|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:36:32 GMT 9
Vế đối của sư phụ Hoàng đế Quang TrungTượng Hoàng Đế Quang Trung Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.Ông bôn ba đi tìm đồng chí; trên nửa đời người lao đao lận đận, vừa về đến nhà kịp thấy người anh họ Trương Văn Hạnh bị ám sát. Ông vội vã đưa vợ con xuống thuyền và ngửa mặt chỉ mảnh trăng thề nguyền rằng: “Không đạt sở nguyện sẽ vĩnh biệt đất Huế thân thương”. Ông đến Vạn Gò Bồi (Tuy Phước, Bình Đinh) nương náu. Sau ông nghe lời người bạn sơ giao có chí lớn ở đất Tây Sơn khuyên lên An Thái (An Nhơn Bình Định) mở trường dạy học. Ngày khai giảng, ông Biện Nhạc đưa hai em Huệ - Lữ đến nhập môn. Lớp học không đông, chỉ hơn vài mươi người thọ giáo. Riêng trò Huệ, có khí phách khác thường; từ dáng đi, tiếng nói và học đâu thông đó, chẳng những tiếp thu xuất sắc bài giảng mà còn hỏi vặn lại những điều xưa nay chưa ai đề cập đến. Trước mặt thầy, một kỳ nhân đã xuất hiện mà bấy lâu thầy đau đáu trông tìm. Nay thầy nguyện trao hết văn tài võ chí cho cậu thiếu niên kiệt xuất này. Tương truyền rằng: Lúc bấy giờ ở An Thái đang khởi công xây dựng ngôi dền Quan Thánh. Để tạo thêm danh giá, các bô lão đến xin thầy giáo Hiến đôi câu đối thờ. Thầy giáo những muốn học trò mình hãy giương cao khí tiết, đức độ như Quan Công mà hậu thế đã tôn lên bậc thánh. Do đó, thầy đặt câu đối thờ mà như uỷ thác lòng mình cho trò nhỏ: Nguyễn Huệ. Ngót hai trăm năm, câu đối ấy chứng kiến bao cuộc tang tóc dâu bể và cũng dầm mình trong khói hương ra chiều linh ứng. Đến thời kỳ kháng chiến chín năm (1945 - 1954), giặc Pháp ném bom thị tứ An Thái nhiều lần, làm cho nhà cửa, ruộng vườn tan hoang, chùa chiền, đền miếu đổ nát; dân địa phương phải tản cư về vùng nông thôn hẻo lánh tạm sống qua ngày. Hoà bình lập lại, bà con quay về xây dựng quê hương; trong đó có trùng tu ngôi đền Quan Thánh. Chợt phát hiện vế mái câu đối bị hố bom bứng đi mất. Dân làng sững sờ, không ai nhớ được. Các bô lão phải nhờ thầy Tàu Sáu đặt lại vế mái để vá vào vế trống đã có từ xưa. Thầy Tàu Sáu dù hay chữ, nhưng xét mình không thể làm nổi một vế mái ngang tầm với vế trống mà xưa nay câu đối đã liệt vào hàng kiệt xuất văn chương ở hầu hết các đền thờ Quan Thánh. Ngày đêm thầy Tàu Sáu cứ tẩn mẩn tê mê, nhẩm đi đọc lại về trống mà truyền thuyết bảo rằng của cụ Giáo Hiến là sư phụ Hoàng đế Quang Trung: - SANH BỒ CHÂU, SỰ DỰ CHÂU, CHIẾN TỪ CHÂU THỦ KINH CHÂU. VẠN CỔ THẦN CHÂU DUY HỮU NHẤT; Thầy Tàu Sáu tự nguyện ăn chay nằm đất ba ngọ. Đêm đêm ông nằm trước bệ thờ Quan Công còn xây dựng dang dở. Đến canh tư đêm cuối cùng, trong khói trầm nghi ngút và ánh trăng hạ tuần hoà quyện với đôi ngọn đèn bạch lạp dọi lên khung cảnh khi tỏ khi mờ, chợt vẳng lại một giọng ngâm trầm hùng bay bay theo làn gió, với câu đối lung linh huyền ảo thật tuyệt vời... Thế là vế mái câu đối của tiền nhân được tiên nhân vá lại một cách tuyệt hảo: - HUYNH HUYỀN ĐỨC, ĐÊ DỰC ĐỨC, PHÓNG MẠNH ĐỨC, CẦM BÀNG ĐỨC. THIÊN THU THÁNH ĐỨC QUÁN VÔ SONG. Quốc Thành *********************************************** Tây Son Thất hổ týớng 1 - Võ Vãn Dũng Sau khi vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh lên ngôi, tuổi còn nhỏ, quyền bính ðều ở trong tay Bùi Ðắc Tuyên. Bùi Ðắc Tuyên ngýời làng Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn, cậu ruột của Cảnh Thịnh. Dýới triều vua Quang Trung, Tuyên nhờ thế em gái là Hoàng hậu Bùi Thị Nhạn nên ðýợc làm quan trong triều. Vì ít học, nên chỉ làm Thị Lang Bộ Lễ, nhýng lại ðýợc ghép vào nõi cung cấm. Tuyên thýờng bày nhiều trò chõi ðể mua lòng Thái Tử Nguyễn Quang Toản. Vì vậy, nên sau khi lên ngôi báu, Quang Toản liền sử dụng Tuyên và ðýa lên làm thái sý, bất chấp cả quan chế ðã ðặt sẵn. Trong cung ðã có Bùi Thái hậu, ngoài triều lại có lắm ðại thần nghiêng theo chiều gió nhý Ngô Vãn Sở, Phạm Công Hýng, nên thế lực của Tuyên rất vững. Tuyên mỗi ngày một thêm lộng hành. Các ðại thần trung tín ðều bất mãn. Một số quan vãn kẻ thì tìm cớ già yếu xin về výờn. Kẻ thì bị Tuyên tìm cớ giáng chức hay cách chức. Một số quan võ không về cánh với Tuyên, ngýời thì bị thảm hại, kẻ thì bị ðýa ði trấn thủ nõi xa xôi. Ngay những ngýời trýớc kia theo Tuyên nhý Ngô Vãn Sở, Lê Vãn Hýng cũng không chịu nổi hành vi gian ác của Tuyên, nhiều lúc cũng có thái ðộ bất bình. Tuyên muốn trừ khử khi có dịp. Nhân khi Lê Vãn Hýng thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy giữ, ðem quân về Phú Xuân, Tuyên bắt tội là không thỉnh mệnh trýớc, có ý muốn làm phản, tâu xin vua chém ðầu rãn chúng. Vua Cảnh Thịnh y lời, Ngô Vãn Sở can nhýng không ðýợc, Quan Phụ chánh Trần Vãn Kỷ can thiệp, Tuyên nổi giận, giáng chức, ðày ra coi trạm Hoàng Giang. Trần Vãn Kỷ nguyên là một danh nhân ðất Thuận Hóa, quy thuận nhà Tây Sõn khi Bắc Bình Výõng ra Phú Xuân. Ðýợc vua Quang Trung trọng dụng, thýờng ðem theo bên trýớng, làm ðến chức Trung Thý lệnh. Quang Toản lên ngôi, Kỷ ðýợc làm Phụ chánh. Sau khi ðày Trần Vãn Kỷ, Tuyên muốn dứt luôn cái nguy là Võ Vãn Dũng, nên sai Ngô Vãn Sở ra Bắc Hà thay chức Trấn thủ. Triệu hồi Võ Vãn Dũng về Phú Xuân ðợi lệnh. Dũng ðem quân hộ vệ về ðến Hoàng Giang thì gặp Kỷ, Kỷ nói: - Thái sý ngồi trùm cả quân thần, cho ai sống ðýợc sống, bắt ai chết phải chết, nếu không sớm trừ ði, e bất lợi cho xã tắc. Ông nên lo liệu trýớc ði kẻo nữa ãn nãn không kịp. Võ Vãn Dũng vốn tin trọng Vãn Kỷ, liền nghe theo. Về ðến Phú Xuân, không vào triều, lén cho mời Phạm Công Hýng và Nguyễn Vãn Huấn ðến bàn mýu giết Bùi Ðắc Tuyên. Nhận thấy rõ ràng lòng tàn nhẫn và tính phản phúc của Tuyên, Hýng và Huấn cùng lo ngại ðến thân phận của mình, bèn hýởng ứng ngay lời Dũng. Ðêm ấy kéo quân ðến vây dinh Thái sý. Chẳng ngờ ðêm ấy Tuyên có việc ngủ lại trong cung. Bọn Dũng vây luôn cả cung và ðòi Cảnh Thịnh giao Tuyên. Không tránh ðýợc, Cảnh Thịnh ðành bắt Tuyên nạp. Dũng hạ ngục Tuyên, rồi một mặt cho Nguyễn Vãn Huấn vào Quy Nhõn bắt con Tuyên là Bùi Ðắc Trụ, một mặt giả chiếu ra Bắc Hà bắt Ngô Vãn Sở giải về Phú Xuân. Dũng cho rằng ba ngýời Tuyên, Trụ, Sở mýu phản, nên ðóng cũi nhốt, ðem dìm xuống sông Hýõng . Vua Cảnh Thịnh biết là oan nhýng không sao ngãn cản ðýợc ðành gạt nýớc mắt khóc thầm. Trần Quang Diệu ðang vây thành Diên Khánh nghe tin lập tức výợt biển về Phú Xuân. Võ Vãn Dũng cùng Nội hầu Nguyễn Thế Tứ ðem quân bản bộ ra ðóng ở bờ phía bắc sông Hýõng, ỷ mệnh vua, chống nhau với quân Trần Quang Diệu ðóng ở An Cựu bên bờ phía nam sông Hýõng. Võ Ðình Tú lấy tình quen thân cả ðôi bên xin vua Cảnh Thịnh ðýợc phép ðứng ra hòa giải, nhờ vậy mà Võ Vãn Dũng cùng Trần Quang Diệu nối lại tình xýa. Cả hai kéo binh vào thành bệ kiến Cảnh Thịnh. Vua phong Võ Vãn Dũng làm Ðại Tý Ðồ. Trần Quang Diệu làm Thái Phó. Ðầu tháng 5 nãm Kỷ Mùi (1799), thành Quy Nhõn bị vây. Trấn thủ Lê Vãn Thanh chống không nổi nên cầu cứu Phú Xuân. Võ Vãn Dũng cùng Trần Quang Diệu kéo vào ðến Quảng Nghĩa thì bị binh Viết Phýớc chận lại tại Thạch Tân. Thừa lúc tối Võ Vãn Dũng ðem quân theo ðýờng Trung xá mýu ðánh úp quân Tống Viết Phýớc. Chẳng ngờ khắp nõi ðều có quân ðóng giữ, canh phòng cẩn mật, nên binh Võ Vãn Dũng thua to. May nhờ Trần Quang Diệu cứu ứng kịp thời, Võ Vãn Dũng mới thoát nạn. Vì vậy Quy Nhõn thất thủ và thành ðýợc ðổi tên là thành Bình Ðịnh. Võ Vãn Dũng và Trần Quang Diệu ðýợc lệnh lui về giữ Quảng Nam. Nhân việc mất Quy Nhõn, bọn Trần Viết Kiết, Hồ Công Diệu sàm tấu với Cảnh Thịnh là tại Trần Quang Diệu không chịu cứu ứng, nên Quy Nhõn mới mất và xin sai ngýời mang mật thý vào Quảng Nam bảo Võ Vãn Dũng bắt Diệu giết ði. Dũng ðýợc thý tự nghĩ: - Tội là tội của mình. Trần huynh ðã có lòng tốt không cáo giác, sao mình lại nỡ lòng hại ân nhân thà ðắc tội cùng vua còn hõn phạm tội vong ân bội nghĩa. Bèn ðýa thý cho Diệu xem. Diệu kéo quân về kinh trị tội bọn gian tà, rồi trở lại Quảng Nam. Tháng giêng nãm Canh Thìn (1800), Võ Vãn Dũng hợp cùng Trần Quang Diệu vào ðýợc Quy Nhõn. Võ Vãn Dũng cầm thủy binh ðứng giữ cửa biển Thị Nại ðể Trần Quang Diệu công thành. Võ Vãn Dũng ðem chiến thuyền Ðinh Quốc và hõn trãm chiến thuyền nhỏ ra ðóng giãng ngang cửa biển. Hai pháo ðài Ghềng Ráng và Phýõng Mai bấy lâu bỏ hoang ðýợc Dũng cho sửa sang lại và ðặt súng ðại bác ðể canh phòng. Nãm Tân Dậu (1801) Nguyễn Phúc Ánh kéo binh ra ðánh mạnh, tấn công hai mặt thủy và bộ. Về mặt thủy, quân nhà Nguyễn tấn công hai mặt: - Nguyễn Vãn Lýõng và Tống Phúc Lýõng ðem thuyền nhỏ výợt ra phía bắc Thị Nại vào cửa Cách Thử, lẻn vào ðầm Thị Nại, dùng hỏa công ðốt thủy trại Tây Sõn. - Lê Vãn Duyệt và Võ Di Nguy ở ngoài cửa Thị Nại khi thấy lửa cháy thì kéo chiến thuyền ðánh ập vào. Ở Thị Nại, Võ Vãn Dũng canh phòng nghiêm ngặt, súng ðại bác sẵn sàng nhả ðạn. Nhýng ðang ðêm, thình lình thấy thủy trại cháy, vội cho quân ði chữa lửa. Võ Di Nguy trông thấy ánh lửa liền xua quân tiến vào. Súng trên pháo ðài bắn xuống, ðánh chìm hết ðoàn thuyền tiên phong. Võ Di Nguy bị trúng ðạn chết. Lê Vãn Duyệt ðốc binh tiếp theo, liều chết výợt khỏi tầm súng. Lê Vãn Duyệt dùng hỏa công, lửa cháy rần rần theo gió tạt vào thuyền Tây Sõn. Gió thổi càng mạnh, lửa cất càng cao. Ánh sáng rực cả mặt biển, ngất cả nghìn dặm mây. Và tiếng súng nổ, tiếng quân la hét vang trời dậy ðất, quân nhà Nguyễn bị chết vô số. Thuyền Tây Sõn bị ðốt cháy không còn một chiếc. Võ Vãn Dũng ðại bại, kéo tàn quân lên hợp cùng Trần Quang Diệu giữ những nõi hiểm yếu khác. Nguyễn Phúc Ánh thấy ðánh không nổi quân Tây Sõn ðể cứu thành Quy Nhõn, tuy ðã chiếm ðýợc cửa Thị Nại, bèn kéo ðại quân ra ðánh Phú Xuân. Ngày 27 tháng 5, Trần Quang Diệu hạ ðýợc thành Quy Nhõn và thành Phú Xuân trýớc ðó cũng lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh (ngày 3 tháng 5 nãm Tân Dậu). Nghe tin quân Tây Sõn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh Nguyễn Phúc Ánh hoàn toàn làm chủ ðất Thuận Hóa, Võ Vãn Dũng cùng Trần Quang Diệu ðem 3 ngàn quân cùng 80 thớt voi, theo ðýờng sạn ðạo sang Lào ðể ra Nghệ An vào thýợng tuần tháng 3 nãm Nhâm Tuất (1802). Ðýờng ði khó khãn, Lam Sõn chýớng khí ðầy dẫy, khiến cho ðoàn quân càng ngày càng hao hụt. Lớp bị bệnh, lớp bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn tập kích, nên khi ðến Nghệ An thì mýời phần chỉ còn ba bốn. Ðoàn týợng binh chỉ còn mýõi thớt. Quân týớng hầu hết ðều bị sốt rét rừng. Tại Hýõng Sõn, Võ Vãn Dũng cùng Trần Quang Diệu và các týớng bị týớng nhà Nguyễn là Võ Doãn Vãn, Lê Ðức Ðịnh bắt sống. Ở Diễn Châu, Bùi Thị Xuân hay tin ðem nữ binh ði giải cứu. Ðến Giáp Sõn thì giải cứu ðýợc, nhýng chạy ðến sông Thành Chýõng thì hai vợ chồng Trần, Bùi bị bắt trở lại. Một mình Võ Vãn Dũng mở ðýờng máu thoát chạy. Nhýng chạy ðến Nông Cống, thuộc Thanh Hóa thì Võ Vãn Dũng bị bọn Lê Vãn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân ðịa phýõng ra bao vây. Với một thanh ðoản ðao, Võ Vãn Dũng ðã ðánh thắng hai týớng Lê, Phạm xong quá yếu sức vì gian lao ðói khát, nên không chống lại ðám ðông, ðành buông ðao chịu trói. Bộ ba Dũng, Diệu, Xuân bị ðóng cũi giải về Nghệ An. Dọc ðýờng, Võ Vãn Dũng phá cũi, thoát ra ngoài, ông giải cứu luôn cả hai vợ chồng Trần, Bùi song hai chân của Trần týớng quân bị sýng phù, không thể chạy trốn ðýợc. Bùi nữ týớng ðành ở lại chịu chết cùng chồng. Một mình Võ Vãn Dũng lặn lội suối ðèo, ngày nghỉ ðêm ði, sau nhiều tháng mới về ðến quê hýõng. Trong ðêm tối, ông ghé thãm nhà tại Phú Phong, ðốt hýõng lên bàn thờ tổ tiên, rồi âm thầm ra ði. Ông lên sống tại các làng ngýời dân tộc vùng cao trýớc kia ðã từng một thời hợp tác với nhà Tây Sõn, mong có ngày gầy dựng lại cõ ðồ. Các vùng núi Tây Sõn thýợng ðều lýu vết chân ông. Các thôn Ðồng Phó, Hà Nhung thýờng là nõi ông lýu trú lâu nhất. Tại An Khê ông chiêu mộ ðýợc một số ngýời dân tộc thiểu số, lấy hòn Hội Sõn ở Trinh Týờng làm cãn cứ quân sự. Do ðó nhân dân ðịa phýõng cũng gọi hòn Hội Sõn là hòn Ông Dũng và gọi tắt là Hòn Dũng. Khi hợp tác cùng các sắc tộc vùng núi, Võ Vãn Dũng ban ðầu ðýợc sùng bái, sau lần lần vì thế lực của ông không có mà thế quyền Gia Long càng ngày càng vững mạnh, nên các sắc tộc vùng núi tỏ ý lõ là không muốn hợp tác nữa. Vì vậy, ông bỏ hẳn vùng Tây Sõn thýợng trở về hoạt ðộng ở vùng cận quê hýõng. Các vùng ven sông Côn nhý Tiên Thuận, Vĩnh Thạnh, Kiên Mỹ ðều nằm trong phạm vi hoạt ðộng của ông . Việc ông ðứt ðoạn với các sắc tộc vùng Tây Sõn thýợng ðýợc nhân dân ðịa phýõng ðýa vào ca dao: Củ lang Ðồng Phó Ðậu phụng Hà Nhung Chàng bòn thiếp mót bỏ chung một gùi Chẳng qua duyên nợ sụt sùi Chàng giận chàng ðá cái gùi, chàng ði Chim kêu dýới suối Từ Bi. Nghĩa nhõn còn bỏ huống chi cái gùi. Ðó là câu ca dao ðã dùng thể tỷ nói về việc chung lýng ðấu cật, về việc bất hòa giữa Võ Công và ngýời dân tộc thiểu số. Ðể chuẩn bị cho một cứ ðiểm ẩn náu cuối cùng, Võ Công ðã ði sâu vào vùng Lộc Ðổng, Hầm Hô, tìm những hang ðộng rộng rãi, kín ðáo ðể chuẩn bị cho việc ẩn náu lâu dài. Trong khi hoạt ðộng ở vùng Tây Sõn thýợng, Võ Công ðã có một thời ðến sống trong rừng mộ ðiểu, nhýng sau thấy Cô Hầu không thiết tha ðến việc phục hýng nhà Tây Sõn, nên ông ðã ðón hai con của vua Thái Ðức là Vãn Ðức, Vãn Lýõng và cháu nội là Vãn Ðẩu về ở trong binh trýớng. Sau khi ngýời dân tộc không còn hợp tác với ông và có âm mýu phản bội, ông ðã ðem ba chú cháu Vãn Ðức lên hòn núi Xanh ẩn náu. Nãm Minh Mạng thứ 12 (1882), týởng thời gian ðã xóa ði các liên hệ tranh chấp, ba chú cháu Vãn Ðức về thãm quê hýõng ở Kiên Mỹ thì bị quan lại ðịa phýõng bắt giải về Phú Xuân, giết chết. Còn lại trõ trọi một mình, Võ Công sống một cuộc ðời tiêu diêu tự tại, phiêu ðịnh nay ðây mai ðó. Võ Công mất ngày nào, tại ðâu, không ai biết rõ. Chỉ biết là Võ Công sống ðýợc 90 nãm, nhờ vào bài thõ Vịnh Võ Ðô ðốc của cụ Vân Sõn Nguyễn Trọng Trì, thì sau khi thoát nạn, Võ Công còn sống ðýợc 40 nãm nữa. Bài thõ ấy nhý sau: VỊNH VÕ ÐÔ ÐỐC. Tạo vật khốn hào kiệt. Ý týởng sử hữu vi. Công danh vị túc ngôn. Hoặc tác xuất thế ty. Võ công dũng quán quân. Bách chiến khởi Tây thùy. Thiên phýõng yểm trung nguyên. Ðãi phi nhất mộc chi. Thoát thân tứ thập niên. Thế nhân thức công thùy. Ðản kinh sõn thạch gian. Hữu thử hùng báo ty. Ngã diệc chí phýõng ngoại. Bạch ðầu vị phùng sý. Niên niên hạnh phế phóng. Thảng toại giữ thế từ. Tùng công du Ngũ Nhạc. Khể thủ thốn linh chi. Kim cốt hoán lục tủy. Khiêm nhiên tùng ðào phi. Nghĩa là: Tạo hóa làm khốn ðốn kẻ hào kiệt. Ý muốn cho họ làm việc gì. Công danh không ðủ nói. Hoặc giả bày ra cõ hội ðể họ thoát ðời. Tài ðánh dẹp của ông thật quán quân. Từ biên giới phía Tây nổi lên, trãm trận trãm thắng. Nhýng trời muốn dứt nửa chừng. Thì một cây không chống nổi. Thoát mình khỏi nạn ngót bốn mýõi nãm. Ngýời ðời ai biết ông?. Sống lâu ngày trong nõi núi chồng ðá chất. Ông có tý thế mạnh nhý gấu nhý hùm. Tôi cũng có ý muốn xuất thế. Nhýng ðã bạc ðầu mà chýa gặp ðýợc thầy. Làm quan nay ðýợc ðuổi về, nãm nãm rảnh rang. Muốn thoát khỏi cuộc ðời. Theo ông ði dạo chõi khắp nãm ngọn núi tiên. Cúi ðầu ãn cỏ linh chi. Xýõng vàng ðổi tủy xanh. Nhẹ nhàng bay lên nhánh tùng. ************************************ Hoài Nguyễn Suggested for you · 3 days ago · Ai tư vãn - Ngọc Hân công chúa Lê Ngọc Hân (1770-1799) Bà là con vua Lê Hiển Tông và bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền. Bà xinh đẹp, thông minh, giỏi thơ văn. Năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc để phù Lê diệt Trịnh. Ngọc Hân vâng lời cha mà sánh duyên với Nguyễn Huệ và theo ông về Thuận Hóa. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng Hậu. Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Năm 1792, Quang Trung Hoàng Đế đột ngột băng hà, bà còn trẻ đã trở thành một góa phụ. Bà viết Tế Vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng. Bài vãn này gồm 164 câu, viết theo thể Song thất lục bát chịu ảnh hưởng bản dịch Chinh phụ ngâm của bà Đoàn Thị Điểm. * Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo, Trước thềm lan hoa héo ron ron! Cầu Tiên khói toả đỉnh non, Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu! Nỗi lai lịch dễ hầu than thở, Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao? Sầu sầu, thảm thảm xiết bao, Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời! Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc, Nghĩa tôn phò vằng vặc bóng dương, Rút dây vâng mệnh phụ hoàng, Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui. Trăm ngàn dặm quản chi non nước, Chữ nghi gia mừng được phải duyên, Sang yêu muôn đội ơn trên, Rỡ ràng vẻ thuý, nối chen tiếng cầm. Lượng che chở, vụng lầm nào kể, Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời, Dầu rằng non nước biến dời, Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là. Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội, Khắp tôn thân cũng đội ơn sang, Miếu đường còn dấu chưng thường, Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh. Nhờ hồng phúc, đôi cành hoè quế, Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi. Non Nam lần chúc tuổi trời, Dâng câu thiên bảo, bày lời Hoa phong. Những ao ước trập trùng tuổi hạc, Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui, Nào hay sông cạn, bể vùi, Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly! Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết, Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên! Xiết bao kinh sợ lo phiền, Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu. Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước. Phương pháp nào đổi được cùng chăng? Ngán thay, máy Tạo bất bằng! Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan! Cuộc tụ, tán, bi, hoàn kíp bấy! Kể sum vầy đã mấy năm nay? Lênh đênh chút phận bèo mây, Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu! Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối, Biết cậy ai dập nỗi bi thương? Trong mong luống những mơ màng, Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say. Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng, Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu: Vội vàng sửa áo lên chầu, Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng! Khi bóng trăng, lá in lấp lánh, Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi: Vội vàng dạo bước tới nơi, Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa! Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn, Mặt rồng sao cách dán lâu nay! Có ai chốn ấy về đây, Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được lành? Nẻo u minh khéo chia đôi ngả, Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen! Kiếp này chưa trọn chữ duyên, Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương. Nghe trước có đấng vương Thang, Võ, Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao; Mà nay áo vải, cờ đào, Giúp dân, dựng nước biết bao công trình! Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn, Công đức dày, ngự vận càng lâu; Mà này lượng cả, ơn sâu, Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần. Công dường ấy mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công? Rộng cho chuộc được tuổi rồng, Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi. Buồn thay nhẽ! sương rơi, gió lọt, Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa! Tưởng lời di chúc thiết tha, Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê! Buồn thay nhẽ! xuân về, hoa ở, Mối sầu riêng ai gỡ cho xong! Quyết liều mong vẹn chữ tòng, Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e. Còn trứng nước thương vì đôi chút, Chữ tình thâm chưa thoát được đi! Vậy nên nấn ná đòi khi, Hình tuy còn ở, phách thì đã theo; Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo, Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân, Theo xa thôi lại theo gần, Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa. Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh, Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao! Mơ màng thêm nỗi khát khao, Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi! Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ, Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai. Xưa sao sớm hỏi, khuya bày, Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ. Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ! Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu? Xưa sao gang tấc gần chầu, Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca, Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi, Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh! Nửa cung gẫy phím cầm lành, Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ! Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc, Tiếng tử qui thêm giục lòng thương! Não người thay cảnh tiên hương! Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông. Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược, Thấy mênh mông những nước cùng mây! Đông rồi thì lại trông tây: Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà! Trông nam: thấy nhạn sa lác đác! Trông bắc: thấy ngàn bạc màu sương! Nọ trông trời đất bốn phương, Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi! Cậy ai có phép gì tới đó, Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung: Này gương là của Hán cung, Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày. Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ! Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu? Xin đưa gương ấy về chầu, Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn. Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu, Nỗi sinh cơ có thấu cho không? Cung xanh đang tuổi ấu sung, Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương? Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm, Đầu mũ mao, mình tấm ái gai! U ơ ra trước hương đài, Tường quang cảnh ấy chua cay dường nào! Trong sáu viện ố đào, ủ liễu, Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê! Long đong xa cách hương quê, Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên! Dưới bệ ngọc, hàng uyên vò võ, Cất chân tay thương khó xiết chi! Hang sâu nghe tiếng thương bi, Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân? Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát, Mạch sầu tuôn, ai tát cho vơi! Càng trông càng một xa vời, Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng? Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi: Gương Hằng Nga đã bụi màu trong! Nhìn gương càng thẹn tấm lòng, Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà. Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn: Cánh hải đường đã quyện giọt sương! Trông chim càng dễ đoạn trường: Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi. Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy. Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu! Phút giây bãi biển nương dâu, Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao? Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng, Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau! Mấy lời tâm sự trước sau, Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho. * Lê Ngọc Hân
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:38:35 GMT 9
2 - Võ Ðình Tú
Võ Ðình Tú, ngýời thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn. Con nhà giàu, tính hào phóng, lòng dạ chân thật, can ðảm hõn ngýời. Từ thuở nhỏ, gia ðình ðã rýớc thầy về nhà học vãn lẫn võ. Nãm 14 tuổi, trong thôn bỗng nhiên xuất hiện một nhà sý mặt mày xấu xí, ãn bận rách rýới, thýờng ðến ngồi nõi nhà ngõ họ Võ. Trẻ con trong làng hễ trông thấy nhà sý thì kéo nhau ðến chọc ghẹo. Mặc cho lũ trẻ hò reo, làm nhiều ðiều phiền toái, nhà sý vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa, mắt nhắm nghiền. Chọc chán mà không thấy phản ứng, chúng bèn kéo nhau bỏ ði. Riêng Võ Ðình Tú thì lại có thái ðộ rất kính trọng và thýõng mến nhà sý. Khi nhà sý ðến thì Tú hoặc býng cõm nýớc hoặc bánh trái ðến cúng dýờng. Nhà sý hoan hỉ mà nhận. Tuy nhiên, hai ngýời không hề nói với nhau một lời. Một hôm, trời nổi mýa to gió lớn, mọi ngýời không ai dám ra ðýờng. Mýa tầm tã suốt ngày. Ðêm ðến, mýa tạnh gió ngừng, ngýời trong nhà không thấy Tú ðâu cả. Mà ngoài ngõ nhà sý cũng biệt tãm. Cho ngýời ði khắp nõi, hết ngày này ðến ngày khác vẫn không tìm thấy tông tích. Ngýời nhà quyết ðoán là Tú ðã bị nhà sý bắt cóc. Ðành thắp nhang cầu trời phật gia hộ cho Tú mà thôi. Mýời nãm sau. Tú trở về, thành một thanh niên vạm vỡ, sức mạnh nhý hùm, nhýng vẫn giữ ðýợc tính tình chân hậu, chất phát. Mới trông qua không ai biết rằng ðó là một võ lâm cao thủ. Tú về nhà ðóng cửa ðọc sách, không giao du với ai, trừ Võ Vãn Dũng. Hai ngýời là bạn tâm ðắc. Gặp nhau ngoài chuyện bàn luận võ nghệ còn thýờng hay ðàm luận thời thế. Nhà giàu, võ nghệ cao cýờng, song Tú vẫn không thích lập gia ðình. Nhiều lúc ðóng cửa ði giao du hàng tháng mới về. Về võ nghệ, Tú thông thạo ðủ mọi loại: côn, kiếm, thýõng, quyền v.v… Về quyền thì thiên về ngạnh quyền, môn này rất thích hợp với thân vóc và sức mạnh của Tú. Ngoài môn cýỡi ngựa bắn cung, Tú nổi danh về môn sử dụng thiết côn. Khi múa côn giữa trời mýa, ngýời Tú không hề dính một hạt nýớc. Một mình Tú có khả nãng ðánh cả hàng ngàn ngýời. Bà Bùi Thị Xuân có tặng Võ Ðình Tú một lá cờ ðào thêu bốn chữ vàng "Thiết côn týớng quân". Khi Võ Vãn Dũng về với Tây Sõn, Dũng giới thiệu Tú cùng Tây Sõn Výõng. Výõng thân hành cýỡi ngựa ðến nhà thãm viếng và mời về hợp tác. Trong doanh trýớng Tây Sõn, Tú rất tâm ðắc với Nguyễn Huệ, ðýợc Huệ thýõng yêu nhý ruột thịt. Ngày ngày cùng nhau ðàm ðạo võ nghệ, binh pháp. Khi nhà Tây Sõn khởi nghĩa,Võ Ðình Tú ðýợc phong chức Ðại Tổng lý cùng với Bùi Thị Xuân quản lý vùng Tây Sõn và phòng thủ doanh trại. Nãm 1778, Nguyễn Nhạc xýng ðế, phong Võ Ðình Tú chức thái úy. Vua Quang Trung khi ra Thuận Hóa thì ðem Tú theo. Khi ấy Bùi Ðắc Tuyên mới làm Thị Lang Bộ Lễ, nhýng vì là em ruột của Bùi hoàng hậu nên ðýợc ra vào cung cấm tự do. Tuyên thýờng bày nhiều trò chõi ðể mua lòng Thái tử Nguyễn Vãn Toản. Vốn biết Võ Ðình Tú có tài nhảy cao, Tuyên xúi Quang Toản yêu cầu Tú biểu diễn cho xem. Võ Ðình Tú là một vị khai quốc công thần theo nhà Tây Sõn từ thuở còn áo vải, chớ ðâu phải hàng tiểu tốt mà ði làm trò mua vui cho trẻ con. Nhýng Thái tử Toản sẽ là vị vua týõng lai của mình, nên Võ công ðâu giám không tuân lệnh. Công rýớc thái tử ra ðứng giữa sân, trong tòa dinh thự hình chữ môn, mặt hýớng về dãy nhà phía tả, Công dậm chân nhảy vút qua phía tả trong chớp mắt. Liền ðó, Thái tử nghe tiếng ðộng sau lýng, quay lại thì ðã thấy công ðứng ðó rồi. Công lại dậm chân nhảy vút qua ngôi nhà phía hữu và lại nhảy trở về trong chớp mắt. Diễn ði diễn lại nhiều lần mà sắc mặt vẫn không thay ðổi, hõi thở vẫn ðiều hòa. Thái tử Toản rất thích thú. Một hôm, Võ Ðình Tú cùng Ðặng Xuân Phong vào cung bệ kiến vua Quang Trung. Biết rằng ðó là hai týớng nổi danh tuyệt kỹ về ðánh côn, Bùi Ðắc Tuyên liền tìm cách mua vui cho thái tử. Tuyên lấy tý cách ngýời ðồng châu, mời Võ, Ðặng ðến nhà riêng uống rýợu. Thái tử cũng ðýợc rýớc ðến. Tiệc rýợu ðýợc khoản ðãi vào buổi chiều. Tiệc xong, Thái tử ðòi xem hai vị ðại thần ðấu côn. Ðuốc ðýợc thắp sáng rực cả sân. Ðặng sử dụng côn ðồng, Võ sử dụng côn sắt. Ðýờng côn qua lại nhanh nhý chớp, mạnh nhý gió bão, ðẹp nhý "rồng bay phýợng múa". Gia týớng ðến xem chật cả trong lẫn ngoài. Tiếng hoan hô hòa với tiếng vỗ tay vang dậy cả một góc thành . Sau cuộc ðấu côn này, dý luận xôn xao. Lớp thì khen hai vị công thần tài nghệ tuyệt luân, xứng danh với "Tây côn lýỡng thần công". Lớp thì chê bai hai vị ðại thần không biết tự trọng. Lời thị phi bay ðến tai vua Quang Trung. Nhà vua liền quở trách Thái tử và hai vị ðại thần Võ, Ðặng, rồi cấm Bùi Ðắc Tuyên không ðýợc bày các trò vui làm mất thể thống các quan ðại thần nhý thế nữa. Vua Quang Trung mất, Cảnh Thịnh nối ngôi. Bùi Ðắc Tuyên ðýợc sủng ái lên làm Thái sý, mỗi ngày một thêm lộng quyền. Quan trong triều ngýời nào ngả theo Tuyên thì ðýợc ýu ðãi, ngýời ra mặt chống thì bị hại, ngýời nào thờ õ thì bị ðẩy ði xa. Tình hình trong triều lộn xộn, bè phái chống ðối lẫn nhau. Võ Vãn Dũng ðang trấn thủ Bắc Hà bị gọi về và nhân ðó diệt luôn Bùi Ðắc Tuyên và ðồng bọn. Trần Quang Diệu lại kéo binh về. Hai bên sắp ðánh nhau thì Võ Ðình Tú lấy tình quen thân cả ðôi bên, xin phép vua Cảnh Thịnh ðứng ra hòa giải. Trýớc tiên, Tú ðến gặp Dũng, phân tích sự lợi hại của hai ðại thần chống cự lẫn nhau: - Sở dĩ Diệu phải bỏ Quy Nhõn kéo thủy binh về là chỉ lo cho kinh thành có biến loạn. Nay Diệu về rồi thì xin cho ðến gặp ðể hiểu rõ nguyên nhân. Tiếp theo, Tú bõi thuyền qua sông Hýõng, ðến An cựu gặp Diệu. Tú phân tích sự chuyên quyền của Bùi Ðắc Tuyên sẽ làm hý sự nghiệp của nhà Tây Sõn, nên Dũng phải ra tay hủy diệt. Bây giờ chỉ còn một việc hàn gắn lại tình ðoàn kết của các ðại thần, ðể cùng chung lo ðể việc ðánh thắng quân Nguyễn Phúc Ánh. Nhờ vậy mà Dũng và Diệu kết nối lại tình xýa, cùng ðem nhau vào bệ kiến vua Cảnh Thịnh. Cả ba ðiều ðýợc Cảnh Thịnh phong chức và lo việc triều ðình. Nhýng Cảnh Thịnh lại ýa nghe lời dèm pha, bèn phong cho Võ Ðình Tú chức Binh bộ Tham tri vào coi quân ở Phú Yên và Quy Nhõn, ðể phân tán lực lýợng có thể chống ðối mình là bộ ba: Diệu, Dũng, Tú. Tháng 4 nãm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh ðem binh vào cửa thị Nại. Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Ðức ðem quân lên ðóng ở Hàm Long, thuộc huyện Tuy Phýớc. Núi Hàm Long, còn gọi là núi Cần Úc, là một ðộc sõn, không cao lớn, nằm trong phạm vi thôn Thuận Nghi, hình giống nhý ðầu rồng, miệng há rộng. Con sông Hà Thanh chạy từ Nam ra Bắc, qua khỏi núi thì quành xuống ðông, chảy ra ðầm Thị Nại, tạo thành cánh cung ôm lấy chân núi. Võ Ðình Tú ðang ði kinh lý ở Phú Yên, ðýợc tin quân Nguyễn Phúc Ánh ðổ bộ Quy Nhõn, vội kéo quân về, ði thẳng lên Cần Úc ðánh quân Võ Tánh. Hai bên kịch chiến suốt hai ngày ðêm. Võ Tánh trá bại, Nguyễn Huỳnh Ðức phục binh trên núi. Võ Ðình Tú giục quân ðuổi theo. Tên trên núi bắn xuống nhý mýa, chen vào có nhiều súng nổ, quân Tây Sõn trúng tên, lớp chết, lớp bị thýõng. Võ Ðình Tú tả ðột hữu xông, cây thiết côn tỏa thành một ðạo thanh quang gạt phãng hàng vạn mũi tên bắn vun vút vào ngýời, vào ngựa. Nhýng gạt ðýợc tên mà không gạt ðýợc ðạn ðồng. Võ trúng ðạn, máu chảy dầm mình. Ðuối sức nằm gục trên lýng ngựa. Ngựa hí một tiếng dài, nhảy khỏi chiến trýờng, chạy một mạch về quê hýõng Tú ở Phú Phong. Ðến nhà thì ngựa ngã lãn ra chết, Võ Ðình Tú cũng ðã lạnh hết chân tay. Ðó là vào cuối tháng 4 nãm Kỷ Mùi (1799).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:40:38 GMT 9
3 -Trần Quang Diệu
Một hôm Trần ở Hoài Ân vào Kiên Mỹ ðể thãm Nguyễn Nhạc. Výợt qua Kim Sõn theo ðýờng núi, Trần ðến vùng Thýợng Ninh thì gặp một con cọp tàu cau to lớn ðón ðýờng. Vì không mang ðao theo, nên Trần phải ðánh tay không với cọp từ sáng cho ðến trýa. Trần dần dần ðuối sức, mình ðầy vết thýõng, bê bết máu me. Ðang lúc lâm nguy thì gặp ðýợc Bùi Thị Xuân cùng ðệ tử ði sãn. Thấy cảnh ngýời và hổ ðánh nhau, ngýời sắp bị cọp vồ, nên Bùi thị hét lên một tiếng, rút song kiếm xông vào ðánh nhau với cọp cuối cùng, cả hai liên thủ hạ ðýợc cọp. Thoát chết, Trần yêu cầu ðýợc ðýa về Kiên Mỹ, ðến nhà Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc và Bùi Thị Xuân vốn ðã nghe danh nhau, song chýa có dịp làm quen. Nhờ cọp theo gió, gió ðýa duyên mà nên nghĩa "výờn ðào": Nguyễn, Trần, Bùi. Rồi ðể cho nghĩa thêm nặng, tình thêm thâm, Nguyễn Nhạc ðứng làm mai và làm luôn chủ hôn ðể Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân nên vợ nên chồng. Từ ðó, Trần Quang Diệu ở luôn tại Kiên Mỹ, cùng Nguyễn Nhạc xây dựng cõ ðồ. Nãm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc ðýợc tôn làm Tây Sõn výõng. Trần Quang Diệu cùng Nguyễn Huệ, Võ Vãn Dũng phụ trách quân sự: mộ quân và huấn luyện. Một hôm, nhân về Hoài Ân thãm nhà, gặp và kết bạn với một tráng sĩ sau này là một týớng giỏi của nhà Tây Sõn. Ðó là Võ Vãn Nhậm. Võ Vãn Nhậm, gốc Quảng Nam, sức mạnh hõn ngýời, võ nghệ giỏi, tánh phóng khoáng không chịu ràng buộc. Nhậm vốn là kỳ týớng của quan Trấn thủ Quảng Nam. Vì không tuân theo luật pháp nên bị tội, bỏ trốn vào Quy Nhõn. Khi ðến Phù Ly, Nhậm nghe ngýời ði ðýờng cho biết có tên cýờng hào cýỡng ép một thôn nữ về làm tì thiếp. Nhậm nổi giận, rút gýõm chém chết tên thổ hào rồi ðịnh ðến cửa quan nhận tội. Bỗng một tráng sĩ vỗ vai: - Ðệ xem huynh, chí khí tài lực ðủ ðịnh loạn thiên hạ dễ dàng. Giết một con sâu dân, thì có chi gọi là tội mà toan bỏ cái tài hữu dụng? Sao không ðến Tây Sõn výõng ðể chung lo việc lớn. Ðệ là Trần Quang Diệu, xin tiến cử huynh lên nhà vua. Võ Vãn Nhậm hớn hở theo Trần Quang Diệu lên Tây Sõn. Tây Sõn výõng trọng dụng và sau này gả con gái là Thọ Hýõng cho Nhậm. Ngày rằm tháng tám nãm Quí Tị (1773), Tây Sõn výõng ði xuất binh ðánh Quy Nhõn. Trần Quang Diệu ðýợc phong chức Ðô Ðốc cùng phó Ðô Ðốc Võ Vãn Dũng, Ðô Ðốc Lê Vãn Hýng thống lãnh một ðạo binh xuống núi có nhiệm vụ ðánh chiếm miền Bắc Quy Nhõn. Trần Quang Diệu phân binh làm ba ðội: Một ðội do Lê Vãn Hýng chỉ huy, ở hậu phýõng làm lực lýợng trừ bị. Một ðội do Võ Vãn Dũng cùng Cao Tắt Tựu ði ðánh Bồng Sõn. Một ðội do Trần Quang Diệu chỉ huy, cùng La Xuân Kiều ði ðánh Phù Ly. Hai huyện lỵ Bồng Sõn và Phù Ly, khi nghĩa quân kéo ðến chýa ðánh ðã tan. Quân cũng nhý dân hai huyện ðều hân hoan ðón tiếp nghĩa quân. Ðể Võ Vãn Dũng ở lại cùng hai học sĩ Cao, La trấn giữ hai huyện lỵ, Trần Quang Diệu kéo ðại binh vào hợp với Tây Sõn výõng ðánh thành Quy Nhõn. Nguyễn Nhạc tìm kế chiếm ðýợc thành. Trần Quang Diệu vào giữ thành ðể binh Nguyễn Nhạc ði tảo thanh các vùng ngoại thành. Tháng 11 nãm Quí Tị (1773), quân chúa Nguyễn do Phò mã Nhất chỉ huy ðánh vào Quy Nhõn. Trần Quang Diệu phụ trách phòng vệ thành Quy Nhõn, ðể Nguyễn Nhạc xuất chinh. Có Tập Ðình và Lý Tài phù trợ, Nguyễn Nhạc ðã ðánh tan quân chúa Nguyễn. Cuối nãm ấy, Tý Linh và Nhýng Huy tạo phản, Trần Quang Diệu ðem quân ðánh dẹp, bắt ðýợc cả hai ðem về Quy Nhõn. Trần Quang Diệu là ngýời có kiến thức rộng, tầm nhìn xa. Nãm Giáp Ngọ (1774), Nhạc sai Lý Tài vào trấn thủ Bình Thuận, Trần Quang Diệu can: - Lý Tài là ngýời tàu, vốn là giặc bể, bụng dạ khó lýờng, không nên cho ði xa cầm binh. Cọp thêm vi và ði xa thì khó bắt lại. Nguyễn Nhạc không nghe. Sau quả nhiên Lý Tài bỏ Bình Thuận vào Nam ðầu hàng chúa Nguyễn, gây rối một thời rồi mới bị Nguyễn Huệ ðánh cho tan nát. Khi Nguyễn Nhạc xýng ðế, Trần Quang Diệu ðýợc phong chức thiếu phó. Nãm 1784, Nguyễn Phúc Ánh cầu viện quân Xiêm sang ðánh Gia Ðịnh. Trần Quang Diệu cùng vợ là Bùi Thị Xuân theo Nguyễn Huệ vào Nam tảo thanh quân Xiêm. Tại trận Rạch Gầm, Xoài Mút, Trần Quang Diệu thống lãnh bộ binh cùng vợ ðánh tan bộ binh Xiêm và chiến týớng Lục Cổn. Sau khi trở về Quy Nhõn, Trần Quang Diệu theo vua Quang Trung ra Thuận Hóa và trấn thủ thành Phú Xuân, khi vua Quang Trung ra Bắc Hà tiêu diệt quân Mãn Thanh. Lúc thắng trận trở về, vua Quang Trung ðã giao phó cho Trần Quang Diệu ứng phó với các nýớc láng giềng: Xiêm La, Ai Lao và Miến Ðiện. Nguyên khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Lê Duy Chỉ ở lại Tuyên Quang, nýõng nhờ thổ tù Nùng Phúc Tân và Huỳnh Vãn Ðồng. Duy Chỉ liên kết với các thổ dân ở Vạn Týợng, Trấn Ninh, Trịnh Cao, Qui Hợp, Xiêm La chuẩn bị ðánh lấy thành Nghệ An. Trần Quang Diệu ðýợc cử làm Ðại tổng trấn cùng Ðại Tý lệ Lê Trung ðem binh tảo trừ. Tháng 6 nãm Canh Tuất (1790), Quang Diệu lấy ðýợc Trấn Ninh, bắt tù trýởng Cheo Nan và Cheo Kiêu. Tháng 8 bình ðýợc Trịnh Cao và Quy Hợp. Tháng 10 tấn công Vạn Týợng, buộc thủ lãnh bỏ thành chạy trốn, thu ðýợc vô số chiêng, trống và vài chục thớt voi. Thừa thắng, Quang Diệu ðánh thẳng ðến biên giới Xiêm La, chém ðýợc Tả súy Phan Dung, Hữu súy Phan Siêu. Binh Xiêm thua chạy tán loạn. Trần Quang Diệu và Lê Trung dẹp yên biên giới, kéo binh về Tuyên Quang ðánh Nùng Phúc Tân và Huỳnh Vãn Ðồng. Nùng, Huỳnh chống không nổi, bị chém tại trận tiền. Lê Duy Chỉ trốn không thoát cũng bị giết luôn. Mùa xuân nãm Tân Hợi (1791), vua Ai Lao là Chiêu Án không chịu triều cống, Trần Quang Diệu lại ðýợc cử ðem binh sang vấn tội. Trận ra quân này có nữ týớng Bùi Thị Xuân tháp tùng. Quân Ai Lao chống cự không lại, sợ hãi xin hàng. Ở lại bình ðịnh một thời gian, hai vợ chồng kéo binh về nýớc, chuẩn bị sang ðánh Miến Ðiện. Vua Miến Ðiện hay tin, liền sai sứ sang Việt Nam xin thông hiếu, từ ấy bờ cõi phía Tây cũng nhý phía Bắc ðýợc yên ổn. Trong những ngày ở Thuận Hóa, hai vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân ðýợc vua Quang Trung tin dùng. Trong một kỳ thi võ, mở tại kinh ðô Phú Xuân, có một võ sinh tên Lê Sĩ Hoàng rất xuất sắc. Lê Sĩ Hoàng, ngýời Quảng Nam, võ nghệ siêu quần, sức mạnh vô ðịch. Lúc nhỏ, nhà nghèo ði chãn trâu cho một nhà giàu trong thôn, nhà gần núi, trâu bị cọp bắt, Sĩ Hoàng sợ chủ bắt ðền, bỏ trốn vào núi, gặp ðýợc dị nhân truyền thụ võ nghệ. Lê có tài sử dụng ðại ðao. Lúc thi song, thấy Hoàng có tài và nhất là sử dụng ðại ðao ðiêu luyện, vua Quang Trung bèn sai Trần Quang Diệu ra tỉ thí. Quang Diệu cũng là một cao thủ về ðại ðao. Thanh Huỳnh Long ðao ðýợc khiêng ra và Lê Sĩ Hoàng cũng sử dụng thanh ðại ðao của mình. Ðýợc dịp trổ tài, anh hùng hội ngộ, hai tay ðại ðao trổ hết tài ba võ học của mình. Bóng ðao loang loáng khí lạnh bao trùm, cuộc tỉ thí vô cùng dũng mãnh hào hứng. Võ học cũng nhý sức mạnh hai anh hùng týõng ðýõng nhau, nên cuộc tỷ ðao kéo dài và bất phân thắng phụ. Vốn cũng giỏi sử dụng ðại ðao, vua Quang Tung cao hứng, sai quân hầu mang thanh Ô Long ðao ra, ðòi tỉ thí với Lê Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng cung kính thýa: - Với Trần týớng quân, hạ thần còn không ðịch nổi, huống chi với bệ hạ. Vua Quang Trung ðắc ý vỗ vai Hoàng, nói: - Ðây là Hứa Chữ của ta. Rồi cởi chiếc cẩm bào ðang mặc, ban cho Lê Sĩ Hoàng. Trần Quang Diệu cùng Lê Sĩ Hoàng ðýợc ðời tôn xýng là Tây Sõn Song Ðao. Sau khi chiến thắng Ai Lao trở về, Trần Quang Diệu ðýợc bổ làm trấn thủ Nghệ An. Mùa xuân nãm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung ngã bệnh, bèn triệu Trần Quang Diệu về thýõng nghị việc dời ðô về Nghệ An và chuẩn bị ðem quân vào Nam ðánh Nguyễn Phúc Ánh, nhýng tháng 7 thì vua Quang Trung bãng hà. Cảnh Thịnh lên ngôi, gặp thời cõ chiếm thành Quy Nhõn, khiến vua Thái Ðức uất mà chết. Trong lúc ðó quân nhà Nguyễn chiếm ðýợc Diên Khánh và Phú Yên. Nãm Giáp Dần (1794), Trần Quang Diệu ðýợc lệnh ðem binh vào ðánh Diên Khánh, Lê Vãn Hýng ðánh Phú Yên. Nghe danh Trần Quang Diệu, trấn thủ Diên Khánh là Nguyễn Vãn Thành không dám ra ngênh chiến, ðóng chặt cửa thành cố thủ và cho ngýời cấp báo với Gia Ðịnh. Thành Diên Khánh ðýợc xây dựng kiên cố, Trần Quang Diệu công phá không ðýợc, bèn bao vây, ðợi trong thành hết lýõng. Gia Ðịnh ðýợc tin. Nguyễn Phúc Ánh kéo ðại binh ra tiếp cứu. Trần Quang Diệu lui quân. Tháng giêng nãm Ất Mão (1795), Trần Quang Diệu lại ðem thủy bộ binh vào ðánh Diên Khánh. Lúc bấy giờ Võ Tánh ðã thay thế Nguyễn Vãn Thành, nên ðem quân ra giao chiến vài bận, liệu ðánh không lại nên ðóng chặt của thành cố thủ, ðợi Gia Ðịnh cứu viện. Tháng 2, Nguyễn Phúc Ánh ðem thủy binh ra cứu. Quân Nguyễn Phúc Ánh bị Trần Quang Diệu chận tại Trýờng Cá (Phýõng Sài), nên phải ðóng ngoài biển Nha Trang và các nõi hiểm yếu trên ðất. Quân không tiến lên Diên Khánh ðýợc. Thành Diên Khánh bị Quang Diệu vây chặt. Ðoàn quân nào kéo ra cũng bị Tây Sõn tiêu diệt hoặc ðánh lui. Quân hai mặt không thể liên lạc ðýợc với nhau, ýu thế nằm hẳn trong tay Trần Quang Diệu. Chợt Trần Quang Diệu tin ðýợc Phú Xuân có biến. Bùi Ðắc Tuyên lộng quyền, Võ Vãn Dũng ðem binh về tiêu diệt, nội tình Phú Xuân rối ren. Trần Quang Diệu nghe tin thất kinh, nói cùng các týớng: - Chúa thýợng là ngýời thiếu cýõng quyết, ðể cho ðại thần giết lẫn nhau. Nếu trong không yên thì ðánh ngoài thế nào ðýợc! Bèn ra lệnh rút quân về. Ði ðýờng núi sẽ lâu, lại không tiện, Trần Quang Diệu phải mở cửa ðýờng biển, theo gió nam mà ði cho mau, Nguyễn Phúc Ánh không dám cản ðýờng. Ðến Phú Xuân, Trần Quang Diệu ðóng tại An Cựu, ðịnh ðánh nhau với Võ Vãn Dũng, song nhờ có Võ Ðình Tú hòa giải, nên cùng Dũng vào bệ kiến Cảnh Thịnh. Trần Quang Diệu ðýợc phong chức Thái Phó, là một trong Tứ trụ Ðại thần (Võ Vãn Dũng, Nguyễn Vãn Danh, Nguyễn Vãn Huấn), nhýng rồi có ngýời dèm cùng Cảnh Thịnh rằng Diệu nắm quyền quan trọng quá, e có ý khác, Cảnh Thịnh thu hết binh quyền, chỉ ðể Diệu giữ hý vị trong triều mà thôi. Diệu sinh nghi kỵ thýờng cáo bệnh không ði chầu, ngày ðêm cắt kẻ thủ hạ gần 200 ngýời mang vũ khí bên mình ðể bảo vệ. Tháng tý nãm Kỷ Tị (1799), Nguyễn Phúc Ánh lại kéo quân ra ðánh Quy Nhõn, týớng Lê Vãn Thanh cố thủ chờ cứu viện. Trần Quang Diệu cùng Võ Vãn Dũng từ Phú Xuân kéo binh vào. Ðến Quảng Nghĩa thì bị Tống Viết Phýớc chận ðánh. Dũng thua to, nhờ có Quang Diệu cứu ứng. Thành Quy Nhõn chờ viện binh không ðýợc, nên Lê Vãn Thanh mở cửa thành ðầu hàng. Nguyễn Phúc Ánh ðem chém tất cả hàng týớng và ðổi tên thành Quy Nhõn ra thành Bình Ðịnh. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ðồng trấn thủ. Trần Quang Diệu và Võ Vãn Dũng lui về giữ Quảng Nam. Nhân vụ dèm pha và thý của Cảnh Thịnh gởi vào cho Võ Vãn Dũng, bảo giết Diệu. Dũng ðýa thý cho Diệu xem, xem xong Diệu nổi giận: - Chúng ta ðã ðem hết lòng hết sức ra phò vua. Vua ðã không nghĩ ðến công lao thì chớ, còn ðem lời siểm nịnh, hết phen này ðến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta? Tình thế không thể kéo dài mãi mãi. Tôn huynh hãy ở lại ðây ngừa giặc, tôi về kinh. Trần Quang Diệu về ðóng binh ở phía Nam sông Hýõng. Cảnh Thịnh cho ra vời. Diệu không phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ ðến nữ týớng Bùi Thị Xuân. Bùi nữ týớng ðến gặp chồng. Vợ chồng bàn với nhau: - Mối họa trong triều chỉ có bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng lập lại không ðến nỗi khó. Trần Quang Diệu xin vua bắt bọn gian thần trị tội. Trần Vãn Kỷ ðổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu, rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt Diệu và Kiết ðem nạp cho Quang Diệu, Quang Diệu mới chịu vào triều làm lễ cẩn, rồi lãnh ðại binh vào Nam. Tháng giêng nãm canh Thân (1800), Trần Quang Diệu vào Quảng Nam, hợp vào Võ Vãn Dũng cùng vào Quy Nhõn, nhýng ðến Bình Ðê, cũng bị quân Tống Viết Phýớc cản lại. Quang Diệu bèn sai ngýời ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Vãn Giáp và hợp sức với Trấn thủ Quảng Nghĩa là Nguyễn Vãn Lộc, tìm cách phá ðýờng vào Quy Nhõn. Nguyễn Vãn Lộc biết rõ ðịa thế nõi ranh giới Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, bèn ðề nghị chia quân ra làm ba ðạo: - Một ðạo ði ngả ðèo Bến Ðá. - Một ðạo theo ðýờng hẻm phía Tây núi Sa Lung. - Một ðạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quãng. Ba ðạo ðồng lần lýợt nổi trống, ðánh chiêng và la ó, làm cho ðịch kiếp sợ, hoang mang, không biết phải chống ðỡ ngả nào, rồi ba mặt giáp công chắc chắn ðịch phải thua. Trần Quang Diệu y kế, nên qua khỏi ðèo Bến Ðá thẳng ðến thành Quy Nhõn. Võ Tánh ðem quân ra ðánh. Ðã từng bại týớng nõi Diên Khánh, nên vừa xáp trận, Quang Diệu ðã rýợt Võ Tánh chạy dài, vào thành ðóng cửa cố thủ. Trần Quang Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Võ Vãn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại. Quân nhà Nguyễn ðã có tên, lại có ðạn ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sõn không thể ðến gần chân thành. Trần Quang Diệu cho ðắp trýờng lũy xung quanh thành, vây khốn. Nguyễn Phúc Ánh kéo ðại binh ra cứu viện. Song bị quân Tây Sõn ngãn cản, nên phải dừng quân và phải lui về Gia Ðịnh. Rồi ba tháng sau lại kéo quân ra ðánh lại. Tuy lần này thủy quân chiếm ðýợc cửa biển Thị Nại, song cũng không thể tiến quân giải cứu thành Bình Ðịnh, bèn kéo ðại binh ra ðánh Phú Xuân. Trần Quang Diệu sau khi ðánh bật Nguyễn Vãn Thành và Huỳnh Ðức ra khỏi Quy Nhõn, bèn ráo riết công thành. Quân mệt mỏi, tên ðạn cạn, lýõng thực thiếu, Võ Tánh liệu không tử thủ ðýợc nữa, bèn viết thý ra cho Trần Quang Diệu, yêu cầu lúc vào thành ðừng sát hại quân dân vô tội. Rồi tự vận cùng với Ngô Tùng Châu. Trần Quang Diệu vào thành, ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ. Mặt Bắc, Nguyễn Phúc Ánh chiếm ðýợc Phú Xuân, sai Lê Vãn Diệt, Lê Chất vào cứu Quy Nhõn, bị Nguyễn Vãn Lộc ðánh bại, phải dừng quân ở Thạch Tân và cửa biển Thị Nại. Thành Quy Nhõn vẫn yên ổn. Thế quân hai bên ghìm nhau. Chợt Trần Quang Diệu ðýợc tin quân Tây Sõn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh làm chủ hoàn toàn ðất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các týớng: - Binh mã ðã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lýợng ở Bắc thành không còn mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân ðến ðánh thì Bắc thành không thể trì thủ ðýợc lâu. Ta phải ðem quân về cứu, kẻo Bắc thành thất thủ nữa thì Quy Nhõn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành Quy Nhõn. Võ týớng quân cùng tôi kéo ðại binh ra Bắc, Nguyễn Quang ðem quân ðóng ở Dýõng An. Nguyễn Vãn týớng quân về ðóng ở Kỳ Sõn, ðể chia bớt lực lýợng của quân Nguyễn. Không nên ðóng quân trong thành mà bị ðịch bao vây. Sắp ðặt xong, Trần Quang Diệu và Võ Vãn Dũng cùng các bộ týớng ðem 3.000 quân và 80 thớt voi theo ðýờng thýợng ðạo sang Lào ðể ra Nghệ An vào thýợng tuần tháng 3 nãm Nhâm Tuất (1802). Ðýờng ði khó khãn, lội suối výợt ðèo, phần lam sõn chýớng khí, phần rắn ðộc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn nhý Hà Công Thái, Nguyễn Ðình Ba… ðột kích. Ðoàn tùy tùng Trần týớng quân hao hụt dần dần. Khi ðến Nghệ An thì mýời phần chỉ còn ba bốn. Ðoàn týợng binh chỉ còn mýõi thớt. Týớng sĩ hầu hết bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị phù thũng hai chân sýng vù, ði ðứng khó khãn. Quân họ Trần kéo xuống Hýõng Sõn. Týớng nhà Nguyễn là Võ Doãn Vãn, Lê Ðức Ðịnh dẫn mang binh ðến tập kích. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch. Trần Quang Diệu cùng Võ Vãn Dũng và các bộ týớng ðều bị bắt. Ở Diễn Châu, Bùi nữ týớng nghe tin liền ðem nữ binh ði giải cứu. Ðến Giáp Sõn thì giải cứu ðýợc, song ðến Thanh Chýõng thì hai vợ chồng Trần týớng công bị bắt giải về Nghệ An. Tháng 7 nãm Nhâm Tuất (1802) Trần Quang Diệu chịu thọ hình lột da. Trần týớng quân trýớc sau vẫn giữ vững bản sắc anh hùng, ði ðứng hiên ngang, thái ðộ khẳng khái. Cực hình lột gia là một cách hành hạ tội nhân vô cùng ðau ðớn, khổ sở trong cái chết ðến từ từ. Không một tiếng kêu rên, một lời than thở, týớng công Trần Quang Diệu can ðảm nhận chịu cực hình cho ðến hõi thở cuối cùng.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:41:59 GMT 9
4- Nguyễn Vãn Tuyết
Nguyễn Vãn Tuyết ngýời xã Nhõn Ân, huyện An Nhõn. Lúc nhỏ có sức mạnh, ýa thích ðánh nhau với lũ trẻ trong thôn, bao giờ cũng thắng. Lớn lên tập tụ các tay anh chị ở chợ Gò Chàm, chuyên khuấy phá xóm làng, ðýợc bầu làm ðại ca. Các phiên chợ tại chợ Gò Chàm thýờng rất ðông ngýời mua bán. Bãng nhóm của Tuyết hoạt ðộng rất qui củ. Những kẻ lạ mặt ðến buôn bán phải ra mắt Tuyết rồi mới ðýợc cất lều buôn bán. Những kẻ làm nghề mãi võ, bán thuốc ðều làm ðúng theo lệ. Một hôm, một ông già râu tóc bạc phõ trắng nhý bông vải cùng hai cô gái mặt mày ðẹp ðẽ, ðến chợ mãi võ. Ông già không theo lệ cũ, vừa ðến liền khua chiêng khai diễn. Cô gái nhỏ múa kiếm vun vút, khí lạnh rợn ngýời. Ngýời ðến xem ðông nhý kiến và tiếng vỗ tay hoan hô dậy trời. Nguyễn Vãn Tuyết nghe tin, ðùng ðùng nổi giận, liền kéo mýõi tên thủ hạ, ðến vấn tội ông già. Ông già, hỏi không thèm nói, ðánh không thèm ðỡ, ðứng trõ trõ nhý một týợng ðá trời trồng. Tuyết thất kinh bỏ về nhà, tìm cách rửa hận. Ông già và hai cô gái trú tạm tại miếu thổ ðịa ở sau chợ, Tuyết ðợi ðến ðêm khuya, giắt kiếm vào lýng, nhảy týờng vào miếu. Bốn bề im phãng phắc. Hai cô gái ngủ say. Ông già ngủ ngáy nhý sấm. Tuyết khẽ lén ðến gần, rút kiếm ðâm vào cổ ông già. Kiếm gãy kêu ðánh rắc. Tuyết hoảng sợ chạy trốn. Ông già níu lại. Tuyết run sợ, quỳ xuống chịu tội. Ông già ngồi dậy nói: - Nhà ngýõi tý chất thông minh, lại có sức mạnh xuất chúng. Sao không lo rèn võ luyện vãn, ðể chờ cõ hội ra giúp nýớc, mà lại ðắm mình trong vũng bùn nhõ? Tuyết lạy, thề quyết tâm hối cải và van xin ðýợc theo làm môn ðồ. Ông già tên Trần Kim Hùng là một võ sý thôn Trýờng Ðịnh, huyện Tuy Viễn. Võ nghệ tuyệt luân, song vì con trai mất sớm, nên dẫn hai cháu nội ði giang hồ hầu tìm nhân tài truyền thụ võ công. Gặp ðýợc Nguyễn Vãn Tuyết, Trần lão sý rất vừa lòng. Tuyết theo Trần lão ra ði. Trên ðýờng ngao du sõn thủy, Tuyết ðýợc thầy ngày ðêm rèn luyện thập bát ban võ nghệ cùng truyền các kinh nghiệm của giới giang hồ. Một hôm, trên một ðỉnh dốc cao, hai thầy trò gặp một tảng ðá chận ðýờng, một bên là vực thẳm một bên là sýờn núi, nên muốn ði qua phải ðẩy ðýợc tảng ðá xuống vực. Ðể thử sức và mýu trí của trò, Trần lão liền bảo Tuyết dẹp tảng ðá. Tuyết vâng lời, hai tay ôm tảng ðá, vận sức xô xuống vực. Quả là một thanh niên có sức mạnh nhý Hạng Võ, Tuyết ðẩy ðýợc tảng ðá nghiêng dần dần về phía vực. Bỗng nhiên ðánh rầm một tiếng, ðất nõi bờ vực rời ra và sụt xuống, lôi nhanh tảng ðá lãn theo. Tuyết ðang vận sức xô tới, nên lỡ ðà, loạng choạng sắp nhào theo. Nhanh nhý chớp, Trần lão ðã nhảy ðến bên cạnh Tuyết. Tay tóm lấy cổ áo, chân ðạp mạnh vào tảng ðá ðang rõi làm ðiểm tựa, nhảy ngýợc lôi theo Tuyết về phía sau. Sau một lúc ðịnh thần, Tuyết ðýợc thầy chỉ dạy: - Khi tảng ðà lung lay sắp ðổ, lực ðẩy của con vẫn còn và tiếp tục xô ra. Lúc thình lình ðất rõi, con sẽ bị hụt hẫng và dýờng nhý con trở lại bị tảng ðá lôi theo. Cho nên khi ấy con phải nhanh chóng thu hồi nội lực, dùng tảng ðá làm ðiểm tựa ðể nhảy vọt về sau. Cần phải ðạp lên tảng ðá một cách hết sức nhẹ nhàng, nếu ðạp mạnh, con sẽ rõi theo hòn ðá. Thế ðạp này giống nhý con chuồn chuồn khẽ ðộng vào mặt nýớc lúc ðang bay ðể cất cánh vút bổng lên. Nguyễn Vãn Tuyết nhờ theo thầy sống nhiều ở các khu vực núi rừng nên kinh nghiệm và chiến ðấu trong rừng núi học ðýợc rất nhiều. Sau 5 nãm theo thầy, Tuyết ðýợc ân sý cho về nguyên quán ðể lập nghiệp. Bọn ðồ ðảng cũ tụ hội ðón mừng. Tuyết sau ðêm tiệc vui hội ngộ ðã khuyên anh em ðồng ðảng giải tán, tìm công ãn việc làm lýõng thiện. Một số sau này theo Tuyết quy phục nhà Tây Sõn. Một hôm, Võ Výõng Nguyễn Phúc Khoát nam tuần ðến Quy Nhõn. Nghe ðồn chúa Nguyễn có con tuấn mã tên Xích Kỳ, Tuyết ðợi ðêm khuya lén vào hành cung bắt ngựa rồi lên yên chạy thẳng lên vùng An Khê. Trời vừa hửng sáng thì ngựa ðã qua khỏi ðèo Vĩnh Viễn. Con Xích Kỳ là cống vật của Cao Miên, chúa rất yêu quý. Ngựa bị mất trộm, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bị tội chết. Nhờ Trýõng Phúc Loan ra sức cầu xin mới ðýợc miễn. Tuyên cho ngýời ði tìm khắp Quy Nhõn, Phú Yên, Quảng Nghĩa, nhýng không tìm ra bóng dáng. Khi xa giá chúa Nguyễn trở về Phú Xuân thì trong Dinh tuần phủ Quy Nhõn bỗng thấy hiện trên vách mấy chữ lớn: "Kẻ trộm ngựa Chúa là Nguyễn Vãn Tuyết ở Tuy Viễn". Tuyên xem thấy, hết hồn. Dặn tả hữu ðừng tiết lộ, việc ðýợc im. Tuyết sau khi theo thầy học thành tài, trở về Tuy Viễn, những mong cứu ðồng bào ra khỏi ách chuyên chế của chúa Nguyễn, song không biết làm cách nào, ðành ôm ấp mộng mà chờ ngýời ðồng khí ðồng phýõng. Kịp khi nghe tin Tây Sõn výõng chiêu mộ hào kiệt, Tuyết liền ðem bộ hạ lên sõn trại ðầu quân và rất ðýợc hoan nghênh. Tại ðây, Tuyết gặp lại Trần Thị Lan, cô cháu gái của sý phụ ðang sống cùng với chị dýới trýớng Bùi Thị Xuân. Họ cùng nhau kết duyên trãm nãm. Khi Nguyễn Nhạc xýng výõng, Nguyễn Vãn Tuyết ðýợc phong tả Ðô ðốc, cùng với Hữu Ðô ðốc Nguyễn Vãn Lộc tháp tùng Nguyễn Nhạc tấn công huyện Tuy Viễn. Chiếm ðýợc huyện lỵ, Nguyễn Vãn Tuyết ở lại trấn giữ. Khi Nguyễn Huệ ra Thuận Hóa rồi Thãng Long thì Nguyễn Vãn Tuyết cũng ði theo và lập ðýợc nhiều công trạng. Sau khi bình ðịnh Thãng Long, Ðô ðốc Tuyết ở lại Bắc thành cùng với Ngô Vãn Sở, Phan Vãn Lân. Tháng 10 nãm Mậu Thân (1788), ba ðạo quân Mãn Thanh tiến vào Thãng Long, Tây Sõn tạm thời lui quân. Nguyễn Vãn Tuyết cýỡiXích Kỳ về Phú Xuân báo cáo tình hình. Ngày 25 tháng 11, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng ðế. Nguyễn Vãn Tuyết lãnh chức Ðại Ðô ðốc cùng với Ðại Ðô ðốc Nguyễn Vãn Lộc thống lãnh ðạo tả quân kiêm cả bộ binh lẫn thủy quân. Tuyết giữ nhiệm vụ kinh lýợc Hải Dýõng, ứng tiếp mặt Ðông. Ngày mồng bốn tháng giêng nãm Kỷ Dậu (1789), ðồng một loạt với các cánh quân khác, Ðại Ðô ðốc Nguyễn Vãn Tuyết ðã tấn công ðạo quân Thanh ðóng ở Hải Dýõng. Trại giặc vỡ tan, quân lớp bị tiêu diệt, lớp bị ðạp lên nhau mà chạy. Chạy một mạch thẳng về Tàu. Diệt xong giặc ngoại xâm, Ðại Ðô ðốc Nguyễn Vãn Tuyết về Phú Xuân. Vua Quang Trung mất, ông cùng bà Bùi Thị Xuân phò vua Cảnh Thịnh lo việc trấn giữ kinh thành. Sau hai vợ chồng ðýợc cử ra gìn giữ Bắc thành. Tháng 6 nãm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo ðến Thãng Long. Liệu chống không nổi, Ðại Ðô ðốc Tuyết cùng phu nhân ðýa vua Bửu Hýng cùng cung quyến sang sông Nhị Hà, chạy lên vùng núi phía Bắc, có Ðô ðốc Nguyễn Vãn Tứ và Tý mã Nguyễn Vãn Dung theo hộ giá. Ðoàn ngự giá ðến Xýõng Giang, bị quân Nguyễn bao vây. Hai ông bà Ðại Ðô ðốc Tuyết phá ðýợc vòng vây phò xa giá chạy thoát ðýợc mýõi dặm thì Lê Chất kéo quân kỵ mã ðuổi theo kịp. Nhớ tình quen biết cũ, Nguyễn Vãn Tuyết ðã trao ðổi với Lê Chất về nghĩa vua tôi, song Lê Chất vin vào thù cha mà khýớc từ. Không thể thuyết phục ðýợc, Nguyễn Vãn Tuyết ðành ra lệnh cho phu nhân phò xá vua Bửu Hýng chạy trýớc còn mình ở lại ðánh nhau với Lê Chất. Nguyễn Vãn Tuyết với cây ngân côn tung hoành ngang dọc giữa lớp lớp quân nhà Nguyễn bao vây. Lê Chất ðối với Vãn Thuyết có phần thua kém, song nhờ binh ðông týớng nhiều, nên càng kéo dài cuộc chiến ðấu, Nguyễn Vãn Tuyết càng tuyệt vọng. Thình lình một viên ðạn trúng vào chỗ ngực của Nguyễn Vãn Tuyết. Con Xích Kỳ cũng liên tiếp bị thýõng. Chủ týớng nhào xuống ngựa. Xích Kỳ cũng quỵ theo. Ðó là ngày 16 tháng 6 nãm Nhâm Tuất (1802).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:43:16 GMT 9
5 - Lê Vãn Hýng
Lê Vãn Hýng ngýời thôn Kiên Dõng, huyện Bình Khê (Tây Sõn), cách thôn Kiên Mỹ một thôn (Thuận Nghĩa). Là một võ sĩ có sức mạnh và sở trýờng về môn ðánh côn (hay gọi là roi trýờng). Thuật ðánh roi của ông Hýng rất mãnh liệt. Khi ðánh ra một ðòn, hàng trãm ngýời không ðỡ nổi. Binh khí ðụng ðến ðýờng roi, lớp vãng lớp gãy. Ngýời thì bị býõu ðầu, gãy tay. Môn ðánh ðòn giải vây này ðýợc truyền từ ông cố họ Lê. Tại Bình Ðịnh sau này còn lại một truyền nhân có thể sử dụng ðòn roi giải vây này của họ Lê là ông Hồ Ngạnh ở Thuận Truyền. Tính ðến ðời ông Hồ Ngạnh là tám ðời. Tại An Nhõn cũng có một tay roi xuất sắc, ðó là ông Khách Bút và truyền nhân là ông Hýõng mục Ngạc. Song, thế roi của ông Khách Bút là lối ðánh song ðấu, nghệ thuật cao, tay roi lẹ. Còn thế roi họ Lê dùng sức mạnh ðánh với ðông ngýời. Một lần ra ðòn, hàng chục mạng ngýời mang thýõng tích. Vốn là một thanh niên sức mạnh, giỏi võ nhýng thiếu học, tánh khí lại ngang tàng, nên Lê Vãn Hýng sớm trở thành một ngýời sống ngoài vòng pháp luật. Tuy sống bằng nghề cýớp bóc, nhýng Hýng vẫn ðýợc nhân dân ðịa phýõng quý mến, bởi vì ông và thuộc hạ không bao giờ khuấy phá ðồng bào trong vùng. Thuộc hạ có ðến vài mýõi, song chýa hề có lời than vãn về hành tung của nhân dân trong huyện Tuy Viễn. Vì Hýng và thuộc hạ chỉ ði "làm ãn" ở khác huyện hoặc khác tỉnh. Là ngýời có mýu lýợc nên việc nghiên cứu thãm dò hiện trýờng khi ðã hoàn toàn vừa ý, Hýng mới khởi xýớng "xuất hành". Trong ðám cýớp, Hýng luôn luôn là tay roi cản hậu... Một hôm, Hýng tổ chức một vụ cýớp lớn ở Phú Yên, khổ chủ giàu có lại biết võ nghệ và trong nhà gia nhân và lực ðiền ðều có rèn luyện võ nghệ. Việc cýớp diễn ra nhý ý muốn. Sau khi khống chế ðýợc gia chủ, gia nhân cùng trai tráng và chủ nhân ðuổi theo bọn cýớp. Gặp nhau ở giữa ðồng. Hýng ở lại sau, bị 30 ngýời bao vây. Ðánh ngang ngọn roi, Hýng tạo thành một vòng tròn, càng lúc càng rộng ra. Rồi sử dụng thế roi "toàn phong tảo diệp", Hýng ðánh vãng roi một số ðông trai tráng. Ỷ mình có "ðôi miếng trong mình", nên khổ chủ vừa lãn vào ðánh vừa ðôn ðốc một số còn lại nhào vô. Hýng nýõng tay ðã nhiều lần, nhýng ðối phýõng vẫn liều mạng bám sát. Trời gần sáng mà trận chiến vẫn chýa giải quyết xong, Hýng ðành phải dùng tận lực ðánh dữ dội ðể rút theo ðồng bọn. Cuối cùng, khổ chủ trúng một roi, hộc máu chết týõi. Trong các vụ cýớp trýớc ðây, quan nha ít lýu tâm, nhýng vụ cýớp lần này gây ra án mạng, nên chánh quyền không thể bỏ qua. Biết thủ phạm là Hýng, Tuần phủ Phú Yên hợp lực cùng Tuần Phủ Quy Nhõn cho truy nã gắt gao. Hýng ðành bỏ nhà trốn vào rừng. Nhân Tây Sõn výõng mộ binh, Hýng bèn ðến ghi danh nhập ngũ. Trong khi tập luyện, ông ðã gây chú ý cho các viên týớng chỉ huy nhý biểu diễn thuật cýỡi ngựa không yên cýõng, lên xuống ngựa ðang chạy nhanh, nhất là môn bắn cung trên mình ngựa. Do ðó chức vụ trong quân ðội mỗi ngày một thãng và cuối cùng ông trở thành võ týớng phụ trách huấn luyện kỹ thuật ðánh roi cho nghĩa binh. Nãm 1773, Nguyễn Nhạc xýng výõng, Lê Vãn Hýng ðýợc phong Ðề ðốc theo Ðô ðốc Trần Quang Diệu và Ðô ðốc Võ Vãn Dũng kéo quân ra chiếm huyện Lỵ Bồng Sõn và Phù Ly, rồi cùng tiến ðánh thành Quy Nhõn. Mùa Ðông nãm ấy, Ðề ðốc Hýng theo Chinh nam Ðại týớng quân Ngô Vãn Sở vào ðánh chiếm ba phủ Phú, Diên, Bình. Sau khi ðại thắng, Lê Vãn Hýng ðýợc cử trấn thủ ðất Diên Khánh. Mùa thu nãm Giáp Ngọ (1774), viên Lýu thủ ðất Long Hồ trong Nam là Tống Phýớc Hiệp cử ðại binh ra ðánh Tây Sõn. Quân nhà Nguyễn ðánh chiếm Bình Thuận, rồi tiến ra Diên Khánh. Trấn thủ Lê Vãn Hýng ðem binh cự ðịch. Sau nhận thấy ðịch quân ðông và có trọng pháo yểm trợ, liệu không thắng nổi, bèn bỏ thành trống, rút toàn lực lýợng về Phú Yên, hợp cùng Nguyễn Vãn Lộc chống ðịch. Quy Nhõn ðýợc cấp báo, Nguyễn Huệ kéo quân giải vây. Hai bên liên lạc với nhau, cùng hợp lực công kích hai ðầu, ðánh tan thủy, bộ binh của Tống Phýớc Hiệp. Tống bỏ chạy về Gia Ðịnh. Lê Vãn Hýng lại trở vào trấn thủ Diên Khánh. Nãm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Phúc Ánh chiếm ðýợc thành Sài Côn, rồi sai Lê Vãn Quân kéo quân ra ðánh Bình Thuận. Từ khi Lý Tài làm phản, Bình Thuận giao cho Lê Vãn Hýng kiêm nhiệm trấn thủ, nên bị mất dễ dàng. Nhýng khi ra ðến Diên Khánh thì bị Lê Vãn Hýng chận ðánh, phải thối lui vào Bình Thuận. Lê Vãn Hýng truy kích, ðánh cho một trận tõi bời. Lê Vãn Quân kéo tàn quân chạy về Gia Ðịnh, từ ấy quân Nguyễn rất sợ Lê Vãn Hýng và Nguyễn Phúc Ánh gọi Hýng là Lê Vô Ðịch. Cuối nãm Canh Tý (1780), Nguyễn Phúc Ánh xýng výõng, nãm sau (1781) cử binh ðánh Diên Khánh. Tôn Thất Dụ kéo binh từ Bình Thuận ra ðến Diên Khánh, chýa kịp hạ trại ðóng quân thì bị Lê Vãn Hýng cho ðoàn voi chiến xông trận. Ðoàn voi này do bà Bùi Thị Xuân huấn luyện, rồi tãng phái cho Lê Vãn Hýng một ðội thiện chiến ðể phòng bị mặt Nam. Quân nhà Nguyễn vốn ðã sợ uy danh Lê Vãn Hýng, nay lại thấy ðoàn voi dũng mãnh ào ạt tiến ðến dày xéo, nên khiếp ðảm rùng rùng bỏ chạy. Quân nhà Nguyễn chýa ðánh ðã tan. Ðầu nãm Quý Mão (1783), Nguyễn Phúc Ánh lại trở về Gia Ðịnh tổ chức quân ngũ, sai ngýời sang Xiêm cầu viện. Nghe ðýợc tin này Nguyễn Nhạc sai Lê Vãn Hýng tháp tùng Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và Trýõng Vãn Ða vào ðánh Gia Ðịnh. Thủy binh Tây Sõn ðến cửa Cần Giờ, ðợi lúc thủy triều dâng, gió từ biển thổi mạnh vào ðất. Tiền quân Châu Vãn Tiếp dùng hỏa công chống trả song thất bại tại ðồn thủy binh Dác Ngý. Týớng trấn giữ là Tôn Thất Mậu ðem quân ra giao chiến, song chỉ một vài hiệp liền bị Lê Vãn Hýng giết chết. Nguyễn Phúc Ánh bỏ Gia Ðịnh chạy về Ba Giồng. Qua ðến tháng 4 hai bên ðánh nhau tại Ðông Tuyên (Kiến An, Ðịnh Týờng). Quân Nguyễn vừa thấy quân Tây Sõn hùng hổ kéo ðến thì ðã muốn chạy trốn. Do ðó mới vừa giáp trận thì binh liền tan rã. Lê Vãn Hýng tả xông hữu ðột, bắt sống ðýợc týớng Nguyễn Huỳnh Ðức lập công ðầu. Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn ra Phú Quốc. Lê Vãn Hýng theo Nguyễn Huệ về Quy Nhõn. Sau khi vua Quang Trung ðánh thắng quân Thanh, Lê Vãn Hýng ðýợc triệu về Phú Xuân. Nãm Giáp Dần (1794), vua Cảnh Thịnh sai Lê Vãn Hýng vào ðánh Phú Yên. Lê Vãn Hýng kéo ðến ðèo Cù Mông thì gặp Nguyễn Quang Huy. Nguyễn Quang Huy ngýời Phú Yên, thiện dụng cây móc câu bạc, gọi là ngân câu, thýờng ýa cýỡi ngựa bạch. Quân sĩ thýờng gọi là Bạch mã Ngân câu Týớng quân. Huy ðã có sức mạnh lại tinh thông võ nghệ, giỏi binh pháp, ðýợc vua Thái Ðức ái trọng, phong chức phòng ngự sử cho vào trấn Bình Thuận. Tháng 3 nãm Quý Sửu (1793), Nguyễn Quang Huy bị ðại binh Tôn Thất Hội tấn công. Ít quân, cô thế, Quang Huy phải rút quân về Phú Yên, chiếm cứ một vùng hiểm yếu trong dãy Cù Mông ðợi dịp lập công chuộc tội. Khi gặp ðýợc nhau, hai bên vui mừng vì tình bạn cũ, vì có ngýời tài giỏi giúp sức, nên ðã ðánh chiếm Phú Yên ðýợc dễ dàng. Lê Vãn Hýng ðể Nguyễn Quang Huy ở lại trấn thủ Phú Yên, kéo quân về Phú Xuân. Tại Phú Xuân, thái sý Bùi Ðắc Tuyên dựa vào sự tin cẩn của Cảnh Thịnh, quyền thế của Bùi Thái Hậu, nên càng ngày càng lộng hành. Lê Vãn Hýng vì ngýời ðồng châu, tánh tình thật thà, bảo sao nghe vậy. Hýng vốn không có học, chỉ giỏi việc ðánh nhau, không thích bàn chuyện triều chính, nên ðýợc Bùi Ðắc Tuyên trọng dụng. Nguyên Lê Vãn Hýng lúc còn trẻ, chýa ði làm ãn cýớp, có ở nhờ nhà họ Dýõng trong thôn. Hýng giao tình với ngýời tớ gái của chủ nhà tên là Ngọc Bích. Hýng tặng cho Ngọc một chiếc nhẫn vàng hẹn nãm nãm sau ðến cýới, song mải mýu ðồ sự nghiệp nên Hýng lỗi hẹn. Chờ ðến ngày hẹn mà không thấy tình lang, Ngọc Bích nhịn ãn mà chết. Trong trong thời gian trấn thủ Diên Khánh, Hýng thýờng nhớ ðến tình xýa. Có kẻ giỏi thuật thần tiên chiêu hồn Ngọc Bích lên. Hồn hẹn cùng Hýng rằng 13 nãm sau sẽ ðến hầu khãn túi. Về Phú Xuân, Lê Vãn Hýng ðýợc Bùi Ðắc Tuyên trọng dụng. Một hôm trong buổi lễ mừng sinh nhật của Hýng, một thýõng gia giàu có tại Phú Xuân ðem ðến mừng một ca cõ hiệu Ngọc Bích. Hýng cho là một chuyện hy hữu, vì chẳng những tên trùng mà dung nhan cũng phảng phất ngýời tình cũ nhà họ Dýõng. Hýng cầm tay vuốt ve thì trông thấy nõi ngón tay ðeo nhẫn ở bàn tay trái có vết hằn sâu nhý vết một chiếc nhẫn. Do ðó tình thýõng yêu càng nồng ðắm. Tính tình của Lê Vãn Hýng rất trung thực, nên dù ðýợc thái sý Bùi Ðắc Tuyên biệt ðãi song càng ngày Hýng càng thấy rõ Tuyên là một kẻ ðại gian thì có thái ðộ phản ðối mạnh. Bùi Ðắc Tuyên nhận thấy Lê Vãn Hýng không còn là con bù nhìn ðể mình khuynh loát, sai khiến nữa, nên tìm cách xúc xiểm vua Cảnh Thịnh trừ ði. Nhân Lê Vãn Hýng sau khi thắng trận ở Phú Yên, giao thành cho Nguyễn Quang Huy trấn thủ, rút quân về Phú Xuân. Tuyên khép tội Hýng là không thỉnh mệnh trýớc, cấu kết nha trão hầu mong làm vây cánh, có ý muốn tạo phản, tâu vua chém ðầu rãn chúng. Vua Cảnh Thịnh nghe lời chuẩn tấu. Lê Vãn Hýng ung dung nhận lấy cái chết. Sự việc này ðã dẫn ðến việc Võ Vãn Dũng từ Bắc Hà về Phú Xuân bắt giết cha con Bùi Ðắc Tuyên, Bùi Ðắc Trụ và Ngô Vãn Sở. Nội tình nhà Tây sõn ðang rối ren lại càng mau tan rã.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:44:11 GMT 9
6 - Lý Vãn Býu Thanh Phu Xuan Lý Vãn Býu còn gọi là Mýu, ngýời làng Ðại Khoang, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Ðịnh, nhà giàu, nổi danh từ thuở niên thiếu. Vùng Ðại Khoang là một vùng rộng lớn, ngýời thýa giáp ranh với vùng Thuận Truyền, Thuận Hạnh, huyện Tây Sõn, cũng ðất rộng ngýời thýa. Vùng này gò ðống kéo dài, cây dại gai gốc mọc ðầy, chen lẫn với chà là, sim, ổi, nên rất thích hợp với việc sãn bắn và nuôi bò, ngựa. Vì vậy, gia ðình ông Lý Vãn Býu chuyên về việc chãn nuôi ngựa. Ngựa của họ Lý bán khắp nõi, kể cả tỉnh Phú Yên, Quảng Nghĩa. Nhà giàu có, buôn bán rộng rãi, nhất là ở trong một vùng xa xôi hẻo lánh, nên ðể ðề phòng trộm cýớp, nhà nuôi nhiều thanh niên và thầy dạy võ. Cho nên Lý Vãn Býu ðýợc rèn luyện võ nghệ từ thuở ấu thõ. Ngoài võ nghệ ông còn chuyên về cýỡi ngựa và huấn luyện ngựa. Phần ðông ngựa của ông nuôi ðều chọn giống rất kỹ lýỡng và nuôi dýỡng rất công phu. Thýợng khách ở các tỉnh xa thýờng ðến mua ngựa phải ðặt hàng trýớc hàng nãm. Tài nuôi ngựa chiến của gia ðình họ Lý ðýợc truyền từ ðời ông cao tổ. Nhờ ở kinh nghiệm, tài thiên tý và ðịa thế thuận tiện nhý ðất ðai rộng, có gò, có cây lớn cây con mọc chen nhau từng vùng từng ðám, có suối, có hồ, nên rất thích hợp cho bầy ngựa chiến trở thành tuấn mã. Các tay hào kiệt ðến với ông rất nhiều, một phần vì mến tài ðức, võ nghệ, một phần vì ngựa tốt. Nhìn týớng mạo, tầm vóc, tính nết của khách hàng, ông ðã chọn cho khách ðýợc con tuấn mã vừa ý. Ngýời nho nhã phong lýu thì thích ngựa có nýớc kiệu êm. Kẻ tính tình nãng ðộng thì ýa ngựa có nýớc phi thần tốc... Có ngýời thích ngựa thiên lý ðể ngày ði trãm dặm mà ngựa không ðổ mồ hôi. Lại có những ngýời mua ðýợc ngựa hay, xong chýa thuần phục, hay dở chứng hung hãng ép chủ vô rào, không chạy theo lệnh của chủ... Ðều ðýợc ðem ðến nhờ ông thuần hóa, huấn luyện thành ngựa hay. Quả nhiên, chỉ trong vòng một tuần lễ thì Lý Vãn Býu ðã thuần phục một con tuấn mã. Còn có ðôi khi ông cũng là ngýời mua lại ngựa của bọn trộm ngựa ở phýõng xa ðem ðến với ðiều kiện ngựa phải là ngựa tốt, ngựa hay. Một ðôi khi chủ ngựa bị mất trộm ðến "trýờng ngựa" của ông xin chuộc lại. Bao giờ ông cũng vui vẻ nhýợng lại, sau khi biết rõ ðó là chủ cũ của con tuấn mã và là một trang hảo hán anh hùng. Với bọn hào trọc phú hay là bọn bất lýõng thì ông cho chuộc lại với giá gấp ðôi. Có ðôi khi xảy ra kiện tụng, song nhờ vào uy tín, giàu có, với một trýờng ngựa hàng ngàn con thì sự thua kiện của ông chýa khi nào xảy ra. Võ Vãn Dũng nãm 20 tuổi cũng ðã từng ðến trýờng ngựa này cùng với bạn lái buôn, mua ngựa ðem vào Phú Yên bán và chuyện gặp gỡ lão sý họ Trýõng xảy ðến. Tiếng tãm của họ Lý vang xa, bà Bùi Thị Xuân thýờng hay ði sãn vùng Thuận Ninh ðã tìm ðến kết bạn. Chẳng bao lâu, họ ðã trở nên ðôi bạn tâm ðắc. Bà Bùi ðã học ðýợc họ Lý cách nuôi và huấn luyện ngựa chiến. Từ phýõng pháp huấn luyện ngựa, bà Bùi Thị Xuân ðã áp dụng vào việc huấn luyện voi. Ðồng thời, bà Bùi ðã tiến cử Lý Vãn Býu lên Tây Sõn výõng và ðýợc trọng dụng. Họ Lý giúp nhà Tây Sõn tổ chức, huấn luyện ðoàn chiến mã. Trýờng ngựa của ông ðã biến thành trung tâm nuôi và huấn luyện ngựa trận cho nhà Tây Sõn. Nhà Tây Sõn khởi nghĩa, Lý Vãn Býu ðýợc phong làm Ðô ðốc. Trong trận ðánh quân Xiêm nãm 1784, ông cũng lập ðýợc công lớn. Khi quân Thanh kéo vào Thãng Long, ông tháp tùng vua Quang Trung ra Bắc tảo Thanh, phục vụ dýới ðoàn quân do Ðại Ðô ðốc Bảo chỉ huy. Lý Vãn Býu ðã cùng Ðặng Vãn Long ðem kỵ binh xuyên qua Chýõng Ðức (Hà Ðông) ðể tiến ðến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì (Hà Nội), chiếm cứ hai ðồn Yên Quyết và Nhân Mục. Hai ðồn này là tiền ðồn của Khýõng Thýợng, bị chiếm rất nhanh và yên lặng. Nhờ vậy mà khi ðánh ðồn Khýõng Thýợng, quân Thanh không hay biết. Sau khi vua Quang Trung bãng hà, tình cảm của nhà Tây Sõn càng ngày càng suy sụp, vua Cảnh Thịnh cýớp thành của vua Thái Ðức, Bùi Ðắc Tuyên lộng quyền, Võ Vãn Dũng, Trần Quang Diệu bị nghi ngờ... Trong Nam, nhà Nguyễn mạnh lên, ðã nhiều phen xâm lấn ðất Quy Nhõn, nạn phe ðảng trong triều khiến cho Lý Vãn Býu chán nản và lấy cớ tuổi già sức yếu xin ðýợc trở về cố hýõng, sống trở lại với nghề nuôi ngựa nõi mảnh ðất hoang vu, khô cằn, nhýng ðầy yên lành. Ngày ngày Lý công cýỡi ngựa rong chõi trên các dãy ðồi hoa sim nở tím, tâm hồn thanh thản với trời mây.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:45:11 GMT 9
7 - Nguyễn Vãn Lộc Nguyễn Vãn Lộc ngýời làng Kỳ Sõn, huyện Tuy Viễn. Thuở nhỏ nhà nghèo phải ði ở chãn trâu cho một phú hộ trong làng. Nhờ có sức khỏe và can ðảm nên ðýợc ðàn trẻ cùng bọn tôn làm thủ lĩnh. Ngày ngày chãn trâu ngoài ðồng, rảnh rang chuyên ði ðánh nhau. Một hôm, vì ham chõi nên ðể trâu ãn lúa, về nhà bị chủ ðánh mắng, hãm dọa, nên bỏ nhà ra ði. Sau 10 nãm trở về ðã thành một thanh niên cýờng tráng, sống bằng nghề làm thuê, gánh mýớn. Một hôm ði chõi về khuya, bị ðám canh tuần bắt trói vào cột ðình, vu cho là ði ãn trộm. Trong ðêm tối, nhân ðám dân tuần ngủ quên, Lộc dùng miếng mảnh sành cắt dây trốn thoát. Dân canh tuần hõn 10 ngýời ðuổi theo ðiều bị ðánh ngã, không ðứng dậy nổi. Trời tối nhý mực, Lộc chạy lạc vào cánh ðồng lúa chín, ngýời giữ ruộng ngỡ là ãn trộm. Hô hoán ầm ĩ, ngýời trong xóm tủa ra vây bắt. Ngýời mỗi lúc mỗi ðông, kẻ gậy ngýời hèo, ðuốc thắp sáng cả ðồng, Lộc dùng tay ðánh ngã hết lớp này ðến lớp khác, nhýng không thoát khỏi vây. Liệu không thể dùng quyền, Lộc bèn giật lấy một cây roi của một tuần ðinh rồi dùng chiêu thức ðánh giải vây ra sử dụng. Ðó là thế "toàn phong tảo diệp". Một ngọn roi vung ra, hàng chục ngýời ngã rạp. Gậy, hèo vãng tứ phía. Hoảng hồn, mọi ngýời ùn ùn kéo nhau, xô lấn nhau mà chạy. Ðuốc ðang cầm tay vội quãng xuống ðất, nhân bóng tối và hỗn loạn, Lộc lẹ làng thoát thân. Từ ðấy, tiếng ðồn Nguyễn Vãn Lộc võ nghệ siêu phàm ðýợc lan truyền. Khi Tây Sõn výõng tụ hội quần anh mýu ðồ ðại nghiệp, Nguyễn Vãn Lộc liền ðến gia nhập và ðýợc tiếp ðãi vào hàng thýợng tân. Khi Nguyễn Nhạc xýng výõng, Nguyễn Vãn Lộc ðýợc Phong làm Hữu Ðô Ðốc, cùng với Tả Ðô Ðốc Nguyễn Vãn Tuyết theo ðạo binh Nguyễn Nhạc tiến ðánh huyện lỵ Tuy Viễn, rồi tấn công thành Quy Nhõn. Mùa thu nãm Quí Tỵ (1773), Nguyễn Vãn Lộc tháp tùng Nguyễn Lữ và Võ Vãn Cao ði vào Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận ðể xem xét tình hình dân chúng và liên lạc với hai vua Thủy Xá, Hỏa Xá, vận ðộng nhân dân ðịa phýõng hýởng ứng cuộc Nam tiến của quân Tây Sõn. Phái ðoàn về tâu rõ tình hình: mọi tầng lớp nhân dân ba tỉnh ðều chán ghét chế ðộ ðộc tài tham nhũng của quan lại nhà Nguyễn, ai nấy ðều mong có cuộc ðổi thay. Còn quan quân nhà Nguyễn thì chỉ lo bóc lột nhân dân, không nghĩ gì ðến việc an nguy quốc gia, cho nên việc phòng thủ rất lỏng lẻo. Mùa Ðông nãm ấy, Nguyễn Vãn Lộc cùng Lê Vãn Hýng theo Chinh Nam týớng quân Ngô Vãn Sở vào ðánh chiếm ba phủ Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Quân ði ðến ðâu nhân dân hoan nghênh ðến ðó. Týớng nhà Nguyễn là Nguyễn Vãn Hiền bị giết, Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống. Ðại thắng, quân Tây Sõn rút về. Nguyễn Vãn Lộc ở lại trấn thủ Phú Yên. Mùa Ðông nãm Giáp Ngọ (1774), ðýợc tin Châu Vãn Tiếp dựng cờ khởi nghĩa tại Trà Lýõng, huyện Tuy An, Ðô ðốc Nguyễn Vãn Lộc ðem quân vây ðánh. Quân của Châu Vãn Tiếp chýa giáp trận ðã tan rã. Tiếp tẩu thoát, leo lên núi thýợng ðạo vào Gia Ðịnh, cung thuận Ðịnh výõng Nguyễn Phúc Tần. Mùa thu nãm ấy, Tống Phýớc Hiệp cử ðại binh chiếm Bình Thuận, tấn công Diên Khánh. Lê Vãn Hýng trấn thủ Diên Khánh lui quân về Phú Yên, kết hợp với Nguyễn Vãn Lộc chờ binh Nguyễn Huệ kéo vào ðánh bại thủy, bộ binh của Tống Phýớc Hiệp, chiến thắng xong, Nguyễn Vãn Lộc theo Nguyễn Huệ về Quy Nhõn. Nãm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Vãn Lộc ðýợc thãng chức Thủy sý Ðô ðốc theo Tiết Chế Nguyễn Huệ ðem ðại binh ra ðánh Thuận Hóa. Thành Thuận Hóa do Phạm Ngô Cầu trấn thủ, phó týớng Hoàng Ðình Thể phụ tá. Phạm Ngô Cầu là týớng vô mýu lại tham lam, chỉ lo việc võ vét của dân ðể làm giàu, còn việc quân thì giao cho kẻ thuộc hạ. Do tính tham lam, lòng ðố kỵ, nghi ngờ, nên Cầu ðã trúng kế Nguyễn Huệ ly gián giữa Cầu và Ðình Thể. Nguyễn Huệ làm một phong thý ðể gởi cho Hoàng Ðình Thể khuyên về hàng Tây Sõn, mà lại bắn vào cho Phạm Ngô Cầu xem. Cầu bắt ðầu nghi ngờ Thể. Khi binh Tây Sõn vây ðánh thành Phú Xuân, Ngô Cầu sai Ðình Thể ðem binh ra ðánh, rồi ðóng cửa thành không tiếp viện. Thể và hai con cùng týớng sĩ chết tại trận tiền. Nguyễn Vãn Lộc một mình một ngựa xông vào phá cửa thành, výợt qua chýớng ngại cùng binh giữ thành, xông thẳng vào dinh trấn thủ. Ngýời ngựa ðến ðâu, thây ngýời ngã ra ðến ðó. Výợt qua cổng dinh, Nguyễn Vãn Lộc bắt gặp Phạm Ngô Cầu ðang cùng gia ðình khuân của cải chạy trốn. Bắt sống ðýợc Phạm Ngô Cầu, Nguyễn Vãn Lộc lập công ðầu. Thành Phú Xuân vừa hạ xong, Nguyễn Vãn Lộc lại lên ngựa cùng Nguyễn Lữ, Võ Vãn Nhậm tiến quân ðánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. Chỉ trong mấy hôm, ðất Thuận Hóa ðýợc bình ðịnh xong. Tháng 6 nãm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Vãn Lộc ở lại giữ thành Phú Xuân cùng với Nguyễn Lữ ðể Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà diệt chúa Trịnh. Tháng 11 nãm Mậu Thân (1789), Quang Trung lên ngôi Hoàng ðế, kéo quân ra Bắc diệt quân Thanh. Nguyễn Vãn Lộc ðýợc phong Ðại Ðô ðốc chỉ huy cánh quân phía tả, tiến lên Lạng Sõn, Phýợng Nhãn, giữ vùng Yên Thế, chận ðýờng rút lui của ðịch. Tôn Sĩ Nghị cùng binh týớng trên ðýờng rút chạy về Nam Quan, bị quân của Ðại Ðô ðốc Lộc ðánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả sắc thý, ấn tín ðể lo chạy thoát thân. Sau khi vua Cảnh Thịnh lên ngôi, Nguyễn Vãn Lộc ðýợc cử vào trấn thủ Quảng Nghĩa. Nãm Ðinh Tỵ (1797), Nguyễn Phúc Ánh kéo thủy binh ra ðánh Quy Nhõn, song thất bại, bèn kéo quân ra ðánh Quảng Nam. Thành Quảng Nam bị vây, nhờ có Lâm Thị Bạch cố thủ và viết huyết thý cầu cứu Nguyễn Vãn Lộc ðem binh ra ðánh lui Nguyễn Phúc Ánh, giải vây cho thành Quảng Nam. Tháng giêng nãm Canh Thân (1800), Nguyễn Vãn Lộc kéo binh vào kết hợp với Trần Quang Diệu, Võ Vãn Dũng vào cứu Quy Nhõn, bị Tống Viết Phýớc cầm chân tại Bình Ðê. Vốn biết rõ ðịa thế của Quảng Nghĩa, Lộc ðã ðề nghị chia quân làm ba ðạo theo ba ngõ ðèo Bến Ðá, núi Sa Lung và núi Cung Quãng výợt qua khỏi Bến Ðá vào thẳng Quy Nhõn. Tháng nãm nãm Tân Dậu (1801), thành Quy Nhõn thất thủ. Trýớc ðó, Phú Xuân cũng thất thủ. Týớng nhà Nguyễn là Lê Vãn Duyệt cùng Lê Chất ðem quân vào cứu Quy Nhõn, bị Tây Sõn chận ðánh. Sau ðýợc tin Thuận Hóa hoàn toàn bị chiếm, Diệu và Dũng ðem quân ra Nghệ An. Nguyễn Vãn Lộc và Nguyễn Quang Huy ðóng ở Dýõng An. Kỳ Sõn ở phía Ðông Nam thành Quy Nhõn. Ðó là một hòn thổ sõn chạy dài theo hýớng Bắc Nam, bao quanh ðến vài mýõi dặm. Hình núi không ðều, hai ðầu mở rộng và cao, chính giữa hõi eo và thấp. Ở ðầu phía Bắc nổi lên hai ðỉnh ðứng song song, một là hòn Phụng Sõn, một là hòn Xuân Sõn. Ðầu phía Nam cũng có một ðỉnh cao gần hai ngọn kia, tên là Mai Sõn. Trên núi gồm nhiều hòn ðá lớn và có một cái hầm rộng ãn sâu vào núi, có tên là Qui Khanh tức là Hầm Rùa, vì trýớc miệng hang có một hòn ðá hình giống con rùa. Thế núi rất hiểm trở. Vốn là ngýời ở Kỳ Sõn, nên Nguyễn Vãn Lộc biết rõ những nõi hiểm yếu. Với 80.000 quân, trấn phục hõn 20 cứ ðiểm hiểm trở, Nguyễn Vãn Lộc ðã cầm chân hõn 30 vạn quân của Lê Vãn Duyệt và Nguyễn Vãn Thành. Nhờ vậy mà thành Quy Nhõn ðýợc giữ vững. Nãm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Vãn Lộc nghe tin vua Cảnh Thịnh bị bắt, ông tự ðộng giải tán quân sĩ, một mình lên núi Kỳ Sõn ẩn náu, dùng Hầm Rùa làm chốn nýõng thân. Nguyễn Quang Huy cũng lên núi Dýõng An trú ẩn, thỉnh thoảng về Phú Yên thãm quê hýõng và ra Kỳ Sõn thãm ông Lộc. Tuy nhà Tây Sõn mất, song Nguyễn Vãn Lộc trong lòng vẫn nuôi chí phục hýng. Một hôm, ông Lộc hỏi ông Huy: - Cựu thần nhà Tây Sõn, vãn cũng nhý võ, còn khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại cùng lo việc phục hýng. Nhý thế chẳng hóa ra là không tận trung với cựu chúa hay sao? Ông Huy ðáp: - Những anh hùng nghĩa sĩ ra giúp nhà Tây Sõn từ ngày mới khởi nghĩa cho ðến nay, không ai phụ nhà Tây Sõn. Tất cả ðều lo tròn phận sự cho ðến giờ chót, nhý thế là tận trung. Nhà Tây Sõn ðã không còn nữa thì chúng ta tận trung với ai? Bầy tôi của vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ lòng trung với cố chủ, nổi dậy ðánh ở miền Bắc, hết lớp này ðến lớp khác ðã chẳng lợi gì cho nhà Lê mà còn làm khổ dân hại nýớc. Phải nghĩ ðến dân ðến nýớc trýớc. Không có thể làm lợi cho dân, cho nýớc thì nằm yên chớ ðừng nên gây rối thêm. Trung với một ngýời, một nhà, mà làm khổ cho dân cho nýớc thì trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ ðến. Trung ấy không phải là trung. Nguyễn Vãn Lộc nghiệm thấy ðúng, nên không còn nuôi mộng phục hýng nhà Tây Sõn nữa. Từ ấy không còn ai trông thấy ông xuất hiện nữa. Mây trời nãm tháng thong dong. Louis Rousselet mô tả hình phạt voi giày trong tác phẩm "Le Tour du Monde" năm 1868. Tranh Martyrium of the Hippolyt của Dieric Bouts, diễn tả một người đang bị tứ mã phân thây.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 7, 2007 15:46:37 GMT 9
Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792) Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối. Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột của vương triều Tây Sơn. Khi mà vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây dựng triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Đông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thăng lớn vang dội của quân Tây Sơn đều gắn liền với tên tuổi của vị tướng trẻ tài ba này. Đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thăm yên ủi. Nguyễn Huệ thưa: - Tôi vốn là kẻ áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ thoả được tấm lòng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mượn tay tôi một trận phá ngay được, ấy là nhờ ở oai đức của bệ hạ. Vua Lê ôn tồn đáp: - Ấy là võ công của tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì! Nguyễn Huệ khiêm tốn thưa: - Tôi chỉ tôn phò, đau dám kể tới công lợi. Việc ngày nay đã xảy ra như thế thật bởi lòng trời xui nên hết thảy... Thế là trời có ý xui bệ hạ chấn kỷ cương, nảy mực, khiến cho trong ấm ngoài êm, tôi đây cũng được ơn nhờ. Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê Phiêu, Uông Sĩ Điển ra tiếp chủ suý Tây Sơn. Sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên lòng, chợ lại họp, ruộng lại cày, tình hình trong nước dần dần ổn định. Theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ vẽ, Nguyễn Huệ xin vua Lê cho thiết lễ đại triều ở điện Kính Thiên để Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho toàn thiên hạ rõ việc tôn phò đại thống. Cử chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua cao tuổi Lê Cảnh Hưng vô cùng xúc động, chứng kiến việc ban bố chiếu thư "nhất thống". Đáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyễn Súy Dực chính phù vận Uy Quốc công. Nguyễn Huệ sai người sang cảm tạ vua Lê theo đúng lễ nhưng trong lòng không vui. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hửu Chỉnh rằng: - Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì của ai vào đây nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì nổi ta? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng quan hậu đãi nhà Lê đó thôi, danh mệnh Nguyên súy, quốc công có làm cho ta thêm hơn gì? Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán mọi, được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo ta thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì! Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm tức giận. Nhờ có Nguyễn Hữu Chỉnh là tay khéo dàn xếp, Huệ mới nguôi lòng. Sau khi trở thành phò mã nhà Lê, Nguyễn Huệ không trực tiếp can dự vào nội bộ triều Lê vì còn giữ tiếng. Khi vua Lê bị bệnh nặng, công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào thăm song ông từ chối: - Tôi chẳng sớm thì chầy rồi cũng về Nam; việc nước không dám dự đến. Vả, tôi xa xôi tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy, nếu vô nội thăm hỏi vua cha, muôn một xa giá chầu Trời, chẳng hóa ra tự mình chuốc lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi toả được?" Vào một đêm mưa to, gió dữ của tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thành Thăng Long nước ngập đến một thước, vua Lê Cảnh Hưng qua đời ở tuổi thọ 70. Trước khi nhắm mắt ông còn kịp trối lại cho Hoàng tôn Duy Kỳ: - Quân bên ngoài đang đóng ở đây; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên suý (Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình. Trái với những người muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Duy Kỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi. Đến ngày lễ thành phục của nhà vua quá cố Lê Hiển Tông ở nội điện, Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ nghi lễ của phò mã: rể mặc áo tang trắng, đứng trong điện dự lễ. Thấy viên tiểu lại có cử chỉ bất kính trọng lúc làm lễ, Nguyễn Huệ lập tức sai lôi ra chém. Từ đó triều thần khiếp sợ và nghi lễ được cử hành hết sức tôn nghiêm. Ngày đưa linh cữu vua xuống thuyền về Thanh Hoá để an táng, Nguyễn Huệ mặc tang phục đi hộ tang đến tận bờ sông, lại sai bộ tướng là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến tận bến sông, lại sai bộ tướng là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Chỉnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến lăng Bàn Thạch. Mặc dù vừa mới trải qua binh đao, tang phục tuy đơn sơ, giản dị nhưng lễ nghi thì đầy đủ và trang trọng khác thường. Xong tang trở về, Nguyễn Huệ tự hào nói với công chúa Ngọc Hân: - Tiên đế có hơn 30 người con, thế mà không người nào bằng một mình nàng là gái. Trong việc tang tiên đế, mình với các anh em khác, ai hơn nào? Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, rồi được phong làm Bắc Bình Vương. Lần ra Bắc lần thứ hai năm Mậu Thân (1788), khi Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh thành chạy ra ngoài, Bắc Bình Vương cũng đã nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống, đã triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song không thuận lợi. Ông cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên tuổi đã được Bắc Bình Vương trọng dụng như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc Bình Vương như Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn... Sau khi đãlập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam. Trước khi trở về Nam, Bắc Bình Vương đã dặn bảo cận thần rằng: - Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta; Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ bộ thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta. Lại bộ thị lang Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho các khanh hết thảy mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn hạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải hợp bàn với nhau, chứ đừng phần bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc, ta mới yên lòng... Thế rồi không đầy 6 tháng sau, Bắc Bình Vương đang ở thành Phú Xuân thì được tin Lê Chiêu Thống đã dẫn đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy phải tạm rút lui về đóng ở Tam Điệp-Biện Sơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thứ ba ra Thăng Long. Lần này ông ra Bắc với tư cách là Quang Trung hoàng đế. Thể theo lời khuyên của tướng lĩnh và lòng mong mỏi của ba quân cùng thần dân, Bắc Bình Vương cho chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần nước và lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm đó kéo cả quân bộ, quân thuỷ ra Bắc diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thăng Long và Bắc Hà. Dự tính trước mọi khả năng tiếp theo của thời cuộc, vua Quang Trung đã nõi với quan quân ngay trước khi bước bào chiến dịch: - Nay ta tới đây, thân đốc viện binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song, ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp mười lần, Thanh bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc trăm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm. Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng binh, ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân đội của hoàng đế Quang Trung đã vui vẻ ăn tết khai hạ tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng. Việc binh lại giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, lần thứ ba Nguyễn Huệ đã ra Bắc rồi lại về Nam. Lần này với tư thế là Hoàng đế, Quang Trung gấp rút tiến hành việc xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, nơi mà từ xưa là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc. Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao đã được Quang Trung vạch ra: bình thường mối bang giao với nhà Thanh. Triều đình Quang Trung đã buộc sứ Thanh phải vào tận Thuận Hoá phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi Hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh. Dưới thời trị vì ngắn ngủi của triều Quang Trung, nhiều chính sách về xã hội, chính trị và kinh tế được ban hành khá độc đáo, mở ra những triển vọng cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu, căn bệnh đột ngột và hiểm nghèo đã cướp đi cuộc sống của ông vua đầy tài năng, có những dự định lớn lao, mới ở tuổi 40. Năm Nhâm Tý (1792), sau nhiều lần bắn tin rồi lại gửi thư trực tiếp đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa Bắc quốc và mượn đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai toàn sứ bộ do Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Thanh Càn Long. Trong một cuộc bệ kiến của sứ thần Vũ Văn Dũng ở Ỷ lương các, những yêu cầu của vua Quang Trung đã được vua Thanh chấp thuận. Vua Càn Long đang chuẩn bị cho cô công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam; Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mã đóng đô để cho gần "Thánh Giáo". Giữa lúc sứ thần đang mừng vui vì sắp hoàn thành một trọng trách quá sức mình, thì được tin sét đánh: vua Quang Trung từ trần. Mọi việc đều bị gác lại, Vũ Văn Dũng đành ôm hận trở về. Rồi từ đó, việc xin lại đất Lưỡng Quảng chỉ là câu chuyện lịch sử mà cơ đồ của vương triều Tây Sơn cũng dần dần tan theo giấc mộng xuân của nàng công chúa Mãn Thanh. Một chiều đầu thu, vua Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đó là chứng "huyễn vận" còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy được, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần: - Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử "Nguyễn Quang Toản" tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù; mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ người nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu! Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái tổ Vũ hoàng đế. Thi hài ông được táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau khi Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân đã sai quật mồ mả lên để trả thù. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thần làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng. Miếu thờ và liếp mộ (mới sửa lại) của mẹ con Bắc cung hoàng hậu Lê Thị Ngọc Hân ở bãi Cây Đại, làng Nành( Phù Ninh, Bắc Ninh).Vua Minh mạng trị tội Ngọc Hân công chúa:Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi [1799], trong bối cảnh kinh đô Phú Xuân của triều Quang Toản khá rối ren, lo đối phó với tình hình “đất thang mộc Tây Sơn” đang bị Nguyễn Vương Phúc Ánh đánh phá. Các đại thần theo lời trăn trối của tiên đế Quang Trung, muốn dời kinh đô ra Nghệ An. Có khả năng bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền, mẹ của Ngọc Hân, đã dâng sớ lên vua Cảnh Thịnh, xin đưa linh cửu Bắc Cung hoàng hậu về táng ở làng Phù Ninh. Người lo việc đưa linh cửu Ngọc Hân là đô đốc Hài. Khi vua Gia Long thanh toán Tây Sơn, bắt được bà Lê Thị Ngọc Bình, con nuôi bà Chiêu Nghi, vợ của Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản, nhà vua quyết định lấy bà Ngọc Bình làm vợ. Vì thế bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền trở thành nhạc mẫu của vua Gia Long. Với vị thế và uy vọng của bà Huyền, hơn nữa chính sách thu phục nhân tâm Bắc Hà của vua Gia long, có khả năng thời Gia Long mộ bà Ngọc Hân chưa từng bị quật. Khoảng năm 1804, tình hình lắng dịu, bà Huyền cho người tìm hài cốt của hai người con của Ngọc Hân, đưa về táng ở bãi Cây Đại làng Phù Ninh. Đến đời vua Minh Mạng, do sự tố giác của người làng Nành, vua Minh Mạng mới cho đào phá toàn bộ hài cốt của ba mẹ con Bắc Cung hoàng hậu Ngọc Hân, xong ném xuống sông. Số phận ngôi mộ của Ngọc Hân ở làng Nành thời Gia Long có liên quan đến bà Lê Thị Ngọc Bình. Đệ tam cung hoàng hậu Ngọc Bình là nhân vật lịch sử có lá số khá độc đáo. Bà vốn họ Nguyễn, tên là Nguyễn Thị Ân, sinh ở làng Nành, cháu gọi bằng cô của Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền. Bà Chiêu nghi nhận cháu gái Nguyễn Thị Ân làm con nuôi, cải tên Lê Thị Ngọc Bình, cô Ân trở thành em gái của Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân. Vua Quang Toản nối ngôi vua Quang Trung, Lê Thị Ngọc Bình nhập cung và sớm trở thành bà phi mà vua Tây Sơn sũng ái nhất. Năm 1801, vua Quang Toản chạy ra Thăng Long, cải niên hiệu Cảnh Thịnh thành niên hiệu Bảo Hưng, Ngọc Bình càng được vua Quang Toản sũng ái. Khi bị vua Gia Long truy bức, vua Quang Toản chạy trốn trong rừng Phượng Nhãn, chỉ còn bà Ngọc Bình ngồi cùng với mình trên bành voi ngự, Ngọc Bình trở thành hoàng hậu của vua Tây Sơn bại vong và rốt cuộc hai vợ chồng bị quân vua Gia Long bắt. Về Phú Xuân thì vua Quang Toản bị vua Gia Long xử tử, còn bà Ngọc Bình trở thành vợ của vua Gia Long, sinh được hai hoàng tử là Quảng Uy công và Thường Tín vương. Sau khi qua đời bà Ngọc Bình được truy phong Đệ tam cung hoàng hậu của tiên hoàng đế Gia Long. Mộ phần của Đệ tam cung hoàng hậu Ngọc Bình ở xứ Chầm, gần chùa Huyền Không Sơn Thượng. Khi nhà nước giải phóng mặt bằng, mộ bà Ngọc Bình trong diện phải di dời, được bà công chúa Campuchia, cháu ngoại vua Thành Thái về Huế, trực tiếp rửa từng lóng xương của bà Ngọc Bình và cúng tiền xây lăng mới cho bà Ngọc Bình vào tháng 6 năm Mậu Tí [2008]. Nấm mộ của bà Lê Thị Ngọc Bình được chừa lại khi san lấp mặt bằng ở Long Hồ.Tây Sõn Lục Kỳ Sĩ Trong các bậc kỳ tài ðến giúp nhà Tây Sõn, ngoài "Thất hổ týớng", "ngũ phụng thý" còn có "Lục kỳ sĩ". Bao gồm: Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trýõng Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Ðình Tiệp, Cao Tắc Tựu. Ðây là sáu nhân tài về vãn chýõng, học thức sâu rộng, giúp Tây Sõn Výõng mýu lýợc an dân, trị nýớc, nhất là thời Tây Sõn mới dựng nghiệp. Nguyễn Thung ở thôn Thuận Nghĩa (Tây Sõn) là ngýời giàu có trong vùng, giỏi chữ nghĩa. Khi Nguyễn Nhạc xây dựng cõ sở khởi nghĩa ở vùng Tây Sõn, ông ðem gia tài tặng tất cả cho Nguyễn Nhạc và theo nghĩa quân Tây Sõn. Với tính tình hào phóng, nhân hậu, Nguyễn Thung ðýợc rất ðýợc lòng mọi ngýời. Sau khi Nguyễn Nhạc lấy ðýợc thành Quy Nhõn, xýng výõng, ông ðýợc bổ làm Tri huyện Tuy Viễn (gồm 3 huyện: Bình Khê, An Nhõn và Tuy Phýớc). Truyền rằng: khi nhà Tây Sõn sụp ðổ, ngôi mộ của ông ở Thuận Nghĩa bị vua Gia Long ra lệnh quân lính khai quật hốt xýõng cốt ðem ðổ xuống sông Côn. Tuy nhiên, vỏ mộ ðýợc xây kiên cố nên còn tồn tại ðến sau này mới hý ðổ mất tích do lụt lội. Võ Xuân Hoài, Trýõng Mỹ Ngọc, ðức cao học rộng là hai ngôi sao về vãn học ðýõng thời ở Bình Khê và An Nhõn. Cao Tắc Tựu ðẹp ngýời, học rộng tinh thông binh pháp, tính tình ðiềm ðạm. Thýờng ngày ông ít nói, nhýng khi bàn luận binh pháp thì ông rất sôi nổi, làu thông kinh sử, mọi ngýời rất kính phục. La Xuân Kiều ngýời Phù Cát, một vãn sĩ nổi tiếng trong vùng, giỏi chữ nôm, thông minh hoạt bát, lại có tài cỡi ngựa, bắn cung. Triệu Ðình Tiệp, học rộng, ýa thực tế ghét phù hoa, tánh thanh khiết nghiêm nghị, trọng tín nghĩa và giỏi việc cai trị. Họ là những nhân vật rýờng cột khi nhà Tây Sõn hình thành, sau này khi sự nghiệp mở rộng thành công, họ là ngýời hoạch ðịnh chính sách trị nýớc, an dân, qui ðịnh thi cử có thêm nhiều nhân tài ðến với nhà Tây Sõn. "Lục kỳ sĩ" ðýợc ngýời ðýõng thời kính trọng, nhà vua tin dùng. Thất hổ týớng, Lục kỳ sĩ, Ngũ phụng thý ðã trở thành mýời tám viên ðá tảng dựng nên nền móng nhà Tây Sõn. Ðáng tiếc là sau khi nhà Tây Sõn không còn, sự trả thù của Gia Long vô cùng tàn khốc, những tác phẩm vãn chýõng của họ bị tiêu hủy, không ai dám cất giữ, lýu truyền, nên bị thất lạc. Ngày nay, hầu nhý ít còn lýu lại dấu tích. Thật là một mất mát của lịch sử và vãn hóa nýớc nhà! Phan Huy Ich Ngo Thoi Nham Gạch Tây Sơn , phát hiện ở Học cung, thuộc Văn Miếu Long Hồ, do Tây Sơn cơi nới văn miếu thời chúa Nguyễn Phúc Thuần, nay thuộc xóm Bành. Suu Tam
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 8:41:50 GMT 9
Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung Vietsciences-Bùi Minh Đức Vua Quang Trung đã qua đời cách đây (2008) đúng 206 năm . Vua Quang Trung mất nhằm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý tức là vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 dương lịch sau một thời gian bị “bạo bệnh” . Vua mất lúc mới 40 tuổi . ĐẶT VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG : Các tài liệu lịch sử đều ghi là vua Quang Trung đã chết vì “bạo bệnh” nhưng không có tài liệu nào nói rõ ra đó là bệnh gì . Riêng tác giả Hoa Bằng thì cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh “huyết vựng” . Vua Quang Trung đã được xem là một vị anh hùng dân tộc nên trong quá khứ đã có nhiều người quan tâm đến cái chết đột ngột của vị anh hùng áo vải đó . Cũng vì thế nên đã có nhiều người đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của vị Vua nầy . Tuy nhiên , từ trước đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào căn cứ vào Y khoa hiện đại để phối hợp với các sự kiện đã được ghi trong lịch sử để có thể cho chúng ta biết một cách chắc chắn hơn về bệnh trạng cũng như về nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung vào hồi đó . Và vì vậy , chúng tôi đã làm công việc đó . Chúng tôi đã dựa trên các hiểu biết của nền Y học hiện đại và phối hợp với các tài liệu lịch sử giá trị của ngành Sử Học Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay để suy diễn bệnh tình của vua Quang Trung trước giờ lâm chung . Mục đích của chúng tôi là “Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ khi xẫy ra bạo bệnh cho đến ngày qua đời” . Chúng tôi hy vọng bài khảo cứu của chúng tôi ngày hôm nay sẽ có thể đưa ra được lời giải đáp cho hai câu hỏi chính yếu về “CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” mà mọi người chúng ta hằng quan tâm là: 1/ Vua Quang trung đã bị bạo bệnh đột ngột trước lúc qua đời , vậy đó là “CĂN BỆNH “ gì ? 2/ Vua Quang trung qua đời nhiều ngày sau “bạo bệnh” , vậy “NGUYÊN NHÂN TỬ VONG” là gì ? THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG : I/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : Phương pháp làm việc của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu căn bệnh của vua Quang Trung là căn cứ vào những tư liệu có giá trị đích thực của Sử Học Việt Nam , những tư liệu có đả động đến bệnh trạng của Vua Quang Trung để suy nghiệm ra các triệu chứng khá “chắc chắn” của bệnh trạng của Nhà Vua hồi đó . Sau đó , chúng tôi đối chiếu các triệu chứng “chắc chắn” đó với một số các căn bệnh cũng có cùng những bệnh chứng đó trong Y Khoa ngày nay để có thể phỏng đoán được “bệnh trạng” của Nhà Vua là gì . Rồi từ “căn bệnh phỏng đoán” khá chính xác đó , chúng tôi lại sẽ quay ngược lại để biết thêm những “triệu chứng có thể” đã xuất hiện trên người Vua sau ngày bạo bệnh , căn cứ vào các hiểu biết của Y khoa tân tiến ngày nay . Độ chính xác của “căn bệnh phỏng đoán” của Nhà Vua trên thực tế chắc chắn sẽ không thể nào là 100% vì bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua từ bấy đến nay (đã trên 200 năm) nhưng chúng tôi tin rằng đó là “độ chính xác cao nhất có thể đạt được và có thể tin cậy được” căn cứ vào các tư liệu hiện hữu và các hiểu biết của Y khoa ngày nay Trong bài khảo cứu nầy chúng tôi cũng đã phải sử dụng đến các sơ đồ “Flow Charts” , nói nôm na là sơ đồ của “cái nầy đưa đến cái kia” về triêụ chứng và về căn bệnh . Chúng tôi cũng áp dụng lối lý luận bằng “phương pháp loại trừ” của logic theo Y khoa ngày nay theo lối “không có cái nầy thì sẽ không có cái kia” . Chúng tôi cũng đã sử dụng một số kết quả về thống kê của các bệnh tật theo các khảo cứu của Y học ngày nay và chúng tôi cũng sẽ luôn luôn dựa vào các kết quả thống kê cao nhất , khả dĩ nhất để lấy quyết định . Cũng trên đường đi tìm “bạo bệnh” của Vua Quang Trung , chúng tôi đã phải tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu cao cấp của các Chuyên Nghành trong Y khoa ngày nay . Chúng tôi cũng đã có cơ hội tiếp xúc được với nhiều Chuyên gia cao cấp , đi từ điạ hạt Nội Thần Kinh , Ngoại Thần Kinh qua Tai Mũi Họng và Nội thương cho đến Tim học . Và cũng vì thế , chúng tôi đã có nhiều cơ hội tiếp nhận được những kinh nghiệm lâm sàng trực tiếp từ các vị Chuyên gia hàng đầu trong các ngành đó . Nói tóm lại , chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những tư liệu Sử học mà chúng tôi sử dụng và cùng lúc đưa ra những kết quả về triệu chứng bệnh lý mà chúng tôi suy nghiệm được dựa vào những tư liệu đó . Chúng tôi cũng sẽ thử “tái xây dựng” hồ sơ bệnh lý của Vua Quang Trung theo nguyên tắc “SOAP” của các hồ sơ bệnh lý y khoa ngày nay : “S” (Subjective) là các triệu chứng chủ quan tự cảm thấy của bệnh nhân (phần Bệnh sử) , “O” (Objective) là các triệu chứng khách quan tìm thấy được trên người bệnh nhân (phần Triệu chứng) , “A” (Assessment) là kết luận về bệnh trạng đã được suy diễn ra (phần Định Bệnh Phân Biệt “Differential Diagnosis” và phần Định Bệnh Lâm Sàng “Clinical Điagnosis) và cuối cùng , “P” (Plan) là những quyết định thử nghiệm (Laboratory Tests) và điều trị (Treatment Plan) về căn bệnh đã được suy diễn ra đó . 2/ THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG : HỒ SƠ BỆNH LÝ TÊN VÀ HỌ : NGUYỄN HUỆ (VUA QUANG TRUNG) TUỔI : 40 GIỚI TÍNH : NAM NGHỀ NGHIỆP : Chỉ Huy Quân Đội . Tánh xông xáo , thích hoạt động . I/ BỆNH SỬ (HISTORY OF THE PRESENT ILLNESS) : A/ TƯ LIỆU CHỨNG MINH : Trước hết chúng tôi đưa ra vài tư liệu dính dáng đển khởi điểm của bạo bệnh của Nhà Vua . 1/ Theo “Đại NamThực Lục Chính Biên” , Tập II , Đệ Nhất Kỷ 1 (Tổ phiên dịch Viện Sử Học , Đào Duy Anh hiệu đính , tr. 159- 160) : “..Tây Sơn Ngyễn Văn Huệ chết . Nguyễn Huệ ngồi chơi buổi chiều , bỗng mơ thấy một ông già tóc bạc từ trên không xuống , mặc áo trắng , tay cầm gậy sắt , chỉ vào Huệ mà bảo rằng “Ông cha mày sống trên đất vua, đời làm dân vua , mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm ?” . Rồi đánh vào trán một cái . Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mói tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trng thư Trần Văn Kỷ . Nhân đó , ốm không dậy được , dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng “Ta sẽ chết đây! Thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được . Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên , khi Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An , dời dân vào Qui nhơn) , đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được . Ta đắp thành dày để làm kế Tấn Dương ngày khác cho mày . Sau khi ta chết , mày nên về đó . Nếu có biến cố còn có thể giữ được “ . Rồi Huệ chết” . 2/ Theo “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” , phần “Ngụy Tây Liệt truyện” : “Một hôm về chiều , Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm , kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống , tay cầm gậy sắt mắng rằng “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa , đời đời làm dân của chúa , ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm ?” Rồi lấy gậy đánh vào trán , bất tỉnh nhân sự lâu lắm . Lúc tỉnh dậy , nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ . Từ đó bệnh chuyển nặng , mời quan Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó . Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia Định , chiếm Bình Thuận , Bình Khang , Diên Khánh , thanh thế chấn động . Quang Trung nghe được lo buồn , bệnh ngày càng kịch liệt” . B/ BỆNH SỬ QUA CÁC TƯ LIỆU ĐÃ DẪN : Qua hai tài liệu trên , chúng ta có thể suy diễn được diễn tiến của bệnh trạng lúc khởi đầu như sau : “Bệnh nhân là một người nam , mới 40 tuổi . Bệnh nhân đang ngồi chơi buổi chiều , không vận dụng sức lực hay làm việc gì nặng nhọc , bỗng cảm thấy xây xẩm tối tăm , đầu đau như có ai cầm gậy sắt đánh vào trước trán và té xuống liền , hôn mê bất tỉnh . Sự việc xẩy ra rất đột ngột . Giờ lâu bệnh nhân mới tỉnh lại” . II/ TRIỆU CHỨNG CĂN BỆNH (SIGNS AND SYMPTOMS) : Xét theo bệnh sử , chúng ta có thể ngược dòng thời gian để suy nghiệm ra các triệu chứng của căn bệnh ban đầu của Vua Quang Trung . Chúng tôi đã có thể ghi nhận chín (9) yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là : -1/ “BỆNH NHÂN CÒN TRẺ” , chỉ mới 40 tuổi . -2/ “ĐAU ĐẦU DỮ DỘI , ĐỘT NGỘT” (Headache Severe , Sudden Onset) -3/ “XÂY XẨM” : CHÓNG MẶT (Dizziness) -4/ “TỐI TĂM” : MẮT NHÌN KHÔNG THẤY (Trouble of Vision) -5/ “HÔN MÊ NGẤT XỈU THÌNH LÌNH” (Sudden Loss of Consciousness , gọi tắt là L.O.C.) . -6/ “KHÔNG VẬN ĐỘNG SỨC LỰC” khi xẫy ra biến cố (No Physical Exertion) . -7/ “KHÔNG BỊ TỔN THƯƠNG TRÊN ĐẦU” , không bị va đập trên đầu trước đó (No Previous Head Trauma History) . -8/ “BỆNH NHÂN TỈNH LẠI : Bệnh nhân bị té xuống hôn mê bất tỉnh ,“giờ lâu mới tỉnh” (Recovering from Consciousness after an Interval). -9/ “BỆNH NHÂN KHÔNG BỊ HÔN MÊ DÀI NGÀY” (No Coma of long duration) . III/ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT (DIFFERENTIAL DIAGNOSIS) : Dựa trên các yếu tố đó , chúng ta có thể suy diễn ra các điều khác để tìm bệnh . Chúng ta lấy triệu chứng “Bất Tỉnh” (Loss of Consciousness) là triệu chứng quan trọng nhất của căn bệnh để làm điểm khởi đầu của lý luận định bệnh của chúng ta . Trong từ ngữ Y khoa , “Bất Tỉnh Mê Man” được gọi bằng từ ngữ chung là “Loss of Consciousness” , gọi tắt là “L.O.C.”. Nếu bất tỉnh nhẹ và tỉnh lại ngay liền , thì gọi là “Syncope” , nếu hôn mê nặng thì gọi là “Coma” . Thông thường , khi bệnh sử có ghi “LOC” đột ngột mà trước đó không có dấu hiệu tổn thương nào trên Não Sọ thì Y khoa ngày nay thường nghĩ ngay đến “NGUYÊN NHÂN NÃO BỘ” và nhất là nghĩ ngay đến “TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO” (Cerebro-Vascular Accident , gọi tắt là CVA) , còn được gọi là “BỆNH ĐỘT QỤY” (Stroke) . Hàng năm tại Hoa Kỳ có 730.000 trường hợp mới về “Tai Biến Mạch Máu Não” . Một LOC đột ngột thường do các nguyên nhân về Não Bộ như sau : - 5% là do U Bướu (Tumor) trên Não với các triệu chứng thần kinh suy sụp CHẬM RÃI (Progressive Neurologic Deficit) trong 68% các cas , và cũng có yếu liệt về thần kinh vận động (Motor Weakness) trong 45% các cas và có Nhức Đầu (Headache) trong 54% các cas , Động Kinh (26% các cas) . - 95% là do các MẠCH MÁU TRÊN NÃO bị nghẽn hoặc bị vỡ gây ra xuất huyết , chia ra như sau : - 80% là do NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemic Stroke , Arterial Occlusion) : vì Máu Đông Tại Chỗ (Thrombotic Stroke) trong 50% các cas và do Cục Máu (Embolic Stroke) trong 30% các cas . Phân tách thêm , người ta thấy có 41% các cas Nghẽn Mạch không biết lý do , 21% các cas ở các động mạch nhỏ , 11% các cas ở các động mạch lớn và 16% do Cục Máu từ Tim đến (Cardiogenic Embolie) như trong bệnh “Nhồi Máu Cơ Tim” (M.I. Myocardial Infarction) hay trong “Chứng Hẹp Lỗ Van Hai Lá” (Mitral Stenosis) hay trong “Chứng Loạn Nhịp” (Arrythmia) . - 20% là do XUẤT HUYẾT TRONG NÃO : - 14% là do “Xuất Huyết trong Não Bộ” (IntraCerebral Hemorrhage , viết tắt là ICH) - 6% là do Xuất Huyết Dưới Màn Nhện (Sub-Arachnoid Hemorrhage , viết tắt là SAH) . -A/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemia Stroke) thường bị “HÔN MÊ SÂU ĐẬM” và thường xẫy ra cho người LỚN TUỔI , trên 50 tuổi . . Triệu chứng khởi đầu cũng có thể thình lình nhưng “KHÔNG CÓ ĐAU ĐẦU” , không bị sốt . Bị yếu dần về thần kinh bắt đầu từ tay rồi lan ra các vùng khác , TĂNG LẦN từ từ từng bước một , từ vài giờ cho đến vài ngày (24 giờ-72 giờ) và thường về một phía . Tay chân có thể bị yếu dần và bị Liệt Tay Liệt Chân ở phía đối diện (Controlateral Hemiplegia) và cả tê tay tê chân . Thường là do “Nghẹt Đông Mạch Não Giữa (Middle Cerebral Artery) . -B/ XUẤT HUYẾT TRONG NÃO BỘ (Intracerebral Hemorrhage = ICH) : 14% các cas bị HÔN MÊ BẤT TỈNH (LOC) và thường được gọi là “Apoplexy” mà không có tổn thương do Va Đập nào trước đó . Bệnh nầy thường do “VỠ ĐỘNG MẠCH” trong khối chính của Não tạo thành “Cục Máu” còn gọi là “Khối tụ máu” (Hematoma) đè ép lên trên Não Bộ và gây nên các triệu chứng về Thần kinh Não bộ . Bệnh nầy thường xẫy ra ở người CAO TUỔI , phần lớn là đàn ông trên 55 tuổi và phần lớn do CAO HUYẾT ÁP (Hypertension) . Càng lớn tuổi càng dễ bị bệnh nầy . Có thể do sự “Vận động Sức Lực Quá Trớn” (Onset during Activity or Exertion) như khi đi đại tiện bị bón hay khi đang chơi thể thao như Tennis chẳng hạn . Bệnh nhân thường “BẤT TỈNH HOÀN TOÀN” (Coma) . Triệu chứng Thần Kinh Hỗn Loạn trong “Xuât Huyết Não” thường xẫy ra TỐI ĐA NGAY LẬP TỨC (Maximal at Onset) chứ không diễn tiến từ từ như trong bệnh “Nghẽn Mạch Máu Não”. Nếu tỉnh dậy cũng sẽ có Đau Đầu , Ói Mửa , Chóng Mặt , Bị Liệt chân tay và Suy sụp thần kinh từ từ (Neuro Deficit Progressive) và có thể bị Cấm Khẩu không nói được , bị bệnh Liệt Mặt (liệt Dây thần kinh số 7) , v.v.. -C/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN (Subarachnoid Hemorrhage = SAH) Đa số các “Xuất Huyết dưới màng nhện” (SAH) là do chấn thương trên Đầu . Số các cas “SAH” còn lại , không có dấu hiệu chấn thương trên Đầu , là do chứng “Tự Vỡ Mạch” (Spontaneous SAH) . 80% các cas nầy là do Vỡ Mạch Phình (Spontaneous Rupture of Aneurysm) và 5% là do Vỡ Mạch Máu Dị Dạng Bẩm Sinh (Congenital Arteriovenous Malformation) . Bệnh Xuất Huyết dưới Màng Nhện do “Tự Vỡ Mạch” thường xẫy ra ở “NGƯỜI TRẺ KHOẢNG 40 TUỔI” (20% các cas từ 15-45 tuổi) và xẫy ra “BẤT THÌNH LÌNH” (Sudden Onset) (30% các cas lúc đang ngủ) với các triệu chứng sau : 1/ “ĐAU ĐẦU ĐỘT NGỘT DỮ DỘI” (Severe Headache) (30% bị Đau Đầu về phía mạch máu bị vỡ) , 2/ “BẤT TỈNH” ngay sau khi đau đầu đột ngột dữ dội . Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại 3/ ÓI MỬA (Nausea and Vomiting) , 4/ CHÓNG MẶT (Dizziness) , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG (Vertigo) . 5/ CỔ CỨNG (Nuchal Rigidity hay Neck Stiffness) 6/ TÊ NỬA NGƯỜI (Hemiparesis) 7/ LIỆT NỬA NGƯỜI , còn gọi là “Bán Thân Bất Toại” (Hemiplegia) . Ngoài ra cũng có thể còn có : 8/ LIỆT NỬA MẶT (Facial Palsy) do liệt dây thần kinh Não số 7 (Facial Nerve) một bên 9/ Bệnh SONG THỊ (Diplopia) do liệt dây thần kinh Não số 3 và “CHỨNG SỢ ÁNH SÁNG” (Photophobia) 10/ Hỗn Loạn về chúc năng “NUỐT” do hỗn loạn của các dây thần kinh Não số 9 và số 10 . Thống kê ngày nay còn cho biết thêm các chi tiết sau : 50% các cas về “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” đã có triệu chứng báo hiệu (Warning Symptoms) , thường là từ 6 đến 20 ngày trước đó . Tra cứu các tư liệu Sử học còn lưu lại , chúng tôi cũng không thể xác định được trước đó Vua Quang Trung có cảm thấy triệu chứng gì báo trước của bạo bệnh hay không , ví dụ như Đau Đầu , Đau Mặt , Chóng Mặt hay Tê tay Tê chân , Yếu tay Yếu chân hay Mắt Mờ chẳng hạn . IV/ CHẨN ĐOÁN CĂN BỆNH VUA QUANG TRUNG (CLINICAL DIAGNOSIS) : Và như vậy , xuyên qua triệu chứng của các bệnh Xuất Huyết Mạch Máu Não trong trường hợp bị “BẤT TỈNH ĐỘT NGỘT , KHÔNG CÓ CHẤN THƯƠNG” và so sánh với các triệu chứng khởi đầu của căn bệnh của Vua Quang Trung qua các tư liệu đã nêu ra , chúng ta thấy căn bệnh lúc ban đầu của Vua Quang Trung trong quá khứ , rất có thể là : “BỆNH XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” (Subarachnoid Hemorrhage) DO CHỨNG “TỰ VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Aneurysm Rupture) V/ DIỄN TIẾN BỆNH TRẠNG (PROGRESS NOTES) : Căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” nầy của Nhà Vua , ngoài những triệu chứng chính ban đầu mà ta đã suy diễn ra được qua những tư liệu đã dẫn chứng , liệu còn có các triệu chứng phụ nào trên người Vua phù hợp với sự tiến triển của bệnh lý theo y khoa ngày nay hay không ? Chúng ta thử đi tìm thêm các triệu chứng đó và cũng sẽ dùng các tư liệu sử học để chứng minh bằng cách theo dõi diễn tiến của căn bệnh ban đầu cho đến ngày Vua qua đời . A/ Bài “Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân Công Chúa làm vào lúc Nhà Vua qua đời đã cho ta thêm đôi chút ánh sáng về bệnh tật của Vua trong thời gian nầy : “TỪ NẮNG HẠ MƯA THU TRÁI TIẾT , XÓT MÌNH RỒNG MỎI MỆT CHẲNG YÊN Xiết bao kinh sợ lo phiền , Miếu thần đã thỉnh , thuốc tiên lại cầu . Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước , Phương pháp nào đổi được cùng chăng ? Qua bài “Ai Tư Vãn” nầy , ta có thể rút ra thêm được các kết luận sau đây liên quan đến bệnh trạng của Nhà Vua : 1/“Từ nắng hạ mưa thu trái tiết” : Vua đau từ mùa hạ đến mùa thu mới mất . Khoảng thời gian có lẽ là TRÊN HAI THÁNG từ lúc phát bệnh đến giờ lâm chung . 2/“Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên” : Vua day trở trên giường bệnh . Y Khoa ngày nay gọi là “CHỨNG BỒN CHỒN” (Restless) , không thể nằm yên mà phải nhúc nhích qua lại . Đó là chưa nói đến những dư chứng thông thường của bệnh “Xuất Huyết Não” với những cơn ĐỘNG KINH (Seizures) , CO GIẬT (Convulsions) cũng như những CỬ ĐỘNG RUNG CƠ (Tremblements) , không kiểm soát được của tay chân . Tất cả đều khiến cho “Mình Rồng mỏi mệt chẳng yên” tức là di chứng “Bồn chồn” (RESTLESS) do suy yếu thần kinh của căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” Câu hỏi được nêu tiếp theo là những “dư chứng” nào khác còn hiện diện trên cơ thể con người của Nhà Vua sau cơn bạo bệnh? B/ “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” cho ta biết qua tình hình chung sau khi Vua ngã bệnh : “…Huệ ngất ngã ra . Tả hữu đều sợ . Giờ lâu mới tỉnh . Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ . NHÂN ĐÓ ỐM KHÔNG DẬY ĐƯỢC, dặn con là Quang Toản …” . Qua câu nầy của “Đại Nam Thực Lục Chính biên” thì sau khi bị cơn bệnh thình lình , Vua đã “KHÔNG THỂ NÀO ĐỨNG DẬY ĐƯỢC” . Nhà Vua đứng dậy không được có thể là do bệnh Liệt Bại Tay Chân , tức là bệnh “BÁN THÂN BẤT TOẠI” (Hemiplegia) hay bị bệnh “CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” (Vertigo) , và cũng có thể do cả hai bệnh chứng đó cùng xảy ra một lúc và đã làm cho Nhà Vua không thể nào đứng lên và bước đi ra ngoài được mà phải nằm suốt trên giường bệnh . -1/ “BÁN THÂN BẤT TOẠI” tức Liệt Tay Chân về một phía (Hemiplegia hay Hemiparalysis) và cả “KHÔNG CẢM GIÁC VỀ MỘT BÊN THÂN” (Hemiparesis) đều là những di chứng thường tình của Bệnh Xuất Huyết Trong Não Bộ (Intracerebral Hemorrhage) do rối loạn hệ thần kinh vận động và cảm giác . -2/ “XÂY XẨM MẶT MÀY” , “ĐỨNG LÊN BỔ XUỐNG” , CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” đều là những di chứng thường đi theo với căn bệnh “Xuất Huyết Trong Não” hay “Xuất Huyết dưới Mà Nhện” . “Xây Xẩm Mặt Mày” (Dizziness) nhẹ hơn “Chóng Mặt Quay Cuồng” (Vertigo) . Chính cái “Chóng Mặt Quay Cuồng” “Vertigo” nầy mà người xưa khi nói về căn bệnh của Vua Quang Trung cũng đã nhắc nhở đến và đã gọi đó là “bênh Huyết vựng” hay “Huyễn vựng” hay “Huyết vận” như tác giả Hoa Bằng đã có ghi ra . Trong bệnh “Vertigo” , người bệnh thấy nhà cửa quay cuồng , bàn ghế quay cuồng , đứng không thể nào vững và thường ngã xuống và đầu có thể va đập vào bàn ghế gây thêm tổn thương Não . - 3/“ÓI MỬA” : Bệnh “Chóng mặt” hay “Huyễn Vựng” nầy thông thường “đi đôi sát nút” với triệu chứng “Ói Mửa” , thứ “Ói Mửa” mà người Huế gọi là “nhào đựng nhào đột” , hay thứ “Mửa ra mật xanh mật vàng” mà từ ngữ Y khoa ngày nay gọi là “Vomiting” . Nhẹ nhất là “Buồn nôn” , “Buồn Ói” hay “Muốn Mửa” , từ ngữ Y khoa gọi là “Nausea” . Nặng nhất là “Mửa” (Vomiting) . Mỗi khi mửa , “ăn bao nhiêu ra bấy nhiêu” . Hễ mỗi khi có sự chuyển động của đầu hay thân hình là có “Nausea” hay “Vomiting” ngay lập tức . Thông thường trong căn bệnh “Xuất huyết Não , Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” thường có “Nausea” và “Vomiting” đi song đôi với nhau . Hễ đứng lên ngồi xuống là sinh ra “chóng mặt quay cuồng” ngay và sẽ “ói mửa lộn nhào” , không thể nào đứng dậy hay ngồi dậy để làm việc gì được . Vua Quang Trung có thể đã phải chịu đựng những cơn hành hạ của “Chóng Mặt , Ói Mửa” như đã trình bày ở đây và vì vậy mà Ngọc Hân Công Chuá đã phải chạy khắp nơi để tìm Thầy chạy thuốc chữa bệnh cho Vua - 4/“NHỨC ĐẦU NHƯ BÚA BỔ” : Triệu chứng nhức đầu cấp tính khi xẫy ra Tai Biến Mạch Máu Não của Vua Quang Trung đã xẫy ra “THÌNH LÌNH” đúng như sách vở ngày nay đã ghi nhận . Vua Quang trung đã bị đau đầu dữ dội, “như có ai lấy gậy sắt đập vào đầu” . Sau khi tỉnh lại , các bệnh nhân của “Xuất Huyết Não” và nhất là “Xuất Huyết Dưới Màn Nhện” như Vua cũng vẫn thường vẫn bị những cơn đau đầu ghê gớm hành hạ do sự đè nén (Mass Effect) của khối máu đọng trên Não Bộ . Khi lên cơn đau đầu đó , có người đã phải ôm đầu mà rên la . Và đó cũng là một di chứng của căn bệnh xuất huyết Não của Nhà Vua . -5/ “NUỐT KHÓ” : Nếu bệnh nhân đã bị hư một bán cầu Não thì rất có thể bệnh nhân đã có triệu chứng “NUỐT KHÓ” , “NUỐT SẶC” do triệu hỗn loạn về “Chức Năng Nuốt” . Đồ ăn sở dĩ nuốt được là nhờ hoạt động của các cơ co bóp của Thực quản dưới sự tác dụng của các dây Thần Kinh Não Bộ số 9 và số 10 . Khi Não Bộ một phía bị hư thì hoạt động của các dây thần kinh của chức năng Nuốt về phía đó cũng sẽ bị tê liệt và vì vậy sẽ phát sinh các rối loạn về Nuốt . Bệnh nhân sẽ bị “Khó Nuốt” và thường bị “Nuốt Sặc” do đồ ăn đi “lạc đường” (“Fausse Route”) vào khí quản , gây nên phản ứng Sặc là phản ứng tự vệ thông thường . Nếu rối loạn Nuốt khá nặng thì bệnh nhân có thể nuốt hít đồ ăn vào trong “cuống phổi” tức vào trong Khí Quản , và sẽ gây nên “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) , nguy hại đến tính mạng . Nói tóm lại , theo dõi bệnh tật của Vua , chúng ta có thể nhận thấy những dư chứng của căn bệnh của Vua trong những ngày trước khi lâm chung có thể là : - 1/ BẠI LIỆT NỬA NGƯỜI (Hemiplegia) - 2/ ÓI MỬA (Nausea , Vomiting) - 3/ CHÓNG MẶT (Dizziness , Vertigo) - 4/ ĐAU ĐẦU (Headache) - 5/ CỨNG CỔ , ĐAU CỔ (Meningismus) - 6/ ĐỘNG KINH (Seizures) - 7/ CO GIẬT (Convulsions) - 8/ CHỨNG BỒN CHỒN (Restlessness) - 9/ NUỐT KHÓ , NUỐT SẶC (Swallowing Problems) - 10/ THỊ TRƯỜNG KHIẾM KHUYẾT (Visual Defect) (Có thể) VI/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT PLAN) : Trong bài “AI TƯ VÃN” , Ngọc Hân Công Chúa đã viết : “Xiết bao kinh sợ lo phiền , MIẾU THẦN ĐÃ ĐẢO , THUỐC TIÊN LẠI CẦU . KHẮP MỌI CHỐN ĐÂU ĐÂU TÌM RƯỚC , PHƯƠNG PHÁP NÀO ĐỔI ĐƯỢC CÙNG CHĂNG ?” Chính Ngọc Hân Công Chúa , vợ Vua Quang Trung , đã cho chúng ta biết là ngoài chuyện cầu khấn các đấng Thần Linh ở các Am Miếu linh thiêng để cầu nguyện cho Nhà Vua , Bà cũng đã phải bôn ba mời Thầy tìm thuốc khắp nơi để chữa cho Vua trong ngay sau cơn bạo bệnh hòng mong bệnh tình Nhà Vua thay đổi , trở lại lành mạnh như cũ . Trong vấn đề chữa trị cho Nhà Vua , chúng tôi nghĩ là chứng bại liệt nửa thân khó lòng chữa chạy , bất cứ thầy thuốc nào , Đông hay Tây , cũng đều biết thế . Nếu có thể dùng thuốc để chữa chạy cho Nhà Vua là chữa chạy các chứng như : Ói Mửa , Chóng Mặt , Đau Đầu và Chứng động Kinh , Co Giật chẳng hạn . Ngay chuyện đút cho Vua ăn chắc các gia nhân lúc đó cũng đã phải rất cẩn thận , phải đút chậm chậm từ từ để khỏi gây ra “Chứng Sặc” . “Sặc” là một phản xạ tự nhiên của con người để tống bỏ ra ngoài các thức ăn đi lạc vào cuống phổi , không cho đồ ăn có thể vào phổi và gây ra “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia) . Ngay trong Y khoa ngày nay , khi nuôi bệnh và cho bệnh nhân ăn sau khi bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” cũng phải đút đồ ăn cho bệnh nhân một cách từ từ vì sợ bệnh nhân bị “Viêm phổi Hít” . “Viêm phổi Hít” khi đã để xẩy ra sẽ là một vấn đề trầm trọng , cho dù có áp dụng các phương tiện tân tiến của thời nay như làm Nội Soi Khí Quản để hút đồ ăn đi lạc vào , xịt nước rửa khí quản để làm vệ sinh khí quản (Bronchial Toilette) cũng như dùng những Kháng Sinh đúng và mạnh để chận đứng nạn Nhiễm Trùng đáng sợ ở trên cơ thể những con người đang kiệt quệ sức khoẻ với hệ thống miễn dịch yếu kém . VII/ TIÊN LƯỢNG BỆNH TRẠNG (PROGNOSIS) : “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” và “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện” còn cho ta biết là sau khi bị bạo bệnh , Nhà Vua đã TRỐI TRĂN dặn dò Thái tử Quang Toản về đường hướng phải làm trong tương lai . Vua cũng cho vời Trung Thư Trần Văn Kỷ và cả Trấn Thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về Phú Xuân để bàn bạc chuyện dời đô ra Nghệ An . Vua Quang Trung còn trối trăn căn dặn kỹ càng Trần Quang Diệu và triều đình : “Sau khi ta mất , phải trong một tháng lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi . Các ngươi phải phò Thái tử sớm ra Nghệ An để khống chế thiên hạ . Nếu không , bị quân Gia Định kéo ra , các ngươi không còn chỗ chôn đấy” . Trong “Lê Qúy Dật Sử” mà nhiều người cho là của Bùi Dương Lịch viết vào thời Tây Sơn , còn cho thêm chi tiết khác “Tuân di lệnh của Vua cha , để tang ngắn ngày, ba tháng là thôi mặc áo tang , sai sứ sang báo tang với nhà Thanh” . Như vậy ta có thể suy ra hai điều về tình trạng của hệ thống thần kinh của Vua mà Y khoa Pháp gọi là “Bilan Neurologique” và Y khoa Mỹ gọi là “Neurological Status” như sau : 1/ Nhà Vua còn đủ óc phê phán , suy tính đường lợi hại , trí thông minh của Vua vẫn còn tồn tại . Trung Tâm của thông minh , của Suy Nghĩ và Lý Luận là ở Vùng Trán . Như vậy Não Bộ Vùng Trán của Vua vẫn còn hoạt động . 2/ Nhà Vua vẫn còn năng khiếu Ngôn Ngữ (Speech . Language) để trối trăn , nói chuyện và bàn luận với quần thần . Như vậy , Trung Tâm về Ngôn Ngữ của Vua vẫn còn hoạt động . Trung tâm về Ngôn Ngữ thường ở bên phiá TRÁI của người thuận dùng tay phải (95%) và như vậy ta có thể PHỎNG ĐOÁN phía Não bên TRÁI của Nhà Vua vẫn hoạt động bình thường . 3/ Và vì vậy , chúng ta có thể suy ra , phía bên chảy máu Não của Vua Quang Trung là phía PHẢI và tử đó , có thể suy ra thêm là Vua bị bệnh BÁN THÂN BẤT TOẠI BÊN TRÁI và tay chân phía bên PHẢI có thể đang hoạt động bình thường . Lý do là vì các dây thần kinh vận động tay chân từ Não Bộ bên TRÁI còn tốt phải chạy TRÉO QUA phía bên PHẢI khi chạy xuống phía dưới Tủy Sống . Nếu Nhà Vua muốn cầm tay các cận thần mà dặn dò trối trăn thì có thể Nhà Vua vào hồi đó đã phải dùng tay PHẢI để cầm tay của kẻ cận thần đó . Cũng cần biết , theo thống kê ngày nay , thì TIÊN LƯỢNG về bệnh “Xuất Huyết Não dưới Màng Nhện” đã được đánh giá như sau : 30% chết ngay trong 30 ngày đầu , 30% các cas sẽ hồi phục với di chứng tàn tật nặng nhẹ khác nhau và và 50% các cas sẽ chết (vì trận xuất huyết lần đầu hay do xuất huyết tái phát) . VIII/ CHỮA TRỊ BỆNH “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” TRONG Y KHOA NGÀY NAY (TREATMENT PLAN OF SUBARACHNOID HEMORRHAGE IN MODERN MEDICINE) : Ngày nay , một khi đã định bệnh ra là bệnh nhân bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” , hoặc nói chung là khi đã nghi ngờ bệnh nhân bị Tai Biến Mạch Máu Não thì người ta thường làm các “THỬ NGHIỆM” cần thiết để chứng minh bệnh trạng và để ĐIỀU TRỊ cho chắc chắn . A/ THỬ NGHIỆM (CLINICAL TESTS) : Trong “Tai biến Mạch Máu Não” , ngày nay người ta thường dùng các thử nghiệm sau : -1/ CT Scan để biết Tai Biến Mạch Máu Não do Nghẽn Mạch hay Xuất Huyết (thường được dùng nhất trong Xuất Huyết Dưới Màng Nhện) -2/ Chọc Hút Dịch Não Tủy (để tìm máu trong dịch não) -3/ X-Quang Mạch Máu (để ìm vị trí mạch máu vỡ , sau khi chích chất cản quang vào dòng tuần hoàn) -4/ MRI gíúp xác định chính xác vị trí hư hại trong Não . Hình rất nhạy nên thường dùng trong bệnh Xuất Huyết Não do các mạch máu nhỏ . -5/ MRA (Magnetic Resonance Angiography) -6/ Transcranial Doppler -7/ Xenon CT Scanning : dùng để đo lưu lượng Máu trong Não . -8/ Carotid Duplex Scanning : dùng Siêu Âm để xác định xem động mạch cổ có bị nghẽn không -9/ Radionuclide SPECT Scanning : dùng chất phóng xạ để đo lưu lượng máu trong Não -10/ PET Scanning dùng để xác định sự biến dưỡng của các vùng trong Não -11/ Hình chụp mạch máu Não (Cerebral Angiography) để thấy tình trạng các mạch máu Não . B/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT) : Điều trị cấp cứu của bệnh Tai Biến Mạch Máu Não cần phải nhanh chóng vì những hư hại của Não sẽ xẫy ra trong vòng vài giờ sau khi bị tai biến . Ngoài cách sử dụng thuốc ra , trong vài trường hợp , ngày nay người ta phải dùng đến PHẪU THUẬT , chẳng hạn như trong : 1/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN : (Subarachnoid Hemorrgage) : Người ta làm Vi phẫu “Động Mạch Phình” hoặc Vi phẫu “Dị Tật mạch máu bẩm sinh” (Microsurgery for Aneurysm or Arterioveinous Malformation) và dùng kỹ thuật “Kẹp Mạch” (Clipping) . Kỹ thuật “Clipping” là “Tiêu Chuẩn Vàng” (Gold Standard) trong phép điều trị bằng phẫu thuật của bệnh “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” . 2/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH CỔ : Người ta làm Phẫu thuật trên Động Mạch Cổ , cắt bỏ lớp bên trong của động mạch nầy (Carotid Endarterectomy) để loại bõ nguyên nhân nghẽn tắt nhẽn . Người ta còn có thể làm phẫu thuật để “Tái tạo thông máu” và tái lập lưu lượng trong mạch máu , người ta làm “Phẫu thuật bắt cầu” (Shunt) . IX/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG (CAUSE OF DEATH) CỦA VUA QUANG TRUNG : Vua Quang Trung đã mất khoảng 2 tháng sau ngày bị “bạo bệnh” mặc dầu đã được triều thần hết sức chữa chạy . Vua đã mất ngày 16 tháng 9 năm 1792 (tức ngày 29 tháng 7 âm lịch) . Vua đã bị chứng bệnh gì để đưa đến tử vong ? Nói một cách khác , chứng bệnh tử vong của Vua có thể là những chứng bệnh gì ? A/ BỆNH TÁI PHÁT (RECURRENCES) : Chứng “Xuất Huyết Dưới màng Nhện” (Subarachnoid Hemorrhage) cũng như mọi chứng ”Xuất Huyết Trong Não” đều có thể tái phát . Thông thường các trường hợp tái phát thường dữ dội hơn , có thể đưa đến tử vong rất dễ dàng . Tuy nhiên , trong bệnh “Xuất Huyết Màng Nhện” thì bệnh tái phát tức “chảy máu lại” thường trong vòng một vài tuần sau đó . Theo thống kê , 15% đến 20% bị tái lại trong 2 tuần sau . Ở đây , Nhà Vua đã qua được đến gần hai tháng nên nguyên nhân tử vong khó có thể là trường hợp tái phát xuất huyết của bệnh . B/ VIÊM PHỔI HÍT (VIÊM PHỔI SẶC) (ASPIRATION PNEUMONIA) : Một bệnh nhân khi bị tê liệt nửa người do bệnh “Xuất Huyết Não” hay “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” thường có kèm theo những triệu chứng rối loạn thần kinh của các chức năng NUỐT , hay chức năng THỞ v.v.. . Rối loạn của chức năng ““NUỐT” thường dễ đưa đến “Sặc” và khi bị Sặc , thức ăn thường có thể “chạy lộn đường” (“Fausse Route”) vào Khí Quản . Do đó , hệ quả sẽ có thể là : 1/ TẮC NGHẼN PHẾ QUẢN (Obstruction of Bronchioles) với hậu quả tạo nên “Chứng Xẹp Phổi” (Pulmonary Atelectasis) , làm giảm lượng Oxygen trong Phổi và Máu . Ngoài ra , bệnh nhân bị Liệt Nửa Người thường nằm một bên , vị trí ít thay 13 đổi , ít di chuyển thân hình qua lại đều đều bên nầy và bên kia nên các “Cục Đờm” (Mucus Plugs) dễ bị ứ đọng trong các phế quản gây nên “Tắc nghẽn Phế quản” với hậu quả là “Chứng Phổi Xẹp” như đã nói ở trên . 2/ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG PHỔI , đưa đến “CHỨNG VIÊM HÍT” còn gọi là “VIÊM PHỔI SẶC” (Aspiration Pneumonia) . Sở dĩ có “Viêm Phổi Hít” là vì các mảnh thức ăn hít vào trong khí quản sẽ tác dụng như là Vật Lạ trong Khí quản (Bronchial Foreign Bodies) và sẽ là mầm mống sinh ra Nhiễm Trùng . Hệ thống Miễn Nhiễm trong cơ thể các bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường bị suy yếu nên vì thế sức đề kháng chống lại vi trùng cũng đã giảm thiểu rất nhiều . Vì vậy , “Viêm Phổi Hít” thường rất dễ dẫn đến “Tử Vong” (Death) . Về Triệu chứng của Viêm Phổi Hít , lúc đầu thường là Ho ra đờm xanh , Khó thở , Thở Khò Khè , có thể bị Sốt , Ớn Lạnh , Đau Ngực v.v.. Về Chữa Trị của “Viêm Phổi Hít” , trong Y khoa ngày nay như đã trình bày ở trên , người ta phải dùng Kỹ Thuật Nội Soi Khí Quản (Bronchial Endoscopy) để lấy “Vật Lạ” trong khí quản ra , phải Rửa Khí Quản (Bronchial Toilette) và chữa trị mạnh tay với các KHÁNG SINH phù hợp và với liều lượng đúng mức . Ngoài ra , phải cho bệnh nhân thay đổi vị trí nằm thường xuyên , phải hút đờm nhiều lần bằng ống hút mềm xuyên qua mũi . Khi cho bệnh nhân uống nước hay khi đút cho bệnh nhân ăn thường phải rất cẩn thận , đừng để bệnh nhân sặc và nên dùng các thức ăn mềm đã xay nhuyễn . Tốt hơn ết là làm lổ thông Dạ Dày với ngoài da (Gastrostomy) để có thể nuôi dưỡng bệnh nhân đúng mức và lâu ngày mà không gây nên chứng “Viêm Phổi Sặc” hay “Viêm Phổi Hít” nầy . Bệnh “Viêm Phổi Hít” thường khởi đầu bằng “Viêm Màng Phổi” rồi tiến dần đến “Tràn Dịch Màng Phổi” với Dịch bao quanh phổi , đưa đến “Mủ Màng Phổi” với Mủ bao quanh phổi và cuối cùng là tử vong do “CHỨNG SUY HÔ HẤP” (RESPIRATORY DISTRESS) và Chức năng Hô Hấp hoàn toàn bị suy sụp . Bệnh nhân sẽ không thở được nữa và Oxygen sẽ không còn vào Não Bộ . Con đường cuối cùng đưa đến Tử Vong (Road Map to The End) của những bệnh nhân bị Liệt Bán Cầu Não lâu ngày thường là thế . Và vì vậy , theo chúng tôi , SAU KHI bị bệnh “XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” suốt hai tháng trời , RẤT CÓ THỂ :VUA QUANG TRUNG ĐÃ QUA ĐỜI VÌ BỆNH VIÊM PHỔI HÍT (ASPIRATION PHEUMONIA) dẫn đến tình trạng :TRỤY HÔ HẤP(Respiratory Distress) X/ KẾT LUẬN (CONCLUSIONS) : Và như thế , dựa vào các hiểu biết của Y Khoa ngày nay phối hợp với các Tư liệu Sử Học có giá trị còn lưu lại , chúng tôi hy vọng là chúng ta đã có thể đi đến kết luận “KHÃ DĨ” cuối cùng để có thể TRẢ LỜI HAI CÂU HỎI mà hằng bao thế hệ người Việt Nam đã đặt ra về “Cái Chết của Vua Quang Trung” : “NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” : 1/ CĂN BỆNH CỦA VUA QUANG TRUNG : XUẤT HUYẾT NÃO , DƯỚI MÀNG NHỆN (SubArachnoid Hemorrhage) do “VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Rupture of Aneurysm) 2/ NGUYÊN NHÂN TỬ VONG CỦA VUA QUANG TRUNG : VIÊM PHỔI HÍT (Aspiration Pneumonia) dãn đến TRỤY HÔ HẤP (Respiratory Distress) Theo chúng tôi , hai câu trả lời trên là hai câu trả lời “KHẢ DĨ NHẤT” và “CÓ ĐỘ CAO TIN CẬY NHẤT” mà chúng ta ngày nay có thể suy diễn được từ các tư liệu Sử Học còn lưu lại và qua các hiểu biết của Y Khoa ngày nay (2008) về Căn bệnh và về nguyên nhân Tử Vong của Vua Quang Trung hơn 200 năm trước đây . B.S. Bùi Minh Đức 7/5/2008
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:24:01 GMT 9
ĐÔ ĐỐC ĐẶNG TIẾN ĐÔNG: MỘT TƯỚNG TÂY SƠN CHỈ HUY TRẬN ĐỐNG ĐA GS Phan Huy Lê Ngọc Hồi, Đống Đa là hai chiến thắng oanh liệt nhất giữ vai trò quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Thanh năm 1788 - 1789. Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy trận Ngọc Hồi. Nhưng dưới sự lãnh đạo chung của Quang Trung, ai là người đã chỉ huy quân đội Tây Sơn lập nên chiến công Đống Đa lịch sử. Sử sách chỉ ghi chép một cách sơ lược và mơ hồ: có sách chép là đô đốc Long[1], có sách chép là đô đốc Mưu[2]. Tên nhân vật đó chỉ xuất hiện một lần trong lịch sử mà ngay cả dòng họ, quê quán cũng không ai biết. Gần đây, chúng tôi phát hiện được một số di vật gốc đời Tây Sơn và thu thập được một số tư liệu cho phép xác minh một tướng Tây Sơn được Quang Trung giao cho trọng trách đánh thắng trận Đống Đa là đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông. * Gia phả các chi họ Đặng, đặc biệt là bộ Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục cho biết khá rõ ràng ngày sinh, quê quán và gia thế của Đặng Tiến Đông. Bộ Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục gồm 6 quyển[3], do chính Đặng Tiến Đông biên soạn vào đời Tây Sơn và Ngô Thì Nhậm đề tựa. Đặng Tiến Đông sinh vào giờ Sửu (khoảng từ 1 đến 3 giờ sáng) ngày 2 tháng 5 năm Mậu Ngọ niên hiệu Vĩnh Hựu thứ tư, tức ngày 18 tháng 6 năm 1738 tại xã Thịnh Phúc, huyện Phú Xuyên (Hà Tây) thuộc chi trưởng dòng họ Đặng gốc ở làng Lương Xá (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Theo gia phả và bài tựa của Ngô Thì Nhậm thì họ Đặng xưa vốn họ Trần, tương truyền thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo. Đến đầu đời Lê, Trần Văn Huy đỗ tiến sĩ, lấy tự là Đặng Hiên nên từ đó, con cháu lấy tự của cha làm họ rồi chuyển từ họ Trần sang họ Đặng. Ngoài cách giải thích đó, một số con cháu họ Đặng còn lưu truyền thuyết cho rằng, vào đời Mạc họ này có nhiều người “phù Lê diệt Mạc” nên bị nhà Mạc truy lùng và từ đấy, đổi ra họ Đặng. Điều chắc chắn là từ đời Đặng Huấn có công phù Lê, dòng họ Đặng trở thành một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong suốt thời Lê - Trịnh. Vùng Chương Mỹ còn lưu hành nhiều câu hát về dòng họ Đặng ở Lương Xá như: Giàu thì Quảng Bị, Bối Khê, Làm quan Lương Xá, ngoại đê Đại Từ hay: Bao giờ chợ Chúc hết người, Sông Ninh hết nước, Đặng này hết quan. Đặng Tiến Đông là con trai thứ tám của Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và bà vợ lẽ thứ năm Phạm Thị Yến. Vào thời Lê mạt, cả gia đình ông từ ông cha đến anh em, chú bác đều là những quan lại, tướng soái cao cấp giữ nhiều chức tước quan trọng trong triều ngoài trấn. Nhận xét về họ Đặng và con cháu Đặng Huấn, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết: “Ngôi kiêm cả tướng văn, tướng võ; một nhà quý hiển ít ai sánh kịp” [4]. Đặng Tiến Cẩm (1679 - 1749) là con trai thứ năm Yên quận công Đặng Tiến Thự. Đặng Tiến Thự đã từng làm trấn thủ Nghệ An, phong đến chức thái phó, được chúa Trịnh ban cho họ tên là Trịnh Liều và sau khi chết được truy tặng thái tể. Đặng Tiến Cẩm đã từng giữ các chức quyền trấn thủ xứ Nghệ An kiêm trấn thủ châu Bố Chính, trấn thủ các xứ Hải Dương, An Quảng; trấn thủ Sơn Tây, đốc lãnh Hải Dương, lưu thủ kinh thành, hai lần làm đề điệu kỳ thi bác cử (thi võ) và phong đến chức Điện tiền kiểm điểm ty đô kiểm điểm. Anh em của Đặng Tiến Cẩm tức chú bác ruột của Đặng Tiến Đông, đều nắm giữ nhiều chức vụ cao cấp của chính quyền họ Trịnh. Gia quận công Đặng Tiến Lân làm đến đại tư đồ. Lại quận công Đặng Đình Sở giữ chức trấn thủ Sơn Tây. Bốc quận công Đặng Tiến Luận làm đốc phủ Sơn Tây, Hải Dương. Đặc biệt Ứng quận công Đặng Đình Tướng đã giữ những chức tước cao nhất của phủ chúa như bồi tụng, tả đô đốc, thiếu phó, thái phó, đại tư mã, đại tư không và - như Phan Huy Chú nhận định - “trong khoảng 70 năm, là một bậc kỳ cựu trải qua mấy triều, công danh phẩm giá hơn cả các quan; ba con và một cháu của ông đều lấy quận chúa, một nhà quý thịnh, người bấy giờ gọi là ông Tiên quốc lão”[5]. Đặng Tiến Đông thuộc một dòng họ thế phiệt, xuất thân trong một gia đình quý tộc đời đời ăn lộc vua bổng chúa. Nhưng ông sinh ra và lớn lên vào một hoàn cảnh hết sức biến động và đảo lộn của xã hội. Năm 1747, lên 9 tuổi, Đặng Tiến Đông bắt đầu theo học thầy Doãn Xá tại chùa Thủy Lâm (hay chùa Lương Xá, tại xã Lam Điền, Chương Mỹ, Hà Tây). Năm 1749, Đặng Tiến Đông 12 tuổi thì mồ côi cha. Mười năm sau, năm 1759, mẹ ông cũng qua đời. Đặng Tiến Đông bước vào đời đã phải chứng kiến cảnh đổ nát, tàn tạ của chế độ phong kiến, đời sống lầm than cực khổ của nhân dân và những cuộc đấu tranh rung trời chuyển đất của quần chúng. Những cơn bão táp của chiến tranh nông dân ở Đàng Ngoài đã đang lay động tận nền tảng cơ đồ thống trị của vua Lê chúa Trịnh xây dựng đã mấy trăm năm nay. Cha anh và chú bác của Đặng Tiến Đông đã từng cầm quân đàn áp những cuộc khởi nghĩa nông dân đó và nhiều phen bị thất bại thảm hại. Trong gia phả họ Đặng do ông viết, ông đã ghi chép một cách khá đầy đủ và trung thực hành động của cha anh, chú bác, kể cả những lần bị quân nông dân đánh cho thất điên bát đảo. Dưới ngòi bút của ông có thể nhận thấy, hình như ông đã bước đầu cảm thấy trong những cuộc “nổi loạn” của quần chúng một sức mạnh quật khởi khó lòng chế ngự. Nhiều thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa, ông vẫn gọi là “nghịch”, là “giặc” nhưng qua một số hành động do ông ghi lại thì không phải là kẻ hung ác, tàn bạo mà là người có tình, có nghĩa. Trong gia phả, ông có kể lại hai trường hợp Quận He Nguyễn Hữu Cầu đã tha chết cho cha ông là Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và anh cả của ông là Tri trung hầu Đặng Đình Trí. Thực tế lịch sử đau thương và quật cường những năm giữa thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đã dần dần tác động đến cách nhìn, tư tưởng và tình cảm của Đặng Tiến Đông. Nhưng phải đến phong trào nông dân Tây Sơn cùng với những chấn động mãnh liệt của nó đối với toàn bộ cơ cấu xã hội, mới mở ra cho Đặng Tiến Đông cũng như một số sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà, một chân trời mới. Giữa năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Huệ, ào ạt vượt sông Gianh, tiến ra Bắc Hà. Trong chốc lát, nền thống trị của họ Trịnh bị lật nhào. Trật tự chính trị ở Bắc Hà trải qua một cơn đảo lộn. Trước sự ruỗng nát và sụp đổ của chế độ họ Trịnh, phong trào Tây Sơn tiêu biểu sức mạnh phi thường, một sức sống đang vươn lên. Hơn một tháng sau, đoàn quân “áo vải cờ đào” và người anh hùng của họ rút về Nam, trao trả quyền hành lại cho nhà Lê. Nhưng rồi triều đình vua Lê mà bấy lâu nay nhân dân và sĩ phu Bắc Hà vẫn còn kỳ vọng, lại có dịp bộc lộ tính chất nhu nhược, bất lực hoàn toàn của nó. Chiếc ngai vàng ọp ẹp của nhà Lê vốn đã rệu rạo, nay càng ngả nghiêng trước tình trạng cực kỳ hỗn loạn của Bắc Hà. Quân Tây Sơn vừa rút, Lê Chiêu Thống đã cảm thấy “một nước trống rỗng” và vội “viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân vào bảo vệ hoàng thành”. Nhân đấy “bọn hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ”. Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau; trong nước thành ra rối loạn”[6]. Bọn con cháu chúa Trịnh như Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, bọn tướng tá cũ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế... đều nổi dậy tranh giành, đánh giết nhau và ức hiếp nhân dân thậm tệ. Vua Lê lại bị đặt vào địa vị bù nhìn. Dưới sự hoành hành của bọn tướng quân phiệt, “ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Mọi người đều cho là không còn hy vọng gì cả”[7]. Nhân cơ hội đó, cuối năm 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh lấy danh nghĩa tôn phò vua Lê, chiêu tập binh mã ở Nghệ An rồi kéo ra Thăng Long. Đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lại thâu tóm mọi quyền hành ở Bắc Hà, “quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước”[8]. Từ một phần tử phong kiến thất thế ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh phải theo Tây Sơn để gây dựng lực lượng, nay lại phản bội Tây Sơn âm mưu làm bá chủ ở Thăng Long. Dưới sự chuyên chế của Chỉnh, tình hình Bắc Hà càng rối loạn: “Lòng người lìa tan, quan văn quan võ ai cũng chán nản... Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp”[9]. Trong vòng hơn nửa năm kể từ khi quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long (tháng 7 năm 1786), tình hình Bắc Hà đã trải qua những biến động dồn dập. Những biến động đó càng chứng tỏ sự bất lực, sụp đổ không gì cứu vãn nổi của các thế lực phong kiến cũ và càng làm cho nhân dân Bắc Hà hướng về phong trào Tây Sơn. Diễn biến lịch sử đó cũng đã ảnh hưởng quyết định đến chí hướng và hành động của một số sĩ phu tiến bộ, thức thời ở Bắc Hà, trong đó có Đặng Tiến Đông. Ông đã sớm tìm thấy ở phong trào Tây Sơn và sự nghiệp của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, một niềm tin và một phương hướng mới của cuộc đời. Khoảng nửa đầu năm 1787, Đặng Tiến Đông lặn lội vào tận Quảng Nam, tìm đến quân doanh yết kiến Nguyễn Huệ khi Nguyễn Huệ đang đóng quân ở đây. Có hai văn bản và di vật gốc đời Tây Sơn xác nhận sự kiện này. Đó là bài văn bia đề là “Tông đức thế tự bi” do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc và đạo sắc do Nguyễn Huệ phong chức tước cho Đặng Tiến Đông. Bài văn bia được khắc vào một tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm thôn Lương Xá (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Bia cao 1,72m, bề ngang 0,85m, dày 0,34m. Nội dung bài văn bia, ngoài phần nói về Thế phả họ Đặng, có một đoạn ngắn nhưng rất quan trọng tóm lược công lao, sự nghiệp của Đặng Tiến Đông kể từ khi theo Tây Sơn cho đến khi lập chiến công trong cuộc kháng chiến chống Thanh. Bài văn bia khắc vào ngày 15 tháng 6 năm Đinh Tị niên hiệu Cảnh Thịnh thứ năm, tức ngày 9 - 7 - 1797. Cuối bia ghi rõ ngày, tháng và niên hiệu: “Hoàng triều đệ nhị đế...,... (hai chữ Cảnh Thịnh bị đục) vạn vạn niên chi ngũ tuế, tại Đinh Tị lục nguyệt thập ngũ nhật”. Cùng chức tước, họ tên người soạn và nhuận sắc bài văn bia là: “Đương triều dực vận công thần, sắc thụ đặc tiến vinh lộc thượng đại phu, thị trung ngự sử, khâm sai khánh hạ bố chính sứ, Thụy nham hầu Phan Huy Ích chi Dụ phủ, kính soạn”. “Đương triều dực vận công thần, sắc thụ đặc tiến Vinh lộc thượng đại phu, thị trung đại học sĩ kiêm binh bộ thượng thư quản lĩnh bí thư thự, Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm, Hy Doãn phủ, kính nhuận”. Phan Huy Ích quê ở Sài Sơn, huyện Quốc Oai (Hà Tây). Ngô Thì Nhậm quê ở làng Tả Thanh Oai (Hà Tây). Hai người đỗ tiến sĩ, đã từng làm quan cho họ Trịnh và tháng 5 năm 1788, khi Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long lần thứ hai, đều theo Tây Sơn. Đối với Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những người bạn thân thiết cùng quê, cùng triều và cùng chí hướng. Về việc Đặng Tiến Đông tìm vào Quảng Nam theo Nguyễn Huệ, bài văn bia ghi rõ: “Thái tổ Vũ hoàng đế của hoàng triều, nghĩa thanh vang dội, đóng quân ở Quảng Nam, ông (tức Đặng Tiến Đông - TG) đến cửa quân xin yết kiến, được đón tiếp và đãi ngộ riêng, rồi được tin yêu ban cho ấn kiếm, giao cho thống lĩnh việc quân...”. Đạo sắc phong chức tước cho Đặng Tiến Đông đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười, tức ngày 15 - 8 - 1787. Văn bản viết trên giấy sắc khổ 138 x 50cm, hiện do chi trưởng của dòng họ Đặng ở Lương Xá giữ và đặt thờ trên bàn thờ của chi họ này. Đây là nguyên bản sắc phong chức tước đời Tây Sơn còn giữ được đến nay. Trên tờ sắc có dấu son hình vuông khổ 7,8 x 7,8cm đóng trên dòng chữ đề niên hiệu “Thái Đức thập niên” và hai dấu kiểm hình bầu dục eo ở giữa, khổ 3,4 x 2,5cm đóng trên dòng chữ ghi họ tên và chức tước của Đặng Tiến Đông. Thái Đức là niên hiệu của “Hoàng đế” Nguyễn Nhạc. Nhưng tờ sắc này không phải do Nguyễn Nhạc mà do Nguyễn Huệ phong chức tước cho Đặng Tiến Đông. Lúc đó Nguyễn Huệ còn là Bắc Bình Vương, chưa lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu riêng nên tờ sắc còn dùng niên hiệu Thái Đức của Nguyễn Nhạc. Tờ sắc có đoạn biểu dương Đặng Tiến Đông là người có “khí khái của trượng phu, tấm lòng của nam tử, đường làm quan gặp gỡ, dựng nên công lớn vua tôi, trước sau báo đền, không quên điều hiểu biết của kẻ sĩ trong nước, trải qua mùa đông mà không chịu khuất như cây tùng lúc giá rét...”. Đặng Tiến Đông được Nguyễn Huệ đón tiếp niềm nở, tin cẩn và lập tức được ban ấn kiếm, phong chức tước. Theo tờ sắc, Nguyễn Huệ phong Đặng Tiến Đông làm đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu và sai giữ chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Từ đó, Đặng Tiến Đông trở thành một tướng soái cao cấp của quân đội Tây Sơn dưới quyền thống lĩnh của Nguyễn Huệ. Hiện nay, gia phả của họ Đặng và những tư liệu có liên quan chưa cho biết rõ trước khi theo Nguyễn Huệ, Đặng Tiến Đông đã đỗ đạt như thế nào, đã giữ những chức tước gì trong chính quyền họ Trịnh, rồi rời bỏ Bắc Hà vào Quảng Nam vào lúc nào?. Điều chắc chắn là Đặng Tiến Đông đã tìm đến yết kiến Nguyễn Huệ trước ngày 15 - 8 - 1787. Và chính cuộc tri ngộ đó đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong cuộc đời và sự nghiệp của Đặng Tiến Đông. Như vậy, trong số quan lại, sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà đi theo Tây Sơn, phải kể Đặng Tiến Đông là người đầu tiên. So với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích... theo Tây Sơn vào giữa năm 1788, hành động của Đặng Tiến Đông sớm hơn gần một năm. Hơn nữa Đặng Tiến Đông lại tự mình tìm vào Quảng Nam xin yết kiến Nguyễn Huệ, thể hiện một thái độ thức thời, kiên quyết và mạnh dạn. *
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:25:28 GMT 9
Bình đồ ngôi mộ có hai biaHình vẽ bia sắc tứ của Đại thiền sư Thanh Thận Chiêu Quả.Ảnh chụp tấm bia đặt trên lưng rùa (có khả năng là bia dựng ở Miếu Lễ Lê Thánh Tông vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu) Hình vẽ ngôi mộ trước chùa Vạn Phước, với hai bia, không phải tháp sưTheo tờ sắc phong chức tước thì từ ngày 15 - 8 - 1787, Đặng Tiến Đông đã được phong làm đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu, giữ chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Nhưng thực ra, lúc đó quân Tây Sơn chỉ kiểm soát trấn Nghệ An trở vào, còn trấn Thanh Hoa vẫn thuộc phạm vi cai quản của nhà Lê. Cuối năm 1787, khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ, chỉ huy quân Tây Sơn tiến ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh thì tướng trấn thủ Thanh Hoa là Nguyễn Duật [10]. Duật là bộ tướng thân cận của Nguyễn Hữu Chỉnh, được Chỉnh cử vào làm trấn thủ Thanh Hoa trước đó mấy tháng. Trước thế mạnh của quân Tây Sơn, Nguyễn Duật không dám chống cự, rút quân về giữ Trinh Giang (Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Vũ Văn Nhậm sai Ngô Văn Sở đem quân đánh úp mặt sau, giết chết Nguyễn Duật. Từ đó, xứ Thanh Hoa mới thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (q. 30) và đặc biệt là bài ký khắc trên biển gỗ ở đền Đồng Cổ (làng Đan Nê, Yên Định, Thanh Hóa) do Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn làm và khắc vào đầu mùa hè năm Bảo Hưng thứ hai (năm 1802) thì từ mùa xuân năm 1790 đến năm 1802, Nguyễn Quang Bàn giữ chức đốc trấn trấn Thanh Hóa[11]. Vậy Đặng Tiến Đông chỉ có thể làm trấn thủ xứ Thanh Hoa trong khoảng thời gian từ cuối năm 1787 đến đầu năm 1790. Nhưng tại sao trong sắc phong chức tước đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười (ngày 15 - 8 - 1787), Nguyễn Huệ đã cử Đặng Tiến Đông làm trấn thủ xứ Thanh Hoa?. Nguyên văn lời trong đạo sắc là: “Khả gia đô đốc đồng tri chức, Đông Lĩnh hầu, nhưng sai Thanh Hoa xứ trấn thủ” nghĩa là “Nên gia phong chức đô đốc đồng tri, [tước] Đông Lĩnh hầu, vẫn sai làm trấn thủ xứ Thanh Hoa”. Theo lời văn của đạo sắc, thì có thể trước đây Đặng Tiến Đông đã từng làm trấn thủ Thanh Hoa và nay Nguyễn Huệ lại giao cho ông chức vụ đó. Nhưng phải đến cuối năm đó, khi trấn Thanh Hoa thuộc về quân Tây Sơn thì Đặng Tiến Đông mới có thể thực hiện chức vụ trấn thủ của mình. Cuối năm 1788, quân Thanh tràn sang xâm lược. Quân Tây Sơn ở Bắc Hà phải tạm rút về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn. Trong cuộc kháng chiến chống Thanh, xứ Thanh Hoa[12] giữ vai trò một địa bàn chiến lược quan trọng. Đó là vùng đất nằm ngay sau phòng tuyến của Tây Sơn, tiếp giáp với vùng kiểm soát của quân địch (từ phía Bắc phủ Trường Yên trở ra). Đó cũng là vùng cực Bắc hậu phương an toàn của quân Tây Sơn và là nơi tập kết các đạo quân chủ lực của Tây Sơn trước khi xuất phát bước vào cuộc phản công chiến lược đập tan cuộc xâm lược của quân Thanh. Với cương vị là trấn thủ xứ Thanh Hoa, hẳn đô đốc Đặng Tiến Đông có góp phần cùng với Ngô Văn Sở xây dựng, bảo vệ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn vốn thuộc địa phận và hải phận xứ Thanh Hoa, và nhất là chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để đất Thanh Hoa có thể trở thành khu vực tập kết và bàn đạp phản công của đại quân Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Tiếc rằng chính sử cũng như gia phả họ Đặng và các tư liệu thu thập được không ghi chép gì về những hoạt động của trấn thủ Đặng Tiến Đông trong khoảng cuối năm 1788. Đầu năm 1789, khi từ Tam Điệp - Biện Sơn mở cuộc tập kích chiến lược giải phóng kinh thành Thăng Long, Quang Trung giao cho đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy một đạo quân tiên phong tiến ra bất ngờ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa (hay Khương Thượng, khu Đống Đa, Hà Nội). Bài văn bia của Phan Huy Ích tóm tắt vũ công của đô đốc Đông như sau: “Năm Mậu Thân (năm 1788 - TG), đầu đời Quang Trung (hai chữ Quang Trung bị đục - TG) quân Bắc xâm chiếm nước Nam, ông (tức Đặng Tiến Đông - TG) phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”. Con cháu nhiều chi họ Đặng ở Chương Mỹ (Hà Tây) còn ghi nhớ và truyền tụng công lao của “quan đô” - tức đô đốc Đông, theo cách gọi phổ biến của các cụ già họ Đặng - là đã vâng mệnh vua Quang Trung đánh thắng trận Đống Đa, tiêu diệt hàng vạn quân Thanh. Như vậy là mờ sáng ngày 5 tháng Giêng Tết Kỷ Dậu (ngày 31 - 1 - 1789), khi Quang Trung chỉ huy đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi ở phía Nam Thăng Long thì đô đốc Đông, theo kế hoạch của Quang Trung, chỉ huy một đạo quân Tây Sơn khác tiến đánh đồn Đống Đa. Từ Tam Điệp, đạo quân của đô đốc Đông đi theo con đường “thượng đạo” qua Phố Cát ra Thiên Quan (Nho Quan, Ninh Bình) rồi xuyên qua Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Tây) là quê hương của Đặng Tiến Đông, tiến lên Đống Đa. Đó là một con đường giao thông đã có từ lâu đời nhưng đến thế kỷ XVIII, như Lê Quý Đôn nhận xét, “Đường núi đã bế tắc, không đi được nữa”[13]. Hành quân theo con đường núi đã bế tắc như vậy, quân Tây Sơn phải mở lấy đường đi, khắc phục nhiều trở ngại của núi rừng. Điều đó đòi hỏi tướng chỉ huy không những phải có năng lực tổ chức mà còn phải am hiểu cặn kẽ địa hình trong vùng. Đặng Tiến Đông sinh trưởng ở vùng Chương Mỹ nằm trên con đường giao thông ấy, hẳn đáp ứng được những yêu cầu trên. Khoảng canh tư ngày 5 Tết Kỷ Dậu, vào lúc trời còn tối, quân Tây Sơn áp sát đồn Đống Đa rồi bất ngờ tiến công vào doanh trại giặc. Một sự kiện cần đặc biệt chú ý là vừa lúc đó, nhân dân 9 xã chung quanh đem những con cúi bện bằng rơm rạ, tẩm dầu, đốt lửa bao vây đồn giặc, tạo thành một hàng rào lửa dày đặc, đó là “trận rồng lửa” (hỏa long trận) mà nhà thơ Ngô Ngọc Du còn ghi lại trong bài thơ Long thành quang phục kỷ thực. “Trận rồng lửa” đã phát huy tác dụng to lớn của nó, góp phần bao vây, uy hiếp quân địch, tạo điều kiện cho quân Tây Sơn nhanh chóng tiêu diệt đồn giặc. Hành động đó chứng tỏ lòng yêu nước, tinh thần mưu trí và sự tham gia tự nguyện của nhân dân; nhưng mặt khác cũng đòi hỏi sự vận động và tổ chức trước của quân Tây Sơn. Theo lời kể của con cháu họ Đặng thì “quan đô” đã “bày ra mưu kế” diệt đồn Đống Đa. Phải chăng “trận rồng lửa” nằm trong mưu kế của đô đốc Đông?. Vốn là người quê ở Chương Mỹ, có nhiều bạn bè, bà con thân thuộc và ảnh hưởng rộng lớn trong vùng, Đặng Tiến Đông có nhiều điều kiện thuận lợi để vận động và chuẩn bị một kế hoạch phối hợp với nhân dân địa phương như vậy. Trận Đống Đa là một trận đánh tiêu diệt chớp nhoáng. Trận đánh bắt đầu lúc canh tư và kết thúc lúc trời chưa sáng. Sau khi tiêu diệt đồn Đống Đa, đô đốc Đông đưa đạo quân tiền phong vượt qua cửa ô Thịnh Quang, tràn vào thành Thăng Long. Rồi như một mũi dao nhọn, đô đốc Đông dẫn đầu đoàn quân lao thẳng về phía cung Tây Long, tạo nên mối uy hiếp hết sức bất ngờ đối với đại bản doanh của chủ soái quân Thanh. Phan Huy Ích còn ghi lại trong bài văn bia, mũi tiến công thọc sâu lợi hại đó qua hình ảnh: "Ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”. Mũi tiến công như vũ bão của đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy ở mặt nam Thăng Long cùng với mũi vu hồi thọc sâu bất ngờ sắc bén của đô đốc Đông ở mặt tây nam, đã giáng những đòn quyết định nghiền nát cuộc xâm lược của quân Thanh, buộc Tôn Sĩ Nghị và bọn tàn quân phải tháo chạy thảm hại. Sáng ngày mồng 5 Tết, đạo quân của đô đốc Đông tiến vào thành Thăng Long trước hết. Trưa ngày hôm đó, Quang Trung cùng với đại quân tiến vào kinh thành giữa sự đón chào của đô đốc Đông và sự hoan nghênh của nhân dân các phố phường Thăng Long. Bài văn bia của Phan Huy Ích còn ghi công trạng của đô đốc Đông và sự ban thưởng của Quang Trung với ông: “Vũ hoàng đế vào Thăng Long, tiến hành khen thưởng, ban riêng cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn, phàm các khoản binh phân, hộ phân, sưu sai đều cho miễn trừ”. * Không còn nghi ngờ gì nữa, đô đốc Đặng Tiến Đông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh và là một vị tướng chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa lịch sử. Ở đây, có vấn đề đặt ra là đô đốc Đông có phải là đô đốc Long hay đô đốc Mưu được ghi chép trong sử cũ không?. Hiện nay, chưa tìm thấy tài liệu nào nói rõ đô đốc Đông là đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhưng phân tích và đối chiếu các tư liệu, các sự kiện có liên quan thì theo tôi, có nhiều khả năng Đặng Tiến Đông là tên thật của đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhận định đó dựa trên những cơ sở sau đây: - So sánh các loại tài liệu thì những sự việc mà sử sách trước đây chép là của đô đốc Long (hay Mưu), theo những tư liệu mới phát hiện và thu thập được lại là của đô đốc Đông. Ví dụ tướng Tây Sơn được Quang Trung giao cho chỉ huy đạo quân diệt đồn Đống Đa (hay trại Khương Thượng) theo Hoàng Lê nhất thống chí là đô đốc Long, theo Đại Nam chính biên liệt truyện là đô đốc Mưu, theo những tư liệu mới trình bày ở trên lại là đô đốc Đông. Đội quân Tây Sơn đầu tiên tiến vào thành Thăng Long, theo Hoàng Lê nhất thống chí và Minh đô sử là đội quân của đô đốc Long, theo bài văn bia do Phan Huy Ích soạn lại là đô đốc Đông. Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Sáng hôm ấy, Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức. Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành[14]. Có thể so sánh với đoạn văn bia của Phan Huy Ích: đô đốc Đông “phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm". Ngay cả hình ảnh đô đốc Đông cưỡi ngựa chỉ huy quân sĩ đánh giặc mà Phan Huy Ích ghi lại trong văn bia cũng phù hợp với một đoạn văn của Minh đô sử mô tả đô đốc Long phi ngựa ra đón tiếp Quang Trung. Những điều trùng hợp đó chứng tỏ đô đốc Long, đô đốc Mưu, đô đốc Đông chỉ là một người. Đó là những tên ghi chép khác nhau về vị đô đốc đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa và tiến vào thành Thăng Long đầu tiên. - Toàn bộ quân đội Tây Sơn huy động vào cuộc phản công chiến lược có trên 10 vạn, chia làm 5 doanh (hay 5 quân): Tiền, Trung, Hậu, Tả, Hữu. Như vậy mỗi doanh ước chừng dưới 2 vạn quân. Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp thống lĩnh tập trung đến 3 doanh: Tiền quân do nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy, Trung quân do Đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy và Hậu quân do Hám Hổ hầu chỉ huy. Tả quân do đại đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết chỉ huy đảm nhiệm mũi tiến công vào Hải Dương và mũi bao vây vu hồi chặn đường rút chạy của tàn quân địch. Hữu quân, theo Hoàng Lê nhất thống chí do đại đô đốc Bảo và đô đốc Long chỉ huy, chia làm hai đạo: một đạo tiến ra Đại Áng phối hợp với đạo quân chủ lực tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, một đạo tiến ra Nhân Mục, tiêu diệt đồn Đống Đa. Đạo quân đánh đồn Đống Đa là một bộ phận của hữu quân. Mũi tiến công đó rất quan trọng, nhưng về binh lực không nhiều lắm. Đứng về tổ chức và phiên chế, chỉ huy một đạo quân như vậy là một đô đốc, không có lý do gì phải giao cho hai hay ba đô đốc[15]. Ngoài đạo quân chủ lực, ba đạo quân kia mỗi đạo cũng chỉ do một đô đốc chỉ huy (đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết). Đô đốc Long hay đô đốc Mưu hay đô đốc Đông chỉ là một người. - Hơn nữa, qua đạo sắc phong chức tước và bài văn bia của Phan Huy Ích, thấy rõ Quang Trung rất tin cẩn và ưu đãi Đặng Tiến Đông. Không lẽ Quang Trung lại đặt đô đốc Đông dưới quyền đô đốc Long (hay Mưu) nếu đó là hai người. Chính sách dùng người của Quang Trung nói chung và thái độ đối xử với những sĩ phu tiến bộ theo Tây Sơn nói riêng, càng chứng tỏ đô đốc Long chính là đô đốc Đông. Nhưng là một người, tại sao có tài liệu chép là đô đốc Long, có tài liệu chép là đô đốc Mưu, có tài liệu chép là đô đốc Đặng Tiến Đông?. Cũng chưa có cứ liệu nào cho phép giải thích rõ vấn đề này. Điều đáng lưu ý là những sách chép là đô đốc Long hay đô đốc Mưu, không có một tài liệu nào ghi chú rõ nguồn gốc của nhân vật, ngay cả họ hàng quê quán cũng không biết. Còn gia phả họ Đặng, đạo sắc phong chức tước đời Tây Sơn, văn bia của Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những tư liệu có giá trị, ghi chép đầy đủ họ tên, quê quán và phản ánh những nét lớn thân thế, sự nghiệp của Đặng Tiến Đông. Có thể do ghi chép sai lạc, phát âm chệch [16], cũng có thể do một lý do nào đó, Đặng Tiến Đông giấu tên thật của mình và vì vậy, đô đốc Đông trở thành đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Sau khi đánh tan quân giặc ngoại xâm, Đặng Tiến Đông vẫn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Tây Sơn, tiếp tục đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều Quang Trung (1788 - 1792), ông giữ chức Vệ quốc thượng tướng quân trấn thủ hai xứ Thanh Hoa và Nghĩa An (thời Tây Sơn gọi trấn Nghệ An là Nghĩa An hay Trung Đô). Có lẽ ông giữ chức vụ đó cho đến năm 1790 là khi Quang Trung cử con là Nguyễn Quang Bàn làm đốc trấn trấn Thanh Hóa và tướng Trần Quang Diệu làm đốc trấn trấn Nghĩa An. Theo bài văn bia chùa Thủy Lâm do Phan Huy Ích soạn khắc vào năm Cảnh Thịnh thứ năm (1797) và bài minh do Trần Bá Lam soạn khắc vào chuông chùa Trăm Gian (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì trong thời Quang Toản (1792 - 1802), ông giữ chức đại tướng thống vũ thắng vệ Thiên hùng hiệu. Ngoài việc nước, trong thời gian làm quan trong triều Tây Sơn, Đặng Tiến Đông còn chăm lo tu bổ một số đền chùa ở quê hương. Trải qua nhiều năm biến loạn thời cuối Lê, dân làng Lương Xá có một bộ phận lưu tán đi các nơi. Ông đã chiêu tập dân làng trở về quê hương, khai khẩn đất đai, mở mang thôn xóm. Ông cúng cho làng 600 quan tiền và 17 mẫu ruộng tốt để tu bổ chùa Thủy Lâm, đền thờ họ Đặng và làm chi phí thờ cúng hàng năm. Ông còn sửa sang lại chùa Trăm Gian, đúc chuông cho nhà chùa (năm 1794) và cúng 80 quan tiền, 8 mẫu ruộng làm hậu Phật. Chùa Trăm Gian còn giữ được bức tượng Đặng Tiến Đông mà nhân dân địa phương thường gọi là “tượng quan đô”. Bài văn bia “Đặng tướng công bi" dựng trong chùa và gia phả một số chi họ Đặng cho biết bức tượng tạc vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) lúc Đặng Tiến Đông 56 tuổi. Các tài liệu trên chép là “tượng truyền thần", tạc vào lúc “sinh thời” của ông. Các cụ già làng Tiên Lữ tương truyền rằng, tượng giống người đến mức độ khi rước tượng về chùa, tượng đặt trong kiệu đi trước, “quan đô” ngồi trong kiệu đi sau, người xem không làm sao phân biệt được người và tượng! Ngày nay, khó mà xác định bức tượng có giống người đến mức độ như vậy không. Nhưng nghiên cứu bức tượng thì rõ ràng đấy không phải là một bức tượng mang tính chất tượng trưng, ước lệ thường gặp trong các chùa đền. Bức tượng nhằm diễn tả một con người cụ thể có dáng vóc, phong thái và cá tính riêng. Tượng bằng gỗ mít, cao 1,30m không kể bệ, tạc một võ tướng mặc võ phục đơn giản, trong tư thế ngồi, hai tay vòng về phía trước. Tượng thể hiện một người có tuổi, dáng cao lớn, vai rộng, khuôn mặt to, mồm hơi dô, môi dày, râu quai nón... Nét mặt trang nghiêm nhưng có vẻ hiền lành, chất phác. Bức tượng đã bị mọt đục ruỗng đôi chỗ và đã bị sơn lại. Gia phả chi họ Đặng ở thôn Long Châu, xã Phụng Châu (Chương Mỹ, Hà Tây) đề là Đặng gia phả ký cho biết năm Thành Thái thứ 15 (1903), năm chi họ Đặng đã góp tiền, trùng tu bức tượng của tiên tổ ở chùa Trăm Gian. Đó là một lần trùng tu có thể xác định được. Do những lần trùng tu như vậy nên nước sơn và những trang trí trên áo quần, mũ đai không còn giữ được phong cách đời Tây Sơn. Nhưng tính chất và giá trị chân dung của bức tượng vẫn có thể nhìn nhận và đánh giá được. Đây không phải là một tác phẩm điêu khắc thật đẹp, nhưng là một bức tượng chân dung rất hiếm có của nghệ thuật thời Tây Sơn. Bức tượng cho thấy một hình ảnh cụ thể về đô đốc Đặng Tiến Đông, vị tướng Tây Sơn đã có công lập nên chiến thắng Đống Đa lịch sử. Đặng Tiến Đông mất ngày 15 tháng 4 vào một năm khoảng cuối đời Tây Sơn (năm cụ thể chưa xác định được). Mộ ông táng ở xứ Đồng Trê, nay thuộc thôn Đầm Dền, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. * Sử sách không ghi chép một câu nào về Đặng Tiến Đông. Nhưng những tài liệu, di vật mới phát hiện cho phép nêu cao công lao, sự nghiệp của đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông và trả lại cho ông vị trí xứng đáng cùng với cống hiến xuất sắc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1788 - 1789. Đặng Tiến Đông là một trong những sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà đã sớm tìm ra con đường đi đúng đắn của mình trong tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc cực kỳ ác liệt và phức tạp cuối thế kỷ XVIII. Ông đã kiên quyết và dũng cảm đi theo phong trào Tây Sơn, đứng về phía nhân dân và dân tộc. Phương hướng đúng đắn đó đã mở ra cho ông một cuộc đời mới, tạo điều kiện cho ông phát huy tài năng của mình, có những cống hiến tích cực đối với lịch sử. Đặng Tiến Đông đã sớm trở thành một tướng soái tài ba của quân đội Tây Sơn. Dưới sự tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ, đô đốc Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa, góp phần quan trọng tạo nên mùa xuân đại thắng của dân tộc năm Kỷ Dậu 1789. (Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 154, 1974, tr.63-70) [1] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964, tr.362; Lê Trọng Hàm, Minh đô sử, sách chép tay, Q.44. [2] Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, sách in đời Nguyễn, Q.30; Đào Nguyên Phổ, Tây Sơn thủy mạt khảo, sách chép tay. [3] Đặng Tiến Đông, Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục, Sách chép tay gồm 6 quyển: - Quyển 1 gọi là “ngoại kỷ” chép nguồn gốc xa của họ Đặng vốn là họ Trần. - Quyển 2 chép về đời Nghĩa quốc công Đặng Huấn. - Quyển 3 chép về đời Hà quận công Đặng Tiến Vinh. - Quyển 4 chép về đời Doanh quận công Đặng Thế Tài. - Quyển 5 chép về đời Yên quận công Đặng Tiến Thự. - Quyển 6 chép về đời Dậuquận công Đặng Tiến Cẩm. [4] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, T.I, tr.257. [5] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr.229. [6] Sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, T.XX, tr.23. [7] Sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, Sđd, T.XX, tr.25. [8] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964, tr.195. [9] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.219. [10] Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (Q.30) chép là Lê Duật. Hoàng Lê nhất thống chí có chỗ chép là Nguyễn Duật (bản dịch đã dẫn, tr.246), có chỗ chép là Lê Duật (tr.225, 265). Việt sử thông giám cương mục chép thống nhất là Nguyễn Duật và chú thích rõ là người Nộn Liễu, huyện Nam Đường (Sđd, T.XX, tr.38). [11] Trần Văn Giáp, Nguyễn Duy Hinh, Một bài văn đời Tây Sơn khắc trên biển gỗ ở miếu thờ thần núi Đồng Cổ (Thanh Hóa) nói về trống đồng, Tạp chí Khảo cổ học số 5 - 6, tháng 6 - 1970, tr.168 - 175. [12] Từ thời Lê Trung Hưng, xứ hay trấn Thanh Hoa gồm Thanh Hoa nội là tỉnh Thanh Hóa ngày nay và Thanh Hoa ngoại là tỉnh Ninh Bình ngày nay. Thời Tây Sơn, Thanh Hoa ngoại thống thuộc vào Bắc Thành. [13] Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, tr.341. [14] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.364. [15] Thời Quang Trung, đô đốc là một chức võ quan cao cấp và trong cuộc kháng chiến chống Thanh được giao quyền chỉ huy các đạo quân phụ trách các hướng tiến công phối hợp. Sang thời Quang Toản, chính quyền Tây Sơn suy yếu dần, tệ mua bán chức tước phát triển và từ đó mới có nạn “đô đốc tam thiên đô đốc, chỉ huy bát vạn chỉ huy...”. [16] Đặng Tiến Đông vốn tên là Đông chữ Hán viết là (东), sau đổi viết là (月东). Chữ Đông (东) và chữ Long (龙) (viết tắt), tự dạng gần giống nhau, rất dễ viết nhầm. Về phương diện ngữ âm, những từ có phụ âm đều đầu là Đ, L rất dễ chuyển hóa lẫn nhau.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 8:09:22 GMT 9
Di tích và truyền thuyết về nhà Tây SơnTái hiện hình ảnh chiến binh thời Tây Sơn - Ảnh Hoài ThuNhững truyền thuyết dưới đây là tôi nghe nội tổ và song thân cùng các vị phụ lão ở Bình khê kể lại. Gia đình tôi ở ấp Tây Sơn hạ (Bình khê hiện thời) đã chín đời. Trong nhà trước đây có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn (Tây Sơn dã sử), một của người Bình Định viết, một ở Bắc đưa vào. Thời Pháp thuộc cụ Hoàng Yến làm tri huyện Bình khê mượn xem rồi tịch thu mất (tịch thu là vì đồ quốc cấm). Cho nên những gì tôi viết ra đây là viết thuộc lòng, nghe sao viết vậy mà thôi. “Ðành chẳng công đâu may khỏi tội Bao nhiêu chữ đó bấy nhiêu tâm” (Sào Nam) DI TÍCH Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường sơn. Nằm trọn trong phần đất ba quận Vĩnh thạnh, Cam túc, Bình khê hiện tại. Tây Sơn làm ranh giới cho tỉnh Bình Định ở phía đông và Pleiku, Kontum ở phía tây. Dãy núi An lão và Kim sơn cũng thuộc hệ thống Trường sơn, cũng nằm phía tây tỉnh Bình Định (ở phía bắc) và cũng dính liền với dãy Tây Sơn (ở phía nam) nhưng không mang danh Tây Sơn. Bởi vì cổ nhân lấy tỉnh lỵ làm điểm đứng ngắm. Tỉnh lỵ Bình Định trước kia là thành Ðồ Bàn ở Nam an, Bắc thuận (An nhơn), thời gần đây là thành Bình Định ở An ngãi, Liêm trực (An nhơn), và hiện nay là Qui Nhơn. Ðứng trong ba nơi này mà trông thì dãy Tây Sơn nằm hẳn về chính tây, còn hai dãy Kim sơn và An lão nằm về tây bắc. Tên Tây Sơn đã có từ lâu. Vì núi mệnh danh là Tây Sơn, nên các vùng sơn cước, bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn. Trước kia gọi là Ấp Tây Sơn. Ấp Tây Sơn gồm có ba phần: 1. Tây Sơn Thượng gồm toàn cõi An khê thuộc quận An Túc hiện nay, lấy đèo An Khê làm ranh giới Tây Sơn Trung gồm phần đất đai thuộc quận Vĩnh Thạnh hiện nay, tức từ đèo An Khê đến đầu Hữu Giang, Tả Giang 2. 3. Tây Sơn Hạ gồm đất đai từ Hữu giang, Tả giang đến An chính, tức là phần đất quận Bình khê hiện nay. Ấp Tây Sơn xưa kia thuộc huyện Tuy viễn (đất Ðồ Bàn sau khi trở thành đất Việt Nam thì chia làm ba huyện: Bồng sơn, Phù ly, Tuy viễn). Tên ấp bị bỏ từ đời Gia Long. CÁC NGỌN NÚI CÓ LIÊN HỆ MẬT THIẾT ĐẾN NHÀ TÂY SƠN Ở bắc ngạn sông Côn có hòn Trung sơn, nằm trong địa phận thôn Phú lạc (chánh quán của Tây Sơn tam kiệt). Ở nam ngạn sông Côn có những núi: Núi HOÀNG ÐẾ, núi HIỂN HÁCH ở quận An túc Ðèo An khê. Núi Ông Bình, núi Ông Nhạc ở phía đông đèo An khê. Núi Tâm phúc, núi Lãnh lương, hòn Hoành sơn, hòn Ấn, hòn Kiếm nằm dọc theo quốc lộ 19, từ núi Ông Nhạc xuống đến thôn Trinh tường, xã Bình tường, quận Bình khê. Từ Tiên thuận trở xuống, dọc theo con sông Côn, đến Hữu giang, Phú lạc núi vẫn nối liền nhau, quanh co khúc khuỷu. Nổi danh nhất là hòn TRUNG SƠN. Hòn Trung sơn thuộc thôn Phú lạc, quê hương của tam kiệt nhà Tây Sơn và anh hùng Mai Xuân Thưởng. Núi không lấy làm cao (422 thước) nhưng trông rất khôi hùng. Trông gần thì mập mạp hung hăng như con bò đực sung sức lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu. Nên người địa phương thường gọi là hòn SUNG. Lưng núi có nhiều chỗ nổi từng vồng từng ụ, như bị đánh sưng. Nên nhiều người gọi là hòn SƯNG thay vì hòn Sung. Núi còn có tên nữa là ÐỘC XỈ SƠN và ÐỘC NHŨ SƠN, vì ở xa, nếu đứng xiên một phía mà trông thì giống như một chiếc răng nanh dựng ngược, còn đứng trước mặt mà ngó thì tương tợ một nấm vú vun (1). Do đó núi lại có tên nữa là BÚT SƠN. HÒN SUNG là tổ sơn trong vùng hữu ngạn. Mặt hướng về đông nam và lấy dãy Sơn Triều sơn ở Cầu Gành, thuộc An nhơn làm Tiền án (2), và long mạch chạy xuống hướng đông đến hòn Mạ Thiên sơn tục gọi là hòn Mò O ở giữa An nhơn và Phù cát, thì hồi cố (3). Phía trước mặt và hai bên tả hữu,gò đống nổi đầy, cuồn cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn núi chung quanh đều xây mặt về triều củng, như các vị đại thần đứng chầu một đấng anh quân. Còn gò đống kia là quân lính dàn hầu. Ðến viếng Hòn Sung, một du khách có để lại mấy câu rằng: Hòn Sung tuy thấp mà cao Trời cho làm chốn anh hào lập thân Kìa ai áo vải cứu dân Kìa ai ba thước gươm thần chống Tây Chuyện đời rủi rủi may may Hòn Sung cây trải đá xây bao sờn Trên đỉnh hòn Sung có một vùng đá hình chữ nhật, bằng phẳng, bên cạnh có hai tảng đá vuông vức chồng lên nhau. Người ta bảo đó là "Mả mẹ chàng Lía". Truyền rằng mẹ chàng Lía lâm chung tại hòn Chớp Vàng thôn Phú phong. Lía muốn đưa hài cốt đến táng nơi hòn Sung cách đến 5 cây số về hướng bắc, bèn lên đỉnh núi, đầu đội quan tài mẹ, một tay vịn, một tay nắm chiếc mâm đồng ngắm phía hòn Sung mà vút mạnh. Chiếc mâm vụt bay. Liá liền nhảy theo đứng trên mâm, rồi lấy thế nhảy vọt đến hòn Sung. An táng mẹ xong, lía rinh đá khối xây mộ, và chồng hai tảng đá bên mồ để ngồi khóc mẹ. Do đó người địa phương còn gọi hòn Sung là hòn "Mả Mẹ Chàng Lía". Sau lưng và phía tả phía hữu của hòn Sung, có nhiều ngọn núi không cao nhưng hiểm trở. Như hòn HÀNH SƠN tục gọi là Dốc Dài nối liền hòn Sung và hòn VINH ÐO tức hòn Dồ ở Hữu giang. Nhưng đặc sắc hơn hết là hòn ÐÁ DÀN, tên chữ là DƯƠNG THẠCH SƠN. Hòn ÐÁ DÀN ở phía bắc hòn Sung, cạnh hòn Sống. Trên núi, đá chồng chất, lớp dựng lên lớp giăng ra. Do đó núi mệnh danh là ÐÁ DÀN (dàn bày ra). Dưới chân và trên triền núi, cây cối rậm rạp. Nhưng trên đỉnh lại chỉ có bụi còi. Ðỉnh núi bằng phẳng và chạy dài như một con đường quan lộ. Có lối đi từ chân núi lên đỉnh rồi chạy qua hòn Sống, ra đèo Bồ Bồ..., theo đường tắt ra vùng Kim sơn. Chính nghĩa quân Cần Vương đã dùng con đường này để liên lạc với các mật khu trong hai vùng Bắc Nam. Trong dãy núi phía sau lưng hòn Sung, có ngọn suối gọi là SUỐI ÐÁ vì khô quanh năm và trong lòng ngổn ngang là đá, thiên hình vạn trạng, chơm chởm, chập chồng. Ði vào trong sâu, có nhiều hang hố ẩn núp được kín đáo, và muốn vào suối phải qua nhiều lớp gò nổng. Thật có thế "một người chống được cả trăm". Nơi đó là một trong những mật khu của nghĩa quân Cần Vương, do em ruột Mai anh hùng là Mai Xuân Quang trấn giữ. Những núi non của dãy Tây Sơn ở phía hữu ngạn sông Côn đại khái là thế. Còn bên tả ngạn, thì núi non cũng trùng trùng điệp điệp. Cùng theo một chiều, lớp chạy lên trên An khê, lớp chạy thẳng vào biên giới Phú yên, lớp chạy xiên xiên xuống hướng đông nam, từ Ðịnh quang xuống Thượng giang, Tả giang, Trình tường, Phú phong; thành từng giây dài, chằng chịt, liên miên... chằng chịt. Ðèo AN KHÊ mở lối giao thông giữa Bình Định và vùng Tây Nguyên. Tên An khê mới thông dụng từ thời Pháp thuộc. Trước kia gọi là đèo VĨNH VIỄN.(3) Ðèo An khê cao đến 740 thước và dài trên 10 cây số, chạy từ đông lên tây. Ðường đi rất hiểm trở. Ngày xưa khi Quốc lộ số 19 chưa mở, hành khách phải chịu lắm nỗi gay go. Dọc đèo có nhiều nơi dốc ngược, đá mọc lởm chởm. Có khúc phải dăng hai chân mà leo mới khỏi té. Nơi này tục gọi là dốc CHÀNG HẢNG. Dưới dốc Chàng hảng về phía đông có một cái nghẹo, nơi nghẹo có một cây khế rất sai. Hành khách lên đèo mỏi mệt, thường dừng chân nơi gốc khế để nghỉ ngơi và giải khát. Nghẹo ấy tục gọi là Nghẹo CÂY KHẾ. Cách nghẹo Cây Khế chừng một khỏang có hai cây cổ thụ sống trên vài trăm năm, thân cao tàn cả, một cây KÉ, một cây CẦY. Ðó cũng là hai trạm nghỉ chân rất được hành khách lưu luyến. Trên đỉnh đèo có đồn Thượng an do người Pháp cất. Thời chiến tranh Việt Pháp (1945-1954), nơi đồn này đã xảy ra nhiều trận kịch chiến. Và trước ngày ký Hiệp định Genève, quân Pháp ở trong đồn đã bị nghĩa quân tiêu diệt gần hết. Tiếp đó đồn An khê ở phía tây đèo, cũng bị bao vây. Thực dân Pháp và các nhà tư bản Việt Nam ở thị trấn An khê phải tản cư bằng máy bay. Trước đây gần 200 năm, đèo An khê là con đường lên xuống của binh mã nhà Tây Sơn. Hùng khí vẫn còn ngùn ngụt. Chung quanh đèo, núi non chồng chất. Ở vùng An khê (tức quận An túc hiện giờ) có núi HIỂN HÁCH tục gọi là Hảnh Hót và Ðại Nam Nhất Thống Chí chép là HINH HỐT là một danh sơn có nhiều danh mộc, và chung quanh có nhiều ngọn núi qui triều. Núi vùng An khê liên tiếp với vùng Cao nguyên. Phía đông đèo An khê, thuộc Tây Sơn Trung, núi cũng cao chớm chở như vùng Tây Sơn Thượng, tức vùng An túc. Ngọn núi có danh nhất là hòn ÔNG BÌNH. Hòn ÔNG BÌNH nằm phía tây thôn Thượng giang. Tuy cao chỉ có 793 thước, song trông rất kỳ vĩ, và có vẻ bí hiểm. Cây cối sầm uất, ngó mịt mờ thăm thẳm như không có đường lưu thông. Nhưng sự thật thì có nhiều đường lối ra vào. Nơi triền phía bắc, có đường đèo đi từ Ðồng hào ở ngả đông, lên Trạm Gò, Cửu an ở ngả tây. Ðèo này gọi là đèo VẠN TUẾ, tuy ngắn song dốc và đá mọc lởm chởm, nên rất khó đi. Ở triền phía nam, có con đường mòn chạy theo hướng đông nam để đến đèo An khê. Ðó là con đường lịch sử (sẽ nói rõ ở đoạn sau). Ðối trĩ cùng hòn Ông Bình, xiên xiên về hướng đông nam có hòn ÔNG NHẠC cao và rậm không kém hòn Ông Bình. Khí thế cũng rất hùng hiểm. Từ hòn Ông Nhạc, núi chạy lớp thì vào thẳng trong Nam, lớp thì chạy xiên xiên xuống hướng đông nam. Danh sơn đều nằm trong dãy đông nam. Trước hết là hònTÂM PHÚC, tục gọi là hòn BÀ PHÙ. Hòn Tâm Phúc không cao, hình giống như chiếc nón lá úp sấp. Núi có nhiều cây cổ thụ và nhiều thú rừng, nhất là heo. Ðây là một hòn núi cấm, không ai được vào đốn củi, săn thú. Nhưng không cấm cũng ít ai dám vào, vì truyền rằng núi rất linh thiêng. Bà Thiên-Y A-Na thường tới lui, hào quang sáng chói. Thường ngày lúc mặt trời gần lặn, người ở gần núi thường nghe tiếng ụt heo inh ỏi. Người ta bảo rằng đó là tiếng của những kẻ bộ hạ ở nuôi heo cho bà Thiên Y. Vì núi có bà Thiên Y tới lui nên mới mệnh danh là hòn Bà Phù, tức là hòn núi của bà có Phù Phép. Gần hòn Bà Phù có hòn MÀN LĂNG. Hai núi đối trĩ nhau. Thầy địa gọi hòn Màn Lăng là hòn Nhật, hòn Bà Phù là hòn Nguyệt. Giữa hòn Màn Lăng và hòn Bà Phù có một thung lũng bằng phẳng và kín đáo, tục gọi là Hóc Yến. Qua khỏi Hóc Yến đến núi ÐÔNG PHONG tục gọi là hòn LÃNH LƯƠNG. Những ngọn núi thượng dẫn liên hệ mật thiết với nhau, chẳng những về phương diện địa lý vì cùng một sơn mạch; mà còn liên hệ về mặt lịch sử, lịch sử nhà Tây Sơn. . Tái hiện hình ảnh chiến binh thời Tây Sơn - Ảnh Hoài Thu TRUYỀN THUYẾT Nhà Tây Sơn trước khi khởi nghiệp đã dùng dãy núi Tây Sơn làm căn cứ quân sự. Và đạo quân tiên phong gồm hầu hết người Thượng.Truyền rằng: Tất cả các bộ lạc ở vùng Tây Sơn đều theo tam kiệt. Chỉ có người Thượng Xà Ðàng ở vùng An khê không phục. Ðể cho họ tin rằng mình là người của Trời sai xuống trị thiên hạ, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước. Họ Nguyễn lấy một đôi giỏ bội mới, dùng giấy bổi quét dầu trong phất ở phía trong lòng giỏ. Rồi mỗi buổi sớm gánh đôi giỏ xuống khe múc nước về. Người Thượng đứng xa trông thấy nước không chảy ra các lỗ giỏ, đều cho Nguyễn Nhạc là kỳ nhân. Nhưng viên chúa đảng cho rằng có phù phép, chớ không phải chơn mạng đế vương. Nhân trên núi Hiển Hách có bầy ngựa rừng, hễ thấy bóng người liền chạy trốn. Người chúa đảng bảo Nguyễn Nhạc nếu gọi được bầy ngựa ấy chạy đến thì mới thật là người Trời. Nguyễn Nhạc về nhà mua một con ngựa cái tơ thật tốt, dạy dỗ thật khôn hễ nghe tiếng hú thì chạy đến. Ðoạn đem thả ngựa vào núi cho theo bầy ngựa rừng. Ngựa rừng xúm lại "ve vãn" và luôn luôn kèm bên chân. Nguyễn Nhạc cất tiếng hú, ngựa cái chạy đến. Bầy ngựa rừng cũng chạy theo, nhưng vừa thấy bóng người thì quày trở lui, song chạy một đoạn xa xa, ngoảnh lại trông, thấy ngựa cái vẫn đứng với người một cách thân mật, thì dừng lại đứng ngó. Nguyễn Nhạc lấy cỏ bỏ cho ngựa cái ăn, rồi bỏ ra về. Bầy ngựa rừng liền kéo đến ăn cỏ. Hôm sau Nguyễn Nhạc lại đến hú và lấy cỏ cho ngựa ăn. Bầy ngựa rừng thấy người không có ý làm hại giống nòi, lần lần làm quen... Nguyễn Nhạc bèn đến tìm chúa Xà Ðàng, hẹn ngày và nơi gọi ngựa.Ðến kỳ hẹn, Nguyễn Nhạc cùng chúa Xà Ðàng và một ít bộ hạ đến núi Hiển Hách. Nguyễn Nhạc đứng giữa hai tảng đá dựng cao lút đầu người, và bảo chúa Xà Ðàng cùng bộ hạ núp phía sau, im hơi lặng tiếng. Ðoạn cất tiếng hú. Nghe tiếng chủ hú, ngựa cái từ trong rừng sâu chạy ra. Bầy ngựa rừng chạy theo sau. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn. Ðã quen người quen lệ, bầy ngựa rừng không chút sợ hãi. Nguyễn Nhạc vuốt ve ngựa cái rồi từ từ đến gần bầy ngựa, vuốt mỏ vuốt lưng, hết con này đến con khác. Vì thấy ngựa cái đứng yên để vuốt ve, bầy ngựa rừng cũng vững tâm ăn cỏ... Người Thượng Xà Ðàng thấy Nguyễn Nhạc "gọi" được bầy ngựa rừng thì tin rằng là "Người Trời", nên thần phục và chịu theo đánh giặc. Những người Thượng cũng như người Kinh, tuyển mộ được bao nhiêu đều đem về hòn Ông Bình và Ông Nhạc để tập luyện. Dinh trại đều cất trong hai núi này. Nguyễn Nhạc trấn thủ một núi, Nguyễn Huệ trấn thủ một. Vì vậy nên hai ngọn núi này mang tên hai vị chỉ huy: Ông Nhạc, Ông Bình. Bình là tên chữ Nguyễn Huệ (Nguyễn Quang Bình). Ðối với Nguyễn Huệ, người địa phương ít hay gọi tên húy. Lúc nhỏ thì thường gọi là "chú Ba Thơm" (hoa Huệ có hương), lớn lên lại thường hay gọi tên chữ "Ông Bình". Tên Nguyễn Quang Bình tuy đã đặt từ trước, nhưng mãi sau khi lên ngôi cửu ngũ lấy niên hiệu Quang Trung, đánh đuổi quân Mãn Thanh rồi mới thấy xuất hiện trong sử sách. Sau khi vua Quang Trung thăng hà, miếu hiệu Thái tổ Vũ Hoàng đế, thì hòn Ông Bình được tôn xưng là hòn Thái tổ. Còn hòn Ông Nhạc thì người sau đọc trại là Ông Nhược. Nhà Tây Sơn cử binh đánh nhà Nguyễn năm Tân Mão (1771). Trước khi cử sự, binh đóng ở hòn Ông Nhạc đều dồn qua hòn Ông Bình. Rồi đại binh kéo đến đèo An khê làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Lễ tế cờ cử hành gần nơi cây Cầy và cây Ké. Cho nên tục ngữ có câu "Cây Ké phất cờ, cây Cầy khỉ cổ".(4) Truyền rằng: Ðại binh kéo đến đèo An khê khi xuống vừa khỏi nghẹo Cây Khế, thì một con rắn thân lớn bằng cột nhà, sắc đen nhánh như hạt huyền, thời nhân gọi là Ô Long, từ trên cây Ké bò xuống, nằm chận ngang đường đi. Binh mã sợ không dám đến. Nguyễn Nhạc liền xuống ngựa, tuốt gươm đến chém, lấy máu đề cờ. Nhớ chuyện Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, tướng sĩ tin là điềm lành nên nức lòng phấn chí. Tế cờ xong liền tiến binh. Binh đến núi Bà Phù thì trời tối. Nguyễn Nhạc bèn dừng lại nghỉ. Ðêm đến mở yến tiệc thết đãi tướng sĩ tại thung lũng dưới chân Bà Phù. Sáng hôm sau mới tiếp tục tiến phát. Nhân việc đồn binh được yên ổn, và yến ẩm vui vầy, Nguyễn Nhạc mới đặt tên hòn Bà Phù là hòn Tâm Phúc, và người đương thời gọi thung lũng là Hóc Yến. Trước khi xuất binh, Nguyễn Nhạc đã sai Nguyễn Lữ đi vận tải lương thực đến chân núi Ðồng phong. Khi binh xuống đến Ðồng phong thì lương thực cũng vừa tải đến. Nguyễn Nhạc cho đóng binh lại để phát lương và nghỉ ngơi để chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Tướng sĩ được lãnh lương thực tại Ðồng phong nên gọi núi Ðồng phong là hòn LÃNH LƯƠNG. Từ hòn Ông Nhạc đến hòn Lãnh lương, núi chạy dọc, xiên xiên xuống hướng đông nam. Nhưng đến địa đầu thôn Trinh tường, núi lại quay ngang ra hướng bắc, thành hòn HOÀNH SƠN, tức là NÚI NGANG, nằm theo hướng tây nam - đông bắc. Núi Ông Bình ngó ngay xuống Hoành sơn và làm hậu tẩm cho Hoành sơn vậy. Hòn HOÀNH SƠN không cao (361 thước), nhưng dài và rộng. Phía tây và phía nam, dòng suối Ðồng tre và chi lưu ôm sát bên chân. Ðường quốc lộ 19 chạy dài ở phía bắc. Trước mặt, đồng Trinh tường tiếp đồng Phú phong, và bên chân một con đường hương lộ chạy từ bắc vào nam, hợp cùng quốc lộ 19 và hai nhánh suối Ðồng tre, thành một chữ NHẬT làm ranh giới cho núi. Mộ của Nguyễn Phi Phúc, thân sinh của Tây Sơn tam kiệt, nằm trong hòn núi này (Hoành sơn). Truyền rằng: Niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê (1740-1786), trong khoảng Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì miền Nam, có một thầy địa lý Trung hoa, tục gọi là thầy địa Tàu, thường ngày cứ đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn. Nguyễn Nhạc theo rình xem. Một hôm thấy thầy địa đến Hoành sơn, dùng hai cây trúc cành lá xanh tốt và giống in nhau, đem cắm nơi triền phía đông, một cây ngoài bắc, một cây trong nam, rồi bỏ mà đi thẳng. Biết rằng vùng Tây Sơn là một đại địa, và thầy địa Tàu không tìm ra huyệt tinh nên tìm cách để thử huyệt khí, Nguyễn Nhạc bèn lưu ý đến nơi trồng hai cây trúc và ngày ngày đến thăm chừng. Cách mấy hôm sau, cây trúc phía bắc sống và tươi tốt như lúc mới trồng. Ðó là chứng ứng cho biết rằng long huyệt nằm ở đó. Nguyễn Nhạc hết sức mừng, bèn nhổ cây khô đem cắm vào chỗ cây sống, và đem cây sống đến cắm chỗ cây khô. Mười hôm sau, tính đúng 100 ngày từ khi trồng trúc, thầy địa Tàu đến. Thấy hai cây trúc đều chết cả hai, thầy địa nhún vai trề môi, bỏ đi không thèm trở lại nữa. Bởi thầy cho rằng đó chỉ là "giả cuộc" mà thôi. Nguyễn Nhạc bèn về bốc mộ ông thân sinh đem táng nơi chân trúc phía bắc. Lại có người bảo rằng: Thầy địa lý Tàu vốn quen thân với Nguyễn Nhạc. Lúc đến vùng Tây Sơn "tìm long điểm huyệt", thường tá túc nơi nhà họ Nguyễn, và chính Nguyễn Nhạc là người dẫn lộ cho thầy Tàu. Ði khắp cả vùng Tây Sơn, thầy địa chỉ chú ý đến hòn Hoành sơn. Thầy đi qua đi lại không biết mấy lần, hết đặt địa bàn ở chỗ này thì đem đặt ở chỗ khác, ngắm nghía, tính toán, có vẻ đắc ý lắm. Ðoạn thầy bỏ đi đâu mất biệt. Hơn một năm sau thầy trở lại và cũng ghé nghỉ ngơi nhà Nguyễn Nhạc. Lần này ngoài chiếc địa bàn, thầy còn mang theo một chiếc trắp nhỏ, bọc trong một chiếc khăn điều. Ðoán biết rằng thầy Tàu đã tìm được "huyệt mả đại phát" nơi Hoành sơn nên về Tàu hốt cốt tiền nhân đem qua chôn, Nguyễn Nhạc bèn tìm cách đánh đổi. Nhưng làm sao đánh đổi được, vì thầy Tàu không khi nào rời chiếc trắp ra, thậm chí cả những lúc "đi sông đi bãi"? Nguyễn Nhạc đóng một chiếc trắp giống hệt chiếc trắp của thầy địa, và hốt cốt ông thân sinh đựng vào, rồi đem dấu sẵn nơi chân Hoành sơn... Ðến ngày đã chọn, thầy Tàu lén mang chiếc trắp cùng địa bàn đi lên Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm lên một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy Tàu hết hồn, quăng trắp và địa bàn mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay trở lại chỗ cũ. Thấy chiếc trắp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong yên thầy hớn hở trở về Trung quốc, không ngờ rằng chiếc trắp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc, và con cọp kia chỉ có lớp ngoài mà thôi. Hai thuyết không biết thuyết nào đúng. Hai bên chỉ khác nhau ở chi tiết. Cả hai đều đồng một điểm chính là mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành sơn. Song không ai biết đích xác ở chỗ nào. Chỉ nghe truyền rằng mộ gối đầu lên dãy núi phía tây nam (1) và lấy hòn Hương sơn ở Kiên thạnh (Bình khê) làm nội án, hòn Mò O (An nhơn) làm ngoại án. Hai hòn này nằm xiên xiên hướng đông bắc hòn Hoành sơn. Vì có mộ của Nguyễn Phi Phúc, nên hòn Hoành sơn được tôn xưng là THIẾU TỔ. Sát chân núi Ngang phía đông, khoảng giữa, nổi lên một trảng đất lum lum. Trong khoảng này dáng núi lại hơi cong cong. Ðứng phía trước trông vào thì giống một ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay dựa là núi, và mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc , song thân ba vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai quật. Nhưng hài cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đang cháy. Ai cũng biết bốn chum dầu ấy do nhà Tây Sơn chôn, song không ai đoán ra mục đích. Và tất cả mọi người đều biết di hài của ông bà Nguyễn Phi Phúc táng tại Hoành sơn, nhưng cũng không có người nào biết được nơi chôn. Vua quan nhà Nguyễn ra công tìm kiếm, nhưng dấu tích vẫn mờ mịt khói mây. Nơi trảng đất dưới chân Hoành sơn, hiện nay vẫn còn ít nhiều di tích. Những khách phương xa đến viếng cảnh, không biết rõ câu chuyện, đều lầm tưởng là mộ Nguyễn Phi Phúc bị đào. Có người bảo rằng ngọc cốt của vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc cũng táng trong vùng Hoành sơn. Ðó là bằng theo chuyện "bạch mã hiện hình" mà ức đoán. Nguyên vua Thái Ðức có một con chiến mã: Thân vóc cao lớn như ngựa Bắc thảo, lông trắng như tuyết, đuôi và kỳ mao mịn như tơ. Nhà vua yêu quí rất mực. Sau khi nhà vua băng hà, con bạch mã sổ chuồng chạy mất, quan quân tìm kiếm không ra. Cách ít lâu, chiều chiều người trong vùng Hoành sơn thường trông thấy bóng ngựa trắng, khi thì đi thơ thẩn dưới chân núi, khi thì lên trên đỉnh đứng hí não nùng. Mọi người đều tin rằng đó là con bạch mã, hoặc là hồn thiêng con bạch mã của vua Thái Đức. Vì tôn trọng nhà vua, người trong ấp Tây Sơn không một ai nuôi ngựa trắng. Nhưng sau khi hai nấm mộ giả nơi trảng đất dưới chân núi bị nhà Nguyễn phá hủy, thì bóng ngựa vắng biệt trong một thời gian khá lâu. Mãi đến khi nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng dấy nghĩa Cần Vương (1885-1887) thì bạch mã xuất hiện trở lại. Người địa phương cho là "ngựa thần" nên hết lòng kính sợ. Vì sao thấy "ngựa trắng hiện hình" lại đoán rằng lăng mộ vua Thái Ðức táng nơi núi Ngang? Là vì ngựa vốn là giống vật rất khôn và có nghĩa. Nhiều con, chủ chết, bỏ ăn bỏ uống ra mả nằm chết theo. Lắm con không chết theo, nhưng thỉnh thoảng tìm đến thăm mả chủ, và cất tiếng hí thê lương. Nếu ngọc cốt của nhà vua không an táng nơi Hoành sơn thì sao con ngựa - hay hồn ngựa - của nhà vua lại tìm đến. Ðó là ức đoán, chớ từ xưa đến nay không ai biết rõ nơi chôn cất vua Thái Ðức, mặc dù vẫn truyền rằng di thể được long trọng đưa về cố hương. Còn về việc người Bình khê, nhất là người Phú lạc, Trinh tường, không nuôi ngựa trắng thì trước kia hoàn toàn do lòng tôn trọng vua Tây Sơn, sau này một phần lớn do lòng mê tín: sợ thần Bạch Mã. Nghe đồn rằng: Thời Pháp thuộc, tại Ðồng vụ (thuộc Trinh tường) có người mua được một con ngựa bạch toàn sắc, đem về nuôi không được bao lâu thì tự nhiên ngã đùng ra chết. Người ta tin là bị thần Bạch Mã vật. Do đó lòng kiêng cữ nuôi ngựa trắng của người địa phương gia tăng. Ðó là những chuyện ngày xưa. Từ ngày đất nước nổi binh đao, không biết ngựa trắng có còn xuất hiện nơi Hoành sơn và người vùng Hoành sơn có còn sợ thần Bạch Mã? Dù có hay không có, những huyền thoại kể trên thêm vào những di tích lịch sử, làm tăng phẩm giá cho Hoành sơn. Năm Tân Sửu (1961), nhân dân Bình khê lại dời trung cốt Mai anh hùng đến an táng. Lăng tẩm trang nghiêm hùng tráng làm tăng khí sắc của sông núi bội phần. Khách du quan đến Bình Định, tưởng không nên quên núi Ngang vậy. Các thầy địa lý Việt Nam cũng như Trung hoa đều công nhận đất Hoành sơn là đại địa, vì có nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ nào chung, ở bên tả bên hữu. Trước mặt trên ba nổng gò, đá mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu chực. Và xa xa có hổ phục long bàn. Không phải ngoa ngôn: Bút đó là hòn Trung sơn ở bên Phú lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây. Nghiên đó là hòn Hội sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh tường về phía nam, đứng đối trí cùng hòn Trung sơn ở phía bắc. Cũng như hòn Hoành sơn và hòn Trung sơn, hòn Hội sơn không cao lắm (491 m) nhưng trông đồ sộ, uy nghiêm. Trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng. Vì núi có vũng nước nên đám bình dân, gọi núi là hòn Vũng thay vì hòn Dũng. Còn đám hàn mặc thì coi vũng nước là nghiên mực của trời, nên đặt cho núi một tên nữa là NGHIÊN SƠN tức HÒN NGHIÊN vậy. Lên chơi hòn Nghiên, Ðịnh Phong có mấy câu cảm hứng: “Trên non có nước Gắng bước mà lên Nước non còn nợ chớ quên Lòng trong với nước gan bền cùng non Trời Tây mây kéo hoàng hôn Biển Ðông thấp thoáng sóng dồn bình minh Nghiên son mài ráng lung linh Bút tuôn hàng nhạn chép tình nước non...” Hòn NGHIÊN và hòn BÚT nằm bên hữu và bên tả hòn Hoành sơn, trông thật cân đối. Khách thơ ví von Hoành sơn như bức bình phong, còn hai hòn BÚT NGHIÊN là hai trụ ba biểu đứng hai bên, hơi lấn ra phía trước một ít. Sát bên chân hòn Hoành sơn lại có hai hòn núi nhỏ đứng song song, giống hệt bộ chuông trống nho nhỏ để trước chiếc án thờ. Ðó là HÒN MỘT và HÒN GIẢI. Cổ nhân gọi hòn Một là CHUNG SƠN tức hòn Chuông, hòn Giải là CỔ SƠN tức hòn Trống. Cổ nhân đặt tên không phải dựa vào vị trí, nhưng dựa hình dạng. Hòn Một trông phảng phất qủa chuông đồng. Còn hòn Giải thì đứng ở phía bắc trông vào thì dáng tròn tròn như cái trống. Nhưng đứng phía đông mà ngó lại thấy hơi vuông vuông như một chiếc ấn. Vì vậy hòn Giải còn có tên nữa là ẤN SƠN tức hòn Ấn. Ðặt cho hòn Giải tên Ấn sơn chẳng phải vì hình dáng mà còn vì ở phía đông, nơi vùng Gò Sặt (Trinh tường) có một hòn núi thấp và dài gọi là hòn KIẾM SƠN tức hòn Kiếm. Có Kiếm thì phải có Ấn mới đủ đôi. Truyền rằng: Sau khi chiếm được long huyệt ở Hoành sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Gương mặt trông sáng rỡ, và việc học hành - võ cũng như văn - tiến bộ lạ thường. Thầy học là cụ Giáo Hiến - một người miền Ngoài, giỏi văn lẫn võ, lại rành khoa tướng số - trước kia vốn đã có biệt nhãn cùng ba anh em họ Nguyễn, nay thấy thần sắc, biết vận trời đã đến, bèn đem câu sấm "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" ra khuyên Nguyễn Nhạc vè lo mưu đồ đại sự. Vâng lời thầy, ba anh em trở về Kiên thành lo chiêu mộ hào kiệt. Vùng đất Tây Sơn xưa kia núi rừng rậm rạp, chuyện thần linh qủy dữ lan tràn khắp đó đây. Ðể quy tụ lòng dân, Nguyễn Nhạc bèn lợi dụng óc mê tín của quần chúng. Hòn Trung sơn ở Phú lạc tuy ở gần thôn xóm, nhưng ít ai dám lên vì sợ "mả mẹ chàng Lía", và nhất là sợ cọp. Thỉnh thoảng Nguyễn Nhạc cho người tâm phúc lên núi, nủa đêm nổi trống nổi chiêng. Người chung quanh vùng kẻ cho rằng hồn chàng Lía về cúng mẹ, người lại bảo đó là quỉ thần mở hội vui. Kẻ bàn người tán, không mấy lúc tiếng bay tận ngàn xa, một thành mười, mười thành trăm... Hòn Trung sơn từ xưa đã có tiếng càng thêm nổi tiếng. Một hôm, nhà Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc. Cỗ bàn vừa ăn xong thì trời đã khuya. Những người ở xa đều phải nghỉ lại, còn người trong xóm thì lục tục ra về. Bỗng trên Trung sơn, tiếng trống chiêng vang dội, và trong bóng cây trên đỉnh, ánh lửa lập loè. Ai nấy đều kinh dị. Nguyễn Nhạc rủ người lên xem thử "quỉ thần làm trò gì". Phần đông đều e ngại. Chỉ bốn năm tay lực sĩ xin theo. Nai nịt gọn gàng, chân vũ hài, tay trường kiếm, đoàn người lần bước lên đỉnh Trung sơn. Khi gần đến đỉnh, trong ánh lửa mập mờ hiện ra một ông lão râu ba chòm bạc phếu, đầu đội mũ cánh chuồn, mình khoác áo đại bào, chân đi hia..., bộ dạng gi� Quách Tấn
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 10, 2011 9:20:32 GMT 9
• Phim "Tây Sơn hào kiệt" Phim lịch sử, dành cho dịp đại lễ 1.000 năm lịch sử của dân tộc, điều đó sẽ mang nhiều ý nghĩa hơn" - NSƯT Lý Huỳnh. NSƯT Lý Huỳnh. Ảnh: Thục Anh Bộ phim cổ trang Tây Sơn hào kiệt về chiến công của anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ, chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, vừa có cuộc ra mắt hoành tráng tối 23/4 tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM, để chuẩn bị cho việc công chiếu trên toàn quốc từ 30/4 tới. TS có cuộc trò chuyện với tổng đạo diễn, đồng thời là nhà sản xuất của bộ phim, NSƯT Lý Huỳnh. Phim Tây Sơn hào kiệt được hoàn thành kịp chiếu dịp Tết vừa qua nhưng vì lẽ gì đến nay mới được công chiếu, thưa ông? NSƯT Lý Huỳnh:Mỗi bộ phim làm ra đều có mục đích cụ thể, có chiến lược phát hành riêng. Dù đã hoàn thành Tây Sơn hào kiệt trước Tết khá lâu, nhưng chúng tôi không tham gia thị trường phim Tết mà muốn lùi lại để phục vụ cho dịp đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Bộ phim lịch sử này như một món quà của những người đam mê điện ảnh, dành tất cả tâm huyết của mình cho ngày trọng đại của dân tộc, điều đó sẽ mang nhiều ý nghĩa hơn. Phim của nhà sản xuất Lý Huỳnh nổi đình đám một thời, nay trở lại có gì để gây ấn tượng cho khán giả? Chúng tôi đầu tư rất nhiều để có những cảnh quay hoành tráng. Việc tái hiện những trận đánh lớn trong lịch sử vào phim là cả một quá trình gian khổ, đòi hỏi sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Chúng tôi đã phải quy tụ hàng ngàn võ sinh, tập trung đến ba thế hệ diễn viên từ NSND Đoàn Dũng, Thế Anh, NSƯT Hùng Minh, đến Lý Hùng, Mộng Vân, Tấn Beo, hoa hậu Thùy Lâm... Hoa hậu Thùy Lâm trong vai công chúa Ngọc Hân Với mục đích chính là nhằm chào mừng đại lễ nghìn năm Thăng Long, chúng tôi muốn qua bộ phim, con em chúng ta ngày nay hiểu thêm về lịch sử nước nhà, rằng đã có những bậc tiền nhân tài ba lỗi lạc trong thời giữ nước. Tôi cũng muốn qua đây khẳng định người làm phim Việt Nam có đủ sức làm được những bộ phim cổ trang có chất lượng về đề tài lịch sử nước nhà. Với kinh nghiệm sản xuất hàng chục đầu phim, trong đó có nhiều phim cổ trang, hẳn ông thừa hiểu việc thực hiện dòng phim này trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam là rất khó khăn và khó... hay? Ngay từ những ngày đầu thực hiện, bộ phim đã có chút rắc rối về kịch bản, rồi việc diễn viên Tấn Hưng bị ngã ngựa chấn thương cột sống, NSƯT Hùng Minh bị ngựa đá đến gãy tay, hay NSND Đoàn Dũng lọt cầu phao phải đi cấp cứu, Lý Hương trục trặc giấy tờ không về nước kịp để đóng vai Bùi Thị Xuân... Phim càng quy mô thì xác suất an toàn càng ít. Tôi nói điều này không có nghĩa là tôi không biết chăm sóc diễn viên của mình. Với hàng loạt lý do dở khóc dở cười như thế, nếu chúng tôi không bản lĩnh, không quyết tâm, không gặp những người tâm huyết với phim thì có lẽ đã... tiêu rồi. Cảnh phim Tây Sơn hào kiệt. Ai có thể tâm huyết bằng chính nhà sản xuất đối với đứa con của mình? Trong lúc khó khăn nhất, có những sự giúp đỡ mà tôi cứ nghĩ mình nằm mơ cũng không thấy được. Võ sư từ các võ đường Vovinam, võ cổ truyền, các đội lân, cùng lực lượng cascadeur TPHCM đều rất hăng hái và tình nguyện tham gia đóng phim với thù lao rất tượng trưng. Còn có ông Lê Anh Kiệt ở huyện Hóc Môn, TP.HCM sẵn sàng cho xe ủi san bằng mặt đất, xây đồn Ngọc Hồi, dựng ba căn nhà để quay cảnh quân Thanh đốt sạch nhằm tăng sự hấp dẫn cho phim... Rất nhiều gương mặt “bạn già” tình nghĩa của tôi như NSND Đoàn Dũng, Thế Anh, Minh Đáng, Nhật Minh, Hồ Kiểng - những người đã cùng Lý Huỳnh “chiến đấu” hơn ba thập niên qua, cùng trở lại để làm nên bộ phim tâm huyết của đời tôi. Hay như việc tỉnh Bình Định, quê hương của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, lo toàn bộ kinh phí ăn ở, xe cộ trong suốt thời gian quay phim là nghĩa tình không sao tính được... Thùy Lâm và Lý Hùng trong một cảnh quay. Hoa hậu Thùy Lâm trong vai công chúa Ngọc Hân và cả Lý Hùng trong vai Nguyễn Huệ ít nhiều gây những lời ra tiếng vào về khả năng hợp vai, diễn xuất... Không phải tới bây giờ tôi mới mời hoa hậu đóng phim, trước đây đã từng có hoa hậu Giáng My, Lý Thu Thảo, rồi cả người đẹp Hong Kong Lê Tư nữa, đã vào phim tôi. Tôi không quan trọng lắm danh vị hoa hậu, mà xem các cô này có hợp vai hay không, thái độ làm việc như thế nào. Hoa hậu Thùy Lâm gần như đáp ứng mọi yêu cầu của chúng tôi, một vẻ đẹp thùy mị, cốt cách cao sang quý tộc, và cô đã thể hiện rất tốt nhân vật của mình. Lý Hùng thì với tướng mạo, phong độ và bề dày kinh nghiệm hơn 20 năm đóng phim cổ trang, tôi nghĩ cậu ấy đã làm hết sức mình cho vai diễn này. Bộ phim vẫn còn nhiều điều để nói như các trận đánh chưa thật sự "đã", phục trang trong phim chưa đẹp lắm... Đáng tiếc nhất vẫn là kinh phí. Nếu kinh phí cao hơn, chúng tôi đã đầu tư trang phục tới nơi tới chốn, để mỗi “ông” tướng ít nhất cũng vài bộ đồ cho ra dáng, và các trận đánh được tăng cường nhiều kỹ xảo nhằm miêu tả hấp dẫn hơn nữa sự ác liệt của những trận chiến năm xưa. •Thục Anh Theo công bố của nhà sản xuất, Tây Sơn Hào Kiệt khiến nhiều người phải ngỡ ngàng vì những con số kỷ lục mà bộ phim đã lập nên. Đầu tiên phải kể đến sự tham gia của lực lượng diễn viên quần chúng lên đến 20.000 người. Đây thực sự là một con số "khủng khiếp" của lịch sự điện ảnh nước nhà. Đặc biệt, đại cảnh Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại núi Bân, chiêu tập nghĩa quân, chuẩn bị Bắc tiến diệt Mãn Thanh đã có sự tham gia của tới hơn 5000 người. Một cảnh quay với sự tham gia của nhiều diễn viên quần chúng. Với số lượng diễn viên quần chúng "khủng" như vậy, đoàn làm phim đã không tiếc tay khi đặt may gần 10.000 bộ trang phục để "trang bị" cho nghĩa quân Tây Sơn, quân nhà Lê, quân chúa Trịnh và quân Mãn Thanh. Tất cả những bộ trang phục này đều được may theo nguyên mẫu được trưng bày tại bảo tàng Quang Trung, Bình Định. Bên cạnh đó, để cho những trận chiến thêm phần hoành tráng, ê kíp thực hiện đã huy động 50 con voi từ Dak Lak, 100 con ngựa đua của trường đua Phú Thọ (được thuê với giá 3 triệu/ngày), 10 khẩu đại bác và khoảng 7000 binh khí. So với những bộ phim cổ trang đã được thực hiện từ trước đến giờ thì đây quả thật là những con số hoàn toàn vượt trội. Lý Hùng dũng mãnh trên chú ngựa nòi. Ngoài ra, bộ phim còn có sự tham gia diễn xuất của 200 võ sư Vovinam, 120 cascadeur... để tăng thêm phần hấp dẫn cho trong những cảnh chiến đấu. Kinh phí ban đầu cho Tây Sơn Hào Kiệt được dự tính vào khoảng 6 tỷ. Thế nhưng cuối cùng, tổng sổ tiền đầu tư đã tăng lên gấp đôi. Hoành tráng và "nổ" Một dàn binh lính làm... lễ tân trong buổi ra mắt phim. Được biết, vợ của đạo diễn kỳ cựu Lý Huỳnh, bà Đoàn Thị Nguyên đã tâm sự rằng trước ngày bộ phim khởi quay ở Bình Định, đoàn làm phim đã tới thắp hương ở tượng vua Quang Trung. Tối hôm đó, bà nằm mơ thấy Hoàng đế hiển linh và phán rằng: "Các con tập trung làm việc đi, mọi thứ đã được ta lo hết." Và có lẽ, nhờ vào giấc mơ đó mà Tây Sơn Hào Kiệt đã ngốn tới 12 tỷ đồng tiền đầu tư để trở thành bộ phim cổ trang đầu tiên được báo giới dự đoán là "bom tấn". Diễn viên Lý Hùng thành kính khấn vái trước khi bộ phim được trình chiếu cho những khán giả đầu tiên tại buổi lễ ra mắt. Còn với Lý Hùng, trong buổi lễ ra mắt, anh hồ hởi "khoe" rằng bộ phim của mình đã được bạn bè trong nghề ở Hồng Kông đánh giá rất cao. Đó cũng là lý do mà đích thân giám đốc của hãng phim Majic đã tới chung vui với anh. Nam đạo diễn kiêm diễn viên chính này còn bật mí rằng nhờ Tây Sơn Hào Kiệt mà anh đã nhận được lời mời gợi ý thực hiện hẳn một bộ phim 3D về đề tài lịch sử Việt Nam từ một số nhà làm phim Hồng Kông. Tuy nhiên, theo ghi nhận của chúng tôi từ ý kiến một số nhà chuyên môn, Tây Sơn Hào KIệt giống phim cải lương hơn là "bom tấn". •Linh Phạm
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:31:14 GMT 9
Đô đốc Bùi Thị Xuân, nỗi ngậm ngùi bên cửa Nhật Lệ ___________
Bùi Thụy Đào Nguyên -"Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà..." Triều vua Quang Trung có vài nữ tướng, trong số đó nổi bật hơn cả là Đô đốc Bùi Thị Xuân. I.Tiểu sử Bùi Thị Xuân (;?- 1802) Quê ở làng Phú Xuân, xã Bình Phú huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.Chưa rõ tên cha mẹ, chỉ biết bà là cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên. Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với đô thống Ngô Mạnh nên bà rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm. Chuyện kể rằng, trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa Trần Quang Diệu đã đánh nhau với một con hổ lớn, hung dữ. Nhân đi qua đấy, bà Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị. Sau hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc.Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm; vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ dậu 1789 và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm ... Người ta còn kể, khi đến với Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục.Trước khi gia nhập quân Tây Sơn, bà đã tự phong là "Tây Sơn nữ tướng". Sau này bà được hội kiến với Nguyễn Huệ, Huệ cũng thừa nhận bà rất xứng đáng với danh xưng đó; và vương còn ban tặng thêm bốn chữ "Cân quắc anh hùng". Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung (Nguyễn Huệ) mất, để lại nhiều thương tiếc. Cũng từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh ( Quang Toản) còn nhỏ, bất tài nên đã không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là cậu họ Thái sư Bùi Đắc Tuyên, làm cho các đại thần kết bè phái, quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi, khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc....Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương. Vì vậy, tức thì Nguyễn Ánh xua quân chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn.Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành luỹ của Tây Sơn nhanh chóng bị mất. Bà Xuân cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An . Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí: Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời: Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với Chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Ánh gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà... Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân.Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi dày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế,ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường ) Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau: "Đứa con gái trẻ của bà ( Bùi Thị Xuân) bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến .Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy.Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách : Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta !... Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời...Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo"... (Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi...) II . Những tư liệu liên quan 1/Trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng Tóm tắt theo Sử sách, bà Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ, từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi.Lúc bấy giờ Nguyễn vương cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân.Nào ngờ vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh.Ngay lúc đó bà cũng nhận được tin Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng . Trước tình thế đang thắng thành bại này đội quân của bà bỏ cả vũ khí, đạn dược để chạy ... Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế.Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa... *Trích thêm tư liệu cùng đề tài trong web vn thu quan : Bùi Thị Xuân đánh lũy Trấn Ninh, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp... Trong bài Bùi phu nhân ca của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng: Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào Hoàng hôn thành dốc bi già động Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc Thùy ngôn cân quắc bất như nhân ? Dĩ cổ phương kim tam đinh túc Nghĩa là: Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra. Gió xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân. Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà Ai bảo khăn yếm không bằng người ? Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc Ðây là tác giả tả BTX lúc đánh Ðâu Mâu (Quảng Bình).Thành lũy sắp bị hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn Quang Toản hoảng hốt ra lệnh lui binh. Không sao cản được, Bùi nữ tướng đành phải mở đường máu để lui binh... Người đời sau cũng có́ thơ vịnh bà: Vận nước đang xoay chuyển Quần thoa cũng vẫy vùng Liều thân lo cứu chúa Công trận quyết thay chồng. Khảng khái khi lâm nạn! Kiên trinh lúc khốn cùng Ngàn thu gương nữ liệt Gương sáng hãy soi chung Và viết về bà (trích "Còn mãi đến bây giờ". bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường) : Các gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh đã bị Gia Long giết sạch. Bà sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây Sơn Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng (nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà) ...bà còn giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ "nhất đẳng điền" tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục héc-ta để lấy lúa nuôi quân... ...Chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng . ...Đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quầm áo.Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ mười tám cho đến bây giờ !... 2/Trần Quang Diệu ( 1746–1802) . Danh tướng dưới triều Tây Sơn, người làng Kim Giao, xã Liên Chiểu (nay thuộc xã Phổ Thuận, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng quê quán của ông ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định...(sau đời Trần Quang Diệu, họ Trần dời ra làng Tú Sơn, nay thuộc xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) Ông tham gia phong trào Tây Sơn từ đầu .Năm 1789,ông được Nguyễn Huệ cử làm Đốc trấn Nghệ An, xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô. Những năm 1790 - 91,ông chỉ huy các cuộc đánh dẹp lực lượng chống đối do Lê Duy Chỉ cầm đầu. Năm 1792, Quang Trung mất, ông giữ chức Thái phó, là một trong "Tứ trụ triều đình để giúp vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản). Tuy vua mới hay nghe lời gièm pha nhưng vợ chồng ông vẫn tận tình giúp nhà Tây Sơn. Có thể nói thời bấy giờ, ông là chủ tướng quan trọng nhất trong việc đánh dẹp thế lực Nguyễn Ánh. Năm 1800–1801, ông vây kinh thành Quy Nhơn cũ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) vừa mới bị quân Nguyễn Ánh đánh chiếm. Trận vây thành rồi bị cầm chân kéo dài gần một năm ở đây, tạo thời cơ tốt cho Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân rồi bắt sống Quang Toản.( tướng thủ thành của nhà Nguyễn là Võ Tánh tự vẫn chứ không giao thành ) Lực lượng của Nguyễn Ánh sau đó phản công ngày càng ác liệt .Cuối cùng Quang Diệu và vợ con đều bị bắt sống và bị giết Những bậc cao niên nhất trong tộc đã kể rõ rằng, sau khi ông chịu án: bị xử lột da sống, có hai người hầu thân cận đã lén đánh cắp được chỉ một mảnh áo nhỏ dính máu của ông để mang về táng trong "mộ gió"... ( chỉ nghĩ đến thôi, tôi thật sự rùng mình vì phương pháp giết người này.) 3.Vua Quang Toản(1713-1802) bị bắt: Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, vua Quang Toản chạy lên phía Bắc, qua Xương Giang (thuộc tỉnh Bắc Giang) ban đêm vào chùa Thọ Xương xin ngủ trọ, bị thôn dân vây bắt, quân lính tùy tùng đều tan rã cả.Em là Nguyễn Quang Thùy và vợ chồng đô đốc Tú treo cổ tự tử.. *** Cụ Nguyễn Đức Đài, ở thôn Long Trì, xã Tân An, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, năm nay đã ngoài 90 tuổi kể: ...Khi các cụ nhà tôi bắt được, cất giấu vua ngoài chuông Rậm, chuông Rí( hồ nước đầy cỏ năn cỏ lác giữa đồng) Họ dể ngài nằm chìm mình dưới nước, chỉ thò mũi lên để thở, trên mặt nước có ngụy trang bằng một chiếc lá sen. Rồi họ nấu cơm mang ra mời, vua bảo: trẫm không ăn đâu, trẫm hết lộc rồi, chẳng sống làm gì nữa... Anh Nguyễn Đức Đoan, con cụ Đài, tuổi đã gần 50, dựa vào gia phả viết bằng chữ Hán đã có từ 300 trước, kể tiếp: ...Không ngờ có kẻ chỉ điểm cho quân lính, voi ngựa kéo về lùng sục bắt bớ, nhiều người dân tham vàng bỏ ngãi đã bắt nhà vua, đóng gông, bỏ vào cũi sơn son đem nộp cho quan quân lĩnh thưởng. Hai cụ nhà tôi dò la mới biết vợ chồng tên phường chèo làm chỉ điểm. Họ bèn đem anh chồng ra giết, riêng con vợ của nó quá xinh nên một ông gạ ép làm vợ; không ngờ chị ta cũng là người tiết nghĩa nên bế con, lao đầu xuống mộ chồng tự vẫn... Người trong dòng tộc đời sau kể vậy, nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phong, dẫn trong sách Nhìn ngược từ nóc nhà Đông Dương của Đỗ Doãn Hoàng, tr 349 ghi: Chúng tôi đã nghiên cứu từ lâu, dòng họ Nguyễn Đức có 18 đời Quận công, có 2 người Quận công sau cùng được phong nhờ vào thành tích "bắt vua" mà có... *** Vài tháng sau, Gia Long về Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù. Quang Toản lúc bấy giờ mới 19 tuổi, cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Còn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất Triều Tây Sơn từ đây chấm dứt.. 4.Tương truyền Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân có chung một nguồn gốc. Thời chúa Nguyễn (1533- 1775), hai anh em Lê Kim Bảng và Lê Kim Bôi gốc người Nghệ An vào lập nghiệp ở vùng Phú Phong. Để tránh sự chú ý của chính quyền về gốc tích của mình, họ hẹn nhau khi sanh con, cải sang họ mẹ. Sau Lê Kim Bảng lấy con gái họ Bùi ở Phú Phong, sinh hạ Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Thu và Bùi Thị Nhị, không có con trai. Lê Kim Bôi làm rể nhà họ Võ ở Phú Mỹ (?) sinh được con trai, Võ Văn Dũng là con út . Vậy Bùi Thị Xuân và Võ Văn Dũng là chị em thúc bá. Một thuyết khác cho rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân là ái nữ của Bùi Đắc Chí và gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, quê quán ở ấp Xuân Hòa khách hộ, thôn An Hòa, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bà được theo đòi nghiên bút, lại khéo tay nổi tiếng viết chữ đẹp và công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Tuy vậy, địa thế và phong thổ ảnh hưởng rất lớn đến con người, quê hương bà chỉ có phía tây liền với Phú Phong, còn phía đông lấy suối làm ranh giới, nam giáp núi, bắc giáp sông; bà được hun đúc bởi đất hiểm nên không theo nếp nữ nhi thường tình mà thích võ hơn văn... (Theo tài liệu trong Dactrung.net) 5.Trấn Ninh, Ðâu Mâu, Nhật Lệ: Đều thuộc Quảng Bình. Ðó là ba căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa đầu trấn Thuận Hóa. -Trấn Ninh ở địa phận xã Phú Ninh, huyện Phong Lộc. Năm Nhâm Dần (1662) Theo lời tâu của Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tấn, Chúa Hiền vương cho đắp lũy Trấn Ninh và đắp lũy Sa Phụ để nương tựa nhau để chống ngăn giặc.Họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng không qua khỏi hệ thống lũy này, phải rút quân trở về Bắc. -Phá Nhật Lệ ở đông bắc huyện Phong Lộc, cũng thuộc xã Phú Ninh. Chu vi ước 5 dặm. Phía đông có gò cát bao la, đồi cao xanh rậm, biển cả chạy quanh ở đông bắc, các núi triều cũng ở tây nam sông Nhật Lệ, tức sông Ðồng Hới, chạy ra Phá. -Núi Ðâu Mâu ở phía tây huyện Phong Lộc, tọa lạc xã Lệ Kỳ. Núi gò trùng điệp, cây cối sầm uất. Ðỉnh cao nhọn hình như mão đâu mâu, khí thế hùng vĩ. Chân núi gối sông Nhật Lệ, lũy do chúa Nguyễn đắp để ngăn quân Trịnh, chạy dài dưới chân núi... III . Lời kết Thật lòng nếu không đọc được bài bút ký của Hoàng Phủ vừa nêu trên, chắc tôi không có ý định tìm hiểu thêm về Bùi Thị Xuân và soạn lại đề tài đã được nhiều người luận bàn rồi. Nhưng chẳng hiều sao khi đọc trong sách sử đến đoạn Nguyễn Ánh dụ hàng vợ chồng Bùi Thị Xuân nhiều lần mà không được, khiến tôi nảy ra băn khoăn : Vua Nguyễn có "màu mè" không khi tánh vua vốn là người hay sợ, hay nghi kỵ người tài, nhất là vợ chồng bà đã từng là kẻ khác phía và đã bao lần khiến quan quân nhà Nguyễn phải điêu đứng ? Và ta nên hiểu chuyện Nguyễn Ánh dành cho gia đình họ những hình phạt quá thảm khốc như thế nào đây? Bởi lẽ nếu nhà vua sẵn tấm lòng khoan thứ; thật tâm mến mộ hiền tài, nhân cách ấy thì dù không chiêu hàng được, theo tôi, vua cũng sẽ lấy cái cớ "Trần Quang Diệu tha chết cho cả bọn tướng sĩ và còn sai người làm lễ liệm táng Võ Tánh & Ngô Tùng Châu tại thành Qui Nhơn vào năm 1801" để dòng tộc họ không bị giết sạch, gia đình họ được chết toàn thây hay chí ít ra cô con gái vô tội vừa vào độ tuổi xuân thì có được một con đường sống... Và "đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ...hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc...".Những câu văn giản dị này sao mà có sức gây nhói lòng người . Ngẫm chồng là Thái phó, vợ là Đô đốc, quyền lực nằm trong tay một thời gian dài, ấy vậy mà "nhà cửa, của cải đơn sơ đến không ngờ", chẵng đáng cho những người hôm nay tìm đọc về bà rồi sống tốt hơn sao ?... Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 4:37:18 GMT 9
Trần Đại Vinh Thêm một vài cứ liệu mới cho phép khẳng định lăng Ba Vành là lăng cũ của Lê Quang Đại Tháng 2-1961, ở Sài Gòn, Tạp chí Bách Khoa số 99 đã công bố bài Lăng Hoàng đế Quang Trung của Nguyễn Thiệu Lâu, mở đầu cho việc thảo luận công khai về vấn đề lăng vua Quang Trung. Đó là một bài viết dưới dạng hồi ký kể lại chuyến đi tìm lăng vua Quang Trung vào năm 1941 của tác giả, do lời gợi ý của Linh mục L. Cadière: “Lăng Nguyễn Huệ ở miền núi phía tây Huế. Anh hãy tìm đi và tiến hành khảo cứu” (La tombeau de Nguyên Huê est dans la région montagneuse à l’ouest de Hué. Cherchez le et vous enferez une étude). Linh mục dùng chữ phía tây Huế (à l’ouest de Hué), Nguyễn Thiệu Lâu cho là nhầm, mà phải là phía nam Huế. Sau đó, ông đi điền dã và tìm thấy một ngôi lăng hoang phế, có ba vòng thành khá lớn hình tròn, nấm mộ xây bằng vôi mật, có một lỗ hổng nhỏ, có bia đá mà chữ bị búa rập đi, nằm tại phía nam Tu viện Thiên An. Qua cảm nhận của mình ông đã đinh ninh đó là lăng vua Quang Trung. Sau khi đọc bài này, Bửu Kế đã lên Thiên An khảo sát và công bố bài Từ lăng Sọ đến lăng Ba Vành (Bách Khoa số 102, ngày 1-4-1961). Trong đó, ông nói qua về việc Quang Trung cho đào mồ mả, lăng tẩm của các chúa Nguyễn cùng như lăng thân phụ vua Gia Long và việc vua Gia Long lại khai quật lăng mộ Tây Sơn. Tác giả đã mô tả về lăng Ba Vành, trong đó đáng lưu ý là đoạn ghi nhận này: “Giữa bức thành và ngôi mộ lại có cái bàn thờ xây bằng gạch, phía trước có một cái bia nhỏ để bốn chữ “sơn nhạc chung linh”. Và quan trọng hơn, ông đã đưa ra một tài liệu lưu trữ ở Thư viện dòng Thiên An, nơi Linh mục L. Cadière đã tặng biếu sách vở, di cảo của mình. Tài liệu đó gồm một bức thư của L. Cadière gởi R. Orband, đang giữ chức Hội lý Hộ và cũng là trợ bút tập san BAVH: "Nhờ bộ Lễ hỏi giúp làng Cư Chánh: Ai đã chôn trong lăng gọi là lăng Ba Thành? Tại sao người chôn trong lăng ấy lại bị đào và đốt đi? Ngôi mộ chôn lại sao cũng trong lăng đó là của người nào ? Và vì sao bia lại bị búa rập?". R. Orband đã phúc đáp bằng một dòng viết thêm vào bức thư của L. Cadière: «Thưa cha, sau đây là những điều mà tôi hỏi được». Câu trả lời đó đính kèm một văn bản của bộ Lễ triều đình Huế, như sau: "Tiếp Hộ chánh tòa Hội biện quan đại nhân hỏi sự tích mộ Ba Vành và con cháu hiện nay ở xứ nào, Bộ tôi đã tư Thừa Thiên phủ chuyển hỏi làng Cư Chánh. Nay cứ xã ấy khai rằng: Ngôi mộ chôn ai và con cháu thuộc xã thôn nào thì chưa được rõ, chỉ biết mộ ấy là mộ xưa, nguyên đắp ba lớp thành, tục xưng Ba Vành, bỏ phế đã lâu, chỉ lưu lại một tòa bia đá, tự tích bị phá hủy. Năm Thành Thái thứ 13 (1901), Lý trưởng lúc bấy giờ là Nguyễn Bút (nay đã chết) cho Cơ Mật viện Thừa biện Võ Bá Khương (nay Chủ sự Phụ chính phủ) đem thân nhân vào chôn trong lăng ấy. Bộ tôi hỏi viên Chủ sự Võ Bá Khương thì viên ấy khai rằng: “Ngôi mộ Ba Vành là của Chánh dinh Hộ bộ kiêm Binh bộ tặng Tá lý công thần đặc tiến Trụ quốc Kim tử vinh lộc đại phu Chính trị thượng khanh Ý đức hầu Lê quý công chi mộ". Có một người làng Đồng Di là Đinh Như Nghi khai rằng năm Thành Thái thứ bảy (1895). Con cháu của ngôi mộ là Lê Xuân (nay đã chết) cải táng hài cốt trong mộ đem qua chôn ở núi Ngự Bình (...). Đinh Như Nghi khai thêm rằng: «Lúc Lê Xuân cải táng hài cốt ở mộ Ba Vành đem sang chôn ở núi Ngự Bình bị dân làng Cư Chánh nghiêm trách dữ dội, nên Lê Xuân hoảng sợ bỏ làng vào ở tại Đà Nẵng làm nghề thợ thiếc, nay đã từ trần». Từ tài liệu trưng dẫn đó, Bửu Kế kết luận: “Theo những tài liệu trên này ta có thể tạm tin rằng lăng Ba Vành không phải là lăng vua Quang Trung». Đến năm 1974, trên Tạp chí Đại Chúng số 1 ở Huế, Hồng Hoài Lê Văn Hoàng đăng bài Nói về lăng Ba Vành trình bày việc phát hiện tập hồ sơ trong dịp sưu tầm, phân loại lập sách thủ ở Viện Văn hóa năm 1940, mà ông làm thư ký hội đồng. Hồ sơ bao gồm bản sao thư của L. Cadière gởi Orband, tờ phúc bẩm của Lý trưởng làng Cư Chánh, và tờ khai của Đinh Như Nghi. Chỉ có một số sai khác về năm tháng và tên người được chôn: năm Ất Tỵ (1905), Lê Xuân cải táng và Võ Bá Khương đem chôn thân nhân là Chính dinh Hộ bộ kiêm Binh bộ. Từ đó ông kết luận: «Xem đó, chúng ta thấy rõ theo những tài liệu trên đây, thì ngôi mộ Ba Vành chắc chắn trăm phần trăm không phải là ngôi mộ của Quang Trung mà cũng không phải là ngôi mộ của chúa Nguyễn như chúng ta đã lầm tưởng lâu nay». Sau giải phóng, từ năm 1982 có các bài viết của các tác giả Đỗ Bang, Phan Thuận An và Mai Khắc Ứng tiếp tục xác nhận lăng Ba Vành là lăng Lê Quang Đại. Năm 1983, qua tập khảo luận « Lăng » vua Quang Trung ở đâu, gửi cho Tỉnh ủy Bình Trị Thiên và Viện Sử học Hà Nội, Nguyễn Hữu Đính chứng minh lăng Ba Vành thực chất là lăng vua Quang Trung được triều Quang Toản ngụy trang dưới tấm bia của Lê Quang Đại. Đến năm 1988, Trần Viết Điền đã công bố một phần công trình của mình trên Sông Hương số 30, luận giải lăng Ba Vành là lăng Quang Trung. Cách lập luận của anh khác cụ Đính, ở chỗ anh xác định lăng ấy không phải là ngụy trang dưới tên Lê Quang Đại mà ngôi bia vốn đề danh hiệu vua Quang Trung, nhưng bị người sau hủy phá. Chính ý kiến của anh Điền đã thu hút một số người nghiên cứu trở lại tìm hiểu lăng Ba Vành. Qua khảo sát thực địa, chúng tôi thấy đó là một lăng có một số yếu tố hình thức dễ khiến người khác ngỡ là lăng vua Quang Trung, như: - Bia bị băm xóa chữ, - Nấm mộ bị đào một góc, - Qui mô lăng khá lớn... Nhưng đi sâu nghiên cứu thì vấp phải những vấn nạn chứng tỏ đó không thể là lăng vua Quang Trung. Một là yếu tố chính sử triều Nguyễn về việc quật phá lăng mộ vua Quang Trung của Gia Long. Đại Nam liệt truyện ghi rõ: “Thị đông xa giá hoàn thành cáo miếu hiến phù, tận pháp trừng trị, quật phá Nhạc Huệ mộ, đảo khí hài cốt u kỳ đầu vu ngục thất...” (Mùa đông năm ấy, xa giá trở lại kinh thành làm lễ hiến phù cáo tôn miếu, trừng trị hết phép, đào phá mộ Nhạc Huệ, giã nát hài cốt rồi vứt bỏ, giam đầu của chúng vào nhà ngục). Nếu người nghiên cứu ý thức được ngòi bút chính xác chọn lọc của sử quan thời phong kiến, đặc biệt là triều Nguyễn ở Việt Nam, thì sẽ lưu ý đến những từ: tận pháp trừng trị, quật phá, có nghĩa là trừng trị đến mức tận cùng của pháp luật, khai quật và phá vỡ. Từ đó, có thể hình dung được rằng không thể tồn tại một ngôi lăng gọi là của vua Quang Trung với ba vòng thành như vậy và ngôi bia chỉ băm phá chữ. Nhất là nấm mồ không thể chỉ đào một góc để kéo quan quách của một hoàng đế mới chôn trong vòng mười năm. Cần lưu ý rằng trong bài chiếu làm lễ hiến phù, Gia Long đã tuyên bố: «Trẫm vì chín đời mà trả thù ». Hai là, kết hợp với các yếu tố thực tế và các lăng mộ của gia tộc Tây Sơn ở Nghệ An và Qui Nhơn đều bị khai quật, hủy phá đến mức chỉ trơ hố huyệt sâu, khiến người sau phải gọi là « giếng huyệt », đủ cho thấy lăng vua Quang Trung sau quật phá không thể tồn tại như lăng Ba Vành. Ba là, hai ngôi bia của lăng Ba Vành không thể tiêu biểu cho lăng một hoàng đế, chứ chưa nói là bia lăng vua Quang Trung. Về hình thức, ngôi bia trước mộ chỉ là một bia sa thạch được dùng nhiều ở thời các chúa Nguyễn (khi đất nước chưa thống nhất chưa thể lấy được đá Thanh), kích thước khiêm tốn (1m25 x 0m70 x 0m21), không hoa văn, không đầu triệu, không đường viền. Ngôi bia bên trái ngoài vòng thành hai cũng thế (0m96 x 0m54 x 0m15), chỉ cắt gọt ba mặt trước và hai bên còn nguyên mặt lưng vồ, đầy vết gọt đẽo thô phác. Mặt trước cũng không chạm đường viền, chỉ có hai gờ thấp ở hai mép. Hình thức đó không tương xứng ngôi bia lăng của hoàng đế do vị vua con lập để phụng tự. Về nội dung văn tự, chỉ cần thấy chữ « chi mộ », người nghiên cứu phải hiểu đấy không phải là bia lăng của hoàng đế, thân vương hay hoàng phi, vì với những đối tượng này phải dùng từ « tẩm » chứ không phải là “mộ”. Bốn chữ «sơn nhạc chung linh» (núi non un đúc sự thiêng liêng) ở ngôi bia trái, chữ viết đẹp, nhưng khắc cạn, chỉ chạm viền sâu quanh chữ. Có người cho là chữ dùng đế vương. Thật ra, thành ngữ đó cũng như thành ngữ «sơn nhạc chung anh» (núi non un đúc tinh anh) là một thành ngữ quen thuộc trong các văn bản cầu cúng, thờ tự ngày xưa của dân gian. Bản văn tế thần của làng Xuân Hòa, xã Hương Long, Huế, mở đầu bằng câu: «Sơn nhạc chung anh, hải hà dục túy». Câu đối thờ ở miếu Bà chúa Phổ Minh, xã Phủ Thượng, Huế ghi: "Sơn nhạc chung linh thiên thượng nữ Hoàng cư thanh giá ngọc trung nhân" đều là những lời xưng tụng quen thuộc ngày xưa. Nếu cho ngôi bia này án thờ Thổ thần của lăng Ba Vành như mô tả năm 1961 của Bửu Kế là bia thờ vua Quang Trung thì rõ ràng Quang Toản đã phạm tội đại bất hiếu khi dùng tên húy của hoàng bá phụ Thái Đức hoàng đế (Nguyễn Nhạc). Không thể là lăng vua Quang Trung, vậy thì chủ nhân của ngôi mộ lăng Ba Vành là ai mà nấm bị đào một góc, bia bị băm chữ và qui mô to lớn như vậy ? Nếu chỉ căn cứ theo phúc thư của bộ Lễ Nam triều gởi cho Orband, thì có hai nguồn tư liệu xác nhận lăng đó là lăng Ý đức hầu Lê quý công. Một là Võ Bá Khương, Chủ sự phủ Phụ chính, người đã xin và đem thân nhân của mình chôn vào trong khuôn thành lăng đó... Hai là Đinh Như Nghi, người làng Đồng Di, cùng quê với Ý đức hầu. Thế nhưng có lập luận hoài nghi rằng có sự ngụy tạo trong hồ sơ này của bộ Lễ Nam triều. Ai ngụy tạo? Vào thời điểm nào? Bằng cớ đâu? Người nêu nghi vấn chưa thấy nêu cụ thể, hoặc nói là Phạm Quỳnh, hoặc nói là Sogny. Cần lưu ý về thời điểm phúc đáp của bộ Lễ. Căn cứ vào danh mục nhân sự [1] của Hội đô thành hiếu cổ thì R.Orband quản lý các sở hành chánh tại Huế, Chủ tịch Hội đô thành hiếu cổ từ tháng 9-1914, đã nghỉ hưu từ tháng 9-1919 và về Pháp làm chủ tịch danh dự đồng thời là đại diện tại Pháp của Hội. Hơn nữa, căn cứ vào chức Chủ sự phủ Phụ chính của Võ Bá Khương, thì muộn lắm hồ sơ này cũng lập trước thời Khải Định. Tuy không xác định được năm cụ thể, những hồ sơ này phải lập sau 1901 và trước 1916. Việc Đinh Như Nghi khai báo và trích sao gia phả họ Lê cũng bị hoài nghi. Thế nhưng như có người đã tìm hiểu qua thân nhân hiện nay của Đinh Như Nghi, thì được biết rằng Đinh Như Nghi “có làm thầy cò, thầy kiện, thường lui tới cửa quan”, nên việc ông ta sốt sắng khai báo, trích sao gia phả cũng không có gì lạ, chỉ là việc làm tâng công để được chiếu cố mà thôi. Còn việc Lê Xuân cải táng năm 1895, bị làng Cư Chánh nghiêm trách, như lời khai của Đinh Như Nghi, cũng bị hoài nghi. Nhưng nếu chúng ta biết rằng cha của Ý đức hầu chỉ là con nuôi của Tuấn đức hầu, ngoài ra còn có người con ruột, và dòng trực hệ của Ý đức hầu sau này đứt đoạn, chứng tỏ rằng Lê Xuân là con cháu trong hệ khác, xét về mặt huyết thống thực sự, không phải là thân ruột của Ý đức hầu. Và trong hoàn cảnh tha hóa trước đồng tiền, ông ta đã cải táng để lấy của chôn theo, cho nên tiến hành vội vã, nghi lễ không tương xứng, làm cho dân làng Cư Chánh sở tại nghiêm trách. Cũng chính vì thế mà không đủ điều kiện để mang bia, nên đành băm chữ, tạo nên nghi án cho đời sau. Ngôi bia bị băm tự tích đó, lại bị Võ Bá Đàm, con của Võ Bá Khương cho trét vữa xi măng để khắc thêm những dòng: ... “phủ quân chi mộ; Nhâm Tuất mạnh đông; tự tôn Võ Bá Đạm phụng lập” với hai chữ “Phú, La” ở trên hai góc, càng tạo ra nghi án. Chữ “la” bị hiểu là ám chỉ “thiên la địa võng”, quy là chữ mà Gia Long dùng để yểm. Và Nhâm Tuất được suy là 1802, năm Gia Long yểm mộ sau khi đã khai quật. Về điều nầy trong hội nghị về vấn đề lăng Quang Trung, tháng 9 vừa qua [2] tại Huế, chúng tôi đã đưa ra kiến giải: Hai chữ Phú, La ở góc trên bia là ghi chữ đầu của tên huyện và tên làng của Võ Bá Đạm. Nhâm Tuất là năm 1922. Kiến giải đó bị xem là suy diễn. Thế nhưng, tháng 10 vừa qua chúng tôi đã tìm ra dòng họ của Võ Bá Khương tại làng La Ỷ, huyện Phú Vang, nay thuộc xã Phú Thượng, thành phố Huế. Võ Bá Khương sinh năm Tân Mùi (1871), mất năm Đinh Tỵ (1917), từng trải qua các chức vụ: Thừa biện viện Cơ Mật, Chủ sự phủ Phụ chính. Hồng lô tự khanh, là người đã xin và đem chôn tiên nhân của mình vào trong khuôn thành lăng Ý đức hầu. Võ Bá Đạm là con trưởng của Võ Bá Khương, sinh năm Ất Mùi (1895), mất năm Quý Mùi (1943) hàm Hàn lâm viện biên tu, là người đã cho trét vữa xi-măng lên ngôi bia cũ của Ý đức hầu để khắc dòng chữ “Phú, La”... “phủ quân chi mộ”, “Nhâm Tuất mạnh đông”, “Tự tôn Võ Bá Đạm phụng lập”. Đồng thời, trong khi khảo sát thực địa những lăng mộ của gia đình Võ Bá Khương chúng tôi phát hiện thêm một cứ liệu thú vị nữa là: Một số mộ tiên nhân của gia tộc này chôn ngay trước (tiền đoạt hướng) các lăng mộ lừng danh là “cát địa” của người khác. Dòng chữ bia cũng đều ghi đúng quy cách “Phú”, “La”, trên góc với năm tháng “Nhâm Tuất mạnh đông”, “Võ Bá Đạm phụng lập”. Bởi tháng 10 âm lịch (1922) là thời điểm Võ Bá Đạm tiến hành dựng bia cho nhiều ngôi mộ trong gia đình mình. Ví dụ hai bia mộ tằng tổ khảo, tằng tổ tỉ của Võ Bá Đạm ở núi Kim Lung. Điều đó chứng minh rõ ràng sự kiện Võ Bá Khương từ năm 1901, đem chôn thân nhân của mình là có thực, từ đó xác định rằng hồ sơ phúc đáp của bộ Lễ là chân thực. Cũng nên lưu ý là lời khai của Võ Bá Khương không xác định được Ý đức hầu tên gì, ở đâu. Điều này lại chứng tỏ Võ Bá Khương không quan hệ gì với Đinh Như Nghi, và ông chỉ biết được lăng Ba Vành và lăng Ý đức hầu chính là do ông đọc được qua tự tích đã bị Lê Xuân băm phá ở ngôi bia lăng Bà Vành vào năm 1901. Lời khai của Võ Bá Khương hoàn toàn phù hợp với một văn bản lâu đời đó là Hương phổ làng Đồng Di, lập đời Gia Long và phụng sao năm 1969 [3]. Hương phổ ghi đầy đủ chức tước của Lê Quang Đại, nhưng lại không rõ tên húy của ông là gì và mộ táng ở đâu. Hai cứ liệu này đã đủ để xác minh lăng Ba Vành là lăng Lê Quang Đại, nếu như dòng chữ bia đá ấy không đọc ra. Tuy nhiên, chúng tôi đã làm được một việc hơi thừa là đã đọc ra dòng văn bia nguyên thủy đó. Chúng tôi đã trình bày cách đọc trong hội nghị về Quang Trung vừa qua, nay chỉ xin tóm lược. Vết khắc chạm dòng chữ nguyên thủy là vết sâu nhất. Vết búa rập chỉ băm phá mặt ngoài của các nét chữ, chứ không xóa hết đáy sâu của chữ nhưng lại bị người sau trét lên một lớp vữa xi măng. Đến nay, mưa gió đã bào mòn cạn dần lớp vữa và làm cho đường vữa giáp mép chữ rạn nứt tạo thành đường viền từng nét chữ, từ đó cho phép bất cứ ai quen kiểu chữ triện viết lồng bia có thể hình dung các đường nét mà nhận ra mặt chữ. Dòng chữ nguyên thủy ở bia ghi được như sau: - Mặt chính: “Việt cố Hộ bộ kiêm Binh bộ, tặng Tá lý công thần đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Chính trị thượng khanh Ý đức hầu Lê quý công chi mộ”. - Mặt phụ: “Cảnh Hưng thất niên tứ nguyệt sơ bát nhật...”. Chính sự phù hợp giữa hai cứ liệu: 1. Lời khai của Võ Bá Khương; 2. Hương phổ của làng Đồng Di với cứ liệu gốc cụ thể: ngôi bia lăng Ba Vành tự thân đã cho phép khẳng định: LĂNG BA VÀNH là LĂNG MỘ CŨ của LÊ QUANG ĐẠI của làng Đồng Di, huyện Phú Vang cũ, Hộ bộ kiêm Binh bộ tại Chính dinh Phú Xuân, thời chúa Nguyễn Phúc Khóat, mất vào mùa đông năm 1745, được dựng bia ngày 8 tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ bảy 1746. Gần đây, có giả thiết cho rằng lăng mộ Lê Quang Đại là ngôi lăng sau miếu khai canh làng Xuân Hòa, xã Hương Long, Huế. [Nhưng] Chỉ cần lưu ý dòng bia ngôi lăng ấy ghi: Bổn thổ Hộ bộ kiêm Binh bộ Thượng thư hành hạ Thuận Hóa Quảng Nam đằng xứ, cũng đủ thấy bia ấy chỉ thị một nhân vật sống trước thời Lê Quang Đại, cụ thể là đời Lê, thay mặt nhà vua đi kinh lý, xem xét (hành hạ) hai xứ Thuận - Quảng. Lăng Ba Vành chính là lăng mộ cũ của Lê Quang Đại. Vậy chúng ta phải tìm phế tích lăng vua Quang Trung ở chỗ khác. Chúng tôi đi đến kết luận lăng Ba Vành là lăng Lê Quang Đại không chỉ có ý nghĩa xác định chủ nhân của lăng này mà chính là để chúng ta khỏi giẫm chân vào một địa chỉ nhầm lẫn, phải vượt qua nó, mở rộng địa bàn tìm kiếm khảo sát nhằm truy cứu một địa điểm đã từng là lăng tẩm vua Quang Trung. Theo thiển ý, địa điểm đó phải thỏa mãn điều kiện ắt có sau đây: là một nơi có dấu tích khai quật, tàn phá còn dấu vết hố huyệt sâu, chung quanh có đá, gạch, ngói, vỡ nát từ những công trình kiến trúc của lăng bị tàn phá như điện thờ, bi đình, bái đình, nhà hộ lăng... Để có thể tìm được một điểm như thế, chúng ta cần mở rộng sưu tầm, điều tra trong dân gian, và điền dã trên thực địa. Đề nghị cơ quan hữu trách phát động cuộc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung trong giới phụ lão và nông dân tại bốn xã vùng gò đồi của Huế: Thủy Xuân, Thủy An, Thổ Bằng, Hương Thọ và phường Trường An. Trong phạm vi thông báo một kiến giải về vấn đề lăng tẩm vua Quang Trung, chúng tôi đã trình bày thiển kiến của mình. Điều đó không có nghĩa chúng tôi chỉ biết lập luận của mình mà không xem xét kiến giải của chiều hướng khác. Nếu cần góp ý đầy đủ về kiến giải đó, chúng tôi xin trình bày nơi khác. Riêng ở đây để bớt ngộ nhận, tôi xin góp ý một ý nhỏ về cách khai thác bài thơ Khâm vãn Đan Đương Lăng. Anh Trần Viết Điền, trong bài Lý giải của công trình nữa thế kỷ, Sông Hương số 30, đã xây dựng cơ sở lập luận của anh qua sự cảm nhận của anh về bài thơ Khâm vãn Đan Đương Lăng của Ngô Thì Nhậm. Người nghiên cứu nắm vững chữ Hán, và kết cấu thơ Đường luật có thể thấy bài thơ đó không phải là một bài thơ mô tả lăng vua Quang Trung, mà chỉ là một bài thơ trữ tình nói lên sự ngưỡng vọng, hoài niệm vua Quang Trung của một cận thần. Đây là một bài có nhan đề dễ gây ngộ nhận, nhất là lại được dịch là: “Kính viếng Lăng Đan Đương”. Nếu không chú ý, dễ ngỡ rằng bài thơ làm sau khi đi viếng thăm lăng. Thật ra, từ “vãn” ở đây có nghĩa là “ai điếu, viếng người chết”. Và trong cách gọi của tác giả, phải hiểu cụm từ “Đan Đương Lăng” là biểu trưng cho vua Quang Trung đã quá cố. Vì thế phải hiểu thực chất của bài là “Kính hoài niệm vua Quang Trung”. Thực chất đó đã được Ngô Thì Nhậm trình bày trong lời tiểu dẫn. Ngô Linh Ngọc dịch như sau: “Đại để vua tôi chủ ở nghĩa, cha con chủ ở ơn, cái luân lí lớn của đạo làm người thì chỉ là một. Nhưng vua biết tôi, cha biết con, đối với sự cảm kích cái ơn, nghĩa lại phải thế nào? Bài thơ trước của tôi có câu... “vọng Đan Dương” do bởi được đề cử đi sứ mà thành thơ. Nay được thơ của ông (chỉ Phan Huy Ích) lại chợt có cảm nghĩ: gần đến ngày giỗ của ông thân tôi, bồi hồi xót thương làm được hai bài Khâm vãn và Cung ức theo nguyên vần trình ông xem”. Mặt khác câu thơ mà anh Điền viện dẫn lại là câu thứ 2 trong cặp luận: "Trắc giáng hoàng linh khâm tại tả”, được anh hiểu là : "Anh linh nhà vua lên xuống ở bên trái", là một cách hiểu không phù hợp với cú pháp và tinh thần câu thơ. Nó chỉ có nghĩa là: "Anh linh nhà vua lên xuống, tôi kính cẩn ở bên trái". Câu cuối mà anh khai thác để quy kết rằng nó chỉ thị cấu trúc của lăng vua Quang Trung theo quẻ Khôn ... lại phải hiểu trong toàn bộ câu kết: Tài bồi thiên đức lư thù báo, Khôn đạo vô tha lợi trực phương Có nghĩa là: "Đức trời (đức của nhà vua) bồi đắp (như thế) phải nghĩ tới sự báo đáp. Tôi nguyện theo đạo của quẻ Khôn, không gì bằng trung trực, đoan chính". Đó là câu kết nói lên sự báo đáp ơn vua bằng cách giữ mình ngay thẳng. Từ việc khai thác xa rời nội dung một bài thơ hoài niệm, tán dương công đức vua Quang Trung, để suy luận đó là một bài thơ ám thị về cấu trúc, phương hướng lăng vua Quang Trung, anh đã đi đến việc lập một mô hình lăng trong dự tưởng, rồi đối chiếu với cấu trúc lăng Ba Vành, và cho là phù hợp lẫn nhau. Những viện dẫn tiếp theo như dịch học, phong thủy... cũng là những luận giải đầy nhiệt tình nhưng không kém mơ hồ. Cách đặt vấn đề trong bài viết trên có thể là một cách mới, nhưng từ nền tảng của luận cứ đã không chính xác để dẫn người nghiên cứu đi quá xa sự thực một cách vô tình mà không tự biết. Hãy trả lại bài thơ hoài niệm xót thương của Ngô Thì Nhậm trở về với nỗi bồi hồi xót thương chân chúa của ông. Huế, tháng 10 năm 1988 Trần Đại Vinh Chú thích [1]. Le Bulletin des Amis du Vieux Hué 1914-1923, H. 1926, p.302. [2]. Năm 1988. [3]. Bản sao do các tộc trưởng Phạm Quang Chăn, Lê Quang Thức và Đinh Như Tào ký. (Trích từ phụ lục: Nguyễn Đắc Xuân, “Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung”, Nxb Thuận Hoá, Huế tháng 10-2007, từ tr.235 đến tr.248).
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 5:53:48 GMT 9
Sử liệu về Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh (I)Nhìn lại sử liệu viết về Nguyễn Huệ Quang Trung và Gia Long Nguyễn Ánh Nguyễn Văn Lục Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều. Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị, kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn. Trong các chế độ tài đảng trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng văn nô. Trong khi đó, lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần. Phần còn lại của lịch sử được viết đi, viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ. Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm, người này người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh Gia Long. Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền thoại hóa, được vinh danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các người viết sử. Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử của những người viết sử? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả thực không dễ. Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu, đóng mốc đến mọc rễ trên họ. Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên,. Đó là hai công việc đồng thời phải làm. Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong sách vở, xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả, xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não. Và nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo. Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử. Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử. 1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh. Số lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì? Phải chăng những người viết sử chạy theo số đông như về hùa? Hay viết với nhiều cảm tính? Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế? Hiểu được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật. Chẳng hạn cộng sản Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn. Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 thì do động cơ nào? Tay Son Soldier Nguồn: William Alexander (1767–1816) Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam Thực lục tiền biên và chính biên viết theo lối biên niên. Đây là số lượng tài liệu đồ sộ, nhưng lại không dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người có để đọc. Người viết đọc các tập tài liệu này, măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà, quá chi ly từng sự việc, nhưng rõ nét tính chính thống. Không thể phủ nhận tinh thần công tâm, nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn. Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá. Ngoài thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ở ngoài luồng” sau này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long. 25 năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao. Ông vào sinh ra tử. Và gần 100 năm dòng họ ngồi ở ngôi báu. Biết bao điều để phải nói, phải viết. Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta? Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến. Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì? Vậy mà người ta có thể ngồi “vẽ ra” nào là về chính tri, ngoại giao, chính sách về tôn giáo, tiền tệ, v.v… và v.v…và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa. Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay! Vì những sách này lại rất khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán. Cho nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử. Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử. Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian, truyền miệng. Làm thế nào bịt miệng dân gian? Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh là điều có thực. Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim, một sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới về vua Quang Trung. Nó đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang, với nhiều danh xưng tán tụng như “anh hùng áo vải, anh hùng dân tộc dựng cờ đào, v.v… Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn. Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó, đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của đời sống. Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người, khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ. Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học? Duyên Anh đã có lần viết mơ được làm Người Quang Trung. Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành. Cạnh đó, thơ văn, kịch nghê, sân khấu, tiểu thuyết, sách giáo khoa, tên các địa danh, ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “người anh hùng áo vải”. Phải chăng có một thứ sử học, văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc, đất nước, con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người anh hùng? Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về Quang Trung. Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng: Quang Trung, Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc 1788-1792, Sàigòn,1958. Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người. Nguyễn Phương với cuốn Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Sài Gòn, Khai Trí, 1967 Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều. Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều. Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không? Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế. Nó chẳng khác gì khi có phong trào “thời thượng triết hiện sinh” sau này. Phải chăng có một phong trào, một sùng bái Tây Sơn? Ở miền Nam, tập san Sử Địa là “ấn tượng và biểu tượng” nhất của phong trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “thời thượng” Tây Sơn. Trong đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn. Ý hướng thiện chí thì có. Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “định sẵn”, phần biện luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử. Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu. Càng thiếu tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu. Đã thế, cách viết, cách chọn tài liệu, nhất là phong cách, ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn. Đó là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình, rất thiên lệch, phong cách viết, ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “tự cao” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực. Tôi muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự Chiêu, Nguyên Vũ. Đây là cái bệnh “ngụy tín” mà J.P. Sartre đã vạch trần trong những luận cứ triết học của ông. Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy, hầu như không có mấy bài chú trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long. Cũng ít chú trọng đến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ. Những tài liệu này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra. Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu: “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Sử Địa số 9-10, 1968, tr94-243 và “Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương”, Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180. Tài liệu đã hiếm hoi. Nhưng có một số tài liệu “đầu tay” cùng thời với sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng. Riêng người viết bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài liệu này. Vậy mà phần đông người viết sử miền Nam hình như tránh né, ít xử dụng các loại sử liệu của các thừa sai Pháp. Phải chăng vì nó trình bày những “bất lợi”cho Tây Sơn. Xem ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này? Phải chăng vì nội dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc, hay nội dung đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ? Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “lời đồn” hay “nghe kể”. Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử. Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “tiếm vương” Quang Trung. Nhưng, theo người viết, chính vì họ không có ý định viết sử, mà điều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được. Vì thế, đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn, trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử. Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất. Cùng lắm, ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào. Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều giới hạn tài liệu. • Chủ đề thứ nhất: Đặc Khảo về Quang Trung. Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như: Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn v.v… Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài: Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh. Tạ Quang Phát với bài: Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn. Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư: Lettres Édifiantes et Curieuse của Gia Tô Hội. • Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau, tháng1-3, năm 1969 để kỷ niệm: Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, Đống Đa. Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài: Đống Đa, mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới. Hoàng Xuân Hãn với Bắc Hành Tùng Kí. Nguyễn Nhã với: Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Đăng Phương Nghi dịch: Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương. • Chủ đề thứ ba số tháng 1-3, 1971: 200 năm Phong Trào Tây Sơn với các bài của Hoàng Xuân Hãn: Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân”. Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại. Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây, bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư (tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne). Trong cả ba số chủ đề trên, sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi bật. Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách nhìn mới, tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả. Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm. Phía các người viết sử miền Bắc Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “đi trước” các nhà viết sử trong Nam. Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “cách mạng” đi trước cả Mác-Lênin. Và phải chăng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng XHCN? Người ta đọc được các bài viết sau đây về Tây Sơn, Nguyễn Huệ: Tem Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Nguồn: OntheNet - Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa. - Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ. - Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn. - Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời. - Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn - Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể. Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào lối viết theo “lề phải” như Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Trần Thanh Mại, Trần Văn Giàu, Vũ Ngọc Phan, Trần Đức Thảo. Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử. Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết, viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích tuyên truyền. Họ càng “tụng” Tây Sơn, Tây Sơn càng không phải Tây Sơn. Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “đánh bóng” Lý Công Uẩn? Với những dụng ý như thế, Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật. Sau 1975, Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn, xnb Trẻ, TP. HCM, 2000. Đặc biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề: Mười ba đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn. Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi: Hành động cách mạng “số một” của vua Bảo Đại, trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “ thánh” Nguyễn Ái Quốc! Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng Nhưng viết về Nguyễn Ánh, khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như: “Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long”, Phạm Việt Tuyền, Đại Học Huế, số 8 tháng 3/1958. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh: La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Đuc à 1925. Bài viết gần đây như: Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn, số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt. Nguyễn Phúc Ánh (1783) Nguồn: Một người ở Siam Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An: Bàn về Tây Sơn, Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh. Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được. Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn. Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây Sơn trong tương lai. Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975, chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp. Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra tính cách “một chiều” trong các bài khảo luận về Quang Trung. Vì thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến, theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký, năm Đạo Quang thứ 22-1842 nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết. Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ. Ông Hãn còn viết thêm bài: Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân” Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “theo lề trái” về Quang Trung. Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị không có được là ông rành chữ Hán, tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang, Chen Ching Ho (Trần Kình Hòa). Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn, lại không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học? Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía. Và theo ông, cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía. Vì thế, viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật. Sau này, các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu đó khi tìm hiểu - điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử- thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược. Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những thư từ, chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta. Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính, đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của vua Gia Khánh (1798-1820), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo, được in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển, ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000. Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử. Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch, tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật. Cho nên phần đông các tham luận về sử, đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu. Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ. (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 5:56:23 GMT 9
2. Những ngộ nhận và đánh giá sai lầm về Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ Từ những thiếu sót về tài liệu cộng với “trào lưu văn sử học Tây Sơn” đã đưa tới tình trạng nhiều tác giả viết sử đã có định kiến về Nguyễn Ánh. Người ta có cảm tưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh có một cái trục về điều xấu và một trục về điều tốt. Sự phân biệt chính tà hầu như rõ rệt và phân minh lắm, Cái gì về phía Nguyễn Ánh là phản phúc, tàn độc, là dã man, là phong kiến. Cái gì về phía Quang Trung là anh hùng, hào kiệt, là cách mạng nông dân, là chiến thắng thần thánh, là “hết lời, hết ý”. Tinh thần phân biệt thị phi giữa thiện ác, giữa xấu tốt là một “bước lầm” dẫm chân giữa các lãnh vực. Không phân biệt rõ ràng ranh giới và trách nhiệm giữa lãnh vực sử học, lãnh vực chính trị và lãnh vực đạo lý. Nhiều nhà sử học thay vì trình bày khách quan sự việc đã nhảy chổm sang lãnh vực đạo lý, đưa ra những lời phê phán đáng nhẽ thuộc thẩm quyền đạo lý. Việc phê phán sự “tàn ác” của Nguyễn Ánh mà bỏ quên bối cảnh lịch sử của thời đại ấy với khung pháp lý, chính trị của thời đại ông ta phải chăng là một thiếu sót? Chẳng hạn, việc phê phán hình phạt cho voi giầy thật đáng phê phán ở thời đại này, nhưng lại là việc “thông thường” trong khuôn khổ chính trị, pháp lý thời trước. “Phong trào thần tượng Tây Sơn” còn lan tỏa ra chung quanh hào quang của ông ấy. Chẳng những Tây Sơn được coi như anh hùng hào kiệt đã đành mà đến tất cả các bộ tướng, các cận thần đến vợ con, đến những quan hệ “hôn nhân chính trị” chung quanh ông cũng tắm gội trong cái hào quang ấy. Hầu như có một thế giới Tây Sơn, một thời đại Tây Sơn -một thời đại vàng son- không ai có thể nói khác đi được. Các cận thần như La Sơn Phu Tử, Nguyễn Thiếp là những bậc trí giả, đạo đức cao vời. Họ vừa khôn ngoan, vừa đạo hạnh, vừa chính nhân quân tử, vừa nho phong đạo cốt, vừa ứng xử tuyệt vời ban ra những lời nói vàng ngọc đáng ghi khắc. Cái hay của Huệ là chỗ biết nghe, biết dùng người tài. Về các tướng tá chung quanh ông như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là những mãnh tướng can trường có đảm lược ngoài trận địa. Chẳng những thế còn có khí tiết cho đến lúc bị voi giầy. Ai ai không xúc động khi được nghe những lời đối đáp can trường giữa mẹ và con gái bà Bùi Thị Xuân. Chỉ không ai ngạc nhiên hỏi xem ai là người đã được chứng kiến cái cảnh đau lòng đó và có đủ thẩm quyền ghi lại từng câu, từng chữ một cách trung thực? Để đến nỗi ngày có người đã viết lại cảnh đó trong dịp ngày lễ Vu Lan? Tuyệt vời cái scénario này. Ngọc Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác nhhư một bản Tình Ca bất hủ. Nay thì từ lịch sử đã chuyển sang một công đoạn khác, Văn Học. Từ lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết bằng cái gọi là “hư cấu”. Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách nhiệm, băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai chữ “sáng tác” để viết gì thì viết. Nhưng câu hỏi đặt ra là nhà văn có quyền viết tên thật các nhân vật lịch sử đồng thời ”hư cấu” tùy tiện? Đó là câu hỏi quan trọng được đặt ra, nhưng không thuộc lãnh vực của bài này. Đó là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật Nguyễn Huệ-Ngọc Hân, cô An, ông thày giáo “tròn quá, toàn bích quá”. Trần Vũ thấy “ngứa ngáy, khó chịu” mới viết truyện Mùa mưa gai sắc như một “viết ngược” lại tác giả Sông Côn mùa lũ? Trong Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ”, ông đã “biến tướng” Ngọc Hân công chúa “lá ngọc cành vàng” thành một thiếu phụ “sẵn sàng tự cởi xiêm y cho mục đích nhằm” -một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê - bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo. Dưới ngọn bút của Trần Vũ, Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm. Trần Vũ cũng có cái lý của nhà văn. Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc Hân lại dễ dàng “dâng hiến” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê? Có thể nào có một mối tình “đẹp như tiểu thuyết” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ thù? Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “tiếm quân” Tây Sơn sau đây: “Chẳng những thế Tây Sơn còn cho giết bào đệ vua Chiêu Thống khi đánh nhau với Tây Sơn. và Hơn thế nữa, khi mẹ vợ của ông bị điệu về triều đình, ông đà trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiêm. Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiêm phải vào tay ông. Cuối cùng ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6”. Trích Những tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Đặng Phương Nghi, TSSĐ số 9-10, trang 209. Chẳng lẽ những truyện “tàn độc” của Nguyễn Huệ đối với vua Lê, Ngọc Hân công chúa đều không biết? Chỗ nào là sự thật lịch sử và chỗ nào là cái lý lẽ thế nhân thường tình? Hãy đọc một trích đoạn lối viết ngược của Trần Vũ cho biết: “Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn một tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xõa chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng kiềng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đâu roi vút tiếng rít như rạch tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như những vết ong đốt, hay những giọt mực son rỏ trên lên vũng sữa. Huệ vung tay tới tấp”. Đây là truyện ngắn mà người viết bài này đọc đến ngỡ ngàng, thích thú và trân trọng. Phải chăng cũng một cung cách ấy mà Nam Dao trong tập truyện dài lịch sử lấy bối cảnh triều Tây Sơn trong cuốn Gió Lửa? “Đêm hôm đó, để mặc Huệ dày vò, đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh. Hân vừa rên rỉ vừa thì thào “nữa đi, nữa đi” như thách thức, dầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau của thể xác.” Khiếp quá! Giữa cái “hư cấu “ của Nguyễn Mộng Giác và cái hư cấu của Nam Dao thì đọc Nam Dao sướng hơn nhiều. Đây cũng là một tập truyện dài với “tuyệt hư cấu” và thay đổi cả “trục thời gian lịch sử” viết thật hay. Rất tiếc, phải cần một trình độ thưởng thức văn học nào đó nên cuốn truyện đã không được người đọc lưu tâm đủ. Và cuối cùng trong Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn cầm bút ở ngoài Bắc với xác chết người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa, người tình của Nguyễn Huệ. Câu chuyện trong Phẩm tiết xoay quanh một cái chết mà chỉ nhà văn với giầu óc tưởng tượng mói viết ra được. Một số nhà phê bình miền Bắc gọi Nguyễn Huy Thiệp “xuyên tạc lịch sử” hay là một thứ “ lịch sử giả”? Nguyễn Huy Thiệp đã trả lời một cách đích đáng, “Không ai đánh nhau với cái xác chết, người ta chỉ khai thác các xác chết sao có lợi mà thôi.” Phải chăng cái xác chết mà nhà văn muốn nói ở đây là sự thật lịch sử về Nguyễn Huệ? Giữa Ngọc Hân - Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác và Ngọc Hân-Nguyễn Huệ của Trần Vũ, của Nam Dao có một chặng đường sa mạc không bao giờ tưởng có thể đi tới. Đó là một sự đánh tráo con người và số phận Ngọc Hân-Nguyễn Huệ mà chỉ có tiểu thuyết mới có quyền năng làm như vậy. Như thế, phải chăng sẽ không có điểm hẹn lịch sử nào giữa một nhà viết sử và một nhà văn? Thế giới của nhà viết sử và của nhà văn thì không phải là một? Cho nên rõ ràng nó không có chỗ cho một sự đối đầu cần thiết giữa các quan điểm lịch sử với quan điểm văn học mà chúng ta mong đợi. Và vì thế chuyện viết sử và chuyện viết của nhà văn có những đối tượng và mục đích khác nhau. Cùng lắm nhà viết sử đi tìm sự thật còn nhà văn trên cả sự thật đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật. Trở về lại với khung cảnh sử học Việt Nam, đặc biệt phía những người Quốc Gia người ta nhận thấy từ Trần Trọng Kim tiếp nối Hoa Bằng, Phạm Văn Sơn, Tạ Chí Đại Trường, Vũ Ngự Chiêu và đến người viết mới đây nhất về Tây Sơn, tác giả Trần Gia Phụng thì ít nhiều đều đi theo một một đường thẳng của hình học phẳng mà không bắt gặp bất cứ con đường nào khác. Tạ Chí Đại Trường Nguồn ảnh: nhanambook.wordpress.com Riêng Tạ Chí Đại Trường - ông có thế giá sử học - ông có những cố gắng khám phá, những biện luận thông minh sắc bén và trí thức, nhưng đôi khi cũng lùi bước trước những “gánh nặng lịch sử”. Có thể ông đã không viết khác được. Tạ Chí Đại Trường càng tỏ ra cái tài tuấn biện luận sử học thì một mặt khác cho thấy sự biện luận ấy là do thiếu tài liệu sử, thiếu thông tin sử học. Giả dụ rằng, ông có trong tay đầy đủ chứng liệu sử học từ nhiều nguồn thì chỉ việc khệ nệ bê ra và khỏi cần đến biện luận? Ngày nay đọc lại bài khảo cứu của ông về cuộc hành quân ra Bắc trong chiến dịch Việt -Thanh cho thấy sự khan hiếm tài liệu thật rõ rệt. Các biện luận của ông về chiến dịch này không còn đứng vững nữa vì thiếu cơ sở. Lấy một tỉ dụ, người ta đọc thấy những câu chuyện hư cấu, những huyền thoại về Tây Sơn được viết lại trong “ngoại thư” Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) - một tập sách mà thật ra chỉ là sự pha trộn khéo léo giữa một số sự kiện có thể “giả định là thực” cộng với hư cấu! Linh Mục Nguyễn Phương, giáo sư sử học đại học Huế có viết một bài: Giá trị Hoàng Lê Nhất Thống Chí đăng trên báo Bách Khoa, ngày 14-5-1963, trang 15-22 Trong đó linh mục Nguyễn Phương đánh giá thấp giá trị lịch sử của tập sách và cuối cùng ông xếp vào loại sách truyện, thứ ngoại thư. Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771-1802 cũng thừa nhận HLNTC là không dùng được vì tính cách truyện của nội dung tập tài liệu. Vậy mà cũng chính Tạ Chí Đại Trường trong phần viết về: Chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh, vì không có tài liệu nào khác về phía nhà Nguyễn cũng như về phía sử Trung Hoa. Ông đã đành lòng ghi nhận: Phần viết này thì đều lấy lại ở HLNTC! Sự trung thực đáng quý. Nhưng nó lại thật là mâu thuẫn với tư cách một người viết sử. Những “kiến thức có sẵn” ấy do sự lập đi lập lại bởi nhiều người, bởi nhiều “sách vở viết theo” do những nguyên do khác nhau đã dần trở thành những “gánh nặng lịch sử” khó phá vỡ được? Đã đến lúc phải can đảm trút đi cái “Gánh nặng lịch sử này”. Cũng vậy, đọc một vài cuốn sách sử như: Nhà Tây Sơn của Trần Gia Phụng mới đây, năm 2005, mà tính cách bảo hoàng trong tầm nhìn cũng như tài liệu sử toát ra ngay trong phần thư mục liệt kê sách đọc. Thiếu vắng các tài liệu về phía người Pháp hoặc xử dụng không đúng mức, thiếu vắng các tài liệu về phía người Anh và quan trọng hơn cả thiếu vắng các sử liệuTàu được trích dẫn như một phản biện. Và nhất là thiếu vắng một cái nhìn lịch sử, một chọn lựa “đúng” trong chiều kích nhìn một sự kiện lịch sử. Đây là một trong cái thiếu sót lớn nhất của tác giả Trần Gia Phụng. Cho nên có lẽ có thể kết luận khi đọc sách của Trần Gia Phụng là đọc cái gì, đọc tài liệu như thế nào thì viết như thế nấy. Xin đưa ra một bằng chứng để làm bằng cớ về số quân nhà Thanh trong cuộc chiến Việt Thanh. Số quân nhà Thanh sang đánh nước ta được sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí phóng lên đến 500.000, chỗ tài liệu khác xuống 300.000 quân. Riêng sử gia Tạ Chí Đại Trường thì đành “khiên cưỡng” chấp nhận con số 200.000 quân được coi là chấp nhận được bằng vào các sử liệu của Việt Nam. Nhưng ngay từ thập niên 1960 thì một ông sử gia Trung Quốc, ông Tưởng Quân Chương, dựa theo Thanh sử, châu bản cũng như Tấu chương của Tôn Sĩ Nghĩ đã đưa ra một con số “sửng sốt”. Tưởng Quân Chương cho rằng Tôn Sĩ Nghị chỉ mang “8000” quân sang Việt Nam, trong khi đó Nguyễn Văn Nhạc đã tụ tập 10 vạn binh mã để đánh quân Thanh. Vì vậy quân Thanh đại bại. Nguyễn Hiến Lê Nguồn ảnh: Trần Cao Lĩnh Để đáp lễ tức khắc Tưởng Quân Chương, các tác giả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Hữu Ngư viết bài trên Bách Khoa, số 77, ngày 15-3-1960, trang 23: “Bàn về đính chính sử liệu Việt Nam nhân một bài viết của học giả Trung Quốc Tưởng Quân Chương” Trích lại trong Sự thực sử học: một con đường ngắn nhấn dẫn tới đoàn kết dân tộc, tác giả Vũ Ngự Chiêu, Phần tài liệu đọc thêm II: Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn. Đăng trên Báo Đi Tới số 84, Bộ mới, Tôn giáo và Dân tộc, trang 159. Vấn đề ở đây là để phản bác học giả Trung Quốc, ông Nguyễn Hiến Lê đã dựa trên tài liệu chính sử nào? Tài liệu của các thừa sai Pháp, tài liệu Thanh sử hay tài liệu của các học giả viết bằng tiếng Anh? Ai là nhà sử học trên có thẩm quyền tinh thần để đưa ra một con số “gần đúng” với sự thật lịch sử? Tác giả Nguyễn Duy Chính, trong tập biên khảo Việt Thanh chiến dịch. Quân Thanh tiến vào Thăng Long đã đưa ra một con số khá tương cận với con số của học giả Trung Quốc khi ông viết: “Việc dựng lại các trận đụng độ giữa quân Thanh và quân Nam trong vòng một tháng tiến binh của họ cần phải được cân nhắc để không quá sơ sài như sử nước ta mà cũng không huyênh hoang như sử Trung Hoa. Vấn đề quân số nhà Thanh đem sang nước ta là bao nhiêu cũng cần được đánh giá lại . Việc khẳng định 20, 30, 50 vạn như nhiều sách vở khó có thể coi là chính xác, phần lớn do nhận định chủ quan và dựa trên ước đoán tổng quát. Riêng sách vở của Trung Hoa thì họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh thực lục là một vạn quân mặt đông và tám ngàn quân mặt tây đưa đến con số 18.000 quân cho cả hai mặt. Và tác giả Nguyễn Duy Chính giải thích thêm là “vua Càn Long chỉ sử dụng quân của bốn tỉnh phía Nam và tây nam như một cuộc chiến ủy nhiệm khác hẳn các chiến dịch khác thường điều động nhiều cánh quân từ nhiều vùng, nhất là Bát kỳ Binh ở miền Bắc.” [Xin đọc thêm bài viết của cùng tác giả về “Từ Quân Doanh kỷ lược đến Khâm Định An-Nam kỷ lược”, đăng trên Gio-o.com (http://www.gio-o.com/nguyenduychinh.html)] (Còn tiếp)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 6:01:02 GMT 9
Giữa con số đề nghị của Tạ Chí Đại Trường là 200.000 ngàn quân Thanh và con số của Nguyễn Duy Chính chứa tới 20.000 người, đâu là con số giả định có thể chấp nhân được gần đúng? Người viết xin mượn chữ của Phạm thị Hoài phải chăng cần có kết quả của những phép tính trừ trong việc đọc về các con số trong chiến dịch Việt-Thanh? 3. Giải trừ huyền thoại về cách đối xử tàn nhẫn của nhà Nguyễn Gia Long đối với Quang Trung Nguyễn Huệ Có một điều cần lưu ý bạn đọc là những tài liệu liên quan đến sự “bạo tàn” của Nguyễn Ánh khi mới lên ngôi thì đều xuất phát từ hai nguồn tài liệu: Thứ nhất từ các lá thư của các thừa sai Pháp trong Archives des Missions Étrangères de Paris, Cochinchine, trong đó có các tài liệu như: Lettres édifiantes et curieuses của Gia Tô Hội. Bộ Nouvelles lettres Édifiantes et curieuses do Đặng Phương Nghi hoặc do Nguyễn Ngọc Cư dịch hoặc Những Lời thuật của Barisy về Trận Thị Nại, Thư của giáo sĩ Le Labousse cũng về Trận Thị Nại hoặc Lời thuật của Brisy về trận Phú Xuân. Cả ba tài liệu trên đều do giáo sư Hoàng Xuân Hãn chuyển ngữ. Thứ hai và đây là phần quan trọng nhất là các vụ trả thù Tây Sơn lại do chính các sử gia triều Nguyễn chính thức tường thuật lại. Điều đó cho thấy thái độ công khai hóa các trừng phạt vì họ cho rằng trừng phạt đó là xứng đáng, là xử theo luật. Bây giờ người đọc cho là xử phạt quá tàn độc như hình phạt cho voi giày xé là có ghi trong luật lệ hẳn hoi. Giả dụ Tây Sơn có quyền lực trong tay mà bắt được giặc có lẽ cũng không làm khác hơn. Về các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê Khi dịch các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê, bà Đặng Phương Nghi cũng ghi nhận tính cách “tế nhị” khi phải dịch những lá thư đó. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tính cách cập nhật và tinh cách nhân chứng của các lá thư này. Đọc các thư từ hay bài tường thuật của các thừa sai Ba Lê cho thấy những nhận xét chi li, tỉ mỉ, tính chất người đậm nét và những biểu lộ tình cảm cũng rất người của các lời tường thuật. Nó như chuyện kể thực, sống động và trung thực. Điều này cũng chứng tỏ Vũ Ngự Chiêu đã bất công khi đánh giá các tài liệu này. Các lời tường thuật có tính truyền đạt, được sự cảm thông của người đọc không thua gì một bài phóng sự của một tay viết báo bây giờ. Đọc không thể không mủi lòng, rơi lệ vì sự tàn bạo của con người, của kẻ thắng trận đối với kẻ bại trận. Nhất là đối với các phụ nữ, vợ các tướng tá bại trận. Xin được trích dẫn vài đoạn tiêu biểu. “Sau đó, Nguyễn Vương hỏi tôi đã trông thấy các ngụy tướng chưa; thấy tôi đáp rằng chưa, ngài cho lệnh giải họ tới. Rồi ngài bảo tôi đi xem các chị em của Tiếm vương (Cảnh Thịnh). Tôi đã tuân lệnh. Những tù nhân này ở một ngôi nhà kín, hơi tối, thiếu vẻ thanh nhã; trong cảnh huống của họ, có sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại. Tất cả có 5 người; một 16 tuổi rất đẹp, một thiếu nữ 12 tuổi, con vương phi Đàng Ngoài, dung mạo tầm thường; còn ba người khác từ 16 đến 18 có nứỚc da hơi sẫm, nhưng dung mạo xinh đẹp. Trong một ngục thất khác không xa, có thân mẫu của vị thiếu phó, tướng chỉ huy đạo quânbao vây thành Quy Nhơn. Bà ta độ 55 tuổi và có nhan sắc. Trong trạng huống bất hạnh, bà tỏ ra rất cương quyết, có vẻ trinh thục và không tự tôn. Rồi tới vợ phò mã Nguyễn Văn Trị, là chị ruột của Tiếm Vương. Còn bà Tư-Khấu Định, vợ tướng chỉ huy pháo binh, có võ tướng; Bà Tham-lĩnh Thông, vợ phó đô đốc hải quân và sau nữa còn rất nhiều người, muốn nhớ hết phải ghi cả một niên giám trong ký ức. Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch và tôi tức giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc chắn có những tòa nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ, nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều bình cho Nhật Bản. Tóm lại, đó là chung cục việc báo thù của Nguyễn Vương và chắc hẳn ít là nỗi oán cừu của ngài rất hời hợt”. Về Chính sử triều Nguyễn Nay thử đọc một số trích đoạn được ghi chép trong chính sử triều Nguyễn về các hình phạt “dã man” dành cho kẻ chiến bại: “Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ, Ngày Giáp tuất hiến phù ở Thái miếu.(Hiến Phù: Dâng những người bắt được trong chiến tranh.) Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất di, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và một của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại. (Ngoại đồ gia: Sau đổi là vũ khổ (Năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi) Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”. Trích Thực Lục, trang 531. Theo tài liệu Bissachère ghi ở trên còn đưa ra chi tiết anh em nhà Cảnh Thịnh trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh các lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Căn cứ vào sự việc được chính thức sử gia nhà Nguyễn kể lại thì quả thực cách hành xử của Nguyễn Ánh quả là quá tàn độc đội với kẻ đã chết cũng như đối với con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ. Cũng vì thế, các nhà viết sử VN đều đồng loạt lên án Nguyễn Ánh, Gia Long. Từ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư, Hoa Bằng trong Quang Trung, anh hùng dân tộc đến Vũ Ngự Chiêu đều cùng đồng loạt lên án Nguyễn Ánh Gia Long. Các sử gia Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn chê trách triều đình nhà Nguyễn hẹp lượng. Hoa Bằng thương tiếc cho người anh hùng Quang Trung bị gán cho chữ Ngụy. Trần Gia Phụng chê trách Nguyễn Ánh viện cớ việc trả thù chỉ là dựa trên “nghĩa lớn trong kinh Xuân Thu” mà thực ra là trái với đạo lý cổ truyền của dân tộc. Vũ Ngự Chiêu thì viết: “Không ai phủ nhận được một điều: Cách đối xử của các vua nhà Nguyễn (1802-1945) với Quang Trung Nguyễn Huệ và gia đình Tây Sơn cực kỳ tàn nhẫn. Theo Đại Nam Thực Lục, Chính biên, từ tháng Một Tân Dậu,ngay khi tái chiếm kinh thành Huế, Nguyễn Chủng cho lệnh phá hủy mộ Quang Trung, “bổ săng, phơi thây bêu đầu ở chợ”. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu của nhà Tây Sơn ”31 người đều bị lăng trì cắt nát thây”...Sự trả Thù còn trút xuống dòng dõi Nguyễn Văn Nhạc dưới thời Minh Mạng (...) (Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn (1778-1802) Nguyên Vũ, Ngàn năm soi mặt, 2002. Trích lại trong báo Đi Tới, số 84, bộ mới, trang 159. Qua những tư liệu vừa trích dẫn trên cũng như sự đồng thuận của các người viết sử cho thấy dư luận nói chung đều lên án cách hành xử của các vua quan nhà Nguyễn đối với Tây Sơn- một người được coi là anh hùng dân tộc. Tuy nhiên, cũng cần nhìn lại và đánh giá lịch sử cho công bằng. Thực sự Nguyễn Ánh có phải là người có bản tính tàn độc đối với kẻ bại trận không? Căn cứ vào chính sử Nhà Nguyễn cho thấy Nguyễn Ánh không phải ác độc như cái nhìn miệt thị của các người viết sử. “Trừ cỏ xấu, cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác, cốt để cứu giúp dân lành. Vả chăng một phủ Quy Nhơn đều là đất đai cũ, nhân dân cũ của ta, từ thuở Tây Sơn nổi loạn, dùng làm sào huyệt, nhân dân bị thế bắt buộc, không thể không theo (...) Vậy ra lệnh từ nay phàm khi đối trận chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận, không kể người ở Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, đều được thưởng như nhau bất tất phân biệt; người từ Quảng Ngãi về Bắc thì cho lưu lại để thu dùng, người ở Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi thả về. Đó thực là đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy. Ta đã đinh ninh dặn bảo, nếu có ý trái lệnh giết càn thì tức là hạng quân kiêu căng giận dữ, do lòng tàn nhẫn, đều chiếu theo quân pháp mà trị tội.” Trích “Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục”, tập một, trang 471-472, nxb Giáo Dục. Và đối với bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò cũng như con cháu họ Trịnh, Nguyễn Ánh đều lấy lẽ phủ dụ, thấu rõ tâm tình của họ để thu phục họ. Sử nhà Nguyễn viết: “Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm, tùy tài bổ dụng, cho người hiền được có vị, người tài được có chức, họp lòng nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước. (…) Với dòng họ Trịnh sử viết “Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua củ người trước, không nên nói nữa. Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mồí tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy cũng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trong họ giữ việc thờ cúng, để giữ tình nghĩa đời đời “. Trích ĐNTL, trang 507-508. Cách ứng xử như trên, có tình có nghĩa nào phải của một kẻ tàn độc? Riêng đối với La Sơn phu tử được coi là cố vấn cận thần của Tây Sơn, 4 lần được Nguyễn Huệ vời ra giúp nước đã được Nguyễn Ánh đối đãi khoan hồng như Sử sách ghi: “Thả Xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp vê. Vua dụ rằng: “Khanh là người có tuổi tác đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta”. Bèn sai quan quân đưa về. Trích ĐNTL, trang 445. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ánh, Gia Long lại có mối thâm thù và muốn trả món nợ cừu hận ấy? Phải chăng Nguyễn Huệ cũng xử sự tàn độc khi chiến thắng? Những việc làm “tàn độc” của Tây Sơn hầu như bị sử sách bỏ quên Việc Nguyễn Ánh làm thì được kể lại kỹ càng. Nhưng việc của Tây Sơn làm thì không đụng tới. Phải được hiểu như thế nào về sự việc này? Xin đọc trích dẫn một số sự việc khi Nguyễn Huệ Bắc tiến do linh mục Thomas Thiện viết phúc trình: “Chừng một tháng nay, một vị tướng của tầu Attila, Nguyễn Huệ tên là Vach Quinh đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính. và bắt dân chúng cung cấp một số gạo lớn. Với những hành động tối dã man, tên ác quỷ đó thường hay xẻo tai, lột da mặt từ trán cho tới miệng, đánh nhừ tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những đại diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay (...) Ai nếu đều tin chắc rằng Bắc Vương ra Bắc Kỳ là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi. Những người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức. Họ phaỉ trả một số tiền chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội. Còn nếu không có tiền chuộc, họ sẽ bị xử tử (...) Phẫn nộ trước các hành động khinh thị ý ngài, Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Ngược lại họ cứng đầu mãi, thì họ sẽ bị giết (…) Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị cướp phá hoàn toàn. Dân làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn này lại rơi vào tay của quân Tây Sơn “ bạo tàn”, chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường.” Ký tên. Thomas Thiện, linh mục người Bắc Kỳ. Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Đăng Phương Nghi,Tập san sử địa, số 9-10, Sàigòn, 1968, từ trang 196-198. Có hai tài liệu do Ngô Bắc dịch mới đây chứng minh rằng Tây Sơn đã dùng hải tặc Trung Hoa trong việc Bắc tiến. Đám Hải tặc Trung Hoa đã gây nhiều kiếp nạn trong vùng mà chúng đi qua hoặc trú đóng đúng như nội dung bản phúc trình của Thomas Thiện vừa được trích dẫn ở trên. Tài liệu do Dian H. Murray viết với tựa đề: Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát triển của Hải tặc Trung Hoa. Để viết tài liệu này, Murray cũng đã dẫn chứng hàng chục tài liệu liên quan của các sử gia Tầu như Shun-tehsien-chih, Kuang-tung t’ung-chih, Chu Huai,8 chuan, 1827, v.v… Điều đó cho thấy binh đội Tây Sơn đi đến đâu dân chúng lầm than khổ sở vì bị cướp bóc, bắt lính và tàn sát dân chúng đến đó. Nào ai đã viết lại về các sự việc này? Riêng đối với dòng họ Nguyễn Ánh thì kể như không một người nào sống sót dưới bàn tay của Tây Sơn, trừ lại còn mình Nguyễn Ánh. Theo Trần Gia Phụng ghi lại thì: - Thứ nhất chú, bác ruột Nguyễnh Ánh bị giết là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương. - Thứ nhì anh em ruột của Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn giết là Nguyễn Phúc Đông(anh ruột) và Nguyễn Phúc Mân, Nguyễn Phúc Thiên (em ruột). - Thứ ba quan trọng hơn cả, Tây Sơn đã cho quật mộ Nguyễn Phúc Côn( thân phụ cả Gia Long) đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790. Về việc này, xin đọc kỹ chính sử nhà Nguyễn đã viết lại như sau: “Tháng 9, ngày Ất Hợi, sửa lại sơn lăng. Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu rất tốt, định dem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấ. Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quẳng xuống vưc…(...) Đến nay Huyên đem việc tâu lên Vua thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại.(..) Ngày kỷ Hợi, vua thân đến tế cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả“ Trích ĐNTL, trang 466. Chẳng những thế, Tây Sơn Nguyễn Huệ còn đào hết lăng tẩm 8 đời của chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, ném xuống sông. Nhưng điều mà Nguyễn Ánh không thể tha thứ được là phần mộ của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh của Nguyễn Ánh cũng bị khai quật và hài cốt bị ném xuống sông. Theo tài liệu ghi lại không lấy gì làm chắc chắn trong Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết chi tiết như sau: “Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức đức Hưng tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi đi tìm lại hài cốt của thân phụ nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những gọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người)”. Trích “Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả”, trang 193, nxb Thuận Hoa,, Huế 1995. Trích lại trong bài viết của cụ Võ Hương An “Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả.” Dưới cái nhìn thông tục, đời thường, cụ Võ Hương An cho rằng cuộc trả thù của Nguyễn Ánh chỉ là một cuộc vay trả. Đời có vay thì có trả. Nói khác đi sự trả thù có ý nghĩa chính đáng, chấp nhận được nếu đặt trong bối cảnh một xã hội theo thứ “Văn Hóa nuôi thù” vốn tồn tại nơi người Việt Nam. Trả thù đôi khi trở thành một thúc bách luân lý và bổn phận. Kết luận Nay về phía Hà Nội, vào năm 2008 đã có một hội thảo “đánh giá lại Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn” từ đó có một chuyển hướng trong cách nhìn và đánh giá lại sử đời nhà Nguyễn theo một cái nhìn công bình và khách quan hơn. Những đánh giá sử học dựa trên yêu cầu chính trị xem ra không còn thỏa đáng nữa. Về số nhà viết sử tại miền Nam trước 1975 nay không còn lại mấy người, nhưng thiển nghĩ họ cũng cần xác định và đánh giá lại những bài viết của chính họ nhằm trả lại cho Nguyễn Ánh một vị trí xứng đáng hơn trong lịch sử Việt Nam. Đã đến lúc một số những nhà viết sử của miền Nam VNCH hiếm hoi còn sót lại phải tự họ điều chỉnh lại tầm nhìn, tầm hiểu biết sử, đánh giá lại “những công trình sử học của chính họ và của đồng nghiệp”. Phải làm gấp đi. Thời giờ không còn bao nhiêu nữa cho họ. Và nay còn một chút hy vọng, có một số người viết sử chuyên ngành, tham khảo nhiều nguồn tài liệu từ nhiều nguồn - từ tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng Anh. Hy vọng họ như những con tàu phá băng, phải phá vỡ từ bên trong những kiến thức đã đông cứng. Không thể cứ mãi sống trong những huyễn tượng sử không thật, tự dối mình và dối người. Công việc đó, Nguyễn Duy Chính đang âm thầm một mình, bỏ hết thì giờ và công sức viết lại sử đời Tây Sơn.
Trở lại trường hợp Nguyễn HuệTrước hết là một vài nhận định về chiến thắng Đống Đa. Nguyễn Huệ được tôn sùng nhờ trận Đống Đa mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Những công đức và thành tích khác của ông chỉ là phụ họa, đôi khi thêm thắt và thêu dệt. Theo ký ức tập thể của chúng ta trong trận này Nguyễn Huệ đã chỉ trong một đêm phá tan hai mươi vạn (hai trăm ngàn) quân Thanh, tránh cho chúng ta ách Bắc thuộc. Thực ra các tài liệu của nhà Thanh cho thấy một cách rất rõ rệt là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua Càn Long còn cấm Tôn Sĩ Nghị giao chiến. Nhà Thanh can thiệp vì có sự cầu cứu của mẹ vua Lê Chiêu Thống và đám quần thần nhà Lê, nhưng ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục Lê Chiêu Thống, và ngay cả nếu Nguyễn Huệ cứng đầu không chịu cũng chỉ giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế mà chiêu tập lực lượng để chia đất với Nguyễn Huệ mà thôi. Dĩ nhiên nếu Việt nam tự nguyện sát nhập vào Trung Quốc thì nhà Thanh sẽ rất hài lòng nhưng họ không chấp nhận trả một giá nào cả. Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đường bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy. Trong những lần xâm chiếm qui mô Việt nam, quân Trung Quốc đều chủ yếu xâm lăng bằng đường thủy qua cửa Bạch Đằng hay Nghệ An. Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? Mười ngàn, mười lăm ngàn, hay hai chục ngàn là cùng. Không cần hai trăm ngàn, chỉ cần năm chục ngàn thôi thì cũng đã là cả một sự tràn ngập không còn chỗ đứng, chưa nói tới việc quân Thanh kéo nhau đi chợ mua bán như sử chép. Các tài liệu còn giữ lại chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội. Niềm tự hào dân tộc của tôi bị thương tổn lần đầu tiên vào khoảng năm 1958. Tôi đọc báo về cuộc thuyết trình của giáo sư Tưởng Quân Chương, một chuyên gia người Đài Loan về Việt nam, tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Sự hiểu biết rất non nớt của tôi lúc đó cũng đủ để tôi ý thức rằng ông hơn hẳn nhiều trí thức Việt nam ngay về chính lịch sử và văn hóa Việt nam. Ông lập luận chắc chắn, dẫn chứng tài liệu đầy đủ về văn học Việt nam, từng tác phẩm, từng tác giả. Đề cập đến trận Đống Đa, Tưởng Quân Chương dẫn tài liệu của Thanh triều, nói rằng Tôn Sĩ Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ phong cho Lê Chiêu Thống nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy về và bị cách chức. Con số này theo tôi là hợp lý. Tôn Sĩ Nghị từ Trung Quốc sang Việt nam trong một hai tuần lễ thì chắc chắn là sang bằng kỵ binh rồi, mà kỵ binh thì sáu ngàn đã là nhiều lắm đối với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, muốn hơn cũng không có. Nên nhớ là nhà Thanh lúc đó yên bình đã mấy trăm năm nên không còn giữ quân đội hùng hậu nữa. Tôi chưa thấy sử gia Việt nam nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng Quân Chương. Một tài liệu do người Việt nam viết về trận Đống Đa là cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn. Theo cuốn sách này thì khi quân Thanh đến, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân Thanh và ghét quân Tây Sơn, họ sẽ chỉ chỗ, dẫn đường, tiếp sức quân Thanh (Đây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết). Ngô Văn Sở quyết định bỏ Thăng Long lui về giữ đèo Tam Điệp, nhưng đô đốc Phan Văn Lân không chịu, đòi Ngô Văn Sở cấp cho một ngàn quân (xin nhắc lại là một ngàn quân) ra giáp chiến. Phan Văn Lân đến bờ sông Như Nguyệt thì gặp quân Thanh đóng ở bên kia sông. Lúc đó tiết trời lạnh giá nhưng Phan Văn Lân nhất định bắt quân lội qua sông đánh quân Thanh. Quân Tây Sơn chết đuối khá nhiều, số còn lại qua bên kia sông lạnh cóng nên bị quân Thanh tiêu diệt, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Thử hỏi nếu quân Thanh đông tới mười ngàn người thôi liệu Phan Văn Lân có dám liều lĩnh như vậy không? Còn một nguồn tài liệu khác về trận Đống Đa. Đó là những lá thư mà các giáo sĩ có mặt tại đó gởi về cho bạn bè tại Pháp. Những lá thư này được tập trung trong một tài liệu có tên là “Những lá thư kỳ lạ và xúc tích của Sứ Bộ Truyền Giáo Viễn Đông” (Lettres curieuses ét édifiantes de la Mission apostolique en Extrême Orient) còn lưu giữ tại Pháp. Đây là những lá thư riêng, không phổ biến, do đó chúng không có mục đích tuyên truyền. Các giáo sĩ nói thẳng là họ bênh vực nhà Tây Sơn vì lý do cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyền đều cấm đạo trong khi Tây Sơn không để ý đến tôn giáo. Một giáo sĩ mô tả trận Ngọc Hồi (Đống Đa), trận đánh gay go nhất và có thể nói là duy nhất trong đêm hôm đó. Theo ông, quân Tây Sơn tiến vào bị quân Thanh đánh bật ra, hàng ngũ rối loạn. Lúc đó đích thân Nguyễn Huệ từ dưới xông lên, múa gươm chém chết mấy chục quân Thanh, làm chúng hoảng sợ bỏ chạy. Theo cách mô tả đó thì trận Đống Đa không thể là lớn được. Hoàng Lê Nhất Thống Chí cũng nói quân Tây Sơn tiến sau hai mươi tấm mộc, đằng sau mỗi tấm là ba mươi người. Như vậy tổng số quân Tây Sơn tham chiến ở Ngọc Hồi là sáu trăm người. Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn nói thêm là khi nghe tin Ngọc Hồi có biến, Tôn Sĩ Nghị sai một bộ tướng đem hai chục kỵ binh đi giải cứu cùng với một đám nghĩa quân của vua Lê. Những dữ kiện này chứng tỏ trận Đống Đa chỉ là một trận nhỏ. Mặt khác, cũng không nên quên là quân Thanh bị bất ngờ hoàn toàn nên rối loạn, lo chạy hơn là đánh lại. Vả lại cũng chỉ có một nửa quân Thanh sang sông vào Thăng Long, nửa kia vẫn ở bên tả ngạn và bỏ chạy khi đám quân sang sông bị đánh tan. Cần minh định một điều để tránh tranh cãi. Số quân Thanh chết (chủ yếu là chết đuối khi xô lấn nhau sang sông làm sập cầu nổi) có thể nhiều hơn hẳn số quân từ Trung Quốc sang vì rất nhiều người Hoa sinh sống tại Việt nam lúc đó cũng ỷ thế quân Thanh lộng hành tự coi như lính của nhà Thanh, rồi hoảng sợ bỏ chạy khi kỵ binh của Tôn Sĩ Nghị bị đánh tan. Ký ức dân gian và các tài liệu đều nói đến việc người ngựa chen nhau trên cầu. Cảnh này phù hợp với những gì vừa nói: quân cưỡi ngựa là quân Tôn Sĩ Nghị, đám chạy bộ là bọn a dua. Chúng ta đều biết trước khi ra Thăng Long đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ dừng lại ở Tam Điệp để mộ quân. Các giáo sĩ thuật cách mộ quân của Nguyễn Huệ: các tướng của Quang Trung, tất cả đều mang chức đô đốc, tới gần các làng, cưỡi ngựa lên một gò cao nhìn vào làng theo số nóc nhà mà ước lượng số quân mỗi làng phải nộp ra, lệ hễ thiếu một người là họ tàn sát cả làng. Dân chúng hãi hùng đến nỗi làng nào không đủ con trai phải bắt con gái giả làm trai đem nộp cho Nguyễn Huệ. Những nông dân tuyển chọn như vậy thực ra là những tù binh chỉ có vai trò khuân vác, làm mộc đỡ tên và lấy số đông áp đảo tinh thần quân Thanh mà thôi, chủ lực của Quang Trung chỉ là số quân Tây Sơn mà ông đem từ Phú Xuân ra. Đánh xong trận Đống Đa, ông bỏ mặc số quân tân tuyển này, họ phải xin ăn dọc đường tìm về quê quán. Nguyễn Huệ là con người như thế nào? Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nguyễn Huệ là con ông Hồ Phi Phúc, người gốc Nghệ An, nhưng từ ba đời trước bị chúa Nguyễn bắt vào lập nghiệp tại làng Tây Sơn, thuộc tỉnh Bình Định. Đến đời các con thì đổi ra họ Nguyễn để dễ tiến thân. Họ Hồ dần dần trở nên khá giả, đến đời Hồ Phi Phúc thì lại mở sòng bạc nên càng giàu có. Nguyễn Huệ như vậy không phải xuất thân là một nông dân áo vải như Việt nam Sử lược viết. Về anh em Tây Sơn, cũng như về trận Đống Đa, Trần Trọng Kim dựa vào Hoàng Lê Nhất Thống Chí, nhưng lại thêm bớt theo chiều hướng có lợi cho Nguyễn Huệ. Tại sao? Chúng ta sẽ trả lời sau. Ba anh em Nhạc, Lữ và Huệ lớn lên đi ăn cướp. Khởi đầu Nguyễn Nhạc kết nạp được một đám thủ hạ đi cướp bóc trong vùng, sau khi thế lực đã mạnh mới về lập đồn ở ngay làng mình công khai chống chúa Nguyễn. Có lẽ vì họ hoành hành khá lâu tại vùng Tây Sơn nên sau này, khi họ làm vua, người ta vẫn gọi họ là nhà Tây Sơn. Ba anh em liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Đình và Lý Tài và cũng chiêu mộ nhiều người Thượng. Trong các thư từ gởi cho nhau, các giáo sĩ thắc mắc không hiểu tại sao các tướng của Tây Sơn, dù là tướng đánh bộ đi nữa, đều xưng là đô đốc: đô đốc Sở, đô đốc Long, đô đốc Tuyết, đô đốc Lộc, đô đốc Lân, v.v. Đó là vì quân Tây Sơn do đám cướp biển huấn luyện, và đối với bọn cướp biển chức đô đốc là một ước mơ. Một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây Sơn chỉ thuần túy là giặc cướp. Từ lúc dấy lên cho đến lúc tiêu diệt cả họ Trịnh và họ Nguyễn trong hai mươi năm trời, họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào; không hề có một tờ hịch nào để hiệu triệu quốc dân, hay ngay cả một tờ kể tội họ Trịnh và họ Nguyễn. Họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một chính nghĩa nào (Ở miền Bắc, Nguyễn Hữu Cầu khi nỗi loạn chống nhà Trịnh ít nhất còn xưng là “Bảo Dân Đại Tướng Quân”). Từ năm 1771, anh em Tây Sơn lập đồn trại, bành trướng thêm lực lượng, đánh chiếm Qui Nhơn rồi tiến lên mạn Bắc đánh chúa Nguyễn. Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và dân chúng gọi mình là “Đức ông Tám”. Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là một đặc tính của đám thảo khấu. Cơ nghiệp chúa Nguyễn đã tan tác vì Trương Phúc Loan chuyên quyền nên quân Tây Sơn đánh đâu được đấy, hầu như không có kháng cự. Họ Trịnh ở ngoài Bắc lại nhân cơ hội vào chiếm Thuận Hóa. Quân Nguyễn phía Nam bị Tây Sơn đánh lên, phía Bắc bị quân Trịnh đánh xuống nên tan rã nhanh chóng. Chúa Định Vương nhà Nguyễn phải bỏ chạy vào Gia Định để Đông Cung Thế Tử ở lại. Nguyễn Nhạc bắt được Đông Cung, gả con gái cho, giả hòa với chúa Nguyễn ở Gia Định, nhưng lại ngấm ngầm liên kết với họ Trịnh xin làm tiên phong đánh chúa Nguyễn. Năm 1778 anh em Tây Sơn chiếm nốt Gia Đình, tiêu diệt chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Đình Vương ở Gia Định và Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương giữ mặt Bắc. Nguyễn Huệ là một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn quân Tây Sơn trong tay. Năm 1786, nhân lúc nhà Trịnh tan tác vì lính Tam Phủ làm loạn, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ ra đánh chiếm Thuận Hóa, trước đây của chúa Nguyễn nhưng mới bị họ Trịnh chiếm. Nguyễn Huệ chiến thắng dễ dàng rồi theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh, một tướng của họ Trịnh vì bất mãn mà bỏ vào theo Tây Sơn, tiến ra Thăng Long diệt họ Trịnh, dù không có lệnh của Nguyễn Nhạc. Lúc đó họ Trịnh đã suy sụp toàn bộ nên Nguyễn Huệ chiếm Tháng Long như vào chỗ không người. Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông gả con gái là công chúa Ngọc Hân và ở lại Thăng Long gần hai tháng cho đến lúc Nguyễn Nhạc từ trong Nam ra gọi về. Khi vua Lê Hiển Tông chết, Nguyễn Huệ định không cho Lê Chiêu Thống lên kế vị, thân thích nhà Lê phải nhờ Ngọc Hân xin Nguyễn Huệ mới cho. Sau đó hai anh em Nhạc và Huệ đột ngột về Nam giữa đêm, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại với dụng ý để dân Bắc Hà giết Chỉnh vì tội đã đem quân Tây Sơn ra Bắc. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh chạy thoát vào Nghệ An ra mắt Nguyễn Huệ. Tuy thất vọng vì Nguyễn Hữu Chỉnh không chết nhưng Nguyễn Huệ vẫn cấp cho Chỉnh một số vàng và vũ khí lấy được ở Thăng Long để Chỉnh lập nghiệp lại Nghệ An. Nguyễn Hữu Chỉnh tự tuyển quân chiếm giữ Nghệ An. Vua Lê Chiêu Thống lúc đó chỉ có vài quan văn và khoảng mười lính hầu. Phe đảng họ Trịnh lại trở về Thăng Long tái lập nghiệp chúa. Lê Chiêu Thống không chịu cho họ Trịnh áp bức nữa nên vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra. Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp được dư đảng họ Trịnh và được Lê Chiêu Thống phong tước Bằng Trung Công nắm giữ binh quyền. Trong khi Nguyền Hữu Chỉnh ra Bắc đánh dư đảng họ Trịnh thì Nguyễn Huệ lại đem quân vào Nam đánh Nguyễn Nhạc. Nhạc phải khóc lóc năn nỉ Huệ mới tha. Sau khi về Phú Xuân, Nguyễn Huệ ra lệnh cho Vũ Văn Nhậm là phó tướng của mình và cũng là rể của Nguyễn Nhạc, đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Vũ Văn Nhậm bắt được Chỉnh đem giết đi. Vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy lưu lạc khắp nơi, chiêu tập lực lượng chống Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra Thăng Long bất ngờ, Vũ Văn Nhậm đang ngủ trưa bị lôi ra chém. Nguyễn Huệ đặt Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thời Nhiệm ở lại trấn giữ rồi rút quân về Nam. Quần thần và tôn thất nhà Lê sang Trung Hoa cầu cứu. Tôn Sĩ Nghị sang, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tiến ra Thăng Long đánh bại Tôn Sĩ Nghị. Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được bốn năm, đang chuẩn bị đánh Trung Hoa chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì mất năm 1792. Mười năm sau nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người, đó là một sự thực. Nguyễn Huệ liên kết với hai tướng cướp Tập Đình và Lý Tài đánh chúa Nguyễn rồi lại đánh Tập Đình và Lý Tài, liên kết với chúa Trịnh rồi đánh chúa Trịnh, dùng Nguyễn Hữu Chỉnh rồi bỏ Chỉnh cho dân Bắc Hà giết. Nguyền Hữu Chỉnh không chết mà lại phất lên được thì sai Vũ Văn Nhậm đem quân đánh giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tiện thể lấy luôn Bắc Hà. Rồi lại giết Vũ Văn Nhậm. Đến cả Nguyễn Nhạc đối với Huệ vừa có nghĩa vua tôi vừa có nghĩa anh em, Huệ cũng đánh. Sau này hòa với nhà Thanh, rồi lại kết nạp bọn cướp biển đi đánh phá nhà Thanh và còn định đem quân đánh nhà Thanh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ. Việc Huệ đánh Nhạc chỉ vì hai anh em xích mích với nhau chuyện phân chia kho tàng lấy được ở Thăng Long là một hành động phản trắc và vô đạo. Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời đó dù bênh Tây Sơn cũng ghê sợ về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ “Attila mới” trong những thư họ viết cho nhau. Họ kể lại khá chi tiết những việc làm dữ tợn của Nguyễn Huệ, mà khuôn khổ cuốn sách không cho phép tôi nhắc lại hết. Sau khi diệt nhà Trịnh và nói là “một tấc đất của nhà Lê cũng không lấy”, Huệ vẫn chiếm Nghệ An, vua Lê Chiêu Thống sai danh sĩ Trần Công Sán, mà Nguyễn Huệ biết tiếng và phục tài, cùng với hoàng thân Lê Án, vừa là chú vừa là thày của công chúa Ngọc Hân, mang quốc thư vào xin lại Nghệ An và cam kết hàng năm nộp toàn bộ thuế của tỉnh cho Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Huệ đã không cho còn hạ ngục và gông cổ cả phái đoàn rồi đem ra biển nhận thuyền cho chết. Nhiều người trách Nguyễn Ánh nhỏ mọn quật mồ Nguyễn Huệ sau khi đã giết con cháu, mà quên rằng hành động thô bạo này chỉ là để báo thù một hành động thô bạo trước đó: Nguyễn Huệ đã tàn sát cả họ Nguyễn và đã đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh đem vất đi. Một lần trong một chuyến đánh phá Gia Định, một tướng Tây Sơn bị phục binh giết chết. Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nổi giận ra lệnh tàn sát tất cả dân chúng trong vùng, bất luận già trẻ, lớn bé, trai gái. Cuộc tàn sát đã kinh hoàng đến độ dân chúng các vùng phụ cận sau đó không dám ăn tôm cá vì sợ tôm cá ăn thịt những xác chết trôi đầy sông. Một thí dụ khác là trận Đống Đa. Sau khi đã đánh tan quân Thanh và sợ quân Thanh quay lại phản ứng, Nguyễn Huệ ra lệnh cho dân chúng Thăng Long phải đắp xong trong vòng ba ngày một chiến lũy chung quanh để phòng thủ. Các giáo sĩ có mặt tại đó không thể nào tưởng tượng dân chúng Thăng Long có thể làm được điều đó. Nhưng họ đã làm được, họ đã làm tới kiệt sức, vì sợ bị Nguyền Huệ tàn sát, họ biết Nguyền Huệ không hề do dự trước sự chém giết. Tường xây lên xong các giáo sĩ kinh hoàng, họ đặt tên cho Nguyễn Huệ là “Attila mới” từ đó. Các tài liệu của các giáo sĩ, và nhiều nhân chứng phương Tây có mặt tại Việt nam lúc đó, về anh em Tây Sơn hiện vẫn còn lưu giữ trong nhiều thư viện tại Pháp. Một sử gia Việt nam, ông Tạ Chí Đại Trường, đã sưu tập một số đáng kể trong cuốn sách “Lịch Sử Nội Chiến 1771-1802″ của ông. Đây là một cuốn sách nên đọc cho những ai muốn tìm hiểu về nhà Tây Sơn. Khả năng nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ cũng rất giới hạn. Nguyễn Huệ đem binh đánh làm suy yếu Nguyễn Nhạc, rồi làm ngơ để Nguyễn Ánh tiêu diệt dần lực lượng của Nhạc và Lữ ở trong Nam. Cứ bỏ qua sự tàn nhẫn với hai người anh đi thì đây cũng là một tính toán chiến lược rất chủ quan và phiêu lưu. Nguyễn Ánh còn đang bành trướng thế lực ở trong Nam thì Nguyễn Huệ đã nghĩ đến việc đánh Trung Hoa. Thật là một ý đồ điên đại, chứng tỏ Nguyễn Huệ không có một hiểu biết chiến lược nào cả. Nếu Nguyễn Huệ còn sống để mà gây chiến với nước Tàu thì quả là đại họa cho nước ta. Cứ giả thử vua Càn Long cho không Nguyễn Huệ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì ngày nay nước ta cũng đã bị xóa bỏ rồi. Cũng nên tương đối hóa tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Nhà Nguyễn và nhà Trịnh đánh nhau cả thảy bảy lần trong gần nửa thế kỷ, từ 1627 đến 1674, làm cho đất nước, nhất là miền Bắc suy kiệt và dân chúng chán ghét chiến tranh. Đây cũng là giai đoạn mà đạo Công Giáo và tư tưởng Thiên Chúa Giáo, sau một thế kỷ du nhập, đã phát triển mạnh, làm lung lay tư tưởng Khổng Giáo, nền tảng chính đáng của chế độ. Quần chúng Việt nam không còn nhìn các vua chúa như những đại diện của Trời mà họ phải phục tùng vô điều kiện nữa. Cả hai họ Trịnh Nguyễn đều suy thoái, việc binh bị bị bỏ rơi, người dân vừa không phục, vừa bớt sợ. Chúa Nguyễn còn lo đánh dẹp, mở mang bờ cõi nên người dân bỏ vào miền đất hoang phía Nam lập nghiệp tránh bị bắt lính rất nhiều. Lực lượng của chúa Nguyễn vừa suy yếu vừa bị trải rộng, dần dần mất thực chất. Các băng đảng cướp lộng hành khắp nơi. Đã thế, từ thời Võ Vương (1765) trở đi, Trương Phúc Loan lại chuyên quyền làm cho triều đình tan nát. Anh em Tây Sơn, nhờ tập hợp được một sổ băng đảng, nổi lên tiêu diệt chúa Nguyễn mà không cần đánh một trận đáng kể nào. Quân Tây Sơn đã thắng dễ dàng vì thế lực của chúa Nguyễn đã hoàn toàn tan rã chứ không phải vì lực lượng của họ mạnh. Năm 1778, lúc Tây Sơn đã diệt chúa Nguyễn và chiếm Gia Định, thế lực lên đến cao điểm làm kinh động cả nước, toàn quyền Anh tại Ấn Độ cử một chuyên viên là Chapman sang quan sát tình hình Việt nam. Chapman làm quen được với anh em Tây Sơn và được đi thăm viếng quan sát tỉ mỉ khắp nơi. Chapman báo cáo rằng thế lực của quân Tây Sơn chẳng có gì đáng kể, chỉ cần một đạo quân một trăm người mà có kỷ luật cũng đủ để đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng. Xin nhấn mạnh con số một trăm và cũng xin nhấn mạnh rằng Chapman chỉ nói tới kỷ luật chứ không hề nói tới nhu cầu vũ khí tối tân. Ở ngoài Bắc, hồi đó gọi là đàng ngoài, tình thế còn bi đát hơn. Đời sống cơ cực và cương thường đảo lộn (họ Trịnh phế lập và giết vua Lê một cách rất tùy tiện) nên cả uy quyền chính trị lẫn uy quyền đạo đức đều tan. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Trịnh Sâm vừa tạm dẹp xong giặc thì lại say mê tửu sắc, bỏ trưởng lập thứ gây loạn ngay tại triều đình. Điều cần đặc biệt lưu ý là họ Trịnh lúc đó không còn quân đội. Chỉ một đám lính Tam Phủ, vài ngàn tên không người chỉ huy, mà muốn phá nhà ai, giết quan nào cũng được. Khi chúng nổi loạn, Quận Huy Hoàng Tế Lý trên nguyên tắc cầm mọi binh quyền, phải một mình cưỡi voi ra đánh nhau với chúng rồi bị giết. Các tướng mỗi người trấn giữ một phương, mỗi người chỉ có vai chục gia nhân, rồi dựa vào đám gia nhân này mà đi bắt lính. Có khi họ bắt được cả ngàn quân nhưng những “quân đội” ấy chỉ là những nông dân tội nghiệp không biết chiến đấu và cũng không muốn chiến đấu, hễ gặp quân địch là rã hàng bỏ chạy, có khi còn đâm chết tướng để dễ chạy. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí mô tả khá rõ xã hội miền Bắc lúc đó. Các sứ quân đã không có thực lực mà còn hiềm khích với nhau và chẳng tuân lệnh ai. Dân gian thì hễ ai khỏe mạnh ăn cướp được là đi ăn cướp, rất ghét quân Tây Sơn nhưng gặp quan nhà Lê là bắt nộp cho Tây Sơn để lãnh thưởng. (Sau này cũng chính dân chúng bắt vua Cảnh Thịnh và các tướng Tây Sơn nộp cho Nguyễn Ánh). Nguyễn Hữu Chỉnh bị anh em Tây Sơn bỏ rơi lên thuyền chạy về Nghệ An với mấy chục gia nhân, đến nơi không dám lên bộ. Vậy mà rồi cũng đi bắt lính và thành lập được một đạo quân. Với cái “quân đội” ô hợp đó mà Nguyễn Hữu Chỉnh vào được Thăng Long như chỗ không người vì các “quân đội” khác còn ô hợp hơn nữa. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh hoành hành ở miền Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh, quân Nguyễn Hữu Chỉnh chưa đánh đã tan. Trong một bối cảnh như vậy, Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo quân tinh nhuệ là điều dễ hiểu. Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy không đòi hỏi một tài dùng binh nào. Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ là đáng kề. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài ngàn thủy quân, còn quân Nguyễn Ánh không biết bao nhiêu. Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm. Trần Trọng Kim trong Việt nam Sử lược nói rằng quân Xiêm đông tới hai vạn người. Nếu đúng như vậy thì quả là một đạo quân rất lớn vào thời đó, nhưng quân Xiêm vừa tới nước ta thì đã rã hàng, đi cướp bóc khắp nơi chàng còn đội ngũ gì cả. Nếu có một đạo quân đàng hoàng thì đánh tan chúng không khó. Cả ba trận Cần Giờ, Mân Thít và Đống Đa đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận đánh thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh. Tài dùng binh của Nguyễn Huệ là có thực nhưng chưa được chứng minh ở tầm cỡ của các danh tướng thời Trần Hưng Đạo hay Lê Lợi. Cần nhấn mạnh để đánh tan một hiểu lầm đã kéo dài quá lâu và đã là nguyên nhân cho nhiều giải thích lịch sử gượng ép: đó là quân Tây Sơn không mạnh mà cũng không tổ chức giỏi; họ đã thắng được các chính quyền Trịnh và Nguyễn bởi vì các chính quyền này đã đi tới cuối tiến trình phân rã. Nguyên nhân sâu xa của tiến trình phân rã này là cả hai chế độ Trịnh Nguyễn đã không ý thức được rằng nền tảng của xã hội Việt nam đã thay đổi sau hơn hai thế kỷ tiếp xúc với người phương Tây, và cứ cố tiếp tục duy trì lối cai trị cũ trên một xã hội đã đổi mới. Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay dùng chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm thời đó đá phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán đã ra đời trước đó và đã có Nguyễn Du. Chính Nguyễn Ánh cũng đã dùng chữ Nôm trong một số văn thư. Cũng có người nhắc đến dụ Khuyến Nông của Nguyễn Huệ, nhưng đó chỉ là một dụ bình thường lặp lại những gì các vị vua trước đó đã nói. Một biện pháp làm khổ dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa. Biện pháp này làm dân chúng bị tham quan ô lại sách nhiễu đến nỗi nhiều người phải trốn vào rừng sinh sống để “tị nạn Tây Sơn”. Vả lại làm vua một nước đã kiệt quệ vì chiến tranh, vừa mới được một hai năm yên bình đã lo chuyện đánh nhau với một nước lớn gấp bội mình là điều mà một vị vua sáng suốt không thể làm. Nhà Tây Sơn tuy chỉ kéo dài một thời gian ngắn nhưng đã ảnh hưởng rất lớn lên lịch sử nước ta và địa lý chính trị trong vùng. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt nam vào đất Cam-bốt. Năm 1771, khi anh em Tây Sơn bắt đầu tấn công chúa Nguyễn cũng là năm cuối cùng mà một phần đất Cam-bốt được sát nhập vào Việt nam. Lúc đó đất Cam-bốt gần như vô chủ, các chúa Nguyễn dồn dập mở rộng lãnh thổ, nhưng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã làm họ sụp đổ và cuộc Tây tiến của Việt nam chấm dứt. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam-bốt không còn. Việc thôi bành trướng về phía Tây Nam, tùy cách nhìn, không nhất thiết là một sự thiệt thòi cho chúng ta. Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay: đó là phá tan và chấm dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên ngoài, nhất là phương Tây. www.vinadia.org/to-quoc-an-nan-nguyen-gia-kieng/to-quoc-an-nan-tro-lai-truong-hop-nguyen-hue/(Tổ quốc ăn năn - Nguyễn Gia Kiểng / Trở lại trường hợp Nguyễn Huệ)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 5, 2015 0:43:55 GMT 9
NGUYỄN QUANG THUỲ (? - 1802) Nguyễn Quang Thùy là con trai vua Quang Trung, mẹ là bà Phạm Thị Liên mất sớm, có một em trai là Nguyễn Quang Bàng, còn mẹ của Nguyễn Quang Toản là bà Bùi Thị Nhạn. Sau khi đuổi quân Thanh Xuân Kỷ Dậu (1789). Nguyễn Quang Thùy được phong Tiết chế thủy bộ chư quân Bắc Hà. Tháng 7 năm Kỷ Dậu (1789), ông tiếp đón sứ bộ nhà Thanh tại Thăng Long, đến sắc phong vua Quang Trung. Năm 1790, ông cùng sứ bộ do giả vương Phạm Công Trị dẫn đầu phái đoàn sang nhà Thanh, chúc thọ Bát tuần (80 tuổi) vua Càn Long. Năm 1791, Nguyễn Quang Thùy cùng các tướng Bắc Hà, đem quân đánh Lê Duy Chí (em Lê Chiêu Thống) cát cứ ở Cao Bằng, bắt Lê Duy Chí và các thổ hào là Hoàng Văn Đồng và Nông Phúc Tấn đem về Thăng Long xử tử. Năm 1872, vua Quang Trung băng hà, Quang Toản lên ngôi, Nguyễn Quang Thùy vẫn giữ chức vị cũ ở Bắc Hà. Năm 1801, vua Cảnh Thịnh bị thua Nguyễn Ánh, bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc. Sau đấy, Nguyễn Quang Thùy được lệnh dẫn quân vào giữ Nghệ An. Ngày 1 tháng Giêng Nhâm Tuất (3-2-1802), Nguyễn Quang Thùy được lệnh đem quân đánh lũy Trấn Ninh. Thế trận đang hồi giằng co với quân Nguyễn Ánh, thì có tin thủy quân của Tây Sơn vừa bị phá tan ở cửa Nhật Lệ. Trước tình thế nguy khốn, vua Cảnh Thịnh rút quân về đất Bắc, Nguyễn Quang Thùy cũng phải lui quân. Năm 1802, Nguyễn Ánh tiến đại quân ra Bắc. Vua Cảnh Thịnh thấy không chống nổi, cùng quan quân (trong đó có Nguyễn Quang Thùy) bỏ thành, vượt sông Hồng, chạy đến Lạng Giang (Bắc Ninh), Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Thiện tự tử, còn vua Cảnh Thịnh thì bị bắt. Cảm niệm: Nguyễn Quang Thùy Nguyễn Quang Thùy, tận tụy kiên trung Chẳng được ngôi vua, chẳng lạnh lùng! Chiến đấu xông pha, lòng bất khuất Can trường tuẫn tiết, chí hào hùng! Nguyễn Lộc Yên
Vua Cảnh Thịnh: Nguyễn Quang Toản
VUA CẢNH THỊNH: NGUYỄN QUANG TOẢN (1783 -1802) Nguyễn Quang Toản là con vua Quang Trung và bà Chính cung Hoàng hậu Bùi Thị Nhạn. Năm 1792, vua cha băng hà, Quang Toản 10 tuổi, qua năm Quí Sửu (1793) lên ngôi lấy đế hiệu Cảnh Thịnh, dùng cậu là Bùi Đức Tuyên làm Thái sư giám quốc. Bùi Đức Tuyên chuyên quyền gây triều chính rối loạn. Năm 1800, Nguyễn Ánh đánh lấy Qui Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng, qua năm 1801 đánh Phú Xuân, Quang Toản bị thua chạy ra Bắc Hà đổi đế hiệu là Bảo Long. Đầu năm 1802, Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lũy Trấn Ninh (ở Quảng Bình) được Bùi Thị Xuân đem quân tiếp chiến. Trận chiến từ sáng đến tối bất phân thắng bại thì có tin thủy quân của Tây Sơn bị thua ở cửa Nhật Lệ, quân Tây Sơn rút về Bắc Hà. Năm 1802, Nguyễn Ánh đem quân đánh Thăng Long, Quang Toản và nhiều người bị bắt, Nguyễn Quang Thùy, Quang Thiện tự tử. Quang Toản (20 Tuổi) bị đem về Huế xử lăng trì. Nguyễn Ánh sau khi thắng Tây Sơn, cho đào mồ mả vua Tây Sơn đem đổ xuống biển. Nhà Tây Sơn tồn tại 25 năm (1778-1802) qua 3 đời vua: Thái Đức (1778-1793), Quang Trung (1789-1792), Cảnh Thịnh (1793-1802). *- Thiết nghĩ: Khi Quang Thùy đi sứ qua Tàu, vua Càn Long sắc phong là An Nam quốc vương Thế tử. Khi vua Quang Trung lập Quang Toản làm Thái tử, lại sai sứ đem biểu sang Tàu nói Thùy là con dòng thứ, Quang Toản mới là An Nam quốc vương Thế tử, Càn Long nghe theo. Quang Toản lên ngôi, có người bất bình ngỏ ý cùng Quang Thùy. Thùy nói: “Em tôi hay tôi làm vua cũng thế thôi. Điều cốt yếu là làm sao cho nước Đại Việt được mỗi ngày một thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày thêm bền vững, là tốt”. Nhân sĩ đương thời khen là “bậc đại nhân”. Sau khi chúng tôi tra cứu nhiều sách sử nói về nhà Tây Sơn, thì nghĩ rằng: Giả sử người nối ngôi vua là Nguyễn Quang Thùy thì cục diện sẽ đổi khác. Vì sao nói rằng cục diện đổi khác, vì các lý do sau: 1- Quang Thùy là anh của Quang Toản, lớn hơn Quang Toản khoảng 10 tuổi, khi vua Quang Trung băng hà thì Quang Thùy khoảng 20 tuổi, 20 tuổi đủ khôn ngoan để lo triều chính và Quang Thùy đã từng trải về chính trị và quân sự?!. 2- Nếu Bùi Đắc Tuyên không phải là cậu ruột Quang Thùy, Đắc Tuyên là kẻ kém tài thì không giữ chức Thái sư; sẽ không gây cho triều Tây Sơn rối ren đưa đến sự sụp đổ?! Nhưng tiếc thay! Năm 1795, Thái sư Tuyên triệu Đại đô đốc Võ Văn Dũng về Phú Xuân và cử Ngô Văn Sở ra thay thế giữ Bắc Hà. Do đấy, Võ Văn Dũng, Trần Văn Kỷ, Phạm Công Hưng... mới mưu giết Thái sư Tuyên, Bùi Đắc Trụ (con Tuyên) và liên lụy đến Ngô Văn Sở (vì nghi Sở cùng phe với Tuyên) cả ba bị nhốt vào cũi rồi dìm xuống sông Hương cho đến chết. 3- Năm 1795, Trần Quang Diệu đang lâm trận tại Diên Khánh thì có tin biến ở Phú Xuân, do Võ Văn Dũng giết Thái sư Tuyên và Ngô Văn Sở. Quang Diệu vội thu quân về triều đóng ở mạn Nam sông Hương còn Võ Văn Dũng đem quân đóng ở mạn Bắc sông Hương để cự lại!. Vua Cảnh Thịnh phái người khuyên giải cả hai tướng, rồi phong Quang Diệu làm Thái phó, Võ Văn Dũng làm Đại tư đồ. Nhưng chẳng bao lâu, vua Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha rút hết binh quyền Thái phó Trần Quang Diệu. Từ đấy, nhà Tây Sơn suy yếu. 4- Vua Cảnh Thịnh nghe lời gièm pha giết chết Đại tư lệ Lê Trung. Năm Mậu Ngọ (1798), Đô đốc Lê Chất là rể của Lê Trung qua đầu Nguyễn Ánh. Năm 1802, Lê Chất làm Bình Tây tướng quân đem binh đánh chiếm Bắc Hà của Tây Sơn. Như thế, nếu Quang Thùy nối ngôi có lẽ như ông đã nói: “Đại Việt được mỗi ngày một thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày thêm bền vững” và nước ta không bị Pháp đô hộ?! . Cảm khái: Vua Cảnh Thịnh . Nguyễn Quang Toản, kế vị ngôi vua Chính sự rối ren, luống xót xa! Đặc sủng thái sư, gây loạn lạc Nghi ngờ lương tướng, nổi phong ba?! Triều đình lủng củng, luôn rầu rĩ Cương thổ giữ gìn, mãi thiết tha! Nuối tiếc phụ vương gầy đế nghiệp! Ngậm ngùi, Cảnh Thịnh mất sơn hà!!! . Nguyễn Lộc Yên
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2015 13:25:26 GMT 9
Mâu thuẫn Nguyễn Nhạc – Nguyễn HuệTrong thế mất còn, năm Ðinh Mùi (1787) Nguyễn Huệ phải động binh đánh Nguyễn Nhạc. Ðại Nam Liệt Truyện (DNLT) Chính Biên viết: Nhạc đãđắc chí, ngày càng dâm ô, bạo ngược, giết Nguyễn Thung, lại thông dâm với vợ Huệ, người đều chê là xấu. Việc đi xâm lấn miền Bắc, của báu ở phủ chúa Trịnh, về cả tay Huệ, Nhạc đòi không cho. Huệ muốn lấy cả đất Quảng Nam, Nhạc cũng không cho, mới thành ra cừu thù hiềm khích nhau. Huệ bèn truyền hịch kể tội ác của Nhạc, đến nỗi bảo Nhạc là giống sài lang chó lợn. Hịch văn có câu nói rằng: “Tội không gì lớn là giết vua, sao có thể một sớm kinh (khinh) suất can không nghe thì đổi ngôi, thực quan hệ đến sự yên nguy muôn đời”.[12] Cũng theo DNLT, Nguyễn Huệ đem quân vào vây Qui Nhơn cả mấy tháng, đắp núi đất để đặt súng lớn bắn vào thành, đạn to như cái đấu khiến Nguyễn Nhạc phải khóc mà nói với Nguyễn Huệ: - Nồi da xáo thịt, lòng em sao nỡ thế![13] Về việc này, nhiều giáo sĩ có mặt tại Việt Nam cũng chép, chẳng hạn như Doussin ở Thuận Hoá viết như sau: Nhạc có hai em. Một em đãđi Kẻ Chợ mà không nói gì với anh, đã muốn làm vua phần đất nầy. Y để Nhạc trở về Quí-phủ (Quy Nhơn; Nhạc đã theo Huệ ra Thăng-long rồi cùng về Phú-xuân) là nơi y cư ngụ; rồi liền sau đó bảo toàn dân suy tôn mình làm Ðức Chúa. Nhạc được tin, không vừa ý, hăm doạ em, nhưng không những người em quyết không lui, mà còn cử một đạo quân sáu vạn, đem vào đánh Nhạc ở Quí-phủ. Nó vào đó từ ngày lễ Tro (trước lễ Phục-sinh thuộc đạo Cơ-đốc). Chúng nó đãđánh nhau hai lần. Người ta đồn rằng Ðức Chúa đã mất nửa quân rồi. Thế tỏ rằng y bị bối-rối, mà y bắt buộc ai cũng phải đi đánh … Thật là khổ! Dân bị lầm than đang mong đợi Chúa Nguyễn hơn khi nào cả. Thư-khố Bộ Truyền Giáo Hải Ngoại [Mission Étrangère Paris] 746.[14] Sau đó anh em giảng hòa. Tranh chấp tuy chấm dứt nhưng Nguyễn Nhạc phải nhường đất Quảng Nam cho Nguyễn Huệ, chỉ còn làm chủ từ Quảng Ngãi đổ vào khiến thế lực suy yếu hẳn. Việc Nguyễn Huệ đem quân tấn công vào Qui Nhơn rồi sau đó hai anh em cầm chân nhau nên Nguyễn Nhạc không còn quan tâm tới phương nam, tạo khoảng trống cho Nguyễn Ánh từ Xiêm La về chiếm lại đất Gia Ðịnh.[15] Ðây là giai đoạn mà nước ta chia làm bốn phần, gần như bốn nước riêng biệt, miền bắc gọi là An Nam như sắc phong của Trung Hoa (mặc dù ta vẫn tự xưng làÐại Việt), miền Trung gọi là Ðàng Trong, hay nước Chàm như người Âu Châu đặt tên, (còn nhà Thanh thì gọi là nước Quảng Nam) bao gồm một nửa của Nguyễn Nhạc, một nửa của Nguyễn Huệ, còn miền Nam có tên là Ðồng Nai hay Gia Ðịnh (một phần thuộc Tây Sơn, một phần thuộc Nguyễn Ánh). Cũng vì tình hình căng thẳng như thế, Nguyễn Huệ không thể đích thân ra bắc giải quyết những vấn đề nội trị và tin tức về việc anh em Nguyễn Nhạc bất hòa khiến nhà Thanh tin tưởng rằng chỉ cần có cớ đem quân sang nước ta là sẽ đạt thắng lợi. Thế lưỡng đầu thọ địch của Nguyễn Huệ cũng khiến cho ông phải áp dụng chiến thuật thần tốc, bí mật, hư hư thực thực mà sau này người ta hay tô điểm cho thêm phần huyền hoặc. Việt thanh chiến dịch nghiencuulichsu.com/2013/03/27/viet-thanh-chien-dich/Ý kiến xung quanh giả thuyết " Nếu Quang Trung sát nhập Lưỡng Quảng" từ bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Lanh: "Chỉ bằng lời và sự oai phong của đức vua Quang Trung, mà “suýt nữa” đất nước ta bỗng dưng rộng gấp 2,3 lần hiện nay, dân số tăng gấp 2,5 lần hiện nay. Tiếc lắm chứ. Làm sao công “mở cõi” của các chúa Nguyễn sánh nổi?! Tội đào mồ cuốc mả sẽ thành quá nhỏ so với công bành trướng đất đai. Điều lo duy nhất là tiếng Việt sẽ lép vế, chữ Việt sẽ không thể là quốc ngữ, quan lại Việt sẽ thiểu số… vân vân. Bất cần những chuyện vặt đó. Cái “được” lớn hơn nhiều. Hôm nay, vẫn còn bao người đang “lấy làm tiếc” chuyện ông mất sớm khiến giấc mộng bành trướng của ông bị xếp xó. Nhưng… hy vọng sẽ xuất hiện những đấng anh tài mới toe. Còn khối dịp." nghiencuulichsu.com/2015/06/24/viet-gian-ban-nuoc-trong-lich-su-bai-7/-Bình nói: Nếu Nguyễn Huệ “đòi lại” được Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) thì bỏ… mẹ. Khi đó người nói tiếng Việt chỉ chiếm 1/3 số dân, còn 2/3 dân nói tiếng Tàu. Sự đồng hóa theo chiều hướng nào đã quá rõ. Đây là lần đầu tác giả đưa ra ý kiến như trên, khiến tôi không còn tiếc sao vua Quang Trung mất sớm nữa. ....Mà nay áo vải cờ đào, Giúp dân dựng nước xiết bao công trình... (Năm 1792, Quang Trung Hoàng Đế đột ngột băng hà, Ngọc Hân công chúa viết Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng.) Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo Trước thềm lan, hoa héo ron ron. Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non, Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu. Nỗi lai lịch dễ hầu than thở Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao? Sầu sầu, thảm thảm xiết bao... Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời! Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc, Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương. Rút dây vâng mệnh phụ hoàng, Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy. Trăm ngàn dặm quản chi non nước; Chữ "nghi gia" mừng được phải duyên. Sang yêu muôn đội ơn trên, Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm. Lượng che chở, vụng lầm nào kể. Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời. Dẫu rằng non nước biến dời, Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là. Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội, Khắp tôn thân cùng đội ơn sang. Miếu đường còn dấu chưng thường, Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh. Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi Non Nam lần chúc tuổi trời, Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong. Những ao ước trập trùng tuổi hạc, Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui. Nào hay sông cạn, bể vùi, Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly. Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết, Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên. Xiết bao kinh sợ, lo phiền, Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu. Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước, Phương pháp nào đổi được cùng chăng? Ngán thay, máy Tạo bất bằng, Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan. Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy, Kể sum vầy đã mấy năm nay? Lênh đênh chút phận bèo mây, Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu? Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối, Biết cậy ai dập nỗi bi thương? Trông mong luống những mơ màng, Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say. Khi trận gió hoa bay thấp thoáng, Ngỡ hương trời bảng bảng còn đâu: Vội vàng sửa áo lên chầu, Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng. Khi bóng trăng, lá in lấp lánh, Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi. Vội vàng dạo bước tới nơi, Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa! Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn, Mặt rồng sao cách gián lâu nay, Có ai chốn ấy về đây, Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành? Nẻo u minh khéo chia đôi ngả, Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen. Kiếp này chưa trọn chữ duyên, Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương. Nghe trước có đấng vương Thang, Võ, Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao; Mà nay áo vải cờ đào, Giúp dân dựng nước xiết bao công trình! Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn, Công đức dày, ngự vận càng lâu; Mà nay lượng cả, ơn sâu, Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần. Công dường ấy, mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công? Rộng cho chuộc được tuổi rồng, Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi. Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt, Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa. Tưởng lời di chúc thiết tha, Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê. Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở, Mối sầu riêng ai gỡ cho xong, Quyết liều mong vẹn chữ tòng, Trên rường nào ngại giữa dòng nào e. Con trứng nước thương vì đôi chút, Chữ tình thâm chưa thoát được đi, Vậy nên nấn ná đòi khi, Hình tuy còn ở, phách thì đã theo; Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo, Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân, Theo xa thôi lại theo gần, Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa. Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh, Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao! Mơ màng thêm nỗi khát khao, Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi? Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ, Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai? Xưa sao sớm hỏi khuya bày, Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ. Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ, Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu? Xưa sao gang tấc gần chầu, Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca. Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi, Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh. Nửa cung gẫy phím cầm lành, Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ! Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc, Tiếng tử quy thêm giục lòng thương. Não người thay, cảnh tiên hương, Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông. Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược, Thấy mênh mông những nước cùng mây, Đông rồi thì lại trông tây: Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà. Trông Nam thấy nhạn sa lác đác, Trông bắc thời ngàn bạc màu sương. Nọ trông trời đất bốn phương, Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi. Cậy ai có phép gì tới đó, Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung, Này gương là của Hán cung Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày. Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ, Bụng ai hoài vội ghẻ vì đâu? Xin đưa gương ấy về chầu, Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn. Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu, Nỗi sinh cơ có thấu cho không? Cung xanh đang tuổi ấu xung Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương? Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm Đầu mũ mao, mình tấm áo gai, U ơ ra trước hương đài, Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này. Trong sáu viện ố đào, ủ liễu Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê Long đong xa cách hương quê, Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên. Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ Cất chân tay thương khó xiết chi. Hang sâu nghe tiếng thương bi, Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân. Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát, Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi? Càng trông càng một xa vời, Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng? Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi, Gương Hằng Nga đã bụi màu trong. Nhìn gương càng thẹn tấm lòng, Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà. Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn, Cánh hải đường đã quyện giọt sương. Trông chim càng dễ đoạn trường Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi. Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu? Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao? Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng, Nỗi đoạn trường còn sống còn đau. Mấy lời tâm sự trước sau, Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho. -Hoàng nói: Không hoàn toàn như vậy, ta nên nhớ đó là thời phong kiến, chưa có khái niệm phổ thông đầu phiếu như ngày nay. Nỗ Nhĩ Cáp Xích vào Trung Nguyên, bắt toàn bộ dân Tàu cạo đầu thắt bím mà dân Tàu vẫn nghe, trừ lẻ tẻ có vài anh nho sinh chống lại. Quang Trung mà được Lưỡng Quảng, ban một cái lệnh toàn dân nói tiếng Việt dùng chữ Nôm thì cũng chưa chắc đã phải là vấn đề. Viết chữ Hán thì đã sao, năm 1790 làm gì đã có khái niệm chữ quốc ngữ. Đến bây giờ Hàn Nhật vẫn dùng chữ Hán đó thôi. Vấn đề ở đây là, từ thế kỷ XVIII tới thế kỷ XX tuy chỉ 200 năm nhưng những biến cố kinh người đã xảy ra, văn minh châu Âu ùa tới nên người ta hay nhìn nó bằng con mắt phương Tây. Vả lại, lịch sử là chuyện một đi không trở lại, ai dám dùng chữ “nếu” với lịch sử được. Những phán đoán kiểu như “Lưỡng Quảng sẽ đồng hóa An Nam” hay “dân An Nam sẽ trị được dân Lưỡng Quảng” cơ bản đều không có căn cứ, tôi chỉ đưa ra để nói rằng những phán đoán của bài viết không thuyết phục. Hơn nữa, vùng Lưỡng Quảng lại là vùng xa tít mù so với Bắc Kinh, phong tục tập quán và tiếng nói đều rất khác. Tóm lại, giả sử Quang Trung sống thọ hơn và nhập được Lưỡng Quảng, chuyện gì xảy ra hoàn toàn là ẩn số. Mãi mãi là ẩn số. - Đức Thanh nói: Mông Cổ, Mãn Thanh từng chiếm Trung Quốc, làm vua hàng trăm năm, cuối cùng cũng bị TQ đồng hóa. Mãn Châu là đất gốc của nhà Thanh, nay ở đấy có trên trăm triệu dân mà số người còn biết tiếng Mãn chỉ còn vài trăm. Tất cả đang nói và viết tiếng Hán. Hãy cẩn thận với Tàu. Thời Quang Trung chưa có chữ quốc ngữ, các cụ chỉ biết chữ Nho (Hán). Nếu Lưỡng Quảng nhập vào VN thì chữ viết dứt khoát là chữ hán cho đến nay. Còn tiếng nói, không thể thay đổi bằng “lệnh” được. Tran Minh nói: Nếu Lưỡng Quảng nhập vào VN (hay VN nhập vào Lưỡng Quảng cũng vậy) – nếu vua nhà Thanh đồng ý – thì sẽ ra sao? 1) Dân Lưỡng Quảng sẽ ngoan ngoãn cúi rạp xuống, lạy Quang Trung hay là sẽ chống lại, kể cả làm loạn? Điều này không phải ẩn số, mà hoàn toàn dự đoán được. 2) Thời Quang Trung, ta và Tàu đều dùng chữ Hán, do vậy nếu sáp nhập, thì cứ chữ Hán mà dùng tiếp. Điều này không phải là ẩn số. Nó rành rành ra đấy. Ngày xưa, chúng ta chưa có chữ, phải mượn chữ hán. Nếu nhập với Lưỡng Quảng, tất nhiên cái chữ Hán vẫn là chữ chung. 3-Chỉ có tiếng nói, dân hai bên nói khác nhau. Trăm năm sau, ngàn năm sau vẫn vậy. Mãn Thanh bắt dân Tàu thay đổi trang phục, nhưng không thể bắt thay chữ và tiếng nói. Do vậy bị đồng hóa “ngược”. Có bạn bảo: Quang Trung sẽ ra lệnh “tất cả nói tiếng Việt”. Nếu dùng lệnh mà có kết quả – thì 1000 năm bắc thuộc trước đây dân Việt đã mất tiếng nói (do bị ra lệnh) rồi. Canada có vùng nói Pháp, có vùng nói Anh. Đó là dân đến từ nhiều nguồn. Canada nhỏ, mà còn thế, thì Lưỡng Quảng chỉ do một cái “lệnh” của QT mà đổi tiếng nói? Có bạn bảo, VN (có thêm Lưỡng Quảng) cứ dùng chữ Hán cho đến nay, thì… đã sao? Ấy, tôi can. Chữ Hán không phiên âm được tiếng Việt. Viết ra, đọc lên, dân Việt không hiểu. Chữ một đường, tiếng nói đường khác. Phạm Quỳnh nói: Truyện Kiều còn, (thì) tiếng ta còn; tiếng ta còn, thì nước ta còn. nghiencuulichsu.com/2015/06/26/viet-gian-ban-nuoc-trong-lich-su-bai-8/- Nguyễn nói: về Quang Trung và vụ Lưỡng Quảng. 20 vạn quân Thanh đa phần từ Lưỡng Quảng, thua chết hết thì Lưỡng Quảng còn mấy mống. Quang Trung là ông vua dám giết, dám đuổi và tận diệt người Hán lắm. Nếu sát nhập chưa chắc mèo nào thắng mỉu nào. (Lập luận ít dân đất hẹp suy ra bị đồng hóa? Mời chị dùng đúng cái lập luận đó để luận về Isarel. )Chị đem cái võ đoán của chị ra để bàn lùi và gièm về một cơ hội mở mang bờ cõi của dân tộc, tôi e chị đã đi quá xa rồi. 1. Có bạn nói “bác nói Quang Trung là ông vua dám giết, nghe cứ như diệt chủng ý”. Bạn nói rất đúng về hai chữ “diệt chủng”. Ko diệt chủng thì miền Nam và miền Trung sẽ đầy dân Chân Lạp và Chăm Pa nhé. “vua sáng, tôi hiền”. Vua cần đem lại lợi ích cho dân tộc ông ấy, chứ hơi đâu mà nhân đạo với dân khác. Alexander the Great, Ekaterina, Peter I, Louis XIV, Bonaparte, Fredrick II…. Có ai ko ác với kẻ thù ko? Tôi lấy ví dụ vua châu Âu thời rất gần Enlightenment Age để bạn khỏi bảo tôi cuồng Tàu. 2. Có bạn nói dân Tàu Đại Hán lắm, nó ko nghe mình đâu…. Xin thưa, vua Tàu rất nhiều người “Di”. Nghiêu Thuấn cũng là người Di ( tây di hay đông di tôi ko nhớ, mời bạn đọc lại Hàn Phi Tử bản của cụ Nguyễn Hiến Lê, ngay mấy chương đầu). Đổng Trác ở Tây Lương, bạn đoán xem ở đâu? Tây Lương là đất “Di” mà Tần Mục Công đã đánh, mời bạn đọc lại Đông Chu Liệt Quốc. Và còn Ngũ Hồ loạn Hoa, còn nhà Nguyên, nhà Thanh. Nó chiếm cả nước Tàu còn được, ta lấy có 2 mảnh Quảng Đông Quảng Tây mà đã sợ thế à? 3. Có bạn bảo dân tàu mấy trăm triệu, 20 vạn quân ko chết hết,…. Tôi xin trả lời. Vét quân ra đánh là vét từ Lưỡng Quảng ra ( chứ chả nhẽ lôi quân miền Bâc của nó thì thằng đại tướng đầu oc đúng là có vấn đề) thì thua to một trận là đủ để nó thọt. Bạn vẫn nhớ Bạch Khởi chôn sống 40 vạn quân Triệu, Hạng Vũ chôn sống 20 vạn quân Tần chứ? Quang Trung lại ko biết đuổi dân Tàu đi và giết đám còn lại sao? Bạn nên nhớ lúc đó chưa có hội đồng bảo an liên hợp quốc, thưa bạn. 4. Các bạn phản biện ko theo ý lớn, mà ngắt lời ra để phản bác. Việc nước bé đô hộ nước to, tôi lấy ngay ví dụ Isarel từ đầu mà các bạn chả đọc. Hay nước Anh lãnh thổ trải dài đến độ mặt trời ko bao giờ lặn. Hay nước Pháp dưới thời Napoleon chiếm trọn cả Italy và TaayBanNha, rồi xuống cả Châu Phi… Nó là sự thật hiển nhiên, bạn phản bác lí lẽ thế nào cũng được, nhưng việc thằng bé con đè đầu thằng to hơn nó sờ sờ ra đấy, còn phản đối gì nữa, thưa bạn? -Trịnh Trang Công quỳ lạy Chu Thiên Tử, nhưng vẫn bắn Chu thiên tử bị thương và kéo quân đi cướp lúa nhà Chu ầm ầm. Câu Tiễn nếm phân Phù Sai, và sau đó thế nào, chắc tôi khỏi cần nói. Lưu Bang bị Hạng Vũ dọa cho té đái ở Hồng Môn yến, kết quả thế nào? Người làm chính trị, quyền lực, binh mã, tô thuế làm trọng, còn ba quỳ chín lạy thì vô tư đi anh. Và Bình Ngô Đại Cáo viết rất oai, nhưng sớ Lê Thái Tổ viết cho Minh Tuyên Đức, tôi e còn quá cái chiếu Nguyễn Huệ viết cho Thanh Cao Tông. Vậy từ đó suy ra Lê Thái Tổ sợ nhà Minh? Quang Trung sợ nhà Thanh? Đó chẳng qua là cái lễ từ thời Triệu Đà, cứ theo cho nó đỡ hục hoặc, còn đánh nhau ai mạnh nấy thắng, không thể bảo mình khúm núm thì mình không có cơ ăn nó. Trong chính trị, cái thằng khúm núm mới là thằng đáng sợ. Anh còn nhớ Tề Hoàn Công chết về tay ai chứ? - Người làm chính trị họ khéo làm đẹp lòng nhau thôi anh. Quang Trung ra Bắc lần đầu vẫn lạy vua Lê như thường, vua Lê phong quan cho Quang Trung như thường. Ngày xưa Tào Tháo viết chiếu cũng xin Hiến Đế anh ơi kí cho em, đóng dấu cho em. Ừ nó xin đấy, có dám không cho không? Bố bảo! Ngày xưa Liêu cũng phong cái nọ cái kia cho Kim rồi bị Kim diệt, Kim với Mông Cổ lại bổn cũ soạn lại. Phong kiến nó có Lễ nhà Chu, xin cứ xin, nhưng lắm khi là xin đểu, nó mạnh ông không cho nó mà được à. Chu Nguyên Chương ngày xưa cũng tôn Hàn Lâm Nhi làm đại ca, hay Lê Lợi tôn Trần Cảo làm vua, rồi Tây Sơn phù hoàng tôn Dương… Kể ra có cả ngày anh ạ. - Hưng nói: Quang Trung thắng trên chiến trường nhưng vẫn phải cầu hòa, thậm chí xin thần phục. Làm như vậy là ĐÚNG. Làm so ta có thể cương với Tàu? Quang Trung tỏ ra khúm núm cũng là hành xử ĐÚNG. Nhờ vậy thu được thắng lợi về ngoại giao. Các tư liệu 1) Vua Quang Trung dâng thư “cầu phong” với vua Càn Long, lời lẽ cực kỳ lễ phép, cung kính. Bản chữ Hán đã được dịch ra tiếng Việt. 2) Khi vua ta (đóng giả) sang gặp vua Tàu đã được tiếp đại cực kỳ trọng thể, thân thiện. Sử Tàu viết: “như tình cha con”. Vua ta kém vua tàu 40 tuổi. 3) Nhân dịp vua Tàu 80 tuổi, vua ta và rất nhiều vua các nước chư hầu đã có mặt, chúc tụng rất lễ phép, cung kính (quỳ xuống). Xin nhớ, “quỳ” là quy định khi bề tôi gặp vua, không coi là nhục nhã. Một bức tranh vẽ vua ta quỳ khi kiệu vua Tàu đi qua. Chú thích rõ: người quỳ là AN NAM QUỐC VƯƠNG. 4) Chuyện XIN cầu hôn và XIN lại đất cũ nếu có, chỉ là lễ phép “ướm hỏi”, còn chờ trả lời… …đều là SỰ THẬT. Còn những điều bác Nguyễn đưa ra (câu tiễn, trịnh trang công…) là tự ý SUY LUẬN rằng “Quang Trung rất có thể bắt chước các ông ấy”. Chỉ là giả sử thôi. Đó là cách bênh vực Quang Trung để tự sướng mà thôi. Nước nhỏ chiếm được nước lớn thì nhiều. Nhưng nếu cứ đóng lâu (làm vua) chỉ sau trăm năm là bị đồng hóa. Đồng hóa khác với diệt chủng. Dân Việt ở Tàu thiếu gì (bách việt) nay bị đồng hóa hết rồi. Bảo rằng họ bị diệt chủng thì không phải. Xin chấm dứt chuyện hiểu thế nào là đồng hóa. Chuyện khác. Quang Trung “tận diệt” 20 vạn quân Thanh (nghe không nổi) nhưng cứ cho là đúng đi. Nếu vua Thanh đồng ý trả lại Lưỡng Quảng, dân phản kháng (trên một trăm triệu người, mới mất có 20 vạn, tức là 2% dân số) thì Quang Trung sẽ thịt hết 98% còn lại???. Nghe không nổi. Cứ cho là Quang Trung đem toàn bộ dân Việt 15 triệu sang Lưỡng Quạng thịt hết 100 triệu? Nước Việt để rỗng?
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2015 13:32:21 GMT 9
Căn cứ vào sự bố trí lực lượng và diễn biến của trận đánh thì kế hoạch công phá đồn Ngọc Hồi như sau:
- Đại bộ phận đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy sẽ mở cuộc tiến công chính diện và mãnh liệt vào mặt nam đồn Ngọc Hồi. Toàn bộ lực lượng tượng binh, đại bộ phận bộ binh .kỵ binh và hỏa pháo được tập trung vào mũi tiến công quyết liệt này. Quân Tây Sơn không bao vây bốn mặt đồn lũy của địch mà dồn tát cả sức mạnh của mình đột phá mặt phòng thủ phía nam của địch rồi nhanh chóng đột nhập, phát triển vào bên trong. Nhiệm vụ cửa mũi tiến công này là phá tan sự phòng thủ của địch ở đồn Ngọc Hồi và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ở đây. Số quân địch còn lại có nhiều khả năng phải tìm đường tháo chạy về Thăng Long để hợp với quân chủ lực ở đại bản doanh tìm cách chống đỡ. Quân Tây Sơn không bao vây và tiến công mặt bắc đồn lũy là nhằm mở sẵn hướng tháo chạy đó cho quân địch. Mũi tiến công chủ yếu sau khi hoàn thành nhiệm vụ diệt đồn sẽ tiến hành truy kích.
- Số quân địch từ Ngọc Hồi chạy về Thăng Long phải đi theo hoặc con đường thiên lý qua đồn Lưu Phái, Văn Điển, hoặc đường đê sông Nhị, hoặc “đường cái cao” theo bờ sông Tô Lịch qua Quỳnh Đô lên Văn Điển. Chúng có thể tháo chạy theo một trong ba con đường đó mà thuận lợi nhất là con đường thiên lý, cũng có thể tháo chạy tán loạn theo cả ba con đường. Quang Trung đã nghiên cứu kỹ các đường giao thông và địa hình vùng phía bắc Ngọc Hồi. Ông quyết định chọn đầm Mực – một cái đầm lớn, lầy lội, ở làng Quỳnh Đô làm trận địa tiêu diệt bọn quân địch tháo chạy. Con “đường cái cao” tự nó đã dẫn quân địch vào cạm bẫy. Một bộ phận quân Tây Sơn tách ra từ đạo quân chủ lực trước đó đã được lệnh vu hồi vào phía sau đồn địch, bí mật bố trí sẵn ở một vị trí về phía đông – bắc Ngọc Hồi để ngăn chặn cả hai hướng – đường thiên lý và đê sông Nhị – buộc quân địch phải chạy giạt về phía tây theo hướng đầm Mực. Để tiết kiệm binh lực, Quang Trung chỉ sử dụng một lực lượng nhỏ – chủ yếu là bộ binh – nhưng biết “nghi binh” đúng lúc, đúng chỗ nhằm hư trương thanh thế, uy hiếp tinh thần bọn tàn quân địch, thực hiện nhiệm vụ vu hồi chặn địch.
- Đạo quân của đại đô đốc Bảo từ Đại Áng được lệnh bí mật tiến lên, sẵn sàng chi viện cho đạo quân chủ lực nêu việc công phá đồn Ngọc Hồi gặp khó khăn, nhưng nhiệm vụ chủ yếu là bày sẵn một thế trận bao vây tiêu diệt toàn bộ tàn quân địch ở đầm Mực (làng Quỳnh Đô). Quang Trung muốn giữ bí mật đến cùng đạo quân tiếp ứng của mình và môi khi tung vào chiến đấu sẽ tạo nên những đòn bất ngờ khủng khiếp cho quân thù.
Trong kế hoạch tác chiến của Quang Trung, ba cánh quân Tây Sơn phối hợp chặt chẽ với nhau trong một thế trận liên hoàn, trong đó mỗi cánh quân đảm nhiệm một hướng tiến công, một nhiệm vụ cụ thể và kế tiếp hoàn thành nhiệm vụ một cách liên tục, nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Quân địch dù có đề phòng trước, sự bất ngờ về thời gian không còn tác dụng, nhưng vẫn bị bất ngờ trước lối đánh lợi hại của ta.
Quân địch vừa bị đánh mặt trước vừa bị vu hồi bao vây mặt sau, vừa bị đánh tan bằng một trận tiến công trận địa ác liệt không sao đương nổi, vừa bị đẩy ra khỏi đồn lũy và bị tiêu diệt gọn trên đường vận động bằng những mũi truy kích phía sau, mũi nghi binh chẹn đường phía đông – bắc và một trận địa bao vây tiêu diệt hết sức bất ngờ ở đầm Mực. Quang Trung quyết định cuộc tiến công sẽ bắt đầu vào mờ sáng ngày mồng 5 tháng giêng (ngày 30-1-1789) cùng một lúc với cuộc tiến công của đạo quân đô đốc Đông vào đồn Đống Đa. Cả ngày mồng 4, Quang Trung tiếp tục công việc chuẩn bị chu đáo cho trận quyết chiến về tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với dạo quân của đại đô đốc Bảo.
Trong ngày mồng 4, Quang Trung chỉ sử dụng những đội quân nhỏ mở những trận đánh khiêu khích vào vùng ngoại vi Ngọc Hồi. Mục đích của những trận đánh đó là để lôi cuốn hơn nữa sự chú ý của Tôn Sĩ Nghị vào mật trận phía nam; tăng thêm sự bất ngờ cho đòn vu hồi thọc sâu của đô đốc Đông và đồng thời gây ra tình trạng chờ đợi căng thẳng cho quân địch ở Ngọc Hồi.
Cũng trong ngày mồng 4, tại địa điểm tập kết ở phía nam Hà Hồi, Quang Trung đã tổ chức ra đội quân xung kích làm nhiệm vụ đột phá vào trận địa phòng thủ của địch. Đội quân xung kích này gồm 600 chiến sĩ tuyển lựa trong số những nghĩa binh khỏe mạnh và dũng cảm nhất. Quang Trung còn chuẩn bị cả những phương tiện chống lại hoả lực của địch. Đó là những tấm mộc lớn do ba tám ván gỗ ghép chặt lại, phía ngoài quấn rơm ướt dày. Những tấm ván gỗ đó gồm ván phản, cửa nhà, cửa đình cửa chùa… mà nhân dân địa phương đã tự nguyện đóng góp giúp quân đội đánh thắng giặc ngoại xâm.
Dưới sự tổ chức và lãnh đạo trực tiếp của Quang Trung, quân Tây Sơn ở hướng tiến công chủ yếu đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và với quyết tâm đạp bằng mọi thử thách, hy sinh.
Ngày mồng 4 Tết năm Kỷ Dậu (ngày 29-l-1789), quân Thanh ở Ngọc Hồi và Thăng Long đã phải vội vàng chấm dứt “yến tiệc vui mừng” và được lệnh chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu để đối phó với cuộc tiến công của quân Tây Sơn từ Hà Hồi lên.
Bọn chúng “vào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổ” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 365). Đồn Ngọc Hồi chỉ cách Hà Hồi 6 ki-lô-mét. Quân địch ở đây biết rằng “sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 365). Vì chỉ có ba ngày đêm – từ ngày mồng 1 đến tối ngày mồng 3 Tết – quân Tây Sơn đã tiến sâu vào trận tuyến phòng thủ của chúng gần 70 ki-lô-mét, tiêu diệt hàng loạt đồn binh từ Gián Khẩu đến Hà Hồi.
Nhưng trong cả ngày mồng 4, chúng chỉ thấy “quân lưu động của giặc (tức quân Tây Sơn – T.G.) đến trước, hễ đánh trận nào thì thua luôn trận ấy” (Việt Sử thông giám cương mục, q. 47, tr. 41, bản dịch đã dẫn, t. XX, tr. 62. Những trận đánh trong ngày 4 còn được ghi chép trong Lê quý kỷ sự và Minh đô sử. Những công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Thanh trước đây chưa chú ý hoặc đã bỏ qua những đánh này). Đó là những trận tiến công nhỏ của quân Tây Sơn vào các đồn tiền tiêu và ngoại vi của cứ điểm Ngọc Hồi. Nhưng trận đánh đó cố gây cho quân địch một số thiệt hại. Chính Trần Nguyên Nhiếp bí thư riêng của Tôn Sĩ Nghị, đã thừa nhận điều đó khi viết: “Một cuộc ác chiến kéo dài luôn trong bốn ngày bốn đêm liền, quân ta (tức quân Thanh – T.G) người thì bị đạn người thì bị dao chém mỗi lúc một nhiều số lượng về sau không sao tính được nữa” (Trần Nguyên Nhiếp, An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn). Nhưng mục đích và tác dụng chủ yếu của những trận tiến công trong ngày mồng 4 là làm cho quân địch phải dồn sức về mặt trận phía nam, phải chờ đợi một cách bị động, căng thẳng, không hiểu được ý đồ của đối phương. Hứa Thế Hanh không dám chủ động tiến công. Hắn chỉ phái đội quân của bù nhìn Lê Chiêu Thống do Phan Khải Đức vừa đem xuống tăng viện cùng với những đội quân do Lê Duy Chi, Trần Quang Châu chỉ huy, ra chống đỡ (Lê quý kỷ sự, Minh đô sử (q. 44), sách đã dẫn. Lê Duy Chi là em Lê Chiêu Thống vừa được phong Dực Vũ công Trần Quang Châu giữ chức trấn thủ Kinh Bắc nhưng vẫn lưu lại ở Thăng Long bảo vệ nhà vua. Đội quân của Lê Duy Chi và Trần Quang Châu có thể mới từ Thăng Long xuống). Hắn ra lệnh cho quân Thanh ở các doanh trại chỉ được “cầm cự, không được khinh động” (Minh đô sử, sách đã dẫn. q.44).
Ngày mồng 4 trôi qua.
Quân địch có phần mệt mỏi, hoang mang. chúng mệt mỏi vì suốt một ngày nơm nớp lo sợ cuộc tiến công lớn của quân Tây Sơn, chờ đợi hết sức căng thẳng. Chúng hoang mang vì không hiểu tại sao đối phương lại không tiến công. Riêng Tôn Sĩ Nghị thì “cho rằng, đối với giặc (tức quân Tây Sơn – T.G) không có gì đáng lo ngại” (Lê quý kỷ sự, sách đã dẫn). Tư tưởng chủ quan, khinh địch lại được dịp phục hồi trong đầu óc của “vị nguyên soái thiên triều” đó. Đề đốc Hứa Thế Hanh thì dự định ngày mai sẽ mở cuộc phản công lớn. Hắn tuyên bố “Đến sáng mai, hội quân lại đánh, xem ta quét sạch quân Nam” (Minh đô sử, sách đã dẫn. q.44).
Ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (ngày 30-l-1789), lúc trời còn chưa sáng, bất thình lình quân Tây Sơn tiến công mãnh liệt vào mặt nam đồn Ngọc Hồi (Về thời điểm bắt đầu tiến công đồn Ngọc Hồi, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (q.30, tr.34) và Hoàng Lê nhất thống chí (tr. 363) chép “mờ sáng ngày mồng 5”; Việt sử thông giám cương mục (q.47. tr.41) chép “hồi trống canh năm”; Minh đô sử (q.44) chép “đầu canh năm”). Từ nơi tập kết ở phía nam Hà Hồi, đạo quân chủ lực bí mật xuất phát vào khoảng nửa đêm. Trước lúc xuất trận, bước vào cuộc chiến đấu hết sức ác liệt và có ý nghĩa quyết định này, Quang Trung một lần động viên quân sĩ, nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng cho toàn quân.
Quang Trung hạ lệnh không mang theo lương thực, bao nhiêu quân lương bỏ lại hết để biểu thị quyết tâm chiến đấu đến cùng, coi như lời thề: lần ra trận này phải thắng và chỉ được thắng mà thôi (có sách chép: Quang Trumg sai đốt sạch hết quân lương (xem Quang Trung, anh hùng dân ộc của Hoa Bằng, Nhà xuất bản Bốn Phương, Hà Nội, 1951, tr.191). Ở đây chúng tôi dựa theo truyền thuyết phổ biến của nhân dân vùng Hà Hồi và các làng xung quanh. Truyền thuyết vùng này đều nói Quang Quang Trung ra lệnh bỏ lại lương thực, chứ không phải đốt hay thiêu hủy lương thực. Hành động đó có thể có được và cũng thường thấy trong chiến tranh thời cổ – trung đại để tỏ ý quyết chiến. Hơn nữa, số lương thực quán Tây Sơn mang theo cũng không nhiều vì phải hành quân chiến đấu một cách thần tốc và một phần quan trọng cơ sở hậu cần dựa vào sự ủng hộ tại chỗ của nhân dân). Quang Trung còn buộc khăn vàng vào cổ và cưỡi voi ra trận trực tiếp chỉ huy và đốc chiến. Các đội ngũ quân Tây Sơn đều giương cao lá cờ đỏ và quân sĩ đều chít khăn đỏ lên đầu, biểu thị khí thế quyết chiến quyết thắng cao độ (Từ ngày khởi nghĩa năm 1771, nghĩa quân Tây Sơn đã lấy cờ dỏ làm ngọn cờ chiến đấu của mình. Lá cờ đỏ đó được sử dụng suốt trong quá trình phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, kể cả cuộc kháng chiến chống Thanh).
Quân Tây Sơn tràn qua đồn Bình Vọng, một đồn tiền tiêu của địch, xông thẳng đến đồn Ngọc Hồi.
Diễn biến trận Ngọc Hồi
Sơ đồ diễn biến trận Ngọc Hồi Đống Đa
Mở đầu cuộc tiến công, Quang Trung tung đội tượng binh gồm hơn 100 voi chiến ra trận. Đây là một binh chủng xung phong, đột phá rất lợi hại. Một con voi chiến lúc đó có thể chở được 13-14 người kể cả quản tượng (Christoforo Borri, Relation de la nouvelle mission au royaume de la Cochinme, Revue indochinoise, 1909). Ngoài cung nỏ, giáo, lao, tượng binh Tây Sơn còn được trang bị thêm nhiều thứ hỏa khí như súng tay, hỏa hổ và đặc biệt đặt cả đại bác trên mình voi.
Trước khi sang xâm lược nước ta, Tôn Sĩ Nghị đã nghe nói về binh chủng này và đã nghiên cứu cách đề phòng, chống đỡ. Hắn đã dành riêng một điều quân luật (điều thứ tư) để căn dặn quân lính: “Người Nam đánh trận hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng tập quen, nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không biết rằng, sức voi tuy khỏe, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và lao làm cho nó bị đạn mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không còn nghi ngờ gì nữa” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 333-334). Phía ngoài đồn Ngọc Hồi, quân địch bố trí một bãi chướng ngại dày đặc trong đó có chông sắt và địa lôi, nhằm ngăn cản tượng binh của ta từ xa, không cho tiến sát vào chiến lũy. Nhưng trước cả một đội tượng binh lớn mạnh với hơn 100 voi chiến đang hùng hổ xông đến, trông từ xa như “quả núi di động”, quân Thanh vẫn không khỏi hoảng sợ. Đề đốc Hứa Thế Hanh phải vội vàng trấn an tinh thần quân lính. Hắn nói: “Dạy voi đánh trận là lối cũ của người Nam man. Mưu mẹo chống chế, súy phủ đã có công văn nói rõ ràng” (Minh đô sử, sách đã dẫn, q. 44). Hắn lập tức ra lệnh cho đội kỵ binh thiện chiến – binh chủng tinh nhuệ nhất của quân Thanh – lao ra khỏi cửa lũy nghênh chiến. Nhưng vừa trông thấy đoàn voi chiến của quân Tây Sơn ngựa quân Thanh đã “sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau” (Việt sử thông giám cương mục, q.47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr. 62). Chưa đánh, đội kỵ binh thiện chiến của địch đã rối loạn cả đội hình. Quân Tây Sơn thừa thắng thúc voi đuổi theo.
Quân địch càng hoảng sợ, tất cả rút lui, vào trong lũy cố thủ. Chúng dựa vào hệ thống chiến lũy, từ trên cao bắn đại bác và cung nỏ ra rất dữ dội để cản đường tiến của đoàn quân voi Tây Sơn. Nhưng, trước hỏa lực của địch “súng và tên bắn ra như mưa” (Việt sử thông giám cương mục, q.47, tr.41, bản dịch đã dẫn, t. 20, tr. 62), thế trận và đội ngũ quân Tây Sơn vẫn vững vàng.
Theo lệnh của Quang Trung, đội voi chiến lập tức chia ra làm hai cánh đánh vòng về hai phía tả và hữu để mở đường cho đội xung kích lao lên (An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn; Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 363). Đây là một đội quân cảm tử gồm 600 người, chia làm 20 toán. Mỗi toán gồm 10 chiến sĩ giắt dao ngắn bên hông, khiêng một tấm mộc lớn bằng gỗ phía ngoài quấn rơm ướt và 20 chiến sĩ cầm vũ khí tiến theo sau. Hai mươi toán quân cảm tử dàn ngang thành thế trận chữ “nhất” (-), phía trước là 20 tấm mộc kết liền với nhau như một bức tường thành di động, xông thẳng vào trận địa của dịch. Những tấm mộc bọc rơm ướt có tác dụng chống đỡ đại bác và cung tên của địch từ trong chiến lũy bắn ra, che chở cho đội quân xung kích tiến lên.
Quân chủ lực Tây Sơn dưới sự đốc chiến trực tiếp của Quang Trung, lập tức xung phong vào đồn lũy của địch. Bộ binh, kỵ binh, tượng binh của ta ào ạt xông vào cửa lũy đã mở. Thế xung trận của quân Tây Sơn mạnh như triều dâng bão cuốn mà chính quân địch cũng phải thừa nhận: “Quân giặc (tức quân Tây Sơn – T.G) họp lại đông như kiến cỏ, thế lên ào ạt giống như nước thủy triều dâng lên” (An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn). Từ hai bên sườn đồi Ngọc Hồi, đội tượng binh cũng đồng thời đánh ập vào. Quân ta “lùa voi, xông pha tên đạn, nhổ rào lũy tiến vào” (Lê quý kỷ sự, sách đã dẫn). Từ trên mình voi, quân ta dùng đại bác và hỏa hổ đốt phá đồn lũy, doanh trại địch và thiêu cháy quân địch.
Quân Thanh vốn đã khiếp sợ những con voi chiến hùng hổ của Tây Sơn, nay lại càng khiếp sợ hỏa lực lợi hại của binh chủng này. Chúng thấy “quân giặc (chỉ quân Tây Sơn – T.G) đều dùng voi chở đại bác xông ra trận” (Thánh vũ ký, sách đã dẫn, q. 6, tr. 36-37; Thanh sử lược biên sách chép tay) và “trên lưng mỗi con voi có ba, bốn tên quân giặc chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp mọi nơi, đốt cháy cả người nữa” (An Nam quân doanh kỷ yếu, sách đã dẫn). Đó là hỏa hổ, một thứ vũ khí nổi tiếng của quân Tây Sơn. Trong 8 điều quân luật, Tôn Sĩ Nghị cũng giành một điều (điều thứ 5) để căn dặn quân lính cách chống đỡ thứ vũ khí này. Theo hắn “quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi khí gọi là hỏa hổ. Khi hai quân giáp nhau trước hết họ dùng thứ đó đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải lui”. Hắn đã cho chế tạo hàng trăm lá chắn bằng da trâu sống và ra lệnh: “Nếu gặp hỏa hổ của người Nam phun lửa thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao chém bừa, chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác”. Quân địch đã nghiên cứu và phòng bị khá chu đáo nhưng hoàn toàn không thể lường trước được tinh thần chiến đấu ngoan cường và mưu trí của quân ta. Trước sức tiến công vũ bão của quân Tây Sơn, các chiến lũy và toàn bộ trận địa phòng thủ mặt nam đồi Ngọc Hồi bị phá hủy tan tành. Quân ta tràn vào bên trong đồn lũy như những dòng thác đổ, không một sức nào có thể cản nổi. Sở chỉ huy của đề đốc Hứa Thế Hanh bị tiêu diệt. Nhiều doanh trại của địch bị đốt cháy. Đồn Ngọc Hồi chìm ngập trong khói lửa. Quân địch không chống cự nối, bỏ chạy tán loạn.
Trong lúc hoảng hốt, chúng “giày xéo lên nhau mà chết” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn) hoặc trốn chạy ra ngoài chạm phải địa lôi, rơi xuống cạm bẫy do chúng bố trí, “chết và bị thương rất nhiều” (Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, sách đã dẫn. q.30, tr.34). Một bộ phận quân Thanh rút về phía sau, cố liều chết tổ chức cầm cự. Nhiều trận ác chiến tiếp tục diễn ra ở khu doanh trại phía bắc dồn Ngọc Hồi cho đến bờ nam sông Tô Lịch. Nhưng đó chỉ là những cố gắng tuyệt vọng của quân địch, không thể cứu vãn được thất bại hoàn toàn của chúng.
Chính trong những trận ác chiến này, quân địch càng cụm lại càng bị tiêu diệt nặng nề. Những trận đánh đó còn để lại những ấn tượng sâu sắc trong ký ức của nhân dân dịa phương với những tên đất, những chuyện kể dân gian. Đây là khu “Mả Ngô” hay “Mả Cả” (nay là khu lò gạch ở phía đông quốc lộ số 1) nơi vùi xác vô số quân giặc. Kia là “khu đất máu giặc ngập bàn chân” (phía bắc làng Ngọc Hồi, phía tây quốc lộ số 1) gần sát bờ nam sông Tô Lịch (Hồ sơ khảo sát của khoa Sử trường Đại học Tổng hợp).
Đồn Ngọc Hồi, cứ điểm phòng ngự kiên cố nhất của quân Thanh, bị phá vỡ. Một bộ phận quan trọng quân địch bị giết chết tại trận. Mô tả trận đánh này, Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn giày xéo lên nhau mà chết… quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 364).
Trong bộ chỉ huy của địch, đề đốc Hứa Thế Hanh, phó tướng của Tôn Sĩ Nghị và là tướng chỉ huy toàn bộ mặt trận phía nam Thăng Long và tổng binh Thượng Duy Thăng là tướng chỉ huy quân tả dực của Tôn Sĩ Nghị, bị bỏ mạng tại đây. Tuy nhiên số quân Thanh thoát chết ở đồn Ngọc Hồi vẫn còn khá nhiều, khoảng vài vạn tên. Bọn tàn quân này theo tổng binh Trương Triều Long (Minh đô sử, sách đã dẫn, q. 44), tìm đường tháo chạy về Thăng Long. Bấy giờ đang mùa khô, nước sông Tô Lịch không sâu lắm. Bọn chúng vượt qua sông và đại bộ phận theo đường thiên lý chạy về cung Tây Long mong được sự cứu viện của Tôn Sĩ Nghị. Một bộ phận chạy tán loạn ra các ngả, có thể theo bờ sông Tô Lịch hay đê sông Nhị nhưng cũng đều theo hướng tìm về đại bản doanh của chủ tướng. Mới chạy được một quãng chưa xa và chưa kịp hoàn hồn , bọn chúng lại bất ngờ thấy trước mặtt đột nhiên xuất hiện một đạo quân Tây Sơn chắn mất đường về. Đây là một bộ phận nhỏ của đạo quân chủ lực – theo lệnh Quang Trung – đã vu hồi về phía đông bắc đồn Ngọc Hồi, bố trí sẵn tuyến chặn địch rút chạy về Thăng Long.
Cánh quân vu hồi này xuất phát từ địa điểm tập kết tại cánh đồng Cung theo đường làng ra bờ đê sông Nhị ở Yên Duyên (thôn Sở Hạ, xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Tây) rồi theo bờ đê tiến lên phía sau đồn Ngọc Hồi và bố trí sẵn ở phía đông – bắc, cách đồn khoảng 3 ki-lô-mét (Về địa điểm Yên Duyên, có ý kiến xác định là Yên Kiện, có người cho là Yên Duyên thuộc huyện Thanh Trì. Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “Trước đây, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía lúa đông”, sách đã dẫn, tr. 364). Căn cứ vào tài liệu đó và những kết quả khảo sát thực địa, chúng tôi xác định lại Yên Duyên ở đây là thôn Sở Hạ, hay Yên Duyên Sở Hạ nay thuộc xã Ninh Sở huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Trước đây, thôn Yên Duyên Sở Hạ này cùng với xã Yên Duyên và thôn Yên Duyên Sở Thượng (thuộc xã Yên Sở, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đều thuộc tổng Thanh Trì, huyện Thanh Trì. Thời Pháp thuộc yên Duyên Sở Hạ tách ra thành xã Sở Hạ thuộc tổng Xâm Thị. Xem: Phan Huy Lê (Trận Ngọc Hồi – Đầm Mực trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh, Thông báo khoa học, Sử học, t. III, tr. 72,73); Vũ Tuấn Sán, Về hai cuộc hành quân của Nguyễn Huệ ra Thăng Long, Nghiên cứu lịch sử 119, tr. 19). Ở chỗ này, đê sông Nhị uốn vòng về phía tây rất gần đường thiên lý. Bố trí ở đó có thể đồng thời ngăn chặn cả hai con đường rút chạy của quân Thanh: đường thiên lý và đường đê sông Nhị. Chờ khi quân địch đến gần, lực lượng vu hồi chặn địch mới bất thình lình mở cờ, gióng trống hò reo vang dậy nhằm hư trương thanh thế, uy hiếp dữ dội tinh thần vốn đã hoang mang cực độ của quân địch.
Bọn tàn quân này vô cùng kinh hoảng, vội vàng tranh nhau chạy tạt về phía tây. Bọn tàn quân Thanh phải theo đường tắt, chạy qua cánh đồng Lưu Phái, Quỳnh Đô ở khoảng giữa đường thiên lý và sông Tô Lịch. Chúng qua cầu Vĩnh (hay cầu Viềng ở thôn ích Vĩnh, xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội) để mong tránh sự bao vây của quân Tây Sơn, tìm đường vòng về phía tây trốn về Thăng Long (Cầu Vĩnh hay Vĩnh Kiều, trước đây có người phỏng đoán là tên một địa điểm hay con đường qua các làng Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh (thuộc Thường Tín, Hà Tây), và Vĩnh Ninh (thuộc Thanh Trì, Hà Nội).
Chúng tôi đã xác định lại địa điểm này Vĩnh Kiều tức cầu Vĩnh, tên nôm là cầu Viềng. Đó là một cầu qua sông Tô Lịch ở phía bắc làng ích Vĩnh giáp thôn Quỳnh Đô thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ích Vĩnh cùng với các làng Lạc Thị, Quỳnh Đô, Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh xưa kia gọi chung là Kẻ Giã và Ích Vĩnh là Giã Viềng, Quỳnh Đô là Giã Quỳnh, Lạc Thị là Giã Chợ, Vĩnh Tuy là Giã Vanh, Vĩnh Thịnh là Giã Bảo. Theo Đồng Thánh địa dư chí lược (q. 5) Ích Vĩnh trước là một thôn thuộc xã Vĩnh Trung, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì. Hiện nay Ích Vĩnh cùng với Quỳnh Đô, Vĩnh Ninh họp thành xã Vĩnh Quỳnh. Làng Ích Vĩnh có tên nôm là Kẻ Viềng hay Giã Viềng nên cầu qua sông Tô Lịch thuộc địa phận làng này cũng gọi là cầu Viềng và trong các tài liệu chữ Hán thường phiên âm là Vĩnh Kiều, tức cầu Vĩnh).
Nhưng vừa qua khỏi cầu Vĩnh thì một điều bất ngờ khủng khiếp mới lại ập đến với bọn chúng. Một đạo quân Tây Sơn có nhiều voi chiến yểm hộ, bỗng nhiên xuất hiện chặn kín mọi ngả đường tháo chạy của chúng. Đây là đạo quân do đại đô đốc Bảo chỉ huy, theo kế hoạch của Quang Trung, dã được lệnh tiến lên lợi dụng địa hình vùng Ích Vĩnh, Quỳnh Đô bố trí sẵn một trận địa chờ địch.
Bên kia cầu Vĩnh là làng Ích Vĩnh và phía bắc Ích Vĩnh là làng Quỳnh Đô (cả hai làng này nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội). Cả hai làng đều nằm dọc theo hữu ngạn sông Tô Lịch. Bờ sông Tô Lịch là con đường giao thông chạy qua hai làng này, phía nam xuống Ngọc Hồi, phía bắc có thể lên tận Thăng Long hay qua cầu Quỳnh Đô, ra Văn Điển rồi theo đường thiên lý lên Thăng Long (Cầu Quỳnh Đô qua sông Tô Lịch, cũng là một cầu có từ lâu đời. Theo Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hà Nội, bản dịch đã dẫn, t. III, tr. 191) thì vào đời Nguyễn, cầu Quỳnh Đô bắc bằng gạch).
Phía tây làng Quỳnh Đô là đầm Mực, một khu đầm rộng lớn và có tiếng ở vùng này. Hiện nay, khu đầm đó đã bị bồi lấp dần và đang được cải tạo thành đồng ruộng cấy lúa. Người ta đã đắp một con bờ ngăn đôi khu đầm; phần phía bắc vẫn mang tên là đầm Mực, phần phía nam Thường gọi là đầm Quỳnh Đô. Đầm Mực đã được cải tạo hoàn toàn thành ruộng hai vụ, đến nay vẫn còn rộng trên 6 mẫu Bắc Bộ (Theo tài liệu địa chính của Ủy ban hành chính xã Vĩnh Quỳnh). Đầm Quỳnh Đô rộng trên 40 mẫu Bắc Bộ và còn tương đối sâu hơn (Theo tài liệu địa chính của Ủy ban hành chính xã Vĩnh Quỳnh). Lòng đầm ở giữa rộng trên 9 mẫu, đến nay quanh năm vẫn ngập nước. Chung quanh đầm là cánh đồng trũng chỉ cấy được một vụ. Các cụ già địa phương cho biết, cách đây khoảng ba, bốn chục năm, cả khu đầm Mực (bao gồm đầm Mực và đầm Quỳnh Đô hiện nay) còn rất lầy lội, cỏ lau cỏ lác mọc um tùm. Trước đây gần 200 năm, khu đầm đó tất nhiên còn rộng lớn hơn, sâu hơn và lầy lội hơn. Đạo quân của đại đô đốc Bảo đã chăng sẵn một mẻ lưới bổ vây và tiêu diệt toàn bộ tàn quân địch ở đây.
Từ Đại Áng, đạo quân này đi theo con đường qua các làng Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh thuộc xã Thanh Hưng (Thường Tín, Hà Tây), Lạc Thị (xã Ngọc Hồi, Thường Tín, Hà Tây), tiến lên khu đầm Mực. Một bộ phận của đạo quân này bố trí ở phía bắc làng Quỳnh Đô để chặn đường rút chạy của quân Thanh về Thăng Long, một bộ phận nữa từ phía nam làng Ích Vĩnh sẵn sàng tiến lên, dồn ép quân địch vào khu đầm Mực. Quân Thanh vừa qua khỏi cầu Vĩnh thì cả hai ngả đường dọc theo bờ phải sông Tô Lịch, ngả phía bắc và phía nam đều bị chặn đánh. Sau lưng chúng, quân chủ lực của Quang Trung và cánh quân vu hồi chặn địch cùng phối hợp đuổi theo ráo riết. Cả ba mặt, phía bắc, phía nam và phía đông, quân địch đều bị bao vây, uy hiếp mãnh liệt. Chúng không còn con đường tháo chạy nào khác ngoài hướng duy nhất là đâm đầu vào khu đầm Mực ở phía tây.
Quân địch bị dồn vào bước đường cùng. Chúng còn khoảng vài vạn quân nhưng chỉ là một khối người rã rời, kiệt sức về thể xác và kinh hoảng đến tuyệt vọng về tinh thần. Từ ba mặt, quân ta khép chặt vòng vây, dồn ép chúng vào cánh đầm Mực lầy lội, um tùm mà tiêu diệt. Quân Thanh “hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm Mực làng Quỳnh Đô” và “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người” (Hoàng Lê nhất thống chí, sách đã dẫn, tr. 364). Tượng binh Tây Sơn lại một lần nữa phát huy uy lực ghê gớm của nó. Như những chiến xa trong chiến tranh hiện đại đoàn voi chiến của quân Tây Sơn vừa bao vây chặn đường, vừa xông vào giày xéo hàng loạt quân địch. Bộ binh và kỵ binh Tây Sơn cũng thả sức tung hoành, chém giết quân địch. Tàn quân địch kẻ thì bị giết chết, kẻ thì bị voi giày, kẻ thì bị lún sâu vào đầm lầy và vùi xác dưới đáy đầm. Hàng vạn quân Thanh đã bị tiêu diệt tại dầm Mực làng Quỳnh Đô (Cách đây vài chục năm, trong khi đào ao, đào mương qua khu vực đầm Mực nhân dân địa phương còn thấy nhiều xương cốt và những mảnh đồ sắt han gỉ. Có thể đó là xác quân Thanh và vũ khí của chúng. Nhưng đấy là căn cứ theo lời kể của các cụ già địa phương. Hiện nay chưa tìm thấy những di hài và di vật đó để xác minh). Toàn bộ bọn tàn quân địch ở đồn Ngọc Hồi đều bị tiêu diệt trong đó có cả tổng binh Trương Triều Long (Việt sử thông giám cương mục chép là Trương Sĩ Long). Một số tên lẩn trốn vào cả các làng xóm chung quanh cũng bị nhân dân giết chết hoặc bắt nộp cho quân Tây Sơn.
Chỉ trong sáng ngày mồng 5 tháng giêng tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn đã phá tan đồn, lũy Ngọc Hồi tiêu diệt toàn bộ quân địch khoảng 3 vạn tên ở Ngọc Hồi và đầm Mực. Quân Tây Sơn dã nhanh chóng tiêu diệt một cứ điểm then chốt nhất của quân địch, đập nát hệ thống phòng thủ của chúng ở phía nam Thăng Long, mở toang cửa ngõ tiến vào giải phóng kinh thành, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long. Đạo quân chủ lực của Quang Trung và đạo quân của đại đô đốc Bảo đã hoàn thành hết sức rực rỡ nhiệm vụ nặng nề của hướng tiến công chủ yếu, trong đó trận Ngọc Hồi – Đầm Mực giữ vai trò quyết chiến có ý nghĩa quyết định.
Cũng vào sáng ngày mồng 5 tháng giêng, lúc trời còn tối khi đạo quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi thì trên hướng tiến công phối hợp, đạo quân của đô dốc Đông cũng đồng thời mở cuộc tiến công hết sức bất ngờ vào đồn Đống Đa (Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi thì sáng hôm ấy (tức ngày mồng 5 tháng giêng), Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng (tr. 364) và “canh tư đêm ấy” Tôn Sĩ Nghị nghe súng nổ ở phía tây – bắc thành (tr. 365). Như vậy trận tiến công đồn Khương Thượng bắt đầu vào khoảng canh tư ngày mồng 5 tháng giêng Kỷ Dậu, lúc trời còn tối. Điều đó cũng phù hợp với những tài liệu của nhà Thanh như Thánh vũ ký, Chính sử lược biên, An Nam quân doanh kỷ yếu…).
Đồn Đống Đa tuy không kiên cố như đồn Ngọc Hồi, nhưng cũng giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống phòng thủ Thăng Long của Tôn Sĩ Nghị.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 4:50:48 GMT 9
Đêm xuân cõng Hoàng đếBình Nguyên Lộc Đã tới hồi gay cấn rồi đây, đã tới lúc nghẹt thở khi ông Tư Sang kể đến đoạn quân Tây Sơn rượt Chúa Nguyễn Ánh tới đình làng Tân Quang vào đầu một đêm xuân kia. Tôi định rằng ông Tư Sang bịa láo, ít lắm cũng về cái thời điểm xảy ra câu chuyện, ông đặt nó vào ngày Tết cho hợp với không khí đêm nay cho vui vậy thôi, chớ Tây Sơn là kẻ thắng thế rõ rệt quá thì cứ nằm mà ăn Tết, sang giêng sẽ hay, chớ tội gì phải vất vả truy nã kẻ thù vào một đêm xuân. Nôi bánh tét. Nguồn: Onthe Net Đêm nay là đêm hăm chín tháng chạp, nhà tôi nấu bánh tét, hầm thịt, làm nem; nhà bếp vui vẻ lắm, nhưng sợ trẻ con buồn ngủ nên má tôi mới lờ đi cho ông Tư Sang khi thấy ông tới chơi; chớ thường thì những ngày, những đêm bận rộn, má tôi không cho ông vào sợ ông làm mất thì giờ của người nhà. Ông Tư Sang là người láng giềng của nhà tôi; ông ở một nếp nhà tranh vách đất sau miếng vườn tổ phụ của chúng tôi; không vợ, không con, và quanh năm, suốt tháng, cả ngày, ông hết la cà nhà này, đến nhà khác, vì cái nghề chánh của ông về sau này là nghề chèo đò ngang trong làng, mà ông cũng đã bỏ rồi; thì giờ của ông nhiều quá, không làm gì mà lấp cho hết các khoảng trống không mà ông Tư rất sợ hãi. Ông Tư ngưng câu chuyện để ăn một cái bánh ít bột năng. Ông tuy dốt nát và thuộc thế hệ hồi Tây mới chinh phục ta, nhưng lại rất thành thạo mánh khóe của báo hằng ngày. Ngày nay, họ đăng phóng sự hoặc tiểu thuyết tới đoạn toát mồ hôi lạnh thì họ cho “còn nữa” để ngày mai ta phải mua báo hầu đọc tiếp. Nhà tôi đêm nào cũng có quà cho anh chị em tôi ăn, nhưng cũng để đãi ông Tư, một ông lão kể chuyện đời xưa rất hay mà thân phụ tôi rù quến tới để giúp vui cho cả nhà. Ông Tư là bợm nhậu, chỉ ưa quà mặn; nhưng má tôi lại ghét rượu chè, đãi toàn quà ngọt; ông đành chịu vậy, bằng hơn đi nhà khác, kể ráo bọt mồm mà chẳng được một chén trà. Vả bánh ít bột năng là bánh ít loại sang, người thường mà mấy thủa được ăn, nên ông Tư cũng tự an ủi rằng dẫu sao gia đình tôi cũng đã trọng đãi ông lắm. Lão Tư Sang làm nghề trạo phu, chèo thuê cho các tay lái thương hồ. Nhưng năm ấy lão đã bảy mươi lăm, yếu từ mười năm rồi nên chỉ chèo được chiếc đò ngang đưa sang sông, bến đò ở trước nhà tôi. Lão là một nông dân không thật thà chút nào; tánh tự nhiên của lão vốn đã láu lỉnh rồi; rồi nghề nghiệp của lão lại lưu manh hóa lão phần nào: nghề thương hồ của các ông chủ của lão đã đưa lão đi khắp các nẻo đường của Tam kỳ Lục tỉnh; lão đã sống một trăm lần nhiều hơn nông dân thật sự, đã nghe các chủ nhân của lão nói láo trắng trợn một ngày mấy mươi bận với khách hàng, thành thử lão không còn là nông dân nữa. Cha mẹ tôi không ưa lão, nhưng cứ cho lão tới nhà; hơn thế, còn khuyến khích lão tới bằng quà bánh, chỉ vì anh chị em chúng tôi quá mê nghe kể chuyện, còn lão thì là tay thầy trong nghệ thuật đó. Khắp vùng tôi ở, gồm mấy làng lân cận với làng tôi, không có một ông cụ nào mà kể chuyện tài tình bằng lão trạo phu không có áo này. Ấy, lão ta cởi trần quanh năm, nói là trời nóng nực lắm, nhưng thật ra lão ta không có chiếc áo nào hết. Bánh ít trần. Nguồn: OntheNet Ăn xong cái bánh ít, ông Tư uống một chén trà ngon, rồi hút thuốc, lâu lắc quá, khiến chúng tôi sốt cả ruột gan. – Rồi sao nữa chú Tư? Chị tôi hỏi. – Chẳng, như vầy. Tía tôi làm ông từ giữ đình làng, có nhà trong sân đình. Tôi đã có vợ, ra riêng từ vài ba năm rồi, nhưng đêm đó, tôi đi thăm tía tôi. Thình lình tía tôi thấy một đạo hào quang nhoáng lên; vì là giữa mùa nắng, nên không thể lầm hào quang với lại chớp được. Cha con tôi nhìn ra sân thì thấy một người có phong độ đế vương đẩy cổng đình và chạy mau vào sân. Cha con tôi đoán được ngay đó là ai rồi, thế nên tôi vụt nhảy ra khỏi nhà, chạy đến trước người ấy đoạn quỳ mọp trước mặt người. Người ấy bèn để cho tôi cõng chạy trốn. Tôi thuộc các ngõ ngách nên trốn thoát. Chỉ lúc chạy được xa rồi, tôi mới để Hoàng đế xuống và bấy giờ, tôi mới có thì giờ để tung hô vạn tuế người. Lớn lên, học sử, tôi mới biết là ông Tư nói dóc. Năm đó ông Tư 72 tuổi, tức ông sanh năm 1853, vua Gia Long đã chết thành tro rồi, còn đâu để ông ta cứu giá. Vả lại, nếu có ai cứu giá thì đó là chúa Nguyễn Phúc Ánh ấy chớ làm gì đã có Hoàng đế, vì chúa Nguyễn Phúc Ánh còn bôn đào, đã xưng đế đâu nào. Nhưng ông Tư kể rất sống động, y như chuyện quả có xảy ra thật; thành thử thân phụ tôi vốn biết ông ấy nói dóc mà chính người cũng ham nghe. Lịch sử của miền Nam gồm nhiều đoạn thăng trầm trong đó có hai thiên mà người ta cho là hào hùng nhứt. Đó là những năm đầu khẩn hoang, theo kế hoạch của chúa Nguyễn, và đoạn chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy trối chết trước các cuộc ruồng bố của Tây Sơn. Nhưng giờ nhiều kẻ lại lờ đi về thiên anh hùng ca đầu; nó là anh hùng ca thật sự đấy, mà cứ ca hát cái thiên cứu giá chúa Nguyễn Phúc Ánh mãi, cho đến kẻ sinh sau đẻ muộn là ông Tư Sang nghèo rớt mồng tơi nầy mà cũng khoe rằng mình đã cứu giá. Nếu ông ấy có công cứu giá thì ông ấy đã được phẩm hàm, ơn vua lộc nước rồi, chớ đâu có cả đời làm trạo phu. Thấy sang bắt quàng làm họ, đó là bản tính của kẻ hèn. Trị thủy, phá rừng, giết thú dữ, đánh nhau với thổ dân là những kỳ công oanh liệt, nhưng quá tối tăm, đâu có rạng rỡ như cõng “Hoàng đế” chạy trốn! Lại còn cái vụ hào quang của Hoàng đế ấy nữa. “Hoàng đế” lẩn trốn trong Nam bao năm là họ bịa ra bao chuyện ly kỳ; nào là rùa linh nổi lên chở Hoàng đế sang sông; nào là rái linh cắn quân Tây Sơn để cứu chúa. Nếu chẳng may Tây Sơn mà thắng thì thật uổng những chuyện truyền kỳ hấp dẫn đó không biết bao nhiêu. Ông Tư lại ăn bánh. Ấy, bánh ít bột năng thủa đó ba xu một cái, bằng bây giờ mười lăm đồng; vậy mà ông già này đã tiêu thụ hết bốn cái rồi đó. Giá một buổi đầu hôm kể chuyện của ông ta, tính theo thời giá ngày nay lên đến một trăm đồng; và rồi ông còn ăn nữa, chớ có phải bốn cái là đủ đâu. Mắc hơn một cái vé xi-nê ngày nay! Sau chiếc bánh thứ tư, ông Sang kể chuyện ăn trộm vào thế hệ của ông. Về vụ đánh cọp, đánh cướp, bắt trộm thì ông bịa láo vì những câu chuyện thật ấy, tự nó đã hay rồi. Tôi chú ý đặc biệt đến cái chi tiết về bộ máy ra-đa của kẻ trộm thời xưa. – Họ, ông Tư Sang kể, được võ trang bằng một que tre thật mỏng manh và dài độ bốn gang tay. Vào được trong nhà rồi thì họ vừa đi tới vừa huơ que tre lia lịa trước mặt họ. Que tre chạm phải cột, hoặc tủ bàn gì là họ biết ngay để mà tránh, trong khi đó thì chủ nhà cứ ngủ thẳng cẳng vì sức va chạm quá nhẹ nhàng, bởi que tre quá mỏng. Thành thử như là họ có con mắt thần, thấy được mọi vật trong bóng tối dày đặc. Con mắt thần của họ còn khám phá ra được các vật quí giá trong nhà nữa. “Chẳng, thủa ấy cho đến bực giàu có của ta nhà cũng chẳng có gì, trừ lư đồng, nồi đồng và mâm thau, nữ trang và tiền bạc thì không kể vì hai thứ đó được cất trong rương xe, một loại rương rất lớn, có bánh xe để dời đi được ra khỏi nhà khi nào có hỏa hoạn, và chủ nhà nằm trên mặt rương ngủ, khó xơi lắm. Bọn trộm chúng nó mang gạo theo đầy cả túi, rồi vào nhà xong, chúng nó hốt gạo mà tung ra như gieo mạ. Tiếng các hột gạo chạm vào những vật bằng đồng, nghe là biết ngay, đối với người thức, còn người ngủ thì chẳng hay biết gì cả.” Câu chuyện hấp dẫn lắm, nhưng trừ bọn trẻ con chúng tôi ra, còn thì người lớn không ai thèm nghe hết vì thủa còn bé, cha mẹ tôi đã biết tài nghệ của bọn ăn trộm đời xưa; bọn này là những tay nhà nghề chỉ mới tàn lụi cách đó độ vài mươi năm mà thôi. Thế nên bác dâu tôi mới nói to lên một câu lạc đề: – Sang giêng chú cho tôi mượn chiếc xe ngựa với thằng đánh xe để tôi đi thăm vợ của Bác-vật Năng nghe chú. Bác Hai tôi không con, nên giao phần hương hỏa và nhà thờ cho thân phụ tôi. Bác qua đời rồi, người bác dâu của tôi trở về nhà thờ mà ở để theo đúng cái cang “tùng phu” vậy; không có tử để mà “tùng tử”, bác ấy tùng nhà thờ của họ tôi là đúng đạo tam cang. Còn vợ của Bác-vật Năng là người chị bà con xa của tôi, chị ấy lấy chồng làm kỹ sư canh nông dưới Sài gòn mà thủa ấy người ta gọi là Bác-vật Trồng-tỉa. Chị ấy sanh đứa con thứ ba đã đầy tháng rồi. Thân phụ tôi đứng lên, đốt thuốc nơi ngọn đèn tọa đăng thắp dầu lửa; đặt điếu thuốc trên đầu cái thông phong, bập vài bập cho điếu thuốc cháy rồi mỉm cười mai mỉa mà hỏi rằng: – Chị muốn cứu giá như chú Tư đây hả? Bác dâu tôi ngơ ngác không hiểu gì hết nên hỏi: – Chú nó nói gì mà cứu giá? – Chú Tư đây đã khẩn hoang một mình bốn mẫu rừng; vậy mà chú không cho đó là kỳ công, cứ ham cõng ông Hoàng đế Gia Long mà thôi. Nói xong, thân phụ tôi cười ha hả, rất đắc chí. Bác dâu tôi đã hiểu, vì chính tôi là trẻ con mà còn hiểu kia mà. Chị cả của tôi lấy chồng ở làng bên. Nhưng chị lấy chồng dân giả lại nghèo, nên năm rồi chị sanh con so mà bác dâu tôi không hề hỏi thăm một tiếng. Bác ấy là con cháu nhà quan; ít lắm cũng theo lời bác khoe chớ theo chỗ tôi biết thì ông cụ của bác ấy ngày xưa chỉ làm Chánh tổng, tuy cũng là quan đó, nhưng mà là quan nhỏ quá, quan ở trong làng. Bác ấy phong cho ông cố bác làm quan án sát tỉnh Trấn Biên, nên chi bác ấy chỉ giao thiệp với hàng Chánh tổng sấp lên mà thôi. Nhiều người miền Nam ta, phần đông là những kẻ tăm tối rất ưa khoe tổ tiên họ làm quan cho chúa Nguyễn. Vì đông người khoe như vậy, kẻ biết chuyện rất buồn cười mà nghĩ rằng chúa Nguyễn hẳn dư quan nên mới cho vào Nam đông đến thế. Những người ấy nhứt định chối bỏ dĩ vãng hào hùng của tổ tiên họ là lưu dân bị đày vào đây, hoặc là những kẻ nghèo khổ được chúa Nguyễn mộ vào Nam để khẩn hoang. Những đợt sóng Nam tiến anh dũng không tiền khoáng hậu trong lịch sử ta, thế mà họ có biết đâu. Cũng may là miền Nam chỉ có ba trăm năm lịch sử thôi, chớ nếu đây là đất “nghìn năm văn vật” thì có lẽ họ đã khoe tổ của họ là Hùng Vương rồi vậy. Bác dâu tôi đã hiểu nhưng vẫn cãi: – Chú nói mát làm gì. Có khác đó chớ. Chú Tư đây chỉ nói láo để ké thơm lây của nhà vua, còn tôi có nói láo đâu. Tôi đi thăm cháu tôi đó mà. – Nhưng cháu của chị cũng là một thứ nhà vua. Nó cũng là cháu của tôi đó chớ; nó còn là cháu của tôi hơn là cháu của chị nữa vì nó mang họ nhà tôi;nhưng nó sanh ra thì y như là nhà giàu họ cất ngôi nhà thứ năm, thứ sáu, họ đâu có ăn tân gia nữa, và ta đâu có phải mừng cho họ nữa. Lão trạo phu lại ăn bánh ít và để được ăn quà mỗi đêm, lão ta nịnh thân phụ tôi: – Ông Cả nói đúng đó bà hội à! Tôi cõng Hoàng đế, Hoàng đế ban cho tôi giấy tốt, nhưng rồi tôi ăn cái gì chớ? Tôi chỉ được ăn cơm nguội sau những buổi chèo thuyền. Ông Cả đây không được lưu danh hậu thế như Hoàng đế, nhưng tôi lại được ăn bánh mỗi đêm. À, thưa cô bác, bà con, tôi có cõng Hoàng đế thật đó chớ. Thân phụ tôi lại cười ha hả. Thủa thanh xuân, ông Tư Sang có theo hát bội mấy năm; ban đầu làm quân chạy hiệu, sau được lên quân hầu. Quả lão ta có cõng Hoàng đế thật sự, chỉ có điều là đó là những Hoàng đế tuồng. Riêng tôi, tôi bỗng đâm tin nơi nguồn gốc mà bác dâu tôi thường khoe khoang. Bác ấy là con quan thật sự đó, vì rồi bác lại hỏi thân phụ tôi: – Nhưng thôi, hơn thua nhau vài tiếng làm gì. Chú có cho tôi mượn xe hay không thì nói đi. – Chị cứ tự tiện. Tất cả đều là của hương hỏa, nghĩa là của chung, chị có quyền dùng. Chỉ có con quan và con cháu nhà quan mới không giận, mới thực tế phớt đi, để được lợi. Danh lợi trên hết! Nếu phải quỳ lụy bề trên để được thăng quan tấn tước, người ta cũng chẳng ngại dẻo lưng, huống hồ gì một sự công kích nhè nhẹ của một người em chồng trong nhà. Thật là hú vía cho cánh họ của tôi. Tổ tiên của tôi có lẽ là bần dân tiên phuông đi khai sơn phá thạch để tìm kế sinh nhai. Họ đã bị quan chúa Nguyễn kiểm soát và cai trị. Ba trăm năm sau, có một người con gái của quan len vào họ tôi để mà cai trị nữa. Nhưng may thay, bác ấy không con, thành thử họ tiên phuông nhà tôi mới giữ được mãi dòng máu tiên phuông, không lai giọt máu quan nào cả. Lão trạo phu chối bỏ hàng ngũ lại ăn bánh ít. Lão ta ăn cái này nữa là cái thứ bảy rồi đó. Nếu quả lão đã cõng Hoàng đế thật sự thì hiện giờ lão đang hưởng ít lắm là năm mẫu ruộng với ngôi tiên chỉ trong làng. Nhưng phong thái của lão cứ là phong thái nông dân cộng với phong thái hát bội, thêm vào đó phong thái trạo phu. Có lắm thứ quan. Có quan từ nhiều thế hệ văn nho mà xuống, với truyền thống riêng của họ, đẹp đẽ lắm. Lại có quan chỉ lên quan nhờ cõng Hoàng đế chạy vài dặm mà thôi. Loại quan này thật là giống những bác cai phu, nhờ chiến tranh trở nên thầu khoán tỷ phú, đi xe Mercedes nhưng ăn cơm thì phải cởi trần họ mới ăn cơm ngon miệng Chẳng hạn như quan bánh ít đây. Lão ta ăn kêu như heo, uống nước cũng kêu soàn soạt. Năm mười sáu tuổi, tôi đốt quyển gia phả của họ tôi, mặc dầu tài liệu ấy quí giá vô song; vì ở miền Nam này, trong một ngàn gia đình, chưa dễ có một họ có chép gia phả. Tôi thiêu hủy tập vở chữ Nôm mà tôi đọc không được ấy, vì tôi nghe ông chú tôi bảo rằng ông cố mười đời của tôi làm quan Án sát tại Trấn Biên. Biết đâu ông cố của tôi lên quan Án Sát chỉ nhờ đã cõng vua Gia Long? Nếu nhờ tài liệu nào khác mà một nhà khảo cứu bỗng khám phá ra điều ấy thì thật là không rạng rỡ tí nào. Khai phá miền Nam. Nguồn: ongtam2013.blogspot.com Thà cứ làm con cháu những đợt sóng tiên phuông đã anh dũng chiến đấu với thiên nhiên để tạo ra miền Nam trù phú ngày nay, còn “le” hơn là làm con cháu nhà quan “cõng”. Bởi vì tôi thích làm “Tôi” chỉ đủ ăn ngày hai bữa hơn là làm bác cai phu lên chức thầu lớn, đi xe Mercedes mà chửi thề như phu gạo. Mấy năm sau, bác dâu tôi qua đời và nhà sư trụ trì ngôi chùa trong làng tôi tới thỉnh bài vị của bác vào chùa ngay. Những tháng cuối cùng của bác, bác chuẩn bị cái chuyến đi xa ấy rất chu đáo; có bao nhiêu tiền, bác cúng hết cho chùa để chùa lo hương khói cho bác đời đời kiếp kiếp. Chắc bác không thích để cho hàng dân giả cúng quảy, khói hương cho bác. Tôn giáo còn ở trên quan trường nữa thì vào chùa hách hơn ở nhà dân. (Kể theo lời một người bạn)
(Văn số 146 & 147 ngày 22/11/1970)
Bình Nguyên Lộc: nhà văn, nhà báo, tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại Tân Uyên, Biên Hòa. Ông mất ngày 7 tháng 3, năm 1987 tại Sacramento, CA, Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 4:32:44 GMT 9
Đã tìm ra chân dung chính xác nhất của vua Quang Trung?31/12/2017 tuoitre.vn/da-tim-ra-chan-dung-chinh-xac-nhat-cua-vua-quang-trung-20171230203943696.htmHình vẽ vua Quang Trung từ tư liệu của Trung Quốc - Ảnh: Trần Quang Đức công bố TTO - Nhà nghiên cứu, TS. Nguyễn Duy Chính vừa công bố bài viết có tính hệ thống lại quá trình xuất lộ và tìm kiếm hình ảnh chân dung vua Quang Trung của học giới nước ta từ xưa đến nay. Đã tìm ra chân dung chính xác nhất của vua Quang Trung? - Ảnh 1. Bức tượng tại chùa Bộc có ghi chú Vua Quang Trung nhưng vẫn còn ý kiến khác nhau - Ảnh: từ bài của Nguyễn Duy Chính Hoàng đế Quang Trung là nhân vật lịch sử đặc biệt, nhưng triều đại Tây Sơn tồn tại quá ngắn ngủi cùng với những biến động lịch sử khiến cho những mô tả về nhân dạng của ông khuyết thiếu. Và mới đây, từ nguồn sử liệu của Trung Quốc đã hé lộ những thông tin khả quan nhất về chân dung vua Quang Trung. Thiếu vắng trong sách sử và những lần xuất hiện Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính đã tìm kiếm trong các bộ sử triều Nguyễn, và bắt gặp trong bộ Đại Nam chính biên liệt truyện ở phần "Ngụy Tây" có một đoạn chép tả Nguyễn Văn Huệ (tức Quang Trung): "Nguyễn Văn Huệ là em của Nhạc, tiếng vang như chuông, mắt sáng như ánh điện, mưu lược thiện chiến, người người đều kinh sợ". Và một đoạn khác trong sách Tây Sơn thuật lược có chép chi tiết hơn: "… Năm ấy Nguyễn Huệ mất, tóc của Huệ thì quăn, mặt thì đầy mụt, có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu …". Đã tìm ra chân dung chính xác nhất của vua Quang Trung? - Ảnh 2. Sách Tây Sơn thuật lược - tư liệu hiếm hoi của Việt Nam có miêu tả nhân dạng vua Quang Trung - Ảnh: L.Điền Ngoài hai tư liệu trên, nhà sử học Nguyễn Phương cũng từng dẫn một trường hợp vua Quang Trung xuất lộ trong hình chụp một pho tượng ở chùa Bộc (Hà Nội). Theo ông Nguyễn Phương, đi kèm với bức tượng là đôi câu đối được xem là chỉ dấu cho thấy bức tượng ấy chính là tượng vua Quang Trung: "Động lý vô trần, đại địa sơn hà lưu đống vụ; Quang trung hóa Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân" (Trong hang không bụi, lưu nêu cột giữa non sông rộng lớn, Giữa sáng thành Phật, chuyển gió mây trong thế giới cỏn con). Tuy nhiên, học giới lâu nay vẫn còn chưa thống nhất nhau về hai chữ "quang trung" trong câu đối trên liệu có nên hiểu là tên riêng (viết hoa) của vua Quang Trung hay không. Về tranh vẽ, vào năm 1932, trên Đông Thanh tạp chí số 1 có đăng bức hình vẽ "giả vương Quang Trung", hình này đến năm 1968 xuất hiện lại trong tập san Sử Địa số 9-10 với ghi chú là tranh này lấy từ tập "Mãn Châu cổ họa". Tuy nhiên, lâu nay không có thông tin gì về tập cổ họa ấy. Hình vẽ vua Quang Trung trên bìa tập san Sử Địa năm 1968 - Ảnh: L.Điền chụp lại Tuy nhiên, chính bức tranh này đã trở thành cơ sở để họa sĩ thiết kế giấy bạc thời Việt Nam Cộng hòa đã đưa hình vua Quang Trung vào tờ tiền mệnh giá 200 đồng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính ghi nhận, từ đây, "nhiều nghệ sĩ đã sử dụng để điêu khắc tượng đài, cả trong nước lẫn hải ngoại coi như đây là diện mạo chính thức của Nguyễn Huệ". Tờ giấy bạc 200 đồng thời Việt Nam Cộng Hòa vẽ chân dung vua Quang Trung Từ tư liệu của Trung Quốc Liên quan đến chuyến đi của vua Quang Trung sang Bắc Kinh dự lễ Bát tuần đại khánh của vua Càn Long, sứ thần Triều Tiên bấy giờ là Từ Hạo Tu có mấy đoạn tả vua nước An Nam là Quang Bình (tên của vua Quang Trung lúc sang Trung Quốc): "Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ xem ra khác hẳn với người ở Giao Nam. Thế nhưng các bầy tôi đi theo tuy hơi giỏi văn tự nhưng thân thể nhỏ bé, yếu đuối...", hoặc "Vua của họ (tức nước ta) đầu bịt khăn lưới, đội thất lương kim quan, mình mặc long bào bằng gấm màu, đeo đai bằng ngọc trắng". Tuy nhiên đây chỉ là văn tả, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính tìm kiếm được hai tư liệu hình vẽ vua Quang Trung trong chuyến đi Bắc Kinh dự lễ thọ vua Càn Long này, một trong bộ tranh "Thập toàn phu tảo", và một bức trong bộ tranh đồ sộ "Bát tuần Vạn thọ thịnh điển". Trong bộ Thập toàn phu tảo, vua Quang Trung xuất hiện trong bức tranh có tên "An Nam quốc vương chí Tị Thử sơn trang", vẽ hình vua Quang Trung và hai bồi thần (tức Phan Huy Ích và Ngô Văn Sở) vào triều kiến vua Càn Long ở Nhiệt Hà. Còn trong bộ "Bát tuần Vạn thọ thịnh điển", vua Quang Trung được vẽ trong bối cảnh đứng chung với bồi thần, sứ thần các nước nước Triều Tiên, Nam Chưởng, Miến Ðiện và các sơn phiên Kim Xuyên, Ðài Loan cho đến các hãn Mông Cổ, Hồi Bộ, kế đến các vương, thai cát quì bên cạnh đường, nghênh đón vua Càn Long hồi kinh. Cả hai tư liệu này đều vẽ vua Quang Trung từ xa, vẽ chung với các nhân vật khác, nên không rõ nét chân dung. Bức tranh Thập toàn phu tảo vẽ vua Quang Trung và hai bồi thần đang hành lễ bệ kiến vua Càn Long - Ảnh: từ bài của Nguyễn Duy Chính Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức mới đây đã công bố một tài liệu. Gần đây, một người bạn Trung Quốc gửi cho tôi bức tranh chân dung Quang Trung, hiện cất giữ tại Bảo tàng Cố Cung Bắc Kinh. Bức tranh này có ghi rõ An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình (tên của Quang Trung khi ở bên nhà Thanh). Lai lịch tường tận của bức tranh cần đợi những khảo cứu chuyên sâu hơn. Ít nhất, cho tới thời điểm hiện tại, bức tranh này vẫn tiệm cận với "sử thực" hơn cả. Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức công bố trên trang facebook cá nhân Bức hình vẽ vua Quang Trung do Trần Quang Đức công bố Từ tư liệu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính đã khảo cứu kỹ: xem xét kiểu mũ xung thiên vua Quang Trung đội trong hình, đọc được ba dấu triện đóng trên tranh, đọc và dịch bài thơ ngự bút của vua Càn Long viết phía trên bức tranh. Căn cứ vào đó, Nguyễn Duy Chính đoán định bức hình này là bản trắng đen của một trong ba bức bán thân vẽ màu vua Quang Trung do vua Càn Long chỉ thị cho họa gia trong cung thực hiện nhân chuyến vua Quang Trung sang chúc thọ. Tác giả của ba bức tranh này là họa gia Mậu Bính Thái và một hoạ sĩ phụ tá là Y Lan Thái. Hai ông này đều là họa sĩ có tiếng trong cung đời Thanh Cao Tông. Thông tin này chép trong bộ "Thanh cung nội vụ phủ tạo biện xứ đáng án tổng hối" mà Nguyễn Duy Chính đã tiếp cận được. Như vậy có thể theo thông tin do Trần Quang Đức công bố "hiện cất giữ tại Bảo tàng Cố Cung Bắc Kinh" để tìm ra bức hình gốc vẽ vua Quang Trung trong bộ ba bức tranh do vua Càn Long chỉ thị thực hiện, có thể được xem là đã tìm ra chân dung trung thực nhất của vua Quang Trung. Điều đó sẽ khép lại thông tin về chân dung vua Quang Trung mà ngay chính trong bức thư gửi Phúc An Khang trên đường từ Bắc Kinh trở về sau lễ mừng thọ, vua Quang Trung đã cho biết: "đại hoàng đế nghĩ xuống đường sá xa xôi gửi ban cho một hộp bánh sữa, một hộp mứt trái cây và một cuộn tranh vẽ dung nhan quê mùa của kẻ hèn này". Chi tiết này được chép trong tập "Dụ Am văn tập" của Phan Huy Ích, nhưng chẳng biết cuộn tranh vẽ "dung nhan quê mùa" mà vua Quang Trung khiêm xưng từ ấy đến nay đã thất lạc đâu rồi.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 13:43:34 GMT 9
Báo Tuổi Trẻ tại Sài gòn tuyên bố đã tìm ra chân dung chính xác nhất của vua Quang Trung, nhưng chỉ là vua giả Hồ Bạch Thảo Báo Tuổi Trẻ Online số ra ngày Chủ nhật 31/12/2017 đăng tấm hình phía bên phải có 4 chữ Nho 王阮光平 [Vương Nguyễn Quang Bình] và cho rằng đã tìm ra chân dung chính xác nhất của vua Quang Trung. Tôi cũng có tấm hình giống y như vậy, lấy từ trang Wikipedia chữ Nho, đăng ở trên ; hình tôi in đầy đủ, nên bên phải có nguyên 9 chữ 新封安南國王阮光平 [Tân phong An Nam Quốc vương Nguyễn Quang Bình]. Dưới tấm hình, chú thích như sau : “ Gác Tử Quang tại Trung Nam Hải 1 từ lâu tàng trử Tân phong An Nam quốc vương tượng đồ. Căn cứ sử liệu từ các bộ sử như Thanh Sử Cảo có thể biết rằng bức tượng vẽ không phải là bản thân Nguyễn Huệ ” [中南海紫光閣舊藏「新封安南國王阮光平像圖」。據《清史稿》等史料可知,此畫像所繪實非阮惠本人] Mở Thanh Sử Cảo quyển 527, phần Liệt Truyện Việt Nam, chép về Nguyễn Quang Bình giả đến triều Thanh chúc mừng như sau : “ Năm thứ 55 [1790], Nguyễn Quang Bình đến triều chúc mừng, trên đường phong cho con trưởng Nguyễn Quang Toản Thế tử. Tháng 7, vào triều cận tại sơn trang Nhiệt Hà ; phong chức dưới Thân vương trên Quận vương, ban cho thơ ngự chế, khăn đội đầu, dây đai, rồi trở về. Kỳ thực Quang Bình sai em mạo danh đến, còn Quang Bình thì không dám đến ; nguỵ trá như vậy ! ” [五十五年,阮光平來朝祝釐,途次封其長子阮光缵爲世子。七月,入觐熱河山莊,班次親王下、郡王上,賜御製詩章,受冠帶歸。其實光平使其弟冒名來,光平未敢親到也,其谲詐如此] Riêng Wikipedia lại tham khảo thêm các sách như Việt Nam tập lược của Án sát Quảng Tây Từ Diên Húc, nên ghi chi tiết hơn : “ Nguyễn Huệ đổi tên là Nguyễn Quang Bình, sai con người anh là Nguyễn Quang Hiển, bọn Bồi thần Vũ Huy Tấn đi sứ triều Thanh ; mang hiến sản vật địa phương, cùng dâng biểu cầu phong. Lúc yết kiến vua Càn Long, Nguyễn Quang Hiển xưng rằng Nguyễn Huệ sẽ đến kinh đô chiêm cận. Càn Long nhận thấy việc Quốc vương An Nam đến triều kiến, từ khi có lịch sử đến nay mới xảy ra lần đầu, nên rất lấy làm mừng ; bèn lập tức phong Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương. Lại sai viên Hậu bổ Quảng Tây Thành Lâm đến An Nam trước, hẹn Nguyễn Huệ năm sau đến triều cận. Còn đối với vua Lê Chiêu Thống, người đã để mất chính quyền, thì Càn Long cho rằng trời đã bỏ, nên không giúp chi trì ; ra lệnh cho ông ta cùng bầy tôi nhà Lê còn sót lại đến kinh sư cư trú. Lúc Thành Lâm đến Trấn Nam Quan, Nguyễn Huệ mời đến Phú Xuân [Huế] du ngoạn, với mưu đồ mượn cơ hội để kéo dài thời gian, nhưng bị Thành Lâm cự tuyệt. Nguyễn Huệ lúc này nại cớ bị bệnh chối từ, không muốn ra đi chiêm cận. Phúc Khang An lại thúc dục, Nguyễn Huệ xin cho con là Nguyễn Quang Thùy thay mặt, nhưng không được chấp thuận. Cuối cùng bất đắc dĩ Nguyễn Huệ chọn người tướng mạo tương tự giả làm mình ; rồi cùng với Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công làm bồi thần. Ngoại trừ chiếu theo lệ mang đầy đủ cống phẩm, còn dâng 2 con voi lớn. Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An, Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh bồi tiếp phái đoàn đến kinh sư. Càn Long đối với việc Quốc vương An Nam đích thân đến triều cống tin là thực, hạ lệnh địa phương trên đường đến kinh đô hết sức long trọng đãi ngộ, các dịch trạm dọc đường phục dịch rất khổ. Sau khi đến kinh sư, Càn Long triệu đến hành cung Nhiệt Hà tương kiến, làm lễ ôm gối 2, rồi ban yến, cùng ngồi chung với các Thân vương. Trước khi ra về, Càn Long ra lệnh cho họa sư vẽ chân dung để tặng, biểu thị mối tình nồng hậu. Sự thực quan nhà Thanh tại các nơi đều biết kẻ gọi tên Nguyễn Huệ là giả, nhưng do Càn Long thích vĩ đại ham công to, nên không có vị quan nào dám vạch ra sự lừa dối này.” [阮惠改名阮光平,派遺兄子阮光顯、陪臣武輝瑨等人出使清朝,向清朝進獻方物,並上表求封。 在謁見乾隆帝的時候,阮光顯聲稱阮惠將親自來到京師覲見。乾隆帝認為安南國王親自前來朝見有史以來尚屬首次,因此大喜,當即冊封阮惠為安南國王,又派遣廣 西候補成林前往安南,約阮惠次年入朝覲見。而對於失去政權的黎昭統帝,乾隆帝認為上天已經把他拋棄,因此不再給予他支持,下令將他與後黎朝遺臣一起遷到京師居住。成林來到鎮南關(今中越邊境友誼關)的時候,阮惠邀請他來富春遊 玩,企圖借此機會拖延時間,但被成林拒絕。阮惠於是一直推稱自己生病,不欲前往覲見。福康安一再催促,阮 惠只得要求讓兒子阮光垂代替自己前去覲見,但不被允許。不得已之下,阮惠最終選出與自己相貌相似的人冒充 自己,並以吳文楚、鄧文真、潘輝益、武輝瑨、武名標、阮 進祿、杜文功為陪臣,除照例須攜帶的貢品之外,還向清朝進獻雄象兩匹。兩廣總督福康安、廣西巡撫孫永清陪他們抵達京師。乾隆帝對這個親自前來朝貢的「安南 國王」的身份信以為真,下令在上京的路上給予安南使團極為隆重的待遇,沿途驛站皆苦之。到達京師之後,乾隆帝召至熱河行宮相見,行抱膝禮,並賜宴與諸親王 同席;臨行前,乾隆帝又命畫師繪畫其像以贈之,表示對他的厚待之情。事實上,清朝各地的官員都知道這個所謂的阮惠是假的,但由於乾隆帝好大喜功,沒有一個 官員敢戳穿這個謊言] Nhận xét rằng Càn Long thích vĩ đại ham công to (hiếu đại hỷ công) là chìa khóa mở cửa, giúp khám phá tham vọng của vị vua này. Thời gian trị vì Càn Long say mê lập võ công, tính từ năm 1792 trở về trước đã : 2 lần bình định bộ tộc Chuẩn Cát Nhĩ, thuộc dòng giống Mông Cổ ; 1 lần bình định Hồi Hột tại Tân Cương, 2 lần tảo trừ Kim Xuyên tại tỉnh Tứ Xuyên, 1 lần bình định Lâm Sảng Văn tại Đài Loan, 1 lần hàng Miến Điện, 2 lần bình định Khuyếch Nhĩ Khách tại Tây Tạng ; nhưng bị 1 lần thảm bại tại thành Thăng Long Việt Nam, vào năm Kỷ Dậu 1789. Tổng kết Càn Long thu được 9 trận thắng, 1 trận thua. Càn Long muốn thập toàn, rất đau buồn bởi 1 trận thua này, nhưng lực bất tòng tâm, không biết làm sao. Để giải sự thua bại, cần có một vua An Nam sang triều cống, thực hay giả không thành vấn đề, giúp cho Càn Long trở thành thập toàn. Thực vậy, sau khi vua Quang Trung giả đến kinh đô, tháng 10 năm Càn Long thứ 57 [1792] vua Càn Long đích thân soạn thành sách Thập toàn võ công ký trong đó chép 9 võ công đã nêu trên, riêng về Việt Nam thì trơ trẽn ghi “Bình An Nam” rồi cho khắc bia bằng 4 thứ chữ : Mãn, Hán, Mông, Tạng. Lịch sử Trung Quốc ghi nhận Càn Long không phải vị vua duy nhất “ hiếu đại hỷ công ”. Dưới thời Cộng sản “ vua ” Mao Trạch Đông còn vượt xa Càn Long. Mong cầm lá cờ đầu trong thế giới Cộng sản và làm lãnh tụ Cộng sản quốc tế, Mao bắt toàn dân thực hiện chế độ xã hội không tưởng như lập công trường, bước tiến nhảy vọt vv… khiến 37 triệu 550 ngàn người chết đói (Tài liệu chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2005), số người chết vượt quá số người tử trận trong Đại chiến thế giới lần thứ 2 ; có nơi cha mẹ phải giết con để ăn thịt 3. Rồi để chối tội giết dân chết đói, Mao lập Vệ binh đỏ, tìm cách đổ tội cho Lưu Thiếu Kỳ vả thành phần tư sản phản động. Nội bộ thanh toán lẫn nhau kéo dài cho đến lúc Mao mất vào năm 1976, số người chết thêm cũng đến trên 20 triệu người. Hồ Bạch Thảo 1 Trung Nam Hải : chỉ vùng Tử Cấm thành tại phía tây Bắc Kinh. 2 Lễ ôm gối : nghi thức ôm gối tỏ sự thân cận giữa Chư hầu và Thiên tử. 3 Theo Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, tác giả Tân Tử Lăng, do Thông Tấn Xã Việt Nam dịch và in năm 2009.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 23, 2018 12:11:14 GMT 9
Hoàng đế Quang Trung ra BắcNguyễn Duy Chính California, Hoa Kỳ 4 tháng 1 2018 Tượng vua Quang Trung tại Garden Grove, California Nhân cuộc thảo luận đang diễn ra về hình ảnh Vua Quang Trung, mời các bạn đọc lại bài của tác giả Nguyễn Duy Chính đánh giá trận chiến Việt Thanh đầu năm Kỷ Dậu (1789), đã đăng trên giao diện cũ của BBC hôm 26/01/2006. Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về trận chiến Việt Thanh đầu năm Kỷ Dậu (1789) chúng ta thường đặt nặng khả năng chiến đấu và tinh thần của quân Nam, hay tài cầm quân của Nguyễn Huệ được bao phủ dưới những ngôn từ sáo mòn như tình yêu nước nồng nàn, thiên tài quân sự bách chiến bách thắng. Bình luận tiếp về vụ ông ''Vũ Nhôm" và sách mới về Tổng thống Trump Bàn tròn thứ Năm: Ông Vũ 'Nhôm' về VN - hệ lụy và bình luận Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN 'Đêm vô thức' và đất Tây Nguyên tới Nhà Hát Lớn Một số vụ thanh trừng khét tiếng lịch sử Trận Ba Lan thắng Hồng quân năm 1920 Trong biên khảo Quân Sự Nhà Thanh, chúng tôi đã trình bày hệ thống chỉ huy và tiếp liệu của Bắc quân, nêu lên tính chất chính qui của quân đội của một quốc gia thời bình. Để có sự so sánh và làm nổi bật sự khác biệt giữa hai đoàn quân, trong bài Văn Minh Đàng Trong, chúng tôi miêu tả về bối cảnh sinh hoạt của khu vực Đông Nam Á, sau hơn hai trăm năm chia cắt đã hình thành một quốc gia hoàn toàn khác hẳn với Đàng Ngoài về mọi mặt. Chính sự xa lạ với văn minh Đàng Trong - còn chịu ảnh hưởng nhiều của văn minh Ấn Hồi - đã tạo sự bất ngờ cho đối phương vì những gì quân Thanh biết được về nước ta, chỉ hoàn toàn dựa trên hiểu biết của họ về nước An Nam, tức miền Bắc với những qui chế và tập quán gần như một nước Tàu thu nhỏ. Sự hiểu biết của họ về Đàng Trong chỉ qua triều đình chúa Nguyễn, cũng lại là một tiểu long khác, một thứ thái thú đối với dân chúng miền Nam. Trong địa bàn rộng lớn của Nam Á, cư dân không phải là một chủng tộc thuần nhất mà là một khu vực rất co dãn, rất linh động với hàng chục sắc tộc khác nhau, mỗi sắc tộc có một truyền thống và tập quán, được tập hợp trong một hoàn cảnh đặc biệt. Một điều đáng cho chúng ta quan tâm là miền Nam Việt Nam không phải là một vùng hoang địa ít dân cư, mới được khai phá như nhiều lục địa khác ở thế kỷ 17, 18. Việc bành trướng của dân tộc Việt Nam - nói đúng ra là của người Kinh từ châu thổ sông Hồng tiến xuống phương Nam - chỉ là sự bao trùm một nền văn minh này lên những nền văn minh khác. Người Kinh dần dần lấn chiếm các vùng đồng bằng dọc theo duyên hải, đẩy các dân tộc bản địa lên cao nguyên và làm chựng lại sinh hoạt thương mại mặt biển vốn dĩ là một phần quan trọng của đời sống. Trên một qui mô nào đó, người Việt miền Bắc còn giữ tinh thần nông dân gắn bó với ruộng vườn nên đã tận thu bình nguyên, chia núi rừng, đồng bằng và biển cả ra ba khu vực biệt lập, liên hệ rời rạc. Sự bòn rút thiên nhiên trở nên gắt gao hơn nên sớm muộn rồi cũng đưa đến kết quả đồng qui ư tận. Tiến trình khai thác đó vẫn tiếp tục, khi mạnh khi yếu nhưng càng lúc người ta càng ít gắn bó với khu vực dung thân hàng nghìn năm qua. Chế độ phong kiến, chế độ thực dân, chiến tranh và các chính thể độc tài chỉ càng lúc càng làm gia tốc tiến trình tự huỷ. Chính vì ba thế lực đó trung hoà và hoá giải lẫn nhau nên người ta có cảm tưởng trong nhiều năm, trái tim lịch sử bị ngừng đập. Tuy nhiên, đó chỉ là một giấc đông miên mà đôi khi vì một ngẫu nhiên nào đó, một tổng hợp dù vội vã và khiên cưỡng của cả ba khu vực vẫn tạo được những thành tích đáng kể. Đặt vị trí của Việt Nam trong khung cảnh vỡ hạt của cuối thế kỷ 18, với rất nhiều pha trộn khác nhau - văn minh bản địa, Bà La Môn, Hồi giáo, Khổng, Lão, Phật rồi sau đó là văn minh Tây phương theo chân các nhà truyền giáo và thương nhân - hoà quyện với nhau trở thành một nếp sống đặc thù. Cái lò luyện kim đó, với tác động từ phương Bắc tràn xuống, từ phương Tây lan qua, từ miền Nam đi lên, từ biển Đông ập tới, trong một thời điểm nhất định đã đủ mạnh để làm thay đổi cả cuộc diện. Đề cử người Mỹ gốc Việt lên thiếu tướng Nội các Trần Trọng Kim: 5 thành tựu trong 4 tháng Tranh cãi về trận Liên Xô đánh Ba Lan Trận đánh năm Kỷ Dậu vì thế phải được xét qua một lăng kính mới - một bên là thiên triều với đủ thứ lễ nghi tập tục, nhiều hoa quyền, ít thực dụng, và một bên là thành phần đa chủng, sống gần với bản năng trong những điều kiện sinh hoạt giảm thiểu đến mức không sao đơn giản hơn được nữa. Sự tương phản mãnh liệt đó một khi được bổ sung bằng kỹ thuật Tây phương - mà hoàn cảnh địa lý chính trị khá độc đáo Đàng Trong đã tiếp nhận được - chính là yếu tố then chốt tạo nên chiến thắng. Trong khi Bắc quân là một đội quân chính qui tập trung vào chiến thuật duy nhất là giữ thành, chiếm đất theo sở trường của người Trung Hoa thì Nam quân lại bao gồm ba mũi nhọn bao gồm ba sở trường khác nhau được vận dụng cùng một lúc. Miền núi rừng tây nguyên với đội binh Thượng có tài xuyên sơn đem theo một đàn voi rừng từ mạn Lào đổ sang đã tạo cho quân Thanh sự kinh hoàng. Cánh quân từ biển kéo vào phần lớn là đám du thương được Nguyễn Huệ thu dụng để thành lực lượng thuỷ quân, quen thuộc với khu vực biển vùng vịnh Bắc Việt vừa tập kích ngang hông quân Thanh, vừa chặn đường rút lui, cắt đứt hệ thống thông tin và tiếp liệu. Bộ binh do chính vua Quang Trung chỉ huy từ Phú Xuân kéo ra, kết hợp với quân ở miền Bắc quen thuộc địa thế tràn ngập trận địa theo chiến thuật biển người, đổ xuống địch quân như một đợt sóng thần từ xa ập tới. Sau chiến thắng, nhiều huyền thoại được tô vẽ, phao truyền về quân Tây Sơn. Một câu hỏi thường được nêu ra là làm thế nào để Nguyễn Huệ có thể điều binh thần tốc như thế? Nhiều phương pháp đã được đưa ra để giải thích bao gồm cả phương tiện di chuyển (võng, thuyền, voi, ngựa ...) lẫn tính toán thời gian (đại quân tiến luôn một mạch không nghỉ từ Phú Xuân ra Thăng Long trong khoảng từ 20 đến 40 ngày). Thế nhưng những giải thích đó đều có những điểm gượng gạo không thực tế. Một điểm quan trọng là muốn đi nhanh và đồng bộ thì chỉ có thể áp dụng vào những binh đội với số lượng nhỏ vì theo thời gian khoảng cách giữa người đi đầu và người đi cuối sẽ càng lúc càng xa. Ngoài ra dù hình thức nào, đi bộ, đi thuyền hay đi ngựa, đi võng thì vẫn có những giới hạn nhất định về tốc độ, về sự chịu đựng ... không thể vượt qua. Thực ra, điều mà người ta cho rằng thần tốc kia không ở vấn đề di chuyển mà làm sao khéo léo điều động để ba cánh quân cùng xuất hiện kịp thời, vừa làm tăng sự cộng hưởng của sức mạnh, vừa khiến cho đối phương tưởng như một phép lạ nên kinh hoàng tan vỡ. Quân Tây Sơn cũng không phải là một binh đội duy nhất từ trong Nam kéo ra mà là nhiều đơn vị từ nhiều địa phương được các tướng lãnh chuẩn bị cùng di chuyển tới khu vực tập kết để tham gia chiến dịch. Nguyễn Huệ chỉ chỉ huy một số khinh binh tương đối nhỏ và nhẹ từ Phú Xuân. Binh lính thời đó phần lớn thuộc dạng dân quân, thời bình sống lẫn với gia đình, làng xã của mình, chỉ điều động khi hữu sự (tương tự như những công trình thuỷ lợi hay công tác cộng đồng trong các chế độ toàn trị, lương thực và trang bị đều do dân chúng tự túc), là phương pháp quản trị just-in-time trong quân sự, cấp chỉ huy định mục tiêu và thời hạn rồi để cho cấp dưới tự lo liệu thi hành. Chúng ta có thể hình dung trục lộ tiến quân của vua Quang Trung như một đội chèo thuyền mà tất cả đều hành động nhịp nhàng cùng một lượt, một con sông được nhiều nguồn chảy tới để biến thành một cơn lũ mỗi lúc một dâng cao. Cũng tương tự, lời khẳng định sẽ vào thành Thăng Long trong ngày đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu - nếu quả thực có - cũng là một nhu cầu bắt buộc, là phương thức tìm sự sống trong cái chết, không cách nào khác hơn. Nói theo ngôn ngữ mới, vua Quang Trung phải sử dụng chiến thuật bôn tập từ Nghệ An ra Bắc chính vì Nam quân không có một hệ thống đài trạm để cung ứng quân lương như quân Thanh nên mỗi người phải tự mang theo thực phẩm cho chính mình -theo tính toán cơ bản về tiếp liệu thì một cá nhân chỉ có thể mang được từ 5 đến 10 ngày lương là tối đa. Từ Ninh Bình về Thăng Long, trong khả năng cơ hữu, vua Quang Trung thấy rằng ngày mồng 7 tháng Giêng là hạn định cuối cùng, phải đạt được bằng bất cứ giá nào chứ chẳng phải do ai cố vấn, cũng không mang tính dự ngôn, tiên tri như người ta thường chép. Viết về cuộc chiến Việt - Thanh chúng tôi muốn tìm giải thích cho một nghi vấn lịch sử, so sánh ưu, khuyết điểm của một đội quân chính qui với đầy đủ nghi thức và một đội quân còn mang tính tự phát, được tập trung rất nhanh theo nhiệm vụ và nhu cầu rồi sau đó lại tan biến vào đời sống bình thường, không lương, không bổng, không tử tuất. Hình thức đó là một truyền thống lâu đời của vùng Đông Nam Á, tuy đạt được một số thắng lợi nhất định nhưng cũng đưa tới những mất quân bình thời hậu chiến, khi chuyển từ đấu tranh giành quyền lực sang công tác khôi phục kinh tế và ổn định xã hội. TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT Khi ra Bắc trừ Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ đã không dấu diếm tham vọng lên làm vua thay nhà Lê. Dự tính đó một phần vì ông cảm thấy mình đã đủ lông đủ cánh không muốn ở dưới quyền Nguyễn Nhạc sau khi hai anh em đã có những xung đột trầm trọng không thể hàn gắn được. Nguyễn Nhạc là vua Thái Đức thì ông cũng phải có một danh vị tương đương. Nguyễn Huệ nay làm chủ cả xứ Bắc Hà vào đến Quảng Nam, so với lãnh thổ của anh ông còn to lớn hơn nhiều và việc xưng đế cũng không có gì trái đạo. Giữa ông và nhà Lê chẳng có ràng buộc nào ngoài tình nghĩa với một người vợ lẽ là một nàng công chúa. Một số quan lại nhà Lê ủng hộ chủ trương này, điển hình là Ngô Thì Nhậm và vài đồng liêu, mặc dù phần đông chống đối ngấm ngầm hay công khai vì chính sách cai trị hà khắc của quân Tây Sơn và lòng đố kỵ không muốn những người từ Nam Hà ra làm chủ đất nước. Theo tài liệu của các giáo sĩ tại miền Bắc lúc đó, Nguyễn Huệ khi ra Bắc lần thứ hai đã công khai đưa ra một đạo dụ hỏi ý kiến toàn thể dân chúng Bắc Hà (không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị) xem họ thích sống dưới chế độ nào: bị một ông hoàng huyết thống nhà Lê cai trị (ông giả vờ không nhắc đến tên Chiêu Thống) hay khẩn cầu ông ở lại điều khiển quốc gia để được hưởng một sự thái bình hoàn toàn và vĩnh cửu, dưới sự bảo hộ giúp đỡ của ông. Tổng hợp nhiều tài liệu khác nhau, kể cả thư từ giao thiệp với Nguyễn Thiếp và các bài biểu suy tôn của quan lại nhà Lê (do Ngô Thì Nhậm soạn), chúng ta có thể xác định được rằng Nguyễn Huệ không dấu diếm tham vọng nên đã chuẩn bị để thiên đô vào Nghệ An vì nơi đây ở vị trí thuận tiện hơn cả để liên lạc với toàn thể khu vực ông đang kiểm soát, nhất là có một cửa ngõ thông qua Thượng Lào và một cửa biển để buôn bán với các quốc gia khác. TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN Điều đáng tiếc là triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, phần lớn các tài liệu chép về giai đoạn này không còn nữa, hoặc chỉ còn những mảnh vụn rời rạc khiến cho nhiều câu hỏi không có trả lời. Để hình dung được cuộc chiến Việt - Thanh đầu năm Kỷ Dậu, chúng ta không thể không xét qua tình hình bạn, ít nhất cũng trên một mô hình tổng quát về tổ chức hành chánh và quân sự, lực lượng và tiềm năng, phương hướng chung của thời đại và trình độ phát triển về kỹ thuật quân sự để có một lượng giá giữa hai bên ngõ hầu hiểu được thắng lợi của quân Nam mà không rơi vào những nhận định chủ quan. Chúng ta cũng không thể bỏ qua những bước căn bản mà Nguyễn Huệ dự tính, trong đó hai đề mục lớn cần đào sâu là chính sách thu dụng thành phần thương nhân mặt biển để kiểm soát trục lộ hàng hải đi từ eo biển Malacca lên đến Nam Trung Hoa và nhu cầu bành trướng sang phía Tây để thực hiện mục tiêu hàng phục Tiêm La mở rộng lãnh thổ, vừa tiêu diệt Nguyễn Ánh để trừ nốt mầm hoạ trong gan ruột vừa tiếp thu luôn vương quốc nhỏ bé và yếu đuối của ông anh cả ở Qui Nhơn. Chúng ta sẽ đào sâu hơn về hai kế hoạch này trong một dịp khác. LÃNH THỔ Vương quốc mà Nguyễn Huệ thành lập (hay có ảnh hưởng) bao gồm những khu vực nào? Ở thế kỷ 18, việc phân định ranh giới quốc gia còn rất mờ mịt, chúng ta chỉ có thể tìm được đại khái địa bàn của ông gồm cả lãnh thổ hành chánh và khu vực ảnh hưởng là những nơi khi cần ông có thể trưng dụng tài nguyên hay nhân lực. Quan niệm rạch ròi về lãnh thổ mà chúng ta hiểu ngày hôm nay chắc chắn không thể áp dụng vào thời kỳ này. Trước đây khu vực phía tây lãnh thổ Bắc Hà vẫn bị coi như một vùng xa xôi ít liên quan đến nước ta, có lẽ vì sự khác biệt về văn hoá và chủng tộc. Tuy nhiên, khi được chia phần đất từ Phú Xuân trở ra - nhất là khi làm chủ cả Nghệ An là phần đất nhà Lê nhường cho ông khi có công ra bắc dẹp họ Trịnh - Nguyễn Huệ đã thấy tầm quan trọng của những vương quốc phụ cận suốt một dải đất rộng từ bắc chí nam, về kinh tế cũng như về quân sự. Theo các tài liệu khám phá được ở châu Qui Hợp, tỉnh Nghệ An năm 1974 trong từ đường quận công Tran Phuc Hoan thì ngay từ tháng 9 năm 1787 (tháng 8 năm Đinh Mùi, Thái Đức thứ 10) tức là ngay những ngày đầu khi đất Nghệ An mới thuộc quyền kiểm soát của Nguyễn Huệ, quan trấn nhậm huyện Hương Sơn đã ra lệnh cho châu Quy Hợp phải nới lỏng giao thương và bãi bỏ thuế đánh vào nhà buôn hay lúa gạo thường qua lại vùng này. Trước đây, triều Lê Trịnh, các thông lộ qua Ai Lao đều bị kiểm soát chặt chẽ nên việc thương mại với các lân bang hầu như không có gì cả, ngoài việc thu thuế một số sản vật trao đổi giữa các dân tộc thiểu số. Cũng theo tài liệu này, Nguyễn Huệ đã thực hiện được một cải cách quan trọng mà trước nay chưa từng có, đó là biến khu vực này thành một vùng tự do giao thương để phát triển trao đổi song phương giữa nước ta có ưu thế trực tiếp với biển cả còn Ai Lao là đầu mối của mạng lưới buôn bán với khắp các khu vực nội địa lên đến tận Bắc Ấn Độ và Nam Trung Hoa. Kiểm soát được hệ thống buôn bán này, ông đã mở ra một đầu cầu mới thay thế cho con đường trước đây thương nhân vẫn sử dụng dọc theo khu vực Trường Sơn và đường thuỷ lộ xuống Cao Miên để từ đó thông ra biển. Điều này cũng nói lên phần nào sự tương đồng, tương hợp của lực lượng Tây Sơn với các sắc dân sinh sống tại Ai Lao, Bắc Thái và giải thích được một số tập quán tuy quen thuộc với các dân tộc nằm sâu trong nội địa nhưng lại xa lạ với người Kinh. Việc mở rộng giao lưu đó đã khiến cho những tiểu quốc phía tây đều có ý ngả theo vua Quang Trung và mấy năm sau đã viết thư nhờ Đại Việt giúp họ thoát khỏi sự áp bức của Xiêm La mà lâu nay họ phải triều cống. Chính đây là một điểm mấu chốt để Nguyễn Huệ có thể chuyển quân ra miền Bắc mà không cần phải đi theo những trục lộ mà chúa Trịnh hay chúa Nguyễn hằng quen thuộc. Vì kiểm soát một khu vực tương đối rộng lớn (suốt từ miền Bắc vào đến Quảng Nam và có lẽ toàn bộ khu vực Thượng và Trung Lào ngày nay) Nguyễn Huệ có nhu cầu thiết lập nhiều trung tâm hành chánh khác nhau để tiện việc cai trị và điều động. Ông chọn hai vị trí chiến lược tương đối quan trọng với những đặc điểm nổi bật về giao thương là Nghệ An và Phú Xuân để xây dựng cơ sở . Riêng Nghệ An, ông coi nơi đây là Trung Đô và cũng là địa điểm lui về một khi bị tấn công từ hai đầu. Chúng ta cũng không thể bỏ qua giả thuyết ông muốn lên ngôi ngay tại kinh đô mới nên đã gấp rút hối thúc Nguyễn Thiếp đi coi đất xây cung điện và chuyển nhiều nhân công, vật liệu từ Bắc Hà vào Thanh Nghệ. TÀI CHÁNH Không rõ các thừa sai ngoại quốc tường thuật về chính sách tận thu tài sản và lương thực Bắc Hà chính xác đến mực nào nhưng chủ trương tất cả cho chiến tranh của Nguyễn Huệ là điều cần thiết để nếu không sử dụng được thì cũng không để cho đối phương khai thác. Ngay lần đầu ra Bắc, Nguyễn Huệ đã thu góp được rất nhiều của cải của chúa Trịnh đem về Nam, không chia lại cho Nguyễn Nhạc nên xảy ra xung đột, đưa đến cuộc chiến mà người ta gọi là nồi da xáo thịt. Khi ra Bắc lần thứ hai, quan lại nhà Lê chỉ có một số ít ủng hộ ông, đa số không tán thành những bài biểu suy tôn của Ngô Thì Nhậm và lãnh đạm đối với cuộc trưng cầu ý kiến một cách lộ liễu, ông đành tiến hành một kế hoạch khá cực đoan, vừa do chiến lược đấu tranh, vừa muốn đập tan nhuệ khí của xứ Bắc Hà, nhân cơ hội tận thu tiền bạc thành phần có máu mặt, vét cho đến người lính cuối cùng và đưa hết vật liệu, thợ thuyền vào xây tân đô: Ông lợi dụng một vị quan Trung Hoa (?) tên là Thiểm Bảy, con rể vua Cảnh Hưng như ông tức là anh (hay em) cột chèo bằng cách bảo vị này kê khai những tên đại thương gia giầu có và những tư nhân có nhiều tiền để ông xua lính vào cướp. Cuối cùng ông kiếm chuyện với tên đồng loã ti tiện này (tức vị quan Tàu). Ông cho tra tấn thật dã man tên đó cùng với vợ hắn để ép chúng làm tờ kê khai đích xác của cải của chúng. Ông đã thành công trong việc chiếm đoạt tài sản kếch xù của chúng ... Những kế hoạch kinh tài được thực hiện gấp rút chắc hẳn do nhiều nguyên nhân, vì tình hình nhiều mặt sôi động phải đối phó cũng có mà vì nhu cầu cũng có. Người ta còn cho rằng ông phẫn nộ vì một số tướng lãnh không thành công trong việc đánh dẹp tàn quân nhà Lê ở miền thượng du nên khắt khe cả với gia đình bên vợ, tức Ngọc Hân công chúa: ...bà goá phụ Cảnh Hưng, mẹ vợ ông có lần xin ông tha cho các vị quan Bắc Kỳ, đặc biệt là cho Đốc Chiên. Người ta đồn rằng bà có cho Đốc Chiên 100 thoi (hay đỉnh) vàng để ông ta dùng vào việc mua chuộc các quan lại, bảo tồn cái đầu ông. Nhưng vì sợ hãi trước sự phẫn nộ của con rể, bà đã bỏ trốn. Bắc vương lập tức cho tịch thu đồ đạc và tài sản của bà công chúa Bắc Kỳ (tức là bà Hân) vợ ông bị đánh hai mươi roi theo lệnh ông. Hình như bà này đã oán trách chồng bà vì sự ngược đãi đối với mẹ bà. Khi mẹ vợ ông bị điệu về triều đình, ông đã trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiên. Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiên để chạy tội phải vào tay ông. Ông còn cho lấy cung của Đốc Chiên, vị tướng đáng thương này đã bị đóng gông gần một tháng nay. Rồi ông cho đánh vị tướng này bốn mươi trượng vì tội từ chối, không chịu khai chỗ vua Chiêu Thống ẩn trốn. Cuối cùng ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày một tháng Sáu. Chúng ta cũng hiểu rằng việc tích luỹ tài sản chính vì nhu cầu quân sự, bao gồm cả chi phí về tân trang vũ khí (phải mua những súng ống, đạn dược mới mẻ hơn của Tây Phương) và lương thực cho quân đội, một vấn đề sinh tử vì ông đã bị cắt đứt con đường từ Bắc và Nam nên chỉ có thể dùng thuyền để mua hoặc cướp gạo từ xứ Đồng Nai. Chỉ khổ cho dân miền Bắc khi Nguyễn Huệ bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế được trả làm hai kỳ trước kia, các thứ thuế gạo tháng Ba và tháng Mười, tất cả các thứ thuế khác mà chưa được trả đầy đủ; không ai được than phiền hay bầy tỏ ý kiến về việc đó. Các xã trưởng và phú hộ (hào mục) nào không tuân lệnh ngay sẽ bị đánh một trăm trượng hoặc sẽ bị xử tử tuỳ theo họ phạm trọng tội hay khinh tội. Chiến thuật mà nhiều người vẫn ca tụng là thần tốc cũng là một phương thức để giảm bớt số lượng binh sĩ thường trực phải nuôi ăn càng sớm càng tốt. Chúng ta cũng không lấy làm lạ sau chiến thắng tại Thăng Long, Nguyễn Huệ đã giải ngũ tại chỗ rất đông binh sĩ (phần lớn là tân quân mới tòng chinh ở Thanh Nghệ và trên đường ra Bắc). Một số đông dân chúng từ Thanh Hoá, Nghệ An theo ra không còn đường trở về nên đã lập nghiệp tại các vùng đất tân bồi ở duyên hải. XÂY DỰNG TÂN ĐÔ Việc Nguyễn Huệ chọn Nghệ An làm kinh đô có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, không những thuận tiện cho việc rút lui và chống giữ mà còn chuẩn bị cả những kế hoạch bành trướng sức mạnh ra toàn thể khu vực. Một khi Thăng Long từ một thủ phủ chính trị, văn hoá, kinh tế, quân sự ... hạ xuống hàng cố đô, vai trò của kinh thành gần như mất hẳn. Việc thiên đô đó chắc chắn ảnh hưởng rất mạnh đến tâm tình giới sĩ phu Bắc Hà nên trong giai đoạn này lòng hoài vọng tiền triều trở thành phổ biến mặc dù trong hơn 200 qua, vua Lê chỉ là hư vị và miền Bắc cũng không tạo được thành quả nào nổi bật. Tâm tình hoài vọng đó được lập lại trong lịch lịch sử mỗi khi thay đổi một triều đại ảnh hưởng không ít tới tình hình chính trị kéo dài mãi về sau. Theo các giáo sĩ thì: ... Trong khi chờ đợi (dân chúng bắt Lê Duy Kỳ nạp cho ông), vì Bắc vương sắp phải lên đường vào Nam, ông nhất định cho phá huỷ thủ đô Bắc Kỳ, gọi là Kẻ Chợ, Kinh Đô hay Kinh Ki (Kỳ) và xây lại tại xứ Nghệ An một hoàng thành mới gần quốc gia nhỏ bé của ông (Phú Xuân) và gần Nam Kỳ Thượng, ở khoảng giữa hai vương quốc. Ông liền cấp tốc cho thực hiện kế hoạch này. Trước hết, ông cho phá tất cả các biệt thự của các Chúa cũ và của những người chuyên chế biện sự nhà Trịnh ở trong hoàng thành và cho chất lên thuyền những vật liệu, đồ đạc quí nhất và tài sản cùng với một số lớn gạo thu nhặt được để mang tới chỗ được qui định là nơi xây cất thành phố tương lai gọi là Phủ Thạnh (Thanh?) hay Thành Rum (?). Ông cũng không bỏ sót các dinh vua Chiêu Thống và cung điện các vua nhà Lê (ông phá cho tan hết). Ông cho lấy đi tất cả những thứ ông thích, ngay cả đá lát nữa (theo lời đồn) ... Ngoài tài vật, Nguyễn Huệ cũng tận dụng nhân lực của Bắc Hà để xây dựng kinh đô mới. Các giáo sĩ cho biết ông tuyển chọn rất nhiều thợ và nghệ sĩ đủ loại để mang theo dùng vào việc xây cất tân đô và mỗi phường thợ của miền Bắc phải cung cấp ít nhất là mười lăm người. Điều này cho ta thấy Nguyễn Huệ đã tiến hành kế hoạch vườn không nhà trống ngay từ trước khi địch đến nhưng cũng có thể nhằm triệt tiêu mọi mầm mống chống đối của miền Bắc. Việc đó cũng phần nào giải thích tại sao một vương quốc tương đối qui mô và có một lịch sử lâu đời như Bắc Hà lại gần như thụ động đối với những biến chuyển, không thấy một phản ứng nào có thể coi là đáng kể. Nguyễn Huệ chỉ thay đổi thái độ sau khi thâu tóm quyền lực lên làm hoàng đế một cách danh chính ngôn thuận và miền Bắc bây giờ trở thành một hậu cần quan trọng cho chính quyền. Vô hình chung đất Thanh Nghệ trở thành một địa điểm dưỡng quân và tập kết khi cần thiết, mặc nhiên coi như thủ đô quân sự và chính trị của vương quốc mặc dầu ông và bộ tham mưu vẫn còn đóng ở Phú Xuân vì tình hình chưa hoàn toàn yên ổn và Nguyễn Nhạc cũng có thể phản công để chiếm lại Quảng Nam khi có cơ hội. Theo thư của linh mục người Bắc Thomas Dien đề ngày 18/12/1788 thì vào cuối tháng Ba (năm 1788) khi Bắc vương (Nguyễn Huệ) đã thắng hai, ba trận quân đội của Tiếm vương Nhạc được cử tới đánh ông để trả thù việc ông làm cho anh ông mất thể diện năm 1787 đủ biết xung đột của hai anh em vẫn tồn tại ngay cả sau khi giảng hoà trong trận Qui Nhơn và Nguyễn Huệ vẫn phải đề phòng không phải chỉ Nguyễn Ánh mà cả Nguyễn Nhạc ở mặt nam. gò đống đaBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ Quân Tây Sơn mà Nguyễn Huệ chỉ huy có một số đặc tính đã ảnh hưởng đến chiến thuật, chiến lược của ông mà chúng ta cần nghiên cứu: Quân Tây Sơn sử dụng trong trận chiến Việt Thanh bao gồm nhiều thành phần: Thân binh Thuận Quảng là quân đội ông mang từ miền Nam đi ra Binh sĩ ra từ trước dưới quyền chỉ huy của Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân ... Tân quân dân chúng bị cưỡng bách tòng chinh tại các làng mạc ông đi qua hay do các tướng lãnh đã tuyển mộ Các lực lượng phụ thuộc vào ông bao gồm các toán quân người thiểu số ở phía tây và các toán dân chài, du thương, hải phỉ ... ở biển đông Chính vì gia nhập hàng ngũ vào nhiều thời điểm khác nhau, tại nhiều địa phương nên tổ chức và trang bị cũng thay đổi không đồng nhất. Tuy nhiên để bảo đảm sự có mặt của họ và vận dụng tối đa lực lượng trong chiến đấu, tướng lãnh Tây Sơn đã áp dụng một số biện pháp nghiêm nhặt: Kỷ luật thép trong phương thức tuyển mộ và trừng phạt Lương thực tối thiểu, do cá nhân tự mang theo hay do từng tổ nhỏ đảm trách để có thể di hành nhanh mà lại không thể bỏ trốn, lệ thuộc hoàn toàn vào đoàn thể, không tồn tại được nếu sống riêng rẽ Đi theo đường núi để giới hạn tối đa tiếp xúc với quần chúng vừa bảo toàn bí mật vừa không tạo những xáo trộn một khi binh đội đi ngang qua Chia thành nhiều toán nhỏ riêng rẽ chỉ tập trung ở những điểm nhất định Không đóng quân tại đâu một thời gian dài để khỏi tạo ra những nhu cầu thực tế như buôn bán, liên hệ trai gái, trộm cắp và tiết lộ tin tức quân sự Để bù lại số binh sĩ tổn thất trong chiến tranh, nhất là một số đông đi theo Nguyễn Nhạc nên Nguyễn Huệ đã tiến hành một chính sách cưỡng bách tòng quân đến mức tối đa và đây cũng là một trong những lý do miền Bắc lâm vào cảnh đói kém liên tiếp trong nhiều năm. Những giáo sĩ có mặt tại miền Bắc đã ghi nhận là chừng một tháng nay (cuối năm 1787), một vị tướng của Tân Attila (tức Nguyễn Huệ) tên là Vach Quich (?) đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính và bắt dân chúng cung cấp một số gạo khá lớn. Với những hành động tối dã man, tên ác quỉ đó thường hay xẻo tai, lột da mặt từ trán cho tới miệng, đánh nhừ tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những người đại diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay. Nhu cầu chiến tranh khiến cho Nguyễn Huệ không còn nhiều chọn lựa và mục đích của việc tuyển mộ dân quân Bắc Kinh là để thay thế các lính cũ của bạo quân Phú Xuân (Nguyễn Huệ) ... vì đội ngũ đã bỏ rơi ông để theo Nhạc, trong hoặc sau thời kỳ chiến tranh giữa ông (Nguyễn Huệ) và tiếm vương (Nguyễn Nhạc) (khiến) ông bị lâm vào tình trạng phải thu nhập trên lãnh thổ nhỏ bé của ông những thành phần thuộc giai cấp hạ lưu, những tay anh chị lưu manh, nông dân và cấp cho họ khí giới. Việc tổ chức quân đội cũng được thay đổi nhiều lần, ít nhất cũng từ một đội quân tự phát biến thành một phần bộ của cơ cấu hành chánh. Việc Nguyễn Huệ muốn tách ra thành một vương quốc riêng cho thấy ông đã phải giải quyết những vấn đề của quân sĩ mà trước đây dường như ông không quan tâm lắm. Tiến bộ đó phần nào có thể ông học hỏi được từ chính những người mà ông đã đánh bại như triều đình chúa Nguyễn ở phương nam, chúa Trịnh và cơ cấu quân chủ ở phương bắc. Tiếc rằng chúng tôi không có được bản chính bằng Hán Văn của tờ chiếu gửi cho Ngô Văn Sở và quan binh Bắc Hà nhưng xuyên qua bản dịch từ tiếng Pháp (do các giáo sĩ ghi nhận) của tác giả Đặng Phương Nghi chúng ta cũng có thể phần nào nắm được tinh thần đó: Bởi sắc lệnh này ta cho các tướng Đại Tư Mã, Đại Đốc (tức Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân) và các sĩ quan khác biết rằng từ trước tới nay các vua chúa đều lấy luật pháp để cai trị thần dân và duy trì hoà bình, nên ta cũng noi gương các vị tiền bối mà đánh dấu ngày khởi đầu triều đại ta bằng cách soạn ra một bộ luật để dân chúng sống trên đất đai ta nghiêm nhặt tuân theo. Vì thế ta đã giao cho các quan tư pháp và tham chính viện nhiệm vụ hoàn tất các tác phẩm đó trong một, hai tháng. Trong khi chờ đợi ta ban bố vài pháp quy yêu cầu mọi người và mỗi các ngươi đứng đắn thi hành. Nội dung điều lệ đó như sau: Nếu một sĩ quan hay binh lính nào phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ sẽ bị kết án tử hình. Song le trong thời chiến tranh, mỗi lần một vị chỉ huy sai bộ hạ mình đi đánh địch, bộ hạ đó phải tuyệt đối tuân theo, người nào tử trận một cách can đảm sẽ được vẻ vang. Trái lại ai vì sợ chết mà bỏ trốn sẽ bị sỉ nhục. Bởi vậy ta cho phép xử tử tức thì những kẻ trốn bổn phận cũng như những kẻ cho địch có thì giờ dưỡng sức lại và tấn công vì hèn nhát hay vì chậm chạp; sau rồi các tướng lãnh phải báo cáo hành động của họ trong trường hợp đó. Khi chiến tranh chấm dứt và khi quân đội trở về kinh đô và được trả lại cho chính quyền, không một quan chỉ huy nào được tự tiện xử tử một người ngang quyền hay ngang chức và ai mà vi phạm luật này sẽ không có hi vọng được khoan hồng. Mỗi lần xảy ra chuyện gì liên quan đến quốc gia hay công ích, mọi người đều phải lưu ý ngay đến việc đó kẻo một sự chậm trễ nhỏ nhặt cũng có thể gây trở ngại cho công việc. Thời bình, sự mau lẹ đó cũng cần thiết rồi, huống chi tại Bắc Kỳ nơi cuộc chiến càng ngày càng ác liệt, một cuộc chiến mà các ông phải coi như việc trọng yếu bởi vì mỗi giây phút có thể mang lại nhiều thay đổi bất ngờ liên tiếp theo nhau như gió, chớp hay như hơi và những biến chuyển đó lúc thì thuận, lúc thì nghịch thành thử không thể căn cứ trên cái gì chắc chắn được. Bởi vậy mỗi khi nhu cầu quốc gia hay tình hình chiến tranh bắt phải họp để thảo luận về những việc phải làm và mỗi khi ngày giờ họp được ấn định, các quan văn võ sẽ phải họp ngay lập tức vào ngày giờ đó để bàn bạc và quyết định với nhau. Nếu bất đồ có người vì sơ xuất mà quên tới nơi họp đúng giờ, ta cho phép Tư Mã và Đại Đô Đốc phạt họ tuỳ theo lỗi nặng hay nhẹ. Nếu mỗi khi thuộc hạ quan chỉ huy chi đội hay thuộc hạ của ông đi đuổi bắt kẻ gian, đáng lẽ bảo vệ và che chở dân vô tội và hiền lành họ lại cưỡng đoạt của cải của dân chúng đáng thương sẽ đau khổ và thất vọng, vì họ phải chịu nhiều tai vạ hơn dưới thời ác quỉ Nhậm hay Tiết chế. Họ cư xử như vậy thì làm sao dân chúng yên lành được? Và làm sao gọi hành động đó là giải phóng dân chúng khỏi áp bức và làm sao phạt thủ phạm cho được? Vậy ta ra lệnh cho các sĩ quan phải công bố trong trung đội hay binh đoàn mình điều nghiêm cấm, không được lấy bất cứ vật gì của dân dù là một ngọn cỏ, như ta không ngớt tuyên cáo trước đây. Các sĩ quan sẽ chắc chắn làm vừa lòng ta và đúng theo tình ý ta nếu hết sức thi hành điều nghiêm cấm đó. Ai cư xử như vậy có thể tin rằng sau khi chia sẻ cùng ta những nỗi khổ nhọc và những mối hiểm nghèo của thời chiến này, họ cũng sẽ chia sẻ thanh danh và hưởng thú vui thời bình cùng ta. Vả lại nữa, không ai có quyền dựa vào sự vắng mặt hay sự xa cách của ta để phiền nhiễu cướp bóc dân chúng và uy hiếp đàn bà con gái. Chỉ khi nào ngưng và dẹp được những bạo hành đó, họ mới có thể tự phụ giữ nổi chức vụ và bảo đảm an ninh cho cá nhân và gia đình họ, bằng không, đừng mong gì ta dung thứ họ. Đó là những điều ta muốn các ngươi phải biết. Ngày 3 tháng Mười [âm lịch] năm Thái Đức (Tiếm vương Nhạc) thứ 11. BỘ BINH Theo những bức thư của các giáo sĩ đạo Thiên Chúa đã chứng kiến thì những đội quân của Nguyễn Huệ được tuyển mộ rất gấp rút. Hồi năm trước, Giáo sĩ Le Roy đã tả đạo quân Quang Trung bao gồm cả người già lão, trẻ con trông giống một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh. Một lá thư khác của giáo sĩ Longer (13-5-1787) thì viết là Người bạn đồng sự trẻ của chúng tôi bắt buộc phải chạy bởi vì người ta bắt tất cả mọi người phải đi đánh nhau từ 15 tuổi trở lên. Những người già, đàn bà góa, và con gái cũng bắt đi sửa cầu, đường sá . Không những thế ngay cả sư sãi cũng phải tòng quân và việc kiểm tra nhân số cũng rất nghiêm nhặt. Theo thư của La Bartette gửi cho Blandin ngày 25 tháng 6 năm 1786 thì: Họ đã phá hủy tất cả những giáo đường đẹp nhất ở đây, họ cũng phá hủy tất cả chùa chiền và bắt tất cả những nhà sư cầm vũ khí để ra trận. Do đó dẫu Nguyễn Huệ có thể tập trung được một số lượng binh sĩ đông đảo trong một thời gian ngắn ngủi nhưng hiển nhiên chỉ là một đoàn quân ô hợp. Vả lại việc tận dụng nhân lực như thế chắc chắn không thể biến họ thành một đoàn quân thiện chiến vì nhân số không chưa đủ mà đoàn quân còn nhiều vấn đề khác như huấn luyện, trang bị, y phục, thực phẩm, thuốc men ... nếu chỉ trông cậy vào dân chúng địa phương thì không thể nào cung ứng nổi. Ngoài ra trong nhiều năm chinh chiến liên miên, bao nhiêu trai tráng đã bị hết bên này đến bên kia bắt đi lính cả rồi, thành phần còn sót lại chắc chẳng được bao nhiêu. Mặc dù việc tận dụng nhân lực đưa vào quân ngũ vốn là thói thường của Nam Hà, chúng ta có thể ngờ rằng những dữ kiện mà nhiều người nhìn thấy - kể cả các tài liệu chép trong chính sử nước ta - chưa hẳn đã là sự thực hoặc nếu đúng như thế thì chỉ là hình ảnh mà Nguyễn Huệ muốn mọi người nhìn thấy chứ thực lực của ông không phải như vậy. Đó là một hình thức nghi binh để ông có thể mở một cuộc tấn công bất ngờ bằng những lực lượng tinh nhuệ theo đường rừng và đường biển mà địch không hay biết. Những toán quân xung hãm này phần lớn là thân binh của Nguyễn Huệ, gồm người Thượng và người Hoa, đánh cảm tử, lớp này chết, lớp khác xông lên. Nguyễn Huệ luôn luôn có lối đánh biển người như thế ở khắp mọi mặt trận, kể cả khi đem quân tấn công Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn. Chính vì thế ông thường bắt tất cả già trẻ lớn bé ra trận, có khi cả thành phần vị cập cách nghĩa là trẻ con. Với quan điểm phải giành chiến thắng bằng bất cứ giá nào, Nguyễn Huệ không ngần ngại đốt phá, tàn sát nếu gặp chống cự, để tiêu diệt cũng có mà thị uy cũng có. Nắm vững quan điểm kỷ luật là sức mạnh của quân đội, ông hết sức gắt gao trong việc điều quân và nổi tiếng là nghiêm minh. THƯỢNG BINH Khu vực Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18 không phải là những quốc gia có lãnh thổ hành chánh rõ rệt được qui định theo công pháp mà là những khu vực ảnh hưởng của từng dòng họ, khi mạnh thì bành trướng, khi yếu thì co cụm. Nằm giữa những khu vực đồng bằng dọc theo duyên hải nước ta và Xiêm La là một khu vực rừng núi rộng lớn, trong đó những dân tộc cao nguyên sống rải rác, du canh. Bên cạnh sinh hoạt của từng bộ lạc, khu vực này còn có một hệ thống sơn lộ chằng chịt mà chỉ dân bản xứ mới am tường. Nhiều đoàn thương nhân (caravan) đã sử dụng hệ thống giao thông này để đi buôn tới tận Miến Điện, Xiêm La và Nam Trung Hoa khiến cho sản phẩm từ vùng này có thể đem tới vùng khác. Những thương nhân đó rất đa dạng bao gồm người Trung Hoa, người Thái, người Shan (?), người Bhamo (ở Miến Điện). Mạng lưới buôn bán này quả là phức tạp hơn chúng ta tưởng. Chính anh em Nguyễn Nhạc cũng là những đầu nậu trong những đoàn buôn này, thông thạo đường sá, phong tục của vùng Tây nguyên và sử dụng nhiều kinh nghiệm bản thân vào những trận đánh về sau. Những toán thương nhân đó cũng quen thuộc với những loại bùa chú, thuốc men, chất kích thích mà dân tộc thiểu số thường dùng để chữa bệnh. Sử sách chép không đầy đủ nhưng nhà Tây Sơn chắc chắn sử dụng một lực lượng lớn những đồng bào thiểu số, không phải chỉ trong vùng Qui Nhơn mà gần như toàn cõi Tây Nguyên, kể cả Nam Lào và bắc Campuchia ngày nay . Căn cứ khởi nghĩa của họ nằm ở An Khê, thời đó gọi là đèo Mang (có nghĩa là cổng theo tiếng Bahnar). Vùng đất ở phía đông đèo Mang gọi là Tây Sơn hạ đạo, còn vùng phía tây trở lên chen lẫn rừng rậm núi cao gọi là Tây Sơn thượng đạo, một khu vực rộng đến hơn 1500 km2 và trở thành một căn cứ an toàn cho lực lượng ban đầu từ 1771 đến 1773. Khi làm chủ luôn cả miền Bắc, ảnh hưởng của Nguyễn Huệ bao trùm luôn cả vùng Thượng Lào và đã nhiều lần đem quân tiêu diệt các dư đảng của nhà Lê tại nơi đây. Con đường mòn này không chỉ là một trục lộ giao thông mà đối với anh em Tây Sơn, cả một khu vực phía Tây là một địa bàn chiến lược với những sắc dân người Thượng và hàng trăm, hàng ngàn con voi, lưu động tới những khu vực cần thiết. Cũng chính trục lộ này Chế Bồng Nga đã nhiều lần đem quân sang bên Lào vòng xuống Quảng Oai đánh úp Thăng Long. TƯỢNG BINH Một trong những binh đội quan trọng nhất của nhà Tây Sơn nói riêng và của Đàng Trong nói chung là tượng binh. Miền nam có nhiều voi nhưng người Việt không biết cách huấn luyện nên các vua chúa thường phải mua của lân bang hay đòi các thuộc quốc tiến cống. Giáo sĩ Cristophoro Borri đã viết như sau: Có rất nhiều voi trong xứ Đàng Trong, nhưng họ không dùng được vì chưa biết cách bắt và huấn luyện. Vì thế phải đưa những con đã thuần thục và biết khuôn phép từ Campuchia là một nước láng diềng. Voi ở đây lớn gấp hai voi ở Ấn độ. Chân và vết chân nó để lại đo chừng một piê rưỡi đường kính. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà voi thì thường dài tới mười bốn piê, đó là voi đực. Còn voi cái thì ngắn hơn nhiều. Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở xứ Đàng Trong to lớn hơn những voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở Âu châu: ngà chưa được hai piê rưỡi. Vào thế kỷ 17, 18 khu vực rừng núi bao gồm miền bắc Campuchia, Nam Lào và miền trung nước ta còn nhiều loại voi lớn không như giống voi cỏ là loại voi nhỏ hiện nay ta thường thấy. Chính đó là những con voi được huấn luyện dùng trong tượng binh mà người ta miêu tả là mang cả đại bác. Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta nhấc mui (trên) bành đi để thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để mang nổi và là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi (tức giáo sĩ Borri) đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển ... Voi dùng trong chiến đấu cũng khác hẳn những con voi được thuần hoá để dùng trong các đoàn lưu diễn hay trong lễ lạc và cũng không giống như một gia súc mà nhiều dân tộc dùng trong công việc hàng ngày. Nhiều khi người ta chỉ cần so sánh đội tượng binh của một quốc gia cũng đủ đánh giá sức mạnh quân sự của nước ấy và đoàn voi trận thường được dùng như một cách phô trương trong các buổi tiếp sứ thần nước ngoài. Những con voi trận có khi còn được mặc giáp bằng da hay kim loại và theo Maurice Collis, một người chuyên môn huấn luyện voi, thì đây là những con vật được đào tạo để hung dữ theo lệnh lạc, sử dụng như một mũi xung kích trong chiến đấu và cũng là một sát thủ giết người bằng cách tung lên, dày đạp, xé nát (đối phương) một cách thích thú như trẻ con. Tôn Sĩ Nghị cũng biết tiếng voi trận của Nguyễn Huệ nên khi đưa ra 8 điều quân luật, y đã học theo phép đánh của người xưa để chống lại tượng binh: ... Điều thứ 4: Người Nam khi ra trận hay dùng voi. Voi không phải là món người Thanh quen thạo, hễ gặp voi thường cứ chạy đi trước. Nhưng nào có biết sức voi dẫu lớn, chung qui vẫn là con vật có huyết khí, không thể đương nổi với đồ dẫn hỏa của ta. Vậy hễ thấy voi ra trận nếu xa thì bắn bằng súng, nếu gần thì trị bằng dao và cung khiến voi bị thương, đau phải chạy quay lại, rồi tự giày đạp lẫn nhau. Quân ta (Thanh) thừa cơ ấy mà tấn công, tất thắng không còn phải ngờ nữa Thực ra quân Thanh cũng có khá nhiều kinh nghiệm với việc chống lại voi chiến vì vùng Vân Nam cũng có voi và trong lịch sử họ cũng đã có khi điều động tượng binh. Ngay từ thời trung cổ, quân Nguyên cũng đã hai lần đụng độ với voi của Đại Việt và của Pagan (Miến). Tuy lúc đầu quân Mông Cổ có hoảng hốt nhưng khi họ rút vào rừng thì cung liên hợp (composite bow) của họ lợi thế hơn nên voi bị thương quay ngược lại. Quân Nguyên dùng tên lửa và vũ khí nhọn đánh bại đoàn voi của nhà Trần năm 1257 rồi sau đó quân Minh cũng đã đánh thắng 15 vạn quân Maw Shan và 100 con voi bằng súng và hoả tiễn. Trong cuộc chiến tranh với Miến Điện trước khi sang nước ta không lâu, quân Thanh đã học tập khá nhiều và Tôn Sĩ Nghị cũng từng đi theo đoàn quân viễn chinh nên không xa lạ gì với voi chiến. Đối với binh sĩ chưa từng trông thấy con vật khổng lồ này, việc kinh hoàng là điều đương nhiên, nhất là nhiều khi người ta đồn đãi những điều quá sự thật. THUỶ BINH Khi người Việt còn định cư tại miền Bắc, kỹ thuật đi biển của ta chưa có gì khởi sắc mặc dù đã nói đến biển cả từ những truyền kỳ thời Hùng Vương. Hai trận đại thắng của Ngô Quyền và của Trần Quốc Tuấn đều xảy ra trên sông, nơi giáp giới với biển chứ không phải ở ngoài khơi. Mãi tới đời nhà Hồ, con trưởng của Hồ Quí Ly là Hồ Nguyên Trừng mới bắt đầu đóng những chiến thuyền loại lớn. Với thói quen sống biệt lập thành từng làng xã, sinh hoạt kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị của dân miền Bắc thu hẹp trong một không gian nhỏ. Mỗi làng là một đơn vị tự túc về mọi mặt mà không cần phải giao tiếp với khu vực khác. Trái lại các vương quốc ở Đàng Trong đã có những quá khứ rất oai hùng liên quan đến mặt biển, một phần vì truyền thống học hỏi của các nước ở vùng Đông Nam và Nam Á, phần khác vị trí địa lý là bao lơn trông ra đại dương, nơi qua lại của một hải lộ đã nổi danh là Con Đường Gia Vị (Spice Route) ngay từ thời thượng cổ. Về kỹ thuật, người Chiêm Thành đã biết dùng thuyền nhẹ dàn thành thế trận tấn công những tàu buôn từ lâu. Người Chăm có một đội hải thuyền hùng hậu và những thủy thủ can trường thường liều mạng xông xáo trên biển cả để buôn bán và chiến đấu. Kiểu mẫu tàu chiến của người Chăm có hình dáng tương tự như của thuyền vùng Nam Dương mà hiện nay chúng ta còn thấy dấu vết để lại nơi các thuyền trạm trổ mỹ thuật của người Thái Lan trong những cuộc đua thuyền. Theo những hình ảnh mà người Âu Châu vẽ lại về chiến thuyền của Đàng Trong, đó là một loại thuyền chèo tay, mũi ngẩng cao, trạm trổ và trang trí hoa văn kỳ dị, thân thon và dài đủ biết có thể lướt sóng với tốc độ cao. Để gia tăng sức chịu đựng khi đụng vào nhau, mũi thuyền dùng trong chiến đấu thường ghép thêm những thanh gỗ chéo vẫn còn thấy ở các thuyền nơi cửa sông vùng Quảng Đông. Những chiến thuyền đó không chở được nhiều nhưng hiệu quả khi tấn công bất ngờ những thương thuyền hay tàu lớn trong đêm tối, chiến thuật quen thuộc với người Chiêm Thành từ lâu mà Nguyễn Huệ thường sử dụng. Tuy không có những tài liệu nào miêu tả chính xác các kiểu thuyền của Tây Sơn, chúng ta có thể tin rằng chiến thuyền vào thế kỷ 18 ở Đàng Trong cũng tương tự, khác nhau họa chăng là số lượng, chiến thuật hay cách điều động mà thôi. Do ảnh hưởng của văn minh hải đảo Malaysian, thủy thủ vùng Đông Nam Á nói chung và thủy thủy người Chiêm Thành nói riêng có thể ra khỏi bờ bể hàng ngàn dặm chẳng cần hải bàn hay hải đồ, chỉ dựa theo màu sắc của những đám mây, màu nước biển và độ sóng, giương buồm nương theo sức gió và nhìn sao để lấy hướng. Chỉ cần tìm hiểu các loài chim biển và rong biển họ gặp, người Chăm có thể nhận biết những hòn đảo còn cách xa đến 30 dặm và kiến thức về biển cả được truyền miệng từ đời này sang đời khác theo kiểu cha truyền con nối. Phương thức và kỹ thuật đóng thuyền của họ cũng rất độc đáo và người Việt chúng ta đã kế thừa khá nhiều truyền thống của họ. Những con số chúng ta còn ghi nhận được cho thấy tốc độ đóng thuyền rất đáng kể cho thấy vào thời kỳ này miền Nam Việt Nam có những phát triển kỹ thuật mà nhiều điều đến nay vẫn chưa khám phá hết. Những thuyền đó khác hẳn những thuyền buôn hay tàu chiến của người Trung Hoa (junks), trông nặng nề, thô kệch, tuy trang bị nhiều đại pháo hơn nhưng thiếu linh động, khó xoay trở. Cũng như người Chiêm Thành, Nguyễn Huệ rất chú trọng đến chiến thuyền và cũng có hai loại: thuyền lớn để chở quân, lương thực, vật liệu và tàu nhỏ nhẹ và linh động đùng để bao vây, tấn công và xung kích. Đội chiến thuyền đó rất đông, ít ra cũng vài trăm, có khi lên hàng ngàn. Đó cũng là lý do tại sao thủy quân thời Tây Sơn có một vị trí đáng kể, phù hợp với những gì sử sách đã cho ta biết, Nguyễn Huệ luôn luôn dùng binh thần tốc, bất ngờ, áp đảo và tiến đánh cũng như rút lui rất nhanh. Trong nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có hoành hành nhưng cũng không trở thành một lực lượng đáng kể vì thiếu một căn cứ địa để trốn tránh khi bị săn đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ 18, Nguyễn Huệ đã nhìn ra được tiềm năng và vai trò của họ nên đã thu dụng và trở thành một vị thủ lãnh tập hợp được nhiều nhóm khác nhau, phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn hoạt động, chỉ đạo các chiến dịch và cho họ nơi trú ẩn. Robert J. Antony đã nhận ra rằng ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, cướp biển đã tập họp thành một vài nhóm, có đến hàng ngàn chiến thuyền, tổng cộng đến hơn 7 vạn người. Dian Murray cũng tường thuật khá chi tiết về những thủ lãnh mà Nguyễn Huệ chiêu dụ được căn cứ trên những tấu triệp của nhà Thanh (văn thư các quan tâu về triều) còn giữ trong Quân Cơ Xứ. Những tên tuổi của họ giải thích được phần nào một số đô đốc chỉ có tên mà không có họ trong danh sách các tướng lãnh: ... Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại Ca Việt Nam, là người bán những đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20 đến 40% số tiền. Những bọn cướp lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ không những được phép neo thuyền tại vùng biên giới (Trung Hoa và Đại Việt) để tuyển quân và trộm lương thực mà còn có thể dùng Việt Nam như một sào huyệt để rút về. Bọn hải khấu đó coi nhà vua như chủ nhân của họ vì dưới thẩm quyền của ông họ có thể thu hoạch nhiều nguồn lợi từ biển cả. Ngay từ những ngày đầu đầu anh em Nguyễn Nhạc đã đặc biệt chú trọng đến vai trò của thủy quân, một phần cũng vì bản chất của dân địa phương sống liền với bể cả, một phần vì vào thế kỷ thứ 18 việc phát triển đường biển đang lên đến cao độ. Họ đã sử dụng một số lớn thương nhân Hoa kiều - kiêm nghề cướp biển - mà chính sử Việt Nam còn ghi chép. Đó là Tập Đình (??) và Lý Tài (??) gia nhập quân Tây Sơn vào khoảng cuối năm 1773. Hai người này chiêu mộ một số người Hoa tổ chức thành Trung Nghĩa Quân và Hoà Nghĩa Quân. Hai đạo quân này rất dữ tợn, sử nhà Nguyễn chép là: ... Lại lấy người thổ trước cao lớn, cạo đầu dóc tóc, lẫn lộn với người Thanh. Lúc đánh thì cho uống rượu say, cởi trần, đeo giấy vàng giấy bạc vào cổ, để tỏ ý là tất chết; thường làm quân tiền xung, quan quân không thể chống được ... Một trong những danh tướng của Nguyễn Huệ xuất thân cướp biển là Trần Thiêm Bảo. Theo tài liệu Dian Murray trích từ tấu triệp trong Quân Cơ Xứ của nhà Thanh thì Trần làm nghề đánh cá ở vùng Liêm Châu, Quảng Đông cùng với vợ và hai con trai. Tháng 10 năm 1780, thuyền của y bị bão thổi dạt xuống phương Nam nên cư ngụ luôn tại đó sinh hoạt khu vực gần Thăng Long. Năm 1783, gia đình y đầu nhập Tây Sơn, được phong chức tổng binh và tham gia cuộc hành quân chống lại họ Trịnh. Theo lời khai của Trần Thiêm Bảo thì y được người tài công cũ là Lương Quí Hưng tiến dẫn và cả hai cùng tham gia trận đánh chiếm Thuận Hoá năm 1785. Lương Quí Hưng được phong tước Hiệp Đức Hầu và được ban một quả ấn khắc súc hữu đầu phát nghĩa là được quyền để tóc dài. Trong những năm sau đó, khi Nguyễn Huệ ở vào thế lưỡng đầu thọ địch, ông càng gấp rút tiến hành tổ chức quân đội kể cả việc dùng tiền để mua chuộc các nhóm hải phỉ. Trần Thiêm Bảo lập được nhiều công lao nên được thăng lên một vị trí quan trọng, đứng đầu mọi nhóm cướp biển khác. Theo tài liệu của Thanh triều, Trần được phong làm Tổng Binh Bảo Đức Hầu, dưới tay có đến sáu chiến thuyền, chỉ huy một đạo quân trong đó có 200 quân người Việt. Chỉ trong mấy tháng, Tổng Binh Bảo đã chiêu tập được tất cả các nhóm hoạt động trong vùng biển đông và vịnh Bắc Việt, xây dựng cho Nguyễn Huệ một lực lượng thuỷ binh đáng kể. Trong số các thủ lãnh, kiệt hiệt nhất có hai người là Lương Văn Canh và Phàn Văn Tài. Lương Văn Canh gốc là ngư phủ ở Tân Hội, bị cướp biển bắt hồi 1786 rồi gia nhập bọn họ, khi về đầu quân được Trần Thiêm Bảo phong cho làm thiên tổng (lieutenant). Phàn Văn Tài gốc ngư phủ ở Lục Thuỷ, Quảng Đông, cũng theo nghề cướp biển từ năm 1786, được phong chức chỉ huy (commander). Đến năm 1788, Nguyễn Huệ đã dứt tình với Nguyễn Nhạc ở phương Nam lại bị áp lực từ phương Bắc khi nhà Thanh chuẩn bị đem quân sang đánh, ông càng gấp rút tổ chức thuỷ quân để đối phó với tình hình ngày càng quyết liệt. Tổng binh Bảo được cấp thêm 16 đại thuyền nữa và phương tiện để tuyển mộ thêm quân. Nhờ thế, Trần Thiêm Bảo chiêu dụ được hai đám giặc do Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đứng đầu. Mạc Quan Phù người Toại Khê , bị bắt cóc trong khi đi đẵn gỗ, gia nhập cướp biển năm 1787. Năm 1788, y liên kết với Trịnh Thất và cả hai được Trần Thiêm Bảo chiêu mộ, phong cho làm tướng quân. Trần Thiêm Bảo có nhắc đến hai người ra biển chiến đấu nhiều lần, khi trở về Việt Nam có đem biếu lụa là, vải vóc và tiền bạc ngoại quốc. Những chức vụ của một số cấp chỉ huy cho ta thấy họ không phải chỉ có danh hiệu hàm mà thực sự đóng một vai trò trong tổ chức quân sự của vua Quang Trung. Nhà Nguyễn sau này cố gán cho họ cái tên cướp biển không ngoài mục đích hạ thấp sự chính thống của nhà Tây Sơn chỉ cốt để thay thế họ làm phiên thuộc của Trung Hoa. qtBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES VŨ KHÍ Theo sách sử còn ghi chép, ngoài những loại võ khí thông dụng như kiếm kích, cung nỏ, gươm đao, quân Tây Sơn có nhiều loại súng ống bao gồm cả súng đại bác và súng điểu thương (súng chim). Súng đại bác được dùng để phòng thủ, nếu đưa ra trận thì dùng voi kéo hay chở. Việc chở súng trên lưng voi và đội hình dùng voi xung phong không phải là sáng kiến của Nguyễn Huệ mà là một truyền thống khá lâu đời ở khắp vùng Đông Nam Á. Trong những trận đánh của Xiêm La và Miến Điện chúng ta cũng thấy họ sử dụng chiến thuật này. Không nói gì về sau khi họ đã trở thành một lực lượng đáng kể, ngay từ những ngày đầu còn ở tại căn cứ nơi núi rừng, họ cũng đã có súng. Trong một lá thư của giáo sĩ Diégo de Jumilla viết 15 tháng 2 năm 1774 cũng kể lại là khoảng đầu tháng 4 năm 1773 ông ta đã thấy những người lính Tây Sơn xuống chợ kẻ đeo gươm, người mang cung tên, lại có người mang súng. Một trong những câu hỏi lớn mà nhiều sử gia tránh né không muốn đề cập đến là võ khí vẫn được của quân Tây Sơn gọi là hỏa hổ thực sự đó là gì. ... Về hỏa lực, Quang Trung có khí giới lợi hại nhất là ống phun lửa tục gọi là hổ lửa và lực lượng xung kích lợi hại nhất là voi trận.
Họ chỉ dùng các ống phóng làm lợi khí. Thứ lợi khí ấy cũng gọi là hổ lửa. Trong khi hai bên giáp nhau, trước hết họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta để cho người ta phải lui. Nhiều người khẳng định rằng đây là một loại súng phun lửa. Thực ra, muốn phun được lửa người ta phải có những loại chất lỏng hoặc hơi có độ bắt lửa cao (chẳng hạn như xăng hay dầu ngày nay) và sức ép mạnh để tống nhiên liệu về phía trước. Vào thế kỷ thứ 18 chúng ta chưa có loại chất lỏng nào có đủ những điều kiện đó. Vả lại dẫu có súng phun lửa, với sức người thì cũng không thể nào phun được xa, chưa tới gần địch e rằng đã bị súng và cung nỏ của họ tiêu diệt trước. Hai tác giả Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng thì lại giải thích rằng hỏa hổ chính là đuốc mà quân Tây Sơn chế tạo ra từ những ngày đầu tiên. Thế nhưng ngay từ nhiều thế kỷ trước, những đám hải khấu đã biết dùng một loại bom làm bằng bình đất nung, miệng hẹp trong chứa thuốc súng và miểng, ném ra như một loại lựu đạn chế tạo giản dị. Loại bom này gần đây đã được tìm thấy nơi biển Đài Loan do quân của Trịnh Thành Công sử dụng khi tấn công quân Hòa Lan. Dian Murray cũng đề cập đến việc hải phỉ dùng những loại miểng vụn của nồi sắt hay đinh, có khi còn dùng tiền đồng hay các loại bình chứa. Họ cũng hay đánh hỏa công bằng thuyền chất đầy đồ dẫn hỏa xông thẳng vào địch hoặc ném những loại pháo bằng ống tre để đánh gãy cột buồm. Một loại võ khí đặc biệt khác cũng có tác dụng tương tự mà đám giặc biển cũng thường dùng là những bình đất nung chứa thuốc súng trộn rượu mạnh. Diêm sinh được chứa vào nắp bình, treo sẵn, khi xáp trận sẽ ném lên sàn tàu địch, bình sẽ vỡ và bén lửa. Ngoài ra chúng ta không thể không nhắc đến một loại hỏa tiễn hình đầu quạ, thân bằng tre có nhồi thuốc súng. Bốn ống phun ở đuôi có thể đẩy loại tên lửa này bay xa đến 300 mét và thường được dùng để đốt phá doanh trại hay tàu bè của đối phương đã khá phổ biến và thông dụng từ trước thế kỷ 17. Những loại đạn phóng như thế cũng đã được quân Mông Cổ dùng trong những cuộc tấn kích Nhật Bản và các quốc gia vùng Đông Nam Á mà sử sách còn ghi chép. Việc sử dụng thuốc súng vào trong những loại súng phóng tay (hand-held projectile weaponry) đã được dùng khá rộng rãi trên bộ cũng như trên biển vào thời kỳ đó nhưng cụ thể loại võ khí đó ra sao thì chưa thấy ai đề cập đến. Tài liệu duy nhất miêu tả sơ qua chỉ được thấy trong tờ biểu của Nguyễn Huy Túc như sau: Tháng 6 năm thứ 51 (tức năm Bính Ngọ 1786) Nguyễn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân, khí giới của chúng phần lớn là giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hoả hổ, có bầu (nguyên văn doanh bả) lớn, dài chừng một thước (khoảng 30 cm), khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy, có cả hoả pháo nhưng không nhiều
Xem như thế, rất có thể quân lính của Nguyễn Huệ đã sử dụng một loại súng phóng loại này để tấn công và đốt cháy đồn quân địch dưới cái tên hỏa hổ . Một giả thuyết khác mà chúng tôi đưa ra là ở vào thời kỳ này người ta đã biết chế tạo một loại hỏa tiễn đốt theo hai giai đoạn (two-stage rocket) gọi là hỏa long (fire-dragon). Con rồng lửa là một loại ống phóng có bốn hỏa tiễn ở thân chính, khi cháy hết sẽ mồi vào những tên lửa ở trong bụng rồng và những tên lửa đó sẽ được bắn vọt ra đằng miệng. Hỏa long được sử dụng trong những trận hải chiến mà hai bên còn cách xa, các bình thuốc nổ ném chưa tới, dùng để đốt tàu địch. Vì chưng hỏa tiễn bắn ra hàng loạt trông như một con rồng lửa bay trên mặt nước nên được đặt tên là hỏa long. Có thể cũng loại võ khí này được cải tiến đôi chút để sử dụng trên bộ nên được đặt tên là hỏa hổ để tượng trưng cho một loại trên bờ, một loại dưới nước nhưng thực chất chỉ là một. Vả lại hỏa long, hỏa hổ chủ yếu đều dùng tre, nứa làm ống chứa thuốc mà tre trúc là một loại thảo mộc rất thông dụng ở phương nam nên việc quân Tây Sơn sử dụng các loại võ khí này cũng không phải là chuyện lạ. Có thể nói, nguyên thủy võ khí đó do người Trung Hoa nghĩ ra nhưng lại được dùng như một thứ võ khí chiến lược của quân Nam để chống lại phương Bắc. Có lẽ vì thế mà người thời đó đã truyền tụng là: Hổ tự Tây Sơn xuất Long tòng Đông Hải lai (Hỏa hổ phát xuất từ rừng núi phía Tây, Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông) Những loại võ khí đó không phải là một độc quyền hay bí mật quân sự mà bên kia không biết hay không chế tạo được. Có điều quân Tây Sơn vẫn nổi tiếng là phong phú về thuốc nổ và họ cũng mua được những loại thuốc súng của người Âu Châu nhạy hơn và cũng mạnh hơn của quân Thanh nên quân Tây Sơn luôn luôn có uy thế áp đảo trong những trận đánh. Chiến đấu trong tư thế áp đảo bằng lực lượng cũng như về vũ khí vốn dĩ là một lối đánh mà vua Quang Trung thường sử dụng. Riêng về hỏa cầu (fireball) chúng ta thấy miêu tả tương tự như các loại bom đạn thời nay nhưng thời kỳ đó kỹ thuật quân sự thế giới chưa đạt tới trình độ này nên tuy có nhiều điểm tương đồng với loại bình đất nung mà hải phỉ thường dùng, chúng tôi cũng đặt một câu hỏi và cho rằng có thể người ta mới đặt ra để trám vào một nghi vấn chưa có tài liệu cụ thể minh chứng. Hỏa cầu đã được hải quân (và cả giặc cướp) dùng từ lâu để phá vỡ tàu địch nhưng chỉ được dùng trên bộ khi người ta đã chế tạo được những loại thuốc súng tốt, bén lửa nhanh và ít khói. Kỹ thuật chế tạo thuốc nổ bộc phát ở Âu Châu từ thế kỷ 14, 15 đã truyền sang Nam Á và được sản xuất khá nhiều trong thời kỳ này. Cứ như nhận xét của nhiều người Âu có mặt trên đất nước ta thời đó, trang bị của quân Việt Nam rất hùng hậu. Trong tình thế mà việc chiến đấu là lẽ sinh tử sống còn, nhà Tây Sơn cũng như các đối thủ của ông đều cố gắng hết sức bắt liên lạc với thương nhân và các nhà truyền giáo ngõ hầu có thể mua được các loại vũ khí mới của họ mặc dầu lắm khi họ không muốn đứng hẳn về một phen nào. Tuy nhiên với những số tiền lớn bỏ ra và nhiều hình thức cưỡng đoạt khác, quân Tây Sơn cũng có được nhiều loại võ khí tối tân nhất thời đó, đáng kể là một số lượng lớn các loại súng điểu thương, hỏa mai và đại bác. Như chúng ta đã biết, quân Tây Sơn kế thừa tất cả những kỹ thuật của xứ Đàng Trong, bao gồm cả chế tạo và sử dụng nhiều loại súng. Theo nhận xét của các giáo sĩ và thương nhân Âu Tây, trong suốt hai trăm năm phải giữ miếng với nhau, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đầu hết sức canh tân về quân sự. Chúa Trịnh đã được đặt cho cái biệt danh là thủy vương (lord of water) vì có một lực lượng hải quân khá hùng hậu trong khi Chúa Nguyễn được gọi là hỏa vương (lord of fire) vì quân đội miền nam được trang bị khí giới đầy đủ và tân tiến hơn. Đó cũng là lý do tại sao Đàng Trong tuy kém thế hơn nhưng vẫn cầm cự được mà không bị đánh bại. Ngoài súng đại bác để bắn từ xa, các loại súng điểu thương và súng tay cũng được sử dụng rộng rãi. Vào thế kỷ thứ 17, súng điểu thương (flintlock) là loại súng bắt nguồn từ Âu Châu đã được dùng khắp nơi kể cả Mỹ Châu và Á Châu. Về kỹ thuật, người Việt ở Đàng Trong cũng nổi tiếng là thiện xạ và thuần thục trong việc sử dụng các loại súng tay cũng như đại pháo. Người Đàng Trong hiện giờ đã hết sức chuyên môn trong việc dùng súng lớn và súng nhỏ vượt xa cả Âu Châu; vì dường như suốt ngày họ chẳng làm gì khác ngoài việc tập bắn. Họ giỏi đến nỗi họ có thể dùng súng lớn bắn trúng còn hơn người ta bắn bằng súng nhỏ. Súng hoả mai họ bắn cũng tài lắm vì ngày nào cũng ra đồng để thực tập. Một trong những chi tiết rất quan trọng là vì địa thế chật hẹp, gập ghềnh nên quân đội của ta thời đó rất ít dùng đại pháo nhưng lại có rất nhiều súng đại bác loại nhỏ (small cannon). Những khẩu đại bác đó có thể mang trên lưng và bắn một loại đạn nặng chừng hơn 100 gr (4 ounces). Một người lính cõng cái nòng súng (barrel), dài chừng 2 thước, trong khi một người lính khác mang cái giá là một khúc gỗ tròn dài cũng chừng cái nòng súng. Khi tác xạ, cái giá được dựng lên bằng hai cái càng hay một cái chạc cao khỏi mặt đất chừng một mét, nòng súng sau đó để lên trên giá trong một cái ngàm sắt. Người lính có thể điều chỉnh độ nhắm và kiểm soát bằng một cái báng tì lên trên vai. Các loại súng này rất tiện lợi cho việc di chuyển và phục kích quân địch. Quân Tây Sơn cũng được huấn luyện để tự pha chế lấy thuốc nổ và người Âu châu đã kinh ngạc vì họ nạp đạn nhanh hơn bất cứ quốc gia nào khác. Trong khi người Anh phải thực hiện đến 20 động tác cho mỗi lần nạp đạn thì người Việt chỉ cần có 4 động tác. Súng thời đó vẫn nạp tiền nghĩa là nạp thuốc và đạn từ đằng trước và thường đúc bằng đồng cho dễ, ít bị nứt vỡ. Đại bác thời đó đủ cỡ và dài ngắn khác nhau tùy theo mỗi nước, mỗi thời kỳ. Muốn bắn được xa thì nòng phải dài, việc đợi cho thuốc cháy hết cũng lâu hơn. Thoạt tiên, những súng trường được gọi dưới các tên matchlock, arquebus hay musket là những súng cá nhân trang bị cho bộ binh. Những súng đó dài và nặng nề nhưng về sau nòng súng (barrel) đã có khương tuyến (grooves) để khi viên đạn bắn ra sẽ xoay tròn và vì thế đi được xa hơn. Đạn là đạn chì hình tròn, vừa khít với nòng súng, phải nhồi từ trước bằng môït cây thông nòng (ramrod) và một cái búa gỗ (mallet). Khi viên đạn bắn ra, đạn đạo sẽ bay thẳng và không bị lệch hướng như đạn súng trường thuở trước. Súng trường dài từ 1.5 đến 1.6 mét, hơn chiều cao trung bình của người Việt Nam, có báng và gỗ đỡ nòng, được trang trí bằng những hoa văn kim loại. Dùng trong chiến trận, viên đạn có thể đúc nhỏ hơn một chút cho tự động chạy vào trong nòng súng. Loại súng điểu thương được mồi bằng đá lửa (flint) bằng một cái cần mổ hình như mỏ gà (pecking hen). Mỏ gà được kéo ngược ra sau bằng tay cho mắc vào khớp và sẽ giữ tại đó. Khi người lính bóp cò, mỏ gà sẽ bật ra, mổ viên đá vào một thanh sắt cho xẹt ra tia lửa, đồng thời buồng thuốc súng sẽ mở ra để lửa bén vào. Súng quân lính thời Tây Sơn dùng chính là loại điểu thương này, cộng thêm việc sử dụng rộng rãi các loại hỏa long, hỏa hổ, các loại bình chứa miểng như một loại bom sơ khai đã khiến cho họ có nhiều ưu thế về sức mạnh, việc huấn luyện cũng mau hơn, hiệu năng lại cao hơn lối đánh dùng các loại cung nỏ, gươm giáo. Nói chung là cả hai bên thời đó đã dùng nhiều loại vũ khí dùng thuốc nổ. Có điều vì thuốc súng còn sơ khai, nhất là thuốc súng của nhà Thanh bắt lửa kém, nhiều khói nên họ thường đốt để làm màn khói che cho trận đánh hơn là dùng để tác xạ. Chính vì thế mà sử sách đã ghi là vua Quang Trung áo bào đen như mực vì ám khói. Chúng ta không có con số cụ thể bao nhiêu binh sĩ các loại và trang bị như thế nào nhưng so sánh với những lực lượng đối nghịch, trang bị của quân Tây Sơn chắc hẳn không kém hơn. Ngoài súng tay và các loại khí giới cổ điển đã dùng từ lâu trên đất Việt, quân Tây Sơn cũng còn tập trung được khá nhiều súng ống cũ của cả Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. Đại bác thì đã được đúc tại Nam Hà từ lâu và ngoài bắc cũng có phường đúc. DI HÀNH Nhiều huyền thoại đã được thêu dệt và nhiều giả thiết được dùng để giải thích cho hợp lý lối chuyển quân nhanh chóng và hiệu quả của Nguyễn Huệ. Chính vì quá sùng bái ông, nhiều nhà nghiên cứu đã đề cao những chi tiết chỉ ghi lại trong tiểu thuyết và ngoại sử, sử dụng như một nguồn tài liệu cơ bản. Những chi tiết đó phần lớn do truyền khẩu, hoặc có thể do một số tác giả dựng lên, nhiều chỗ hoàn toàn khác với chính sử nhà Nguyễn. Tuy nhiên vì tự ái dân tộc, vì quan điểm chính trị, hay vì muốn có những con số cụ thể nên nhiều người trong chúng ta đã hoàn toàn quên đi tính thực tế của sự việc. Người ta thường nhắc đến chiến thuật điều binh bằng cách cho hai người võng một người đi suốt ngày đêm để tiết kiệm thời gian hoặc gần đây có tác giả lại khẳng định đó là chiếc thuyền nan đặc biệt của vùng Huế mà những người bán rong trên sông Hương hay dùng. Những luận cứ đó xem ra không đủ thuyết phục vì việc di chuyển một đoàn quân hàng vạn người trong một thời gian hết sức ngắn ngủi (bốn ngày từ Huế ra Nghệ An theo dã sử) là một chuyện không thể thực hiện ngay cả với phương tiện của thời đại ngày nay. Vào thời kỳ đó đường từ Phú Xuân ra Bắc chưa có đường lớn, chỉ là đường mòn dọc theo triền núi nên chỉ có thể đi thật gọn nhẹ, muốn di chuyển với đồ đạc, quân lương, khí giới phải đi bằng thuyền. Trong khi quân Thanh sang nước ta được miêu tả như một đoàn quân vừa yếu vừa quá mê tín dị đoan ... lính Trung Hoa mang theo cả điếu hút, bát đĩa và các hành trang phụ khác, đeo lủng lẳng ở thắt lưng họ. Họ vừa là lính vừa là lái buôn bồi bếp ... thì quân Nam Hà trông giống như một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh mà họ ghi nhận là những kẻ man rợ từ cao nguyên miền Nam, phù hợp với nhận định của John Keegan là chiến tranh nào cũng cần di chuyển nhưng đối với những dân tộc định cư thì chỉ đi một đoạn ngắn cũng gặp nhiều khó khăn. Theo những điều người ta mục kích, quân Tây Sơn có voi, ngựa, võng, các loại xe kéo ... nhưng chủ yếu vẫn là đi bộ và hầu hết các phương tiện khác chỉ dành cho cấp chỉ huy hay chuyên chở vũ khí, lương thực. Việc di chuyển vì thế rất nhọc nhằn và hao binh tổn tướng là điều không thể tránh khỏi. Khi tình hình khó khăn, binh lính đào ngũ cũng là một vấn đề nghiêm trọng. ... Ông tiến như vũ bão ra Bắc (từ Thanh Hoá ra Ninh Bình) chỉ mất có một ngày, không quản đường xa khó nhọc đã giết chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất ba bốn ngày ... Tốc độ di hành luôn luôn có liên hệ mật thiết với phương tiện và địa thế. Trong lịch sử, những đạo quân có thể di chuyển nhanh thường là những dân tộc vùng thảo nguyên bằng phẳng dùng chiến xa hay ngựa cưỡi. Điều duy nhất mà quân Tây Sơn có thể đi nhanh được là trang bị gọn nhẹ, nói khác đi sinh hoạt còn rất sơ khai nên không bị lệ thuộc vào tài sản vật chất phải mang theo. Vào thời kỳ đó, đơn vị căn bản là làng xã của nước ta có dân số trung bình chỉ khoảng vài trăm đến một ngàn, việc di chuyển hàng vạn người (tương đương với vài chục xã) đi một khoảng cách vài trăm cây số chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến những địa phương ngang qua. Những đoàn quân đó thông thường cũng kéo theo một cái đuôi dài bao gồm xe cộ, lừa ngựa, gia súc, vật dụng cá nhân ... và cả đàn bà, trẻ con, ông già, bà cả ... Đây là tình trạng chung của mọi quốc gia, mọi quân đội chứ không riêng gì quân Tây Sơn, nhất là trong đó rất đông những binh sĩ người Thượng có thói quen đi chung với nhau thành từng bầy. Điều kiện sống thấp kém và kỷ luật tàn nhẫn là những yếu tố cơ bản, chưa kể tiếng nói, phong tục xa lạ với địa phương họ đi ngang qua nên phải giới hạn tối đa việc tiếp xúc. Vì tình trạng thiếu một hệ thống tiếp liệu hay chợ búa để trao đổi vật dụng, tình trạng cướp đoạt thực phẩm, heo bò ... của dân chúng thường không tránh khỏi. Để tránh tình trạng binh lính đào ngũ, các tướng lãnh thường phải chấp nhận một số tệ đoan khiến quần chúng coi họ như kẻ cướp. Chúng ta cũng không lấy làm lạ khi nhiều giáo sĩ và thương nhân Tây phương cho biết họ chứng kiến cảnh ăn thịt người tại một vài địa điểm trong thời gian đói kém ở Đàng Trong và cả cảnh quân Tây Sơn chia nhau ăn gan, ăn tim một số tội nhân sau khi bị hành hình ở Bắc Hà. Một điều chắc chắn, Nguyễn Huệ luôn luôn tiến quân rất nhanh không phải do kỹ thuật gì khác thường mà do quyết tâm và kỷ luật thép, một hình thức bạo lực khiến người ta kinh hoàng. Kỷ luật đó cũng là một trong những yếu tố để cho thể duy trì một đội quân luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. qt TIẾP VẬN Về tình hình tại Đàng Trong thế kỷ thứ 18 chúng ta thấy rất ít khả năng xây dựng những doanh trại lớn trú đóng hàng vạn quân để sử dụng khi cần thiết. Nhu cầu chiến tranh và cơ cấu đơn sơ của thời đó khiến chúng ta phải nghĩ đến một phương thức đồn trú rất thông dụng là mỗi người lính đều ở với gia đình và ra trình diện khi gọi đến còn khi ra khỏi địa phương thì chia ra từng tiểu tổ ở lẫn với dân. Lương thực vì thế cũng thất thường và chủ yếu dựa vào số gạo thóc cướp được của địch hay mua tại địa phương đi ngang qua. Những phương thức đó đều rất bấp bênh nhất là vào những năm đói kém. Theo tính toán của các chuyên gia về hậu cần, ngoài lương thực, binh lính còn nhiều nhu cầu khác như y phục, vũ khí, vật dụng hàng ngày, củi lửa ... chỉ có thể kiếm được tại những thị trấn có đông dân cư. Nếu không có quần chúng - trong trường hợp phải di chuyển trong rừng sâu hay hoang địa - một người chỉ đủ sức mang theo thực phẩm căn bản trong vòng 5 đến 10 ngày, nếu đi xa hơn thì bắt buộc phải có những trạm tiếp liệu (magazines) hay (đôi khi) phải cử người đi trước để kiếm lương hoặc gầy dựng chợ búa ngõ hầu các cánh quân đi sau có chỗ mua bán đồ dùng cần thiết. Phương thức tiếp liệu và sinh hoạt của quân Tây Sơn theo các giáo sĩ miêu tả thì thường chia nhau ra đóng tại các đền chùa, miếu mạo, nhà thờ ... nên không tránh được việc binh sĩ làm hư hại các cơ sở này mà nhiều người ta thán mặc dù dứng về mặt quân sự thì đây là cách sinh hoạt tự túc đơn giản và hữu hiệu hơn cả. Cũng như bất cứ một binh đội nào, khi rút lui, quân Tây Sơn thường cướp phá các làng mạc họ đi ngang mặc dù Nguyễn Huệ nổi tiếng là khắt khe với những thành phần vô kỷ luật. Để có vật liệu đúc súng hay rèn vũ khí, nhiều tượng thờ, chuông đồng và dụng cụ canh nông đã bị trưng dụng nhưng không phải vì lý do tôn giáo như người ta kết án mà vì nhu cầu chiến tranh. Dường như các sử gia Việt Nam chưa quan tâm đúng mức về vấn đề lương thực và trang bị của quân Tây Sơn mặc dù cũng có người đưa ra một giả thuyết về lương khô của binh sĩ thời đó là món bánh tráng, mỗi khi ăn chỉ cần nhúng nước là có thể qua bữa. Ngoài lương thực, chúng ta cũng không thể bỏ qua súng ống, đạn dược ... vốn dĩ rất nặng nề, không dễ dàng di chuyển trên đường đất ngoằn ngoèo, lầy lội vào mùa đông và thường đòi hỏi một số dân công đông đảo để phục dịch. Ngoài súng thần công loại nhỏ được chở trên lưng voi, Nguyễn Huệ không đem theo các loại súng lớn và đã công thành bằng biện pháp sơ đẳng nhất là dùng sức người và các cuộn rơm để xông vào, sau đó đánh hoả công. Tài liệu về những vấn đề liên quan đến hậu cần khác như chữa bệnh, tản thương hay các chính sách quản trị nhân sự khác (lương bổng, tử tuất, khen thưởng, tưởng lệ ...) thì hoàn toàn không ai ghi lại. Với hình thức tổ chức còn sơ khai, những vấn đề đó chắc chưa được qui định rõ ràng mà chỉ giải quyết dựa theo tình hình và khả năng thực tế hay tại chỗ. Trên thực tế, quân đội của Nguyễn Huệ không phải là một tập thể thuần nhất mà tuyển mộ từ nhiều khu vực khác nhau, gồm nhiều thành phần, nhiều dân tộc, có tập quán và sinh hoạt đa dạng. Quân đội đó không theo tổ chức chính qui nên phần lớn không có lương bổng, phải tự túc nhiều mặt và có gì ăn đó chứ không có tiêu chuẩn hàng tháng, hàng ngày. Riêng tại miền Bắc trong những năm đó, số người bị bắt vào lính rất đông, gần như phe nào cũng muốn vét cho đến người cuối cùng. Việc ăn uống vì thế không theo tiêu chuẩn nhất định mà tuỳ theo tình hình, theo thói quen của từng nhóm, không hiếm những thành phần có lối sống còn rất dã man được người nước ngoài ghi lại. Mặc dù không có tài liệu nào đề cập một cách rõ rệt nhưng xuyên qua tập quán chung của quân Tây Sơn trong những cuộc hành quân trước ở Gia Định, sinh hoạt bình thường hàng ngày và những tường thuật giản lược từ nhiều nguồn, chúng ta có thể tin rằng không phải chỉ ở nước ta mà hầu như trên toàn thế giới, vào thời kỳ đó số binh đội đạt tới tổ chức chu đáo để binh sĩ có thể coi đi lính như một nghề và sinh hoạt hoàn toàn có thể trông vào lương bổng rất hiếm nên cấp chỉ huy vẫn phần nào dung túng cho việc cướp bóc, chiêám đoạt để mưu sinh cũng có mà để thủ lợi cũng có. Chỉ những khi đóng quân và phải ổn định trật tự thì kỷ luật thép mới được áp dụng còn khi di chuyển, việc kiểm soát đã khó mà rất có thể chính cấp chỉ huy cũng chủ động trong việc thu đoạt tài vật. Chúng ta chỉ có thể đoán chừng Nguyễn Huệ và tướng lãnh cao cấp chiếm đoạt kho tàng và tống tiền người giàu là vì nhu cầu xây dựng quân đội trong khi các cấp dưới do động lực tham lợi nhiều hơn. Theo thư của giáo sĩ Le Roy ở Nam Định viết cho ông Blandin ở Paris ngày 11 tháng 7 năm 1786 thì: ... Những người Nam Hà này đã áp dụng sự xử án khắc nghiệt, mới thấy tố cáo chẳng cần đợi xét xử lôi thôi, họ đã chém đầu những bọn trộm cướp hay tất cả những kẻ nào bị người ta tố cáo là trộm cướp Người ta rất lấy làm thích sự xử phạt như vậy và sự liêm khiết của quân Tây Sơn. Vì họ không cướp bóc ai, họ chỉ biết chặt đầu mà thôi. Điều đó đã khiến cho yên lành ở một vài nơi trong một thời gian. Chính vì tình hình như thế, chúng ta không thể không tham chiếu những sinh hoạt tiêu biểu của Đàng Trong và các nước chung quanh vào thời kỳ đó để có thể hình dung được đoàn quân đó như thế nào, thay thế những dữ kiện lịch sử viết quá sơ sài hoặc do tưởng tượng không chính xác. Mặc dù những nỗ lực của mọi phía để bắt lính, thu lương nhưng thời nào cũng có những giới hạn nhất định có tính qui luật không thể vượt qua. Đó là những nguyên tắc chặt chẽ của ngành hậu cần (logistics) đã được Jomini định nghĩa là nghệ thuật thực dụng của việc chuyển quân (the practical art of moving armies) trong đó bao gồm cả cung ứng những đội ngũ tiếp liệu liên tục (providing for the sucessive arrival of convoys of supplies) và thiết lập, tổ chức đường tiếp liệu (establishing and organizing ... lines of supplies). Một cách tổng quát, vấn đề tiếp vận là làm sao một mặt di chuyển được binh đội, mặt khác cung cấp đủ cho họ những điều kiện vật chất để sẵn sàng chiến đấu. Không phải chỉ sử gia Việt Nam, hầu hết những nhà nghiên cứu thế giới cũng ít ai nghiên cứu vấn đề tiếp vận một cách tường tận và thường đơn giản hoá việc di hành. Nhiều sử gia còn coi việc di chuyển một đoàn quân quá giản dị đến mức không đếm xỉa gì đến những điều kiện thực tế tưởng chừng như một đoàn quân có thể di chuyển đi bất cứ phương hướng nào, bằng bất cứ tốc độ nào, bất cứ khoảng cách nào một khi cấp chỉ huy đã quyết định. Con người cũng như con vật trong một đoàn quân đều cần lương thực, quân trang, khí giới ... và những điều kiện tối thiểu về sinh hoạt, nghỉ ngơi khi di hành mặc dù trong nhiều trường hợp con người bị bắt buộc áp giải đi một cách miễn cưỡng nhưng tinh thần chiến đấu đương nhiên rất thấp. Việc di chuyển và tiếp liệu đó tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố kể cả kỹ thuật, tổ chức và nhiều yếu tố phụ và chính những thực tế đó quyết định sức mạnh của đơn vị chứ ít khi vì tinh thần yêu nước nồng nàn, hi sinh vì đại nghĩa hay lòng căm thù sâu sắc ... như người ta thường nhấn mạnh. TRUYỀN TIN Quân Tây Sơn vốn dĩ không phải chỉ gồm một chủng tộc thuần nhất nên việc truyền tin cần giản dị và dễ dàng. Trong quá trình của họ, người ta thấy họ hay dùng tiếng kêu để truyền hiệu lệnh cho nhau nên đã được gọi là binh Ó. Một đặc điểm khác có thể do ảnh hưởng của dân vùng thượng du là họ cũng hay dùng chiêng trống để thúc quân, thu quân. Khi ra Bắc, để khỏi lẫn lộn việc khi vui chơi với hiệu lệnh của chiến trận, họ đã cấm dân chúng không được đánh trống. ... từ ngày 17 (tháng 12 năm 1788), các làng mạc đánh trống để đánh dấu sự vui mừng của họ vì trống tuy là một nhạc khí được dân Bắc Kỳ rất ưa chuộng đã bị cấm đánh và ngưng sử dụng từ ngày quân Tây Sơn làm chúa tể xứ này ... Quân Thanh trên đường tiến xuống Thăng Long cũng đụng độ với quân Tây Sơn tại ranh giới Tam Dị, Trụ Hữu. Quân Nam dùng ba loại cờ, đỏ, trắng, đen chia thành ba đội đánh trống tấn công. Ngoài ra, chiếc khăn đỏ thường dùng để bịt đầu của cấp chỉ huy cũng có khi được sử dụng như một loại kỳ hiệu. Việc dùng các màu cờ khác nhau có lẽ do ảnh hưởng của người Chăm. Đến đời Nguyễn, khi thấy quân đội có quá nhiều cờ quạt phức tạp nên vua Minh Mạng phải ra lệnh cho giảm bớt. RÚT LUI ĐỂ BẢO TOÀN Như chúng ta đã thấy, sau khi thấy dân chúng miền Bắc chưa ủng hộ mình một cách triệt để, giới quan lại cũng không hưởng ứng sự vận động của nhóm Ngô Thì Nhậm tôn mình lên làm vua, Nguyễn Huệ hậm hực rút quân về Nam để một số tì tướng trấn thủ Bắc Hà. Cũng như sách lược chung mà nhà Tây Sơn áp dụng tại những khu vực chưa hoàn toàn thuần hoá, miền Bắc trở thành một nơi mà dân chúng có hai hệ thống cai trị, quan lại cũ của nhà Lê đóng nhiệm vụ hành chánh dưới quyền của một quốc trưởng bù nhìn Lê Duy Cẩn, còn hệ thống quân sự do Ngô Văn Sở chỉ huy giữ nhiệm vụ bảo hộ trị an thuộc quyền Nguyễn Huệ tại Phú Xuân. Hai hệ thống đó nương tựa vào nhau một cách hời hợt nên khi có biến, quân Tây Sơn lập tức rút đi để lại miền Bắc cho quan lại nhà Lê tự sinh tự diệt. Khi quân Thanh kéo đến, triều đình Lê Duy Cẩn lập tức ra hàng khiến quan lại nhà Lê đành cam chịu sự trừng phạt, báo thù khi Lê Duy Kỳ trở về. Chúng ta không biết số quan lại đó những ai chạy được theo quân Tây Sơn vì tình hình theo chính sử thì dường như tuyệt đại đa số vẫn còn ở Thăng Long. DNCBLT chép như sau: ... Tôn Sĩ Nghị từ khước. Ngô Văn Sở bèn hội các tướng thương nghị đánh hay giữ. Ngô Nhậm đề nghị rút lui giữ núi Tam Điệp cho thuỷ quân và lục quân thông nhau chiếm cứ chỗ hiểm yếu mà cố thủ, sai người gấp đưa thơ cáo nguy cấp. Ngô Văn Sở bèn mật truyền các trấn Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn lên (đánh) tiếng nói (phao rằng) hội quân xây luỹ đất ở sông Nguyệt Đức rồi ngầm thu quân mà lui về. Ngô Văn Sở đưa thông tư cho các quan trấn thủ Hải Dương, Sơn Tây nội ngày phải hội quân ở Bắc Thành, cho trấn thủ Sơn Nam phải chỉnh bị thuyền tàu chờ thuỷ quân đến thì cùng tiến phát. ... Ngô Văn Sở ... ra lệnh cho các đạo quân chỉnh tề đội ngũ mà đi đến núi Tam Điệp (Tằng?), chia đồn đóng quân cố thủ, gấp sai Nguyễn Văn Tuyết, một tên nữa là Đinh Công Tuyết, vội chạy về báo nguy cấp. Sĩ Nghị khước chi. Sở nãi hội chư tướng thương nghị chiến thủ, Ngô Nhâm (Nhậm) nghị thoái bảo Tam Điệp sơn, thuỷ lục tương thông, cứ hiểm dĩ thủ khiển nhân trì thư cáo cấp. Sở nãi mật truyền Kinh Bắc, Thái (Nguyên), Lạng (Sơn) chư trấn thủ thanh ngôn trúc Nguyệt Đức giang thổ luỹ nhi tiềm thu quân dĩ qui. Di tư Hải Dương, Sơn Tây chư trấn thủ khắc nhật hội Bắc Thành, Sơn Nam trấn chỉnh sức thuyền tào hầu thuỷ quân chí tịnh phát. ... Sở lệnh chư quân túc đội nhi hành chí Tam Tằng (Điệp) sơn phân đồn cố thủ, cấp sử Nguyễn Văn Tuyết, nhất tác Đinh Công Tuyết, trì hồi cáo cấp. Trong tình hình đó, nếu như trước đó Nguyễn Huệ không tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để tính toán một đường rút lui thì việc tập trung quân về một vị trí cổ ngỗng như Tam Điệp cũng do tướng lãnh Tây Sơn suy nghĩ về thế yếu, thế mạnh của ta và địch rồi tự quyết chứ không phải do mưu sĩ Bắc Hà hiến kế. Việc quân Tây Sơn rút lui rất bí mật và êm thắm và ngay cả một số quân địa phương trấn đóng ở nơi hẻo lánh cũng bị bỏ rơi, không theo kịp nên việc đem theo một số quan lại nhà Lê cần phải xét lại. Chúng ta cũng có thể ngờ rằng việc đưa ra chi tiết chủ trương rút lui là của Ngô Thì Nhậm chỉ có thể được bịa đặt để hạ uy tín tướng lãnh Tây Sơn, miêu tả như thành phần hữu dũng vô mưu, hoàn toàn không có chiến thuật chiến lược gì. Cũng trong đoạn trên, DNCBLT cũng chép cả việc Phan Văn Lân bộp chộp đốc suất tướng sĩ mạo hiểm giá rét lội bừa qua sông, phần nhiều bị chết chìm, người nào qua được đến bờ lại bị quân Thanh giết chết ... để phải một mình một ngựa chạy về. Chi tiết này dường như chép theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí và hoàn sai sự thực vì quân Tây Sơn còn chặn đánh quân Thanh nhiều trận dọc từ Lạng Sơn xuống Thăng Long để cầm chân địch, tuy không thành công nhưng cũng khiến cho địch phải lao đao, không đến nỗi chưa đánh đã chạy như sử nhà Nguyễn miêu tả. Dầu sao chăng nữa, sau khi thu tóm mọi nhân lực tài lực của miền Bắc rồi rút về Phú Xuân, quân Tây Sơn đã bỏ ngỏ một trận địa lớn cho quân Thanh bơ vơ, chịu đựng những cơn mưa dầm và thời tiết lạnh lẽo của mùa đông ở miền Bắc. Tôn Sĩ Nghị phải trải mỏng quân thành những mục tiêu cố định rồi nương theo cách bố trí của địch để sắp xếp kế hoạch tấn công. Kế hoạch tạo điều kiện để quân địch đóng quân tập trung thành một khu vực lòng chảo là một chiến thuật mà nhiều quân sự gia Đông cũng như Tây, kim cũng như cổ thường áp dụng để đánh một trận quyết liệt. NGUYỄN HUỆ LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ Từ trước đến nay, sử nước ta vẫn cho rằng Nguyễn Huệ lên ngôi để cho chính vị. Lý do đó hàm ý bản tâm ông không (hay chưa) muốn lên ngôi nhưng đành phải chấp nhận một cách miễn cưỡng vì nhu cầu quân sự và chính trị. Việc vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế để danh chính ngôn thuận ra đánh quân Thanh được chấp nhận như một lý sở đương nhiên, không ai dị nghị mặc dù một số tác giả có đặt câu hỏi về ngày giờ chính xác ông đăng quang ở núi Bân. Thực ra, Nguyễn Huệ không phải không muốn lên ngôi mà ông đã có ý tự lập ngay từ khi đem quân ra Bắc Hà lần thứ hai vào tháng 5 năm 1788. Cũng vào thời gian này, ông gặp Ngô Thì Nhậm và người bầy tôi mới lập tức khuyên ông lên ngôi hoàng đế đồng thời chủ trì việc đi xin chữ ký để suy tôn ông cho hợp cách. Sau ba bức thư suy tôn của quần thần nhà Lê (chưa kể một chiếu trưng cầu dân ý do chính Nguyễn Huệ hỏi dân Bắc Hà) nhưng tình hình chưa thuận lợi khiến Nguyễn Huệ hậm hực bỏ về Phú Xuân, đem theo một số văn thần (có thể cả Ngô Thì Nhậm như đã chép trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí mặc dầu về sau chúng ta lại thấy họ Ngô xuất hiện trong số quan lại ở miền Bắc cùng với Ngô Văn Sở). Đối chiếu nhiều tài liệu khác nhau và dàn dựng lại tình hình, chúng ta có thể nghi ngờ rằng có chút gì không ổn về quan điểm đó. Hiện tại có ba tài liệu với ba nhật kỳ đăng quang khác nhau: chính sử triều Nguyễn (ĐNCB, Nguỵ Tây liệt truyện), Hoàng Lê Nhất Thống Chí, và chi tiết trong thư của Hội Truyền Giáo Bắc Hà. Ngoài ra còn một nhật kỳ có hơi chênh lệch một chút với chính sử là bài Chiếu Lên Ngôi (Tức Vị Chiếu) chép trong Hàn Các Anh Hoa. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 32 (Nguỵ Tây liệt truyện, Nguyễn Văn Huệ) chép là: Nguyễn Huệ được cấp báo, mắng to: Bọn chó Ngô là đồ gì dám tung hoành như thế?. Nguyễn Huệ liền xuống lịnh cử binh. Các tướng đều khuyên xin trước hết nên chính ngôi vị và danh hiệu để kết chặt lòng người. Nguyễn Huệ bèn đắp đàn ở phía nam núi Ngự-bình, lấy ngày 25 tháng 11 tự lập làm Hoàng-đế cải nguyên là Quang Trung (triều trung ương rực rỡ), liền ngày ấy cả đem tướng sĩ thuỷ bộ cùng tiến ... Huệ đắc báo đại mạ: Hà vật Ngô cẩu cảm nhĩ xương cuồng?. Tức hạ lịnh cử binh. Chư tướng hàm khuyến thỉnh tiên chính vị hiệu dĩ hệ nhân tâm. Huệ nãi trúc đàn vu Bình sơn chi nam dĩ thập nhất nguyệt nhị thập ngũ nhật tự lập vi đế, cải nguyên Quang Trung tức nhật đại suất tướng sĩ thuỷ lục tề tiến ... Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Gia Văn Phái) thì viết như sau: ... Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp thì ngày 24 (tháng 11), Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân, Bắc Bình Vương được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói: - Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của mọi người chưa thực vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh càng dễ sinh ra ngờ vực, hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế), tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi; chế ra áo cổn, mũ miện, lên ngôi Hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ xong hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788). Theo thư của các giáo sĩ có mặt tại Việt Nam còn lưu lại trong Nhật Ký Về Những Sự Kiện Đáng Ghi Nhớ, Nha Văn Khố Quốc Gia Paris (Paris, Archives Nationales số F5; A 22) thì lá thư đề ngày 20 tháng Chín của đức ông La Bartette gửi cho ông Le Breton trong đó Đức ông cho biết rằng: ... Bắc vương đã ấn định ngày 11 tháng Mười (âm lịch) tức ngày mồng 8 tháng Mười Một là ngày ông tự phong mình làm Hoàng đế dưới danh hiệu Quang Trung (có nghĩa là ánh sáng trung ương tức là theo sự giải thích có lẽ đúng nhất, mặt trời của vũ trụ) đồng thời ông đang bận tính một kế hoạch vĩ đại theo như sắc lệnh ban bố ngày 6 tháng Mười (âm lịch) hay ngày 3 tháng Mười Một gởi cho Đại thần Đại tư Mã và tất cả các quan hay sĩ quan Tây Sơn làm việc tại Bắc Kỳ ... Những tài liệu trên, tài liệu nào gần với sự thực nhất vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả lời đích xác mặc dù nếu theo văn bản thì thư của các thừa sai của Hội Truyền Giáo là tài liệu của chính thời đó còn để lại trong khi DNCBLT và Hoàng Lê Nhất Thống Chí chỉ được biên soạn và ấn hành vài chục năm sau khi sự việc xảy ra. Hiện nay trong Hàn Các Anh Hoa còn chép một bài Chiếu Lên Ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, nguyên văn như sau: Dịch âm: Tức vị chiếu Trẫm duy Ngũ Đế dị tính nhi thụ mệnh, Tam Vương thừa thời nhi khải vận. Đạo hữu thiên đệ, thời duy biến thông, thánh nhân phụng nhược thiên đạo dĩ quân quốc tử dân kỳ nghĩa nhất dã. Ngã Việt tự Đinh Lê Lý Trần triệu kiến hữu quốc, dĩ chí vu kim, thánh tác minh hưng bất thị tính, nhiên nhi phế hưng tu đoản, kỳ vận thật thiên sở thụ, phi phù nhân chi sở năng vi dã. Hướng giả Lê gia thất bính, Trịnh thị dữ cựu Nguyễn phân cương nhị bách dư niên cương trù vặn loạn cộng chủ đồ ủng hư khí tư gia tự tư phong thực. Thiên kinh địa duy nhất truỵ nhi chấn vị hữu thậm ư thử thời dã. Gia chi cận tuế dĩ lai Nam Bắc cấu binh, dĩ truỵ đồ thán. Trẫm vi Tây Sơn bố y, bất giai xích thổ, sơ vô hoàng ốc chi chí. Nhân nhân tâm yếm loạn dục đắc minh chủ dĩ tế thế an dân ư thị tập hợp nghĩa lữ lam tất dĩ khải sơn lâm, tả hữu hoàng đại huynh trì khu nhung yên, triệu ngã bang vu tây thổ, nam định Xiêm La, Cao Miên chi thuộc, toại khắc Phú Xuân, thu Thăng Long bản dục bang tảo trừ loạn lược, cứu dân ư thuỷ hoả trung, nhiên hậu hoàn quốc Lê thị qui địa đại huynh, tiêu dao tú thường xích tả chi du, quan lưỡng địa chi hoan ngu nhi dĩ. Nhi thế cố suy di cánh bất đắc như sở chí, trẫm tái thực Lê thị Lê tự quân thất thủ xã tắc, khứ quốc bôn vong, Bắc Hà sĩ dân bất dĩ Lê chi tông tính vi qui ê trẫm thị lại. Đại huynh nghĩa quyến ư cần nguyện thủ Qui Nhơn nhất phủ, giáng xưng Tây vương, nam phục sổ thiên lý chi địa, tận thuộc ư trẫm. Trẫm tự duy lương bạc tài đức, bất đãi cổ nhân, nhi thổ địa như thử kỳ quảng, nhân dân như thử kỳ chúng, tĩnh tư thống nhiếp lẫm hồ nhược hủ sách chi ngự lục mã nãi giả. Văn võ tướng sĩ nội ngoại thần liêu hàm nguyện trẫm tảo chính vị hiệu dĩ hệ thuộc nhân tâm, thượng chương khuyến tiến, chí ư tái tam kim biểu suy tôn bất mưu đồng từ phu dĩ thần khí chí trọng. Thiên vị duy gian, trẫm thành lự bất khắc kham, nhi tứ hải ức triệu hoàn qui ư trẫm nhất nhân. Tư nãi thiên ý, phù khởi nhân sự, trẫm ứng thiên thuận nhân, bất khả lao chấp, tốn nhượng dĩ kim niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật tức thiên tử vị kỷ nguyên vi Quang Trung nguyên niên. Tư nhĩ bách tính vạn dân duy hoàng cực chi phu ngôn thị huấn thị hạnh. Nhân nghĩa trung chính nhân đạo chi đại đoan, trẫm kim dữ dân cánh thuỷ phụng tiền thánh chi minh mô dĩ trị giáo thiên hạ. Ô hô, thiên hựu hạ dân tác vi quân, tác vi sư, duy kỳ khắc tương thượng đế sủng tuy tứ phương. Trẫm phủ hữu thiên hạ tướng dữ giai chi đại đạo nạp chi xuân đài. Nhĩ thần thứ các an chức nghiệp vô đạo phỉ di. Hữu quan giả hưng tế tế chi phong, vi manh giả hữu hi hi chi tục. Trị giáo hưng hành, tễ vu chí thuận, dĩ hoán ngũ đế tam vương chi thịnh, diễn tông xã vô cương chi hưu, cố bất vĩ tai! Thập tam đạo các xứ địa phương kim niên đông vụ tô dung điệu xá thập phân chi ngũ kỳ kinh bị binh hoả điêu tàn thính phân chi hoạn khám thực tận hành quyên miễn. Cựu triều thần dân hoặc lục sự điếm luỵ kinh bị trọng luận, trừ đại nghịch bất đạo đẳng tội, kỳ dư nhất giai khoan xá Bách thần dâm từ cách khứ tự điển. Kỳ thiên thần dữ trung thần hiếu tử nghĩa phụ kinh luỵ triều bao phong giả tịnh tứ đăng trật Cựu triều văn võ viên biện hoặc do tòng vong đào tị tịnh thính hồi hương quán, kỳ bất nguyện sĩ tiến giả thính hành sở chí Nam Hà Bắc dân gian y phục tịnh hứa tòng tục, duy triều y triều quan nhất tuân tân chế. Dịch nghĩa: Trẫm nghĩ: Ngũ đế đổi họ chịu mệnh trời, Tam vương nhân thời mở vận nước. Đạo có thay đổi, thời phải biến thông, nhưng đấng thánh nhân theo đạo trời để làm vua trong nước, yêu dân như con, thì cái nghĩa cũng chỉ là một. Nước Việt ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần mở nước đến nay, bậc thánh minh dấy lên, chẳng phải một họ. Nhưng phế, hưng, dài, ngắn, vận mệnh trời cho, chẳng phải sức người làm được. Trước đây nhà Lê mất quyền, họ Trịnh và họ Nguyễn cũ chia nhau cương vực, hơn hai trăm năm, giềng mối rối loạn, ngôi vua chỉ là hư vị, mỗi họ tự ý gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ cương trời đất một phen đổ nát không dựng lên được, chưa có thời nào quá quắt như thời này. Thêm nữa, những năm gần đây, Nam Bắc đánh nhau, dân sa vào chốn lầm than. Trẫm là kẻ áo vải Tây Sơn, không có một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị minh chúa để cứu đời yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quân, xông pha chông gai, phá núi mở rừng, giúp đỡ Hoàng đại huynh giong ruổi binh mã, gây dựng nước ở cõi tây, dẹp Tiêm La, Cao Miên ở phía nam, rồi hạ thành Phú Xuân, lấy thành Thăng Long. Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Đại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện. Trẫm dựng lại nhà Lê, nhưng Lê tự quân để mất xã tắc, bỏ nước chạy trốn. Sĩ dân Bắc Hà không theo về họ Lê lại dựa vào trẫm. Đại huynh vì khó nhọc mà mỏi mệt, chỉ muốn giữ một phủ Quy Nhơn, khiêm nhường xưng làm Tây vương. Mấy nghìn dặm đất ở cõi Nam thuộc về trẫm cả. Trẫm tự nghĩ mình lượng bạc, tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nhân dân đông đúc như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa. Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời. Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng lo không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Đó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên. Hỡi trăm họ muôn dân các ngươi! Lời nói lớn lao của ngôi hoàng cực là lời giáo huấn phải thi hành. Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người. Nay trẫm cùng dân đổi mới, theo mưu mô sáng suốt của tiền thánh để trị và dạy thiên hạ! Than ôi! Trời vì hạ dân, đặt ra vua, đặt ra thầy, là để giúp trời vỗ yên bốn phương. Trẫm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt díu dân lên con đường lớn, đặt vào đài xuân. Hỡi thần dân các ngươi! Ai nấy hãy yên chức nghiệp, chớ làm những điều không phải đạo thường. Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng đẹp đẽ sao? (Trong nguyên bản chữ Hán, còn có một đoạn viết chữ nhỏ, ghi các điều sau đây) 1/ Các địa phương trong 13 đạo, thuế ruộng, thuế thân, thuế lực dịch về vụ đông năm nay, mười phần tha cho năm phần. Những nơi bị binh hoả làm điêu tàn, cho quan phân tri khám thực, tha miễn cho cả. 2/ Quan dân triều cũ, người nào liên luỵ vào tội, đã bị án nặng, trừ những tội đại nghịch vô đạo, còn thì đều tha cả. 3/ Các đền thời bách thần mà là thờ nhảm, đều bị xoá bỏ thần hiệu trong tự điển, còn các thiên thần và tôi trung, con hiếu, đàn bà tiết nghĩa đã được các triều phong tặng thì nay đều cho thăng trật. 4/ Quan viên văn võ triều cũ, người nào chạy trốn theo vua mà còn phải trốn tránh, đều cho về nguyên quán. Người nào không muốn ra làm quan, cho tuỳ theo chí của mình. 5/ Quần áo dân gian Nam Hà hay Bắc Hà đều cho theo tục cũ, duy có áo chầu, mũ chầu thì nhất luật phải theo quy chế mới. qtBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES Bài chiếu này nếu xét trong hoàn cảnh xuất hiện của nó, nếu quả thực do Ngô Thì Nhậm soạn, thì hoặc ông đang ở Phú Xuân, hoặc đã soạn sẵn theo lệnh của Nguyễn Huệ, chờ đúng dịp là đem ra sử dụng. Phân tích một số chi tiết trong bài Chiếu Lên Ngôi chúng ta ngờ rằng bài này được soạn trước khi nghe tin quân Thanh sang chiếm nước ta, nếu không đồng thời với tờ biểu suy tôn lần thứ ba (Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời.) thì cũng chỉ sau đó một thời gian ngắn. Văn trong bài chiếu tức vị này hoàn toàn là văn chương thời bình, không phải thời chiến, không nhắc đến xa gần gì về việc quân Thanh xâm chiếm nước ta và lên ngôi để thu phục nhân tâm (để chiến đấu) như sử đã chép. Chính vì thế, một số câu văn sáo mòn đầy giả tạo, chẳng hạn: Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho Đại huynh, ung dung áo gấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện. hay Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng đẹp đẽ sao? vẫn còn hiện diện trong bài chiếu. Như vậy, nếu quả thực bài văn này là tờ chiếu ông sử dụng thì Nguyễn Huệ đã lên ngôi từ trước khi quân Thanh sang đánh nước ta nghĩa là chậm lắm cũng vào cuối tháng 10 hay đầu tháng 11 năm Mậu Thân (1788) khi quân Thanh chưa xuất binh để những lời trong bài chiếu thích hợp cho một quốc gia yên bình, dù chỉ rất tạm bợ. Ngược lại nếu đã nghe tin quân Thanh đang tiến về Thăng Long, tình hình Bắc Hà ở trong cảnh lửa cháy lông mày, dầu sôi lửa bỏng khiến ông phải tổ chức một lễ đăng quang theo kiểu cưới chạy tang để hôm sau tiến quân ra Bắc thì đây là một việc làm rất thiếu chính trị. Tình hình cấp bách đó ắt sẽ khiến cho lòng người kinh động, nhất là các tướng lãnh đang được bố trí ở mặt nam giáp với vương quốc của Nguyễn Nhạc. Chúng ta cũng biết rằng hai anh em công khai mắng nhau là sài lang, cẩu trệ, dù đã giải hoà nhưng tình hình không còn thuận lợi như trước và việc bên này hay bên kia nhân cơ hội sơ hở đem quân tấn công không phải là chuyện không thể xảy ra. Việc Nguyễn Huệ hấp tấp lên ngôi rồi kéo quân đi sẽ tạo một khoảng trống trong guồng máy cai trị và Nguyễn Nhạc chỉ cần sai một tì tướng cũng có thể lấy được Phú Xuân. Các tướng lãnh của Nguyễn Huệ nhất là thành phần gốc Qui Nhơn vốn họ hàng thân thích hay quen biết đã lâu, ít nhiều đều đã từng là thủ hạ của Nguyễn Nhạc. Chúng ta cũng biết rằng khi kéo quân ra Bắc, Nguyễn Huệ vẫn để lại một số tướng lãnh quan trọng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng ... trấn thủ mặt nam có thể dễ dàng bị vua Thái Đức mua chuộc. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi coi như một thách thức công khai rất nguy hiểm trong khung cảnh đó. Qua những sự kiện nêu trên, Nguyễn Huệ dự tính lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung ít nhất cũng đã được dự tính từ tháng 8 năm Mậu Thân, mặc dù ngày giờ ông lên ngôi không biết đích xác là ngày nào, 11 tháng 10 Â.L. theo các giáo sĩ, 22-11 Â.L. theo tờ chiếu lên ngôi, 25-11 Â.L. theo DNCBLT, 25 tháng 12 Â.L. theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí hay một ngày nào khác mà chúng ta chưa biết? Hai nhật kỳ đầu tiên và cuối cùng cách nhau gần hai tháng rưỡi nhưng chắc chắn Nguyễn Huệ lên ngôi sau khi ông từ Bắc Hà trở về và trước khi nghe tin quân Thanh kéo sang. Nhật ký của các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo Bắc Hà nghe được từ giáo dân của họ là ngày 11 tháng 10 năm Mậu Thân (8-11-1788) xem ra gần với sự thực nhất. Tin tức đó họ đã nghe từ ngày 25 tháng 10 (27-9 Mậu Thân) tức là trước ngày vua Quang Trung lên ngôi gần nửa tháng. Cho nên, khi quân Thanh lấy Thăng Long (cuối tháng 11 năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ đã là hoàng đế Quang Trung rồi, không còn phải bận bịu gì về việc đăng quang hay sắp đặt triều chính trong ngoài nữa. Cũng theo tin của giáo sĩ La Barrette gửi cho Le Breton thì ông đã phong vương cho con trai ngay từ tháng 9 nghĩa là công khai tách riêng ra thành một vương triều mới không liên quan gì đến ông anh ở Qui Nhơn nữa. Văn kiện cuối cùng chúng ta thấy ông còn dùng niên hiệu Thái Đức chính là sắc lệnh ban bố một số điều quân luật ngày 6 tháng 10 năm Mậu Thân (3-11-1788), 5 ngày trước hạn kỳ lên ngôi theo tin tức của các nhà truyền giáo. Xét như thế, chúng ta thấy rằng việc vua Quang Trung đem quân ra Bắc không phải là một điều bất thình lình và chúng ta có thể tin được rằng lúc nào ông vẫn hờm sẵn nhiều cánh quân độc lập và chỉ điều động để xiết lại khi cần thiết. Đó chính là vai trò của hai đạo quân từ rừng sâu kéo ra và từ ngoài biển đánh vào khiến cho địch trở tay không kịp. Giảm thiểu việc đưa một đạo quân lớn từ Phú Xuân ra bắc sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề, từ di hành đến lương thực, khí giới và trả lời được câu hỏi tại sao Nguyễn Huệ có thể tập trung được một đạo quân lớn và đánh tan quân Thanh trong một thời gian ngắn ngủi. Từ quan điểm đó, việc dàn trải lại sắp đặt của Nguyễn Huệ và biến chuyển trong chiến dịch mùa Xuân năm Kỷ Dậu trở nên minh bạch, đơn giản hơn, không bị những vấn đề không có câu trả lời (làm sao có thể tiến quân ra Bắc trong 4 ngày), loại trừ được những tưởng tượng không phù hợp với thực tế (hai người võng một) và những chuyện bên lề mà người ta thêm bớt một cách huyền hoặc. KẾT LUẬN Việc điều quân của Nguyễn Huệ cho đến nay vẫn còn là một chuỗi nhiều huyền thoại. Mặc dù những bức thư của các nhà truyền giáo đã được đưa ra ánh sáng hơn 30 năm nay nhưng rất ít sử gia Việt Nam khai thác vì những chi tiết trong đó không phù hợp với những gì người ta muốn miêu tả về thời Tây Sơn. Hầu hết chúng ta vẫn thích lập lại những tường thuật trích từ Hoàng Lê Nhất Thống Chí của nhà họ Ngô coi như chính sử, nhất là để tô vẽ cho một chiến thắng vẫn được coi như một thiên Anh Hùng Ca của dân tộc. Một vấn đề chúng ta chưa lưu tâm đúng mức là hậu cần (logistics) trong quân đội để tìm hiểu xem Nguyễn Huệ và bộ tham mưu của ông đã thực hiện việc di chuyển, tiềp liệu, lương thực, y tế, tải thương ... như thế nào. Những vấn đề đó là những ưu tư hàng đầu của các tướng lãnh trước khi bàn đến chiến thuật, chiến lược. Hậu cần cũng liên quan đến thực trạng chính trị, kinh tế và khung cảnh xã hội của quốc gia vì tài nguyên là một thực thể có những giới hạn nhất định, không phải là một con bò sữa có thể vắt đến vô tận và phải được sử dụng một cách linh động. Tuy có được lợi điểm là đánh trên đất nhà nên binh sĩ Tây Sơn có thể bám rễ vào quần chúng nhưng không phải vì thế mà chúng ta không nhận ra một số nhược điểm được che đậy và tô điểm bằng một số từ ngữ, lập đi lập lại trong hầu hết các nghiên cứu lịch sử. Những khó khăn đó vốn dĩ đã được các quân sự gia Tây phương nhấn mạnh, gọi là cọ xát của chiến tranh (friction of war), ám chỉ sự tiêu hao năng lực ảnh hưởng đến chiến đấu. Những cọ xát đó thường bị các sử gia bỏ quên nên miêu tả những biến cố này như những hiện tượng hiển nhiên và chìm lẫn vào những chi tiết sôi động hơn. Một quân sự gia Tây phương đã nhận định: Cơ bản để hoạch định của cấp chỉ huy là kiến thức vững chắc về tiếp liệu và di hành; có thế ông ta mới biết làm sao và khi nào có thể liều lĩnh, mà chiến trận chỉ có thể thắng khi dám mạo hiểm. Cuộc tiến quân của Nguyễn Huệ trong giai đoạn đầu rõ ràng phải dựa vào một hệ thống tiếp liệu tại chỗ bao gồm một số doanh trại ông bố trí sẵn từ Phú Xuân ra Nghệ An. Trong thời gian di hành, ông đã thực hiện nhiều lối di chuyển khác nhau theo nhiều trục lộ và chỉ ấn định một điểm hẹn để tập kết. Việc tập trung lực lượng để chuẩn bị bôn tập đó được thực hiện một cách rốt ráo, cực đoan có tính một mất một còn. Lịch sử chứng minh rằng ông đã tính toán đúng trong lối tấn công quyết tử (predatory warfare) nên hậu thế ít ai nhắc đến những thiệt hại của bên mình. Các giáo sĩ Tây Phương tuy chỉ ghi nhận hiện tượng, nhiều chỗ chủ quan theo sự suy nghĩ của họ và dựa vào những nguồn tin không chính xác (chẳng hạn số lượng quân của cả hai phe) nhưng vẫn là những tài liệu nguyên thuỷ (primary sources) chưa bị đãi lọc. Đối chiếu với những chi tiết quân sự, lối di hành liên tục (trong một thời gian ngắn) không những cần thiết cho việc tấn công bất ngờ mà cũng là cách duy nhất có thể kiểm soát được một đội tân quân khổng lồ bằng dạ dày, loại trừ được những hiểm hoạ khi sử dụng thành phần quần chúng mà trước đó chưa lâu còn đứng về phía đối nghịch với nhà Tây Sơn. Chắc chắn khi tiến quân đánh Thăng Long, Nguyễn Huệ không thể coi thường dân chúng Bắc Hà hiện đã trở thành một cánh quân nằm phục sau lưng ở vùng Nghệ An Thanh Hóa, trước đây đã từng phục kích tấn công Nguyễn Nhạc. Nếu như vì một lý do nào đó mà việc giao binh với quân Thanh kéo dài hơn dự tính, sau lưng lại có dư đảng nhà Lê, họ Trịnh nổi lên ông sẽ bị tấn công từ hai mặt, khó tránh khỏi một cuộc chiến tiêu hao vốn là sở trường của Bắc Hà. Ở thời điểm quyết liệt này, ông đã huy động toàn lực thành phần dân chúng có nguy cơ tiềm ẩn kia thành một cánh quân của mình, từ già chí trẻ, trai lẫn gái để đẩy họ đi trước, dưới danh nghĩa cứu nước. Chúng ta khó lòng có thể tin được rằng người dân ở đây hàng loạt trai tráng nô nức tòng quân như lối viết sử có tính cách tuyên truyền, nhất là trước đây không lâu vùng này đã bị đói kém liên tiếp, lại bị Nguyễn Hữu Chỉnh rồi Vũ Văn Nhậm vét được hơn 3 vạn người để tiến ra Bắc hồi cuối năm 1787. Đất Thanh Nghệ cũng còn là đất tổ của nhà Lê, là quê hương của đám lính Tam Phủ vốn dĩ là cột trụ chống giữ giang sơn cho họ Trịnh, nay trở thành đội quân tiền phong của nhà Tây Sơn. Chính vì thế ông đã có thể tận dụng đến người cuối cùng của các xứ Thanh - Nghệ để đánh một trận lớn dùng chiến thuật biển người tràn ngập đối phương. Ông cũng tối ưu hoá được sức mạnh của mình, kết hợp sức mạnh của các sắc dân thiểu số vùng Thượng Lào, và khai thác thành phần bị gạt ra ngoài lề xã hội phải sống bằng nghề cướp biển. Chúng ta cũng có thể nghi ngờ và loại bỏ chi tiết về ngày tháng Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế chép trong sử triều Nguyễn. Nếu đúng như sự thông tin của các giáo sĩ cho nhau, ông lên ngôi ngay từ đầu tháng 10 (Âm Lịch) và mất khoảng từ 40 đến 45 ngày để ra đến Nghệ An (cuối tháng 11) trung bình mỗi ngày có thể đi từ 10 đến 15 cây số. Con số này xem ra có vẻ hợp lý với một đội quân vào thế kỷ 18, phức tạp và cồng kềnh, tổ chức còn sơ khai, thiếu hẳn một hệ thống tiếp liệu chu đáo. Nói tóm lại, một khi loại trừ tất cả những huyền thoại của nhà Tây Sơn, đặt Nguyễn Huệ trở về vai trò của một tướng lãnh cần mạo hiểm để chiến thắng, việc điều quân thần tốc chính là phương thức để khắc phục những sở đoản mà ông không thể nhất thời giải quyết được.
|
|