bại từ trước.. Nếu không thống nhất đấ nước, ai dám quả quyết được miền Bắc không giống như CHND Triều Tiên. Trích Tự Bạch của Ngô Công Đức, ngay 21 tháng 11 năm 2006. Một năm trước khi ông qua đời. Đã có hằng trăm, hàng ngàn người hối tiếc như ông Ngô Công Đức phải hối tiếc. Người bạn thân thiết nhất đời của ông là Hồ Ngọc Nhuận cũng đã làm đơn rút tên ra khỏi Mặt Trận trong năm 2012 vừa rồi. Những người được miễn đi học tập cải tạo do Hồ Ngọc Nhuận bảo lãnh có trường họp các ông dân biểu Lê Tấn Trạng, dân biểu Dương Văn Ba, dân biểu Kiều Mộng Thu và ông chồng là Nguyễn Chức Sắc, bác sĩ Đinh Xuân Dũng, giáo sư Châu Tâm Luân, dân biểu Thạch Phen, dân biểu Phan Xuân Huy, Trần Bá Thành (cựu tổng giám đốc cảnh sát) dân biểu Tư Đồ Minh, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông. Việc ra báo Tin Sáng sau 1975 cũng là gợi ý của ông Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng. Vụ án Dương Văn Ba coi như có sự tranh chấp giữa người của ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Văn Kiệt. Cái án tù chung thân của Dương Văn Ba đã được ông Kiệt lấy ra khỏi tù sau vài năm.
Hồ Ngọc Nhuận, Hồi ký Đời, các trang tù 161-173 Dương Văn Ba, Ngô Công Dức, Hồ Ngọc Nhuận sau khi được sự nâng đỡ của ông Võ Văn Kiệt cho ra tờ Tin Sáng. Báo Tin Sáng càng bán được nhiều thì càng lo bị đóng cửa như Hồ Ngọc Nhuận viết: «Tin Sáng là tờ báo hằng ngày duy nhất của tư nhân trong một « đại dương xã hội chủ nghĩa», không chỉ ở Việt Nam mà còn trong toàn phe . Báo phát hành càng nhiều, càng có nhiều người lo. Các phóng viên Tin Sáng đượp đào tạo mỗi năm, năm nào cũng hỏi tôi: « Tin Sáng nhắm sống được bao lâu? Bà con độc giả ở một số phường băn khoăn cho biết thỉnh thỏang trong các cuộc họp, bà con được yêu cầu không đọc Tin Sáng, hoặc nên đọc cho công bằng, có tờ này tờ khác. Bà con « cách mạng của tôi lo cho tôi là phải .(15) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid, trang 37. Trong số những người làm cho báo Tin Sáng, xin được kể một số tên tuổi khác: dân biểu Nguyễn Hữu Hiệp, dân biểu Hồ Ngọc Cứ, dân biểu Nguyễn Văn Binh, Trương Lộc, Phan Bá, Hoàng Ngọc Biên. Họ thường tự hào là một khối anh em trong thành phần tranh đấu được gọi là lực lương thứ ba .. trước 1975. Điều tự hào thứ hai là họ cho rằng không có một cán bộ cộng sản nào nằm trong tờ báo. Hồ Ngọc Nhuận nói với nhà báo thân cộng sản Ruscio: «Le Tin Sang est le seul journal non cummuniste dans une société communiste » (Tờ Tin sang là tờ báo duy nhất không cộng sản trong một xã hội cộng sản« Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam, trang 175 Lý Quý Chung thì khéo hơn: » Auparavent, nous étions des bucherons, aujourd,hui, des menuisiers » ( Trước chúng tôi làm báo như những người đi đốn củi, bây giờ thì như những người thợ mộc ) . Đến lượt Lý Chánh Trung thì phát biếu vừa trí thức, vừa khéo nhất không ai khéo bẳng: » Moi, depuis toujours, je revais d’une révolution tolérante.. modeste et tolerante . Le socialisme vietnamien a répondu à mes souhaits »( Tôi, từ bao lâu nay, tôi luôn luôn mơ ước một cuộc cách mạng có lòng khoan nhượng, khiêm tốn và khoan nhượng . Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp ứng lòng mong đợi của tôi ». Alain Ruscio , Ibid, trang 176 và 182 Vậy mà chẳng bao lâu sau, trong số những người trên lẳng lặng bỏ ra đi như Châu Tâm Luân, Hoàng Ngọc Biên. Phần số phận tở báo trôi nổi được năm năm thì nhận được giấy cám ơn vì « đã hoàn thành nhiệm vụ». Chính sau giai đoạn làm báo này mà Dương Văn Ba quyết định ra làm ăn hợp tác với chính quyền tỉnh Minh Hải trong vai trò phó giám đốc công ty Cimexcol .. Khi vụ án xảy ra, có nhiều tin đồn như « cơ chế cũ đánh cơ chế mới, kinh tế bao cấp đánh kinh tế mở cửa ». Đúng mà không đúng hẳn. Vấn đề là người của người đánh người của người. Nghĩa là vấn đế chính yếu vẫn là nhưng con người đứng sau vụ án trong đó có hai nhân vật chính là Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Có những buổi làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 9-3-1994 có mặt cả : Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Lê Phước Thọ, Đỗ Quang Thắng và Nguyễn Hà Phan.( Nguyễn Hà Phan sau này được coi là gà của Nguyễn Văn Linh để gạt Võ Văn Kiệt ra ngoài) Kết thúc vụ xử án kéo dài trong 9 ngày với các bản án như sau: -Dương Văn Ba tù chung thân và một số người khác nhẹ hơn như Nguyễn Quang Sang, Trương Công Miên, Huỳnh Văn Ngươn, Thạch Phen, Trịnh Thị Tuyết Sương, Lâm Thành Đa . Tất cả hơn 20 bị can … -Đặc biệt có sự đánh giá của Ban Bí Thư TU đảng với kết luận : » Đánh giá kết quả xét xử vụ án là dân chủ, công khai, đạt đươc yêu cầu » « xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ». Ở dưới, người ta thấy có chữ ký của Nguyễn Văn Linh Hồ Ngọc Nhuận, Một vụ án, các trang 1 và 186-187 Chẳng bao lâu sau, vào một ngày đẹp trời nào đó, án tù chung thân của Dương Văn Ba được xóa trắng. Và có lần, anh còn sang Canada du lịch và thăm con ở Toronto. Vụ án từ chính trị phản động cấu kết với bọn Hoàng Cơ Minh, với điện đài bí mật thấy vô lý quá, không bẳng cớ bèn đổi ra một vụ án kinh tế với tham nhũng và thất thoát tiền bạc và cuối cùng kết thúc bằng sự can thiệp của phe phái, của miền- Một sự can thiệp bất chấp pháp luật của ông Nguyễn Văn Linh và sau này của ông Võ Văn Kiệt. Điều đó sau này cho thấy những vụ án ở VN cũng chỉ là những tấn tuồng, những bi kịch, những nạn nhân của một chế độ phi pháp luật ! Dương Văn Ba, một người bạn học cùng lớp với tôi ở Đại học có cái may mắn là được che chở bởi cái dù Võ Văn Kiệt. Trước 1975, anh được ông Dương Văn Minh cho trú ẩn ở Dinh Hoa Lan. Sau 1975, anh được ông Võ Văn Kiệt. Trên đời có đến hai cái may mắn tưởng thân bại danh liệt như anh quả là hiếm ..có trên đời. Hiện nay anh lại tung hoành bên Lào cho những vụ khai thác gỗ, làm ăn cỡ đại gia. Nếu phải ngồi tù một lần nữa thì sao!! Không bao giờ nữa!! Vì sao. Xin hỏi Nguyễn Tấn Dũng!! Khuyết điểm thứ tư: Mục tiêu của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai Đây có lẽ là vấn đề quan trọng nhất, là cội nguồn bản chất của cuộc chiến vừa qua. Các ông, các bà, quý vị , các trí thức, các nhà báo, các nhà chính trị, các người cộng sản muốn nói gì thì nói. Tôi vẩn khẳng định một điều: Kiếp nạn của con người, của cả thế giới trong thế kỷ thứ 20 là: - kiếp nạn cộng sản : Hơn 100 triệu sinh linh đã gục ngã cho lý tưởng cộng sản. Hàng thế kỷ chậm tiến và lạc hậu để chỉ đạt được một thứ là : Huyền thoại phiêu du, lang bạt. (Le Mythe errant). Họ đã lãng phí, bỏ tất cả mọi năng lực, vốn liêng con người cho một lý tưởng mà thực tế không bao giờ Xã hội có được. Gần một thế kỷ, có ai tự hỏi hoặc tự vấn bao giờ con người VN tiến lên được XHCN - Kiếp nạn Hồi giáo cực đoan : Hiện nay nhân loại trong thế kỷ 21 đang phải đối diện với trục của điều xấu được coi là sự đe dọa đến sự an ninh của toàn thế giới. Đó là sự nổi dậy của những thành phần Hồi giáo cực đoan. Nếu ai trước là do ý thức hệ cực đoan và mù quáng, cái sau là cuồng tín và điên loạn. Hình như mỗi thế kỷ có những cái trục của điều xấu xảy ra như món quà Thượng Đế dành cho nhân loại? Cái kiếp nạn ấy đáng nhẽ VN có thể tránh được, nhưng những người lãnh đạo Hà Nội đã bỏ mất ba cơ hội quý giá mà tôi đã tóm tắt ở trên – tôi chỉ nhấn mạnh sau 1975 mà không nhắc tới giai đoạn Bảo Đại: - Sau 1975, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Nhưng những cơ may hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi xứ sở lại do chính những người cộng sản đương quyền bỏ lỡ dịp may. Sau ông Johnson đến Carter làm tổng thống, ông này đã nghĩ tới chuyện bắt tay hòa giải bằng cách bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Nhưng vì phía Việt Nam quá mông muội ảo tưởng với chứng bệnh vĩ cuồng, “ngon” nên đòi món quà hơn 3 tỉ Mỹ kim vô điều kiện về lời hứa của Nixon khi ký thoả ước đình chiến vào năm 1973. (Trước khi ký kết thỏa ước ngưng bắn 1973, Nixon có hứa bồi thường để hàn gắn vết thương chiến tranh khoảng hơn 3 tỷ đô la, nhưng chưa có sự thoả thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ. Như vậy vẫn có thể chỉ là một lời hứa xuông). Phái đoàn đại diện chính thức của Mỹ đến Việt Nam vào tháng 3, 1977 do Leonard Woodthingy kể như về tay Không. Họ chỉ mang theo về được 12 thi hài lính Mỹ thuộc diện MIA. Tổng thống Carter sẵn sàng làm mọi chuyện, trừ truyện bồi hoàn không điều kiện. Vì thế Leonard Woothingy đã nói với đại diện phía Việt Nam Phan Hiền như sau: “Let us go outside and jointly declare to the press that we have decided to normalize relations. Hien refused”. Trích Hotbrooke, trích lại của Chanda, Brother Enemy, trang 152 Hiền refused mà chính là đảng refused !! Nhưng những cơ may hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi xứ sở lại do chính những người cộng sản đương quyền bỏ lỡ dịp may. Sau này, hồi ký của Trần Quang Cơ, cựu thứ trưởng ngoại giao đã bày tỏ nỗi thất vọng chua chát về sự mông muội của Việt Nam qua Phan Hiền.- Đỗ loi64i cho Phan Hiền thì cũng tội quá- Biết bao hệ lụy của việc từ chối này. Như việc Mỹ dùng quyền phủ quyết Veto, ngăn chặn việc VN vào Liên Hiệp Quốc hay vào tháng 2/1979, Trung Cộng xua 200.000 quân sang VN, đối chọi với 100.000 quân đội miền Bắc với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ (blessing of the United States). Và sau đó, gần 200.000 người gốc Trung Hoa đã tìm cách rời khỏi VN. Và phải mất thêm gần 20 năm sau mới có cơ hội bình thường hóa với Mỹ, với các tổ chức quốc tế. Tự mình, chính quyền mới đã tự cô lập trong sự thỏa mãn với chính mình… Dưới thời đệ I và đệ II cộng hòa, miền Nam Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới và với tất cả các tổ chức về y tế, các học viện, các quỹ tiền tệ và các tổ chức như: Plan de Colombo, FAO, O.N.U, OMS, WHO, UNESCO, UIT, UPU, IPF, ILO, OAA.v.v… Chỉ tính đến năm 1955, chúng ta đã có mặt và là thành viên của trên hơn 30 tổ chức quốc tế này. tài liệu Viet Nam d’Hier et d’Aujourd’hui, Thái Văn Kiểm, trang 332. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, cơ hội hòa hợp dân tộc bị bỏ lỡ sau Hiệp định Paris “do chủ trương tràn ngập lãnh thổ của Sài Gòn”. Đồng thời, trong những năm sau đó, “cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm”. ‘Một lần nhỡ thời cơ, hận muôn đời ‘ Theo cựu ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, thách thức đặt trước dân tộc Việt Nam cả trong quá khứ và hiện tại là tư duy đối đầu, triệt tiêu lẫn nhau trong quan hệ với các nước ngoài. Bên cạnh đó, là chính sách của nước lớn đối với nước nhỏ, mà ông gọi là “tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều cống nhiều khi vẫn lấn lướt”, tuy không chỉ rõ tên cường quốc. “Đấy chính là khởi nguồn đã gây ra bao nghịch lý cho dân tộc Việt trong lịch sử, nay nếu ta không biết cách chế ngự nó, tương lai có nhiều điều khó dự đoán!” “Cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm cũng là do tư duy đối đầu ấy gây ra!” Ông cảnh báo: “Vấn đề tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ là bài học vô cùng quan trọng”. Bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Cầm trên BBC - Cơ hội thứ hai khi có sự xụp đổ các đảng cộng sản ở Đông Âu và nhất là ở Liên Xô. Cơn bão dân chủ ở Đông Âu đã hẳn có những tác động dến tình hình chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên phải đợi đến khi Lê Duẩn chết vào tháng 7-1986 thì mới có dấu hiệu thay đổi ở Việt Nam. Đại hội đảng kỳ VI đã bầu Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí Thư và ông này cho áp dụng một số cải tổ theo xu hướng đổi mới. Tinh thần đổi mới là xóa bỏ chế độ bao cấp cũng như chế độ hai giá để giải quyết tình trạng thiếu hụt lương thực một cách trầm trọng. Để thực hiện điều này Nguyễn Văn Linh dưới bút hiệu N.V.L đã viết các loạt bài« Những việc cần làm ngay » đang trên nhật báo Nhân Dân. Loạt bài báo của NVL như chất xúc tác giúp các nhà văn, nhà báo mạnh dạn tố cáo nạn cường hào, nạn tham nhũngvv.. Công việc đổi mới này cũng được giao cho tướng Trần Độ tổ chức họp các văn nghệ sĩ, trí thức tại Hà Nội ngày 6 và 7-1-1987. Rất nhiều nhà văn, trí thức đã lên phát biểu và sau này tướng Trần Độ đã cho in thành sách. Trần Độ, Đổi mới, niềm vui chưa trọn vào năm 2000, xuất bản tại Hải ngoại Về cơ may Đổi mói, xin đọc những tài liệu, bài báo của nhóm Chiều Thứ sáu gồm có: Những người tiên phong là Lâm Võ Hoàng, Phan Chánh Dưỡng, Phan Tường Vân, Huỳnh Bửu Sơn (người giữ chìa khóa kho bạc ngân hàng). Hiện tôi có giữ được một tập hồ sơ về Đổi Mới của ông Lâm Võ Hoàng với một số lượng bài báo bài báo đủ loại được đăng báo trong nước. Ông là nhân tố chính trong nhóm Chiều Thứ sáu đã cố vấn cho ông Kiệt. Xin trích tóm lại vài dòng về cơ duyên của ông được ông Võ Văn Kiệt trọng dụng như thế nào. Trong bài viết : Nhóm thứ sáu, chỗ dựa và bệ phóng của tôi. Ông viết : «Có thể nói, trước 30-4-1975, tôi đã thỏa chí bình sinh về sự nghiệp. Mặc dù tôi chỉ là phó ngân hàng Việt Nam thương tín, bộ kinh tế, nhưng được ông chánh nể… và lãnh lương cao nhất nước. Khi giải phóng gần kề, tôi đã chọn ở lại vì tôi đang ở tuổi 42 sung sức …Tôi vốn gàn nên cố bào chữa cho những thất bại ê chề cho những quyết định ở lại. Chẳng hạn tôi coi 55 tháng cải tạo là « cái vé » phải mua để bước vào xã hội mới, coi việc mất sạch nhà cửa, xe cộ, đồ đạc, bộ sưu tập đồ cổ, đồ ngọc như ân sủng của Chúa ban, để trắng tay, sạch trí, sạch lòng như ông Giốp trong Cựu Ước. (Xin thưa với độc giả, ông Lâm Võ Hoàng là người « đạo mới », khi có dịp ra ngoại quốc, ông cố đi gặp cựu Hồng y Nguyễn Văn Thuận như tình cha con và hiện nay ông đã hưu trí, cũng không viết nữa . Trong sự ngưng viết theo người em của ông, sợ cũng có, ông sống như một nhà tu hành- một người đạo hạnh, làm các công tác thiện nguyện). Ông có cái may mắn là được ông Đặng Quan Đức và Hai Tân nhận cho vào làm trong ban Khoa Học và Kỹ Thuật TP HCM khi đi cải tạo về .- Một công việc ngồi chơi xơi nước sống vất vưởng là thân phận những người trí thức như ông-. Ông viết một bản góp ý chưa đầy hai trang giấy về việc thiết bị gì đó và được thành phố chấp nhận. Sau đó ông rủ những anh em mới đi học tập về vào nhóm kinh tế. Họ là những người đóng góp vào việc : «điều chỉnh giá, lương, tiền » (Primosa : Prix, Monnaie, Salaire). Ông viết tiếp: «Giữa tháng 10-1989, anh Sơn cho biết ông Sáu Dân mời anh và tôi ra Hà Nội làm việc về ngân hàng .. Những anh em khác thì đề quen biết ông Sáu Dân, riêng Lâm Võ Hoàng thì không. Ông viết: «Duy chỉ có riêng tôi chỉ biết mặt ông qua hình trên báo, ti vi mà thôi. Anh viết, anh đả vặn máy hát về ngoại thương để ông Sáu ghi lia lịa : Cho nên, nhân dịp diện kiến này, xin anh Sáu cho tôi được trình bày những gì thuộc sở trường của tôi ngoài ngân hàng để mở rộng đóng góp của tôi trong các lãnh vực mà tôi từng có dịp phụ trách như ngoại thương và viện trợ Mỹ, hoặc có dịp làm quen như tài chánh, qua quan hệ tiếp xúc của tôi với các tổng trưởng tài chánh, bạn thân của tôi . Như vậy dù không có dịp trở ra, tôi cũng mát dạ vì đã có dịp nói hết những gì tôi ôm ấp bấy nay. Ông cười (ông Kiệt) và đồng ý, tôi lại vặn máy hát. .. Năm 1993, anh Dưỡng , anh Tước, anh Sơn và tôi được ông Sáu Khải lên dangh sách « các chuyên gia tư vấn » thành viên » Tổ tư vấn Cải Cách hành chánh, cải cách kinh tế của thủ tướng chính phủ ». Chúng tôi viết báo thường xưng là « chuyên viên kinh tế » là ngạch trật trong biên chến của chúng tôi . Tới cuối 1996, Tổ kết thúc nhiệm vụ với nhiệm kỳ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt . Nhưng quan hệ tham vấn và góp ý giữa ông Sáu và chúng tôi vẫn không dứt từ 1986 với ba anh Dưởng, Sơn, Tước và 1989 với tôi cho đến năm 2001. Lợi ích gắn bó chúng tôi là lợi ích đất nước Việt Nam mà chúng tôi đồng yêu mến thiết tha. Về điểm này nên nhắc lại Tổ Tư Vấn của chúng tôi có quy chế độc nhất vô nhị thế giới do báo Nhân Dân ban cho, ngay sau lần họp đầu tiên. Đó là 5 không : Không có tổ chức, không biên chế, không ăn lương, không đại diện ai, không hạn chế trong phát biểu. Bốn « Không » đầu rỏ ràng là cầu cho được vậy để khỏi mè nheo sinh ra bế tắc . Cái « không » thứ năm rõ ràng không cầu mà lại được. Khi mừng kỷ niệm, thông suốt đường giây 500KV được coi là « tác phẩm » của ông Kiệt. Ông Hai Chí có mỉa mai : « Tụi tôi đâu đủ sức sử dụng chuyên gia tầm cỡ các anh » . Tôi cười thầm, anh Hai tôi mà cũng biết hờn mát . Nhưng đây là vấn đề nghiêm trọng, khong thể nói giỡn, tôi thưa: «Thưa anh Hai, tụi tôi như trái ớt, nó nằm trong đĩa nước mắm của người giàu cũng như người nghèo . Tùy tay người bỏ nó vô đĩa nào thì nó làm cay đĩa đó chứ nó đâu có thể tự ý nhảy vô đĩa nào tùy thích đâu ». Trong câu chót, ông viết như thế này: «Khủng hoảng tài chánh năm 1997 từ Đông Nam Á ra toàn cầu, liệu có ảnh hưởng gì tới Việt Nam thì không cần sờ mu rùa đã dõng dạc đoan chắc không có ảnh hưởng gì ..Và ông cho rằng khủng hoảng đó là cuồng phong chỉ làm tróc các cây cổ thụ, còn cọng cỏ thì chỉ rạp xuống thôi. Ta là cọng cỏ, rỏ ràng lần này là may mắn . Nhưng liệu ta có cam tâm làm cọng cỏ suốt đời để khỏi sợ bão tố, hay là phải ráng vươn lên thành đại thụ để lâu lâu nếm mùi tróc gốc, cho ra vẻ «sành điệu» với thiên hạ ». Lam Võ Hoang, nhóm chuyên vien “ Thứ sáu”, các bài viết trên báo Công giáo và dân tộc. Thang 08-2002 Viết đến đến đây, tôi tự hỏi có bao nhiêu người được cái may mắn như Dương Văn Ba và Lâm Võ Hoàng. Cử chỉ của ông Võ Văn Kiệt là xuất phát tự cái tâm của một con người- đối với con người- hay xuất phát từ một cơ chế? Dù ông Võ Văn Kiệt có thiện chí cách mấy, ông cũng vẫn nằm trong một cơ chế nên dù trân trọng ông, tất cả những chính sách sai lầm của đảng cộng sản thì ông đều có mặt, đều chia sẻ trách nhiệm!! Người ta cũng ghi nhận được một số tên tuổi đã cất tiếng nói, dám lên tiếng trong giai đoạn «cởi trói» này như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ, Phạm Tuyên, Phan Huy Lê, Trần Văn Thủy, Phan Đình Diệu, Nguyễn Khắc Việnvv. Xin đọc Lý Thái Hùng, Đông Âu tại Việt Nam, đặc biệt là chương IX: Việt Nam trước cơn bão Dân Chủ ở Đông Âu, từ trang 335-402 Đặc biệt giới văn nghệ sĩ coi đây là một «cởi trói» văn nghệ và hàng loạt tác phẩm dám nói lên sự thật và không còn uốn cong ngòi bút như Phùng Gia Lộc, Nguyễn Huy Thiệp, Ngô Ngọc Bội, Hồ Trung Tú với các bài như: Cái đêm hôm ấy đêm gì, Người đàn bà quỳ, Bông luá nổi giận, Tướng về hưu vv.. Nhưng trước những biến cố dồn dập ở Đông Âu cũng như biến cố sinh viên Trung Quốc ở Quảng trường Thiên An Môn. Đảng cộng sản VN qua Nguyễn Văn Linh bắt đầu lo ngại quyền lực của dảng bị đe dọa, sói mòn nên Bộ Chính Trị hãm lại và coi rút lại để bảo vệ quyền lợi của đảng. Và cú ngoạn mục nhất là loại Trần Xuân Bách ra khỏi Bộ Chính trị. Trong Nam thì khai tử nhóm Câu Lạc bộ những người kháng chiến bằng cách bỏ tù Nguyễn Hộ và hàng loạt những người như Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu.. Đọc Đỗ Trung Hiếu: Những người kháng chiến cũ, Lý tưởng và thực tế, tài liêu của Tin, Paris 1995 . Đây mới là tài liệu quý báu và hiếm cần đọc Cơ may đổi mới toàn diện như Đông Âu không còn nữa !!|Cộng sản vẫn là cộng sản!! Phần Nguyễn Văn Linh đã sợ hãi củng cố quyền lực để cứu nguy cộng sản VN - Thứ ba, theo tôi đây là thời điểm thuận lợi để chọn lựa con đường hợp tác với các nước như Mỷ, Nhật và các nước trong vùng Đông Nam, lánh xa Tầu. Có vẻ họ đã không dám làm, không dám quyết định. Một tin mới nhất cho biết báo chí trong nước nay được phép nhìn nhận các chiến sĩ VNCH là những người đã can đảm hy sinh để bảo vệ Trường Sa và Hoàng Sa. Cho nên, đối với tôi, không dứt khoát giải quyết được vấn đề cộng sản, sẽ không giải quyết được vấn đề gì cả. Nó sẽ chỉ kéo dài những tranh cãi triền miên giữa kẻ thắng người thua không đi đến đâu cả. Phải can đảm biết nhìn sự thật, can đảm chia xẻ những ý kiến khác mình. Nó còn khò hơn “ phá rào” về kinh tế. Bởi vì dám nhìn nhận sự thật thì đồng nghĩa với xóa bỏ những hy sinh thường cho là cao đẹp, là lý tưởng. Người cộng sản vẫn thường rêu rao: Mục đích tối hậu của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là “giải phóng” miền Nam khỏi tay bọn đế quốc Mỹ xâm lược. Vậy mà chỉ bằng một luận cứ về lịch sử nước Nhật trong thế chiến thứ hai, một cậu sinh viên trong nước đã dễ dàng bẻ gẫy mục đích “giải phóng” cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai này. Cậu cho rằng viên tướng Mỹ thay vì là kẻ thú của nhân dân Nhật trở thành một trong 12 người có công lao lớn với nước Nhật. Điều gì nước Mỹ đã làm ở Nhật thì cũng làm như thế ở Âu Châu, nhất là ở Đức. Không có nước Mỹ, người Mỹ, liệu Âu Châu và Nhật Bản có được cái vị trí kinh tế, chính như hiện nay? Và điều gì nước Mỹ đã làm được ở Nhật thì cũng đã làm được ở Đại Hàn và tại sao không ở Việt Nam? Những nước vệ tinh của Trung Quốc như Việt-Mên-Lào, nhất là Bắc Hàn, số phận hiện nay ra sao? Và nhất là tương lai ra sao trước đe dọa bá quyền của Trung Quốc? Phải có can đảm đổi hướng chính trị nhìn ra Thái Bình Dương thay vì dựa lưng vào đất liền!! Tôi tự lấy làm xấu hổ vì thua trí một sinh viên năm thứ hai đại học. Danchimviet. Info, 30-12-2012: sinh viên phản ứng về bài giảng lịch sử: Đế quốc Mỹ xâm lược của một sinh viên năm thứ hai khoa học xã hội, Sài gòn . Nhưng tâm thức ấy được những người trí thức như Dương Thu Hương, Bùi Tín nhận thức ngay ra được khi tiếp thu miền Nam. Một người viết đến Những thiên đường mù, một người viết Mây mù thế kỷ. Và 15 ngày sau khi vào miền Nam, TBT Lê Duẩn cũng nhận ra cái sự ưu thế của nền kinh tế miền Nam so với miền Bắc như thế nào. “Hơn bao giờ hết, tôi thấy rõ đường đi của thời gian đang lướt qua khung trời. Như vệt đuôi sao chổi. Chúng xóa đi từng thời khắc của cuộc đời. Chúng xóa đi mà trí nhớ của con người lại không xóa nổi. Nhưng dĩ vãng chỉ là dĩ vãng. Những đồng tiền âm phủ không tiêu được trong phiên chợ trần ai. Tôi sẽ xin với vong linh cô tôi cho tôi bán nhà. Tôi phải đi. Ý muốn của những người quá cố chỉ có giá trị như những vòng hoa trang trí trên các nấm mồ. Không thể tiêu phí cuộc sống bởi những cánh hoa tàn héo, những tối tăm lầm lạc của quá khứ mà phải hướng tới ngày mai”. Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, trang 284 Bùi Tín khi viết Mây mù thế kỷ, trong lời tựa đã viết: “Cuốn sách này, qua một số cuộc đối thoại bổ ích, có ước vọng giải tỏa đôi chút những mây mù còn tồn tại trong nhận thức của xã hội Việt nam ta. Ước mong của tác giả là đất nước Việt nam thân yêu trong thời gian cuối cùng của thế kỷ 20 này rũ bớt được những điều mơ hồ để nhìn nhận quá khứ, thấy rõ con đường tương lai, thanh thoát đi vào thế kỷ 21 đầy hứa hẹn” Bùi Tin, Mây mù thế kỷ, trích trong lời nói đầu của tác giả. Lời ước mong của Bùi Tín hiện nay vẫn chỉ là một ước mơ hay một hiện thực? Trần Mạnh Hảo, từ rừng Lộc Ninh vào đã viết cảm tưởng của ông như sau : « Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra » Trần Mạnh Hảo, Phạm Duy còn đó .. muôn đời Người cầm bút có trách nhiệm không thể để nhà nước cộng sản Hà Nội tiếp tục tuyên truyền sai lạc về mục đích cuộc chiến này cũng như tiếp tục bôi xấu xã hội miền Nam, tiếp tục đánh bóng, lý tưởng hóa cuộc chiến 1954- 1975, khoác cho nó những lý tưởng huyễn hoặc mà thực chất không phải là như vậy. Ý tưởng then chốt về mục tiêu cuộc chiến thường được cổ vũ: Đây là cuộc chiến tranh nhằm ”Giải phòng” miền Nam, đánh đuối đế quốc Mỹ xâm lược. Từ Giải phóng miền Nam là một tuyên truyền huyễn hoặc hay nó mang nội dung cụ thể và trung thực? Kẻ đến giải phóng thật sự là giải phóng hay xâm lược? Giải phóng cái gì? Giải phóng ai? Ai cần được giải phóng? Ký giả Teziano Terzani là một trong những ký giả có chứng kiến những chiếc xe tăng T.54 cán sập đổ dinh Độc Lập. Ông đã ở lại miền Nam hơn 3 tháng để chứng kiến cuộc chiến thắng của miền Bắc và sau đó đã viết cuốn sách ca tụng miền Bắc nhan đề : Giải Phóng. Một năm sau, ông đã quay trở lại và ông đã thất vọng. Khi cho tái bản cuốn sách lần thứ hai, ông đã đổi nhan đề cuốn sách.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 6:01:51 GMT 9
Teziano Terzamie là ký giả người Ý duy nhất có mặt khi thất thủ Phnon Penh ở Cao Mên và Sài gòn 30 tháng tư. Khi rời Sài gòn sau 3 tháng đi quan sát, ông viết cuôn sách: Giai Phong, The Fall and Liberation of Saigon .. Một năm sau sang lại VN, ông rất thất vọng và khi tái bản sách, ông đổi lại nhan đề là: Three days and three months, Sai gon 1975. The Fall of Saigon. Có lẽ vì thế từ đây cần nên xác định tên cuộc chiến. Nếu nhìn nhận những người lãnh đạo từ hai phía- phía cộng sản có Nga và Tàu đỡ đầu – phía Quốc gia có Mỹ và các đồng minh- thì đây là cuộc chiến ủy nhiệm do một tranh chấp giữa hai ý thức hệ. Nếu miền Nam là Ngụy, là bù nhìn của Mỹ thì miền Bắc là gì dưới cái dù của Nga và nhất là Tàu. Nếu gọi miền Nam là bọn lính đánh thuê thì bộ đội miền Bắc từ một đôi dép cũng do viện trợ của Tàu thì phải gọi bộ đội miền Bắc là chiến sĩ chăng? Thật là mỉa mai!! Những đại bác 130 ly, hỏa tiễn Sam1 và 2, xe tăng T.54 viện trợ của Liên Xô, ngay một đôi dép râu là viện trợ của Trung Quốc xuất phát từ Hà Nội vào miền Nam thì không thể nói đó là giải phóng được. Nhân danh cái gì để nói là giải phóng? Nó chỉ là sản phẩm cuộc chiến tranh lạnh xuất hiện sau thế chiến thứ hai giữa hai siêu cường Nga và Mỹ. Cuộc chiến chống thực dân Pháp do những người như Phan Bội Châu, rồi Phan Châu Trinh mang nặng sắc thái dân tộc chủ nghĩa, đượm tình tự lòng yêu nước. Nó cao đẹp, trong sáng và lý tưởng và vận động được sức mạnh của toàn thể nhân dân VN. Nhưng từ chủ nghĩa yêu nước nó dần mặc áo cộng sản và nhân danh nò, Hồ Chí Minh tiến hành chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, dưới sự trợ giúp không điều kiện, “vô tư” cuả Liên Xô và nhất là Trung Quốc. Ai cũng biết như thế và nhìn nhận như thế mà không cần phải dài dòng biện luận và tranh cãi. Tôi không thể nào hiểu được khi những cảnh chết chóc do chiến tranh gây ra trong trận Mậu Thân, nhất là ở Huế năm 1968, rồi trong cuộc chiến 1972 mà xác người chết sình thối không kịp chôn, tôi không thể chấp nhận một cuộc giải phóng man rợ như thế về mặt tình tự con người. Tôi xin những ai là kẻ chiến thắng tự hào về cuộc chiến đọc những dòng này của Phan Nhật Nam trong Mùa hè đỏ lửa nơi mà ông viết lại như sau: “Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy … Mùa hè năm 1972, mùa hè máu, mùa hè của sự chết và tan vỡ toàn diện, mùa hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đầy… !! Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những ngày hè đỏ lửa, trận cuối cùng đã kết thúc 12 năm chiến tranh ” giải phóng” đã cạn lực!! (5) Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, từ trang 7 và tiếp theo! Ở một chỗ khác, PNN mô tả cảnh tượng của cuộc chiến ở mức độ tàn bạo không bút mực nào tả xiết, nó vượt sự chịu đựng của con người. Ông viết: “Tôi đang ở cây số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lâm. Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ môi chảy máu tươi, tay luống cuống mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.. (..) Tôi không còn là người đang sống vì sống là sống cùng với người sống, chia sẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Chung quanh tôi, trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một không khí – chết. Phải chỉ có sự chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang phơi phới bừng bừng che kín không. Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trang 173! Về phía kẻ thắng cuộc thì xin quý vị đừng vội say máu chiến thắng. Tỉ lệ về số thương vong là từ 5 xác chết của kẻ thắng đổi lấy một của kẻ thua. Lẽ thắng thua như thế quả là tương đối và chênh lệch! Nó giống như trong film We’re soldiers(Chúng ta đều là những người lính) trong đó chỉ còn là cảnh hoang tàn đỗ vỡ, chết chóc và chỉ còn lại viên sĩ quan ngồi một mình tự nhủ thầm: Kẻ cuối cùng còn ở lại là kẻ thắng trận!! We Were Soldiers is a 2002 war film that dramatizes the Battle of Ia Drang on November 14, 1965. The film was directed by Randall Wallace and stars Mel Gibson. It is based on the book We Were Soldiers Once… And Young by Lieutenant General (Ret.) Hal Moore and reporter Joseph L. Galloway, both of whom were at the battle Nhìn kẻ thua trận mà buồn cho cuộc chiến tranh tương tàn nhưng nhìn sang phía kẻ thắng trận, mức độ tàn khốc còn gấp đôi, gấp ba. Nhà báo Oriana Fallaci đã đi quan sát trận địa Khe Sanh ngay sau khi chiến cuộc vừa chấm dứt cho biết: toàn bộ sư đoàn 325, niềm tự hào của tướng Giáp đã biến mất dưới những trận mưa bom của Mỹ và được gọi là :” Điện Biên Phủ thứ hai”t!! ” Và nhóm 50 người đầu tiên của đại đội Delta của Mỹ đã tới được những giao thông hào và ở đó người ta tìm thấy hàng chục khẩu moóc chê để lại, những dàn phóng rốc két, rồi liên thanh hạng nặng, những cái nón do Liên Xô chế tạo, thùng còn đầy đạn, nhiều ba lô và 400 cái xẻng mới ..” Trích Oriana Fallaci La vie, la guerre et puis rien …trang 241 Thắng nỗi gì, hãnh diện nỗi gì !! Dương Thu Hương nhắc lại số học sinh lớp 4 học cùng thời với bà, sau chiến tranh chỉ có hai người sống sót trở về !! Thế được gọi là chiến thắng, là giải phóng ! Nó ứng với cái cảnh mà một thi sĩ Trung Hoa đã ngao ngán viết về hình ảnh sau cuộc chiến:” Nơi vó ngựa chiến đi qua, 10 năm sau, cỏ chưa mọc và gió thổi còn mang mùi máu”. Vậy mà mỗi năm, những người thắng trận vẫn nhảy múa, vẫn kỷ niệm, vẫn hãnh tiến bên cạnh những xác chết đã thối rữa từ hai phía . Đối với những người từng là thù địch với nhau đã lần lượt không còn nữa. Và đối với họ ý nghĩa được thua trở thành vô nghĩa. Cái chết đã đem lại sự an nghỉ tuyệt đối bình đẳng cho hết mọi người. Nếu bi kịch còn để lại cho trận chiến này thì là hình ảnh những người còn ở lại như các bà mẹ, người vợ, người con. Xin gợi ý câu nói của Jules Roy như sau: Đối với một bà mẹ, không có lý tưởng tốt xấu, có chăng chỉ là những niềm thương của một người đối với người đã khuất” Jules Roy, Bataille de Dien Bien Phu, nxb Julliard, 1963. Trích tóm lược trên Hành Trình, tháng 5-1965, bản dịch của Nguyễn Vũ Văn Tôi vẫn có xu hướng nhìn cuộc chiến tranh vừa qua dưới lăng kính Nhân Bản, tình người. Nếu nhìn từ phía những người trong cuộc thì đây là cuộc nội chiến giữa người Việt-người Việt, giữa miền Bắc và miền Nam. Marilyn B. Young thì như phần đông giới chức Mỹ gọi chiến tranh Viet Nam là: The Viet Nam wars. Trong đó ông gộp chung cả hai cuộc chiến làm một. Marilyn B. Young, The VietNam wars 1945-1990 Còn lại những người Mỹ khác gọi vắn tắt là Viet Nam, nhưng có thêm phụ đề theo điều mà họ muốn nhấn mạnh như John Prados vỏn vẹn dùng chữ: Viet Nam, The History of an Unwinnable war, 1945-1975, David G. Marr: Viet Nam, 1945, The Quest for power, Stanley Karnow, Viet Nam, A History, Lewis Sorley, A better War, Stein Tonnesson, Viet Nam, 1946. Christian G. Appy, Th Patriots, Viet Nam war. Một trong những lý do người Mỹ chỉ dùng một chữ Viet Nam để chỉ chiến tranh Viet Nam, bởi vì chưa hề bao giờ có sự tuyên chiến rõ ràng giữa Mỹ và Hà Nội như trong trường hợp chiến tranh giữa Mỹ và Nhật sau trận Trân Châu Cảng. Vì không có sự tuyên chiến nên có thể có những rắc rối về chính trị, về viện trợ, về sự có mặt của quân đội ngoại quốc và vấn đề các tù binh bị bắt giữ giữa hai bên. Nhưng đấy chỉ là nói lý thuyết, vì trước đây khi chiến tranh Cao Ly xảy ra thì làm gì có sự tuyên chiến giữa Trung Cộng và Mỹ? Gần đây nhất, tiến sĩ Nguyễn Thị Liên Hằng đã thẳng thừng viết một cuốn sách nhan đề Hanoi’s war. Cô đi lại từ đầu từ hồi tập kết ra Bắc, Lê Duẩn đã ở lại miền Nam để tiến hảnh tiếp tục cuộc chiến. Đây là một tên gọi mới không thể bỏ qua dựa vào chứng cứ có, dựa vào tính cách chủ động. Cuộc chiến ấy khởi động từ miền Bắc vận dụng sức người, sức của để xâm chiếm miền Nam như: Vấn đề tập kết ra Bắc và cài người ở lại, khai thông mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh. Trận đánh ở Khe Sanh, Chiến dịch Tổng công kích và tổng nổi dậy 1968, trận đánh “ Mùa hè đỏ lửa” 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Về măt chính trị là các Nghị quyết của Đảng cộng sản, việc dựng lên MTDTGPMN và mục đích của Hòa Đàm Ba Lê năm 1973. Hay nói theo kiểu muốn dung hòa cả hai bên, theo đề nghị của giáo sư Lê Xuân Khoa gọi đây là Chiến tranh Việt Nam. Lê Xuân Khoa, 30 năm gọi tên gì cho cuộc chiến, 15-2-2005 BBC. Để phản bác lại ý kiến của GS Lê Xuân Khoa, Nguyễn Hòa viết bài phản biện: Gọi tên cuộc chiến hay xuyên tạc sự thật? Phần tôi, xét theo thứ tự thời gian, tôi chỉ thấy một sự nối dài về ý đô muốn nhuộm đỏ hóa đất nước VN. Trong giai đoạn chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, kể từ khi Mao Trạch Đông thống nhất nước Tàu vào năm 1949 thì cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đã đổi hướng, đã khoác bộ áo cộng sản Quốc tế. Sang đến cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì thường hai miền rõ ràng không chỉ nhất thời phân chia địa lý bởi dòng sông Bến Hải. Ông Hồ Chí Minh ở ngoài Bắc tiêu biểu cho ngọn xung kích của cộng sản Quốc tế . Ông Ngô Đình Diệm tiêu biểu cho “một tiền đồn” chống cộng sản của thế giới tự do. Phía cộng sản, theo ông Nam Đình, TBT đảng cộng sản Trường Chinh từng tuyên bố vào những năm đầu cuộc kháng chiến như sau: “Kháng chiến Việt Nam là một hình thức cao rộng của giai cấp đấu tranh, nghĩa là một cuộc đấu tranh lớn lao trên toàn thế giới và vô sản thế giới, tức quốc tế cộng sản”. Hồi Ký Ký 1925-1965, Nam Đình, trang 83-84. Phía VNCH thì như lời nhận xét của Marilyn Young: “Việt Nam (chỉ miền Nam) là con cờ Domino và nếu nó bị đổ xuống thì sẽ biến Thái Bình Dương thành cái hồ của Sô Viết và ngăn chặn những nguyên vật liệu có tác dụng sống còn cho Hoa Kỳ và đồng minh của họ”. The Viet Nam wars 1945-1990, Marilyn Young, trang 29 Dụng ý của Marilyn Young kết hợp hai cuộc chiến tranh làm một là có cái lý của nó. Nếu cần phải phân biệt thì chia cuộc chiến đó làm hai giai đoạn. Và tại sao gọi là chiến tranh Đông Dương bởi vì cả hai lần đều có sự dính dáng hai nước Lào và Campuchia trong đó. Không có Lào, không thể có đường mòn Hồ Chí Minh. Không có Cao Mên, không có hậu phương dùng làm chỗ tựa cho cục R, cho MTGPMN vv.. Cả hai nơi, người Mỹ và VNCH đều mở những cuộc hành quân sang đánh tận sào huyệt của quân đội cộng sản Bắc Việt. Vai trò bù nhìn của MTGPMN Một trong những chính sách của Hà Nội trong việc tiến hành xâm chiếm miền Nam là việc dựng lên MTGPMN. Chiêu bài người miền Nam nổi dậy chống Mỹ-dù thực tế không hề có- đã lừa được cả thế giới. Trong chiến dịch Tết Mậu Thân, Lê Duẩn đã phạm phải một lỗi lầm quan trọng. Chiến dịch mang tên: Tổng công kích và tổng nổi dậy. Tổng công kích thì có, nhưng tổng nổi dạy thì không. Đây là bài học thứ nhất mà Lê Duẩn học được trong một tính toán liều lĩnh, chủ quan với rất ít cơ may đạt được. Và trong dịp Tổng tấn công, lực lượng địa phương đã bị quân đội miền Nam quét sạch. Tham vọng chiếm được Sài gòn của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại. Tướng Trần Văn Trà sau này có trách các lãnh đạo miền Bắc là không để cho các lực lượng võ trang ở miền Nam có đủ thì giờ để chuẩn bị cuộc tán công Tết Mậu Thân một cách tương xứng. Đi lại đoạn đường đã qua bắt đầu là đám trí thức trong MTGPMN. Trí thức miền Nam tiêu biểu có thiện cảm với MTGPMN thuộc đủ loại nay dần dà phủ nhận cái quá khứ của mình. Họ có khoảng chừng tất cả trên dưới 30 người. Chỉ với 30 người ấy, người cộng sản đã dựng nên cả một Mặt trận đại diện cho 15 triệu người miền Nam và được thế giới nhìn nhận như một thực thể chính trị có khả năng ngồi vào bàn Hội Nghị. Trong cuộc thương nghị ở Paris, CPCMLTCHMNVN đã chính thức là một thành viên, một bên thương lượng. Mà thực chất họ chẳng đại diện cho ai. Họ chỉ có cái danh xưng và như những hình nộm, những con cờ thí đánh lừa dư luận thế giới. Sau 1975, vai trò của họ trở thành thừa thãi và bị loại bỏ một cách không nhân nhượng, không thương tiếc, không bàn cãi. Trong MTGPMN có Luật sư Trịnh Đình Thảo(1901-1982), vợ là Liên Hoa Ngô Thị Phú, người Sóc Trăng. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ông Lâm Văn Tết. Hoài Hương, Nguyễn Khắc Vỹ. Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng. ông bà Phú Hữu Nguyễn Thạnh Cường, Lê Văn Giáp, Dương Kỵ, Thanh Lan Võ Ngọc Thành, Nguyễn Văn Bửu, Hồ Văn Bửu, Nguyễn Hữu Khương, Lucien Phạm Ngọc Hùng. Lucien Phạm Ngọc Hùng là anh của đại tá Phạm Ngọc Thảo. Sau khi đại tá Thảo bị giết, Phạm Ngọc Hùng vốn là một thương gia cùng với Cao Văn Bổn và và Nguyễn Hữu Khương đã bỏ trốn ra bưng theo MTGPMN. Ngoài ra còn có Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc. Bác sĩ Phùng Cung và vợ Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết. Nhà văn Thanh Nghị. Ông Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang. Giáo sư Nguyễn Văn Chi. Chánh án Phạm Ngọc Thu. Dược sĩ Hồ Thu. Kỹ sư Cao Văn Bốn . Kỷ sư Tô Văn Cang. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Lữ Phươngvv Xem thêm Lữ Phương, Những chuyến ra đi, trên web Viet-studies. Hơn ai hết, Lữ Phương cảm thức được vai trò bù nhìn của mình. Ông viết: Sự tồn tại của Liên Minh như vậy chỉ là vở kịch cách mạng do Đảng giàn dựng với những diễn viên được lựa chọn và phân vai hết sức kỹ càng. Những nhân vật không cộng sản hết sức rõ rệt như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Nguyễn Văn Kiết, Lê Văn Giáp.. đã được đưa lên như những ngọn cờ, trong khi đó những chức vị khiêm tốn nhưng là nồng cốt qua đó bảo đảm cho việc thực hiện chủ trương của Đảng thì lại giao cho những đảng viên được gài vào( như Tôn Thất Dương Kỵ và những đảng viên khác .. Lữ Phương, Ibid Phần Trương Như Tảng đã viết lại kinh nghiệm bị phản bội của Mặt trận như sau: “At last, when our patience had almost broken, the Vietcong units finally appeared. They came marching down the street, several straggling companies, looking unkempt and ragtag after the display that had preceded them. Above their heads flew a red flag with a single yellow star- the flag of the Democratic Republic of North Viet Nam. Seing this, I experienced almost physical shock. Turning to Van Tien Dung who was then standing next to me, I asked quietly, Where are our divisions one, three, five, seven and nine . Dung stared at me a moment, then replied with equal deliberateness: The army has already been unified. As he pronounced these words, the corners of his mouth curled up in a slight smile.(..) We knew finally that we had been well and truly sold. Since when I demanded. There’s been no decision about anything like that” Trương Như Tảng, A Viet cong memoir, trang 264-265 Nghe câu chuyện này, nhà văn Vũ Thư Hiên chỉ cười vì một đứa trẻ ở miền Bắc cũng biết đây chỉ là trò bịp bợm. Ngoại trừ một vài đảng viên cộng sản như Huỳnh Tấn Phát và vợ là Bùi Thị Nga, bà Nguyễn Thị Bình, nhà văn Thanh Nghị và Lê Hiếu Đằngvv… Ai là người trong Mặt trận còn tiếp tục đi theo đảng cộng sản? Trương Như Tảng là một trong những người đã dứt khoát, liều chết ra đi và ngồi viết sách A Viet cong memoir,1985. An inside Account of the Viet Nam war and the aftermath. Thứ đến là bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và chồng Huỳnh Văn Nghị, sau 1975 đã chính thức xin ra khỏi đảng. Mãi 10 năm sau,đơn xin mới được chấp nhận. Khi được Stanley Karnow phỏng vấn trong chương trình Việt Nam, a history về sự thất bại của đảng cộng sản VN, bà cho hay như sau: “I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of the Commnism, and it is a failure, mismanagement, corruption, privilege and repression .. My ideals are gone .(Tôi đả suốt đời đi theo đảng cộng sản, nhưng bây giờ tôi đã nhìn ra bộ mặt thực của chủ nghĩa cộng sản. Và đó là một thất bại, một quản lý tồi, tham nhũng, độc quyền và sự đàn áp. Lý tưởng của tôi không còn nữa Trích Vietnam television History, Stanley Karnow, phần phỏng vấn bác sĩ Dương Quỳnh Hoa. Và trong một lần trả lời phỏng vấn tờ Far Eastern Economic Review, người phỏng vấn đã hỏi bà: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 annees passees (Biến cố nào được coi là đặc biệt quan trọn trong 50 năm vừa qua). Bà đã trả lời: L’effondrement du mur de Berlin qui met un terme à la grandeur illusion. ự Sự xụp đổ của bức tường Bá Linh đã chấm dứt một ảo tưởng lớn(27) Thật vậy, ngày nay rõ ràng Chiêu bài MTGPMN là một chiêu bài bịp, che đậy thực chất của cuộc chiến tranh! Tiến sĩ Nguyen Thi Lien Hang , giáo sư đại học North Carolina đã trình bày thực chất cuộc chiến tranh ấy. Bà gọi là Hanoi’s war quả không hẳn là sai. Cuộc chiến tranh ấy được lãnh đạo từ Hà Nội và là căn cứ hậu cần cung cấp người và võ khí thông qua đường mòn Hồ Chí Minh để tấn công miền Nam. Cho nên, tôi xác nhận đã nhìn trên chương trình Viet Nam Television History lá cờ hai mầu đỏ,xanh, giữa có ngôi sao vàng-cờ của MTGPMN cắm trên chiếc xe tăng phá cửa dinh Độc Lập. Nhưng cắm một lá cờ mầu xanh trên các xe tăng T.54 tiến vào dinh Độc Lập thì không có nghĩa là có thể thay đổi được tên cuộc chiến. 6 sư đoàn binh đội cộng sản đang bao vây Saigon với xe tăng của Nga là bằng chứng hiển nhiên nhất. Vả lại lá cờ MTGPMN được cắm trên các xe tăng tiến vào dinh Độc lập sáng 30 -4 và lá cờ mầu xanh-đỏ ấy cũng được treo trên nóc Dinh Độc lập chẳng bao lâu sau đã tự động biến mất. Màn kịch diễn đã xong, sự có mặt của MTGPMN là một điều thực sự thừa thãi với ba thành phần chính phủ. Nó là một bằng cớ tố cáo thực chất cuộc chiến tranh dơ bẩn ấy. Nó phải biến đi càng sớm càng hay với lệnh miệng của Tố Hữu: Anh Ba muốn thống nhất ngay- một hình thức xóa sổ MTGPMN. Tôi cũng đã nghe và nhìn rõ đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như tướng Trần Độ trả lời về chiến dịch Tổng tấn công và tổng nổi dậy trong dịp Tết Mậu Thân. Mặc nhiên điều đó cho thấy có sự nhìn nhận về sự chỉ đạo chiến tranh từ miền Bắc. Tôi cũng nhìn rõ hai sĩ quan cộng sản miền Bắc trả lời chương trình truyền hình của Mỹ. Một là Đặng Xuân Tèo là người có nhiệm vụ chiếm đánh đài phát thanh Sài gòn trong dịp Tết Mậu Thân. Hai là đại úy Trần Đình Thông là người tham dự trận Khe Sanh. Tôi cũng đã nghe và nhìn rõ hai bộ mặt tiêu biểu xứ Huế là bà Phạm Thị Xuân Quế( bác sĩ) và Hoàng Phủ Ngọc Tường( giáo sư) nói những lời biếm nhã về VNCH. Nhất là tôi cũng nhìn thấy binh đội của cụ Hồ, mặc đồ trận rất khác lạ. Họ đều mặc quần sooc, người ngắn lủn củn vác súng chạy trong các đường phố Huế!! Tôi cũng nhìn thấy trên đài truyền hình của Mỹ ở trên cảnh tượng những mồ chôn tập thể đang dược đào bới lên ở nhiều địa điểm trong thành phố Huế!! Phải châng đây là những con người sẽ đến giải phóng chúng tôi ra khỏi bọn Mỹ xâm lược? Trận chiến tranh Dông Dương lần thứ hai không phải là công việc của MTGPMN mà là cuộc chiến khởi động động từ Hà Nội. Đó chính là một thứ Hà Nội war như tiến sĩ Liên Hằng khẳng định. - Vì thế, mục đích chính của Hiệp định Ba Lê không phải mưu tìm Hòa Bình, chấm dứt chiến tranh mà lá chiến lược là để cho Hoa kỳ rút lui và tình hình quân sự sẽ thay đổi sáu tháng sau. Chu Ân Lai đã nhiều lần khuyến cáo Lê Đức Thọ về điều ấy: “Zhou tried to convince his Vietnamese guest to negotiate seriously with the aim of reaching an immediate agreement, since the Americans were definitely on their way out of Southeast Asia. The Chinese leader repeated this advice to Le Duc Tho a few days later. “ The most important ( thing)is to let the Americans leave,” Zhou stated: The situation will change in six months or a year”. Lien Hang .T Nguyen, Hanoi’s War, trang 297 Hiệp định Paris rõ ràng không nhằm chấm dứt chiến tranh và kiến tạo hòa bình. Nhưng là cách thức tiến hành chiến tranh nhanh chóng hơn, khốc liệt hơn, nhằm thôn tính toàn miền Nam của cộng sản. Kể từ sau Tết Mậu Thân 1968 đến 1972, hai bên Mỹ và Bắc Việt tiến hành cuộc Hội Đàm Ba Lê. Đó là giai đoạm vừa đàm vừa đánh. Trong giai đoạn này, trung bình phía cộng sản thiệt hại 500 binh sĩ/một ngày . Nhưng vẫn kiên trì trên hai khẩu hiệu : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Năm 1969. Hồ Chí Minh chết mở rộng thêm tham vọng xâm chiếm miền Nam của Lê Duẩn. Không còn HCM, ai có thể ngăn cản được tham vọng của Lê Duẩn? Cuộc thanh lý nội bộ càng trở nên công khai và ác liệt. Trong cuộc hòa đàm này, Xuân Thủy đề nghị ba điểm : Thứ nhất Hoa Kỳ rút quân ra khỏi miền Nam 30 tháng sáu/1971. Thứ hai một chính quyền mới ở Sài gòn không có Nguyễn Văn Thiệu, phó TT Nguyễn Cao Kỳ và thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Về phía Mỹ, đề nghị bảy điểm của Kissinger được phía bên kia như Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh coi là nghiêm chỉnh. Đây là lần đầu tiên người Mỹ đưa ra một giải pháp toàn diện cho cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai trong đó chủ yếu có điều khoản : Người Mỹ sẽ rút ra khỏi chiến tranh Đông Dương, nhưng không có bao hàm một sự rút lui(mutual withdrawal) của cộng sản Bắc Việt. Phía VNCH, qua Hoàng Đức Nhã cực lực phản đối điều khoản này .. Nhiều cuộc đi lại sang Sài gòn để thúc ép TT Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận. Đại sứ Mỹ, ông Bunker đã vào dinh Độc lập trực tiếp yêu cầu TT. Nguyễn Văn Thiệu thay đổi lập trường. Sự thay đổi có nghĩa là chấp nhận sự thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Trong một buổi họp, đại sứ Bunker đã hỏi ông Thiệu: - « Vậy thì thưa Tổng Thống, «Đại sứ Bunker đặt câu hỏi, lập trường chót của Ngài là không ký phải không? - Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi, Ông Thiệu đáp : «Tôi sẽ không ký và xin Ngài thông báo cho Tổng Thống Nixon biết như thế . Xin quý vị trở về Washington và nói với Tổng Thống Nixon rằng, tôi cần được câu trả lời ». Nguyễn Tấn Hưng, Tâm tư tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trang 335. Và sau đây là lá thư áp lực, áp đảo tinh thần ông Thiệu nếu không chịu nhượng bộ: đảo chánh. White House Ngày sáu tháng 10, 1972 Thưa Tổng Thống “.. Tôi yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968…” Trân trọng Richard Nixon Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, trang 90 Mặc dầu trong chuyến đi Bắc Kinh, Nixon đã viết thư trấn an ông Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 31 tháng 12, 1971 như sau: Ngài có thể chắc chắn tuyệt đối rằng tôi sẽ không đi tới một thỏa thuận nào ở Bắc Kinh nếu nó phương hại tới các quốc gia khác, hoặc về những vấn đề có liên hệ tới các nước khác. Ngài có thể tiếp tục tin cậy vào sự yểm trợ của Hoas Kỳ trong những nỗ lực của Ngài hầu đem lại hòa bình cho Việt Nam và xây dựng nền thịnh vượng mới cho nhân dân Việt Nam. Trân trọng (kt) Richard Nixon Nguyen Tiến Hưng, Ibid, trang 78 Nhưng thật ra ngay từ ngày 9 tháng bảy, 1971, Kissinger đã họp mật với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, báo New York Times ngày 28/2/năm 2002 sau này đã tiết lộ: Trong cuộc họp này, Kissinger đã nói với Chu Ân Lai:” Dù có thương thuyết hay không thương thuyết với BV đi nữa, rồi chúng tôi cũng rút quân ra một cách đơn phương”. Nguyen Tiến Hưng, Ibid, trang 342 Truyền hình Mỹ cho thấy còn có mặt trận thứ hai đang diễn ra trên đất Mỹ. Có hàng triệu người Mỹ xuống đường kêu gọi chấm dứt chiến tranh và đem lính Mỹ về nước. Các thượng nghị sĩ Mansfield, Kennedy cũng lên tiếng ủng hộ quan điểm chống chiến tranh VN ..Nghĩa là có một cuộc chiến chống Mỹ ở Thượng viện Mỹ và ở ngoài đường phố phối hợp với nhau. Bên cạnh đó thêm rắc rối cho chính quyền Mỹ với vụ án Trung úy Calley phải ra tòa án binh ngày 29/3/ 1971 được gọi là vụ án sát hại một số dân làng ở Mỹ Lai. Thật ra câu chuyện tàn sát này xảy ra vào năm 1968 khi một đon vị của viên sĩ quan này bị thiệt hại nặng trong việc càn quét Mỹ Lai .. Tức giận, Trung úy William Calley Jr đã tập trung tất cả đàn bà trẻ con và sát hại tất cả. Đây là một tội ác chiến tranh không thể bào chữa được gây thêm công phẫn trong dân chúng Mỹ. Mémoires Richard Nixon, trang 362 Chưa kể sự tiết lộ khoảng 7000 trang tài liệu bí mật về những quyết định của Ngũ Giác Đài về chiến tranh của Daniel Ellsberg trên tờ The Washington Post và tờ The New York Times. Daniel Ellsberg tỏ ra bi quan và tuyệt vọng về cuộc chiến tranh khi tiết lộ nhũng tài liệu bí mật này năm 1971. Secrets : A memoir of Viet Nam and the Pentagon papers, Daniel Ellsberg Rắc rối cuối cùng xảy ra một cách định mệnh là vụ Watergate, một scandal về chính trị trong vụ bầu cử Tổng thống Nixon. Ông Nixon đã đạt được 47.169 841 phiếu trong khi thống đốc Mc Govern chỉ đạt được 29.172 767 phiếu. Sau nhiều tháng tìm cách ém nhẹm vụ scandal không thành công. Phải nói rằng Nixon đã can đảm chống chỏi đến giây phút cuối cùng. Ngày mồng 8 tháng 8 năm 1974 là ngày cuối cùng của Nixon ở tòa Bạch Ốc ..46 người từng là bạn bè, đồng viện, phụ tá ông trong vai trò Tổng thống. Nhiều người từng có mặt với ông từ năm 1947, cùng chia xẻ những niềm hy vọng và cả những hoài bão sau chiến tranh thế giới thứ hai. Giây phút giã biệt thật dâng đầy cảm xúc và kỷ niệm. Cuối cùng Nixon và gia đình từ giã tòa Bạch Ốc và lên máy bay Air Foprce One trực chỉ Cali. Phải nói rằng Vụ Watergate đã làm thay đổi cục diện chiến tranh VN sau vụ từ chức của TT Nixon. Và nó cũng là nỗi bất hạnh cho Việt Nam. Đọc những tài liệu liên quan đến Hòa đàm Paris cho thấy, Kissinger chịu hết nhượng bộ này đến nhượng bộ chỉ vì phía Mỹ muốn rút chân ra khõi VN. Phía VNCH, một số thành phần phản chiến bị giật giây bởi cộng sản cũng hùa theo đòi hỏi chấm dứt chiến tranh một phía. Lê Duẩn ra lệnh cho cán bộ miền Nam tìm cách triệt hạ chính phủ « bù nhìn » (puppet) TT Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc bầu cử Tổng Thống sắp tới. Nhưng trước khi đạt được Hiệp định Ba Lê, cộng sản Bắc Việt đã chịu đựng một trận mưa bom trên bầu trời Bắc Việt trong suốt 12 ngày đêm sau dịp lễ giáng sinh năm 1973. Vậy mà có một số trí thức thành phần thứ ba sau 1973 đã ngớ ngẩn đứng ra thành lập cái được gọi là: «Tổ chức Nhân Dân đòi thi hành Hiệp định Paris năm 1973 ». Đứng đầu là luật sư Trần Ngọc Liễng với giáo sư Châm Tâm Luân, biện lý Triệu Quốc Mạnh. và cũng đừng quên tên linh mục cộng sản nằm vùng Huỳnh Công Minh. Ngày nay nhìn lại mới thấy những người này là những tên hề chính trị- khờ khạo và xuẩn ngốc-. Châu Tâm Luân sau này đã tỉnh ngộ và đã cuốn gói ra ngoại quốc. Nhưng tôi nghĩ rằng khi viết bài này, cách duy nhất để tôi khỏi sa lầy vào những công việc soi mói từng sự việc nêu ra của tác giả Huy Đức, rồi phản biện lại từng vấn đề của một cuốn sách. Đó là một công việc vừa tốn thời giờ vừa đi vào những tranh luận có thể triền miên không lối thoát. Tôi chọn thái độ đứng về phía của một người thua cuộc- với tâm tình, với cảm nghiệm của kẻ bị xỉ nhục như hầu hết người dân miền Nam sau 1975. Không biết đây là lần thứ mấy, mỗi khi nhắc nhớ lại những gì xảy ra sau 1975, tôi vẫn nhói lên nỗi đau như một vết thương chưa lành. Và tôi phải nói thêm rằng càng bị xếp vào cái chỗ của một người quốc gia thua cuộc. Tôi càng thâm tín rằng mảnh đất miền Nam là một mảnh đất hứa đem lại cơm no, áo ấm, giá trị đạo đức, giá trị nhân bản giúp cho giới thanh niên chúng tôi ăn học trở thành những người hữu dụng, những trí thức Việt Nam ở trong nước và ở Hải ngoại. Miền Nam là cái nôi đầu đời giúp cho giới trẻ miền Nam biết sống tử tể và trang bị vốn kiến thức vào đời. Hãy cứ nhìn thành quả sự hội nhập thành công nơi xứ người của những người di tản thế hệ thứ nhất. Đó là bằng chứng không chối cãi được cái gốc gác miền Nam của họ- cái hành lý họ mang theo không phải tiền bạc mà cái hành lý tinh thần!! (Bagage intellectuel). Cho nên, không hãnh diện về gốc gác miền Nam, không thể viết bài này được. Không hiểu thấu nỗi đau về cách đối xử thất nhân tâm của kẻ thắng cuộc thì không hiểu được tâm tình của 15 triệu con dân miền Nam. Ông Võ Văn Kiệt được coi là một người cộng sản hiểu biết và có lòng. Ông Kiệt cho rằng Ngày 30 tháng tư- “ngày giải phóng”- có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn. Cám ơn trân trọng sự vỗ về và phủ dụ của ông. Nhưng xin phép không đồng ý về sự tổng quát hóa như thế. Nếu quả thực có triệu người vui thì không thể có hiện tượng 10% người dân miền Nam liều mình bỏ nước ra đi. Hằng triệu người bằng mọi giá, hy sinh cả tính mạng bỏ trốn ra nước ngoài. Khi có một người phụ nử liều chết mang hai con, chèo thuyền ra biển và đến được Úc thì đấy là biểu tượng không chối cãi được chế độ ấy không thể sống chung được và nó cũng không có lý do để tồn tại mãi được! Quyết định ra đi là một quyết định sinh tử vì biết không thể sống trong chế độ cộng sản. Bằng chứng rõ rệt như thế mà người ta vẫn tìm cách che dấu và bẻ quặt sự việc. Mất nhà, mất cửa, vợ chồng cha con chia lìa-mất hết-mất cả sự sống, mất hy vọng, mất cả tương lai, bị hành hạ xỉ nhục đủ thứ bởi những người đi chân đất, chữ nghĩa không đầy một cái lá me thì vui sao được, vui ở chỗ nào. Hãy chỉ cho tôi thấy có được một ngày vui nào trong những năm tháng ây? Xin trích một đoạn trong một bài viết của tôi về cái ngày vui ấy như sau: “Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt khô khan của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những đường lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào. Praha, Sài Gòn, ngạo nghễ và tủi nhục. Những chiến xa trên có cắm cờ của MTGPMN đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho người ta có có cảm tưởng đường Tự Do của miền Nam là đại lộ Champs-Elysées của Paris hồi nào. Nhưng Champs-Elysées của Paris vào tháng 8-1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng được giải phóng. Chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc. Nhưng Champs Elysées thì không phải đường Tự Do ở Sài Gòn. Đường Tự Do không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Nguyễn Văn Lục, Lịch sử còn đó, trang 320 Tôi hy vọng những quan điểm nhìn của chúng tôi khi nhìn lại cuộc chiến mở ra những viễn tượng trung thực về cuộc chiến, xóa tan những” mây mù thế kỷ” đã qua. (nhan đề một cuốn sách của nhà báo Bùi Tin). Nhờ đó tôi có cơ hội mở ra những góc nhìn gỡ rối, trung thực hơn mà ngay cả những người muốn hòa giải và đầy thiện chí – cũng không thể chia xẻ hết những nỗi oan khiên của người dân miền Nam được. Hiện nay, nhiều người mong muốn xóa bỏ hoặc quên quá khứ để nghĩ tới tương lai nên mong mỏi một giải pháp nào để người Việt từ hai phía có thể ngồi lại. Tôi cho là một ước vọng viển vông. Hai ý thức hệ ấy không cho phép họ ngồi lại với nhau được. Nói ngồi lại là gián tiếp người Quốc Gia phải chấp nhận chế độ cộng sản. Vì thể, chỉ có thể ngồi lại khi chế độ cộng sản không còn nữa hoặc tự giải tán. Nhận xét sau đây của ông Võ Văn Kiệt xem ra sát thực tế hơn, khi được hỏi: Làm thế nào để làm lành vết thương chiến tranh? -Ông Võ Văn Kiệt cho rằng một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui, mà cũng có hằng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó rỉ máu. Nhưng chính người cộng sản phải thực tâm khoan dung và hòa hợp.. Sau 30 năm, tôi thấy không dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó. Trích Báo Quốc tế, do bộ Ngoại giao xuất bản đã đăng bài phỏng vấn ông Kiệt: Những đòi hỏi mới của thời cuộc, vào đầu tháng tư.2005. Trích lại trên diendan.org số 151, tháng 5.2005 Tôi tự hỏi hơn 30 năm chưa làm được sự hòa hợp thì bao giờ làm được? Triệu người buồn thì có, nhưng tôi không thấy triệu người vui là những ai? Ngày hôm nay tư thế của hơn ba triệu người Việt di tản ra hải ngoại không phải còn ở cái tư thế bị thúc ép về chính trị, về an toàn sinh mạng cá nhân hay nhu cầu cơm áo nên cần phải ngồi lại, cần phải hòa giải. Có cái lý do gì thúc ép người Việt phải hòa giải? Sau chiến thẳng, ho tự cho phép mình có quyền được chia phần thắng lợi coi như một thứ chiến lợi phẩm được thụ hưởng như nhà cửa, xe cộ, tiền bạc cũng như quý kim. Sự thu tóm gần như được coi là một thứ ăn cướp công khai ở bình diện cá nhân cũng như cấp chính quyền các cấp từ địa phuong đến trung ương. Những căn biệt thự đẹp nhất của Sài gòn trên các đường Duy Tân, Lê Lợi, Công Lý, Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương họ chiếm ngự. Tôi đã có lần đến thắp nén hương tại tư gia của ông Phó thủ tướng Vũ Đình Liệu tại đường Bà Huyện Thanh Quan hay Tú Xương không nhớ rõ, nhân dịp ông qua đời. Căn biệt thự nằm đối diện với biệt thự của ông Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở phía bên kia đường, có tường cao, sân trải sỏi. Bà phó thủ tướng dẫn tôi đi coi căn biệt thự và chỉ cho thấy bà đã cho một tư nhân xây một trường Mẫu giáo quốc tế, cao ba tầng và họ được khai thác trong thời hạn 5 năm. Sau 5 năm, trường và tất cả cơ sở thuộc về bà. Bà biết rõ ràng trong tay bà đang nắm bạc tỉ, tỉ một cách danh chính ngôn thuận và hợp pháp. Bà lả mẫu người đàn bà nhà quê hiền lành, chất phác. Bà không bao giờ có mảy may một ý tưởng trong đầu là kẻ mang danh giải phóng miền Nam khỏi đế quốc Mỹ lại chính là kẻ cướp ngày được hợp thức hóa. Người Mỹ đến miền Nam chưa lấy một mét dất nào của dân miền Nam. Có điều gì cho phép kẻ thắng cuộc truất hữu mọi tài sản người miền Nam nhân danh một chủ nghĩa cộng sản? Công lý ở đâu, luật pháp ở đâu, các ông không nhận thức được đó là sự ăn cướp hợp pháp được chế độ bao che. Tốt hơn hết, chúng tôi xin dẫn một chứng từ của Đại tá Châu Thái Hùng trong cuốn sách của ông: Một cuộc đời đầy thử thách thể hiện đúng phong cách một kẻ chiến thắng tiêu biểu nhất .. Đọc cuốn sách với “một số tình tiết tiêu biểu cho một thời, tiêu biểu cho môt con người cộng sản sau 1975”. Chúng ta hãy nghe ông đại tá kể lể : “Tôi là người đầu tiên tiếp quản quận 5 và được nhà nước cấp cho căn nhà tại đây. Vì thế, khi về hưu tôi vẫn tiếp tục ở trong địa bàn này và xử dụng căn nhà thuộc sở hữu của tôi để kinh doanh kiếm sống một cách hợp pháp theo đúng chủ trương của nhà nước. Các đồng chí nên nhớ rằng tôi đã tham gia cách mạng suốt đời, từng bảy lần bị thương đồng thời cống hiến biết bao công sức và xương máu cho sự nghiệp chung. Nay chẳng lẽ vì một chút lợi ích nhỏ mọn mà tôi lại bán rẻ danh dự, giá trị con người của tôi hay sao? Nhờ thế lực của ông, ông kinh doanh mở khách sạn Mini kiếm sống và tiếp theo là một chuỗi các hoạt động kinh đoanh lớn nhỏ khác. Dân chúng bị cấm buôn bán làm ăn, nhưng ông thì được ..Ông rất tự tin và tự cho mình là người cách mạng chân chính.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 6:02:31 GMT 9
Về già, ông quyết định bán căn nhà ông đang ở, số 9 Tăng Bạt Hổ. Nhà nước hóa giá là 250 triệu đồng vào năm 1991. Nhưng một năm sau nhà nước trả lại số tiền 250 triệu đồng.. Sau đó nhà nước hóa giá lại thì căn nhà trị giá đã tăng lên là 2 tỉ 4 trăm triệu đồng, gấp 10 lần giá cũ. Hóa giá xong, ông cắn bụng gom tiền để thanh toán số tiền 2 tỉ 400 triệu đồng cho nhà nước, ông liền bán căn nhà đó ngay tức thì được 6 tỉ rưỡi thì chỉ hai tháng sau, giá nhà đã tăng lên 10 tỉ và một năm sau là 17 tỉ .. Người chủ mới xây dựng lại toàn bộ căn nhà và cho thuê mở nhà hàng với giá 60 triệu đồng/một tháng. Trong giai đoạn đầu tiên khi vào chiếm miền Nam, sự làm giầu của các cấp lãnh đạo ở Hà Nôi là đầu cơ nhà cửa, mua đi bán lại .. Số tiên từ bạc triệu lên tỉ tỉ. Cứ thế mà họ phất lên! Tiền bán căn nhà số 9 Tăng Bạt Hổ giúp ông đại tá mua một mảnh đất ở Bình Chánh để dường già .. Chúng ta có thể mường tượng căn nhà này lớn và giá trị thương mại như thế nào? Chúng ta có nên làm một cuộc so sánh cuộc đời đi làm cách mạng và cuộc đời sau 1975 của ông đại tá không? Ông có phải là biểu tượng của loại tư bản đỏ không? Ông Huy Đức cũng như những người cộng sản đều thấy công việc làm của ông đại tá trên là điều rất tự nhiên đến không có gì để thắc mắc. Nhưng người dân miền Nam không thể chia xẻ việc cướp đất, cướp nhà công khai như vậy. Họa chăng ông đại tá chỉ có một thiệt thòi nhỏ trong nội bộ gia đình là ba của ông có nhiều tiền gửi ngân hàng của chính quyền ngụy, trước 1975. Nhưng sau đó bị nhà nước tịch thu sau 1975. Ông bố xót của oán trách cách mạng rồi giận lây sang ông con ” đi làm cách mạng”, nhưng ông vẫn chịu đựng tất cả và vẫn ân cần lo lắng cho cha của mình. Trong Hồi ký, ông đại tá cũng kể cái việc tranh dành, bất đồng giữa giữa các đồng chí lãnh đạo địa phương với lãnh đạo Thành phố và Trung ương. Trung ương cử cán bộ các ban ngành vào tiếp quản. Khi vào đến nơi, cán bộ Trung Ương tiến hành tiếp quản những cơ sở và tài sản này … Một số người lợi dụng vị thế để trục lợi cho bản thân, tiếp quản 10, nhưng chỉ bá cáo một hai, số còn lại chia nhau làm của riêng. Đồng chí Sáu Thơm, chủ tịch ủy ban nhân dân quận Năm không đồng ý với với cách làm của cán bộ Trung ương nên đề nghị họ tạm ngưng tiếp quản. Những người này liền phản ánh với đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Võ Văn Kiệt: ” Sáu Thơm làm vua ở quận 5 và tác oai, tác quái”. Cũng như nhiều đồng chí khác, sau khi có tiền, có nhà cửa khang trang, có xe, có tài xế, có người hầu người hạ thì nghĩ đến sắm “vợ ngoại”. Chỉ sau 2 tháng “giải phóng”, vào tháng 7/1975 ông đã kiếm được một phụ nữ ” góa chồng”, tên Thạch Thị Lang, đã có ba mặt con. Cứ theo lời ông mô tả thì đây là một phụ nữ đẹp mặn mà, là người rất đạo đức, lo lắng chăm sóc cho ông từng chút, tuy được nhiều người theo đuổi .. Bà thương ông một cách chân thật, mặc dầu ông lớn hơn 18 tuổi, không vì địa vị hay tiền bạc .. Đó là điều đáng quý Chẳng may bà lâm trọng bệnh và qua đời vào năm 2000. Con gái bà Lang hiện là một Việt Kiều hiện đang sống ở Mỹ. Xin viết lại đôi dòng với niềm trân trọng .. Về việc ” vượt biên”, đây là dịch vụ làm giàu béo bở nhất của các quan chức chế độ mới. Vàng kiếm được không phải một vài trăm cây mà lên đến cả nửa tấn. Chủ tiệm vàng Kim Thành vượt biên bị bắt và bị tịch thu 800 lượng vàng, chưa kể kim cương, hột soàn vv.. Lúc còn sinh sống ở miền Bắc, vị nào có vài chỉ vàng chắt chiu hà tiện đã là quý lắm rồi. Nay có đến hàng vài trăm lạng là chuyện thường. Phải chăng đây là cái được của kẻ thắng cuộc? Chúng ta hãy nghe ông đại tá viết trong Hồi Ký : “Bọn tổ chức vượt biên mua chuộc cán bộ xã ấp và du kích để làm ngơ cho chúng, mà lúc bấy giờ thường gọi là “mua bãi”. Thông thường bọn chúng trả cho cán bộ xã ấp một lượng vàng cho hai người khách vượt biên. Trung bình mỗi chiếc tầu chở khoảng mấy trăm người, do đó số vàng thu được của mỗi chuyến vượt biên là rất lớn”. Nhiều lần các anh em đề nghị tôi nhắm mắt làm ngơ, đổi lại sẽ nhận được vài chục lượng vàng mỗi đêm, nhưng tôi cương quyết không chấp thuận mà luôn luôn ngăn cản, giáo dục và nhắc nhở anh em. Tại sao không bắt mà chỉ ngăn cản giáo dục? Giáo dục có ai nghe theo không ? Thời gian sau tình hình còn diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn, đó là việc Bộ Nội vụ ra chỉ thị cho phép cơ quan công an các tỉnh được quyền tổ chức vượt biên. (Lúc bấy giờ gọi là đi “bán chính thức”). “Trong khi đó lực lượng Bộ đội chúng tôi không hề được thông báo nên cứ làm theo tinh thần: ” Những kẻ vượt biên là phản quốc, phải tích cực ngăn chặn “. “Do vậy một bên thì ra sức cản trở, còn một bên làm ngược lại, vì thế mà có nhiều lúc xảy ra tình huống oái ăm. Chẳng hạn như chúng tôi được các anh em trinh sát báo cáo có chuyến vượt biên nên tập trung chặn bắt, không ngờ chuyến đó lại do lực lượng công an tổ chức: Thế là hai bên nổ súng vào nhau. Thật trớ trêu”. Trích tóm lược Hồi Ký của Đại tá Châu Thái Hùng. Một cuộc đời đầy thử thách. Nhưng dù sao cho đến thập niên 90, việc trưng dụng nhà cửa, việc tịch thu tài sản, việc vét túi những người vượt biên bán chính thức vẫn chỉ là những chuyện được coi là ” ăn cắp vặt” so với những vụ án làm ăn sau này tại các công ty quốc doanh hay các vụ chiếm đất đai. Ngày hôm nay, sau 38 năm, Sài Gòn đã được “ giải phóng”, dân chúng đã được sống bao nhiêu ngày an vui? Riêng những người Việt hải ngoại- những rác rưởi, những vật dư thừa ở thời điểm 1975 nay đã đạt được sự ổn định, an cư lạc nghiệp và có một tư thế chính trị quốc tế nơi miền đất cư ngụ- nhất là ở Mỹ. - Về kinh tế, gần 10 tỉ đô la mỗi năm chảy về Việt Nam là con số đáng nể có tác dụng vực dậy nền kinh tế VN có dấu hiệu trên đà phá sản. Trong giai đoạn kinh tế đổi mới, phá rào. Kiều hối gián tiếp trở thành nồi cơm nuôi cả nước. Lợi tức trung bình giới công nhân VN là 1000 đô la/ năm so với lợi tức trung bình của người Việt là gần 20.000 đô la/ năm. - Về mặt chính trị, tiếng nói của người Việt Hải ngoại là một thứ quyền lực mềm (soft power) có tầm ảnh hưởng trên các quyết định của các chính quyền địa phương nơi cư ngụ- nhất là nơi có đông cư dân người Việt. Càng ngày càng có thêm người Việt ý thức được vai trò của mình và tham gia vào chính quyền nơi địa phương mình ở. Chẳng hạn những quyết định công nhận là cờ vàng nơi một số tiểu bang Mỹ hay quyền không cho phép các hoạt động công khai của cộng sản nơi một số địa phương cũng như những thỉnh nguyện thư gửi chính phủ không phải là những việc làm không có ý nghĩa. Sức mạnh ấy có khả năng dập tắt mọi tham vọng xâm nhập vào cộng đồng người Việt nhằm chi phối, ảnh hưởng. Sức mạnh ấy cũng có tác dụng trực tiếp và gián tiếp trên những vi phạm quyền con người cũng như cảnh báo về nguy cơ mất đất, mất biển. - Đã có khoảng trên dưới một triệu người Việt thành công nơi xứ người. Nó chẳng những tạo dựng một cộng đồng VN có uy tín và được kính nể mà còn có thể là tiềm năng sau này cho một VN đổi mới. Nhưng kẻ lúc ra đi năm 1975 dưới mắt kẻ chiến thắng chỉ là một thứ rác rưởi bị quăng ra biển nay trở thành thứ rác quí. Phải nhìn nhận trên 30 năm nay, kẻ chiến thắng vẫn chưa có khả năng thu phục một phần nhỏ nhoi những thứ rác quý nảy. Họ vẫn lãng phí tài nguyên chất xám này bằng những chính sách phủ dụ của một bàn tay sắt, bọc nhung. Họ vẫn muốn khai thác tối đa những lợi nhuận từ những người Việt này mà vẫn không có khả năng đưa ra một giải pháp hợp tình, hợp lý có tác dụng thu phục. - Đối với thành phần trí thức và ưu tú nhất- nhất là giới trẻ trong nước- ở tư thế những người bất đồng chính kiến-, họ đang nỗ lực, can đảm tranh đấu cho một VN dân chủ và tự do vẫn thấy cộng đồng người Việt Hải ngoại là chỗ tựa tinh thần cho họ như một sự nâng đỡ, một cổ vũ và như nguồn hy vọng. Hằng trăm, hàng ngàn người trí thức trong và ngoài nước hiện nay đang tranh đấu cho một Việt Nam Tự Do, Dân Chủ thực sự khỏi chế dộ độc tài cộng sản. Có một sự chia xẻ và cảm thông giữa các thành phần tranh đấu trong và ngoài nước. Trào lưu tranh đấu ấy chắc hẳn còn đòi hỏi nhiều hy sinh, nhưng thực tế là có một nỗ lực chung, một lý tưởng chung giữa trong và ngoài nước như một đối lực mà chính quyến cộng sản không thể coi thường về diễn biến hòa bình này. Trong sự tranh đấu hiện nay, quá khứ không thể nào quên mà như nhắc nhở tới những điều thực tế hiện nay. Tuy nhiên, phải nhận cho rõ rất nhiều người trẻ hiện nay đang tranh đấu, đang ngồi tù và sẽ tiếp tục ngồi tù không liên quan gì đến các hội chứng chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và nhất là lần thứ hai. Họ lớn lên từ trong lòng chế độ ấy và sự chống đối của họ là nguyên chất và trong sáng hơn bao giờ hết. Cho nên đến tận bây giờ, tôi thâm tín rằng còn nhiều điều để nói về cuộc chiến tranh vừa qua và nhất là quá nhiều điều để nói sau khi cuộc chiến đã chấm dứt. Chưa ai nói hết. Nói sai thì nhiều và cũng chưa một ai nói đủ. Vấn đề không hẳn là tranh cãi với tác giả Huy Đức. Vấn của người Việt hải ngoại là với tư cách người thua cuộc phải lên tiếng để vạch ra những sai trái của kẻ thắng cuộc. Đó là trách nhiệm của những người cầm bút bên phía những kẻ thua cuộc (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 6:05:20 GMT 9
Khuyết điểm thứ tư: Mục tiêu của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai Đây có lẽ là vấn đề quan trọng nhất, là cội nguồn bản chất của cuộc chiến vừa qua. Các ông, các bà, quý vị, các trí thức, các nhà báo, các nhà chính trị, các người cộng sản muốn nói gì thì nói. Tôi vẩn khẳng định một điều: Kiếp nạn của con người, của cả thế giới trong thế kỷ thứ 20 là: - kiếp nạn cộng sản: Hơn 100 triệu sinh linh đã gục ngã cho lý tưởng cộng sản. Hàng thế kỷ chậm tiến và lạc hậu để chỉ đạt được một thứ là : Huyền thoại phiêu du, lang bạt. (Le Mythe errant). Họ đã lãng phí, bỏ tất cả mọi năng lực, vốn liêng con người cho một lý tưởng mà thực tế không bao giờ Xã hội có được. Gần một thế kỷ, có ai tự hỏi hoặc tự vấn bao giờ con người VN tiến lên được XHCN. - Kiếp nạn Hồi giáo cực đoan: Hiện nay nhân loại trong thế kỷ 21 đang phải đối diện với trục của điều xấu được coi là sự đe dọa đến sự an ninh của toàn thế giới. Đó là sự nổi dậy của những thành phần Hồi giáo cực đoan. Nếu ai trước là do ý thức hệ cực đoan và mù quáng, cái sau là cuồng tín và điên loạn. Hình như mỗi thế kỷ có những cái trục của điều xấu xảy ra như món quà Thượng Đế dành cho nhân loại? Cái kiếp nạn ấy đáng nhẽ VN có thể tránh được, nhưng những người lãnh đạo Hà Nội đã bỏ mất ba cơ hội quý giá mà tôi đã tóm tắt ở trên – tôi chỉ nhấn mạnh sau 1975 mà không nhắc tới giai đoạn Bảo Đại: -Sau 1975, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Nhưng những cơ may hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi xứ sở lại do chính những người cộng sản đương quyền bỏ lỡ dịp may. Sau ông Johnson đến Carter làm tổng thống, ông này đã nghĩ tới chuyện bắt tay hòa giải bằng cách bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Nhưng vì phía Việt Nam quá mông muội ảo tưởng với chứng bệnh vĩ cuồng, “ngon” nên đòi món quà hơn 3 tỉ Mỹ kim vô điều kiện về lời hứa của Nixon khi ký thoả ước đình chiến vào năm 1973. (Trước khi ký kết thỏa ước ngưng bắn 1973, Nixon có hứa bồi thường để hàn gắn vết thương chiến tranh khoảng hơn 3 tỷ đô la, nhưng chưa có sự thoả thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ. Như vậy vẫn có thể chỉ là một lời hứa suông). Phái đoàn đại diện chính thức của Mỹ đến Việt Nam vào tháng 3, 1977 do Leonard Woodthingy kể như về tay Không. Họ chỉ mang theo về được 12 thi hài lính Mỹ thuộc diện MIA. Tổng thống Carter sẵn sàng làm mọi chuyện, trừ truyện bồi hoàn không điều kiện. Vì thế Leonard Woothingy đã nói với đại diện phía Việt Nam Phan Hiền như sau: “Let us go outside and jointly declare to the press that we have decided to normalize relations. Hien refused”. Trích Hotbrooke, trích lại của Chanda, Brother Enemy, trang 152 Hiền refused mà chính là đảng refused!! Nhưng những cơ may hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi xứ sở lại do chính những người cộng sản đương quyền bỏ lỡ dịp may. Sau này, hồi ký của Trần Quang Cơ, cựu thứ trưởng ngoại giao đã bày tỏ nỗi thất vọng chua chát về sự mông muội của Việt Nam qua Phan Hiền.- Đỗ loi64i cho Phan Hiền thì cũng tội quá- Biết bao hệ lụy của việc từ chối này. Như việc Mỹ dùng quyền phủ quyết Veto, ngăn chặn việc VN vào Liên Hiệp Quốc hay vào tháng 2/1979, Trung Cộng xua 200.000 quân sang VN, đối chọi với 100.000 quân đội miền Bắc với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ (blessing of the United States). Và sau đó, gần 200.000 người gốc Trung Hoa đã tìm cách rời khỏi VN. Và phải mất thêm gần 20 năm sau mới có cơ hội bình thường hóa với Mỹ, với các tổ chức quốc tế. Tự mình, chính quyền mới đã tự cô lập trong sự thỏa mãn với chính mình… Dưới thời đệ I và đệ II cộng hòa, miền Nam Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới và với tất cả các tổ chức về y tế, các học viện, các quỹ tiền tệ và các tổ chức như: Plan de Colombo, FAO, O.N.U, OMS, WHO, UNESCO, UIT, UPU, IPF, ILO, OAA.v.v… Chỉ tính đến năm 1955, chúng ta đã có mặt và là thành viên của trên hơn 30 tổ chức quốc tế này. Tài liệu Viet Nam d’Hier et d’Aujourd’hui, Thái Văn Kiểm, trang 332. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, cơ hội hòa hợp dân tộc bị bỏ lỡ sau Hiệp định Paris “do chủ trương tràn ngập lãnh thổ của Sài Gòn”. Đồng thời, trong những năm sau đó, “cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm”. ‘Một lần nhỡ thời cơ, hận muôn đời ‘ Theo cựu ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, thách thức đặt trước dân tộc Việt Nam cả trong quá khứ và hiện tại là tư duy đối đầu, triệt tiêu lẫn nhau trong quan hệ với các nước ngoài. Bên cạnh đó, là chính sách của nước lớn đối với nước nhỏ, mà ông gọi là “tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều cống nhiều khi vẫn lấn lướt”, tuy không chỉ rõ tên cường quốc. “Đấy chính là khởi nguồn đã gây ra bao nghịch lý cho dân tộc Việt trong lịch sử, nay nếu ta không biết cách chế ngự nó, tương lai có nhiều điều khó dự đoán!” “Cơ hội bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ bị đẩy lùi hàng chục năm cũng là do tư duy đối đầu ấy gây ra!” Ông cảnh báo: “Vấn đề tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ là bài học vô cùng quan trọng”. Bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Cầm trên BBC - Cơ hội thứ hai khi có sự sụp đổ các đảng cộng sản ở Đông Âu và nhất là ở Liên Xô. Cơn bão dân chủ ở Đông Âu đã hẳn có những tác động dến tình hình chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên phải đợi đến khi Lê Duẩn chết vào tháng 7-1986 thì mới có dấu hiệu thay đổi ở Việt Nam. Đại hội đảng kỳ VI đã bầu Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí Thư và ông này cho áp dụng một số cải tổ theo xu hướng đổi mới. Tinh thần đổi mới là xóa bỏ chế độ bao cấp cũng như chế độ hai giá để giải quyết tình trạng thiếu hụt lương thực một cách trầm trọng. Để thực hiện điều này Nguyễn Văn Linh dưới bút hiệu N.V.L đã viết các loạt bài« Những việc cần làm ngay » đang trên nhật báo Nhân Dân. Loạt bài báo của NVL như chất xúc tác giúp các nhà văn, nhà báo mạnh dạn tố cáo nạn cường hào, nạn tham nhũngvv.. Công việc đổi mới này cũng được giao cho tướng Trần Độ tổ chức họp các văn nghệ sĩ, trí thức tại Hà Nội ngày 6 và 7-1-1987. Rất nhiều nhà văn, trí thức đã lên phát biểu và sau này tướng Trần Độ đã cho in thành sách. Trần Độ, Đổi mới, niềm vui chưa trọn vào năm 2000, xuất bản tại Hải ngoại Về cơ may Đổi mói, xin đọc những tài liệu, bài báo của nhóm Chiều Thứ sáu gồm có: Những người tiên phong là Lâm Võ Hoàng, Phan Chánh Dưỡng, Phan Tường Vân, Huỳnh Bửu Sơn (người giữ chìa khóa kho bạc ngân hàng). Hiện tôi có giữ được một tập hồ sơ về Đổi Mới của ông Lâm Võ Hoàng với một số lượng bài báo bài báo đủ loại được đăng báo trong nước. Ông là nhân tố chính trong nhóm Chiều Thứ sáu đã cố vấn cho ông Kiệt. Xin trích tóm lại vài dòng về cơ duyên của ông được ông Võ Văn Kiệt trọng dụng như thế nào. Trong bài viết : Nhóm thứ sáu, chỗ dựa và bệ phóng của tôi. Ông viết: «Có thể nói, trước 30-4-1975, tôi đã thỏa chí bình sinh về sự nghiệp. Mặc dù tôi chỉ là phó ngân hàng Việt Nam thương tín, bộ kinh tế, nhưng được ông chánh nể… và lãnh lương cao nhất nước. Khi giải phóng gần kề, tôi đã chọn ở lại vì tôi đang ở tuổi 42 sung sức …Tôi vốn gàn nên cố bào chữa cho những thất bại ê chề cho những quyết định ở lại. Chẳng hạn tôi coi 55 tháng cải tạo là « cái vé » phải mua để bước vào xã hội mới, coi việc mất sạch nhà cửa, xe cộ, đồ đạc, bộ sưu tập đồ cổ, đồ ngọc như ân sủng của Chúa ban, để trắng tay, sạch trí, sạch lòng như ông Giốp trong Cựu Ước. (Xin thưa với độc giả, ông Lâm Võ Hoàng là người « đạo mới », khi có dịp ra ngoại quốc, ông cố đi gặp cựu Hồng y Nguyễn Văn Thuận như tình cha con và hiện nay ông đã hưu trí, cũng không viết nữa . Trong sự ngưng viết theo người em của ông, sợ cũng có, ông sống như một nhà tu hành- một người đạo hạnh, làm các công tác thiện nguyện). Ông có cái may mắn là được ông Đặng Quan Đức và Hai Tân nhận cho vào làm trong ban Khoa Học và Kỹ Thuật TP HCM khi đi cải tạo về .- Một công việc ngồi chơi xơi nước sống vất vưởng là thân phận những người trí thức như ông-. Ông viết một bản góp ý chưa đầy hai trang giấy về việc thiết bị gì đó và được thành phố chấp nhận. Sau đó ông rủ những anh em mới đi học tập về vào nhóm kinh tế. Họ là những người đóng góp vào việc: «điều chỉnh giá, lương, tiền » (Primosa : Prix, Monnaie, Salaire). Ông viết tiếp: «Giữa tháng 10-1989, anh Sơn cho biết ông Sáu Dân mời anh và tôi ra Hà Nội làm việc về ngân hàng .. Những anh em khác thì đề quen biết ông Sáu Dân, riêng Lâm Võ Hoàng thì không. Ông viết: «Duy chỉ có riêng tôi chỉ biết mặt ông qua hình trên báo, ti vi mà thôi. Anh viết, anh đả vặn máy hát về ngoại thương để ông Sáu ghi lia lịa: Cho nên, nhân dịp diện kiến này, xin anh Sáu cho tôi được trình bày những gì thuộc sở trường của tôi ngoài ngân hàng để mở rộng đóng góp của tôi trong các lãnh vực mà tôi từng có dịp phụ trách như ngoại thương và viện trợ Mỹ, hoặc có dịp làm quen như tài chánh, qua quan hệ tiếp xúc của tôi với các tổng trưởng tài chánh, bạn thân của tôi . Như vậy dù không có dịp trở ra, tôi cũng mát dạ vì đã có dịp nói hết những gì tôi ôm ấp bấy nay. Ông cười (ông Kiệt) và đồng ý, tôi lại vặn máy hát. .. Năm 1993, anh Dưỡng , anh Tước, anh Sơn và tôi được ông Sáu Khải lên dangh sách «các chuyên gia tư vấn » thành viên» Tổ tư vấn Cải Cách hành chánh, cải cách kinh tế của thủ tướng chính phủ». Chúng tôi viết báo thường xưng là «chuyên viên kinh tế » là ngạch trật trong biên chến của chúng tôi . Tới cuối 1996, Tổ kết thúc nhiệm vụ với nhiệm kỳ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt . Nhưng quan hệ tham vấn và góp ý giữa ông Sáu và chúng tôi vẫn không dứt từ 1986 với ba anh Dưởng, Sơn, Tước và 1989 với tôi cho đến năm 2001. Lợi ích gắn bó chúng tôi là lợi ích đất nước Việt Nam mà chúng tôi đồng yêu mến thiết tha. Về điểm này nên nhắc lại Tổ Tư Vấn của chúng tôi có quy chế độc nhất vô nhị thế giới do báo Nhân Dân ban cho, ngay sau lần họp đầu tiên. Đó là 5 không : Không có tổ chức, không biên chế, không ăn lương, không đại diện ai, không hạn chế trong phát biểu. Bốn «Không» đầu rỏ ràng là cầu cho được vậy để khỏi mè nheo sinh ra bế tắc. Cái «không » thứ năm rõ ràng không cầu mà lại được. Khi mừng kỷ niệm, thông suốt đường giây 500KV được coi là «tác phẩm » của ông Kiệt. Ông Hai Chí có mỉa mai: «Tụi tôi đâu đủ sức sử dụng chuyên gia tầm cỡ các anh». Tôi cười thầm, anh Hai tôi mà cũng biết hờn mát. Nhưng đây là vấn đề nghiêm trọng, khong thể nói giỡn, tôi thưa: «Thưa anh Hai, tụi tôi như trái ớt, nó nằm trong đĩa nước mắm của người giàu cũng như người nghèo . Tùy tay người bỏ nó vô đĩa nào thì nó làm cay đĩa đó chứ nó đâu có thể tự ý nhảy vô đĩa nào tùy thích đâu». Trong câu chót, ông viết như thế này: «Khủng hoảng tài chánh năm 1997 từ Đông Nam Á ra toàn cầu, liệu có ảnh hưởng gì tới Việt Nam thì không cần sờ mu rùa đã dõng dạc đoan chắc không có ảnh hưởng gì ..Và ông cho rằng khủng hoảng đó là cuồng phong chỉ làm tróc các cây cổ thụ, còn cọng cỏ thì chỉ rạp xuống thôi. Ta là cọng cỏ, rỏ ràng lần này là may mắn . Nhưng liệu ta có cam tâm làm cọng cỏ suốt đời để khỏi sợ bão tố, hay là phải ráng vươn lên thành đại thụ để lâu lâu nếm mùi tróc gốc, cho ra vẻ «sành điệu» với thiên hạ ». Lam Võ Hoang, nhóm chuyên vien “ Thứ sáu”, các bài viết trên báo Công giáo và dân tộc. Thang 08-2002 Viết đến đến đây, tôi tự hỏi có bao nhiêu người được cái may mắn như Dương Văn Ba và Lâm Võ Hoàng. Cử chỉ của ông Võ Văn Kiệt là xuất phát tự cái tâm của một con người- đối với con người- hay xuất phát từ một cơ chế? Dù ông Võ Văn Kiệt có thiện chí cách mấy, ông cũng vẫn nằm trong một cơ chế nên dù trân trọng ông, tất cả những chính sách sai lầm của đảng cộng sản thì ông đều có mặt, đều chia sẻ trách nhiệm!! Người ta cũng ghi nhận được một số tên tuổi đã cất tiếng nói, dám lên tiếng trong giai đoạn « cởi trói » này như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ, Phạm Tuyên, Phan Huy Lê, Trần Văn Thủy, Phan Đình Diệu, Nguyễn Khắc Việnvv. Xin đọc Lý Thái Hùng, Đông Âu tại Việt Nam, đặc biệt là chương IX: Việt Nam trước cơn bão Dân Chủ ở Đông Âu, từ trang 335-402 Đặc biệt giới văn nghệ sĩ coi đây là một «cởi trói» văn nghệ và hàng loạt tác phẩm dám nói lên sự thật và không còn uốn cong ngòi bút như Phùng Gia Lộc, Nguyễn Huy Thiệp, Ngô Ngọc Bội, Hồ Trung Tú với các bài như: Cái đêm hôm ấy đêm gì, Người đàn bà quỳ, Bông luá nổi giận, Tướng về hưu vv.. Nhưng trước những biến cố dồn dập ở Đông Âu cũng như biến cố sinh viên Trung Quốc ở Quảng trường Thiên An Môn. Đảng cộng sản VN qua Nguyễn Văn Linh bắt đầu lo ngại quyền lực của dảng bị đe dọa, sói mòn nên Bộ Chính Trị hãm lại và coi rút lại để bảo vệ quyền lợi của đảng. Và cú ngoạn mục nhất là loại Trần Xuân Bách ra khỏi Bộ Chính trị. Trong Nam thì khai tử nhóm Câu Lạc bộ những người kháng chiến bằng cách bỏ tù Nguyễn Hộ và hàng loạt những người như Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu.. Đọc Đỗ Trung Hiếu: Những người kháng chiến cũ, Lý tưởng và thực tế, tài liêu của Tin, Paris 1995 . Đây mới là tài liệu quý báu và hiếm cần đọc Cơ may đổi mới toàn diện như Đông Âu không còn nữa! Cộng sản vẫn là cộng sản! Phần Nguyễn Văn Linh đã sợ hãi củng cố quyền lực để cứu nguy cộng sản VN. - Thứ ba, theo tôi đây là thời điểm thuận lợi để chọn lựa con đường hợp tác với các nước như Mỷ, Nhật và các nước trong vùng Đông Nam, lánh xa Tầu. Có vẻ họ đã không dám làm, không dám quyết định. Một tin mới nhất cho biết báo chí trong nước nay được phép nhìn nhận các chiến sĩ VNCH là những người đã can đảm hy sinh để bảo vệ Trường Sa và Hoàng Sa. Cho nên, đối với tôi, không dứt khoát giải quyết được vấn đề cộng sản, sẽ không giải quyết được vấn đề gì cả. Nó sẽ chỉ kéo dài những tranh cãi triền miên giữa kẻ thắng người thua không đi đến đâu cả. Phải can đảm biết nhìn sự thật, can đảm chia xẻ những ý kiến khác mình. Nó còn khò hơn “ phá rào” về kinh tế. Bởi vì dám nhìn nhận sự thật thì đồng nghĩa với xóa bỏ những hy sinh thường cho là cao đẹp, là lý tưởng. Người cộng sản vẫn thường rêu rao: Mục đích tối hậu của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là “giải phóng” miền Nam khỏi tay bọn đế quốc Mỹ xâm lược. Vậy mà chỉ bằng một luận cứ về lịch sử nước Nhật trong thế chiến thứ hai, một cậu sinh viên trong nước đã dễ dàng bẻ gẫy mục đích “giải phóng” cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai này. Cậu cho rằng viên tướng Mỹ thay vì là kẻ thú của nhân dân Nhật trở thành một trong 12 người có công lao lớn với nước Nhật. Điều gì nước Mỹ đã làm ở Nhật thì cũng làm như thế ở Âu Châu, nhất là ở Đức. Không có nước Mỹ, người Mỹ, liệu Âu Châu và Nhật Bản có được cái vị trí kinh tế, chính như hiện nay? Và điều gì nước Mỹ đã làm được ở Nhật thì cũng đã làm được ở Đại Hàn và tại sao không ở Việt Nam? Những nước vệ tinh của Trung Quốc như Việt-Mên-Lào, nhất là Bắc Hàn, số phận hiện nay ra sao? Và nhất là tương lai ra sao trước đe dọa bá quyền của Trung Quốc? Phải có can đảm đổi hướng chính trị nhìn ra Thái Bình Dương thay vì dựa lưng vào đất liền!! Tôi tự lấy làm xấu hổ vì thua trí một sinh viên năm thứ hai đại học. Danchimviet. Info, 30-12-2012: sinh viên phản ứng về bài giảng lịch sử: Đế quốc Mỹ xâm lược của một sinh viên năm thứ hai khoa học xã hội, Sài gòn . Nhưng tâm thức ấy được những người trí thức như Dương Thu Hương, Bùi Tín nhận thức ngay ra được khi tiếp thu miền Nam. Một người viết đến Những thiên đường mù, một người viết Mây mù thế kỷ. Và 15 ngày sau khi vào miền Nam, TBT Lê Duẩn cũng nhận ra cái sự ưu thế của nền kinh tế miền Nam so với miền Bắc như thế nào. “Hơn bao giờ hết, tôi thấy rõ đường đi của thời gian đang lướt qua khung trời. Như vệt đuôi sao chổi. Chúng xóa đi từng thời khắc của cuộc đời. Chúng xóa đi mà trí nhớ của con người lại không xóa nổi. Nhưng dĩ vãng chỉ là dĩ vãng. Những đồng tiền âm phủ không tiêu được trong phiên chợ trần ai. Tôi sẽ xin với vong linh cô tôi cho tôi bán nhà. Tôi phải đi. Ý muốn của những người quá cố chỉ có giá trị như những vòng hoa trang trí trên các nấm mồ. Không thể tiêu phí cuộc sống bởi những cánh hoa tàn héo, những tối tăm lầm lạc của quá khứ mà phải hướng tới ngày mai”. Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, trang 284 Bùi Tín khi viết Mây mù thế kỷ, trong lời tựa đã viết: “ Cuốn sách này, qua một số cuộc đối thoại bổ ích, có ước vọng giải tỏa đôi chút những mây mù còn tồn tại trong nhận thức của xã hội Việt nam ta. Ước mong của tác giả là đất nước Việt nam thân yêu trong thời gian cuối cùng của thế kỷ 20 này rũ bớt được những điều mơ hồ để nhìn nhận quá khứ, thấy rõ con đường tương lai, thanh thoát đi vào thế kỷ 21 đầy hứa hẹn” Bùi Tin, Mây mù thế kỷ, trích trong lời nói đầu của tác giả. Lời ước mong của Bùi Tín hiện nay vẫn chỉ là một ước mơ hay một hiện thực? Trần Mạnh Hảo, từ rừng Lộc Ninh vào đã viết cảm tưởng của ông như sau : « Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra » Trần Mạnh Hảo, Phạm Duy còn đó .. muôn đời Người cầm bút có trách nhiệm không thể để nhà nước cộng sản Hà Nội tiếp tục tuyên truyền sai lạc về mục đích cuộc chiến này cũng như tiếp tục bôi xấu xã hội miền Nam, tiếp tục đánh bóng, lý tưởng hóa cuộc chiến 1954- 1975, khoác cho nó những lý tưởng huyễn hoặc mà thực chất không phải là như vậy. Ý tưởng then chốt về mục tiêu cuộc chiến thường được cổ vũ: Đây là cuộc chiến tranh nhằm ”Giải phòng” miền Nam, đánh đuối đế quốc Mỹ xâm lược. Từ Giải phóng miền Nam là một tuyên truyền huyễn hoặc hay nó mang nội dung cụ thể và trung thực? Kẻ đến giải phóng thật sự là giải phóng hay xâm lược? Giải phóng cái gì? Giải phóng ai? Ai cần được giải phóng? Ký giả Teziano Terzani là một trong những ký giả có chứng kiến những chiếc xe tăng T.54 cán sập đổ dinh Độc Lập. Ông đã ở lại miền Nam hơn 3 tháng để chứng kiến cuộc chiến thắng của miền Bắc và sau đó đã viết cuốn sách ca tụng miền Bắc nhan đề : Giải Phóng. Một năm sau, ông đã quay trở lại và ông đã thất vọng. Khi cho tái bản cuốn sách lần thứ hai, ông đã đổi nhan đề cuốn sách. Teziano Terzamie là ký giả người Ý duy nhất có mặt khi thất thủ Phnon Penh ở Cao Mên và Sài gòn 30 tháng tư. Khi rời Sài gòn sau 3 tháng đi quan sát, ông viết cuôn sách: Giai Phong, The Fall and Liberation of Saigon .. Một năm sau sang lại VN, ông rất thất vọng và khi tái bản sách, ông đổi lại nhan đề là: Three days and three months, Sai gon 1975. The Fall of Saigon. Có lẽ vì thế từ đây cần nên xác định tên cuộc chiến. Nếu nhìn nhận những người lãnh đạo từ hai phía- phía cộng sản có Nga và Tàu đỡ đầu – phía Quốc gia có Mỹ và các đồng minh- thì đây là cuộc chiến ủy nhiệm do một tranh chấp giữa hai ý thức hệ. Nếu miền Nam là Ngụy, là bù nhìn của Mỹ thì miền Bắc là gì dưới cái dù của Nga và nhất là Tàu. Nếu gọi miền Nam là bọn lính đánh thuê thì bộ đội miền Bắc từ một đôi dép cũng do viện trợ của Tàu thì phải gọi bộ đội miền Bắc là chiến sĩ chăng? Thật là mỉa mai!! Những đại bác 130 ly, hỏa tiễn Sam1 và 2, xe tăng T.54 viện trợ của Liên Xô, ngay một đôi dép râu là viện trợ của Trung Quốc xuất phát từ Hà Nội vào miền Nam thì không thể nói đó là giải phóng được. Nhân danh cái gì để nói là giải phóng? Nó chỉ là sản phẩm cuộc chiến tranh lạnh xuất hiện sau thế chiến thứ hai giữa hai siêu cường Nga và Mỹ. Cuộc chiến chống thực dân Pháp do những người như Phan Bội Châu, rồi Phan Châu Trinh mang nặng sắc thái dân tộc chủ nghĩa, đượm tình tự lòng yêu nước. Nó cao đẹp, trong sáng và lý tưởng và vận động được sức mạnh của toàn thể nhân dân VN. Nhưng từ chủ nghĩa yêu nước nó dần mặc áo cộng sản và nhân danh nò, Hồ Chí Minh tiến hành chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, dưới sự trợ giúp không điều kiện, “vô tư” cuả Liên Xô và nhất là Trung Quốc. Ai cũng biết như thế và nhìn nhận như thế mà không cần phải dài dòng biện luận và tranh cãi. Tôi không thể nào hiểu được khi những cảnh chết chóc do chiến tranh gây ra trong trận Mậu Thân, nhất là ở Huế năm 1968, rồi trong cuộc chiến 1972 mà xác người chết sình thối không kịp chôn, tôi không thể chấp nhận một cuộc giải phóng man rợ như thế về mặt tình tự con người. Tôi xin những ai là kẻ chiến thắng tự hào về cuộc chiến đọc những dòng này của Phan Nhật Nam trong Mùa hè đỏ lửa nơi mà ông viết lại như sau: “Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy … Mùa hè năm 1972, mùa hè máu, mùa hè của sự chết và tan vỡ toàn diện, mùa hè cuối đáy điêu linh. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đầy…!! Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những ngày hè đỏ lửa, trận cuối cùng đã kết thúc 12 năm chiến tranh ” giải phóng” đã cạn lực!! (5) Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, từ trang 7 và tiếp theo! Ở một chỗ khác, PNN mô tả cảnh tượng của cuộc chiến ở mức độ tàn bạo không bút mực nào tả xiết, nó vượt sự chịu đựng của con người. Ông viết: “Tôi đang ở cây số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lâm. Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ môi chảy máu tươi, tay luống cuống mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.. (..) Tôi không còn là người đang sống vì sống là sống cùng với người sống, chia sẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Chung quanh tôi, trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một không khí – chết. Phải chỉ có sự chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang phơi phới bừng bừng che kín không.
Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trang 173! Về phía kẻ thắng cuộc thì xin quý vị đừng vội say máu chiến thắng. Tỉ lệ về số thương vong là từ 5 xác chết của kẻ thắng đổi lấy một của kẻ thua. Lẽ thắng thua như thế quả là tương đối và chênh lệch! Nó giống như trong film We’re soldiers(Chúng ta đều là những người lính) trong đó chỉ còn là cảnh hoang tàn đỗ vỡ, chết chóc và chỉ còn lại viên sĩ quan ngồi một mình tự nhủ thầm: Kẻ cuối cùng còn ở lại là kẻ thắng trận!! We Were Soldiers is a 2002 war film that dramatizes the Battle of Ia Drang on November 14, 1965. The film was directed by Randall Wallace and stars Mel Gibson. It is based on the book We Were Soldiers Once… And Young by Lieutenant General (Ret.) Hal Moore and reporter Joseph L. Galloway, both of whom were at the battle Nhìn kẻ thua trận mà buồn cho cuộc chiến tranh tương tàn nhưng nhìn sang phía kẻ thắng trận, mức độ tàn khốc còn gấp đôi, gấp ba. Nhà báo Oriana Fallaci đã đi quan sát trận địa Khe Sanh ngay sau khi chiến cuộc vừa chấm dứt cho biết: toàn bộ sư đoàn 325, niềm tự hào của tướng Giáp đã biến mất dưới những trận mưa bom của Mỹ và được gọi là:” Điện Biên Phủ thứ hai”!! “Và nhóm 50 người đầu tiên của đại đội Delta của Mỹ đã tới được những giao thông hào và ở đó người ta tìm thấy hàng chục khẩu moóc chê để lại, những dàn phóng rốc két, rồi liên thanh hạng nặng, những cái nón do Liên Xô chế tạo, thùng còn đầy đạn, nhiều ba lô và 400 cái xẻng mới ..” Trích Oriana Fallaci La vie, la guerre et puis rien …trang 241 Thắng nỗi gì, hãnh diện nỗi gì!! Dương Thu Hương nhắc lại số học sinh lớp 4 học cùng thời với bà, sau chiến tranh chỉ có hai người sống sót trở về!! Thế được gọi là chiến thắng, là giải phóng ! Nó ứng với cái cảnh mà một thi sĩ Trung Hoa đã ngao ngán viết về hình ảnh sau cuộc chiến:” Nơi vó ngựa chiến đi qua, 10 năm sau, cỏ chưa mọc và gió thổi còn mang mùi máu”. Vậy mà mỗi năm, những người thắng trận vẫn nhảy múa, vẫn kỷ niệm, vẫn hãnh tiến bên cạnh những xác chết đã thối rữa từ hai phía. Đối với những người từng là thù địch với nhau đã lần lượt không còn nữa. Và đối với họ ý nghĩa được thua trở thành vô nghĩa. Cái chết đã đem lại sự an nghỉ tuyệt đối bình đẳng cho hết mọi người. Nếu bi kịch còn để lại cho trận chiến này thì là hình ảnh những người còn ở lại như các bà mẹ, người vợ, người con. Xin gợi ý câu nói của Jules Roy như sau: Đối với một bà mẹ, không có lý tưởng tốt xấu, có chăng chỉ là những niềm thương của một người đối với người đã khuất” Jules Roy, Bataille de Dien Bien Phu, nxb Julliard, 1963. Trích tóm lược trên Hành Trình, tháng 5-1965, bản dịch của Nguyễn Vũ Văn Tôi vẫn có xu hướng nhìn cuộc chiến tranh vừa qua dưới lăng kính Nhân Bản, tình người. Nếu nhìn từ phía những người trong cuộc thì đây là cuộc nội chiến giữa người Việt-người Việt, giữa miền Bắc và miền Nam. Marilyn B. Young thì như phần đông giới chức Mỹ gọi chiến tranh Viet Nam là: The Viet Nam wars. Trong đó ông gộp chung cả hai cuộc chiến làm một. Marilyn B. Young, The VietNam wars 1945-1990 Còn lại những người Mỹ khác gọi vắn tắt là Viet Nam, nhưng có thêm phụ đề theo điều mà họ muốn nhấn mạnh như John Prados vỏn vẹn dùng chữ: Viet Nam, The History of an Unwinnable war, 1945-1975, David G. Marr: Viet Nam, 1945, The Quest for power, Stanley Karnow, Viet Nam, A History, Lewis Sorley, A better War, Stein Tonnesson, Viet Nam, 1946. Christian G. Appy, Th Patriots, Viet Nam war. Một trong những lý do người Mỹ chỉ dùng một chữ Viet Nam để chỉ chiến tranh Viet Nam, bởi vì chưa hề bao giờ có sự tuyên chiến rõ ràng giữa Mỹ và Hà Nội như trong trường hợp chiến tranh giữa Mỹ và Nhật sau trận Trân Châu Cảng. Vì không có sự tuyên chiến nên có thể có những rắc rối về chính trị, về viện trợ, về sự có mặt của quân đội ngoại quốc và vấn đề các tù binh bị bắt giữ giữa hai bên. Nhưng đấy chỉ là nói lý thuyết, vì trước đây khi chiến tranh Cao Ly xảy ra thì làm gì có sự tuyên chiến giữa Trung Cộng và Mỹ? Gần đây nhất, tiến sĩ Nguyễn Thị Liên Hằng đã thẳng thừng viết một cuốn sách nhan đề Hanoi’s war. Cô đi lại từ đầu từ hồi tập kết ra Bắc, Lê Duẩn đã ở lại miền Nam để tiến hảnh tiếp tục cuộc chiến. Đây là một tên gọi mới không thể bỏ qua dựa vào chứng cứ có, dựa vào tính cách chủ động. Cuộc chiến ấy khởi động từ miền Bắc vận dụng sức người, sức của để xâm chiếm miền Nam như: Vấn đề tập kết ra Bắc và cài người ở lại, khai thông mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh. Trận đánh ở Khe Sanh, Chiến dịch Tổng công kích và tổng nổi dậy 1968, trận đánh “ Mùa hè đỏ lửa” 1972 và Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Về măt chính trị là các Nghị quyết của Đảng cộng sản, việc dựng lên MTDTGPMN và mục đích của Hòa Đàm Ba Lê năm 1973. Hay nói theo kiểu muốn dung hòa cả hai bên, theo đề nghị của giáo sư Lê Xuân Khoa gọi đây là Chiến tranh Việt Nam. Lê Xuân Khoa, 30 năm gọi tên gì cho cuộc chiến, 15-2-2005 BBC. Để phản bác lại ý kiến của GS Lê Xuân Khoa, Nguyễn Hòa viết bài phản biện: Gọi tên cuộc chiến hay xuyên tạc sự thật? Phần tôi, xét theo thứ tự thời gian, tôi chỉ thấy một sự nối dài về ý đô muốn nhuộm đỏ hóa đất nước VN. Trong giai đoạn chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, kể từ khi Mao Trạch Đông thống nhất nước Tàu vào năm 1949 thì cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đã đổi hướng, đã khoác bộ áo cộng sản Quốc tế. Sang đến cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì thường hai miền rõ ràng không chỉ nhất thời phân chia địa lý bởi dòng sông Bến Hải. Ông Hồ Chí Minh ở ngoài Bắc tiêu biểu cho ngọn xung kích của cộng sản Quốc tế . Ông Ngô Đình Diệm tiêu biểu cho “một tiền đồn” chống cộng sản của thế giới tự do. Phía cộng sản, theo ông Nam Đình, TBT đảng cộng sản Trường Chinh từng tuyên bố vào những năm đầu cuộc kháng chiến như sau: “Kháng chiến Việt Nam là một hình thức cao rộng của giai cấp đấu tranh, nghĩa là một cuộc đấu tranh lớn lao trên toàn thế giới và vô sản thế giới, tức quốc tế cộng sản”. Hồi Ký Ký 1925-1965, Nam Đình, trang 83-84. Phía VNCH thì như lời nhận xét của Marilyn Young: “Việt Nam (chỉ miền Nam) là con cờ Domino và nếu nó bị đổ xuống thì sẽ biến Thái Bình Dương thành cái hồ của Sô Viết và ngăn chặn những nguyên vật liệu có tác dụng sống còn cho Hoa Kỳ và đồng minh của họ”. The Viet Nam wars 1945-1990, Marilyn Young, trang 29 Dụng ý của Marilyn Young kết hợp hai cuộc chiến tranh làm một là có cái lý của nó. Nếu cần phải phân biệt thì chia cuộc chiến đó làm hai giai đoạn. Và tại sao gọi là chiến tranh Đông Dương bởi vì cả hai lần đều có sự dính dáng hai nước Lào và Campuchia trong đó. Không có Lào, không thể có đường mòn Hồ Chí Minh. Không có Cao Mên, không có hậu phương dùng làm chỗ tựa cho cục R, cho MTGPMN vv.. Cả hai nơi, người Mỹ và VNCH đều mở những cuộc hành quân sang đánh tận sào huyệt của quân đội cộng sản Bắc Việt. Vai trò bù nhìn của MTGPMN Một trong những chính sách của Hà Nội trong việc tiến hành xâm chiếm miền Nam là việc dựng lên MTGPMN. Chiêu bài người miền Nam nổi dậy chống Mỹ-dù thực tế không hề có- đã lừa được cả thế giới. Trong chiến dịch Tết Mậu Thân, Lê Duẩn đã phạm phải một lỗi lầm quan trọng. Chiến dịch mang tên: Tổng công kích và tổng nổi dậy. Tổng công kích thì có, nhưng tổng nổi dạy thì không. Đây là bài học thứ nhất mà Lê Duẩn học được trong một tính toán liều lĩnh, chủ quan với rất ít cơ may đạt được. Và trong dịp Tổng tấn công, lực lượng địa phương đã bị quân đội miền Nam quét sạch. Tham vọng chiếm được Sài gòn của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại. Tướng Trần Văn Trà sau này có trách các lãnh đạo miền Bắc là không để cho các lực lượng võ trang ở miền Nam có đủ thì giờ để chuẩn bị cuộc tán công Tết Mậu Thân một cách tương xứng. Đi lại đoạn đường đã qua bắt đầu là đám trí thức trong MTGPMN. Trí thức miền Nam tiêu biểu có thiện cảm với MTGPMN thuộc đủ loại nay dần dà phủ nhận cái quá khứ của mình. Họ có khoảng chừng tất cả trên dưới 30 người. Chỉ với 30 người ấy, người cộng sản đã dựng nên cả một Mặt trận đại diện cho 15 triệu người miền Nam và được thế giới nhìn nhận như một thực thể chính trị có khả năng ngồi vào bàn Hội Nghị. Trong cuộc thương nghị ở Paris, CPCMLTCHMNVN đã chính thức là một thành viên, một bên thương lượng. Mà thực chất họ chẳng đại diện cho ai. Họ chỉ có cái danh xưng và như những hình nộm, những con cờ thí đánh lừa dư luận thế giới. Sau 1975, vai trò của họ trở thành thừa thãi và bị loại bỏ một cách không nhân nhượng, không thương tiếc, không bàn cãi. Trong MTGPMN có Luật sư Trịnh Đình Thảo(1901-1982), vợ là Liên Hoa Ngô Thị Phú, người Sóc Trăng. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ông Lâm Văn Tết. Hoài Hương, Nguyễn Khắc Vỹ. Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng. ông bà Phú Hữu Nguyễn Thạnh Cường, Lê Văn Giáp, Dương Kỵ, Thanh Lan Võ Ngọc Thành, Nguyễn Văn Bửu, Hồ Văn Bửu, Nguyễn Hữu Khương, Lucien Phạm Ngọc Hùng. Lucien Phạm Ngọc Hùng là anh của đại tá Phạm Ngọc Thảo. Sau khi đại tá Thảo bị giết, Phạm Ngọc Hùng vốn là một thương gia cùng với Cao Văn Bổn và và Nguyễn Hữu Khương đã bỏ trốn ra bưng theo MTGPMN. Ngoài ra còn có Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc. Bác sĩ Phùng Cung và vợ Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết. Nhà văn Thanh Nghị. Ông Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang. Giáo sư Nguyễn Văn Chi. Chánh án Phạm Ngọc Thu. Dược sĩ Hồ Thu. Kỹ sư Cao Văn Bốn . Kỷ sư Tô Văn Cang. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Lữ Phương.v.v. Xem thêm Lữ Phương, Những chuyến ra đi, trên web Viet-studies. Hơn ai hết, Lữ Phương cảm thức được vai trò bù nhìn của mình. Ông viết: Sự tồn tại của Liên Minh như vậy chỉ là vở kịch cách mạng do Đảng giàn dựng với những diễn viên được lựa chọn và phân vai hết sức kỹ càng. Những nhân vật không cộng sản hết sức rõ rệt như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Nguyễn Văn Kiết, Lê Văn Giáp.. đã được đưa lên như những ngọn cờ, trong khi đó những chức vị khiêm tốn nhưng là nồng cốt qua đó bảo đảm cho việc thực hiện chủ trương của Đảng thì lại giao cho những đảng viên được gài vào( như Tôn Thất Dương Kỵ và những đảng viên khác .. Lữ Phương, Ibid
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 29, 2013 6:06:06 GMT 9
Phần Trương Như Tảng đã viết lại kinh nghiệm bị phản bội của Mặt trận như sau: “At last, when our patience had almost broken, the Vietcong units finally appeared. They came marching down the street, several straggling companies, looking unkempt and ragtag after the display that had preceded them. Above their heads flew a red flag with a single yellow star- the flag of the Democratic Republic of North Viet Nam. Seing this, I experienced almost physical shock. Turning to Van Tien Dung who was then standing next to me, I asked quietly, Where are our divisions one, three, five, seven and nine. Dung stared at me a moment, then replied with equal deliberateness: The army has already been unified. As he pronounced these words, the corners of his mouth curled up in a slight smile.(..) We knew finally that we had been well and truly sold. Since when I demanded. There’s been no decision about anything like that” Trương Như Tảng, A Viet cong memoir, trang 264-265. Nghe câu chuyện này, nhà văn Vũ Thư Hiên chỉ cười vì một đứa trẻ ở miền Bắc cũng biết đây chỉ là trò bịp bợm. Ngoại trừ một vài đảng viên cộng sản như Huỳnh Tấn Phát và vợ là Bùi Thị Nga, bà Nguyễn Thị Bình, nhà văn Thanh Nghị và Lê Hiếu Đằngvv… Ai là người trong Mặt trận còn tiếp tục đi theo đảng cộng sản? Trương Như Tảng là một trong những người đã dứt khoát, liều chết ra đi và ngồi viết sách A Viet cong memoir,1985. An inside Account of the Viet Nam war and the aftermath. Thứ đến là bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và chồng Huỳnh Văn Nghị, sau 1975 đã chính thức xin ra khỏi đảng. Mãi 10 năm sau,đơn xin mới được chấp nhận. Khi được Stanley Karnow phỏng vấn trong chương trình Việt Nam, a history về sự thất bại của đảng cộng sản VN, bà cho hay như sau: “I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of the Commnism, and it is a failure, mismanagement, corruption, privilege and repression .. My ideals are gone .(Tôi đả suốt đời đi theo đảng cộng sản, nhưng bây giờ tôi đã nhìn ra bộ mặt thực của chủ nghĩa cộng sản. Và đó là một thất bại, một quản lý tồi, tham nhũng, độc quyền và sự đàn áp. Lý tưởng của tôi không còn nữa Trích Vietnam television History, Stanley Karnow, phần phỏng vấn bác sĩ Dương Quỳnh Hoa. Và trong một lần trả lời phỏng vấn tờ Far Eastern Economic Review, người phỏng vấn đã hỏi bà: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 annees passees (Biến cố nào được coi là đặc biệt quan trọn trong 50 năm vừa qua). Bà đã trả lời: L’effondrement du mur de Berlin qui met un terme à la grandeur illusion. ự Sự sụp đổ của bức tường Bá Linh đã chấm dứt một ảo tưởng lớn(27) Thật vậy, ngày nay rõ ràng Chiêu bài MTGPMN là một chiêu bài bịp, che đậy thực chất của cuộc chiến tranh! Tiến sĩ Nguyen Thi Lien Hang , giáo sư đại học North Carolina đã trình bày thực chất cuộc chiến tranh ấy. Bà gọi là Hanoi’s war quả không hẳn là sai. Cuộc chiến tranh ấy được lãnh đạo từ Hà Nội và là căn cứ hậu cần cung cấp người và võ khí thông qua đường mòn Hồ Chí Minh để tấn công miền Nam. Cho nên, tôi xác nhận đã nhìn trên chương trình Viet Nam Television History lá cờ hai mầu đỏ,xanh, giữa có ngôi sao vàng-cờ của MTGPMN cắm trên chiếc xe tăng phá cửa dinh Độc Lập. Nhưng cắm một lá cờ mầu xanh trên các xe tăng T.54 tiến vào dinh Độc Lập thì không có nghĩa là có thể thay đổi được tên cuộc chiến. 6 sư đoàn binh đội cộng sản đang bao vây Saigon với xe tăng của Nga là bằng chứng hiển nhiên nhất. Vả lại lá cờ MTGPMN được cắm trên các xe tăng tiến vào dinh Độc lập sáng 30 -4 và lá cờ mầu xanh-đỏ ấy cũng được treo trên nóc Dinh Độc lập chẳng bao lâu sau đã tự động biến mất. Màn kịch diễn đã xong, sự có mặt của MTGPMN là một điều thực sự thừa thãi với ba thành phần chính phủ. Nó là một bằng cớ tố cáo thực chất cuộc chiến tranh dơ bẩn ấy. Nó phải biến đi càng sớm càng hay với lệnh miệng của Tố Hữu: Anh Ba muốn thống nhất ngay- một hình thức xóa sổ MTGPMN. Tôi cũng đã nghe và nhìn rõ đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như tướng Trần Độ trả lời về chiến dịch Tổng tấn công và tổng nổi dậy trong dịp Tết Mậu Thân. Mặc nhiên điều đó cho thấy có sự nhìn nhận về sự chỉ đạo chiến tranh từ miền Bắc. Tôi cũng nhìn rõ hai sĩ quan cộng sản miền Bắc trả lời chương trình truyền hình của Mỹ. Một là Đặng Xuân Tèo là người có nhiệm vụ chiếm đánh đài phát thanh Sài gòn trong dịp Tết Mậu Thân. Hai là đại úy Trần Đình Thông là người tham dự trận Khe Sanh. Tôi cũng đã nghe và nhìn rõ hai bộ mặt tiêu biểu xứ Huế là bà Phạm Thị Xuân Quế( bác sĩ) và Hoàng Phủ Ngọc Tường( giáo sư) nói những lời biếm nhã về VNCH. Nhất là tôi cũng nhìn thấy binh đội của cụ Hồ, mặc đồ trận rất khác lạ. Họ đều mặc quần sooc, người ngắn lủn củn vác súng chạy trong các đường phố Huế!! Tôi cũng nhìn thấy trên đài truyền hình của Mỹ ở trên cảnh tượng những mồ chôn tập thể đang dược đào bới lên ở nhiều địa điểm trong thành phố Huế!! Phải châng đây là những con người sẽ đến giải phóng chúng tôi ra khỏi bọn Mỹ xâm lược? Trận chiến tranh Dông Dương lần thứ hai không phải là công việc của MTGPMN mà là cuộc chiến khởi động động từ Hà Nội. Đó chính là một thứ Hà Nội war như tiến sĩ Liên Hằng khẳng định. - Vì thế, mục đích chính của Hiệp định Ba Lê không phải mưu tìm Hòa Bình, chấm dứt chiến tranh mà lá chiến lược là để cho Hoa kỳ rút lui và tình hình quân sự sẽ thay đổi sáu tháng sau. Chu Ân Lai đã nhiều lần khuyến cáo Lê Đức Thọ về điều ấy: “Zhou tried to convince his Vietnamese guest to negotiate seriously with the aim of reaching an immediate agreement, since the Americans were definitely on their way out of Southeast Asia. The Chinese leader repeated this advice to Le Duc Tho a few days later. “ The most important ( thing)is to let the Americans leave,” Zhou stated: The situation will change in six months or a year”. Lien Hang .T Nguyen, Hanoi’s War, trang 297 Hiệp định Paris rõ ràng không nhằm chấm dứt chiến tranh và kiến tạo hòa bình. Nhưng là cách thức tiến hành chiến tranh nhanh chóng hơn, khốc liệt hơn, nhằm thôn tính toàn miền Nam của cộng sản. Kể từ sau Tết Mậu Thân 1968 đến 1972, hai bên Mỹ và Bắc Việt tiến hành cuộc Hội Đàm Ba Lê. Đó là giai đoạm vừa đàm vừa đánh. Trong giai đoạn này, trung bình phía cộng sản thiệt hại 500 binh sĩ/một ngày . Nhưng vẫn kiên trì trên hai khẩu hiệu : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Năm 1969. Hồ Chí Minh chết mở rộng thêm tham vọng xâm chiếm miền Nam của Lê Duẩn. Không còn HCM, ai có thể ngăn cản được tham vọng của Lê Duẩn? Cuộc thanh lý nội bộ càng trở nên công khai và ác liệt. Trong cuộc hòa đàm này, Xuân Thủy đề nghị ba điểm : Thứ nhất Hoa Kỳ rút quân ra khỏi miền Nam 30 tháng sáu/1971. Thứ hai một chính quyền mới ở Sài gòn không có Nguyễn Văn Thiệu, phó TT Nguyễn Cao Kỳ và thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Về phía Mỹ, đề nghị bảy điểm của Kissinger được phía bên kia như Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh coi là nghiêm chỉnh. Đây là lần đầu tiên người Mỹ đưa ra một giải pháp toàn diện cho cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai trong đó chủ yếu có điều khoản : Người Mỹ sẽ rút ra khỏi chiến tranh Đông Dương, nhưng không có bao hàm một sự rút lui(mutual withdrawal) của cộng sản Bắc Việt. Phía VNCH, qua Hoàng Đức Nhã cực lực phản đối điều khoản này .. Nhiều cuộc đi lại sang Sài gòn để thúc ép TT Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận. Đại sứ Mỹ, ông Bunker đã vào dinh Độc lập trực tiếp yêu cầu TT. Nguyễn Văn Thiệu thay đổi lập trường. Sự thay đổi có nghĩa là chấp nhận sự thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Trong một buổi họp, đại sứ Bunker đã hỏi ông Thiệu: - « Vậy thì thưa Tổng Thống, «Đại sứ Bunker đặt câu hỏi, lập trường chót của Ngài là không ký phải không? - Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi, Ông Thiệu đáp: «Tôi sẽ không ký và xin Ngài thông báo cho Tổng Thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở về Washington và nói với Tổng Thống Nixon rằng, tôi cần được câu trả lời». Nguyễn Tấn Hưng, Tâm tư tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trang 335. Và sau đây là lá thư áp lực, áp đảo tinh thần ông Thiệu nếu không chịu nhượng bộ: đảo chánh. White House Ngày sáu tháng 10, 1972 Thưa Tổng Thống “.. Tôi yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968…” Trân trọng Richard Nixon Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, trang 90 Mặc dầu trong chuyến đi Bắc Kinh, Nixon đã viết thư trấn an ông Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 31 tháng 12, 1971 như sau: Ngài có thể chắc chắn tuyệt đối rằng tôi sẽ không đi tới một thỏa thuận nào ở Bắc Kinh nếu nó phương hại tới các quốc gia khác, hoặc về những vấn đề có liên hệ tới các nước khác. Ngài có thể tiếp tục tin cậy vào sự yểm trợ của Hoas Kỳ trong những nỗ lực của Ngài hầu đem lại hòa bình cho Việt Nam và xây dựng nền thịnh vượng mới cho nhân dân Việt Nam. Trân trọng (kt) Richard Nixon Nguyen Tiến Hưng, Ibid, trang 78 Nhưng thật ra ngay từ ngày 9 tháng bảy, 1971, Kissinger đã họp mật với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh, báo New York Times ngày 28/2/năm 2002 sau này đã tiết lộ: Trong cuộc họp này, Kissinger đã nói với Chu Ân Lai:” Dù có thương thuyết hay không thương thuyết với BV đi nữa, rồi chúng tôi cũng rút quân ra một cách đơn phương”. Nguyen Tiến Hưng, Ibid, trang 342 Truyền hình Mỹ cho thấy còn có mặt trận thứ hai đang diễn ra trên đất Mỹ. Có hàng triệu người Mỹ xuống đường kêu gọi chấm dứt chiến tranh và đem lính Mỹ về nước. Các thượng nghị sĩ Mansfield, Kennedy cũng lên tiếng ủng hộ quan điểm chống chiến tranh VN.. Nghĩa là có một cuộc chiến chống Mỹ ở Thượng viện Mỹ và ở ngoài đường phố phối hợp với nhau. Bên cạnh đó thêm rắc rối cho chính quyền Mỹ với vụ án Trung úy Calley phải ra tòa án binh ngày 29/3/ 1971 được gọi là vụ án sát hại một số dân làng ở Mỹ Lai. Thật ra câu chuyện tàn sát này xảy ra vào năm 1968 khi một đon vị của viên sĩ quan này bị thiệt hại nặng trong việc càn quét Mỹ Lai .. Tức giận, Trung úy William Calley Jr đã tập trung tất cả đàn bà trẻ con và sát hại tất cả. Đây là một tội ác chiến tranh không thể bào chữa được gây thêm công phẫn trong dân chúng Mỹ. Mémoires Richard Nixon, trang 362 Chưa kể sự tiết lộ khoảng 7000 trang tài liệu bí mật về những quyết định của Ngũ Giác Đài về chiến tranh của Daniel Ellsberg trên tờ The Washington Post và tờ The New York Times. Daniel Ellsberg tỏ ra bi quan và tuyệt vọng về cuộc chiến tranh khi tiết lộ nhũng tài liệu bí mật này năm 1971. Secrets: A memoir of Viet Nam and the Pentagon papers, Daniel Ellsberg Rắc rối cuối cùng xảy ra một cách định mệnh là vụ Watergate, một scandal về chính trị trong vụ bầu cử Tổng thống Nixon. Ông Nixon đã đạt được 47.169 841 phiếu trong khi thống đốc Mc Govern chỉ đạt được 29.172 767 phiếu. Sau nhiều tháng tìm cách ém nhẹm vụ scandal không thành công. Phải nói rằng Nixon đã can đảm chống chỏi đến giây phút cuối cùng. Ngày mồng 8 tháng 8 năm 1974 là ngày cuối cùng của Nixon ở tòa Bạch Ốc ..46 người từng là bạn bè, đồng viện, phụ tá ông trong vai trò Tổng thống. Nhiều người từng có mặt với ông từ năm 1947, cùng chia xẻ những niềm hy vọng và cả những hoài bão sau chiến tranh thế giới thứ hai. Giây phút giã biệt thật dâng đầy cảm xúc và kỷ niệm. Cuối cùng Nixon và gia đình từ giã tòa Bạch Ốc và lên máy bay Air Foprce One trực chỉ Cali. Phải nói rằng Vụ Watergate đã làm thay đổi cục diện chiến tranh VN sau vụ từ chức của TT Nixon. Và nó cũng là nỗi bất hạnh cho Việt Nam. Đọc những tài liệu liên quan đến Hòa đàm Paris cho thấy, Kissinger chịu hết nhượng bộ này đến nhượng bộ chỉ vì phía Mỹ muốn rút chân ra khõi VN. Phía VNCH, một số thành phần phản chiến bị giật giây bởi cộng sản cũng hùa theo đòi hỏi chấm dứt chiến tranh một phía. Lê Duẩn ra lệnh cho cán bộ miền Nam tìm cách triệt hạ chính phủ «bù nhìn » (puppet) TT Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc bầu cử Tổng Thống sắp tới. Nhưng trước khi đạt được Hiệp định Ba Lê, cộng sản Bắc Việt đã chịu đựng một trận mưa bom trên bầu trời Bắc Việt trong suốt 12 ngày đêm sau dịp lễ giáng sinh năm 1973. Vậy mà có một số trí thức thành phần thứ ba sau 1973 đã ngớ ngẩn đứng ra thành lập cái được gọi là: «Tổ chức Nhân Dân đòi thi hành Hiệp định Paris năm 1973 ». Đứng đầu là luật sư Trần Ngọc Liễng với giáo sư Châm Tâm Luân, biện lý Triệu Quốc Mạnh. và cũng đừng quên tên linh mục cộng sản nằm vùng Huỳnh Công Minh. Ngày nay nhìn lại mới thấy những người này là những tên hề chính trị- khờ khạo và xuẩn ngốc-. Châu Tâm Luân sau này đã tỉnh ngộ và đã cuốn gói ra ngoại quốc. Nhưng tôi nghĩ rằng khi viết bài này, cách duy nhất để tôi khỏi sa lầy vào những công việc soi mói từng sự việc nêu ra của tác giả Huy Đức, rồi phản biện lại từng vấn đề của một cuốn sách. Đó là một công việc vừa tốn thời giờ vừa đi vào những tranh luận có thể triền miên không lối thoát. Tôi chọn thái độ đứng về phía của một người thua cuộc- với tâm tình, với cảm nghiệm của kẻ bị xỉ nhục như hầu hết người dân miền Nam sau 1975. Không biết đây là lần thứ mấy, mỗi khi nhắc nhớ lại những gì xảy ra sau 1975, tôi vẫn nhói lên nỗi đau như một vết thương chưa lành. Và tôi phải nói thêm rằng càng bị xếp vào cái chỗ của một người quốc gia thua cuộc. Tôi càng thâm tín rằng mảnh đất miền Nam là một mảnh đất hứa đem lại cơm no, áo ấm, giá trị đạo đức, giá trị nhân bản giúp cho giới thanh niên chúng tôi ăn học trở thành những người hữu dụng, những trí thức Việt Nam ở trong nước và ở Hải ngoại. Miền Nam là cái nôi đầu đời giúp cho giới trẻ miền Nam biết sống tử tể và trang bị vốn kiến thức vào đời. Hãy cứ nhìn thành quả sự hội nhập thành công nơi xứ người của những người di tản thế hệ thứ nhất. Đó là bằng chứng không chối cãi được cái gốc gác miền Nam của họ- cái hành lý họ mang theo không phải tiền bạc mà cái hành lý tinh thần!! (Bagage intellectuel). Cho nên, không hãnh diện về gốc gác miền Nam, không thể viết bài này được. Không hiểu thấu nỗi đau về cách đối xử thất nhân tâm của kẻ thắng cuộc thì không hiểu được tâm tình của 15 triệu con dân miền Nam. Ông Võ Văn Kiệt được coi là một người cộng sản hiểu biết và có lòng. Ông Kiệt cho rằng Ngày 30 tháng tư- “ngày giải phóng”- có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn. Cám ơn trân trọng sự vỗ về và phủ dụ của ông. Nhưng xin phép không đồng ý về sự tổng quát hóa như thế. Nếu quả thực có triệu người vui thì không thể có hiện tượng 10% người dân miền Nam liều mình bỏ nước ra đi. Hằng triệu người bằng mọi giá, hy sinh cả tính mạng bỏ trốn ra nước ngoài. Khi có một người phụ nử liều chết mang hai con, chèo thuyền ra biển và đến được Úc thì đấy là biểu tượng không chối cãi được chế độ ấy không thể sống chung được và nó cũng không có lý do để tồn tại mãi được! Quyết định ra đi là một quyết định sinh tử vì biết không thể sống trong chế độ cộng sản. Bằng chứng rõ rệt như thế mà người ta vẫn tìm cách che dấu và bẻ quặt sự việc. Mất nhà, mất cửa, vợ chồng cha con chia lìa-mất hết-mất cả sự sống, mất hy vọng, mất cả tương lai, bị hành hạ xỉ nhục đủ thứ bởi những người đi chân đất, chữ nghĩa không đầy một cái lá me thì vui sao được, vui ở chỗ nào. Hãy chỉ cho tôi thấy có được một ngày vui nào trong những năm tháng ây? Xin trích một đoạn trong một bài viết của tôi về cái ngày vui ấy như sau: “Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt khô khan của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những đường lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào. Praha, Sài Gòn, ngạo nghễ và tủi nhục. Những chiến xa trên có cắm cờ của MTGPMN đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho người ta có có cảm tưởng đường Tự Do của miền Nam là đại lộ Champs-Elysées của Paris hồi nào. Nhưng Champs-Elysées của Paris vào tháng 8-1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng được giải phóng. Chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc. Nhưng Champs Elysées thì không phải đường Tự Do ở Sài Gòn. Đường Tự Do không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt. Nguyễn Văn Lục, Lịch sử còn đó, trang 320 Tôi hy vọng những quan điểm nhìn của chúng tôi khi nhìn lại cuộc chiến mở ra những viễn tượng trung thực về cuộc chiến, xóa tan những” mây mù thế kỷ” đã qua. (nhan đề một cuốn sách của nhà báo Bùi Tin). Nhờ đó tôi có cơ hội mở ra những góc nhìn gỡ rối, trung thực hơn mà ngay cả những người muốn hòa giải và đầy thiện chí – cũng không thể chia xẻ hết những nỗi oan khiên của người dân miền Nam được. Hiện nay, nhiều người mong muốn xóa bỏ hoặc quên quá khứ để nghĩ tới tương lai nên mong mỏi một giải pháp nào để người Việt từ hai phía có thể ngồi lại. Tôi cho là một ước vọng viển vông. Hai ý thức hệ ấy không cho phép họ ngồi lại với nhau được. Nói ngồi lại là gián tiếp người Quốc Gia phải chấp nhận chế độ cộng sản. Vì thể, chỉ có thể ngồi lại khi chế độ cộng sản không còn nữa hoặc tự giải tán. Nhận xét sau đây của ông Võ Văn Kiệt xem ra sát thực tế hơn, khi được hỏi: Làm thế nào để làm lành vết thương chiến tranh? -Ông Võ Văn Kiệt cho rằng một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui, mà cũng có hằng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó rỉ máu. Nhưng chính người cộng sản phải thực tâm khoan dung và hòa hợp.. Sau 30 năm, tôi thấy không dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó. Trích Báo Quốc tế, do bộ Ngoại giao xuất bản đã đăng bài phỏng vấn ông Kiệt: Những đòi hỏi mới của thời cuộc, vào đầu tháng tư.2005. Trích lại trên diendan.org số 151, tháng 5.2005 Tôi tự hỏi hơn 30 năm chưa làm được sự hòa hợp thì bao giờ làm được? Triệu người buồn thì có, nhưng tôi không thấy triệu người vui là những ai? Ngày hôm nay tư thế của hơn ba triệu người Việt di tản ra hải ngoại không phải còn ở cái tư thế bị thúc ép về chính trị, về an toàn sinh mạng cá nhân hay nhu cầu cơm áo nên cần phải ngồi lại, cần phải hòa giải. Có cái lý do gì thúc ép người Việt phải hòa giải? Sau chiến thẳng, ho tự cho phép mình có quyền được chia phần thắng lợi coi như một thứ chiến lợi phẩm được thụ hưởng như nhà cửa, xe cộ, tiền bạc cũng như quý kim. Sự thu tóm gần như được coi là một thứ ăn cướp công khai ở bình diện cá nhân cũng như cấp chính quyền các cấp từ địa phuong đến trung ương. Những căn biệt thự đẹp nhất của Sài gòn trên các đường Duy Tân, Lê Lợi, Công Lý, Bà Huyện Thanh Quan, Tú Xương họ chiếm ngự. Tôi đã có lần đến thắp nén hương tại tư gia của ông Phó thủ tướng Vũ Đình Liệu tại đường Bà Huyện Thanh Quan hay Tú Xương không nhớ rõ, nhân dịp ông qua đời. Căn biệt thự nằm đối diện với biệt thự của ông Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở phía bên kia đường, có tường cao, sân trải sỏi. Bà phó thủ tướng dẫn tôi đi coi căn biệt thự và chỉ cho thấy bà đã cho một tư nhân xây một trường Mẫu giáo quốc tế, cao ba tầng và họ được khai thác trong thời hạn 5 năm. Sau 5 năm, trường và tất cả cơ sở thuộc về bà. Bà biết rõ ràng trong tay bà đang nắm bạc tỉ, tỉ một cách danh chính ngôn thuận và hợp pháp. Bà lả mẫu người đàn bà nhà quê hiền lành, chất phác. Bà không bao giờ có mảy may một ý tưởng trong đầu là kẻ mang danh giải phóng miền Nam khỏi đế quốc Mỹ lại chính là kẻ cướp ngày được hợp thức hóa. Người Mỹ đến miền Nam chưa lấy một mét dất nào của dân miền Nam. Có điều gì cho phép kẻ thắng cuộc truất hữu mọi tài sản người miền Nam nhân danh một chủ nghĩa cộng sản? Công lý ở đâu, luật pháp ở đâu, các ông không nhận thức được đó là sự ăn cướp hợp pháp được chế độ bao che. Tốt hơn hết, chúng tôi xin dẫn một chứng từ của Đại tá Châu Thái Hùng trong cuốn sách của ông: Một cuộc đời đầy thử thách thể hiện đúng phong cách một kẻ chiến thắng tiêu biểu nhất .. Đọc cuốn sách với “một số tình tiết tiêu biểu cho một thời, tiêu biểu cho môt con người cộng sản sau 1975”. Chúng ta hãy nghe ông đại tá kể lể : Tôi là người đầu tiên tiếp quản quận 5 và được nhà nước cấp cho căn nhà tại đây. Vì thế, khi về hưu tôi vẫn tiếp tục ở trong địa bàn này và xử dụng căn nhà thuộc sở hữu của tôi để kinh doanh kiếm sống một cách hợp pháp theo đúng chủ trương của nhà nước. Các đồng chí nên nhớ rằng tôi đã tham gia cách mạng suốt đời, từng bảy lần bị thương đồng thời cống hiến biết bao công sức và xương máu cho sự nghiệp chung. Nay chẳng lẽ vì một chút lợi ích nhỏ mọn mà tôi lại bán rẻ danh dự, giá trị con người của tôi hay sao? Nhờ thế lực của ông, ông kinh doanh mở khách sạn Mini kiếm sống và tiếp theo là một chuỗi các hoạt động kinh đoanh lớn nhỏ khác. Dân chúng bị cấm buôn bán làm ăn, nhưng ông thì được ..Ông rất tự tin và tự cho mình là người cách mạng chân chính. Về già, ông quyết định bán căn nhà ông đang ở, số 9 Tăng Bạt Hổ. Nhà nước hóa giá là 250 triệu đồng vào năm 1991. Nhưng một năm sau nhà nước trả lại số tiền 250 triệu đồng.. Sau đó nhà nước hóa giá lại thì căn nhà trị giá đã tăng lên là 2 tỉ 4 trăm triệu đồng, gấp 10 lần giá cũ. Hóa giá xong, ông cắn bụng gom tiền để thanh toán số tiền 2 tỉ 400 triệu đồng cho nhà nước, ông liền bán căn nhà đó ngay tức thì được 6 tỉ rưỡi thì chỉ hai tháng sau, giá nhà đã tăng lên 10 tỉ và một năm sau là 17 tỉ .. Người chủ mới xây dựng lại toàn bộ căn nhà và cho thuê mở nhà hàng với giá 60 triệu đồng/một tháng. Trong giai đoạn đầu tiên khi vào chiếm miền Nam, sự làm giầu của các cấp lãnh đạo ở Hà Nôi là đầu cơ nhà cửa, mua đi bán lại .. Số tiên từ bạc triệu lên tỉ tỉ. Cứ thế mà họ phất lên! Tiền bán căn nhà số 9 Tăng Bạt Hổ giúp ông đại tá mua một mảnh đất ở Bình Chánh để dường già .. Chúng ta có thể mường tượng căn nhà này lớn và giá trị thương mại như thế nào? Chúng ta có nên làm một cuộc so sánh cuộc đời đi làm cách mạng và cuộc đời sau 1975 của ông đại tá không? Ông có phải là biểu tượng của loại tư bản đỏ không? Ông Huy Đức cũng như những người cộng sản đều thấy công việc làm của ông đại tá trên là điều rất tự nhiên đến không có gì để thắc mắc. Nhưng người dân miền Nam không thể chia xẻ việc cướp đất, cướp nhà công khai như vậy. Họa chăng ông đại tá chỉ có một thiệt thòi nhỏ trong nội bộ gia đình là ba của ông có nhiều tiền gửi ngân hàng của chính quyền ngụy, trước 1975. Nhưng sau đó bị nhà nước tịch thu sau 1975. Ông bố xót của oán trách cách mạng rồi giận lây sang ông con ” đi làm cách mạng”, nhưng ông vẫn chịu đựng tất cả và vẫn ân cần lo lắng cho cha của mình. Trong Hồi ký, ông đại tá cũng kể cái việc tranh dành, bất đồng giữa giữa các đồng chí lãnh đạo địa phương với lãnh đạo Thành phố và Trung ương. Trung ương cử cán bộ các ban ngành vào tiếp quản. Khi vào đến nơi, cán bộ Trung Ương tiến hành tiếp quản những cơ sở và tài sản này … Một số người lợi dụng vị thế để trục lợi cho bản thân, tiếp quản 10, nhưng chỉ bá cáo một hai, số còn lại chia nhau làm của riêng. Đồng chí Sáu Thơm, chủ tịch ủy ban nhân dân quận Năm không đồng ý với với cách làm của cán bộ Trung ương nên đề nghị họ tạm ngưng tiếp quản. Những người này liền phản ánh với đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Võ Văn Kiệt: “Sáu Thơm làm vua ở quận 5 và tác oai, tác quái”. Cũng như nhiều đồng chí khác, sau khi có tiền, có nhà cửa khang trang, có xe, có tài xế, có người hầu người hạ thì nghĩ đến sắm “vợ ngoại”. Chỉ sau 2 tháng “giải phóng”, vào tháng 7/1975 ông đã kiếm được một phụ nữ ” góa chồng”, tên Thạch Thị Lang, đã có ba mặt con. Cứ theo lời ông mô tả thì đây là một phụ nữ đẹp mặn mà, là người rất đạo đức, lo lắng chăm sóc cho ông từng chút, tuy được nhiều người theo đuổi .. Bà thương ông một cách chân thật, mặc dầu ông lớn hơn 18 tuổi, không vì địa vị hay tiền bạc .. Đó là điều đáng quý Chẳng may bà lâm trọng bệnh và qua đời vào năm 2000. Con gái bà Lang hiện là một Việt Kiều hiện đang sống ở Mỹ. Xin viết lại đôi dòng với niềm trân trọng .. Về việc ” vượt biên”, đây là dịch vụ làm giàu béo bở nhất của các quan chức chế độ mới. Vàng kiếm được không phải một vài trăm cây mà lên đến cả nửa tấn. Chủ tiệm vàng Kim Thành vượt biên bị bắt và bị tịch thu 800 lượng vàng, chưa kể kim cương, hột soàn vv.. Lúc còn sinh sống ở miền Bắc, vị nào có vài chỉ vàng chắt chiu hà tiện đã là quý lắm rồi. Nay có đến hàng vài trăm lạng là chuyện thường. Phải chăng đây là cái được của kẻ thắng cuộc? Chúng ta hãy nghe ông đại tá viết trong Hồi Ký:
“Bọn tổ chức vượt biên mua chuộc cán bộ xã ấp và du kích để làm ngơ cho chúng, mà lúc bấy giờ thường gọi là “mua bãi”. Thông thường bọn chúng trả cho cán bộ xã ấp một lượng vàng cho hai người khách vượt biên. Trung bình mỗi chiếc tầu chở khoảng mấy trăm người, do đó số vàng thu được của mỗi chuyến vượt biên là rất lớn”. Nhiều lần các anh em đề nghị tôi nhắm mắt làm ngơ, đổi lại sẽ nhận được vài chục lượng vàng mỗi đêm, nhưng tôi cương quyết không chấp thuận mà luôn luôn ngăn cản, giáo dục và nhắc nhở anh em. Tại sao không bắt mà chỉ ngăn cản giáo dục? Giáo dục có ai nghe theo không ? Thời gian sau tình hình còn diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn, đó là việc Bộ Nội vụ ra chỉ thị cho phép cơ quan công an các tỉnh được quyền tổ chức vượt biên. (Lúc bấy giờ gọi là đi “bán chính thức”). “Trong khi đó lực lượng Bộ đội chúng tôi không hề được thông báo nên cứ làm theo tinh thần: ” Những kẻ vượt biên là phản quốc, phải tích cực ngăn chặn “. “Do vậy một bên thì ra sức cản trở, còn một bên làm ngược lại, vì thế mà có nhiều lúc xảy ra tình huống oái ăm. Chẳng hạn như chúng tôi được các anh em trinh sát báo cáo có chuyến vượt biên nên tập trung chặn bắt, không ngờ chuyến đó lại do lực lượng công an tổ chức: Thế là hai bên nổ súng vào nhau. Thật trớ trêu”. Trích tóm lược Hồi Ký của Đại tá Châu Thái Hùng. Một cuộc đời đầy thử thách. Nhưng dù sao cho đến thập niên 90, việc trưng dụng nhà cửa, việc tịch thu tài sản, việc vét túi những người vượt biên bán chính thức vẫn chỉ là những chuyện được coi là ” ăn cắp vặt” so với những vụ án làm ăn sau này tại các công ty quốc doanh hay các vụ chiếm đất đai. Ngày hôm nay, sau 38 năm, Sài Gòn đã được “ giải phóng”, dân chúng đã được sống bao nhiêu ngày an vui? Riêng những người Việt hải ngoại- những rác rưởi, những vật dư thừa ở thời điểm 1975 nay đã đạt được sự ổn định, an cư lạc nghiệp và có một tư thế chính trị quốc tế nơi miền đất cư ngụ- nhất là ở Mỹ. -Về kinh tế, gần 10 tỉ đô la mỗi năm chảy về Việt Nam là con số đáng nể có tác dụng vực dậy nền kinh tế VN có dấu hiệu trên đà phá sản. Trong giai đoạn kinh tế đổi mới, phá rào. Kiều hối gián tiếp trở thành nồi cơm nuôi cả nước. Lợi tức trung bình giới công nhân VN là 1000 đô la/ năm so với lợi tức trung bình của người Việt là gần 20.000 đô la/ năm. -Về mặt chính trị, tiếng nói của người Việt Hải ngoại là một thứ quyền lực mềm (soft power) có tầm ảnh hưởng trên các quyết định của các chính quyền địa phương nơi cư ngụ- nhất là nơi có đông cư dân người Việt. Càng ngày càng có thêm người Việt ý thức được vai trò của mình và tham gia vào chính quyền nơi địa phương mình ở. Chẳng hạn những quyết định công nhận là cờ vàng nơi một số tiểu bang Mỹ hay quyền không cho phép các hoạt động công khai của cộng sản nơi một số địa phương cũng như những thỉnh nguyện thư gửi chính phủ không phải là những việc làm không có ý nghĩa. Sức mạnh ấy có khả năng dập tắt mọi tham vọng xâm nhập vào cộng đồng người Việt nhằm chi phối, ảnh hưởng. Sức mạnh ấy cũng có tác dụng trực tiếp và gián tiếp trên những vi phạm quyền con người cũng như cảnh báo về nguy cơ mất đất, mất biển. -Đã có khoảng trên dưới một triệu người Việt thành công nơi xứ người. Nó chẳng những tạo dựng một cộng đồng VN có uy tín và được kính nể mà còn có thể là tiềm năng sau này cho một VN đổi mới. Nhưng kẻ lúc ra đi năm 1975 dưới mắt kẻ chiến thắng chỉ là một thứ rác rưởi bị quăng ra biển nay trở thành thứ rác quí. Phải nhìn nhận trên 30 năm nay, kẻ chiến thắng vẫn chưa có khả năng thu phục một phần nhỏ nhoi những thứ rác quý nảy. Họ vẫn lãng phí tài nguyên chất xám này bằng những chính sách phủ dụ của một bàn tay sắt, bọc nhung. Họ vẫn muốn khai thác tối đa những lợi nhuận từ những người Việt này mà vẫn không có khả năng đưa ra một giải pháp hợp tình, hợp lý có tác dụng thu phục. -Đối với thành phần trí thức và ưu tú nhất- nhất là giới trẻ trong nước- ở tư thế những người bất đồng chính kiến-, họ đang nỗ lực, can đảm tranh đấu cho một VN dân chủ và tự do vẫn thấy cộng đồng người Việt Hải ngoại là chỗ tựa tinh thần cho họ như một sự nâng đỡ, một cổ vũ và như nguồn hy vọng. Hằng trăm, hàng ngàn người trí thức trong và ngoài nước hiện nay đang tranh đấu cho một Việt Nam Tự Do, Dân Chủ thực sự khỏi chế dộ độc tài cộng sản. Có một sự chia xẻ và cảm thông giữa các thành phần tranh đấu trong và ngoài nước. Trào lưu tranh đấu ấy chắc hẳn còn đòi hỏi nhiều hy sinh, nhưng thực tế là có một nỗ lực chung, một lý tưởng chung giữa trong và ngoài nước như một đối lực mà chính quyến cộng sản không thể coi thường về diễn biến hòa bình này. Trong sự tranh đấu hiện nay, quá khứ không thể nào quên mà như nhắc nhở tới những điều thực tế hiện nay. Tuy nhiên, phải nhận cho rõ rất nhiều người trẻ hiện nay đang tranh đấu, đang ngồi tù và sẽ tiếp tục ngồi tù không liên quan gì đến các hội chứng chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và nhất là lần thứ hai. Họ lớn lên từ trong lòng chế độ ấy và sự chống đối của họ là nguyên chất và trong sáng hơn bao giờ hết. Cho nên đến tận bây giờ, tôi thâm tín rằng còn nhiều điều để nói về cuộc chiến tranh vừa qua và nhất là quá nhiều điều để nói sau khi cuộc chiến đã chấm dứt. Chưa ai nói hết. Nói sai thì nhiều và cũng chưa một ai nói đủ. Vấn đề không hẳn là tranh cãi với tác giả Huy Đức. Vấn của người Việt hải ngoại là với tư cách người thua cuộc phải lên tiếng để vạch ra những sai trái của kẻ thắng cuộc. Đó là trách nhiệm của những người cầm bút bên phía những kẻ thua cuộc .
Hết
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 8:41:12 GMT 9
Chính nghĩa và phi chính nghĩa của những cuộc biểu tìnhVõ Long Ẩn Hai chữ “biểu tình” được Paul Huỳnh Tịnh Của trình bày trong Việt Nam Quốc Âm Tư Vị như sau: Biểu: Biểu dương lực lượng; Tình: Tình nguyện hợp sức; nghĩa là biểu dương sức mạnh đồng tình hợp lực để đối kháng với chính quyền áp đặt chính sách cai trị hà khắc với dân chúng, hay với chủ nhân các tập đoàn tài phiệt bóc lột công nhân, v.v.Những cuộc biểu tình chính nghĩa đã đạt được thành công, theo ý nguyện của nhân dân, lật đổ được chính quyền. Gồm có các cuộc biểu tình chống chế độ tài của tổng thống Phi Luật Tân cai trị đất nước trên 30 năm. Những cuộc biểu chống lãnh đạo độc tài của Nam Dương, TT Suharto cai trị trên 32 năm và gần đây các cuộc biểu tình của các quốc gia trong phong trào “Cách Mạng Hoa Lài” thuộc các quốc gia Trung Đông, Bắc Phi v.v. Những cuộc biểu tình phi chính nghĩa đã trở thành trò hề, trò bạo động gây bất an cho cuộc sống yên lành cho dân tộc cho nhân loại nói chung. Đó là những cuộc biểu tình đập phá ở, đốt nhà cửa xe cộ tài sản của người dân vô tội như ở Anh quốc ở Pháp v.v. Hay cuộc biểu tình ở đội quân Áo Đỏ ở Thái Lan các cuộc biểu tình này luôn bị dập tắt. Quay lại lịch sử biểu tình tại miền Nam Việt Nam, trong thời gian chiến tranh khốc liệt, quân dân miền Nam chống sự xâm lăng của quân đội CS Hà Nội thì tại hậu phương, những tên vô loại đã làm tay sai cho cộng sản phát động những cuộc biểu tình không ngoài mục đích lật đổ chính quyền của Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà cho tới ngày 30-4-75. Từ vĩ tuyến 17 trở vào không một tỉnh thành nào không bị khuấy phá liên tục: biểu tình, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu ký giả đi ăn mày, tổ chức báo nói của nhóm dân biểu phản động “ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản” gồm: Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Võ Long Triều, Ngô Công Đức, Phan Xuân Huy (đảng viên cộng sản nằm vùng) … Các cuộc biểu tình được phát động như sau. Năm 1963 Biểu tình ủng hộ tướng lãnh đao chánh; đòi xử tử hai ông Diệm Nhu. Nguồn: Douglas Pike Photograph Collection – Vietnam Center and Archive. Ngày 8-3- Phật tử biểu tình trước đài phát thanh Huế, đòi phát thanh bài thuyết pháp của Thượng tọa Trí Quang Ngày 30-5, Phật tử biểu tình trước trụ sở Quốc Hội ở Saigon chống đàn áp Phật Giáo. Cũng trong ngày Phật tử biểu tình và tuyệt thực 48 tiếng đồng hồ tại Huế, chống đàn áp Phất Giáo. Ngày 31 tháng 5 tăng ni phật tử biểu tình tại Quảng Trị, chống đàn áp Phât Giáo Ngày 2-6 Tăng Ni Phật tử biểu tình tại Nha Trang, chống đàn áp Phật Giáo. Ngày 3 -6 Tăng Ni, Phật Tử biểu tình la hét ném đá trước toà đại biểu chính phủ tại Huế, chống đàn áp Phật Giáo. Ngày 4-6 Phật tử biểu tình bạo động tại Huế, Chống đàn áp Phật Giáo Ngày 7-6, phật tử biểu tình bạo động tại Đà Lạt chống đàn áp Phật Giáo Ngày 11-6, tăng ni quỳ tụng kinh tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt Saigon, Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, Chống đàn áp Phật Giáo. Ngày 16-6, tăng ni Phât tử xuống đường bạo động tại Saigon, chống đàn áp Phật Giáo. Ngày 30-6 tăng ni Phật Tử xuống đường bạo động tại Saigon, chống đàn áp Phật Giáo. Ngày 3 tháng 7, tăng ni Phật tử xuống đường biểu tình tại Saigon, Đà Lạt,Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng, Huế, chống đàn áp Phật Giáo và kỷ niệm thất tuần của Hoà Thương Thích Quảng Đức tự thiêu. Ngày 13-8 tăng ni Phât tử biểu tình tại Huế đòi đưa quan tài của Đại đức Thích Thanh Trực đi tuần hành ngoài đường phố. (Chính quyền địa phương muốn rằng đám tang của Đại Đúc tự thiêu được cử hành trong chùa). Ngày 23-8 Phật tử sinh viên học sinh xuống đường biểu tình bạo động tại Saigon chống đàn áp Phật Giáo. (Sau vụ Cảnh sát Dã Chiến và Lực Lượng Đăc Biệt tấn công các chùa đên 20-8) Ngày 25-8 Phật tử sinh viên học sinh xuống đường biểu tình bạo động tại Saigon, chống đàn áp Phật Giáo. Và đòi thả những sinh viên, học sinh bị bắt. (tuớng Đính ra thông báo : (Tướng Tôn Thất Đình, tổng trấn Saigon họp báo lên án sinh viên học sinh làm loạn, và cho biết khoảng hơn 1,300 sinh viên học sinh đã bị bắt giữ) Ngày 7-9 Phật tử, sinh viên xuống đường biểu tình bạo động tại Saigon chống đàn áp Phật Giáo. (tuớng Đính ra thong báo : “Sinh viên học sinh bị bắt trong các vụ xuống đường bạo động, nếu vị thành viên thì cho vào trại cải huấn,nếu thành viên thì cho vào trại Quang Trung làm binh nhì”) Ngày 9-9 Phật tử sinh viên xuống đường biểu tình bạo động chống đàn áp Phật Giáo, và chống đàn áp sinh viên học sinh. Biểu tình sau cuộc đảo chánh 1/11/1963. Nguồn: Douglas Pike Photograph Collection – Vietnam Center and Archive. Năm 1964. Này 16 tháng 8 hiến chương Vũng Tàu được công bố. Ngày 19-8 Phật tử sinh viên học sinh xuống đường tại Saigon chống đốc tài Nguyễn Khánh, chống dư đảng cần lao Ngày 20-8 Phật tử sinh viên học sinh xuống đường chống độc tài Nguyễn Khánh chống dư đảng Cần Lao. Ngày 21-8 phật tử và sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình tại Huế chống độc tài Nguyễn Khánh chống dư đảng Cần Lao. NGày 22-8 Phật tử sinh viên xuống đường biểu tình tại Saigon, chống độc tài Nguyễn Khánh, chống dư đảng Cần Lao đòi tự do dân chủ. Ngày 23-8 Phật tử và sinh viên học sinh xuống đường biểu tình trước đài phát thanh Saigon, chống độc tài Nguyễn Khánh chống dư đảng Cần Lao, đòi hủy bỏ sắc luật tuyên bố tình trạng khẩn trương (ban hành ngày 7-8) Ngày 23-8 tăng ni, Phật tử xuống đường biểu tình trước viện Hóa Đạo Saigon, đòi tự do hành đạo, đòi loại bỏ những phần tử chống Phật Giáo trong chính quyền, và đòi tân diệt dư đảng Cần Lao. Ngày 24-8 Phật tử và sinh viên, học sinh xuống đường tại Saigon chống độc tài Nguyễn Khánh, và tố cáo Mỹ can thiệp vào nội bộ VN. Ngày 24-8 Phật tử và sinh viên xuống đường tại Huế chống độc tài Nguyễn Khánh, đả đảo Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (hội đồng này là hậu thân của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mang năm 1963). Ngày 25-8 Phật tử sinh viên học sinh tụ họp tại bùng binh chợ Bến Thành (còn được gọi là công trường Quách Thị Trang) chống độc tài Nguyễn Khánh. Sau đó đám đông kéo đến phủ chủ tịch ở đường Thống Nhất, đả đảo độc tài Nguyễn Khánh, đả đảo hiến chương Vũng Tàu, đả đảo Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng và đòi Nguyễn Khánh từ chức. Đám đông kéo đến đài phát thanh, tràn vào bên trong, định phát thanh tuyên ngôn chống Nguyễn Khánh nhưng đã bi nhân viên công lực giải tán. Ngày 25-8 một đám người tấn công làng Thanh Bồ, Đà Nẳng môt làng đa số người công giáo. Hai bên xô xác có người chết và bị thương. (Ngày 26-8 Hội Đồng Quân Đội Cách thu hồi bản hiến chương Vũng Tàu) Ngày 27-8 Tam đầu chế Nguyễn Khánh, Trần thiện Khiêm, Dương Văn Minh ra đời thay thế cho Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng Ngày 27-8 Công Giáo biểu tình trước cổng bộ Tổng Tham Mưu, chống cộng sản, chống trung lập và chống những phần tử phá rối. Ngày 28-8 Phật tử và sinh viên xuống đường chống độc tài Nguyễn Khánh. Thanh niên Công Giáo, cũng xuống đường chống những kẻ phá rối trật tự an ninh và yêu cầu chính quyền tại lập trật tự, hai bên xô xát, có người chết và bị thương. Nggày 21-9 Phật tử và sinh viên xuống đường bạo động tại Huế và Quy Nhơn, đả đảo độc tài và lùng bắt dư đảng Cần Lao, đám đông chiếm đài phát thanh. Ngày 26-9 Phật tử xuống đường tại Quy Nhơn chống độc tài Nguyễn Khánh và chống Mỹ. Ngày 4-10 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của Thượng toạ Trí Quang do bác sĩ Lê Khắc Quyến chủ tịch, nhóm họp đầu tiên tại Huế. Ngày 30-10 cụ Trần Văn Hương được chỉ định làm thủ tướng. Nội các Trần Văn Hương ra mắt ngày 4-11. Ngày 6-11 Phật tử xuống đường tại Saigon chống chính phủ Trần Văn Hương Ngày 10-11, Phật tử xuống đưòng bạo động tại Saigon chống chính phủ Trần Văn Hương. Ngày 13-11 Phật tử xuống đường tại Saigon, đòi thủ tướng Trần Văn Hương từ chức. Ngày 22-11 Phật tử và sinh viên xuống đường tại Saigon, tố cáo chính phủ Trần Văn Hương phản cách mạng và dung dưỡng “bọn Cần Lao ác ôn” Ngày 24-11,Phật tử và sinh viên xuống đường chống chính phủ Trần Văn Hương Ngày 25-11 Phật tử và sinh viên xuống đường đả đảo chính phủ Trần Văn Hương và kêu gọi dân chúng đứng lên lật đổ chính phủ Trần Văn Hương. Khoảng 2000 Phật tử dựng chướng ngại vật trước trụ sở Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, dùng đá gậy cầm cự với cảnh sát. Một thanh niên bị bắn chết. Ngày 18-11 Tăng ni Phật tử sinh viên xuống đường bạo động tại Saigon, đám đông khiên quan tài thanh niên “bị bắn chết ngày 25-11) hò hét đả đảo Trần Văn Hương. Cảnh sát bắt được 20 người có khí giới trong mình. Đám tang bèn ngồi bệt xuống đường để phản đối dư đảng Cần Lao trong chính phủ Trần Văn Hương. Ngày 10-12 các vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất ra thông bạch sẽ chống chính phủ Trần Văn Hương cho tới cùng và cảnh cáo Mỹ can thiệp vào nội bộ VN. Thông bạch còn lên án Thủ tướng Trần Văn Hương về bốn tội sau đây: Dùng những phần tử của chế độ Diệm, triệt hạ những tờ báo của Phật Giáo, bắt công chức phải khai rõ tôn giáo của mình nhằm mục đích loại bỏ Phật tử ra khỏi guồng máy chính quyền, phỉ bang Phật Giáo. Thủ tướng Trần Văn Hương đã có lần gọi những nhà sư xuống đường là “bọn đầu trọc làm trò khỉ” Ngày 12-12 thủ tướng Trần Văn Hương lên đài phát thanh tuyên bố lý do tại ông bị phật giáo chống đối: “Phật Giáo đưa danh sách một số tổng bộ trưởng, bắt tôi phải chấp nhận vào nội các của tôi. Tôi không chấp nhận. Bởi vì, tôi không thể chấp nhận một quốc gia trong một quốc gia” Năm 1965 Phật tử biểu tình ở Huế, 1966. Nguồn UPI, Nguyễn Thanh Tài Ngày 17-1, Phật tử xuống đường bạo động bạ tại Huế, Đà Lạt đòi lật đổ chính phủ Trần Văn Hương. Ngày 20-1 Hoà thượng Thích Tịnh Khiết, Thượng toạ Thích Tâm Châu, Thượng tọa Trí Quang đồng tuyệt thực đòi lật đổ chính phủ Trần Văn Hương. Ba vị lãnh đạo tuyên bố sẽ tuyệt thực cho đến chết, nếu thủ tướng Trần Văn Huơng không từ chức… Những nhân vật lãnh đạo các cuộc xuống đường, bạo động, nổi loạn, biểu tình không ngoài mục đích “lật đổ tất cả các chính Phủ của VNCH”. Nhưng những cuộc biểu tình phi chánh nghĩa đã không lật đổ nổi chính phủ của hai nền Cộng Hoà của miền Nam. Nền đệ nhất Cộng Hoà sụp đổ do tập đoàn tướng lãnh tay sai nhận tiền của Mỹ, vì háo danh, ham tiền (3triệu đồng tiền VN) để chia chác với nhau. Tranh nhau quyền lực đó là thời kỳ hỗn quan, hỗn quân đen tối nhất tong chính trường miền Nam. Nền đệ nhị Cộng Hoà sụp đổ vì Dương Văn Minh, tay điệp viên nằm vùng; dinh Hoa lan là mật khu an toàn chứa chấp những cán bộ, điệp viên cao cấp, Việt cộng nằm vùng… Những trí thức Phật tử lãnh đạo các cuộc biểu tình một số đã qua đời, số đông hiện còn sống hiện đang ẩn trốn. Trong lúc đất nước lâm nguy đã và đang bị tập đòan cộng sản, thái thú, dâng hiến cho Tàu cộng. Những trí thức Phật tử, những người có thừa kinh nghiệm xuống đường trên các đường phố của miền Nam nay ở nơi đâu? Sơn hà đang nguy biến. Phụ nữ biểu tình chống chính phủ quân nhân (Nguyễn Cao Kỳ) và phản đối Mỹ không cho triệu tập quốc hội, 1966. Nguồn AP. 16-3-2013 2013 DCVOnline T ham Khảo: - Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Chính Sử, nhà xuất bản Alpha, 6771 Wilson BLVD Fall Church Hoa Kỳ. -Lý Quý Chung, Hồi ký Không Tên, nhà xuất bản Trẻ phát hành tháng 12 năm 2004 tại Saigon
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 11:01:40 GMT 9
Nhận thức của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam (I)Tạp chí Truyền Thông Communications Yu Insun so sánh quan điểm sử học của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, theo thứ tự là sử quan đời Trần và sử quan đời Lê, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký và bộ Sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. DCVOnline: “Một so sánh về nhận thức của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam” [“Lê Văn Hưu and Ngô Sĩ Liên - A Comparative of their Perception of Vietnamese History”] là tựa đề tiểu luận của Yu Insun, nguyên giáo sư ban Sử Á châu tại Đại học Quốc gia Hán Thành [Seoul National University]. Tiểu luận này đã được tình bày tại Hội nghị “Vietnam: Beyond the Frontiers” do Viện Quốc tế, Đại học California tại Los Angeles tổ chức trong hai ngày 11-12, 2001. Nghiên cứu này của giáo sư Insun đã đăng lại [p. 47-71] trong cuốn “Viet Nam: Borderless Histories” do Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid là chủ biên và University of Wisconsin Press phát hành năm 2006. Bạn đọc có thể tham khảo nguyên bản Anh ngữ tại đây. Dưới đây bản lược dịch và nhận định về tiểu luận của Insun đã đăng trên Tạp chí Truyền Thông Communications, số 41 & 42, Thu Đông 2011, trang 156-168. Vietnam Borderless Histories. Published August 29th 2006 by University of Wisconsin Press. Truyền Thông Communications Cho tới giữa thập niên 80 thế kỷ XX, giới sử học Hà Nội coi quốc sử như một khí cụ phục vụ Chiến tranh và Đảng. Sau cuộc đổi mới, giới sử học tiếp tục dùng quốc sử làm lợi khí phục vụ Đảng và Chính thể Toàn trị. Không có một sử gia Hà Nội nào đưa ra một quan niệm về quốc sử. Giới sử gia ngoại quốc đặt lại vấn đề: sử quan ngày trước, trong thời phong kiến, nhận thức quốc sử ra sao? Đã có một số sử gia ngoại quốc lưu ý tới vấn đề đó. Trong công trình nghiên cứu này, Yu Insun trả lời câu hỏi trên bằng cách so sánh quan điểm sử học của hai sử gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên, theo thứ tự là sử quan đời Trần và sử quan đời Lê, tác giả bộ Đại Việt Sử Ký và bộ Sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, (gọi tắt là Toàn Thư). Ban điểm sách Truyền Thông giới thiệu công trình này tới bạn đọc. Theo bộ sử Đại Việt Toàn Thư, vua Trần Thánh Tông, trị vì từ năm 1258 tới 1278, chỉ thị cho Lê Văn Hưu tham khảo sách sử và soạn thành bộ Đại Việt Sử Ký, gồm 30 quyển, dựa theo phương pháp viết sử của Tư Mã Quang, tác giả bộ sử Tư Trị Thông Giám của Trung Quốc. Nội dung bộ sử của Lê Văn Hưu, bắt đầu từ Triệu Đà, trị vì vào khoảng cuối thế kỷ III và chấm dứt vào cuối đời nhà Lý (1225). Ngày nay giới sử học trong và cả ngoài Việt Nam chỉ tìm thấy bộ Toàn Thư gồm 15 cuốn. Bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, lấy bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, Trung Quốc, làm mẫu mực, là một bộ sử biên niên, khởi từ đời Hồng Bàng, khoảng ba ngàn năm trước công nguyên, kéo dài tới cuối nhà Lê vào năm 1428. Năm 1428,vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chỉ thị cho các sử thần thâu thập sử liệu gửi về tàng trữ tại Đông Các. Ngô Sĩ Liên được chỉ định tham dự vụ thâu thập sử liệu nói trên, nhưng ông có tang thân phụ, phải về quê cư tang. Hết tang, ông trở lại viện Đông Các thời việc thâu thập sử liệu đã hoàn tất. Ngô Sĩ Liên, sử dụng những sử liệu do ông thu thập được, trong số đó có bộ Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, đối chiếu sử liệu Việt Nam với sử liệu Trung Quốc, viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, gồm có Ngoại Kỷ, Bản Kỷ và Lê Thái Tổ Kỷ, dâng lên vua Lê Thánh Tông năm 1479. Số sử liệu tàng trữ tại viện Đông Các đã thất lạc, chỉ còn bộ Toàn Thư truyền lại tới ngày nay. Sau đó, sử quan dưới triều Lê ghi chép việc nước viết thành bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên. Hai bộ sử Đại Việt Sử Ký và Toàn Thư, tạm đủ cho việc đối chiếu quan điểm sử học của hai sử quan Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên. Trong Đại Việt Sử Ký, Lê Văn Hưu viết ra 30 lời bàn. Trong Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên để lại 170 lời bàn. Trong số đó, cho tới hết triều nhà Lý, sử quan Ngô Sĩ Liên viết 83 lời bàn: tức là có 56 lời bàn nhiều hơn tổng số lới bàn của Lê Văn Hưu. Có nhiều lời bàn, cả hai sử quan cùng bàn về một sử kiện. Đối chiếu lời bàn của hai sử quan trong những trường hợp này giúp người đọc dễ bề so sánh quan điểm sử học của hai nhà viết sử. Tác giả bộ Đại Việt Sử Ký Tục Biên không ghi thêm lời bàn. Lê Văn Hưu 鮟文休 Lê Văn Hưu (Ảnh minh họa). Lê Văn Hưu người Thanh Hóa, sinh năm 1230, mất năm 1322, thọ 93 tuổi. Ông đậu tiến sĩ năm 1247. Sau khi phục vụ trong nhiều chức vụ trong triều, ông được bổ nhiệm làm Chưởng Sử Quán, kiêm binh bộ thượng thư. Nhiều sử gia nghiên cứu về Lê Văn Hưu đặt câu hỏi: có những sử kiện quan trọng nào đã xẩy ra từ năm năm 1230 khi Lê Văn Hưu ra đời tới năm 1272 khi ông hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký? Hiển nhiên sử kiện quan trọng nhất là thời kỳ quân Nguyên xâm lăng nước Đại Việt năm 1257, tiếp theo là cuộc chiến thắng của Trần Hưng Đạo đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Triều đình nhà Nguyên phải phong cho vua Trần Thánh Tông, năm 1261 làm An Nam Vương, từ đó việc bang giao giữa Nhà Nguyên với nhà Trần mới trở lại bình thường. Tuy nhiên nhà Trần luôn luôn phải đề phòng nạn xâm lăng của nhà Nguyên. Năm 1271, nhân dịp đăng quang vua Nguyên đòi vua Trần sang chầu. Năm sau vua Nguyên lại gửi ba sứ thần sang Đại Việt tìm cột đồng do Mã Viện trồng để đánh dấu biên thùy Hoa-Việt sau khi thắng quân Hai Bà Trưng năm 42 Tây lịch. Chế độ truyền ngôi vua cho con để làm Thái Thượng Hoàng bắt đầu từ năm 1258 dưới triều vua Trần Thái Tông gây thêm mối căng thẳng ngoại giao giữa hai nước. Hơn nữa tục nhà Trần cho các hoàng tử công chúa thành hôn với nhau, nhắm mục đích củng cố vương quyền, cùng sự việc nho giả không được trọng dụng trong triều đình, đều đi ngược lại với tục lệ Trung Quốc. Thế nên việc vua Trần sai Lê Văn Hưu viết Đại Việt Sử Ký 大 史 có thể coi như triều đình nhà Trần muốn chứng tỏ quyền bình đẳng và sự độc lập giữa nước Đại Việt với triều đình nhà Nguyên khi đó đang đô hộ Trung Quốc. Việc Lê Văn Hưu chọn Triệu Đà 佗 làm khởi điểm cho việc dựng nước Đại Việt là bằng chứng sự bình dằng giữa hai nước Hoa-Việt. Điều đó căn cứ trên truyền thuyết lịch sử dưới đây. Năm 196 trước Tây lịch. Sau khi thống nhất được đất nước, Hán Cao Tổ 漢 リ 祖 sai sứ là Lục Giả x ネ sang Nam Việt phong vương cho Vũ Vương Triệu Đà. Gặp sứ giả nhà Hán, Triệu Đà hỏi: “Ta với Cao Tổ ai lớn hơn ai?” Lục Giả trả lời Hán Cao Tổ trị vì một nước lớn hơn ắt là lớn hơn.” Triệu Đà hỏi tiếp: “Nếu ta sinh ra tại Trung Quốc, liệu ta có lớn bằng Cao Tổ không?” Sau khi Lữ Hậu 呂后 tiếm ngôi nhà Hán, việc bang giao giữa Nam Việt và nhà Hán trở nên căng thẳng hơn. Năm 183 trước Tây lịch, Triệu Đà tự xưng là Vũ Đế ngang hàng với các Hoàng Đế nhà Hán. Sau khi Hán Văn Đế 漢 文 帝 lên ngôi, một mặt Triệu Đà sai sứ sang triều cống nhà Hán, để duy trì hoà bình giữa hai nước, một mặt vẫn tự coi là ngang hàng với hoàng đế nhà Hán. Suốt thời gian Lê Văn Hưu làm quan trong triều nhà Trần, nước Đại Việt luôn luôn bị nạn xâm lăng của Bắc Triều đe dọa, nên chắc chắn là ông thấu hiểu tầm quan trọng của việc duy trì nền độc lập, cùng việc tranh đấu để tránh những mối nhục trong việc bang giao. Triệu Đà là vị vua khéo léo giữ được độc lập cho đất nước mà không hy sinh sự đồng đẳng giữa hai nước Nam Việt và Trung Quốc nên không bị mất mặt trên đường ngoại giao. Đó là những lý do khiến Lê Văn Hưu coi Triệu Đà như người sáng lập ra nước Việt Nam. Dĩ nhiên Lê Văn Hưu cũng biết đến những vị lãnh đạo khai quốc khác trước Triệu Đà, nhưng hình ảnh những vị khai quốc đó mờ nhạt trước hình ảnh Triệu Đà vì những vị lãnh đạo khai quốc trước Triệu Đà đều bằng lòng với danh hiệu vương 王 do triều đình Trung Quốc phong cho, và không dám nghĩ tới việc xưng đế 帝. Bình về Triệu Đà, Lê Văn Hưu viết cái lớn lao của người trị nước không phải là cái lớn lao của diện tích đất nước người đó mà là cái đức 德 của người đó. Lời đó là lời Lê Văn Hưu bác bỏ lời Lục Giả so sánh Triệu Đà với Hán Cao Tổ trên đây. Trong lời Lê Văn Hưu, chữ đức không chỉ trọn vẹn là chữ đức của đạo nho. Chứ đức này là chữ đức của một vị đế, biết hạ mình để giữ nước, như lời Lão Tử Đạo Đức Kinh. Lê Văn Hưu đã đoan kết là hai vị vua đầu nhà Trần, Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông đều đã theo đúng gương Triệu Đà, một mặt giữ viện toàn được đất nước, mặt khác mềm mỏng giữ được bình đẳng ngoại giao với triều nhà Nguyên. Lê Văn Hưu căn cứ trên mức bình đẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam để ghi làm năm khởi đầu nền độc lập của nước Việt Nam đối với Trung Quốc. Ông không chọn năm 939, năm Ngô Quyền xưng vương, một năm sau khi đánh bại quân Nam Hán; mà ông chọn năm 966, năm Đinh Bộ Lĩnh xưng đế sau khi dẹp xong loạn mười Hai Xứ Quân, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt kinh đô tại Hoa Lư. Ông công nhận công lao Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán, nhưng ông chỉ trí Ngô Quyền không xưng đế, không chọn quốc hiệu, không đặt kinh đô, do đó Ngô Quyền không hoàn tất sự nghiệp dựng nước cho người Việt. Đinh Bộ Lĩnh, theo Lê Văn Hưu mới chính là người Trời sai xuống, dẹp tan loạn xứ quân, tiếp tục truyền thống dựng nước của Triệu Vũ Đế. Đặt cao nền độc lập của người Lạc Việt, Lê Văn Hưu kết tội những ai đã làm mất nền tự chủ của nước nhà. Ông nghiêm khắc chỉ trích tể tướng Lữ Gia 呂 嘉. Vào cuối năm 113 trước Tây lịch. Dưới triều vua Triệu Ai Vương 哀 王, vua nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quí 安 國 少 季, sang Nam Việt. Sứ nhà Hán nguyên là tình nhân của hoàng hậu Cù Thị 樛 氏, bà hoàng này vốn chỉ là tỳ thiếp của Triệu Minh Vương, nên cùng dỗ dành Ai vương đem nước Nam Việt về dâng nhà Hán. Lữ Gia biết mưu này, can ngăn không được, nên cùng mấy đại thần đem cấm binh vào giết sứ giả nhà Hán, Cù Thị và Ai vương, tôn Kiến Đức建 德, con trưởng của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt lên làm vua. Nhà Hán nhân truyện này dấy quân xâm chiếm Nam Việt. Lữ Gia không chống nổi, và Nam Việt trở thành quân huyện nhà Hán. Việc Lê Văn Hưu kết tội Lữ Gia không giữ nổi nước chứng tỏ lòng ông thiết tha với nền tự chủ của Nam Việt. Tiếp theo, Lê Văn Hưu chỉ trích những nhà lãnh đạo quần chúng, nổi dậy chống Trung Quốc, nhưng không đạt được tự chủ cho đất nước. Đó là trường hợp Lý Bí 李 チ (còn đọc là Lý Bôn) dưới triều vua Lương Vũ Đế 梁 武 帝, năm 541 thống lĩnh người nghĩa dũng nổi lên đánh đuổi thái thú Giao Châu là Tiêu Tư 蕭 諮 về Trung Quốc rồi chiếm giữ thành Long Biên 龍 編. Theo truyền thống truyền lại từ Triệu Đà, Lý Bí tự xưng là Nam Việt Đế, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân. Sau đó vua nhà Lương sai tướng Trần Bá Tiên s 8 先 mang quân sang tái chiếm Giao Châu. Lý Bí thua, phải chạy trốn vào ẩn trong vùng núi, rồi sau đó bị bệnh chết. Lê Văn Hưu chỉ trích Lý Bí khá nặng. Ông coi Lý Bý chỉ là một viên tướng trung bình, nhưng đồng thời ông tiếc cho Lý Bí, trong tay có cả năm chục ngàn quân, đã để lỡ dịp giành lại tự chủ cho người Nam Việt, chỉ vì tài cầm quân của Lý Bí không bằng tài cầm quân của Trần Bá Tiên. Theo Yu Insun, Lê Văn Hưu thay đổi quan điểm về sử học của ông khi bàn về Hai Bà Trưng. Dẫu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, chống triều đình Trung Quốc, chấm dứt bằng một chiến bại, nhưng tinh thần chiến đấu giành tự chủ cho đất nước đã ăn sâu vào lòng toàn dân. Điều đó chính là điều đã giúp người dân nước Đại Việt thành công trong việc đánh đuổi quân Nguyên. Vốn là một nhà Nho, Lê Văn Hưu tất tin tưởng rằng người phụ nữ đã đứng lên giành tự chủ cho đất nước, tất nhiên người trai đất Đại Việt phải bảo vệ đất nước hữu hiệu hơn nữa. Lê Văn Hưu đề cao việc bảo tồn nền tự chủ của đất nước khi ông so sánh vua Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn 李 公, vị vua khởi nghiệp nhà Lý, và trị từ 1010 tới 1028 với vua Lê Đại Hành nhà Tiền Lê tên là Lê Hoàn ホ 桓 làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh còn nhỏ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức Đại Hành Hoàng Đế 大L 皇帝. Người đời sau ca tụng Lê Đại Hành có công phá Tống bình Chiêm, dẹp yên được loạn nước. Dưới mắt Lê Văn Hưu, Lý Công Uẩn không hơn Lê Hoàn vì công dựng nước nhưng vì Lý Công Uẩn có đức dầy hơn Lê Hoàn lập ra triều nhà Lý lâu dải hơn, bởi khi đất nước lâm nguy, ngưòi lãnh đạo không những cần có tài mà còn cần có cả đức mới giữ được nước lâu dài. Lê Văn Hưu cho là nhà Tiền Lê không tồn tại lâu dài vì Lê Hoàn đã không sớm chọn thái tử, khiến khi khi Lê Hoàn vừa băng hà thời đã xẩy ra việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử kéo dài bẩy tháng. Để cuối cùng người con út là Long Đĩnh フ cướp ngôi của anh là vua Lê Trung Tông ホ 中 宗 mới lên ngôi được ba ngày. Long Đĩnh là một ông vua vô cùng bạo ngược, và theo Lê Văn Hưu thì chính Long Đĩnh là người làm đổ ngôi nhà Tiền Lê. Đằng khác Lê Văn Hưu chỉ trích triều Lý không sớm chọn thái tử, nên khó tránh được nạn nội loạn, bởi theo tục nhà Lý, tới khi lâm bệnh nặng, vua cha mới chọn người có tài năng đảm lược làm người kế vị. Nhà Trần lấy đó làm gương, nên vua cha sớm chọn thái tử, nhường ngôi cho thái tử và lên ngôi thái thượng hoàng. Lê Văn Hưu chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh phong cho năm bà vợ lên ngôi hoàng hậu. Sau đó, Lê Hoàn cũng như nhiều vua nhà Lý phong chức hoàng hậu cho nhiều bà vợ. Sụ kiện này chứng tỏ nhà vua muốn củng cố sức mạnh của triều đình bằng cách liên kết với gia đình các hoàng hậu. Tuy nhiên cũng vì vậy mà cơ đồ triều chính bị đe dọa bởi nội loạn trong thời kỳ tuyển chọn người kế vị hay chính trong ngày truyền ngôi. Lê Văn Hưu còn chỉ trích Lý Công Uẩn chỉ phong vương cho cha, trong khi vua Thái Tổ nhà Tống phong đế cho thân phụ. Sử gia còn hiểu là việc phong vương cho cha là do đức vô kỷ của Lý Công Uẩn. Đồng thời ông chỉ trích Lý Công Uẩn đã sao lãng truyền thống vun đắp tự chủ từ Triệu Đà truyền xuống. Cũng vì chủ ý đề cao việc duy trì nền tự chủ của đất nước, nên Lê Văn Hưu kết tội mọi hành động của các vị vua chúa sao lãng việt đề cao nền tự chủ. Đó là trường hợp Ngô Xương Văn, con trai của Ngô Quyền. Lê Văn Hưu ngợi khen Ngô Xương Văn 吳 昌 文về việc ông tha thứ cho Dương Tam Kha 楊 三 哥 cậu ruột ông về tội cướp ngôi vua của cháu, nhưng ông chỉ trích Ngô Xương Văn về việc mời Ngô Xương Ngập 吳 昌 岌 về cùng coi việc nước, khiến từ đó xẩy ra việc Ngô Xương Ngập tranh quyền, thế lực nhà Ngô mỗi ngày một kém và đất nước lâm vào nạn mười hai xứ quân. Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tông 李 太 宗 trong việc dẹp giặc Nùng, đã cương quyết xử tử Nùng Tồn Phúc 儂 存 福 nhưng đã vì lòng từ bi tha cho Nùng Trí Cao 儂 智 リ và còn gia phong cho y chức Thái Bảo, và chỉ một năm sau Trí Cao lại làm loạn, và xin phụ thuộc vào Trung Quốc. Lời chỉ trích của Lê Văn Hưu chứng tỏ mối lo ngại của ông nhân vụ tạo phản của Trí Cao mà mở đường cho Trung Quốc xâm lăng Nam Việt. Lê Văn Hưu cũng chỉ trích vụ vua Lý Anh Tông 李 宗 bình Chiêm Thành, lập một vua mới cho Chiêm Thành. Chỉ ít lâu sau, vị vua này bị một hoàng thân cướp ngôi. Vua Anh Tông phong vương cho hoàng thân phản loạn đó. Chính vị vua thứ hai này chỉ it năm sau mang quân xâm phạm đất nước nhà Lý. Ngoài mối quan tâm về nền tự chủ và hoà bình của đất nước, Lê Văn Hưu còn nặng lòng về việc tham gia triều chính của nho giả. Ông chỉ trích vua Lý Thái Tổ, sau khi di đô về Thăng Long đã không xây cất Thái Miếu cho xứng đáng, như vậy là không tròn chữ hiếu của đạo Nho. Ông còn chỉ trích việc vua Lý Thái Tổ cho xây cất quá nhiều chùa chiền, làm hao tài sản quốc gia phí phạm công lực của nhân dân. Chắc chắn là Lê Văn Hưu phải biết là vua Lý Thái Tổ thủa trẻ đã được nhà sư Phật Giáo chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Vân 李 慶 文 nhận làm con nuôi, dậy dỗ thành người, nhưng phải chăng vì lợi ích quốc gia ông đã thẳng thắn chỉ trích lòng mộ đạo Phật của nhà vua. Đằng khác, người đọc sử ghi nhận rằng ngay từ đầu nhà Trần đã có những kỳ thi kén người tài theo học đạo Nho ra giúp nước. Nhưng trên thực tế, số nho giả trong triều không nhiều, và không được giữ những địa vị then chốt. Cho tới khi quân nhà Nguyên xâm lấn dất Đại Việt, vì nhu cầu ngoại giao, địa vị nho gia trong triều nhà Trần mới được nâng cao và dần dần tăng tiến thành một lực lượng chống đối ảnh hưởng Phật Giáo ở trong triều. Yu Insun cho rằng việc Lê Văn Hưu chỉ trích vua Lý Thái Tổ trên đây chỉ là một đường lối khéo léo của sử gia để gián tiếp chỉ trích phe thân Phật Giáo trong đời Trần.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 11:03:36 GMT 9
Nhận thức của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên về lịch sử Việt Nam (Kết)Tạp chí Truyền Thông Communications Nhiều nhà sử học ngày nay cho rằng điểm triều đình các nhà Đinh, Lê, Lý và Trần tôn trọng Phật Giáo hơn Khổng Giáo là một truyền thống của người Việt Nam khác với truyền thống của người Trung Quốc lấy Khổng Giáo làm quốc giáo. (Tiếp theo phần I) Ngô Sĩ Liên 吳 士 連 Ngô Sĩ Liên người trấn Sơn Nam 山 南, có người nói ông từng theo phò Lê Lợi ホ 利 trong cuộc khởi nghĩa chống quân nhà Minh. Ngô Sĩ Liên đậu tiến sĩ năm 1442, dưới triều vua Lê Thánh Tông. Ông giữ chức Đô Ngự Sử dưới triều vua Lê Nhân Tông. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông làm Quốc Tử Giám Ty Nghiệp, và tham dư vào việc soạn thảo bộ quốc sử. Năm sinh năm mất của ông không được sách sử ghi chép rõ, nhưng nhiều người tin rằng ông mất năm 99 tuổi. Với tuổi thọ đó, cuộc đời Ngô Sĩ Liên trải dài qua nhiều thăng trầm của lịch sử: cuộc suy thoái của nhà Trần và nhà Hồ; tiếp theo là hai mươi năm đô hộ dưới triều nhà Minh với chính sách tàn khốc tiêu diệt văn hóa Việt Nam; nhưng quan trọng hơn cả là cuộc chiến đấu giành tự chủ cho đất nước của Lê Lợi. Từ khi Lê Lợi dựng nên nhà Lê, ảnh hưởng Khổng Giáo trong triều lớn mạnh cùng số quan gia nho học ngưòi vùng châu thổ sông Nhị và thắng thế ảnh hưởng Phật Giáo của nhóm Phật Tử được trọng dụng người vùng Thanh Hóa trong việc triều chính, và ảnh hưởng Khổng giáo trở thành độc tôn dưới triều vua Lê Thánh Tông. Trong sinh hoạt tinh thần đó Ngô Sĩ Liên đã trước tác bộ sử Toàn Thư. Nhiều sử gia ngày nay tự hỏi lý do nào đã khiến Ngô Sĩ Liên trước tác bộ sử Toàn Thư, trong khi ông đã từng là một thành viên trong công cuộc sưu tập bộ quốc sử tàng trữ tại viện Đông Các? Có thể trả lời là việc soạn thảo bộ quốc sử là một công cuộc gồm nhiều nho giả, thế nên người tham dự khó bề bày tỏ những lời phê phán bình luận. Bởi vậy, theo sử gia Wolter(1), Ngô Sĩ Liên đã đơn độc trước tác bộ sử Toàn Thư với chủ đích là đề cao Khổng Giáo như một cơ động giúp cho người nước Đại Việt có một học thuyết căn bản để duy trì nền tự chủ trong thời gian đất nước gặp cơn nguy biến và theo Yu Insun, thì hành động này giúp Ngô Sĩ Liên đứng được ra ngoài vụ tranh chấp ảnh hưởng giữa Nho Giả vùng châu thổ sông Nhị với Phật Tử được trọng dụng vùng Thanh Hóa. Trong toàn bộ Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên viết ra tổng cộng 170 lời bàn, trong số đó có 86 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới triều nhà Lý; 72 lời bàn về sử kiện xẩy ra dưới đời nhà Trần và nhà Hồ cùng hai chục năm tranh đấu chiến thắng quân xâm lược nhà Minh, phần còn lại là lời bàn về sử kiện dưới triều vua Lê Thái Tổ. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Khổng Học, nhất là Tân Khổng Học ảnh hưởng mãnh liệt trên việc trước tác của Ngô Sĩ Liên, lời bàn của ông đều đặt trên đạo lý gia tộc và tương quan giữa vua và dân. Ông tin tưởng chắc chắn rằng đó là hai điểm quan trọng trong việc trị nước an dân. Năm 1320, khi vua Trần Anh Tông (tri vì từ 1293-1314) băng hà, ông trích sách Mạnh Tử(2): 天 下 之 本 在 國 Thiên hạ chi bổn tại quốc 國 之 本 在 家 quốc chi bổn tại gia 家 之 本 在 ? gia chi bổn tại thân Nghĩa là: gốc của thiên hạ là nhà nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là thân. Rồi Ngô Sĩ Liên thêm: “thân có tu, nhà mới tề, nước mới trị, điều ấy là khuôn vàng thước ngọc từ đời Nghiêu Thuấn, và đến ngày nay vẫn thật đúng như vậy.” Do đó ông chỉ trích bất kỳ ai vi phạm nguyên tắc này. Ngô Sĩ Liên hết lời ca tụng vua Trần Anh Tông, vì nhà vua dốc lòng tu thân, thờ phụng cha mẹ, giữ vẹn niềm hòa hảo với họ hàng, và nhất là thờ kính tổ tiên. Thế nên, theo Ngô Sĩ Liên, triều vua Trần Anh Tông là một triều thịnh trị, nhân dân sống đời an lạc. Tuy nhiên, ông vẫn còn chỉ trích vua Trần Anh Tông hãy còn một điều thiếu sót trong lễ quốc táng Thượng Hoàng Trần Nhân Tông. Ngô Sĩ Liên cực lục chỉ trích việc làm loạn luân nhân để củng cố cho ngôi nhà Trần được bền vững. Đó là sự việc Thái Sư Thống Quốc Hành Quân Chinh Thảo Sự Trần Thủ Độ cưỡng ép vua Trần Thái Tông, giáng Chiêu Thánh Hoàng Hậu, người đã lấy vua Trần Thái Tông được 12 năm, xuống làm công chúa, rồi đem chị bà Chiêu Thánh, tức vợ Trần Liễu lên làm Hoàng Hậu, bởi vì Hoàng Hậu Chiêu Thánh không có con nối dõi và bà chị đã có thai được ba tháng. Việc phi luân này đã được lập lại dưới Triều vua Trần Dụ Tông (trị vì từ 1341 tới 1369). Ngoài ra, Ngô Sĩ Liên còn trách vua Trần Thái Tông đã hứa gả công chúa cho Trung Thành Vương, rồi cuối cùng lại gả cho một hoàng thân khác. Ngô Sĩ Liên tin tưởng là ngôi vua sẽ truyền cho người con trưởng của vua cha. Nếu Hoàng Hậu không có con nối dõi, con một thứ phi có thể được phong làm Thái Tử. Trong trường hợp Hoàng Hậu sau đó sinh Hoàng Nam, Thái Tử con bà thứ phi phải từ chức nhường ngôi cho Hoàng Nam con bà Hoàng Hậu. Thế nên Ngô Sĩ Liên thương tiếc Hoàng Thân Trần Quốc Chấn bị sát hại dưới triều vua Trần Minh Tông (trị vì từ 1314 tới 1329) chỉ vì hoàng thân đã can ngăn việc lập một Hoàng Nam con một bà thứ phi lên làm Thái Tử, không đợi Hoàng Hậu sinh Hoàng Nam. Ngô Sĩ Liên cũng tin tưởng là Hoàng Nam em có thể được nối ngôi vua khi Hoàng Nam anh không đủ khả năng nối ngôi. Thế nên Ngô Sĩ Liên chỉ trích vua Đinh Bộ Lĩnh lập con bà thứ phi là Hạng Lang làm thái tử thay vì truyền ngôi cho con trưởng con bà Hoàng Hậu là Hạng Liễn vốn là người văn võ toàn tài. Trong trường hợp Hoàng Đế không có Hoàng Nam nối ngôi, thời phải lập một ngưòi cháu trai, như trường hợp vua Lý Nhân Tông nhưòng ngôi cho cháu. Ông cực lực chống lại việc nhường ngôi cho một công chúa như việc vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng. Theo Ngô Sĩ Liên thì vua Lý Huệ Tông đã không noi gương vua Lý Nhân Tông nên đã mở cửa cho Trần Thủ Độ lật đổ ngôi nhà Lý và lập ra nhà Trần. Nhà Trần cũng theo gương nhà Lý không nhất thiết truyền ngôi vua cho Hoàng Nam con cả của vua. Để tránh việc tranh giành ngôi vua, nhà Trần đặt ra tục lập ngôi Thái Thượng Hoàng. Dầu thấu hiểu tục lệ nhà Trần như vậy, Ngô Sĩ Liên cũng bàn là không nên lập vua mới khi vua cha hãy còn sống, để một nước một lúc có hai vua. Ngô Sĩ Liên chủ trương đàn bà góa không được tái giá để giữ tiết với chồng cũ, theo đúng lệ tam tòng của Nho Giáo. Tục này phải được bắt đầu từ trong hoàng tộc, để làm gương cho tứ dân. Chủ trương đó nhằm tránh những vụ thoán ngôi vua như vụ Lê Hoàn lấy bà Dương Hậu lập ra nhà Tiền Lê, vụ Trần Thủ Độ lấy vương Hậu Linh Từ lập ra nhà Trần. Đi xa hơn, Ngô Sĩ Liên ca ngợi việc các vương hậu nước Chàm phải chịu thiêu sống để giữ vẹn đức tam tòng. Người đọc sử tự hỏi rằng, vốn là một nho giả chân chính, phải chăng Ngô Sĩ Liên nhiệt liệt cổ động cho việc gái hóa phải chết theo chồng là để duy trì chữ Trung của đạo nho theo câu tục trai trung một chúa, gái trinh một chồng. Cũng trong dòng tư duy này, sử còn chép truyện năm 1285, khi quân nhà Trần phá quân Nguyên, chủ tướng quân Trung Quốc là Toa Đô bị trúng tên chết. Khi các tướng thắng trận đưa đầu Toa Đô về nộp vua Trần Nhân Tông, vua thấy người dũng kiệt hết lòng với chúa mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi cởi áo bào đắp vào thủ cấp Toa Đô, sai làm lễ mai táng theo quân cách. Với chủ trương trai trung một chúa, Ngô Sĩ Liên cực lưc bài bác những mưu đồ thoán nghịch của Lê Hoan, Trần Thủ Độ và nhất là Hồ Qúy Ly, cả ba cùng là những tặc thần lập mưu giết vua để cướp ngôi vua. Theo Ngô Sĩ Liên, Lê Hoan đáng tội chết chém, Trần Thủ Độ không đáng so sánh với loài chó lợn và Hồ Qúy Ly bi trời phạt khiến giặc Nam không giết nổi thời giặc Bắc không tha. Theo Yu Insun thời Ngô Sĩ Liên nặng lời chỉ trích Lê Hoàn, Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly thí vua cướp ngôi báu, không chỉ riêng bởi Ngô Sĩ Liên là một tân nho giả mà còn phản ánh nội tình triều nhà Lê, ngày đó, khi vua Lê Nhân Tôn bị người anh là Nghi Dân 宜 民, trước kia đã được phong làm Thái Tử, sau vì mẹ phải tội cho nên bị phế bỏ. Năm 1459 Nghi Dân đồng mưu với Lê Đắc Ninh 黎 得 寧, Phạm Ban 范 般 v.v… nửa đêm trèo vào thành giết vua Lê Nhân Tôn và hoàng thái hậu, tự xưng làm vua rồi sai sứ sang Trung Quốc cầu phong. Mối quan tâm của Ngô Sĩ Liên là sự an nguy của đất nước trước sự đe dọa của kẻ thù phương Bắc, dẫu rằng nhà Minh sau khi bị đuổi ra khỏi bờ cõi không còn là một mối đe dọa nặng nề như quân nhà Nguyên dưới đời Trần. Thế nên, theo Yu Insun, từ khi vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh sau hai mươi năm đô hộ, mối lo chính của Ngô Sĩ Liên là sự bất ổn của tình hình quốc nôi khơi ngòi cho việc xâm lăng của ngoại bang. Đó là lý do khiến Ngô Sĩ Liên đặt bản văn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi vào trong bộ sử Toàn Thư. Bản Bình Ngô Đại Cáo xác quyết Đại Việt là một nước có văn hiến riêng, bờ cõi phân chia rõ ràng, phong tục khác hẳn Trung Quốc. Khác với Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên khẳng định là nước Đại Việt có một lịch sử dài không thua lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ vua Thần Nông. Theo tục truyền Kinh Dương Vương, vị vua đầu tiên của đất Nam Việt là anh khác mẹ của Đế Nghi, vị vua đầu tiên của người phương Bắc. Thật thế, Đế Minh, cha của Đế Nghi và Kinh Dương Vương là cháu ba đời vua Thần Nông, có ý lập Kinh Dương Vương lên nối ngôi, nhưng Kinh Dương Vương từ chối nhường ngôi cho Đế Nghi làm vua phương Bắc, còn mình làm vua phương Nam. Ngô Sĩ Liên lo lắng cho mối an nguy nước Đại Việt phản ánh trong lời bàn của ông về những vụ xâm lăng của quân Mông Cổ từ phương Bắc, qua những vụ xâm phạm bờ cõi miền Nam của quân Chiêm. Ngô Sĩ Liên ca tụng thượng hoàng Trần Nhân Tông, không những có tài điều binh khiển tướng đánh đuổi được quân Nguyên, mà còn triệu tập Hôi Nghị Diên Hồng, đoàn kết toàn dân thành một khối quyết tâm bảo vệ đất nước. Ngược lại ông chê trách triều nhà Trần bỏ ngỏ biên giới miền Nam mở đường cho quân Chiêm Thành sang quấy phá Đại Việt. Ông chê trách Thượng Hoàn Dụ Tông quen sống trong cảnh đất nước thịnh vương bình an mà trở thành quá phóng túng, chỉ nghĩ tới chuyện mua vui. Ông cũng chê trách vua Trần Nghệ Tông quá mải mê với văn học mà sao lãng việc binh đến độ để quân Chiêm Thành vào cướp phá thành Thăng Long vào mùa thu năm 1371. Nhân danh một nhà Tân Nho, Ngô Sĩ Liên bài bác ảnh hưởng Phật Giáo trong hai triều nhà Lý và nhà Trần. Ông quan niệm việc vua Lý Thái Tổ khi vừa đăng quang liền cho xây chùa tô tượng Phật khắp nơi trong nước là một điều quá đáng, dầu ông không quên là vua Lý Thái Tổ là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân, và nhờ vậy mà thành nhân. Ngô Sĩ Liên ca tụng vua Trần Nhân Tông là một vị minh quân từng chiến thắng quân Nguyên xâm phạm đất Đại Việt, nhưng ông coi việc vua Trần Nhân Tôn, sau khi thoái vị làm Thái Thượng Hoàng, trở thành đệ nhất tổ giòng Thiền Trúc Lâm, là một hành động chứng tỏ vua Trần Nhân Tôn không giữ vẹn chữ Trung Dung của đạo Nho. Hơn nữa,vẫn nhân danh là một nho sĩ, Ngô Sĩ Liên còn phê bình việc thay đổi niên hiệu của vua Lý Thái Tổ năm 1034. Năm ấy hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm tự thiêu, thi thể cháy kết thành thất bảo. Vua xuống chiếu đem thất bảo đó giữ ở chùa Trường Thánh để thờ, nhân dịp đó vua đổi niên hiệu là Thụy Thông; sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn(3): Thuyết nhà Phật gọi là xá lị tức là khi tự thiêu mình, tinh khí tụ lại kết thành một thứ lửa không cháy được, cho nên gọi là bảo. Tương truyền là người nào học Phật thành thì xác hồn làm bảo như thế. Vì rằng người sãi đoạn tuyệt tính dục thì tinh khí kết thành ra thứ ấy. Người đời cho là không thường, thấy mà cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành thôi. Vua cũng mê hoặc mà đổi niên hiệu. Từ đấy về sau những người hiếu danh, cạo đầu làm sãi, nhẫn nại chịu chết như loại Trí Không này nhiều lắm. Xuống tới đời Hoàng đế Lý Nhân Tôn, năm 1096, thái sư Lê Văn Thịnh làm phản, Vua Lý Nhân Tôn tha tội chết, an trí tại Thao Giang. Nguyên bấy giờ vua ngự thuyền xem đánh cá tại hồ Dâm Đàm. Chợt có mây mù, trong đám mù có tiếng thuyền bơi tới, vua lấy giáo ném. Bỗng chốc mây mù tan, trong thuyền ngự có con hổ. Có người than: Nguy lắm rồi! Có người đánh cá tên Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì hổ biến ra thành thái sư Lê Văn Thịnh. Lê Văn Thịnh vốn có tà pháp làm ra vậy để tính truyện cướp ngôi. Vua thưởng cho Mục Thuận, và cắt đất cho lập ấp. Ngô Sĩ Liên có lời bàn về truyện này(4): Người làm tôi định cướp ngôi giết vua mà được miễn tội chết! Thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin Phật Giáo. Mùa thu tháng 7 ngày 25, Ỷ Lan hoàng thái hậu băng hà, hỏa táng; dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, lại bắt người thị nữ chôn theo. Ngô Sĩ Liên có lời bàn về việc này(5): Hoả táng là theo Phật Giáo, chôn theo là tục nhà Tần. Nhân Tôn Hoàng Đế làm cả hai việc ấy, hoặc giả theo lời của Thái Hậu chăng? Theo Yu Insun, lời bàn của Ngô Sĩ Liên, đặt câu hỏi về lời di chú của Ỷ Lan hoàng thái hậu, là bởi Ngô Sĩ Liên có ý bài bác vua Lý Nhân Tông vì chính nhà vua, theo tục lệ Phật Giáo, ban lệnh thi hành việc hỏa táng và việc chôn theo thị nữ của hoàng thái hậu. So Sánh hai Sử Gia Yu Insun cho rằng quan điểm sử học của Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên là sản phẩm của thời đại của mỗi người. Với Lê Văn Hưu, sử kiện đáng chú ý nhất là những thành tích kháng Nguyên giữ nước của triều nhà Trần. Với Ngô Sĩ Liên, một sử thần của triều nhà Lê, Khổng Học lúc đó đã trở thành một nền quốc học, thế nên giáo lý cũng như tập tục Khổng Giáo là những mối quan tâm hàng đầu. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên đã từng sống qua hai chục năm dưới sự đô hộ của quân Minh, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của nền an ninh quốc nội trong việc ngăn chặn người phương Bắc xâm lấn đất nước vả duy trì nền tự chủ của nước Đại Việt. Khác biệt giữa quan điểm sử học của hai sử thần thấy rõ qua sự khác biệt giữa những lời bàn trên cùng một sử kiện. Lời bàn của Lê Văn Hưu chú trọng tới nền an nguy của đất nước và sự bình đẳng giữa nước Nam với nước Bắc. Ngô Sĩ Liên chỉ bàn về hai vấn đề này trong bốn sự kiện. Đằng khác, Ngô Sĩ Liên dành 11 lời bàn về giáo lý Khổng Học, Lê Văn Hưu chỉ nói tới vấn đề liên quan tới Khổng Hoc trong 5 lời bàn. Sự khác biệt giữa hai sử thần còn rõ rệt hơn nữa qua những lời bàn cùng về những sử kiện dưới triều vua Ngô Quyền và vua Đinh Bộ Lĩnh. Lê Văn Hưu tin chắc rằng Ngô Quyền không hoàn toàn tạo dựng được nền tự chủ cho đất nước như Triệu Đà đã đặt được trước khi quân của Hán Vũ Đế sang xâm lấn, bởi chiến thắng của Ngô Quyền đã khiến nhà Hán phải bỏ mộng xâm lược, nhưng ông tiếc cho Ngô Quyền không nhân dịp đó xưng đế như Triệu Đà. Ngược lại Lê Văn Hưu ca tụng Ngô Quyền ngoài tài thống lĩnh quân đội còn giỏi tổ chức việc nội trị, tạo nên nề nếp cho đời sống nhân dân. Ông kết luận rằng với một công nghiệp như vậy, Ngô Quyền xứng đáng là một Hoàng Đế của nước Nam Việt. Lê Văn Hưu chủ xướng là Đinh Bộ Linh đã giành được nền tự chủ hoàn toàn cho đất nước, không kém gì Triệu Đà đời trước. Đinh Bộ Lĩnh đã tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu mới, sửa sang giềng mối triều chính. Ngược lại, Ngô Sĩ Liên coi nhẹ công nghiệp của Đinh Tiên Hoàng, vì ông chủ trương là Ngô Quyền đã giành được hoàn toàn nền tự chủ cho Nam Việt. Ngược lai ông chỉ trích Đinh Bộ Lĩnh và con cả là hoàng tử Đinh Liễn là không hành xử theo đúng tập tục Khổng Học. Đinh Bộ Lĩnh đã vượt qua truyền thống truyền ngôi của các triều đại Trung Quốc đặt trên nền tảng Khổng Học: nhà vua đã bỏ con trưởng Đinh Liễn và lập con út là Hạng Lang lên nối ngôi. Đinh Liễn đã tùng theo cha chinh chiến nhiều năm trong việc dẹp loạn 12 xứ quân, nên tức giận lập mưu giết Hạng Lang, nên cũng không giữ tròn đạo làm tôi theo Khổng Học, đồng thời gây ra mối loạn trong nhà để người phương Bắc có cơ hội nhòm ngó bờ cõi. Người đọc sử có thể hiểu rằng lời Ngô Sĩ Liên chỉ trích cha con Đinh Bộ Lĩnh phản ảnh ý ông muốn ám chỉ trích việc tranh giành ngôi báu trong triều nhà Lê lúc bấy giờ. Ảnh hưởng Khổng Giáo từ triều nhà Lê không những chỉ mỗi ngày một lớn mạnh trong việc triều chính mà còn thấm nhập từ từ vào trong mọi hoạt động trong dân gian, truyền qua đời nhà Nguyễn, cho tới khi người Pháp bỏ thi Hương hồi đầu thế kỷ XX mới suy giảm. Nhiều nhà sử học ngày nay cho rằng điểm triều đình các nhà Đinh, Lê, Lý và Trần tôn trọng Phật Giáo hơn Khổng Giáo là một truyền thống của người Việt Nam khác với truyền thống của người Trung Quốc lấy Khổng Giáo làm quốc giáo. Chính nhờ điểm khác biệt đó mà dân Việt Nam đã không bị Trung Quốc đồng hóa. (1) Wolter, “What Else May Ngô Sĩ Liên Mean” in “Sojourners and Settlers: Histories of Southeast Asia and the Chinese”, University of Hawai Press 2001. Edited by Reid Anthony. (2) Đoàn Trung Còn, Tứ Thơ Mạnh Tử, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996, tr.12. (3) Ngô Sĩ Liên, Toàn Thư, Tập 1, bản dịch của Cao Huy Gịu, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967, tr. 210. (4) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 242. (5) Ngô Sĩ Liên, ibid. tr. 248.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2013 4:32:21 GMT 9
59 năm Hiệp định chia đôi đất nước và cuộc di cư từ Bắc vào Nam Hiệp Định Genève chia đôi đất nước được ký ngày 20-7-1954 và liền sau đó là cuộc di cư chưa từng có của gần một triệu người từ Bắc vào Nam. Tính tới tháng 7 năm nay, 58 năm trời đã trôi qua. Trẻ thơ ngày ấy nay đã thành người già. Cả dân tộc vẫn trông ngóng an bình và hạnh phúc trên nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ của chết chóc, tàn phá, chia ly. Nhân dịp này, chúng tôi xin kể hầu độc giả về Hiệp Định Genève và ký ức về cuộc hành trình tìm tự do của dân miền Bắc, trong đó có chúng tôi, để gọi là “ôn cố tri tân”. HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20-7-1954 Cuộc chiến tranh giữa Pháp (với quân đội Quốc Gia VN tiếp tay) và Việt Minh đã bước sang năm thứ 9 vào năm 1954. Lực lượng Việt Minh càng ngày càng lớn mạnh từ khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục năm 1949. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tổ chức và trang bị các đơn vị lớn đến cấp sư đoàn và đại đoàn. Trong khi đó tướng Henri Navarre, tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương, lại phạm lỗi lầm lớn về chiến lược. Ông đưa quân đến đóng tại lòng chảo Điện Biên Phủ với ý định chặn đường quân Việt Minh tiến sang Lào và nhử quân Việt Minh đến để tiêu diệt. Navarre không ngờ Trung Cộng đã tiếp tế cho Việt Minh hàng ngàn đại bác và cao xạ phòng không, đồng thời gửi nhiều tướng lãnh của Hồng Quân sang giúp việc tham mưu và chỉ huy. Đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ bị cắt, chỉ còn trông vào không vận, trong khi không vận bị hạn chế khả năng hoạt động vì thời tiết và hệ thống phòng không của địch. Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 là chuyện đương nhiên phải xảy ra. Trước áp lực quân sự của Việt Minh, Pháp muốn điều đình để tìm lối thoát. Việt Minh cũng sẵn sàng nói chuyện vì qúa mệt mỏi, bị tổn thất nặng về nhân sự và hy vọng có thể chiếm được nhiều lợi thế trên bàn điều đình. Các nước lớn cũng muốn giải quyết vấn đề Đông Dương cho xong sau khi đã dàn xếp chấm dứt chiến tranh Cao Ly. Vì thế, một hội nghị quốc tế về Đông Dương, trong đó vấn đề Việt Nam là chính, được triệu tập tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 8-5-1954. Đồng Chủ tịch hội nghị là Anh và Liên Xô. Chu Ân Lai đại diện Trung Cộng. Phạm Văn Đồng đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. Sau ngày 7-7-1954, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, tân Ngoại Trưởng, được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cử sang thay. Lào và Cao Miên cũng có đại diện tham dự. Về phiá chính phủ Pháp, vài ngày sau khi hội nghị khai diễn, Thủ Tướng Laniel bị lật đổ. Tân Thủ Tướng Mendès France thuộc đảng Xã Hội lên cầm quyền. Khi nhận chức, ông hứa với dân Pháp là ông sẽ đạt giải pháp cho vấn đề VN trong 100 ngày. Nếu không, ông sẽ từ chức. Đích thân Thủ Tướng Mendès France đi phó hội vì ông kiêm luôn chức bộ trưởng ngoại giao. Điều này chứng tỏ quyết tâm tìm hòa bình của ông, nhưng cũng cho thấy thế yếu của ông khiến đối phương gia tăng đòi hỏi, gây thiệt hại cho quyền lợi của Pháp và của phe Quốc Gia VN. Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Ngưng Chiến Tại Việt Nam được ký kết giữa Thiếu Tướng Delteil, đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương và Thứ Trưởng Quốc Phòng Tạ Quang Bửu, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hiệp Ước Ngưng Chiến có 47 điều với nội dung chính như sau: - Giới tuyến quân sự được ấn định từ cửa sông Bến Hải theo lòng sông đến biên giới Lào-Việt (gần vỹ tuyến 17). Thiết lập khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên. Phiá Bắc giới tuyến do VNDCCH kiểm soát. Phiá Nam do Pháp và chính phủ Quốc Gia VN. - Việc rút quân, chuyển quân, vật liệu và dụng cụ quân sự của hai bên phải làm xong trong thời hạn 300 ngày. - Trong thời hạn này, dân chúng được tự do chọn và chuyển đến vùng kiểm soát của bên này hay bên kia theo ý muốn. - Trao trả tù binh và thường nhân bị giam giữ. - Không được đem quân đội, nhân viên quân sự, võ khí vào VN. Có thể đổi hay thay thế không qúa 50 người mỗi tháng. Không cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự. - Thành lập Ủy Ban Liên Hợp hai bên để thi hành Hiệp Ước và Ủy Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế gồm đại diện 3 nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan. Kèm theo Hiệp Ước Ngưng Chiến còn có Bản Tuyên Cáo Chung Kết không có chữ ký của phái đoàn nào, nhưng được coi như tất cả các phái đoàn đều thỏa thuận, trừ hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ. Hai phái đoàn này công bố tuyên ngôn riêng. Bản Tuyên Cáo Chung Kết có 14 điều. Quan trọng nhất là Điều 7 dự trù tổng tuyển cử tự do tại VN vào tháng 7-1956, tức 2 năm sau ngày ký Hiệp Định. Điều 9 của Tuyên Cáo nói tới việc không chấp nhận những sự phục thù cá nhân hay đoàn thể đã tham gia tranh đấu ở bên này hay bên kia. Hiệp Ước ấn định như thế nhưng chẳng bên nào áp dụng nghiêm chỉnh, ngoài các điều khoản liên quan tới ngưng bắn và phân vùng. Hiệp Định Genève 1954 là kết qủa của một sự dàn xếp giữa các đại cường Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng. Mỹ giữ thái độ không chống không ủng hộ. Việt Minh và phe Quốc Gia đã ngậm đắng nuốt cay, bất lực nhìn những kẻ khác quyết định số phận của mình. Không một phe VN nào muốn đất nước bị chia đôi. Việt Minh nghĩ rằng họ đang kiểm soát được đa số lãnh thổ, trừ các thành phố lớn. Nếu có một cuộc ngưng bắn tại chỗ, họ sẽ có nhiều lợi thế. Phe Quốc Gia đề nghị quân hai bên rút về những vùng tập trung tạm thời, dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp quốc, trong khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do. Phe Quốc Gia có lợi thế riêng trong việc đang kiểm soát những thành phố lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn, tất cả các thành phố khác ở miền Trung và miền Nam, trừ Quy Nhơn nằm trong Liên Khu 5 của Việt Minh. Ngoài ra, phe Quốc Gia cũng rất quan tâm tới sự an toàn của giáo khu Phát Diệm. Khu này được Giám Mục Lê Hữu Từ thành lập từ những năm 1946, 1947, được bảo vệ bằng một lực lượng quân sự riêng, không cho Việt Minh đến quấy phá, cũng không cộng tác với Pháp. Nhiều lãnh tụ Quốc Gia, trong đó có Ngô Đình Nhu, Lê Quang Luật… bị Việt Minh truy bức và không muốn sống trong vùng Pháp kiểm soát, đã đến nương náu tại khu tự trị Phát Diệm. Đến năm 1949, khu tự trị mới cộng tác với chính quyền Quốc Gia vừa được thành lập. Vì vậy, việc chia đôi đất nước khiến phe VN nào cũng bị thiệt hại. Hai bên đều cố tranh đấu nhưng không thể thay đổi ý định của các đại cường. Khi biết việc chia đôi đất nước là điều không thể tránh, đại diện Việt Minh Tạ Quang Bửu đưa đề nghị lập giới tuyến ở vỹ tuyến 13 với ý định đặt Huế và Đà Nẵng vào nửa phía Bắc. Dĩ nhiên Pháp và Anh không chịu. Phạm Văn Đồng đề nghị nhích lên vỹ tuyến 16. Chu Ân Lai thỏa thuận với Mendès France và Molotov phân vùng ở vỹ tuyến 17 để khai thông hội nghị và áp lực Việt Minh phải chấp thuận. Dù phải nhận một giải pháp bất như ý, trái với tham vọng của họ, Việt Minh phải làm bộ hân hoan ca ngợi chiến thắng và hòa bình, trong khi bắt đầu sửa soạn đường lối hành động cho tương lai: chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được dự trù 2 năm sau, và khi cần, sẽ phát động một cuộc đấu tranh võ trang mới để chiếm miền Nam. Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là đòi hỏi và hy vọng của phe cộng sản. Họ tính toán rằng tại miền Bắc họ có thể kiểm soát dân chúng hầu như 100%. Ở miền Nam cũng vẫn có người ủng hộ họ, chưa kể những cán bộ nằm vùng do họ gài lại sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, phá rối và cả tổ chức gian lận cục bộ trong cuộc bầu cử. Như vậy chắc chắn họ sẽ có đa số phiếu và họ sẽ thống nhất đất nước dưới sự thống trị của họ. Họ đã sốt sắng liên lạc với chính quyền miền Nam từ 1955 để hối thúc thi hành tổng tuyển cử, kêu gọi các chính phủ đã tham dự hội nghị Genève làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (danh xưng chính thức của miền Nam từ 26-10-1955) để chính phủ này phải tôn trọng hiệp định, nhất là điều khoản tổng tuyển cử. Khi VNCH quyết liệt từ chối, cộng sản mở chiến dịch trên khắp thế giới tố cáo VNCH và Mỹ vi phạm hiệp định, có tình kéo dài tình trạng chia đôi đất nước. VNCH công bố chỉ chấp nhận tổng tuyển cử khi nào dân chúng cả hai miền có tự do như nhau, có sự thông thương và tự do bỏ phiếu không sợ một áp lực nào, dưới sự kiểm soát hữu hiệu của Liên Hiệp Quốc. Xét về thực tế, lời biện minh này có cơ sở. Nhưng cũng cần xét thêm về mặt pháp lý để xem việc từ chối tổng tuyển cử có vi phạm Hiệp Định Genève hay không. Trước hết, Hiệp Định Ngưng Bắn chỉ do đại diện của Pháp và Việt Minh ký, đại diện chính phủ Quốc Gia VN không ký. Phe Quốc Gia chỉ bị ràng buộc về những gì liên quan tới quân sự, vì Quân Đội Quốc Gia được Quốc Trưởng Bảo Đại tạm thời cho đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương (các thỏa ước quân sự 30-12-1949 và 30-12-1950). Pháp không có quyền quyết định nhân danh Quốc Gia VN về các vấn đề có tính cách chính trị. Hành động trái nguyên tắc này phải được coi là lạm dụng lòng tin (abuse de confiance). Thứ đến, việc tổng tuyển cử được nói trong Điều 7 của Bản Tuyên Cáo Chung Kết. Bản Tuyên Cáo này coi như được đương nhiên chấp thuận (tacitement consentie) nhưng không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào. Riêng hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ đã ra tuyên ngôn bầy tỏ sự không đồng ý. Tuyên Ngôn do Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ công bố nói rõ: “Việt Nam long trọng phản đối việc ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng Chính Phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc lập và Tự Do cho xứ sở” (1). Khi một chính phủ không ký văn kiện chung và công khai tuyên bố chống lại nội dung của văn kiện đó, tại sao lại có thể bị kết án vi phạm hiệp định, không tôn trọng cam kết? CUỘC DI CƯ TỪ BẮC VÀO NAM Chiếu điều 14, khoản d của Hiệp Ước Ngưng Chiến, dân chúng có quyền tự do chọn vùng sinh sống trong thời hạn 300 ngày, dân miền Bắc đã lũ lượt tìm cách vào Nam ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Dân các thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng may mắn nhất, vì nếu muốn đi Nam, họ có thể đi ngay từ thành phố của họ, không gặp trở ngại gì, lại có thể bán đồ đạc, xe cộ, nhà cửa trước khi đi, dĩ nhiên với giá vừa bán vừa cho. Trong khi đó dân ở các thành phố cộng sản đã tiếp thu, nhất là ở các miền quê xa xôi, việc đi Hà Nội hay Hải Phòng để từ đó vào Nam không phải là chuyện dễ dàng. Trước hết, họ phải bỏ lại tài sản, nhà cửa, ruộng vườn. Kế đó, phải thoát được những ngăn chặn trá hình hay công khai của Việt Minh. Dù vậy, khắp nơi, đặc biệt vùng đồng bằng Bắc Việt, dân chúng vẫn kéo nhau đi Nam từng đoàn từng lũ, bất kể những khó khăn và nguy hiểm. Bỏ phiếu bằng tầu (bay) tại phi trường Gia Lâm Tôi đã được chứng kiến cảnh dân quê, đặc biệt từ Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, lũ lượt kéo nhau đến thành phố Nam Định, trên đường đi Hà Nội để xuống Hải Phòng vào Nam. Theo Hiệp Định, Hải Phòng được chính quyền Quốc Gia và Pháp cai trị thêm 300 ngày trước khi trao lại cho Việt Minh. Mỗi ngày có hàng ngàn người đến tạm trú trong nhà chơi có mái của trường Lê Bảo Tịnh, chung quanh nhà thờ, nhà xứ và nhà người quen. Họ không tạo ra những vấn đề ăn ở, vệ sinh, trật tự. Họ ngừng ở Nam Định như chỗ nghỉ chân hoặc đợi người nhà. Mỗi đợt chỉ tạm trú một hai đêm rồi kéo nhau đi, nhường chỗ cho đợt khác. Họ tự lo việc ăn uống và dọn dẹp. Chính quyền gửi đến nhiều cán bộ nam nữ gọi là giúp dân, nhưng thật ra là để thuyết phục những người này quay về, đừng đi Nam nữa. Cán bộ tỉ tê là tại sao lại bỏ cửa bỏ nhà, bỏ mồ mả ông bà tổ tiên để đi đến nơi xa lạ, không biết tương lai sẽ ra sao. Họ còn dọa rằng chính quyền tay sai của Pháp Mỹ trong đó rất hung ác, chuyên môn hứa láo và bóc lột dân lành, rằng nay nước nhà đã độc lập rồi, chỉ hai năm nữa là tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, chẳng lẽ lúc đó lại bồng bế nhau về có phải là phí phạm thời giờ, của cải và khó ăn khó nói với bà con ở lại. Nhưng những người đã quyết đi không nao núng vì những lời tuyên truyền, dụ dỗ. Có vài trường hợp dành giật, níu kéo giữa cán bộ và dân ra đi, khiến Ủy Hội Quốc Tế có văn phòng ở Nam Định phải đến can thiệp. Nói chung, những người đi sớm đều đi được vì cộng sản không dám làm mạnh lúc đó để tỏ ra tôn trọng Hiệp Định. Ngoài ra, họ cũng chưa có kế hoạch ngăn cản vì việc dân ùn ùn bỏ đi xảy ra qúa bất ngờ, ngoài sự ước tính của họ. Thời gian sau, việc ngăn cản người đi Nam được thực hiện có bài bản. Ai đi trễ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và cũng khó đi lọt. Sau ngày việt Minh tiếp thu Hà Nội, 9-10-1954, Hải Phòng trở thành nơi duy nhất phải đến trên đường đi Nam. Vào thời gian cao điểm, tháng 4-1955, mỗi ngày Hải Phòng đón nhận khoảng 2,000 người đến từ các nơi. Trong khi đó có trên 70,000 người đang đợi các chuyến tàu và máy bay. Tàu của hải quân Pháp và Hoa Kỳ mỗi ngày chở hàng chục ngàn người vào bến Sài Gòn. Khoảng 70 phi cơ quân sự Pháp, không kể máy bay của Air Vietnam, được trưng dụng, lập cầu không vận chở dân di cư vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 26-5-1955, tàu Gascogne của Pháp là chuyến tàu cuối cùng chở 888 người di cư tới Sài Gòn. Dân di cư từ Bắc vào Nam có 533,868 người đi đường biển, 243,657 người đi bằng máy bay. Nếu tính luôn công chức, quân nhân và gia đình, thêm những người vượt tuyến bằng phương tiện riêng, tổng số dân di cư lên tới trên 800,000 người. Cuộc ra đi bằng tầu hỏa tại Hải Phòng Cuộc di cư 1954-1955 là cuộc bỏ phiếu bằng chân của trên 800,000 người dân miền Bắc cương quyết rời bỏ chế độ cộng sản để đi đến vùng do chính phủ Quốc Gia kiểm soát. Nếu dân được đi tự do, con số này sẽ cao hơn nhiều. Nên nhớ rằng dân số miền Bắc lúc đó, tính từ vỹ tuyến 17 trở ra, chỉ có khoảng 13 triệu người. Khi gần một triệu người bỏ đi, cộng sản VN mới thấy dân không yêu họ như họ tưởng. Miền Bắc mất đi một tiềm lực nhân sự lớn. Đa số dân có học và có khả năng cao về doanh thương và công nghệ ở các thành phố lớn đều đi vào Nam. Ngoài ra, cộng sản còn bị mất mặt về phương diện tuyên truyền. Vì thế họ phải ngụy biện rêu rao rằng đa số người di cư là giáo dân Công Giáo, bị các cha cố tuyên truyền, dụ dỗ đi Nam, số khác là những kẻ có quyền lợi gắn bó với Pháp và những kẻ phản quốc theo gót thực dân đế quốc Pháp Mỹ. Lý do tôn giáo đúng một phần nhưng vì đức tin, không phải vì dụ dỗ mê hoặc. Ngoài ra, giáo dân dù chiếm phần đông cũng không phải là tất cả. Sự thực, dân miền Bắc đã thấy tận mắt cách cai trị độc tài, tàn bạo, dối trá của Việt Minh, đã nếm mùi tiền cải cách ruộng đất qua những cuộc đấu tố, dù mới chỉ là những bước dạo đầu nhẹ nhàng nhưng đã đủ làm dân khiếp sợ. Họ đã thấy chủ nghiã cộng sản vô thần đang được từ từ áp dụng, giết dần giết mòn truyền thống văn hóa của dân tộc. Đó là lý do khiến người ta bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Bỏ hết để đi vào một miền đất chỉ hứa có tự do, không hứa thiên đàng hạ giới. Số người di cư đã vượt qúa mọi dự đoán. Người Pháp dự trù có 60,000 người. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ hy vọng 100,000. Thực tế đã có 860,000 người chạy cộng sản vào Nam (2). Ngày 11-5-1955, Việt Minh tiếp thu thành phố Hải Phòng. Luật Sư Lê Quang Luật, Đại Biểu Chính Phủ Quốc Gia tại Bắc Việt, rước một hộp đất miền Bắc vào trong Nam, chấm dứt sự hiện diện của chính quyền Quốc Gia Việt Nam tại miền Bắc. Cuộc di cư 1954-1955 của gần một triệu người từ Bắc vào Nam vừa là một gánh nặng vừa là một chiến thắng đầu tiên cho miền Nam. Số người đông đảo này, tuy mới chỉ là một tảng băng nổi, đã chứng tỏ sự oán ghét của nhân dân đối với chế độ cộng sản. Nó cung cấp nhiều bộ óc, nhiều bàn tay để cùng đồng bào miền Nam xây dựng một xã hội tiến bộ vượt xa xã hội miền Bắc. Nó đóng góp xương máu để bảo vệ miền Nam. Nó tạo sự thông cảm, hòa đồng Bắc Nam qua tiếng nói, tập tục, hôn nhân, thức ăn thức uống. Nói tóm lại, con người và văn hóa đồng bằng sông Hồng đã được đem vào đồng bằng Cửu Long để hòa hợp thành một văn hóa mới: văn hóa Việt Nam thống nhất. Không cần sự áp đặt bằng súng đạn như năm 1975. CUỘC TRỐN CHẠY CỦA GIA ĐÌNH TÔI Là dân thành phố ở lại sau khi Việt Minh đã tiếp quản Nam Định từ tháng 6-1954, gia đình tôi chưa có quyết định dứt khoát đi hay ở. Chúng tôi nhiều lần sững sờ vì những vụ ra đi bất ngờ của những người thân quen. Việc đi Nam được giữ bí mật, không ai nói với ai, đôi khi được giữ kín với cả anh chị em ruột. Buổi sáng khi thức dậy, nếu thấy nhà hàng xóm đóng kín cửa, không một tiếng động, không một bóng người, là biết nhà đó đã đi rồi, đi rất sớm, bằng xe hàng hay bằng phương tiện nào khác lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó người ở lại vừa buồn vừa phân vân. Đi hay ở? Đi thì phải bỏ lại hết và làm cách nào để có thể sống nơi xa lạ? Lịch sử tái diễn với những cuộc vượt biên 20 năm sau. Đến tháng 11-1954, bố mẹ tôi mới mới sửa soạn đưa gia đình di cư vào Nam. Yếu tố quyết định là việc cán bộ kinh tế đòi xát nhâp xưởng tiểu công nghệ của bố mẹ tôi vào công ty hợp doanh với nhà nước. Bố tôi biết đây là thủ đoạn nhà nước kiểm soát trước rồi chiếm hữu sau. Sưu cao thuế nặng đã bắt đầu đè trên tư nhân. Tôi có chiếc xe đạp “demi course” rất nhẹ bằng duras do Đức sản xuất, chiếc xe tôi dùng đi học và đã đạp tới tận Thái Bình để thu tiền hàng. Khi sửa soạn di cư, tôi đem chiếc xe thân yêu ra bán ở chợ trời. Khi vừa ngã giá 800,000 tiền cụ Hồ với người mua thì một cán bộ mặc sơ-mi nâu, đeo sắc cốt, xuất hiện ngay sau lưng và đòi tôi đóng thuế 400,000. Tôi không bán nữa, đưa xe về để lại cho một người bà con với giá thấp hơn, nhưng không bị mất tiền thuế cao đến vô lý như vậy. Ngay lúc đó, tuy mới chỉ là một đứa con nít 14 tuổi, tôi đã nhận ra thật khó sống với mấy ông Việt Minh này. Gia đình tôi phải đi Hải Phòng làm hai đợt. Đợt đầu bố tôi dẫn tôi và hai em trai đi theo. Mẹ tôi, chị họ tôi và hai em nhỏ phải đợi đi đợt sau. Chúng tôi đi xe hàng lên Hà Nội rồi từ đó đi xe hỏa xuống Hải Phòng. Hà Nội đã được Việt Minh tiếp thu từ tháng 10. Muốn đi Hải Phòng phải có giấy phép vì là đi vào vùng địch còn kiểm soát. Rất may bố tôi đã dự liệu và có giấy phép đi mua hàng. Địa điểm ranh giới giữa hai vùng kiểm soát là ga Đỗ Xá thuộc tỉnh Hải Dương trên quốc lộ số 5. Tại ga này, trước khi sang vùng địch kiểm soát, mọi hành khách đều bị lục xét tỉ mỉ. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị lột quần áo để khám xem có dấu vàng và tiền Đông Dương Ngân Hàng trong người hay không. Vàng và tiền Đông Dương bị tịch thu hết. Nhiều người khi bị lột hết vàng và tiền đã khóc lóc quay về, không dám đi Nam khi chỉ có hai bàn tay trắng. Bố tôi biết trước chuyện này nên đã nghĩ ra cách dấu vàng rất hiệu qủa. Ông cho ba anh em chúng tôi đi guốc mộc. Mỗi chiếc guốc được dùi hai lỗ xuyên chỗ đóng quai. Mỗi lỗ có một lượng vàng lá Kim Thành được cuộn lại và luồn vào. Sau đó quai guốc được đóng lại bằng đinh và che lỗ. Bố tôi còn lấy nước muối xoa trên đinh để làm cho đinh dỉ xét trông như đinh cũ. Thế là ba anh em tôi với ba đôi guốc có thể mang theo 12 lượng vàng. Chỉ khổ cho tôi phải canh chừng các em, một đứa 10 tuổi, một đứ 7 tuổi, để chúng đừng tiết lộ bí mật và đừng đánh rơi guốc từ trên xe lửa. Riêng bố tôi, ông còn đánh lừa cán bộ bằng một mánh khác. Ông cuốn giấy bạc 100 đồng Đông Dương trong những điếu thuốc lá được rút ruột, rồi ấn lại chút thuốc ở hai đầu. Ông bỏ 15 điếu thuốc có tiền vào vào phiá trong bao thuốc thơm Du Kích hay Điện Biên, 5 điếu phiá ngoài là thuốc thật. Ông tỉnh bơ rút thuốc hút trước mặt cán bộ, đôi khi còn mời cán bộ hút một điếu cho vui. Nhờ có chút vốn liếng nhỏ mang theo, gia đình tôi mới dễ xoay sở trong những ngày đầu đặt chân đế Sài Gòn. Đến Hải Phòng, bố tôi giao chúng tôi cho một người anh họ của ông đang ở trại tạm trú để nhờ bác trông coi chúng tôi trong khi bố tôi trở lại Nam Định đón mẹ, chị và hai em tôi. Chúng tôi ở với bác và anh Thanh con bác tại căng (camp) Hạ Lý nằm giáp ranh thành phố Hải Phòng. Đây là một khu trại được dựng với hàng trăm lều vải lớn của quân đội, có thể cung cấp nơi tạm trú cho hàng ngàn dân di cư trong thời gian làm giấy tờ và chờ tàu hay máy bay chở vào Nam. Trong thời gian ở trại, chúng tôi được phát gạo nhưng phải tự túc mua thức ăn. Bên cạnh trại, mỗi buổi sáng có những người buôn thúng bán bưng đến bán rau, thịt cá và gia vị. Việc ăn ở kể như tạm ổn. Đối với tôi chỉ có hai nỗi khổ. Một là lều vải nhà binh tỏa hơi nóng, mùi vải bố rất ngột ngạt khi trời nắng và nền đất lầy lội sũng nước khi trời mưa. Hai là sự mong ngóng từng giờ từng phút bố mẹ tôi từ Nam Định đến đoàn tụ với chúng tôi. Tôi đã nghĩ nếu có chuyện gì xảy ra khiến bố mẹ tôi không đi được, tôi sẽ dẫn các em trở về, không thể đi Nam khi không có bố mẹ. May mắn thay, chỉ một tuần sau, bố mẹ, chị và các em tôi đã đi lọt và có mặt ở Hải Phòng. Bố tôi hú hồn vì thoát được bàn tay công an. Tối hôm trước ngày bố tôi về lại Nam Định để đưa nốt gia đình đi đợt hai, loa phát thanh của khu phố đã gọi rõ tên bố tôi và tố cáo bố tôi đi vào vùng địch để nhận công tác gián điệp cho địch. Nghe tin này, bố tôi cùng gia đình rời khỏi nhà ngay trong đêm. Sáng sớm hôm sau lấy xe đi Hà Nội ngay. Công an không trở tay kịp nên bố tôi đã thoát và gia đình tôi mới được đoàn tụ. Ở Hải Phòng, bố tôi đưa mẹ con tôi đến ở nhờ nhà một người quen tại phố Dinh. Trong thời gian lo giấy tờ và chờ đi Sài Gòn, chúng tôi có dịp thăm viếng Hải Phòng, thành phố lớn thứ nhì của miền Bắc. Chúng tôi đi thăm chợ Sắt, phố Khách, nhà hát lớn, đi lễ nhà thờ phố Dinh…, nhìn cảnh thành phố đìu hiu chờ ngày đổi chủ. Ngày 8-12-1954, chúng tôi được xe nhà binh chở từ điểm hẹn tại nhà hát lớn Hải Phòng tới phi trường Cát Bi. Từ đó chúng tôi được máy bay cánh quạt của Air Vietnam chở vào Sài Gòn. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay, được một cô chiêu đãi viên mời nước ngọt miễn phí. Nhưng vì ly nước có “gaz”, tôi đã ói ra mật xanh mật vàng, quên cả nhìn xuống quê hương miền Bắc để nói lời giã biệt. 59 năm đã trôi qua. Tôi vẫn chưa về thăm lại quê hương miền Bắc. Nếu Trời cho có ngày tôi về được, thì chắc cây đa bến cũ con đò đã khác xưa! Và người cũ sẽ còn lại ai? Mặc Giao ——————————————————— Ghi chú: (1) Tài liệu trích từ “Hiệp Định Genève 1954” của Nguyễn Anh Tuấn. Loại sách Tìm Hiểu Chính Trị. Sài Gòn 1964. (2) Những con số ghi theo Huỳnh Văn Lang trong bài nói chuyện tại Westminster, Hoa Kỳ, 8/11/2008
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 31, 2013 4:43:57 GMT 9
Di sản tồi tệ của NixonKen Hughes Gửi cho BBCVietnamese.com từ Đại học Virginia Tổng thống Nixon và Nguyễn Văn Thiệu năm 1969 Tổng thống Nixon thăm Sài Gòn năm 1969 “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, ký ngày 27/1/1973, chưa bao giờ có vẻ sẽ có kết cuộc như tên gọi. Chủ đề liên quan Cuộc chiến Việt Nam, Quan hệ Mỹ - Trung Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã đến nghe đề nghị của Tổng thống Richard Nixon về các điều khoản. Hà Nội sẽ thả tù nhân Mỹ và để miền Nam chọn chính phủ thông qua bầu cử tự do. Nhưng hiệp định đặt quá trình bỏ phiếu trong tay một ủy ban mà chỉ có thể hành động khi toàn bộ thành viên cùng thống nhất, gồm cả phe Cộng sản và phi Cộng sản mà suốt bao nhiêu năm đánh nhau. Tệ hơn nữa, Nixon sẽ để quân Bắc Việt chiếm và kiểm soát phần lớn miền Nam, và rút toàn bộ bộ binh sĩ Mỹ còn lại. “Sớm hay muộn, chính phủ sẽ sụp,” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nói. Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger tường thuật lại cho Tổng thống nghe hôm 6/10/1972: “Tôi cũng nghĩ ông Thiệu nói đúng, rằng các điều kiện của chúng ta rồi sẽ tiêu diệt (destroy) ông ta.” Lời thừa nhận bẽ bàng của Kissinger đến từ hồ sơ chính xác và đầy đủ nhất về tổng thống: hệ thống ghi âm bí mật của Nixon. Các máy ghi âm, kết nối với microphone giấu trong Phòng Bầu dục và các phòng khác hoạt động bất cứ khi nào nhận ra âm thanh, từ 16/2/1971 đến 12/7/1973. Tôi đã bỏ ra hơn 10 năm nghiên cứu các băng này với Trung tâm Miller của Đại học Virginia, nhưng sự đối nghịch giữa hình ảnh mà Nixon tạo ra trước công chúng và thực tế ông ta bí mật ghi âm vẫn làm tôi bị sốc. Trẻ em được dạy rằng Nixon đã hứa với nước Mỹ về “hòa bình trong danh sự” thông qua chiến lược Việt Nam hóa và thương lượng. Ông nói Việt Nam hóa sẽ giúp người miền Nam tự vệ mà không cần lính Mỹ. Ông ta nhận ra nó sẽ không làm được. “Nam Việt Nam có lẽ chẳng bao giờ tồn tại được,” Tổng thống nói trên băng. Trong ngày nhậm chức đầu tiên, ông hỏi giới chức quân sự, ngoại giao, tình báo rằng khi nào thì miền Nam có thể đối đầu Cộng sản một mình. Câu trả lời thống nhất: Chẳng bao giờ. Nixon có lựa chọn khắc nghiệt: tiếp tục gửi người Mỹ đến chiến đấu và chết, hoặc đưa quân về nhà mà biết rằng thiếu họ, Sài Gòn rồi sẽ sụp đổ. Cả hai lựa chọn đều không thể được gán nhãn “hòa bình trong danh dự” như ông hứa. Nói dối Chu Ân Lai và Henry Kissinger trong một cuộc gặp ở Bắc Kinh tháng 7/1971 Vì thế ông nói dối. Để Việt Nam hóa trông có vẻ thành công, ông lên lịch triệt thoái qua bốn năm, từ từ giảm số lính Mỹ từ 500.000 tháng Giêng 1969 xuống còn chưa đầy 50.000 vào ngày Bầu cử 1972. Trong bốn năm đó, ông có nhiều diễn văn trên truyền hình thông báo các đợt rút quân, và lần nào cũng nói nó chứng tỏ Việt Nam hóa đang hiệu nghiệm. Mảng thương lượng trong chiến lược rút đi của Nixon cũng lừa đảo như Việt Nam hóa. “Chúng tôi muốn một cự ly an toàn”, Kissinger ghi vội trong sổ tay khi bí mật thăm Trung Quốc tháng Bảy 1971. Suốt nhiều thập niên, Kissinger phủ nhận việc có thỏa thuận về “cư ly an toàn”, nhằm chừa ra một, hai năm giữa việc Nixon rút quân và Sài Gòn sụp đổ. Nhưng sự phủ nhận này sụp đổ khi lời của ông ta có trên băng ghi âm và được các trợ tá ghi lại trong các thương lượng với lãnh đạo nước ngoài. Trong cuộc gặp đầu tiên với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, Kissinger phác thảo đòi hỏi của Nixon. Hòa bình không có trong đó. Nixon cần tù nhân Mỹ, triệt thoái toàn bộ, và ngừng bắn trong “khoảng 18 tháng”. Sau đó, nếu phe Cộng sản lật đổ chính phủ miền Nam, “chúng tôi sẽ không can thiệp”. Liên Xô cũng được bảo đảm như vậy. Trong phiên họp kín với Nixon tại hội nghị thượng đỉnh Moscow 1972, lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev nói: “Tiến sĩ Kissinger nói với tôi rằng nếu có thỏa thuận hòa bình ở Việt Nam, ngài sẽ để người Việt làm gì thì làm, cho cái họ muốn sau khoảng 18 tháng. Nếu chuyện này có thật, và nếu người Việt Nam biết chuyện này, họ sẽ thông cảm.” "Sự đối nghịch giữa hình ảnh mà Nixon tạo ra trước công chúng và thực tế ông ta bí mật ghi âm làm tôi bị sốc" “Cự ly an toàn” phục vụ một mục tiêu chính trị quan trọng. Nếu Sài Gòn sụp ngay sau khi Nixon rút lính Mỹ cuối cùng, rõ là ông thất bại. “Về đối nội, lâu dài nó không giúp chúng tôi vì các đối thủ sẽ nói lẽ ra chúng tôi phải làm chuyện đó từ ba năm trước,” Kissinger nói. Chính trị chi phối các quyết định quân sự của tổng thống. Trong năm nhậm chức đầu tiên, Ủy ban Quốc gia Cộng hòa làm thăm dò bí mật để xem cách chấm dứt chiến tranh nào được ủng hộ nhất. Đến 66% ủng hộ đánh bom và bao vây miền Bắc để Hà Nội đồng ý thỏa thuận bao gồm bầu cử tự do ở miền Nam. Những người được hỏi nói họ ủng hộ ném bom và bao vây trong sáu tháng. Ngày 8/5/1972, sáu tháng trước bầu cử, Tổng thống Nixon lên truyền hình nói sẽ đánh bom và đặt mìn ở các cảng miền Bắc. Nhưng đến tháng 8, CIA ước tính Hà Nội vẫn đưa được 3000 tấn chiến cụ vào miền Nam mỗi ngày. Tuy vậy, mặc dù đánh bom là thất bại chiến lược, nó lại thành công theo cách có ý nghĩa nhất cho Nixon. Các thăm dò dư luận cho thấy người dân ủng hộ việc gia tăng đánh bom. Khi miền Bắc chấp nhận điều kiện của Nixon không lâu trước Ngày Bầu cử, nó có vẻ nước cờ quân sự của Nixon khiến kẻ thù phải gục ngã. Nhưng không phải. Hà Nội đồng ý thỏa thuận với cùng lý do khiến miền Nam từ chối. Cả hai phe nhận ra nó sẽ dẫn tới việc Cộng sản kiểm soát miền Nam, y như Nixon và Kissinger đã biết. Huyền thoại sai lầm Quân CS vào Dinh Độc Lập ngày 30/4 năm 1975 Người Mỹ không biết tổng thống của mình đã làm gì. Các cuốn băng của ông bí mật, ghi chép đối thoại của ông và Kissinger với các lãnh đạo Cộng sản được giữ bí mật. Vào Ngày Bầu Cử, Nixon giành 60.7% phiếu bầu, cao hơn mọi ứng viên Cộng hòa trong lịch sử. Sau này, Nixon cáo buộc Quốc hội Mỹ đã tạo ra thất bại trong khi chiến thắng trong tầm tay. Một cách chỉ trích là lên án Quốc hội đã giảm viện trợ cho Sài Gòn. Đúng là các nghị sĩ đã cho miền Nam ít hơn những gì Nixon và Tổng thống Gerald Ford yêu cầu. Nhưng dù có tăng gấp đôi, gấp ba, Sài Gòn vẫn sụp đổ theo các điều khoản của Nixon. Miền Nam không thể chống đỡ Cộng sản khi thiếu hỗ trợ của bộ binh Mỹ. Ngay cả ngày nay, chiến lược thực sự của Nixon vẫn gần như không được công chúng biết, mặc dù giới học giả đã viết về nó từ nhiều năm. Jeffrey Kimball in hai tác phẩm bước ngoặt, Nixon’s Vietnam War và The Vietnam War Files, sử dụng tài liệu giải mật để chứng tỏ Nixon đã tạo dựng “cự ly an toàn” ra sao. Julian Zelizer mô tả Nixon gắn việc rút quân với bầu cử 1972 trong Arsenal of Democracy. Nhưng huyền thoại Nixon bị đâm sau lưng vẫn sống. Khi các chính trị gia và chuyên gia tranh luận làm sao, khi nào thoát khỏi Afghanistan (như Iraq trước đó), họ trích dẫn sai lầm lịch sử “thành công” của Nixon khi đào tạo miền Nam biết tự vệ và thương lượng để giải quyết khác biệt thông qua bầu cử tự do – hai điều mà Nixon chưa bao giờ làm được. Kỷ niệm 40 năm Hiệp định “Hòa bình” Paris cũng cùng một tháng đánh dấu 100 năm ngày sinh Nixon. Nay đúng là dịp để giải phóng đầu óc và chính trị của chúng ta khỏi di sản tồi tệ nhất của Nixon. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, làm việc ở Chương trình Băng Ghi âm Tổng thống của Trung tâm Miller, Đại học Virginia từ năm 2000. ***************** Sử Nhật Bản: “Nhật bại trong chiến tranh nhưng thắng trong hòa bình.” Lê Duẩn (tuyên bố 1975): "Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng. " Đỗ Mười: "Có đảng Cộng Sản mới có đổi mới." Lê Khả Phiêu: "Trung Quốc thành công thì chúng ta cũng thành công." -- Dùng vũ lực cướp lấy chính quyền, xác lập chế độ độc tài toàn trị. Đó là khởi thủy của đảng Cộng Sản. Cướp lấy mồ hôi xương máu của dân, chặn lấy yết hầu chỉ để dân sống cầm hơi, sau đó bắt họ phải biết ơn đảng.Đó là phương thức xưa nay của đảng Cộng Sản. Làm cho cả dân tộc phải đói khổ,phát chẩn cứu đói lấy lệ rồi tuyên truyền rộng rãi. Đó là công đức xưa nay củađảng Cộng Sản. -- Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng: -“Nếu như không có Bác Hồ thì đất nước ta không có thái bình ngày hôm nay”. Trời đất ơi, 30 năm chiến tranh mà Đảng gọi là thái bình sao. Mấy triệu xương máu của đồng bào đã hy sinh để có một chế độ độc tài khốn kiếp thếnày sao? Khi xây dựng chủ nghĩa Cộng sản, họ nói là để có một xã hội bác ái, không còn cảnh người bóc lột người. Vậy mà Đảng Cộng sản đã phân biệt giai cấp và ý thức hệ, giết hại hàng triệu đồng bào, đưa đất nước vào vòng bể dâu. Họ thương con người đến vậy sao? Cái khẩu hiệu tối nghĩa mà từ khi họ đưa ra chưa có nhà thông thái nào hiểu được: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Người dân bị đảng lãnh đạo, bị nhà nước quản lý thì không hiểu làm chủ bằng cách nào? --- Rồi lại đến chuyện thời bao cấp. Theo đó thì nhà nước quản lý và lo tất cả cho dân, từ lương thực cho đến cái kim sợi chỉ. Mọi thứ đều phải chịu sự phân phối của nhà nước. Chuyện ăn chuyện uống, sự sống cái chết của dân đều do nhà nước nắm giữ cả. Vậy thì nhà nước như cha mẹ còn gì? Vì vậy mà người dân luôn phải biết ơn Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Thời này trong dân gian sản sinh ra một câu nói nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay: – “Trông mặt như mất sổ gạo”. Câu này để ám chỉ những ai hốt hoảng, lo sợ một cái gì đó. Đó là tâm trạng của một người bị“mất sổ gạo” thời bao cấp. “Mất sổ gạo” là bị cắt dạ dày, cả nhà coi như chếtđói.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:03:49 GMT 9
Tôi viết về những người cam chịu lịch sửBùi Ngọc Tấn Tôi muốn đề cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc đến trong các cuộc tổng kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến tranh bằng việc đi tù. Lịch sử một đất nước, một dân tộc thường được biết đến như lịch sử những cuộc chiến tranh. Lịch sử Việt Nam càng chứng tỏ điều ấy. Những cuộc chiến tranh chống phong kiến phương Bắc (Trung Hoa), những cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, và những cuộc chiến tranh “mở mang bờ cõi”. Đó là chưa kể những cuộc nội chiến như Trịnh – Nguyễn phân tranh kéo dài bao nhiêu năm tháng. Chỉ trong thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn cuộc chiến tranh: Chiến tranh chống Pháp, chiến tranh Nam Bắc và chống Mỹ, chiến tranh chống Pôn Pôt (Pol Pot) ở biên giới Tây Nam và chiến tranh chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc. Chiến tranh đã kết thúc trên 30 năm, đã lùi xa. Đã được tổng kết, sẽ còn được các bên tham chiến tiếp tục tổng kết. Tổng kết và vinh danh những người đã ngã xuống. Nước Mỹ dựng bức tường Việt Nam, ghi tên hơn 5 vạn binh sĩ hy sinh. Và ở Việt Nam, biết bao đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng đã được tuyên dương… Tôi muốn đề cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc đến trong các cuộc tổng kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến tranh bằng việc đi tù. Những người đóng góp vào cuộc chiến không phải bằng sinh mạng của mình mà bằng tự do của mình. Với kinh nghiệm sống trong một đất nước liên tiếp có những cuộc chiến tranh, tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một mình. Bao giờ nó cũng có một người bạn đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em sinh đôi của chiến tranh. Trong chiến tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu phương là gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho chiến đấu và chiến thắng. Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng lợi hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, Úc,… tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh tất cả cho cuộc chiến. Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,… tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Chí Thiện tại cầu Golden Gate, San Francisco tháng 5/2009. Ảnh: Đàn Chim Việt Tác giả và Nguyễn Chí Thiện trước tượng đài Joseph Baerman Strauss, cầu Golden Gate, San Francisco tháng 5/2009. Ảnh: Đàn Chim Việt Tổng kết về một cuộc chiến tranh không được quên những người đó. Họ đã góp phần vào chiến thắng, bằng cuộc đời mình, bằng sự đóng góp phần cao quý nhất của mình: Tự Do! Họ có quyền được chia sẻ niềm tự hào, dù là sự tự hào nhục nhã. Dù họ chỉ là những người cam chịu lịch sử. Lịch sử phải viết về họ. Văn học phải viết về họ. Thiết tưởng cũng cần nhắc lại ở đây quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel văn học tại Stockholm (Thuỵ Điển) ngày 10 tháng 12 năm 1957, cách nay hơn nửa thế kỷ: “Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không anh ta sẽ cô đơn và đánh mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đầy ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.” Chính với những suy nghĩ như vậy tôi đã cầm bút viết văn trở lại sau hơn 20 năm im lặng. Cuộc đời sáng tác của tôi chia ra làm 2 thời kỳ. 1) Thời kỳ đầu tiên: Từ năm 1954 tới tháng 11 năm 1968, nghĩa là từ lúc bắt đầu nghề viết văn tới khi tôi bị bắt đưa đi tập trung cải tạo. Trong thời kỳ này, những sáng tác của tôi đều ca ngợi con người mới cuộc sống mới, ca ngợi Đảng Cộng Sản Việt Nam, ca ngợi những người làm ra lịch sử. 14 năm đầu tiên, tôi viết theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mô tả cuộc sống dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang phát triển, đang đi lên, một xã hội không có bi kịch như nhà thơ Tố Hữu, người lãnh đạo văn nghệ Việt Nam đã khẳng định. 2) Thời kỳ thứ hai: Từ năm 1990 tới nay. Đây là thời gian tôi viết về những người cam chịu lịch sử, về những thân phận bé nhỏ, về những người cố gắng tồn tại giữa những bánh xe của lịch sử, đặc biệt là những phận người rơi vào thảm cảnh tù đầy, những người chịu sự khinh bỉ của xã hội. Về hai thời kỳ này của tôi, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Viện Văn Học VN) đã có một cái nhìn tổng thể như sau: Năm 1995, sau 27 năm bị ngắt tiếng, “bị văng ra ngoài quỹ đạo”, Bùi Ngọc Tấn đã từ một hiện thực khác trở về. Và văn ông bây giờ là nói về một hiện thực khác và từ một hiện thực khác mà nhìn lại. Viết hồi ức, chân dung, truyện ngắn, tiểu thuyết, nhân vật chính trên các trang văn của Bùi Ngọc Tấn là chính ông và những người bạn cùng thế hệ được soi chiếu từ hai phía của một khoảng thời gian đã thành vạch phân cách đời người đời văn: 5 năm (1968 – 1973). Con dấu đóng giáp lai văn nghiệp Bùi Ngọc Tấn mang số hiệu CR 880 (CR 880 là số tù của tôi – BNT). Thời kỳ viết văn thứ hai tới nay, tôi đã công bố hai tập truyện ngắn, hai tập hồi ký và hai quyển tiểu thuyết. Những truyện ngắn của tôi đều viết về “những người cam chịu lịch sử”: Một người có công với cách mạng bị nghi vấn, tất cả bạn bè đều xa lánh anh ta. Quấn quít trung thành với anh ta chỉ còn một con chó. Một chị gái điếm chuyên phục vụ đám ăn mày. Một anh tù bị giải đi trong một ô xà lim bịt kín trên xe com măng ca, trên một quãng đường 30 km nhưng từ sáng đến tối mới tới nơi, cực kỳ hoang mang vì những người áp tải thỉnh thoảng lại dừng lại để bắn chim mà anh ta không biết vì sao. Một anh tù đi họp hội trường, gặp lại thầy cũ bạn cũ, từ dưới đáy xã hội, anh ta trở lại bậc thang học giỏi nhất lớp của mình. Nhưng khi cuộc họp mặt vừa tan, anh ta đã trở về vị trí “phó người” trong xã hội. Một giám đốc bị bắt oan, vào tù bị “đầu gấu” đánh đập và bắt khoả thân đứng làm Nữ thần Tự Do, khao khát được như những người khác là chăn và giữ mấy con kiến trong một vòng tròn trên nền buồng giam nhưng không được “đại bàng” cho phép. Chỉ đến khi ra tù ông mới có thể thực hiện khát vọng ấy: Cài trái cửa, giám đốc rút ngăn kéo lấy ra một lọ nhỏ, trong đựng 4 con kiến, thả lũ kiến vào một vòng tròn bằng phấn vẽ trên bàn. Ông bẻ bánh cho chúng ăn và lấy những các vidit (có rất nhiều – trong ngăn kéo của khách và của ông) chặn chúng lại. Thỉnh thoảng ông còn đặt cả ghế lên bàn làm việc. Và khoả thân trên ghế. Đứng thẳng. Mắt hướng về phía xa. Tay giơ cao. Như nữ thần Tự Do. Tôi xin phép được nói một chút về quyển tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 của tôi. Đó là bộ tiểu thuyết của đời tôi, bộ tiểu thuyết mang đậm chất tự sự của tôi. Chuyện một nhà báo đồng thời là một người viết văn mang tên Nguyễn Văn Tuấn bị bắt tập trung cải tạo trong thời gian chiến tranh chống Mỹ (1968 -1973). Cuộc sống trong tù của anh ta không có gì đáng nói ngoài nỗi đau ê ẩm gặm nhấm tim anh. Đó là một chuỗi dài những ngày xam xám, nhờ nhờ, bợt bạt. Như thứ ánh sáng lọt qua lỗ thông hơi vào xà lim những buổi chiều tà. Anh tù mười ngày cũng như anh tù mười năm. Một hiện tượng buồn thảm lặp đi lặp lại. Cuộc sống tẻ nhạt đơn điệu càng đơn điệu, tẻ nhạt vì không ai tin ai. Người tù này nhìn người tù khác bàng con mắt nghi ngờ. Ai cũng có thể là ăng ten, là chỉ điểm. Không ai cởi mở cùng ai. Bụng cứ liền rốn. Mỗi người là một vòng tròn khép kín. Thật khó viết. Rất dễ nhạt. Tôi cố gắng vượt qua khó khăn ấy, nói lên điều ghê sợ ấy trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Nó bàng bạc khắp trong quyển truyện. Rất khó cho tôi khi muốn kể lại nội dung Chuyện Kể Năm 2000. Đây là một cuốn tiểu thuyết không có cốt chuyện, chỉ có thể trực tiếp đọc nó. Đây là những cuộc đời bất hạnh tồn tại bên nhau, mỗi người mang một nỗi niềm riêng, một hoàn cảnh riêng, một lý do riêng để đến với nhà tù. Nhưng nội hàm của nó rộng hơn nhiều. Đằng sau các nhà tù, là cả một xã hội thời chiến tranh gian khổ khó khăn, thiếu thốn. Là cách quản lý xã hội thời chiến trong những ngày gay go ác liệt nhất, nghĩa là một nền chuyên chính vô sản được nâng lên một cấp độ mới. Bị nghi có những tuyên truyền chống Đảng Cộng Sản, nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Tuấn bị biệt giam xà lim, rồi lê chân hết nhà tù này đến nhà tù khác. Gần 5 năm sau, Tuấn được tha, không kết án, không buộc tội. Cuộc sống hậu tù của Tuấn gay go không kém những ngày sống trong tù. Nhất là khi ông trưởng công an quận gọi anh ta ra đồn, tuyên bố thẳng: - Chúng tôi không cho anh đi làm. Tôi đã chỉ thị cho tiểu khu rồi. Tiểu khu không cấp giấy cho anh. Sống dưới đáy xã hội, Tuấn nghiền ngẫm công lao của hắn đã đi tù để góp vào chiến thắng, và âm thầm giữ trong lòng nỗi “tự hào nhục nhã” của mình. Hắn có những thói quen mới: Ngồi ở đâu cũng cố ngồi thu nhỏ lại, gãi tai, nói chuyện với ai cũng gãi tai, kể cả nói chuyện với con, và không thể nào quên được những ngày tù tội. Thế rồi “điều khủng khiếp nhất đã đến với hắn suốt một thời gian dài sau đó. Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những người trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”. Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy. Nhưng rồi hắn giật mình: “Chẳng lẽ nhiều người đi tù về đến thế? Đất nước lắm người đi tù đến thế?” Và hắn hoảng lên: “Mình hỏng mất rồi! Đầu óc mình hỏng mất rồi!” Cùng với Tuấn là già Đô, một Việt kiều sống tại Pháp, bỏ cả người vợ Pháp và cô con gái nhỏ, nghe theo tiếng gọi của Tổ Quốc về Việt Nam, xây dựng đất nước. Già bị tập trung cải tạo vì đã thẳng thắn đấu tranh với cấp trên, và khi bị đuổi việc lại mắc thêm một sai lầm nữa: Đấu tranh theo kiểu Pháp. Ngồi ngay ở cổng xí nghiệp, tay cầm một miếng gỗ dán vuông, có cọc cắm, trên miếng gỗ dán già viết dòng chữ: “Phản đối giám đốc xí nghiệp vô cớ sa thải công nhân.” Đó là một hình thức đấu tranh không thể chấp nhận trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Thế là già vào tù. Khi được tự do, già về nhà Tuấn đã ra tù trước già một năm. Hơn hai chục năm già mới lại được sống trong không khí một gia đình, mới được ôm một đứa trẻ vào lòng. Già gặp con Tuấn, một đứa bé lên năm (cũng trạc tuổi cô con gái bé bỏng của già bên Pháp khi già về Viêt Nam). “Già bế bé lên, hít mùi thơm của đứa trẻ. Trong giây lát già tưởng như mình đang ở Mác xây (Marseille) hai mươi năm trước. Ôi! Mùi của trẻ thơ. Già nhận ngay ra nó. Đã mấy chục năm già vẫn nhận ngay ra nó. Dù ở Địa Trung Hải hay ven Thái Bình Dương thì cũng giống nhau cả mà thôi.” Không chỗ nương thân, không còn con đường kiếm sống, già viết đơn xin trở lại nhà tù nhưng không được giải quyết. Già đi ăn cắp với hy vọng được tập trung cải tạo lần thứ hai, nhưng không ai bỏ tù già. Thật là thất bại thảm hại. Già vào mậu dịch vét thức ăn thừa, già đi bới rác. Và già chết cô đơn trong một ngôi đình hoang vắng. Quyển tiểu thuyết của tôi có Giang Văn Giang, con trai một liệt sĩ anh dũng hy sinh thời chống Pháp, trở thành trẻ bụi, ăn cắp, đánh nhau, được đưa vào trường Kim Đồng, nơi học tập cải tạo các thiếu niên hư hỏng. Nhưng chính tại đây, từ chỗ chỉ quen biết một số bạn phố Bờ Sông, Giang đã quen hầu hết bọn thiếu niên hư trong thành phố và lại đi tù tiếp. Còn có Sáng một thanh niên nông thôn, bị chính quyền xã ghét đưa đi tập trung cải tạo, 5 lần vượt ngục đều không thoát. Còn có Nguyễn Văn Phố, một chiến sĩ quân báo của quân đội cách mạng, bị tình nghi là gián điệp cho Mỹ, tù 18 năm với câu nói thản nhiên làm Tuấn rợn người: - Tôi đi tù năm vợ tôi 33 tuổi, năm nay vợ tôi 51 tuổi rồi. Còn có Chí Lồng Sếnh, một anh tù người dân tộc, gần như không nói, không cười, chỉ im lặng lao động, bỗng một đêm nằm trong buồng giam, nghe tiếng nai gộ ngoài thung lũng, trở mình nằm sấp, nhìn ra bìa rừng ánh trăng bàng bạc, nói một mình: - Con nai về ăn lá sắn non đấy. Nỗi nhớ nhà, nhớ vợ con, làng bản chỉ gói gọn trong một câu ngắn ngủi ấy. Còn có Nguỵ Như Cần tù hơn hai mươi năm, trông ao cá, một người sống giữa rừng đã gần biến thành cây cỏ. Tôi không tra tấn độc giả bằng những cảnh đời xám xịt u tối tuyệt vọng suốt 800 trang sách. Theo sự đánh giá của đông đảo độc giả, Chuyện kể năm 2000 còn là quyển tiểu thuyết của tình yêu, tình yêu con người và tình yêu đôi lứa. Tôi đã cố gắng diễn đạt tình thương giữa những người tù trong những trang viết về Tuấn và Giang, về già Đô với Tuấn, về món quà tặng của Lê Bá Di cho Tuấn: Một bãi phân trâu. Cũng như tôi đã nói lên được phần nào tình bạn giữa Tuấn và những người cùng nghề nghiệp văn chương như Lê Bàn, Vũ Mạc, Lê Bình… Và tình yêu giữa Tuấn và Ngọc, một tình yêu chỉ có trong những năm xã hội tốt đẹp sau chiến thắng chống Pháp 1954 với những đôi trai gái lãng mạn nồng nhiệt đắm say. Đây là ngày Quốc Khánh mùng 2 tháng 9 của họ: Quốc khánh mùng 2 tháng 9, dậy từ lúc thành phố còn đang ngủ. Náo nức. Đứng ở cửa chờ Ngọc. Nhìn sang cánh cửa bên kia đường vẫn khép. Rồi nàng mở cửa nhẹ nhàng bước ra. áo dài trắng, quần trắng, đồng phục của trường đi đón ngày quốc khánh. Hai đứa nắm tay nhau đi trên đường phố vắng tanh. Không một bóng người. Như thành phố dành riêng cho ta. Vẫn chưa thể quen được với ý nghĩ mình có cả một người con gái để mình yêu quý. Có tên của người ấy để mình lên tiếng gọi. Cám ơn về tình em yêu anh. Cám ơn mẹ cha, mẹ cha sinh em ngày ấy để cho anh mười chín năm sau đó. Để bây giờ em là của anh. Để em đi bên anh và để anh yêu. Đi đâu bây giờ em? Còn sớm quá. Em dịu dàng và tinh khiết như bầu trời đêm trước lúc rạng đông này. Phố Tô Hiến Thành trong mơ. Ra tới phố Huế vẫn là trong mơ. Tay trong tay đi mãi trong phố vắng. Kia rồi một cửa hàng vừa mở. Mình và Ngọc là những người đầu tiên bước vào hiệu. Uống cà phê sữa. Nhìn nhau. Rồi chia tay khi trời rạng sáng. Nàng đi tới trường. Mình đến Ba Đình trong khối các cơ quan trung ương. Buổi trưa nàng lại sang. Nàng đã tắm gội, tươi tắn lạ thường. Đến chiều hai đứa ra bờ hồ Hoàn Kiếm, tìm một chỗ ngồi từ lúc mặt trời vừa lặn để xí một chỗ cho đến tối. Để bảo đảm được nhìn thấy pháo hoa trên hồ. Những chùm pháo hoa trên bầu trời mịn như nhung có lẽ là những gì đẹp nhất, kỳ ảo nhất mà con người sáng tạo ra. Mình vừa ngước nhìn pháo hoa vừa quay lại nhìn nàng. Nàng mở to mắt nhìn trời. Cặp mắt nàng, gương mặt nàng với bao mầu sắc của pháo hoa ngày hội lướt qua. Nàng còn kỳ diệu hơn, xinh đẹp hơn mọi chùm pháo hoa đẹp nhất. Và đây cuộc sống của họ sau khi kết hôn: Ngồi bên giấy trắng. Một hạnh phúc tuyệt vời. Ngọn đèn chiếu một ô sáng. Cẩn thận hơn, hắn lấy một tờ báo, khoanh thành cái bù đài, úp chụp xuống để khỏi làm chói mắt vợ con đang nằm trong màn. Khi vợ con hắn đi nằm là lúc hắn ngồi bên giấy trắng. (…) Ngày đi làm, đêm hắn viết. Hắn có thói quen thức khuya. Hạnh phúc là được thức khuya trong yên lặng. Hạnh phúc là những dòng chữ kín từng trang. Là bóng tối mờ mờ trong phòng, và ở một góc buồng, màn buông, tiếng vợ con thở nhẹ nhàng trong giấc ngủ. Hạnh phúc là lúc đêm khuya cặm cụi, bỗng cảm thấy có người đứng sau lưng. Buông bút. Ngả người trên ghế, đầu đã chạm ngay vào ngực vợ. Linh cảm không nhầm. Nàng đứng sau lưng tự bao giờ. Nàng đứng im lặng nhìn mình làm việc. Nàng đưa tay ép nhẹ đầu mình vào ngực nàng. Đầy đặn. ấm. Mềm. Mình dụi đầu vào đó và ngước mắt nhìn lên, thấy rõ dưới cằm nàng có một vết sẹo nhỏ, chỉ nhìn từ góc độ ấy mới thấy, vết sẹo khi nàng còn bé tí, bị vập vào miệng chum nước. Đứng phía sau, nàng ấp hai tay vào cằm mình, thì thào: - Đói không? Gật đầu. Thế là hai vợ chồng khoá trái cửa, để con ngủ trong màn, đi ăn phở khuya. Ông hàng phở Ngã Bẩy quen. Bộ tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của tôi được nhà Xuất bản Thanh Niên, cơ quan của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng Sản VN in, chưa phát hành đã có quyết định cấm, bị thu hồi tiêu huỷ. Nhưng nó vẫn được in chui hàng năm ròng sau đó với số lượng mà hiện nay chưa thể thống kê được (chỉ riêng một người bán sách ở Hà Nội cũng đã bán 1000 bộ) cũng như đã được đưa lên mạng để in và phát hành ở nước ngoài. Ngay lập tức quyển tiểu thuyết đã gây chấn động, trở thành sách bán chạy nhất dù phải bán chui ở trong nước và best seller trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Theo chỗ tác giả của nó được biết ở Canada, nhà xuất bản Thời Mới (Toronto) in 3 lần liên tiếp. Tác giả đã trông thấy 5 bản in khác nhau của 5 nhà xuất bản ở Mỹ. Tại Đức, có 2 bản in khác nhau. Tất cả các báo của cộng đồng người Việt trên các lục địa đều đăng tải dưới hình thức feuilleton. Đài BBC đã để ra 3 tháng đọc Chuyện kể năm 2000. Tôi đã nhận được hàng nghìn bức thư chia sẻ của những người Việt Nam và cả những người ngoại quốc từ các lục địa Châu Âu, châu Mỹ, châu úc và châu á. Tạp chí PEN International của Hội Văn bút Quốc tế đã trích đăng một chương. Tác giả của nó được vinh dự là hội viên danh dự của Hội Văn Bút Quốc tế và hội viên danh dự Hội Văn Bút Canada. Biết bao bạn đọc trong nước, ngoài nước đã đến với tôi. Họ cám ơn tôi và nói rằng tôi đã nói giúp họ những điều họ hằng suy nghĩ nhưng không nói được. Trong buổi tôi nói chuyện ở Viện Goethe Hà Nội, nhiều bạn đọc cảm động, khóc nức nở không nói được nên lời. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên viết: Bùi Ngọc Tấn viết văn trầm tĩnh và đôn hậu. Hình như đây là kết quả của sự kết hợp bản tính người và trải nghiệm đời nơi ông. Sau những gì đã xẩy đến với ông, nếu văn ông có giọng cay độc, chua chát cũng là điều dễ hiểu. Nhưng không! Ngay cả sự trầm tĩnh đôn hậu ở đây cũng không hề là phải cố ý, gồng mình, tỏ vẻ. Ông đưa lại cho người đọc những dòng văn tự nhiên dung dị, khi những oan trái khổ đau lặn vào sau câu chữ làm nên sức nặng, chiều sâu của những điều được viết ra. Một giọng điệu văn chương làm người đọc hiểu ông, tin ông, đồng cảm với ông và cùng ông đồng cảm với những phận người, những kiếp bụi nhân sinh. Cao hơn chuyện văn chương là chuyện cuộc đời. Bùi Ngọc Tấn là nhân vật của văn ông và đồng thời ông cũng là tác giả của những điều ông viết ra. Đó là văn chương của sự thật (…) Ông đã gánh cây thập ác đi trọn con đường trần ai của mình. Không vứt xuống. Không chạy trốn. Không gục ngã. Không dừng bước. Và dẫu không là Chúa, ông đã được phục sinh. Còn đây là những đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc: “(…) Bùi Ngọc Tấn đã đi xa hơn được rất nhiều việc mô tả một tấn bi kịch cá nhân, thậm chí một bi kịch của chế độ – điều mà một số cuốn sách viết về nhà tù thường rất tập trung – để nói đến một tình thế phi lí của cuộc sống, và vô hình trung, cuốn sách trở thành như một thiên anh hùng ca, khiêm nhường mà cảm động về con người, con người có thể đi qua được tất cả những gì xấu xa đen tối nhất, đi qua tất cả bùn lầy, giữ vững chất người của mình chống lại tất cả những thế lực đen tối nhất muốn trừ tiệt chất người ở con người. Cuốn sách bị cấm, nhưng bằng nhiều cách vẫn được truyền tay đọc rộng rãi và tác giả của nó được sự kính trọng của toàn xã hội.” Tôi cảm ơn tất cả các bạn đọc đã chia sẻ cùng tôi. Cảm ơn trung tâm William Joiner đã tạo điều kiện để tôi có mặt ở đây hôm nay. Cảm ơn các bạn đã có mặt cùng tôi tại đây. ************** Đôi điều về bài “Tôi viết về những người cam chịu lịch sử”Bùi Ngọc Tấn Kính gửi các anh các chị, Sau khi từ biệt các anh các chị, từ Mỹ trở về Việt Nam, tôi nhận được những thông tin trái chiều về bài nói chuyện của tôi tại Boston. Có ý kiến khen, có ý kiến chê. Mà chê thì chủ yếu là: 1- Tôi đánh đồng tất cả các cuộc chiến vào làm một. 2- Tôi như một người con trong gia đình đòi cha mẹ phần bánh chiến thắng: Lịch sử phải viết về họ, văn học phải viết về họ. Về điều 1, thực sự tôi chỉ làm cái việc thống kê những cuộc chiến tranh trong thế kỷ 20 mà dân tộc ta đã trải qua thôi: “Chỉ trong thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn cuộc chiến tranh: Chiến tranh chống Pháp, chiến tranh Nam Bắc và chống Mỹ, chiến tranh chống Pôn Pôt ở biên giới Tây Nam và chiến tranh chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc.” Không có ý kiến phân tích về tính chất các cuộc chiến tranh, cũng không đánh đồng các cuộc chiến. Lại càng không có chữ “vì thế” (ở Việt Nam biết bao đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng đã được tuyên dương) như một bài viết đã thêm vào. (1) Về vấn đề thứ hai, có thể tôi đã chủ quan, nghĩ rằng ai cũng hiểu ý mình định nói: “Tôi muốn đề cập đến một mặt khác của chiến tranh, chính xác hơn là nói đến những người tham gia chiến tranh một cách đặc biệt, chưa từng được nhắc đến trong các cuộc tổng kết, các buổi hội thảo, những người tham gia chiến tranh bằng việc đi tù. Những người đóng góp vào cuộc chiến không phải bằng sinh mạng của mình mà bằng tự do của mình. Với kinh nghiệm sống trong một đất nước liên tiếp có những cuộc chiến tranh, tôi hiểu chiến tranh không chỉ đến một mình. Bao giờ nó cũng có một người bạn đồng hành: Nhà tù. Đó là người anh em sinh đôi của chiến tranh.” Và: “Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực…, tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung. Tổng kết về một cuộc chiến tranh không được quên những người đó. Họ đã góp phần vào chiến thắng, bằng cuộc đời mình, bằng sự đóng góp phần cao quý nhất của mình: Tự Do! Họ có quyền được chia sẻ niềm tự hào, dù là sự tự hào nhục nhã. Dù họ chỉ là những người cam chịu lịch sử. Lịch sử phải viết về họ. Văn học phải viết về họ.” Ý tôi muốn nói trong đoạn văn trên là: Chiến thắng của miền Bắc được làm nên bởi nhiều nguyên nhân trong đó có những năm tháng tù đầy oan khuất của biết bao người. Lịch sử không được quên nguyên nhân ấy, không được quên những người của những nguyên nhân ấy. Văn học phải viết về họ. Vâng. Cho đến hôm nay, tôi tự hào là nhà văn duy nhất trong nước đã viết về họ. Những già Đô, những Nguỵ Như Cần, những Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Phố, những Vũ Lượng, Min, Giang Văn Giang… Tôi đã đưa cuộc sống của họ vào văn học, ra xã hội, ra ánh sáng. Càng không phải tôi đòi chia quả thực, khi bọn người tù đầy chúng tôi (nhằm thực hiện pha lê hoá hậu phương) cho đến ngày hôm nay vẫn sống trong sự quản lý đặc biệt của nhà nước, vẫn là một thứ người loại 2. Đòi chia quả thực gì đây? Nếu chịu khó đọc tiếp đoạn sau của bài nói chuyện thì thấy rõ ngay ý tôi định nói: “Thiết tưởng cũng cần nhắc lại ở đây quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel văn học tại Stockholm (Thuỵ Điển) ngày 10 tháng 12 năm 1957, cách nay hơn nửa thế kỷ: “Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không anh ta sẽ cô đơn và đánh mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đầy ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật. Chính với những suy nghĩ như vậy tôi đã cầm bút viết văn trở lại sau hơn 20 năm im lặng.” Chưa bao giờ tôi ngây ngô đến mức ngớ ngẩn có ý định đòi nhà nước chia phần bánh chiến thắng. Với lại đòi làm sao được mà đòi! Có lẽ sự diễn đạt của tôi không được tốt, nên có thể hiểu theo nhiều cách trái ngược nhau. Lỗi đó tại tôi. Tôi xin nhận và rút kinh nghiệm trong khi viết. Trong thời gian lưu tại Mỹ, tôi đã được các anh các chị dành thời gian đón tiếp, tôi rất cảm động. Đi xa, tuổi cao, sức khoẻ tồi tệ, lệch múi giờ, rất kém trong giao tiếp, chắc chắn tôi có nhiều sơ xuất, mong các anh các chị thể tất. Trân trọng cảm ơn. Hải Phòng ngày 01/06/2009
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:14:50 GMT 9
Đem tâm tình viết lịch sử: Thời đại quỷ ám Bằng Phong Đặng Văn Âu
Anh Đỗ văn Minh thân mến, Hằng năm, cứ vào khuya 29 rạng ngày 30 Tháng Tư, tôi đều thắp ba nén nhang ra góc sân vườn nhà khẩn cầu cho những oan hồn uổng tử trên hai miền Đất Nước trong cuộc chiến vừa qua sớm siêu thoát, nhất là những chiến sĩ đã hy sinh nơi chiến địa: Một bên quyết ngăn chặn làn sóng đỏ, một bên bị đẩy làm nghĩa vụ quốc tế. Khuya 29 rạng 30 năm nay, tôi cũng sẽ tiếp tục làm như thế, cho tới bao giờ Đất Nước mình hết bị qủy quỷ ám thì mới thôi! Đúng thế anh Minh ạ! Ông Hồ Chí Minh đưa ra cái khẩu hiệu: “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” quá hấp dẫn, đã làm cho toàn dân bất kể nam phụ lão ấu đều dốc lòng hy sinh tính mạng và tài sản để sớm thoát khỏi cảnh đời nô lệ. Nếu vào Mùa Thu năm 1945, tôi đủ lớn thì chắc chắn tôi cũng đã xếp bút nghiên lên đường làm cuộc cách mạng dân tộc. Có thể đã bỏ mạng trên sa trường hoặc sống sót tới ngày nay thì đành ôm mối hận thiên thu như các ông Nguyễn văn Trấn, Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Đặng văn Việt, Vũ Cao Quận … và vô số người nữa mà thôi. Nhưng qua năm 1953, dù đang là đứa trẻ mới 13 tuổi chưa có một chút kiến thức chính trị mà đã nhìn ra sự tàn bạo dã man của cộng sản, khi hai ông bác và một ông chú tôi bị đấu tố cho đến chết một cách nhục nhã trong cái gọi là Cải cách Ruộng đất. Hai bác tôi nổi tiếng là vị quan thanh liêm, nên được Hồ Chí Minh mời tham gia Việt Minh. Một người – Thượng thư Đặng văn Hướng – làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên Hiệp; một người – Tham tri Đặng văn Oánh – làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt ở Liên Khu Tư, đều bị đem ra đấu trường để cho bọn thất phu lăng mạ. Từ đó, tôi có mối thù đối với cộng sản đến tận xương tủy. Trong khi ấy cụ Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm – thân sinh của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và bà chị dâu cả của tôi – cũng bị đấu tố cho đến chết nhục nhã, thế mà ông bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, một trí thức được đánh giá vô cùng uyên bác lại cúi đầu phụng sự Hồ Chí Minh cho đến gần cuối đời mới nhận ra rằng mình … ngây thơ! Phải chi cụ Nguyễn Khắc Niêm làm mật thám cho Pháp, giết hại nhiều nhà cách mạng VN mà bị đấu tố cho cam. Trái lại, cụ Nguyễn là vị quan Tế Tửu rất mực thanh liêm và đạo đức. Tôi không thể lý giải nổi hiện tượng một người con thông minh tột độ như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện biết cha mình bị giết một cách dã man, tàn bạo, nhưng vẫn cứ đi theo cái chủ nghĩa xã hội quái đản. Chỉ có hai chữ thích ứng để giải thích hiện tượng này: QỦY QUỶ ÁM! Trong bài về Trịnh Công Sơn vừa rồi, tôi viết rằng khi chuyên chở những người tù binh cộng sản từ chiến trường, tôi thường biếu họ điếu thuốc lá, cái kẹo vì tôi thương và kính trọng họ. Thương vì họ bị nhồi vào óc lý tưởng chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc mà không hay biết bị lợi dụng; kính trọng vì dám đương đầu trực diện với chúng ta trên chiến trường. Còn tôi đặc biệt khinh bỉ bọn phản chiến, ngụy hòa sống ung dung trong thành phố được chế độ bảo vệ lại đòi chấm dứt chiến tranh vô điều kiện. Đấu tranh cho hòa bình là một hành động nhân đạo chính đáng, vì chiến tranh nào cũng tàn bạo gây ra chết chóc, đổ nát. Nhưng nhân danh hai chữ “Hòa Bình” mà chỉ lên án phía tự vệ và tảng lờ phía gây hấn thì không phải là vì ngây thơ, mà là vì ý đồ bất lương đáng phỉ nhổ. Cộng sản xem tôn giáo là thuốc phiện, hà cớ gì linh mục, thượng tọa lại nghĩ rằng có thể chung sống hòa bình với cộng sản? Kẻ yêu chuộng hòa bình thực sự chính là những người lính tác chiến chúng ta đây này. Bởi vì chiến tranh càng kéo dài thì nguy cơ mất mạng càng cao. “Đi đêm lâu ngày gặp ma”, huống chi xông pha nơi lửa đạn ngày này qua ngày khác thì dịp may sống sót đâu còn đến mãi? Ngoại trừ bọn tuớng lãnh ngồi mát ăn bát vàng, bọn mở quán bia ôm cho lính Mỹ, đấu thầu rác, giặt ủi cho Mỹ mới mong chiến tranh kéo dài để kiếm sống trên xương máu kẻ khác! Ông Đạo Dừa ở Cồn Phụng thành công trong việc nuôi hai giống vật Mèo và Chuột sống hòa thuận với nhau để chứng minh rằng cộng sản và quốc gia cũng có thể sống hòa hợp với nhau trong một xã hội, một đất nước. Khốn nỗi cộng sản không phải là thú vật để có thể dạy bảo được, mà chúng là QỦY QUỶ đội lốt NGƯỜI! Xin anh đừng bảo tôi quá khích. Chứng cớ rành rành ra đó: Cộng sản Đệ tam diệt Cộng sản Đệ tứ như ngóe, chứ đợi gì người quốc gia mà hòng chúng tha mạng! Jean-Paul Satre, Bertrand Russell là hai nhà đại trí thức Pháp, Anh thiên Cộng vì sống trong tháp ngà chưa từng va chạm thực tế. Còn Miền Nam Việt Nam không chấp nhận sống dưới chế độ độc tài toàn trị của cộng sản vì bộ mặt thật man rợ của cộng sản đã lộ diện qua cuộc Cải cách Ruộng đất với khẩu hiệu “đào tận gốc, trốc tận rễ” bốn thành phần cốt cán “trí, phú, địa, hào”. Đó là lý do vì sao hàng triệu người Bắc bỏ mồ mả cha ông, tài sản một đời tạo dựng để vào sống lất lây ở Miền Nam. Sau khi nhận ra sai lầm về biến cố long trời lở đất, Hồ Chí Minh đã sửa sai giả tạo bằng cách truất chức Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Hồ viết Thắng, người phụ trách chiến dịch. Tôi nói sửa sai giả tạo, bởi vì ngay sau đó Hồ Chí Minh tiếp tục đàn áp tiếng nói hàng ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân văn Giai Phẩm. Không gì tàn ác bằng dùng thủ đoạn hộ khẩu trấn áp bao tử con người. Năm 1959, nhờ cụ Hoàng văn Chí, Trưởng Ban Biên Tập của Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá xuất bản cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc mà người Miền Nam lại biết thêm những văn nghệ sĩ yêu nước chống Pháp đi theo Việt Minh bị Đảng Cộng sản của ông Hồ hành hạ, đầy ải. Những nhân vật tiếng tăm dưới thời Pháp đô hộ như cụ Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn hữu Đang, Văn Cao … đều bị Đảng trừng trị bằng nhiều cách khác nhau. Đồng thời, nhờ cuốn sách mà chúng ta lại được biết sự hèn hạ của nhà thơ nhà văn như Xuân Diệu, Tố Hữu, Nguyễn Công Hoan … bợ đỡ lãnh tụ Hồ Chí Minh ra sao. Vậy thì không lý do gì để bảo rằng những trí thức khuynh tả ở Miền Nam không biết chính sách tàn bạo dã man của Hà Nội. Hay bọn trí thức tả khuynh phù cộng sản không tin những tài liệu do cụ Hoàng văn Chí đưa ra? Nào là Trại Đầm Đùn, Khu Rừng Lau không đủ mở mắt họ hay sao? Vụ quần chúng nổi dậy ở Quỳnh Lưu, Nghệ An (cái nôi của cộng sản) bị đàn áp dã man, vụ những người kháng chiến Miền Nam tập kết ra Bắc tức giận phá đồn Công An vì bi bị nghi là đảng viên Quốc Dân Đảng càng xác quyết niềm tin của tôi rằng mình không thể đội trời chung với cộng sản. Bởi thế tôi đã tham gia vào một đảng cách mạng có quá trình chống Cộng không khoan nhượng: Đảng Đại Việt. Mặc dầu đảng Đại Việt có nhiều thanh niên đảng viên yêu nước chống Cộng như tôi gia nhập, nhưng lãnh đạo Đảng Đại Việt bất xứng, vì không đoàn kết với nhau để chống lại kẻ thù của dân tộc: Cộng Sản! Đảng Đại Việt có nhiều cơ hội cầm quyền, có đảng viên từ Nam vĩ tuyến 17 đến Cà Mâu, nếu biết đoàn kết thành một khối thì cộng sản không dễ dầu gì khuynh đảo và đồng minh Hoa Kỳ không thể nào bỏ rơi. Mỗi khi nghĩ lại, tôi giận đảng Đại Việt không khác gì thù cộng sản. Sau khi lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa thành công, các tướng lãnh toàn là một lũ xôi thịt đảo chánh, chỉnh lý nhau triền miên, khiến cho tình hình chiến sự càng ngày càng thêm bi đát. Các chính phủ quân nhân do Dương văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm lãnh đạo tỏ ra bất lực cũng vì xôi thịt mà ra. Cuối cùng, một chính phủ dân sự ra đời do kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ tướng. Cả hai ông đều là lãnh tụ Đại Việt, nhưng đã không vì đại nghĩa dân tộc để khắc phục tinh thần địa phương. Hễ Thủ tướng Phan Huy Quát đề nghị điều gì thì Quốc trưởng Phan Khắc Sửu đều chống, bất cần biết đúng sai. Guồng máy chính quyền tê liệt đến nỗi cuối cùng hai ông trao trách nhiệm lại cho quân nhân Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ khiến cho bọn Trí Quang và bọn Việt Cộng nằm vùng giả danh Phật tử như Nguyễn Đắc Xuân, Tôn thất Dương Tiềm … kiếm cớ đả đảo độc tài quân phiệt gây nên cuộc biến loạn Miền Trung năm 1966 được loạn Tướng Nguyễn Chánh Thi phụ họa. Ba Tướng lãnh gồm có Nguyễn văn Chuân, Huỳnh văn Cao, Tôn Thất Đính được phái ra Trung dàn xếp đều bất lực, phải đợi Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan đích thân ra dẹp loạn thì mới yên. Bọn ngụy giáo Phật Tử đem bàn thờ bày ra đường ngày đó, hôm nay Hòa thượng Huyền Quang, Thượng tọa Quảng Độ kêu ca Phật giáo bị bách hại, thì trốn biệt đâu cả rồi? Chẳng rõ Tướng Nguyễn văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm có là đảng viên Cần Lao hay không, nhưng năm 1964 hai ông tuyên thệ vào đảng Đại Việt dưới sự chứng giám của hai lãnh tụ Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn và Hà Thúc Ký. Hai quân nhân này vào đảng Đại Việt để tiến thân trên đường chính trị, chứ chẳng phải vì yêu cái chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn. Bằng cớ là khi hai ông Tướng này trở thành Tổng thống và Thủ tướng thì bỏ Đại Việt để thành lập đảng Dân chủ nhằm củng cố quyền lực cá nhân. Đang ở ngôi vị cầm quyền mà đi lập đảng thì chỉ có hạng người xôi thịt cầu lợi cầu danh tham gia thôi. Chính hai nhân vật này cũng bị qủy quỷ ám nên mới dâng Miền Nam cho cộng sản một cách ngon ơ. Năm 1971, Nguyễn văn Thiệu dùng thủ đoạn chính trị loại bỏ các đối thủ ra rìa để chỉ một mình độc cử. Nêu cái lý do để loại Tướng Dương văn Minh rất khôi hài: “Không có chứng chỉ hợp lệ tình trạng quân dịch”! Sau khi ông Thiệu đắc cử với tỉ lệ 99 %, cán bộ tuyên truyền của Hoàng Đức Nhã viết cái biểu ngữ giăng ngang đường Công Lý gần Tòa Thượng thẩm Sàigòn bằng hai câu lục bát thật lố bịch : “Mừng ngày đắc cử vẻ vang, thành trì Chống Cộng vững vàng từ đây”. Tôi tin rằng những người lính miệt mài chiến đấu ngoài chiến trường cho lý tưởng bảo vệ tự do của Miền Nam rất đau lòng, vì bị lãnh đạo bởi một vị Tổng Tư lệnh tham lam, bất tài và vô liêm sỉ. Tôi viết một bài nghị luận với tiêu đề: “Độc cử, dấu hiệu nền Đệ nhị Cộng Hòa cáo chung” với luận cứ rằng ông Thiệu đã phỉ báng nền dân chủ – mục tiêu đấu tranh của Miền Nam – để gửi các báo ở Sài Gòn, nhưng không một tờ báo nào dám đăng, kể cả báo đối lập! Lãnh đạo Miền Nam không hề học bài học thất bại của Quốc Dân Đảng Trung Hoa vì tham nhũng thối nát nên bị cộng sản Mao đánh bại, đến nỗi Tưởng Giới Thạch phải gom góp tàn quân chạy ra đảo Đài Loan. May cho Tưởng Giới Thạch có đảo Đài Loan để dung thân! Qua năm 1974, ông Thiệu còn bỏ tiền ra mua các nghị sĩ, dân biểu gia nô sửa đổi Hiến pháp để ông ta có thể ứng cử nhiệm kỳ ba. Là một quân nhân cấp thấp, tôi không thể đạo đạt sự phản kháng của mình lên Tổng thống. Nhưng tại sao Tướng Tổng Tham mưu trưởng và các Tướng Tư Lệnh Vùng lại im tiếng trước những việc làm sai trái của cấp lãnh đạo như độc cử, sửa Hiến pháp Quốc gia? Phải chăng các Tướng ấy đều hèn, đồng lõa với điều sai trái để giữ chức, giữ quyền nên đưa đến hậu quả sụp đổ hoàn toàn vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975? Nếu đừng sợ ông Thiệu thì đâu đến nỗi phải tuẫn tiết? Nhật Bản đầu hàng Hoa Kỳ vì hai quả bom nguyên tử, nhưng tinh thần họ vẫn bất khuất. Việt Nam Cộng Hòa thua Cộng Sản không vì kém vũ khí, mà thua vì lãnh đạo bạc nhược, ươn hèn không dám thẳng tay với bọn nội thù nằm vùng và bọn tham nhũng thối nát. Miền Nam thiếu một nhà độc tài yêu nước như Phác Chính Hy, Lý Quang Diệu. Quân dân Miền Nam chiến đấu dũng cảm như sư tử, bị lãnh đạo bởi những con cừu béo tốt, tham sinh úy tử. Một người có thể mở miệng tuyên bố: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”, tại sao hôm trước dám lên vô tuyến truyền hình thề thốt rằng tôi sẽ trở về Quân Đội cầm súng chiến đấu bên cạnh anh em, rồi hôm sau bỏ trốn? Tổng thống, Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng âm thầm leo lên máy bay chạy ra nước ngoài sống ung dung với khối tiền ăn cắp, để mặc cho nhân dân chết sống ra sao bất cần biết. Tội lừa đảo đồng đội, đồng bào còn nặng hơn đối phương lừa đảo mình, anh Minh ạ! Cộng sản tàn ác bất nhân đối với cả đồng chí từng nằm gai nếm mật trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ, với cả những bà mẹ chiến sĩ từng nuôi nấng đùm bọc chúng, thì mong gì chúng đối xử tử tế với quân dân Miền Nam? Phải chăng bọn giả danh tôn giáo, giả danh trí thức nối giáo cho giặc và bọn chính trị gia, bọn Tướng lãnh xôi thịt chỉ biết lo vinh thân phì gia đã bị quỷ ám nên không đếm xỉa đến sự bảo vệ tự do của Miền Nam? Dĩ nhiên Miền Nam không hoàn hảo, nhưng giữa cái xấu (le mal) của Miền Nam vẫn hơn cái tồi tệ (le pire) của Miền Bắc chứ. Tại sao nỡ vứt bỏ cái xấu có thể chữa được để đón lấy cái tồi tệ không thể chữa được? (Cộng sản không thể chữa được – câu nói của Yeltsin). Trong cuộc mạn đàm thân mật với Tướng Ngô Quang Trưởng, tôi nói: “Thưa Trung tướng, tôi có một câu hỏi muốn đặt ra với Trung tướng. Nếu Trung tướng không giận và cho phép thì tôi mới hỏi”. Vốn giao thiệp với nhau một thời gian khá dài và trao đổi nhau nhiều chuyện tâm tình nước non, nên tôi mới dám bạo dạn đặt câu hỏi mà hy vọng Tướng Trưởng không giận. Quả nhiên, ông đáp: “Anh cứ việc hỏi”. Tôi bắt đầu: “Lúc bấy giờ, dưới tay Trung tướng có 3 Sư đoàn Bộ binh, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn Dzù, Sư Đoàn I Không Quân, Lực lượng Hải Quân của Phó Đô đốc Hồ văn Kỳ Thoại, 4 hay 5 Tiểu đoàn Biệt Động Quân mà tại sao Trung tướng không dốc toàn lực đánh ngược ra Bắc, vì Bắc Việt đang bỏ ngỏ, giống như xưa kia Mao Trạch Đông đánh quân Tưởng Giới Thạch? Tôi tin rằng Trung tướng dám chơi ván bài xả láng thì quân nhân dưới quyền sẽ liều chết với Trung tướng.” Nghe xong câu hỏi của tôi, Trung tướng Trưởng trầm ngâm rất lâu, tay phải cầm điếu thuốc vỗ vỗ trên mặt chiếc đồng hồ đeo trên tay trái. Chừng khoảng 15 phút, Trung tướng nhìn mông lung ra cửa sổ và nói một mình: “Ừ nhỉ! Tại sao tôi đã không làm như thế?”. Tôi nghĩ làm tướng ngoài mặt trận lúc lâm nguy dám đi vào cửa tử để thoát ra cửa sinh, thì vẫn chuyển bại thành thắng. Hoặc nếu thua đi nữa thì cũng để lại một trang sử oai hùng cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, còn hơn là để anh em đồng đội bị kẻ thù hành hạ, sỉ nhục chết dần chết mòn trong trại tập trung. Trung tướng Trưởng chạy bán mạng về được tới Vũng Tầu thì bị ông Thiệu bắt nhốt vào Bộ Tổng tham mưu. Cái đểu cáng của ông Thiệu là chuẩn bị cùng Trần thiện Khiêm trốn chạy, lại giam bộ hạ của mình. Tướng Dương văn Minh đầu hàng, một lớp người bỏ chạy tháo thân, hành tranh mang theo không có gì đáng kể, ngoài đầu óc chia rẽ cố hữu, nguyên nhân đã làm Miền Nam sụp đổ. Trong nước trước 1975, chúng ta bị lãnh đạo bởi những con cừu. Ra ngoài này chúng ta biến thành con cừu, không dám lên tiếng chống lại sự khủng bố của Kháng chiến bịp bợm. Chụp mũ nhau một cách bừa bãi, vô tội vạ. Rồi lại có nhóm người tôn một ông giáo sư đào ngũ làm minh chủ lãnh đạo Tập thể Chiến sĩ chuyên lo đọc điếu văn! Sự thật nào nói ra cũng đau lòng, nhưng đợi tới bao giờ anh em ta mới dám nói ra SỰ THẬT? Lẩn tránh thực tế là đi vào vùng tối của trí tuệ, rất dễ bị qủy quỷ ám, phải không anh Minh? Mới đây họa sĩ Trịnh Cung viết một bài có nhan đề “Trịnh Công Sơn và những tham vọng chính trị” tức thời bọn giả danh tranh đấu năm xưa túa ra bênh vực Trịnh Công Sơn và lên án Trịnh Cung đủ các thứ tội, nào là tráo trở, nào là lừa thầy phản bạn, mà chúng quên đi rằng lãnh tụ của chúng mới đích thực là bọn tráo trở, lừa đảo, ăn gian nói dối. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng công khai tuyên bố: “Tôi ghét nhất là sự dối trá và tôi yêu thích nhất sự chân thật”, nhưng khi sang Hoa Kỳ bị báo chỉ hỏi về tình hình nhân quyền của Việt Nam thì Dũng trả lời: “Ở Việt Nam không có người bị tù vì bất đồng chính kiến; chỉ có người bị tù vì vi phạm luật pháp quốc gia”. Còn Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết nói: “Con người sinh ra là để mà yêu thương, chứ không phải để mà thù hận”, nhưng hễ ai đòi hỏi quyền tự do dân chủ thì thẳng tay đàn áp. Tráo trở, lật lọng, tai ngược thế kia thì sao không thấy bọn văn công bồi bút như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân dám hé răng? Ít ra bọn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân cũng phải được như nhà văn Đào Hiếu không vâng lời cha dạy, bỏ đi theo cộng sản và ngày nay thấy cái nhớp nhúa bẩn thỉu của cộng sản còn dám tỏ bày sự miệt thị khinh khi chế độ. Riêng hai kẻ “tội phạm chiến tranh” (war criminals) Tường, Xuân và băng đảng vẫn lên giọng đạo đức giả nói chuyện lễ nghĩa luân thường, khiến cho tôi mới phải đề cập đến một người đã trở về với Cát Bụi, không còn gì nữa để luận bàn. Trịnh Công Sơn không phải là đối tượng để tôi phải bỏ công viết một bài dài 5 trang. Tôi chỉ cần dẫn câu nói của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn (Sơn núi) nhận định về Trịnh Công Sơn như sau là đủ: “Trịnh Công Sơn là người nhạc sĩ hàng đầu và sẵn sàng đầu hàng bất cứ chế độ nào”. Hoặc ghi lại câu đồng dao dân gian vào khoảng thời gian 80 – 81 về Trịnh Công Sơn để trình độc giả: “Chàng nhạc sĩ vàng, ôm đàn ghi-ta đỏ. Từ đó, âm nhạc biến thành màu Da Cam”, nghĩa là chàng nhạc sĩ từng sáng tác Ca Khúc Da Vàng, ôm cây đàn hát “Nối Vòng Tay Lớn” mừng cộng sản chiến thắng thì toàn bộ tác phẩm âm nhạc của chàng biến thành chất độc Da Cam cũng đủ mô tả con người thật của thiên tài! Tôi nhận được rất nhiều email của độc giả gửi đến bày tỏ sự đồng cảm sau khi đọc bài viết, trong đó có những người đang ở tại thành phố Huế. Nhà thơ Viên Linh, chủ nhiệm tờ Khởi Hành, viết cho tôi một câu ngắn ngủi, nhưng tỏ ra đọc được tâm can của tôi: “Bài bạn viết rất hay, giúp cho độc giả nhìn thấy đâu là diện, đâu là điểm”. Đúng! Trịnh Công Sơn chỉ là Diện; chủ điểm của tôi là phê phán bọn văn công bồi bút đã đem thân khuyển mã phò một chế độ tàn bạo, lưu manh, dối trá, tham nhũng, ươn hèn nô lệ Tầu Cộng. Trong khi cả nước căm phẫn vụ Hoàng Sa, Trường Sa, Bauxite Tây Nguyên thì bọn bồi bút cúp đuôi cụp tai, không dám dở giọng “tranh đấu” đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh một cách hùng hổ như ngày xưa. Nhưng chúng lại xúm vào “đánh” Trịnh Cung túi bụi, còn kể lể thành tích chống Thiệu-Kỳ và Mỹ Ngụy bóp nghẹt quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. Thật là khả ố! Ít ra Trịnh Cung dám xuống đường biểu tình đả đảo Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Xưa kia, Mao trạch Đông phát động phong trào “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng), một thời kỳ văn học phong phú của Đông Chu. Những văn nghệ sĩ Trung Cộng lúc bấy giờ tưởng rằng Mao có chủ tâm xây dựng một nền văn học khai phóng, tự do sáng tác. Không ngờ đấy là một thủ đoạn của Mao nhằm mục đích phát hiện những văn nghệ sĩ “phản động” có xu hướng tự do để bộ máy đàn áp của Đảng cộng sản ra tay thanh trừng. Ông Hồ Chí Minh, người cộng sản trung kiên, bèn vội vàng bắt chước thủ đoạn gian ác của Mao Trạch Đông, cũng phát động phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” để nhận diện những phần tử văn nghệ sĩ “phản động” trên một nửa Đất Nước vừa mới giành được chủ quyền từ tay Thực dân Pháp để đàn áp, bỏ tù. Phải chi các văn nghệ sĩ, trí thức Hà Nội hô hào lật đổ chính quyền cộng sản cho cam. Họ chỉ đòi Đảng “cởi trói” mà thôi! Chẳng hiểu Trịnh Cung có “âm mưu” dùng mẹo của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh khi viết ra sự thật về con người Trịnh Công Sơn nhằm làm miếng mồi cho bọn “tranh đấu” ngày xưa bu lại? Nếu đúng như tôi suy đoán, thì quả Trịnh Cung tung chưởng khá ngoạn mục. Một nữ trí thức chân chính của Miền Nam từ Cần Thơ, chị Trần thị Hồng Sương, gửi cho tôi một thư phản hồi bằng một bài viết có lý, có tình vô cùng. Tôi đã xin chị Hồng Sương cho phép tôi đưa bức thư riêng của chị gửi cho tôi vào bài viết này. (Mời độc giả đọc thư của nữ sĩ Hồng Sương ở phần phụ chú cuối bài) Tôi đã đọc nhiều bài viết của chị Trần thị Hồng Sương, có vài điểm bất đồng vì chị ấy thiếu thông tin đầy đủ và kinh nghiệm cộng sản như mình, nhưng thực chất chị là người có lòng yêu nước và tình nhân loại cao độ. Nhờ sang Thái Lan để thực tập trên chiếc máy vi tính PC-386, chị đã có cơ hội tiếp cận với xã hội cởi mở, thu nạp được nguồn thông tin đa chiều nên có cái nhìn bao quát hơn. Là con người, ai cũng có thể phạm sai lầm. Tôi cũng đã lầm lẫn khi nghĩ không đúng về chế độ Ngô Đình Diệm, chẳng qua vì tham gia đảng Đại Việt chống Cộng, đồng thời chống nền Đệ nhất Cộng Hòa. Hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại viết rằng ông Diệm không nhận lời yêu cầu của Ngài để thành lập chính phủ, ông Diệm bày tỏ ý định đi tu, nhưng sau hai ba lần khẩn khoản thì ông Diệm mới nhận lời. Điều đó chứng tỏ ông Diệm không hề vận động Hoa Kỳ gây áp lực để cựu hoàng mời ra chấp chánh. Có thể ông Diệm là đối tượng trong tầm ngắm của Hoa Kỳ đang cần một nhân vật có quá trình chống Pháp, chống Cộng và đạo đức cá nhân để thực hiện chủ thuyết Domino của mình. Lợi dụng phương tiện dồi dào của Hoa Kỳ để chống Cộng và đồng thời giữ chủ quyền xây dựng nền độc lập quốc gia, nên ông Diệm đã mạnh mẽ phản đối Kennedy trung lập hóa Lào quốc và không chấp nhận quân Mỹ đổ bộ vào Miền Nam. Đó là nguyên nhân Hoa Kỳ bỏ tiền ra mua chuộc các tướng lãnh hạ sát ông Diệm và gia đình. Người ta vu cho ông Diệm độc tài, không chịu mở rộng chính phủ cũng là sai. Bằng chứng là sau khi ông Diệm chết, tướng lãnh với chính khách đều bất tài không đủ khả năng điều hành việc nước. Tôi xác nhận rằng ông Diệm là người yêu nước có tinh thần độc lập triệt để, không chịu thỏa hiệp với đòi hỏi của Mỹ để giữ chủ quyền quốc gia. Ông Hồ Chí Minh mới là kẻ nô lệ khi ông ta phát biểu trong Đại Hội II ở vùng biên giới Việt Trung: “tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Stalin và Mao Trạch Đông nghĩ hộ, hai con người này không bao giờ lầm cả”. Nhắm mắt tuân theo chỉ thị Nga Tầu không cần tính toán thiệt hơn; ngửa tay xin vũ khí để tàn sát anh em Miền Nam thì không thể bảo rằng vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta được. Ngoài ra, tôi còn nhận được email của Nguyễn Đắc Xuân gửi vào ngày 17 tháng 4 năm 2009 lúc 2 giờ 30 phút sáng bằng mấy chữ như sau: “Âu ơi, Mi chịu khó đọc bài ni rồi sẽ có nhiều chuyện mi có thể lên án tiếp. Thằng Chiếu của mi”. Nguyễn Đắc Xuân từng ngồi cùng bàn với tôi trong một lớp dưới mái trường Quốc Học. Bạn bè trong lớp thường gọi Xuân bằng cái ngoại danh là thằng bán chiếu, vì giọng nói của nó. Xuân dùng mấy chữ “Thằng Chiếu của mi” để gợi lại thời học trò ngày xưa thân ái. Bài Xuân gửi trong attach file cũng là bài Nguyễn Đắc Xuân “chửi” Trịnh Cung đăng trên Da Mầu. Anh Minh thân mến, Có lẽ tôi cũng cần phải có mấy lời với ông Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân bằng lối xưng hô thời đi học. “Này Xuân, mày dùng mấy chữ “Thằng Chiếu của mi” làm tao hơi giật mình tự hỏi, liệu mày chộp được tao vào Tết Mậu thân 1968 có lẽ mày sẽ reo lên một cách khoái trá – Tóm được thằng lính Thiệu Kỳ rồi, hãy đem nó đi chôn sống? Tao nghe người ta nói mày là Tư lệnh Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức sắt máu lắm phải không? Tao có đọc thoáng bài mày viết chửi Trịnh Cung. Mở đầu mày dạy Trịnh Cung nguyên tắc tranh luận chính trị thì không được đem chuyện riêng tư cá nhân ra nói, rồi sau đó mày toàn đem chuyện đời tư, chuyện vợ con cũng như bản chất của Trịnh Cung ra để dè bỉu, cũng giống như mày đã đem cái ngoại hình của nhà văn Nhã Ca và thi sĩ Trần Dạ Từ để bêu rếu. Ngày xưa hồi còn đi học, mày không tệ như thế, nhưng từ khi mày trở thành Việt Cộng thì mày đểu rập khuôn như kiểu Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng nói một đàng làm một nẻo. Tao chẳng lấy làm lạ, vì đó là bản chất cộng sản. Mày tử tế, đàng hoàng thì tao mới lấy làm lạ! Chẳng riêng tao lên án mày. Bất cứ ai chống lại Cái Ác, Cái Dã Man đều lên án mày. Và người ta sẽ lên án mày dài dài cho đến khi mày bày tỏ một lời sám hối. Mỗi năm Tết đến, tất cả cư dân thành phố Huế nguyền rủa mày, mày có nghe không? Bây giờ mày là nhà nghiên cứu, nhà sử học, hãy nói cho tao nghe có triều đại nào trong lịch sử Hồng Bàng mà có một bọn cầm quyền không hề biết nhục, biết xấu hổ là gì. Toàn một lũ ăn cắp, ăn cướp giữa ban ngày ban mặt tài sản của “ngụy quân, ngụy quyền” cho đến tài sản của liệt sĩ cách mạng (!). Chế độ Miền Nam mà bọn mày gọi là Ngụy, quyết quyết đánh đổ cho kỳ được có dơ dáy, nhớp nhúa như cái Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa của mày không? Hồi mày chống Việt Nam Cộng Hòa, có bao giờ mày bị bọn vô lại ném đồ dơ bẩn vào nhà như cái Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã làm với cụ Hoàng Minh Chính, với gia đình bà Trần Khải Thanh Thủy chưa? Mày đấu tranh quyêt quyết liệt ngày đó để có được một nền văn hóa như ngày hôm nay sao, Xuân? Mày không tin điều tao nói thì hãy tìm đọc những bài bà Trần Khải Thanh Thủy tố giác chế độ sẽ biết. Tao không cần nói chuyện mày đúng hay tao đúng. Chỉ nhìn vào thực trạng đất nước hôm nay thì đủ rõ. Có phút giây nào mày cảm thấy ân hận vì góp sức dựng lên cái tai họa khủng khiếp thế này không? Việt Nam đang bị thằng Tàu đô hộ, mày có biết không? Ba mươi bốn năm nay tao nhớ nước nhớ nhà đứt ruột mà không trở về thăm vì không thể im tiếng trước những điều bất công trắng trợn. Mày đi Mỹ, đi Tây để nói nhăng nói cuội thì chắc chắn mày phải nịnh Đảng ghê lắm? Năm kia tao mời vợ chồng Hà Sĩ Phu, người yêu nước thực sự sang dự đám cưới đứa con gái của tao mà Đảng đâu có cho đi? Tao khuyên mày một điều: Nếu cam tâm làm bồi bút thì đừng lên mặt dạy dỗ người khác mặt đạo đức”. Năm 2006 tôi viết bài “Khí Phách Còn, Dân Tộc Còn” đề nghị các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhân quyền vận động một chiến dịch bất hợp tác toàn diện với nhà cầm quyền bằng cách “tự quản chế tại gia” giống như đình công, bãi thị, bãi khóa dưới thời Pháp thuộc, cho đến bao giờ cộng sản sụp đổ mới thôi, bởi vì biểu tình tuần hành thì bọn Công an Cộng sản không ngần ngại lia đại liên vào đám đông. Cá nhân cô Phạm Thanh Nghiên ở Hải phòng cũng đã “tọa kháng tại gia” mà chẳng thấy ai noi gương hưởng ứng. Năm nay 2009, Hòa thượng Quảng Độ cũng kêu gọi toàn dân “biểu tình tại gia”, chẳng biết có được đồng bào hưởng ứng hay không? Hay lại thờ ơ, mặc cho bọn cường quyền tự tung tự tác? Hôm kia tôi “đăng ký” tên tôi vào bản kiến nghị ngưng khai thác quặng Bauxite ở Tây Nguyên do nhà trí thức Nguyễn Huệ Chi chủ xướng, nhưng tôi ghi rõ là tôi PHẢN ĐỐI, chứ không kiến nghị xin xỏ gì cả. Hôm sau tôi nhận được email của ông Nguyễn Huệ Chi như thế này: “Thưa ông, Chúng tôi không phản đối nhà cầm quyền cho TQ vào khai thác Tây Nguyên mà chúng tôi kiến nghị nhà nước dừng dự án khai thác bauxite Tây Nguyên vì lợi bất cập hại xét về nhiều mặt: kinh tế, an ninh, môi trường, văn hóa, quốc phòng. Giữa chúng ta cách nghĩ có khác nhau”. Tôi rất cảm thông và chia sẻ lời phân trần của ông Nguyễn Huệ Chi, vì họ quen sống trong tình cảnh “Xin, Cho”. Đến như Đại tướng Võ Nguyên Giáp – một trong mấy người khai sinh ra đảng Cộng sản Việt Nam – lại là cha đẻ Quân đội Nhân Dân mà cũng chỉ biết khép nép viết “kiến nghị” xin Bộ Chính trị hồi tâm xét lại, thì “người anh hùng Điện Biên” còn ra cái “thống chế” gì nữa? Lẽ ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải nói: “Chủ nghĩa cộng sản sai rồi, Đảng phải giải tán đi và hãy để cho nhân dân toàn quyền quyết định số phận của họ, số phận Đất Nước” thì tôi tin chắc rằng ông Nguyễn Huệ Chi sẽ dám dùng chữ Phản Đối, chứ không phải Kiến Nghị. Một dân tộc hèn từ trên xuống dưới, từ trí thức đến dân đen là do cái chủ trương khủng bố, gieo rắc sự sợ hãi lên mọi người của tập đoàn cai trị Đảng Cộng Sản. Đất Nước rơi vào vòng nô lệ ngoại bang là điều dĩ nhiên. Người dân sống dưới chế độ ấy hèn đã đành, người cầm quyền cũng hèn hạ đối với ngoại bang. Lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa hèn bị mất một nửa đất nước. lãnh đạo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa hèn thì mất luôn toàn bộ Đất Nước! Phen này lời kêu gọi biểu tình tại gia chỉ trong một Tháng Năm này của Hòa thượng Quảng Độ mà chẳng ai hưởng ứng thì đảng Cộng Sản Việt Nam có quyền tung hô: “Muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ” giống như bọn ma giáo trong truyện chưởng của Kim Dung. Chị Hồng Sương tuy đang ở Việt Nam mà khá am tường tình hình chính trị Hoa Kỳ, Tôi hết sức đồng tình với nhận xét của chị ấy đối với bọn cực tả Hoa Kỳ như bọn Olivier Stones, Michael Moore. Tôi e rằng bọn trí thức bị qủy quỷ ám này và chính sách đối ngoại nhu nhược của Barack Obama sẽ làm tiêu vong nước Mỹ trước họa khủng bố của bọn Al Queda. Giống như bọn phản chiến, ngụy hòa Miền Nam bị qủy quỷ ám và Nguyễn văn Thiệu ươn hèn làm tiêu vong Việt Nam Cộng Hòa. Anh Minh thân, Tôi nghe nói thuở xưa có Cao Biền, người Trung Hoa, là một nhà địa lý uyên thâm. Khi ông ta đi chu du Phương Nam thấy long mạch Việt Nam sẽ sản xuất nhiều nhân tài có thể chế ngự toàn cõi Châu Á, nên đã viết một đạo bùa dán vào vách núi để trấn yểm. Một ngàn năm sau đạo bùa mới hết linh. Bao giờ Hà Nội cử hành lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long anh Minh nhỉ? Hình như sang năm 2010 phải không? Hy vọng ngày đó lũ qủy Cộng sản hết lộng hành và người Việt Nam hết bị qủy quỷ ám. Ngày đó tôi sẽ trở về quê hương, thắp nhang lên mộ phần tổ tiên, thăm bà con, bạn bè cũ còn sống sót và thăm những người bạn cùng nuôi giấc mơ tự do, dân chủ cho nước nhà mà bấy lâu tôi chi liên lạc qua điện thoại hoặc email. Xin hãy cùng nhau chắp tay nguyện cầu: Bùa Cao Biền hết thiêng để Quốc thái, Dân an. Đêm 29 rạng 30 Tháng Tư năm 2009. ————————————————— Thư của chị Trần thị Hồng Sương gửi cho tôi: Không thể nói Trịnh Công Sơn không có nhầm lẫn Thưa anh, Nhân bài viết của ông Trịnh Cung và bài của anh, tôi đã xem thêm một cách hệ thống hơn nhiều tư liệu về Trịnh Công Sơn. Không thể chối cãi Trịnh Công Sơn có ba thuộc tính: Thân Cộng Sản, cầu an, nhu nhược ít đấu tranh. Vì ba thuộc tính này mà Sơn chống chiến tranh nhưng không biết rõ ai là kẻ gây chiến. Chính Cộng Sản mới gây chiến, Miền Nam chỉ chống đỡ nên cuộc chiến đó chỉ diễn ra tại miền Nam thôi kia mà ! Sau này vì sự thâm nhập quân đội ồ ạt và có sự ngã giá đồng tình của Bắc Kinh với Mỹ, Mỹ mới dội bom miền Bắc, nhưng Liên Xô và Bắc Kinh có bất đồng, Liên Xô tham gia giúp MTGPMN để giữ ảnh hưởng với VN và để còn sở hữu … túi dầu khí ở Vũng Tàu nên Mỹ mới bất ngờ bị thiệt hại nhiều! Lần gặp Trịnh Công Sơn tôi có cảm giác Sơn buồn thất vọng nhưng chỉ biết trốn chạy thực tế đầy bất ổn ngờ vực trong rượu. Sơn có tài song không bao giờ là người dẫn đầu đấu tranh chánh trị được mà chỉ dẫn đầu… than thở! Sơn chăm chút cho sự nghiệp của mình hơn quan tâm đến số phận người khác, cũng đúng thôi và phải thông cảm vì cuộc đời Trịnh Công Sơn chỉ có lời ca tiếng hát là thành công. Con người ít khi thành công trên hai lãnh vực trái ngược là văn nghệ và chiến tranh chánh trị. Tố Hữu khi muốn “Nay ở trong thơ nên có thép!” sang làm chánh trị là thất bại ngay. Xã hội có là gì miễn Sơn hay một số người Cộng Sản đưa làm “tiêu biểu” sống an ổn trong chút đặc quyền của nhà nước Cộng Sản thì vội suy diễn rằng sống được! Đó là cách nghĩ non nớt, rơi vào tình huống ngụy biện có tên “khái quát vội vã” không đủ chứng cứ kết luận. Một tấm hình của Eddie Adam, phát hiện chuồng cọp là chi tiết nhỏ thể hiện rất phiến diện về cuộc chiến mà lại gây ảnh hưởng được thì quả không phải chỉ có Trịnh Công Sơn thiển cận, sức mạnh tâm lý mông muội bầy đàn của báo giới và thanh niên nước Mỹ và của con người nói chung rất …đáng ngờ là kiến thức tuy cao song do thiếu hiện thực nên kết luận thành …quá hời hợt. Có vẻ Sơn cũng chấp nhận bạo lực thảm sát gây quá nhiều thương vong như Tết Mậu Thân ở Huế và khẩu hiệu “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh!””. Sơn chứng kiến, viết bài về Tết Mậu Thân chỉ nói về thảm cảnh chiến tranh, về cái chết kiểu như Oliver Stone đứng về một phía, làm phim “11.9.2001” chỉ khai thác cảm xúc, che giấu bộ mặt kẻ thủ ác! Trong khi có bề dày chánh trị hơn là các nhà văn nhà thơ như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đã phải tự vấn : Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng Chỉ một đêm, còn sống có 30 Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó? Tôi, tôi người viết những câu thơ cổ võ Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong … Chế Lan Viên hoặc: Tất cả người tôi còn nhiều bùn tanh Mặt tôi nhuốm xanh, nhuốm đỏ Tay tôi vương nhiều đồ bỏ Nhiều dây nhợ tự buộc mình Thôi! Xin tha cho mọi lỗi lầm Quên cho những dối lừa khoác lác Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác Và ngu dại còn nhiều lần hơn… Nguyễn Đình Thi Sơn không thể không có lầm lẫn, bước chân trôi theo thời cuộc giống hệt những người tự nghĩ mình “yêu nước” trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã làm hại Đất Nước do không hiểu dã tâm chánh trị Cộng Sản đã nhân danh “Đoàn kết” để “Độc tài toàn trị”. Việt Nam đã không biết gì về nước Mỹ, chịu ảnh hưởng chống Mỹ của bọn thực dân Tây nên hiểu về bàn cờ quốc tế rất sai. Học thuyết là học thuyết của cá nhân các học giả, đúng sai thành bại đối chiếu hiện thực. Sau này có được thêm tài liệu về Marx-Angels mới hiểu rõ căn nguyên thứ “trí tuệ” mang tính hủy diệt, mới hiểu vì sao Anh và Pháp ủng hộ Marx Angels và cùng trí thức Pháp cực lực thù Mỹ vì Mỹ ngăn cản chủ nghĩa đô hộ. Hoá ra, các học giả Pháp chân chính chỉ ủng hộ Marx về tư tưởng vô thần, nhưng nhà nước đô hộ Pháp Anh ủng hộ Marx vì Marx Angels ca ngợi nhiệt liệt chủ nghĩa đô hộ chiếm hữu. Cộng Sản Việt Nam treo hình ông Marx Angels là không hiểu gì hết, khi Việt Nam đang bị Pháp đô hộ mà Marx tán thành! Karl Marx-Angels vô cùng sai, chủ quan đến… mê muội khi viết: “Nước Anh phải làm tròn hai nhiệm vụ ở Ấn độ: một đằng phá hủy, mặt khác tái sinh – triệt tiêu xã hội Á châu và đặt những cơ sở vật chất của xã hội Tây phương lên Á châu”. Marx và Engels tin vào những quyền của một nền văn minh cao hơn đối với một nền văn minh thấp, bất chấp những tội ác và cuồng nhiệt gây hại. Marx- Angels theo học thuyết Hegel chủ trương nhiệm vụ lịch sử được những quốc gia hay những giai cấp đặc thù hoàn tất, cho rằng tội ác của đế quốc Anh, sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Algerie chẳng hạn là những biến cố cần để tiến bộ, là nhiệm vụ lịch sử của những dân tộc lớn đối với những dân tộc chậm tiến. Engels nghĩ là Áo Hung thâu tóm những nước nhỏ vùng Balkan, Ba Lan có quyền thống trị những dân tộc kém phát triển ở phía Đông như Lithuanie… Lenin-Staline đánh chiếm bằng vũ lực các nước Đông Âu, cưỡng bách thành lập Liên Bang Xô Viết, là thứ Chủ nghĩa thực dân mới. Phát xít cũng đi theo dòng tư tưởng đó gây thành Thế chiến thứ hai! Chủ nghĩa Marx Angels -Engels khát máu kêu gọi gây chiến bạo động là rất sai, không phải chỉ có chủ nghĩa Cộng Sản Maoist hay Leninist sai. Bertrand Russell, Jean-Paul Sartre, trái lại, tuy thân Cộng nhưng rất chống lại việc Pháp đô hộ Algerie và Liên Xô chiếm Hungary. Marx không thấy ra thực tế là các nước chiếm hữu đất đai nước khác để có nhân công nô lệ và khai thác tài nguyên làm giàu cho nước chiếm đóng, không phải để lo … “truyền bá văn minh”! Bằng chứng là nước Anh đòi quyền bán ma túy ở Trung Quốc là văn minh đó sao ? Riêng nhà Xã Hội Chủ Nghĩa thực hành Owens qua mô hình XHCN ở làng New Lanark nhận ra rằng tất cả đều phải thông qua giáo dục để có thay đổi nhân cách, thay đổi nhận thức và thay đổi xã hội và ý tưởng chính xác của Owens bị cho là cách mạng XHCN … không tưởng ! Mỹ đã phát triển thuyết “Hoà bình vĩnh cữu” (Perpetual Peace) của Immanuel Kant là đúng và Châu Âu nay đã thành lập Cộng đồng Châu Âu theo ý tưởng đúng đó . Những người bạn như Huỳnh Tấn Mẫm hay là người bạn khá thân của tôi (cùng học chung từ lớp nhì trường Huyện đến hết trung học ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ) là Dương văn Đầy còn dám dấn thân dù… sai. Sau này cũng đành im tiếng chứ không đến đỗi nắm cơ hội thản nhiên leo cao như một vài trí thức cách mạng 30! Dương Văn Đầy có cái chết bất ngờ đầy nghi vấn sau khi bị kiểm điểm nặng lúc sang Mỹ đàm phán du lịch và tự ý có các cuộc gặp thân nhân riêng và anh luôn muốn làm ăn lương kiểu khoán doanh số chứ không chịu làm chuyện … tham ô như hiện nay! Người cầm đèn đi trước ô tô nên bị cán chết chăng? Dù sao Sơn không được như Joan Baez nhanh chóng nhìn ra mặt trái của Cộng Sản và có óc nhân bản cao chống mạnh mẽ việc gây hại cho nhân loại qua vụ thuyền nhân VN. Sơn giống như Bertrand Russell không sống đủ lâu để như hôm nay có ngày càng nhiều người lên tiếng phản kháng và nhận mình hèn như Hồi ký của nhạc sĩ Tô Hải … mà góp tiếng nói của mình cho đời sau. Kiểm điểm bản thân không thể nói là tôi từng nhanh chóng hiểu ra được sự trầm trọng của vấn đề chánh trị khi có nền chánh trị sai. Tôi chỉ có đủ thông tin từ khi 1989 sang Thái Lan học vi tính trên cái máy PC-826 cũ kỹ, sau đó là trình độ tiếng Anh khá lên để biết sách chuyên môn tiếng Pháp mình từng học là…rất dở. Bây giờ thì thông tin tràn ngập trên Internet và có thể đọc được sách, báo chí Anh Mỹ Pháp nên mới rộng đường hiểu biết. Nghĩ về mình và cũng suy ra trường hợp Trịnh Công Sơn hay nhiều người khác… là chưa ai từng được tham gia, tức là làm thay đổi được gì mà chỉ bị lợi dụng … Có quá nhiều người VN miền Nam đã tin lầm yêu lẫn hy vọng hão như Sơn, trong đó MTGPMN có trách nhiệm cao nhất vì làm chánh trị khó tha thứ cho việc dốt chánh trị. Với nhiều người khác chúng ta nên dành nhiều lòng tha thứ hơn là kết án cho dù có thể phê phán thẳng thắn để đừng sống trong… ngu ngốc. Theo Cộng Sản, thân Cộng Sản là sai, song tôi vẫn thấy việc VNCH chủ trương đàm phán là đúng. Miền Nam bất hạnh vì có thằng anh em Cộng Sản “côn đồ lật lọng” nên ra nông nổi! Trách anh em vì đã nặng tình dân tộc là quá nặng tay, phải trách chánh quyền Cộng Sản, những kẻ không có tình dân tộc. Bài viết của anh có cơ sở để phê phán, song tôi vẫn muốn chúng ta nhìn nhận vấn đề với nhiều lòng khoan dung hơn bởi dân tộc ta được nuôi dạy trong ngộ nhận thế đó. Chính Ông Dương Văn Minh còn nói : “Để coi anh em bên kia có làm gì tốt hơn không”, thì thử hỏi như Sơn hiểu được gì ngoài khung tư tưởng của lòng tin ngây ngô mơ hồ đó ! Tôi cũng không trách Trịnh Cung vì tôi nghĩ Sơn chắc là không cố “chạy chức” bởi không hợp với sức khỏe “mong manh” và cá tính “mộng mơ” lại mê rượu, sống bất cần kiểu nghệ sĩ của Sơn, nhưng nếu ai đó mang đến cho Sơn mời gọi, e Sơn trong khuynh hướng thiên Cộng đó cũng không đủ lý do để … từ chối. E Sơn nghĩ, như nhiều Việt Kiều được mời gọi đang nghĩ rằng mình sẽ đóng góp được gì đó! Thật sự Cộng Sản Bắc Việt cực kỳ độc đoán đã không từng cho ai có ý kiến gì khác! Dù sao Sơn là hình tượng người nhạc sĩ có tài và là trí thức trẻ quan tâm thời cuộc, số phận con người. Sơn khi lên hát trên đài cũng giống ông Trần Văn Trà và Măt Trận Giải Phóng Miền Nam tưởng rằng Cộng Sản sẽ tôn trọng mình và tôn trọng ý nguyện dân chúng! Việt Nam chúng ta thời trước 1975 có những con người thỏa hiệp với thời cuộc kiểu thành phần thứ ba với tâm lý giống tâm lý Thống đốc Gray Davis vẫn tự nhận là “trung dung, thực tiễn và thức thời” và cho là khôn ngoan. Còn Mục sư Martin Luther King, con người hành động thực sự, đã hy sinh sự sống để đấu tranh cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen và có hiệu quả thì ông nói: “Chúng ta cần những con người cực đoan, những con người cực đoan của tình thương”. Ông Bush cũng nói nhượng bộ kẻ cực đoan khủng bố là tội ác! Ông Bush cha khoan dung không gây chiến đến tận cùng để vô hiệu hóa kẻ ác nên đã không từng thay đổi Saddam Hussein và kết quả là 11.9.2001. Cộng Sản luôn nói rất ngon ngọt, hứa rất chân tình thân ái nhẹ nhàng và hành động dứt khoát đến rất bạo tàn đẫm máu để tất thắng cho nên ngay trên nước Mỹ nhà điện ảnh Oliver Stone quá khờ. Oliver Stone làm phim về 11.9.2001 và phim ngạo ông Bush mà không có một lời giải đáp về biện pháp nào dành cho kẻ khủng bố . Ông ta chỉ cho khán giả thấy thảm trạng khủng bố mà không cho khán gỉa gỉả thấy bộ mặt QỦY QUỶ của bọn khủng bố và nỗi đau của gia đình người vô tội tài ba đã chết. Tôi ghét những người Mỹ loại này vô cùng! Ông ta muốn dân nước Mỹ sợ , hèn và thất bại chăng? Cho dù có vũ khí vi trùng hay không, Saddam Hussein đã không học sống với nhau như anh em nên bị gây hại đến chết trong ngu ngốc. “Chúng ta phải học sống với nhau như anh em, hoặc sẽ gây hại với nhau đến chết như những kẻ ngu ngốc”. (We must learn to live together as brothers or perish together as fools.- Martin Luther King) Chọn cho mình một thái độ chánh trị quả là khó và phải điều chính đúng lúc khi nhận ra sai lầm qua thực tiễn như Jean-Paul Sartre, Joan Baez, Eddie Adam (người chụp ảnh ông Loan) hay Jane Fonda chứ không phải lãng tránh như Trịnh Công Sơn, anh nhỉ ? Cuối cùng điều chúng ta mong là không phải thế này : “We shall have to repent in this generation, not so much for the evil deeds of the wicked people, but for the appalling silence of the good people.” – Thế hệ chúng ta sẽ phải sám hối, không phải chỉ quá nhiều vì những việc làm xấu xa của kẻ độc ác, nhưng vì sự im lặng kinh hoàng của người tốt.” Tôi mừng vì đã có ông Nguyễn Đăng Mạnh, nhạc sĩ Tô Hải … góp sức nói lên sự thật vì người khác, vì thế hệ tương lai. Không thể nói Trịnh Công Sơn không có nhầm lẫn, nhưng tôi vẫn tôn trọng tài năng của Trịnh Công Sơn và trong niềm cảm thương chung số phận người VN không có được nơi chốn, không có con người để tin yêu ký thác . Thân mến, Trần Thị Hồng Sương ************* Y kien : Quốc Dũng says: 01/04/2011 Kính ông Đặng Văn Âu Tôi là kẻ hậu sinh không biết nhiều về cuộc chiến, nhưng thấy Ông viết thế này thì hơi bị théc méc: “Hằng năm, cứ vào khuya 29 rạng ngày 30 Tháng Tư, tôi đều thắp ba nén nhang ra góc sân vườn nhà khẩn cầu cho những oan hồn uổng tử trên hai miền Đất Nước trong cuộc chiến vừa qua sớm siêu thoát, nhất là những chiến sĩ đã hy sinh nơi chiến địa: Một bên quyết ngăn chặn làn sóng đỏ, một bên bị đẩy làm nghĩa vụ quốc tế“. 1) Thưa Ông, theo sự hiểu biết của tôi, nếu “đã là những chiến sĩ hy sinh nơi chiến địa quyết ngăn chặn làn sóng đỏ” thì không thể gọi là “oan hồn uổng tử” được, mà “nên” hay “phải” được gọi là những “anh hùng vị quốc vong thân”! Còn những người “bị đẩy làm nghĩa vụ quốc tế” thì mới gọi là “oan hồn uổng tử”, vì họ bị chết oan uổng, không phải hi sinh cho Tổ quốc Việt Nam mà là cho thế giới Cộng Sản! Vậy ý kiến của Ông thế nào ? 2) Ông có “mối thù đối với cộng sản đến tận xương tủy” chỉ vì hai ông bác và một ông chú của Ông bị đấu tố cho đến chết một cách nhục nhã trong cái gọi là Cải cách Ruộng đất. Như vậy ngày nay Ông chống CSVN cũng chỉ vì mối thù “cá nhân” ấy? Thưa Ông, như đã trình bày ở trên, vì là kẻ hậu sinh không biết nhiều về chiến tranh, nhưng sau khi đọc biết những tài liệu nói về cuộc chiến quốc-cộng, nói về CCRĐ, Tết Mậu Thân 1968, nói về ngày 30.04.1975 và cách hành xử của CSVN trả thù đối với những công chức, sĩ quan và binh lính của chế độ cũ, cộng với những gì tôi đã được chứng kiến, thật là tàn ác, thật là dã man và thủ đoạn, nên tôi không chấp nhận chế độ CSVN. Tôi mong làm được điều gì để cùng với tất cả những người yêu nước lật đổ chế độ này, không phải vì thù hận hay tư thù, mà chỉ vì yêu thương Tổ Quốc và dân Tộc Việt nam! Đôi lời của kẻ hậu sinh gởi đến các vị tiền bối, nếu có điều chi mộ phạm, kính xin chỉ giáo cho!
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:20:31 GMT 9
Lịch sử xoá bỏ, tiêu diệt lịch sửDương Thu Hương Vào ngày nền dân chủ hùng mạnh của nước Đức đặt Hitler lên ngôi hoàng đế, liệu có ai đoán được tất thảy những gì sẽ xảy ra sau đó?… Không ai cả… Nói cách khác, trừ Thượng đế, không một người bằng xương bằng thịt nào có thể đoán chắc tương lai của một dân tộc, có thể mô tả chính xác hành trình của lịch sử, kể cả những nhà tiên tri vĩ đại nhất. Chúng ta luôn sống bằng những giả định, chúng ta luôn tiến bước trên những con đường tràn ngập sương mù, và lịch sử luôn luôn là một thứ hồi quang. Hồi quang ấy là sự hội tụ của muôn ngàn tia sáng, phản chiếu muôn ngàn góc độ khác biệt của hiện thực. Bất cứ lịch sử tổng hợp nào cũng dung chứa muôn triệu lịch sử cá biệt, tựa như một thứ búp-bê Nga khổng lồ. Với đại chiến II, ta có thể đọc hàng trăm ngàn cuốn sách, dưới các thể loại khác nhau, mô tả hoặc liệt kê các chiến thắng và chiến bại của phát xít Đức cũng như đồng minh, các trại tập trung và các lò thiêu người, đời sống của các tội phạm chiến tranh và các toà án quốc tế xét xử chúng, những bi kịch xảy ra với các gia đình ở hai phía đông-tây bức tường Béc-lanh, các cuộc di dân khổng lồ cũng như vô số các đề tài khác. Hơn một nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng lịch sử về cuộc chiến tranh toàn cầu này vẫn không ngừng được tái tại và sáng tạo. Bởi lẽ sự hoàn thiện là một cuộc săn đuổi vô tận. Bởi lẽ trên cõi đời luôn luôn tồn tại một vùng tối. Và bởi lẽ, con người luôn luôn bị giam cầm trong một thứ nhà tù nào đó, thứ nhà tù này có thể được xây cất do ngoại cảnh, cũng có thể do chính họ, do vùng bóng tối dày đặc che chắn đôi mắt họ. Thứ bóng tối khuynh đảo nhân loại một cách tàn bạo nhất, thường được dệt từ trạng thái hoặc trống rỗng hoặc mơ mòng của trí não và các ảo vọng của con tim. Để có một ví dụ cụ thể cho hiện tượng này, tôi xin trở lại cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Cuộc chiến gây nhiều tổn thất nhất cho cả hai phía, là biểu tượng cho lòng kiêu hãnh khổng lồ của nước Mỹ bị tổn thương. Đến tận ngày hôm nay, danh từ Việt Nam được nhắc đi nhắc lại trên báo chí toàn cầu, cũng không có một ý nghĩa nào khác hơn là sự răn đe hay sỉ nhục nền chính trị “đại quốc” của Mỹ. Trong các bình luận quốc tế về cuộc chiến tranh Iraq, danh từ này tựa hồ một trái lựu đạn cay ném trước thềm Tòa Bạch Ốc ở Washington . Nhiều người Việt Nam, trước hết là nhà cầm quyền Việt Nam đương đại, coi đó là niềm kiêu hãnh. Đối với riêng tôi, đó là nỗi đau đớn chua chát, một vết thương không bao giờ lên sẹo. Chính do cuộc chiến tranh này mà tôi hiểu được rằng đôi khi, những bi kịch lớn lao nhất của loài người cũng chỉ là trò đùa của số phận. Rằng luôn luôn có một thứ ténèbre dưới ánh mặt trời. Rằng bàn tay cay nghiệt của định mệnh đã từng nhấn chìm dân tộc tôi trong một vùng tối mù thấm đẫm máu tươi. Rằng chúng tôi đã từng sống những tháng năm dài như những kẻ mù loà cho dù có những đôi mắt long lanh của tuổi hai mươi và cho dù Việt Nam là xứ nhiệt đới nơi thừa ánh mặt trời, một thứ mặt trời chang chói. Cuộc chiến tranh chống Mỹ là cuộc chiến tranh ấn tượng, nếu nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Các phi công Mỹ trên pháo đài bay B52 đã từng là những nghệ sĩ khi họ nhìn các đám cháy trên bán đảo Đông Dương và tìm thấy một sự hoà sắc tuyệt hảo: màu xanh lơ biển cả, màu diệp lục của rừng, màu đỏ của lửa, màu trắng của các giải cồn cát và khói bom, màu máu tươi của người bản xứ vọt ra đỏ tươi, điệp cùng màu lửa… Quả là đẹp!… Đó là lời thú nhận của khá nhiều người… Có lẽ chính vì vẻ đẹp phi nhân này mà cái tên Việt Nam, vốn muôn ngàn năm nép mình trong bóng rừng sâu, bỗng trở nên một danh từ quen thuộc trên báo chí thế giới. Một phần nhân loại ủng hộ đội quân phía Nam. Nhưng phần lớn hơn ủng hộ người miền Bắc. Không kể các nhà văn thiên Cộng như Jean-Paul Satre và Betrand Russel, những người đã lập toà án Nurremberg, nhưng ngay các nhà văn hoá chủ trương chống Cộng cũng đã ủng hộ miền Bắc Việt Nam với một lý do rất nhân bản: Người ta cần che chắn, cần giúp đỡ một kẻ yếu trước một địch thủ hùng mạnh gấp trăm lần. Dương Thu Hương: “Tìm kiếm chân lý, tái tạo lịch sử là một cuộc lưu đầy không xê dịch. Đó chính là thân phận của nhà văn”. Nguồn: vi.wikipedia.org Về phía chúng tôi, đội quân phía Bắc, những người “Ra đi không tính ngày trở lại”, những người đã “Tham dự một cuộc lên đồng tập thể”, chúng tôi trải nghiệm sức mạnh của tình yêu nước, một sức mạnh có khả năng thăng hoa cả một dân tộc, biến những con người bình thường thành những cỗ máy lao vào lửa đạn, vượt qua mọi khao khát nhân bản khác như sự yên bình, tình yêu, hủy bỏ mọi nhu cầu bình thường của cuộc sống, chấp nhận cái chết một cách thanh thản vì sự lựa chọn của chính mình: Sống nô lệ không đáng giá bằng chết tự do! Nhưng phía sau tất thảy những biện minh vô cùng cao thượng ấy, ai biết những lớp lang nào đã diễn ra bên trong tấm màn sân khấu?… Nào ai biết rằng không chỉ “đế quốc Mỹ xâm lược” mà chính những người cộng sản phương Bắc cũng muốn có cuộc chiến tranh này và sự chuẩn bị cho trận sống mái đã diễn ra từ rất lâu trong bóng tối?… Nào ai biết rằng phía sau những khẩu hiệu biểu trưng cho một lý do siêu tuyệt là những cuộc tranh chấp quyền lực hèn hạ, là những trận huyết chiến âm thầm nơi hậu cung và không biết bao nhiêu xác chết đã bị vùi lấp dưới những lớp tro giá lạnh của thời gian?… Nào ai biết rằng một cuộc chiến tranh khốc liệt có thể được khởi sự bằng những mưu mẹo thâm độc của một ông chủ lớn, được khởi hứng bởi những giấc mơ xảy ra trong bộ óc của một kẻ tiếm quyền mắc chứng vĩ cuồng. Tất thảy những kẻ vĩ cuồng đều bị ám ảnh bởi các khải hoàn môn, và các khải hoàn môn thường được xây bằng xương đồng loại!… Nào ai biết?… Không ai biết cả!… Vì thế, những trang sử được phổ biến khắp toàn cầu, được rao giảng trong toàn bộ hệ thống trường lớp quốc gia là những trang sử giả, trong đó, mọi sự kiện đều được dàn dựng, mọi hình ảnh đều được thếp vàng trước khi trưng bày trong phòng bảo tàng, và mọi con số đều là con số thần chú. Cũng vì thế, người ta cần có thời gian. Thời gian, để những cơn mưa dai dẳng làm trôi sụt đất trên các sườn đồi, làm lộ ra các xác chết hữu danh cũng như vô tính. Thời gian, để vùng bóng tối trùm phủ lên bầu trời xứ sở có thể tan biến. Thời gian, để lớp keo đen che mắt con người bị bong ra, cho phép họ nhìn thấy sự vật dưới ánh sáng bình thường… Lớp keo đen, tấm vải bịt mắt, phải chăng nó là một thứ phụ tùng bất khả bãi miễn của nhân thế, một nhu cầu vô thức?… Phải chăng con người luôn có khuynh hướng tìm sự an bình và tiện nghi trong các ảo thức của bóng tối?… Dường như bóng tối đem cho họ sự an toàn còn đối diện với sự thật cũng giống như nhìn thẳng vào mặt trời là một cuộc thử thách quá cam go?… Hẳn chỉ có Thượng đế mới đủ quyền năng trả lời câu hỏi ấy. Với tư cách một con người, kẻ quan sát, tôi xin nêu lên ví dụ thứ hai: Từ cuộc cách mạng “hoan lạc” Mao-68 đến nay đã bốn mươi năm. Những nhà Maoistes francais đã viết khá đủ sách để biện minh cho sự nhầm lẫn của họ. Giờ đây, nhân loại không còn do dự để liệt kê Mao vào danh sách những tên đao phủ khổng lồ của nhân loại, sánh cùng Hitler lẫn Staline. Tài tình hơn Hitler, Mao đã tận dụng sức mạnh huỷ diệt của tuổi thiếu niên vào thời điểm “điên rồ nhất, dễ nhầm lẫn nhất, mù mờ nhất”, thời điểm bản lề của những đứa bé đang từ giã tuổi niên thiếu để bước sang giai đoạn trưởng thành. Nhờ ngọn thuỷ triều đen này, Mao đã tiêu diệt khoảng ba mươi lăm triệu người Trung Hoa. Rồi sau đó, chính những tên đao phủ vị thành niên, tới lượt chúng, bị đẩy lên các vùng biên cương xa xôi, trong các trang trại hoang vu cỏ cao hơn lúa mạch, chết vì đói khát, bệnh tật và tuyệt vọng vì không có đường về… Thêm hai mươi lăm hay ba mươi triệu thây ma nữa?… Nào có đáng kể chi với vị hoàng đế đỏ, người đã từng tuyên bố một câu xanh rờn: “Dân Trung hoa có hơn sáu trăm triệu. Tôi sẵn sàng hy sinh một nửa số đó để cắm ngọn cờ hồng trên toàn thế giới!”… Vậy mà giờ đây, trên đất Trung Hoa mênh mông, Mao trở thành một thần tượng, một anh hùng dân tộc, thậm chí một vị thánh. Những tấm áp-phích khổng lồ trưng hình ảnh của ông ta trên mọi địa điểm công cộng cũng như các phòng trà hoặc cà-phê. Thây ma phì nộn của ông ta được đặt ngay tại quảng trường Thiên An Môn, nơi xảy ra cuộc tàn sát nổi tiếng 1989. Ngày ngày, dân Trung Hoa tới đó tưởng niệm ông Hoàng đế đỏ. Ngày ngày, du khách đổ đến “la terre natale du leader charismatique” để bất tử hoá người nông dân vĩ đại sinh thành trên tỉnh Hồ Nam… “Mao, c’ est toute ma vie, c’ est notre Dieu” (Mao, chính là cả cuộc đời của tôi, là Thượng Đế của chúng tôi – DCV tạm dịch), một nông dân 73 tuổi tuyên bố. “J’ aime Mao parce que c’ est le Dieu de ma mère” (Tôi yêu Mao bởi vì ông chính là Thượng Đế của Mẹ chúng tôi – DCV tạm dịch). Đó là lời một ca sĩ 40 tuổi, tên Namu. Và những người khác, không biết gì về lịch sử của chính đất nước họ, đặt tên đồ tể vĩ đại này ngang tầm với Bouddha… Có lẽ không có một mỉa mai nào đáng khóc và đáng cười hơn thế…Và đó, một thứ ténèbre hiển nhiên tồn tại dưới ánh mặt trời. Giang Gao, nghệ sĩ, một trong số hiếm hoi những người Trung quốc cảm thấy bị sỉ nhục bởi hiện thực của đất nước mình: “Toute mon enfance, sous Mao, a baigné dans le mensonge. Rien n’ a changé. Le mensonge fait partie de nos vies. La jeunesse est éduquée en dehors de la réalité. Tout le monde trouve normal que le cors de Mao soit encore visible place Tian’anmen. Pour moi, c’ est une insulte. Pouvez –vous immaginer que le cors de Hitler soit exposer au coeur de Berlin, et qu’ il soit aujourd’ hui encore l’objet d’un culte populaire encouragé par le gouvernement allemand?…”. (Suốt tuổi trẻ của tôi, dưới thời Mao, đã thấm nhuần trong dối trá. Không có gì thay đổi. Sự dối trá là đời sống của chúng tôi. Tuổi trẻ được dậy dỗ bên ngoài sự thật. Mọi người đều thấy thi hài của ông (Mao) vẫn còn trông thấy ở Quảng trường Thiên An môn là điều bình thường. Đối với tôi, đó là một sự sỉ nhục. Bạn có thể tưởng tượng rằng thi hài của Hitler được đem trưng bày giữa Bá-linh, và thi hài ấy ngày nay hãy còn là đối tượng được chính phủ nước Đức khuyến khích dân chúng tôn thờ – DCV tạm dịch) Giang Gao có lý khi nghĩ rằng cái hiện thực mà anh ta phải chịu đựng giống như lời chửi rủa. Hoặc chửi rủa, hoặc nguyền rủa, ấy là những món quà cay đắng mà lịch sử thường tặng cho con người, trước hết là những dân tộc sống thường trực trong bóng tối của chế độ toàn trị. Để chiến đấu chống lại thứ tội “tổ tông” ấy, người ta phải làm cho ánh sáng chiếu rọi được tới nơi thâm sơn cùng cốc của sự ngu dốt, dẫu là thứ ngu dốt do bị cưỡng bức phải ngu dốt ; dẫu là thứ ngu dốt do nhẹ dạ hay thơ ngây, dẫu là thứ ngu dốt tự chọn do hèn nhát, dẫu là sự ngu dốt do lãng quên hay thứ ngu dốt do vô tình… Để chống lại những thứ lịch sử được tác tạo trong vùng bóng tối, con người cần truy tìm những thứ lịch sử khác, không chỉ thứ lịch sử chứa đựng trong lịch sử; nhưng còn thứ lịch sử xoá bỏ lịch sử, thứ lịch sử tiêu diệt lịch sử. Cũng như chân lý, lịch sử là cuộc tìm kiếm không ngưng nghỉ. Cũng như chân lý, lịch sử là một hành trình có khởi đầu nhưng không có kết thúc. Tìm kiếm chân lý, tái tạo lịch sử là một cuộc lưu đầy không xê dịch, … être déporté et exilé sur place… Đó chính là thân phận của nhà văn. Paris 2I Février 2008
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:23:40 GMT 9
Bằng Phong Đặng Văn Âu Đem tâm tình viết lịch sử [1]
Lời người viết: Cuộc chiến tranh Quốc Cộng Bắc Nam đã gây nên bao cảnh phân ly chia lìa. Hầu như gia đình nào cũng có người ở phía bên này, bên kia. Cuộc huynh đệ máu lửa tương tàn đã chấm dứt hơn ba thập niên mà vẫn chưa nguôi niềm u uẩn. Tuy thư này được viết cho một người anh thúc bá trong gia tộc – Con Hùm xám Đường 4 Đặng văn Việt – nhưng có liên quan đến bối cảnh Nước Nhà, nên người viết xin trân trọng gửi độc giả trong và ngoài nước để cùng chia sẻ tâm tư. Houston, Texas, U.S.A., ngày 20 tháng 1 năm 2009. Anh Đặng văn Việt kính mến, Em khởi sự viết thư này cho anh vào một ngày trọng đại đánh dấu khúc quanh lịch sử Hoa Kỳ – Ngày tuyên thệ nhậm chức của một vị Tổng thống DA ĐEN đầu tiên: Ông Barack Hussein Obama. Từ vị Tổng thống đầu tiên George Washington đến George W. Bush, các Tổng thống Hoa Kỳ đều có gốc Ái Nhĩ Lan, chứ không có ông nào gốc Đức, Pháp, Anh lọt vào. Chưa biết lúc nào thư này sẽ viết xong, vì em cứ bận các thứ việc hiếu hỉ linh tinh trong mấy ngày giáp Tết và em cũng cần thời gian để trang trải tâm tư với anh. Đây là những lời rất tha thiết nói lên niềm thao thức của em, mong anh cảm thông. Như kẻ tình cờ “lạc đường vào lịch sử” bỗng trở thành chứng nhân ở góc cạnh nào đó trong một giai đoạn, em xin ghi lại vài điều suy nghĩ gửi anh, để biết đâu nó sẽ là tư liệu hữu ích cho những nhà viết sử mai hậu, bởi vì thời đại này người ta cố tình xuyên tác lịch sử do ý đồ chính trị quá nhiều. Tên tuổi anh và bạn bè anh – những con cái thuộc gia đình tiểu tư sản – đã đi vào quân sử kháng Pháp, đánh dấu một thời kỳ oanh liệt đấu tranh giành độc lập, nhưng bị gạt ra vòng ngoài vì cái chủ nghĩa lý lịch phân biệt giai cấp. Thư này em viết cho riêng anh và cho cả các đồng đội cũ cùng chung cảnh ngộ với anh. Năm 1962 khi du học Hoa Kỳ, em – một thanh niên đến từ quốc gia chậm tiến – hết sức choáng ngợp trước những tòa nhà đồ sộ chọc trời, xa lộ thênh thang hun hút, xe cộ như mắc cửi biểu hiện sự giàu sang của nền văn minh cơ giới tột bực. Nhưng có một điều em cảm thấy không hài lòng. Đó là sự đối xử bất nhẫn của người da trắng đối với người da đen. Ví dụ như người da đen bị bắt buộc ngồi băng ghế sau cùng trên xe buýt, chỉ được phép vào phòng vệ sinh dành riêng cho người da màu … Sinh viên da vàng chúng em không bị đối xử kỳ thị, nhưng em chẳng cảm thấy hãnh diện chút nào. Em cho rằng sự kỳ thị chủng tộc, mầu da là sai lầm, là thiếu văn hóa. Chưa đầy 50 năm, người Hoa Kỳ da trắng đã thay đổi thái độ và tư duy vì có nếp suy nghĩ cấp tiến hơn, lại thêm nhờ chính phủ của họ áp dụng triệt để luật cấm phân biệt đối xử, trong lãnh vực công đã đành, mà còn trong lãnh vực tư nữa. Bất cứ người da trắng nào có lời lẽ châm biếm người da đen là bị đuổi việc ngay. Đảng cộng sản thi hành chủ nghĩa lý lịch – tàn tệ không kém sự kỳ thị chủng tộc – làm tan nát hàng triệu cuộc đời – trong đó có dòng họ ta – hơn 50 năm rồi mà chưa biết khi nào sẽ chấm dứt. Chỉ vì anh là con của một vị Thượng thư triều Nguyễn nên bị mang chức Trung tá Trung Đoàn Trưởng mãn đời, mặc dù đạt được nhiều chiến công đánh Pháp lẫy lừng, trong khi ấy thành phần “bần cố nông” cấp dưới của anh thì lên Tướng. Chứng kiến sự thay đổi của nước người, lòng em không khỏi chạnh nghĩ đến số phận hẩm hiu của dân nước mình. Hoa Kỳ bị phe thù nghịch lên án là Đế quốc xâm lược, nhưng quốc gia này không chiếm đất đai của ai làm thuộc địa. Nước Pháp tự hào về cuộc cách mạng Dân Quyền, về văn hóa, nhưng lại là quốc gia cực kỳ vô nhân đạo đối với nhân dân của nước bị trị. Nếu thực dân Pháp cai trị Ấn Độ, thì ông Mahatma Gandhi không bao giờ trở thành Thánh, mà sẽ bị bay đầu như nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Kể từ giờ phút này, người Mỹ da trắng sẽ dần dần trút bỏ mặc cảm xấu hổ vì tổ tiên họ đi “săn bắt” người da đen ở Phi Châu về làm nô lệ. Mặc dù không phải là quốc gia thập phần toàn hảo, nhưng Hoa Kỳ xứng đáng là tấm gương sáng cho những chế độ độc tài, độc đảng lạc hậu noi theo. Bởi vì khi nhận ra sai lầm là người Mỹ dũng cảm sửa đổi. Có thể nói Hoa Kỳ là nơi luôn luôn có cuộc “cách mạng nhung” xảy ra, thay đổi ôn hòa, chuyển giao quyền lực êm thắm. Chưa hề có nạn “cướp chính quyền” bằng bạo lực hoặc “đảo chánh cung đình” từ ngày lập quốc. Trong cuộc bầu cử Tổng thống vừa qua, em không bỏ phiếu cho ông Obama, không phải vì có cái nhìn xuống đối với người da đen như một số người khác, nhưng vì không đồng quan điểm chính trị tả khuynh thái quá và nhất là về chính sách quốc phòng và an ninh nội địa của ông ta. Tuy nhiên khi nghe ông Obama tuyên bố trong bài diễn văn Hoa Kỳ sẽ cương quyết đánh bại quân khủng bố thì em an tâm phần nào. Buổi lễ tuyên thệ nhậm chức năm nay được đánh giá “hoành tráng” hơn tất cả những lần trước kia. Báo chí thế giới – nhất là từ Âu châu – đều có bài nhận định tương tự nhau: “Hiện tượng Obama chỉ có thể xảy ra tại Hoa Kỳ”. Đúng thế! Ông Obama không những là người da đen, mà còn có ông bố đẻ với bố dượng theo đạo Hồi và mang tên đệm là Hussein, giao du khắng khít với kẻ khủng bố Bill Ayers, có vị mục sư linh hướng Jeremiah Wright từng đứng trên bục giảng ở nhà thờ cầu mong “Thượng Đế trừng phạt nước Mỹ” (God d**n America), nhưng cử tri da trắng Mỹ đa số có tín ngưỡng Thiên chúa giáo bất chấp, họ vẫn bầu cho Obama với tỉ số áp đảo. Chưa biết nước Mỹ sẽ đi về đâu, nhưng ông Obama là sự lựa chọn của đa số nhân dân Mỹ nên có vị thế chính thống để lãnh đạo quốc gia. Những người cầm quyền của chế độ cộng sản hiện nay không do dân bầu, họ tự động dành cho họ cái quyền ban hành luật pháp và ngồi xổm lên là láo lếu. Nhiều chủng tộc khác mơ ước đến lập nghiệp tại Mỹ chính vì Đất Nước này hứa mở ra cơ hội đồng đều cho mọi người được thực thi một cách nghiêm chỉnh. Cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Xô Viết – ông Mikhail Gorbachev – đã nói: “Một người Nga đến định cư ở Pháp lâu năm vẫn là người Nga, nhưng một người Nga đến ở Mỹ chẳng bao lâu thì trở thành người Mỹ”. Một xứ sở được kết hợp bởi những công dân không cùng chủng tộc, lịch sử, văn hóa mà chỉ trong vòng 200 năm đã trở thành siêu cường bậc nhất thế giới thì không phải là sự may mắn tình cờ. Em cho rằng đấy là nhờ lòng cương quyết theo đuổi lý tưởng Tự Do một cách lương thiện của các nhà lãnh đạo từ thời lập quốc. Em dùng từ “lương thiện” để nói họ không thiết lập nền dân chủ giả hiệu hoặc bánh vẽ. Đại tướng George Washington sau khi đánh bại thực dân Anh giành độc lập, được các thuộc cấp đề nghị lên ngôi vua để có vị thế ngang hàng với vua nước Anh, nhưng ông từ chối và thiết lập nền Cộng Hòa. Sau khi làm Tổng thống hai nhiệm kỳ, người ta đề nghị ông làm Tổng thống mãn đời, ông lại từ chối. Ông nói: “Dù một người thông minh tài giỏi đến đâu mà làm Tổng thống hai nhiệm kỳ thì cũng đã hết sáng kiến. Tôi xin nhường chỗ cho người khác”. Lời nói của George Washington được các Tổng thống kế nhiệm tuân thủ như một luật lệ bất thành văn. Cho đến khi Tổng thống Franklin D. Roosevelt viện cớ đang có Thế chiến II, đã làm Tổng thống đến 4 nhiệm kỳ (từ năm 1933 đến năm 1945, nhiệm kỳ thứ 4 mới bắt đầu mấy tháng thì qua đời và Phó Tổng thống Truman thay thế). Từ đó, Quốc Hội phải viết tu chính án hạn chế nhiệm kỳ Tổng thống chỉ được phép tối đa là 8 năm. Người lãnh đạo cộng sản “cướp chính quyền”, thiết lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa trên đất nước Việt Nam, viết ra bản Hiến Pháp rập khuôn theo Hoa Kỳ có đầy đủ các quyền dân chủ, nhưng không áp dụng một điều khoản nào. Ông Hồ Chí Minh là người đa mưu xảo quyệt. Ông lấy câu “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” làm khẩu hiệu nên dễ mê hoặc khát vọng của người dân bị trị. Ai có thể cưỡng lại cái lý tưởng công bằng xã hội, xóa bỏ giai cấp, làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu, không còn có cảnh người bóc lột người? Dù là nạn nhân của hành động tai ngược dưới chế độ cộng sản, người ta cũng đã rộng lòng bao dung tha thứ vì cho rằng đó là lỗi lầm của cấp dưới! Anh đang là sinh viên Y khoa năm thứ 3 đã nghe theo tiếng gọi của Tổ Quốc cũng lên đường đánh Pháp, mặc dầu học vấn của anh là do Pháp đào tạo. Em có hỏi anh Đặng văn Sung vì sao giữa hai anh em lại có tình trạng kẻ đi hướng này, người đi huớng kia và được anh Sung trả lời: “Ngày đó ở Hà Nội có cuộc nói chuyện của ông Võ Nguyên Giáp và ông Trương Tử Anh ở hai nơi. Anh Việt đi nghe ông Võ Nguyên Giáp nói chuyện thì trở thành cộng sản; còn mình đi nghe ông Trương Tử Anh nói chuyện thì trở thành Đại Việt. Tuổi trẻ đâu có hiểu chủ nghĩa gì đâu, miễn là đánh Pháp”. (Bác sĩ Đặng văn Sung, nguyên Thượng Nghị sĩ Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa và Chủ nhiệm Nhật báo Chính Luận trước năm 1975, từng là cán bộ lãnh đạo của Đại Việt được chỉ định liên hệ với vua Bảo Đại. Bác sĩ Đặng văn Sung, Hùm Xám Đặng văn Việt và người viết là anh em thúc bá. Ông Nội chúng tôi là Hoàng Giáp Đặng văn Thụy, làm chức quan Tế Tửu của trường Quốc Tử Giám dưới triều Nguyễn ở Huế. Chức Tế Tửu giống như Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh dưới chế độ VNCH – Ghi chú của người viết). Anh Sung lớn hơn em hai giáp, sinh năm 1916 (tuổi Thìn), nhưng anh ấy khi nào nói chuyện với em út trong họ luôn luôn xưng “mình” rất dễ thương. Anh Sung được mọi người qúy mến không những vì nói năng lịch sự, mà còn cách cư xử hào hiệp rất đẹp. Ngày nay, những nhân viên từng làm việc cho Nhật báo Chính Luận – từ nhà văn, ký giả đến thợ sắp chữ – đều nhắc đến anh ấy bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn.
Đem tâm tình viết lịch sử [2]
Anh Đặng văn Việt qúy mến, Em xin phép nói rõ để anh khỏi ngộ nhận. Có rất nhiều người như anh, vì khát khao Độc Lập, đã chấp nhận hy sinh gian khổ, chịu tù đày để đánh đuổi Thực dân Pháp rồi gia nhập đảng Cộng Sản. Tức là em xác nhận trong hàng ngũ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có người yêu nước Việt Nam – chứ không phải yêu nước Trung Quốc như Triết, Dũng, Trọng. Nhưng bộ máy đảng Cộng sản không cho phép đảng viên được quyền yêu nước. Ai thấy điều sai trái trong đảng mà dám góp ý xây dựng là bị loại trừ ngay. Đó là trường hợp Trần Xuân Bách – người có khả năng được bầu làm Tổng Bí thư Đảng – chỉ mới manh nha tư tưởng theo gót chân Gorbachev thì liền bị khốn đốn. Nếu không có Nguyễn Cơ Thạch che chở, Trần Xuân Bách chắc chắn sẽ không tránh khỏi số phận nằm nhà đá. Đó là trường hợp Tướng Trần Độ bị tước thẻ đảng, lúc chết cũng bị Đảng không cho phép người nào phúng điếu với bốn chữ “Vô Cùng Thương Tiếc”. Vì vậy muốn leo lên địa vị lãnh đạo, người cán bộ phải “phấn đấu” như con tố cha (Trường Chinh), vợ tố chồng, nhắm mắt làm ngơ trước sự bất công, nịnh bợ lãnh tụ (Tố Hữu) để lấy niềm tin của Đảng hoặc tạo thành tích. Do đó, lấy đâu ra người lãnh tụ cộng sản lương thiện, tử tế, có lòng thương nước yêu dân? Chính người cộng sản thuần thành Phạm Quế Dương – bạn anh – đã công khai xác nhận Đảng Cộng Sản là một đảng cướp, sau khi xé thẻ đảng cơ mà! Các cụ nhà ta nói không sai: “Gieo gì gặt nấy”. Gieo xuống đất hạt cam thì không thể mọc lên cây mít. Nhà cầm quyền Việt Nam càng ngày càng thối nát, xã hội càng ngày càng băng hoại là kết quả tất yếu do một đảng cầm quyền được xây dựng trên sự lừa đảo, dối trá, phi đạo đức, phản phúc, bất nhân. Nói tóm lại, đó là một đảng cướp, nhưng em cho rằng họ tồi tệ hơn đảng cướp đời thường, vì đảng cướp đời thường đi ăn cướp không nhân danh những biểu tượng thiêng liêng cao qúy như Tổ Quốc, Dân Tộc. Với cái nhân danh đó, đảng có quyền kết tội “Việt Gian”, “Phản Động” cho bất cứ ai không đồng tình với những việc làm tai ác của Đảng. Đảng cướp đời thường không đặt ra cái luật quái gở: “Tài sản đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, đảng cuớp quản lý”. Ở hải ngoại, ai nói đến vụ ăn cắp, ăn bẩn PMU hoặc PCI thì Nhà Nước Cộng Sản quy cho người đó cái tội nói xấu Tổ Quốc. Một thứ ăn cắp, ăn trộm mà tự đồng hóa mình với Tổ Quốc, Dân Tộc là điều đáng phỉ nhổ. Mới đây, em nhận ba thư của ba nhà bất đồng chính kiến trong nước: Một của cựu Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Quế Dương ở Hà Nội, một của luật sư Trần Lâm ở Hải Phòng và một của nhà giáo Nguyễn Thượng Long ở Hà Tây. Ba thư ấy đều phàn nàn Nhà Nước dùng bọn bồi bút bôi nhọ, mạ lỵ Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang về tội thực hiện tờ báo điện tử Tổ Quốc để làm tiền. Em đã gọi điện thoại thăm anh Phạm Quế Dương, luật sư Trần Lâm để hỗ trợ tinh thần và ca ngợi sự dũng cảm của hai anh ấy. Luật sư Trần Lâm cho em biết vẫn thường gặp gỡ anh khi có dịp lên Hà Nội. Riêng nhà giáo Nguyễn Thượng Long em gọi nhiều lần, nhưng có lẽ đường dây điện thoại đã bị cắt. Sau cùng, em gọi anh Nguyễn Thanh Giang để khuyên anh ấy đừng phiền muộn, nhụt chí vì bọn bồi bút hoặc kẻ đố kỵ. Em cũng đã động viên chị Tuyết Mai – phu nhân của anh Giang – hỗ trợ tinh thần anh ấy để vượt qua những trù dập của chế độ. Em ví những nhà tranh đấu dưới chế độ độc tài toàn trị giống như người tự nguyện thí phát đi tu. Mà tu giữa chợ, đầy dẫy điều thị phi, oan trái. Các anh còn bận tâm vì những lời lẽ bất xứng của bọn bồi bút, bọn đố kỵ ghen ghét là còn mắc mưu chế độ. Em nói bây giờ Nhà Nước “đánh” anh như thế hãy còn nhẹ so với thời kỳ ông Hồ làm Chủ tịch Nước kiêm Chủ tịch Đảng. Rồi em đọc cho anh Thanh Giang nghe bài thơ của nhà văn Nguyễn Công Hoan hỗn láo với Cụ Phan Khôi: “Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi! Thọ mi, mi chúc, chớ hòng ai. Văn chương Đù mẹ thằng cha bạc! Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài. Lô-dích, trước cam làm kiếp chó, Nhân Văn nay lại hít gì voi. Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục, Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai.” Đấy là “văn hóa chửi” dưới triều đại Hồ Chí Minh của anh đó, anh Thanh Giang à! Nghe em nói vậy, anh ấy chỉ cười nhẹ, chứ không có lời biểu đồng tình hay phản bác. Em cảm thông tình cảnh “cá chậu chim lồng” của người dân phải sống dưới chế độ bạo ngược, không ai dám đả động cái “bàn thờ”. Mặc dầu sách quốc văn giáo khoa thư không thấy dạy phải gọi quân ăn cướp bằng “ông”, nhưng trong các bài viết em không bao giờ dùng chữ “thằng” để gọi các lãnh đạo “đảng cướp” cộng sản bằng “thằng”, giống như họ thường dùng khi gọi các lãnh đạo Miền Nam. Em cho rằng vì cái định mệnh nghiệt ngã của dân tộc ta mới nẩy nòi ra nhân vật Hồ Chí Minh, một diễn viên thủ vai “kép ác” trong kịch bản bi thảm. Không phải ông Hồ mà nếu Trần Phú hay Lê Hồng Phong lãnh đạo cộng sản thì hậu quả cũng như ngày hôm nay, vì đó là bản chất của chủ nghĩa cộng sản. Giá như nước ta không bị thực dân Pháp tham lam, ngu muội đô hộ thì thứ “cỏ cộng sản” (chữ của Cụ Phan Khôi) không thể có cơ sinh sôi tràn lan được. Bằng cớ là tất cả các thuộc địa của Anh Quốc không bị nhuộm đỏ. Nhân đây, em xin tường thuật hầu anh câu chuyện này để anh thấy cái xui tận mạng của Đất Nước mình: “Thầy em – cố bác sĩ Đặng văn Dư, làm Đổng lý văn phòng cho Thủ tướng Trần Trọng Kim – kể lại với Đẻ em rằng khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh thì có một viên Tướng Nhật (lâu ngày nên quên mất tên) đến văn phòng Thủ tướng đề nghị: – Thưa Ngài, dù chúng tôi thua trận, nhưng quân đội chúng tôi thừa sức tiêu diệt Bộ Tham Mưu Cộng sản Đông Dương trong vòng 24 giờ đồng hồ để giúp Đất nước Ngài tránh hiểm họa trong tương lai. Cụ Trần trọng Kim là một nhà Nho đạo đức, có tinh thần tự chủ cao, nên khước từ và nói: – Xin cám ơn Tướng quân, nhưng việc nội bộ của chúng tôi, xin hãy để chúng tôi tự xử trí với nhau.” Quân nhân Nhật có truyền thống bảo hoàng trọng vua chúa, nên họ nhất định không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Lúc bấy giờ Việt Nam cũng là quốc gia đang có vua, do đó họ muốn tiễu trừ cộng sản để tránh họa cộng sản lan sang nước họ. Giá như Cụ Trần trọng Kim thấy trước cộng sản gây tai họa ghê gớm cho đất nước mình như ngày hôm nay thì cái đạo đức Nho gia của Cụ đáng chê trách. Chẳng qua vận nước mình xui đơn xui kép: Vừa bị thực dân Pháp tham lam ngu muội đô hộ, vừa gặp phải nhà lãnh đạo “quân tử Tầu” không có viễn kiến. Đó là lý do vì sao em gọi “định mệnh nghiệt ngã dân tộc”. Nếu trường Đại học Mỹ thuật Đức nhận đơn xin nhập học của Hitler thì chắc chắn không có hỏa lò Holocaust giết hàng triệu người Do Thái và Thế chiến II không xảy ra. Nếu thực dân Pháp nhận đơn xin vào học trường Thông Ngôn của ông Hồ thì ông Hồ không mang tội ác với dân tộc Việt Nam đến thế. Hoàn cảnh nghiệt ngã đó đã đẩy anh em trong họ hàng mình mỗi người một phía thật là đau thương. Anh Phan Huy Quát, anh Đặng văn Sung – mặc dù được Pháp đào tạo – nhưng chống Pháp mà không tham gia Mặt trận Việt Minh vì các anh ấy sớm nhìn ra chân tướng cộng sản. Lúc còn ở hậu phương, em đã reo hò mỗi khi nghe tin anh chiến thắng giặc Pháp. Em từng vung quả đấm tay hoan hô Hồ Chí Minh. Nhưng sau năm 1953, em được tin bác Thượng Hướng, bác Tham Oánh và chú Phủ Cận bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong chiến dịch phóng tay phát động quần chúng “Cải Cách Ruộng Đất” là em thề không đội trời chung với cộng sản. Anh Việt có biết người bà con trong họ mình tên là Chắt Yêng – đảng viên cộng sản – bại liệt cả hai chân từ bé, ở Nghệ An, đang làm Chủ tịch Xã, vì quá kinh hoàng khi chứng kiến cảnh đấu tố hai bác, chú Phủ nên chờ đến canh khuya bò lết ra giếng để tự tử không? Anh Việt có biết một thanh niên khác ở quê Nghệ An mình rất khôi ngô, được dân trong làng gọi là Cậu Tú (có lẽ đỗ Tú Tài), thừa hưởng tài sản của bố mẹ để lại khoảng 10 mẫu ruộng, tối ngày chỉ cỡi ngựa rong chơi đây đó, ruộng thì giao cho nông dân cấy rẽ, tới mùa được dân chia thóc cho mà không hề biết phần mình bao nhiêu. Sự dễ dãi hào phóng của Cậu Tú rất được dân yêu qúy, cho nên khi cuộc đấu tố xảy ra, Đội không biết vin vào tội gì để đấu, ngoài cái tội đã lớn mà không lấy vợ. Thế là Đội bày cho mấy chị nông dân tố giác Cậu Tú hiếp dâm họ. Bị các cô, các bà mắng chửi, đánh đập, vu cho những hành động hiếp dâm hết sức thô bỉ, tục tằn, Cậu Tú vẫn đứng yên chịu trận. Cuối cùng Tòa án Nhân dân ra lệnh xử tử hình, nhưng để tỏ ra nhân đạo, Tòa ban cho “tội nhân” một ân huệ được phép nói lời cuối cùng. Cậu Tú chẳng nói, chẳng rằng, bỗng lẹ tay tụt quần xuống để phô ra bộ phận sinh dục chỉ nhỏ bằng quả ớt hiểm. Hóa ra Cậu Tú là một loại “Thái Giám” bẩm sinh. Biết Đội đấu tố Cậu Tú tội hiếp dâm là sai lầm, nhưng Tòa án Nhân dân rất nhanh trí, ra lệnh: “Hãy chém đầu ngay lập tức vì tội vô lễ, dám tụt quần trước mặt Nhân dân!”. Nhà văn Tô Hoài còn thuật nhiều kịch bản ghê rợn không kém trong tác phẩm “Ba Người Khác”. Anh Việt thử kiểm điểm xem trong lịch sử dân tộc mình có thời đại nào dã man, tai ác như thế không? Bác Thượng Hướng – thân phụ anh – được Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên Hiệp; bác Tham Oánh – thân sinh anh Khoáng – cũng do đích thân Hồ Chí Minh mời làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt ở Liên Khu Tư vì hai bác nổi tiếng là những vị quan thanh liêm, được nhân dân kính trọng, bởi lẽ lúc bấy giờ Hồ Chí Minh cần những nhân vật có uy tín với quần chúng – tầm cỡ như Cụ Huỳnh Thúc Kháng – hợp tác và cần tạo bộ mặt đoàn kết quốc gia. Hai bác đều có con đang là đảng viên cộng sản (anh và anh Khoáng), giống như bà Nguyễn thị Năm ở Hải Phòng từng nuôi Đảng, có con đang là Chính ủy Trung Đoàn, đều bị giết một cách nhục nhã, thê thảm. Hồ Chí Minh luôn luôn chối tội, đổ lỗi cho cấp dưới làm bậy. Thế mà anh Việt cũng tin được? Chính chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ” của ông Hồ đã gieo cái chết oan ức cho hai bác và họ hàng mình. Nếu ở trong trường hợp của anh, em sẽ tìm đường vượt tuyến vào Nam, quyết chí phục thù cho bố và dòng họ. Với biệt tài quân sự của anh từng đánh cho quân Pháp tơi bời, chắc chắn ông Ngô Đình Diệm sẽ trọng dụng, giống như ông Diệm đã trọng dụng anh Trần Chánh Thành và nhiều nhân vật khác từ Chiến khu ra. Em được biết anh gửi hàng chục lá đơn cho Phạm văn Đồng, cho Bộ Chính trị để yêu cầu trả lại danh dự cho bác, nhưng họ không thèm hồi đáp một lời, phớt tỉnh Ăng-lê như thể không hề nhận được thư khiếu nại. Đó là thái độ cao ngạo, trịch thượng rất khả ố của tập đoàn lãnh đạo cộng sản vô giáo dục. Em viết lại việc cộng sản “vắt chanh bỏ vỏ” là một hình thức công khai phục hồi danh dự cho những vị quan thanh liêm yêu nước thương nòi cũng bị chết oan dưới bàn tay Hồ Chí Minh, chứ chẳng phải em muốn khơi lại vết thương quá khứ. Anh em ta có thể tha thứ bọn chúng, nhưng không bao giờ quên tội ác chúng gây ra. Người Do Thái vẫn còn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm tìm từng tên sát nhân Đức Quốc xã để mang về nước trị tội, dù chính phủ Đức đã công khai xin lỗi Do Thái. Hành động săn bắt đó không phải vì lòng báo thù dai dẳng, nhưng phải trừng phạt những tên sát nhân để cảnh báo những tên sát nhân tương lai phải suy nghĩ trước khi nhúng tay vào tội ác. Năm lên 17 tuổi, em được ba đảng chống Cộng cho người đến tiếp cận. Em vốn không phải là người có tham vọng chính trị, chỉ ưa thú tiêu dao như Tản Đà, nhưng vì thù ghét cộng sản đã hãm hại dòng họ mình, nên em nghĩ phải tham gia một tổ chức thì chống Cộng mới hữu hiệu. “Không có tổ chức là không có gì cả”, hình như ông Lénine đã phát biểu như thế, phải không anh Việt? Em không vào đảng Cần Lao – đảng đang cầm quyền – vì người cán bộ tổ chức hứa nếu vào đảng thì sẽ được bố trí cho đi học ngoại quốc sau khi đỗ Tú tài II. Em tham gia Đại Việt vì nhận thấy người cán bộ tổ chức của đảng này có vẻ chững chạc, lưu loát hơn anh cán bộ Quốc Dân Đảng, chứ em không đủ tầm kiến thức để đánh giá chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn của Trương Tử Anh hay ho hơn chủ nghĩa Tam Dân của Nguyễn Thái Học. Vì đảng Đại Việt chống chính quyền Ngô Đình Diệm, có đảng trưởng Hà Thúc Ký lập Chiến khu Ba Lòng chống lại chế độ, tụi em phải sinh hoạt bí mật như hội viên Hội Kín thời Tây. Về sau em mới biết anh Bút, anh Nghiên, anh Sung, anh Quát đều là đảng viên Đại Việt. Sau khi gia nhập Quân đội, em không còn sinh hoạt Đảng nữa. Lúc đủ trí khôn hơn, em nhận thức rằng anh Hà Thúc Ký lập Chiến Khu Ba Lòng chống lại chế độ là sai lầm, chỉ làm lợi cho cộng sản mà thôi. Ông Hồ đã ra người thiên cổ, chẳng lợi ích gì khi cứ đổ lỗi cho ông ta. Vấn đề là tại vì đảng cầm quyền cứ bắt dân chúng phải học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, thần thánh hóa một nhân vật có cuộc đời không lấy gì làm đẹp đẽ. Chị Thiếu Anh gửi tặng em một tác phẩm của chị trong đó có lời lẽ nói đến ông Hồ một cách trân trọng, mặc dầu thân sinh chị là Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm – một vị quan Tế Tửu thay thế Ông Nội anh em mình, rất thanh liêm – bị đấu tố cho đến chết, khiến em rất buồn. Em nghĩ rằng sống dưới chế độ bắt buộc phải tôn sùng Hồ Chí Minh, chị không thể nói lên sự phẫn uất đối với kẻ đã giết cha mình thì đành im lặng; chứ sao chị lại viết sách ca tụng? (Chị Thiếu Anh là chị dâu cả của người viết, vợ của bác sĩ Đặng văn Ấn và là em gái út của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – Ghi chú của người viết). Có lần em nghe anh Vũ Cao Quận tỏ ra ân hận vì sự nghiệp “xẻ dọc Trường Sơn cứu nước” giống như các nhà cách mạng lão thành hối tiếc đã xả thân vì chủ nghĩa cộng sản. Hình như trong bà con mình có nguời là đảng viên cộng sản hơn 50 năm cũng ôm nỗi thống hận ấy? Giá như người đang cầm quyền có chút lương tri để sám hối thì may cho dân tộc mình biết mấy. Nhưng các anh không nên ân hận vì các anh bị lừa, bị bịt mắt. Người cần bày tỏ niềm ăn năn là Đại tướng Võ Nguyên Giáp kia kìa. Ông ta được thế giới ca ngợi là anh hùng, nhưng không hành xử xứng đáng với danh hiệu đó. Tướng Giáp là một trong những “Cha Đẻ” đảng CSVN, nay dù hai mắt đã lòa thì tai cũng còn đủ nghe tiếng khóc than thống thiết của dân oan cách ngôi biệt thự của ông ở số 30 đường Hoàng Diệu không xa lắm. Tham nhũng đục khoét xứ sở tan hoang; quan chức hà hiếp bóc lột dân lành hơn thời Thực dân đô hộ, ông Đại tướng hồn nhiên đóng bộ đại bạch phục, ngực mang đầy huy chương ngồi cạnh Lê Đức Anh dự Đại Hội 10 mà không biết xấu hổ thì rõ ràng chủ nghĩa làm cho nhà quân sự đại tài (!) mất hết tính tự trọng. Ở vào tư thế thuộc hàng cha chú của các lãnh đạo hiện nay, ít nhất Tướng Giáp cũng phải nói được một câu như nhà thơ Bùi Minh Quốc tỏ ra hối tiếc vì tạo ra cỗ máy cộng sản ác ôn này. Đúng là cây gì sinh quả ấy, Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu đấu tố cha, thì nay hàng con cháu như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng không xem “Cha Đẻ” của Đảng ra gì. Ông Giáp viết được một hai đề nghị gửi đăng báo thì bọn lãnh tụ “Con Cháu” bãi chức Tổng Biên tập báo để dằn mặt! Anh Việt rất qúy mến của em, Cái lỗi lớn đối với Tổ Quốc là Miền Nam đã để cho Miền Bắc xâm chiếm. Vì Miền Nam có một nửa phần đất trù phú, mưa thuận gió hòa, tương đối tự do nhưng không biết qúy giá để tận lực giữ gìn. Miền Nam đã không triệt để chống Cộng sản độc tài, mà chỉ cật lực chống nhau. Hoặc không chống lẫn nhau thì thờ ơ thây kệ bao nhiêu “thằng lính” chết ngoài mặt trận cũng mặc. Người Miền Bắc khi vào Nam đã khóc than với thân nhân “tại sao không ra giải phóng Miền Bắc” là điều có thật! Họ nói rằng nếu Nixon tiếp tục phong tỏa Cảng Hải Phòng thêm một tuần nữa là chúng đầu hàng. Tướng độc nhãn Moshe Dayan của Do Thái nổi danh thế giới là nhà quân sự đại tài đã đánh bại liên quân Ả Râp trong vòng 6 ngày vào năm 1967. (Ở đây em xin ra ngoài lề một chút. Chẳng phải nịnh anh, em nghĩ rằng anh cũng là một thiên tài quân sự, vì anh chưa từng được đào tạo ở một trường chỉ huy quân sự nào mà với vũ khí thô sơ, anh đã làm cho quân Thực dân Pháp kinh hồn bạt vía đến nỗi chúng phải phong cho anh danh hiệu Hùm Xám thì đủ hiểu. – Danh hiệu ấy do chính kẻ thù tôn vinh, chứ không phải anh tự đặt, mới đáng trọng và đáng qúy – Em nghe luật sư Trần Lâm nói anh đang viết lại cuốn sách Con Hùm Xám Đường số 4 một cách đầy đủ hơn. Vậy bao giờ xong, anh nhớ cho em một cuốn nhé! Em mong anh viết đúng sự thật lịch sử. Nếu anh buộc lòng phải giữ “lề phải” theo quy định của chế độ độc tài, không dám viết ra SỰ THẬT thì thà đừng viết là hơn. Chẳng biết ông Chính ủy Trung đoàn, con trai bà Nguyễn thị Năm, còn sống hay đã chết. Nếu ông ấy còn sống, viết sách ca ngợi đạo đức Hồ Chí Minh thì chắc chắn vong hồn Bà Năm không thể nào ngậm cười nơi chín suối!) Khi thôi đảm trách chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại Giao, Tướng Dayan đến thăm viếng Miền Nam với tư cách thông tín viên của đại nhật báo Do Thái. Trước khi ông rời Sài Gòn, một nhà báo Việt hỏi liệu ông có một lời khuyên nào để Miền Nam chiến thắng cộng sản. Không một chút do dự, Tướng Dayan trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Miền Nam hãy thua cộng sản trước đi đã, rồi sẽ thắng”. Lúc bấy giờ báo chí Sài Gòn có những bài đả kích Tướng Dayan, vì họ cho rằng lời phát biểu của ông ta có chủ đích xúi Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam để dồn nguồn lực tài chánh viện trợ Do Thái. Riêng em có suy nghĩ không đồng tình với quan điểm của báo chí Sài Gòn, nhưng cũng không đủ tự tin vào sự suy nghĩ của mình chính xác, nên em đến tham khảo ý kiến anh Đặng văn Sung tại tòa báo Chính Luận. Mặc dầu anh em tuổi tác cách xa nhau, nhưng anh Sung luôn luôn tỏ ra kiên nhẫn, chịu khó lắng nghe, chứ không bao giờ xem chú em là một sĩ quan trẻ nông nổi chỉ biết lái máy bay, không có hiểu biết chính trị. Sau khi chìa bao thuốc mời em một điếu, anh Sung từ tốn hỏi: – Chú hãy nói cho mình nghe chú nghĩ như thế nào về lời khuyên của ông Tướng Moshe Dayan? Thưa anh Việt, em xin tường thuật những gì em đã nói với anh Sung trong buổi gặp gỡ đó để anh Việt nhận định: “Thưa anh Sung, Tướng Moshe Dayan đến viếng thăm Việt Nam không chỉ đơn thuần với tư cách nhà báo, ông ta nguyên là Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại Giao của Do Thái, tất nhiên tòa Đại sứ Do Thái phải thuyết trình cho ông ta nghe rất kỹ tình hình chính trị Việt Nam. Khả năng tình báo Do Thái còn được đánh giá cao hơn CIA của Hoa Kỳ, do đó em nghĩ lời phát biểu của ông Tướng Dayan phản ảnh một sự thật mà chúng ta không dám chấp nhận. Sự Thật đó là Miền Nam mang danh nghĩa chống Cộng nhưng không ý thức hiểm họa cộng sản. Nếu chúng ta ý thức được hiểm họa cộng sản thì không bao giờ chia rẽ nhau, tranh quyền đoạt lợi để tình hình an ninh càng ngày thêm sa sút. Cộng sản càng ngày càng lấn về thủ đô. Em đã reo mừng khi Quân Đội đứng lên chấm dứt chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhưng sau đó vô cùng thất vọng khi các ông Tướng cho phép mở vũ trường để nhảy nhót thâu đêm suốt sáng, ăn chơi tối đa mà lại đầy tham vọng chính trị nên đã bị giáo phái, chính đảng giật dây, cứ đảo chánh, chỉnh lý triền miên khiến cho ý chí chiến đấu của anh em binh sĩ vô cùng chán nản. Giết hai ông Diệm, ông Nhu rồi ném xác trong thùng chiến xa đã tạo nên hình ảnh xấu đối với thế giới, còn sợ Trí Quang đến nỗi Nguyễn Khánh ra lệnh xử tử hình ông Ngô Đình Cẩn đang lâm trọng bệnh là hành động man rợ đáng ghê tởm. Ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình quan lại phong kiến, có đầu óc thủ cựu hẹp hòi, không chịu cởi mở, nhưng ông ta thật sự là một nhà ái quốc. Ông Ngô Đình Diệm từng rũ áo từ bỏ chức Thượng thư Bộ Lại (ngang với Thủ tướng ngày nay) vì chống lạiThực dân Pháp. Nếu ông ta không chống lại yêu sách của Hoa Kỳ đòi đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam thì Trí Quang và Dương văn Minh chẳng thể nào lật ông Diệm nổi. Luận điệu tuyên truyền Ngô Đình Diệm là tay sai Đế quốc Mỹ phát xuất từ Miền Bắc. Bất luận một ai khác muốn ngăn chặn làn sóng đỏ đều phải trông cậy vào sức mạnh của Hoa Kỳ, chứ nào phải riêng gì Ngô Đình Diệm! Ông Diệm là người được vua Bảo Đại giao trọng trách thành lập Nội Các, chứ ông ta đâu có “cướp chính quyền” hoặc cậy cục xin làm Thủ Tướng? Ông Diệm tổ chức bầu cử truất phế vua Bảo Đại vì Ngài không chịu về nước cứu dân, mà cứ ở lỳ bên Pháp đánh bạc. Đáng tiếc là khi về nước chấp chánh, ông Diệm không có một đội ngũ cán bộ chính trị, quân sự đủ khả năng và trung thành với lý tưởng tự do. Phần lớn sĩ quan đều do Tây đào tạo và có tinh thần “vọng Tây”. Ông Tướng “tây con” Nguyễn văn Hinh được ông Diệm trao chức Tổng Tham Mưu trưởng, chẳng biết khả năng đánh giặc tới đâu, dám nói thẳng vào mặt ông Diệm: “Tôi không biết ông là ai” thì lãnh tụ nào chấp nhận được? Bọn nịnh thần đã làm biến chất người lãnh đạo. Dù sáng suốt đến mấy mà bị bọn nịnh thần vây quanh riết rồi cũng thành mê muội. Dù sao ông Diệm đã có công dẹp phiến loạn Bình Xuyên đem lại sự ổn định một thời gian dài, định cư hơn một triệu người Miền Bắc tị nạn cộng sản, lập khu canh tác dinh điền, khai khẩn đất hoang, xây dựng nền giáo dục khai phóng và đặc biệt trong sạch, sống đạm bạc, không ăn cắp, tham nhũng như các ông bà Tướng hiện nay. Người ta đồn đãi chế độ Ngô Đình Diệm độc ác, nhưng sự thật không phải như vậy, nếu đem so sách chế độ cộng sản ở Miền Bắc. Bọn cộng sản tuyên truyên ông Diệm kéo lê máy chém khắp Miền Nam để chém đầu cộng sản là một sự xuyên tạc trắng trợn. Em từng đi suốt dãi đất Miền Nam mà chưa bao giờ thấy hình thù chiếc máy chém ra sao. Chỉ có một mình Lê Quang Vinh, tự Ba Cụt là bị chém đầu mà thôi. Nhưng Ba Cụt là loạn tướng Bình Xuyên, chứ không phải cộng sản. Thanh niên Hà Minh Trí ám sát ông Diệm ở Ban Mê Thuột, bị tòa kêu án tử hình, thì ông Diệm ký giấy tha. Anh Hà Thúc Ký của Đảng Đại Việt ta lập đài phát thanh bí mật, âm mưu ám sát ông Diệm, mang quân ra Ba Lòng lập chiến khu. Sau khi ông Diệm dẹp xong chiến khu, anh Ký không bị tử hình, quân nhân phản nghịch không bị tù tội, chỉ bị phạt quân kỷ. Ngoài ra ông còn chỉ thị cho anh Cao Xuân Linh, em anh Cao Xuân Vỹ ngầm giúp đỡ chị Hà Thúc Ký nuôi các cháu ăn học. Ở Miền Bắc, một người chỉ bị tình nghi tội phản động là cả họ đều bị điêu đứng, trong khi ở Miền Nam những người chống ông Diệm thì đâu có gia đình nào bị liên lụy? Chính anh, anh Quát cũng là người chống ông Diệm, nhưng chị Sung, chị Quát và các cháu đâu có bị chính quyền ông Diệm gây khó khăn? (Bà Nội chúng tôi là con gái đầu lòng của Cụ Đông Các Cao Xuân Dục, cho nên họ Đặng văn và Cao Xuân có mối liên hệ bà con với nhau – Ghi chú của người viết). Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị – một cơ quan tình báo trá hình – có kể cho em nghe câu chuyện về ông bác sĩ PQĐ tham gia cuộc đảo chánh của ông Nguyễn Chánh Thi năm 1960 thất bại, bị Công An bắt. Dù chưa bị tra khảo, bác sĩ PQĐ đã khóc lóc rất thảm thiết và viết tờ thú tội rất lâm ly. Nhân viên an ninh trình cuốn băng thu âm cùng mấy trang giấy thú tội cho bác sĩ Tuyến và đề nghị ông Cố vấn Ngô Đình Nhu cho phát thanh cuốn băng ghi âm trên đài, đăng báo tờ tự thú nhằm hạ bệ uy tín nhà cách mạng. Nhưng ông Nhu gạt đi và nói: “Chúng ta là người trí thức mà làm nhục người trí thức thì chẳng hơn gì cộng sản Hà Nội”. Em đã kiểm chứng câu chuyện này với anh Cao Xuân Vỹ và được anh Vỹ xác nhận là đúng. Vậy anh có bao giờ nghe bác sĩ Tuyến nói về việc này hay không? Anh Sung trả lời: “Mình từng sinh hoạt với ông Nhu vào thời gian đầu. Ông Nhu là con người lắm mưu mô, nhưng không phải là người có thủ đoạn tàn ác. Đúng như chú nói, Anh Quát (tức là cựu Tổng trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát dưới thời Bảo Đại – anh rể của Hùm Xám Đặng văn Việt – có một thời gian làm Thủ tướng – Ghi chú của người viết) và mình bất đồng chính kiến với ông Nhu nhưng ông ta không ra lệnh bắt bớ. Chuyện bác sĩ Tuyến kể với chú, mình có nghe vài anh em khác nói đến, chứ không phải từ bác sĩ Tuyến”. Anh Sung ạ! Em sắp sửa nói với anh điều này, xin anh đừng giận em. Hai đảng cách mạng có tên tuổi, có quá trình chống Pháp, chống Cộng sản đã phạm cái tội rất lớn với lịch sử. Họ đã không đoàn kết nhau thành một khối để có sức mạnh nhằm củng cố nền dân chủ ở Miền Nam và đủ khả năng chống lại cuộc xâm lược của Miền Bắc. Các anh từng là đồng chí trải qua biết bao nhiêu gian khổ, tù tội mà anh, anh Phan Huy Quát, anh Bùi Diễm, anh Hà Thúc Ký, anh Nguyễn Tôn Hoàn, anh Nguyễn Ngọc Huy thì mỗi người đi một hướng, chẳng chịu ngồi lại với nhau. Bên Quốc Dân Đảng cũng vậy, Cụ Vũ Hồng Khanh, nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, luật sư Trần văn Tuyên … mỗi người một hệ phái. Rồi phía Phật giáo là tôn giáo của đa số đồng bào Việt ta cũng chia phe Việt Nam Quốc Tự – phe Ấn Quang, cứ tổ chức lên đường xuống đường để bị cộng sản lợi dụng mà quên đi rằng cộng sản xem tôn giáo là thuốc phiện. Tướng lãnh thì không ông nào đề ra được một sách lược quân sự hữu hiệu để bảo vệ đồng bào, lãnh thổ. Hàng ngũ trí thức là lực lượng lãnh đạo dân tộc thì một số sống trong tháp ngà, một số làm dáng tả khuynh như các ông trí thức Phương Tây, mà không cần biết Đất Nước mình đang chống lại một chủ nghĩa phi nhân, tàn ác nhất trong nhân loại. Ví dụ, giáo sư Nguyễn văn Trung và giáo sư Lý Chánh Trung viết sách, viết báo cổ súy Miền Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa không cộng sản như các nước Bắc Âu là hoang tưởng, viễn mơ. Sở dĩ các nước nhỏ ở Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch thực hiện được xã hội chủ nghĩa tư sản là nhờ sức mạnh của khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Hoa Kỳ lãnh đạo. Nếu không có khối này thì chiến xa Xô Viết cày nát các tiểu quốc ấy trong vòng một tuần lễ là xong. Em tin chắc rằng tòa Đại sứ Do Thái đã thuyết trình cho Tướng Moshe Dayan biết rõ tình hình chính trị Miền Nam thì ông ta mới phát biểu “Miền Nam hãy thua cộng sản đi đã, rồi sẽ thắng”, nghĩa là phải nếm mùi cộng sản, rồi sau đó mới hiểu được sự dối trá của chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” thì may ra người Miền Nam mới tỉnh ngộ. Tưởng Giới Thạch thua Mao còn có đảo Đài Loan để dung thân. Miền Nam mà chỉ lo xâu xé lẫn nhau để thua Hồ thì đâu còn đường nào mà chạy khi cộng sản tràn vào? Em còn định nói nhiều hơn nữa, nhưng xem chừng anh Sung có vẻ mệt tai khi nghe chú em nói toàn chuyện tiêu cực, nên anh đề nghị hai anh em cùng đi ăn trưa với nhau, rồi bàn tiếp”.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:25:21 GMT 9
Đem tâm tình viết lịch sử [3]
Anh Việt thân mến, Em tóm lược những ý chính cuộc trao đổi giữa anh Sung và em để anh biết rằng trước năm 1975 em đã có mối âu lo cho tương lai của Miền Nam, nhất là sau khi Nixon sang bắt tay với Mao Trạch Đông. Trong khi ấy, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu chỉ tìm mọi mưu mô để bảo vệ chiếc ghế của mình. Ông Thiệu dùng thủ đoạn bít lối các ứng cử viên khác để độc diễn là đã làm mất chính nghĩa của nền dân chủ rồi; sau đó dùng tiền mua chuộc các vị dân cử Quốc hội sửa luật để có thể tranh cử nhiệm kỳ ba. Ngày nay có những người thuộc chế độ Miền Nam ngây ngô oán trách Hoa Kỳ “đểu”, nỡ bỏ rơi đồng minh. Thật sự Miền Nam không xứng đáng là đồng minh, vì chỉ biết ngửa tay xin chứ không chuẩn bị tự lực tự cường. Một bên – Miền Bắc – quyết tâm xâm chiếm Miền Nam bằng mọi giá, mọi thủ đoạn; một bên – Miền Nam – coi việc đấu đá nhau trong nội bộ là chủ yếu, đoàn kết củng cố sức mạnh để tự tồn là không cần thiết. Miền Nam không thua về phương diện quân sự ngoài tiền tuyến, nhưng thua về phương diện chính trị ở hậu phương, vì có lắm thành phần tư thông với giặc. Là một sĩ quan Không Quân từng vận chuyển nhiều quân binh chủng khác nhau, em biết quân sĩ Miền Nam vô cùng dũng cảm. Họ là những con sư tử bị lãnh đạo bởi những con cừu béo tốt, vừa bất trí vừa tham sống sợ chết. Lúc nước còn yên ổn thì lo vơ vét, mua quan bán chức; lúc lâm nguy thì cả Tổng thống lẫn Thủ tướng ôm của cải, vợ con bí mật tháo chạy, thây kệ quân binh dưới quyền sống chết mặc bây. Ở quốc gia nào cũng vậy, trí thức luôn luôn là lực lượng lãnh đạo xã hội. Các ông bà trí thức Miền Nam, nói xin lỗi, là những nhà trí thức dở hơi, bắt chước trí thức Phương Tây ra cái điều “khuynh tả” để được đánh giá là trí thức, mà không ý thức rằng Đất Nước đang chiến đấu tự vệ chống lại một phía xem “trí thức là cục phân”. Là quân nhân, bọn chúng em mới thực sự chống chiến tranh, mong muốn hòa bình hơn ai hết, vì chiến tranh càng kéo dài thì nguy cơ tử vong càng cao. Thử hỏi là con người, ai không tha thiết sự sống? Những phong trào đòi hòa bình mà chỉ lên án một phía như thầy tu Nhất Hạnh, ni sư Huynh Liên hoặc thầy tu Nguyễn Ngọc Lan, nếu không phải là Cộng sản thì cũng là công cụ của kẻ thù. Mỗi ngày hàng trăm chiến sĩ bỏ mình để bảo vệ mấy ông bà trí thức nhởn nhơ ở thành phố. Những hạng người như nhà báo Phạm Xuân Ẩn, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Đinh văn Đệ, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh là một bầy ngu xuẩn. Họ được hưởng đặc quyền, đặc lợi của Miền Nam lại bí mật khuôn phò kẻ địch để cuối đời như Phạm Xuân Ẩn trối trăn với vợ con đừng chôn xác ông ta gần mấy cái mả cộng sản! Thầy tu Nguyễn Ngọc Lan lẻn ra bưng tư thông với Trần Bạch Đằng trong khi binh lính Việt Nam Cộng Hòa đang đổ máu để giữ từng tấc đất, mà chính phủ vẫn để yên thì Miền Nam phải mất thôi! Chẳng phải là người háo sát, em nghĩ bất cứ ở đâu trên thế giới, kẻ tư thông với địch trong thời chiến đều phải chịu tội tử hình. Nếu không nhờ Mỹ đưa ông Diệm về cố thủ Miền Nam thì cả nước đã rơi vào tay cộng sản từ năm 1956 rồi. Các chú tiểu làm sao lên đến chức Thượng tọa để mà tranh đấu? Bằng cớ là thầy chùa Trí Quang – người làm lung lay nước Mỹ – nằm im thin thít từ năm 1975 cho đến nay. Những cậu học trò nhà quê xuất thân trường làng làm sao được gửi đi học ở các nước Phương Tây để khi về nước bày đặt khoác bộ mặt trí thức phản chiến? Trong thời kỳ đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, những thanh niên yêu nước như anh bỏ trường, bỏ lớp lên đường kháng chiến rồi tuyên thệ vào đảng cộng sản vì không hiểu sự tàn ác, bất nhân của cái chủ nghĩa ấy. Nhưng sau 1954, những thanh niên Miền Nam như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huỳnh Tấn Mẫm … có học thì phải biết Cộng sản Miền Bắc đày đọa trí thức cỡ nào chứ! Họ cứ khoe đọc sách Pháp, sách Mỹ nên có tư tưởng cấp tiến như Jean-Paul Sartre, như Bertrand Russell. Tại sao không cầm cuốn “Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc” của Cụ Hoàng văn Chí mà đọc để biết bao nhiêu công thần đã hiến trọn tuổi thanh xuân cho đảng cộng sản như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Trần Dần còn bị dở sống dở chết trong lao tù thì cái thứ theo đuôi hít bả mía thì cộng sản coi ra gì? Kỳ thật đám trí thức loại ấy là một bọn ngu dốt vô cùng. Tại sao họ không nhìn thấy một nhạc sĩ chuyên sáng tác những bài ca “phản chiến” như Trịnh Công Sơn được Miền Nam đãi ngộ, mà nhạc của anh ta thì bị Miền Bắc cấm hát? Họ viện cớ chống chiến tranh vì Mỹ đem bom đạn cày nát ruộng vườn Việt Nam. Tại sao họ không biết đặt câu hỏi ai là thủ phạm gây nên cuộc chiến tranh này? Tại sao những nhà trí thức, nhà tu hành theo đuôi cộng sản không hề lên án hàng vạn quân chính quy cộng sản xâm nhập phá hoại Miền Nam hay lên án sự tàn sát của cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968? Nếu Mỹ không ném bom xuống quân Bắc Hàn, thì Nam Hàn có được sự tự do, thịnh vưởng như ngày hôm nay không? Hay là đói meo như Bắc Hàn, dùng món võ “cào đầu ăn vạ” để xin viện trợ? Em từng vận chuyển nhiều cán binh trẻ cộng sản ở Miền Nam và ở Miền Bắc vào, em hỏi họ tại vì sao theo cộng sản. Cán binh Miền Nam nói chúng em ở vùng quê mất an ninh, bị cộng sản bắt lính mà không theo thì bị chúng giết; nhưng đi lính cộng sản nhỡ bị Cộng Hòa bắt thì cùng lắm bị tù vài năm thôi. Cán binh Miền Bắc thì nói chúng em tình nguyện đi B, tức là vào Nam, để gia đình có miếng ăn, bản thân chúng em thì được Bộ Đội phát áo quần. Tình cảnh khốn khổ đó, thanh niên ở vùng mất an ninh trong Nam, thiếu ăn ở ngoài Bắc theo cộng sản là điều dễ chấp nhận. Học sinh, sinh viên ở thành phố Miền Nam được chính quyền bảo vệ an ninh, sống no đủ mà chạy theo cộng sản là vì bị mấy bọn trí thức nửa mùa, sư sải, cha cố phản chiến “đểu” làm công cụ cho cộng sản viết sách viết báo nhồi sọ. Bây giờ những thứ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” đó bị thất sủng, một số tìm đường chạy ra biển thoát thân, sống an nhàn ở các nước tư bản tự do; một số làm bộ phản kháng, bất đồng chính kiến. Thử hỏi nếu được cộng sản tin dùng, liệu có phản kháng không? Thật là tội nghiệp cho người dân đen ít học phải hứng chịu tai họa cộng sản vì mấy “ngài” trí thức … tưởng bở cam tâm làm nội tuyến! Một Miền Nam hưởng lạc tối đa, chia rẽ nát bấy như tương, tứ bề thọ địch, thù trong giặc ngoài thế mà Miền Bắc phải mất gần 20 năm mới “giải phóng” nổi thì có gì gọi là cuộc chiến thắng thần thánh? Có gì mà huyênh hoang “đỉnh cao trí tuệ loài người? Năm 1975 Miền Nam đã rơi vào tay Miền Bắc vì nạn chia rẽ, vì kẻ nội thù. Bây giờ cả nước Việt Nam sắp rơi vào tay Trung Cộng cũng sẽ vì nạn chia rẽ và kẻ nội thù. Kẻ nội xâm mà Nông Đức Mạnh, Phan văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng đang than vãn đó chính là các quan chức tham nhũng khủng khiếp ngày nay. Em lo âu Đất Nước biến thành Giao Chỉ Quận, cho nên sau Đại Hội 10 của Đảng CSVN, em có viết bài “Cơ Hội Bằng Vàng” để vừa động viên, vừa cảnh tỉnh ba ông Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng. Đã có rất nhiều nhà trí thức như Hà Sĩ Phu, nhiều cách mạng lão thành như Tướng Trần Độ, giáo sư Hoàng Minh Chính … đã lên tiếng góp ý với Đảng để đưa Đất Nước đi lên, nhưng người thì bị tù đày, người thì bị tước thẻ Đảng, kẻ thì bị Đảng dùng côn đồ dùng nước phân pha với mắm tôm tạt vào nhà. Em nghĩ, người cộng sản thờ chủ nghĩa Tam Vô (Vô Gia đình, Vô Tổ quốc, Vô Tôn giáo) mà đem những phương lược quốc kế dân sinh của các bậc đại trí giảng cho họ nghe là điều vô bổ. Vì vậy, em nói đến điều lợi cho bản thân họ thì may ra họ nghe lọt tai? Thứ nhất, em dùng chữ THỜI. Có lẽ vận bỉ của nước sắp qua, nên bỗng dưng có ba ông lãnh tụ ở vị trí cao nhất đều mang họ Nguyễn mà hai ông xuất thân từ Miền Nam. Dù là cộng sản, nhưng có thời gian ngồi trên ghế học đường Miền Nam, hấp thụ nền giáo dục khai phóng thì sẽ khá hơn thứ hoạn lợn, phu đồn điền cao su. Thứ hai, em dùng chữ HIẾU. Cách báo hiếu tốt nhất cho bậc sinh thành là đừng làm điều gì điếm nhục gia phong, mà phải làm vẻ vang dòng họ. Cha mẹ của họ đặt tên cho con là Minh Triết, Tấn Dũng, Phú Trọng tức là kỳ vọng ở con cái mình nếu gặp may leo lên được đỉnh cao quyền lực thì cố gằng làm điều gì lợi ích cho quốc dân để lưu danh thiên cổ. Chẳng lẽ Minh Triết lại cứ bám riết vào tà thuyết cộng sản? Chẳng lẽ Tấn Dũng lại là kẻ hèn hạ nói dối? Chẳng lẽ Phú Trọng cứ bắt dân ôm riết lấy khố rách áo ôm vô sản? Thứ ba, em dùng chữ DANH. Họ đang ngồi trên của cải “tiền rừng bạc biển”, ở nhà cao cửa rộng, quyền hành tuyệt đối muốn cho ai sống là người đó sống, muốn cho ai chết là người đó chết, nhưng họ bị cả nước khinh bỉ vì cái tội dối trá, lừa đảo, nói một đường làm một nẻo. Em khuyên họ rằng thời kỳ ở bờ sống bụi, rúc ổ chui hang đã qua rồi. Nay đã biết thắt cà vạt, mặc áo cổ cồn, cầm nĩa cầm thìa, dao khi ăn uống, giao lưu với thế giới văn minh, được bắt tay Quốc trưởng, Vua chúa thì hãy tập sống cho ra con người tử tế để đừng làm nhục tổ tiên họ. Hãy cố chữa căn bệnh nói dối leo lẻo, túi đã đầy thì nên ngưng các vụ ăn cắp đi – vì chết thì không thể mang theo – là sẽ được nhân dân yêu kính. Anh Việt thấy không? Em toàn “kiến nghị” những điều lợi ích cho bản thân họ nhưng họ trót giống như người nghiện ma túy, không có thuốc phiện, thuốc lắc là không sống được! Không dối trá, không lừa đảo là họ không sống nổi! Khi xem truyền hình thấy Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng cười toe toét bên cạnh Tổng thống George W. Bush, em khấp khởi mừng, nên viết bài “Chọn Bạn Mà Chơi”. Các Cụ nhà ta đã dạy: “Học thày không tày học bạn”. Phương Tây cũng có câu: “Anh hãy cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ đánh giá anh là hạng người nào”. Chơi với phường đá cá lăn dưa, tráo trở, lừa thày phản bạn thì khó trở thành người có nhân cách được. Chọn Trung Cộng làm bạn là ngu, bạn cái quái gì mà hơi bất bình một tí thì đòi bợp tai đá đít, dạy cho bài học chết hàng vạn người, nhưng sao cứ cắm đầu cắm cổ mà chơi? Nay kẻ thù truyền kiếp lấn chiếm đất đai của tổ tiên mà hạ lệnh cho Công An đánh đập, bỏ tù dân phản đối là quân bán nước, là phản quốc. Hãy trông gương Đại Hàn mang ơn cứu tử của Mỹ mà vẫn biểu tình chống chính phủ nhập cảng thịt bò của Mỹ cũng không bị Mỹ trả đũa. Chơi với Mỹ, ít ra sẽ học được vài ba bài học về đường lối cai trị của người cầm quyền. Ví dụ học cách đoàn kết nhân dân của Tổng thống Abraham Lincoln sau cuộc nội chiến Bắc Nam. Học cách của Tổng thống Bill Clinton công khai xin lỗi và đền bù cho người Mỹ gốc Nhật bị lùa vào trại tập trung khi có cuộc chiến giữa Hoa Kỳ – Nhật Bản. Chỉ cần áp dụng hai bài học kể trên là cũng đủ khiến cho bộ mặt Việt Nam khác hẳn. “Con đừng học thói gian ngoa, họ hàng ghét bỏ người ta chê cười” là lời dạy của những Bà Mẹ Việt Nam cho mọi đứa con khi mới học nói, mà chẳng ông lãnh đạo nào nghe. Ở cạnh một nước luôn luôn nuôi giấc mộng bá quyền, xâm chiếm lân bang làm chư hầu, Việt Nam bắt tay làm bạn đồng minh với Mỹ là đúng rồi, giống như trước kia Miền Nam phải bắt tay với Mỹ để ngăn chặn làn sóng đỏ từ Miền Bắc thôi. Nhưng hãy lấy gương Miền Nam mà làm bài học. Nghĩa là phải tự tỏ ra xứng đáng, đừng ỷ lại có bạn bên cạnh rồi tha hồ ăn cắp, đục khoét tài nguyên quốc gia, chia rẽ nội bộ. Đừng thấy Mỹ bỏ Miền Nam mà sợ hãi nửa tin nửa ngờ. Mỹ đâu có bỏ Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn? Đọc mấy bài của các ông Tướng cộng sản viết trong cuốn kỷ yếu đánh dấu 60 thành lập Quân Đội Nhân Dân, em thấy họ nói Mỹ vẫn là kẻ thù nguy hiểm số 1, điều đó chứng tỏ các ông Tướng cộng sản chẳng có hiểu biết gì cả. Có lẽ mấy ông Tướng đó nghĩ rằng đi với Mỹ thì giữ được nước nhưng mất Đảng, nên sợ hãi? Lãnh đạo cộng sản chỉ nơp nớp sợ mất Đảng hơn mất Nước, thành thử họ đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cũng đúng thôi! Nguyễn Tấn Dũng lên truyền hình tuyên bố: “Tôi yêu thích nhất là sự chân thật, tôi ghét nhất là sự dối trá”. Thế mà ông ta cứ theo thói của người tiền nhiệm Phan văn Khải chối bay chối biến ở Việt Nam không có tù chính trị vì bất đồng chính kiến, khi bị thế giới nêu lên vấn đề nhân quyền. Cam kết diệt tham nhũng thì bỏ tù nhà báo tố tham nhũng. Thật là trơ trẽn hết chỗ nói. Còn Nguyễn Minh Triết thì dở giọng đạo đức giả bằng cái câu: “Người ta sinh ra ở đời là để mà yêu thương; chứ không phải để mà thù hận”. Sau đó lại nói: “Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát…”. Động cơ đấu tranh của cộng sản là hận thù giai cấp, mà cứ giữ Điều 4 thì còn chỗ nào để yêu thương? Tưởng đâu hai anh chàng gốc Miền Nam từng ngồi học trên ghế nhà trường Miền Nam thì khá hơn. Nhưng bản chất “nói dối” đã ăn sâu vào não bộ quan chức cộng sản mất rồi, hết thuốc chữa! Từ ngày hai ông này lên cầm quyền, tình hành đàn áp dân đen càng tàn bạo hơn, ăn cắp hối lộ càng lộ liễu hơn, những vụ “xì-căn-đan” tồi bại xảy ra khắp năm Châu khiến ai còn chút lương tri cũng phải đỏ mặt, cau mày. Tham lam là thói xấu bẩm sinh của con người, nên Đức Phật dạy chúng sinh cố gắng diệt “Tham, Sân, Si” để làm nhẹ nghiệp chướng. Nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Do đó các nước dân chủ chia ra tam quyền phân lập kiểm soát lẫn nhau, lại thêm một quyền thứ tư nữa, dù chẳng có quyền bỏ tù ai, nhưng các quan chức “tam quyền” đều phải sợ, đó là quyền tự do ngôn luận phản ảnh dư luận quần chúng. Quan chức Việt Nam ngồi xổm trên luật pháp, lại thêm độc quyền ngôn luận, do đó từ trên xuống dưới thi đua nhau ăn cắp, bao che cho nhau, chẳng ai sợ bị dư luận phanh phui. Người dân đen chỉ có nước è cổ ra chịu trận! Nói sẽ diệt trừ tham nhũng mà không cho phép tự do báo chí là nói dối. Mới đây viên Đại sứ cộng sản ở Hoa Thịnh Đốn – Lê Công Phụng – trả lời đài BBC về vụ một người Mỹ gốc Việt – Cao Quang Ánh – mới đắc cử vào Hạ Viện Hoa Kỳ bằng một câu phơi bày cả ba căn tính cộng sản: thất học, ngu đần và lưu manh. Thất học mới nói Obama có là Tổng thống Hoa Kỳ đi nữa thì vẫn cứ là người Kenya. Luận điệu đó chứng tỏ óc kỳ thị mầu da, phát biểu như thế chẳng khác nào nói ông George Bush có là Tổng thống Hoa Kỳ đi nữa thì vẫn là người Ái Nhĩ Lan. Làm Đại sứ tại Hợp Chủng Quốc mà không hiểu nước Mỹ gồm nhiều sắc dân có nguồn gốc khác nhau là thất học. Ngu đần vì với câu trả lời đó là vô tình tố giác dù Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng có là Chủ tịch Nước, Thủ tướng đi nữa vẫn là quân ăn cắp, vì tiền lấy ở đâu ra mà hai ông giàu dữ dội đến thế? Lưu manh vì cho rằng Dân biểu Cao Quang Ánh chê trách tình hình nhân quyền tồi tệ ở Việt là chống lại Tổ Quốc. Quan chức cao cấp cộng sản giống như con vẹt được nhồi nhét vào óc một loại bả đậu. Cái thứ người chủ trương “quốc tế vô sản” mà lại đem Tổ Quốc làm mộc che thân thì chỉ có mấy … anh Vẹm! Y hệt như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, khi một ký giả ngoại quốc hỏi, người ta đồn ông là con của ông Hồ Chí Minh phải không? Tổng Mạnh đã hỗn láo, nham nhở trả lởi: “Ở nước Việt Nam, ai chẳng là con cái Bác Hồ?” Cậu trả lời đó vừa xấc láo vừa lưu manh để né tránh câu hỏi. Đúng là cha nào con nấy! Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đặc trách ngành giáo dục đề ra chỉ tiêu đào tạo 100 ngàn Tiến sĩ vào năm 2020. Giáo dục là nhằm đào tạo con người trên ba phương diện: Đức dục, Trí dục, Thể dục; chứ đâu phải trường dạy nghề. Bằng cấp cao mà mang thói bất lương cố hữu của tập đoàn thống trị hiện nay thì càng nguy cho xứ sở hơn nữa. Nhà văn Rabelais đã viết: “Science sans conscience, n’est que ruine de l’âme” (Học mà bất lương thì chỉ là sự hủy hoại tâm hồn). Em dám quả quyết nói với anh Việt rằng CSVN không thể nào cải tổ nền giáo dục được, khi mà người cầm quyền vẫn là tập đoàn lưu manh vô giáo dục. Xin giáo sư Hoàng Tụy đừng mất công bàn về vấn đề giáo dục dưới chế độ này. Anh Việt kính mến, Đôi khi đọc lại cuốn tự truyện của anh, em không khỏi bùi ngùi, xót xa cho thân phận Con Hùm Xám. Về hưu, lương không đủ sống, anh bưng thúng bánh cam đi bán ở chợ trời, bị bọn Công An tuổi chỉ bằng cháu ngoại, cháu nội của anh rượt đuổi, vì có lệnh cấm bán hàng rong. Con Hùm Xám từng rượt đuổi quân binh Thực dân Pháp vắt giò lên cổ chạy để dựng lên cái Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa, nay Công An của cái Nhà Nước ấy rượt đuổi Con Hùm Xám về già chỉ vì cái tội “cải thiện” để sống qua ngày. Thật không còn nghịch cảnh nào trớ trêu hơn! Nhưng anh thuật lại bằng một giọng văn bình thản, chẳng chút ai oán thì em phục sự cam chịu của anh thiệt. Rồi anh kể chừng hai trăm sĩ quan cao cấp Pháp (có cả cấp Tướng) bị anh bắt làm tù binh thuở trước, bay sang Việt Nam làm tiệc mừng sinh nhật 80 của anh. Kẻ cựu thù còn có hành động đẹp với anh, trong khi đồng chí của anh rượt anh chạy trối chết! Anh Việt ơi! Có phải đấy là công lao “trồng người” của Bác Hồ vĩ đại để có một xã hội “quái đản” như ngày hôm nay? Tại sao một quân đội oai hùng từng đánh bại hai “đế quốc sừng sõ” mà không xuất hiện nổi một nhân vật đủ tài đủ trí dẹp tan cái đám tham quan ô lại này đi? Vì sao? Năm 1998, chị Thiếu Anh gửi tặng em cuốn sách “Cụ Hoàng Nho Lâm” do người dân Diễn Châu biên tập và phát hành để tưởng nhớ ân đức Hoàng Giáp Đặng văn Thụy – Ông Nội chúng ta, mà con cháu thường gọi “Ông Tế” một cách cung kính. Em rất trân trọng cuốn sách và thỉnh thoảng mở ra đọc lại những mẩu giai thoại đáng cho mình lấy đó làm tấm gương noi theo. Sách gồm có 53 giai thoại. Em xin nhắc lại hai giai thoại có ý nghĩa thời đại sau đây: Chuyện thứ nhất kể rằng có một viên tri huyện mới được triều đình bổ nhậm về Diễn Châu đích thân (tức không có lính theo hầu) đi chào Cụ Hoàng Nho Lâm đã về hưu. Đến một chỗ lội trên đường, quan tri huyện lúng túng chưa biết tính sao, bỗng trông thấy một ông già vác cuốc đi ngang, liền gọi ông già đến cõng quan vượt qua chỗ lội. Sau khi được ông già đặt xuống, quan huyện hỏi đường để đến ra mắt Cụ Hoàng Nho Lâm. Ông già lễ phép đáp: “Xin quan huyện đi theo tôi”. Đến nhà, ông già mời quan huyện ngồi chờ ở phòng khách, rồi vào phía sau, tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề để ra chào quan huyện và nói: “Cụ Hoàng Nho Lâm là tôi đây”. Quan tri huyện sụp lạy, miệng cứ lắp bắp xin lỗi. Cụ Hoàng đưa tay đỡ quan tri huyện đứng dậy và nói: “Khôngsao! Không sao! Ta chỉ nhắc lần sau nhờ người cõng thì nhờ trai trẻ. Nhờ ông già cõng, không phải đạo, ông ạ!”. Chuyện thứ hai kể rằng Ông Tế thường cải trang thành một nông dân quê mùa chống gậy đi thăm các con đang làm quan ở các nơi. Ông không vào ngay sảnh đường hay tư thất của con, mà đi tìm những nhà dân nghèo xin tá túc qua đêm. Ông hỏi chủ nhà về cách cai trị của quan đầu tỉnh ra sao, hà hiếp dân hay thương yêu dân. Buổi sáng, ông Tế thức dậy sớm, lấy quần áo tươm tất ra mặc. Chủ nhà ngạc nhiên hỏi ông Tế đi đâu sớm. Ông đáp: “Tôi vào trong phủ thăm con”. Chủ nhà lại hỏi: “Con Cụ là ai trong phủ?” Ông trả lời: “Là quan phủ ấy mà!” Chủ nhà bỗng như sợ hãi, nhưng rồi cũng định thần lại được, hỏi tiếp: “Đi thăm quan phủ, sao cụ không đi cáng hay đi xe …?” Ông mình trả lời: “Có đi như thế này mới được ngắm phong cảnh núi sông, biết được phong thổ, nhân tình. Vả lại cũng mới có điều kiện để tìm hiểu con cái mình. Nếu nó khá thì tôi đến thăm. Nếu nó hư thì tôi quay trở về, không thèm nhìn mặt nó nữa”. Cuốn sách “Cụ Hoàng Nho Lâm” do một thày giáo tên là Nguyễn Nghĩa Nguyên ở Diễn Châu tự ý sưu tầm những tích truyện về Ông mình và viết ra để sung vào tủ sách “Tinh Hoa Trích Diễm”. Ông Nguyên là một nhân vật có thật; không liên quan đến họ Đặng ta thì không hư cấu “huyền thoại” để đề cao Ông mình. Có lẽ dân Diễn Châu muốn dùng những giai thoại về Ông Tế để răn những quan chức bây giờ? Em muốn hỏi anh Việt tại sao trong thời đại phong kiến thối nát lại có những ông quan dạy con cái như Ông mình? Tại sao trong thời đại Hồ Chí Minh với chủ trương “Bài Phong, Phản Đế, Đả Thực” thì đẻ ra một bầy quan chức từ trên xuống dưới đều rặt một phường ăn cắp, tham nhũng, hối lộ? Người xưa nói “gieo gì gặt nấy” là đúng, phải không anh? Lừa đảo, dối trá thì đẻ ra lừa đảo, dối trá! Nhìn tấm ảnh chụp Nhà thờ Họ của Nguyễn Tấn Dũng nguy nga, đồ sộ, lộng lẫy; rồi nhìn tấm ảnh của cái chòi tồi tàn lợp bằng mấy tấm tôn méo mó, chung quanh là bùn và rác rưởi, một thằng bé gầy còm chừng 5 tuổi đang bón cho đứa em cũng gầy còm chừng hơn một tuổi ăn (không rõ thức ăn là gì?) mà lòng xót xa khôn tả, anh Việt ạ! Đấy không còn là khoảng cách giầu nghèo; mà là khoảng cách giữa thiên đàng và địa ngục. Lãnh đạo sống trên Thiên Đàng và dân đen sống dưới Địa Ngục! Nhà văn Dương Thu Hương mới ra mắt cuốn sách “Đỉnh Cao Chói Lọi”. Có độc giả bất bình vì cho rằng bà Dương dùng tiểu thuyết để chạy tội cho Hồ Chí Minh bằng cách nói bọn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khuynh đảo, áp chế ông Hồ; có người khen bà Dương khéo dùng chiến thuật “công đồn, đả viện”, nghĩa là bà biết trong nước không có thông tin đầy đủ nên vẫn còn một số người dân coi ông Hồ là thần tượng. Dùng ngòi bút “đả” ông Hồ là thất sách, là chạm đến thần tượng của họ, nên bà kéo ông Hồ xuống thành một người thường, nghĩa là tả ông Hồ có đủ thất tình, lục dục như tất cả mọi người thì từ đó Đảng CSVN không còn ‘vẽ rắn thêm chân” được nữa? Em chưa có thì giờ đọc cuốn sách của nhà văn Dương Thu Hương, nên không thể nhận định độc già nào đúng, độc giả nào sai. Bỗng em nhận được bài viết của bà Trần thị Hồng Sương có tựa đề “Lịch Sử Bị Chôn Vùi” rất giá trị, vì những sự kiện viết ra đều là sự thật trong quá khứ. Đang ở trong nước, bà Hồng Sương dám viết về ông Nguyễn Tất Thành một cách tách bạch như thế, em cho đó là người phải có lòng yêu nước cao độ mới đủ can đảm chấp nhận hậu quả xấu từ nhà cầm quyền đối với mình. Em thật sự lo ngại cho sự an nguy của bà Hồng Sương, bởi vì qua cái chết đầy bí ẩn của ông cựu Thủ tướng Võ văn Kiệt, người ta tin rằng có bàn tay bí mật của lãnh tụ cộng sản can thiệp. Đảng không thể cho Công An đến nhà lục soát tài liệu hoặc bắt ông Kiệt đi làm việc. Chi bằng tiêm cho mũi thuốc độc. Người ta nghi ngờ ông Kiệt bị Đảng thủ tiêu, bởi vì không lý gì thông tin ngày qua đời của ông Kiệt bị báo Nhà Nước sáng đưa lên, chiều lấy xuống. Rồi ước nguyện của ông Kiệt muốn tro tàn của xác mình được rải xuống khúc sông, nơi vợ con ông bị “địch” oanh kích chết, lại bị Đảng đem chôn xuống đất? Không có điều bất nhân nào mà cộng sản không làm thì sự ngờ vực về cái chết của ông Kiệt có nhiều khả năng … hiện thực! Em đã đọc hầu hết những bài viết của bà Trần thị Hồng Sương. Qua những tác phẩm của bà, em biết bà là người Miền Nam, tốt nghiệp Dược Khoa dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau tháng Tư năm 1975, bà không di tản ra ngoại quốc, có lẽ bà nghĩ rằng hòa bình đã tái lập thì nên ở lại Đất Nước để phụng sự xứ sở? Em có người bạn rất thân, phục vụ cùng đơn vị, gốc người Miền Nam cũng có ý tưởng như thế. Bạn em nói: “Nếu mình thua trận thì về quê làm ăn sinh sống, chứ việc gì phải chạy đi đâu?”. Vốn quá thân thiết với nhau, chúng em thường xưng hô “mày, tao” và nghĩ gì thì nói thẳng, chứ không cần rào đón khách sáo. Em nói: “Mày là dân Nam Kỳ, cóc có kinh nghiệm cộng sản bằng tao. Chẳng bao giờ chúng cho mày về quê cày ruộng đâu!”. Bạn em đáp: “Tao phải nói thật với mày điều này, tao có ông già vợ đang là Đại sứ của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam ở Đông Đức, nếu có bề gì thì ổng sẽ can thiệp cho tao”. Em cười: “Mày nói thế càng chứng tỏ mày chẳng hiểu tí gì về cộng sản cả! Nếu là ông bố đẻ cũng không thể can thiệp cho mày; chứ đừng nói ông bố vợ! Chúng nó khác Miền Nam mình lắm! Ở Miền Nam, một sĩ quan như chúng ta có thể ký giấy bảo lãnh cho thân nhân theo Việt Cộng bị bắt. Còn cộng sản mà ký giấy bảo lãnh cho thân nhân là sẽ bị Đảng quy cho cái tội mất quan điểm, lập trường, bị hạ tầng công tác ngay”. Bạn em còn cố cãi: “Cộng sản mà mày biết là cộng sản của thời 53-54 Cải Cách Ruộng Đất; còn cộng sản ngày nay phải khác, chứ mày?”. Liệu không thể thuyết phục được bạn, em nói như buông xuôi: “Ừ, thì mày tính sao đó là tùy mày. Còn tao, tao nhất định thà chết, chứ cương quyết không sống dưới chế độ cộng sản”. Kết quả ông bố vợ gặp anh con rể lần đầu đã ban một lời khuyên rất tử tế: “Con cố gắng phấn đấu học tập tốt, rồi Cách Mạng sẽ khoan hồng”. Quả nhiên “Cách Mạng” khoan hồng thiệt! Nhưng sau 10 năm anh con rể bóc đủ 10 cuốn lịch trong các trại tù ma thiêng nước độc khắp Miền Bắc. Bạn em vốn là một anh chàng đẹp trai, đệ tam đẳng huyền đai Thái Cực đạo, thân hình vạm vỡ đẹp như tượng. Sau 10 năm nếm mùi tù cộng sản, bạn em trở thành một ông già lọm khọm, răng hầu như mất sạch và đầu óc trở nên ngớ ngẩn. Đấy là cái giá phải trả của người sĩ quan trẻ, nặng tình dân tộc, chỉ muốn sống chết với quê hương. Bà Trần Thị Hồng Sương không nếm mùi tù cộng sản. Bà còn được đại diện trí thức Miền Nam đi “tham quan” Miền Bắc sau tháng Tư, năm 1975. Bà đã đem hết khả năng chuyên môn phục vụ đất nước một cách tận tình, nhưng bà quá ngao ngán trước sự hãnh tiến của phe chiến thắng ngu dốt mà lại ở vị thế lãnh đạo cơ quan. Tuy là một nhà khoa học thực nghiệm, nhưng qua những tác phẩm của bà người đọc nhận thấy bà đọc rất nhiều sách thuộc khoa xã hội, nhân văn. Nhận xét của bà về nước Mỹ, người Mỹ chứng tỏ bà có kiến thức rộng, không bị nhồi sọ bởi luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của lối tuyên truyền cộng sản. Văn phong của bà biểu lộ một người trí thức có nhân cách khiến cho lớp trẻ phải suy nghiệm để định đoạt tương lại của chính họ. Bà tỏ ra âu lo cho tương lai Đất Nước khi thấy những trẻ em vô tư đùa giỡn trên vũng ruộng đồng lầy nước đọng. Em sẽ kèm theo thư này bài viết “Lịch Sử Đã Bị Chôn Vùi” để anh Việt nhận thấy em anh nói về bà Hồng Sương là chính xác.
Đem tâm tình viết lịch sử [4]
Anh Việt rất qúy mến của em, Em khởi sự viết thư này cho anh vào ngày 20 tháng Giêng năm 2009, ngày đánh dấu một biến cố trọng đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Hôm nay – ngày 30 tháng Giêng năm 2009 – cũng là ngày trọng đại trong lịch sử Đảng Cộng hòa của Mỹ: Ông Michael Steele – một người da đen, cựu Phó Thống Đốc tiểu bảng Maryland – được Đảng Cộng Hòa bầu làm Chủ tịch, sau khi Tổng thống Bush mãn nhiệm kỳ. Ở Hoa Kỳ, khi ông Tổng thống thuộc đảng nào thì ông ta đương nhiên là Chủ tịch Đảng đó. Ví dụ ông Obama hiện nay vừa là Tổng thống nước Mỹ, vừa là Chủ tịch Đảng Dân chủ, nhưng khi ông Obama mãn nhiệm thì đảng phải bầu vị Chủ tịch khác. Đó là cách thức sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ để không có một ông nào làm Chủ tịch Đảng mãn đời. Đảng Cộng hòa có xu hướng bảo thủ; đảng Dân chủ có xu hường cấp tiến hoặc phóng túng (được dịch từ chữ liberal). Ở đây, em cũng phải giải thích từ “bảo thủ” của Mỹ khác với cách hiểu từ “bảo thủ” của đảng cộng sản Việt Nam. Bảo thủ của Mỹ là duy trì những giá trị cũ như chống lại việc phá thai; chống lại hôn nhân có giá thú giữa những người đồng tính luyến ái; chống việc dùng phôi thai để thí nghiệm y khoa; chống hợp thức hóa hút thuốc cần sa v… v… Ngoài ra chính sách “welfare” (trợ cấp xã hội) có mục đích giúp đỡ những người thật sự cần thiết (needy) để người đó có thể dần dần tự đứng trên hai chân của mình. “Bảo thủ” của Việt Nam Cộng sản là ôm cứng lấy cái chủ nghĩa đã lỗi thời, nhân loại đã ném vào thùng rác, để mưu cầu tư lợi. Do đó, cộng sản không dám bỏ Điều 4 Hiến pháp vì như thế là tự sát. Đảng Dân chủ Mỹ không những ủng hộ những gì đảng Cộng hòa chống mà còn có một chính sách trợ cấp xã hội “phóng túng” hơn để lấy phiếu của kẻ lười biếng. Người da đen đa số ủng hộ đảng Dân chủ cũng vì cái chủ trương trợ cấp xã hội phóng túng ấy. Đảng Cộng hòa bị kết tội “kỳ thị dân tộc thiểu số” do bọn truyền thông có xu hướng “phóng túng” rêu rao, mặc dầu đảng Cộng hòa đã cử Đại tướng Colin Powell (da đen) làm Tổng Tham mưu trưởng Liên quân, rồi Ngoại trưởng, bà Condoleezza Rice (một phụ nữ da đen) làm Ngoại trưởng. Từ chỗ bị đối xử khinh miệt bất công đến chỗ được ngồi vào vị trí định đoạt số phận quốc gia, người da đen đã đạt được thắng lợi to lớn. Ấy là vì người da trắnng đã nhìn ra sự kỳ thị chủng tộc của mình là sai lầm. Đảng Cộng sản Việt Nam không những ngược đãi, phân biệt đối xử với thành phần bị xem là Ngụy quân, Ngụy quyền; họ còn đối xử tàn tệ đối với cả những người từng cùng nằm gai nếm mật để dựng lên cỗ máy độc tài – chuyên chính. Chế độ Cộng hòa ở Miền Nam không phải là chế độ hoàn hảo (có lẽ trên thế giới cũng chưa có chế độ nào hoàn hảo), nhưng tối thiểu chế độ Cộng hòa Miền Nam có nhân tính; còn chế độ cộng sản ở Miền Bắc mang đặc tính hung dữ của loài hùm beo, gấu và tính qủy quyệt của loài chồn yêu quái, nên bất khả sửa đổi, do đó vô số đóng góp ý kiến xây dựng của những bậc thầy đều bị bọn lãnh đạo ném vào thùng rác. Tướng độc nhãn Moshe Dayan chẳng phải là đấng tiên tri. Câu nói: “Miền Nam hãy thua cộng sản trước đi đã, rồi sẽ thắng” được dựa trên những phân tích hữu lý của nhà chiến lược. Tác phẩm Khu Rừng Lau của nhà văn Doãn Quốc Sĩ, Trăm Hoa Đua Nở của Mặc Đình Hoàng văn Chí, phim Chúng Tôi Muốn Sống của đạo diễn Vĩnh Noãn là những tài liệu quý giá mô tả bộ mặt thật của cộng sản, nhưng bị xem như tài liệu tuyên truyền của chế độ Ngô Đình Diệm. Miền Nam tố giác ông Hồ Chí Minh là một Lê Chiêu Thống “rước voi về dầy mồ” thì chẳng ai tin. Tệ nhất là những nhà lãnh đạo chính trị, quân sự, tôn giáo cứ đấu đá lẫn nhau đã tạo nên một hình ảnh xấu đối với thế giới mà quên đi kẻ thù đang kề dao vào cổ mình. Hoa Kỳ hay bất cứ một quốc gia nào dù hào hiệp đến mấy cũng không thể nào ủng hộ mãi một dân tộc quyết liệt xâu xé lẫn nhau. Phải để cho cộng sản thống trị thì mới mong mở mắt họ được. Quả nhiên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Phật Giáo Tranh Đấu, Phong Trào Đòi Hòa Bình, Trí Thức Yêu Nước đều bị vỡ mặt trước những hành động lật lọng thô bạo, trắng trợn của cộng sản sau khi toàn bộ Miền Nam. Bọn “Phù” cộng sản ngày xưa thì nay quay lại chửi cộng sản không tiếc lời. Đó là Miền Nam đang thắng. Miền Nam đang thắng không có nghĩa những ông bà chống Cộng ở hải ngoại về tái lập nền Cộng Hòa. Miền Nam đang thắng không phải là đoạt được thành, chiếm được đất, mà là lòng người đã ngộ. Ngộ vì chiếc mặt nạ giả trá của cộng sản đã bị lột do chính những người Miền Nam từng chạy theo cộng sản, lại thêm đã có rất nhiều chiến sĩ ở Miền Bắc đã hết lòng tận tụy hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản đang mạnh mẽ lên án chủ nghĩa ấy; đã có những quân nhân cao cấp của chế độ cộng sản công khai nhìn nhận và tán dương cuộc chống trả oanh liệt của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Sự đàn áp của Công An đối với các cuộc biểu tình của nhân dân chống Trung Cộng càng tàn bạo bao nhiêu thì sự tố giác ông Hồ là một Lê Chiêu Thống càng đúng bấy nhiêu. Cựu Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Quế Dương lên án Đảng CSVN là một đảng cướp, có nghĩa Miền Nam chống trả lại cuộc xâm lăng của đảng cướp là chính đáng, là có chính nghĩa. Bọn quan chức cộng sản hình như cũng ý thức rằng ngày tàn của chúng chỉ còn là vấn đề thời gian. Vì vậy chúng đang tìm cách tẩu tán tài sản ra nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ. Chúng bỏ tiền ra mua những dinh thự trong khu vực nhà giàu, các cơ sở thương mại sang trọng mà không cần mặc cả giá. Chúng sai bọn nha trảo, đầu gấu đi bắt người bất đồng chính kiến bằng lệnh miệng, không dám ký lệnh trên giấy tờ vì sợ lưu lại vết tích. Đó là những chỉ dấu hùng hồn nhất cho thấy chúng ngửi được nguy cơ đang tiến đến gần, nên hối hả chuẩn bị “hậu sự” ở nước ngoài. Máu xương dân Việt đã đổ cho một cuộc thống nhất tàn bạo để làm giàu cho bọn Phong Kiến Đỏ. Tài sản quốc gia Việt Nam đang băng qua Thái Bình dương trôi vào ngân hàng Mỹ để khi hữu sự bọn lãnh đạo trốn sang tiếp tục hưởng cuộc đời vương giả. Nguyễn Tấn Dũng gả con gái cho Việt kiều Mỹ để con mình có tấm vé “công dân Mỹ” là một toan tính cho tương lai. Hơn 33 năm ở Hoa Kỳ, em chỉ bị đi trình diện tòa án hai lần. Một lần lái xe quá tốc độ ở khu trường học, một lần vượt đèn đỏ. Nạp tiền phạt xong, ra về. Không bao giờ bị kêu đi “làm việc” vì chỉ trích chính sách của đảng đang cầm quyền. Muốn phát hành tờ báo, cuốn sách thì cứ việc in ấn, phổ biến; chẳng phải nạp đơn xin phép ai cả. Cộng sản, ngược lại, dùng mọi thủ đoạn đàn áp người dân để bịt miệng. Chính sách “bao tử trị” nhằm triệt hạ phẩm giá con người (đói thì đầu gối phải bò) là một chủ trương tàn ác, bất nhân vô cùng. Sự lưu manh, dối trá, lừa đảo của nhà cầm quyền đã biến toàn xã hội phải lưu manh, dối trá đáp lại vì lý do sinh tồn. Không cho phép ai được quyền NÓI THẬT, thì khó mà tìm được người tử tế. Vì vậy mỗi khi thấy xuất hiện một người can đảm lên tiếng phản kháng chống lại bọn cường hào ác bá, bọn quan ôn cộng sản là em rất mừng. Chỉ ước mong sao toàn dân Việt Nam thấy được bọn lãnh đạo cộng sản kéo dài ngày nào là tương lai dân tộc khốn đốn ngày đó. Mong rằng nhân dân đừng cam chịu số phận tôi đòi nữa. “Giả dại qua ải” không thể hy vọng sẽ nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm, bởi vì “cái ải cộng sản” sẽ dài vô tận, nếu đồng bào không ra tay hủy hoại nó. Ông Hồ Chí Minh là con người bệnh hoạn, cùng một lúc mang hai tâm bệnh: Mặc cảm tự tôn và mặc cảm tự ti. Chưa già mà để râu dài, xưng Bác với người lớn tuổi hơn mình, lén lút “gối chăn” với tình nhân đến mang thai mà không chịu nhìn nhận lại sai bộ hạ thủ tiêu, có con thì giao cho người khác nuôi để làm “Cha Già Dân Tộc”. Đó là bệnh tự tôn. Những nhà cách mạng như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Qúy Cáp v… v…là trí thức khoa bảng. Ông Hồ mang mặc cảm tự ti vì không đỗ đạt nên phải giả dạng làm Trần Dân Tiên viết sách để tự ca tụng cuộc đời “Kách Mệnh” của mình. Ông Hồ dùng thủ đoạn độc ác, lừa bịp, dối trá gieo vô số tang tóc cho dân tộc Việt. Những người cộng sản cầm quyền ở nước ta hiện nay là những phiên bản của Hồ với đầy đủ đặc tính của nguyên bản. Vì vậy ngày nào ông Hồ còn nằm ờ Quảng trường Ba Đình, tượng ông còn đặt nơi tôn nghiêm, đạo đức, tư tưởng ông được đề cao, cả nước bị bắt buộc noi gương ông Hồ, thì ngày đó nhân dân Việt Nam chưa thể có TỰ DO DÂN CHỦ. Bao giờ xác ông Hồ được đem thiêu, tên thành phố Hồ Chí Minh được trả lại cho Sài Gòn thì hồn ma bóng quế của ông Hồ mới hết ám vào con đường dân chủ hóa Đất Nước Việt Nam. Người Mỹ nhờ có ông mục sư da đen – Luther King – gào to “I have a dream” nên ngày nay đã có một ông da đen làm Tổng thống, một ông làm Chủ tịch đảng Cộng hòa. Chẳng lẽ Đất Nước Việt Nam ta không có được một người thét lớn “Khát Vọng Dân tộc Việt Nam muôn năm” để nền Dân Chủ Tự Do trở thành hiện thực? Đã đến lúc mọi người Việt phải đoàn kết lại để chấm dứt cái chính quyền lấy sự dối trá, lừa đảo, khủng bố để cai trị. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa! Chủng người Việt sẽ bị diệt, vì bản sắc đặc thù của Tộc Việt sẽ biến mất. Em đã liên lạc điện thoại với nhà giáo Nguyễn Thượng Long được rồi. Thư sau em sẽ tường trình với anh cuộc trao đổi giữa nhà giáo với em. Chúc anh dồi dào sức khỏe. Gần 90 tuổi mà anh vẫn còn phóng xe mô-tô thì em phục anh Việt lắm. Kính thư, viết xong ngày 30 tháng Giêng năm 2009. Bằng Phong Đặng văn Âu, email address: hoalong1@att.net . Tái bút: Cuối cùng, em kính nhờ anh Việt giúp em một chuyện. Hai năm trước đây em có gọi điện thoại cho cháu Chương con anh Ấn ở Hà Nội để yêu cầu cháu liên lạc với giáo sư Trần văn Hà nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng tìm hài cốt hai ông anh của em là anh Bút, anh Nghiên bị cộng sản thủ tiêu năm 1945. Hai anh bị giết lúc còn trẻ, không vợ không con không người hương khói nên cần mang di cốt hai anh về chôn tại nghĩa trang dòng họ Đặng để hai anh được hưởng các ngày giỗ chạp tổ tiên. Cháu Chương cho em hay rằng cháu có quen biết với giáo sư Trần văn Hà khi hai người cùng làm việc ở Phi Châu. Nghe cháu Chương nói thế, em càng hy vọng ước nguyện của em được toại, em hứa sẽ bồi hoàn mọi phí tổn và hậu tạ cô Bích Hằng xứng đáng, nhưng từ bấy đến giờ em không nhận được tin tức gì của cháu Chương nữa. Vậy nay em nhờ anh Việt để tâm giúp em chuyện này mà đem lại kết quả mong muốn thì em cám ơn anh Việt rất nhiều.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:26:45 GMT 9
Bùi Tín Cuộc đột phá có ý nghĩa lịch sử
Vấn đề bôxít đang trở nên vấn đề nóng bỏng nhất trong thời sự nước ta. Trên mạng toàn cầu Internet, địa chỉ BauxiteVietnam.info đang được bạn đọc trong và ngoài nước chăm chú theo dõi cập nhật, với số lượng đông đảo kỷ lục. Số lượng người vẫy gọi nhau ký tên vào Kiến nghị do 3 trí thức trong nước khởi thảo đã từ 135, lên 1.100, rồi tăng lên 4.100, rồi nhảy lên 27.000, nay đã lên gần trăm ngàn, sẽ còn lên cao nữa! Lòng người chuyển mạnh. Bản kết luận của Bộ chính trị công bố trên Thông báo số 245 ra ngày 24-4-2009 rõ ràng mang tính chất hai mặt. Một mặt, họ bị động, chống đỡ, xoa dịu, công nhận các nhân sĩ trí thức, các nhà khoa học đã có nhiều ý kiến đúng, họ hoan nghênh và tiếp thu, họ hứa “sẽ điều chỉnh”, “sẽ đánh giá lại” và sẽ quan tâm đặc biệt đến bảo vệ môi trường, họ sẽ không làm theo bất cứ giá nào … Họ cố trấn an xoa dịu công luận xã hội đang thức tỉnh và bắt đầu phẫn nộ. Mặt khác, đây mới là mặt chính, họ tiếp tục lao tới trong hành động thực tế, cứ như bảo nhau là không có gì thay đổi cả, cứ theo kế hoạch đã định mà làm, đúng như nhà sử học – đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc chán nản thốt lên :” đã thành chuyện đã rồi ! “. Tổng bí thư Nông đức Mạnh đã ký cam kết với tổng bí thư Hồ Cẩm Đào tháng 5-2008, Tuyên bố chung ghi trên giấy trắng mực đen cam kết “hợp tác trong dự án bôxít Đak-Nông” làm đầu vị hợp tác, không ghi tên một dự án nào khác; bút sa gà chết, ông Mạnh có dám phủ định điều cam kết Đak-Nông ấy không ? Trên mặt chính này, bộ chính trị đang tiến hành một cuộc phản kích rất thâm độc, được chỉ đạo chặt chẽ bởi 4 ủy viên bộ chính trị: thủ tướng Dũng, bộ trưởng công an Lê Hồng Anh, trưởng ban tuyên huấn trung ương Tô Huy Rứa, chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng, được tiếp sức bởi bộ trưởng thông tin truyền thông Lê Doãn Hợp, phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng, tổng biên tập báo Nhân Dân Đinh Thế Huynh, 4 ủy viên trung ương đảng; 8 nhân vật trên đây, cùng tổng bí thư Nông Đức Mạnh tạo nên “Nhóm trung tâm chỉ đạo 9 người” nhằm ra sức cứu vớt đảng ra khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng này. Hiệu lệnh phản kích là bài viết ký tên Xuân Quang (?) đăng trên báo Nhân Dân ngày 24-4, cùng ngày với bản kết luận của bộ chính trị. Bài báo sặc mùi hăm dọa các nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, kêu gọi mọi người cảnh giác “chống mưu toan chính trị hoá một vấn đề kinh tế “, “chống âm mưu chia rẽ dân tộc”,”chống lại sự xuyên tạc của một số trí thức bị lợi dụng và kích động”… Bài phản kích thứ hai là Thông cáo của bộ Công thương được bộ trưởng Vũ Huy Hoàng duyệt, trình bày toàn bộ kế hoạch khai thác quặng bôxít, chế tạo alumina, có bài bản, bước đi, có bảo vệ môi trường hoàn hảo (!), có hoàn thổ từng diện tích, chè cà phê khôi phục sẽ có năng xuất cao hơn trước (!), tóm lại đây là việc khai thác tiềm năng lớn của đất nước, vì sự phồn vinh của nhân dân, không có điều gì phải lo ngại; thông cáo chụp cho các nhà khoa học phản biện là không hiểu gì về tình hình thực tế, nghe theo những lời bịa đặt của kẻ xấu, dùng những luận điệu hằn học để kích động trong kiến nghị, dùng những tiểu khí của kẻ thù địch chế độ. Thông cáo còn kêu gọi bộ thông tin truyền thông huy động lực lượng báo chí mở cuộc đấu tranh chống lại “thế lực đen tối” nói trên. Những kẻ bộ hạ của chính quyền độc đảng liền vào cuộc “bề hội đồng”, như vẫn thấy xưa nay, kể từ khi chống các văn nghệ sĩ khẳng khái trong vụ “Nhân văn Giai phẩm”, chỉ khác là số những kẻ ấy nay quá thưa thớt, một chỉ dấu của thời thế. Trên mạng Tuần Việt Nam, một Phạm Gia Minh nào đó cùng một Thái Nam (?), lắp lại luận điệu của Xuân Quang, lên giọng dạy đời, đề cao Kết luận của bộ chính trị độc quyền, xỉ vả các nhà khoa học đã “bịa đặt” và “kích động”, phán rằng phản biện xã hội một cách khoa học không được lồng tham vọng cá nhân (!). Một số cán bộ tuy có chút ít tự trọng và ít nhiều tư duy độc lập, nhưng do bản chất công chức của đảng còn nặng, từng tỏ ra ủng hộ Kiến nghị ngày 12 tháng 4, sau khi có Kết luận của Bộ chính trị ngày 24-4, liền xoay sang ngợi ca “các Cụ”, tự tát vào má mình, rằng lãnh đạo đã biết lắng nghe (!), đã biết tiếp thu ý kiến xây dựng (!), đã điều chỉnh kế hoạch (!). Đó là giảng viên Hà Văn Thịnh và “nhà khoa học” Nguyễn Ngọc Trân, từ Pháp về, từng được ngồi trong Quốc hội. Họ sớm được các bloggers trong nước gọi là những chú “kỳ nhông” đổi màu theo môi trường, những kẻ cơ hội đáng thương, từ màu xanh Tây nguyên chuyển sang màu đỏ bôxít. Hai trận tuyến rõ rệt đã hình thành. Cuộc đấu tranh đang giữa thời kỳ quyết liệt. Thời điểm quan trọng sắp tới là cuộc họp Quốc hội từ 20 tháng 5 đến giữa tháng 6, sau đó là vào dịp họp ban chấp hành trung ương đảng CS vào cuối năm. Tuy quốc hội là do đảng CS tuyển chọn và áp đặt, nhưng sức ép công luận xã hội đang đòi hỏi các đại biểu quốc hội phải tự nhận rõ mình là “cơ quan quyền lực cao nhất ” như ghi trong Hiến pháp, và phải có thái độ minh bạch, tự chủ của mình, tán thành hay phản biện, và trong bỏ phiếu về vấn đề hệ trọng của quốc gia. Xem ra thế lực đòi ngừng ngay việc khai thác bôxít ở Tây nguyên, hoặc chỉ nên khai thác thí nghiệm ở quy mô nhỏ để rút kinh nghiệm dần, không thể làm như hiện nay, đang được đông đảo nhân dân tán thành. Nhóm đề xướng Kiến nghị và Thư ngỏ gửi Quốc hội đã thuyết phục, thu hút được nhiều trí thức dân tộc có trí tuệ, học vấn và lòng yêu nước cao bậc nhất ở nước ta và ở nước ngoài; có thể nói là chất “kem”, chất “bơ” cực kỳ quý hiếm của Tổ quốc, đã kéo nhau vào cuộc, dấn thân cho nhân dân và quê hương. Trong nhóm dẫn đầu gồm chừng 100 vị của hơn 100 ngàn chiến sĩ dấn thân này, có những trí thức được đào tạo từ trong nước, từ Tây Âu, từ Liên Xô và Đông Âu, từ Trung Quốc, Nhật Bản, từ Hoa Kỳ, Canada, nghĩa là hội tụ từ nhiều nguồn, đều đồng tâm nhất trí kiến nghị, can ngăn, khuyên giải bộ chính trị hãy thức tỉnh, hãy lắng nghe đầy đủ, hãy mười phần thận trọng, hãy cân nhắc thiệt hơn, hãy tính toán lợi hại cho kỹ lưỡng, vì vận mệnh dân tộc, vì ấm no hạnh phúc hay tai hoạ cho nhân dân thân yêu. Nhiều nhà báo, văn nghệ sĩ có tâm huyết đã ký tên vào Kiến Nghị. Trong thời gian tới, mong rằng các nhà khoa học đầu ngành về khai khoáng, công nghệ, môi trường, kinh tế, tài chính,an ninh, văn hoá, lao động chung sức xuất bản một tập sách nhỏ làm Cẩm Nang cho ai muốn hiểu rõ vấn đề khai thác bôxít ở nước ta và trên thế giới, gửi tới tận tay mỗi đại biểu quốc hội, và tán phát cho toàn dân. Những ưu tư còn tồn tại trong xã hội cần giải quyết là: - thực hiện như hiện nay thì về kinh tế-tài chính sẽ lỗ hay lãi? lỗ và lãi ước tính bao nhiêu? Có đáng để đầu tư bước đầu 680 triệu hay 800 triệu đôla không? - nguồn điện và nguồn nước ra sao? có vững chắc, có bảo đảm không ? - thảm hoạ môi trường thực sự là ra sao? khả năng ta khắc phục được đến đâu? có thể làm từng diện tích hẹp theo kiểu cuốn chiếu được không? - về sử dụng lao động phổ thông nước ngoài thực sự ra sao? Họ đã có mặt bao nhiêu ở Lâm Đồng, ở Đak-Nông? họ có giấy tờ hợp pháp không ? Có thật đã ưu tiên cho người Việt nam không ? Có thật chỉ dùng công nhân chuyên ngiệp nước ngoài mà nước ta chưa đào tạo được hay không ? - chính quyền đã ký kết với chính quyền và các công ty nước ngoài những gì rồi, đã cho các công ty nước ngoài đấu thầu ra sao? Có thật công ty Chalco có phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhất ? Phía ta đã giữ vững chủ quyền ra sao? Tại sao họ trương bảng toàn chữ Hán và chữ Anh, không có chữ Việt. Có thật đã có những vụ đòi lấy vợ Việt và chửa hoang ở nơi có công nhân Trung Quốc ? - tác động về mặt an ninh và văn hoá thật sự ra sao? về an ninh, chỉ cần in lại thư của đại tướng Võ Nguyên Giáp, của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, phát biểu của thiếu tướng Công an Lê Văn Cương, thư của trung tướng Đồng Sĩ Nguyên. Về văn hoá chỉ cần in bài của nhà văn Nguyên Ngọc về Văn hoá – Rừng của Tây nguyên. - rất nên sưu tầm gấp những bài viết của các chuyên gia môi trường quốc tế (Liên Xô cũ, Canada, Mỹ, Úc, Pháp, Đức …) về những hiểm hoạ của việc khai thác bôxít trên thế giới. Các trí thức Việt nam ở nước ngoài có thể giúp cho việc này. - cũng nên đòi hỏi quốc hội cử đoàn đi Tây Nguyên xem xét tại chỗ, vì các báo cáo đều khác rất xa phóng sự của nhiều phóng viên xông xáo. Vì tự tin ở kiến thức của mình, vì tự tin vững ở lòng dạ trong sáng của mình, nên nhóm dẫn đầu Kiến nghị và Thư ngỏ rất bình tĩnh tiến hành cuộc đấu tranh bằng lý lẽ, bằng lập luận, qua dẫn chứng thực tế đầy sức thuyết phục, tránh đao to búa lớn, tránh nổi nóng để chụp mũ bừa bãi như bộ hạ của nhóm cầm quyền trên cao. Đây là cuộc đấu tranh ôn hoà không bạo lực, nhưng quyết liệt, rất quyết liệt, đòi hỏi một phẩm chất cao nhất của con người: trọng lẽ phải, trọng sự thật, trọng cuộc sống có nhân phẩm trên hành tinh, còn đòi hỏi phẩm chất cao nhất của con người Việt Nam hiện tại: yêu nước mình, thương thật lòng dân mình, xót xa thật lòng vì đất nước lạc hậu trong chiến tranh huynh đệ tương tàn, chưa có tự do, hạnh phúc . Cuộc đấu tranh chống hiểm hoạ bôxít cũng là cuộc đấu tranh chống cuộc “Bắc thuộc mới ” (kể từ cuối năm 1991) sau cuộc họp Việt – Trung ở Thành Đô. Đây là cuộc tấn công ôn hoà, bằng lý lẽ, lập luận, nhưng quyết liệt, rất quyết liệt để từ bỏ một kiểu cai trị lạc hậu, cổ lỗ kiểu phong kiến, một “triều đình cộng sản” độc đoán ở thời kỳ tan rã, không còn có khả năng lắng nghe, ngày càng tham nhũng và mù quáng, đang tự làm mất tính chính đáng (legitimacy- légitimité) trước con mắt tinh tường của nhân dân trong thời đại thông tin nhanh nhậy. Mọi người mang dòng máu Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi, làm bất cứ ngành nghề gì, ở bất cứ đâu, xin hãy nhận ra thời cuộc, nhận rõ thời cơ hiếm có, tham gia cuộc đấu tranh mang tính đột phá lịch sử này, bằng sáng kiến và phương cách của chính mình, để góp gió thành bão, giải thoát đất nước ta khỏi một chế độ lỗi thời, đã thuộc hẳn về quá khứ, một chế độ độc đoán vụ lợi riêng, chỉ mang lại hổ thẹn, nghèo khổ và tủi nhục cho dân tộc, cho nhân dân Việt nam ta. Ra khỏi cuộc đấu tranh lịch sử này, chế độ độc đoán sẽ không còn như trước nữa. Bùi Tín Paris 6-5-2009
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 11, 2013 11:04:03 GMT 9
Pierre Journoud: De Gaulle và Việt Nam (1945- 1969)
Phong Uyên lược dịch Lời người dịch: Tiến sĩ sử học Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, PIERRE JOURNOUD là nghiên cứu viên ở Học viện Nghiên cứu Chiến lược trường Đại Học Quân sự Pháp, đồng thời cũng là cộng tác viên nghiên cứu Trung Tâm Lịch sử Châu Á hiện đại. Cuốn sách viết về đường lối và cách đối xử của De Gaulle đối với Mỹ và hai miền Nam Bắc Việt Nam trong những giai đoạn ông nắm quyền từ năm 1945 và nhất là từ sau 1961. Sách dày 543 trang với 100 trang liệt kê danh sách các chú thích và các tài liệu lưu trữ trong văn khố Pháp, Mỹ, Canada… .được ấn hành tháng Tư năm 2011, là công trình luận án tiến sĩ của ông. Luận án được giải thưởng Jean Baptiste Duroselle dành cho những luận án được coi là nổi bật nhất về lịch sử bang giao quốc tế. Trong bản dịch này tôi xin bỏ những phần nói về những mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ về vấn đề việt Nam mà chỉ lược dịch những phần nói về quan điểm và đường lối của De Gaulle đối với Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông từ chức tồng thống đệ Ngũ Cộng hòa Pháp năm 1969. Có thể nói đường lối này vẫn được những người kế tiếp ông theo đuổi cho tới năm 1975. Nhưng cũng phải nói là cách nhìn của De Gaulle về Việt Nam từ khi nắm quyền lần đầu đến sau Hiệp định Geneve 1954 – vì đố kỵ với Mỹ – đã thay đổi rất nhiều: Hồi nước Pháp mới được giải phóng năm 1945, De Gaulle vẫn còn mang nặng đầu óc thực dân và chỉ có mục đích duy nhất là bảo tồn đế quốc Pháp, muốn vậy phải canh tân và đổi mới đế quốc dưới cái vỏ Liên Hiệp Pháp và phải thoả mãn một phần nào khác vọng của các dân tộc bị trị. Phải đợi đến năm 1966 trong cuộc viếng thăm Phnom Penh De Gaulle mới trở thành quán quân của quyền dân tộc tự quyết. Cuốn sách cũng phanh phui nhiều bí ẩn trong những diễn biến ở miền Nam, đặc biệt là về hòa thượng Thích trí Quang, về liên lạc giữa ông Nhu và giải phóng miền Nam và sự nhất trí giữa Pháp và Mỹ trước khi có Hội nghị Paris. ———————————————————- De Gaulle Tháng 12 1945 : một hi vọng lớn bị kết liễu? Ngày 26-12-1945 chiếc máy bay Lockheed Lodestar trên đường bay về đảo Réunion bị rớt ở M’Baiki giữa khu rừng nhiệt đới thuộc nước Cộng Hoà Trung Phi bây giờ. Trong số 6 người tử nạn có một hoàng thân Việt Nam 45 tuổi. Vị hoàng thân này có một quá khứ lừng lẵy và óc thông minh chính trị có thể, với sự hưởng ứng của mọi người Việt, đi đến một thoả hiệp với De Gaulle để đưa nước Việt Nam ra khỏi chế độ thực dân. Làm hoàng đế Annam từ 1907 đến 1916 dưới vương hiệu Duy Tăn, hoàng tử Vĩnh San bị chính quyền Pháp đầy ra đảo Réunion khi cầm đầu một cuộc nổi loạn đòi độc lập cho đất nước mình. Trong gần 30 năm bị đầy ải, sống một cách khiêm nhường với số tiền trợ cấp ít ỏi và một nguồn đam mê là ngành vô tuyến điện. Khác với vua cha, hoàng đế Thành Thái (1889-1907), cũng bị Pháp truất phế và đưa đi đầy cùng với con, Vĩnh San không vứt bỏ văn hoá Pháp và cũng không chịu thoái vị nên vẫn là vị hoàng đế cuối cùng hợp pháp của Việt Nam. Nhờ giỏi về vô tuyến điện nên Vĩnh San đã bắt được lời kêu gọi của De Gaulle trên đài BBC ngày 18-6-1940, gia nhập nhóm kháng chiến, bị chính quyền thân Đức bắt cầm tù. Khi đảo Réunion trở về với nước Pháp Tự do, thì tình nguyện ký khế ước nhập ngũ hải quân trên tàu phóng ngự lôi Léopard với chức vô tuyến trưởng. Tuy nhiều lần Vĩnh San xin ra tiền tuyến nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi ngờ cái quá khứ quốc gia phiến loạn của ông, nên chỉ cho ông gia nhập chính thức quân đội Pháp tháng Một 1944 với chức vị chuẩn úy. Không những Vĩnh San gặp khó khăn trong quân đội mà ngay ở bộ Thuộc địa, tổng trưởng bộ này cũng chống đối sự có mặt của hoàng thân ở Paris mặc dầu có sự can thiệp của De Gaulle. Tháng 9-45 Vĩnh San kết liễu chiến tranh với chức vị tiểu đoàn trưởng trong đội quân chiếm đóng nước Đức và được trao tặng huân chương Kháng chiến. Cũng thời gian ấy Vĩnh San cho đăng trên báo Combat (Chiến đấu) một chúc thư chính ttrị trong đó ông khởi xướng Việt Nam phải đạt được độc lập và thống nhất. Cũng vì Paris tiếp tục chống đối những đòi hỏi đó, Vĩnh San Vĩnh San đã viết trên báo này những hàng gần như là tiên tri: “Tôi nghĩ rằng tương lai gần nhất của Đông Dương phải được đặt trên tình bạn và lợi ích chung chứ không phải trên ý tưởng ngự trị. Tôi nghĩ rằng những người mất kiên nhẫn sẽ kêu gọi sự trọng tài có vụ lợi của Trung Quốc và Mỹ. Để khỏi mất kiên nhẫn tôi nghĩ nước Pháp phải chứng tỏ thiện chí của mình… chứng tỏ bằng cách bỏ những hàng rào chia cắt Bắc, Trung, Nam…” Vĩnh San cũng tỏ ra là có óc thực dụng chính trị khi nói thêm: “tôi thiển nghĩ làm đúng bổn phận người An Nam khi tôi tạo được trong đầu mỗi người dân quê từ Lạng Sơn tới Huế tới Cà Mau ý nghĩa của tình huynh đệ. Không cần biết là mối tương thân đó được thể hiện bất cứ dưới chế độ nào, cộng sản, xã hội, quân chủ, vương quyền. Cái cốt yếu là tránh đắt nước bị phân chia từng mảnh một. Tác giả Pierre Journoud. Tác giả Pierre Journoud. Ngày 14-12-45 thiếu tá Vĩnh San gặp De Gaulle trình bày ý kiến của mình. Tướng De Gaulle bị ông chinh phục có vẻ chấp thuận những điểm đại cương. Không chấp nhận về hình thức sự thống nhất Việt Nam, nhưng De Gaulle cũng tạo cho Vĩnh San ý tưởng là sau 1 thời gian nhất định, Pháp sẽ chấp thuận Việt Nam đi đến thống nhất. Theo một vài chứng nhân, cái chết bất ngờ của Hoàng thân Vĩnh San đã làm De Gaulle thất vọng một cách sâu xa, vì cái ý định bí mật của ông muốn dựa vào Vĩnh San để giải quyết vấn đề Đông Dương mỗi ngày một thêm khó khăn, bỗng nhiên trở thành mồ côi. Theo hồi ký của tưóng De Boissieu ( con rể De Gaulle ), thì đó cũng là một trong những nguyên nhân làm De Gaulle từ bỏ chức vụ lần đầu ngày 20-1-46? Chọn lựa chiến tranh Khi tướng Leclerc đến Sài Gòn tháng 10-45, De Gaulle dặn là phải phô trương sức mạnh trước khi đàm phán, nhưng cũng dặn là phải thận trọng khi tiến quân, tránh những đụng độ với người Việt. Mặc dầu 3 tuần trước khi Leclerc đến, Jean Cédile, ủy viên cộng hoà tại Nam Kỳ, quyền đại diện nước Pháp, đã cảnh báo là ” các lãnh đạo Việt Nam đều rất cứng đầu về từ ngữ độc lập “; người đồng sự với Cédile nhẩy dù xuống Bắc Kỳ bị bắt. Khi được thả tháng 11, Pierre Messmer (Lnd: sau này là thủ tướng Pháp) cũng nói như vậy về sự quyết tâm của những người theo Hồ Chí Minh : “từ các giáo viên, thư ký sinh viên, kế toán viên…, không ai chịu một sự nhượng bộ nào cả. Những người này đều thành thật, phần nhiều là trung trực có khi tỏ ra rất can trường, sẽ không bao giờ chịu đầu hàng cả “. Messmer kết luận là chỉ có thoả hiệp với Việt Minh mới khỏi mất mặt. Cuối tháng 12-45, đến lượt Jean Sainteny cảnh báo chính phủ là sẽ có đụng độ to lớn nếu Pháp muốn tái lập chủ quyền của mình bằng sức mạnh. De Gaulle vẫn nuôi hi vọng là khi chủ quyền Pháp được tái lập lại ở Việt Nam, Pháp sẽ có thể đàm phán trong vị thế mạnh. Để có thể thực hiện ý định chính trị của mình và bảo vệ nó khi rời bỏ chức vụ, De Gaulle biết là có thể trông cậy vào sự trung thành của những người đại diện mình. De Gaulle bênh vực đến tận cùng đô đốc d’Argenlieu, Cao ủy kiêm Chỉ huy trưởng quân đội Pháp tại Đông Dương khi ông này bất đồng với tướng Leclerc mà theo hệ thống, phải ở dưới quyền d’Argenlieu. Đầu năm 1946, De Gaulle rời bỏ chính quyền với hi vọng sẽ được mời lại. Thật ra lập trường của De Gaulle về Đông Dương cũng không khác gì những đảng phái chính trị Pháp hồi bấy giờ. Ngoại trừ một vài nhóm cực tả, ngay cả ĐCS Pháp cũng không sẵn sàng chịu tách một phần đất nào ra khỏi đế quốc. Trong một cuộc thăm dò ý kiến hồi tháng 9-45, 63% người dân Pháp vẫn muốn Pháp giữ Đông Dương. Những người thân De Gaulle sau này muốn mọi người tin chỉ có De Gaulle mới có thể có đủ khả năng chơi ” lá bài Hồ Chí Minh ” nếu còn nắm quyền chính. Người ta có quyền nghi ngờ : từ khi từ bỏ chính quyền lần đầu, De Gaulle cứ nhắc đi nhắc lại là chế độ này ( lnd: đệ Tứ Cộng hoà Pháp ) sẽ không cưỡng lại được với một lực lượng cách mạng nào và sẽ không tránh khỏi, nếu phải điều đình với Hồ Chí Minh, sẽ khó mà không phải từ bỏ mọi quyền của Pháp ở Việt Nam và phó mặc những người dân còn tin cậy vào nước Pháp phải nằm dưới ” chủ nghĩa Mác-Lê và dưới sự chi phối của Moscou “. Đó cũng là lí do mà De Gaulle viện ra để khuyên Leclerc nên từ khước đề nghị của thủ tướng Paul Ramadier, tháng 11-46, thay thế d’Argenlieu. De Gaulle cho là tương lai của Leclerc không phải nằm trong những cuộc chiến ở đồng ruộng Đông Dương mà là hoạt động chính trị. Leclerc tỏ ra khá sáng suốt về chính trị Đông Dương khi quên cái hung hăngi ban đầu là phải làm yếu Hồ Chí Minh trước khi nghĩ đến đàm phán: Được thủ tướng Léon Blum phái đi thẩm tra ở Việt Nam cuối tháng 12-46, Leclerc đưa ra ý kiến rất rõ ràng : ” chống cộng sản chỉ là một đòn bẩy không có điểm tựa nếu không giải đáp được vấn đề chủ quyền quốc gia của Việt Nam “. Ngày 19-12-46, cùng một lúc với các nơi khác trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam, 2000-25000 dân quân tự vệ và quân đội Nhân dân tấn công bất ngờ khu người Âu ở Hà Nội. Nhiều người Âu bị giết hay bị bắt làm con tin. Cuộc tiến công chỉ được đẩy lui sau nhiều tuần xáp lá cà giành nhau từng khu phố một. Người ta coi đó là khởi đầu của cuộc chiến tranh Đông Dương. Chiến tranh có thể tránh được, theo sử gia Stein Tonnesson. Nhưng chắc chắn là nhiều người muốn nó xẩy ra, trong số đó có De Gaulle. De Gaulle đích thân tán thành cuộc thử lửa này và nghĩ là quân đội Pháp sẽ mau chóng làm chủ tình thế : Từ nay trở đi d’Argenlieu sẽ là người chủ cuộc, có thể mặc sức hành động và giải quyết vấn đề. De Gaulle còn sợ được tiếp nối lại sự đàm phán giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet, tổng trưởng bộ Hải ngoại trong chính phủ Félix Gouin. Leclerc lại vừa mới gửi thông chi cho chính phủ nói là phải từ bỏ chính sách dùng võ lực và phải thật sự cố gắng dung hoà quyền lợi Pháp và quyền lợi Việt Nam của Hồ Chí Minh mà ông cho lả một nhà quán quân về ý tưởng độc lập và là một người ái quốc “. Ông dặn dò Cao ủy Émile Bollaert lần cuối (lnd: trước khi chết) là phải ” điều đình với bất cứ giá nào “. Cũng thời gian đó De Gaulle lập ra đảng Tập hợp Nhân dân Pháp tháng Tư năm 1947. Rứt khoát với cái chính sách đồng hoá có từ thời cộng hoà 1848, De Gaulle đưa ra chính sách gọi là ” liên kết tuần tự ” với các xứ trong Liên hiệp Pháp. Tuy vậy De Gaulle vẫn lấy cớ là cần phải bảo vệ Liên hiệp Pháp và chống cộng, ủng hộ đô đốc d’Argenlieu trong việc tách rời Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. D’Argenlieu cho là Nam kỳ đứng về phương diện lịch sử, địa dư và kinh tế không phải là một phần đất Việt Nam và vin vào đó để phá hoại Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau, tạo điều kiện cho một nền quân chủ lập hiến mà De Gaulle đã nghĩ đến từ 1945 còn d’Argenlieu thì nghĩ đến cựu hoàng Bảo Đại từ năm 1946-1947. Khi được Jean Sainteny cho biết dự định đó của d’Argenlieu, lãnh sự Mỹ ở Hà Nội tiên đoán là cái đó chỉ đưa đến sự toạ lập một chính phủ bù nhìn và một cuộc chiến tranh, trái với sự mong đợi của người Pháp. Giải pháp Bảo Đại được thành hình năm 1947. Mặc dầu vẫn nghi ngờ Bảo Đại, rút cục De Gaulle cũng ngả theo lá bài Bảo Đại trong bối cảnh thế giới mỗi ngày một mang dấu ấn chiến tranh lạnh, nhất là khi cộng sản Trung Quốc toàn thắng và khi Pháp thua trận Cao Bằng. Mãi đến năm 1953, sau khi Staline chết, tình hình thế giới mới đỡ căng thẳng. Nhưng để chống lại sự quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương làm mọi ảnh hưởng Pháp sẽ bị loại trừ, De Gaulle mới nghĩ đến chuyện điều đình với Hồ Chí Minh. Tuy vậy De Gaulle vẫn cho là nên đặt ưu tiên thương lượng thẳng vói Trung Quốc và Mỹ. Tháng 3-54 khi chiến tranh Đông Dương đi vào giai đoạn quyết định cuối cùng với trận Điện Biên Phủ, De Gaulle đã tin chắc là ” áp phe ” Đông Dương coi ” như là đã kết liễu “, chỉ còn ” kiếm cho nó một thủ tục chôn nó cho đúng hình thức “, ” phải hiểu là Pháp không còn giữ được Đông Dương nữa, Đông Dương không còn là của mình nữa “. Nhưng De Gaulle cũng coi như tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội Pháp, là Hiệp định Genève tốt hơn người ta tưởng. Những nguyên tắc về độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước Việt Nam, Cam Bốt và Lào được công nhận một cách long trọng. Qua Hiệp Định Genève, Pháp có khả năng giữ được ảnh hưởng mình ở miền Nam và có trhể đứng làm trung gian giữa hai miền như hi vọng của những người theo De Gaulle. Ở miền Bắc, De Gaulle cũng tán thành một ” sự hợp tác về kinh tế, văn hoá và, có thể một ngày kia, chính trị “. Tháng 8-54, De Gaulle khuyến khích Jean Sainteny nên nhận chức vụ Tổng đại diện chính phủ Pháp ở Hà Nội . Sau khi chiến tranh Cao Ly và chiến tranh Đông Dương kết thúc, De Gaulle đổi hẳn đường lối, muốn bắt cầu với những nước cộng sản Đông Nam Á và nghĩ đến chuyện công nhận Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. De Gaulle muốn nước Pháp có một đường lối chính trị độc lập ở Á châu và đóng một vai trò xây dựng trong sự thống nhất Việt Nam. Thật là ngoạn mục sự thay đổi lập trường của De Gaulle, một người mà từ trước tới nay vẫn được coi là thuộc phái bảo thủ đã biết vượt qua được lòng tự ái của mình ! Khi đọc cuốn ” Lịch sử một cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ ” của J. Sainteny, De Gaulle tự công nhận là mình đã sai lầm, đã không hỗ trợ toàn vẹn những cố gắng điều đình với Hồ Chí Minh và đã nói to với Sainteny để mọi người nghe thấy : ” Thật vậy, Sainteny, ông rút cục là người sẽ có lý “. Ngô Đình Diệm lên cầm quyền chính, giữa huyền thoại và thực tại Ngày 16 tháng 6, chưa tới 48 giờ sau khi Mendès France được tấn phong thủ tướng, Ngô Đỉnh Diệm được Bảo Đại ủy thác thay thế hoàng thân Bửu Lộc để thành lập chính phủ. Ngay sau khi ký Hiệp định Genève, Paris đã báo cho tân thủ tướng quốc gia liên kết Việt nam là Pháp chỉ công nhận nội các mới thành lập của Ngô Đình Diệm là chính phủ hợp pháp. Vậy mà sao chỉ chưa đầy một tháng sau khi được tấn phong, chỗ nào Diệm cũng bị coi là bù nhìn của Mỹ ? Hình ảnh sai lầm về Diệm đã mọc rễ trong ký ức của nhiều người, nhất là những người theo De Gaulle, khi thấy sự ủng hộ và sự hiện diện của Mỹ đi ngược lại với ý định và quyền lợi chính trị của Pháp. Diệm không phải chui ra từ cái mũ của một thuật sĩ. Năm 1950, sống lưu vong ở Mỹ, Diệm đã nhân cơ hội tiếp xúc với giới ưu tú Mỹ, đặc biệt là với các thượng nghị sĩ John Kennedy và Mike Mansfield, với giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học Michigan, với cựu giám đốc OSS William Donovan và nhất là với hồng y giáo chủ Francis Spellman. Cuộc đấu tranh của Ngô Đình Diệm để thành lập một ” lực lượng thứ ba ” chống cộng và chống thực dân lấy được cảm tình những người này. Là một người cương quyết đòi cho được độc lập quốc gia không một chút nhân nhượng, hệt như những người cộng sản đã bắt ông và giết anh ông, Ngô Đình Khôi, năm 1945. Ông đã tạo ra được một tiếng vang khi từ chức hượng thư bộ Lại hồi còn trẻ, tháng 9-33, để phản đối sự lộng quyền của viên khâm sứ Pháp đã ngăn cản mọi dự định cải cách Ông cũng từ chối sự mời mọc của Bảo Đại khi còn chiến tranh Đông Dương vì thấy là không đủ tự do với các nhà cầm quyền Pháp. Ông là người không phải dễ để bị thao túng. Trong tập Hồi ký của mình Bảo Đại cũng không giấu là đã có mời Diệm lãnh đạo chính phủ : ” Chúng tôi không còn trông cậy vào Pháp được nữa. Ở Genève, người Mỹ là đồng minh độc nhất của chúng tôi…”. Nhưng sự lựa chọn Diệm cũng có lí do chính trị đối với trong nước : quá khứ của Diệm và sự hiện diện của em ông là Ngô Đình Nhu đứng đầu Phong trào Thống nhất Quốc gia, cho phép hi vọng lôi kéo được một số người quốc gia có tiếng là triệt để. Ở Pháp Ngô Đình Nhu được mọi người biết hơn Diệm vì theo học ở trường đại học Pháp điển ( École des Chartes ) và có kết nối bạn bè trong khoảng thập niên 1930 với Jacques Bénet, bạn kháng chiến của François Miterrand và là đảng viên đảng Xã hội Pháp. Qua sự trung gian của ông này, Nhu tiếp xúc với nhiều lãnh tụ đảng Xã hội và hi vọng qua những người này, ông anh lớn của mình, người mà Nhu cho là chính trực nhất, tượng trưng tinh thần quốc gia đích thực nhất, sẽ đạt được quyền hành Trong chiến tranh, Nhu tiếp tục trao đổi thư từ với Jacques Benet và có đàm phán nhiều lần với những cộng sự viên của thủ tướng Joseph Laniel và tổng trưởng bộ Ngoại giao Georges Bidault tháng Ba 1954. Hai người này quyết định hội đàm riêng với Ngô Đình Diệm qua sự trung gian của Trần Chánh Thành và cả ba đều thoả thuận những điểm căn bản. Tuy vậy Laniel và Bidault vẫn còn ngần ngừ chưa nói với Bảo Đại. Phải đợi đến tháng 6-54 khi chính phủ của 2 ôg này có lẽ sắp bị lật đổ hai người này mới nói với Bảo Đại là nên tấn phong Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại chấp thuận ngay. Theo hồi ký của Alain Griotteray phụ tá chính trị đối nội Việt Nam thuộc bộ Quồc gia liên kết, người đã gặp riêng nhiều lần Diệm: “quyền lực thật sự ( ở Việt Nam ) hồi đó nằm trong tay chính quyền Pháp. Hoàng đế ( sic ) không thể bổ nhiệm Diệm nếu chính phủ Pháp chống đối. Người Pháp cũng có thể dùng áp lực tài chính đối với Bảo Đại ( theo Newsweek mỗi năm Bảo Đại nhận được của Pháp số lương là 500 ngàn đô la ). Nói tóm lại sự chọn lựa Diệm là cả Pháp lẫn Việt, nhưng đó là một chọn lựa nhằm mục đích thoả mãn Hoa Kỳ. Cái trớ trêu là De Gaulle và những người thuộc phái De Gaulle chỉ giữ ở Diệm hình ảnh một ” con nộm “chống Pháp được Mỹ đặt ra.mà không biết là người tổng thống Nam -Việt Nam chỉ tăng tốc độ cho một quá trình giải thực ( dân ) không thể tránh được trong khi vẫn dành một chỗ quá là quan trọng cho những quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Nam -Việt Nam. Luận cứ De Gaulle dưới sự thử thách của các sự kiện Cần phải trở lại nguồn gốc của sự tranh cãi ngay sau chiến tranh thứ Hai mới chấm dứt để hiểu mối oán giận của tướng De Gaulle và những người theo ông đối với người Mỹ. Trong khi oanh tạc Đông Dương trong khung cảnh của cuộc chiến tranh chống Nhật, Mỹ đã gửi nhiều đội OSS hợp tác với những nhóm kháng chiến chống Nhật để làm những hoạt động hoạt động tình báo và khuynh đảo. Vì vậy mà năm 1945 OSS cung ứng cho những người tranh đấu đòi độc lập Việt Minh khá nhiều vật liệu võ khí. Biết sự quan trọng của tuyên truyền, đồng thời cũng biết là tổng thống Roosevelt có ý muốn tách Đông Dương ra khỏi chính quyền Pháp để đặt dưới quyền giám hộ quốc tế, Hồ Chí Minh đã khéo biết khai thác sự liên kết bề ngoài này với Hoa Kỳ .Những trưởng nhóm OSS đi công tác cũng tin chắc như tổng thống của họ là chế độ thuộc địa không thể sống sót được sau khi chiến tranh kết liễu và người Pháp không thể cứ khăng khăng giữ thuộc địa trong khi người Anh, người Mỹ đang tính bỏ những thuộc địa ở Á châu. Sau khi Roosevelt chết ngày 12-4-45, Truman mỗi ngày một bận tâm về mối nguy hiểm Liên Xô ở Á châu, nên đổi hướng, quyết định đứng giữa không thiên về bên nào ở Đông Dương. Quyết định đứng trung lập này của Truman tới quá chậm và quá thời hạn để xoá bỏ được cảm tưởng của những quân nhân và thường dân Pháp phải chịu đựng một mình cuộc tấn công của Nhật 9-3, là đồng minh Mỹ đã phản bội mình, thiên về sự thành công cướp chính quyền ở Hà Nội hơn là số phận của người Pháp. Ký ức của những người Gaullistes hồi ấy là Hoa kỳ không những không làm dễ dàng cho sự người Pháp trở lại Đông Dương, mà còn trực tiếp góp phần tăng cường sức mạnh của kẻ địch mình là Việt Minh. Chiến tranh Đông Dương chỉ làm tăng sự nghi ngờ của người Pháp đối với người Mỹ. Bắt đầu từ 1947-1948 và nhất là sau chiến thắng của Mao tháng 10-49, một vài hữu trách chính trị và quân sự Pháp mới quyết định phải nhờ Mỹ giúp đỡ về vật liệu và tài chính. Tháng Hai 1950, sau khi công nhận các Quốc gia liên kết Việt Nam, Cam Bốt và Lào, Mỹ mới chính thức quyết định giúp Pháp. Nhưng một khi đã để cho Mỹ vào cuộc, dù có muốn chỉ nhờ Mỹ giúp đỡ về vật chất, người Pháp đã mở chốt cho một quá trình sẽ đưa đến sự phó mặc Đông Dương dưới ảnh hưởng Mỹ. Sau Hiệp định Genève, Mỹ được thể chui vào lỗ hổng Đông Dương khiến Pháp bực tức đến cùng cực, nhất là những người thân De Gaulle. Để tránh cuộc khủng hoảng bang giao giữa Pháp và Mỹ, Pierre Mendès France chính thức công nhận thế thượng phong của Mỹ ở Đông Nam Á. Thỏa hiệp giữa tướng Ely và Collins ngày 13-12-54 bắt Pháp cam kết là phải thừa nhận sự tự chủ hoàn toàn của quân đội Quốc gia Việt Nam và đặt các cố vấn và huấn luyện viên quân sự Pháp dưới quyền trưởng nhóm MAAG ( Military Assistance Advisory Group ) là tướng O ‘ Daniel. Những huấn luyện viên Pháp được mau chóng thay thế bằng những huấn luyện viên Mỹ. De Gaulle và nước Việt Nam của Ngô Đình Diệm : một mối liên lạc lập lờ Bận lo giải quyết những vấn đề tế nhị và khẩn cấp từ chuyện Hiến Pháp đệ Ngũ Cộng hoà đến chiến tranh Algérie, tướng De Gaulle (lnd : trở lại chính quyền mùa Xuân năm 1958 ) ủy thác cho bộ Ngoại giao và cho những tổng trưởng có liên quan trực tiếp quản lí hồ sơ Đông Dương trong việc tái phục lại ảnh hưởng Pháp và làm cân bằng lại sự hiện diện của Mỹ mỗi ngày một lớn. Ông không chống đối lại sự tăng gia những mối liên lạc với Việt Nam Cộng hoà trong khi sự bang giao với Hà Nội vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng mà nguyên nhân chính là các chính phủ đệ Tứ Cộng hoà trước nay vẫn dành ưu tiên cho Sài Gòn và vì chiến tranh Algérie. Tháng 11-59, tổng trưởng bộ Tài chính của De Gaulle, Antoine Pinay ký một loạt thoả ước mới về tài chính, kỹ thuật và văn hoá với chính phủ Diệm. Những tranh cãi về ruộng đất và tài chính được giải quyết trọn vẹn. Trong bức thư cám ơn thủ tướng Michel Debré, Diệm gợi ý là về phần mình, sẵn sàng làm sâu rộng mối bang giao Pháp-Việt. Tình trạng kinh tế và xã hội ở Nam-Việt Nam hồi đó đáng lo ngại, căng thẳng với Mỹ về vấn đề kinh tế mỗi ngày một lớn, viện trợ Mỹ bị các cố vấn của Diệm chỉ trích là không kiến hiệu và sau chót là Diệm thấy quyền hành của mình quá mong manh nên cũng muốn tìm ở Pháp một chỗ dựa. Sau đảo chính hụt 11-11-60 mà ngay toà đại sứ Hoa kỳ cũng không tỏ vẻ mạnh mẽ chống lại như sự mong đợi của anh em Diệm, Nhu khẳng định với đại sứ Pháp Roger Lalouette là ” nếu nước Pháp muốn, giờ của Pháp đã điểm ở Việt Nam “. Để lời nói đi đôi với viêc làm, chính phủ Diệm làm dễ dàng sự nhập cảng hàng Pháp mặc dầu Mỹ ráng giấu sự không bằng lòng của mình. Trong địa hạt quân sự, Diệm cũng có vẻ chỉ trích phương pháp của các huấn luyện viên Mỹ và cho là phương pháp chống chiến tranh du kích của Pháp thích hợp hơn. Mỗi ngày Diệm một thêm bực tức về sự vụng về và ngược thời của viện trợ Mỹ, cũng như vòng cương tỏa của Mỹ mỗi ngày một quá đỗi sau cuộc viếng thăm của phó tổng thống Johnson tháng 5-61, và của tướng Taylor tháng 10-61, Diệm tâm sự với Roger Lalouette là ông muốn ” cân bằng lại sự chi phối của Mỹ bằng sự hiện diện của một cường quốc thứ ba, ưu tiên là Pháp, hay Pháp cùng Anh “. Quai d’Orsay ( bộ Ngoại giao Pháp ) biết là Diệm bất lực trước sự mất an ninh mỗi ngày một lớn, nên mỗi ngày một trở lên độc đoán, thất nhân tâm, bị cả 2 phía đe doạ :phía những người chống cộng quá khích muốn dựa vào Mỹ nhiều hơn, phía những người theo Pháp muốn dân chủ và trung lập. Nhưng bộ ngoại giao Pháp bị phó mặc, phải tự định đoạt lấy đường lối trong sự giao thiệp với Sài Gòn nên chỉ có cách đứng ở thế trung dung, thoả mãn một vài đòi hỏi của chính phủ Sài Gòn, đồng thời cũng tránh những liên lạc cá nhân quá thân thuộc.. Có lẽ cũng vì vậy mà De Gaulle tiếp tục từ chối không tiếp Diệm hay Nhu ở điện Élysée mặc dầu nhiều nhân vật Pháp có mối liên lạc mật thiết với Diệm từ trước tới nay như Marius Moutet ( Tổng trưởng bộ Hải ngoại năm 1946-47 ), Antoine Pinay, bộ ngoại giao Pháp… Những người này tự cho mình trách nhiệm nhắc lại với De Gaulle là năm 1959 tổng thống trước De Gaulle là René Coty có ngỏ ý mời Diệm qua thăm Paris. Mùa Xuân 1960, Roger Lalouette, đại sứ Pháp, chuyển lời của phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ muốn Diệm qua thăm Pháp hay nếu không được thì cho chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ cũng là chủ tịch hội Pháp-Việt Nam qua thăm. Một năm sau, tổng thư ký điện Élysée trình bày lí lẽ mong De Gaulle chấp thuận cho Ngô Đình Nhu vào yết kiến trong triển vọng một cuộc thăm viếng Paris. Lí lẽ đưa ra : Ngô Đình Nhu là một người thấm nhuần văn hoá Pháp và là một người có ảnh hưởng lớn ở Nam-Việt Nam đến nỗi những người thân cận cho là đây mới là đầu não của chế độ, Diệm chỉ là ông … trưởng phòng ! Về phía Nhu, Nhu cũng muốn có sự giúp đỡ của Pháp để giành lại được một chút tự do đối với Mỹ đang hăm dọa đẩy ông xa người anh để gia tăng sự giám hộ của Mỹ trên đất nước. Nhu chỉ được vào yết kiến thủ tướng Michel Debré chưa đầy một giờ ngày 24-6-61. Khi trở về Nhu tuyên bố rất hài lòng về cuộc thăm viếng… mặc dầu gặp ” chống cự trên đỉnh ” . Cái chống cự này làm Diệm buồn rầu vì Diệm là người thành thực ngưỡng mộ De Gaulle. Diệm đã có một lần tâm sự với Lalouette là ảnh hưởng của De Gaulle ở những nước trong thế giới thừ Ba vừa lớn, vừa sâu rộng, vừa lâu dài là vì De Gaulle từ chối thỏa hiệp với những sức mạnh của hỗn độn và không đứng lại ở những quyền lợi vật chất nhất thời. Nhưng nếu Diệm khen ngợi De Gaulle rất cương quyết với cộng sản ở Âu Châu, rất có óc độc lập và hợp tác với các nước nói tiếng Pháp, thì Diệm cũng rất tiếc là ở Á châu De Gaulle đã nhượng bộ trước tiếng kèn trung lập mà Diệm đồng hoá với một đường lối chính trị yếu ớt và với chủ nghĩa thất bại. Roger Lalouette người mai mối giữa Bắc- và Nam- Việt Nam Đầu hè, chính phủ Diệm phải đương đầu với cơn khủng hoảng lớn nhất : cuộc nổi loạn hoà bình của những người Phật giáo. Bị chính trị hoá mau chóng, cuộc xung đột trở thành công khai giữa các nhà sư được sự hỗ trợ của một phần dân chúng và chế độ thân công giáo của Diệm. Chính phủ Nam-Việt Nam đổ tội cho cộng sản thâm nhập mọi chỗ đã tạo ra và nuôi nấng cuộc nổi loạn. Nhiều cựu tổng trưởng trong chính phủ Diệm lại tố cáo ngược lại là chính CIA đã đổ dầu thêm lửa. Sự kiện nhà sư Thích Trí Quang trốn vào nhà một nhân vật ngoại giao Mỹ, rồi trú ẩn ở sứ quán Hoa Kỳ, chứng tỏ có bàn tay Mỹ nhúng vào. Nhiều bằng chứng tình báo Pháp thâu thập được, vạch rõ vai trò của người Mỹ. Hoàng thân Bửu Hội khi đó làm đại sứ Việt Nam Cộng hoà ở Maroc và ở nhiều xứ Phi châu có mẹ là môt sư bà đang sửa soạn tự thiêu, khẳng định là có sự hiện diện của nhân viên CIA trong chùa Xá Lợi và các nhân viên này đang tận tay “làm việc các nhà sư ” Hoàng thân thuyết phục Diệm chấp thuận cho một phái đoàn của Liên Hiệp quốc tới Sài Gòn điều tra. Đến Sài Gòn ngày 10-10-63, phái đoàn này đưa ra kết luận là không có đàn áp Phật giáo. Cũng theo giáo sư luật Đại học Varsovie Maneli, trưởng đoàn đại diện Ba Lan tại Ủy hội đình chiến năm 1963, thì CIA hỗ trợ những người Phật giáo chống Diệm trái với ý của ngay cả của đại sứ Nolting. Các cơ quan Mỹ thì lại giải thích hoàn toàn khác : Hành động đàn áp của Diệm đã làm một rắc rối nhỏ ở địa phương thành một khủng hoảng chính trị, có thể làm đổ sập nền tảng của chế độ. Toà Bạch Ốc nhân cơ hội không ” xuống thang ” như đã giao ước với Nhu nữa : Lẽ ra theo đúng kế hoach thì phải bớt lần lần số nhân viên quân sự Mỹ từ 14 ngàn xuống còn 1500 cuối năm 1965. Trước sự từ chối của Diệm không chịu cho Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ, Kennedy đem Cabot Lodge thuộc đảng Cộng Hoà ngày trước là đối thủ tranh cử với mình, thay thế đại sứ Nolting vì bị coi là quá gần Diệm. Triển vọng quân đội Mỹ tới làm cả hai bên đều sợ : Sài Gòn còn một chút tính hợp pháp và một chút độc lập sẽ mất hết. Hà Nội đã trông thấy sự thành công trong việc khuynh đảo miền Nam, cũng lo sợ là cuộc chiến tranh sẽ kéo dài khiến khó mà ra khỏi được sự chế ngự mỗi ngày một lớn của Bắc Kinh và thoát được một cuộc khủng hoảng kinh tế khá trầm trọng. Người Pháp cũng chia sẻ với cả hai bên mối lo nghĩ đó nên còn tin tưởng vào một giải pháp chính trị và hài lòng khi nghe những lời tuyên bố khá ôn tồn của cả hai bên bờ vĩ tuyến số 17 : Tháng 9-62, Hồ Chí Minh tuyên bố với chủ tịch Ủy hội Quốc tế Ấn độ là muốn bắt tay với Diệm được coi là một người ” yêu nước theo kiểu của mình “. Phạm Văn Đồng thì gợi ý là đai diện Pháp Jean François de la Boissière nên viếng thăm Sài Gòn và trong tương lai sẽ tiếp đón Roger Lalouette ở Hà Nội. Diệm cũng vậy, khi bàn cãi với đại sứ Pháp cũng không gạt ra ngoài một cách dứt khoát triển vọng một giải pháp hoà bình, nhưng muốn mình là người khởi xướng. Những người cầm quyền Việt Nam muốn Pháp đặt nhịp cầu đầu tiên ? Triển vọng đó khá quyến rũ Paris, nhưng Á đông vụ bộ ngoại giao dư biết là chuyện đó sẽ làm tăng thêm ảnh hưởng của những người trong bộ máy chính quyền Mỹ muốn thay thế Diệm bằng một chính phủ hoàn toàn được dùng để phục vụ những mục tiêu của Washington. Roger Lalouette là một nhà ngoại giao lão luyện và rất rành rẽ về những vấn đề Việt Nam. Ông biết một hành động quá lộ liễu sẽ làm Diệm bị thay thế rất mau lẹ để nhường chỗ cho một chính phủ hoàn toàn theo đường lối của Washinton. Ông quyết định trao cho giáo sư Maneli, người mà ông tin cậy, một kế hoạch ba giai đoạn cho Việt Nam : mở cuộc đối thoại giữa Hà Nội và Sài Gòn ; đặt những trao đổi kinh tế và văn hoá ; tổ chức những cuộc hội đàm về chính trị. Maneli quyết định chuyển tin ra Hà Nội nơi mà ông đi đi về về nhiều lần. Phạm Văn Đồng khẳng định là ông lúc nào cũng sẵn sàng mở cuộc hội đàm, công khai hay bí mật, và tất cả đều thương lượng được “trên căn bản độc lập và chủ quyền quốc gia “. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị cho Xuân Thủy, tổng trưởng ngoại giao làm một danh sách hàng hóa có thể trao đổi với miền Nam. Maneli tương đối lạc quan, trở lại Sài Gòn nhất quyết gặp Nhu. Phạm Văn Đồng cũng đề nghị Diệm, để chứng tỏ thiện chí của mình, cho lập lại trao đổi kinh tế và văn hoá giữa hai miền. Miền Bắc sẵn sàng cung cấp than đá không đặt điều kiện nào với giá rẻ hơn giá trị trường thế giới để đổi lại gạo, thực phẩm và cao su. Phải đương đầu với một cơn hạn hán trầm trọng, Hà Nội cũng muốn thoát khỏi viện trợ của Trung Quốc, trở thành quá bao trùm từ khi Trung Quốc và Liên Xô tuyệt giao.. Ngày 1-6-63, Roger Lalouette thông báo cho tổng thống Diệm những điều mật mà Maneli thâu thập được. Điện Élysée cũng được thông báo về công việc mai mối của người đại sứ của mình và không tỏ dấu hiệu gì là không muốn Lalouette tiếp tục làm chuyện đó. Trong buổi trao đổi riêng với đại biểu Ba Lan nhân dịp tân tổng trưởng ngoại giao Nam-Việt Nam Trương công Cừu mới nhậm chức, Nhu đề nghị tiếp Maneli ngày 2-9. Sài Gòn lúc đó sống trong bầu không khí quá căng thẳng, bị chìm đắm trong những tiếng đồn là sẽ có đảo chính và đang có những mặc cả thầm kín.. Tướng De Gaulle ” trở lại ” sân khấu Đông Dương Bằng một bản tuyên bố long trọng, tổng trưởng bộ Thông tin Alain Peyrefitte đọc ngày 29-8-63, vị tổng thống Cộng hoà Pháp quốc mở lại cái hồ sơ Đông Dương nóng bỏng : ” Những biến cố trầm trọng đang diễn ra ở Việt Nam được nước Pháp chú tâm theo dõi với đầy cảm xúc và muốn thật tâm chia xẻ với dân tộc Việt Nam những thử thách mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng. Trong tình trạng hiện tại ở Á châu, dân tộc Việt Nam, một khi có thể khuyếch trương mọi hoạt động của mình trong hòa bình, thống nhất, độc lập với bên ngoài, và hoà hợp với các nước lân bang, sẽ có thể đóng một vai trò cho sự tiến bộ của riêng mình và cho sự thông cảm quốc tế… Lẽ tất nhiên là sự lựa chọn phương cách đi tới những mục tiêu đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của dân tộc Việt Nam. Nhưng nước Pháp sẵn sàng, trong phạm vi có thể được của mình, tổ chức với đất nước này một cuộc hợp tác hữu nghị. ” Phủ nhận một cách rõ ràng việc chia đôi Việt Nam, đồng thời cũng gắn liền với nhau hoà bình, thống nhất và trung lập, De Gaulle khuyến khích mọi người Việt Nam tự giải phóng khỏi ảnh hưởng quá mức của các thế lực ngoại bang : ảnh hưởng của ” cộng sản quốc tế ở miền Bắc (nhất là Trung Quốc khi đó chế ngự tất cả ) ; ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở miền Nam. Tuy vậy bản tuyên bố 29-8 không tạo ra được sự phấn khởi cho các đương sự. Hà Nội tỏ ra lãnh đạm và phải một tháng sau Phạm Văn Đồng mới công khai cám ơn De Gaulle về sự ông tuyên bố tiếp tục hỗ trợ Hiệp định Genève. Ở Nam- Việt Nam, ngược lại,, bản tuyên bố được đăng trên trang đầu tờ Việt Nam Báo. Báo chí Sài Gòn cho là De Gaulle có ý muốn khích lệ chế độ và muốn cổ võ chế độ độc lập với Mỹ hơn. Để chứng tỏ mình là ngưòi hiểu rõ tinh thần bản tuyên bố, Nhu tuyên bố với báo chí ngày 11-9-63 là những ý định của tướng De Gaulle – người có những ” cái nhìn hoàn vũ “, người ” biết thiết kế những dự án vĩ đại ” – mà sau này, sau một kỳ hạn, chủ tâm của ông sẽ tạo ra được ” một phương thức, cũng phải qua một kỳ hạn lâu dài, cho sự thống nhất xứ sở ” Lẽ tất nhiên là Washington là nơi tiếp nhận tồi tệ nhất lập trường của De Gaulle. Người Mỹ cũng bối rối về phương hướng chính trị của Pháp về Việt Nam và cũng trách cứ De Gaulle đã không giữ lời cam kết với Kennedy năm 1961 là không bao giờ biểu lộ công khai lập trường của mình. De Gaulle, Lalouette và buổi chiều tàn của anh em Ngô Ngày 24-8-63 toà Bạch Ốc gửi điện thư dặn dò đại sứ Lodge tìm một giải pháp để thay thế Diệm khiến CIA thấy như được cho phép, khuyến khích một số hữu trách quân sự Nam-Việt Nam làm đảo chính. Được báo tin là cuộc đảo chính chống anh em Diệm sẽ xẩy ra tức thời, Lalouette khuyên Lodge nên nhẫn nại vì Lalouette luôn luôn cho Diệm là hi vọng cuối cùng của hoà bình, vì là người duy nhất có thể đạt được một thoả hiệp với Giải phóng miền Nam và Hà Nội. Ông tiên đoán hạ bệ Diệm là một sai lầm không cách nào mà sửa được vì bất cứ một chính phủ nào khác cũng sẽ phụ thuộc Mỹ nhiều hơn và sẽ không để một chút hi vọng gì cho một giải pháp hoà bình. Lalouette nằm trong một nhóm nhỏ những người tán thành, đầu tháng 9, những cuộc gặp gỡ giữa Nhu và Maneli, người trung gian của Ủy hội Quốc tế. Ngày 3-9, sau khi đưa bản tuyên bố ngày 29-8 cho Diệm, Lalouette nói chuyện với Diệm 3 giờ. Diệm hét ầm lên : ” người ta nói, đang có dự định một cú bạo lực ( coup de force ). Người ta nói, tính mệnh tôi bị lâm nguy. Không thể tưởng tượng được là người ta có thể dùng đến những thủ đoạn như vậy đề chống chính phủ một nước bạn…”. Để che giấu sự sửa soạn làm cuộc đảo chính, Lodge nói với Lalouette là ông ta sắp đi gặp tổng thống Kennedy để xin gia hạn cho Diệm Nhu, ông ta thêm : ” Nhu bằng lòng từ chức, bỏ Sài Gòn sống ở Đà Lạt. Nhưng Nhu không chịu rời bỏ Việt Nam vì không muốn mất liên lạc với GPMN (lnd : chuyện ông Ngô Đình Nhu bắt liên lạc với Phạm Hùng là có thật). Không thừa nhận chế độ mới ở Sài Gòn Không thể đưa ra đây những chi tiết cuộc đảo chính ngày 1-11-63 chống Diệm và ngày 2-11 anh em Diệm bị giết. Paris được yêu cầu công nhận chính phủ lâm thời đứng đầu là Nguyễn Ngọc Thơ, cựu phó tổng thống của Diệm. Trong số 80 nước có liên lạc noại giao với Việt Nam Cộng Hoà dưới Diệm, 30 nước đã công nhận chế độ mới. Sài Gòn mong muốn sớm nhận được một dắu hiệu tích cực đến từ Pháp vì Pháp vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở Nam-Việt Nam. Paris chỉ chính thức nhận thư của chính phủ Sài Gòn ngày 16-11, 10 ngày sau khi tiếp được thư. Paris chỉ nói là sẽ tiếp tục những giao thiệp thường xuyên. Vì ngại thiện cảm ban đầu đối với nước Pháp trở thành ác cảm có hại cho quyền lợi nước Pháp, ban giám đốc Á châu sự vụ bộ ngoại giao thỉnh cầu De Gaulle nhiều lần trong tháng 11 là nên công nhận chế độ mới. De Gaulle vẫn làm thinh. De Gaulle thật ra nhìn xa hơn và đúng hơn nhiều nhà ngoại giao. Giải pháp trung lập mà ông đưa ra có thể tránh cho Nam-Việt Nam một cuộc chiến tranh lâu dài và một sự bỏ rơi phũ phàng không còn gì là phẩm giá. Có lẽ trong thâm tâm, tướng De Gaulle hi vọng trung lập hoá riêng biệt 2 miền, Bắc Việt và Nam Viêt. Nhưng ông cũng như người Mỹ, biết là rất khó khăn Bắc Việt chịu bỏ chế độ cộng sản và sự trung lập của Nam Việt cũng khó mà được Bắc Việt tôn trọng, Đồng thời cũng khó mà hãm được ý định ngự trị đang chớm nở của Trung Quốc. Tướng De Gaulle chỉ đề ra cái đỡ tệ nhất : Sau một kỳ hạn, sự thống nhất Việt Nam sẽ do người cộng sản thực hiện dưới cái vỏ trung lập. Ý đồ trung lập của tướng De Gaulle nằm trong những mưu toan chính trị – quân sự ở Sài Gòn Ngày 29-1-64, Lodge báo cho bộ ngoại giao Mỹ là tướng Khánh, tư lệnh quân đoàn I Quân đội Quốc gia Việt Nam quả quyết với ông là đã khám phá được trong chính phủ Nam- Việt Nam một âm mưu trung lập do Pháp gợi ý. Những tướng thân Pháp, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân bi coi là có dính líu. Lodge tin Khánh là một trong những tướng có khả năng nhất và khác với tướng Trần Văn Minh, sẽ ngả theo kế hoạch chiến tranh bí mật và thả bom Bắc Việt của lầu Năm góc. Lodge đem Khánh và gia đình vào toà Đại sứ lánh nạn và hứa nếu cần sẽ di tản cả gia đình ra khỏi nước bằng máy bay. Đảo chính ( của tướng Khánh ) xẩy ra ngày 30-1. Trước ngày đó Washington đã làm áp lực xuống De Gaulle, làm như là nhóm tướng tá Nam Việt bị coi là có ý tưởng trung lập có thể xử sự theo lệnh hay theo ý của De Gaulle. Theo nhiều bằng chứng mà các nhà ngoại giao và các cơ quan tình báo thâu thập được, thì trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng, ngay sau Đảo chính 1-11, đã có 2 phái theo 2 xu hướng khác nhau : xu hướng thiên về giải pháp của Pháp ( Dương văn Minh, Lê văn Kim, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỹ ), xu hướng trung thành với đường lối của Mỹ ( Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hữu Có, Phạm xuân Chiểu, Đỗ Mậu ). Nội bộ quân đội trước đã rất mong manh, nay có thể bị coi là đã tan vỡ. Tham vọng chính trị của các tướng lãnh quân đội được thả giàn và những cuộc đảo chính nối tiếp nhau để các tướng lãnh thay nhau vơ vét viện trợ Mỹ mỗi ngày một kếch xù. Để tránh Nam- Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản quá mau chóng, Johnson thấy cần phải thuyết phục De Gaulle với bất cứ giá nào để De Gaulle tuyên bố là kế hoạch trung lập hoá Nam Việt không phải là ngay tức khắc. Johnson kiếm được một đồng minh là Gaston Deferre úng cử viên tổng thống đảng xã hội Pháp năm 1965. Được tiếp ở toà Bạch Ốc, Deferre chỉ trích thẳng cánh chính sách trung lập hoá Đông Nam Á của De Gaulle và cho là De Gaulle chỉ có mục đích làm Mỹ lúng túng. Deferre hứa là khi trúng cử sẽ tức khắc đi đến Washington hỏi ý các đồng minh trước khi quyết định đường lối chính trị của mình ! Paris nghĩ là sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Nam-Việt Nam và sự hăm doạ leo thang chiến tranh trong một kỳ hạn ngắn có thể là những quân bài chủ của Tây phương nếu – và chỉ nếu – đặt mục đích tối hậu là thương lượng. Sự hoà hoãn của Liên Xô có thể giúp ích cho việc đó. Là siêu cường quân sự độc nhất ở Thái Bình Dương, Mỹ phải đối đầu với thế lưỡng nan của một cuộc chiến tranh với Trung Quốc mà Mỹ vẫn coi như là một cường lực thuộc thủa sơ khai, hung bạo, hiếu chiến và nuôi óc bành trướng. Nhưng để tránh một kịch bản chiến tranh, đổi lại với một sự cam kết rõ ràng là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng một thứ trung lập nào đó, Paris tin chắc là Mỹ có thể điều đình thẳng thắng với cả hai, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc.. Nếu khó mà có thể nghi ngờ thái độ hoà hoãn của Liên Xô cho tới đầu năm 1965, thì cho tới bây giờ vẫn khó mà biết được ý của Trung Quốc về những đề nghị đàm phán của Pháp. Trong số các nhà sử học có người khẳng định là, với mục đích loại trừ những kẻ thù theo ” chủ nghĩa xét lại “, Mao nghĩ đến chiến tranh nhiều hơn là hoà bình, nhất là sau chuyện vịnh Bắc bộ. Nhiều người khác lại nhắc lại là CHNDTQ đã khuyên Hà Nội thận trọng trước những gây hấn của Mỹ vì Trung Quốc thật sự sợ bị lôi cuốn vào một cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ. Ít nhất là tới đầu năm 1965, Trung Quốc khuyên đồng minh của mình nên để ngỏ cửa cho sự điều đình. Phân tích lập trường của Hà Nội cũng ngần ấy khó khăn :Các nhà lãnh đạo VNDCCH, một mặt muốn mở cửa điều đình với những thủ lãnh mới của Sài Gòn, một mặt, ngay từ tháng 12- 63, đưa ra quyết định tăng cường áp lực quân sự tại miền Nam. Bộ Chính trị đảng Lao Động có vẻ chia rẽ : nhiều nhân vật như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và có lẽ cả tướng Giáp tán thành giải pháp trung lập miền Nam để tránh một cuộc chiến tranh lâu dài và ác nghiệt. Tuy nhiên với sự vươn lên của Lê Duẩn trong lúc sức khoẻ của Hồ Chí Minh bắt đầu suy đồi, bộ Chính trị đã bị bẻ theo hướng thân Trung Quốc. Tiếp theo là một làn sóng thanh trừng trong nội bộ Đảng, trong giới trí thức và sinh viên. Chỉ mấy tuần sau, bộ Chính trị chuẩn y gửi những đơn vị tác chiến đầu tiên của QĐNDVN vào miền Nam. Bắc Việt cũng bắt đầu phải tập sự ngoại giao làm sao giữ được thăng bằng giữa 2 cường quốc địch thủ cùng trong phe cộng sản. Bắc Việt cũng không muốn trở lại bàn hội nghị nữa vì cảm thấy là nạn nhân của Hội nghị Genève năm 1954. Đại sứ Mai Văn Bộ bộc lộ rõ ràng mối oán giận của các nhà hữu trách VNDCCH đối với Bắc Kinh và sự ngờ vực đối với Paris, khi phê phán : ” Ở Genève chúng tôi đâu có nhờ người Trung Quốc thương lượng. Họ đã chiếm chỗ của chúng tôi “. Lý Văn Sáu, cựu đại biểu phái đoàn Giải phóng miền Nam trong hội đàm Paris cũng nói lại là nhiều người Việt coi Hội nghị Genève là một bức chế. Ý chí muốn xích lại gần Hà Nội Ngày 1-7-65, Mai Văn Bộ khẳng định với Nanac’h, giám đốc Á châu sự vụ bộ Ngoại giao là chính phủ của ông muốn bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước Pháp. Ngày 24- 1-66, Hồ Chí Minh gửi một lá thư cho tướng De Gaulle yêu cầu De Gaulle dùng ” uy thế của mình để làm ngưng lại cho kịp thời những âm mưu nham hiểm mới của Mỹ ở Việt Nam và ở Đông Dương “. De Gaulle viết thư trả lời ” chủ tịch Hồ Chí Minh ” ngày 8-2. Ngày 15, bức thư trả lời được chính thức đăng trên báo chí với những lời lẽ rất hoà giải và lễ độ làm ngạc nhiên và bực mình những giới có liên hệ với Nam-Việt Nam. Không chỗ nào mà những lời chỉ trích sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam được giới truyền thông nói tới nhiều bằng trong bài diễn văn Phnom Pênh. Nếu 73% dân Pháp đồng ý với nội dung bài diễn văn đó thì cũng có nhiều chính khách, nhà báo, nhà ngoại giao tiếc là De Gaulle chỉ cáo giác một bên là Mỹ và như vậy khó có thể đứng làm trung gian giữa 2 bên được. Mendès France cho bài diễn văn vô ích, không thực tế. Tuy Mendès France cùng quan điểm với De Gaulle về cách hay nhất để làm mất sự sợ hãi giữa Mỹ và Trung Quốc là trung lập hóa toàn thể Đông Nam Á, Mendes France khác De Gaulle về phương cách : cho cách hay nhất là De Gaulle nên đi thẳng đến Hà Nội, Washington hay Bắc Kinh để trình bày những đề nghị của mình ngõ hầu làm giảm bớt những nghi ngờ và những đối kháng. Báo chí Trung Quốc im hơi lặng tiếng về cuộc viếng thăm Cam Bốt của De Gaulle vì các nhà lãnh đạo CHNDTQ coi Hiệp định Genève là đã lỗi thời trong khi De Gaulle vẫn muốn dựa vào nó. Sainteny móc nối một đường dây cho tương lai Sainteny, tổng trưởng bộ Cựu chiến binh trong nội các Pompidou từ 1962 đến 1966 được De Gaulle tin cậy vì là người đã tham dự nhiều về công chuyện Việt Nam và thỉnh thoảng vẫn có liên lạc với những nhà ngoại giao người Việt và người Mỹ công cán ở Paris. Ông nói với người Mỹ là Việt Nam thống nhất có lợi cho Tây phương : ” biên thùy ” Nam Bắc được mở, những thành phần không cộng sản trong nước sẽ được lợi thế vô kể vì, theo kinh nghiệm của ông khi còn ở Hà Nội, đa số người dân miền Bắc không thích hệ thống cộng sản. Cũng vì De Gaulle biết Sainteny được các lãnh tụ cao cấp Bắc Việt như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng mến chuộng nên ngày 24-2 ông được De Gaulle trao cho một bức thư cầm tay cho chủ tịch nước VNDCCH, nói là De Gaulle muốn có những tiếp xúc mới và chỉ giữa 2 người với nhau. Sainteny được Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng ngoại giao, phó thủ tướng tiếp ngày 4-7, và sau đó được chính thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Ngày hôm sau 5-7, Sainteny được tiếp chuyện riêng chỉ giữa 2 người với Hồ Chí Minh ở Chủ tịch phủ. Cảm tưởng của Sainteny là chủ tịch VNDCCH không còn giữ quyền chính nữa mà giao phó cho Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh có vẻ thất vọng về bức thư của De Gaulle. Tuy không có ảo tưởng gì về những lời khuyên của mình, Sainteny cũng cảnh giác những người đối thoại về hậu quả của một cuộc tranh đấu đến tận cùng, có thể làm lụn bại Việt Nam hay làm Việt Nam rơi hoàn toàn vào quĩ đạo Trung Quốc. Rút cục những cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, có vẻ hữu ích cho mối bang giao Việt – Pháp nhiều hơn là tìm được một giải pháp ngoại giao .. Ảnh hưởng của Bắc Kinh bao trùm Hà Nội lúc đó. Bắc Kinh thúc đẩy tiếp tục chiến tranh để hưởng lợi : Mỹ bị thua một nước nhỏ, sẽ mất hết uy tín ở phương Đông, bang giao giữa Washington và Moscou sẽ bị lục đục, sự tùy thuộc Bắc Kinh về viện trợ sẽ mỗi ngày một lớn. Nhưng cái khốc liệt nhất là các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang mở những cuộc thanh trừng các tầng lớp tư sản, trí thức, sẽ tiếp tục đem chiến tranh Việt Nam ra để biện bạch. Tuy nhiên khi Sainteny gặp Phạm Văn Đồng lần thứ hai, lần đầu tiên Phạm Văn Đồng nói sẽ ngưng xâm nhập nếu Mỹ ngừng thả bom. Bộ Ngoại giao Mỹ không giấu nổi sự ngạc nhiên và bằng lòng. Dean Rusk ra huấn thị cho đại sứ Mỹ gặp Sainteny để làm sáng tỏ những câu nói của Phạm Văn Đồng. Một ủy ban đàm phán do Averell Harriman cầm đầu ủy nhiệm Giáo sư Henry Kissinger, ngôi sao đang lên của Washington và cũng là chỗ quen biết của vợ Sainteny, Claude Dulong, lo việc này. Kissinger gặp Sainteny ngày 13-6-1966 trước khi ông trở lại Á Đông. Nói tóm lại Sainteny đã không trở về với 2 bàn tay trống. Cuộc viếng thăm Hà Nội của ông đã cho toà Bạch ốc thấy ông là người trung gian có tiềm năng. Toà Bạch Ốc tưởng đã gạt bỏ được mãi mãi vai trò trung gian của chính phủ Pháp sau bài diễn văn Phnom Penh. Một đường dây đầy hứa hẹn : Pennsylvania Pennsylvania là mật mã của một đuờng dây bí mật trong đó có tên của 2 người Pháp không thuộc ngành ngoại giao bên cạnh tên của giáo sư Kissinger : Hebert Markovich và Raymond Aubrac. Marcovich là một nhà vi sinh vật học thuộc viện Pasteur Paris, Aubrac là nhân viên cao cấp của FAO ( Tổ chức Liên Hiệp Quốc về thực phẩm và canh nông ). Aubrac được mời vào đường giây này vì là cựu kháng chiến và là chỗ thân tình của Hồ Chí Minh. Hai sứ giả Pháp được Henri Kissinger nhờ nhắn tin với Hà Nội là chính phủ Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom Bắc Việt với điều kiện là VNDCCH không tăng cường thâm nhập Nam Việt. Kissinger nhấn mạnh chữ ” ngưng tăng cường thâm nhập ” thay vì ” ngưng thâm nhập “. Tới Hà Nội ngày 21-7 hai trung gian Pháp được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đón tiếp, lấy cớ để tái lập sự liên lạc giữa viện Pasteur Paris và viện Pasteur Hà Nội. Ngày 24, 2 người được gặp Phạm Văn Đồng. Marcovich đưa tin của Kissinger cho thủ tướng VNDCCH. Aubrac nói thêm vào là vấn đề kiểm soát sự thâm nhập phải được giải quyết và Mỹ hoan nghênh những đề nghị của Hà Nội. Thủ tướng hỏi ” Làm sao họ biết được chúng tôi ngừng thâm nhập ?” Marcovich trả lời là với máy bay trinh thám có thể kiểm soát được một phần. Buổi chiều Aubrac được Hồ Chí Minh tiếp. Sau 15 phút hàn huyên về gia đình Aubrac mà Chủ tịch biết rất rõ từ khi còn ở nhà Aubrac năm 1946, Hồ Chí Minh bắt đầu bằng một bài thuyết trình về lịch sử, địa dư và địa lí chính của cuộc chiến tranh, rồi Hồ Chí Minh trở lại những câu chuyện thường và có ý nói là những chi tiết về thuơng lượng đều do thủ tướng Phạm Văn Đồng nắm giữ. Ngày hôm sau 2 người gặp lại Phạm Văn Đồng. Ông lập lại với 2 người là ngưng chiến đòi hỏi phải ngưng thả bom vô điều kiện, vô thời hạn và Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Marcovich ngắt lời và có ý cho là thiếu thực tế. Phạm Văn Đồng đành phải nói rõ ràng : Quân đội Mỹ có thể ở lại cho tới khi đạt được một thoả hiệp chính trị ở Nam Việt. Nếu cần phải bàn bí mật thì bàn tuy không thích hội đàm bí mật ( chỉ giữa Mỹ và Bắc Việt ). Không cần phải có sự tham dự của GPMN khi những vấn đề được đem ra bàn không dính dáng gì tới Nam-Việt Nam. Khi trở về Paris, Aubrac và Marcovich vội vã tường thuật cho Kissinger nghe. Những lời nói của Phạm Văn Đồng được Washington cho là thực tế và khích lệ : đàm phán bí mật, không có sự hiện diện của GPMN, quân đội Mỹ vẫn có thể ở lại miền Nam cho đến khi những vấn đề chính trị được giải quyết, thành lập một chính phủ liên hiệp trong đó có.những nhân vật của chính phủ Sài Gòn. Một lần nữa toà Bạch Ốc đã không cho là cần thiết phải giảm bớt nhịp độ thả bom miền Bắc song song với sự tiến bộ đạt được của đường giây Paris. Rội bom ác liệt nhất trong chiến dịch Rolling Thunder là từ ngày 20 đến 23-8. Chính phủ VNDCCH từ chối tiếp thư của các sứ giả Pháp gửi cho Mai Văn Bộ. Đường giây bị tắt ngấm. Sự trỗi lên của đường dây Manac’ h Tháng 10-1967, Manac’h nhận lời Mỹ đóng vai trò trung gian không chính thức giữa sứ quán Mỹ ở Paris và tổng đại diện VNDCCH để chuyển vận thư tín và thúc gấp cuộc đối thoại. Manac’ h nhận được khẳng định của Bộ ngày 8-12 : ” Nếu Mỹ ngưng thả bom, sẽ có thể có những cuộc hội đàm “. Manac’ h nói với Bộ là vì vấn đề tâm lí đối với dân Mỹ, cần phải nói rõ ràng hơn, khẳng định hơn, như ( “những cuộc hội đàm sẽ diễn ra… ). Ngày 29-12 một bản tuyên bố của Nguyễn Duy Trinh bằng tiếng Pháp được phổ biến với những động từ được chia ở Thì tương lai, không chia ở điều kiện thức ( lnd : conditionnel trong văn phạm Pháp) nữa : Sau khi ngưng thả bom vô điều kiện (…) VNDCCH sẽ bắt đầu những cuộc nói chuyện với Hoa Kỳ về những vấn đề có liên quan…” Mai Văn Bộ khẳng định với Manac’ h là bản tuyên bố hoàn toàn có tính cách chính thức và từ ngữ ” ngưng thả bom vô kỳ hạn “đã được bỏ đi. Về thời gian từ khi ngưng thả bom đến khi mở cuộc hội đàm, Bộ nói rõ : ” VNDCCH mở cuộc đàm phán ngay khi sự ngưng thả bom được thực hiện ” Hai địch thủ có vẻ đi gần nhau về những điều kiện được đòi hỏi để mở cuộc hội đàm. Chọn Paris làm chỗ hội đàm hoà bình Ngày 20-1 1968, giáo sư Roussel chủ tịch hội Y giới Việt-Pháp, 3 ngày trước khi đi công tác y tế ở Hà Nội, được mời tới điện Élysée để De Gaulle trao cho một nhiệm vụ bí mật là thăm dò phản ứng cúa thủ tướng VNDCCH, không những về sự tăng cường quan hệ Việt-Pháp sau bài diễn văn Phnom Pênh, mà còn về sáng kiến của De Gaulle là mở những cuộc hội đàm sơ bộ về hoà bình ở Paris. Khi được Phạm Văn Đồng tiếp kiến, Phạm Văn Đồng phát biểu ” Ông nói với tướng De Gaulle là tôi đón nhận mọi ý kiến. Trái banh ở bên tướng De Gaulle “. Qua câu trả lời, Điện Élysée coi là đã nhận được sự ưng thuận mặc nhiên của chính phủ Bắc Việt về ý tưởng một hội nghị tương lai ở Paris bàn về hoà bình Việt Nam. Theo CIA, điện Élysée muốn chắc chắn có được sự hỗ trợ của cả hai chính phủ Việt Nam về sự chọn lựa Paris, nên đã nhờ một người trung gian kín đáo trao cho chính phủ Nam Việt một bức thư về sự lựa chọn này. Tuy không biết danh tính của người trung gian này, nhưng chắc cũng phải là một nhân vật quan trọng mới tiếp xúc được với những nhân vật cao cấp của chế độ như Nguyễn Văn Hiếu, cố vấn chính trị, anh của tổng thống Thiệu, nhiều tổng trưởng trong đó có tổng trưởng ngoại giao Trần Văn Đỗ và đại sứ Sài Gòn ở Mỹ. Người trung gian cũng nói riêng với một nhân viên CIA là cuộc thăm viếng nhằm mục đích muốn soi sáng tổng thống Thiệu và những cố vấn của ông về thái độ của De Gaulle và của những nhà hữu trách chính trị Pháp đối với chính phủ Nam Việt và về những diễn tiến chính trị trong sự quyết định của Bắc Việt khi chấp thuận những cuộc thương lượng. Người trung gian cũng biện bạch cho sự xích lại gần Hà Nội của Paris là muốn cân đối ảnh hưởng của Trung Quốc cộng sản và chính phủ Pháp vẫn quyết tâm giúp chính phủ Nam Việt bằng mọi phương tiện có thể được, vì có trách nhiệm tinh thần với những người Việt Nam chống cộng đã chiến đấu cho và với người Pháp. Người trung gian cũng nói hi vọng cuộc hội đàm diễn ra khi Hồ Chí Minh còn sống chứ không với Lê Duẩn hay với Trường Chinh. Chính phủ Pháp cũng cho quyết định hội đàm của Hà Nội là một hành động can đảm trước những áp lực của Bắc Kinh chống cuộc hội đàm. Hoàn toàn là tình cờ hay là kết quả của đường giây bí mật này? Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Evening Star ngày 23-4, Trần Văn Đỗ khẳng định là Nam-Việt Nam không bác bẻ sự chọn lựa Paris làm nơi hội đàm sơ bộ giữa các nhà ngoại giao Mỹ vả Bắc Việt, và ngay cả cho những cuộc hội đàm sau này nếu mang lại kết quả. Bắc Việt và Nam Việt đều có quan hệ ngoại giao với nước Phàp và các nhà ngoại giao Nam Việt có thể đóng vai trò quan sát viên của mình một cách tự do. Kết luận Ngày 24-4-69, tướng De Gaulle lấy cớ không được tín nhiệm trong một cuộc trưng cầu dân ý, từ chức. Từ sau biến cố tháng 5-68 ông đã nhất quyết sửa soạn ra đi để bảo toàn phẩm giá cho mình. Ông chỉ chờ cơ hội.. Khi ông đưa ra một giải pháp để thay thế sự can thiệp quân sự của một cường quốc có quân lực mạnh nhất thế giới, khi ông cố gắng đẩy xa chiến tranh lạnh ở những nước Đông Nam Á bị tù túng trong những liên minh, rồi thúc gấp mở ra những cuộc đàm phán, phải chăng De Gaulle đã góp phần cho sự thăng bằng thế giới ? Đường lối chính trị của De Gaulle đã đưa tới sự hòa giải biểu tượng với Việt Nam mà không chối bỏ tình hữu nghị với Hoa Kỳ. Những giá trị chung giữa các nền văn minh được công nhận và được đặt lên trên những tách biệt về lí tưởng và những khủng hoảng từ đó mà ra. Sự thừa nhận những giá trị đó đến từ một người đã biết tự nhận những lỗi lầm của mình để từ đó đã rút tỉa được những bài học tích cực. Một người biết chấp nhận tầm vóc bi kịch của Lịch sử. Phong Uyên
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 10, 2014 7:54:25 GMT 9
Những bức thư cam kết của NixonPhoto veteransnewsnow.com Những bức mật thư Từ tháng 8-1972 cho tới những ngày gần ký kết Hiệp định Ba Lê, Kissinger và TT Nixon đã hứa hẹn riêng với TT Thiệu ông sẽ can thiệp nếu hai miền Nam Bắc có xung đột nhưng ông Thiệu biết những lời hứa này chỉ là mong manh. TT Nixon đã nhiều lần cam kết sẽ giáng trả mãnh liệt mọi sự vi phạm của BV sau ngày ký Hiệp định để làm TT Thiệu an tâm vì ông phản đối việc BV được ở lại miền Nam . Đến ngày 8-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, Phó Tổng thống Ford lên thay. Khi Hà Nội mở cuộc tổng tấn công đầu năm 1975, ông Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford “CSBV lợi dụng Hiệp định Paris để xâm lăng miền nam VN mà chúng tôi đã đoán biết ý định của họ ngay từ hồi còn đàm phán. Chúng tôi đã được Tổng thống Hoa Kỳ tiền nhiệm cam kết sẽ giáng trả nhanh chóng, ác liệt với mọi vi phạm Hiệp Định của BV. Đối với chúng tôi, những lời hứa này thật quan trọng cho sự bảo đảm thi hành Hiệp định, vào thời điểm này những lời cam kết ấy sẽ vô cùng cần thiết cho sự sống còn của miền nam VN.” (1) TT Ford và Kissinger đều biết không dễ gì mà thoát ra khỏi tình trạng khó khăn này, họ đều chấp nhận sự thật là Quốc Hội sẽ không cấp bất cứ khoản viện trợ bổ túc nào cho VN. Sau ngày ký Hiệp định Paris, miền Bắc VN và Hoa Kỳ ăn mừng Hiệp định, miền Nam không được an tâm khi BV còn để lại trên một trăm ngàn quân dưới vĩ tuyến thứ 17. Ông Thiệu cho rằng Lê Đức Thọ đã thắng lớn về ngoại giao, Hoa Kỳ đã ra khỏi cuộc chiến sa lầy. TT Nixon đã hứa sẽ trừng trị ác liệt với bất cứ cuộc tấn công nào của Hà Nội, nhưng cam kết này có đáng tin cậy không? Hạ tuần tháng 8-1972 TT Nixon gửi thư cho ông Thiệu cam kết không có điều khoản nào của Hiệp định mà không được bàn với ông trước, ngày 31-8 ông gửi thư cho ông Thiệu cam kết Hoa Kỳ không bao giờ phản bội đồng minh, không bán miền Nam dễ dàng để lấy hòa bình (2). Người dân Mỹ biết Hoa Kỳ không thể mua hòa bình danh dự hay chuộc lại những sự hy sinh bằng cái giá phản bội đồng minh, tôi không bao giờ làm thế và sẽ không bao giờ làm thế . Tuy vậy ông Thiệu vẫn không tin tưởng gì mấy. Sau khi thỏa thuận với Lê Đức Thọ bản Dự thảo Hiệp định ngày 9-10-1972, Tiến Sĩ Kissinger bay tới Sài Gòn để thuyết trình về ngưng bắn với TT Thiệu từ ngày 19-10 tới 22 -10. Ông Thiệu không chấp nhận Hiệp định và lên đài truyền hình chống đối Kissinger bán đứng miến Nam , Sài Gòn liên tục chỉ trích Hoa Kỳ và CSBV đàm phán sau lưng VNCH. Sau khi Kissinger về Mỹ ngày 23-10 và tường trình lên Tổng thống, Nixon vừa hứa, vừa trấn an Thiệu nói chúng tôi đã họp với Nga, Trung Cộng để đòi họ áp lực Hà Nội. Tôi tin tưởng Dự thảo sẽ giữ được tư do cho miền nam VN, nếu bán đứng VNCH thì chúng tôi đã có nhiều cách khác, chúng tôi cố gắng đòi những khoản tốt đẹp hơn, Nixon vừa hứa hẹn cũng vừa hù dọa để miền nam hợp tác ký kết Hiệp định. Tướng Haig được cử tới Sài Gòn ngày 9-11, hai hôm sau đem thơ của TT Nixon gửi ông Thiệu (3) xin sơ lược nội dung. “Nay bầu cử đã xong, tôi muốn nói chuyện tiếp với ông về vấn đề dự thảo Hiệp định, tôi rất nản vì tình thân hữu giữa hai nước chúng ta có khuynh hướng xấu làm lợi cho địch. Ông soay vặn chống đối thỏa ước rất bất công và tự hại mình. Trong những thư trước, như Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker đã trình bầy, bản Dự thảo Hiệp định cũng tốt. Chúng tôi tin là bên kia đã nhượng bộ nhiều và vẫn tiếp tục bảo vệ nền độc lập của miền nam VN cũng như để vấn đề chính trị cho người dân miền nam. Chúng tôi đã thông báo ông biết đang chuyển viện trợ ồ ạt để củng cố sức mạnh quân sự cho miền Nam trước khi ngưng bắn. Tôi đã nhắc lại nhiều lần lời cam kết vững chắc chống lại vi phạm Hiệp định nếu sẩy ra . Sau khi ký Hiệp định, tôi sẽ hội kiến với ông để thể hiện sự tiếp tục giúp đỡ của chúng tôi và để nhấn mạnh sự hợp tác chặt chẽ của chúng ta. Nếu ông tiếp tục chống đối sẽ làm lợi cho địch và lãnh hậu quả trầm trọng cho cả hai dân tộc chúng ta. Xin ông nói cho Tướng Haig biết chúng ta có thể tiến hành trên căn bản ấy. Chúng tôi ngợi khen dân tộc, quân đội các ông đã đạt chiến thắng lớn nhờ đó mà dự thảo sẽ được phê chuẩn. Tôi muồn được hợp tác với ông và chính phủ ông trong nhiệm kỳ thứ hai của tôi để bảo vệ tự do cho miền Nam như đã làm trong nhiệm kỳ trước. Trong bốn năm ông và tôi đã sát cánh nhau và chúng ta đã là đồng minh về quân sự, sự liên minh đựa trên tin tưởng lẫn nhau sẽ mang lại thành quả tốt đẹp” Sau này Nixon nói trong hồi ký: (4) ông cử Tướng Haig sang Sài Gòn trao cho ông Thiệu bức thư trả lời sự phản đối của VNCH đối với bản Dự thảo tháng 10. Ông hứa sẽ cố gắng hết sức để thay đổi những điều khoản trong Dự thảo đồng thời ông cũng cho biết Dự thảo như thế cũng được coi là tốt lắm rồi. Sự thực Nixon chỉ hứa cho qua chuyện để ông Thiệu an tâm nhưng thực ra không dễ gì mà thay đổi được trong khi BV đã nhượng bộ nhiều rồi, họ rút lại yêu cầu đòi lật đổ Thiệu, thành lập Chính phủ liên hiệp… Ngày 11-11 ông Thiệu gửi thư chúc mừng TT Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ hai, ông tỏ sự lo âu khi Cộng quân còn ở lại miền nam và đòi họ phải rút hết về Bắc. Ba ngày sau Nixon trả lời thư Thiệu, ông nhắc nhở Hoa Kỳ luôn cương quyết bảo đảm sự thi hành Hiệp định “ Chúng tôi luôn canh chừng họ vi phạm” (5) Ông chỉ chờ BV vi phạm thỏa ước để oanh tạc họ. Trong cả hai bức thư gửi TT Thiệu, TT Nixon nhấn mạnh đây là lời cam kết danh dự giữa hai nhà lãnh đạo đồng minh. “Trước hết chúng ta phải ghi nhớ cái gì thực sự bảo đảm Hiệp định. Nó không phải là một điều khoản đặc biệt nào trong Thỏa ước nhưng là ý chí liên hợp của chúng ta để gìn giữ những điều khoản ấy. Tôi xin nhắc lại lời cam kết của tôi với ông rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng nhanh chóng và ác liệt với bất cứ sự vi phạm Hiệp định nào” (6) Nixon cũng cho biết để thực hiện những hành động trừng phạt đối phương như trên ông cần phải được người dân Mỹ ủng hộ và chính phủ nam VN không cản trở hòa bình mà dư luận Mỹ đang mong đợi. Ông mong mỏi TT Thiệu chấp nhận và ký kết thỏa ước mà ông cho là tốt đẹp và sẽ được bảo đảm. Ngày 14-11-1972 Kissinger cho rằng Mỹ sẽ cưỡng bức thi hành Hiệp định, ông và Nixon đã bí mật hứa hẹn với Thiệu “Tôi xin cam kết với ông nếu Hà Nội không tôn trọng những điều khoản của Hiệp định thì tôi sẽ trừng trị họ ngay” (7) Ngày 15-11 Đại sứ Bunker mang thư của TT Nixon gửi ông Thiệu, ông Đại sứ cũng cam kết thêm rằng sự bảo vệ tối hậu cho VNCH của Mỹ là khả năng cưỡng bức thi hành và bảo đảm Hiệp định (8) và TT Mỹ đã viết thư cam kết thể hiện ý định của Hoa Kỳ như thế. Điều này có nghĩa là nếu có vi phạm ngưng bắn người Mỹ chúng tôi sẽ hành động nhanh chóng và hữu hiệu để bảo vệ VNCH. Sau này Nixon kể lại ông có nói với Kissinger hôm 20-11-1972: “Ta cần chú tâm tới việc cứu miền nam VN vì thế nên chúng ta phải hòa hoãn với Thiệu càng nhiều càng tốt như đã làm, vì điều ta quan tâm là giúp cho miền nam được sống còn và Thiệu lúc này có lẽ là nhà lãnh đạo duy nhất chỉ đạo họ theo chiều hướng này” (9) Trong khi Quốc hội và phong trào phản chiến đang xiết cổ Đông Dương từ từ, Nixon và Kissinger có thiện chí cứu miền nam VN bằng những phương tiện vá víu tạm bợ. Sự thực Hành pháp cũng chẳng còn thực quyền gì nhiều cho lắm, họ chỉ đủ khả năng giúp cho miền nam VN sống thêm ngày nào hay ngày nấy. Gần cuối tháng 11-1972, Nixon chỉ thị Kissinger chuyển lời nhắn gồm những điểm nhấn mạnh của ông cho VNCH, xin sơ lược: Cá nhân tôi ủng hộThiệu và miền nam VN như đã nói với ông ta trong ba bức thư trước đây, Hiệp định không quan trọng bằng quyết định của tôi lấy hành động ồ ạt chống lại BV trong trường hợp họ phá hoại Thỏa hiệp. Quân đội BV còn ở miền nam VN không nghĩa lý gì trong tình huống đó. Nếu họ không có lực lượng ở miền nam và tôi từ chối không trả đũa bằng không lực khi họ bắt đầu xâm nhập, chiến tranh sẽ diễn ra. Người Mỹ tin tưởng vào sức mạnh không quân của họ như lời Sullivan, Phụ tá bộ trưởng ngoại giao đã có lần nói với Nguyễn Phú Đức phụ tá ngoại giao VNCH: một câu xanh rờn: (10) “Hiệp định chỉ là một mảnh giấy, mực trên tờ giấy đó không quan trọng bằng sắt thép, bom đạn của máy bay B-52 Mỹ” Hồ sơ giải mật cho biết cuối tháng 11, Nixon và Kissinger tiếp Nguyễn Phú Đức, đặc phái viên của TT Thiệu, ông nói điều quan trọng là người Mỹ ký thỏa ước để có quyền bảo vệ Hiệp định, điều quan trọng hơn những điều khoản hay một tờ giấy là lời hứa bảo đảm Hiệp định của Hoa Kỳ. Lời hứa ấy được thể hiện trong buổi họp này. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ xin viện trợ nếu miền nam VN chấp nhận ký Hiệp định, như ông đã biết chúng tôi đã chuyên chở một khối lượng lớn quân viện cho miền Nam . Như thế Thỏa ước sẽ cho chúng tôi cơ hội xin Lập pháp tiếp tục viện trợ trong tương lai. Ngoài ra Mỹ còn nhiều căn cứ quân sự tại Thái Lan và các vùng phụ cận, nó cho chúng tôi cơ hội trừng trị mọi vi phạm của Hà Hội. TT Nixon khi ấy sẽ sát cánh bên TT Thiệu thành một phòng tuyến chống quân thù. Vì thế ta sẽ có được viện trợ quân sự, kinh tế và đe dọa trừng phạt của Hoa Kỳ bằng yểm trợ quân sự nhanh chóng khi có vi phạm, viễn tượng đáng lạc quan (11) Hồ sơ giải mật cuộc nói chuyện của TT Nixon với Phụ tá Nguyễn phú Đức tiếp theo, xin sơ lược: Nếu không đạt được thỏa ước thì cả Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn sẽ thất bại, TT Thiệu và TT Nixon đều không muốn miền nam VN sụp đổ . CS không bao giờ tôn trọng giấy tờ, họ biết rằng bom đạn của Mỹ sẽ giải quyết vấn đề. Người dân Mỹ nhận định rằng nếu TT ủng hộ Hiệp định, họ cũng sẽ ủng hộ, Đại Hàn tồn tại được nhờ viện trợ mỹ và nhất là Bắc Hàn biết rằng nếu vi phạm khu phi quân sự sẽ bị trừng trị ngay. Ở VN cũng vậy, nếu miền Bắc biết rằng vi phạm Thỏa ước là điều nguy hiểm (12) NPĐức trả lời Nixon quân đội BV phải rút khỏi miền nam VN, Kissinger nói thêm vào: miền nam sẽ không tổ chức bầu cử, không thả tù chính trị khi BV không chịu rút, ông cũng dụ dỗ Đức: TT Nixon sau bao nhiêu hy sinh nỗ lực lại có thể để cho BV chiếm miền nam? Nixon cũng thêm vào, nếu Hà Nội tăng cường xâm nhập, Hoa Kỳ sẽ phản ứng, ông không tin Liên Hiệp Quốc hay Ủy ban Quốc Tế kiểm soát đình chiến. NP Đức đề nghị ghi những lời cam kết vào văn kiện hoặc Thỏa ước nhưng Nixon nói thiếu gì cách. Ông nói thỏa ước trên giấy tở là software (phần mềm) và sắt thép bom đạn là hardware (phần cứng). Đức hội với Kissinger, ông ta nói “Điều quan trọng nhất là những lời Tổng thống hứa với ông, nó sẽ được chúng tôi ghi vào hồ sơ, cam kết của TT Hoa Kỳ” (13) Tác giả Larry Berman cho biết thật ra chẳng có ghi hồ sơ gì cả, nước Mỹ chẳng đụng một ngón tay để ngăn chận CS chiếm Sài Gòn. Trong những ngày cuối cùng của VNCH, Kissinger còn xác nhận là ông ta và Nixon không hề cam kết hợp pháp với miền nam VN mà chỉ là lời hứa hẹn tinh thần. “Họ đánh lừa Đức, nhưng không gạt được lịch sử”(14) Về tù binh, Kissinger nói với Đức không thả tù chính trị VC mà dùng nó làm con tin để đòi BV rút, Kissinger đã hứa với BV sẽ nói miền nam thả tù chính trị và chính ông đã gạt BV. Ông ta khuyên Đức không đếm xỉa gì tới Hội đồng hòa giải. Ngày 5-1-1973 Nixon lại cam kết với Thiệu. “Chúng tôi sẽ đáp lại bằng vũ lực tối đa nếu BV vi phạm Hiệp định”(15) Tháng 1-1973 phía Mỹ đưa Dự thảo cho ông Thiệu xem nhưng ông vẫn từ chối bác bỏ. Nixon trấn an Thiệu hứa tiếp tục viện trợ quân sự để cân bằng lực lượng khiến miền nam có thể chống lại những vi phạm nhỏ, Mỹ chống lại những vi phạm lớn của BV, ít nhất Hoa Kỳ cũng có thể làm như vậy (16) Sau này ông Thiệu nói “Những lời hứa hẹn ấy cưối cùng đã thuyết phục tôi ký kết” (17) Ý nghĩa và Hậu quả Năm 1998, trong buổi tổ chức kỷ niệm 25 năm Hiệp định Paris tại Washington D.C, Kissinger có tới tham dự và và nói về nhiều bức thư cam kết riêng của TT Nixon gửi ông Thiệu trong đó ông hứa sẽ cưỡng bách (CSBV) thi hành Hiệp định (to enforce the agreement) : (18). “ Những thư đó không bao giờ được coi là lời hứa hẹn quốc gia. Nó thể hiện ý định của ông Tổng thống. Mọi viên chức cao cấp của chính phủ kể cả tôi, Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng ngoại giao đã thể hiện đại cương sự minh xác được nói công khai hàng tuần rằng chúng tôi cưỡng bức thi hành Hiệp định. Chuyện ấy chẳng có gì lạ cả” Ông cũng cho biết ngoài Nixon ra, Tổng thống Kennedy hay Johnson cũng đã từng viết thư hứa hẹn với các nhà lãnh đạo quốc gia khác, tất cả những thư ấy không được coi là lời hứa của quốc gia (19) Cựu ngoại trưởng nói “Tất cả những lời hứa hẹn ấy đã được phổ biến. Ai cũng hiểu thế. Thư riêng của TT Nixon là chuyện bình thường và thể hiện ý định của ông Tổng thống. Khi mang tính lời hứa cũa quốc gia , những thư ấy phải được đưa ra Quốc hội” (20) Kissinger sau này cho biết những thư cam kết ấy đã được công khai hóa không dấu diếm nhưng tác già Walter Isaacson (21) chỉ trích Tiến sĩ Kissinger không thành thật về điểm này. Điều quan trọng là Kissinger nghĩ Hoa Kỳ sẽ cưỡng bách thi hành Hiệp định bằng trừng trị vi phạm, theo đó ông và TT Nixon cam kết riêng với ông Thiệu nó đã gây xôn xao hai năm sau khi Sài Gòn đang sụp đổ. Ngày 14-1-1972 ông đọc bức thư hứa với Thiệu (do ông soạn cho Nixon) nếu Hà Nội vi phạm thỏa hiệp thì Mỹ sẽ giáng trả ngay và ngày 5-1-1973 một bức thư khác cũng nói tương tự nếu BV vi phạm Hiệp định chúng tôi sẽ trả đũa tối đa. Henry Kissinger sau này nói vì Hoa Kỳ đương nhiên sẽ cưỡng bách thi hành Hiệp định nên ông mới hứa hẹn với TT Thiệu. Walter Isaacson nói Henry xạo vì ông dư biết nước Mỹ đã quá chán chiến tranh không thể cho phép hứa yểm trợ quân sự được. Ông tin là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ cưỡng bách thi hành Hiệp định nhưng lại tránh nói công khai những thư bí mật mà ông viết cho TT Nixon để gửi ông Thiệu. Những thư cam kết này đã không hỏi ý kiến Quốc hội hay phổ biến cho người dân biết. Lý do dễ hiểu là ông ta biết thừa rằng nếu đưa ra bàn luận công khai sẽ bị Thượng Viện cho chìm xuồng ngay. Walter Isaacson nói hai năm sau tức 1975, Kissinger cho biết khi mới soạn ra ông đã cho phổ biến cho người dân biết, thực ra ông không hề phổ biến. Trả lời phỏng vấn hồi đầu năm 1973 “Hoa Kỳ có gửi quân sang VN không nếu Hiệp định bị vi phạm” ông đáp “Tôi không có ý kiến về tình trạng giả thuyết mà ta không muốn nêu ra”. Trả lời phỏng vấn của Marvin Kalb đài CBS khi nào thực hiện những lời cam kết Kissinger nói “Chúng ta không chấm dứt cuộc chiến này rồi lại tìm cách trở lại” Nhiều nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh Đông dương và các chính khách chê Kissinger lươn lẹo, nói ngược nói xuôi. Cam kết bí mật với TT Thiệu, hai ông Nixon và Kissinger đã vi phạm vai trò Quốc Hội đảm trách trong việc thỏa thuận những cam kết về quân sự. Hai năm sau, 1975 Quốc hội phát giác được chuyện những thư cam kết bí mật của Nixon – Kissinger, nó đã gây phẫn nộ cho nhiều Thượng nghị sĩ như Henry Jackson và góp phần vào không khí cắt hết mọi viện trợ cho miền nam VN (22) Kissinger có bàn về ý nghĩa và thực trạng của những lời cam kết ấy trong hồi ký của ông (23) nội dung có nhiều điểm hơi mơ hồ và khó hiểu, tôi xin sơ lược như dưới đây. “Suốt hai năm 1973, 1974 sự cưỡng bách thi hành Hiệp định đã thành đề tài tranh luận giống như chính cuộc chiến tranh, lý lẽ chống đối cũng y như thế. Phong trào phản chiến không chấp nhận tiền đề này rằng ta đã thực hiện hòa bình trong danh dự. Họ lý luận nếu dùng bạo lực để thực hiện cưỡng chế sẽ trái với vấn đề cơ bản đó là hỏa lực Hoa Kỳ tự nó là một nguồn gốc sự tàn ác trên thế giới. Cũng chính nhóm này trước đây đã chống đối mọi nỗ lực của chúng tôi nhằm chấm dứt chiến tranh nay họ lại bác bỏ bất cứ chính sách nào dù là để cưỡng bách thi hành Hiệp định hay để giúp đỡ những người mà ta đã chiến đấu vì họ. Đám phản chiến biện minh cho sự đầu hàng sau khi ký kết Hiệp định bằng đề nghị hoa mỹ: Ta không có “nghĩa vụ” hợp pháp chính thức nào để giúp đỡ Việt Nam hay để duy trì Hiệp định Paris, nhưng chỉ có những bức thư mật của Tổng thống thể hiện ý định của chúng ta muốn làm vậy. Những bức thư của Tổng thống không phải là cam kết chính thức hợp pháp nhưng nó chỉ thể hiện ý định của vị Tổng thống đang tại chức để tiên liệu đối phó với một tình huống bất ngờ sẽ sẩy ra. Nó đặt ra một bổn phận về đạo đức, tinh thần chứ không phải về pháp lý cho vị TT kế vị nhưng nó cũng suy giảm vì khoảng cách giữa các nhiệm kỳ. Dĩ nhiên không có ông Tổng thống nào có thể ủy nhiệm cho Quốc hội bằng lời tuyên bố đơn phương của mình. Kissinger cho biết trường hợp Việt Nam, những bức mật thư của Tổng thống được viết ra giữa thời gian bầu cử và nhậm chức, các viên chức cao cấp trong Chính phủ đã công khai nói Hành pháp chính thức quyết định cưỡng bách thi hành Hiệp định, những phát biểu này nhắc lại nội dung trong thư Tổng thống Hoa Kỳ gửi TT Thiệu. Trong mọi trường hợp, sự tranh luận về bổn phận của người Mỹ thiếu trọng tâm. Tổng thống Ford cũng như Nixon không hề đòi một bổn phận chính thức để giúp Việt Nam . Cái mà ta đề cập tới ấy là một vấn đề sâu xa hơn – một bổn phận đạo đức, tinh thần. Chúng ta mắc nợ sự giúp đỡ dân tộc đã đứng cùng chiến tuyến với ta (tức VNCH), mắc nợ số tử thương mà ta để lại (58 ngàn lính Mỹ) và tới nỗ lực chung mà ta đã can thiệp vào Khi nước Mỹ ký Hiệp định hòa bình, phía bên kia tự động phải biết rằng chúng ta không cho phép họ vi phạm các điều khoản của nó mà không bị nghiêm trị. Không trừng trị vi phạm, ngưng bắn chỉ là sự giả dạng đầu hàng. Tất cả các nhiệm kỳ Tổng thống trước cũng như sau đều nhìn nhận thế, kết quả của cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991 đã được gìn giữ tốt đẹp vì cà TT Bush và nhất là TT Clinton đã dùng vũ lực hay đe dọa để duy trì dàn xếp chấm dứt chiến tranh với Iraq. Sáu tháng sau Hiệp định, Quốc hội ra luật cấm mọi hoạt động quân sự tại và trên lãnh thổ Đông Dương tức là họ đã chính thức cấm Hành pháp cưỡng bách Hiệp định Paris để đầu hàng CS.” Nhận xét. Kissinger tới Sài gòn hạ tuần tháng 10-1972 để thuyết phục TT Thiệu ký Hiệp định Paris nhưng thất bại, ông Thiệu phản đối dữ dội và mở chiến dịch chống Kissinger và bản Dự thảo trên Đài phát thanh, Truyền hình. Kissinger tức giận điện về Hoa Thịnh Đốn cho Tổng thống đề nghị ký riêng rẽ với BV nhưng Nixon từ chối, ông không muốn ký vội vã trước bầu cử 7-11 vì biết chắc mình sẽ đắc cử nhiệm kỳ hai qua thăm dò. Sang tháng 11, Nixon đã đắc cử, tại Sài Gòn ông Thiệu vẫn không ngớt chống đối ký kết, đòi BV phải rút hết quân và đòi sửa 69 điểm trong dự thảo mà ông cho là bất lợi cho miền nam VN. TT Nixon bèn nhờ Tướng Haig sang Sài Gòn để thuyết phục ông Thiệu ký Hiệp định vì Quốc hội và người dân đang sốt ruột trông chờ hòa bình. Nixon gửi thư ngày 9 và sau đó ngày 14 gửi thêm một bức nữa hứa hẹn sẽ trừng trị mọi vi phạm của BV. (24) “Tôi xin cam kết với ông nếu Hà Nội vi phạm Hiệp định , tôi sẽ giáng trả họ nhanh chóng và ác liệt.” Những thư cam kết của Nixon có nội dung tương tự hồi đó có mục đích tao niềm tin cho miền nam VN để họ an tâm tin tưởng vào việc ký kết. Phía VNCH, ông Thiệu và các phụ tá, cố vấn chính trị, ngoại giao của ông vẫn tỏ ra cứng rắn không chịu ký kết. Nội tình nước Mỹ vô cùng bất lợi cho miền nam VN nếu ông Thiệu tiếp tục trì hoãn hòa bình. Gió đã đổi chiều, tại chính trường Mỹ nay hầu như không còn ai ủng hộ chiến tranh Đông Dương, trái lại họ muốn có hòa bình. Nixon nói về thực trạng bi đát của Hiệp định, nội tình nước Mỹ trong hồi ký (25) như sau, xin sơ lược. “Trong khi thương thuyết với TT Thiệu tháng 1-1973, tôi đau lòng được biết Hiệp định Paris là một sự cần thiết về chính trị nếu ta tiếp tục giúp VNCH. Quốc hội đang sẵn sang bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh nếu ta không ký được Hiệp định. Các nhà phân tích lập pháp của chúng tôi tiên đoán có thể có một thử thách lớn đối với chính sách về VN của chúng ta khi Quốc hội nhóm họp trở lại. Chắc chắn Hà Nội sẽ cản trở hòa đàm. Ngày 2 -1-1973 khối Dân chủ Hạ viện bầu nội bộ với tỷ lệ 154-75 để cắt hêt viện trợ cho mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương vừa khi đã đưa quân về nước và lấy lại tù binh. Đó có thể là cách đầu hàng hèn hạ nhất đối với nhu cầu cấp thiết nhất của BV. Hai ngày sau, bầu cử nội bộ Dân Chủ Thượng Viện cũng thông qua dự luật tương tự tỷ lệ 36-12” Mấy năm liên tiếp tại bàn hội nghị, Hà Nội đòi Mỹ phải loại bỏ chính phủ Thiệu, rút khỏi VN, cắt hết viện trợ cho VNCH… thì sẽ thả tù binh, nay các vị Trưởng khối tại Thượng viện đã cảnh cáo Nixon nếu không có hòa bình, nếu ông Thiệu còn gây trở ngại họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt hết viện trợ miền nam VN, rút hết quân.. để đổi lấy 587 người tù binh Mỹ. TT Nixon và phụ tá Kissinger thường nhắc cho ông Thiệu biết phải nhận thức rõ ai là bạn, ai là thù, nay ngoài kẻ thù BV, hành pháp còn phải đối phó với Quốc hội thù nghịch chống đôi chính sách hành pháp, âm mưu xiết cổ Đông Dương. TT Nixon đã hứa hẹn, cam kết thực tình với ông Thiệu chứ không phải để lừa gạt ông Thiệu, thật vậy ông nói (26) “Khi từ chức ngày 9-8-1974, tôi vô cùng bất mãn với thực trạng của VN sau khi kết thúc hòa đàm Paris . Tôi đã coi hai điều kiện rất cần thiết phải làm: chúng ta phải giữ một sự đe dọa của Mỹ để trả đũa sự xâm lăng của BV và tiếp tục nguồn viện trợ cho VNCH đủ để giữ cán cân quyền lực. Nhưng cả hai kế hoạch đều bị Quốc hội phá hỏng hết. Kế hoạch của TT Nixon đúng như ông đã hứa và cam kết với ông Thiệu: Trước hết xin cấp quân viện đều đặn cho miền nam VN, kế đó trừng phạt sự vi phạm nếu có của Hà Nội bằng B-52. Những lời cam kết hứa hẹn ấy đã được thể hiện trong những bức thư mật vì nếu đưa ra Quốc Hội sẽ bị phản đối ầm ĩ ngay. Nixon âm thầm với kế hoạch cưỡng bách thi hành Hiệp định và tin là ông sẽ thực hiện được trong nhiệm kỳ thứ hai của ông cho tới năm 1976. Theo Larry Berman (27) nay những hồ sơ giải mật cho thấy Nixon và Kissinger chỉ chờ Hà Nội vi phạm Hiệp định để oanh tạc trả đũa bằng B-52 ngay, cái mà họ gọi là cưỡng bức thi hành Hiệp định. Nixon tin dân Mỹ sẽ chấp thuận sự giám sát thi hành Hiệp định sau khi đã ký. Sáng 30-11-1972, Tổng thống Nixon và Kissinger họp Ban tham mưu liên quân, Kissinger thuyết trình về bản dự thảo Hiệp định ngưng bắn và sự vi phạm sau ngày ký kết. TT Nixon nói nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô đốc Thomas Moorer, Tham Mưu Trưởng Ban Tham Mưu Liên Quân đã thảo kế hoạch tấn công BV. gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả khốc liệt. Sự giáng trả bằng B-52 nhắm vào Hà Nội phải ồ ạt hữu hiệu…. Như thế cam kết của TT Nixon với ông Thiệu là hoàn toàn chân thực nhưng nó chỉ là lời hứa cá nhân giữa hai ông Tổng thống. Với cái nhìn chủ quan Nixon tin là sẽ được người dân ủng hộ nhưng vấn đề đặt ra là ông có thực hiện được lời cam kết ấy hay không? người dân và Quốc hội có đồng ý với ông không? Tác giả Larry Berman đặt giả thuyết nếu không có Watergate và nói hồ sơ giải mật cho thấy Nixon rất muốn trừng trị sự vi phạm của Hà Nội nhưng Kissinger khách quan hơn khi cho rằng người dân sẽ không ủng hộ. Larry nhận xét chưa có ai trả lời đầy đủ như Kissinger. Trước khi ký Hiệp định Nixon tin tưởng sau khi mang lại hòa bình họ sẽ thôi chống đối ông nhưng ngược lại, họ còn chống đối mạnh hơn sau ngày 27-1-1973. Hết chống chiến tranh họ quay ra Watergate và cuối cùng đã buộc ông phải ra khỏi tòa Bạch Ốc ngày 8-8-1974. Như thế TT Nixon chỉ thực hiện được những cái trong khả năng hữu hạn của ông và cuối cùng ngay như nhiệm kỳ, bản thân ông còn không giữ được huống hồ lời hứa với đồng minh. Số phận của Hành pháp Mỹ những năm 1973, 1974 bấp bênh như trứng đứng đầu gậy, ốc đã không mang nổi mình ốc, ốc cũng chẳng mang được cọc cho rêu. Ngày 21-4-1975, ông Thiệu từ chức, lên án Hoa Kỳ bỏ rơi đồng mình, sau này ra Hải ngoại ông và các phụ tá, cố vấn vẫn lến án Hoa Kỳ không giữ lời hứa với đồng minh. Thực ra những lời hứa của TT Nixon với VNCH cuối năm 1972 hoặc đầu 1973 chỉ là lời hứa cá nhân, nó thể hiện ý định của Tổng thống Hoa Kỳ. Như đã nói ở trên, những tháng đầu năm 1975 ông Thiệu đã khiếu nại với chính phủ Hoa Kỳ về những lời cam kết của TT Nixon đã đưa tới hậu quả tai hại: Nhiều Thượng nghị sĩ tức giận vì Nixon-Kissinger đã qua mặt Quốc hội hứa hẹn riêng với đồng minh và họ bác bỏ viện trợ khẩn cấp để xiết cổ VNCH. Tôi xin kết luận toàn bộ vấn đề như sau: Tổng thống Nixon có đủ thẩm quyền để hứa hẹn như vậy hay không? Những lời cam kết của Nixon chỉ mang tính cá nhân giữa hai ông Tổng thống, không có giá trị về pháp lý mang tính quốc gia vì nó không được đưa ra Quốc hội. Sở dĩ Nixon và Kissinger không đưa ra Quốc hội vì họ biết trước là sẽ bị bác bỏ. Đó là lời hứa thật sự với miền Nam chứ không phải là lời dối gạt. Tháng 11-1972 Nixon đã cho lệnh chuyên chở ồ ạt sang VNCH tổng cộng gần 600 máy bay đủ các loại gồm 236 máy bay phản lực chiến đấu và 332 trực thăng, 3 tiểu đoàn pháo binh 175 ly, 2 thiết đoàn xe tăng M-48, trị giá gần tương đương một năm viện trợ quân sự. Trong khoảng thời gian này ông đã họp Bộ tham mưu để chuẩn bị kế hoạch trừng phạt vi phạm Hiệp định của CSBV như đã nói trên. Ông Thiệu chấp nhận ký Hiệp định Ba Lê không phải vì tin vào những lời hứa cùa TT Nixon như ông đã nói ở trên, cũng không phải vì bị Nixon-Kissinger bắt ép ký hoặc vì sợ bị Nixon cho đảo chính, cắt đầu… mà vì ông không còn con đường nào khác. Ông đã mất hết chỗ dựa tại tòa nhà Lập pháp Mỹ, không còn ai ủng hộ tại Quốc hội. Trước đây các Thượng nghị sĩ, Dân biếu diều hâu đã ủng hộ ông Thiệu, ủng hộ cuộc chiến VN, nay diều hâu đã biến thành bồ cu hết. Các vị dân cử tại Quốc hội đã từng ủng hộ ông Thiệu trước đây nay đều khuyên ông nên sớm ký Hiệp định vì người dân Mỹ đã quá mong mỏi khao khát hòa bình, không còn ai ủng hộ cuộc chiến sa lầy, nếu gây trở ngại Hiệp định thì chỉ tự gánh hậu quả tai hại cho miền nam VN. Ông Thiệu không cưỡng lại được định mệnh lịch sử. Vấn đề đặt ra là nếu Nixon còn tại chức, không bị Watergater lật đổ thì ông có thể giữ lời cam kết với miền nam VN không? Rất khó mà có câu trả lời lạc quan. Như đã nói trên, mặc dù Nixon chủ quan tin tưởng có thể trừng trị CSBV một khi họ vi phạm Hiệp định nhưng Kissinger lại không tin như vậy, ông này nghĩ rằng người dân sẽ chống đối dữ dội. Ngoài ra sáu tháng sau khi ký Hiệp định Paris , Quốc hội ra luật cấm mọi ngân khoản xử dụng cho chiến dịch oanh tạc hoặc các hoạt động quân sự khác tại Đông dương, có hiệu lực thi hành từ giữa tháng 8-1973. Nixon cho biết ông không còn quyền hạn gì để giữ gìn hòa bình tại Đông dương, Quốc hội đã tước đoạt hết mọi quyền hành động của ông (28) Như Kissinger đã nói ở trên: Quốc hội Mỹ đã chính thức cấm Hành pháp cưỡng bách thi hành Hiệp định Paris để đầu hàng CS. Sau khi thấy Nixon-Kissinger bắt tay được Trung Cộng tháng 2-1972 và hòa hoãn được với Sô Viết tháng 5-1972, Quốc hội phản chiến Mỹ yên chí là Nga, Tầu đều đã từ bỏ mộng xâm lăng, chiến tranh nóng lạnh không còn, bây giờ thiên hạ thái bình và họ vội vã cắt viện trợ quân sự bỏ Đông dương. Nhưng thiên hạ đại loạn hay thiên hạ thái bình, chiến tranh nóng lạnh còn hay hết, thời gian sẽ trả lời. Trọng Đạt Đàn Chim Việt ——————————————————- Chú thích (1) Lary Berman – No Peace No Honor trang 3 (2) Sách đã dẫn, trang 146 (3) Sách đã dẫn, trang 183-184 (4) Richard Nixon No More Vietnams trang 155, (5) Our vigilance with respect to the prospect of its violation – No Peace No Honor trang 187. (6) No Peace No Honor trang 187 (7) Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486 (8) To enforce and protect the agreement (9) No Peace No Honor trang 187-188 (10) Sách đã dẫn trang 197. (11) Sách đã dẫn trang 199 (12) Sách đã dẫn, trang 200 (13) What is most important is the commitments which the President made to you, which we will put on record in our files, commitments from the President of the United States ” Sách đã dẫn , trang 202. (14) They had dodged with Duc, but not with history, No Peace No Honor trang 202 (15) We will respond with full force should the settlement violated by NorthVietnam. Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486 (16) No More Vietnams trang 167 (17) These commitments were what finally convinced me to sign- Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 486 (18) No Peace No Honor trang 263 (19) These were never treated as national commitments.Sách đã dẫn trang 263 (20) Sách đã dẫn trang 269 (21) Kissinger A biography trang 486 (22) Kissinger A biography trang 487 (23) Years of Renewal trang 470, 471 (24) No More Vietnams trang 156. (25) Sách đã dẫn, trang 169 (26) Sách đã dẫn trang 189 (27) No Peace No Honor trang 203, 204 (28) No More Vietnams trang 178, 179, 180
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 27, 2014 9:43:14 GMT 9
Phạm Ngọc Thảo, Ông là ai ?
Tôi quen Phạm Ngọc Thảo từ năm 1939. Lúc ấy tôi mới nhập học Quốc Học Khải Định sau khi đậu bằng Thành Chung ở Thanh Hóa. Lớp có cả thẩy 40 học sinh, 33 Nam và 7 nữ gồm đủ thành phần đến từ nhiều nơi nhưng đều là người Trung chỉ trừ có Nguyễn Khắc Hoạch là cháu họa sỹ Mai Trung Thứ dậy vẽ ở đây và anh chàng cù-không-cười Nguyễn Khải Tạo, có nét mặt tưng tửng mỗi khi lên bảng làm cả lớp khúc khích, là dân Bắc Kỳ rau muống. (Tiến Sỹ Văn Chương Nguyễn Khắc Hoạch là Khoa Trưởng Văn Khoa Sài Gòn. Sau này ông trở thành Viện Trưởng Viện Việt Học thay thế Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa). Được ba ngày sau Censeur Giamachi dẫn vào lớp một học sinh mới trông hơi khác lạ, có cái tên Tây Albert Phạm Ngọc Thuần, nước da mai mái đậm đà và có cái mắt trái lác xệch. Anh là người độc nhất Nam Kỳ, mặc quần short đến đầu gối để lộ cặp giò khẳng khiu. Anh được xếp ngồi cạnh tôi, ăn nói nhỏ nhẹ vói một giọng miền Nam trầm bổng và hay chêm tiếng Tây vào câu chuyện. Trong nội trú anh cũng nằm giường cạnh tôi, luôn luôn tĩnh lặng củ mỉ cù mì giữa một đám ồn ào nhất quỷ nhì ma. Những ngày cuối tuần anh thường rủ tôi đi thăm Hồ Tĩnh Tâm ngồi trầm ngâm ngắm sen thơm ngát và nói toàn chuyện cách mạng Pháp. Anh ta rất ghét cái dữ tợn của Robespierre và Marat và yêu tư tưởng xã hội Rousseau và Voltaire. Anh cũng bàn về cái quá khích và vô nhân bản của Marx-Lenin với chủ trương bạo lực quá độ và duy trì chính quyền bằng bạo lực. Cuối năm học không thấy Albert trở lại, nghe nói đã được gia đình gửi qua Pháp du học. Mãi đến tháng Mười 1945 tôi mới tình cờ gặp lại anh mà lại ở Hà Nội? Hôm ấy khoảng 10 giờ tối, đã có sương mù giầy đặc và khí hậu bắt đầu xe lạnh, tôi đang đứng trước thềm nhà A thì Albert hiện ra như trong phim trinh thám. Tôi không nhận ra vì anh mặc bộ bà-ba đen, cổ quấn chiếc khăn rằn ri mầu hồng thẫm của dân miệt vườn Nam Kỳ. Đầu anh đội chiếc mũ vải mềm mầu nâu mà vành uốn lượn lên cụp xuống, chân anh đi đôi dép quai chéo, đế bằng vỏ lốp xe hơi. Anh hấp tấp bắt tay tôi và nói thẳng một lèo, “Moi mới ra vội vã lắm để dự khoá họp Quốc Hội đầu tiên trong phái đoàn Nam Bộ; đêm nay người ta xếp cho cả bọn ở đây và mai phải đi rất sớm”! Là một thanh niên chỉ biết yêu nước và ghét ngoại bang đô hộ, tôi chả có chú ý gì đến chính trị và những khúc mắc về cơ cấu chính quyền nên tôi đã không níu kéo anh vài phút để ít nhất biết phái đoàn có những ai và làm công việc gì? Như vậy cuộc gặp gỡ sau sáu năm chỉ có không đầy năm phút mà thôi. Rồi thời gian qua với trận Điện Biên Phủ đánh dấu sự chia cắt đất nước Bắc Nam. Tôi vào làm việc tại Sài Gòn rồi nhập ngũ qua học ở trường Không Quân Pháp Salon de Provence. Khi trở về thì miền Nam đã có chính thể Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong khi trái lại Bắc Kỳ đã thành Cộng Hòa Nhân Dân Mác Xít. Vào khoảng 1955 nghe nói đến một cán bộ hồi chánh tên là Phạm Ngọc Thảo về làm việc tại Viện Hối Đoái. Về sau y được Bộ Nội Vụ cho đeo lon Đại Úy và giao làm với Bảo An Tỉnh Đoàn Vĩnh Long. Rồi được bổ Tỉnh Trưởng Bến Tre. Bến Tre mà tên cũ là Thủ Đầu Một là một tỉnh trù phú và Việt Minh dùng làm nơi dưỡng quân. Tỉnh Trưởng mới hết sức năng động, hay đứng giữa công chúng diễn giảng và lập lại hoàn toàn an ninh địa phương. Một thời gian sau tỉnh trưởng được thay thế vì đã hoàn tất nhiệm vụ. Năm 1960 sau vu đảo chính nhẩy dù với Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng đã lắng thì một hôm tôi đang ngồi ngáp ruồi ở Bộ Tư Lệnh Không Quân bỗng nhiên điện thoại reo. Uể oải nhấc máy lên thì đầu giây bên kia một giọng Nam chay nói, “Tôi là Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi muốn gặp Đại Úy Trần Đỗ Cung”. Tôi vội trả lời, “Vâng thưa tôi đây nhưng Trung Tá cần gì và Trung Tá là ai”? Thì được trả lời ngay, “Albert Phạm Ngọc Thuần bạn học anh ở Lycée Khải Định đây, còn nhớ không”? “Nhớ chứ, nhưng anh đổi tên từ hồi nào và tôi nghe nói anh làm Tỉnh Trưởng Bến Tre kia mà”? Thảo nói, “Xong việc rồi, giờ moi ngồi tại văn phòng cố vấn chánh trị trên đường Hồng Thập Tự, xế cửa Cercle Sportif. Có rảnh thì ghé lại chơi, chúng mình sẽ nói nhiều kỷ niệm thời 1-S năm xưa Cung nhé”! Một hôm nhân đi tập với Maitre Vatin tôi ghé lại. Cũng hơi khớp vì nghĩ là mình sẽ vào hang hùm đây. Tôi dựa chiếc Velo Solex vào giá và một lính gác mặt lạnh như tiền bước đến. Sau khi xem giấy tờ hắn khám người tôi cẩn thận và hướng dẫn tôi đến bàn giấy Trung Tá Thảo. Tôi thấy anh không khác xưa mấy, cũng nước da mai mái, cũng cái mắt lác xệch, cũng dáng người mảnh khảnh, có chăng là bây giờ anh không mặc quần short nữa mà đóng bộ quân phục gọn gàng với hai đôi hoa mai bạc. Thảo bắt tay chặt chẽ và mời tôi ngồi, sai lính đem cho tôi một ly soda. Chúng tôi chuyện trò cả nửa giờ, hết các thầy rồi qua các chị, cảm động với bao nhiêu kỷ niệm hồi tuổi trẻ trong trắng hồn nhiên. Tôi đứng dậy đi qua Cercle Sportif cho kịp lớp thể dục tập thể. Thảo tiễn tôi ra đến cửa và nói bâng quơ, “không biết còn bao nhiêu bạn cũ ở Sài Gòn, nếu gặp nhau một bữa thì chắc vui lắm nhỉ”! Tôi chỉ gật gù qua loa đồng ý. Trong lúc tập thể dục và nhất là khi đi tắm tôi nghĩ đi nghĩ lại lời nói bâng quơ của bạn và chợt nghĩ đến bạn Phạm Qụy, một Luật Sư nổi tiếng, có tư gia sang trọng ở số 132 Dường Công Lý. Có thể nếu anh ta nhận lời đứng tổ chức một bữa ăn tối thì hay quá. Sáng hôm sau tôi điện thoại cho Qụy và Qụy hết sức hoan nghênh ý kiến. Được vài hôm anh ấy liên lạc được vài bạn cũ và mời đến dùng cơm tối. Tối hôm ấy có độ mười người như Hải Quân Trung Tá Võ Sum, chị Ngọc Trâm tức ca sỹ Minh Trang, Phó Tổng Giám Đốc Điện Lực Tôn Thất Uẩn, Phó Tổng Giám Đốc Quan Thuế Đoàn Hòa, Trần Ngọc Nhụy em Tổng Giám Đốc Nông Tín Cuộc Trần Ngọc Liên, Hồ Tường, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi Đại Úy Không Quân và anh chị Phạm Quỵ. Bữa cơm đặc Huế ngon miệng do bàn tay khéo léo của bà chủ nhà kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai nấy tranh nhau kể lại các chuyện vui thời học trò vô tư và vô sự. Nào là nét cá biệt của mỗi thầy, những đặc tính của một vài bạn. Trên lầu nội trú, Trần Kế Tạo anh ruột chị Qụy lẻn vào phòng thầy Quốc đổ đầy nước ướt sũng rương quần áo của giám thị. Sự ẩu đả giữa Tôn Thất Uẩn và Hoàng Tuệ lăn cù xéo nát mấy luống rau cải vì “hai con gà cồ” tức nhau tiếng gáy Ngọc Trâm. Đến đây thì chị Trâm trố mắt nói tôi không biết chuyện ấy và Tôn Thất Uẩn đỏ mặt bảo đâu có. Chuyển qua chuyện chị Trâm lấy thầy Quả và được đích người đẹp nói là tuổi trẻ quá bồng bột mà Thầy Quả thật có duyên. Những tiếng cười vang với những tràng vỗ tay bôm bốp kéo dài cho đến mười một giờ đêm thì chia tay, tiếc một đêm họp mặt mau tàn. Sau khi hai phi công Quốc và Cử dội bom dinh Độc Lập vị Tư Lệnh đương nhiệm dẫn toàn thể sỹ quan tham mưu lên trình diện Tổng Thống tại Dinh Gia Long để nghe ông Ngô Đình Diệm đơn ca hiểu thị với giọng Huế đặc xệt mà không nhìn thẳng vào mặt cử tọa đứng cứng ngắc. Về đến Tân Sơn Nhất thì Tư Lệnh “mặt đỏ xần mũ đội lệch” cho gọi tôi vào hất hàm nói, “Đại Tá Đỗ Mậu gọi, anh đi trình diện lập tức”! Lên an ninh quân đội có nghĩa là nhìn thấy cơ nguy tra khảo đánh đập nên tôi hết sức rét. Nhưng không ngờ tôi lại được vị Đại Tá “mặt sắt đen xì” tiếp một cách rất thân tình và thông báo sẽ ký giấy thuận cho lên Thiếu Tá. Trở về bàn giấy ngáp ruồi văt để được Tư Lệnh dằn mặt, “Anh tưởng anh được ông Đỗ Mậu che chở mà xong hả?” thì điện thoại lại reo vang. Đầu giây bên kia Phạm Ngọc Thảo nói “moi đang theo học Anh Ngữ bên này để sửa soạn đi học tham mưu Fort Leavenworth; Cung có rảnh thì sang đây ăn cơm trưa và mình sẽ ghé qua đón”? Đúng 12 giờ trưa Thảo lái xe Jeep qua và tôi theo anh ta qua Tổng Tham Mưu, định tâm sẽ cùng anh ghé ăn trưa tại Câu Lạc Bộ Sỹ Quan. Nhưng Thảo quẹo trái ngay khi qua cổng, đậu xe trước giẫy nhà hai từng của các Tướng. Tôi đi theo anh lên lầu, quẹo phải đến căn áp chót của Đại Tá Đỗ Mậu , kế cận căn của Trần Thiện Khiêm và anh thản nhiên mở cửa cho tôi cùng vào. Tôi gặp một Trung Tá lục quân lạ mặt thì được Thảo giới thiệu là Trung Tá Phạm Đăng Tấn, phụ tá của Đại Tá Đỗ Mậu. Trung Tá Tấn mở tủ lạnh đem ra bàn ăn các đồ nguội jambon-saucisse, bánh mì và xếp đặt bàn cho ba người cùng ngồi ăn. Thảo mở đầu ngay, nói về tình hình chính trị rối ren nguy hiểm và cần thay đổi để cứu vãn vì ta đang đương đầu với bọn cộng sản mưu mô và xảo quyền với tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của chúng. Một cuộc đảo chính đang được hình thành hầu xoay lại tình thế trước đe dọa gia tăng của cộng sản. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như ông bên cạnh Trần Thiện Khiêm đã đồng ý và đã có nhiều đơn vị cùng các Tướng Lãnh sẵn sàng tham gia. Tôi ngồi nghe chăm chú, suy nghĩ cho bản thân đang bị trù dập bởi cánh Cần Lao. Bỗng Thảo nhìn thẳng mặt tôi hỏi, “Cung, toi phải nắm lấy Không Quân. Chỉ cần toi cho vài chiếc máy bay lên bay vè vè và đưa ra một số ít binh sỹ đứng các ngả đường huy trương thanh thế, không cần biết bắn cũng được. Đã có kế hoạch đối với Hải Quân, có thêm Không Quân thì hoàn toàn”. Tôi nói ngay, theo tập quán trong quân chủng người chỉ huy cần phải là phi hành mà tôi chỉ là dân kỹ thuật bò sát nên không làm được. Tấn hỏi ngay, “anh có thể đề nghị một tên không”? Tấn nắm vững tình hình các sỹ quan nên đã cùng tôi duyệt đủ tên chỉ huy trong Không Quân. Nhìn đi nhìn lại, nào Võ Dinh, nào Nguyễn Ngọc Oánh, Võ Xuân Lành rồi Nguyễn Huy Ánh, Võ Công Thống, thấy chẳng ai có thể thích hợp nên tôi nẩy ý kiến đề nghị Nguyễn Cao Kỳ đang bị thất sủng mất chức chỉ huy Liên Phi Đoàn Vận Tải và có lệnh đổi ra Nha Trang làm huấn luyện viên bay. Tấn nói hay lắm và anh có thể móc nối Kỳ được không? Tôi nói ngay sẽ cố gắng tuy nhiên sự giao hảo giửa tôi với Kỳ không tốt đẹp lắm. Tôi kể lại hồi làm với Trần Văn Hổ tôi hay mò sang đơn vị của Kỳ mỗi buổi trưa, leo lên phi cơ và rút túi chiếc mouchoir trắng tinh ra tuốt các giây cable điều khiển đuôi và bánh lái. Khi tôi thấy hầu hết các cables có các sợi nhỏ bị tưa đứt vướng các sợi chỉ trắng nên tôi đề nghị ông Hổ cho ngưng bay tất cả các C-47 chờ thay cables mới. Trong buổi họp trên bộ Tư Lệnh Kỳ nổi sùng chỉ mặt tôi nói, “kể từ nay tôi không muốn ông Đại Úy Cung leo lên phi cơ của tôi mà không có phép của tôi”. Trung Tá Hổ liền ôn tồn nói, “Ông Đại Úy Cung làm là thay mặt cho tôi”. Và Kỳ im bặt rồi từ đó chúng tôi rất lạnh nhạt với nhau. Cả Tấn và Thảo đều đồng thanh nói, “chuyện vặt mà, anh Cung cứ cố gắng”! Tôi thêm “Kỳ là một thứ Don Quichote, hùng hổ nhưng trí đoản và liều mạng. Và anh ta đang bất mãn lắm”! Về đến nhà tôi mở tủ lấy ra một chai Johnny Walker Black Label trong số rượu quý mà học trò ngoại quốc biếu tôi và bỏ vào túi giấy. Sáng hôm sau tôi qua bàn giấy Kỳ thì thấy anh ta đang lúi húi dọn dẹp các ngăn kéo ý chừng để bàn giao cho chỉ huy trưởng mới. Tôi để túi đựng chai rượu lên bàn và nói, “Tôi có nhiều rượu quý học trò ngoại quốc biếu mà không biết uống; nay thấy anh sắp đổi nhiệm sở tôi đem sang làm quà để anh thưởng thức”. Kỳ rút chai rượu ra ngắm nghía, xiết chặt tay tôi và cám ơn. Trưa tôi về nhà vừa sửa soạn ngồi vào bàn ăn thì xe Jeep Kỳ xịch tới. Anh ta chậm rãi bước lên thềm và ngồi vào sofa. Tôi chạy đến ngồi cạnh thì Kỳ nói, “Moa cám ơn toa cho moa chai rượu ngon. Nhưng moa thắc mắc mãi, phải đến hỏi toa có cái gì đằng sau vậy”? Kể ra thì cũng tinh khôn thật. Tôi liền nói chuyện này rất nguy hiểm anh phải giữ kín như bưng. Kỳ gật gù và tôi kể buổi họp với Tấn và Thảo trong căn nhà của Đỗ Mậu. “Nếu anh đồng ý thì họ sẽ liên lạc phối hợp thẳng với anh. Nhưng phải hết sức kín nếu không cả anh và tôi sẽ toi mạng”! Kỳ không nói đi nói lại, chỉ xiết tay tôi thật chặt và thêm vắn tắt, “OK”! Tôi thông báo cho Tấn và Thảo thì họ mừng lắm và Thảo bảo tôi liên lạc thường xuyên với anh tại tư gia số 51 Đường Tự Đức, căn dặn nên cẩn thận, dùng Taxi trả tiền trước đề phòng con mắt của Mật Vụ. Một lần tôi đến nhà Thảo trong một biệt thự công có lính gác. Hôm ấy vào khoảng đầu tháng Mười 1962 tôi ngồi với Thảo ở chiếc bàn gỗ dưới dàn cây leo. Thảo cho tôi biết qua loa kế hoạch, khi nổ súng thì hai chúng tôi đều mỗi người ngồi trên một xe thiết giáp của Dương Hiếu Nghĩa tiến về dinh Gia Long. Vậy tôi phải liên lạc mật thiết với Thảo để biết ngày N, giờ G và địa điểm thiết giáp. Lúc đầu dự trù vào ngày 26 tháng Mười nhưng vì kế hoạch Bravo và Anti Bravo của ông Nhu nên phải hủy bỏ. Một hai lần khác đến tôi mới biết là Thảo đã cho vợ con qua Mỹ trước và tôi được gặp một hai cấp chỉ huy quan trọng mà tôi không nhớ tên, ăn mặc thường phục. Lần cuối cùng tôi đến nhà Thảo là sáng ngày 29 tháng Mười. Tôi mới mua một chiếc xe Morris 1100 mới toanh, đậu bãi trước Sở Thú và trả tiền bao thuê taxi đến 51 Tự Đức. Khi Taxi vừa đậu trước cổng và tôi nhận chuông thì anh lính gác mở hé lỗ vuông cổng sắt rồi nói vắn tắt “có mật vụ”. Liếc mắt qua bên kia đường thì thấy hai nhân viên nhà đèn mặc áo liền quần xanh đang lúi húi ghi chép. Tôi nhẩy phắt lên taxi về Sở Thú. Khi đi ngang một nhà có bảng SỞ XÃ HỘI PHỦ TỔNG THỐNG thì thấy bóng một xe Jeep phóng ra. Tôi vội vã lái xe mình trực chỉ Tân Sơn Nhất, vượt qua cả đèn đỏ nhưng qua kính chiếu hậu không thấy xe đuổi theo. Về đến nhà tôi lo lắng nghĩ rằng chỉ nội đêm nay hay mai chúng sẽ đến tìm mình và không dám ra khỏi cổng Phi Long, vợ con chẳng biết mô tê gì hết! Bởi vậy khi nổ súng tôi đã không có mặt trên xe thiết giáp chỉ định mà tôi ngồi ở bàn giấy thường lệ, hai chân gác lên mặt bàn thoải mái, với một cái radio nhỏ vặn vừa nghe. Mấy sỹ quan Không Quân có lẽ cho rằng tôi là người biết chuyện, luôn ghé lại hỏi thăm tình hình. Độ bốn giờ sáng thì Nguyễn Cao Kỳ ghé qua với bốn năm thủ túc súng ống đầy mình. Họ đều mặc quần áo bay xám, riêng Kỳ trưng một bộ màu cam của Hải Quân Mỹ. Kỳ nói với tôi bằng một dọng khẩn cấp, “Cung, toa ở đây lo Không Quân để moa đi bắt thằng Hiền rồi thằng Sang”. Huỳnh Hữu Hiền mới được bổ nhiệm thay Nguyễn Xuân Vinh đi Mỹ còn Phạm Ngọc Sang thì luôn luôn lái máy bay cho Tổng Thống. Cả hai đều là người Nam, tính tình hiền lành vô sự. Tôi tự nghĩ mình lo Không Quân thế quái nào được, chẳng có đàn em thân tín nào mà cũng chưa bao giờ đụng đến súng. Hơn nữa tên Tham Mưu Trưởng Đỗ Khắc Mai, Cần Lao Gộc sờ sờ ra đấy mà Kỳ đã vô tâm không cô lập. Bởi vậy trong lúc nhốn nháo Mai điện thoại cho các Tướng phúc trình, “Thưa Không Quân yên tĩnh, em chu toàn mọi viêc ở đây”. Do đó các Tướng làm lệnh cử Mai Tư Lệnh Không Quân và Kỳ bị hất cẳng. Ngay hôm sau có giấy Đỗ Mậu gửi sang thăng cấp Đại Tá cho tôi vì có công với cách mạng. Mai đưa tôi xem rồi xin để Không Quân đề nghị lên hầu giữ hệ thống chỉ huy. Ngay hôm sau có lệnh cho Mai đi Tùy Viên Quân Sự ở Bonn, Kỳ nắm lấy Tư Lệnh Không Quân và sự việc bị chôn vùi. Tôi chẳng để ý gì cái vặt ấy vì trong thâm tâm chỉ muốn xuất ngũ. Hơn nữa mình đâu có nghĩ là có công cán gì với cách mạng? Khi Tướng Đỗ Mậu được chỉ định chức Ủy Viên Văn Hóa cho gọi tôi và Thảo lên làm việc với ông ta, tôi cũng lờ như không biết. Tình hinh chính trị Sài Gòn trở nên lộn xộn khi các Tướng trong Hội Đồng Quân Lực chia chác quyền hành và thi nhau gắn lon gắn sao cho đồng bọn. Cái bát nháo này làm cho Mỹ điên đầu và Hà Nội thấy cơ hội ngàn năm một thuở đã đến. Trong thời kỳ này Nguyễn Khánh đã bứng Trần Thiện Khiêm đi làm Đại Sứ tại Washington đem theo tùy viên báo chí Phạm Ngọc Thảo. Nguyễn Khánh cho lệnh gọi Thảo về nhưng Khiêm đã lo giấy tờ cho Thảo đi Hồng Kông rồi bí mật quay về Sài Gòn qua ngã Nam Vang liên lạc với Lâm Văn Phát tổ chức đảo chính. Nguyễn Khánh đã thoát nạn nhờ Nguyễn Cao Kỳ lái C-47 bốc đi Vũng Tầu trước khi Kỳ bay về Biên Hoà trong căn cứ không quăn cấm trại nghiêm ngặt. Tại đây một phòng Hành Quân Đặc Biệt được thiết lập và trên không phận một phi tuần AD-6 bao vùng ầm ì trên không trung. Rồi Phạm Văn Liễu đi với Tướng cố vấn Không Quân Roland chở Lâm Văn Phát trên một chiếc C-123 của Mỹ đáp xuống Biên Hòa để điều đình. Anh hề Nguyễn Khánh bị Hội Đồng Quân Lực chỉnh lý cho làm Đại Sứ Lưu Động đi không biết ngày về mang theo một túi plastic đựng bụi đất Việt Nam. Đêm hôm ấy căn cứ không quân Tân Sơn Nhất lại cấm trại trăm phần trăm. Tôi với Nguyễn Tấn Hồng mặc quân phục lái xe Jeep ra phố vắng tanh qua các chốt gác đến nhà Bùi Diễm trên đường Charner thì biết cả Diễm lẫn Đặng Văn Sung và Nguyễn Đình Tú đã ẩn trốn trên trần nhà. Lâm Văn Phát đi trốn bị Tòa Án Quân Sự xử tử hình khiếm diện và Phạm Ngọc Thảo bị tâm nã gắt. Tuy nhiên có một sự điều đình để Tòa bỏ vụ án Lâm Văn Phát. Khi ấy tôi đang làm Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Trưởng Thanh Niên Nguyễn Cao Kỳ trong chính phủ Trần Văn Hương. Tổng Trưởng Kỳ chì đến bộ đúng một lần bằng trực thăng đáp xuống sân cỏ bộ dưới sự vỗ tay thán phục của công chức nam nữ. Tổng Trưởng cũng không thèm đi họp hội đồng nội các và Đổng Lý thay thế để nhìn thấy Thủ Tướng lẩm cẩm trong khi Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh ngồi dũa móng tay lơ đãng. Môt buổi sáng vào khoảng 9 giờ, có một em bé độ mười lăm đến bộ xin gặp tôi. Khi được đưa vào bàn giấy tôi, cô bé ấy đưa cho tôi một bức thư nhỏ viết tay nói là của ông Phạm Ngọc Thảo, “Nhờ Cung liên lạc với ông chủ giúp đỡ và em bé có thể cho biết số điện thoại và chỗ của tôi”. Tôi biết danh từ ông chủ ám chỉ Nguyễn Cao Kỳ. Tôi hỏi cô bé thì biết là Thảo hiện ẩn trốn trên trần tiệm bán đồ thể thao Émile Bodin ở đường Bonard. Tôi quay số điện thoại mà cô bé cho tôi thì Thảo trả lời bóng gió, “Tôi ở miệt vườn lên đây. Độ này thất bát quá, gạo khan hiếm nên nhà máy chỉ chạy cầm chừng. Tôi bị đau mắt chói lắm, đầu tóc lo nghĩ bạc phơ nên trông kỳ lắm. Ông có rảnh thì chở tôi lên ông chủ xin giúp đỡ cho qua lúc nầy. Nếu được thì xin ông đón tôi lúc 1 giờ hôm nay ở Givral”! Tôi hiểu ra là Thảo ngụy trang đeo kính đen đàu đội mũ tùm hụp. Tuy nhiên vừa lúc ấy có tin là chính phủ dân sự Phan Huy Quát đã thành hình mà ông Quát là chỗ đàn anh thân tình và đứng đắn nên tôi đắn đo suy nghĩ mình có nên tiếp tay phá thối nữa không? Bởi vậy tôi đã không đến điểm hẹn Givral. Về sau có tin là Thảo đã mò về khu vực họ đạo Hố Nai rồi bị an ninh mai phục bắn vỡ hàm tưởng chết bỏ nằm trên bờ suối. Thảo tỉnh lại viết lên cát “xin gọi Phan Xi Cô cứu” và được một linh mục đem về chăm nom. Rồi an ninh đến chở bằng trực thăng về cơ quan, tra tấn tàn nhẫn. Nghe nói Thiếu Tá Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng Xùi, một Biệt Động Quân được Nguyễn Ngọc Loan xin biệt phái qua Cảnh Sát, không ưa cái mắt lác của Thảo mà tra khảo và bóp dái đến chết tuốt. Tôi vừa được Yung Krall tức Đặng Mỹ Dung cho biết là khi cô ta lên Sài Gòn có đến thăm ông Thảo tại nhà gần Sở Thú. Rồi khi bà Thảo và các con đi Mỹ thì cô Kim chị của Dung cũng được đi Mỹ và đã lần hồi tới gặp bà Thảo xin một chỗ dậy tiếng Việt tại Fort Bliss ở El Paso Texas. Lúc ấy ông Thảo đã bị giết rồi. Năm 1997 Yung Krall có đến thăm bà Thảo cùng gia đình ở Escondido và bà còn giữ mối hận thù nói rằng, “Thằng giết chồng tôi, tôi và con cái sẽ tìm để giết nó”! Mỹ Dung cố khuyên giải, “Nên để cho các em sống bình an; bác trai làm chính trị mà chính trị thì tàn ác mưu mô nhiều lắm”, nhưng bác gái một mực vẫn căm thù không đội trời chung. Theo tôi suy nghĩ thì câu chuyện xẩy ra đã lâu quá rồi. Đống tro tàn nguội lạnh từ lâu có lẽ cũng lần hồi cuốn theo chiều gió. Vả lại bà Thảo nay cũng lớn tuổi mà lại vừa trải qua một trường hợp giải phẫu thập tử nhất sinh. Thôi thì ân chưa trả, oán chưa báo cũng nên phú cho số mệnh! Bây giờ nghĩ lại tôi thấy hối hận. Nếu tôi đến đón Thảo tại Givral chở gặp Nguyễn Cao Kỳ thì chắc là Thảo chưa chết thảm. Tuy nhiên con người ta thay đổi vì hoàn cảnh, Kỳ đang say sưa trong vị trí mới chắc đâu sẽ làm gì cho Thảo. Mà tôi lại bị mắc kẹt vào một hoàn cảnh khó khăn không lường đuợc, trong thời kỳ Sài Gòn bát nháo với các Tướng Tá kèn cựa, tiêm nhiễm ích kỷ và tham vọng. Thì hãy đổ cho số phận vậy! Tôi vẫn không cho Thảo là cộng sản nằm vùng mặc dầu sau khi chúng chiếm được Sài Gòn chúng đã dàn dựng tuyên dương anh là anh hùng nhân dân như chúng đã từng dàn cảnh mọi việc có lợi cho bài bản tuyên truyền của chúng, theo đúng sách vở của Marx, “la fin justifie le moyen và mentez mentez toujours et les gens finiront par le croire”. Tuy nhiên có lẽ ý kiến của tôi là do những cảm nhận chủ quan riêng mà tôi dành cho anh trong những tiếp xúc lúc còn trẻ. Và theo lời kể lại của Nguyễn Trung Trinh hiện ở Paris thì vào cuối năm 1946 Trinh gặp Thảo ở Thị Nghè lúc anh đang chỉ huy một tiểu đội phục kích Pháp. Thảo dụ Trinh nhập bọn đánh Tây nhưng khi thấy bạn do dự thì anh nói ngay, “Moa biết toa có nhiều quen biết phía bên kia; vậy toa cứ đi công chuyện của toa và chúng mình vẫn là anh em bạn thân nhé”! Thật là trung hậu và quảng đại! Hơn nữa nếu anh là một điệp viên nhị trùng quý báu của Hà Nội thì tại sao họ không cứu anh ra bưng để khai thác thêm tin tức. Ngay khi anh về trú ẩn tại Hố Nai thì con đường về mật khu thật là gần xịt, tại sao anh không dọt lẹ để bị bắn và bắt giết. Một yếu tố nữa là anh đã cho vợ và sáu con nhỏ qua Hoa Kỳ trước? Bảo vệ gia đình mình tại một nơi chốn tự do xa lánh hẳn môi trường xã hội chủ nghĩa mà anh đã cho là không thích hợp? Hoặc giả vì anh đã bỏ bên kia hồi chánh nên không dám trở về bưng để bị các đồng chí cũ xử giảo thảm khốc? Hơn nữa ngay cả Bác Sỹ Trần Kim Tuyến sau này cũng nói ông không tin là Thảo trá hàng. Tất cả chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ không có một dữ kiện xác thực chứng minh. Nhưng trong cõi đời này có cái gì là hoàn toàn thực chất đâu, Đức Phật đã chẳng giảng là “sắc sắc không không” hay sao? Prunedale, 15 December 2006 Trần Đỗ Cung
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 28, 2014 14:21:47 GMT 9
DANH SÁCH TƯỚNG LÃNH QLVNCH001 Th.Tướng Bùi Đình Đạm 1926 Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực thuộc Bộ Quốc Phòng (1975) 002 Th Tướng Bùi Hữu Nhơn 1927 Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (1968) 003 Th.Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC (1975) 004 Ch.Tướng Bùi Văn Nhu Tư Lệnh Phó CSQG (1975) 005 Tr. Tướng Cao Hảo Hớn1926 Tổng Trưởng Chương Trình Bình Định và Phát Triển (1975) 006 Đ. Tướng Cao Văn Viên 1921 Tổng TMT QLVNCH (1975) 007 Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang 1926 Tư Lệnh Hải Quân (1975) 008 Ch. Tướng Chung Tấn Phát Cựu Tham Mưu Trưởng QĐ & QK IV 009 Th. Tướng Chương Dzềnh Quay Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV (1975) 010 Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân (1975) 011 Tr. Tướng Dư Quốc Đống 1932 Tư Lệnh QĐ III (1975) 012 Th. Tướng Dương Ngọc Lắm Đô Trưởng Sài Gòn (1964) 013 Tr. Tướng Dương Văn Đức 1926 Tư Lênh QĐ & QK IV (1964) 014 Đ. Tướng Dương Văn Minh 1916 Tổng Thống VNCH (1975 ) 015 Th. Tướng Ðào Duy Ân Tư Lệnh Phó Diện Địa QĐ III (1975) 016 Th. Tướng Đoàn Văn Quảng 1923 Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1972) 017 Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng Tư Lệnh Hải Quân Vùng IV Sông Ngòi (1975) 018 Ch. Tướng Ðặng Ðình Linh Tham Mưu Phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận (BTL) Không Quân (1975) 019 Ch.Tướng Đặng Thanh Liêm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1964) 020 Tr. Tướng Đặng Văn Quang 1929 Phụ Tá An Ninh Phủ Tổng Thống (1975) 021 Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Sông (1975) 022 Cố Đ. Tướng Đỗ Cao Trí 1929 Tư Lênh QĐ & QK III (1971) 023 Th. Tướng Đỗ Kế Giai 1929 Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Trung Ương (1975) 024 Ch. Tướng Ðỗ Kiến Nhiễu 1931 Đô Trưởng Sài Gòn (1975) 025 Th. Tướng Đỗ Mậu Phó Thủ Tướng Đặc Trách Văn Hóa (1964) 026 Tr. Tướng Đồng Văn Khuyên 1927 Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận (1975) 027 Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh 1935 Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải (1975) 028 Th. Tướng Hoàng Văn Lạc 1927 Tư Lệnh Phó Diện Địa QĐ I (1975) 029 Tr. Tướng Hoàng Xuân Lãm 1928 Chánh Thanh Tra Dân Vệ (1975) 030 Ch.Tướng Hồ Trung Hậu Chánh Thanh Tra QĐIII (1975) 031 Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải (1975) 032 Th. Tướng Hồ Văn Tố Chỉ Huy Trưởng Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (1959) 033 Ch. Tướng Huỳnh Bá Tính Tư Lệnh SĐ 3 KQ (1975) 034 Ch. Tướng Huỳnh Thới Tây Tư Lệnh Đặc Cảnh Trung Ương (1975) 035 Th. Tướng Huỳnh Văn Cao 1927 Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện (1971) 036 Ch. Tướng Huỳnh Văn Lạc 1927 Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB (1975) 037 Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh 1928 Tư Lệnh Hải Quân (1974) 038 Tr. Tướng Lâm Quang Thi 1932 Tư Lệnh Phó QĐ & QK I (1975) 039 Th.Tướng Lâm Quang Thơ 1931 Chỉ Huy Trương Trường VBQGĐL (1975) 040 Th. Tướng Lâm Văn Phát 1927 Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô (4/1975) 041 Th. Tướng Lê Minh Đảo 1933 Tư Lệnh SĐ 18 BB (1975) 042 Th. Tướng Lê Ngọc Triển Tham Mưu Phó Hành Quân TTM (4/1975) 043 Tr. Tướng Lê Nguyên Khang 1931 Phụ Tá Hành Quân Tổng TMT (1975) 044 Ch.Tướng Lê Nguyên Vỹ 1933 Tư Lệnh SĐ 5 BB (1975) 045 Ch. Tướng Lê Quang Lưỡng Tư Lệnh SĐ Nhảy Dù (1975) 046 Ch. Tướng Lê Trung Tường Tham Mưu Trưởng QĐ III (1975) 047 Ch. Tướng Lê Trung Trực Trưởng Phòng 4, BTTM (1975) 048 Ch. Tướng Lê Văn Hưng 1933 Tư Lệnh Phó QĐ & QK IV (1975) 049 Tr. Tướng Lê Văn Kim 1918 CHT Trường Cao Đẳng Quốc Phòng (1963) 050 Th. Tướng Lê Văn Nghiêm Tư Lệnh QĐ & QK I (1963) 051 Ch. Tướng Lê Văn Thân 1932 Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô (4/1975) 052 Ch. Tướng Lê Văn Tư Tư Lệnh SĐ 25 BB (1973) 053 Thống Tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham Mưu Trương QLVNCH (1963) 054 Tr. Tướng Linh Quang Viên 1918 Bộ Trưởng Nội Vụ (1967) 055 Cố Ch.Tướng Lưu Kim Cương KĐT Không Đoàn 33 Chiến Thuật (1968) 056 Tr. Tướng Lữ Lan 1927 Chỉ Huy Trưởng Cao Đẳng Quốc Phòng (1975) 057 Ch. Tướng Lý Bá Hỷ 1923 Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô (1975) 058 Ch. Tướng Lý Tòng Bá 1931 Tư Lệnh SĐ 25 BB (1975) 059 Ch. Tướng Mạch Văn Trường Tư Lệnh SĐ 21 BB (1975) 060 Tr. Tướng Mai Hữu Xuân Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị (1964) 061 Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám (1975) 062 Tr. Tướng Ngô Dzu 1926 Tư Lệnh QĐ II (1972) 063 Cố Ch. Tướng Ngô Hán Đồng 1929 Tư Lệnh Pháo Binh QĐ I (1972) 064 Tr. Tướng Ngô Quang Trưởng 1929 Tư Lệnh QĐ & QK I (1975) 065 Cố Ch. Tướng Nguyễn Bá Liên Tư Lệnh Biệt Khu 24 (1969) 066 Tr. Tướng Nguyễn Bảo Trị 1929 CHT ĐH Chỉ Huy và Tham Mưu (1972) 067 Ch. Tướng Nguyễn Cao Albert Tổng Trưởng Dinh Điền (1964) 068 Th. Tướng Nguyễn Cao Kỳ 1930 Phó Tổng Thống VNCH (1967) 069 Tr. Tướng Nguyễn Chánh Thi 1923 Tư Lệnh QĐ I (1966) 070 Th.Tướng Nguyễn Chấn Á Cố Vấn tại Nha Chiến Tranh Chính Trị. 071 Th. Tướng Nguyễn Duy Hinh 1929 Tư Lệnh SĐ 3 BB (1975) 072 Ch. Tướng Nguyễn Đức Khánh Tư Lệnh SĐ 1 KQ (1975) 073 Tr. Tướng Nguyễn Đức Thắng 1930 Tư Lệnh QĐ IV (1968) 074 Th Tướng Nguyễn Giác Ngộ CHT Sở Du Kích Chiến (1956) 075 Ch. Tướng Nguyễn Huy Ánh 1934 Tư Lệnh SĐ 4 KQ (1972) 076 Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân Hành Quân Lưu Động Biển (1975) 077 Tr. Tướng Nguyễn Hữu Có 1925 Bộ Trưởng Quốc Phòng (1967) 078 Ch. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tổng Tham Mưu Trưởng (4/1975) 079 Ch. Tướng Nguyễn Hữu Tần Tư Lệnh SĐ 4 KQ (1975) 080 Th. Tướng Nguyễn Khắc Bình Tư Lệnh CSQG (1975) 081 Đ. Tướng Nguyễn Khánh 1927 Quốc Trưởng (1964) 082 Th. Tướng Nguyễn Khoa Nam 1927 Tư Lệnh QĐ & QK IV (1975) 083 Tr. Tướng Nguyễn Ngọc Lễ Chánh Án Tòa Án Quân Sự (1956) 084 Th. Tướng Nguyễn Ngọc Loan 1931 Tổng Giám Đốc CSQG (1968) 085 Ch. Tướng Nguyễn Ngọc Oánh CHT TT HL KQ (1975) 086 Ch. Tướng Nguyễn Thanh Hoàng Chánh Thanh Tra QĐ II(1974) 087 Ch. Tướng Nguyễn Thanh Sằng Tư Lệnh SĐ 22 BB (1966) 088 Phó Đề Đốc Nguyễn Thành Châu Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang (1975) 089 Cố Ch. Tướng Nguyễn Trọng Bảo TMT SĐ Nhảy Dù (1972) 090 Th. Tướng Nguyễn Văn Chuân 1923 Thượng Nghị Sĩ (1967) 091 Ch. Tướng Nguyễn Văn Chức 1928 Tổng Cục Trưởng TC Tiếp Vận (4/1975) 092 Ch. Tướng Nguyễn Văn Điềm Tư Lệnh SĐ 1 BB (1975) 093 Ch. Tướng Nguyễn Văn Giàu Bộ Tư Lệnh Cảnh Lực (1975) 094 Cố Tr. Tướng Nguyễn Văn Hiếu 1929 Tư Lệnh Phó QĐ & QK III (1975) 095 Tr. Tướng Nguyễn Văn Hinh 1916 Tổng Tham Mưu Trưởng (1955) 096 Th. Tướng Nguyễn Văn Kiểm 1924 Trưởng Phòng Tổng Quản BTTM (1968) 097 Tr. Tướng Nguyễn Văn Là Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng (1975) 098 Ch. Tướng Nguyễn Văn Lượng Tư Lệnh SĐ 2 KQ 099 Tr. Tướng Nguyễn Văn Mạnh 1921 Tham Mưu Trưởng Liên Quân (1975) 100 Tr. Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô (1975) 101 Ch.Tướng Nguyễn Văn Phước 1926 Phụ Tá Đặc Biệt Tư Lệnh Quân Khu IV, Đặc Trách Phụng Hoàng (1971) 102 Tr.Tướng Nguyễn Văn Quan Tổng Giám Đốc ANQĐ (1965) 103 Ch.Tướng Nguyễn Văn Thiện Tổng Trấn Đà Nẵng (1970) 104 Tr. Tướng Nguyễn Văn Thiệu 1923 Tổng Thống VNCH (1975) 105 Tr. Tướng Nguyễn Văn Toàn 1933 Tư Lệnh QĐ III & QK III (1975) 106 Th. Tướng Nguyễn Văn Vận 1916 (?) Tư Lệnh Đệ III Quân Khu (1954) 107 Tr. Tướng Nguyễn Văn Vỹ 1916 Bộ Trưởng Quốc Phòng (1973) 108 Tr. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi 1933 TL Tiền Phương QĐ &QK III (1975) 109 Cố Tr. Tướng Nguyễn Viết Thanh 1931 Tư Lệnh QĐ IV & QK IV (1970) 110 Tr. Tướng Nguyễn Xuân Thịnh 1929 CHT Pháo Binh (1975) 111 Th. Tướng Nguyễn Xuân Trang TM Phó Nhân Sự BTTM (1968) 112 Th. Tướng Phạm Ðăng Lân Cục Trưởng Cục Công Binh (1965) 113 Ch. Tướng Phạm Duy Tất CHT Biệt Động Quân QK II (1975) 114 Ch. Tướng Phạm Hà Thanh Cục Trưởng Cục Quân Y (1975) 115 Th. Tướng Phạm Hữu Nhơn Trưởng Phòng 7 Bộ TTM (1975) 116 Ch. Tướng Phạm Ngọc Sang 1931 Tư Lệnh SĐ 6 KQ (1975) 117 Tr. Tướng Phạm Quốc Thuần CHT TT HL Đồng Đế (1975) 118 Th. Tướng Phạm Văn Đổng 1919 Bộ Trưởng Cựu Chiến Binh (1969) 119 Th. Tướng Phạm Văn Phú 1928 Tư Lệnh QĐ II & QK II (1975) 120 Tr. Tướng Phạm Xuân Chiểu 1920 Đại Sứ Nam Hàn (1969) 121 Th. Tướng Phan Ðình Niệm 1931 Tư Lệnh SĐ 22 BB (1975) 122 Cố Th. Tướng Phan Ðình Soạn 1929 Tư Lệnh Phó QĐ I & QK I (1972) 123 Ch. Tướng Phan Đình Thứ 1916 Tư Lệnh Phó QĐ II & QK II (1972) 124 Ch. Tướng Phan Hòa Hiệp Trưởng Đoàn LHQS 2 Bên (1974) 125 Ch. Tướng Phan Phụng Tiên Tư Lệnh SĐ 5 KQ (1975) 126 Tr. Tướng Phan Trọng Chinh 1926 Tổng Cục Trưởng Cục Quân Huấn (1975) 127 Ch. Tướng Phan Xuân Nhuận Tư Lệnh SĐ 1 BB (1966) 128 Tr. Tướng Thái Quang Hoàng Đại sứ Thái Lan (1963?) 129 Tr. Tướng Tôn Thất Đính 1926 Thượng Nghị Sĩ (1971) 130 Th. Tướng Tôn Thất Xứng Tư Lệnh QĐ I & QK I (1964) 131 Ch. Tướng Trang Sĩ Tấn Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành (1975) 132 Th. Tướng Trần Bá Di 1926 Tư Lệnh SĐ 9 BB (1968) 133 Ch. Tướng Trần Đình Thọ Trưởng Phòng 3 Bộ TTM (1975) 134 Tr. Tướng Trần Ngọc Tám 1926 Đại Sứ Thái Lan (1972) 135 Ch. Tướng Trần Quang Khôi CHT Lực Lượng Xung Kích QĐ III (1975) 136 Ch. Tướng Trần Quốc Lịch Chánh Thanh Tra QĐ IV (1975) 137 Cố Tr. Tướng Trần Thanh Phong 1926 Tư Lệnh CSQG (1971) 138 Th. Tướng Trần Tử Oai CHT Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung (1965) 139 Đ. Tướng Trần Thiện Khiêm 1925 Thủ Tướng Chính Phủ VNCH (1975) 140 Ch. Tướng Trần Văn Cẩm 1930 Phụ Tá HQ BTL QĐ II & QK II (1975) 141 Đề Đốc Trần Văn Chơn 1919 Tư Lệnh Hải Quân (1974) 142 Tr. Tướng Trần Văn Đôn 1917 Tổng Trưởng Quốc Phòng (1975) 143 Ch. Tướng Trần Văn Hai 1928 Tư Lệnh SĐ 7 BB (1975) 144 Tr. Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân VN (1975) 145 Th. Tướng Trần Văn Minh 1923 Đại Sứ Tunisia (1967) 146 Ch. Tướng Trần Văn Nhựt 1936 Tư Lệnh SĐ 2 BB (1975) 147 Tr. Tướng Trần Văn Trung 1925 TCT. TC. CTCT (1975) 148 Cố Tr. Tướng Trịnh Minh Thế Tư Lệnh Lực Lượng Cao Đài (1955) 149 Ch. Tướng Trương Bảy Chỉ Huy Trưởng Cảnh Lực (1975) 150 Cố Ch. Tướng Trương Hữu Đức 1930 Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (1972) 151 Cố Th. Tướng Trương Quang Ân 1932 Tư Lệnh SĐ 23 BB (1970) 152 Ch. Tướng Từ Văn Bê 1931 CHT BCH Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân (1975) 153 Th. Tướng Văn Thành Cao 1924 Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (1975) 154 Tr. Tướng Vĩnh Lộc Tổng Tham Mưu Trưởng (4/1975) 155 Ch. Tướng Võ Dinh TMT BTL Không Quân (1975) 156 Th. Tướng Võ Văn Cảnh 1922 Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ (1974) 157 Th. Tướng Võ Xuân Lành Tư Lệnh Phó KQVN (1975) 158 Phó Đề Đốc Vũ Đình Đào 1935 Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải (1975) 159 Ch. Tướng Vũ Đức Nhuận Giám Đốc ANQĐ (1975) 160 Th. Tướng Vũ Ngọc Hoàn 1932 Cục Trưởng Cục Quân Y (1972) 161 Ch. Tướng Vũ Văn Giai Tư Lệnh SĐ 3 BB (1972) TƯỚNG LÃNH VNCH TRONG TÙ CẢI TẠO Thiếu Tướng Lý Bá Hỷ 01 Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 3 tại chiến trường Phan Rang, bị bắt khi thất thủ. 02 Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Ðoàn 6 Không Quân, bị bắt cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi khi chiến trường Phan Rang thất thủ. 03 Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2. 04 Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3. 05 Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh. 06 Thiếu Tướng Lê minh Ðảo, Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. 07 Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. 08 Thiếu Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. 09 Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, Tư Lệnh Phó Quân Khu 4. 10 Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân. 11 Chuẩn Tướng Phạm duy Chất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân Quân Khu 2, chỉ huy cuộc hành quân rút bỏ tỉnh Cao Nguyên hồi tháng 3.1975. 12 Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến. 13 Ðại Tá Lê hữu Ðức, Quyền Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến. 14 Chuẩn Tướng Lê văn Thân, Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Ðộ. Nhận chức chiều 29.04.1975. 15 Chuẩn Tướng Lê trung Trực, Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng. 16 Ðại Tá Nguyễn xuân Hường, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh. 17 Ðại Tá Nguyễn đức Dung, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh. 18 Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư Lệnn Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. 19 Ðại Tá Trần ngọc Trúc, Tư Lệnh Lữ Ðoàn 4 Kỵ Binh. 20 Thiếu Tưóng Trần bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. 21 Chuần Tướng Vũ văn Giai, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. 22 Chuần Tướng Lê văn Tư, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. 23 Thiếu Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục Phó Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. 24 Thiếu Tướng Ðoàn văn Quảng, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. 25 Trung Tá Bùi thế Dung, Thứ Trưởng Quốc Phòng trong thành phần chánh phủ chưa kịp trình diện. 26 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn May, Tư Lệnh Vùng 5 Duyên Hải. 27 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn bá Trang, Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Nhiệm Thủy Bộ 211. 28 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn Tấn, Quyền Tư Lệnh Hải Quân vào những giờ cuối cùng. 29 Thiếu Tướng Cảnh Sát Bùi văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. 30 Cựu Thiếu Tướng Huỳnh văn Cao, Nghị Sĩ. 31 Chuần Tướng Hồ trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra Quân Ðoàn 3. 32 Ðại Tá Nguyễn khắc Tuân nhận chức Tham Mưu Trưởng Tổng Tham Mưu chiều 29.04.1975. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh. 33 Ðại Tá Lại Ðức Chuẩn, Trưởng Phòng Nhất Tổng Tham Mưu 34 Ðại Tá Phạm bá Hoa, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. 35 Ðại Tá Ngô văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Ðô. 36 Ðại Tá Vũ Ðức Nghiêm. ************************************** “Hành Trình Hồi Hương” của cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. LTS: Chúng tôi thường nói đùa rằng, có 2 bác “hot” nhất Đàn Chim Việt, đó là bác Hồ và bác Kỳ. “Hot” ở chỗ, khi nào có bài về 2 bác đó thì lượng người đọc tăng hẳn lên và mục Góp Ý của Đàn Chim Việt cũng ngập ngụa… rác! Bác Hồ đang “nằm trong lăng giấc ngủ bình yên” như lời một bài hát nào đó. Bác Kỳ, dù có thể điểu khiển thành thục máy bay chiến đấu, nhưng như lời thú nhận của bác trong buổi nói chuyện mới đây, bác “rất dốt” về máy tính, “vào đó chẳng biết bấm vào nút nào”, nên cũng không (thèm) đọc những lời bình luận hay những bài viết tranh luận liên quan tới mình. Nhưng bạn đọc thì quan tâm, thì tranh cãi ỏm tỏi. Để khỏi tạo cảm giác biên tập viên Bằng Phong Đặng Văn Âu, một thuộc cấp cũ của ông Nguyễn Cao Kỳ bênh vực ‘sếp’ của mình, chúng tôi, ngay trong lời đề tựa của bài viết “Nguyễn Cao Kỳ, con người của thời cuộc” đã kêu gọi bạn đọc trình bày quan điểm khác biệt của mình và tuyên bố sẵn sàng đăng tải những bài viết của các tác giả khác. Nhưng, cho tới nay, những ý kiến thóa mạ, chửi bới thì nhiều nhưng tranh luận nghiêm túc lại rất ít. Tác giả Nguyễn Tường Tâm là một trong số rất ít người đã gửi bài về chủ đề này tới tới BBT. ——————————————————————– (Viết theo kêu gọi góp ý của chị Mạc Việt Hồng, Tổng Biên tập trang mạng danchimviet.info) Nguyễn Tường Tâm (21-11-2010) Cựu PTT Nguyễn cao Kỳ và chủ tịch Nguyễn Minh Triết Sau chuyến về thăm Việt Nam cuả Cựu Phó Tổng Thống (PTT) Nguyễn Cao Kỳ của Miền Nam Việt Nam trong dịp tết âm lịch đầu năm 2004, trên tất cả các báo viết và báo mạng, người Việt hải ngoại đều lên tiếng chửi rủa cựu PTT Kỳ. Tôi là người duy nhất viết trên báo chí Hoa Kỳ (Tờ tuần báo Tin Việt News v…v.) một bài bình luận không khen không chê ông. Trong đó tôi vạch rõ ông Kỳ là một thứ “sinh tử phù” được Hoa Kỳ cấy vào cơ thể của chế độ Cộng Sản Việt Nam. Trong bài đó tôi đã viết “Ông (Kỳ) tuyên bố những điều ngược với chế độ Cộng Sản ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội và Sài Gòn. Ông tuyên bố như vậy ngay với cả giới lãnh đaọ cao cấp cuả cộng sản. Ông coi họ như pha! Ông nói rằng, “ông tin rằng quê hương ông đang dần dần từ bỏ các phương pháp độc đoán. Cộng sản đã hết rồi .” Tôi viết tiếp, “Đây là những lời nói, cho tới trước khi ông Kỳ phát biểu tại Việt Nam, thì nhà cầm quyền cộng sản thường kết tội là tuyên truyền cho “diễn tiến hoà bình,” “tuyên truyền lật đổ chính phủ .” Nhưng nay cộng sản Việt Nam đã để cho ông Kỳ nói giữa lòng thủ đô Hà Nội.” Cho tới nay đã sắp tới 7 năm kể từ chuyến về Việt Nam lần đầu tiên của ông Kỳ, “Sinh tử phù Nguyễn Cao Kỳ” đã phát tán trên hầu khắp mọi miền của chế độ Cộng sản Việt Nam. Bao nhiêu trí thức, luật gia, những dân thường tranh đấu cho tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, và dân chủ, liên lục lên tiếng ngày càng công khai và mạnh mẽ. Mới đây nhất là một số nhà kinh tế, lý luận cộng sản kỳ cựu lên tiếng chỉ trích chế độ qua cuộc hội thảo mang danh góp ý cho dự thảo Văn Kiện Đại Hội Đảng đòi đổi mới hệ thống chính trị, thay đổi hiến pháp, phục hồi quyền tư hữu. Cái gọi là hội thảo khoa học về dự thảo Văn Kiện Đại Hội Đảng CSVN lần thứ 11 thực chất là một đòi hỏi HỦY BỎ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN HIỆN HỮU. Tiến Sĩ Luật nổi tiếng Cù Huy Hà Vũ vừa mới bị bắt cũng vì đã nhiều lần lên tiếng tương tự. Để độc giả dễ nắm vấn đề hơn, tôi tóm lược BIÊN BẢN HỘI THẢO KHOA HỌC đầu tháng 10 vừa qua ở Hà Nội về Dự thảo Văn kiện Đại Hội Đảng CSVN lần thứ 11 của HỘI KHOA HỌC KINH TẾ VN và TRUNG TÂM TT và DBKT – XHQG mà Chủ trì là GS Trần Phương, Chủ tịch Hội KHKTVN, với thành phần tham dự gồm hơn 20 nhà khoa học mũi nhọn, đảng viên cộng sản cao cấp, trong đó có một số các nhà kinh tế và lý luận cộng sản kỳ cựu như: GS Trần Phương – nguyên phó Thủ tướng Chinh phủ; Vũ Khoan – nguyên phó Thủ tướng Chính phủ; PGS Trần đình Thiên – Viện trưởng Viện kinh tế; GS Phan văn Tiệm – nguyên thứ trưởng Bộ Tài chính; Việt Phương – nguyên Thư ký cố vấn của cố Thủ tướng Phạm văn Đồng; Dương Thu Hương – nguyên phó Thống đốc Ngân hàng; GS Đào xuân Sâm – nguyên Trưởng bộ môn Quản lý kinh tế trường Nguyễn Ái Quốc; PGS Võ Đại Lược – nguyên viện trưởng Viện Kinh tế Thế giới. Cuộc thảo luận đó đã đi tới một kết luận có tính cách quyết liệt, toàn diện và cơ bản là nên có một Nghị quyết khác với các vấn đề chính như: 1- Đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Hiến pháp mới, xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng: Lãnh đạo là ai? Ai cho anh quyền lãnh đạo? 2- Chủ nghĩa Cộng Sản đã là ảo tưởng, triệt tiêu chế độ tư hữu là sai, sức sống của chế độ tư hữu lớn lắm, định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa của Kinh Tế Thị Trường là gì mà cứ phải có cái đuôi ấy? 3- Dân Chủ thì ở đâu cũng giống nhau; dân được nói mới là Dân Chủ, trong Đảng là mất Dân chủ nhất. 4- Niềm tin của dân với Đảng giảm sút, Liên Xô đổ vì dân không còn tin Đảng. 5- Hầu như không có nhận định nào trong Văn kiện là đúng sự thật thực tiễn. Cương lĩnh đầy dẫy cái sai, cái mơ hồ. Nói XHCN mà không biết nó là cái gì? Tình hình phát tán “Sinh Tử Phù Nguyễn Cao Kỳ” hiện nay tại Việt Nam đã khiến ông Bùi Tín, một cựu thành viên giới lãnh đạo báo giới Cộng Sản, trong bài đăng trên blog VOA ngày 18/11/2010 đã tóm lược tình hình hiện tại ở Việt Nam: “Bộ chính trị trước nước cờ chiếu tướng hiểm hóc.” Để kiểm điểm xem trong 7 năm qua tiến trình phát tán của “Sinh Tử Phù Nguyễn Cao Kỳ” tại Việt Nam như thế nào, thiết tưởng cũng hữu ích nếu đọc lại bài bình luận của tôi đăng báo ngày 29-2-2004 như dưới đây: PTT Nguyễn Cao Kỳ, Cộng Sản và Cộng Đồng (người Việt Hải Ngoại) trên bàn tay XIỆC Mỹ. Nguyễn tường Tâm (29-2-2004) Chuyến về thăm Việt Nam cuả PTT Kỳ trong dịp tết âm lịch vưà qua là 1 trò chơi không có kẻ bại, ai cũng là người vui vẻ vì đã hoặc sẽ được toại nguyện theo ý mình. Ngươì vui vẻ đầu tiên là PTT Kỳ. Ông vui vì được về thăm quê hương, gặp lại bạn bè cũ sau 50 năm không gặp, ngồi trong khung cảnh nên thơ nhớ về chuyện xưa thuả thiếu thời . Ông lại còn được chính quyền Cộng sản Việt Nam đón rước ngay từ lúc bước chân xuống phi trường. Ông lại còn được tha hồ ăn noí vung vít rất thích hợp với con người ông. Ông vẫn ăn nói bộc trực, chẳng giữ gìn ý tứ gì cả như thời ông còn trẻ. Ông tuyên bố 1 cách đầy khẳng định, “Tâm hồn tôi rất rõ ràng, những gì tôi đang làm hiện nay là tôi đang làm cho tổ quốc tôi. Khi nhìn lại quá khứ, thì việc giết chóc là điều không có gì mà người ta có thể ca ngợi . Nay là lúc phải khép lại trang đen tối cuả lịch sử Việt Nam và mở ra 1 trang sử mới .” “When you look back today, the killing is nothing you can praise. It’s time to close that dark chapter of Vietnam history and open a new one.” (Exiled Vietnamese leader ‘surrenders’ to hometown/ Saturday, January 24, 2004, 12:00 A.M. Pacific/ By Mai Tran and Richard C. Paddock / Los Angeles Times ) Lời nói cuả 1 chiến sĩ từng lãnh đạo phi đoàn Thần Phong Bắc phạt, đã khiến những ai đã từng biết ông phải ngạc nhiên. Ông lại được phát biểu những điều mà từ ngày đảng cộng sản Việt Nam chiếm được chính quyền tới nay chưa ai ăn nói như ông mà không bị tù mọt gông. Ông tuyên bố những điều ngược với chế độ Cộng Sản ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội và Sài Gòn . Ông tuyên bố như vậy ngay với cả giới lãnh đaọ cao cấp cuả cộng sản. Ông coi họ như pha! Ông nói rằng, “ông tin rằng quê hương ông đang dần dần từ bỏ các phương pháp độc đoán. Cộng sản đả hết rồi .” Ông đã tuyên bố với The Associated Press rằng: “Họ đã nhận ra rằng kinh tế thị trường tự do là chiều hướng đúng để đất nước phát triển. (Los Angeles Times) Báo chí Hoaky đã tường thuật, “là 1 trong các người, trong quá khứ đã công khai lớn tiếng chỉ trích các nhà lãnh đạo cuả Hà Nội sau chiến tranh, nay ông Kỳ nói rằng ông trở nên tin tưởng rằng Việt Nam hiện đang mạnh mẽ đi trên con đường thay đổi.” Ông nói nguyên văn, “Trong 10 năm qua, tất cả chúng ta có thể thấy chiều hướng mới mà họ thực hiện tại Việt Nam. Sau 10 năm, tôi tin rằng họ đã thực sự muốn thay đổi, giống như Trung quốc, giống như Liên xô và như các quốc gia Đông âu khác.” Những lời phát ngôn này từ trước tới nay chưa bao giờ Cộng sản Việt Nam cho phép 1 ai phát biểu dù là ngấm ngầm trong chốn riêng tư, huống chi là được tuyên bố công khai trên báo chi như ông Kỳ. Đây là những lời nói, cho tới trước khi ông Kỳ phát biểu tại Việt Nam, thì nhà cầm quyền cộng sản thường kết tội là tuyên truyền cho “diễn tiến hoà bình,” “ tuyên truyền lật đổ chính phủ .” Nhưng nay cộng sản Việt Nam đã để cho ông Kỳ nói giữa lòng thủ đô Hà Nội. Những phát ngôn trích dẫn nguyên văn trên cho thấy không phải ông Kỳ đã đầu hàng cộng sản. Trái lại, ông tuyên bố những điều ngược với chế độ cộng sản, và ông muốn thúc đẩy họ thay đổi nhanh hơn trên con đường cởi mở về kinh tế. Nhưng những đoạn phát biểu khác trong cùng bài báo hay bài phỏng vấn lại cho thấy ông ủng hộ chế độ độc đảng và độc tài. Cần phân biệt rõ, qua những phát biểu cuả ông Kỳ thì ông ấy không ủng hộ chủ nghiã cộng sản nhưng ông ấy ủng hộ chế độ độc tài đảng trị. Quan điểm ủng hộ độc đảng độc tài cuả ông đã có từ thời ông còn trẻ. Trước khi được bổ nhiệm làm thủ tướng VNCH, ông tuyên bố rằng vị anh hùng cuả ông là nhà độc tài quốc xã Hitler. Bản tin ngày 15-1-2004 của đài Á châu Tự do tường thuật “Lấy trường hợp của các nước Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc để so sánh với Việt Nam, ông Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố chính phủ hiện hành tại Hà Nội do một đảng duy nhất lãnh đạo là thế mạnh để duy trì trật tự ổn định, là yếu tố cần thiết để Việt Nam thọat khỏi sự nghèo đói.” Và “Vẫn theo lời ông Kỳ, ưu tiên của Việt Nam phải là xây dựng kinh tế, xây dựng một giai cấp trung lưu rồi sau đó mới nghĩ đến chuyện cải tổ chính trị.” Năm ngoái (2003), trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên David DeVoss cuả Asia Inc’s America, khi phóng viên DeVoss hỏi rằng liệu việc cải thiện kinh tế có làm mau chóng cải tổ dân chủ hay không thì ông Kỳ trả lời là “Chắc chắn .” Và ông viện dẫn các trường hợp Thái lan, Đài loan và Nam hàn, những nước này cách nay 40 năm cũng theo hệ thống độc đảng . Nhưng theo ông tại mỗi nước đó các nhà độc tài dùng quyền lực cuả mình để xây dựng quốc gia . Họ cải thiện giáo dục, giữ giá thực phẩm thấp để giới rung lưu không phải lệ thuộc vào chính phủ mới có cơm ăn. 1 giai tầng trung lưu kiếm ra tiền không còn lệ thuộc vào chính phủ nưã. Bây giờ nhân dân tại 3 nước đó có quyền tự lãnh đạo cuộc sống cuả họ.” Lần này, tại Việt Nam , trong 1 cuộc họp báo, PTT Kỳ lại lập lại quan điểm này. (Proclaiming that he is “practical,” Ky said Vietnam needed to build itself up economically before it can consider political changes. Citing the examples of other neighbors in Asia, Ky said once Vietnam has established a solid middle-class and some economic prosperity, then its citizens will be in a better position to choose their own destiny./ AP Interview: Former South Vietnamese leader returns home with message of reconciliation / TINI TRAN, Associated Press Writer Friday, January 23, 2004 /©2004 Associated Press) Quan điểm ủng hộ độc tài , độc đảng này khiến cộng đồng tị nạn hải ngoại chống đối ông. Nhưng điều khiến cộng đồng hải ngoại chống đối ông mạnh mẽ hơn nưã, theo người viết, chính là cái lối nói cuả ông. PTT Kỳ có giọng điệu chỉ trích 1 cách không cần thiết những người chống đối ông tại hải ngoại. Năm ngoái (2003), cũng trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên David DeVoss cuả Asia Inc’s America vưà nêu, khi phóng viên DeVoss hỏi rằng liệu cộng đồng người Viêt tại Little Saigon có ủng hộ chuyến về Việt Nam với mục tiêu hoà giải với cộng sản hay không thì ông Kỳ đã thiếu khéo léo khi tuyên bố nguyên văn, “Thường có những người chống cộng cuồng tín, nhưng ngày nay những người chống cộng cuồng tín không là gì cả. Tổng thống Nixon đã nói tới “đa số thầm lặng” trong xã hội Hoaky. Thì cộng đồng tị nạn người Việt cũng có khối đa số thầm lặng đó.” Lần này, tại Sài Gòn, cũng trong 1 cuộc phỏng vấn, ông lại lập lại cái nội dung cũ nhưng với giọng điệu chỉ trích cộng đồng hải ngoại mạnh hơn nưã . Cái DVD thu hình cuộc họp báo 1 ngày sau khi ông về tới Sài Gòn đã cho thấy rằng, khi được hỏi về dư luận những người Việt và báo chí hải ngoại chống đối chuyện ông trở về Việt Nam, ông đã có giọng điệu khích bác không cần thiết khi ông cho biết là ông không quan tâm tới báo chí và ông gọi báo chí hải ngoại là những “báo lá cải”, ông cho những người Việt hải ngoại chống đối viêc ông về nước là thiểu số, rồi ông lại xấc xược noí thêm nguyên văn, “tôi chẳng thèm để ý tới cái thiểu số đó.” Hoặc ông còn nói thêm rằng cái thiểu số đó cũng lớn tuổi gần chết hết rồi và “đất nước không cần cái hạng người này!” Ông còn nói nguyên văn “Ba cái anh thiểu số lăng nhăng đó không làm gì được tôi.” Có lẽ chính cái cung cách phát ngôn có tính cách chỉ trích cộng đồng hải ngoại mà ông Kỳ bị cộng đồng hải ngoại chống đối mạnh mẽ thêm. Ví dụ khi đọc 2 đoạn tin sau đây cuả đài Á châu tự do thì bất cứ thành viên nào trong cộng đồng hải ngoại cũng phải điên tiết lên đối với ông: Bản tin ngày 15-1-2004 của đài Á châu Tự do viết nguyên văn, “Một ngày sau khi về tới Sài Gòn, cựu Phó tổng thống miền Nam Nguyễn Cao Kỳ đã lên tiếng ca ngợi các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông Kỳ còn quay sang chỉ trích những ngừơi Việt đang họat động chính trị ở Mỹ.” và bản tin viết tiếp “Được hỏi ông có chống đảng Cộng sản không và có muốn thấy cải tổ chính trị ở Việt Nam không, ông Kỳ quay sang chỉ trích những ngừơi Việt đang họat động chính trị ở Mỹ, nói rằng theo ý ông thì thật là sai lầm khi một số ngừơi ở hải ngọai, đặc biệt là ngừơi Mỹ gốc Việt, đến giờ vẫn còn hô hào và đòi hỏi Việt Nam phải tiến tới một nền dân chủ mà họ đang được hưởng ở Hoa Kỳ. Vẫn theo lời ông Nguyễn Cao Kỳ, đó là hình thức dân chủ không xứng hợp với hiện tình Việt Nam trong lúc này.” Các luận điểm chỉ trích PTT Kỳ có thể được tóm lược như sau: Hành động cuả PTT Kỳ là 1 hành động “đào ngũ đáng khinh bỉ”; “phản bội lại lý tưởng tự do” , “đầu hàng cộng sản”, “đầu hàng kẻ thù,” là hành động “hợp pháp hoá chế độ cộng sản”, “là người không có tư cách, không có liêm sỉ, không có trình độ, ngu dốt, có chuyện bê bối trong gia đình, làm ăn kinh doanh thua lỗ tại Hoaky” v…v Tất cả những luận điểm chỉ trích hay ủng hộ PTT Kỳ đều không phải là chủ điểm cuả bài bình luận này. Trong bài nhận định này người viết muốn khảo sát thế liên hoàn Hoaky, Cộng sản Việt Nam, Cộng đồng người Viêt hải ngoại và cá nhân PTT Nguyễn cao Kỳ trong chuyến đi cuả ông đang gây nhiều ồn ào. Cả 4 thành tố này có mối quan hệ quyền lơị gắn liền với nhau. 1/- Trước hết, không cứ gì ông Kỳ! Bất cứ ai có dịp xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu cuộc đời cũng đều không những không từ chối, mà lại còn hăm hở đón nhận . Nói cách khác, trong màn xiệc này, ông Kỳ có quyền lợi cá nhân. Ít ra là ông lại nổi tiếng (ai mà chẳng muốn?), ông lại thấy mình quan trọng, ông lại thấy mình có ích trên con đường phát triển đất nước. 2/- Kế đến, cộng đồng người Việt thì muốn dùng mọi biện pháp để chống Cộng Sản và xây dựng 1 VN dân chủ và phồn thịnh. Trong các biện pháp đó có biện pháp muốn mượn tay chính phủ Hoaky vưà bằng các biện pháp vận động ngầm các vị trong chính quyền dân cử lẫn hành pháp; vưà biểu tình bày tỏ thái độ chống Cộng mãnh liệt để gây áp lực. Một số người dè bỉu thái độ biểu tình cuả cộng đồng hải ngoại và cho là chống cộng mà biểu tình tại hải ngoại thì không ảnh hưởng gì tới chế độ cộng sản trong nước. Thực sự ra chính quyền Hoaky rất cần các cuộc biểu tình cuả quần chúng để làm áp lực trong các thương thuyết với đối phương . Vì dụ trong cuộc đón tiếp chủ tịch Giang Trạch Dân cuả Trung quốc tại Hoaky hồi năm 1997, chính quyền Clinton rất mềm mỏng đối với Trung Quốc. Chương trình thăm viếng Hoaky hoàn toàn do phiá Trung quốc đưa ra. Nhưng chính phủ Clinton đã bật đèn xanh cho cộng đồng người người Hoa chống cộng biểu tình chống Giang Trạch dân trên mọi chặng đường ông ta đi qua. Và với những cuộc biểu tình đã được chính quyền kín đáo khích lệ, tổng thống Clinton đã có thêm sức mạnh khi đề cập tới vấn đề nhân quyền với ông Giang Trạch Dân. Và trên thực tế tổng thống Clinton đã dành tới 2/3 thời gian cuả cuộc họp, tức khỏang 60 phút trong tổng số 90 phút đàm đạo để bàn với chủ tịch Giang Trạch Dân về vấn đề nhân quyền tại Trung quốc. Với các cuộc biểu tình chống đối Giang trạch Dân do chính quyền Hoaky khích lệ, chính phủ Clinton đã giúp Chủ tịch Giang trạch Dân học được bài học dân chủ mà chính chủ tịch Giang Trạch Dân, trong 1 cuộc họp báo sau đó tại Washington trước khi về nước, cũng phải phát biểu nguyên văn, “Đôi khi tôi đã nghe được những tiếng la-ó phản đối. Tôi biết rằng tại Hoaky những quan điểm khác biệt đều có thể được phát biểu; và đây là một phản ảnh cuả nền dân chủ. Và do đó tôi muốn trích dẫn 1 câu ngạn ngữ Trung quốc như sau: “Trăm nghe không bằng mắt thấy .” Tôi cũng đã thực sự học hỏi được điều này trong chuyến du hành hiện nay cuả tôi.” 3/- Cộng sản Việt Nam lại đang rất cần phát triển thêm bang giao với Hoaky vì cả 2 quyền lợi mậu dịch và quốc phòng. Cộng sản Việt Nam muốn cải thiện bang giao với Hoaky, đặc biệt là muốn dùng Hoaky như một đối lực cân bằng ảnh hưởng cuả Trung quốc, 1 lân quốc đã từng chiếm đóng Việt Nam. (After Decades, Saigon Figure Visits Vietnam With U.S. Nod By JANE PERLEZ Published: January 26, 2004) 4/-Trong khi quyền lợi quốc phòng và kinh tế cuả Hoaky tại Việt Nam đã được cải thiện với 1 tốc độ đáng kể thì nay Hoaky cần quan tâm tới việc tôn trọng dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Sở dĩ Hoaky quan tâm tới vấn đề dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam vì DÂN CHỦ và NHÂN QUYỀN là 1 “nguyên tắc không thể tranh biện” trong chính sách ngoại giao cuả Hoaky nói chung. Theo báo cáo cuả ông chủ tịch uỷ ban Hoaky về tự do tôn giaó quốc tế thì những quan hệ và tình thân hữu về mậu dịch và quốc phòng muốn được lâu bền và mạnh mẽ thì phải dựa trên sự ổn định cuả 1 xã hội dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Và vì thế các nguyên tắc về tôn trọng dân chủ và nhân quyền tại các quốc gia khác là trọng tâm quyền lợi Hoaky tại hải ngoại. (bài thuyết trình ngày 12/2/2004 trước tiểu ban Đông và Thái bình dương sự vụ thuộc uỷ ban ngoại giao thượng viện, cuả ông Michael Young, chủ tịch uỷ ban Hoaky về tự do tôn giaó quốc. Mặc dù mục tiêu chính yếu cuả Hoaky là thúc đẩy Việt Nam biến đổi thành 1 quốc gia KHÔNG CỘNG SẢN và dân chủ, nhưng trong tình hình Việt Nam hiện nay (2-2004) mục tiêu khả thi nhất cuả Hoaky chưa phaỉ là thúc đẩy Việt Nam tiến tới 1 nền dân chủ đa đảng mà mới chỉ là thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam từ bỏ chủ nghiã Cộng sản trong khi vẫn duy trì vị trí lãnh đạo cuả đảng cầm quyền. Đó là con đường mà Cộng Sản Trung quốc đã thực hiện. Mục tiêu này khả thi vì 3 lý do: Thứ nhất , mục tiêu này hiện đang phù hợp với suy nghĩ của dân chúng cũng như cuả nhiều tầng lớp cán bộ đảng. Trong lá thư ngày 15/2/2004 cuả một số cán bộ lão thành cách mạng gưỉ Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng được phổ biến công khai tới các các cơ quan truyền thông, các tác giả lá thư đã tiết lộ nguyên văn, “Trong cuộc họp các cán bộ cách mạng lão thành ở thành phố HCM trước hội nghị trung ương đảng lần thứ VII về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng chí Mai chí Thọ, nguyên uỷ viên trung ương đảng, nguyên uỷ viên bộ chính trị, nguyên bộ trưởng bộ nội vụ, nay là bộ công an, đã nói: Hiện nay chủ nghiã xã hội không còn thuyết phục và khả thi để nêu cao ngọn cờ lý tưởng cộng sản! …Gần 70 năm tuổi đảng, tôi có cảm giác chẳng bao lâu nưã Đảng cộng sản Việt Nam mất quyền lãnh đạo, nhiều người cũng nói với tôi như thế ….Nay ta đã có gì là XHCN? Phải chăng ta đang là chế độ Tư bản hạng bét?” Thứ nhì, mục tiêu này khả thi vì không đe doạ tới vị trí lãnh đạo và quyền lợi cuả đảng Cộng sản (chỉ từ bỏ chủ nghiã Mác –Lênin thôi) cho nên sẽ ít bị đảng cộng sản VN chống đối. Và cuối cùng, mục tiêu này cũng khả thi vì phù hợp với đường lối cuả Trung quốc và vì thế không làm cho giới lãnh đạo Trung quốc lo ngại trước sự bành trướng ảnh hưởng cuả Hoaky tại Việt Nam. Để thúc đẩy CSVN từ bỏ chủ nghiã cộng sản, Hoaky muốn dùng chiến thuật 2 mũi giáp công: Vừa thúc đẩy sự thay đổi từ bên trong (tức vận động diễn tiến hoà bình) vưà vận dụng áp lực từ bên ngoài bằng mọi phương cách trong đó có cả việc ngầm khích lệ cộng đồng người Việt hải ngoại biểu tình hay bày tỏ thái độ chống cộng như trong chiến dịch vận động các thành phố ra các nghị quyết công nhận cờ Vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính thức, biểu tượng cuả cộng đồng người Việt hải ngoại. Hoaky đã áp dụng chiến thuật này khi đón tiếp chủ tịch Trung quốc Giang trạch Dân viếng thăm Hoaky vào năm 1997 như đã trình bày ở trên. Thúc đẩy sự thay đổi từ bên trong, tức vận động diễn tiến hoà bình, là 1 chiến lược mà cộng sản Việt Nam hết sức lo ngại và kịch liệt chống đỡ trong suốt 10 năm qua. Tại Việt Nam năm 1993, Hoaky đã thất bại trong việc hỗ trợ ngầm 1 nhóm người Mỹ gốc Việt xin phép nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tổ chức tại Sài Gòn 1 hội nghị có tên là “Hội nghị quốc tế phát triển Việt Nam”. Trong hội nghị đó dự trù sẽ có cả các nhóm doanh gia, các đại diện chính phủ, 1 số đại diện lập pháp Canada để thảo luận đề tài phát triển kinh tế Việt Nam, nhưng thực chất là nhằm giúp phong trào đoàn kết toàn dân và xây dựng dân chủ tại Việt Nam. Nhưng 2 tuần lễ trước khi hội nghị khai mạc thì cộng sản bắt giữ tất cả những người tổ chức với tội danh âm mưu lật đổ chính phủ. 2 nhân vật nổi tiếng trong vụ này là luật sư Hoaky Steven Young và giáo sư Nguyễn Đình Huy. Giáo sư Huy hiện vẫn còn bị giam tại Việt Nam (2-2004). Nhưng nay tình hình Việt Nam đã khác hồi năm 1993 rất nhiều, và đã tới lúc Hoaky thấy có thể thực hiện được mục tiêu tương tự lại với ít tốn kém hơn, đơn giản hơn, và với chỉ 1 con người: Con người đó là Cựu phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cuả Việt Nam Cộng Hoà. Tại sao Hoaky lại chọn cựu PTT Kỳ để thực hiện chiến thuật tuyên truyền diễn tiến hoà bình? Để tuyên truyền cho diễn tiến hoà bình cần phải có con người nói tiếng nói đó từ trong nước, nói tiếng nói đó với công luận trong nước, nói tiếng nói đó với giới lãnh đạo đảng trong nước. Những tiếng nói vận động hoà bình từ trong nước cũng đã có nhiều, nhưng họ bị cộng sản VN đàn áp, bao vây, cô lập, giam cầm cũng không ít. Nay mặt trận chống cộng cuả Hoaky tại Việt Nam sẽ chỉ có lợi cho Hoaky nếu Hoaky có thể tạo 1 thế an toàn cho 1 con người có tầm vóc quốc tế và quốc gia (không biết được ưa hay ghét, nhưng phải là tiếng nói có thể gây tiếng vang trên toàn quốc) nói lên tiếng nói vận động thay đổi từ bỏ chủ nghiã cộng sản từ trong lòng thủ đô Hà Nội. Con người thích hợp với vai trò đó không ai hơn được PTT Kỳ lúc này. Ông vốn là 1 tướng lãnh, 1 cấp lãnh đạo miền Nam thích hoa hoè hoa sói, hay tuyên bố những câu giật gân, 1 trong những người chống cộng cực đoan nhất trong giới lãnh đaọ cuả VNCH. Nay nếu ông trở về Việt Nam, lại tuyên bố hoà hợp hoà gỉai với cộng sản, đề rồi thúc đẩy giới lãnh đạo CSVN từ bỏ con đường cộng sản thì chắc chắn sẽ nổi đình nổi đám đối với cả báo chí Hoaky lẫn báo chí cộng đồng và cả đối với dư luận đồng bào cùng giới lãnh đạo đảng ở trong nước. Bây giờ chỉ còn vấn đề là làm sao thuyết phục được Cộng sản Việt Nam mời ông Kỳ về nước. Và tờ New York Times viết tiếp: “Chuyến du hành của ông Kỳ phát xuất từ những khuyến khích nơi hậu trường của chính quyền Bush. Năm ngoái, một viên chức Mỹ gợi ý cho Hà Nội là họ nên liên hệ với ông Kỳ để giúp họ có một vóc dáng nào đó với Hoa Kỳ. Theo ý đó, thứ trưởng Nguyển Phú Bin tới San Francisco xin gặp ông Kỳ; và nay ông Kỳ cho biết, ông Bin, hiện là đại sứ tại Ba Lê, đã đề xuất ra chuyến viếng thăm này.” (Jane Perlez . New York Times. TB. 24.12.2004, Jan 24, 2004) Như người viết đã phân tích ở trên, CSVN đang rất muốn có quan hệ chặt chẽ với Hoaky vì vậy khi được gợi ý thì CSVN ôm chầm ngay lấy ý kiến đó mà thực hiện . Cùng lúc đó Hoaky tung ra các chỉ trích CSVN về vấn đề nhân quyền qua báo cáo hàng năm về nhân quyền quốc tế cuả bộ ngoại giao. Hành động này khiến cộng đồng yên tâm về chính sách cuả Hoaky đối với CSVN và chỉ tập trung vào việc chống đối cá nhân ông Nguyễn cao Kỳ . Việc cộng đồng càng biểu tình chống đối cộng sản, chống đối chủ trương hoà hợp hoà giải và giao lưu 1 chiều cuả cộng sản là cần thiết để cộng sản tiếp tục ôm cứng lấy con bài Nguyễn cao Kỳ như muốn chứng tỏ với Hoaky rằng họ muốn hoà hợp hoà giải thực sự, chế độ cuả họ còn cởi mở hơn cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Hoaky biết trước là Ông Kỳ có thể tuyên bố lung tung rất nhiều, nhưng Hoaky chỉ cần ông về lại Việt Nam, trong các cuộc họp báo hay trong những tiếp xúc chính thức hay không chính thức với giới lảnh đạo đảng, ông hãy tuyên bố như ông đả làm: “ông tin rằng quê hương ông đang dần dần từ bỏ các phương pháp độc đoán . Cộng sản đả hết rồi.” Ông đã tuyên bố với The Associated Press rằng: “Họ đã nhận ra rằng kinh tế thị trường tự do là chiều hướng đúng để đất nước phát triển. (Los Angeles Times) ”Sau 10 năm, tôi tin rằng họ đã thực sự muốn thay đổi, giống như Trung quốc, giống như Liên xô và như các quốc gia Đông âu khác.” Hoaky chỉ cần CSVN để cho ông Kỳ tuyên bố như thế trước công luận tại Việt Nam là đủ rồi. Trong khi đó cộng đồng Việt Nam hải ngoại lại suy nghĩ khác. Họ nóng lòng muốn cộng sản VN sụp đổ ngay tức khắc. Và những gì không đáp ứng khát vọng này thì lập tức bị chống đối là lẽ đương nhiên. Người ta có thể thông cảm với tâm tư đó cuả các thành viên trong cộng đồng Việt Nam lưu vong vì những đau thương ngút ngàn trong quá khứ mà cộng sản đã gây ra cho họ. Nhưng những nhà làm chính sách Hoaky chỉ dùng lý trí chứ không để tình cảm chi phối. Họ phải dùng con mắt phân tích khách quan và thực tế. Những nhà làm chính sách Hoaky chỉ hoạch định những kế hoạch khả thi và loại bỏ những điều không thực hiện được vào lúc này, cho dù họ cũng rất muốn. Chính đây là điểm khác biệt giữa mục tiêu cuả chính sách Hoaky và khát vọng cuả người Việt hải ngoại vào lúc này. Hoaky cũng thưà biết rằng nói chuyện hoà hợp hoà giải với CS bây giờ sẽ bị cộng đồng người Viet hải ngoại chống đối. Hoaky cũng thừa biết rằng ông Kỳ mà nói chuyện hoà hợp hoà giải với Việt cộng thì lại càng bị cộng đồng hải ngoại chống đối hơn nưã, vì dù sao ông cũng từng ở tầm cỡ lãnh đạo quốc gia 1 thời gian không phải là ngắn trong cuộc chiến phân tranh quốc cộng hơn 20 năm (54-75). Nhưng Hoaky lại rất cần sự chống đối đó. Chính vì thế mà vai trò cuả ông Kỳ đối với Hoaky lúc này lại càng trở nên cần thiết: Làm gia tăng sự bày tỏ tinh thần chống cộng cuả cộng đồng người Việt hải ngoại. Cộng đồng càng mãnh liệt bày tỏ tinh thần chống cộng thì Hoaky càng có thế mạnh áp lực CSVN trong các cuộc thảo luận song phương về nhân quyền hơn, đòi hỏi cộng sản VN cởi mở hơn. Để rồi, theo gợi ý cuà Hoaky thì không 1 hành động nào chứng tỏ sự cởi mở, thưc tâm hoà hợp hoà giải với cộng đồng hải ngoại hơn là phải tiếp tục mời ông Kỳ về nước, tiếp tục để ông ấy đi đây đi đó, tiếp tục có những đón tiếp nồng ấm như lần vưà qua, và tiếp tục để ông Kỳ tuyên bố những câu có nội dung “tuyên truyền cho diễn tiến hoà bình” như ông đã tuyên bố lần vưà rồi . Và con bài Nguyễn cao Kỳ vẫn còn cần thiết cho Hoaky trong thời gian tới để trở lại Việt Nam và đối với Hoaky ông chỉ cần tuyên bố như lần vưà rồi là đủ. Với chiến thuật này Hoaky hy vọng bao lâu nưã thì CSVN sẽ chính thức từ bỏ chủ nghiã cộng sản? Không nhà làm chính sách nào dám tiên đoán chính xác về khoảng thời gian này. Nhưng dựa vào sự kiện kể từ lúc chủ tịch Giang Trạch Dân cuả cộng sản Trung quốc trong cuộc viếng thăm Hoaky vào tháng 10- 1997 công nhận đã học được bài học dân chủ tại Hoaky, cho tới ngày thứ Hai 22-12-2003 tin tức cho biết là đảng Cộng sản Trung quốc đã chuyển sang uỷ ban thường vụ quốc hội nước này các đề nghị sưả đổi hiến pháp nhằm bảo vệ quyền tư hữu, tức là 1 cách mặc nhiên từ bỏ chủ nghiã cộng sản, tổng cộng mất 6 năm 2 tháng; thì người ta có quyền hy vọng rất nhiều rằng từ chuyến Hoaky ngầm vận động đưa PTT Kỳ về thăm Việt Nam tới lúc CSVN theo gót đàn anh Trung quốc từ bỏ con đường cộng sản, sẽ ngắn hơn khoảng thời gian 6 năm 2 tháng cuả Trung quốc; và có rất nhiều hy vọng là khoảng thời gian đó còn ngắn nhiều hơn nữa. Và tới lúc đó thì quả thực đây là màn xiệc mà tất cả mọi phiá đều là người thắng. Cả cộng đồng lẫn cộng sản đều vui vẻ. Dĩ nhiên Hoaky, nguời chủ gánh thì quá vui. Còn PTT Kỳ thì vui hơn ai hết, vì ông lại thấy cuối đời mà mình còn đóng góp được 1 việc thật hữu ích cho tổ quốc. —————————————————- Tham khảo: Hãng thông tấn AP, San Jose Mercury News, Los Angeles Times, New York Times, VOA, BBC, Á châu tự do, internet . DVD thu hình trực tiếp toàn bộ cuộc họp báo cuả PTT Kỳ tại khách sạn ông trú ngụ ở Sài Gòn sau khi ông về tới Việt Nam được 1 ngày. - “Sinh tử phù” xuất hiện trong truyện Thiên long bát bộ của Kim Dung. Theo truyện, nó là một loại bùa, làm từ nước, dùng nội lực để hóa thành đá, bắn vào Huyệt đạo của người rồi tan biến luôn, không để lại dấu vết. Người trúng bùa này sẽ bị đau khổ, muốn sống(sinh) không được, muốn chết không xong(tử). Vì thế mới gọi là sinh tử phù (bùa)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 4:32:47 GMT 9
Nhớ lại Quân Lực VNCH Published 16/04/2013 | By Lâm Thao Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng được mời trình bày quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và tái thẩm định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc đại học Texas Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2006. Trong số nhiều diễn giả Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông về một quân đội mà ông từng sát cánh với cương vị một chuyên viên tình báo cao cấp trong nhiều năm, song song với những ý kiến không quanh co che đậy về giới truyền thông và chính trị Hoa Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà ông dùng để trình bày lại, vắn tắt hơn, trong buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài viết cho dịch giả, cho phép được dịch và phổ biến trong giới truyền thông Việt ngữ. Trong bản dịch dưới đây, những chữ in nghiêng trong ngoặc đơn là chú thích thêm của người dịch để làm rõ nghĩa câu văn Mỹ của tác giả, những chữ in đậm là nguyên văn tiếng Việt mà tác giả viết trong tài liệu. Hình ảnh lấy từ website của Trung tâm Việt Nam, Lubbock, Texas.
By: Bill Laurie, Historian Người dịch: Nguyễn Tiến Việt.
QLVNCH thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ý, và nhìn chung thì đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của QLVNCH trước năm 1968.
Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đã hiện hữu, hay chối bỏ rằng vấn đề yếu kém tiếp tục gây hoạ cho khả năng của QLVNCH bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của QLVNCH không thể bị xóa khỏi trang lịch sử vinh quang.
Tôi đã tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971, phục vụ 1 năm tại MACV, rồi sau đó trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc ở phòng Tuỳ viên quân sự.
Khởi thủy, được huấn luyện và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi tham dự khoá huấn luyện căn bản sĩ quan lục quân tại Fort Benning, Georgia, Tình báo chiến thuật và chuyên biệt về Đông nam Á ở Ft. Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam thì được biết những nhiệm vụ cố vấn đang được giảm dần để đi đến chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được chỉ định vào MACV J-2 với cương vị một chuyên viên phân tích tình báo, trước hết phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong. Công việc này mở rộng một cách không chính thức để bao gồm công tác liên lạc giữa bộ Tổng tham mưu QLVNCH, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh của Việt Nam, và cả các đơn vị QLVNCH ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của VNCH, liên lạc không những với các đơn vị Mỹ và VNCH mà cả với người Úc, cơ quan vịên trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi thì đứng vào vị trí rất cao cấp trong những buổi thuyết trình ở tổng hành dinh của MACV cũng như ở bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tuần lễ sau đó tôi có thể đã lội trên những ruộng lúa tỉnh Kiến Phong cùng với các binh sĩ Địa phương quân, hay bay ngang tỉnh Định Tường trên một chiếc trực thăng của QLVNCH, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt động Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Đông.
Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong vòng một tháng sau khi tới Việt Nam, thật rõ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những gì tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu tất cả những người ở Mỹ quả là đang nói về Việt Nam, thì mình đang ở nơi nào đây?” Những thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi được dàn trải trọn vẹn trong một kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài Gòn, Cao Lãnh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê, mì, cháo… háo hức lắng nghe người dân người lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học được thật nhiều, nhiều hơn những gì tôi từng học ở Hoa Kỳ.
Sự học tập của tôi không dừng lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi đã đọc hằng thướt khối những tài liệu giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục nọ những người cựu chiến binh gốc Đông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn tìm trong hằng trăm trang web Việt Nam và Đông nam Á trên Internet. Vẫn còn rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những gì công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết luận do những người ở những xứ ấy tự trình bày lên thì lại không phù hợp với những gì mà hầu hết mọi con người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.
Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Đúng là có những tấm gương về lãnh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ý gì với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến vói Sư đoàn 9 bô binh VNCH, tôi đã phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư đoàn 7 bộ binh VNCH, cái đơn vị mãi bị kết tội vì khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đã biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lãnh đạo chỉ huy của tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một tì vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đã được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ý hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đã làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nội. Họ đã nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đã làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này thì họ đã lập tức trực tiếp đe doạ Sài Gòn, chỉ cách đó 25 dặm, buộc sư đoàn 21 bộ binh VNCH phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lộc. Và như tiến sĩ James H.Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư đoàn 21 tuy không thành công trong việc phá vòng vây An Lộc nhưng cũng đã buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến truờng An Lộc, nếu không, nơi này có thể đã sụp đổ với những hậu quả khốc liệt. Nói vắn tắt, QLVNCH, một cách toàn diện, đã có khả năng cao hơn nhiều so với những gì tôi biết trước khi tôi qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những gì được chuyển tới cho người dân Mỹ. Ngày trước… và ngày nay cũng vậy.
Trở lại thời kỳ đang thảo luận trong bản thuyết trình này, ai cũng biết QLVNCH vướng mắc nhiều vấn đề trầm trọng. Điều này là hiển nhiên. Nếu không như vậy thì đã chẳng cần phải yêu cầu những đơn vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó. Tuy nhiên, còn có những chỉ dấu cho thấy lực lượng VNCH khi được trang bị đúng mức và chỉ huy tốt đẹp thì sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966 một tiểu đoàn Biệt động quân VNCH đã gây thiệt hại nặng và đã “giúp” giảm quân số chỉ còn 1 phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng thưởng “Huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ”. Đại Uý Bobby Jackson, cố vấn tiểu đoàn này, đã mô tả người đối tác của ông, đại uý Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên không hề sợ hãi. Tiểu đoàn 2 TQLC, mang huy hiệu Trâu Điên, đã từng bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản miền nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ý nghĩa đối với những ai đã từng gặp phải một con trâu đang nổi giận và bị nó ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề được tường trình trong giới truyền thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”…
Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thấy rõ là kế hoạch Việt Nam hoá phải được tăng tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời kỳ, thời kỳ QLVNCH không chiến đấu, và bây giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu. Thái độ này đã bỏ quên dữ kiện là mức tử vong vì chiến sự hằng tháng của QLVNCH đã vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc chiến của tất cả các lực lượng đồng minh cộng lại. Rốt cuộc thì QLVNCH cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay thế những trang bị thời thế chiến thứ hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng (khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội VNCH được trang bị súng M16), nhìn chung thì thua kém vũ khí của Việt cộng và bộ đội Bắc Việt. Đồng thời, quân số cũng tăng tiến, theo như bảng dưới đây trình bày: (Bảng ghi những con số gia tăng quân số của các lực lượng chính quy và Địa phương quân, Nghĩa quân, từ năm 1968 đến năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng 28%, từ 820 ngàn lên 1 trịêu 48 ngàn quân. Trong đó, không quân gia tăng quân số tới 163%, hải quân tăng 110%, lục quân tăng gần 8% quân số) Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục quân Việt Nam, chỉ bao gồm 38% QLVNCH (tác giả không đồng ý dùng nhóm chữ ARVN để chỉ QLVNCH, và ông dùng nhóm chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra còn những thành phần khác, gồm cảnh sát dã chiến, Nhân dân tự vệ, và các toán xây dựng nông thôn. Lực lượng xây dựng nông thôn không được coi là lực lượng chiến đấu, còn lực lượng Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu nhưng (những lực lượng này) cũng là chướng ngại cho quân Việt cộng và quân đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn đã đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này cũng không được biết đến để ghi nhận vào tài liệu. Thành phần của lực lượng Nhân dân tự vệ thì quá trẻ, hay quá già, hay vì thương tật nên không gia nhập quân đội chính quy, chỉ phục vụ như lực lượng phòng vệ làng ấp chống lại những toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng sản địa phương phải đối phó sau năm 1968. Trước đó không có lực lượng này, Việt cộng ở địa phương tự do đi vào ấp xã lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (trích từ các sách vở của các tác giả người Mỹ) “ Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân tự vệ thì một Nhân dân tự vệ khác xuất hịên, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng M 1 (không ghi rõ garant hay carbine), tịch thu được một súng AK47 và một súng lục 9 lỵ” Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ” Còn nữa: một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đã là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt bị tiêu huỷ tại An Lộc trong cuộc bao vây năm 1972. Hà Nội không mấy hài lòng về lực lượng này, theo như tài liệu sau đây: “Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực lượng bù nhìn, củng cố chính quyền bù nhìn và thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nhìn ở nhiều làng xã. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính lưu động cho lực lượng bù nhìn, thiết lập những tuyến phòng vệ, và dựng ra cả một hệ thống phòng thủ và đàn áp mới ở những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng đã gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng bạn (Việt cộng).” Sự kiện này không thể xảy ra trước năm 1968, khi lực lượng Nhân dân tự vệ được thành lập và trang bị bằng những vũ khí thời thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH chuyển giao lại. Tương tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân, Địa phương quân với sự trợ giúp của các toán cố vấn Mỹ lưu động, được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc một toán lưu động chứng kiến trong một trận tấn công bộ binh năm 1970: “ Chúng tôi vừa vuợt khỏi khu mìn bẫy chính thì bị hoả lực từ một rặng cây trước mặt bắn tới. Nước văng tung toé xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong tiếng súng nhỏ nổ dòn. Binh sĩ bây giờ phản ứng tốt lắm, không giống như trước kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của đội hình hàng dọc, bung qua bên phải, sử dụng như thành phần điều động tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng lại hoả lực địch. Khi toán của Abney tới được chỗ địa thế có che chở thì họ dừng lại và bắt đầu tác xạ. Duới hoả lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ nhau như vậy và tiến được tới hàng cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi đã hành động khá haỵ” Kinh nghiệm của Donovan không phải là độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm lạc quan của ông vào năm 1970: “Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như mình là “kim cương bất hoại”. Tinh thần chiến đấu và hăng hái chủ động tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích quân địch một cách gần như khinh suất, liều lĩnh.” Những thành tích như vậy không phải mọi nơi đều có. Có những đơn vị không đáp ứng được trong thời kỳ thay đổi và vẫn bị lãnh đạo chỉ huy kém cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân lục soát với chiến thuật chủ động tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suýt bị giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan địa phương của Việt Nam mà họ không hoà thuận được. Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về hoạt động của những đon vị mà họ cố vấn. Dù sao thì những chuyện tích cực và thích thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay trong ý tưởng của những người Mỹ bình thường, cũng như trong những gì được dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ. Sự tiến bộ hay những tấm gương xuất sắc ngay trước mắt không phải chỉ hiển hiện trong những lực lượng lãnh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch bình định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thuỷ quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thụôc sư đoàn 1 bô binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Việt:
Sư đoàn 1 Bộ Binh đang chiếm lại Đại Nội Huế trong trận đánh Mậu Thân 1968 “Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và sự táo bạo của họ trong mọi việc… Đây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện về những chuyên gia hết sức tinh thục trong những gì họ làm, những người đã từng thực hịên những công tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang làm việc với những người giỏi nhất. Chúng ta không có điều gì để mà có thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hoả lực mà thôi. Còn về sự hiểu biết trong hành quân, thì họ là người dạy chúng ta “Chúng tôi có các cố vấn người Úc và người Mỹ, họ đều nói y như nhau” (tác giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H Feng, đại học Hawaii) Ở miền Nam, trong lãnh thổ tỉnh Định Tường thuộc quân khu IV, sư đoàn 7 bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm, theo lời xác nhận của các cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay vì “lùng và diệt”, search and destroy), có thể vì trận Ấp Bắc hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với họ không thể nói gì hơn là những lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm của sư đoàn 7 bộ binh:
“Vùng giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành quân của quân đội VNCH. Ở Bến tre (tức tỉnh Kiến Hoà) sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi” (tác giả trích dẫn David Chenoff và Đoàn văn Toại, sách Chân dung kẻ địch, Random House ở New York xuất bản năm 1986) Tình hình còn tồi tệ hơn khi các đơn vị quân đội Bắc Việt điền khuyết cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu biết chút nào về vùng này và được trang bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những người khác được lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước bình minh, đội quân đáng lẽ phục kích người ta thì lại bị tấn công từ phía sau do thành phần bên sườn của sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực lượng chính. (tài liệu trích dẫn) Kết quả của điều này thêm hiển nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt lại bị suy giảm rõ rệt: (Bảng thống kê trong bài ở đoạn này cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam từ năm 1968 đến 1971 đã giảm 322 ngàn quân, tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên giảm 98%, chỉ còn 2 trận, những cụôc tấn công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng bố, trong khi số xã ấp có an ninh tăng 56%, diện tích trồng tỉa lúa tăng 9,8%, thương vong vì chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam giảm 21%) Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút toàn diện về khả năng quân sự, duới tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm. Điều này xảy ra trong khi quân số tham chỉến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lãnh thổ, mà còn kém khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích. Nhiều con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất là con số xã ấp có an ninh thì lại còn kém xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng khá rõ ràng, và không có bằng chứng dù về thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều gì khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng trong thời vận của quân Việt cộng và quân đội Bắc Vịêt trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như vậy để phân biệt với quân Bắc Việt, không bị tiêu dịêt hoàn toàn, và những ổ kháng cự có ảnh hưởng mạnh do họ kịểm soát vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương Thiện, Định Tường, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thì Việt cộng ở địa phương cũng không còn là một lực lượng chiến lược. Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí hiện đại, thì chiến tranh đã dần dần tự tàn lụi. Những đơn vị và khu vực của Việt cộng tồn tại được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội Bắc Việt để sống còn. Tác giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi cả người chỉ đạo về tư tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nhìn nhận rằng khả năng sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến 1969 thì cơ hội sống còn của Việt cộng chỉ còn 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát triển những đơn vị Nghĩa quân xã quận và các chương trình Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch cải tổ về ruộng đất của chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng định thằng thừng trong cuốn sách được đánh giá cao quá đáng của ông, không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971, thì “riêng phía Việt cộng không phải là đối thủ của quân đội chính quyền Sài Gòn” Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam, được nhiều người biết đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo và quá đáng, cộng với lối rủa xả om xòm những gì mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đã phải chịu đựng những khó khăn trở ngại, những khởi đầu sai lạc cùng những vấn đề tương tự, bị coi như toàn những điềm gở. Nhưng năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu thổ: “Ba mươi tháng trước, con số những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm được trên một bàn tay. Ngay cả tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt, trong sạch và tương đối có khả năng, cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ sức kích động thuộc cấp vào những hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư lệnh sư đoàn thì phần lớn thiếu khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của họ thì chẳng những noi gương xấu mà nhiều khi còn phạm khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng nay thì chuẩn mực chung về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đã tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng tượng được. Sự thay đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng ở khả năng tối hậu của chính phủ trong việc kiểm soát được Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn định.”
Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ điển (a classical blitzkrieg), với đặc điểm là những vũ khí hạng nặng và những vũ khí chết người được đưa ra sử dụng như hoả tiễn tầm nhiệt phòng không SA-7, hoả tiễn công phá điều khiển bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 đuợc yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội hoả tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn tất cả mọi thứ từng được Hoa Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH bị đánh tơi bời, có lúc đã gần tới kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện rõ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đã đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8, hồi phục sức lực và bẻ gãy cuộc tấn công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc đó. Không ai khác hơn là học giả hàng đầu của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đã tuyên bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất bại là vì “… Nam Việt Nam chiến đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng đến từ phương bắc” Nhiều nhà bình luận, kể cả tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu tố quyết định, thì đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những điều ngụ ý nói là QLVNCH không thể chiến đấu nếu như không có không lực Mỹ, thì đã thiếu sót hai điều căn bản. Thứ nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH đã được. Thứ hai, là điểm người ta ít nhìn ra: không lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung để cân bằng với hai lực lượng vuợt trội của Bắc Việt là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo binh hơn hẳn, hoả tiễn 122 ly chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm tối đa 19 dặm (32 km). Hoa Kỳ không cung cấp cho đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh, như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nội. Hà Nội có hằng trăm hoả tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH không đủ đại bác để phản pháo, chỉ có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm, nổ chậm. Tựu chung, trở lại đề tài không lực, thì không quân Việt Nam đã thi hành nhiệm vụ một cách đáng kính phục trong các trận chiến năm 1972, nhưng vẫn bị giới bình luận Hoa Kỳ hoàn toàn quên lãng. Một chuyên viên điều không tiền tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành một vụ tấn công không lực vào vị trí quân Bắc Việt: “Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi thấy nhiều lằn đạn lửa vạch đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la lên báo động, thì đã thấy anh thả bom ở độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi lần họ bị đạn phòng không bắn lên xối xả… Hoả lực từ mặt đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như biết rằng đối thủ của họ là người Nam Việt Nam. “Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn gì. Hai phi công không quân Việt Nam đã trình diễn một màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục lòng can đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây phút đó lòng can đảm ấy đã vuợt hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về sự an toàn của cá nhân họ” Đây không phải là một sự kiện riêng lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ chứng thực: “Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận phòng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức tuyệt diệu” QLVNCH lãnh cú mạnh nhất của Hà Nội năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận Tết Mậu thân 1968, về khía cạnh quân số và hoả lực. Ước lượng có khoảng gần 150 ngàn quân Bắc Việt đã tham chiến trong giai đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết ’68 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn chế (ngoại trừ ở quân khu I) QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt đẹp sau khi hịêp định Paris gian lận được ký kết và bị vi phạm lập tức. Cuối tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc nhiệm VNCH đã đánh đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải giải thể, số quân sống sót phải gia nhập các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh ba tỉnh Định Tường-Kiến tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suôt cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những vị trí phòng thủ kiên cố; cuộc thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự thất bại đừng để bộ đội của họ biết, sợ bộ đội xuống tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh được với các đơn vị Nhảy Dù và Thuỷ quân Lục chiến của VNCH.
*****
Tuy nhiên đến giữa 1974 thì việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ bắt đầu từ từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ còn nước xuống dốc dần dần từ khi ấy. Đến 1975 cấp số cung ứng có sẵn (Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đã giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận, như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu đội bắn trong một ngày: năm 1972 năm 1975 tỉ lệ giảm Đạn 105 ly 180 viên 10 viên 94% Đạn 155 ly 150 viên 5 viên 97% Đạn 175 ly 30 viên 3 viên 90% Mọi thứ bị cắt đến tận xương, rồi tận tuỷ. Nhìêu binh sĩ bộ binh được cấp số đạn căn bản là 60 viên M16 cho một TUẦN LỄ. Nhiều đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được bắn phát mô.t. Các đơn vị chạm địch có khi bị giới hạn chỉ còn được bắn yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ khi bị tràn ngâ.p. Thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và gia đình họ phải chịu thiếu thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của gia đình. Đói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu. Tình hình những tháng sau đó càng xuống dốc, và người ta đau lòng chứng kiến một cái chết chắc chắn sẽ đến vì hằng ngàn vết thương. Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách sử, thì nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp đổ nhanh chóng như vâ.y. Lẽ ra câu hỏi đáng chú ý hơn phải là tại sao QLVNCH đã có thể chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm 1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men, với những cái bụng lép kẹp, và gia đình cũng đói khát không kém? Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, thì khủng hỏang và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm vì những lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ nhục nhã sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo” nhỏ của những người lính VNCH chiến đấu đến phút cuối. Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và vai trò của của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong trận này không hề được biết đến. Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đã gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài Gòn. Vào ngày cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu nòng do các trung uý Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành, Hiển?) còn bay quanh Sài Gòn yểm trợ hoả lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất cả đã mất hết rồi. Nhưng các trung uý Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và đạn dược, và được hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do thiếu tá Trương Phụng và đại uý Phúc lái, họ tiếp tục lại một trận chiến tuyệt vo.ng. Sau cùng chỉ còn đại uý Phúc sống sót, oanh kích đến khi hềt đa.n. Hai trung uý Thanh, Hiền và thiếu tá Trương Phùng đều bị SA-7 bắn rơi, tử trâ.n. Họ đã chiến đấu đến mãi tận giây phút cuối cùng!
Một cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đã bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, vói thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp. Truớc một đạo quân VNCH bị rút ruột vì cắt vịện trợ như vậy, quân đội Bắc Việt đã phải tung ra tất cả những gì họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại, Đoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi tết Mậu thân 1968. Xem xét sự việc từ một khía cạnh khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu đi vì cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH đã gánh chịu, thì họ không bao giờ có thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đã yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hoả lực quyết định chiến trường, chẳng phải là điều gì mới lạ trong lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không kể con số bị ám sát, trong một quốc gia mà dân số trung bình khoảng 17 trịêu. Nước Mỹ với dân số 200 trịêu, nếu chịu tổn thất với tỉ lệ tương đương trong cùng khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3 triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ. Điều này không lọt qua mắt của một số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rõ những nhược điểm của QLVNCH, cũng kết luận: “ Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua những cuộc khủng hoảng quốc gia và cá nhân mà có thể đã nghiền nát hầu hết mọi người, và mặc dù mức tổn thất có thể gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn duy trì được một trịêu quân dưới cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc Anh cũng làm được như thế, theo tỉ lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm được điều nàỵ” (được nhấn mạnh và thêm vào) Ký giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng nhập cuộc, sau khi Sài Gòn thất thủ: “Nam Việt Nam quả đã phấn đấu để kháng chiến trong nhiều năm ròng rã, không phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xã hội nào mà tôi cho là có thể chíên đấu được lâu dài đến thế.”
***
Kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực lượng chiến đấu có khả năng? Có thể biện luận rằng kế hoạch Việt Nam Hoá có hiệu quả, nhưng lại bị moi ruột vì cắt giảm viện trợ chí tử. Năm 1974 có cuộc thăm dò các tướng lãnh Hoa Kỳ từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm tìm hiểu chương trình Việt Nam hoá thành công tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau: 1. QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8% đồng ý. 2. QLVNCH xứng đáng và cơ may hơn 50% đứng vững trong tương lai?: 57% đồng ý. 3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh của lực lượng Việt cộng- Bắc Việt trong tương lai?: 25% nghi ngờ 4. Ý kiến khác và không ý kiến: 10% Như vậy 65% các tướng lãnh chỉ huy của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên những câu trả lời này có thể đã mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ quan này đảm trách là gì, họ làm việc với ai, và họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân vân vân… cũng không được tiết lộ. Câu hỏi cũng không hỏi :”Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu?” Điều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968 trở đi đã hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp hơn nhiều so với những gì được biết đến một cách chung chung, rằng các đơn vị QLNCH đã thi triển tài năng để có thể đứng vững và đánh bại quân xâm luợc Bắc Việt trong năm 1972, thuờng là không cần tới sự yểm trợ hoả lực ồ ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như trong trường hợp của Nghĩa quân và Địa phương quân. Điều có thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết của người Mỹ về việc này thấp kém đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không đáy. Một yếu tố rất quan trọng nữa mà nhiều nhà bình luận bỏ qua và tới nay vẫn không biết gì hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hềt lòng hết dạ vì mục tiêu một nước Việt Nam không cộng sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ phải, trong sạch, biết nhìn nhận phải trái, ví dụ như họ cho là người Thượng không nên được đối xử thấp kém hơn, rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một quốc gia Việt Nam mới cần được tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ. Nhiều người trong số này có thể có vị trí tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ đó, đã có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại những vị trí chiến đấu đầy nguy hiểm, với tư cách những người tình nguyê.n. Thái độ của họ được một sĩ quan trẻ của QLVNCH bày tỏ: “Những người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội vì chúng tôi có một lý tưởng, chúng tôi hiểu được cuộc sống trong một thế giới tự do ra sao, và sống trong thế giới cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói, rằng những ai vào quân đội thì chỉ vì đến tuổi lính và không có lý tuởng gì riêng cho mình. Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu ra điều đó.” Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên Đoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh huởng và có thể xếp đặt cho con trai ông tìm một chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá thư: “Ba phải giải thích cho người Mỹ hiểu sự nghiêm trọng của tình hình chúng ta… Họ phải cung cấp vịên trợ quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con xin ba, ba à, hãy can thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị đè bẹp và thất trận. Tụi con không hèn nhát. Tụi con không sợ chết… Trong mọi tình huống, con sẽ giữ vững vị trí và không rút lui.” Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường. Bác sĩ Phan Quang Đán là quốc vụ khanh về định cư và tị nạn, một cựu đối lập với ông Ngô Đình Diệm, nổi tíêng nhờ trong sa.ch. Ông có đủ quyền lực và ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều không chọn điều đó, và Tuấn tình nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, đại úy Tuấn bị hoả lực phòng không địch bắn rơi, tử trâ.n. Những cá nhân ấy không phải là duy nhất. Người viềt bài này hằng ngày gặp những phi công trực thăng võ trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến, Nhảy dù, tất cả đều tình nguyện lãnh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “luỡng đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng về một nước Việt Nam cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành thông lệ hằng ngày ở Sài Gòn. Một trong những tấm gương gây xúc động hơn nữa về lòng tận tuỵ với chính nghĩa quốc gia, là cảnh các sinh viên sĩ quan truờng Võ Bị quốc gia Đà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng của họ, mà ký giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn vị quân đội Bắc Việt đang tiến tới: “-Anh sắp bị giết đó! - Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời. - Sao vậy? Đã kết thúc rồi mà! - Tại vì chúng tôi không ưa cộng sản” Và, lòng đầy can đảm, những sinh viên trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh, tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để chờ chết” Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường nội trú, trong học trình có dạy quân sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trâ.n. Khi đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng ngại vật bảo vệ trường và đối đầu với các đơn vị quân Bắc Việt: “Họ tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả mọi người khác đã đầu hàng!… Nhiều người trong số họ bị giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiều sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào được ngôi trường ngay lúc đó.” Những con người tương tự (lúc đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của tình hình buộc sự thăng thưởng phải dựa trên khả năng, không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia đình. Giới truyền thông Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn nhiều so với các lực lượng quân sự của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường lên án bằng những lối can thiệp đầy tự phụ và tự mãn. Một cuộc thăm dò 9,604 chương trình truyền hình của NBC, CBS và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rõ những sự thiều sót của những cái gọi là bài tường thuật truyền hình. 0,7% chưong trình nói về việc huấn luyện QLVNCH. 0,8% về bình đi.nh. 2,7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng chỉ có 392 chương trình, tức 2,7% toàn bộ các chương trình tin tức truyền hình Mỹ, tường trình về Việt Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH thiện chiến. Không có gì về những phi công Ong Chúa lừng danh của trực thăng Việt Nam cứu mạng cho những toán lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Hầu hết người Mỹ, nếu không phải là tất cả, đều nhớ hình ảnh bi hùng của một người Trung Hoa đứng trước đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không ai biết trung sĩ thuỷ quân lục chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu Đông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW của anh: “Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe tăng không có ý nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh thì là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh khác, quan trọng hơn, hình ảnh này mang đầy niềm phấn khích đối với một lực lượng phòng thủ mỏng manh đến thê thảm, và với nhiều người tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng kiến một hành động thách đố dũng cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường của người lính thuỷ quân lục chiến Nam Việt Nam này đã khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng lợi, đã bị mất đà tấn kích.” Trong một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang tật cận thị lên tiếng, thì phóng viên Donald Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi đã trở nên một đơn vị có hiệu năng cao tuyệt dưới tài lãnh đạo của tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận thức rõ giá trị những nông trại của sư đoàn do tướng Nam thiết lập để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị giữ lại ở một điểm chắn đường của quân đội Bắc Việt rồi được thả ra sau đó, thì Kirk lại thất vọng vì anh ta không có cơ hội để nói chuyện với bộ đội Bắc Việt: “Tôi cứ nghĩ mãi về việc trông họ như vừa bước ra khỏi cuốn phim. … Họ có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong sao chúng tôi đã có thể ở lại thêm và nói chuyện với họ lâu hơn.” Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo trong giới truyền thông làm tin tức, đã không để ý gì đến việc đó, cho nên không có gì kỳ bí về nguyên nhân vì sao hầu hết những người Mỹ từng phục vụ tại Đông Nam Á đều nhìn cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh miệt gay gắt. Phải chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đã làm nhiều lần, thì đám ký giả hẳn đã biết trong mắt những người Việt ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một loại phản bội văn hoá và truyền thống Việt Nam. Không phải những người Việt này chiến đấu và hy sinh để bảo vệ “chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là để gìn giữ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho đất nước của họ. Một thuỷ quân lục chiến Việt Nam diễn giải và lột tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải quyết xong với quân đội miền Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài Gòn. Những sự kiện thảm thiết bi thương sau năm 1975đã chứng thực tính thuận lý và giá trị của điều quyết tâm ấy.
Giới truyền thông giải trí và giới giáo dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá gì hơn, mà còn mãn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung học được sử dụng rộng rãi ở Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề nói đến QLVNCH, chỉ viết rằng :”Việt Nam hoá thất bại,” ngoài ra còn gom góp hơn 200 điều khẳng định có thể được chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài ho.c. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia, nhưng không nói gì về việc quân VNCH tham dự đông đảo hơn lực lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức mở chiến dịch, quân đội VNCH đã tấn công trước vào các vị trí phòng thủ của quân đội Bắc Việt ở Cambodia. QLVNCH đã hoàn toàn vô hình, như một đề tài sẽ được trình bày nơi đây (trong cuộc hội thảo) Phim ảnh và truyền hình lại càng tệ hơn, mặc dù có được một số phim tài lịêu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm miêu tả cuộc tìm cứu trung tá Iceal Hambleton năm 1972, không thể hiểu được tại sao đã loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác tìm cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của Kiê.t. Làm sao công chúng có thể trông mong được biết bất kỳ điều gì khi mà chề độ “kiểm duyệt” trên thực tế đã bôi xoá tất cả và từng dấu vết của sự hoạt động gương mẫu của QLVNCH?
Sau cùng, cần phải nhìn nhận rằng QLVNCH đã bị đè bẹp bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách đáng kinh ngạc, dưới hình thức cái chính phủ Hoa Kỳ. Một hội nghị chuyên đề toàn diện nên được tổ chức về đề tài này, và cần phải có hội nghị đó. Những chiến luợc giả hiệu phát xuất từ Washington, về bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành động nào được tung ra để chặn và giữ đường mòn Hồ Chí Minh. Không có con đường này thì cuộc chiến tranh của Hà Nội đã không thể nào tiến hành đươ.c. Không một việc gì được thi hành để giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền dưới hình thức gọi là địch vận, một trong những chiến lược quan trọng của Hà Nội, được thi hành với những sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm một việc gì mãi đến khi cơ quan CORDS được thành lập để ra kế hoạch và phối hợp những hoạt động quân sự và bình định về mặt tình báo. Không làm một việc gì để khai triển một liên minh rộng lớn như một chiến trường chung của người Việt, người Lào, người Cambodia và Thái lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội đã làm y như vậy: thiết lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường Đông Dương nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn khu vư.c. Lý cớ về lãnh đạo của Hoa Kỳ là mù loà , lần mò vụng dại như con heo trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu đô.n. (những chữ in đậm là những chữ tác giả viết bằng tiếng Việt) Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược giòng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chăc chắn, và có thể chiến tranh ( Việt Nam đã qua) là một cựôc chiến không thể nào thắng đươ.c. Có thể như vâ.y. Tuy nhiên những người Mỹ, người Úc đã phục vụ sát cánh những chiến hữu của họ trong QLVNCH, “những chiến hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong lòng họ nỗi buồn sâu xa vì đã thua cuộc, hay đã mất biết bao bạn bè tận tuỵ, mất cả niềm vinh dự lớn lao cho việc đã cố gắng đạt cho kỳ được một thế giới tốt đẹp hơn cho những người dân thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ không bị thúc đẩy vì những quan niệm tinh vi về địa lý chính trị thế giới, nhưng đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với nhiều người Đông Nam Á đã biềt yêu quý xứ sở, những con người đã “thề bảo vệ giang sơn quê hương” Nhiều trang lịch sử còn chưa được lật ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn nhìn qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua định kiến của người Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt Nam như một “giai đoạn thử thách đầy khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi xem người Đông Nam Á đã trải qua loại thử thách khổ đau nào. Đầy rẫy những dữ kiện lịch sử quý giá và những nét quan sát sắc sảo nằm trong những cuốn sách được viết do người Việt Nam (và cả người Lào,) Thiếu những sách đó, không thể nào có được sự hiểu biết toàn diê.n. Những tác phẩm của Lý Tòng Bá, Hà Mai Việt, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và nhiều người khác, đang kêu gào đòi được dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh, những diễn tiến và những nhân cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ biết đến. Không tham khảo những nguồn đó thì chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là chiến tranh Đông Dương của Hà Nội, sẽ mãi là những bí ẩn không thể giải đoán, và lịch sử chân thực của QLVNCH sẽ mãi bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng lớp nọ của những chuyện hoang đường, của sự không thông hiểu, và của sự giả định vô căn cứ.
Bill Laurie – March 18, 2006. Nguyễn Tiến Việt dịch thuật
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 6:30:56 GMT 9
MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VN thành lập 20.12.1960 MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VN-National Liberation Front NLF -------------------------------------------------------------------------------- Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam 20.12.1960-31.1.1977 sau là quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam QUỐC CA : QUỐC TẾ CA --GIẢI PHÓNG MIỀN NAM QUỐC TẾ CA ; sáng tác bởi nhạc sĩ Pháp gốc Do Thái Eugène Pottier, đầu tiên tính sử dụng làm quốc ca Cộng Hòa Pháp, nhưng vì không đũ sắt máu , kích động lòng căm thù nên chính phủ Cộng Hòa Pháp Chọn Bài Sắt Máu La Marseillaise. Kết quả , Vua , Hoàng Hậu lên máy chém , hàng ngàn người hoàng gia, mĩa mai Trí thức Pháp vẫn lên án Cách Mạng tháng 10 Nga , Lãnh tụ Leon Trosky, tàn sát Nga Hoàng, Hoàng Hậu , Thái tử ,Công chúa , mà không biết ngượng miệng , mình cũng thế nếu không có Hoàng Đế Napoleon Bonaparte I :18 May 1804 – 11 April 1814 thì nước Pháp đầu rơi máu chảy không khác nước Nga sau năm 1917 , vì đám lãnh tụ cộng hòa đệ nhất khát máu , hoang tưởng , đấu đá tranh dành quyền lực sau cách mạng 1789 . L'Internationale Lời Việt: Quốc tế ca Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn! Sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi. Quyết phen này sống chết mà thôi. Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành Toàn nô lệ vùng đứng lên đi. Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình. Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai L'Anh-te(rơ)-na-xi-o-na-lơ ( L'Internationale) Sẽ là xã hội tương lai. Đấu tranh này là trận cuối cùng Kết đoàn lại để ngày mai L'Anh-te(rơ)-na-xi-o-na-lơ -( L'Internationale ) sẽ là xã hội tương lai. Bài hát Quốc Tế Ca tiếng Pháp , sử dụng làm Quốc Ca Liên Sô :1917- 1940 . Lãnh tụ Stalin thay Quốc ca bài khác ca ngợi tinh thần yêu nước của Dân tộc Nga, Đảng CS Liên Sô GIẢI PHÓNG MIỀN NAM Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước. Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngất trời. Sông núi bao nhiêu năm cắt rời. Đây Cửu Long hùng tráng, Đây Trường Sơn vinh quang. Thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù. Vai sát vai chung một bóng cờ. Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng. Thề cứu lấy nước nhà! Thề hy sinh đến cùng! Cầm gươm, ôm súng, xông tới! Vận nước đã đến rồi. Bình minh chiếu khắp nơi. Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời. ” 2 BÀI CA CẤT LÊN :GIỬA RỪNG NÚI CHIẾN KHU TÂY NINH, CÁC TRÍ THỨC LẢNH ĐẠO HÁT SAY MÊ , THƯỢNG TỌA TRÍ QUANG , LINH MỤC BÍCH CŨNG NHỊP NHÀNG HÁT THEO , ĐẶC BIỆT ĐÔI MÔI GỢI TÌNH TUYỆT VỜI CỦA NGƯỜI ĐẸP CHÂU SA(BÍ DANH NGUYỄN THỊ BÌNH )-, VÀ QUỲNH HOA CẤT CAO TIẾNG HÁT GIỮA NÚI RỪNG TIẾNG PHÁP-TIẾNG VIỆT :QUỐC TẾ CA , NGƯỜI ĐẸP BỐC LỬA THỊ ĐỊNH KHÔNG RÀNH TIẾNG PHÁP CHỈ NHẤP MÔI HẤP DẪN GỢI TÌNH , NHƯNG ĐẾN PHẦN TIẾNG VIỆT , THÌ PHẤN KHẤN KHỞI HỒ HỠI. Với sự xuất hiện của 3 bóng hồng giữa núi rừng đặc biệt gợi tình , hấp dẫn của Châu Sa -Thị Định đã làm ấm lòng Thượng tọa Trí Quang , Đại Đức Sơn Vọng (người Việt gốc Miên ) và Linh mục Vương Đình Bích, không quản ngại gian lao đi vào chiến khu quả thật: Tu là bể khổ , Khoái lạc là hạnh phúc ! CÁC NỮ CHIẾN SĨ "GIẢI PHÓNG QUÂN" ĐÁP LỜI KÊU GỌI CỦA CÁC NGƯỜI ĐẸP TRÍ THỨC ; CHÂU SA(BÍ DANH NGUYỄN THỊ BÌNH )-QUỲNH HOA , VÀ NGƯỜI ĐẸP BẾN TRE , KHÔNG CẦN GIẢI PHẨU THẨM MỸ HIỆN ĐẠI CỦA MỸ QUỐC ,BỘ NGỰC VẪN TUYỆT VỜI , CẶP MÔNG VẪN HẤP DẪN ,LÀ ĐỆ NHẤT CAO THỦ VÕ LÂM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG ÂN-ÁI,- NHIẾP CHÍNH VƯƠNG LÊ DUẪN MÊ MẪN SẮC PHONG THIẾU TƯỚNG 1 SAO TƯ LỆNH PHÓ : LỰC LƯỢNG GIẢI PHÓNG QUÂN. CÁC CHIẾN BINH "GIẢI PHÓNG QUÂN" :ĐÁP LỜI KÊU GỌI CỦA TINH HOA DÂN TỘC VIỆT NAM : LUẬT SƯ NGUYỄN HỮU THỌ , KIẾN TRÚC SƯ HUỲNH TẤN PHÁT , THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUANG, LINH MỤC VƯƠNG ĐÌNH BÍCH , LINH MỤC TRẦN TAM TĨNH- THẬT RA CHI LÀ TAY SAI CỦA BẮC KINH.______________________________ _____________________________ ẤP CHIẾN LƯỢC CỦA NGÔ TỔNG THỐNG ANH MINH VÀ VĨ ĐAI CỦA DÂN TỘC VN Hình ảnh ấp chiến lược với hàng rào bằng tre và hào cạn cắm chông bao quanh CÁC CHIẾN BINH QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA TỊCH THU CỜ MTGPMN (VC) VÀ CỜ QUỐC TẾ CS TẠI MẬT KHU DƯƠNG MINH CHÂU ĐẶC CÔNG GIẢI PHÓNG QUÂN (VC) BỊ BẮT CÁC THANH NIÊN NÔNG DÂN NHẸ DẠ LÀM GIẢI PHÓNG QUÂN RA ĐẦU HÀNG QUÂN ĐỘI VNCH NĂM 1962 KHÔNG QUÂN MỸ QUỐC - VNCH XUẤT KÍCH TRUNG ƯƠNG CỤC R Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên) trong vùng căn cứ của mình ở tỉnh Tây Ninh, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động bí mật ở miền Nam. Lãnh đạo ban đầu là Võ Chí Công, Phùng Văn Cung, Huỳnh Tấn Phát. Huỳnh Tấn Phát giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận là Nguyễn Hữu Thọ (1960). Đại hội lần thứ nhất chính thức bầu Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch: Phùng Văn Cung, Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát, Ybih Aleo, Đại đức Sơn Vọng, và Nguyễn Văn Hiếu là Tổng thư ký Mặt trận. Mặt trận đã ra "Tuyên ngôn" và "Chương trình hành động 10 điểm" với mục tiêu đại diện cho quyền lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh nhằm đánh Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tiến tới sự thống nhất của Việt Nam. Tổ chức Thực chất đây là một tổ chức được thành lập theo yêu cầu chiến tranh của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa- Cộng Hòa Pháp - Đảng Lao động Việt Nam (Đại diện Lê Duẫn-Lê Đức Thọ) và những người có lập trường thân cộng sản đấu tranh cho thống nhất đất nước trong cuộc chiến tại miền Nam, nhằm tạo vị thế chính trị cho phong trào đấu tranh chống Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Ngô Tổng Thống và sự hiện diện của Mỹ Quốc tại Nam Việt Nam, đồng thời quản lý các vùng đất do họ quản lý có được kể từ sau phong trào đồng khởi. "Mặt trận liên tục tổ chức, lãnh đạo các hoạt động chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, chống lại sự can thiệp của Mỹ và các đồng minh. Để thực hiện mục đích đó, Quân Giải phóng Miền Nam đã được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961, do Trung ương cục miền Nam lãnh đạo, thực hiện chiến tranh du kích chống lại chính quyền Sài Gòn, với chi viện về vũ khí và người từ miền Bắc. Sau khi Mặt trận ra đời, hàng loạt các tổ chức của mặt trận và và các tổ chức cách mạng ra đời tham gia mặt trận: Thông tấn xã Giải phóng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (do Bộ tư lệnh Các Lực lượng Vũ trang Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ huy) Hội Phụ nữ Giải phóng Ủy ban Tự trị Dân tộc Tây Nguyên Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước Hội Lục hòa Phật tử Hội Nông dân Giải phóng Hội Lao động Giải phóng (sau đổi là Liên hiệp đoàn Giải phóng) Hội Văn nghệ Giải phóng Ủy ban Đoàn kết Á Phi của miền Nam Việt Nam Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới của miền Nam Việt Nam Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (bộ phận của Đảng Lao động Việt Nam ở miền nam Việt Nam, do Bí thư Trung ương Cục miền Nam đứng đầu) Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam Hồng thập tự Giải phóng Hội đồng Quân Dân Y Hội Nhà giáo yêu nước Báo Giải phóng Ủy ban nhân dân miền Nam Việt Nam đoàn kết với nhân dân Mỹ Ngày 25 tháng 2 năm 1962, Mặt trận đặt đại diện thường trực tại Cuba, đến tháng 12 năm 1963 đặt đại diện thường trực tại Algérie, sau đó tại Indonesia, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, Liên Xô, Campuchia, Romania, Mông Cổ, Thụy Điển " Sự thật lịch sử VN phải chấp nhận tất cả dàn ngũ lãnh đạo MTGPMN là trí thức hấp thụ nền giáo dục thực dân Pháp , Từ xưa đến nay Hải ngoại chỉ biết lên án CS ngu dốt , sai lầm lớn vì thế 35 năm qua CS vẫn trường tồn thống trị . Sự thật Tình báo Bắc Kinh rất giõi , hơn tình báo Pháp xa lắc , đã điều khiển cuộc chiến VN từ 1948-1975. Chính đám trí thức chó đẻ trên là tội đồ dân tộc , những người thanh niên nông dân và thiếu nữ nông thôn ít học mộc mạc ,không có tội họ đã bị tầng lớp trí thức lừa bịp , mà tầng lớp trí thức lại làm tay sai cho Bắc Kinh, kể cả Lê Duẫn , Lê Đức Thọ . Trước Khi trở lại Phần Chính của Điệp vụ :17.11.1961 đến Đảo chánh 1.11.1963 Trước khi trở lại phần chính của điệp vụ từ 17.11.1961 đến Đảo chánh 1.11.1963 : -Truy kích nữ trung uý điệp báo CS : Mỹ Lệ -Trần Thị Tám 17.11.1961 -Tấn công Mật Khu Đầm Dơi 23.11.1961 bắt sống 12 Trung uý Điệp báo CS.- -Nữ Thiếu uý Thanh Hằng đi Paris thẩm tra Lý Lịch Nữ thượng uý Điệp báo CS : Nguyễn Thị Bảo Khánh . - Kế hoạch Binh biến và Cuộc ném bom Dinh Độc lập 27.2.1962 của 2 phi công : Thiếu uý Nguyễn Văn Cữ , và Trung uý Phạm Phú Quốc , -Mối tình của tân Trung tá Trần Ngọc Dũng và Nữ thượng uý Điệp báo CS : Nguyễn Thị Bảo Khánh . - Bắt 2 Trung uý Điệp Báo CS 1.8.1963 . - Đoạn cuối chuyện Tình Bi Thảm 1.8.1963 -Trung tá Trần Ngọc Dũng 1.8.1963-1.11.1963 Trước khi trở lại Điệp Vụ , trong bài viết của toàn bộ điệp vụ , cũng như trong những bài viết trước đây tôi hay lên án Thực dân Pháp trong giai đoạn 1862-1945 Chính phủ Pháp từ 1945 đến 1975 , nếu chỉ lên án những tội ác của Thực Dân trong 83 năm đô hộ , và sai lầm hoang tưởng của chính phủ Pháp trong 30 năm, mà không đề cập đến những người Pháp chân chính Sĩ quan và Công chức hết lòng giúp đỡ quốc gia VN (1948-1955 ) và VNCH 1955-1975 là không đúng , . Vì vậy trong phần đến tôi viết một sĩ quan Pháp mà tôi rất kính trọng : yêu mến đất nước VN, là người hiểu rõ dân tộc VN, viết về VN theo tôi một cách trung thực . một vị sĩ quan tuỳ viên Đại tướng Tổng tư lệnh Quân Viễn chinh , đã viết một cách chân tình, không bóp méo , không chạy tội cho chủ tướng của mình,nhưng trình bày cho mọi người thông cảm những sai lầm chủ tướng của mình khác hẵn nhửng sĩ quan tuỳ viên khi viết vị Tướng hay Lãnh tụ của mình , . Thí dụ : 1.Thiếu tá Trịnh Bá Lộc tuỳ viên của Đại tướng Big Minh ,trong các bài viết Thiếu tá Lộc hết lòng binh vực : Tướng Big Minh , không ai không thấy Thiếu tá Lộc là hết lòng trung thành Tướng Big Minh, nhưng thiếu tá đã không dám đề cập đến những khuyết điểm của chủ Tướng của mình , vì vậy chính điều này làm giảm giá trị bài viết của Thiếu tá , dù những gì Thiếu tá Lộc viết theo tôi đến 70% là thật, nhưng đã không thuyết phục được người đọc , gây rất nhiều tranh cãi , tôi cũng xin thành thật xin lỗi Thiếu tá nếu trước đây tôi đã viết bài tranh luận thẳng thừng với Thiếu tá trên báo ba cây trúc , và take2 tango về Đảo chánh 1.11.1963 và ngày oan nghiệt 30.4.1975. 2. Ông Vũ Kỳ thư ký của Chủ Tịch " Hồ Chí Minh " đã viết một cách thiếu lương thiện , huyền thoại quá đáng đến nỗi đọc xong tôi không biết có bao nhiêu là sự thật !, hình như không được 1% là sự thật ! *Đại uý Jean Pouget sĩ quan tuỳ viên của Đại tướng Henri Eugène Navarre Tổng tư lệnh Quân Viễn Chinh tại Đông dương 1953-1954 đã viết tác phẩm : "Nous étions à Dien Bien Phu”, Nhà xuất bản Presses de la Cité. Trước đây trong Cao Nguyên Dậy Lửa, tôi viết bài phê phán một ông Tướng bàn giấy 4 sao bất tài này , khi chọn cứ điềm cái lòng chảo Điện Biên Phủ bất chấp sự phản đối của các Tướng lãnh Pháp tại Đông Dương , kể cả Trung tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam (1950-1954).Hậu quả dẫn đến Hiệp định Geneva (Genève) 1954 Chia đôi đất nước Viet Nam Nhưng khi đọc xong tác phẩm này, dù tôi thấy Ông Tướng bất tài , nhưng cũng tội nghiệp cho Ông ta , cảm giác oán ghét Ông Tướng 4 sao cũng giảm đi rất nhiều, nhường lại là lòng thương hại , đây là sự thành công của Đại uý Jean Pouget ..... ĐẠI UÝ JEAN POUGET TUỲ VIÊN ĐẠI TƯỚNG HENRI EUGÈNE NAVARRE ( 31.7. 1898- 26.9.1983) Đại uý Jean Pouget tuỳ viên Đại tướng Henri Eugène Navarre. : Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương 1953-1954 : Người Bạn Chân Chính Của Dân Tộc Việt Nam, Viết một cách Chân thực , về chiến tranh Đông Dương , một sĩ quan đáng kính trọng. Vài dòng về Đại uý Jean Pouget : Tốt nghiệp trường võ bị Saint Cyrien, Thiếu uý Jean Pouget đến chiến trường Việt Nam 1948 , trong bối cảnh Hiệp ước Hạ long 6.1948 ra đời , chính phủ Pháp tuyên bố trả độc lập cho Quốc gia Việt Nam, để mục đích hình thành sử dụng Quân đội Quốc gia Việt Nam , trong cuộc chiến chống lại Việt Minh đang được Đảng Cộng Sản Trung Hoa bắt đầu tài trợ ,. Lúc này tại Trung Hoa Lục Địa , Hồng Quân CS Trung Hoa đã chiếm 3/4 lãnh thỗ của chính phủ Trung Hoa Quốc gia : Thống chế Tổng thống Tưởng Giới Thạch . Thành phố Thượng Hải đã bị thất thủ , Thành phố Bắc Kinh đang bị đe doạ . Ngày đầu tiên đến Thủ Đô Sài Gòn , người sĩ quan trẻ tuổi Jean Pouget, đã yêu mến thành phố của vùng nhiệt đới châu Á , mang tên :"Hòn Ngọc Viễn Đông" . Từ đó Jean Pouget đã quen biết và kết bạn rất nhiều Trí thức Việt Nam trẻ tuổi . Một người bạn gái thân thiết của Thiếu uý Jean Pouget, là Thiếu nữ trí thức mang hai dòng máu Pháp -Việt : Jacqueline . Thiếu nữ Jacqueline là con gái một Công chức Cao cấp thuộc địa người Pháp hết lòng yêu mến đất nước VN, và Mẹ : một phụ nữ VN sinh trưởng trong một gia đình quyền quý : vị Tiểu thư con gái của một vị Quan lớn triều đình Huế , .. Sau thời gian phục vụ tại Việt Nam hơn 2 năm, Trung uý Jean Pouget thuyên chuyển về phục vụ tại Âu Châu- Cộng Hoà Liên Bang Đức . Ngày Trung uý Jean Pouget, rời thành phố Sài Gòn để nhận nhiệm sở mới , với bao nuối tiếc thương yêu của bạn bè, và người sĩ quan trẻ tuổi buồn bã không biết bao giờ được trở lại thành phố Sài Gòn thân thương một khung trời đầy ắp kỷ niệm ... Ngày 11 tháng 5 năm 1953, Jean Pouget đang đóng quân ở Tây Đức thì nhận được Sự Vụ lệnh bổ nhậm : “Đại uý Jean Pouget được làm Sĩ quan tùy viên của Tân : Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương :Đại tướng Henri Eugène Navarre ". " Ngày 11 tháng 5 năm 1953, tôi đang đóng quân ở Tây Đức thì nhận được công điện :Sự Vụ lệnh bổ nhậm : “Đại uý Pouget làm sĩ quan tùy viên của : Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương :Đại tướng Henri Eugène Navarre ". Từ đó trở đi, tôi được theo Tướng Navarre trong các chuyến đi công vụ liên tục tại Đông Dương. Tôi được ngồi ngay bên cạnh Đại tướng trên Phi Cơ và trong xe khi di chuyển . Trong phòng họp hành quân báo cáo tình hình chiến sự có một chiếc ghế dành riêng cho tôi, đặt sát cửa ra vào. Cánh cửa được khép kín ngay sau lưng tôi bên ngoài có treo biển “Họp bàn chiến sự. Tuyệt mật”. Trong những buổi chiêu đãi chính thức, tôi được báo trước một chỗ ngồi. Nhiều khi vô tình tôi được nghe những lời Tướng Navarre bộc lộ từ đáy lòng. Tôi cất giữ những hồ sơ mật ngoài bìa ghi rõ “tuyệt đối dành riêng cho Genechef” ( Tổng tư lệnh, viết tắt). Tại Sài Gòn, tôi sống ngay trong Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh của Đại tướng Navarre. Bàn làm việc của tôi trấn ngay phía cửa ra vào. Tướng Navarre cùng ăn cơm với tôi trên một chiếc bàn,giáp mặt nhau. Tôi là người gần gũi Đại tướng nhất, có thể nhận xét vị Tổng Tư Lệnh khi ông ngồi lặng lẽ một mình. Tôi cũng là người được chứng kiến một cách bất lực và thầm lặng tất cả những nỗ lực của Đại tướng trong công vụ miệt mài. Tôi đã theo dõi trên khuôn mặt Đại tướng :một khuôn mặt hoàn toàn bộc lộ không cần che đậy trước mắt tôi, tất cả suy nghĩ riêng tư chống lại sự hoài nghi và lo lắng, mà khi đứng trước mặt công chúng ông đã phải che giấu dưới nụ cười làm ra vẻ tin tưởng và những câu nói lạc quan trong những bản thông báo do ông soạn thảo. Chúng tôi rời Paris đi Tokyo trong cuộc hành trình tới Viễn Đông, trên chiếc phi cơ mang tên Constellation vào hồi 22 giờ 30 phút cất cánh từ sân bay Orly -Paris. Chuyến bay chở rất ít hành khách và chỉ có hai người đáp xuống Sài Gòn là Tướng Henri Navarre và sĩ quan tùy viên là tôi.." Tướng Henri Navarre :“bị chỉ định sang Đông Dương " Tướng Henri Navarre mới chỉ được biết tin được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương được chín ngày. Trong suốt một tuần, ông phải bù đầu rối bận vì những cuộc thăm hỏi tìm hiểu tình hình, nghe những lời khuyên do chính Tướng Navarre yêu cầu hoặc bắt buộc phải nghe. Chỉ tới lúc trên Phi cơ, Đại tướng mới được rảnh rang thoát khỏi những cuộc đón tiếp bạn bè, những người đến cầu cạnh và nhũng cú điện thoại thăm hỏi. Trong máy bay Tướng Navarre ngồi trầm lặng, đầu ngoẹo về một phía, hai ngón của bàn tay phải chống vào má, một động tác quen thuộc giúp ông tập trung tư tưởng. Bất chợt cô chiêu đãi viên hàng không bằng một giọng ngọt ngào báo tin Phi cơ đang vượt qua đỉnh Núi Trắng. Lúc đó, Tướng Navarre mới chợt bừng tỉnh cơn suy nghĩ. Ông bắt đầu nói chuyện với tôi, nhưng vẫn cứ như nói một mình: - Số mình thật lắm chuyện bất ngờ. Từ ngày tốt nghiệp trường Võ bị Saint Cyr, sự nghiệp của mình toàn hướng về các chiến trường Đức và châu Âu. Đúng là mình cũng có tham gia các chiến dịch ở Syrie và Ma rốc, nhưng chủ yếu vẫn là ở Alsace và ở Đức. Làm đủ mọi việc: quân báo, tham mưu rồi chánh văn phòng lực lượng Pháp tại Tây Đức. Mình đã tưởng sẽ yên vị giữ mãi chức Tổng tham mưu trưởng lục quân khối NATO khu vực Trung Âu. Thế mà đùng một cái lại được chọn làm Tổng tư lệnh Đông Dương. Quả là không tưởng tượng nổi !. Mình đang được các đồng minh ở châu Âu hiểu rõ và tín nhiệm. Mình cũng đang say mê làn sương mù sông Rhin, cái giá băng vùng châu thổ miền Bắc, vẻ nên thơ của những khu rừng trên đất Đức… Thế mà nay lại phải cầm quân trong cái nóng bỏng ở Sài Gòn. Rồi Đại tướng lắc đầu buồn bã và nói: - Có lẽ, đến chín mươi phần trăm là mình sẽ ngã gục và thân bại danh liệt ở đó mất ! Nói xong câu đó, Đại tướng xoay người nhìn thẳng vào tôi. Thì ra không phải ông suy tưởng một mình mà là nói chuyện với tôi. Do đó, tôi mới dám hỏi lại: - Vậy thì, thưa Đại tướng, tại sao Đại tướng lại chấp nhận sang Đông Dương? Buột miệng xong tôi mới biết thật là một câu hỏi ngớ ngẩn. Thế nào mà chẳng được trả lời một câu chung chung là: “vì nhiệm vụ quân nhân” hoặc “vì vinh dự của trọng trách”. Nhưng Tướng Navarre không trả lời ngay. Ông chần chừ, có lẽ đang muốn tìm một câu trả lời nào không có vẻ công thức. Cuối cùng thay cho câu trả lời trực tiếp ông đã kể lại cho tôi nghe cụ thể câu chuyện đã “bị chỉ định sang Đông Dương” như thế nào !.... *Trước khi viết tiếp tôi muốn hỏi các bạn trong khi dịch tôi gặp một vấn đề tôi cũng thắc mắc: trong mẫu đối thoại : dùng General , và Sir, thông lệ các dịch giả và tôi dùng Tướng quân và Ngài, nếu dùng như vậy bị anh Từ Hiền Trâm cho dùng từ của CS, thế phải dịch sao đây mà không gây tranh cãi ? (trước 1975 VNCH cũng dịch như vậy luôn !) Tháng 5 năm 1953, Đại tướng Henri Navarre đang ở Đức thì nhận được điện thoại của Thủ tướng Réne Mayer từ Paris gọi tới. Hai vị biết nhau từ hồi 1946 ,Tướng quân là Thiếu tướng 2 sao :chánh văn phòng các lực lượng Quân đội Pháp tại Tây Đức và Réne Mayer làm Cao uỷ Pháp phụ trách các vấn đề Đức và Áo khi Tướng quân chuyển sang Tư lệnh sư đoàn Pháp ở Constantine, Algerie, thì Mayer cũng là nghị sĩ đại diện tỉnh Constantine thuộc Pháp. Vì vậy 2 ngươi càng thêm thân. Thủ tướng Réne Mayer : - Thưa Đại tướng , theo đề nghị của tôi, ngày mai Chính phủ sẽ họp và ra quyết định cử Tướng quân làm Tổng tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Lúc này, Thống Chế De Lattre đã qua đời. Đại tướng Raoul Salan lên thay cũng đã trở về Pháp từ nhiều tháng nay. Chính phủ Pháp đã tiến cử một loạt các vị Đại tướng khác Valluy, Morlierès, Magnan, Cherrieres… và nhiều vị nữa, nhưng tất cả đều bị loại bỏ, bởi vì, người thì bị coi là tả quá, người lại bị coi là hữu quá. Tướng Navarre là người vừa mới được giới thiệu, xếp cuối cùng trong danh sách đề cử. Đúng là khi được báo tin, Tướng Navarre đã vịn vào nhiều lý do để khước từ, nhưng Thủ tướng vẫn khăng khăng nói: - Đại tướng à. Nếu tôi báo trước cho ông biết tin này thì… điều đó không phải để hỏi ý kiến ông đâu. Tôi đã quyết định rồi. Tôi biết ông rõ đến mức đủ để hiểu rằng, ông không từ chối một trọng trách đầy khó khăn nguy hiểm như thế này. Năm đó, Tướng Navarre 55 tuổi. Ông là sĩ quan từ năm 1916, thời Đệ nhất thế chiến (1914-1918)Nhưng, Tướng Navarre vẫn giữ ý kiến, ông chưa được chuẩn bị chút gì cho nhiệm vụ này. Vì thế Ông nhất định từ chối Sở trường của ông, sở thích của ông và cả cuộc đời binh nghiệp của ông không phải hướng ông vào các vấn đề thuộc địa cũ kỹ, một căn bệnh bị nhiễm độc do thiếu được chăm sóc đã chuyển thành ung thư. Bệnh ung thư đang ngày càng lan đến những tế bào lành của cơ thể. Có lẽ phải cắt bỏ. Tướng Navarre đã nói như vậy với Thủ tướng Mayer và tự coi mình không đảm đương được chức vụ này. Nhưng Ông tân Thủ tướng quá ngây thơ về chính trị: - Đây không còn là vấn đề thuộc địa nữa. Nhiệm vụ tôi giao phó cho ông không phải là để thiết lập lại chủ quyền của Pháp ở nơi này? Chúng ta đã sa lầy suốt sáu năm trong tại Đông Dương, những tài nguyên quân sự đang kiệt quệ, chính trị đang rối ren. Chúng ta phải tìm ra một giải pháp tháo gỡ trong danh dự. Chính do ông hiểu biết sâu sắc các vấn đề chính trị của châu Âu và chưa biết gì mấy về các vấn đề thuộc địa lại giúp ông nhìn nhận sự việc bằng cặp mắt mới mẻ !. (Thủ tướng Réne Mayer chỉ làm thủ tướng Pháp được vài tháng là phải từ chức !) ĐẠI TƯỚNG NAVARRE CẦU CỨU ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO PHÁP QUỐC THỐNG CHẾ JUIN: Khi Tướng Henri Navarre chính thức được bổ nhậm :Tổng tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Ông vội vả đáp phi cơ từ Đức bay về Paris , hối hả đến gặp Đại Danh tướng Pháp Quốc : Thống chế Alphonse Pierre Juin để xin những khuyên nhủ . Thống chế Juin, người đàn anh trong Quân Lực Pháp Quốc, là Danh tướng có nhiều kinh nghiệm, có thể đưa ra những lời khuyên tốt. KẾ HOẠCH TUYỆT VỜI CUẢ ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO PHÁP QUỐC : THỐNG CHẾ JUINThống Chế 5 Sao :Alphonse Pierre Juin (Marshal of France). 16 December 1888 – 27 January 1967 (aged 78) Người Anh Cả của Quân Lực Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến Đại tướng Navarre : - Thưa Thống chế :Tình hình quân sự đã tuyệt vọng rồi hay sao ! Thống chế Juin : - Tôi không thể nghĩ một cách tuyệt đối như vậy , tình hình chưa đến mức nguy hiểm như vậy đâu vẫn còn hy vọng. I CHÍNH TRỊ Phải cho các Quốc Gia Đông Dương được độc lập , để xây dựng Quân đội Quốc gia 3 nước Đông Dương phát triển cả về chất và lượng nghĩa là phải tăng quân số hiện nay và huấn luyện kỹ thuật chiến đâu cho họ phải nhờ người Mỹ trợ giúp . Riêng tại Việt Nam , phải có lãnh tụ tương đối có uy tín làm Thủ tướng , không thể để một thủ tướng thân Pháp mà khả năng yếu (Thủ tướng Trần Văn Hữu ), trong lúc Quốc trưởng Bảo Đại , lại định cư tại Pháp . Phải để Quân Đội Quốc Gia VN, dưới sự toàn quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng tham mưu trưởng là vị Tướng có khả năng . Chúng Ta phải có một đường lối kiên quyết và kiên trì trong hai năm. Hai năm đó, có thể đạt được xây dựng hùng mạnh Quân đội Quốc gia 3 nước Đông Dương để Việt Minh CS hiểu rằng họ không có cơ hội giải quyết tình hình bằng biện pháp quân sự. Đó là điều tôi đã trình bày trong bản báo cáo trình Chính phủ sau chuyến đi thị sát của tôi hồi đầu năm. Ông sẽ đọc bản báo cáo này. **"Chính phủ Pháp phải hiểu rằng Cuộc chiến Đông Dương không còn là cuộc chiến vì quyền lợi thuộc địa nữa, mà là cuộc chiến giữa thế giới Tự Do và CS . Nếu Đông Dương bị nhuộm Đỏ , thì Thái Lan và toàn bộ Đông Nam Á sẽ bị nhuộm Đỏ ".( Thực tế 100% là như vậy vào thời điểm thập niên 1950 ,và thập niên 1960 ) ( Rất tiếc chính phủ Pháp lại không nghe Đại danh tướng Pháp quốc , vẫn Hoang tưởng mơ là chủ nhân của 3 nước Đông Dương ! ) II QUÂN SỰ Đại Danh tướng Pháp Quốc Thống chế Juin tóm tắt bản báo cáo đệ trình Chính phủ Pháp sau chuyến đi thanh tra Đông Dương từ ngày 15 tháng 2 năm 1953 : 1. “Nếu để mất vùng Thượng Lào sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại về mặt chính trị… Từ đó, cộng sản sẽ có thể thâm nhập vào Thái Lan mà không gặp khó khăn trở ngại nào. Chính phủ Thái Lan sẽ sụp đổ ,và bị nhuộm Đỏ trước sức ép của cộng sản tại Thái Lan (gần 30 ngàn quân du kích CS Thái) , Chính phủ Vương quốc Lào , và Kampuchea cũng sẽ bị nhuộm Đỏ, dẫn đến hậu quả là công cuộc bình định ở Việt Nam sẽ lại bị đảo lộn. Vì vậy việc bảo vệ Thượng Lào phải được bảo đảm bằng bất cứ giá nào !. 2.Muốn bảo vệ vùng Thượng Lào , thì phải tập trung bình định đồng bằng Bắc Kỳ Trên thực tế, dù chính phủ Pháp có nói tốt đẹp gì đi nữa thì vùng đồng bằng này vẫn chưa bao giờ được bình định hoàn toàn. Năm 1951 đã có nhận định rằng đây là một vùng bị ung thối không chỉ riêng về mặt chính trị, mà còn cả về mặt quân sự. Bởi vì Việt Minh CS đã có thể huy động đa số thanh niên nông thôn trong vùng vào du kích, trang bị vũ khí cho họ. Trong khu vục do chúng ta phụ trách dù bình định liên tục kết quả vẫn là số không. Trong vòng một năm qua, về mặt chính trị thì con số những thôn xóm do ta thật sự kiểm soát thường xuyên, chưa đến 12%”. Đại Danh tướng Pháp Quốc Thống chế Juin kết luận: A. Ông đừng bao giờ ảo tưởng , mà hãy nhìn vào thực tế . Giai đoạn 1953-1954 sẽ khó khăn đấy. Trước hết ông cần phải tránh giao tranh với Quân đội Việt Minh CS ở vùng đồng bằng bằng mọi cách., trong lúc tập trung xây dựng tăng quân số Quân số Quân đội Quốc gia VN lên gấp đôi hiện nay ( lúc này Quân đội Quốc gia VN chỉ vào khoảng 100 ngàn, Quân đội Giáo phái thì quá yếu) Mặc dù trong khu vực này chúng ta có ưu thế hơn Quân đội CS về Phi Cơ, Pháo binh, Thiet Giáp,. Nhưng Quân đội Việt Minh CS vẫn có điều kiện thuận lợi hơn. Đó là vì, đồng bằng Bắc kỳ hiện nay đang bị các Lực lương Quân địa phương CS làm cho ung thối. Những đơn vị CS này có thể làm tê liệt hậu phương của chúng ta, nhằm hỗ trợ cho các Sư đoàn Quân chủ lực CS từ núi rừng Thượng Du Việt Bắc , đang được Trung Cộng trang bị, và huấn luyện tấn công vào quân đội chúng ta. B.. Giai đoạn 1954-1955 , khi Quân đội Quốc gia Việt Nam , đã phát triển lên gấp đôi, huấn luyện , trang bị vũ khí đầy đủ . Ông phải tìm cách giành lại thế chủ động chiến trường tại Bắc Việt Nam ! Từ ngày Thống chế De Lattre qua đời ,quân đội chúng ta không còn giữ được thế chủ động chiến trường nữa. Ông phải nhớ rằng tấn công là phương pháp tốt nhất để phòng ngự… Danh tướng Quân Lực Pháp Quốc :Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny tại Sài Gòn năm 1950 ( ngoài cùng ) *Danh tướng Quân Lực Pháp Quốc Cố Thống Chế :Jean de Lattre de Tassigny 2 February 1889 – 11 January 1952 Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương 1950-1951 Từ trần vì bị ung thư 11 January 1952, truy phong Thống chế 5 sao. ***** Các bạn đọc xong Kế hoạch của Đại danh tướng Thống chế Juin từ 2.1953, thế tại sao Ông tân Thủ tướng Réne Mayer lại yêu cầu Đại tướng Navarre tìm một giải pháp danh dự tại Đông Dương? Lý do : Chính phủ Pháp lúc đó vừa không có khả năng , vừa muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương , nên muốn đi đêm với Bắc Kinh , đây là Sự thật 100%. Vì vậy bao nhiêu Đại tướng có khả năng ,Quốc hội Pháp và Thống chế Juin đề nghị lại không đồng ý , vì đa số các Đại tướng muốn theo kế hoạch của Thống chế Juin, có nghĩa 3 Quốc gia Đông Dương phải độc lập , quân đội hùng mạnh . Chính phủ Pháp lo sợ không điều khiển được theo ý muốn. Đây là sự hoang tưởng của chính phủ Pháp, sau khi thất trận Điện Biên Phủ , tình hình bi đát , Chí Sĩ Ngô Đình Diệm mới nhận chức Thủ tướng , thế mà chính phủ Pháp vẫn không tỉnh mộng , vẫn tìm mọi cách ủng hộ Bình Xuyên , và các Lượng Giáo Phái ! Các bạn đọc tiếp các bạn sẽ thấy , khi Tướng Navarre và Đại Uý Jean _Tuỳ Viên đến Sài Gòn 5.1953 ,tình hình Việt Nam còn bi đát hơn nữa ! Ai CŨNG BIẾT PHÁP SẼ THẤT TRẬN THÊ THẢM ! TRONG LÚC ĐÓ CÁC CHÍNH KHÁCH SALON, HOANG TƯỞNG TẠI PARIS TÌM CÁCH ĐI ĐÊM BẮC KINH , BẤT CHẤP LỜI KHUYÊN CÁC TƯỚNG LÃNH PHÁP ! ÔNG THỦ TƯỚNG MỚI CŨNG VẬY LUÔN ! ĐÚNG LÀ BẤT HẠNH CHO DÂN TỘC VIỆT NAM ! MĨA MAI NHÀ ĐẠI NGHIÊN CỨU NGUYỄN ĐẮC XUÂN TỪ CỐ ĐỐ HUẾ , BÂY GIỜ LÀ TRÍ THỨC "PHẢN TĨNH YÊU NƯỚC" VIẾT BÀI LÊN ÁN NGÔ ĐÌNH DIỆM LÀ PHẢN BỘI QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI ! * Trong phần kế tôi đề cập đến : cuộc nói chuyện Quốc trưởng Bảo Đại và Chí sĩ Ngô Đình Diệm, tại Pháp , trước khi Chí Sĩ Ngô Đình Diệm về Sài Gòn nhận chức Thủ tướng Quốc gia VN 6.1954, có sự chứng kiến Nam Phương Hoàng Hậu. ( Hoàng hậu đã vượt hàng trăm cây số đến Biệt điện Quốc trưởng, lúc này hai người không sống chung ) những lời nói của Quốc trưởng vào lúc tình hình nguy hiểm của đất nước , cho thấy Quốc trưởng là người yêu nước còn nghĩ đến dân tộc VN, nhưng rất tiếc sau này lại bị chính phủ Pháp áp lực , rồi Bảy Viễn mua chuộc . Câu nói của Cựu Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại : Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ 22 .10 .1913 --31.7.1997 với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm 3.1.1901--2.11.1963 : " Ông hãy thề trước Thánh giá là sẽ : bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam đến tận hơi thở cuối cùng, dù phải chống lại cả người Pháp,bắt buộc phải thống nhất các Lực lượng Quân đội Giáo phái , chỉ có một Quân đội Quốc gia VN là duy nhất " Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại : Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ 22 .10 .1913 --31.7.1997. NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU 4 . 12. 1914-- 14 . 9 .1963 Tấn Phong Hoàng Hậu 20.3.1934 khi chưa đến 20 tuổi Bà khuê danh là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 4 tháng 12, 1914 tại Gò Công, Tiền Giang, xuất thân trong một gia đình Công giáo , bà còn có tên thánh là Marie Thérèse . **Trong buổi Hội kiến lịch sử đó : Nam Phương Hoàng Hậu đề nghị : Hoàng Đế -Quốc Trưởng Bảo Đại ký tấm check 2 triệu Quan Pháp cho Tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm ( chưa tới 200 ngàn tiền Đông Dương ), để có ngân quĩ bước đầu khi về chấp chính !Hoàng Đế -Quốc Trưởng Bảo Đại đã ký tấm check lịch sử này ***Ông TRÍ THỨC "PHẢN TĨNH YÊU NƯỚC"Nguyễn Đắc Xuân sử dụng tài liệu của Tướng Đỗ Mậu để sửa lại câu nói : "" Ông hãy Thề trước Thánh giá là sẽ : Trung thành với Hoàng đế nhà Nguyễn đến tận hơi thở cuối cùng !" Và nói rằng để Ngô Đình Diệm nhận chức Thủ Tướng , Ông Ngô Đình Luyện phải hối lộ Quốc trưởng mấy triệu quan Pháp , và Giám Mục Ngô Đình Thục hối lộ biếu Quốc trưởng Bảo Đại một chiếc xe Ô tô thể thao mắc tiền !
|
|