|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 6:51:29 GMT 9
" Tôi rất yêu thành phố Sài Gòn. Tôi yêu cái dáng vẻ đường bệ của những công sở và những đại lộ. Tôi yêu cái náo nhiệt của cuộc sống sôi động tại Chợ Lớn. Tôi yêu những mái nhà tranh ở ngoại ô và Gia Định nơi tôi đã từng sống những ngày tháng đầu tiên khi tôi đặt chân tới đây lần trước. " Jean Pouget Ngày 12 .5.1953 , Đại tướng Navarre và tôi đến Thủ đô Sài Gòn ,Tôi đã đi xuyên qua thành phố trong đoàn công xa có những ngươi lính hiến binh lái mô tô đi mở đường, đi qua đại lộ nào đó mà lần này tôi không nhận ra được nữa, Sài gòn yêu dấu đã thay đổi quá nhiều. .. Trong cuộc hành trình đến chiến trường Đông Dương ,Sài Gòn đối với Tướng Navarre chỉ là một chặng dừng chân bắt buộc trong cái nóng nực và nghẹt thở với những bữa tiệc chiêu đãi và những buổi lễ chào đón kiểu cách trịnh trọng, được ấn định trong thời gian biểu chi li đến từng phút.Đại tướng không bộc lộ ra ngoài một nét gì tỏ vẻ sốt ruột, nhưng rõ ràng trong lòng ông bực bội vì đã làm ông mất thời giờ vô ích !. Những người lính gác các công sở dinh thự hào nhoáng trong bộ quân phục đại lễ , sự xa hoa lộng lẫy trong phòng làm việc và phòng khách , dáng dấp trịnh trọng đáng ghét của các nhà ngoại giao Pháp và nét nhăn nhó khó hiểu trên gương mặt của Thủ tướng VN : Nguyễn Văn Tâm, tất cả mọi vật mọi người đều không nói lên được một điều gì có liên quan đến cuộc chiến tranh gian nan mà Đại tướng sẽ phải đảm trách !. Bộ Tư lệnh Quân Viễn chinh Đông Dương vốn là trụ sở làm việc cũ của Đại tướng Salan. Đó là một biệt thự lớn, kiến trúc theo kiểu thuộc địa có hàng hiên và nhiều cột chống, mà trước đó năm 1945 Đại tướng Leclere Tổng Tư lệnh Quân Viễn chinh đầu tiên đã đặt đại bản doanh. .. Suốt một ngày với những chiêu đãi trịnh trọng, nghi thức kiểu cách , rườm rà , và những món ăn Tây , không thích hợp với cái nóng nực của Sài Gòn , tôi bỗng thèm tô phở Sài Gòn ! Vì vậy, khi màn đêm buông xuống, Tướng Navarre lui vào phòng riêng của mình, thì tôi vội trút bỏ bộ quân phục, mặc vào bộ đồ Civil : quần tây, áo sơ mi trắng , với khẩu súng ngắn trong người- - rồi bước qua cánh cổng sắt có những người lính gác đêm đang hé mở, đi nhanh ra đường phố mang tên tướng De Gaulle. Những Dinh thự Công sở chìm trong những vòm lá cây rậm rạp trong vườn, nằm bên trong những con đường ngang dọc đều đặn như Ô bàn cờ đang trở nên yên lặng và tĩnh mịch vì trời đã khuya rồi. Trên những vỉa hè rộng và dài, những người bộ hành đã thưa thớt. Tới một nơi có con đường đất nhỏ chạy ngoằn ngoèo trên đám những đám cỏ dại, một người phu xe xích lô đang ngồi trong bóng tối. Nhìn thấy tôi, anh chỉ vào chiếc nệm trắng của chiếc xích lô, ra hiệu mời chào. Tôi đồng ý và nói bằng tiếng Việt: - Di nhanh len Những tiếng này, tôi vẫn thường xuyên nghe thấy trên đường phố Sài Gòn có xe xích lô , nhớ lại không khó khăn gì. Nhưng phát âm theo kiểu Pháp và phát đi từ cổ họng của những người Âu Châu, đã trở thành méo mó, không thật chính xác. Phải có thêm địa điểm và thời điểm mới rõ nghĩa. Có lẽ người phu xe nghĩ rằng : Ông Tây không cho địa chỉ nơi cần đến. Có nghĩa là muốn đi dạo mát. Hẳn là một khách sộp, . Ông ta nói “đi nhanh lên” nhưng có vẻ như chẳng vội gì cả. Người phu xe đội nón vào và nở nụ cười chào đón câu nói của tôi. Anh đạp từ từ theo con đường thẳng trước mặt. Trên đường phố vẫn còn vang lên tiếng gõ lách cách của người bán phở đêm. Bóng lá của hàng cây me có quả rất chua mọc hai bên đường che lấp cả ánh đèn điện thành phố. Thỉnh thoảng, người phu xe lại rẽ ngoặt vào một đường phố khác, những đường phố đã từng được mang tên các nhà truyền giáo như Pellerin hoặc các vị Đô đốc trở thành Thống đốc của thời chinh phục thuộc địa như Richaud. Tới một công viên, chúng tôi nghe thấy ở cuối đường phố văng vẳng tiếng đàn, tiếng hát, tiếng kêu, tiếng cười đùa giỡn của đàn bà . Người phu xe nói bằng một thứ tiếng bồi : -Tôi biết chỗ có con gái xinh lắm. Tốt lắm! - Không ! Để tôi yên. ... Tôi ra hiệu dừng xe trước một gánh phở đêm., tôi cảm thấy đói bụng. Tôi ngồi chen lẫn với những người phụ nữ dân lao động , và những người phu xe xích lô đêm ăn một tô phở nóng, thêm nước mắm và thêm ớt màu đỏ. Mùi vị không đâu có được của phở Sài Gòn, thịt bò được hầm rất lâu trong những chiếc nồi cổ lỗ sĩ , được coi là món ăn thích thú của dân Sài Gòn, mà tôi cũng mê luôn ! Tôi lại ngửi thấy mùi mồ hôi, mùi cá khô và ẩm trên da thịt những người phụ nữ dân lao động, đồng thời lại được cảm nhận vẻ duyên dáng và tinh tế, kín đáo , căm giận hoặc yêu mến mà họ che giấu dưới vẻ bẽn lẽn, và thẹn thùng ! Sau khi thưởng thức xong tô phở tôi bước lên xích lô và lúc đó tôi lại hồi tưởng đến một kỷ niệm cũ, mặc kệ người phu xe muốn đưa đi đâu cũng được. Xe đã tới đường Mayer(Đinh Tiên Hoàng sau này ), trên đường đi Đa Kao, ... Sau khi thưởng thức xong món phở tôi bước lên xích lô và lúc đó tôi lại hồi tưởng đến một kỷ niệm cũ, mặc kệ người phu xe muốn đưa đi đâu cũng được. Xe đã tới đường Mayer, trên đường đi Đa Kao, một đường phố dài qua cầu Bông kéo dài đến Gia Định với những căn nhà giống nhau ở hai bên đường, mỗi căn nhà có hai hoặc ba phòng, tiếp nối theo chiều sâu của căn nhà phía trước mặt là khu vườn nhỏ, phía sau cùng là bãi đất bùn lầy dùng làm sân. Tôi có một người bạn cũ tên là Diệu được mệnh danh là Nhà hiền triết "Khổng Minh " của Sài Gòn ,tiên đoán sự việc và biến cố chính trị rất chính xác , ở căn nhà số 114 Mayer. Nếu Diệu còn ở đây thì chắc giờ này vẫn còn thức vì gần như anh ta chẳng ngủ đêm bao giờ. Cánh cổng gỗ vẫn còn mở như thường lệ. Tôi đi qua khu vườn nhỏ, rộng vài mét, rồi đẩy cửa bước vào : - Vào đi, Đại úy tôi đang chờ ông ! Gian phòng vẫn như ngày xưa, gần như chỉ có một sập gụ đã sẫm màu và nhẵn bóng. Phía giữa đặt một bàn đèn thuốc phiện, . Diệu đứng sát tường nhà hầu như không nhìn thấy vì anh mặc bộ đồ đen, bước vào tôi mới nhìn thấy gương mặt anh dưới ánh sáng ngọn đèn thuốc phiện. Đôi mắt anh sau cặp kính gọng kim loại mạ vàng lóe lên niềm vui: anh thích thú và mừng rỡ được gặp lại tôi ! Tôi quen biết Diệu từ năm 1948. Tôi được biết ít nhiều về cuộc đời anh, . Dần dà, chúng tôi trở thành đôi bạn ràng buộc với nhau bằng những sợi dây liên hệ, chỉ gặp nhau vào lúc ban đêm, hai bên cùng giữ bí mật cho nhau trong sự tin cậy lẫn nhau. Diệu được gọi là “nhà hiền triết” không phải vì anh có văn bằng triết học mà là do những nhận xét khôn ngoan ít khi bộc lộ ra ngoài. . Anh đọc rất ít, hầu như không bao giờ hỏi người khác, chỉ ngủ ban ngày, thức ban đêm vậy mà không hiểu sao lại biết rất rõ tình hình Sài Gòn từ trong các dinh thự đến những mái nhà tranh. Những tin tức thu lượm được, anh giữ riêng cho mình, thỉnh thoảng cũng trao đổi với một người bạn thân nhằm phát biểu một quan niệm về một lĩnh vực chính trị nào đó hoặc một dự đoán về một chiến dịch quân sự. Nhưng Diệu không làm nghề tình báo gián điệp vì anh coi đó là một nghề nguy hiểm, phù phiếm và thô bạo. Nhà hiền triết này chỉ ăn một bát cơm với mười gam ma túy là đủ để giữ thăng bằng nhịp sống và bán lại cho bè bạn vài điếu thuốc phiện hảo hạng trị giá vài đồng bạc giá rẻ. Khách hàng của anh phần lớn là các sĩ quan Hải quân từ những chiến hạm đậu trên sông Sài Gòn tìm đến. Vài ông chủ đồn điền người Pháp cũng biết địa chỉ của anh. Thỉnh thoảng lại có một người Việt Nam đến nằm trên sập nhà anh, hầu như bất động, không nói câu nào . Đây là một nơi tạm nghỉ giao tranh, một nơi nương náu, trú ẩn như trong các nhà thờ thời Trung Cổ. Đạo lý Phương Đông lên án ma túy rất nghiêm khắc hơn là đạo lý Phương Tây. Nhưng tại đây, người nào cũng chỉ chìm đắm trong giấc mơ của người đó, không làm phiền người bên cạnh. Trong gian phòng này người ta thường bắt gặp một trung tá hải quân Pháp ngồi đọc một tập thơ. Còn người viết nằm trên sập cứ việc hút thuốc, chẳng suy nghĩ gì cả. Năm 1950, tôi đã đến đây cùng với Jacqueline trong đêm cuối cùng tại Sài Gòn cùng với Diệu trong gian phòng này. Lần này gặp anh, tôi hỏi: - Ông đang chờ tôi à? Sao ông biết được : tôi đã trở lại đây? Diệu nở nụ cười rạng rỡ của một người như vừa tìm được của quí: - Anh đến Sài Gòn bằng phi cơ sáng nay đúng không? Tướng Navarre thấy Sài Gòn thế nào? Chắc ông khổ vì nắng nóng. Phòng tiếp tân ở chỗ ông rất nóng vòi nước tắm hoa sen lại gặp trục trặc !. Anh có muốn dùng một điếu thuốc phiện không? Tôi rất vui sướng được tự tay chuẩn bị mồi thuốc cho anh. Diệu nói tiếng Pháp rất lưu loát, bằng một âm điệu thánh thót như hát của những người Việt Nam và với ngữ điệu miền Tây Nam nước Pháp là nơi Anh đã từng là Thông dịch viên trong Hãng thuốc súng ở Anulême, hồi Đệ nhất Thế chiến 1914-1918. Diệu tiếp tục nói: - Mãi đến tám giờ sáng ngày mai ,Đại uý mới bay đi Hà Nội với Tướng Navarre mà ! (Tôi giật mình). Còn đủ thời giờ. Ma túy không quyến rũ tôi và tôi đặc biệt rất ghê sợ, không muốn làm nô lệ cho nghiện ngập. Nhưng tôi thích môi trường chung quanh bàn đèn, hương vị toả ra từ khói thuốc phiện, vẻ tĩnh mịch trong căn phòng sau một ngày căng thẳng vì cuộc sống. Trước kia, tôi thường đến đây cùng với Jacqueline một vài lần. . Em không bao giờ hút thuốc phiện, dù chỉ ướm thủ trên môi. Em hay kể cho tôi nghe thời thời thơ ấu nghỉ hè trong dinh thự quan lại của ông bà ngoại tại Huế, hoặc những câu chuyện cổ tích dân gian nước Lào mà những người hầu đã kể lại cho Phụ thân em là một vị Khâm sứ tại Lào. Jacqueline cũng dịch sang tiếng Pháp những câu hò mà người thôn quê thường hát khi cấy lúa và cả những câu chuyện bậy bạ mà những người dân trên đường phố thường bịa ra để chế giễu những người da trắng. Từ khi trở về Pháp tôi có liên lạc Jacqueline một thời gian. Chừng như đoán được dòng suy tưởng của tôi, con người "Khổng Minh" này nói luôn: - Anh có biết Jacqueline B. đã đi lấy chồng rồi không? , lấy cậu công tử M. con trai nhà hàng xuất- nhập cảng. Đẹp đôi, nhiều tiền, nhưng không có con. Cô ta buồn lắm. Họ vừa trở về Pháp. Nghỉ ba tháng ở Vai d Isère và Paris. Tôi sẽ cho anh số điện thoại. Tôi lảng sang chuyện khác: - Tình hình chính trị hiện nay như thế nào? Miền Nam có vẻ như chưa yên ổn, chưa bình định xong. - Ồ Đại úy ơi ! Đó là chuyện chính trị, anh đừng bao giờ dính vào đó. Tuy nhiên, trong câu chuyện trao đổi giữa hai chúng tôi, thỉnh thoảng Diệu cũng nói về cuộc chiến tranh Đông Dương, nhất là ở miền Nam Việt nam, trước tình hình đang khá sôi nổi. Các giáo phái: Cao Đài ở Tây Ninh, Hoà Hảo ở Miền Tây , và Đạo quân Thiên Chúa giáo của Trung tá Le Roy tại Bến Tre đang thư hùng tranh giành nhau những miếng bánh ngon nhất của lúa gạo Nam Bộ. Còn Việt Minh CS thì đang trấn giữ vùng đầm lầy rộng lớn ở khu vực Đồng Tháp Mười và một chiến khu trong rừng núi ở phía Bắc Biên Hoà đang: Toạ Sơn Hổ đấu, Ngư ông đắc lợi ! * ( Đây chính là lý do mà Hoàng Đế -Quốc Trưởng Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu, yêu cầu Chí sĩ Ngô Đình Diệm 6.1954 : phải thống nhất các lực lượng Quân sự giáo phái ! Thực tế họ chống cộng thì ít mà tranh danh quyền lực thì nhiều : ôm mộng làm bá chủ vựa lúa gạo Miền Tây Nam Bộ. CS là người hưởng lợi ! lúc này thuốc phiện cũng đang tràn ngập tại Việt Nam, CS cũng là người hưởng lợi !) ĐẠI UÝ JEAN VÀ HÀ NỘI 1953-1954 : THỦ ĐÔ CUẢ CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG ĐẠI UÝ JEAN VÀ HÀ NỘI 1953-1954 : THỦ ĐÔ CUẢ CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG -ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU 43 TUỔI TỪ HẢI NGOẠI VỀ NƯỚC -THÀNH LẬP LỰC LƯỢNG CỨU NGUY DÂN TỘC VIỆT NAM . HÀ NỘI NĂM 1905 Đại uý Jean Pouget ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU 43 TUỔI TỪ HẢI NGOẠI VỀ NƯỚC -THÀNH LẬP LỰC LƯỢNG CỨU NGUY DÂN TỘC VIỆT NAM. Tôi nhìn Diệu nhà Hiền triết : - Vậy còn Bảy Viễn Tướng giặc Bình xuyên thế nào rồi ? - Bảy Viễn, tướng giặc Bình Xuyên đã duy trì được quyền lực ngay tại Sài Gòn-Chợ Lớn, đã thiết lập được an ninh trật tự chung quanh việc mở sòng bài ,động gái mãi dâm kiếm tiền. Hiện nay tướng Viễn đang chăm chú vào việc kinh doanh. Ông ta đã thay đổi cách thức làm giặc cướp. Việc tống tiền hiện nay thay bằng việc biết nộp thuế một cách hợp lý có kiểm soát, và biết hợp pháp. Dưới ánh đèn dầu lạc, Diệu chậm rãi : - Nhìn chung thì việc bình định cũng có đôi chút kết quả !. Khi Diệu nói hết câu, tôi mới nhận ra mỉa mai châm biếm trong câu nói. Nhưng rồi Diệu lại nói tiếp : - Đường xá được tự do đi lại. Chủ nhật, có thể từ Sài Gòn đi tắm biển ở Vũng Tàu hoặc đi săn bắn ở Đà Lạt. Tình thế có vẻ như vững hơn năm 1947. Bây giờ là chuyện kinh doanh. Bây giờ là Hoà bình trong tiền bạc ! Diệu lại nói: - Dân Sài Gòn , và dân Nam Kỳ quan niệm rằng . (Diệu là một trong số rất ít dân Sài Gòn còn dùng từ Cochinchine, có nghĩa là Nam Kỳ, trong khi những người khác đều gọi là Nam Việt Nam): Vận mệnh của chúng tôi là do Chiến trường tại miền Bắc VN định đoạt. Nhưng tôi không biết tình hình Chiến sự tại Bắc kỳ ra sao ? Chỉ biết là ở Trung Hoa, sáu trăm triệu dân đang sống dưới chế độ cộng sản. Ở đây, chúng tôi vẫn còn vài tháng nữa ! Không biết Tướng Navarre có xoay chuyển được tình thế không ? Ông Ngô Đình Nhu , em trai của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm mới về nước , đang vận động thành lập Lực lượng cứu nguy Dân tộc , đã xuất bản một tờ báo , hiện tại đang được một số trí thức , và một số sĩ quan quân đội ủng hộ , đa số là sĩ quan đang tham chiến tại Bắc kỳ , điều này chứng tỏ chiến trường tại Bắc Việt Nam đang nguy ngập ! Tôi từ giả Diệu , trở về Bộ Tổng Tư lệnh đã hơn 3 giờ sáng . Sáng mai 8 giờ sáng Tôi và Đại tướng phải bay ra Hà Nội : Thủ đô của Chiến Trường Đông Dương .. HÀ NỘI THỦ ĐÔ CUẢ CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG 1953-1954 Sân bay Bạch Mai- Hà Nội dưới ánh nắng mặt trời chói chang , những người Chiến binh Quân Lực Pháp , và Quân Đội Quốc gia VN trong quân phục tác chiến lập hàng rào danh dự đón chào Đại tướng Tổng tư lệnh. Hà Nội nghênh đón Đại tướng Tổng tư lệnh Navarre theo đúng nghi lễ đã tiến hành tại Sài Gòn. Chỉ khác một điều, binh sĩ không mặc Quân phục Đại Lễ . Mà là những người Chiến binh với Quân phục tác chiến , thắt lưng đeo đầy băng đạn, súng sẵn sàng nhả đạn. Chỉ nhìn thấy vài bộ lễ phục màu trắng trong số các quan chức dân sự người Việt.. Đoàn xe chúng tôi xuyên qua phi trường , trên con đường đầy bụi, hai bên có những bót gác đầy hàng rào kẽm gai với những Lô cốt tua tủa nòng súng Đại liên . . Vào đến trung tâm thành phố, trên những đại lộ trồng cây toả bóng mát , tôi bắt gặp những chiếc xe taxi phủ đầy bụi. Hà Nội là Thủ đô của chiến tranh Đông Dương. Cuộc sống chợ búa, buôn bán đã lùi sâu vào trong những đường phố nhỏ có người Hoa sinh sống và làm ăn, hoặc hàng hoá chỉ chưng bày trong những tủ kính trên đường phố Paul Bert. Đoàn Công xa đưa chúng tôi tới khu vực Công thự của người Pháp gồm một loạt Biệt thự xây theo kiểu thuộc địa có những công viên rợp bóng cây xanh. Đây là một quần thể Dinh thự , do Cố Thống Chế De Lattre trước kia đã cho quy hoạch xây dựng, nhằm làm cho Hà Nội có vị trí tương xứng với tầm vóc một thành phố lớn của Đông Dương . Dinh Toàn quyền cũ trước kia thường gọi là lâu đài Puccini ,vốn là Dinh thự của Toàn quyền Đông Dương, nay đã được trao lại làm Dinh Thủ hiến Bắc Kỳ -Quốc gia Việt Nam (Thủ hiến Nguyễn Văn Trị), Vì vậy, ông Letourneau -Bộ trưởng Thuộc địa trưa nay mở tiệc : chào mừng Đại tướng :Tân Tổng tư lệnh mới đến, tại toà Đại sứ Pháp. Bữa ăn được dọn trong phòng ăn nhỏ hẹp. Khách mời không nhiều, có sự hiện diện Đại tướng Salan quyền Tổng tư lệnh, Trung tướng Allard :Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Linarès :Tư lệnh chiến trường Bắc Việt Nam, cuối cùng là hai Thiếu tướng Dodelier và Cogny Tư lệnh các chiến trường.... PHI TRƯỜNG MƯỜNG THANH -ĐIỆN BIÊN PHỦ 12.1953 TRÁI QUA :ĐẠI TƯỚNG HENRI NAVARRE TỔNG TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG QUÂN VIỄN CHINH PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG VÀ TRUNG TƯỚNG RÉNE CONGY ( ĐỘI MŨ BERET) TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG BẮC VIỆT NAM ------"Tháng 5 tại Hà Nội là tháng nóng nhất. Chúng tôi uống nước ngọt có đá, đựng trong những chiếc ly thuỷ tinh lớn do các Ông chủ khách sạn người Hoa dọn tiệc ăn trưa mang đến. Đại úy Saint Julaien đã từng là sĩ quan tùy viên của cố Thống chế De Lattre, nay chuyển sang làm bí thư cho Bộ trưởng Thuộc địa Letourneau, Trung tướng Linarès Tư lệnh chiến truờng Bắc VN ,dáng cao cao kiểu quí tộc cùng đến với Đại tuớng Salan.. Từ hơn hai năm nay Vị Trung tướng gốc pháo binh :Tư lệnh chiến trường Bắc VN , dù bệnh tật ông vẫn thị sát chiến trường ,tới thăm các đồn bốt, cổ vũ các chiến binh suốt từ Lai Châu tới Phát Diệm. Dù các bác sĩ yêu cầu ông nghỉ ngơi nhưng ông từ chối. Đại tướng Navarre là bạn học cùng một khoá trường võ bị với Trung tướng Linarès nên ông ta đã ôm chặt vai Navarre, gọi Tổng tư lệnh bằng tên một cách thân mật: - Henri ! ông đang chỉ huy ở Fontainebleau mà? Sang cái đất chết tiệt này làm gì? Tướng Navarre kể lại vắn tắt câu chuyện được chỉ định sang Đông Dương như thế nào !. Tướng Linarès hỏi lại: - Ông sang đây có một mình thì xoay sở thế nào được ! ông đã biết, bọn này muốn dọt hết ! Vì Bọn Chính trường Paris đã trói tay chúng tôi ! Không phải chỉ có Đại tướng Salan với tôi, mà cả Tướng tham mưu trưởng Allard và Tướng Dulac . Tướng Navarre im lặng không nói gì . Trung tướng Linarès hỏi tiếp bằng giọng nghiêm chỉnh: - Thế ai sẽ thay tôi làm Tư lệnh Chiến truờng Bắc VN ? ... Đại tướng Navarre : - Tôi hy vọng ông đã suy nghĩ người thay thế rồi. Còn nếu ông để tôi tự quyết định thì tôi cũng khó chọn được người. Ở Paris, hình như không có ai thích hợp được với chức vụ Tư lệnh Chiến truờng Bắc VN và Tổng tham mưu trưởng chiến trường Đông Dương. Còn ở đây : Langlade, Leblanc, Bondis không thể rời khỏi các Chiến trường hiện đang Tư lệnh. Ngay ở Lào cũng đang thiếu Tư lệnh. Còn ở Bắc kỳ sau ông chỉ còn có duy nhất Cogny, nhưng mới chỉ là Thiếu tướng (2 sao) và hãy còn quá trẻ để Tư lệnh Chiến truờng Bắc VN với quân số 125 ngàn quân . * Chú thích : 125 ngàn quân là Tổng sổ :Quân Pháp , và Quân Đội Quốc gia VN , thật ra là quá ít so với chiến trường Bắc VN rộng bao la , quân Việt Minh CS trên 300 ngàn quân : 6 Sư đoàn chính qui ( thời gian này gọi đại đoàn) 1 Sư đoàn Pháo 351 , trên 10 trung đoàn Độc lập , Bộ đội địa phương , du kích , trong lúc đó bọn chính khách Paris chĩ muốn duy trì Quân Đội Quốc gia VN trên toàn lãnh thỗ dưới 150 ngàn quân ? Vì vậy bọn chính khách Paris đả trói tay Quốc gia VN , và các Tướng Lãnh Pháp !. Tướng Navarre có 2 người bạn thân : Tân thủ tướng ngây thơ chính trị ,nhưng tham lam quyền lực , muốn lợi dụng bạn mình Tổng tư lệnh Chiến trường Đông Dương để củng cố quyền lực , bất chấp bạn mình chỉ là Tướng văn phòng, chỉ biết chiến trường Âu Châu ! và Trung tướng Linarès , cũng bỏ rơi Ông !) , Trung tướng Linarès chăm chú nghe . Đại tướng Navarre vừa nói hết - Không ! Henri ! Đừng chọn Cogny. Nó là một thằng không tốt , Ông hãy hỏi Đại tướng Salan đi. Nhưng Đại tướng Salan thái độ không muốn nói chuyện. Ông ngồi lơ đãng nhìn về phía công viên bên ngoài. Thái độ đó làm Đại tướng Navarre giận và bất bằng, Ông nói với Tướng Linarès: - Thế này là thế nào đây ? Các ông ra đi, bỏ lại tất cả các vị trí trống , không có người đảm trách. Thế rồi ông lại khuyên tôi không nên dùng một con người đang cần để phụ trách một vị trí rất quan trọng Cogny là người có khả năng hoàn thành nhiệm vụ, cũng không thèm tiến cử cho tôi một người nào !. Trung tướng Linarès đứng lên , rót một ly Whisky ,vẫn không trả lời. Đại tướng Navarre tiếp tục nói: - Vài phút nữa Cogny sẽ tới đây. Tôi không biết anh ta nhưng qua lời Bộ trưởng Letourneau thì Cogny là một Tư lệnh có tài ,Anh ta tình nguyện ở lại thêm một nhiệm kỳ 2 năm tại chiến trường Bắc Việt Nam. Nếu Ông không giới thiệu cho tôi một người nào khác, hoặc ở đây hoặc ở Pháp thì khi gặp Cogny tôi sẽ báo tin là sẽ giao chiến trường Bắc kỳ cho anh ta Tư lệnh . Tướng Salan tiếp tục im lặng . Tướng Linarès tiếp tục uống tùng ngụm nhỏ Whisky. Bộ trưởng thuộc địa Letourneau bằng một giọng nói vui vẻ và mỉm cười cố làm dịu bầu không khí căng thẳng : - Tướng Linarès bao giờ cũng nói những câu gay gắt hợp với tính khí của ông. Nhưng mà thôi, theo tôi thì Tướng Cogny đúng là có một vài điều chê trách nhưng dù sao đây cũng là một vị Tướng có tài. Câu chuyện về Tướng Cogny kết thúc. Đại Tướng Navarre quay sang phía tôi : - Anh ra cổng đón Thiếu tướng Cogny rồi mời vào phòng làm việc của tôi. ..... Trung tướng Tổng tham mưu trưởng Allard thảo một bức công điện gửi Chính phủ Pháp đề nghị thăng Thiếu tướng Cogny lên Trung tướng 3 sao và bổ nhậm chính thức : Tư lệnh chiến trường Bắc Việt Nam . Thời tiết Hà Nội tháng 5 rất nóng ẩm và khó chịu. Trong phòng tôi hơi ẩm thoát ra từ vách tường và cả sàn gạch bông. Thỉnh thoảng có những cơn mưa dông ập đến nhưng cũng không hết được nóng nực. Đại tướng và tôi ở lại Hà Nội cho tới ngày 24 tháng 5, rồi trở lại Sài Gòn ". TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ I Dẫn Nhập Trước 3 ngày rời Hà Nội trở lại Sài Gòn , Trung tướng Linarès kéo Đại tướng Navarre ra một chỗ khuất , nói nhỏ: - Ông đang tìm một Đại tá Chánh văn phòng phải không ? Tôi sẽ tiến cử cho. Đó là Đại tá Revol xuất thân là Sĩ quan bộ binh đã học khoá chiến tranh chính trị tại Paris. Tôi nghĩ anh ta sẽ hoàn thành tốt những ý muốn của ông. Đại Tướng Salan được hỏi ý kiến, cũng đồng ý với nhận xét của Tướng Linarès. Thế là Đại tá Revol được cử làm Chánh văn phòng của Đại tướng Navarre . Đại tá Revol Chánh văn phòng Đại tướng Tổng tư lệnh là một người rất phức tạp,và khó tính. Tôi nghĩ, ông thường che giấu kiến thức thiếu hiểu biết của mình về cuộc chiến tranh này cũng như ông vẫn che giấu tính khí nóng nảy dưới vẻ đạo mạo và khắc khổ và đây cũng là một trong những nguyên nhân tại hoạ cho Đại tướng . Ngày 22 . 5 .1953 Bộ trưởng Letourneau đã trở về Pháp , khi được tin nội các chính phủ Tân Thủ tướng Réne Mayer vừa sụp đổ. (Đại tướng vừa nhận chức 10 ngày , thì ông bạn thân quí hoá Thủ tướng phải từ chức đúng là xui xẻo ! ). Mười bảy tháng trước đây, Bộ trưởng Letourneau đã có quyết định thay cố Thống Chế De Lattre làm Cao uỷ Đông Dương. Bây giờ là Bộ trướng các nước trong khối liên hiệp Pháp (thuộc địa cũ ), ông muốn thúc đẩy chính phủ tiến hành cuộc chiến tranh mạnh hơn . Ông là người trung thực nhân hậu, đầu óc minh mẫn sáng suốt và trí tưởng tượng phong phú. . Ông đã rời Hà Nội với tâm trạng vui vẻ và không bao giờ quay trở lại Đông Dương nữa..." THỦ TƯỚNG ĐỆ TỨ CỘNG HÒA PHÁP QUỐC RÉNE MEYER _PREMIER MINISTRE FRANCAIS -PRIME MISNISTER OF THE FRENCH REPUBLIC( 4 May 1895, Paris – 13 December 1972, Paris) was a French Radical politician of the Fourth Republic) IN OFFICE 8 January 1953 – 28 June 1953 Thực tế nội các sụp đổ 20.5.1953. Bàn giao chức vụ Thủ tướng 28 June 1953 Ông Thủ tướng nước Pháp cầm quyền chĩ hơn 4 tháng nhưng để lai hậu quả tai hại Thảm khốc cho Dân tộc Việt Nam vì không muốn Thống tướng -Tổng thống thứ 34 USA Dwight D. Eisenhower can thiệp vào Quốc gia VN vào năm 1955 nên cách chức Đại tướng Raoul Albin Louis Salan 1899-1984 , bổ dụng Đại tướng Henri Navarre 12.5.1953 là bạn thân :một Ông Đại tướng Văn Phòng chỉ quen thuộc Âu châu !. Mục đích tìm một chiến thắng quân sự để Paris thảo luận hòa bình với Bắc Kinh trên thế mạnh ! Để quyền lợi Pháp quốc vẫn mãi mãi hiện diện trên toàn lãnh thổ Đông Dương . René Mayer Đại tướng Henri Eugène Navarre (31 July 1898, Villefranche-de-Rouergue, Aveyron - 26 September 1983) was a French Army general Đại tướng Tổng tư lệnh thứ 7 của quân viễn chinh Pháp tại Viễn Đông trong Chiến tranh Đông Dương. French Far East Expeditionary Corps Commander - Đến năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội Việt Minh CS của chính phủ VNDCCH đã chiếm nhiều khu vực lớn rừng núi ở Cao Nguyên Trung Phần, các tỉnh Cao Bắc Lạng và một số khu vực ở đồng bằng Bắc bộ. Thủ tướng Pháp René Mayer muốn tìm một giải pháp hòa bình có thể chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến nhưng mặt khác họ muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương. Pháp bổ nhiệm Đại tướng Henri Navarre sang Đông Dương thay cho Đại tướng Raoul Salan nhằm tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định để làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh. Đại tướng Henri Eugène Navarre đã nhanh chóng chuyển chiến lược quân Pháp tại Đông Dương từ phòng thủ sang tấn công, ông đã lập các lực lượng quân lưu động tấn công và đỗ quân đến Điện Biên Phủ, là địa điểm quan trọng chiến lược trong tuyến đường vận chuyển của Việt Minh do các cố vấn Hồng quân CS Trung Hoa chỉ huy , là nơi được cho là cho thể lôi kéo quân CS Việt Minh vào các cuộc chiến và Pháp có thể dùng pháo binh và không kích , và Thiết Giáp ưu thế hơn của quân đội Pháp để đè bẹp Việt Minh và Cố vấn CS Trung Hoa " CEFEO COMMANDANER - DANH SÁCH :CÁC TƯỚNG TỔNG TƯ LỆNH QUÂN VIỄN CHINH PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG (Kingdom of Laos, the Kingdom of Cambodia, State Vietnam trước 1949 :Tonkin (North Vietnam), the Empire of Annam (Middle Vietnam) and Cochinchina (South Vietnam) :1946-1955 1. Đại tướng Philippe Leclerc de Hauteclocque (1945–46) 2.Đại tướng Jean Etienne Valluy (1946–48) 3.Đại tướng Roger Blaizot (1948–49) 4.Đại tướng Marcel Carpentier (1949–50) 5.Thống Chế Jean de Lattre de Tassigny (1950–51) 6.Đại tướng Raoul Salan (1952–53) 7.Đại tướng Henri Navarre (1953–54) 8.Đại tướng Paul Ély (1954-55) sau trận Điện Biên Phủ. 9.Đại tướng Pierre Jacquot (1955-56) Sau khi Thủ tướng mới lên nhậm chức Joseph Laniel 28 June 1953 – 18 June 1954 (1 năm ) Cũng theo ý tưởng ông Thủ tướng cũ Réne Mayer , tăng cường một số sĩ quan từ Pháp cho Bộ tham mưu Đại tướng Navarre . Từ cuối tháng 6 năm 1953 dưới áp lực của Thủ tướng mới , Đại tướng Navarre ra lệnh : Bộ tham mưu từ Pháp Quốc sang thiết lập Kế hoạch Navarre : Bình Định Đông Dương trong vòng 18 tháng trước 1.1.1955. 1. Chỉ thị Phòng 3 hành quân Đông Dương tìm một địa điểm chiến lược quan trọng tại Vùng Thượng Du Tonkin -Bắc Việt Nam :để thiết lập Hệ thống cứ điểm phòng thủ liên hoàn thứ 2 như Chiến Lũy Nà Sản ,nhưng diện tích phải rộng lớn hơn nhiều lần diện tích phòng thủ Cao Nguyên Nà Sãn (2 Kmx1km), để có thể thiết lập Sân bay lớn có thể chứa nhiều phi cơ chiến đấu , bảo đảm không vận , tiếp tế dễ dàng ,. Địa thế bằng phẳng để chiến xa , và Pháo binh có thể phát huy hết tác dụng tối ưu. 2.Thừa cơ hội PTT thứ 34 Mỹ quốc Richard Nixon đến Sài Gòn yêu cầu :Trao quyền chỉ huy độc lập cho các Sĩ Quan Quân Lực Quốc Gia VN. Chính phủ Mỹ Quốc mới tiếp tục Viện trợ . Tướng Navarre quyết định phát triển tăng Quân Số Quân Lực Việt Nam lên gấp 2 lần Tổng số phải là 225 Ngàn (225,000 )Chiến binh Quân Lực Quốc gia VN để :Nhận viện trợ thêm của Mỹ quốc , và Hỗ trợ Quân Pháp bình định VN , Đông Dương trong vòng 18 tháng theo kế hoạch Henri Navarre. Đến tháng 8.1953 Đại tá Trưởng phòng 3 Hành Quân -Bô Tư Lệnh Quân Viễn chinh Pháp Đông Dương ,báo lên Đại tướng Henri Navarre Tổng Tư Lệnh Tối cao : Tại miền Thượng Du Tonkin (Bắc Việt Nam ) chỉ có duy nhất :Lòng Chảo :Điện Biên Phủ Location 21°23′13″N 103°0′56″E /Vicinity of Dien Bien Phu, Vietnam là vị trí Quan trọng thứ 2 sau cao Nguyên Nà Sản ,được bao bọc các dãy núi cao, cánh đồng Mường Thanh trong lòng chảo Điện Biên với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng 6 km do sông Nậm Rốm bồi đắp lên. Đây là đồng bằng giữa núi lớn nhất vùng Tây Bắc Việt Nam (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc). Điện Biên Phủ diện tích gấp 60 lần (20kmx6km) cao Nguyên Nà Sản ,nằm ở biên giới vì chỉ cách biên giới với Vương quốc Lào khoảng 35 km (22miles). Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 km( 296 miles) theo 2 Tỉnh lộ đường núi số 279 và số 6 . Lập tức Ông ra lệnh Ban tham mưu : Kế hoạch này phải soạn thảo các cứ điểm Phòng thủ,và Phi trường . Đồng thời ra lệnh phải tuyệt đối giữ bí mật . Đại tướng Henri Navarre cũng đích thân ra lệnh Tân Trung tướng René Cogny và Tân Thiếu tướng Jean Gilles triệt thoái toàn bộ Quân Lực Phòng thủ tại Chiến Lũy Cao Nguyên Nà Sản về vùng Đồng Bằng để an dưỡng , nghĩ ngơi bổ sung quân số để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới Quan trọng . Đây là Mệnh Lệnh Đại tướng TỔNG TƯ LỆNH QUÂN VIỄN CHINH PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG. II-KẾ HOẠCH ĐIỆN BIÊN PHỦ BỊ PHẢN ĐỐI BỞI CÁC TƯỚNG LÃNH PHÁP TẠI CHIẾN TRƯỞNG BẮC VIỆT NAM ,VÀ TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM . Đại tướng Henri Navarre đích thân ra lệnh Chuẩn Bị Kế hoạch Hoàn Hảo :Tập đoàn cứ Điểm Điện Biên Phủ Trung tuần tháng 9 1953 , Kế hoạch hoàn hảo Tập đoàn cứ Điểm Điện Biên Phủ do Đại tá Revol chánh văn phòng, và dàn Sĩ Quan từ Pháp qua tăng cường cho Bộ tham mưu của Đại tướng Tổng tư lệnh trình lên tại Thủ Đô Sài Gòn Thủ Đô của Quốc Gia Việt Nam cũng là thủ phủ Đông Dương Hòn Ngọc Viễn Đông ,đồng thời Họ đề nghị : Người Hùng Nước Pháp ,cũng là Người Hùng Chiến Lũy : Tập đoàn Cứ Điểm Liên Hoàn Bất Khả Xâm Phạm Nà Sản 1952-1953 : Tân Thiếu tướng 2 sao Jean Gilles Tư lệnh Tập đoàn cứ Điểm : Điện Biên Phủ. Đại tướng sau khi nghiên cứu bản kế hoạch kỹ lưỡng , Đại tướng rất mãn nguyện, Bản Kế hoạch The Navarre Plan : Last Year of The War ! Ông Quyết Định ra Hà Nội họp với Trung tướng Réne Congy Tư lệnh Chiến trường Bắc Việt Nam và Thiếu tướng Jean Gilles. Tại Cuộc Họp đích thân : Đại tướng trình bày kế hoạch The Navarre Plan. Trung tướng Réne Congy phản đối vì chu vi phòng thủ quá rộng (20km X6km) gấp 60 lần chu vi phòng thủ Nà Sản (2kmX1km) Quân Số cao lắm là 20,000 quân, trong lúc Quân Số tại Chiến Lũy Nà Sản đã là 16,000 Quân ( Lúc đầu 15,000 Chiến Binh, sau tăng viện đầu tháng 12.1952 :1,000 Chiến Binh) Vì thế Không thể Sử Dụng Chiến thuật Xù Lông Nhím được : từ phòng thủ liên hoàn đến đánh nhanh rút nhanh được. Từ Hà Nội đến Điện Biên Phủ gần 500 km ( gần 300 miles) quá xa , vận chuyển đường bộ khó khăn , nếu thời tiết mùa Đông mây mù tiếp viện đường hàng không rất khó khăn Người hùng tân Thiếu tướng 2 sao Jean Gilles cũng cho là chu vi quá rộng, muốn lập phi trường dã chiến để đậu số lượng lớn phi cơ không phải là chuyện dễ dàng, thêm thay Phi cơ cất cánh từ chiến trường là điều nguy hiểm, muốn bảo vệ phi trường số lượng quân phòng thủ phải lớn. Đại tướng đồng ý với Thiếu tướng Jean Gilles là Phi trường không nên lớn quá chỉ tiếp tế đạn dược và tản thương , còn Chiến đấu cơ và oanh tạc cơ xuất phát từ Phi trường Cát Bi Hải Phòng và Gia Lâm- Hà Nội. Nhưng Đại tướng kết Luận kế hoạch phải chuẩn bị tiến hành , ngay từ bây giờ , đầu tháng 10.1953 đổ quân . Đích thân Đại tướng sẽ mời Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp thị sát Điện Biên Phủ , cũng như Phó TT U SA Richard Nixon đang công du tại Đông Nam Á, trở lại tham quan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ,Đại tướng quyết định : Bổ nhậm Thiếu tướng Gilles làm Tư lệnh chiến trường Điện Biên Phủ . Người Anh Hùng từ chối lý do : Tập đoàn cứ điểm quá rộng lớn người Hùng khó trách nhiệm chu toàn , nếu có chuyện gì ảnh hưởng đến Danh dự Pháp Quốc ! Đại tướng nén giận bổ nhiệm Thiếu tướng Jean Gilles : Tư lệnh Lực lượng Nhẩy Dù tại Đông Dượng Bổ nhiệm Đại tá Kỵ Binh Christian de Castries chức vụ : Chỉ huy trưởng Tập đoàn cứ điểm. Ông là người chỉ huy tại tập đoàn cứ điểm kiêm Tư lệnh Chiến trường Điện Biên Phủ Tướng Christian de Castries : Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries (11 tháng 8 năm 1902 - 29 tháng 7 năm 1991) là Tư lệnh Chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Còn gọi là Christian de Castries Christian de Castries xuất thân từ một gia đình quí tộc ở Pháp theo binh nghiệp từ trẻ. Năm 19 tuổi, Christian de Castries nhập ngũ. Ông vào học Trường Kỵ binh Saumur vào năm 1926 và tốt nghiệp thiếu úy kỵ binh nhưng sau đó ông đã xin nghỉ để theo môn thể thao đua ngựa. Sau khi trở lại quân ngũ vào thời kỳ Thế chiến thứ hai 1939-1945, ông đã bị bắt tù binh năm 1940 và đã trốn thoát trại tù binh của Đức năm 1941 sau đó tham gia chiến đấu với lực lượng Đồng Minh ở Bắc Phi, Ý và Nam Pháp. Năm 1946 Castries lên trung tá và đã được điều động đến Đông Dương . Đầu năm 1951, ông được cử làm Liên đoàn trưởng Liên đoàn lưu động Ma-rốc (Groupement Mobile des Tabors) nhưng không lâu sau ông bị thương do xe cán phải mìn và được đưa về Pháp điều trị, sau khi phục hồi sức khỏe, ông trở lại Việt Nam với chức vụ đại tá. Tháng 12 năm 1953, ông được giao nhiệm vụ phòng thủ ở Điện Biên Phủ với chức vụ chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm. Ông là người chỉ huy tại tập đoàn cứ điểm chống trả cuộc bao vây kéo dài 8 tuần của quân CS Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ và được thăng Thiếu tướng ( Mayor General ) tại mặt trận vào ngày 16 tháng 4 năm 1954. Tuy nhiên, đến ngày 7 tháng 5, quân CS Việt Minh đã đánh bại lực lượng quân Pháp tại Tập đoán cứ điểm, trên thực tế đã kết thúc Chiến tranh Đông Dương cũng như sự hiện diện của quân đội Pháp tại Đông Nam Á. Castries đã bị bắt giam làm tù binh trong 4 tháng trong lúc hiệp định đình chiến đang được các bên liên quan thương thảo ở Genève, Thụy Sỹ. *Chú thích : Tập Đoàn Cứ Điểm Điện Biên Phủ không thể xử dụng Chiến thuật Xù Lông Nhím -Tactic "the Hedgehog vì Diện tích quá rộng **Chiến thuật Xù Lông Nhím :Tactic "the Hedgehog" Colonel Jean Gilles Na San Commander -Lieutenant Colonel Lansade -Lieutenant Colonel Phạm Văn Đổng designed. TATIC THE HEDGEHOD : NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO CHIẾN TRẬN XÙ LÔNG NHÍM PHÒNG THỦ : BẺ GÃY TẤT CẢ CÁC ĐỢT TẤN CỐNG BIỂN NGƯỜI (offensive at Waves after waves of soldiers ) TẤN CÔNG : ĐÁNH NHANH MẠNH : HỎA LỰC HÙNG HẬU -RÚT NHANH RÚT GỌN Xứng Đáng Câu Thơ của Tiền Nhân: Tấn công Phòng Thủ không Sơ Hở . Đại tướng Anh Hùng Mới Xứng Danh. PHÒNG THỦ : XÙ LÔNG NHÍM . Khi bị tấn công , con Nhím Hedgehog" ( Hérisson), xù tất cả lông sắc nhọn bảo vệ . Khi một cứ điểm bị tấn công biển người hay nhiều cứ điểm không những hỏa lực cứ điểm đó tập trung Hỏa lực Đại liên , Trung Liên Ba , tạc đạn dội bảo lửa , mà những cứ điểm của Tập đoàn cứ điểm Liên hoàn còn lại cũng tập trung hoả lực bắn đan chéo tạo ra một lưới lửa , cùng 6 khẩu đội pháo binh và 4 chi đoàn Thiết giáp ra Biển lửa Đốt cháy thiêu rụi chiến thuật biển người của danh tướng Nguyên Soái Trung cộng Bí Danh :Vi Quốc Thanh. Trong những đợt tấn công lớn còn yểm trợ của Các Chiến Đấu Cơ , Pháo đài bay B.26 cho các chiến binh Pháp -Việt xuất kích . Bởi Vậy mới gọi là :Chiến Lũy Tập đoàn Cứ Điểm Liên Hoàn Bất Khả Xâm Phạm ! TẤN CÔNG XÙ LÔNG NHÍM : Tất cả hỏa lực pháo binh của 6 pháo đội tập trung bắn một điểm trong 30 phút - 4 Chi Đoàn Thiết Giáp Xung Phong , 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù tùng thiết đánh tan đạo quân Địch , sau đó rút nhanh rút gọn về Chiến Lũy Bất khả xâm phạm . (Fighting off hit-and-run attacks Na-San's Hedgehog consisted of 30 P.A. with a complicated trench system, enforced with barbed wires .This tactic earned the French- Vietnam State a victory at the battle of Na San.) ( Cao Nguyên Dậy Lửa) DANH TƯỚNG QLVNCH PHẠM VĂN ĐỔNG (dấu hỏi ) LÀ NHỮNG VỊ SÁNG TẠO : TATIC THE HEDGEHOD : NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO CHIẾN TRẬN XÙ LÔNG NHÍM , GHI VÀO QUÂN SỬ THẾ GIỚI. III TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QĐQGVN PHẢN ĐỐI : ĐIỆN BIÊN PHỦ LƯỠNG QUỐC TƯỚNG QUÂN NGUYỄN VĂN HINH 1915-2004 TRUNG TƯỚNG TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QĐQGVN -TRUNG TƯỚNG KHÔNG QUÂN PHÁP QUỐC Trích Điếu Văn Trong Tang Lễ Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh 2004 Trung Tướng Beaudonnet đọc Điếu văn tại điện Invalides 2004 Kính thưa Quý Bà, Quý Ông trong gia đình Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh Kính thưa Quý Vị Tướng Lãnh, Kính thưa Quý Bà, Quý Ông thuộc các Đoàn Thể và các Hiệp Hội Cựu Chiến Binh, Kính thưa Quý Bà và Quý Thân Hữu, Lòng tín nhiệm của chiến hữu, cũng như chức vụ chỉ huy trưởng khiêm tốn trước kia của tôi trong quân đội Việt Nam đã dành cho tôi niềm danh dự đầy nỗi ưu tư là đọc điếu văn để chào vĩnh biệt Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh. Một nhiệm vụ không cho phép bất cứ một điều sai sót nào. Thật thế, tiền sảnh danh dự này của Điện Invalides là một nơi mà những cựu binh thuộc Lực Lượng Viễn Chinh sẵn lòng lui tới và tình thế nghiêm trang của nơi này đã làm cho tôi cảm thấy yên tâm. Ngày 7 tháng 5 vừa qua, chúng ta đã đến đây để vinh danh kỷ niệm của những anh hùng Điện Biên Phủ, trong đó có quân sĩ của "Bavan 5", đa số xuất thân từ chiến đoàn dù của vệ binh Nam Phần. Mấy năm trước đây, chúng ta đã đến chính tại nơi này để vĩnh biệt lần cuối cùng Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, người đứng đầu chính phủ trung ương Việt Nam. Một con người đã từng lừng danh là "Hùm Xám Cai Lậy" trong thời kháng chiến chống Nhựt, rồi sau đó nổi tiếng là Clémenceau của đất nước mình bên cạnh Thống Chế de Lattre de Tassigny. Hôm nay đây, chúng ta lại tề tựu nơi tiền sảnh này của những người vị quốc vong thân để nghiêng mình lần cuối trước một người có diễm phúc xứng danh là con trai của bậc tiền bối nói trên, trong danh sách của những kẻ nổi danh. Đối với những ai thường quan tâm đến những đặc điểm quân sự thì ông còn có được phẩm chất độc đáo là đã lãnh đạo Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, rồi sau đó lại nắm giữ một vai trò cao cấp trong Không Quân Pháp. Sự nghiệp phi thường đó đã bắt đầu với ngày 20 tháng Chín năm 1915, khi ông chào đời tại Thắng Tam ở Nam Kỳ. Nói về âm lịch thì hôm đó là ngày mùng 8 tháng 8 năm Ất Mão. Sinh vào can chi đó, tuổi Ất Mão phải tung hoành trong một không gian cao rộng và phải nắm vững tư tưởng của mình. Tình huống đặc biệt của đất nước ông lại còn cho ông được mang quốc tịch Pháp. Một quốc tịch ngày nay không còn ai muốn khoe khoang nhưng lúc bấy giờ lại là một tước quý tộc, như dưới thời vua chúa của chúng ta. Đứng vào tình cảnh đó, những ai dám chấp nhận nguy hiểm và bổn phận thì sẽ trở thành một công dân đúng nghĩa và sẽ đạt được những chức vụ cao cấp nhất. ......... Theo cung cách đó và trên đà phấn khởi mà cuộc triển lãm thuộc địa năm 1931 đã đem lại, chàng trai Nguyễn Văn Hinh đã đi Pháp để theo đuổi nền học vấn nổi tiếng trong các trường học của chúng ta. Nhờ các lớp dự bị của trường trung học Louis le Grand tạo điều kiện nên ngày 1 tháng Mười năm 1936 ông nhập học trường Không Quân, mới vừa thành lập. Tại Versailles, từ thời kỳ đóng quân ở trại Petites Ecuries cho đến khi về căn cứ Villacoublay, ông mang cấp bực hạ sĩ và trung sĩ, những cấp bực cần thiết cho một binh nghiệp đầy hứa hẹn. Tốt nghiệp phi công ngày 11 tháng Mười năm 1937, người sinh viên sĩ quan ưu tú đó chọn ngành oanh tạc. Một sự chọn lựa đầy nguy hiểm khi mà một số phi cơ của chúng ta, vì chưa được hoàn chỉnh nên thường được coi như là những chiếc áo quan biết bay. Được thăng cấp thiếu úy ngày 1 tháng Mười năm 1938, trong khi khá nhiều mây mù che phủ bầu trời nước Pháp, ông được thuyên chuyển đến phi đoàn 23 tại Toulouse, nơi mà ông được xác định khả năng trưởng phi cơ vào ngày 6 tháng Mười năm 1939. Ở những chức vụ đó, ông tham dự các cuộc hành quân mùa xuân 1940 trên chiến trường Đông-Bắc và trên mặt trận núi Alpes. Ông được tuyên dương và tặng thưởng chiến công bội tinh vì đã cứu vớt được phi hành đoàn của ông trên chiếc phi cơ bốc cháy ngày 18 tháng Sáu. Được vinh thăng trung úy ngày 1 tháng Chín năm 1940, ông Nguyễn Văn Hinh nằm trong nhóm phi hành đoàn mà một vài người chỉ huy, biết lo xa, đưa đi phân tán ở khắp nơi trên vùng đất thuộc địa. Ông đến Bamako vào dịp lễ Giáng Sinh của năm bi thảm đó, sau một chuyến đi khá vất vả. Tháng Giêng năm 1942, từ Soudan ông đi Sénégal, đảm nhiệm chức sĩ quan quân báo cho liên phi đoàn II/62 ở Thies . Sau khi quân Đồng Minh đổ bộ lên Bắc Phi, ông được thuyên chuyển về trường Không Quân Marrakech với cấp bực đại úy. Đến tháng Tư năm 1944, sau khi hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện viên, ông được thuyên chuyển về liên phi đoàn oanh tạc 1/32, hoạt động trong một lãnh vực xứng đáng với tầm vóc của ông. Các cuộc hành quân của lực lượng viễn chinh ở Ý Đại Lợi, kế đó là hành quân đổ bộ lên Provence đã chứng minh được phẩm chất phi công dẫn đạo và sau đó là phi đội trưởng của ông. Ông được tuyên dương cấp quân đội hai lần và được tặng thưởng Đệ Ngũ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh và còn được tặng thưởng Air Medal của Lục Quân Hoa Kỳ. Sau khi Đệ III Đế Quốc Đức đầu hàng, ông phục vụ ở vị thế trưởng Phòng 3 của phi đoàn 34 tại nước Đức bị chiếm đóng. Từ đó, ông theo học trường không quân cao cấp hồi năm 1946, rồi về phục vụ ở phòng truyền tin bộ tư lệnh Không Quân tại Paris. Được thăng cấp thiếu tá hồi tháng Ba năm 1948, ông giả biệt môi trường nhiều bí ẩn của quảng trường Balard để đáo nhậm liên phi đoàn vận tải 2/62, lúc bấy giờ đóng ở Algérie. Thời kỳ hoạt động kế tiếp của ông được dành cho Việt Nam, nơi mà sự hiện diện của cộng sản Trung Quốc ở biên giới Bắc Kỳ làm cho tình hình trở nên vô cùng tồi tệ. Đến nơi vào tháng Mười năm 1949 và được giao phó phòng 3 bộ tư lệnh Không Quân Viễn Đông, ông đã nhận thức được mức độ nguy cơ. Ông còn có được vị thế tốt hơn để nhận thức rõ tình hình đó khi được bổ nhiệm chánh võ phòng của Hoàng Đế Bảo Đại, với cấp bực trung tá. Thế là đương nhiên, người ta nghĩ đến việc đưa nhân vật tài ba này lên chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, khi "Vua Jean " không thấy còn có cách nào khác hơn để ngăn chận thế mạnh đang lên của Việt Minh. Với chức vụ này, ông gặp ngay khá nhiều khó khăn khi, vào năm 1951, có quyết định biến vài mươi nghìn quân lính thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau thành một tập thể liên quân 142.000 người, thậm chí có thể cạnh tranh với những toán quân thiện chiến của lực lượng viễn chinh. Cùng với dự án khá nhiều tham vọng này còn thêm một dự án nữa là vào năm sau sẽ hình thành cho tài khoản 1954 tám mươi tiểu đoàn bộ binh và từng ấy tiểu đoàn "khinh quân", với sự yểm trợ của chín tập đoàn pháo binh và mười chi đội thiết giáp. Nếu như viện trợ Hoa Kỳ cho phép thỏa mãn phần nào nhu cầu quân dụng cho số quân đó thì trái lại chuyện cán bộ chỉ huy là cả một vấn đề. Về phương diện này, sơ khởi chỉ có chừng mươi sĩ quan cấp tá và khoảng hai trăm trung và đại úy được đào tạo một cách gấp rút. Thế nhưng, điều kỳ diệu về nhân sự kia đang được hình thành tốt đẹp thì kế hoạch Navarre lại phân tán nỗ lực cho thung lũng Nam Ou và vùng duyên hải của chiến dịch Atlante. Sau hiệp định Genève và cuộc phân chia Việt Nam theo kiểu nước Đức thì, buồn thay, cuộc chiến tranh giữa các phe phái lại tăng thêm hiểm họa là sẽ có một cuộc huynh đệ tương tàn trong tình thế bấp bênh kia. Từ tháng Mười năm 1954, khi bị lâm vào một thế giằn co giữa chính phủ TT Ngô Đình Diệm , Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh vẫn hành động trong vòng hợp pháp. Việc chuyển giao những trách nhiệm cuối cùng của chúng ta trong quân đội Việt Nam cho M.A.A.G . của Tướng O'Daniel ngày 13 tháng 12 năm 1954 đã giải tỏa cho ông khỏi những ảo tưởng cuối cùng. Trong khi ông phải đắn đo thì những lãnh chúa chiến tranh miệt Hậu Giang cũng cùng một tâm trạng như thế. Tuy nhiên, trong những biến thiên đầy hoang mang như vậy, ông lại được tặng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh và Chiến Công Bội Tinh TOE với hai nhành dương liễu. Ông cũng được tặng thưởng Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương Việt Nam và anh dũng bội tinh với tuyên dương trước quân đội. Ngày 7 tháng 5 năm 1955, sau khi hoàn trả cấp bực tướng lãnh lại cho những nhà lãnh đạo mới của Sài Gòn, Trung Tá Nguyễn Văn Hinh trở lại với bầu không khí ấm êm hơn của căn cứ không quân 117, không chút mặc cảm nào. Đương nhiên, ông vẫn còn duy trì các quan hệ cuối cùng với những quốc gia liên kết mà hồ sơ ngày một ngày hai cứ thu hẹp lại. Năm 1956, ông có dịp thay ngành đổi nghề với nhiệm sở mới ở trung tâm bay thử Brétigny và khu thử nghiệm hàng không Mont Marsan, nơi ông được vinh thăng đại tá. Để bắt kịp những kỹ thuật mới, năm 1960, đại tá Nguyễn Văn Hinh được chỉ định chỉ huy bộ chỉ huy tiền tiêu Colomb-Béchar. Một vị trí vừa phải chiến đấu chống quân phản loạn Algérie, vừa phải lo yểm trợ tiếp vận những địa điểm thí nghiệm vùng Sahara. Ông được tuyên dương hai lần trước quân đội nhờ tích cực tham dự các hoạt động tảo thanh vùng Sahara. Tiếp theo sau quân công bội tinh với hai nhành dương liễu, đến tháng Tám 1961 Bắc Đẩu Bội Tinh của ông lại được nâng lên cấp đệ tam đẳng. Ngày 1 tháng 3 năm 1962, được thăng cấp tướng, ông Nguyễn Văn Hinh đảm nhiệm chức vụ tham mưu phó ở bộ tham mưu quân lực trong hai năm, với nhiều cải cách sâu rộng đang được thực hiện. Sau khi tốt nghiệp một cách khả quan tại học viện quân sự cao cấp hồi năm 1964, năm sau ông được thăng cấp Trung Tuớng. Kỳ thăng thưởng đầy phấn khởi này đưa ông lên địa vị giám đốc không cụ trung ương của Không Quân hồi năm 1968. Một nhiệm sở nằm trong hệ thống những đại đơn vị phải ứng phó với vũ khí hạch nhân và sự xuất hiện nhiều phi cơ có hiệu năng cao. Năm 1970, vì không còn là nhân viên phi hành nữa và sau khi được tặng thưởng huy hiệu công trạng cao cấp, Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh được xếp vào nhân viên loại 2 ngày 19 tháng 9 năm 1975. Như thế không có nghĩa là ông bị hạ tầng công tác. Mãi về sau, ông vẫn còn là một chuyên viên vũ khí được thiên hạ lắng nghe. Ông vẫn tích cực tham dự sinh hoạt của hiệp hội những cựu phi hành đoàn "Maraudeurs". Lúc nào ông cũng tích cực quan tâm đến nhân viên dưới quyền trước kia trong lực lượng quân sự quốc gia Việt Nam và nỗi gian truân của họ sau khi Sài Gòn sụp đổ. Tất cả những sinh hoạt quân sự và xã hội đó xứng đáng để ông được tặng thưởng huy hiệu công trạng quốc gia thượng đẳng. Sau một cuộc chiến đấu tối hậu chống lại lão hóa và bệnh tật, ông vĩnh viễn ra đi ngày thứ bảy 26 tháng 6 vừa qua (2004) tại bệnh viện Foch, nhằm ngày mùng 9 tháng 5 năm Giáp Thân, năm con khỉ, một con vật hay bông lơn với những trò bốc đồng dễ sợ. Đối với những quân nhân mà tôi được hân hạnh đại diện hôm nay, Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh sẽ lưu lại hình ảnh của một cấp chỉ huy táo bạo và dũng cảm, kết hợp hài hòa tính kỹ thuật và tính hiện đại mà vẫn bảo tồn được tinh thần Quốc Gia và tôn trọng trật tự đã an bài. Ngoài những đức tính đương nhiên đó, ông còn có óc hóm hỉnh, làm cho ông vượt qua được khá nhiều trường hợp khó khăn. Thế nên, cá nhân tôi, một trung úy khiêm nhường thuộc quận Vàm Cỏ trước kia, xin kính chào vĩnh biệt Trung Tướng. Cùng với tôi, tất cả những người trong bóng tối và binh sĩ trong đơn vị xin kính cẩn nghiêng mình. Tất cả những ai tên Kheo, Ngô, Trương, Trốc hay Phó đã từng cùng tôi chia sẻ niềm hy vọng hay nỗi nhọc nhằn trong một cuộc chiến mà lẽ ra chúng ta không được thua./. Tướng Beaudonnet Điếu văn đọc tại điện Invalides ĐẠI TƯỚNG RAOUL SALAN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC PHÁP TẠI CHIẾN TRƯỜNG ĐÔNG DƯƠNG 1952 -1953 -TÂN TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH QUYỀN TỔNG TƯ LỆNH- KIÊM TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM :TẠI BUỔI LỄ CHÀO CỜ TẠI PHI TRƯỜNG GIA LÂM HÀ NỘI -TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN CỦA CÁC CHIẾN BINH NHẢY DÙ PHÁP -VIỆT NHẢY DÙ XUỐNG CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC VIỆT NAM- ĐẠI TÁ JEAN GILLES DẪN ĐÀU CHIẾN BINH PHÁP - TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG DẪN ĐẦU CÁC CHIẾN BINH QUỐC GIA VIỆT NAM **1953 -1954 TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH QUYỀN TỔNG TƯ LỆNH- KIÊM TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM KHÔNG GỞI QUÂN THAM CHIẾN CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM PHÒNG THỦ ĐIỆN BIÊN PHỦ TRƯỚC NGÀY TRẬN CHIẾN MỞ MÀN : ĐỢT TẤN CÔNG ĐẦU TIÊN 13.3.1954 . NĂM GIÁP NGỌ 1954 THỰC SỰ TRẬN CHIẾN NÀY DO BẤT ĐỒNG QUAN ĐIỂM GIỮA TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH QUYỀN TỔNG TƯ LỆNH -TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ ĐẠI TƯỚNG HENRI NAVARRE TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG ,VÌ KHÔNG THỂ SỬ DỤNG CHIẾN THUẬT XÙ LÔNG NHÍM (Na San and the hedgehog concept),NHƯ TẠI CHIẾN LŨY BẤT KHẢ XÂM PHẠM NÀ SẢN, NÊN ĐÃ KHÔNG CÓ BẤT KỲ SĨ QUAN CẤP TÁ QUÂN LỰC QUỐC GIA VN THAM GIA TRẬN CHIẾN NÀY.. CHỈ CÓ T Đ SỐ 5 NHẢY DÙ DO SĨ QUAN PHÁP CHỈ HUY THAM CHIẾN .TƯỚNG HENRI NAVARRE QUA MẶT TƯỚNG HINH - KỂT QUẢ THƯƠNG VONG TRÊN 90% TRUNG ÚY PHẠM VĂN PHÚ ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG T Đ SỐ 5 NHẢY DÙ THAM CHIẾN , VINH THĂNG ĐẠI ÚY TIỂU ĐOÀN PHÓ 16.4.1954 BỊ BẮT LÀM TÙ BINH 4 THÁNG . *IV -TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH QUYỀN TỔNG TƯ LỆNH -TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM VÀ ĐẠI TƯỚNG HENRI NAVARRE TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG . Đại tướng Tổng tư Lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương hội kiến Trung Tướng quyền Tổng tư Lệnh kiêm TTMT QLQGVN . "Đại tướng Pháp Quốc sau khi trình bày kế sách mà nhóm Sĩ quan thân tín tham mưu đã hiến kế tối hôm qua, " loan tin Ông Bộ trưởng Quốc Phòng Réne Peleven đã đồng ý tăng viện 10 chiến xa hạng nặng M.24 và 12 trọng pháo 105 ly cho chiến trường Điện Biên Phủ . Ông Đại tướng Pháp Quốc yều cầu Tướng Hinh quyền Tổng tư Lệnh kiêm TTMT QLQGVN tăng viện ít nhất 5 tiểu đoàn bộ binh QLQGVN , và giao Trung tá Phạm Văn Đổng Tư lệnh. Tướng Tổng Tư Lệnh kiêm TTMT QLQGVN : Hiện tại : 1. Chiến trường Bắc VN do Quân lực Pháp dồn tập trung tại Điện Biên Phủ , nên trách nhiệm QLQGVN quá nặng nề phải bảo vệ toàn lãnh thổ Bắc Việt Nam. Trung tá Phạm Văn Đổng Tư lệnh các Tiểu đoàn Khinh Binh và trọng pháo (Tư lệnh QLQGVN tại Bắc VN) trách nhiệm quá nặng nề Quân Số là quá ít so với lãnh thổ miền Bắc VN rộng lớn . 2. Chiến trường Trung Bộ : Dù Tướng Nguyễn Chí Thanh gốc Quốc Dân Đảng Tư lệnh Vệ quốc quân Bắc Trung bộ đã tham chiến tại Điện Biên Phủ . Nhưng Cao Nguyên Trung Phần Việt Minh kiểm soát vùng khá rộng đặc biệt tập trung tại Rặng núi Chu Pong với chi tiết địa hình nổi bật, tuy cao độ dưới một ngàn thước(1,000m). Đó là một dãy núi chạy từ Đông sang Tây dài khoảng hai mươi lăm cây số ( 16 miles), phần nằm trong đất Miên chiếm khoảng 7 cây số ( 5 miles). Chiều Nam- Bắc của dãy núi đo khoàng 20 cây số (12.5 miles). Chu Pong là tập hợp những hang động , những vách núi, những vực sâu, những Thác nước, những Thung Lũng - Một Căn cứ Địa rât tốt cho Việt Minh , ,Dọc theo sườn núi phía Bắc của dãy núi Chu Pong-Từ chân núi đổ về mạn Bắc là một Thung Lũng Khá rông. Dòng Sông Ia Drang , phát xuất từ gần đồn điền trà Catecka phía Nam Thị xã Pleiku .cắt đôi Thung Lũng đó, lượn khúc qua thác ghềnh, chảy về phía Tây đổ vào đất Miên .Lực lượng CS Xây dựng căn cú lớn tại đây . Lực lượng QLQGVN phải đối phó tại chiến trường Cao Nguyên , và tái chiếm các vùng chiến khu Trung Bộ . 3. Chiến trường Nam Bộ , dù đang đàm phán với Tướng Kháng Chiến Quốc Gia Trịnh Minh Thế tại Đông Nam Bộ , nhưng Lực lượng CS do Lê Duẫn lãnh đạo , Cố vấn là Lê Đức Thọ đang hoạt động mạnh tại Tây Nam Bộ . Nên Quân lực QGVN phải đối phó hành quân tảo thanh. Tóm lại Hiện nay Quân Lực Pháp đang ưu tiên tập trung lực lượng thiện chiến , không quân tại chiến trường Điện Biên Phủ , nên trách nhiệm Quân Lực QGVN (QĐQG) quá nặng nế dù hiện nay Tăng Quân số lên trên 250,000 Chiến binh nhưng rất vất vả trên lãnh thổ rộng lớn từ Bắc vào Nam. Vì thế Trung tướng Tổng Tư Lệnh Quân lực QGVN xin lỗi Ông Đại tướng Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Pháp Henri Navarre là không thể tăng viện cho chiến trường Điện Biên Phủ được !. Ông Đại tướng Pháp Quốc mặt đỏ như mào gà , giận dữ tức tối đi về " . ( Cao Nguyên Dậy Lửa) V TÓM TẮT DIỄN TIẾN CHIẾN TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ 20.11.1953 - 7.5.1954 THIẾU TƯỚNG CHRISTIAN DE CASTRIES TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 1953-1954 (THĂNG THIẾU TƯỚNG 2 SAO 16.4.1954) ĐẠI TÁ PIROTH TƯ LỆNH PHÁO BINH CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TỰ SÁT TRONG NGÀY ĐẦU TIÊN CHIẾN TRẬN NGÀY N 13.3.1954 Le colonel Piroth , responsable de l'artillerie, conscient d'avoir gravement sous-estimé l'adversaire, se suicide. 10 :35 am Sáng 20.11.1953 Cuộc hành quân đổ quân Castor xuống Thung lũng Điện Biên Phủ bắt đầu với 9,000 quân Nhảy Dù trong ba ngày tại 3 hướng Tây Bắc , Mật hiệu Natasha, Tây Nam ,Mật hiệu Octavie , Đông Nam Mật hiệu Simone (10:35 on the morning of November 20, 1953. In Operation Castor, the French dropped or flew 9,000 troops into the area over three days. They were landed at three drop zones: Natasha, northwest of Điện Biên Phủ; Octavie, southwest of Điện Biên Phủ; and Simone, southeast of Điện Biên Phủ.) Một điều Ghi Nhận do hội ý Trung tướng Réne Congy , Thiếu tướng Jean Gilles Tư lệnh Binh chủng nhảy dù tại Đông Dương đã đồng ý nhảy dù xuống Điện biên Phủ trong buổi chiều 20.11.1953 cùng với 20 tấn thiết bị Tư lệnh đạo quân Nhay Dù để giúp đại tá Christina de Castries bình định thung lũng Điện Biên Phủ trong hơn 2 tuần rồi trao quyền lại cho cho Đại tá Kỵ binh De Castries.. Ngày 7-12 Pháp rút 3 tiểu đoàn bộ binh khỏi Lai Châu về đóng tại Điện biên Phủ . Đại tướng Henri Navarre cho khai quang Điện Biên Phủ, đốt phá hết cây cối trong thung lũng để địch để địch không có chỗ ẩn nấp Lực lượng Pháp Tham Chiến : Bộ Binh : 13 tiểu đoàn nhẩy dù Quân lực Pháp Lê Dương , toàn bộ tại Điện Biên Phủ thời gian sau tăng cường quân lực quốc gia VN gồm 3Tiểu Đoàn Bộ binh Sơn cước , Tiểu đoàn số 5 ND VN Tổng Cộng gồm gần 21 ngàn Chiến binh , cộng thêm 2400 tù binh VM, sau này giai đoạn cuối có cho nhẩy dù thêm mấy tiểu đoàn. ( thực tế đến ngày cuối cùng cuộc chiến 7.5.1954 Pháp chỉ còn 11,200 quân do suốt cuộc chiến Pháp bị thương và tử trận .) Đặc biệt trong đạo quân có 15 nữ trợ Pháp trong lửa đạn đã chấp nhận không vận nhảy vào lòng chảo đầy lửa đạn , trong đó có một Nữ trợ tá tuổi chưa qua 30 dũng cãm tuyệt vời Geneviève de Galard. Thiết Giáp Kỵ Binh : 4 Chi đoàn Chiến xa hạng nặng M-24 PHÁO BINH 2 Tiểu đoàn pháo binh 105 ly, một pháo đội 155 ly, 4 đại đội súng cối 120 ly Tăng cường 8 súng cối 120 ly. sử dụng trên 10 tấn dây kẽm gai để làm hàng rào phòng thủ. KHÔNG QUÂN : Phi cơ Vận tải: 75 Phi cơ C-47 ( DC-4 ), tăng cường 25 tổng cộng 100 chiếc C -47 , cộng thêm 16 máy bay Mỹ C119. Tổng số 116 phi cơ vận tải **CHU THÍCH : 3 Tiểu Đoàn Bộ binh Sơn cước , Tiểu đoàn số 5 ND VN do Sĩ quan Pháp chỉ huy .TƯỚNG HENRI NAVARRE QUA MẶT TƯỚNG HINH - KỂT QUẢ THƯƠNG VONG 4 Tiểu Đoàn TRÊN 90% KHÔNG LỰC PHÁP TẠI ĐIỆN BIÊN PHỦ PHI TRƯỜNG MƯỜNG THANH 1 Phi đoàn gồm 14 chiếc (7 Phi Cơ khu trục, 6 Phi Cơ trinh sát, 1 Phi Cơ trực thăng ). HỆ THỐNG PHÒNG THỦ Lực lượng này giai đoạn đầu khoảng 16,200 chiến binh được tổ chức thành 3 phân khu: Bắc: Him Lam – Béatrice, Độc Lập – Gabrielle, Bản Kéo – Anne Marie 1, 2. Trung tâm: Các điểm cao phía Đông – Dominique, Eliane, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía Tây Mường Thanh – Huguette, Claudine, đây là khu vực mạnh nhất của quân Pháp. Nam: cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm – Isabelle. Tổng cộng tất cả là 8 trung tâm đề kháng (Béatrice, Gabrielle, Anne Marie, Dominique, Eliane, Huguette, Claudine, Isabelle) gồm 49 cứ điểm phòng thủ kiên cố liên hoàn trang bị hỏa lực mạnh yểm trợ lẫn nhau; 2 sân bay: Mường Thanh và Hồng Cúm để lập cầu hàng không. Đại tá Christian de Castries (trong thời gian chiến dịch được thăng Thiếu tướng) là Chỉ huy trưởng Tập đoàn cứ điểm. LỰC LƯỢNG VIỆT MINH THAM CHIẾN TRUNG TƯỚNG 2 SAO NGUYỄN CHÍ THANH TỔNG CHÍNH UỶ CHIẾN TRƯỜNG LINH HỒN CUẢ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ 7.5.1954 Đại đoàn bộ binh 304 Danh hiệu: Vinh Quang Mật danh: Nam Định Đại tá Lê Chưởng Tham mưu trưởng Nam Long Trung đoàn bộ binh 9 Trung đoàn bộ binh 57 Trung đoàn bộ binh 9 Trần Thanh Tú Tiểu đoàn 353 Tiểu đoàn 375 Tiểu đoàn 400 Tham gia từ đợt 3 Trung đoàn bộ binh 57 Nguyễn Cận Tiểu đoàn 265 Tiểu đoàn 346 Tiểu đoàn 418 Đại đoàn bộ binh 308 Danh hiệu: Quân Tiên Phong Mật danh: Việt Bắc Đại tá Vương Thừa Vũ Tham mưu trưởng Trương Đình Tuệ -Phan Trọng Tuệ Chính uỷ Song Hào Trung đoàn bộ binh 36 Trung đoàn bộ binh 88 Trung đoàn bộ binh 102 Trung đoàn bộ binh 36 Danh hiệu: Bắc Bắc Mật danh: Sa Pa Phạm Hồng Sơn Tiểu đoàn 80 Tiểu đoàn 84 Tiểu đoàn 89 Trung đoàn bộ binh 88 Danh hiệu: Tu Vũ Mật danh: Tam Đảo Nam Hà Tiểu đoàn 23 Tiểu đoàn 29 Tiểu đoàn 322 Trung đoàn bộ binh 102 Danh hiệu: Thủ đô Mật danh: Ba Vì Nguyễn Hùng Sinh Tiểu đoàn 18 Tiểu đoàn 54 Tiểu đoàn 79 Đại đoàn bộ binh 312 Danh hiệu: Chiến Thắng Mật danh: Bến Tre Đại tá Lê Trọng Tấn Chính uỷ Trần Độ Trung đoàn bộ binh 141 Trung đoàn bộ binh 165 Trung đoàn bộ binh 209 Trung đoàn bộ binh 141 Danh hiệu: Mật danh: Quang Tuyến Tiểu đoàn 11 Tiểu đoàn 16 Tiểu đoàn 428 Trung đoàn bộ binh 165 Danh hiệu: Lao Hà Yên, Thành đồng biên giới Mật danh: Đông Triều Lê Thuỳ Tiểu đoàn 115 Tiểu đoàn 542 Tiểu đoàn 564 Trung đoàn bộ binh 209 Danh hiệu: Sông Lô Mật danh: Hoàng Cầm Tiểu đoàn 130 Tiểu đoàn 154 Tiểu đoàn 166 Đại đoàn bộ binh 316 Danh hiệu: Bông Lau Mật danh: Biên Hòa Đại tá Lê Quảng Ba Chính uỷ Chu Huy Mân Trung đoàn bộ binh 98 Trung đoàn bộ binh 174 Trung đoàn bộ binh 176 Trung đoàn bộ binh 98 Danh hiệu: Mật danh: Vũ Lăng Tiểu đoàn 215 Tiểu đoàn 439 Tiểu đoàn 938 Trung đoàn bộ binh 174 Danh hiệu: Cao Bắc Lạng Mật danh: Sóc Trăng Nguyễn Hữu An Tiểu đoàn 249 Tiểu đoàn 251 Tiểu đoàn 255 Trung đoàn bộ binh 176 Danh hiệu: Mật danh: Tiểu đoàn 888 Tiểu đoàn 910 Tiểu đoàn 999 Tiểu đoàn 888 từ đợt 2 Còn lại từ đợt 3 Đại đoàn pháo binh 351 Danh hiệu: Mật danh: Long Châu Đại tá Trần Đại Nghĩa Tham mưu Trưởng Đào Văn Trường Chính uỷ Phạm Ngọc Mậu Trung đoàn pháo binh 45 Trung đoàn pháo binh 675 Trung đoàn pháo binh 237 Tiểu đoàn súng cối 83 Trung đoàn Phòng Không cao xạ 367 Trung đoàn công binh 151 Trung đoàn pháo binh 45 Danh hiệu: Tất Thắng Mật danh: Nguyễn Hữu Mỹ Tiểu đoàn 632 Tiểu đoàn 954 - 24 Trọng pháo 105 ly (mm ) Trung đoàn pháo binh 675 Danh hiệu: Anh Dũng Mật danh: Doãn Tuế Tiểu đoàn 175 Tiểu đoàn 275 20 sơn pháo 75 ly Trung đoàn pháo binh 237 Danh hiệu: Mật danh: Tiểu đoàn súng cối 413 Tiểu đoàn hoả tiễn H6 Tiểu đoàn ĐKZ 75mm 54 súng cối 82 ly (mm) 12 pháo phản lực H6 75 ly ? ĐKZ 75 ly Tiểu đoàn 413 từ đợt 1 Còn lại từ đợt 3 Tiểu đoàn súng cối 83 ly Danh hiệu: Mật danh: 20 súng cối 120 ly (mm) Trung đoàn Phòng không cao xạ 367 (thiếu) Danh hiệu: Mật danh: Lê Văn Tri 2 tiểu đoàn cao xạ 37mm 24 cao xạ 37ly Sau tăng cường thêm 1 tiểu đoàn Trung đoàn công binh 151 Danh hiệu: Mật danh Phạm Hoàng 4 tiểu đoàn công binh ( Cao Nguyên Dậy Lửa) 56 Năm Trận chiến Điện Biên Phủ trôi qua , 21 năm dưới thời VNCH, 35 năm hải ngoại khi nhắc đến những chiến sĩ Quân Lực Quốc Gia VN , hay QĐQGVN .Tất cả các nhà nghiên cứu sử Quốc Gia ,đều thống nhất trên 1,300 chiến binh QLQGVN, hy sinh vì chính nghĩa tự do bảo vệ Tổ Quốc VN . Nhưng tôi không đồng ý Nhận Định trên vì các lý do sau đây :. 1. Trận chiến Điện Biên Phủ do Ông Đại tướng Henri Navarre , và dàn Sĩ Quan thân tín soạn thảo và thi hành : là vì Quyền lợi của Nuớc Pháp không phải quyền lợi dân tộc VN, mục đích là trên thế mạnh nói chuyện với Bắc Kinh không muốn Mỹ nhảy vào 1955 để ngăn chặn làn sóng đỏ Bành trướng Bắc Kinh tại Đông Nam Á . Trận chiến này dù Pháp thắng hay bại cũng là nhát dao đâm sau lưng Dân tộc VN . 2. Cách hành xử ném 4 Tiểu đoàn bộ binh QLQGVN , vào lò lửa chiến tranh mà khả năng thất bại trên 90% như một chủ nhân Ông , qua mặt Tướng Hinh quyền Tổng tư Lệnh kiêm TTMT QLQGVN ( vì Quốc trưởng Bảo Đại ở tận bên nuớc Pháp xa xôi ..) 3.Trận chiến Điện Biên Phủ không những bán đứng dân tộc VN , mà giới cầm quyền nuớc Pháp còn đâm sau lưng Mỹ Quốc lần thứ 2 thể hiện ăn cháo đá bác . 1950-1954 xin viện trợ Mỹ Quốc để chống lại CS . Mĩa mai chuẩn bị đàm phán với Bắc Kinh Một thực tế sau khi ba Tiểu đoàn bộ binh sơn cước VN nhảy xuống ĐBP , là những chiến binh rừng núi thượng du Bắc VN , với kinh nghiệm lão luyện chiến trường , họ biết trước sau cũng thất bại. Nên hơn một nửa trên 1,200 chiến binh họ đã đào ngũ lẫn trốn bên bờ Sông Nậm Rốn -Nam Yum cùng hàng ngàn chiến binh của Đạo quân Quốc Tế Lê Dương vì không muốn chết ngu xuẩn ". đến này 7.5.1954) vì không muốn hy sinh xương máu vô ích. Tiểu đoàn Nhảy Dù số 5 do đức tính kỷ luật và "Nhảy Dù Cố gắng " họ không đào ngũ, chiến đấu Dũng cảm trong tình thế tuyệt vọng , xoá sổ gần hết Tiểu đoàn Nhảy Dù số 5. Vì các lý do trên . Tôi quan niệm sự hy sinh trến 1,300 chiến binh là tội ác của Đại tướng Henri Navare và dàn tham mưu của Ông ta: đối với Dân tộc VN khốn khổ và bất hạnh .
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 6:57:27 GMT 9
BỨC TƯỜNG MỘ BIA KHẮC TÊN CÁC CHIẾN SĨ PHÁP QUỐC TỬ TRẬN TẠI ĐÔNG DƯƠNG
SAU ĐÂY BÀI THƠ TƯỞNG NIỆM CÁC CHIẾN BINH PHÁP THAM CHIẾN VÀ TỬ TRẬN TẠI CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG KHU TƯỞNG NIỆM
QUAND DIEN BIÊN PHU TOMBA
Je n'ai pas souvent eu l'idée De rimer Mais quand Diên Biên Phu tomba Et que mon gars Après avoir tant souffert Fut englouti dans cet enfer, Et que cette force et cette beauté Furent effacées Alors il me fallut crier Désespérée.
Et d'eux même les mots se groupèrent En vers. Car je ne pouvais d'une façon ordinaire Evoquer son calvaire.
Anniversaire
Le mois de mai est revenu L'an passé, c'était Diên Biên Phu.
Ô mon Dieu, faites que mon gars Ne pourrisse pas Dans les rizières de Thanhoa.
Jamais cette tendre verdure N'a eu un éclat aussi pur.
Jamais les fleurs n'ont brillé D'une si éclatante beauté.
Jamais le visage des gens N'a eu tel épanouissement.
Jamais le soleil sur la terre N'a versé si belle lumière.
Ô mon Dieu faites que mon gars Ne pourrisse pas Dans les rizières de Thanhoa.
Le mois de mai est revenu L'an passé c'était Diên Biên Phu.
7 mai 1955
Ils disaient...
Ils disaient La colonne Crèvecoeur Viendra
Ils disaient confiants Des milliers d'avions Arriveront
Et puis, sans espoir Pour rien, pour la gloire Ils ont tenu le coup Jusqu'au bout
Pendant que Monsieur Bidault parlait Eux mouraient.
Ils étaient cinq mille disparus
Ils étaient cinq mille disparus Dont on ne parlait presque plus. Ils étaient cinq mille disparus Presque tous de Diên Biên Phu.
Dans des camps oubliés, dans la jungle perdus, Fiévreux, affamés, presque nus, La mort les avait-elle vaincus Les disparus de Diên Biên Phu ?
Ils étaient cinq mille disparus Cinq mille qui n'en pouvaient plus Et qui mouraient de plus en plus Puisqu'on n'en parlait presque plus.
25 septembre 1954
Suzanne Paulot *-* Quand Diên Biên Phú tomba Chants pour mon fils, Pierre, tombé à Diên Biên Phú * * *
"Sau Khi Hệ thống tiếp vận do Tướng Vệ Quốc Quân Đặng Kim Giang chỉ huy : 270 ,000 Dân công và đạo quân trên 20,000 Xe đạp thồ , đã vận chuyển thành công đến chiến trường Điện Biên Phủ ,đầy đủ lương thực, đạn dược , tiếp liệu…. các Tướng Vệ Quốc Quân: Nguyễn Chí Thanh , Phạm Hồng Cư , Trần Đại Nghĩa đã yêu cầu Tướng CSVN : Võ Nguyên Giáp tư lệnh Chiến dịch mới cho kéo pháo từ các khe núi , hay các hầm chứa trọng pháo , 105 ly, sơn pháo 75 ly , phòng không , cao xạ (tất cả gắn bánh xe ): đục sâu vào lòng núi để tránh bom của Không Lực Pháp trở lại trận địa. Chuẩn bị chiến dịch Tống tấn công đại qui mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh Đông dương :
Lúc 6 giờ chiều ngày 12-3, Đại tá Kỵ binh Christian De Castries nhận được mật điện của Trung tướng Réme Cogny từ Hà Nội cho biết Quân Lực Việt Minh sẽ tấn công 5 giờ chiều hôm sau. Vào lúc 17 giờ 15 phút ngày 13-3 -1954 cuộc chiến bắt đầu bằng trận pháo kích long trời lở đất của Đại đoàn Công -Pháo 351 Quân Lực Việt Minh : trong 30 phút đầu tiên dội bão lữa , thẳng xuống phi trường Mường Thanh khu Trung ương và các căn cứ phòng thủ thuộc cụm phía Bắc Beatrice (Him lam) cả lòng chảo phi trường và lòng chảo phía Bắc trở thành biển lửa , khiến cho quân Pháp kinh hoàng, và họ không thể ngờ Quân lực Việt Minh kéo được đại bác 75 ly, 105 ly qua các dốc núi cao ngất ,tới đồi núi vây quanh lòng chảo. Khi ấy kế hoạch dụ địch xuống lòng chảo để tóm gọn của Quân lực Pháp tan tành làm trăm mảnh. Mấy chục khẩu đại bác của Pháp tại phía Nam và Trung ương không thể phản pháo được vì Quân lực VM đã dấu súng trong các hang hố đào vào vách đồi núi. và Pháo binh chủ yếu ở khu trung ương coi như bị xóa sổ . Loạt đoạn đầu tiên đã trúng hầm chỉ huy Cứ điểm Him Lam( Béatrice) sát hại Thiếu tá Pegot và các sĩ quan của bộ chỉ huy...
Lỗi lầm tai hại của Ông Tướng văn phòng 4 sao Navarre ,Đại tá tá Revol, và dàn sĩ quan tham mưu bàn giấy , khi cho khai quang lòng chảo đã khiến cho Đại đoàn Công -Pháo 351 Quân lực Việt Minh nhắm bắn rất chính xác các hầm chỉ huy của cứ điểm. Trận tấn công mở màn do 2 trung đoàn 141 và 209 của Đại đoàn 312 đảm nhiệm với toàn bộ hoả lực, được tăng cường 8 khẩu 105 ly, 6 khẩu 75 ly, 7 súng cối 120 ly, 32 khẩu súng cối 82 ly, Đại đoàn trưởng Lê trọng Tấn, Tham mưu trường kiêm chính ủy Trần Độ. Cứ điểm Beatrice (Him Lam)bị các đợt xung phong của VM tràn ngập, trận đánh kéo dài từ chiều cho tới 11 giờ tối hoàn toàn kết thúc. Tại Beatrice( Him Lam )Quân lực Pháp mất khoảng 500 người, 200 bị tử thương và 270 người bị bắt, Trung tá Gaucher người chỉ huy Beatrice và thiếu trá Paul Pegot trúng đạn chết nên căn cứ mất chỉ huy thua nhanh trước lực lượng quá đông đảo của VM. Trưa hôm sau 14-3 hai bên ngưng chiến, Tướng Nguyễn Chí Thanh Việt Minh cho Quân Pháp thu lượm thương binh trong cứ điểm.
Chiều hôm sau, 3 Trung đoàn 88, 36 và 102 thuộc Đại đoàn 308 và Trung đoàn 165 tăng cường thuộc (Đại đoàn 312) .Do Tướng Trương Đình Tuệ tham mưu trưởng điều quân tấn công căn cứ Gabrielle ( Độc Lập), hoả lực gồm 6 khẩu 75 ly, 8 khẩu cối 82 ly, 8 khẩu cối 120 ly, 4 khẩu đại bác 105 ly, tất cả đặt dưới sự chỉ huy Tổng quát của Đại đoàn trưởng Tướng Vương Thừa Vũ và Tướng Tuệ . Quân lực VM dự định tấn công lúc chiều nhưng vì trời đổ cơn mưa to, các khẩu súng cối không mang vào kịp nên phải hoãn lại tới 3 giờ sáng mới bắt đầu trận đánh, đến 8 giờ rưỡi sáng thì Gabrielle ( Độc Lập)bị hoàn toàn thất thủ, 800 quân trú phòng chỉ còn 150 người chạy thoát, còn lại bị giết, bị bắt. Quân Lực Pháp cho một tiểu đoàn phản công tái chiếm Gabrielle, nhưng bị Tướng Tuệ Vệ Quốc quân điều quân VM đánh bật lại phải rút lui. VM đã lấy số đông để đàn áp đối phương, tại mỗi căn cứ họ đã tung vào trận địa gần một Sư đoàn để đánh một tiểu đoàn Pháp.Quân Pháp mất tinh thần vì trận mưa pháo hết sức bất ngờ của VM. Ba ngày sau Pháp cho một tiểu đoàn thiện chiến nhẩy dù xuống ĐBP để tăng cường bảo vệ khu Trung tâm.
Quân Lực Việt Minh chuẩn bị đánh cụm cứ điểm Anne Marie 1,2 (Bản Kéo), căn cứ này do một tiểu đoàn Bộ binh Sơn cước QLQGVN (Thái - Nùng ) trấn đóng,(thay Tiểu đoàn Lê Dương rút về Khu Trung tâm) Tướng Nguyễn Chí Thanh viết thư dụ hàng , hứa sẽ đối xử nhân đạo đưa cho tù binh đem vào cho cấp chỉ huy đồng thời bắc loa gọi hàng.Hơn một nửa tiểu đoàn đã bỏ chạy lên phía Bắc ra hàng hàng VM theo lời kêu gọi của Tướng Vệ Quốc Quân Tổng chính ủy chiến trường Nguyễn Chí Thanh ,Hơn 1/4 đào ngũ lẩn trốn tại bờ sống Nậm Rốn Nam Yung . Khi Đại uý Tiểu đoàn trưởng người Pháp đưa tiểu đoàn về khu Trung tâm thì chỉ còn chưa tới 100 quân, Pháp phải thu hẹp vị trí phòng thủ, họ bỏ bớt căn cứ Anne Marie, sáp nhập vào Huguette.( sau vụ này Đại tướng Navarre giận điên người nhưng phải im lặng , vì Trung tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng Tư Lênh QLQGVN không đồng ý đổ quân tham chiến , Ông đại tướng Pháp quốc hành xử như một chủ nhân Ông !)
Lúc này Quân Pháp : Đại tá Kỵ binh De Castries Tư lệnh là người chỉ huy tổng quát, Trung tá Langlais và Thiếu tá nhẩy dù Bigeard chỉ huy các cuộc phản công. (Thiếu tá nhẩy dù Bigeard Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn số 5 Nhảy Dù QLQGVN , Trung úy Phạm Văn Phú Đại đội trưởng , vừa đổ quân xuống )Trung tướng Réne Cogny cùng 1/3 đạo quân tăng viện QLQGVN do Sĩ quan Pháp Chỉ huy, không vận đến chiến trường Điện Biên Phủ để trực tiếp chỉ huy , nhưng bị phòng không cao xạ cùa Quân lực Việt Minh bắn như mưa phải quay về .
Một tuần sau ngày khởi sự trận đánh Quân lực Việt Minh bắt đầu đào giao thông hào dài hằng trăm cậy số suốt 10 ngày tới các công sự Pháp, do Tướng Trần Đại Nghĩa thiết kế họ đã được các kỹ sư công binh Việt Minh và một số cố vấn Hồng quân Trung Hoa dậy cách đào hào. ( Tướng Trần Đại Nghĩa tốt nghiệp kỹ sư cơ khí tại Đức Quốc 1944 , Ông đã tham gia Quân Lực Đức Quốc Xã trong War 2. 1946 ông về nước tham gia kháng chiến Chống Pháp , ông đã chế tạo thành công súng bazoka Phóng lựu như M.79, Lựu đạn , đạn dược của các Súng Nhật , Pháp mà các chiến sĩ vệ quốc quân sử dụng 1946-1949 , Ông thăng Thiếu tướng Q ĐNDVN 1957 , nhưng mấy năm sau ông xin giải ngũ ra khỏi quân đội vì chứng kiến quái thai CNXH Marxism -Leninism - Maoism khác xa kiểu mẫu XHCN Đức Quốc dưới thời Quốc Trường Adolf Hitler mà ông mơ ước ),.
Ngày 17-3 sau khi chiếm được hai cứ điểm Béatrice và Gabrielle, Bộ tư lệnh chiến dịch Việt Minh họp hội nghị sơ kết đợt một, hoạch định phương hướng tấn công khu Trung Ương quan trọng nhất của Quân Lực Pháp. Điều khó khăn cho Quân lực Việt Minh lần này là phải chiến đấu trong một địa hình bằng phẳng của khu lòng chảo trước ưu thế về Phi cơ chiến đấu , Oanh tạc cơ , Thiết giáp ,cũng như Pháo binh của đối phương. Bộ chỉ huy tích cực xây dựng trận địa tấn công bao vây để chuẩn bị cho đợt hai, họ phải tiếp tục tiến đánh khoảng 30 cứ điểm nữa trên địa hình bằng phẳng.
Quân lực Bộ Đội Việt Minh bắt đầu đào hai loại giao thông hào để chuyển pháo và bộ binh xuống đồng bằng. Loại thứ nhất gọi là “đường trục” sâu 1 thước 7, đáy hào rộng 1 thước, miệng hào rộng 1 thước rưỡi để chuyển súng cối 120 ly, sơn pháo 75 ly giữa ban ngày và cũng để tải thương. Loại thứ hai gọi là giao thông hào của bộ binh sâu 1 thước 7, trên rộng 1 thước 2, đáy rộng nửa thước, mỗi ngày bộ đội đào từ 14 đến 18 giờ, mặc dù bị Quân lực Pháp bắn phá, san lấp hào nhưng VM vẫn tiến hành ngày đêm đào đất.
Sau mười ngày làm việc lao động tích cực xây dựng trận địa Việt Minh đã đào được một hệ thống giao thông hào chằng chịt vây quanh các cụm cứ điểm của Pháp, chiều dai toàn bộ hệ thống dài hằng 100 cây số khiến VM tiến gần các vị trí của Pháp hơn. Phi trường chính Mường Thanh, và Hồng Cúm (Isabelle) bị đe doạ, máy bay không đáp xuống được, từ cuối tháng 3 Pháp phải tiếp tế bằng thả dù, VM thắt chặt vòng vây, hạn chế viện binh, gây khó khăn tiếp tế cho Quân lực Pháp. Tập đoàn cứ điểm phòng thủ được tăng cường một số tiểu đoàn nhảy dù thêm nên quân số và hoả lực còn mạnh, tại phía đông khu Trung tâm gồm nhiều cao điểm hoả lực mạnh. Mặc dù bị tổn thất nhiều sau các trận đánh, các Đại đoàn Việt Minh lại được bổ sung tăng cường đầy đủ tân binh từ các quân trường, trại huấn luyện để chuẩn bị tiến đánh các cụm cứ điểmTrung tâm, cuộc tấn công đợt hai dự định vào chiều ngày 30-3, họ đưa hết toàn bộ lực lượng vào trận đánh.
Quân lực Việt Minh kéo pháo lại gần hơn, họ đặt súng ngay tại Beatrice (Him Lam) mới chiếm được để pháo kích phi trường, từ cuối tháng 3 không thể xử dụng sân bay được Pháp chỉ còn tiếp tế bằng thả dù và liên lạc với Hà Nội bằng máy truyền tin. Cuối tháng 3 trời mưa to, thời tiết xấu Phi cơ Pháp không ném bom oanh tạc được. Năm giờ chiều ngày 30-3, các đại đội pháo 105 ly của VM đã tập trung bắn đàn áp pháo binh Pháp, 6 giờ chiều bộ binh bắt đầu tấn công, trung đoàn 98 VM chiếm được căn cứ Claudine 1 (C-1)sau một giờ giao tranh dữ dội nhưng tại Claudine 2(C-2) họ bị Pháp đẩy lui. Trung đoàn 209 VM đã đánh chiếm được cao điểm Dominique 1(D-1), Trung đoàn 141 sau một giờ rưỡi giao tranh đã chiếm được Eliane 1, hai bên đánh giáp lá cà suốt đêm hôm ấy. Tại Eliane 2 (A-2), Thiếu tá nhẩy dù Biggeard chỉ huy tiểu đoàn Dù đánh bật VM ra khỏi Eliane 2,(A-2) sáng hôm sau 31-3 Pháp phản công để chiếm lại Eliane 1 (A-1) và Dominique1 (D-1) nhưng thất bại và phải rút khỏi Dominique 2 (D-2).
QUÂN LỰC VIỆT MINH TỔNG TẤN CÔNG ĐỢT 2 : 1.4.1954-30.4 1954 .CHÍNH PHỦ PHÁP BÁN ĐỨNG VN . LIÊN SÔ -MỸ RA TAY
Ngày 1-4 Pháp tấn công tái chiếm Eliane 1 nhưng thất bại, Pháp đã huy động nhiều oanh tạc cơ B 26 và khu trục cơ oanh tạc dữ dội xuống đồi gây thiệt hại nặng cho Quân lực Việt Minh , nhiều đơn vị chỉ còn vài người. Trong một ngày một đêm chiến đấu liên tục VM đã chiếm được một số căn cứ phía đông khu Trung tâm, tuyến phòng thủ ở đây đã bị chọc thủng. Mặc dù chiếm đươc nhiều căn cứ quan trọng nhưng VM bị thiệt hại hằng nghìn quân, xác người vắt đầy trên các hàng rào kẽm gai, khoảng hai nghìn bị thương. Ngày 4-4 Tướng Vệ quốc quân Nguyễn Chí Thanh tổng chính ủy chiến trường ban lệnh cho các đơn vị tạm ngưng chiến đấu, giữ vững các vị trí đã chiếm được, các đơn vị đều hao hụt quân số cần bổ sung, đạn pháo binh còn rất ít, lương thực chỉ còn đủ dùng cho một tháng.
(Tài liệu Quân sử Hà Nội cho rằng Tướng CSVN Võ Nguyên Giáp ban huấn lệnh này ?, hàng chục năm nay khi nhắc tới trận chiến thắng lẫy lừng này, họ đều được huấn lệnh của Đảng nhất trí đồng lòng huyền thoại thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp, trong lúc đó không một dòng nào về các Tướng Vệ Quốc Quân : Chí Thanh -Hồng Cư -Kim Giang - Đại Nghĩa- Trọng Tuệ là linh hồn của chiến thắng ?)
Trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên được thành lập từ đầu tháng 4 do Liên Sô viện trợ và hướng dẫn tác xạ khiến cho Pháp gặp khó khăn, phi cơ tiếp tế và oanh tạc, khu trục.. bị bắn rơi. Không quân Pháp nay mất ưu thế làm chủ bầu trời trước đây. Vòng đai phòng thủ của Pháp co cụm lại, các công sự thuộc khu Trung ương bị tấn công uy hiếp. Ngày 5-4 tại Eliane 1 hai bên dằng co nhau nhiều lần. Ngày 8-4, Pháp cho nhẩy dù một tiểu đoàn thiện chiến ban đêm xuống Điện Biên tăng cường nhưng không cứu vãn nổi tình thế bi đát. Trong đợt tấn công mới các đơn vị được phân nhiệm như sau: Đại đoàn 308 bao vây tấn công các cứ điểm thuộc cụm Huguette bảo vệ phía tây sân bay. Đại đoàn 312 tiến đánh phía đông phi trường Mường thanh phối hợp cùng với Đại đoàn 308 đào giao thông hào cắt ngang sân bay. Đại đoàn 316 tấn công phía đông Mường Thanh, Đại đoàn 304 tấn công bao vây Isabelle (Hồng cúm) phía Nam, cắt đứt khu Trung tâm và phía Nam, kiềm chế pháo binh Pháp tại đây. Đại đoàn pháo 351 đưa đại bác 105 ly xuống sát thung lũng lòng chảo để yểm trợ cho bộ binh.
Việc tiếp tế bằng phi cơ ngày càng khó khăn trước màng lưới phòng không dầy đặc của Quân Lực VM. Chỉ trong vòng bốn năm ngày Quân Lực Pháp bị thiệt hại khoảng 2000 người. Khu Isabelle (Hồng Cúm ) phía Nam còn 1600 người bị Quân lực Việt Minh bao vây khép kín, cuối tháng Tư hết nước uống, đạn dược. Pháo binh Pháp bị tê liệt chỉ còn một , hay hai trọng pháo 105 ly , 10 chiếc chiến xa hạng nặng M.24 nay chỉ còn 4 Chiến Xa ( Tổng Số tăng viện 12 khẩu 105 ly, và 10 chiến xa M.24 thả xuống chiến trường bằng phi cơ vận tải khổng lồ C.119 không lực Mỹ ,thả những phần táo rời trong box gỗ lớn rồi ráp lại) Ngày 6-4 tại Huguette 6 các đợt tấn công Quân lực VM bị đại liên càn quét, pháo binh và máy bay oanh tạc dữ dội, VM bỏ lại hằng nghìn xác chết, ngày hôm sau các cuộc tấn công của VM vào Eliane 2 bị pháo binh , phi cơ Pháp làm cỏ nhưng họ vẫn giữ thế thượng phong. Các pháo đài cứ điểm tại khu lòng chảo nay đã trở thành bãi tha ma đầy xác chết.
Ngày 10-4 Thiếu tá Bigeard chỉ huy lính nhẩy dù hành quân tái chiếm Eliane 1, không quân và pháo binh yểm trợ dữ dội, đến chiều Pháp lên được ngọn đồi đánh sáp lá cà với VM, Pháp chiếm được ngọn đồi hoang tàn đầy những xác chết của hai bên. Nửa đêm Quân Lực Việt Minh đem đại binh tái chiếm khiến Pháp phải rút lui. Hôm ấy Đại tướng Navarre ra lệnh trung tướng Réne Congy cho nhẩy dù thêm một tiểu đoàn cuối cùng tăng viện làm 4 đêm mới xong, Pháp cũng cho thả dù tù binh VM để làm bia đỡ đạn.
Phi trường Mường Thanh được vây kín bằng năm lớp hàng rào thép gai và những bãi mìn dầy đặc, hằng trăm ụ súng vây quanh. Từ 10-4 trung đoàn 141, Quân Lực Viêt Minh ra sức đào hào cho tới ngày 15 thì đã vào tới lớp hàng rào thứ tư. Người Pháp vội điều chiến xa M.24 và lính nhẩy dù ra phản kích, trận đánh rất ác liệt kéo dài suốt ngày 16-4, những cuộc phản kích của Pháp trong mấy ngày liên tiếp đã bị đẩy lui. Ngày 15-4 Đại tá Kỵ Binh Christian De Castries được Đại tướng Navarre vinh thăng Thiếu tướng, một Phi cơ vận tải thả dù thùng đồ gồm bộ quân phục có gắn lon Thiếu tướng, quyết định thăng cấp … nhưng dù lọt sang địa phận Quân lực VM, nữ trợ tá Genevìere bèn lấy lon sữa bò cắt làm hình những ngôi sao để gắn trên cổ áo cho tân Thiếu tướng Christian De Castries.
Bệnh xá đầy những thương binh y như một địa ngục trần gian, chỉ có một bác sĩ giải phẩu ngày đêm.Tiếp tế ngày càng khó khăn, ngày 18-4 cứ điểm Hugette 6 hết lương thực, nước uống bị thất thủ, vòng đai phòng thủ Pháp ngày càng co cụm lại. Trời bắt đầu mưa tầm tã, các giao thông hào ngập nước, bệnh viện hôi thối ghê tởm, binh sĩ quá mệt mỏi vì phải cầm cự với các cuộc tấn công liên tiếp của VM. Hàng thả dù ngày một khó khăn, lính pháp mất tinh thần, Thiếu tá Bigeard động viên tinh thần lính đang tuyệt vọng, ông cho biết quân lực Mỹ sẽ cứu nguy Điện biên Phủ ?.
Cứ điểm 105 phía bắc phi trường Mường Thanh bị vây hãm, không có tiếp tế, không có nước uống… Đêm 17-4 trung đoàn 141 Quân lực Việt Minh tấn công tràn ngập cứ điểm 105, Phi trường Mường Thanh cũng đã bị trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn quân tiên phong 308 ,đào hào cắt ngang. Quân số của Quân Lực Việt Minh đầy đủ nhờ các tân binh từ hậu phương được đưa tới bổ sung trong khi quân Pháp ngày càng hao mòn thiếu hụt. Tại cứ điểm Huguette 1 Trung đoàn 36 Quân VM và Pháp giao tranh dữ dội, Quân Lực VM thay đổi chiến thuật, áp dụng lối đào mới, họ đào đường ngầm xuyên vào cứ điểm đến 22-4 thì tới tận trung tâm căn cứ. Quân Lực VM chiếm Phi trường đụng độ với các tiểu đoàn nhẩy dù cùng xe tăng, hai bên đánh sáp lá cà.
***Pháp không còn đủ lực lượng để phản kích, Phi trường Mường Thanh lọt vào tay Quân Việt Minh, cuối tháng 4 các kiện hàng thả dù xuống thung lũng Mường Thanh bị lạc sang địa phận của đối phương. Cuối tháng 4 Pháp chỉ còn kiểm soát được một dải đất dài gần 2km, ngang 1,3km. Trong tổng số 49 cứ điểm, chỉ có 17 cứ điểm do VM chiếm được và do Pháp rút đi, Pháp vẫn còn giữ 32 cứ điểm, các cứ điểm then chốt phía Đông và tại phía Nam tức Isabelle (Hồng Cúm) vẫn còn mạnh. Quân Lực VM được tiếp tế dồi dào, đạn dược lương thực đủ dùng hết tháng 5. Liến sô mới viện trợ cho Quân Lực VM tại mặt trận 12 dàn hoả tiễn 6 nòng 122 ly, mỗi dàn có thể phóng ra 72 quả đạn một lúc.
Các bạn đón đọc tại sao Liên Sô lần đầu tiên viện trợ cho Quân Lực Việt Minh tại Điện Biên Phủ ?, Đại tướng Navarre lúc đầu còn hy vọng cầm cự tới tháng 5 .1954 để tìm giải pháp danh dự cho ông ta . Nhưng đến cuối tháng 4 .1954 Khi Quân lực Việt Minh chiếm Phi trường Mường Thanh bao vây chặt khu Trung Tâm , muốn triệt thoái cũng không kịp , quá tuyệt vọng ông đề nghị Ngoại Trưởng Georges Bidault và Bộ trưởng Quốc phòng René Pleven yều cầu không lực Mỹ giúp Pháp Quốc thả bom nguyên tử hủy diệt 5 S Đ Việt Minh .(Ông vẫn không muốn Quân lực Mỹ vào Đông Dương chỉ lợi dụng Mỹ để Pháp mặc cả với CS Trung Hoa)
Hiệp Định Geneva 26.4.1954 Đế quốc Pháp bán đứng Dân tộc VN Khốn Khổ -Bất hạnh
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 03-08-2010, giờ 02:31
Hiệp Định Geneva 26.4.1954 Đế quốc Pháp bán đứng Dân tộc VN Khốn Khổ -Bất hạnh.
I HỘI NGHỊ GENEVA KHAI MẠC - THE GENEVA CONFERENCE ON KOREA 26.4.1954--15.6.1954 Ngày 26.4 Hội Nghị Geveva khai mạc để vãn hồi an ninh Bán Đảo Triều Tiên, thật sự giửa 2 miền Nam-Bắc Triều Tiên vẫn chưa có hiệp định Đình Chiến, chiến tranh vẫn tiếp diễn .
25.7 .1953 Tại Bàn Môn Điếm Vĩ tuyến 38 . Mỹ và Cộng Hòa Triều Tiên (North Korea , Bắc Hàn ) ký hiệp định ngưng bắn , nhưng chính phủ TT Lý Thừa Vãn, South Korea vì muốn khôi phục lãnh thỗ cố đô Kaesong đã mất , tại vĩ tuyến 38, và một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó , hiện tại được quân đội Bắc Hàn ( Bắc Triều Tiên phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Nam Hàn South Korea và Hoa Kỳ. Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Kaesong, cố đô của Triều Tiên, là phần đất của miền Nam trước khi chiến tranh bùng nổ nhưng bây giờ là một thành phố đặc khu của miền Bắc Cộng Hòa Triều Tiên . Cho đến bây giờ cũng không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, theo kỹ thuật, xem như Nam Hàn và Bắc Hàn vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh. Mặc dù Bắc Hàn và Hoa Kỳ đã ký kết Hiệp ước Đình chiến nhưng TT Lý Thừa Vãn đã từ chối ký kết vào văn kiện này. Vì đã mất một vùng lãnh thổ đó là lý do cuộc chiến vẫn tiếp diễn , nhưng khổ một nỗi Quân Lực South Korea lại quá yếu, cái gì cũng trông mong , đổ lên đầu lên Quân lực Mỹ .
TT Lý thừa Vãn lại muốn nhờ Mỹ Quốc khôi phục lại Lãnh Thỗ đã mất, trong lúc Ông ta lại không có khả năng .
Trong Lúc này tình hình Đông Dương và Đông Nam Á Nguy Ngập thật sự Nếu Mỹ không ra tay gấp thì một loạt Nước Đông Dương mà trước tiên Lào , Kampuchea Thái Lan, Malaysia , Indonesia , Singapore , Miến Điện sẽ bị Quân CS Maoism (hay Maoits) nhuộm đỏ làm chư hầu Bắc Kinh ,Đặc biệt Thái Lan, Malaysia, Singapore còn nguy ngập hơn cả Việt Nam nửa đây thực tế . Tại mỗi nước này Quân CS là 60,000 Quân thiện chiến , cuồng tín trong lúc Quân lực Quốc gia quá yếu lại dính tham nhũng .
Vì vậy Mỹ muốn Hiệp Định An ninh Triều Tiên trước khi năm 1955 ra tay tái lập An Ninh Đông Dương , Đông Nam Châu Á., Liên Sô cũng không muốn Bắc Kinh bành trướng xuống Phía Nam, vì trước sau cũng là kẻ thù Liên Sô , thêm thay hiệp định an ninh ký kết , thì 1 Triệu quân CS Trung Hoa không có Lý do đóng quân hiện diện tại Cộng Hòa Triều Tiên, Lãnh tụ Kim Nhật Thành không bị áp lực làm tay sai Bắc Kinh, nên vì cùng mục đích : Liên sô-Mỹ là đồng minh . Ngược Lại Pháp - Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là đồng minh phá hoại hội nghị bán đứng dân tộc VN , làm tan vỡ hiệp định đình chiến Triều Tiên , ngoài ra Ông TT Lý Thừa Vãn cũng là tội đồ của dân tộc Korea phá hoại hiệp định đình chiến , kết quả 1 triệu quân CS Trung Hoa Hiện diện vĩnh viễn trên đất nước Triều Tiên , 1 triệu người bị đấu tố chết dã man , trong lúc ông bất tài , không có khả năng giải phóng Bắc Triều tiên đã đành , lại không đủ sức bảo vệ Nam Triều Tiên, dựa vào Mỹ Quốc cho đến tận ngày hôm nay .
Lúc này Lãnh tụ Liên Sô : Georgy Maximilianovich Malenkov 1953-1955 và Bộ trưởng Ngoại Giao Vyacheslav M. Molotov 1939-1949 và 1953-1956 là những người thân tín Lãnh tụ Máu Lãnh Vĩ Đại Joseph Stalin , nên họ hiều được hiểm họa Bắc Kinh trong tương lai và cũng không xa lạ gì với quá khứ của ông chủ tịch VN DCCH. Một năm nay Hoàng Đế không ngai Mỹ Quốc Thống Tướng TT thứ 34 Dwight Eishenhower cũng khồng hề chống đối Liên Sô như thời TT thứ 33 Truman , lại bạn thân Nguyên Soái 5 sao Georgy Zhukov . Hoàng đế vĩ đại Anh Minh Mỹ Quốc TT thứ 34 mới gởi tặng người bạn năm xưa Bộ Cần Câu Cá, nhờ tòa Đại Mỹ tại Moscow chuyển đến tư gia Nguyên Soái Georgy Zhukov.
Các Phái đoàn 5 Quốc Gia theo dự định ban đầu Mỹ Quốc -Liên Sô
Phái đoàn Anh, do Ngoại trưởng Anthony Eden làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Hoa Kỳ, do Thứ Trưởng Bedell Smith đặc trách Châu Á -Thái Bình Dương, làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Liên bang Sô viết, do Ngoại trưởng Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Pháp, do Ngoại trưởng Georges Bidault làm trưởng đoàn.
Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Sô và Anh.
Theo lời đề nghị Paris và Bắc Kinh mời thêm phái đoàn các nước Đông Dương để sau khi bàn xong vấn đề Korea sẽ bàn đến hòa bình Đông Dương ( đây là qua mặt Mỹ-Liên Sô -Anh , họ còn là đồng minh phá hoại Hiệp định đình chiến về Korea bất thành , để đổi lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Sẽ mải mãi ở trong khối Liên Hiệp Pháp muôn đời, Quyền Lợi Pháp sẽ mãi mãi tại Việt Nam , có nghĩa là Quốc gia Việt Nam sẽ bị bức tử ! và Đông Nam Á thuộc về Bắc Kinh . Giới Lãnh Đạo Đế Quốc Pháp không care , Dân tộc VN bị CS Thống trị Bắc Kinh cũng không care, Vì quyền lợi Đế quốc Pháp Quốc vĩnh viễn muôn đời ở Đông Dương .
Đúng vừa Tham Lam, Độc Ác , lại Ngu Đần : tin lời Bạo chúa Hung Ác Mao Trạch Đông , cũng là tội đồ dân tộc Korea .
Các phái đoàn Quốc gia Đông Dương tham dự ké theo đề nghị Bắc Kinh-Paris
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ.
Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với lập trường 8 điểm Đế Quốc Pháp ,Đế Quốc Trung Cộng nhất trí Đồng Ý không cân đếm xỉa Dân tộc Việt Nam Khốn khổ bất hạnh:
Lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
1.Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
2.Ký một hiệp định về việc rút quân đội nước ngoài ra khỏi 3 nước trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân, đạt thỏa thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số khu vực hạn chế. Từ Vĩ tuyến 16 (Đèo Hải Vân ranh giới Thứa thiên Huế --Đến Lạng Sơn Ải Nam Quan là đóng quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) .
3.Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 3 nước nhằm thành lập chính phủ duy nhất cho mỗi nước.
4.Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố tự nguyện gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó.( nghĩa chấp nhận VNDCCH thống nhất tử Bắc vào Nam sau khi tổng tuyển cử ,miễn VNDCCH nằm trong Liên Hợp Pháp là OK ! ) 5. Ba nước Đông dương thừa nhận các quyền lợi kinh tế, văn hóa của Pháp tại mỗi nước. Sau khi chính phủ duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hóa được giải quyết theo đúng các nguyên tắc bình đẳng và củng cố.
6.Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh.
7.Trao đổi tù binh và dân thường bị bắt trong chiến tranh
8.Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
Thế thì phái đoàn Quốc Gia VN tham dự là bù nhìn đây là tội ác mà Dân tộc VN không bao giờ tha thứ cho bè lũ cầm quyền Đế Quốc Pháp từ 1862--1955.
II MỸ -LIÊN SÔ RA TAY HẠ CHÍNH PHỦ PHÁP ĐO VÁN 7.5.1954
Trở lại bản Lập trường 8 điểm của Ông Thủ tướng VNDCCH là trái bom nổ giữa bàn hội nghị , một gáo nước lạnh tạt vào Mỹ Quốc -Liên Sô-Anh Quốc. Hội Nghị về Korea là thứ yếu vì viễn cảnh Đông Dương , và cả Đông Nam Châu Á làm chư hầu Bắc Kinh là sự thật hiển nhiên . Ông Ngoại Trưởng Pháp rất vui vì sẽ có giải pháp Hòa Bình gấp , Quân Pháp triệt thoái ra Điện Biên Phủ trong danh dự, Pháp quốc sẽ không bại trận .
Đùng tin động trời ngày 29.4 .1954 Trung đoàn 88- (Đại đoàn quân tiên phong 308) của Đại tá tương lai Sa Pa Phạm Hồng Sơn tiến vào Phi trường Mường Thanh vây kín chặt khu trung tâm, sau đó cả Đại đoàn 308, 312 bao vây khu trung tâm bộ tư lệnh Tướng De Castrise , không còn lối thoát , Tướng Nguyễn Chí Thanh cho Tù Binh mang vào trao tận tay Tân Thiếu tướng Pháp Quốc ,Bộ lễ phục với cặp lon Thiếu tướng 2 sao, mà Ông Đại tướng Henri Navarre cho thả xuống ngày 15.4.1954, để vinh thăng Đại tá Kỵ binh De Castries , bất hạnh thùng đồ rơi vào tay Việt Minh . Ý của Tướng Vệ Quốc Quân Nguyễn Chí Thanh : Ông tân Thiếu tướng hãy mặt bộ lễ phục Tướng Lãnh Pháp Quốc ra đầu hàng , trước khi quá muộn .
Ông Đại tướng Navarre hốt hoảng , tỉnh mộng , khủng hoảng thật sự khi tin này , Ông cầu cứu Bộ trưởng Quốc Phòng René Pleven và Ngoại trưởng Georges Bidault khẩn thiết yêu cầu không lực Mỹ Quốc giúp trước khi quá muộn ....
Hung Kiet
Liên Sô hạ Giới Lãnh Đạo Bắc Kinh -Paris.
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 03-08-2010, giờ 04:42
Thật sự ngay khi chưa khai hội nghị Geneva đầu tháng 4 , bản lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ cộng Hòa do Bắc Kinh đã gởi trước Moscow để tìm hậu thuẫn tại Hội Nghị . Lãnh tụ Georgy M. Malenkov đã quyết định sau khi hội ý với ngoại trưởng Viacheslav Molotov , Phải ra tay tiên hạ thủ vi cường trước khi Đông dương sụp đỗ làm chư hầu Bắc Kinh, bành trướng xuống phương Nam , Lúc này Quan hệ 2 nước không còn cố gắng nồng thắm 1949-1953 mà bắt đầu có một số mâu thuẫn không còn cố gắng che đậy được . Trước tiên viện trợ cho Việt Minh Súng Phòng không , cao Xạ , gởi thắng cố vấn Nga qua huấn luyện, bẳng mọi cách giúp tạo uy tín cho Tướng Vệ Quốc Quân Nguyễn Chí Thanh , và Đặng Kim Giang-Giáo sư Dương Bạch Mai (dưỡng phụ của Cô Gái Lê Thị Hồng Minh) vốn là Đảng viên CS Đông Dương 1936 dưới thời Lãnh tụ Trung tá Không Quân Livinov Lê Hồng Phong , phải chiến thắng Điện Biên Phủ càng sớm càng tốt .
Khi VNDCCH thành lập ,Cố vấn Liên Sô đến Hà Nội , thời cơ thuận lợi khuyến khích Tướng Chí Thanh-Kim Giang lật đổ phe thân Bắc Kinh, VNDCCH có thể đi theo con đường Nam Tư của Thống Chế Tito có Đảng CS và Đảng Cộng Hòa tồn tại chung .
Vì vậy Số lượng Vũ Khí Cao Xạ đầu tiên của Liên Sô đã chuyễn đến VN qua biên giới Hắc Long Giang Trung Hoa- Liên Sô đã đến Quân Lực Việt Minh từ thượng tuần tháng Tư , và cuối tháng 4.1954 .Dàn Hỏa tiển 6 nòng 122 ly cũng đến Tướng Nguyễn Chí Thanh- Đặng Kim Giang .
Tướng Vệ Quốc Quân Nguyễn Chí Thanh - Phạm Hồng Cư- Đặng Kim Giang đã làm sụp đỗ ý đồ của Bắc Kinh vào cuối tháng tư là tặng Pháp món quà rút quân trong danh dự tại Điện Biên Phủ, để Pháp Không Mất Danh Dự, Vì Pháp chấp thuận lập trường 8 điểm của VNDCCH .
Đây là Lý Do Bắc Kinh rất ghét Tướng Chí Thanh- Hồng Cư- Kim Giang.
Một bất hạnh Dân tộc VN là Lãnh tụ Liên Sô bị lật đồ 1955 ,Ngoại trưởng Molototov cũng mất quyền , Lãnh tụ mới phải cũng cố quyền lực nên ý định lãnh tụ Malenkov không thành .
MỸ - RA TAY HẠ CHÍNH PHỦ PHÁP ĐO VÁN
NGOẠI TRƯỞNG MỸ QUỐC JOHN FOSTER DULLES (1888-1959) ,ĐÍCH THÂN ĐẾN GENEVA 28.4.1954 ,ĐẠI DIỆN MỸ QUỐC : DẠY LÃNH ĐẠO ĐẾ QUỐC PHÁP ĐÂM SAU LƯNG ĐỒNG MINH BÀI HỌC.
Lập trường 8 điểm của Việt Nam Dân chủ cộng Hòa , Thứ trưởng Ngoại Giao Bedell Smith đặc trách Châu Á -Thái Bình Dương , gởi cấp tốc về Mỹ làm bàng hoàng sững sờ Thống tướng TT thứ 34 U SA Eisenhower , và PTT Richard Nixon ,Ngoại trưởng Mỹ Quốc John Forster Dulles . Vị Hoàng đế không ngai U SA không ngờ giới lãnh đạo Pháp Quốc hành xử cạn tào ráo má như vây. Năm Xưa 1944 Hoàng Đế Không Ngai TT thứ 34 U SA đã tiến quân vào Giải Phóng Paris , và Nước Pháp. Hy sinh hàng chục ngàn chiến binh Mỹ quốc, đã mãi mãi nằm lại trên nước Pháp từ bãi biền Normandy trãi dài đến trên toàn lãnh thồ nước Pháp , sau 1945 ông TT ngây thơ Truman phung phí tiền bạc Xương Máu của người Dân Mỹ viện trợ cho Nước Pháp , từ 1950 Viện trợ Đông Dương lên đến 70% ngân sách chiến phí chiến tranh Đông Dương, thế mà ngày nay đâm sau lưng Mỹ Quốc , và sẽ làm cả hệ thống các nước Đông Nam Á sụp đổ sẽ là tay sai CS Bắc Kinh, Đây mới chính là kẻ thù Của Mỹ và Thế giới tự Do ,.
Ngày Hôm Sau Thống tướng TT thứ 34 U SA Yêu cầu: Đích thân Ngoại trưởng John Forster Dulles qua phó hội Hội Nghị Geneva thay thứ trường Bedell Smith vì tầm quan trọng vấn đề an ninh của Đông Nam Á , Hiệp Đình Đình Chiến Đông Dương dứt khoát không ký , vận động Liên Sô , Anh Quốc cũng vậy. Cảnh cáo giới lãnh đạo Pháp. Pháp sẽ là kẻ thù của Mỹ Quốc và Thế giới tự do
Một mặt Hoàng đế không ngai Thống tướng TT thứ 34 yêu cầu Bộ Ngoại Giao Mỹ , CIA hãy cố tìm hiểu tại VN , có khuôn mặt Một Lãnh tụ Anh Minh của Dân tộc. Mỹ Quốc sẽ ủng hộ hết mình xây dựng Quốc gia hùng mạnh , vì đây sẽ là tiền đồn của thề giới tự do ngăn chặn làn sóng đỏ Bắc Kinh. Tránh trường hợp TT Lý Thừa Vãn của South Korea thứ 2.
Ngoại trưởng John Forster Dulles đến dự Hội Nghị được 2 ngày , ông Ngoại trường Bidaut Pháp không dám hó hé tự kiêu như trước đây , đùng tin động trời choáng váng Ông Ngoại Trưởng : Khu trung tâm Bộ tư lệnh Điện Biên Phủ bị vây chặt , câu chuyện bộ lễ phục Thiếu tướng 2 Sao của Tướng De Castries , được Tướng Vệ Quốc Nguyễn Chí Thanh trao tận tay, và lời cầu cứu tuyệt vọng của Đại tướng Navarre. Ông Ngoại trưởng tỉnh giấc nhận ra bộ mặt tráo trở của Mao Chủ tịch - Hồ Chủ tịch .
Chính đích thân Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Zhou Enlai chuyền lời của Mao Chủ tịch , là đảm bảo danh dự cho Pháp Quốc bằng cách yêu cầu Hồ Chủ tịch cho Quân Pháp triệt thoái ra lòng chảo Điện Biên Phủ mà, ! vừa bảo vệ danh dự cho Đại tướng Henri Navarre , và Giới lãnh đạo Pháp.
Ông Ngoại trưởng Pháp vội đến Gặp Ngoại trưởng Mỹ : Dulles thĩnh cầu , năn nĩ Ông Ngoại trưởng Mỹ đề nghị Hoàng Đế không ngai dùng bom nguyên tử hủy diệt 5 sư đoàn của Việt Minh? ( Lạ quá Tổ quốc Pháp chế tạo thành công Bom Nguyên tử sao không dùng lại đi xúi dại , lợi dụng lòng tốt của Mỹ Quốc ! ).
Ngoại trưởng Mỹ lạnh lùng trả lời :
Muốn sử dụng Không lực Mỹ cho chiến trường Đông Dương , TT Eisenhower phải trình bày biểu quyết tại Quốc Hội, Không phải một thời ngắn mà được !.
Ngoại trưởng Pháp buồn thiu như con gà ướt , quả thật vì tham lam ích kỷ , đâm sau lưng Dân tộcVN Bất hạnh , Đâm sau lưng các nước Châu Á , đâm sau lưng Thế giới tư do , nên lãnh hậu quả bi đát. Xin Vinh Danh Ông Vệ Quốc Quân Tướng Nguyễn Chí Thanh đã dạy cho bọn chó đẻ lãnh đạo Pháp- Bắc kinh bài học đích đáng qua câu chuyện bộ lễ phục Thiếu tướng 2 sao ,Và vị Tướng tương lai Sa Pa Phạm Hồng Sơn chỉ tuân lệnh một mình Tướng Thanh tiến chiếm phi trường Mường Thanh ,mặc dù Ông Nguyên Soái 5 sao Tàu Phù Vi Quốc Thanh và Ông Tướng CS Võ Nguyên Giáp đề nghị đóng quân tại chỗ nghĩ ngơi chờ kết quả hội nghị Geneva. Từ ngày đó Pháp-Trung Cộng không còn tình Đồng Chí keo sơn như trước khi hội nghị Geneva khai mạc.
*Chú thích :
Tướng lãnh Việt Minh tại Điện Biên Phủ chia làm 2 phe :
1. Phe Bắc Kinh : Đại tướng CSVN : Võ Nguyên Giáp Tư lệnh chiến trường được Cố vấn 3 Tướng Hồng quân CS Trung Hoa : Nguyên soái 5 sao Vi Quốc Thanh , Đại tướng 4 sao Trần Canh , Thượng tướng 3 sao Lã Quí Ba.
2. Phe Trung tướng Nguyễn Chí Thanh Tổng Chính uỷ Chiến trường:-Thiếu tướng Phạm Hồng Cư -Thiếu tướng Đặng Kim Giang Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu Cần -Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa- Đại tá Lê Trọng Nghĩa :Cục trưởng cục tác chiến, Đại tá Sa Pa Phạm Hồng Sơn ..Đại tá Trương Đình Tuệ .
Cố vấn Liên Sô ủng hộ
Phe Bắc Kinh từ 26.4 .1954 muốn án quân bất động , để quân Pháp triệt thoái ra khỏi Thung Lũng Điện Biên Phủ trong Danh Dự .( Mao Trạch Đông hứa danh dự với Thủ tướng Pháp Joseph Laniel 28 June 1953 – 18 June 1954 .)
Phe Liên Sô tấn công đến cùng bắt quân Pháp đầu hàng vô điều kiện ! Phá Vỡ âm mưu Paris -Bắc Kinh
III TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH HẠ LỆNH :TỔNG TẤN CÔNG 1.5.1954 --7.5.1954
TÂN THIẾU TƯỚNG CHRISTIAN DE CASTRIES - VÀ BAN THAM MƯU TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG ĐIỆN BIÊN PHỦ RA ĐẦU HÀNG 7.5.1954
12 DÀN HỎA TIỂN 122 LY , MỖI DÀN PHÓNG RA 72 HỎA TIỄN 122 LY CÙNG MỘT LÚC : CHĨA VẢO BỘ TƯ LỆNH CUẢ TƯỚNG CHRISTIAN DE CASTRIES .
(DÀN HOẢ TIỄN HIỆN ĐẠI CUẢ NGA NÀY, NGAY QUÂN LỰC PHÁP , VÀ TRUNG CỘNG CŨNG KHÔNG CÓ VÀO THỜI ĐIỂM NÀY ! )
Tướng Nguyễn Chí Thanh quyết định mờ đợt Đợt tấn công thứ ba được mở ra vào 1 tháng 5, ( Cố vấn Liên Sô ủng hộ hết mình: Cố vấn phòng không cao xạ và Hõa tiền hiện đại 122 ly 6 nòng ngay cả Hồng quân CS Trung Hoa , và Quân Lực Pháp Cũng Không có )
Quân Lực Việt Minh tấn công đánh chiếm các cứ điểm cao ở phía đông, dự kiến từ 1-5 tới 5-5 phải tiêu diệt những cao điểm Eliane 1 và Claudine 1 ,mà hai bên vẫn còn tranh chấp đồng thời chiếm thêm một số vị trí phía Tây để uy hiếp Trung âm, Trưa 1-5 Đại đoàn Công Pháo 351 đồng loạt bắn vào trận địa. Pháo binh Pháp tại căn cứ phía Nam không bắn trả lại được phát nào, kho đạn tại đây bị trúng pháo kích nổ tung mấy ngàn quả. Đêm 1-5 VM chiếm được 4 cứ điểm phía Đông và một cứ điểm phía Tây, hôm sau họ chiếm được cứ điểm nằm sát sở chỉ huy của tân Thiếu tướng 2 sao De Castries.
Ngày 4-5 Tướng CS Võ Nguyên Giáp tuân lệnh Cố Vấn ông Nguyên soái 5 sao Vi Quốc Thanh cho lệnh tạm ngưng tấn công để họp bàn kế hoạch với các trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, để câu giờ chờ kết quả hội nghị trời Tây (chỉ thị Mao Chủ tịch , và Hồ Chủ tịch Vĩ Đại và họ cho biết Pháp đã đào một hầm kiên cố sâu trong ruột đồi Eliane 1, hầm này đã có từ lâu dưới thời Pháp thuộc :Rất khó tấn công sẽ thương vong rất nhiều .... !
Tướng Quân Trần Đại Nghĩa , nghĩ ra cách dùng chất nổ để phá hầm ngầm.Tướng Chí Thanh -Kim Giang và Cố Vấn Liên Sô đồng ý nhất trí 100% : tấn công tiếp vì chiến thắng cận kề sao vô lý dừng tấn công ngang xương như vậy .?
Tướng Hoàng Văn Thái Tham mưu trưởng Chiến trường cũng ủng hộ .- Tướng CS VN Võ Nguyên Giáp đành bất lực , Ông Nguyên soái 5 sao Vi Quốc Thanh , Tướng Trần Canh , Lã Quí Ba (Tàu phù) , cũng không biết cản làm sao nhất là mấy Cố Vấn Liên Sô có mặt ngồi ngay đó ủng hộ 100% ! ( Họ rất căm hận mấy tên Cố Vấn mắt xanh Mũi Lõ Liên Sô , trước đây không thấy nay sắp chiến thắng lại dẫn xác đến dành công với Tổ Quốc Trung Hoa Vĩ Đại, tốn bao tiền của từ 6 năm nay 1948-1954). Cuối cùng Quân Lực Việt Minh đào được hầm dài 50 thước xuyên qua lòng đồi, cách đỉnh 50 thước. Trong khi ấy Pháp chỉ còn lương thực dự trữ trong các cứ điểm đủ dùng cho ba ngày, đạn đại bác còn 275 viên 155 ly, 1400 viên 105 ly, 500 viên súng cối 120 ly, mặc dù số hàng thả xuống hơn một nửa sang địa phận Việt Minh nhưng vẫn phải thả dù ngày đêm. Đại Tướng Henri Navarre báo cáo về Pháp tình hình bi thảm của mặt trận, chính phủ Pháp cho biết không được đầu hàng. Đại tướng Navarre chủ trương tiếp tế lương thực đạn dược khi không còn điều kiện chiến đấu nữa thì rút sang Lào.
Đêm 2-5 có 120 tấn hàng được thả xuống chiến trường Điện Biên Phủ nhưng một nửa bị thất lạc, ngày hôm sau 3-5 lại thả thêm 45 tấn nữa để kéo dài sự hấp hối. Tại Bắc Việt Pháp còn 3 tiểu đoàn trừ bị,Trung tướng Réne Cogny dự định thả dù xuống mặt trận một tiểu đoàn để tiếp sức cho đoàn quân còn lại của Tướng De Castries, hai tiểu đoàn sẽ thả xuống từ Lào đến gần Điện Biên Phủ để đón quân tháo chạy, nhưng khi đó chiến sự diễn ra dữ dội khó tập hợp đám tàn quân. Tướng De Castries đề nghị tối 7-5 sẽ thực hiện kế hoạch lui quân, ông tình nguyện ở lại với thương binh, Tướng Cogny đồng ý ( Lúc này Ông Đại tướng Navarre giao trọn quyền cho Trung tướng Réne Congy tư lệnh chiến trường Bắc VN quyết định, đã quá muộn màng !) nhưng ngày 5-5 Tướng Nguyễn Chí Thanh-Phạm Hồng Cư -Hoàng Văn Thái -Tướng Đặng Kim Giang hạ lệnh Quân lực Việt Minh tấn công theo nhịp độ mạnh hơn, các Đại đoàn đã chiếm được các cứ điểm còn lại vây quanh khu Trung tâm, tối 6-5 Quân lực Việt Minh dùng gần một tấn thuốc nổ phá tan đồi Eliane 1 .
Các căn cứ Eliane 2, 3 Claudine 2 bị Đại Đoàn 308 , 312 tràn ngập, trận địa chỉ còn chừng 10 cứ điểm, quân Pháp xuống tinh thần, sáng ngày 7-5 Quân Lực VM xung phong lên chiếm căn cứ Eliane 4, hai bên đánh sáp lá cà, tình thế đã tuyệt vọng, các sĩ quan tham mưu kéo về hầm Trung ương. Tướng Nguyễn Chí Thanh - Hoàng Văn Thái -Phạm Hồng Cư - Đặng Kim Giang hạ lệnh Quân Lực Việt Minh 5 Đại đoàn siết chặt vòng vây, đến trưa các cứ điểm Pháp chống cự yếu ớt rồi đầu hàng. Đến năm giờ chiều :Tân Thiếu tướng Christian De Castries quyết định hàng. Điện Biện Phủ thất thủ ngày 7-5-1954. Tại Isabelle, căn cứ phía nam có 70 người mở đường máu chạy thoát sang Lào.
Trận đánh hoàn toàn kết thúc, Đế Quôc Pháp Bại Trận Thê thảm .
5 ,193 chết dead 5,195 wounded
1,729 mất tích missing 11,721 tù binh captured 8,290 POW dead after battle
Quân nhân Mỹ tử trận American casualties
2 phi công dead (James B. McGovern and Wallace A. Buford) declassified in 2004
Quân Lực Việt Minh :
5,020 tử trận dead 9,118 bị thương wounded 792 mất tích missing
Theo những tài liệu Pháp :Quân Lực Pháp có khoảng 4,000 người tử trận, hơn 11,2000 người bị bắt làm tù binh, 11 Phi cơ vận tải DC-4 và 54 khu trục cơ,(Chiến Đấu Cơ ) oanh tạc Cơ bị phòng không Đại đoàn Công -Pháo 351 Việt Minh bắn hạ . Theo tài liệu QLVNCH (Đại tá Hoàng Cơ Lân Y Sĩ trưởng Sư đoàn Nhảy Dù QLVNCH : Tổng số quân Liên Hợp Pháp tham chiến tại chiến trường Điện Biên Phủ bị tử trận khoảng 5,000 người, hơn một nửa là người Âu, còn lại là người Phi châu, Việt ,Nùng Thái….
Chú thích :Người Âu đa số là Pháp , vì có khoảng trên 2,000 chiến binh Quốc tế Đạo quân Lê Dương , 1,200 Chiến binh Bộ binh Sơn cước QLQGVN ( Nùng Thái) , đào ngũ lẫn trốn tại 2 bên bờ sông thượng nguốn Nam Yung (Nậm Rốn ).. Sư hy Sinh của hơn 1,300 Chiến binh QLQGVN , và Người Hùng Tướng Quân tương Lai :Phạm Văn Phú QLVNCH bị bắt làm tù binh 4 tháng là tội ác mà Ông Đại tướng Navarre và dàn sĩ quan tham mưu bất lương hành xử như một tên Thực dân Pháp vi phạm chủ quyền Quốc gia VN trắng trợn qua mặt Trung tướng Tổng Tư Lệnh QLQGVN Nguyễn Văn Hinh .
Tội ác Tướng Navarre không những với QLQGVN mà còn với Quân Lực Pháp , nướng những thanh niên Pháp chết một cách ngu xuẩn , vì sự ngu dốt của ông ta và dàn sĩ quan tham mưu . Thân là một Đại tướng thiết kế trận đánh mà các Tướng có khả năng phản đối lại không nghe ! ( Danh tướng Réne Conge Tư lệnh Chiến trường Bắc VN , Người Hùng Thiếu tướng Jean Giles tư lệnh Binh chủng Nhảy Dù tại Đông Dương Và Trung tướng Tổng Tư Lệnh QLQGVN phản đối không nghe : Tội ác của Ông quá lớn : đặc biệt 11,700 tù binh 5 tháng sau thả ra chỉ còn hơn 3,000 người sống sót (8,290 POW dead after battle!) đây cũng là Tội ác của Ông Đại tướng chứ không hẳn là của Việt Minh . Lý do : Số lượng tù binh di chuyển trên 200 km đường rừng rất nhiều đã bị thương , vết thương làm độc đã chết vì y tế Việt Minh thiếu thốn (Tài Liệu của Nga) , lại bị sốt rét, và bị khủng hoảng tinh thần , Thức Ăn khổ cực , ít ỏi so với tiêu chuẩn người Âu ,.
Người Phi Châu , Việt , Thái Nùng sống trên 95% cho đến ngày được thả .
I -HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU
Hoàng Đế Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞), , là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Vương Phi : Hoàng Thị Cúc sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 ( ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế,
Ngày 28 tháng 4 năm 1922,Hoàng tử Vĩnh Thuỵ lên 9 tuổi được sắc phong Đông Cung Hoàng Thái tử .
Ngày 15 tháng 6 năm 1922, Đông Cung Hoàng Thái tử Vĩnh Thuỵ cùng Phụ Vương Vua Khải Định sang Pháp để tham dự cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp.
Tháng 6 năm 1922,Đông Cung Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và cho ăn học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris.
Vua Khải Định mất ngày 6 tháng 11 năm 1925, Đông Cung Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy về nước thọ tang vua cha và ngày 8 tháng 1 năm 1926, Đông Cung Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy lên ngôi kế vị Hoàng Đế lấy niên hiệu Bảo Đại khi chưa đến 13 tuổi.
HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI ĐĂNG QUANG KHI CHƯA ĐẾN 13 TUỔI
Tháng 3 cùng năm,Hoàng Đế Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục việc học trao quyền cai trị đất nước cho các quan Phụ chính Đại thần .
Năm 1930,khi 17 tuổi Hoàng Đế Bảo Đại tốt nghiệp Tú tài Pháp , theo học trường Sĩ quan Kỵ Binh và Đại học Khoa học Chính trị (Sciences Po) Paris..
Đến tháng 9 năm 1932 ,Hoàng Đế : Bảo Đại hồi loan về nước., quyết tâm sẽ là Hoàng đế trẻ tuổi, Anh Minh của đất nước Việt Nam .
Trên chuyến tàu Hồi loan , như môt định mệnh Vị Hoàng Đế trẻ tuổi , gặp gỡ cô Nữ sinh Nguyễn Hữu Thị Lan 18 tuổi , vừa tốt nghiệp Tú tài tại Paris , về thăm gia đình tại Sài Gòn . Mối nhân duyên cũng đã đến 2 người , 2 Vị đều là trí thức , và có lòng yêu nước , Đặc biệt Hoàng Đế Bảo Đại thực tế lịch sử Ông là một vị Hoàng Đế yêu nước .
Hoàng Đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu là một cặp xứng đôi vừa lứa , thật ra là một vị Hoàng Đế và Hoàng Hậu trí thức và có lòng yêu nước , Quyết tâm canh tân , đưa đất nước VN , ra khỏi ảnh hưởng của Người Pháp .
CHÂN DUNG HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI
Tháng 9 năm 1932,Hoàng Đế Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm Vua cai trị thần dân . Vị Hoàng Đế 19 tuổi đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính .Hoàng Đế Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các Tiên vương đã thiết lập trước đây như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy... Ngày 8 tháng 4, năm 1932, Hoàng Đế Bảo Đại đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 Thượng thư( Bộ trưởng ) mới xuất thân từ giới học giả , hành chính và những vị quan lại yêu nước là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, và Bùi Đằng Đoàn và Tổng Đốc tỉnh Bình Thuận trẻ tuổi yêu nước tài ba , liêm khỉết : Ngô Đình Diệm (31 tuổi) nhằm thay thế các Thượng thư già yếu hoặc kém năng lực lại thân Pháp là Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại . Hoàng Đế thành lập Viện Dân biểu để dân chúng trình bày nguyện vọng lên nhà vua và Khâm sứ Pháp đồng thời cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Hoàng Đế trong việc thương nghị, bàn bạc với chính quyền bảo hộ Pháp, tháng 12 năm 1933,Hoàng Đế Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm Thần dân .
Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Hoàng Đế Bảo Đại : Thành hôn với Thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi Hoàng Đế Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương Nguyên phi (còn gọi Vương phi ), sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là Vị Hoàng Đế đầu tiên thực hiện bỏ chế độ Cung tần, Thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và Quốc tịch Pháp !
Sau đây trích đoạn nói về tình yêu của vị Hoàng Đế trẻ tuổi , và Người Thiếu nữ xinh đẹp Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".
Hoàng Đế Bảo Đại viết trong cuốn : Con rồng Việt Nam
* Nam Phương Hoàng hậu nhắc lại lần gặp gỡ đầu tiên :
"Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa phòng. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse.
(Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái: cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".
**Người Thiếu nữ xinh đẹp Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đoạt vương miện giải Hoa hậu Đông Dương, nhưng Cô mang quốc tịch Pháp và theo Công giáo. Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Hoàng Đế Bảo Đại và Thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối của Hoàng tộc nhà Nguyễn
Trước Hoàng Tộc, Hoàng Đế Bảo Đại đã nói: "Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu !"
HOA HẬU ĐÔNG DƯƠNG NGUYỄN HỮU THỊ LAN 20 TUỔI TRONG NGÀY THÀNH HÔN 20.3.1934- ĐƯỢC SẮC PHONG NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU .
VỊ HOÀNG HẬU DUY NHẤT TRIỀU NGUYỄN ĐƯƠC SẮC PHONG LÚC TẠI VỊ
HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI VÀ NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU TRONG CHUYẾN CÔNG DU PARIS 1939 TRƯỚC NGÀY ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN BÙNG NỔ 1.9.1939 .
II MỐI QUAN HỆ CUẢ HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU VÀ CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM TỪ 1934-1948.
Ngày 8 tháng 4, năm 1932, Tổng đốc Ngô Đình Diệm được Bổ nhậm Thượng thư Bộ Lại ( Bộ trưởng bộ Nội vụ) khi 31 tuổi là vị Thượng thư trẻ nhất của Vương Triều nhà Nguyễn 1802-1945 .
Dưới thời Quân chủ : Quan Văn, Quan Võ được xếp theo 6 Bộ (Lục Bộ) :Bộ Lại (Nội vụ); Bộ Lễ (Ngoại giao); Bộ Hộ (Tài chánh ); Bộ Binh (Quốc phòng); Bộ Hình (Tư pháp) và Bộ Công ( Xây dựng-Công chánh ) Tất cả đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Hoàng Đế.
Dưới các Bộ là Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ... (Tương đương Vụ trưởng, Giám đốc các Nha hoặc Chánh văn phòng ngày nay).
Trong thời kỳ nhiệm chức : Thượng thư Ngô Đình Diệm là vị Quan có tài ,có khả năng và yêu nước rất được lòng Hoàng Đế và Nam Phương Hoàng Hậu .
1933 Thượng thư Ngô Đình Diệm 32 tuổi được bầu làm Tổng thư ký Uỷ ban Cải Cách. 5.1934 ông đề xướng 3 điều với chính quyền bảo hộ Pháp :
Một là :Thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và cho Viện Dân biểu (Nhân dân Đại biểu) Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề.
Hai :Yêu cầu chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam )và Thống sứ Bắc Kỳ (Résident général du Tonkin )và thu về thành một viên Tổng trú sứ (Résident général) ở Huế mà thôi để Hoàng Đế và Triều đình dễ dàng canh tân Đất nước .
Ba là phải canh tân lối cai trị cũ để cho người dân có sống tự do, ấm no và dể thở hơn .
Đây là những yêu cầu chính đáng, thiết thực cho đất nước trong bối cảnh lịch sử thập niên 1930, dưới sự bảo hộ của chính phủ Pháp.Vì thế Hoàng Đế Bảo Đại, Hoàng Hậu , và Triều đình ủng hộ hết mình.
Nhưng những yêu sách này làm cho viên Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier nổi giận ! .
Thực Dân Pháp nghĩ rằng khi đưa Đông cung Thái tử Vĩnh Thuỵ qua Paris học từ nhỏ 1922, là mục đích đào tạo một vị Hoàng Đế An Nam thần phục Chính Phủ Pháp tránh trường hợp hợp như các Hoàng Đế : Hàm Nghi , Thành Thái , và Duy Tân chống lại Thực dân Pháp !.
Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier cũng là người ủng hộ cuộc hôn nhân của Hoàng Đế, và Nam Phương Hoàng Hậu, vì nghĩ rằng Hoàng Hậu được đào tạo tại Paris, Quốc tịch Pháp , thì tất nhiên phải trung thành với nước Pháp !
Nhưng bây giờ cả Hoàng Đế , và Hoàng Hậu đều muốn đất nước An Nam này từ từ thoát khỏi ảnh hưởng của chính quyền Bảo hộ Pháp !
Thế là bao nhiêu căm giận Ông Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier trút lên đầu Vị Thượng thư Ngô Đình Diệm 33 tuổi Tổng thư ký Uỷ ban Cải Cách !
Vì Ông Toàn Quyền nghĩ rằng Thượng thư Ngô Đình Diệm Tổng thư ký Uỷ ban Cải Cách đã đầu độc tư tưởng Hoàng Đế 21 tuổi và Hoàng Hậu 20 tuổi.
Ông Toàn Quyền Pierre Pasquier quyết định ra tay !
Tất cả 3 yêu sách trên đều bị bác bỏ thẳng thừng , Lúc này Hoàng Đế và Hoàng Hậu đều căm giận Ông Toàn Quyền Đông Dương , nhưng Họ còn quá trẻ !.
Thượng thư Ngô Đình Diệm Tổng thư ký Uỷ ban Cải Cách , thấy tình hình như vậy : Thực dân Pháp không thực tâm với Đất nước VN, để tránh rắc rối và trợ giúp Hoàng Đế , Hoàng Hậu .
Ông Thượng thư 33 tuổi từ chức , cáo quan 12.07.1934, dấn thân vào con đường cách mạng : vận động Trí thức VN ,vận động Chính khách Pháp tại Paris và dân chúng biểu tình để đòi truất phế Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier.
Sau khi từ quan khi 33 tuổi , Chí Sĩ Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn cùng với Các Trí thức Sài Gòn lúc bấy giờ : Nguyễn Phan Long , Lê Văn Kim ( không phải Tướng Lê Văn Kim VNCH !) Tổ chức thành lập : Phong trào của Trí thức Nam và Trung Kỳ , thành lập và Lãnh đạo Đảng Đại Việt Phục Hưng chống Pháp :Vận động Chính khách Pháp tại Paris và dân chúng biểu tình để đòi truất phế Toàn Quyền Đông Dương Pierre Pasquier.
Nhưng đã bị Thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, việc không thành. Toàn Quyền Đông Dương càng căm hận Ông cựu Thượng thư , nhưng do uý tín Chí Sĩ Ngô Đình Diệm quá lớn trong dân chúng, lại được cảm tình của Hoàng Đế và Hoàng Hậu, không trị tội được sợ thổi bùng ngọn lửa cách mạng !
Chí Sĩ Ngô Đình Diệm bị Toàn Quyền Pasquier trục xuất ra khỏi Sài Gòn và Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình.
Cũng chính trong thời gian tại Quảng Bình , Ông Ngô Đình Nhu đã yêu ngưòi Thôn nữ mối tình đầu, sau này ngưòi thôn nữ là phu nhân của Trung tướng 2 sao Nguyễn Văn Vịnh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng VNDCCH 1955-2.11.1963. ( phần đầu Điệp Vụ)..
Cũng trong thời gian lưu trú tại Quảng Bình , Chí Sĩ Ngô Đình Diệm cùng em trai thanh niên Ngô Đình Nhu đã khôi phục ,thành lâp lại Đảng Đại Việt Phục Hưng , bao gồm các trí thức trẻ , quan lại trẻ , Linh mục , Các Binh Sĩ VN Lính Thuộc địa ( Khố Xanh , Khố Đỏ ) Nông dân, Công Nhân tại Miền Trung !
Sau khi Toàn quyền Pasquier mất 11.1934 !, Viên Toàn quyền mới là Eugene René Robin
Một thời gian sau do vận động của Hoàng Đế Bảo Đại , và Nam Phương Hoàng Hậu . Toàn quyền René Robin đồng ý khôi phục lại tước vị hàm Thượng thư cho Chí Sĩ Ngô Đình Diệm nhưng phải về hưu ,và cho Chí Sĩ cư trú tại Huế ,dạy học tại trường Thiên Hựu ( Providence) do anh ông là Ngô Đình Thục làm Giám học.
Trong thời gian lưu trú tại Huế . Chí Sĩ Ngô Đình Diệm bí mật phát triển Đảng Đại Việt Phục Hưng rất mạnh 1934-1944, người lính khố xanh trẻ tuổi Đỗ Mậu cũng tham gia trong thời gian này .
Hoàng Đế , và Hoàng Hậu , cũng thường bí mật tiếp xúc với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm một thời gian !
Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp đã phá vỡ tổ chức Đảng Đại Việt Phục Hưng và tổ chức vây bắt Chí Sĩ Ngô Đình Diệm ở tại Phú Cam Huế. Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Chí Sĩ Ngô Đình Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng phi cơ quân sự đưa vào Sài Gòn trú ngụ tại trụ sở hiến binh của Nhật .Chí Sĩ Ngô Đình Diệm cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do Hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp mục đích giành Độc lập cho Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương , trao trả Độc lập cho Việt Nam.
Hai ngày sau, 11 Tháng Ba năm 1945 ,Hoàng Đế Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki vào điện Kiến Trung để tuyên bố nước Việt Nam độc lập , Cùng đi với Yokoyama là tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo. Bản tuyên ngôn đó có chữ ký của sáu vị thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt, và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại:
“ Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia Độc lập."
Điều này chứng tỏ Hoàng Đế Bảo Đại là người yêu nước (Lần thứ 2). Lần thứ 1 :Ngay từ khi Hoàng Đế hồi loan 1932 đã có ước muốn là một vị Minh quân , nhưng do bối cảnh đất nước bị Thực dân Pháp bảo hộ , nên đã cản trở không thực hiện được .
Hoàng Đế Bảo Đại , và Nam Phương Hoàng Hậu bổ nhậm Chí Sĩ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Việt Nam.
Chí Sĩ Ngô Đình Diệm từ chối ! (Lần thứ 1)
Vì Chí Sĩ Ngô Đình Diệm biết rằng Nhật Bản trước sau cũng bại trận !
Nhật trao trả Độc Lập VN với điều kiện Việt Nam , phải nằm trong khối Đại Đông Á, là đồng minh của Nhật , chống lại Đồng Minh , nếu Nhật bại trận , tương lai VN là u ám !
Chí Sĩ Ngô Đình Diệm từ chối , Hoàng Đế và Hoàng Hậu buồn không ít , và sau cùng Hoàng Đế bổ nhậm Học giả Trần Trọng Kim (1883–1953) làm Thủ tướng đặt quốc hiệu : Đế quốc Việt Nam.
Thành phần nội các Thủ tướng Trần Trọng Kim ra mắt Quốc dân ngày 19 tháng 4,1945 :
Bác sĩ Hồ Tá Khanh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế
Luật sư Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Thanh niên
Bác sĩ Trần Đình Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Luật sư Trịnh Đình Thảo - Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Cựu Tổng đốc tỉnh Thái Bình là Phan Kế Toại được bổ làm Khâm sai Bắc Kỳ .
Ông Nguyễn Văn Sâm làm Khâm sai Nam Kỳ đại diện cho triều đình Huế ở trong Nam và ngoài Bắc.
Tại Hà Nội Ông Phan Kế Toại tiếp thu phủ Thống sứ và Ông Trần Văn Lai nhậm chức ở Tòa đô chính Hà Nội trước đám đông dân chúng đến chứng kiến việc thu hồi độc lập của Đất nước !
III CÁCH MẠNG MUÀ THU NĂM 1945 BƯỚC NGOẶC CUẢ DÂN TỘC VIỆT NAM- BƯỚC NGOẶC CUỘC ĐỜI CUẢ HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU - BƯỚC NGOẶC CUỘC ĐỜI CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM
"Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ".
Hoàng Đế Bảo Đại Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ : Cách mạng mùa Thu 30.8.1945 ( lần yêu nước thứ 3)
Những điều suy nghĩ của Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đã thành sự thật , Nhật Bản bại trận .
Tháng 8 năm 1945 Quân Lực Mỹ và Hồng quân Liên Sô tấn cống 2 gọng kìm siết chặt nước Nhật . Hồng quân Liên sô đánh tan 1 triệu quân Quan Đông Nhật Bản, chiếm toàn bộ Mãn Châu , vượt sông Áp Lục Giang biên giới Mãn Châu và Triều Tiên , tiến tới vĩ tuyến 38.
Quân đoàn 3 Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ Quốc đã chiếm Okinawa.
Viễn cảnh Nước Nhật như nước Đức bị Mỹ Quốc-Liên Sô chiếm đóng là điều hiển nhiên !
Để tránh nước Nhật như Đức Quốc phân chia Đông -Tây. Mỹ đã thả bom nguyên tử . Ngày 6 và 9 tháng 8,1945 hai quả bom đã được Mỹ Quốc thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện .
PHỦ KHÂM SAI BẮC BỘ PHỦ 17.8.1945 KHỞI ĐẦU CÁCH MẠNG MÙA THU 1945
Ngày 17 tháng 8, cuộc meeting của Tổng hội công chức chính quyền Thủ tướng Trần Trọng Kim tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội để ủng hộ chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn, cờ quẻ ly được kéo lên, mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Thủ tướng Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm "
CUỘC XUỐNG ĐƯỜNG VĨ ĐẠI CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI : 60.000 NGƯỜI TẠI NHÀ HÁT LỚN HÀ NỘI KHAI TỬ CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP SAU 83 NĂM ĐÔ HỘ (1862--1945)
2 BÀI CA CUẢ CÁCH MẠNG MUÀ THU :
TIẾNG GỌI THANH NIÊN ,SINH VIÊN HÀNH KHÚC
TIẾNG GỌI THANH NIÊN
Này thanh niên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi Đồng lòng cùng đi đi đi mở đường khai lối Vì non sông nước xưa truyền muôn năm chớ quên Nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn Hồn thanh xuân như gương trong sáng Đừng tiếc máu nóng tài xin ráng Thời khó thế khó khó làm yếu ta Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá Đường mới kiếp phóng mắt nhìn xa bốn phương Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Thanh niên ơi! Ta quyết đi đến cùng Thanh niên ơi! Ta nguyền đem hết lòng Tiến lên, đồng tiến, vẻ vang đời sống Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng
SINH VIÊN HÀNH KHÚC
I.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi! Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên, Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn! Hồn thanh xuân như gương trong sáng, Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng! Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta, Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương, Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng! Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng! Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng! II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá! Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá! Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn, Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam, Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên, Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
Điệp khúc
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng, Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng! Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông, Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay lái Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ cách mạng
Thành Phố Sài Gòn,Hòn Ngọc Viễn Đông : Đức Giáo Chủ Hòa Hảo -Huỳnh Phú Sổ kết hợp các đoàn thể quốc gia Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt trận Quốc gia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.
Quân đội Nhật ủng hộ , vì lúc này Quân đội Thiên Hoàng biết Nhật Hoàng đã đầu hàng
Việt Minh chỉ là một nhúm Người do Đảng Viên CS Trần Văn Giàu lãnh đạo
Vậy mà Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh tổ chức biểu tình và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Đại Việt Quốc dân đảng, Đại Việt Dân Chính Quốc dân đảng lại vui vẻ hợp tác khiến Đức Giáo Chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ và Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Cao Đài , đành chịu thua phải hợp tác Việt Minh . Do Việt Minh giành được chính quyền Hà Nội và Thành Phố Sài Gòn . Nên các thành phố khác cũng phải chấp nhận Việt Minh .Đến ngày 28 tháng 8, do Việt Minh giành được chính quyền toàn quốc thấm chí có những tình không có Việt Minh . Hai tỉnh cướp được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.
Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị
Việt Minh gửi công điện yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị, họ đã giành được chính quyền. Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh Thụy. Ngày 30 tháng 8, hàng mấy vạn người tụ tập trước Ngọ Môn Lâu xem nhà vua thoái vị, ông tuyên bố : "Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
Sau đó công dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Bộ trưởng tuyên truyền Trần Huy Liệu .Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị, "Hồ Chí Minh" ở Pac Bó mới về Hà Nội, dân chúng VN vẫn chưa biết "Hồ Chí Minh" là ai ? , là tiểu sử như thế nào ? ( Dân tộc VN quá bất hạnh !)
Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945
Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam :
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Chủ tịch "Hồ Chí Minh" đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh một nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn, dựa theo bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ Quốc, bắt đầu bằng câu: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."
Trong lúc này Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đang bị bắt giam, ngồi tù !
Thượng Thư :Học giả Phạm Quỳnh đã bị thủ tiêu tại Huế !
Tại kinh thành Huế , Nam Phương Hoàng Hậu 31 tuổi , đang cùng 5 người con còn trẻ dại lớn nhất 9 tuổi , bé nhất chỉ mới lên 2, cùng cựu Hoàng nhìn kinh thành lần cuối về tá túc tại Phú Cam .
Các người con của Hoàng Đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu :
Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007
Công chúa Nguyễn Phúc Phương Mai,sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt
Công chúa Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938
Công chúa Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942
Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943
** Nam Phương Hoàng Hậu không biết tương lai đi về đâu ? số phận có giống như Vua Louis XVI và Hoàng hậu Marie Antoinette của nước Pháp như trong cuộc cách mạng 1789 không ?
Khi Việt Minh giành chính quyền mùa Thu 1945, Chí sĩ Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà - Phú Yên, chỉ có hai người em Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn chạy thoát. Người anh Ngô Đình Khôi và người con trai Ngô Đình Huân bị Việt Minh bắt cùng với Học giả Phạm Quỳnh, bấy giờ là Thượng thư Bộ Lại tất cả bị đem hành quyết ở rừng Hắc Thú .
Ngô Đình Khôi 1885 - 1945) là Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Ông là con cả của Ông Ngô Đình Khả, tức người anh lớn nhất trong gia đình các ông Giám mục Ngô Đình Thục,TT Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu,Cố Vấn Ngô Đình Cẩn .
Ông được được triều đình Huế bổ nhiệm vào làm trong Bộ binh năm 1910. Được ít lâu ông về làm rể Thượng thư Nguyễn Hữu Bài. Năm 1930 ông thăng chức Tổng đốc Quảng Nam. Con của ông là Ngô Đình Huân làm thư ký và thông ngôn cho Yokoyama Masayuki, viện trưởng Viện văn hóa Nhật Bản tại Sài Gòn. Vì ý hướng Chống Pháp thân Nhật,Tổng đốc Ngô Đình Khôi bị Thực dân Pháp ép về hưu năm 1943 .
Mùa Thu 1945 Ông và người con trai Ngô Đình Huân bị Việt Minh bắt cùng với Học giả Phạm Quỳnh, bấy giờ là thượng thư Bộ Lại tất cả bị đem hành quyết ở rừng Hắc Thú .
Còn Chí sĩ Ngô Đình Diệm bị bắt đem ra Bắc và giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang .
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoạ Khai sinh .
Ngày 20 tháng 9 năm 1945 quân viễn chinh Pháp tháp tùng quân Anh từ Ấn Độ trờ lại Sài Gòn
Ngày 6 tháng 9, 1945, quân đội Anh với danh nghĩa giải giáp quân Nhật tới Sài Gòn. theo Hiệp ước Postdam 2.8.1945. Quân đội Anh Quốc giải giáp Quân Nhật đến Vĩ tuyến 16 Đà Nẵng , Quân đội Trung Hoa Dân Quốc giải giáp quân Nhật đến Huế
Ngày 20 tháng 9, quân đội Anh thả các tù binh Pháp bị giam từ ngày Nhật đảo chính; ra lệnh đóng cửa tất cả báo chí ở Sài Gòn.
Ngày 21 tháng 9, quân Anh chiếm đóng trụ sở cảnh sát quận 3, thả tù binh Pháp và tái trang bị; đồng thời, ra lệnh thiết quân luật, cấm người dân không được biểu tình, hội họp, đem theo vũ khí và đi lại ban đêm. Quyền tự do, độc lập của người dân Việt Nam mới giành được từ tay Nhật nay bị xâm hại nghiêm trọng. Và đến 0 giờ ngày 23, quân đội Anh đã làm ngơ cho quân Pháp tiến đánh Sài Gòn.
Trước tình hình bị 2 gọng kìm đe doạ , chính phủ Chủ tịch " Hồ Chí Minh " lại còn quá yếu, phải tiến hành thành lập chính phủ Liên hiệp kháng chiến,
Nhưng không thể để các Đảng phái Quốc gia mạnh như Việt Nam Quốc Dân Đảng , Đại Việt của lãnh tụ Trương Tử Anh trong chính quyền . Chính phủ chủ tịch "Hồ Chí Minh" dùng tuyệt chiêu :
1. Bổ nhậm : Nhà Văn Nhất Linh lãnh tụ Đại Việt Dân Chính Quốc Dân Đảng , chỉ là hệ phái rất ít người làm Bộ trưởng Ngoại giao hư vị, để cô lập lãnh tụ Trương Tử Anh .Thứ trưởng là Phạm Văn Đồng
2. Bổ nhậm Lãnh tụ Vũ Hồng Khanh lãnh tụ hệ phái ít người Quốc Dân Đảng tại Trung Hoa làm Bộ trưởng Quốc Phòng hư vị, Thứ trưởng là Võ Nguyên Giáp , để cô lập Việt Nam Quốc Dân Đảng trong nước.
3. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là nhà nho yêu nước , nhưng già yếu bệnh tật gần đất xa trời làm phó chủ tịch nước VNDCCH.
4. Cựu Hoàng : Công Dân Vĩnh Thuỵ lám Cố Vấn tối Cao hư Vị .
5. Mời Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đang bị giam trong tù tham gia nội các chính phủ VNDCCH ( cấp bộ trưởng )..Để chứng tỏ người dân VN thấy đây là chính phủ của toàn dân !nhằm huy động sức mạnh tổng lực của toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp
Lãnh tụ Nhất Linh, Vũ Hồng Khanh , Cụ Huỳnh Túc Kháng vui vẻ nhận chức vụ.
Cựu Hoàng và Nam Phương Hoàng Hậu đã biết Chủ tịch "Hồ Chí Minh" là cộng sản thứ thiệt, Số phận gia đình rồi sẽ giống như số phận Vua , Hoàng hậu nước Pháp trong cách mạng 1789 , hay Nga Hoàng và Hoàng hậu trong cách mạng tháng 10 Nga 1917 là trước sau cũng bị hành quyết.
Vì vậy dù biết là chức Cố vấn hư vị , Cựu Hoàng cũng phải chấp nhận để bảo vệ mạng sống mình , Hoàng Hậu và 5 người con thơ dại trước mắt .
Hoàng Đế từ giả Nam Phương Hoàng Hậu và các Thái tử , Công Chúa, Hoàng Tử để ra Hà Nội nhận chức vụ .
Đây là cuộc chia tay nghìn trùng xa cách mãi mãi giữa Hoàng Đế và Nam Phương Hoàng Hậu !
Chí Sĩ Ngô Đình Diệm cương quyết từ chối chấp nhận ở tù !
Chính phủ Chủ tịch " Hồ Chí Minh " rất căm giận Chí Sĩ Ngô Đình Diệm , nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó không thể tử hình , vì uy tín Chí Sĩ Ngô Đình Diệm rất lớn trong lòng Dân tộc VN trong thời bấy giờ, hình ảnh vị Thượng thư 33 tuổi tài ba , liêm khiết yêu nước :Cáo rũ từ quan dấn thân trên con đường cách mạng , từ chối chức vụ Thủ tướng 3.1945, vì không muốn tương lai Việt Nam u ám,.
Thêm thay tình hình Chính phủ Chủ tịch " Hồ Chí Minh " đang bị 2 gọng kìm : Quân Pháp , và Quân Trung Hoa Dân Quốc đe doạ, cần lấy lòng dân chúng trước mắt .
Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946
Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt là một hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946 giữa Chính phủ Pháp và Chủ tịch "Hồ Chí Minh "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của cả hai bên nhằm mưu đồ lợi ích riêng.
Chính phủ Chủ tịch "Hồ Chí Minh " buộc phải công nhận việc quân Pháp vào Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, họ cũng cố lợi dụng cơ hội này để ký với Pháp một hiệp định để tranh thủ những điều kiện có lợi.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký kết giữa Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và Hồ Chí Minh (CS) cùng Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ hệ phái ít người tại Trung Hoa ), đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nội dung của Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây:
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3000 quân.
Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Bộ về việc thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai bên thực hiện ngưng bắn ngay tại Nam Bộ.
Về phía người Pháp, họ đã có danh chính ngôn thuận đưa quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương như họ đã làm ở Nam Việt Nam, đồng thời thoát khỏi sự ngăn cản của các tướng lãnh Trung Hoa.
Về phía Chính phủ Chủ tịch "Hồ Chí Minh ", loại trừ nguy cơ của 20 vạn quân Trung Hoa chiếm đóng, tránh được thế "lưỡng đầu thọ địch" tập trung đề đối phó với người Pháp. Đồng thời, tranh thủ được thời gian hòa hoãn quý báu để để diệt các đảng phái quốc gia củng cố quyền lực Đảng Cộng Sản , xây dựng lực lượng Cộng Sản bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp tái chiếm Đông Dương.
ngày 2 tháng 6 năm 1946, Chủ tịch "Hồ Chí Minh " Nhà Văn Nhất Linh lãnh tụ Đại Việt Dân Chính Quốc Dân Đảng :Bộ trưởng Ngoại giao hư vị cùng đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên đường sang Paris để đàm phán về cách thi hành hiệp định.
Lúc này Chí Sĩ Ngô Đình Diệm bị bệnh nặng tại nhà tù Tuyên Quang !
Các trí thức yêu nước , nhân sĩ , Đảng phái Quốc Gia , Lãnh tụ Đại Việt Trương Tử Anh, Nhà Văn Khái Hưng VNQDĐ và Cố Vấn Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ : áp lực yêu cầu Phó Chủ tịch kiêm Quyền Chủ tịch nước VNDCCH Huỳnh Thúc Kháng ( C T " Hồ Chí Minh " đang ở Pháp ) :Chí Sĩ Ngô Đình Diệm được về điều trị tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội !
Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng đồng ý .
Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đưa về điều trị tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội !
Ông Ngô Đình Nhu lúc đó đang ở Hà Nội ,cùng các trí thức yêu nước , nhân sĩ cứu thoát Chí Sĩ Ngô Đình Diệm thành công.
IV CỰU HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI -CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM XUẤT DƯƠNG TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC - CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM TỪ CHỐI THỦ TƯỚNG QUỐC GIA VIỆT NAM NĂM 1948 VÌ CHÍNH PHỦ PHÁP KHÔNG THỰC TÂM - HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI CHÁN NẢN VẬN NƯỚC :THỰC DÂN-CỘNG SẢN ĐẮM CHÌM TRONG TỬU SẮC -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU ĐAU KHỔ !
CỰU HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI XUẤT DƯƠNG TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Trong thời gian ở tại Hà Nội với tư cách Cố vấn tối cao nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Cố Vấn Vĩnh Thuỵ là người thông minh từng sinh viên trường sĩ quan Kỵ Binh, từng học đại học chính trị Paris nên biết rõ ý đồ của Chủ tịch " Hồ Chí Minh" nhất là việc Chí sĩ Ngô Đình Diệm bị bắt giam , và chính phủ "Hồ Chí Minh" bổ nhậm Nhất Linh , Vũ Hồng Khanh, Huỳnh Thúc Kháng. Nhưng trước mắt phải cứu mình và vợ con , không thể bị hành quyết như Vua , Hoàng Hậu của Pháp và Nga trong 2 cuộc cách mạng nổi tiếng trên thế giới 1789, và 1917 .
Ông Hoàng Đế Cố vấn không những nhẫn nhục với Chủ tịch " Hồ Chí Minh " Võ Nguyên Giáp , Phạm Văn Đồng, mà ngay cả những người đang ngây thơ nghĩ mình thời thế đang lên : Nhất Linh và Vũ Hồng Khanh, Hoàng Đế cũng phải nhẫn nhục luôn (không được để họ nghi ngờ) , để chờ cơ hội xuất dương !
Cố vấn Tối cao Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ nước VNDCCH , sống tại Hà Nội 6 tháng : 180 ngày là phải đấu trí với tất cả dàn nội các chính phủ " Hồ Chí Minh " đây là lý do mà sau này Hoàng Đế Quốc Trưởng không bao giờ trọng dụng Nhất Linh, dù năm 1948 , nhà văn Nhất Linh đã yết kiến Quốc trưởng tại Hồng Kông khi khai sinh Quốc Gia VN, với mục đích được ghế Bộ trưởng trong Quốc Gia VN .
Trong hơn 180 ngày (9.1945- 3.1946 ) Cố vấn Tối cao Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ sống trong cơ hàn không tiền bạc , xa Hoàng Hậu và các con Thái tử , Công Chúa , và Hoàng tử thơ dại . 13 năm làm Hoàng Đế , chỉ biết thương yêu một mình Nam Phương Hoàng Hậu , bãi bỏ Hệ thống Cung nữ , Thứ Phi mà Tiên vương và các Hoàng Đế đã đặt ra , chỉ có Nam Phương Hoàng Hậu là duy nhất !
Trong thời gian cựu Hoàng Đế sống trong cơ hàn , phải đấu trí với tất cả Nội các Chủ tịch " Hồ Chí Minh " kể cả Nhất Linh và Vũ Hồng Khanh 2 nhân vật này hết lòng với chủ tịch "Hồ Chí Minh" tôi không muốn trích dẫn ra đây vì không nằm trong phần bài viết , và không muốn tranh luận dài dòng mất thì giờ .
Một người Thiếu Nữ Hà Nội xinh đẹp gốc Bắc Ninh con nhà giàu có : đem lòng yêu cựu Hoàng Đế sa cơ , đó là Thiếu nữ đất Hà Thành Mộng Điệp , không care Cựu Hoàng Đế đã có 5 người con !hơn mình cả con giáp 12 !, hết thời làm Hoàng Đế , trái tim người Thiếu nữ Hà Nội mới lớn yêu hết mình ! Dù chỉ được làm một người thứ phi hết thời cũng chấp nhận luôn !
Trong hoàn cảnh cô đơn tứ bề thọ địch , cựu Hoàng Đế , đành chấp nhận mối tình này Tháng 2.1946,Tôi hoàn toàn thông cảm với Hoàng Đế, nhưng đây là nhát dao đâm vào trái tim của Nam Phương Hoàng Hậu sau này.
Chính Phủ: Chủ tịch " Hồ Chí Minh" luôn tìm cách hạ uy tín của Ông Cựu Hoáng Đế Cố vấn tối cao hư vị , nên tiếng đồn rất nhanh .
Chẳng mấy chốc đến tai Nam Phương Hoàng Hậu . Nhưng Hoàng Hậu dù có tan nát cõi lòng , vẫn bình tĩnh mục đích tối quan trọng trước mắt là phải bảo vệ mạng sống các con , mình, và Hoàng thượng , phải rời Việt Nam càng sớm càng tốt, trước khi quá muộn , vì vậy trước mọi lời dị nghị :
Nam Phương Hoàng Hậu vẫn giữ bình tĩnh như bàn thạch ! tha thứ cho Hoàng Đế !
Nhưng Phu Nhân Mộng Điệp quá đáng, sau này sống chung cựu Hoàng Đế, khi Nam Phương Hoàng Hậu mất 1963 , công chúa Phượng Liên đánh điện cựu Hoàng về dự tang lễ , Bà Mộng Điệp giấu bức điện tín đi .
Ngày tang lễ không có cựu Hoàng chỉ có 5 Anh em Thái tử ,Công chúa, Hoàng tử đưa người mẹ yêu dấu Nam Phương Hoàng Hậu về nơi an nghĩ ! đây là lý do 5 Anh em Thái tử, Công chúa giận phụ vương : Hoàng Đế Bảo Đại
"..tin mẹ chết, công chúa Phượng Liên tức tốc đánh điện tín báo tin cho cựu Hoàng. Nhưng bà Mộng Điệp đã dấu bức điện tín đó, vì vậy mà cựu Hoàng Bảo Đại không hay biết gì nên đã vắng mặt trong ngày đám tang của một người mà có thời đã cùng ông đầu ấp tay gối. Sự kiện đó đã gây sự hiểu lầm khiến về sau các Hoàng tử và Công chúa đã ôm lòng oán hận người cha mà họ nghĩ là một người chồng không trọn nghĩa thủy chung!
Mộ Nam Phương Hoàng hậu chôn tại làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số. Đó là một ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:
Bia chữ Hán:
ĐẠI NAM- NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ có nghĩa là: "Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương".
Bia chữ Pháp:
ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAMNÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN
có nghĩa là: "Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan".
Tháng 2 năm 1946 Cố Vấn Vĩnh Thuỵ trong tình trạng cô đơn ,căng thẳng cơ hàn đã chấp nhận tình yêu của Thiếu Nữ Mộng Điệp đất Hà Thành , Công Bình :Hoàng Đế không thể đối với Mộng Điệp , như là đối với Nam Phương Hoàng Hậu, sự quen biết lại là một vỏ bọc tốt cho cựu Hoàng Đế , giờ này Chính phủ của chủ tịch "Hồ Chí Minh" họ có bằng cớ nói xấu cựu Hoàng , nên không còn cảnh giác Ông Cựu Hoàng Đế như là là một địch thủ đáng sợ của chủ tịch " Hồ Chí Minh" nữa , đây chính là cơ tốt cho cựu Hoàng ra đi .
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 Chủ tịch " Hồ Chí Minh", Bộ trưởng Ngoại giao Nhất Linh, Thứ trưởng ngoại giao Phạm Văn Đồng lên đường đi Pháp để bàn thảo Chính Phủ Pháp thi hành hiệp ước Sơ Bộ. Thứ trưởng Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp thì đang củng cố lực lượng để diệt các kháng chiến quân của Lãnh tụ Trương Tử Anh (Đại Việt ) và Nhà Văn Khái Hưng Quốc Dân Đảng, qua tay 2 ông Bộ trưởng ngây thơ Nhất Linh , và Vũ Hồng Khanh
Trước khi lên đường đi Pháp :Bộ trưởng Ngoại Giao Nhất Linh tuân lệnh Chủ Tịch "Hồ Chí Minh" trên tư cách Tổng thư ký Đảng Đại Việt , chức vụ này Nhất Linh mới nhận, sau khi giữ chức bộ trưởng Ngoại giao ra lệnh ; Tất cả Các Kháng Chiến Quân Đại Việt trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam phải sát nhập vào Quân Đội Nhân Dân Việt Nam ?
Nhất Linh là nhà văn nổi tiếng, một trong những người khai sáng Tự Lực Văn Đoàn, nên rất có uy tín trong giới trí thức thanh niên thời bấy giờ. nên khi mệnh lệnh ông ban ra : đại đa số kháng chiến quân Đại Việt tuân lệnh . Lãnh tụ Trương Tử Anh giờ như con cá nằm trên thớt , không còn quân bao nhiêu .
Bên VN Quốc Dân Đảng : Bộ trưởng Quốc phòng Vũ Hồng Khanh cũng ra lệnh như vậy.
Nhà Văn Khái Hưng và các Anh em Quốc Dân Đảng cũng như con cá nằm trên thớt.
Chỉ chờ ngày Võ Nguyên Giáp buông đao hạ thủ !.
Cựu Hoàng Đế Bảo Đại quyết định ra đi trước khi quá muộn , lúc này Thiếu nữ Mộng Điệp đã mang bầu một tháng !
Phái đoàn Chủ tịch :" Hồ Chí Minh " lên đường đi Pháp được 3 ngày, thì Chí Sĩ Ngô Đình Diệm đã được giải cứu tại bệnh viện Saint Paul Hà Nội thành công mỹ mãn .
Vì Vậy Cựu Hoàng Đế Bảo Đại quyết định ra tay !
Cố Vấn Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ vào yết kiến Quyền chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Huỳnh Thúc Kháng .
Ông Cố Vấn tối cao trình bày : Phái đoàn của chủ tịch "Hồ Chí Minh" đến Pháp để bàn thảo với chính phủ Pháp thi hành nghiêm chỉnh hiệp định sơ bộ ! thế thì cũng cần một phái đoàn ngoại giao đi qua Thủ Đô Trùng Khánh gặp Thống Chế -Tổng thống Tưởng Giới Thạch ,để đề nghị Tưởng Tổng thống triệt thoái quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng từ Bắc Vĩ Tuyến 16 (Huế) đến Ải Nam Quan( Lạng Sơn) về nước ! đây là cách giúp Hồ Chủ Tịch , thành công trong chuyến Công Du đi Pháp .
Cố Vấn Vĩnh Thuỵ sẽ dẫn đầu phái đoàn đến Thủ Đô Trùng Khánh Trung Hoa Dân Quốc !
Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà -Huỳnh Thúc Kháng : Đồng ý nhất trí vui vẽ chấp thuận ý kiến tuyệt vời của Ông Cố vấn 100% !
Ngày 16 tháng 3 năm 1946, Cố vấn tối cao" Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ trưởng Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Thủ Đô Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa Dân Quốc, với sự giúp đỡ của Thống chế -Tổng thống Tưởng Giới Thạch ,Cựu Hoàng Bảo Đại về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, Cựu Hoàng đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị Trung Hoa Dân Quốc và Mỹ. Thống tướng 5 sao Bộ trưởng ngoại giao Mỹ quốc :George Catlett Marshall (December 31, 1880 – October 16, 1959), đã đem bản giao ước với Cựu Hoàng Đế Bảo Đại về trình Tổng thống thứ 33 Harry S. Truman. Cựu Hoàng Bảo Đại viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.( Vì lúc này Nam Phương Hoàng Hậu và Thái tử ,Công Chúa , Hoàng tử còn tại Huế, cần khôn khéo để đưa tất cả rời Việt Nam , trong lúc chủ tịch " Hồ Chí Minh" đang còn bên Pháp !)
Khởi đầu giai đoạn Cựu Hoàng Đế tìm đường Cứu nước :Cứu Dân tộc Việt Nam thoát khỏi hiểm hoạ Cộng Sản .
IV HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948 : KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM-CHÍNH PHỦ PHÁP KHÔNG THỰC TÂM -SỰ HOANG TƯỞNG TỔNG THỐNG THỨ 33 MỸ QUỐC HARY S. TRUMAN - CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM TỪ CHỐI CHỨC VỤ THỦ TƯỚNG VIỆT NAM LẦN THỨ 2 .
HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948 : KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948 : KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM-CHÍNH PHỦ PHÁP KHÔNG THỰC TÂM -SỰ HOANG TƯỞNG TỔNG THỐNG THỨ 33 MỸ QUỐC HARY S. TRUMAN - CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM TỪ CHỐI CHỨC VỤ THỦ TƯỚNG VIỆT NAM LẦN THỨ 2
Bảo Đại 1932 保大 Emperor of Vietnam 越南皇帝 Hoàng đế Việt Nam 1932-1945
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU -Imperial Princess Nam Phương and Empress Nam Phương (14 December 1914 – 16 December 1963), was the first and only empress consort (hoàng hậu) of the Nguyễn Dynasty
22 October 1913 – 30 July 1997
Portrait cropped from a postage stamp issued in 1953
Imperial Princess Nam Phương and Empress Nam Phương
CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH NGÔ ĐÌNH DIỆM CHÍNH THỨC NHẬN CHỨC THỦ TƯỚNG QUỐC GIA VIỆT NAM 16. 6.1954
TẠI TOÀ LÂU ĐÀI 12 PHÒNG :BIỆT ĐIỆN QUỐC TRƯỞNG CANNES -PHÁP QUỐC TRƯỚC SỰ CHỨNG KIẾN CUẢ HOÀNG ĐẾ- QUỐC TRƯỞNG : BẢO ĐẠI VÀ NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU : ĐỂ CỨU DÂN TỘC VIỆT NAM KHỎI BỊ NHUỘM ĐỎ TỪ BẮC VÀO NAM
" Ông hãy Thề trước Thánh giá là sẽ : Bảo vệ chủ quyền Quốc gia Việt Nam đến tận hơi thở cuối cùng, dù phải chống lại cả người Pháp,bắt buộc phải Thống nhất các Lực lượng Quân đội Giáo phái , chỉ có một Quân đội Quốc gia VN là duy nhất "
Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại : Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ 22 .10 .1913 --31.7.1997
*Sự thật Lịch sử : Trong ngày 16.6.1954 Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại ,và Nam Phương Hoàng Hậu đã chính thức trao Toàn quyền cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm: Toàn quyền về Quân Sự , Đối nội và Ngoại giao qua Sắc lệnh do Hoàng Đế -Quốc trưởng ký .
Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức là Nguyên thủ Quốc gia Việt Nam.
Ngày 16.6.1954 Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại đã rút ra khỏi Chính trường Việt Nam.
Vì vậy Lịch sử Việt Nam không thể lên án Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại vào năm 1955 , khi dưới áp lực của chính phủ Pháp , và sự mua chuộc của Bãy Viễn , trong việc bổ nhậm Tướng Nguyễn Văn Vỹ Tổng Tham mưu trưởng , và việc triệu kiến Thủ tướng Ngô Đình Diệm qua biệt điện Cannes,. . Đây chỉ là thủ thuật của Hoàng Đế -Quốc trưởng để che mắt chính phủ Pháp thôi . Trong Hồi ký Con Rồng Việt Nam đã nói rõ là Hoàng Đế trao Toàn quyền cho Chí sĩ Ngô Đình Diệm cai trị Quốc gia Việt Nam,không có một đoạn nào là Hoàng Đế trách móc trong việc truất phế 10.1955 cả.
Ngày 16.6.1954 Hoàng Đế -Quốc Trưởng : Bảo Đại đã rút ra khỏi Chính trường Việt Nam .
Tướng Bảy Viễn đã sụp bẫy Hoàng Đế -Quốc Trưởng Bảo Đại trong việc hối lộ và nhận làm nghĩa đệ .
Trong thời gian lưu vong tại Pháp quan hệ Hoàng Đế -Quốc trưởng và Tướng Bảy Viễn là người xa lạ !
MỘ HOÀNG ĐẾ -QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI : NGUYỄN PHÚC VĨNH THUỴ TẠI NGHĨA TRANG PASSY-PARIS
Đám tang Hoàng Đế -Quốc trưởng Bảo Đại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 tháng 8 năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero.
Trả lời BBC về sự kiện này, Phu Nhân Monique nói "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".
Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac. Năm 1982, ,Cựu Hoàng Bảo Đại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Cựu Hoàng Bảo Đại 33 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946).Cựu Hoàng nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.
Imperial Princess Nam Phương and Empress Nam Phương
"Trong thời gian 1932-1945 Hoàng Đế Bảo Đại nhiếp chính : Nam Phương Hoàng Hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng Hoàng Hậu cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Nam Phương Hoàng Hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm Nam Phương Hoàng Hậu đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà . Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Nam Phương Hoàng Hậu cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Hoàng Đế Bảo Đại trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế TT-Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên... Lần Hoàng Đế Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, Nam Phương Hoàng Hậu đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài .
Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, Thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế.Nam Phương Hoàng hậu cùng các con sang Pháp .
Nam Phương Hoàng Hậu được đánh giá là người Hoàng hậu thiết tha với đất nước và Dân tộc VN. Theo tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng Hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Âu châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số Thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của Thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của Thế giới tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi"
Hoàng hậu Nam Phương cùng các con sang Pháp 1947.
Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp. Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh,..Cựu Hoàng Bảo Đại có đến thăm bà vài lần. Tháng 1 năm 1962, công chúa Phương Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng đến dự và đám cưới đó là một sự kiện của vùng.
Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963 . Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Cựu Hoàng sống ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của bà được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ. Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac. Trong suốt thời gian tang lễ Cựu Hoàng Bảo Đại cũng không có mặt.
Nam Phương Hoàng Hậu được chôn cất tại nghĩa địa Chabrignac. Ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp:
Bia chữ Hán: ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ (Mộ phần của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam)
Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L'IMPÉRATRICE D'ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN (Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu An Nam nhũ danh Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan
BỘ TEM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU KHI HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI CÒN TẠI VỊ
**"Nói chung: Nam Phương Hoàng Hậu từ khi còn đương thời cho đến khi qua đời ngày 16-9-1963 tại Pháp vẫn luôn luôn được mọi người kính mến vì đức độ và lối sống của mình. Không một tai tiếng lớn, nhỏ nào từ phe Quốc Gia cũng như Cộng Sản nói được về Hoàng Hậu ".
"Nam Phương Hoàng Hậu xứng danh người Phụ Nữ Toàn Vẹn của nước Việt Nam "
NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 1954 TẠI BIỆT ĐIỆN CANNES-PHÁP QUỐC DƯỚI SỰ CHỨNG KIẾN CUẢ NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU. HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI KÝ SẮC LỆNH 38/QT : BỔ NHẬM CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM : THỦ TƯỚNG QUỐC GIA VIỆT NAM -TRAO TOÀN QUYỀN CHO CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM CAI TRỊ ĐẤT NƯỚC QUỐC GIA VIỆT NAM .
Nam Phương Hoàng Hậu phải vượt hàng trăm cây số từ tư gia tại ngôi làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin , đến miền Nam nước Pháp: Biệt Điện Cannes (lúc này Cựu Hoàng đang sống với Bà Mộng Điệp !) để chứng kiến buỗi trao quyền lịch sử trọng đại này.(từ 6. 1948 đến 1.1954 Hoàng đế-Quốc trưởng đã bổ nhậm 5 Thủ tướng Quốc gia VN , Không có Nam Phương Hoàng Hậu hiện diện , điều này nói lên tính trọng đại lịch sử của ngày 16.6.1954, đồng thời cũng nói lên tình cảm của Hoàng Hậu đối với Ngô Chí Sĩ từ năm 1934 đến nay ).
Cũng trong ngày lịch sử 16.6.1954, Hoàng Đế -Quốc trưởng và Nam Phương Hoàng Hậu lần cuối cùng xuất hiện bên nhau, lần cuối cùng xuất hiện trên chính trường Quốc tế tiếp đón Ngoại trưỡng Mỹ Quốc Foster Dulles, từ Geneve bay về Paris , tại Biệt Điện Cannes. Ngày này là ngày trọng đại với lịch sử Việt Nam.
Trước đó Ngoại trưởng Mỹ Quốc Foster Dulles đã phải làm áp lực chính phủ Pháp, Vì chính phủ Pháp không chấp nhận Ngô Chí Sĩ làm Thủ tướng Quốc Gia VN !. Ông Ngô Đình Nhu trước đó cũng gởi qua Paris hai nhân vật trí thức của Lực Lượng Cứu Nguy Dân tộc VN là hai ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật để vận động trí thức VN tại Paris làm áp lực chính phủ Pháp. Vì ngày đó Quốc gia VN nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, chức vụ Thủ tướng VN , chính phủ Pháp phải đồng ý !
* Chí sĩ Ngô Đình Diệm không nhận chức Thủ tướng 6.1948 là đúng , chưa chắc chính phủ Pháp đã đồng ý .
Trong hồi ký : Le Dragon d’Annam, trang 329,Cựu Hoàng viết :"En effet, depuis de nombreuses années, il était connu des Américains qui appréciaient son intransigeance. A leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui"
Tạm dịch :
"Thật vậy từ nhiều năm nay, ông Diệm được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ, ông Diệm là người phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại (1954), vì vậy mà Washington không ngần ngại gì mà không ủng hộ ông ta "
CÁC THỦ TƯỚNG QUỐC GIA VIỆT NAM TỪ 6.1948- 16.6.1954
1.Thủ tướng lâm thời Nguyễn Văn Xuân 27 tháng 5- 1948 ---14 tháng 7, 1949
Hoàng Đế- Quốc trưởng Bảo Đại Kiêm nhiệm Thủ tướng Toàn quyền 14 tháng 7- 1949-- 21 tháng 1, 1950
2.Thủ tướng Nguyễn Phan Long 21 tháng 1- 1950-- 27 tháng 4, 1950
3. Thủ tướng Trần Văn Hữu 6 tháng 5- 1950-- 3 tháng 6, 1952
4.Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm 23 tháng 6- 1952-- 7 tháng 12, 1953
5.Thủ tướng Bửu Lộc 11 tháng 1-1954 ---16 tháng 6, 1954
6.Thủ tướng Toàn quyền Ngô Đình Diệm 16 tháng 6- 1954 ----23 tháng 10, 1955
Ngày 16 Tháng Sáu năm 1954 Hoàng Đế-Quốc trưởng Bảo Đại Ký Sắc Lệnh 38/QT bổ nhiệm :Chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Toàn quyền về Quân sự , Đối nội , Ngoại giao (Nguyên thủ Quốc gia) trong khi tại Genève các phe tham chiến đang thương thuyết tìm một giải pháp cho cuộc chiến ở Đông Dương.
Ngoại trưởng Foster Dulles Mỹ đã bỏ dở cuộc họp bay đến Paris trong ngày lịch sử trọng đại này !
NGOẠI TRƯỞNG MỸ QUỐC JOHN FOSTER DULLES (1888-1959)
". Ông Diệm trở thành Thủ Tướng vào ngày 16 tháng 6 năm 1954. ,Cựu Hoàng Đế Quốc Trưởng Bảo Đại phong cho Ông Diệm Thủ Tướng Toàn quyền Quốc gia Việt Nam . Không những quyền kiểm soát Dân sự mà còn cả Quân sự , Đối nội , Ngoại giao nữa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sài Gòn ngày 26 tháng 6 và thành lập chính phủ vào ngày 7 tháng 7 năm 1954 .
Ông Wiliam O.Douglas Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện Mỹ Quốc , Thượng Nghị sĩ CH Mike Mansfield ,Giám đốc CIA Allen Dulles là những người đầu tiên gởi công điện chúc mừng Thủ Tướng Toàn quyền Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm "
"Ngày 16 tháng 6 năm 1954, Cựu Hoàng Đế, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Toàn quyền Quốc gia Vietnam có Nam Phương Hoàng Hậu hiện diện . Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận,Hoàng Đế Bảo Đại dẫn ông vào một gian phòng kế cận trong lâu dài Thorence, nơi Hoàng Đế trú ngụ tại Cannes, trước bức thánh giá rồi bắt ông thề:
-"Chúa của ông đó, ông hãy thề :Sẽ bảo toàn lãnh thổ quốc gia mà người ta sẽ giao phó cho ông đến tận hơi thở cuối cùng, phải Thống nhất các Lực lượng Quân đội Giáo phái , chỉ có một Quân đội Quốc gia VN là duy nhất .Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng Sản và nếu cần chống cả người Pháp, "
Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nhìn Hoàng Đế Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá, ông nói thầm:
-"Tôi xin thề"
Tài liệu của nhà Sử học Mỹ Quốc :Stanley Karnow (born February 4, 1925 in New York City) is an American journalist and historian
PHẦN CUỐI TRƯỚC KHI TRỞ LẠI ĐIỆP VỤ : TÓM TẮT HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948 VÀ HIỆP ĐỊNH GENEVA 7.1954
A HIỆP ƯỚC HẠ LONG KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM 1948
I BỐI CẢNH HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948
Kể từ ngày 16 tháng 3 năm 1946 Cựu Hoàng đế Bảo Đại rời Hà Nộiqua Thủ đô Trùng Khánh Trung Hoa Dân Quốc sau đó sống lưu vong tại Hong Kong, mở đầu giai đoạn tìm đường cứu dân tộc VN thoát khỏi hiểm hoạ CS và Thực Dân hay hai thế lực Bắc Kinh và Paris.(Trong thời gian làm cố vấn tối cao tại Hà Nội, Cựu Hoàng Đế đã biết rõ khuynh hướng Đảng Cộng sản Việt Nam là khuynh hướng chủ nghĩa Mác Lê Nin , tư tưởng Mao Trạch Đông ), vì vậy Quốc gia mà Cựu Hoàng Đế hướng tới là Mỹ Quốc . Với sự giúp đỡ của Thống chế -Tổng thống Tưởng Giới Thạch ,Cựu Hoàng Bảo Đại về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, Cựu Hoàng đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị Trung Hoa Dân Quốc và Mỹ. Thống tướng 5 sao Bộ trưởng ngoại giao Mỹ quốc :George Catlett Marshall đã đem bản giao ước với Cựu Hoàng Đế Bảo Đại về trình Tổng thống thứ 33 Harry S. Truman.
Nhưng khổ nổi Ông Tổng Thống thứ 33 DC này vừa bất tài hoang tưởng ,vừa căm thù Lãnh tụ Josep Stalin của Liên Sô,nên phung phí tiền bạc dân Mỹ viện trợ hào phóng cho các nước châu Âu chống Liên Sô, mà không có kế hoạch cụ thể , kết quả một loạt nước CS Đông Âu ra đời 1946-1949 , Ông TT hoang tưởng lại muốn sử dụng Mao Trạch Đông để chống lại Liên Sô, nên cúp viện trợ Trung Hoa Dân Quốc ! mặc nhiên cho Mao Chủ tịch chiếm trọn Trung Hoa Lục Địa !( Cao Nguyên Dậy Lửa ). Lịch sử của Mỹ Quốc không muốn nhắc đến Ông Tổng thống này !
Vì vậy từ 1946-1948 :Hoàng Đế Bảo Đại sống trong chản nãn , cơ hàn và tuyệt vọng . Trong lúc này, tại Trung Hoa Lục Địa Hồng Quân CS Trung Hoa tiến như chẻ tre, đã chiếm 3/4 lục địa, vấn đề nhuộm Đỏ là sớm muộn !.
Ông Tổng thống thứ 33 Mỹ Quốc coi quan hệ với Ba Lê- Paris là quan trọng ,để chống lại Mạc Tư Khoa-Moscow , còn nước Việt Nam nhỏ bé là không đáng bận tâm. Nên bản giao ước giữa Hoàng Đế Bảo Đại và Ngoại trưởng George Marshall chìm vào quyên lãng .
Nhưng Hoàng Đế Bảo Đại của nước Việt Nam , là vị Hoàng Đế kỳ lạ nhất trên thế giới , mỗi lần Hoàng Đế sa cơ , sống trong cơ hàn là có một bóng Hồng thương yêu, an ủi . Nếu tại Hà Nội 2.1946 có Thiếu nữ xinh đẹp Bùi Mộng Điệp vừa tròn đôi mươi thương yêu hết mình, thì tại Hồng Kông có người Thiếu nữ mang 2 giàu máu Hoa-Pháp xinh đẹp tuyệt vời rực rỡ , hết lòng thương yêu đó là người đẹp :Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong) có 1 Tiểu Công Chúa ra đời : Nguyễn Phúc Phương An !
Nhưng có một điều lịch sử Việt Nam phải ghi nhận : Hoàng Đế Bảo Đại là một vị Hoàng Đế yêu nước. Tháng 1.1947 Nam Phương Hoàng Hậu và các Hoàng tử ,Công Chúa đã đến Pháp, Hoàng đế sống trong cơ hàn , chưa quen Hoàng Tiểu Lan , nhưng Vị Hoàng Đế vẫn không qua Pháp. Vì lúc này lửa đang cháy tên toàn đất nước Việt Nam. Toàn quốc Kháng Chiến chống Pháp cả Quốc Gia và Cộng Sản .
Về Phía Quốc Gia : Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng , Hoà Hảo do Đức giáo chủ Huỳnh Phú Sổ lãnh đạo , Cao Đài do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Lãnh Đạo, Vệ Quốc quân , Việt Minh CS. Trong các Chiến Khu các Sĩ quan Nhật không chịu đầu hàng , giúp kháng chiến quân chế tạo đạn dược ,lựu đạn , Mìn Chống Chiến Xa .( Vũ Khí quân Nhật để lại tại Việt Nam rất nhiều , hàng trăm ngàn khẩu súng, là kháng chiến quân sử dụng , bên vệ quốc quân, Tướng Trần Đại Nghĩa , chế tạo thành công súng Bazoka, lựu đạn ),.
Thân là một vị Hoàng Đế , thấy đất nước điêu linh , khói lửa sao không đau khổ !, thêm thay Mao Trạch Đông sẽ nhuộm đỏ cả Hoa Lục , thế thì Việt Nam thân yêu cũng bị nhuộm Đỏ , là chư hầu của Bắc Kinh , kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc VN . làm sao Vị Hoàng Đế 33 tuổi từng là sinh viên sĩ quan Kỵ Binh , từng học đại học chính trị Paris , có thể là một Ông Hoàng Lưu Vong , về sống tại một ngôi làng hẻo lánh của Nước Pháp nhìn đất nước lầm thang , khói lửa ngút trời , rồi bị CS hoá , làm Chư hầu cho Thiên triều Bắc Kinh đây !
Vì vậy Hoàng Đế đành phụ lòng Nam Phương Hoàng Hậu , ở lại Hồng Kông , để tìm đường cứu nước !
Qua năm 1948 Quân Pháp lâm vào thế bị động trên toàn chiến trường từ Nam ra Bắc !
Tại chiến trường Miền Nam những trận đánh lẫy lừng của Tướng quân Trịnh Minh Thế , Tướng quân Nguyễn Thành Phương Cao Đài , Tướng quân Nguyễn Giác Ngộ , Tướng quân Lâm Thành Nguyên ,Tướng quân Năm Lữa , và Phu Nhân Nữ tướng Phàn Lê Huê _Lê Thị Gấm Hoà Hảo , bên Việt Minh Trung tướng 2 sao Nguyễn Bình , đến chiến trường Bắc Trung Bộ Tướng Vệ Quốc quân Nguyễn Chí Thanh , Chiến trường Miền Bắc Việt Minh chiến thắng trận Sông Lô .
Quân Pháp lâm vào bị động hoàn toàn , bên Paris nước Pháp lâm vào khủng hoảng chính trị từ tháng 6. 1945 đến .1.948 : 4 Ông Thủ tướng thay nhau nắm chính quyền, tranh nhau giành quyền lực , một trong những lý do chính là tiền viện trợ quá hào phóng của TT hoang tưởng thứ 33 Mỹ quốc , để khôi phục nước Pháp , không bị ràng buộc một kế hoạch gì cả , nên nạn hối lộ lan tràn, phe nào cũng tranh giành làm Thủ tướng lại không có một kế hoạch ra hồn, nên bị phe đối lập đá rớt liên tục ,. Bên Mỹ Quốc tham nhũng cũng hoành hành !, lý do thấy Ông Tổng thổng vung tiền xương máu của dân Mỹ qua cửa sổ , thế thì không tham nhũng mới là đại ngu ! đây là thực tế 100%.
1948 cũng năm bầu cử Tổng thống Mỹ , Đảng Cộng hoà xuất quân, quyết tâm loại ông Tổng thống hoang tưởng, bên Đảng Dân Chủ cũng ngán ông Tổng thống tận cổ, theo dự đoán của thế giới và nước Mỹ thì ông ta 99% là thất cử , thực tế ông lên làm TT chẳng phải do dần bầu mà do may mắn . năm 1944 Tổng thống anh minh thứ 32 Franklin D. Roosevelt 3.1932-3.1945 Roosevel ra ứng cử nhiệm kỳ thứ 4 , phó tổng thống lại quá già , đã làm 3 nhiệm kỳ , nên đảng Dân Chủ chọn Truman làm ứng cử viên PTT .
Bất hạnh TT Franklin D. Roosevelt làm TT nhiệm kỳ 4 được 2 tháng thì mất , thế thì PTT Truman lên làm TT thứ 33 , ông chỉ mới nhận chức PTT được 2 tháng chưa quen việc, khi qua dự hội nghị Postdam 6.1945 bị Lãnh tụ Stalin coi thường vì quá yếu , vì thế Ông TT thù hận Stalin, Ông TT này lại có tính thù dai !
TT Truman lại cương quyết phải chiến thắng bất chấp thủ đoạn , mà ông ta thắng thật ! , đây là cuộc bầu cử quái đản nhất trong lịch sử nước Mỹ,! ngay sau khi bầu cử , tối hôm đó tất cả báo chí Mỹ đăng tin ứng cử viên TT Cộng hoà thắng cử, nhưng khuya hôm đó TT Truman tuyên bố là Ông ta thắng cử ? cho đến ngày hôm nay dân Mỹ không hiểu làm sao ! 1952 ông TT Truman lại đòi ra ứng cử nhiệm kỳ 3 ?
Quốc hội Mỹ sợ quá phải ra điều luật là TT từ nay chỉ được làm tối đa là 2 nhiệm kỳ !
Tháng 4 . 1948 ứng cử viên TT Đảng Cộng hoà tố cáo TT thứ 33 là bán đứng Trung Hoa Dân Quốc, để cho CS nhuộm Đỏ Trung Hoa, và làm ngơ cho chính phủ Pháp trở lại chế độ Thực dân tại Châu Phi và Đông Dương !
Để thoát thế bí , Ông TT thứ 33 xì ra cho Pháp bản giao ước của cựu Hoàng Đế Bảo Đại 3.1946 .
Lập tức Chính phủ Pháp chụp lấy cơ hội để thoát khỏi thế bí, tại chiến trường Việt Nam , và giúp TT thứ 33 ngồi thêm 1 nhiệm kỳ để còn tiền viện trợ hào phóng , nếu Đảng Cộng Hoà thắng cử TT thì tiền viện trợ tái thiết nước Pháp coi như là bị cúp .
Và lúc này Tình báo Pháp cũng đã biết Mao Trạch Đông đã gởi Trung tướng 2 sao Lã Quí Ba (thăng Thượng tướng 3 sao năm 1950) , dẫn đầu phái bộ Cố vấn CS Trung Hoa đến Việt Bắc, để cố vấn cho Chủ tịch :"Hồ Chí Minh" và Tướng CS Võ Nguyên Giáp .
Chính phủ Pháp của Thủ tướng 7 tháng : Paul Ramadier (24 November 1947 – 26 July 1948) đã cử Cựu Giám đốc Mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau qua tiếp xúc với Hoàng Đế Bảo Đại tại Hồng Kông.
* * Nội tình chính trị của Pháp từ 1946--1954 rất lộn xộn có Thủ tướng chỉ làm thủ tướng 3 tháng thôi trong 8 năm mà có đến 14 ông thủ tướng từ thủ tướng thứ 128 :128th Prime Minister of France 1946---142nd Prime Minister of France Joseph Laniel 28 June 1953 – 18 June 1954.
*** 8 năm mà đến 14 ông Thủ tướng , chính trị nước Pháp nát bấy mà vẫn không trả độc lập cho Việt Nam, vẫn hoang tưởng , đến khi bị Viet Minh đánh bại nhục nhã tại Điện Biên Phủ, thế mà vẫn không đồng ý để Chí Sĩ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, đến nổi Ngoại trưởng Mỹ và trí thức VN tại Paris phải lên tiếng mới chấp nhận ! Thật là hết hiểu nổi giới lãnh đạo nước Pháp !
Sau cuộc tiếp xúc với Cựu Giám đốc Mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau , Hoàng Đế Việt Nam 35 tuổi trầm tư già hẳn người đi !, Giới lãnh đạo nước Pháp vẫn không chịu từ bỏ dã tâm với đất nước Việt Nam thân yêu, điều kiện của chính phủ Pháp quá ngặt nghèo , dù công nhận quốc gia VN , độc lập ,thống nhất nằm trong Liên Hiệp Pháp. Nhưng Chính phủ Pháp kiểm soát điều khiển về Quân đội và Ngoại Giao, Sĩ quan Pháp chỉ huy Quân đội Việt Nam ,Pháp có Đặc quyền kênh tế tại VN thế thì độc lập chỉ là bánh vẽ, cũng như 83 năm bảo hộ vừa qua ! Việt Minh CS sẽ có chính nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Pháp ,. Thực chất : Thực Dân Pháp chỉ muốn thay đổi màu da trên xác chết !
HIỆP ƯỚC HẠ LONG 6.1948
Tháng 6 năm 1948 tình hình thế giới biển chuyển cuộc phong toả bức tường Berlin , khởi đầu cuộc chiến lạnh Cold War Mỹ -Liên Sô 41 năm 1948-1989 do lỗi lầm ngu ngốc của TT thứ 33 Mỹ Quốc , để bảo vệ Liên Sô. Lãnh tụ Stalin đã thành lập một loạt nước CS Đông Âu , để làm hàng rao an ninh cho Liên Bang Sô Viết , Cộng hoà Dân Chủ Đức (Đông Đức) ra đời mấy tháng sau. TT thứ 33 Mỹ Quốc xé hiệp ước Postdam thành lập Cộng Hoà Liên Bang Đức ( Tây Đức ) trước, để tái võ trang Quân đội Đức đánh Liên Sô, vì thế Cộng hoà Dân Chủ Đức (Đông Đức) , ra đời . Mĩa mai Anh Pháp , và Âu Châu phản đối Tây Đức tái võ trang , thế thì kế hoạch TT thứ 33 hoang tưởng tan thành mây khói .
Để thoát khỏi gọng kìm Tổng thống thứ 33 Mỹ Quốc. Lãnh tụ Stalin tuyên bố ủng : hộ Mao Trạch Đông , bắt đầu viện trơ vũ khí cho Hồng quân CS , trước đây Stalin ủng hộ Thống chế -TT Tưởng Giới Thạch .
Quan niệm của TT thứ 33 Hoang tưởng Truman Mỹ Quốc từ năm 1946 về Trung Hoa :
"Chủ Tịch Mao Trạch Đông là kẻ Đối đầu bạo chúa tàn ác Joseph Salin. Chế độ TT Tưởng Giới Thạch tham nhũng thối nát , nên cần ủng hộ Hống Quân Trung Hoa hiện đã chiếm 1/2 Trung Hoa ,để giúp Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa thống Nhất đất nước , bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc . Chính Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa là Đồng minh tương lai của Mỹ chống lại Đế Quốc Liên Sô". (Cao Nguyên dậy lửa)
BỨC TƯỜNG BERLIN ĐỊNH MỆNH OAN NGHIỆT : ĐÔNG ĐỨC - BA LAN- TIỆP KHẮC- BULGARIA -ROMANIA-TRUNG HOA LỤC ĐỊA -VIỆT NAM - VÌ BỨC TƯỜNG NÀY : CHIẾN TRANH LẠNH OAN NGHIỆT MÀ CÁC QUỐC GIA TRÊN BUỘC LÒNG TRỞ THÀNH CS XHCN -MỘT LỖI LẦM QUÁ LỚN CỦA TT THỨ 33 USA HARRY S. TRUMMAN
KHÔNG LỰC MỸ TIẾP TẾ BÁ LINH TRONG THỜI GIAN BỊ PHONG TOẢ (24 .6 1948 – 12 5. 1949)
C-47 Skytrains unloading at Tempelhof Airport during Berlin Airlift. (Berlin Blockade 24 June 1948 – 12 May 1949)
VỊNH HẠ LONG BẮC VIỆT NAM
HIỆP ƯỚC HẠ LONG HAY CÒN GỌI TUYÊN NGÔN HẠ LONG 6.1948 -KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ: BÁ LINH BỊ PHONG TOẢ CHIẾN LẠNH BẮT ĐẦU
Trước khi tôi viết tiếp,, tôi không muốn tranh luận dài dòng về ông Tổng thống thứ 33 , vì Lịch sử Mỹ Quốc không muốn nhắc đến Ông Tổng thống này ! , nhưng vì có liên quan đến Việt Nam , nên tôi chỉ nói sơ qua !
Trong thời gian này Hoàng Thượng sống trong cơ hàn , Hoàng Tiểu Lan phải đi làm nuôi Hoàng Thượng ( Tiểu Lan hình như dấu Hoàng thượng đi làm Vũ nữ trong một Hộp đêm :Vũ trường tại Hồng Kông ! )
Trong thời điểm tháng 6 năm 1948 , tình hình thế giới đã biến chuyển như vậy , Cuộc chiến lạnh đã mở màn , một loạt nước CS Đông Âu lần lượt ra đời , Trung Hoa Lục Địa , sớm muộn cũng bị Mao Trạch Đông thống trị ,Hoàng Thượng lại sống trong cơ hàn , và để tránh Việt Nam có thể trở thành chư hầu của Bắc Kinh . Sau cuộc nói chuyện với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm .
Hoàng Thượng đi đến quyết định tạm chấp nhận điều kiện của Chính phủ Pháp đưa ra, để Thống nhất các Lực lượng kháng chiến Quốc gia trước , chờ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ Quốc tháng 11 năm 1948, mà theo báo chí và dư luận thế giới : 99% ứng cử TT Cộng hoà THOMAS DEWEY sẽ thắng cử vào tháng 11 năm 1948.
Nhưng Chí sĩ Ngô Đình Diệm trước mắt sẽ không nhận chức Thủ tướng , vì quá khứ chống Pháp chưa chắc người Pháp đã đồng ý , thêm thay tính ông Diệm là người cứng rắn không khoan nhượng sẽ làm Pháp bất bằng , trước mắt không có lợi !
CHIẾN HẠM DUGUAY TROUBIN (1923-1952) TRÊN VỊNH HẠ LONG :TUYÊN NGÔN HẠ LONG 5.6.1948 KHAI SINH QUỐC GIA VIỆT NAM
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Hoàng Đế Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên Chiến hạm Duguay Trouin, bản TUYÊN NGÔN HẠ LONG Việt - Pháp được công bố, theo đó nước Pháp thừa nhận nền Độc lập và Thống nhất của Việt Nam.
Chính phủ Pháp toàn quyền kiểm soát về Quân sự và Ngoại giao .
Sau đó Hoàng thượng uỷ quyền Tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam, Hoàng thượng trở về Hồng Kông, để chờ kết quả bầu cử Tổng Thống Mỹ Quốc 11.1948, hy vọng Đảng Cộng Hoà sẽ thắng cử , chặng đứng bước tiến của Mao Trạch Đông , và sẽ làm áp lực Chính phủ Pháp , sửa đổi Tuyên Ngôn : Hạ Long về Quân sự và Ngoại giao !
ỨNG CỬ VIÊN TT CỘNG HÒA THOMAS DEWEY ĐÁNH BẠI ĐƯƠNG KIM TT HARRY S. TRUMAN VÀO BUỔI TỐI TRONG NGÀY BẦU CỬ 11.1948 CÁC BÁO CHÍ USA TUYÊN BỐ NHƯ TRÊN :
Truman was so widely expected to lose the 1948 election that the Chicago Tribune ran this incorrect headline
Trải qua 63 năm người dân Mỹ Quốc vẫn thắc mắc không hiểu nỗi cuộc bầu cử này ? Khi TT thứ 33 Harry S. Truman tuyên Bố thắng cử 36% số phiếu ?(36 percent)mà đến :303 electoral votes ?, Dewey 189, and Thurmond only 39 !
Hoàng Đế Bảo Đại và Chí Sĩ Ngô Đình Diệm lặng người ! Thống chế TT Tưởng Giới Thạch lâm vào tuyệt vọng ! Mao Trạch Đông ăn mừng !
Cuộc bầu cử TT Mỹ Quốc tháng 11 năm 1948 không những là tại hoạ cho Mỹ Quốc : Kênh tế Mỹ bắt đầu đi xuống thê thảm , do TT thứ 33 vung tiền bừa bải tái thiết Âu Châu để chống lại Liên Sô , tại Mỹ tham nhũng tràn lan , Băng đảng Mafia đã bắt đầu hoành hành trở lại . Mỹ bắt buộc phải cắt giảm chi phí Quốc Phòng ,TT thứ 33 USA ra lệnh triệt thoái quân Mỹ ra khỏi Bán Đảo Triều Tiên ! (mới có cuộc chiến Triều Tiên 1950-1953), phe CS Liên Sô càng ngày càng mạnh thêm , Mỹ Quốc càng bị lún sâu thê thảm, từ 1950 vỡ mộng về Mao Trạch Đông , TT thứ 33 USA quyết định viện trợ cho Pháp đến 70% chiến phí Đông Dương , nước Mỹ càng thê thảm đây là thực tế .
Cuộc bầu cử TT Mỹ Quốc 1948 cũng là bản án tử hình Trung Hoa Dân Quốc , Thống chế TT Tưởng Giới Thạch lâm vào tuyệt vọng ! .
Lúc này Hoàng Đế Bảo Đại chán nản !
Sau một thời gian sống trong tuyệt vọng qua năm 1949 , Hoàng Đế Bảo Đại quyết định trở về Việt Nam nắm quyền cai trị , phải lợi dụng bản Hiệp ước Hạ Long tối đa , gạt bỏ Mỹ Quốc qua một bên vì Ông Tổng thứ 33 USA quá hoang tưởng , ngay Trung Hoa Dân Quốc , còn bỏ rơi .Thế thì Quốc gia VN chằng là cái gì trong con mắt ông TT thứ 33 USA !:
Phải vận động Tổ chức Liên Hợp Quốc mới thành lập công nhận Quốc gia Việt Nam , sau đó nhờ Liên Hợp Quốc can thiệp , Quốc gia VN nắm về Quốc phòng : Sĩ quan Việt Nam phải chỉ huy quân đội Việt Nam , chứ không phải sĩ quan Pháp ., rồi từ đó nắm quyền về Ngoại giao.
Nhưng muốn gia nhập Liên Hiệp Quốc , Pháp phải ký Việt Nam Hiệp ước đàng hoàng Nguyên thủ Quốc gia với Nguyên thủ Quốc gia , chứ không thể với bản Tuyên ngôn ,Hiệp ước sơ sài : Hạ Long giữa Hoàng Đế vói Cao uỷ Pháp Đông Dương , nghĩa là Việt Nam chỉ là một xứ thuộc địa tự trị của Pháp Quốc thôi !
Thủ tướng Pháp Quốc theo định nghĩa là Nguyên thủ số 1 của Pháp (thời điểm bấy giờ Đệ tứ cộng hoà 1945-1959), nhưng Thủ tướng lại thay đỗi như chóng chóng ,có Thủ tướng chỉ vài tháng thôi nên thực tế không có giá trị , Thủ tướng mới nó có thể bác bỏ được , vì nội tình nước Pháp rối ren , vậy phải ký với nguyên thủ thứ 2: Tổng thống Pháp Quốc dù thực tế quyền hành rất ít , nhưng lại rất có giá trị trên trường quốc tế .
Vì vậy Hoàng Đế Bảo Đại đích thân đi Paris hội kiến Tổng thống Pháp Vincent Auriol, để ký hiệp ước Việt-Pháp .
Đây là ý kiến rất tuyệt vời có thể Hoàng đế đã bàn bạc với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm và nhiều trí thức, mới có ý kiến tuyệt vời như vậy, các Thủ tướng Pháp không để ý , nếu Hoàng Đế xin hội kiến Thủ tướng Pháp, Ông Thủ tướng không tiếp mà đẩy qua Bộ trưởng Thuôc địa ( Liên Hiêp Pháp , mới đổi tên ) hay cấp dưới là Cao uỷ Đông Dương !
HIỆP ƯỚC ELYSEÉ 8.3.1949
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Hoàng Đế Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam thuộc khối Liên hiệp Pháp, , Nguyên thủ Quốc gia Việt Nam là Hoàng Đế Bảo Đại.
Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Hoàng Đế Bảo Đại về nước. , Hoàng Đế tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và giữ danh hiệu Hoàng Đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp :để gia nhập Liên Hiệp Quốc . Ngày 20 tháng 6 năm 1949, Thủ tướng Lâm thời Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, Hiệp ước Elyseé được công bố.
Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP tấn phong Hoàng Đế Bảo Đại là Quốc trưởng, kiêm Thủ tướng (Toàn quyền) Quốc gia Việt Nam !
*Hoàng Đế Bảo Đại thắng Pháp 1-0
QUỐC GIA VIỆT NAM GIA NHẬP LIÊN HỢP QUỐC
**Hoàng Đế Bảo Đại thắng Pháp 2-0
Chiếu theo Điều II trong Hiệp ước Elysée : Quốc gia Việt Nam có quyền trao đổi Đại sứ với các nước khác nhưng Tổng thống Pháp, nhân danh Chủ tịch Khối Liên hiệp Pháp có quyền phê chuẩn hay không chấp nhận.
Hoàng Đế Bảo Đại- Quốc trưởng -kiêm Thủ tướng toàn quyền Quốc gia Việt Nam , ra sức dồn mọi nỗ lực vận động Quốc tế công nhận Quốc gia Việt Nam đến Tháng 1 năm 1950 đã có 33 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam .
Quốc gia Việt Nam chính thức là thành viên Liên Hợp Quốc 7 Tháng Hai năm 1950, sau khi Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland , Mỹ Quốc công nhận Quốc gia Việt Nam ngày 7 Tháng Hai năm 1950. (Liên Bang Sô Viết cũng công nhận Quốc gia Việt Nam )
Ông TT hoang tưởng thứ 33 USA cuối cùng cũng phải công nhận Quốc gia Việt Nam , bổ nhậm Ông Donald Heath làm Đại sứ Mỹ đầu tiên VN sang nhận nhiệm sở ở Thủ đô Sài Gòn .
***Một thành tựu Ngoại giao Vĩ Đại của Hoàng Đế Bảo Đại- Quốc trưởng -Kiêm Thủ tướng -Toàn quyền Quốc gia Việt Nam , là việc thâu hồi Chủ quyền Toàn bộ lãnh thổ 100% trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ tay Nhật Bản thất trận 1945 tại Hội nghị San Francisco Tháng Chín năm 1951 .
VIỆT NAM TƯƠNG ĐỐI ĐỘC LẬP VỀ QUÂN ĐỘI TỪ NĂM 1951 .
Hoàng Đế Bảo Đại thắng Pháp 3-0
.
SĨ QUAN VIỆT NAM NẮM TỪ ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG TRỞ XUỐNG ( NGÀY ĐÓ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM CAO NHẤT LÀ CẤP TIỂU ĐOÀN )
ĐẾN 1954 QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM CÓ 250 NGÀN QUÂN CHỈ CÓ 4 TIỂU ĐOÀN LÀ SĨ QUAN PHÁP CHỈ HUY TĐT THAM GIA TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ . ĐÂY LÀ MỘT THÀNH CÔNG LỚN .
I-QUỐC GIA VIỆT NAM 7.2.1950-16.6.1954.
Năm 1950 là năm khó khăn cho Hoàng Đế và Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu đã giúp Hoàng Đế rất nhiều để vượt qua trở ngại . Cũng chính là năm Tình hình thế giới biến chuyển giới chuyển lớn vô tình có lợi cho HOàng Đế và Hoàng Hậu và Quốc gia Việt Nam : Cuộc chiến TRiều tiên bùng nổ 6.1953 do lỗi lầm của TT thứ 33 U SA khi ra lệnh triệt thoái toàn bộ Quân Lực Mỹ ra khởi Nam Hàn , để cắt giảm chi phí quốc phòng , vì kênh tế Mỹ đang thê thảm, Đảng CS Mỹ hoạt động rất mạnh với tư tưởng Mao Trạch Đông !Nhưng Ông TT thứ 33 nghĩ là do bàn tay của kẻ thù Stalin, nên cung cấp ngân khoảng khổng lồ cho CIA để chống lại Liên Sô. Kênh tế Mỹ càng thê thảm !
Trước 2 ngày Bắc Hàn tấn Công Nam Hàn . Quốc hội Mỹ chất vấn TT thứ 33 , Mỹ rút quân khỏi Nam Hàn .Nếu Bắc Hàn , và Trung Cộng tấn công Nam Hàn thì sao ?
TT thứ 33 USA cười lớn : Đó chuyện Hoang tưởng ! các Ngài đã suy nghĩ viễn vông ! KHÔNG BAO GIỜ CÓ CHUYỆN ĐÓ ĐÂU !
22 October 1913 – 30 July 1997
Imperial Princess Nam Phương and Empress Nam Phương
Ngày 7 tháng 2 năm 1950 là Ngày Trọng đại lịch sử Việt Nam,Quốc gia Việt Nam là thành viên chính thức Liên Hiệp Quốc sau khi Anh Quốc , Bắc Ireland ,Liên Bang Sô Viết , Mỹ Quốc công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam.( Liên sô không công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà của Chủ tịch " Hồ Chí Minh , đây là thực tế lịch sử, Mỹ Quốc công nhận Quốc gia Việt Nam cuối cùng ! )
Ngày 7 tháng 2 năm 1950 được coi là ngày chính thức Quốc gia Việt Nam Độc Lập dù vẫn bị trói 2 tay của Thực Dân Pháp !Với sự đồng loả của ông TT thứ 33 USA !
TT thứ 33 USA Viện trợ chiến phí Đông dương 1950-1952 là là vì quyền lợi của Pháp chứ không phải cho Quốc Gia Việt Nam . Chỉ khi Hoàng đế không ngai-Thống tướng -TT thứ 34 CH Dwight Eisenhower nhiệm chức TT USA 20.1.1953, mới ủng hộ Quốc gia Việt Nam một cách nhiệt tâm, nhiệt tình !
Có một Sự thật Lịch sử không thể phủ nhận : Lãnh tụ máu lạnh Stalin Liên Sô là người ủng hộ Thống chế -Tổng thống Tưởng Giới Thạch 1. 1924-6.1948 Trung Hoa Dân Quốc và Hoàng Đế Bảo Đại Quốc gia Việt Nam 1950 trong lúc ông TT thứ 33 USA là người bán đứng 2 Dân tộc Trung Hoa và Việt Nam cho Mao Trạch Đông và Pháp !
Lãnh tụ máu lạnh Stalin chỉ ủng hộ Mao Trạch Đông khi chiến tranh lạnh mở màn 6.1948 ,do ông TT thứ 33 U SA, chủ mưu , lúc đó trên thế giới chỉ có một nước Liên Sô là Cộng Sản bị tàn phá chiến tranh nặng nề 3/4 quốc gia . Liên Sô chỉ nghĩ là khôi phục kênh tế thôi ! TT thứ 33 USA đã bỏ rơi Tổng thống Tưởng Giới Thạch , ủng hộ Mao Trạch Đông , viễn cãnh Trung Hoa bị Mao Trạch Đông thống trị là không tránh khỏi !
Lịch sử Mỹ không muốn nhắc đến Ông TT thứ 33 , vì Ông ta mà các nước CS Đông Âu ra đời để làm hàng rào an ninh bảo vệ cho Liên Sô , và nước Đức bị chia đôi , Trung Hoa bị nhuộm Đỏ năm 1949 . Các nước Đông Nam Á phải sử dụng chế độ tự do bị hạn chế tối đa để diệt Cộng Sản Maoism (chủ nghĩa Mao)1950-1970.
Chỉ vì ông TT thứ 33 mang mối thù hận cá nhân với Lãnh tụ máu lạnh Stalin mà gây tai hoạ cho Thế giới và nước Mỹ !
Năm 1950 Nam Phương Hoàng Hậu trở về Việt Nam giúp Hoàng Đế -Quốc trưởng -Thủ tướng toàn quyền
Khôi phục , phát triển Đất nước Việt Nam, sự trở về của Nam Phương Hoàng Hậu thật sự gây một niềm phấn khởi cho Dân tộc VN, và Nam Phương Hoàng Hậu cũng tha thứ cho Hoàng thượng về 2 Thiếu nữ Bùi Mộng Điệp và Hoàng Tiểu Lan !
Đúng là Hoàng Đế Bảo Đại của nước Việt Nam có số "Chân Mệnh Thiên tử " sau 5 năm từ 1945-1950 sa cơ lận đận sống trong cơ hàn , bây giờ khôi phục lại Giang sơn , khi gặp hoạn nạn thì thì có bóng Hồng giúp đỡ thương yêu !
Hoàng Đế trở về , Hoàng Tộc Nhà Nguyễn trao lại cho Hoàng thượng số Vàng Hoàng tộc cất giữ của các Tiên Vương nhà Nguyễn,Hoàng Đế đã trao cho Nam Phương Hoàng Hậu , để lập các cô nhi viện , giúp đỡ các em nạn nhận chiến tranh , và mồ côi cha mẹ , còn một ít thì mua căn căn khang trang tại Perche, một làng ở Chabrignac, tỉnh Corrèze Pháp để các Hoàng tử và Công Chúa ăn học .
Thật ra Hoàng Đế rất yêu thương Nam Phương Hoàng Hậu . 2 phu nhân Bùi Mộng Điệp và Hoàng Tiểu Lan là không có Hôn Thú , Con lấy Họ Mẹ mãi đến sau này khi Nam Phương Hoàng Hậu mất 1963, đến thập niên thập 1970 , Hoàng Đế Bảo Đại mới điều chỉnh khai sanh các con họ Nguyễn Phúc .
Vì vậy Phu Nhân Mộng Điệp không thích Nam Phương Hoàng Hậu , phu nhân Mộng Điệp không ghen với Tiểu Lan , hay những cô gái sau này với Hoàng Thượng nhưng gen ngược với Nam Phương Hoàng Hậu !, mới có chuyện giấu Điện tín của công chúa Phượng Liên khi Hoàng Hậu mất .
CÁC CON CUẢ HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI VỚI 2 PHU NHÂN BÙI MỘNG ĐIỆP VÀ PHU NHÂN HOÀNG TIỂU LAN
PHU NHÂN BÙI MỘNG ĐIỆP
Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh năm 1946 Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm 1954 Nguyễn Phúc Bảo Sơn, sinh năm 1957
PHU NHÂN : HOÀNG TIỂU LAN
Nguyễn Phúc Phương An sinh năm 1949.
THỰC DÂN PHÁP RA TAY : ÁP LỰC HOÀNG ĐẾ PHẢI TỪ CHỨC THỦ TƯỚNG TOÀN QUYỀN QUỐC GIA VIỆT NAM.
7.2.1950 Quốc gia Việt Nam trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc , là một điều Thực Dân Pháp không thể ngờ , vì nếu như vậy Quốc gia Việt Nam trước sau cũng độc lập về Quân sự và Ngoại giao, thế thì nước Pháp 5 năm chiến tranh 1945-1950 tốn tiền bạc và xương máu là vô ích hay sao ?
Thực Dân Pháp ra tay :
- Thực dân Pháp mua chuộc Tướng Bảy Viễn và các Lãnh tụ Lực lượng Quân đội Giáo Phái bằng đặc quyền kênh tế, để phân hoá Quân đội Quốc gia VN và cô lập Hoàng Đế , Hoàng Hậu .
- Phải : bổ nhậm Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia VN , là người thân Pháp .
- Hoàng Đế chỉ còn chức Quốc Trưởng , Thủ tướng phải là người thân Pháp 100%
Trong 3 bước trên Thực dân Pháp chỉ thất bại khi bổ nhậm Trung tá Không quân Nguyễn Văn Hinh , phu nhân là phụ nữ Paris chính gốc xinh đẹp , lên Thiếu tướng Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc Gia VN .
Tướng Hinh là người yêu nước Việt Nam nồng nàn !, dù là Sĩ quan Pháp , Vợ Pháp , Phụ thân : thân Pháp 100% Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm sau này . Lịch sử Việt Nam phải vinh danh Trung tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc Gia VN !
Năm 1950 Pháp đề nghị Hoàng Đế -Quốc trưởng -Thủ tướng bổ nhậm :Trung tá không quân Pháp : Nguyễn Văn Hinh : Đại tá Chánh Võ phòng Quốc trưởng- Thủ tướng Toàn quyền ( chức Quốc trưởng là Nguyên thủ quốc gia , nhưng không có quyền bằng Thủ tướng toàn quyền, chỉ có trường hợp ngoại lệ Quốc trưởng Hitler là quyền uy tột đỉnh vì Đức Quốc Xã không có chức vụ Thủ tướng !)
Sau vài tháng , nhận thấy Đại tá Hinh là người tài giỏi , lại có lòng yêu nước . Hoàng Đế Quốc trưởng-Thủ tướng tấn phong Đại tá Hinh lên Thiếu tướng 2 sao Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia VN, 2 năm sau 1952 lên Trung tướng 3 sao !
Tướng Hinh là người đã hình thành Quân Đội Quốc Gia VN , từ buổi bình minh ban đầu ! cố gắng giữ tính tương đối Độc lập giữa Quân Đội Quốc Gia VN và Quân đội viễn chinh Pháp !
Trước khi viết tiếp tôi muốn nói sở dĩ tôi dùng Quân Đội Quốc Gia VN tương đối độc lập, vì nếu Quân Đội Quốc Gia VN độc lập 100% như các nước khác, thì sẽ không bao giờ tồn tại Lực lượng Quân đội Bình Xuyên và các Lực lượng quân đội Cao Đài , Hoà Hảo và Thiên Chúa Giáo , đây là công cụ của Thực Dân Pháp .
Lực lượng Quân đội Thiên chúa giáo giải tán 1954 khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm nhậm chức !
Trước áp lực của người Pháp ngày càng nặng nề , trong lúc đó Tưởng Bảy Viễn kiểm soát Sài Gòn Chợ Lớn ..Hoà Hảo - Thiên chúa giáo : Kiểm soát miền Tây . Cao Đài kiểm soát Đông Nam Bộ.
Hoàng Đế , Hoàng Hậu ở Thủ đô Sài Gòn lâm vào thế yếu đây là thực tế, tôi nghĩ trước đây các Sử gia không dám nói là sợ đụng chạm đến Tôn giáo ! ( nhưng tất cả là dưới bàn tay đạo diễn của Thực Dân Pháp ! )
Vì vậy không lấy làm lạ khi trong ngày Lịch sử 16.6.1954 : Hoàng Đế Quốc trưởng yêu cầu Chí Sĩ Ngô Đình Diệm phải thống nhất các Lực lượng Quân đội Giáo phái ! Vì đây là âm mưu của Thực dân Pháp làm suy yếu Chính quyền trung ương Sài Gòn .
Để thoát áp lực của Thực dân Pháp ngày càng nặng nề , Hoàng Đế và Hoàng Hậu quyết định ;
Để một nhân sĩ yêu nước có tài làm Thủ tướng , và Thiên đô về Cao Nguyên Trung Phần được mệnh danh là "Hoàng Triều Cương Thổ " để lãnh đạo đất nước không thể lấy Thủ Đô Sài Gòn vì tứ bề thọ địch :
Bộ tư lệnh Quân Viễn Chinh Pháp , Trụ sở Cao uỷ Đông Dương, đồng thời bị Tướng Bảy Viễn kiểm soát !
Quân đội Quốc gia VN thì đang trên đường thành lập còn yếu .
HOÀNG TRIỀU CƯƠNG THỔ -CAO NGUYÊN TRUNG PHẦN
BIỆT ĐIỆN HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI--NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU ĐƯỢC BẢO VỆ TRUNG ĐOÀN NGỰ LÂM QUÂN
BIỆT ĐIỆN HOÀNG ĐẾ TẠI : SỐ 4 NGUYỄN DU -THÀNH PHỐ BUÔN MÊ THUỘT--CAO NGUYÊN TRUNG PHẦN
TỔNG HÀNH DINH : HOÀNG ĐẾ -QUỐC TRƯỞNG VÀ NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU ĐỂ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC QUỐC GIA VIỆT NAM .
TRUNG ĐOÀN NGỰ LÂM QUÂN THIỆN CHIẾN BẢO VỆ
CÂY LONG NÃO CẢ TRĂM TUỔI SAU BIỆT ĐIỆN
HOÀNG ĐẾ -QUỐC TRƯỞNG
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU
Trong lúc đó tại Sài Gòn Thủ tướng Nguyễn Phan Long, thay mặt Hoàng Đế -Hoàng Hậu điều khiển Quốc gia , Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh cấp tốc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Hoàng Đế Quốc trưởng ký lệnh Tổng Động Viên Toàn quốc .Trường Sĩ quan Nam Định thành lập khoá đầu tiên (tiền thân trường Võ bị Liên Khoa Thủ Đức ) , Trường Võ Bị Đập Đá Huế thành lập 1948 , dời vào Đà Lạt, thành trường Võ bị Liên quân Đà Lạt ,khoá đầu tiên khai giảng vào 10.1950
National Military Academy-École Militaire Inter-Armes de Dalat
TRƯỜNG VÕ BỊ LIÊN QUÂN ĐÀ LẠT KHAI GIẢNG KHOÁ ĐẦU TIÊN : KHOÁ TRẦN HƯNG ĐẠO 10.1950 CÓ 135 SĨ QUAN TỐT NGHIỆP.
HOÀNG ĐẾ-QUỐC TRƯỞNG VÀ HOÀNG HẬU THAM DỰ LỄ KHAI MẠC VÀ LỄ MÃN KHOÁ
Vì tình hình Quốc Gia đang dầu sôi lửa bỏng, nên khoá học sĩ quan chỉ có 9 tháng ,là ra Thiếu uý tác chiến, trình độ Trung học đệ nhất cấp .
Thủ Khoa khoá Trần Hưng Đạo :Võ bị Liên quân Đà Lạt là Đại Danh tướng QLVNCH : Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu (1929-1975)
Trường Võ bị Nam Định khai giảng khoá đầu tiên 1950 .(tiền thân Trường Võ bị Liên Khoa Thủ Đức )
Quốc Gia đang dầu sôi lửa bỏng, nên khoá học sĩ quan cũng chỉ có 9 tháng ,là ra Thiếu uý tác chiến, trình độ Trung học đệ nhất cấp . ( như Võ bị Liên quân Đà Lạt )
Tất cả 300 Sĩ quan Tân Thiếu uý tốt nghiệp của 2 trường Võ Bị Đà Lạt -Nam Định :đều được bổ nhậm Đại Đội trưởng- Đại đội tân binh mới thành lập .
Nhưng trong khoảng thời gian 9 tháng để 300 tân Thiếu uý tốt nghiệp, và 300 Đại đội tân binh thành lập . Thực dân Pháp cũng đã ra tay bứng Thủ tướng Nguyễn Phan Long tại Thủ Đô Sài Gòn , với lý do qua mặt Bộ trưởng Bộ Liên Hiệp Pháp , Xung khắc giữa Hoàng thượng ,Hoàng Hậu và Cao uỷ Pháp tại Đông Dương bùng nổ lớn , cuối cùng Thủ tướng Nguyễn Phan Long phải xin từ chức , vì không muốn ảnh hưởng đến Hoàng thượng , và Hoàng Hậu . Hoàng đế và Hoàng hậu , quyết định để chờ các Sĩ quan mãn khoá , có lực lượng Quân đội ban đầu trong tay đã, rồi phản công .
Hoàng đế Quốc trưởng bổ nhậm ông Trần Văn Hữu là người trung dung làm Thủ tướng , để câu thời gian.
Năm 1950 là là năm mà Hoàng Đế Quốc trưởng Bảo Đại , và Nam Phương Hoàng Hậu phải đấu trí với Cao uỷ Đông Dương Pháp : Léon Marie Adolphe Pascal Pignon ( 20.10.1948 - 17.12.1950) rất là ghê gớm , về Ngoại giao là thắng lợi tuyệt vời , khi là thành viên Liên Hiệp Quốc , được Quốc tế công nhận , Liên Bang Sô Viết công nhận là thắng lợi rất lớn , nếu Liên sô không công nhận , thì không thể thành viên Liên Hợp Quốc được ( vì Liên Sô là một trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo An LHQ, chỉ cần Liên Sô phủ quyết , là bị loại ngay ).
Nhưng về Quân sự , thì Hoàng thượng và Hoàng hậu là con số zero, không có Quân đội trong tay ,phải bắt đầu từ đầu .
Hoàng Thượng ra tay , đi một nước cờ rất cao tay , căn cứ vào Hiệp ước Elyseé 8.3.1949: Quốc gia Việt Nam nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, và nay là thành viên chính thức Liên Hiệp Quốc ,thế thì Quốc gia VN bắt buộc phải có Quân đội riêng.
Hoàng Đế nhân danh Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam chuyển qua cho Ông Tân Thủ tướng mới nhậm chức thi hành
Ngày 11 tháng 5 năm 1950,tại Thủ Đô Sài Gòn :Tân Thủ tướng Trần Văn Hữu chính thức tuyên bố thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số là 60,000 người ,.
Lúc này Danh chánh ngôn thuận thành lập 2 trường Võ Bị.
Cao uỷ Đông Dương Léon Marie Adolphe Pascal Pignon, không biết làm sao chỉ biết nuốt giận !
Cũng trong ngày này Tân Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh : đặt Bộ Tư lệnh :tại số 1 đường Galiéni, tức thành Ô Ma :Camp Aux Mares Thủ Đô Sài Gòn ( Bộ Tổng Tham mưu sau này):Cấp tốc thành lập 60,000 chiến binh trong 9 tháng ,và lên kế hoạch trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ Bắc vào Nam được phân chia thành 4 Quân khu và và bổ nhậm Sĩ quan cấp Tá người Việt vào chức vụ Tư lệnh quân khu, là những sĩ quan gia nhập Quân đội Pháp nhưng có lòng yêu nước như Thiếu tá Lê Văn Tỵ,Thiếu tá Phạm Văn Đổng ( thăng Trung tá một thời gian ngắn sau )
1951 HOÀNG ĐẾ-HOÀNG HẬU CÓ 100 NGÀN QUÂN TRONG TAY CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG -THỜI KỲ HOÀNG KIM CUẢ HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU 1951-1952-
BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ QUỐC 11.1952 ĐẢNG CỘNG HOÀ ĐẠI THẮNG: ỨNG CỬ TT CỘNG HOÀ THỐNG TƯỚNG DWIGHT EISENHOWER VÀ ỨNG CỬ VIÊN PTT THƯỢNG NGHỊ SĨ RICHARD NIXON THẮNG CỬ GẦN NHƯ TUYỆT ĐỐI -MỸ QUỐC BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI :VĂN MINH -LỊCH SỰ -THƯỢNG TÔN LUẬT PHÁP
(1952 Hàng triệu dân Mỹ xuống đường biểu tình với khẩu hiệu :" Tống cổ Truman ra khỏi Toà Bạch Ốc !" " Đảng Dân chủ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về Truman )
1953 HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHUẨN BỊ RÚT LUI CHÍNH TRƯỜNG VN TRAO THƯỢNG PHƯƠNG BẢO KIẾM CHO CHÍ SĨ NGÔ ĐÌNH DIỆM
A- 1951 HOÀNG ĐẾ-HOÀNG HẬU CÓ 100 NGÀN QUÂN TRONG TAY CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG :
HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 38 TUỔI : TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM-THỊ SÁT THƯỢNG DU BẮC VIỆT NAM -THỜI KỲ HOÀNG KIM CUẢ HOÀNG ĐẾ-HOÀNG HẬU 1951
HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 39 TUỔI : TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI PHI TRƯỜNG CÁT BI HẢI PHÒNG 1952
HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 38 TUỔI : TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM 1951
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU 37 TUỔI VÀ CÁC HOÀNG TỬ, CÔNG CHUÁ : ĐÔNG CUNG THÁI TỬ BẢO LONG 15 TUỔI , CÔNG CHUÁ PHƯƠNG MAI 14 TUỔI, CÔNG CHUÁ PHƯƠNG LIÊN 13 TUỔI CÔNG CHUÁ PHƯƠNG DUNG 9 TUỔI, HOÀNG TỬ BẢO THẮNG 8 TUỔI NĂM 1951 . THỜI HOÀNG KIM HOÀNG HẬU LẦN THỨ 2 : UY QUYỀN HẠNH PHÚC ĐƯỢC 2 NĂM RỒI : TÌNH YÊU VÀ DANH VỌNG VỖ CÁNH BAY XA ....
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU THỜI HOÀNG KIM LẦN THỨ 1 -1934 NGÀY THÀNH HÔN TẤN PHONG NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU.
"Tôi đã chọn tên trị vì cho Nàng là Nam Phương Hoàng Hậu. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép Nàng được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế".
TÌNH YÊU VÀ DANH VỌNG VỖ CÁNH BAY XA ...
Năm 1950 là năm khó khăn cho Hoàng Đế và Hoàng Hậu.
Hoàng Hậu đã giúp Hoàng Đế rất nhiều để vượt qua trở ngại . Cũng chính là năm Tình hình thế giới biến chuyển lớn vô tình có lợi cho Hoàng Đế và Hoàng Hậu và Quốc gia Việt Nam : Cuộc chiến Triều tiên bùng nổ 6.1953 do lỗi lầm của TT thứ 33 U SA khi ra lệnh triệt thoái toàn bộ Quân Lực Mỹ ra khởi Nam Hàn , để cắt giảm chi phí quốc phòng , vì kênh tế Mỹ đang thê thảm, đồng thời Đảng CS Mỹ hoạt động rất mạnh với tư tưởng Mao Trạch Đông !Nhưng Ông TT thứ 33 nghĩ là do bàn tay của kẻ thù Stalin, nên cung cấp ngân khoảng khổng lồ cho CIA để chống lại Liên Sô. Kênh tế Mỹ càng thê thảm !
Trước 2 ngày Bắc Hàn tấn Công Nam Hàn . Quốc hội Mỹ chất vấn TT thứ 33 : Mỹ rút quân khỏi Nam Hàn .Nếu Bắc Hàn , và Trung Cộng tấn công Nam Hàn thì sao ?
TT thứ 33 USA cười lớn : Đó chuyện Hoang tưởng ! các Ngài đã suy nghĩ viễn vông ! KHÔNG BAO GIỜ CÓ CHUYỆN ĐÓ ĐÂU !
Ngày Chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950 : Quân đội Bắc Hàn gần 200 ngàn quân với 242 Thiết giáp T-34,110 chiến đấu cơ YAK, 70 oanh tạc cơ vượt Vĩ tuyến 38 : tiến như chẻ tre , vì quân đội Nam Hàn chỉ có 64.697 binh sĩ chỉ có vũ khí súng trường Carbin M1 , không có Thiết giáp và và pháo binh,và Không quân ?
( Vì TT thứ 33 chỉ viện trợ vũ khí súng trường Carbin M1 cho bộ binh , còn mơ tưởng Chủ tịch Mao là bạn !)
Chỉ trong vài ngày Quân đội Bắc Hàn tiến đến bao vây Thủ Đô Hán Thành .
Trước tình hình nguy ngập , Nam Hàn có thể bị Xoá Sổ , Quốc Hội : Mỹ Quốc quyết định họp tuyên chiến với Bắc Hàn , và Trung Cộng . Dân chúng Mỹ , báo chí Mỹ ủng hộ 100% .
Nhưng Ông TT thứ 33 thì lại sợ Quốc Hội họp sẽ luận tội mình , vì tội rút quân ra khõi Nam Hàn !
Vì Vậy Ông TT thứ 33 đã làm một chuyện mà trong hơn 200 năm lập quốc của Mỹ Quốc chưa bao giờ có là đi cầu cứu Liên Hiệp Quốc !
Ai cũng hiểu nếu Liên Hiệp Quốc tham chiến , thì Quân đội Mỹ vẫn là chính, tiền bạc của dân chúng Mỹ vẫn là chính , nếu các nước Châu Âu tham chiến chỉ là tượng trưng , ngược lại Mỹ không thể cắt tiền viện trợ tái thiết Âu Châu được, nhưng Ông TT thứ 33 không care chỉ thoát khỏi bị luận tội là được !
Pháp gởi 1,700 quân tham chiến với điều kiện xin Mỹ viện trợ chiến phí Đông Dương . Ông TT thứ 33 vui vẻ nhất trí hào phóng gánh đến 70% chiến phí Đông Dương . Mỹ quốc càng lún sâu vừa chi phí chiến tranh Triều tiên, vừa viện trợ tái thiết Âu Châu , vừa viện trợ tại Đông Dương , trong lúc kênh tế Mỹ đã thê thảm , Ông TT cũng không care ? tiền thuế xương máu của người dân Mỹ Quốc cũng không care. Nếu Quốc Hội Mỹ tuyên chiến , thì sẽ cắt viện trợ cho Âu Châu với lý do Mỹ đang có Chiến Tranh !
Nhưng Tiền viện trợ Mỹ cho Đông Dương đến 70% chiến phí là có lợi cho Quốc gia Việt Nam , Vì Quốc Gia Việt Nam là thuộc Đông Dương , là Thành Viên của Liên Hợp Quốc, tiền viện trợ này phải chia cho Quân đội Quốc gia Việt Nam ! đầy phải là hiển nhiên !
Hoàng Đế Hoàng Hậu ra tay !
Nam Phương Hoàng Hậu đích thân gặp Đại sứ Mỹ Donald Heath tại Thủ đô Sài Gòn ,trình bày về tiền viện trợ Chiến Phí Đông Dương . Ông Đại Sứ đồng ý .
Lập tức Hoàng Đế yêu cầu Tướng Hinh tăng quân số đến 100 ngàn quân . Vì đã có tiền viện trợ CHUÀ của Mỹ !
(Tôi dùng từ Chùa vì Ông TT thứ 33 chủ ý là viện trợ cho Pháp , chứ có phải là lòng tốt cho Quốc gia VN đâu ! Nhưng chiếu theo luật là phải chia cho Quân Đội Quốc Gia VN)
**Một Biến chuyển tại chiến trường Bắc Việt Nam , về lâu dài là có hại , nhưng trong thời điểm 1950 lại là có lợi cho Hoàng Đế và Hoàng Hậu để phản công với Cao uỷ Pháp .CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG
Quân Pháp thất trận thê thảm trong trận Cao- Bắc- Lạng hay còn gọi chiến dịch biên giới 16.9.1950--1.10.1950. Quân Lực Việt Minh đã đánh tan 2 Liên đoàn Lưu Động của Pháp , bắt sống 2 Trung tá Liên Đoàn trưởng , Trung tá Charton , Trung tá Le Page toàn bộ : Bộ chỉ huy của 2 Liên Đoàn Lưu Động .
Làm Chính trị phải biết lợi dụng thời cơ . Nam Phương Hoàng Hậu rất thông minh, cả nước Pháp đang bàng hoàng Sững Sờ , toàn bộ biên giới Trung Hoa -Việt Nam đã bị Việt Minh chiếm giữ và khai thông , từ đây Trung Cộng sẽ viện trợ ồ ạt cho Việt Minh, một cách rất dễ dàng, Việt Minh cấp tốc thành các Đại Đoàn (Sư Đoàn ) 304,308, 312 .
Lập tức Hoàng Đế yêu cầu Cao Uỷ Pháp , Phải sát nhập các Lực lượng quân đội thuộc địa người Việt Nam trong Quân Viễn chinh Pháp vào Quân đội Quốc gia VN để bảo vệ lãnh thổ từ Bắc vào Nam , còn Quân Pháp đánh Việt Minh .
Cao Uỷ Pháp đồng ý , vì nếu Quân đội Pháp giữ Lãnh thỗ thì sẽ bị phân tán mỏng , không tập trung quân được như trận Cao -Bắc- Lạng .
Ngược lại Quân đội Quốc gia VN , lại có lợi vì : Thành lập 100 ngàn quân tân binh , kinh phí có thể không đủ , mà lại là tân binh , nên Tướng Hinh chỉ phát triển 60 ngàn tân binh , còn 40 ngàn chiến binh là lấy bên lực lượng Vệ binh Nam Phần , và Bảo chính đoàn ngoài Bắc.,Vệ binh sơn cước
**Bảo chính đoàn Bắc Việt Nam :Lực lượng Quân sự địa phương, tổ chức để yểm trợ cho quân đội Pháp,do các sĩ quan Pháp chỉ huy
Tướng Hinh cấp tốc thành lập : 40 Tiểu đoàn Việt Nam và Tiểu đoàn khinh quân Độc lập đầu tiên , Tiểu đoàn Nhảy Dù Số 1 cũng được thành lập , với các Đại Đội trưởng đầu tiên : Trung uý Đỗ Cao Trí , và Trung uý Nguyễn Khánh ,một trong những Trung đội trưởng đầu tiên là Trung Sĩ Đào Văn Hùng (Trung tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn Nhảy Dù 1967 )
Qua năm 1951 với Đạo quân 100 ngàn Chiến binh Quân đội Quốc gia Việt Nam , lúc này tình hình đã khác : CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG .Hoàng Đế- Hoàng Hậu chiếm thượng phong : các Lực lượng Quân đội Giáo Phái , Và Tướng Bảy Viễn mới thật tâm thần phục . Cao uỷ Pháp cũng không dám áp lực như trước !
Quả thật một Lãnh tụ , dù đó là Nguyên thủ Quốc gia mà không có Quân, thì khó điều khiển Quốc Gia !
Hoàng Đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu là Minh chứng Lịch Sử VN !
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:01:43 GMT 9
BIỆT ĐIỆN ĐÀ LẠT DINH CUẢ HOÀNG ĐẾ -QUỐC TRƯỞNG - -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CÙNG CÁC HOÀNG TỬ-CÔNG CHUÁ TRÚ NGỤ 1951-1953
Biệt Điện Đà Lạt xây dựng trong khoảng từ năm 1933 đến 1938 là nơi Gia đình Hoàng Đế Bảo Đại -Nam Phương Hoàng Hậu sinh sống và làm việc ở thành phố Đà Lạt 1951-1953 ( Thời gian này các Hoàng tử Công Chúa học bên Pháp , dịp Tết hay Hè mới về )
VĂN PHÒNG LÀM VIỆC CUẢ HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG 3.1951-1.1954
PHÒNG NGỦ CUẢ HOÀNG ĐẾ VÀ HOÀNG HẬU
PHÒNG NGỦ CUẢ 2 CÔNG CHUÁ PHƯƠNG MAI -PHƯƠNG LIÊN
PHÒNG NGHĨ NGƠI CUẢ HOÀNG ĐẾ VÀ HOÀNG HẬU
Năm 1951 là năm có lợi cho Quốc gia Việt Nam về mọi mặt : Quân sự , Ngoại giao , nhưng Mỹ quốc thê thảm, kênh tế kiệt quệ , thất nghiệp , Mafia , Đảng Cọng sản tư tưởng Mao Trạch Đông bùng nổ mạnh , nước Mỹ trên bờ vực thẳm , chiến tranh Triều tiên lan rộng , 1 triệu Chí nguyện Quân của Trung Cộng tham chiến đau nhất là trong đó có 300 ngàn Quân Trung Hoa Quốc dân đảng và các tướng lãnh Quốc dân đảng, được Mao Trạch Đông thả trong Trại cải tạo ra , với lời hứa chiến tranh kết thúc sẽ trả Tự Do , và sự thật các Tướng lãnh Quốc Dân Đảng quyết sống mái với Quân Mỹ !, vì chính phủ Mỹ của TT thứ 33 U SA bỏ rơi Trung Hoa , hàng triệu người Trung Hoa bị thảm sát dã man dưới bàn tay bạo chúa Mao Trạch Đông ! Vì TT thứ 33, đây là sự thật đau lòng , mà lịch sử Mỹ không dám nhắc đến !. Cuộc đời của Ông TT thứ 33 sau này rất thê thảm , ông là người Mỹ đầu tiên đi xin tiền trợ cấp người già và tiền Medicare năm 1965 khi sắc lệnh TT thứ 36 Lyndon Johnson ban hành , điều này chứng tỏ Ông không có tiền hưu TT luôn !.
Để giải quyết chiến trường Triều tiên mau lẹ , trong lúc kênh tế Mỹ kiệt quệ , các Tướng lãnh Mỹ quốc quyết định : sử dụng Bom nguyên tử loại nhẹ huỷ diệt Quân Trung Cộng , Báo chí Mỹ ủng hộ không đưa tin !
Phải công nhận thời kỳ này báo chí Mỹ rất yêu nước . Đại danh tướng 5 sao Mỹ quốc Thống tướng Douglas Mac Arthur , đã thành công khi dùng Biển Lửa Nguyên tử thiêu rụi Biển người.
QUÂN ĐOÀN X (10) MỸ QUỐC TRƯỚC GIỜ LÂM TRẬN : LỬA NGUYÊN TỬ THIÊU RỤI PHƯƠNG DIỆN QUÂN TRUNG CỘNG ( PHƯƠNG DIỆN QUÂN LÀ 10 SƯ ĐOÀN : 100 NGÀN QUÂN)
* Báo chí Mỹ đưa tin : "Mỹ Quốc thử bom Nguyên tử tại Triều tiên , vùng đất không có dân " !
( XIN VINH DANH ÔNG NHÀ BÁO MỸ QUỐC YÊU NƯỚC : KHÔNG CÓ DÂN TRIỀU TIÊN NHƯNG CÓ 100 NGÀN QUÂN TRUNG CỘNG !)
Tại Việt Nam sau Trận Cao -Bắc -Lạng ( Cao Bằng , Bắc Cạn , Lạng Sơn) hay còn gọi Trận Biên giới 9--10.1950 .
Quân Viễn chinh Pháp bị xoá sổ 2 Liên đoàn lưu động , toàn bộ Bộ chỉ huy 2 Liên đoàn bị bắt sống , Biên Giới Việt -Hoa khai thông , Nước Pháp rúng động, lúc này Mao Trạch Đông cử Nguyên Soái 5 sao Vi Quốc Thanh, Đại tướng 4 sao Trần Canh , đến Việt Bắc để giúp Thượng tướng 3 sao Lã Quí Ba Cố vấn , thiết kế trận đánh cho chủ tịch " Hồ Chí Minh" và Đại tướng CS Võ Nguyên Giáp .
Chính phủ Pháp đã Bổ nhậm Đại Danh tướng : Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny : Tồng tư lệnh Quân Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương , Kiêm Cao Uỷ Đông Dương ngày 7.12.1950, có toàn quyền quyết định tại Chiến trường Đông Dương
Danh tướng Quân Lực Pháp Quốc :Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny tại Thủ đô Sài Gòn 7.12. 1950 ( ngoài cùng )
*Danh tướng Quân Lực Pháp Quốc Cố Thống Chế 5 sao :Jean de Lattre de Tassigny 2 February 1889 – 11 January 1952
Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương 7 tháng 12 năm 1950-11 tháng 1 năm 1952,
*Chú thích :
Cấp Tướng 5 sao : Các nước Âu Châu gọi là Thống chế , Mỹ Quốc , VNCH gọi là Thống tướng .
Liên bang Sô Viết , Bắc Hàn , Trung Cộng gọi là Nguyên Soái .
Cấp Tướng 6 sao gọi là Đại Thống tướng :Mỹ Quốc (General of the Armies of the United States) có 2 vị : Đại Thống tướng John Pershing (13 tháng 9 năm 1860 – 15 tháng 7 năm 1948), và Đại Thống tướng- Tổng thống George Washington được Quốc hội truy phong 1978 , để không thể có một Tướng lãnh nào có thể vượt cấp vị Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân lực Mỹ Quốc.
Cấp Tướng 6 sao :Liên bang Sô Viết có 1 vị : Đại Nguyên Soái Joseph Stalin
Cấp Tướng 6 sao :Bắc Hàn 1 vị- Đại Nguyên Soái Kim Nhật Thành.
Trung Cộng không có Cấp Tướng 6 sao.
Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny là một Danh tướng, Cố Thống chế de Lattre quan hệ tốt với Hoàng Đế và Hoàng Hậu , đã đồng ý nâng Tổng Số Quân đội Quốc gia Việt Nam lên 200 ngàn quân để bảo vệ lãnh thổ , nhưng chính phủ Pháp không đồng ý , Sợ Hoàng Đế mạnh sẽ ra tay thống nhất các Lực lượng Quân đội Giáo phái và Bình Xuyên, và Quốc gia VN sẽ độc lập 100% thoát khỏi ảnh hưởng của Nước Pháp !
Chỉ đồng ý Quân đội Quốc gia Việt Nam 150 ngàn quân là tối đa !
150 ngàn quân làm sao có thể bảo vệ từ Bắc và Nam được ! , Quân đội VN bị phân tán trên toàn Lãnh thổ rộng lớn . Thực dân Pháp đã thành công bẻ gãy ý muốn của Hoàng thượng là chỉ có một Quân đội Quốc Việt Nam duy nhất !
Thực dân Pháp ra điều kiện :Quân Đội Quốc gia Việt Nam , có viện trợ Mỹ , thế thì Quân đội Quốc gia VN phải trả lương , đào tạo sĩ quan cho Quân đội Giáo phái , Bình xuyên, đeo lon Sĩ quan Quân đội Quốc gia VN , trong lúc họ là Sứ quân cát cứ. Đúng là Thực dân quá thâm độc .
Chưa kể các Lãnh tụ Quân Sự Giáo Phái , và Tướng cướp Bảy Viễn có đặc quyền Kênh tế giàu có , thế mà Bộ quốc phòng Quốc gia Việt Nam phải trả lương cho Quân đội Giáo Phái , và Bình Xuyên .
THẾ THÌ :TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM : CHỈ ĂN LƯƠNG THIẾU TƯỚNG . TRONG LÚC ĐÓ TƯỚNG BẢY VIỄN VỪA ĂN LƯƠNG THIẾU TƯỚNG VỪA CÓ ĐẶC QUYỀN KÊNH TẾ : MỞ SÒNG BÀI , ĐỘNG GÁI , TIỆM HÚT THUỐC PHIỆN , CÁI NÀY CÓ CÔNG BẰNG KHÔNG ?
VÌ THẾ KHI NGÔ TỔNG THỐNG DIỆT CÁC LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI GIÁO PHÁI VÀ BÌNH XUYÊN LÀ VIỆC THIÊN KINH ĐỊA NGHĨA.
HỢP LÒNG TRỜI . HOÀNG ĐẾ CHƯA THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC - NGÔ TỔNG THỐNG THỰC HIỆN HOÀI BẢO CUẢ HOÀNG ĐẾ THÔI !
Năm 1951 Hoàng Đế -Hoàng Hậu dù ở đỉnh cao quyền lực , nhưng không thể về trú ngụ Thủ đô Sài gòn, vì Tướng Bảy Viễn kiểm soát ,.
Quân đội Quốc gia Việt Nam phải phân tán trên toàn thể Lãnh thổ từ Bắc vào Nam để bảo vệ đất nước . Dưới áp lực của chính phủ Pháp : phải tấn phong Tướng Bảy Viễn 2 sao ngang hàng với Tướng Nguyễn Văn Hinh !
Thực dân Pháp rất thâm độc : Dù Quốc gia Việt Nam là thành viên chính thức Liên Hiệp Quốc , Quân đội Quốc gia VN, có 150 ngàn quân , Hoàng Đế và Hoàng Hậu là những vị yêu nước . có Viện trợ của Mỹ Quốc ( Viện trơ chiến phí Đông Dương ). Nhưng thực dân Pháp cô lập Quốc gia Việt Nam về kênh tế :
Thủ đô Sài Gòn :Trung tâm kênh tế cả nước giao Tướng Bảy Viễn kiểm soát .
Vựa lúa Miền Tây :giao lực lượng Quân đội giáo Phái Hoà Hảo , và Quân đội Thiên Chúa Giáo.
Kênh tế Quốc gia Việt Nam là con số Zero to tướng !
Lực lượng Quân đội giáo Phái Hoà Hảo xé ra làm 4 phân hoá chia để trị : Tướng Năm Lửa , Tướng Nguyễn Giác Ngộ, Tướng Lâm thành Nguyên , Trung tá Ba Cụt.
Lực lượng Quân đội Thiên Chúa Giáo xé làm 2 :Trung tá Leroy (Lai Pháp ) Bến Tre và Biệt Khu Hải Yến Cà Mau
Miền Tây có 6 Lãnh chúa tranh giành nhau (4 Hoà Hảo ,2 Thiên Chúa Giáo ) trong lúc đó Bộ quốc phòng Quốc gia Việt Nam phải trả lương cho họ và binh sĩ?
Quân đội Quốc gia VN phải phân tán trên toàn lãnh thổ rộng lớn từ Bắc vào Nam để bảo vệ đất nước ?
Vậy theo các bạn : Hoàng Đế-Hoàng Hậu phải làm sao đây ? !
Hoàng Đế-Hoàng Hậu : Thiên Đô về Hoàng Triều Cương Thổ - Cao Nguyên Trung Phần là quá đúng !
Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny Tổng tư lệnh kiêm Cao uỷ Đông Dương , đã phản công tại chiến trường Bắc Việt Nam. , một loạt chiến thắng vang dội :
1. Trận Vĩnh Yên đánh bại ý đồ của Nguyên Soái Vi Quốc Thanh khi tính ăn Tết Tân Mão năm 1951 tại Hà Nội . Quân Lực Việt Minh tung 3 Sư đoàn vừa thành lập 304, 308, 312 tung quân từ Việt Bắc tiến về Đồng Bằng , đây là sai lầm lớn của Ông Nguyên soái Tàu Phù :
3 Sư đoàn mới thành lập , dù có tinh thần chiến đấu chống Pháp không phủ nhận , nhưng không có pháo binh , Thiết giáp yểm trợ, về đồng bằng giữa xạ trường quan đảng chỉ làm mồi cho Pháo binh , và Không Lực Pháp thôi, ông Tướng Tàu Phù này coi sinh mạng con người Việt Nam quá rẽ, khi sử dụng chiến thuật biển người của Tàu Phù thực hiện tham vọng của Mao Trạch Đông .
Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny đã dùng biển lửa thiêu rụi biển người xoá sạch gần 3 sư đoàn .
Diễn Tiến Trận Vĩnh Yên 12.1.1951-17.1.1951 :
Thị Xã Vĩnh Yên do Quân Đội Quốc gia VN Phòng thủ : 1 Tiểu đoàn Khinh Quân Bắc Việt Nam (BVN,) 1 Tiểu đoàn Bộ Binh Sơn Cước , trước trận trận đánh diễn ra do nhận tin tình báo , Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny đã điều 1 Liên Đoàn Lưu Động GM3 -Trừ gồm 2 Tiểu đoàn Pháp về tăng cường QĐQGVN Phòng thủ .
NGUYÊN SOÁI 5 SAO :LUO RONGHUAN - LA VINH HOÀN BÍ DANH : VI QUỐC THANH
La Vinh Hoàn năm 1902 – 16 tháng 12 năm 1963 là một trong mười vị Nguyên soái nổi tiếng của Hồng Quân CS Trung Hoa.
Kế hoạch của Nguyên soái Vi Quốc Thanh :
Để chiếm Thị Xã Vĩnh Yên làm bàn đạp tiến về Hà Nội :Sử dụng 2 Đại đoàn 308, 312 (danh xưng Sư đoàn lúc này theo tiếng Hoa) .Đại đoàn 304 làm trừ bị
đánh cắt đôi vào giữa hai lực lượng phòng thủ Pháp -Việt, xuyên phá đội hình của LĐLĐ GM3, qua Vĩnh Yên, quá xuống Sơn Tây, sông Đà và sông Hồng, tiến xuống Hà Nội theo đường đê. Từ cuối tháng 12 năm 1950, Đại đoàn 308 từ Việt Bắc nhận lệnh hành quân về bố trí dọc theo cánh cung Tam Đảo, phối hợp cùng Đại đoàn 312 bao vây thị xã Vĩnh Yên. . Thế trận bao vây đã hình thành.
THỐNG CHẾ 5 SAO : JEAN DE LATTRE DE TASSSIGNY TỔNG TƯ LỆNH QUÂN VIỄN CHINH PHÁP TẠI CHIẾN TRƯỜNG ĐÔNG DƯƠNG 12. 1950--1.1952
Kế hoạch của Thống Chế De Lattre :
Dựa vào bản phân tích Tình báo của :Đại tá Boussary Trưởng phong nhì (tình báo) bộ Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh , bản phân tích cho thấy Nguyên Soái Vi Quốc Thanh sử dụng Bắc Sơn làm căn cứ hậu phương và Đông Triều làm căn cứ tiền phương, từ đó dự đoán rằng Nguyên Soái Vi Quốc Thanh sẽ tấn công từ Đông Triều vào Hải Phòng để cắt đứt nguồn cung cấp của quân Pháp tại đây. Căn cứ vào những phân tích này, Thống Chế De Lattre đã cho Thiết Kế :Kế hoạch hành quân "Trapèze" (Hình thang), dự tính sẽ đổ quân Tấn công tập kích bất ngờ vào các căn cứ hậu cần của Quân Lực Việt Minh được cho là đang đóng khu vực Bắc Sơn - Thái Nguyên vào ngày 14 tháng 1, từ đó buộc Nguyên Soái Vi Quốc Thanh phải triệt thoái khỏi các vị trí có thể uy hiếp Hà Nội .. về dọc biên giới Viet Nam-Trung Hoa hoặc dọc theo Quốc lộ 4
Theo kế hoạch Thống Chế De Lattre :vào ngày 10 tháng 1 năm 1951, 5 tiểu đoàn nhẩy dù sẽ nhẩy dù xuống Bắc Sơn, truy tìm và triệt hạ các kho tàng cũng như các đơn vị của Việt Minh đang trú đóng tại đây. Được tăng cường : 3 Liên Đoàn Lưu Động do Trung tá Edon (chỉ huy GM1), Erulin (chỉ huy GM2) và Trung tá De Castries (Tướng trận Điện Biên Phủ ) chỉ huy GM Tabor được lệnh sẵn sàng di chuyển về Bắc Sơn để tiếp ứng.
Đồng thời, để đề phòng Thị xã Vĩnh Yên chỉ là hướng nghi binh của Nguyên Soái Vi Quốc Thanh để mở cuộc tấn công từ Tam Đảo về Hà Nội .Thống Chế De Lattre ra lệnh thành lập :Lực lượng Đặc nhiệm Bộ binh và Thiết Giáp và bổ nhậm Đại tá Beaufré chỉ huy trưởng Bộ Tham mưu của Thống chế De Lattre làm : Đại tá Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm án ngữ tại mạn Bắc Thị xã Vĩnh Yên về phía cầu sông Đuống.
Quân Lực Việt Minh tham chiến :
Cố vấn Quân Sự Hồng quân CS Trung Hoa: Nguyên Soái 5 sao Vi Quốc Thanh - Đại tướng Trần Canh
Cố vấn Chính Trị Hồng quân CS Trung Hoa:Thượng tướng 3 sao Lã Quí Ba- Trung Cộng.
Tư lệnh Chiến trường :Đại tướng CSVN Võ Nguyên Giáp kiêm Bí thư Đảng uỷ .
Mật danh Trận đánh :Chiến dịch "Trần Hưng Đạo "
Đại đoàn 308 ( 3 Trung đoàn 102, 88 và 36).
Tư lệnh Đại đoàn : Đại tá Vương Thừa Vũ (tên thật Nguyễn Văn Đồi,gốc VN Quốc Dân Đảng , Sĩ quan Quân đội Trung Hoa Dân Quốc !)
Đại đoàn 312 tân lập (2 trung đoàn 209 và 141 ,2 trung đoàn độc lập 98 và trung đoàn 17)
Tư lệnh Đại đoàn : Đại tá Lê Trọng Tấn
Đại đoàn 304 (3 trung đoàn 9, 57, 66 ) trừ bị .Tư lệnh Đại đoàn :Đại tá Lê Chưởng
4 tiểu đoàn Bộ đội địa phương và 4 đại đội pháo binh 75 ly. Tổng cộng là 27.638 Chiến Binh Việt Minh . (chưa kể Lực lượng trừ bị Đại đoàn 304 )
Ngoài ra, số Dân công thường trực chiến trường là 27.658 người,
TRẬN CHIẾN
12.1.1951 Thống Chế De Lattre bay ra Hà Nội gặp Trung tướng 3 sao Raoul Salan Tư lệnh Chiến trường Bắc Việt Nam (Đại tướng Tổng tư lệnh Quân Viễn chinh 2.1952-5-1953) để trực tiếp chỉ huy trận đánh .
Tại Thị Xã Vĩnh Yên : Lực lượng Phòng thủ Thị Xã gồm 4 Tiểu đoàn : 2 Tiểu đoàn Quân đội Quốc gia VN , và 2 Tiểu đoàn của Liên Đoàn Lưu Động GM3 . Tư lệnh là Trung tá :Paul Vanuxem (Chỉ huy GM3).
(7.1972 Trung tướng Paul Vanuxem đã đến chiến trường An Lộc, cùng TT Thiệu ,Ông đã ca ngợi Quân Lực VNCH là Anh dũng tuyệt vời khi tử thủ An Lộc thành công trong điều kiện khắc nghiệt và tàn bạo . Trận Chiến An Lộc là trận chiến lừng lẫy đi vào quân sử thế giới )
Ngày 12 tháng 1 năm 1951, Bộ Tư lệnh của Nguyên soái Vi Quốc Thanh và Tướng Giáp đã di chuyển đến Tam Đảo. Đêm 13, trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tấn công Đồn Bảo Chúc, vị trí cách Vĩnh Yên 11 km về phía Tây Bắc. quân Pháp cầm cự suốt đêm . Tờ mờ Sáng ngày 14,Trung tá :Paul Vanuxem điều Tiểu đoàn Bộ Binh Sơn Cước (BBSC)- QĐQGVN đi tiếp cứu . Tiểu đoàn tới Thủy An thì bị Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) chặn đánh,phải lui về Cẩm Trạch. Trong lúc đó Đại đoàn 308 đã chiếm Đạo Tú. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân và pháo binh, Tiểu đoàn Bộ Binh Sơn Cước rút được về Vĩnh Yên, an toàn. Quân lực Việt Minh thừa thắng chiếm một loạt các cao điểm sát bên ngoài thị xã. Đến chiều ngày 14,thị xã Vĩnh Yên hoàn toàn bị bao vây. .
** GM viết tắc Liên đoàn lưu động
Tại :Tam Đảo Bộ tham mưu của Nguyên soái Vi Quốc Thanh và Tướng Giáp bắt được bức điện của Trung tá Vanuxem gửi Trung tướng Salan: “Vĩnh Yên est pratiquement encerclé” (“Vĩnh Yên thực sự bị bao vây”).
Ngay sau khi Thị Xã Vĩnh Yên bị bao vây, nhằm giải tỏa bớt áp lực cho Vĩnh Yên, Trung tướng Raoul Salan lập tức điều động Liên đoàn lưu động GM1 tiến lên Phúc Yên để thọc sâu vào sườn Quân lực Việt Minh và một Tiểu đoàn Nhẩy dù nhảy xuống Đồng Đau cách Vĩnh Yên 5 km.
Thống Chế De Lattre khi được tin cấp báo , ông cấp tốc bay ra Hà Nội , đã chỉ thị cho Trung tướng Raoul Salan dùng Phi Cơ :Thị sát Chiến trường Vĩnh Yên, ra lệnh :Liên đoàn lưu động GM1 từ Phúc Yên tấn công sang hướng Tây, tiến quân về Vĩnh Yên, đồng thời gọi Khu trục cơ , Oanh tạc cơ Oanh kích .
Liên đoàn lưu động GM2 từ Lục Nam tiến quân vào Vĩnh Yên để làm lực lượng trừ bị .
Thống Chế De Lattre cũng ra lệnh cho Trung tướng Allard :Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh tại Sài Gòn, điều động 5 tiểu đoàn Bộ binh từ Nam Bộ đưa ra Bắc.
Sau đó Thống Chế De Lattre ra chỉ thị cho Đại tá Maricourt :Tư lệnh Không quân Chiến trường Đông Dương : sử dụng bom Napalm Mỹ vừa cập bến Hải cảng- Hải Phòng . Huy động toàn bộ Oanh tạc cơ trên Chiến trường Đông Dương dội bão lửa bom Napalm vào Quân lực Việt Minh tại Vĩnh Yên .
Sau đợt dội bom Nalpalm khủng khiếp , lập tức Thống chế Jean De Lattre De Tasssigny :điều động 2 Liên đoàn GM1 và GM3 chia làm 3 hướng đánh chiếm núi Đanh - dải núi đất chạy dài ở phía Bắc và Đông Bắc thị xã Vĩnh Yên 6-7 km, cùng tấn công đánh bật Quân Việt Minh ra khỏi các cao điểm ở phía Bắc.
Nguyên soái Vi Quốc Thanh và Đại tướng Trần Canh thấy được điểm yếu khi tấn công về đồng bằng giữa xạ trường quang đản, kết quả thảm hại thiệt hại nặng 2 Đại đoàn 308, 312 , vội yêu cầu : Tướng Giáp huỷ bỏ phương án tấn công Vĩnh Yên, tung Đại đoàn trừ bị 304 , và Tàn quân 2 Đại đoàn 308, 312 tấn công núi Đanh , quyết tâm xoá sổ 2 Liên đoàn lưu động GM1 và GM3.
Lúc 13 giờ 30 ngày 16 .1.1951, các đơn vị Quân Lực Việt Minh được lệnh xuất kích : Đại đoàn 304 và thành phần còn lại của 2 Đại đoàn 308, 312,được tăng cường : 4 Tiểu đoàn Địa phương :
Trung đoàn 209, Trung đoàn 66 chiếm các cao điểm 70, 103. Lúc 5 giờ chiều, Trung đoàn 36 ,tăng cường 2 tiểu đoàn Bộ đội địa phương chiếm cao điểm 157. Sau đó Trung đoàn 66 chặn đánh một cánh quân của GM3 từ Vĩnh Yên lên khiến cho cánh quân này phải lùi về thị xã.
Ngày 16. 1.1951 : 3 Đại đoàn 304 , 308 và 312 mở cuộc tấn công lớn, các trận đánh lớn diễn ra cao điểm 101 và 210 (Núi Đanh)
Lúc 4 giờ 30 pm Thống chế De Lattre và Trung tướng Salan lên Phi cơ Thị sát Chiến trường.
Lúc này Quân lực Việt Minh chiếm được cao điểm 101, đánh thiệt hại nặng một Tiểu đoàn Maroc, thừa thế chiếm cao điểm 47, tuy kiểm soát được tuyến giữa nhưng Quân lực Việt Minh đã bị tiêu hao rất nhiều. Quân Pháp vẫn chiếm giữ được các cao điểm 210 và 157 và hai cạnh sườn. Ở cao điểm 210, Đại đoàn 308 cố gắng tấn công nhưng không đạt kết quả, bị thiệt hại nặng .
Trên Phi cơ : Thị sát Chiến trường Thống chế Jean De Lattre De Tasssigny ra lệnh huy động toàn bộ 3 Liên đoàn Lưu Động GM 1, 2, 3, và ra lệnh : Đại tá Maricourt Tư lệnh Không quân, huy động tối đa Oanh tạc cơ và Bom Nalpalm.
Quân Lực Việt Minh không quen chiến đấu phòng thủ, lại thêm các cao điểm mới chiếm được đều chưa có công sự vững chắc. Địa hình ,Địa thế lại trống trải nên bị tổn thất rất nặng nề ,do Bom Nalpalm và Pháo Binh.
Nhận thấy việc tấn công Vĩnh Yên là con số không ,bị thiệt hại nặng nề 3 Đại đoàn , vì vậy lúc 2 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1951, Nguyên soái Vi Quốc Thanh ra lệnh triệt thoái tất cả Tàn quân còn lại về Việt Bắc ..
**Trận Vĩnh Yên là Trận chiến đấu trí đầu tiên giữa Nguyên soái Vi Quốc Thanh và Thống Chế Jean De Lattre De Tasssigny (De Lattre) . Những yếu điểm của các Tướng Hồng quân CS Trung Hoa bộc lộ: đánh trận địa chiến mà Pháo binh yếu kém ,Thiết giáp không có, Phòng Không Cao xạ lại không có, thất bại là điều không thể tránh khỏi , Quân Lực Việt Minh chỉ quen đánh ở rừng núi , lại không rành việc phòng thủ , chỉ biết tấn công theo binh pháp Mao Trạch Đông : Dùng Biển người để chiến thắng .
Nhưng khổ nổi Phòng Không của Trung Cộng cũng quá yếu kém , điều này bộc lộ tại Chiến Tranh Triều Tiên 1950-1953.Không lực Mỹ làm chủ bầu trời Triều tiên đã huỷ diệt : trên 1 Triệu quân Trung Cộng trong suốt cuộc chiến ,Trung Cộng phải tăng cường thêm quân !
Mãi đến tháng 4.1954 Liên Sô mới viện trợ cho Quân Lực Việt Minh :Phòng không, Cao xạ trong trận Điện Biên Phủ , với sự Cố vấn Liên Sô , lúc này Việt Minh mới làm chủ bầu trời Điện Biên Phủ được .
*** Trận đánh Vĩnh Yên cũng là bước ngoặc lớn cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đánh dấu sự trưởng thành về kinh nghiệm chiến trận , cho binh sĩ và các Tân Thiếu uý Đại Đội trưởng ( Khoá Sĩ quan Đập đá tốt nghiệp tháng 6. 1950 tại Huế gồm có Thủ Khoa Thiếu uý Trần Thanh Phong , Thiếu uý Nguyễn Văn Thiệu ,Thiếu uý Lê Nguyên Vĩ .... Sau khoá này trường Sĩ quan Đập Đá dời vào Đà Lạt )
****
Trận Chiến Vĩnh Yên cũng đã làm Quân Pháp nâng cao tinh thần kể từ khi thất bại thảm hại Trận Cao-Bắc -Lạng 10.1950, và chứng tỏ Quốc hội Pháp đã quyết định đúng khi bổ nhậm Thống chế Jean De Lattre De Tasssigny vào chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Viễn Chinh kiêm Cao Uỷ Đông Dương có Toàn quyền quyết định Chiến trường .
********
Sau Trận Vĩnh Yên, Thống chế De Lattre hội kiến với Hoàng Đế và Hoàng Hậu, sau đó đã đưa ra một kế hoạch chiến lược gồm 4 điểm, được Chính phủ Pháp và Chính phủ Mỹ chuẩn y, bao gồm các điểm:
1. Gấp rút tập trung quân Lê Dương – Phi-Pháp thành các Liên đoàn Lưu Động (GM) là lực lượng cơ động chiến lược.
2. Xây dựng Quân Lực Quốc gia Việt Nam tăng số lượng lên gấp đôi lên 200 ngàn quân ( Thống chế đề nghị 200 ngàn quân, Quốc Hội Mỹ Đồng ý , nhưng chính phủ Pháp bác , giới hạn 150 ngàn quân , . Quốc gia Việt Nam nằm trong khối Liên hiệp Pháp , nên chính phủ Pháp có quyền , đây chính là lý do mà sau này Ngô Thủ tướng tuyên bố rút tên khỏi khối Liên hiệp Pháp 12.1954
1950 Liên Sô tính thiết lập quan hệ ngoại giao Quốc gia Việt Nam, nhưng chính phủ Pháp bác .
Trong lúc Toà đại sứ Liên Sô vẫn hiện diện tại Paris ?
Liên bang Sô Viết không muốn Mao Trạch Đông bành trướng chủ nghĩa Mao xuống châu Á , không ủng hộ cuộc chiến tranh Triều tiên , lý do sự xuất hiện 1 triệu quân Trung Cộng , Kim Nhật Thành bị áp lực ngã theo Trung Cộng ,trước chiến tranh Lãnh tụ Kim Nhật Thành ủng hộ Liên Sô , Liên Sô trả độc lập cho Bắc Hàn . Điểm Quan trọng trước 6.1950 Bắc Hàn chưa phải là Quốc gia cộng sản : danh xưng : Cộng Hoà Triều Tiên, chỉ sau chiến tranh với sự hiện diện 1 triệu quân Trung Cộng , lúc này Đảng Cộng Sản chủ nghĩa Mao mới thành lập và Danh xưng : Cộng hoà nhân dân Triều Tiên, Lãnh tụ Kim Nhật Thành đã mắc bẫy Mao Trạch Đông khi tấn công Nam Hàn , sau Chiến tranh lại tham sống sợ chết , từ 1 Lãnh tụ trẻ tuổi yêu nước Anh minh biến thành một tên tội đồ dân tộc Triều Tiên , bất lực , đồng loã nhìn Hồng quân CS thảm sát trên 1 triệu dân Bắc Triều tiên, thành phần tinh hoa của dân tộc : Trí thức, Tư sản đã giúp Lãnh tụ Kim Nhật Thành xây dựng Cộng Hoà Triều Tiên hùng mạnh nhất Châu Á trước 1950 ( Nhật đang bị chiếm đóng ).
Ông TT thứ 33 USA mắc một trọng tội với Lịch sử Mỹ và Lịch sử Triều tiên khi ra lệnh triệt thoái toàn bộ Quân Lực Mỹ ra khỏi Nam Hàn 4.1950, để Mao Trạch Đông lợi dụng . Bắc Triều Tiên từ Quốc gia không phải CS , lại biến thành Cộng sản chủ nghĩa Mao sau 1954. (Cao nguyên dậy lửa )
3.Xây dựng tuyến công sự phòng thủ quanh vùng Trung du và đồng bằng Bắc Việt Nam để đối phó với Quân lực Việt Minh. Đặc biệt, với kế hoạch xây dựng phòng tuyến Boong ke-Bunker với hơn 800 lô cốt, hàng chục Tập đoàn cứ điểm phòng thủ với hơn 20 Tiểu đoàn Quân lực Quốc gia Việt Nam phòng thủ chạy dài từ Hồng Gai, Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh-Phúc, Sơn Tây, Hà Đông tới Ninh Bình, tạo nên một hành lang bảo vệ từ Đông sang Tây, hạn chế tối đa hoạt động Quân lực Việt Minh .
4.
Quân Lực Quốc gia Việt Nam , và Quân Pháp đã có kinh nghiệm về nghệ thuật Quân sự : Phòng thủ và Cứu viện trên Chiến trường Việt Nam
THỜI KỲ HOÀNG KIM CUẢ HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU 1952 - CUỘC BẦU CỬ TT MỸ QUỐC 1952 : VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU TRONG LỊCH SỬ TRÊN 200 NĂM LẬP QUỐC !
THỜI KỲ HOÀNG KIM CUẢ HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG -NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU 1952
Năm 1952 , Hoàng Đế Quốc trưởng-Hoàng Hậu , là năm có thể nói đạt đỉnh cao quyền lực nhất .
1.Quân Lực Quốc gia Việt Nam lên 150 ngàn quân dàn 300 Sĩ quan Thiếu uý tốt nghiệp Khoá 1 Võ bị Đà Lạt và Khoá 1 Võ bị Nam Định đã tốt nghiệp nửa năm , cũng đã có kinh nghiệm chiến trận . Khoá 2 của 2 Trường Võ Bị cũng sắp tốt nghiệp.
2. Dân chúng đại đa số thần phục Hoàng Đế Quốc Trưởng , đặc biệt hình ảnh Hoàng Hậu, xuất hiện trên mọi miền đất nước là hình ảnh đẹp trong lòng của Thần dân.
3. Các Lực Lượng Quân đội Giáo phái thần phục 100% .
Thật ra Các Lực Lượng Quân đội Giáo Phái : Cao Đài , Hoà Hảo, Thiên Chúa Giáo , xuất thân là lực lượng Kháng chiến chống Pháp yêu nước .
Sau Tuyên ngôn Hạ Long 6.1948 : Khai sinh Quốc Gia Việt Nam ,nghe tin Hoàng Đế Bảo Đại là Nguyên thủ Quốc gia Việt Nam. Họ mới từ Chiến khu trở về, !
Nhưng Thực dân Pháp thâm độc dùng thủ đoạn phân hoá nhiều nhóm nhỏ , ngay cả Lực lượng Quân đội Giáo phái Cao Đài bị phân hoá 2 phe.
Sở dĩ Thực dân Pháp thành công là đem phân phát Đặc quyền kênh tế rộng rãi để họ trở thành các Lực lượng Sứ Quân , làm suy yếu chính quyền Quốc gia Việt Nam .
Nay các Lãnh tụ Quân đội Giáo Phái , thấy Hoàng đế rộng lượng : Bộ Quốc Phòng Quốc gia Việt Nam , trả lương binh sĩ, đào tạo sĩ quan cho họ .
Công nhận họ là Sĩ quan Quân đội Quốc Gia , nên họ thần phục kính mến Quốc trưởng -Hoàng Hậu là lẽ đương nhiên !
4. Năm 1952 là Năm bầu cử Tổng thống Mỹ Quốc rúng động thế giới , chưa bao giờ trong Lịch sử Mỹ Quốc có cuộc bầu cử như vậy : Ngay từ tháng 1.1952 , tất cả Người Dân Mỹ , Báo Chí, Quân đội, Đảng Cộng Sản Mỹ Tư tưởng Mao Trạch Đông , Mafia đều nhập trận. Lý do Tổng thống Truman tuyên bố ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 1953-1957 để lãnh đạo Mỹ Quốc và Thế giới Tự do chống lại hiểm hoạ Cộng Sản do tên Bạo chúa chúa hung ác Stalin của Đế quốc Liên Bang Sô Viết đứng đầu , quyết tâm thực hiện Chủ thuyết Truman đánh bại Liên Sô để bảo vệ thế giới tự do !
Đảng Cộng Sản Mỹ Tư tưởng Mao Trạch Đông , Mafia ủng hộ TT Truman !
Còn lại Toàn Bộ Dân Mỹ : Cộng Hoà-Dân Chủ-Độc Lập , Báo Chí, Quân đội đòi :"Tống Cổ Truman ra khỏi toà Bạch Ốc !"
KHẨU HIỆU NỔI TIẾNG :
" TRUMAN = CỘNG SẢN-TRIỀU TIÊN- THAM NHŨNG -MAFIA "
Dĩ nhiên :Hoàng Đế Quốc Trưởng-Hoàng Hậu đều biết : Đại danh tướng Thống tướng 5 sao Dwight Eisenhower sẽ đại thắng trong kỳ bầu cử TT , vô tiền khoáng hậu .
* Chú thích :đến tháng 6.1952 Báo chí Mỹ , Dân chúng Mỹ tố cáo :
"Đảng Dân Chủ phải chịu trách nhiệm lịch sử về Truman", vì thế hàng ngũ Lãnh đạo Đảng Dân chủ làm áp lực TT thứ 33 Truman phải rút lui !
Lúc này TT Truman biết rằng nếu tiếp tục không những thất bại chua cay , mà còn có thể bị luận tội sau này , nên tuyên bố rút lui.
Đảng Dân Chủ cấp tốc chọn một Liên danh ra ứng cử TT cho có lệ, để tránh cuộc bầu cử Độc diễn TT một Liên danh Cộng Hoà !, Thành thật Đảng Dân chủ đã làm một việc đẹp mắt .
Vì thế Thống tướng 5 sao Dwight Eisenhower thắng cử TT gần như tuyệt đối trên 48 Tiểu Bang Lục địa ( 2 tiểu bang Alaska , và Hawaii thành lập 1959 do sắc lệnh Thống tướng TT thứ 34 Dwight Eisenhower )
*Qua vụ này : 9.1952 Quốc Hội Mỹ Quốc ra điều luật : Một Tổng Thống USA chỉ được phép tối đa là 2 nhiệm kỳ.
Trước 1952 một Tổng thống Mỹ Quốc có thể ra ứng cử TT bao nhiêu nhiệm kỳ cũng được , vì vậy TT Anh Minh thứ 32 Franklin Roosevelt thắng cử 4 nhiệm kỳ liên tiếp 1932,1936,1940,1944 .
Tổng thống Anh Minh thứ 32 Franklin Roosevelt mất tháng 3.1945 sau 2 tháng nhiệm kỳ 4. Phó Tổng thống Truman cũng mới nhận chức Phó TT 2 tháng, nghiễm nhiên trở thành TT thứ 33 USA .
5. CHIẾN THẮNG :TRẬN CHIẾN LẪY LỪNG CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN 11-12 NĂM 1952 .
Trận chiến này trước đây tôi đã trình bày trong Cao Nguyên Dậy Lửa.
Tôi đang lưỡng lự không biết có nên trình bày viết lại hay không vì hơi dài !
Nhưng nếu không viết thì không vinh danh Trung tá Phạm Văn Đổng ,và các Sĩ quan Nhẩy dù nổi tiếng :
Thiếu uý Trương Quang Ân : Thủ Khoa khoá 3 trường Võ Bị Đà Lạt, Thượng Sĩ Đào Văn Hùng, Trung uý Cao Văn Viên , Đại uý Nguyễn Khánh cũng như các Sĩ quan Không quân VN. Trung tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng tham mưu trưởng , Hoàng Đế -Quốc Trưởng Tổng Tư Lệnh , Last edited by Nguyen Hung Kiet; 28-02-2011 at 03:14 PM. Reply With Quote Reply With Quote 01-03-2011 02:35 AM #312 Nguyen Hung Kiet Nguyen Hung Kiet is offline Member Join Date 30-08-2010 Posts 2,362 TÓM LƯỢC TRẬN CHIẾN CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC VIỆT NAM 1952 TÓM LƯỢC TRẬN CHIẾN CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC VIỆT NAM 10.5.1952-- 9.8.1953
ĐỈNH CAO TRẬN CHIẾN ĐẪM MÁU THÁNG 11 , THÁNG 12 NĂM 1952
I Mục Đích
Quân Pháp và Quân Lực Quốc gia Việt Nam đổ quân phòng thủ Cao nguyên Thượng Du Nà Sản Bắc Việt Nam , Thiết lập Tập đoàn cứ điểm phòng thủ bất khả xâm phạm, để bảo vệ vùng Đồng bằng , Trung du Bắc Việt Nam , và ngăn chặn ý đồ của Nguyên soái Vi Quốc Thanh muốn xâm nhập qua Lào , nhuộm đỏ vương Quốc Lào , khai thông biên giới Lào-Thái Lan, để viện trợ cho khoảng 60 ngàn quân du kích CS Thái Lan nhuộm đỏ Vương Quốc Thái Lan .
Kế hoạch chiến lược được sự đồng ý của Hoàng đế Quốc trưởng Tổng tư lệnh tối cao . Tân Trung tướng Tổng tham mưu trưởng quân Lực Quốc Gia Việt Nam Và Đại tướng Salan Tổng tư lệnh Quân Pháp vạch kế hoạch .
II Vị trí Địa Lý Cao Nguyên Thượng Du Nà Sản Bắc Việt Nam
Cao nguyên Nà Sản hay còn có tên gọi Cao nguyên Sơn La là một trong hai Cao nguyên ở tỉnh Sơn La, Cao nguyên còn lại là Cao nguyên Mộc Châu.
Đặc điểm
Cao nguyên nằm theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, độ cao trung bình 800 m, đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc trồng trọt.
Vị trí
Phía Đông Bắc là sông Đà, phía Đông Nam là Cao nguyên Mộc Châu, phía Tây Nam là sông Mã và phía Bắc là Cao nguyên Sín Chải, ngăn cách qua đèo Pha Đin.
3 : Bối cảnh Lich sử :
Sau chiến thắng ở trận Vĩnh Yên, Danh tướng Thống chế Jean de Lattre (thật ra lúc này cấp bậc Thống chế là Đại tướng , cũng như Vi Quốc Thanh là Đại tướng , thăng Nguyên soái sau trận Điện Biên Phủ )lại lần nữa đẩy lùi được CS Việt Minh tại Mạo Khê. Nhưng vào ngày 30 tháng 3 năm 1951, con trai duy nhất của ông là Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny đã chết sau một cuộc tấn công của Việt Minh tại Ninh Bình. Sau đó, xác của Benard đã được tìm thấy và mặc dù chiến sự vẫn đang còn tiếp diễn, Đại tướng Tassginy de Lattre đã đưa xác con về Pháp và tổ chức đám tang rất trọng thể
Sau khi trở lại Việt Nam, Đại tướng Tassigny quyết định chọn Hòa Bình làm điểm quyết chiến trận chiến mới để hy vọng ngăn chặn đường giao thông Bắc-Nam và tiêu diệt chủ lực Quân của Việt Minh. Ngày 9 tháng 11 năm 1951, Đại tướng Tassginy đã sử dụng một Lực lượng quân cơ động chiến lược gồm khoảng 20 Tiểu đoàn bộ binh, 7 Tiểu đoàn pháo binh, 1 Tiểu đoàn Thiết giáp và nhiều Chiến Đĩnh, Giang Đĩnh, Quân Nhẩy Dù mở cuộc tấn công Hòa Bình và đến ngày 14 tháng 11 thì chiếm được Hòa Bình. Trước tình hình đó, Quân Việt Minh đã mở chiến dịch Hòa Bình do Đại tướng Hồng quân CS Trung Hoa Vi Quốc Thanh chỉ huy nhằm giành lại Hòa Bình. Và vào thời điểm gay cấn nhất của trận đánh,Đại tướng de Lattre de Tassigny lâm bệnh nặng phải trở về Pháp lần nữa vào ngày 19 tháng 11. Lúc bấy giờ bệnh tình của ông đã không còn hy vọng cứu chữa vì từ nhiều tháng nay ông bị ung thư chân ,đồng thời phải đảm đương nhiều công việc ở Đông Dương, những hành trình qua Pháp và qua Mỹ để xin viện trợ. Ngoài ra, cái chết của người con trai duy nhất cũng làm ông thêm suy sụp tinh thần khiến cho bệnh tình càng ngày càng trầm trọng. Cuối cùng vào ngày 11 tháng 1 năm 1952,Đại tướng Jean de Lattre Tassigny từ trần tại Paris. Chính phủ Pháp đã truy thăng ông chức Thống chế 5 sao và làm lễ Quốc táng. 50 năm sau ngày ông mất, lễ tưởng niệm ông đã được tổ chức trọng thể tại Paris và quê hương ông với sự tham gia của nhiều cựu chiến binh. Trước nhà ông ở Mouilleron-en-Pareds người ta gắn tấm biển lớn ghi các chức tước của ông với dòng chữ: "Il sauve le Tonkin" (Cứu tinh xứ Bắc Kỳ) và tên ông từng được đặt cho một đường phố Hà Nội thời Pháp trước 1954
Năm 1951, Vi Quốc Thanh bắt đầu thực hiện các trận chiến quy mô lớn theo kiểu kinh điển. Nhưng họ đã phải chịu thiệt hại lớn, các chiến dịch Hoàng Hoa Thám và Hà Nam Ninh bị thất bại trước quân Pháp do Danh tướng Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy. Trận chiến Hòa Bình mà Danh Tướng De Lattre mở vào tháng 11 năm 1951 đã trở thành "cối xay thịt" đối với cả hai bên. Khi trận đánh kết thúc vào tháng 2 năm 1952, Quân Việt Minh do Cố vấn Trung Cộng Đại tướng Vi Quốc Thanh Tổng tư lệnh chịu thương vong lớn, nhưng họ đã học được cách đối phó với chiến thuật và vũ khí của Pháp, và họ đã thâm nhập được sâu hơn vào trong vòng cung phòng thủ của Pháp.
Cuối năm 1952, Đại tướng Tàu phù Vi Quốc Thanh điều quân Việt Minh đánh sang vùng núi phía Tây Bắc Việt Nam rồi vượt sang lãnh thổ Lào . Lúc này Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny mới mất vì ung thư chân va do quá đau buồn người con trai duy nhất Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny 1928-1951 vừa tử trận tại mặt trận Vĩnh Yên 1951. Tư lệnh mới của Pháp, Đại tướng Raoul Salan cố gắng chặn đứng cuộc tấn công này bằng cách đánh vào các tuyến hậu cần của Quân Lực Việt Minh, nhưng không có kết quả. Đến tháng 12, Quân Việt Minh vẫn chiếm giữ vùng biên giới Việt-Lào trong khi quân Pháp đã quay trở lại bên trong tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ đồng bằng sông Hồng.
La carte de Na-San. LE COMBAT DE NA-SAN- LA CARTE DE NA-SAN TONKIN 1952-1953
HỆ THỐNG CỨ ĐIỂM PHÒNG THỦ BẤT KHẢ XÂM PHẠM CỦA QUÂN LỰC PHÁP -VIỆT TẠI CHIẾN TRƯỜNG CAO NGUYÊN NÀ SẢN DO ĐẠI TÁ JEAN GILLES -TRUNG TÁ LANSADE- TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG THIẾT KẾ( Colonel Jean Gilles, Na San Commander -Lieutenant Colonel Lansade -Lieutenant Colonel Phạm Văn Đổng designed)
#295
HỆ THỐNG CỨ ĐIỂM PHÒNG THỦ BẤT KHẢ XÂM PHẠM : CAO NGUYÊN NA SAN
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 26-07-2010, giờ 06:38
LE COMBAT DE NA-SAN -La carte de Na-San.
Tonkin - novembre - décembre 1952
"Ces récits et croquis sont extraits d'une plaquette éditée par la F.S.A.L.E. pour la commémoration du cinquantième anniversaire de la bataille de Na-San, bataille à laquelle la Légion Etrangère pris une grande part. L'ensemble de ces textes est publié avec l'aimable autorisation de M. Dufour"
Note destinée à l'établissement du plan de défense du camp retranché de Na-San (2ème Partie). (Extrait de la plaquette de la F.S.A.L.E. "Commémoration du combat de Na-San") LE COMBAT DE NA-SAN Tonkin - novembre - décembre 1952
Nuits blanches en pays Thaï
Arrivant à la 10ème Compagnie, son chef, le Lieutenant Bo… m'a dit : "Mon vieux vous avez de la chance ! Une bonne compagnie qui se trouve toujours aux premières loges dans les affaires sérieuses ! Spécialité : aventures nocturnes." Et c'est la fameuse aventure au pays Thaï; un pays où l'on accède par avion; un pays qui à la vedette en cet automne 1952 ! Alors forcément, le bataillon en est ! Pensez donc, nous appartenons à la "Réserve Générale". Autrement dit, nous sommes mis à toutes les sauces. Nous passons d'abord trois semaines au moins à organiser et fignoler un beau P.A., bien léché, du solide ! C'était magnifique trop même ! Un beau soir, un ordre bref : "On déménage !" Nous devons nous installer sur un piton de première importance ; il commande un col et un peu toute l'affaire de Na-San. Quel tollé de protestations ! On est râleur à la 10 !… Le lendemain, le ton a changé : sac au dos, chargés comme des baudets, chacun son rouleau de barbelé (on ne sait jamais, il faut s'attendre à tout avec le 4ème Bureau), la compagnie démarre avec le sourire. Nous sommes le 21 novembre. Il est certain que c'est un piton splendide. Une vue panoramique grandiose ! 900 mètres d'altitude c'est déjà quelque chose ! Une cure de grand air en perspective ! Le piton se présente avec son rude et sauvage aspect naturel ; une belle végétation inviolée, aux arbres immenses entremêlés de lianes, agrémentés de broussailles et d'herbe à éléphant. Quel travail !… C'est justement le moment où les Viêts en profitent pour lancer une vigoureuse offensive qui, retardée par nos éléments légers de couverture, les amène en quelques jours aux portes de Na-San. Car bien sûr, l'aviation ayant donné à plein dans les actions dites "indépendantes", la "Route du Viêt" était coupée, suivant la formule consacrée et vérifiée à l'usage. On travaille sans relâche jour et nuit ; heureusement le clair de lune est splendide et nous profitons des fameuses bombes éclairantes de l'aviation. En deux jours, le sommet du piton est mis à nu, raclé, et le travail s'organise : blockhaus, mitrailleuses, F.M., emplacements de mortiers, flanquements de barbelés ; tout est mené de front. Il y a bien quelques grognements mais les légionnaires travaillent. Cinq jours de travail ; le P.A. commence à prendre un petit air menaçant. "Pourvu qu'ils nous laissent encore quelques jours"… Tout compte fait, il nous plaît notre piton 21 bis ; avec sa forme de boomerang et son profil est lame de couteau, il domine orgueilleusement tous les autres, nous en sommes fiers ! Les Viêts ne s'attardent pas. Déjà plusieurs P.A. sont furieusement attaqués, ce qui permet à notre 11ème Compagnie de donner sa mesure le 23 novembre. Pour vous mettre dans l'ambiance, il faut que vous sachiez que la couverture réalisée par des unités autochtones, se repliait sur le réduit dans un ordre évidemment relatif. Il en arrivait le jour, il en arrivait la nuit, par détachements, en isolés, si bien qu'il était difficile de reconnaître ses enfants. Car si vous m'en croyez, rien ne ressemble plus à un Vietnamien qu'un Vietnamien.
TÔI SẼ TƯỜNG THUẬT CHI TIẾT TRẬN CHIẾN CỰC KỲ QUAN TRỌNG NÀY BẰNG TIẾNG VIỆT ĐẶC BIỆT TRI ÂN CÁC CHIẾN SĨ QUỐC GIA VIET NAM ;TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG , THƯỢNG SĨ NHẢY DÙ ĐÀO VĂN HÙNG -TÂN THIẾU ÚY NHẢY DÙ TRƯƠNG QUANG ÂN - TRUNG ÚY NHẢY DÙ CAO VĂN VIÊN - ĐẠI ÚY NHẢY DÙ NGUYỄN KHÁNH ... TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH,HOÀNG ĐẾ QUÔC TRƯỞNG.
DANH TƯỚNG 3 SAO TRUNG TƯỚNG QUÂN LỰC PHÁP QUỐC: JEAN GILLES NHẬN XÉT VỀ TRẬN CHIẾN CAO NGUYÊN THƯỢNG DU BẮC VN NÀ SẢN :
" CHÚNG TÔI KHÔNG ĐÃ KHÔNG BAO GIỜ THÁO CHẠY , TẤT CẢ VỊ TRÍ PHÒNG THỦ ĐỀU GIỮ VỮNG , TRẬN CHIẾN LÀ CƠN HỒNG THỦY CỦA LỬA ĐẠN " "Nous ne sommes pas entamés! Ca tient partout! C'est un déluge de feu indeible." (We have not been overrun! All (positions) hold! It is an indescribable deluge of fire.) General Jean Gilles
ĐẠI TƯỚNG CS VN VÕ NGUYÊN GIÁP : "TRẬN CHIẾN ĐÃ KHỐNG BỊ ĐÁNH BẠI NHƯNG CHÚNG TÔI THIỆT HẠI NẶNG "
ĐẠI TƯỚNG RAOUL SALAN :
"RÚT QUÂN KHỎI CAO NGUYÊN NÀ SẢN 8.1953 TUYỆT ĐỐI KHÔNG PHẢI LÀ ĐIỀU TỐT VÀ ĐƯA ĐẾN CHÚNG TÔI ĐÃ THUA TRẬN CHIẾN TÂY BẮC VN" ... sans elle [l'aviation], Na San n'était pas possible et je perdais la bataille du Nord-Ouest - (... without it (air-support), Na San would not be possible and I would've lost the Northwest VN battle). Raoul Salan it (the battle) wasn't a defeat - but we suffered losses
LỖI LẦM ĐẠI TƯỚNG HENRI NAVARRE QUÁ LỚN (NGU XUẨN) KHI RA LỆNH RÚT BỎ KHỎI CAO NGUYÊN NÀ SẢN 8.1953 CHỌN LÒNG CHẢO ĐIỆN BIÊN PHỦ-DẪN ĐẾN THẤT TRẬN NHỤC NHÃ -CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC VIET NAM 20.7.1954 .
I-ĐỔ QUÂN -THIẾT LẬP HỆ THỐNG PHÒNG THỦ TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỂM CHIẾN LŨY NA SAN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
HOÀNG ĐẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 39 TUỔI : TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI PHI TRƯỜNG CÁT BI HẢI PHÒNG 1952 -TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN CỦA CÁC CHIẾN BINH NHẢY DÙ PHÁP -VIỆT NHẢY DÙ XUỐNG CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC BẮC VIỆT NAM
ĐẠI TƯỚNG RAOUL SALAN TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC PHÁP TẠI CHIẾN TRƯỜNG ĐÔNG DƯƠNG 1952 -1953 -TÂN TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN HINH - TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM :TẠI BUỔI LỄ CHÀO CỜ TẠI PHI TRƯỜNG CÁT BI HẢI PHÒNG -TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN CỦA CÁC CHIẾN BINH NHẢY DÙ PHÁP -VIỆT NHẢY DÙ XUỐNG CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC VIỆT NAM- ĐẠI TÁ JEAN GILLES DẪN ĐÀU CHIẾN BINH PHÁP - TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG DẪN ĐẦU CÁC CHIẾN BINH QUỐC GIA VIỆT NAM
DANH TƯỚNG PHÁP QUỐC :TRUNG TƯỚNG JEAN GILLES ĐƯỢC TẠC TƯỢNG TẠI TRƯỜNG VÕ BỊ PHÁP QUỐC SAINT CYRIEN .
TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG :TƯ LỆNH QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI CHIẾN TRƯỜNG CAO NGUYÊN NÀ SẢN 1952-1953
DANH TƯỚNG QLVNCH PHẠM VĂN ĐỔNG (dấu hỏi ) QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM LÀ NHỮNG VỊ SÁNG TẠO : TATIC THE HEDGEHOD : NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO CHIẾN TRẬN XÙ LÔNG NHÍM , GHI VÀO QUÂN SỬ THẾ GIỚI.
CHIẾN BINH NHẢY DÙ PHÁP- VIỆT CHUẨN BỊ LÊN PHI CƠ TỪ PHI TRƯỜNG CÁT BI HẢI PHÒNG NHẢY DÙ XUỐNG CAO NGUYÊN NÀ SẢN THIẾT LẬP CỨ ĐIỂM PHÒNG THỦ ĐẦU CẦU CHO CÁC ĐỢT KHÔNG VẬN BỘ BINH . ĐẠI TÁ JEAN GILLES DẪN ĐÀU CHIẾN BINH PHÁP - TRUNG TÁ PHẠM VĂN ĐỔNG DẪN ĐẦU CÁC CHIẾN BINH QUỐC GIA VIỆT NAM.
TRONG ĐẠO QUÂN CÓ THIẾU ÚY NHẢY DÙ TRƯƠNG QUANG ÂN -THƯỢNG SĨ NHẢY DÙ ĐÀO VĂN HÙNG TRUNG ÚY NHẢY DÙ CAO VĂN VIÊN VÀ CÁC CHIẾN BINH TIỀU ĐOÀN SỐ 3 NHẢY DÙ QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM
ĐẠI ÚY NHẢY DÙ NGUYỄN KHÁNH TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG TIỂU ĐOÀN 55 KHINH QUÂN -QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM KHÔNG VẬN TRONG NGÀY - -TRUNG ÚY TRẦN THIỆN KHIÊM TRONG TIỂU ĐOÀN NÀY
VẬN TẢI CƠ LA 9F à CAT BI AIRPORT
CAO NGUYÊN NÀ SẢN 1952
ĐẠI TÁ JEAN GILLES NHẢY DÙ XUỐNG NÀ SẢN
CHIẾN BINH THƯỢNG SĨ ĐÀO VĂN HÙNG -CHÀNG TRAI HÀ NỘI KHUÔN MẶT NGÂY THƠ NHƯNG TRÀN ĐẦY DŨNG CẢM- LÃO LUYỆN KINH NGHIỆM CHIẾN TRẬN
HÌNH ẢNH CÁC CHIẾN BINH TIỂU ĐOÀN SỐ 3 NHẢY DÙ QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM
RỜI KHỎI CHIẾN LỦY BẤT KHẢ XÂM PHẠM XUẤT KÍCH TRUY LÙNG ĐỊCH
CÁC CHIẾN BINH PHÁP -VIỆT : ĐÀO ĐẤT ĐỂ THIẾT LẬP CÔNG SỰ CHIẾN ĐẤU TẠI CHIẾN TRƯỞNG NÀ SẢN 1952-1953
II -NGHỆ THUẬT CHIẾN TRẬN :
A- CHIẾN THUẬT " THE HEDGEHOD "- LE-HÉRISSON), ĐÁNH TAN CHIẾN THUẬT BIỂN NGƯỜI CÙA DANH TƯỚNG NGUYÊN SOÁI TRUNG CỘNG VI QUỐC THANH
Tactic "the Hedgehog" Colonel Jean Gilles, Na San Commander -Lieutenant Colonel Lansade -Lieutenant Colonel Phạm Văn Đổng designed.
NHÍM NỔI TIẾNG CỦA RỪNG NÚI ÂU CHÂU - HOANG MẠC SAHARA PHI CHÂU European - Saharan Africa Hedgehog
Kingdom: Animalia
Phylum: Chordata
Class: Mammalia
Order: Erinaceomorpha
Family: Erinaceidae
NEW TATIC THE HEDGEHOD : NGHỆ THUẬT SÁNG TẠO CHIẾN TRẬN XÙ LÔNG NHÍM
PHÒNG THỦ : BẺ GÃY TẤT CẢ CÁC ĐỢT TẤN CỐNG BIỂN NGƯỜI (offensive at Waves after waves of soldiers )
TẤN CÔNG : ĐÁNH NHANH MẠNH , HỎA LỰC HÙNG HẬU -RÚT NHANH RÚT GỌN
Xứng Đáng Câu Thơ của Tiền Nhân:
Tấn công Phòng Thủ không Sơ Hở .
Đại tướng Anh Hùng Mới Xứng Danh.
PHÒNG THỦ : XÙ LÔNG NHÍM .
Khi bị tấn công , con Nhím Hedgehog" ( Hérisson), xù tất cả lông sắc nhọn bảo vệ .
Khi một cứ điểm bị tấn công biển người 1 Cứ điểm hay nhiều Cứ điểm không những hỏa lực cứ điềm đó tập trung hỏa lực Đại liên , Trung Liên Ba , Tạc đạn dội bảo lửa , mà những Cứ điểm còn lại của Tập đoàn cứ điểm liên hoàn cũng tập trung hoả lực bắn đan chéo tạo ra 1 lưới lửa Hỏa Lực , cùng 6 khẩu đội Pháo binh và 4 Chi đoàn thiết giáp ra Biển lửa Đốt cháy Thiêu rụi chiến thuật biển người của Danh tướng Nguyên Soái Trung cộng Bí Danh Vi Quốc Thanh.
Trong những tấn công lớn còn yểm trợ của Các Chiến Đấu Cơ , Pháo đài bay cho các chiến binh Pháp -Việt xuất kích . Bởi Vậy mới gọi Tên gọi Chiến Lũy Tập đoàn Cứ Điểm Liên Hoàn Bất Khả Xâm Phạm
TẤN CÔNG XÙ LÔNG NHÍM :
Tất cả hỏa lực pháo binh 6 pháo đội tập trung bắn một điểm trong 30 phút - 4 Chi Đoàn Thiết Giáp Xung Phong , 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù tùng thiết đánh tan đạo quân Địch , sau đó rút nhanh rút gọn về Chiến Lũy Bất khả xâm phạm (Fighting off hit-and-run attacks Na-San's Hedgehog consisted of 30 P.A. with a complicated trench system, enforced with barbed wires .This tactic earned the French- State Vietnam a victory at the battle of Na San.)
Những Tạc đạn mang tên mới diệt chiến thuật biển người :Hedgehog anti- Waves after waves of soldiers
Hedgehog anti-submarine weapon : Ngư lôi diệt Tiềm thủy đỉnh (Tàu ngầm) Pháp chế tạo sau này
XIN VINH DANH BỘ BA DANH TƯỚNG :JEAN GILLES -PHẠM VẲN ĐỔNG - LANSADE
B -NGHỆ THUẬT TẤN CÔNG : Trên Bầu trời Chiến Đấu Cơ Xuất kích -Dưới Mặt Đất : Pháo binh -Chiến Xa- Nhảy Dù Xung Trận
CHIẾN ĐẤU CƠ :F6F Hellcat (12F) KHÔNG LỰC PHÁP- VIỆT THAM CHẾN : CHIẾN TRƯỜNG NÀ SẢN
III LỰC LƯỢNG THAM CHIẾN :CHIẾN TRUONG CAO NGUYÊN THƯỢNG DU NÀ SẢN BẮC VIỆT NAM 10.5.1952-7.8.1953
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 25-07-2010, giờ 08:03
A -PHÁP- VIỆT
Lực Lượng Quân Lực Pháp- Quân Lực Quốc Gia Viêt Nam Chiến Trường Nà Sản Franco-Vietnamese Forces at Na San
Colonel Jean Gilles, Na San Commander ĐẠI TÁ BINH CHỦNG DÙ JEAN GILLES TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG
Trung tá Lieutenant Colonel Lansade : Phụ Tá Tư Lệnh Phó Chiến Trường
Trung Tá Lieutenant Colonel Phạm Văn Đổng Tư Lệnh Lực Lượng Quân Lực Quốc Gia VN tại Chiến Trường
Lực Lượng Quân Lực Pháp
Trung Đoàn Bộ Binh số 1 Bắc Phi Algeria (1st Algerian Marksmen Regiment (1er régiment de tirailleurs algériens)
Trung Đoàn Bộ Binh số 3 Lê Dương (3rd Foreign Infantry Regiment (3e régiment étranger d'infanterie), commandant Favreau) Lê Dương : Đạo quân Đa Quốc Gia do Pháp tuyển mộ được gọi đạo quân lính đánh thuê ( Đức -Ý -Ba Lan - Nga (lưu vong)--Đông Âu tổ chức sau 1945 trước 1948 nhiều chiến khu các chiến binh Lê Dương đã bỏ hàng ngũ vào giúp huấn luyện cố vấn cho các chiến binh kháng chiến Quốc gia và Việt Minh,, nhưng từ 1950 CS Trung Hoa nhúng tay vào tại Bắc Việt Nam , thì họ Chống CS một cách Quyết liệt .
Các Đạo quân của Tướng Quốc Gia :Trịnh Minh Thế -Nam Bộ và Tướng Vệ Quốc Quân Nguyễn Chí Thanh Trung Bộ có rất nhiều cố vấn Nhật-Đức -Nga giúp huấn luyện, chế tạo đạn dược , súng Bazoka , Bom Ba càng hạ chiến xa, đây đạo quân khá tinh nhuệ thiện chiến .
Trung Đoàn Bộ Binh số 6 Bắc Phi Ma Rốc 6th Morrocan Marksmen Regiment (6e régiment de tirailleurs marocains)
Lực Lượng Quân Lực Quốc Gia VN
Groupement mobile Vietnamien (Vietnamese Mobile Group) commandant Lieutenant Colonel Pham Van Dong
Tiểu Đoàn Nhảy Dù Số 3 -3th Vietnamese Artillery Group (3e GAVN with 2 batteries of 105 howitzers) - Trung úy Cao Văn Viên ,Tân Thiếu úy Trương Quang Ân (mới tốt nghiệp Thủ khoa Võ bị Đà Lạt khoá 3), Thượng Sĩ Đào Văn Hùng trong đơn vị này
Tiểu Đoàn Sơn Cước Bộ binh VN Số 1 -Người Thái Vùng Thượng Du Bắc VN :1st Thai Battalion (BM/BT 1)
Tiểu Đoàn Sơn Cước Bộ binh VN Số 2 (Người Thái Vùng Thượng Du Bắc VN 2nd Thai Battalion (BT 2)
Tiểu Đoàn Sơn Cước Bộ binh VN Số 3 _ 3rd Thai Battalion (BT 3),
Tiểu Đoàn Bộ Binh 55 -55th BVN (55e Bataillon Vietnamien), Đại úy Nguyễn Khánh Tiểu Đoàn trưởng , Trung úy Trần Thiện Khiêm trong đơn vị này .
Giai đoạn 2 tăng viện 1.1953
Trung Đoàn số 5 Lê Dương (5th Foreign Infantry Regiment (5e régiment étranger d'infanterie), chef de bataillon Dufour )
Liên Đoàn Nhảy Dù Groupement parachutiste (Airborne Group) (80 % Quân Nhân VN)
Lieutenant colonel Ducourneau
Tiểu Đoàn Nhảy Dù Số 1 ---1st Foreign Airborne Battalion (1er bataillon étranger de parachutistes), chef de bataillon Brothier
Tiểu Đoàn Nhảy Dù Số 2 ---2nd Foreign Airborne Battalion (2e bataillon étranger de parachutistes), chef de bataillon Bloch
Tiểu Đoàn Nhảy Dù Số 3---3rd Colonial Airborne Battalion (3e bataillon de parachutistes coloniaux), capitaine Bonnigal
Trung Đoàn Bộ binh Thuộc Địa số 41 ( Vietnam- Lao- Kampuchea )--41st Colonial Artillery Regiment (41e régiment d'artillerie coloniale)
Đại Đội Lê Dương _-Foreign Legion Mortar Company (CMLE had one section with four 120 mm guns and one section with six 81 mm mortars)
B -TRUNG CỘNG -VIỆT MINH
Hồng Quân CS Trung Hoa - Quân Lực Việt Minh Tham Chiến
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 25-07-2010, giờ 09:13
CỐ VẤN TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG : ĐẠI TƯỚNG CS TRUNG HOA -TRUNG CỘNG -BÍ DANH : VI QUỐC THANH ( thăng Nguyên soái 5 sao, sau trận Điện Biên Phủ )
TƯ LỆNH CHIẾN TRƯỜNG :ĐẠI TƯỚNG CSVN VÕ NGUYÊN GIÁP
CỐ VẤN CS TRUNG HOA -TRUNG CỘNG TỪ CẤP TIỂU ĐOÀN ĐẾN ĐẠI ĐOÀN (SƯ ĐOÀN )
Viet Minh Communist VN Attacking Forces General Vi Quoc Thanh Chinese People's Volunteer Army (PVA) People's Republic of China (PRC) -Vo Nguyen Giap,Vietnam People's Army. (VPA) Commander of the Thai region Campaign
Đại đoàn 308 (Division 308) :3 Trung Đoàn
Tư Lệnh Đại Đoàn 308 Commander : Colonel Đại tá Vương Thừa Vũ- Cố Vấn Hồng quân CS Trung Hoa chỉ huy .
Trung Đoàn 36 -Regiment 36 Trung Đoàn 88 -Regiment 88 Trung Đoàn 102 -Regiment 102
Đại đoàn 312 (Division 312) :3 Trung Đoàn
Tư Lệnh Đại Đoàn 312 Commander : Đại tá Colonel Lê Trọng Tấn _Cố Vấn Hồng quân CS Trung Hoa chỉ huy .
Trung Đoàn 141--Regiment 141 Trung Đoàn 165-Regiment 165 Trung Đoàn 209-Regiment 209
Đại đoàn 316 (Division 316) :3 Trung Đoàn
Tư Lệnh Tư Lệnh Đại Đoàn 316 Commander : Đại tá Colonel Lê Quảng Ba-Cố Vấn Hồng quân CS Trung Hoa chỉ huy .
Trung Đoàn 98-Regiment 98 Trung Đoàn 174- Regiment 174 Trung Đoàn 176-Regiment 176
Tăng Cường :1 Trung Đoàn Pháo của Đại Đoàn Pháo 351 do Cố Vấn Hồng quân CS Trung Hoa chỉ huy .
Hùng Kiệt
Trận chiến bùng nổ ; 23.11. 1952
-------------------------------------------------------------------------------- Ngày 26-07-2010, giờ 04:58
November 23 at 11.1952 :
Vietminh forces from the 88/308 attacked twice at P.A. 8 and twice it was pushed back by the entrenched Franco-Vietnamese troops.
November 24 to November 30:
Every night, Vietminh forces attacked different points to test French defense. During the days, defending troops patrolled within their fire-support range for reconnaissance.
Late November 30 into December 1:
Vietminh forces from 9 battalions attacked P.A. 22 bis and 24, respectively located east and west of the entrenched headquarters. P.A. 22 bis, defended by the 2nd Thai battalion (BT2) was quickly overrun by the 165/312. PA 24 bravely resisted 3 hours of constant attacks by the 102/308 before surrendering.
December 1:
Colonel Gilles, who wanted to take back the 2 points so close to Na San's headquarters, launched his attack at dawn. After a barrage of artillery fire, two companies of the 2nd Foreign Airborne Battalion stormed and took back 22 bis. After 7 hard-fought hours, the 3rd BPC took back P.A. 24.
Late December 1 into December 2:
General Giap's forces launched their all out offensive at Na San. Waves after waves of soldiers relentlessly assaulted several P.A., especially 21 bis and 26; sometimes the attackers outnumbered the defenders 15 to 1. Artillery and uninterrupted air support finally stopped the offensive.
Na San had achieved the unthinkable: halting Giap's seemingly unstoppable Vietminh forces.
Aftermath
On December 4 after nearly 2 weeks of trying to overrun Na San, General Vi Quoc Thanh, General Giap withdrew his troops leaving behind 5,000 dead and over 2,000 wounded prisoners.
The defending Franco-Vietnamese forces lost close to 2 battalions. Despite the victory, France was looking for a political solution to get out of Indochina and Na San was abandoned in August 1953. The Tactician Colonel Gilles again outmaneuvered General Vi Quoc Thanh ,General Vo Nguyen Giap by evacuating the whole camp without a single loss. HÌNH ẢNH CHIẾN LŨY NA SAN -TẬP ĐOÀN CỨ ĐIỆP PHÒNG THỦ LIÊN HOÀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM : MÃI MÃI ĐI VÀO QUÂN SỬ VN VÀ QUÂN SỬ THẾ GIỚI . THEO DÒNG LỊCH SỬ BẠCH HÓA TRẬN CHIẾN NÀY HÀO HÙNG OANH LIỆT XỨNG ĐÁNG VÀ QUAN TRỌNG HƠN TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐIÊN RỒ.
Nếu Đại tướng Henri Navarre nhận chức 19.5.1952 Không tự kiêu -tự tôn Triệt thoái Chọn Chiến trường : Thung Lũng Điện Biên Phủ diện tích rộng gấp 60 chục lần Nà Sản , Hàng chục núi cao vây quanh không thể sử dụng chiến thuật Xù Lông Nhím , mà Quân Số cũng bằng Chiến Lũy Nà Sản ( 16,200 Chiến Binh).
Ngày 31.3. 1954 chiến trường Điện Biên Phủ mở màn : chỉ trong 3 giờ pháo Đầu tiên của Quân lực Việt Minh và Trung Cộng , toàn thể Pháo binh của Pháp bị hủy diệt 100% , Phi trường Mường Thanh bị hủy diệt , Thiết Giáp cũng bị hủy diệt 80%. Trung tá Tư lệnh Pháo Binh Pháp tại Điện Biên Phủ Piroth :đã tự sát trong phòng làm việc vì tuyệt vọng ! Bại trận 100% sớm muộn ngay trong buổi tối đầu tiên trận chiến .
(Le colonel Piroth , responsable de l'artillerie, conscient d'avoir gravement sous-estimé l'adversaire, se suicide.)
Con đường bại trận đầu hàng là sớm hay muộn . Kết quả VN chia đôi 20 .7.1954 .Nếu không có trận chiến điên rồ này . Hoàng Đế Anh Minh- Vĩ Đại -Thống tướng TT thứ 34 Mỹ Quốc đã quyết định can thiệp , đổ quân vào VN 1955 khi Kênh tế Mỹ đã hồi phục đi lên ,và đã tận diệt Đảng Cộng Sản Mỹ và Mafia 100% bằng bàn tay sắt . Dân tộc VN quá bất hạnh . Trận Chiến Cao Nguyên Nà Sản không đến 40 ngày từ tháng 23.11.1952 đến nửa đêm về sáng 1.1.1953 nhưng là 40 ngày của cơn hồng thủy lửa đạn .
Lực lượng Quân lực Việt Minh , CS Trung Hoa đã bị đánh bại tan tác , qua năm 1953 chỉ còn những trận đánh lẽ tẻ cho đến 8.1953 lệnh rút quân triệt thoái ban ra . Trong 8 tháng đầu 1953 Bắc Việt Nam vẫn Đứng Vững . 10.1953 Thung Lũng bao la Điện Biên Phủ chọn làm chiến trường đã làm Nguyên Soái Bí danh vi Quốc Thanh , Đại tướng Trần Canh :Tàu phù cười rạng rỡ .Họ biết thắng 100%. Đại tướng Navarre đề cử : Tân Thiếu tướng 2 Sao Jean Gilles - Người Hùng Chiến Luỹ Nà Sản làm -Tư lệnh chiến trường Điện Biên Phủ . Ông Tân Thiếu tướng 2 sao từ chối thẳng vì biết sẽ thất trận . Tân Trung tướng 3 sao Tư lệnh chiến trường Bắc Việt Nam René Cogny cũng phản đối . Ông Đại tướng Henri Navarre không nghe vẫn tự tôn , kiêu ngạo nghĩ rằng đây là kế hoạch tuyệt vời , vì Nà Sản chật hẹp : Thiết Giáp Vua chiến trường không xung trận được chỉ phòng thủ, Phi trường Nà Sản lại nhỏ không thể chứa cả 100 chiến đấu cơ , làm sao tiêu diệt 5 Sư Đoàn Việt Minh đây ? Kết quả bại trận đau đớn , Dân tộc VN bất hạnh chia đôi đất nước 1954
** Chú thích : sỡ dĩ gọi là :Hoàng Đế Anh Minh- Vĩ Đại -Thống tướng TT thứ 34 Mỹ Quốc Dwight Eisenhower , hay Hoàng Đế không ngai Mỹ Quốc vì các lý do sau đây :
ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO THỐNG TƯỚNG DWIGHT D. EISENHOWER TỔNG TƯ LỆNH NATO 1951
HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI -THỐNG TƯỚNG- TỔNG THỐNG THỨ 34 MỸ QUỐC 20.1.1953-20.1.1961
LÀ VỊ TỔNG THỐNG NGOẠI LỆ TRONG LỊCH SỬ MỸ QUỐC -VỪA ĐẮC CỬ TT USA 11.1952 LÀ TOÀN THỂ DÂN CHÚNG , BÁO CHÍ, QUÂN ĐỘI , CIA , FBI COI CHÍNH THỨC TỔNG THỐNG MỸ QUỐC DÙ CHƯA ĐẾN NGÀY NHẬN CHỨC 20.1.1953
TƯỢNG ĐÀI : ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO MỸ QUỐC THỐNG TƯỚNG -TỔNG THỐNG THỨ 34- HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI USA : DWIGHT D. EISEINHOWER TẠI ĐẠI HỌC QUÂN SỰ WEST POINT
ĐỒNG 1 DOLLAR IN HÌNH : ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO MỸ QUỐC THỐNG TƯỚNG -TỔNG THỐNG THỨ 34- HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI USA : DWIGHT D. EISEINHOWER
20.1.1953 TT thứ 34 Dwight D. Eisenhower , PTT Richard M. Nixon : Nhận trách nhiệm lãnh đạo Mỹ Quốc trong tình trạng Quốc gia trên bờ vực thẳm :
1. Chiến tranh Triều Tiên vẫn tiếp diễn qua năm thứ 3 cường độ càng ác liệt, chưa thấy loé sáng tia hy vọng hòa bình vãn hồi.
2.Kênh tế Mỹ hơn 3 năm qua đã đi xuống , ngân sách quốc gia thiếu hụt trầm trọng do kế hoạch Marshall tái thiết Âu Châu , gánh nặng chiến tranh Korea đã qua năm thứ 3 , viện trợ Đông Dương 2 năm nay không thấy khả quan . Viễn cảnh Đông Dương sụp đỗ là chuyện sớm muộn. Thái Lan, Malaysia , Indonesia. Miến Điện : Cộng sản dưới sự chỉ đạo Bắc Kinh Yểm trợ vũ khí , huấn luyện càng lớn mạnh , mỗi Quốc gia ít nhất 30,000---60,000 Quân CS chủ nghĩa Mao . Nếu Đông Dương sụp đỗ , chắn chắn sau đó các nước Đông Nam Á sụp đổ là tất yếu (lý luận này hoàn toàn chính xác : 1953---1970).
3. Đảng CS Mỹ , Băng đảng Tội phạm hoạt động mạnh.
4. Tình trạng tham nhũng trong chính quyền.
5. Lò lửa Trung Đông không biết bùng nổ ngày nào , 4 năm trôi qua Do thái lập quốc 1948 , Mỹ viện trợ khoản tiền rất lớn , nhưng không thể buộc chính phủ Do Thái ngừng tiêu diệt , ngược đãi người dân Palestine ,vì vậy các Quốc Gia : Ai Cập , Syria , Jordan đều lên án Do thái và Chuẩn bị Quân đội trong tình trạng chiến tranh sẵn sàng tấn công Do Thái giải phóng người dân Palestine .
I QUYỀN LỰC CÁC TT MỸ QUỐC : VĨ ĐẠI- ANH MINH
Ngay từ khi đắc cử TT thứ 34 tháng 11.1952 thực tế người dân Mỹ , Quân đội đều Tuân phục TT như một TT thực thụ dù TT thứ 33 Harry S.Truman vẫn còn tại vị cho đến ngày 20.1.1953 đây có lẽ là điều khá hiếm trong lịch sử , vị TT thứ hai được vậy là Vị TT thứ 40 Ronald Reagan vì vào 1980 vụ bắt giữ con tin tòa đại sứ Iran , và Huyền thoại " Không Quân , Hải Quân Quân Lực Mỹ là số 1 thế giới" bị Siêu cường Liên Sô phá vỡ, thời điểm này Quân sự Siêu cường Liên Sô là số 1 thế giới từ 1976--1981. Siêu cường USA mới lấy lại huyền thoại 1984 cũng là năm TT Reagan thắng cử nhiệm kỳ 2 gần như tuyệt đối như TT thứ 34 Eisenhower 1956, cũng như TT Franklin Roosevelt. Đặc điểm của 3 TT Vĩ đại -Anh minh là họ được Toàn dân ủng hộ : Cộng Hòa -Dân chủ -Độc Lập -Tướng Lãnh -Quân đội ủng hộ nên quyền lực rất lớn. Mọi Kế hoạch đều được Quốc Hội thông qua trên 95%. Quốc hội chỉ là nơi chi tiền hợp thức hóa kế hoạch . Có thể nói không cường điệu : Mọi sắc lệnh của TT như là Thánh Chỉ của Hoàng đế ban ra tất cả răm rắp phải tuân lệnh ,có như vậy TT Thứ 32 Roosevelt, và TT thứ 34 Eisenhower mới đứng trên (qua mặt )luật pháp Mỹ Quốc : để trấn áp Đảng CS Mỹ. Và TT thứ 40 Reagan giật sập chế độ CS tại Siêu cường Liên Sô , và Đông Âu.
II -THÁNH CHỈ CUẢ HOÀNG ĐẾ -THỐNG TƯỚNG -TỔNG TỔNG THỨ 34 MỸ QUỐC : 1.1953
Thánh chỉ 1953 : "Không thể sử dụng Luật Pháp Mỹ Quốc đối với Đảng CS Mỹ vì họ phản bội Tổ Quốc !"
--------------------------------------------------------------------------------
TT thứ 34 Dwight D. Eisenhower: Ký sắc lệnh (Thánh chỉ ) : Đặt đảng CS Mỹ ra ngoài vòng Pháp Luật tiến hành bắt giam vô thời hạn suốt đời các Đảng viên CS Mỹ trong danh sách Đen khoảng hơn 1,000 người ( từ cấp Bí thư chi bộ cơ sở trở lên, mỗi chi bộ từ 30-50 Đảng Viên CS, thậm chí có chi bộ cả 100 đảng viên). Lý do : là Đảng viên CS trước sau cũng làm gián điệp cho Moscow và Bắc Kinh, phản bội lại Tổ quốc Mỹ Quốc , tất cả tống giam tại nhà tù Liên Bang Springfield - tiểu bang Massachusetts mà TT đã ra lệnh chuẩn bị trước từ tháng 12 .1952, khi thắng cử TT thứ 34 chưa nhiệm chức , để chuẩn bị tống giam hàng loạt Cán bộ Đảng Cộng Sản Mỹ , Thủ lãnh các băng đảng tội phạm Mỹ , các tù nhân phải làm việc một ngày 8-10 tiếng để nuôi sống bản thân , Ngân sách Liên bang không đài thọ , vì Đất nước khó khăn , và họ phạm tội phản bội Tổ Quốc làm gián điệp (CS) hay phá hoại đất nước (Mafia). Thánh chỉ ban ra : Tất cả nhanh gọn bị tống giam vô thời hạn , không có ra tòa , hay luật sư biện hộ . Sắc lệnh TT là tất cả ! Quốc hội , hay Tối Cao Pháp viện cũng không thể can thiệp được ! Tất cả các đảng viên CS trên toàn nước Mỹ phải ký giấy ly khai Đảng CS Mỹ suốt đời: trong vòng 48 tiếng đồng hồ kể từ khi Sắc lệnh thánh chỉ ban ra ,nếu không muốn bị tống giam vô thời hạn . Kết quả chưa đến 36 tiếng đồng hồ, Đảng CS Mỹ tuyệt tích chốn giang hồ .
Sau đó : Vệ binh Quốc gia, Cảnh sát , F.B.I : Mỹ Quốc trấn áp băng đảng tội phạm , tiến hành bắt giam hàng loạt Thủ lãnh từ nhỏ đến lớn tại các thành phố lớn ,trên toàn lãnh thổ nước Mỹ từ Đông sang Tây : trong lãnh thổ bao la của Mỹ Quốc : Boston , New York City , Chicago , Atlanta , Miami , New Oleans, Houston ,Phoenix , Las Vegas , San Diego ,Los Angeles , San Francisco , Seattle .. cũng bị tống giam vào nhà Tù Liên bang Springfield Mass. "
Mỹ Quốc đã sạch sẽ khuôn mặt , sau đó Sắc Lệnh - Thánh chỉ : Diệt trừ tham nhũng ban ra . Ít nhất 2 vị Thống đốc Tiểu bang đã bị bắt giam , hàng loạt Cảnh sát trưởng cũng bị kỷ luật thôi việc , hay bị tống giam.
Mỹ Quốc bước vào Kỷ Nguyên mới : Văn Minh-Lịch Sự -Thượng Tôn Pháp Luật, ..
Kênh tế khởi sắc .
QUẢ THẬT XỨNG ĐÁNG LÀ HOÀNG ĐẾ KHÔNG NGAI USA
Hoàng Đế Anh Minh Vĩ Đại Mỹ Quốc - Dwight D. Eisenhower được Toàn Dân : Cộng Hòa- Dân Chủ -Độc Lập -Tướng Lãnh -Quân Lực Mỹ Quốc thần phục kính trọng yêu mến. Quốc Hội-Tối cao pháp Viện ủng hộ 100%
Báo chí Mỹ "Phấn Khởi Hồ Hởi" ủng hộ 100% Hoàng Đế Anh Minh Vĩ Đại Mỹ Quốc : Tặng : Hoàng Đế Danh hiệu : "Man of the Century " ( Người Hùng Vĩ Đại Của Thế Kỷ 20) !
Trấn Áp Đảng CS Mỹ 1953 ; Báo Chí Mỹ Phấn Khởi Hồ Hởi : đưa tin Tít lớn Headline :
" ..Chính phủ Truman năm 1947 tạo ra chương trình trung thành cho nhân viên chính phủ : Dung dưỡng nhiều lãnh đạo Đảng Cộng sản, trong đó có Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Eugene Dennis chủ trương việc giáo dục và lật đổ chính quyền Mỹ Quốc bằng bạo động bất hợp pháp vi phạm : An Ninh và Phản Bội Tổ Quốc !
Nhiều Lãnh đạo Đảng Cộng Sản, và TBT Eugene Dennis bị truy tố vì vi phạm Đạo luật An Ninh ( Đạo luật Smith ), trong đó việc giáo dục và chủ trương lật đổ chính quyền bằng bạo động là bất hợp pháp."
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:03:35 GMT 9
**"Nói chung: Nam Phương Hoàng Hậu từ khi còn đương thời cho đến khi qua đời ngày 16-9-1963 tại Pháp vẫn luôn luôn được mọi người kính mến vì đức độ và lối sống của mình. Không một tai tiếng lớn, nhỏ nào từ phe Quốc Gia cũng như Cộng Sản nói được về Hoàng Hậu ".
"Nam Phương Hoàng Hậu xứng danh người Phụ Nữ Toàn Vẹn của nước Việt Nam "
Năm 1953 - Quí Tỵ là năm tai hoạ với Dân tộc Việt Nam, và Quốc gia Việt Nam .
Năm Quí Tỵ 1953 cũng là năm một trận lụt rất lớn ở Trung Bộ và Bắc Trung Bộ , báo hiệu trước cơn Đại Hồng Thủy sẽ đến với Dân tộc Việt Nam , và Quốc Gia Việt Nam. Cũng là năm mà Quyền lực của Hoàng Đế-Quốc trưởng đi xuống, và Nam Phương Hoàng Hậu uyên ương gãy cánh , khi mới 39 tuổi,nhìn vận nước mà đành bó tay, đành chờ giao quyền cho Chí Sĩ Ngô Đình Diệm khi thời cơ đến .Lúc này đối với Nam Phương Hoàng Hậu : Tình Yêu đã tan thành mây khói, như là một giấc mơ ( cũng do Hoàng Thượng một phần !) Quyền lực chỉ là nhất thời , vận nước chưa đến .Vì vậy Nam Phương Hoàng Hậu đã từ bỏ tất cả trở về ngôi làng hẻo lánh tại Pháp sống trong một Nông trại làm nghề chăn nuôi ,và chăm lo dạy dỗ các Hoàng tử, Công chúa : một thiên chức của người mẹ .
I Bối cảnh Lịch sử Thế giới năm Quí Tỵ 1953 : đã quyết định số phận Dân tộc Việt Nam -Quốc Gia Việt Nam- Hoàng Đế-Hoàng Hậu
Năm 1953 :Cuộc chiến tranh lạnh Mỹ Quốc và Liên Bang Sô Viết sau hơn 4 năm căng thẳng đối đầu 6.1948-11.1952, giờ này cả hai siêu cường đang gặp đại hoạ .
A- Mỹ Quốc Hoàng Đế không ngai Eisenhower phải lo Đối nội : Diệt Đảng Cộng Sản Mỹ Tư tưởng Mao Trạch Đông , Mafia , Tham nhũng , ổn định đời sống xã hội . Những vấn nạn của xã hội Mỹ quốc thời TT Truman để lại :
1. Kênh tế kiệt quệ
2. Mafia và Kênh tế kiệt quệ dẫn đến hậu quả tất yếu : là nạn gái điếm quá nhiều .
3. Tiền học phí Đại học quá đắt , nên chỉ có con nhà khá giả , giàu có mới vào Đại học . Còn đa số Dân Mỹ chỉ học xong trung học là phải đi làm .
4. Số lượng người nghèo tại Mỹ quá nhiều , đặc biệt là người già tiền trợ cấp An Sinh xã hội , từ thời TT thứ 32 Franklin Roosevelt ký sắc lệnh ban hành 1936, đến nay không tăng bao nhiêu , do có một số bất cập , đã lạc hậu so với thời đại bây giờ (1953) trong lúc vật giá leo thang .
Cũng vì số lượng người nghèo nhiều , nên họ mới nghe lời tuyên tuyền gia nhập Đảng CS đông đảo , muốn giải quyết triệt để vấn đề CS , là phải nâng cao đời sống dân Mỹ .
5 .Cuộc chiến Triều Tiên đã kéo dài qua năm thứ 3 , phần lớn là : Do Mao Trạch Đông , muốn hiện diện diện quân tại Bắc Hàn , để biến Lãnh Tụ Kim Nhật Thành làm tay sai. Một phần khác là Tổng thống Lý Thừa Vãn muốn khôi phục lại cố đô Kaesong đã mất .
Mỹ Quốc cần chấm dứt cuộc chiến Triều Tiên , bớt chi phí gánh nặng .
Vì nắm được ý đồ của TT Lý Thừa Vãn . Kaesong một thành phố nhỏ bé nhưng có giá trị Lịch sử với Triều Tiên , nên lệnh Mao Trạch Đông : Nguyên soái Bành Đức Hoài phải phòng thủ và giữ vững bất kỳ giá nào, vì thế cuộc chiến tranh kéo dài .
Hoàng Đế không Ngai muốn chấm dứt cuộc chiến càng sớm càng tốt , đã khôi phục lại Vĩ tuyến 38 ( thật ra Mỹ đã chiếm toàn lãnh thồ Bắc Triều Tiên 1951, nhưng Ông TT thứ 33 cách chức Đại Danh tướng 5 sao Mỹ quốc Thống tướng Douglas Mac Arthur , và hạ lệnh Quân lực Mỹ rút về Vĩ Tuyến 38 vì sợ Liên Sô nhảy vào? (Tôi cũng không hiểu Ông TT thứ 33 , vung tiền xương máu của dân Mỹ viện trợ châu Âu , mục đích dùng Châu Âu đánh Liên Sô. Bỏ Trung Hoa Dân Quốc ủng hộ Mao Trạch Đông , cũng là vì muốn dùng Mao đánh Liên Sô , trong lúc ông ta lại sợ Stalin như con chuột sợ con mèo ! (Liên Sô chưa nhảy vào Triều Tiên ,ông ta hạ lệnh Quân lực Mỹ rút về Vĩ Tuyến 38 ?quá nhục nhã ) Mỹ không đánh Liên Sô , làm sao châu Âu dám đánh Liên Sô đây ? kết quả nước Mỹ tan nát không có tiền, kênh tế kiệt quệ ,Các nước Cộng sản Đông Âu ra đời . Quân Lực Mỹ rút về vĩ tuyến 38 là một sự nhục nhã . Trung cộng thay 1 triệu quân khác chiến tranh kéo dài thêm . Tôi cũng không muốn nhắc đến ông TT thứ 33 này vì Ông là tai hoạ của Mỹ và thế giới !
Hoàng Đế không ngai quyết định đàm phán với Kim Nhật Thành . Mỹ quốc ký hiệp định đình chiến với Bắc Hàn , để tống cổ 1 Triệu quân Trung Cộng về nước ( 1 Triệu quân mới , 1 triệu quân cũ đã chết ) Thời điểm này Lãnh tụ Kim Nhật Thành chưa phải là Cộng Sản . ..
25.7 .1953 Tại Bàn Môn Điếm Vĩ tuyến 38 . Mỹ và Cộng Hòa Triều Tiên (North Korea , Bắc Hàn ) ký hiệp định ngưng bắn .Lãnh tụ Kim Nhật Thành :công bình Ông cũng muốn ký Hiệp Định Đình chiến , Ông cũng không muốn 1 triệu quân CS Trung Hoa hiện diện trên Bắc Hàn, .Nhưng chính phủ TT Lý Thừa Vãn, South Korea vì muốn khôi phục lãnh thỗ cố đô Kaesong đã mất , tại vĩ tuyến 38. Lúc này do Quân Trung Cộng phòng thủ, Vì thế TT Lý Thừa Vãng cương quyết không ký. Cho đến bây giờ 2011 cũng không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, . Xem như Nam Hàn và Bắc Hàn vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh.
Hậu quả : 1 triệu quân Trung Cộng hiện diện trên lãnh thổ Cộng Hòa Triều Tiên dẫn đến : Nước Cộng Hoà Dân chủ Bắc Triều Tiên chủ nghĩa Mao ra đời , sau khi Trung Cộng tàn sát 1 triệu dân Triều Tiên : Trí thức ,Tư Sản và Điền chủ.
Lãnh tụ Kim Nhật Thành tham sống sợ chết biến thành Lãnh tụ Cộng Sản .
Quân Lực Mỹ phải hiện diện tại Nam Hàn cho đến ngày hôm nay. ..
Chiến Tranh Triều Tiên coi như kết thúc từ tháng 7 .1953 , dù Quân Lực Mỹ , vẫn hiện diện tại Nam Hàn .
1 triệu quân Trung cộng vẫn hiện diện tại Cộng Hoà Triều Tiên ( North Korea ).
Nhưng Mỹ Quốc bớt được gánh nặng chi phí chiến tranh .
Tiện viện trợ tái thiết Âu Châu , coi như đã giảm đi rất nhiều .
Hoàng Đế Không Ngai USA dùng số tiền này để :
1.Tăng thêm tiền trợ cấp cho người già , hoàn thiện chương trình S.S.I. ( Chương trình trợ cấp S.S.I , được hoàn thiện cho đến ngày hôm nay là nhờ Hoàng Đế không ngai Thống tướng -TT thứ 34 Eisenhower
2. Hình thành chương trình trợ cấp cho Sinh Viên nghèo : Financial Aid , và yêu cầu các hệ thống Bank ở Mỹ cho Sinh Viên vay Student Loan. Mục đích là mọi học sinh tốt nghiệp Trung học , đều có thể vào Đại học .
3. Mở trường huấn nghệ cho người nghèo , và những người thất nghiệp , để có thể kiếm việc làm lương cao, và giải quyết nạn gái điếm !
Sau đó Hoàng Đế không Ngai USA , tập trung những Kênh tế gia tài giỏi của Mỹ Quốc , thành lập một Hội đồng Cố vấn Kênh tế cho Hoàng Đế :Để vực dậy nền Kênh tế của Mỹ Quốc trong 2 năm , đến 1955 kênh tế phải hồi phục !
Vì thế Quan niệm của Hoàng Đế không ngai USA: 1953 -1954 là Hoàng đế tập trung lo hồi phục kênh tế của Mỹ quốc , đến 1955 : Mỹ quốc sẽ nhảy vào Đông Dương giúp Quốc gia Việt Nam, ngăn chặn chủ nghĩa Mao , vì Quốc Gia Việt Nam là tiền đồn của thế giới tự do , nếu Việt Nam bị nhuộm Đỏ thì cả hệ thống Đông Nam Châu Á sẽ bị nhuộm Đỏ .( thực tế lúc đó là như vậy).
Nhưng Hoàng Đế không ngai đã ý thức , hiểu rằng : Mỹ Quốc là Siêu cường lãnh đạo thế giới Tự do, Mỹ Quốc không thể cô lập để phát triển kênh tế,
Trong lúc :
1. Lò lửa chiến tranh Trung Đông có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào .
2. Quốc gia Việt Nam và các nước Đông Nam Á , đạng bị Quân Cộng Sản chủ nghĩa Mao hoành hành , đặc biệt lúc đó Thái Lan rất nguy ngập, khoảng 60 ngàn quân du kích CS ! .
3. Chính phủ TT Lý Thừa Vãng bao che tham nhũng, mất lòng dân , đây cũng là một trong lý do Lãnh tụ Kim Nhật Thành tấn công giải phóng Nam Hàn .
(Thật ra theo tôi nghĩ , nếu Lãnh tụ Kim Nhật Thành nhìn xa , chờ vài năm thì có lẽ Đại Hàn Thống nhất, Kim Nhật Thành sẽ là TT , Đại Hàn sẽ hùng mạnh hơn bây giờ nhiều .
Nhưng Lãnh tụ Kim Nhật Thành ,muốn nóng lòng thống nhất đất nước nên mắc bẫy Mao Trạch Đông, dù Lãnh tụ máu lạnh Stalin cản hết lời, cuối cùng biến thành tội đồ ngàn năm của Dân tộc Triều Tiên. Lãnh tụ Kim Nhật Thành là Tướng Kháng chiến chống Nhật, ông làm Nguyên thủ Quốc gia khi mới 32 tuổi, xây dựng Quốc gia Cộng Hoà Triều Tiên hùng mạnh nhất Châu Á thời bấy giờ, trong lúc TT Lý Thừa Vãng lại bất tài , bao che tham nhũng , Chính TT thứ 33 USA là người đưa TT Lý Thừa Vãng lên chức vụ TT ).
Vì Vậy Hoàng Đế Không Ngai yêu cầu Phó Tổng thống Richard Nixon xuất chinh từ tháng 3.1953, đến 3 Quốc Gia điểm nóng của thế giới: Do Thái , South Korea , Việt Nam , và sau đó là các Quốc Gia Đông Nam Á : Thailand, Malaysia , Nam Dương (Indonesia ) Miến Điện để đánh giá tình hình , sức mạnh của Quân Cộng sản Mao.
PHÓ TỔNG THỐNG RICHARD NIXON XUẤT CHINH 3.1953 ; RA TỐI HẬU THƯ CHO CHÍNH PHỦ DO THÁI , TT LÝ THỪA VÃNG, ÁP LỰC (TỐI HẬU THƯ) CHÍNH PHỦ PHÁP PHẢI ĐỒNG Ý TĂNG QUÂN SỐ : QUÂN LỰC QUỐC GIA VIỆT NAM LÊN 250 NGÀN QUÂN . SĨ QUAN VIỆT NAM PHẢI NẮM QUYỀN CHĨ HUY QUÂN ĐỘI 100%
PHÓ TT THỨ 34 USA RICHARD M. NIXON 20.1.1953---20.1.1961
PHÓ TỔNG THỐNG RICHARD NIXON (United States Vice President Richard Nixon) XUẤT CHINH TÁI LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI :3.1953
NGUYÊN TRUNG TÁ PHI CÔNG HẢI QUÂN : ANH HÙNG ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN . TRONG 3 NĂM TỪ THIẾU UÝ LÊN TRUNG TÁ !
DÂN BIỂU LIÊN BANG ĐƠN VỊ 12 -TIỂU BANG CALI 33 TUỔI 1946 (Nixon House of represented southern California's 12th Congressional district for the next four years.)
-THƯỢNG NGHỊ SĨ LIÊN BANG TIỂU BANG CALIFORNIA 37 TUỔI 1950
Richard Milhous Nixon (January 9, 1913 – April 22, 1994). Là Phó TT thứ 34 và là TT thứ 37 USA (34th Vice President of the United States (1953–1961). was the 37th President of the United States from 1969–1974)
Người Hùng Trung tá Nixon trong Đệ nhị thế chiến sinh tại thành phố Yorba Linda, California. tốt nghiệp Luật Sư tại đại học đường Duke University School of Law in 1937 và hành nghề tại La Habra- tiểu bang California sau vụ tấn công Trân Châu cảng (attack on Pearl Harbor,December 7, 1941 ) Người Thanh Niên Luật Sư trẻ 28 tuổi tình nguyện nhập ngũ vào Phi Công của Hải Quân Mỹ Quốc ( he joined the United States Navy,) đến 1945 đã là Trung tá Phi Công Hải Quân (rank of Lieutenant Commander South Pacific Combat Air Command)
*Đại tá Hải quân Mỹ :rank of Captain Commander.
1946--1950 là Dân Biểu Liên bang CH đơn vị 12 tiểu bang California.
1950--1953 Thượng Nghĩ Sĩ CH Liên Bang California.
1953-1961 Phó TT thứ 34 U SA.
Bầu cử TT 11.1960 Suýt chút nửa Trở thành TT thứ 35 Hoa Kỳ. :" Tôi không khởi kiện gian lận phiếu vì danh dự của Mỹ Quốc" câu nói bất hủ lịch sử nhưng thật bất hạnh VNCH.
1969--1974 TT thứ 37 USA
PHÓ TỔNG THỐNG RICHARD NIXON XUẤT CHINH TÁI LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI :3.1953
A -RA TỐI HẬU THƯ CHO CHÍNH PHỦ DO THÁI : THỦ TƯỚNG ISRAEL DAVID BEN- GURION ( 1948--1954)
--PTT Nixon đến Tel Aviv Thủ Đô Israel -Do Thái đánh giá tình hình , gởi tối hậu thư cho chính phủ Thủ tướng David Ben- Gurion Do Thái :
Chấm dứt mọi hành động đàn áp ngược đãi Palestine. Nếu không : không những chính phủ Mỹ cắt hết viện trợ 100%, và khi chiến tranh xảy ra Mỹ Quốc sẽ không can thiệp.
Cảnh báo chính phủ Do Thái rằng : Đừng bao giờ nghĩ rằng Mỹ Quốc giúp Do Thái là để ngăn ngừa chủ Nghĩa CS tại Trung Đông như lý luận của TT Thứ 33 Truman. Các nước Trung Đông là Hồi Giáo không bao chấp nhận chủ nghĩa CS dù có quan hệ Liên Sô chỉ là quan hệ kênh tế , vì quyền lợi Quốc Gia thôi !.
B -RA TỐI HẬU THƯ CHO CHÍNH PHỦ SOUTH KOREA :TỔNG THỐNG LÝ THỪA VÃNG (SYNG MAN RHEE )
Thủ Đô Seoul -South Korea :PTT Nixon phải đánh giá tình hình chính xác về khả năng thực sự của chế độ TT Lý Thừa Vãng -và Quân Lực South Korea.
- Quân Lực South Korea phải : hoàn thiện và thiện chiến chứ không thể mọi trách nhiệm : là do Quân Lực Mỹ đảm nhận.
-Quân Lực South Korea phải xác định là lực lượng chính yếu bảo vệ Tổ Quốc , Quân Lực Mỹ chỉ hỗ trợ , chứ không phải Quân Lực Mỹ phải gánh hết trách nhiệm bảo vệ tất cả cho South Korea.
-Chính phủ TT Lý Thừa Vãn phải tận diệt hết tham nhũng , hết sự quan liêu của các viên chức chính quyền địa phương. Gởi các Khóa Sĩ Quan đến Mỹ tu nghiệp ngắn hạn để nâng cao trình độ chỉ huy , nghệ thuật chỉ huy chiến trận.
PHÓ TỔNG THỐNG USA : RICHARD NIXON ĐẾN THỦ ĐÔ SÀI GÒN -QUỐC GIA VIỆT NAM
Trước khi viết tiếp vài điều nhận xét TT thứ 37 Nixon , công bình Ông là Phó TT thứ 34 , và TT thứ 37 được đánh giá là nhà Lãnh đạo giỏi của Mỹ Quốc ,kính trọng Hoàng Đế Quốc trưởng -Nam Phương Hoàng Hậu , Ngô Tổng thống nhưng Ông không có duyên với Việt Nam , chỉ đem lại xui xẻo cho Dân tộc Việt Nam :
Lần Thứ nhất : là đến Sài Gòn -Hà Nội 1953 .Sau đó Paris đi đêm Bắc Kinh , cách chức Cao uỷ Pháp Jean Letourneau (01.04.1952 - 28.07.1953) , Đại tướng Raoul Salan Tổng Tư lệnh , bổ nhậm Đại tướng Henri Navarre - Cô lập Hoàng Đế -Hoàng Hậu !
Lần thứ 2 : Ứng cử viên TT Cộng hoà 11.1960 thắng cử , nhưng lại thành thất cử , hậu quả nội các TT thứ 35 Kennedy ủng hộ cuộc Đảo chánh 1.11.1963.( Đảng Cộng hoà ủng hộ Chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng VN từ 1950 !)
Lần thứ 3 : Hiệp định Paris 27.1.1973, sau đó phải từ chức TT USA :9.8.1974 (Watergate scandal ! )..resigned the office of the presidency on August 9, 1974. Dẫn đến VNCH sụp đổ 30.4.1975 .
PHÓ TỔNG THỐNG RICHARD NIXON 39 TUỔI VÀ ĐỆ NHỊ PHU NHÂN NGƯỜI ĐÀN BÀ THÉP: PAT NIXON VÀ 2 ÁI NỬ TRICIA , JULIE SAU NGÀY THẮNG CỬ 11.1952 .
1953 LÀ NĂM PHÓ TỔNG THỐNG RICHARD NIXON XUẤT CHINH : TÁI LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI . Ở NGOẠI QUỐC NHIỀU HƠN LÀ Ở TRONG NƯỚC .
THÀNH CÔNG TÁI LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI NHƯNG TẠI ĐÔNG DƯƠNG BỊ PARIS ĐÂM SAU LƯNG !
TỔNG THỐNG THỨ 37 USA RICHARD NIXON 55 TUỔI THẮNG CỬ 11.1968
Phu nhân Patricia Nixon, daughters Tricia , Julie, and David Eisenhower, grandson of former President Dwight D. Eisenhower. (Julie Nixon -July 5, 1948 : she married David Eisenhower )
David Eisenhower , là Sĩ quan hải quân con trai của Tướng :John Sheldon Doud Eisenhower-.
Tướng :John Sheldon Doud Eisenhower là con trai duy nhất của : Hoàng Đế Không ngai -Thống tướng-TT thứ 34 Mỹ Quốc.. ( 2 Cha con đều là Tướng lãnh Mỹ Quốc .)
** Phó TT Nixon trong năm 1953 dù rất bận rộn trong các chuyến công du : Tái lập Trật tự Thế giới, nhưng PTT Nixon đã đến Việt Nam 2 lần vì tầm quan trọng của chiến trường Việt Nam , Phó TT USA cũng rất kính trọng và mến Hoàng Đế Quốc trưởng Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu của nước Việt Nam (Hoàng Đế và Phó TT Nixon :2 người cùng tuổi ) .
Lần thứ 2 Phó TT đến Việt Nam 10.1953 , thì Nam Phương Hoàng Hậu Uyên ương gãy cánh :đã giả từ tất cả , đang sống trong một Nông trại tại ngôi làng hẻo lánh Chabrigna một làng quê trải dài với những đồi , núi chập chùng của nước Pháp :chăn nuôi đàn Bò Sữa !..và làm thiên chức của người Mẹ !
Lần đầu tiên Phó TT Nixon đến Việt Nam là khoảng trung tuần tháng 4 năm 1953, Phó Tổng thống Mỹ quốc đã dùng phi cơ thị sát từ Nam ra Bắc trên toàn lãnh thổ Quốc gia Việt Nam , cũng đã ghé Hà Nội, Hải Phòng, tìm hiểu đánh giá chính xác khả năng của Quân Lực Quốc Gia Việt Nam , và Quân Pháp , khả năng , trình độ các Sĩ Quan Việt-Pháp từ cấp uý đến : Đại Tướng Raoul Salan Tổng Tư lệnh,Trung tướng tham mưu trưởng Allard , Trung tướng Linarès Tư lệnh Chiến trường Bắc Việt Nam ,Thiếu tướng Cogny , Trung tướng Nguyễn Văn Hinh Tổng Tham Mưu trưởng Quân Lực Quốc Gia Việt Nam .
*17 năm sau 1970 :Đệ nhất Phu nhân Mỹ Quốc người đàn bà Thép Pat Nixon ,cũng đã dùng Trực thăng bay trong vùng lửa đạn thị sát chiến trường Việt Nam, từ Sông Bến Hải vùng giới tuyến đến tận Cà Mau khắp 4 vùng chiến thuật , lần đầu tiên và duy nhất cho đến tận bây giờ :trong lịch sử Mỹ Quốc một Đệ nhất Phu nhân bay trong vùng lửa đạn thị sát chiến trường .
ĐỆ NHẤT PHU NHÂN THỨ 37 MỸ QUỐC-NGƯỜI ĐÀN BÀ THÉP : PAT NIXON CHUẨN BỊ: BAY TRÊN VÙNG LỬA ĐẠN - CHIẾN TRƯỜNG CAO NGUYÊN NAM VIETNAM _DẬY LỬA 1970
(Pat Nixon in Central Highland South Vietnam combat zone 1970).
Pat Nixon became the first First Lady to enter a combat zone. She had tea with the wife of President Nguyễn Văn Thiệu in a palace, visited an orphanage, and lifted off in an open-door helicopter—armed by military guards with machine guns—to witness U.S. troops fighting in a jungle below. She would later admit to experiencing a "moment of fear going into a battle zone", because, as author and historian Carl Sferrazza Anthony noted, "Pat Nixon was literally in a line of fire." She later visited an army hospital, where, for two hours, she walked through the wards and spoke with each wounded patient. The First Lady of South Vietnam, Madame Thieu, said Pat Nixon's trip "intensified our morale".
Pat Nixon was listed on the Gallup Organization's top-ten list of the most admired women fourteen times, from 1959–1962 and 1968–1979. She was third in 1969, and remained at number two until 1972, when she was ranked first as the most admired woman.
*Phó Tổng Thống Nixon đã nhận xét về Đại tướng Raoul Salan Tổng Tư lệnh tại Đông Dương rất chính xác :
Đại tướng Salan không phải là một Tướng Lãnh giỏi nhưng Ông ta rất can đảm thị sát chiến trường trong lửa đạn, và biết lắng nghe các Tướng lãnh dưới quyền dù đó là Tướng Mặt trận như Tướng René Cogny ,Đại tá Jean Gilles . Ông ta rất tôn trọng :Trung tướng Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực Quốc gia Việt Nam, vì vậy Liên Quân Pháp -Việt không có những xung khắc mâu thuẫn ....
Sau khi đã thị sát trên toàn lãnh thổ Quốc gia Việt Nam từ Nam ra Bắc , nhìn thấy những ưu và khuyết điểm của Quân Lực Quốc gia Việt Nam , và sự trói tay của Paris với chiến trường Việt Nam : 150 chục ngàn Chiến binh Quân Lực Quốc gia Việt Nam , quá ít ỏi trên một Lãnh thỗ rộng lớn từ Nam ra Bắc, không thể nào bảo vệ Lãnh thổ được . Trong lúc Quân Pháp cần phải tập trung thành những lực lượng cơ động (Liên đoàn lưu động ), chứ không thể phân tán để cùng Quân Lực Quốc gia Việt Nam bảo vệ Lãnh thổ .
Phó Tổng thống Mỹ Quốc đã Hội kiến : Hoàng Đế Quốc trưởng , Cao uỷ Đông Dương Jean Letourneau , Đại tướng Raoul Salan, Trung tướng Nguyễn Văn Hinh : Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Quốc gia Việt Nam. Phó Tổng thống Mỹ Quốc đã đưa ra quyết định :
1. Quân Lực Quốc Gia Việt Nam phải tăng quân số ít nhất là 250 ngàn quân, để có thể bảo vệ Lãnh thổ trong vòng 18 tháng : từ tháng 6 năm 1953-đến tháng 12 năm 1954. Năm 1955 Quân Lực Mỹ sẽ đổ quân giúp Quân Lực Quốc Gia Việt Nam , và Pháp bình định Bắc Việt Nam.
Chính phủ Mỹ sẽ chịu hoàn toàn chi phí , cũng như các vũ khí trang bị cho 100 ngàn quân mới thành lập .
2. Bắt đầu chương trình : Gởi một số Sĩ quan Việt Nam cấp Đại Đội trưởng qua Mỹ :Tu nghiệp thời gian ngắn hạn để nâng cao trình độ chỉ huy , và nghệ thuật chỉ huy chiến trận .
3. Sĩ quan Quân Lực Quốc Gia Việt Nam , phải đảm trách chức vụ Tiểu đoàn trưởng trong toàn bộ các Tiểu đoàn Quân Lực Quốc Gia Việt Nam . (Lúc này Quân Lực Quốc Gia Việt Nam chỉ có cấp Tiểu đoàn là cao nhất)
4. Từng bước hoàn thiện Quân Lực Quốc Gia Việt Nam , thành một Quân Lực Thiện chiến .
Tất cả yêu cầu của Phó TT Mỹ quốc đều được Cao uỷ Pháp tại Đông Dương Jean Letourneau và Đại tướng Tổng Tư lệnh Raoul Salan đồng ý , vì họ hiểu rõ tình hình nguy ngập tại Đông Dương .
Hoàng Đế -Quốc trưởng Tổng Tư lệnh và Trung tướng Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực Quốc gia Việt Nam rất vui mừng , phấn khởi trước quyết định này và cũng chân thành cám ơn Phó Tổng thống Mỹ Quốc ....
** Đây là kế hoạch tuyệt vời cho Quốc gia Việt Nam , cho Dân tộc Việt Nam, cũng như Hoàng Đế và Hoàng Hậu .
Nhưng đối với Paris là điều không thể :
1. Từ bao lâu nay Paris duy trì 150 ngàn quân QLQGVN nhằm mục đích làm suy yếu Quốc gia Việt Nam, bên cạnh duy trì tình trạng Sứ quân cát cứ , để kênh tế Quốc gia VN là con Zero ,Quốc gia VN bắt buộc phải phụ thuộc vào Paris, Quyền lợi Thực dân Dân Pháp tại Viet Nam vẫn bảo đảm .
2. Nếu Quân lực Quốc gia VN lên 250 ngàn quân, Quyền Lực của Hoàng Đế , và Hoàng Hậu sẽ tăng lên, bắt buộc Hoàng Đế phải thống nhất các Lực Lượng Sứ quân , đây là chuyện đương nhiên , trong lúc các Sứ quân hiện tại đều thần phục Hoàng Đế , và kính mến Hoàng Hậu.
Nếu như vậy Quốc gia Việt Nam sẽ Độc lập hoàn toàn về Kênh tế và Quân sự. Dẫn đến Quyền lợi Thực dân Dân Pháp tại Việt Nam sẽ không còn .
3. Quân lực Mỹ đổ quân vào Việt Nam là chuyện không thể , nếu như vậy Quyền lợi của chính phủ Pháp tại Đông Dương sẽ mất .
**
Vì vậy khi Cao uỷ Pháp tại Đông Dương báo về Paris thỉnh cầu Paris (Chính Phủ Pháp) đồng ý kế họach của Phó TT Nixon , thì Paris nổi giận !.
Nhưng hiện tại Phó TT Mỹ Quốc đang ở Việt Nam, Paris không thể giỡn mặt với Washington (Chính Phủ Mỹ), và Hoàng Đế không ngai Eisenhower được , thêm thay tiền Viện trợ chiến phí Đông Dương là do Washington viện trợ , hiện tại đã lên đến 90%.
Vì vậy Chính Phủ Pháp buộc lòng trước mắt là phải : chấp nhận Kế hoạch của Phó Tổng thống Mỹ Quốc, tăng quân số QLQGVN thêm 100 ngàn quân ,giao chức vụ Tiểu đoàn trưởng QLQGVN cho Sĩ quan Việt Nam Chỉ huy.
Khoá sĩ quan Việt Nam Đại Đội trưởng, đầu tiên lên đường tu nghiệp Mỹ trong năm 1953 .(Khoá Sĩ quan Việt Nam đầu tiên tu nghiệp Mỹ 9.1953) .
Nhưng Paris (Chính Phủ Pháp )quyết định ra tay , khi Phó Tổng Mỹ Quốc rời khỏi Việt Nam .
***
Thật ra từ tháng 6 năm 1952 , Paris biết rằng Hoàng đế Không Ngai -Thống tướng Eisenhower sẽ thắng cử TT Là điều chắc chắn , nên Paris đã làm áp lực Hoàng đế Quốc trưởng : Thủ tướng Trung dung Trần Văn Hữu phải từ chức thay bằng một Thủ tướng thân Pháp 100% đó là Ông Nguyễn Văn Tâm .
Nếu Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam là Ông Nguyễn Văn Tâm , Paris sẽ có 3 điều lợi .
1. Ông Nguyễn Văn Tâm là phụ thân của Tân trung tướng Nguyễn Văn Hinh ( Tướng Hinh vừa mới lên Trung tướng ). Paris bắt đầu bất bằng về Tướng Hinh có vẻ coi trọng Việt Nam hơn là Pháp , và trung thành Hoàng Đế -Hoàng Hậu .
2 . Tướng Hinh vì tình Cha Con, thêm Trung tá Không quân Pháp , phu nhân Trung tướng là người Paris chính gốc. Tướng Hinh sẽ thần phục Pháp 100% !
3. Thủ tướng , và Trung tướng Tổng tham mưu trưởng Quân lực Quốc Gia Việt Nam thần phục Pháp 100% thì sẽ cô lập được quyền lực của Hoàng Đế và Hoàng Hậu.
**
Vì vậy Paris (Chính phủ Pháp) ra tay làm áp lực Hoàng Đế Quốc trưởng , bổ nhậm Ông Nguyễn Văn Tâm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam ngay từ đầu tháng 6 năm 1952.
Hoàng Đế -Hoàng Hậu biết được ý đồ của Paris, nhưng lúc này cuộc bầu cử TT Mỹ đến tháng 11 , còn 5 tháng , thêm thay Chính phủ mới Tổng thống Eisenhower phải mất ít nhất là một năm để ổn định nước Mỹ, phải qua năm 1954 là nhanh lắm ,Tổng thống Eisenhower mới giúp Quốc gia Việt Nam.
Điểm quan trọng : Trung tướng Nguyễn Văn Hinh là người yêu nước thật sự , lại đang nắm chức vụ quan trọng : Tổng tham mưu trưởng Quân lực Quốc Gia Việt Nam .Phu nhân Trung tướng, dù là người Pháp nhưng hết lòng với Quân đội và Dân tộc Việt Nam .Phu nhân Trung tướng là người thành lập ngành Nữ trợ tá trong Quân đội (tiền thân của Nữ Quân Nhân sau này )
Tướng Hinh không còn trẻ dại để nghe lời Phụ Thân , mà ngược lại Tướng Hinh còn có thể khuyên nhủ Phụ thân được !
Thủ tướng Trần Văn Hữu ông là người trung dung , cũng rất là khó khăn cho Thủ tướng trong cương vị làm việc bị áp lực rất nặng nề.Thủ tướng Trần Văn Hữu chỉ thích hợp trong giai đoạn năm 1950 , để Hoàng Đế chuyển bại thành thắng !.
Vì vậy sau khi tham khảo Tướng Hinh . Hoàng Đế Quốc trưởng - Hoàng Hậu , đồng ý bổ nhậm Ông Nguyễn Văn Tâm làm Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam ngày 23.6.1952 .
Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố từ chức ngày 3.6.1952 vì nhiệm vụ đã hoàn thành .( Thật ra Thủ tướng Trần Văn Hữu 6 tháng 5- 1950-- 3 tháng 6, 1952 , ông cũng đã mõi mệt , vì bị áp lực quá nhiều của cả 2 bên Hoàng Đế và Chính phủ Pháp , một Thủ tướng Trung dung đứng giữa rất là mệt và nhức đầu , Lịch sử Việt Nam cũng nên vinh danh Thủ tướng Trần Văn Hữu , Ông là người giai đoạn mà Lịch sử Việt Nam cần )
*Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm 23 tháng 6- 1952-- 7 tháng 12- 1953
Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm nhận chức ngày 23 tháng 6 năm 1952 .
Công bình : Ông không được lòng dân chúng , vì quá khứ trước 1945 nổi tiếng trung thành Mẫu quốc ,nổi tiếng là "Hùm Xám Cai Lậy" , Vì vậy khi Ông Thủ tướng ra Bắc Hà , các Sĩ phu Bắc Hà , thâm thuý tặng Ông tấm Liễn :" Đại Điểm Quần Thần ". Nghĩa đen là vị Quan lớn của Hoàng Đế .
Nghĩa bóng : Đại là To , Điểm là :chấm , Quần thần là Bầy tôi
To Chấm Bầy Tôi nói lái : Tâm chó Bồi Tây !
Nhưng khi Ông nhận chức Thủ tướng , quyền lực của Hoàng Đế -Hoàng Hậu đang ở đỉnh cao, Con trai Ông mới lên Trung tướng 3 sao , là vị Tướng cao cấp nhất của Quân lực Quốc gia Việt Nam :Tổng Tham Mưu trưởng , Được Hoàng Đế , Hoàng Hậu trọng dụng , Quân đội kính trọng, yêu mến.
Nên Ông Thủ tướng rất tự hào về người con trai : Trưởng tử của Ông, vì vậy Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm cũng thần phục Hoàng Đế và Hoàng Hậu luôn ! Đây là điểm thất bại của Paris . Và cũng cho thấy Hoàng Đế-và Hoàng Hậu là người rất tài giỏi về chính trị !
Thủ tướng Nguyễn văn Tâm trong hơn một năm làm việc từ tháng 6 năm 1952 - đến tháng 8 năm 1953, Ông cũng không làm một việc gì đáng chê trách cả . Đặc biệt trong đoạn Hồi ký Đại uý Jean : Khi Đại tướng Navarre đến Sài Gòn ngày 13.5.1953 Thủ tướng Việt Nam lộ vẻ khó hiểu ?
Đơn giản vì Thủ tướng Việt Nam bất bằng việc cách chức Đại tướng Raoul Salan
(Hoàng Đế, Hoàng Hậu , và Tướng Hinh cũng bất bằng , vì thể để Ông Thủ tướng Đại diện ra mặt đón tiếp thôi ! )
**** PARIS RA TAY : TIÊN HẠ THỦ VI CƯỜNG
Phó Tổng Thống Mỹ Quốc Richard Nixon vưa rời khỏi Việt Nam bay qua Vương quốc Thái Lan , khởi đầu cho chuyện thị sát Đông Nam Châu Á (Southeast Asia )kéo dài trên 6 tháng : Thái Lan (Thailand), Miến Điện (Myanmar) ,Vương quốc Mã Lai Á (Malaysia) ,Nam Dương (Indonesia) ,Phi Luật Tân (Philippines) ,Vương quốc Brunei ...
Lúc này chính phủ Pháp của nội các Thủ tướng Réne Meyer (8.1.1953--28.6.1953), và giới chính khách Thực dân , họ nghĩ rằng : Nếu Mỹ vào Việt Nam năm 1955 , coi như mọi quyền lợi của Pháp tại Việt Nam và Đông Dương sẽ mất hết !chưa kể Quân lực Quốc gia Việt Nam tăng thêm 100 ngàn quân là hiểm hoạ thật sự với quyền lợi Pháp . Nếu Hoàng Đế tấn công Tướng Bảy Viễn để kiểm soát thủ đô Sài Gòn, thì sẽ có 3 hiểm họa với Pháp :
1.Hoàng Đế-Hoàng Hậu sẽ kiểm soát trung tâm kênh tế của nước Viet Nam , sẽ có tiềm lực kênh tế
2. Đa số Các Sứ quân tại miền Tây sẽ qui thuận !
( Hoàng Hậu là người Miền Tây , binh sĩ Giáo phái sẽ thần phục , các Sứ quân dù không muốn sát nhập vì quyền lợi kênh tế cũng không được, vì lòng quân sẽ không theo nhất là Gương Tướng Bảy Viễn đã bị tiêu diệt ! )
3 Hoàng Đế -Hoàng Hậu sẽ kiểm soát được vựa lúa Miền Tây , và Kênh tế Sài Gòn . Quốc gia Việt Nam sẽ độc lập về Kênh tế và Quân sự sẽ độc lập luôn .
4. Thủ Đô đô Sài Gòn bị Hoàng Đế -Hoàng Hậu kiểm soát , thì Bộ tư lệnh Quân Viễn chinh , Cao uỷ Pháp , và Giới Pháp kiều , sẽ bị hạn chế tự do rất nhiều trong khuôn khổ ,không như bây giờ vì đây là Thủ đô thật sự của Quốc Gia Việt Nam.
Vì thế chính phủ của Thủ tướng 5 tháng Rene Meyer đi đến quyết định :
1.Thay thế Đại tướng Raoul Salan gấp , vì Đại tướng là người có cảm tình với Hoàng Đế và Hoàng Hậu , dám ngang nhiên ủng hộ kế hoạch của Phó Tổng thống Mỹ Quốc Richard Nixon , không thèm đếm xĩa đến quyền lợi của Pháp Quốc .Ông Cao uỷ tại Đông Dương Jean Letourneau cũng vậy luôn ! Đặc biệt còn Đại tướng Salan, Ông Đại tướng sẽ theo kế họach của Phó TT Mỹ quốc , sẽ cố gắng cầm cự với Quân lực Việt Minh, không chủ động tấn công , chỉ phòng thủ đến tháng 12 năm 1954 , để chờ Quân lực Mỹ vào !
2 KÊ HOẠCH NAVARRE -PARIS :
KẾ HOẠCH PARIS-NAVARE
1-QUÂN SỰ :
Lợi dụng Viện trợ của Washington đến 90% , và Quân lực Quốc gia VN tăng thêm 100 ngàn quân để bảo vệ Lãnh thổ . Quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương chủ động tấn công tìm và diệt Quân lực Việt Minh, cố gắng đạt một chiến thắng quân sự như Trận Vĩnh Yên 1951,và Nà Sản 1952 trong năm 1954 . Đồng thời Bình định tối đa Lãnh thổ Việt Nam trong vòng 18 tháng trước tháng 12.1954
**Tuyệt đối không được theo kế hoạch của Phó Tổng thống Richard Nixon : là phòng thủ , cầm cự đến 12.1954. (Đại tướng Raoul Salan , Trung tướng Nguyễn Văn Hinh , Cao uỷ tại Đông Dương Jean Letourneau và Hoàng đế Quốc trưởng Bảo Đại đồng ý nghĩa là chỉ phòng thủ chờ đến năm 1955 mới phản công)
2 CHÍNH TRỊ :
a. Sẽ có một hiệp đình chiến tại Việt Nam trước tháng 12.1954 : Paris với Bắc Kinh. Paris sẽ ở thế thượng phong .
Paris sẽ cắt 1 vùng đất tại Bắc Việt Nam cho chính phủ của chủ tịch " Hồ Chí Minh " để thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà do Bắc Kinh đỡ đầu .
Phần còn lại : Quốc gia Việt Nam là do Paris đỡ đầu
b. Hoàng đế Quốc trưởng Bảo Đại - Nam Phương Hoàng Hậu chỉ là hư vị !. Sẽ có 1 Ông Thủ tướng Toàn quyền : Thân Paris 100% trong năm 1954.
Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi trong hồi ký Đại uý Jean :
-Đại tướng Henrie Navarre đến Sài Gòn : Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm , nhăn nhó khó hiểu .
-Đại tướng Henrie Navarre ra đến Hà Nội , tại Đại sứ quán của Pháp :
Đại tướng Salan : Nguyên Trung tướng :Tư lệnh chiến trường Bắc Việt Nam 1950-1952 , Đại tướng :Tổng tư lệnh Quân Viễn Chinh 1952-1953 ngồi ghế Sofa lơ đãng nhìn ra đường phố , vì Đại tướng biết rằng Đại tướng Navarre sẽ phản công , chứ không phòng thủ đến 12.1954 . Viễn cãnh bại trận là không thể tránh khỏi, Việt Nam sẽ bị chia đôi . Tướng Navarre lại một thân một mình . Các Tướng dưới quyền Đại tướng Salan sẽ chuồn hết từ Trung tướng Allard :Tổng tham mưu trưởng từ thời Thống chế Jean de Lattre de Tassigny , đến Trung tướng Linarès Tư lệnh chiến trường Bắc Việt Nam ,Thiếu tướng Dodelier Tư lệnh Chiến trường Thượng Du Bắc Việt Nam.Vì họ hiểu rằng chỉ có con đường duy nhất là phòng thủ chờ quân Mỹ vào 1955 rồi Phản công .
Ngay Thống Chế Alphonse Pierre Juin : người Anh cả Quân lực Pháp cũng khuyên Tướng Navarre tránh giao chiến trong năm 1954 , qua 1955 mới phản công ,và nhấn mạnh là :Tình hình chưa đến nổi tuyệt vọng !
Qua đây chúng ta thấy một điều không thể căn cứ vào một tài liệu lịch sử mà đánh giá và phán đoán được.
Dù Hồi ký Đại uý Jean rất có giá trị, nhưng nếu căn cứ Hồi ký này , chúng ta sẽ không có cảm tình với Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, và cho Ông thủ tướng VN là Bất Lịch sự , Cũng như không có cảm tình với Đại tướng Salan cho là Ông Đại tướng khinh người , và các Tướng lãnh dưới quyền của Đại tướng là hèn nhát. Vì Đại uý Jean ông miêu tả sự việc diễn tiến có thật 100%. Nhưng Đại uý đã không biết nguyên nhân tại sao là như vậy ?
PARIS CÔ LẬP HOÀNG ĐẾ -HOÀNG HẬU .
Bước 1 :Cách chức Đại tướng Raoul Salan Tổng tư lệnh Quân Viễn Chinh tại Đông Dương (11.1.1952--13.5.1953), bổ nhậm Đại tướng Henri Navarre ngày 13.5.1953
Bước 2 :
Cách chức Cao uỷ Jean Letourneau (01.04.1952 - 28.07.1953) bổ nhậm Cao uỷ Thực dân :Maurice Dejean ngày 28.07.1953 .....
*Ngày 28.07.1953 Cao uỷ Thực dân Maurice Dejean đến Sài Gòn với chức vụ : Cao uỷ Toàn quyền Đông Dương : Commissioner-General French Indochina (thực chất :Governor-General French Indochina )
Toàn quyền : về Kênh tế , Ngoại giao và Quân sự : Quân Pháp , Quân Lực Quốc Gia Việt Nam,Quân Lực Vương Quốc Lào , Quân Lực Vương Quốc Kampuchea . Thực chất là Nguyên thủ Quốc gia Tổng thống Liên Bang Đông Dương .
Trước đây Cao uỷ Pháp ( High Commissioner ) không nắm về quân sự chỉ nắm về kênh tế và ngoại giao .
Đại tướng Tổng tư lệnh Henrie Navarre nay chỉ là : Assistant Governor-General hay Assistant Commissioner-General ,Phụ tá đặc trách về Quân sự .
Như vậy nghĩa là Nguyên Thủ Quốc gia :Hoàng Đế của 3 nước Việt Nam, Lào , Kampuchea , bây giờ chỉ Thống Đốc Tiểu bang thôi . Ông Tổng thống Liên Bang Đông Dương Maurice Dejean sẽ chỉ huy tất cả 3 Hoàng Đế : Việt Nam, Lào , Kampuchea !
Đây chính là sợi dây thòng lọng siết cổ Hoàng Đế Quốc trưởng và Nam Phương Hoàng Hậu , vi phạm luật pháp Quốc tế một cách trắng trợn .
Quốc gia Việt Nam là thành viên Liên Hợp Quốc , Viện trợ chiến phí Đông Dương lên đến 90% từ tiền Xương máu của Dân Mỹ, để chống lại hiểm hoạ cộng sản chủ nghĩa Mao , nhuộm Đỏ Đông Nam Á, trong lúc Mỹ Quốc tan nát ,kênh tế đang kiệt quệ , Hoàng Đế không ngai vừa mới ổn định trật tự xã hội đang cố gắng phục hồi kênh tế .
Trong Đệ nhị thế Chiến : Hoàng Đế Không Ngai : Tổng tư lệnh Quân Lực Đồng Minh tiến vào giải phóng nước Pháp năm 1944 , hàng chục ngàn Chiến binh Mỹ Quốc đã mãi mãi nằm lại trên lãnh thổ nước Pháp , từ rừng núi , bãi biễn đến thủ đô Paris .
Sau 1945 Ông Tổng thổng thứ 33 vung tiền xương máu của dân Mỹ viện trợ cho chính phủ Pháp để phục hồi kênh tế Pháp, mà không có kế họạch cụ thể, đến nỗi Mỹ Quốc phải tan nát .
Mà nay chính phủ Pháp , và Giới Chính khách Thực dân , ngang nhiên trở lại chế độ Thực dân đã bị khai tử sau năm 1945.
Lợi dụng 3 nước Đông Dương trong Khối Liên hiệp Pháp, để trở lại chế độ thực dân .
Trong lúc đó các nước thuộc Khối Liên hiệp Anh : Canada, Úc , Ấn Độ , Thái Lan, Malaysia , Chính phủ Anh Quốc đã trả Độc Lập . Chính Phủ Anh Quốc đã từ bỏ con đường Thực Dân.
Nước Pháp tự hào có cuộc Cách mạng Dân chủ -Nhân quyền năm 1789 với khẩu hiệu Công bằng-Tự do -Bác ái !
Nhưng Chính Phủ Pháp giai đoạn 1945-1959 (Đệ tứ Cộng Hoà ), và Giới chính khách Thực dân đã đi ngược lại tất cả : phản bội Thế giới tự do , vong ân với người dân Mỹ Quốc , nướng hàng chục ngàn thanh niên trẻ tuổi của Nước Pháp trong cuộc chiến phi nghĩa 1945-1954 , tàn ác với Dân tộc Việt Nam !
Từ ngày Cao uỷ thực dân Maurice Dejean nắm Toàn quyền, Bầu trời chính trị Việt Nam u ám , mâu thuẫn Hoàng đế Quốc trưởng -Hoàng Hậu với Cao uỷ Thực dân Maurice càng trầm trọng . Nhất là vấn đề tăng quân số 100 ngàn quân .
Ông Tổng thống Liên bang Đông Dương lý luận : phải mất một năm ,Quân số Quân lực Quốc gia Việt Nam mới lên được 250 ngàn quân , vì Đại tướng Navarre đang Tổng phản công trên toàn bộ chiến trường từ Nam ra Bắc, cần ưu tiên Tiền chiến phí cho Đại tướng Navarre .
Vấn đề thứ 2 là gởi Sĩ quan Việt Nam :Cấp đại đội trưởng đi tu nghiệp Mỹ thời ngắn ngắn hạn để về nắm chức vụ Tiểu đoàn trưởng Quân Lực Quốc Gia Việt Nam . Cao uỷ Toàn quyền Thực dân lý luận :
Hiện tại Đại tướng Navarre đang Tổng phản công , Quân Lực Quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ phải bảo vệ lãnh thổ , Sĩ quan cấp Đại đội trưởng là xương sống của Quân Lực Quốc gia Việt Nam, không thể vô trách nhiệm rời khỏi đơn vị lúc này được .
Ông Cao uỷ chỉ đồng ý gởi các Sĩ quan Văn Phòng , và Chuyên môn đi tu nghiệp Mỹ , Ông lựa những sĩ quan có tư tưởng thân Pháp ! .
Hậu quả khoá sĩ quan đầu tiên đến Mỹ 9.1953 , gần một nữa trốn ở lại sau khi mãn khoá không về VN , đặc biệt có 2 sĩ quan sau này tham gia phong trào phản chiến chống chiến tranh VN tại Mỹ 1965-1970 rất dữ dội , có danh sách trong sổ đen của F .B .I ( một trong 2 sĩ quan sau này là con rể của phản Tướng Mai Hữu Xuân :Cựu Trung uý N Đ)
Để tuyên truyền chính sách Thực dân tại Đông Dương , chính phủ Pháp và giới chính khách Thực dân Paris tạo ra Huyền thoại Thiên tài quân sự : Đại tướng Navarre một Napoleon của Pháp Quốc tại Đông Dương !....
Vì vậy cần tạo ra một chiến thắng dù nguỵ tạo, để báo chí Paris ca ngợi :Thiên Tài Quân Sự Đại tướng Navarre và Chính phủ Pháp rất sáng suốt khi bổ nhậm Đại tướng Navarre.
Ngày 18-7-1953,Đại tướng Navarre xuất quân :hành quân "Con én" vào Lạng Sơn ( cho có lệ rồi rút lui) và hành quân "Camargue" vào Mật khu Việt Minh tại tỉnh Quảng trị phá hủy được một số kho tàng của Việt Minh rồi cũng rút lui . Ở Lạng Sơn, báo chí Paris phấn khởi tự tuyên bố diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của địch trong khu tam giác là mối Đe dọa An ninh trên quốc lộ số 1 Biên giới Trung Hoa- Việt Nam.
Sau đó Báo Chí Paris nhận lệnh chính phủ bắt đầu chê bai Chiến Luỹ Nà Sãn , quá nhỏ bé không huỷ diệt 5 sư đoàn Việt Minh, phi trường lại quá nhỏ bất tiện . Để dọn đường cho Thiên Tài Quân Sự Đại tướng Navarre ngày 9-8-53 : Hạ lệnh triệt thoái toàn bộ Quân ra khỏi Cao nguyên Thượng du Nà Sản Bắc Việt Nam . !
( Quyết định này giống như 22 năm sau : Tổng thổng Thiệu hạ lệnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên Trung phần 16.3.1975, cả 2 đều đưa đến kết quả bi thảm !)
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU UYÊN ƯƠNG GÃY CÁNH : THÁNG 9 NĂM QUÍ TỴ 1953
Thật ra trong tháng 8 năm 1953 , có một sự kiện khá quan trọng với Việt Nam . Để thoát khỏi dây thòng lọng của Paris , tránh Paris đi đêm Bắc Kinh , cắt một vùng đất cho Chính phủ Chủ tịch "Hồ Chí Minh"
( Đến tháng 4 năm 1954 , thì Paris không những cắt một vùng đất , mà dâng nguyên đất nước Việt Nam cho Bắc Kinh để đổi lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nằm trong khối Liên Hiệp Pháp , và Pháp rút quân trong danh dự Điện Biên Phủ. Ông Cao uỷ thực dân Toàn quyền -Tổng thống Liên Bang Đông Dương , vì không muốn gánh trách nhiệm với Lịch sử Pháp sau này, nên dọt lẹ từ chức 10.4.1954 đổ hết trách nhiệm cho Thiên tài quân sự Đại tướng Navarre ! ).
Một tài liệu cho rằng : Hoàng Đế-Hoàng Hậu tính nhờ Liên bang Sô Viết can thiệp:Trong thời gian chờ Hoàng Đế không Ngai USA ra tay năm 1955
Tôi nghĩ tài liệu khả tín vì 4 lẽ sau đây :
1. Liên bang Sô Viết công nhận Quốc gia Việt Nam , tính lập Quan hệ ngoại giao năm 1950.
2. Thời điểm này Liên Sô chưa viện trợ vũ khí cho Việt Minh , vì hiểu rằng Chủ tịch " Hồ Chí Minh " là thân Mao .
3. Liên sô còn hận Chủ tịch" Hồ Chí Minh" về cái chết của Lãnh tụ Trần Phú và Trung Tá không quân Hồng quân Liminov : Lê Hồng Phong .
Cuộc đời Lãnh tụ máu lạnh Stalin Ông chỉ quí mến thương yêu 2 người :
Trung tá Hồng quân Không quân Lê Hồng Phong (VN) , và Thiếu tá Hồng quân Tưởng Kinh Quốc con trai Thống chế -TT Tưởng Giới Thạch, sau này là Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc 1975-1989.
Trước khi Lãnh tụ Máu Lạnh chết : Ông từng căn dặn sau này phải đem ái nữ duy nhất của Trung tá Không quân Lê Hồng Phong và Lãnh tụ Nguyễn thị Minh Khai qua Nga nuôi ăn học thành tài đó là Thiếu nữ Lê Thị Hồng Minh , đang là Dưỡng nữ của Giáo sư Dương Bạch Mai sau này là Chủ tịch Quốc hội VNDCCH bị đầu độc chết 1963.
*Lãnh tụ máu lạnh cũng rất kính trọng thương mến Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và Tổng thống thứ 32 Anh Minh Vĩ Đại Fraklin Roosevelt của Mỹ Quốc .. Nhưng Lãnh tụ máu lạnh là kẻ thù của các dân tộc Đông Âu .
4. Lúc này Quan hệ Mỹ và Liên Sô đã hết căng thẳng cùng mục đích ngăn chặn chủ nghĩa Mao tại Đông Nam Á .
Tôi đang suy nghĩ có viết ra Liên Sô Đại loạn 1953 hay không !, đã làm mất cơ hội cho Hoàng Đế và Hoàng Hậu , cũng như dân tộc Việt Nam !
***Cũng chỉ vì Liên Sô đại loạn mất cơ hội cuối cùng ,nên Hoàng đế chán đời tuyệt vọng :gặp gỡ một người đẹp Sông Hương Núi Ngự * xinh đẹp tuyệt vời với mái tóc thề :Lê Thị Phi Ánh cho đủ : Sài Gòn --Huế--Hà Nội --Hồng Kông ! Chính vì vậy mà Hoàng Hậu nổi giận lôi đình , đã từ giả tất cả : Tình Yêu- Danh Vọng !
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:05:42 GMT 9
LIÊN BANG SÔ VIẾT ĐẠI LOẠN 1953 ĐẠI NGUYÊN SOÁI 6 SAO JOSEPH STALIN LÃNH TỤ MÁU LẠNH VĨ ĐẠI ANH MINH CỦA DÂN TỘC NGA TỪ TRẦN 1.3.1953 LIÊN BANG SÔ VIẾT ĐẠI LOẠN : ĐẤU ĐÁ TRANH GIÀNH QUYỀN LỰC -QUỐC GIA VIỆT NAM MẤT CƠ HỘI . Thủ tướng Winston Churchill của Anh Quốc: “ Một hạnh phúc lớn lao đối với nước Nga là trong những năm thử thách khổng lồ, đất nước này được một thiên tài, Tướng quân sắt đá Stalin lãnh đạo. Ông ấy là nhân vật kiệt xuất nhất, bao trùm lên cái thời nhiều biến động mà cuộc đời ông ấy đã trôi qua. Stalin là con người nhiệt huyết phi thường và ý chí không gì bẻ gẫy nổi, cứng rắn, khốc liệt trong trò chuyện, người mà ngay cả tôi, kẻ được giáo dục tại nghị viện Anh, cũng không có gì cưỡng lại được. Stalin trước hết có một óc hài hước phong phú, khả năng thâu nhận những ý tưởng một cách chuẩn xác. Sức mạnh này trở nên vĩ đại ở Stalin đến nỗi ông ấy là người độc nhất vô nhị giữa những nhà lãnh đạo quốc gia mọi thời và mọi nơi. Stalin đã gây cho chúng tôi một ấn tượng kỳ vĩ. Ông ấy có trí anh minh sâu sắc, tư duy hợp lý, không bao giờ biết hoảng loạn. Ông ấy là một nghệ nhân bất khả chiến bại trong những khoảnh khắc khó khăn kiếm tìm lối thoát từ những tình huống tuyệt vọng nhất. Ông ấy là một nhân vật rất phức tạp. Ông ấy xây dựng và thuần hoá một Đế chế mênh mông. Đó là người biết tiêu diệt kẻ thù của mình bằng chính kẻ thù của mình. Lịch sử, dân tộc Nga không bao giờ quên lãng những người như thế ” —Winston Churchill " Lịch sử Nga Đánh Giá : Lãnh tụ Iosif Vissarionovich Stalin được xem là một trong những nhà chính trị mâu thuẫn nhất vào thế kỷ XX. Ông được xem là người có những cống hiến to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Liên Bang Sô Viết. Trong cuộc thăm dò ý kiến của 40 triệu người Nga vào năm 2008, ông đã được bình chọn là nhân vật vĩ đại thứ 3 trong lịch sử Nga, sau Sa Hoàng Đại Đế Peter the Great I, Đại công tước Aleksandr Yaroslavich Nevsky . Được coi là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, thời gian ông cầm quyền gắn liền với giai đoạn 1930 – 1940, một giai đoạn lớn mạnh trong lịch sử Liên Bang Sô Viết . Trong thời gian đó, nền văn hoá, âm nhạc, văn học,… của Liên Bang Sô Viết giành được nhiều thành tựu lớn lao. Không những thế, ông còn là nhân vật đóng vai trò không nhỏ trong cuộc chiến Vệ Quốc của Liên Bang Sô Viết 1941-1945 . “Lãnh tụ Stalin là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của thời kỳ Phục hưng”. Theo phát ngôn viên Hội đồng thành phố Oryol Olga Patenkova, các nhà lập pháp nơi đây đã thông qua một bản kiến nghị vào ngày 31 tháng 3 năm 2010 , nội dung yêu cầu lập lại các hình ảnh của Lãnh tụ Vĩ Đại Iosif Vissarionovich Stalin. Theo tờ Izvestia số ra ngày 14 tháng 4: 2010 “ Lễ kỷ niệm 65 năm chiến thắng… thúc đẩy chúng tôi ủng hộ những lời kêu gọi khôi phục lẽ công bằng của lịch sử, tôn trọng vai trò lịch sử của Đại nguyên soái Tổng tư lệnh Stalin" **"HY VỌNG DƯỚI SUỐI VÀNG LÃNH TỤ VĨ ĐẠI MÁU LẠNH STALIN CỦA DÂN TỘC NGA SẼ GẶP LẠI TT VĨ ĐẠI ANH MINH THỨ 32 FRANKLIN ROOSEVET , TT TƯỞNG GIỚI THẠCH , TT TƯỞNG KINH QUỐC, LÃNH TỤ LÊ HỒNG PHONG . NHỮNG NGƯỜI MỘT THỜI LÃNH TỤ VĨ ĐẠI MÁU LẠNH STALIN ĐẢ YÊU MẾN ." Nguyễn Hùng Kiệt *** Thật ra khi viết về Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin rất khó : 1. Người Việt Hải Ngoại ám ảnh bài thơ Tố Hữu ca ngợi Stalin : " Thương cha thương một , thương ông thương mười !" 2. Cuộc chiến 1965-1975 vũ khí Nga Sô (Liên bang Sô Viết viện trợ cho Hà Nội ) 3. Lãnh tụ Stalin là kẻ thù của các nước Đông Âu. Nhưng có một điều thực tế : Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin chưa bao giờ là kẻ thù của Dân tộc Việt Nam. Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin là bạn thân của TT thứ 32 Anh minh và Vĩ Đại Franklin Roosevelt , và Thống chế TT Tưởng Giới Thạch . Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin cũng đã giúp TT thứ 32 USA trấn áp Đảng Cộng Sản Mỹ gốc Do thái năm 1933 , đến 500 ngàn người ! Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin đầu độc hạ sát Lãnh tụ Lê Nin ( Nga gốc Do thái ) và tàn sát tất cả Đảng Viên CS Nga gốc Do Thái :Tác giả của Cách Mạng tháng 10 năm 1917, tàn sát Dân Nga , kể cả Nga Hoàng , Hoàng Hậu , Hoàng tử và Công Chúa. Mục đích Người Nga gốc Do thái muốn thống trị nước Nga . Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin là người Hùng mà Lịch sử Nước Nga cần Ông trong giai đoạn 1924- 1953. Tất cả lỗi lầm và tai hoạ là do Ông do Ông TT thứ 33 Mỹ Quốc gây ra ! I-LÃNH TỤ MÁU LẠNH VĨ ĐẠI-ANH MINH JOSEPH STALIN (1878-1953) CỦA DÂN TỘC NGA : ĐÃ VỀ CÕI VĨNH HẰNG 1.3.1953- TRONG NỖI NIỀM CAY ĐẮNG : NIỀM TIN - ĐẠO LÝ SỤP ĐỖ CHỈ CÒN LÒNG ĐA NGHI VÀ HẬN THÙ Bắt đầu từ ngày 11.4.1951 Quân Lực Mỹ -Đồng Minh :triệt thoái toàn bộ ra khỏi lãnh thổ Bắc Triều Tiên về vĩ tuyến 38, 1 triệu quân Hồng Quân Trung Hoa hiện diện tại Cộng Hòa Triều Tiên. Lãnh tụ Máu Lạnh Stalin thay đổi hằn tính tình . Đối với Ông Liên Sô sẽ có 2 kẽ thù truyền kiếp ngàn đời : CS Trung Hoa - Mỹ Quốc lật lọng . TT thứ 32 Franklin D .Roosevelt chĩ là trường hợp ngoại lệ , còn Truman là đại diện cho người Mỹ . Ông già hẳn đi và tính tình đa nghi hung bạo . Nghi ngờ mọi người xung quanh đặc biệt không còn trọng dụng Nguyên Soái 5 sao Georgy Zhukov vì là bạn thân Đại danh tướng 5 Sao Eisenhower của nước Mỹ lật lọng !. Để bảo vệ an ninh Liên Sô, Ông quyết định Ba Lan phải trở thành Quốc gia XHCN càng sớm càng tốt , để hoàn thành vòng cung cuối cùng bảo vệ Liên Sô. Tất cả các nước Đông Âu phải là chư hầu Liên Sô, muốn vậy phải sử dụng kỷ luật sắt, phải tận dụng tài nguyên các Nước Đông Âu để khôi phục Liên Sô hùng mạnh . Nhưng trước hết giai đoạn ngắn 5-15 năm để đối phó Mỹ Quốc lật lọng . Kẻ thù của Mỹ Quốc cũng là Bắc Kinh, vì vậy trong giai đoạn này chiến lược cần phải liên kết Bắc Kinh . Vì quyền lợi Tồ quốc Nga vĩ đại phải hy sinh Trung Hoa Dân Quốc mà 2 Cha con TT vốn là Người Lãnh tụ máu lạnh yêu mến , thiện cảm : TT-Thống Chế 5 sao Tưởng Giới Thạch , và người con là sĩ quan cấp tướng sau này TT Tưởng Kinh Quốc . Vì thế Lãnh tụ máu lạnh yêu cầu Liên Hợp Quốc công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thế chỗ Trung Hoa Dân Quốc trong thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc ( 5 thành viên Mỹ-Liên Sô -Anh-Pháp -Trung Hoa) Lý do Đài Loan chỉ là đảo nhỏ bé chưa đến 8 triệu dân , Trung Hoa Lục Địa 600 triệu dân, vì vậy không thể công nhận Đài Loan được . ( Lý do thầm kín Lãnh tụ máu lạnh không nói là: khi Bắc Kinh thành viên thường trực , Thế giới sẽ coi Bắc Kinh là Kẻ thù , hướng Trung Cộng , không chiếu cố Liên Sô , Liên Sô phải phát triển vượt Mỹ về vũ khí hỏa tiễn , và Không gian . Vì kênh tế Liên Sô không thể bằng Mỹ) . Những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời , Lãnh tụ máu lạnh càng cô đơn , ông cáu gắt giận dữ , thậm chí hung bạo, niềm tin ông sụp đổ hoàn toàn, cái gì là tình nghĩa ,cái gì là đạo lý có còn đúng hay không ?. Tất cả là giả dối , một đất nước hùng mạnh Mỹ Quốc :Vị TT Anh Minh -Vĩ Đại, ông quí mến giờ là kẻ thù , 2 cha con TT Trung Hoa , đặc biệt người con trai Thiếu tá Hồng Quân Tưởng Kinh Quốc , người vợ Nga , cả 2 vợ chồng ông thương mến, giờ cũng oán hận Ông . Trung tá Hồng Quân Không quân Litvinov : Lê Hồng Phong, mà ông thương mến và người vợ Minh Khai cũng đang oán hận Ông !. Ông đã gặp lại tên phản bội năm xưa hãm hại 2 vợ chồng và nhân Vật số 1 CHLB Đông Dương: TBT ĐCS Đông Dương Trần Phú . Thiếu tá Hồ Quang-Tống Văn Sơ --Sung Man Cho --Chủ tịch "Hồ Chí Minh" VNDCCH sau 22 năm tuyệt tích, do Bạo chúa Hoàng đế Mao trạch Đông dẫn đến Điện Cẩm Linh tháng 6.1952 ra mắt Ông , xin ông bỏ những chuyện đã qua để thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ( VNDCCH). Ông nhớ ngày đầu tiên khi đối diện tên phản bội mà 2 lần KGB ra tay không thành công, giờ đứng trước mặt ông là Nguyên thủ Quốc gia một nước, thì Quốc gia đó mãi mãi không bao giờ ngóc đầu nổi , bản tính ông máu lạnh nhưng ông chưa tàn ác với Dân tộc ông , còn con người đứng trước mặt ông , sẽ giống bạo chúa Mao tàn ác với dân tộc mình . Ông nhớ lại khi tên phản bội hỏi ông tại điện Kremlin có Mao Trạch Đông bên cạnh : Chủ tịch VNDCCH : Đồng chí Lãnh tụ Anh Minh Vĩ Đại Stalin có thể ký với tôi bản hiệp ước hữu nghị Việt Nam- Liên Sô ,để tôi có thể tuyên bố với Quốc dân VN : Đất nước Liên Sô Vĩ Đại và Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin là người bạn thân thiết của Dân Tộc VN không ? Ông ( Lãnh tụ Stalin) Cười lớn : Làm sao tôi có thể giải thích với Nhân dân Liên Sô ; Đồng chí Sung Man Cho -"Hồ Chí Minh" Chủ tịch VNDCCH từ đâu chui ra !, Tôi không mời đồng chí Chủ tịch qua đây mà ! Chủ tịch VNDCCH : vậy Đồng chí Lãnh tụ Vĩ Đại có thể cho máy bay chở tôi bay một vòng trên bầu trời Moskva (Moscow), sau đó đáp xuống phi trường , phóng viên chụp hình lên báo là xong . Lãnh tụ Stalin Cười lớn : Đồng chí Chủ tịch VNDCCH nói đùa đấy à ! Chủ tịch VNDCCH : im lặng . (Tài liệu của Nga) 11. 1952 khi nghe tin Đại Danh tướng 5 sao Dwight Eisenhower thắng cử TT thứ 34 , Ông bỗng nổi giận đùng đùng ! Nếu 4 năm trước Ông đã vui , nhưng bây giờ Trung Hoa đã mất , cha con TT Tưởng Giới Thạch đã ra Đài Loan , Kim Nhật Thành lãnh tụ Cộng Hòa Triều Tiên trước sau cũng theo Mao vì trên một triệu quân Hồng Quân Trung Hoa hiện diện mãi mãi tại North Korea . Đông Dương cũng sắp bị Mao Trạch Đông khống chế .Tên phản bội Chủ tịch VNDCCH , Ông căm ghét dẫn xác đến đây trên tư cách Chủ tịch VNDCCH , ông không thể ra tay trả thù cho Trung tá Không quân Litvinov Lê Hồng Phong . Ông tức giận ký lệnh giải ngũ ra khỏi Quân đội : Đại danh tướng Nguyên Soái Georgy Zhukov ! Ngày 1 tháng 3 năm 1953, sau khi ăn tối với Bộ trưởng bộ nội vụ Lavrenty Pavlovich Beria và ba Thủ tướng tương lai Georgi Maximilianovich Malenkov, Nikolai Alexandrovich Bulganin và Nikita Sergeyevich Khrushchev ở Moskva, Stalin ngã quỵ xuống ở trong phòng, ông đã bị tai biến mạch máu não làm liệt bên phải của ông. Tuy các cận vệ lấy làm lạ : ông không thức dậy như thường lệ vào hôm sau, nhưng họ đang có lệnh không được quấy rầy ông, cho nên cái chết của ông không được khám phá ra cho đến tối hôm đó. Bốn ngày sau, Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953, hưởng thọ 74 tuổi, và chôn ngày 9 tháng 3. Lý do chính thức của cái chết là chảy máu não .Thi hài ông được giữ trong Lăng Lenin đến ngày 31 tháng 10 năm 1961. Theo quá trình phi Stalin hóa, thi hài của ông mang ra khỏi lăng và chôn bên cạnh tường điện Kremlin. II LÃNH TỤ MÁU LẠNH STALIN NGƯỜI BẠN TRI KỶ -THÂN THIẾT VỚI BỘ TRƯỞNG HẢI QUÂN -BỘ TRƯỞNG CHIẾN TRANH -THỐNG ĐỐC TIỂU BANG NEW YORK- TT THỨ 32 ANH MINH -VĨ ĐẠI MỸ QUỐC FRANKLIN D. ROOSEVELT 1. 1933- 3.1945 , CŨNG LÀ NGƯỜI BẠN TỐT VỚI MỸ QUỐC 1932-1945- KẾ HOẠCH MARSHALL TÁI THIÊT CHÂU ÂU ĐẦU TIÊN (The Marshall Plan officially the European Recovery Program, ERP) LÀ NGƯỜI DÂN MỸ QUỐC VÀ QUỐC HỘI MỸ QUỐC MUỐN GIÚP TOÀN THỂ CHÂU ÂU ĐẶC BIỆT LÀ NGƯỜI BẠN LIÊN SÔ BỊ TÀN PHÁ CHIẾN TRANH NẶNG NỀ 3/4 QUỐC GIA-NHƯNG TÊN TỔNG THỔNG THỨ 33 ĐÃ PHÁ HOẠI TẤT CẢ-GÂY RA THẢM HOẠ THẾ GIỚI ! TT VĨ ĐẠI -ANH MINH FRANKLIN D .ROOSEVELT KHI LÀ BỘ TRƯỞNG CHIẾN TRANH HIỆP CHỦNG HOA KỲ - TRƯỚC ĐÓ BỘ TRƯỞNG HẢI QUÂN TRONG WAR 1 A-MỐI QUAN HỆ TAY BA : TT VĨ ĐẠI ROOSEVELT- LÃNH TỤ VĨ ĐẠI STALIN- QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI HITLER THẬT RA TRONG THẬP NIÊN 1930--1940 ĐÃ TỒN TẠI MỐI QUAN HỆ NÀY VÌ MỤC ĐÍCH CHỐNG LẠI NHỮNG NGƯỜI DO THÁI NÚP BÓNG CS THỐNG TRỊ 3 DÂN TỘC. TT Thứ 32 Vĩ Đại Anh Minh Franklin Delano Roosvelt (Thường được gọi FDR) thắng cử oanh liệt 42/48 tiều bang trên toàn nước Mỹ trong cuộc bầu cừ 11.1932 thời điểm này Mỹ quốc 48 tiểu bang ( Alaska , Hawaii được công nhận tiểu bang 1959). Vị Bộ trưởng Hải quân-Bộ trưởng Chiến Tranh - Thống Đốc Tiểu bang NewYork trở thành TT thứ 32 Mỹ Quốc ngày 4.3.1933 (trước 1937 ngày nhận chức TT là ngày 4tháng 3 , sau này 20.1). Trước đó Tháng 2 năm 1933,TT tân cử Roosevelt thoát chết trong một vụ ám sát bởi tay súng Đảng viên CS Mỹ Giuseppe Zangara (vụ này làm chết Thị trưởng thành phố Chicago là Anton Cermak đang ngồi kế bên ông Ngày Khi TT Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 (32 ngày sau khi Lãnh tụ Vĩ Đại Hitler được bổ nhậm làm Thủ tướng Đức), nước Mỹ đang ở hai hiểm họa : 1. Đảng Cộng Sản Mỹ gốc Do thái đã lớn mạnh,200 ngàn Đảng viên: đoàn kết chặt chẽ , tinh thần cách mạng cao độ, có mục đích tối thượng rõ ràng , lại được lãnh tụ Leon Trotsky, hướng dẫn chỉ đạo từ Mexico City. (thật sự Trotsky được bảo vệ chặt chẽ , chỗ ở Bí mật không một cơ quan phản gián trên thế giới có thể tìm tung tích tích trong thời gian này) Leon Trotsky : Nga gốc Do thái là Linh hồn của cách mạng 10 Nga 1917 là người ra lệnh thảm sát dân Nga , Quân đội , Nga Hoàng , Hoàng Hậu, Hoàng tử ,Công Chúa . Bị Stalin đão chánh 1924 , sau khi hạ sát Chủ tịch nước Lê Nin (Nga gốc Do Thái) , Leon Trotsky phải đào tẩu ra ngoại Quốc . Lãnh tụ Stalin ra lệnh K.G.B truy sát trên toàn thế giới cuối cùng hạ sát tại nhà riêng Mexico City 1940 2. Thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử Mỹ Quốc . Một phần tư lực lượng lao động mất việc làm. Nông dân đang khốn đốn vì nông phẩm hạ giá 60%. Sản xuất công nghiệp chỉ còn hơn một nửa so với cùng kỳ năm 1929. Hai triệu người trở thành vô gia cư. Vì thiếu việc làm nên các tổ chức tội phạm và giới sống ngoài pháp luật ngày càng gia tăng. Chiều ngày 4 tháng 3, tất cả ngân hàng trên 32 trong số 48 tiểu bang cũng như Đặc khu Columbia đều đóng cửa.Ngày 5 tháng 3, Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York không thể mở cửa, do khách hàng hốt hoảng rút một khối lượng lớn tiền mặt trong những ngày trước đó Mỹ Quốc đang ở tình trạng hiểm nghèo thập tử nhất sinh , có thể nói là nguy ngập nhất trong lịch sử trên 200 năm của Mỹ Quốc. TT VĨ ĐẠI -ANH MINH FRANKLIN D .ROOSEVELT RA TAY TÁI LẬP TRẬT TỰ MỸ QUỐC Ngay Khi Nhậm Chức TT thứ 32 ngày 4.3.1933 . vị TT vĩ đại F DR đã chuẩn bị trước từ ngày thắng cử , dàn Cố vấn tập hợp những những tinh hoa ưu tú của Mỹ Quốc, để vực dậy nền kếnh tế của Mỹ Quốc trong thời hạn tối đa là 4 năm theo chỉ thị của TT . Đích thân TT đối phó với Đảng CS Mỹ , đấu trí với Leon Trotsky trong cuộc chiến sinh tử quyết định vận mạng Mỹ Quốc do tiền nhân để lại ,bằng mọi giá không thể để cuộc Cách mạng tháng 10 Nga thứ hai xảy ra tại Mỹ Quốc . I-Việc đầu tiên Mỹ Quốc thiết lập Quan hệ ngoại giao toàn diện với Liên Bang Sô Viết cấp Đại sứ đã bị giản đoạn 1922 khi thủ đô Sankt-Peterburg bị thất thủ toàn bộ Quân đội Cộng Hòa Nga tử thủ bị tắm máu :bao gồm Lữ đoàn Nữ Quân nhân Xung Kích, Lữ đoàn Sinh viên Sĩ Quan , Lữ đoàn Kỵ Binh, Lữ Đoàn Thiếu Sinh Quân , tất cả bị tắm máu do lệnh tền đồ tể Leon Trotsky Tổng tư lệnh Hồng Quân , và các Tướng Lãnh Nga gốc Do Thái ra lệnh thảm sát . Đại sứ Mỹ chỉ cứu thoát được Tổng thống Alexander Kerensky Mỹ Quốc bán Lúa Mỳ cho Liên Sô với 3 mục đích . 1.Lấy ngoại tệ cho Mỹ Quốc, để giúp khôi phục kênh tế . 2. Giúp Liên Sô qua cơn khủng hoảng lương thực , do từ ngày Lãnh tụ Stalin lên nắm chính quyền sau ngày Đảo chánh 1924 , sau cái chết bị đầu độc của Lãnh tụ hư vị Lenin. gần 9 năm Lãnh tụ Stalin vẫn chưa hoàn tất bắt giam những người Nga gốc Do thái vì số lượng quá đông, hàng chục triệu người , thêm thay các tướng lãnh gốc Do thái vẩn còn trong Hồng quân , đa số là Thượng tướng , Đại tướng, Nguyên Soái đây là các tướng lãnh thời Nga Hoàng , tất cả là danh tướng, sau 1924 , họ im lặng phục tùng tuyệt đối lãnh tụ vĩ đại Stalin. Nhưng đối với Lãnh tụ Stalin : "Đối với bọn Nga gốc Do Thái giết lầm còn hơn bỏ sót ", bọn họ ít nhiều cũng dính tội ác với Dân tộc Nga từ 1917--1924. Do chính sách đại trấn áp, kênh tế Liên Sô kiệt quệ , Lương thực bị thiếu trầm trọng . Lúa Mỳ của Mỹ là nguồn vô cùng quí giá với Liên Sô lúc này ,không những cứu khủng hoảng lương thực , mà còn tạo điều kiện cho Liên Sô khôi phục và phát triển kênh tế , để mau chóng trờ thành một cường quốc hùng mạnh . 3. để có ngoại tệ đổi lấy lúa Mỳ và các Nông sản khác , Lãnh tụ Stalin , đã lấy Vàng nguồn dự trữ ngoại tệ của đồng Ruble (RUB) , thòi điềm giá trị Ruble (RUB) cao giá hơn Dollar nhiều , ra để trao đổi , chấp nhận phá giá đồng RUB. Chúng ta biết trữ lượng vàng của Liên Sô rất lớn có thể nói nhất nhì thế giới. TT Vĩ đại Mỹ quốc đã ký lệnh mà từ ngày lập quốc đến nay chưa bao giờ có ; ban hành các loại giấy bạc Dollar trị giá : 5,000 Dollar , 10,000 , 50,000 100,000 Dollar , 1 triệu dollars. Để lấy vàng Liên Sô khôi phục kênh tế . 1934 -1945 Nhật - Trung Hoa chiến tranh , Số vàng của Trung Hoa, trữ lượng lớn thứ hai sau Liên Sô cũng chảy về Mỹ. Đây là Lý do mà Đồng Dollar có trí giá trên thế giới ngày hôm nay , vì trữ lượng bảo chứng tại ngân hàng dự trữ liên bang tại New York, rất nhiều .( Tổng số trữ lượng Vàng khổng lồ của 2 Quốc gia Nga và Trung Hoa ) Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa rất căm thù Thống Chế - TT Tưởng Giới Thạch đã đem vàng tài sản Quốc gia dâng cho Đế Quốc Mỹ ! II Chủ trương của Mỹ Quốc trong 8 năm là bất can thiệp , với thế giới bên ngoài , để khôi phục kênh tế , trấn áp đảng CS Mỹ , sau khi thành công phải hàn gắn vết thương rĩ máu này. TT Vĩ Đại, cũng như Lãnh tụ Stalin hoàn toàn chấp nhận cho Quốc trưởng Adolf Hiller , tái vũ trang quân đội , xây dựng kênh tế hùng mạnh, có thể khôi phục lại lãnh thỗ đất đai đã mất, vì hiệp định bất công 1919 và thái độ quá đáng của Anh , và Pháp khi hành xử sau khi thắng trận . Trong lịch sử Mỹ Quốc từ ngày lập Quốc đến nay chưa có một vị TT Vĩ Đại nào trong vòng 1 năm đầu tiên đã làm được những công việc vĩ đại , khỗng lồ có ảnh hưởng đến Mỹ Quốc cả trăm năm. 1. Lấy số lượng Vàng khồng lồ của Dân tộc Nga để khôi phục kênh tế 2. Kế hoạch tuyệt hảo khôi phục kênh tế. New Deal lần thứ nhất, 1933-1934 “Một trăm ngày đầu tiên” của TT Roosevelt tập trung vào phần đầu của chiến lược: cứu trợ khẩn cấp. Từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 6 năm 1933, ông đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua. Tổng thống phải dựa vào những thượng nghị sĩ như George Norris, Robert F. Wagner và Hugo Black cũng như nhóm cố vấn chuyên môn được tuyển chọn từ giới trí thức khoa bảng để thiết kế các chương trình hành động. TT Roosevelt xem cuộc Đại Suy thoái một phần là do khủng hoảng niềm tin vì người dân cảm thấy e ngại khi quyết định chi tiêu hoặc đầu tư. Lễ nhậm chức của TT Roosevelt vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 diễn ra khi Mỹ Quốc đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: “Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình”. Ngay hôm sau, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (Emergency Banking Act) tuyên bố một "ngày lễ ngân hàng" và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại. Tuy nhiên, con số các ngân hàng mở cửa sau "ngày lễ" ít hơn con số ngân hàng từng mở cửa trước đây. Đây là bước đề nghị đầu tiên của ông về phục hồi kinh tế. Để tạo lòng tin của dân chúng Mỹ đối với hệ thống ngân hàng,TT Roosevelt ký Đạo luật Glass-Steagall để lập ra Federal Deposit Insurance Corporation gọi tắc là FDIC (tạm dịch là Công ty Liên bang Bảo hiểm Tiền ký gởi trong ngân hàng). Kế hoạch cứu trợ của TT Roosevelt Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang. Cơ quan nổi bật nhất trong số các cơ quan thuộc kế hoạch New Deal và cũng là cơ quan tâm đắc của TT Roosevelt là Đoàn Bảo trì Dân sự (Civilian Conservation Corps – CCC). Cơ quan này tuyển dụng 250,000 (250 ngàn) thanh niên thất nghiệp để làm việc cho các đề án địa phương tại vùng nông thôn. Quốc hội cũng dành cho Ủy ban Thương mại Liên bang quyền lực nới Sắc lệnh Hành chính số 6102 đặt toàn bộ vàng cá nhân của công dân Mỹ Quốc thành tài sản ngân khố Mỹ Quốc . Mục đích là để đối phó tình trạng lạm phát đang hoành hành nền kênh tế. Kết quả trong một năm kênh tế Mỹ đã bắt đầu khởi sắc , và qua New Deal thứ 2 1935-1936 Kênh tế Mỹ cất cánh bay cao (lúc này Số lượng Vàng của Trung Hoa Dân Quốc , lũ lượt chảy về Mỹ , vì cần nhập cảng Vũ khí , Đại Bác , Phi Cơ , Chiến hạm. ) 3. Đối với Đảng Cộng Sản Mỹ trong năm đầu tiên TT Vĩ Đại Roosevelt dùng bàn tay nhung ,lý do CS chỉ phát triển mạnh khi kênh tế khủng hoảng , phải diệt nguyên nhân chính trước, chặt đứt sự ủng hộ của quần chúng. Kênh tế đã khởi sắc Đảng CS Mỹ sẽ mất chỗ dựa vững chắc. * Nếu bắt tống giam 200,000 Đảng viên CS nhốt trong nhà tù, ngân sách liên bang đài thọ rất tốn kém , trong lúc nước Mỹ đang khủng hoảng, người dân sống khó khăn .Nay phải lấy tiền người dân đóng thuế đễ nuôi số lượng những tên phản loạn là chuyện Vô Lý, Bất công 2. Thời điểm khó khăn này 1933 , Người Đàn Ông Mỹ là trụ cột trong gia đình nếu bắt họ , Vợ con sẽ lâm vào cảnh đói kém , gánh nặng Xã Hội, chính phủ phải trợ giúp , sẽ kiệt quệ 3. Mỹ quốc là Cộng Hòa. TT FDR không thể hành xữ như Quốc trưởng Adofl Hiller , bắt tất cả vào trại tập trung , hay như lãnh tụ Vĩ Đại Joseph Stalin đưa vào hệ thống nhà tù Cải tạo. Đây là bài toán khó cho vị TT Vĩ Đại Anh Minh Mỹ Quốc Hung Kiet View Public Profile TT VĨ ĐẠI RA TAY : BÀN TAY NHUNG BỌC SẮT TRẤN ÁP ĐẢNG CS MỸ . Bắt đầu 2. 1934, kênh tế Mỹ Quốc đã bắt đầu khởi sắc , do những đầu óc tinh hoa bậc nhất của Mỹ Quốc : các Cố vấn kênh tế , và lượng Vàng Liên Sô đang chảy về Mỹ . TT Vĩ Đại Anh Minh FDR , đã thảo luận với Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin, hai bên đạt thỏa thuận . TT Franklin D. Roosevelt - Cựu Bộ Trưởng Chiến tranh -Tổng Tư lệnh tối cao Quân Lực Hoa Kỳ ra lệnh đặt tất cả Quân Lực Mỹ , F.B.I trong trình trạng bạo động , tất cả Chiến hạm ,Dương vận hạm của Hải quân trong tình trạng tác chiến, . TT Thứ 32 Mỹ Quốc ban hành sắc lệnh tuyên bố :" Hỡi tất cả các Đảng Viên Cộng Sản Mỹ , và gia đình , các người mơ tưởng về một thiên đường Xã hội chủ nghĩa , Hiện tại Liên Bang Sô Viết đang xây xựng thiên đường XHCN, Vậy chính Phủ Mỹ Quốc cho phép toàn bộ gia đình vợ con của 200,000 đảng viên Cộng Sản Mỹ được phép định cư tại Liên Bang Cộng Hòa XHCN Liên Sô. Chính phủ Liên Sô đã chấp nhận cho phép các người định cư tại xứ sở thiên đường XHCN " Sau đó Quân đội , Vệ binh Quốc Gia , Cảnh Sát , F.B. I đã áp giải tất cả gia đình 200 ngàn đảng viên khoảng 500,000 người ra Hải cảng , chất đầy trên các Dương vận hạm , Chiến hạm trực chỉ Liên Sô . Tất cả đặt chân đến Liên Sô tháng 3.1934 . Tất cả những người Mỹ gốc Do Thái khi đặt chân đến Liên Sô , lúc đầu Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin ra chỉ thị đón tiếp rất niềm nở (vì họ đem theo Dollars , và Vàng) , sau thời gian ngắn khi tất cả tài sản riêng tư phải hiến tặng ngân hàng nhà nước Liên bang Sô Viết. Tất cả bị Mật Vụ Nga áp giãi đến những Nông trường , hay GULAG ,để khai phá những vùng đất hoang dã biến thành những nông trường Lúa Mỳ phì nhiêu trên lãnh thỗ mênh mông của nước Nga , hay trong các Mỏ khai thác khoáng sản theo đúng câu thơ :Thi sĩ Vĩ Đại Tố Hữu: Hai bàn tay ta làm nên tất cả Với Sức Người Sỏi Đá cũng thành cơm. Hung Kiet View Public Profile B-ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN WAR II 1939-1945 : SAI LẦM LỚN CUẢ QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI ADOLF HITLER -DẪN ĐẾN : ĐỨC QUỐC BẠI TRẬN -KẾ HOẠCH MARSHALL TÁI THIẾT ÂU CHÂU CUẢ MỸ QUỐC RA ĐỜI I-ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN WAR II 1939-1945 : SAI LẦM LỚN CUẢ QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI ADOLF HITLER -DẪN ĐẾN ĐỨC QUỐC BẠI TRẬN 30.4.1945 Trong thập niên 1930 --1940 thật ra Ba Vị Lãnh tụ Vĩ Đại : Franklin Roosevelt---Joseph Stalin-- Adolf Hiller đều có kính trọng , tương nhượng lẫn nhau , và Mỹ-Liên Sô không những chấp nhận cho Quốc trưỡng Vĩ đại Hitler khôi phục kênh tế mà còn tái lập Lực lượng Quân đội Đức Quốc hùng mạnh, khôi phục lại lãnh thổ cũ trước War 1. TT Vĩ Đại Roosvelt với chủ trương nước Mỹ cô lập trong giai đoạn này để phát triển Mỹ Quốc Hùng Mạnh . Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin, cũng đang bận phát triển kênh tế Nga , xây dựng Hồng quân Liên Sô vững mạnh..... Không những thế Liên Sô- Đức Quốc ký hiệp định bất tương xâm..không xâm phạm lẫn nhau -------------------------------------------------------------------------------- Ngày 11-07-2010, giờ 22:53 1.BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI 1939: 3 CƯỜNG QUỐC SỐ 1 :MỸ-ĐỨC-LIÊN SÔ. MỸ QUỐC : DƯỚI 6 NĂM TRỊ VỊ TỔNG THỐNG MỸ QUỐC: USA TRỞ THÀNH CƯỜNG QUỐC ĐỨNG ĐẦU THẾ GIỚI . Kênh tế Mỹ cất cánh bay cao : Tất cả tổng số vàng dự trữ bảo chứng của các ngân hàng Quốc gia : Liên Sô - Cộng Hòa Trung Hoa đã lần lượt chuyển về Mỹ.( số lượng vàng cuối cùng Cộng Hòa Trung Hoa chuyển về Mỹ 1948 trước khi Đảng CS Trung Hoa chiếm Bắc kinh , và Thượng Hải). Mỹ Quốc đứng đầu thế giới kênh tế -khoa học kỹ thuật - Vũ khí Quốc Phòng( ngoại trừ vũ khí Nguyên tử -hạt nhân và Hỏa tiễn đạn đạo), Không quân- Hải quân - Thiết Giáp - Bộ Binh hiện đại thiện chiến . ĐỨC QUỐC : Kênh tế hùng mạnh, đời sống dân Đức rất cao , tất cả Công chức được chính phủ cấp nhà cửa ,lương thực mua giá rẽ có thể nói không cường điệu Đức Quốc trong thập niên này là Mẫu hình Xã Hội Nghĩa Lý tưởng và đúng nghĩa nhất ; tất cả vì phục vụ quyền lợi người dân Đức Quốc , và Quân đội Đức Quốc , theo đúng câu nói Của Quốc Trưởng Vĩ Đại Hitler :" Cái gì có lợi cho Dân Tộc Đức là Công bằng , có hại cho Dân tộc Đức là bất công " Quân sự : Quân Lực Đức Thiện chiến , Kỷ luật, yêu nước cao độ , vũ khí hiện đại : Hải quân: Chiến hạm ;Khu Trục Hạm ,Tuần Dương Hạm -Hộ Tống hạm là số 1 thế giới tương đương Hải Quân Mỹ Quốc - Tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm ) là số 1 thế giới ( Mỹ Quốc không sử dụng , nhưng lại có Hàng Không Mẫu Hạm -(Tàu Sân bay từ của VN hiện tại). Thiết giáp : Số 1 thế giới có thể nói hơn Mỹ Quốc chút ít. Không Quân Số 1 thế giới : Chiến đấu cơ , Phóng Pháo Cơ , Oanh tạc tạc cơ ngang hàng Không Quân Mỹ Quốc ,nhưng lại hơn Không lực Mỹ về : Phi cơ không người lái (V1 ,V2). Hỏa tiển cũng vượt Mỹ về tầm xa . Từ thủ Đô Berlin có bắn thẳng đến LonDon thủ đô của Anh Quốc .( Quân lực Anh Quốc thua xa về mọi phương diện kể cả trước đây Đế Quốc Anh tự hào : Hải quân Anh là Số 1 thế Giới, nhưng nay đã lùi xa vào dĩ vãng chỉ còn là kỷ niệm). Liên Sô : Kênh tế -khoa học Kỹ thuật đã phát triền, đời sống người dân nâng cao không cần nhập khẩu lúa Mỳ của Mỹ Quốc , tuy nhiên không thể nào bằng Đức Quốc - Mỹ Quốc . Do chính sách kênh tế tập trung kế hoạch hóa 5 năm, dù thành công mỹ mãn , nhưng cá nhân không thể phát huy mọi sáng kiến, đây là điểm yếu chế độ CS . Chưa kể do chính sách cưỡng bức Người Nga gốc Do Thái lao động trên các nông trường , hay các hầm mỏ , không thể nào năng suất cao, cũng không phát huy sáng kiến của họ. Quân đội : Thiện Chiến , kỷ luật , yêu nước nhưng có các yếu điểm so với Đức Quốc-Mỹ Quốc : 1. Dàn Tướng Lãnh bị giam cầm quá nhiều : 100 vị Tướng Nga gốc Do Thái , là Danh tướng nhờ vậy tên Tội Đồ Leon Trotsky mới chiến thắng Quân Lực Cộng hòa Nga trong nội chiến 1918-1922, Các Tướng sau này chưa có kinh nghiệm chiến trường nhiều . 2.Bộ binh, Thiết Giáp , Pháo binh hiện đại , nhưng Không quân, và Hải quân thua xa Mỹ và Đức . Tuy vậy Hồng Quân Liên Sô vượt xa Quân Lực Anh , và Pháp , hai quốc gia này đã trở nên già nua, lỗi thời , thời hoàng kim chỉ còn là dĩ vãng buồn . 2.ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN WORLD WAR 2: 1.9.1939--30.4.1945 -------------------------------------------------------------------------------- Ngày 12-07-2010, giờ 04:25 ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN WORLD WAR 2 1.9.1939--30.4.1945 Đệ nhị thế chiến, Thế chiến thứ hai, hay Đại chiến thế giới lần thứ hai, ...) là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc 1.9.1939 Khi Đức Quốc tấn công Ba Lan Kết thúc 30.4.1945 Quốc Trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler tự sát . đối với chiến trường chính Châu Âu . Châu Á -Nhật Bản : Đầu hàng vô điều kiện Mỹ Quốc ngày 2.9.1945. Theo quan điểm lịch sử của Tôi : Nguyên nhân Đệ nhị thế chiến : 1.Hiệp ước Versailles 1919 thái độ hơi quá đáng của Anh Quốc , nhất là thái độ xấc láo của Pháp khi hành xử kẻ thắng trận . Dù thực tế Quân Lực Đức cũng như QLVNCH không thua trận trên chiến trường, chỉ bị phản bội tại hậu phương Thủ đô, thất trận tức tưởi . 2. 1936-1939 thái độ hèn nhát của Anh Quốc và Pháp khiếp nhược run sợ trước Đức Quốc , đây là điểm mà tôi không thích hai đất nước này, hay nói chính xác hơn là tầng lớp thượng lưu lãnh đạo 2 quốc gia này . Khi thắng trận dù may mắn vẫn kiêu ngạo , bắt nạt , mạ lỵ kẻ thù , khi kẻ thù mạnh hơn thì lộ vẻ yếu hèn , khiếp nhược . 3. Sai Lầm Quốc Trưởng Vĩ Đại Hitler và Lãnh tụ Vĩ Đại Joseph Stalin khi tấn công Ba Lan 1.9.1939 . ( Đức và Liên Sô ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược là đồng minh trong đó có một điều khoản bí mật :chia sẻ Đông Âu giữa hai Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin và Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler 23.8.1939 ) 4. Sai lầm Phần Lan khi Tuyên chiến Liên Sô 1940 . Quốc trưỡng Vĩ Đại Hitler vì tình bạn thân với Quốc trường Mannerheim Phần Lan xé Hiệp ước Bất tương xâm :Tấn Công Liên Sô 6.1941 . (Sai lầm quá lớn !) 5. Sai lầm Nhật Bản : không nghe lời Quốc trưỡng Vĩ Đại Hitler tấn công Liên Sô từ phía Bắc chiếm vùng Trung á ( Siberi) để đánh Liên Sô 2 gọng kềm Nhật bản chê lạnh giá , không có giá trị quí giá bằng Đông nam châu Á , và Đông Á , Tây Á rộng lớn . Nhật điên rồ tấn Công Mỹ Quốc ngày 7 tháng 12 năm 1941 tuyên chiến với Mỹ Quốc và các nước Đồng Minh : Lực lượng của Hạm đội Liên Hợp Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Philippines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.. Mỹ Quốc và Liên Sô tham chiến làm cán cân nghiêng về Quân Đồng Minh sự bại trận Đức Quốc là điều phải xảy ra dù sớm hay muộn . Sau này Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler cũng đã ân hận vì điều này , nhưng quá muộn . Hậu quả của Đệ nhị thế chiến kéo dài đến 1989 mới kết thúc, vì thế ngày nay Người Dân Đức Quốc đã không còn tưởng nhớ về vị Lãnh tụ Vĩ Đại , yêu nước Đức nồng nàn : Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler . Trong lúc người Dân Mỹ Quốc và Dân Tộc Nga mãi mãi tưởng nhớ về 2 vị Lãnh tụ Vĩ Đại đã đưa đất nước trở nên hùng mạnh : Vị Tổng Thống thứ 32 Vĩ Đại -Anh Minh Franklin D. Roosevelt của Mỹ Quốc và Lãnh tụ Vĩ Đại Joseph Stalin của Cộng Hòa Liên Bang Nga . ĐẠi DANH TƯỚNG 5 SAO: THỐNG TƯỚNG DOUGLAS MACARTHUR (1880-1964): TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC ĐỒNG MINH CHÂU Á -THÁI BÌNH DƯƠNG CÙNG BỘ THAM MƯU . SAU TRẬN HẢI CHIẾN 6. 1942 MIDWAY ,HẢI QUÂN QUÂN LỰC MỸ QUỐC TIÊU DIỆT ĐÁNH CHÌM HẠM ĐỘI HÀNG KHÔNG MẪU HẠM ĐẾ QUỐC NHẬT, DANH TƯỚNG NHẬT BẢN : ĐẠI THỦY SƯ ĐÔ ĐỐC 5 SAO YAMAMOTO ISOROKU TỬ TRẬN . SỨC MẠNH HẢI QUÂN ĐẾ QUỐC NHẬT BẢN ĐÃ BỊ TIÊU DIỆT . SỰ BẠI TRẬN LÀ SỚM HAY MUỘN . TÂN THIẾU TƯỚNG 2 SAO : DOUGLAS MACARTHUR 38 TUỔI TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 42 BB QUÂN LỰC MỸ TẠI LÂU ĐÀI PHÁP QUỐC 3.1918 TRONG WAR 1 ( CẤP BẬC GIẢ ĐỊNH , 1925 MỚI THIẾU TƯỚNG THỰC THỤ THỜI GIAN NÀY CẤP TƯỚNG TỪ GIẢ ĐỊNH- NHIỆM CHỨC -THỰC THỤ LÀ MỘT THỜI GIAN DÀI 7 năm) Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki Nhật Bản tạo thành vào năm 1945 BOM NGUYÊN TỬ THẢ XUỐNG HIROSIMA , VÀ NAGASAKI (Ngày 6 và 9 tháng 8,1945), NHẬT ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN SỚM , TRÁNH KHỎI BỊ CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC ,LÚC NÀY 1 TRIỆU HỒNG QUÂN LIÊN SÔ CHIẾM NORTH KOREA , MÃN CHÂU , CÁC ĐẢO PHÍA BẮC CỦA NHẬT( VẪN THUỘC NGA NGÀY HÔM NAY , LÝ DO HAI NƯỚC NHẬT-NGA KHÔNG THÍCH NHAU) CHUẨN BỊ TỔNG TẤN CÔNG CÙNG QUÂN LỰC MỸ QUỐC VÀO THỦ ĐÔ TOKYO. Thống Tướng Douglas McArthur ký nhận Văn kiện đầu hàng vô điều kiện của Nhật trên Soái hạm US Missouri Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện, sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức : Tấn công Ba Lan 1.9.1939 ). ------------------------------------- ĐẠI DANH TƯỚNG 5 SAO THỐNG TƯỚNG DWIGHT D. EISENHOWER TỔNG TƯ LỆNH TỐI CAO QUÂN LỰC ĐỒNG MINH CHIẾN TRƯỜNG ÂU CHÂU : WAR 2 Các Tư lệnh Tối cao ngày 5 tháng 6 năm 1945 tại Berlin:Thống Chế Bernard Montgomery (Mũ nồi Đen ): Tư Lệnh Quân Lực Anh Quốc - Thống Tướng Dwight D. Eisenhower :Tổng Tư lệnh Tối cao Quân Lực Đồng Minh- Nguyên Soái Georgy Zhukov Tư Lệnh Quân Lực Hồng Quân Liên Sô và Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny Tư Lệnh Quân Lực Pháp Quốc Trung úy Eisenhower cùng với vợ Mamie Geneva Doud đứng trên bậc thềm của trường Đại học St. Mary ở thành phố San Antonio, Texas năm 1916 là nơi Trung úy Eisenhower có thời gian làm huấn luyện viên Football Thống tướng -TT thứ 34 (CH) Eisenhower có tên khai sinh là David Dwight Eisenhower, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại số 208 Đường Day, khu đông thành phố Denison, Texas, Tổng thống đầu tiên sinh ra tại tiểu bang này. Ông là người con trai thứ ba trong số bãy anh em trai trong một gia đình nghèo, phụ thân là David Jacob Eisenhower và mẫu thân Ida Elizabeth Stover, gốc Đức, Anh và Thụy Sĩ. Ngôi nhà nơi ông được sinh ra nay được dùng làm nhà lưu niệm lịch sử tiểu bang có tên gọi "Eisenhower Birthplace State Historic Site" do Ủy ban Lịch sử tiểu bang Texas điều hành hoạt động. Tên ông là David Dwight và mọi người thường gọi ông là Dwight. Ông chọn giữ thứ tự tên gọi của mình là Dwight thay vì là David khi ghi danh vào Học viện Quân sự West Point Hoa Kỳ. Do hoàn cảnh nghèo khó, ngay từ nhỏ cậu bé Eisenhower đã phải cùng với các anh em phụ giúp công việc gia đình, tham gia trồng rau cải. Lớn lên ông lại phải ra ngoài làm tạp dịch để kiếm sống. Điều này đã hình thành thói quen cần kiệm và ham lao động của vị Danh Tướng tương lai. Trong thời gian này có hai sự kiện ảnh hưởng rất lớn đến Thiếu niên Eisenhower. Năm 10 tuổi, do tức giận vì không được đi chơi Giáng sinh với một số bạn lớn tuổi hơn, cậu bé Eisenhower đã đấm liên tục vào thân cây cho đến chảy máu tay. Lúc đó mẹ ông đã khuyên rằng: tức giận là vô ích, những người có khả năng khống chế tình cảm của mình còn vĩ đại hơn cả những người khống chế một thành phố. Lời khuyên này đã ảnh hưởng lớn đến tính cách của Thiếu niên Eisenhower sau này giúp ông rất nhiều trong việc tạo lập mối quan hệ tốt với đồng sự và giữ một hình ảnh cá nhân tốt đẹp trong mắt mọi người. Việc thứ hai là khi Thiếu niên Eisenhower bị thương ở đầu gối lúc 15 tuổi. Vết thương nhiễm trùng và thầy thuốc đề nghị phải cưa bỏ chân, tuy nhiên Thiếu niên Eisenhower thà chết chứ không muốn làm một kẻ tàn phế. Điều kỳ diệu là vết thương của ông phục hồi nhanh chóng sau đó. Ý chí kiên cường và tinh thần dũng cảm của Eisenhower đã bắt đầu bộc lộ trong hoàn cảnh này. Ông kết hôn với Mamie Geneva Doud (1896–1979), một Thiếu nữ của thành phố Boone, Iowa và là Ái nữ của một Thương gia tại thành phố Denver, Colorado, vào ngày 1 tháng 7 năm 1916. Chính nhờ cuộc hôn nhân tốt đẹp nên Dwight Eisenhower đã có một hậu phương vững chắc cho đời sống quân sự và chính trị của mình. Hai người có hai người con trai: Doud Dwight và John Sheldon Doud. Doud Dwight sinh ngày 24 tháng 9 năm 1917, và chết vì bệnh sốt đỏ ngày 2 tháng 1 năm 1921 lúc 3 tuổi.Con trai thứ hai của họ, John Sheldon Doud Eisenhower, sinh năm sau đó vào ngày 3 tháng 8 năm 1922; John phục vụ trong Lục quân Mỹ Quốc , với cấp bậc chuẩn tướng, trở thành nhà văn, và phục vụ trong vai trò đại sứ Mỹ tại Bỉ từ năm 1969 đến 1971. John tốt nghiệp West Point trùng hợp vào ngày D-Day 6 tháng 6 năm 1944 và kết hôn với Barbara Jean Thompson ngày 10 tháng 6 năm 1947. John và Barbara có bốn người con: Dwight David II "David", Barbara Ann, Susan Elaine và Mary Jean. David, tên được đặt cho Trại David, kết hôn với con gái của Tổng thống Richard Nixon là Julie năm 1968. --------------------- QUỐC TRƯỠNG VĨ ĐẠI HITLER TỔNG TƯ LỆNH TỐI CAO QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC VÀ NGƯỜI BẠN THÂN , QUỐC TRƯỠNG MANNERHEIM TỔNG TƯ LỆNH TỐI CAO QUÂN LỰC PHẦN LAN. SAI LẦM CUẢ QUỐC TRƯỠNG VĨ ĐẠI HITLER 1.ĐỨC QUỐC -LIÊN SÔ TẤN CÔNG BA LAN 1.9.1939 WAR 2 BÙNG NỔ. Theo dòng thời gian Lịch sử Bạch Hóa đây là sai lầm to lớn của Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler . Thực tế đến tháng 6 năm 1939 Lãnh thổ Đức Quốc không những khôi phục lại biên giới cũ trước 1918 , mở rộng hơn nhiều do sự khiếp nhược-đê hèn của lãnh đạo Pháp -Anh . Thủ Đô Bá Linh- Berlin là trung tâm của đất nước . Đức Quốc là Quốc gia kiểu mẫu , tuyệt vời đúng nghĩa XHCN: Tất cả vì dân, vì Quân đội , vì Tổ Quốc Đức Vĩ Đại. Vì thấy rõ sự khiếp nhược Anh-Pháp . Quốc trưởng Hitler , đi đêm Lãnh tụ Stalin bí mật chia vùng ảnh hưởng Đông Âu. Quốc gia đầu tiên là Ba Lan . Cả hai đồng ý .(Ba Lan và Dân tộc Nga có mối thù bất động đái thiên) Nhưng Quốc Trưởng Vĩ Đại Hitler quyên một điều : Quốc gia Ba lan, dù nhỏ bé , người dân hiền hòa dễ thương, nhưng lòng yêu nước nồng nàn ;khi chiến tranh Tất cả Quyết tử cho Tổ quốc Quyết Sinh . Nước Nga dưới thời vị Sa Hoàng Vĩ Đại Peter the Great chiếm vùng lãnh thổ của Ba Lan, sau này Đức Quốc cũng chiếm một vùng lãnh thổ trong thế kỷ 18 đây là lý do Dân tộc Ba Lan rất căm ghét Đức và Nga . Lịch sử Chứng Minh những trận chiến Ba Lan- Nga , Dân tộc Ba Lan chiến thắng nhiều hơn thất bại. Chiến thắng mới nhất là ,Tháng 7.1919 trước cuộc nội chiến tại Nga : Cộng Hòa - CS Hồng Quân do Leon Trotsky tổng tư lệnh , để khôi phục lại lãnh thổ xưa bị Sa Hoàng Vĩ Đại chiếm lấy tại Ba Lan có đạo quân 70 ngàn người được thành lập 60%người Mỹ gốc Ba Lan từ nước Mỹ trở về , 40% Người Ba Lan từ Anh và Pháp trở về 19 — 21 tháng 4 — Quân lực Ba Lan lại chiếm Vilnius. 8 tháng 8 — Quân lực Ba Lan chiếm Minsk. 29 tháng 8 — Quân lực Ba Lan chiếm Bobruysk. Mặt trận vào tháng 12 năm 1919 — Mỹ, Anh, Pháp, cung cấp cho Quân lực Ba Lan : 1494 vũ khí Đại liên , 2800 súng tiểu liên trung liên , gần 700 máy bay, 10 triệu viên đạn. ( Viện trợ Mỹ Quốc 70%) 25 tháng 4, 1920 — thành lập liên minh với Tướng Simon Vasilievich Petlyura :Tư lệnh Lực lượng vũ trang khởi nghĩa Ukraina , Quân lực Ba Lan cùng với Tướng Petliura (Ukraina ) tấn công CS Do Thái gốc Nga , trên mặt trận rộng từ sông Pripyat đến sông Dnestr. 7 tháng 5 — Quân lực Ba Lan và Tướng Petlyura Tư lệnh Lực lượng vũ trang khởi nghĩa Ukraina chiếm Kiev. Cuộc tấn công của các chiến binh Ba Lan kèm theo những cuộc thảm sát và xử bắn hàng loạt dân Do Thái gốc Nga : ở thành phố Rovno Quân lực Ba Lan bắn chết hơn 3 ngàn dân Do thái , ở khu Теtievo gần 4 ngàn người Do Thái bị giết, các làng Ivanovtsi, Kucha, Sobachi, Yablunovka, Novaya Greblya, Melnichi, Kirillovka v.v... bị phá hủy hoàn toàn. Tháng 8.1920 Quân lực Ba Lan lại đánh tan tành Hồng Quân CS Nga, do Leon Trotsky và các danh tướng Nga gốc Do Thái dù quân số Ba Lan ít hơn 3 lần . Đức Quốc trước đây thời đế chế cũng từng nếm mùi thất bại nhiều lần trước Dân tộc nhỏ bé hiền hòa dễ thương nhưng cực kỳ yêu nước. TT Vĩ Đại Anh Minh Fraklin Roosevelt, của Mỹ Quốc rất yêu mến dân tộc này. Đây lá Lý Do mà 2 cường quốc già nua , thừa khôn ngoan : Anh -Pháp quyết định tuyên chiến với Đức , vì họ biết rằng TT Vĩ Đại Anh Minh MỸ Quốc sẽ không bao giờ bỏ rơi , họ đã đoán đúng 100% . Khi nghe tin Quốc gia Ba Lan bị tấn cống , Anh-Pháp tuyên chiến Đức . TT Roosevelt quyết định viện trợ cho Ba Lan với Anh và Pháp . Ngoài Lý do mến Ba Lan, TT Vĩ Đại Anh minh Franklin Roosevelt hiểu rằng phải chặn đứng Quốc Trưởng Adolf Hitler . Lãnh thổ của Đức như vậy là Maximum , không thể mở rộng tiếp , vì Âu Châu cũng là quyền lợi Mỹ Quốc . Bất chấp Quốc Hội phản đối TT Vĩ Đại vẫn ra lệnh những Dương vận hạm vận chuyển vũ khí đến Châu Âu tiếp viện cho Anh Pháp . Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler biết đã sai : một mặt ra lệnh Hải Quân Đức phải tránh xa các Dương Vận Hạm Của Mỹ. Một mặt cấp tốc chiếm Ba Lan và Pháp , sau đó buộc Anh Quốc : Đầu hàng . Thật sự Quốc Trưởng Vĩ Đại Hitler , và Lãnh Tụ Stalin đều ngán kính nể TT Vĩ đại Anh Minh của Mỹ Quốc Hung Kiet View Public Profile 2. PHẦN LAN TẤN CÔNG LIÊN BANG SÔ VIẾT 1940 -QUỐC TRƯỠNG VĨ ĐẠI HITLER VÌ TÌNH BẠN THÂN CỨU PHẦN LAN : Xé bỏ Hiệp định bất tương xâm Liên Sô- Đức Quốc :TUYÊN CHIẾN LIÊN SÔ 22.6 6.1940 Bước Ngoặc chiến tranh : Đức tấn công Liên Sô 6.1941 (SAI LẦM CUẢ QUỐC TRƯỠNG VĨ ĐẠI HITLER ) Để cứu Phần Lan khỏi bại trận trước Liên Sô . Quốc trưởng Vĩ đại Adolf Hitler quyết định xé hòa ước bất tương xâm Đức- Liên Sô 8.1939 Tấn Công Liên Sô của Lãnh tụ Vĩ Đại Joseph Stalin . Vì Biết rõ Hồng quân Liên Sô không phòng bị , các Tướng Lãnh Hồng quân Nga không có kinh nghiệm chiến đấu nhiều. 22 tháng 6 năm 1941, Quân Lực Đức Quốc và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ với 3,000,000 quân để chiếm đóng Thủ Đô Moscow trước cuối năm. Chiến tranh Đức- Liên Sô bắt đầu, các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng do Hồng quân không phòng bị dù trên biên giới Đức -Nga Hồng quân có trên 1, 000,000 Hồng Quân . Quân Lực Đức Quốc áp dụng chiến thuật của Danh tướng Thống Chế Rommel: Sử dụng trên 3,000 Oanh tạc cơ dội bảo lữa trên toàn phòng tuyến biên giới Đức-Nga , sau đó 10 Sư Đoàn Pháo Binh bắn biển lửa , 10 Sư Đoàn Thiết Giáp hạng nặng xung phong đánh thủng phòng tuyến Nga.Các Chiến Binh Đức Quốc tùng thiết theo tràn lên nước vỡ bờ Nhưng những yếu kém và sai lầm trong điều binh của các Tướng chỉ huy Liên Sô chưa có kinh nghiệm chiến trường cũng như Không lực Hồng quân yếu kém so Không Lực Đức , quân Đức bắt giữ được hàng triệu Tù binh và tiêu diệt vô số Hồng quân Liên Sô. Quân Lực Đức tiến xuyên qua Lãnh Thổ Liên Sô , Hồng quân đã tổ chức lại để quyết tử , tử thủ từng thành phố , từng khu phố. Lãnh tụ Stalin quyết định thả 2 vị Nguyên Soái , 3 Đại tướng gốc Do Thái đang bị giam cầm ra điều quân tại mặt trận ( thật ra có 1 Đại tướng là Nga Chính gốc , nhưng vì quan hệ bạn thân 2 vị nguyên soái Nga gốc Do thái,nên cũng bị bắt )đã làm Quân lực Đức không chạy đua được với thời gian, cho nên không hoàn thành mục tiêu. Khi mùa đông đến, quân Đức không chịu nỗi cái lạnh khắc nghiệt, Liên Sô phản công và Quân lực Đức phải dừng lại ngay tại ngoại ô Thủ Đô Moscow .( tất cả các Tướng lãnh gốc Do Thái này sau 1945 giải ngũ và hưởng qui lương bổng Tướng hồi hưu Tại Mặt trận Stalingrad ( Volgograd) Hồng Quân bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941,Con trai đầu Lãnh Tụ Vĩ Đại Stalin Trung tá Hồng quân bị bắt sống tại mặt trận ( con người vợ đầu tiên đã mất) nhưng Hồng Quân Liên Sô do Danh Tướng Tân Đại tướng Zhukov(người Nga chính gốc mới nổi lên) Tư lệnh tối cao 2 Phương Diện Quân đã tổng phản công đánh bại Phương diện Quân Số 6 Đức Quốc . Danh tướng Zhukov đã đích thân đến thị sát mặt trận Chiến dịch phản công mang mật danh “Sao Thiên Vương” (Уран) và được phát động đồng thời với Chiến dịch Sao Hỏa nhằm vào Phương Diện Quân Số 6 của Đức Quốc khoảng 350,000 Chiến binh do Thống Chế Fiedrick Paulus Tư Lệnh Phương Diện Quân . Kế hoạch phản công của Hồng quân Liên Sô Kế hoạch tấn công đã soạn thảo hết sức kỹ lưỡng, tính đến cả những kinh nghiệm xương máu của hơn một năm thất thế của quân đội Hồng quân . Dấu ấn cá nhân của Đại tướng Zhukov rất lớn trong công việc này., ông đã được phong danh hiệu Anh hùng Liên bang Sô Viết nhờ công lao này. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moscow, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, trang bị tốt, dũng cam của các Quân khu Siberi và Viễn Đông được điều tới. Trận phản công bắt đầu Chiến dịch Sao Thiên Vương ***** Quân đoàn : ít nhất 3 Sư đoàn **Phương Diện Quân : ít nhất 3 Quân đoàn 100 ngàn Quân đến 9 Quân đoàn 300 ngàn Quân * Tập Đoàn Phương Diện Quân : ít nhất 3 Phương Diện Quân Ngày 19 tháng 11 năm 1942 tại cánh bắc mặt trận Stalingrad, lúc 7h30 AM Chiến dịch Sao Thiên Vương chính thức mở màn. Phương diện quân Tây Nam của Trung tướng 2 Sao N. F. Vatutin Tư lệnh Phương Diện Quân Số 1 : Quân đoàn 2, Quân đoàn 5, Quân đoàn Thiết Giáp số 5, Quân đoàn cận vệ số 1 và Quân đoàn số 21 (tổng cộng gồm 18 sư đoàn bộ binh, 8 lữ đoàn Thiết Giáp (xe tăng), hai lữ đoàn bộ binh cơ giới, 6 sư đoàn kỵ binh và 1 lữ đoàn pháo chống tăng từ bàn đạp Seraphimovich đánh vào sườn phía Bắc của Phương diện Quân 6 Đức, mục tiêu là khu vực phòng thủ của Quân đoàn Rumani (Romania )số 3. Quân lực Romania đã nhận thấy những hành động chuẩn bị tấn công của Hồng quân Liên Sô nhưng bị dàn mỏng trên một chiến tuyến quá rộng, bị áp đảo về quân số cùng trang thiết bị, phòng tuyến của Quân lực Romania ngay lập tức bị cắt tan nát thành những mảnh vụn. Sau một ngày tấn công phương diện quân Vatutin đã tiến sâu được 25-35 km. Ngày 20 tại cánh nam Stalingrad, phương diên quân số 2 Stalingrad của tư lệnh Thượng tướng 3 Sao A. I. Yeryomenko gồm các Quân đoàn 51, 57 và 64 tấn công vào sườn phải Quân đoàn Thiết Giáp số 4 Đức, mục tiêu là vị trí phòng thủ của Quân đoàn Rumani (Romania) số 4 tại khu vực hồ Shasha. Lực lượng Rumani tại đây - vốn chủ yếu là các đơn vị bộ binh - cũng nhanh chóng sụp đổ. Sau khi chọc thủng tuyến phòng ngự đối phương các Quân đoàn Thiết giáp của hai Phương diện quân Liên Sô bằng hai mũi vu hồi, thọc sâu bằng các Quân đoàn Thiết giáp kết hợp cùng bộ binh cơ giới với tốc độ rất nhanh tiến tới vây tại khu vực Kalach khoảng 30 km về phía tây Stalingrad. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng tấn công đã gặp nhau tại Kalach và đã hợp thành vòng vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của Phương Diện Quân Thiết Giáp số 4 và toàn bộ Phương diện Quân số 6 Đức với khoảng 33 vạn quân(Ba trăm ba chục ngàn quân ) đã bị rơi vào vòng vây siết chặt. Phương diện Quân số 6 Đức phải đầu hàng tại Stalingrad. Hồng quân Liên Sô bắt làm tù binh trên 330,000 Quân, hàng chục Tướng Lãnh Đức Quốc từ :Thiếu tướng , Trung tướng , Đại tướng và kể cả Thống Chế 5Sao : Fiedrick Paulus.. THỦ TƯỚNG NHẬT BẢN HIDEKI TOYO NGƯỜI RA LỆNH TẤN CÔNG TRÂN CHÂU CẢN (PEARL HARBOR Tọa độ: 21.355761° N 157.963929° E) 7.12.1941 : MỘT QUYẾT ĐỊNH ĐIÊN RỒ SAI LẦM TRẦM TRỌNG, BẤT CHẤP LỜI KHUYÊN CỦA QUỐC TRƯỞNG ADOLF HITLER , KHÔNG NÊN TẤN CÔNG MỸ QUỐC , TẤN CÔNG VÀO VIỄN ĐÔNG CỦA LIÊN SÔ ĐỂ TẠO HAI GỌNG KỀM . TT ANH MINH VĨ ĐẠI THỨ 32 : FRANKLIN D. ROOSEVELT TUYÊN CHIẾN : NHẬT-ĐỨC 8. 12.1941 (GẦN 11 THÁNG SAU NHIỆM KỲ THỨ 3) QUÂN ĐỨC DIỄN HÀNH CHIẾN THẮNG TẠI THỦ ĐÔ PARIS -PHÁP QUỐC 1940 THỐNG TƯỚNG DWIGHT EISENHOWER TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC ĐỒNG MINH :TƯ LỆNH TẬP ĐOÀN PHƯƠNG DIỆN QUÂN ĐỔ BỘ THÀNH PHỐ BIỂN NORMANDY D DAY 6.6.1944: GIẢI PHÓNG PHÁP QUỐC ĐỆ NHẤT PHƯƠNG DIỆN QUÂN MỸ QUỐC :Trung Tướng 3 sao Bradley Tư lệnh : Quân Đoàn VII và Quân Đoàn V đổ bộ bờ biển Utal và Omaha ở hướng Tây thành phố Caen với nhiệm vụ thiết lập đầu cầu hải vận , chiếm giữ Cherbourg , một địa điểm quan trọng được dự trù thành lập quân cảng sau này tiếp vận chính yếu quân đồng minh để giải phóng Pháp Quốc . ĐỆ NHỊ PHƯƠNG DIỆN QUÂN ANH QUỐC ; Đại tướng Dempsey Tư lệnh gồm 3 Quân Đoàn ; Quân Đoàn XXX (30) ,Quân Đoàn 1 -Quân Lực Anh Quốc và Quân Đoàn III Quân Lực Canada đổ bộ vào bãi biễn Gold, Juno, Sword gần thị trấn Caen chiếm giữ địa điểm lập những đầu cầu không vận . ĐỆ TAM PHƯƠNG DIỆN QUÂN MỸ QUỐC gồm 3 Quân Đoàn : Trung Tướng 3 sao Patton Tư Lệnh gồm 3 Quân Đoàn sẽ đổ bộ sau ĐỆ NHẤT PHƯƠNG DIỆN QUÂN MỸ QUỐC QUÂN LỰC MỸ GIẢI PHÓNG PARIS ngày 25 tháng 8 năm 1944 . HÀNG CHỤC NGÀN CHIẾN BINH MỸ QUỐC -ANH QUỐC -CANADA ĐÃ MÃI MÃI : NẰM LẠI TRÊN LÃNH THỖ NƯỚC PHÁP TỪ BÃI BIỂN- LÀNG MẠC -RỪNG NÚI ĐẾN THỊ THÀNH :ĐỂ KHAI SINH NỀN ĐỆ TỨ CỘNG HOÀ PHÁP 1945-1959 MĨA MAI CHÍNH PHỦ ĐỆ TỨ CỘNG HOÀ PHÁP ĐÃ GIẪM ĐẠP LÊN HƯƠNG HỒN CUẢ HÀNG CHỤC NGÀN CHIẾN BINH ĐỒNG MINH ĐỂ : PHẢN BỘI THẾ GIỚI TỰ DO ,PHẢN BỘI MỸ QUỐC -BUÔNG DÂY THÒNG LỌNG SIẾT CỔ HOÀNG ĐẾ-HOÀNG HẬU VIỆT NAM-TÀN ÁC VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM - ĐI ĐÊM BẮC KINH ĐÂM SAU LƯNG MỸ QUỐC -BÁN ĐỨNG DÂN TỘC VIỆT NAM CHO BẮC KINH ! _------------------------------------------- HỘI NGHỊ YALTA 4. 2.1945--- 11.2.1945 TỪ TRÁI VÀO :THỦ TƯỚNG WINSTON CHURCHILL : ANH QUỐC -TT ANH MINH VĨ ĐẠI THỨ 32 MỸ QUỐC: FRANKLIN D. ROOSEVELT -LÃNH TỤ VĨ ĐẠI JOSEPH STALIN : LIÊN BANG SÔ VIẾT Hội nghị Yalta còn gọi là Hội nghị Crimea và tên mật là Hội nghị Argonaut , với sự tham gia của 3 Lãnh tụ cường quốc: TT Roosevelt Mỹ Quốc , Lãnh tụ Stalin Liên Sô và Thủ tướng Churchill -Anh Quốc , họp từ ngày 4-11 tháng 2 năm 1945 tại Cung điện Livadia gần thành phố Yalta, miền nam Ukraina-Liên Bang Sô Viết , là một Hội nghị hợp tác quân sự giữa ba cường quốc, chiến thắng trục phát xít và buộc Đức Quốc đầu hàng vô điều kiện, tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, đưa ra chính sách với Đức Quốc cũng như với các nước được giải phóng, khi kết cục chiến tranh thế giới lần thứ hai sắp ngã ngũ. Hội nghị quyết định : 1. Chia Đức quốc ra 4 vùng chiếm đóng (Mỹ-Liên Sô -Anh và Pháp). Mục đích sự phân chia : kiểm soát Đức quốc phải phi quân sự hóa, phi phát xít hóa, dân chủ hóa Quốc gia. Sau một thời gian chiếm đóng khi Đức quốc đã dân chủ hoá , Quân đội 4 Quốc gia sẽ triệt thoái . ( Điều này Tổng thống thứ 33 Truman đã vi phạm trắng trợn khi thành lập Tây Đức 1948 , để tái vũ trang Quân đội Đức , giao Tướng lãnh Đức quốc Xã làm Tổng thống , có nghĩa chấp nhận xé nước Đức ra làm 2. Anh Pháp đang nhận viện trợ của Mỹ phải im miệng , nhưng khi Tây Đức thành lập , lại phản đối tái lập vũ trang, một năm sau Đông Đức ra đời 1949. Chính Truman phải chịu trách nhiệm lịch sử với Dân tộc Đức vấn đề này !) 2.. Bồi thường Chiến phí .. NỘI DUNG HỘI NGHỊ YALTA 4. 2.1945--- 11.2.1945 -KẾ HOẠCH MARSHALL TÁI THIẾT ÂU CHÂU - CHIẾN TRANH LẠNH 1948-1989 The "Big Three" at the Yalta Conference, Winston Churchill, Franklin D. Roosevelt and Joseph Stalin. Also present are Admiral of the Fleet Sir Andrew Cunningham, RN, Marshal of the RAF Sir Charles Portal, RAF (both standing behind Churchill); and Fleet Admiral William D. Leahy, USN, (standing behind Roosevelt). A Big Three meeting room BÀN TRÒN LỊCH SỬ TRONG HỘI NGHỊ YATAL 1945 : NGÀY HÔM NAY VẪN ĐƯỢC NGƯỜI DÂN ĐẠI NGA (RUSSIAN ) VÀ TIỂU NGA (UKRAINE) GIỮ GÌN - TRÂN TRỌNG ! Yalta là một thành phố ở Krym, miền nam Ukraine, trên bờ bắc của biển Đen. Thành phố , xung quanh được bao bọc bởi núi rừng. Vùng này khí hậu Địa Trung Hải ấm áp với các vườn nho và cây ăn quả ở các vùng lân cận thành phố.Con gái Tiểu Nga tại Yalta xinh đẹp tuyệt vời ! KHU TRUNG TÂM CUẢ THÀNH PHỐ XINH ĐẸP THƠ MỘNG YALTA - UKRAINE THIẾU NỮ YATAL XỨ TIỂU NGA -BẠCH DƯƠNG HUYỀN BÍ -TUYẾT LẠNH TÌNH NỒNG RUSSIAN : ĐẠI NGA . UKRAINE : TIỂU NGA . BELARUS : BẠCH NGA -MOTO DNEPR Khmelv CUẢ CÁC THIẾU NỮ ĐẠI NGA , TIỂU NGA VÀ BẠCH NGA XỨ BẠCH DƯƠNG HUYỀN BÍ 2. Bồi thường chiến phí :một trong những hình thức bồi thường là tịch thu tài sản nước Đức một lần. Đây là điều rất nhẹ so với Hiệp ước Versailles 1919 sau thế chiến 1 (1914-1918). Pháp và Anh đã buộc nước Đức quốc quá đáng : Tiền bồi thường chiến tranh sẽ được định sau ?, nhưng khoản đầu gồm 5 tỉ Dollars Đức quốc phải trả trong thời gian 2 năm 1919–1921, và có thể giao loại hiện vật : than, sắt , đồng, tàu thuỷ : thương mại- quân sự, gỗ, ngựa, bò.. cho tiền bồi thường chiến phí ! ( 5 tỉ Dollars thời đó rất lớn , mà phải trả trong 2 năm , còn sau đó bao nhiêu là không biết ? quá đáng !) Chưa kể là phải cắt phần đất của Đức cho Pháp nữa ! Hậu quả của Hiệp ước Versailles 1919 đã gây bất mãn và phẫn nộ cho toàn thể nguời Dân Đức . ,Người Đức nghĩ rằng họ đã bị chèn ép một cách nhục nhã. Họ căm thù Pháp và Anh Hiệp ước Versailles là nguyên nhân mà : Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler đã được toàn dân Đức ủng hộ , khi Lãnh tụ Hitler tuyên bố nếu nắm chính quyền là xé bỏ Hiệp ước Versailles . Đây chính là nguyện vọng của toàn thể người dân Đức quốc . Thực tế điều khoảng bồi thường chiến phí của Hội nghị Yalta , sau này người Dân Đức không phản đối . Đức quốc chấp nhận là họ phải có trách nhiệm đã gây ra chiến tranh và tự nguyện bồi thường thiệt hại . Điều này cho thấy sự Anh Minh Sáng Suốt của Tống thứ 32 USA Roosevelt, Lãnh tụ Stalin Liên Sô , và Thủ tướng Churchill Anh Quốc . 3. Phân chia Vùng chiếm đóng : A -Lãnh thổ các nước Phát xít thuộc phe Trục tại Đông Âu : Romania (Rumani) Bulgaria ,Hungary, Albany, Liên Bang Sô Viết có nhiệm vụ giải giới chế độ phát xít hoàn toàn , phi quân sự hoá , sau một thời gian , Liên Sô triệt thoái . ( điều này Lãnh tụ máu lạnh Stalin cũng đã vi phạm khi chiến lạnh mở màn 6.1948 , thành lập các Quốc gia XHCN để làm Vòng đai an ninh bảo vệ Liên bang Sô Viết, nhưng TT thứ 33 là người xé bỏ hiệp ước Yatal trước khi thành lập Tây Đức ( CHLB Đức ) và chủ mưu cuộc chiến tranh lạnh . B.Tiệp Khắc (Czechoslovakia ) . *Quốc gia Tiệp Khắc 1918-1938 Quốc gia Tiệp Khắc khai sinh tháng 10 năm 1918 tách ra từ Đế Quốc Áo-Hung đồng minh với Đức Quốc cuối Thế chiến 1 (1914-1918) Bao gồm các lãnh thổ hiện nay của Cộng hòa Séc, Slovakia và Carpathian Ruthenia. Quốc gia Tiệp Khắc thừa hưởng một số vùng rất công nghiệp Kỹ nghệ phát triển cao của Đế Quốc Áo-Hung . Đây là một Quốc gia đa chủng tộc. Thành phần chủng tộc của Quốc gia : 51% người Séc, 16% người Slovak, 22% người Đức, 5% người Hung và 4% người Ruthenia. Còn lại 2% , Hungaria, và người Ba Lan . Quốc gia Tiệp Khắc khai sinh 1918 : Dân số 13,607,385 Tiệp Khắc 8,759,701 --- 64.37 % Đức 3,123,305 ---22.95 % Người Hungary 744,621 -- 5.47 % Người Ruthenia 461.449 --3.39 % Do Thái 180,534 --1.33 % Ba Lan 75,852 --0.56 % Sắc tộc khác 238, 784 -1.75 % Vì Khiếp sợ Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler : Anh Quốc và Pháp đã ký vào Hiệp ước Munich năm 1938 đồng ý , và bắt buộc Tiệp Khắc cắt những vùng Lãnh thỗ biên giới nói tiếng Đức cho Đức Quốc Xã , có nghĩa là bán đứng Tiệp Khắc . Qua năm 1939 Đức Quốc chiếm phần còn lại , Anh- Pháp cũng im lặng ! Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler chia Quốc gia Tiệp Khắc theo vùng Sắc tộc : 2 vùng Bohemia và Moravia tự trị do Đức quốc bảo hộ . Phần còn lại thành lập Cộng Hoà Slovakia thuộc phe Trục đồng minh với Đức Quốc như các nước Đông Âu Romania , Bulgaria ,Hungary, Albany,. Một dải đất lớn phía nam Slovakia và Ruthenia bị Hungary sát nhập, và vùng Zaolzie bị Ba Lan sát nhập ! Nhưng Chính Phủ lưu vong của Tiệp Khắc 1939-1945 được các nước Đồng Minh công nhận :Mỹ, Liên Sô, Anh , Trung Hoa Dân Quốc ,Canada, Úc , ... Vì vậy Khi chiến tranh kết thúc Quốc gia Tiệp Khắc sẽ khôi phục lại vùng lãnh thổ như trước 1938, ngoại trừ vùng đất Subcarpathian Ruthenia,( Hunggary đang chiếm) bị sát nhập vào Cộng hòa Ukraine (Liên Bang Sô Viết) dân số khoảng gần 600 ngàn . C-QUỐC GIA BA LAN ( Poland ) Trong các nước Đồng Minh , Quân Lực Ba Lan tham chiến số lượng Quân số đứng thứ tư chỉ sau Mỹ, Liên Sô và Anh , lại chiến đấu rất Dũng cảm , vì Đức là kẻ thù bất động đái thiên của Ba Lan , Nhưng Liên Sô cũng là kẻ thù truyền kiếp của Ba Lan ! Và Ba Lan cũng là Quốc gia bị thiệt mạng thuộc loại cao nhất hơn 6 triệu người , trong đó gần một nữa là nguời Ba Lan gốc Do Thái Vì vậy Quốc gia Ba Lan cũng là vấn đề tế nhị của Hội nghị, nhất là ngày 1.9.1939 cả Lãnh tụ Stalin cùng Quốc trưởng Hiller tấn công Ba Lan mở đầu cuộc Chiến tranh, Gần 6 năm trôi qua , chiến tranh bắt đầu kết thúc. Nhưng hiện tại Lãnh tụ Máu lạnh Stalin là một trong 3 lãnh tụ đang tái lập trật tự Thế giới chuẩn bị hình thành tổ chức Liệp Hiệp Quốc , để ngăn ngừa chiến tranh ,và bảo vệ hoà bình thế giới ( phần cuối của nội dung Hội nghị Yatal ), thêm thay Liên Sô cũng đang cần nhờ Mỹ quốc trong tương lai đễ phục hồi kênh tế vì 3/4 Quốc gia tan nát , bị tàn phá chiến tranh quá nặng nề . Vì vậy phải giải quyết vần đề Quốc gia Ba Lan cho thoả đáng ,và làm sao giải toả mối thù hận của 3 Dân tộc Ba Lan - Đức -Nga để ngăn ngừa chiến tranh sau này,và bảo vệ sự độc lập của Quốc gia Ba Lan. Vì Ba Lan quá nhỏ bé so với 2 ông anh khổng lồ Nga và Đức . ( Thật ra TT Roosevelt, và Thủ tướng Churchill đều yêu mến Dân tộc Ba Lan !) Vấn đề Quốc gia Ba Lan : muốn giải quyết chấm dứt phần nào sự hận thù giữa Nga - Ba Lan ,và Ba Lan -Đức trong tương lai, đó chính là phần Lãnh thổ đất đai : TT Roosevelt, và Thủ tướng Churchill Cuối cùng chấp thuận giải pháp của Lãnh tụ Stalin : 1.Phần đất phía Đông Ba Lan người Nga sinh sống đa số , trả lại cho Liên Sô :sát nhập vào Cộng hoà Belarus.. (Bạch Nga : nước cộng hoà thứ 15 của Liên Bang Sô Viết ) 2. Phần đất phía Tây của Nước Đức có người Ba Lan sinh sổng , trả lại cho Ba Lan "Với Ba Lan, xác định biên giới phía đông theo Vĩ tuyến Curzon, mở rộng lãnh thổ sang phía Tây" Biên giới của Ba Lan được mở rộng thêm về phía Tây, Biên giới phía Tây được rời đến ranh giới Oder-Neisse, trong lúc ấy biên giới phía đông lùi về ranh giới Vĩ tuyến Curzon, nhường một phần lãnh thổ cho Cộng hoà Belarus (Liên Sô ) . BẢN ĐỒ QUỐC GIA BA LAN SAU 1945 Đệ nhị thế chiến kết thúc : Lãnh thổ màu hồng được chuyển từ Ba Lan sang cho Liên bang Sô Viết và Lãnh thổ màu vàng từ Đức sang Ba Lan . Sự kiện trên Quốc gia Ba Lan, lần đầu tiên trong Lịch sử Dân tộc Ba Lan :đa chủng tộc, đa văn hóa , trở thành đất nước thống nhất chủng tộc. Các cộng đồng Ba Lan vẫn đang sống ở các nước lân cận như Ukraine, Belarus và Latvi, .Đặc biệt Số lượng cộng đồng người Ba Lan tại Mỹ quốc là đông nhất . Quốc gia Ba Lan mới xuất hiện nhỏ hơn trước khoảng 15% với diện tích 77,500 km2 (29,900 Square miles ) . Việc sửa đổi biên giới đã buộc hàng triệu người Ba Lan, Đức, Ukraine ( Tiểu Nga) và Do Thái phải rời bỏ nhà cửa. D. QUỐC GIA NAM TƯ (Yugoslavia ) Liên bang Dân chủ Nam Tư, của Thống chế Tito lãnh đạo kháng chiến phe Trục trong nước do Liên Sô viện trợ , phải liên hiệp với Chính phủ Cộng hoà Nam Tư do Thủ tướng Ivan Subasic lãnh đạo, được Mỹ- Anh công nhận và ủng hộ, thành lập một Chính phủ liên hiệp Cộng Hoà và Cộng Sản . ( Quốc gia Nam Tư -Thống chế Tito lãnh đạo tồn tại đến 1990 , vẫn có Cộng Hoà và Cộng Sản trong Quốc hội ) **E. CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG Lúc này tại Chiến trường châu Á - Quân lực Mỹ Quốc đang gặp một vấn đề hơi nan giải : Dù quân Nhật Hoàng từ sau trận hải chiến Midway 6.1942 Hạm đội Chủ lực Hàng không mẫu hạm bị tiêu diệt, Đại danh tướng Đại Thuỷ sư Đô Đốc 5 sao Yamamoto tử trận, Bại trận là sớm hay muộn.Nhưng để đánh vào Thủ đô Tokyo buộc Nhật đầu hàng không phải là chuyện dễ.Vì Quân lực Nhật Hoàng sẽ quyết tử. Dù họ biết rằng Ông Thủ tướng :Tướng Quân Hideki Toyo ngu xuẩn đưa đất nước Nhật vào tai họa , Vũ khí lạc hậu , nhưng họ không muốn đất nước bị xâm Lược. Chiến binh Nhật tinh thần Võ Sĩ Đạo , Lòng yêu nước rất cao, họ sẵn sàng quyết tử ,đặc biệt lúc này Quân Lực Mỹ chuẩn bị đổ bộ lên Quần Đảo Okinawa tháng 3.1945 .Lập tức các Phi đội Thần phong cảm tử , Hải đội Tiềm thủy đỉnh tự sát thành lập. Người Chiến Binh Nhật trước khi lên đường hy sinh. Buổi lễ diễn ra khá cảm động ,Họ đứng nghiêm trước bàn thờ Tổ Quốc, hai hàng quân danh dự mặc lễ phục trắng hai bên, Người chiến binh Nhật choàng khăn tang trắng lên đầu ,một vị Tướng lãnh bước đến trao thanh kiếm ngắn , gắn lên ngực áo tấm Huân chương cao quí. Người chiến binh xoay về hướng Mặt trời mọc, tượng trưng cho Nhật Hoàng quì lạy 3 lần , sau đó lên Phi cơ chất đầy bom , hay xuống Ngư Lôi có 1 chỗ ngồi (Tiềm thủy đỉnh tự sát) . Hướng đến mục tiêu chiến hạm Mỹ : lao vào tất cả nổ tung , Người chiến binh thân xác cũng tan thành hàng trăm mãnh !. ( Lúc này Mỹ quốc chưa chế tạo thành công Bom nguyên tử, Đức quốc sắp chế tạo thành công xong , nếu Quân đồng minh không tiến vào Thủ đô Berlin tháng 4 , mà qua tháng 6.1945, Đức quốc đã chế tạo thành công Bom nguyên tử , Mỹ quốc chế tạo thành công Bom nguyên tử 16.7.1945 (Manhattan Project : Atomic bomb was the first nuclear device ever detonated, at the Trinity test on 16 July 1945 "Manhattan Project") Trong lúc đó Quân lực Anh Quốc tại chiến trường châu Á , bị dàn mỏng trên Lãnh thổ Ấn Độ rộng lớn , đến các Quốc gia : Malaysia , Miến điện ,Thái Lan, Tại chiến trường Âu Châu : Quân lực Anh quốc đã tung hết sức mình , đặt dưới quyền của Đại Danh tướng Thống tướng Dwight Eisenhower. Thủ tướng Winston Churchill (30 November 1874 – 24 January 1965) nhận chức Thủ tướng Anh quốc vào ngày 10 tháng 5 năm 1940 , khi mà Thủ đô Luân Đôn, bị dội bão lửa kinh hồn , Hoả tiển từ Thủ đô Bá Linh bắn thẳng vào Thủ Đô Luân Đôn , trên không hằng trăm Phi cơ không nguời lái (V1 , V2) chất đầy bom dội bảo lửa xuống Thủ đô Anh Quốc , và các Hải cảng , thành phố công nghiệp của Anh Quốc ,cả đất nước tan hoang bị tàn phá nặng nề . Vì vậy Tổng thống Vĩ Đại Franklin D. Roosevelt chính thức Yêu cầu Lãnh tụ Vĩ đại Stalin : 1.Tại Chiến trường Âu châu : Danh tướng Nguyên soái Zhukov Tư lệnh tập đoàn Phương diên Quân Hồng quân Liên Sô phải cấp tốc Tổng tấn công từ Mặt trận phía Đông tiến vào Thủ đô Bá Linh, bắt tay với Danh tướng Thống tướng Eisenhower Tổng tấn công từ Mặt trận phía Tây ., kết thúc chiến trường tại Âu châu càng sớm càng tốt .( Mỹ quốc và Đức quốc đang chạy đua chế tạo bom nguyên tử hết tốc lực , cả 2 Quốc gia bắt đầu nghiên cứu Bom Nguyên tử từ năm 1939 thật ra Đức đi trước Mỹ một bước , nhưng có một khoa gia Đức đã đào tẩu ra ngoại quốc 1944, vì sợ Quốc trưởng Hitler sẽ gây tai hoạ cho thế giới ,Vì vậy Đức quốc bị chậm lại , nhưng khi Quân lực Mỹ , và Hồng quân Liên sô tiến vào Thủ đô Bá Linh 30.4.1945 , thì các khoa học gia của Đức đã thành công khâu cuối cùng cùng chế tạo bom nguyên tử trước đó 2 tuần , và dự trù trái bom nguyên tử đầu tiên sẽ xuất xưởng đầu tháng 6.1945 ) CÁC KHOA HỌC GIA ĐỨC QUỐC : ĐÃ THÀNH CÔNG KHÂU CUỐI CÙNG CHẾ TẠO BOM NGUYÊN TỬ -THÁNG 4.1945 "The German experimental nuclear reactor at Haigerloch 1945 Alsos teams rounded up German scientists including Kurt Diebner, Otto Hahn, Walther Gerlach, Werner Heisenberg and Carl Friedrich von Weizsäcker " **Mỹ quốc từ năm 1943 để chạy đua với Đức quốc trong vấn đề chế tạo bom nguyên tử : phải huy động các khoa gia về nguyên tử : Mỹ -Anh -Canada trong kế hoạch tối mật : "Manhattan Project" dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Leslie R. Groves Jr. "The Manhattan Project was the effort, led by the United States with participation from the United Kingdom and Canada, which led to the development of the first atomic bomb during World War II. From 1942 to 1946 the project was under the command of Major General Leslie R. Groves Jr of the US Army Corps of Engineers." Thế mà chậm hơn các khoa học gia Đức Quốc 1 tháng rưỡi , đến ngày 16.7.1945 ( at the Trinity test on 16 July 1945 "Manhattan Project") 2..Sau khi Chiến trường Âu Châu kết thúc : 3 Cường Quốc Mỹ -Liên Sô -Anh phải tận diệt Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản tại Châu Á ,Kết liễu chiến trường Châu Á càng sớm càng tốt ,Liên Sô phải tham gia chiến tranh: Tấn công Nhật tại Chiến trường Châu Á Hồng quân Liên Sô phải tấn công vào Mãn Châu vùng Đông Bắc Trung Hoa ,mà Nhật Bản đã chiếm từ 1931 đang thành lập Quốc gia Mãn Châu, tách ra khỏi Trung Hoa Dân Quốc , do Nhật bảo hộ . Sau khi chiếm xong Mãn Châu , vượt sông Áp Lục Giang tiến vào Bán đảo Triều tiên là thuộc địa của Nhật từ đầu thế kỷ 20 , Sẽ bắt tay với Đại Danh tướng Douglas McArthur tại Vĩ tuyến 38 , sau đó Quân Lực Mỹ -Hồng Quân Liên Sô :Tổng tấn công vào Thủ đô Tokyo . Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện trước tháng 12 năm 1945 . Lãnh tụ Vĩ đại Stalin đồng ý ,và chấp thuận lời yêu cầu của Vị Tổng thống Vĩ đại Anh minh của Mỹ Quốc , ngoài sự kính trọng , và yêu mến TT Roosevelt . Lãnh tụ Vĩ đại Stalin còn các lý do sau đây : 1. Lãnh tụ Vĩ đại Stalin muốn rửa hận trận Hải chiến Nga-Nhật tại eo biển Đối Mã (Port Arthur )giữa Bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản năm 1905 , Hải quân Nga bị bại trận nhục nhã dưới thời Sa Hoàng Nicholas II đệ nhị, cả Hạm Đội Thái Bình Dương ( hay còn gọi Hạm đội Viễn Đông - Russian Far East Fleet ) bị tiêu diệt 95% : bị tiêu diệt đánh chìm 8 Thiết giáp hạm, hàng chục chiến hạm nhỏ, và hơn 5,000 quân nhân. Chỉ có 3 chiến hạm chạy thoát về đến hải cảng Vladivostok. Sau trận Hải chiến Đối Mã, Hải quân Nhật Bản chiếm toàn bộ quần đảo Sakhalin của Nga . Nhật Bản ép Sa Hoàng Nicholas II ký hiệp định đình chiến nhượng quần đảo này cho Nhật Bản Nga phải rửa lại mối nhục này, đây là cơ hội phải thâu hồi lại Quần đảo Sakhalin Đây là lý do mà ngày nay hai nước Nga -Nhật tranh chấp nhau về quần đảo phía Bắc, theo luật Quốc tế : Nga đã nhượng quần đảo cho Nhật từ năm 1905. * Sa Hoàng : là danh xưng gọi các Hoàng đế nước Nga :Tsar' (Emperor of Russia) 2.. Lãnh tụ Vĩ đại Stalin , và cả Thủ tướng Churchill , đều muốn nhờ Mỹ quốc giúp phục hồi Kênh tế , vì 2 Đất nước bị tàn phá chiến tranh quá nặng , đặc biệt Liên Sô, mùa đông 1941 Quân lực Đức quốc đã tiến sâu vào lãnh thổ Nga hàng ngàn cây số đến sát Thủ đô Mạc Tư Khoa, sau đó Nga phản công : các trận đánh diễn ra trong thành phố , nên hàng chục ngàn thành phố bị huỷ diệt .. Trong lúc đó 6 năm chiến tranh kênh tế Mỹ quốc càng phát triển hùng mạnh thêm : "Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại là Mỹ quốc hơn hầu hết các Quốc gia châu Âu, và chỉ bị những tàn phá rất khiêm tốn trên lãnh thổ của mình. Tổng số lượng dự trữ vàng của Mỹ quốc vẫn còn nguyên, cũng như cơ sở hạ tầng nông nghiệp và sản xuất, với nền kênh tế phát triển mạnh. Những năm chiến tranh mang lại thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử Mỹ quốc , với các nhà máy của Mỹ quốc sản xuất hàng hóa phục vụ cho cả nhu cầu vật tư chiến tranh của Mỹ lẫn đồng minh. Sau chiến tranh, các nhà máy này được nhanh chóng chuyển đổi sang sản xuất vật liệu tiêu dùng, và sự khan hiếm trong chiến tranh được thay thế bởi sự bùng nổ mức tiêu thụ hàng hóa Trong thời kỳ War 2 1939--1945 Kênh tế Mỹ phát triền rất mạnh , đời sống dân chúng cao, thặng dư ngân sách rất nhiều 11 Tỷ Mỹ Kim ,Số tiền cực kỳ rất lớn thời đó 1 Gallon chưa đến 7 cents. Số tiền 11 Tỷ Mỹ Kim Tái thiết 2 Âu châu vẫn còn dư ! Thời điểm năm 1947 kênh tế Mỹ vẫn đứng đầu thế giới , thặng dư vẫn còn rất nhiều . Thế mà đến 1952 trong vòng 5 năm Kênh tế Mỹ tan tành, thất nghiệp tràn lan , tệ đoan xã hội băng đảng , gái điếm đầy đường phố, Đảng CS Mỹ trổi dậy. Thế thì tất cả TT Truman làm đã chứng tỏ không những bất tài , mà còn làm nhục TT Mỹ Quốc , lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ quốc : một TT ngang nhiên xé bỏ hiệp ước không những TT Vĩ Đại Anh Minh , mà ngay bản thân mình mới ký hiệp ước Posdam 8.1945. Thế thì không thể có bất kỳ lý do nhân danh chính nghĩa nào để ngụy biện bào chữa cho hành động này. ** TT Truman đã viện trợ hào phóng Tây Âu : 10--11 Tỷ Mỹ Kim , trong 5 năm 1947-1952, hết sạch tài sản nước Mỹ. Mỹ quốc tan tành, Các nước cộng sản Đông Âu ra đời 1948-1952, Mao trạch Đông đang chuẩn bị nhuộm đỏ Đông Nam Á . Số tiền 11 Tỷ Mỹ Kim :Tái thiết 2 Âu châu vẫn còn dư, chứ đừng nói chỉ là Tây Âu thôi ! mà kênh tế Mỹ quốc còn hùng mạnh thêm nữa nếu có kế họach cụ thể ! Thật ra Tổng thống Vĩ Đại Anh minh cũng đã biết Lãnh tụ Vĩ đại Stalin, và Thủ tướng Churchill , muốn nhờ Mỹ quốc khôi phục kênh tế , chúng ta nhìn tấm hình lịch sử : TT Vĩ đại -Anh minh USA, ngồi chính giữa , khuôn mặt Lãnh tụ Vĩ đại Stalin ,và Thủ tướng Churchill vui mừng , tươi rói, kính trọng. Quan niệm của TT Vĩ Đại , là sẽ giúp châu Âu tái thiết , đặc biệt là Liên Sô. Quan niệm của TT thứ 32 USA và người dân Mỹ quốc 1945 về Liên Sô : Liên Sô theo chủ nghĩa CS , là tội ác của người Nga gốc Do thái, mà đại diện Leon Trosky (Lenin chỉ là hư vị ). Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin ông ta đảo chánh năm 1924 , phải sử dụng chủ nghĩa CS , để trấn áp những kẻ gây ra cuộc cách mạng tắm máu tháng 10 Nga năm 1917. Đặc biệt nhà chính trị học đảng Cộng hoà nổi tiếng :George Kennan, một nhà chính trị nổi tiếng Mỹ quốc từ năm 1939 : "Chủ nghĩa cộng sản tại Liên bang Sô Viết không thể bị đánh đổ một cách nhanh chóng, Mỹ quốc thừa nhận Liên Sô. Chủ nghĩa cộng sản tại Liên bang Sô Viết như là :một hạt giống với mầm mống tự hủy và sẽ tự sụp đổ " **F..HÌNH THÀNH TỔ CHỨC LIÊN HIỆP QUỐC : MỸ QUỐC -LIÊN SÔ -ANH QUỐC BẢO VỆ HOÀ BÌNH THẾ GIỚI NGĂN CHẶN CHIẾN TRANH. Ba Đại Cường Quốc : Mỹ Quốc , Liên Bang Sô Viết và Anh Quốc đã thống nhất sẽ thành lập một tổ chức Quốc tế thay thế Hội Quốc Liên (hình thành sau War 1 , chỉ là hình thức , hoàn toàn không có giá trị, và Quyền lực , nguyên do Hiệp ước Versailles 1919 quá tàn bạo khắc nghiệt bất công với Đức Quốc, nên Mỹ -Liên Sô chỉ tham gia như hình thức ) : để giữ gìn Hòa bình và An ninh thế giới : Dự trù Hội nghị San Francisco tại Mỹ quốc sẽ diễn ra từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1945 để thành lập một tổ chức với danh xưng Liên Hiệp Quốc ... QUYỀN LỰC VÀ MỤC ĐÍCH CUẢ LIÊN HIỆP QUỐC : 1. Anh, Pháp phải từ bỏ đoạn tuyệt chủ nghĩa thực dân , Các Quốc gia thuộc địa của Anh-Pháp, phải được trả độc lập hoàn toàn và có thể tham gia trong Khối Liên hiệp Anh , Khối Liên hiệp Pháp thuộc khu vực ảnh hưởng Anh và Pháp . Hai nước Áo và Phần Lan trở thành nước trung lập. Vùng Mãn Châu, Đảo Đài Loan và Quần đảo Bành Hồ ( do Nhật bản chiếm giữ ) được trao trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc. Viet Nam -Đông Dương lấy Vĩ tuyến 16 : Đèo Hải Vân ranh giới Đà Nẵng và Huế làm ranh giới tạm thời , để giải giới Quân đội Nhật Hoàng được giao cho Quân đội Anh về phía Nam và Quân đội Trung Hoa Dân Quốc về phía Bắc ( Hiệp ước Postdam 8.1945 đề cập rõ chi tiết hơn ) 2.Mỹ Quốc và Liên bang Sô Viết là 2 Đại cường quốc có nhiệm vụ chính bảo vệ An ninh và Hoà bình thế giới , Tổng thổng Vĩ Đại -Anh Minh USA Roosevelt và Thủ tướng Anh Quốc Churchill đã đồng ý : 2 Quốc gia Cộng Hoà : Ukraine (Tiểu Nga ) và Belarusia (Bạch Nga :White Russia), trong Liên bang Sô Viết là thành viên Liên Hiệp Quốc , có nghĩa là Liên bang Sô Viết sẽ có 3 thành viên trong Liên Hiệp Quốc . Thật ra cũng còn mục đích là dễ dàng giúp Lãnh tụ Stalin khôi phục kênh tế Liên Sô , ngược lại Lãnh tụ Stalin phải có trách nhiệm trong vấn đề thế giới , vì Quân Lực Liên Bang Sô Viết hùng mạnh , thiện chiến chỉ sau Quân Lực Mỹ đứng thứ nhì thế giới . 3. Mỹ Quốc Liên bang Sô Viết và Anh Quốc tái lập trật tự An ninh Thế giới : Mỹ Quốc chịu trách nhiệm an ninh ở Tây Âu, Nam bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản. Các nước Châu Á còn lại đa số nằm trong khối Liện hiệp Anh . Anh Quốc chịu trách nhiệm An ninh , ngoại trừ 3 nước Đông Dương ở trong Khối Liên Hiệp Pháp . Pháp chịu trách nhiệm An ninh. Bán đảo Triều Tiên : Quân lực Liên Sô chiếm đóng miền Bắc, Quân lực Mỹ chiếm đóng miền Nam lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự tạm thời, nhằm cho việc gìn giữ trật tự thế giới sau khi chiến tranh kết thúc. Liên Bang Sô Viết trách nhiệm an ninh ở Đông Âu, Đông Đức, Đông Berlin, quần đảo phía Bắc Nhật Bản , Mãn Châu và Mông Cổ. Có nghĩa là Mỹ quốc , Anh Quốc đã đồng ý cho Liên Sô thâu hồi chủ quyền Quần đảo phía Bắc Nhật Bản ! NHẬN XÉT VỀ HỘI NGHỊ LỊCH SỬ YATAL 4.2.1945-11.2.1945 : Đây là hội nghị của 3 Lãnh tụ Vĩ Đại của thế kỷ 20. Tất cả 3 Lãnh tụ đều là những những nhà Chính trị và Thiên tài quân sự của thế giới 1. Tổng thống Vĩ Đại Anh Minh Franklin Roosevelt nguyên Bộ trưởng Bộ Hải quân trong War 1, Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh sau War 1 . ( Bộ Chiến Tranh là Bộ Quốc phòng sau này, nhưng Quyền lực của Bộ trưởng Chiến Tranh lớn hơn Bộ trưởng Quốc phòng nhiều , thậm chí có thể thay mặt Quốc gia tuyên chiến với các quốc gia khác , hình như chỉ có Mỹ Quốc và Đức Quốc mới có Bộ Chiến Tranh , sau này Mỹ Quốc thay Bộ Quốc phòng, vì quan niệm chỉ có TT mới có quyền tuyên chiến !) 2. Thủ tướng Winston Churchill, xuất thân là Sĩ quan dũng cảm ,Thứ trưởng Ngoại giao , Đô Đốc 4 sao Admiral :Bộ trưởng Bộ Hải quân trong War 1, Bộ trưởng Bộ Vũ khí sau War 1 . 3 . Lãnh tụ Joseph Stalin là Người Nga gốc Triều Tiên , từ 1917 đến 1924 qua mặt tất cả Lãnh tụ Nga gốc Do Thái : Leon Trosky Tổng tư lệnh Hồng quân , Chủ tịch nước Vladimir Lenin , Nguyên soái 5 sao Tukhachevsky Bộ trưởng Bộ Quốc phòng , các lãnh đạo cao cấp Đảng Cộng sản Do Thái gốc Nga G. E. Zinoviev và L.B. Kamenhev,. Lãnh tụ Joseph Stalin bí mật phát triển Cơ quan tình báo K.G.B thành lực lượng trên 200 ngàn chiến binh Thiện chiến , Yêu nước , Dũng cảm để đảo chánh năm 1924 .(trước ngày Đảo chánh Lãnh tụ Stalin nhận được nguồn tin Chủ tịch nước Lê Nin ra mật lệnh và viết trong di chúc : phải thanh trừng cách chức Stalin , vì đây là con người nguy hiểm , ra lệnh mọi người cắt đứt quan hệ Đồng chí với Ông . Tối hôm đó Chủ tịch nước Liên Sô Lê Nin đã ngũ trong giấc ngủ thiên thu không bao giờ thức dậy , sau khi uống thuốc giảm đau !( bị Thiếu nữ Nga Fanya Kaplan ám sát trước đó bắn , hai viên đạn 9 ly trúng Lenin ở khuỷu tay và lưng ). Lãnh tụ Stalin tiến quân bắt giam toàn bộ Lãnh tụ Đảng cộng sản Nga gốc Do thái . Ngoại trừ Leon Trosky kịp thời tẩu thoát .Lãnh tụ Stalin ra lệnh truy sát Leon Trosky trên toàn thế giới , mãi 16 năm sau K.G.B mới tìm ra tung tích và hạ sát tại nhà riêng ở Mexico City 1940. Lãnh tụ Stalin là Đại Nguyên soái 6 sao Tổng tư lệnh Quân lực Hồng quân Liên Sô . ** 3 Lãnh tụ Vĩ Đại của thế kỷ 20 : Franklin Roosevelt , Joseph Stalin ,Winston Churchill đã để lại một dấu ấn Lịch sử : Khai sinh ra Liên Hiệp Quốc, tồn tại mãi mãi với thời gian. Nhưng bất hạnh cho thế giới và cho Dân tộc Việt Nam . Một tháng sau Vị Tổng thống Vĩ Đại Anh Minh của Mỹ Quốc từ trần , và 4 tháng sau :Thủ tướng Winston Churchill thất cử khi bị phe đối lập chụp mũ bán đứng Quốc gia Ba Lan cho Nga , qua việc Quốc gia Ba Lan cắt phần đất phía Đông cho Nga , lớn hơn phần đất phía Tây được nhận . Nội các Thủ tướng mới đã làm Anh Quốc lụn bại sau 1945 , ủng hộ Thực dân Pháp xâm lược trở lại Việt Nam, cũng tham nhũng khi nhận tiền viện trợ hào phóng của Tổng thống thứ 33 USA ...... TỔNG THỐNG VĨ ĐẠI ANH MINH MỸ QUỐC VỀ CÕI VĨNH HẰNG 12.4.1945 -------------------------------------------------------------------------------- Ngày 14-07-2010, giờ 18:19 CHÂN DUNG TỔNG THỐNG VĨ ĐẠI ANH MINH MỸ QUỐC TẠI TÒA BẠCH ỐC QUAN TÀI CUẢ VỊ TỔNG THỐNG VĨ ĐẠI -ANH MINH THỨ 32 MỸ QUỐC : FRANKLIN DELANO ROOSEVELT ,DO NGỰA KÉO ĐANG ĐI TRÊN ĐẠI LỘ PENNSYLVANIA TRONG NGÀY ĐÁM TANG 14.4.1945 Những ngày cuối, từ trần và tưởng niệm Tổng thống rời Hội nghị Yalta ngày 12 tháng 2 năm 1945, bay đến Ai Cập và lên chiến hạm USS Quincy đang hoạt động trên Hồ Great Bitter gần Kênh đào Suez. Ngày hôm sau, trên chiến hạm Quincy, Tổng thống gặp Quốc vương Ai Cập Farouk I, và Hoàng đế Ethiopia Haile Selassie, . Ngày 14 tháng 2, Tổng thống mở một cuộc họp lịch sử với Quốc vương Abdulaziz, người sáng lập Quốc gia Saudi Arabia. Đây là một cuộc họp mang ý nghĩa trọng đại trong quan hệ ngoại giao giữa Mỹ Quốc và Saudi Arabia cho đến ngày nay. Sau một cuộc họp cuối cùng giữa Tổng thống Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill, chiến hạm Quincy khởi hành đi Algiers và đến nơi ngày 18 tháng 2. Ngày hôm đó,Tổng thống Roosevelt hội ý với các đại sứ Mỹ đặc trách Anh Quốc, Pháp và Ý.Tại Yalta, Lord Moran, Bác sĩ của Thủ tướng Winston Churchill, nói về bệnh tình của Tổng thống Roosevelt như sau: "Bệnh tình của ông rất là nặng. Ông có tất cả triệu chứng của bệnh xơ cứng mạch máu nảo trong thời kỳ cuối, vì vậy tôi cho rằng ông chỉ còn sống vài tháng". TT Roosevelt hội kiến với Quốc vương Abdulaziz của Saudi Arabia trên chiến hạm USS Quincy trên Hồ Great Bitter Khi ông trở về Mỹ Quốc , ông đọc diễn văn trước Quốc hội ngày 1 tháng 3 về Hội nghị Yalta,và nhiều người đã phải giựt mình khi nhận thấy ông trông rất già, yếu và ốm. Ông phải ngồi để đọc diễn văn trong Quốc hội. Đây là một điều nhượng bộ của ông chưa từng có trước đây đối với sự bất lực của cơ thể mình (ông mở đầu bài diễn văn bằng lời nói như sau: "Tôi hy vọng mọi người sẽ tha thứ cho tôi vì phải ngồi đây một cách bất thường để diễn thuyết những gì tôi muốn nói, nhưng...nó giúp cho tôi dễ dàng hơn khi không phải đeo khoảng 10 pound thép quanh phía dưới chân tôi." Đây là lần duy nhất ông nhắc đến sự tàn phế của mình trước đám đông TT đã bị liệt một chân do bệnh tật ). Nhưng tinh thần của ông vẫn hoàn toàn tỉnh táo. "Hội nghị Crimean", ông nhấn mạnh, "phải nêu rỏ mục tiêu kết thúc một hệ thống hành động đơn phương, những liên minh biệt lập, những khu vực ảnh hưởng, những cán cân quyền lực, và tất cả những mưu mô khác mà đã được thử nghiệm hàng thế kỷ qua– và luôn bị thất bại. Chúng ta đề nghị thay thế tất cả những thứ này bằng một tổ chức hoàn vũ mà ở đó tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình cuối cùng có cơ hội tham gia vào." Ngày 29 tháng 3 năm 1945,TT Vĩ Đại Roosevelt đến Warm Springs để nghĩ ngơi trước khi ông xuất hiện tại hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc. Vào trưa ngày 12 tháng 4, TT Roosevelt nói, "Tôi hơi bị đau phía sau đầu". Ông liền ngồi sụp xuống chiếc ghế của mình, bất tỉnh, và được mang vào phòng ngủ của ông. Bác sĩ tim trực bên cạnh tổng thống là Howard Bruenn đã chuẩn đoán cho ông và cho biết là tổng thống bị chứng chảy máu nảo (đột quy). Lúc 3:35 chiều cùng ngày,TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt qua đời. Giống như sau này Allen Drury có nói, “như thế là kết thúc một thời đại, vì thế bắt đầu một thời đại mới.” Sau khi Vị TT Vĩ Đại Anh Minh Franklin D. Roosevelt qua đời, một bài xã luận của tờ The New York Times tuyên bố, "Con người sẽ quỳ gối để cám ơn Thượng đế một trăm năm kể từ bây giờ vì Vị TT Vĩ Đại Anh Minh Franklin D. Roosevelt đã ở trong Tòa Bạch Ốc". Vào lúc ngã bất tỉnh, TT Roosevelt đang ngồi cho họa sĩ Elizabeth Shoumatoff vẽ chân dung ông. Bức họa này được biết với cái tên nổi tiếng là Chân dung chưa hoàn chỉnh của TT Vĩ Đại Anh Minh thứ 32 Franklin D. Roosevelt. Trong những năm sau cùng của ông tại Tòa Bạch Ốc, TT Roosevelt ngày càng làm việc quá sức vì thế Ái nữ của Tổng thống , Anna Roosevelt Boettiger phải dọn vào ở gần bên Phụ thân để hỗ trợ. Anna cũng sắp xếp cho Tổng thống gặp mặt người tình củ của ông là bà Lucy Mercer Rutherfurd, lúc đó đang là quả phụ. Shoumatoff, người duy trì mối quan hệ thân với cả TT Roosevelt và bà Mercer, đã vội vã đưa bà Mercer đi khỏi để tránh tai tiếng. Khi Đệ nhất phu nhân Eleanor biết phu quân TT mất, Đệ nhất phu nhân cũng nghe được tin tức nói rằng Ái nữ Anna đã sắp xếp các cuộc gặp gở cho TT Roosevelt gặp bà Mercer và Mercer đã ở bên cạnh ông lúc ông mất. Vào ngày 13 tháng 4, xác của Vị TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt được đặt trong một quan tài có phủ Quốc kỳ Mỹ Quốc và được đưa lên xe lửa Tổng thống. Sau lễ tang tại Tòa Bạch Ốc ngày 14 tháng 4, TT Roosevelt được đưa về thị trấn Hyde Park bằng xe lửa, được bốn binh sĩ của Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến và Tuần duyên canh giữ. Theo di chúc của ông, TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt được chôn cất trong vườn hồng của ngôi nhà gia đình Roosevelt (nay được gọi là Home of Franklin D. Roosevelt National Historic Site : Di tích Lịch sử Quốc gia Nhà của Franklin D. Roosevelt) ở thị trấn Hyde Park ngày 15 tháng 4. Sau khi vợ ông qua đời tháng 11 năm 1962, bà được chôn cất bên cạnh ông. Cái chết của vị TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt đã gây bàng hoàn và thương tiếc khắp toàn lãnh thổ Mỹ Quốc cũng như khắp thế giới. Công chúng đã không hay biết gì về sức khỏe ngày càng sa sút của ông trước đó. Roosevelt đã làm Tổng thống trên 12 năm, dài hơn hẳn bất cứ vị Tổng thống nào. Ông đã dẫn dắt Mỹ Quốc vượt qua một số các cuộc khủng hoảng lớn nhất của Mỹ Quốc cho đến khi Đức Quốc Xã gần như bị đánh bại và sự bại trận của Nhật Bản cũng đang trong một ngày không xa. Non 1 tháng sau khi ông mất, ngày 8 tháng 5, giây phút mà TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt suốt 6 năm trời tranh đấu không mệt mõi đã đến: đó là Ngày chiến thắng. Ngày hôm đó, Mỹ Quốc đã dành chọn Ngày Chiến thắng và các buổi lễ mừng của nó để hồi tưởng về TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt cũng như toàn quốc treo cờ rũ suốt những ngày còn lại của khoảng thời gian 30 ngày tang để tỏ lòng tôn kính đến sự đóng góp của TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt trong sự nghiệp Chiến thắng kết thúc chiến tranh tại Âu châu . DI SẢN TT VĨ ĐẠI ANH MINH : FRANKLIN D. ROOSEVELT Một cuộc thăm dò, của đàị truyền hình C-SPAN tiến hành năm 1999, cho thấy rằng có một số đông các sử gia Mỹ Quốc xem Abraham Lincoln, George Washington và Franklin Roosevelt là ba tổng thống vĩ đại nhất, Ông là Vị Tổng thống,duy nhất thắng cử oanh liêt 4 nhiệm kỳ , sự phục vụ của Vị TT Vĩ Đại Anh Minh qua hai cuộc khủng hoảng lớn, dẹp tan Đảng CS Mỹ , đưa Mỹ Quốc cất cánh bay cao , Bảo đảm giá trị đồng Dollars là chủ đạo chính trên thế giới và sự ủng hộ lớn lao của Toàn dân dành cho ông. Việc mở rộng nhanh chóng các chương trình của chính phủ xãy ra trong nhiệm kỳ của TT Roosevelt đã tái định nghĩa vai trò của chính phủ tại Mỹ Quốc , và chủ trương của TT Roosevelt về các chương trình xã hội của chính phủ USA là công cụ trong việc tái định nghĩa chủ nghĩa tự do cho các thế hệ kế tục. TT Vĩ Đại Roosevelt đã thiết lập vững chắc vị thế lãnh đạo của Mỹ Quốc trên chính trường thế giới với những tuyên ngôn nhưA trong diễn văn "Bốn Tự do" của ông, tạo ra một nền tảng cơ bản cho vai trò tích cực của Mỹ Quốc trong Đệ nhị Thế chiến và hàng chục năm sau đó. TT Tổng thống Vĩ Đại Roosevelt đã bổ nhiệm 8 thẩm phán Tối cao Pháp viện Mỹ Quốc , nhiều hơn bất cứ vị tổng thống Mỹ nào, trừ George Washington đã bổ nhiệm 10 vị. Vào năm 1941, 8 trong số 9 thẩm phán đương thời là người được TT Vĩ Đại Roosevelt bổ nhiệm. Harlan Fiske Stone được Bổ nhậm Thẩm phán Trưởng (Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện) TT Tổng thống Vĩ Đại Roosevelt đã bổ nhiệm Nữ Bộ trưởng Đầu tiên trong Lịch sử Mỹ Quốc ; Bộ trưởng Lao Động Frances C. Perkins (1933–1945 ) Năm 1945,TT Vĩ đại Anh minh thứ 32 Roosevelt được sử gia Na Uy, Halvdan Koht nhắc đến là một trong số người hội đủ điều kiện để được đề cử nhận Giải Nobel Hòa bình. Sau khi TT Vĩ đại Franklin Roosevelt qua đời, Cựu Đệ Nhất Phu Nhân Eleanor Roosevelt tiếp tục hiện diện trong nền chính trị thế giới và Mỹ Quốc, phục vụ với tư cách một đại biểu dự hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc và tiên phong tranh đấu cho nhân quyền. Ngôi nhà của TT Vĩ đại Anh minh Roosevelt tại thị trấn Hyde Park hiện nay là một di tích lịch sử quốc gia và là thư viện tổng thống. Nơi nghĩ ngơi miền quê của ông ở Warm Springs, tiểu bang Georgia hiện nay là một bảo tàng do tiểu bang Georgia điều hành. Nơi nghĩ ngơi mùa hè của ông trên Đảo Campobello được cả hai chính phủ Hoa Kỳ và Canada bảo trì, có tên gọi là Công viên Quốc tế Roosevelt Campobello; hòn đảo này có lối vào qua ngã Cầu Franklin Delano Roosevelt. "4 QUYỀN TỰ DO " được khắc trên một bức tường của Đài tưởng niệm TT Vĩ đại Anh minh thứ 32 Franklin Delano Roosevelt tại Thủ đô Washington Đài tưởng niệm TT Vĩ đại Anh minh thứ 32 Franklin Delano Roosevelt Memorial nằm ở thủ đô Washington, D.C. bên cạnh Đài tưởng niệm Jefferson trên Hồ nước Tidal. Hình của TT Roosevelt có in trên tiền kim loại 10 cent Roosevelt. Nhiều công viên, trường học cũng như một hàng không mẫu hạm và một trạm xe điện ngầm ở Paris và hàng trăm con đường hay quảng trường khắp nước Mỹ và thế giới được đặt tên ông để vinh danh. Phản ánh về những năm tháng TT Vĩ Đại Anh Minh Roosevelt làm Tổng thống, người viết tiểu sử về ông, Jean Edward Smith vào năm 2007 đã tuyên bố : "Điều gì đã đưa Mỹ Quốc qua Đại khủng hoảng và Đệ nhị Thế chiến đến tương lai Đại Thịnh vượng ,Ông đã tự nhấc người lên khỏi chiếc xe lăn để nhấc bổng Quốc gia này lên khi nó đang ở trong tư thế quỳ gối." The New York Times : "Con người sẽ quỳ gối để cám ơn Thượng đế một trăm năm kể từ bây giờ vì TT Vĩ Đại Anh Minh Franklin D. Roosevelt đã ở trong Tòa Bạch Ốc". ĐỂ KẾT THÚC PHẦN NÀY : HỘI NGHỊ LỊCH SỬ YALTA 2.1945 Tấm hình Lịch sử của 3 Lãnh tụ Vĩ đại khai sinh Liên Hiệp Quốc sẽ tồn tại mãi mãi với thời gian : Từ trái vào : Đô đốc 4 sao Bộ trưởng Hải Quân :Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill ---- Bộ trưởng Hải quân , Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh : TT thứ 32 Mỹ Quốc Franklin Daleno Roosevelt --- Giám Đốc K.G.B , Tư lệnh đạo quân 200 ngàn chiến binh thiện chiến , yêu nước Đảo chánh 1924, Đại Nguyên soái 6 sao Tổng tư lệnh Quân lực : Lãnh tụ Liên Bang Sô Viết Joseph Stalin . *Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh : TT thứ 32 Mỹ Quốc Franklin Delano Roosevelt - Điều Quân Đồng minh Tổng Tấn công 2 Mặt trận : Âu châu và Á Châu- Thái Bình Dương 2.1945 The "Big Three" at the Yalta Conference 4. 2.1945--- 11.2.1945
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:08:08 GMT 9
KẾ HOẠCH MARSHALL TÁI THIẾT ÂU CHÂU - CHIẾN TRANH LẠNH 1948-1989
LOGO :PHÙ HIỆU CƠ QUAN TÁI THIẾT ÂU CHÂU BỊ TÀN PHÁ SAU ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN - KẾ HOẠCH MARSHALL : TÁI THIẾT TOÀN BỘ ÂU CHÂU CẢ 2 PHE TRỤC VÀ ĐỒNG MINH : ĐÔNG ÂU-TÂY ÂU-
PHE TRỤC : ĐỨC , Ý , PHẦN LAN , BULGARIA , HUNGARY , ROMANIA, TIỆP KHẮC , NAM TƯ , PHÁP Chính phủ Thống chế Philippe Pétain : 1940-1944 , hay còn gọi là chính phủ Vichy :tên gọi là : L'État Français" "Quốc gia Pháp" Thủ đô là Vichy , đồng minh với Quốc trưởng Hitler ).
A--CHÂN DUNG NHÀ CHÍNH HỌC CỘNG HOÀ -SỬ GIA GEORGE FROST KENNAN- LINH HỒN LÝ THUYẾT KẾ HOẠCH TÁI THIẾT ÂU CHÂU .
MỤC ĐÍCH : GIÚP QUỐC GIA ÂU CHÂU :TÂY ÂU-ĐÔNG ÂU (ĐỒNG MINH -PHE TRỤC ) KHÔI PHỤC KÊNH TẾ -DÂN CHỦ HOÁ VÀ MỸ QUỐC HÙNG MẠNH THÊM .
George Frost Kennan (February 16, 1904 – March 17, 2005) was an American adviser, diplomat, political scientist, and historian .
"Chủ nghĩa cộng sản tại Liên bang Sô Viết không thể bị đánh đổ một cách nhanh chóng, Mỹ quốc thừa nhận Liên Sô.
Chủ nghĩa cộng sản tại Liên bang Sô Viết như là :một hạt giống với mầm mống tự hủy và sẽ tự sụp đổ "
George Frost Kennan
CHÂN DUNG THỐNG TƯỚNG 5 SAO TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC MỸ QUỐC TRONG ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN - NGOẠI TRƯỞNG MỸ QUỐC 1947-1949: GEORGE C. MARSHALL
George Catlett Marshall (December 31, 1880 – October 16, 1959)
"Điều rất hợp lý là Mỹ Quốc cần phải làm tất cả những gì có thể để giúp mang lại trạng thái lành mạnh cho nền kênh tế thế giới, mà nếu không có nó : sẽ không có sự ổn định chính trị và không có nền hòa bình vững chắc. Chính sách của chúng ta là không chống lại bất kỳ Quốc gia nào, mà chống lại đói kém, nghèo nàn, tuyệt vọng và hỗn loạn. Bất kỳ chính phủ nào sẵn lòng giúp một tay để tái thiết sẽ nhận được sự trợ giúp toàn tâm toàn ý của nước Mỹ".
Bài diễn văn của Thống tướng -Ngoại trưởng Mỹ Quốc George Catlett Marshall
Thống tướng -Ngoại trưởng Mỷ Quốc Marshall : tin tưởng chắc chắn rằng ổn định kênh tế sẽ mang lại ổn định chính trị tại châu Âu. Ngoại trưởng Mỷ Quốc đề xuất viện trợ, nhưng các Quốc gia châu Âu sẽ phải tự tạo ra các chương trình hành động của chính họ. Bao gồm cả Liên Sô và Đông Âu đều được Thống tướng Ngoại trưởng Mỷ Quốc quan tâm như nhau vì thực tế Mỹ -Liên Sô là đồng minh góp phần chính trong chiến thắng , thời điểm này là Đồng Minh thân thiết .
Bài diễn văn, soạn bởi Charles Bohlen, không có một chi tiết hay con số cụ thể nào. Yếu tố quan trọng nhất của bài diễn văn này là việc kêu gọi các Quốc gia Âu châu gặp nhau và tạo ra kế hoạch tái thiết Âu châu , rồi Mỹ Quốc sẽ cung cấp tài chính cho kế hoạch đó.
Để bài diễn văn này không rơi vào tay các nhà báo tại Mỹ ,các ký giả đã không được thông báo. Nhưng :Đặc phái viên Acheso của Thống tướng- Ngoại trưởng được phái đến Âu châu ,để liên hệ với giới truyền thông , đặc biệt là truyền thông Anh Quốc , bài diễn văn đã được đọc toàn văn trên đài BBC .
B--LIÊN SÔ : LÃNH TỤ VĨ ĐẠI STALIN VÀ NGƯỜI DÂN NGA HÂN HOAN CHÀO ĐÓN : KẾ HOẠCH MARSHALL
LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CUẢ LIÊN BANG SÔ VIẾT- JOSHEPH STALIN
Lãnh tụ Stalin rất vui với Kế hoạch của Thống tướng -Ngoại trưởng Mỷ Quốc Marshall . Ông nghĩ rằng Liên sô đã cùng Mỹ Quốc là nhân tố chính Chiến thắng ,không những đất nước Liên Sô tan hoang , mà cả vùng lãnh thổ Đông Âu của Phe Trục : Liên Sô tiếp quản đóng quân tạm thời theo Hiệp ước Yalta cũng tan hoang và điêu tàn như vậy. Vì vậy Lãnh tụ Stalin hân hoan vui mừng gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vyacheslav Mikhailovich Molotov tới Paris để hội đàm với 2 Ngoại trưởng Anh và Pháp là Bevin và Bidaul. Các nhà lãnh đạo Anh và Pháp, cũng như Ngoại trưởng Anh Quốc Ernest Bevin sau khi nghe radio về Kế hoạch của Thống tướng -Ngoại trưởng Mỷ Quốc Marshall ,đã ngay tức khắc liên lạc với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Georges Bidault để chuẩn bị lời đáp ứng của Âu châu . Hai người này đã nhất trí về việc cần phải có Liên Sô tham gia chương trình với tư cách là một Cường quốc Chiến thắng trong phe Đồng Minh. Bài diễn văn của Thống tướng -Ngoại trưởng Mỷ Quốc Marshall cũng xác định rõ ràng tới việc mời Liên Sô tham gia.
C-- KẾ HOẠCH MARSHALL : KẾ HOẠCH TUYỆT VỜI - -MỸ QUỐC SẼ CẤT CÁNH BAY CAO -- LIÊN BANG SÔ VIẾT CÓ THỂ TRỞ THÀNH QUỐC GIA CỘNG HOÀ LIÊN BANG--THẾ GIỚI AN BÌNH .
Để tái thiết toàn bộ Âu Châu 5 năm, Mỹ Quốc bỏ ra chưa đến 5 Tỷ Mỹ Kim (1 Galon Xăng khoảng 7 cents thời bấy giờ , bây giờ 2011 gần 4 Mỹ Kim) chưa đến một nữa trong 11 Tỷ Mỹ Kim , mà Mỹ Quốc đang có trong tay.
Ngược lại toàn thể các nước Âu châu sẽ nhập hàng hoá của Mỹ trong thời kỳ phục hồi kênh tế , trong lúc hàng hoá tại Mỹ dư thừa quá nhiều . Các Công ty Mỹ sẽ đầu tư vào Âu Châu và Liên Sô .
Số tiền thu về sau 5 năm ít nhất là từ 6 Tỷ đến 10 Tỷ Mỹ Kim thời bấy giờ theo kế hoạch của nhà chính trị thiên tài :George Frost Kennan .
Liên Sô phát triển kênh tế , Chủ Nghĩa Cộng sản tại Liên bang Sô Viết sẽ bị sụp đỗ , vì lúc này Những người Nga gốc Do thái còn lại đã thần phục Dân tộc Nga 100%. Các nước Đông Âu thuộc Phe trục khôi phục Kênh tế , Dân chủ hoá ,sẽ không còn Quân Phiệt .
Mỹ Quốc sẽ là Siêu cường số 1 thế giới . Toàn thế giới sẽ sống trong thế giới an bình !
**NHƯNG CUỘC ĐỜI LẠI OÁI ĂM CHỮ NHƯNG -MỸ QUỐC BẤT HẠNH XUẤT HIỆN TỔNG THỐNG THỨ 33 HARRY S .TRUMAN.
HIỆN TẠI KHÁ CÓ NHIỀU BẰNG CHỨNG : ÔNG LÀ NGƯỜI MỸ GỐC DO THÁI ,VÌ THẾ DÙ HY SINH CẢ MỸ QUỐC, MỸ QUỐC SỤP ĐỔ CŨNG KHÔNG CARE ĐỂ HUỶ DIỆT LÃNH TỤ STALIN , TRẢ THÙ CHO CẢ CHỤC (10) TRIỆU NGƯỜI NGA GỐC DO THÁI : ĐÃ PHƠI XÁC TRÊN CÁC NÔNG TRƯỜNG LUÁ MỲ PHÌ NHIÊU , VÀ TRONG CÁC HẦM MỎ CUẢ NƯỚC NGA ,
ĐẶC BIỆT ÔNG CŨNG RẤT CĂM THÙ QUỐC TRƯỞNG HITLER , QUA VIỆC TÀN SÁT 10 TRIỆU NGƯỜI ĐỨC GỐC DO THÁI.
1934 Tân Thượng Nghị sĩ Truman đã vi phạm luật pháp Mỹ Quốc khi là thành viên của tổ chức Phục quốc Do Thái. Điều này chứng tỏ Truman coi trọng Tổ quốc Do Thái cao hơn Tổ Quốc Mỹ. Trong lúc 1934 tại Mỹ trên 200ngàn Đảng Viên Cộng Sản đại đa số người Mỹ gốc Do Thái ,chuẩn bị thực hiện cuộc Cách mạng tháng 10 Nga lần thứ 2 tại Mỹ Quốc, do Leon Trosky chỉ đạo từ Mexico City ..
Mỹ Quốc Lâm nguy !, Ông đã làm gì cho Tổ Quốc Mỹ , lại đi Phục Quốc Do Thái ? cùng tư tưởng với Leon Trosky và Lê Nin.
"1934 U.S. Senate election for Missouri Truman and Jacobson remained close friends, and Jacobson's advice to Truman on Zionism to recognize Israel "
Chủ nghĩa Zionism là chủ nghĩa phục quốc của những người Do Thái Lưu vong , hình thành đầu thế kỷ 20 phát triển rất mạnh tại Nga trước 1917. ( Russian Empire)
"Zionism is a Jewish political movement that, in its broadest sense, has supported the self-determination of the Jewish people in a sovereign Jewish national homeland. Since the establishment of the State of Israel
***Thượng Nghị sĩ Truman căm thù Quốc trưởng Hililer và Lãnh tụ Stalin tận xương , qua câu nói nổi tiếng khi nghe tin Đức Quốc : Tấn công Liên Sô ngày 22.6.1941 :
"Nếu Đức thắng Nga , thì chúng ta giúp Nga , ngược lại Nga thắng Đức , thì chúng ta giúp Đức , đó là cách tốt nhất để họ huỷ diệt lẫn nhau !"
On June 23, 1941, the day after Nazi Germany attacked the Soviet Union, Senator Truman declared:
"If we see that Germany is winning we ought to help Russia and if Russia is winning we ought to help Germany, and that way let them kill as many as possible "
Nếu Đức thắng Nga , thì chúng ta giúp Nga , ngược lại Nga thắng Đức , thì chúng ta giúp Đức , đó là cách tốt nhất để họ huỷ diệt lẫn nhau !
Đảng Dân Chủ đã vô trách nhiệm khi chọn Thượng Nghị sĩ Truman ra làm phó TT cho TT thứ 32 Franklin Roosevelt .
Sức Khoẻ Tổng thống Vĩ Đại Anh Minh năm 1944 đã rất yếu , bị liệt chân trái ,. Người Dân Mỹ muốn giữ TT Vĩ Đại Anh Minh thêm một nhiệm kỳ để chứng kiến ngày chiến thắng.
Đảng Dân Chủ phải hiểu người Phó Tổng thống Mỹ Quốc quan trọng như thế nào ! , Vì có thể thay thế Tổng thống Vĩ Đại Anh Minh khi từ trần , thế mà vẫn chọn Thượng Nghị sĩ Truman làm Phó TT tháng 11.1944 , dù biết rõ Ông ta !
Đảng Dân Chủ đã vô trách nhiệm , phạm sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề này .
Đặc Biệt Truman là con người kỳ thị chủng tộc biểu hiện qua sự việc qua đây : 1922 Ông đã ủng hộ tổ chức Ku Klux Klan (KKK chủ trương thảm sát Dân Da đen và Á Châu : Nhật ,Phi Luật Tân, Trung Hoa..)
Thời điểm 1922 :1 galon xăng chưa đến 2 cents thế mà Truman ủng hộ Ku Klux Klan số tiền 10 mỹ Kim ( trên 2 ngàn Dollars bây giờ )
"In 1922, Truman gave a friend $10 for an initiation fee for the Ku Klux Klan "
TT Harry S. Truman 12.4.1945--20.1.1953 Mỹ Quốc và Thế giới Đại Bất Hạnh ! --------------------------------------------------------------------------------
12.4.1945 Phó TT Truman nhận chức TT thứ 33 Mỹ Quốc. Ông được đánh giá là TT bất tài nhất , nghèo nhất trong lịch sử của Mỹ Quốc.
Ông cũng được xem là tổng thống nghèo nhất trong lịch sử Mỹ Quốc .Sau khi mãn nhiệm Tổng thống, ông phải lao động tay chân để kiếm sống !. Khi hãng quần áo của ông (chung vốn với 1 người bạn) bị phá sản, Trumann còn nợ 30,000 Dollars . , ông và vợ nghèo đến nỗi ,cũng là hai người Mỹ đầu tiên nhận trợ cấp Xã hội và Medicare sau khi Tổng thống thứ 36 Lyndon Johnson ký thành luật năm 1965.
Điều này chứng tỏ Ông có không tiền hưu Tổng thống, thời điểm 1953 tiền hưu Tổng thống Mỹ Quốc là 100 ngàn Mỹ Kim một năm, một số tiền khá lớn thời bấy giờ , tương đương gần một Triệu Dollars bây giờ .
Hiện tại Lương của TT Obama là 400 ngàn Dollars một năm, nghĩa về giá trị chưa đến một nửa thời 1953 !
Lịch sử Tiền Lương Tổng thống Mỹ Quốc dollars
24 tháng 9, 1789 $25, 000 dollars
3 tháng 3, 1873 $50,000 dollars
4 tháng 3, 1909 $75,000 dollars
19 tháng 1, 1949 $100,000 dollars
20 tháng 1, 1969 $200,000 dollars
20 tháng 1, 2001 $400,000 dollars
*PHE TRỤC : ĐỨC , Ý , PHẦN LAN , BULGARIA , HUNGARY , ROMANIA, TIỆP KHẮC , NAM TƯ , PHÁP ( Chính phủ Thống chế Philippe Pétain : 1940-1944 , hay còn gọi là chính phủ Vichy :tên gọi là L'État Français" "Quốc gia Pháp" Thủ đô là Vichy , đồng minh với Quốc trưởng Hitler. Chính phủ Quốc gia Pháp kiểm soát toàn bộ lãnh thổ nước Pháp .Đại tá Charles de Gaulle thành lập chính phủ lưu vong tại Luân Đôn, tấn phong Thiếu tướng 2 sao . Năm 1945 Thủ tướng lâm thời Charles de Gaulle cũng bị thất cử , phải từ nhiệm 1.1946 . Đệ tứ Cộng Hoà khai sinh 1945-1958. Tướng Charles de Gaulle là người khai sinh Đệ ngũ Cộng hoà từ 1959 đến nay 2011. Ông là Tổng thống đầu tiên của Đệ ngũ Cộng Hoà : 8 January 1959 – 28 April 1969 ,và đã lấy lại quyền uy của Tổng thổng ,vì dưới thời Đệ tứ Cộng Hoà :Thủ tướng là Nguyên thủ số 1 của Quốc gia
D –TT THỨ 33 VÀ DÀN CỐ VẤN TT GỐC DO THÁI RA TAY- TIÊN HẠ THỦ VI CƯỜNG : CÔ LẬP THỐNG TƯỚNG -NGOẠI TRƯỞNG GEORGE C. MARSHALL – THỐNG TƯỚNG DWIGHT EISENHOWER --- THỐNG TƯỚNG DOUGLAS MAC ARTHUR MỸ QUỐC - BÓP MÉO KẾ HOẠCH MARSHALL.
Theo Hiến Pháp Mỹ Quốc : Ngoại trưởng là Quyền lực thứ 3 sau Tổng thống và Phó Tổng thống.
Thống tướng -Ngoại trưởng George Marshall không những là một Tướng lãnh giỏi , mà còn là một nhà Chính trị và Ngoại giao xuất sắc của Thế giới.
Thống tướng George Marshall là Tướng Lãnh đặc biệt của Quân sử thế giới : Ông đeo lon Đại tá đúng 18 năm, mới thăng Chuẩn tướng 1 Sao !, 3 năm sau lên thẳng Đại tướng 4 sao ngày 1.9.1939 khi Đệ nhị thế chiến bùng nổ :Tổng tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc (Chief of Staff of the Army, ) . Thăng Thống tướng 5 sao 1943.
Tại sao như vậy ?
1.Tháng 6 .1918 sắp sửa kết thúc Đệ nhất thế chiến Trung tá Mrahall được thăng cấp Đại tá Giả Định bổ nhậm Đại tá Chánh văn phòng cho Đại Thống tướng 6 sao General John J. Pershing .
Sau War 1 , Từ cấp Giả định đến Thực thụ phải từ 6 năm đến 7 năm . Chúng ta còn nhớ Thiếu tướng Douglas MacArthur mất 7 năm mới đeo lon Thiếu tướng thực thụ. (1918-1925)
Thậm chí Trung tá Giả định Dwight Eisenhower 28 tuổi sau War 1, phải trở lại lon Đại uý thực thụ của Vệ binh Quốc gia Tiểu bang Texas !, Vì Đại uý Vệ binh Quốc gia Dwight Eisenhower , năm 1916 tình nguyện ra Mặt trận Âu châu , nên được phong Thiếu tá Giả định của Lục quân , năm 1917 thăng Trung tá Giả định Lục quân , vì vậy khi chiến tranh kết thúc phải trở về chức vụ cũ của Vệ binh Quốc gia Tiểu bang Texas.
2.Chức vụ Chánh văn phòng : Đại tá là Maximum .
3. Đại tá George Marshall Chánh văn phòng của Đại Thống tướng 6 sao John J. Pershing , 18 năm trời.
Chính trong thời gian này Đại tá George Marshall , đã đi học từ Đại học Chiến tranh (Army War College), Học viện Đào tạo Tướng Lãnh Hoa Kỳ Kansas (US Army Command and General Staff College. ), đến Đại học Kênh tế ,Chính trị , Ngoại giao.
Năm 1936 được thăng Chuẩn tướng thực thụ. (Marshall was promoted to Brigadier General in October 1936)
Chuẩn tướng George Marshall , là Tướng Lãnh Mỹ quốc giỏi toàn diện : Quân sự , Chính trị , Ngoại Giao, Kênh tế.
Vì thế Tổng thống Vĩ Đại Anh minh Franklin Roosevelt đã thăng vượt cấp lên Đại tướng bổ nhậm Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Mỹ Quốc 1.9.1939 .
Nominated by President Franklin Roosevelt to be Army Chief of Staff, Marshall was promoted to full General and sworn in on September 1, 1939, the day German forces invaded Poland, which began World War II. He would hold this post until the end of the war in 1945.
Cấp Đại tướng 4 sao
Mỹ và Pháp : Full General hay General of the Army
Anh : Colonel General hay Captain General.
Đặc biệt : Thiếu tướng 2 sao của Pháp : Brigadier General
Trung tướng 3 sao của Pháp : Major General
Pháp không có cấp : Lieutenant General
Thống Chế , Thống tướng ,Nguyên Soái - 5 sao : Marshal /Field Marshal
*Đại Thống tướng ,Đại Nguyên Soái 6 sao : General of the Armies
Mỹ Quốc : 2 -- Liên Bang Sô Viết : 1-- Cộng Hoà Triều Tiền (Bắc Hàn) : 1.
Thống tướng -Ngoại trưởng George Marshall được giải Nobel Hoà bình năm 1953
Mỹ Quốc sau 1945 , có 3 Đại Danh Tướng 5 sao đều tài giỏi về Quân sự, Chính trị , Ngoại Giao, Kênh tế
được Toàn Dân và Báo chí , ngưỡng mộ tôn sùng : Thống tướng George Marshall , Thống tướng Dwight Eisenhower, Thống tướng Douglas MacArthur.
Trung tá Eisenhower, đeo lon Trung tá 10 năm 1926-1936 , trong thời gian này Trung tá Eisenhower cũng đi học Đại học Chiến tranh (Army War College), Học viện Đào tạo Tướng Lãnh Hoa Kỳ Kansas (US Army Command and General Staff College. ), đến Đại học Kênh tế ,Chính trị , Ngoại giao .
Đại uý Eisenhower thăng Thiếu tá 1919, Trung tá 1926 , Đại tá 1936, Chuẩn tướng 1939, Thiếu tướng 1941, Trung tướng 1942, Đại tướng 1943,Thống tướng 1943
Thống tướng Douglas MacArthur thuộc loại Đàn anh , năm 1930 Ông được phong Đại tướng bổ nhậm Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Mỹ Quốc.
In 1930 he became Chief of Staff of the United States Army.
1937 Đại tướng Douglas MacArthur về hưu , Tổng thống Phi Luật Tân ( Philippines ) Manuel L. Quezon thỉnh cầu Đại tướng MacArthur qua Phi Luật Tân Cố vấn việc thành lập quân đội Philippines .
Được Sự đồng ý chấp thuận của TT Franklin Roosevelt ,Đại tướng MacArthur nhận nhiệm vụ. Đại tướng MacArthur vốn là bạn với TT Quezon lúc còn thơ ấu khi Phụ thân của Đại tướng : Trung tướng Arthur MacArthur, Jr. : Toàn quyền Phi Luật Tân. Đại tướng MacArthur có hai điều kiện với Tổng thống Phi Luật Tân trước khi nhận nhiệm sở: Lương bổng của Đại tướng và Tư Dinh Đại tướng phải như là của Tổng thống !. Ông cảm thấy có lý do cho việc đó vì Dinh TT mà TT Quezon đang dùng , trước đây là Tư Dinh của Phụ thân Đại tướng. Cậu bé Douglas MacArthur đã sống ,học hành và vui chơi khi còn là một đứa trẻ thơ, đó là Dinh Malacanang. Dinh này từng Tư Dinh của Toàn quyền Tây Ban Nha, Toàn quyền Mỹ Quốc và tất cả các Tổng thống Phi Luật Tân đến ngày hôm nay. Ngoài ra, Đại tướng MacArthur được phong Thống tướng Quân Lực Phi Luật Tân (Field Marshal of the Philippine Army). Ông là Thống tướng có tên trong danh sách của Quân Lực Phi Luật Tân ngày hôm nay—ông cũng là Tướng Lãnh Mỹ Quốc duy nhất giữ cấp bậc Thống tướng trong Quân Lực Phi Luật Tân ...
Khi chiến tranh Thế chiến thứ 2 bùng nổ . Đại tướng Douglas MacArthur xin tái ngũ trở lại Quân Lực Mỹ ,Tổng thống Franklin Roosevelt bổ nhậm :Đại tướng Tư Lệnh Quân Lực Đồng minh tại chiến trường Á Châu -Thái Bình Dương , được phong Thống tướng năm 1943 cùng một lần : Đại tướng George Marshall và Đại tướng Dwight Eisenhower ..
Đặc điểm của 3 Đại Danh Tướng là họ không có Đảng phái Cộng hoà hay Dân Chủ, chỉ biết phục vụ Quân lực và Tổ quốc Mỹ Quốc. Nên Toàn dân và Toàn quân đều kính trọng mà nể phục , Tất cả đều mong muốn một trong 3 Đại Danh tướng phải có một người ra ứng cử Tổng thống năm 1948 .
Tổng thống thứ 33 và dàn Cố vấn của Ông ta, biết được điều đó , không những vậy họ còn biết 3 Đại Danh tướng, vẫn coi Liên Bang Sô Viết là Đồng minh chứ không phải là kẻ thù , nên trước mắt muốn coi Liên Sô là kẻ thù , phải cô lập cả 3 Đại Danh tướng ,và bằng mọi giá không thể để họ ra ứng cử TT năm 1948.
Thực chất Tổng thống Truman và dàn cố vấn từ 1945, 1946 chỉ lo cô lập 3 Đại Danh tướng,. Họ hiểu rằng có cô lập được mới toàn quyền hành động , mới tiêu diệt Lãnh tụ hung ác Stalin được .
Nhất là hình ảnh Thống tướng Eisenhower , khi từ chiến trường Âu Châu trở về , hàng trăm ngàn người dân đón chào tung hô, đã làm ngứa mắt TT thứ 33 . TT càng nổi giận hơn nữa, khi có tiếng tung hô của dân chúng : Đây sẽ là một Tổng thống Vĩ Đại -Anh Minh của Mỹ Quốc.
TT THỨ 33 VÀ DÀN CỐ VẤN TT GỐC DO THÁI : ĐÃ CÔ LẬP THÀNH CÔNG 3 ĐẠI DANH TƯỚNG MỸ QUỐC : GEORGE C. MARSHALL --DWIGHT EISENHOWER --- DOUGLAS MAC ARTHUR
**CÔ LẬP ĐẠI DANH TƯỚNG MỸ QUỐC : DOUGLAS MAC ARTHUR
Thống tướng Mac Arthur đã về hưu năm 1937 , khi Đệ nhị thế chiến bùng nổ , tình nguyện xin tái ngũ trở lại Quân lực Mỹ Quốc , nay đã 65 tuổi (1945) , theo nguyên tắc phải giải ngũ .
Nhưng nếu Đại Danh Tướng giải ngũ, thì Đại danh tướng sẽ ra ứng cử Tổng thống năm 1948, theo yêu cầu của Toàn dân. Đặc biệt Thống tướng là bạn thân của Chủ tịch Đảng Cộng Hoà .
Nên TT thứ 33 không cho giải ngũ, mời đến toà Bạch Ốc , thiết tha yêu cầu Thống tướng ở lại Quân đội phục vụ đến 72 tuổi năm 1952,tiếp tục chức vụ Tổng tư lệnh Quân lực Mỹ tại Á Châu-Thái bình Dương .
TT thứ 33 có 3 cái lợi :
1. Đưa ra Hải ngoại không cho ở trong nước .
2.Chặt đứt mối quan hệ với người dân Mỹ Quốc .
3. Phục vụ 7 năm nữa trong Quân lực Mỹ Quốc thì không thể ra ứng cử TT năm 1948 , 1952 (Vì tháng9.1952 mới giải ngũ !)
Lý do : Tướng Lãnh không thể chống lại , hay nói xấu Tổng tư lệnh khi ra tranh cử suốt một năm , muốn ra ứng cử TT phải xin giải ngũ ra khỏi Quân đội trước đó năm 1947 .
Ngay sau khi Nhật đầu hàng 2.9.1945 . Tổng thống thứ 33 và dàn Cố vấn đã ra tay , dù Tổng thống mới nhậm chức chỉ 5 tháng , đã có ý đồ và chuẩn bị sẳn .
Cuối năm 1947 Chủ tịch Đảng Cộng Hoà , bay qua Tokyo thỉnh cầu Thống tướng Mac Arthur người anh cả Quân Lực Mỹ Quốc ra đại diện Cộng hoà ứng cử TT USA , thì Thống tướng kẹt hợp đồng phục vụ trong Quân ngũ đến 1952. Không thể ra ứng cử TT năm 1948 , cả năm 1952 luôn !.
( Đến 1951 ,Thống tướng bị TT thứ 33 ký lệnh giải ngũ ra khỏi quân đội sau khi Quân lực Mỹ quốc đã chiếm toàn bộ lãnh thổ Bắc Triêu Tiên .TT thứ 33 ra lệnh rút về Vĩ tuyến 38 , dâng Bắc Hàn cho Mao Trạch Đông dưới mỹ từ sợ Liên Sô nhảy vào Đại chiến thế giới sẽ bùng nổ. ! Sau vụ này Lãnh tụ Stalin nổi giận miệt thị Truman : "Lật lọng nhưng là gan thỏ đế " .
***CÔ LẬP ĐẠI DANH TƯỚNG MỸ QUỐC : DWIGHT EISENHOWER
TT thứ 33 rất căm ghét Thống tướng Eisenhower coi đây là Địch thủ cực kỳ nguy hiểm :
1.Thống tướng Eisenhower : Được Toàn Dân ủng hộ , qua hình ảnh Người Anh hùng trở về từ Chiến trường Âu Châu, gần nửa triệu người đón tiếp tung hô .
2. Thống tướng Eisenhower xuất thân từ một gia đình nghèo với nghị lực, và tài ba đã vươn lên vinh quang : Đại Danh Tướng , tính tình lại bình dị , đơn giản, Đạo đức, nên Toàn Dân Mỹ Quốc tôn sùng Thống tướng như Vị Tổng thống thứ 16 Abraham Lincoln , cũng xuất thân từ gia đình nghèo khổ đã vươn lên vinh quang ,. Đây chính là "Dream America "
3.Thống tướng Eisenhower là bạn thân với Nguyên Soái kẻ thù : Zhukov.
4. Chủ tịch Đảng Dân Chủ là người ngưỡng mộ, kết bạn với Đại danh tướng . Chủ tịch Đảng Cộng Hoà cũng là mối quan hệ thân tình với Đại danh tướng .
Vì vậy Tổng thống thứ 33 Truman căm ghét Thống tướng Eisenhower một cách ghê gớm, có thể nói căm thù đằng khác !
Nếu Thống tướng Eisenhower ra ứng cử TT 1948 thì sẽ thắng cử tuyệt đối 100% . Vì vậy không thể để kẻ thù nguy hiểm Eisenhower ra ứng cử TT năm 1948 , bằng mọi giá , bất chấp thủ đoạn ,bất chấp tàn ác .TT thứ 33 và dàn Cố vấn phải ra tay !
A .Buớc đầu tiên :
1. Đưa ra Hải ngoại không cho ở trong nước .
2.Chặt đứt mối quan hệ với người dân Mỹ Quốc .
Tổng thống thứ 33 cũng đã mời Đại danh tướng Eisenhower đến toà Bạch Ốc , thiết tha yêu cầu Đại danh tướng tiếp tục Tổng tư lệnh Quân Lực Mỹ tại Âu châu trong 7 năm : 10.1945 đến 10.1952 ( chặt đứt con đường ra ứng cử TT 1948, 1952 )
B .Buớc thứ 2 : Đại danh tướng Dwight Eisenhower và Đại danh tướng George Marshall là bạn thân .
Muốn cô lập Đại danh tướng Dwight Eisenhower , phải cô lập Đại danh tướng George Marshall Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Mỹ Quốc : bằng mọi giá.
****CÔ LẬP ĐẠI DANH TƯỚNG MỸ QUỐC :THỐNG TƯỚNG-TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC MỸ QUỐC GEORGE MARSHALL.
Sau khi đẩy 2 Đại danh tướng ra Hải ngoại , đặc biệt Đại danh tướng Mac Arthur đã 65 tuổi đến 72 tuổi tháng 9.1952 mới giải ngũ , đây là đầu tiên trong Lịch sử Mỹ Quốc , Một Tướng Lãnh cao niên như vậy !
Nhưng công bình Thống tướng Douglas Mac Arthur , thời điểm tháng 9 năm 1945 , ông không nhận ra mưu đồ thâm độc của TT thứ 33 , và Dàn Cố vấn của TT , vả lại Thống tướng rất yêu Quân đội , nên Thống tướng vui vẻ chấp nhận, mãi đến cuối năm 1947 khi gặp bạn thân Chủ tịch Đảng Cộng Hoà , mới nhận ra mưu đồ thâm độc của TT thứ 33 nên năm 1951 Thống tướng ủng hộ Thống tướng Eisenhower ra ứng cử TT.
Thống tướng Douglas Mac Arthur đã làm động tác giả là sẽ ứng cử TT năm 1952 , để gây sự chú ý của TT Truman và dàn Cố vấn .
Đùng : Cuối năm 1951 ,Thống tướng Eisenhower xin từ chức Tổng tư lệnh khối NATO và giải ngũ ra khỏi Quân đội .
TT Truman nổi giận lôi đình !, TT thứ 33 chỉ chấp thuận đến tháng 10.1952 mới cho giải ngũ, vì chưa đến hợp đồng 7 năm thoả thuận giữa TT và Đại danh tướng ( tháng 11.1952 bầu cử TT USA ).
Thống tướng Eisenhower gởi thẳng đơn từ chức giải ngũ :lên Quốc Hội. Đảng Cộng hoà ra tay , Quốc hội chấp thuận . TT thứ 33 tức hơn bò đá .
Ông căm hận Thống tướng Douglas Mac Arthur, và Thống tướng Eisenhower tận cùng !
TT Truman và dàn cố vấn tìm cách ngặn chận , trì hoãn lệnh giải ngũ qua tháng 10.1952 , nhưng cuối cùng dươi áp lực của Đảng Cộng hoà , và Quốc hội đã đồng ý .
Thống tướng Eisenhower chính thức giải ngũ vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, cũng là ngày nộp đơn Đại diện Đảng Cộng Hoà ra ứng cử Tổng thống thứ 34 Mỹ Quốc.
1.Đá Thống tướng George Marshall ra khỏi chức vụ : Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc 11.1945
Hai Đại Danh tướng Thống tướng đã đi làm Tổng tư lệnh tại Á Châu , và Âu Châu .
Đại danh tướng Thống tướng Marshall lại đang giữ chức : Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc.
Vậy có nghĩa 3 Đại Danh tướng Thống tướng : đang nắm Binh quyền trong tay ?
Thế thì Tổng thống thứ 33Tổng tư lệnh tối cao chỉ là hư vị hay sao ?
Nhưng để : Đá Thống tướng George Marshall ra khỏi chức vụ : Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc ! Không phải là một chuyện dễ dàng !
Hại vị Thống tướng 5 sao đang Tổng tư lệnh ở Hải ngoại .
Vậy Tân :Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc phải là Thống tướng 5 sao !
Nhưng Mỹ Quốc chỉ có 3 Vị Thống tướng 5 sao !
Cấp bậc Thống tướng tại Mỹ Quốc không phải là phong cấp dễ dàng !
Chỉ có trong thời chiến.
Mùa Hè 1943 ,Tân Đại tướng Eisenhower mới được phong cấp Đại tướng vài tháng Bổ nhậm : Tổng Tư lệnh Lực lượng Đồng Minh tại Chiến trường Âu Châu , và Phi Châu.
Lúc này Anh Quốc có 2 vị Thống chế 5 sao : Một tại Âu Châu ,và Một tại Á Châu dưới quyền Đại tướng Mac Arthur.
Vì vậy Mỹ Quốc phải tấn phong : Hai Vị Đại tướng Eisenhower và Mac Arthur lên Thống tướng 5 sao để chỉ huy 2 vị Thống chế Anh Quốc đúng hệ thống Quân giai .
Đại tướng Marshall : Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Mỹ Quốc , cũng được lên Thống tướng 5 sao, để phù hợp với chức vụ là Tướng lãnh cao cấp nhất của Mỹ Quốc.
**Trong War 1 : Thống tướng 5 sao John J. Pershing cũng trong trường hợp như vậy .
Cũng trong dịp này Thống tướng John J. Pershing được phong Đại Thống tướng 6 sao , mặc dù Đại Thống tướng John J. Pershing đã về hưu lâu rồi , nhưng người Dân Mỹ Quốc vẫn luôn luôn tự hào và ngưỡng mộ Vị Thống tướng 5 sao đầu tiên trong Quân lực Mỹ Quốc .
John J. Pershing General of the Armies
CHÂN DUNG ĐẠI THỐNG TƯỚNG 6 SAO : JOHN S. PERSHING QUÂN LỰC MỸ QUỐC
John J. Pershing General of the Armies
September 13, 1860 – ---July 15, 1948 (aged 87)
Nickname : Black Jack
Place of birth : Laclede, Missouri
Place of death : Washington, D.C.
Resting place : Arlington National Cemetery
Allegiance United States of America
Service/branch United States Army
Years of service : 1886–1924
Rank : General of the Armies ( 6 Stars)
Service number O-1
Commands held 8th Brigade
American Expeditionary Force
US First Army
Army Chief of Staff
Mexican Expedition
Battles/wars Indian Wars:
Apache Wars
Sioux Wars
Spanish-American War:
Cuban Campaign
Philippine-American War:
Moroland Campaign Russo-Japanese War Mexican Revolution:
Pancho Villa Expedition World War I:
Western Front
Awards Distinguished Service Cross Distinguished Service Medal Silver Star Honorary Knight Grand Cross of the Order of the Bath Légion d'honneur _________________________
CHÂN DUNG ĐẠI THỐNG TƯỚNG 6 SAO -TỔNG THỐNG ĐẦU TIÊN CUẢ MỸ QUỐC : GEORGE WASHINGTON
QUỐC HỘI TRUY PHONG ĐẠI THỐNG TƯỚNG 6 SAO -1978
General of the Armies of the United States ,the first President of the United States George Washington (February 22, 1732 – December 14, 1799) :được Quốc hội truy phong Đại Thống tướng 6 sao năm 1978 , để không thể có một Tướng lãnh nào có thể vượt cấp vị Tổng tư lệnh đầu tiên của Quân lực Mỹ Quốc.
***Vì vậy muốn Đá: Thống tướng George Marshall bay khỏi chức Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Mỹ Quốc , Vị Tân -Tổng tham mưu trưởng bắt buộc phải là một trong 2 vị Thống tướng tại Hải ngoại !
** 2 Địch thủ đáng sợ đã đẩy được ra Hải ngoại , bây giờ không lẽ đưa về Mỹ Quốc ?
Nhưng nếu không đá bay chức Tổng tham mưu trưởng của Thống tướng Marsahall, thì không những Binh quyền đều nằm trong tay 3 vị Đại danh tướng, mà còn một điều nguy hiểm : Thống tướng George Marsahall, đã 65 tuổi đến tuổi về hưu ( cùng tuổi với Thống tướng Mac Arthur ) đến năm 1947 Ông xin giải ngũ: ra ứng cử Tổng thống năm 1948 là tai hoạ cho Tổng thống Truman. Chắc chắn Thống tướng George Marsahall sẽ được Toàn Dân và Toàn Quân ủng hộ , sẽ thắng cử TT dễ dàng .
Nhưng nếu đưa Thống tướng Mac Arthur từ Á Châu về giữ chức Tổng tham mưu trưởng , thì Thống tướng cũng đã 65 tuổi ,lại bạn thân với Chủ tịch Đảng Cộng Hoà . Qua năm 1947, Thống tướng MacArthur người Anh cả Quân lực Mỹ Quốc xin giải ngũ : Đại diện Đảng Cộng Hoà ra ứng cử Tổng thống Mỹ Quốc năm 1948 , thì cũng thắng cử dễ dàng trước Ông Tổng thống thứ 33 .
Vì vậy sau khi bàn bạc với dàn Cố vấn , Tổng thống thứ 33 quyết định Bổ nhậm :Kẻ thù nguy hiểm nhất cũng là bạn thân với Thống tướng Marshall làm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc là Đại Danh Tướng : Thống tướng Dwight Eisenhower !
**Đại Danh Tướng Thống tướng Dwight Eisenhower làm : Tổng tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc , Ông Tổng thống thứ 33 có 5 điều lợi :
1. Đại Danh Tướng Thống tướng Dwight Eisenhower , mới ngoài 50 tuổi giữ chức :Tổng tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc , đến 1947 không xin giải ngũ được vì chưa đến tuổi , mà lại giữ chức vụ quan trọng Tổng tham mưu trưởng , không thể ra tranh cử đối địch với đương kim Tổng thống : Tổng tư lệnh được ,. Qua bầu cử TT năm 1948 , đẩy qua Âu Châu đến tháng 10.1952 thì không thể ra ứng cử TT năm 1952 được !
2. Bổ nhậm một Đại tướng Tư lệnh tại Âu châu thì Vị Đại tướng sẽ dễ dàng nghe lệnh Tổng thống Truman hơn , và cũng không phản đối kế hoạch viện trợ cho các nước Tây Âu, để võ trang quân đội (dưới chiêu bài viện trợ kênh tế) để tấn công kẻ thù Liên Bang Sô Viết . Nếu Thống tướng Dwight Eisenhower nắm quyền Tổng Tư lệnh Lực lượng Đồng Minh tại Âu Châu thì Đại Danh Tướng sẽ phản đối .
3. Thống tướng Marshall giải ngũ bây giờ , thì người Dân Mỹ Quốc , có niềm hy vọng Thống tướng sẽ ra ứng cử Tổng thống năm 1948 , không quan tâm chú ý nhiều đến Tổng thống thứ 33. Ông Tổng thống toàn quyền hành động .
Qua năm 1947 Tổng thống Truman đề nghị Quốc hội bổ nhậm : Thống tướng Marshall làm Bộ trưởng ngoại giao, vì quyền lợi tối thượng của Mỹ Quốc . Chắc chắn Quốc hội sẽ đồng ý !.
Bộ trưởng Ngoại giao thì không thể ra tranh cử đối nghịch với đương kim TT được ?
Thí dụ : Ngoại trưởng Hillary không thể ra ứng cử TT năm sau 2012, để đối địch với TT Obama ?
Không lẽ Ngoại trưởng USA lại đi tấn công TT đương chức USA suốt một năm trời tranh cử từ tháng 1 đến đầu tháng 11 !
4.Kẻ thù nguy hiểm về thủ đô Washing ton DC, gần Mặt trời , không những Mặt trời : Tổng thổng thứ 33 , mà cả chục Mặt trời của dàn Cố vấn chiếu tướng , kiềm soát mọi hành động của kẻ thù , chức vụ Tổng tham mưu trưởng còn duới quyền Bộ trưởng Quốc phòng , Ông TT chỉ cần bổ nhiệm một người thân tín làm Thứ trưởng Quốc phòng là kẻ thù đã mệt .
Có lẽ trong cuộc đời của Đại Danh tướng- Thống tướng -Hoàng Đế không ngai-Tổng thống thứ 34 Anh Minh -Vĩ Đại của Mỹ Quốc : Thời gian làm Tổng Tham Mưu trưởng là buồn bả và chán chường nhất , lần đầu tiên trong Lịch sử Mỹ Quốc có một Vị Tổng tham mưu trưởng trong một hoàn cảnh phũ phàng như vậy !
Đặc biệt khi Đại Danh tướng -Thống tướng được một trường Đại học thiết tha yêu cầu làm : Chủ tịch Danh Dự Đại học Columbia, một Đại học nổi tiếng tại Tiểu bang New York . Đại Danh tướng càng bị căm ghét nhiều hơn nữa !
Tháng 11 năm 1945 , Tổng thống thứ 33 Truman bổ nhậm Đại Danh tướng-Thống tướng Eisenhower : Tổng tư lệnh Quân lực Đồng minh tại Âu Châu làm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Mỹ Quốc , thay thế Đại danh tướng -Thống tướng George Marshall về hưu !
"....In November 1945,General Eisenhower returned to Washington to replace General Marshall as Chief of Staff of the Army....."
5. Kẻ thù nguy hiểm nhận chức Tổng tham mưu trưởng ,.Ông Tổng thống thứ 33 đã loại được 2 địch thủ đáng sợ ra ứng cử TT năm 1948 : Đại danh tướng Eisenhower và Đại Danh tướng Mac Arthur. Quân lực Mỹ bây giờ chỉ còn 2 Đại danh tướng Thống tướng 5 sao , phá vỡ được thế chân vạc của 3 Đại Danh tướng : 2 tại Hải ngoại , một tại Quốc nội .
Bây giờ Ông Tổng thống thứ 33, và dàn Cố vấn chỉ còn một địch thủ duy nhất : Đại Danh tướng George Marshall , loại bỏ địch thủ này là có thể yên tâm : diệt kẻ thù Stalin tên hung ác đã huỷ diệt hàng triệu người đồng chủng của Ông Tổng thống , trong đó cũng có cả trăm ngàn người Mỹ gốc Do thái, vì yêu nước phục quốc Tổ quốc Do Thái Vĩ Đại mà chết oan. !
Kẻ thù Hitler đã phải tự sát rồi ,đã đến lúc Stalin cũng phải đền mạng cho dân Do Thái thôi.!
Còn các nước Đông Âu là đồng minh phát xít của Kẻ thù Hitler có huỷ diệt các nước Đông Âu cũng là đúng đạo lý mà ! Dân Đông Âu cũng đã theo Hitler tàn sát người Do Thái ! giờ đã đến lúc phải đền tội !
Đã đến lúc phải trả thù cho 2 chục triệu dân Do Thái , và Các Lãnh tụ Vĩ đại :Leon Trosky , Vladimir Lenin, G. E. Zinoviev và L.B. Kamenhev,. Nguyên soái 5 sao Tukhachevsky ( CS Nga gốc Do Thái ). Eberlein, Heinz Neumann, Hermann Remmele, Fritz Schulte và Hermann Schubert,( CS Đức gốc Do Thái ) do 2 tên Đồ tể Stalin và Hitler thảm sát chỉ vì họ muốn : phục quốc Tổ quốc Do Thái Vĩ Đại ! Trước nhất phải thống trị 2 Dân tộc Nga và Đức, để xây dựng một Tổ Quốc Do Thái hùng mạnh , không có giai cấp ,thiên đường XHCN mà 2 nhà Triết học Vĩ đại Do thái : Karl Marx và Friedrich Engels đã sáng tạo ra từ giữa thế kỷ 19 .
E – BÓP MÉO KẾ HOẠCH MARSHALL-CHIẾN TRANH LẠNH 1948-1989
TT TRUMAN RA TAY NGĂN CHẶN KẾ HOẠCH MARSHALL- ĐỐI ĐẦU LIÊN BANG SÔ VIẾT-XÉ BỎ HIỆP ƯỚC YALTA 2.1945 TT VĨ ĐẠI ANH MINH ĐÃ KÝ VÀ HIỆP ƯỚC POSTDAM 8.1945 MÀ ĐÍCH THÂN TT TRUMAN ĐÃ KÝ CHƯA ĐẾN 2 NĂM ĐỂ ĐỐI ĐẦU LIÊN BANG SÔ VIẾT - KHỞI ĐẦU CHIẾN TRANH LẠNH 41 NĂM.
Đối với Với TT Harry S. Truman việc dùng tiền viện trợ của Mỹ để tái thiết Liên Sô và các nước Đông Âu là chuyện hoang tưởng và ngu xuẩn.!Vì kẻ thù Stalin là tên hung ác đã huỷ diệt hàng triệu người Do Thái (đồng chủng của Ông Tổng thống !),và các nước Đông Âu là đồng minh phát xít của Kẻ thù Hitler cũng tàn sát người Do Thái 1939-1945 !
Nhưng uy tín của Ngoại trưởng -Cựu Thống tướng George C. Marshall (January 21, 1947 – January 20, 1949) quá lớn, vượt xa uy tín cũa TT may mắn đối với Dân chúng và Quân đội. ( Ông Phó TT nhận chức hơn 2 tháng đã lên chức vụ TT thứ 33).
Để ngăn chặn Liên Sô , và các Quốc gia Đông Âu nhận tiền viện trợ của Mỹ , Đích thân TT ra tay xé bỏ Hiệp ước Yalta và Hiệp ước Postdam đã ký với Liên Sô 1945.
TT thứ 33 và dàn Cố vấn TT cũng tính rằng : các nước Tây Âu sẽ không phản đối trái lại vui mừng ,vì số tiền nhận viện trợ sẽ nhiều hơn không bị san sẽ cho các nước Đông Âu và Liên Sô ,và cũng không bị bó buộc như Kế Hoạch Marshall : là phải lập kế hoạch tái thiết chờ Quốc hội Mỹ chuẩn y mà được Toàn quyền sử dụng theo ý muốn.
**Dàn Cố vấn TT thứ 33 : Hình thành Chính sách và Học thuyết Truman :
Đế Quốc Liên Sô : Đe dọa Hòa bình, An Ninh Thế giới .Vai trò lãnh đạo Thế giới được giao cho Mỹ Quốc lãnh đạo trong cuộc chiến này.
Chính sách và Học thuyết Truman đã đẩy Mỹ Quốc -Liên Sô vào cuộc chiến tranh lạnh 1948-1989
Potsdam Conference 8.1945
At the beginning: Winston Churchill, Harry S. Truman, and Joseph Stalin
Hội nghị Potsdam được tổ chức ở Cecilienhof, Cung điện của Thái tử Wilhelm Hohenzollern, tại Potsdam- Đức Quốc từ 16 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945. Các Quốc gia tham dự hội nghị là Mỹ Quốc, Liên bang Sô Viết, Anh Quốc. Đại diện của ba Cường Quốc gồm có : TT Harry S. Truman, Lãnh tụ Joseph Stalin, Thủ tướng Winston Churchill người sau đó được thay bởi Tân Thủ tướng Clement Attlee, sau khi đảng Lao Động giành chiến thắng trước đảng Bảo Thủ trong cuộc bầu cử tại Anh Quốc năm 1945 !
CHIẾN TRANH LẠNH : COLD WAR 1948-1989 A-TT TRUMAN :TIÊN HẠ THỦ VI CƯỜNG -KHAI SINH CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC- CHUẨN BỊ TÁI VÕ TRANG QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC
Khi Đệ Nhị Thế chiến (World War 2) kết thúc. Hiệp ước Yalta 2.1945 và Hiệp ước Postdam 8.1945 giữa các Cường Quốc Đồng minh : Đức Quốc bị chia làm bốn vùng chiếm đóng bởi Quân đội các Cường Quốc : Anh, Pháp, Mỹ và Liên Bang Sô Viết ( Soviet Union ) . Thủ Đô Berlin cũng bị chia ra tương tự nhưng do vị trí của thành phố trong nước Đức nên vùng kiểm soát bởi Liên quân Anh-Pháp-Mỹ (Tây Berlin) bị nằm lọt thỏm bên trong khu vực do Liên Sô kiểm soát. Hiệp ước Yalta và Posdam 1945 xác định rõ : Quân đội các Cường Quốc : Anh, Pháp, Mỹ và Liên Bang Sô Viết sẽ triệt thoái sau khi Đức Quốc : Phi Phát xít hoá , và Dân chủ hoá . Đức Quốc sẽ thống nhất trong tương lai, có sự đồng thuận giữa Cường quốc hai phía Liên Sô và Mỹ , Anh , Pháp
Ngày 7 tháng 3 năm 1948, Hội nghị London giữa 3 Quốc gia : Mỹ Quốc ,Anh Quốc và Pháp Quốc , TT thứ 34 Harry S.Truman đưa ra quyết định hợp nhất ba vùng chiếm đóng phía Tây thành một Chính quyền Liên bang độc lập khai sinh : Cộng Hòa Liên Bang Đức : Federal Republic of Germany or FRG (German: Bundesrepublik Deutschland)
Dưới chiêu bài : Vì sẽ có quan điểm khác nhau về việc điều hành một nước Đức thống nhất trong tương lai, Dĩ nhiên Anh và Pháp phải : Đồng Ý -vì đang nhận viện trợ hào phóng của TT thứ 34 USA)....
B-CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC KHAI SINH
*Thống chế 5 sao Đức Quốc xã : Wilhelm Keitel lên làm Tổng Thổng- và chính trị gia xuất sắc cực hữu ,nguyên là Sĩ quan xuất sắc của Đức Quốc trong Đệ nhất thế chiến : Konrad Hermann làm Thủ tướng .
ĐẠI DANH TƯỚNG -THỐNG CHẾ WILHELM KEITEL
German field Marshal :Wilhelm Keitel an between 1938 and 1945
THỐNG CHẾ WILHELM KEITEL : TỔNG THỐNG -TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC- CÔNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC 1948-1949 ?
Nhưng có một điều tôi đang bí không giải thích được : về Thống chế 5 sao Đức Quốc xã : Wilhelm Keitel
Thống chế đã bị kết án tử hình năm 1946 ! làm sao Ông làm Tổng thống Cộng hoà Liên Bang Đức 1948-1949 được ?
Năm 1937 Trung tướng 3 sao Keitel được phong Đại tướng. Năm sau, khi Oberkommando der Wehrmacht (OKW) Bộ Tổng tham mưu thành lập, ông được Quốc Trưởng Hitler bổ nhậm làm Tổng Tư Lệnh kiêm Bộ trưởng : Bộ chiến tranh.
Trong Đệ nhị Thế chiến , Đại tướng Keitel là một trong những Thiên tài Quân sự và Kế hoạch gia đại tài của Quân Lực Đức Quốc trong vấn đề điều Quân tấn công cả hai : Mặt trận Tây Âu và Đông Âu.
Đại tướng Keitel đã khuyên Quốc Trưởng Adolf Hitler đừng tấn công Liên Sô. Nhưng Quốc Trưởng Adolf Hitler đã không nghe, sau đó Đại tướng Keitel xin từ chức . Quốc Trưởng Adolf Hitler không chấp thuận !.
Năm 1940 sau khi tấn công chiếm toàn bộ Pháp Quốc . Đại tướng Keitel được thăng cấp Thống chế 5 sao. Thống chế Keitel được trao tặng Huy chương Thập tự sắt do Chiến công : Ký hiệp ước với chính phủ Vichy của Thống chế Philippe Pétain : khai sinh Quốc gia Pháp là Đồng minh với phe Trục .
Ngày 8 tháng 5 năm 1945, Thống chế Keitel đã ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện với Quân Đồng Minh tại Thủ đô Berlin .
Năm 1946 : Tại phiên tòa xét xử Tội phạm chiến tranh Nürnberg , Thống chế Keite bị kết án Tử hình :
Thống chế Wilhelm Keitel đã anh dũng khí phách, hiên ngang tuyên bố :
“ Xin Chúa cao cả : tha thứ cho Dân tộc Đức. Hơn hai triệu Chiến binh Đức Quốc đã ra đi trước tôi : Hy sinh cho Tổ quốc. Giờ đây : Tôi sẽ đi theo những người con trai của tôi - Tất cả cho Đức Quốc Vĩ Đại !"
I"ch rufe den Allmächtigen an, er möge sich des deutschen Volkes erbarmen. Über zwei Millionen deutsche Soldaten sind vor mir für ihr Vaterland in den Tod gegangen. Ich folge meinen Söhnen nach. Alles für Deutschland!", ”
THẺ CĂN CƯỚC TÙ NHÂN : TỘI PHẠM CHIẾN TRANH CUẢ ĐẠI DANH TƯỚNG -THỐNG CHẾ WILHELM KEITEL
Vấn đề này tôi không thể tranh cãi ! Theo các tài liệu báo chí Thế giới tự do chỉ đề cập đến Tổng thống Cộng Hoà Liên Bang Đức từ 9.1949 là TT Theodor Heuss ( Dân sự ) nhậm chức tháng 9.1949, tuyệt đối đa số thống nhất không đề cập đến Tổng thống giai đoạn 3.1948- 9.1949 ?
Một vài tài liệu cho rằng Thống chế 5 sao Đức Quốc xã : Wilhelm Keitel đã bị tử hình ! ( nếu vậy tôi nghĩ có lẽ Thống chế bị tử hình sau 1949 !)
THỦ TƯỚNG CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC : KONRAD HERMANN ADENAUER 1948--- 1963
Thủ tướng Konrad Hermann (5 January 1876 – 19 April 1967) ) nhậm chức khi 72 tuổi .Ông là Thủ tướng già nhất trong lịch sử Đức Quốc , rời cương vị Thủ tướng khi 87 tuổi
**Quan hệ giữa hai Đồng minh trong Thế chiến là Mỹ Quốc và Liên Sô ngày càng xuống dốc sau sự kiện này. Thành phố Berlin bị chia làm hai phần và mâu thuẫn giữa Quân Lực chiếm đóng của ba Quốc gia :Anh, Pháp, Mỹ và Quân Lực Liên Sô ngày càng trầm trọng !.
Lãnh tụ Stalin cố gắng kềm chế . Nhưng Ông cương quyết phản đối việc tái vũ trang Quân Lực Cộng Hòa Liên Bang Đức , và Ông chờ kết quả cuộc bầu cử TT Mỹ tháng 11.1948 ,mà theo dự đoán của thế giới , và Báo Chí Mỹ : TT Truman không thể nào thắng cử trước : Đối thủ Ứng Cử viên TT Cộng Hòa Thomas Dewey có thể nói 99% dự đoán như vậy !
C-BỐI CẢNH XÃ HỘI -CHÍNH TRỊ MỸ QUỐC : 1.1948- 6.1948 : CHIẾN LẠNH BÙNG NỔ .
Kênh tế Mỹ Quốc từ cuối năm 1947 dù vẫn đứng đầu thế giới ,nhưng đã có dấu hiệu đi xuống sau 12 năm phát triển rực rỡ 1935-1947.
6 năm chiến tranh Đệ nhị thế chiến 1939-1935 ,cũng là thời kỳ kênh tế Mỹ Quốc, tiếp tục cất cánh bay cao.
Sau năm 1945, hàng hoá dư thừa quá nhiều , các Công ty lớn trong nước đã phát triển Maximum, vì vậy cần phải đầu tư , và bán hàng hoá ra Ngoại quốc . Đây cũng là lý do thúc đẩy kế hoạch Tái thiết toàn bộ Âu Châu ( Kế họach Marshall được giới Tư Bản và Toàn Dân ủng hộ ) .
Bất kỳ Người Mỹ nào cũng hiểu Âu Châu là Quyền lợi của Mỹ Quốc !
Đặc biệt Thị trường Liên bang Sô Viết với dân số trên 100 triệu bằng Tổng dân số của Anh-Pháp -Tây Ban Nha , Thuỵ Sĩ cộng lại (1947)
Giai đoạn 1933-1937 , nhờ quan hệ kênh tế Mỹ Quốc và Liên Bang Sô Viết, mà Tổng số trữ lượng Vàng của Nga chảy về Mỹ Quốc , đây là đòn bẩy để đưa Kênh tế Mỹ cất cánh bay cao .
Thật ra mối quan hệ Mỹ- Nga đã tồn tại tốt đẹp gần 200 năm nay !
Trên 10 triệu Người Nga đã định cư tại Mỹ Quốc vào thời điểm 1948 !( gần một phần mười dân số Mỹ Quốc vào thời điểm bấy giờ !) ..
Cộng đồng người Nga lưu vong tại Mỹ, nên nhắc qua nguồn gốc người Nga tại Mỹ :
Cộng đồng Người Nga sau cách Mạng Vô sản tháng 10 Nga. 11.1917 ( lịch cũ Nga là tháng 10). Tại Mỹ có khoảng 8 Triệu dân Nga sinh sống rất đoàn kết Chống Cộng, tập trung tại Kansas :
” Một Du khách đi đến miền Tây Mỹ Quốc , bắt gặp quang cảnh xa lạ trên những cánh đồng cỏ phì nhiêu của miền Tây Kansas, ở miền Trung Tây : Từ phía xa trên những cánh đồng lúa mì , một Tháp nhọn nhô lên, làm cho ta nhớ lại ngọn Tháp trên nóc nhà thờ Chính thống giáo của nước Nga cổ xưa . Chung quanh nhà thờ là hàng trăm ngôi nhà nhỏ xinh xắn. Người Chủ Nông trại trồng lúa mì từ nước Nga xa xôi đến, đã cùng mọi nguời xây cất ngôi thánh đường đó , Họ xây ngôi nhà thờ xinh đẹp chính bằng sự hy sinh , xem như là một sự tưởng nhớ về di sản , văn hoá của dân tộc Nga,”.
Đông nhất là ở Idaho, ở đây có thành phố Moscow xinh đẹp thơ mộng, những cánh đồng khoai Tây , lúa Mỳ từ hàng chục miles đến hàng trăm miles do người Mỹ gốc Nga làm chủ .
Tiểu bang Alaska rất đông người Nga .Thống Đốc Sarah Palin ,(CH) ứng cử viên Phó TT năm 2008 là nguời Nga 100% . Những danh xưng trên mộ bia trong các nghĩa trang Sitka, Alaska thường là người Nga , mà được viết bằng mẫu tự Cyrillic ( mẩu tự Nga)
Tại New York City có khu Little Russian.
Lá cờ 2 màu Xanh Đỏ của nước Nga họ tôn thờ vinh danh, được tất cả 48 Tiểu bang (1948) công nhận cờ Cộng đồng người Nga . 74 năm sau (1917-1991) lá cờ này trở thành Quốc kỳ Cộng hoà Liên bang Nga. Thành phố Leningrad đã đồi lại tên cũ : Sankt Peterburg Thủ đô của Đế chế Nga cũ.
Thực tế trong 74 năm (1917-1991 ) nền văn hoá Nga ở hải ngoại tác động dân Nga trong nước rất nhiều, là động lực cách mạng 1991 khai tử chế độ CS.
Sau năm 1917 mà hơn 8 triệu người Nga tại Mỹ Quốc , thì vào thời điểm năm 1948 là bao nhiêu trong Tổng số 130 triệu Dân Mỹ Quốc . Mỹ Quốc trở nên hùng mạnh như ngày hôm nay là cũng nhờ Cộng đồng người Nga chiếm gần 1/ 10 tổng số dân Mỹ Quốc !
Vì vậy Ông Tổng thống thứ 33 chủ trương cuộc chiến lạnh vào năm 1948 không những vi phạm tội ác chống lại Dân tộc Nga, mà Ông đã vi phạm tội ác chống lại Dân tộc Mỹ Quốc, vì 1/10 Dân số Mỹ Quốc là người Nga , và Ông cũng bè lũ Cố vấn của Ông cũng không vì quyền lợi của Dân tộc Mỹ Quốc, mà có thể nói là phản bội lại quyền lợi Dân tộc Mỹ Quốc , phản bội người Dân Mỹ Quốc .
Ông lập Cộng hoà Liên Bang Đức cũng không vì lòng tốt với Người Dân Đức Quốc . Đất nước Đức vừa mới bại trận tan hoang , ông lại xúi dục vào cuộc chiến khác , chỉ vì muốn 2 Dân tộc Đức và Nga bị huỷ diệt ! mới thoả mãn lòng căm thù của ông ! Bằng tiền xương máu của Người Dân Mỹ , đã đưa ông lên địa vị vinh quang , quá phũ phàng và tàn nhẫn !
Đảng Dân Chủ cũng phải chịu trách nhiệm với Lịch sử Mỹ Quốc về vấn đề này ! Đảng Dân Chủ tự hào là lo cho người nghèo, trong lúc ông TT thứ 33 thì sao đây ! ông phá cả đất nước tan hoang !
Năm 1948 là năm bầu cử Tống thống Mỹ Quốc, vừa vào tháng 1 : Bầu cử Sơ bộ có thể nói trên 95% Dân Mỹ là muốn tống cổ TT Truman ra khỏi toà Bạch Ốc , chỉ có Cộng đồng người Do Thái là ủng hộ Ông ta thôi ! .
Từ năm 1947 khi Ông TT thứ 33 bổ nhậm Thống tướng Marshall làm Ngoại trưởng , người Dân Mỹ Quốc đã hiểu ý đồ của Ông TT thứ 33 .
Thần tượng của họ thì đang giữ chức Tổng tham mưu trưởng ! không thể ra ứng cử TT được !.
Còn Đại danh tướng Mac Arthur thì đã ở tận mãi bên Tokyo , đến tháng 9.1952 mới được TT thứ 33 cho phép giải ngũ khi vừa tròn 72 tuổi !
( Chủ tịch Đảng Cộng Hoà đã giải thích với báo chí và Người Dân :Tại sao Đại danh tướng Mac Arthur không thể ra ứng cữ TT năm 1948, ! ) Dân chúng Mỹ càng nổi giận ! nên Toàn dân và Báo chí quyết tâm dồn phiếu cho ứng cử viên TT Cộng Hoà Thomas Dewey , bằng mọi giá phải thắng cử trong tháng 11.1948 !
Phải công nhận Báo chí thời đó rất yêu nước !
Thêm một lý do người Dân Mỹ Quốc nổi giận là kế hoạch Marshall bị bóp méo , sẽ gây thảm hoạ cho kênh tế Mỹ :
1. Chỉ viện trợ cho Tây Âu, trong lúc Vùng Đông Âu , và Liên Sô bị tàn phá chiến tranh nặng nề hơn Tây Âu nhiều lần ,. Điểm quan trọng : Kênh tế Đông Âu còn tương đối lạc hậu , là lý tưởng cho các công ty Mỹ Quốc nhảy vào , giá nhân công lại rẽ .
2. Liên Sô bị tan hoang 3/4 Quốc gia , hàng chục ngàn thành phố lớn nhỏ bị tàn phá huỷ diệt, là cơ hội tốt cho các Công ty Mỹ Quốc , Cộng đồng người Nga đầu tư vào , chế độ CS tại Liên Sô sẽ chuyển hoá, Kênh tế Mỹ Quốc sẽ phát triển hùng mạnh, đời sống người Dân sẽ nâng cao. Thêm thay 2 Dân tộc Nga và Mỹ là bạn gần 200 năm nay . Người Nga là một trong số Di dân đông đảo đến định cư tại Mỹ Quốc từ thời Nữ Hoàng Catherine Vĩ Đại hay còn gọi :Ekaterina Đại đế- Yekaterina II Velikaya: (2 . 5 . 1729 – 17 . 11 . 1796)
CHÂN DUNG NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ ANH MINH VÀ VĨ ĐẠI CUẢ DÂN TỘC NGA- NGƯỜI BẠN TỐT CUẢ MỸ QUỐC TỪ BUỔI BÌNH MINH DỰNG NƯỚC .
NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ LÀ NGƯỜI ĐỨC - HOÀNG HẬU CUẢ ĐẠI ĐẾ PYOTR III -LÊN NGÔI NỮ HOÀNG ĐẠI ĐẾ - ĐẾ CHẾ NGA 1762
Nữ Hoàng Đại Đế thời Thiếu nữ tên : Sophie Friederike -Dornburg, xuất thân từ một gia đình Quý tộc Phổ ( Đức )
NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ : Đã xây dựng Đế chế Nga hùng mạnh nhất Âu Châu, và làm Vương Quốc Pháp trở nên suy yếu .
Nữ Hoàng Đại Đế đã cho di dân với số lượng rất nhiều những người Nga , và Đức đầu tiên đến Mỹ Quốc, .
Mỹ Quốc Hùng mạnh ngày hôm nay là do sự pha trộn chủ yếu của 3 Chủng tộc Nga- Đức -Anh !
CÔNG LAO CUẢ NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ RẤT NHIỀU !
MỸ QUỐC BIẾT TRỒNG LUÁ MỲ CŨNG LÀ NHỜ NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ !
BỨC TƯỢNG ĐIÊU KHẮC : NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ ANH MINH VÀ VĨ ĐẠI CUẢ DÂN TỘC NGA
Marble statue of Catherine II in the guise of Minerva (1789–1790), by Fedot Shu bin.
NỮ HOÀNG CATHERINE ĐẠI ĐẾ TRÊN LƯNG CHIẾN MÃ -XÔNG PHA CHIẾN TRẬN : CHINH ĐÔNG DẸP BẮC -XÂY DỰNG ĐẾ CHẾ NGA HÙNG MẠNH .
3. Các nước Tây Âu tương đối ít tàn phá bởi chiến tranh,ngoại trừ Anh Quốc,.Nhưng Kênh tế các nước Tây Âu tương đối phát triển cao, lại viện trợ không giới hạn, không có kế hoạch , không cần Quốc hội chuẩn y , phung phí tiền bạc xương máu của người dân Mỹ . Các Công ty Mỹ Quốc cũng khó nhảy vào , hàng hoá cũng khó bán.
Vì Tiền Viện trợ cho các Quốc gia Tây Âu, Họ toàn quyền sử dụng, không bị ràng buộc gì cả. Thế Mỹ Quốc vừa mất tiền, kênh tế sẽ bị sụm luôn !
VÌ CÁC LÝ DO TRÊN TOÀN DÂN MỚI NỔI GIẬN ! QUYẾT TÂM : ỦNG HỘ ỨNG CỬ VIÊN TT CỘNG HOÀ THOMAS DEWEY- ĐẠI THẮNG TRONG MUÀ BẦU CỬ THÁNG 11 ĐẾN.
D- TẠI SAO TT THỨ 33 VÀ DÀN CỐ VẤN TINH KHÔN-CÁO GIÀ : VIỆN TRỢ KHÔNG GIỚI HẠN CHO CÁC QUỐC GIA TÂY ÂU ?
HỌ CÔ LẬP 3 ĐẠI DANH TƯỚNG ĐƯỢC !, THÌ HỌ RẤT THỦ ĐOẠN , TÍNH TOÁN RẤT CẨN THẬN !
1.Mục đích của TT thứ 33 và dàn Cố vấn là : Mỹ Quốc tuyên chiến với Liên Sô, lúc này Liên Sô chưa có bom nguyên tử, lại bị tàn phá bởi chiến tranh tan hoang 3/4 Quốc gia . Đây là cơ hội tốt để tiêu diệt Liên Sô.
Kẻ thù Hitler đã chết , Stalin cũng đã đến lúc phải bị đền tội ! Liên Sô cũng phải như Đức quốc phải bị thống trị và đền tội .Đây là 2 Dân Tộc đã tàn sát trên 20 triệu dân Do Thái ! .
2. Chiến tranh Mỹ Quốc -Liên Sô xảy ra, TT thứ 33 có cơ hội thắng cử , vì Tổ quốc có chiến tranh ,Dân chúng Mỹ thường có khuynh hướng ủng hộ TT đương chức !.
3. Chiến tranh Mỹ Quốc -Liên Sô xảy ra : 2 Đại danh tướng Mac Arthur ,và Eisenhower vì Tình yêu Tổ Quốc sẽ ra chiến trận, Thống tướng Ngoại trưởng Marshall sẽ không còn chống TT thứ 33 nữa !.
Đây là cơ hội tốt để TT thứ 33 phản công : Ứng cử viên TT Cộng Hoà Thomas Dewey .
4. Nhưng nếu Mỹ Quốc tuyên chiến với Liên Sô : 2 Đại danh tướng Mac Arthur , Eisenhower và Thống tướng Ngoại trưởng Marshall sẽ phản đối . Quốc hội cũng sẽ phản đối !
5. Vì vậy cần mua chuộc Tây Âu . Tây Âu sẽ là lò thuốc súng !.
Chiến tranh Tây Âu - Liên Sô xảy ra ! TT thứ 33 sẽ danh chính ngôn thuận tuyên chiến với Liên Sô !
( Bầu cử TT Mỹ Quốc tháng 11 .1948 , TT thứ 33 có 33 % phiếu bầu là cũng nhờ Cold War, mới ăn gian thắng cử TT được !
Nếu không có Cold War ( 6.1948-5.1949) . TT thứ 33 chỉ có dưới 5% phiếu bầu, thúi hẻo không ăn gian thắng cử TT được ! Thế giới đã khác ! không có Bác Mao , không có Bác Hồ, không có Vietnam War !
E-CHIẾN TRANH LẠNH : COLD WAR 24. 6.1948 BÙNG NỖ -TT thứ 33 CHỈ CÓ 33% PHIẾU BẦU MÀ THẮNG CỬ ĐẾN 303 PHIẾU ĐẠI CỬ TRI ? ĂN GIAN QUÁ TUYỆT VỜI !
I --CHIẾN TRANH LẠNH : COLD WAR 24.6.1948 BÙNG NỖ
BERLIN BLOCKADE 24. 6.1948
HUY HIỆU ĐỨC QUỐC XÃ
National Insignia Großdeutsches Reich Greater German Reich
Motto-Khẩu hiệu
Ein Volk, ein Reich, ein Führer
"One People, one Reich, one Leader
QUỐC KỲ CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC
THỐNG CHẾ WILHELM KEITEL : TỔNG THỐNG -TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC- CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC 1948-1949
**THỐNG CHẾ - TỔNG THỐNG -TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC - LÒNG QUẶN ĐAU :
TỔ QUỐC THÂN YÊU TAN HOANG -BỊ XÂU XÉ BỞI 4 CƯỜNG QUỐC THẮNG TRẬN !
*ĐỨC QUỐC VĨ ĐẠI : KHÔNG THỂ BỊ HUỶ DIỆT TRONG TRẬN CHIẾN NÀY !
*BỘ TRƯỞNG CHIẾN TRANH ĐỨC QUỐC XÃ VĨ ĐẠI -TỔNG THỐNG -TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC : KHÔNG THỂ LÀM TAY SAI CHO TT HARRY S. TRUMAN USA !.
* MỸ -NGA MUỐN CHIẾN TRANH ĐÓ CHUYỆN RIÊNG CUẢ 2 QUỐC GIA !
ĐỨC QUỐC PHẢI CÓ TỔNG THỐNG DÂN SỰ ĐỂ THOÁT KHỎI CUỘC CHIẾN NÀY , VÀ KIẾN TẠO KÊNH TẾ HÙNG MẠNH- ĐÂY LÀ PHƯƠNG CÁCH TỐI ƯU ĐỂ THỐNG NHẤT TỔ QUỐC THÂN YÊU !
" Xin Chúa Cao Cả : Tha Thứ Cho Dân Tộc Đức-- Hơn Hai Triệu Chiến Binh Đức Quốc Đã Ra Đi Trước Tôi : Hy Sinh Cho Tổ Quốc.-- Giờ Đây : Tôi Sẽ Đi Theo Những Người Con Trai Của Tôi - Tất Cả Cho Đức Quốc Vĩ Đại !"
Thống Chế Wilhelm Keitel (1882- 1949) -Tổng Thống Cộng Hoà Liên Bang Đức .
CHIẾN TRANH LẠNH : COLD WAR 24.6.1948 MỞ MÀN.
Người Chiến Binh Mỹ Quốc và Người Chiến Binh Đại Nga (Russian ) gặp nhau tại Torgau bên bờ sông Elbe ngày 30.4.1945 khi Thủ Đô Bá Linh thất thủ .
Tình Chiến Hữu nồng thắm của 2 Dân Tộc Mỹ -Nga tồn tại gần 200 năm , đã tàn phai nhanh chóng 3 năm sau 1948 : Khởi đầu cuộc chiến lạnh 41 năm 1948-1989 .
Quốc Gia hưởng lợi nhiều nhất là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa : Lãnh tụ Mao Trạch Đông !
US Government poster showing a friendly Russian soldier as portrayed by the Allies during World War II.
________------------------------------------------------
KHÔNG LỰC MỸ QUỐC TIẾP TẾ BÁ LINH ,TRONG THỜI GIAN BỊ PHONG TOẢ (24 .6 1948 – 12 5. 1949)
C-47 Skytrains unloading at Tempelhof Airport during Berlin Airlift. (Berlin Blockade 24 June 1948 – 12 May 1949)
ĐẠI DANH TƯỚNG QUÂN LỰC LIÊN BANG SÔ VIẾT - NGUYÊN SOÁI GEORGI ZHUKOV : TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC LIÊN SÔ -Soviet Armed Forces : TẠI ĐỨC QUỐC 1948
.
CHIẾN XA HẠNG NẶNG T.43 CUẢ QUÂN LỰC LIÊN BANG SÔ VIẾT TẠI BÁ LINH -ĐỨC QUỐC 1948.
**CHIẾN XA HẠNG NẶNG T.43 LÀ CHIẾN XA TỐI TÂN NHẤT THẾ GIỚI THỜI BẤY GIỜ !
SẢN XUẤT 1943
Mỹ Quốc tháng 5 năm 1948 , Cơ hội thắng cử của Tổng thống Truman có vào tháng 11 ,có thể nói là con Zero to tướng trước ứng cử viên TT Cộng hoà Thomas Dewey . Trên các phương tiện truyền thông báo chí Mỹ Quốc và Thế giới đều tiên đoán như vậy.
TT thứ 33 và dàn Cố vấn ra tay : Cần khiêu khích kẻ thù Stalin ra tay trước . Tổng thống Cộng Hòa Liên Bang Đức có lý do ký sắc lệnh Tổng động Viên , Tấn công Liên Sô , bắt buộc Liên Sô phản công , Chiến tranh bùng nổ, Mỹ có lý do tham chiến , dĩ nhiên Anh Pháp cũng phải tham chiến dù cho có lệ !
* Tại Paris các phe phái đang đấu đá dành chức vụ Thủ tướng béo bở,do tiền viện trợ quá hào phóng của TT Truman ,các Thủ tướng tranh giành nhau nắm quyền , bị các phe đối lập đá rớt như sung rụng , vì không có kế hoạch phục hồi kênh tế ra hồn, Chiến tranh tại Đông dương lại lâm vào bế tắc , bị động trên trên toàn chiến trường.
*Tại London Đảng Lao Động cũng như giống như Dân Chủ tại Mỹ Quốc, khẩu hiệu rất kêu : Tất cả là lo cho dân nghèo .Sau khi Chụp Mũ : Thủ tướng Winston Churchill (Đảng Bảo Thủ - Cộng Hoà ): bán đứng Dân tộc Ba Lan ,đã thắng cử Thủ tướng 7.1945 .
Việc đầu tiên của Đảng Lao Động , Đảng của Dân nghèo là ủng hộ Thực dân Pháp xâm lược VN : 23. 9 .1945, dưới danh nghĩa giải giáp Quân Nhật Thiên Hoàng đến Vĩ tuyến 16 (theo Hiệp ước Yatal và Posdam 1945), cho Đạo quân viễn chinh Pháp tháp tùng , và sau đó Quân Anh rút lui !trao lại cho Thực dân Pháp .Anh Quốc là Quốc gia đầu tiên vi phạm Hiệp ước Yatal, và Posdam ! Vi phạm tội ác chống lại 3 Dân tộc Đông Dương , đúng là bọn đểu giả lường gạt dân chúng Anh Quốc , hãm hại một Anh Hùng của Dân tộc Anh : Đô đốc 4 sao Thủ tướng, người đã đưa Anh Quốc ra khỏi chiến bại 6.1940 . Người Hùng nhận chức Thủ tướng ,khi chính phủ của Đảng Lao Động sắp sửa đầu hàng Quốc trưởng Hitler : Thủ Đô Luân Đôn bị dội bão lửa kinh hồn , các Hải cảng bị phong toả , lúc này Mỹ Quốc chưa tham chiến ...
Ngày nhận chức 6.1940 : Đô đốc 4 sao Thủ tướng tuyên bố :
"Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, sự lao động, nước mắt và mồ hôi".
"...Chúng ta sẽ bảo vệ hòn đảo của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên các bãi biển, chúng ta sẽ chiến đấu trên đất liền, chúng ta sẽ chiến đấu trên các cánh đồng và trên các đường phố, chúng ta sẽ chiến đấu trên những quả đồi; chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng."
Sau năm 1945, Chính phủ của Đảng Lao Động cũng tham nhũng,- vì viện trợ quá hào phóng của ông TT thứ 33 , Anh Quốc càng ngày càng lụn bại cho đến ngày Nữ Anh hùng -Đảng Bảo thủ :
Người Đàn bà Sắt : Nữ thủ tướng Margaret Thatcher (1978-1990) :
Strategies for a Changing World :Nghệ thuật Chính trị: Chiến lược cho một Thế giới đang Thay đổi .
Tác phẩm Statecraft :Margaret Thatcher
Đã đưa Anh Quốc hồi phục , và Sát cánh với TT thứ 40 Anh Minh -Vĩ Đại : Mỹ Quốc Ronald Reagan :Giật sập Siêu cường Liên Bang Sô Viết và CS Đông Âu 1989.
F--TT thứ 33 Truman và Dàn Cố Vấn Ra Tay : 20.6.1948- Lãnh Tụ Vĩ Đại Stalin Nổi Giận- Anh -Pháp Sợ- Đức Quốc Án Binh Bất Động ! TT thứ 33 Truman Phóng Lao Phải Theo Lao !
THÀNH PHỐ BÁ LINH - BERLIN -THỦ ĐÔ ĐỨC QUỐC XÃ VĨ ĐẠI- TRƯỚC NGÀY 20.6.1948
HẬU QUẢ 24.6.1948 : CHIẾN TRANH NÓNG BIẾN THÀNH LẠNH- KÊNH TẾ MỸ SỤP ĐỖ ,ĐẢNG CỘNG SẢN MỸ TRỖI DẬY 4 NĂM SAU 1952 -MỘT LOẠT CÁC NƯỚC CS ĐÔNG ÂU RA ĐỜI -LIÊN SÔ CHẾ TẠO THÀNH CÔNG BOM NGUYÊN TỬ 5.1949 -THẾ GIỚI ĐẠI LOẠN-TRUMAN LÀ TÊN TỘI ĐỒ NGÀN NĂM CUẢ LỊCH SỬ MỸ QUỐC !
MỘT GÓC THÀNH PHỐ BÁ LINH ĐIÊU TÀN NĂM 1947 VẪN CHƯA KIẾN THIẾT ĐƯỢC - ĐỜI SỐNG DÂN CHÚNG ĐÓI KHỔ - GÁI ĐIẾM ĐẦY ĐƯỜNG : CHỈ CẦN MỘT PHẦN ĂN TỐI CHO GIA ĐÌNH -LÀ CÔ GÁI ĐỨC XINH ĐẸP CÓ THỂ QUA ĐÊM !
" BỌN CƯỜNG QUỐC THẮNG TRẬN MUỐN CHÉM GIẾT NHAU :CỨ THOẢI MÁI-RỒI CÚT XÉO RA KHỎI ĐỨC QUỐC ! "
ĐẠI DANH TƯỚNG -THỐNG CHẾ WILHELM KEITEL -TT -TỔNG TƯ LỆNH QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC 1948
1.TT thứ 33 Truman và Dàn Cố Vấn Ra Tay : 20.6.1948
TT thứ 33 Truman biết răng sau 1945, không chỉ Đông Đức mà cả Đông Âu duới sự bảo trợ của Liên Sô sống trong sự đói khổ , không nhận được viện trợ của Mỹ , lại bị tàn phá nặng nề vì Chiến Tranh, thêm thay tâm lý Người Đức và Đông Âu : Sống dưới sự bảo trợ Mỹ Quốc Hùng Mạnh -Tự Do dĩ nhiên tuyệt vời hơn dưới sự bảo trợ của Liên Sô : Đói Khổ mà gần 3/4 Quốc gia tàn phá nặng nề vì Chiến Tranh .
Vì thế TT Truman ra tay :
TT thứ 33 ra chỉ thị :
1. Bắt đầu Ngày 20 tháng 6 năm 1948, phần phía Tây của Thành phố Berlin bắt đầu sử dụng Đồng Mark của Cộng Hoà Liên Bang Đức làm đơn vị tiền tệ chung.
2 . Mỹ thành lập cơ quan trợ cấp Tiền bạc và Thực Phẩm dồi dào nhưng chỉ trợ cấp cho những người Dân Đức thuộc vùng Đông Berlin chấp nhận tình nguyện, nhập cư vào Tây Berlin do Mỹ -Anh-Pháp chiếm đóng ,Vì lúc đó vấn đề đi lại tự do thoải mái giữa 2 khu Đông và Tây vẫn bình thường ...
Kết quả thành công mỹ mãn theo sự dự liệu của TT thứ 33 và Dàn Cố Vấn : Chỉ trong 3 ngày làn sóng người dân Đông Đức , Đông Berlin tình nguyện nhập cư vào Tây Berlin quá nhiều , vì có sự trợ cấp tiền và thực phẩm cho gia đình ( thật ra lúc này tư tưởng người dân Đức, nhập cư là có tiền , thức ăn chứ chẳng phải Tự Do hay Cộng Sản .)..
Chính vì : Làn sóng người dân Đông Đức , Đông Berlin lũ lượt tình nguyện nhập cư vào Tây Berlin quá nhiều . Do âm mưu Thủ đoạn thâm độc của TT thứ 33 , đã làm Lãnh tụ Stalin nổi khùng !
Ngày 24.6.1948 : Lãnh tụ Liên Sô Joseph Stalin, ra lệnh cho Nguyên Soái Zhukov :Tổng tư lệnh Quân Lực Liên Bang Sô Viết tại Đức Quốc điều động :Thiết Giáp và Bộ Binh phong toả tất cả : các Hệ thống đường giao thông vận tải dẫn vào Vùng Tây Berlin,.
Vùng Tây Berlin vào lúc bấy giờ do ,Quân lực : Mỹ- Anh - Pháp chia nhau kiểm soát sau 1945 ,do vị trí địa lý của thành phố : Tây Berlin nằm lọt vào giữa vùng Đông Đức do Quân Lực Liên Bang Sô Viết kiểm soát, và phần còn lại của nước Đức. .
Nguyên Soái Zhukov điều động :Thiết Giáp và Bộ Binh vây kín Tây Berlin,.
Chính phủ Anh , Pháp tái mặt !
LÃNH THỔ ĐỨC QUỐC NĂM 1948 : VÙNG MÀU XANH : TÂY ĐỨC -VÙNG MÀU ĐỎ : ĐÔNG ĐỨC - VÙNG MÀU VÀNG NHỎ : TÂY BÁ LINH - WEST BERLIN
West Germany (blue) and West Berlin (yellow),
Chính phủ Anh , Pháp , sốt suột chờ ý kiến của Tổng thống thứ 33 .
Vì Nguyên Soái Zhukov chỉ cần siết vòng vây 2 tuần , là Quân Anh Pháp , không còn lương thực phải đầu hàng, và dân chúng Tây Berin, cũng hết lương thực , lũ lượt kéo về Đông Đức thôi .
Trước đây nhờ hệ thống đường sá từ Tây Đức đi vào lãnh thổ Đông Đức tự do , nhưng kể từ ngày 24.6.1948 , đã bị bít kín , dùng đường hàng không thì sợ phòng không của Liên Sô bắn rớt . Phi cơ của Pháp và Anh dưới con mắt Nguyên Soái Georgi Zhukov : chỉ là những cỗ quan tài biết bay không hơn không kém !
TT thứ 33 và dàn Cố vấn thì chỉ biết thủ đoạn , bá đạo, còn về quân sự thì mù tịt . Trước đây chỉ nghĩ đơn giản Đức Quốc sẽ Tổng động viên .TT sẽ viện trợ cho Đức Quốc đánh Liên Sô , 2 Dân tộc tàn sát lẫn nhau, mới thoả mãn lòng căm thù của Ông ! để trả thù cho 20 triệu đồng chủng của Ông đã bị chết do 2 Dân tộc khốn kiếp là thủ phạm ! Có chiến tranh , ông mới có hy vọng thắng cử vào tháng cử 11 . Khi 2 kẻ thù đã tan hoang kiệt quệ , Ông sẽ dùng bom nguyên tử huỷ diệt Liên Sô ! .
Nhưng bây giờ tên Thống chế -Tổng thống khốn kiếp lại án quân bất động !
Hắn đã bị án tử hình !, Tha cho đặt lên chức vụ TT , nay lại dám chống lệnh ! .
Tất cả bực tức, ông TT trút lên đầu Tổng tham mưu trưởng ! vì Địch thủ nguy hiểm Tổng tham mưu trưởng lại bạn thân với tên Nguyên Soái Zhukov !
"If we see that Germany is winning we ought to help Russia and if Russia is winning we ought to help Germany, and that way let them kill as many as possible "
"Nếu Đức thắng Nga , thì chúng ta giúp Nga , ngược lại Nga thắng Đức , thì chúng ta giúp Đức , đó là cách tốt nhất để họ huỷ diệt lẫn nhau ! "
Harry S . Truman
"1934 U.S. Senate election for Missouri Truman and Jacobson remained close friends, and Jacobson's advice to Truman on Zionism to recognize Israel "
Chủ nghĩa Zionism là chủ nghĩa phục quốc của những người Do Thái Lưu vong , hình thành đầu thế kỷ 20 phát triển rất mạnh tại Nga trước 1917. ( Russian Empire)
"Zionism is a Jewish political movement that, in its broadest sense, has supported the self-determination of the Jewish people in a sovereign Jewish national homeland. Since the establishment of the State of Israel"
**"In 1922, Truman gave a friend $10 for an initiation fee for the Ku Klux Klan "
Thời điểm 1922 :1 galon xăng 1.5 cent . $10 trị giá :trên 3 ngàn Dollars bây giờ , có thể mua 10 khẩu Súng Handgun .38 - 9 ly , cho 10 thành viên K K K, đủ sức tàn sát cả trăm người da Đen và Á Châu : Nhật , Phi . Trung Hoa , Ấn Độ..
2. ---TT thứ 33 và dàn Cố vấn như ngồi như ngồi trên đống lửa , tuyên chiến với Liên Sô thì không dám : chắc chắn Toàn Dân và Quốc Hội phản đối , vì chỉ còn chưa đầy 4 tháng rưỡi là bầu cử TT, chưa kễ bị báo chí Mỹ vốn ác cảm với TT sẽ vạch tội là khiêu khích trước , và bóp méo kế hoạch Marshall , làm kênh tế Mỹ: mới đến tháng 6. 1948 , mà đã tuộc dốc thê thảm ! Nếu tiếp tục tình trạng này nhiều Công ty sẽ bị phá sản , vì hàng hoá ứ đọng quá nhiều , không có thị trường tiêu thụ , số lượng người thất nghiệp sẽ tăng nhanh khủng khiếp !
Viện trợ cho Anh , Pháp quá hào phóng ,phung phí nhưng khi xảy sự việc : thì Anh , Pháp lại khiếp sợ Liên Sô ! .Không giúp đỡ được gì cho Mỹ , chỉ là gánh nặng của Mỹ Quốc .!
Ý tưởng Ông TT thứ 33 là Tây Âu sẽ có chiến tranh với Liên Sô , chỉ là ảo tưởng qua vụ này . Mỹ không đánh Liên Sô , đố có nước nào Tây Âu dám đánh, kết quả Kênh tế Mỹ sụm luôn ! ở Đời dùng Thủ đoạn , Bá đạo trước sau cũng Thân bại danh liệt !
Nhưng nếu không giải quyết , sau 2 tuần Tây Bá Linh sụp đỗ đầu hàng , thì chắc chắc TT sẽ thất cử 100%
.** .Nếu dùng đường Hàng Không , quá nguy hiểm vì phải bay vào không phận Đông Đức, nơi Quân Lực Liên Sô trấn giữ theo hiệp ước Yalta . Trước đây thì không có gì , nhưng bây giờ : Phòng không Liên Sô đủ sức bắn rớt bất kỳ Phi cơ nào của Mỹ bay vào không phận Đông Đức, chứ đừng nói Vận tải cơ C.47 chở hàng hoá cồng kềnh ! Nếu trường hợp này xảy ra thì Ông TT thứ 33 không còn cơ hội thắng cử , mà suốt đời ô danh !
*****Càng bực tức , Ông TT thứ 33 càng căm thù Tổng tham mưu trưởng !
Thống tướng Tổng tham mưu trưởng : Thần tượng của Dân Mỹ Quốc lại là bạn thân của tên khốn kiếp Zhukov , đúng là Dân Mỹ khờ dại , bị lừa bịp mà không biết !
Tổng thống thứ 33 càng bực tức , khi Thủ tướng của Đảng Dân Nghèo _(Lao Động) Anh Quốc Clement Attlee , gọi điện thoại viễn liên từ Luân Đôn đến Toà Bạch Cung, hối thúc phương pháp giải quyết , nếu không, Ông thủ tướng phải tìm giải pháp riêng với Liên Sô ! Vì báo chí Anh Quốc đang lên án Nội các Tham nhũng,và chương trình phục hồi kênh tế không hữu hiệu như lời hứa khi vận động tranh cử 1945. Sau đó lại đến Ông Thủ tướng Pháp Paul Ramadier (24 November 1947 – 26 July 1948) , cũng là Thủ tướng của Đảng Dân Nghèo _(Đảng Xã Hội) , cũng gọi điện thoại từ Ba Lê đến Bạch cung , nói chuyện với Ông TT "Dân Nghèo" của Mỹ Quốc Harry S. Truman ! : để xin phương pháp giải quyết , vì Ông đang bị đối lập tấn công , nay vụ này không khéo mất chức khi nhậm chức Thủ tướng mới 7 tháng !
Đúng là 3 Ông Dân Nghèo :Lao Động- Xã Hội- Dân Chủ ăn hại , thế mà to mồm bảo vệ Thế giới Tự Do !
3.Lực lượng tham chiến ngày 24.6.1948
*Lực Lượng Quân Lực Đồng Minh tại Tây Bá Linh : 8,973 Chiến Binh Mỹ Quốc , 7,606 Chiến Binh Anh Quốc và 6,100 Chiến Binh Pháp Quốc .
Tổng số : 22,679 Chiến Binh .
**Lực Lượng Quân Lực Liên Sô tại vùng Đông Đức vây kín quanh Tây Bá Linh :
Tổng số : hơn nửa triệu : 500 ngàn Chiến Binh .....
Để giải quyết vần đề hóc búa Tây Bá Linh : Ông Tổng thống thứ 33 và dàn Cố vấn thủ đoạn đã làm một việc , mà từ xưa đến nay chưa bao giờ có trong Lịch Sử Mỹ Quốc , và Lịch sử Thế giới để lừa bịp Dân Mỹ, mục đích là cứu chiếc ghế TT vào tháng 11 .
Nếu là Một Tổng thống có lòng yêu Mỹ Quốc chút xíu thôi ! không bao giờ làm như vậy ! nhưng chiếc ghế TT và lòng hận thù Nga- Đức , cũng như lòng yêu Tổ Quốc Do Thái đã làm Ông bất chấp tất cả, dù Mỹ Quốc có tan nát , sụp đỗ ,Ông và dàn Cố vấn vẫn không care ! Bất Hạnh cho Mỹ Quốc có một TT như vậy !
**Các bạn nhìn hình Vận tải cơ C.47 bay vào không phận Đông Đức, tiếp tế một năm trời tự do thoải mái ?
*** Các Phi cơ Vận tải C.47 của Không lực Mỹ , và các Vận tải Cơ Không lực Anh- Pháp bay vào Không phận Đông Đức : Tự do một năm trời tiếp tế cho Lực lượng Đồng Minh, hơn 22 ngàn chiến binh , và hàng trăm ngàn dân chúng trong thành phố Tây Bá Linh . Điều này có nghĩa là phải có sự đồng ý của Lãnh tụ Stalin ?
*Nếu như vậy tại sao Không đàm phán với Lãnh tụ Stalin rút quân ? mà phải sử dụng tiếp tế bằng đường hàng không , tốn bao nhiêu tiền xăng nhớt , tiền bạc trị giá của thực phẩm , áo quần cho gần nửa triệu người trong thành phố Tây Bá Linh trong một năm trời !Tất cả chi phí Mỹ Quốc phải gánh chịu , từ tiền xương máu của người dân Mỹ , trong lúc Kênh tế Mỹ đã thê thảm ! (Anh- Pháp không tốn gì cả ngoài sử dụng Phi cơ và Phi công , xăng nhớt Mỹ chịu , cho có nghĩa là Đồng Minh làm đẹp mặt TT thứ 33 , và lấy viện trợ hào phóng của USA)
** Câu trả lời : Ông Tổng thống thứ 33 cần làm như vậy ,để thổi phòng nước Mỹ đang có Chiến tranh để Ông tuyên tuyền hốt phiếu ? Nếu Liên Sô rút quân ! thì Ông chỉ có dưới 5% số phiếu bầu làm sao ăn gian được !
Hành động của Ông TT thứ 33, chính là nguyên nhân tạo ra cuộc chiến tranh lạnh , vì ông là người lật lọng !
CÁC TRẺ EM VÀ NGƯỜI DÂN TÂY BÁ LINH- ĐỨC QUỐC ĐANG ĐÓN CHÀO , CHỜ ĐỢI VẬN TẢI CƠ C.54 CUẢ KHÔNG LỰC MỸ QUỐC : CHUẨN BỊ HẠ CÁNH TẠI PHI TRƯỜNG TEMPELHOF 8.1948 .
CUNG CẤP THỰC PHẨM -NƯỚC UỐNG -ÁO QUẦN VÀ CÁC HÀNG HOÁ !
CHÍNH HÌNH ẢNH NÀY ĐÃ GIÚP TT THỨ 33 HARRY S.TRUMAN CÓ 33% PHIẾU BẦU VÀO THÁNG 11.1948 !
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:10:43 GMT 9
HỆ THỐNG CÁC NƯỚC CỘNG SẢN ĐÔNG ÂU BỊ BẮT BUỘC LÀM HÀNG RÀO PHÒNG THỦ AN NINH CHO LIÊN BANG SÔ VIẾT 1948-1952 .
QUỐC GIA BA LAN BỊ NHUỘM ĐỎ CUỐI CÙNG 1952
"Đức Quốc là kẻ thù bất động đái thiên, nhưng Nga lại là Kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc Ba Lan ! "
"Đến Ba Lan nhắc đến tên Stalin , cũng như đến Do Thái nhắc đến tên Hitler"
HỆ THỐNG CÁC QUỐC GIA ÂU CHÂU TRONG CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH 1949-1989
I - QUỐC GIA BULGARIA - BẢO GIA LỢI
NHƯỜI CHIẾN BINH NGỰ LÂM QUÂN TẠI KINH ĐÔ SOFIA 1942 -VƯƠNG QUỐC BẢO GIA LỢI -ĐỒNG MINH PHE TRỤC CUẢ QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI ADOLF HITLER .
QUÂN LỰC BẢO GIA LỢI -YÊU NƯỚC NỒNG NÀN-RẤT THIỆN CHIẾN
ĐÔNG CUNG THÁI TỬ BORIS LỮ ĐOÀN TRƯỞNG (THỨ 2)-LỮ ĐOÀN KỴ BINH QUÂN LỰC BẢO GIA LỢI -CÙNG THỐNG CHẾ ĐỨC QUỐC : VON MACKENSEN TRONG ĐỆ NHẤT THẾ CHIẾN TẠI MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG : ĐỨC -BẢO GIA LỢI TẤN CÔNG QUÂN NGA 1917 .
LÀ HOÀNG ĐẾ BORIS III TRONG ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN LÀ ĐỒNG MINH TUYỆT VỜI CUẢ QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI ADOLF HITLER .
KINH ĐÔ SOFIA CUẢ ĐẾ CHẾ HÙNG MẠNH BẢO GIA LỢI THẾ KỶ 10
ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG ALEXANDER NEVSKY-KINH ĐÔ SOFIA :Tọa độ: 42°42′N 23°20′E
2 CHIẾN BINH BẢO GIA LỢI - ĐỨNG GÁC TRƯỚC PHỦ TỔNG THỐNG -TẠI THỦ ĐÔ SOFIA NGÀY HÔM NAY 2010- VẪN QUÂN PHỤC NGỰ LÂM QUÂN NHƯ TRƯỚC 1945 .
* Đặc điểm của các Dân tộc Đông Âu họ rất căm ghét người Do Thái :
1. Nguời Do Thái phản phúc đã đóng đinh chúa Jesu trên cây Thập Ác ( Thánh Giá )
2.Nguời Do Thái tuy thông minh tuyệt đỉnh , nhưng họ không bao giờ trung thành với Quốc gia tạm dung . Họ sẵn sàng phản bội Quốc gia đã nuôi dưỡng họ để Phục quốc Do Thái .
*Có lẽ Tôi đồng ý với quan điểm này vì các lý do sau đây :
1.Cuộc Cách mạng tháng 10 tại Nga năm 1917 là do những người Nga gốc Do Thái lãnh đạo .
2. Tại Đức Quốc khi Quốc Trưởng Hitler lên nắm chính quyền 1933 : Có trên 2 triệu Đảng viên Cộng Sản ! đại đa số Đức gốc Do Thái .
3. Thời điểm này tại Mỹ gần 200 ngàn Đảng viên Cộng Sản, đại đa số cũng là Mỹ gốc Do Thái .
Điều này chứng tỏ họ không bao giờ trung thành với Quốc gia bảo bọc họ , Họ chỉ nghĩ đến Tổ Quốc Do Thái , sẳn sàng bất chấp thủ đoạn bá đạo như Ông TT thứ 33 .
***Năm 1918 Đông cung Thái tử Boris từ mặt trận phía Đông khói lửa ngút trời, chợt nghe tin Phụ Hoàng mất, Vội trở về Kinh Đô Sofia ,dự tang lễ , và Lên Ngôi Hoàng Đế Boris III : mở ra giai đoạn mới kiến tạo Vương Quốc : Bảo Gia Lợi Hùng mạnh , Quân Lực Thiện Chiến...
Hoàng Đế Boris III Anh Minh -Vĩ Đại của Dân tộc Bảo Gia Lợi , không những là một Vị Hoàng đế Tài giỏi -Anh minh trong việc cai trị , một Chiến binh Dũng Cảm tuyệt vời , mà là một Vị Hoàng Đế có tầm nhìn xa cho Dân tộc Bulgaria cả 50 năm:
Bulgaria là Quốc gia Cộng Sản duy nhất : tương đối có Tự do , Kênh tế phát triển , Khoa học , Y khoa phát triển . Đảng Cộng sản chỉ là cái mặt nạ, tất cả Đảng viên CS là trí thức yêu nước , và Sĩ quan của Hoàng Đế : Gặp thời thế thế , phải thế thế !, điều này đối nghịch hoàn toàn với Dân tộc Ba Lan : thà chết chứ không bao giờ chịu làm Đảng viên CS tay sai của kẻ thù truyền kiếp ! Lãnh tụ Stalin phải trầy vi tóc vảy mới nhuộm đỏ được Ba Lan 1952 , phải đấu trí chứ không thể tàn sát hết Dân Ba Lan . Lãnh tụ Stalin cũng không đến nỗi tàn ác như Lãnh tụ Mao Trạch Đông !. Nhưng ngày nay Dân Ba Lan thù Stalin vì thua trí Lãnh tụ của kẻ thù khốn kiếp !
QUỐC KỲ VƯƠNG QUỐC BẢO GIA LỢI _BULGARIA TỒN TẠI ĐẾN HÔM NAY
KHẨU HIỆU : ĐOÀN KẾT LÀ SỨC MẠNH
Motto : Съединението прави силата (Bulgarian) "Unity makes strength"
QUÔC CA : TỔ QUỐC YÊU DẤU
Anthem: Мила Родино (Bulgarian)
Dear Motherland
CÁC CHIẾN BINH LỮ ĐOÀN NHẨY DÙ -QUÂN LỰC HOÀNG GIA -BẢO GIA LỢI TRONG ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN
TRÁI TIM YÊU DẤU : SOFIA - NIỀM TỰ HÀO CUẢ DÂN TỘC BẢO GIA LỢI -KIẾN TẠO TỪ HOANG TÀN ĐỔ NÁT SAU 1945- TẤT CẢ LÀ MỒ HÔI NƯỚC MẮT CUẢ NGƯỜI DÂN- KHÔNG HỀ NHẬN VIỆN TRỢ CUẢ MỸ-NGA .
ĐÔNG CUNG THÁI TỬ BORIS -LỮ ĐOÀN TRƯỞNG LỮ ĐOÀN KỴ BINH -ĐÁNH BỘ CHIẾN :ĐÁNH TAN ĐẠO QUÂN THỔ NHĨ KỲ MỞ RỘNG LÃNH THỔ VƯƠNG QUỐC BẢO GIA LỢI 1913 . MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG 1918: ĐÁNH BỘ CHIẾN - ĐÁNH TAN ĐẠO QUÂN CUẢ LÃNH TỤ CS NGA- DO THÁI LEON STROSKY
Vương Quốc Bảo Gia Lợi là một Quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với Romania về phía bắc, giáp với Serbia và Cộng hòa Macedonia về phía tây, giáp với Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ về phía nam và cuối cùng giáp với Biển Hắc Hải về phía đông.
Dãy núi Balkan chạy từ đông sang tây phía bắc Bulgaria. Người Bulgaria gọi dãy núi này là Núi Cũ (Stara Planina). Sông Danube tạo thành phần lớn biên giới phía bắc Bulgaria. Giữa Sofia ở phía tây và Biển Hắc Hải (Black Sea) là một vùng đồng bằng thấp gọi là thung lũng hoa hồng, trong 3 thế kỷ đã trồng hoa hồng ở khu vực này. Hoa hồng Kazanluk được ưa chuộng và được xuất cảng do mùi hương riêng biệt của nó, dùng để sản xuất nước hoa. Về phía đông là bờ biển Hắc Hải với những mỏm đá phía bắc và các bãi cát phía nam thu hút du khách khắp thế giới. Vị trí của Bulgaria ở giao lộ quan trọng của hai châu lục khiến đây là nơi tranh giành quyền lực trong nhiều thế kỷ. Là một Vương quốc độc lập trong nhiều thế kỷ, Bulgaria đã là một cường quốc lớn trong thời gian dài thời Trung cổ.
Bulgaria là một nước có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời tại châu Âu. Đệ nhất Đế chế (Bulgaria) hùng mạnh đã từng mở rộng lãnh thổ ra khắp vùng Balkan và có những ảnh hưởng văn hóa của họ ra khắp các cộng đồng người Slavic tại khu vực này. Vài thế kỷ sau đó, với sự sụp đổ của Đệ nhị đế chế (Bulgaria), đất nước này rơi vào tay sự thống trị của Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1878, Bulgaria trở thành một Vương Quốc độc lập .
Dân số Bảo Gia Lợi chỉ khoảng 8 triệu dân, Diện tích : 111,0000 KM2 Kinh Đô Sofia 1.2 triệu. Đây là điểm yếu của Quốc gia Bảo Gia Lợi dân số quá ít , nên không thể trở thành Cường Quốc của Thế giới, dù thông minh, dũng cảm , yêu nước nồng nàn, Quân lực thiện chiến , do mất lãnh thỗ quá nhiều về tay Thổ Nhĩ Kỳ trong các Thế kỷ trước !
BÃI BIỂN HẮC HẢI Black Sea -CUẢ QUỐC GIA BẢO GIA LỢI : ANH DŨNG-THÔNG MINH -YÊU NƯỚC NỒNG NÀN
Đệ nhị thế chiến bùng nổ. Vương Quốc Bảo Gia Lợi :là Đồng minh của phe Trục .
Hoàng Đế Boris III là Đồng minh Tuyệt Vời của Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler ...
Năm 1940 ,Quân lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi tấn công Thổ Nhĩ Kỳ ,đánh tan tác Quân Lực Thổ Nhĩ Kỳ khôi phục lại vùng đất cũ : Nam Dobrudzha , đã bị mất từ 2 thế kỷ trước .
Sau đó Quân lực Hoàng Gia- Bảo Gia Lợi : tấn công Hy Lạp cũng đánh tan tác Quân Lực Hy Lạp chiếm nhiều vùng đất cũ mà Hy Lạp đã xâm chiếm trước đây 3 thế kỷ .
Quân lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi : Nhất Kiếm Trấn Ải -vùng Hành lang phía Nam Âu Châu cho Quốc trưởng Vĩ Đại Hiler !
NGƯỜI ĐẸP CUẢ XỨ SỞ HOA HỒNG- BẢO GIA LỢI TSVETANA PIRONKOVA TRONG TRẬN CHUNG KẾT VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI TENNIS TẠI MỸ QUỐC 2010
Pironkova at US Open 2010 -Tsvetana Pironkova at the Wimbledon Championships
...at Wimbledon 2010,Tsvetana defeating 5-time champion and former World No. 1 Venus Williams in the quarterfinals .
1940-1943 Quân Lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi Bách chiến Bách thắng, bảo vệ thành công Hành Lang phía Nam Châu Âu Cho Phe Trục .Quân Lực Bảo Gia Lợi chưa bao giờ biết đến từ chiến bại trên chiến trường khói lửa ngút trời của Âu Châu !.
Nhưng từ Mùa Hè 1942 : Quân Lực Mỹ và Liên Sô đã bắt đầu phản công Quân Lực của Phe Trục ,trên 2 mặt trận Phía Tây và Phía Đông của Âu Châu .
Hoàng Đế Anh Minh Vĩ Đại Boris III biết rằng :sự thất trận của phe Trục là khó tránh khỏi . Từ cuối năm 1942 tại Châu Á : Hạm Đội Liên hợp Hàng Không Mẫu Hạm duy nhất của Nhật Bản, đã bị Quân Lực Mỹ Quốc tiêu diệt .
Thủ tướng Nhật Bản đã không chịu nghe lời Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler ,tấn công từ Mãn Châu vào vùng Trung Á Seberi , để tấn công Nga 2 gọng kìm . Lại tự ý tấn công Mỹ Quốc !.
Bây giờ Quân Lực Mỹ Quốc đã tham chiến . Liên Bang Sô Viết lại sử dụng vùng Trung Á làm hậu phương : thành lập các Sư đoàn ,Quân đoàn và dời tất cả các nhà máy kỹ nghệ chiến tranh sản xuất vũ khí , Phi cơ , Đại Bác từ Âu Châu sang Vùng Trung Á .
Trong lúc đó : Quân Lực Bảo Gia Lợi phải bảo vệ Hành Lang phía Nam Âu Châu , ngăn chặn Quân Lực : Thỗ Nhĩ Kỳ , Hy Lạp, Anh Quốc : bắt tay với Đại danh tướng Mỹ Quốc : Trung tướng Eisenhower : Tư lệnh Quân lực Mỹ chiến trường Âu Châu tại Mặt trận Phía Tây . ( năm sau 1943 Trung tướng Eisenhower , lên Đại tướng và Thống tướng : Tổng Tư lệnh Quân lực Đồng Minh ).
Tại Mặt trận Phía Đông (Nga ): Đại Danh tướng- Đại tướng Zhukov cũng đã bắt đầu phản công Liên quân Đức-Romania tại mặt trận Volgograd bên giòng sông Volga ( sau này thành phố Stalingrad ).
Trong suốt năm 1942 ,qua nửa năm 1943 Trung tướng Eisenhower cũng gặp khó khăn tại Mặt trận phía Tây : một mình phải đương đầu Liên Quân :Đức -Ý -Pháp.
Pháp đã đầu hàng trở thành phe Trục. Trong lúc đó Quân Lực Anh Quốc phải chiến đấu bảo vệ lãnh thổ , Cánh quân Phía Nam , thì bị Quân Lực -Bảo Gia Lợi chận đứng, không những vậy Quân Lực Thổ Nhĩ Kỳ , và Hy Lạp cũng bị chận đứng. Phải công nhận Quân Lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi thiện chiến hơn Quân Lực Anh Quốc , . Một mình chận đứng Liên Quân 3 nước là một Kỳ Tích Chiến Tranh. Xứng Đáng Danh Hiệu :
Nhất Kiếm Trấn Ải :Mặt Trận Phương Nam .
(Trong lúc Dân số không bằng 1/4 Dân số của mỗi Quốc Gia)
**Qua năm 1943 Quân Lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi : Vẫn Hiên ngang Trãn giữ Mặt Trận Phương Nam Vững như Bức Thành Đồng .
Bỗng tin động trời : tại Mặt Trận phía Đông : Volgograd bên giòng sông Volga :Phương Diện Quân số 6 Quân Lực Đức Quốc phải đầu hàng tại Volgograd (Stalingrad) 2.1943. Quân Lực Liên Sô bắt làm tù binh trên 330,000 Quân, hàng chục Tướng Lãnh Đức Quốc từ :Thiếu tướng , Trung tướng , Đại tướng và kể cả Thống Chế 5 Sao : Fiedrick Paulus..
Lúc này Hoàng Đế Vĩ Đại Anh Minh Boris III , ở thế khó xử : Quân Lực Liên Sô đang tiến quân về Phương Đông, để khôi phục lãnh thỗ là chuyện sớm muộn. Sau đó sẽ tấn công Bảo Gia Lợi là Quốc Gia Đầu Tiên, để làm bàn đạp tấn công vào Đức Quốc .
Trong lúc này : 3 Quân đoàn Thiện chiến của Quân Lực Hoàng Gia -Bảo Gia Lợi lại đang Trãn giữ : Mặt Trận Phương Nam .
Nếu rút quân về Vương Quốc - Bảo Gia Lợi ,thì Liên Quân Thỗ Nhĩ Kỳ , Hy Lạp, Anh Quốc sẽ bắt tay với Đại danh tướng Mỹ Quốc : Trung tướng Eisenhower . Thế thì Đức Quốc sẽ bị đánh 3 gọng kềm : Nam- Tây-Và Đông.
Nhưng Nếu không rút quân, Thì Vương Quốc- Bảo Gia Lợi sẽ nguy mất !.
Tất cả Tai hoạ này là do Ông Thủ tướng Nhật Bản tham lam, ngu ngốc Hideki Toyo, đã gây ra Tai Hoạ Tày Trời cho Phe Trục , khi ngu ngốc tấn công Mỹ Quốc !,mà không tấn công từ Mãn Châu vào vùng Trung Á Seberi của Nga, như lời yêu cầu của Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler và Phe Trục.
THỐNG CHẾ 5 SAO ĐỨC QUỐC : FEIEDRIC PAULUS--- ĐẠI TƯỚNG TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG Chief of Staff : ARTHUR SCHMIDT (middle) , TRUNG TƯỚNG WILELM ADAM PHỤ TÁ TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG : PHƯƠNG DIỆN QUÂN SỐ 6 QUÂN LỰC ĐỨC QUỐC :VÀ TRÊN 330,0000 CHIẾN BINH ĐẦU HÀNG : 2 February 1943- Bloodiest Battles in Stalingrad, Russian SFSR, Soviet Union .
**ĐÃ LÀM CHO HOÀNG ĐẾ BORIS III ĐAU BUỒN LÂM BỆNH NẶNG -QUA ĐỜI THÁNG 8 NĂM 1943 ĐỂ LẠI MẬT LỆNH .....
***Từ Ngày Trận đánh Bên dòng sông Volga kết thúc bi thảm cho Quân Lực Đức Quốc , Quân Lực Liên Sô tiến về Phương Đông khôi phục lại Lãnh Thổ . Hoàng Đế Boris trầm tư già hẵn ! với tốc độ này , thì cuối năm nay Liên Bang Sô Viết sẽ khôi phục lại toàn bộ lãnh thổ bao la của Đất nước Nga, sau đó sẽ dốc toàn lực Tổng Tấn công Vương Quốc Bulgaria.
Bắt buộc phải rút : Phương Diện Quân tại Mặt trận Phương Nam : 3 Quân Đoàn trên 150 chục ngàn quân (150,000 Chiến binh ) Quyết tử với Quân Nga !
Nhưng nếu như vậy Quốc Trưởng Hitler sẽ bị bị tấn công 3 gọng kềm.
Số phận Đức Quốc sẽ bi thảm, nếu Đức Quốc bi thảm , chắc chắn toàn bộ Phe Trục sẽ bi thảm . Quân lực Phe Trục- Đông Âu làm sao có thể chống lại Liên quân Nga- Mỹ được ! Quả thật đây là bài toán không lời giải :
Số phận 3 Vương Quốc : Bulgaria, Hungary, Romania sẽ bi thảm !
3 Vương Quốc Này Có Tội Tình gì ? Hỡi Đức Chúa Cao Cả ?
Chúng Tôi Chỉ Khôi Phục Lại Những Lãnh Thỗ Của Tổ Tiên Đã Bị Mất .
Chúng tôi tận diệt những người Do Thái vì họ phản phúc , trước đây đã đóng đinh Chúa Jesu trên cây Thập Ác, và Họ chưa bao giờ trung thành với 3 Vương Quốc nhỏ bé Đông Âu , mỗi khi 3 Vương Quốc bị xâm lược , Họ đều cấu kết với kẻ thù ngoại bang để làm nội ứng ! Thế kỷ 20 : Họ là mầm mống của Chủ Nghĩa Cộng Sản !
Vậy Trừng Trị Họ là Phạm Tội với Đức Chúa Cao Cả Hay Sao ?
3 Vương Quốc Nhỏ Bé Đông Âu Sẽ Bị Thống Trị ,Dưới Bàn Tay Của Lãnh Tụ Máu lạnh Stalin : Đó Là Ý Muốn Của Đức Chúa Cao Cả Hay Sao ?
**Không Vạn Lần Không ! Đức Chúa Cao Cả !
Dân Tộc Bảo Gia Lợi Yêu Dấu : Sẽ Đứng Dậy :Từ Đống Lửa Tro Tàn Của Chiến Tranh ! Để Chứng Minh : Những Gì Chúng Tôi Làm Hôm Nay Là Đúng !
MẬT LỆNH CUẢ HOÀNG ĐẾ BORIS III
1. Sau khi Hoàng Đế Băng Hà, Vương Quốc Bảo Gia Lợi sẽ thành lập Chính thể Cộng Hoà .
Hai Chính Đảng sẽ lãnh đạo Quốc Gia Cộng Hoà Bảo Gia Lợi :
Đảng Cộng Hoà Tôn Chỉ : " Tổ Quốc Hùng Mạnh "
Đảng Cộng Sản Xã Hội Chủ Nghĩa .Tôn Chỉ :' Công Bằng-Bác Ái"
Khẩu hiệu của Tổ Quốc vẫn là : "Đoàn Kết là Sức Mạnh" .
Quốc Ca : "Tổ Quốc Yêu Dấu"
2 . Số Phận 50 Ngàn người Do Thái Còn Lại, tìm cách trì hoãn với Đức Quốc Khoang Tận Diệt, cuối cùng giao Đức Quốc ra tay !
3. Rút: Phương Diện Quân Phương Nam Về !
4. Cộng Hoà Bảo Gia Lợi Tuyên Bố Trung Lập .
5.Nếu Các Nước Đồng Minh Không Đồng Ý , Mà Vẫn Ngoan Cố : Tổng Tấn Công -Cộng Hoà Bảo Gia Lợi.....
CỘNG HOÀ BẢO GIA LỢI KHAI SINH -SỐ PHẬN 50 NGÀN DÂN DO THÁI
Mùa Hè năm 1943 Hoàng Đế Boris III (1918-1943) Anh Minh -Vĩ Đại Của Vương Quốc Xứ sở Hoa Hồng : Anh Dũng-Thông Minh Bảo Gia Lợi : Băng Hà Hoàng Đế về nơi suối vàng với nỗi niềm đau khổ : Vì Dân Tộc Bảo Gia Lợi Yêu Dấu : Nhân định phải thắng Thiên: Dân tộc Bảo Gia Lợi phải Chiến thắng Định mệnh Oan Nghiệt mà Đức Chúa Cao Cả đã an bài cho Họ ! Đành phải phụ lòng Quốc trưởng Adolf Hitler người bạn Đồng Minh Cao Quí của Phe Trục !..
* Sau khi Hoàng Đế Băng Hà , Vương Quốc Bảo Gia Lợi bỗng lâm vào tình trạng hoảng loạn một thời gian ngắn ! 2 Chính Đảng Xuất hiện ;
Đảng Cộng Hoà , và Đảng Cộng Sản Xã Hội Nghĩa , Liên hiệp khai sinh : Quốc Gia Cộng Hoà Bảo Gia Lợi .
Đặc điểm 2 chính Đảng là thành phần Sĩ quan Quân đội , và Trí thức yêu nước .
Cộng Hoà Bảo Gia Lợi khai sinh ,Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler không được vui lắm ! Nhưng Bảo Gia Lợi là Đồng Minh cực kỳ Quan trọng đang trấn giữ Phương Nam, với Phương Diện Quân " Quả Đấm Thép " bảo vệ hữu hiệu Hành Lang phía Nam cho phe Trục .
Tháng 7 năm 1943 , Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler yêu cầu Quốc gia Cộng Hoà Bảo Gia Lợi hành quyết thanh toán 50 ngàn người Do Thái còn lại, đang bị giam giữ .
Lãnh tụ Đối lập CS XHCN Quyền Thủ tướng Kimon Georgiev Stoyanov, thay mặt Tổng thống Lãnh tụ Cộng Hoà , tìm cách trì hoãn hành quyết , Quốc trưởng Hiler nổi giận , yêu cầu Chính phủ Cộng Hoà- Bảo Gia Lợi trục xuất ,áp giải 50 ngàn người Do Thái còn lại đến Trại tập trung Treblinka ở Ba Lan do Lực lượng SS Đức Quốc Xã kiểm soát .
( Lúc này Dân tộc Ba Lan Khốn khổ đang bị Đức Quốc chiếm đóng phía Tây ,,Nga chiếm đóng phía Đông .Toàn Dân-Toàn Quân Anh Dũng kháng chiến chống Đức-Nga )
THỦ TƯỚNG CỘNG HOÀ BẢO GIA LỢI KIMON GEORGIEV 1943-1946.
LÃNH TỤ ĐẢNG CỘNG SẢN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - ANH HÙNG ĐẠI TÁ QUÂN LỰC HOÀNG GIA -BẢO GIA LỢI TRONG ĐỆ NHẤT THẾ CHIẾN- ĐẠI TƯỚNG HỒI HƯU -THỦ TƯỚNG VƯƠNG QUỐC- BẢO GIA LỢI 1934-1935- BỘ TRƯỞNG NGOAI GIAO 1935-1940
Colonel_General 4 stars -Kimon Georgiev Stoyanov (Bulgarian: Кимон Георгиев Стоянов) (August 11, 1882, — September 28, 1969) was a Bulgarian General and Prime minister.
Sau vụ trục xuất 50 ngàn Dân Do Thái qua Ba Lan , Thủ tướng thừa lệnh Tổng thống Lãnh tụ Cộng Hoà ra lệnh triệt thoái : Phương Diện Quân Phương Nam " Quả Đấm Thép " về Bảo vệ Tổ Quốc , cùng với 3 Phương Diện Quân trong nước , Tổng số Quân lực trên 600 ngàn chiến binh Anh Dũng Thiện Chiến sẵn sàng : Bảo vệ Tổ Quốc yêu dấu !
PHÙ HIỆU QUÂN LỰC BẢO GIA LỢI : MÃNH SƯ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG -QUYẾT TỬ CHO TỔ QUỐC THÂN YÊU
Giai đoạn 1 : Cộng Hoà Bảo Gia Lợi tuyên bố Trung Lập !
Quốc trưởng Vĩ Đại Hitler sững sờ !
Mặt trận Phương Nam bỏ trống : Liên Quân Anh-Thổ Nhĩ Kỳ- Hy Lạp Bắt tay Đại Danh Tướng Eisenhower . Đại Danh Tướng Eisenhower thăng Đại tướng Tổng Tư Tư lệnh Quân Lực Đồng Minh , thời gian ngắn phong Thống tướng :Tổng Tấn Công trên 2 Mặt trận : Phía Tây và Phía Nam .
Giai đoạn 2:
Thổ Nhĩ Kỳ - Hy Lạp :Phản đối không nhìn nhận Cộng Hoà Bảo Gia Lợi là trung lập vì Họ Hận Thù đã bị đánh tan tác trước đây và mất Lãnh Thỗ .,
Lôi kéo Anh Quốc vào cuộc cũng phản đối , và sau đó Liên Sô cũng khồng nhìn nhận . Mỹ Quốc đành theo đa số .
*Quốc Gia Nhỏ Bé- Anh Dũng -Thông Minh : Bảo Gia Lợi chỉ còn con đường duy nhất là Quyết Tử !
"Thế Giới Tự Do - - Đức Chúa Cao Cả --Đã Bỏ Rơi Chúng Ta ! .
DÂN TỘC BẢO GIA LỢI CHỈ CÒN CON ĐƯỜNG DUY NHẤT LÀ QUYẾT TỬ VỚI ĐẾ QUỐC NGA !"
LÃNH TỤ ĐẢNG CỘNG HOÀ- TỔNG THỐNG CỘNG HOÀ BẢO GIA LỢI ...
PHƯƠNG DIỆN QUÂN - QUẢ ĐẤM THÉP TRẤN GIỮ : MẶT TRẬN TIỀN PHƯƠNG BIÊN GIỚI TÂY BẮC: BẢO GIA LỢI -NGA-LỖ MA NI
Cuối năm 1943 ,Quân Lực Liên Sô tiến về Phương Đông đã khôi phục lại Lãnh Thổ Cộng Hoà Ukraine đang tiến quân qua Cộng Hoà Moldavi.
Cộng Hoà Moldavi của Liên Sô là giáp giới với 2 Vương Quốc : Romania (Lỗ Ma Ni) ,Bulgaria.
Hoàng Đế Boris III Anh Minh -Vĩ Đại đã Dự Đoán chính xác ....
Quân Nga đã khôi phục Cộng Hoà Moldavi , trước mặt là Vương Quốc Lỗ Ma Ni , cách một rẽo đất nhỏ là Vương Quốc Bảo Gia Lợi .
Quân Nga sẽ không tấn công Lỗ Ma Ni, mà dốc toàn lực :Tổng tấn công : Bảo Gia Lợi để làm bàn đạp tấn công vào Đức Quốc .
Rút : Phương Diện Quân :Phương Nam " Quả Đấm Thép " là điều phải làm !
Đức Quốc sớm muộn cũng bại trận ! Phải cứu Quốc Gia- Bảo Gia Lợi Yêu Dấu !
TSTAR BORIS III (1918-1943)
HOÀNG ĐẾ VĨ ĐAI -ANH MINH BORIS III CUẢ XỨ SỞ HOA HỒNG : BẢO GIA LỢI- BULGARIA
"Không ! Vạn Lần Không ! Đức Chúa Cao Cả !
Dân Tộc Bảo Gia Lợi Yêu Dấu : Sẽ Đứng Dậy :Từ Đống Lửa Tro Tàn Của Chiến Tranh ! Để Chứng Minh : Những Gì Chúng Tôi Làm Hôm Nay Là Đúng !"
Reign 3 October 1918 – 28 August 1943 (24 year 329 days)
Predecessor Ferdinand I of Bulgaria, Prince Regnant & Tsar of Bulgaria
Tsar of Bulgaria
Tsaritsa consort of Bulgaria Giovanna of Italy
Issue Marie Louise of Bulgaria
Simeon II of Bulgaria Full name
Boris Klemens Robert Maria Pius Ludwig Stanislaus Xaver House House of Saxe-Coburg and Gotha
Father Ferdinand I of Bulgaria Mother Marie Louise of Bourbon-Parma
Born 30 January 1894(1894-01-30)
Sofia, Principality of Bulgaria,
Died 28 August 1943(1943-08-28) (aged 49)
Sofia, Bulgaria
Burial Rila Monastery
Children ( Công chúa Hoàng Tử ) Princess Marie Louise Prince Simeon
Religion Eastern Orthodox ( Chính thống Giáo Phương Đông ).
Cuối năm 1942 Danh tướng Nga Nguyên Soái Zhukov Tổng tư lệnh 3 Phương Diện Quân đã tiến vào Giải phóng Cộng Hoà Moldavi,.Đại quân hơn nửa triệu Chiến binh Liên Bang Sô Viết đã đến ngưỡng cửa Romania và Bulgaria (Bảo Gia Lợi ).
Lúc này trên Toàn Quốc Bảo Gia Lợi tất cả Trường học đã đóng cửa : Tất cả học sinh Trung học -Sinh Viên Nam- Nữ , đã xếp bút nghiên khoác áo chiến binh ra chiến trường, Tất cả Thiếu niên, Thiếu nữ từ 12-16 tuổi đều nhập ngũ vào trường Thiếu Sinh Quân được huấn luyện cấp tốc về Quân Sự . Trong các nhà máy Quốc phòng , Kỹ nghệ Chiến tranh ,Kỹ nghệ Thực Phẩm tất cả công nhân tình nguyện làm thêm giờ kể cả ngày chủ nhật: không lương để phục vụ chiến trường , và họ hăng hái thi đua làm năng suất cao với tất cả lòng nhiệt tâm ,. Trên các đường phố , trong các Trường Quân sự , trên những cánh đồng lúa Mì hay trong các nhà máy :những bài hát yêu nước , và Quốc ca : Tổ Quốc Yêu Dấu được cất lên !
Toàn Dân Tộc : Bảo Gia Lợi đều một lòng Đoàn Kết bên nhau quyết tử với Đế Quốc Nga !
Hình Ảnh Toàn Dân -Toàn quân Bảo Gia Lợi Quyết tử ! nhất là Phương Diện Quân Phương Nam " Quả Đấm thép " : Nhất kiếm trấn ải Phương Nam 3 năm trời ! Đã làm cho Đại Danh tướng Nguyên Soái Zhukov lưỡng lự , trong lòng Ông cũng có sự cảm phục trong đó , thêm thay giữa Nga và Bảo Gia Lợi mối thù hận cũng không có bao nhiêu! ( Nhưng với Romania thì khác !).
Nguyên Soái Zhukov điện về nói chuyện với Đại Nguyên Soái Stalin !
Đại Nguyên soái Stalin cũng lưỡng lự ! Thật ra sau Trận Stalingrad (6.1942-2.1943) dù chiến thắng Vĩ Đại, Quân Lực Liên Sô cũng thiệt hại khá nhiều, trong quân ngũ quá nhiều Tân binh , lại hành quân tái chiếm Lãnh thổ bao la trong thời gian dài ròng rả trên 10 tháng, Quân Lực cũng đã mõi mệt .
Bây giờ Tổng tấn Công vào Bảo Gia Lợi không phài là chuyện dễ dàng !. Ngoài Quân lực Thiện chiến,, Họ còn có lòng quyết tâm Hy Sinh cho Tổ Quốc .
Còn một Lý Do mà Đại Nguyên soái Stalin lưỡng lự.
Lúc này Bên Mặt trận Phía Tây , và Phía Nam : Đại Danh Tướng Thống tướng Eisenhower dù gặt hái nhiều chiến thắng trong Tổng phản công , nhưng để tấn công vào Đức Quốc không phải là chuyện dễ dàng .
Muốn tấn công vào Đức Quốc bắt buộc phải tái chiếm nước Pháp , để làm đầu cầu , bàn đạp tấn công vào Đức Quốc. Nhưng để tái chiếm nước Pháp không phải là chuyện đơn giản. Ngoài quân số Pháp Và Đức gần Nửa triệu quân. Quân lực Mỹ và Đồng Minh phải sử dụng ít nhất là 10 Quân đoàn ( 3 Phương diện Quân trên 500 ngàn quân )mà phải đổ bộ bằng đường biển, và ít nhất 4 Sư đoàn Nhẩy dù : Nhảy từ trên không để thiết lập đầu cầu cho Dương Vận Hạm đổ bộ Số Lượng Dương Vận Hạm , và Số Lượng Phi Cơ Khổng lồ . Quân lực Mỹ chưa có đủ, ít nhất phải mất 6 tháng nữa Mỹ -Anh mới có đủ số !( Lãnh tụ Stalin đã nghĩ đúng 100%).
Chú thích
*1 Sư đoàn là từ 16,000 đến 25,000 chiến binh !.
Sư đoàn của Quân lực Mỹ trung bình 22,000 chiến binh .
Vì thế Tư lệnh Sư đoàn Quân Lực Mỹ là Thiếu tướng 2 sao
1 Phương Diện Quân :3 Quân đoàn trung bình 150,000 Chiến binh ;
Hình như các Quốc Gia tại Châu Á đại đa số : 1 Sư đoàn chỉ có 10,000 đến 12,000 Chiến binh
Vì thế- :Phương Diện Quân Trung Cộng : chỉ có 100,000 quân
*** Đại Nguyên soái Stalin quyết định chờ đến năm sau qua Hè 1944 khi Đại Danh tướng Thống tướng Eisenhower đỗ bộ vào Pháp Quốc .Liên Sô sẽ tấn công Bulgaria- Bảo Gia Lợi.
Sau đó Đại Nguyên soái Stalin điều động Nguyên Soái Zhukov mở 2 Chiến dịch để bình định Lãnh thỗ Liên Sô tại 3 nước - vùng biển Baltic vẫn còn Quân Đức hiện diện : Estonia , Latvia, Lithuania ( Bắc Âu -tiếp giáp Vịnh Phần Lan )
Chiến dịch :Novgorod Offensive on January 26, 1944- February 21, 1944
Mục đích : Tiêu diệt Phương Diện Quân _Phương Bắc của Quân Lực Đức Quốc (German Army Group North )
Chiến Dịch này Quân Lực Liên Sô Chiến thắng, nhưng đến Chiến dịch sau thì Chiến bại !
Narva Offensive 2 February – 10 August 1944
Quân Lực Liên Sô Chiến bại !
MẶT TRẬN PHÍA TÂY MUÀ HÈ 1944 ĐẠI CHIẾN : GIẢI PHÓNG PHÁP QUỐC--- MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG MUÀ THU 1944 : DÂN TỘC ANH HÙNG BẢO GIA LỢI : NHÂN ĐỊNH THẮNG THIÊN
A-MẶT TRẬN PHÍA TÂY MUÀ HÈ 1944 ĐẠI CHIẾN - GIẢI PHÓNG PHÁP QUỐC
**Trong phần này tôi dùng từ :Mỹ Quốc và Đế Quốc Nga !
Lý do : Các Nước Đông Âu gọi Liên Bang Sô Viết là Đế quốc Nga Xâm Lược
Các nước Tây Âu gọi USA là Mỹ Quốc (America) ( kể cả Đức , Ý , Phần Lan : Phe Trục )
Từ xưa đến nay khi nhắc đến chiến thắng Giải phóng Pháp Quốc mùa Hè 1944, Của Quân Lực Đồng Minh Mỹ-Anh- Canada trong ngày D. Day , Người ta thống nhất đây là Chiến thắng Vĩ Đại !
Nhưng bất kỳ Chiến thắng nào cũng mặt trái của nó đó là sự thương vong .
**Chiến thắng càng Vĩ Đại -Thương vong càng thảm khốc !
*Hình ảnh 4 Sư đoàn Nhẩy Dù : Anh dũng lao ra từ phi cơ nhẩy từ trên không nhẩy xuống lòng địch để thiết lập đầu cầu cho các Dương Vận Hạm đổ bộ : Đã bị bắn từ dưới mặt đất , rớt như rung rụng . Sư đoàn chỉ còn chưa tới 1/4 quân số khi xuống mặt đất ! Kể cả Thiếu tướng tư lệnh , Chuẩn tướng Tư lệnh phó Sư đoàn, cũng tan xác khi cánh dù còn lơ lững trên không ! Quá thảm khốc !
Trích một đoạn trong ngày D Day : Thảm Khốc 5.6.1944 . Định mệnh oan nghiệt cho Các Sư Đoàn Nhẩy Dù : Sư đoàn 82nd , Sư Đoàn 101st Quân Lực Mỹ Quốc , Sư đoàn Nhẩy Dù 6th Quân Lực Anh Quốc , và Sư đoàn Nhẩy Dù Canada.
" 4 năm sau cuộc hành quân Nhẩy Dù qui mô nhất trong lịch sử Quân Lực Mỹ Quốc. Một câu hỏi được đặt ra :
" Sự Tổn thất Nhân mạng Khổng lồ : của các Chiến binh Nhẩy Dù ,và quân cụ Chiến tranh của 4 Sư đoàn Nhẩy Dù có xứng đáng với chiến thắng hay Không ? "
* *Chú thích : 1 Sư đoàn Nhẩy Dù của Quân Lực Mỹ Quốc : 25,000 Chiến binh :
-3 Trung đoàn Nhẩy Dù-1 Trung đoàn Biệt Động Quân- 1 Trung đoàn Pháo Binh.
1 Tiểu đoàn Quân Y , 1 Tiểu đoàn Trinh Sát , 1 Tiểu đoàn Truyền tin-1 Tiểu đoàn Yểm trợ ..
"" Tôi không có cảm giác gì cả khi biết rằng chúng tôi sẽ nhẩy dù xuống mặt trận Normandy của Pháp Quốc . Chúng tôi nhảy vào lúc 2:30 AM sáng ngày 5 tháng 6 năm 1944. Tôi không biết những gì sắp xảy ra , và cũng như những đồng đội khác , tôi biết rằng sẽ không bao giờ trở về để có thể : thấy được California yêu dấu !..
Lúc 22 giờ đêm ngày ngày 5 tháng 6 năm 1944 : các chiến binh Nhảy dù và Biệt Động Quân , Pháo binh của 3 sư đoàn Nhảy dù : 82nd, 101st và Sư đoàn 6th Nhảy Dù Anh Quốc , chúng tôi tiến vào những Phi cơ vận tải C.47 , và những Phi cơ "Không động cơ " Waco , Horsa. Tổng cộng 1, 086 Phi cơ để không vận 3 sư đoàn Nhẩy dù tiên phong . 18 Phi Cơ chở các toán tiền sát viên(Pathfinders) cất cánh lúc 23 giờ khoảng một tiếng sau khi 24 giờ : Đoàn phi cơ khổng lồ không vận toàn bộ 3 Sư đoàn Nhảy Dù , bắt đầu rời Sân Bay và khoảng 2 tiếng sau chiếc phi cơ cuối cùng mới rời Sân bay . Trên bầu trời một đoàn Phi cơ dài hơn 300 dặm ( miles) với hàng trăm phi cơ C.47 bay hình chữ V. Mỗi đội hình có 3 v nhỏ, mà mỗi v có 3 Phi cơ ..
" Cuộc Nhảy dù xảy ra rất tồi tệ , vì những đám mây mù dày đặt trên các vùng nhảy. Thoạt đầu các phi cơ chở các toán tiền sát viên tìm bãi nhảy không kiếm được địa điểm nhảy như đúng dự trù, bởi các đám mây mù dày đặt . Khi nhảy xuống các toán Tiền sát viên ,biết rằng họ đã bị thả lầm.,để tránh sự hoang mang cho các Phi công. Các toán Tiền sát viên, họ đã không đốt lên đèn báo hiệu để hướng dẫn bãi nhảy. Thêm vào đó hoả lực phòng không nặng nề , dày đặc của đối phương , khiến các Phi công phải tách ra khỏi đội hình chữ V, đã tăng thêm phần tản loạn rải rác khi 3 Sư đoàn nhảy xuống mặt đất .;
3 yếu tố : Mây mù dày đặt , thả lầm các Toán tiền sát viên tìm bãi , Hoả lực phòng không và Hoả lực từ mặt đất của đối phương đã gây tai hoạ thảm khốc cho 3 Sư đoàn Nhảy Dù 82nd , 101st , và 6th.
.." Những Phi cơ bị trúng đạn phòng không 20ly, 80 ly (mm) : Chúng tôi thấy những phi cơ bên phải , bên trái , phía trên, phía dưới bị bắn hạ, bốc cháy nổ tung trên không. Chúng tôi không biết chúng tôi đang ở đâu, ngoại trừ biết rằng mình đang ở trên không phận của lục địa Cotentin "
B-MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG MUÀ THU 1944 : DÂN TỘC ANH HÙNG BẢO GIA LỢI : NHÂN ĐỊNH THẮNG THIÊN
"Thế Giới Tự Do - - Đức Chúa Cao Cả : Đã Bỏ Rơi Chúng Ta ! .
Dân tộc Bảo Gia Lợi Chỉ Còn :Con Đường Duy Nhất Là Quyết Tử với Đế Quốc Nga "
Đoàn Kết Là Sức Mạnh
Tổ Quốc Yêu Dấu : Là Hồi Kèn Xung Trận !
*Tháng 8 năm 1944 , Mặt trận Phía Tây : Tập đoàn -Phương Diện Quân Đồng Minh : Mỹ-Anh- Canada trên 500 ngàn chiến binh đã đỗ bộ thành công vào bãi biễn Normandy của Lục địa Cotentin , trước sự Hy sinh dũng cảm của 4 Sư đoàn Nhảy Dù : Hàng chục ngàn chiến binh Nhảy Dù, đã nằm lại mãi mãi trên bãi biển Normandy , Họ đã không bao giờ trỡ lại Quê hương yêu dấu : Mỹ- Anh-Canada, .
8 Quân đoàn Đồng minh cũng đã anh dũng hy sinh thêm hàng chục ngàn chiến binh từ đồng ruộng thôn quê , đến rừng núi thành phố , để giải phóng Pháp Quốc . Thiếu tướng General Maxwell Taylor (August 26, 1901 – April 19, 1987) Tư lệnh Sư đoàn 101st Nhảy Dù-Quân Lực Mỹ Quốc người may mắn thoát chết trong ngày thảm khốc D. Day 5.6.1944, (The Longes Day) . Cuối ngày D : Tướng Taylor chỉ có trong tay khoảng 2,500 Chiến binh (1/10 Sư đoàn ). Chuẩn tướng Tư lệnh Phó , Đại tá tham mưu trưởng đã anh dũng hy sinh khi cánh Dù Thiên thần , vẫn còn lơ lững trên bầu trời của ngày dài nhất D. Day (The Longest Day )
5 Trung đoàn trưởng cũng đã lần lượt hy sinh trên bầu trời hay trong trận đánh của ngày dài nhất D. Day của bãi biến Máu .
Thiếu tướng General Maxwell Taylor đã cùng Sư đoàn Tân Lập tiến vào giải phóng Thủ Đô Paris ngày 25.8 .1944
Trong lúc đó tại Mặt trận phía Đông : Quân Lực Liên Sô đã Chiến bại trong Chiến dịch Narva Offensive 2 February – 10 August 1944 .
Thế là bao nhiêu bực tức , Lãnh tụ Máu lạnh Stalin trút lên đầu Dân tộc nhỏ bé Bảo Gia Lợi tội nghiệp !
Hoàng Đế Boris III : tính qua mặt Lãnh tụ Vĩ Đại hay sao ? khi để Di chúc Lập : Đảng Cộng Sản XHCN, Tên Lãnh tụ Kimon Georgiev lại là Đại tướng -Thủ tướng -Bộ trưởng Ngoại Giao của Ông ta .
Lãnh tụ Máu lạnh Stalin là đứa con nít lên ba hay sao ? mà không biết chuyện này ?
Lãnh tụ Máu Lạnh hạ lệnh : Đại Danh tướng Nguyên Soái Zhukov Tổng Tư lệnh -Tập đoàn Phương Diện Quân (3 PDQ), bổ sung Quân Số đầy đủ , di chuyển cấp tốc đến biên giới Romania , Bulgaria , Chờ lệnh Đại Nguyên Soái Stalin Tổng tấn Công , bằng mọi cách chiếm toàn bộ Quốc Gia Bảo Gia Lợi trước 31.12.1944. Đây là Quân Lệnh .!
Sau đó Lãnh tụ Máu Lạnh hạ lệnh Không lực Liên Sô : Xuất kích dội Bão lửa xuống Thủ Đô Sofia , và tất cả các Nhà Máy Quân sự sản xuất Phương tiện Chiến tranh : Vũ khí , Đạn dược .
Để coi Quân lực Bảo Gia Lợi hết nguồn cung cấp đạn dược vũ khí, lấy cái gì mà Quyết tử với Đất nước Liên Sô Vĩ Đại .!
A - Mỗi Toà nhà tại Thủ đô Sophia bị huỷ diệt , là Trái tim yêu dấu của Tổ Quốc Bảo Gia Lợi bị rỉ Máu- Toàn Quân -Toàn Dân Thủ Đô Sofia yểm trợ Binh chủng Phòng Không -: Quyết Tử với Không Lực Đế Quốc Nga - Tất cả Chiến Đấu Cơ -Oanh tạc cơ phải bảo vệ tuyệt đối An toàn ,không được Xuất kích Không chiến , để yểm trợ Chiến trường sau này !
Mỗi Toà nhà tại Thủ đô Sophia bị huỷ diệt , là Trái tim yêu dấu của Tổ Quốc Bảo Gia Lợi bị rỉ Máu.
Những đợt oanh tạc của Không lực Đế Quốc Nga , càng thổi bùng bốc cao ngọn lửa yêu nước của Toàn Dân tộc Bảo Gia Lợi , nhiều oanh tạc cơ Nga đã bị bắn rớt trên bầu trời Không phận Sofia,. Binh chủng Phòng không Quân lực Bảo Gia Lợi đã bảo vệ khá hiệu quả các nhà Máy Quân sự , và Quốc phòng , chỉ với súng Cao xạ 20 ly, 80 ly , đã tạo ra biển lửa trên bầu trời Sofia để bảo vệ không phận Thủ Đô yêu dấu .
Các chiến binh của Phương Diện Quân -Phương Nam - Bulgaria Army Group South : Trấn giữ Mặt trận Tiền Phương đã cất cao lời thề trước Toàn Dân :
" Phượng Diện Quân Phương Nam - sẽ chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Biên cương của Tổ Quốc Bảo Gia Lợi ! "
**Trung tuần tháng 9 năm 1944 , Đại danh tướng Nguyên Soái Zhukov cùng Tập đoàn Phương Diện Quân -Hồng quân Liên Sô , đã tiến quân đến biên giới ngưỡng cửa của 2 Quốc Gia : Lỗ Ma Ni và Bảo Gia Lợi .
Nguyên Soái Zhukov hạ lệnh Đại quân thiết lập Doanh trại ,và Hệ thống phòng thủ Dã chiến để chờ mệnh lệnh của Đại Nguyên Soái Stalin .
**Tại Tổng Hành dinh của Danh tướng Nga Nguyên Soái Zhukov : Bản đồ Cộng Hoà Bảo Gia Lợi được trải rộng , đặc biệt Sa bàn chiến trận Hệ phòng thủ của Phương Diện Quân- Phương Nam được thiết lập nhiều ngày nay .
Nhìn hệ thống phòng thủ của Phương Diện Quân- Phương Nam ,Danh tướng Nga đã nhăn trán suy nghĩ nhiều ngày nay , cả những lúc vào đêm khuya . Lần đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của Danh tướng Nga không tìm ra Phương Pháp Tấn Công : Quả thật họ xứng đáng danh hiệu : Quả Đấm Thép : Nhất Kiếm Trấn Ải Phương Nam :
1 -Hệ thống Phòng Thủ : Hàng chục ngàn Hầm phòng thủ hình chữ Chi (chữ Z ) quá lợi hại ! ( 2 hầm chữ A ghép lại): Các Chiến binh Bảo Gia Lợi có thể yểm trợ liên hoàn chận đứng các đợt tấn công của Quân Lực Liên Sô hữu hiệu .
2. Các Bãi Mìn dày đặt , Các chiến xa không thể xung phong , sẽ bị huỷ diệt hay đứt xích , làm mồi cho Đại bác bắn thẳng , hay súng Bazoka .
3. Lực lượng Pháo Binh và súng phòng không cao xạ của Phương Diện Quân -Phương Nam gần một nửa :được dấu kỷ trong các Hốc núi , bảo vệ kỷ . , Họ sẽ phản pháo rất hiệu quả, và bảo vệ vùng trời phòng thủ , nếu Pháo binh Nga và Không Lực Nga Xuất Kích .
Trước đây các Bạn đã đọc Điệp vụ bắt 2 sĩ quan tình báo vùng 1 . Các Bạn đã thấy Hầm chữ A lợi hại như thế nào !, đây 2 hình chữ A ghép lại còn có Pháo binh , Phòng Không , Bãi mìn yểm trợ ! Nhất Kiếm Trấn Ải Phương Nam là xứng đáng .
Trong lúc Quân số của Danh tướng Nga , chỉ xấp 3 Phương Diện Quân Phương Nam.
Nguyên tắc Tấn Công : Lực lượng Tấn Công ít nhất phải là gấp 3 lực lượng Phòng thủ .
Nhưng với Hệ thống Phòng Thủ lợi hại như vậy ! Quân Nga sẽ thương vong rất nhiều mà chưa chắc đã thắng được , !
*Quân Lực Cộng Hoà Bão Gia Lợi còn 3 Phương Diện Quân nữa , chưa kể Thiếu sinh quân , Thanh niên, Học Sinh, Sinh Viên mới nhập ngũ !
***Lần đầu tiên trong cuộc đời Binh Nghiệp : Đại danh tướng Nga : Zhukov bế tắc trước vấn đề tiêu diệt : Phương Diện Quân Phương Nam " Quả Đấm Thép " của Quân Lực Cộng Hoà Bảo Gia Lợi !
Quả thật :
Đoàn kết là Sức Mạnh
Tổ Quốc yêu Dấu là Hồi Kèn Xung Trận !
Dân tộc Bảo Gia Lợi hoàn toàn toàn xứng đáng Ngưỡng mộ và Khâm Phục !
Rất tiếc Tên TT thứ 33 Truman đã bõ rơi Dân tộc đáng thương Bảo Gia Lợi : Lịch sử không bao giờ tha thứ tội ác cho hắn : Harry S. Truman ! Tên Khốn Kiếp !
Trong lúc đó cách Tổng Hành Dinh của Đại Danh tướng Nga Zhukov hàng ngàn dặm . Tại Điện Cẩm Linh ( Kremlin). Lãnh tụ Máu Lạnh : Đại Nguyên Soái Stalin đang cau có giận giữ trước mặt các Tướng Lãnh : Thượng tướng , Đại tướng ,Nguyên Soái cũng không tìm ra lời giải tấn công Cộng Hoà Bảo Gia Lợi , chiếm toàn bộ trước hạn định ngày 31.12.1944.
Không Lực Liên Sô có thể nói là thất bại trong vấn đề huỷ diệt Thủ đô Sofia, và các nhà máy Quân Sự ,và Quốc phòng của Cộng Hoà Bảo Gia Lợi !
**Lãnh tụ Máu Lạnh Đại Nguyên Soái 6 sao :Tổng Tư Lệnh Quân Lực Liên Bang Sô Viết giận dữ : Không lẽ thua Trí - Bóng Ma Hoàng Đế Boris III - là phải Công nhận : Cộng Hoà Bão Gia Lợi ,Công nhận Đảng Cộng Sản XHCN , để mượn đường tiến quân sao !
Cuối cùng Lãnh tụ máu lạnh lấy Đại cuộc làm trọng !, chấp nhận thua trí Bóng Ma Hoàng Đế Anh Minh -Vĩ Đại Boris III , công nhận Cộng Hoà- Bảo Gia Lợi .
Chính thức lên tiếng mượn đường tiến quân !.
Theo Di chúc Hoàng Đế : Đảng Cộng Sản Xã Hội Nghĩa lên nắm chính quyền để : kiến tạo Tổ quốc , xây dựng đất nước phát triển kênh tế , khoa học kỹ thuật , y khoa . Quân Lực Bảo Gia Lợi : chỉ hiện diện vừa đủ không để Đế Quốc Nga lợi dụng !. Ván cờ đã tàn . Đây là phương cách duy nhất để Dân tộc Bảo Gia Lợi thoát khỏi sự thống trị của người Nga ! ( TT thứ 33 Truman không công nhận Cộng Hoà- Bảo Gia Lợi )
"Đoàn kết là Sức Mạnh
Tổ Quốc yêu Dấu là Hồi Kèn Xung Trận !
"Không ! Vạn Lần Không ! Đức Chúa Cao Cả !
Dân Tộc Bảo Gia Lợi Yêu Dấu : Sẽ Đứng Dậy :Từ Đống Lửa Tro Tàn Của Chiến Tranh ! Để Chứng Minh : Những Gì Chúng Tôi Làm Hôm Nay Là Đúng !"
TSTAR BORIS III (1918-1943)
HOÀNG ĐẾ VĨ ĐAI -ANH MINH BORIS III CUẢ XỨ SỞ HOA HỒNG : BẢO GIA LỢI- BULGARIA
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:11:49 GMT 9
XỨ SỞ LỖ MA NI ROMANIA BỊ NHUỘM ĐỎ-HAY MỐI TÌNH TAY BA KHÁC CHIẾN TUYẾN- ĐỨNG CHẾT GIỮA NGỌN ĐỒI BỐC CHÁY-PHI CƠ NGA TRÊN BẦU TR XỨ SỞ LỖ MA NI -ROMANIA BỊ NHUỘM ĐỎ-HAY MỐI TÌNH TAY BA KHÁC CHIẾN TUYẾN- ĐỨNG CHẾT GIỮA NGỌN ĐỒI BỐC CHÁY-PHI CƠ NGA TRÊN BẦU TRỜI.- CHIẾN XA T.34 XUNG PHONG DƯỚI MẶT ĐẤT ĐẠI TƯỚNG HỒNG QUÂN BORIS : CHỦ TỊCH CỘNG HOÀ NHÂN DÂN LỖ MA NI - ROMANIA 1945-1947- -TRUNG TƯỚNG HENRI TƯ LỆNH BIỆT KHU KINH ĐÔ BUCHAREST - VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI --TRONG GIỜ PHÚT VƯƠNG QUỐC HẤP HỐI 30.4.1945 -ĐẠI DANH CA : TATYANA HUY CHƯƠNG VÀNG : ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ PHE TRỤC---BỊ ĐÀY ẢI VÌ CHE DẤU LÀ NGƯỜI DO THÁI . ***TÌNH YÊU TAY BA KHÁC CHIẾN TUYẾN : MÁU - NUỚC MẮT - HẠNH PHÚC : BORIS - TATYANA - HENRI : MỘT THỜI ĐỂ YÊU -MỘT THỜI ĐỂ NHỚ . QUỐC KỲ VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI TRƯỚC 1945 - CỘNG HOÀ LỖ MA NI NGÀY HÔM NAY. QUỐC CA : CÔNG DÂN LỖ MA NI : HÃY THỨC TĨNH ĐỨNG DẬY Anthem: Deşteaptă-te, române! Awaken Romanian KINH ĐÔ : BUCHAREST Capital Bucharest (Bucureşti) TOẠ ĐỘ : 44°25′N 26°06′E TÔN GIÁO : CHÍNH THỐNG GIÁO PHƯƠNG ĐÔNG ( CÔNG GIÁO ) Chính Thống giáo Đông phương, bao gồm Chính Thống giáo Hy Lạp và Chính Thống giáo Nga, là một truyền thống Kitô giáo đại diện đa số trong Kitô giáo Đông phương. Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về - và tuyên bố là sự tiếp nối duy nhất của - Giáo hội Kitô giáo nguyên thủy, xem chính mình như Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem Giáo hội của mình là truyền thống Cơ Đốc trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống Giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Andrew ( Anrê). Tín hữu Chính Thống giáo xem Giáo hội của họ là: Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởi Chúa Jesus (5 BC/BCE – c. 30 AD/CE), Cơ Đốc và các sứ đồ. Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy. ĐẠI TÁ HENRI TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN TIA CHỚP ĐÔNG ÂU-QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI- TIẾN ĐẾN NGỌAI Ô THỦ ĐÔ - MẠC TƯ KHOA - MOSCOW 12.1941 - CÓ THỂ NHÌN THẤY THỦ ĐÔ KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC LỖ MA NI QUA ỐNG NHÒM . ĐẠI TƯỚNG HỒNG QUÂN BORIS TỔNG TƯ LỆNH : LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN ĐÔNG ÂU CHỐNG LẠI PHE TRỤC : XA CHIẾN GIỮA MUÀ ĐÔNG LẠNH GIÁ 1943 THIẾU NỮ TATYANA 24 TUỔI NĂM 1938 TẠI KINH ĐÔ BUCHAREST - VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI-TRƯỚC MỘT CỬA TIỆM CUẢ THƯƠNG GIA DO THÁI BỊ ĐỐT CHÁY -TRONG CHIẾN DỊCH BÀI DO THÁI ĐẠI DANH CA : TATYANA -HUY CHƯƠNG VÀNG ĐẾ CHẾ 3 (PHE TRỤC ) 1941 BỊ ĐÀY ẢI SAU 1942 QUỐC TRƯỞNG VĨ ĐẠI ADOLF HILER TẠI THỦ ĐÔ PARIS -PHÁP QUỐC 11.1940 ĐÃ TRAO GIẢI HUY CHƯƠNG VÀNG CHO NỮ ĐẠI DANH CA LỖ MA NI : TATYANA 26 TUỔI PHẦN 1 : LIÊN BANG SÔ VIẾT NĂM 1934 . Tại một Nông Trang Tập Thể mới Thành lập , giữa vùng Hoang vu cùa Vùng Trung Á. Hàng ngàn Người Nga gốc Do Thái vừa bị áp giải từ nước Nga xa xôi đến đây ., Họ đang xếp hàng ngay lối, để nghe Vị Chỉ Huy trưởng Nông trường ban huấn lệnh. Vị Chỉ Huy trưởng có dáng dấp người Đông Âu 24 tuổi , Khuôn mặt đẹp như pho tượng Thần La Mã , nhưng lạnh lùng đó là Thanh niên Boris mới Tốt nghiệp Kỹ sư Canh Nông, và Học viện chính trị Phương Đông : dạy về phương pháp và nghệ thuât Bạo động Lật đổ Chính quyền , tại Thủ đô Mạc Tư Khoa . Vị Chỉ huy trưởng đưa tay chỉ về phía xa giọng nghiêm lạnh : - Các Người, trước mặt của chúng ta là một Thảo nguyên mênh mông ,tượng trưng cho cho sự tàn ác và đau khổ. Chúng ta hãy biến Thảo nguyên mênh mông thành những cánh đồng lúa Mỳ phì nhiêu đó là Hạnh Phúc của loài người ! Bỗng nhiên Chỉ huy trưởng Boris phóng mắt về một cô gái khuôn mặt khá xinh , trên cổ đeo dây chuyền, mặt dây chuyền là Thánh Giá . - Cô kia , bước lại đây !. Người thiếu nữ khuôn mặt đầy lo sợ tiến lại . - Cô tin Chúa , và Đức Mẹ sao ? -Dạ thưa Ông ,tôi tin ! Vị Chỉ huy trưởng giọng nghiêm lạnh : - Vậy Cô hãy cầu nguyện : Đức Chúa Cao Cả , và Đức Mẹ thánh thiện của Cô, biến Thảo nguyên trước mặt thành Cánh đồng lúa Mỳ đi ! Nếu Họ không giúp được thì hãy liệng bỏ Thánh Giá đi ! Tôi ra lệnh : Cô hãy liệng bỏ lập tức đi !. Người Thiếu nữ xinh xắn rơm rớm nước mắt , tháo mặt Thánh Giá ra khỏi dây chuyền, liệng ra xa.... Cô bỗng quyên sợ hải , nhìn thẳng vào người Chỉ Huy trưởng đẹp trai nhưng máu lạnh tàn nhẫn : -Tại sao Ông căm thù người Do thái , Đức Chúa , và Đức Mẹ ? Người Thanh niên Đông Âu cất tiếng cười lớn: - Trên đời này tôi căm thù : thứ nhất là Do Thái , thứ nhì là Đức Mẹ , thứ ba là Chúa Trời .... Cô gái Xinh xắn nhìn thẳng vào mắt Người Chỉ Huy trưởng đẹp trai Thanh niên Boris : - Người Do Thái không phải ai cũng xấu xa !, Thượng Đế tạo ra chúng tôi là người Do Thái, Tổ tiên chúng tôi đã phạm tội khi đóng đinh Chúa Jesus trên cây Thập Ác ! Chúng tôi đã bị lưu đày lưu lạc khắp thế giới , đó cũng là chuộc lại lỗi lầm chúng tôi . Con người ai cũng có xấu tốt , chứ không phải ai là Do Thái cũng là xấu xa hết ! * Danh từ Thập Ác là người Do Thái dùng khi đóng đinh Chúa Jesus, sau này người Công giáo mới gọi là Thánh Giá. Đông Âu gọi là Thập Ác để nhắc đến Tội Ác của người Do Thái . Chỉ Huy trưởng đẹp trai Boris cười lớn : - Vậy người Do Thái cũng có người tốt sao ? Nếu cô là người Tốt ! Thì tôi nói thật trong một triệu người Do Thái mới có một mình Cô ! Vì thế không thể vì một mình Cô, mà Tôi nhân đạo với 999,999 người được ! Hãy trở về vị trí cũ đi ! Cô gái xoay đi : - Chỉ huy trưởng cũng biết một điều : ghét của nào , trời trao của đó ! Sau này Ông cũng yêu một người con gái Do Thái thôi ! PHẦN 2 : MỐI TÌNH TAY 3 : BORIS--- TATYANA---HENRI Đoàn người Nga-Do Thái đã trở về lán trại, có một ngày chuẩn bị chỗ ở , để chuẩn bị cho những ngày tháng lao động , khai khẩn trên vùng Thảo nguyên mênh mông Trung Á -của Đất nước bao la Liên Bang Sô Viết . Chỉ huy trưởng Boris trở về căn phòng làm việc Dã chiến , giữa Thảo nguyên Lộng gió. Mồi điếu thuốc , hít hơi dài ,khuôn mặt trầm tư , Cô gái hồi nãy đã làm Boris hồi tưởng lại kỷ niệm cũ, với tay mở hộc bàn làm việc cầm lên : một hình trái tim bằng kính nhỏ , bên trong là tấm hình nhỏ xíu khuôn mặt một thiếu nữ tuyệt đẹp độ tuổi trăng tròn : -" Tatyana , giờ em đã 20 tuổi đang là cô sinh viên năm thứ 2 tại Đại học đường Kinh đô Bucharest yêu dấu ! Có bao giờ em còn nghĩ đến Boris này không ! Trong suốt cuộc đời này Boris chỉ yêu một mình Tatyana ! " " Henri ! Giờ này có lẽ mày đã là Trung uý , Đại uý của Quân Lực Hoàng Gia rồi phải không ?còn nhớ đến tao không ? trên đất nước Lỗ Ma Ni chỉ có một mình mày là bạn thân của tao ! Tao và Mày đều đem lòng thương yêu Tatyana ! và Tatyana cũng đã đối xử tụi mình như nhau . Nhưng tao tin rằng mày sẽ không đến với Tatyana ! Vì mày chỉ muốn Tatyana mãi mãi ở trong trái tim lạnh giá cô đơn và đau khổ của Tao phải không Henri ! "..... Chỉ huy trưỡng Boris bước lại tựa cửa sổ văn phòng Dã Chiến , đã mồi qua điếu thuốc thứ 2 , ánh mắt nhìn về Thảo nguyên lộng gió bát ngát của vùng Trung Á, trong lòng chợt dậy lên nỗi buồn nhớ Tatyana da diết ! và Henri , không biết có bao giờ gặp lại không ? nhưng suốt cuộc đời này mãi sẽ mãi yêu thương Tatyana ! Trong giờ phút cận kề với cái chết 5 năm về trước , trên lồng ngực Khung hình trái tim ,với hình Tatyana vẫn hiện hữu.! 2 ngày nữa là ngày 10.4.1934 tròn 5 năm đặt chân đến đất nước Liên Bang Sô Viết khi vừa mới 19 tuổi chưa từng biết đến một nụ hôn của tình yêu , chưa từng biết đến mùi da thịt ngai ngái của con gái ! PHẦN 3 : 10.4.1929 : TRƯỜNG VÕ BỊ QUÂN LỰC- HOÀNG GIA LỖ MA NI -ROMANIA THỦ ĐÔ BUCHARES (Nickname : Paris of the East) CUẢ QUỐC GIA LỖ MA NI : MỘT DÂN TỘC THÔNG MINH-DŨNG CẢM -KHỐN KHỔ- BẤT HẠNH ! SAU 30.4.1945 - CUỘC CÁCH MẠNG -KHÁNG CHIẾN PHỤC QUỐC 1947 : ĐẠI TƯỚNG HỒNG QUÂN BORIS -TRUNG TƯỚNG HENRI THẤT BẠI !. HỌ ĐỨNG CHẾT GIỮA NGỌN ĐỒI BỐC CHÁY GIỮA CHIẾN KHU CÙNG TATYANA -NGUỜI TỪNG LÀ HÔN THÊ -FIANCE CUẢ THIẾU TƯỚNG HENRI 1941 . 1947-1959 : QUÂN NGA ĐÃ SỬ DỤNG KỶ LUẬT SẮT TRÊN ĐẤT NƯỚC -LẤY GẦN HẾT SẠCH TÀI NGUYÊN CUẢ QUỐC GIA . 1959-1989 : DỰNG CHẾ ĐỘ TAY SAI -ĐỘC TÀI BUCHARES - PARIS OF THE EAST KINH ĐÔ BUCHARES - PARIS OF THE EAST 1940 : ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN BÙNG NỖ - ĐẠI TÁ HENRI 30 TUỔI : TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN THIỆN CHIẾN : TIA CHỚP ĐÔNG ÂU -TỪ GIẢ NGƯỜI YÊU TATYANA XUẤT QUÂN -TẤN CÔNG VÀO NƯỚC NGA KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC . " BORIS ! HY VỌNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG ĐẪM MÁU ! TAO VÀ MÀY SẼ KHÔNG ĐỤNG NHAU !" QUÂN HIỆU KỲ -QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI - THẦN ƯNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG. TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA- QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI -ROMANIA -NGÀY 10.4.1929 : TÌNH BẠN-TÌNH YÊU NGHÌN TRÙNG XA CÁCH . Buổi chiều đã tắt nắng , 2 người thanh niên đứng bất động trên bãi cỏ phía Tây của trường , xa xa dòng sông Danube xanh thẩm. Một thanh niên cao lớn vạm vỡ, khuôn mặt đẹp tựa như ,những hình ảnh chiến binh thời La Mã cổ xưa , nhưng hơi lạnh ., Người Thanh niên kia : cao đẹp trai , như tài tử Cinema , gầy hơn, dáng dấp của Trí thức . Cả hai đứng bất động... Người Thanh niên Đẹp trai như tài tử Cinema cất tiếng : -Boris ! Tại sao lại xảy sự việc như thế này ! đã sắp hết năm học thứ nhất của Trường Võ Bị , mày lại bị đuổi học.! Tụi mình đã chơi thân nhau 5 năm nay , từ những ngày trong trường Thiếu sinh quân, cùng yêu thương một mình Tatyana , Tụi mình không bao giờ vì Tatyana mà giận nhau to tiếng ! và Tatyana cũng yêu thương 2 đứa mình như nhau. 2 đứa mình là thần tượng của Tatyana ,có thể nói là trong trái tim Tatyana, đã chia đôi cho tao và mày, mỗi đứa mình đã là một nữa trái tim của Tatyana .. Nhưng tại sao tụi mình thân nhau , ! đôi lúc tao vẫn không hiểu về mày ,! Mày không tin Đức Chúa Cao Cả , Mày không tin Đức Mẹ, tao tôn trọng mày ! Nhưng bây giờ đã bị đuổi học rồi, mày tính làm gì khi mới 19 tuổi đầu ! .. Boris thở dài , buồn bã bã nhìn ra xa dòng sông Danube xanh thẩm , cuộn sóng: -Henri ! Tối hôm nay : Tao sẽ bơi vượt dòng Sông Danube đến nước Nga !. Henri tái mặt , mắt long lên giận dữ : - Mày có điên không ! Nước Nga là kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc Lỗ Ma Ni ! Boris giọng buồn bã : - Tao biết điều đó Henri ! Nhưng Tao đã không còn con đường ,để lựa chọn nữa Henri à ! Trước khi chia tay Tao sẽ nói cho Mày biết , Tại sao trên đời này Tao căm thù : thứ nhất là Do Thái , thứ nhì là Đức Mẹ , thứ ba là Chúa Trời !. Nước Nga chính là nơi thích hợp cho Tao ! Dân Nga thù Do Thái, nhưng họ vẫn sử dụng chủ nghĩa CS của người Do Thái, thế thì Tại sao Tao là người Lỗ Ma Ni mà lại không thể sống tại nước Nga được ! CUỘC ĐỜI ĐAU KHỔ- BI THẢM TẬN CÙNG CUẢ BORIS ! Tao sinh ra một trong Gia đình Đại Quí tộc , Ở miền Nam giáp với Bảo Gia Lợi, Ba má của tao cũng là Đại điền chủ với hàng ngàn mẫu ruộng lúa Mỳ , ngôi nhà gia đình tao là một Dinh thự nguy nga , có Hồ Bơi, Phòng Khiêu Vũ , Bar uống rượu, phòng chơi Bi Da , Sân Tenis .. Tao cất tiếng khóc chào đời vào mùa xuân năm 1910 . Khuôn mặt của tao , có nét giống của Ông Nội và Ông Cố là những Đại tướng quân cùng Đoàn quân Dũng mãnh đã Chinh Đông Dẹp Bắc để khôi phục và ,mở rộng lãnh thỗ cho Vương Quốc Lỗ Ma Ni ,mà vó ngựa từng dày xéo lên đến tận xứ sở Tiểu Nga Ukraine của nước Nga . Trong trận đánh cuối cùng với Quân Nga ,để giành lại lãnh thổ Moldavia của Đế chế Nga : được gọi là Bessarabia năm 1897 , Ông Nội của tao đã tử trận ! Ba tao thì Ông chỉ là một Công tử con một, thừa hưởng những gia tài của Ông Nội và Ông Cố để lại. Năm 1907 , Ông thành hôn với mẹ tao là một Thiếu nữ xinh đẹp cũng là con một Đại điền chủ ở miền Nam. Ba Mẹ tao là những người may mắn thừa hưởng những gia tài của ông Cố và Ông Nội để lại, . Họ chỉ sống cuộc đời trưởng giả và hưởng thụ, những cuộc vui chơi thâu đêm suốt sáng cuối tuần . Vì vậy ngay từ khi 2 , 3 tuổi tao đã sống lủi thủi một mình, nhất những ngày cuối tuần, ba mẹ tao không đi vui chơi nhà bạn bè , thì tổ chức vui chơi tại nhà , còn tao lủi thủi một mình trên lầu . Năm tao lên Bốn , mùa Đông năm 1914 Mẹ tao hạ sinh hạ một bé trai , tao rất vui mừng vì từ nay có em trai, không còn lủi thủi đêm khuya một mình !. Em trai tao có khuôn mặt đẹp tựa thiên thần, nhất là cặp mắt trong xanh như nước Đại Dương . Nhưng trong có vẻ yếu ớt . Ba mẹ tao rất vui mừng, cho đây là một điều may đem lại giàu sang phú quí ! Tao cũng rất thương em tao ! Nhưng mỗi lần tao đến cạnh em bé . Là bị Ba Mẹ xua đuổi , tao không biết tại sao ? Mùa hè năm 1905 , em trai tao vừa tròn 8 tháng. Hôm đó thứ 7 ngày 17.7.1905. Ba mẹ tao đi dự một buổi dạ tiệc từ chiều, giao tao chăm sóc Em trai, tao rất vui mừng ! ( Ba má tao không cho người giúp Việc lên lầu , mỗi khi không có Họ ở nhà !) Tao đứng bên chiếc nôi nhìn em bé, mà lòng ước mong em mau lớn để cùng vui chơi với tao ! Nhưng đến tối , tại sao Em lại ngũ vùi! trên 4 tiếng , vẫn không đòi bú sửa, Tao lay em , em vẫn không dậy, rờ trán em thì nóng như lửa ! Tao bật khóc ! Tao lết ra ngoài Quì dưới bức ảnh Đức Mẹ , Câù Xin Đức Mẹ Thánh Thiện, và Đức Chúa Trời, cho em tao thức dậy ! Tao quì trên một tiếng đồng hồ ! Tao đứng dậy bước vào phòng , đứng bên chiếc nôi , Em vẫn không thức dậy ! Tao không biết làm sao ! Tao chạy về phòng lấy thanh sắt nhỏ dài , đặt nhẹ lên mí mắt , em vẫn không mở mắt ! Em ơi ! Em hãy mở mắt ra đi ! cho Anh nhìn đôi mắt trong xanh Tuyệt đẹp của em trai yêu quí ! Không còn cách nào, Tao lấy thanh sắt đâm nhẹ vào mí mắt trái của em, bất chợt thanh sắt bị trượt xuống : Đâm vào mắt của em ..... Trời ơi : một giòng máu đỏ chảy ra ! Em dãy dụa đau đớn trong chiếc nôi ! Tao Bật Khóc Chết lịm người ! Bỗng lúc đó Ba Mẹ , tao về , bước vào phòng , mùi ruợu nồng nặc Ông bà , thấy cảnh tượng tượng như vậy , hét lớn ! Ba tao rút thắt lưng đánh tao một trận thừa sống thiếu chết, dây thắt lưng to bản đã quất lên thân thể của tao hàng trăm cú , sau đó đem xích tao vào chuồng ngựa dưới nhà !. Sáng hôm sau Em trai yêu quí đã qua đời tại Bệnh Viện ! Từ ngày Em trai yêu quí qua đời , Ba Má nhìn tao như một tai hoạ đem đến xui xẻo cho ông bà , tất cả bực dọc , ông bà đều trút trên đầu tao, những trận đòn thường xuyên đến với tao , tâm hồn , thể xác đã tê dại, và quen chịu đựng những trận đòn rồi .! Đêm khuya tao hay cầu nguyện Đức Mẹ , và Đức Chúa Cao Cả chỉ cầu xin một điều duy nhất : Dù Ba Má Tao không có tình thương với tao ,nhưng bớt hành hạ Tao đi ! Vì lúc đó trong lòng tao chỉ còn một niềm tin duy nhất, giống như chiếc phao giữa biển khơi đó là Đức chúa Cao Cả , và Đức Mẹ Thánh Thiện ! *Năm lên 6 tuổi , Mùa Thu năm 1916 . Tao phải năn nĩ Ba Má cho đi học , như những đứa trẻ Do Thái cùng trang lứa , mà Ba Mẹ tụi nó đang làm tá điền cho Ba Má tao ! Ba Má tao đồng ý !, thật ra theo truyền thống của Giai cấp Quí tộc, mày cũng đã biết khi đứa trẻ lên 6 tuổi, được gởi đến những trường tư thục nổi tiếng của giai cấp Quí tộc , khi xong trung học lớp 12 là vào trường Võ bị Hoàng Gia . Ba tao ngày xưa cũng theo truyền thống này, nhưng khi ông học lớp 11, thì Ông nội tao tử trận, vì vậy ông bỏ học trỡ về cai quản Dinh cơ , và Tài Sản . Ba , Má tao coi Tao là tai hoạ, không có tình thương , nên khi tao xin đi học với người Do Thái, ông bà đồng ý vì đó là trường công , để khỏi tốn tiền gởi vào trường tư của Giai cấp Quí tộc ! TẠI SAO TAO CĂM THÙ DO THÁI- OÁN TRÁCH ĐỨC MẸ THÁNH THIỆN- KHÔNG TIN ĐỨC CHUÁ CAO CẢ ! Ngày đầu tiên đi học , mùa Thu năm 1916 , tối hôm đó tao không ngũ được, mong sao trời mong sáng , để được đến trường, có bè bạn để không lũi thủi một mình. Nửa đêm đi nhẹ ra phòng khách nhìn Di ảnh Ông Nội ,Ông Cố , tao hứa , tao sẽ học thật tốt ,ước mong mai sau cũng sẽ là Đại tướng trên chiến trường như ông Nội , Ông Cố ! ( Đại tướng Boris là Đại tướng trẻ nhất trong Quân sử thế gới khi mới 31 tuổi-1941- Chủ tịch Cộng Hoà Romania khi 35 tuổi . Tổng Thống Cộng Hoà Liên Bang Đông Âu khi 36 tuổi 1946- ( Romania- Bulgaria- Hungaria)- Tử trận khi 37 tuổi ! Xứng đáng là Anh hùng của Thế Giới ! Trung tướng Henri thăng Trung tướng khi 33 tuổi 1943. Danh Ca -Tatyana : Trong trái tim một nửa là Boris , một nửa là Henri không ai hơn ,không ai kém !. Người con gái Kỳ lạ nhất và Hạnh phúc nhất thế giới ! ) **Buổi đi học đầu tiên là hãi hùng trong cuộc đời tao, suốt đời tao không bao giờ quyên ,đó là thứ hai ngày 5 tháng 9 năm 1916, khi tao vừa 6 tuổi rưỡi ! Đến trường tất mọi người Do Thái đều coi rẻ tao, kể cả thầy giáo , cô giáo Do Thái. Vì tao là Giai cấp Đại Quí tộc đã bị từ bỏ , phải đi học trường công của người nghèo . Tụi nó khinh bỉ gọi tao LÀ KẺ SÁT NHÂN ! Giờ ra chơi ! Tao thui thủi một mình , ngồi gốc cây ! bọn Do Thái lớp lớn , tới vây đánh hội đồng tao ! người tao đầy máu ! Tao phải lết vào phòng tắm , dùng nước , rửa sạch vết máu đau đớn trên thân thể , trong lúc này trong lòng tao căm thù bọn Do Thái , nhớ lại tại nhà thờ , lớp Giáo Lý vỡ lòng , Năm xưa Người Do Thái đã đóng đinh Chúa Jesus trên cây Thập Ác, thế bọn nó dám gọi tao là kẻ sát nhân ! Em trai yêu quí của tao , là người tao yêu thương nhất đã chết ! Tao đau khổ buồn bả trên một năm nay ! Tao vào lớp trễ , với áo quần ướt sũng để tẩy những vết máu , nhưng cũng không sạch hết được . Thầy giáo lạnh lùng bắt tao ra quì trước cột cờ của sân trường , vì tội vào lớp trễ ?? Tao câm lặng quì trước cột cờ , trước cả ngàn cặp mắt khinh bỉ của Bọn học sinh , kể cả thầy cô giáo đa số là người Do Thái !!!! Tao Quì ngước mắt nhìn bầu trời : tự hỏi Đức Mẹ Thánh Thiện , và Đức Chúa Cả : Tại sao tao ở nhà cũng đau đớn , mà đến trường học cũng đau đớn thế này ! Tiếng trống tan trường , Bọn học sinh túa ra sân trường đi về , nhìn tau khinh bỉ , tụi lớp lớn đánh tao cười đắc thắng . Tao không dám đi về vì sợ bị tụi nó chận đường đánh ! Áo quần thế này , về nhà lại bị đánh nữa ! Sân trường đã trở nên vắng lặng , tao vẫn không dám về nhà ! Bỗng lúc đó một Cô giáo lớp ba người Lỗ Ma Ni bước lại. , kéo tao vô văn phòng , Cô ôm tao trong lòng nước mắt chảy dài: Cô thương em !, nhưng cô không thể can thiệp vì thầy hiệu trưởng là người Do Thái : Họ muốn trừng phạt em, lý do em là con của tầng lớp Đại quí tộc , hàng ngàn người Do Thái đang làm tá điền cho Ba má em , đây là cơ hội tốt cho họ trả thù !. Dũng cảm lên Boris ! Cố và Ông Nội của em là những vị Thống Chế Anh hùng của Dân tộc Lỗ Ma Ni ! ( ông Nội Boris ,được truy thăng Thống chế , Ông Cố về hưu với cấp bậc Thống Chế !) Tao ôm Cô giáo khóc ròng , Cô là tượng trưng cho Đức Mẹ Thánh Thiện, đầy lần đầu tiên trong cuộc đời có một người yêu thương tao ! Cô giáo đưa tao về nhà của Cô giáo, tắm rữa sạch sẽ, săn sóc vết thương , Cô ra chợ mua cho một bộ áo quần mới cho Tao . Sau đó Cô giáo đưa tao về nhà , gặp ba má , nới rằng tao bị trợt té trong trường ! Tối hôm đó tao bị phạt quì gối vào tuờng 3 tiềng đồng hồ. ! Nhưng trong lòng Tao rất vui , vì đã có cô giáo yêu thương tao ! Sáng hôm sau , tao đi học thật sớm , để không đụng mặt tụi Do Thái , giờ ra chơi , Tao ngồi trong lớp học bài . Tao tự hứa phải học thật giỏi ... Giờ tan trường , tao ở lại trường về muộn , thỉnh thoảng Cô giáo đưa tao về đến gần nhà ! Năm đầu tiên lớp một trôi qua, tao là học sinh xuất sắc của trường ! nhưng không có phần thưởng , vì hạnh kiểm không tốt , không hoà đồng bạn bè ? Mùa Thu năm 1917 tao học lớp 2 , thì cuộc cách mạng tháng 10 tại Nga bùng nổ. Trong trường Các Thầy cô giáo Do Thái , đều bàn tán sôi nỗi tự hào về Lãnh tụ Leon Trosky, Lenin, ngay bọn học sinh Do Thái cũng coi 2 Lãnh tụ này là thần tượng ! . Các thầy cô giáo Do Thái cũng bàn tán hào hứng phấn khởi về Chủ nghĩa Cộng Sản Karl Marx - Friedrich Engels. , cũng như chủ nghĩa Phục Quốc Do Thái Zionism, Tất cả Họ vui mừng vì ngày Dân tộc Do Thái Phục Hưng đã cận kề ! TAO CĂM THÙ BỌN DO THÁI VÌ : HỌ PHẢN BỘI TỔ QUỐC LỖ MA NI -ROMANIA Lớp 2 cũng là lớp đầu tiên bắt đầu học về Lịch sử nước nhà, những giờ Lịch sử, là những giờ học hào hứng nhất của tao. Trong đầu óc non nớt thơ dại của đứa bé 7 tuổi rưỡi ,cố hình dung tưởng tượng những vó ngựa của Đoàn quân Dũng mãnh của Ông Cố và Ông Nội đã từng Chinh Đông Dẹp Bắc ! và qua Lịch sử tao phát hiện một điều , mỗi khi Tổ quốc bị xâm lược và dày xéo, kẻ thù đều sử dụng bọn Do Thái làm tay sai , ... Qua mùa xuân năm 1918, lúc này Thầy cô giáo và bọn học sinh Do Thái bàn tán sôi nỗi tự hào ,về Chủ tịch nước Lenin , Tổng tư lệnh Hồng quân Leon Trosky, cũng như những danh tướng Nga gốc Do Thái trong Nội chiến giữa Cộng Hoà và Cộng Sản Họ gọi : Bọn Bạch Vệ và Hồng quân, đã giúp tao phát hiện một điều quan trọng : Các Tướng Nga -Do Thái mà Thầy cô giáo ca ngợi , là những Danh tướng của Sa Hoàng ( Hoàng Đế của Đế chế Nga !.) Thế thì không phải chỉ tại Tổ quốc thân yêu Lỗ Ma Ni , mà ngay tại nước Nga kẻ thù truyền kiếp của Tổ quốc , bọn Do Thái cũng phản bội lại Đế chế Nga , . Dù Sa Hoàng trọng dụng họ lên hàng Tướng Lãnh ! "Thế thì Bọn Do Thái ở bất kỳ Đất nước nào, Họ cũng là kẻ thù của Đất nước đó ! Họ sẵn sàng bán đứng và tàn sát người dân của Quốc gia ,mà đã bao dung chứa chấp nâng đỡ họ !" TAO OÁN TRÁCH :ĐỨC MẸ THÁNH THIỆN VÀ ĐỨC CHUÁ CAO CẢ ! Mùa Thu năm 1918 tao vào lớp 3 , lúc này tao đã 8 tuổi rưỡi , nhưng cao to như đứa trẻ 11 , 12 tuổi, là do mỗi buổi sáng sớm tao đều chạy bộ, và nâng những tảng đá ngoài vườn, cố ăn thật nhiều vì tao muốn to con , mạnh khoẻ để bảo vệ bản thân trước bọn Do Thái. Lúc này đến trường , bọn Do Thái lớp 4 , lớp 5 cũng không dám đụng đến tao, vì đa số nhỏ con hơn Tao nhiều . Tao cũng không muốn đánh lộn , vì mục đích của Tao đến trường là học . Tao phải học giõi hơn bọn Do Thái , vì Đất nước này là Đất nước của Tao, bọn chúng chỉ tạm dung, ăn nhờ ở đậu !, Tao phải học giỏi hơn những học sinh đồng chủng Lỗ Ma Ni , vì Tao xuất thân từ tầng lớp Đại Quí tộc , Tao phải xứng đáng với tầng lớp mà tao xuất thân ! Những tháng ngày mùa thu năm 1918 ,là những tháng ngày hạnh phúc của tao , vì Cô giáo mà tao yêu thương và tôn thờ như Đức Mẹ thánh thiện là cô giáo dạy dỗ . Từ 2 năm nay cô bí mật săn sóc , lo lắng cho tao , thỉnh thoảng cô dúi cho tao ít tiền . Nhờ vậy mà tao đã mua những truyện tranh về những anh hùng của Đất nước ,đọc say mê và mua một số sách dạy về võ thuật Kampfringen của Dân tộc Đức để tự tập luyện . Những tháng ngày hạnh phúc mùa Thu 1918 của tao ,đã trôi qua êm đềm, tao hy vọng thời gian sẽ như thế này mãi. Nhưng rồi một mùa Đông hãi hùng của năm 1919 đã đến trong cuộc đời bất hạnh của Tao ! Cô giáo mà tao yêu thương tôn thờ như Đức Mẹ Thánh Thiện, đã bị bạo bệnh và qua đời trong thời gian ngắn ! Tao chết lặng con người ! Ngày đưa đám tang Cô Giáo , một ngày thứ Bảy mùa đông giữa tháng 2 giá lạnh năm 1919, Tao đã khóc ngất trước giờ Quan tài hạ huyệt.... Mọi người đã về , Tao vẫn quì mãi bên nấm mộ của Cô giáo yêu quí ..., Mặt trời mùa Đông đã tắt hẳn , bóng đêm đã bao trùm xuống Nghĩa địa hoang vắng, thê lương ! Đến gần nửa đêm những cơn gió lạnh thổi về , tuyết đã bắt đầu rơi, tao vẫn quì mãi bên nấm mộ của cô giáo yêu quí... Cho mãi đến khi tuyết rơi ngập đến đầu gối , tao đứng dậy thất thểu đi về, trong lòng tao không còn cảm giác , đi bộ gần 6 km giữa trời tuyết rơi dày, về đến nhà tuyết rơi ngập sân đến gần nữa người tao . Ba má vẫn chưa về, ổ khoá ngoài cổng vẫn còn nguyên .. Tao phải leo cổng vào trong sân , Tuyết ngập đến nửa người , tao lại không có chìa khoá vào nhà ! Tao đứng mãi trước nhà cho đến khi tuyết rơi gần đến vai tao.. không còn cách nào .. Tao cố gắng đi từng bước một ra vườn , tìm vị trí tảng đá mà tao hay tập nâng buổi sáng , rồi nhắm mắt lại , ngồi thụp xuống đống tuyết ,đứng dậy nâng tảng đá lên , đi từng bước vào trước nhà,, đập bể ổ khoá cửa .. tao vào đến nhà đã gần 3 giờ sáng , quá mệt mõi , tao vào phòng chỉ kịp thay áo quần rồi lăn xuống ngũ vùi ! Đang ngũ vùi , bỗng những thắt lưng to bản quất xuống người tao , Ba má tao đã về .. Trong lòng tao hết cảm giác đau đớn , Cô giáo yêu quí đã chết rồi, em trai yêu quí cũng đã chết hơn 3 năm về trước ! Và tao cũng không còn oán ghét ba má tao nữa !... Sau khi đánh đã mõi tay , trừng trị tao về tội phá cửa nhà. Ông đã vào phòng ngũ .! Tao cố gắng ngồi dậy , bước đến nâng tượng Đức Mẹ trong phòng lên , đập bể vụn... Tao tự hứa trong lòng từ nay : Tao sẽ không bao giờ tin Đức Mẹ và Chúa Trời nữa ! Tao sẽ cố gắng học thật giỏi từ đây đến tháng 8 , phải tự học xong chương trình lớp 4, năm tới tao sẽ nhãy vào lớp 5, tao sẽ tốt nghiệp tiểu học vào năm 1920, . Sau đó tao xin vào trường Thiếu Sinh Quân ,tốt nghiệp khi 17 tuổi , rồi vào trường Võ Bị Hoàng Gia ,hiến cuộc đời cho Quân đội ,sẽ nối tiếp con đường của Ông Cố và Ông Nội ...... Hè năm 1920 Tao tốt nghiệp tiểu học loại khá , và tao xin vào Trường Thiếu Sinh Quân, Ba má tao đồng ý Lúc này tao 10 tuổi nhưng đã cao lớn như 13 tuổi ! Mùa thu năm 1920 tao vào học trường Thiếu sinh quân, thật tuyệt vời và hạnh phúc , tao như tìm được lẽ sống, nhưng cuộc đời lại éo le , bất trắc định mệnh oan nghiệt một lần nữa đã dành cho tao ! nhưng nó cũng là may mắn nhờ đó tao và mày gặp nhau, quen thân !... Trong kỳ Lễ Phục sinh năm 1921 tao về nhà , lúc này Ba má đã suy sụp 2 năm nay , một phần mất mùa , một phần thua bài bạc, phải bán bớt gần một nửa tài sản ! Mùa gặt lại đến không đủ tiền mướn nhân công, vì thế tao phải ra đồng làm việc từ sáng đến tối . Tao trở lại trường trễ 3 tuần lễ . Vì thế tao bị ở lại lớp 6 . Nhờ đó tao đã quen mày , khi mày nhập học mùa Thu năm 1921 . Mỗi một mùa hè về nhà , tao phải ra cánh đồng lúa Mỳ , làm việc từ sáng đến tối để giúp Ba Má tao !. Lễ Spring Break vừa rồi tao về nhà , cũng phải ra những cánh đồng lúa Mỳ làm việc quần quật. Ba Má tao dạo này suy sụp lắm rồi , vì thế mà tao đã trễ học 10 ngày đó là lý do mà tao bị đuổi học ngày hôm nay ! Boris nói xong .. Henri đứng bất động , mắt đỏ hoe : - Boris ! Mày có hận Ba Má mày không ? Boris cười buồn bã : -Lúc còn nhỏ , thỉnh thoảng tao cũng hận Ba Má tao. Nhưng càng khôn lớn , thì không còn nữa ! Tao cám ơn Ba Má đã cho tao hình hài ngày hôm nay, những gì đau khổ của tuổi thơ , đã tôi luyện cho tao bản tánh cứng rắn , dù sau này có phong ba bão táp , tao cũng không sợ , mà sẽ đương đầu với nghịch cảnh !. Tiền bạc : Ba Má tao không tạo ra từ 2 bàn tay và khối óc của mình, mà phung phí , nó sẽ ra đi đó là điều tự nhiên !. Trước khi trở lại trường. Tao đã khuyên Ba Má , bán hết Dinh cơ còn lại về thành phố mua căn nhà nhỏ là có thể sống an nhàn suốt đời ! Boris tiếp lời : -Henri ! Trước khi tao ra đi, tao muốn giữ tấm hình của Tatyana, mà mày đang giữ . Henri lấy ví từ túi quần sau : -Tấm hình này là của chung 2 đứa mình, mày còn nhớ một năm trước đây , tụi mình mới quyen Tatyana, đến nhà chơi , Mày ngồi nói chuyện với Tatyana , còn tao lẻn vào phòng học Tatyana , lấy trộm tấm hình này. Sau này Tatyana cũng không bao giờ hỏi ! Tao và Mày có nhiều đêm sau một ngày tập luyện mệt nhọc , đêm đến ngắm tấm hình này không biết là bao nhiêu lần ! Henri tháo dây chuyền trên cổ xuống , khuôn mặt là trái tim bằng kính khung vàng nhỏ bao quanh, dùng kéo nhỏ trên xâu chìa khoá , cắt tấm hình Tatyana vừa vặn mặt trái tim và đặt vào . Henri đưa sợi dây chuyền cho Boris : - Mày hãy đeo vào đi , sau này sẽ nhớ đến Tatyana và Tao... **Tối hôm đó Boris đã bơi vượt dòng sông Danube xanh thẩm dưới lằn đạn của hai phía : Quân Nga , và Quân lực Hoàng Gia Lỗ Ma Ni , cuối cùng đã đặt chân an toàn lên đất nước Liên Bang Sô Viết ... ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN BÙNG NỖ : HENRI- TATYANA- BORIS ĐẠI TÁ HENRI 30 TUỔI : TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN THIỆN CHIẾN : TIA CHỚP ĐÔNG ÂU -TRONG LỄ HỨA HÔN TATYANA TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN -TẤN CÔNG VÀO NƯỚC NGA KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC 11.1940 " Henri ! em và anh đều biết trong trái tim của em , một nửa là anh , và một nữa là Boris . Boris đã đi biền biệt 11 năm nay , em cũng đau khổ , hy vọng mai đây trên chiến địa Anh và Boris sẽ không bao giờ đụng trận với nhau " Tatyana : Cô Giáo-Nữ Danh Ca - Ái nữ của Thương gia Lãnh tụ CS Lỗ Ma Ni - gốc Do Thái 11.1940. " Tatyana ! Hoàng Đế nói với Anh , Em phải rời đất nước này trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Ba em là Lãnh tụ CS , đã chết 18 năm về trước !Hoàng đế không muốn xử tội vì em là hôn thê của Anh , và em đã đem niềm tự hào về cho Dân tộc Lỗ Ma Ni " ***"Tatyana- Anh biết dù em là người Do Thái, nhưng em có tình yêu nồng nàn với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni , Em hãy đến nước Nga tìm gặp Boris !. Mỹ Quốc vừa Chiến thắng Nhật Bản trận Midway tại chiến trường Thái Bình Dương Châu Á , có lẽ Phe Trục bại trận mất !. Boris sẽ là là Lãnh tụ tương lai của Tổ Quốc Lỗ Ma Ni. Em hãy cùng Boris , kiến tạo và xây dựng Tổ quốc Romania hùng mạnh !. Còn Anh sẽ trung thành với Hoàng Đế đến cuối cùng " Thiếu Tướng Henri Tư lệnh Biệt Khu Kinh đô -Vương Quốc Lỗ Ma Ni-.6.1942 TRUNG TƯỚNG HENRI TƯ LỆNH BIỆT KHU KINH ĐÔ BUCHAREST - VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI -NGÀY 30.4.1945 THAY MẶT HOÀNG ĐẾ MICHAEL II - KÝ VĂN KIỆN ĐẦU HÀNG : ĐẠI TƯỚNG HỒNG QUÂN BORIS TỔNG TƯ LỆNH : LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN ĐÔNG ÂU -CHỦ TỊCH CỘNG HOÀ NHÂN DÂN LỖ MA NI 1945-1947 TỔNG THỐNG CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐÔNG ÂU 1946-1947 " Tatyana , 16 năm nay Boris này yêu em một tình yêu không bao giờ thay đổi và sẽ mãi mãi !, Dù ngày hôm nay biết em là người Do Thái , nhưng em là trường hợp cá biệt của người Do Thái, vì em đã coi Tổ Quốc Lỗ Ma Ni này là của em ! Đây là sợi dây chuyền mà Anh đã đeo trên cổ của Anh 16 năm nay, Em hãy giữ lấy !.và Em hãy đến với Henri đang đau khổ tận cùng ! " Đại tướng Boris -Chủ tịch Cộng Hoà Nhân Dân Lỗ Ma Ni -10.1945 BẢN ĐỒ QUỐC GIA LỖ MA NI Romania Lỗ Ma Ni, là một Quốc gia tại Đông nam châu Âu. Romania giáp với Ukraine và Moldavia về phía Bắc và Đông Bắc; giáp với Hungary về phía Tây Bắc; giáp với Serbia về phía Tây Nam; giáp với Bulgaria về phía nam và giáp với Biển Đen về phía đông.Quốc gia Lỗ Ma Ni nằm trên phần lớn diện tích của đồng bằng sông Danube ,Diện tích 238,391 km2 - square kilometres (92,043 sq mi), . Dân số vào khoảng 24 triệu người (2010). Thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất Romania là Bucharest được mệnh danh là Paris của phương Đông. DÒNG SÔNG XANH THẪM DANUBE - BORIS VƯỢT BIÊN -BƠI QUA DÒNG SÔNG GIỮA 2 LẰN ĐẠN : QUÂN NGA- QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI ; NGÀY 10.4.1929 KHI 19 TUỔI . BUCHAREST - PARIS OF THE EAST * Trước khi viết tiếp Tôi xin bật mí chút xíu: Cuối tháng 4. 1945 Quân Nga tấn công vào Vương Quốc Romania, đã đến sát kinh đô !. Đại tướng Boris Tổng tư lệnh Lực lượng kháng chiến Đông Âu đã cấp tốc tiến quân về kinh đô , vì không muốn kinh đô Bucharest thất thủ rơi vào tay Quân Nga. Đại tướng Boris đến Kinh Đô Bucharest ,thì Quân Nga đã đến Ngoại Ô, cướp bóc , và hãm hiếp phụ nữ Lỗ Ma Ni .! Trung tướng Henri ký văn kiện đầu hàng với Đại tướng Boris để Romania không rơi vào tay Quân Nga . Coi như Romania chỉ là cuộc nội chiến- là Quốc gia độc lập , chứ không phải là Quốc gia Bại trận !
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:16:48 GMT 9
www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=2249&page=33HOÀNG ĐẾ CAROL II - King of the Romanians Reign 8 June 1930–6 September 1940 (10 years, 90 days ) Hoàng đế đã phong cấp Đại tá Thực thụ cho Trung tá Henry 1.9.1939 : ngày Đệ nhị thế chiến bùng nổ : Bổ nhậm : Đại tá Tư lệnh Sư đoàn Tia Chớp Đông Âu . HOÀNG ĐẾ MICHAEL II - King of the Romanians 6 September 1940 – 30 December 1947 : Ngày Đại tướng Boris , Trung tướng Henri - Tatyana Tử trận . Tháng 4.1945 Quân Nga tấn công vào Kinh đô Bucharest , kết tội Hoàng Đế là : Tội phạm chiến tranh -Tử hình, cùng Trung tướng Henri, và tất cả Tướng Lãnh Quân lực Hoàng gia Vương Quốc Lỗ Ma Ni ! *Đại tướng Boris đã cấp tốc tiến quân về kịp : cứu Tổ Quốc trong đường tơ kẻ tóc ... **30 December 1947 Hoàng đế Michael II qua định cư tại Luân Đôn -Anh Quốc, hiện tại 90 tuổi (1921---) sống tại Quê hương Lỗ Ma Ni ! TRUNG TƯỚNG HENRI -TRONG LỄ HỨA HÔN TATYANA 11. 1940 TRƯỚC GIỜ XUẤT QUÂN -TẤN CÔNG VÀO NƯỚC NGA KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC *"Tatyana ! Anh biết ù em là người Do Thái, nhưng em có tình yêu nồng nàn với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni , Em hãy đến nước Nga tìm gặp Boris !. Mỹ Quốc vừa Chiến thắng Nhật Bản trận Midway tại chiến trường Thái Bình Dương- Châu Á , có lẽ Phe Trục bại trận mất !. Boris sẽ là Lãnh tụ tương lai của Tổ Quốc Lỗ Ma Ni. Em hãy cùng Boris , kiến tạo và xây dựng Tổ quốc Romania hùng mạnh !. Còn Anh sẽ trung thành với Hoàng Đế đến cuối cùng !" CÔ GIÁO - DANH CA :TATYANA - TRONG LỄ HỨA HÔN 11.1940 -RỒI TAN VỠ - MÃI MÃI ĐI BÊN CẠNH CUỘC ĐỜI CUẢ 2 DANH TƯỚNG BẠN THÂN : BORIS VÀ HENRY - NGƯỜI CON GÁI KỲ LẠ NHẤT - HẠNH PHÚC TUYỆT VỜI NHẤT----- ĐAU KHỔ NHẤT SAU 1945 : 2 DANH TƯỚNG BẠN THÂN NHƯỜNG NHAU ! " Henri ! em và anh đều biết trong trái tim của em , một nửa là anh và một nữa là Boris . Boris đã đi biền biệt 11 năm nay , em cũng đau khổ , hy vọng mai đây trên Chiến địa Anh và Boris sẽ không bao giờ đụng trận với nhau ! " ĐẠI TƯỚNG BORIS " Tatyana , 16 năm nay Boris này yêu em :một tình yêu không bao giờ thay đổi và sẽ mãi mãi ! Dù ngày hôm nay biết em là người Do Thái , nhưng em là trường hợp cá biệt của người Do Thái, vì em đã coi Tổ Quốc Lỗ Ma Ni này là của em ! Đây là sợi dây chuyền mà Anh đã đeo trên cổ của Anh 16 năm nay, Em hãy giữ lấy ! Và Em hãy đến với Henri đang đau khổ tận cùng ! " "....Tao cám ơn Ba Má đã cho tao hình hài ngày hôm nay, những gì đau khổ của tuổi thơ , đã tôi luyện cho tao bản tánh cứng rắn , dù sau này có phong ba bão táp ,tao cũng không sợ , mà sẽ đương đầu với nghịch cảnh !. Tiền bạc : Ba Má tao không tạo ra từ 2 bàn tay và khối óc của mình, mà phung phí , nó sẽ ra đi đó là điều tự nhiên !. " ** Cấp bậc Đại tướng của Đại tướng Boris là Cấp bậc Đại tướng của Lực lượng Đồng Minh ( Mỹ -Nga- Anh ) . Lãnh tụ máu lạnh Stalin thay mặt TT thứ 32 Roosevelt , Thủ tướng Churchill gắn lon Đại tướng 4 sao của Quân Lực Liên Sô vào tháng 12 năm 1941 , tại điện Cẩm Linh trước mặt hàng chục Tướng lãnh cao cấp : Thượng tướng 3 sao, Đại tướng , và Nguyên Soái Nga . Trước tháng 12 năm 1941 : Đại tướng Boris là Tổng chỉ huy trưởng tất cả Nông trang tập thể tại vùng Trung Á ,chỉ huy trên 1 triệu người : Tổng Chỉ huy trưởng Boris là nhà Lãnh đạo cực kỳ xuất sắc, nhà Kênh tế gia và Nông nghiệp gia đại tài, đã đưa Liên Bang Sô Viết từ Quốc gia , phải nhập cảng lúa Mỳ , trở thành Quốc Gia xuất cảng lúa Mỳ đứng thứ nhì thế giới ! được phong là Anh hùng của Liên Bang Sô Viết trong 4 năm liền : 1936-1940 ! .............................. . THỐNG CHẾ VICTOR ANTONESCU -TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG-(Chief of the Romanian General Staff) QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI TRONG ĐỆ NHỊ THẾ CHIẾN -THỦ TƯỚNG 1944-1945 . 1947 ĐỊNH CƯ TẠI NEW YORK , MẤT 1953 Field Marshal Victor Antonescu (March 30, 1874 Died May 16, 1953 (aged 79) LỮ ĐOÀN CHIẾN XA - SƯ ĐOÀN TIA CHỚP ĐÔNG ÂU XUẤT QUÂN 11.1940 Sau lễ hứa hôn một ngày , Đại tá Henri từ giả Tatyana xuất quân. Trước đó 3 ngày : 3 Quốc gia : Romania , Hungaria , và Tiệp khắc (Slovakia) tuyên bố gia nhập phe Trục , Tuyên chiến với Đế quốc Nga . (The Axis expanded in November 1940 when Hungary, Slovakia and Romania joined the Tripartite Pact. These countries participated in the subsequent invasion of the USSR, with Romania making the largest contribution to recapture territory ceded to the USSR and pursue its. Field Marshal Antonescu's desire to combat communism) NGUÒI DÂN LỖ MA NI -ROMANIA -ĐANG VẪY CHÀO ĐOÀN QUÂN CUẢ ĐẠI TÁ HENRI LÃNH ẤN TIÊN PHONG RA CHIẾN TRƯỜNG - TẤN CÔNG KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC . NGƯỜI THANH NIÊN LỖ MA NI ĐANG CẦU NGUYỆN CHO TỔ QUỐC THÂN YÊU- CHIẾN THẮNG KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CUẢ DÂN TỘC . ______________________________ _____________--- Trong lúc đó cách Đất nước Lỗ Ma Ni hàng ngàn dặm , Tổng Chỉ huy trưởng Boris đứng bất động , tựa cửa sổ văn phòng nhìn ra : Thảo nguyên bát ngát mênh mông của VùngTrung Á giữa mùa đông lạnh lẽo : Chiến tranh giữa Tổ quốc đất Mẹ và nước Nga đã diễn ra thật rồi ! Nước Nga là kẻ thù truyền kiếp của Tổ Quốc đất Mẹ ! Nhưng nước Nga cũng đã cho mình tất cả : Học thức , Địa vị , và Quyền lực ! từ Biệt thự xinh đẹp tiện nghi , đến phương tiện di chuyển Xe Ô tô , Phi cơ, Cả triệu người làm việc dưới tay mình ! Nhưng vấn đề quan trọng không phải giữa Tổ quốc đất Mẹ , và nước Nga mình phải chọn ai ? mà Tổ quốc đất Mẹ có thể chiến thắng trong trận chiến này hay không ? Mình đã sống tại nước Nga 11 năm nay, mình đã hiểu rõ về dân tộc này , ngoài lòng yêu nước , họ còn có lòng tự hào , đất rộng bao la , dân số lại đông ! Tổ quốc đất mẹ lại bất hạnh ở sát đất nước này ! Chỉ có còn đường duy nhất là phát huy sức mạnh đoàn kết của dân tộc mà truyền thống tiền nhân đã để lại , mới bảo vệ hữu hiệu quê hương , bên cạnh đó phải phát triển kênh tế hùng mạnh,và Quân đội thiện chiến ! Muốn làm được điều này , cần phải phát triển mối quan hệ tốt đẹp với Cường quốc hùng mạnh bên kia bờ Đại Tây Dương đó là Mỹ Quốc !. Boris nhớ lại 2 năm trước đã đến Mỹ Quốc trong 2 tháng , đặt chân đến vùng Trung Tây : Tiểu bang Kansas , và vùng Tây Bắc :Tiểu bang Idaho là nơi những cánh đồng lúa Mì , và khoai Tây chạy dài hàng trăm dặm. Dân tộc Mỹ dù là Hợp chủng Quốc , nhưng là một Dân tộc yêu nước , hiếu khách , thông minh , và đặc biệt không có tham vọng Đế quốc như nước Nga , đây chính là người bạn mà Tổ quốc đất mẹ cần kết thân ! Hiện tại Mỹ Quốc lại giao hảo tốt đẹp với nước Nga ! Tổ quốc đất mẹ tham gia Phe Trục do Đức Quốc Lãnh đạo. Hiện tại Đức quốc cũng đang giao hảo tốt đẹp với nước Nga, hai Quốc gia đã ký hiệp ước bất tương xâm ! Mỹ Quốc lại đang viện trợ cho Anh Quốc và các nước đồng minh chống lại phe Trục ... Từ ngày Chiến tranh xảy ra , Boris đã theo dõi tin tức chiến sự hàng ngày, nhịp độ tiến quân Liên quân Quân Lực của 3 nước : Lỗ Ma Ni- Hung Gia Lợi -Tiệp Khắc . Sư đoàn Tia chớp Đông Âu - Quân Lực Lỗ Ma Ni : Thần ưng trên Chiến trương đã tấn công đánh tan tác Quân Nga chiếm toàn bộ vùng Bessarabia và đang dũng mãnh tiến quân đến Bukovina phía bắc nước Nga , là những vùng đất xưa của Vương quốc Lỗ Ma Ni , đã mất vào tay Quân Nga thế kỷ 18,. Quân Lực Hoàng Gia -Hung Gia Lợi cũng không kém như Mãnh hổ tả xung hữu đột trên chiến trường , đã chiếm được một số vùng Lãnh thỗ của Vương Quốc Hung Gia Lợi đã bị mất trước đây . Phương Diện Quân Phương Nam của Quân Lực -Hoàng Gia Hung Gia Lợi đang tiến đến phía Nam của xứ Tiểu Nga (Ukraine) Quân Lực Tiệp khắc cũng thu được thắng lợi trên Chiến trường ..đã khôi phục lại phần đất phía nam của Subcarpathian Ruthenia, đã bị Liên bang Sô Viết chiếm trước đây , sau Đệ nhất thế chiến !. Qua năm 1941 Quốc trưởng Hitler tuyên bố trả lại phần đất Transnistria cho Vương Quốc Lỗ Ma Ni . Transnistria là vùng đất cổ xưa của Vương quốc Lỗ Ma Ni nằm bên trong Moldavia , đã bị Quân Nga chiếm trong thế kỷ 19 , Đức Quốc đã chiếm giữ sau Đệ nhất thế chiến ! Mùa Xuân 1941 nước Nga tổng động viên , kênh tế bắt đầu tập trung ưu tiên về quốc phòng . Qua các chiến thắng Quân Lực của Liên Minh 3 nước, đã làm Boris, nhận ra một điều cực kỳ quan trọng : Các Quốc Gia Đông Âu Liên Minh lại chắc chắn sẽ là một bức tường thành hữu hiệu không những có thể bảo vệ chủ quyền độc lập, mà có thể khôi phục lại những lãnh thỗ đã mất . Nếu tương lai các nước Đông Âu thành lập một Liên hiệp các Quốc gia , thì nó giống như một Quốc Gia Cộng Hoà Liên Bang, chắc chắn sẽ là một Cường quốc của thế giới sẽ vượt qua Anh- Pháp, vì dân số đông hơn , quân lực thiện chiến hơn, tài nguyên nhiều hơn ( Anh , Pháp không có tài nguyên nhiều, nên phải xâm lược các xứ Châu Á , Châu Phi, biến thành thuộc địa , để lấy tài nguyên ). Quân Lực Đông Âu thiện chiến và dũng mãnh không thua Quân Lực Đức , và Nga, mà còn có thể nhỉnh hơn một chút nữa .Các nước Đông Âu , vì dân số ít, nên giống như những chiếc đũa, nếu kết hợp lại thành bó đũa sẽ là một sức mạnh vô cùng lợi hại . Boris ước mơ trong tương lai Cộng hoà Liên bang Đông Âu sẽ ra đời ! Quân Nga bắt đầu phản công trên các chiến trường do Danh tướng Đại tướng Zhukov : Tổng tham mưu trưởng Quân Lực Nga . Lúc này Liên quân 3 nước đã chiến đấu vô cũng dũng cảm quyết tâm bảo vệ những vùng đất mà vừa khôi phục lại được, là những mãnh đất của Tổ tiên đã bị quân Nga xâm chiếm trước đây , bao nhiêu máu của tiền nhân đã đổ xuống gần 200 năm nay để khôi phục lãnh thỗ đã mất , những trận đánh đẫm máu máu trong suốt 200 năm , đã khôi phục lại rồi lại bị mất , vì đây là những vùng tài nguyên dồi dào , mà Đế quốc Nga không bao giờ từ bỏ dã tâm , tham vọng. Quân lực của 3 Quốc gia quyết tâm sẵn sàng quyết tử để bảo vệ những vùng đất của tổ tiên , hình ảnh Lữ đoàn Kỵ binh Thiết Giáp , và Sư đoàn Tia chớp Đông Âu, hiên ngang chống trả 2 sư đoàn thiết Giáp, và 5 sư đoàn Quân Nga tại Bessarabia. ! Trong lúc đó tại Bukovina :Quân đoàn 3 Quân lực Lỗ Ma Ni , tăng cường 2 Sư đoàn Thiết giáp R.35, tử chiến Phương Diện Quân Tây Nam, và Quân đoàn Thiết giáp 24 của Nga (T.34, KV) Trong thời gian này , hàng đêm Boris miệt mài đọc những tài liệu về Chính trị học : Hiến pháp , Lập pháp , Hành pháp của nhà các nhà Chính trị học thời phục hưng Trung cổ Italia (Italian Renaissance political philosopher ) và Tài liệu Nghệ thuật Chiến tranh (The Art of War) : Xây dựng Quân đội, bày binh bố trận , tấn công , phòng thủ của các Thiên tài Quân sự : Carl von Clausewitz- Đức Quốc ,và Sun Tzu (Tôn Tử) Trung Hoa . Tháng 5 năm 1941 : Các Hoàng Đế của 3 Vương Quốc Đông Âu: Bảo Gia Lợi , Lỗ Ma Ni, Hung Gia Lợi ( Bulgaria , Romania , Hungaria) : Boris III , Michael II , và Nhiếp Chính vương Hung Gia Lợi : Miklos Hórthy tuyên bố sẽ tử chiến với Quân Nga trên bất kỳ chiến trường nào nào tại Đông Âu !. Quốc trưởng-Nhiếp Chính Vương Tây Ban Nha :Francisco Franco (1939-1975) tuyên bố : Ủng hộ 3 Vương Quốc Đông Âu , Lập tức Nhiếp Chính Vương Franco gởi đạo quân : Chí nguyện quân 10 ngàn chiến binh do Danh tướng Munoz Grandes chỉ huy , tăng viện cho các Quốc gia Đông Âu nhỏ bé nhưng Anh dũng tuyệt vời !. Tháng 6 năm 1941 Quốc gia Bắc Âu- Phần Lan (Finland) nhỏ bé chưa đến 3 triệu dân tuyên chiến với Đế Quốc Nga ! để khôi phục lại lãnh thổ trước đây đã bị Quân Nga chiếm giữ trong thế kỷ 19. Quốc trưởng Phần Lan Emil Mannerheim là bạn thân với Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler ! Để cứu Bạn Hiền ! Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler xé hiệp ước Bất tương xâm : Tuyên chiến với Đế Quốc Nga 21.6.1941. Lập tức Hoàng Đế Michael II của Vương Quốc Lỗ Ma Ni, Nhiếp Chính vương Vương Quốc - Hung Gia Lợi : Miklos Hórthy, Nhiếp Chính vương Quốc trưởng -Tây Ban Nha : Francisco Franco , gởi trên nữa triệu quân tham chiến : nhất quyết cùng Quân lực Đức Quốc tấn công , đánh thẳng vào trái tim của Đế quốc Nga : Thủ đô Mạc Tư Khoa . Lữ đoàn Kỵ binh Thiết Giáp , và Sư đoàn Tia chớp Đông Âu do Đại tá Henri Tư lệnh : Lãnh ấn tiên phong đi hàng đầu Đạo quân Nửa triệu chiến binh Đông Âu và Tây Ban Nha , cùng trên 2 triệu chiến binh Đức Quốc - Ý mở Chiến dịch Barbarossa (tiếng Đức: Unternehmen Barbarossa) đánh thẳng vào trái tim của Đế quốc Nga : Mạc Tư Khoa - Moscow- Moskva. **"Barbarossa" là biệt hiệu của Hoàng đế La Mã Thần thánh- Bách chiến Bách thắng : Friedrich I ở thế kỷ 12 Tổng số Quân Lực Đồng minh Phe Trục - Tổng tấn công : Đế quốc Nga -Đánh thẳng vào trái tim Mạc Tư Khoa : Quân Lực Tham chiến : Đức Quốc Lỗ Ma Ni- Romania Hung Gia Lợi-Hungaria Tiệp khắc -Slovakia Tây Ban Nha Phần Lan Ý Tổng số Quân Lực Đồng minh Phe Trục : 2 triệu 600 ngàn chiến binh (2.600.000 Chiến binh ) 117 Sư đoàn bộ binh, 19 sư đoàn Thiết giáp, 15 sư đoàn cơ giới 3.350 xe tăng-Thiết giáp 7.200 Cỗ Trọng pháo 2.770 Oanh tạc Cơ- Chiến Đấu Cơ Mục Tiêu Chiến dịch : Chiếm toàn bộ : Bạch Nga -Tiểu Nga - Đại Nga- Moldavia - Litva- Latvia- Estonia : Toàn bộ Lãnh thổ Đế quốc Nga tại Châu Âu và trái tim Mạc Tư Khoa : RUSSIAN : ĐẠI NGA . UKRAINE : TIỂU NGA . BELARUS : BẠCH NGA OPERATION BARBAROSSA CORRECTED BORDER : 22 JUNE 1941 CÁC MŨI TIẾN CÔNG CUẢ CÁC ĐẠO QUÂN ĐỒNG MINH PHE TRỤC : VÀO TRÁI TIM ĐẾ QUỐC NGA Tổng Số Quân Lực Đồng minh Phe Trục :15 Phương Diện Quân = 3 Tập Đoàn -Phương Diện Quân . Do 3 Thống chế 5 sao : Tư lệnh 1 .Thống chế Wilhelm Ritter Tổng Tư Lệnh :Tập Đoàn -Phương Diện Quân Phương Bắc - Tổng tấn công Mặt trận phía Đông . Corp Army Group North -(Field Marshal Wilhelm Ritter ) staged in East Russia with 26 Divisions 2.Thống chế Fedor von Bock Tổng Tư Lệnh :Tập Đoàn -Phương Diện Quân Trung tâm :Tổng tấn công Mặt trận Trung tâm . Corp Army Group Centre (Field Marshal Fedor von Bock) staged in Eastern Poland with 49 Divisions: 3. Thống chế Gerd von Rundstedt Tổng Tư Lệnh :Tập Đoàn -Phương Diện Quân Phương Nam - Tổng tấn công Mặt trận phía Nam Corp Army Group South (Field Marshal Gerd von Rundstedt ) was staged in Southern Poland and Romania with 41 Divisions. Mỗi Tập Đoàn -Phương Diện Quân được yểm trợ 1 Quân đoàn Không quân,1 Quân đoàn Pháo binh, 1 Quân đoàn Thiêt Giáp 1 Division : 1 Sư đoàn bộ binh Đồng minh Phe Trục trung bình : 20,000 Chiến binh = 2 Sư đoàn QLVNCH ----------------------------------- OPERATION BARBAROSSA CORRECTED BORDER : 22 JUNE 1941 3 Tập Đoàn -Phương Diện Quân .: 2,600,0000 - 3,200,000 =15 Phương Diện Quân Xe tăng- Thiết Giáp : khoảng 5.000 (trong đó có hơn 3.000 Panzer T-IV) Xe bọc thép: 3.410 chiếc Xe cơ giới (không kể xe tăng ,xe bọc thép) khoảng 600.000 gồm: xe kéo pháo, xe vận tải, xe công trình, xe thông tin, truyền tin ,mô tô ba bánh của bộ binh cơ giới Pháo: khoảng 47.000 khẩu (trong đó có hơn 10.000 trọng pháo cỡ nòng trên 85 mm) Oanh tạc Cơ- Chiến Đấu Cơ: 4.940 (trong có có hơn 2.000 chiếc ME-109 các kiểu C, D, E) Phi cơ vận tải quân sự: 60 Chiến hạm: hơn 300 (trong đó có 85 Tuần dương hạm, 105 Khu trục hạm, 86 Tiềm thuỷ Đỉnh (tàu ngầm) các loại ( Đây là con số chính thức thực tế Tổng tấn công : 22.6.1941 , con số đầu tiên là con số theo kế hoạch :OPERATION BARBAROSSA. Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler đã huy động hết 3/4 Quân Lực Đức , kể cả 600 ,000 Chiến binh làm trừ bị (2,600,0000 - 3,200,000 ) GIAI ĐOẠN I : 22.6.1941--24.9.1941 Tổng số Quân Lực Nga ( Liên Sô) Tham chiến :3.2 triệu Chiến binh ----3.2 million initial (later 5 million more) 12,000-15,000 Xe tăng- Thiết Giáp (tanks,) 35,000-40,000 Oanh tạc Cơ- Chiến Đấu Cơ: aircraft (11,357 combat ready on 22 June 1941) Tổng Tư lệnh : Đại Nguyên Soái 6 sao Stalin Tổng Tham mưu trưởng : Danh tướng --Đại Tướng 4 sao Zhukov- --bị cách chức 9 .1941 vì : 1 triệu Chiến binh bị bắt làm tù binh : 2 Tập Đoàn -Phương Diện Quân . (captured.) 1.5 triệu Chiến binh bị thương ( wounded ) 0.5 triệu Tử trận (500,000 killed ) 16,00 Oanh tạc Cơ- Chiến Đấu Cơ bị bắn hạ (16,000 aircraft destroyed ) 10,200 Xe tăng- Thiết Giáp bị tiêu diệt , hay tịch thâu (10,200 tanks lost ) SƯ ĐOÀN PHÁO BINH QUÂN LỰC PHE TRỤC KHAI HOẢ SIÊU ĐẠI PHÁO 305 LY -QUÂN LỰC PHE TRỤC - TẦM XA 100 KM GẤP 5 LẦN TẦM XA ĐẠI PHÁO 105 LY -QLVNCH TẬP ĐOÀN -PHƯƠNG DIỆN QUÂN TÂY NAM - QUÂN LỰC NGA TẠI THỦ ĐÔ MINSK CUẢ XỨ SỞ BẠCH NGA RA ĐẦU HÀNG 7.1941 (324.000 quân Nga đầu hàng quân Phe Trục cùng 2.300 xe tăng, thiết giáp bị phá huỷ hay loại khỏi vòng chiến, 150,000 bị thương và Tử trận ) 24.9 .1941 : Quân Lực Đồng minh Phe Trục :15 Phương Diện Quân - 3 Tập Đoàn -Phương Diện Quân Chiếm toàn bộ : Bạch Nga -- Moldavia - Litva- Latvia- Estonia -3/4 Tiểu Nga - 3/4 Đại Nga . QUÂN LỰC PHE TRỤC ĐANG TIẾN QUÂN CHIẾM CÂY CẦU OKUNINOVO NGOẠI Ô THỦ ĐÔ KIEV CUẢ TIỂU NGA ( GIỐNG NHƯ : THỦ ĐỨC - SÀI GÒN) . THỦ ĐÔ KIEV THẤT THỦ 20.9.1941 (600 ,000 quân Nga đầu hàng quân Phe Trục ) GIAI ĐOẠN II : 24.9.1941--5.12.1941 _ DÂN TỘC NGA ĐỨNG DẬY QUYẾT TỬ BẢO VỆ TỔ QUỐC THÂN YÊU !- ĐẠI NGUYÊN SOÁI STALIN THẢ 2 NGUYÊN SOÁI NGA-DO THÁI RA CHIẾN TRƯỜNG ! ( DANH TƯỚNG THỜI SA HOÀNG TRƯỚC 10.1917 ) Dân tộc Nga vốn là một Dân tộc cực kỳ yêu nước không thua Dân tộc Đức,và Dân tộc Mỹ ( Mỹ Quốc là Hợp Chủng Quốc nhưng vẫn có đặc tính chung của Dân tộc Mỹ - Boris đã nhận xét rất chính xác !) QUÂN LỰC NGA TÂN BINH TỪ THỦ ĐÔ MẠC TƯ KHOA TIẾN QUÂN RA NGOẠI Ô : ĐÁNH TAN NÁT SƯ ĐOÀN TIA CHỚP ĐÔNG ÂU VÀ LỮ ĐOÀN THIẾT GIÁP R.35 CUẢ TÂN THIẾU TƯỚNG HENRI -TÀN QUÂN PHẢI RÚT RA CÁCH XA MẠC TƯ KHOA 250 KM ---30. 11.1941 Từ 24.9.1941-30.11.1941 Quân Nga tử chiến kiên quyết phòng ngự bảo vệ 1/4 Đại Nga và 1/4 Tiểu Nga còn lại , những nhà máy Quân sự, Quốc phòng cấp tốc dời sang Trung Á, những Sư đoàn , Quân đoàn mới tinh với tinh thần yêu nước cao độ được thành lập tại Trung Á ,sau đó được không vận về Âu châu vùng lãnh thổ của 1/4 Đại Nga và 1/4 Tiểu Nga còn lại . Từ 30.11.1941--5.12.1941 -từ Phòng ngự chuyển sang Tổng phản công ! A -TỔNG CHỈ HUY TRƯỞNG BORIS : TỪ BỎ TẤT CẢ ĐỊA VỊ- QUYỀN LỰC-DANH VỌNG VỀ TỔ QUỐC ĐẤT MẸ THÂN YÊU- CỨU NGUY TỔ QUỐC LÂM NGUY .! Từ ngày chiến dịch Barbarossa khai diễn 22.6.1941 , Tổng chỉ huy trưởng Boris đã cập nhật tin tức chiến sự hàng ngày ,đặc biệt thường xuyên theo dõi Sư đoàn Tia chớp Đông Âu của người bạn thân Đại tá Henri , đang lãnh ấn tiên phong, của hơn nửa triệu quân các nước Đông Âu, tấn công vào nước Nga . Quân Đồng minh phe Trục tiến như chẻ tre , trong hai tháng đầu tiên , tin tức thất trận tại Âu châu dội về vùng Trung Á xa xôi, đã gây bàng hoàng cho Tất cả những người dân Nga gốc Á châu . Sau những đêm khuya đọc những tài liệu về binh pháp chiến tranh, và nghệ thuật quân sự , Boris đã có cái nhìn khái quát về chiến tranh đang diễn ra : *Quân Nga sở dĩ thất trận là do các Lý do sau đây : - Vũ khí của Đức quốc hiện đại hơn , đặc biệt những Sư đoàn Pháo binh , và Sư đoàn Chiến xa rất lợi hại, Phi cơ tối tân , hiện đại hơn , Sĩ quan phi công Đức kinh nghiệm chiến trường nhiều hơn . - Quân lực Nga , hơn 20 chục năm không quen chiến trận ,các Tướng lãnh Nga đa số không có kinh nghiệm chiến trường , nhất là những trận đánh cấp độ : Phương diện quân, con đường tiếp vận là con đường huyết mạch của Đạo quân khổng lồ Phương diện quân, lại không đề phòng tối đa , không có kế hoạch bảo vệ hữu hiệu , Quân phe Trục chỉ cần cắt đứt con đường tiếp vận , là Quân Nga phải thất trận đầu hàng thôi ! - Dân tộc Nga ,và hàng ngũ Lãnh đạo bàng hoàng sững sờ, lần đầu tiên trong Lịch sử dân tộc , Đất nước bị xâm lược bởi một đạo quân khổng lồ thiện chiến, mọi ưu thế của kẻ thù đều vượt trội .Vì vậy hàng ngũ Lãnh đạo nước Nga bị lúng túng ngay từ đầu , không có kế sách hữu hiệu để ngăn chặn bước tiến của Quân đội phe Trục . Thật ra nước Nga đã cho Boris tất cả : Quyền lực , Địa vị, và Danh vọng , nếu cuộc chiến này không có Tổ Quôc Đất mẹ , và các nước Đông Âu tham chiến., thì Boris đã đứng về phía nước Nga, sẵn sàng chấp nhận ra chiến trận ! Bước qua tháng 9 .1941, Hàng ngũ lãnh đạo nước Nga đã lấy lại bình tĩnh, dân tộc Nga lúc này cũng ý thức rõ rệt , đất nước Nga sẽ bị thống trị nếu không quyết tử, công lao của tổ tiên dựng nước , mở rộng bờ cõi hàng trăm năm sẽ bị xoá sạch. Nước Nga lại còn có vùng hậu phương Trung Á rộng bao la , tài nguyên giàu có , đặc biệt , người Nga gốc Trung Á ( Triều tiên , Mông Cổ , Mãn Châu ) rất thiện chiến : Hình Ảnh những Đạo quân Kô Dắc ( Caucasian ) , đã từng theo Sa Hoàng Pyotr Đại Đế (Tsar Pyotr the Great ) , và sau này Nữ Hoàng Đại Đế Catherine (Tsar Catherine the Great ), chinh Đông dẹp Bắc , mở rộng bờ cõi. Những vó ngựa của những Đạo quân Kô Dắc ( Caucasian ) đã giẩm nát Âu Châu. Năm 1812 giữa mùa Đông băng giá , tuyết lạnh dưới o độ C : Đạo quân Kô Dắc, tại Mạc Tư Khoa gươm sáng tuốt trần trên mình ngựa , xông pha ra chiến trường đánh tan Đạo quân Bách chiến Bách thắng của Hoàng Đế : Nã Phá Luân (Napoleon I ) nước Pháp . Ông Thủ tướng Nhật Bản đã vô cùng ngu ngốc khi không tấn công vào Trung Á , mà lại tấn công Mỹ Quốc ! Ông Thủ tướng này , sau 1945 bị kết tội : Tội phạm chiến tranh ,bị tử hình là quá xứng đáng ! Tháng 9 năm 1941 , nước Nga đã bước qua giai đoạn mới, Toàn dân đã bắt đầu bước vào cuộc Chiến Tranh Vệ quốc Vĩ Đại . Tại Mỹ quốc , những người Mỹ gốc Nga đã thành lập đạo quân trên 15 ngàn chiến binh, gởi thỉnh nguyện thư lên TT thứ 32 Franklin Roosevelt , xin được trở về nước Nga :Chiến đấu để bảo vệ Thủ đô Mạc Tư Khoa . TT thứ 32 Roosevelt đã chấp thuận ! Những chiến binh Mỹ gốc Nga , đã được huấn luyện quân sự cấp tốc tại Mỹ , trang bị Vũ khí của Mỹ ,và được không vận tới Thủ Đô Mạc Tư Khoa. Đạo quân này đã chiến đấu vô cùng dũng mãnh bảo vệ Thủ đô Mạc Tư Khoa từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1941 , Họ đã hy sinh gần hết ! Sau chiến tranh nước Nga đã lập Nghĩa trang riêng tai ngoại ô Mạc Tư Khoa, để tôn vinh những Chiến binh Mỹ gốc Nga , đã bảo vệ Tổ quốc Đất mẹ trong giờ phút Tổ quốc Lâm Nguy !. Ngày nay Nghĩa trang này, vào những ngày nghĩ , hay những ngày lễ , người dân Nga vẫn đến thăm viếng nơi này để tưởng nhớ những chiến binh Mỹ gốc Nga ! * Hình ảnh những chiến binh Mỹ gốc Nga chiến đấu dũng cảm bảo vệ Thủ đô Mạc Tư Khoa, đã làm cho Boris suy nghĩ rất nhiều, Những chiến binh này ,Họ đã từ giả đời sống yên bình , êm ấm của một Quốc gia hùng mạnh bên kia bờ Đại Tây Dương , để về chiến đấu cho Tổ quốc đất mẹ, trong giờ phút Tổ quốc đất mẹ lâm nguy , quả thật Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu, bất hạnh ở sát nước Nga !. Cuộc chiến này rồi sẽ xoay chiều bất lợi cho Tổ quốc Đất mẹ và các nước Đông Âu. Mỹ Quốc sẽ không bao giờ bỏ rơi nước Nga , trước đây mối giao hảo 2 Quốc gia đã tốt đẹp, nay những công dân Mỹ Quốc đã chiến đấu và hy sinh tại Nga . Quả thật Dân tộc Mỹ là một dân tộc độc đáo trên giới , là một Quốc gia Hợp Chủng Quốc , có nhiều sắc dân , vẫn nhớ về cội nguồn của mình ! Nhưng nếu một ngày Tổ quốc đất mẹ có chiến tranh với Mỹ Quốc , họ sẵn ra trận bảo vệ Mỹ Quốc, chống lại tổ quốc đất mẹ, lịch sữ đã chứng minh những cuộc chiến giành độc lập từ tay người Anh , chiến tranh với Pháp để giành vùng Tây Bắc tiểu bang Washington ,Idaho , chiến tranh với Tây ban Nha , để mỡ rộng tiểu bang California , và Texas, chiến tranh với Đức trong Đệ nhất thế chiến ! ( Chứng minh thêm trong Đệ nhị thế chiến : 2 Trung đoàn Mỹ gốc Nhật đã chiến đấu rất dũng mãnh trên Chiến trường Thái Bình Dương 1942-1945 ! ) * Giờ đây những đêm khuya , trong ngôi biệt thự xinh xắn , Boris đang mãi mê bên tấm bản đồ của vùng Đông Âu trải rộng ,người thanh niên 31 tuổi đang tìm vùng đất sẽ dựng nghiệp , để làm căn cứ Chiến khu, cứu Tổ quốc Đất mẹ thân yêu , và kiến tạo một Tổ quốc Hùng mạnh trong tương lai , với ước mơ : Cộng Hoà Liên Bang Đông Âu sẽ ra đời , để bảo vệ hữu hiệu cho Tổ quốc , và các Quốc gia Đông Âu , trước một nước Nga hùng mạnh , yêu nước nhưng tham vọng bành trướng lãnh thỗ ... Sau một thời gian nghiên cứu địa lý , tìm hiểu dân cư : Boris đã đi đến quyết định chọn vùng đất Transnistria , mà Đức quốc mới trao trả lại cho Vương Quốc Lỗ Ma Ni để lập Chiến khu. Vùng đất này năm xưa, Ông Nội Boris đã anh dũng hy sinh 44 năm trước 1897, khi giao tranh với Quân Nga , để khôi phục lại Lãnh thỗ của Tổ tiên đã mất ! Sở dĩ Boris chọn Transnistria , vì vùng đất này còn có những ưu điểm sau đây : 1.Vùng đất này có lợi thế : Trước đây Nga thống trị trên 100 năm , các sắc dân Đông Âu, tại đây khá nhiều, do họ đã di cư từ những vùng Lãnh thỗ Đông Âu bị quân Nga chiếm , vì vùng đất này đất đai màu mỡ. Đức quốc mới chiếm trong Đệ nhất thế chiến. Người dân ở đây , họ căm ghét Nga ,cũng căm ghét Đức.Nhưng họ cũng hiểu 2 kẻ thù hùng mạnh như thế nào ! Chọn vùng đất này làm Chiến Khu, Boris sẽ giải thích cho người dân và thanh niên ,chỉ có Quốc gia Cộng hoà Liên Bang Đông Âu , mới có thể xây dựng một Đông Âu hùng mạnh , từ đó sẽ bảo vệ độc lập hữu hiệu . Cuộc chiến hiện tại sẽ kết thúc bất lợi cho phe Trục , Viễn cảnh Đông Âu sẽ bị Quân Nga chiếm đóng là điều không không thể tránh khỏi ! Chỉ có con đường duy nhất là thành lập Quân đội kháng chiến ngay bây giờ, khi thời cơ đến sẽ lãnh đạo Đất nước mới tránh cho Quốc gia con đường bại trận ! 2.Boris sẽ tuyển mộ các chiến binh tại Transnistria dễ dàng hơn là ở trong nước. Vì hầu như trên toàn Lãnh thỗ của Lỗ Ma Ni còn lại , người Dân đang đa số là ủng hộ Hoàng Đế Michael II, trong cuộc chiến chống lại Đế Quốc Nga ! 3.Vùng đất Transnistria còn có lợi thế : nơi đây là điểm khởi đầu của phong trào kháng chiến chống lại phe Trục . Sau này Quốc gia Lỗ Ma Ni Độc lập , Lãnh tụ Stalin không có lý do đòi lại ! ( Ngày hôm nay Transnistria vẫn thuộc Cộng hoà Lỗ Ma Ni-Romania, với những cánh đồng lúa Mỳ chạy dài , và những nhà máy công nghiệp . Người Dân đã lập Di tích để Tưởng nhớ Công ơn : của Ông Nội , và Đại tướng -Tổng Thống Boris ). ** Bây giờ chỉ còn một vấn đề cuối cùng mà Boris phân vân , đó là vấn đề vũ khí , và khí cụ chiến tranh. a, Nếu nhận Vũ Khí của Nga , sau này kết thúc chiến tranh sẽ mang ơn Lãnh tụ Stalin và nước Nga , sẽ rất khó khăn trong vấn đề Kiến quốc mai sau ! b, Nhận vũ khí của Nga , người dân Lỗ Ma Ni sẽ nghĩ mình là tay sai của Đế quốc Nga ! Anh Quốc thì bây giờ đang gặp khó khăn , phải nhận viện trợ của Mỹ Quốc ! c. Làm sao nhận được viện trợ của Mỹ Quốc đây ! ** Ngày 7.12.1941 Quân lực Nhật Bản bất thình lình huy động một lực lượng khổng lồ Hạm đội Hàng Không Mẫu Hạm , với hàng trăm Oanh tạc cơ, Chiến đấu cơ tấn công vào Trân châu cảng - Hạ Uy Di -Mỹ Quốc : ( (PEARL HARBOR Tọa độ: 21.355761° N 157.963929° E- --Hawaii ), để thi hành mệnh lệnh của Thủ tướng -Tướng quân-Quân phiệt : Hideki Toyo. Mỹ Quốc tuyên chiến với Phe Trục ngày 8.12.1941 , đã giải quyết được bài toán khó cho Boris . Đồng thời viễn cảnh Tổ Quốc Đất Mẹ , các Nước Đông Âu, cũng như các Quốc gia Phe Trục bại trận là điều nhất định phải xảy ra trong tương lai không xa !. Tối 8.12.1941 , Boris đã viết 3 lá thư gởi cho 3 Vị Nguyên thủ Quốc Gia: Mỹ Quốc , Liên Bang Sô Viết , Anh Quốc - Tổng Thống Franklin Daleno Roosevelt , Lãnh tụ Joseph Stalin , và Thủ tướng Winston Churchill , với tư cách : Lãnh Tụ Lực Lượng Kháng Chiến Đồng Minh Đông Âu : Chống Lại Phe Trục. * Trong lá thư gởi Tổng thống Mỹ Quốc : Franklin D. Roosevelt, Boris nhắc lại : mùa hè năm 1938 , Boris đã đến nước Mỹ , trong phái đoàn của Bộ Kênh tế Liên Bang Sô Viết .Trong buổi gặp gỡ phái đoàn , Tổng thống Roosevelt đã nói chuyện thân mật với người thanh niên Đông Âu 28 tuổi Boris : Kỹ sư Canh Nông :Tổng chỉ huy trưởng - Tất cả Nông trang lúa Mỳ tại vùng Trung Á với Tổng số Diện tích Nông trang hơn 2 lần Diện tích Tiểu bang California ! Trong lá thơ , Boris ước mong sẽ nhận được viện trợ vũ khí của Mỹ Quốc , để Lực Lượng Kháng Chiến có thể góp bàn tay với Lực lượng Đồng minh , nhanh chóng kết thúc cuộc chiến thảm khốc , vãn hồi nền hoà bình cho Thế giới. Quốc gia Lỗ Ma Ni và các Quốc gia Đông Âu , khi kết thúc chiến tranh , mong muốn thiết tha có được mối quan hệ tốt đẹp với Mỹ Quốc ! **Trong lá thư gởi Lãnh tụ Liên Bang Sô Viết Joseph Stalin : Boris cũng chân thành cám ơn nước Nga , hơn 12 năm nay , đã cho Boris tất cả từ học vấn , kiến thức, để trở thành một trí thức, có Địa vị cao trong xã hội Nga , Chính phủ Liên Bang Sô Viết cũng đã cung cấp cho Boris tất cả : từ Biệt thự xinh đẹp ,hiện đại (có hồ bơi , phòng tập thể dục thể hình ), đến phương tiện di chuyển Ô tô ,Phi Cơ , dù Boris không phải là Đảng viên Đảng Cộng Sản Liên Sô ! Nay Toàn Dân Liên Sô đang bước vào cuộc chiến Vệ Quốc Vĩ Đại, mà có thể nói từ ngày lập quốc của Đế chế Nga , cho đến hôm nay chưa bao giờ có trong Lịch sử Dân tộc Nga. Trước cuộc chiến Vệ Quốc Vĩ Đại của toàn Dân tộc Nga, tất cả mọi người đều tham gia với tất cả nhiệt tâm , và lòng nhiệt thành , từ những người chiến binh tại mặt trận , đến những sinh viên học sinh xếp bút nghiên khoác áo chiến y , những người công nhân trong nhà máy ,đến những người nông dân trên những cánh đồng lúa Mỳ bao la của vùng Trung Á. Boris cũng muốn góp một phần , bàn tay với Liên Bang Sô Viết và Lực lượng Đồng minh , nhanh chóng kết thúc cuộc chiến thảm khốc , vãn hồi nền hoà bình cho Dân tộc Nga và Thế giới. Đac biệt Boris là người Đông Âu,trong lúc đó hiện tại các Quốc gia Đông Âu đều tham gia phe Trục Phát xít . Boris cũng ước muốn các Quốc gia Đông Âu , được vãn hồi nền hoà bình, và trong tương lai sẽ sống thân thiện và hoá giải mối hiềm khích của các Dân tộc Đông Âu , và Dân tộc Nga , Chiến tranh không phải là một phương cách giải quyết tốt . Boris hứa khi Quốc gia Lỗ Ma Ni chấm dứt chiến tranh , Boris sẽ chứng tỏ bước đầu tiên của sự cải tiến mối quan hệ , tình thân thiện của 2 Dân tộc Nga và Lỗ Ma Ni , cũng như Chính phủ 2 Quốc gia : Boris sẽ lấy Quốc hiệu là Cộng Hoà Nhân Dân Lỗ Ma Ni- Romania , với Chức vụ là Chủ tịch nước ! B . BORIS TRỞ VỀ TỔ QUỐC ĐẤT MẸ 3.1942 BORIS : NGƯỜI THANH NIÊN 32 TUỔI : ĐẠI TƯỚNG "KHÔNG QUÂN" NHẢY DÙ XUỐNG TỔ QUỐC ĐẤT MẸ LỖ MA NI -SAU GẦN 13 NĂM XA QUÊ HƯƠNG -- TRÊN NGỰC KHUNG HÌNH TATYANA VẪN HIỆN HỮU BÊN TRÁI TIM- 155 THÁNG : 4,650 NGÀY XA TATYANA YÊU DẤU ! VÀ HENRI NGƯỜI BẠN THÂN THIẾT ! Boris gởi 3 lá thơ cho ba lãnh tụ Đồng minh " Big Three " . 3 Tuần sau ngay Ngày Giáng sinh 24.12.1941, một vị Thiếu tướng (1 Sao ) của Quân Lực Liên Sô đến Biệt thự trên ngọn đồi của Tổng chỉ Huy Trưởng Boris, người an ninh gác cổng vội đưa vào phòng khách ... -Thưa Tổng chỉ huy trưởng , đây là bộ Quân phục cấp Tướng, Tổng chỉ huy trưởng hãy thay y phục , tôi sẽ đưa Tổng chỉ huy trưởng đến Phi trường , 1 phi cơ đặc biệt sẽ dành cho Tổng chỉ huy trưởng, cất cánh đến Thủ đô Mạc Tư Khoa chiều nay. Tổng chỉ huy trưởng sẽ đến điện Cẩm Linh (Kremlin ) hội kiến với Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin ... Boris cùng vị Thiếu tướng đáp phi cơ đến phi trường Thủ đô Astana của Cộng Hoà Kazakhstan-Trung Á , cách biệt thự của Boris 120 km vào lúc 10 :25 Am sáng 24.12.1941 , Một chiến đấu cơ IL -2 của Không lực Liên Sô đã đậu sẵng , tại Phi đạo. Vị trung uý phi công Nga , bước xuống đứng nghiêm chào Vị Thiếu tướng và Boris. Boris bắt tay chào từ giả vị Thiếu tướng , bước lên Chiến đấu cơ . Chiến đấu cơ IL -2, cất cánh bay lên không trung , Boris đã giã từ vùng Thảo nguyên bát ngát Trung Á , của xứ sở Cộng hoà Kazakhstan, sau hơn 7 năm sống và làm việc ở đây , mới ngày nào mùa hè năm 1934 , Boris mới 24 tuổi vừa tốt nghiệp đại học , đã đến đây nhận nhiệm sở, ngày đó cả vùng Thảo nguyên bát ngát 2.7 triệu km2 của Cộng hoà Kazakhstan (lớn hơn Tây Âu và gần gấp 9 lần Việt Nam) đa số còn hoang vu , giờ này là những cánh đồng lúa Mỳ chạy dài , những nhà máy Công Nghiệp đã mọc lên.. Chiến đấu cơ IL -2 đáp xuống phi trường Mạc Tư khoa lúc 2 : 50 pm chiều 24.12.1941
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:18:45 GMT 9
A- CUỘC ĐẤU TRÍ XA LUÂN CHIẾN GIỮA : TÂN ĐẠI TƯỚNG BORIS VỚI NGUYÊN SOÁI DO THÁI SEMYON - ĐẠI NGUYÊN SOÁI STALIN- ĐẠI TƯỚNG ZHUKOV-THƯỢNG TƯỚNG KUZNETSOV TẠI ĐIỆN CẨM LINH -NGÀY GIÁNG SINH 24.12.1941 .
Chiến đấu cơ - Cường Kích IL-2 đáp xuống phi trường Mạc Tư khoa lúc 2 : 50 pm chiều 24.12.1941.
*** Chiến Đấu cơ có 2 loại : 1. Nghênh cản cơ hay còn gọi là Tiêm Kích tầm bay hạn chế , đậu ở phi trường , cất cánh không chiến bảo vệ vùng trời khi Phi cơ Địch xuất hiện : MIG của Nga , hay F .5, F.16 ,F .18 của Hải quân Mỹ , đậu trên hàng Không Mẫu Hạm , hay ở phi trường .
2. Phi cơ Cường Kích- Tấn công tầm bay dài trên 1000km. (630) miles Trong trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 ,Chiến Đấu cơ F.5 E- QLVNCH không đủ nhiên liệu để bay từ phi trường Đà Nẵng ra Hoàng Sa không chiến rồi trở về ( Khoảng cách Đà Nẳng- Hoàng Sa chưa đến 300 miles - Hồi ký Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ).
Boris, trong bộ Quân phục cấp Tướng của Quân Lực Liên Bang Sô Viết, rời Phi cơ bước xuống Phi Đạo, Một chiếc xe Volga màu đen đã chờ sẵn trên phi đạo, Vị Đại uý Tài xế đứng nghiêm chào , mời Boris lên xe , Chiếc xe phóng nhanh ra cổng sau phi trường đầy những lô cốt phòng thủ và dàn cao xạ của Quân Nga , vừa rời khỏi cổng sau bất thình lình 2 chiếc Mô tô của Hiến binh Nga phóng lên phía trước dẫn đường, trên đường phố của Thủ đô Mạc Tư Khoa không khí chiến tranh bao trùm ..
Đoàn xe phóng nhanh trên Đại lộ rộng thênh thang giữa mùa Đông lạnh lẽo dưới O độ C, hai bên Đại lộ có những Vọng gác đầy hàng rào kẽm gai với những Lô cốt tua tủa nòng súng Thượng liên, Đại liên .
Khoảng nữa tiếng sau , Đoàn xe đã đến Điện Cẩm Linh là : Trung tâm quyền lực của Đế Quốc Nga trên một ngàn năm , những vó ngựa các Đạo quân của Đế chế Nga xâm chiếm mở rộng lãnh thỗ , các vùng đất của các Quốc gia Đông Âu nhỏ bé, đều xuất phát từ Trung tâm quyền lực này , nơi ngự trị của các Sa Hoàng .(Tsardom of Russian Empire )
Thể kỷ 18 năm 1703 ,Sa Hoàng Pyotr Đại đế mới xây dựng thành phố Sankt-Peterburg sau đó dời Kinh đô về đây !
Đoàn xe dừng lại trước mặt tiền của Điện Cẩm Linh , 2 hàng Quân Danh Dự với những Chiến binh Nga gốc Mông Cổ cao trên 1.8m trong Quân phục Đại lễ , giày boot đen cao cổ , bồng súng đứng chào , giữa thời tiết dưới 0 độ C, .
Một vị Đại tá đã chờ sẵn ! Boris bước xuống xe .Vị Đại tá bước đến đứng nghiêm chào , mời Boris duyệt qua hàng Quân Danh Dự , bước vào Cổng chính của Điện Cẩm Linh , Vị Đại tá đi bên cạnh , bước qua cổng chính ,rẽ trái dọc theo hành lang tiến đến Đại sảnh của Điện Cẩm Linh, hai bên Đại sảnh 2 Chiến binh cao trên 2 m đứng nghiêm như pho tượng .Vị Đại tá dừng lại mời Boris bước vào ...
Boris bước vào ! trong Đại sảnh trên 30 vị Tướng Lãnh cao cấp của Quân Lực Liên Bang Sô Viết, thấp nhất là Thượng tướng 3 sao, cao nhất là một vị Nguyên soái ( vị Nguyên Soái thứ 2 đang ở Mặt trận ! )
Tất cả các Tướng Lãnh Nga chăm chú nhìn Boris , đa số là không có thiện cảm , lý do : một Thanh niên trẻ măng , không qua một ngày Quân ngũ ,lại được phong cấp Tướng Lãnh Quân lực- Liên Bang Sô Viết , không những vậy lại là người Đông Âu kẻ thù của Dân tộc Nga . Hiện tại hơn Nữa triệu Quân Đông Âu đang giày xéo trên Quê hương , đã từng tiến đến ngoại ô Thủ đô Mạc Tư Khoa , cách Điện Cẩm Linh chưa đến 25 km , nay hiện diện chỉ cách Thủ đô chưa tới 200 km. Đặc biệt Vị Nguyên soái nhìn Boris , với ánh mắt vừa căm ghét , vừa coi thường ! ( có lẽ vì lý do : Lỗ Ma Ni đã ra tay tàn sát khoảng 300 ngàn Dân- Do Thái trong 3 năm 1938-1941 ! )
** Hiện tại các nước Đông Âu , coi như là không có dân gốc Do Thái ,ngoại trừ duy nhất Ba Lan ! Kết quả Ba Lan bị nhuộm đỏ 1952, do Stalin sử dụng dân Ba Lan gốc Do Thái thống trị Ba Lan làm tay sai cho Liên Sô.! Tất cả lãnh tụ cao cấp Cộng sản Ba Lan là gốc Do Thái ! , Đây là lý do Dân Ba Lan thù hận Stalin ! Chính vì người dân Ba Lan nhân đạo mà lãnh búa tạ ! người dân Ba Lan nên tự trách mình ngu ! Trước khi thù hận Stalin ! Lãnh tụ Stalin ở cái thế bắt buộc phải nhuộm đỏ Ba Lan vào năm 1952.
Tôi không trách Lãnh tụ Stalin nhuộm đỏ Ba Lan năm 1952, nhưng tôi lên án ông vụ Đại tướng Boris năm 1947 , hành xử bội tín .Đại tướng- Chủ tịch - Tổng thống Boris chưa bao giờ bội tín với Lãnh tụ Stalin !
*** Giữa lúc Boris người Thanh niên Romania đang bị trên 60 chục cặp mắt của các Tướng Lãnh Nga chiếu tướng , đặc biệt cặp mắt của vị Nguyên soái vừa khinh bỉ , vừa thù hận,. Bất thình lình Lãnh tụ Máu lạnh Stalin bước vào Đại sãnh . Tất cả các Tướng lãnh đều đứng bật dậy .
Lãnh tụ Stalin bước đến trước mặt Boris. Boris đứng nghiêm chào Vị Đại nguyên Soái của Đế Quốc Nga !
Lãnh tụ Máu lạnh Stalin khuôn mặt lạnh như tiền ., , nhưng mỉm nụ cười :
- Hôm nay : Tôi thay mặt Tổng thổng Franklin Roosevelt và Thủ tướng Winston Churchill , gắn cấp bậc Đại tướng 4 sao của Quân Lực Liên Bang Sô Viết cho Lãnh tụ Boris : Tổng tư lệnh Lực lượng Đồng Minh Kháng Chiến tại Đông Âu !
Không những Boris sững sờ , mà tất cả Tướng Lãnh Nga trong Đại sãnh cũng sững sờ luôn !, Trước đây họ nghĩ cao tay Trung tướng 2 sao là quá lắm rồi ! mà Họ đã ghét !
Lãnh tụ Stalin vừa nói xong , vị Đại tá hồi nãy bước đến, trên 2 tay là chiếc khay nhỏ bằng vàng ,trong đó : cặp lon Đại tướng mới tinh.
Lãnh tụ Stalin đích thân gắn cặp lon Đại tướng lên cổ áo cho Boris, trong bộ bộ Quân phục Cấp Tướng .
Vị Đại Nguyên Soái sau khi đã gắn cặp lon Đại tướng xong ! Boris vẫn đứng ở tư thế nghiêm !
Vị Đại Nguyên Soái :
- Đây là vị Đại tướng trẻ nhất thế giới khi mới 31 tuổi, nhưng cũng là kỳ lạ nhất thế giới là không có Quân trong tay ! . Đại tướng phải chứng tỏ cho các Tướng lãnh hiện diện tại đây, cặp lon Đại tướng trên cầu vai là xứng đáng !
Đại Nguyên Soái Stalin , hướng về các Tướng Lãnh bên dưới :
--Cả vị Tướng Lãnh Đồng chí có điều nhắn nhủ gì với Tân Đại tướng Boris hay không ?
Lập tức Vị Nguyên Soái Semyon khai hoả không phải bằng Thượng Liên , hay Đại liên của các Chiến binh Hạ sĩ quan, mà là Siêu Trọng pháo 305 ly (mm ) của Quân lực Đức Quốc tầm xa đến 100 km , chứ không phải khoảng cách chưa tới 3 mét giữa Nguyên Soái Semyon và Tân Đại tướng Boris đâu !
Nguyên Soái Semyon :
Khả năng của Đại tướng Boris thời gian sẽ trả lời cho chúng ta ! Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin đã quyết định, đó là Quân Lệnh ! . Nhưng Tôi có câu hỏi thắc mắc xin Đại tướng trả lời giùm cho tôi và tất cả Quí vị ở đây :
Đại tướng từng là Cán bộ cao cấp : Tổng chỉ huy trưởng tất cả Nông trang tập thể tại Trung Á ,của Liên Bang Sô Viết . Vậy tại sao Đại tướng đã không tin tưởng vào Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin mà phải gởi Thơ đến Tổng thổng Franklin Roosevelt và Thủ tướng Winston Churchill ? , không phải chỉ là một lá thư cho Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin !. Điều này Chứng tỏ : Đại tướng không những không tin tưởng mà còn nghi ngờ :Lãnh tụ Vĩ Đại của chúng ta !
*Boris nhìn thẳng vào mắt Nguyên soái Semyon suy nghĩ rất nhanh , nhớ lại khi đang học lớp 2 , mùa xuân năm 1918, các Thầy cô giáo Do Thái đã ca ngợi , không tiếc lời danh tướng Do Thái này , đeo lon Thiếu tướng 2 sao khi mới 31 tuổi năm 1914, Trung tướng 3 Sao năm 33 tuổi 1916 , được Sa Hoàng trọng vọng , yêu mến , nhưng vì tình yêu Tổ quốc Do Thái , đã phò tá Lãnh tụ Leon Trosky trong cuộc Cách mạng tháng 10 năm 1917 , Với tất cả tấm lòng thành nhiệt thành , đã chiến thắng Quân lực Cộng hoà nhiều trận lẫy lừng, có thể nói là Đại Công Thần của CS Nga -Do Thái, cũng là người tâm phúc của Lãnh tụ Leon Trosky và Chủ tịch nước Lê Nin . Sau 1924 trở cờ phục tùng Lãnh tụ Stalin !, nhưng vẫn bị tống giam , mới được thả ra vài tháng nay
Boris phải thắng tên Nguyên Soái Do Thái này ,ngay tại đây ! mới làm cho các Tướng lãnh Nga thấy được cặp lon Đại tướng là xứng đáng, mới dựng nghiệp thành công sau này .
Đại tướng Boris :
Thưa Nguyên Soái , Nguyên Soái cũng biết rằng : do mối hiềm khích lịch sử hơn 300 năm nay , mà Các Dân tộc Đông Âu , và Dân tộc Nga , đã coi nhau như kẻ thù . Tôi lại may mắn sống tại Liên Sô hơn 12 năm nay được học hành , trọng vọng , trở thành một Cán bộ cao cấp của chính phủ Liên Bang Sô Viết , nay Dân tộc Nga đang bước vào cuộc chiến Vệ Quốc Vĩ Đại ,đã đến lúc tôi phải trả ơn đất nước này. Góp môt bàn tay vãn hồi nền hoà bình cho Dân tộc Nga.
Nhưng tôi là người Đông Âu , dĩ nhiên tôi cũng mong muốn Người Dân Đông Âu : sống trong hoà bình , hạnh phúc , giải toả mối hiềm hích với Dân tộc Nga do Lịch sử để lại . Tôi thiết nghĩ đó cũng là ước muốn chân chính của Dân tộc Nga .
Hiện tại theo Nguyên Soái biết : tất cả Quốc gia Đông Âu đều tham chiến là Đồng minh của Phe Trục Phát Xít, Sở dĩ các Lãnh đạo Quốc gia Đông Âu làm được như vậy ! mà không bị Toàn dân lật đổ, là do mối hiềm khích của Lịch sử để lại.
Tôi gởi 3 lá thư cho 3 Lãnh tụ Đồng Minh là muốn giải thích rõ ràng : Đây không phải chỉ là cuộc chiến giữa các Quốc gia Đông Âu và Liên Bang Sô Viết do Lịch sử để lại , mà là cuộc Đại chiến của toàn Thế giới. Đã đến lúc Người Dân Đông Âu cần chấm dứt chiến tranh . Chiến tranh không phải là phương cách giải quyết tốt cho mối bất hoà hơn 300 năm nay !
Nếu Tôi chỉ gởi 1 lá thơ cho một mình Lãnh tụ Vĩ Đại Stalin , làm sao Tôi có thể kêu gọi toàn Dân Đông Âu cần chấm dứt chiến tranh , vãn hồi nền hoà bình một cách hữu hiệu được đây ? Các nhà lãnh đạo Quốc gia Đông Âu sẽ tuyên truyền cho Dân chúng : tôi là Tay sai của Người Nga !, Làm sao tôi có thể tuyển mộ Binh Sĩ , và người Dân Đông Âu ủng hộ công cuộc Kháng Chiến được đây ?
Nếu Nguyên soái có phương pháp hay hơn xin chỉ dạy ?
Nguyên Soái Symeon im lặng ! các Tướng Lãnh Nga cũng im lặng !
Nguyên Soái Do Thái hơi giật mình , có lẽ nghĩ rằng : Tên Đông Âu này không phải là tầm thường đâu ? nhưng mới chỉ là 30 ,hoàn toàn không có kiến thức quân sự , coi hắn lợi hại đến đâu !
Nguyên soái Semyon :
-Đại tướng có thể cho Chúng tôi biết : Đại tướng sẽ lập Chiến khu ở đâu không ?
Boris giật mình ! nhưng đến lúc cũng phải tố bài xã lán thôi :
- Thưa Nguyên Soái : Tôi sẽ lập Chiến Khu tại Vùng đất Transnistria !
Nguyên soái Semyon giật mình ! Nhưng mỉm nụ cười đắc thắng :
- Đại tướng quả thật vô cùng lợi hại ! Tôi đã đánh giá sai Đại tướng trước đây !
Lãnh tụ Máu lạnh Vĩ Đại Stalin nhíu mày ! Khuôn mặt lạnh như tiền :
- Quả thật Đại tướng Boris : ngoài tuổi trẻ tài cao , còn có tấm lòng yêu nước nồng nàn. Đất nước Lỗ Ma Ni may mắn có một người như Đại tướng !
Lãnh tụ máu lạnh tiếp lời :
-" Nếu công cuộc Kháng chiến thành công ! Và Đại tướng -Chủ tịch nước Cộng Hoà Nhân Dân Lỗ Ma ni -Romania : có thể cải thiện mối Quan hệ tốt đẹp giữa 2 Quốc gia ! Tôi sẽ thay mặt Liên Bang Sô Viết, nhường Lãnh thổ Transnistria vĩnh viễn cho Quốc gia Lỗ Ma Ni ! Tôi biết Ông nội của Đại tướng năm xưa đã tử trận tại đây !"
Boris hướng về Lãnh tụ Stalin :
-Thưa Đại Nguyên Soái, tôi xin thay mặt người dân Lỗ Ma Ni , chân thành cám ơn Đại Nguyên Soái,. Tôi sẽ quyết tâm thành công trong công cuộc kháng chiến, để góp một bàn tay trong việc vãn hồi hoà bình của Thế giới . Và sau này nếu Tôi là Nguyên thủ Quốc gia Lỗ Ma Ni. Tôi hứa sẽ cải thiện mối quan hệ của hai nước . Sự hiềm khích gần 300 năm nay của 2 Quốc gia là quá đủ , ! đã đến lúc 2 Quốc gia cần phải có mối quan hệ tốt đẹp trong tương lai không xa .!
Lãnh tụ máu lạnh Stalin : mỉm nụ cười tươi tắn , khuôn mặt đã hết lạnh như tiền :
- Quả thật Đại tướng là người trí dũng song toàn, Tôi tin chắc cuộc Kháng chiến sẽ thành công , và Quan hệ hai Quốc gia sau này sẽ tốt đẹp , Tôi tự hào là ngày hôm nay đã gắn lon cho Đại tướng , chắc chắn Đại tướng sẽ là một Danh tướng , và là một Nguyên thủ Quốc gia có tài. Đại tướng không những đã giúp Liên Bang Sô Viết thành một Quốc gia xuất cảng lúa Mỳ đứng thứ nhì Thế giới chỉ sau Mỹ Quốc, mà sau này còn giúp Liên Bang Sô Viết trong việc cải thiện mối quan hệ ngoại giao với các Quốc gia Đông Âu trong tương lai.
Lãnh tụ Máu lạnh đã làm một việc hiếm thấy là bước đến bắt tay Boris : Đại tướng -Chủ tịch tương lai Cộng Hoà Nhân Dân Quốc Gia Lỗ Ma Ni !
( Boris thắng 2-0 )...
Lãnh tụ Máu lạnh hướng về các Tướng lãnh Nga :
- Quí vị Tướng lãnh ,các Đồng chí : còn điều gì thắc mắc với Đại tướng Boris nữa không ?
Đại Danh tướng Nga - Đại tướng Zhukov 45 tuổi -Tư lệnh Phương Diện Quân- Dự bị lên tiếng :
- Có điều này Tôi muốn hỏi Đại tướng Boris : Theo tôi hiểu từ xưa đến nay đại đa số các Đại tướng quân , đều xuất thân là các Sĩ quan đi lên từ chiến trận , và phải trải qua các Học viện Quân sự , từ Trung cấp , Tham mưu cao cấp , đến các Học viện quốc phòng đào tạo Tướng Lãnh ( Cao Đẳng Quốc Phòng ), Chỉ có trường hợp ngoại lệ là Nguyên thủ Quốc gia : Tổng tư lệnh Quân đội , trong thời chiến Quốc hội có thể tấn phong Đại tướng , Nguyên soái , Đại Nguyên soái để chỉ huy Quân Lực như trường hợp Đại Nguyên soái Vĩ đại của chúng ta được Quốc hội tấn phong ! ( Quốc hội Liên sô chỉ là nơi chi tiền và hợp thức hoá các mệnh lệnh của Hoàng đế máu lạnh Stalin ). Trường hợp của Đại tướng Boris là một trường hợp ngoại lệ ! Vì Đại tướng chưa phải là Nguyên thủ Quốc gia , hay nói cách khác : là Nguyên thủ Quốc gia không có Dân , là Đại tướng không có Quân !
Đại tướng phải bắt đầu từ con số Zero to tướng !
Đại tướng muốn thành công vấn đề quan trọng là xây dựng Quân Lực ! có nghĩa là Đại tướng Boris chọn Phương châm Chiến lược :" Chính quyền đẻ ra từ họng súng ".
Đại tướng có thể chúng tôi biết : Nghệ thuật xây dựng Quân Lực Kháng chiến của Đại tướng là như thế nào Không ?
* Boris nhìn thẳng vào mắt Đại Danh Tướng Nga 45 tuổi : Đại tướng Zhukov nguyên Tổng tham mưu trưởng, mới bị cách chức tháng 9 năm 1941 ! Thật ra cũng không phải là do lỗi của Ông ta hoàn toàn trong việc thất trận 3 tháng đầu tiên. Boris cũng biết rằng Danh tướng say mê binh pháp của Sun Tzu (Tôn Tử) Trung Hoa .
Boris :
- Thưa Đại tướng , Đại tướng cũng biết rằng một cuộc khởi nghĩa dựng nghiệp , hay cuộc kháng chiến muốn thành công : Quân lực là yếu tố cực kỳ quan trọng, nhưng không phải là quyết định tất cả !
Môt cuộc Khởi nghĩa , hay Kháng chiến muốn thành công phải có 3 điều kiện Ắt có và Đủ -đó là :Thiên thời , Nhân hoà và Địa lợi , nếu không có 3 điều kiện này mà chỉ sử dụng tuyên truyền mị dân , để xây dựng Quân Lực, rồi thực hiện Phương châm Chiến lược Bá đạo :" Chính quyền đẻ ra từ họng súng " thì dù có thành công cũng để lại vết nhơ trong lịch sử !
Boris hít vào hơi dài, rồi nói tiếp :
Nghệ thuật Vương Đạo xây dựng và kiến tạo Quân lực của Tôi là dựa vào 3 yếu tố : Thiên thời , Nhân Hoà , Địa lợi, và sử dụng Phương châm : lấy Ít địch Nhiều ,lấy Tinh địch Nhược ,Xuất kỳ Bất ý , Hành quân Thần tốc !
1.Thế nào là Thiên Thời ?
Thiên thời ở đây không phải là lòng Trời , của Đức chúa Cao Cả , mà là Thời thế . Ngạn ngữ Phương Đông có câu : "Thời thế tạo Anh Hùng "
Hiện tai đây là một cuộc Đại Chiến của Thế giới , tất cả Quốc gia đều tham chiến kể cả các xứ thuộc địa xa xôi của Anh , Pháp , Tây Ban Nha , ở tận Phi Châu , Á Châu , Mỹ Châu , Úc Châu .
2 Cường Quốc hùng mạnh Mỹ Quốc và Liên Bang Sô Viết là Đồng minh , thế thì Phe Trục bắt buộc phải bại trận lý do :
- Nhật bản không tấn công vào Trung Á , vùng hậu phương của Liên Bang Sô Viết , mà tấn công Mỹ Quốc , trong lúc Vũ khí của Quân lực Nhật Bản quá lạc hậu so với Quân lực Mỹ Quốc , về thiện chiến cũng không bằng Quân lực Mỹ, tài nguyên thì quá nghèo nàn so với Mỹ Quốc , bại trận là điều đương nhiên !
- Đức Quốc đã huy động hết 3/4 Quân lực tại chiến trường Liên Bang Sô Viết , cuối cùng cũng phải sa lầy tại đây . Lý do ngoài tinh thần yêu nước của Dân tộc Nga, còn yếu tố Lãnh thỗ rộng bao la ,vùng Hậu phương Trung Á là nơi cung cấp nhân lực và khí cụ Chiến tranh , khí hậu mùa Đông tại Nga rất khắc nghiệt . Lịch sử đã chứng minh mùa Đông năm 1812 : Quân lực Nga đã đánh tan Đạo quân Bách chiến Bách thắng của Hoàng Đế Napoleon I , tại ngưỡng cửa của Thủ Đô Mạc Tư Khoa
Quân Đồng Minh phe Trục cũng giống như Hoàng Đế Napoleon I : không chiếm được Thủ Đô Mạc Tư Khoa trước mùa Đông, kết quả cũng bại trận như nhau !
Thế thì sự bại trận của Phe Trục là điều đương nhiên, chứ không phải là do Đức Chúa Cao Cả quyết định ! Tổng thống Mỹ Quốc Franklin Rooselvel đã cử Danh tướng tân Trung tướng 3 sao Dwight Eisenhower Tư lệnh Quân Lực Mỹ tại chiến trường Âu Châu ! Thế thì sự Bại trận của phe Trục , chậm lắm là 3 ,4 năm nữa !
Đây chính là yếu tố Thiên Thời của Tôi !
2. Thế nào là Nhân Hoà ?
Thế giới loài người không ai thích Tàn ác , Đau khổ , mà Chiến tranh là đại diện , ngược lại Nhân loại thích Hạnh phúc , Yêu thương , hướng đến " Chân -Thiện- Mỹ " mà Hoà Bình là yếu tố cần để xây dựng Hạnh Phúc và Yêu thương !....
Cuộc Đại chiến sắp sửa qua năm thứ 3 của các nước Đông Âu . Các nước Đông Âu tham chiến xuất phát từ mối hiềm khích lịch sử ,chứ không phải bản chất hiếu chiến. Các Quốc gia Đông Âu đều nhỏ bé , họ cũng yêu thương , đoàn kết , đùm bọc lẩn nhau , cũng thích và trân trọng Hạnh phúc - Yêu thương...
Hiện tại Đại tướng và Quí Vị Tướng lãnh cũng đả biết : Phi cơ của Lực lượng Đồng Minh đang ném bom các trục tiếp vận cho các Chiến trường : tại các Quốc Gia Đông Âu , chắc chắn số lượng Bom rơi lạc vào Dân chúng cũng khá nhiều, Sự tàn ác của Chiến tranh không phải chỉ đến với Dân tộc Nga , mà sự tàn ác của Chiến tranh cũng đã đến với các Dân tộc Đông Âu !
Thế thì các Dân tộc Đông Âu , cũng như Dân Tộc Nga . Họ cũng không muốn Chiến tranh. Chiến tranh là việc ngoài ý muốn ! Thêm thay Chiến tranh đã bước qua năm thứ 3 , lòng người Dân Đông Âu đã nãn và buồn , cũng đã bắt đầu yêu chuộng hoà bình .
Đây chính là Yếu tố Nhân Hoà của Tôi !
3 . Thế nào là Địa Lợi ?
DÃI ĐẤT MÀU VÀNG : TRANSNISTRIA LÀ CHIẾN KHU DỰNG NƯỚC VÀ KIẾN QUỐC CUẢ BORIS : ĐẠI TƯỚNG TỔNG TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG ĐỒNG MINH KHÁNG CHIẾN ĐÔNG ÂU 1942-1945
CHIẾN KHU CUẢ BORIS
CHIẾN KHU MUÀ ĐÔNG BĂNG GIÁ CUẢ BORIS
Giữa mùa Đông Băng Giá ,- Khung hình Tatyana yêu dấu ,vẫn hiện hữu bên cạnh trái tim Boris !
Tatyana ! Em là hiện hữu của yêu thương .
Em sưởi ấm cõi lòng Boris băng giá !
ĐẠI TƯỚNG BORIS CHỈ HUY TRÊN CHIẾN XA : XA CHIẾN VỚI LIÊN QUÂN ĐỨC- Ý GIỮA MUÀ ĐÔNG BĂNG GIÁ 1943
* Boris nhìn thẳng vào mắt Đại tướng Zhukov rồi tiếp :
Transnistria hiện tại là vùng đất chiến lược cực kỳ quan trọng, giáp với xứ Tiểu Nga ( Ukraine ) là nơi Phương Diện Quân thứ 9 của Liên Quân Đức -Ý đang hiện diện hơn 3 tháng nay, mọi con đường Tiếp vận Hậu cần đều xuất phát từ Vương Quốc Lỗ Ma Ni đến Transnistria .
Đức Quốc sở dĩ trả lại Transnistria cho Vương Quốc Lỗ Ma Ni , là muốn sử dụng con đường Tiếp vận Hậu cần này trong tương lai ,khi tấn công Liên Bang Sô Viết . Quốc gia Lỗ Ma Ni là Đồng minh Phe Trục, được nhường Lãnh thỗ , dĩ nhiên bắt buộc phải gánh vác một phần lương thực , phương tiện di chuyển , và khí cụ chiến tranh , đạn dược !
Transnistria hiện tại , vẫn có sự hiện diện của Quân Đức , để bảo vệ con đường Tiếp vận .
Người Dân Transnistria coi Đức Quốc là kẻ thù đã thống trị 23 năm nay, vì thế tinh thần chống lại Quân Đức rất cao .
Địa thế tại đây lại hiểm trở , rừng núi nhiều , khí hậu mùa Đông khắc nghiệt , Đại tướng cũng biết rằng Transnistria là nơi tập trung rất nhiều sắc Dân Đông Âu ! Rất Lý tưởng cho việc lập Chiến Khu, .
Boris dứt lời ! Các Tướng Lãnh Nga trong Đại Sãnh - Điện Cẩm Linh im phăng phắc !
Nguyên Soái Symeon giật mình ! Danh Tướng Nga -Đại tướng Zhukov nhìn Boris với ánh mắt khâm phục, thích thú cảm giác oán ghét , coi thường không còn nữa . ( Boris thắng 3-0 )...
Nguyên soái Do Thái , xoay qua nói nhỏ với Thượng tướng Tư lệnh Phương Diện Quân thứ 21 Kuznetso ngồi bên cạnh . Ánh mắt Tướng Kuznetso đang nhìn Boris với sự căm ghét , tức tối ! (có lẽ nghĩ rằng tên Đông Âu này bỗng dưng xuất hiện ,được gắn lon Đại tướng khơi khơi , trong lúc mình bao nhiêu chiến công lại đang Tư lệnh Phương Diện Quân , cả 200 ngàn quân , vậy mà chỉ có 3 sao , trong lúc hắn chỉ dẽo miệng , mà đeo đến 4 sao , lại không có được một quân , một tốt nữa )!
Nguyên soái Symeon vừa nói nhỏ xong !
Thượng tướng Tư lệnh Phương Diện Quân thứ 21- 43 tuổi Kuznetso đứng dậy :
Kính thưa : "Đại tướng Tổng Tư lệnh Lực Lượng Kháng Chiến Tại Đông Âu ! "
Kiến thức của Đại tướng " Tổng Tư lệnh " rất uyên bác ! Kiến thức lý thuyết dù uyên bác ,nhưng Thực tế tại Chiến trường thì khác hẳn , bản thân tôi đã vào sinh ra tử 24 năm nay từ thiếu uý đi lên,. Đặc biệt ngày hôm nay Tôi là Tư lệnh Phương Diện Quân thứ 21 (Commander of the Army Group 21st ) . Trong tương lai không xa : sẽ tấn công Phương Diện Quân thứ 9 của Liên Quân Đức -Ý để giải phóng Tiểu Nga ( Ukraine).
Tôi muốn "Đại tướng Tổng Tư Lệnh" chỉ giáo cho Tôi và các Tướng Lãnh tại đây 2 điều mà Tôi thắc mắc :
1. Trong thời gian tối đa là bao lâu ? Đại tướng có trong tay ít nhất là 100 ngàn quân ? Để có thể cắt đứt cô lập hoàn toàn con đường Tiếp vận Hậu Cần: của Phương Diện Quân thứ 9 Liên Quân Đức -Ý tại Transnistria ?
2. "Đại tướng Tổng Tư Lệnh" nhận Vũ khí và Khí cụ Chiến tranh của Quốc Gia nào ?
* Boris nhìn thẳng vào mắt Tướng 3 sao Tư lệnh Phương Diện Quân thứ 21 , thấy được sự hằn học tức tối của Tướng Kuznetso . Ông ta lại ngồi cạnh Nguyên soái Semyon , cũng là do tên Nguyên Soái Do Thái này hiến kế ! Nếu tranh luận thẳng thừng dồn Tướng Kuznetso vào thế bí , thì sẽ nuôi hận thù bất lợi sau này !. Vì thế trước khi trả lời , Boris chuyển ánh mắt qua Danh tướng -Đại tướng Zhukov, như là nhờ giúp một tay .
Boris chuyển ánh mắt trở lại nhìn thẳng vào Thượng tướng Kuznetso :
-Thượng tướng là một Sĩ quan can đảm ngoài mặt trận , từng tốt nghiệp trường Võ Bị Sĩ quan Hoàng gia năm 1917, chiến đấu trong hàng ngũ Quân Bạch Vệ ( Cộng Hoà ), bị Hồng quân bắt tại mặt trận 1921 khi là Đại uý , Nguyên soái Semyon đã thuyết phuc đầu hàng gia nhập Hồng Quân , và là Sĩ quan yêu nước trung thành với Đại Nguyên Soái Stalin .
Với Kinh nghiệm lão luyện của Chiến trường , Thượng tướng cũng biết rằng , muốn Giải phóng Tiểu Nga (Ukraine) , Quân Lực Nga phải tái chiếm toàn bộ Đại Nga ( Russia), dù hiện tại Quân Lực Nga đã chuẩn bị Tổng Phản Công trên toàn Mặt trận , nhưng để tái chiếm toàn bộ Lãnh Thổ Đại Nga , phải đánh bại 2 Tập Đoàn- Phương Diện Quân trên 1 .5 triệu quân thiện chiến của phe Trục , nhanh lắm là một năm ruỡi, đến hè năm 1943 . Thượng tướng mới tấn công Phương Diện Quân thứ 9 của Liên quân Đức-Ý được?
Hè 1943 , khi Thượng tướng tấn công Phương Diện Quân thứ 9 ! Lúc đó tôi đã có đủ Quân số trong tay ,để cắt đứt con đường Tiếp Vận , Hậu cần của Liên Quân Đức -Ý ! Boris dừng lại , rồi nói tiếp :
Để cắt con đường Tiếp vận của Phương Diện Quân thứ 9 Đức -Ý , tôi không cần đến 100 ngàn quân , dù đây chỉ là một nửa Tổng số Quân của Phương Diện Quân thứ 9 Liên Quân Đức -Ý ! Boris ngừng lại...
Tướng Kuznetso và các Tướng Lãnh Nga , kể cả Nguyên soái Semyon chăm chú nhìn Boris, vì vùng lãnh thổ Transnistria khá rộng , trên 70 chục ngàn Quân Đức hiện diện tại đây , chưa kể Phương Diện Quân thứ 9, đóng quân từ biên giới - Transnistria -Tiểu Nga , trải dài đến Thủ Đô Kiev của Tiểu Nga .
Boris tiếp lời : Quí vị Tướng Lãnh cũng đã biết Dân số Transnistria chỉ hơn một triệu người , vã lại Đức đang đóng quân kiểm soát ! Làm sao Tôi có thể có đủ một trăm ngàn quân được ?
Lực Lượng Kháng Chiến Quân của tôi sẽ gồm có 6 Lữ đoàn :
1 Lữ Đoàn là 10 ngàn quân :
* 6 Tiểu Đoàn Bộ Binh- Mỗi Tiểu Đoàn là 1,000 quân
* 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh
*1 Tiểu Đoàn Phòng Không
* 1 Tiểu Đoàn Thiết Giáp
** 1 Tiểu Đoàn Yểm trợ: 2 Đại Đội Công Binh ,1 Đại Đội Quân Y , 1 Đại Đội Truyền Tin
Phương châm Tác chiến :
A Phòng Thủ
Thiết lập Hệ thống các hầm chữ Chi (chữ Z : 2 hình chữ A ghép lại )
B- Tấn Công
Phương châm Tác chiến : lấy Ít địch Nhiều ,lấy Tinh địch Nhược ,Xuất kỳ Bất ý , Hành quân Thần tốc !
***Boris nhìn xuống khắp Đại Sãnh rồi nói tiếp :
6 Lữ đoàn Kháng chiến quân : muốn Phòng Thủ hữu hiệu tại Chiến Khu, và Tấn Công thần tốc giữa rừng núi hiểm trở , khí hậu mùa Đông lại khắc nghiệt ,điều này đòi hỏi : Vũ Khí và Khí Cụ Chiến tranh phải thích hợp ...
Boris chuyển Ánh mắt về Danh tướng Nga : Đại tướng Zhukov .. Đại tướng Zhukov hiểu ý Boris muốn gì ?
Lãnh tụ Máu lạnh Stalin cũng đã hiểu ý Boris, bất giác Hoàng Đế Máu lạnh trầm tư :
" Quả thật đây là một nhân tài : Trí Dũng song toàn ! Nếu là bạn của Dân tộc Nga thì quá tốt, Nhưng là kẻ thù của Dân tộc Nga thì quá nguy hiểm !"
Hoàng Đế Máu Lạnh lên tiếng :
-Tôi đồng ý : Tất cả luận điểm của Đại tướng -Chủ tịch nước Cộng Hoà Nhân Dân Lỗ Ma Ni , vì đại cuộc , chúng ta không chấp nhất những tiểu tiết. Hy vọng chiến tranh sẽ chấm dứt sớm ,cũng như mối quan hệ ngoại giao giữa 2 quốc gia Liên Bang Sô Viết và Lỗ Ma Ni cũng như các Quốc gia Đông Âu trong tương lai sẽ tốt đẹp !
Lãnh tụ Stalin hướng về Boris :
-Đại tướng -Chủ tịch còn điều yêu cầu gì nữa không ! Tôi hứa sẽ đáp ứng tất cả ! ..
Boris là người thông minh , Boris bước lại đứng nghiêm chào Đại Nguyên Soái Stalin :
-Thưa Đại Nguyên Soái đây là những điều mà tôi nói từ tận trái tim của tôi : Nước Nga là Tổ Quốc thứ hai của tôi ! trong tương lai tôi sẽ làm tất cả cho mối quan hệ 2 Dân tộc được tốt đẹp , xoá bỏ những hiềm khích của Lịch sử đã để lại hơn 300 năm nay . Đại Nguyên Soái đã đồng ý vùng đất Transnistria , mà năm xưa ông nội của tôi đã mãi mãi nằm xuống : thuộc về Lỗ Ma Ni . Thế thì tất cả hiềm khích của 2 Dân tộc bắt buộc phải ghép lại để mở ra một trang sử mới.
Boris nói tiếp :
-Nước Nga đã cho tôi tất cả từ Học thức ,Địa vị , Danh vọng ,và ngày hôm nay Tôi lại là một Đại tướng của Quân Lực Liên Bang Sô Viết. , thì bổn phận của tôi sẽ làm tất cả cho Dân tộc Nga , và Dân tộc Lỗ Ma Ni cũng như các Dân tộc Đông Âu mãi mãi có mối quan hệ tốt đẹp !
Thưa Đại Nguyên Soái , hiện tại để chuẩn bị cho công cuộc Kháng Chiến, Tôi cần 3 tháng được Huấn Luyện cấp tốc về Sử dụng tất cả các loại Vũ Khí của Đồng Minh : Tiểu Liên , Trung Liên (Thượng liên ) Đại liên, Bazooka , Đại Bác , Súng Cao Xạ, Chiến Xa , Huấn luyện Nhẩy dù , Đu dây tử thần , Sử dụng tất các loại Mìn , Sử dụng tất các loại Điện Đài Truyền Tin , và Kỹ Thuật Công Binh Chiến Đấu. Chậm lắm là cuối tháng 3 năm sau tôi sẽ Nhẩy Dù xuống Transnistria ....
Một tiếng đồng hồ sau , Boris rời khỏi Điện Cẩm Linh, sau khi dự một bữa tiệc trà mừng Giáng sinh với các Tướng Lãnh Nga , và Đại Nguyên Soái Stalin. Các Tướng Lãnh Nga bây giờ không dám coi thường Đại tướng Boris nữa , dù vẫn còn một số ít căm ghét , nhưng họ không dám nói, thấy Đại tướng Zhukov tỏ vẽ ra mến mộ , có cảm tình với Đại tướng Boris, và nhất là Lãnh tụ Stalin tỏ vẻ coi trọng Đại tướng Boris, !
Màn đêm Mùa Đông đã buông xuống Thủ Đô Mạc Tư Khoa , Boris đứng bất động tựa cửa sổ căn phòng Khách sạn cao cấp , nhìn ra bầu trời tuyết rơi , tiếng chuông Giáo đường của nhà Thờ Chính Thống Giáo nước Nga đang đổ dồn .
Bất chợt Boris để bàn tay lên ngực :
" Tatyana ! Giờ em đã hơn 27 tuổi rồi, bao năm trôi qua Tatyana là niềm yêu thương duy nhất của Boris ! Tatyana biết không ! Giờ này những Thanh Niên , Nam Nữ đang đến nhà Thờ trên đường phố Mạc Tư Khoa và trên toàn Thế giới . Trên ngực Họ là cây Thánh Giá , còn Boris là khung hình Tatyana !
Tatyana ! Trên cuộc đời này Boris chỉ yêu thương duy nhất 2 người Phụ nữ đó là: Cô giáo- Đức Mẹ Thánh Thiện của Tuổi thơ đau khổ và Tatyana Yêu dấu ! " ....
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:20:32 GMT 9
hào cho Dân tộc Lỗ Ma Ni "
**"Tatyana- Anh biết : dù em là người Do Thái, nhưng em có tình yêu nồng nàn với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni , Em hãy đến nước Nga tìm gặp Boris !.
Mỹ Quốc vừa Chiến thắng Nhật Bản trận Midway tại Chiến trường Thái Bình Dương Châu Á , có lẽ Phe Trục bại trận mất ! Boris sẽ là Lãnh tụ tương lai của Tổ Quốc Lỗ Ma Ni. Em hãy cùng Boris : Kiến tạo và Xây dựng Tổ quốc Romania hùng mạnh ! Còn Anh sẽ trung thành với Hoàng Đế đến cuối cùng "
Henri : Trung tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô Bucharest 1942 -1945
"Boris ! Boris của Em thật là Vĩ đại ! Giờ này anh đang ở Chiến khu Transnistria, còn em đang lưu đày trên những cánh đồng lúa Mỳ của vùng Trung Á xa xôi , người ta nhắc đến Anh với niềm tự hào và yêu mến !
Những giọt mồ hôi của em đổ xuống ngày hôm nay , trên những cánh đồng lúa Mỳ bao la của vùng Trung Á xa xôi nước Nga ! Hy vọng rằng mai đây :Trên Đất nước Lỗ Ma Ni yêu dấu ! Những cánh đồng lúa Mỳ bao la sẽ chạy dài vô tận và những nhà máy Công Nghiệp sẽ mọc lên ! " Tatyana
I -ƯỚC MƠ TATYANA ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT NGÀY HÔM NAY 2011
NADIA NGƯỜI CON GÁI LỖ MA NI : ĐOẠT HUY CHƯƠNG VÀNG THỂ DỤC DỤNG CỤ THẾ VẬN HỘI NĂM 2010 Nadia , the first gymnast ever to score a perfect in an Olympic gymnastic 2010....
XE Ô TÔ HIỆN ĐẠI DACIA DUSTER CỘNG HOÀ LỖ MA NI - ROMANIA SẢN XUẤT NĂM 2009
Dacia Duster concept at the Geneva Motor Show, 2009
XE LỬA : BLUE ARROW CUẢ CỘNG HOÀ LỖ MA NI TỐC ĐỘ 320KM/H -200MILES /H NĂM 2008.
CÁNH ĐỒNG LUÁ MỲ-TIỂU MẠCH (Triticum-Wheat) CUẢ QUỐC GIA LỖ MA NI -ROMANIA
CÁC CHIẾN BINH BỘ BINH - QUÂN LỰC LỖ MA NI -ROMANIA TẠI CHIẾN TRƯỜNG A PHÚ HÃN -AFGHANISTAN 2010
Romanian Land Forces patrol in Afghanistan
THÀNH PHỐ BIỂN MAMAIA - THÀNH PHỐ DU LỊCH NỔI TIẾNG- BÊN BỜ BIỂN HẮC HẢI CUẢ CỘNG HOÀ LỖ MA NI 2010
* ƯỚC MƠ CUẢ TATYANA ĐÃ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC !
*II ---- BORIS- TATYANA 1942-1945 : TÌNH YÊU VƯỢT KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN !
CÂY LUÁ TIỂU MẠCH - LUÁ MÌ- TRITICUM (WHEAT ) : BIỂU TƯỢNG CUỘC ĐỜI BORIS VÀ TÌNH YÊU CUẢ TATYANA : NHỮNG NĂM THÁNG LƯU ĐÀY TRÊN NHỮNG CÁNH ĐỒNG LUÁ MỲ CUẢ VÙNG THẢO NGUYÊN BAO LA TRUNG Á - NƯỚC NGA
A---PHI CƠ KHÔNG LỰC ĐỒNG MINH ANH-MỸ DỘI BOM XUỐNG TRANSNISTRIA : MỘT NGÀY MUÀ XUÂN TRUNG TUẦN THÁNG 3 .1942 : CHUẨN BỊ CHO ĐẠI TƯỚNG BORIS NHẢY DÙ XUỐNG RỪNG NÚI TRANSNISTRIA LẬP CHIẾN KHU ...
OANH TẠC CƠ KHÔNG LỰC MỸ QUỐC : XUẤT KÍCH DỘI BOM XUỐNG TRANSNISTRIA 3.1942
U.S. Douglas SBD-3 Dauntless dive bombers
OANH TẠC CƠ KHÔNG LỰC ANH QUỐC : XUẤT KÍCH DỘI BOM XUỐNG TRANSNISTRIA 3.1942
Britain Air Force : A pair of 264 Squadron Defiants. (PS-V was shot down on 14 March 1942 )
SAU ĐỢT DỘI BOM - PHI CƠ CUẢ KHÔNG LỰC ANH QUỐC -KHÔNG VẬN ĐẠI TƯỚNG BORIS , VÀ NHỮNG THÙNG HÀNG CHỨA MÁY MÓC ĐIỆN ĐÀI TRUYỀN TIN CÙNG KHÍ CỤ CHIẾN TRANH : THẢ DÙ BAN ĐÊM XUỐNG RỪNG NÚI TRANSNISTRIA 3.1942.
BORIS : ĐẠI TƯỚNG TỔNG TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN ĐÔNG ÂU -TRONG CÁNH DÙ LỘNG GIÓ TRỞ VỀ TỔ QUỐC ĐẤT MẸ - ĐỂ LẬP CHIẾN KHU DỰNG NƯỚC VÀ KIẾN QUỐC.
Một ngày Trung tuần tháng 3 năm 1942, Phi cơ Không Lực Anh-Mỹ xuất kích dội bom xuống các trục tiếp vận, và các địa điểm của Quân Đức tại Transnistria ( Vì Không lực Nga không thể bay qua vùng trời của Tiểu Nga- Ukraine, đang bị Phương Diện Quân thứ 9 của Liên quân Đức -Ý đang chiếm đóng ! )
Sau đợt dội bom , đến chiều tối một Vận tải cơ của Không lực Anh Quốc , được yểm trợ bởi các Chiến đấu cơ Cường Kích của Anh- Mỹ bay vào không phận Transnistria . Trong lúc các Chiến đấu cơ Cường kích lao xuống bắn phá. Vận tải cơ bay đến địa điểm đã chấm sẵn trên bản đồ . Cửa sau Phi cơ mở ra : Những cánh dù bung ra trên bầu trời đêm đen , đó là Boris và những khí cụ chiến tranh cùng máy móc truyền tin !
Boris đã đáp xuống địa điểm giữa rừng núi an toàn, cùng với các kiện hàng , ..
Sau 2 ngày lao động cật lực đào hầm chôn dấu những khí cụ chiến tranh và máy móc truyền tin ..
Boris quyết định đến Kinh đô Bucharest sau gần 13 năm xa cách !
Từ Transnistria đến Kinh đô Bucharest là một quãng đường khá dài, qua những miền Thôn quê , và Thị trấn . Boris cũng muốn tìm hiểu rõ Quê hương , và đời sống người Dân Lỗ Ma Ni hiện tại. Boris cũng mong nhìn thấy Tatyana sau 12 năm rưỡi xa cách , và người bạn thân Thiếu tướng Henri , đã rời khỏi mặt trận nước Nga .
Trên chặng đường dài từ Transnistria đến Kinh Đô , đi qua những miền Thôn quê và Thị trấn , nhìn thấy những hố bom và nhà cửa đổ nát , do những đợt dội bom của Không lực Đồng Minh. Boris lòng quặn đau , quả thật Tổ quốc Yêu dấu đã bị tàn phá Chiến tranh quá nặng nề !
Boris cũng nhận thấy Đồng bào đời sống khá thiếu thốn , nhưng tinh thần yêu nước rất cao , sẵn sàng quyết tử với Đế Quốc Nga. Đồng bào đã coi tất cả tai hoạ ngày hôm nay, là do Đế quốc Nga kẻ thù truyền kiếp gây ra ! đã xúi dục Anh -Mỹ dội bom trên Tổ Quốc thân yêu !
Trung tuần tháng tư năm 1942 Boris đã đến ngoại ô Kinh đô, Boris ghé khách sạn nhỏ, tắm rữa , và thay y phục của tầng lớp người công nhân. Boris đi vào Kinh Đô Bucharest . Nữa tiếng sau Boris đã nhìn thấy căn nhà Tatyana yêu dấu ! Giờ đã trở thành một căn nhà 2 tầng lầu khang trang , vuờn hoa được mở rộng khá đẹp ..
Boris đứng bất động khá lâu nhìn căn nhà của Tatyana....,
Boris chợt nhớ một điều quan trọng , bước vội đến căn nhà xéo - căn nhà đối diện với căn nhà Tatyana , vội rung chuông .. lát sau một bà già khoảng 70 tuổi bước ra .
Boris :
-Thưa Bà. Bà còn phòng trống không ? cháu muốn thuê căn phòng trên lầu một tháng bao nhiêu cũng được , vì cháu chuyển đến Kinh đô làm việc trong khoảng hơn 3 tuần lễ .
Bà cụ mời Boris vào nhà, :
- Tôi còn phòng trống , do các sinh viên đã nhập ngũ ra chiến trường hơn nửa năm nay ,trên lầu có 3 phòng , cháu có thể chọn bất kỳ phòng nào mà cháu muốn !...
Boris bước lên lầu , lấy căn phòng ngoài cùng bên phải, sau khi dọn dẹp sạch sẽ căn phòng.
Boris đứng tựa cửa sổ nhìn qua căn nhà Tatyana, bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về, bất chợt thấy mẹ Tatyana bước ra vườn hoa , 13 năm trôi qua mái tóc của Mẹ Tatyana đã đổi màu ..
Boris đứng bất động nhìn vào vườn hoa , Mẹ Tatyana đã vào nhà....
Khoảng nửa tiếng sau , Một cô gái đi xe gắn máy thời thập niên 1930 , dừng lại trước căn nhà , . Tim Boris đập mạnh , đó là Tatyana yêu dấu ! trong chiếc váy dài màu đen , chiếc áo trắng , là y phục của Cô giáo ...
"13 năm qua trôi qua, Tatyana vẫn xinh đẹp , kiêu sa và bình dị, trong y phục cô giáo nhìn có vẻ thánh thiện ! "
Bất chợt linh tính Tatyana , biết có người đang nhìn mình , Tatyana xoay vội cặp mắt nâu to tròn ,nhìn về hướng cửa sổ trên lầu của nhà đối diện ...
Tatyana thấy sau bức màn cửa sổ , bóng một người đàn ông đang nhìn mình, người đàn ông lùi nhanh vào trong !
Tatyana bước vào nhà ....
Trong lúc đó Boris đang trầm trư suy nghĩ có nên gặp Tatyana hay không ?
Khoảng một tiếng sau , Boris đứng trong góc cửa sổ nhìn ra , Boris biết rằng Tatyana sẽ trở lại Trường ( vì Trường học Vương quốc Lỗ Ma Ni học từ sáng đến chiều ), quả nhiên một lúc sau Tatyana bước ra khỏi nhà , Tatyana cũng nhìn lên căn phòng hồi nãy nhưng không thấy bóng người đàn ông nữa ( Boris đứng phía trong góc cửa ).
Tatyana đã đi rồi ! Boris trong lòng vui buồn lẫn lộn , đã nhìn thấy Tatyana sau gần 13 năm xa cách nhớ nhung , nhưng trong hoàn cảnh này có nên gặp hay không ?
Boris xuống phố .., đang đi trên đường phố chính , bức Pano lớn đập vào mắt . Boris nhìn sững : đó là hình Tatyana đứng bên cạnh Quốc trưởng Hitler của Đức Quốc , trên cổ Tatyana là chiếc Huy chương vàng ..
Boris đọc hàng chữ dưới : Đại Danh Ca Tatyana Vương Quốc Lỗ Ma Ni - Huy Chương Vàng Đế Chế III . Paris 1.1941
Boris lẩm bẩm : " Tatyana , Em đã trở thành một Đại Danh Ca , mà Boris không biết !"
Đến một rạp hát , hình Tatyana lại đập vào mắt Boris ..:" ' Chương trình Ca Nhạc tối 16.4.1942 do Đại Danh ca Tatyana và một số Danh ca trình diễn ,để gây quĩ ủng hộ các Quân y viện ngoài Chiến trường "
Boris vội bước vào , hỏi mua xấp vé nguyên : 50 vé để ủng hộ . Tối 16.4 là tối nay .
Người Thiếu nữ bán vé cho biết chỉ còn 8 vé thôi, . Boris trả tiền hết 50 vé , nhưng chỉ lấy 1 vé .
Còn 49 vé là ủng hộ gây quĩ cho các Quân Y viện . Người Thiếu nữ bán vé Cám ơn !
Boris trở về phòng trọ nghĩ ngơi , tối nay sẽ đến rạp hát để nhìn và nghe Tatyana yêu dấu trình diễn !
6 giờ 30 tối Boris đã đến rạp hát, dù xuất hát đến 7 :30 pm .Trên Đại lộ chính và trước Rạp hát những người Lính , và Quân cảnh đã đứng gác , và đặc biệt đã có một toán Quân Danh Dự : Quân phục Đại Lễ -Hoàng Gia hiện diện .
Boris hỏi một phụ nữ đứng bên cạnh , được biết Hoàng Đế Michael II ,và Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô , sẽ đến tham dự buổi Đại nhạc hội tối nay .
Lúc này , Rạp hát vẫn chưa mở cửa !
15 phút sau , Boris thấy : một Chiếc Jeep Quân đội Hoàng Gia (Sản xuất tại Lỗ Ma Ni ) dừng lại trước rạp hát :Tatyana yêu dấu , bước xuống trong bộ đồ Nữ quân nhân tóc búi cao ,bước nhanh vào cánh cửa bên hông trái rạp hát !
Boris ngơ ngẫn !
" Tatyana ! em là Nữ quân nhân sao ! Quá tuyệt vời !"
Đến 7 :00 PM , Boris thấy khán giả đã kéo đến trên 1 ,000 người , sắp thành 6 hàng rất ngay ngắn trước Rạp hát . Họ mặc đồ đẹp, là uỷ phẳng phiu ! Rạp hát vẫn chưa mở cửa !. Boris chợt hiểu : Mọi người đang chuẩn bị đón chào Hoàng Đế và Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô !
Nhìn lại mình , đang mặt Bộ đồ Công Nhân : quần Jean xanh đậm , áo Jean không giống ai hết !
Boris phân vân ! Mặc đồ như thế này , sẽ gây chú ý cho mọi nguời . Đặc biệt nếu Tatyana nhận ra mình là không có lợi lúc này !
Quả nhiên , một người Lính Quân Cảnh đã bước tới nói nhỏ Boris : cần nói chuyện riêng với Boris !
Boris , theo người Lính Quân Cảnh vào bên trái góc Rạp hát, có phòng nhỏ của nhân viên An ninh Rạp hát .Tại đây đã có 2 người Lính Quân Cảnh chờ sẵn !
Người Lính Quân cảnh yêu cầu : Boris đứng im !- Để kiểm soát trên người Boris có vũ khí không?
Sau đó đã hỏi giấy tờ Boris !
Boris xuất trình căn cước ( Chứng minh nhân nhân ) định cư tại tỉnh Transyvania ( giáp với Transnistria, vốn là biên giới cũ của Lỗ Ma Ni với Nga năm 1811- 1918 , và với Đức 1918-1940).
Về Kinh Đô tìm việc làm , vì nhà máy cơ khí cũ đã bị Không lực Đồng minh huỷ diệt !
Người Lính Quân Cảnh , sau khi kiểm tra giấy tờ thấy tất cả là hợp lệ , nhất là người dân từ Transyvania, đã đến Kinh Đô khá nhiều trong thời gian gần đây , vì Tỉnh là trục tiếp vận chính ra chiến trường qua Transnistria , nên bị Không lực Anh-Mỹ huỷ diệt khá nhiều !. Một sự thật lịch sử từ 12.1941 -12.1943 :Không lực Anh-Mỹ đã dội bom huỷ diệt các Trục tiếp vận Đông Âu để giúp Nga : Tổng phản công , vì Không lực Nga không thể ,bay qua vùng trời Tiểu Nga ( Ukraine ), do phe Trục đang chiếm đóng !
Người Lính Quân cảnh đã xin lỗi Boris , vì sự việc xảy ra đó là vì : An ninh của Hoàng Đế và Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu.
Boris mỉm nụ cười : Không có gì đâu ! Mấy anh đã làm đúng nhiệm vụ !..
Boris vừa bước ra đến cửa :
Đoàn xe của Hoàng Đế đã tới, dẫn đầu là 4 người Hiến Binh lái Mô tô trong Quân Phục Hoàng Gia- Đại lễ màu trắng ....
Vì thế Boris đứng lại ngay tại cửa Phòng An ninh , nhìn xuống qua bên phải là : chính giữa Rạp hát quan sát rất rõ , mà lại không lạc lỏng trước những Đồng bào ăn mặc tươm tất , chứ không bụi đời như mình :
Chiếc hơi màu đen thứ 2 dừng lại , với kính dày chống đạn , lúc này hai hàng Quân Danh Dự đã vào tư thế nghiêm , cửa xe phía trước bật ra , một người trong Âu phục màu đen to cao lực lưỡng , nhanh nhẹn bước ra - đến cửa sau mở cửa : Vị Hoàng Đế trẻ tuổi bước ra , cao lớn , uy nghi , trí thức..
Boris vội đứng vào tư thế nghiêm như một phản xạ. Đây là lần đầu tiên Boris thấy dung nhan Hoàng Đế Michael II. Hoàng Đế lên ngôi năm 1940 khi mới 19 tuổi .
Chiếc xe hơi màu đen thứ ba , cửa mở ra :
Boris nhìn sững đó là người bạn thân Henri : trong bộ Quân phục Tác chiến , trên cầu vai là 2 ngôi sao , tướng cao lớn oai phong !
Boris chợt hiểu : Henri là Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô Bucharest
Lúc này trên 1 ngàn Đồng bào trong 6 hàng : Tất cả đều đứng thẳng ở tư thế nghiêm , kể cả phụ nữ , và em bé, . Tất cả Đồng bào chiêm ngưỡng : Dung nhan Vị Hoàng Đế trẻ tuổi Anh Minh và Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô.- Vị Anh hùng Tư lệnh Sư Đoàn Tia Chớp Đông Âu , và Lữ Đoàn Thiết Kỵ R.35, vang lừng tại Chiến trường Phía Đông Moldavia năm 1940, . Qua năm 1941 đã dẫm nát trên Lãnh thổ bao la của Đế Quốc Nga, đặc biệt đã Anh Dũng Tiến quân đến Ngoại ô -Mạc Tư Khoa , có thể nhìn thấy Thủ Đô của kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc qua ống nhòm ,và chỉ cách Điện Cẩm Linh chưa đến 25 km (15 miles).
Lúc này cửa chính Rạp hát bật mở , 2 chiến binh Cao to gần 2m : trong Quân phục Tác Chiến Nhẩy Dù bước ra , đứng 2 bên cửa chính như một pho tượng ...
Vị Hoàng Đế trẻ tuổi Anh minh, và vị Thiếu tướng Anh hùng đã bước vào Rạp hát , sau đó là 6 hàng dọc : trên 1 ngàn đồng bào tuần tự tiến vào , .---- Boris nhập vào hàng nguời cuối cùng !
Chương trình Khai mạc vào lúc 8 giờ tối . Tất cả mọi người đứng dậy làm Lễ Chào Cờ , và Tưởng Niệm Các Anh Linh Tử Sĩ Vị Quốc Vong Thân cho Sự Trường Tồn Của Dân Tộc Lỗ Ma Ni .
Tatyana , cùng tất cả các Ca sĩ Nam Nữ , trong bộ Quân phục bước ra sân khấu xếp 2 hàng .,Và 2 Chiến binh Nhẩy Dù cao lớn , gương cao 2 lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ về phía trước .
Tatyana cất cao hát Quốc ca đầu tiên . Tất cả mọi người đều hát theo...
13 năm rồi đây lần đầu tiên Boris hát Quốc ca của Tổ Quốc Đất Mẹ yêu dấu ! Boris hát say sưa , và nhìn Tatyana với tất cả tha thiết yêu thương .--- Bỗng một luồng điện chạy dọc sống lưng Boris :
Khuôn mặt Tatyana dưới ánh đèn màu , khi hát Quốc Ca Dân tộc ,với vẻ trang nghiêm và tôn kính , giống Hình Ảnh gì đó mà lúc này Boris không thể nhận ra được .!
Cùng Cảm giác và Tâm trạng của Boris , trên hàng ghế đầu : Hoàng Đế Anh Minh Michael II , cũng nhận được điều này !
Lễ chào cờ , và Tưởng niệm xong,!
Boris lẩm bẩm : Tại sao mình lại có cảm giác này ! Mình yêu thương Tatyana tha thiết , với tất cả trái tim . Tại sao Hồi nãy , đang nhìn Tatyana tha thiết , lại có luồng điện chạy dọc sống lưng vậy !
Đang suy nghĩ ,..Tatyana bước ra trên sân khấu mở đầu chương trình bằng bản nhạc : Tình ca thời Chiến tranh .
Boris say sưa và mê mẫn nhìn Tatyana hát , tự trách mình với cảm giác hồi nãy !
**Trong Lúc Đó Trên Hàng Ghế Đầu : Hoàng Đế Michael II --Đang Trầm Tư : Về Khuôn Mặt Của Tatyana Khi Hát Quốc Ca Với Vẻ Tôn Kính ! Có Gì Đó Đặc Biệt Không Giống Người Phụ Nữ Lỗ Ma Ni - Romania ?
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:21:44 GMT 9
I-- BORIS ĐAU KHỔ TẬN CÙNG LẦN THỨ 2 TRONG CUỘC ĐỜI - KỂ TỪ NGÀY CÔ GIÁO : ĐỨC MẸ THÁNH THIỆN CUẢ TUỔI THƠ ĐAU KHỔ TỪ GIẢ NHÂN GIAN . !
Tatyana ! Tatyana ! Tatyana !Tatyana !Tatyana ! ....... Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?
" Tatyana ! Tatyana !Tatyana ! Em có biết ngày đầu tiên Boris đi học ! Boris phải lết vào phòng tắm để rửa sạch những vết máu trên cơ thể , phải quì trước cột cờ sân trường , do những người Đồng Chủng của Em tạo ra không ?
Những người Đồng Chủng của Em chưa bao giờ, biết trung thành với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! " -----------------------------------
* Trở lại trong Rạp hát : Tatyana vừa hát xong đoạn cuối bài ca : Tình yêu thời chiến tranh ! để bắt đầu chương trình ca nhạc tối nay ..Tiếng vỗ tay rào rào , Đặc biệt Boris vỗ tay ào ào một cách hứng khởi , liên tục , không để ý tiếng vỗ tay đã chấm dứt. Trong Rạp hát chỉ còn duy nhất một tiếng Vỗ tay của Boris !
Tatyana từ trên sân khấu nhìn xuống hàng ghế cuối , cũng là lúc ánh mắt của Boris, đang nhìn lên một cách đắm đuối ! Tatyana chấn động tâm thần ! Ánh mắt trong đêm tối rất quen thuộc !.
Cũng vào thời điểm này :Hoàng Đế Michael từ hàng ghế đầu xoay ánh mắt hướng về Boris ..
Như một linh tính , Boris cũng chuyển Ánh mắt về hàng ghế trên : 2 Ánh mắt đụng nhau !
Hoàng Đế lần đầu tiên trong cuộc đời của Vị Hoàng Đế :Chấn động tâm thần !
Boris tái mặt , vì trong đêm tối : ánh mắt từ hàng ghế trên rất sáng . Boris biết đó là ánh mắt của Hoàng Đế .
Lúc này Thiếu tướng Henri đã bước lên sân khấu , trên tay là bó hoa Hồng Đỏ thắm , trao cho Tatyana , tiếng vỗ tay rào rào vang lên. Hoàng Đế cũng bước lên Sân Khấu, . Tiếng vỗ tay như sấm động !
Hoàng Đế tiến đến máy Vi âm , lúc này Tướng quân Henri , và Danh ca Tatyana đứng 2 bên Hoàng Đế !
Giọng Vị Hoàng Đế trẻ tuổi Anh Minh vang lên :
" Cám ơn tất cả Đồng bào đã đến dự Đại nhạc hội đêm nay , trong tình hình kênh tế khó khăn thời buổi chiến tranh của Đất nước, để ủng hộ các Quân Y Viện ngoài Chiến Trường !
Chiến tranh là Mất mát , là Tàn phá , là Đói khổ. Nhưng cái Đáng sợ và Đau khổ nhất là Sự Bại Trận !, Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu : Sẽ bị Thống trị bởi Kẻ thù Truyền kiếp của Dân Tộc : Đế Quốc Nga ..
Hoàng Đế tuyên bố : Sẽ hiến tặng 2/3 thu nhập hàng năm cho các Quân Y Viện ngoài Chiến Trường...
Hoàng Đế cũng thông báo cho Đồng bào, vì tình hình Chiến trường Sôi động ! Chiều hôm nay Hoàng Đế đã Ký Sắc lệnh : Nâng số tuổi nhập ngũ Quân đội trước đây từ 18--27 tuổi , nay là từ 18 đến 36., Trong trường hợp nguy cấp nữa , số tuổi nhập ngũ sẽ từ 18 đến 45 ...
Cả rạp hát vỗ tay như sấm động ...
Hoàng Đế hướng Ánh mắt về Đại Danh Ca : Tatyana !
Tatyana vừa nhìn đụng ánh mắt của Hoàng Đế , vội tái mặt : cúi đầu xuống ngay , hình như có một luồng điện chạy dọc sống lưng Tatyana !
Boris từ hàng ghế cuối cùng đã chăm chú nhìn lên Sân khấu, từ lúc người bạn thân Henri , và Hoàng Đế xuất hiện , chăm chú lắng nghe những lời huấn từ của Vị Hoàng Đế trẻ tuổi Anh Minh .
Vì thế khi Ánh mắt của Hoàng Đế nhìn Tatyana , và Tatyana cúi đầu xuống ngay ! Boris đã nhìn thấy Tất cả . Một Linh cảm và Trực giác cho Boris biết rằng : Ánh mắt của Hoàng Đế là không có thiện cảm với Tatyana !
Giọng Hoàng Đế vang lên :
- Trẫm Cám ơn : Đại Danh ca Tatyana và các Danh ca , đã bỏ rất nhiều công sức và thời gian , để tổ chức buổi Đại nhạc hội hôm nay : gây quĩ ủng hộ Quân Y Viện ngoài Chiến Trường ! Trước khi nhường lại Sân Khấu để chương trình Ca nhạc tiếp tục phục vụ Đồng bào !
Trẫm muốn hỏi Đại Danh Ca Tatyana câu này :
- Đại Danh Ca Tatyana là Hôn Thê của Tướng Quân : Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô. Giữa 2 người đã có dự định bao giờ là sẽ cử hành Lễ Thành Hôn chưa ?
Thiếu tướng Henri ngạc nhiên !, Tại sao mình thường xuyên gặp Hoàng Đế , mà Hoàng Đế chưa bao giờ hỏi chuyện riêng tư của mình . Hôm nay Hoàng Đế lại hỏi Tatyana trước mặt cả ngàn Đồng bào , hay là Hoàng Đế muốn cử hành hôn lễ trọng thể cho 2 người ?
Boris ngồi ở dưới , nghe Hoàng Đế nói Tatyana yêu dấu ! là Hôn thê của Henry !
Boris lẩm bẫm : :" Tatyana em đã có chồng rồi --- cũng xứng đôi vừa lứa !"
Nhưng một ý nghĩ loé sáng trong đầu Boris : Câu hỏi của Hoàng Đế là gián tiếp cho Tatyana biết :
" Hoàng Đế không muốn Tatyana và Henri có Lễ thành Hôn Sớm!"
Tại sao như vậy ! Tại sao như vậy ! Tại sao như vậy !
***Boris chợt nhớ lại : Khuôn mặt của Tatyana lúc hát Quốc ca một cách Tôn kính, Giống một Hình Ảnh nào đó mà Boris đã thấy qua rồi !
Boris nhắm mắt lại !....
**Boris mở mắt ra : 2 giòng nước mắt chảy dài , Lảo Đảo đứng dậy rời Rạp hát , không còn để ý câu trả lời của Tatyana với Hoàng Đế ...
Trên Sân Khấu : Tatyana nghe câu hỏi của Hoàng Đế , bằng trực giác của Phụ nữ, biết rằng Hoàng Đế không thích mình , một cảm giác mơ hồ Sợ hải,! Thêm thay :Tatyana vẫn đau khổ vì Boris ra đi biền biệt . Đặc biệt từ trưa đến giờ một cảm giác là lạ đến với Tatyana . Tatyana bỗng nhớ Boris da diết ..
Nên Tattyana suy nghĩ để lựa cách trả lời :
-Thưa Bệ Hạ ! Bây giờ Đất nước đang có Chiến tranh ! Tướng quân còn bao nhiêu việc Quân trăm bề.
Vì vậy Thần trộm nghĩ : ngày chiến tranh kết thúc ! Thần và Tướng quân mới tính chuyện Thành Hôn !
Hoàng Đế :
" Đại Danh Ca Tatyana là người yêu nước, đã nghĩ đến Đại Cuộc ! Hiện tại Trẫm rất cần Tướng quân Henri "!
Hoàng Đế trở về hàng ghế đầu . Chương trình Ca Nhạc tiếp tục..
Hoàng Đế xoay qua nói nhỏ với người cận vệ, xuống hàng cuối cùng mời người ngồi thứ 2 ở hàng bên trái (Boris ) lên cho Hoàng Đế nói chuyện !
Lát sau người cận vệ trở lại , báo cho Hoàng Đế , người đó đã ra về !
Hoàng Đế ngạc nhiên : Chương trình Ca nhạc mới bắt đầu , sao lại về !
Người cận vệ cho biết : hình như anh ta bị nhức đầu, mọi người thấy anh ta lảo đảo , nước mắt chảy dài rời khỏi Rạp hát.
Hoàng Đế nhớ lại ánh mắt của anh ta đã làm Hoàng Đế chấn động tâm thần !, điều này chứng tỏ Anh ta phải là một nhân tài của đất nước , hoặc là kẻ thù lợi hại của Hoàng Đế !
Nhưng nếu anh ta đã bị bệnh nhức đầu kinh niên phải chảy nước mắt , thế thì khó mà trở thành Nhân tài hay là kẻ thù lơi hại được !. Vì thế Hoàng Đế không để ý chuyện này nữa !
*** Trong lúc này trên đường phố Boris đang đau khổ tận cùng !
Miệng lẩm bẩm :
Tatyana ! Tatyana ! Tatyana !Tatyana !Tatyana ! ....... Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?Tại sao Em là người Do Thái ?
" Tatyana ! Tatyana !Tatyana ! Em có biết ngày đầu tiên Boris đi học ! Boris phải lết vào phòng tắm để rửa sạch những vết máu trên cơ thể , phải quì trước cột cờ sân trường , do những người Đồng Chủng của Em tạo ra không ?
Những người Đồng Chủng của Em chưa bao giờ, biết trung thành với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! "
* Boris lảo đảo đi vào Công Viên ngồi ôm đầu :
Lời của cô gái Nga gốc Do Thái năm xưa 1934 , lúc Boris mới tốt nghiệp đại học, nhận nhiệm sở Chỉ huy trưởng tại Thảo Nguyên Trung Á đã thành sự thật :
"Chỉ huy trưởng cũng biết một điều : ghét của nào , trời trao của đó ! Sau này Ông cũng yêu một người con gái Do Thái thôi !"
****** Khuôn mặt của Tatyana lúc hát Quốc ca một cách Tôn kính, Giống Hình Ảnh những người con gái Nga gốc Do Thái khi Đọc kinh cầu nguyện Đức chúa Giê-hô-va (Jehovah ) cao cả của họ.! "
Người Do Thái theo Đạo Do Thái Giáo (Judaism ) chỉ tin duy nhất một mình Đức Chúa Trời !
"Jesus dám tự nhận là con của Đức Chúa Trời : là vô lễ , là phạm thượng ! phải đóng đinh trên cây Thập Ác !"
BIỂU TƯỢNG CUẢ ĐẠO DO THÁI GIÁO
Judaism Symbol.
NHỮNG NGƯỜI DO THÁI SỐNG TẠI ĐÔNG ÂU : TRONG THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN ĐỨC CHUÁ CAO CẢ CUẢ HỌ- NĂM 1878
ĐỐI VỚI HỌ CÔNG GIÁO LÀ TÀ ĐẠO ! LÝ DO 3 NGÔI : CHA-CON -THÁNH THẦN
"Do Thái giáo là một Tôn giáo độc thần "
*** Hồi Giáo cũng chỉ tin vào một mình Đức Chúa Cao Cả là Duy Nhất ! Nhưng Họ thừa nhận Đức chúa Jesus và Đức Mẹ Maria , coi đây là những vị Thiên Thần ! không quá khích như Do Thái Giáo !
Vậy mà vẫn bị Phương Tây ghét bỏ,! cuối cùng một số trở thành khủng bố ngày hôm nay ! Huống gì là Do Thái Giáo không bị ghét bỏ mới là chuyện lạ ! Trên thế giới chỉ có duy nhất Mỹ Quốc là rộng lượng đối xử tốt với Do Thái ! ( Anh Pháp là chuyện khác ! có qua , có lại ).
** Một trong những lỗi lầm của Ngoại trưởng Hillary khi ra ứng cử TT năm 2008, phải thất cử trước TT Barack Obama là tuyên bố :
" Nếu Iran tấn công Do Thái , Bà sẽ huỷ diệt Iran !"
Câu nói này quá Ngu ! !
Số lượng Bom Nguyên tử của Do Thái hiện nay : vượt xa số lượng bom nguyên tử của Anh và Pháp cộng lại, đủ sức huỷ diệt cả 3 thế giới ! Iran không là cái gì của Do Thái ! Chẳng qua Bà muốn lấy tiền và sự ủng hộ của Tài Phiệt Mỹ gốc Do Thái thôi ! Chính Do Thái là mối đe doạ an ninh của Trung Đông hiện nay ! Bắt buộc Iran phải chế tạo thành công bom nguyên tử , để bảo vệ cho mình thôi ! Tôi hoàn toàn ủng hộ Iran chế tạo thành công bom nguyên tử 101%! để cân bằng tại Trung Đông !
Nếu Mỹ cứ ép Iran hoài ! Lò lửa chiến tranh tại Trung Đông không bao giờ chấm dứt !
Tại sao một số giới Lãnh đạo nước Mỹ lên án Iran chế tạo bom nguyên tử ?
Trong lúc Do Thái là Quốc gia Duy nhất ngang nhiên không thèm phê chuẩn Hiệp ước giải trừ vũ khí hạt nhân , và vũ khí Hoá Học của Liên hợp Quốc ! mà Mỹ để yên ! Do Thái coi luật pháp Quốc tế là tờ giấy lộn ! mà Giới lãnh đạo nước Mỹ mắt nhắm lại !
Mỹ Quốc đóng quân tại Afghanistan 1 ngàn năm nữa cũng vậy thôi , Dân Hồi Giáo càng căm ghét Mỹ !
Tôi ủng hộ TT Obama triệt thoái Quân Mỹ 100% ra khỏi chiến trường Afghanistan ! và yêu cầu Do Thái phải nói chuyện nghiêm chỉnh về Palestine, và với các nước Trung Đông hiện nay!
Iran hiện nay coi Đế quốc Do Thái là kẻ thù nguy hiểm ! dưới cái dù bao che của Mỹ !
Do Thái coi luật pháp Quốc tế là tờ giấy lộn, Mỹ không nói gì !, Trong lúc đó lại cấm vận trừng phạt I ran !
Muốn Iran không chế tạo bom nguyên tử , phải yêu cầu Do Thái huỷ diệt kho bom nguyên tử , và kho bom hoá học khổng lồ của mình đi !
Trước khi viết tiếp tôi nói thật : Mỹ càng cấm Iran chế tạo bom nguyên tử ! Dân Hồi giáo càng thù Mỹ thêm ! Chiến tranh càng kéo dài ! Iran càng cương quyết chế tạo bom nguyên tử đến cùng !
Một trong những lý do khủng bố 9.11.2001 là TT thứ 42 Bill Clinton quá nuông chiều giới lãnh đạo Do Thái !Tổ chức Khủng bố Bin Laden mới xuất hiện năm 1997 . Bin Laden trước đây là nhân viên C.I .A của Mỹ !
** TT thứ 43 George W. Bush là vị TT đáng thương nhất trong lịch sử Mỹ Quốc : lên làm TT- lãnh búa tạ thời TT thứ 42 Clinton để lại : Khủng bố , chiến tranh Afghanistan, Chiến tranh Iraq. Kênh tế Mỹ Quốc đã đi xuống từ mùa hè năm 2000 dưới thời TT Clinton ! Hết làm TT năm 2008 , còn bị mang tiếng là hiếu chiến , là làm kênh tế Mỹ Suy Sụp ? TẤT CẢ LỖI LẦM NÀY LÀ DO TT THỨ 42 BILL CLINTON !
II BORIS QUYẾT ĐỊNH : DÀNH TRỌN CUỘC ĐỜI : HIẾN THÂN CHO TỔ QUỐC LỖ MA NI YÊU DẤU !--RA TAY CỨU MẠNG TATYANA !
Ngồi trong ghế đá Công Viên Boris ôm đầu :
"Chỉ huy trưởng cũng biết một điều : Ghét của nào , Trời trao của đó ! Sau này Ông cũng yêu một người Con Gái Do Thái thôi !"
Boris ngước nhìn trời cao thăm thẳm , dưới Ánh trăng 16 giữa mùa Xuân tháng tư , khí trời còn lành lạnh .
Nhìn Ánh trăng .... Hình Ảnh Cô Giáo : Đức Mẹ Thánh Thiện Của Tuổi Thơ Đau Khổ hiện về ...
Lời nói yêu thương , trìu mến của Cô Giáo trong ngày đầu tiên đi học :
"Dũng cảm lên Boris ! Cố và Ông Nội của em là những vị Thống Chế Anh hùng của Dân tộc Lỗ Ma Ni ! "
Những lời nói ngày xưa của Đức Mẹ Thánh Thiện Cô Giáo ,...Như một liều thuốc an thần đã làm Boris lấy lại sự bình tỉnh , thoát ra khỏi tình trạng tuyệt vọng đau đớn , như một người điên ..
Boris ngồi im lặng mãi trong công Viên , thời gian trôi qua ... Boris quắc ánh mắt lên , trong đêm tối ánh mắt ngời sáng , đầy sự cương quyết :
Mình trở về Tổ quốc Đất Mẹ , là để lập Chiến khu : Chiêu binh mãi mã : Dựng Nước và Kiến Quốc, lấy lại : mãi mãi mãnh đất Transnistria , mà năm xưa Ông Nội đã mãi mãi nằm xuống . Và ước mơ : Cộng Hoà Liên Bang Đông Âu hùng mạnh ra đời , để bảo vệ độc lập một cách hữu hiệu trước một nước Nga láng diền: Khổng lồ , Hùng mạnh và yêu nước , nhưng lại có tham vọng bành trướng !.
Một Cộng Hoà Liên Bang Đông Âu hùng mạnh , mới hoá giải được mối thù truyền kiếp của các Dân tộc Đông Âu và Dân tộc Nga . Đây cũng là cơ sở để có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp và bền vững với nước Nga , như lời mình hứa với Đại Nguyên Soái Stalin .. và cũng là chính ước mơ của mình !.....
Lời của Vị Hoàng Đế trẻ tuổi vang lên bên tai :
"Chiến tranh là Mất mát , là Tàn phá , là Đói khổ. Nhưng cái Đáng sợ và Đau khổ nhất là Sự Bại Trận ! Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu : Sẽ bị Thống trị bởi Kẻ thù Truyền kiếp của Dân Tộc : Đế Quốc Nga .."
Boris quắc ánh mắt lên :
Không ! Không ! Nhất định không ! Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! sẽ không bao giờ bại trận !
Hoàng Đế mãi mãi là Hoàng Đế !
Mai sau Chức vụ Chủ tịch nước của mình sẽ giống như : Chức vụ Thủ tướng , hay là Phó Vương thôi ! ..
Boris đứng dậy rời khỏi Công viên , đã quyết định Tối mai đáp chuyến Xe lửa trở về Transnistria ! Tuyển mộ binh sĩ ,Chiêu binh mãi mã : Dựng lập Chiến khu ..
Boris đi tản bộ một vòng những Đại lộ chính của đường phố Kinh Đô, đến gần giờ giới nghiêm ! 1 giờ sáng, Boris mới về phòng Trọ .
***A-- TATYANA :
"Boris ! Boris Yêu Dấu của Em !"...
Em yêu Boris ! Đừng Rời Xa Em ! ....
Suốt buổi Ca Nhạc , tâm trạng Tatyana bất an , Ánh Mắt của Hoàng Đế , và Câu hỏi nghiêm nghị của Hoàng Đế trước mặt của mọi người , chứng tỏ Hoàng Đế không có thiện cảm với mình !
Nhưng những lúc ra trình diễn trước khán giả , Tatyana lại cảm thấy vui , hát với tất cả tâm hồn và trái tim ! Tatyana hy vọng bắt gặp Ánh Mắt từ hàng cuối ! Ánh mắt vô cùng quen thuộc thân thương, sao giống Ánh Mắt của Boris quá ! Boris Yêu dấu ! Em nhớ da diết và Em cần Boris lúc này ! Niềm Hy vọng của Tatyana : mỗi lần ra trình diễn lại bị tắt ngấm . Ánh mắt từ hàng cuối đã không còn thấy nữa ! Tại sao ! Tại sao như vậy !
Đến bài hát cuối cùng , Tatyana cũng không còn thấy ánh thân thương một lần nào nữa ! Vừa buồn , vừa bất an . Buổi trình diễn kết thúc vào lúc 11 giờ tối . Vừa mõi mệt vừa buồn . Tatyana nói với Hôn Phu Tướng Quân Henri : phải về để nghĩ ngơi , mai còn đến Trường .
Về đến nhà đã 11 giờ 30 tối , sau khi vào phòng tắm , hy vọng những giòng nước mát sẽ xua tan đi những bất an và nỗi buồn . Tatyana bước ra trong chiếc áo ngũ màu Tím , đèn phòng ngũ cũng màu Tím là màu Tatyana yêu thích , và Boris cũng yêu thích !
Tatyana , bước đến mở hộc tủ lấy ra một trang báo cũ tháng 7. 1938 , đến ngồi xuống cạnh giường lật ra trang thứ 3 : Tin tức Thế giới : Phái Bộ Kênh tế Liên Bang Sô Viết đến Mỹ : Tấm hình của phái đoàn chụp chung với TT thứ 32 USA Franklin Daleno Roosevelt . Boris đứng vị trí thứ 3 hàng đầu tiên .
Ghi chú : Kỹ sư Tổng chỉ huy trưởng: Tất cả các Nông trang lúa Mỳ tại Vùng Trung Á- Liên Bang Sô Viết .
Tatyana nhìn sững vào khuôn mặt Boris , hai hàng lệ chảy dài trên khuôn mặt trái soan tuyệt đẹp của người con gái 28 tuổi , duới ánh đèn mờ ảo màu Tím !....
Tatyana :
" Boris ! Boris biết không ! Em nhớ Boris da diết ! Thật ra Em yêu Boris nhiều lắm !
Con người Em cũng mâu thuẫn .. Em cũng yêu Henri ! Nhưng Henri là mẫu người Quân Nhân, là Dũng tướng trên Chiến địa không có đời sống nội tâm !..
Còn Boris là mẫu người mà em cần trong đời sống ! Cuộc đời Boris đã đau khổ quá nhiều , đến nước Nga Cộng Sản với 2 bàn tay trắng , ngôn ngữ lại xa lạ . Thế mà chỉ trong vòng 9 năm Boris không chỉ tốt nghiệp đại học Kỹ Sư , mà còn vươn lên đến chức vụ Tổng chỉ huy trưởng tất cả nông trang lúa Mỳ tại vùng Thảo nguyên bao la Trung Á - Nước Nga -!
Boris ! Boris của em quá Giỏi và Vĩ Đại ! Em quá nhỏ bé trước Boris !
Boris yêu dấu của em ! Boris : chính là cây Đại thụ , là nơi Nương tựa của cuộc đời đầy bất hạnh và đau khổ của em ! Boris biết không ? Tổ tiên Em là người Nga gốc Do Thái !, Ba em là Lãnh tụ Đảng Cộng Sản đã chết khi em khi em mới lên 9 !
Nhưng Em Đã Coi Tổ Quốc Lỗ Ma Ni Yêu Dấu : Nơi Em Đã Cất Tiếng Khóc Chào Đời , Và Trưởng Thành Là Tổ Quốc Yêu Dấu Của Em !......
Tatyana bước lại cửa sổ đứng nhìn xuống đường phố , khuôn mặt đầy u buồn và đau khổ . Đồng hồ đã điểm 12 giờ 30 sáng ..
Lúc này Boris đang thơ thẩn đi về phòng trọ , vì sắp đến Giờ Giới Nghiêm 1 Giờ sáng : Thiết Quân Luật của Biệt Khu Kinh Đô trong thời Chiến !
B--TATYANA ĐÊM THỨC TRẮNG -ĐUỔI BẮT TÌNH YÊU !
Thời gian chậm chậm trôi qua , Tatyana khuôn mặt đầy u buồn, nhìn xuống đường phố, ..Bỗng ánh mắt Tatyana nhìn thấy một thanh niên cao lớn trong bộ đồ jean xanh, đang lầm lũi bước về hướng nhà mình.. Đầu đội mũ rộng vành . Tim Tatyana đập loạn xạ,. một dáng dấp quá quen thuộc !
Người Thanh niên cứ cúi mặt xuống đường , bước đều . Bỗng người Thanh niên dừng lại trước căn nhà của Dì Anne hàng xóm .Chính là căn nhà , hồi trưa Tatyana bắt gặp Ánh Mắt , từ căn phòng trên lầu !
Người Thanh niên bước lên bậc thềm , bỗng dừng lại : hướng mắt về cửa sổ phòng Tatyana : 4 mắt đụng nhau !
Tatyana chấn động tâm thần : Trời ! ( My God !) ... Boris----- !
Nhưng Boris rất nhanh xoay người lại , bước lên bậc thềm rút chìa khoả mở cửa , bước vội vào nhà !
Tatyana sững sờ , đứng bất động !...
Nước mắt chảy dài trên má ,..chết lặng người ! nhìn sững vào căn phòng trên lầu nhà Dì Anne
Boris bước vào phòng không bật đèn , đứng trong góc cửa sổ nhìn qua : thở dài , Mắt cũng đỏ hoe ..
Nhưng trong đầu lại xuất hiện câu nói :
""Chỉ huy trưởng cũng biết một điều : Ghét của nào , Trời trao của đó ! Sau này Ông cũng yêu một người Con Gái Do Thái thôi !"
Boris lặng lẽ bước lại giường, nằm xuống mắt nhắm lại ! trên người Bộ đồ Jean xanh vẫn chưa thay !
Tatyana đứng bất động ,...đã đến giờ giới nghiêm !
Đôi vai người con gái đau khổ rung lên , bước đến giường ngồi xuống khóc ròng !
Boris ! Boris của em ! Tại sao , Tại sao như vậy Boris ?......
Một ý thoáng qua đầu Tatyana : Ánh mắt hàng ghế cuối cùng trong Rạp hát là của Boris ! Cũng là người vỗ tay đến tận cuối cùng khi bài ca do Tatyana trình diễn bắt đầu đêm ca nhạc :
TÌNH CA THỜI CHIẾN TRANH
" Em ơi ! Khi thức giấc
Hãy nhớ ,
Sáng hôm nay
Dăm phút ngắn chóng vánh
Ngàn trai trẻ tan thân
Chiến địa chợt lắng xuống
Hồi kèn Đồng Chiêu hồn
Đội Biệt Động bật khóc
Chôn gã bạn mất đầu !
Binh lửa rồi cũng hết
Người sống sót trở về
Giữa lặng thinh tê buốt
Giọt nước mắt muộn rơi "
" Em ơi ,
Khi thức giấc
Hãy nhớ
Nơi đây Chiến địa Phờ Lan Đơ ( Flanders' Fields )
Giữa hàng Thánh giá Mộ Chiến Binh
Và trên không , đàn chim sơn ca can trường , thản nhiên bay cất cao tiếng hót
Tuy có Du dương nhưng hiếm người nghe được
Giữa lúc dưới đây Lửa đạn tung trời !
Anh là nguời đã chết trong mấy ngày ngắn ngủi vừa qua
Nhưng Anh đã sống , đã thấy Bình minh lồng lộng
Và ngắm Hoàng hôn Đỏ ối phương trời
Anh đã yêu , và yêu em say đắm
Và cũng đã được em yêu nồng thắm một thời
Nay báo đáp Hồng Ân , đền bồi nợ nước
Thảnh thơi an nghĩ dưới nấm mộ hoang tàn nơi chiến địa Phờ Lan Đơ..
Hỡi Các bạn và Em Yêu !
Còn sống là nhờ : HY SINH YÊU THƯƠNG ĐÙM BỌC
Của bao người đã ngã gục cho Tự Do
Và Trường tồn của Dân Tộc !
Hãy đối diện cùng Quân Thù hung hiểm !
Hãy tiếp lấy Đuốc thiêng với những cánh tay rắn chắc !
Dâng cao ngọn Đuốc Tự Do
Và Trường tồn của Dân Tộc !
Từ tay Chúng tôi , những người đã nằm xuống ,nhưng cố vươn lên !
Nếu Các Bạn và Em Phản Bội niềm tin Chính Nghĩa
Cuả Chúng tôi , những người đã khuất
Chúng tôi không thể nào yên giấc
Giữa hàng Thánh giá Mộ Chiến Binh
Nơi Chiến địa Phờ Lan Đơ ( Flanders' Fields )
(.. In Flanders ' Fields
Between the Crosses , row on row ,
That mark our place , anh in the sky
The larks still bravely singing fly ,
Scarce hear amidst the guns below .
We are the dead , short day ago
We lived , felt daw, saw sunset glow ,.
Loved and were loved , and now we lived in Flanders' Fields
Take up our quarrel with the foe
To you from falling hands we throw
The torch be yours to hold it high.
If You break failth with Us who die ,
Between the Crosses , row on row ,
We Shall not sleep though ..in Flanders' Fields..
Tatyana suy nghĩ tiếp , Boris yêu dấu ngồi hàng cuối cùng , khi chấm dứt bài hát , nhìn mình với ánh mắt thân thương ! Thế thì tại sao , những bài hát kế tiếp lại không thấy Boris yêu dấu !
Có nghĩa là Boris đã rời khỏi Rạp hát , vì giận Tatyana ! Tại sao , tại sao như vậy ?
Tatyana giật mình !, Hay là khi Hoàng Đế nói mình là Hôn thê với Henri, chừng nào thành hôn !
Boris , buồn và giận ra về , nên hồi nãy thấy mình , xoay bỏ đi ?
Nếu Boris không yêu mình , thì không bao giờ mướn phòng nhà dì Anne ? Không nhìn Tatyana hồi trưa khi mình mới từ trường về nhà ăn trưa ! Cũng không đến Rạp hát tối nay , vỗ tay một cách nồng nhiệt như vậy ?
Tatyana nghĩ đến đây, hết giận Boris !
Boris của em ! Em yêu Boris nhiều lắm ! Boris biết không ?
Boris đi biền biệt mười mấy năm trời, lòng em đau khổ và héo mòn ! rồi 2 năm trước đây : Chiến tranh bùng nỗ, Henri phải ra Chiến địa ! Boris yêu dấu của em ! Boris cũng biết ,là Em cũng có lòng yêu Henri , trước giờ Henri ra Chiến địa , Em đã làm lễ hứa hôn , nhưng Em cũng nói với Henri :
"Henri ! em và anh đều biết trong trái tim của em , một nửa là anh và một nữa là Boris . Boris đã đi biền biệt 11 năm nay , em cũng đau khổ , hy vọng mai đây trên Chiến địa Anh và Boris sẽ không bao giờ đụng trận với nhau ! "
Boris biết không ? Hoàng Đế không thích Em , . Nên Chuyện Thành Hôn , giữa Em và Henri là sẽ không có bao giờ xảy ra ! Từ nay Em sẽ là duy nhất của Boris ! Sáng mai : Em sẽ qua nhà Dì Anne, gặp Boris!
Để nói cho Boris yêu dấu của em biết sự thật !
Tatyana quyết định thức trắng đêm, chờ đến 6 giờ sáng hết giờ giới nghiêm : Thiết Quân Luật , là qua nhà Dì Anne gặp Boris !
Đêm khuya đã dần tàn , Tatyana vẫn ngồi bất động cạnh giường ... bao hình ảnh ngày xưa của Boris yêu dấu hiện về. Từ tháng tư năm 1929 , Boris ra đi biền biệt , đến nay đã 13 năm . ..
Tatyana bỗng giật mình : Boris đang là Tổng chỉ huy trưởng các nông trang lúa Mỳ ở Trung Á của Nước Nga , Tại sao lại về Lỗ Ma Ni ? trong lúc 2 nước đang có chiến tranh !
Tatyana tái mặt , tim đập mạnh : hay là Boris về hoạt động gián điệp cho Đế quốc Nga !
2 giòng lệ lại chảy dài !
Tatyana tâm trạng lại bất an cứ nhìn đồng hồ hoài đã 3 giờ rưỡi sáng ! còn 2 tiếng rưỡi nữa là hết giờ giới nghiêm ? phải gặp Boris hỏi cho ra lẽ chuyện này ? không lẽ 13 năm Boris đã trở thành người cộng sản rồi hay sao ?
Càng suy nghĩ , Tatyana càng bấn loạn tâm thần , đồng hồ đã điểm 4 giờ sáng ...
Tatyana vẫn ngồi bất động , mắt đỏ hoe , bất chợt một ý nghĩ đến với Tatyana :
Ông Nội và Cố của Boris là những vị Thống chế Anh hùng của Dân tộc Lỗ Ma Ni . Mỗi lần dạy về lịch sử cho học sinh , về Trận Chiến cũa Ông Nội và Ông Cố Boris giao tranh với Quân Nga . Tatyana đã giảng dạy cho học sinh với tất cả tâm huyết và hào hứng , và say mê , vì đó người thân của Boris yêu dấu !
Bất giác Tatyana cầu nguyện 2 Vị Thống chế Anh hùng của Dân tộc Lỗ Ma Ni :
"Tổ tiên con là người Nga gốc Do Thái , nhưng con đã coi Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu là Tổ Quốc của con.
Con đã yêu Boris với tất cả tấm lòng chân thật của con ! Xin 2 Vị Anh Hùng giúp Boris đừng bao giờ trở thành người Cộng Sản tay sai của Đế Quốc Nga , để chống lại Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! "
Cầu nguyện xong . Tatyana lấy lại sự phần nào sự bình tỉnh và bấn loạn tâm thần, không lo sợ như trước ! Quá mệt mõi , gục xuống bàn đèn nhỏ cạnh giường , ngũ thiếp đi ...
GIẤC MƠ TATYANA .
Tatyana thấy mình cùng Boris , tay trong tay đi giữa một vùng Thảo nguyên bát ngát mênh mông, xa xa là đồi núi chập chùng ... ,
TATYANA
BORIS TRONG GIẤC MƠ TATYANA
TATYANA TRONG GIẤC MƠ
BORIS TRONG GIẤC MƠ TATYANA
** Tatyana thấy mình cùng Boris , tay trong tay đi giữa một vùng Thảo nguyên bát ngát mênh mông, xa xa là đồi núi chập chùng ...
Vừa dắt tay nhau đến gần đỉnh núi , bỗng trên đầu Boris, một vầng thái dương sáng loà , xuất hiện vương miện của Hoàng Đế, y phục trên người Boris, cũng thay đổi trở thành y phục xa xưa của các Hoàng Đế Lỗ Ma Ni ! , Tatyana như một phép mầu , y phục cũng thay đỗi thành váy dài đến đất.
Tatyana sợ hải chạy đến nép vào lòng Boris..
Đúng lúc này sấm chớp nổi lên đùng đùng trên đỉnh núi, xen lẫn tiếng hú dài man rợ , ..Một Ác quỉ mặt lạnh như tiền răng nanh mọc dài., xuất hiện trên đỉnh núi ....
Tatyana đang sợ hải : Ô kìa : trên 2 vai Boris, và 2 vai của mình mọc ra 2 cánh như những vị Thiên Thần ...
Boris đã bay về hướng Ác quỉ mặt lạnh như tiền trên đỉnh núi , gươm sáng tuốt trần ! Giọng nói còn vọng lại :
Tatyana ! Em hãy bay về hướng mặt trời mọc , đến đỉnh núi cao ngất trời xanh , đợi Boris nhé !......
Tatyana hét lớn tỉnh dậy ! Đồng hồ vừa điểm đúng 6 giờ sáng , hết giờ Giới nghiêm !
Tatyana khoác vội chiếc áo khoác trên người , chạy ào xuống nhà , băng vội ra cổng ....
PHẦN III : Boris và Henri --- Tatyana và Boris
" Tatyana đứng nép vào lòng và ôm chặt Boris .. Mùi hương thơm từ mái tóc , hoà trộn lẫn với mùi thơm da thịt ngai ngái của người con gái Tatyana 28 tuổi , lần đầu tiên đến trong cuộc đời của người thanh niên 32 tuổi : Boris .
Boris cúi xuống hôn lên đôi mắt xinh đẹp , long lanh nước mắt ,đầy hạnh phúc của Tatyana "
.............................. ......
"Tôi tiễn anh lên đường, Trời hôm nay mưa nhiều lắm Mưa thắm ướt vai gầy, mưa giá buốt con tim Mình cầm tay nhau, chưa nói hết một câu Thôi đừng buồn anh nhé! Tiếng còi tàu đã ngân dài "
.............................. .........................
"Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn Đoàn hùng binh tung sương lướt gió reo vang "
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi
Tặng Boris : Đại tướng Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Kháng Chiến Đông Âu 4.1942---4.1945
A . BORIS VÀ HENRI
Suốt đêm Boris cũng không ngủ được, thức trắng đêm. Hình ảnh Tatyana đứng bất động nước mắt chảy dài trên má , nhìn sững vào căn phòng trọ của Boris...
Đã qua giờ giới nghiêm, Boris rời khỏi giường ngồi dậy ,.. điếu thuốc trên tay đã qua điếu thứ 3 ,. Căn Phòng ngũ của Tatyana , Ánh đèn màu tím lung linh huyền ảo đập vào mắt Boris ..
Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa yêu dấu hiện về, . Ngày xưa Boris và Henry quen cô bé Tatyana năm 1928 . Ngày đó Tatyana mới 14 tuổi đang học lớp 9, chiều về sau giờ tan học phải phụ giúp trong một quán nước giải khát. Tatyana bố mất sớm , chỉ có 2 mẹ con sống lặng lẽ quạnh hiu trong một ngôi nhà nhỏ . Chính điều này đã làm Boris và Henry :2 sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Hoàng Gia, vừa mới 18 tuổi đã đem lòng yêu thương cô bé , thêm khuôn mặt xinh đẹp , bản tính dịu hiền , thông minh và hiếu thảo với Mẹ ...
kề từ ngày ấy đã 14 năm trôi qua , Tatyana đã tốt nghiệp đại học , trở thành một cô giáo trung học, nhà cửa khang trang , điều này chứng tỏ Tatyana đã có nghị lực vượt khó .. Boris nhớ lại năm xưa năm 1934 khi mới nhận nhiệm sở tại thảo nguyên Trung Á . Boris đã nói với Cô gái Nga gốc Do Thái :
" Nếu cô là người tốt , thì trong 1 triệu người Do Thái , chỉ có mình Cô .."
Có lẽ Tatyana là chính đoá hoa trong một triệu người đó
Tatyana cũng đã yêu thât sự Tổ quốc Lỗ Ma Ni, đã đem vinh quang về Tổ Quốc , với giải Huy chương vàng qua tài Danh Ca của Đế Chế III .
Hết mình trong việc đứng ra tổ chức chương ca nhạc để ủng hộ Quân Y viện ngoài chiến trường .
Và một điều đặc biệt khi hát bài Quốc Ca , bày tỏ một sự tôn kính tha thiết thật sự, mới biểu lộ ra gốc gác của nguời Phụ nữ Nga - Do Thái khi cầu nguyện Đức chúa của họ !
Điều này chứng tỏ Tatyana đã yêu Tổ Quốc Lỗ Ma Ni tha thiết, không những thế còn coi Quốc ca Dân tộc là những gì thiêng liêng và quí báu nhất !
Thế thì Tình Yêu mình dành cho Tatyana không có gì là sai ? cũng không có gì khiến mình phải Đau khổ ! cho dù Tatyana gốc gác là Nga -Do Thái cũng vậy !
* Nhưng Boris lại thở dài :
Hiện tại dù mình có yêu Tatyana , và Tatyana có yêu mình tha thiết chăng nữa cũng không thể giống như ngày xưa được !
Vì Tatyana bây giờ là Hôn thê của Henry , cả Dân tộc Lỗ Ma Ni điều biết điều này !
Nêu mình và Tatyana đến với nhau ; không những phản bội Henri ,mà dưới mắt mọi người là ngoại tình bất hợp pháp !, Luân thường đạo lý không chấp nhận ! Thế thì làm sao mình có thể dựng nghiệp : Dựng nước và Kiến Quốc được đây ? Một khi mình đã đạp lên Luân thường Đạo lý của Dân Tộc ?
*** Boris lại hút thuốc liên tục , trán nhăn lại suy nghĩ
Theo luật Vương Quốc : Tatyana là vợ của Henry !
Nhưng rõ ràng Hoàng Đế đã không có thiện cảm với Tatyana. Mới gián tiếp cho Tatyana biết là: Hoàng Đế muốn kéo dài Hôn Lễ . Tại sao như vậy ?
Nếu khi Tatyana hát bài Quốc Ca , mình đã nhận ra gốc gác Tatyana là Nga -Do Thái .
Thái độ của Hoàng Đế , chứng tỏ Hoàng Đế đã nghi ngờ điều này ?
Nếu Bây giờ Hoàng Đế phát hiện ra gốc gác của Tatyana ? Hạ lệnh trừng trị Tatyana tội chết !
Thế thì Henry với chức vụ : Thiếu tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô có ra tay cứu mạng Tatyana được không ? câu trả lời là không ?
Dĩ nhiên Henri sẽ không bao giờ đem quân tạo phản !
Thậm chí Henri cũng không dám và cũng không thể từ bỏ chức vụ cùng Tatyana trốn ra Ngoại Quốc để xây dựng hạnh phúc riêng tư được !
Thế thì số phận cuộc đời của Tatyana sẽ bi thảm !
Henri là Chồng tương lai của Tatyana, bắt buộc Henri phải có trách nhiệm trong vấn đề này ! Dù Henri là bạn thân duy nhất của mình cũng vậy thôi !
Phải nói rõ cho Henri biết điều này ?
* Trước khi viết tiếp tôi cũng bổ sung : Đây là lý do mà sau 1945 Boris không thể đến với Tatyana được ?
Lý do : Boris là nguyên thủ Quốc gia Lổ Ma Ni ,dĩ nhiên có người thương cũng có người ghét .
Người ghét Họ sẽ nói rằng : Boris cướp vợ chưa cưới của Người bại trận., Người đã ký hiệp định đầu hàng với mình !
Làm sao :Boris kiến quốc một cách hữu hiệu được ? làm sao có thể xây dựng Cộng Hoà Liên Bang Đông Âu được !
Đây chính là số phận bi thảm của Tatyana ! Dù yêu Boris nhưng mãi mãi không bao giờ làm vợ được ! chỉ có thể làm vợ Henri thôi ! hoặc là chấp nhận sống lặng lẽ bên cạnh cuộc đời Boris thôi !
Thêm thay không chỉ Quốc Gia Lỗ Ma Ni , mà Toàn bộ Đông Âu đều biết Đại Danh Ca Tatyana là hôn thê của Trung tướng Henri Tư lệnh Biệt khu Kinh Đô Bucharest Vương Quốc Lổ Ma Ni, Người đã ký văn kiện đầu hàng với Đại tướng Boris :Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Kháng Chiến Đông Âu -Chủ tịch Quốc Gia Lổ Ma Ni .
Bây giờ Đại Danh Ca Tatyana lại trở thành Đệ nhất phu nhân ! Boris không những không kiến quốc được , mà còn bị mọi người coi rẽ nữa ? mang tiếng dơ nữa ! Cộng hoà Liên Bang Đông Âu chỉ là ước mơ xa vời viễn tưởng! thế thì mọi công sức của Boris là con số Zero to tướng ?
Nếu Boris muốn xây dựng hạnh phúc riêng tư chỉ có cách từ chức , cùng Tatyana tuyệt tích giang hồ , chấp nhận không những Quốc Gia Lỗ Ma Ni , mà Toàn bộ Đông Âu sẽ bị Nga thống trị.
Đây cũng là sự vô tâm,và hữu dõng vô mưu của Henri khi khuyên Tatyana qua Nga kiếm Boris để kiến tạo Tổ quốc Lỗ Ma Ni Hùng Mạnh ! Kết quả Tatyana bị lưu đày luôn ! Henri đã biết Tatyana là người Do Thái mà khuyên qua Nga thì tôi cũng không biết nói làm sao ?. Cũng chỉ vì lời khuyên này , mà Tatyana dịch trật chữ T .A. :Transnistria thành Cộng hoà Tukmenia - Trung Á . Quá bi thảm !
* Đồng hồ đã điểm 4 giờ 30 sáng . Boris hút thuốc liên tục , cũng không thể tìm ra lời giải :
- Henri cũng không thể từ bỏ mọi chức vụ, để cùng Tatyana trốn ra Ngoại Quốc được ?
-Tatyana cũng không thể theo mình về Transnistria được ? ( vì không những phản bội Henri ,mà mình còn đã đạp lên Luân thường Đạo lý của Dân Tộc !
- Nếu như vậy Tatyana trước sau cũng bị Hoàng Đế phát hiện ra gốc gác ! Tatyana sẽ bị lâm nguy mất !
Chỉ có một cách duy nhất : làm sao Hoàng Đế phải ban Thánh chỉ từ hôn cho Henri và Tatyana.
Tatyana và mình mới danh chính ngôn thuận đến với nhau được !
Phải gặp Henri thôi !
* Nếu Henri chấp nhận từ bỏ mọi chức vụ, cùng Tatyana trốn ra Ngoại Quốc, thì mọi chuyện sẽ êm đẹp!
Mình sẽ yên tâm dựng nghiệp lập chiến khu .
** Còn Henri không chấp nhận , lấy Tổ quốc làm trọng ! Thì cuộc đời Tatyana sẽ bi thảm !
Bắt buộc Henri phải yêu cầu Hoàng Đế ban Thánh chỉ từ hôn với Tatyana thôi ! Nếu không muốn cuộc đời của người vợ chưa cưới của mình bi thảm !
Phải đi gặp Henri thôi !
***** B ----Hoàng Đế Michael II :
Lúc này tại Cung điện Hoàng Gia . Hoàng Đế Michael II cũng đã thức dậy ! Suốt đêm Hoàng Đế bị ám ảnh khuôn mặt Tatyana khi Hát Quốc ca !
Dứt khoát 100% không phải là người phụ nữ Lỗ Ma Ni !
Tatyana đã che dấu Lý lịch-Tiểu sử mờ ám ! lại Hôn thê của Dũng Tướng Henri :Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô ! Quá nguy hiểm !
Hoàng Đế ra lệnh : Gọi điện thoại cho Tổng Gám Đốc Mật Vụ -Vương Quốc Lỗ Ma Ni, dù lúc này mới 4 giờ 30 sáng .
Từ bên kia đầu dây . Vị Tổng Gám Đốc Mật Vụ bị đánh thức để nghe mệnh mệnh của Hoàng Đế.
Hoàng Đế hạ lệnh : Phải Bí mật điều tra Tiểu sử -Lý Lịch của Đại Danh Ca-Tatyana : Hôn thê của Tướng Quân :Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô !
Phải báo cáo và tường trình cho Hoàng Đế trong thời gian ngắn nhất !
Vị Tổng Giám Đốc Mật Vụ tái mặt , tỉnh ngũ luôn vì biết đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, Đại sự Quốc Gia !. Nếu Đại Danh Ca-Tatyana Lý lịch mờ ám , tay sai của kẻ thù : Sẽ Xúi dục và khích động Tướng Quân :Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô, đem quân tạo phản thì sao đây !
Quả thật Cực Kỳ Nghiêm trọng và Nguy hiểm !
** Boris nhìn đồng hồ đã hơn 5 giờ sáng rồi. Phải gặp Henri thôi ! Tối nay mình đã đáp tàu lửa về Transnistria rồi ! Nếu có Thánh chỉ Từ hôn , thì Tatyana sẽ là vợ của mình danh chánh ngôn thuận ,sẽ theo mình về Transnistria !
-*Còn nếu Henri chấp nhận trốn đi với Tatyana, thì mình cũng yên tâm ! cầu mong cho hai nguời hạnh phúc !
Boris bước lại bàn lấy xấp giấy viết vội lá thư cho Tatyana :
Bucharest : 5 :20 A M 17.4.1942
Tatyana yêu dấu !
...........
Boris bước vội vào tắm : tắm nhanh , súc miệng , rửa mặt , thay vội bộ áo quần : quần Tây đen , áo Sơ mi (Shirt ) xanh da trời bước xuống nhà duới lúc : 5 giờ :55 sáng. Bà Anne chủ nhà đã thức dậy . Boris đưa lá thơ cho Cô Anne, nhờ Cô nếu Tatyana có đến đưa dùm lá thư này !
Rồi bước vội ra khỏi nhà lúc 5 giờ 58 phút .
* Boris bước ra khỏi nhà sớm , vì biết rằng Tatyana sẽ qua nhà Cô Anne, cũng không giải quyết được gì hết , chưa kể nếu hai người ôm nhau là bất hợp pháp ! là phản bội Henri , là trái luân thường Đạo lý ! Sẽ làm cho Cô Anne coi thường Tatyana , vì Tatyana là Hôn thê của Ông Tướng Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô. Boris phải gặp Henri trước ! để nói chuyện rõ ràng, còn không Tatyana suốt đời chỉ là đồ cúng , mà Boris chỉ có thể chiêm ngưỡng từ xa, chứ không thể đụng vào được !
Người Dân Đông Âu trước 1945 là Vương Quốc , họ coi Luân thường Đạo lý khá cao , vì đại đa số Dân chúng là Công giáo mộ đạo: một Vợ ,một Chồng , vấn đề Ly dị cũng hiếm khi xảy ra ! chỉ trường hợp ngoại lệ duy nhất : Tatyana trái tim chứa Boris và Henri cùng một lúc ! )
C--- BORIS --HENRI : ĐÔI BẠN THÂN SAU 13 NĂM XA CÁCH : GẶP LẠI NHAU -KHÁC CHIẾN TUYẾN
khoảng 6 giờ 25 sáng Boris đã đến một quán cafe và nước giải khát , quán khá rộng . Sau vườn là những chậu hoa , và cây cảnh ,. Bà chủ quán trên 60 tuổi nhìn Boris quen quyen. Boris bước ra vườn , lựa chiếc bàn phía sau một khóm cây của loài hoa Poppies ( loài hoa để hồi tưởng kỷ niệm )
Đây là quán nước mà ngày xưa, Cô bé Tatyana khi vừa tròn 14 tuổi nữ sinh lớp 9 đã làm việc tại đây.
Ngày ấy Đôi bạn Boris -Henry lúc này vừa mới 18 tuổi là Sinh viên năm thứ nhất trường Võ Bị Hoàng Gia, cũng thường cuối tuần đến đây , thưởng thức cafe thơm ngon ,khung cảnh tuyệt vời , và bắt đầu đem lòng yêu mến cô bé nữ sinh Tatyana ngoan hiền , xinh đẹp.
Ngày ấy cũng đã 14 năm trôi qua, đôi bạn thân đã cách xa nhau sau 13 năm. Định mệnh cuộc đời 2 người hai Chiến tuyến khác nhau : một Đại tướng Đồng Minh và một Thiếu tướng của Phe Trục là một Anh hùng ,cũng là một Dũng tướng đang giữ chức vụ Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô của Vương Quốc Lỗ Ma Ni.
**Nhưng Hai vị Tướng lãnh khác Chiến tuyến đều đem lòng yêu thương Tatyana . Cô bé ngày xưa bây giờ đã là một Cô Giáo Trung học và là một Đại Danh Ca của Phe Trục Đế chế III. Cũng là Hôn thê của Vị Tướng Lãnh Phe Trục :Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô Bucharest.
Quán nước ngày xưa vẫn phong cảnh cũ như ngày nào , . Phía trong Quán là bức hình lộng kính : Đại Danh ca Tatyana, đoạt giải Huy chương Vàng của Đế chế III, đang đứng bên cạnh Quốc trưởng Vĩ Đại Adolf Hitler năm 1941 .
***Hai vị Tướng lãnh khác Chiến tuyến đều có : một Tình yêu bất diệt với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni Yêu Dấu !
*****Hai vị Tướng lãnh khác Chiến tuyến lại là : Đôi bạn thân ngày xưa của thời Thanh niên mới lớn.
Chính những điều đặc biệt trên đã làm cho 2 Vị Tướng Lãnh khác Chiến tuyến : đã trở thành bất tử trong Lịch sử của nhân loại !
.............................. .............................. ............
Boris vừa ngồi xuống ! Bà Chủ quán vội chạy ra nhìn chăm chú :
-Phải cậu Boris không ?
Boris cuời :
-Dì nhận ra Cháu sao !
Bà Chủ quán :
- Trời đất ơi ! 13 năm rồi tôi mới lại gặp cậu ! nghe nói cậu đang ở Ngoại Quốc phải không ?
Bà Chủ quán tiếp lời :
13 năm trôi qua Tatyana đã là cô giáo , là Đại Danh Ca , và là Hôn thê của Tướng quân Henri :Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô . Tôi rất tự hào ,lấy làm hãnh diện là Tatyana đã làm ở đây ! Thỉnh thoảng Tướng quân Henri cũng ghé lại đây ,. cũng ngồi ngay chỗ này !
Bà Chủ quán nhìn chăm chú Boris :
-Nhìn cậu , cao lớn lại chững chạc đẹp trai và phong độ ra ! Cậu có gia đình chưa vậy ?
Boris cười : - Chưa Dì ạ !
Bà Chủ quán cười :
-Chắc cậu còn thương Tatyana phải không ?
Cũng trễ rồi cậu ơi ! Thôi đã về đây thì lấy Vợ Quê hương đi ! Tôi sẽ làm mối giùm cho ! lấy Vợ ngoại quốc , con cái sẽ không hết lòng yêu Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu của mình đâu !
Boris lại cười..
- Cậu vẫn uống Cafe đen ít đường như ngày xưa phải không ?
Boris :
-Đúng rồi Dì ạ ! khoảng nửa tiếng nữa Dì cho thêm một ly cafe sửa , nhiều sữa một chút xíu !
Bà Chủ quán :
-Tướng quân Henri sẽ đến !
Boris gật đầu !
**HENRI
HENRI : THIẾU TƯỚNG TƯ LỆNH BIỆT KHU KINH ĐÔ BUCHAREST 1942
Suốt đêm Henri cũng trằn trọc không ngũ được ! Ý của Hoàng Đế đã rõ : không muốn mình và Tatyana thành hôn sớm ? Tại sao như vậy !
Đồng hồ đã điểm 4 giờ sáng !Henri không ngũ được đành ngồi dậy ! Đứng tựa cửa sổ phòng ngũ của căn biệt thự nhìn ra vườn hoa , trên tay điếu thuốc lá , miệng nhã ra những vòng tròn đan quyện vào nhau ! đây là thói quen của Henri khi đang suy nghĩ !
Một trong 2 người lính gác cổng vội chạy lại vườn hoa , nhìn lên căn phòng ngũ .
_Tướng Quân (General) thức dậy sớm !Tướng Quân có cần ly Cà Sữa nóng không ?
Henri gật đầu ! và Cám ơn !
5 phút sau ,có tiếng gõ cửa phòng ngũ , Henri mở cữa ! Người trung sĩ cận vệ trên tay tách cafe sữa nóng.
Henri nhận lấy , cất tiếng Cám ơn .! Người Hạ sĩ quan cận vệ lui ra !
Henri nhấp một ngụm nhỏ cà phê sữa nóng , điếu thuốc trên tay đã qua điếu thuốc thứ ba . :
-Chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu nữa ! đây là câu hỏi không thể trả lời được ? Thế thì cuộc đời con gái của Tatyana sẽ héo mòn mất !
Chưa kể khi chiến trường cần , mình sẽ phải ra Chiến Địa , giữa hòn tên mũi đạn , Hy sinh trên Chiến Địa là điều mình chấp nhận : Tất cả cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! Sẵn sàng báo đáp Hồng Ân cho đất nước , như Ba mình đã mãi mãi nằm lại trên Chiến Địa Phờ Lan Đơ ( Flanders' Fields ) năm 1918 trong Đệ nhất thế chiến khi mình vừa mới vừa 8 tuổi . Nhưng còn Tatyana thì sao đây !
Theo Luật pháp của Vương Quốc từ ngàn xưa : nếu mình có báo đáp Hồng Ân cho Tổ quốc yêu dấu trên Chiến địa ! Mình là Tướng lãnh sẽ được truy phong như một vị Anh Hùng ,. Thế thì Tatyana khó lòng mà lập gia đình trong tương lai, vì là Hôn thê của một vị Anh hùng , cũng được người dân Lỗ Ma Ni kính trọng và yêu thương . Dĩ nhiên người dân không bao giờ muốn người Hôn thê của vị Anh hùng đi một bước nữa , vì sẽ huỷ hoại một hình ảnh đẹp trong lòng họ !
Nhưng Tại sao Ý của Hoàng Đế là : không muốn mình và Tatyana thành hôn sớm ? Mình là Tướng Lãnh thì phải tuân lệnh và thần phục Hoàng Đế ! nhưng tại sao Ý của Hoàng Đế lại là như vậy ?
Rõ ràng Hoàng Đế không thích Tatyana ! Hoàng Đế phải có Lý do ?
Tatyana đã từng đem vinh quang về cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu , lại là Hôn Thê của mình !
Vậy mà Hoàng Đế vẫn không thích Tatyana ! Chứng tỏ đây không phải là một vấn đề đơn giản đâu ?
Henri giật mình :" hay Phụ thân của Tatyana lúc còn sinh tiền , trước đây đã làm điều gì đó không đúng ?"
Mình chưa bao giờ hõi về phụ thân của Tatyana. Vì Tatyana đã mồ côi cha từ nhỏ giống mình.
Tatyana đã phải vừa làm vừa học . Mình không muốn gợi lại kỷ niệm buồn cho Tatyana !.......
Henri nhấp thêm một ngụm nhỏ cà phê sữa , điếu thuốc trên tay đã qua điếu thuốc thứ sáu .
Ánh mắt nhìn xa xăm :
Boris ! giờ này mày đang ở tận vùng Trung Á bao la của nước Nga ! đang mãi mê trên những cánh đồng lúa Mỳ phải không ! 4 năm trước tao thấy hình mày và phái đoàn của Nga chụp tại Toà Bạch cung Thủ Đô Washington với TT thứ 32 Roosevelt. Mày cũng quá giỏi đã là :Tổng chỉ huy trưởng các Nông trang lúa Mỳ của của nước Nga ! Mày có bao giờ nhớ đến tao không ?
Thỉnh thoảng tao vẫn ghé lại quán nước ngày xưa , ngồi một mình dưới khóm hoa Poppies để hồi tưởng lại kỷ niệm ngày xa xưa của tụi mình !
Boris ! nhiều khi Tao nghĩ Mày mới chính là Người sẽ đem hạnh phúc lại cho Tatyana !. Còn Tao chỉ là mẫu người Quân nhân trên Chiến Địa , tính tình bộc trực , vô tư sẽ khó đem hạnh phúc lại cho Tatyana.
Mày là mẫu người cứng rắn , nhưng lại thừa khôn ngoan, và thông minh, mày lại sống thiên về nội tâm thích hợp với Tatyana hơn tao !
Thật ra tao và mày đều yêu thương Tatyana với tất cả trái tim ! Mày đã ra đi biền biệt 13 năm trời ! Tatyana cũng đau khổ , và Tao cũng nhớ về mày ! Hai năm trước Chiến tranh bùng nổ , trước khi ra Chiến địa Moldavia quyết sống mái với quân Nga . Tao và Tatyana đã hứa hôn !
Nhưng Tatyana vẫn dành cho mày một nửa trái tim Boris ạ !
Bây giờ Hoàng Đế lại không muốn Tatyana và Tao thành hôn sớm !
Tao là Tướng lãnh phải thần phục , và tuân lệnh Hoàng Đế , Boris ạ !
Thế thì chiến tranh này sẽ đến bao giờ kết thúc ! Tatyana sẽ héo mòn đời con gái mất !
Chưa kể Tổ Quốc yêu dấu rất có thể bại trận trong tương lai ! Hiện tại Mỹ-Nga hai Quốc gia hùng mạnh lại là Đồng minh . Ông Thủ tướng Nhật Bản quá tham lam và ích kỷ , khi chỉ thấy mối lợi trước mắt , mà không thấy hậu quả tai hại khôn lường ! Không tấn công vào Trung Á của nước Nga , lại đi tấn công Mỹ Quốc . Nhật Bản trước sau cũng bại trận trước Mỹ Quốc , Vì Vũ khí quá lạc hậu so với Mỹ. Quân lực Nhật Bản lại không thiện chiến bằng Quân lực Mỹ.
Nếu vậy Phe Trục sẽ nguy mất ! Tao là Tướng Lãnh : Tao chấp nhận Báo Đáp Hồng Ân Hy Sinh cho Tổ Quốc !
Nhưng còn Tatyana thì sao đây !
Đồng Hồ đã điểm 5 :30 sáng , Gói thuốc lá đã vơi trên một nữa, tách cafe sữa cũng đã cạn..
Ánh mắt Henri vẫn nhìn xa xăm về phía trước !..
Henri bước vào phòng tắm dội những giòng nước mát , hy vọng xua tan đi những băn khoăn trăn trở suốt đêm , rời khỏi phòng tắm đã 6 giờ sáng .. , bước ra phòng ăn , người đầu bếp vội dọn lên bữa điểm tâm nhẹ : 2 lát bánh mì , một ít Phó mát, và ít mức trái cây, cùng tách trà nóng ...
"Dùng điểm tâm xong , nhấp ngụm trà nóng . Henri chuẩn bị bước vào phòng thay Quân Phục để đến Bộ Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô. Sáng hôm nay 11:30 AM phải vào Cung Điện Hoàng Gia, cùng các Tướng Lãnh yết kiến Hoàng Đế . Sau đó là cuộc họp thường lệ vào thứ năm hàng tuần ...
Bỗng điện thoại reo vang .....
Henri bước đến điện thoại , bên kia đầu dây : giọng Tatyana yêu thương ..
TATYANA
"Tatyana hét lớn tỉnh dậy ! Đồng hồ vừa điểm đúng 6 giờ sáng , hết giờ Giới nghiêm !
Tatyana khoác vội chiếc áo khoác trên người , chạy ào xuống nhà , băng vội ra cổng .... "
Đến nhà Dì Anne , vội bấm chuông ..
Dì Anne bước ra , vừa mở cổng.. Tatyana đã chạy ào vào nhà , chạy nhanh lên lầu .. Truớc cặp mắt ngạc nhiên của Dì Anne người hàng xóm ,..
Tatyana chạy đến căn phòng ngoài cùng , gõ cữa ....nước mắt lại chảy dài ..
Đúng lúc này Dì Anne bước đến sau lưng :
_Tatyana ! Cậu thanh niên đã đi cách đây khoảng 5 phút , Cậu ấy nhờ Dì chuyển lá thư này cho con !
Dì Anne móc trong túi , lấy lá thư đưa cho Tatyana .
Tatyana mở vội lá thơ ra đọc ... khuôn mặt rạng lên niềm vui , nhưng hơi lo lắng ..
Tatyana vội chào Dì Anne ra về ...
Dì Anne hàng xóm :
* Giữa Tatyana và cậu Thanh niên này , hình như Họ có tình ý với nhau ? Phải giữ kín chuyện này không thôi sẽ làm mất thanh danh của Tatyana !
Cậu thanh niên này là Ai ? mà Tatyana lại chạy vào nhà mình vừa hết giờ giới nghiêm, với vẻ thất thần, lại mặc áo ngũ ?
Trong lúc Tatyana lại là Hôn thê của Tướng quân Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô ..
Không được rồi ! chiều nay phải nói chuyện với cậu thanh niên này ! không thể để cậu thanh niên này ở trong nhà ! Tatyana sẽ bị huỷ hoại thanh danh mất , mà mình còn bị mang tiếng nữa !
Nữa năm nay không cho thuê nhà , Mình vẫn sống được dù có thiếu thốn , nhưng đây là hoàn cảnh chung của đất nước đang có chiến tranh !
.............
Tatyana trở về nhà đọc lá thơ một lần nữa :
Bucharest : 5 :20 A M 17.4.1942
Tatyana yêu dấu !
Suốt đêm Boris đã thức trắng đêm !
Thật ra Tình yêu Boris dành cho em , suốt đời này sẽ không bao giờ thay đổi , mà Henri dành cho em cũng như vậy !
Nhưng bây giờ tình cảm của chúng ta không phải như 13 năm về trước .. Tatyana ! em đã 28 tuổi rồi không còn cô bé 15 tuổi ngày xưa nữa .!
Đã đến lúc Em phải nghĩ đến chuyện Hôn nhân ..
Em sẽ là người vợ của Henri hay là của Boris đây ?
Trên thực tế Em đã là Hôn thê của Henri ! . Nếu theo đúng Truyền thống và Đạo lý của Dân tộc chúng ta .Thì Boris không thể nào đến với em được, dù có yêu em bằng tất cả trái tim ....
Nhưng tối hôm qua Ý của Hoàng Đế đã rõ ràng : là chuyện Hôn nhân của em và Henri sẽ không bao giờ thành tựu ! không những ..Hoàng Đế không thích em , mà vấn đề còn hơn thế nữa ! ( Boris sẽ giải thích cho em sau !).
Vì vậy Boris cần phải gặp Henri ! vì chuyện này ảnh hưởng đến cả cuộc của em ! Tatyana ạ !
Cả Boris và Henri đều yêu thương em ! nhưng đã đến lúc phải chấp nhận một thực tế :Tatyana yêu dấu ! chỉ là vợ của một nguời thôi !
Boris nhờ em một chuyện :Em hãy gọi điện thoại cho Henri ,. :
Boris hẹn gặp Henri 7 giờ sáng nay tại Quán nước "Bình Minh" !
Boris .
Tatyana đọc xong lá thơ, .. bước đến điện thoại bàn tại phòng khách quay số .
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:24:52 GMT 9
"Dùng điểm tâm xong , nhấp ngụm trà nóng . Henri chuẩn bị bước vào phòng thay Quân Phục , để đến Bộ Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô. Sáng hôm nay 11:30 AM phải vào Cung Điện Hoàng Gia, cùng các Tướng Lãnh yết kiến Hoàng Đế . Sau đó là cuộc họp thường lệ vào thứ năm hàng tuần ...
Bỗng điện thoại reo vang .....
Henri bước đến điện thoại , bên kia đầu dây : giọng Tatyana yêu thương .. "
Tatyana vừa dứt lời , ánh mắt Henri sáng lên niềm vui, khuôn mặt rạng rỡ hẳn :
Tatyana : Tối hôm qua , Anh cũng không ngũ được . Được rồi Anh sẽ đến đó ngay !
Henri gác điện thoại , bước vào phòng thay bộ đồ Ci vin: quần tây đen , áo sơ mi trắng . Khuôn mặt Henri thoáng vẻ hơi đăm chiêu một chút . Bước ra khỏi phòng thấy thiếu thiếu cái gì , thói quen mười mấy năm của người Quân nhân. Ồ khẩu súng ngắn !
Henri bật cười , bước ra khỏi phòng , xuống nhà dưới . Người Trung Sĩ Cận vệ , và Hạ sĩ Tài xế đã chờ sẵn , đôi mắt của 2 thuộc cấp ánh lên vẻ ngạc nhiên nhìn : Ông Tướng của mình trong bộ đồ Dân sự ! .
Henri nói với người Hạ sĩ Tài xế , đến quán nước Bình Minh !
Trong lúc này tại nhà Tayana rất hồi hộp, không biết mình sẽ thuộc về ai ? Tayana đã gọi điện thoại đến Trường Trung học xin nghĩ dạy ngày hôm nay !
XE JEEP PHE TRỤC : ĐỨC VÀ ĐÔNG ÂU TRÊN ĐƯỜNG PHỐ PARIS NĂM 1941
( MẪU CUẢ ĐỨC - CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU CHẾ TẠO THEO , HÌNH TRÊN JEEP CUẢ MỸ QUỐC - ĐÔNG ÂU CŨNG COPY CHẾ TẠO ĐƯỢC )
Tatyana gọi đến trường xin nghỉ dạy học hôm nay xong , bước vội vào tắm , tắm nhanh, đánh răng , rửa mặc xong, vội thay áo quần , lên xe gắn máy tới Quán nước Bình Minh ! Vừa tới ngã tư gần quán nước , vội tấp vào đường nhỏ vì thấy xe Jeep của Henry từ quán nước , đang chạy về hướng mình.
Người tài xế vừa chạy qua ngã tư, Tatyana đã phóng xe ra , đến quán nước . Dừng xe vào quán . Bà chủ quán ngạc nhiên và mừng rỡ . Nhưng Tatyana đưa tay lên miệng : giữ im lặng ,vội đi lên lầu bước vào phòng nhỏ đứng tựa cửa sổ : nhìn xuống 2 người yêu của mình cũng là bạn thân đang nói chuyện !
Mà câu chuyện này sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của mình !
Trong lòng Tatyana một cảm giác hồi hộp , vui buồn lẫn lộn !
Tatyana hiểu rằng từ trong tận trái tim của mình . Mình muốn lấy Boris làm chồng , sẽ hoà hợp và hạnh phúc hơn, hình như mình yêu Boris nhiều hơn !
Nhưng như vậy thì Henri sao đây ! Mười mấy năm nay Henri đối với mình trước sau như một. Henri cũng yêu mình bằng tất cả trái tim, Mình lại là Hôn Thê của Henri gần 2 năm nay !
Nhưng nếu mình làm vợ Henri , thì mình sẽ nhớ thương Boris !
Thật là khó xử !
Bất giác Tatyana muốn thời gian lùi trở lại ngày xưa, 13 năm về trước khi mình là cô bé 15 tuổi , vừa đến tuổi mới lớn, được 2 sinh viên Võ bị Hoàng gia yêu thương mình hết lòng , ngày đó cả 3 người : mình Tatyana -Boris và Henri không ai nghĩ đến chuyện hôn nhân . Nên tình cảm thật tuyệt vời , lãng mạng và nên thơ !
Còn bây giờ bắt buộc phải nghĩ chuyện đến hôn nhân thì quá rắc rối !
HENRI VÀ BORIS
Chiếc Jeep Quân đội dừng trước Quán nước Bình Minh, lúc 6 :55 Am sáng .
Henri bước xuống , dặn người Hạ sĩ Tài xế và Trung sĩ Cận vệ trở về Tư dinh , 9 giờ trở lại đón mình.
Henri bước nhanh vào quán.
Bà chủ quán đang đích thân làm ly cafe sữa nóng cho Tướng Quân Henri. , Henri mỉm nụ cười chào Bà chủ quán , rồi bước nhanh ra vườn đến chiếc bàn dưới khóm cây của loài hoa Hồi tưởng kỷ niệm Poppies... Hai người bạn thân ôm chặt lấy nhau !
Bà chủ quán đã đến với ly ca fé sữa nóng trên tay . Hai người bạn vội ngồi xuống trên 2 chiếc ghế đối diện nhau.
Bà chủ quán :
13 năm rồi, Tôi mới thấy hai người ngồi lại chỗ này ! Thật là một ngày đặc biệt và đáng nhớ trong cuộc đời của tôi ...
Bà bước trở lại quán , thì đúng lúc Tatyana đang đi vào ! Bà ngạc nhiên ...
Henri nheo mắt nhìn Boris cười :
- Mày bây giờ nhìn phong trần hẳn ra, ra dáng vẻ ông lớn lắm ! Mày đang ở tận cùng Trung Á của nước Nga lại trở về đây ! Đừng nói là về đây : để dụ dỗ tao theo bọn Nga chứ !
Boris cũng cười :
- Mày yên chí không có chuyện đó đâu ! Tao về đây sáng hôm qua , và chiều nay cũng phải đi rồi . 36 tiếng đồng hồ gặp lại Mày và Tatyana là Tao đã vui !
Boris tiếp lời :
Henri ạ ! Tao và Mày :
TÌNH BẠN SẼ TỒN TẠI MÃI MÃI VỚI THỜI GIAN ! TỤI MÌNH ĐỀU CÓ : MỘT TÌNH YÊU BẤT DIỆT VỚI TỖ QUỐC LỖ MA NI YÊU DẤU ! DÙ CON ĐƯỜNG GIỮA TAO VÀ MÀY CÓ KHÁC NHAU MỘT CHÚT, NHƯNG MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG VẪN LÀ PHỤC VỤ CHO TỔ QUỐC YÊU DẤU !
Henri mồi điếu thuốc , rít hơi dài thả ra những vòng tròn đan quyện vào nhau . Boris cũng nhấp một ngụm cà fe đen, với tay lấy gói thuốc, điếu thuốc mồi cháy rít hơi dài khuôn mặt trầm tư .
Henri thở dài :
Boris ! Tao đang nghĩ đến một điều ! Chẳng may Tổ Quốc yêu dấu sẽ bị bại trận ! Chỉ có Mày mới có thể cứu được Tổ quốc yêu dấu , khỏi bàn tay thống trị của bọn Nga ! Mày đã sống tại Nga 13 năm biết rõ về tụi Nga . Mày lại đang giữ vụ cao cấp trong chính quyền Nga , thêm thay Mày cũng có lòng Yêu Tổ quốc tha thiết ! Nếu Ngày bất hạnh đó xảy đến ! Mày sẽ cứu lấy Tổ quốc phải không Boris ?
Boris nhìn người bạn thân duy nhất trên cuộc đời : GẬT ĐẦU !
*Henri lại rít hơi dài khói thuốc : thả ra những vòng tròn đan quyện vào nhau , ánh mắt mơ màng nhìn khắp khu vườn của Quán nước Bình Minh . Ánh mắt bất chợt dừng lại khóm cây của loài hoa Hồi tưởng Kỷ niệm..
Henri nhìn người bạn thân :
-Boris ! Có lẽ ngày hôm nay là ngày cuối cùng Tao và Mày cùng ngồi với nhau tại đây : Trong vườn Quán nước Bình Minh , dưới khóm cây của loài Hoa Hồi tưởng Kỷ niệm.. Nếu ngày bất hạnh ấy xảy đến !
Boris tái mặt :
-Tại sao lại như vậy Henri , Mày nói đi !
Henri cười buồn :
-Tao là Tướng lãnh của Quốc Gia , làm sao Tao chấp nhận bại trận được ! Làm sao Tao chấp nhận nhìn Quân Nga đi trên đường phố Bucharest thân yêu được ! Là Tướng Lãnh ngoài được hưởng những bổng lộc của Quốc gia, phải biết lấy Tổ Quốc Yêu Dấu là Tất cả , là Trên Hết !
Nếu ngày bất hạnh ấy xảy đến ! Tao sẽ đi tìm gặp lại những Đàn Em thân yêu : đã mãi mãi nằm lại trên Chiến Địa Moldavia , mãi mãi nằm lại trên lãnh thỗ bao la của nước Nga !..
*** *Henri lại hít hơi dài khói thuốc : Thả ra những vòng tròn đan quyện vào nhau , ánh mắt mơ màng như nhìn vào cõi xa xăm , Ánh mắt đượm buồn như sẽ đánh mất một Bảo Vật Trân Quí Nhất :
-BORIS ! TAO LÀ TƯỚNG LÃNH THỜI CHIẾN TRANH ! TAO KHÔNG THỂ ĐEM HẠNH PHÚC VÀ AN BÌNH ĐẾN CHO TATYANA ĐƯỢC !
**
Lúc này Tatyana đang đứng tựa cửa sổ nhỏ , trên lầu Quán nước Bình Minh nhìn xuống : 2 người đàn ông mà mình yêu thương, và cả 2 cũng yêu mình với tất cả trái tim !
Dù trên cao không nghe được câu chuyện , nhưng nhìn Henri thả những vòng tròn đan quyện vào nhau đến ba lần . Ánh mắt lại nhìn khóm Hoa hồi tưởng kỷ niệm
Tatyana tim đập thình thịch ! Tatyana nghĩ mình sẽ lấy Boris làm chồng ! Thế còn Henri thì sao đây Trời !
Thật ra Henri là mẫu người Anh Hùng. Henri cũng cần một người Con Gái để yêu thương !
Mình may mắn có 2 người yêu có thể nói là Kỳ Vĩ : là Nhân tài, là Anh hùng , lại là Bạn thân với nhau ! Đáng lẽ Mình phải Hạnh phúc tuyệt vời ! Nhưng lại đụng đến vấn đề rắc rối là Hôn Nhân !
Tatyana Ước thầm : phải chi 2 người yêu của mình kết hợp lại thành một người thì quá toàn bích và hoàn hảo !
BORIS ! TAO LÀ TƯỚNG LÃNH THỜI CHIẾN TRANH ! TAO KHÔNG THỂ ĐEM HẠNH PHÚC VÀ AN BÌNH ĐẾN CHO TATYANA ĐƯỢC !
Boris nghe Henri nói xong ! Khuôn mặt Boris trầm tư hẳn đi :
" Quả thật người bạn thân duy nhất của cuộc đời mình , sau 13 năm đã trở thành một Dũng Tướng thật sự ! con người vẫn như xưa : chân thật ,và tính tình bộc trực ! Nếu Tatyana làm vợ mình ! thì cuộc đời Henri sẽ trống vắng ! Thêm thay nếu phe Trục bị bại trận ! thì cuộc đời của Henri cũng sẽ bị hụt hẫng mất !
Nhưng bây giờ vấn đề Tatyana là vấn đề nghiêm trọng ! Trước sau Hoàng Đế cũng sẽ tìm ra gốc gác của Tatyana ! Trong lúc chiều nay mình đã đi rồi !......
Boris nhấp một ngụm ca fé nhỏ, mồi điếu thuốc hít hơi dài ,. Rồi nhìn thẳng vào người bạn thân :
- Henri tao sắp sữa nói một vấn đề rất nghiêm trọng , vì không còn thời gian nhiều nữa đâu !
Henri ngạc nhiên nhìn Boris , thấy khuôn mặt Boris nghiêm nghị , pha lẫn cương quyết , linh cảm một một sự việc vô cùng hệ trọng ..
-Henri ạ ! Sinh mạng và cuộc đời của Tatyana đang bị đe doạ thực sự ! Hồi tối Mày đã thấy là Hoàng Đế đã không muốn Mày và Tatyana thành hôn sớm ! Mày có biết lý do là tại sao không ?
Henri ngạc nhiên:
- Tối hôm qua , Mày có đến chỗ Ca nhạc sao ? Mày nói rõ lý do đi ! Suốt đêm qua Tao không ngũ được vì vấn đề này !
Boris :
-Tối hôm qua trong Rạp hát , Tao ngồi ở hàng ghế cuối cùng . Sau bài hát đầu tiên của Tatyana : bản nhạc Tình Ca Thời Chiến Tranh , đến phần câu hỏi của Hoàng Đế với Tatyana về chuyện Hôn nhân với Mày . Tao đã bỏ về , vì tao đã hiểu Lý do : Tại sao Hoàng Đế không thích Tatyana ?
Boris nói nhỏ vừa đủ cho Henri nghe :
_ Hoàng Đế nghi ngờ gốc gác của Tatyana ?
Thật ra Tatyana là người Nga gốc Do Thái !
Henri tái mặt sững sờ !
Henri vội mồi điếu thuốc nhanh : hít không phải chỉ một hơi, mà nhiều hơi dài khói thuốc : Thả ra liên tục không phải chỉ những những vòng tròn mà hàng trăm vòng tròn đan quyện vào nhau !. Những vòng tròn muốn che mờ khuôn mặt đau khổ của Henri !
Từ trên cửa sổ : Tatyana lần đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng này : Tái mặt hoảng hồn ! Toàn thân Run lên!
Boris im lặng ! Boris cũng hiểu tâm trạng Henri , cũng giống phần nào tâm trạng của mình tối hôm qua !
Thời gian chầm chậm trôi qua !
Henri - khuôn mặt đau khổ nhìn Boris :
-Boris chắc mày cũng đau khổ và thù hận Tatyana lắm phải không ?
Boris mỉm nụ cười buồn :
-Mày cũng biết :Tao căm thù người Do Thái như thế nào ? Tối hôm qua trong rạp hát, nước mắt Tao đã chảy khi phát hiện : Tatyana là người Nga gốc Do Thái. Tao đã ngồi trong ghế đá công viên với sự đau khổ tận cùng !
Nhưng Tối hôm qua Tao đã thức trắng đêm, và đã nghĩ thông suốt tất cả . Vì vậy sáng hôm nay , Tao mới nhờ Tatyana hẹn gặp Mày tại đây !
Boris nhìn Henri , và nhắc lại kỷ niệm ngày xưa :
" Ngày xưa Boris và Henry quen cô bé Tatyana năm 1928 . Ngày đó Tatyana mới 14 tuổi đang học lớp 9, chiều về sau giờ tan học phải phụ giúp trong quán nước ca fé Bình Minh này. Tatyana bố mất sớm , chỉ có 2 mẹ con sống lặng lẽ quạnh hiu trong một ngôi nhà nhỏ . Chính điều này đã làm Boris và Henry :2 sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Hoàng Gia, vừa mới 18 tuổi đã đem lòng yêu thương cô bé , thêm khuôn mặt xinh đẹp , bản tính dịu hiền , thông minh và hiếu thảo với Mẹ ...
Kể từ ngày ấy đã 14 năm trôi qua , Tatyana đã tốt nghiệp đại học , trở thành một cô giáo trung học, nhà cửa khang trang , điều này chứng tỏ Tatyana đã có nghị lực vượt khó .."
Boris cũng đã kể lại cho Henri :
Năm xưa 1934 khi Boris mới tốt nghiệp Đại học , nhận nhiệm sở đầu tiên tại Thảo nguyên Trung Á . Boris đã nói với Cô gái Nga gốc Do Thái :
" Nếu cô là người tốt , thì trong 1 triệu người Do Thái , chỉ có mình Cô .."
Có lẽ Tatyana chính là Đoá hoa trong một triệu người đó !
Tatyana cũng đã yêu thật sự Tổ quốc Lỗ Ma Ni, đã đem vinh quang về Tổ Quốc , với giải Huy chương vàng qua tài Danh Ca của Đế Chế III .
Tatyana cũng đã hết mình : Trong việc đứng ra tổ chức chương ca nhạc tối hôm qua , để ủng hộ Quân Y viện ngoài chiến trường .
Và một điều đặc biệt , khi Tatyana hát bài Quốc Ca: đã bày tỏ một sự tôn kính tha thiết thật sự, mới biểu lộ ra gốc gác của nguời Phụ nữ Nga - Do Thái kh cầu nguyện Đức Chúa của họ !
Điều này chứng tỏ Tatyana đã yêu Tổ Quốc Lỗ Ma Ni tha thiết, không những thế còn coi Quốc ca Dân tộc là những gì thiêng liêng và quí báu nhất !....
Boris nói xong , Khuôn mặt đau khổ của Henri từ từ tan biến :
Henri chỉ hít 1 hơi dài khói thuốc : Thả ra những vòng tròn đan quyện vào nhau !
Henri nhìn Boris :
-Boris ! Mày là người thông minh ! Mày tính sao đây ?
Boris giọng nói trở nên buồn bả :
- Cả Tao và Mày đều yêu thương Tatyana 14 năm nay, vì con người và tính cách của Tatyana ! Ngược lại Tatyana cũng yêu thương tụi mình với tất cả trái tim. Tatyana cũng có Tình yêu bất diệt với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni Yêu Dấu như chúng ta ! Thế thì Tatyana dù xuất thân Chủng tộc nào cũng không thành vấn đề !
Tình yêu của Tụi mình dành cho Tatyana , cũng như Tatyana dành cho Tụi mình là : Mối tình đúng đắn không có gì là không Thánh thiện , hay là Tội lỗi trái với Luân thường Đạo lý của Dân tộc chúng ta !
*Boris nhấp một ngụm ca fé nhỏ cuối cùng , hít hơi dài điếu thuốc .... Nhìn thẳng vào người bạn thân rồi nói tiếp :
Nhưng những điều trên, chỉ Tao và Mày cùng Tatyana hiểu ! Tao và Mày cũng thông cảm : về chuyện Tatyana che dấu Lý Lịch- Tiểu sử để hoà đồng trong lòng Dân tộc của chúng ta !
Nhưng đối với Hoàng Đế ! Nếu Hoàng Đế phát hiện Tatyana man khai Lý lịch -Tiểu sử. !
Nghĩa là Tatyana đã phạm tội Khi Quân ? Mày cũng đã biết : Hình phạt của tội Khi Quân là Tử Hình !
Trong lúc Tatyana lại là Hôn thê của Mày : Ông Tướng Tư Lệnh Biệt Khu Kinh Đô, lại là Đại Danh Ca đã đem vinh quang về cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni, thế thì không thể Tử Hình Công Khai được ?
Nhưng Henri ! Mày cũng hiểu là : Luật Pháp Bất Vị Thân !
** Henri ngồi bất động im lặng , không hít những hơi thuốc lá thả những vòng tròn nữa : Henri đã quyết định trong đầu : Trưa hôm nay sẽ yết kiến Hoàng Đế để Xin Hoàng Đế Thánh chỉ Từ Hôn .Tatyana sẽ ra đi với Boris Chiều nay . Đây là phương cách duy nhất để cứu mạng Tatyana ! Boris mới chính là người đem hạnh phúc và an bình đến cho Tatyana ! Còn mình sẽ Xin Hoàng Đế ra Chiến trận. Đối với Mình : Từ nay sẽ lấy Chiến Trận là Bận Rộn, Đàn Em Thân Yêu là Niềm Vui ! Nơi Chiến Địa Lửa đạn Tung Trời là Lẽ Sống !
*** HENRI HƯỚNG VỀ BORIS :
- BORIS ! MÀY LÀ THẰNG BẠN THÂN DUY NHẤT ,TRÊN CUỘC ĐỜI NÀY CUẢ TAO . NHỮNG ĐIỀU MÀ TAO SẮP NÓI RA ĐÂY ,LÀ NHỮNG LỜI CHÂN THẬT TỪ TẬN ĐÁY LÒNG CUẢ TAO :
- Tao sẽ xin Thánh Chỉ Từ Hôn trưa hôm nay ! Từ nay Tatyana sẽ là vợ của Mày ! Mày sẽ đưa Tatyana đi chiều hôm nay cùng với Mày đi !
Mày mới chính là Người đem Hạnh phúc và An Bình đến cho Tatyana ! Còn Tao : Từ nay sẽ lấy Quân Đội là Niềm Vui , là Lẽ Sống !...
TATYANA-HENRI- BORIS * TATYANA - BORIS * HENRI YẾT KIẾN HOÀNG ĐẾ- HOÀNG ĐẾ TỪ CHỐI BAN : THÁNH CHỈ TỪ HÔN , VÌ DANH DỰ QUỐC GIA ! * TATYANA TIỄN ĐƯA BORIS TRÊN SÂN GA DƯỚI LÀN MƯA BAY * TATYANA VƯỢT BIÊN QUA NGA ! * HENRI : TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN 3 TẠI CHIẾN ĐỊA MOLDAVIA 1942-1944 * BORIS : CHIÊU BINH MÃI MÃ DỰNG CHIẾN KHU : XA CHIẾN GIỮA MUÀ ĐÔNG BĂNG GIÁ : ĐÁNH TAN TRỤC TIẾP VẬN CUẢ PHƯƠNG DIỆN QUÂN THỨ 9 LIÊN QUÂN ĐỨC- Ý TẠI TIỂU NGA !
III TÌNH YÊU THỜI CHIẾN TRANH :
A- TATYANA -HENRI -BORIS TẠI QUÁN NƯỚC CAFE BÌNH MINH, DƯỚI KHÓM CÂY LOÀI HOA HỒI TƯỞNG KỶ NIỆM : 8: 45 AM---9 : AM NGÀY 17.4.1942 RỒI NGHÌN TRÙNG XA CÁCH 3 PHƯƠNG TRỜI :THẢO NGUYÊN TRUNG Á TUKMENIA NƯỚC NGA - CHIẾN KHU TRANSNISTRIA- CHIẾN ĐỊA MOLDAVIA : LỬA ĐẠN ĐẦY TRỜI .
Henri đã dứt lời !
Boris trầm tư ! Nếu vắng Tatyana thì cuộc đời của Henri người bạn thân tính tình chân thực , bộc trực sẽ trống vắng mất ! Nhưng quả thật không còn cách nào nữa ...
*Tatyana đang đứng tựa khung cửa sổ trên lầu của quán nước Cafe Bình Minh, đã Linh cảm một điều gì đó bất an ! Tatyana xuống lầu bước ra vườn , đi đến chổ Boris và Henri đang ngồi im lặng dưới khóm hoa : Hồi tưởng kỷ niệm ( Poppies) ! Lúc này là 8 giờ 45 sáng (17.4.1942) !
Henri nhìn Tatyana như nhìn một Bảo Vật Trân Quí một lần cuối cùng , rồi cố dằn cảm xúc :
-Tatyana ! Từ nay Em sẽ là vợ của Boris : người bạn thân duy nhất của cuộc đời Anh . Trưa nay Anh sẽ yết kiến Hoàng Đế để xin Hoàng Đế Thánh chỉ Từ Hôn của chúng ta ! Em hãy thu xếp đi cùng Boris chiều nay !
Đừng nghĩ đến Anh nữa ! Anh đã có : Quân Đội là Niềm Vui , là Lẽ Sống !...
Tatyana nước mắt chảy dài !
Tatyana mắt đẫm lệ nhìn Henri . Henri xoay ánh mắt nhìn những bông Hoa hồi tưởng kỷ niệm ,
Boris cũng đang nhìn loài hoa đỏ thắm :Hồi tưởng kỷ niệm 14 năm trước , cùng Henri ngồi ngay chỗ này say đắm ngắm nhìn cô bé Nữ sinh Tatyana tóc cột đuôi gà !
Tatyana cũng bất động ngắm nhìn loài Hoa Hồi tưởng kỷ niệm !
LOÀI HOA HỒI TƯỞNG KỶ NIỆM -POPPIES : TÌNH YÊU-TÌNH BẠN THỜI CHIẾN TRANH : TATYANA- BORIS-HENRI
Thời gian lặng lẽ trôi qua ...
Henri nhìn Đồng Hồ đã gần 9 giờ sáng ..
Henri đứng dậy :
Boris đã đến giờ Tao phải đi ! Chiều này lúc 3 giờ Tao sẽ gặp lại Mày tại nhà Tatyana !.
Boris khuôn mặt buồn bã đứng dậy :
- Henri ! Tao cũng không biết nói gì hơn ! Tao tự hào , và may mắn là được làm bạn với Mày !
Tao sẽ làm tất cả cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu của chúng ta !
Henri cũng bước lại chìa bàn tay ra bắt tay Tatyana . Bàn tay Tatyana run lên !
- Tatyana ! Em hãy vui lên đi ! Sắp lấy Chồng rồi ! Còn nhiều việc phải làm để : chu toàn bổn phận của người Vợ đó Em !
Henri bước đi rời khỏi khu vườn của Quán nước Cafe Bình Minh ,. Chiếc Jeep đã đậu trước quán : Người Hạ sĩ Tài xế , và Trung sĩ Cận vệ đã chờ sẵn. Henri bước lên . Chiếc Jeep phóng nhanh .. Henri nhìn phố xá , Kinh Đô yêu dấu : Rồi mai đây sẽ Từ giả tất cả để ra Chiến địa : Nơi Lửa Đạn Đầy Trời là Lẽ sống duy nhất của cuộc đời mình ! Có như vậy mới hy vọng sẽ xoá nhoà hình ảnh Tatyana Thân yêu trong tâm trí !
B-- TATYANA - BORIS
Henri đã đi rồi ! Tatyana đứng bất động nhìn những Bông Hoa Hồi Tưởng Kỷ Niệm, Mắt đẩm lệ !
Henri từ nầy nghìn trùng xa cách ! " Nghìn trùng xa cách, Người đã đi rồi !"
Nghìn trùng xa cách, Người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời Người lên Xe , về miền quá khứ
Mời Người đem theo ,trọn vẹn thương yêu
Đứng tiễn người vào Dĩ vãng nhạt màu ..
Nghìn trùng xa cách, Người cuối Chân Trời
Chuyện đôi ta buồn ít hơn vui
Lời khóc , lời cười chuyện ngắn chuyện dài
Ngày tháng êm trôi ..
Nghìn trùng xa cách, Người cuối Chân Trời !
(1942-1944 Tướng quân Henri : Tư Lệnh Quân Đoàn 3 Quân Lực Hoàng Gia Lỗ Ma Ni tại Chiến địa Moldavia (3 Sư đoàn Bộ binh tăng cường 1 Sư đoàn Thiết giáp .Tổng cộng 80 chục ngàn quân ) Tử chiến với 2 Phương Diện Quân Nga :400 ngàn quân ! 1 chống 5 ! thăng Trung tướng 3 sao 11.1943 khi 33 tuổi !).
Tatyana vẫn đứng bất động mắt đẫm lệ nhìn những Bông Hoa Hồi Tưởng Kỷ Niệm....
Boris bước lại :
-Tatyana ! trong trái tim của Chúng ta , Henri vẫn mãi mãi tồn tại !
Tatyana ôm chầm Boris khóc nức nở !
_ Trong trái tim của Em , dù Em có Yêu Bori nhiều hơn ,và Em cũng muốn làm vợ của Boris !. Nhưng Em cũng Yêu Henri ! Tính Henri Thật thà, Bộc trực , Dũng cảm , là một Dũng Tướng trên Chiến Địa . Henri cũng cần một người con gái để Thương yêu ! Henri cũng đã Yêu Em 14 năm nay với tất cả Trái tim !
..... **III -TỔNG GIÁM ĐỐC MẬT VỤ -TÌNH BÁO LỖ MA NI : KHẢI TẤU - HOÀNG ĐẾ MICHAEL ĐỆ NHỊ : 9 giờ 15 GIỜ SÁNG 17.4.1942
Trong lúc Tatyana đang ôm chầm Boris khóc nức nở ! cách đó 5 cây số ( hơn 3 miles) : Tại Cung Điện Hoàng Gia : Tổng Giám Đốc Ông Trùm Mật Vụ- Tình Báo Vương Quốc Lỗ Ma Ni , trình diện Hoàng Đế Michael Đệ Nhị !
Ông Trùm Mật Vụ :
- Khải Tấu Hoàng Đế , mặc dù hiện tại thần chưa nắm chắc 100% Tiểu sử - Lý Lịch của Đại Danh ca Tatyana, Hôn Thê của Henri Tướng Quân Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô. Nhưng Thần có thể Khẳng định 99% Cô ta là Người Do Thái ! Người Lỗ Ma Ni gốc Do Thái, hoặc là nguời Nga gốc Do Thái .!
Mẹ Cô ta , và Cô ta rất khôn khéo trong vấn đề che dấu gốc gác thật sự của mình , và có thể nói là Nguỵ tạo Lý Lịch -Tiểu sử Gia đình ! Tội này là Tội Khi Quân !( Xúc phạm , Vô lễ , hay là Dối trá Hoàng Đế !)
Hoàng Đế giật mình :
- Khanh hãy trình bày rõ ràng , căn cứ vào đâu ?mà Khanh khẳng định Đại Danh ca Tatyana là người Do Thái !
Ông Trùm Mật Vụ :
-Khải tấu Hoàng Đế , theo bản Lý Lịch -Tiểu sử của Đại Danh ca Tatyana khai : Gia đình cô ta định cư tại Kinh Đô Bucharest từ năm 1922 , lúc cô ta lên 8 !
Trước đó định cư tại : Transyvania ( giáp với Transnistria, vốn là biên giới cũ của Lỗ Ma Ni với Nga năm 1811- 1918 , và với Đức 1918-1940 . Boris cũng đang sử dụng Giấy tờ tuỳ thân từ Tỉnh này )...
Năm 1918 Khi Đức chiếm vùng Transnistria từ Đế Quốc Nga , Những nguời Nga gốc Do Thái , và Người Lỗ Ma Ni gốc Do Thái đang định cư tại Transnistria tính di cư đến Tiểu Nga ( Ukraine ) vì Người Nga gốc Do Thái đang Lãnh đạo nước Nga sau cuộc Cách mạng tháng 10 .1917 ( Đảng CS đầu tiên của Liên Sô ). Nhưng lúc này Quân Lực Cộng Hoà Nga ( Bạch Vệ ) đang chiếm giữ Tiểu Nga , và Kiểm soát biên giới Tiểu Nga và Transnistria .
Vì thế buộc lòng họ họ phải chờ một thời gian , hy vọng Lãnh tụ Leon Trosky Nga gốc Do Thái Tổng Tư lệnh Hồng Quân đánh tan Quân Cộng Hoà, Giải phóng Tiểu Nga .
Qua năm 1921 Quân Bạch Vệ cũng đang Kiểm soát biên giới Tiểu Nga và Transnistria ., Trong lúc Quân Đức đã chiếm Transnistria được 3 năm , bắt đầu sử dụng kỷ luật sắt với người Dân Transnistria, đặc biệt là với người gốc Do Thái .
Vì vậy những Người tính vượt biên di cư đến Tiểu Nga , đã không còn cách nào khác đành vượt biên qua Transyvania 10.1921 ! Một số đông đã đến Kinh Đô định cư năm 1922 ....
Ông Trùm Mật Vụ nói tiếp :
Trong bản Tiểu sử Lý Lịch của Đại Danh Ca Tatyana khai định cư tại kinh đô tháng 4 năm 22 . Trong thời điểm này trên 90% những Người đến định cư Kinh Đô , là những Người tính vượt biên di cư đến Tiểu Nga ?
Trong tiểu sử Đại Danh Ca Tatyana khai Phụ Thân chết năm 1921, trên đường Vượt biên từ Transnistria vào Transyvania !
Thần đã điện thoại về Transnistria, yêu cầu cơ quan Mật Vụ ở đây kiểm tra lại Hồ sơ cũ của người Đức : những người bị Quân Đức bắn chết lúc vượt biên năm 1921 , thì trong Danh sách những người chết năm 1921 không có tên của Phụ thân Tatyana ? như trong bản Tiểu sử mà Cô ta đã cung khai ?
Tại sao Cô ta lại man khai về Phụ thân ?
- Khải tấu Hoàng Đế Thần hứa trong một thời gian ngắn : sẽ truy tìm Phụ Thân của Tatyana thực sự là ai ! Rồi từ đó sẽ tìm ra sự thật : Cô ta là Người Lỗ Ma Ni gốc Do Thái hay là nguời Nga gốc Do Thái !
Dù thế nào đi nữa : Đại Danh Ca Tatyana đã phạm trọng tội Khi Quân !
Ông Trùm Mật Vụ dừng lại rồi nói tiếp :
-Khải tấu Hoàng Đế : Thần trộm nghĩ vụ này không thể xử tội công khai cho người Dân biết , Vì Danh Dự của Vương Quốc - bởi những Lý do sau đây :
Cô ta là Hôn Thê của Henri Tướng Quân , Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô, và đồng thời cũng đã đem Huy Chương Vàng về cho Quốc Gia . Lại được đứng chụp hình bên cạnh Quốc trưỡng Vĩ Đại Hitler..
Hoàng Đế im lặng một lúc :
-Vụ Đại Danh Ca Tatyana không phải là đơn giản , mà đây là vấn đề Danh Dự của Vương Quốc !
Dù Cô ta là phạm tội Khi quân đi chăng nữa !, Nhưng một điều Trẫm biết : Tatyana cũng là có tấm lòng yêu Tổ Quốc Lỗ Ma Ni, là Người đã đứng ra tổ chức đêm ca nhạc tối hôm qua , để yểm trợ quân Y viện ngoài Chiến trường , cũng là Người đã đem vinh quang về cho Vương Quốc. Lại là Hôn thê của Tướng quân Henri một Dũng tướng trẻ tuổi , mà Trẫm rất nể trọng !
Vì vậy nếu cô ta có phạm tội Khi Quân, Trẫm cũng có thể bỏ qua ,chỉ triệu kiến để trách mắng thôi !
Nhưng nếu quả thật Cô ta là người Do Thái ! Thì thật là đáng tiếc !
Hoàng Đế tiếp lời :
- Ông Tổng Giám Đốc phải điều tra cẩn thận vụ này , vì đây là Sinh mạng , của Đại Danh Ca Tatyana , Hôn thê của Tướng Quân Henri !
Biết đâu cô ta không phải là người Do Thái , mà người ngoại quốc Tây Âu , thì đã xử oan cho Đại Danh Ca Tatyana !
* Những người gốc Do thái định cư tại Kinh Đô 1922, theo Trẫm biết tất cả đã bị bắt và đã bị xử tội hết rồi ! Ông Tổng Giám Đốc nói là 90% người đến định cư , như vậy còn lại 10% là người Đông Âu và Tây Âu !
Nếu Đại danh ca Tatyana là người Ngoại quốc trong 10% đó , thì vấn đề là không có gì cả !
Nhưng nếu Cô ta là người Do Thái thì là chuyện khác !
Hoàng Đế lại tiếp lời :
- Ông Tổng Giám Đốc cũng đã biết :Bản chất của Người Do Thái là phản phúc lại Quốc gia đã bao dung cho họ định cư , Họ chưa bao giờ biết đến 2 tiếng trung thành với Quốc gia đã cho họ định cư !
Lịch sử của Đông Âu và Đức Quốc đã chứng minh điều này !
Thế thì dù :Đại danh ca Tatyana có là trường hợp ngoại lệ đi chăng nữa cũng phải bị nghiêm trị ! để tránh tiền lệ xấu sau này !
**( chú thích : khi Quốc trưỡng Hitler nhận chức 1933 . Tại Đức hơn 2 triệu đảng viên CS cuồng tín trên 90% là người gốc Do Thái ! Đây là lý do Đức Quốc đã diệt chủng người Do Thái ! Báo chí Thế giới tự do , và ngày hôm nay tại Mỹ chỉ biết lên án Phát xít Đức- Đông Âu vi phạm tội ác diệt chủng Do Thái mà không dám nói lý do , trong lúc ngày nay Quốc gia Do Thái thi hành chính sách diệt chủng người Palestine một cách tinh vi và tàn ác . Chỉ Có báo chí Nga , và Pháp là tố cáo còn Mỹ thì cho rằng đây là chuyện nội bộ của Quốc gia Do Thái im lặng !, luận điệu này giống như luận điệu của bà Tôn Nữ Thị Ninh phó chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN cho rằng : trong gia đình Con cái hư thì cha mẹ có quyền nghiêm trị ! Chẳng qua Tài Phiệt Mỹ gốc Do Thái đã chun sâu trèo cao trong Đảng Dân chủ là đảng mệnh danh phất cao lá cờ Dân chủ Dân quyền ! ( Triều đại TT Truman , Kennedy , Clinton là chứng minh ủng hộ Do Thái vô điều kiện làm ngơ trước sự chính sách diệt chủng người Palestine . Trước đây trên Take2tango tôi đã post ; tài liệu : Lính Do Thái : Tàn sát phụ nữ, trẻ em, người già , đốt nhà dân Palestine : Báo chí Pháp , Anh, Nga tố cáo , trong lúc báo chí Mỹ lại im lặng đây là sự thiếu lương thiện ! Một trong những lý do TT Obama thắng cử oanh liệt là Ông chống Do Thái được sự ủng hộ của Dân Mỹ , dù TT Obama là Dân Chủ, là Da Màu , Kinh nghiệm Chính trị chỉ là tài tử , nghiệp dư !)
Một điều trước khi viết tiếp tôi cũng nói sự thật : TT Obama trên 90% là thắng cử nhiệm kỳ 2 ; 2012-2016 là do ông đi theo đường lối ngoại giao của Nữ Tiến sĩ Condoleezza Rice cựu Cố vấn An ninh Quốc gia , Cựu Ngoại trưởng (2001-2009) về vấn đề Trung Đông mà dưới thời TT thứ 43 George W .Bush không thể áp dụng được vì đang có chiến tranh .
Và theo dự đoán năm 2016 Mỹ Quốc sẽ xuất hiện một vị TT Vĩ đại đầu tiên trong thế kỷ 21 ( Cộng Hoà ) có lẽ là dòng Họ Bush sẽ mở ra một Đế chế Bush trong lịch sử của Mỹ Quốc ! ( 3 Thế hệ làm TT )
Vì vậy TT Obama không những được sự ủng hộ Nữ Tiến sĩ Condoleezza Rice , Đại tướng Colin Powell ,
mà cả Julie Nixon ( Ái nữ TT thứ 37 Richard Nixon ) và phu Quân David Eisenhower cháu nội Hoàng đế không ngai : TT thứ 34 Dwight Eisenhower là Thủ lãnh của phái Trung hữu Cộng Hoà , mà ngay cả TT thứ 41 George Bush ( Bush Cha) đều ủng hộ ! ( TT thứ 43 George W .Bush cũng ủng hộ nhưng không ra mặt ) vì đây là Quyền lợi tối thượng của Mỹ Quốc về Trung Đông ! Phải giải quyết vấn đề Trung Đông một cách hữu hiệu !Mà Quốc Gia Do Thái là hiểm hoạ của hoà bình Trung Đông !
Đường lối Ngoại giao Nữ Tiến sĩ Condoleezza Rice , Đại tướng Colin Powell :
Mục đích tối thượng của lưc lượng Khủng Bố Hồi giáo :
- Giải phóng Palestine khỏi sự thống trị diệt chủng của Bọn Do Thái.
- Mỹ Quốc bao che và đỡ đầu bọn Do Thái, nên tấn công Mỹ Quốc trước ! ( TT thứ 42 Bill Clinton là người bao che , làm ngơ trước các tội ác của Quốc gia Do Thái với Dân tộc Palestine ,Thượng nghị sĩ DC Hillary và John McCain (CH) cũng vậy luôn ! ) .
Vì vậy Chính phủ Mỹ phải Có đường lối ngoại giao với Do Thái rõ ràng chứ không thể như dưới thời TT thứ 35 Kennedy và thứ 42 Bill Clinton !
*TNS (DC) Hillary và TNS (CH)John McCain không đủ tư cách để bước lên vũ đài chính trị làm TT Mỹ Quốc ! Đây là Lý Do mà TT thứ 44 Barack Obama thắng cử oanh liệt !
Trở lại Điệp vụ :
Tổng Giám đốc Mật Vụ :
- Khài tấu Bệ Hạ : Nếu trong trường hợp Đại Danh Ca Tatyana là người Do Thái , ! Bệ hạ sẽ xử trí như thế nào ?
Hoàng Đế thở dài :
-Chiếu theo Luật : người Do Thái là tội Chết ! chưa nói đến tội Khi quân cũng tội Chết ! (2 tội Chết !)
Nhưng Đại danh Ca Tatyana là trường hợp ngoại lệ : là người có lòng yêu mến Tổ Quốc Lỗ Ma Ni ,đã đem vinh quang về cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni , cũng là Hôn Thê của Tướng Quân Anh Hùng Henri !
Nên sau khi chết sẽ được phong Anh Hùng-Liệt Nữ !
Nếu quả thật Đại danh Ca Tatyana là người Do Thái -Trẫm sẽ ban Thánh chỉ tội Chết cho Cô ta !
Ông Tổng Giám Đốc sẽ bí mật mời Cô ta đến nơi làm việc ,Tuyên đọc Thánh chỉ và đưa cho Cô ta một Liều thuốc độc ! sau đó sẽ dàn xếp như một vụ tai nạn xe cộ !
Toàn Quốc sẽ để Quốc tang cho : Anh hùng -Liệt nữ - Hôn thê của Anh hùng Tướng Quân Henri,-Người đã đem vinh quang về cho Tổ Quốc Lỗ Ma Ni Huy Chương Vàng Đế Chế III: Đại Danh Ca Tatyana !
IV : HENRI TƯỚNG QUÂN : TƯ LỆNH BIỆT KHU KINH ĐÔ BUCHAREST THỈNH CẦU HOÀNG ĐẾ MICHAEL ĐỆ NHỊ : BAN THÁNH CHỈ TỪ HÔN .
Trước khi viết tiếp tôi cũng nói rõ tại sao tôi dùng từ Tướng Quân General
Vì nếu dịch là Tướng : Vô duyên hết sức ?
Thí dụ : Trung sĩ Cận vệ cũa Henri nói chuyện với Henri : " Thưa Tướng ! " RẤT KỲ CỤC phải dùng :Thưa Tướng Quân !
Không lẽ : Thưa Ông Tướng càng bất lịch sự ! ( Ông Tướng là ngôi thứ ba , Thí dụ 2 người bạn nói chuyện với nhau về một Tướng Lãnh họ dùng ngôi thứ 3 là Ông Tướng là OK")
Thí dụ : Tatyana trong đoạn trước Thưa Hoàng Đế về vụ thành hôn :
" Tướng quân còn bận việc quân trăm bề " nghe êm tai bây giờ " Tướng (General) còn bận việc quân trăm bề " không ra con mẹ gì cả ! thế mà có người dám cho tôi là dùng từ Cộng sản thì tôi không biết phải nói là làm sao ?
Đặc biệt trên diễn đàn này , có một người : bất kỳ bài viết nào của tôi về Chiến sử cũng chụp cho tôi cái nón là CS là Ahem, từ bài Mai Lĩnh Chiến : Quảng trị vinh danh QLVNCH , ĐẾN BÀI NÀY , MÀ BAN BIÊN TẬP PHẢI XOÁ ĐI :
anhem viết nguyên văn bài này "Thằng này Bố láo , nó rành Quân Hàm VC hơn Quân Hàm QLVNCH ? )TÔI CŨNG LẮC ĐẦU LUÔN! TRONG LÚC AHEM ĐỌC TÔI HÀNG CHỤC BẢI VỀ CHIẾN SỬ VNCH , MÀ BẤT LƯƠNG NHẬN XÉT NHƯ VẬY ! TÔI LÊN ÁN TT KENNEDY CŨNG MẠT SÁT TÔI LUÔN !)
TÔI CHỈ YÊU CẦU : NẾU AHEM MUỐN TRANH LUẬN VỚI TÔI LÀM ƠN MỞ MỘT MỤC KHÁC ĐI !
ĐỪNG BẤT KỲ BÀI VIẾT NÀO CUẢ TÔI , CŨNG PHÁ THỐI ! BAN BIÊN TẬP PHẢI XOÁ ĐI ! TÔI ĐỦ SỨC BẺ CỔ : BÚT CHIẾN TÔI ĐẬP TOE NHƯ CÁI MỀN RÁCH ! NGOÀI ĐỜI TÔI TÔI ĐŨ SỨC :ĐÁNH MÁ NHẬN KHÔNG RA ! LUẬT PHÁP CHỤP MŨ TÔI CS TÔI CHƠI : CHO CHẾT LUÔN !
Tôi cũng thĩnh cầu ban biên Tập Viet Land, nếu Ahem cứ tiếp tục lên diễn dàn dùng từ mất dạy , làm ơn xoá bỏ giùm tôi, còn Ahem muốn tranh luận với tôi làm ơn mở ra một đề mục khác đi không thể phá thối kiểu này được . Tôi đọc lại những bài Chiến Sử của tôi : bất kỳ bài nào Ahem cũng mạt sát tôi! trong lúc kiến thức thì lại không có ! lại xưng là người Quốc gia ? Chụp mũ cho tôi cái nón cối là CS bằng câu trong bài : Mai Lĩnh Chiến -Cao Nguyên Dậy Lửa " ĐỪNG LẤY VẢI THƯA CHE MẮT THÁNH " QUÁ NGU DỐT ! TÔI KHÔNG MUỐN BẬN TÂM VỚI LOẠI NGƯỜI NÀY !
***Và Tôi cũng nói thật một điều nếu năm xưa :Quốc trưỡng Vĩ Đại Hitler, các Hoàng Đế Đông Âu ,và Lãnh tụ máu lạnh Stalin không huỷ diệt dân Do Thái : thì ngày hôm nay : CS Do Thái đã thống trị toàn thế giới !
Đảng Dân chủ Mỹ còn ngồi đó mà to mồm dạy dỗ Thế giới Tự Do : Phát xít vi phạm tội ác chống nhân loại không ? NÓI RA MÀ KHÔNG BIẾT NHỤC ! Đảng Dân chủ tự hào là Đảng của dân nghèo, phất cao là cờ Dân chủ -Dân quyền -mà trong lúc Quốc gia Do Thái diệt chủng Palesstine thì lại cho chuyện nội bộ Quốc Gia ! đúng là bọn đạo đức giả ! Đồng tiền đâm toạc tờ giấy , mà không phải chỉ Dân chủ ngay TNS Cộng hoà John Mc Cain cũng vậy luôn ! CŨNG PHỤC TÙNG TÀI PHIỆT MỸ GỐC DO THÁI !( đây là lý dó quan trọng TNS Cộng hoà John Mc Cain thất cử bên cạnh đó là tù binh chiến tranh ?Lịch sử Mỹ quốc không chấp nhận Tù binh lên làm TT , tù binh không ít thì nhiều cũng hợp tác với kẻ địch ! nếu làm TT kẻ địch công bố sự thật thì sẽ mất danh dự Mỹ Quốc !)
***TT THỨ 44 BARACK OBAMA LÀ TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ CUẢ ĐẢNG DÂN CHỦ : ÔNG LÀ NGƯỜI THỜI ĐIỂM LỊCH SỬ MỸ QUỐC CẦN, ĐỂ DỌN ĐƯỜNG CHO MỘT VỊ TT VĨ ĐẠI- ANH MINH CỘNG HOÀ
XUẤT HIỆN TRÊN VŨ ĐÀI CHÍNH TRỊ MỸ QUỐC 2016 . NẾU NGOẠI TRƯỞNG HILLARY RA ỨNG CỬ TT NĂM 2016 SẼ THẤT BẠI CHUA CAY -NHỤC NHÃ !
Trở lại Điệp Vụ :
Hoàng Đế đã bàn Thảo với Tổng Giám đốc Mật Vụ Tình báo , đến gần 11 giờ. Tướng quân : Tư lệnh Ngự Lâm Quân bước vào Bệ rồng :
_Muôn tâu Bệ Hạ : Tướng Quân Henri thỉnh cầu gặp Bệ Hạ .
Hoàng Đế : khoát tay cho Tổng Giám Đốc Mật Vụ Tình báo lui ra cửa sau Hậu điện .
Và Truyền lệnh Tướng Quân Henri vào !..
Henri Tướng Quân bước vào
Hoàng Đế đứng dậy niềm nở :
-Trẫm rất vui khi được gặp riêng Tướng Quân ,là một Anh hùng ,,là Dũng tướng trụ cột Của Quốc Gia , còn đến 30 phút nữa các Tướng Lãnh mới vào !
Trẫm có thể giúp gì Tướng quân !
Henri :
Thưa Bệ Hạ , Thần đến đây là để xin thỉnh cầu Bệ Hạ 2 việc :
1. Bệ Hạ cũng biết bản tính của Thần là thích xông pha trận mạc, dù được Bệ Hạ tin tưởng Bổ nhậm Chức Vụ : Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô, là một chức vụ rất quan trọng. Nhưng Thần lại không thích hợp với Chức vụ này . Thần chỉ thích hợp , và yêu thích là Tướng lãnh trên Chiến Địa !
Thưa Bệ Hạ , hiện tại Chiến trường Moldavia đang sôi động . Tướng quân Steve Tư lệnh Quân đoàn 3, đã Tư lệnh Chiến trường 2 năm , đã cao tuổi . Tướng quân cũng cần gần Gia đình tại Kinh Đô, và có Chức vụ tương đối nhẹ nhàng để nghỉ ngơi . Vì vậy Thần kính xin Bệ Hạ : cho Thần và Tướng Quân Steve (Thiếu tướng 2 Sao ) được hoán chuyển chức vụ cho nhau !
Tướng Quân Steve sẽ là Tư lệnh Biệt Khu Kinh Đô , còn Thần sẽ giữ chức vụ : Tư lệnh Quân Đoàn 3 - Quân Lực Hoàng Gia Lỗ Ma Ni tại Chiến trường Moldavia..
Thần xin hứa với Bệ Hạ : Thần sẽ cố gắng làm hết sức mình , để đem Vinh Quang về cho Tổ Quốc .
Quân Nga muốn chiếm được Moldavia phải bước qua xác chết của Thần !
Hoàng Đế :
-Tướng Quân quả thật là một Anh hùng , Một Dũng Tướng . Vương Quốc Lỗ Ma Ni đã may mắn có Vị Anh hùng Tướng Quân ! Lời Thỉnh cầu của Tướng Quân , Trẫm sẽ chấp nhận . Trẫm sẽ ký Sắc lệnh Bổ nhậm Tướng Quân : Tư lệnh Quân Đoàn 3 tại Chiến Địa Moldavia .
Henri :
-Thần xin đội ơn Bệ Hạ . Nay việc thứ 2 . Thần xin Bệ Hạ một Đặc Ân Cuối cùng :
-*Kính thưa Bệ Hạ , Thần là một Tướng Lãnh Thời Chiến Tranh : Lấy Chiến Trận là nơi báo đáp cho Tổ Quốc , Binh sĩ thuộc cấp là Niềm Vui , Quân Đội là lẽ sống ! .. Lý tưởng : là Tất cả cho Tổ Quốc Yêu Dấu ! Thần chỉ biết dốc Toàn tâm , Toàn lực cho Chiến trường, lo lắng cho Anh em thuộc cấp với Tình : Huynh Đệ Chi Binh.
Vì thế : Thần không muốn vướng bận Thê Nhi -Vợ Con.
Thưa Bệ Hạ 2 năm về trước : Trước khi ra Chiến Địa Moldavia, Thần đã làm Lễ hứa hôn với Tatyana !
Suốt những những năm tháng trên Chiến Địa Moldavia, và sau này trên tại Mặt trận phía Đông : Lãnh thỗ bao la của nước Nga, Thần đã đem hết khả năng để cống hiến cho Tổ Quốc .
Và ngày hôm nay Thần lại sắp sữa phải ra Chiến Địa đây là Trách nhiệm , Vinh quang ,cũng là niềm vui và lẽ sống cho Thần.
Thưa Bệ Hạ :Nếu như vậy Thần không thể đem đến Hạnh phúc và An Bình cho Tatyana được !Thần quan niệm : Tình yêu là một sự Hy sinh . Trên Chiến Địa mai đây giữa hòn tên mũi đạn : Nếu có Báo đáp Hồng Ân cho Tổ Quốc là một niềm vinh dự cho Thần . .. Nhưng Còn Tatyana !, Nàng còn quá trẻ . Thần không muốn nàng phải kéo dài những năm tháng mõi mòn của thời con gái , lại sống trong sự phập phồng không yên vì Hôn phu nơi Chiến Địa : Lửa Đạn Đầy Trời.
Nếu Thần có Báo Đáp Hồng Ân Cho Tổ Quốc , thì Nàng sẽ trở thành Goá phụ khi tóc còn Xanh ! Trong lúc Nàng chưa phải là Vợ của Thần !
Thưa Hoàng Đế : Vì vậy Hôm nay Thần kính xin Hoàng Đế một Đặc Ân cuối cùng :
Xin Hoàng Đế Mở Rộng Tấm Lòng : Ban Thánh Chỉ Từ Hôn cho Thần và Tatyana !
Có như vậy :Thần mới yên tâm Dốc Hết Toàn tâm và Toàn lực cho Chiến trường .
Hoàng Đế thở dài :
- Tướng Quân : Trong Lòng Trẫm rất Cảm Kích Tấm Lòng của Tướng Quân . ..Tướng Quân là một Vị Tướng Lãnh, mà Trẫm rất Kính Trọng, và Tự Hào. Còn Đại Danh Ca Tatyana cũng là Một Người Con Gái Vẹn Toàn, Có Tấm Lòng Thiết Tha với Tổ Quốc Lỗ Ma Ni, Đồng Thời Đã Đem Vinh Quang Về Cho Dân Tộc ..
Tướng Quân và Đại Danh Ca Tatyana thật ra là : Đôi Uyên Ương Anh Hùng -Mỹ Nhân Xứng Đôi Vừa Lứa .... Nhưng Vì : Tình Yêu Tổ Quốc Vĩ Đại và Chiến Tranh đã làm cho Đôi Uyên Ương Anh Hùng -Mỹ Nhân - Tướng Quân và Đại Danh Ca Tatyana không đến với nhau được ! Trẫm cũng rất đau lòng ..
Trẫm đã yêu thương Hoàng Hậu khi Nàng vừa mới độ tuổi trăng tròn (15, 16) . Cho đến ngày hôm nay Trẫm và Hoàng Hậu cũng đang sống trong yêu thương và Hạnh Phúc . Trong lúc đó: Tướng Quân và Đại Danh Ca Tatyana lại phải Chia Loan Rẽ Thuý ....
Nhưng Tướng Quân cũng phải hiểu cho Trẫm : Trẫm là Hoàng Đế phải lấy Tổ Quốc Vĩ Đại làm trọng !
Phải lấy Giang Sơn Gấm Vóc mà các Tiên Đế :đã đổ xuống không biết là bao nhiêu Mồ Hôi và Xương Máu để Giữ nước và Kiến Quốc .
Chiến tranh đã kéo dài qua năm thứ ba , bao nhiêu người Chiến Binh con yêu của Tổ Quốc đã mãi mãi nằm lại trên Chiến Địa, Bao nhiêu người con gái đã trở thành Goá phụ, khi tuổi đời còn quá trẻ , Bao nhiêu đứa trẻ đã mồ côi cha , và không biết bao nhiêu các Chiến binh đã bỏ lại một phần thân thể trên Chiến Địa ,đã trở thành những người tàn phế , Trẫm cũng rất đau lòng ..
Những Cường Quốc tự hào là Thế giới Tự Do Mỹ và Anh , cũng đang đứng về phía Kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc : Đế Quốc Nga , đã dội xuống không biết bao nhiêu là tấn bom trên mãnh đất Quê hương Yêu Dấu ..
Nhưng Mĩa mai và Cay đắng nhất : Những Cường Quốc tự hào là Thế giới Tự Do Mỹ -Anh đang kết án chúng ta : Vi phạm Tội Ác chống lại Nhân loại trong vấn đề tàn sát người Do Thái !
Thế thì Đế Quốc Nga cũng đã huỷ diệt người Do Thái từ năm 1924 đến nay ! Sao họ không lên án, mà là Đồng Minh thắm thiết với Đế Quốc Nga ? Đúng là bọn Đạo Đức Giả ! .
Trẫm cầu mong Đức Chúa Cao Cả : một ngày nào đó , Bọn Do Thái nắm quyền Thống trị Mỹ và Anh !, để cho Họ sáng mắt ra !
Vì Vậy nếu bây giờ Giả sử để Trẫm quyết định lại : Chiến Tranh hay Hoà Bình ? Vi phạm Tội Ác chống lại Nhân Loại trong vấn đề huỷ diệt bọn Do Thái hay không ?
Trẫm vẫn chọn Chiến Tranh và Huỷ Diệt bọn Do Thái !
**Hoàng Đế lại thở dài , nhưng Ánh mắt cương quyết :
-Nay trở lại Vấn Đề Của Tướng Quân :
-TRẪM RẤT LẤY LÀM TIẾC LÀ XIN LỖI TƯỚNG QUÂN : TRẪM KHÔNG THỂ BAN THÁNH CHỈ TỪ HÔN CHO TƯỚNG QUÂN VÀ ĐẠI DANH CA TATYANA ĐƯỢC !
TƯỚNG QUÂN NÊN THÔNG CẢM CHO TRẪM : ĐÂY LÀ VÌ TÌNH YÊU VỚI TỔ QUỐC VĨ ĐẠI , VÀ DANH DỰ CUẢ VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI YÊU DẤU !
TRẪM HỨA : TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG TƯỚNG QUÂN NƠI CHIẾN ĐỊA- TRẪM SẼ ĐỐI XỬ VỚI ĐẠI DANH CA TATYANA NHƯ LÀ MỘT NỮ ANH HÙNG CUẢ DÂN TỘC LỖ MA NI !
HOÀNG ĐẾ MICHAEL ĐỆ NHỊ HÌNH CHỤP NĂM 2007 TẠI THỦ ĐÔ BUCHAREST
HIỆN NAY CÒN SỐNG 90 TUỔI VẪN ĐƯỢC NGƯỜI DÂN LỖ MA NI KÍNH TRỌNG VÀ YÊU MẾN .
VÀO DỊP TẾT DƯƠNG LỊCH - TỔNG THỐNG -THỦ TƯỚNG CỘNG HOÀ QUỐC GIA LỖ MA NI PHẢI ĐẾN VẤN AN HOÀNG ĐẾ !
HOÀNG ĐẾ MICHAEL ĐỆ NHỊ VÀ HOÀNG HẬU 1942
Diana Mandache, Queen Anne of Romania, King Michael of Romania 1942
"Vì Vậy nếu bây giờ Giả sử để Trẫm quyết định lại : Chiến Tranh hay Hoà Bình ? Vi Phạm Tội Ác chống lại Nhân Loại trong vấn đề Huỷ Diệt bọn Do Thái hay không ?
Trẫm vẫn chọn Chiến Tranh và Huỷ Diệt bọn Do Thái ! "
"Trẫm cầu mong Đức Chúa Cao Cả : Một ngày nào đó ,Bọn Do Thái nắm quyền Thống trị Mỹ và Anh !, để cho Họ sáng mắt ra ! "
* Ngày hôm nay những kẽ nào Lãnh đạo Thế giới Tự Do Lý Luận : Vấn đề Do Thái và Palestine là vấn đề nội bộ Quốc gia ! Thế thì Các Hoàng Đế Đông Âu, và Quốc trưởng Adolf Hitler huỷ diệt dân Do Thái cũng là vấn đề nội bộ Quốc Gia của Họ ! "
Những kẻ này không có tư cách để lên tiếng dạy đời :" Phát xít Vi Phạm Tội Ác Chống lại Nhân Loại trong Vấn Đề Huỷ Diệt Dân Do Thái " kể cả Ngoại trưởng Hillary cũng vậy luôn !
Nguyễn Hùng Kiệt.
Trước khi viết tiếp bây giờ tôi đặt Giả sử :
Một buổi sáng nào đó : Hà Nội ra lệnh tàn sát những người Thượng tại Cao Nguyên Trung phần . Ngoại trưởng Hillary bay đến Hà Nội lên án !
Hà Nội trả lời : Thưa Bà Ngoại Trưởng Mỹ Quốc đây là Vấn đề Nội Bộ Quốc Gia của Tôi !
Bà Ngoại Trưởng từng nói : Do Thái -Palestine là vấn đề Nội bộ Quốc gia của Họ mà ! Không những thế khi Bà Ngoại trưởng ra ứng cử TT năm 2008: Người láng giềng Iran họ lên tiếng cho Dân Palestine, thì Bà lại doạ dùng Bom Nguyên tử để huỷ diệt cả Quốc gia Iran nữa kìa ! "
Nữ Ngoại trưởng Hillary chỉ có nuớc Đội quần để đi ra khỏi Hà Nội thôi !
Vì thế Ngoại trưởng Hillary chỉ làm một nhiệm kỳ thôi ! Năm đến 2012 là năm cuối cùng, kết thúc cuộc đời chính trị luôn ! Nếu ra ứng cử TT năm 2016 cũng thất bại nhục nhã thôi !
Làm Nữ Ngoại trưởng không xong, Thì làm sao : Làm Nữ Tống thống đầu tiên của Mỹ Quốc được !
Tôi sẽ là người chống đầu tiên trên Diễn đàn Viet land này nếu cựu Nữ Ngoại trưởng Hillary ra ứng cử TT năm 2016 !
* Thực tế trong nhiệm kỳ này : Vấn Đề Ngoại Giao Trung Đông . TT Barack Obama phải cử một Đặc phái viên của TT đặc trách riêng về vấn đề Trung Đông ( quyền hành như Ngoại trưởng ! ).
Vì các nước Hồi Giáo Trung Đông xem Ngoại trưởng Hillary là Kẻ thù , và là Đồng minh của Đế Quốc Do Thái qua câu tuyên bố 2008 khi ra ứng cử TT.
* Đặc phái viên của TT Obama là người trước đây dưới quyền : Nữ Ngoại trưởng Condoleezza Rice ( CH).
Nên thực tế : Nữ Ngoại trưởng Hillary không có toàn quyền như các Ngoại trưởng trước đây !
Chính sách ngoại giao của Mỹ hiện nay là Chính sách ngoại giao của Nữ Tiến Sĩ : Condoleezza Rice " Rice 's Dream " Giấc mơ của Rice !
Nữ Ngoại trưởng Hillary là người phải thi hành Rice 's Dream " Giấc mơ của Rice" !
GIẤC MƠ CUẢ RICE : CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CUẢ MỸ QUỐC HIỆN NAY
TT THỨ 44 MỸ QUỐC :BARACK OBAMA
NỮ TIẾN SĨ LUẬT - THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG AN NINH QUỐC GIA MỸ QUỐC ĐẶC TRÁCH LIÊN BANG SÔ VIẾT 1981-1989 TRIỀU ĐẠI TỔNG THỐNG VĨ ĐẠI ANH MINH THỨ 40 : RONALD REAGAN - CỐ VẤN HỘI ĐỒNG AN NINH QUỐC GIA MỸ QUỐC 2001-2005 -NỮ NGOẠI TRƯỞNG MỸ QUỐC 2005-2009 -TRIỀU ĐẠI TỔNG THỐNG THỨ 43 GEORGE W. BUSH
ĐẠI TƯỚNG COLIN POWELL ( 1937--- ) CỐ VẤN AN NINH QUỐC GIA TRIỀU ĐẠI TỔNG THỐNG VĨ ĐẠI ANH MINH THỨ 40 : RONALD REAGAN (Ronal Reagan's National Security Advisor 1986-1989 ) TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC MỸ QUỐC 1989 -1993 -TRIỀU ĐẠI TỔNG THỐNG THỨ 41 GEORGE H. BUSH -----NGOẠI TRƯỞNG MỸ QUỐC 2001-2005-TRIỀU ĐẠI TỔNG THỐNG THỨ 43 GEORGE W. BUSH .
ĐẠI TƯỚNG COLIN POWELL ĐÃ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN KẾ HOẠCH GIẤC MƠ CUẢ RICE
* CÓ THỂ NÓI GIAI ĐOẠN LICH SỬ : 20.1. 2009- 20.1.2017 : LÀ ĐẾ CHẾ TRIỀU ĐẠI CUẢ DA MÀU TRONG LỊCH SỬ MỸ QUỐC
1- Cộng hoà Liên Bang Nga :
Cải thiện quan hệ ngoại giao với Nga tiến đến Liên minh sau này để đối phó Trung Cộng, phải làm tan biến những tàn dư còn lại của chiến tranh lạnh 1948-1989. Trung Cộng đang dùng hàng hoá rẻ khống chế vùng Viễn đông của Nga. Vùng này rộng 2 triệu Km2. Sa Hoàng Pyotr Đại Đế đã chiếm vùng Bắc Mãn Châu thế kỷ 18 là : vựa lúa Mỳ, dầu khí, Thảo nguyên cho chăn nuôi. Trung Cộng đang thèm khát lấy lại. Đây là Lý do Nga-Trung cộng xích mích hàng chục năm nay.
2- Do Thái-Palestine:
Từ bao lâu nay Do Thái ỷ lại vào viện trợ hào phóng không có điều kiện của Mỹ, dưới cây dù Mỹ Quốc bắt nạt , tàn sát người anh em song sinh Palestine (nguồn gốc theo kinh cựu uớc là anh em song sinh), Làm cả khối Ả Rập nổi giận là nguyên nhân lò lửa chiến tranh Trung Đông, nguyên nhân tạo ra khủng bố ! Thực tế tham vọng Iran chế tạo Võ khí Nguyên tử là do Quân Lực - Do Thái Isarel : Thiện chiến, Hiếu chiến,lại đang sở hữu Kho Vũ Khí khổng lồ Nguyên tữ và Hoá học là do chính phủ TT thứ 42 Bill Clinton đỡ đầu và bao che ! Thực tế Mỹ không thể ngăn cản Iran, chừng nào Do Thái Isarel còn diệt chủng tàn sát người dân Palestine. !
3. Châu Á :
A.Mỹ Quốc mở rộng các Liên minh chiến lược tại Á Châu để đối phó Đế quốc Trung Hoa Đỏ trong tương lai . Bằng mọi giá : ngăn chặn Trung cộng và Nhật Bản Liên minh ! Khả năng này hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai !
B . Ủng hộ Ấn Độ và Đức Quốc trở thành Hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. ( hiện tại 5 thành viên :Mỹ , Nga , Trung Cộng, Anh , Pháp trong tương lai là thành 7 thành viên !)
* 18.11.2010 Trước toàn thể Quốc hội Ấn Độ, Tổng thống Obama tuyên bố ủng hộ Ấn Độ trở thành trở thành Hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc !
Cũng trong chuyến công du Nhật Bản .TT Obama cúi đầu trước Nhật Hoàng là có lý do : Tiên Lễ Hậu Binh ! ( Thời Điểm này Bắc Kinh đang thương thảo với Tokyo để tiến đến một Liên minh Kênh tế, nếu thành công sẽ tiến tới Liên minh Quân sự )
*Thông cáo chung của hội nghị thượng đỉnh Mỹ Quốc – Ấn Độ 10.2010 : Hai nhà lãnh đạo Tổng thống Mỹ Quốc Barack Obama vàThủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh cam kết sẽ làm việc chung để tăng cường cơ cấu kiểm soát xuất cảng toàn cầu, đồng thời nới rộng mức hạn chế trao đổi kỹ thuật cao giữa hai nước, cũng như những chính sách để thực hiện toàn bộ tiềm năng của mối đối tác chiến lược song phương. Hai nước quyết định sẽ cùng bắt tay thực hiện những giai đoạn tuần tự để mở rộng công cuộc hợp tác khoa học Không gian, Dân sự, Quốc phòng, và các lĩnh vực kỹ thuật cao. Công cuộc hợp tác này nhắm đến và không giới hạn trong các mục đích thực hiện những chuyến lên mặt trăng tương lai, những trạm không gian, những chuyến thám hiểm của con người, chia sẻ các dữ kiện thông tin và kỹ thuật, cùng nhiều hoạt động về khoa học không gian từ đầu năm 2011.
" Tổng thống Mỹ Quốc Obama nhấn mạnh, quan hệ giữa hai nước Mỹ Quốc – Ấn Độ là một trong những quan hệ đối tác lớn nhất của thế kỷ 21 và ông kêu gọi chia sẻ trách nhiệm giữa hai nền dân chủ lớn nhất thế giới. Tổng thống Mỹ đã đọc diễn văn tại nghị viện Ấn Độ và một trong những chủ đề mà New Delhi rất mong đợi, đó là được Washington ủng hộ để Ấn Độ có thể trở thành thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
«Ấn Độ không chỉ là một nước đang trỗi dậy và hiện nay, là một cường quốc thế giới». TT thứ 44 Barack Obama
C. Nhật Bản và Trung Cộng rất có thể trở thành một Liên Minh trong tương lai ?
1. Cả 2 Quốc gia này đều căm ghét Nga.
(Nhật Bản đang tranh chấp với Nga về Quần đảo phía Bắc , mà Lãnh tụ máu lạnh Stalin đã chiếm lại 1945 , được sự đồng ý TT Anh Minh thứ 32 USA Roosevelt trong hội nghị Yata 1945.
Bắc Kinh ủng hộ vô điều kiện Tokyo trong vấn đề này .( Mỹ làm lơ !)
Bắc Kinh căm hận Nga đã chiếm vùng Viễn Đông rộng 2 triệu Km2 Thế kỷ 18 ( hơn 8 lần Diện tích Việt Nam )
2. Thị trường rộng lớn Trung Hoa là vùng đất hấp dẫn của Tài phiệt Nhật Bản , ngược lại Bắc Kinh cũng cần Khoa học kỹ thuật tiên tiến của Nhật Bản !)
** TRÍCH :
Phóng viên CNN Ký giả :Wolf Blitzer phỏng vấn cựu TT thứ 42 Bill Clinton về vấn đề Iran chế tạo bom nguyên tử ? 1.2011
Cựu TT thứ 42 trả lời ngược lại hoàn toàn quan điểm khi Ông làm TT (1993-2001 ) :Câu trả lời Hoàn toàn phù hợp với Giấc mơ Rice , mà Phu nhân đang làm Ngoại trưởng thực thi , đều này cho thấy TT thứ 42 Bill Clinton đã nhận ra sai lầm của mình :
Ký giả :Wolf Blitzer: Có cách gì ngăn chận Iran chế tạo bom nguyên tử không?
Cựu TT thứ 42 Bill Clinton: Tôi không biết ! Đây là vấn đề nhức đầu cho thế giới Tây phương. Nếu biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc không kết quả, người ta có thể đánh phá cơ sở chế tạo vũ khí nguyên tử của Iran. Nhưng thành công hay không là một chuyện khác và cái giá phải trả sẽ không lường trước được. Trước hết chúng ta mất cảm tình của 70% ôn hòa. Nhân dân Iran sẽ trở thành một khối đoàn kết thù nghịch với chúng ta. Tuy nhiên nếu Iran có bom nguyên tử thì chúng ta cần làm cho họ hiểu rằng nếu họ xử dụng đế đánh ai (ám chỉ Do Thái) thì nước Iran sẽ không còn tồn tại trên trái đất này! ( Do Thái sẽ huỷ diệt Iran ! ). Vì vậy điều đáng lo không phải ở chỗ Iran dùng bom nguyên tử đánh ai mà ở chỗ Iran do sơ suất hay tham nhũng có thể làm thất thoát vũ khí hay nhiên liệu nguyên tử vào tay bọn khủng bố và bọn khủng bố dùng đánh chúng ta. Cho nên chính sách ngoại giao của chúng ta đối với một nước Iran có bom nguyên tử sẽ rất tế nhị. Phải giữ cảm tình của 70% khối dân ôn hòa. Càng nghĩ càng thấy khó.
( Điều này cho thấy Mỹ Quốc sẽ , hay đã chấp nhận cho Iran chế tạo bom nguyên tử !) Cựu TT thứ 42 đã trã lời rất ư là Dễ Thương ! và Đáng yêu ! Ngược lại hoàn toàn khi ông làm TT mạt sát Iran, phu nhân Hillary cũng vậy luôn !
|
|
|
Post by nguyendonganh on Sept 23, 2014 7:25:20 GMT 9
LOÀI HOA HỒI TƯỞNG KỶ NIỆM -POPPIES
" Kính thưa Bệ Hạ , Thần là một Tướng Lãnh Thời Chiến Tranh : Lấy Chiến Trận là nơi báo đáp cho Tổ Quốc , Binh sĩ thuộc cấp là Niềm Vui , Quân Đội là lẽ sống ! .. Lý tưởng : là Tất cả cho Tổ Quốc Yêu Dấu ! Thần chỉ biết dốc Toàn tâm , Toàn lực cho Chiến trường, lo lắng cho Anh em thuộc cấp với Tình : Huynh Đệ Chi Binh.
Vì thế : Thần không muốn vướng bận Thê Nhi -Vợ Con. ......
Và ngày hôm nay Thần lại sắp sữa phải ra Chiến Địa đây là Trách nhiệm , Vinh quang , cũng là niềm vui và lẽ sống cho Thần.
"Thưa Bệ Hạ :Nếu như vậy Thần không thể đem đến Hạnh phúc và An Bình cho Tatyana được !Thần quan niệm : Tình yêu là một sự Hy sinh . Trên Chiến Địa mai đây giữa Hòn Tên Mũi Đạn : Nếu có Báo đáp Hồng Ân cho Tổ Quốc là một niềm vinh dự cho Thần . .. Nhưng Còn Tatyana !, Nàng còn quá trẻ . Thần không muốn Nàng phải kéo dài những năm tháng mõi mòn của thời Con Gái , lại sống trong sự phập phồng không yên vì Hôn phu nơi Chiến Địa : Lửa Đạn Đầy Trời.
Nếu Thần có Báo Đáp Hồng Ân Cho Tổ Quốc , thì Nàng sẽ trở thành Goá phụ khi tóc còn Xanh ! Trong lúc Nàng chưa phải là Vợ của Thần !
Thưa Hoàng Đế : Vì vậy Hôm nay Thần kính xin Hoàng Đế một Đặc Ân cuối cùng :
Xin Hoàng Đế Mở Rộng Tấm Lòng : Ban Thánh Chỉ Từ Hôn cho Thần và Tatyana !
Có như vậy :Thần mới yên tâm Dốc Hết Toàn tâm và Toàn lực cho Chiến trường ."
"TRẪM RẤT LẤY LÀM TIẾC LÀ XIN LỖI TƯỚNG QUÂN : TRẪM KHÔNG THỂ BAN THÁNH CHỈ TỪ HÔN CHO TƯỚNG QUÂN VÀ ĐẠI DANH CA TATYANA ĐƯỢC !
TƯỚNG QUÂN NÊN THÔNG CẢM CHO TRẪM : ĐÂY LÀ VÌ TÌNH YÊU VỚI TỔ QUỐC VĨ ĐẠI , VÀ DANH DỰ CUẢ VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI YÊU DẤU !
***TRẪM HỨA : TRONG NHỮNG NGÀY THÁNG TƯỚNG QUÂN NƠI CHIẾN ĐỊA- TRẪM SẼ ĐỐI XỬ VỚI ĐẠI DANH CA TATYANA NHƯ LÀ MỘT NỮ ANH HÙNG CUẢ DÂN TỘC LỖ MA NI ! "
TATYANA VƯỢT BIÊN 45 NGÀY TRÊN BIỂN CẢ -THẾ GIỚI TỰ DO LÀM LƠ : ANH--PHÁP ---HY LẠP - --THỖ NHĨ KỲ ! * CHIẾN HẠM MỸ : CUNG CẤP LƯƠNG THỰC -NƯỚC NGỌT NHƯNG KHÔNG VỚT ! .
Đây là Bằng chứng Hùng hồn nói lên : Sự Đạo Đức Giả của những người Lãnh đạo Thế Giới Tự Do khi Kết án " Phát Xít vi phạm Tội ác chống lại Nhân loại trong vấn đề huỷ diệt Dân Do Thái ". Nhưng Thực tế Họ lại làm lơ ! CHO NGƯỜI DO THÁI BỊ HUỶ DIỆT LUÔN !
Đây là Định mệnh oan nghiệt của cuộc đời Tatyana ! Nếu Thế Giới Tự Do vớt ! Tatyana đã biết Boris lập Chiến khu tại Transnistria , Vì báo chí Thế giới Tự do đang ca ngợi Đại tướng Boris : Tổng Tư lệnh Lực lượng Kháng Chiến Đông Âu .
Cuối cùng Chiến Hạm Nga vớt !
TATYANA LÀ NGƯỜI TỔ CHỨC CHUYẾN VƯỢT BIÊN - MỤC ĐÍCH CUẢ TATYANA LÀ QUA NGA KIẾM BORIS !. NHƯNG TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI TRÊN CHUYẾN TÀU VƯỢT BIÊN KHÔNG ĐỒNG Ý ! HỌ MUỐN QUA ĐỊNH CƯ TẠI ANH HAY LÀ MỸ QUỐC , CANADA. --MỈA MAI THẾ GIỚI TỰ DO LẠI LÀM LƠ !. CUỐI CÙNG CHIẾN HẠM NGA VỚT- Ý MUỐN CUẢ TATYANA THÀNH SỰ THẬT ! .
Henri đã đi rồi ...
Tatyana vẫn đứng bất động , mắt đẫm lệ nhìn những Bông Hoa Hồi Tưởng Kỷ Niệm....
Nghìn trùng xa cách, Người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười
Mời Người lên Xe , về miền quá khứ
Mời Người đem theo ,trọn vẹn thương yêu
Nghìn trùng xa cách, Người cuối Chân Trời ...
___________________
Boris bước lại :
-Tatyana ! Trong trái tim của Chúng ta , Henri vẫn mãi mãi tồn tại !
Tatyana ôm chầm Boris khóc nức nở !
_ Trong trái tim của Em , dù Em có Yêu Bori nhiều hơn ,và Em cũng muốn làm vợ của Boris !. Nhưng Em cũng Yêu Henri ! Tính Henri Thật thà, Bộc trực , Dũng cảm , là một Dũng Tướng trên Chiến Địa . Henri cũng cần một người con gái để Yêu Thương ! Henri cũng đã Yêu Em 14 năm nay với tất cả Trái tim !....
*** Trước khi viết tiếp : thật ra khi tôi viết về Tatyana- Boris -Henri của Vương Quốc Lỗ Ma Ni - Romania
Lòng tôi cũng cảm thấy cảm động về Tình Bạn và Tình Yêu của Họ
Một người là Vị Tướng Anh Hùng của Phe Trục : Trung tướng Henri, một người là Tướng của Phe Đồng Minh được báo chí Thế giới Tự Do ca ngợi : Đại tướng Boris ,lại là Đôi Bạn thân thiết cùng Yêu một Người Con Gái Tài Sắc Vẹn Toàn , là một Bông Hoa Quí , nhưng Định Mệnh Bi Thảm :
Không những bị Phe Trục- Thế Giới Phát Xít ruồng bỏ , mà cả Thế Giới Tự Do , và Thế Giới Cộng Sản ( Nga) cũng ruồng bỏ , chỉ vì là nguồn gốc Do Thái ! Quá Bi Thảm !
Thế thì Tatyana đi Vượt Biên : 95% là sẽ mãi mãi nằm dưới lòng Đại Tây Dương ! và 5 % là sẽ bị Lưu đày - Lao động Khổ sai trên những Cánh Đồng Lúa Mỳ , Vùng Trung Á Xa Xôi của Liên Bang Sô Viết !
Trong lúc Tatyana là một Mỹ Nhân Tài Sắc Vẹn Toàn - Chân Thật -Dễ Yêu. ! Thật quá Bất Công ! Tôi cũng không hiểu Đức Chúa Trời , Đức Mẹ Thánh Thiện , Đức Chúa Jesus, hay Phật Tổ Từ Bi , Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát : Tại sao không ra tay cứu vớt cuộc đời của Tatyana ? ( Tôi là Phật Giáo )
Tôi Không biết phải làm sao : Đành Tặng Tatyana : Người Con Gái Quốc Gia Lỗ Ma Ni-Romania : Bài thơ của Dân Tộc Việt Nam :
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Than ôi! sắc nước hương trời, Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
Tặng Tatyana Bản Tình Ca : Hạnh Phúc Lang Thang
____________________________
"Tatyana ôm chầm Boris khóc nức nở !...
Boris đứng bất động ! Tatyana từ nay là ngưòi Vợ Yêu quí của mình ! Nhưng còn Henri :Người bạn thân duy nhất của cuộc đời của mình .... , ?
Boris vuốt mái tóc dài nhung huyền Tatyana :
- Tatyana ! Từ nay Boris hứa sẽ là người chồng tốt của Em !
Tatyana đứng nép vào lòng và ôm chặt Boris .... Mùi hương thơm từ mái tóc , hoà trộn lẫn với mùi thơm da thịt ngai ngái của người con gái Tatyana 28 tuổi , lần đầu tiên đến trong cuộc đời của người thanh niên 32 tuổi : Boris !.
Boris cúi xuống hôn lên đôi mắt xinh đẹp long lanh nước mắt , đầy hạnh phúc và đau khổ của Tatyana !
Bà Chủ quán bước ra thấy cảnh tượng này , Bà đứng sững sờ ...!
Bà thương yêu , kính trọng Tatyana ! Nhưng như vậy là Trái với Luân Thường Đạo Lý , Ngàn năm của Dân Tộc Vương Quốc Lỗ Ma Ni Yêu Dấu !
Bà khẽ đằng hắng ! ( ỪM !)
Boris và Tatyana vội rời nhau ! ....
(Bà Chủ quán thấy cảnh tượng này , nên sau năm 1945 Bà đã đến Dinh Chủ tịch Quốc Gia Lỗ Ma Ni , gặp Borsis :
- Nếu Ông Đại tướng -Chủ Tịch không cưới Tatyana làm Phu Nhân ! Tôi sẽ đi tuyên truyền khắp Kinh Đô : ' Ông là người Cộng Sản không có Trái tim !"
Người ta sẽ tin tôi thôi ! Từ xưa đến nay : Vương Quốc có Hoàng Đế, Quốc Gia thì có Tổng thống, bây giờ Tổ Quốc yêu dấu lại là Chủ tịch Nước , thế thì không gọi Ông là Cộng Sản thì gọi là Ông là cái gì đây ?
Nhưng nếu Ông Cuới Tatyana làm Vợ ! Ai mà mà dám nói Ông là Cộng Sản . Mụ già này sẽ bảo vệ đến cùng !
Ông Đại tướng -Chủ tịch à ! Cưới Tatyana đi mà ! Ông yêu Tatyana từ 1928 đến nay là 17 năm rồi còn gì ! 2 người yêu nhau thì cưới nhau làm Vợ Chồng đi ! Mới đúng là Đạo Lý ! Ông Đại tướng -Chủ tịch muốn Kiến Quốc thì phải Tề gia cưới Vợ trước ! Cuộc Đời : Đôi lúc cũng phải đạp lên dư luận mà sống ! Ông Đại tướng -Chủ tịch À ! )
Boris và Tatyana rời Quán nước Café Bình Minh...
Tatyana trong lòng vui buồn lẫn lộn , vừa Hạnh phúc , vừa Đau khổ. Boris đưa Tatyana đến Quán ăn ngoại Ô Kinh Đô , gần bờ Hồ nước trong xanh .
Thức ăn dọn ra , Boris chăm sóc Tatyana từng ly từng tí.. Săn sóc chìu chuộng Tatyana như một người Người Yêu ,một người Vợ mới cưới . Hy vọng Tatyana vơi đi nỗi buồn !.
Giữa bữa ăn Boris nhìn Tatyana với ánh mắt yêu thương :
-Tatyana ! Chiều nay Em thu xếp ít đồ theo Anh đi .... Chuyến Tàu lửa tối nay sẽ khởi hành lúc 7 :30 tối ! Tụi mình sẽ đón Mẹ sau một thời gian ngắn !
Tatyana giật mình ngạc nhiên :
-Boris ! Chiều nay mình đi rồi sao ?
Boris : - Tatyana ! Tụi mình không còn nhiều thời gian nữa đâu ! Sau bữa ăn , Anh sẽ về thưa chuyện với Mẹ ! Từ nay Anh sẽ đối xử và thương yêu Mẹ như là Mẹ ruột của Anh !.....
Boris và Tatyana trở về nhà đã hơn 2 giờ chiều.
Boris vào thưa chuyện với Mẹ Tatyana ! ........
Boris trình bày cho Mẹ Tatyana : Hoàng Đế đã nghi ngờ gốc gác của Tatyana , trước sau cũng tìm ra sự thật là người Do Thái !. Vì vậy Boris đã gặp Henri để bàn thảo ! Henri đã quyết định : Henri sẽ xin Thánh chỉ Từ Hôn, ngày hôm nay, để Tatyana sẽ ra đi với Boris .
Boris cũng xin phép Mẹ Tatyana : được cưới Tatyana làm Vợ. Tatyana sẽ đi với Boris tối hôm nay !
Sau một thời gian ngắn Boris sẽ đón Mẹ . Từ nay Mẹ sẽ như là Mẹ ruột của con !
*Mẹ Tatyana nhìn Boris :
-Con đã coi Mẹ như Mẹ ruột, Mẹ muốn con thành thật trả lời Mẹ : những điều sau đây mà Mẹ thắc mắc :
1. Con có phải là Đảng viên Cộng Sản cao cấp của Nga không ?
2. Con đang ở Nước Nga và là Nhân viên Cao Cấp của Chính Phủ Nga ! Vậy Con trở về đây có mục đích gì ?
3. Con đã biết Mẹ và Tatyana là gốc Do Thái ! Con cũng hiểu qua định cư tại nước Nga là con đường Chết ! Không những vậy mà Sự nghiệp và Danh vọng của con cũng tiêu luôn !
Vậy con muốn Gia đình mình định cư tại đâu ? Con có dám từ bỏ tất cả Sự nghiệp và Danh vọng để Gia đình mình định cư tại Mỹ Quốc không ?
Theo Mẹ biết trên Thế giới ngày hôm nay : chỉ có duy nhất Mỹ Quốc là tương đối tốt với người Do Thái !
**Boris :
--Thưa Mẹ câu hỏi thứ nhất của Mẹ : Con không bao giờ là Đảng viên Cộng Sản Nga ! Lý do như Mẹ biết : nước Nga vốn là kẻ thù của Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu ! Nếu là Đảng viên Cộng Sản Nga con phải chấp nhận :Tổ quốc Lỗ Ma Ni yêu dấu là chư hầu , thậm chí là Thuộc địa kiểu mới cung cấp tài nguyên , và nhân công cho Dân tộc Nga !
Dù nước Nga đã cho con tất cả : Sự nghiệp và Danh vọng , có thể nói nước Nga là Tổ Quốc thứ 2 của con !. Nhưng chỉ là thứ 2 . Tổ Quốc Yêu dấu là tất cả . Vì Tổ Quốc Yêu Dấu con sẵn sàng chống lại Tổ Quốc thứ 2 !
Con cũng không dấu Mẹ : Con về đây là không muốn Tổ Quốc Yêu Dấu bại trận ! là Thuộc địa kiểu mới của Nga !
Về câu hỏi thứ ba của Mẹ :
Con cũng biết Mẹ là người có lòng Yêu Tổ Quốc Lỗ Ma Ni, cũng nhờ Mẹ Giáo dục một phần , mà Tatyana có tấm lòng yêu nước nồng nàn , đã xem Tổ Quốc Lỗ Ma Ni là Tổ Quốc duy nhất của mình !.....
Mẹ cũng biết năm xưa : Cố và Ông Nội của Con đã cống hiến suốt cuộc đời mình trên lưng Chiến Mã , xông pha ngoài Chiến trường giao tranh với Quân Nga , để bảo vệ Tổ Quốc Yêu Dấu ! Ông Nội Yêu quí của Con : Đã mãi mãi nằm lại trên Chiến Địa Transnistria 1897.
Thế thì ngày hôm nay : Con không thể khoanh tay đứng nhìn Tổ Quốc Yêu Dấu Lâm Nguy , sẽ rơi vào tay quân Nga , mà định cư tại Mỹ Quốc được !
Con sẽ đưa Mẹ và Tatyana qua Thuỵ Sĩ (Switzerland) là Quốc Gia Trung lập trong cuộc chiến này, Mẹ và Tatyana tạm định cư tại đây để chờ con !
Thuỵ Sĩ là Quốc Gia nhỏ bé hiền hoà, Người dân ở đây tương đối là không kỳ thị người Do Thái Mẹ ạ !
Mẹ Tatyana :
Boris ạ ! Mẹ rất vui mừng và tự hào khi có một người con rễ như con ! ... Tối nay , Con hãy đưa Em đi !. Mẹ sẽ thu xếp bán nhà gấp cho người quen .
Me cũng nói cho con biết về Ba của Tatyana, và nguồn gốc của Mẹ...
Mẹ là người Lỗ Ma Ni gốc Do Thái !, Tổ tiên đã định cư tại đây gần 200 năm ! nên Mẹ coi Tổ quốc Lỗ Ma Ni là Tổ Quốc duy nhất của Mẹ !
Ba của Tatyana là người Đại Nga (Russian) gốc Do Thái !
Gia đình Mẹ vốn là dòng họ của Thương gia , nhưng đến đời Ba của Mẹ lại chọn con đường binh nghiệp.
Ông ngoại của Tatyana là Cố Trung tá Trung đoàn trưởng dưới quyền của Ông Nội con ,cũng đã hy sinh tại Chiến Địa Transnistria 1895 khi Mẹ mới 9 tuổi !
Bà ngoại Tatyana đau buồn ,sau một thời gian lâm bệnh nặng đã mất 1902, Mẹ là người con duy nhất trong gia đình , Mẹ đã phải nghĩ học năm đó khi mới 16 tuổi để đi làm nuôi thân !
Lúc đó Mẹ mới học xong Lớp Đệ Tam ( Lớp 10) chưa có bằng Trung học, Mẹ phải đi làm bồi bàn trong môt nhà hàng tại Kinh Đô !
Ông chủ nhà hàng là người Đại Nga gốc Do Thái mới định cư tại Lỗ Ma Ni chưa đến 5 năm , do Sa hoàng Đệ Nhị Nikolai (Tsar Nikolai II)của nước Nga trấn áp những người Do Thái nổi loạn làm Cách Mạng !(1900-1905)
Mùa xuân năm 1906 khi Mẹ vừa tròn 20 tuổi, Cậu con trai của Ông Chủ nhà hàng vừa từ nước Nga vượt biên qua Lỗ Ma Ni xin tỵ nạn chính trị , định cư cùng Gia đình tại Kinh đô, đó là thanh niên khoảng 30 tuổi , khuôn mặt khá đẹp trai, trí thức nhưng khá lạnh lùng !
Người thanh niên là con trai đầu của Ông Chủ cũng là Manager của nhà hàng , đã để ý đến Mẹ !
Thật ra lúc đầu Mẹ cũng không thích !, Vì Ông ta là người Nga ! Ông Ngoại Tatyana đã vị quốc vong thân dưới tay Quân Nga !. , thêm thay Mẹ chỉ là người chạy bàn , còn ông ta thì lại giàu có con Ông Chủ !
Thời gian này ! Mẹ chỉ ước muốn là lấy chứng chỉ tương đương Trung học , để có thể vào Cao đẳng 2 năm !
Nhưng cuộc đời lại oái ăm ! Ông Manager vẫn tiếp tục theo đuổi Mẹ !
Mẹ là thân con gái ! Sống trong cô đơn nghèo khổ ! Cuối cùng Mẹ đã chấp nhận Tình yêu của Người Thanh niên này , nhận lời thành hôn năm 1910 khi Mẹ 24 tuổi !
Sau ngày đám cưới Mẹ vỡ mộng ! Mẹ đã phát hiện Ông ta là một Đảng viên CS cao cấp của Nga ! Mẹ đã tìm thấy những lá thư của Lê Nin , và Leon Trosky liên lạc với Ông ta ! Nhưng lúc này ván đã đóng thuyền !
Nước mắt Mẹ Tatyana chảy dài...
Tatyana : từ trên lầu bước xuống phòng khách :
-Mẹ lại khóc nữa rồi , mỗi lần nhắc đến chuyện xưa về Ba , Mẹ lại khóc !.
Mẹ Tatyana :
- Mẹ đã coi Boris là con trai của Mẹ ! Mẹ phải kể ra tất cả con ạ ! Biết đâu sau này , Mẹ không có cơ hội để nói chuyện xưa nữa !
( Mẹ Tatyana đã mãi mãi nằm lại dưới lòng Đại Tây Dương trong chuyến Vượt Biên kinh hoàng !)
Tatyana bước lại ôm Mẹ !
Sau đó ngồi xuống Sofa, Tatyana đầu tựa vào vai Boris như một còn Mèo bé nhỏ dễ thương !
Mẹ Tatyana :
Sau ngày làm vợ Ba Tatyana ! Những buổi tối đi làm về , Mẹ phải ngồi nghe Ba Tatyana giảng thuyết về một thế giới Đại đồng không có Giai cấp, không có Tôn Giáo, không có biên giới các Quốc Gia, đó là là Hình Ảnh của Tổ quốc Do Thái Vĩ Đại thống trị toàn Thế giới trong một tương lai không xa !
Về Tôn Giáo : Ba Tatyana quan niệm " là Thuốc phiện đầu độc ru ngủ Nhân Loại "
Ba Tatyana Lý luận :
Từ ngàn xưa Do Thái Giáo đã quan niệm : Đức Chúa Trời của người Do Thái là Duy Nhất !
* Công Giáo , Tin Lành , Hồi Giáo, Phật Giáo là Tà ma Ngoại đạo !
Ông Jesus là ai ? Mà dám xưng là con của Đức Chúa Trời ! Bà Maria đã sinh hạ Ông Jesus thì làm sao lại là Đức Mẹ Thánh Thiện đây !
Thế thì Chúa 3 Ngôi : Cha - Con- Thánh thần là sự Lừa Bịp Đầu Độc Nhân Loại !
Bọn Hồi Giáo ngu dốt mới Tôn Sùng Ông Jesus và Bà Maria là Thiên Thần !
Bên Phương Đông Á Châu , lại đi tôn sùng một Ông Thái tử Ấn Độ : Tất Đạt Đa của Giai cấp Phong kiến bóc lột , ủng hộ Chế Độ Nô Lệ , Nông Nô, Tàn Ác làm Phật Tổ Từ Bi !
Còn Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát, theo Đạo Phật : Tiền kiếp cũng là một vị Thái tử, lại Hoá thân thành Công Chúa các kiếp sau : Một hình tượng của người Phụ nữ để Cứu Độ Chúng Sanh ! Đúng là sự Hoang Tưởng ,Điên Rồ ! Thế mà cũng có nhiều Người tin theo !
Nhưng : Tôn Giáo Do Thái Giáo của Chúng ta từ ngàn xưa xây dựng hình tượng Đức Chúa Trời , thật ra chỉ là một Huyền Thoại để tạo ra lòng yêu nước với mục đích tối thượng là : Thống Trị toàn Thế Giớ !i. Đức Chúa Trời , chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng của người Do Thái chúng ta. Vì thế khi Tổ Quốc Do Thái Vĩ Đại đã thống trị toàn thế giới. Đức Chúa Trời cũng không còn là cần thiết phải bị dẹp bỏ, và đạp đổ thôi !
Dân tộc Do Thái là một Dân tộc Thượng Đẳng, đã tạo ra Huyền thoại Đức Chúa Trời ! Mà ngày hôm nay các Tây phương , và Hồi Giáo đã ngu dốt tin theo !
Vì Vậy Dân tộc Do Thái Vĩ Đại xứng đáng đáng là Cai trị toàn Thế Giới ! Các Dân tộc trên toàn Thế giới : Da trắng , Da Đen, Da Vàng , Da Đỏ có bổn phận phải thần phục Người Do Thái Thượng Đẳng ! Nếu Họ Chống Lại ! Phải bị Huỷ Diệt môt cách không thương tiếc ! Như 1900 năm trước : Ông Jesus bị đóng đinh trên cây Thập Ác, là Công Lý , là Chính Nghĩa !
( Ba Tatyana là một Giáo Sư -Tiến Sĩ dạy Đại học tại Mạc Tư Khoa từ 1900 , chứ không phải thành phần vô sản đâu ! vì vậy chúng ta đừng bao giờ Quan niệm CS là ngu dốt, là bé cái lầm ! Lê Nin , Leon Trosky là những nhà Đại trí thức Nga gốc Do Thái , chứ không phải là giai cấp bần cố nông ngu dôt đâu ! Trong cuộc Nội chiến Cộng Hoà-Cộng Sản Nga-Do Thái 1918-1922 . Chỉ huy Quân Lực CS là các Danh tướng Nga-Do Thái của của Quân Lực Hoàng Gia Nga : Sa Hoàng (Tsar Nikolai II) trước 1917 !)
Mẹ Tatyana nói tiếp :
- Sau mỗi buổi tối đi làm về , ăn tối xong ! Ba Tatyana kiểm tra Mẹ có học thuộc những gì Ông dạy không ? Không học thuộc bài ! Mẹ phải quì gối úp mặt vào tường 3 tiếng đồng hồ ! !!!
( Viết đến đây ,Tôi thấy thật là Tội nghiệp Mẹ Tatyana quá !)
Những ngày tháng sống với Ba Tatyana là những ngày tháng đau khổ của Mẹ ! Trong hơn 2 năm trời sau ngày cưới : đi làm về , vừa nấu ăn dọn dẹp nhà cửa, vừa phải học thuộc bài , ăn xong khi rửa chén bát cũng phải xem lại bài !
*Mẹ cũng Linh cảm một điều : Ba Tatyana lấy Mẹ không phải vì Yêu thương, mà có Mục Đích !
Ông là một Trí thức, Giáo sư Tiến Sĩ, dạy Đại học Nga, con nhà giàu, khá đẹp trai. Trong lúc Mẹ là người con gái nghèo khổ ít học ! làm Vợ , Ông coi Mẹ như là người giúp việc , là thuộc cấp , là học trò . Ông là Cán bộ, là Ông Chủ , là Thầy giáo nghiêm khắc !
Quả nhiên Linh cảm của Mẹ đã thành sự thật : năm 1909 , sau hơn 2 năm rưỡi vừa làm vợ, vừa là người giúp việc , vừa thuộc cấp , vừa học trò. Một buổi tối Ba Tatyana nói với Mẹ :
_ Cô đã được Vũ trang một kiến thức Lý Luận Sắc Bén về Chủ nghĩa Cộng Sản, để phục vụ Tổ quốc Do Thái Vĩ Đại của chúng ta ! , Cô lại xuất thân từ Giai cấp Vô sản, Lao động !
Đến lúc Đồng chí phải thực hành : đi tuyên tuyền Quần chúng : những Đồng bào Do Thái của chúng ta tại Kinh Đô , để thành lập những Chi bộ Cộng Sản đầu tiên tại Lỗ Ma Ni !
Mẹ tái mặt hoảng hồn !, Nhưng lại sợ không dám phản đối chống cự lại Ba Tatyana ! Vì có lần Mẹ không học thuộc bài 2 lần do lên án Đức Mẹ Thánh Thiện ! Và Lên án miệt thị các Hoàng Đế !
Ông bắt Mẹ Quì ! Rồi dùng Thắt lưng to bản đánh vào người Mẹ liên tục !
Ba Tatyana lại lên tiếng :
-Bắt đầu từ ngày mai " Đồng Chí " không đi làm bồi bàn tại nhà hàng nữa !
"Đồng Chí " bắt đầu dấn thân vào con đường hoạt động Cách Mạng !. Mỗi tháng Tôi thay mặt Quốc tế Cộng Sản cấp cho Đồng Chí một ít sinh hoạt phí !
Đêm đó Mẹ không ngũ được , nhưng phải giả bộ nhắm mắt ! Vì sợ Ba Tatyana nằm bên cạnh biết !
Mẹ quyết định phải bỏ trốn thôi !
Sáng hôm sau , thức dậy sớm ! Ba Tatyana ra lệnh Mẹ : mặc Y phục cũ kỹ tồi tàn nhất , đem theo thức ăn đựng trong hộp nhựa bỏ vào trong giỏ xách . Ông đưa Mẹ đến một khu vực của người Do Thái- Lao động nghèo khổ ! Ông ngồi trong một quán Café để theo dõi Mẹ !
Những ngày đầu tiên , Mẹ quyết định như là một người làm thiện nguyện , một Ma sơ của tu viện công giáo, săn sóc người già , và em bé, giặt dũ quần áo , làm vệ sinh giúp các cụ già . thay tã cho các Em bé !
Được một tuần làm việc quần quật giúp những người nghèo ! Ba Tatyana đã đi kiểm tra Mẹ 3 lần !
Ông có vẻ hài lòng :
" Đồng chí " rất thông minh , phải chiếm cảm tình quần chúng lao động trước ! đối với người già , như là một người con , đối với trung niên kính trọng như một người anh , đối với phụ nữ kính trọng như một người chị . Đối với các thiếu niên, thiếu nữ thương yêu như một người Em , mới tuyên truyền hữu hiệu được !
Trong lúc Ba Tatyana đi tắm, Mẹ thấy một lá thư để trên bàn trong phòng làm việc của Ông . Bèn đọc trộm , mà tim đập thình thịch !
Lá thơ của Lê Nin từ Thuỵ Sĩ gởi về , có tấm hình Lê Nin chụp với tình nhân Nadezhda (Nadya) Krupskaya !
Lê Nin (Lenin) cùng Krupskaya đang tỵ nạn chính trị tại Thuỵ Sĩ,! Lê Nin mời Ba Tatyana qua Thuỵ Sĩ họp cùng với Leon Trosky ! 7.5.1913 còn 3 tuần nữa !
( Lê Nin (Lenin) cùng Krupskaya Vượt biên đến Thuỵ Sĩ năm 1905 vì bị Sa Hoàng -Hoàng Đế Tsar Nikolai II 1868-1918 : kết án Tử hình !)
Mẹ mừng quá ! Mẹ quyết định sẽ bỏ trốn khỏi căn nhà Địa ngục trần gian này !
3 Tuần lặng lẽ trôi qua , Mẹ đi làm thiện nguyện cực khổ , nhưng đếm từng ngày con ạ !
Trước ngày đi Thuỵ Sĩ , Ba Tatyana lấy một lá cờ đỏ Búa Liềm, treo lên tường , bắt mẹ học thuộc bài Quốc Tế Ca, trong vòng 15 phút !
Sau đó Ông , yêu cầu Mẹ đứng trước lá Cờ Đỏ Búa Liềm, Chào cờ , hát bài Quốc Tế Ca .
Ba Tatyana tuyên bố : Đại diện Quốc tế Cộng Sản , và Tổ Quốc Vĩ Đại Do Thái , chính thức kết nạp Mẹ vô Đảng Cộng Sản . Kể từ ngày hôm nay 6.5.1913 Mẹ là Đảng Viên Đảng Cộng Sản !
Ông yêu cầu : Mẹ phải Tuyên thệ , Suốt đời trung thành với Lý tưởng cộng Sản và Tỗ Quốc Vĩ Đại Do Thái !
** Xin hiệu đính : năm 1913 , Tôi type lộn 1909. Mẹ Tatyana Thành hôn năm 1910 khi 24 Tuổi. Sinh năm 1886 mất 1942 : 56 tuổi ! Tatyana sinh tháng 1 năm 1914 . Năm Đệ nhất Thế Chiến Bùng Nổ !
Sáng hôm sau Ba Tatyana thức dậy sớm ,để đáp Xe lửa qua Bảo Gia Lợi (Bulgaria) , từ Bảo Gia Lợi qua Đức , rồi đến Thuỵ Sĩ !
Mẹ thức dậy sớm , giả bộ thay áo quần đi làm "Cách Mạng", thức ăn cũng mang theo !
Trước khi đi Ba Tatyana ra lệnh :
Ông đi khoảng 45 ngày về , trong thời gian này Mẹ phải thành lập ít nhất 1 Chi bộ Đảng Cộng Sản gồm 2 Tổ Tam tam chế ! mỗi Tổ 3 người ! Nếu tương lai cuộc Cách mạng thành công : Mẹ sẽ là Bộ trưởng Lao động của Quốc Gia Cộng Sản Lỗ Ma Ni ! Ông đưa Mẹ một ít tiền Sinh hoạt phí để đi Tàu điện Subway ! Nếu Mẹ bỏ trốn , Sẽ bị Kết án Tử hình !, Vì đã phản bội lại Đảng Cộng Sản và Tổ Quốc Do Thái Vĩ Đại !
Ba Tatyana rời khỏi nhà 6 giờ sáng , Mẹ cũng giả bộ rời khỏi nhà , tới khu Lao động người Do Thái .
Đến 9 giờ Mẹ đến Ga xe lữa , để coi Chuyến Xe lữa đi Bảo Gia Lợi , đã gởi hành lúc 8 giờ sáng chưa !
Sau khi đã chắc chắc Chuyến Xe lữa đi Bảo Gia Lợi đã khởi hành rồi ! Mẹ trở về nhà !
Đi bộ về nhà gần 10 giờ sáng ! Vừa vào nhà , cơn xây xẩm mặt mày chợt ập đến trong con người Mẹ .
Mẹ vào phòng tắm ói , và cảm giác thèm đồ chua !
Nước mắt Mẹ chảy dài : Mẹ biết đã có Thai !
Mẹ để tay lên bụng , nước mắt tuôn rơi :_ Con ơi ! Từ nay Mẹ Con mình cực khổ có nhau !
Mẹ thu xếp một ít áo quần , bỏ vào túi xách , rôi tất tả đi bộ ra Ga xe lửa mua vé , may chỉ vừa đủ tiền đến biên giới Lỗ Ma Ni -Nga Tỉnh Transyvania . Hy vọng Ba Tatyana tìm không ra !
Ngày hôm sau đến Transyvania , Mẹ tất tả đi bộ trên 20 cây số đến một miền Thôn quê , vừa mệt vừa đói bụng , vừa không có tiền !
Đến miền Thôn quê , Mẹ đã xin làm việc trên môt cánh đồng lúa mì của một Điền chủ người Lỗ Ma Ni , để sống qua ngày tháng chờ sinh nở !
Mẹ sinh hạ Tatyana vào đêm 14.1.1914 mùa Đông, trong một Túp lều tranh , chỉ có ba bức vách bằng đất sét trộn rơm, phía thứ tư phó mặc cho mưa gió !
( Tatyana was Born on 14, January , 1914 One Winter : The Shack had only three walls, the fourth side was open to the wather !)
Mẹ Già như Chuối Bà Hương
Như Xôi Nếp Đậu , Như Đường Mía Lau
Như vạn mùa Xuân nắng xôn xao, Mẹ đã thương con từ thuở nào. Âm thầm như suối reo đêm vắng, Róc rách đi hoài dưới trăng sao. Như triều sóng vỗ, vỗ miên man, Lòng Mẹ yêu con cao ngút ngàn. Cho tình mẫu tử đơm hoa trái, Xanh mãi đời con mãi không tàn. Mẹ nuôi con qua nắng gió sương, Dẫn đưa con trên những nẻo đường. Theo từng hơi thở dài năm tháng, Cho nỗi ưu phiền bớt vấn vương. Nay con khôn lớn thì ơi hỡi! Mẹ đã về tiên, tiễn biệt rồi. Hòa khói hương trầm xin tưởng nhớ
Kính tặng Mẹ Tatyana .
Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi Như đóa hoa không mặt trời Như trẻ thơ không nụ cười Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm Như bầu trời thiếu ánh sao đêm
Mẹ, Mẹ là dòng suối dịu hiền Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên Là bóng mát trên cao Là mắt sáng trăng sao Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau Là tiếng dế đêm thâu Là nắng ấm nương dâu Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời
Rồi một chiều nào đó anh về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?" - Biết gì ? "Biết là, biết là con thương Mẹ không ?"
Mẹ, Mẹ là dòng suối dịu hiền Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên Là bóng mát trên cao Là mắt sáng trăng sao Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau Là tiếng dế đêm thâu Là nắng ấm nương dâu Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời
( Bông Hồng Cài Áo )
*Núi nào cao bằng núi cao tình mẹ Nước nào mặn bằng nước mắt mẹ hiền Thương con chín tháng mười ngày Để con khôn lớn bỏ mẹ mà đi...
À ơi ơi tiếng vỗ giấc trưa hè Đêm đêm tiếng mẹ còn ru con (Đêm đêm tiếng mẹ còn ru con)
Mẹ đứng bên sông chiều nay gió thổi phương nào Rồi nhớ thương con nhiều đêm mắt mẹ buồn thiu Lòng xót xa đau chờ mong tóc đã phai màu Đàn én phương xa về đây nhớ mẹ nhiều hơn
(Mẹ Tôi Tiếng hát Cẩm Ly )
Tôi lớn lên từ vành nôi Tôi lớn lên từ bờ tre Tôi lớn lên từ lời ru Với tiếng sáo diều lả lơi Con nước đi về đầy vơi.
Bên mái tranh chiều ngày xưa Chiếc võng kẽo kẹt Mẹ đưa Với tiếng ru hời hời ru Man mác tâm hồn tuổi thơ Xao xuyến đến tự bấy giờ.
Đêm đêm, Mẹ ngồi ru con Tiếng ru khắc khoải như chờ đợi ai Ngoài xa, tu hú gọi bầy Trăng tà như vướng víu vào lời ru.
..................
Như nước trong nguồn chảy ra Như sóng rào rạt biển đông Như đuốc soi đường con đi Câu hát vô cùng Mẹ ơi Vẫn mãi vang vọng đời con.
Năm tháng qua rồi mà sao Không thể quên được lời ru
Ao ước quay về tuổi thơ Để thấy cánh cò ngày xưa Trong tiếng ru hời của mẹ.
( Mẹ và Lời Ru -Tiếng hát Hương Lan )
Mẹ tiếp lời giọng trầm buồn :
-Khi Tatyana được 6 tháng tuổi ,thì Đệ Nhất Thế chiến bắt đầu bùng nổ mùa hè năm 1914...
Tại mặt trận phía Đông 8.1914 Quân Nga bại trận thê thảm đã bị đánh tan nát tại Tannenberg trước Liên quân Đức -Áo -Hung Gia Lợi -Bảo Gia Lợi , bị bắt làm Tù binh gần 100 ngàn quân ! Tử trận hơn 30 ngàn quân . Trung tướng 3 sao Nga Aleksandr Samsonov Tư lệnh Phương Diện Quân số 2 phải Tự sát !
Trong lúc Liên quân phía Đức chỉ Tử trận chưa đến 3 ,500 quân (chính xác 3,436 người ) ! và chưa đến 7 ngàn bị thương (chính xác 6, 800) !
Trung tướng 3 sao Nga Aleksandr Samsonov Tư lệnh Phương Diện Quân số 2 phải Tự sát !
TRUNG TƯỚNG 3 SAO : ALEKSANDR SAMMONOV (2.11.1859- 29. 8.1914) - TƯ LỆNH PHƯƠNG DIỆN QUÂN SỐ 2 -QUÂN LỰC HOÀNG GIA NGA : TỰ SÁT 29.8.1914 TẠI MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG TANNENBERG.
TRƯỚC VIỄN CẢNH QUÂN ĐỨC SẼ CHIẾM TRANSNISTRIA _ VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI TUYÊN CHIẾN VỚI ĐỨC ĐỨNG VỀ PHÍA ĐỒNG MINH -ĐỂ KHÔI PHỤC LẠI LÃNH THỔ TRANSNISTRIA !
BA TATYANA LẬP CHIẾN KHU CS TẠI TRANYVANIA !ĐẤU TỐ TỬ HÌNH NGƯỜI ĐIỀN CHỦ CUẢ MẸ TATYANA !
MẸ TATYANA BỒNG CON VƯỢT BIÊN QUA TRANSNISTRIA ! TRONG ĐÊM TỐI GIỮA 2 LẰN ĐẠN NGA -LỖ MA NI
CHIẾN HẠM HẢI QUÂN- QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI TRONG ĐỆ NHẤT THẾ CHIẾN
QUÂN LỰC HOÀNG GIA LỖ MA NI TRONG ĐỆ NHẤT THẾ CHIẾN
BA TATYANA LẬP CHIẾN KHU CỘNG SẢN TẠI TRANYVANIA ! ĐẤU TỐ : TỬ HÌNH NGƯỜI ĐIỀN CHỦ CUẢ MẸ TATYANA !
MẸ TATYANA BỒNG CON VƯỢT BIÊN QUA TRANSNISTRIA ! TRONG ĐÊM TỐI GIỮA 2 LẰN ĐẠN NGA -LỖ MA NI
* Mẹ nói tiếp: năm 1915 do được mùa lúa , Mẹ có ít tiền và người Điền Chủ tốt bụng, cho Mẹ vay ít tiền không lấy tiền lời ! Một số bạn bè Tá điền tốt bụng đã bỏ công sức giúp Mẹ cất căn nhà khá khá trang bằng gạch , lợp ngói đỏ ...
Thời gian này là thời gian có thể nói là Hạnh phúc của Mẹ, cuộc sống tương đối ổn định , nhà cửa khang trang, được mọi người thương mến . Đặc biệt Tatyana khuôn mặt bé bỏng dễ thương , được mọi người thương yêu ! kể cả Ông bà Điền Chủ tốt bụng !
Qua năm 1916 chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, Quân Nga sau 2 năm đa số là bại trận hơn chiến thắng ! Sa hoàng nước Nga đã đồng ý với Hoàng Đế Lỗ Ma Ni : là sẽ trã lại vùng đất Transnistria cho Vương Quốc Lỗ Ma Ni sau gần một trăm năm thống trị ! khi Cuộc chiến này kết thúc ! đổi lại Vương Quốc Lỗ Ma Ni, sẽ là Đồng minh của Nga trong việc ngăn chặn Quân Đức tại Mặt trận phía Đông. Sự oán thù của 2 Dân tộc gần 200 năm cũng nên xoá bỏ !
HOÀNG ĐẾ VƯƠNG QUỐC LỖ MA NI TRONG ĐỆ NHẤT THẾ CHIẾN : FERDINAND
King of the Romanians Reign 10 October 1914--20 July 1927
LÀ ĐỒNG MINH VỚI SA HOÀNG NIKOLAI ĐỆ NHỊ ( 1894-1918) ĐỂ KHÔI PHỤC LẠI LÃNH THỖ TRAN SNISTRIA , VÀ CỞI BỎ OÁN THÙ GẦN 200 NĂM CUẢ 2 DÂN TỘC NGA- LỖ MA NI .
BẤT HẠNH CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 10 NĂM 1917 TẠI NƯỚC NGA DO LEON TROSKY VÀ LÊ NIN , CÙNG CÁC TƯỚNG LÃNH NGA DO THÁI LÃNH ĐẠO : CƯỚP CHÍNH QUYỀN MỞ RA KỶ NGUYÊN CỘNG SẢN !
SA HOÀNG NGA NIKOLAI ĐỆ NHỊ ( 1894-1918) .
BỊ THÃM SÁT CÙNG HOÀNG HẬU , THÁI TỬ , HOÀNG TỬ , CÔNG CHUÁ 17 JULY , 1918 ( 50 TUỔI )
LEON TROSKY TỔNG TƯ LỆNH QUÂN CỘNG SẢN -DO THÁI RA LỆNH THẢM SÁT: VÌ VI PHẠM TỘI ÁC TRẤN ÁP NGƯỜI DO THÁI CỘNG SẢN 1900-1906 !
( Lê Nin , Leon Trosky bị kết án tử hình khiếm diện , phải đào thoát ra Ngoại quốc , Ba Tatyana bị án chung thân phải vượt biên qua Lỗ Ma Ni !)
Mẹ tiếp tục kể :
Do Nga và Lỗ Ma Ni là Đồng Minh , nên theo lời yêu cầu của Sa Hoàng nước Nga , Hoàng Đế Ferd inand Lỗ Mã Ni ra lệnh Tử hình Ba Tatyana !. Ông đào thoát kịp thời !
Lệnh Truy nã Ba Tatyana trên toàn Vương Quốc Lỗ Ma Ni ! Do Thánh Chỉ của Hoàng Đế ban hành 4.1916.
Mẹ đọc Giấy Niêm yết Bố cáo Thánh Chỉ của Hoàng Đế : Lệnh Truy nã Ba Tatyana trên Toàn Quốc !, Cảnh Sát , và Quân đội có thể bắn bỏ nếu phát hiện đương sự ! Mẹ đọc xong Giấy Niêm yết Bố cáo, về nhà ôm Tatyana lòng !
Cảm giác sợ hãi , oán hận Ba Tatyana cũng đã hết ! Trước sau Ông cũng chết ! Nghĩa tử là nghĩa tận !
Thêm thay Tatyana có vầng trán và đôi mắt xanh đen giống ông !
-*Đến Mùa Thu năm 1916 , khi Mẹ ra đồng làm việc, Mẹ nghe một số Tá điền gốc Do Thái nói chuyện :
Trên Núi cách đây khoảng 60 cây số ( gần 40 dặm miles) có một Chiến Khu của một nhóm người Cách mạng Xã Hội Chũ Nghĩa : Lấy của Giàu Chia Cho người Nghèo ! Mục đích tối thượng : là kiến tạo một Quốc Gia Lỗ Ma Ni : Công Bằng -Bác Ái - Đoàn Kết . Mọi người Dân đều là con của Đức Chúa Cao Cả phải được sống trong Tự Do và Hạnh Phúc ! Đó là Chân Lý ! Chiến tranh là Tàn Ác , là Sản phẩm của Giai cấp Thống Trị ! phải bị dẹp bỏ ! Để người Dân có thể sống Hạnh Phúc và Thần tiên dươi Trần Gian này !
Đây là Nghĩa Vụ và Quyền Tự Do bất khả xâm phạm của Loài Người !
***Mẹ nghe xong , Mẹ thấy Lý luận này không hợp lý ,cũng hao hao giống Lý luận của Ba Tatyana !
Lấy của người giàu chia cho người nghèo !
Mẹ quan niệm người giàu chỉ có một số ít là thừa hưởng của Cha Mẹ và Ông Bà để lại, còn đa số là những người có ăn học , trình độ và thông minh , cần cù lao động trí oc tạo ra của cải . Còn như Mẹ ít học , Bố Mẹ lại mất sớm,nghèo khổ phải lao động chân tay kiếm sống , thì làm sao đòi hỏi những người nhà giàu phải chia của cho Mẹ được !
Nếu Mẹ muốn sung sướng sau này , thì phải lo cho Tatyana ăn học đến nơi đến chốn , làm người trí thức , cống hiến nhiều cho Xã hội , thì sẽ được Xã hội ưu đãi và đền bù là đương nhiên !
Còn Chiến tranh là bảo vệ Quê hương yêu dấu ! là khôi lại Đất đai của Tổ tiên đã bị mất ! Sao lại gọi là của Giai cấp Thống trị được !
Còn muốn có :Công Bằng -Bác Ái - Đoàn Kết, trước tiên phải có Luật Pháp nghiêm minh và Giáo Dục, kết hợp với Tôn Giáo ! Như Trường hợp của Ba Tatyana là Thí dụ điển hình : Là Đại Trí thức -Giáo Sư Tiến Sĩ Đại học , nhưng đối với Luật Pháp không có trong con mắt ông ! Ông mới hành hạ , và đày đoạ Mẹ !
Ông không tin Tôn Giáo , cho Đức Chúa Trời chỉ là Huyền thoại ! Các Tôn Giáo khác là Tà Ma Ngoại Đạo , vì thế Ông mới Tàn Ác, Vô Nhân Đạo ! khi Lý luận : các Dân tộc nào không phục tùng Dân tộc Do Thái Thượng Đẳng thì sẽ bị huỷ diệt một cách không thương tiếc ! như ngày xưa Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây Thánh Giá !
Nếu Ba Tatyana là Lãnh đạo của Quốc Gia , thì không những Quốc Gia đó không có :Công Bằng -Bác Ái - Đoàn Kết, mà là một Biển Máu , vì Ông không có niềm tin Tôn giáo ! TÔN GIÁO LÀ NHỮNG NGỌN ĐÈN MÀU, HƯỚNG LOÀI NGƯỜI ĐẾN CHÂN THIỆN MỸ .
Nếu Ba Tatyana là Lãnh đạo của Quốc Gia , thì đó là Tai Hoạ , là Đại Bất hạnh cho Quốc Gia đó !
Mẹ Tatyana tiếp lời :
Năm 1916 trôi qua trong niềm hạnh phúc của Mẹ, đời sống tạm đầy đủ , nhà cửa khang trang, Tatyana sắp qua 3 tuổi . Tối về bên ngọn đèn dầu leo lét , Mẹ dạy Tatyana tập đánh vần , và hát những bài thiếu nhi, những bài ca trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh thể,. Tiếng ê a đánh vần và Giọng ca trong vắt của Tatyana là niềm vui của Mẹ ..
Cũng bắt đầu từ Mùa Thu năm 1916 Liên quân Nga- Lỗ Ma Ni , đã bắt đầu chặn đứng được Quân Đức tại Mặt trận phía Đông. Viễn cãnh vùng đất Trasnistria thuộc về Vương Quốc Lỗ Ma Ni sẽ là hiện thực , và cởi bỏ Sự Oán Thù của 2 Dân Tộc gần 200 năm sẽ trở thành trong tương lai không xa ! Mọi người Dân Lỗ Ma Ni đều vui mừng ! Mẹ cũng rất vui ! Ông Ngoại cùng các Chiến Hữu xưa kia Vị Quốc Vong Thân trên mãnh đất này sẽ mãn nguyện , yên giấc ngũ ngàn thu : Vùng đất của Tổ tiên cuối cùng cũng sẽ Khôi Phục lại ! Chiến tranh rồi sẽ không còn ! Các Thế hệ con cháu sẽ yên tâm Kiến Quốc !
Giọng Mẹ trở nên buồn bả :
Qua năm 1917....nội tình nước Nga rối ren ! Leon Trosky bí mật trở về nước khích động người Người Nga gốc Do Thái , và một ít Người Dân Nga nghèo khổ : xuống đường biểu tình phản chiến , đòi chấm dứt chiến tranh !
Phong trào Phản chiến do Đảng Cộng Sản đại đa số là gốc Do Thái lãnh đạo (Đảng Bolshevik) , càng ngày càng lớn mạnh, một phần họ tổ chức tinh vi thủ đoạn , một phần Chiến tranh đã qua năm thứ ba , đời sống Người Dân Nga đã không còn sung túc như trước Chiến tranh ! ( Lê Nin cùng Tình Nhân Krupskaya vẫn ở tại Thuỵ Sĩ ! )
Đảng Cộng Sản Nga Do Thái (Đảng Bolshevik) do Leon Trosky Lãnh đạo đã tổ chức những cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh và bãi công tập thể. Ngày 9 tháng 1 năm 1917 (22 tháng 1 theo Công Lịch), trong lễ kỷ niệm "Ngày chủ nhật đẫm máu" ở Petrograd đã xảy ra một cuộc biểu tình lớn chống chiến tranh. Cuộc biểu tình lan rộng sang Mạc Tư Khoa, Baku và nhiều thành phố khác.
Phong trào phản chiến sôi nổi nhất là ở thành phố Petrograd do Leon Trosky chỉ huy . Ngày 18 tháng 2 (3 tháng 3 theo Công Lịch), 30,000 công nhân đình công . Ngày 23 tháng 2 (8 tháng 3) nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ, 90,000 nữ công nhân của 50 xí nghiệp ở Petrograd tham gia biểu tình chống chiến tranh. Cuộc bãi công nhanh chóng chuyển sang tổng bãi công chính trị. Ngày 24 tháng 2 bãi công lan rộng khắp thành phố, lôi cuốn 20 vạn công nhân tham gia.
Ngày 25 tháng 2 (10 tháng 3), Leon Trosky chỉ huy Đảng Bolshevik quyết định ra mệnh lệnh : Các lãnh đạo phong trào Công nhân ( Nga gốc Do Thái ) chuyển sang Tổng bãi công chính trị toàn thành phố và các cuộc xung đột giữa những người biểu tình và cảnh sát đã diễn ra. Ngày 26 tháng 2 (11 tháng 3) , theo Lệnh của Leon Trosky : Đảng Bolshevik và Các lãnh đạo phong trào Công nhân ( Nga gốc Do Thái ) Lãnh đạo công nhân chuyển từ Tổng bãi công chính trị sang khởi nghĩa vũ trang bằng cách tước vũ khí của Cảnh sát. Leon Trosky ra lệnh : Các lãnh đạo phong trào Công nhân kêu gọi binh lính đứng về "Cách mạng" lật đổ Sa hoàng Nikolai Đệ nhị . Sa hoàng phải huy động 60,000 Chiến Binh từ Mặt trận trở về trấn áp !
Các Lãnh đạo phong trào Công nhân ( Nga gốc Do Thái ) Đảng Bolshevik Đại đa số Nga-Do Thái .
ĐẠI GIA ĐÌNH SA HOÀNG Tsar : NIKOLAI ĐỆ NHỊ : HOÀNG HẬU , CÁC CÔNG CHUÁ VÀ THÁI TỬ BỊ TÊN DO THÁI ĐỒ TỂ ĐẠI TRÍ THỨC : LEON TROTSKY RA LỆNH THẢM SÁT 17.7.1918
TÊN DO THÁI ĐỒ TỂ ĐẠI TRÍ THỨC : LEON TROTSKY :TỔNG TƯ LỆNH QUÂN CỘNG SẢN NGA-DO THÁI 1917-1924
NỮ ỨNG CỬ VIÊN TỔNG THỐNG MỸ QUỐC NĂM 2008 : HILLARY RODHAM CLINTON
"NẾU IRAN TẤN CÔNG DO THÁI -TÔI SẼ DÙNG BOM NGUYÊN TỬ HUỶ DIỆT IRAN !"
**TRONG LÚC DO THÁI ĐỦ SỨC HUỶ DIỆT CẢ 3 THẾ GIỚI BẰNG BOM NGUYÊN TỬ !
*BÀ HILLARY PHẢI TRẢ LỜI TRƯỚC LỊCH SỬ MỸ QUỐC VÀ LỊCH SỬ THẾ GIỚI CÂU TUYÊN BỐ NÀY ! DÙ LÀ 1000 NĂM, HAY 1 VẠN NĂM SAU !
Trước Viễn cảnh Nước Nga có thể bị người Nga gốc Do Thái thống trị , để tránh những người Dân Nga nghèo bị Cộng sản Nga -Do Thái lợi dụng, khích động. Sa hoàng Nikolai Đệ nhị tuyên bố thành lập chính thể Cộng Hoà , khai sinh Cộng Hoà Liên Bang Nga , do Đảng Xã Hội yêu nước ,và các Tướng Lãnh Lãnh đạo !
Đãng Xã hội chính thức gọi là Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa , theo Triết học Cổ đại Đức Quốc , chống lại Đảng Cộng Sản Mác Xít Nga -Do Thái !
Thủ tướng Cộng Hoà Liên Bang Nga :Huân tước Georgy Yevgenyevich Lvov, chính thức nhận chức thủ tướng 17.3 .1917 ( Lịch cũ Nga là tháng 2).
Chính phủ lâm thời có các các Đảng : Đảng Dân Chủ Lập Hiến , và Đảng Xã hội Cách mạng (XHCN)
Lãnh tụ Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa : Luật sư trẻ tuổi tài giỏi 36 tuổi: giữ chức Phó Thủ tướng thứ nhất , kiêm Bộ trưởng Chiến Tranh :Aleksandr Kerenskii ( Thủ tướng , TT sau này ) kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội !
Bộ trưởng Chiến Tranh :Aleksandr Kerenskii tuyên bố : Tái lập trật tự an ninh nước Nga . Cộng Hoà Liên Bang Nga tiếp tục đứng về phía Đồng Minh trong cuộc Thế chiến , vì Chiến tranh sắp kết thúc thắng lợi !
( Lãnh tụ Aleksandr Kerenskii là Nghị sĩ Quốc hội Nga năm 33 tuổi -1914)
Ngày 20.7.1917.Huân Tước Georgy Lvov bàn giao chức Thủ tướng cho Lãnh tụ Aleksandr Kerenskii để cứu Tổ Quốc Nga đang lâm nguy, trước sự lớn mạnh của Cộng sản Nga -Do Thái !
( Thời điểm này nước Nga độ 60 triệu dân, gần 10 triệu Dân Nga gốc Do Thái 1/6 Dân số !
( Mỹ Quốc hiện nay 300 triệu dân, Khoảng 12 triệu Dân Do Thái, gần gấp đôi Dân số Quốc gia Do Thái hiện nay?) .
Thủ tướng -Tổng thống 36 tuổi Kerensky đã điều động những đơn vị Quân đội đặc biệt : các Trung đoàn Cozak sông Đông Thiện chiến, các Liên đoàn Sinh viên Sĩ quan Võ Bị , Lữ đoàn Nữ Quân nhân Xung kích về bảo vệ Thủ đô Saint Petersburg.
Leon Trotsky : thành lập Hồng Quân CS , kêu gọi các Tướng Lãnh Nga gốc Do Thái trong Quân lực Cộng Hoà Nga trở về với nguồn gốc cội nguồn của mình !
Hầu như tất cả các Tướng lãnh Nga -Do Thái đều về đầu quân Leon Trotsky . Cấp tốc huấn luyện binh sĩ tân binh.
Cuối tháng 10 năm 1917 . Leon Trotsky ra lệnh các Danh tướng Nga-Do Thái : Tấn công Thủ Đô , huỷ diệt và tàn sát tất cả Quân lực Cộng Hoà Nga tại Thủ Đô Saint Petersburg!
Sau gần một tuần lễ tấn công : các Danh Tướng Nga-Do Thái chỉ huy đã chiếm Thủ đô Saint Petersburg khuya ngày 6 rạng sáng 7.11.1917 .
Thủ Đô Saint Petersburg thất thủ : một cuộc Tắm Máu Vĩ Đại xảy ra : các Danh Tướng Nga-Do Thái đã tuân lệnh Leon Trotsky : Tàn sát tất cả Quân Cộng Hoà Nga : Những người cùng một thời là chiến hữu , là thuộc cấp của mình ! Thậm chí các em Thiếu sinh quân , các Nữ Quân Nhân Nga cũng bị tắm máu một cách dã man, tàn ác !
*Ngày hôm nay Lịch sử Nga đã bạch hoá tất cả, . Vinh danh các Chiến binh Cộng Hoà Nga . Giáo Hội Chính thống Công giáo Nga đã phong Thánh cho Toàn bộ Gia đình Sa Hoàng Nikolai Đệ Nhị : Hoàng Đế , Hoàng Hậu , các Công Chúa và Thái tử . Đây là tội ác tày trời của bọn Do Thái.!
Riêng Đảng Dân Chủ Mỹ Quốc cho đây là Tội ác của Cộng Sản ! Còn người Do Thái là dễ thương !, là đáng yêu ! là Nạn nhân đáng thương của Chế độ Cộng Sản , và Chế độ Phát Xít khát máu ! Đúng là Đồng Tiền đâm toạc tờ giấy ! và ngày hôm nay Quốc gia Nhỏ bé đáng yêu Do Thái , đang bị các nước Hồi Giáo bắt nạt ! Vì vậy Mỹ Quốc có bổn phận thiêng liêng là phải giúp đỡ và đùm bọc Quốc Gia nhỏ bé dễ thương Do Thái ! Điển hình Nữ Ứng Cử viên TT Hillary đã tuyên bố một câu rất đại nghĩa ,và chí tình năm 2008 thể hiện đúng : Chị Ngã Em Nâng " ( Coi chừng có ngày : Em Ngã, Chị đâm chết luôn !)
*Thủ đô Saint Petersburg thất thủ 7.11.1917 . Đại sứ Mỹ chỉ cứu thoát được một mình Thủ tướng -Tổng thống Kerensky (1917-1922 )
CHÂN DUNG THỦ TƯỚNG-TỔNG THỐNG CỘNG HOÀ LIÊN BANG NGA : ALEXANDER KERENSKY 1917-1922
** Thủ tướng -Tổng thống Kerensky sinh ngày 4 tháng 5 năm 1881 , mất ngày 11 tháng năm 1970 tại New York -Mỹ Quốc !
Thủ tướng -Tổng thống Kerensky suốt những năm tháng định cư tại Mỹ Quốc , chỉ ước mơ : Nước Nga Yêu Dấu , một ngày Lá cờ Yêu Dấu hai màu Đỏ- Xanh , tung bay trên Lãnh thổ Cộng Hoà Liên Bang Nga,
Bọn Do Thái biến mất trên nước Nga ! Thủ Đô lấy lại tên cũ :Saint Petersburg , Chủ nghĩa Cộng Sản sẽ biến mất trên Tổ quốc Thân Yêu !
21 năm sau ngày Tổng thống mất : Ước mơ đã trở thành sự thật ! 1991 Cộng Hoà Liên Bang Nga khai sinh lần thứ 2 . Lá Cờ 2 màu Đỏ- Xanh mà Cộng đồng Lưu vong Nga tôn thờ được 50 Tiểu bang Mỹ Quốc công nhận , đã mãi mãi là Quốc Kỳ của Dân tộc Nga ngày hôm nay !
Chủ nghĩa Cộng Sản đã mãi mãi lùi về Dĩ Vãng !
* Sau khi Thủ đô Saint Petersburg thất thủ 7.11.1917 .Tất cả đều bị Tắm máu : Quân Đội , Toàn bộ Nội các Chính Phủ Cộng Hoà Liên Bang Nga : Bộ Trưởng , Thứ trưởng , Phó Thủ tướng, hàng trăm Nghị sĩ Quốc hội .!
Duy nhất Thủ tướng -Tổng thống Alexander Kerenky được Đại sứ Mỹ cứu thoát trong đường tơ kẻ tóc !
Leon Trotsky đánh điện qua Thuỵ Sĩ , mời Lê Nin (Lenin) về làm Chủ tịch Nước .!
Leon Trotsky là Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Nga-Do Thái kiêm Tổng Tư lệnh Quân Lực Hồng quân Nga-Do Thái !
Lê Nin cùng Tình Nhân Krupskaya trở về Nga sau 12 năm lưu vong tại Thuỵ Sĩ ! Cai trị đất nước theo Chủ nghĩa Cộng Sản Marxism mà nhà Triết học Vĩ Đại Do Thái : Karl Marx và Friedrich Engels đã sáng tạo !, Leon Trotsky cùng các Danh tướng Nga -Do Thái tiến hành chiến tranh tiễu trừ Quân Lực Cộng Hoà do Tổng thống Alexander Kerenky Lãnh đạo . Mở đầu Cuộc Nội Chiến : Cộng Sản Nga-Do Thái và Cộng Hoà . ( Hay còn gọi Hồng Quân và Bạch Vệ )
CHỦ TỊCH LÊ NIN 47 TUỔI VÀ ĐỆ NHẤT PHU NHÂN KRUPSKAYA 48 TUỔI SAU CÁCH THÁNG 10 .1917 TẠI NGA
* Lê Nin là Bí Danh : Tên thật Vladimir Ilyich Ulyanov (1870-1924 ) ông Ngoại là Giáo Sĩ Do Thái Giáo, nên coi các Tôn giáo khác là Tà Ma Ngoại Đạo !
*"Nadya" Krupskaya (Russian: Наде́жда Константи́новна Кру́пская, Nadežda Konstantinovna Krupskaja) (26 February [O.S. 14 February] 1869 - February 27, 1939) was a Russian Bolshevik revolutionary and politician. She married the Russian revolutionary Lenin . She was deputy Prime Minister (Comissar) of Education . ( Phó Thủ tướng đặc trách Giáo Dục ).
* Lịch của Nga trước 1918 hơi khác Dương Lịch một chút, chậm hơn Dương Lịch 12 ngày !
Vì thế Ngày Thủ đô Saint Petersburg thất thủ 7.11.1917 , Tính theo Lịch cũ của Nga là tháng Muời.
NÊN CÒN GỌI LÀ CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 10 NGA NĂM 1917.(Là Ngày Thủ đô Saint Petersburg thất thủ 7.11.1917 và Đại Tắm Máu ! )
** CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 10 NGA NĂM 1917: Hoàn Toàn Phù Hợp Với Lý luận Của Ba Tatyana :
"'Các Dân Tộc Trên Toàn Thế Giới : Da Trắng , Da Đen, Da Vàng , Da Đỏ Có Bổn Phận Phải Thần Phục Người Do Thái Thượng Đẳng ! Nếu Họ Chống Lại ! Phải Bị Huỷ Diệt Môt Cách Không Thương Tiếc ! Như 1900 Năm Trước : Ông Jesus Bị Đóng Đinh Trên Cây Thập Ác, Là Công Lý , Là Chính Nghĩa ! "
Mẹ buồn rầu :
Khi Thủ Đô nước Nga thất thủ , bị Tắm Máu , thì Gia đình Sa Hoàng may mắn không ở Thủ Đô, lúc này Sa Hoàng giống như là Quốc trưởng . Thủ tướng là Lãnh tụ :Alexander Kerenky .
Gia đình Sa Hoàng - Hoàng Đế nước Nga đang ở Cung điện Alexander ở Hoàng Thôn (Alexander Palace at Tsarskoye Selo) cách Thủ đô khoảng 30 km .Gia đình Sa Hoàng đã kịp thời di chuyển đến Dinh Thống Đốc tại vùng Tobolsk ( in the Governor's Mansion in Tobolsk) là Thủ phủ của Vùng Viễn Đông : Siberia.
Sa Hoàng quyết định trao toàn quyền cho Lãnh tụ Thủ tướng Alexander Kerenky, có nghĩa chính thức làm Tổng thống nước Nga ,để chỉ huy Quân Lực Cộng Hoà đối phó với Quân Cộng Sản Nga -Do Thái, do tên Đồ tể khát máu Leon Trotsky Chỉ huy ! Vì lúc này Chủ tịch Lê Nin đang tuyên truyền Sa Hoàng là Tội đồ của Dân tộc Nga : làm thất trận Chiến Tranh Nga -Nhật 1905 , mất Quần đảo phía Bắc nước Nhật . Tham gia chiến tranh Thế Chiến 1914 đến nay , làm nước Nga kiệt quệ !
Chủ tịch Lê Nin đàm phán với Đức để Nga rút khỏi cuộc chiến, tạo điều kiện cho Leon Trotsky, và các Tướng Nga Do Thái tiêu diệt Quân Cộng Hoà !
Chủ tịch Lê Nin chấp nhận nhường vùng đất Transnistria cho Đức Quốc ! Khộng những vậy với việc ký kết hoà ước Brest-Litovsk riêng rẽ với Đức vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, Chủ tịch Lê Nin đã nhân nhượng rất to lớn: là cho phép các vùng Bạch Nga , Tiểu Nga ( Belarus, Ukraine,) và Baltic được độc lập chịu ảnh hưởng của Đức , trả bồi thường toàn bộ chiến phí cho Đức. !
Đây là sự nhục nhã cho nước Nga từ ngàn năm nay , kể từ ngày Lập quốc của nước Nga , để đổi lại
Quân cộng sản Nga -Do Thái , rãnh tay tập trung tiêu diệt Quân Cộng Hoà, và nhận một số vũ khí của Đức , đúng là Lũ bán nước, Tội đồ ngàn năm của Dân tộc Nga !, thế mà đi kết tội Hoàng Đế nước Nga. Mĩa mai nhất là mấy tháng sau Đức đầu hàng Đồng Minh !
Chủ tịch Lê Nin nhân cơ hội này nuốt lời hứa , chỉ có vùng đất Transnistria là Quân Đức đã tiếp quản theo Hiệp ước Brest-Litovsk 3.3.1918 . Lê Nin là Tội đồ ngàn năm của Dân tộc Nga !
Trong Lịch Sử Dân tộc Nga chưa có một Hiệp ước nào nhục nhã như vậy! không những chấp nhận xé Quốc Gia ra nhiều vùng đất cho kẻ thù , bồi thường chiến phí cho kẻ thù , để tàn sát những người Dân Nga , và Quốc Gia đã cho mình tạm dung , chứa chấp mình hàng trăm năm nay , không kỳ thị phân biệt , mà còn phản phúc , tàn sát một cách dã man không thương tiếc !
Mẹ nói tiếp :
Thế chiến Thế giới 1914-1918 lần đầu tiên Mẹ chứng kiến thời đại khoa học kỹ thuật của chiến tranh : Những Chiến Xa đầu tiên xuất hiện trên Chiến trường , những khẩu Súng Máy có thể bắn hàng trăm viên đạn một phút , Những khinh khí cầu chất đầy bom , do một phi công điều khiển hướng đến mục tiêu rồi thả xuống mục tiêu . Qua năm 1916 , những Phi Cơ , trang bị Súng Máy bắt đầu xuất hiện trên bầu trời, Qua năm 1917 , những Tàu ngầm -Tiềm Thuỷ đĩnh đã bắt đầu xuất hiện trên Đại Dương !
Cũng trong năm 1917 , Mẹ bắt đầu nghe nói về một Cường quốc hùng mạnh bên kia bờ Đại Tây Dương, Đó là xứ Hợp Chủng Quốc, vốn là thuộc điạ của Anh Quốc ! Họ tự cô lập với Thế giới bên ngoài cả trăm nay , để Kiến quốc ! đó là Mỹ Quốc vừa mới tham chiến tháng .4.1917 (6.4.1917) , do các Thương thuyền , và Dương Vận Hạm chứa vũ khí , lương thực : viện trợ một phần, còn phần còn lại bán cho Anh -Pháp -Nga bị Tàu ngầm Đức tấn công đánh chìm !
Năm 1917 trôi qua , dù có biến động của nước Nga, ! Nhưng Tổ Quốc Yêu dấu Lỗ Ma Ni vẫn là Đồng minh với Cộng Hoà Nga do Thủ tướng Tổng thống Kerensky Lãnh đạo . Đời sống của Mẹ vẫn trôi qua một cách êm ả , yên lặng, cuộc sống tạm đầy đủ ! Tatyana sắp sữa lên 4 tuổi .
Nhưng qua năm 1918 , sóng gió cuộc đời bắt đầu nổi lên trong cuộc đời Mẹ . Giọng nói của Mẹ u buồn hẳn đi :
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 24, 2014 5:30:32 GMT 9
Chống cộng sản theo phong cách cộng sản?
Thời đất nước bị thực dân Pháp cai trị khắc nghiệt, biết bao người yêu nước đã đầu quân dưới lá cờ của Hồ Chí Minh. Đọc những bài văn của ông Hồ kể tội thực dân Pháp, kêu gọi người dân đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ thực dân, hứa hẹn một tương lai thật tươi sáng cho đất nước, biết bao người lầm tưởng ông là một người yêu nước, là một nhà cách mạng thật sự. Nhưng than ôi, cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim rồi, Hồ Chí Minh thành lập ngay một chế độ độc tài còn hà khắc và chà đạp nhân quyền gấp bội thực dân Pháp. Dân tộc ta đúng là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”! Biết bao người yêu nước trước đây từng đầu quân dưới lá cờ “giải phóng dân tộc” của Hồ Chí Minh phải thất vọng, uất ức và hối hận vì mình đã lầm lẫn một cách nghiêm trọng, trở thành kẻ đồng loã với những tên tội đồ dân tộc, góp phần làm nên chế độ buôn dân bán nước hiện nay. Tình trạng Việt Nam hiện nay còn tệ hại hơn cả thời thực dân Pháp. Nhiều lực lượng trong và ngoài nước đã đứng lên đấu tranh, quyết tâm giải thể chế độ hiện hành. Những gì cần làm trong cuộc đấu tranh − như tố cáo tội ác của chế độ, thức tỉnh lòng yêu nước của toàn dân, kêu gọi người dân tham gia đấu tranh xóa bỏ chế độ… − thì Hồ Chí Minh ngày xưa đã làm, và hiện nay các đoàn thể đấu tranh chống độc tài cộng sản cũng đang làm. Nhưng vấn đề rất quan trọng cần phải nghiêm túc đặt ra là: sau khi giải thể chế độ độc tài phi nhân này thì chế độ thay thế nó là chế độ gì? Đừng để đất nước lâm vào cảnh “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa” như Hồ Chí Minh đã gây nên, là thay thế chế độ thực dân tàn bạo bằng chế độ cộng sản còn tàn bạo hơn gấp nhiều lần. Nhưng làm sao biết được chế độ mới mà chúng ta chủ trương thay thế chế độ độc tài toàn trị hiện nay có phải là một chế độ thật sự tự do dân chủ không? Một nguyên tắc giúp chúng ta biết được, đó là: cứ xem cây thì biết trái. Cây tốt ắt sinh trái tốt và cây xấu ắt sinh trái xấu. Ứng dụng nguyên tắc này vào cuộc đấu tranh chống thực dân của cộng sản ta thấy Hồ Chí Minh không hề áp dụng những nguyên tắc của các chế độ dân chủ mà chỉ sử dụng những phương cách mà các chế độ độc tài chuyên môn sử dụng. Do đó, dù Hồ Chí Minh có nói hay cỡ nào, hứa hẹn những điều tốt đẹp tới đâu, thì chế độ mà ông ta thành lập thời hậu Pháp thuộc ắt phải là một chế độ độc tài, phi nhân. Cũng vậy, cứ xem cách mà các đảng phái, đoàn thể hay cá nhân đang áp dụng trong cách đấu tranh hiện nay, ta có thể biết ngay sau khi giải thể được chế độ cộng sản, nếu những tập thể hay cá nhân đó nắm quyền, thì họ sẽ lập nên một nhà nước hay thể chế loại nào, độc tài hay dân chủ. Nếu khi chưa nắm được quyền bính mà họ đã hành xử như cộng sản thì chắc chắn khi nắm được quyền bính trong tay, họ sẽ hành xử không khác gì cộng sản. Cách hành xử của cộng sản có thể tóm gọn như sau: Cộng sản không chấp nhận sự khác biệt hay đa dạng trong lãnh vực chính trị đối với những người cùng theo đuổi mục đích chống thực dân đế quốc như họ. Vì thế, họ tìm cách bách hại hay tiêu diệt những ai tư tưởng hay có lập trường chính trị khác với họ. Họ không chấp nhận khác biệt hay đối lập. Đối với họ, đối lập hay khác biệt đồng nghĩa với chống đối, là đối thủ, là kẻ thù, cần phải trừng trị hoặc tiêu diệt. − Hiện nay, rất nhiều người cùng quyết tâm chống độc tài cộng sản, cùng đấu tranh cho tự do dân chủ như chúng ta, nếu có ai nói nghịch tai ta, khác quan điểm hay lập trường của ta, mà ta quyết triệt hạ họ, mạt sát họ hết ngày này qua tháng khác, thì ta cũng đâu khác gì cộng sản? Người dân trong và ngoài nước cũng như chính giới các nước dân chủ làm sao ủng hộ ta được khi thấy ta hành xử y hệt cộng sản? Cộng sản chủ trương tuyên truyền dối trá, lừa đảo miễn sao có lợi cho mình và có hại cho đối thủ. Họ triệt để áp dụng câu nói của Goebel: “Một câu chuyện dù hoàn toàn không đúng sự thật, nhưng nếu chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại, thì lúc đầu dân chúng có thể không tin, nhưng rồi sẽ bán tín bán nghi, và nếu cứ tiếp tục nhắc lại mãi thì cuối cùng họ sẽ phải tin đó là sự thật.” − Để hạ thủ những người khác lập trường hoặc bất lợi cho mình, cộng sản sẵn sàng dựng chuyện, vu khống và tuyên truyền bằng đủ mọi phương tiện để hạ uy tín, để mọi người nghĩ xấu và tẩy chay họ. Để mọi người dễ tin hơn, ngoài việc “tuyên truyền đen” là vu khống trắng trợn, cộng sản còn sử dụng “tuyên truyền xám” là dựa trên những sự kiện có thật để từ đó bịa thêm những tình tiết bất lợi cho đương sự. Nhờ những sự kiện có thật đó, người dân dễ tin vào những tình tiết bịa đặt kia. Cộng sản sẵn sàng chụp mũ “phản động” cho những ai chúng không ưa hay có khả năng cạnh tranh với chúng. − Nếu ta cũng áp dụng câu nói của Goebel, sẵn sàng dựng chuyện vu khống người khác, chụp mũ cộng sản cho những ai ta không ưa, thì ta có khác gì cộng sản? Làm sao những quốc gia có lý tưởng dân chủ chấp nhận ủng hộ những lực lượng đấu tranh nhằm giải thể chế độ độc tài cộng sản khi họ nhìn thấy những lực lượng này nếu thành công thì sẽ thành lập nên một chế độ độc tài khác, cũng chụp mũ, vu khống y như cộng sản? Cộng sản chủ trương “thà bắt lầm hơn bỏ sót”: chỉ cần nghe vài câu nói hay thấy một hành động đáng nghi nào đó là đã vội kết án bừa bãi, sẵn sàng bỏ tù hay tiêu diệt người ta. Đối với cộng sản, kết án oan một người hay hàng trăm người không phải là vấn đề. Điều này chúng ta thấy rất rõ qua những phiên tòa cộng sản, nhất là những phiên tòa xử những người bất đồng chính kiến. − Còn các chế độ thật sự dân chủ thì chủ trương “thà tha lầm hơn bắt lầm”. Nếu chỉ là nghi ngờ, chưa đủ bằng chứng để kết tội, thì vẫn phải coi đối tượng là hoàn toàn vô tội. − Trong hai cách đó, ta hành xử theo cách nào? Nếu chỉ dựa vào một vài sự kiện khả nghi nào đó mà ta đã vội kết án những người cùng đấu tranh dân chủ với ta là cộng sản, là thân cộng, hay chụp cho họ một cái mũ bất lợi nào đó, thì cộng sản với ta có gì khác nhau? Nhiều người đã bỏ cuộc, rời hàng ngũ đấu tranh vì bị chụp mũ vô cớ, hoặc nhìn thấy những người đấu tranh khác bị chụp mũ. Họ không còn tin tưởng vào chính nghĩa của những người mang danh đấu tranh dân chủ mà lại sẵn sàng chụp mũ người khác như thế! Cộng sản chủ trương dùng bạo lực để ép buộc người khác phải làm theo ý muốn hay đường lối của mình. Ai không theo thì khủng bố, hành hung, tra tấn, sách nhiễu. Trong cuộc cải cách ruộng đất, nhiều người bị buộc phải đấu tố địa chủ mà đành phải đấu tố mặc dù biết người mình đấu là vô tội, thậm chí còn là người ơn của mình nữa. Chỉ vì sợ bị khủng bố, phiền nhiễu mà đành phải làm điều trái với lương tâm, đạo nghĩa. − Nếu ta cũng dùng bạo lực và khủng bố để ép buộc người khác phải theo hoặc ủng hộ lập trường của mình, không chấp nhận cho họ được tự do bày tỏ điều họ nghĩ, thì ta khác cộng sản ở chỗ nào? Thời đại tân tiến hiện nay, bạo lực và khủng bố có nhiều dạng, chẳng hạn qua những phương tiện truyền thông như truyền thanh, truyền hình, internet, email, facebook… không nhất thiết phải dùng tới súng đạn, dao búa hay thứ vũ khí khác. Nhiều người mang danh đấu tranh nhưng không dám nói dám làm những gì cần phải nói phải làm chỉ vì sợ bị khủng bố bởi chính những kẻ cùng chiến tuyến với mình, họ sợ “tự đưa lưng cho người ta đánh”, sợ “bị văng miểng”. Để hô hào đấu tranh, cộng sản khích động hận thù bằng cách tuyên truyền về những tội ác có thật của thực dân Pháp, và bịa ra những tội ác để gán cho “đế quốc Mỹ” và chính quyền Miền Nam Việt Nam. Bị tuyên truyền, nhiều người dân tin thật, đâm ra căm thù rồi tình nguyện chống lại những người mà cộng sản muốn chống. − Nếu ta cũng dựng chuyện, vu khống để tuyên truyền gây chia rẽ, hận thù, để mọi người cùng với ta căm thù kẻ ta ghen ghét, kẻ bị ta coi là đối thủ, mặc dù họ hoàn toàn vô tội, thì ta cũng độc ác đâu thua kém gì cộng sản? Cộng sản chủ trương sử dụng bất kỳ phương tiện nào, kể cả những việc thất đức tàn ác, miễn sao đạt được mục đích mình muốn. Còn các chế độ dân chủ không chấp nhận những phương tiện trái đạo đức. − Nếu ta cũng sẵn sàng làm những chuyện thất đức, vu oan giá họa cho người để đạt được những gì ta muốn, thì ta tuy chống cộng sản nhưng cũng xấu xa đâu kém gì chúng? Vậy thì chúng ta đang chống cộng, đang đấu tranh cho tự do dân chủ theo kiểu nào? Kiểu độc tài cộng sản hay kiểu tự do dân chủ? Nếu đấu tranh chưa thành công, chưa nắm được quyền lực trong tay mà chúng ta đã xử sự giống hệt cộng sản thì lấy gì bảo đảm rằng thể chế mà chúng ta sẽ thành lập tốt hơn chế độ cộng sản hiện nay? Nếu giải thể chế độ cộng sản để lập nên một chế độ khác cũng độc tài, khủng bố, thất đức như cộng sản, thì chính ta cũng nguy hiểm cho dân tộc không kém gì cộng sản? Cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ hiện nay đang bị hai loại người sau đây cản trở: (a) Những người cộng sản công khai hoặc dấu mặt, nằm vùng; (b) Những người thật sự chống cộng nhưng với não trạng độc tài và thất đức, cách hành xử không khác gì cộng sản; họ chống cộng mạnh hơn ai hết nhưng cách họ chống y hệt cách cộng sản chống thực dân Pháp và chống Mỹ trước đây. Chúng ta cần xét lại cách đấu tranh của mình và sửa đổi lại nếu cần. Nếu đấu tranh dân chủ hay chống cộng theo kiểu cộng sản, chúng ta sẽ đánh mất chính nghĩa. Hành xử như người cộng sản để bảo vệ chính nghĩa chẳng khác gì uống thuốc độc để bảo vệ sức khỏe. Sức khỏe chẳng những không giữ được mà còn gây bệnh hoặc chết người. Là người đấu tranh dân chủ, hãy hành xử theo tinh thần dân chủ! Chỉ như thế chúng ta mới giữ được chính nghĩa, và cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của chúng ta mới thành công! Houston, ngày 15/9/2014. Nguyễn Chính Kết
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 24, 2014 6:55:40 GMT 9
Trần Dần – Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh 1955-1956 (1)
Phạm Thị Hoài biên soạn
Sau đợt „vi phạm kỉ luật“ lần thứ nhất và bị giam kiểm thảo từ 13/6 đến 14/9/1955 [1], nhà thơ Trần Dần được cử đi dự hội nghị tổng kết đợt 4 và tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, đợt cuối cùng của cuộc cách mạng „long trời lở đất“ ở nông thôn Việt Nam sáu mươi năm trước. Phổ biến với tên gọi „đi thực tế“, đó là hình thức đưa các văn nghệ sĩ và trí thức vào „thực tế cách mạng“ của công nhân, nông dân và binh sĩ, trụ cột của liên minh quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, để thúc đẩy và củng cố „giác ngộ giai cấp“ của tầng lớp trí thức, vốn được gắn với ý thức hệ tiểu tư sản, hay dao động và thiếu „tinh thần cách mạng triệt để“. Không chỉ riêng Trần Dần đi thực tế. Trong cuốn sổ ghi chép năm 1955 của mình, ông ghi: „Hoàng Yến [2] than phiền: Mình đi CCRĐ. Ai thấy mình cũng thành kiến là mình đả Tố Hữu, đả Trung uơng. Thành thử khó làm ăn quá.“ Ngày 2/11/1955, ông ghi: „Trước khi đi, Văn Phác [3] họp một số anh em, những Văn Cao, Lương Ngọc Trác [4], [...], Đỗ Nhuận để dặn dò. Văn Cao: Tôi thấy đi có lợi lắm, [...] dĩ nhiên là lợi lắm. Trước kia đồng chí Trần Dần hay tự do sinh hoạt, tôi lo nhỡ ra đồng chí Trần Dần lại khuyết điểm thì bỏ mẹ chúng mình. [...]“
Ngày 3/11, Trần Dần đến Bắc Ninh, được phân công vào đội Thái Hoà ở xóm Thịnh Lang, Đình Bảng. Thời gian dự hội nghị tổng kết đợt 4 được ông ghi lại như sau:
6/11: Khai mạc – 1 ngày 6-9/11: Học nghị quyết trung ương – 4 ngày 11-18/11: Báo cáo Đảng – 7 ngày 19-22/11: Kinh nghiệm cụ thể một số vấn đề – 4 ngày 23-27/11: Chỉnh đốn tổ chức – 5 ngày 28/11- 4/12: Chỉnh huấn – 7 ngày 5-14/12: Sắp xếp đội ngũ, khái quát 4 bước, kinh nghiệm, sản xuất, công giáo, kế hoạch buớc 1-10 ngày Cộng: 38 ngày
Tháng 2/1956 ông đã quay lại Hà Nội, như vậy ông chỉ tham quan hai tháng đầu của đợt 5, còn chủ yếu là tham dự hội nghị tổng kết đợt 4, nhưng có lẽ chỉ ở tư cách dự thính. Ông ghi:
Đoàn ủy viên bảo TD: – Sớm nay đi họp đảng viên nhé. TD: – Tôi không được họp. Đoàn ủy viên im lặng không nói gì. Lát sau đồng chí Khoa lại bảo TD đi họp. TD: – Tôi không được họp. TD đem ít báo CCRĐ đợt 4 ra đầu ngõ ngồi xem. Ngõ rải đầy rơm mới xanh úa, nắng nửa ngõ, bóng râm nửa ngõ. Gà nó bới tung cả rơm. Một bà xi con đái đầu ngõ. Mấy đứa trẻ lăn lộn tùng phèo trên đống rơm. Trong nhà họp Đảng. TD muốn để cả tâm trí vào tờ báo, song lại lơ đãng nhìn nắng, nhìn rơm, những ý nghĩ nó để đi đâu. TD đứng dậy không thèm rũ rơm, đi tìm một cái quán ngồi ăn chút gì, nói chuyện với bà hàng, nghĩ đi đâu, nhưng chợt lại nhớ rằng ở nhà Đảng đang họp. TD không được họp.
Như vậy ghi chép của ông về CCRĐ là những thu hoạch từ hội nghị tổng kết đợt 4 này, không phải từ trải nghiệm trực tiếp, vì thế chúng cũng không được đề ngày tháng nối tiếp như các ghi chép mang tính nhật kí khác. Tuy vậy, những trang „ghi nóng“ này, ngay giữa cao trào của CCRĐ, là những tư liệu lịch sử quý giá, lẽ ra chúng phải chiếm một vị trí đặc biệt trong một triển lãm về CCRĐ. Tôi đã đưa một phần những ghi chép này vào cuốn Trần Dần: Ghi 1954-1960, do nhà Văn Nghệ ở California in năm 2001. Nhân sự kiện cuộc triển lãm về CCRĐ tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội phải đóng cửa sau vài ngày, đánh thức sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận về một chương đau đớn trong lịch sử Việt Nam, tôi bổ sung vào phần đã công bố nhiều đoạn khác, mong được một công luận rộng rãi tại Việt Nam tiếp cận.
Những nghiệm thu của Trần Dần đặc biệt thú vị vì một mặt ông vẫn còn là một „cán bộ“ trong guồng máy tuyên truyền của Đảng, chấp hành về căn bản những đường lối lớn của Đảng; thậm chí quan sát thực tế CCRĐ qua một lăng kính và một bộ lọc thông tin chính thống hoặc không xa chính thống. Mặt khác, cũng chính thực tế đó đã khiến ông không hòa giải được với Đảng của mình mà ngược lại. Số phận bất đồng chính kiến mà ông vừa bắt đầu đã đi tiếp những kịch tính của nó, để rồi dẫn đến Nhân văn-Giai phẩm không lâu sau đó mà tín hiệu rõ ràng nhất là truyện ngắn „Anh Cò Lấm“ viết về CCRĐ của ông, với bút danh Trần Bá Xá. Cuối tháng 1/1956, tạp chí Tổ quốc số 27 đăng truyện ngắn này. Đầu tháng 3/1956, cũng tạp chí này, số 30, đăng lời „Tự phê bình“ gay gắt vì đã „sai lầm nghiêm trọng“, không nhận ra „mánh khóe tinh vi“,„tính chất phản động“ của tác phẩm đó [5]. Nhân văn-Giai phẩm rất cần đặt chung với Cải cách Ruộng đất trong cùng một khung cảnh chính trị.
Bản gốc các sổ ghi chép của Trần Dần vẫn được lưu tại gia đình ông. Bản chụp tôi có trong tay nhiều đoạn không đọc rõ, sau đây được kí hiệu bằng dấu [...]. Khi biên soạn những cuốn sổ ghi chép vốn không dành cho công luận này, việc chọn, bỏ, sử dụng nguyên văn hay can thiệp vào văn bản, dù chỉ là sửa chính tả, đều đặt người biên soạn trước những quyết định khó khăn, nhất là khi phần ghi chép về CCRĐ của Trần Dần lại nằm tương đối không theo trật tự thời gian trong 3 cuốn số khác nhau. Người biên soạn mong được sự thông cảm và hi vọng khi toàn bộ di cảo của Trần Dần được công bố, dựa trên bản gốc dễ đọc hơn, những sai sót nếu có trong văn bản sau đây chắc chắn sẽ được sửa lại.
Phạm Thị Hoài
___________
Sau đợt „vi phạm kỉ luật“ lần thứ nhất và bị giam kiểm thảo từ 13/6 đến 14/9/1955 [1], nhà thơ Trần Dần được cử đi dự hội nghị tổng kết đợt 4 và tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, đợt cuối cùng của cuộc cách mạng „long trời lở đất“ ở nông thôn Việt Nam sáu mươi năm trước. Phổ biến với tên gọi „đi thực tế“, đó là hình thức đưa các văn nghệ sĩ và trí thức vào „thực tế cách mạng“ của công nhân, nông dân và binh sĩ, trụ cột của liên minh quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, để thúc đẩy và củng cố „giác ngộ giai cấp“ của tầng lớp trí thức, vốn được gắn với ý thức hệ tiểu tư sản, hay dao động và thiếu „tinh thần cách mạng triệt để“. Không chỉ riêng Trần Dần đi thực tế. Trong cuốn sổ ghi chép năm 1955 của mình, ông ghi: „Hoàng Yến [2] than phiền: Mình đi CCRĐ. Ai thấy mình cũng thành kiến là mình đả Tố Hữu, đả Trung uơng. Thành thử khó làm ăn quá.“ Ngày 2/11/1955, ông ghi: „Trước khi đi, Văn Phác [3] họp một số anh em, những Văn Cao, Lương Ngọc Trác [4], [...], Đỗ Nhuận để dặn dò. Văn Cao: Tôi thấy đi có lợi lắm, [...] dĩ nhiên là lợi lắm. Trước kia đồng chí Trần Dần hay tự do sinh hoạt, tôi lo nhỡ ra đồng chí Trần Dần lại khuyết điểm thì bỏ mẹ chúng mình. [...]“
Ngày 3/11, Trần Dần đến Bắc Ninh, được phân công vào đội Thái Hoà ở xóm Thịnh Lang, Đình Bảng. Thời gian dự hội nghị tổng kết đợt 4 được ông ghi lại như sau:
6/11: Khai mạc – 1 ngày 6-9/11: Học nghị quyết trung ương – 4 ngày 11-18/11: Báo cáo Đảng – 7 ngày 19-22/11: Kinh nghiệm cụ thể một số vấn đề – 4 ngày 23-27/11: Chỉnh đốn tổ chức – 5 ngày 28/11- 4/12: Chỉnh huấn – 7 ngày 5-14/12: Sắp xếp đội ngũ, khái quát 4 bước, kinh nghiệm, sản xuất, công giáo, kế hoạch buớc 1-10 ngày Cộng: 38 ngày
Tháng 2/1956 ông đã quay lại Hà Nội, như vậy ông chỉ tham quan hai tháng đầu của đợt 5, còn chủ yếu là tham dự hội nghị tổng kết đợt 4, nhưng có lẽ chỉ ở tư cách dự thính. Ông ghi:
Đoàn ủy viên bảo TD: – Sớm nay đi họp đảng viên nhé. TD: – Tôi không được họp. Đoàn ủy viên im lặng không nói gì. Lát sau đồng chí Khoa lại bảo TD đi họp. TD: – Tôi không được họp. TD đem ít báo CCRĐ đợt 4 ra đầu ngõ ngồi xem. Ngõ rải đầy rơm mới xanh úa, nắng nửa ngõ, bóng râm nửa ngõ. Gà nó bới tung cả rơm. Một bà xi con đái đầu ngõ. Mấy đứa trẻ lăn lộn tùng phèo trên đống rơm. Trong nhà họp Đảng. TD muốn để cả tâm trí vào tờ báo, song lại lơ đãng nhìn nắng, nhìn rơm, những ý nghĩ nó để đi đâu. TD đứng dậy không thèm rũ rơm, đi tìm một cái quán ngồi ăn chút gì, nói chuyện với bà hàng, nghĩ đi đâu, nhưng chợt lại nhớ rằng ở nhà Đảng đang họp. TD không được họp.
Như vậy ghi chép của ông về CCRĐ là những thu hoạch từ hội nghị tổng kết đợt 4 này, không phải từ trải nghiệm trực tiếp, vì thế chúng cũng không được đề ngày tháng nối tiếp như các ghi chép mang tính nhật kí khác. Tuy vậy, những trang „ghi nóng“ này, ngay giữa cao trào của CCRĐ, là những tư liệu lịch sử quý giá, lẽ ra chúng phải chiếm một vị trí đặc biệt trong một triển lãm về CCRĐ. Tôi đã đưa một phần những ghi chép này vào cuốn Trần Dần: Ghi 1954-1960, do nhà Văn Nghệ ở California in năm 2001. Nhân sự kiện cuộc triển lãm về CCRĐ tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội phải đóng cửa sau vài ngày, đánh thức sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận về một chương đau đớn trong lịch sử Việt Nam, tôi bổ sung vào phần đã công bố nhiều đoạn khác, mong được một công luận rộng rãi tại Việt Nam tiếp cận.
Những nghiệm thu của Trần Dần đặc biệt thú vị vì một mặt ông vẫn còn là một „cán bộ“ trong guồng máy tuyên truyền của Đảng, chấp hành về căn bản những đường lối lớn của Đảng; thậm chí quan sát thực tế CCRĐ qua một lăng kính và một bộ lọc thông tin chính thống hoặc không xa chính thống. Mặt khác, cũng chính thực tế đó đã khiến ông không hòa giải được với Đảng của mình mà ngược lại. Số phận bất đồng chính kiến mà ông vừa bắt đầu đã đi tiếp những kịch tính của nó, để rồi dẫn đến Nhân văn-Giai phẩm không lâu sau đó mà tín hiệu rõ ràng nhất là truyện ngắn „Anh Cò Lấm“ viết về CCRĐ của ông, với bút danh Trần Bá Xá. Cuối tháng 1/1956, tạp chí Tổ quốc số 27 đăng truyện ngắn này. Đầu tháng 3/1956, cũng tạp chí này, số 30, đăng lời „Tự phê bình“ gay gắt vì đã „sai lầm nghiêm trọng“, không nhận ra „mánh khóe tinh vi“,„tính chất phản động“ của tác phẩm đó [5]. Nhân văn-Giai phẩm rất cần đặt chung với Cải cách Ruộng đất trong cùng một khung cảnh chính trị.
Bản gốc các sổ ghi chép của Trần Dần vẫn được lưu tại gia đình ông. Bản chụp tôi có trong tay nhiều đoạn không đọc rõ, sau đây được kí hiệu bằng dấu [...]. Khi biên soạn những cuốn sổ ghi chép vốn không dành cho công luận này, việc chọn, bỏ, sử dụng nguyên văn hay can thiệp vào văn bản, dù chỉ là sửa chính tả, đều đặt người biên soạn trước những quyết định khó khăn, nhất là khi phần ghi chép về CCRĐ của Trần Dần lại nằm tương đối không theo trật tự thời gian trong 3 cuốn số khác nhau. Người biên soạn mong được sự thông cảm và hi vọng khi toàn bộ di cảo của Trần Dần được công bố, dựa trên bản gốc dễ đọc hơn, những sai sót nếu có trong văn bản sau đây chắc chắn sẽ được sửa lại.
Phạm Thị Hoài
___________
Vụ tự sát ở xã Quốc Tuấn
1) Nguyễn Văn Cộng 47 tuổi. CCRĐ bị duyệt là bá, hôm sau cả hai vợ chồng thắt cổ tự vẫn. Nghe bên nhà nó có tiếng động mạnh, cán bộ chủ quan cho là trâu bò cọ mình, nên không sang.
2) Nguyễn Văn Ân. Nghi phú ông, tự sát. Bị đình chỉ sinh hoạt. Ăn một bữa thịt chó cho sướng đời.
Những vụ tự sát như vậy – nhất là vụ 2 – không ngăn ngừa được thì rất hại chính trị và sai chính sách. Cán bộ kiểm điểm: tả, thiếu cảnh giác.
*
Chết vì bức tử
Ở Hoàn Long. Vợ cán bộ CCRĐ. Chị bị hậu sản, không làm ăn gì được.
Tay sai địa chủ dọa dẫm: „Chị [...] ăn bám. Chị là địa chủ rồi. Nay mai sẽ đấu, không ai đi lại chơi bời với nữa. Ra đường phải gọi trẻ con là ông.“
Chị toan treo cổ mấy lần, chú và mẹ chồng biết, ngăn lại được. Nhưng cứ bị dọa dẫm [...] đi đâu cũng không thoát. Rừng xanh núi đỏ cũng bắt về đấu. Hoang mang mãi, rốt cục bị điên đầu bể óc. Hai mẹ con cùng chết.
Địa chủ như vậy. Khi chúng mất ruộng, chúng còn cố bắt mạng của người ta.
*
Thuốc độc
Ở Quỳnh Côi địa chủ sai người bỏ thuốc độc ám hại cán bộ CCRĐ và nhân dân. Trong 4 ngày 3 vụ liền.
Một vụ: chúng cho một em bé có 100 $, đưa em một cục bằng quả chanh, bảo em vào chơi chỗ cấp dưỡng rồi tìm cách bỏ lẻn cục thuốc vào nồi nước. Anh chị em cấp dưỡng vô tình, lại hay mến trẻ, đứa bé lên 10 kháu khỉnh ngây thơ ngày nào chả chơi ở đó, ai mà chẳng yêu.
Em bé đánh rơi cục thuốc, vỡ ra, em chỉ nhặt có một mảnh bằng ngón tay cái. Lừa lúc vô tình, em bỏ vào nồi nước.
Kết quả: 76 anh chị em cán bộ bị đi tả, nôn mửa mất 3 ngày, tưởng chết, – may có thuốc giã ngay từ hôm đầu, không có thì nguy.
*
Đem nhà ngói trả Nông hội
Ông cụ gàn dở bị nó dọa: nhà ngói này sắp đổ. Địa chủ nó chết thành ma, nó quật đổ nhà chết người. Ông cụ hoảng quá đem nhà ra trả nông hội.
*
Một vụ ám sát cả gia đình 7 người
Bọn Quốc dân Đảng giết cả một gia đình: 5 người con nhỏ nằm chết ngang giường, người mẹ nằm dọc, cổ tím bầm cả, chắc là bị bóp cổ. Người cha treo cổ kèo nhà. Khám thi thể không thấy hộc máu vãi cứt, tức là không phải chết vì treo cổ, mà có vết tay ở cổ, chắc bị chúng bóp chết rồi mới treo lên.
Ta mất với địa chủ 7 người, một gia đình nông dân, một cái rễ tốt, một đầu mối biết rất nhiều về bọn địa chủ và Quốc dân Đảng ở đó.
*
Cảnh giác quá
Hội nghị họp ở Đình Bảng, đã giảm tô, bọn phản động càng hoạt động dữ: cắt điện thoại, đốt nhà một lần, ném đá hai lần.
Có anh phê bình ngay Đoàn ủy là thiếu cảnh giác. Vậy thì muốn có cảnh giác phải lên trời mà họp hay sao?
Một anh khác đóng ở một gia đình rất tốt. Anh em đi vắng, chủ nhà cất ba lô vào buồng rồi khóa. Anh ta bị ám ảnh những địch, phản động nọ kia, vội phê bình: ta mất cảnh giác cao độ! [...] Người ta gọi là cảnh giác quá. Quá nghĩa là lố bịch, gàn, hoảng hốt.
*
Không mưa mà cũng có ếch
Khi thảo luận nội quy, chị X cứ thắc mắc về mục: „Thế nhỡ anh ấy ở đoàn bạn, lâu ngày mới gặp thì có được đi nói chuyện với nhau không?“.
Anh em can: Không nên đi một trai một gái nhiều quá. Tuy là vô tư nhưng nhân dân có con mắt nghi ngờ, kẻ địch có cái miệng hiểm, đàn bà có cái lưỡi bép xép, v.v…
Về sau ban đêm có hai cái bóng cõng nhau ngoài đồng. Ì ọp mãi. Có anh thấy vắng chị ở giường, mãi sau chị mới về, thay quần áo ban đêm. Anh đâm nghi, hôm sau báo cáo.
Dư luận nhân dân tức thì ngay hôm ấy có ngay câu: „Không mưa mà lại có ếch. Ếch to lắm, cõng nhau ngoài đồng.“.
Về sau chị X mới kiểm thảo ra. Và dĩ nhiên chịu kỉ luật của đoàn.
Chị X: mắt một mí, lông mi nhổ còn một vệt cong mà sắc, hay hát „từng đoàn bươm bướm xinh, tung tăng cánh bay vờn…“, người thanh, mặt trái xoan, mắt đảo như chớp, giọng nói uốn éo.
*
[...] figures
1. Đội trưởng Thái Hòa tên là ông Liễu. Người gày đét, quần áo nâu bạc, khoác một cái vét ton tím, có giòng giọc trắng đã bạc, cổ áo đã sờn, khuỷu tay áo rách lòi vải lót trắng. Mũ trắng phở. Đeo kính. Mặt khô đét. Nhưng đôi môi dầy lúc nào cũng mở làm cho bộ mặt có cái gì dễ tính. Cả mặt chỉ có đôi môi là có duyên. Cả mặt chỉ thấy môi. Thành phần gì? – Trung nông. Quê đồng chí phát động chưa? – Chưa. Vậy thì cái trung nông ấy là có vấn đề đấy. Đánh một cái dấu hỏi. Ông Liễu cười khì.
2. Đội trưởng đoàn giảm tô Vĩnh Phúc trước sát nhập sang đây chỉ làm đội viên. Trên 40 tuổi. Mắt to, vuông. Mắt sâu vào lỗ, xong lại lồi lên trong đáy, viền đỏ; khi nhìn cứ trờn trợn đôi mắt toét lên, lông mày nhấp nháy, đôi môi mỏng mà sắc, hai mép nhọn hoắt cứ mấp máy, bộ mặt tuy xanh vàng nhưng có lẫn những vầng máu đỏ nó tụ lên, cổ khoác khăn mặt, quần áo nâu mới, dáng cứng, tất cả toát lên một cái vẻ gì hào lý cũ. Ăn nói sang sảng, gọi người trống không. Có ai thắc mắc gì không? – Không đâu, nhưng tổ tôi có lẽ có anh Tôm anh Tiếc gì đấy thắc mắc sát nhập gì đó… Phải không?… Có thì nói lên… Nhưng không ai nói cả… Ông ta cười.
Bên kia làm đội trưởng, sang đây làm đội viên, ông ta có thắc mắc ngầm nhưng không nói, định xui bẩy đội viên khác nói. Phát biểu ra vẻ đành hanh, kiểu ta đây biết rồi: – Kinh nghiệm bên Quỳnh Côi thế này là ổn lắm… Chứ đây thì…
Làm ra vẻ không có thắc mắc, càng cố tích cực. Ban sáng, xắn quần gánh một gánh nước đầy về cho anh em rửa mặt. Đấy, nước đấy các cậu ạ… Chiềng hết người này người nọ.
Hội trường kém 7 đầy 5 nghìn người, mà ông ta đề nghị: ra từng đội, hết đội này đến đội khác cho nó có trật tự! Người ta phản đối, vì lâu quá, mất 4,5 tiếng đồng hồ sao? Ông ta nhất định giữ ý kiến: cần phải trật tự. Người ta có cảm tưởng ai làm việc với ông ta sẽ bị biến thành con cờ gỗ, tùy ông xếp đặt cho nó đẹp mắt, gọn gàng, khỏi lung tung có vấn đề gì lôi thôi cho ông ta.
Tôi xin thảo luận, theo tôi thì anh em ở cải cách mới có biết chứ chúng tôi ở giảm tô thì biết sao được. Mà theo Đảng ủy thì bảo rằng bên cải cách là chính cơ mà.
Phát biểu gì là có tính cách thay mặt anh em Vĩnh Phúc. Kiểu anh chị. Hay cãi. Hay chối. Hay chiềng. „Sở dĩ tôi nói thế là vì… Ý tôi là thế này cơ… Đấy tôi làm việc ấy đấy…“
*
Gọi „bà Quản“ là mất 5 cân gạo
Đội vừa về, đi đâu thấy dân đang nói chuyện bỗng im thin thít. Mãi sau mới là vì có tin tung ra đội phát động về, hễ ai gọi ông bà là bị phạt 5 cân gạo. Thành ra dân sợ, giữ mồm miệng. Nếu nói kiêng thì phải kiêng nhiều lắm: Ông Quản, bà Lý, ông Hào, cụ Thơ, ông Chánh, bà Giáo…
Đã biết ai là địa chủ ai không mà tránh? Đâu mà đã dễ đổi giọng lưỡi, hôm qua ông bà, hôm nay thằng ngay? Đó là tâm lý của nhân dân. Chi bằng giữ miệng là hơn.
*
Vụ lựu đạn Xã Cảnh Hưng (Phủ Từ Sơn)
9 người chết, 39 người bị thương. Đang hội nghị, nhân dân thì bị ném lựu đạn. Sau bắt ra thủ phạm: con địa chủ, là học sinh, mới ở Hà Nội về.
*
Cấm thoái tô
Chúng cấm không địa chủ nào được thoái tô cho nông dân. Một địa chủ xin ta về sớm mai sẽ trù tính thoái tô. Chúng lẻn ban đêm vào bóp cổ cả hai vợ chồng địa chủ này; xong đem lên gác, buộc thừng vào cổ, chằng hai đầu vào hai tay, xếp hai vợ chồng sóng soài trên sàn gác, làm như họ tự vẫn.
Chúng giết lẫn nhau để cảnh cáo nhau và để vu cho cán bộ ta.
*
Lương giáo
Lương giáo gặp nhau, tránh vào ngõ, rẽ đường khác. Đang ngồi hàng bỏ đi. Không thèm nói với nhau một câu nào.
*
Giết rễ
Ông cụ đi đồng về. Vợ đang phơi thóc ngoài sân. Ông cụ ngả nón vào buồng định nghỉ hút điếu thuốc. Lát sau bà vợ vào thấy chồng nằm thẳng cẳng. Trên mái nhà có một lỗ hổng.
Chúng rỡ mái ra vào bằng đường ấy, giết mất ông cụ.
*
Ta khác địa chủ
Một anh cán bộ X thấy tịch biên gia sản của địa chủ, lại tịch thu từ cái tã của con cái nó. Anh thương lắm.
Anh Y bảo: Thường gì nó? Nó có thương con cái nhân dân mình đâu?
Anh X đáp: Tôi nghĩ ta khác địa chủ ở chỗ đó. Những đứa bé con kia có tội tình gì? Chúng nó giết trẻ con. Chúng ta cứu trẻ con chứ, Mà phải cứu cho trẻ con thoát cả khỏi ảnh hưởng bố mẹ nó nữa chứ.
*
Không đem xe đạp – Ông tỉnh đội trưởng không biết gì
Trước khi đi, ông tỉnh đội trưởng không biết nghe đâu về nói ầm ầm với anh em những đi cải cách phải mặc quần áo nâu, không được mang theo xe đạp… Ông ấy gắt ngậu lên cơ mà. Đem xe đạp đi mà nát nông dân à?
Thế là có anh gửi, có anh bán xe đáng 8, 9 vạn chỉ bán 6, 7 vạn thốc tháo đi. Tới nơi mới thấy là không có xe đạp thì khổ quá [...] dại quá, nghe ông tỉnh đội trưởng không biết gì ấy đâm ra khổ. Phàm ở đời, những anh không biết gì lại là những anh ngậu xị, nhắng nhất.
Gắt: Đi cải cách mà ăn vận công tử vậy à (quân phục mới)? Xe đạp với xe điếc, đem đi người ta lại đuổi về cho ấy à? Đừng có làm xấu hổ tỉnh đội ta đi. Tôi xin các ông, các ông miễn cho cái món xe cộ xa xỉ ấy đi cho. Ba cùng mà lại còn kè kè cái xe bên cạnh sao? Giải quyết thế nào á? Gửi đi… Bán đi… Chiều nay là lên đường rồi… Lại còn coi cái xe hơn là cải cách sao?…
*
Gánh củi đi nhanh
Cán bộ ba cùng với một anh làm nghề đốn củi rừng bán kiếm ăn. Ban sớm đi theo anh vào rừng. Anh ta đi thoăn thoắt, cán bộ theo không kịp, một lát thì thấy mất hút, vào rừng tìm mãi mới thấy anh ta thì bó củi đã to rồi. Cán bộ đẵn giúp ít cành, cũng chưa kịp phát động gì cả. Anh kia bó vội thành hai bó, xâu đòn gánh chạy về. Cán bộ đuổi theo không kịp. Loáng cái lại mất hút. Cán bộ nghĩ có lẽ anh ấy sợ cán hộ hay sao? Có vấn đề gì mà cứ lẩn như vậy?
Mãi sau mới biết: chỉ vì anh ấy không có gạo, phải vội đi vội về, bán củi lấy tí gạo mà ăn.
*
[...]
Cạnh thị xã Bắc Ninh. Hơn 4000 người/ 43 địa chủ.
Một tên giả điên cầm dao đi các xóm thực hiện âm mưu đe dọa, phản tuyên truyền, của địa chủ. Một ông cụ trung nông, gù, mất lao động, ăn nhờ gia đình bị đe dọa là Việt Minh sẽ đấu, coi là địa chủ. Ông hoảng hốt định tự vẫn.
Bọn phản động bàn nhau giết hai tên đã già mà hay hoang mang của chúng (Côn và Mưu). Để khi đội về sẽ tố cả vào hai tên đã chết ấy.
Con giai giết bố (Tuân)
Tây: như nắm tay co vào rồi sẽ duỗi ra. Nhân dân đấu địa chủ. Tây về, địa chủ lại đấu nhân dân. Ai có tội, ngụy quân ngụy quyền v.v… Việt Minh nó sẽ đấu hết. Chào thầy Cai,… Chết bà mất lập trường rồi.
*
Đấu tên Bút
Anh Bông là một anh em họ, làm thẩm phán. Anh nói đến một tiếng đồng hồ để thanh minh sự liên quan của anh với tên Bút. Quần chúng xì xào, anh em với nó thì kể lể gì? Ai cũng sốt ruột. Cán bộ véo anh Bông hai lần, véo cái nào Bông càng thanh minh dài dòng mãi. Trời nắng nhễ nhại. Cuối cùng Bông cũng im, hết lời lải nhải.
Trong khi đấu, tên Bút cứ nhìn lên trời. Anh Bông tố. Xong hỏi, Bút, mày có nhận không? – Dạ thưa ông, bố ông chết tôi phải chôn, mẹ ông đi lấy chồng tôi phải rước ông với các con ông về nuôi. Ông tố vậy, chúng tôi xin nhận là có ạ. Xong nó lại nhìn lên trời cười ha hả.
Quần chúng có người cười. Có người mắng: Lại còn cười, mất cả lập trường. Có người chửi sư thằng phản động. Có người trách: Cái anh Bông mới dại chứ! Mà sao thẩm phán cứ ngồi im cả thế kia! Nắng quá càng thêm khó chịu.
Kết quả: phải ngừng cuộc đấu lại.
Vụ tự sát ở xã Quốc Tuấn
1) Nguyễn Văn Cộng 47 tuổi. CCRĐ bị duyệt là bá, hôm sau cả hai vợ chồng thắt cổ tự vẫn. Nghe bên nhà nó có tiếng động mạnh, cán bộ chủ quan cho là trâu bò cọ mình, nên không sang.
2) Nguyễn Văn Ân. Nghi phú ông, tự sát. Bị đình chỉ sinh hoạt. Ăn một bữa thịt chó cho sướng đời.
Những vụ tự sát như vậy – nhất là vụ 2 – không ngăn ngừa được thì rất hại chính trị và sai chính sách. Cán bộ kiểm điểm: tả, thiếu cảnh giác.
*
Chết vì bức tử
Ở Hoàn Long. Vợ cán bộ CCRĐ. Chị bị hậu sản, không làm ăn gì được.
Tay sai địa chủ dọa dẫm: „Chị [...] ăn bám. Chị là địa chủ rồi. Nay mai sẽ đấu, không ai đi lại chơi bời với nữa. Ra đường phải gọi trẻ con là ông.“
Chị toan treo cổ mấy lần, chú và mẹ chồng biết, ngăn lại được. Nhưng cứ bị dọa dẫm [...] đi đâu cũng không thoát. Rừng xanh núi đỏ cũng bắt về đấu. Hoang mang mãi, rốt cục bị điên đầu bể óc. Hai mẹ con cùng chết.
Địa chủ như vậy. Khi chúng mất ruộng, chúng còn cố bắt mạng của người ta.
*
Thuốc độc
Ở Quỳnh Côi địa chủ sai người bỏ thuốc độc ám hại cán bộ CCRĐ và nhân dân. Trong 4 ngày 3 vụ liền.
Một vụ: chúng cho một em bé có 100 $, đưa em một cục bằng quả chanh, bảo em vào chơi chỗ cấp dưỡng rồi tìm cách bỏ lẻn cục thuốc vào nồi nước. Anh chị em cấp dưỡng vô tình, lại hay mến trẻ, đứa bé lên 10 kháu khỉnh ngây thơ ngày nào chả chơi ở đó, ai mà chẳng yêu.
Em bé đánh rơi cục thuốc, vỡ ra, em chỉ nhặt có một mảnh bằng ngón tay cái. Lừa lúc vô tình, em bỏ vào nồi nước.
Kết quả: 76 anh chị em cán bộ bị đi tả, nôn mửa mất 3 ngày, tưởng chết, – may có thuốc giã ngay từ hôm đầu, không có thì nguy.
*
Đem nhà ngói trả Nông hội
Ông cụ gàn dở bị nó dọa: nhà ngói này sắp đổ. Địa chủ nó chết thành ma, nó quật đổ nhà chết người. Ông cụ hoảng quá đem nhà ra trả nông hội.
*
Một vụ ám sát cả gia đình 7 người
Bọn Quốc dân Đảng giết cả một gia đình: 5 người con nhỏ nằm chết ngang giường, người mẹ nằm dọc, cổ tím bầm cả, chắc là bị bóp cổ. Người cha treo cổ kèo nhà. Khám thi thể không thấy hộc máu vãi cứt, tức là không phải chết vì treo cổ, mà có vết tay ở cổ, chắc bị chúng bóp chết rồi mới treo lên.
Ta mất với địa chủ 7 người, một gia đình nông dân, một cái rễ tốt, một đầu mối biết rất nhiều về bọn địa chủ và Quốc dân Đảng ở đó.
*
Cảnh giác quá
Hội nghị họp ở Đình Bảng, đã giảm tô, bọn phản động càng hoạt động dữ: cắt điện thoại, đốt nhà một lần, ném đá hai lần.
Có anh phê bình ngay Đoàn ủy là thiếu cảnh giác. Vậy thì muốn có cảnh giác phải lên trời mà họp hay sao?
Một anh khác đóng ở một gia đình rất tốt. Anh em đi vắng, chủ nhà cất ba lô vào buồng rồi khóa. Anh ta bị ám ảnh những địch, phản động nọ kia, vội phê bình: ta mất cảnh giác cao độ! [...] Người ta gọi là cảnh giác quá. Quá nghĩa là lố bịch, gàn, hoảng hốt.
*
Không mưa mà cũng có ếch
Khi thảo luận nội quy, chị X cứ thắc mắc về mục: „Thế nhỡ anh ấy ở đoàn bạn, lâu ngày mới gặp thì có được đi nói chuyện với nhau không?“.
Anh em can: Không nên đi một trai một gái nhiều quá. Tuy là vô tư nhưng nhân dân có con mắt nghi ngờ, kẻ địch có cái miệng hiểm, đàn bà có cái lưỡi bép xép, v.v…
Về sau ban đêm có hai cái bóng cõng nhau ngoài đồng. Ì ọp mãi. Có anh thấy vắng chị ở giường, mãi sau chị mới về, thay quần áo ban đêm. Anh đâm nghi, hôm sau báo cáo.
Dư luận nhân dân tức thì ngay hôm ấy có ngay câu: „Không mưa mà lại có ếch. Ếch to lắm, cõng nhau ngoài đồng.“.
Về sau chị X mới kiểm thảo ra. Và dĩ nhiên chịu kỉ luật của đoàn.
Chị X: mắt một mí, lông mi nhổ còn một vệt cong mà sắc, hay hát „từng đoàn bươm bướm xinh, tung tăng cánh bay vờn…“, người thanh, mặt trái xoan, mắt đảo như chớp, giọng nói uốn éo.
*
[...] figures
1. Đội trưởng Thái Hòa tên là ông Liễu. Người gày đét, quần áo nâu bạc, khoác một cái vét ton tím, có giòng giọc trắng đã bạc, cổ áo đã sờn, khuỷu tay áo rách lòi vải lót trắng. Mũ trắng phở. Đeo kính. Mặt khô đét. Nhưng đôi môi dầy lúc nào cũng mở làm cho bộ mặt có cái gì dễ tính. Cả mặt chỉ có đôi môi là có duyên. Cả mặt chỉ thấy môi. Thành phần gì? – Trung nông. Quê đồng chí phát động chưa? – Chưa. Vậy thì cái trung nông ấy là có vấn đề đấy. Đánh một cái dấu hỏi. Ông Liễu cười khì.
2. Đội trưởng đoàn giảm tô Vĩnh Phúc trước sát nhập sang đây chỉ làm đội viên. Trên 40 tuổi. Mắt to, vuông. Mắt sâu vào lỗ, xong lại lồi lên trong đáy, viền đỏ; khi nhìn cứ trờn trợn đôi mắt toét lên, lông mày nhấp nháy, đôi môi mỏng mà sắc, hai mép nhọn hoắt cứ mấp máy, bộ mặt tuy xanh vàng nhưng có lẫn những vầng máu đỏ nó tụ lên, cổ khoác khăn mặt, quần áo nâu mới, dáng cứng, tất cả toát lên một cái vẻ gì hào lý cũ. Ăn nói sang sảng, gọi người trống không. Có ai thắc mắc gì không? – Không đâu, nhưng tổ tôi có lẽ có anh Tôm anh Tiếc gì đấy thắc mắc sát nhập gì đó… Phải không?… Có thì nói lên… Nhưng không ai nói cả… Ông ta cười.
Bên kia làm đội trưởng, sang đây làm đội viên, ông ta có thắc mắc ngầm nhưng không nói, định xui bẩy đội viên khác nói. Phát biểu ra vẻ đành hanh, kiểu ta đây biết rồi: – Kinh nghiệm bên Quỳnh Côi thế này là ổn lắm… Chứ đây thì…
Làm ra vẻ không có thắc mắc, càng cố tích cực. Ban sáng, xắn quần gánh một gánh nước đầy về cho anh em rửa mặt. Đấy, nước đấy các cậu ạ… Chiềng hết người này người nọ.
Hội trường kém 7 đầy 5 nghìn người, mà ông ta đề nghị: ra từng đội, hết đội này đến đội khác cho nó có trật tự! Người ta phản đối, vì lâu quá, mất 4,5 tiếng đồng hồ sao? Ông ta nhất định giữ ý kiến: cần phải trật tự. Người ta có cảm tưởng ai làm việc với ông ta sẽ bị biến thành con cờ gỗ, tùy ông xếp đặt cho nó đẹp mắt, gọn gàng, khỏi lung tung có vấn đề gì lôi thôi cho ông ta.
Tôi xin thảo luận, theo tôi thì anh em ở cải cách mới có biết chứ chúng tôi ở giảm tô thì biết sao được. Mà theo Đảng ủy thì bảo rằng bên cải cách là chính cơ mà.
Phát biểu gì là có tính cách thay mặt anh em Vĩnh Phúc. Kiểu anh chị. Hay cãi. Hay chối. Hay chiềng. „Sở dĩ tôi nói thế là vì… Ý tôi là thế này cơ… Đấy tôi làm việc ấy đấy…“
*
Gọi „bà Quản“ là mất 5 cân gạo
Đội vừa về, đi đâu thấy dân đang nói chuyện bỗng im thin thít. Mãi sau mới là vì có tin tung ra đội phát động về, hễ ai gọi ông bà là bị phạt 5 cân gạo. Thành ra dân sợ, giữ mồm miệng. Nếu nói kiêng thì phải kiêng nhiều lắm: Ông Quản, bà Lý, ông Hào, cụ Thơ, ông Chánh, bà Giáo…
Đã biết ai là địa chủ ai không mà tránh? Đâu mà đã dễ đổi giọng lưỡi, hôm qua ông bà, hôm nay thằng ngay? Đó là tâm lý của nhân dân. Chi bằng giữ miệng là hơn.
*
Vụ lựu đạn Xã Cảnh Hưng (Phủ Từ Sơn)
9 người chết, 39 người bị thương. Đang hội nghị, nhân dân thì bị ném lựu đạn. Sau bắt ra thủ phạm: con địa chủ, là học sinh, mới ở Hà Nội về.
*
Cấm thoái tô
Chúng cấm không địa chủ nào được thoái tô cho nông dân. Một địa chủ xin ta về sớm mai sẽ trù tính thoái tô. Chúng lẻn ban đêm vào bóp cổ cả hai vợ chồng địa chủ này; xong đem lên gác, buộc thừng vào cổ, chằng hai đầu vào hai tay, xếp hai vợ chồng sóng soài trên sàn gác, làm như họ tự vẫn.
Chúng giết lẫn nhau để cảnh cáo nhau và để vu cho cán bộ ta.
*
Lương giáo
Lương giáo gặp nhau, tránh vào ngõ, rẽ đường khác. Đang ngồi hàng bỏ đi. Không thèm nói với nhau một câu nào.
*
Giết rễ
Ông cụ đi đồng về. Vợ đang phơi thóc ngoài sân. Ông cụ ngả nón vào buồng định nghỉ hút điếu thuốc. Lát sau bà vợ vào thấy chồng nằm thẳng cẳng. Trên mái nhà có một lỗ hổng.
Chúng rỡ mái ra vào bằng đường ấy, giết mất ông cụ.
*
Ta khác địa chủ
Một anh cán bộ X thấy tịch biên gia sản của địa chủ, lại tịch thu từ cái tã của con cái nó. Anh thương lắm.
Anh Y bảo: Thường gì nó? Nó có thương con cái nhân dân mình đâu?
Anh X đáp: Tôi nghĩ ta khác địa chủ ở chỗ đó. Những đứa bé con kia có tội tình gì? Chúng nó giết trẻ con. Chúng ta cứu trẻ con chứ, Mà phải cứu cho trẻ con thoát cả khỏi ảnh hưởng bố mẹ nó nữa chứ.
*
Không đem xe đạp – Ông tỉnh đội trưởng không biết gì
Trước khi đi, ông tỉnh đội trưởng không biết nghe đâu về nói ầm ầm với anh em những đi cải cách phải mặc quần áo nâu, không được mang theo xe đạp… Ông ấy gắt ngậu lên cơ mà. Đem xe đạp đi mà nát nông dân à?
Thế là có anh gửi, có anh bán xe đáng 8, 9 vạn chỉ bán 6, 7 vạn thốc tháo đi. Tới nơi mới thấy là không có xe đạp thì khổ quá [...] dại quá, nghe ông tỉnh đội trưởng không biết gì ấy đâm ra khổ. Phàm ở đời, những anh không biết gì lại là những anh ngậu xị, nhắng nhất.
Gắt: Đi cải cách mà ăn vận công tử vậy à (quân phục mới)? Xe đạp với xe điếc, đem đi người ta lại đuổi về cho ấy à? Đừng có làm xấu hổ tỉnh đội ta đi. Tôi xin các ông, các ông miễn cho cái món xe cộ xa xỉ ấy đi cho. Ba cùng mà lại còn kè kè cái xe bên cạnh sao? Giải quyết thế nào á? Gửi đi… Bán đi… Chiều nay là lên đường rồi… Lại còn coi cái xe hơn là cải cách sao?…
*
Gánh củi đi nhanh
Cán bộ ba cùng với một anh làm nghề đốn củi rừng bán kiếm ăn. Ban sớm đi theo anh vào rừng. Anh ta đi thoăn thoắt, cán bộ theo không kịp, một lát thì thấy mất hút, vào rừng tìm mãi mới thấy anh ta thì bó củi đã to rồi. Cán bộ đẵn giúp ít cành, cũng chưa kịp phát động gì cả. Anh kia bó vội thành hai bó, xâu đòn gánh chạy về. Cán bộ đuổi theo không kịp. Loáng cái lại mất hút. Cán bộ nghĩ có lẽ anh ấy sợ cán hộ hay sao? Có vấn đề gì mà cứ lẩn như vậy?
Mãi sau mới biết: chỉ vì anh ấy không có gạo, phải vội đi vội về, bán củi lấy tí gạo mà ăn.
*
[...]
Cạnh thị xã Bắc Ninh. Hơn 4000 người/ 43 địa chủ.
Một tên giả điên cầm dao đi các xóm thực hiện âm mưu đe dọa, phản tuyên truyền, của địa chủ. Một ông cụ trung nông, gù, mất lao động, ăn nhờ gia đình bị đe dọa là Việt Minh sẽ đấu, coi là địa chủ. Ông hoảng hốt định tự vẫn.
Bọn phản động bàn nhau giết hai tên đã già mà hay hoang mang của chúng (Côn và Mưu). Để khi đội về sẽ tố cả vào hai tên đã chết ấy.
Con giai giết bố (Tuân)
Tây: như nắm tay co vào rồi sẽ duỗi ra. Nhân dân đấu địa chủ. Tây về, địa chủ lại đấu nhân dân. Ai có tội, ngụy quân ngụy quyền v.v… Việt Minh nó sẽ đấu hết. Chào thầy Cai,… Chết bà mất lập trường rồi.
*
Đấu tên Bút
Anh Bông là một anh em họ, làm thẩm phán. Anh nói đến một tiếng đồng hồ để thanh minh sự liên quan của anh với tên Bút. Quần chúng xì xào, anh em với nó thì kể lể gì? Ai cũng sốt ruột. Cán bộ véo anh Bông hai lần, véo cái nào Bông càng thanh minh dài dòng mãi. Trời nắng nhễ nhại. Cuối cùng Bông cũng im, hết lời lải nhải.
Trong khi đấu, tên Bút cứ nhìn lên trời. Anh Bông tố. Xong hỏi, Bút, mày có nhận không? – Dạ thưa ông, bố ông chết tôi phải chôn, mẹ ông đi lấy chồng tôi phải rước ông với các con ông về nuôi. Ông tố vậy, chúng tôi xin nhận là có ạ. Xong nó lại nhìn lên trời cười ha hả.
Quần chúng có người cười. Có người mắng: Lại còn cười, mất cả lập trường. Có người chửi sư thằng phản động. Có người trách: Cái anh Bông mới dại chứ! Mà sao thẩm phán cứ ngồi im cả thế kia! Nắng quá càng thêm khó chịu.
Kết quả: phải ngừng cuộc đấu lại.
**************** [1] Vì những tội: 1) cùng 5 văn nghệ sĩ khác đệ trình „Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa“ yêu cầu tự do sáng tác và sửa đổi chính sách quản lý văn nghệ trong quân đội; 2) quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo; 3) viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng. (Các chú thích trong bài đều của người biên soạn.)
[2] Nhà văn Hoàng Yến (1922-2012). Bài viết được nhắc tới là bài „Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?“ viết ngày 28/2/1955, đăng trên tập san Sinh hoạt Văn nghệ số 35, báo Văn nghệ và báo Nhân dân. Xem talawas, 9/7/2005.
[3] Nhà văn Văn Phác (1926-2012). Ở thời điểm năm 1955, ông là Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ Quân đội, cơ quan của Trần Dần. Sau này ông trở thành Bộ trưởng Văn hóa, Ủy viên BCHTƯ Đảng, đại biểu Quốc hội.
[4] Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác (1928-2013)
[5] talawas, 30/5/2008
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Nov 20, 2014 10:28:38 GMT 9
Tâm tư Tổng Thống Thiệu
CHƯƠNG 18 Thoát chết lúc ra đi Đám đông đứng dọc đại lộ ngước lên nhìn những chiếc phản lực xé mây tung cánh sắt. Trên đài danh dự, quan khách chăm chú theo rõi cuộc duyệt binh vĩ đại. Các binh chủng trong những bộ quân phục đủ mầu theo nhau đi diễn hành. Từng lớp rồi lại từng lớp, xe tăng thiết giáp lừ lừ lăn bánh, trông thật oai hùng. Bất chợt, một chiếc xe dừng lại ngay trước khán đài. Viên sĩ quan chỉ huy bước xuống, rồi đứng vào thế nghiêm giơ tay chào. Người chủ tọa ngồi ghế giữa đứng lên để chào lại. Nhưng ông vừa đứng lên thì tiếng súng nổ đùng đùng, một loạt đạn bắn xả vào hàng ghế danh dự. Nguồn: corbis Đó là quang cảnh tại Cairô vào ngày 6 tháng 10, 1981. Hôm ấy là ngày Ai Cập kỷ niệm chiến thắng Do Thái năm 1973. Tổng thống Anwar El Sadat hãnh diện chủ tọa cuộc diễn binh với những khí giới tối tân nhất. Khi ông đứng lên để chào người sĩ quan, những kẻ sát nhân từ trong xe nhảy bổ ra hô lên thật to “Death to Pharaoh,” (Chết cho Pharaô) rồi bắn ông ngã gục. Cùng chịu số phận với ông là một số quan khách, gồm cả Đại sứ Cuba, một tướng lãnh, và một giám mục. Ngồi xem tivi chiếu cảnh này buổi sáng hôm ấy, chúng tôi giật mình nhớ lại câu chuyện Tổng thống Thiệu kể chỉ mới gần một năm trước đó. Ông kể rằng vào ngày Quân Lực năm 1974 (20 tháng 6), ông rất ưu tư về nguy hiểm bị hạ sát trong lúc duyệt binh. Mà cũng dễ thôi, vì phải ngồi ngay trên khán đài để duyệt từng đoàn quân với đầy đủ vũ khí các loại, trên không thì A-37, F5 bay rợp trời, làm sao mà kiểm soát cho hoàn toàn được là tất cả vũ khí đều không có nạp đạn như luật lệ về diễn binh quy định? Nếu có âm mưu ám sát thì chỉ cần gài một vài người ăn mặc quân phục đeo súng có nạp đạn đi lẫn vào đoàn quân diễn hành là đủ rồi. Trong Chương 21, chúng tôi có trích dẫn về dịp ông Thiệu đi duyệt binh một lực lượng năm ngàn nhân dân tự vệ đầy đủ võ trang đứng dàn chào. Ông nói với nhà báo Oreana Fallaci: “Muốn giết tôi thì chỉ cần một viên đạn đến từ một khẩu súng là xong.” Chúng tôi hỏi Tổng thống Thiệu là tại sao trong ngày 20 tháng 6 những năm trước cũng có duyệt binh mà ông không lo, chỉ có năm 1974? Ông giải thích rằng sau Hiệp định Paris là tới lúc phải thành lập một ‘Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc’, một hình thức chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Giải phóng. Tiến bộ về việc này thì hầu như không có gì, và cuộc đàm phán ở La Celle St. Cloud gần Paris thì đã bị ngừng lại từ ngày 16 tháng 4, 1974. Ông Kissinger rất bất mãn và đang làm áp lực cho ông Thiệu phải làm lẹ việc này. Lúc ấy thì ông Kissinger rất mạnh vì ông Nixon thì hầu như bị tê liệt vì vụ Watergate, sắp phải từ chức. Đó là hè 1974. Đến mùa xuân 1975 thì có vụ ném bom Dinh Độc Lập. Trong suốt thời gian lãnh đạo, ông Thiệu đã gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vụ ném bom sáng ngày 8 tháng 4 là lần đầu tiên hành động sát hại trở nên rõ ràng và cụ thể. Lúc ấy tin đồn thổi về đảo chính âm ỷ từ ngày này sang ngày kia. Sau khi mất Đà Nẵng thì đêm đêm, chúng tôi cũng thấy có nhiều binh sĩ canh gác tại các hành lang Dinh Độc Lập. Dù sao, độ nguy hiểm của vụ ném bom tương đối cũng không cao lắm, vì khuôn viên tòa nhà này rất rộng, thả vài quả bom mà trúng đúng mục tiêu thì cũng khó: khi chiếc máy bay nhào xuống thả bom đợt đầu, hai quả đã rơi xuống khu sân vườn. Tuy nhiên, chỉ trên vài tuần sau đó, âm mưu ám sát lần cuối cùng đã có khả năng thành công rất cao. Xuýt nữa thì ông Thiệu đã ra đi về thế giới bên kia chứ không phải sang Đài Loan. Và nếu đã xảy ra như vậy thì hằng năm Lễ Tưởng Niệm ông là ngày 25 tháng 4 chứ không phải 29 tháng 9. Chuyện này thì cho tới ngày tạ thế, chính Tổng thống Thiệu cũng đã không biết rõ. Bản thân chúng tôi cũng chỉ mới biết gần đây. Đảo chính, đảo chính! Theo như những chuyện Tổng thống Thiệu kể lại và nghiên cứu thêm thì chúng tôi đếm ra cũng đã có tới ít nhất là sáu lần ông bị đe dọa, hoặc vì một lý do nào đó làm ông cảnh giác về đảo chính. Trước hết, để kiểm điểm lại những nguy hiểm trong thời gian ông lãnh đạo, chúng tôi xin nhắc lại vài trường hợp đã ghi trong cuốn KĐMTC để cho có mạch lạc: Năm 1968 Nguy hiểm đầu tiên là vào dịp bầu cử Tổng thống Hoa kỳ năm 1968. Sau vụ ông tháu cáy với Tổng thống Johnson vào giây phút cuối cùng (tuyên bố ngay trước ngày tuyển cử là không tham gia Hòa đàm Paris ) để giúp ông Nixon thắng cử, chính phủ Johnson đã phẩn nộ và Bộ trưởng Quốc Phòng Clark Clifford đã tính lật đổ ông. Từ đảo chính tới sát hại thì cũng không bao xa, như đã xảy ra cho vị tiền nhiệm của ông. Tác giả Seymour Hersh trong cuốn “The Price of Power,” sau khi đúc kết các tài liệu về vụ này đã tiết lộ rằng sau cuộc bầu cử 1968, chính ông Kissinger đã báo động cho phía Nixon về mưu đồ của Bộ trưởng Quốc Phòng Clifford và cảnh cáo: “Nếu ông Thiệu chịu chung một số phận với ông Diệm thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nghĩ rằng làm kẻ thù của Mỹ có thể là nguy hiểm, chứ làm bạn với Mỹ chắc chắn là chết”[1] TT Thiệu kể lại rằng trên đường từ Dinh Độc Lập tới Quốc Hội, ông hết sức lo ngại, có thể ông sẽ bị CIA ám sát nếu như TT Johnson và Phó TT Humphrey biết trước được là ông sắp sửa phản phé và bác bỏ kế hoạch hòa bình của Hoa kỳ, ngầm phá hoại cơ hội thắng cử của Humphrey. “Và nếu họ muốn ám sát tôi thì cũng dễ thôi. Rồi sau đó cứ việc đổ cho Việt cộng hoặc là do ‘âm mưu đảo chính.’ ” Khi kể về chuyện này, ông Thiệu cho rằng chính vì ông đã cưỡng lại áp lực của Mỹ lúc ấy mà kéo dài thêm đời sống của VNCH được gần 6 năm. Năm 1972 Vào mùa thu 1972, sau khi ông Thiệu cứ nhất định không chịu chấp nhận ký Hiệp Định Paris , TT Nixon đã áp đảo tinh thần ông bằng cách nhắn khéo về đảo chánh. Trong bức thư đề ngày 6 tháng 10, 1972, Nixon viết: “Tôi yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968.” Richard Nixon Biến cố năm 1963 là đảo chánh và ám sát Tổng Thống Diệm mà chính ông Thiệu đã tham dự. Còn biến cố 1968 thì đã đề cập trên đây: chính Nixon và Kissinger đã cực lực phản đối và cứu được ông Thiệu. Nhưng tới 1972 thì lại đến lần hai ông này đi theo con đường cũ.[2] Về đe dọa của các ông Nixon – Kissinger thì hai chuyên viên trong Hội Đồng An Ninh Quốc gia là Roger Morris và Tony Lake đã viết cho Kissinger một phúc trình (ngày 21 tháng 10, 1972) trong đó có nói tới các phương cách lật đổ ông Thiệu. Sau này Morris xác nhận: “Tôi bảo Tony rằng hai đứa mình phải cho Henry hiểu rõ là ta sẵn sàng thanh toán Thiệu”[3]. Chắc là có mặc cảm về những đe dọa ấy nên sau này ông Kissinger cũng đã viết cho ông Thiệu vào đầu năm 1980: “Giá như ý định của Tổng Thống Nixon và của tôi là phản bội Ngài, thì chúng tôi đã có thể làm như thế hồi đầu năm 1969 rồi.” Năm 1973 Mặc dù những lời đe dọa ghê gớm ấy, ông Thiệu vẫn chống đối không chịu chấp nhận bản hiệp định. Nhưng khi ngày đăng quang nhiệm kỳ hai đã gần kề, Tổng thống Nixon muốn cho hình ảnh hòa bình chiếu sáng, ông đã không ngần ngại nói rõ hơn về việc đảo chánh. Ông viết cho ông Thiệu: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn bản Hiệp Định vào ngày 23 tháng 1, và sẽ ký vào ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình…Kết quả không tránh khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay đổi về nhân sự trong chính phủ của Ngài cũng không thể cứu vãn được…” (Thư ngày 14 tháng 5, 1973). Trong ngôn ngữ chuyên môn về mối bang giao Hoa Kỳ-VNCH, “thay đổi nhân sự” là câu nói nhẹ, đồng nghĩa với việc đảo chính. Năm 1963, khi việc chuẩn bị lật đổ TT Ngô Đình Diệm đang tiến hành ráo riết, TT Kennedy, trong một buổi phỏng vấn với Walter Cronkite trên đài CBS, đã nhắc tới nhu cầu “thay đổi nhân sự.” Thông điệp ấy đã là tín hiệu ‘bật đèn xanh’ từ cấp cao nhất để cho tướng lãnh đảo chính. Ngày Quân lực 1974 Về nguy hiểm vào ngày này như đã đề cập trên đây, ông Thiệu thêm rằng ông biết vào lúc ấy ông không phải là người lãnh đạo thích hợp với kế hoạch ‘hòa bình trong danh dự’ của hai ông Kissinger và Nixon, nên đã luôn đề cao cảnh giác về khả năng loại trừ ông. Sự việc này có thể cắt nghĩa được là tại sao sau Hiệp định Paris ông cho thiết kế một trung tâm chỉ huy dưới lầu hầm Dinh Độc Lập. Đây là nơi được trang bị đầy đủ với máy phát điện, đường điện thoại riêng biệt, đài phát thanh, rađiô liên lạc với tướng lãnh, một cái giường nhỏ và một cái gối mây. Tổng thống Thiệu rất cẩn thận, luôn luôn sẵn sàng để đề phòng những trường hợp biến loạn có thể xẩy ra. Ngày 8 tháng 4, 1975 Một quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc Dinh Độc lập, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống bắt đầu ăn tô phở ở một bàn nhỏ ngoài hành lang trên lầu bốn, cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang máy để xuống lầu hầm. Đầu tháng 4 là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía đòi ông Thiệu phải từ chức. Chúng tôi nghe vậy cũng thật ái ngại, nhưng thấy ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc đảng Dân Chủ tại Quốc Hội đã quay lại chống ông. Về biến cố ngày hôm ấy, bà Thiệu kể là trái bom lại rơi trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nơi khi những tấm thảm giầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong phòng vì cháu bé người làm đang lo sắp xếp quần áo đã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy, không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang. Một lúc sau mới có sĩ quan đến giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở. Ngày 21 tháng 4, 1975 “Tôi sẽ nói cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu từ chức thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này,” đại sứ Martin báo cáo (ngày 21 tháng 4) cho Ngoại trưởng Kissinger về việc ông sẽ cố thuyết phục TT Thiệu từ chức. Ý ông đại sứ muốn nói là sẽ có đảo chính. Thoát chết lúc ra đi Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, tân Tổng thống Hương vẫn để cho ông lưu lại trong Dinh Độc Lập. Nhưng rồi có nhiều áp lực đòi ông Thiệu phải rời khỏi Việt Nam, vì nếu không thì phía Cộng sản không chịu điều đình với “một chính phủ Thiệu không Thiệu.” Nhân dịp có tang lễ Tổng thống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, Đại sứ Martin báo cáo về Washington: “Ông Hương nói ông ta sẽ đề cử cả hai ông Thiệu và Khiêm làm Đại sứ Lưu động và gửi hai người sang Đài Loan mệnh danh là một phái đoàn đại diện ông để phúng điếu tang lễ ông Tưởng Giới Thạch. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện đã đuợc sắp xếp với phía Đài Loan.” Thực ra thì ngoài việc ông Thiệu phải ra đi để dễ hơn cho việc đàm phán về một giải pháp chính trị, Tổng thống Hương còn lo ngại cho sự an toàn của ông. Ông Đại sứ thêm: “Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu…Bởi vậy ông Hương yêu cầu chúng ta giúp cho ông Thiệu ra đi thật kín đáo và sớm nhất có thể.” Ngoài những mưu toan nguy hiểm cho ông Thiệu từ các phe phái, Tổng thống Hương còn để ý tới một khía cạnh cá nhân nữa: đó là sự bất hòa giữa hai người tướng lãnh: Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Sự bất hòa này thì đã có mầm mống từ lâu và mọi người đều biết. Như chúng tôi đã đề cập tới trong Chương 11, chính ông Thiệu đã cố vấn Tổng thống Hương là chớ có đề cử Tướng Minh làm Thủ tướng vì sẽ rất nguy hiểm. Việc ông Minh không ưa gì ông Thiệu thì cũng đã công khai. Bởi vậy vào giờ chót, Tổng thống Hương muốn đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam trước khi ông Minh lên nắm chính quyền. Ông Martin viết: “Tổng Thống Hương nhất quyết là ông Thiệu phải ra khỏi nước đã rồi lúc đó ông ấy mới đi tới quyết định cuối cùng là trao quyền cho ông Big Minh.” Đó là về sự cần thiết và thời điểm ra đi, nhưng còn cách ra đi thì làm sao cho được an toàn? Chi tiết chuyến đi của hai ông Thiệu và Khiêm từ Bộ Tổng Tham Mưu ra phi trường Tân Sơn Nhất thì nhân viên CIA là Frank Snepp đã kể lại và chúng tôi cũng có đề cập tới trong cuốn KĐMTC. Ông Snepp và một nhân viên khác là Joe đã giấu vũ khí dưới chỗ ngồi trong xe vì lo sợ tái diễn vụ sát hại như trường hợp hai anh em Tổng thống Diệm. [4] Mới đây, câu chuyện từ lúc Tổng thống Thiệu rời bỏ Dinh Độc Lập tới Bộ TTM và ra phi trường được Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận kể lại rất chi tiết. [5] Ông Phận là một trong đoàn tùy tùng 8 người (cuối cùng chỉ có 7 người) của Tổng thống Thiệu và 4 người của Thủ tướng Khiêm được phép Tổng thống Hương cho đi tháp tùng theo như yêu cầu của ông Thiệu. Diễn biến có thể tóm tắt như sau: “Vào khoảng 7 giờ 30 tối, Tổng Thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một chiếc xe Mercedes mầu xanh đậm đã đậu sẵn. Người lái xe là Đại Tá Nhan Văn Thiệt. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông xuống tầng trệt bằng thang máy. Khi cánh cửa mở ra thì Đại Tá Trần Thanh Điền đã túc trực tại đó. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì lại cũng vào lúc có hai binh sĩ (tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình. Thực ra là họ chỉ đến để đổi gác. Ông và ông Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chánh thức của Tổng thống – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi ‘có mấy cây súng?’ Đại tá Điền đáp: ‘có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.’” Theo như vậy thì vào lúc đó tổng thống Thiệu đã nhận thấy ông bị nguy hiểm trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu (ta nhớ lại là Tổng thống Diệm đã bị sát hại trên đường tới Bộ TTM). Việc ông Điền ngồi vào chỗ chính thức của Tổng thống thì cũng trùng hợp với câu chuyện ông Thiệu kể cho chúng tôi là khi đi xe tới dự nghi lễ bên Quốc Hội hay nơi khác, ông thường ngồi ngay bên cạnh tài xế lái xe chứ không ngồi chỗ dành cho tổng thống ở băng sau. Khi đoàn xe tới phi trường Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phận kể lại là đã “giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như hệ thống điện hoàn toàn bị cắt…Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hãng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người…xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng đứng bên hông, trong thế tác chiến. Rồi hình ảnh ông Đại sứ Graham Martin hiện ra tại chân cầu thang máy bay như một vị thần hộ mạng.” Chuyện này làm cho chúng tôi mới hiểu được là tại sao khi nói về chuyến ra đi của Tổng thống Thiệu, Đại sứ Martin cứ nói úp úp mở mở là “Ông Thiệu đã ra đi trong điều kiện hết sức khó khăn,” và “chúng tôi đã để ý và cố gắng sắp xếp mọi chi tiết.” Thì ra, mọi chi tiết được sắp xếp gồm cả việc cắt điện để phi trường tối om và việc đoàn xe phải di chuyển trong bóng đêm. Khi máy bay đáp xuống thì đã có sẵn một toán lính Mỹ canh gác để đề phòng những biến động có thể xẩy ra vào phút chót, thí dụ như việc ngăn chận không cho máy bay cất cánh. Vì sao như vậy? Vì việc này đã xẩy ra trước đó mấy ngày. Vào lúc 10 giờ đêm ngày Chủ nhật 20 tháng 4 có sự cố ở Tân Sơn Nhất: một nhóm binh sĩ với võ trang nặng bao vây, định ngăn chận chiếc C-141 của Mỹ chở người di tản không được cất cánh (xem Chương 7). Thiếu tá Phận cũng kể lại là “Trung tá Nguyễn Phú Hiệp, phi công chiếc máy bay Air Viet Nam 727 đã có lệnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng…và cũng vào thời gian này thì một vài đơn vị trưởng các đơn vị phòng thủ thủ đô, và các đơn vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhất lại được nghe dư luận rỉ tai là ‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam để ra khỏi nước.’ ” Việc ông Thiệu dùng chiếc máy bay của Hàng Không Việt Nam dành cho VIP để đi công tác là điều dĩ nhiên vì ông đã được chỉ định theo như sắc lệnh của Tổng thống Hương: “Nay đề cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng thống VNCH đến Đài Bắc để phân ưu cùng chánh phủ và nhân dân trung Hoa Dân Quốc nhân dịp Tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế.” Sau đó hai ông còn được phép đi thăm các quốc gia khác để vận động cho hòa bình Việt Nam trong vòng 6 tháng.[6] Nguyên tắc thì như vậy, nhưng trong thực tế đã rõ ràng là lệnh cho phi công Hiệp ứng trực chiếc máy bay Air Viet Nam 727 và tin đồn về ‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam ra khỏi nước’ là những sắp xếp để đánh lạc hướng những kẻ sát nhân vì khi đó ông Martin đã nhận được nhiều thông tin tình báo về âm mưu sát hại ông Thiệu ở ngoài khơi. Theo kế hoạch này thì chiếc máy bay Air Vietnam mà ông Thiệu định dùng để ra đi sẽ bị bắn rơi khi ra khỏi không phận Việt Nam . Bởi vậy, trong vòng bí mật, ông Martin đã gọi ngay chiếc máy bay riêng của mình từ Thái Lan sang Tân Sơn Nhất để bốc ông Thiệu. Để bảo mật tối đa thì dù có dùng điện thoại đặc biệt an toàn của tòa đại sứ để báo cáo về Tòa Bạch Ốc, ông Martin cũng vẫn không tiết lộ chi tiết mà chỉ nói mập mờ. Tuy nhiên, lúc tới sát nút rồi thì ông phải nói cho rõ. Mời độc giả theo rõi vài đoạn trong thông điệp ngày 25 tháng 4 (in kèm theo chương này) của đại sứ Graham Martin gửi về Washington . Độc giả lưu ý là ông đã không gửi mật điện này cho Ngoại trưởng Kissinger ở Bộ Ngoại Giao mà lại gửi cho Cố Vấn An Ninh Tổng thống ở Tòa Bạch Ốc: Tòa Bạch Ốc: Số 250420 – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin Sàigòn số 0736 – FLASH (Cấp tốc) Chuyển Ngay Ngày 25 tháng 4, 1975 Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft (Cố Vấn An Ninh Tổng Thống Ford) “Thông điệp này xác nhận câu chuyện tôi nói vòng vèo qua điện thoại vừa mới đây. Lúc muộn chiều hôm qua, Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu. Nói chung, dường như ông ta cũng đã biết về một thông tin mà chúng tôi đã nhận được nhiều lần, đó là có một số phần tử của Không Quân việt Nam là những người có ý kiến hết sức chống đối Thiệu và Khiêm, đã nói rằng hai ông này sẽ không rời khỏi Việt Nam mà còn sống nguyên vẹn (gạch dưới là do tác giả). Chúng tôi biết rằng những phần tử này đang để ý chiếc máy bay thường dùng để chuyên chở các nhân vật cao cấp VIP của chính phủ đi ngoại quốc… “Tôi đã xếp đặt với Tướng Hunt ở NKP (Nakhom Phanom, Thái Lan) để ông ta gửi một chiếc C-118 tới Sàigòn sẵn sàng chiều nay. Chúng tôi cũng sẽ sắp xếp hết sức kín đáo để đưa hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay và cất cánh thật nhanh. Chúng tôi đã suy nghĩ về việc này và chúng tôi chắc chắn rằng sẽ có thể làm hết sức nhanh để nếu có sự can thiệp nào thì chiếc máy bay đó cũng đã (cao bay xa chạy) ra quá tầm có thể truy kích được rồi… “Bởi vậy, trừ phi có chỉ thị ngược lại và ngay tức khắc từ chính ông, tôi sẽ tiến hành theo như trình bày trên đây. Ông không cần phải có hành động nào vào lúc này, trừ khi có người đặt vấn đề (tại sao lại) dùng máy bay quân sự, một điều tôi nghĩ khó có thể xẩy ra.… Trân trọng Martin NhungNgayCuoi… Về việc này chúng tôi có hỏi Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon), Chỉ huy trưởng Hành quân Không quân thì ông xác nhận là có, và cho biết là có một nhóm trong Không Quân đã thực sự có âm mưu này và đã theo sát chiếc máy bay Boeing 727 là chiếc lãnh đạo cao cấp thường dùng trong những chuyến đi xuất ngoại. Sau cùng thì họ giao cho một sĩ quan ở Cần Thơ thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân lo việc này. Ở phi trường Cần Thơ có loại máy bay khu trục A-37 và cả phản lực F5 nữa. Kế hoạch là tại Tân Sơn Nhất có những người được chỉ định theo rõi thật sát các chuyến bay, đặc biệt là chiếc Air Vietnam Boeing 727. Khi nào thấy hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay thì sẽ báo cho Cần thơ ngay để phản lực cất cánh bay thẳng ra khơi, và sẽ bắn rơi chiếc máy bay chở ông Thiệu và ông Khiêm, ở khoảng 100 cây số cách bờ biển. Nếu như vậy thì cũng chẳng có tang tích, chẳng có chứng cớ gì về vụ sát hại. Trừ một số người rất nhỏ trực tiếp dính lứu thì không ai biết tin tức gì về việc này. Lúc ấy là đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 rồi, khi dầu sôi lửa bỏng đã lên tới tuyệt đỉnh, mọi người chỉ còn có thể lo cho chính bản thân mình, cho nên cũng chẳng ai để ý tới chuyện gì xảy ra cho ông Thiệu. Đại tá Hưng cho biết lúc ấy ở ngoài khơi cũng có những máy bay luôn luôn thay nhau theo rõi. Chúng tôi hỏi ông xem nhóm người nào ra lệnh cho phi công ở Cần Thơ? Ông trả lời là do một phe nhỏ chống ông Thiệu ở ngay Bộ Tư Lệnh Không Quân. Đại tá Hưng thêm rằng: về vấn đề đảo chính nói chung thì chính hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đều đã không đồng ý và khuyên không được làm như vậy. Sau cùng thì hai ông Thiệu, Khiêm lại không đi chuyến Boeing 727 mà đi chiếc C-118 của Đại sứ Martin. Đại tá Hưng kể là vài ngày hôm ấy cứ thấy Đại sứ Martin ra ra vào vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tối muộn cùng ngày 25 tháng 4, 1975, ông Martin báo cáo về Tòa Bạch Ốc: Số 251510Z – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin Sàigòn – C738 – Cấp tốc Chuyển ngay Ngày 25 tháng 4, 1975 Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft Người gửi: Đại sứ Graham Martin Tham chiếu: Sàigòn 0736 1. Vào lúc 9 giờ 20 phút chiều nay, một chiếc C-118, có đuôi số 231 đã cất cánh từ Tân Sơn Nhất cùng với cựu Tổng thống Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm. Họ đã bay sang Đài Loan nơi mà anh ông Thiệu làm đại sứ VNCH. Công việc sắp xếp rất xuôi xẻ. Tôi đã tháp tùng họ lên máy bay và tôi cho rằng sự vắng mặt của họ ở đây sẽ giảm bớt được sự xôn xao có thể xẩy ra. 2. Chúng tôi sẽ không bình luận gì về việc này ở đây. Phi hành đoàn từ NKP (Nakhon Phanom, Thái Lan) bay chiếc C-118 của tôi tới Davis-Montohn và tới nơi nghĩa trang. Tôi nghĩ rằng hai ông cũng sẽ không tuyên bố gì cả trừ phi và cho tới khi chuyện này lộ ra ở Đài Loan. Trân trọng, Martin Khi chiếc máy bay có đuôi số 231 sửa soạn cất cánh, Đại sứ Martin đã có mặt tận cửa máy bay để tiễn ông Thiệu. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin đã dàn xếp chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lại: “Thưa tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc ngài may mắn.” Nhìn lại lịch sử thì thấy ông Thiệu đã thật may mắn. Không những chính ông, ông Khiêm nhưng cả chuyến Air Vietnam 727 cũng đã may mắn. Nếu như không có sự can thiệp của ông Martin thì cả những người khác cũng đã cùng chịu chung một số phận. Đó là phi công Hiệp, các nhân viên khác trong phi hành đoàn, và 12 người trong phái đoàn của cựu tổng thống và thủ tướng, họ đều đã bị chôn vùi dưới đáy biển cùng với chiếc Boeing 727. Trong số này có Đại tá Cầm, Chánh Văn Phòng và là người chúng tôi làm việc gần gũi, Đại tá Đức, người đã ôm hồ sơ mật Dinh Độc Lập đưa đến tư gia trao chúng tôi vào đêm ngày 22 tháng 3. Rồi cả Thiếu tá Phận, người vừa kể lại câu chuyện về những ngày cuối của TT Thiệu ở Sàigòn. Những người khác gồm mấy sĩ quan gần gũi Tổng thống Thiệu (Đại tá Điền, Thiệt; Trung tá Chiêu, Bác sĩ Minh, Đại úy Hải, và binh sĩ Nghị); và phái đoàn của Thủ tướng Khiêm (Trung tá Châu, Thiếu tá Thông, và ông Đăng Vũ). Có lần ông Thiệu hỏi tôi là người Mỹ nghĩ thế nào về ông, tôi nói về một hai khía cạnh: khen có, chê có, rồi thêm là “tôi nghe có người nói là tổng thống nhu nhược.” Ông Thiệu hỏi tại sao? Tôi trả lời là họ nói ‘Tổng thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm gương.’ Ông yên lặng nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: “Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu.” Xét ra thì trong gần 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không có tội nhân nào phải ra pháp trường. Nếu ta tin rằng mọi việc trên cõi đời này đều do Trời an bài xếp đặt, thì Trời cũng đã phù giúp cho ông Thiệu, vì lúc ‘mạt vận’ là lúc vô cùng nguy hiểm. Vĩnh biệt ông tổng thống. Nguyễn Tiến Hưng
|
|
|
Post by nguyendonganh on Nov 26, 2014 8:18:32 GMT 9
“Luật 10-59”: Sự nhầm lẫn cố tình của tuyên huấn CSBài “Sự tráo trở của một người từng là… luật sư!” của tác giả ký tên Vũ Hợp Lân trên báo Nhân Dân, có đoạn viết như sau: “Rất nhiều tài liệu về tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm do chính người Mỹ và nhiều người nước ngoài viết đã xuất bản, chẳng lẽ Lê Công Định không đọc? Còn về máy chém, mọi người đều biết đó là một công cụ man rợ mà chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng để giết hại đồng bào, mà cái chết của Ba Cụt (tức Lê Quang Vinh, bị chém ở Cần Thơ năm 1956), Hoàng Lệ Kha (Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh, bị chém ở Tây Ninh năm 1960),… là những sự kiện đủ chứng minh Lê Công Định cố tình đổi trắng thay đen, phớt lờ sự thật lịch sử”. Liên quan về “máy chém” của “chính quyền Ngô Đình Diệm”, dưới góc nhìn lịch sử, xin được trao đổi lại với Tổng Biên tập báo Nhân Dân cùng tác giả Vũ Hợp Lân. Sự thật còn bị che khuất Sáng 26-09-2014, tại hội trường D, Trường Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn TP.HCM đã diễn ra hội thảo “Lưu trữ Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975), từ góc nhìn Lịch sử và Lưu trữ học”. Đây là hội thảo đánh giá vai trò của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà trong việc tổ chức và quản lý khối tài liệu lưu trữ trước năm 1975, cũng như việc khai thác sử dụng khối tài liệu này trong nghiên cứu và giảng dạy. Hội thảo nhận được 55 bài viết tham gia, trong đó có 7 bài viết được chọn trình bày tại hội thảo. Tất cả đều chưa được phổ biến rộng rãi. TS. Nghiêm Kỳ Hồng, nguyên Phó cục trưởng cục Văn thư Lưu trữ nhà nước, giảng viên Bộ môn Lưu trữ học và quản trị văn phòng, trong báo cáo “Khái quát về lưu trữ Việt Nam Cộng hoà (1955 – 1975)”, ông đề cập đến sự khó khăn trong hoạt động lưu trữ diễn ra trong thời chiến sự ác liệt. Nhưng ông cũng chỉ ra, ở thời điểm đó, chính quyền Sài Gòn vẫn rất chú trọng đến việc xây dựng pháp luật lưu trữ, tiêu biểu là luật số 020/73 “về văn khố tại Việt Nam”. Trong báo cáo “Tài liệu lưu trữ Việt Nam Cộng Hoà trong nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt Nam hiện đại”, TS. Lê Huỳnh Hoa đến từ Đại học Sư phạm TP.HCM chỉ ra rằng tài liệu về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có hai sự kiện được ghi chép trong sách giáo khoa và một số sách, giáo trình lịch sử khác cần được làm rõ là “Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật đặt Cộng sản ngoài vòng pháp luật”, và “Thời điểm ban hành luật 10/59”. Bà cũng chỉ ra chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là một tồn tại trong lịch sử nhưng lại không thấy sự có mặt của nó trong sách giáo khoa, giáo trình chính thống của Việt Nam dẫn đến sự lúng túng về các thuật ngữ về chính thể này như Đệ nhất, Đệ nhị cộng hoà,… PGS.TS. Trần Nam Tiến, mang đến hội thảo báo cáo “Hoạt động ngoại giao của chính quyền Ngô Đình Diệm (1954 – 1975) qua tài liệu lưu trữ Việt Nam Cộng Hoà”. Ông kết luận, dưới sự bảo trợ của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định trong ngoại giao với các nước và để lại một khối lượng tài liệu phong phú và hệ thống, góp phần quan trọng cho nghiên cứu, phục dựng các hoạt động ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa nói chung và thời kỳ Ngô Đình Diệm nói riêng. Chưa thấy tài liệu lưu trữ văn khố nào của chính thể Việt Nam Cộng Hòa lẫn của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đề cập về việc áp dụng án tử hình từ luật 10-59 để chém được bao nhiêu người bị tòa án kết tội “Trừng phạt sự phá hoại, sự xâm phạm an ninh quốc gia, sự xâm phạm sanh mạng hay tài sản của nhân dân và thiết lập tòa án quân sự đặc biệt”. Luật 10-59 có phải chỉ dùng để trị cộng sản? Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91. Luật ấy được ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 mang tên “luật 10-59”. Ở Phần Thứ Hai “Tổ chức các tòa án quân sự đặc biệt”, Điều 16, “Bị can có quyền nhờ luật sư biện hộ. Nếu bị can không có luật sư, Ủy viên Chánh phủ hay Chánh thẩm phải triệu dụng một luật sư biện hộ cho bị can”. Điều 19, “Trong trường hợp xử tử hình, án văn chỉ được thi hành sau khi đơn xin ân xá bị bác bỏ”. Trong “luật 10-59” cũng không có điều khoản nào buộc dùng máy chém cho án tử hình. Hình ảnh lưu trữ về nội dung của “luật 10-59”, cho thấy không đề cập đến chuyện “trả thù những người kháng chiến cũ” như lâu nay vẫn được tuyên truyền từ phía chính quyền miền Bắc. Ngoài ra, “luật 10-59” cũng không thấy mô tả về hành vi phạm tội nào giúp có thể liên tưởng đến chuyện “tạm đình chiến 2 năm, chờ ngày tổng tuyển cử hai miền”, như sách giáo khoa của chính quyền miền Bắc viết khi cáo buộc chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm đình chiến, “lê máy chém” để trả thù “những người kháng chiến cũ”. Cho đến nay, về phía Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện trên sách giáo khoa, chỉ mới nêu được tên người bị chém bởi “luật 10-59” là ông Hoàng Lê Kha, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh. Theo đó, tháng 3 năm 1959, khi ông chuẩn bị đi công tác thì bị người của chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt tại nhà ông Hai Thương, sau đó bị đưa về giam ở khám Chí Hòa (Sài Gòn). Ngày 2 tháng 10 năm 1959, Hoàng Lê Kha bị kết án tử hình tại tòa án quân sự đặc biệt. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1960, Hoàng Lê Kha bị hành quyết bằng máy chém tại Tam Hạp (Trảng Lớn, Châu Thành, Tây Ninh). Khi ấy, ông đang ở tuổi 43. Chưa thấy công bố tài liệu nào mô tả về phiên tòa này, và các trình tự công tố ra sao nên cũng chưa thể khẳng định bản án tuyên – nếu có, từ phía tòa án quân sự là đã được tuyên từ căn cứ pháp lý của “luật 10-59”. Đến nay cũng chưa thấy công bố giải mật bất kỳ tài liệu nào, kể cả văn thư lưu trữ cho biết những ai đã bị thi hành án tử bằng máy chém. Cũng nói thêm, bài viết (nói trên) của báo Nhân Dân có ghi là “Ba Cụt (tức Lê Quang Vinh, bị chém ở Cần Thơ năm 1956”, tình tiết thời gian này cho thấy không phù hợp cáo buộc, vì “luật 10-59” được ký vào ngày 06-05-1959. Chiếc máy chém được cho là dùng để chém ông Hoàng Lê Kha, hiện trưng bày tại Bảo tàng Cần Thơ, sau thời gian dài đã được trưng bày tại Nhà Bảo tàng Tội ác Mỹ – Ngụy (hiện được đổi tên là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh) nằm trên đường Võ Văn Tần, quận 3, TP.HCM. Chưa rõ vì sao chiếc máy chém này lại không được đặt tại Bảo tàng của tỉnh Tây Ninh. Tuyên huấn cần bổ túc ngay chứng cứ hình ảnh Hình ảnh thời kỳ đấu tố của Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc có nhiều đến độ người ta đủ để làm một triển lãm kéo dài trong 3 ngày hồi tháng 9 vừa qua. Thậm chí ngay trong vùng hành quân thuộc vùng kiểm soát của Việt Cộng là Mỹ Lai, mà chuyện thảm sát vẫn có đầy đủ hình ảnh cho cả thế giới xem… Xử bắn Nguyễn Văn Trỗi thì vẫn có phóng viên báo chí đầy đủ để quay phim chụp ảnh lưu lại,… Tuy nhiên, sự thật lịch sử dường như vẫn chưa được tôn trọng khi trên sách giáo khoa lẫn nhiều trang web khác của Nhà nước Việt Nam, viết: “Hình ảnh cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi do một nhà quay phim, người Nhật chụp, khi anh đã giật tấm khăn bịt mắt và nói: “Tôi không có tội, kẻ có tội cần phải trừng trị là bọn xâm lược Mỹ và lũ Việt gian Nguyễn Khánh”. Trước khi bị bắn, Nguyễn Văn Trỗi hô to: Hãy nhớ lấy lời tôi!/ Đả đảo đế quốc Mỹ!/ Hồ Chí Minh muôn năm!/ Việt Nam muôn năm!” Clip này hiện được đưa lên phổ biến rộng rãi trên internet và hoàn toàn không như mô tả nói trên. Chuyện xử chém ở giữa chợ như nhiều thông tin từ phía Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa rêu rao là chuyện tày trời, thì chưa thấy một hình ảnh nào được công bố. Ngay cả nhân vật Hoàng Lê Kha được cho là “người cuối cùng” bị chém bởi “luật 10-59”, cũng chưa có hình ảnh lưu trữ liên quan được công bố. Bút ký chiến tranh của những nhà văn quân đội từ phía Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cũng chưa thấy tác phẩm nào mô tả về máy chém theo “luật 10-59” đã được “lê” đi chém trả thù “những người kháng chiến cũ” ra sao. Chỉ có tên Xăm đã dùng dao Mỹ chém đầu chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của nhà văn Anh Đức. Tổng Biên tập báo Nhân Dân có thể tham khảo thêm những hình ảnh chụp lại từ “Quy phạm vựng tập”, Quyển II từ 31/1/1959 đến 31/12/1959, Tòa Tổng Thơ Ký ấn hành năm 1960, phần luật 10-59, được kèm theo bài viết này. Thảo Vy ***************** Ghi Chu: Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu -pháp danh Phước Lư . Hội Trưởng Hội Phật Giáo miền Bắc Texas. Cục Phó Cục Quân Y VNCH. Tổng Trưởng Xã Hội. Chủ Tịch Hội đồng Quản trị Hội Y Sĩ VN tại Hoa Kỳ – cũng nói chỉ Ba Cụt là người duy nhất bị án xử chém . Ông nói “thực sự chán chê mỗi khi đọc hay tiếp xúc với các người làm văn hóa miền Bắc và nghe họ lải nhải câu: Ngô Đình Diệm đã “lê máy chém” đi khắp các vùng chiến thuật để triệt tiêu cán bộ Cộng sản nằm vùng. Cầu mong sao trong các chứng nhân có liên hệ đến ngành Tư Pháp ở miền Nam trước 1975, hãy lên tiếng chánh thức, để cho biết cái máy chém ở khám Lớn Sài Gòn củ, đã được “lê đi”sử dụng bao nhiêu lần, sau phiên xử Ba Cụt? ” . Blogger Trần Kỳ Trung : Có ai đọc được bất cứ thống kê nào từ sách giáo khoa hồi đó cho tới bây giờ là có bao nhiêu người đã bị đưa lên máy chém không? Tại sao phải “kéo lê”? Nếu ông Diệm tàn ác như vậy thì mỗi tỉnh, mỗi quận phải có một máy chém chứ, đâu cần phải kéo từ nơi này qua nơi kia. Máy chém trưng bày ở “phòng trưng bày tội ác Mỹ-Ngụy” đâu có khó làm. Cho tới nay tất cả bí mật thời Ngô Đình Diệm đều đã được phanh phui trước công luận, kể cả việc ám sát ông Diệm do Mỹ điều khiển ra sao, phản ứng của Kennedy ra sao sau khi nghe tin ông Diệm bị giết…, mọi người đều rõ. Vậy mà việc chém đầu bằng máy chém vẫn không được tiết lộ. Tại sao vậy? Ngày trước,Việt cộng chuyên dùng mã tấu chặt đầu vô số những người quốc gia hay chống đối chúng: Ngày 5/9/1945, Võ nguyên Giáp trong chức vụ bộ trưởng Bộ Nội Vụ ký sắc lệnh chỉ thị cho bộ Nội Vụ, Quốc Phòng và Tư Pháp CS ra tay triệt hạ các đảng phái quốc gia trên toàn quốc VN. Tác giả Phạm Văn Liễu trong quyển Trả Ta Sông Núi đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau:“… những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê “. Tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn đời Chạy Giặc : “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”. 27/4/2010- Nhà văn Nam Dao: “…Trong suốt thời gian ở đó, ban ngày cậu ta uống rượu say mèm chờ mỗi khi chiều xuống thì xách mã tấu ra khỏi nhà và chỉ trở về lúc trời tờ mờ sáng. Thấy hành động quái dị của đứa cháu kéo dài liên tục cả tháng,ba tôi thắc mắc gạn hỏi mãi nhưng cậu ta vẫn không chịu mở miệng. Cho tới một hôm có lẽ vì men say nên đứa cháu mới khóc tiết lộ cho biết là bọn Việt Minh đã ra lệnh cho cậu ta nếu muốn cha mẹ vợ con sống, thì khi màn đêm xuống phải đem những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng ra giữa dòng sông chém đầu rồi vứt xác xuống sông để phi tang. Mỗi đêm ít nhất có khoảng một chục đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị hành quyết trên dòng sông. Và đó là lý do tại sao tên “đao phủ bất đắc dĩ” phải uống rượu cho say mèm trước khi đi “. Tác giả Nguyễn Văn Thiệt thuật lại trong bài Tôi Thấy Tạ Thu Thâu Chết, đăng trong tuần báo Hồn Nước số 7 ngày 30-7 và số 8 ngày 7-8-1949 :“Ai đi ngang Quảng Ngãi vào khoảng tháng 9-1945, cũng biết đến không khí hãi hùng của cái thành phố tự cho mình có tinh thần cách mạng cao ấy. Các tín đồ Cao Đài, các nhà trí thức, các nhà phú hộ, các nhà cách mạng quốc gia, tất cả những hạng người ấy cùng với vợ, con, anh em họ được Việt Minh cẩn thận chém giết, chôn sống, thiêu cháy, mổ bụng v.v… mỗi ngày theo chính sách tru di tam tộc để trừ hậu họa. Người chết nhiều đến nỗi độ ấy ở Hà Nội, tờ báo Gió Mới của Tổng hội Sinh viên, một tờ báo rất thiên Việt Minh đã phải lên tiếng rằng: “Ở Quảng Ngãi, ngày ngày đầu người rụng như sung”.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2014 7:47:34 GMT 9
Buổi nói chuyện của chương trình Từ Cánh Đồng Mây với THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN MINH Xin bấm link để nghe “Điều anh em nghe được trong bóng tối hãy nói nơi ánh sáng, điều anh em nghe rỉ tai nhau hãy rao giảng trên mái nhà”. - (Mt 10:27) GIÁNG SINH 2014 Thiên Tử giáng trần thương cứu độ Thế nhân hạnh phúc đón hồng ân Giêsu dẫu chính là Đức Chúa Nhưng vẫn vui mang kiếp phàm nhân NHỮNG NGƯỜI TÙ LƯƠNG TÂM www.rfa.org/vietnamese/HumanRights/Meeting-of-former-political-and-religious-prisoners-for-mutual-help-and-their-country-ThQuang-08232010203007.html/HtThichThienMinh_MsNguyenHongQuang305.jpg[/image]MS Nguyễn Hồng Quang và TT Thích Thiện Minh Nguyễn Tiến Trung và TT Thích Thiện Minh LỜI DI CHÚC CỦA TIỀN NHÂN: VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1309) Các Người chớ quên! Nghe lời Ta dạy Chính nước lớn làm những điều bậy bạ TRÁI ĐẠO LÀM NGƯỜI Bất nghĩa bất nhân Ỷ nước lớn Tự cho mình cái quyền ăn nói! Nói một đường làm một nẻo! Vô luân! Chớ xem thường chuyện nhỏ ngoài biên ải. Chuyện vụn vặt thành lớn chuyện: NGOẠI XÂM! Họa Trung Hoa! Tự lâu đời truyền kiếp! Kiếm cớ này bày chuyện nọ! TÀ MA! Không tôn trọng biên cương theo quy ước. Tranh chấp hoài! Không thôn tính được ta Chúng gậm nhấm Sơn Hà và Hải Đảo. Chớ xem thường chuyện vụn vặt Chí Nguy! Gặm nhấm dần giang sơn ta nhỏ lại Tổ ĐẠI BÀNG thành cái tổ chim di Các việc trên khiến Ta đây nghĩ tới Canh cánh bên lòng “ĐẠI SỰ QUỐC GIA”! Chúng kiếm cớ xua quân qua ĐẠI VIỆT, biến nước ta thành quận huyện Trung Hoa! VẬY NÊN CÁC NGƯỜI PHẢI NHỚ LỜI TA DẶN KHÔNG ĐỂ MẤT MỘT TẤC ĐẤT CỦA TIỀN NHÂN ĐỂ LẠI HÃY ĐỀ PHÒNG QUÂN ĐẠI HÁN TRUNG HOA! LỜI NHẮN NHỦ CŨNG LÀ LỜI DI CHÚC CHO MUÔN ĐỜI CON CHÁU NƯỚC NAM TA. VUA LÊ THÁNH TÔNG _______________________________________________________________________________________________________________ TT THÍCH THIỆN MINH "Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày" “26 Năm Lưu Đày” của Thượng tọa Thích Thiện Minh, Trần Việt Hải: www.dienhongthoidai.com/2013/03/tt-thich-thien-minh-hai-muoi-sau-nam.html www.caulacbotinhnghesi.net/index.php?option=com_content&view=article&id=668:ngay-tu-nhan-luong-tam-viet-nam&catid=98:thong-bao&Itemid=347 Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày Cuốn sách Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày là một bản cáo trạng nói đến tội ác của chế độ CSVN trước lương tâm nhân loại. Người CS áp dụng chủ thuyết Tam Vô, mà trong đó 3 yếu tố cấm kỵ của họ là Vô Tổ Quốc, Vô Gia Đình và Vô Tôn Giáo. Yếu tố thứ ba đã ảnh hưởng trực tiếp đến tác giả Huỳnh Văn Ba, tức Thượng tọa Thích Thiện Minh. Tác phẩm Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày trình bày những án tù cực hình, dã man mà người tu sĩ bất khuất chịu đựng. Ông mất ngôi chùa nơi thờ phượng, hành đạo, ông mất quê hương trong 26 năm lưu đày xa xứ, ông mất quyền làm người với nhân vị xứng đáng của một nhà tu hành. Xin hãy lắng nghe tiếng lòng của ngài Thiện Minh để thấy rằng đức tính bi trí dũng của người con Phật vẫn sáng ngời trước những đàn áp của bạo lực. (Việt Hải) -------------------------------------------------------------------------------- “26 Năm Lưu Đày” của Thượng tọa Thích Thiện Minh Trần Việt Hải Tôi hân hạnh được cô Trâm Oanh bên Đức Quốc gửi biếu cuốn "26 Năm Lưu Đày" của Thượng tọa Thích Thiện Minh. Tôi như bị thôi miên nhìn vào cái đề tựa. Hai mươi sáu năm là một khoảng thời gian quá dài, thời gian mà vị tu sĩ chịu đựng bao nhiêu nỗi nhục nhằn bị tra tấn, những cực hình lên tinh thần và thể xác. Tôi đọc 12 chương sách hay xuyên suốt 270 trang giấy, mà mỗi chương chuyên chở tiếng lòng bất khuất của vị tù nhân lương tâm đáng kính này. Thượng Tọa Thích Thiện Minh có thế danh là Huỳnh Văn Ba, sinh trưởng tại tỉnh Bạc Liêu. Trong chương 1 của sách, ngài cho biết là thân phụ là một tín hữu Cao Đài: "Cha tôi có tấm lòng nhân hậu, tính tình rộng rãi hay giúp người. Mẹ tôi là một người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất vả quanh năm vì chồnng con.” (Tr. 8) Có lúc gia đình phải tha hương cầu thực tại Vĩnh Bình (Trà Vinh). Chính tại nơi đây cậu bé Hùynh Văn Ba đã có duyên với cửa Thiền và được cha mẹ cho phép xuất gia. Năm 17 tuổi (1972) tác giả thọ giới Sa Di và năm 22 tuổi (1977) thọ Cụ Túc Giới do Hòa Thượng Thích Trí Thủ, rồi sau này được cử về trụ trì tại một ngôi chùa tại Vĩnh Bình và đã được đồng bào Phật tử tại đây gọi thân mật bằng các tên “ông đạo, huynh, cậu và thậm chí bằng con, bằng cháu nữa". Chương 2 kể về biến cố đau thương 30 Tháng 4 xảy đến như một cơn đại hồng thủy mà dùng hai cụm từ ngữ là "Ách Vận Đại Biến" hay "Hắc Ám Nhật Tử" (Ngày Đen Tối). Sự hống hách của các cán bộ Việt Cộng sau khi xâm chiếm miền Nam, với tinh thần Tam vô chủ nghĩa: vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo. Tên cán bộ Hai Thổ, xã đội trưởng du kích, ngang ngược chỉ vào tượng Đức Phật Đản Sinh, cười khinh khỉnh tuyên bố xấc xượt: "Thằng Phật nhỏ xíu này nó không có công làm cách mạng để đánh đuổi Đế Quốc, tại sao phải thờ nó? Nó ngồi một chỗ, để chờ người ta đem quà lại dâng cúng. Nó là thành phần giai cấp bóc lột mà!”. Đoạn y bước lên Chánh Điện lấy tay sờ vào tượng Phật Thích Ca Mâu Ni và nói: "Thằng Phật nầy ăn gì mà mập quá vậy!". Một lần khác sau khi Thượng Tọa bị bắt, Hai Thồ vào chùa chỉ tay tượng Phật nói: "Thằng Thiện Minh đã bị bắt giam rồi, còn mấy thằng Phật xi măng nầy cũng sẽ áp giải đi luôn". Theo chủ trương tiêu diệt ảnh hưởng của tôn giáo bằng cách khống chế và tịch thu mọi phương và tài sản của các tôn giáo, ngôi chùa Vĩnh Bình của ngài bị chiếm cứ bởi bạo lực của giới cầm quyền, mà đến nay Cộng Sản vẫn chưa trả lại tài sản này cho ngài. Chương 3 và 4 thầy Thiện Minh mô tả cảnh tù tội. Thầy có kiến thức về thuốc nam cũng như châm cứu và biết võ thiếu lâm. Thầy làm công tác từ thiện, phụ trách mở thêm một phòng thuốc nam, châm cứu từ thiện tại chùa Từ Quang, ngoài phòng thuốc tại chùa Vĩnh Bình, khi gặp một đứa bé đau nặng gần chết vì cơn bệnh hô hấp, thầy ra tay cứu chữa cho bé. Đứa bé khỏi bệnh, người cha đến cám ơn thầy. Anh này là một kháng chiến quân phục quốc. Duyên thời cuộc đưa đẩy thầy vào Mặt Trận Nghĩa Quân Cứu quốc, Việt Nam Dân quốc. Khi bị bại lộ, thầy đứng ra nhận tội chỉ huy để tình nguyện hy sinh, vì càc anh em khác có vợ con. Thời buổi ban đầu khi CS chiếm được miền Nam, họ cai trị bằng nanh vuốt độc ác. Tội chống phá "Cách Mạng" lãnh án tử hình dễ dàng. Tác giả của sách "26 Năm Lưu Dày" rất thích văn thơ, bằng chứng là nhiều trang sách đã được đăng thơ. Bốn câu thơ sau đây cho thấy tâm hồn thích thi phú của thầy: "Tu sĩ quyết chùa am bế cửa Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha Đền xong nợ nước thù nhà Thiền môn trở gót phật đà Nam Mô..." Tác giả thuật lại vì tin người nên âm mưu trốn trại tù bị bại lộ, đưa tới một số người bị bắt, trong đó có người em ruột của thầy, Huỳnh Hữu Thọ, vì mang theo vũ khí yểm trợ cho cuộc vượt ngục tại trại giam huyện Vĩnh Lợi. Thầy Minh và các đồng chí được chuyển sang trại tù Minh Hải. Đây là nơi giam giữ những người mới bị bắt với nhiều tội trạng khác nhau, giam vào đây là để điều tra khai thác vì nơi này có đủ mọi biện pháp được áp dụng khắt khe trong công tác tra hỏi. Tại đây, từ việc đánh đập bằng tay chân, bằng gậy gộc, bằng dùi cui, bằng báng súng cho đến cùm, quyện, giam vào phòng giam riêng là điều xảy ra hàng giờ hàng buổi. Trại giam có đủ mọi cán bộ, công an từ Bắc vào Nam, kể cả kháng chiến lâu năm cho đến những tên công an loại mới vào ngành mà dân gian thừơng gọi là bọn “công an 30/4”. Họ đều có những ngón nghề độc đáo để điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên đao dưới búa, còng tay đứng, còng chéo tay sau lưng, còng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục hình để điều tra, bản thân thầy khi giam giữ tại đây, cũng không tránh khỏi những nhục hình này. Hàng ngày hai chân thầy luôn ở trong cùm, bị cùm suốt ngày đêm, suốt tháng quanh năm. Hai chân bị cùm quyện tại chỗ, không thể đứng thẳng được nên dần dần bị tê liệt. Còn tiểu tiện thì trong một cái hũ, mỗi khi đi vệ sinh phải nhờ người khiêng hũ lại dùm. Hũ vệ sinh vừa có phân, vừa có nước tiểu. Mỗi ngày công an cho người đem đổ. Có khi đến 2-3 ngày mới đổ nên phân và nước tiểu tràn ra ngoài ướt cả chỗ nằm bốc mùi hôi thối! Sau khi đổ hũ, công an ra lệnh tù nhân phải vào ngay thật nhanh cho nên chiếc hũ chỉ rửa sơ sài, sau đó họ múc nước ngay chỗ rửa hũ mang vào cho những người đang bị cùm trong quyện như thầy để tắm. Mỗi người trong cùm chỉ được vài ca nước. Ca múc nước tắm cũng là ca đựng cơm ăn hàng bữa…Chiếc hũ luôn luôn còn sót lại phân người, nhất là phân cao lương loại lương thực rất cứng ăn vào khó tiêu, loại này dùng để ăn độn thay thế cơm. Khi tắm phân dính cả vào mặt, vào đầu đó là chuyện thường ngày. Phòng giam kỷ luật rất chật hẹp khoảng hơn 3m2 mà nhốt có khi lên đến 20 người, chỉ ngồi cũng không đủ chỗ làm gì có khoảng trống để nằm. Trong vòng lao lý tác giả xót xa cho gia đình, nghĩ về hoàn cảnh của mình, là người anh lớn vì thời cuộc oan khiên: "Vì hoàn cảnh quá khổ nghèo do thảm trạng xã hội, nên gia đình thầy gồm: Em thứ 7 của thầy tên Nghĩa phải nghỉ học để đi bán bánh mì dạo nuôi gia đình. Em thứ 6 tên Nhiều phải đạp xe vua, loại xe phải đạp bằng 2 chân, phía sau có gắn cái thùng để chở thêm được vài người. -Em thứ 5 mới lập gia đình hơn 1 năm, vừa sinh được một bé gái, bị nghi ngờ có liên quan vụ án nên đã bị tù . Em gái thứ Tư bán mía, khoai, cóc, ổi,...trước nhà. Hãy đọc tiếp: “Mẹ tôi tuổi cao sức yếu lại bị bệnh thường xuyên vóc người mỗi ngày một gầy mòn, thân hình tiều tuỵ lo buồn vì chồng, vì con, tức cha tôi vừa qua đời cách đây mấy tháng, nay đến tôi và đứa em trai thứ Năm đều bị tù tội. Một điều xót xa là các em tôi còn thơ ngây nhỏ dại đang trong lứa tuổi cắp sách đến trường, tuổi chỉ biết ăn, biết học, biết chơi. Nay đành từ giã mái trường để tìm kế sinh nhai, vừa nuôi mẹ già đang đau yếu, vừa dành dụm ít tiền hàng tháng để đi thăm nuôi 2 người anh đang ở tù tận mũi Cà Mau... Em trai tôi là một học sinh hiền lành ngoan ngoãn, học rất giỏi, không những lễ phép với thầy cô mà còn rất có tình có nghĩa với bạn học cùng lớp và rất mực hiếu thảo với mẹ cha. Em học luôn đứng nhất, nhì trong lớp lại được bầu làm trưởng lớp nữa! Nhưng vì hoàn cảnh… nên lỡ dỡ việc học hành. Có những buổi đi bán bánh mì ngang qua trường cũ, em cố đi qua thật nhanh, và kéo chiếc nón sụp khỏi vành tai để cho các bạn đừng nhìn thấy. Thật ra trong lòng em rất tiếc nuối và rạo rực trào dâng một nỗi niềm nữa vui nữa buồn khôn tả. Em hình dung lại hình ảnh của thầy cô, của bạn bè … đôi chân em dường như muốn chùn lại, nước mắt lưng tròng." Văn phong của tác giả trung thực trong nỗi chua xót trong tâm can của tôi. Là một tăng sĩ, một sĩ phu không khuất phục bạo lực. Tôi đọc đoạn thầy đấu khẩu với tên Nguyễn Ngọc Cơ tự là Sáu Búa, Viện trưởng viện kiểm sat nhân dân tỉnh Minh Hải. Lý do mà ông ta có biệt danh là Sáu Búa vì thời kỳ còn hoạt động trong rừng rú ông này phụ trách thi hành án tử hình. Một hôm nọ, tòa án xử tử hình một bà lão trên 70 tuổi, tuổi đã gần đất xa trời, cụ bà bị khép vào tội "làm điềm" tức là chỉ điểm viên cho quân đội VNCH. Đáng lý ra ông ta thi hành án xử tử bằng mã tấu, nhưng đây là phiên tòa nhân dân lưu động đặc biệt, nên khi xử xong là thi hành án ngay. Hôm đó ông không đem theo mã tấu bên mình, nên đành tạm mượn 1 chiếc búa của dân làng. Ông phải vất vã đập đầu bà cụ đúng 6 nhát búa thì bà mới tắt thở. Người chứng kiến sự kiện man rợ trên cho rằng cụ bà bị hàm oan nên khi chết đôi mắt cứ mở trao tráo, mà không chịu nhắm nghiền lại. Ra tòa xét xử, thầy Thiện Minh bị Sáu Búa hỏi vặn như răn đe: - Anh có sợ chết không? Thầy trả lời: "Mọi người trên đời này chỉ chết có một lần, nhưng ai ai cũng muốn sống, và cũng chẳng có ai sống mãi trên đời, nhưng sống hay chết như thế nào để có ý nghĩa, có ích cho đời đó mới là điều quan trọng bởi vì "Tử đắc kỳ sở". Tôi làm việc này để đồng bào được sống đúng ý nghĩa của con người, đúng với Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền theo nghị quyết 217A ngày 10-12-1948". Sáu Búa hỏi tiếp: - Sống đúng với ý nghĩa của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là như thế nào ? Thầy trả lời: "Phải có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân quyền không bị tước đoạt, giá trị nhân phẩm của con người không bị chà đạp, mưu cầu hạnh phúc bằng sự chân chính chứ không phải tóm thâu của kẻ khác đem về cho mình làm chủ" Ông ta lại nói tiếp: - Nhưng, nếu chúng tôi đem anh xét xử với tội chết thì anh nghĩ thế nào ? Thầy trả lời: - Nếu cần phải sống cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi ta phải cố sống và nếu cần phải chết cho sự nghiệp và lý tưởng được sống mãi, đôi lúc ta cũng vui vẻ chết, đó là sự dũng cãm hy sinh để trở thành bất tử, đối với nhà tu là thánh hóa linh hồn. Sáu Búa lắng nghe. Thầy tiếp lời: - Vả lại ông biết rồi đạo Phật chúng tôi chết là giải thoát. Ông ta nói: - Thôi đừng giảng đạo ở đây nữa, chừng nào về chùa cứ mà giảng đạo, sợ không chịu nổi nửa mức án, chứ làm gì có thể về chùa. Thời gian "làm việc" hơn nửa giờ đồng hồ, hai bên cứ đấu lý qua lại vẫn chưa đi đến đâu. Sáu Búa lườm nguýt tỏ vẻ khó chịu và hỏi thẳng vào nguyên nhân "làm loạn, phản động": - Anh cho biết ai là người đứng đầu tổ chức Trung ương của anh ? Thầy Minh trả lời: - Ở Trung ương có Thượng Tướng Trần Văn Trà và Bà Nguyễn Thị Bình. Ông ta đổi sắc mặt lấy tay đập bàn và nói một cách hằn hộc: - Tại sao anh lại dám khai hai đồng chí cao cấp của tôi, trong khi hai đồng chí này có mấy chục năm tuổi Đảng, đã đóng góp nhiều cho cách mạng để đem đến sự thành công vẻ vang như ngày hôm nay, mà anh cho rằng phản động như anh vậy à! Tại Sao anh không khai cả tôi luôn đi, tôi tên là Nguyễn Ngọc Cơ tức Sáu Búa nè ! Khi nghe xong câu thách đố, thầy tỏ thái độ khó chịu và nhìn Sáu Búa nói thêm: - Xin lỗi ông tôi không phải là quan, chứ nếu tôi là quan thì tướng mạo của ông xin làm lính tôi, tôi cũng không nhận, thì khai ông làm gì? Có lẽ bị cú sốc bất ngờ như xối gáo nước lạnh vào mặt, Sáu Búa nổi nóng liền vói tay chụp lấy cái bình trà để trên bàn và dự định ném vào người thầy. Theo sự tường thuật, thầy điềm nhiên phát biểu: - Tư cách một ông Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, mà có hành vi thất sách đối với người tù chính trị tôn giáo như tôi à! Sáu Búa bỗng dừng tay lại và quát to: - Đồ ngoan cố, mầy là tên phản động, chuyên khuấy đục và bôi bẩn Đảng, mầy về đi! Chúng ta thấy rằng giới luật pháp tuân lệnh Đảng CS u mê chỉ là bọn vô lại, côn đố tiếp tay cho tội ác để đàn áp nhân dân mà thôi. Một trường hợp thương tâm khác khi thầy kể lại trong chương 5 là: "Tôi còn nhớ chỉ sau ngày 30-4-1975 vài hôm, thì ông xã trưởng chính quyền cũ thường được gọi là ( ông xã Điểm) ông xã này trước kia thường bắt nhiều Việt Cộng ban đêm bò ra gài mìn phá đường, phá lộ giựt sập cầu và rãi truyền đơn v.v… Đến khi Sài Gòn đổi chủ, Việt Cộng tiếp quản chính quyền thì ông xã Điểm bị đem xử tử tại xã. Trước khi xử bắn họ tập họp dân lại để kể tội ông, dân theo Việt Cộng dùng cây, kẻ dùng đá, đòn gánh đánh đập túi bụi, đầu cổ ông bị giập nát, mình đầy máu me, máu tuôn chảy đầm đìa lênh láng mà họ còn không buông tha. Trong khi hai tay bị trói chặt, miệng nhét đầy giẻ và thêm một trái chanh rồi bịt miệng bằng một chiếc khăn đen, đã vậy mà hai ba người còn dùng mấy cục đá thật to chạy đến đập vào đầu ông xã Điểm một lần nữa, trước khi lôi kéo thân ông đến một gốc cây họ buộc thật chặt và bắn ba phát súng. Khi nạn nhân ngã qụy tên trưởng toán đến bên xác nắm tóc lên và nả vào màng tang một viên đạn gọi là “ân huệ sau cùng” trước khi kéo xác lấp vào hố." Khi được chuyển sang trại cải tạo Cây Gừa lại âm mưu vượt trại và rồi bị thất bại. Năm bạn đồng tù toa rập đào lổ thoát thân, khi nội vụ bất thành, một người bị xử tử, bốn người còn lại bị đày ra miền trung, giam vào trại tù Xuân Phước, nằm trong một thung lủng tử thần, nơi rừng thiên nước độc. Nơi đây tác giả sau cùng lại gặp nhiều tù nhân của càc tôn giáo được giải về đây. Xuân Phước khét tiếng với khu kỷ luật gồm 3 loại cùm, loại khoen tròn, loại khoen chữ V và loại khoen chữ V có khía hình răng cưa. Tùy theo thái độ của người tù mà họ ứng xử, hoặc phát cơm chan ngập nước muối, ăn vào mặn đắng không tài nào nuốt nổi. Đặc biệt trại tù xử dụng những tên gọi là Trật tự để trù dập, đánh đập, bớt nước uống, bớt cơm của tù nhân. Ở trại K1 có tên Tân mang tội hình sự là bộ đội CS, đã từng ăn gan người ở Campuchia, nên đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trông phát khiếp. Tại nhà tù Xuân Phước sự ngược đãi tù nhân rất tàn tệ, người tù sống trong cảnh thiếu thốn mọi bề, vô cùng nghiệt ngã. Nhiều tù nhân bị kiệt sức vì bị cưỡng bức lao động khổ sai hoặc bị đánh đập tàn bạo man rợ, tính trung bình thì tháng nào cũng có vài người chết. Có khi chết liên tục một tháng 3 đến 5 người, đây là chuyện thường xảy ra và thầy đã ra câu thơ: "Trông thấy người khác chết Trong lòng rất xót xa Nửa thương xót kẻ chết Nửa nghĩ tới phiên ta...!" Ở hoàn cảnh cùng kẹt không lối thoát người tù đâm ra ù lì liều lĩnh. Một khi chí đã quyết nên phải ra tay, từ đó thầy Thiện Minh cùng với một số bạn đồng tù thân quen trong trại đứng ra tổ chức cướp trại giải thoát cho tù nhân bạn, âm mưu là định giải cứu đem đi 700 người trong số hơn 1000 người của trại. Tất cả sẽ cùng nhau hoạt động trong rừng và hợp tác đấu tranh. Nhưng sự việc bị bại lộ cho nên tù nhân nổi loạn bị bắt và bị cùm quyện tay chân ngày đêm hơn 3 năm. Trong thời gian điều tra thầy bị đánh đập dã man, đặc biệt những trận đòn hội đồng, bị đánh tập thể gồm có các tên cán bộ an ninh của trung tâm. Chúng đánh bằng báng súng, bằng tay chân và 100 roi điện. Trong một buổi điều tra để khai thác cung để bắt thêm người, các tên đao phủ an ninh trại đánh thầy bằng tay chân tới tấp vào thân thể, đầu, mặt. Phía sau có một tên cán bộ khác dùng họng súng dài, thúc mạnh vào lưng trúng ngay lá phổi làm thầy bị trọng thương té ngất xỉu, máu tuôn ướt đẫm cả áo quần. Sau khi tỉnh dậy, những tên hung thần nầy không cho thầy thay quần áo, thầy đành mặc áo dính máu luôn cho đến khi rách nát. Hậu quả, vết thương lá phổi của thầy đến giờ này cũng còn dây dưa chưa dứt hẳn, nó thường đau buốt và ho liên tục mỗi khi trái gió trở trời. Đánh đấm bằng chân tay và bá súng chưa đủ, chúng đánh tiếp thầy 99 roi điện chỉ vì đếm lộn một roi. Đến khi kết thúc điều tra vụ án trốn trại các tên nầy lập hồ sơ quy kết thầy tổ chức “chống phá trại giam". Một bài thơ kỷ niệm được thầy cảm tác như sau: «TU TÙ...! Thêm dấu chữ Tu biến chữ Tù Chung thân hai án ở thiên thu Tay còng, chân quyện nơi u tối Cửa sắt, tường cao chốn mịt mù Thân thể hình hài trông yếu kém Tinh thần, trí tuệ sáng trăng thu Thiên đàng, địa ngục phân hai nẻo Nửa kiếp thầy tu nữa kiếp tù...! Nửa kiếp Thầy tu nửa kiếp tù Thiền môn giã biệt bước chân du Từ bi trí tuệ tình thương gọi Bác ái nghĩa nhân xóa hận thù... Y chiến ngày đêm luôn mặc giữ Nâu sòng kinh kệ gác công phu Nước non đáp trả tròn xong nợ Tín, Hạnh, Nguyện, thành vẹn kiếp tu...!” Trong trại tù thầy gặp những bạn đồng tù của các tôn giáo bạn như: Ông Phan Đức Trọng, 72 tuổi, là Giáo hội trưởng giáo hội "Hòa bình chung sống" ở Tây Ninh, ông là con nuôi của Trung tướng Trần Quang Vinh, Tổng Tư lệnh quân đội Cao Đài. Ông Trần Văn Nhành, một tín đồ thuần thành của đạo Hòa Hảo thuần tuý. Quý Linh Mục Nguyễn Văn Vàng thuộc dòng Chúa Cứu Thế, Linh Mục Nguyễn Quang Minh thuộc nhà thờ Vinh Sơn, Linh Mục Nguyễn Luân, thuộc giáo xứ Phan Rang, Linh Mục Nguyễn Tấn Chức, và nhiều nữa. Sống trong trại, tù nhân bị bạc đãi, quần áo bị mục nát, quần đùi không còn đủ để che thân. Linh Mục Vàng bị ghẻ mủ khắp thân thể, ngoại trừ trên mặt thì không có, ghẻ mủ dầy như dề cơm cháy khét đen, còn Linh Mục Nguyễn Quang Minh thì bị đánh trọng thương, đánh ho ra hộc máu miệng, và cả hậu môn, chỉ vì đem vào trại vài chiếc bánh “thánh" để rồi qua đời sau đó mấy ngày. Riêng Linh Mục Nguyễn Luân bị bệnh phổi nặng, vì chứng ung thư phổi. Do nhiều năm trong kỷ luật bị tra tấn, đánh đập, thầy Thiện Minh bị chứng viêm phổi nặng. Những lúc gần đây tôi được biết thầy thường ho ra máu. Tình cảm liên tôn khi Phật giáo và Công giáo chia sẻ những khổ đau vì tai ách giặc Cộng. Cha Nguyễn Luân có biệt hiệu là ông Ba Không. Lý do những tên giám ngục thấy giam hãm ngài nơi kỷ luật quá lâu nên mời ngài lên "làm việc". Họ chỉ cần yêu cầu Linh Mục viết tiêu đề là: "Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" và ký tên vào thôi! thì chúng sẽ cho Ngài ra khỏi hình phạt kỷ luật ngay. Thế nhưng Linh mục Luân lúc nào cũng viết như sau: "Cộng Hoà Xã Hội chủ Nghĩa Việt Nam Không độc lập - Không tự do - Không hạnh phúc". Những tâm tình giữa Thượng Tọa Thích Thiện Minh và Linh Mục Nguyễn Luân "Ba Không" là khi xứ sở thật sự có tự do nhân quyền, thì một ngôi Chùa và một ngôi Giáo đường được xây kế bên nhau để lễ Giáng Sinh hay lễ Vu Lan thì Con chiên bên Công giáo và Phật tử được thong thả viêng thăm nhau như tinh thần hòa đồng tôn giáo, một ý niệm vô cùng cao đẹp, nhưng nay Linh mục Nguyễn Luân không còn nữa. Thượng Tọa Thích Thiện Minh trong những chương cuối đế cập những gặp gỡ hay những kỷ niệm khi liên lạc với các bạn đồng tù của chế độ CSVN như Thượng Tọa Thích Không Tánh. Năm 1998, hai thầy gặp nhau trong dịp tiếp kiến phái đoàn Nhân Quyền của LHQ do Ông Abdel Rattah Amor hướng dẫn sang Viêt Nam. CS khuyến khích quý thầy sang Pháp định cư. Tuy nhiên, thầy Thiện Minh khẳng khái đề nghị 4 điểm với phái đoàn LHQ là CS phải: - Thả tất cả tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tôn giáo đang bị giam giữ trong nhà tù CS vô điều kiện. - Đòi trả lại tài sản của các tôn giáo và phục hồi quyền tự do tôn giáo một cách hoàn toàn trong đó có việc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN. - Xóa bỏ điều 4 hiến pháp của nước CHXHCNVN để thực hiện một chế độ đa đảng, đa nguyên và bình đẳng giữa các đảng phái. - Tổng tuyển cử tự do với sự giám sát của LHQ, đôi bên đồng bộ chủ trương tình thương nhân đạo và hóa giải hận thù. Trong nhà tù CS, thầy Thiện Minh có dịp Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một nhân vật bất đồng chính kiến chế độ CSVN, và là Chủ Tịch của Cao Trào Nhân Bản Việt Nam, ông chia sẻ những viên thuốc bổ, thức ăn chay được nhét vào lổ thông hơi như tiếp tế cho sức khoẻ của thầy, ông thể hiện những tình cảm tốt của người bạn đồng tù. Vì thức ăn chay làm giống món thịt như thức ăn mặn nên thầy trả lại qua lổ thông hơi suýt bị bọn cai tù bắt được. Khi BS Quế được phóng thích nhưng ông vẫn cương quyết giữ tinh thần bất khuất và chủ trương dứt khoát đòi hỏi tự do và nhân quyền cho Việt Nam, điều này khiến thầy dành nhiều thiện cảm với vị bác sĩ này. Một tù nhân đặc biệt khác là GS Doãn Quốc Sỹ, ông bị bắt vì đã gởi ra hải ngoại những truyện đả phá chế độ CS. Hậu quả GS Sỹ bị bắt trong vụ án nổi danh là "Biệt Kích Cầm Bút" và ông được xem như thủ lãnh củs nhóm nhà văn "phản động". Gặp nhau tại khám Chí Hòa, GS Sỹ sáng tác bài thơ ngắn kỷ niệm để tặng thầy, đại ý bài thơ về chú gà mổ những hạt gạo rơi vung vãi dưới đất (trang 223): “Chú gà mà đi ăn đêm Thấy hạt cơm mềm vung vãi đâu đây Đêm khuya tội nghiệp cho mầy Vất vả cành chầy một bóng thành hai.” Tôi có nhắc GS Sỹ về bài thơ này ngày xưa, ông nói trong những ngày bị đọa đầy như vậy, những tù nhân nuôi lý tưởng khao khát tự do, họ trao đổi những chuyện trong tù và ngoài đời. GS Sỹ cũng nói thầy Minh có tính cương trực và thẳng thắn, rất đáng quý. Tác giả kể tên nhiều vị gặp trong tù nữa. phần kết luận ở chương 12. Thầy Thiện Minh xác nhận mình là một thành viên của GHPGVNTN, đã bị chế độ CS giam cầm liên tục 26 năm, so với chiều dài lịch sử của dân tộc không là bao, nhưng so với một đời người quả là khủng khiếp. Thầy dành những lời đầy ân tình như khi GHPGVNTN được lãnh đạo bởi Đại Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ. Thầy xác định lập trường của Giáo Hội là phục vụ dân tộc và chúng sanh. Do đó, dù ở đâu hay trong hoàn cảnh nào, Phật Giáo Việt Nam muôn đời vẫn là Phật Giáo Việt Nam, và muôn đời vẫn là của dân tộc Vịêt Nam. Đề cập về Hòa Thượng Viện Trưởng Thích Quảng Độ khi phát biểu về thái độ chính trị phải có của một công dân. Trên phạm vi tu hành, sự tham gia vào đời sống chính trị không có nghĩa là ra tranh chức vụ thế quyền, như ứng cử chức vụ dân biểu, hoặc lập đảng phái này nọ, mà là ý thức được trách nhiệm của mình đối với Tổ Quốc. Cho nên khi mọi người dân có quyền suy nghĩ về chính trị, phát biểu về chính trị và hành xử về chính trị thì đó là chúng ta biết xử dụng quyền công dân. Hãy cân nhắc lá phiếu của mình để chọn người xứng đáng đại diện cho mình hay bầu người cầm vận mệnh quốc gia thì dù muốn dù không cũng đã tham dự vào đời sống chính trị rồi. Tôi nghe thầy nói trên đài phát thanh về Linh Mục Nguyễn Luân của xứ đạo Phan Rang đã có những khát vọng riêng tư trước khi mất. Ngài tâm sự là: "Nếu được ra tù hai anh em mình cải cách mối liên hệ tôn giáo theo hướng mới chẳng hạn như: trước nhà thờ, hay bên cạnh Thánh đường thờ Chúa, có ngôi Chùa thờ Phật. Tín đồ Phật tử đi lễ nhà thờ cầu nguyện Chúa và ngược lại Con chiên của Chúa đến Chùa lạy Phật ngày Rằm, bởi các đấng xuất thế luôn chủ trương yêu thương mà người đời thường hay cố chấp. Một khi tinh thần hòa hợp chung thì thể chất mới kết hợp được cho nên nếu các Tôn giáo Đại đoàn kết tạo thành một khối vững chắc đi đầu, thì các tổ chức xã hội mới noi gương... Tôn giáo và nhân quyền là sức mạnh chính làm chuyển hóa chế độ bạo quyền này". Tôi xót xa khi nghe thầy Thiện Minh nói on air về cái chết của Linh Mục Nguyễn Luân, tôi ngậm ngùi khi đọc những khát vọng của một cha xứ đáng kính nơi cuối trang 243 của sách "26 Năm Lưu Đày". Như GS Doãn Quốc Sỹ nhận xét về sự cương trực và thẳng thắn của Thượng Tọa Thiện Minh, ngài đã trả một cái giá rất đắt là 26 năm tù tội chỉ vì muốn sống đúng với nhân vị, ngài không chùn bước trước bạo lực. 26 năm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Nhà tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng tại Nam Phi là Nelson Mandela đã lớn tiếng phê phán, chỉ trích nạn kỳ thị màu da khi nhà cầm quyền thiểu số người da trắng đã bóc lột và đè đầu cởi cổ dân đa số dân da đen, để rồi Nelson Mandela chịu đựng 27 năm tù, loại tù chung thân biệt giam tại hòn đảo Robben Island, họ đánh đập trả thù cá tính ươn ngạnh bất phục tùng của ông. Thượng Tọa Thiện Minh không càch xa người lãnh giải Nobel hòa bình này của năm 1993 là bao, vì cả hai chấp nhận ngồi tù gần 3 thập niên cho giá trị cao quý của quyền làm người, cái quyền bẩm sinh của trời đất, nhân quyền không thể van nài hay xin xỏ để được ban phát mới có được. Văn hào Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn được biết nhiều qua những tác phẩm nổi danh như Tầng Đầu Địa Ngục (The First Circle, truyện kể về trại tù khắt nghiệt Marfino, ngoại ô của Moskova) và Một Ngày trong Đời của Ivan Denisovich (One Day in the Life of Ivan Denisovich), và The Gulag Archipelago (Quần Đảo Ngục Tù), được tuyên bố trúng giải Nobel năm 1970 vì quá khứ cho thấy ông chống báng kịch liệt chế độ độc tài của Liên Sô. Tháng 7 năm 1945 ông bị kết án tù 8 năm tại các trại lao động khổ sai như là gulags cộng thêm 4 năm lưu đày sau đó, vì một bức thư ông viết gửi các bạn bày tỏ quan điểm chống lại chủ nghĩa áp bức người dân của hung thần Josef Stalin. Năm 1965 các tác phẩm của ông bị cấm lưu hành ở Liên Sô. Được phiên dịch và xuất bản ở nước ngoài, các tác phẩm này lại khiến ông bị bắt giữ năm 1974, bị tước bỏ quyền công dân và bị trục xuất ra xứ ngoài. Tác phẩm của Solzhenitsyn là những bản cáo trạng tố cáo tội lỗi của đảng CS Liên Sô, "26 Năm Lưu Đày" của Thượng Tọa Thiện Minh cũng đã trình bày những nỗi ô nhục, những vết nhơ đày đọa nhân dânViệt Nam, thử tượng cảnh tên Sáu Búa đập đầu bà lão đến chết bằng búa, chỉ vì nghi ngờ bà làm điềm chỉ viên cho bên quân đội VNCH. Bao nỗi oan khiên cho dân tộc Việt Nam phải hứng chịu ách Cộng Sản cai trị quê hương oan khiên của chúng ta. Đọc tác phẩn "26 Năm Lưu Đày" để thấu hiểu những chuổi ngày dài tù tội, để cảm thông với tác giả về những kinh hoàng trên thân xác, những đọa dày về tinh thần. Đọc tác phẩn "26 Năm Lưu Đày" để hiểu rằng những khổ đau của thế giới từ Nelson Mandela đến Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn, tôi xin đề nghị hãy kể thêm những khổ đau của tăng sĩ Thích Thiện Minh hay kẻ sĩ Huỳnh Văn Ba. Tôi cho là vậy: Người chiến sĩ nhân quyền thật đáng kính trọng. Trần Việt Hải Link: www.ledinh.ca/Bai%20Viet%20Hai%2026%20Nam%20Luu%20Day.htmlSách Hai Mươi Sáu Năm Lưu Đày: baovecovang.wordpress.com/category/h%E1%BB%93i-ky-but-ky/ht-thich-thi%E1%BB%87n-minh-hai-m%C6%B0%C6%A1i-sau-nam-l%C6%B0u-day-d%C6%B0%E1%BB%9Bi-ch%E1%BA%BF-d%E1%BB%99-csvn/************************************************************************************************* Có một hòa thượng… =VC biệt động Sài Gòn19/02/2016 Mọi cực hình tra tấn tàn bạo nhất tại nhà tù Phú Quốc cũng không làm lung lay ý chí chiến đấu và tinh thần yêu nước, cách mạng của nhà sư - chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn. Chính phong thái điềm tĩnh, hằng đêm vẫn niệm Phật, đọc kinh và chay tịnh của nhà sư đã làm khuất phục kẻ thù và làm tấm gương cho nhiều bạn tù noi theo. Hòa thượng như bao chiến sĩ cách mạng - tù nhân chính trị khác, luôn có trong tim một niềm tin về ngày chiến thắng. Cựu đặc công biệt động Sài Gòn và hơn 20 năm duy trì lò võ miễn phí Di tích biệt động Sài Gòn giữa lòng nhà dân Sẽ xây dựng bia tưởng niệm Biệt động Sài Gòn tại Hội trường Thống Nhất Trong số những cựu tù chính trị trở về từ địa ngục trần gian Côn Đảo, Phú Quốc theo Hiệp định Paris và sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước tháng 4-1975, có hai người tù rất đặc biệt. Đó là Linh mục Nguyễn Văn Mầu và Hòa thượng Thích Viên Hảo. Di ảnh Hòa thượng Thích Viên Hảo thờ tại chùa Thiện Hạnh. Hòa thượng Thích Viên Hảo, tên thật là Tô Thế Bình, sinh năm 1932 quê ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Từ nhỏ, Bình sống với ông nội, cho đến năm 11 tuổi. Người ta thường nói tu hành là do căn duyên, không phải ai trên đời xuất gia cũng thành hòa thượng. Mọi thứ không phải con người chọn lựa, mà do bổn tánh từng người thích hợp hay không thích hợp với căn tu. Vì thế mà nhà Phật khuyên con người, trước hãy lo tu tâm, sau mới nghĩ đến tu Phật. Có lời khuyên rằng: Buông hạ đồ đao, lập địa thành Phật. Bất luận làm nghề gì, việc gì, chỉ cần có tâm thiện, hướng Phật là có Phật trong lòng. Sau khi ông nội của Bình qua đời, gia đình mai táng rồi gửi bài vị lên chùa thờ cúng để ông hưởng phần nhang khói và sớm chiều nghe chuông mõ công phu, siêu thoát. Cũng từ đó, Bình lên chùa thắp nhang cho ông mỗi ngày và nghe kinh kệ, quen dần với chuông mõ cửa Phật. Có nghiệp duyên với tu hành nên Bình trở thành chú tễu, không màng đến những việc của đám trẻ con khác như suốt ngày kéo nhau hái trái cây vườn, bắt ốc, mò cua, bắt chuột, bắt cá và tắm sông. Thời gian sau, Bình xin gia đình xuất gia đi tu. Năm 21 tuổi, Bình được các sư thầy cho theo học kinh Phật ở chùa An Quang, Sài Gòn. 9 năm sau, nhà sư Thích Viên Hảo (pháp danh của Tô Thế Bình) làm trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ có tên là Tam Bảo ở đường Dương Công Trường, quận 10, TP Hồ Chí Minh ngày nay. Hằng ngày, sư Hảo đi đó đây hành phật sự, gặp các phật tử, đến các chùa… tụng kinh, niệm Phật và thuyết pháp nhưng đó chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Thực chất ông đã trở thành chiến sĩ hoạt động cách mạng, có nhiệm vụ dò la địch tình, giao nhận tin tức tình báo thuộc Phân khu 6. Đơn vị do đồng chí Nguyễn Văn Tăng (Tư Tăng) làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) làm Chỉ huy phó. Chùa Tam Bảo đã trở thành nơi đi về, hội họp bí mật của đội biệt động thành trong một thời gian dài. Thời gian nhàn rỗi, sư Hảo đào hầm trú ẩn và chứa vũ khí. Nhiều đêm, nhà sư thức trắng một mình cặm cụi đào hầm phía sau tượng Phật nơi chánh điện, rồi khuân từng thúng đất đổ nền, xóa lấp dấu vết để có một căn hầm rộng rãi, không ngột ngạt cho anh em biệt động khi bị địch truy đuổi có chỗ trú ẩn an toàn, bí mật và lâu dài. Sư Thích Viên Hảo còn có hai người em trai là Tô Chi Lư và Tô Ngọc Sử đều gia nhập biệt động Sài Gòn trong vỏ bọc viên chức, giáo viên. Nhà sư nhớ lại trong một lần trò chuyện: “Nhà chùa khi ấy mới chỉ có 2 dãy nhà chạy xuôi tạm bợ và gian chính để thờ Phật đang trong giai đoạn xây dựng. Lợi dụng vận chuyển vật liệu, xe cộ ra vào thường xuyên nên tôi đào hầm trong chùa để che giấu cán bộ và chứa vũ khí, đạn dược. Sau này tôi còn mở rộng hầm để hội họp, có thể tạm lánh lâu dài”. Nơi đây, sư Hảo được giao nhiệm vụ đảm bảo cơ sở an toàn, hướng dẫn đường đi, vẽ sơ đồ, trinh sát các địa điểm mà người thường rất khó tiếp cận. Một buổi sáng trước năm Mậu Thân 1968, trong dòng người xô bồ giữa các ngã đường hướng về nội đô, người ta thấy có bóng dáng một nhà sư với áo nâu sòng thong thả hành đạo. Khuôn mặt rất từ bi, điềm tĩnh chắp tay vái chào cảnh sát, mật thám với câu: A di đà Phật! Bọn địch dù kiểm tra gắt gao đến mấy vẫn không ngờ được rằng nhà sư trong áo cà sa kia lại là chiến sĩ biệt động thành đang vận chuyển vũ khí, đạn dược về cho cơ sở nội thành tập kết chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Rất nhiều lần, nhà sư dùng xe gắn máy đi Củ Chi chở chất nổ, súng K54, súng và đạn cối 81 ly. Hòa thượng kể lại: “Năm 1968, lúc này ta chủ trương cần nhiều thuốc nổ để gây rối loạn trong nội thành Sài Gòn làm hoang mang quân địch. Nhưng địch kiểm soát, lục lọi rất gắt gao các ngã đường ra vào thành phố. Đặc biệt là hướng Củ Chi, Hóc Môn. Tình thế rất bức bách, khẩn trương, bằng mọi cách phải vận chuyển thuốc nổ, súng đạn về nơi tập kết. Thấy vậy, tôi xung phong đi Củ Chi vận chuyển đạn dược, thuốc nổ…”. Một buổi lễ cầu siêu nạn nhân của trận động đất ở Nhật Bản tại chùa Thiện Hạnh. Để vận chuyển an toàn súng cối 81 ly, sư Hảo phải dùng xe ba gác chở những ống cống xi măng để xây chùa, bên trong là súng cối. Gặp lính kiểm soát sư nói vận chuyển về xây dựng chùa… thế là chúng cho qua. Cứ như vậy, sư đã vận chuyển thuốc nổ, súng đạn vào nội thành và chuyển đi khắp nơi rất an toàn. Ban ngày nhà sư đi thực địa, vận chuyển vũ khí. Tối lên sơ đồ các trận đánh cho đơn vị. Chùa Tam Bảo đã trở thành nơi xuất phát của các chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn “xuất quỷ nhập thần” khiến địch khiếp vía, mất ăn mất ngủ. Chiến sĩ biệt động Tô Thế Bình đã tham gia cùng đồng đội đánh hàng chục trận tại cầu treo bến xe Sài Gòn, trạm điện ở Trường đua Phú Thọ, cabin điện Chợ Thiếc, đánh mìn Nhà Quốc hội khu vực bến Chương Dương… Cuối năm 1967, chuẩn bị vào chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Hòa thượng Thích Viên Hảo đã bị sa vào tay địch. Hòa thượng từng kể lại: “Một lần đơn vị tôi đánh cư xá đường Nguyễn Văn Thoại (góc Ngã tư Bảy Hiền bây giờ), trận đánh diễn ra rất gay go ác liệt. Ta đẩy lui nhiều đợt tấn công và tiêu diệt nhiều tên địch. Hai chiến sĩ của ta rút ra sau cùng bảo vệ cho đồng đội nhưng xe bị hư, đạp mãi không nổ. Một anh ngồi sau xe thấy vậy, nhảy xuống lao vào hẻm... Do sơ hở đường thoát hiểm, đã để lộ cơ sở nên sau đó cảnh sát dã chiến, quân cảnh kéo đến bao vây toàn bộ khu vực chùa Tam Bảo. Tôi bị bắt tại chùa và bị kết án đày ra nhà tù Phú Quốc”. Bọn địch điên cuồng cho xe ủi tung chùa Tam Bảo để tìm vũ khí, đạn dược. Nhưng chúng chỉ thấy căn hầm bí mật chứ không tìm thấy được gì. Chùa Tam Bảo - Căn cứ biệt động Sài Gòn đã bị xóa tên từ đó. Trong nhà tù Phú Quốc, Hòa thượng sống rất mực điềm tĩnh và đem những điều hiểu biết về cách mạng của mình để giáo dục cho những người sai đường lạc lối do không chịu được cực hình tra tấn, hành hạ dã man của kẻ thù. Thà hy sinh, chứ nhất quyết không khai tổ chức, đồng chí, đồng đội, không chào cờ địch, không phản bội cách mạng. Mọi cực hình tra tấn của địch với những trận đòn tàn bạo nhất nơi tù ngục Phú Quốc vẫn không làm lung lay ý chí chiến đấu và tinh thần yêu nước, cách mạng của nhà sư - chiến sĩ biệt động thành Sài Gòn. Chính phong thái điềm tĩnh, hằng đêm vẫn niệm Phật, đọc kinh và chay tịnh của nhà sư đã làm khuất phục kẻ thù và làm tấm gương cho nhiều bạn tù noi theo. Cổng vào chùa Thiện Hạnh ngày nay. Năm 1973, Hòa thượng Thích Viên Hảo được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris cùng với hàng trăm chiến sĩ cộng sản từ Côn Đảo, Phú Quốc. Những tù binh chính trị đặc biệt trao trả lần này từ Côn Đảo có những người như: Lê Hồng Tư, Nguyễn Thị Châu, linh mục Nguyễn Văn Mầu, bà Trương Mỹ Hoa, Võ Thị Thắng, Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê), Chín Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (Ba Thọ), Nguyễn Thị Thu Trang… Một sáng bên bờ sông Thạch Hãn, ranh giới chia cắt đất nước ở Vĩ tuyến 17, Hòa thượng Thích Viên Hảo được trở về với cách mạng, với nhân dân, trong vòng tay đồng đội, đồng chí và đồng bào, với cờ đỏ sao vàng bay trong bầu trời tự do. Được nghỉ dưỡng tại Sầm Sơn (Thanh Hóa), nhưng lòng Hòa thượng vẫn đau đáu hướng về miền Nam… Ngày trở về miền Nam, việc làm đầu tiên của Hòa thượng Thích Viên Hảo là tìm về nơi có ngôi chùa Tam Bảo năm xưa. Hòa thượng đã đứng chết lặng hồi lâu chắp tay niệm Phật, lòng xúc động dâng trào khi không thể tìm ra bóng dáng ngôi chùa xưa và căn hầm bí mật. Bóng cà sa thấp thoáng trên con đường nhỏ liêu xiêu, ai biết được nỗi lòng đau buồn của nhà sư biệt động? Hai người em trai của Hòa thượng cùng chung đội biệt động thành năm xưa giờ một người đã là Trung tá nghỉ hưu, một người còn đang công tác. Sau 30-4-1975, Hòa thượng tham gia công tác tại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố và trụ trì Chùa Thiện Hạnh, nằm trong con hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng, quận 1, TP Hồ Chí Minh cho đến ngày viên tịch 15-7-2005. Quá trình công tác, chiến đấu của chiến sĩ biệt động thành Tô Thế Bình được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý như: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất cùng nhiều Huy chương, Bằng khen… Hoàng Châu
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 6, 2015 12:35:53 GMT 9
HỒI TƯỞNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG GÓP XÂY DỰNG NỀN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM (1967-1975)BÀI GIỚI THIỆU SÁCH VỀ ĐỆ NHỊ VNCH - Tác giả: K. W. Taylor (Cornell University) - Dịch giả: Tuong Vu (University of Oregon), xuất bản 05 March 2015 - Nguồn: TUANNYRIVER July 26, 2015 - Admin thêm các ảnh cho rõ. We have the first guest blog post, of a sort. Tuong Vu asks to post his Vietnamese translation of the introduction to the recent volume Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975), and I am most happy to oblige. The book is a compilation of papers given at a similarly named conference at Cornell three summers ago. See the conference reports by John Phan and from the Lyon Institute of East Asian Studies in English, and from Việt Báo in Vietnamese. The introduction comes from Keith Taylor, and Prof. Vu was asked by the Vietnamese contributors to translate it into their native tongue. To make it blog-friendly and easier to follow, I’ve added a few illustrations and links, and made bold the names of contributors and a few terms. Bìa sách "Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)" BÀI GIỚI THIỆU: HỒI TƯỞNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÓNG GÓP XÂY DỰNG NỀN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM (1967-1975) Tác giả: K. W. Taylor (Cornell University) Dịch giả: Tuong Vu (University of Oregon) Tác Giả: Keith W. Taylor is Professor of Vietnamese Studies at Cornell University. He is the author of A History of the Vietnamese Dịch Giả: Vũ Tường Vũ Tường (Đại học Oregon) dịch từ nguyên tác tiếng Anh, “Introduction: Voices from the South,” bài giới thiệu sách Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975) [Hồi tưởng của những người đóng góp xây dựng nền Đệ nhị cộng hòa của miền Nam Việt Nam (1967-1975)] do K. W. Taylor biên tập, Cornell Southeast Asia Program Publications (Ithaca, 2014), trang 1-8. Translation with permission from Cornell Southeast Asia Program Publications. sách Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975) trên Amazon, dày 180 trang, xuất bản 05 March 2015, Giá bìa: $51.95 * * * Người Mỹ chúng ta thường nghĩ về chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) như một định chế thống nhất trong hai thập kỷ (1955-75) khi quốc gia này là đồng minh của Hoa Kỳ. Thực ra, nền chính trị của VNCH trải qua nhiều thăng trầm của cuộc chiến tranh: đầu tiên là một chế độ độc tài, sau đó là một giai đoạn hỗn loạn, rồi đến một thời kỳ thử nghiệm dân chủ đại nghị khá ổn định. Trong phần lớn các bài viết, dù là nghiên cứu học thuật hay báo chí, VNCH hiện lên như một chế độ độc tài, tham nhũng, và hỗn loạn. Hình ảnh này mang tính chất phiến diện, cường điệu, và dựa trên những biến cố trong hai thời kỳ đầu của VNCH. Đã có rất ít nỗ lực đánh giá những thành tựu của VNCH trong tám năm cuối. Tác giả của các bài viết trong tập sách này là những người đã cố sức xây dựng một thể chế hiến định của chính phủ đại nghị trong bối cảnh một cuộc chiến tranh tuyệt vọng với đối phương là một nhà nước độc tài toàn trị. Đây là thời kỳ Đệ nhị cộng hòa (1967-1975). Nhiều người Việt đã đặt niềm hy vọng vào nền Đệ nhị cộng hòa, và qua nó chiến đấu và nỗ lực đóng góp cho tương lai của một Việt Nam-phi-cộng-sản. Qua tập sách này chúng tôi muốn đem câu chuyện của họ đến với bạn đọc vì những thành tựu của thời kỳ đó không phải nhỏ. Trong những thập kỷ đầu của nửa sau thế kỷ 20, các thuộc địa trở thành quốc gia độc lập bằng nhiều đường khác nhau. Quá trình này ở Việt Nam đặc biệt phức tạp và lâu dài vì cuộc tranh chấp giữa các nhóm người Việt có ý thức hệ khác biệt bị lôi cuốn vào cuộc tranh hùng của hai siêu cường trên thế giới. Trong bài giới thiệu này, tôi sẽ trình bày bối cảnh lịch sử của nền Đệ nhị cộng hòa trong đó người Việt đóng vai trò chủ động bên cạnh các cường quốc. Tôi cũng sẽ xem xét những vấn đề quan trọng liên quan đến việc đánh giá nền Đệ nhị cộng hòa, và đề nghị một cách phân tích nhìn từ quan điểm của người Việt. Trong nửa thế kỷ, từ năm 1940 đến năm 1990, chiến tranh đã bao phủ cuộc sống của người dân thuộc địa Đông dương của Pháp và sau đó là Cam Bốt, Lào, và Việt Nam. Đầu tiên là cuộc chiến tranh Thái bình dương, hay Thế chiến thứ Hai ở Á châu, khi Đông dương bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng. Sau khi Đức chiếm Pháp năm 1940, Nhật điều đình với chính phủ Vichy do Đức lập nên ở Paris để được quyền chiếm đóng và động viên tài lực ở Đông dương cho quân đội Nhật ở vùng Đông nam Á và Thái bình dương. Đông Dương vẫn do chính phủ thuộc địa của Pháp cai trị, cho phép Nhật rảnh tay dồn mọi nỗ lực đánh bại quân Đồng minh ở Miến Điện và quanh các quần đảo ở Đông nam Á và Thái bình dương. Đóng góp lớn nhất của Nhật vào lịch sử Việt Nam hiện đại là cuộc đảo chính tháng 3 năm 1945, khi quân Nhật bắt giam người Pháp và trực tiếp cai quản Đông dương. Cuộc đảo chính này do Nhật đề phòng khả năng Pháp trở mặt khi quân Đồng minh đến gần Đông dương. Quan hệ giữa Nhật và Pháp đã ngày càng căng thẳng; việc cả hai tích trữ lương thực dẫn đến nạn đói lớn ở Bắc kỳ vào mùa đông năm 1944-45. Cú đảo chính Pháp của Nhật kết liễu chế độ thực dân Pháp ở Đông dương. Điều này có nghĩa là người Pháp hoặc phải chấp nhận họ đã vĩnh viễn mất Đông dương, hoặc phải giành lại nó bằng vũ lực. Họ chọn cách thứ hai. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh vào tháng 8 năm 1945, chiến tranh trở lại khi Pháp tìm cách tái lập chế độ thuộc địa ở Đông dương. Quân đội Pháp gặp phải sự chống đối của người Việt. Hồ Chí Minh thành công trong việc loại bỏ hay trung lập hóa những cá nhân hay đảng phái theo chủ nghĩa Quốc gia, và phe Cộng sản của ông ta giành được địa vị lãnh đạo ở miền Bắc. Cuộc chiến tranh của người Pháp kéo dài đến năm 1954 còn có tên gọi khác là cuộc chiến Pháp-Việt hay chiến tranh Đông dương lần thứ nhất. Khi Cộng sản Trung Hoa lên nắm quyền và bắt đầu hỗ trợ Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1950, cuộc chiến này trở thành một phần của cuộc đối đầu giữa phe Cộng sản và phe chống Cộng trên phạm vi toàn thế giới. Đối với người Việt, thực ra sự phân chia Quốc-Cộng này đã diễn ra từ thập niên 1930. Những người Việt chống Cộng theo chủ nghĩa Quốc gia chỉ còn hai con đường: hoặc tham gia vào chính phủ Việt Nam do Pháp bảo trợ và do cựu hoàng Bảo Đại lãnh đạo trên danh nghĩa, hoặc rút lui khỏi chính trường chờ một cơ hội khác để thành lập chính phủ mới không Cộng sản cũng không dính dáng đến Pháp. Nhân vật nổi bật nhất trong số những người lui về chờ thời là Ngô Đình Diệm, người được Bảo Đại trao quyền Thủ tướng năm 1954. Vào thời điểm này người Pháp bắt đầu rút lui khỏi Việt Nam theo một hiệp ước quốc tế trả lại độc lập cho ba nước Đông dương đồng thời chia đôi Việt Nam. Miền Bắc nằm dưới quyền kiểm soát của Cộng sản và Hồ Chí Minh, còn miền Nam do chính phủ của Ngô Đình Diệm và phe Quốc gia cai quản. Giới học giả và ký giả đã mất nhiều giấy mực tranh cãi về thuật ngữ chủ nghĩa Quốc gia (hay dân tộc). Chủ nghĩa này có sức mạnh to lớn trong lịch sử hiện đại, và trong một thời kỳ dài người ta tôn sùng chủ nghĩa này và tin vào tính chính đáng của nó hơn tất cả các chủ nghĩa khác. Liệu thuật ngữ này chỉ nên dành riêng để mô tả phong trào Cộng sản Việt Nam là một câu hỏi căn bản trong việc giải thích lịch sử hiện đại của Việt Nam. Dựa trên quan điểm của người Việt, dĩ nhiên không khó khăn gì để trả lời câu hỏi này từ sau năm 1945, khi Cộng sản Việt Nam liên minh với phong trào Cộng sản quốc tế. Đối với phong trào này, giai cấp quan trọng hơn quốc gia và dân tộc. Vì lẽ này, những người chống Cộng ở Việt Nam coi mình là thực sự đại diện cho chủ nghĩa Quốc gia, xem trọng dân tộc hơn giai cấp. Quan điểm này được thể hiện mạnh mẽ nhất trong hồi ký của Nguyễn Công Luận, “Một Người theo Chủ Nghĩa Quốc Gia trong Chiến Tranh Việt Nam.” [1] Một mục đích của tập sách này là trình bày quan điểm của những người cống hiến cho nền Đệ nhị cộng hòa mà họ xem là đại diện cho chủ nghĩa Quốc gia Việt Nam, khác hẳn với chủ nghĩa Cộng sản. Đây là những người muốn xây dựng một Việt Nam mới không phải trải qua một cuộc cách mạng bạo tàn để thay đổi xã hội truyền thống. Vì mục đích này, tôi không có lý do gì để không dùng thuật ngữ chủ nghĩa Quốc gia để nói về họ, những người đã đầu tư sức trẻ vào nền Đệ nhị cộng hòa. Khi Trung Cộng bắt đầu hỗ trợ Cộng sản Việt Nam vào năm 1950, Hoa Kỳ cũng bắt đầu ủng hộ các lực lượng của Pháp và người Việt theo chủ nghĩa Quốc gia. Sau năm 1954, Hoa Kỳ tiếp tục giúp miền Nam, còn Liên Xô và Trung Cộng giúp miền Bắc. Đây là bối cảnh của cuộc chiến tranh kế tiếp, dưới tên gọi chiến tranh Đông dương lần thứ hai, chiến tranh của người Mỹ, hay chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ cuối thập niên 1950 và kết thúc vào năm 1975. Những biến chuyển trong hai thập niên đó thường được xem là thuộc về một cuộc chiến tranh duy nhất. Tuy nhiên, theo quan điểm của miền Nam trong thời gian đó có ba giai đoạn khác nhau về chiến tranh, chính trị, và chính quyền. Dưới nền Đệ nhất cộng hòa (1955-63) của tổng thống Ngô Đình Diệm, một chính quyền tương đối ổn định được thiết lập ở Sài gòn vào giữa thập niên 1950. Nhưng sau đó chính quyền Hà nội theo đuổi đường lối lật đổ chính quyền miền Nam bằng khủng bố, xúi giục bất ổn chính trị, và chiến tranh du kích. Chính phủ Mỹ ngày càng chỉ trích Ngô Đình Diệm nhiều hơn vì ông ta không muốn mở rộng chính phủ cho những nhân vật không có liên hệ gia đình hay thân hữu gia nhập. Về phần ông ta, Ngô Đình Diệm mất tin tưởng vào người Mỹ sau khi Hoa Kỳ ký thỏa thuận về Lào cho phép Bắc Việt có thể thâm nhập vào miền Nam qua biên giới Lào-Việt. Ông ta không tán thành việc chính quyền Kennedy muốn tăng mạnh con số cố vấn Mỹ ở miền Nam. Ngô Đình Diệm cho rằng chính sách của Kennedy đe dọa chủ quyền của VNCH và trái với sự nghiệp và lý tưởng Quốc gia của ông. Ngô Đình Diệm cũng bất đồng với người Mỹ về cách thức đương đầu với mối đe dọa từ miền Bắc. Ông ta tin rằng cần phải giải quyết các vấn đề quân sự và an ninh trước khi mở rộng chính phủ cho các thành phần khác tham gia, trái với ý kiến của nhiều người Mỹ cho rằng phải làm ngược lại mới đúng. Các bất đồng chưa được giải quyết thì những biến cố bất ngờ xảy ra dẫn đến một cuộc khủng hoảng chính trị. Năm 1963, anh trai của Ngô Đình Diệm là Tổng giám mục Thiên chúa giáo ở Huế gây ra căng thẳng với các tu sĩ Phật giáo khiến họ chống lại chính quyền Sài Gòn. Huế là kinh đô của vua chúa nhà Nguyễn trước khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, và sau khi độc lập trở thành trung tâm của phong trào Quốc gia do các tu sĩ Phật giáo có xu hướng chính trị lãnh đạo. Các cuộc biểu tình chống chính phủ của tăng ni Phật giáo lan tới những thành phố lớn của miền Nam vào mùa hè năm 1963, làm cho người Mỹ mất hẳn niềm tin vào Ngô Đình Diệm. Nền Đệ nhất cộng hòa kết thúc với cái chết của ông ta trong cuộc đảo chính quân sự được chính phủ Mỹ khuyến khích. Bốn năm tiếp theo (1963-67) là giai đoạn giao thời. Trong thời kỳ này, chính quyền miền Nam do các sĩ quan quân đội lãnh đạo với sự cộng tác của viên chức dân sự. Lúc này ngọn lửa chiến tranh đã lan rộng với lực lượng quân đội của Mỹ và miền Bắc đổ vào miền Nam ngày càng nhiều. Cho đến năm 1966, chính trị trong nước rơi vào tình trạng bất ổn và chính quyền thay đổi liên tục. Sự hỗn loạn này là do quan hệ thay đổi giữa các sĩ quan quân đội, do các hoạt động chính trị của nhóm tu sĩ Phật giáo đã gây ra sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa, và do cố gắng của các tổ chức tôn giáo hay chính trị khác thúc đẩy hay chống lại thay đổi. Vào năm 1967, một bản Hiến pháp mới được thông qua và thi hành, dẫn đến sự ra đời của nền Đệ nhị cộng hòa (1967-75). Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chế độ miền Nam đạt được sự ổn định chính trị và ngày càng đảm nhiệm vai trò lớn hơn trong cuộc chiến khi quân đội Mỹ rút lui dần dần và hoàn toàn vào năm 1973. Trong những năm này, thường dân, nhà giáo, nhà báo, chính khách, thương nhân, viên chức, luật sư, thẩm phán, tướng lãnh quân đội, và nhà ngoại giao, đều có đóng góp vào việc xây dựng một chính phủ hiến định dựa trên chế độ bầu cử tương đối cởi mở với các cơ quan hành pháp, lập pháp, và tư pháp riêng biệt. Trong một đất nước vừa được độc lập không lâu, trải qua một quá trình giải thực khó khăn, không có truyền thống dân chủ hay lập hiến, lại bị một nước lân cận quyết tâm phá hoại, và với một đồng minh đang tìm cách rút lui, thử nghiệm dân chủ dưới nền Đệ nhị cộng hòa vẫn diễn ra và đạt được nhiều thành công. Hầu như tất cả các tác giả viết về những năm cuối của cuộc chiến đều lờ đi thành tích đạt được của nền Đệ nhị cộng hòa. Những thành tích đó làm cho người Mỹ xấu hổ vì một trong những lập luận chính của những người có lập trường chống chiến tranh Việt Nam là chính phủ Sài gòn là một chế độ độc tài không thể thay đổi được, không xứng đáng nhận sự giúp đỡ của Mỹ, và dù thế nào chăng nữa cũng phải thất bại. Lập trường phản chiến này đã giành được địa vị độc tôn trong giới học giả và phân tích chính trị ở Mỹ. Lập luận nêu trên giúp cho người Mỹ bớt dằn vặt về đạo đức vì nước Mỹ đã bỏ rơi một đồng minh trong cơn hoạn nạn. Nhưng thực ra lập luận đó phản ánh nỗi thất vọng của người Mỹ nhiều hơn là thực tế những gì đang xảy ra do người Việt cảm nhận. Những hồi ức trong tập sách này phản ánh những ước vọng và nỗ lực của những người quan tâm nhiệt thành đến tương lai của nền Đệ nhị cộng hòa. Nền Đệ nhị cộng hòa đạt được ít nhất bốn thành tựu chính. Thứ nhất, về mặt quân sự, Quân lực VNCH nhận trách nhiệm chiến đấu từ người Mỹ. Mặc dù biến cố Tết Mậu thân năm 1968 làm cho dư luận Mỹ chuyển sang phản đối chiến tranh Việt Nam, dư luận ở miền Nam Việt Nam thay đổi theo chiều ngược lại. Tổn thất của phe Cộng sản giúp chính phủ giành lại quyền kiểm soát phần lớn vùng thôn quê và thực thi những chính sách hợp lòng dân quê. Thêm nữa, việc người Cộng sản đem cuộc chiến vào giữa các đô thị gây căm phẫn cho dân cư thành thị. Rất nhiều người giờ đây hiểu rằng họ có một thứ cần phải chiến đấu để gìn giữ: đó chính là nền Đệ nhị cộng hòa. Với sự rút lui của quân đội Mỹ sau Tết Mậu thân, người Việt ngày càng nhận thêm trách nhiệm bảo vệ đất nước họ. Trong hai năm 1970 và 1971, Quân lực VNCH tham chiến với quân đội Mỹ hay với sự trợ giúp hỏa lực của Mỹ đã tiến hành những chiến dịch lớn ở Lào và Cam Bốt với mục đích làm giảm bớt khả năng của quân đội Bắc Việt dùng lãnh thổ của hai nước láng giềng tấn công vào miền Nam Việt Nam. Những chiến dịch này gây nhiều tổn thất và tranh cãi, nhưng cũng giúp cho Quân lực VNCH thêm khả năng và kinh nghiệm, và phần nào đặt quân đội Bắc Việt vào thế bị động. Trong cuộc tổng tấn công trên ba mặt trận vào mùa xuân 1972 của Cộng sản, khi hầu như tất cả quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, Quân lực VNCH đã đẩy lùi Cộng quân với sự trợ giúp của không quân Mỹ. Tuy nhiên ba năm sau đó, thiếu sự ủng hộ vật chất và tinh thần của đồng minh, nền Đệ nhị cộng hòa đã bị đánh bại. Thành tựu thứ hai của nền Đệ nhị cộng hòa là ở lĩnh vực phát triển nông thôn. Sau Tết Mậu thân, tình hình an ninh ở thôn quê được đảm bảo cho việc thực thi một chương trình cải cách ruộng đất làm thay đổi nền kinh tế, xã hội, và chính trị ở phần lớn khu vực nông thôn. Mặc dù không được phần lớn giới quan sát ngoại quốc quan tâm, chính sách này tạo ra một mối quan hệ bình đẳng hơn giữa thành thị và thôn quê cũng như bồi đắp tiềm lực của khu vực nông thôn để làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế trong tương lai. Chương trình cải cách ruộng đất được thực thi một cách hòa bình và được sự ủng hộ của dân chúng, hoàn toàn khác với các cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo ở Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Đây là một lý do nữa mà người miền Nam phải chiến đấu chống lại miền Bắc. Thứ ba, những thành tựu quan trọng về sản xuất và phân phối lúa gạo, về quản lý thị trường, về tìm kiếm dầu hỏa, và về chính sách tài chính đưa miền Nam Việt Nam gần hơn với mục tiêu độc lập kinh tế khi viện trợ Mỹ chấm dứt. Một thế hệ lãnh đạo mới đã hình thành, trong đó nhiều người có tinh thần dân tộc cao và tốt nghiệp từ các trường đại học của Mỹ. Những người này đem chí hướng cải cách cũng như thái độ tích cực và thực tế vào một nền hành chánh vốn chịu nhiều ảnh hưởng của quá khứ thực dân quan liêu. Trong hoàn cảnh phải đối đầu với những vấn đề nghiêm trọng, thậm chí đến mức tuyệt vọng, trong hoàn cảnh nguồn lực suy yếu vì đồng minh Mỹ cắt giảm viện trợ, chính phủ Đệ nhị cộng hòa cho thấy có khả năng đưa ra những quyết định táo bạo. Thứ tư, nhiều tiến bộ phải được ghi nhận về việc xây dựng một chính phủ hợp hiến gồm có lưỡng viện Quốc Hội, thể chế bầu cử đa đảng, và một hệ thống tư pháp độc lập giúp củng cố quy trình pháp luật để bảo vệ tự do cá nhân và những nguyên tắc chính trị dân chủ. Nhiều người Mỹ chê bai những tiến bộ trong lãnh vực này của chính phủ Đệ nhị cộng hòa bằng cách so sánh chúng với những thể chế ở Mỹ đã có hơn 200 năm phát triển. Nhưng nếu so sánh với những gì Việt Nam trải qua dưới thời thực dân và trong chiến tranh, chúng ta sẽ nhận thấy rất nhiều tiến bộ trong thời kỳ Đệ nhị cộng hòa. Những thành tựu trên không có nghĩa là Đệ nhị cộng hòa không có khuyết điểm gì. Nhiều quốc gia hậu thuộc địa, kể cả hai nhà nước ở hai miền của Việt Nam, đều phải lệ thuộc rất lớn vào ngoại viện. Ngược lại với Bắc Việt, khuyết điểm lớn nhất của Đệ nhị cộng hòa là việc nó lệ thuộc vào một đồng minh không “chung thủy” [nguyên văn: “unreliable”]. Các chính khách của miền Nam có xu hướng coi quan hệ đồng minh với Mỹ là mặc nhiên và không tìm cách để bảo vệ mối quan hệ hay thay thế nó khi nó không còn nữa. Đệ nhị cộng hòa thất bại trên mặt trận tuyên truyền ở Mỹ vì người ta gán cho nó những khuyết điểm của nền Đệ nhất cộng hòa và của giai đoạn giao thời. Dĩ nhiên những cặp mắt phê phán luôn có thể tìm thấy khuyết điểm ở bất cứ quốc gia nào, đặc biệt trong trường hợp một quốc gia trẻ đang cố gắng để tồn tại dù phải đương đầu với một kẻ thù ghê gớm. Nhưng những người Mỹ phê phán Đệ nhị cộng hòa lại có thái độ kẻ cả của một nước lớn. Họ đi xa đến mức chối bỏ tính chính danh của chế độ Đệ nhị cộng hòa như một nhà nước có chủ quyền. Chính phủ Mỹ cũng phạm sai lầm tương tự. Hiệp định Paris do Washington ký kết với Hà Nội đã vi phạm hiến pháp và chủ quyền của Đệ nhị cộng hòa. Năm 1954, Pháp thay mặt cho những người Việt quốc gia đàm phán ở Geneva nhưng thực ra là làm hại họ. Chính phủ Mỹ cũng làm thế đối với Hiệp định Paris năm 1973. Ngô Đình Diệm coi Hiệp định Geneva là hành động của Pháp qua mặt chính phủ của ông ta để đàm phán với kẻ thù. Nguyễn Văn Thiệu cũng có suy nghĩ tương tự với Hiệp định Paris giữa Mỹ và Bắc Việt. Cả hai thỏa ước chứa đựng những điều khoản có thể hay thực tế đã gây khó khăn cho những người Việt quốc gia. Một lý do gây tranh cãi về Hiệp định Geneva là việc người Pháp thừa nhận Cộng sản Việt Nam là đại diện cho một nhà nước có chủ quyền, trong khi đó họ lại không phê chuẩn một thỏa ước trao trả độc lập cho chính quyền của phe quốc gia Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo. Mưu đồ của người Pháp muốn giữ lại chủ quyền ở miền Nam là để nắm quyền xử lý tình hình ở Sài gòn cho đến khi “bầu cử” thống nhất được tổ chức hai năm sau theo Hiệp định. Nhưng Ngô Đình Diệm không cho phép người Pháp tiếp tục khuynh đảo tương lai của Việt Nam. Ông ta tổ chức trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955 để truất phế Bảo Đại và tạo điều kiện cho nền Đệ nhất cộng hòa ra đời. Biến cố này có thể được xem là bản tuyên ngôn độc lập của người Việt quốc gia. Họ làm được việc này nhờ tìm được người Mỹ làm đồng minh. Tuy nhiên, khi người Mỹ thỏa thuận với Cộng sản để rút lui khỏi Việt Nam năm 1973, người Việt quốc gia không còn chỗ dựa nào khác. Có lẽ chẳng có cách nào để VNCH khắc phục được khuyết điểm căn bản là thiếu một đồng minh đáng tin cậy trong khi đồng minh của Bắc Việt không bỏ cuộc cho đến phút cuối. Có lẽ chẳng có cách nào giúp chế độ Đệ nhị cộng hòa khắc phục được việc bị dư luận Mỹ đánh đồng với những thất bại của Đệ nhất cộng hòa và giai đoạn giao thời. Nhưng cũng có thể lập luận như một vài tác giả trong tập sách này rằng Đệ nhị cộng hòa lẽ ra nên tích cực chủ động hơn trong việc tác động đến dư luận Mỹ để chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ Việt Nam lâu hơn và nhiều hơn—dù rằng việc này rất khó trong điều kiện dân chúng Mỹ phải bận tâm đến những rối loạn chính trị xã hội ở nước họ. Không thể phủ nhận rằng Đệ nhị cộng hòa phải đương đầu với những thách đố nghiêm trọng. Phần lớn nếu không phải tất cả những thách đố đó đều có liên quan đến việc giảm dần tiến tới mất hẳn nguồn ngoại viện nhưng vẫn phải mạnh lên để kháng cự quân đội miền Bắc vẫn tiếp tục được đồng minh của họ trợ giúp. Bài viết của Trần Quang Minh và Nguyễn Đức Cường trong tập sách này mô tả những cố gắng tái cấu trúc kinh tế và kế hoạch tự lực cánh sinh. Hồ Văn Kỳ-Thoại kể lại trận đánh giữa VNCH và Trung Cộng ở Hoàng Sa năm 1974. Khi đó, tàu của Hải quân Mỹ quan sát từ xa nhưng không can thiệp và thậm chí không cứu vớt những người lính thủy Việt Nam bị chìm tàu trong cuộc hỗn chiến. Qua cử chỉ này của quân đội Mỹ, chính phủ Sài gòn đáng lẽ phải biết rằng không thể tiếp tục trông vào sự giúp đỡ của Mỹ khi cần thiết nữa. Việc Sài gòn vẫn tiếp tục mong được Mỹ giúp đỡ có lẽ là thất bại lớn nhất của Đệ nhị cộng hòa—tuy nhiên cũng phải nói là khó tìm được một đồng minh khác có thể thay thế Hoa Kỳ. Không khó để chỉ trích những quyết định chiến thuật và chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu trong mùa xuân 1975, nhưng không phải dễ để chỉ ra một lối thoát. Từ khi quân đội Mỹ triệt thoái năm 1973, viện trợ Mỹ cho Đệ nhị cộng hòa giảm bớt rất nhanh. Trong khi đó, địch quân được Hiệp định Paris cho phép ở lại miền Nam và tiếp tục được củng cố, huấn luyện và tái trang bị cho các chiến dịch kế tiếp. Ai đó có thể lập luận rằng cam kết thực thi một nền dân chủ hợp hiến của Đệ nhị cộng hòa là một nhược điểm so với chế độ Cộng sản độc tài toàn trị ở miền Bắc. Chế độ này huy động tất cả dân chúng vào cuộc chiến và không cho phép ai có ý kiến khác. Đúng là việc động viên toàn bộ dân chúng kiểu miền Bắc khó có thể thực hiện được trong chế độ đa nguyên chính trị của Đệ nhị cộng hòa với một nền báo chí và cơ chế bầu cử tương đối tự do cho phép có dân biểu đối lập trong Quốc Hội, cộng thêm một nền tư pháp tương đối độc lập. Nhưng đây lại chính là ý nghĩa của cuộc chiến tranh, là lý do người miền Nam phải chiến đấu để gìn giữ. Nếu Đệ nhị cộng hòa cũng bắt chước chế độ toàn trị ở miền Bắc thì không còn lý do nào để chiến tranh tiếp diễn. Những bài viết trong tập sách này đầu tiên được trình bày tại một hội thảo ở Đại học Cornell vào tháng 6 năm 2012. Các tác giả đại diện cho nhiều quan điểm và có những kinh nghiệm khác nhau dưới thời Đệ nhị cộng hòa, nhưng đều có ước vọng và công sức đóng góp vào xây dựng nền dân chủ hợp hiến trong thời chiến. Công cuộc xây dựng một nền dân chủ vững mạnh và thực thi những cải cách để đạt được mục đích đó đã nhận được nỗ lực và niềm tin của nhiều người Việt, dù phải tiến hành trong điều kiện chiến tranh khắc nghiệt và chịu dư luận búa rìu của một đồng minh lúc đầu thì dẫm đạp lên quyền lợi quốc gia của Việt Nam nhưng sau đó lại bỏ rơi nó. Tôi biết ơn lòng can đảm của những tác giả. Sau nhiều thập kỷ Đệ nhị cộng hòa bị người Mỹ coi thường, họ vẫn giữ được tiếng nói, và giờ đây viết lại kinh nghiệm của họ với sự trung thực. Ảnh 11 người diễn thuyết tại University Cornell Symposium các ngày 11-12 June 2012. Từ trái qua: các ông Nguyễn Đức Cường, Lữ Lan, Trần Văn Sơn, Trần Quang Minh, Trang Sĩ Tấn, Bùi Diễm, Hoàng Đức Nhã, Phan Quang Tuệ, Phan Thanh Tâm, Nguyễn Ngọc Bích, Hồ Văn Kỳ Thoại - Photo by Vietbao 22/06/2012 Bài của tác giả Bùi Diễm dựa trên kinh nghiệm của ông ta trên chính trường từ thập niên 1940 và trong nhiều năm đóng vai trò ngoại giao giữa Washington và Sài gòn. Với những suy tư sâu sắc về lịch sử, Ông Diễm nhìn lại cuộc tranh đấu Quốc-Cộng đã có trước khi người Mỹ can thiệp và vẫn còn tiếp tục dai dẳng sau khi họ đã bỏ cuộc. Theo quan điểm của ông, cách thức can thiệp và rút chạy của Mỹ đã làm hại người Việt quốc gia trong khi Cộng sản Việt Nam không gặp những vấn đề tương tự với đồng minh của họ. Phan Công Tâm phục vụ trong Tổ chức Tình báo Trung ương (CIO) giống như Cục Tình báo Trung ương (CIA) của Mỹ. Bài viết của ông cung cấp thông tin về sự hình thành, tổ chức, và phát triển của Tổ chức Tình báo Trung ương, và kinh nghiệm của ông khi trong quan hệ quốc tế, bao gồm hòa đàm Paris, vụ đảo chánh năm 1970 ở Cam Bốt, và quan hệ ngoại giao với lãnh tụ của một quốc gia Phi châu. Nguyễn Ngọc Bích thuật lại những nỗ lực của ông để giới thiệu chính phủ VNCH tại nước Mỹ và trên thế giới giữa lúc tuyên truyền thân Cộng sản đang làm dấy lên một phong trào chống chiến tranh Việt Nam. Là nhà giáo dục, ông tranh luận và bác bỏ những lập luận và thông tin sai lệch nhưng được nhiều người tin về Đệ nhị cộng hòa. Trần Quang Minh là giáo sư đại học về môn thú y và đã phục vụ trong nhiều bộ và cơ quan chính phủ liên quan đến sản xuất và tiếp thị sản phẩm nông nghiệp và sau đó là chương trình cải cách điền địa năm 1970. Bài viết của ông kể lại một cách sống động khoảng thời gian hơn một thập kỷ làm việc trong lãnh vực nông nghiệp. Nguyễn Đức Cường là một tổng trưởng kinh tế dưới thời Đệ nhị cộng hòa. Ông mô tả tình hình kinh tế của miền Nam trong thời gian Mỹ can thiệp quân sự, với sự quan tâm đặc biệt về những nỗ lực điều chỉnh kinh tế khi Mỹ rút trong những năm cuối của cuộc chiến. Bài của Phan Quang Tuệ về sự nghiệp của thân phụ ông và của chính ông dưới thời Đệ nhất và Đệ nhị cộng hòa. Thân phụ ông là Bác sĩ Phan Quang Đán, một nhân vật đối kháng nổi bật dưới thời Đệ nhất cộng hòa. Do hoạt động đối kháng, ông ấy và cả gia đình chịu nhiều sách nhiễu chính trị. Phan Quang Tuệ kể lại về thời trẻ lớn lên trong một gia đình có tiếng tăm, về công việc của ông trong hệ thống tư pháp của Đệ nhị cộng hòa, và về cuộc vận động tranh cử vào Hạ Viện năm 1971 của ông. Trần Văn Sơn thuật lại những thăng trầm của gia đình ông trong những cuộc chiến tranh của thế kỷ hai mươi và sự nghiệp của ông từ một sĩ quan hải quân đến dân biểu đối lập trong Hạ Viện sau khi được bầu năm 1971, đến giai đoạn ông bị Cộng sản cầm tù, chuyến đi vượt biển, và cuối cùng là hoạt động chính trị của ông trong cộng đồng người Việt di tản ở Mỹ. Mã Xái là một dân biểu đối lập ở Hạ Viện trong suốt thời kỳ Đệ nhị cộng hòa, được bầu lần đầu vào năm 1967 và tái đắc cử năm 1971. Bài viết của ông trình bày về chương trình và hoạt động của Đảng Tân Đại Việt trong những năm đó. Hồ văn Kỳ-Thoại là phó Đề đốc Hải quân. Ông đang là tư lệnh vùng khi quân Trung Cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Bài viết của ông thuật lại trận đánh trên biển từ góc nhìn của người trực tiếp chỉ huy phía Việt Nam và cố gắng của Hải quân Việt Nam để bảo vệ quần đảo mặc dù không thành công. Lữ Lan là Trung Tướng trong Quân lực VNCH. Ông đã phục vụ trong các trường huấn luyện, cơ quan tham mưu, Ban chỉ huy sư đoàn, và chức vụ Tổng Thanh tra. Bài viết của ông có cả phân tích các vấn đề và tường thuật một số sự kiện. Các bài viết trong tập sách này tường thuật nhiều trải nghiệm khác nhau và các tác giả cũng có quan điểm và cách trình bày vấn đề khác nhau. Điều này thể hiện sự đa dạng về mục đích và ý kiến của thành phần ưu tú trong xã hội miền Nam vào thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, khi những thăng trầm của cuộc chiến và sự can thiệp của nước ngoài tạo ra những thay đổi nhanh và một loạt khủng hoảng về lãnh đạo, tổ chức chính trị, hoạt động quân sự, đời sống kinh tế, trật tự xã hội, và chính sách hành chính. Sự đa dạng đó của miền Nam khi so sánh với xã hội độc tài toàn trị của miền Bắc là một lý do chính yếu để tiếp tục cuộc chiến. Đệ nhị cộng hòa đối với người Mỹ vào lúc đó và sau này, cho đến tận hôm nay, là một chế độ độc tài đáng để cho sụp đổ. Đó là một sự vu khống; một sự vu khống rất tiện lợi để biện hộ cho việc Mỹ bỏ rơi VNCH, nhưng bản chất nó là một sự vu khống. Nỗ lực có thật của nhiều người Việt để kiến tạo một xã hội dân chủ trong thời chiến vẫn chưa xuyên phá được cái huyền thoại tiện lợi nhưng không có thật về một đồng minh bị bỏ rơi và bị miệt thị vào bậc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Mục đích của tập sách này không phải chỉ để thu thập tiếng nói của những người đóng vai trò quan trọng trong Đệ nhị cộng hòa trước khi họ vĩnh viễn ra đi, mà còn để tạo cho người Mỹ một cơ hội, một cơ hội muộn màng sau gần nửa thế kỷ, để hiểu rõ hơn một quốc gia đồng minh mà vì nó cả chục ngàn thanh niên Mỹ đã bỏ mạng. —————————————— [1] Nguyen Cong Luan, Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier (Bloomington and Indianapolis, IN: Indiana University Press, 2012) -Bài Liên Quan: Một Hội-Thảo Giành Lại Sự Thật Cho Việt-Nam Cộng-Hoà bài của Tâm Việt, Vietbao 22/06/2012 ************************************************** Một Hội-Thảo Giành Lại Sự Thật Cho Việt-Nam Cộng-Hoàbài của Tâm Việt, Vietbao 22/06/2012 Hai ngày 11 và 12 tháng Sáu 2012 vừa qua, Viện Đại-học Cornell đã tổ-chức một cuộc hội-thảo thật ý nghĩa, quy tụ 10 diễn-giả gốc từ miền Nam Việt-nam và gần 50 giáo-sư người Hoa-kỳ đang giảng dạy về Việt-nam (và chiến-tranh VN) trên khắp nước Mỹ, Canada và Pháp. Những tiếng nói bị lãng quên Cuộc hội-thảo hai ngày mang tên “Voices from the South” (“Những tiếng nói từ miền Nam” 1) là một nỗ lực của Giáo-sư Sử-học Keith W. Taylor 2, khoa-trưởng Khoa Á-đông-học tại Cornell, nhằm đem lại một vài sự thực bị lãng quên/xuyên tạc trong mấy chục năm qua. Mở đầu buổi hội-thảo vào sáng thứ Hai, 11/6/2015, G.S. Taylor cho rằng những người viết về lịch-sử VN và chiến-tranh VN trong hàng chục năm qua đã không mấy quan tâm đến những tiếng nói của miền Nam VN, nhất là của thời Đệ-nhị Cộng-hoà. Thì đây, cuộc hội-thảo này sẽ nhằm khoả lấp được phần nào những thiếu sót của sử-học về VN trong hàng chục năm qua. Nếu trong tiếng Anh đã có những sách viết về thời Đệ-nhất Cộng-hoà của Tổng-thống Ngô Đình Diệm thì những sách viết về thời Đệ-nhị Cộng-hoà (1967-1975) phải nói là rất hiếm, gần như không có. Vì những lý-do trên, cuộc hội-thảo đã mời một số nhân-chứng cuối cùng của thời Đệ-nhị Cộng-hoà để cho họ có thể giúp ta nhìn lại vấn-đề một cách chính-xác hơn. Được tài-trợ bởi một ngân-quỹ của sáng-hội Einaudi, cuộc hội-thảo đã cho các tham-dự-viên cơ-hội nghe một số tiếng nói của những người đã thực-sự đóng những vai trò đáng kể trong giai-đoạn 10 năm sau cùng của Việt-Nam Cộng-Hoà. Hội-luận đầu:Các ông Bùi Diễm, Hoàng Đức Nhã và Phan Công TâmMở đầu hai ngày hội-thảo, cựu-Đại-sứ Bùi Diễm đã nói đến những khúc mắc trong bang-giao Việt-Mỹ, gồm nhiều sự hiểu nhầm nhau từ cả hai phía. Nếu Tổng-thống Franklin D. Roosevelt thì muốn trao trả độc-lập cho VN thì sự thắng thế của Trung-Cộng trên Hoa-lục đã làm cho Mỹ, lúc đầu ủng-hộ Pháp để ngăn chặn làn sóng CS xuống Đông-Nam-Á, về sau ngày càng lún chân thêm vào cuộc chiến mà thực lòng chưa chắc họ đã muốn. Vì thế mà cuối cùng, Mỹ đã phải tìm cách rút chân ra khỏi VN, đưa đến Quốc-hội Mỹ không giữ lời hứa với VNCH, để cho Bắc-Việt tràn vào dựa trên một sự yểm trợ dồi dào của Liên-Xô và Trung-Cộng. Như để minh-hoạ những khó khăn trong bang-giao Mỹ-Việt, ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng-trưởng Dân-vận Chiêu hồi, đã mô-tả lại những bất đồng giữa ông Kissinger, người được Tổng-thống Nixon giao cho việc thương thuyết hoà-bình với Hà-nội, và Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, người bị ép quá trong cuộc thương lượng mà giờ đây ông Kissinger cũng phải công-nhận là đã bị Lê Đức Thọ đánh lừa. Tuy chiến-đấu trong những tình cảnh khó khăn như vậy, về mặt tình-báo chiến-lược, ông Phan Công Tâm cũng cho rằng miền Nam đã có những thành công nhất định mà ngay bây giờ cũng chưa thể tiết-lộ hết được. Vì thế nên ông chỉ đưa ra một vài trường-hợp mà giờ đây đã được nhiều người biết đến. Hội-luận 2:Vai trò của Quân-độiSang phần hội-luận 2, Đề-đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã kể lại trận chiến giữa Hải-quân VNCH và Hải-quân Trung-Cộng vào tháng 1 năm 1974. Ngay trong khi Mỹ đã quyết định không can-thiệp vào chiến-tranh VN nữa, ông Thiệu vẫn đã cho lịnh đánh trả Trung-Cộng để khẳng-định chủ-quyền của ta trên quần-đảo Hoàng-sa.Chính do vậy mà trận Hoàng-sa, tuy thất bại, vẫn là một trang sử đẹp trong lịch-sử Hải-quân VN. Người quân-nhân thứ hai tham-gia trong hội-luận này là Trung-tướng Lữ Lan. Trong một bài trình bày bằng tiếng Anh rất lưu loát và gẫy gọn, ông đã nói về trận Tết Mậu Thân và vùng II Chiến-thuật. Sau đó đến lượt ông Trang Sĩ Tấn trình bầy vì sao mà cuộc Tổng Công Kích-Tổng Nổi Dậy của Cộng-quân đã chỉ xảy ra phần Tổng Công Kích mà không có phần Tổng Nổi Dậy, một thất bại lớn của đối-phương. Đó là vì Cảnh-sát VNCH đã ngăn chặn được hết cả các nút vận-động quần-chúng của địch. Hội-luận 3:Các lãnh-vực thông tin tuyên-truyền, tư pháp và lập phápSang ngày thứ hai của cuộc hội-thảo, tức sáng thứ Ba, 12/6, ông Nguyễn Ngọc Bích, một người đã gánh vác nhiều chức-vụ về thông tin, từ thời-gian còn phục-vụ ở Toà Đại-sứ Washington, đến khi về VN làm Trung-tâm-trưởng Trung-tâm Dân-vụ, rồi Cục-trưởng Cục Thông tin Quốc-ngoại, và Tổng-giám-đốc Việt Tấn Xã cuối cùng, đã trưng ra được nhiều những trường-hợp phải đương đầu với bọn phản chiến ở Mỹ, với báo chí ngoại-quốc ở Sài Gòn (lúc nào cũng có từ 200 đến 300 ký-giả ngoại-quốc hoạt-động ở VN vào những năm cuối cuộc chiến), rồi cả với những quốc gia không thân thiện với ta. Thẩm-phán Phan Quang Tuệ đã kể lại kinh-nghiệm cá-nhân của ông như là một luật-gia có lúc làm việc ở Toà Án Tối Cao của VNCH cũng như có lúc đã ra tranh cử thành công để vào Quốc-hội. Ông cho biết là ngành tư pháp của miền Nam là một ngành được đào luyện tử tế nên có những luật-sư, thẩm phán được đào tạo chính-quy và ngành Tư pháp của miền Nam đã giữ được tính-cách tương-đối độc-lập của mình, không lệ-thuộc vào một đảng phái nào như hệ-thống luật pháp hiện-hành ở VN. Tóm lại, nền dân-chủ thời bấy giờ ở miền Nam, tuy chưa hoàn-hảo nhưng vẫn tôn trọng nguyên-tắc tam quyền phân lập thực-sự để đảm bao dân-chủ cho người dân. Cuối cùng là phần trình bầy của cựu Dân-biểu Trần Văn Sơn trong khối Dân-chủ Xã-hội. Theo ông Sơn thì đối-lập là có thật trong Quốc-hội VNCH tuy rằng đối-lập lúc bấy giờ chưa đủ mạnh để có thể ảnh-huởng nhiều đến chính-sách của nhà nước. Dầu sao, trả lời một câu hỏi từ cử toạ, ông Trần Văn Sơn cho biết ông hoàn-toàn tự do trong những phát biểu hay chỉ-trích cả chính-phủ của ông hay những khối đối-lập trong Lập pháp. Hội-luận 4:Xây dựng xã-hội trong một tình-cảnh chiến-tranh khốc-liệtPhần cuối cùng của hội-nghị hai ngày đã dành cho tiếng nói của ông Hoàng Đức Nhã và hai vị thứ và tổng-trưởng cũ của VNCH. Mở đầu, ông Nhã cho rằng người ta dễ quên là ở miền Nam trước năm 1975, vẫn có một xã-hội dân-sự rất phát triển trong đó người dân và nhiều lực-lượng xã-hội khác nhau vẫn đem được sức lực của mình vào việc xây đựng một quốc gia tân-tiến. Như các tôn-giáo lớn có cả một hệ-thống trường học trên toàn-quốc, như Phật-giáo thì có các trường Bổ Đề, có cả trường đại-học như Vạn Hạnh của Phật-giáo, hay trường Đại-học Đà Lạt của bên Công-giáo, Đại-học An-giang của Hoà Hảo, Đại-học Cao Đài ở Tây-ninh. Các công-tác cứu trợ hay xã-hội được nhiều cơ-quan tư-nhân đảm trách, như các cô-nhi-viện, các trường khuyết tật, các trường tư trên khắp nước tiếp tay với chính-phủ để lo cho người dân. Chính vì thế mà những phong trào như Hướng Đạo, Gia-đình Phật-tử hay Thanh Sinh Công đã đóng góp rất đáng kể vào việc huấn luyện tuổi trẻ, tạo cho họ một tinh-thần phục-vụ xã-hội, và giữ được những nề nếp của một xã-hội văn-minh, tân tiến. Để cho thấy xã-hội miền Nam vẫn thăng tiến không thua gì các nước lân-bang, ông Nguyễn Đức Cường, cựu Tổng-trưởng Kinh tế, đã trình bầy những nỗ lực của chính-quyền kềm lạm-phát, phát triển các ngành nghề (như ta đã làm được xe hơi La Dalat), thậm chí tìm được cả dầu hoả ở gần Côn-sơn.Về mặt tạo cơ-hội bình-đẳng cho người nông-dân, ông Thứ-trưởng Trần Quang Minh đã trình bầy thật hùng hồn về chương-trình “Người Cày Có Ruộng” do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chủ-trương và phát động, đem lại được rất nhiều công-bằng xã-hội, chuẩn-bị cho những bước nhảy vọt sau này về sản-xuất nông-phẩm và ngư-nghiệp. Một cử-toạ rất chuyên-môn Vì đa-phần những tham-dự-viên đến nghe hai ngày hội-thảo là những giáo-sư hiện đang phụ trách giảng dậy về VN nên những câu hỏi hay đóng góp ý-kiến của họ xem ra rất có chất-lượng, đôi khi làm cho cử-toạ giật mình vì sự hiểu biết của họ. Chính vì thế mà sự đánh giá sau hai ngày hội-thảo đã được xem là khá cao. Và không ít người ngỏ ý là muốn được thấy những sinh-hoạt tương-tự trong tương-lai gần, để cho những nhân-chứng cuối cùng còn có cơ-hội chia xẻ với chúng ta những kinh-nghiệm sống thật của họ trong một cuộc chiến lớn, cả đối với lịch-sử VN và lịch-sử Mỹ. Tâm Việt
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 29, 2015 18:10:47 GMT 9
Tong Thong Nguyễn Văn Thiệu, “Người Mỹ đã phản bội chúng tôi.”Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. | Phạm Thị Hoài dịch “Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.” – Cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu về cuốn hồi ký của Kissinger và Chiến tranh Việt Nam DCVOnline | Cuối năm 1979, tuần báo Der Spiegel số 50 đã đăng bài phỏng vấn cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu, dài 9 trang, do hai biên tập viên Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. Thực hiện. Chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc bản dịch sang Việt ngữ của Nguyễn Thị Hoài. Cựu TT Nguyễn văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Der Spiegel tại tư gia ở Anh Quốc, 1979. Nguồn: Der Spiegel Số 50/1979, trang 197 Hòa bình của nấm mồ Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979 Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để “bóp nát trái tim Hoa Kỳ”. Vì sao ông lại cản trở như vậy? Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi. Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc. Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ. Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài. Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ – trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên? Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam. Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh. Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger? Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi. Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình? Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm. Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm. Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ. Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ? TToong thống Nixon và TT Thiệu tại Hội nghị Midway, 1969. Nguồn: Der Spiegel số 50/1979, trang 199. Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình. Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía… Spiegel: … và mang tính tượng trưng? Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà. Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu. Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không? Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: “Hãy giúp chúng tôi giúp ông.” Tôi đáp: “Tôi giúp ông giúp chúng tôi.” Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước. Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể? Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam. Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không? Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi. Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng “đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác.” Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không? Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy. Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân. Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này. 8/17/1972 – Sài Gòn, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu trong một cuộc họp với Mỹ cố vấn tổng thống Mỹ Henry Kissinger tại Dinh Độc Lập. Trước đó trong ngày Kissinger đã hội ý với các tư lệnh hàng đầu và các nhà ngoại giao của Mỹ. Hình: © Bettmann/CORBIS Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế. Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết. Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: “Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận.” Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi. Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam. Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch. Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không? Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?” Spiegel: Ông ấy trả lời sao? Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa. Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng “lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất.” Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao. Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ? Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì? Spiegel: Vậy Kissinger nói sao? Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ. Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng. Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng? Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận. Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: “Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!” Hoặc: “Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ.” Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi. Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: “Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về.” Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: “Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ.” Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước. Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói “Không”, nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó. Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai? Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới. Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào? Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào. Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh. Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam. Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp? Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng. Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này. Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì? Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ? Tâm hình đoạt giải (APME’s 38th annual meeting, 21/10/1971) của phóng viên AP Holger Jensen chụp cảnh một quân nhân Việt Nam bán càng trực thăng tải thường để thoát khỏi mặt trận ở Hạ Lào. Nguồn: Holger Jensen. Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: “Nhát như cáy”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này. Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này. Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân. Spiegel: Kissinger viết: “Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác.” Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những “chiến thuật né tránh” mà “người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc” ra dùng. Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó. Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này? Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở. Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Nguồn: “Kathy Troia to General, 4/8/1975”, 6 lá thư TT Nixon gởi TT Thiệu từ tháng 10 đến tháng 12, 1972. Giải mật 2/1/1990 Thư của TT Nixon gởi TT Thiệu, 5/1/1973 Thư TT Nixon gởi TT Thiệu 17 tháng 1, năm 1973 Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào. Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính. Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không? Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt. Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công? Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy. Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi? Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo. Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao “trí tuệ”, “sự can đảm”, “nền tảng văn hóa” của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào “thái độ vô liêm sỉ”, “xấc xược”, “tính vị kỷ chà đạp” và “chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng” trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra “sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực”. Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào? Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn. Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế? Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng. Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao. Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn. Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy. Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là “đồ chó đẻ” (son of a pregnant dog)(1) mà Nixon sẽ dạy cho biết “thế nào là tàn bạo”. Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp. Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội. Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ “lòng oán hận độc địa”. Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi. Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn “thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng” của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không? Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ. Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu “theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề”, rằng ông “chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện”. Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi. Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một. Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy. Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không? Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt? Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không? Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào? Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam. Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy. Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một “thỏa thuận danh dự”. Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: “Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ.” Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: “Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.” Spiegel: Kissinger viết như sau: “Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh.” Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ. Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt.” Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ. Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không? Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ. Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. “Chúng tôi sẽ không bao giờ quên các bạn”: cuộc rút quân đầu tiên của quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam năm 1969, chỉ là một cử chỉ tượng trưng. Nguồn: Der Spiegel Số 50, 1979, trang 208 Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net” Nguồn: Bản Đức ngữ, Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P., “Die Amerikaner haben uns verraten”, Nguyen van Thieu. Der Spiegel No. 50 / 10.12.1979, pages 197-213. DCVOnline minh hoạ và phụ chú DCVOnline: (1) Tổng thống Mỹ Richard Nixon cũng đã gọi Thủ tướng Canada Pierre E. Trudeau là “lỗ đít” (“an not a very nice person”), “thằng chó đẻ” (son of a pregnant dog), “đồ trí thức tự cao” (pompous egg-head); trích “Nixon tapes include testy Trudeau chat”, Lee-Anne Goodman, The Canadian Press, Published on Mon Dec 08 2008.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2015 6:23:53 GMT 9
Đại Tướng Nguyễn Khánh (1927-2013)daubinhlua.blogspot.com/2013/01/ai-tuong-nguyen-khanh-thu... www.flickr.com/photos/13476480@N07/Sinh ngày 8.11.1927 tại Quận Cầu Ngan, Tỉnh Trà Vinh Thân Phụ: Cụ Nguyễn Bửu Hiền Thê: Bà Phạm Lệ Trân Sanh hạ 6 người con 1946: Theo học khóa 1 Nguyễn Văn Thinh Trường Võ Bị Liên Quân Viễn Đông 1947: Tốt Nghiệp Thiếu Úy. Trung Đội Trưởng Trung Đòan 2 Vệ Binh Nam Việt 1948: Tốt nghiệp khóa Đông Dương. Học viện Quân Sự Coetquidan và Saint Cyr Pháp. - Ngày 1 tháng 7 năm 1948 thăng Trung Úy - Cuối năm 1948 tham dự khóa huấn luyện Nhảy Dù tại trường Nhảy Dù PAU Pháp 1949: Ngày 1-6, Sĩ Quan Tùy Viên của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân thay thế Trung Úy Trần Văn Đôn - Đại Đội Trưởng Đại Đội Nhảy Dù 1950: Đại Đội Trưởng Đại Đội Biệt Lập Nhảy Dù tại Bắc Phần. Một trong những Trung Đội Trưởng là Trung Úy Đổ Cao Trí sau này là Cố Đại Tướng. 1951: Tiểu Đòan Trưởng Tiểu Đòan 1 Nhảy Dù tân lập tại Chí Hòa Sài gòn - Tham dự Chiến Dịch Hòa Bình chấm dứt vào năm 1952 1952: Tiểu Đòan Trưởng Tiểu Đòan 22 Việt Nam tại Bắc Việt - Thiếu Tá Tiển Đòan Trưởng Tiểu Đòan 13 Việt Nam 1953: Thiếu Tá Tiểu Khu Trưởng Biệt Khu Cần Thơ - Ngày 16-12 Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đòan Lưu Động Số 11 Cần Thơ 1954: Trưởng Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu 1954-1955: Du Học Khóa Tham Mưu tại Trường Tham Mưu Paris Pháp 1955: Đầu tháng 3, Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Cần Thơ kiêm Tỉnh Trưởng Cần Thơ. 10-3-1955 Chủ Tọa buổi lể hợp tác của Thiếu Tá Nguyễn Thành Đầy đem 1500 quân thuộc lực lượng Hòa Hảo Dân Xả trở về với chính phủ Quốc Gia tại Cần Thơ. Ngày 29-3-1955 Thanh Tra Trưởng Nhảy Dù - Tham Mưu Phó tại Bộ Tổng Tham Mưu - Ngày 1-7, Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng về Không Quân. - Ngày 21-9, Chỉ Huy Phó Chiến Dịch Hòang Diệu 1955: Ngày 23-10 thăng cấp Đại Tá tạm thời 1956: Tư Lệnh Sư Đòan 1 Dã Chiến tiền thân SĐ1BB thay thế Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm 1957: Theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Fort Leavenworth Kansas Hoa Kỳ - Theo học khóa Tham Mưu và Phối hợp Đồng Minh tại Okinawa Nhật Bản. 1958: Tư Lệnh Miền Hậu Giang (Vùng 4 Chiến Thuật) 1959: Quyền Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng thuộc Phủ Tổng Thống 1960: Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Khu 5 - Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu thay thế Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu 1961: Hướng dẫn phái đòan công du thăm viếng Đài Loan 1962: Bàn Giao chức vụ Tham Mưu Trường Bộ Tổng Tham Mưu cho Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm - Tư Lệnh Quân Đòan 2 và Vùng 2 Chiến Thuật 1963: Vinh Thăng Trung Tướng - Tư Lệnh Quân Đòan 1 và Vùng 1 Chiến Thuật 1964: - Ngày 30-1 Chỉ Huy cuộc Chỉnh Lý Nội Bộ - Ngày 7-2 Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cử làm Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa. - Ngày 8-2 Trình diện thành phần nội các tại tiền đình Bộ Tổng Tham Mưu gồm: - 3 Phó Thủ Tướng, 1 Quốc Vụ Khanh, 12 Tổng Trưởng, 1 Bộ Trưởng, 1 Thứ Trưởng, 1 Đặc Ủy Trưởng. - Ngày 22-3 Chủ Tịch Ban Chỉ Đạo Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng. - Phụ bản 2 - Thành Phần của Ban Chỉ Đạo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng - Chủ Tịch Trung Tướng Nguyễn Khánh - Cố Vấn Tối Cao Trung Tướng Dương Văn Minh - Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Trung Tướng Trần Thiện Khiêm - Đệ Nhị Phó Chủ Tịch Thiếu Tướng Đổ Mậu - Đệ Tam Phó Chủ Tịch Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu - Tổng Thư Ký Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu. - Ngày 16-8 Đại Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng gồm 58 thành viên bầu làm Chủ Tịch Việt Nam Cộng Hòa (Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa). - Trung Tướng Nguyễn Khánh 50 phiếu - Đại Tướng Trần Thiện Khiêm 5 phiếu - Trung Tướng Đổ Cao Trí 1 phiếu - Trung Tướng Dương Văn Minh 1 phiếu - Ngày 27-8 Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng gồm 53 thành viên Tướng Lãnh họp tại Bộ Tổng Tham Mưu bầu vào Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Quân Lực (Tam đầu chế) - Trung Tướng Dương Văn Minh (Quốc Trưởng) - Trung Tướng Nguyễn Khánh (Thủ Tướng) - Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (Quân Lực) - Ngày 13 tháng 9 Trung Tướng Dương Văn Đức tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật cầm đầu cuộc biểu dương lực lượng nhưng bất thành. - Ngày 8-10 Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa . - Ngày 26 tháng 10 từ nhiệm chức Thủ Tướng Chính Phủ. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cử Giáo Sư Trần Văn Hương thành lập chính phủ. - Ngày 17-11 Vinh Thăng Trung Tướng hiện dịch - Ngày 27-11 Vinh Thăng Đại Tướng Hiện Dịch tạm thời do Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu sắc lệnh 030/QT/SL 1965: - Ngày 31-1 được Quốc Trưởng Phan Khắc Sữu trao tặng Đệ Nhị Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với Nhành Dương Liễu tại Dinh Gia Long - Ngày 16 tháng 2 thừa ủy nhiệm Hội Đồng Quốc Gia và Quân Lực kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH bổ nhiệm Bác Sỉ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng thay thế Giáo Sư Trần Văn Hương. - Ngày 19 tháng 2 Thiếu Tướng Lâm Văn Phát cùng Đại Tá Phạm Ngọc Thảo tùy viên Báo Chí tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, cầm đầu cuộc đảo chánh nhưng thất bại. - Ngày 20-2 Rời khỏi chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trung Tướng Trần Văn Minh Tham Mưu Trưởng Liên Quân lên thay thế. - Ngày 22-2, được Quốc Trưởng Phan Khắc Sữu cử làm Đại Sứ Lưu Động. - Ngày 25-2 được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu trao tặng Kim Khánh Đệ Nhất Hạng . - Sau 12 năm sống tại Âu Châu, ông cùng Bà Phạm Lệ Trân và 6 người con định cư tại Hoa Kỳ vào năm 1977 - Ông mất tại Sacramento Tiểu Bang California vào ngày 12 tháng 1 năm 2013 Hưỡng thọ 86 tuổi.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2017 1:21:32 GMT 9
LÊ TRỌNG QUÁT
TỪ NHỮNG BÀI HỌC ĐẮT GIÁ CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI ĐẾN NHỮNG TRIỂN VỌNG CỦA TƯƠNG LAI
Tháng 8 năm 1945, Đệ Nhị Thế Chiến hoàn toàn chấm dứt từ Âu sang Á. Cuộc chiến ác liệt kéo dài năm năm cùng với những hành động có tính cách diệt chủng đã để lại không kể xiết điêu tàn tang tóc. Nhiều đô thị và trung tâm chiến lược ở Đức, Nga Sô và Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường đổ nát hay những cánh đồng ma quái với cả trăm ngàn người chết cùng lúc dưới bom nguyên tử hay những trận mưa bom. Nhưng rồi hoà bình đã đến. Nhân loại vừa thoát khỏi một cơn ác mộng dài thở phào nhẹ nhỏm. Một bình minh rạng rỡ đang dâng lên chan hòa muôn ánh hào quang và hy vọng như bừng sống lại khắp nơi. Ngoại trừ một chổ: Việt Nam, nơi sự bất hạnh dồn tụ lại như bao nhiêu tảng mây đen cùng nhau kéo đến che phủ một góc trời. Một nước Việt Nam trước đấy gần như đứng ngoài cuộc chiến. Thật vậy, dù ác chiến diễn ra trên Thái Bính Dương giữa Mỹ, Nhật, Đông Dương vẫn tương đối được yên ổn với thỉnh thoảng vài vụ oanh tạc nhỏ của Không lực Hoa Kỳ vào các vị trì và đường giao thông bị nghi ngờ có quân đội Nhật qua lại. Nay, giữa tháng tám 1945, Nhật Bản vừa đầu hàng, chiến tranh thế giới hoàn toàn chấm dứt thì Việt Nam lại lên cơn sốt dữ dội.. Toàn thân rung động vì chưa hồi phục được sau một nạn đói, chết hơn cả triệu người ở Miền Bắc của đất nước. Một cơn sốt chính trị chưa từng xảy ra vì cho đến bấy giờ dân Việt chưa có lúc nào được quyết định số phận của mình trong suốt tám mươi năm dưới sự đô hộ của Pháp. Tháng tám 1945, cuộc nội chiến Việt Nam bắt đầu. Cuộc nội chiến giữa hai phe quốc cọng với cả khối Công Sản quốc tế lần lượt đứng sau lưng cộng sản Việt Nam như một hậu cứ vũng chắc và bền bỉ trong lúc vài nước Tây phương đứng đầu là Hoa Kỳ hỗ trợ phe quốc gia chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc Việt Nam chống lại sự bành trướng của Đế quốc đỏ bằng bạo lực của một cuộc xâm lăng công khai và trực diện. Ba mươi năm sau, đúng ngày 30 tháng tư 1975, cuộc nội chiến chấm dứt trên bình diện quân sự. Cộng Sản hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam, thực hiện mục tiêu bá chủ nước Việt Nam, khống chế cả bán đảo Đông Dương. Cũng đúng ba mươi năm sau ngày thôn tính Miền Nam, Cộng Sản Việt Nam « trân quý » hơn bao giờ cả những người Việt quốc gia ở hải ngọai, những « khúc ruột ở xa ngàn dặm » đã đổ tiền về để cứu giúp đồng bào và quê hương nghèo khổ, có lúc gần suy sụp dưới sự thống trị của họ. Những Việt kiều ở nước ngoài mà những năm trước đây họ còn xem như thù địch và gán cho đủ mọi danh từ xấu xa nhất trong kho tàng văn chương tuyệt vời của họ.
Ba mươi năm nội chiến quốc cộng được tiếp tục bởi ba mươi năm của một cuộc đổi đời và cuộc « đại chiến thắng mùa Xuân 1975 » đã thành công lớn lao trong sự nghiệp...đào được một cái hố sâu thăm thẳm để chôn vùi tương lai của cả dân tộc. Không thể nào làm khác hơn, năm 1986, Cộng sản buộc lòng «đổi mớỉ » để mong thoát cảnh khốn cùng vô phương cứu chữa ngọai trừ một phương độc nhất là chối bỏ chủ nghĩa của họ, một chủ nghĩa mà họ đã thờ phụng và không ngần ngại hy sinh xương máu của đồng bào để phục vụ cho đến khi mộng vỡ tan tành. Phương độc nhất ấy là chạy theo kẻ cựu thù đế quốc tư bản, áp dụng chính sách kinh tế thị trường của chúng nó và van xin đủ mọi thứ, khắp mọi nơi. Không theo không được vì đây là sinh lộ cuối cùng sau khi con đường cách mạng, bạo lực và chiến tranh kéo dài ba mươi năm mà đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đã rõ ràng là một tử lộ cho toàn dân Việt. Đây là bài học lớn nhất, đắt giá nhất, dành cho người Cộng Sản Việt Nam bên cạnh những bài học khác mà những người quốc gia chúng ta cần suy nghiệm, và sau cùng, những bài học mà Hoa Kỳ cũng như giới trí thức và ngụy trí thức tả khuynh Tây phương nên thành khẩn và khiêm cung học hỏi để cho lịch sử đừng tái diễn, tránh được phần nào khổ đau cho nhân loại.
I-NHỮNG BÀI HỌC CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI THEO THỨ TỰ THỜI GIAN CỦA CÁC BIẾN CỐ TỪ 1945
A- Giai Đoạn 1945 – 1954 : Từ Độc Lập Đầu Tiên Đến Chia Đôi Đất Nước
1- Các Biến Cố Từ gần 9 giờ tối mồng 9 tháng 3, 1945, trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật (còn gọi là quân đội Thiên Hoàng) bất ngờ tấn công cùng lúc các cơ quan đầu não của chính quyền Pháp, các cơ sở quân sự, và cuộc kháng cự của quân Pháp không kéo dài quá một ngày ngọai trừ vài cánh quân thoát được sang Trung Hoa. Ngày 10 tháng 3, đại diện Nhật Hoàng, Đặc sứ Yokohama đến loan báo cho Vua Bảo Đại quyết định của Nhật trao hoàn độc lập cho Việt Nam, tạm thời giới hạn ở Bắc và Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ thì Nhật tạm thời kiểm soát cho đến khi hết chiến tranh. Ngày 12 tháng 3, Vua Bảo Đại trao cho đặc sứ Nhật bản tuyên cáo độc lập của nước Việt Nam. Nhà Vua nhờ nhà chức trách Nhật tìm ông Ngô Đình Diệm để mời lập chính phủ nhưng sau ba tuần lễ, đặc sứ Nhật cho biết không tìm được. Thực ra, Nhật không muốn ông Diệm làm Thủ tướng vì biết chắc ông Diệm không phải là người dễ nhượng bộ, dễ thỏa hiệp, có thể gây trỏ ngại cho họ sau này. Ngày 17 tháng 4, ông Trần Trọng Kim , thanh tra tiểu học, lập chính phủ. Ông Kim bị Pháp dọa bắt nên được Nhật đưa sang Singapour tạm trú, nay được Nhật mang về giới thiệu với Vua Bảo Đại. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, qui tụ nhiều nhân vật trí thức khoa bảng như luật sư Trần văn Chương, Bộ trưởng Ngoại giao, luật sư Vũ văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, luật sư Trịnh đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp, bác sĩ Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, Thạc sĩ Hoàng xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế Xã hội, Kỹ sư Lưu văn Lang, Bộ trưởng Công chánh,Giao thông, y sĩ Trần đình Nam, Bộ trưởng Nội vụ, y sĩ Nguyễn hũu Thí, Bộ trưởng Tiếp tế Ngày 16 tháng 8, đặc sứ Nhật đến loan báo cho Vua Bảo Đại hay Nhật Hoàng vừa ra lệnh ngưng chiến và giao hoàn Nam Kỳ lại cho Nhà Vua. Ngày hôm sau, nhà ái quốc Nguyễn văn Sâm được Nhà Vua bổ nhiệm làm Khâm sai Nam Kỳ nhưng trên đường về Nam nhậm chức, ông đã bị cộng sản sát hại. Ngày 18, Thủ tướng Trần Trọng Kim kêu gọi các đoàn thể chính trị « đoàn kết trong tinh thần thống nhất đoàn kết quốc gia….. » trong lúc Nhà Vua gửi điện văn cho các lãnh tụ các nước Đồng Minh Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp và Trung Hoa Dân quốc xin công nhận nước Việt Nam độc lập. Bức điện văn không được hồi âm, có lẽ vì Vua Bảo Đại và chính phủ bị Đồng Minh xem là đã hợp tác với địch (Nhật Bản). Trong suốt mấy tuần lể quyết định này, giữa lúc cộng sản dưới bảng hiệu Việt Minh họat động ráo riết, đặc biệt ở Hà Nội, chính phủ không đưa ra một biện pháp nào cụ thể để trấn an dư luận đang hoang mang tột độ, cũng không tác động tinh thần công chức và các lực lượng quân sự và cảnh sát dưới quyền, dù không hùng hậu nhưng vẫn thừa sức đối phó với tình thế, chưa kể quân đội Nhật được lệnh của Đồng Minh duy trì an ninh trật tự sẵn sàng hợp tác với chính phủ. Không có được một mạng lưới tình báo, không hay biết gì cả về những họat động của Việt Minh, Nhà Vua và chính phủ mất tinh thần một cách dễ dàng trước những tin đồn đại do Việt Minh tung ra, qua những cán bộ « võ trang tuyên truyền », võ trang thô sơ với một ít súng lục, nhiều cái rỉ rét, thỉnh thỏang bị kẹt đan không xử dụng được. Không kiểm soát được, chính phủ « thả nổỉ » tình hình, đất nước như một cánh đồng vô chủ mênh mông ! Theo lời của chính cựu Hoàng Bảo Đại kể lại một cách thành thật, thỉnh thoảng rất thật thà, trong cuốn hồi ký của ông, « Con Rồng An Nam » ( Le Dragon d’Annam xuất bản năm 1979 tại Pháp) , ngày 23 tháng 8 (1945), chính phủ biến đâu mất, để Hoàng Đế một mình trong hoàng cung với vài người cộng sự thân tín và một toán lính giữ cổng ra vào. Ngày hôm trước, viên đại tá chỉ huy quân trấn Nhật ở Huế đến báo cho Nhà Vua là y được lệnh của bộ tư lệnh Đồng Minh bảo vệ hoàng cung và « những người ở bên trong » và y đã ban hành những biện pháp an ninh, đặt các rào cản ở cuối Cầu Trường Tiền (chận một lối đi chính vào cửa Thượng Tứ và Thành Nội, bên trong là hoàng cung). Nhà Vua từ chối sự bảo vệ, yêu cầu tháo gỡ các rào cản và cho mở cửa ra vào Đại Nội như thường ngày, viện cớ không để cho quân đội ngoại quốc can thiệp và để tránh đổ máu của dân. Tối hôm trước, chủ sự Bưu điện Huế đến trình Nhà Vua một bức điện tín từ Hà nội gửi vào,thỉnh cầu ông vui lòng làm một cử chỉ lịch sử bằng cách trao quyền lại cho « nhân dân » nghĩa là cho người gửi điện tín ký tên một cách vô danh « Ủy ban những người yêu nước đại diện tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân ». Nhà Vua cho hoàng thân Vĩnh Cẫn và ông Phạm khắc Hoè đi săn tin trong thành phố nhưng không thu lượm được tin tức nào chính xác và không biết ủy ban, tác giả của bức điện tín ở đâu ra và gồm những ai. Bơ vơ trong hoàng cung vắng lặng, Nhà Vua kể tiếp, « không biết làm gì hơn, đã vậy, tôi gửi một điệp văn trong khoảng trống như vứt một cái chai xuống biển……tôi gởi cho Ủy ban những người yêu nước ở Hà Nội lời phúc đáp của tôi, sẵn sàng lùi bước, ……sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện sự đoàn kết và yêu cầu các vị lãnh đạo Ủy ban đến Huế càng sớm càng tốt cho việc chuyển giao quyền hành ». Cái chai của Hoàng Đế vứt xuống biển đã được vớt lên lẹ làng và chiều ngày 25 tháng 8, hai đại diện của Việt Minh, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã có mặt ở hoàng cung. Khoảng vài nghìn người, hầu hết là công chức và học sinh, được triệu tập khẩn cấp đến chứng kiến buổi lê thoái vị và trao quyền của Nhà Vua. Mới mười lăm tuổi, còn là học sinh trung học, gia đình tôi ở trong Thành Nội cách hoàng cung chỉ một trăm mét trên đường Bộ Học,sau này đổi thành Hàn Thuyên, nên tôi sớm có mặt trong đám đông tập họp trên sân cỏ rộng giữa kỳ đài đồ sộ với lá quốc kỳ treo cao lồng lộng trong gió, và cửa Ngọ Môn, cổng chính của hoàng cung, trên đó, chiều nay, một biến cố lịch sử đang xẩy ra, mở màn cho tấn thảm kịch trường thiên của dân tộc. Chít khăn vàng và bận áo vàng, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị trao quốc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần huy Liệu và được Liệu mời ra Hà Nội làm Cố Vấn cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời một tuần lể sau, tức ngày 2 tháng 9, 1945. Thật vậy, tấn trường thiên thảm kịch của dân tộc bắt đầu tại cố đô Huế. Hai mặt đông và nam của hoàng cung, hoa phượng vỹ thơ mộng của tuổi học trò nở đầy giữu mùa hè xứ Huế, thơ mộng dịu dàng với mái tóc thề của những đàng nữ sinh nón trắng che mặt thẹn thùng như những đàng bướm trắng tung bay mổi chiều tan học .Màu đỏ thắm của hoa phượng vỹ đã phải nhường chổ cho màu đỏ máu hận thù của những lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở Huế, từ nay mang trổ lại tên Thuận Hóa, cái tên mà Nhà Nguyễn đã đặt cho thành phố này từ mấy thế kỷ và nay như một sự rểu cợt hay thiếu hiểu biết, cộng sản Việt Minh lại mang ra xử dụng khi Nhà Nguyễn vừa tự chấm dứt với sự thoái vị của Nhà Vua cuối cùng, Bảo Đại.. Tháng 9, 1945, quân Pháp trở lại Việt Nam ngay tại Sài Gòn. Chiến cuộc khởi sự. Dù nước Pháp đã công bố một chính sách mới thay thế qui chế thuộc địa (statut de colonie) ở Nam Kỳ và qui chế bảo hộ (statut de protectorat) ở Bắc và Trung Kỳ bằng một qui chế tương đối tiến bộ hơn dành quyền tự trị nội bộ (autonomie interne) - không được trọn vẹn - cho các quốc gia Việt, Căm-bốt và Lào, chính sách mới này vẫn còn lạc hậu trong tình huống mới ở Việt Nam mà chính phủ và hầu hết các giới chính trị Pháp ở thủ đô Paris kể cả phe tả không thẩm định đúng mức được. Từ ngày 9 tháng 3, 1945 khi chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ, không những uy quyền mà uy tín của nước Pháp cũng tiêu tan luôn. Dân chúng Việt Nam, muôn người như một, trong đầu hôm sớm mai, và nhất là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh , trao trả độc lập và chủ quyền hoàn toàn cho Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam như đã kể trước, dân chúng từ Bắc đến Nam đều say sưa với niềm hãnh diện của đất nước mình, của tổ quốc mình từ nay không bị một ngoại bang nào lấn ép và khinh rẽ nữa, một tổ quốc, một quốc gia độc lập,tự chủ. Sự kiện quân đoàn viễn chinh Pháp trổ lại Việt Nam được xem như một mưu toan tái lập nền đô hộ củ.Toàn dân, không còn phân biệt xu hướng chính trị, nhất loạt đứng lên đoàn kết chống xâm lăng. Vừa thành lập xong chính phủ được đúng ba tuần lể, Việt Minh cộng sản đã hưởng được ngay cái khí thế chưa bao giờ có của mọi tầng lớp dân chúng quyết tâm đánh đuổi quân thù. Không ai còn để ý đến những chuyện khác nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân khởi sự từ Nam Bộ (danh xưng mới thay thế cho Nam Kỳ dưới chế độ mới) khi quân đội Pháp phối hợp với quân đội Anh - đến giải giới quân Nhật ở vùng Nam Đông Dương - bất thần xâm nhập các công sở của Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 9, 1945.Phản ứng của phía Việt Nam hai ngày sau châm ngòi cho một cuộc chiến không tránh được giữa Pháp và Việt Nam. Đến tối 19 tháng 12 năm sau, chiến tranh lan rộng trên toàn quốc. Chính phủ Hồ Chí Minh rút vào rừng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Trước đấy, ông Hồ đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, 1946 cho phép quân đội Pháp đóng quân trên nhiều địa điểm ở Miền Bắc, đổi lại Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do, một thành viên của Liên bang Đông Dương (Fédération Indochinoise) và của Khối Liên Hiệp Pháp (Union Française). Thế nhưng lịch sử của cuộc chiến tranh đầu tiên ở Việt Nam, thường được gọi là Chiến tranh Đông Dương (1945-1954) không đơn giản như nhiều người nhận thấy. Tôi đã ghi chú từ đầu cuộc chiến tranh ba-mươi-năm (1945-1975) là một cuộc nội chiến giữ hai phe quốc cọng.Một cuộc nội chiến giữa những người Việt theo chủ nghĩa cộng sản muốn nhuộm đỏ đất nước Việt Nam từ khi đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, và những người Việt quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Sự tham dự của ngoại bang, Pháp, Mỹ, Tàu, Nga v.v... không làm mất tính chất nội chiến này mà chỉ mang thêm, với sự hổ trợ của ngoại bang dành cho mổi phe dài dài theo cuộc chiến, một tính chất chiến lược quốc tế, tóm gọn : cộng sản muốn bành trướng Đế quốc Đỏ xuống miền Đông Nam Á Châu với tên lính tiền phong cộng sản Việt Nam và ngược lại, Thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ muốn ngăn chận làn sóng đỏ ở biên thùy Việt-Hoa sau khi Mao Trạch Đông đã chiếm lĩnh Trung quốc cuối năm 1949. Riêng đối với Pháp, cần phải phân tách cuộc tham chiến ở Việt Nam ra hai giai đoạn. Giai đoạn một , từ lúc trở lại Đông Dương tháng 9, 1945 cho đến giữa năm 1947 họ mong muốn bằng sức mạnh hơn là thuyết phục lôi cuốn Việt Nam vào Liên Bang Đông Dương như một nước tự trị và giai đoạn hai từ 1948 trở đi, càng ngày càng lún sâu vào cuộc chiến họ chỉ còn mong Việt Nam ở lại trong Khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết (Etat associé) độc lập, tự do, một công thức tương tự với « Khối thịnh vượng chung » (Commonwealth) qui tụ trên nguyên tắc tự nguyện Anh quốc và những thuộc địa cũ của Đế quốc Anh ngày trước nay đã được trao trả độc lập mà không phải trải qua một cuộc chiến tranh nào cả. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần nhấn mạnh trong lịch sử cận đại của thế giới : sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hầu hết các nước bị trị của các đế quốc Tây phương đều được lần lượt trao trả độc lập mà không phải phí phạm xương máu, ở Á Châu như Hàn quốc, Nam Dưong, Phi-luật-Tân, Mã Lai, Tân-gia-Ba, Ấn Độ, ở Trung Cận Đông, lần lượt đến các nước Phi Châu ngoại trừ Algérie với những ly do riêng của trường hợp này, nơi mà nhiều thế hệ người Pháp đã định cư, lập nghiệp và từ hơn cả thế kỷ Pháp đã xem như một lãnh thổ, một tỉnh của họ ! Đối với Việt Nam, nền độc lập đã được trao trả dù chưa toàn vẹn ngay trước cả khi chiến tranh chấm dứt và giữa tháng 8, 1945 vừa đầu hàng Đồng Minh hôm trước, hôm sau Nhật Bản giao trả nốt Nam Kỳ cho Vua và chính phủ Việt Nam như đã trình bày. Cái gọi là « cách mạng mùa thu 1945 » của Cộng sản Việt Nam dưới bảng hiệu Việt Minh chỉ là một vụ đảo chính chính trị dành lấy chính quyền từ một nhà Vua và một chính phủ khiếp nhược Cuộc chiến tranh kế tiếp hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh dành độc lập vì, như đã trình bày, Việt Nam đã được độc lập rồi và khi quân Pháp trở lại Đông Dương, nếu Vua Bảo Đại và chính phủ của Nhà Vua còn tồn tại, thì chắc chắn sẽ có những cuộc thương nghị rất khó khăn với Pháp nhưng chung cuộc, Việt Nam vẫn duy trì nền độc lập và rất co thể gia nhập Khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.Tiến trìng giải thể các đế quốc Tây phương đã được các nước Đồng Minh chấp nhận trước khi thế chiến chấm dứt và nước đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ, đang còn dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Roosevelt, rất cương quyết trong dự định này, nhất là đối với Đông Dương mà Roosevelt quan tâm đặc biệt và nhiều lúc còn nặng lời nhắc nhỡ nước Pháp. Đây là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn của thái độ của nước Pháp, đồng minh nhưng không thân thiện với Hoa Kỳ.. Nhưng từ năm 1950, trước làn sóng đỏ đã tràn đến biên giới Việt-Hoa,cuộc chiến hoàn toàn thay đổi tính chất và Hoa Kỳ san sẻ gánh nặng bằng quân cụ, vũ khí đủ loại và tài chánh cho chính phủ Pháp để tăng cường lực lượng chiến đấu chống cộng sản ở Đông Dương trước một kẻ địch bổng nhiên mạnh hẳn lên do sự hổ trợ không giới hạn của Mao trâch Đông. Trung Cọng trở thành một hậu cứ vĩ đại cho Việt Minh. Chiến tranh du kích đã trở thành thứ yếu. Được huấn luyện, trang bị và tiếp liệu đầy đủ, lực lượng quân sự của Việt Minh đã bước vào giai đoạn trận địa chiến đến cấp trung đoàn,tiến lần đến đại đoàn, sư đoàn. Về phía quốc gia, các lực lượng quân sự cũng được tổ chức qui mô. Quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập lanh chóng và chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở nhiều mặt trận, đồng thời đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ diện địa. Cuộc chiến chấm dứt với hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 phân chia tạm thời Việt Nam thành hai miền Bắc Nam như chúng ta đã biết với sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Cộng sản đã chiếm được một nửa đất nước. Dù được tự do lựa chọn, không một thường dân nào ở miền Nam ra miền Bắc trong lúc một triệu đồng bào từ Bắc di cư vào Nam để được sống dưới chế độ tự do, một cuộc di cư lớn lao thực hiện trong vòng mười tháng như chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Bức màn sắt đã hạ xuống trên miền Băc thân yêu của tổ quốc.
2- Những Bài Học
Từ một giai đoạn đầy biến động đưa đến cảnh phân chia đất nước như vừa trải qua, chúng ta có thể rúr ra nhiều bài học vô cùng quan trọng và hửu ích, theo thứ tự thời gian của các biến cố. -Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim (tháng 3-tháng 8,1945) Làm chính trị,đặc biệt trong cương vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ,là phải giữ vững lòng can đảm, không lùi bước trước hiểm nguy, không để mất tinh thần trước đe dọa. Lãnh đạo là tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để ngăn ngừa trước, để chuẩn bị đối phó, làm chủ động tình thế và nắm lấy thời cơ. Khi có chính quyền trong tay, phải liên tục hữu hiệu hóa guồng máy Nhà nước cũng như quân lực, không ngừng cải tiến, không ngừng sửa sai.. Căn bản trí thức là một cái vốn quý nhưng tư tưởng, kiến thức phải đi đôi với hành động có kế hoạch cụ thể nếu không thì e sẽ rơi vào tình trạng của những hủ nho của một thời xưa. Nếu Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim hành sử như vậy, Việt Minh không thể dành được chính quyền và lịch sử cận đại đã có thể theo một chiều hướng khác.
Các Đảng Phái Quốc Gia: Đã hoạt động từ nhiều năm trước, đáng lẽ các chính đảng quốc gia phải ra tay hành động, liên kết với chính phủ để giữ vững chính quyền, hướng dẫn quần chúng đang hăng say độc lập tự do, ủng hộ chính quyền tại vị. Dù chính phủ có yếu đi nữa - điều khá rõ rệt – các chính đảng phải thúc đẫy chính phủ, dùng mọi áp lực để trấn tỉnh chính phủ và Nhà Vua và cùng nhau làm việc. Chúng ta cũng không quên rằng Viêt Nam Quốc Dân Đảng rất thân gần như đồng chí với Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang lãnh đạo và quân đội Trung Hoa của Thống Chế Tưởng Giới Thạch đã được Đồng Minh giao phó trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Miền Bắc. Một thế lực không thể lớn hơn lúc bấy giờ cũng như trong suốt thời gian quân đội Trung Hoa đóng ở ngay thủ đô Hà Nội. Đảng Đại Việt cũng có tổ chức và hoạt động ở Miền Bắc trong đầu thập niên bốn–mươi. Có lẽ những vấn đề nội bộ của mổi đảng, hợp tác giữa hai đảng, cộng tác với Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim, không được giải quyết lanh chóng kịp thời chăng trong lúc tình thế biến chuyển rất lanh như đã trình bày. Một hành dộng đoàn kết nhất trí giữa những nhà lãnh tụ quốc gia đã không xảy ra trong giờ phút quyết định của lịch sử khiến cho cộng sản thành công dễ dàng, dễ dàng quá hơn họ đã dự liệu. Đây là một bài học lớn cho tất cả chúng ta và đặc biệt cho những người trong chúng ta đang tự gánh giờ đây môt trách nhiệm trước quốc dân.
Cộng sản Việt Nam : Thành công tranh đoạt được chính quyền tháng 8 năm 1945, Cộng sản Việt Nam bắt đầu dẫn dắt dân tộc vào một cuộc phiêu lưu gần mười năm, hy sinh hàng trăm ngàn sinh linh, tàn phá hơn một nửa đất nước cho đến ngày xứ sở bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc tháng 7 năm 1954. Sự tôn thờ mù quáng và áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai trên một dân tộc là một điều cần phải tránh vì trước hết, hành động ngang ngược này loại bỏ quyền tự do tư duy và lựa chọn của mổi người dân trong nước. Sự áp đặt chủ nghĩa hay chủ thuyết đã chứng tỏ hậu quả khốc hại của nó với chủ nghĩa quốc-xã của Hitler và chủ nghĩa cộng sản hay xã hội chủ nghĩa dưới thời Lénine và Staline rồi đến các lãnh tụ kế tiếp ở điện Cẩm-linh cho đến khi Gorbatchev lên cầm quyền. Những nước văn minh tiền tiến trong thế giới không làm như vậy mà chỉ đặt định rõ ràng những mục tiêu không thay đổi và có lợi cho tất cả mọi người dân trong nước bất luận thuộc khuynh hướng nào : tự do, dân chủ, công bằng xã hội và phúc lợi của toàn dân. Dân quyền và nhân quyền được cụ thể hóa trong các mục tiêu này. Đế quốc Nga Sô, các nước cộng sản ở Đông Âu và Á Phi ngoại trừ Cuba, Bắc Hàn, Trung Cọng, Việt Nam và Lào đã sụp đổ lanh chóng vì áp dụng một chủ nghĩa sai lầm không phù hợp với nhân tính và đi ngược lại với sự tiến hóa tất yếu của nhân loại. Đây là một bài học lớn cho đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi chắc họ đã hiểu nhưng vì quyền lợi riêng tư của những người lãnh đạo,họ không muốn xét lại toàn bộ chế độ. Sự chần chừ và chậm trể của họ càng làm cho dân uất hận thêm và nguy hiểm cho chính họ khi dân chúng nhất tề theo nhau đứng lên thực hiện lấy sự thay đổi chế độ. Thắng một thời, sai một đời, mang tội muôn đời, những người cầm đầu Cộng đảng Việt Nam cần suy ngẩm đến diễn tiến này của lịch sử.
B- Giai Đoạn 1954-1975 : Từ Di Cư Đến Di Tản
1-Những Nét Chính Của Tình Hình - Trở về Hà Nội chưa được bao lâu Cộng sản đã chuẩn bị phát động vụ đấu tố « địa chủ,cường hào, ác bá » trên Miền Bắc vừa tiếp thu. Số nạn nhân không thể kiểm kê được rõ nhưng phải kể đến cả trăm ngàn người., một tội ác chống nhân loại đứng hàng đầu. Áp dụng đúng lời dạy của Mao Trạch Đông, mà cuộc đấu tố trên lục địa đã giết hại hàng chục triệu người. Dân chúng ở hai tỉnh Hà Tỉnh, Nghệ An, quê quán của ông Hồ Chí Minh, vốn là lò lửa cách mạng vô sản, đã từng lập sô-viết Nghệ Tỉnh trong các cuộc nổi dậy từ tháng 5, 1930 đến tháng tư 1931, dân Nghệ Tỉnh ấy nổi dậy một lần nữa nhưng lần này, để chống đối dữ dội đến độ cả một sư đoàn quân đội nhân dân phải được phái đến dẹp loạn ! Nhưng rồi đồng bào Miền Bắc cũng không được ở yên trong cảnh khốn cùng. Cuộc xâm lăng Miền Nam được khởi sự chuẩn bị. Gọng kềm của chế độ xiết chặc hơn nữa. Đã không bao giờ được ăn no, dân chúng từ đây còn phải thắt lưng buộc bụng, Cuộc chiến xâm lăng kéo dài mười lăm năm đã gây nhiều tổn phí không kể xiết về nhân mạng cũng như đã làm tiêu tan không kể hết được tài sản của dân và của nước. Hàng triệu người đã nằm xuống vì bom đạn, gươm đao, kẻ sinh Bắc tử Nam vùi thân trong rừng thẳm, ngưởi hy sinh chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ Miền Nam tự do, dân chủ. Tại Miền Bắc, dân phải răm rắp tuân lệnh Đảng và nhà Nước, và không có một biến động nào đáng kể, ngay cả cái chết của ông Hồ chí Minh đầu tháng chín 1969 cũng không gây nên xáo trộn đáng kể trong hàng ngủ lãnh đạo. Ngược lại, từ khi đất nước bị phân chia năm 1954, Miền Nam phải trải qua nhiều biến động nội bộ nghiêm trọng, có lúc gần tan rã, trở thành một con mồi dể dàng cho cộng sản xâm lược. Hoa Kỳ phải đổ quân vào để cứu vãn tình hình như chúng ta đã biết. Biến động đáng kể đầu tiên là mưu toan phản loạn của tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội quốc gia muốn lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm , hai tháng sau khi ông Diệm về nước lập chính phủ do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông làm Thủ Tướng với toàn quyền chính trị, hành chính và quân sự. Dân Tây, vợ Đầm, sĩ quan của quân đội Pháp « biệt phái » qua chỉ huy quân đội quốc gia từ khi mới thành lập, ông Hinh không chịu khép mình trong kỷ luật quân đội và kỷ luật quốc gia để phải làm việc dưới quyền của một ông Thủ Tướng không kiêng nể ông như các Thủ Tướng khác trước đấy, chưa kể ông Diệm vẫn luôn luôn ra mặt chống Tây thực dân từ khi ông Diệm còn làm Thượng Thư trong triều đình Huế thời Pháp thuộc. Thất bại, tướng Hinh được Quốc Trưởng Bảo Đại gọi sang Pháp và ở luôn tại Pháp sau một mưu toan trở về dấy loạn lần thứ hai nhưng thất bại ngay ở biên giới. Biến cố thứ hai cũng lại là một mưu toan lật đổ ông Diệm nhưng lần này ông đã là Tổng Thống nền đệ nhất Cộng Hòa. Cuộc đảo chính hụt này, ngày 11 tháng 11, 1960, lại đưa một số sĩ quan đi tù hay đi ngoại quốc cùng với vài chính trị gia dính líu đến nội vu Nhưng tục ngữ Pháp có câu «có hai thì phải có ba » (jamais deux sans trois) nên lần này, cuộc đảo chính thành công với sự nhúng tay của chính phủ Mỹ thời Tổng Thống Kennedy và với sự thực hiện của một số tay sai người Việt. Ngày 2 tháng 11, 1963, Tổng Thống Diệm cùng bào đệ, ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn chính trị, bị hạ sát. Hai tuần sau, tại thành phố Dallas, Hoa Kỳ,Tổng Thống Kennedy bị ám sát. Giai đoạn Ngô Đình Diệm chấm dứt. Miền Nam suýt rơi vào vực thẳm. Việt Cọng nổi lên dánh phá nhiều nơi. Hệ thống ấp chiến lược bị phá bỏ bởi chính quyền mới của Hội Đồng quân nhân cách mạng.Nhiều sĩ quan và công chức chống cọng tích cực dưới chính quyền cũ bị bắt bớ giam cầm. Nhiều cán bộ cộng sản quan trọng đang bị giam giữ được thả ra vô điều kiện một cách mờ ám. Nhiều vụ tống tiền và chiếm đoạt tài sản xảy ra ở nhiều nơi mà nạn nhân bị chụp mủ «làm kinh tài cho gia đình họ Ngô». Trước tình trạng suy đồi lanh chóng của Miền Nam và một số tin tức về sự móc nối của vài tướng lãnh trong HĐQNCM với một tổ chức hoạt động cho lá bài trung lập, cũng đại sú Lodge bật đèn xanh cho một nhóm quân nhân khác làm một cuộc đảo chính lật đổ nhóm quân nhân «cách mạng 1 tháng 11 » trước. Cuộc đảo chính chớp nhoáng này được thực hiện trong vòng hai tiếng đồng hồ vào sáng ngày 30 tháng 1, 1964, vỏn vẹn ba tháng sau vụ binh biến lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa. Ba năm tiếp theo, Miền Nam sống trong một tình trạng gần như hổn loạn Trong lúc các chiến sĩ quốc gia đổ máu hy sinh trên các chiến trường lan rộng khắp nơi thì tại thủ đô Sài gòn, một nhóm tướng tá tranh dành miếng đỉnh chung, hết đảo chính đến chỉnh lý, biểu dương lực lượng, thanh toán nhau, bắt bớ nhau, phong chức cho nhau, chia chác quyền lợi và quyền hành với nhau trên cái thân thể càng ngày càng suy nhược héo mòn của đất nước đang bốn bề thọ địch.. Vì vậy mà Hoa Kỳ phải mang gấp quân sang để cứu vãn tình thế. Từ khoảng mười ngàn với tư cách cố vấn dưới thời Tổng Thống Diệm, quân số Mỹ càng ngày càng tăng cho đến hơn nửa triệu quân vứa tác chiến,vừa cố vấn, vừa tiếp liệu. Số thương vong tổng cọng gần sáu mươi ngàn người. Chính nghĩa của cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng dễ bị hiểu lầm và xuyên tạc. Phong trào phản chiến càng phát triển mạnh đặc biệt ở Hoa Kỳ khiến cho chính phủ và quốc hội phải nhượng bộ trước áp lực của phong trào. Cuối cùng, với chính sách đánh cầm chừng, tự chế , không đánh cho địch ngã gục mà chỉ để mong địch đến bàn hội nghị, Hoa Kỳ chỉ còn một mục tiêu chính : rút quân về nước, đem được hết tù binh về, quân nhân Mỹ mất tích sẽ từ từ tìm kiếm sau. Trong tinh thần bằng mọi giá phải chấm dứt sự có măt của quân đội mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ xúc tiến Việt nam hoá chiến tranh để Miền Nam tự lo lấy số phận của mình. Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tuy tình hình nội bộ được ổn định nhưng cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng ngày càng khó khăn trước sự gia tăng không giới hạn của lực lượng địch được cả Khối Cộng sản quốc tế yểm trợ tối đa và sự suy yếu của lực lượng quốc gia vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự đến mức không đủ nhiên liệu, đạn dược, vũ khí để thay thế và các quân cụ khác. Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết trong hoàn cảnh này. Chính phủ VNCH buôc phải ký nếu không thí bị Hoa Kỳ bỏ rơi tức khắc Một hiệp định gián tiếp mở đường cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam vì không buộc CSBV rút về Bắc hơn một trăm ngàn quân của chúng đã đột nhập vào Nam. Đúng như vậy, sau khi ký kết, CSBV tấn công khắp nơi xem hiệp định đình chiến Paris như không có, bao nhiêu quân ở Miền Bắc lục tục kéo vào Nam. Những lời khẩn thiết của chính phủ VNCH kêu gọi Hoa Kỳ giữ lời hứa của Tổng Thống Nixon can thiệp nếu CSBV vi phạm hiệp định Paris, đều rơi vào khoảng không. Quốc hội Hoa Kỳ mà đảng Dân Chủ nắm đa số đã ngăn cấm không cho phép Tổng Thống can thiệp bằng quân lực ở nước ngoài và tệ hại nếu không phải là tàn nhẫn hơn nữa, không cho phép tháo khoán số tiền mấy trăm triệu còn lại trong ngân khoản viện trợ quân sự để cho VNCH mua sắm thêm phương tiện chiến đấu trong những trận chiến ác liệt đang diễn ra vào những tháng quyết định đầu năm 1975.
2- Những Bài Học - Hai thập niên đầy biến động từ 1954 đến 1975 không thể không để lại nhiều bài học cho chúng ta, cho hậu thế, cho bây giờ đây.
Những Người Quốc Gia: Bài học đầu tiên của giai đoạn lịch sử này nên được để dành cho những người Việt quốc gia chúng ta vì trách nhiệm bảo vệ Miền Nam trước đây trước hết là trách nhiệm của chúng ta, người ít kẻ nhiều với những điều kiện của mổi người lúc bấy giờ. - quyền lợi của đất nước phải được đặt trên quyền lợi riêng của mổi người, mổi tập thể. Nói thì dễ nhưng nhiều cá nhân, nhiều tập thể không áp dụng bổn phận căn bản này của người công dân. Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu chúng ta có trước đây những vị lãnh đạo đặt quyền lợi của quốc gia trên tất cả thì Miền Nam chúng ta cũng không thiếu những người có chức quyền xem thường quyền lợi của quốc gia mà chỉ biết đến quyền lợi của cá nhân mình. - dân chúng phải chọn những người lãnh đạo và những người đại diện cho mình không những có khả năng mà còn phải có đạo đúc, tư cách ; phải nhìn vào quá khứ để tìm hiểu chứ đừng nghe lời đường mật hứa hẹn hão huyền. Một sự lựa chọn sai lầm sẽ rất tai hại lâu dài cho cộng đồng, cho quốc gia. - chúng ta phải tự trang bị tinh thần tự lập, tự cường, phải rửa sạch tinh thần vọng ngọai và ỷ lại. Có một nước bạn giúp đở chúng ta là một điều tốt, nhiều lúc còn cần thiết nữa nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng không ai thương chúng ta, lo cho chúng ta bằng chính chúng ta. Nước nào cũng có quyền lợi riêng của nước ấy. Nếu quyền lợi của nước bạn một lúc nào đấy không phù hợp hay ngược lại với quyền lợi của đất nước chúng ta thì chúng ta phải trả giá đắt sự ỷ lại thiếu sáng suốt của chúng ta. - trong thời đại bây giờ, trừ vài nước Phi châu còn lạc hậu, không một ai quan niệm được rằng nền dân chủ của một quốc gia có thể bị hủy hoại vì một biến động quân sự của một nhóm quân nhân. Nguyên tắc cơ bản của tất cả các nước văn minh từ hơn cả thế kỷ hay vài thế kỷ nay là sự phụ thuộc của thẩm quyền quân sự vào chính quyền dân sự (principe de subordination de l’autorité militaire au pouvoir civil) vì chính quyền dân sự đại diện cho toàn dân, thể hiện chủ quyền của toàn dân (souveraineté du peuple).
Hoa Kỳ: Hoa Kỳ và đặc biệt đảng Dân Chủ cần phải hiểu và chúng ta phải kiên nhẫn làm cho họ hiểu rằng khả năng vô địch của họ về quân sự, khoa học, kỹ thuật, tiềm lực kinh tế dồi dào của họ, tất cả không miễn trừ cho họ những nỗ lực học hỏi cần thiết để thấu hiểu những giá trị, những khát vọng, những nhu cầu, những điều kiện đặc thù của mổi dân tộc trong mổi giai đoạn của lịch sử của dân tộc ấy, biến chuyển không ngừng theo sự chuyển biến của thế giới. Trong sự thi hành sứ mạng mà Hoa Kỳ tự nhận hổ trợ cho các dân tộc tranh đấu cho tự do, dân chủ của họ qua lời tuyên bố công khai và long trọng trước thế giới gần đây của Tổng Thống Georges W. Bush, siêu cường này không thể phạm phải những sai lầm về nhận định, về thiết kế chính sách đối ngoại, về sự phân biệt giữa những đối tượng, thù hay bạn của tự do, dân chủ, của nhân quyền, của sự tiến bộ của nhân loại. Hoa Kỳ không thể hành sử như một quốc gia tầm thường chỉ tính toán cho những quyền lợi trước mắt và ngắn hạn nhiều lúc chưa chắc đã có thực để quên đi sứ mạng cao cả của mình với nhân loại. Những sai lầm của Hoa Kỳ trong những quyết định của họ trong nửa thế kỷ nay, đặc biệt ở Trung Hoa năm 1949 và ở Việt Nam năm 1963 và 1975 đã làm cho bàn cờ thế giới thay đổi một cách tai hại và dài hạn, đặt gần một tỷ rưởi người trong cảnh nghèo khổ và mất tự do dưới sự thống trị của một thiểu số « tư bản đỏ » dẫm lên trên nhân quyền và nhân vị của con người., và đặt các nước trong vùng Á Châu Thái Bình Dương trong tình trạng lo ngại và cảnh giác thường xuyên trước chế độ cộng sản ở Trung Hoa lục địa, hung hản, bá quyền, đe dọa nền an ninh và kinh tế của toàn vùng. Tuy vậy, nhiều chánh khách, nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia, nhà nghiên cứu chính trị chiến lược, đủ cỡ đồng thanh tranh nhau ca ngợi hai chế độ cộng sản môn đệ của bạo chúa Staline nói trên bằng cách tuyên dương những thành quả của hai chế dộ này, so với……tình trạng của hai quốc gia này trong thời gian đen tối nhát mà hai chế độ đã tạo nên cách đây ba bốn-mươi năm hơn, khi nhân dân hai nước gần chết khổ tất cả vì bị đem ra làm con vật thí nghiệm cho các chánh sách xã hội chủ nghĩa thuần túy nhất.. Nghĩa là so sánh cái tệ hại nhất của các chế độ này gây nên với cái ít tệ hại hơn bây giờ, thay vì so sánh với các « con rồng vàng » kế cận đã vươn lên như những con rồng trong thần thoại từ hơn hai-mươi năm nay ! Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu cũng đừng quên rằng 90 phần trăm dân ở Trung Hoa lục địa và ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa giờ đây đang sống xa hẳn dưới mức nghèo khổ nghĩa là không đến một đô la một ngày vì lợi nhuận trung bình từ 400 đến gần 700 đã bị thiểu số 10 phần trăm có lợi nhuận cao chia lấy phần lớn. Quảng đại quần chúng này phải có quyền sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do, nhân phẩm được tôn trọng như tất cả mọi người khác trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thế giới Tây phương nói chung, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu nói riêng cần nhìn xuyên qua cái hình thức phô diễn bề ngoài mỏng manh và phải lắng nghe tiếng kêu gọi xuất phát từ bên trong sâu thẳm của hơn cả tỷ người cần được giải thoát và được hoàn trả lại các dân quyền và nhân quyền của họ mà không một đảng nào, một nhà Nước nào có quyền tước đoạt mãi mãi.
Thêm Một Bài Học Cho Những Người Cộng Sản Việt Nam : Sau khi bá chủ được tất cả Miền Bắc năm 1954, lẽ đáng công sản phải ngưng nghỉ cho dân hưởng thái bình, xây dựng lại những đổ vỡ của chiến tranh,phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, chờ đợi môt ngày thuận tiện hai Miền Nam Bắc nói chuyện với nhau tiến tới việc thống nhất đất nước trong hoà bình, tự do. Không làm như vậy, cộng sản Bắc Việt đã phát động cuộc chiến thứ hai, quyết xâm lăng Miền Nam, khống chế cà Đông Dương như chúng ta đã biết. Thêm hai-mươi năm nội chiến để làm gì ? Để thống nhất đất nước ? Một ngụy biện không chấp nhận được vì, cần phải nhấn mạnh cho những người còn tin ở ngụy biện này, thống nhất chỉ là và phải là kết quả của một tiến trình thương thảo giữa hai Miền Nam Bắc, một công cuộc chính trị, một sự đồng thuận giữa hai bên trong những điều kiện không thiệt hại cho một bên nào để từ đấy thực hiện một công thức quản trị duy nhất cho quốc gia, một chính quyền chung cho cả nước. Không làm như vậy mà dùng vũ lực, gây nên cả một cuộc chiến tranh thì hoàn toàn không phải là một sự thống nhất trong ý nghĩa đúng đắn của sự kiện lịch sử này mà chỉ là một cuộc xâm lăng trắng trợn. Đảng cộng sản Việt Nam đang mang trên mình bản án nặng nề nhất của lịch sử. Họ phải rút ra từ tội lỗi lớn lao của họ một bài học cho chính họ để tạ tội với quốc dân thay vì tiếp tục chính sách dối trá lường gạt đồng bào trong và ngoài nước. Từ bài học quá đắt giá này, tôi mong người cộng sản Việt Nam sẽ biết phục thiện để đi vào con đường chung của dân tộc. Họ cần hiểu rằng quyền hành họ đang nắm giữ chỉ là một quả bóng bay mà một cơn gió thoảng mùa hè có thể tách rời khỏi tay họ.
LÊ TRỌNG QUÁT
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 30, 2018 1:21:40 GMT 9
Mỏ dầu Bạch Hổ - chuyện giờ mới kể27/04/2018 tuoitre.vn/mo-dau-bach-ho-chuyen-gio-moi-ke-20180427101644315.htmTTO - Được tìm thấy từ trước 30-4-1975, Bạch Hổ nằm yên dưới đáy biển suốt hơn một thập niên cho đến ngày được bùng lên với bao bí mật chưa kể... Thêm một mỏ dầu đưa vào khai thác Phát hiện vỉa dầu mới ở khu vực mỏ Bạch Hổ Mỏ dầu Bạch Hổ ngày nay - Ảnh: Tập đoàn Dầu khí VN Lần đầu tiên soạn thảo và chưa từng có trải nghiệm để chỉnh sửa, nhưng đạo luật dầu hỏa VNCH được giới chuyên môn đánh giá khá chặt chẽ, chú trọng quyền lợi quốc gia Bạch Hổ, mỏ dầu chủ lực quyết định thành - bại của ngành dầu khí Việt Nam, được tìm thấy từ trước 30-4-1975. Khi chiến tranh Việt Nam gần đến hồi kết, các công ty dầu quốc tế rút lui. Bạch Hổ nằm yên dưới đáy biển suốt hơn một thập niên cho đến ngày được bùng lên với bao bí mật chưa kể... Kỳ 1: Đạo luật dầu hỏa tham khảo Iran Thập niên 1960, nhiều quốc gia trong khu vực đã khai thác được dầu thương mại để làm giàu. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu rất hiểu điều này. Kinh tế VNCH thời chiến chưa có gì ngoài một nền nông nghiệp lỗ chỗ lỗ bom, pháo và nông dân luôn nhấp nhỏm chạy nạn chiến sự. Nhưng nhìn ra Biển Đông, Việt Nam có thềm lục địa rộng lớn, nhiều người biết chắc chắn nơi ấy có tài nguyên dầu khí... Đạo luật 011 Tuy nhiên, để khởi động được nền công nghiệp dầu khí dù chỉ là bước đầu thăm dò, phải có cơ sở pháp lý. Một đạo luật dầu hỏa là không thể thiếu. Có nó mới có thể đàm phán được với các công ty dầu quốc tế, nhất là các công ty Mỹ. Đặc biệt, đạo luật này vô cùng cần thiết để VNCH bảo vệ được quyền lợi của mình và xây dựng nền hạ tầng nhân - vật lực phục vụ cho ngành dầu khí. Một số đạo luật dầu hỏa của các nước được nghiên cứu, nhưng cuối cùng chính quyền Sài Gòn chọn đạo luật của Iran để tham khảo xây dựng đạo luật cho riêng mình. Bởi Iran có nền công nghiệp dầu hỏa rất lớn, nhưng lại khởi đầu phụ thuộc vào phương Tây với nhiều kinh nghiệm mà miền Nam Việt Nam có thể học hỏi. Các chuyên gia Hồ Mạnh Trung, Võ Anh Tuấn thuộc Nha Tài nguyên thiên nhiên, Bộ Kinh tế VNCH, được giao chủ trì soạn thảo bộ luật mới mẻ này. Nền tảng đạo luật là hợp đồng đặc nhượng. Một nguyên tắc cơ bản mà những nước có tiềm năng dầu hỏa phải áp dụng khi phụ thuộc vào các công ty quốc tế có tiềm năng tài chính, khoa học và kỹ thuật để khai thác được. Nguyên tắc hợp đồng đặc nhượng đó là các công ty dầu khí quốc tế phải trả cho VNCH hai khoản thuế chính: nhượng tô 12,5% (tiền thuê đất) và thuế lợi tức 45-55% số lượng dầu sản xuất. Đạo luật cho phép thời gian các công ty tìm kiếm dầu khí là 5 năm, có thể gia hạn thêm 5 năm; riêng thời gian sản xuất là 30 năm, có thể gia hạn thêm 10 năm... Lần đầu tiên soạn thảo và chưa từng có trải nghiệm để chỉnh sửa nhưng đạo luật dầu hỏa VNCH được giới chuyên môn đánh giá khá chặt chẽ, chú trọng quyền lợi quốc gia. Toàn bộ đạo luật gồm 6 chương với 66 điều. Nội dung là những quy định cụ thể, chi tiết về việc thăm dò, khai thác dầu hỏa trên thềm lục địa và trên lãnh thổ VNCH từ vĩ tuyến 17 trở vào. Quyền đặc nhượng cho các công ty dầu hỏa do thủ tướng Chính phủ VNCH quyết định. Theo đó, các công ty quốc tế xin được cấp quyền đặc nhượng bắt buộc phải đóng trước 500 USD (hoặc 137.000 đồng tiền Sài Gòn). Số tiền nhỏ ban đầu này được gọi là tiền đăng ký chữ ký. Sau khi hợp đồng đặc nhượng được ký kết và tiến hành thăm dò, khai thác, họ còn phải đóng thêm các khoản tiền lớn bất khả hoàn cho Chính phủ VNCH. Đạo luật quy định cụ thể diện tích đặc nhượng tìm kiếm dầu hỏa được chia thành từng nhượng địa, mà sau này thường gọi là lô. Mỗi nhượng địa không quá 20.000km2. Mỗi công ty không được cấp quá 5 nhượng địa, tức không quá 100.000km2. Quy định này để có nhiều công ty tham gia, cạnh tranh với nhau cũng như tránh dẫn đến tình trạng chính phủ và ngành dầu hỏa quốc gia phải phụ thuộc quá nhiều vào sự độc quyền của một công ty quốc tế. Thời hạn quyền đặc nhượng tìm kiếm có thể biến động tùy theo từng trường hợp đàm phán hợp đồng, nhưng kéo dài trong khoảng 5-15 năm. Đặc biệt, riêng quyền đặc nhượng khai thác dầu hỏa Chính phủ VNCH xét cấp cho mỗi nhượng địa không quá 5.000km2 trong thời hạn không dài hơn 40 năm. Các lô đặc nhượng đầu tiên được chính quyền phân chia trên thềm lục địa VN - Ảnh: Tập đoàn Dầu khí VN Thành lập Ủy ban quốc gia dầu hỏa Sau một thời gian dài nghiên cứu, soạn thảo và lấy ý kiến, ngày 1-12-1970, ông T Thong Thiệu ký ban hành đạo luật dầu hỏa VNCH số 011/70. Tháng 6-1971, tổng trưởng kinh tế Phạm Kim Ngọc công bố sẽ cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu mỏ tại thềm lục địa với thể thức đấu thầu. Toàn bộ vùng này nằm trong thềm lục địa miền Nam Việt Nam, được chia thành 61 nhượng địa, tức 61 lô. Trong đó 60 nhượng địa có diện tích tương đối bằng nhau, riêng nhượng địa thứ 61 rộng hơn với tổng diện tích khoảng 300.000km2. Chính phủ VNCH sử dụng kết quả đo đạc địa vật lý lần thứ hai, năm 1970, của Công ty Ray Geophycical Madrel trên thềm lục địa miền Nam Việt Nam để làm cơ sở cho các công ty đấu thầu... Tính từ thời điểm soạn thảo đạo luật dầu hỏa, chiến tranh ngày càng leo thang khốc liệt, nhưng các bước tiến nỗ lực thăm dò, khai thác dầu hỏa của VNCH được đánh giá là rất nhanh chóng. Ngay khi đạo luật dầu hỏa có hiệu lực, Ủy ban quốc gia dầu hỏa VNCH cũng được thành lập. Ngày 7-1-1971, chỉ một tháng sau khi đạo luật được phê chuẩn, thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký sắc lệnh số 003-SL/KT thành lập Ủy ban quốc gia dầu hỏa. Chủ tịch ủy ban này cũng chính là tổng trưởng kinh tế Phạm Kim Ngọc. Đến tháng 6-1974, Chính phủ VNCH tiếp tục thành lập Tổng cuộc Dầu hỏa và khoáng sản để đẩy nhanh tiến độ khai thác, thăm dò dầu hỏa. Trụ trở tổng cuộc đặt tại số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, nơi là văn phòng cũ của Nha Tài nguyên thiên nhiên. Tổng cuộc có năm phòng trực thuộc để làm việc, gồm Cuộc dầu hỏa, Nha kế hoạch huấn luyện, Cuộc khoáng sản, Trung tâm nghiên cứu địa chất, Nha hành chánh và kế toán. Trong đó, kỹ sư địa chất Nguyễn Văn Vĩnh phụ trách Cuộc dầu hỏa, kỹ sư phụ dầu khí Phí Lê Sơn đảm nhiệm Nha kế hoạch huấn luyện. Vừa làm vừa học nghề Ông Trần Văn Khởi (trái), giám đốc Tổng cuộc Dầu hỏa và khoáng sản VNCH - Ảnh tư liệu Quan điểm của Chính phủ VNCH là vừa làm vừa "học nghề" các công ty quốc tế. Nhưng ngay trong tình thế hạn chế đó, họ vẫn làm được rất nhiều việc hiệu quả, nhanh chóng, đặc biệt là tổ chức hai cuộc đấu thầu triệu đô thành công trên cả mong đợi. Song song với nỗ lực tìm kiếm dầu, các dự án nhà máy lọc dầu cũng được kêu gọi đầu tư ở Cam Ranh, Vũng Tàu, Nha Trang nhưng chưa kịp thực hiện vì chiến sự leo thang. Nhiều ý kiến chuyên môn khẳng định một năm nỗ lực của ngành dầu hỏa miền Nam Việt Nam bằng hành trình 10 năm của các quốc gia khác... Kỳ tới: Tìm 3 bể dầu dưới thềm lục địa Mỏ dầu Bạch Hổ: Những gói thầu triệu đô 29/04/2018 13:23 GMT+7 TTO - Mùa hè năm 1971 rất nóng. Nhiệt độ ở Sài Gòn hơn 35 độ C. Tiến độ gọi thầu thăm dò, khai thác dầu hỏa được yêu cầu phải đẩy nhanh. Các kỹ sư của Tổng cuộc Dầu hỏa Sài gòn đi tham quan nhà máy khai thác dầu của Mỹ - Ảnh tư liệu của NVV Tháng 2-1974, VNCH công bố đợt gọi thầu khai thác dầu khí thứ hai trên thềm lục địa. Lần này có 33 lô với diện tích mỗi lô khoảng 4.000km2 Ông Nguyễn Văn Vĩnh, giám đốc Cuộc Dầu hỏa thuộc Tổng cuộc Dầu hỏa và khoáng sản Sài Gòn, kể: "Cả sáu người của văn phòng cùng nhau chia sẻ mọi công việc cần phải làm, dịch bản hợp đồng đặc nhượng gốc tiếng Anh sang tiếng Việt. Để kịp trình Ủy ban Quốc gia dầu hỏa cứu xét cho việc chuẩn bị đấu thầu, cả nhóm cùng nhau thức hôm thức khuya, nhất là trong giai đoạn thực hiện in roneo hai bản hợp đồng đặc nhượng mẫu bằng tiếng Anh và tiếng Việt...". Cuộc gọi thầu đầu tiên Chứng nhân tìm dầu hỏa thời ấy kể tiếp: "Chúng tôi đánh máy, chữa lỗi từng trang stencil đến mờ mắt, quay roneo trên giấy trắng cỡ 21x33cm, in bìa, đục lỗ, đóng thành tập. Các hợp đồng đặc nhượng mẫu này cùng các văn kiện khác sẽ được trao cho các công ty tham khảo trước khi dự thầu. Toàn bộ các văn bản này đã được văn phòng hoàn tất trong sáu tháng và được Ủy ban Quốc gia dầu hỏa chấp nhận". Ngày 15-8-1971, 18 công ty dầu hỏa nộp bản trả lời, với ba công ty trong nước và 15 công ty quốc tế. Ủy ban Quốc gia dầu hỏa trực tiếp xét duyệt tất cả hồ sơ. Cả ba công ty quốc nội đều không đạt yêu cầu. Các công ty nước ngoài được cẩn thận xem xét từng yếu tố như kinh nghiệm, chuyên môn, tình hình tài chính... Ngày 24-3-1973, Bộ Kinh tế một lần nữa thông báo cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm và khai thác dầu. Tổng cộng 19 hồ sơ công ty quốc tế lại gửi tới, như vậy tính chung cả hai đợt đã có 37 hồ sơ. Tuy nhiên, 10 hồ sơ đã bị Ủy ban Quốc gia dầu hỏa loại vì không đạt yêu cầu. Các công ty dầu hỏa của 27 hồ sơ còn lại được Bộ Kinh tế VNCH mời tham dự một phiên họp giải đáp thắc mắc ở Sài Gòn vào tháng 5-1973. Ủy ban Quốc gia dầu hỏa cũng thông báo hạn chót nhận hồ sơ dự thầu chính thức là ngày 2-7-1973. Ngày lịch sử khó quên được ông Nguyễn Văn Vĩnh nhớ lại: "Chờ mãi rồi ngày 2-7-1973 cũng đến. Mọi người vui vẻ chờ đón các công ty dầu quốc tế nhưng suốt buổi sáng không một ai đến nộp hồ sơ. Buổi chiều cũng vậy. Không biết họ có thay đổi ý định không? Có sự kiện chính trị, quân sự gì quan trọng đang xảy ra không?". Thế rồi vào lúc 4h chiều, một chiếc ôtô lạ chạy vào cổng. Vị luật sư đại diện của Esso bước ra. Sau vài lời chào hỏi xã giao, ông ta trao cho ông Khởi, giám đốc tổng cuộc, một phong bì dán kín, dày cộm. Ông Khởi ký ngay trên lằn dán phía sau bao thư rồi mời ông ấy cùng ký. Ngay sau đó tôi niêm phong, đảm bảo rằng hồ sơ của họ được tuyệt đối giữ kín cho đến khi mở ra cùng một lúc trước sự hiện diện của tất cả công ty và đại diện của họ vào sáng ngày mai...". Esso, công ty dầu hỏa lớn hàng đầu thế giới, tham gia ngay đợt đấu thầu khai thác dầu khí ở miền Nam Việt Nam - Ảnh tư liệu Sự tham gia của các ông trùm dầu hỏa Sáng 3-7-1973 tại phòng khánh tiết Bộ Kinh tế, Ủy ban Quốc gia dầu hỏa mở niêm phong 18 bao thư... Theo tiêu chí thắng thầu đã đề ra từ đầu, Esso thắng một lô với hoa hồng chữ ký 5 triệu USD. Mobil Oil với 2,5 triệu USD trúng hai lô gần Vũng Tàu và Phan Thiết. Shell Oil với 9 triệu USD trúng ba lô. Sunningdale (Canada) gặp may chọn hai lô phía nam Mũi Cà Mau không ai cạnh tranh và thắng thầu dù số hoa hồng chữ ký thấp hơn rất nhiều so với các công ty kia. Tổng cộng tám lô này đã mang lại số hoa hồng chữ ký 16,6 triệu USD. Số tiền này sẽ được các công ty chuyển cho VNCH trong vòng 30 ngày sau khi chính thức hợp đồng và nhận được sắc lệnh cấp quyền đặc nhượng. Hơn một tháng sau đó, ngày 21-8-1973, buổi lễ ký hợp đồng đầu tiên được Chính phủ VNCH tổ chức ký kết với ba công ty dầu hỏa Esso, Mobil Oil và Sunningdale. Ông Phạm Kim Ngọc, tổng trưởng Bộ Kinh tế kiêm chủ tịch Ủy ban Quốc gia dầu hỏa, đại diện cho chính phủ, ký kết với ba công ty. Khoảng một tuần sau, Shell cũng chính thức ký hợp đồng. Lý do hoãn lại của Shell vì cần thời gian đàm phán liên doanh Công ty Cities Cervice để tăng tiềm lực tài chính. Liên doanh này có tên mới là Pecten Vietnam. Hợp đồng ký kết khá chặt chẽ và VNCH bảo đảm được các quyền lợi của mình. Theo đó, công ty ký hợp đồng phải nộp cho Chính phủ VNCH một tín dụng thư bất khả hoàn của một ngân hàng quốc tế lớn với số tiền cam kết sử dụng thăm dò, khoan dầu. Tín dụng thư của Pecten là 20 triệu USD, Mobil 15 triệu USD, Esso 12 triệu USD. Tháng 2-1974, VNCH công bố đợt gọi thầu khai thác dầu khí thứ hai trên thềm lục địa. Lần này có 33 lô với diện tích mỗi lô khoảng 4.000km2. Chính phủ Sài Gòn gửi 50 hồ sơ mời thầu đến các công ty dầu hỏa. Điều kiện hợp đồng khắt khe hơn lần trước. Nước chủ nhà giữ quyền chủ động hoàn toàn như có quyền điều chỉnh các mức thuế suất, quyền thay đổi các điều khoản hợp đồng, quyền thay đổi mức tham gia hợp tác đầu tư của Việt Nam. Sau đó, 34 công ty được xác nhận đủ điều kiện đấu thầu. Nhiều nhất là Mỹ với 22 công ty, kế đến Canada năm công ty... Các công ty lớn đã liên kết lại với nhau thành 10 liên doanh và chín liên doanh đã trúng thầu đợt thứ hai. Trong đó, liên doanh Pecten và Broken Hill trúng một lô, Mobil và Kaiyo Oil (Nhật) trúng hai lô... Liên doanh trúng nhiều số lô nhất là Canadian Oil and Gas và Conzinc Rio Tinto (Úc) với bốn lô gồm 16.000km2 nhưng sau đã bỏ cuộc. Tổng số tiền hoa hồng chữ ký mà Chính phủ VNCH nhận được trong đợt này là 29,1 triệu USD. Hợp đồng đặc nhượng Hợp đồng đặc nhượng ràng buộc các công ty khoan tìm dầu trong vòng hai năm, nhưng có năm năm và được gia hạn thêm năm năm. Trong thời gian tìm kiếm dầu, các công ty được giao trả lại cho Việt Nam từng phần của lô để giảm thuế nhượng tô, nhưng mỗi lần trả không được quá 500km2. Điều khoản quan trọng là nếu tìm thấy dầu, các công ty có thời hạn khai thác 30 năm và được gia hạn 10 năm. Nhằm "Việt Nam hóa ngành dầu hỏa", hợp đồng đặc nhượng cũng yêu cầu các công ty phải thông báo cụ thể kế hoạch khoan giếng tìm dầu; đồng thời phải dành ngân khoản 300.000 USD mỗi năm, tính từ khi bắt đầu khoan giếng cho đến thời điểm sản xuất thương mại. Mục đích nhằm đi đến sử dụng 90% lao động Việt Nam và 60% quản lý chỉ huy trong ngành dầu hỏa.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 30, 2018 1:40:48 GMT 9
Mỏ dầu Bạch Hổ: Tìm bể dầu dưới thềm lục địa28/04/2018 TTO - Ngay khi chính quyền VNCH vừa thực hiện những bước đầu thăm dò, khai thác dầu hỏa, các công ty Mỹ đã có sự quan tâm đặc biệt. Mật tin tình báo từ Sứ quán Mỹ, Sài Gòn tiết lộ tiềm năng khai thác dầu hỏa thềm lục địa này là khả thi. Một tàu khảo sát địa vật lý hải dương của Naval Oceanographic - Ảnh tư liệu Từ năm 1967, Cơ quan Hải dương học Mỹ khảo sát toàn bộ thềm lục địa Việt Nam. Tiếp đó, Alping Geophysical Corporation cũng triển khai nghiên cứu... Khảo sát dưới đáy biểnNăm 1968. Vài chiếc máy bay của không quân Mỹ lặng lẽ làm nhiệm vụ bí mật. Chúng không mang bom và bay ngược ra Biển Đông. Phi hành đoàn cũng khá đặc biệt. Họ mặc đồ dân sự, mang theo các máy chụp ảnh và thiết bị chuyên dụng để đo từ hàng không. Đó là phi đội "địa vật lý" hàng không (Airborne Geophysics). Đây là nhiệm vụ bí mật. Chính quyền VNCH không công bố. Thinh thoảng họ mới hé chút thông tin cho báo chí để phục vụ mục đích chính trị. Cùng trong năm 1968, bên cạnh không quân Mỹ, các công ty khảo sát hải dương của Anh cũng tham gia khảo sát biển Nam Việt Nam. Sang năm 1969, Naval Oceanographic Office đã thực hiện khảo sát vùng vịnh Thái Lan và Biển Đông với chiều dài hơn 16.000km mạng lưới tuyến. Ray Geophysical Mandrel cũng gấp rút đo địa vật lý hơn 3.480km tuyến ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, sang năm 1970, lúc đạo luật dầu hỏa VNCH chuẩn bị được ban hành, Mandrel lại tiếp tục thực hiện đợt khảo sát lần thứ hai với quy mô lớn hơn trước. Bản đồ khảo sát dọc theo bờ biển miền Nam Việt Nam và phía Nam Biển Đông. Lần này Mandrel áp dụng các kỹ thuật khảo sát địa vật lý hiện đại nhất lúc bấy giờ là địa chấn, từ và trọng lực. Hơn 8.400km tuyến đã được khảo sát. Đợt này ngân khố Chính phủ VNCH không phải tốn đồng nào. Một nhóm công ty dầu hỏa của Mỹ, Anh đã bỏ tiền thuê Mandrel khảo sát. Lý do chính để những nhà tài phiệt dầu hỏa chịu chi là do họ tiếp cận được các kết quả khảo sát sơ bộ từ năm 1968 của không quân Mỹ và các công ty hải dương Anh. Khảo sát đã dẫn đến kết quả đánh giá sơ bộ có một tầng trầm tích dày 3-4km với kiến tạo khá thuận lợi cho khả năng chứa dầu. Sau đợt khảo sát thứ hai vào năm 1970 của Mandrel và một số công ty khác, kết luận về tầng trầm tích dày hơn 2km dưới thềm lục địa Nam Việt Nam gần như là chắc chắn. Các số liệu khảo sát địa vật lý đã chỉ dẫn ba bồn trầm tích có thể chứa dầu là Sài Gòn - Brunei (sau này gọi là bể Nam Côn Sơn), Mekong (bể Cửu Long), vịnh Thái Lan (bể Malay - Thổ Chu). Đến thời điểm này, chính quyền VNCH đã nhìn thấy rõ ràng dấu hiệu lạc quan của ngành dầu hỏa mà mình vừa khởi động chưa được bao lâu. Họ hi vọng nếu tiến hành khai thác sớm, nền kinh tế miền Nam Việt Nam sẽ rẽ sang một bước ngoặt mới và chắc chắn không còn phải quá phụ thuộc vào túi tiền viện trợ Mỹ. Bản đồ các bể trầm tích có thể chứa dầu ở Biển Đông - Ảnh: TĐDKVN Những cuộc "đi đêm" của Conoco Từ năm 1970, các số liệu khảo sát bắt đầu được công khai. Chính quyền Sài Gòn muốn cho cả thế giới thấy "tiềm năng giàu có" của VNCH và mời gọi các công ty quốc tế vào đầu tư thăm dò, khai thác. Conoco, công ty dầu hỏa của Mỹ, nhanh chóng đến sớm. Họ có những buổi làm việc con thoi với chính quyền VNCH. Conoco muốn được giao những lô đặc nhượng lớn ngoài thềm lục địa miền Nam Việt Nam để có thể thăm dò, khai thác tối ưu trong lâu dài. Đồng thời, họ cũng "cảnh báo" VNCH không nên tin tưởng và giao nhượng địa cho các trùm dầu hỏa thế giới như Shell, Esso. Các công ty khổng lồ này đang bận rộn với các quốc gia Trung Đông và nhiều khu vực khác. Họ có thể chỉ "xí chỗ" để đó. Sài Gòn sẽ chỉ dài cổ đợi mà chẳng được gì. Đặc biệt, họ cũng "khuyên" VNCH không nên quá quan tâm đến khoản tiền "hoa hồng chữ ký" khi mời thầu, mà phải buộc các nhà thầu nhanh chóng thăm dò, khai thác. Cuối cùng, Conoco nói rõ là muốn được giao một lô lớn từ 10.000km2 hoặc hơn nữa. Việc này chỉ nên thương lượng riêng giữa Conoco và Chính phủ Sài Gòn, không cần qua đấu thầu cạnh tranh với các công ty khác. Các nhà lãnh đạo chính quyền VNCH hoãn binh, không vội lắc hay gật trước đề nghị của Conoco. Trong khi đó, họ đẩy nhanh tiến độ thực hiện một cuộc chào thầu lớn ra công ty dầu hỏa quốc tế. Các thể thức hợp tác khai thác quốc tế trong OPEC được nghiên cứu kỹ. Trong đó có thể thức hợp đồng phân chia sản phẩm như Iran, Indonesia đã thực thi; hợp đồng dịch vụ Iran, Venezuela; hợp đồng điều hành như Algeria. Trong các hợp đồng phân chia sản phẩm và dịch vụ, công ty dầu hỏa quốc tế có trách nhiệm khai thác dầu và được chia tỉ lệ dầu sản xuất với nước chủ nhà như 40/60, 25/75. Nhưng điều mà chính quyền VNCH lưu tâm là kinh nghiệm một số quốc gia khởi đầu ngành công nghiệp dầu hỏa khi hợp tác với công ty quốc tế. Họ học hỏi đủ kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật để tự lập việc thăm dò, khai thác dầu của riêng mình. Sài Gòn nhìn xa đến tương lai này. Họ không muốn bị các ông trùm dầu hỏa o ép và tài nguyên quốc gia chảy vào túi tiền nhà tài phiệt. Mặc dù đạo luật dầu hỏa của VNCH không quy định phải đấu thầu, nhưng các chuyên gia tư vấn người Anh đã khuyên nên đấu thầu công khai để đảm bảo được quyền lợi quốc gia một cách tốt nhất. Phân lô thềm lục địaỦy ban Quốc gia dầu hỏa đề nghị chính phủ VNCH cho phân lô thềm lục địa theo nguyên tắc từng ô vuông. Việc này là cần thiết để gọi thầu quốc tế. Đợt một, hơn 40 lô đã được phân với diện tích 7.000 - 8.000km2 mỗi lô. Chúng nằm trên cả hai vùng Đông và Tây thềm lục địa, từ Phan Thiết xuống Cà Mau và vòng qua vịnh Thái Lan... ______________
|
|