|
Post by Can Tho on Oct 5, 2014 16:20:47 GMT 9
Quân Dù Tiến Về Thành Nội Sài Gòn nhỏ ngày 9-8-2008
Lời nói đầu:
Bài dịch được chuyển dịch từ chương năm “Help for the Citadel” trong quyển sách The Siege at Hue của tác giả George C. Smith. Đây là một trong năm quyển sách của người Hoa Kỳ viết về trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Tác giả nguyên là Đại Uý cố vấn về truyền tin cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh, ông là người đã có mặt tại cả hai nơi, hữu ngạn và tả ngạn trong trận chiến Huế. Tám ngày đầu của trận chiến, tác giả nằm trong cơ quan MACV, phân bộ Huế bên hữu ngạn sông Hương, đến ngày thứ chín, ông được trực thăng vận vào thành Mang Cá, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Đại Uý Lục Quân George C. Smith có mặt trong thành Mang Cá cho đến hết cuộc chiến Huế.
Khác với những tác giả khác chỉ chú trọng đến quân Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, George C. Smith đã dành riêng hai chương để nói về người lính Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến Huế, chương thứ năm và chương thứ mười ba “Credit the ARVN”. Người dịch xin chuyển dịch sang Việt ngữ chương năm để vinh danh những người lính Nhảy Dù và lính Thiết Giáp đã anh dũng hy sinh năm 1968 trong trận đánh ngay làng An Hòa, cửa ngõ vào Thành Nội Huế. Không pháo binh dọn đường, không phi cơ yểm trợ, các người lính thuộc hai Tiểu đoàn 2 và 7 Dù vẫn dũng cảm xung phong tuy biết rằng quân số địch có cả trung đoàn, đợt đầu tiên bị bắn ngã nhưng rồi đợt sau và đợt sau nữa vẫn không ngừng xung phong vì lính Dù biết nơi thành Mang Cá, Tướng Trưởng đang chờ “bắt tay” họ, những người lính Nhảy Dù Việt Nam.
Đại Uý Ty Cobb có một nhiệm vụ rất quan trọng và cần phải hoàn tất cho ngày 29 tháng Giêng, đó là “chôm” một ít thức ăn Mỹ cho các người bạn Nhảy Dù của ông đang chuẩn bị đón tết vào ngày mai. Đại Uý Cobb không có họ hàng gì với danh thủ khúc côn cầu Ty Cobb, chỉ là người trùng tên, ông là viên cố vấn trưởng cho Tiểu Đoàn 2 Dù hiện đang tạm đóng quân tại Quảng Điền phía bắc Huế, cách căn cứ 17 khoảng mười lăm cây số về hướng đông. Cobb lấy chiếc xe Jeep và một chiếc xe Dodge chạy ngõ sau căn cứ 17 ra quốc lộ 1 rồi chạy ngang qua thành phố Huế để về Phú Bài.
Quốc lộ 1 tràn ngập xe nhà binh và các xe nghỉ lễ, ngoài ra không có gì khác lạ hơn, di chuyển ngang qua thành phố, Đại Uý Cobb cảm được Huế đẹp và thanh bình. Là cư dân của thành phố Sparta, tiểu bang New Jersey, Cobb cũng là viên sĩ quan liên lạc Nhảy Dù cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh trước đó hai tháng, nay ông được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 2 Dù. Cobb vượt qua các người dân với nụ cười rạng rỡ trên gương mặt Tại sao họ không vui được chứ? Hầu hết mọi người được về lại nhà cho lễ Tết.
Tuy đã đến Huế nhiều lần, Cobb vẫn luôn ngạc nhiên về kích thước thẳng đứng của Thành Nội mỗi khi ông nhìn thấy nó từ phía xa. Kiến trúc Thành Nội giống như nhảy thẳng vào người khi ta tiến gần đến nó, Thành Nội nổi trội hơn các tòa cao ốc ở phía ngoài thành phố, nó nổi cao lên như tòa lâu đài to lớn thời trung cổ
Khi hai chiếc xe tiến tới gần cây cầu chính của thành phố (cầu Trường Tiền) trên sông Hương, Cobb nghĩ đến cuộc hành quân vào tuần trước. Tiểu Đoàn 2 Dù được trực thăng vận vào một khu vực nằm ở hướng tây cách Huế khoảng tám cây số để tìm kiếm sự hoạt động của cộng quân.
“Chúng tôi tìm thấy một hang động lớn được đào sâu vào trong một ngọn đồi. Trong hang đầy cả những vật dụng mới toanh, hầu như tất cả còn nằm trong thùng gỗ,” Đại Uý Cobb kể lại nhiều năm sau. “Chúng tôi tìm thấy vài chục khẩu súng máy, sáu khẩu cối 60 ly, hai mươi bảy khẩu súng trường SKS có gắn lưỡi lê, dụng cụ giải phẫu, và ba tấn gạo. Đây phải là bộ chỉ huy trung đoàn.”
Cái họ không tìm thấy là quân địch.
“Đây lại là một điều tốt bởi vì quân số của họ đông hơn chúng tôi nhiều,” Đại Uý Cobb nói. “Tôi nghĩ là nhiều người trong bọn họ đã có mặt trong Huế cải trang làm thường dân và đang dò xét thành phố.”
Cả một kho súng và vật liệu được mang về thành Mang Cá, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Những tuần lễ sau đó, rất nhiều súng và những vật dụng tịch thu này được dùng để chống trả lại quân địch khi chúng tấn công Thành Nội.
“Nhìn lại việc ấy, tôi nghĩ tịch thu hầm vũ khí có lẽ đã giúp cho quân phòng thủ tại Huế thoát khỏi cuộc tấn công đầu của địch,” Đại Uý Cobb nói. “Có lẽ chúng tôi góp phần vào việc giúp họ giữ chặt việc phòng thủ.”
Đaị Uý Cobb ngưng ngang những suy nghĩ về hầm vũ khí của địch trên đường đến Phú Bài. Khi mà những nhân viên tình báo trong Sư Đoàn 1 Bộ Binh không nghĩ nhiều cho lắm về việc tìm thấy kho tàng địch, Cobb cũng không lo cho lắm về quân địch đang tổ chức một trận chiến lớn trong khu vực, bên cạnh đó ông có một nhiệm vụ quan trọng cần phải hoàn tất trong ngày cho riêng ông.
Đoàn xe vào trong căn cứ Phú Bài và Đại Uý Cobb cố gắng mang được càng nhiều thức ăn mà ông đã cố gắng trả giá cho. Thực phẩm gồm có 60 cân anh đường vì người Việt thích đồ ngọt, 10 cân anh cà phê, hai thùng hộp trái đào, nhiều hộp thịt bò hộp, và hai hộp bánh, đường trở về hướng bắc tuy chậm nhưng yên ổn.
Ngày hôm sau, Đại Uý Cobb và Thiếu Tá Thạch, tiểu đoàn trưởng đến thăm và mang thực phẩm chia đều cho cả bốn đại đội. Vào buổi trưa, tại bộ chỉ huy tiểu đoàn có một buổi tiệc ăn mừng tết, tiệc kéo dài cho đến tối. Vào lúc 12 giờ đêm, một vài người lính bắn vài tràng đạn M-16, những người khác đốt những phong pháo đón mừng giao thừa. Rồi tất cả trở nên lặng im.
Đại Uý Jack Chase cũng có một nhiệm vụ giống như vậy vào ngày trước Tết. Chase sống ở thành phố Jericho, tiểu bang Vermont, ông là cố vấn cho Chi Đoàn 3/7 Thiết Kỵ đóng phía ngoài căn cứ 17 tây bắc Huế.
“Tôi lấy được một số đồ bổ sung thường có C-ration trong đó,” Chase nói. “Những người lính thích kẹo và chewing-gum nhưng họ lại không cần đồ cạo mặt, họ thích nhổ râu hơn.”
Chi Đoàn 3/7 vừa thay người chỉ huy, Trung Uý Trần Văn Minh thay Đại Uý Nguyễn Văn Thi được một tháng, ông vẫn còn chưa thích ứng với đơn vị mới.
“Thi rất được các người lính kính nể,” Chase cho biết. “Ông ta chỉ thua Thượng Đế chừng một hay hai bậc trong khi Minh chỉ mới hành quân với đơn vị lần đầu tiên, ông ấy phải chứng minh cho các người lính biết mình ngon lành.”
Chi đoàn tổ chức tiệc ăn mừng Tết vào buổi trưa với những nghi lễ và trao đổi quà cáp cho nhau. Trung Uý Minh tặng cho Đại Uý Chase cuốn album để hình bằng sơn mài mà cho đến giờ Đại Uý Chase vẫn còn tưng tiu nâng giữ. Trên bàn đầy những thức ăn cổ truyền và những món lạ khác, và nhất là đầy những tiếng cười vui vẻ và tình bạn thắm thiết.
“Họ làm thịt một con trâu,” Chase nhớ lại. “Hồi tưởng lại, đó là miếng thịt dai nhất và khó nuốt nhất mà tôi đã ăn.”
Đêm hôm ấy, tất cả mọi người đi ngủ với cái bao tử dầy đặc và trái tim hạnh phúc.
Một trong những nhiệm vụ chính trong ngày Tết của Đại Uý Chuck Jackson là lo cho Tiểu Đoàn 7 Dù có đủ rượu cho buổi tiệc tết.
“Rượu được chọn là Black Label scotch,” Jackson nói. “Nhưng chúng tôi uống Red Label trong cái ly cối. Rượu Hennessy cognac cũng rất được ưa chuộng.”
Tiểu Đoàn 7 Dù chỉ mới chuyển tới An Lỗ cách căn cứ 17 vài cây số chừng một hay hai ngày trước tết vì lý do an ninh và đóng rải rác phía ngoại ô. Đại Uý Jackson từ thành phố Macungie, tiểu bang Pennsylvania đi với Thiếu Tá Ngọc chúc tết bốn đại đội, ông thử nhiều món ăn trong mỗi đại đội.
“Tôi không thích thức ăn Việt Nam cho lắm, rất là khó nuốt trôi miệng khi miếng thịt còn dính chút lông heo,” Jackson nói. “Nhưng tôi thích ăn những miếng bánh vuông nhỏ mà lúc ban đầu tôi nghĩ là kẹo ngào đường được gói trong những lá dừa, ăn ngon miệng lắm, sau này tôi biết được nó là những miếng thịt heo sống được để cho lên men mà người Việt gọi là nem chua.”
Jackson, giống như Cobb và Chase lên giường ngủ không nghĩ rằng một cuộc chiến lớn với quân địch đang gần kề. Gần sáu giờ sau, định mạng sẽ mang ba đơn vị lại với nhau cho cuộc chiến đẫm máu chống lại lực lượng to lớn của quân địch ngăn chận không cho họ tiến vào Thành Nội, nơi mà họ được kêu gọi đến gấp để cứu Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 đang bị địch bao vây.
Tướng Trưởng gọi viện binh lúc 4 giờ 30 sáng, sau khi kêu gọi Trung Đoàn 3 Bộ Binh và Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh tập hợp với ông tại Thành Nội, ông xin lệnh cho phép Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 1 Dù (gồm ba tiểu đoàn 2,7 và 9) được nằm dưới quyền hành quân của ông. Sau khi được sự chấp thuận từ cấp trên, cả ba đơn vị được báo động di chuyển về Huế. Tiểu Đoàn 9 Dù và Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ đang bị quân địch tấn công bộ chiến trong phạm vi đóng quân của họ tại Quảng Trị, cách phía bắc Huế khoảng năm mươi cây số, họ không thi hành lệnh được cho đến khi họ phải hoàn tất một vài sự việc cấp thời.
“Chúng tôi nhận cú phôn vào khoảng 4 giờ 30 sáng,” 3/7 Chase nói. “Chúng tôi không bị địch tấn công và nghĩ chắc không phải việc lớn lao cho lắm, chúng tôi chỉ chuẩn bị cho ba ngày hành quân.
Tám cây số bắc căn cứ 17, Tiểu Đoàn 7 Dù bị đánh thức bởi đạn cối pháo kích lúc 3 giờ sáng. Một tiếng rưỡi sau, lệnh cho giao tiếp với 3/7 Thiết Kỵ tiến về Huế để “giúp làm giảm bớt áp lực cho lính Sư Đoàn 1”
Hai đơn vị gặp nhau tại căn cứ cây số 17 và dấn mình xuống quốc lộ 1 thẳng về Huế lúc 9 giờ 20 sáng. Mặt trời sáng tỏa và Chi Đoàn 3/7 dẫn đầu, ba trăm bảy mươi lăm người lính Tiểu Đoàn 7 Dù dàn mỏng đội hình, hai đại đội di chuyển hai bên quốc lộ. Con đường rầy xe lửa nằm song song quốc lộ về hướng tây ở sườn phải, rất nhiều người lính bỏ nón sắt xuống và đội chiếc mũ đỏ quen thuộc lên đầu.
Cách Huế khoảng năm cây số, con đường sắt thu nhỏ lại chỉ còn cách quốc lộ khoảng một trăm thước làm cho các người lính Mũ Đỏ phải di chuyển qua tay mặt một chút để dễ kiểm soát phía bên kia đường xe lửa. Lúc gần 12 giờ trưa, khi Thành Nội nằm trong tầm mắt thì chiếc APC (thiết vận xa M-113) dẫn đầu bị trúng hỏa tiễn RPG, đạn trong xe phát nổ làm chết tám người lính. Đoàn xe dừng lại ngay bên đường.
“Viên đạn bắn từ khoảng giữa quốc lộ và con đường rầy xe lửa, quân địch chờ chiếc APC đến ngay họ, khoảng chừng mười lăm thước rồi khai hỏa,” Chase nói. “Anh sẽ không bao giờ nghĩ người nào lại nằm núp trong vị trí đó, nhưng họ chỉ cần một ít lùm tre bao che mà thôi.”
Đoàn xe nhìn trong sự kinh hoàng trong khi chiếc APC lại nổ bùng lần thứ hai, không một ai có thể lại gần chiếc thiết vận xa để giúp những người lính còn kẹt trong xe. Khi một chiếc APC khác đến gần để nhìn cho rõ hơn, chiếc này cũng bị ăn hỏa tiễn địch. Nhiều người lính nhảy ra khỏi xe và tìm chổ nấp, những chiếc APC còn lại đồng loại khai hỏa đại liên 50 ly và 30 ly vào hai bên đường.
“Khi chúng tôi đến được chiếc APC đầu, thân xác còn lại của những người lính không đầy chiếc nón sắt,” Chase cho biết.
Ngay khi chiếc APC thứ nhì trúng đạn địch, đại đội đầu bên sườn trái của Tiểu Đoàn 7 Dù cũng bị cộng quân bắn vào từ ngay một nghĩa trang lớn trước mặt. Sau khi Trung Uý Minh liên lạc với Tiểu Đoàn 7 Dù, đội hình chiến đấu sẽ được thi hành như thế này, Tiểu Đoàn 7 Dù sẽ xung phong thẳng vào nghĩa trang trong khi các chiếc APC vì không thể di chuyển trong nghĩa trang sẽ bắn yểm trợ.
Quân địch chờ cho các người lính Dù vào tới giữa nghĩa trang thì khai hỏa bắn gục toán quân đi đầu với súng máy, súng cá nhân và đạn súng cối. Rồi thì sự việc lại tệ hại hơn.
“Một trăm năm mươi người lính xung phong ngang qua nghĩa trang và sau khi họ di chuyển được khoảng hơn hai trăm thước thì không còn bóng dáng người nào đứng vững được,” Chase nói lại khi quan sát cuộc xung phong này từ chiếc APC ngay quốc lộ. “Tôi có thể nhìn thấy họ ngã gục từng người một, giống như anh tưởng tượng chiến trận xảy ra trong thời nội chiến vậy.”
Jackson bị choáng váng và kích động khi đứng quan sát tại bộ chỉ huy tiểu đoàn, ông nhớ lại, “Thật là một ngày buồn thảm.”
Vào sáng sớm, Tiểu Đoàn 2 Dù được báo động chuẩn bị cho trách nhiệm trong Huế, trong thời gian di chuyển đến căn cứ cây số 17, tiểu đoàn phải nhổ hai chốt địch và cộng quân cũng giật sập một cây cầu trên đường di chuyển. Lúc 12 giờ trưa tiểu đoàn với quân số ba trăm năm mươi người lính đến được căn cứ cây số 17.
“Không một ai biết được việc gì đang xảy ra tại Huế. Chúng tôi không rõ sự việc nghiêm trọng đến độ nào,” Cobb nói. “Chúng tôi chỉ được nghe rằng họ cần sự giúp đở và cuộc hành quân sẽ ngắn hạn.”
Lúc 2 giờ trưa, sau khi “kiếm” được vài chiếc xe nhà binh, tiểu đoàn rời căn cứ. Hầu hết mọi người đều trang bị nhẹ vì được cho biết đây là cuộc hành quân ngắn hạn.
“Vật tôi nhìn thấy đầu tiên khi đến gần Huế là một đống quân dụng nằm bên vệ đường,” Cobb nói. “Đống quân dụng này được thu lại từ những người lính bị thương và tử trận trước đó. Tôi linh cảm được hôm nay sẽ là một ngày xấu, tôi vội chụp lấy vài trái lựu đạn với ý nghĩ mình sẽ cần đến chúng.”
Tiểu Đoàn 2 Dù sẽ xung phong tấn công vào quân địch, họ sẽ đánh vào bên sườn địch. Tiểu đoàn phó và viên cố vấn phó đại đội, Đại Uý Donald C. Erbes cùng xung phong với đại đội đầu tiên.
“Chúng tôi chạy chưa đến một trăm thước thì viên tiểu đoàn phó bị viên đạn AK-47 bắn ngay cái nón sắt làm ông bị hy sinh ngay tức khắc,” Erbes nhớ lại.
Tuy bị giao động, Đại Uý Erbes vẫn mang xác người tiểu đoàn phó vào sau một ngôi mộ và hối thúc các người lính tiếp tục tấn công. Đại đội kế tiếp với tiểu đoàn trưởng và Đại Uý Cobb cũng đồng loại xung phong tiếp tục cuộc tấn công.
“Một sự việc tức cười khi chạy băng ngang nghĩa trang,” Cobb nói. “Tôi nghĩ Đại Uý Cobb bị tiêu tùng rồi. Tôi ở phía sau đại đội đầu khoảng một trăm thước và trong khi chạy, tôi thấy một làn khói trắng và rồi trái đạn cối 60 ly rơi giữa hai chân tôi, may mắn là đất ruộng lại mềm, trái đạn chui sâu vào lòng đất. Việc kế tiếp tôi biết được là tôi nhào lộn một vòng trên không trung rồi rơi xuống đất bằng hai chân. Chỉ trừ một chút hoảng hồn và một mảnh nhỏ miểng cối trên mũi, tôi không bị gì khác hơn, tôi liền nhìn bộ chỉ huy tiểu đoàn, mọi người lại đang cười tôi. Giữa chiến trận và nhiều người chung quanh đang ngã gục, mọi người lại nhìn và cười tôi, không biết làm gì khác hơn, tôi chỉ biết cười theo.”
Cùng lúc ấy, Đại Uý Erbes cố gắng liên lạc xin pháo binh yểm trợ nhưng không liên lạc được với ai, ông cũng cố gắng gọi Sư Đoàn 1 Không Kỵ xin mấy chiếc trực thăng hỏa lực, sau cùng ông liên lạc được một chiếc trực thăng hỏa lực đang bay trên vùng nhờ chiếc này đến giúp.
“Viên phi công trực thăng cho biết sẽ bay một vòng định vị trí quân bạn trước,” Erbes nói. “Rồi anh ta lại bị bắn rơi. Đó là chiếc trực thăng hỏa lực cuối cùng tôi thấy được trong thời gian tôi ở Huế.”
Các đơn vị được lệnh đóng quân đêm chờ sáng mai sẽ vào Thành Nội, xác các người lính tử trận và thương binh được gom lại, những người lính lo nghỉ ngơi và canh gác đêm.
“Rất nhiều tên địch bị chúng tôi giết bận đồ thường dân làm tôi đoán sẽ dễ dàng cho chúng đột nhập vào thành phố,” Chase nói. “Một việc khác tôi để ý là chúng không cần lấy vũ khí và đạn dược của chúng tôi. Việc này làm tôi tin tưởng bọn chúng đã có sẵn tất cả những gì chúng cần. Bọn chúng đã không cần vũ khí của chúng tôi, bọn chúng đến Huế được trang bị đầy đủ với những vật dụng mà chúng muốn mang theo.”
Phải gần đến nửa đêm mọi người mới nghĩ đến việc phải ngủ một chút. Cobb, Erbes và Jackson nằm trong khu nghĩa trang nhưng rất khó cho họ chợp mắt được.
“Trời thật lạnh và nhiều tiếng động vẫn tiếp diễn chung quanh,” Cobb nói. “Tôi nghĩ đến việc chúng tôi có thể dùng ba lô cá nhân mà chúng tôi đã bỏ lại căn cứ 17. Tôi run mình vì lạnh cả đêm.”
Vào sau nửa đêm, Jackson nói, ông nghĩ, ông nghe một người nào đó nổ máy chiếc APC bị hỏng đang nằm gần quốc lộ.
“Tôi nghĩ quân địch sẽ lấy chiếc APC và dùng nó để tiêu diệt chúng tôi,” Jackson nói. “Chúng tôi thật là không cần điều đó.”
Erbes, dân thành phố Gainesville, tiểu bang Florida, nói ông nhớ hàng chục chất nổ đã nổ vang trong Thành Nội đêm ấy. Ông cho rằng quân địch đã cho nổ tung những gì chúng chiếm vừa được.
Mọi việc lại trở nên nhẹ nhàng vào sáng ngày hôm sau, 1 tháng Hai, đoàn quân tiếp viện đã liên lạc được với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1, bộ tư lệnh cho biết sẽ gởi một trung đội Hắc Báo dẫn đường cho Chiến Đoàn 1 Đặc Nhiệm Dù vào một cổng thành đã được giữ an toàn. Đoàn quân dưới sự hướng dẫn của những người lính Hắc Báo dọn sạch hướng đông dọc theo bờ thành tây bắc mang theo các người chết và bị thương với họ. Chỉ có những tay súng bắn sẻ của quân địch theo quấy rối, trên đường di chuyển những người lính ăn thức ăn mà họ có thể tìm được, vào giữa trưa, họ vào tới Thành Nội.
Chiến Đoàn 1 Đặc Nhiệm Dù báo cáo thương vong: 40 hy sinh, 91 bị thương, thiệt hại nặng nhất là phía Tiểu Đoàn 7 Dù. Họ giết chết 270 tên địch, tịch thu 71 cây súng cá nhân, 25 súng cộng đồng, bắt sống 5 tên địch. Đại Uý Chase báo chi đoàn của ông bị mất 4 chiếc APC trên tổng số 12 chiếc. Nhìn vào các gương mặt của những người lính trong thành Mang Cá, Đại Uý Cobb nói ông có thể biết có chuyện rất to lớn đang xảy ra.
“Mọi người nhìn rất sợ hãi,” Cobb nói. “Một viên cố vấn Hoa Kỳ tiến đến tôi và cho biết tình hình rất nguy biến.”
Chỉ sau hai giờ có mặt trong thành Mang Cá, cả ba đơn vị được mang lên tuyến đầu mở rộng thêm chu vi phòng thủ cho bộ tư lệnh.
Có lẽ chuyến du hành anh dũng vào Thành Nội là do Tiểu Đoàn 1/3 Bộ Binh, tiểu đoàn này bị quân địch chận đánh và bao vây cách đông Huế nhiều cây số. Đại Uý Phan Ngọc Lương, tiểu đoàn trưởng ra trường Võ Bị Đà Lạt năm 1960, ông là một trong những sĩ quan trong giàn sĩ quan xuất sắc của Tướng Trưởng. Lương là một quân nhân kỷ luật, điều khiển tiểu đoàn với bàn tay sắt. Không hài lòng với sự bê bối của một số lính trong tiểu đoàn, ông cho cả tiểu đoàn hành quân tảo thanh địch vào buổi tối ngày 30 tháng Giêng trong ý định trừng phạt lính ông.
“Chúng tôi đi ngay vào cái đuôi của một tiểu đoàn Việt cộng và đối mặt đánh nhau với bọn chúng,” Đại Uý Lương nói. “Và chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi chỉ còn lại khoảng ba băng đạn cho mỗi người lính, quân địch lại bao vây, chúng tôi phải rời khỏi nơi đó.”
Thiếu Tá Lục Quân Gary Webb, cố vấn tiểu đoàn liên lạc được với vài chiếc trực thăng hỏa lực vào lúc sáng sớm, các chiếc trực thăng bắn bao che cho tiểu đoàn thoát khỏi vòng vây quân địch và họ tiếp tục chiến đấu xa tới phía đông bờ biển Ba Làng. Tại nơi đó, Webb gọi trực thăng đến tiếp tế và di tản thương binh.
“Chúng tôi tiêu diệt hơn 100 tên địch và tịch thu rất nhiều vũ khí, nhiều đến nổi chúng tôi không thể mang theo hết,” Lương nói, và sau đó ông cho biết quân bạn hy sinh 15 người, 33 người khác bị thương.
Sau khi được tiếp tế, tiểu đoàn di chuyển qua nhiều chốt địch vào ngày hôm sau và cuối cùng đến được Ba Làng. Tại đây, tiểu đoàn lên ba chiếc thuyền hải quân Việt Nam chạy lên sông Hương và vào được thành Mang Cá vào lúc 3 giờ trưa. Đơn vị lập tức được giao một khu vực dọc theo bờ thành tây bắc. Thiếu Tá Webb đã là cố vấn cho một đơn vị người Thượng trong một nhiệm kỳ trước đó, sau này được tưởng thưởng một trong những huy chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ, Distinguished Service Arward.
Những đơn vị khác vào được thành Mang Cá trong ngày 1 tháng Hai là hai đại đội của 4/2 Bộ Binh, họ được trực thăng vận vào Thành Nội từ căn cứ của họ ở Đông Hà, gần vùng phi quân sự. Đơn vị này đến nơi lúc 3 giờ chiều và được dàn quân ngay khu đông nam thành phố dọc theo bờ thành đông bắc, quân số còn lại của tiểu đoàn cùng với một đại đội của 1/1 Bộ Binh đến thành Mang Cá vào ngày hôm sau. Cũng vào đến thành Mang Cá vào ngày 2 tháng Hai là Tiểu Đoàn 9 Dù, tiểu đoàn chạm nặng với quân địch tại phía bắc Quảng Trị. Tiểu Đoàn 9 được trực thăng Hoa Kỳ vận chuyển vào Huế đóng chung với hai tiểu đoàn 2 và 7 Dù để giúp lấy lại phi trường Tây Lộc.
Tiểu Đoàn 9 Dù chỉ mới vào đóng trong các trại binh tạm thời tại Quảng Trị một ngày trước tết. Hầu hết sáu trăm năm mươi người lính của tiểu đoàn giống như hai tiểu đoàn bạn 2 và 7 Dù đều thất vọng khi biết không được về Sài Gòn ăn tết, nhưng họ cam chịu số phận của họ và cố gắng làm cho tình trạng được tốt hơn.
“Tôi nhớ chắc rằng chúng tôi đã không ăn tết nhiều lắm,” Đại Uý thingy Blair, cố vấn trưởng Tiểu Đoàn 9 Dù nói. “Tôi nhớ có một vài người lính bận đồ múa lân và họ múa lân ngay trên đường phố, nhưng chúng tôi đã không có buổi tiệc ăn mừng tết. Mọi người đi ngủ sớm vào tối ngày 30 tháng Giêng.”
Một phần của Quảng Trị là thành phố “tường” giống như Huế nhưng nhỏ hơn, thành phố nằm trên quốc lộ 1 cách tây bắc Huế khoảng năm mươi cây số, trong này có bộ chỉ huy Trung Đoàn 1 Bộ Binh và Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ, nó cũng là nơi đặt cơ quan MACV, Toán Cố Vấn số 4.
Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 9 Dù cùng hai đại đội nằm trong thành phố Quảng Trị, đại đội thứ ba đóng phía nam thành phố, đại đội thứ tư nằm ở phía bắc thành phố, Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ đóng phía tây cách khoảng một cây số.
Vào buổi tối đêm 30 tháng Giêng, hai Trung Sĩ cố vấn Tiểu Đoàn 9 Dù, Mike Smith, dân thành phố Dahlonega, tiểu bang Georgia và John Church, hai người bạn thân từ hồi còn ở với Sư Đoàn 82 Dù gặp nhau ở câu lạc bộ hạ sĩ quan trong Quảng Trị cho vài chai bia. Hai viên cố vấn hồi tưởng lại những ngày xưa cũ và cụng vài ly và uống một hai chai bia để ăn mừng tết Việt Nam, đó cũng là lần cuối Smith nhìn thấy Church còn sống.
Lúc 3 giờ sáng ngày 31 tháng Giêng, Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhã cho người đánh thức Đại Uý Blair và báo cho ông sẵn sàng vì quân địch đang tấn công vào thành phố.
“Việc đầu tiên tôi làm là gọi máy cho Trung Sĩ Church đang ở với đại đội nằm phía bắc thành phố, tôi không liên lạc được với anh ấy và biết chắc một việc xấu đang xảy ra,” Blair nói.
Quân Bắc Việt di chuyển trong bóng đêm và ngay trong sương mù dầy đặc đi ngay vào đại đội nơi Church đang ở và xóa sạch đại đội này. Quân Nhảy Dù có 40 người hy sinh và 65 bị thương. Church là một trong những người lính bị tử thương.
Đại Uý Blair, dân thành phố Centerville, tiểu bang Virginia để máy liên lạc nội bộ tiểu đoàn và ông nghe được việc điều quân của đại đội này. Một trong những điều ông nghe được là viên đại đội trưởng nói với lính đại đội không cần dùng súng nữa, dùng lựu đạn thanh toán địch. Viên đại đội trưởng này cũng yêu cầu pháo binh bắn ngay vào vị trí đại đội nhưng không được chấp thuận vì quá nguy hiểm.
Quân địch lại không đụng vào Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ, chúng đi ngay sát phía bắc chỗ đóng quân của chi đoàn. Đại Uý Jim Zimmerman, cố vấn chi đoàn đang ở trong cơ quan MACV nằm trong Cổ Thành khi quân địch tấn công. Trong vòng một giờ đồng hồ sau, một chiếc APC được gởi đến và viên cố vấn này có mặt ngay trong trận chiến.
Hơn hai giờ đầu, quân Bắc Việt pháo khoảng 200 viên đạn cối vào thành phố, làm cho mọi người phải kiếm chổ trú ẩn. Khi trận pháo kích giảm đi, Thiếu Tá Nhã và Đại Uý Blair leo lên nóc một tòa cao ốc để quan sát cho rõ ràng hơn. Khi sương mù vừa tan, họ trông thấy quân địch bận đồ xanh rời khỏi cánh rừng và bắt đầu di chuyển vào thành phố.
Đại Uý Blair xoay người sang và hỏi Thiếu Tá Nhã sẽ làm gì?
“Chúng ta sẽ tấn công,” Blair cho biết Nhã đã nói với ông ta. “Lính Nhảy Dù không chết khi chiến đấu trong hố cá nhân. Họ chỉ hy sinh khi xung phong tấn công thẳng vào quân địch.”
Vậy đó, Tiểu Đoàn 9 Dù làm đúng việc đó, đại đội có viên cố vấn Smith xung phong thẳng vào quân địch, vậy mà quân địch với quân số đông gấp bội lại bỏ chạy. Về sau, cùng trong ngày, trực thăng hỏa lực trực thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay đến vùng giao tranh và bắt đầu bắn xuống những vật và những gì họ trông thấy được, kể cả quân bạn.
“Tôi nhìn lên các chiếc trực thăng hỏa lực và khi ấy họ lại bay về hướng chúng tôi. Tôi la to bảo mọi người nằm xuống đất,” Smith cho biết. “Hầu hết những người lính ngồi vào trong hố cá nhân hay núp trong chiến hào. Thật là rởn óc. Tôi vào máy và gọi cho Đại Uý Blair xem thử ông có thể bảo họ ngưng bắn, nhưng bọn họ vẫn tiếp tục bắn xuống.”
Tiểu Đoàn 9 Dù với sự giúp sức của Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ đánh tan các cuộc tấn công của quân địch trong ngày 31 tháng Giêng. Buổi tối hôm đó, quân địch tuy đã có hai trung đoàn đánh Quảng Trị lại gởi thêm viện binh đến từ hướng tây cho lần tấn công cuối cùng. Khi bọn chúng tiến vào ngay một nghĩa trang rộng lớn phía ngoài thành phố, Blair gọi máy liên lạc với các phi cơ Hỏa Long mà các tay lính tác chiến Hoa Kỳ gọi là “Con Rồng Phun Lửa” vì tiếng kêu như hú vang lên từ những khẩu súng máy trong phi cơ.
“Chúng tôi chơi Hỏa Long vào bọn chúng suốt đêm,” Smith nói, “Và khi bình minh vừa đến, có quá nhiều thân xác và các phần thân thể con người nằm đầy trong khu nghĩa trang bao trùm lên cả mặt đất. Tôi không biết có bao nhiêu tên địch bị chúng tôi giết chết. Tôi không bao giờ đếm xác bọn chúng.”
Khi tình hình đã tạm ổn định trong ngày 2 tháng Hai, Tiểu Đoàn 9 Dù giao việc bảo vệ thành phố cho Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ, họ lo việc vào Huế. Các chiếc Sea Knights chia làm hai đợt vận chuyển tiểu đoàn vào Thành Nội Huế, đến chiều tối thì toàn bộ tiểu đoàn vào đến Huế. Tướng Trưởng lập tức gởi họ đến khu vực phía tây thành phố, nơi họ sẽ giúp chiếm lại phi trường Tây Lộc.
Phải cần đến bốn ngày sau thì Chi Đoàn 2/7 Thiết Kỵ mới rời Quảng Trị để về Huế. Sau một tuần lễ giao tranh, đôi khi phải đánh từng nhà một trong Cổ Thành, Quảng Trị được tuyên bố giải tỏa. Quân đội miền Nam cho biết họ tiêu diệt được 1,450 quân địch, tịch thu 485 vũ khí.
Sài Gòn nhỏ ngày 9-8-2008
Nguyễn Văn Phúc
Bản dịch được đăng trên Đặc San Mũ Đỏ số Xuân 63, 2011
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 5, 2014 16:26:37 GMT 9
Trần quang Thuận và chiếc xe chở Quảng Đức đi đốt sống
Hiện nay Trần quang Thuận sống tại Los Angeles …Ông ta ngày xưa cùng với nhóm Hồng Quang và Hồng Phấn muốn lật đỗ Thượng Toạ Thích mẫn Giác để chiếm chùa VN tại Los Angeles ( đường: 857-871 S. Berendo St., Los Angeles ) nhưng bị Thích mẫn Giác ra tay trước , nên họ tức giận tung biết bao nhiêu thơ rơi hạ nhục Thích Mẫn Giác rất nhiều. Thích mẫn Giác có nhờ nhà triết gia ( chưa có bằng cấp Triết ) Phạm công Thiện chống đở. Nên nhớ Thượng toạ Thích Thiện Ân trước khi lâm chung có trao quyền quản trị Chùa cho Thượng toạ Thích thiện Thanh , còn Thích Mẫn Giác chỉ lo vụ hằng pháp mà thôi. Thích Mẫn Giác nhờ đám Trần quang Thuận + Hồng Quang + Hồng Phấn đão chánh Thích Thiện Thanh văng xuống chùa Phật Tổ Long Beach… Sau đó nhóm nầy định lật Thích Mẫn Giác thì Thích Mẫn Giác ra tay trước. Hiện nay nhóm Hồng Quang + Hồng Phần có lập chùa tại quận 11 …đó là Chùa mà dân quanh đó gọi là Chùa Việt Kiều ( sát lưng với trường đua Phú Thọ ). Ai về Saigon mà đến quận 11 hỏi chùa Việt kiều ở đâu thì dân chỉ ngay lập tức. Tên Trần quang Thuận trong nhóm tổ chức tẩm xăng hoà thượng Thích Quảng Đưc…nhờ xe Mercedes cũ của Trần quang Thuận nên qua được hàng rào chận của Cảnh Sát QGVN….Họ tẩm xăng Hoà thượng Thích quảng Đức rồi châm lữa đốt từ ngoài sau lưng phừng cháy chạy tới lưng hoà thượng rồi phừng phừng luôn. Nay xe Mercedes của tên Trần quang Thuận được chánh quyền CS Tp HCM trưng bầy cho công chúng xem thành tích của Phật Giáo lật đỗ chính quyền Ngô đình Diệm…. Nhóm Phật tử Trung kỳ và Thầy Chùa Trung kỳ làm chính trị thì rất tuyệt vời…bất chấp giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni là cấm sát sanh….Họ bất chấp …miễn là danh vọng và quyền hành là xong… Phật tử thuần thành gọi nhóm nầy là Ma Tăng Ác tăng… Đến chùa VN tại Los Angeles chúng ta chỉ thầy hình ảnh oai vệ của Thích Mẫn Giác còn người sáng lập Chùa VN bằng tiền dạy học của mình là Thượng toạ Thích Thiện Ân không biết vụt thùng rác nào mất tiêu. Nên nhớ thượng toạ Thích thiện Ân là giáo sư tại đại học ( 2 năm ) Los Angeles City College ( đường Vermont / Los Angeles) gần chùa VN không bao xa...Ngài dùng tiền mình xây chùa quanh đó... Ngài bão lảnh thượng toạ Thích thiện Thanh đang du học tại Ấn ( đại học Anlanda ) sang chàu VN... Sau đó Thích thiện Ân bão lảnh Thích mẫn Giác từ trại tị nạn Thái Lan sang. Tư cách và đạo dức của Thích Thiện Thanh thì rất tốt. Còn tư cách của Thích mẫn Giác chúng ta biết đây là một sư tổ chuyên chống chánh quyền , chính trị lưu manh thật tuyệt vời. Nay Ngài chỉ dùng một móng tay búng một phát văng Thích thiện Thanh ra khỏi chùa VN. Rồi Ngài búng một móng tay đá văng nhóm Trần quang Thuận + Hồng Quang + Hồng Phấn rất dễ dàng. Tuyệt diệu chính trị vô song. Thượng toạ Thích thiện Ân có rất nhiều đệ tử Hoaky ( trong đó thầy chùa Mỹ đen , tánh rất hiền hậu...Ông có đến lo vụ Phật giáo tại trại tị nạn Indiantown Gap / Pennsylvania ) Tại trại Indiantown Gap / Pennsylvania lúc đó có Tony Lâm làm trưởng trại.\ Tony Lâm đã là nghị viên Westminster / California . Thượng toạ Thích Mẫn Giác sau đó bị ung thư não và mất trong sự đau đớn khôn cùng. Nay chúng ta chờ tên Trần quang Thuận có như vậy hay không. Hiện nay Trần quang Thuận sống tại Los Angeles …Vợ con rất đề huề. Tên Trần quang Thuận lùn thấp người , nụ cười thân thiện nhưng đụng tới là chết ngay…
, Trần Quang Thuận bị CIA sa thải vì vi phạm luật lệ về nghề nghiệp điệp viên, nhưng với lý do Trần Quan Thuận là gián điệp Pháp! William Kohlmann, người tuyển mộ Thuận, đã biện hộ cho Thuận nhưng không được. Chiếc xe Trần Quang Thuận chở HT Quảng Đức đi là xe Austin của ông Tôn Thất Hối, bố vợ của Trần Quang Thuận (Tôi có hình chiếc xe này với số xe). Khi làm công việc này, Trần Quang Thuận đã để lộ vai trò điệp viên của mình, nên bị sa thải ngay sau đó. Nghe nói Hồng Quang là con của Thích Thiện Ân. Tôi chưa kiểm chứng được.
Mấy bữa nay thiên hạ tự nhiên circuler trên youtube 1 cái video về vụ tự thiêu năm 1963
Tui thấy đọan phim youtube này là giã tạo…Không biết ai đó dàng dựng lên với ý đồ gì . Xin coi kỹ, lúc chuẩn bị « tự thiêu » có cảnh sát đứng vòng quanh. Quân phục và huy hiệu trên nón của các nhân viên cảnh sát không phải của VNCH (Dây nịt trắng to bản).
Xin xem youtube tài liệu thật năm 1963 (ở dưới) rồi so sánh….rất nhiều chi tiết cho thấy là đoạn phim trước là dàn cảnh quay lại rất có thể không phải tại VN
|
|
|
Post by Can Tho on May 6, 2015 15:24:09 GMT 9
Đại lộ Kinh hoàngtranlucsaigon.wordpress.com/2011/04/23/d%E1%BA%A1i-l%E1%BB%99-kinh-hoang/Tháng 7 năm 2009, tôi đi trên Đại lộ Kinh Hoàng, phía Nam thị xã Quảng Trị. Đoạn đường này không quá chục cây số, nằm giữa 2 con sông Thạch Hãn ở phía Bắc và Mỹ Chánh ở phía Nam. Mùa hè năm 1972, Bắc quân vượt sông Bến Hải. Quân Miền Nam đã tháo lui trên con đường này, cùng với hàng chục ngàn thường dân. Một trận pháo khủng khiếp từ phía Bắc quân… , và đoạn quốc lộ 1 này đã được mang tên ” Đại lộ kinh hoàng”. Đoạn đường nay đã được làm lại, trông đẹp đẽ. Ít ai còn nhớ đến thảm cảnh đã xảy ra trên con đường này cách nay gần 40 năm. Thật ngậm ngùi! Mời bạn đọc 2 bài viết về Mùa hè đỏ lửa trong loạt bài Quảng Trị 1972 của tác giả Giao Chỉ … Không phải là thắng hay bại, mà cần có cái nhìn nhân bản hơn về cuộc chiến viethoanvu.com/archive/index.php/t-4183.htmlBÊN KIA BẾN HẢI Tác giả : Giao Chỉ, San Jose Ði tìm tài liệu Thời kỳ trước 1975, khi tôi có dịp phụ trách về binh thư tại bộ Tổng Tham Mưu, thường qua bên Phòng Nhì hoặc Trung ương tình báo tìm đọc các sách báo của miền Bắc. Ðọc và ghi chép lại, thêm 1 chút nhận xét, nhưng không phê phán. Ðôi khi phải tóm lược lại để trình lên hay phổ biến nội bộ nhưng tuyệt đối không viết thêm những lời tuyên truyền hay lên án. Ngày nay trên đướng đi tìm tài liệu cho trận Quảng Trị, chúng tôi giữ các nguyên tắc đó. Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thập niên 70. Ðể chuẩn bị cho trận mùa hè 72, Hà Nội bắt lính từ năm 1970. Sau khi vét hết nông dân, qua năm 1971 tổng động viên toàn bộ nhân lực thành thị. Các học sinh và sinh viên trên 18 tuổi chuẩn bị nhập ngũ hết. Cũng trong thời gian này, Nga và Tàu hoàn toàn đồng ý viện trợ cho Hà Nội đánh Mỹ. Trong lúc Hoa kỳ rút quân, bên ta Việt Nam hóa chiến tranh thì Nga Sô viện trợ tối đa cho miền Bắc qua Trung Cộng. Ngay sau trận mùa hè 72, Phan nhật Nam viết cuốn “Mùa hè đỏ lửa” thì 33 năm sau Hà Nội mới cho ra đời 2 cuốn sách viết về Quảng Trị. Ðại tá pháo binh quân đội nhân dân ra đời cuốn “Mùa Hè Cháy” ghi lại con đường nhận pháo Nga Sô từ biên giới Tàu đem về Hà Nội đưa vào đến Quảng Bình, rồi qua Quảng Trị trong trận mùa hè. Với số lượng pháo đủ loại và hỏa tiễn, 5 sư đoàn Bắc quân đã được yểm trợ tối đa để tấn công miền Nam trực tiếp qua Bến Hải. Tất cả đều ghi rõ trong tác phẩm “Mùa Hè Cháy” và chính từ tác phẩm này tôi có thể đối chiếu với tài liệu còn lưu giữ để có được những trang sử gần chính xác về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vào năm 2005 một tác phẩm khác tựa đề “ Một Thời Hoa Lửa” đã ra đời, cũng nói về đề tài Quảng Trị. Bài viết này sẽ ghi lại rất nhiều chi tiết từ Hoa Lửa do các tác giả miền Bắc sáng tác. “Mãi mãi tuổi 20” Bên lề tài liệu chính kể trên, tập hồi ký được Hà Nội nhắc nhở đến nhiều nhất là: “Mãi mãi tuổi 20,” hồi kýcủa 1 thanh niên tên Nguyễn văn Thạc. Anh là SV đại học Tổng hợp Hà Nội. Ði lính binh nhì truyền tin ngày 6-9-1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, chưa đầy 20 tuổi và chưa đủ 1 năm lính. Anh bị pháo cắt ngang đùi trái, mất máu nhiều quá nên đã chết. Chôn ngay tại mặt trận Quảng trị. Thạc để lại cuốn nhật ký 260 trang, viết trang cuối vào ngày 27-7-1972. Ba ngày sau tử trận. Tháng 5-1973 tức là gần 1 năm sau, gia đình chưa có tin tức của đơn vị, nhưng được đồng đội về báo tin. Sau tháng 4-1975 gia đình không có phương tiện đi tìm xác. Phải chờ đến cuối năm 1976 mới có điều kiện đi tìm. Cải táng từ quận Triệu Phong về huyện Từ Liêm, gần Hà nội vào dịp tết 1977. Tôi đã đọc 2 lần 260 trang sách nhưng không tìm được những dữ kiện về trận Quảng Trị. Hồi ký ghi lại 10 tháng trong quân ngũ của 1 thanh niên miền Bắc, nhưng mới vào trận đã bị thương rồi chết. Nội dung là lời lẽ chân thành đơn giản nhưng không có tình tiết hấp dẫn. Tác phẩm này được giới trẻ tìm đọc vì đã nhắc đi nhắc lại đến tình yêu tuổi học trò với cô bạn học Như Anh. Cô này hiện nay là di dân sống tại Ðức quốc. Vì tác phẩm nặng về tình yêu và thiếu quyết tâm nên đã không được phổ biến suốt 33 năm. Phải chờ đợi đến thế kỷ thứ 20, nhạc vàng miền Nam chinh phục hoàn toàn nền văn hóa vô sản thì hồi ký tình yêu của Nguyễn văn Thạc mới được phổ biến và quảng bá mạnh mẽ. “Một Thời Hoa Lửa” Ðây là tên 1 tác phẩm, đồng thời cũng là tên 1 chương trình do đài truyền hình Việt Nam tại Hà Nội và công ty viễn thông quân đội nhân dân phối hợp tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 2005. Ban tổ chức mời tất cả bộ đội đã tham dự trận Quảng Trị trên 1.000 người về lại Thành Cổ để dự 1 chương trình văn nghệ. Cùng 1 lúc họ tập hợp lối 5.000 sinh viên Hà Nội tại sân trường đại học Khoa học, Xã hội, Nhân văn cùng tham dự. Báo Nhân dân đã ghi lại là vào ngày 6 tháng 9 năm 1971 tại 30 sân trường đại học và cao đẳng, tổng cộng 10.000 sinh viên lên đường nhập ngũ. Như vậy là 34 năm trước đảng cộng sản đã động viên hầu hết các sinh viên miền Bắc để tấn công miền Nam. Có nhiều trường đại học sau đó đóng cửa, các giáo sư cũng vô lính với học trò. Hầu hết có được 4 tháng huấn luyện và đầu năm 1972 tất cả lên đường vào Nam tham dự vào 3 mặt trận. An lộc, Kontum, và Quảng trị. 70% bộ đội hy sinh hoặc bị thương. Gần như hy sinh toan bộ các đơn vị thuộc Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội tập kết. Qua đến trận Mùa hè 72 đảng cộng sản Việt Nam hy sinh khối nhân lực trí thức tương lai của miền Bắc. Người có quyết định sắt máu đó là Lê Duẩn. 81 ngày lịch sử Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/3/1972 trung đoàn pháo Bông Lau khai hỏa trận địa pháo vào căn cứ Carroll, Ái tử và Mai lộc. Ngày 2 / 4/1972 căn cứ Carroll thất thủ. Sau đó Ái Tử, Mai Lộc rồi Quảng Trị đều rút quân. Một tháng sau, ngày 1 tháng 5-1972 Bắc quân chiếm đóng toàn thể tỉnh Quảng Trị từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh. Xác người và di sản chiến tranh vẫn còn trên quốc lộ số 1 đã trở thành đại lộ kinh hoàng. Hội nghị hòa đàm Paris bước vào năm thứ 4. Hoa kỳ đơn phương rút quân. Khối cộng sản Nga Sô và Trung Cộng đổ chiến cụ và tiếp viện tối đa vào miền Bắc. Mở đầu cho giai đoạn thử thách Việt Nam hóa chiến tranh, quân lực Việt nam Cộng hòa hành quân Lam Sơn 72, Nam quân vượt sông Mỹ chánh ngày 28 tháng 6-1972 và kết thúc việc chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9-1972. Sau 81 ngày tại một chiến trường khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Báo chí miền Bắc gọi là Cuộc đụng đầu của lịch sử. Hơn 30 năm qua và cho đến ngày nay, Hà Nội luôn luôn nhắc đến chiến tích đã cầm cự được 81 ngày. Tại viện bảo tàng lịch sử Cổ Thành hiện nay có bảng tưởng niệm với 81 tờ lịch ghi dấu 81 ngày trong cuộc chiến mùa hè 72. Thêm vào đó có 11 tấm phù điêu tiểu sử 11 chiến binh đã có mặt trong Cổ Thành và còn sống đến ngày nay. Mỗi người đều ghi lại cuộc đời sinh viên, nhập ngũ, chiến đấu và trở về. Ðó là phù điêu gọi là Dương bản. Còn Âm bản là mộ bia tưởng niệm chung trên 10.000 bộ đội đã hy sinh. Trong đêm văn nghệ Hoa Lửa 31/10/2005 họ đã dùng 81 nhạc công trong ban hòa tấu để nhắc lại ý nghĩa của 81 ngày lịch sử. Cổ Thành gian khổ Cũng theo tài liệu của miền Bắc, tuyển tập Hoa Lửa ghi lại bút ký, bài viết và lời phát biểu của gần 100 nhân vật về trận mùa hè 72. Sách xuất bản năm 2005 ngôn ngữ Hà Nội đã khác biệt với tài liệu tuyên truyền phổ biến trước và sau 1975. Không còn những lời miệt thị miền Nam. Họ gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, trung tướng Ngô quang Trưởng. Ðồng thời qua tài liệu với nội dung mở rộng đã có đề cập đến số tổn thất, thương vong khủng khiếp, nỗi sợ hãi, việc đào ngủ của chiến binh. Ðặc biệt có những chỗ ghi rõ tuổi tân binh có nhiều em dưới 18 tuổi. Các chú lính mới chưa được huấn luyện và cán bộ quân sự đã dạy bắn hay ném lựu đạn lúc còn ở dưới hầm trong Cổ Thành. Họ lùa tất cả đám lính mới qua sông rồi sẽ huấn luyện sau. Cuộc sống của hàng ngàn bộ đội dưới hầm là một thế giới cực kỳ gian khổ. Các hầm đều ngập nước. Không đủ nước uống. Không đủ ăn. Ðiều kiện vệ sinh hết sức khốn nạn. Người sống ở chung với thương binh và người chết. Trên 20% thương vong khi vượt sông Thạch Hãn. Sau đây là 1 đoạn nguyên văn của cán bộ quân sự viết lại: “Trong 81 ngày đêm đó, trung bình hàng đêm có 1 đại đội tăng cường hơn 100 người vượt sông và cũng từng đó con người đã ra đi không trở về. Máu thịt hòa vào nước sông trôi ra cửa Việt “. Một chiến binh khác viết về những ngày sau cùng: Ðêm 13/9/1972 Hồ Tú Bảo là sinh viên đại học toán, làm trinh sát cho sư đoàn 325 được lệnh qua sông vào tiếp viện. Suốt 2 ngày 13 và 14 tháng 9 không vượt được sông Thạch Hãn, Ngày 15 tháng 9-72 chuẩn bị vượt sông nhưng bến đáp cả 2 bờ Bắc Nam không còn nửa. Trong thành vẫn có súng nổ. Ðến ngày 16 /9 /72 thì Cổ Thành Quảng Trị đã hoàn toàn im tiếng. Chỉ còn những ngọn khói bốc lên. Ðơn vị được lệnh rút về và hiện nay anh lính trinh sát sư đoàn 325 trở thành GS tin học tại đại học Hà nội. Cờ bay trên Thành Cổ Phía Việt Nam Cộng Hòa rất hiểu rõ ý nghĩa của việc tái chiếm Cổ Thành để dành thắng lợi trên bàn hội nghị. Phía Hà nội cũng ghi nhận đây là điểm quan trọng nhất. Hòa đàm Paris dự trù tái nhóm ngày 13 tháng 7-1972. Tài liệu của miền Bắc ghi lại rằng: “Tướng Ngô quang Trưởng đôn đốc nhẩy dù phải chiếm bằng được nhà thờ Tri Bưu ngày 12 và sau đó chỉ còn 500 thước đến Cổ Thành thì phải cắm cờ vào ngày 13/7/72. Kết quả quân Dù của VNCH chiếm được Tri Bưu nhưng quân ủy trung ương Hà Nội ra lệnh trung đoàn 48 và 2 tiểu đoàn địa phương, trung đoàn 95 của sư đoàn 325 phải sẵn sàng để chống vụ cắm cờ bằng mọi giá. Một trang báo dài của đại tá Nguyễn hải Như, tham mưu trưởng trung đòan Thạch Hãn đã mô tả về trận quân Dù đánh xong Tri Bưu nhưng thất bại trong việc treo cờ Cổ Thành ngày 13/7/72. Sau trận đánh đẫm máu mà lính mũ đỏ hy sinh rất nhiều. Tài liệu của cộng sản cũng ghi rỏ cách đánh rất dũng mãnh của cả 2 binh đoàn nhẩy dù và thủy quân lục chiến trong trận Cổ Thành. Bên Việt Nam Cộng Hòa có lợi thế thay quân. Ðánh rồi ra nghỉ. Ðưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa. Trong khi phía miền Bắc không có điều kiện thuận tiện vì thay quân là phải qua sông và thương vong trên sông Thạch Hãn rất cao. Sau cuộc chiến. Cũng từ tài liệu của miền Bắc ghi lại, trên toàn thể Việt Nam, Quảng Trị là nơi có 2 nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất. Nghĩa trang Trường sơn và nghĩa trang Quảng Trị. Phần lớn chiến binh cộng sản tử trận được gom lại chôn tại Quảng Trị. Một số lớn còn thất lạc. Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa khi qua Mỹ được hỏi về di hài lính Mỹ cũng đã tiết lộ thêm về các mộ phần của bộ đội tại miền Nam do bên ta chôn cất. Phía Hoa Kỳ có chuyển tin tức này cho Hà nội. Tuy nhiên về việc tìm kiếm mộ phần của phía Việt Nam Cộng Hòa trước 75 bao gồm thêm di hài tù tập trung “cải tạo“ hiện vẫn chưa được chính quyền Hà Nội lưu tâm. Gần 35 năm sau tháng 4-1975 dân Việt tỵ nạn đã có cả triệu lần trở về cùng với hàng tỷ mỹ kim gửi quà hàng năm, nhưng vết thương chính trị vẫn còn là gánh nặng nên chưa giải tỏa được con đường vào chốn tâm linh. Ông Nguyễn đặc Thành, một HO can đảm đang đặt vấn đề cải táng di hài tù chính trị. Hồ sơ qua tòa đại sứ Hoa Kỳ gửi cho Hà Nội vẫn chưa được chính phủ cộng sản cứu xét. Thuần túy trên lãnh vực tâm linh, nghĩa tử nghĩa tận, chỉ có chính quyền Hà Nội mới có thẩm quyền và trách nhiệm tối thiểu đối với di hài chiến sĩ miền Nam. Với danh nghĩa người Mỹ gốc Việt, với sự cộng tác mạnh mẽ của tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam, việc tìm kiếm tảo mộ di hài chiến binh miền Nam đưa về nguyên quán hay chôn tại Nghĩa trang Biên Hòa với sự bảo quản tối thiểu, không có gì khó khăn. Hà Nội đã bước vào kỷ nguyên mới, phải ý thức được những điều phải làm trong trách nhiệm với lịch sử dân tộc, theo trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại. Ðể kết luận câu chuyện về Quảng Trị, chúng tôi xin kể hầu quý vị 1 câu chuyện. Năm 1992, hai mươi năm sau mùa hè 72, Hội VMA ( Vietnam Memorial Association ) gồm các cựu chiến binh Hoa Kỳ muốn hàn gắn thương đau của Việt Nam hậu chiến. VMA dự trù xây trường học tại các nơi hẻo lánh cả 2 miền Nam Bắc. Ban quản trị họp để tìm 1 địa điểm đầu tiên. 8 ông bà Hoa Kỳ bàn về các địa điểm. Ý kiến khác biệt, Cô Kiều Chinh là người Việt duy nhất, đồng sáng lập viên của VMA đã đề nghị ngôi trường đầu tiên sẽ xây tại Quảng Trị. Nơi mang vết thương lớn nhất của chiến tranh Việt Nam. Nơi chia cắt 2 miền suốt 21 năm. Toàn thể VMA đều đồng ý chọn đất cho ngôi trường tại Ðông Hà coi như món quà của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn cộng sản gửi lại quê hương. Bức thông điệp đẹp đẽ biết dường nào. Năm 1954, cha của cô bị Việt cộng bỏ tù không bản án và chết trong tù. Thêm một ngôi trường được xây cất tại làng Mọc, quê hương của ông Nguyễn Cửu, thân phụ của cô Nguyễn thị Chinh, tên thật của tài tử Kiều Chinh. Cô ra đi lúc còn nhỏ 1954 và từ đó không bao giờ thấy được mặt cha. Trong phim “Người tình không chân dung” có đoạn Kiều Chinh quay tại nghĩa trang Biên Hòa cũng vào năm 1972. Một ngày nào đó, cô sẽ lên thăm lại nghĩa trang quân đội miền Nam, nơi có rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị mùa hè 72. Không thiếu bất cứ 1 quân binh chủng nào, không thiếu bất cứ màu cờ sắc áo nào. Kể cả lính Dù chết dưới chiến hào với cờ vàng pha máu và lính thủy quân lục chiến hy sinh trong thành nội 10 ngày sau cùng, chưa thấy được lá cờ bay trên trời xanh của Cổ Thành Quảng Trị. Phía bên kia Bến Hải một thời, có câu chuyện của họ. Bây giờ đến lượt chúng ta phải kể lại câu chuyện của mình. Nếu anh không nói, ai nói. Bây giờ không nói, bao giờ. Vì vậy sau khi nghe chuyện bên kia, chúng ta hãy nói chuyện bên này. Rồi mai đây, vào năm 2025, nửa thế kỷ sau cuộc chiến, sử Việt sẽ ghi rằng chiến tranh Việt Nam đã làm chết 2 triệu dân trên khắp các miền đất nước. Riêng tại Quãng Trị, mùa hè năm 1972 cuộc chiến dằng xé điên cuồng đã giết chết 50 ngàn thanh niên của cả hai miền Nam Bắc. Lịch sử sẽ không cần ghi phần tổn thất hay thắng bại của các đơn vị. Sau này những đóa hoa tưởng niệm thả xuống dòng Thạch Hãn hay con sông Bến Hải sẽ cùng trôi ra biển Ðông. Thể hiện tấm lòng của thế hệ tương lai gửi chung cho tất cả linh hồn các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến tương tàn cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam. NGƯỜI NHÂN CHỨNG QUA ĐÊM TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên quốc lộ số 1. Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan nhật Nam đã viết “ Mùa hè đỏ lửa “. Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa “ đã gắn liền vào tên tuổi Phan nhật Nam. Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy“ của đại tá pháo binh “Quân đội Nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành Ðại lộ Kinh Hoàng. Chúng tôi vẩn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng. Anh phóng viên của bộ Thông Tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Ðại lộ Kinh Hoàng thật hay. Câu chuyện dừng tại đó. Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Ðại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 72 đã nói rằng : “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.” Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay 68 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 72 và trận 75. Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi. Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử. Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợ có bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bẩy, tám tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ Bac của sông Thạch Hãn. Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống. Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại 1 cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích. Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 3 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia đình cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ. Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng : Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu. Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu. Năm nay cháu cũng 24 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào. “Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Ðứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.” “Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I . Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA. Bờ sông Mỹ Chánh và cây cầu mới năm 2009. Mùa hè năm 1972, Nam quân và thường dân đã chạy qua "Đại lộ Kinh hoàng" để rút về phía Nam sông này Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.” Ðó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Ðại lộ kinh hoàng.” “ Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ “. Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra. Số là vào mùa hè năm 72 đó, có anh phóng viên trẻ tuổi bút hiệu Ngy Thanh cũng ra chiến trường Quảng Trị. Anh đã bỏ ra cả 1 ngày dài trên đoạn đường oan nghiệt. Chụp hình các xe cháy, các xác chết và có được 1 bộ hình hết sức đặc biệt. Khi về lại Saigon viết loạt bài phóng sự, anh có đặt tên là Ðại lộ Kinh Hoàng. Câu chuyện làm xúc động độc giả tại thủ đô. Chủ nhiệm là chị Trùng Dương bèn cùng anh chị em quyên góp tiền bạc ra Trung tổ chức nhặt xác và chôn cất. Câu chuyên ngày đó có lẽ ai cũng biết, nhưng ngày nay ai cũng quên hết cả rồi. Hành động của báo chí và đồng bào tự nguyện đứng lên lo việc chung sự cho nạn nhân của đại lộ kinh hoàng là 1 câu chuyện ý nghĩa nhất trong phần nhân bản của trận Quảng Trị mùa hè 72. Hai tháng sau đêm kinh hoàng của ông Phan văn Châu, quân miền Nam vượt sông Mỹ Chánh, phản công tái chiếm Quảng Trị. Người phóng viên chiến trường trở lại quốc lộ số 1. Sau đây là phần trích lại bài phóng sự đăng báo Sóng Thần năm 1972 của Ngy Thanh. ” Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng, không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến. Những mũi dùi tấn công của Nhảy dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên qua sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có 2 cầu. Cầu xe hơi trên QL 1 bị phá. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gãy gục, đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V. Khu đất đầu cầu do QLVNCH trấn giữ trước đó đã được đặt nhiều mìn chống chiến xa. Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẫn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gãy qua bên bờ Bắc, lách giữa đám mìn chống chiến xa để quay lại QL 1. Trước mặt chúng tôi, ngay trên bề mặt quốc lộ là xác xe. Chiếc ngược, chiếc ngang, phần lớn giở mui, không biết vì lý do gì. Nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy, nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông. Chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở, và thấy xác thương binh chết nằm, chết ngồi trong đó. Mùi tử khí đã thành mùi thối, thay vì mùi nồng của xác người như khi mới chết ít hơn 2 tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát 2 bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía Đông, là khu vực có người tiếp cứu trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát này, chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân, cảnh sát và thường dân. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bắn chết khi đang chạy tới để thoát hiểm”. (Ngy Thanh) Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của 1 đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa 1 chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở đại lộ kinh hoàng vẫn là 1 hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được. Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của 1 nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của quân đội Nhân dân, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tác phẩm “ Mùa hè cháy “xuất bản năm 2005 tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122 pháo 130, pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên quốc lộ số 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy. Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn. Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972. Ðịnh mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sửa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước. Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây… Giao Chỉ, San Jose
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 27, 2016 9:55:03 GMT 9
Trận Đánh Đuổi Giặc Cộng ở Huế. Tết 1968( tài liệu hiếm) NGÔN NGỮ NGƯỜI LÍNH SÀI-GÒN NĂM XƯA...!!!( SAMBO SAMBO KBC 3335. ) * * * Ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975 mang đậm chất “lính”. Cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó đang trong thời kỳ “leo thang chiến tranh” với lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ. Thanh niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, chỉ trừ một số trường hợp được “hoãn dịch” vì lý do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn. Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu thơ: Rớt tú tài anh đi trung sĩ, Em ở nhà lấy Mỹ cho xong… Thời nào cũng vậy, một số con ông cháu cha cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân dịch”. Một trong những cách “trốn lính” là tìm đường đi du học, hay cùng lắm, khi bị “bắt lính” lo “chạy” để được phục vụ trong các đơn vị không tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn được gọi là “lính kiểng”. Đôi khi loại “lính kiểng” còn được gọi là “lính cậu”. Đây là loại “lính nhưng không phải là lính” nếu đem so sánh với những chiến binh ngày đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền đồn heo hút hay rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ chi binh” không phải lúc nào cũng đúng như ý nghĩa vốn có của nó. Hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, kẻ trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ quần áo lính. Đó có thể là sắc áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như Nhảy dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt cách dù (Airborne Ranger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong trận chiến An Lộc đã nổi tiếng với 2 câu thơ: “An Lộc địa, sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong thân” hay Thủy quân lục chiến đội trên đầu chiếc mũ “mũ be-rê xanh” còn Biệt động quân thì lại chọn màu mũ nâu. Tuy nhiên, mũ bê-rê chỉ dùng khi về phép và các dịp đặc biệt, khi ra trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót lớp “mũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc là vậy chứ nhiều khi đạn vẫn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần. Lính bộ binh thì “hiền” hơn với bộ kaki, sau này được thay thế bằng bộ quân phục “bốn túi”, áo bỏ ngoài quần, giống như lính Mỹ. Đặc điểm của bộ binh là phải “gom ống quần” trong khi Không quân và Hải quân được thả ống quần, “lè phè”, thoải mái. Cũng vì thế lính Không quân và Hải quân sợ nhất là bị “gom ống quần lội bộ”, ám chỉ bị thuyên chuyển sang bộ binh để đi tác chiến. “Giày trận” được gọi là “bốt đờ sô” (botte de saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với những đôi giày bằng vải bố, được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn giày thường. Ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh niên dù “đăng lính” hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một trong những thủ tục là làm “thẻ bài”. Tấm “thẻ bài” là vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời gian tại ngũ của quân nhân. Mỗi quân nhân bắt buộc có hai tấm “thẻ bài” bằng kim loại không gỉ, được đeo bằng sợi dây cũng bằng kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ bài được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm tài liệu báo cáo. Hình trên là tấm thẻ bài của tướng Nguyễn Văn Điềm, “số quân” 50/200.102, ông thuộc loại máu A. Hai số đầu của “số quân” là năm sinh sau khi trừ 20. Như vậy, tướng Điềm sinh năm 1930 (50 – 20 = 30). Tôi sinh năm 1946 nên có hai số đầu là 66: 66/168.566. “Số quân” của người lính tựa như “số an sinh xã hội” (social security number của Mỹ gồm 9 số), số “căn cước” (thời VNCH). Bài hát “Tấm Thẻ Bài” qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy đã gây nhiều xúc động trong lòng người nghe và mãi đến bây giờ, mỗi lần được nghe lại bài hát nầy hoặc là nhìn thấy lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm ngùi và thương tiếc những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Nhạc sĩ Huyền Anh đã viết những câu thật xúc động: Sau cuộc chiến này còn chi không anh? Còn chi không anh? Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài Đã mờ mờ mang tên anh. … Anh đã đi, đã đi vào vùng biển đời người Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ úa Anh ơi sau cuộc chiến này Có còn chi để lại Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang tên anh.. Trong số các món quân trang, quân dụng được cấp phát, ngoài chiếc balô người lính còn có poncho là một tấm vải mưa trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho lại còn có một công dụng mà bất cứ người lính nào cũng chẳng muốn sử dụng: poncho sẽ được dùng để khâm liệm xác của tử sĩ bỏ mình trên chiến trường… * * Khẩu hiệu chính của quân đội VNCH là “Danh dự – Trách nhiệm – Tổ quốc”, mỗi binh chủng lại còn có khẩu hiệu riêng, chẳng hạn như Không quân là “Tổ quốc, Không gian”, “Bảo quốc, Trấn không” hoặc Cảnh sát thì có “Cảnh sát Quốc gia, Phục vụ Đồng bào”… Các đơn vị quân đội VNCH ngoài tên gọi còn có những “biệt danh” nghe rất kêu nhưng cũng rất ngổ ngáo. Thủy quân lục chiến có Quái Điểu (tiểu đoàn 1), Trâu Điên (tiểu đoàn 2), Sói Biển (tiểu đoàn 3), Kình Ngư (tiểu đoàn 4), Hắc Long (tiểu đoàn 5), Thần Ưng (tiểu đoàn 6), Hùm Xám (tiểu đoàn 7), Ó Biển (tiểu đoàn 8), Mãnh Hổ (tiểu đoàn 9). Biệt động quân có biệt hiệu “Cọp ba đầu rằn”, Không quân có các phi đoàn Thần Phong, Thần Tượng, Song Chùy, Phi Hổ, Hổ Cáp, Thiên Lôi, Hỏa Long, Phượng Hoàng… Quân lực VNCH có một số cơ sở đào tạo và huấn luyện. Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, đào tạo những thanh niên tình nguyện trở thành sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bậc Thiếu úy. Khi mới thành lập năm 1948, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo dài 9 tháng. Năm 1957 tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là 2 năm. Đến giữa thập niên 1960, khóa học của Trường Võ bị Đà Lạt là chương trình 3 năm, từ năm 1966 trở đi lại tăng lên 4 năm. Học trình lúc đầu tương đương với trường cao đẳng. Sinh viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường đại học vì coi như hoàn tất bằng Tú tài toàn phần (gồn Phần I, lớp Đệ nhị và Phần II, lớp Đệ nhất). Đến năm 1966, sinh viên tốt nghiệp Trường Võ Bị có văn bằng tương đương với bằng cử nhân khoa học. Hai năm đầu sinh viên mang cấp bậc trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với cấp thiếu úy. Khóa học bao gồm những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến, kết hợp lý thuyết với thực hành. Theo truyền thống, để được gắn Alpha, sinh viên sĩ quan sau những tuần huấn nhục phải leo lên ngọn Lang Biang để nhận phù hiệu trên đỉnh ngọn núi cao nhất Đà Lạt. Trường Võ bị Quốc gia lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu mực. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong đó 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 3/4 thuộc Lục quân. Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tập họp các thanh niên có bằng Tú tài Phần I trở lên (lớp Đệ nhị) bị động viên vào quân ngũ để được đào tạo trở thành sĩ quan trừ bị và ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. Trong suốt thời gian hoạt động 1953-1975, trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt là những hạ sĩ quan được đặc cách đi học lớp sĩ quan. “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Cư An Tư Nguy” (Muốn sống hòa bình phải nghĩ đến chiến tranh) là những châm ngôn của Trường. Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tôi đã từng trải qua với vô vàn kỷ niệm, vui cũng như buồn rất khó quên. Bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, leo dây tử thần, hít đất, thụt dầu, phạt dã chiến là những món “ăn chơi” không thể thiếu trong thời gian “huấn nhục” của người chiến binh. Vui nhất phải kể đến những lần về phép cuối tuần tại Sài Gòn nếu không có lệnh “cấm trại 100%”. Người ta thường gọi sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng tôi là “lính con cá” vì trên cầu vai không có lon mà chỉ có chữ Alpha tựa như hình con cá! Phải đợi đến khi tốt nghiệp ra trường mới được đeo lon Chuẩn úy (Omega). Trường Bộ binh Thủ Đức có “khu bưu chính” (KBC) mang số hiệu 4100, con số 4100 (bốn ngàn một trăm) được sinh viên chúng tôi đọc trại thành “bốn người một mâm”… chả là vì mỗi khi lên “nhà bàn” ăn cơm thì cứ bốn người ngồi chung một carrée! Tại Sài Gòn còn có Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chuyên đào tạo binh sĩ cho các đơn vị tác chiến khắp “bốn vùng chiến thuật”. Tôi cũng đã từng nếm mùi quân trường Quang Trung trước khi được chuyển sang Thủ Đức ở giai đoạn 2. Quang Trung có món “chà láng”: những lúc rảnh rỗi tất cả phải ra giao thông hào, dùng càmen bằng inox để chà đất cho thật láng! Một việc làm “vô bổ” nhưng lại có tác dụng khiến cho những thanh niên mới khoác áo lính phải bận rộn, không còn thì giờ rảnh rỗi để nhớ nhà, nhớ cuộc đời dân sự. Trường Huấn luyện Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân và Trường Hạ sĩ quan (tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, thường được gọi là Trường Đồng Đế) tất cả đều ở Nha Trang, “miền quê hương cát trắng”. Trường Thiếu sinh quân đặt tại Vũng Tàu, ưu tiên cho các con em tử sĩ. Còn một số trung tâm huấn luyện chuyên môn cho các quân binh chủng như Pháo binh, Công binh, Quân cụ, Quân khuyển, Quân y, Truyền tin… đặt tại các địa phương trên cả nước. Sẽ là điều bất công nếu không nói về Đoàn Nữ Quân Nhân, “những bông hồng trong bộ đồ lính” hay nói một cách thi vị hơn: “Hoa lạc giữa rừng gươm”. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân đầu tiên là Đại tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn Mẹo – Tổng trưởng Công chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nữ quân nhân hiện diện tại các đơn vị quân đội với quân phục tác chiến ở tiền phương hoặc với đồng phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu. Họ có mặt trong mọi binh chủng và ngành chuyên môn trong quân lực và vào thời điểm “leo thang chiến tranh”, quân số của Đoàn Nữ Quân Nhân lên tới xấp xỉ 10.000 người. Trường Nữ Quân Nhân nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại, giữa Trường đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường được thành lập từ giữa thập niên 1960 và đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hồ Thị Vẽ, từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, 30/4/1975. … Ngoài ra còn có Trường Xã Hội Quân Đội thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô nằm trên đường Lê Văn Duyệt. Trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo và huấn luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại các trung tâm, trường học ở khu gia binh thuộc quyền điều hành của quân đội. Trường Sinh ngữ Quân đội nơi tôi giảng dạy cũng có một nhà trẻ dành cho con em của các giảng viên và do nữ quân nhân phụ trách. … Lực lượng quân đội VNCH có đến 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp, Lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị Pháo binh biệt lập và lực lượng Địa phương quân gồm 400 tiểu đoàn, nghĩa quân hơn 50.000 quân. Những con số vừa nêu rõ ràng là nói lên sức mạnh hùng hậu của quân lực VNCH. Chỉ tiếc một điều, sức mạnh đó sẽ không là gì một khi đồng minh “đem con bỏ chợ”…
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:31:38 GMT 9
KỴ BINH QLVNCH: TRẬN CỬA VIỆTĐã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…Riêng tôi là một trong hàng trăm chiến sĩ của QLVNCH có mặt trong trận đánh đó. Ở đây tôi không dám lạm bàn về Anh Hùng hay Bại Tướng mà chỉ muốn nóí lên niềm tự hào của môt người lính Thiết Giáp trên chiến trường giới tuyến vì đã tham dự nhiều trận chiến trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 và trận đánh ác liệt, đẫm máu, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất, mở đường cho những trận tái chiếm tỉnh lỵ và Cổ thành Quảng Trị, và lại có mặt trong cuộc hành quân tái chiếm Cửa Việt: Một cuộc hành quân thần tốc do Thiết Giáp làm Lực Lượng Tấn Công chính, phải chiếm cho bằng được mục tiêu trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vượt qua đoạn đường hơn 10 cây số với vô vàn chốt và tuyến chặn của địch mà trước đó các đơn vị bạn đã phải mất hàng tháng trời, khó khăn lắm mới tiến lên được vài trăm mét, sau cùng vẫn bị đẩy lui về vị trí ban đầu…….
“Truth is the only merit that gives dignity and worth to history.” Lord Acton
Toàn bộ quá trình kế hoạch Hành Quân mang tên Tango bắt đầu từ buổi họp hành quân đặc biệt vào lúc 09:00 giờ ngày 26/01/1973 tại Phòng Họp Hành Quân BTL/Lữ Đoàn 147/TQLC tại Hội Yên, Hải Lăng, Quảng-Trị, gồm có:
– Tr/tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1) – Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC) – Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLP/SĐ/TQLC) – Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC – Các Thiết Đoàn trưởng gồm:
– Tr/tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn20CX), – Tr/tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn17KB), – Th/tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn trưởng TĐ18KB)
– Các T/Đoàn trưởng TQLC – Và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (C/Đoàn trưởng CĐ1/20CX)
NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT
Lệnh của Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu:
– Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/01/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris)
TỔNG CHỈ HUY CUỘC HÀNH QUÂN TANGO
Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)
CHỈ HUY CÁC CÁNH QUÂN
Cánh A (Nổ lực chính) Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 1/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ).
Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng C/Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.
Lực lượng gồm:
– C/Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/C/Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:
– Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), C/Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). C/Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
– ĐĐội4/TĐoàn2TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)
Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/01/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.
Cánh B (Nổ lực phụ) Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 3/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ).
Thiết Đoàn 20 Chiến Xa M48 – Quảng Trị 1972
Lực lượng gồm:
– C/Đoàn 3/20CX (- 1 C/Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm12 CX M.48 + M.113
Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:
– C/Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) C/Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).
– ĐĐ3/TĐoàn4TQLC (Kình Ngý) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)
Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.
– T/Đoàn 4 (-) TQLC của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống (khóa 16 TVBQG/VN), có nhiệm vụ phải tiến quân theo sau Cánh A, điền trám vào những mục tiêu đã được Thiết Giáp càn lướt qua và diệt những ổ kháng cự còn sót lại trong các mục tiêu. – T/Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đ/Đội của T/Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng bắc.
Giờ G (xuất phát tấn công): 07:00 ngày 27/01/1973
– Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
– Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
– Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
– Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
– Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
– Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
– Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.
Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.
Sau khi Đ/tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
“Thưa Đại tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các T/Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”
Và Ch/tướng Lân nói:
“Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”
Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng C/Đội của mình phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung bảo Đ/u Cảnh (C/Đoàn trưởng 2/17TK) cùng C/Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.
(- Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Ch/Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Th/Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.
– Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các T/Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)
Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp:
– Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?
– Tại sao không để cho mình chỉ huy C/Đoàn (-), tức là 2 C/Đội cơ hữu của C/Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 C/Đội và lại tăng phái cho mình 1 C/Đội của C/Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?
– Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?.
Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra C/Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của C/Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là C/Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ C/Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với C/Đoàn 2/17TK và 1 Đ/Đội TQLC của T/Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.
Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/C/Đoàn 1/20CX cùng C/Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐoàn 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho C/Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn C/Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.
Khoảng 17:20, các C/Đội và C/Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đ/Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết
Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.DIỄN TIẾN TRẬN ĐÁNH Khoảng 05:30 ngày 27/01/73, Đ/Đội 4/TĐ2 TQLC của Tr/u Công đến trình diện. Tôi gọi Đ/u Cảnh, Tr/u Kính, Th/u Quang, Th/u Sa và Tr/u Công đến họp ngay sau xe M.113 thuộc Phân đội chỉ huy của tôi. Tôi chỉ vào bản đồ vị trí hiên tại, vị trí quân bạn, tuyến xuất phát, tiếp đến nói ngắn gọn về kế hoạch tiến quân của Cánh A, và mục tiêu chính là Cửa Việt. Cũng nói sơ về Cánh B (nổ lực phụ rôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC tùng thiết lên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và chờ lệnh. Chúng tôi chỉ họp trong vòng khoảng 20 phút. Vào lúc này thì Pháo binh đủ loại bắt đầu TOT (time on target) vào các làng dọc theo bờ biển trên trục tiến quân của Cánh A của tôi. Khoảng 06:20 ngày 27/01, tôi gọi về BTL/Hành Quân/ SĐ/TQLC để họ báo cho T/Đoàn 4TQLC ra lênh cho Đ/Đội TQLC đang giữ tuyến đầu rút lui để chúng tôi tiến đến tuyến xuất phát. Khi Cánh A của tôi đến tuyến xuất phát, Pháo binh vẫn còn hoạt động. Chỉ tiếc một điều là đạn pháo chỉ rơi vào bên trong các làng mà VC thì lại đào giao thông hào để bố trí kháng cự hoàn toàn ở ngoài khoảng cát trống nhưng có những ụ cát mấp mô, rải rác những cây bụi nhỏ, phía trước làng. Tôi cho C/Đội CX của Th/u Quang dàn hàng ngang bên phải (song song và cách mé biển chừng 100m), và Th/u Sa dàn hàng ngang bên trái, mỗi chiến xa cách nhau chừng 50m vì còn phải có khoảng trống để cho những M.113 của C/Đoàn 2/17TK dàn hàng ngang xen kẻ giữa những chiến xa nhưng lui về phía sau với cự ly chừng 20m. Tôi chưa kịp ra lệnh tấn công thì địch đã dồn dập nổ súng từ trong làng kèm với đạn cối 82 ly rơi nổ ngay trên tuyến xuát phát. Tôi tức tốc cho lệnh tấn công ngay, dồn hỏa lực đại liên 30 ly M.73 song hành và đại liên 50 ly của Chiến xa và của M.113 vào mục tiêu đầu tiên (làng Gia đẳng 1). Nhưng địch vẫn bắn trả rất mảnh liệt bằng thượng liên và súng chống chiến xa AT-3 cũng như B-41. Điều này khiến tôi hồi tưởng đến trận đánh ở Quảng Tín (Quảng Nam) vào đầu Tết năm 1970, lúc tôi còn làm C/Đoàn Phó C/Đoàn 2/17TK. (Đây là cuộc Hành Quân mang tên Dương Sơn 3 do Lữ Đoàn 1 KB cùng với Liên Đoàn 1 BĐQ do Đ/tá Phan-hòa-Hiệp (TL/Lữ Đoàn 1KB hồi đó) chỉ huy. Khi C/Đoàn tôi đang dàn hàng ngang trước mục tiêu chừng 100m và bắt đầu tiến vào mục tiêu thì địch đã tấn công trước vì chúng đã đào hầm hố và giao thông hào trước mục tiêu chừng 50m. Yếu tố bất ngờ này khiến C/Đoàn lúng túng, nhưng tôi đã ra lệnh tiếp tục tấn công bằng cách dùng đại liên 50 bắn vào mục tiêu, còn 2 khẩu đại liên 30 gắn 2 bên hông phía trên xe M.113 thì bắn vào các ụ đất và lùm cây nhỏ trên trục tấn công. Nhờ vậy mà C/Đoàn đã diệt được các chốt phía ngoài trống và xông thẳng vào chiếm được mục tiêu. Sau đó thì thả BĐQ xuống vào sâu lục soát tiêu diệt tiếp. Và tôi đã được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận do Đ/tướng Cao.văn-Viên gắn lon tại BTL/Hành Quân/Lữ Đoàn 1KB đóng tại đồi Hương Sơn, Quảng Tín). Chính vì thế mà tôi ra lệnh cho Chiến xa M.48 và M.113 tấn công bắn phá theo chiến thuật đó. Đặc biệt là Chiến xa vẫn tiến liên tục cán luôn lên hầm hố và giao thông hào của địch, còn M.113 của C/Đoàn 2/17TK vẫn tiến theo sau, đồng thời thả TQLC trên xe xuống để dùng súng cá nhân thanh toán địch trong những hầm hố và giao thông hào đã bị Chiến xa cán lướt qua. Tiến được chừng hơn 200m thì lính TG trên M.113 thuộc Phân đội Chỉ huy của tôi đã nhảy xuống bắt sống một tên địch với khẩu súng bắn tỉa có máy nhắm. Tôi mới chợt nhớ ra tại sao hai bên tai của tôi đã có những tiếng nổ toác toác. Đó là đạn phát ra từ khẩu súng bắn tỉa này. Mục đích là muốn tỉa rụng cấp chỉ huy trước. Tôi nhảy xuống khỏi Chiến xa và hỏi tên địch: “Anh thuộc đơn vị nào?” Tên tù binh mặt mày xanh mét, trả lời, giọng miền Bắc run run: “Em thuộc Z6/304. Xin các anh cho em sống. Xin các anh cho em sống!” Tôi cho lệnh chở tên tù binh về phía sau để được khai thác tiếp, rôi lại tiếp tục tiến quân. Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972 Kể lại phần này thì chỉ mấy dòng và như chuyện đã xảy ra trong thoáng chốc, nhưng trên chiến trường, thời gian cần thiết để thực hiện bước tiến qua từng thước đất của địch rất khó xác định. Cánh quân của tôi đã vượt qua được khoảng 400m, cách làng Gia Đẳng I khoảng70m, thì pháo 130 ly của địch bắt đầu dập xuống, tức là địch pháo chặn đường tiến của cánh quân do tôi chỉ huy, đồng thời cũng thí luôn quân của họ đang chống cự ngoài khoảng cát trống, còn trong làng thì địch vẫn liên tục bắn ra. Ngay vào lúc này, Th/u Đăng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, gọi máy báo đã bị thương. Mới bước đầu mà tôi đã mất đi một sĩ-quan thiện chiến rồi. Tôi lập tức ra lệnh cho Tr/u Tống-huy-Kính cùng với Chiến xa của anh lên thay thế và cho M.113 chở Th/u Quang về phía sau gần tuyến xuất phát để được tải thương sau khi đã liên lạc thông báo với T/Đoàn4TQLC đang tiến lên từ phía sau để điền vào phần đất cánh quân của tôi đã chiếm được nhưng rất chậm do pháo của địch cứ dồn dập. Nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này đã hơn 10:40, tôi ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Sa tạt xéo về hướng Tây cách xa làng Gia Đẳng chừng 70m, chuyển thành hàng ngang như cánh cung rồi tiếp tục tiến, riêng Th/u Sa phải ra lệnh cho 2 chiến xa phía tận cùng bên phải tác xạ vào làng bên phải (làng Gia Đẳng, dọc sát bờ biển) bằng đại liên M.73 song hành (với đại bác) và đại lên 50 hướng về phía làng, vừa tác xạ vừa tiến về hướng bắc chứ không tấn công. Còn C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh thì nhanh chóng cho TQLC tùng thiết lên M.113 tiến dọc phía bên trái (phía bên trái tức là phía tây thì đã có Cánh B của Đ/u Nam, vả lại chỉ là khoảng trống nên không có gì nguy hiểm.) Cánh A của tôi, kể từ tuyến xuất phát, đã tiến được hơn 2km vào khoảng 13:00. Tôi liên lạc với cánh B để biết vị trí của họ thì biết họ cũng đang gần đến ngang với Cánh A của tôi (Dĩ nhiên Cánh B là nổ lực phụ, tức là phải hổ trợ cho cánh quân của tôi khi cần, nên dù không chạm địch cũng không được tiến nhanh hơn Cánh A, và qủa thật thì cánh B chẳng gặp trở ngại gì nhiều trên đường tiến quân vì bên phía trái của họ đã có T/Đoàn2 và T/Đoàn9TQLC trong các làng thuộc mé ruộng). Tôi tự nghĩ: mới mức độ tiến quân như thế này thì khó có thể đến được Cửa Việt vào buổi chiều tối. Vả lại địch quân vẫn bắn trả ráo riết. Tôi ra lệnh tiếp tục tiến quân càng nhanh càng tốt, dù biết những làng dọc mé biển vẫn còn địch quân. Chính vì thế mà T/Đoàn4TQLC không thể nào hoàn thành nhiệm vụ điền trám quân kịp thời vào những mục tiêu mà cánh quân của tôi đã càn lướt qua. Bỗng chiến xa của Th/u Sa bị súng chống chiến xa AT-3 của địch bắn nổ sớt qua pháo tháp nhỏ (của đại liên 50 ly) và nhân viên xa đội của anh báo Th/u Sa đã bị thương. Tôi bèn ra lệnh cho C/Đoàn dừng lại chuyển thành hàng ngang tác xạ vào làng Gia Đẳng 3 và Ba Lăng bên phải (dọc biển) để cho M.113 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi (có y tá đi trên xe này) đến băng bó tạm thời cho Th/u Sa. Tôi hỏi tình trạng thì biết anh bị thương ở mắt và gãy cánh tay trái, tóc bị cháy xém. Sau khi Th/u Sa nhảy ra khỏi chiến xa lại còn bị miểng pháo 130 ly chém gãy luôn chân trái. Dù lệnh là không tải thương, nhưng cũng giống như tình trạng của Th/u Quang (C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX của tôi), vả lại khoảng cách với tuyến xuất phát chỉ hơn 2km, tôi ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh bung rộng yểm trợ cho M.113 chở Th/u Sa về phía sau và báo cho T/Đoàn 4 TQLC tiếp nhận tải thương. Nhưng vào lúc này thì họ lại điền trám quân chưa kịp với tốc độ tiến quân của chúng tôi nên hơn 40 phút sau xe M.113 mới trở lại. Và Th/u Thăng thay thế chỉ huy C/Đội của Th/u Sa (sau khi đã trực tiếp nói chuyện với Th/u Sa để hỏi tên của sĩ-quan này). Như vậy, C/Đoàn 1/20CX (-) của tôi chỉ còn Tr/u Kính là sĩ-quan kỳ cựu mà thôi. Chưa tiến quân được bao nhiêu cây số mà tôi đã thiếu vắng 2 sĩ-quan thiện chiến rồi. Thật không may chút nào! Đến khoảng 17:40 thì Cánh A của tôi đã tiến được khoảng 5km. Trời đã sẩm tối vì đang là mùa đông. Tôi bèn cho lệnh ngưng tiến quân và tìm nơi bố trí đồng thời gọi cho Cánh B lên cùng phối hợp bố trí đóng quân (ngang với làng Long Quang). Sau khi bố trí xong thì quân lính bắt đầu ăn uống vì đã không ăn trưa. Lúc này tôi mới gặp Th/tá Hoàng-Kiều, Th/Đoàn Phó Th/Đoàn20CX và mới biết được ông đã được lệnh đi theo để chỉ huy các cánh quân. Còn có cả Th/tá Phạm-văn-Tiền, T/Đoàn Phó T/Đoàn4TQLC nữa. Trời đât! Vậy mà trước đó tôi đã không được thông báo gì cũng như trong hệ thống liên lạc, tôi không nghe ông ra lệnh gì cả, vì BCH/Th/Đoàn 20CX đi theo Cánh B cho an toàn. Ông hỏi tôi: “Sao anh không tiếp tục tiến quân?” Tôi nói: “Trời sắp tối rồi thì TG làm sao mà tấn công được chứ. Vả lại, sáng mai là ngưng bắn, là Hòa Bình rồi. Mình đã chiếm được khoảng hơn 5km là tốt lắm rồi.” Ông chẳng nói gì thêm. Tôi nói: “Vậy bây giờ tôi báo cho Th/tá biết tọa độ vị trí đóng quân của toàn bộ 4 C/Đoàn để Th/tá báo về cho Đ/tá Trí.” Tôi lấy bản đồ và chỉ vị trí xong rồi nói tiếp: “Nếu họ bảo mình tiếp tục tiến quân thì Th/tá cứ nói là TG không hành quân vào ban đêm được.” Tôi về lại BCH/C/Đoàn và nghĩ rằng ý kiến và lý do của mình nghe rất hợp lý trên mặt chiến thuật, cũng hy vọng là cuộc hành quân tạm thời có thể chấm dứt. Nào ngờ, khoảng 20:45, Th/tá Kiều đi bộ đến BCH của tôi và nói: “Sý Đoàn TQLC ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải tiếp tục tấn công và chiếm cho được Cửa Việt trước 8 giờ sáng mai (tức là sáng ngày 28/01/1973), đúng theo lệnh ban đầu.” Ông chỉ nói có thế mà thôi. Mọi suy nghĩ và hy vọng của tôi trước đó đều tan biến trong phút chốc. Nhưng đã là lệnh thì phải thi hành thôi. Tôi gọi máy cho Đ/u Nam, Cảnh, Minh cùng với các Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết đến xe tôi để họp khẩn cấp, đồng thời bảo họ cho các C/Đoàn và TQLC tùng thiết chuẩn bị. Trong khi chờ đợi, tôi vào xe M.577, rọi đèn pin vào bản đồ suy nghĩ cho kế hoạch tiến chiếm Cửa Việt. Khi cả 3 Ch/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng đến, tôi nhắc lại lời của Th/tá Kiều về lệnh của Sý Đoàn TQLC rồi rọi đèn pin vào bản đồ và nói: “- Mình chỉ còn cách Cửa Việt khoảng hơn 5km về hướng bắc, cách bờ biển chừng hơn 400m về hướng đông (sát nước biển). Muốn chiếm Cửa Việt thì bắt buộc phải tấn công bằng tốc độ mới kịp, tức là phải tiến ra sát bờ nước biển rồi phóng nhanh về hướng bắc. Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972 – Trên đường tiến quân ra sát biển, tất cả mọi loại súng trên Chiến xa M.48 và M.113 đều phải xen kẻ quay về bên trái và bên phải. Chỉ có những xe hướng súng về phía trái, tức là hướng bắc, mới tác xạ khi cần. Còn về hướng nam, tức là bên phải, thì phải cẩn thận vì có thể sẽ gây thiệt hại cho quân bạn, tức là T/Đoàn4TQLC, dù tôi biết họ không thể nào điền trám quân kịp. – Sau khi ra đến sát bờ biển thì từng xe phải chuyển hướng qua trái và hướng mọi loại súng về bên trái vừa tác xạ vừa tiến theo hàng dọc (bên phải lúc đó là biển). Chỉ còn có một cách này mà thôi. Tôi sẽ không cho gọi Pháo binh bắn chiếu sáng vì như thế địch sẽ thấy rõ các xe của mình để nhắm bắn. Cũng không cần Pháo binh yểm trợ vì sẽ mất yếu tố bất ngờ. Chiến xa nào xuất phát đầu tiên ra hướng biển thì có thể dễ nhận ra đường đi vì là khoảng trống giữa 2 làng Bình An và Thanh Hội Phường, và chân trời phía biển thì mờ sáng. Khi ra đến bải cát sát bờ biển thì sẽ dễ thấy hơn nữa vì ban đêm thì cát thường sáng hơn (kinh nghiệm từ những lần đi tắm biển vào ban đêm của tôi). – C/Đoàn của Đ/u Nam sẽ đi đầu, kế tiếp là C/Đoàn của tôi, sau đó là C/Đoàn 2/17TK và sau cùng là C/Đoàn 3/18TK. Khi di chuyển, mỗi xe chỉ cách nhau chừng 20m cho dễ thấy nhau. Bây giờ, tất cả trở về ra lệnh cho TQLC tùng thiết lên xe. Sau 40 phút sẽ xuất phát, tức là 22:40. Tất cả các C/Đoàn Trưởng đều phải vào hệ thống truyền tin của Th/Đoàn 20CX (ngoài hệ thống chi huy nội bộ của từng Ch/Đoàn)” Cuộc họp khẩn cấp này chỉ gồm có 4 C/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết. Có lẽ vì quá vội, tôi quên mất Th/tá Kiều và Th/tá Tiền. (Thật ra thì ngay từ buổi họp tại Lữ Đoàn 147 TQLC, Đ/tá trí đã trực tiếp ra lệnh cho tôi chỉ huy Nổ lực Chính -Cánh A- chứ không đề cập gì đến việc có BCH/Th/Đoàn20CX đi theo. Vả lại, khi Th/tá Kiều chuyển lệnh của BTL/HànhQuân/SĐ/ TQLC cho tôi, ông cũng không đề cập gì đến vấn đề kế hoạch tiến quân). Đúng 22:40 thì Ch/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam bắt đầu di chuyển, tiếp đến là những C/Đoàn khác đúng như kế hoạch. Có lẽ vì địch quân không thể nào ngờ được TG lại tiến quân vào ban đêm. Lại không có Pháo binh bắn yểm trợ hay chiếu sáng, nên hoang mang và không trở tay kịp. Do đó hầu như địch không có phản ứng kịp thời để ngăn chặn bước tiến của TG trên đường tiến ra sát bờ biển. Khi Đ/u Nam báo cáo C/Đội đi đầu đã ra sát bờ biển, tôi cho lệnh từng Chiến xa M.48 và M.113 sau khi ra sát bờ mới quay về trái và tiếp tục tiến, như vậy mới không mất đội hình di chuyển vào ban đêm. Và sau khi C/Đoàn 3/18TK báo cáo M.113 cuối cùng của họ đã quẹo trái, tôi cho lệnh nới rộng khoảng cách từng xe lên khoảng 30m, tất cả mọi loại súng đều hướng về bên trái, tức là vào dảy cây dương liểu dọc theo các làng dọc biển, cách bờ chừng 60 đến 70m và vừa di chuyển vừa tác xạ cầm chừng. Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này là 00:20 ngày 28/01/73 (tôi mang đồng hồ dạ quang kèm một địa bàn đeo tay do Cố vấn Mỹ đã tặng tôi năm 1970), ước tính chiều dài đội hình di chuyển của các C/Đoàn để biết khi nào thì Chiến xa đầu tiên đến Cửa Việt. Đoàn TG tiến quân chừng hơn 1km thì địch bắt đầu khai hỏa mạnh. Đạn địch bay sớt qua các xe rơi lỏm bỏm ngoài nước biển. Tôi cho lệnh tất cả vẫn tiến quân và tác xạ nhiều hơn vào dọc các làng trên đường đi, đồng thời di chuyển nhanh hơn. Đoàn quân tiến được hơn 1 km nữa thì Đ/u Nam báo cáo chiến xa đầu tiên bị sụp xuống giao thông hào địch quân đã đào trong đêm để chận bước tiến của chúng tôi. Tôi bảo Nam tiếp tục cho các chiến xa kế tiếp lách sát ra ngoài mé nước biển vượt qua chiến xa đó để tác xạ yểm trợ và cho Chiến xa khác đến dùng dây cáp ngắn để kéo xe lên (loại dây cáp ngắn này đều được trang bị trên mỗi Chiến xa M.48). Đoàn quân tạm thời phải dừng lại để giải quyết tình huống này. Khi được bào cáo chiến xa bị sụp xuống giao thông hào đã được kéo lên, tôi ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tiến, nhưng bổng có một tiếng nổ lớn và ánh sáng chớp lên từ phía sau, và C/Đoàn 2/17TK báo cáo chiếc M.113 chỉ huy của Đ/u Cảnh đã bị bắn. Cũng may xe không cháy, vẫn còn chạy được và Đ/u Cảnh cũng chỉ bị thương nhẹ nên vẫn có thể chỉ huy (nếu bị thương nặng hơn thì cũng phải được mang theo mà thôi, vì không thể nào tải thương được), còn có 2 BS bị thương. Tôi cảm thấy yên lòng và bắt đầu tiếp tục di chuyển. Bổng một phát đạn chống chiến xa của địch trúng ngay vào xe tôi, chớp lên một bụm lửa sáng lóe, lọt vào khoang xe từ phía tài xế và chiến xa rung mạnh. Tôi búng người ra ngoài pháo tháp chiến xa, tiếp đến là HS Thẩm, xạ thủ chiến xa của tôi, trồi đầu ra báo HS Thìn, tài xế chiến xa, đã chết. Tôi bảo HS Thẩm cùng Binh 1 Đá, nhân viên nạp đan, kéo HS Thìn ra khỏi xe rồi nhảy vào lại trong pháo tháp và gọi máy cho xe M.113 của tôi đi theo sau đến để chở thi thể HS Thìn và ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tác xạ vào làng. Sau đó tôi bảo HS Thẩm nhảy vào lái chiến xa của tôi (điều này rất bình thường vì khi chỉ huy, C/Đoàn Trưởng thường kiêm luôn xa trưởng và có thể tác xạ thay cho xạ thủ bằng cò điện trên cần điều khiển của trưởng xa) Phát đạn chống chiến xa của địch đã trúng ngay vào mặt nạ đại bác và miểng đạn đã phủ xuống đầu tài xế, nhưng lại không xuyên thủng vào trong khoang chiến xa được vì giữa mặt nạ đại bác và thành pháo tháp còn có một khoảng hở. Chỉ kẹt một điều là đại bác xe tôi không còn hửu dụng vì không thể hạ thấp được do mặt nạ đại bác đã bị cong úp xuống chạm và thành pháo tháp. Như vậy thì cây đại lên 30 ly M.73 song hành với đại bác cũng không còn sử dụng được nữa. Tôi bảo Đ/u Nam tiếp tục di chuyển với tốc độ nhanh hơn nữa, vì bây giờ đã là hơn 05:00 giờ (ngày 28/01/73). Đoàn quân di chuyển thêm được khoảng 1km thì trời đã hừng sáng (ở vùng biển thì trời sáng sớm hơn trong đất liền), tuy nhiên sương mù dày đặc, tầm nhìn chỉ chừng 50m. Bổng nhiên Đ/u Nam báo là đã đến Cửa Việt. Tôi hỏi Nam: “Như vậy, chiến xa đầu tiên đã thấy được nước mênh mông trước mặt chưa?” Nhưng Nam lại khẳng định là Cửa Việt, còn nói là anh ta đã đến Cửa Việt nhiều lần hồi còn ở C/Đoàn 1/7CX M.41. (Trước năm 1970, Th/Đoàn 7KB thường xuyên tăng phái một C/Đội chiến xa M.41 cho căn cứ Hải Quân Cửa Việt – Cảng Mỹ -, (Và hồi còn ở cấp Th/u thi Nam đã có thời gian ở C/Đoàn 1/7CX M.41) nhưng đãc biệt là hàng tháng thì hoán đổi với C/Đội CX M.41 khác. Lý thuyết thì thế, nhưng thực tế thì chỉ thay đổi nhân viên xa đội mà thôi, vì như thế sẽ đở tốn nhiên liệu và thời gian cho các CX M.41 di chuyển hoán đổi. Nói thật thì loại CX M.41, nếu di chuyển đường dài từ Huế ra đến Cửa Việt, thường bị hỏng hóc dọc đường). Lúc này, đồng hồ của tôi đã là 06;35. Tôi lật bản đồ, sau khi tính tốc độ và thời gian di chuyển cùng với khoảng cách từng xe, tôi bảo Nam: “Phải hơn 1 clic (mỗi cạnh ô vuông trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 = 1km) mới đến mục tiêu”. Có lẽ vì có trục trặc gì đó, Nam đã không chịu tiến quân tiếp, tôi bèn bảo Nam: “Mày cứ ở đó đi để tao cho C/Đoàn tao qua mặt.” Tôi ra lệnh cho Tr/u Kính tiến tiếp, qua mặt C/Đoàn 3/20 CX, đồng thời ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK theo sau. C/Đoàn 1/20CX của tôi và C/Đoàn 2/17TK vừa qua mặt C/Đoàn của Nam xong thì tôi cho lệnh tăng tốc. Trên đường tiến quân, Tr/u Kinh báo cáo có rất nhiều giao thông hào phía trước, nhưng tôi cho lệnh: “Thấy giao thông hào nào rộng thì lách ra mé nước để vượt qua, còn giao thông hào nào hẹp thì cho chiến xa cán qua luôn.” Trời sáng dần và sương mù đã tan. Tr/u Kinh báo cáo đã nhìn thấy rõ cửa biển trước mặt. Tôi bảo; “Bây giờ mới đúng là Cửa Việt.” Rồi cho lệnh toàn bộ C/Đoàn cho chiến xa xoay về bên trái và nới rộng khoảng cách chuyển thành hàng ngang để cho M.113 của C/Đoàn của Đ/u Cảnh tiến lên và xen kẻ. Tôi cũng bảo Nam và C/Đoàn 3/18TK của Đ/u Minh cũng dàn quân y như thế và bắt đầu tấn công hướng về căn cứ Cửa Việt. Đạn địch từ phía trước bay đến như mưa, nhưng điều này cũng là chuyện bình thường đối với một đơn vị xung kích như chiến xa. Toàn bộ 4 C/Đoàn đã tiến sâu vào đất địch được khoảng 400m thì tôi nghe Đ/u Minh, C/Đoàn trưởng 3/18TK, báo có chiến xa địch xuất hiện từ hướng trái, tức là hướng Tây Nam của chúng tôi, từ trong rừng dương. Dĩ nhiên, M.113 không thể chọi với Chiến xa của địch, dù có gắn đại bác không giật 106 ly (vì việc sử dụng đại bác này không đơn giản như lý thuyết, vả lại xoay xở rất chậm vì phải lệ thuộc vào hướng của xe). Tôi bảo Đ/u Nam theo dỏi để bắn hạ. Thật ra thì đơn vị chiến xa của địch đang ở hướng nam từ trong làng mé ruộng bung ra để chạy về hướng bắc là căn cứ Cửa Việt. Với địa thế mấp mô lồi lỏm, nhắm canh chừng để bắn một mục tiêu di động không dễ chút nào, trừ phi phải có những xa đội M.48 đã từng hạ chiến xa địch. Vì những chiến xa của địch chạy rất nhanh nên C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam đã không bắn kịp. Nhưng C/Đoàn của tôi, vì đang dàn hàng ngang xa về hướng bắc nên tôi đã tức tốc ra lệnh cho Tr/u Kính chỉ huy C/Đội đón bắn ngay (Tr/u Kinh là một trong những sĩ-quan nổi tiếng bắn đại bác rất hay kể từ ngày thành lập Th/Đoàn20CX vì đã được Mỹ huấn luyện rất kỷ và thực tập rất nhiều hồi ở căn cứ Ái-Tử. Với kinh nghiệm đã có, chính Tr/u Kính đã đón đầu bắn hạ 2 chiếc nằm im tại chỗ, chiếc còn lại bị một xa đội của C/Đội 3/1/20CX bắn hạ. (Những gì xảy ra trước mắt tôi nên không thể nào quên được). Tôi liếc nhìn đồng hồ, lúc này là 07:43. Phía địch bắt đầu ngưng bắn nên tôi ra lệnh cho TQLC tùng thiết trên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK nhảy xuống trước và bung ra phía trước cắm cờ, rồi bố trí, còn lính trên chiến xa và M/113 thì nhảy xuống sau và tiếp tục cắm cờ phía trước, cách chiến xa chừng 30m để phân ranh giới rồi lên chiến xa trở lại nạp đạn chài (canister- loại đạn đại bác dùng để chống biển người) vào đại bác để đề phòng. Chỉ trong thoáng chốc thì đồng hồ đã chi 07:57. Không còn tiếng súng nổ. Tôi nhảy xuống khỏi chiến xa chỉ huy và vào xe truyền tin M.577 báo cáo thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC là đã chiếm được Cửa Việt và đã cắm cờ, nhưng không thể tấn công vào căn cứ còn cách chừng hơn 500m được vì đã đến giờ ngưng bắn. Tôi hỏi tiếp vị trí của các cánh quân khác thì được biết cánh quân của T/Đoàn2 và T/Đoàn 9TQLC trong mé ruộng chỉ tiến vượt qua khỏi Long Quang chừng 200m, như vậy là cách chúng tôi khoảng 5km về hướng nam. Còn cánh quân của T/Đoàn 4 TQLC thì chỉ đến được gần Bình An. Như vậy thì còn cách chúng tôi đến hơn 5km. Ngay lúc này, tôi nhìn ra biển thoáng thấy một chiếc L-20 đang bay lượn xa trên biển và bắn 2 qủa rocket xuống biển. Tôi gọi BTL/SĐ/TQLC và hỏi thì Đ/tá Trí bảo đó chỉ là bay ra để xác định chính xác vị trí đã chiếm được mà thôi. Tôi cho Chiến xa chỉ huy của tôi cùng với chiếc M.577 truyền tin và chiếc M.113 lùi lại cách mé nước biển chừng 40m, báo cho các C/Đoàn vẫn lo việc canh gác như thường lệ, rồi cho lính pha cà phê trong C-ration (thùng lương khô) để uống và cho lo cơm nước. Như vậy, BCH/C/Đoàn của tôi nằm xa nhất về hướng bắc. Lui về phía nam là BCH/C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh, cách nhau chửng 70m. Xa hơn chừng 100m nữa về phía nam là BCH/C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam + C/Đoản 3/18TK của Đ/u Minh + BCH/Th/Đoàn 20CX của Th/tá Kiều cùng với Th/tá Tiền, TĐP T/Đoàn 4TQLC và Tr/u Hiếu, Đ/Đội trưởng ĐĐ2/TĐ4TQLC tùng thiết cho C/Đoàn 3/18TK. Tôi bào Đ/u Nam phải cẩn thận đề phòng hướng nam vì chắc chắn còn lực lượng địch trong những làng mà trước đó chúng tôi chỉ dùng tốc dộ càn lướt qua mà không tấn công. Tóm lại, chúng tôi chỉ có 2 mặt an toàn: phía biển Đông sau lưng và cửa biển bên phải về hướng bắc. Còn 2 mặt tây và nam thì đều có địch. Nếu cuộc chiến vẫn tiếp tục thì đường tiếp tế của chúng tôi đã bị chặn do TQLC không tiến kịp để điền trám các mục tiêu dọc trục tiến quân.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:34:31 GMT 9
02 May 1972, Quang Tri, Vietnam — South Vietnamese soldiers helping the wounded. — Image by © Henri Bureau/Sygma/Corbis Dù sao thi Niềm Vui Hòa Bình đã đến, tức là không còn chiến tranh, không còn bắn giết, không còn phải chiếm mục tiêu này, mục tiêu nọ, không còn bị tấn công, không còn bị thương hay chết chóc, mà sẽ được cùng với người thân, bạn bè thoải mái vui chơi trong những ngày nghỉ phép, vân vân và vân vân…Tất cả đều được diễn đạt theo nhiều cách. Kẻ thì bộc lộ quá mức bằng cách reo hò, kẻ thì thầm lặng, dấu kín trong lòng và chỉ bộc lộ bằng nụ cười mỉm. Mùi thuốc súng chiến trường không còn lảng vảng trong bầu trời trong sáng và êm ả của vùng biển… Khoảng 10:15, Tr/u Kính báo có cấp chỉ huy của địch muốn vào gặp cấp chỉ huy trận đánh này. Tôi gọi máy báo cho Th/tá Kiều, nhưng ông bảo là không nên gặp. Tôi nói: “Nhưng bây giờ là Hòa Bình rồi thì có gì phải sợ chứ.” Ông trả lời: “Câu muốn gặp thì gặp, nhưng phải cẩn thận.” Tôi bảo Tr/u Kính chỉ cho người đó và một lính truyền tin của ông ta vào mà thôi. Khi họ đến, tôi xuống khỏi chiến xa và đến gần anh ta (lớn hơn tôi chừng hơn 10 tuổi), chưa kịp chào thì anh ta tự giới thiệu là T/Đoàn trưởng của đơn vị đang ở tuyến đối đầu với tôi, và hỏi tiếp có phải tôi là người chỉ huy cuộc tấn công này không. Tôi trả lời: Đúng như vậy. (Có lẽ anh ta ngạc nhiên khi thấy bộ mặt non choẹt của tôi mà lại chỉ huy một lực lượng lớn như thế. Còn hỏi tôi là người ở đâu. Tôi nói ở Huế. Anh ta nói là đã vào trong Thành nội Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Anh ta tiếp tục hỏi tại sao tôi lại chiếm Cửa Việt. Vì đang trong tâm trạng vui vẻ nên tôi trả lời là tôi rất thích nơi này vì tôi rất thích tắm biển, nhất là nơi nào có cửa biển. Đặc biệt anh ta còn than phiền vì sao tôi lại cho lệnh bắn 3 chiến xa của họ. Tôi nói: vì lúc đó vẫn chưa đến giờ ngưng bắn. Tôi còn nói với anh ta nên cho vài người không được mang súng vào rồi đi xuống hướng nam để đào các giao thông hào đã bị chiến xa cán lướt xem ai còn sống thì mang về. Anh ta gật đầu và còn ngỏ ý mời tôi vào BCH/TĐoàn của anh ta chơi, đưa tay chỉ vào lùm dương cách vòng đai bố trí của chúng tôi chừng 500m. Tôi chỉ ừ è cho có lệ. Sau đó thì anh ta ra về. Tôi tà tà đi bộ dọc theo mé biển đến gặp Th/tá Kiều và kể lại chuyện này cho ông nghe. Ông nhắc nhở tôi phải cẩn thận vì ý đồ của anh ta có thể chỉ là vào để biết vị trí của BCH. Tôi chỉ nói: có thể là như vậy, nhưng Hòa Bình rồi thì lo làm gì cho mệt chứ. Đến tối ngày 28/01/73, sau khi nhắc nhở toàn bộ 4 C/Đoàn trực máy và lo canh gác như thường lệ, thay vì ngủ trong xe M.577, tôi bảo lính căng ghế bố nằm bên hông chiến xa cho mát, nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc phải hưởng một giấc ngủ êm ái nhất trong đời lính và hít thở không khí về đêm của biển, nhất là sau 1 ngày và 1 đêm vất vả chiến đấu và không ngủ. Trong đời, thật chẳng ai biết được chữ ‘Ngờ’. Tôi đang ngủ say sưa thì bổng nhiên những tiếng nổ thật lớn khiến tôi bừng giấc, đứng vọt dậy từ chiếc ghế bố và phóng thật nhanh lên chiến xa chỉ huy, nhìn quanh, những tiếng nổ và chớp lòe khắp nơi. Tôi biết chúng tôi đang bị pháo. Lúc này tất cả đều đã vọt dậy phóng lên chiến xa và M.113. Tôi gọi các C/Đoàn thì tất cả cũng đã lên xe và nghe báo cáo đã có mấy anh em ở các C/Đoàn khác bị thương do bị pháo. Tôi ra lệnh tất cả sẵn sàng ứng phó, vì theo kinh nghiệm, địch có thể sẽ tấn công sau những đợt pháo. Tôi nhìn đồng hồ: 23:25 (ngày 28/01/73). Như vậy là mình bị pháo lúc khoảng 23:10. Lo thì cũng có lo, nhưng đạn pháo thì giống như “Trời kêu ai nấy dạ” (câu chúng tôi thường đùa với nhau khi bị pháo, vì không sao né tránh gì được). Tôi tự hỏi: “Hòa Bình rồi thì tại sao chúng nó vẫn còn pháo mình. Như vậy là vi phạm Hiệp Định rồi còn gì!” Trên hệ thống truyền tin, tôi không nghe Th/tá Kiều lên tiếng gì cả bèn chuyển qua hệ thống của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo cũng như nêu thắc mắc của tôi: “Hiện chúng tôi đang chịu những cơn mưa rất nặng hạt (bị pháo dữ dội). Như vậy là sao? Nếu chúng tấn công thì chúng tôi có được phép nổ súng không? Và điều này rất có thể xảy ra. Và thế thì mình có vi phạm Hiệp Định Paris không?” Ngay lúc này Tr/u Kính và Th/u Thăng báo lả đã thấy địch lố nhố phía trước nhờ ánh sáng của những lằn chớp của đạn pháo nổ. Tôi hỏi: “Cách xa bao nhiêu?” Tr/u Kinh nói: “Chừng 70m. Có bắn không, Hồng Nhạn?” Như vậy là cách tuyến của TQLC tùng thiết chừng 40m. Với phản ứng cấp thời, tôi nói: “Chưa nhận được lệnh. Nhưng nếu chúng nó tiến gần trong khoảng 50m thì phải nổ súng.” Lúc này Đ/tá Trí gọi máy và báo: “Nếu chúng nó tấn công và nổ súng trước thì phải chống trả”. Trời đất! Nếu chúng nó cứ ào ào tiến vào mà không nổ súng thì tình sao đây! Tôi biết tại BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC, ai cũng có thể nghe và thấy được những tia chớp do đạn pháo nổ vì chỉ cách chúng tôi chừng hơn 8Km, vả lại đang là ban đêm, nhưng không biết rõ là do pháo hay do 2 bên đang giao chiến. Đây là lúc không cần và cũng không có thời gian để suy nghĩ vớ vẫn về Hòa Bình, về Hiệp Định Paris nữa, mà phải tùy cơ ứng biến thôi. Tôi báo cho Đ/u Nam (3/20CX) và Đ/u Minh (3/18TK) biết tình hình địch phía bên tôi và hỏi tình hình bên đó thì biêt là không có dấu hiệu địch hoạt động trước tuyến. Tuy vậy tôi vẫn bảo Nam và Minh phải cẩn thận quan sát. Đồng thời tôi cũng báo cho Tr/u Công (TQLC tùng thiết) là chỉ được nổ súng khi địch nổ súng tấn công trước. Tôi cũng thầm nghĩ: Chắc địch muốn tấn công vào tuyến phòng thủ của tôi trước vì là tuyến đầu nằm xa nhất về hướng bắc và còn ngay trước căn cứ Cửa Việt. Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và yêu cầu cho Pháo binh chuẩn bị để phản pháo vào những tọa độ tôi sẽ cung cấp, hy vọng địch sẽ vì thế mà giảm bớt cường độ pháo. Nhưng Đ/tá Trí bảo là không được. Tôi chẳng biết nói sao. Có lẽ ai cũng sợ vi phạm Hiệp Định và nếu thế thì số phận tương lai của cấp ra lệnh sẽ ra sao nếu bị kết tội. Pháo của địch vẫn dồn dập đủ loại vào vị trí của các C/Đoàn, ngoài loại 130 ly, còn có cả cối 82 ly. Cũng may chẳng có qủa nào rơi ngay trên Chiến xa M.48 hay M.113. Tôi nhìn đồng hồ: đã là gần 05:00 ngày 29/01/73. Thời gian trôi thật nhanh khi người ta không cần để ý đến nó. Tôi mừng thầm và mong cho trời sáng nhanh hơn. Như vậy mới dễ quan sát và xoay xở hơn. Bổng Tr/u Công gọi máy báo địch chỉ còn cách tuyến của TQLC chừng hơn 10m. Tiếp là Tr/u Kính cũng báo địch đang tiến đến gần hơn nhưng lại không nổ súng. Không thể chần chừ được nữa, tôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC bò lui về ngang với các Chiến xa M.48 ngay. Chỉ 3 phút sau, tôi bảo Tr/u Kinh và Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bắn đạn chài và mỗi xe chỉ cần bắn 1 hay 2 qủa tùy phản ứng của địch. Một loạt đạn chài từ các các đại bác chớp sáng liền nhau. Tr/u Kính và Th/u Thăng lần lượt báo địch đã im lìm, không còn thấy lố nhố nữa. Tôi bảo: “Phải quan sát liên tục và cẩn thận hơn, vì chỉ còn chừng 1 giờ nữa là trời sáng rồi thì tụi nó chẳng dám tấn công đâu.” Cũng chừng hơn 5 phút sau thì Tr/u Kính báo đã quan sát thấy địch lại lố nhố nhưng hình như là đang tải thương vì chúng đang lùi lại. Tôi nói: “Thế thì tốt!” Nhưng vẫn thầm lo không biết mình cho lệnh bắn như thế có vi phạm Hiệp định không. Mặc kệ! Với tình hình hiện tại, lo nghĩ vẫn vơ cũng vô ích. Phải tự cứu mình trước thôi! Không thể để “nước đến trôn mới nhảy”, như người xưa đã nói. Địch vẫn pháo khắp vị trí của các đơn vị TG, nhưng vì lính TG đều ở trong chiến xa và M/113, và chỉ quan sát bằng tiềm vọng kính nên không bị gì. Còn TQLC thì đang ở gần sát với địch nên pháo hầu như không rơi nhiều ở tuyến này. Trời bắt đầu sáng dần. Tôi nhìn đồng hồ: bây giờ là 06:30. Sương mù đã tan gần hết nên tầm quan sát xa và tốt hơn. Tôi cũng tạm thời yên lòng. Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cho biết những gì đã xảy ra trong đêm và hỏi xem có lệnh gì mới không thì Đ/tá Trí nói: “Tạm thời thì phải cố thủ. Sẽ có lệnh sau.” Một điều đặc biệt là các đơn vị Pháo binh yểm trợ cho cuộc Hành Quân Tango hoàn toàn không phản pháo yểm trợ một viên đạn nào, ngoại trừ thời gian trước khi Cánh A của tôi bắt đầu xuất phát rồi thì ngưng luôn từ đó. Mặt trời đã lên khá cao. Bây giờ là 08:05. Pháo địch bổng nhiên nổ thưa dần, rồi lâu lâu mới bay vào nổ 1, 2 qủa. Lính TG lợi dụng lúc này nhảy ra khỏi xe nấu nước sôi đổ cơm sấy, còn tôi thì chỉ cần cà phê nóng. Đến khoảng 08:35 thì pháo địch ngưng hẳn. Tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhỏm. Tôi gọi máy cho Đ/u Cảnh, Nam và Minh và nói: “Có lẽ đã có sự can thiệp của mấy ông lớn về Hiệp Định Paris rồi nên tụi nó mới chịu ngưng pháo. Nhưng phải luôn cẩn thận đấy!” Tôi cũng gọi báo cho Đ/tá Trí về việc này. Đến khoảng 09:15, sau khi nhắp hết cà phê được pha trong chiếc lon bằng thiếc trong xe M.577, tôi mồi điếu thuốc và hít vài hơi sảng khoái thì bổng nghe một tiếng nổ lớn trên tuyến và Tr/u Kính gọi báo 1 chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX đã bị trúng đan SS-11 (loại hỏa tiển chống chiến xa gọi là hỏa tiển địa-địa – surface-to-surface – và C/Đoàn chúng tôi đã từng bị bắn trong những cuộc hành quân với NDù trước đó). Tôi vọt ra khỏi M.577 và phóng lên chiến xa chỉ huy của tôi, ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Thăng cho lệnh từng xa đội xả đại liên 30 ly M.73 song hành về phía địch nhưng chỉ cầm chừng vì phải tiết kiệm đạn sau khi đã sử dụng nhiều trên đường tiến quân. Th/u Thăng nói là không thấy địch, nhưng tôi bảo vẫn cứ bắn vì chúng đều ở trong hầm và giao thông hào nên mình không thấy được và phải bắn từng loạt để chúng không thể ngóc đầu lên để bắn mình. Tôi gọi luôn cho Đ/u Cảnh dùng đại liên 50 ly trên M.113 để bắn cầm chừng (vì vùng tác xạ hẹp hơn do xen kẻ và hơi thụt về phía sau các chiến xa.) Tr/u Kinh báo cáo toàn xa đội của chiến xa đã bị bắn đều bị thương: 1 nặng, 3 nhẹ. Tôi ra lệnh cho M.113 chỉ huy khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa của tôi đã chết trong đêm tiến quân) đặt xuống cát rồi chạy lên đến phía sau chiến xa bị bắn để cho y tá băng bó và báo cáo tình trạng bị thương. Tôi gọi cho Đ/u Nam và Đ/u Minh báo tình trạng này và nhắc nhở đề phòng. Y tá báo 3 BS bi thương nhẹ còn tác chiến được, còn 1 BS bị ở chân năng phải chở về. Tôi cho lệnh chỉ chở BS bị năng về theo M.113. Vừa nói xong thì 1 chiến xa khác cũng bị trúng SS-11 và lại được báo cáo thêm 2 BS bị thương: 1 ở vai và 1 ở tay. Tôi cho lệnh y tá ở lại băng bó tiếp. Rồi đến 1 chiến xa của C/Đoàn 3/20CX nằm giáp với tuyến của tôi cũng bị bắn. Đ/u Nam báo với tôi và tôi trả lời là tôi đã thấy rồi. Và tiếp đến thì pháo 130 ly lại của địch bắt đầu rơi nổ khắp nơi trên các vị trí của TG. Lúc này đã là khoảng 11:00. Tôi thấy tình trạng này không ổn chút nào, vì địch chỉ muốn diệt các chiến xa M.48 trước bằng SS-11 vì là những hung thần chúng rợn nhất. Mà các chiến xa hiện giờ chỉ còn là những mục tiêu cố định nên rất dễ bị bắn, dù tôi đã cho các đại liên bắn cầm chừng để ngăn chặn vì còn phải giữ lại một số đan dược cho tình huống khẩn cấp có thể xảy ra trong khi chưa có tiếp tế. Tôi gọi thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC báo tình trạng này để xin được tiếp tế và tải thương. Đ/tá Trí nói: “Tôi đã biết tình trạng hiện giờ tại đó vì luôn theo dỏi hệ thống nội bộ của các C/Đoàn và BCH/Th/Đoàn 20CX kể từ lúc rời tuyến xuất phát. Nhưng giá nào anh cũng phải cố giữ vững tuyến. Sẽ có quân tăng cường.” Hy vọng lại nhen nhúm trong tôi. Tôi gọi báo cho các C/Đoàn biết tin này. Pháo địch không còn liên tục như trước mà chỉ pháo từng đợt vào những giờ giấc không đoán trước được. Điều này sẽ không có lợi cho quân mình vì lính thường lợi dụng những lúc pháo địch ngưng để nhảy ra khỏi xe để nấu nướng hay cho những nhu cầu cá nhân cần thiết rồi không kịp nhảy vào xe trước khi pháo địch rơi xuống. Tôi lại nhìn vào đồng hồ. Lúc này đã là gần 15:00 giờ. Tôi bảo lính pha cho tôi 1 xuất cà phê nữa và nhâm nhi cùng với những điếu thuốc nối đuôi. Đây đã là “lon cà phê” thứ 3 trong ngày 29/03/73 rồi. Lòng tôi cứ thấp thỏm chờ đợi tin tốt lành từ BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC, chốc chốc lại nhảy vào chiến xa để quan sát tình hình phía trước, rồi lại nhảy xuống vào M.577 nhâm nhi cà phê tiếp. Lính đưa cơm sấy và thức ăn khô đến nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào để ăn được. Đến khoảng 16:30 thì nghe Th/tá Kiều gọi và báo tin: “BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC đã dự trù tăng cường 2 lần 2 râu (2 tiểu đoàn) cho chúng ta, nhưng vì biển hơi động nên không thể nào đổ bộ vào vị trí của chúng ta được. Tuy nhiên họ đang tính một kế hoạch khác.” Tôi nhìn ra biển, nói: “Có thấy tãm hơi chiếc tàu nào đâu. Biển như thế này mà gọi là hơi động sao?” Th/tá Kiều trả lời: “Họ nói như vậy thôi.” Dĩ nhiên, trên hệ thống này thì các C/Đoàn đều nghe được như thế. Thế là hết! Hy vọng đã biến thành thất vọng. Tôi tự hỏi: “Họ đang cố an ủi mình chăng?” Những suy nghĩ miên man của tôi lại bị ngắt Quảng bởi một đợt pháo khác của địch. Tôi lại phóng lên chiến xa chỉ huy của mình, tiếp tục quan sát toàn bộ tình hình. Trời đã ngả màu hoàng hôn. Lúc này đã gần 18:00 giờ. Tôi gọi máy nhắc nhở các C/Đoàn và Đ/Đội/TQLC tùng thiết lo việc canh phòng cẩn mật. Để đề phòng địch có thể tấn công vào ban đêm, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng: “Hảy cẩn thận đề phòng vì địch có thể dùng pháo, rồi đến đặc công, sau đó mới tấn công. Vì thế các chiến xa M.48 phải thay phiên sử dụng Hồng ngoại tuyến dùng để bắn đại bác trên xe để quan sát, nhưng chỉ trong vòng vài phút thôi, nếu không thì các bình điện sẽ không còn đủ cung cấp để nổ máy chiến xa cũng như để điều khiển hệ thống tác xạ bằng điện được. Tất cả đều phải thức suốt đêm để phản ứng cho kịp thời.” (Trong thời gian thành lập Th/Đoàn20CX ở Ái-Tử, mỗi chiến xa M.48 đều được trang bị ống nhòm Hồng ngoại tuyến để cho các trưởng xa quan sát vào ban đêm. Nhưng sau khi mất Quảng-Trị và Th/Đoàn được tái thành lập ở Phú Bài – Huế để Tái chiếm Quảng-Trị thì các chiến xa không còn được trang bị loại ống nhòm này cũng như không còn Cố vấn Mỹ nữa). Màn đêm đã buông xuống. Trong bóng đêm, chỉ có những khoảng trống có cát là vẫn sáng mờ. Còn nhìn vào hướng tây thì chỉ thấy một lằn đen kịt lô nhô tiếp giáp với chân trời xanh đen. Pháo địch vẫn chỉ còn rơi lác đác, có lúc ngưng hẳn, rồi lại tiếp tục nhưng cường độ không cao. Tất cả chúng tôi đều không dám ngủ, chỉ chợp mắt vài phút do mệt mỏi. Những lo lắng của tôi (và cũng của tất cả vì thế lại cứ chồng chất vì chưa nghĩ ra được cách nào đối phó với tình huống hoàn toàn nằm trong thế bị động này. Từng giờ phút nối tiếp trôi qua. Cứ khoảng chừng 30 phút, tôi lại gọi các C/Đội của tôi cũng như các C/Đoàn để nhắc nhở, đồng thời cũng để kiểm tra sự cảnh giác của họ. Pháo thì vẫn pháo, lo thì cứ lo, nhưng có lẽ có lúc tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn. Chỉ chắc chắn một điều là vào ban đêm thì địch chẳng thấy được chiến xa để bắn AT-3, SS-11 hay B-41. Dần dần, bóng đêm nhường chỗ cho ánh sáng yếu ớt của ban mai. Tôi thức dậy bảo lính pha cà phê và lợi dụng thời gian ngưng pháo của địch để nấu nước sôi đổ vào cơm sấy. Từ trên Chiến xa chỉ huy, tôi quan sát khắp nơi và thấy lính của từng chiến xa M.48 và M.113 phóng lên rồi nhảy xuống xe của họ trong lúc nấu nước để đề phòng pháo bất ngờ rơi xuống. Điều này không thể nào tránh được. Ông bà mình thường nói: “Dỉ thực vi tiên” thật không sai chút nào. Ai biết được cuộc chiến sẽ như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu nữa. Tôi lại nhảy xuống khỏi chiến xa, ngồi ở xe M.577 để theo dỏi báo cáo trên máy và vừa nhắp cà phê, vừa hút thuốc, mắt nhìn đồng hồ đeo tay. Phút chốc mà đã 07:50 ngày 30/01/73. Tôi tiếp tục suy nghĩ xem phải làm thế nào để thay đổi tình thế này. Thế rồi càng suy nghĩ lại càng lo, cứ thắc mắc hoài: “Không tiếp tế, không tải thương, rồi lại không có Pháo binh, Không quân yểm trợ. Như vậy là sao? Không lẽ họ bỏ rơi toàn bộ anh em mình?” Biết hỏi ai đây! Vì không thể gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC để lý lẽ với Đ/tá Trí. Biết đâu ông ấy cũng đang rối trí vì đến lúc này vẫn không có chỉ thị gì từ BTL/QĐ1 hay cấp cao hơn. Đến khoảng 09:20, trong lúc tôi đang ở xe M.577 và nhân viên trong chiến xa chỉ huy đang ở bên ngoài xe để ăn cơm thì một tiếng xẹt kèm theo một tiếng nổ lớn. Tôi ngoái nhìn thì thấy chiến xa M.48 chỉ huy của tôi đang bốc khói từ trong pháo tháp. Trên máy, tôi nghe tiếng nói của Đ/u Nam: “Xe của Hồng Nhạn bị bắn cháy rồi, chắc Hồng Nhạn đã tiêu rồi.” Tôi bèn chộp ống nói và lên tiếng ngay: “Tao vẫn còn đây. Hảy bình tỉnh!” Tôi nhìn kỷ lại chiến xa của mình thì 2 cần ăn ten đã bị đứt cụt và khói vẫn tỏa ra nhưng không còn dày đặc như trước. Tr/u Kính và Th/u Thăng cũng gọi về hỏi và tôi nói sẽ kiểm soát lại và cho biết tình hình sau. Còn dặn dò họ phải cẩn thận hơn vì xe tôi đã bị SS-11. Ngay lúc này, tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi khi một ý nghĩ dị đoan lẽn vào đầu óc: anten của máy truyền tin là linh hồn của đơn vị, hay nói đúng hơn là đơn vị trưởng. Nếu anten bị gảy hay đứt thì đơn vị trưởng cũng sẽ bị tiêu đời. Tôi tự hỏi: Không lẽ ngày 28/01 là sinh nhật của mình cũng là điềm gở báo trước ngày tử của mình sao? (tôi sinh vào ngày 28/01). Rồi tôi nhớ lại một người bạn đã nói: “Đã nói là dị đoan thì nếu tin thì có mà không tin thì sẽ không có.” Do đó tôi cố gạt ý tưởng dị đoan này, nhưng thật không dễ chút nào. Chứng 10 phút sau, bổng HS Thẩm đến đưa cho tôi xem đoạn dây màu trắng nhỏ xíu nhặt được từ phía trước chiến xa của tôi. Tôi nói: “Đây là dây điều khiển của loại Hỏa tiển chống chiến xa SS-11.” HS Thẩm lại nhảy vào trong chiến xa một lúc rôi nhảy xuống và nói: “Pháo tháp xe đã bị thủng và lỏi hỏa tiển đã xuyên vào 2 máy truyền tin VRC-46 và VRC-47 nên cả 2 máy đều bị cháy mới bốc khói như vậy.” Tôi bảo kiêm tra ‘núm điện chính’ (Power switch) của bảng điều khiển trước mặt tài xế thì HS Thẩm nói là vẫn còn hoạt động. Tôi nói: “Như vậy là xe vẫn còn nổ máy được.” Và bảo lính gở thêm 1 máy PRC-25 trong M.577 ra khỏi giá khung và đặt vào khoang tài xế chiến xa để cho tài xế sử dụng khi cần. Như vậy, lúc này địch đã dùng hỏa tiển chống chiến xa điều khiển từ xa để diệt các cấp chỉ huy khiến cho các C/Đoàn trưởng lo lắng hơn. Tình hình càng lúc có vẻ càng nguy ngập nhưng tôi vẫn không báo cáo về cho BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì biết Đ/tá Trí luôn theo dỏi trên các hệ thống chỉ huy của các C/Đoàn và Th/Đoàn20CX. Khoảng 10:10, trên hệ thống nội bộ của C/Đoàn tôi bổng có tiếng gọi Hồng Nhạn (danh hiệu của tôi) nhưng nghe giọng nói có vẻ khác lạ. Tôi cầm máy trả lời thì mới biết đó là tiếng của Đ/u Tạ-quang-Trung báo C/Đoàn 1/17CX M.41 của anh ta đang tiến gần đến vị trí của chúng tôi, mang theo lương thực tiếp tế. Tôi liền báo cho các C/Đoàn biết để thông báo cho TQLC tùng thiết. Tôi gọi tiếp Đ/u Trung và hỏi trên đường đi có gì không và Trung nói chỉ gặp vài loạt súng lẽ tẻ thôi nên C/Đoàn vô sự. Tôi hỏi có tùng thiết không thì Trung bảo là có 1 râu (1 đại đội TQLC- đó là Đ/Đội 2/TĐoàn2TQLC của Tr/u Từ đức-Thọ. Khoảng 10:20, chiếc M.41 đầu tiên đến gần vị trí tận cùng phía nam của chúng tôi. Một đợt pháo nữa của địch, toàn là loại 130 ly, lại bắt đầu rơi xuống các vị trí. Tôi gọi và bảo Đ/u Trung cứ bình tỉnh tiếp tục cho C/Đoàn M.41 bố trí xen kẻ và nối thêm vào khoảng trống còn lại, quay đầu xe bố trí về hướng nam, còn BCH/C/Đoàn 1/17CX thì tiến thẳng về hướng bắc đến gần BCH/C/Đoàn 2/17TK và nằm ở đó. Tôi cũng báo cho các C/Đoàn cho anh em từng đợt đến nhận lương thực tiếp tế. Dù muốn dù không, có thêm lực lượng tăng cường cũng khiến cho anh em vững tâm hơn. Nhưng tôi thì lại nghĩ khác: phòng tuyến vẫn rất vững vàng, địch không dám tấn công mà chỉ dùng pháo và súng chống chiến xa để làm tiêu hao quân mình, như vậy thì việc tăng cường lực lượng TG để phòng thủ có lẽ không có lợi lắm. Như vậy, lực lượng TG đang cố thủ tại Cửa Việt kể từ 11:15 trưa ngày 30/01/73 gồm: – C/Đoàn 1/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 + M.577 : 14 chiếc – C/Đoàn 3/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 : 13 chiếc – C/Đoàn 1/17CX gồm 15 M.41 + M.113 : 16 chiếc – C/Đoàn 2/17TK gồm 22 M.113 : 22 chiếc – C/Đoàn 3/18TK gồm 21 M.113 : 21 chiếc – BCH/Th/Đoàn20CX gồm 5 M.113 + 2 M.48 : 07 chiếc Tổng cộng: 93 chiếc Và Lực lượng TQLC gồm: – ĐĐội 4/TĐoàn 2 của Tr/u Trần-đình-Công tăng phái cho Đ/u Xứng – ĐĐôi 3/TĐoàn 4 của Tr/u Mai-văn-Hiếu tăng phái cho Đ/u Nam – ĐĐội 2/TĐoàn 2 của Tr/u Từ-đức-Thọ tăng phái cho Đ/u Trung Tổng cộng: khoảng 200 người. Khoảng 11:00, Đ/u Trung gọi máy báo cho tôi và các C/Đoàn trưởng khác đến M.113 của anh để lai rai vì có mang theo nhiều thức ăn đang chuẩn bị cho Tết. Chờ pháo địch ngưng rơi, chúng tôi chạy đến phóng vào xe M.113 của Trung, cùng nhau uống bia và ăn. Đã 1 ngày 1 đêm tôi chỉ uống cà phê và ăn bánh trong thùng lương khô, không thể nào nuốt nổi một muổng cơm sấy nào do vừa mệt vừa lo. Giờ lại có thức ăn tươi và anh em đầy đủ tôi mới ăn được mấy miếng. Th/tá Kiều và Th/tá Tiền không đến. Sau khi ăn xong, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng và các Đ/Đội trưởng TQLC: “Anh em phải rất cẩn thận và cố giữ vững tuyến. Với tình hình này, tôi sẽ báo cho Th/tá Kiều gọi xin lệnh rút quân và tôi cũng sẽ gọi thẳng về Đ/tá Trí xin lệnh rút. Đây là lúc tinh thần anh em BS không còn vững và ngay chúng mình cũng vậy. Tuy nhiên không ai trong chúng ta muốn trở thành một Phạm-văn-Đính thứ hai (Tr/tá Tr/Đoàn trưởng Tr/Đoàn 56/BB đã đầu hàng địch tại Carroll năm 1971). Còn nếu tự ý rút quân thì sẽ bị ra Tòa án quân sự và thế là ‘thân bại danh liệt’đó! Một điều rất quan trọng là: tất cả Chiến xa và M.113 tuyệt đối không được nổ máy xe, vì nếu chỉ có một xe nổ máy thì toàn bộ sẽ nghĩ là ‘bỏ chạy’ và sẽ chạy theo.” Khoảng 25 phút sau, chúng tôi đều trở về BCH/C/Đoàn của mình. Tôi gọi và nói với Th/tá Kiều liên lạc với BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh rút quân vì nếu tiếp tục ở trong tình trạng bị động như thế này thì sớm muộn cũng chỉ bị thiệt hại thêm mà thôi. Và ông Kiều trả lời là sẽ gọi. Từ khoảng 12:00 giờ đến gần 14:00 giờ ngày 30/01/73, pháo địch lại ngưng hẳn và cũng không nghe các C/Đoàn báo cáo bị hỏa tiển chống chiến xa. Tôi lại bảo lính pha cho tôi cà phê và vừa nhắp cà phê vừa phì phà thuốc, suy nghĩ: Ý nghĩ đầu tiên khá lạc quan, tức là, có lẽ mấy ông lớn đã thỏa thuận với nhau để xác định giá trị của Hiệp Định Paris nên ra lệnh cho tụi nó ngưng bắn. Như vậy là quá tốt! Rồi ý nghĩ thứ hai lại xen vào: biết đâu tụi nó đang dự trù một kế hoạch tấn công khác dử dội hơn hay đang cần thời gian để chuyển quân đến thêm hay đang vận chuyển thêm loại súng chống chiến xa để diệt Chiến xa và M.113 đang cố thủ và là mục tiêu cố định cho chúng nhắm bắn. Và chính ý nghĩ thứ hai này đã khiến tôi càng lo lắng hơn, nhưng cũng vẫn không kiếm ra cách giải quyết. Chiến trường vẫn tiếp tục yên lắng. Ý nghĩ lạc quan của tôi chiếm chỗ của ý nghĩ bi quan và tiếp tục dâng tràn. Không lẽ mình đoán thế mà lại đúng sao? Tôi gọi BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo tình hình và hỏi xem có tin tức gì mới không, nhưng Đ/tá Trí nói là không có gì, còn nhắc nhở tôi cẩn thận cố giữ tuyến. Có lẽ Th/tá Kiều vẫn chưa liên lạc với Đ/tá Trí do tình hình im lắng của chiến trường trong mấy giờ liên tục. Đến khoảng 15:05, bổng có một tiếng nổ lớn từ trên tuyến của C/Đội M.48 của Th/u Thăng và tôi nghe ông báo là 1 CX đã bị bắn bằng AT-3, tiếp đến là pháo 130 ly của địch rơi dày đặc và dử dội trên toàn vị trí của chúng tôi. Tôi bảo Th/u Thăng báo cho tôi biết chi tiết, nhưng ông bảo là không còn liên lạc được. Như vậy là hệ thống điện của CX đã bị bắn hỏng. Tôi ra lệnh cho Tr/u Kinh và Th/u Thăng cho dùng Đại liên 30 ly M.73 song hành bắn quét rộng phía trước rồi cho M.113 chỉ huy chở y tá phóng lên chỗ chiến xa bị bắn dưới cơn mưa pháo của địch. Chứng 10 phút sau mới nghe báo cáo toàn bộ nhân viên xa đội 4 người đều bị thương, kẻ ở chân, kẻ ở tay. Chiến xa này đã bị tê liệt toàn bộ hệ thống điện. Tôi ra lệnh: “Nhân viên nào trong xa đội còn leo lên chiến xa được thì dùng cuộn dây mang theo leo vào xe, cột chặt vào cần cò tay của đại bác rồi thả lần dây ra khỏi pháo tháp, kéo xuống phía sau chiến xa. Sau đó tất cả đều nằm vào dưới lườn chiến xa để tiếp tục quan sát phía trước. Chờ khi nào địch tấn công thì giật kéo dây cò bắn đạn chài đã nạp sẵn. Rồi leo lên nạp đạn tiếp và nhảy xuống. Như vậy thì an toàn hơn.” Chỉ phải như vậy thôi, vì không có nhân viên thay thế. Tôi bảo Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bên phải và bên trái chú ý yểm trợ cho chiến xa đó. Với tình hình hiện tại, một lần nữa tôi lại phải nhắc nhở các C/Đoàn bắn đại liên 30 và 50 ly rà quyết cầm chừng phía trước. (Không thể sử dụng đại bác khi không nhìn thấy mục tiêu phù hợp). Bây giờ đã là gần 17:00 giờ, cũng gần hết ngày 30/01. Như vậy, chúng tôi đã chịu pháo và đạn chống chiến xa của địch 2 ngày và gần 2 đêm rồi. Riêng C/Đoàn của tôi bị tổn thất nhiều nhất do địch đặt trọng tâm vào đơn vị nằm ở tuyến đầu, xa nhất về hướng bắc. Và đã có 4 CX M.48 bị bắn AT-3 và SS-11 (2 của C/Đội 3/1/20CX + 1 của C/Đội 1/3/20CX + chiến xa của tôi). Có 9 HSQ và BS bị thương (1 nặng + 8 nhẹ -vẫn còn chiến đầu trên tuyến. Chưa nói đến thi thể của HS Thìn – tài xế chiến xa của xe tôi chết trong đêm tiến quân ra Cửa Việt)). Điều đặc biệt là không có M.48 hay M.113 nào bị cháy do bị bắn (chỉ không còn nổ máy hay liên lạc được nữa mà thôi). Nhờ vậy mà tinh thần anh em cũng không bị sa sút nhiều. Lúc này tôi không muốn gọi các C/Đoàn báo cáo tổn thất vì nếu làm thế sẽ gây hoang mang và lo lắng thêm cho tất cả. Tôi lại gọi cho Th/tá Kiều nhắc ông xin lệnh rút lui, nhưng hình như ông không dám. Còn tôi thì vẫn còn do dự. Giá nào thì trời cũng sắp tối và như thế thì bớt bị đạn chống chiến xa hơn. Còn pháo địch thì như ‘cơm bữa’ rồi, lo lắng cũng vô ích. Tr/u Kính và Th/u Thăng thỉnh thoảng lại gọi tôi hỏi xem có lệnh gì khác không. Tôi đã đoán biết tâm trạng của họ, nhưng chỉ bảo họ cố gắng giữ tuyến, hy vọng tình hình sẽ chuyển biến tốt. Phải nói như vậy thôi, trong khi tâm trạng của tôi không tốt chút nào và tôi nghĩ rằng tất cả anh em các cấp cũng thế hoặc còn nản hơn. Rồi màn đêm lại buông xuống. Một đêm nữa sắp đến và tất cả sẽ ra sao đây! Như một thói quen của một người lính đã từng lăn lộn trên chiến trường của vùng Hỏa tuyến, tôi lại gọi nhắc nhở các C/Đoàn cẩn thận và chịu khó thức để kịp đối phó ý đồ của địch. Cũng may, với chiến xa M.48, nguồn năng lượng của 6 bình điện trong xe tương đối dồi dào, có thể đã chịu nổi 2 ngày và gần 2 đêm mà hao hụt không nhiều, vì các máy truyền tin và hệ thống tác xạ đại bác cũng như đại liên 30 ly M.73 song hành đều cần có điện mới sử dụng nhanh được (dĩ nhiên là vẫn có thể sử dụng các loại súng bằng tay, nhưng máy tuyền tin thì không được). Ngoài ra, vào ban đêm thì phải dùng Hồng ngoại tuyến trên xe để quan sát. Rồi đạn dược dành cho đại liên 30 và 50 ly thì cũng đã gần cạn kiệt, dù các đạn đại bác vẫn còn, nhưng đạn chài (canister) chống biển người thì số lượng cũng hạn chế thôi. Hết lo cái này đến lo cái nọ để tìm cách giải quyết dự phòng! Có lẽ nhờ thế mà tôi không còn suy nghĩ vẫn vơ khiến mình lo lắng, sợ hãi. Tôi nằm nghỉ trên xe M.577, tai luôn lắng nghe những động tỉnh trên các hệ thống truyền tin. Đến khoảng 21:00 giờ thì Tr/u Kinh và Th/u Thăng báo thấy địch dàn hàng ngang chuẩn bị tấn công chúng tôi, khoảng cách chừng 70m. Tiếp đến thì Đ/u Nam cũng báo cáo như thế. Tôi nhỏm dây ra lệnh cho Tr/u Công cho lính TQLC bò về ngang với chiến xa để cho chúng tôi đối phó. Tôi bảo Đ/u Nam cũng làm y như thế. Riêng C/Đoàn 1/17CX M.41 thì không bị như thế vì đang phòng thủ về hướng nam. Còn C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK cũng chuẩn bị. Tr/u Kính lại báo thêm là địch chỉ còn cách từ 40 đến 50m thôi, cứ tiến gần chúng tôi nhưng lại không nổ súng. Không cần suy nghĩ, tôi ra lệnh: “Nếu tụi nó đến gần trong khoảng 40m thì bắn đạn chài ngay, tiếp đến là sử dụng các loại súng đại liên.” Pháo 130 ly của địch vẫn rơi đều trên khắp vị trí của chúng tôi, nhưng vào lúc này thì hầu như không ai còn để ý đến, vì đang phải lo đối phó với tình huống nguy hiểm trước mắt. Đến khoảng 21:30, loạt đan chài từ các đại bác của chiến xa M.48 nổ rền, kèm theo từng loạt đại liên. Và phía địch cũng bắt đầu nổ súng nhưng rất yếu ớt, vì không chịu nổi hỏa lực của chúng tôi. Tr/u Kính báo cáo: “Đợt này ngả xuống thì chúng dàn hàng ngang đợt khác.” Tôi nói: “Cứ bình tỉnh. Tụi nó không chịu nổi đạn chài của mình đâu! Nhưng phải chờ chúng đến đúng tầm thì mới tác xạ!” Phía C/Đoàn của Đ/u Nam cũng báo như thế và tôi cũng ra lệnh như thế. Để quan sát toàn bộ vị trí, tôi xách máy PRC-25 lên chiến xa chỉ huy (vì máy truyền tin trên chiến xa đã bị bắn hỏng) và chỉ nhìn thấy chớp sáng của những lằn đạn giao nhau từ phía địch và phía chúng tôi. Tôi lại nhảy xuống vào M.577 báo cáo tình hình về BTL/HànhQuân/ SĐ/TQLC và Đ/tá Trí nói: “Tôi vẫn đang nghe và theo dỏi. Phải cố giữ tuyến.” Bây giờ đã gần 23:00. Bổng nhiên tiếng súng im bặt. Toàn bộ các đơn vị đều không bị tổn thất gì cả. Tất cả báo cáo đợt tấn công thứ hai của địch đã tiêu tùng và không còn thấy động tỉnh gì nữa. Tôi chỉ nhắc nhở như thường lệ vì có thể sẽ có những đợt tấn công khác. Riêng Tr/u Công thì tôi bảo phải chú ý hơn để diệt những tên địch còn sót có thể bò vào sát các chiến xa cũng như ngăn ngừa địch sử dụng những toán đặc công cảm tử. Tiếng súng thì không còn, nhưng tiếng nổ của 130 ly vẫn còn lai rai. Vào ngồi lại trong xe M.577, tôi miên man suy nghĩ: vừa mong cho trời nhanh sáng để địch không còn dám tấn công vì quá lộ liểu; vừa mong cho trời chậm sáng để địch không thấy rõ các chiến xa M.48 để bắn AT-3 hay SS-11. Đúng là mâu thuẩn! Đến khoảng 02:15 ngày 31/01/73 thì đột nhiên tiếng 130 ly nổ dồn dập hơn. Còn có những tiếng nổ nhỏ hơn của cối 82 của địch. Tiếp đến thì Tr/u Kính và Th/u Thăng lại báo địch đang từng cụm bò vào. Tôi hỏi Đ/u Nam thì biết tình hình bên phía đó cũng như vậy. Tôi vẫn cho lệnh phản ứng như lần địch tấn công ban đầu trong đêm. Chỉ khoảng 10 phút sau thì tiếng đại bác của chiến xa và đại liên nổ rền. Với loại đạn đại bác chống biển người thì địch dù đông bao nhiêu cũng không thể tràn qua tuyến phòng thủ của chúng tôi. Đợt trước ngả xuống thì lớp sau lại tiến lên, nhưng địch vẫn chẳng tiến được bước nào. Th/u Thăng còn báo 2 tên địch bò vào sát một chiến xa của C/Đội và định leo lên thì bị TQLC tùng thiết bắn hạ ngay. Tiếng nổ của các loại súng rền vang trong khoảng hơn 15 phút rồi dần giảm bớt. Lúc này đã gần 03:00. Không cần các C/Đội và C/Đoàn báo cáo, tôi cũng biết địch đã không còn tấn công nữa. Chúng tôi vẫn không bị thiệt hại gì. Tuy nhiên, tinh thần anh em cũng có phần giảm sút, và ngay bản thân tôi cũng càng thêm lo lắng vì đạn dược dùng cho các loại đại liên trên chiến xa M.48 và M.113 cũng như của súng cá nhân của TQLC tùng thiết đang cạn kiệt dần, chưa nói đến sự giảm sút về sức lực sau hơn 2 đêm không chợp mắt. Tôi chỉ còn cách gọi nhắc nhở các C/Đoàn mà thôi và cũng không cần báo cáo về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì chắc họ cũng đang theo dỏi nhưng không biết phải cho lệnh gì nữa. Chỉ hơn 30 phút sau, khoảng 03:40, tiếng đại bác và đại liên của chúng tôi lại nổ rền một lần nữa. Địch lại tấn công lần thứ 3 trong đêm. Chỉ khác là lần này thì mức độ tấn công liên tục hơn. Súng nổ rền một chốc rồi lại giảm bớt rồi lại nổ rền. Quân địch, lớp này ngả gục lại đến lớp khác. Cho đến khi lớp thứ tý ngả xuống, chúng mới chịu ngưng. Tôi đoán biết phía địch đã tổn thất không nhỏ, mà chẳng thể nào phá thủng phòng tuyến của Chiến xa M.48 được. Tôi không gọi mà chỉ theo dỏi trên máy các C/Đội của tôi và của các C/Đoàn. Đãc biệt là hướng phòng thủ (hướng nam) của C/Đoàn 1/17CX M.41 của Đ/u Trung thì lại không bị tấn công do địa thế phía trước rất trống trải, chỉ là cát, không mấp mô những ụ cát và cũng không có những bụi cây nhỏ, còn cách xa ven làng Hà tây đến khoảng 400m. Đồng hồ đeo tay của tôi đã chỉ 04:35. Nhận định tình hình, tôi đoán địch thế nào cũng cố chọc thủng phòng tuyến của chúng tôi để tràn ngập. Nhưng trời cũng sắp sáng rồi, không biết có lợi hay có hại đây! Lòng tôi cứ hoang mang vì không nghĩ ra được cách nào đối phó với ý đồ kế tiếp của địch. Thế rồi thời gian cứ trôi qua. Pháo địch cũng giảm bớt và ngưng hẳn. Lúc này đã là 07:05 ngày 31/01/73. Sương mù đã tan hết từ lâu nhường chỗ cho ánh nắng ban mai. Tôi leo lên chiến xa M.48 chỉ huy quan sát kỷ toàn cảnh một lần. Phía trước mặt chúng tôi, quang cảnh trông hầu như không có chuyện gì xảy ra trong đêm ngoại trừ một số bụi cây nhỏ đã bị trốc gốc và một số đụn cát đã bị bắn banh ra. Có lẽ địch đã tải lính bị chết và bị thương trong đêm. Thật sự, tôi không thể đoán ra điều gì sẽ xảy ra. Đến khoảng 07:40, tôi nghe máy gọi Hồng Nhạn và nhận ra tiếng của Binh 1 Thạch Minh, tài xế xe jeep của tôi. Tôi cầm máy, bảo: “Hảy qua số nhà cũ!” (đây là tần số riêng để tôi liên lạc về với gia đình khi cần). Binh 1 Minh nói: “Ở Huế, người ta đã loan tin rằng toàn bộ quân mình ở Cửa Việt đều đã bị bao vây, không ai về được cả. Chị rầt lo lắng nên bảo em ra Tiền cứ liên lạc với anh.” Dù trong lòng đang lo lắng, tôi vẫn điềm tỉnh trả lời (vì biết chỉ hai mươi mấy ngày nữa là vợ tôi đi sinh, nên không muốn gây lo lắng cho bà trước khi sinh): “Đừng nghe tin đồn bậy bạ. Anh vẫn bình yên. Nói với chị chuẩn bị đồ ăn mang ra cho anh và bạn bè lai rai. Khi nào anh gọi thì mang ra.” Đúng là chết đến nơi rồi mà vẫn còn nói xạo! Tôi buông máy nhảy ra khỏi M.577 nhìn ra phía trước thì thấy số anh em bị thương trước đó đang dìu nhau lò cò đi về phía BCH/C/Đoàn của tôi. Tôi bảo anh em lên và tiếp dìu họ về. Thấy vẻ mặt của họ, lòng tôi thật xốn xang, nhưng biết làm sao đây. Sau khi y tá thay băng và chích thuốc cho họ xong, tôi nói: “Với tình hình này thì anh em cũng sẽ chết và tôi cũng sẽ chết. Chỉ có một con đường sống mà thôi. Đó là tiếp tục chiến đấu. Anh em phải cố trở lên tuyến và làm theo những gì tôi đã hướng dẩn hôm qua. Tụi nó sẽ không làm gì được mình đâu. Còn nếu ở lại BCH/C/Đoàn thì không còn ai sử dụng đại bác trên chiến xa của anh em và thế thì phòng tuyến sẽ bị thủng. Lúc này, lời tôi nói là lời khuyên chứ không còn là lệnh nữa. Tùy anh em suy nghĩ. Không thể dùng xe M.113 đưa anh em lên tuyến được vì tất cả các xe đều không được nổ máy.” Tôi không ngờ được rằng chỉ trong vòng không đến 1 phút, tất cả các anh em đang bị thương, có 2 người bị thương đến 2 lần, đều nhỏm dậy dìu nhau bước hướng lên tuyến. Tôi buồn bả nhìn theo, tràn đầy khâm phục, thầm nói: họ mới đúng là những anh hùng thật sự. Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 08:20 (ngày 31/01/73). Bổng một tiếng nổ vang lên từ phía tuyến của C/Đoàn 3/20CX, và tiếng của Đ/u Nam: “Thêm một xe nữa đã bị bắn AT-3”. Tôi chụp máy nói ngay: “Cứ bình tỉnh! Hảy cho y tá chạy bộ lên chãm sóc anh em bị thương đi! Không được dùng M.113, vì không xe nào được nổ máy.” Tôi lại leo lên chiến xa của tôi để quan sát. Lúc này pháo địch chỉ rơi rất thưa thớt. Chỉ khoảng 3 phút sau thì tôi thấy một vệt sáng xẹt vào hướng về BCH/C/Đoàn 1/17CX M.41 và trúng ngay vào chiến xa chỉ huy của Đ/u Trung, tiếp đến là 2 Binh sĩ phóng ra từ trong chiến xa. Tôi vội nhảy xuống vào xe M.577 gọi Đ/u Trung thì nghe được tiếng của anh báo là xe bị bắn nhưng lúc đó anh đang ở trong xe M.113. Nghe thế, tôi cũng yên lòng phần nào. Nhưng nổi lo sợ của tôi lại càng tăng khi chợt nghĩ đến viêc địch đang và có thể sẽ dùng toàn bộ súng chống chiến xa các loại để tiêu diệt chúng tôi. Vì không thể tấn công bằng bộ binh hay thiết giáp được, địch sẽ sử dụng chiến thuật này. Và tôi đã đoán không sai. Chỉ chưa đến 8 phút sau thì một qủa đạn chống chiến xa nữa bay vào trúng vào một xe M.113 của BCH/Th/Đoàn20CX. Tôi vội nhảy lên chiến xa của tôi để quan sát và thấy được tình trạng hổn loạn của đám lính của xe M.113 đã bị bắn tranh nhau chạy leo vào các xe M.113 khác của BCH nằm cạnh đó. Tôi gọi ngay cho Th/tá Kiều và nói ông gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh cho rút quân. Và chỉ 2 phút sau, ông báo: “Lệnh phải cố thủ. Không được rút quân vì đây là mục tiêu của tonton (Tổng Thống) và chỉ có tonton ra lệnh rút thì mới được rút quân.” Địch đã hầu như ngưng pháo, và chỉ sử dụng các loại súng chống chiến xa mà thôi. Và chiến thuật này đã có hiệu qủa vì vừa gây thiệt hại cho Thiết giáp vừa khiến cho tinh thần của các lực lượng đang phòng thủ sa sút. Tôi lại nhìn đồng hồ: 08:45. Tôi rất muốn ra lệnh rút quân nhưng lại không dám. Tử thần cứ như lảng vảng trước mắt. Đang lúc rối trí thì lại nghe một tiếng xẹt và thấy chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị trúng một qủa đạn chống chiến xa. Và chiến xa này đột nhiên nổ máy quay đầu phóng chạy về hướng nam (hướng quân bạn). (Thật ra thì khi chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị bắn, anh đang ở trong xe M.113. Do đó, tài xế chiến xa của anh quá hoảng mới nổ máy phóng chạy.) Thế là các loại xe khác đều nổ máy chạy theo. Tôi gọi Th/tá Kiều, rồi Đ/u Nam, rồi Đ/u Cảnh, rồi Đ/u Minh nhưng hệ thống truyền tin đã im lặng. Ngay cả khi tôi gọi máy cho Tr/u Kính khi thấy chiến xa của anh chạy ngang qua mặt tôi, tôi vẫn không nghe trả lời. Tôi tức tốc bảo HS Thẩm lên chiến xa và tôi cũng cho mang 1 máy PRC-25 vào khoang trưởng xa để liên lạc, đồng thời cho khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa cũ của tôi) lên M.577. Tôi nhìn quanh, tất cả những loại xe còn nổ máy được đã chạy hết, trên tuyến của tôi chỉ còn lại 4 chiến xa M.48 đã bị bắn trước đó còn nằm tại chỗ. Tôi đang định ra lệnh cho BCH/C/Đoàn của tôi bắt đầu chạy thì thấy cách tôi chừng 30m, các anh em đã bị thương đang cố dìu nhau chạy bộ về. Tôi tức tốc ra lênh cho M.113 và M.577 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi phóng đến đón họ vào hết trong 2 xe và ra lệnh: “M.577 sẽ chạy song song phía bên trái chiến xa của tôi (tức là sát mé nước biển) để được che chắn vì xe này không có trang bị súng. Xe M.113 sẽ chạy sau tôi chừng 20 đến 30m và quay súng đại liên 50 và 30 ly về phía bên phải và bắn cầm chừng khi chạy ngang qua các làng dọc biển. Tất cả đều phải phóng rất nhanh.” Lúc này tôi không còn suy nghĩ gì nữa ngoại trừ việc ra lệnh cho HS Thẩm, tài xế chiến xa của tôi, xe M.577, và M.113 còn lại của tôi khi cần mà thôi. Trên đường về tôi còn thấy chiến xa M.41 của Đ/u Trung bị bỏ lại. Tôi phải phóng khoảng gần 500m mới hết ranh giới vòng đai phòng thủ của chúng tôi, và tôi mới thấy lính TQLC, vì không kịp leo lên xe của các C/Đoàn, đang chạy bộ về hướng nam, nhưng cách xa tôi về phía tây chừng 200m. Tôi không thể nào dừng lại để đón họ được, dù lúc này tôi nhìn lại thì tuyến vẫn chưa bị địch chọc thủng vào. Có lẽ những chiến xa M.48, M.41 và M.113 đã bị bắn tê liệt còn nằm lại khiến địch nghi ngờ chúng tôi đang chuyển một số quân qua hướng khác.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:37:05 GMT 9
Mấy cụ thường dạy: “Tấn công thì nên đi sau, còn chạy thì nên chạy trước” thật không ngoa chút nào. Vì tôi chạy sau một khoảng thời gian, có lẽ chừng 15 đến 20 phút, do vị trí ở xa nhất về hướng bắc và còn phải đón anh em bị thương từ tuyến chạy về, nên địch còn nằm ở các làng dọc biển có thời gian chuẩn bị đón bắn chúng tôi. Súng địch từ trong làng bắn ra liên tục. Dọc đường, tôi còn thấy rõ 2 tên địch ngang nhiên đứng giang chân kê B-41 lên vai định bắn vào chúng tôi, nhưng đại liên 30 ly bên hông M.113 đã quạt ngả chúng. (chiến xa M.48 chỉ huy của tôi thì không còn bắn ai được nữa sau khi bị bắn 2 lần, nhưng tôi vẫn không rời nó được) Tôi nhìn địa hình và đoán mình đã vượt qua được chừng 5km. Tôi gọi báo cho xe M.113 biết sắp đến tuyến của quân bạn rồi, vì không còn thấy trong làng bắn ra, và ra lệnh ngưng tác xạ. Chỉ chừng 15 phút sau, tôi đã thấy phía trước lố nhố rất nhiều lính bạn đang đứng sát mé biển trông về hướng bắc. Khi chiến xa tôi đến, họ reo hò: ‘Đ/u Xứng đã về rồi! Đ/u Xứng đã về rồi!”. Thở phào nhẹ nhỏm, tôi ra lệnh cho tải thương ngay những anh em bị thương và đưa thi thể HS Thìn về Bệnh viện. Tôi bảo Tr/u Kính kiểm tra quân số về được thì được biết còn thiếu B1 Hoàng-Hoàng (tài xế, đã chết ngay trong chiến xa vào giờ phút cuối nên không kịp mang theo về, còn số chiến xa M.48 thì tôi đã thấy tại tuyến nên đã biết được. Sau đó, tôi lại leo lên chiến xa của mình đang hướng đầu về phía biển, ngồi xuống phía trước ngang với nắp tài xế, nhìn ra biển. Trời se lạnh vì chỉ còn mấy ngày nữa là Tết. Tôi bảo lính đưa cho tôi chiếc mền mỏng thường đắp, rồi quàng lên hai vai, cố hình dung ra một người lính của mình đã hy sinh và bị bỏ lại. Một cái tên rất khó quên. Họ là Hoàng và tên cũng là Hoàng. Và cũng suy nghĩ không biết phải nói gì khi Đ/tá Trí hỏi tại sao lại chạy về. Còn về TQLC thì chỉ có 3 Ban Chỉ Huy Đ/Đội và BCH của Th/tá Tiền (đã ở sẵn trên các M.113 chỉ huy của các C/Đoàn) cùng một số thì đã nhanh chân kịp leo lên M.113 mới về được. Số còn lại thì hoặc chết hoặc bị bắt sống phải trên 100 người. Thủy Quân Lục Chiến & Thiết Giáp – Quảng Trị 1972 Ngay lúc này, lính đến báo với tôi là xe jeep của tôi đã ra đến, mang theo đồ ăn do bà xả tôi chuẩn bị. Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 10:10 sáng ngày 31/01/73. Binh 1 Minh đã bày hết mọi thứ ra trên nắp máy xe jeep. Thế là chúng tôi đến ăn uống lai rai. Có cả Đ/u Trung, Tr/u Nga, Tr/u Lân của C/Đoàn 1/17CX M.41 và vài sĩ-quan các C/Đoàn nữa. Mỗi người chỉ nhấm nháp được 2,3 miếng là hết thức ăn, rồi chỉ nhâm nhi bia, nhưng niềm vui thoát được nguy hiểm đã tràn ngập tâm hồn. Sau đó, Tr/tá Tá đến chúc mừng tôi. Tôi nói: “Chắc tôi phải về nhà nghỉ vài ngày. Việc lảnh chiến xa bổ sung và sửa chửa xe bị hỏng đã có Tr/u Điệp (C/Đoàn phó của tôi) lo.” Và ông đồng ý. Tôi vào BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC gặp Đ/tá Trí. Ông bắt tay tôi và nói: “Tôi cứ ngở cậu không về được chứ. Nhưng theo dỏi trên máy vẫn còn nghe tiếng của cậu nên tôi vẫn hy vọng. Chúc mừng!” Tôi cảm ơn và cảm thấy yên lòng vì không nghe ông hỏi han gì về việc bỏ vị trí chạy về. Trước khi lên xe jeep về nhà, tôi gọi Đ/u Nam và trả lại C/Đội chiến xa M.48 đã tăng phái cho tôi (nhưng giờ thì không còn đủ. Rồi dặn Tr/u Kính dẩn toàn bộ C/Đoàn với số chiến xa chỉ còn chừng 1 C/Đội về tiền cứ ở Hòa Mỹ. Cuộc Hành Quân Tango đã kết thúc. Kể từ lúc Cánh A – Nổ lực chính- của tôi vượt tuyến xuất phát và C/Đoàn tôi đã đến Cửa Việt đầu tiên cho đến khi tôi là người trở về cuối cùng là 4 ngày + 4 đêm + khoảng 3 giờ 30 phút. Ngang qua căn cứ Hòa Mỹ, tôi tạt vào dặn dò Tr/u Điệp những việc cần làm, nhất là phân phối cho anh em đi phép, rồi lên xe tiếp tục về Huế nghỉ ngơi để ngày hôm sau còn vào Bệnh viện thãm anh em bị thương và kiểm tra xem thi thể của HS Thìn đã được chuyển về quê nhà trong Nam chưa. Vậy là tôi được nghỉ 3 ngày và ăn Tết tại nhà ở Huế, quá đầy đủ đối với một người lính tác chiến. Sau đó, tôi trở lại đơn vị tại tiền cứ tại Hòa Mỹ. Khoảng 4 ngày sau, vào lúc gần trưa, tôi đang ở trong văn phòng C/Đoàn trưởng thì nghe có tiếng máy bay trực thăng. Tôi ra ngoài nhìn thì biết ngay là trực thăng của Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC). Tôi nghĩ rằng ông ghé xuống BCH/Th/Đoàn 20CX nên chẳng quan tâm gì. Không ngờ, chỉ mấy phút sau thì tiếng trực thăng đáp xuống vang lên rất gần, tôi nhìn ra và thấy trực thăng đã đáp xuống khoảnh đất trống trong vị trí của C/Đoàn tôi. Tôi vôi vả bước ra, chẳng kịp nai nịt súng ống gì cả, thì đã thấy Ch/tướng Lân và Tr/tá Nguyễn-kim-Để bước vào. Tôi chào và lúng túng kéo 2 chiếc ghế salon đóng bằng két đạn bằng gổ mời họ ngồi và kêu lính gọi nước uống từ Câu lạc bộ Th/Đoàn. Nhưng ông Lân khoác tay bảo không cần. Ông ngồi xuống và mỉm cười nói: “Bây giờ cậu muốn được thưởng gì đây? Muốn thăng cấp Thiếu tá hay nhận Bảo Quốc Huân Chương?” Tôi chẳng biết trả lời sao vì mọi chuyện xảy ra quá đột ngột. Tôi chỉ nói được: “Thưa Thiếu tướng, đơn vị tham chiến gồm 4 C/Đoàn và thêm 1 C/Đoàn tăng cường nữa. Và chúng tôi đã tự ý rút về.” Ch/tướng Lân nói: “TOC (Trung tâm Hành Quân) đã theo dỏi hệ thống truyền tin nội bộ của các đơn vị suốt cuộc hành quân. Cậu đã có kế hoạch và chỉ huy toàn bộ 4 C/Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Giai đoạn sau thì không tính.” Tr/tá Để xen vào: “Xin Thiếu tướng đề nghị thăng cấp Thiếu tá mặt trận cho Đại úy Xứng. Như vậy thì cụ thể hơn.” Và Ch/tướng Lân nói: “Như vậy cũng tốt. Chúc mừng cậu trước!” Ông đứng dậy bắt tay tôi. Tôi chỉ cảm ơn và mỉm cười. Chỉ trong khoảng 15 phút sau, tôi tiển ông và Tr/tá Để lên trực thăng bay luôn. Khi trở lại, tôi thấy Tr/tá Tá, nai nịt gọn gàng bước đến, hỏi tôi: “Ông Tướng xuống C/Đoàn anh có nói gì không?” Tôi nói dối: “Ông chỉ ghé xuống thãm và hỏi tình hình C/Đoàn mà thôi.” Và sau này ai hỏi, tôi cũng chỉ nói như vậy. Chỉ khoảng hơn 2 tháng sau thì tôi (sĩ-quan duy nhất được thăng cấp) được mang cấp bậc Thiếu tá (thăng cấp đặc cách mặt trận) do SĐ/TQLC đề nghị. Tôi chỉ đưa ra một Tổng kết tương đối chính xác của Lực Lượng Tấn Công Chính trong cuộc Hành Quân Tango như sau: – Địch: 1 – Nhân mạng: 01 bị bắt sống. Chết và Bị thương khoảng trên 300 trên đường tiến quân của tôi và trong các loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của các C/Đoàn tại Cửa Việt. 2 – Quân dụng: 3 T.54 hay T.59 bị bắn tê liệt – Bạn (Lực Lượng Tấn Công Chính): 1 – Nhân mạng: – Thiết giáp: 2 chết (1 bị bỏ lại Cửa Việt) khoảng 30 bị thương (trong đó có 2 sĩ-quan của Cánh A của tôi + 1 SQ của BCH /Th/Đoàn20CX) – TQLC tùng thiết: Chết và Bị thương khoảng 30. Bị bắt sống khoảng trên 100.trên đường tháo chạy 2 – Quân dụng: -6 CX M.48 (4 của Cánh A và 2 của Cánh B); 1 CX M.41; 5 M.113 bị bắn tê liệt và bị bỏ lại tại Cửa Việt. Không có loại nào bị cháy. Tổng cộng: 12 xe các loại. – 3 CX M.48 bị bắn hư hỏng nhưng vẫn chạy về được. – Phần đất Lực Lượng Tấn Công Chính đã tấn công càn lướt và TQLC theo sau đã điền trám được: hơn 5km (đến gần Bình An). – Riêng về Kết qủa của các T/Đoàn TQLC thì tôi không rõ. Mượn Tựa đề và Lời Mở đầu của Th/u Đặng-văn-Quang, tôi đã viết lại những hồi ức, mà lẽ ra đã muốn giấu kín trong lòng và giữ làm kỷ niệm cho quãng đời lính của mình, về Trận đánh Cửa Việt với toàn bộ sự thật, (nói là toàn bộ sự thật thì không đúng hẳn vì: thứ nhất, ngoài giờ giấc ngưng bắn là 07:57 ngày 28/01/73, các số giờ khác có thể có sự chênh lệnh về số phút nhưng không sai lệnh nhiều. Thứ hai, có một số chi tiết tương đối không quan trọng mà, vì tế nhị, tôi không tiện nêu ra vì muốn giữ lại những tình cảm rất đáng trân trọng của anh em thuộc cả 2 binh chủng đã dành cho tôi sau 36 năm dài dằng dặc) chỉ với mục đích xin dùng bài viết này thay cho: – Ba nén nhang cắm vào trước mộ của HS Thìn, tài xế chiến xa chỉ huy của tôi, đã hy sinh trong đêm tiến quân ra Cửa Việt và đã phải được gói chặt trong poncho (áo mưa của lính) suốt hơn 3 ngày liền, nghe thêm tiếng pháo nổ đạn bay cũng như hòa quyện linh hồn mình với niềm vui và nổi lo của đồng đội trong cuộc chiến khốc liệt nhưng bế tắc này. – Ba nén nhang cắm vào trước chiếc chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX do Binh 1 Hoàng- Hoàng làm tài xế và đã hy sinh anh dũng, yên nghỉ ngay trong khoang tài xế chiến xa của mình tại phòng tuyến Cửa Việt. Xin cầu nguyện cho linh hồn hai em ở thế giới bên kia siêu thoát và cảm thấy thanh thản hơn, nếu đọc được bài viết này. Bài viết này cũng để thay lời cảm ơn – Th/u Đặng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, đã bị thương ngay sau khi đã đánh tan tuyến chặn đầu tiên và kiên cố nhất của địch. – Th/u Nguyễn-văn-Sa, C/Đội trưởng C/Đội 1/3/20CX, được tăng phái cho tôi, đã bị thương nặng trên đường tiến quân và sau đó phải giải ngủ. – Tr/u Tống-huy-Kính, người đã cùng tôi vượt qua suốt chặng đường đầy cam go tiến chiếm Cửa Việt. Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2017 15:47:28 GMT 9
CUỘC RÚT QUÂN BI TRÁNG CỦA TIỂU ĐOÀN 11 NHẢY DÙ KHỎI PHÒNG TUYẾN CHARLIE THÁNG 4/1972Huy Hiệu Tiểu Đoàn 11 Dù Như đã trình bày, trận chiến khốc liệt tại cụm phòng tuyến Charlie, tỉnh Kontum, đã diễn ra từ 11 đến 14 tháng 4/1972 giữa tiểu đoàn 11 Nhảy Dù-đơn vị có biệt danh chiến trường là Song Kiếm Trấn Ải, và 2 trung đoàn CQ thuộc sư đoàn 320 CSBV. Người ở lại Charlie, Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo (phải), Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải. trái) 2 sĩ quan của Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 11 N * Từ Charlie về Võ Định: cuộc rút quân đầy bi tráng của người lính Dù tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải: Như đã trình bày, trận chiến khốc liệt tại cụm phòng tuyến Charlie, tỉnh Kontum, đã diễn ra từ 11 đến 14 tháng 4/1972 giữa tiểu đoàn 11 Nhảy Dù-đơn vị có biệt danh chiến trường là Song Kiếm Trấn Ải, và 2 trung đoàn CQ thuộc sư đoàn 320 CSBV. Chiến đấu trong một tình thế vô cùng nghiệt ngã, không có sự yểm trợ của Không quân chiến thuật, tương quan lực lượng là 1 người lính Nhảy Dù đối đầu với 6 CQ và cả tiểu đoàn phải chịu trận hàng trận mưa pháo của 1 trung đoàn pháo CSBV, chưa tính đến 1 trung đoàn phòng không của đối phương đã khống chế các phi vụ trực thăng tiếp tế, tải thương. Cuối cùng, để bảo toàn quân số, với khoảng 150 chiến binh còn lại, tiểu đoàn đã phá vòng vây để rút về tuyến sau. Trước khi trình bày cuộc rút quân đầy bi tráng của tiểu đoàn Song Kiếm Ải, xin được lược ghi về 4 ngày bão lửa của những người lính Nhảy tiểu đoàn Song Kiếm Trấn tại cụm đồi hỏa lực Charlie: Ngày 11 và 12 tháng 4/1972, Cộng quân đã mở trận hỏa công với hàng ngàn quả đạn: 130 ly, 122 ly và hỏa tiễn đủ loại vào các cứ điểm 960, 1020, 1050 thuộc hệ thống phòng ngự của căn cứ Charlie. Gần 9 giờ sáng ngày 12/4/1972, Cộng quân tiếp tục pháo loại đạn nổ chậm. Trung tá Nguyễn Đình Bảo-Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bị trúng nguyên một trái đạn xuyên qua hầm. Thiếu tá Lê Văn Mễ, tiểu đoàn phó được bộ chỉ huy lữ đoàn cử xử lý thường vụ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Ngày 13 tháng 4/1972, Đại đội 111 của Trung úy Thinh (từ đỉnh đồi 960 rút về đỉnh đồi 1020 trong ngày 12) được lệnh tung quân đi tìm nguồn nước và làm bãi đáp trực thăng để di tản thương binh và quân nhân tử trận. Cả đại đội 111 chỉ còn hơn 50 chiến binh, tất cả tuột đồi 1020 để xuống hướng Đông Nam. Di chuyển được 200 mét thì Cộng quân bố trí sẵn để phục kích. Trong lúc đang điều động quân sĩ chống trả, Trung úy Thinh đã bị một tràng đạn AK bắn vào người. Đại đội trưởng tử trận, Chuẩn úy Ba, một trung đội trưởng đã nhào lên điều động quân sĩ bắn trả để vượt thoát vùng vây nhưng cũng bị trúng đạn tử trận. Quân nhân có cấp bậc cao nhất lúc đó là Thiếu úy Khánh-sĩ quan tiền sát viên tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù đã chỉ định Trung sĩ Lung dẫn tổ khinh binh xung phong mở đường máu để phá vòng vây. Người hạ sĩ quan can trường này đã cầm đại liên quạt tứ phía để mở đường cho đồng đội rút đi. Cuối cùng, Trung sĩ Lung đã bị 1 quả B 40 bắn vào người. Ngày 14/4, Cộng quân mở đợt tấn công mới, một phần tuyến phòng ngự của đại đội 114 bị địch tràn chiếm. Vào lúc này, đơn vị đã hết đạn và cạn lương thực. Trước tình hình vô cùng nguy kịch, để bảo toàn quân số còn lại, Thiếu tá Lê Văn Mễ đã quyết định cho rút quân. Anh đã xin bộ chỉ huy lữ đoàn 2 Nhảy Dù nửa giờ sau cho bắn đạn nổ chụp ngay trên đồi 1020, rồi sau đó, ra lệnh cho các đại đội rời cao điểm 1020 đi về hướng Đông Bắc, phương giác 800 để tìm đường rút về Tân Cảnh thay vì về Võ Định (nơi đóng quân của bộ chỉ huy lữ đoàn 2 Nhảy Dù) vì vị trí này quá xa căn cứ Charlie. Ba tiểu đoàn Cộng quân tràn lên chiếm Charlie thì bị 6 chiếc B 52 xuất trận dội hàng ngàn tấn bom, Cộng quân bị tan nát dưới trận mưa bom này. * Phá vòng vây, vượt thoát khỏi vùng tử địa, đại đội trưởng 110 tử chiến với CQ: 5 giờ chiều cả tiểu đoàn đồng loạt xuống núi theo sườn thoai thoải. Những trái bom đầu tiên từ B 52 đã nổ xuống khi người lính cuối cùng của đại đội 112 vừa xuống đến chân núi. Đoàn quân di chuyển hàng một và đi suốt đêm. Rạng sáng ngày 15 tháng 4/1972, tiểu đoàn đi tới một bãi lau sậy trống trải. Quan sát địa hình, thiếu tá Mễ thấy khu vực này có thể làm bãi đáp để trực thăng xuống bốc nên cho lệnh dừng quân. Anh điều động một toán qua suối để bảo vệ cạnh sườn, và dặn các đại đội chia ra từng toán 8 người đợi trực thăng đến bốc. Sau đó, Thiếu tá Mễ chỉ cho Thiếu tá Duffy-cố vấn trưởng tiểu đoàn, vị trí điểm dừng quân và yêu cầu vị cố vấn này gọi trực thăng Hoa Kỳ đến bốc đoàn quân về Võ Định. Liên lạc với Không quân, cố vấn Duffy báo cho Thiếu tá Mễ biết là khoảng 15 phút nữa, trực thăng sẽ đến. Trận địa Charlie Nhưng không còn thời gian chờ đợi nữa, Cộng quân đã phục sẵn quanh bãi đáp và tràn ra tấn công. Đại úy Nho, đại đội trưởng đại đội 110 đã điều động binh sĩ chống trả để bảo vệ ban chỉ huy tiểu đoàn. Anh tả xung hữu đột để chống trả các toán Cộng quân vây kính anh. Địch kêu gọi anh đầu hàng nhưng Nho không chịu khuất phục, người đại đội trưởng này ấn tay vào cò súng, ria từng loạt đạn về đối phương. Trong khi đang chiến đấu, một báng súng Cộng quân đập trúng đầu, anh bị bất tỉnh và sau đó bị địch quân bắt. Nhờ sự chiến đấu can trường của đại đội trưởng Nho, nên ban chỉ huy của Thiếu tá Mễ vượt thoát được vòng vây của địch. Trung úy Long-trưởng ban 2, kiểm điểm lại quân số chỉ còn có 37 người. Ngay sau đó, có 3 trực thăng Mỹ bay vào vùng, một chiếc hạ xuống bốc người, hai chiếc kia nhờ xung quanh có lau sậy thấp nên các xạ thủ phi hành quan sát thấy rõ địch quân, họ đã tác xạ liên tục vừa đại liên vừa rocket để đuổi Cộng quân ra khỏi khu vực ban chỉ huy tiểu đoàn. Về Thiếu tá Mễ, do bị ảnh hưởng bởi quả lựu đạn bộc phá của địch ném ngày hôm trước, nên lúc di chuyển phải nhờ Trung úy Long đỡ phụ, nhưng khi trực thăng sà xuống để đón, Thiếu tá Mễ nói: – Mình là cấp chỉ huy và có máy truyền tin nên cần phải đi sau chót. Trung úy Long sắp xếp cho toán 7 người bị yếu sức và bác sĩ Tô Phạm Liệu-y sĩ trưởng tiểu đoàn đi chuyến đầu tiên, số còn lại vừa chạy vừa trông chờ trực thăng xuống, họ yêu cầu cố vấn Duffy gọi trực thăng bay nhanh hơn vì địch quân cận kề. Khi trực thăng trở lại thì phi công yêu cầu cố vấn Duffy lên trước, nhưng vị sĩ quan Hoa Kỳ này đã khẳng khái từ chối và nói với phi hành đoàn: – Tôi đi rồi thì các anh đâu chịu trở lại cứu các bạn Nhảy Dù của tôi. Chuyến thứ 4 bốc thêm một số người, còn lại 5 người là Thiếu tá Mễ, Thiếu tá Hải-trưởng ban 3, Thiếu tá Duffy cố vấn, Trung úy Long và Hạ sĩ Long, “đệ tử” của Thiếu tá Mễ. Chuyến chót vừa đến thì Cộng quân đã theo sát, mọi người cố gắng trèo nhanh lên trực thăng. Vừa lên hết thì bỗng nghe một loạt đạn, nguyên 1 tràng AK bắn trúng trực thăng, phi công phụ và 1 xạ thủ phi hành bị chết ngay, riêng Thiếu tá Hải bị trúng đạn ngay bàn chân, cả người anh rớt khỏi máy bay ở cao độ 3 mét. Lập tức Thiếu tá Duffy nhảy theo để đỡ Thiếu tá Hải, vì nếu ông không nhảy xuống thì phi công có thể vì hốt hoảng có thể bay đi luôn. Từ trực thăng, Trung úy Long nhìn thấy Thiếu tá Duffy đang đứng bơ vơ phía dưới, anh vừa khâm phục vừa cảm mến người bạn Đồng minh tốt bụng và vô cùng can đảm này. Long tự nghĩ nếu trực thăng không đáp anh cũng sẽ nhảy xuống cùng sống chết để bảo vệ người bạn Mỹ đầy lòng nghĩa khí này. Trực thăng hạ thấp, cố vấn Duffy bồng Thiếu tá Hải đưa lên sàn phi cơ, Trung úy Long và Thiếu tá Mễ giơ tay cố kéo Thiếu tá Duffy. Lên tới, cố vấn này đã vội kéo xạ thủ phi hành vừa bị trúng đạn định băng bó anh đã chết. Còn viên phi công phụ, theo lời của Thiếu tá Hải kể lại, anh đã được về Mỹ, nhưng hôm đó thiếu người, nên anh đã đi bay thế. * Câu chuyện về hai đại đội trưởng Hùng “móm”, Hùng “mập” và một số chiến binh trên đường vượt thoát Về trường hợp của đại đội 112 của Đại úy Hùng “móm” và 113 của Đại úy Hùng “mập” đã bị Cộng quân vây đánh. Đại đội trưởng Hùng mập quật ngã được vài Cộng quân nhưng do đối phương quá đông nên anh đành thúc thủ, bị bắt. Đến tháng 3/1973, anh mới được trao trả ở bờ sông Thạch Hãn theo Hiệp đình ngưng bắn ký ngày 27/1/1973. Riêng đại đội trưởng Hùng “móm”, anh và một số binh sĩ bị Cộng quân bắt ngay từ đầu, nhờ có kinh nghiệm về thoát hiểm mưu sinh, sau đó, anh đã vượt thoát và gom được anh em còn lại về đến gần Tân Cảnh và sau đó được trực thăng bốc.Một sĩ quan của tiểu đoàn 11 Nhảy Dù là Trung úy Đinh Viết Trinh bị Cộng quân bắt làm tù binh, nhưng khi đi ngang qua đám sậy gần ngã ba Tam Biên (biên giới ba nước Đông Dương), đã nhanh chân nhảy vào bụi lùm và thoát được. Dù bị thương tích đầy mình, và nhịn đói nhiều ngày trong rừng nhưng cuối cùng anh đã về đến Võ Định. VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 10, 2018 2:36:37 GMT 9
Chiến trường Bình Định và mãnh sư Nguyễn Mạnh Tườngtsnkt.blogspot.com/2011/01/chien-truong-binh-inh-va-manh-su-nguyen.html?m=1Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường từng phục vụ tại các đơn vị sau đây thuộc QLVNCH: Tốt nghiệp Khóa 5 SQTB/QLVNCH Trưởng Phòng 3 Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật BCH Nha Kỹ Thuật Cảnh Sát Quốc Gia Sư Đoàn 22 Bộ Binh Tiểu Khu Bình Định Phụ Tá Hành Quân Sư Đoàn 5BB với C/Tuớng Lê Nguyên Vỹ Tù Cải Tao Hoang Lien Son Bac Viet Tu Cai Tạo Z30A Xuân Lộc 1993 kết án 12 năm tù tội Lật Đổ Chính Quyền Cộng Sản Việt Nam Ủy Hội Quốc Tế can thiệp / Phóng thích 1998 Sang Hoa Kỳ diện HO năm 1999 cho đến nay 3 đại họa trong thiên hạ là: 1/ Công ít mà bổng lộc nhiều 2/ Tài mọn mà địa vị cao 3/ Chí nhỏ mà mưu việc lớn. Chiến sử của QLVNCH là một chiến sử oanh liệt với biết bao những chiến công lẫy lừng, hiển hách đã từng được quốc tế ca ngợi là một trong những quân lực thiện chiến hàng đầu trên thế giới, và cũng là một quân lực đầy đắng cay, xót xa, tủi nhục, u hờn và bị bức tử đớn đau nhất. Quân Lực VNCH đã chiến đấu anh dũng với những chiến công lừng danh được đương thời và mãi mãi sau này nhắc đến. QLVNCH đã có những tướng lãnh, những cấp chỉ huy tài ba và mưu lược, can trường và đức độ, liêm khiết, được vinh danh. Có những bậc anh hùng vị quốc tuẫn tiết được phụng thờ hương khói trong lòng dân tộc, và những đơn vị thiện chiến sáng ngời trong quân sử. Những địa danh ,những trận đánh khốc liệt vang dội một thời mà cho đến tận hôm nay, và mãi mãi về sau, vẫn còn âm hưởng. Thế nhưng, ngậm ngùi thay, còn biết bao nhiêu các chiến sỹ vô danh, đã chiến đấu từng khiến quân thù bạt vía, đã âm thầm hy sinh xương máu để bảo vệ Tự do cho Đất nước, và cả những cấp chỉ huy mưu lược và can trường đã bị lãng quên, bị nhận chìm trong bóng tối của thời gian. Sự bất công vô tình gần như hồn nhiên theo dòng thời gian ấy giống như lòng phụ bạc, có phải chăng chỉ vì họ là những chiến binh được xếp vào hàng thứ yếu so với các lực lượng tổng trừ bị, những sư đoàn Bộ Binh…? Các lực lượng ĐPQ + NQ diện địa, vốn dĩ được trang bị và yểm trợ cũng vào hàng thứ yếu, họ được coi là những đơn vị phụ chiến, nhưng thực tế chính họ lại là những đơn vị nòng cốt và thiết yếu của chiến trường, ngày đêm trực diện với kẻ thù, không một phút giây thảnh thơi được về dưỡng quân nơi hậu cứ phố thị sau những trận đánh như những đơn vị tổng trừ bị đàn anh, được khao thưởng, được chào mừng nồng hậu… Tội nghiệp thay, chính họ chứ không ai khác, đã phải ngày đêm căng sức giữ vững từng tấc đất mà quên lãng thân mình, thậm chí họ đã từ chối mọi tưởng thưởng, những phần thưởng tinh thần. Một thí dụ điển hình như trường hợp một trung đội trưởng Nghĩa Quân, kiêm nhiệm Xã Trưởng Xã Mỹ Hiệp quận Phù Mỹ, Tỉnh Bình Định, đã từ chối danh vị chiến binh Anh Hùng vào năm 1973 – Anh đã từ chối phần thưởng được du ngoạn Đài Loan, người Nghĩa Quân ấy năn nỉ với Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường để xin được ở lại giữ thôn ấp. Anh nói: - “Xin Đại tá cho em được ở lại. Em mà bỏ đi lúc này, xã Mỹ Hiệp sẽ nguy mất!” Phải nói thêm là bọn Du Kích Xã Mỹ Hiệp nổi tiếng là lỳ lợm và hung bạo, “Nhà Thờ Đá” “Dốc Bà Dần” là những địa danh không xa lạ gì với nhân dân Tỉnh Bình Định, lại do chính sự hung bạo lỳ lợm và của xã đội Du Kích Xã Mỹ Hiệp tạo thành. Một trong những miền đất bị bỏ quên chính là chiến trường Bình Định và những chiến sỹ của miền đất “Tây Sơn, ÁoVải Cờ Đào “. Và bài viết này xin được coi như lời tạ lỗi muộn màng của một người lính chiến ở chiến trường Bình Định còn sống sót, đang viết những dòng này. Chiến trường Bình Định – không phải mãi sau này – mà ngay từ thờ kháng chiến chống Pháp, đã luôn luôn là một chiến trường sôi động. Những địa danh An Khê, Hoài Ân, An Lão . . . mãi mãi là dấu ấn kinh hoàng cho những binh đoàn viễn chinh Pháp, một phần vì địa thế chiến lược của vùng đất này, một phần khác là lòng người. Thời kháng Pháp, quân đội viễn chinh Pháp, dù đã nhiều phen dồn mọi nỗ lực, vẫn không chế ngự và kiểm soát được, và cũng chính vì thế, một số không nhỏ những người yêu nước đã bị cộng sản Hà Nội lừa gạt bởi chiêu bài Dân Tộc trá hình, đã chiến đấu dũng mãnh trong hàng ngũ của họ. Sau Hiệp định Genève, một số tập kết ra Bắc, một số lớn ở lại âm thầm tạo dựng cơ sở. Dân chúng Bình Định, với truyền thống yêu nước của vùng đất Quang – Trung, đã bị tuyên truyền bịp bợm về ngọn cờ Dân Tộc trá hình, nên một số lớn dân chúng Bình Định hướng về Hà Nội. Thế nhưng, nét đăc thù của người dân Bình Định là phân minh, Quốc, Cộng rạch ròi, chính sự phân định ấy đã đưa đến thảm trạng tương tranh khốc liệt. Biết rõ điều này, Quân khu 5 của Cộng quân luôn coi chiến trường Bình Định là chiến trường chủ yếu mang tính quyết định, nên họ dồn mọi nỗ lực, tuyên truyền, vận động để đẩy rộng thêm sự chém giết tương tàn, gây hận thù chồng chất. Chiến trường Bình Định luôn có mặt những đơn vị cộng sản thiện chiến nhất của Quân khu 5. Khi Chu Huy Mân nắm quyền Tư Lệnh, y điều động Sư đoàn 3 Sao vàng “anh hùng”, với những Tiểu đoàn quyết tử, Tiểu đoàn 405 trinh sát đặc công được trao tặng cờ đỏ, với Trung đoàn Địa phương và các huyện đội tinh nhuệ được đặt dưới quyền điều động của những cán bộ cuồng tín và tàn bạo bậc nhất, chưa kể đến vào những năm 1965, được tăng cường thêm Trung đoàn Địa phương Phú Yên dưới sự chỉ huy của ‘Tướng độc nhủ Nguyễn thị Lành, được mệnh danh là Nữ hung thần bất tử.” Chiến trường Bình Định bùng lên mãnh liệt vào những tháng đầu năm 1965, giữa lúc mà cuộc diện chính trị VNCH đa ng nổi trôi trong sự bất ổn, những trận đánh ác liệt diễn ra khắp nơi trải dài từ Phù Ly đến tận Bồng sơn với các mặt trận Phù Ly, Đại Thuận, Phù Mỹ, Đèo Nhông, Diêm Tiêu, Vạn Bảo, Phù Cũ . . . đã mở màn dường như cùng một lúc. Chẳng phải bỗng dưng mà tháng 9/1965 sư đoàn Anh Cả Đỏ (SĐ1 Không kỵ ), rồi lần lượt sư đoàn 101, lữ đoàn 173rd Dù đều là những đơn vị thiện chiến nhất của Hoa Kỳ đã phải thay nhau có mặt tại Bình Định , chế ngự An Khê và mật khu Kon Hanùng. Chẳng phải khi không mà sư đoàn Mãnh Hổ bậc nhất của quân đội Đại Hàn được giao sứ mạng trải dài bảo vệ quốc lộ 19, nhưng vẫn không chu toàn việc bảo vệ trọn vẹn sinh lộ này. Tỉnh Bình Định là tỉnh được coi là rộng nhất trong toàn quốc với diện tích khoảng 10.000km vuông, chiều dài từ đèo Cù Mông đến đèo Bình Đê là 120km, chiều ngang từ Mũi Phương Mai đến biên giới tỉnh Pleiku là 90 km, với 3/4 là núi rừng trùng điệp, với các mật khu Kon Hanùng phía Bắc quận An Túc, giáp ranh tỉnh Kontum và Quảng Ngải. Mật khu An Lão , mật khu Vân Canh, mật khu Vĩnh Thạnh, căn cứ địa 226 nằm giữa ba quận đông Vĩnh Thạnh, tây Phù Mỹ và Nam Hoài Ân, mật khu mà chúng gọi là khu tam giác sắt vùng núi non Mỹ Thọ của Quận Phù Mỹ, là nơi mà chúng ém quân và xuất phát những cuộc tấn công ác liệt nhất. Dân số được kiểm kê vào tháng 1/1973 là 996.673 người (đây là con số không được trọn vẹn) được chia làm 14 quận: Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù cát, Tuy Phước, Tam Quan, Vân Canh, Nhơn Bình, và Nhơn Định. (Sau này Vĩnh Thạnh, Tam Quan, Vân Canh được đổi thành Nha Phái Viên Hành Chánh, riêng An Lão, nơi diễn ra trận đánh khốc liệt Suối đôi, Đồi Thánh Giá vào năm 1964, An Lão đã không còn kiểm soát được.) Tính cuối năm 1972 Lực lượng ĐPQ và Nghĩa quân trực thuộc TK/Bình Định gồm hai BCH Liên đoàn 271 và 272, 18 Tiểu đoàn ĐPQ, 12 Đại đôi biệt lập, 620 Trung đội Nghĩa quân ( chưa kể đến quân số thuộc Xây Dựng Nông Thôn và Nhân Dân Tự Vệ). Để tăng viện cho tình hình chiến trường, Sư đoàn 22/BB có 4 Trung đoàn : 40, 41, 42, 47, thì thường xuyên 2 Trung đoàn 40 và 41 phải trấn ngự tại Bính Định. Quân đoàn 2 chỉ còn lại 4 Trung đoàn của Sư đoàn 23 và 2 Trung đoàn của SĐ/22/BB chia đều cho các tỉnh còn lại của Quân khu. Ngoài ra, trong giai đoạn sôi động nhất, Liên đoàn 6 và Liên đoàn 4/BĐQ được tăng cường trấn ngự 3 quận bắc Bình Định. Với một lực lượng lớn như thế, vẫn không đủ để dàn trải, để ổn định. Vị Tỉnh trưởng dân sự cuối cùng là Ông Bùi Thúc Duyên, đã chuyển tiếp cho các sỹ quan của Quân lực từ cuối năm 1963 : Đại tá Trần Văn Tươi , Đại tá Nguyễn Thanh Sằng , Thiếu tá Trần Đình Vọng, Thiếu tá Thịnh, Trung tá Lê Trung Tường , Trung tá Trần Đình Vọng { lần thứ 2 }, Đại tá Nguyễn Mộng Hùng , Trung tá Phan Minh Thọ, Đại tá Nguyễn Duy Bách, Đại tá Nguyễn Văn Chức, Đại tá Hoàng Đình Thọ và vị Tỉnh trưởng kiêm TK/Trưởng cuối cùng là Đại tá Trần Đình Vỵ. Đ/Tá Nguyễn Văn Chức, một sỹ quan cao cấp của ngành Công binh chuyên nghiệp nhận chức Tỉmh trưởng kiêm TK/Trưởng vào giữa năm 1971, với Tiểu khu phó là Đại tá Hà Mai Việt (Binh chủng Thiết giáp), Tham mưu trưởng là Trung tá Nguyễn Văn Cừ của Quân cụ. Đây là giai đoạn mà các sỹ quan cột trụ không từng là sỹ quan tác chiến lại phải gánh nhận áp lực nặng nề nhất trên chiến trường Bình Định. Giữa lúc tình hình sôi động ấy, các chức vụ then chốt vốn là do các sỹ quan đã từng phục vụ tại Tiểu khu Bình Định trên dưới 10 năm, trưởng thành qua những kinh nghiệm chiến trường, biết rành rẽ về hiễm địa và nhân sự… lại bị cho là cấp bậc quá thấp (Thiếu tá), không đủ khả năng chỉ huy và lãnh đạo, nên Đại tá Chức đã xin Bộ TTM bổ nhiệm về Bình Định 50 Trung tá để thay thế các sỹ quan đương nhiệm. Bộ TTM chấp thuận và thuyên chuyển 30 sỹ quan cấp bậc Trung tá về Tiểu khu Bình Định, gồm đủ mọi thành phần. Bộ TTM gởi ra 16 vị ,và BTL/QĐ2 gởi xuống 14 vị để đáp ứng yêu cầu của Đ/tá Chức. Đại đa số các vị sỹ quan trung, cao cấp này khi được tăng cường cho Binh Định đều có vẻ ngao ngán với tâm trạng đi đày trong các chức vụ không tương xứng. Người duy nhất, nhận nhiệm vụ bằng cả tấm lòng, bằng cả trí tuệ và sự nhiệt thành, đó là Trung tá Nguyễn Mạnh Tường. Ông rời chức vụ Giám đốc Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 về làm Tham mưu phó Hành quân Tiếp vận dưới trướng Tham mưu Trưởng Nguyễn Văn Cừ, vị Trung tá Quân cụ, gọi máy PRC25 liên lạc hành quân như gọi điện thoại… May mắn thay, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường đã đến, đáo nhiệm một chức vụ quá khiêm tốn với tài năng và một bộ óc quân sự tuyệt vời, cộng với lòng nhiệt thành và một trái tim trong sáng. Chính vị Trung tá năng động này đã làm nên chiến thắng oanh liệt, cứu nguy cho sự tan nát của Bình Định mỗi lúc một gần kề, khi mà Sư đoàn 3 Sao vàng đã chiếm một cách trọn vẹn 3 quận bắc Bình Định là Tam Quan, Hoài Nhơn, Hoài Ân. Thiếu tá Hồng Bảo Hiền, Quận trưởng Hoài Nhơn tử trận, lực lượng trú phòng của 3 quận rút chạy bằng đường biển vì sức mạnh tổng lực của địch. Tinh thần binh sĩ hoang mang, thành phố Qui Nhơn trống vắng, 70% dân chúng tháo chạy về Nam. Cùng lúc ấy, trận chiến bùng nổ khắp nơi, các Trung đoàn thuộc SĐ/22 từ Đệ Đức (Phù Mỹ) bị điều động tăng cường mặt trận Tân Cảnh, tư lệnh SĐ/22 BB Đại Tá Đạt cùng một số sỹ quan tham mưu bị bắt, tình thế cực kỳ bối rối, thành Phố Qui Nhơn bị pháo kích. Bộ chỉ huy tiểu khu hầu như không có một kế hoạch khả dĩ nào đủ để ứng phó với tình hình mỗi lúc một trở thành nghiêm trọng. Trung tâm hành quân (TTHQ) Tiểu Khu Bình Định do công binh Hoa Kỳ xây dựng kiên cố như một pháo đài nằm chìm trong lòng đất, đầy đủ mọi tiện nghi, dư khả năng chịu đựng được những cuộc pháo kích của địch kể cả không tập, được bảo vệ cẩn mật, vậy mà bị nội tuyến của địch xâm nhập đánh xập. Thiếu Tá Thái Xuân Lư, và 2 sĩ quan (1 Đại Hàn – 1 Mỹ) tử thương, Đại úy Bùi Trọng Thủy bị thương nặng. Trung Tâm Hành Quân hoàn toàn bị phá hủy. Trước đây,Trung tâm trưởng TTHQ do trưởng phòng 3 kiêm nhiệm, gồm 1 sĩ quan không trợ kiêm sĩ quan phụ tá , 3 sĩ quan QSV/L 19 và 3 ca trực, mỗi ca trực gồm 1sq+1hsq +1bs. Từ khi TTHQ được xây dựng qui mô, do nhu cầu chiến trừơng, 3 toán cố vấn Mỹ gồm 1 thiếu tá + 3 đại úy +3 hsq + 3 bs chia làm 3 ca trực song song với các toán trực VN, ngoài ra, TTHQ còn được tăng cường 1 toán ALO/FAC cuả không quân, 1 sq hải quân và một hệ thống truyền tin tinh xảo với các toán âm thoại viên dầy kinh nghiệm. Tôi (kẻ viết bài này) đă làm việc tại TTHQ từ thời chuẩn úy Lê Văn Lộc làm trưởng phòng 3, thiếu úy Hứa làm SQ không trợ, ít lâu sau thiếu úy Hứa thuyên chuyển, tôi được bổ nhiệm thay thế với toán QSV/L19 gồm Tr/u Lía, Th/u Phú, Ch/u Sỹ, Ch/u Tuân. Những ngày ấy, đôi khi Tiểu Khu Trưởng còn là Th/Tá, tiểu khu phó có khi là Đ/úy ( Đ/u Nguyễn Bé ) và các TMT như Đ/u Thái Sanh Thâm, Đ/u Trần Ngọc Điền, Đ/u Đỗ Vũ, Đ/u Trịnh Tiếu. Theo ngày tháng, kinh nghiện mỗi ngày một dầy, cấp bậc theo ngày tháng bò lên từng nấc, chức vụ vẫn y nguyên… Cuối năm 1971 Trung tá Nguyễn hữu Thông về làm Giám đốc TTHQ/TKBĐ, khoảng chừng 3 tháng sau, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Tr/đ42/SĐ 22BB, ( Đại tá Thông đã tự sát tại bãi biển Qui Nhơn ngày 31/3/75 khi Trung đoàn 42 từ An Túc rút về tử thủ ở chân đèo An Khê, tại đây, Trung đoàn 42 đã đánh bật sư đoàn F.10 Cộng sản không cho tràn xuống từ đèo An Khê, tiêu diệt 600 địch quân . F.10(SĐ.10) phải bọc qua dẫy Nam Triều tràn xuống chiếm Qui Nhơn, Đại tá Thông kết hợp với Trung đoàn 41 của Đại tá Thiều kéo về giải tỏa thành phố, đánh bật F.10 và các lực lượng địa phương CS, và đã ở lại tử thủ Qui nhơn đến viên đạn cuối cùng.) Nhắc lại, khi Đại tá Thông ra đi, tôi cũng xin thuyên chuyển về làm ĐĐT/ĐĐ/CTCT Bình Định, sang đầu năm 1972 vì tình hình chiến sự, tôi được gọi trở về lại Trung tâm Hành quân, phụ tá cho Thiếu tá Nguyễn Ngọc Xuân, trưởng phòng 3 kiêm Trung tâm Trưởng TTHQ. Công việc của TTHQ là theo dõi tình hình chiến sự, ghi nhận tất cả mọi hoạt động của các lực lượng trú phòng trong tỉnh, xin hỏa châu soi sáng, xin oanh kích khẩn cấp theo nhu cầu chiến trường, xin tản thương. Chỉ riêng với lực lượng lãnh thổ, với 18 Tiểu đoàn địa phương, 12 Đại đội biệt lập, 620 Trung đội Nghĩa quân, phải nắm vững 3 điểm đóng quân và phục kích cho mỗi trung đội. Như thế có nghĩa là TTHQ phải tiếp nhận báo cáo hàng đêm đã được mã hóa từ các đơn vị trực thuộc, giải mã và ghi chú trên bản đồ “Hoạt động Bạn” với tất cả các diễn tiến mọi cuộc hành quân trong toàn Tỉnh và những tổn thất địch, bạn. Ghi nhận những phi vụ oanh kích khẩn cấp, và dự trù từng chi tiết cho buổi thuyết trình vào sáng sớm ngày hôm sau. Công việc này do sỹ quan trực nhật TTHQ đảm trách và SQ Phụ tá nhận nhiệm vụ thuyết trình phải nắm vững từng chi tiết và phải trả lời một cách chắc chắn mọi sự kiện trong 24 giờ sau. Thậm chí kết quả của những cuộc không tập do Không quân Hoa Kỳ hoặc VN thực hiện, phải ký tên và chịu trách nhiệm hoàn toàn cho mỗi phi vụ oanh kích. Đó là một thời kỳ đầy sóng gió và phân liệt. Ba vị Thiếu tá Quận trưởng thất trận được điều động về làm 3 SQ trưởng toán trực TTHQ , và những sĩ quan cấp đại úy vốn là các sĩ quan đầy kinh nghiệm và thông suốt nhiệm vụ của mình bị đẩy xuống làm sỹ quan phụ tá trưởng toán. Duy nhất trong 3 vị Thiếu tá này, chỉ có một mình Thiếu tá Thái Xuân Lư và Đại úy Thủy là đảm nhận trách vụ một cách cố gắng và làm tròn, riêng hai vị Thiếu tá còn lại, thường xuyên vắng mặt với những lý do mơ hồ từ tư gia của Đại tá Hà Mai Việt, Tiểu khu phó, và tôi lại phải trực tiếp thay thế các Trưởng toán trực vắng mặt này! (Sở dĩ tôi phải dài dòng như thế để trình bày lý do tại sao tôi có đủ điều kiện và tư cách viết về chiến trường Bình định, và các chiến công của các đơn vị diện địa Nghĩa quân và Địa Phương Quân một cách tương đối chính xác. Và quan trọng hơn, nguyên nhân tôi được may mắn và hãnh diện được đặt trực thuộc dưới quyền của Trung tá Nguyễn Mạnh Tường sau này.) Trung tá Tường được thuyên chuyển về Bình Định nhận nhiệm vụ mới là Tham mưu phó Hành Quân Tiếp vận kiêm nhiệm Giám đốc TTHQ. Do bản tính năng động và một tinh thần phục vụ vô bờ bến, cộng với tài năng sáng chói đã làm lu mờ các cấp chỉ huy cao hơn, khiến ông bị đày ải: Phải thành lập tức khắc Bộ Chỉ Huy hành quân nhẹ và trú đóng trên đỉnh núi Bà Hỏa tuyệt đường lên xuống, do đó Tr/Tá Tường không có cơ hội điều hành TTHQ thường xuyên. Vậy mà sau khi TTHQ phát nổ, ông đã bị nghi ngờ, bị điều tra. . . May mắn thay, ông đã thoát được lưỡi gươm sinh tử vì chỉ đã xuống TTHQ không quá một lần duy nhất, chỉ vì tại núi Bà Hỏa, ông đã quá bận rộn với trách nhiệm của mình, không chỉ riêng ông, tôi cũng bị nghi ngờ là tên Cộng sản nằm vùng khi Đại tá Đạt, Tư lệnh SĐ22 bị bắt ở mặt trận Tân Cảnh cùng với một số SQ của Bộ Chỉ huy Tiền phương. Đại tá Chức vận động để được bổ nhiệm làm Tư lệnh Chiến trường Bình Định, để muốn có được quyền uy điều động toàn bộ lực lượng theo ý mình, do đó Đại tá Chức thường xuyên có mặt ở Bộ Tư lệnh SĐ22 trú đóng ở Bà Di (cách Qui Nhơn khoảng 15 km đường chim bay, trên một ngọn đồi rộng) như tư thế của một Tư lệnh Sư đoàn đích thực. Hôm đó, vào buổi chiều, Qui Nhơn bị pháo kích, gây cho 3 người dân bị thương, tôi đã phải liên lạc trực tiếp với Đại tá Chức đang có mặt tại TTHQ Sư đoàn. Sau khi tôi báo cáo mọi chi tiết, ông ra lệnh cho tôi qua điện thoại Hot Line của TTHQ/SĐ: - “Gọi cho Thiếu tá Sáng, theo lệnh tôi, rút hai Trung đội Nghĩa quân tại núi Han và Vũng chua để phòng thủ thị xã!” Bỏ hai vị trí này là để lại cao địa cho cộng sản pháo vào Qui Nhơn. Tôi nghe lệnh ông mà giật bắn người, e rằng mình nghe lầm. Tôi xin ông nhắc lại khẩu lệnh. Một lần nữa Đại tá Chức lập lại lệnh của ông rồi cúp máy. Tôi toát mồ hôi, điện thoại xin gặp Tr/tá Trí(Chí?) hỏi về lệnh cuộc điện đàm vừa rồi, Tr/tá Trí xác nhận là đã đứng cạnh Đ/Tá Chức và nghe rõ mệnh lệnh của Đ/T Chức. Tôi xin Tr/tTrí ghi một cách chi tiết vào sổ trực TTHQ/SĐ, và tôi cũng ghi chi tiết một cách chính xác vào sổ trực TTHQ/TK, đồng thời tôi mời đích thân Th/Tá Sáng xuống TTHQ nhận lệânh, và cùng lúc, tôi yêu cầu Th/tá Sáng liên lạc lần nữa với Đại Tá Chức để xác nhận đầy đủ mọi chi tiết. Sau đó tôi không biết Th/tá Sáng có trực tiếp xác nhận lệnh với Đ/tá Chức về lệnh lạc này hay không, nhưng ngay lập tức tối hôm đó, VC pháo kích vào Qui Nhơn như mưa bấc, vị trí đặt súng của địch chính là Núi Han và Vũng Chua, nơi mà hai Trung Đội Nghĩa Quân trú đóng vừa rút đi theo lệnh của Đại tá Chức. Tôi báo cáo cho Đ/Tá Chức, ông hỏi: - “Vậy hai Trung Đội Nghĩa Quân ở núi Han và Vũng Chua hiện ở đâu?” Tôi nhắc lại lệnh của ông vào lúc xế trưa cùng ngày, ông quát trong máy: - “Tôi không hề ra lệnh cho anh, đó là Việt Cộng đã ra lệnh cho anh!” Và cúp máy. Không đầy 30 phút sau đó, Trung Tá Điều, Trưởng khu An Ninh Quân Đội đến gặp tôi, và hỏi về điều này, tôi phải trình bầy mọi chi tiết và đưa cho Trung Tá Điều sổ trực TTHQ. Trung Tá Điều phải khẩn cấp lên TTHQ Sư Đoàn so sánh, sau đó, Tr/tá Điều cho tôi biết là Đại Tá Chức xác nhận là đích thân đã ra lệnh ấy, nhưng công việc bận rộn nên quên mất (!) Đến nay, 30 năm đã trôi qua, tôi luôn luôn ghi nhớ và cảm ơn Tr/Tá TTT/TTHQ/ SĐ22/BB. Tôi không hề có bất sự hiềm khích nào với Đ/T Chức, ngược lại, tôi luôn luôn quý trọng ông, không những thế, tôi còn rất cảm phục tài năng chuyên môn của ông thuộc binh chủng công binh. Sở dĩ tôi nhắc đến để độc giả thương cảm rằng Đ/T Chức đã không được xử dụng đúng tài năng của ông và Tr/t Nguyễn Mạnh Tường đã gặp quá nhiều trở ngại trong trách vụ về mọi mặt. May mắn thay, không lâu sau đó, Đại tá Chức được bổ nhiệm làm Cục Trưởng cục Công Binh, và thăng cấp Chuẩn Tướng, cùng với đa số các sĩ quan cấp bậc Tr/tá do Ch/tướng Chức xin về cũng được “giải thoát”. Tr/tá Tường được bổ nhiệm về làm TMT trường Đại học CCCT, nhưng ông đã xin được ở lại với chiến trường Bình Định đang cực kỳ sôi động. Đại tá Hoàng Đình Thọ đương kim Tỉnh trưởng Quảng Tín, được thuyên chuyển về nhận chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Bình Định. Đại tá Thọ là một sĩ quan kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, từ đó, bộ mặt của Tiểu Khu đổi thay hẳn với thành phần dưới ông: – Tiểu Khu Phó : Trung Tá Nguyễn Mạnh Tường - Tham Mưa Trưởng : Tr/Tá Nguyễn Đức Trung Trưởng P1: Th/Tá Võ Đức Tín - T P2: Th/tá Kiều Văn Sâm - T P3: Th/tá Nguyễn Ngọc Xuân - T P4: Th/tá Dư Văn Hạ -TMP/ CTCT: Trung tá Nguyễn Lâm - Tr/ Phòng Ttin: Thiếu tá Quỳ Và TTHQ đã được trả lại những ngày ổn định cũ. Sau những nỗ lực giải tỏa áp lực địch tại các quần phía Nam, tháng 7/1972, cuộc hàng quân tái chiến Bắc Bình Định với Sư Đoàn 22/BB làm nỗ lực chính đã đánh bật Cộng quân ra khỏi 3 quận phía Bắc, cùng lúc Sư Đoàn 2/BB thuộc quân khu với sự tham chiến của Biệt Động quân đã đánh bật Cộng Quân ra khỏi cửa khẩu Sa Huỳnh, tình hình chiến sự đã tương đối lắng dịu. Thế nhưng, với cái nhìn của những nhà quân sự, thì đây là giai đoạn tĩnh lặng trược giông tố, địch đang phối trí và sửa soạn cho một chiến trường khốc liệt khác. Chính vì dự đoán như thế, Trung tướng TL/QĐ 2 Nguyễn Văn Toàn đã đặc biệt triệu tập Đại Tá Hoàng Đình Thọ Tỉnh trưởng kiêm TKT và Trung tá Nguyễn Mạnh Tường tiểu khu phó tại biệt thự Hương Cầm tại Qui Nhơn. Sau những quan ngại về những mưu đồ của địch trong tương lai, ông nói (Theo lời Trung tá Tường thuật lại sau này): - “Quân Đoàn 2 với một vùng trách nhiệm quá rộng lớn, lại là một vùng với áp lực địch luôn luôn rất nặng, vậy mà dưới tay tôi, chỉ có 2 Sư Đoàn 22 và 23, gần 8 Trung Đoàn BB, riêng Bình Định đã cầm chân thường xuyên 2 Trung Đoàn, với 6 trung đoàn còn lại, phải đảm trách một lãnh thổ quá rộng, với áp lực địch càng lúc càng gia tăng, tôi xin hai anh giúp tôi, bằng mọi cách cố gắng dùng lực lượng ĐPQ và NQ thay thế phần trách nhiệm của hai “thằng” 40 và 41 { Trung đoàn 40 & 41) để tôi có thêm khả năng đối phó với tình hình sắp tới, mà tôi tiên đoán rằng, mỗi lúc một ác liệt. Tôi đề nghị anh Thọ giao trách nhiệm quân sự cho anh Tường, tôi đặt hết niềm tin vào các anh!” Những tháng ngày kế tiếp sau đó, tôi chưa hề thấy Trung tá Tường có lấy một phút nghỉ ngơi, ngay cả khi phu nhân và các con của Trung tá từ Sài gòn ra Qui Nhơn thăm chồng, bà đã phải chờ đợi suốt cả tuần lễ vẫn chưa được gặp mặt chồng. Người chiến binh tận tụy ấy đã quên cả hạnh phúc cá nhân, quên cả chính thân mình. Ông ăn uống kham khổ cùng với binh sĩ của ông. Ông có mặt khắp nơi, từng đơn vị nhỏ nhất, săn sóc, an ủi, giải quyết những ưu tư của binh sĩ. Ông theo dõi, kiểm tra, lựa chọn, tổ chức, huấn luyện những binh sĩ ĐPQ &NQ, lựa chọn trong số các đơn vị thuộc quyền các chiến binh mà kinh nghiệm cũng như lòng can trường cùng khả năng chiến đấu để thành lập những đơn vị xung kích và trinh sát bằng những khóa huấn luyện đặc biệt. Binh sĩ, qua lớp huấn luyện có thể đảm đương mọi nhiệm vụ đặc biệt được giao phó, kể cả các chiến thuật Diều hâu bằng Trực thăng vận. Liên đội Trinh sát Tiểu khu với hai Đại đội bao gồm các chiến binh can trường và thiện chiến được đặt dưới quyền chỉ huy của Trung úy Khuynh, một trong những sĩ quan ưu tú của quân lực. Liên đội trinh sát ấy đã làm nên những chiến công hiển hách, không phụ tấm lòng kỳ vọng của ông. Nhờ thế, sau một thời gian ngắn, khí thế của lực lượng ĐPQ & NQ Bình Định đã vươn lên, không hề thua sút bất cứ đơn vị thiện chiến nào. Họ không những bảo vệ an toàn các trục lộ huyết mạch, ngăn chặn một cách hữu hiệu mọi ý đồ của địch, mà còn mỗi lúc mở rộng vùng kiểm soát. Đến cuối năm 1972, tình hình an ninh mỗi lúc một khả quan và tinh thần binh sĩ đã lên cao trông thấy, địch cùng lúc càng bị dồn vào thế co cụm. Trận đánh giải tỏa Đề Gi Cứ điểm Đề Gi là một mõm đất, là một cửa biển giáp ranh giữa hai Quận Phù Mỹ và Phù Cát. Nơi này là căn cứ Hải quân quan trọng đặt dưới quyền chỉ huy của Hải quân Thiếu tá Cát. Về phía bắc, qua một lạch nước rộng, thông từ biển vào Đầm Nước Ngọt là Đài Kiểm báo được xây dựng trên một đỉnh núi lẻ. Phía tây của căn cứ là Quốc lộ 1, nối liền với căn cứ từ cầu Phù Ly là tỉnh lộ dài 21km chạy song song với một dòng sông nhỏ, đổ vào Đầm Nước Ngọt, kẹp giữa sườn phía Bắc dẫy núi Bà (còn gọi là Hòn chung). Đề Gi là một cửa khẩu chiến lược với Đài Kiểm báo được trang bị tối tân, có thể kiểm soát cả một vùng biển Đông bao la. Từ cửa khẩu này tiếp nối với căn cứ địa 226 nằm giữa vùng núi non, tiếp giáp 3 Quận Phù Mỹ, Hoài Ân và Vĩnh Thạnh, mở xuống một vùng đồng bằng rộng lớn phía Nam thuộc các quận Bình Khê, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước. Từ khi cửa khẩu Sa Huỳnh bị Sư đoàn 2 tái chiếm, cắt đứt mọi khả năng vận chuyển lương thực và vũ khí của địch từ biển đông tiếp vận cho nội địa, Sư đoàn 3 Sao vàng cuống cuồng vì lệnh từ Hà Nội và Quân khu 5 CS, bằng mọi cách phải chiếm được ít nhất một cửa khẩu để dùng làm địa bàn sau khi Hiệp định đình chiến có hiệu lực. Trong khi mọi nỗ lực của Sư đoàn 3 Sao vàng và lực lượng địa phương của chúng hoàn toàn bất lực trong nhiệm vụ nống lấn mở rộng vùng kiểm soát, không những thế, cón bị các lực lượng ĐPQ&NQ đẩy vào thế bị động, luôn luôn bị săn đuổi. Cuối cùng Chu Huy Mân phải chấp nhận kế hoạch Tổng lực do viên Thiếu tá CS là Võ văn Ứng đệ trình. Chu Huy Mân bổ nhiệm Ứng làm Lữ đoàn trưởng thực hiện kế hoạch (mà Ứng đã đệ trình với sự cam kết chiến thắng), Lữ đoàn bao gồm 7 Tiểu đoàn thiện chiến của Sư đoàn 3 Sao vàng gồm: 5 Tiểu đoàn Bộ chiến 1 Tiểu đoàn Đặc công 1 Tiểu đoàn Pháo Lực lượng tổng lực của Huyện đội Phù Cát Với một nghiêm lệnh là bằng mọi giá phải chiếm cho bằng được căn cứ Đề Gi, bất kể Hiệp định đình chiến đã có hiệu lực. Cuộc chiến bùng nổ vào rạng sáng ngày 27/1/1973. Đài Kiểm báo do lực lượng của Duyên đoàn 21 Hải quân trấn giữ, bất thần bị Tiểu đoàn Đặc công địch tràn ngập. Núi Gềnh là một mõm núi thuộc dãy Núi Bà nhìn xuống căn cứ Hải quân, trước đây do một đơn vị của Sư đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn trú đóng, đã âm thầm rút đi, không thông báo, bỏ trống, không bàn giao lại cho lực lượng Việt Nam, bị Huyện đội cộng sản Phù Cát chiếm giữ. Lúc 8 giờ sáng ngày 27/1/73, phút đầu tiên của Hiệp định đình chiến có hiệu lực, căn cứ Đề Gi bị tấn công bằng tất cả sức mạnh của Lữ đoàn cộng sản. Hỏa lực địch từ Núi Gềnh, từ Đài Kiểm báo với hàng ngàn trái đạn rót vào căn cứ. Căn cứ được phòng thủ bởi lực lượng Hải quân đồn trú, quân số chỉ bằng 1/10 lực lượng địch, anh dũng đánh trả và đẩy lui nhiều đợt xung kích, gây nhiều tổn thất về nhân mạng cho địch. Gặp sức kháng cự mãnh liệt của lực lượng phòng thủ, chúng bắc loa kêu gọi đầu hàng. Qua máy, Thiếu tá Cát lên án hành vi vi phạm Hiệp định đình chiến của chúng, Tên Lữ-đoàn trưởng, Thiếu-tá CS Võ văn Ứng lý luận là theo giờ Hà Nội, lúc này chưa phải đúng giờ đình chiến. Đồng thời y chặt đầu một Nghĩa quân mà chúng bắt được, bỏ cái xác không đầu của người lính tội nghiệp lên xe lam, chở xác người Nghĩa quân đến cổng căn cứ Hải quân, với những lời đe dọa ” Hàng thì sống, chống chặt đầu, quyết không bỏ sót!” Hành động bạo tàn này đã không làm cho những chiến sỹ trú phòng sợ hãi, ngược lại, càng khiến tăng thêm ý chí quyết chiến đấu trở thành sắt thép hơn, càng quật nát từng đợt tấn công liều chết của địch. Đạn pháo của địch từ hai cao điểm dội xuống như mưa, trực thăng không thể đáp xuống được, cùng lúc, hỏa lực địch từ núi Gềnh và Đài Kiểm báo khống chế toàn vùng biển. Cuộc tấn công vi phạm Hiệp Định đình chiến của Việt cộng được thông báo cho UB/QT Kiểm soát Đình chiến trú đóng tại TTHL/Phù-cát, và yêu cầu UB/KS/ĐC ký vào biên bản. Trước hành vi bạo ngược của những người Cộng sản anh em, viên trưởng đoàn Ba Lan không thể chối cãi, đành phải ký tên vào biên bản (sau này viên trưởng đoàn Ba Lan bị cách chức!!). Giữa lúc cộng sản dồn mọi nỗ lực nống lấn, chiếm đất, giành dân trước và cả sau giờ đình chiến, các đơn vị diện địa, lực lượng trú phòng tỉnh Bình Địng nói riêng và trên toàn quốc nói chung, đã phải dàn trải khắp nơi, ngăn chặn không cho Cộng quân thực hiện mưu đồ của chúng. Chúng đã gặp phải sức chiến đấu quyết liệt của các chiến sỹ ĐPQ &NQ, không những đã không thực hiện được ý định, mà còn bị thiệt hại nặng nề trên khắp các mặt trận. Ngay cả những trục lộ giao thông quan trọng : Quốc-lộ 1, từ đèo Cù Mông đến Bình Đê, Quốc lộ 19 từ Bà Di lên đến đèo Măng Giang, các chiến sỹ ĐPQ&NQ diện địa đã bảo vệ an ninh lưu thông một cách tuyệt đối không ngờ . Đứng trước tình hình ấy, Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH đã khẩn cấp không vận Liên đoàn 7/BĐQ của Trung tá Bùi văn Huấn từ Quân khu 1 vào tăng cường, với chỉ thị xử dụng như một lực lượng trừ bị, không được xử dụng làm nỗ lực tham chiến tiên phong. Quân đoàn 2 đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp tại Phi trường Phù Cát để đối phó với tình hình, gồm có Tư lệnh Quân đoàn, Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Sư đoàn 22/BB với Thiếu tướng Phan Đình Niệm, Tiểu khu trưởng TK/BĐ, Đại tá Hoàng Đình Thọ, TK phó Tiểu khu Trung tá Nguyễn Mạnh Tường, LĐT/BĐQ Trung tá Bùi văn Huấn, Phụ tá Quân trấn trưởng Qui Nhơn, Trung tá Nguyễn văn Thanh, Quận trưởng Phù Cát Trung tá Đoàn văn Bái, Trung tá Khổng Trọng Huy. . . Cuộc họp để hoạch định kế hoạch hành quân giải tỏa và lựa chọn người chỉ huy cho cuộc hành quân. Giữa lúc ấy, công điện hỏa tốc từ Phủ Tổng thống gởi đến. Tổng thống Nguyễn văn Thiệu đã chỉ thị trao quyền chỉ huy tuyệt đối cho Trung tá Nguyễn Mạnh Tường và đòi hỏi phải tránh tối đa thiệt hại cho dân chúng trong vùng hành quân. (Sau này được biết là Nhân dân Quận Phù Mỹ và Phù Cát qua đại diện dân cử, đã đệ đơn yêu cầu xin Tổng thống Thiệu trao trách nhiệm hành quân cho Tr/tá Tường vì lý do: Cuộc hành quân Đại Bàng 800, dân chúng bị tổn thất nặng nề, và sau này lực lượng Đại Hàn hành quân khu vực này, sự tổn thất của dân chúng còn bị nặng nề hơn nữa. Riêng Tr/tá Tường, từ khi về Bình Định, với rất nhiều cuộc hành quân, với nhiều cuộc đụng độ với Cộng sản, nhân dân chưa hề bị tổn hại về sinh mạng lẫn của cải…) Chính vì sự tin tưởng của dân chúng Bình Định, các cuộc hành quân trước đây đều lấy danh hiệu Toàn Thắng. Danh hiệu các cuộc hành quân giải tỏa Đề Gi của Trung tá Nguyễn Mạnh Tường là An Dân. Với tư cách Tư lệnh hành quân, Trung tá Tường xin phép Trung tướng Tư lệnh QĐ2 được bảo vệ tuyệt mật mọi kế hoạch. (Mãi sau này, mọi ý niệm điều quân, Tr/tá Tường luôn luôn bảo vệ một cách tuyệt mật, ngay cả Trung tâm HQ cũng phải giữ im lặng vô tuyến đến tận lúc chiến thắng.) Việc bảo mật ấy đã thành công trong một chiến thắng lớn khác: Hạ sát tên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn đặc công 405 Anh hùng, bắt toàn bộ cấp chỉ huy của Tiểu đoàn này, tịch thu rất nhiều vũ khí trong trận đột kích vào sào huyệt của chúng tại ranh giới Bình Định và Phú Yên, bẻ gẫy mũi dùi chúng đang tiến hành tấn công kho xăng và kho đạn của quân khu II tại Đèo Son Bình Định. Cuộc hành quân này, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường đặc biệt giữ kín, ngay cả Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) cũng không hề biết, không một ai hay, thậm chí lực lượng tham dự là các Nghĩa Quân viên được lựa chọn cho cuộc đột kích cũng chỉ được biết vào phút chót. Cho đến khi đích thân Trung Tá Tường lên máy vào lúc 3 giờ sáng, lệnh cho TTHQ gọi ANQD và Quân Cảnh ra phi trường tiếp nhận tù binh và các chiến lợi phẩm. Ngay cả đến trận phản công giải tỏa Phi trường Phù Cát vào tháng 5/1974 với mưu toan của cộng quân tiêu diệt căn cứ 60 Không quân, cũng bị Trung Tá Tường dùng kỳ binh bất ngờ đánh cho “Sấm sét không kịp bưng tai” khiến Trung Đoàn 2 của sư Đoàn 3 Sao Vàng tan tác.) Lời yêu cầu được hoàn toàn chấp thuận, và lực lượng được đặt dưới quyền của Tr/tá Nguyễn Mạnh Tường gồm: LD/7BDQ. QKI làm lực lượng trừ bị 2 Tiểu Đoàn thuộc TR/Đ 4 1/SĐ 22/BB 1 Tiểu Đoàn thuộc TR/Đ 421/SĐ 22/BB 1 Chi Đoàn thiết quận vận M.113 1 Tiểu Đoàn pháo binh 1 Đại Đội Tr/sát 1 Pháo Đội 115 ly. 1 Tiểu Đoàn/ ĐPQ/ Tuyên Đức. So sánh Tương quan, giữa ta và địch, ta 3, địch 5, tức 3/5. Một cuộc hành quân tấn công giải tỏa với quân số tham chiến yếu hẳn hơn địch, trong lúc địch đã sẵn sàng chờ đợi một mặt trận đã được họ bố trí và lựa chọn trước, quả là điều không mấy sáng sủa. Mà thời gian lệnh ấn định là trong 7 ngày phải thanh toán xong chiến trường. Trong lúc mọi người đều cho rằng cuộc hành quân khó lòng đạt được thành quả tốt đẹp thì Tr/tá Tường lại tin tưởng sẽ chiến thắng. Với lối đánh bất ngờ, yếu tố bảo mật phải được áp dụng triệt để. Ông xin với Th/tướng Phan Đình Niệm, Tư lệmh SĐ22BB để xin được xử dụng Đại đội trinh sát thuộc SĐ để tốc chiếm Núi Gềnh, và một đại đội thuộc LĐ/7BĐQ chiếm lại Đài Kiểm báo là hai cao điểm do 1 Huyện đội Phù Cát và 1 đơn vị đặc công của SĐ 3 Sao vàng quyết tử chiếm giữ. Th/tướng Niệm đã thoái thác cho rằng Đại đội Trinh sát đang trong thời gian dưỡng quân, khó lòng có thể đảm nhận tốt được trách nhiệm. Thấy vị T/lệnh Sư Đoàn lo ngại sự tổn thất, Tr/tá Tường vui vẻ, nói rằng ông sẽ dùng 1 Đại-đội ĐPQ thay thế Đại đội trinh sát của sư đoàn để thi hành nhiệm vụ vinh dự này. Không một ai, hay ít ra, trừ viên Tư lệnh Quân đoàn, Tr/tướng Nguyễn văn Toàn, vốn đã biết rõ khã năng điều quân và tài năng của Tr/tá Nguyễn Mạnh Tường, nguyên là Giám đốc Trung tâm Hành Quân/QĐ 2. Th/tướng Niệm tỏ rõ nghi ngờ về khả năng của ĐPQ. Tr/tá Tường khẳng định rằng, một đoàn quân thiện chiến không nhất thiết phải là danh hiệu, mà do được huấn luyện như thế nào, tinh thần binh sỹ ra sao, và cũng còn tùy thuộc vào chính cấp chỉ huy của đơn vị ấy nữa. Ông chỉ xin riêng với Tr/tướng tư lệnh Quân đoàn cặp lon Đại úy để thăng cấp tại chỗ cho viên Trung úy Đại đội trưởng Đại đội Địa phương quân này, và Trung tướng Toàn chấp nhận yêu cầu ấy, nếu đạt được chiến thắng. Ngay sau khi rời khỏi phòng họp, Tr/tá Tường đã đến Tiểu đoàn 209/ĐPQ do Đ/úy Nguyễn Bá Gạt làm Tiểu đoàn trưởng. Ông gặp riêng Tr/úy Phước, Đại đội trưởng Đ/đội 1/209 và ngỏ ý muốn xử dụng Đại đội này đánh chiếm Núi Gềnh bằng chiến thuật tốc chiến, chỉ xử dụng lựu đạn trong trận đánh, và ông hứa, nếu chiến thắng, ông sẽ tức khắc gắn lon Đại úy ngay tại mặt trận. Tr/úy Phước cũng hứa rằng ông sẽ chiếm Núi Gềnh một cách dễ dàng, không quá 30 phút. (Tr/úy Phước kể rằng, từ thuở nhỏ, ông thường chăn trâu trong khu vực này nên mọi địa thế của Núi Gềnh ông biết rõ hơn ai hết, và lối tấn công bằng lựu đạn là hiệu quả nhất) Tr/tá Tường bàn thảo việc tiến công với người Sĩ Quan mà ông đã hiểu rõ và đã lựa chọn, duy nhất ông đòi hỏi Tr/úy Phước không được tiết lộ bí mật hành quân với bất cứ ai, ngay cả với những người thân cận nhất. Ngày N1, trước nửa đêm, 1 Đại đội BĐQ được đổ xuống tấn công sấm sét vào Đài Kiểm báo, chưa đầy nửa tiếng, Đại đội Biệt Động Quân đã làm chủ tình hình, đánh bật lực lượng đặc công của SĐ 3 Sao Vàng ra khỏi mục tiêu, địch để lại nhiều vũ khí cá nhân và xác chết. Ngày N lúc 5 giờ sáng, ĐĐ1/209 của trung úy Phước đã tiếp cận mặt trận, bất thần tung hàng trăm trái lựu đạn, chỉ 15 phút sau, Huyện đội Phù Cát lớp chết, lớp bị thương, lớp quăng vũ khí tháo chạy, cuộc chiến thắng của ĐĐ 1/209 trọn vẹn và chớp nhoáng đến nỗi không một ai có thể tin được. Về phía bạn, ĐĐ 1/209 chỉ duy nhất 1 binh sĩ bị thương nhẹ vì chính mảnh lựu đạn của mình. Cùng thời gian ấy, Tiểu đoàn của Trung đoàn 42 do đại úy Trí (Năm 1975 là Tr/ Tá) làm tiểu đoàn trưởng, đã từ chân phía Nam Núi Bà, vượt đỉnh núi, tràn xuống đánh như bão táp vào sau lưng địch. Cuộc tấn công bất ngờ đến nỗi tên tư lệnh Lữ Đoàn địch quẳng cả “Xắc-cốt” với toàn bộ tài liệu tháo chạy, 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 41 cũng đồng loạt tràn ngập, địch không kịp phản ứng, bỏ chạy tháo thân. Cũng ngày N, Chi đoàn M.113 thiết quân vận cũng đổ bộ lên bãi biển cách phía Nam căn cứ vài Km, nhất loạt tấn công hoàn toàn lực lượng địch đang vây hãm căn cứ Đề Gi, gần như toàn bộ pháo binh của địch quẳng lại, chúng đạp lên xác đồng đội mà tháo thân. Cuộc hành quân truy kích bắt đầu và chỉ đúng 5 ngày sau ngày N, cuộc hành quân đã hoàn toàn chiến thắng, không một tổn thất về phía đơn vị bạn. Cuộc hành quân An Dân 1/73 hoàn tất bao gồm cả nhiêm vụ và công tác An Dân, công tác An Dân 1 ĐĐ SVSQ/CTCT Đà Lạt đảm trách trong giai đoạn thực tập công tác Dân Sự Vụ trước khi mãn khóa khóa 3/SQ/CTCT với 5 ngày vừa chiến thắng, vừa ổn định cuộc sống của nhân dân vùng Phù Mỹ và Phù Cát, không một người dân nào bị thiệt hại về sinh mạng và tài sản, bảo đảm 100% toàn vẹn mệnh lệnh do Phủ Tổng Thống trao phó, xứng đáng với tấm lòng tin tưởng và ưu ái của nhân dân Bình Định ủy thác. Và ngay hôm sau, Tổng Thống Thiệu mời tất cả các Đại Sứ của các nước đến thăm viếng Đề Gi mới được giải tỏa, với tất cả mọi chứng tích về cuộc vi phạm Hiệp Định Đình Chiến của Cộng Sản VN, và Tổng Thống đãi các đại sứ một bữa gỏi cá cơm nổi tiếng ở Đề Gi, miền đất nổi danh của các chiến sĩ âm thầm, các chiến sỹ Địa phương quân và Nghĩa quân Bình Định… (Khoảng tháng 6 năm 1973, viên Thiếu tá Võ văn Ứng bất chợt về hồi chánh. Theo lời khai của y, với trận Đề Gi thất bại, 3/4 lực lượng tham chiến thuộc Lữ đoàn CS bị loại khỏi vòng chiến, một số lớn tử thương, không kể bị thương và bị bắt. Sư đoàn 3 Sao vàng rúng động, Quân khu 5 CS ngẩn ngơ, Hà Nội tím ruột. Ứng bị giáng cách tuột xuống chuẩn úy. Khi về hồi chánh, y tha thiết xin được gặp người đã làm cho y thân bại danh liệt: Trung tá Nguyễn Mạnh Tường. Võ văn Ứng quê ở Hoài Nhơn, Bình Định, một sỹ quan nổi danh của SĐ3 Sao vàng, xuất thân từ hàng ngũ binh sỹ đi lên, chiến trận dạn dày. Trung tá Tường tiếp y với nụ cười ân cần, hiền hòa và bình dị. Y thật lòng thú nhận là y không thể ngờ được có ngày y bị bại trận một cách nhục nhã đến như thế. Tuy nhiên y rất khâm phục về phương cách điều quân lạ lùng và chớp nhoáng mà y không hề nghĩ tới, duy có một điều y bất phục: - “Thưa ông, nếu tôi là ông, thì hai Tiểu-đoàn còn lại của tôi sẽ không thể nào chạy thoát, sẽ không còn một người nào sống sót, bằng cách xử dụng phi pháo và chặn đánh.” Trung tá Tường vẫn nụ cười hiền hậu, đưa phóng đồ hành quân ra và nói: - “Ông hãy xem đây, tôi đã dự tính hơn những điều ông nói, tuy nhiên, nếu tôi thực hiện điều đó, người dân vô tội sẽ tổn thất không nhỏ về nhân mạng và tài sản. Với tôi, dù nếu để tiêu diệt trọn hai tiểu đoàn tẩu thoát của các ông, đổi lại, chỉ một người dân phải chết oan uổng, tôi nhất quyết không làm!” Ứng không ngờ là trong đời y, y đã gặp được một danh tài quân sự, mà lại càng không ngờ trong đời chiến trận sinh tử lại có một tấm lòng nhân ái đến như thế… Trận đánh giải tỏa phi trường Phù Cát Sau trận Đề Gi, tiềm năng quân sự của Sư đoàn 3 Sao vàng bị hao hụt trầm trọng, các hoạt động quân sự của địch hầu như suy giảm hẳn. Hai Liên đoàn 4 và 6 Biệt Động tăng cường chế ngự địch tại hai Quận Hoài Nhơn và Tam Quan. Hoài Ân và một phần quận Phù Mỹ do trung đoàn 41 đảm trách. Tình hình an ninh tương đối ổn định. Quốc lộ 1 và 19 thông suốt, do các lực lượng ĐPQ và Nghĩa quân đảm trách. Bọn Cộng sản gửi văn thư tố giác đích danh Trung tá Nguyễn Mạnh Tường là luôn luôn nống lấn, vi phạm Hiệp định đình chiến. Nực cười là lời tố giác nầy lại đứng trước một thực tế mà viên Trưởng đoàn Kiểm soát đình chiến trú đóng tại TTHL/Phù Cát đã phải thừa nhận là chính cộng sản đã vi phạm . Thêm vào đó, các vị đại sứ của các quốc gia đã đích thân đến thăm căn cứ Đề Gi ngay sau khi quân lực ta tái chiếm, đã là những nhân chứng đáng tin cậy nhất. Do đó, văn thư tố giác Trung tá Nguyễn Mạnh Tường rơi vào khoảng không. Trong suốt thời gian từ tháng 1/1973 cho đến tháng 4/1974 các ấp an ninh từ loại “V” được dần dần nâng lên loại A càng lúc càng nhiều, khu vực vùng đai an ninh thị xã Qui Nhơn mỗi lúc một mở rộng thêm, dù rằng địch cố gắng giành giật nhưng hầu như hoàn toàn thất bại. Cũng thời gian này, tuy rằng tình hình quân sự tương đối lắng dịu, lại chính là giai đoạn vất vả nhất đối với Trung tá Tường. Ông thường xuyên có mặt ở khắp nơi, vừa luyện quân, vừa tổ chức, phối trí lại tất cả lực lượng dưới quyền. Một trong những đơn vị mà ông đã bỏ công sức để thành lập, huấn luyện đó là Liên đội Trinh sát của Tiểu khu. Ông đi đến từng các Trung đội ĐPQ và Nghĩa quân, tìm hiểu và lựa chọn đến từng binh sỹ. Ông tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống, tâm tư và tình cảm của tất cả các chiến binh, lựa chọn các cấp chỉ huy dũng lược để bổ nhiệm vào các chức chỉ huy từ Tiểu đội trưởng trở lên. Trung úy Khuynh được bổ nhiệm làm Liên đội trưởng Liên đội Trinh sát Tiểu khu, với quân số khoảng 2 đại đội. Sự lao tâm khổ trí của ông đã được đền bù trong trận đánh giải vây căn cứ 60 KQ/Chiến thuật của Đại tá Nguyễn Hồng Tuyền, trú đóng tại Phi trường Phù Cát. Căn cứ 60 KQ/Chiến thuật Phù Cát Phi trường Phù Cát là một phi trường quân sự lớn, do Không lực Hoa kỳ xây dựng vào những năm 1966-1967. Căn cứ nằm giữa ranh ba quận An Nhơn – Bình Khê và Phù Cát, kéo dài theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, chạy dài từ núi Vân Sơn, cạnh dòng sông Côn, lên đến tận Núi Một, kế cận cầu Phù Ly thuộc quận Phù Cát. Phi trường Phù Cát rộng lớn, hơn cả phi trường Phú Hiệp (Phú Yên). Tất cả các loại phi cơ phản lực có thể lên xuống một cách dễ dàng. Khi quân đội Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam, Đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyền tiếp nhận phi trường và trở thành chỉ huy trưởng căn cứ 60/KQ/CT. Từ căn cứ này xuất phát tất cả mọi loại phi vụ yểm trợ đắc lực nhu cầu chiến trường trong một vùng hoạt động rộng lớn. Vào một buổi sáng ngày Chủ nhật, tháng 5 năm 1974, Đại tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh trưởng kiêm TKT/TKBĐ đi họp tại SaiGòn, Tr/Tá Tường xử lý thường vụ chức vụ tiểu khu trưởng trong lúc Đại tá Thọ vắng mặt. Trời còn rất sớm, Thượng Sĩ Nguyễn Đình Đốc, một hạ sỹ quan đầy tài năng và kinh nghiệm (hiện Th/Sĩ Đốc đang cư ngụ tại Canoga Park, Nam California) của phòng 2/Tiểu khu trình cho Tr/tá Tường một bản điện văn của địch đã được giải mã, nội dung vỏn vẹn gồm 10 chữ “Quân Át Chủ Bài đã vào vị trí tập kết”. Nội dung ấy nói lên rằng SĐ 3 Sao Vàng của quân khu 5 sắp khai diễn một cuộc tấn công có tầm mức rất quan trọng, tuy nhiên không rõ được mục tiêu mà chúng đã lựa chọn. Là người chỉ huy luôn luôn nắm vững mọi tình hình lực lượng bạn, với một hệ thống tình báo riêng, ông còn biết rõ địch tình, lực lượng và những thói quen, cùng tích nết của các cấp chỉ huy của Sư đoàn 3 Sao Vàng. Ông theo dõi những chuyển dịch của lực lượng địch một cách cập nhật, với sự thận trọng và khách quan, đồng thời loại bỏ từng mục tiêu cùng khả năng chuyển quân của chúng. Cuối cùng ông đã khẳng quyết rằng: Mục tiêu của con ” Át chủ bài này chính là căn cứ 60 Không Quân chiến thuật. Lập tức ông điện thoại cho Đại tá Nguyễn Hồng Tuyền, chỉ huy trưởng căn cứ, cũng may Đại tá Tuyền còn tại nhà (căn cứ 60), và ông cho biết là có một chuyện cực kỳ quan trọng cần thảo luận với Đại tá Tuyền và yêu cầu Đại tá Tuyền ở nhà chờ ông, mà vì tính chất quan trọng của vấn đề ông không thể nói trên điện thoại được. Đại tá Tuyền đã khẩn cấp đưa trực thăng đón Trung tá Tường ngay tức khắc. Để giữ bí mật, chỉ có hai người duy nhất trong cuộc họp mật này. Trung tá Tường cho Đại tá Tuyền biết chỉ trong đêm nay Cộng quân sẽ tấn công căn cứ 60/KQ CT. Lực lượng địch “Con át chủ bài” chắc chắn phải là một lực lượng cực kỳ hùng hậu. Phòng ngự căn cứ gồm các lực lượng yểm cứ và quân nhân cơ hữu của không quân, ngoài ra từ trước, căn cứ được tăng cường tiểu đoàn 263 ĐPQ do Thiếu tá Phạm Hữu Kỳ làm Tiểu đoàn trưởng với quân số chừng 600 binh sĩ. Tuy nhiên, căn cứ quá rộng, lực lượng phòng thủ phải phân tán quá mỏng. Đường phi đạo nằm dọc theo chiều Bắc Đông Bắc và Nam Tây Nam, do đó căn cứ cũng phải trải dài theo chiều dài phi đạo. Sườn phía đông của căn cứ là khu dân cư dầy đặc của 3 quận An Nhơn, Phù Cát và Tuy Phước, địch không có khả năng che dấu và di chuyển vũ khí nặng, do đó chắc chắn mũi tiến công của cộng sản từ sườn phía Tây của căn cứ, khu vực thưa thốt dân cư, xa xa ở phía Tây là dẫy Núi Vĩnh Thạnh, trùng điệp tiếp giáp với các mật khu của địch, cánh đồng phía Bắc quận Bình Khê, từ Gò Đề trở lên là khu đất cằn cỗi, do nước lũ từ triền dẫy Vĩnh Thạnh đổ xuống, năm từng năm xoi mòn làm thành những con lươn sỏi đá khô cằn, những con lươn này, là một địa thế lý tưởng cho cuộc chuyển quân, ém kín và tiếp cận mục tiêu của địch từ dẫy núi Vĩnh Thạnh chạy sang phía Đông, tiếp giáng Phi Trường Phù Cát. Sườn phía Tây có hai ngọn đồi cao, một ở phía Bắc Tây Bắc nằm bên trong vòng đai phòng thủ là ngọn đồi 69, do một trung đội thuộc Tiểu đoàn 263 ĐPQ trấn ngự. Một ngọn đồi khác nằm hướng chính Tây mang tên Đồi 151 nằm cách căn cứ chừng 1 km do 1 Trung đội Nghĩa Quân thuộc chi khu Bình Khê trú đóng. Muốn tấn công một mục tiêu rộng lớn và quan trọng như căn cứ 60/KQ/CT Phù Cát, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường ứớc tính lực lượng địch phải từ cấp trung đoàn trở lên, được tăng cường lực lượng phòng không, pháo binh, hỏa tiễn nhằm khống chế các phi cơ của căn cứ, không cho cất cánh, đồng thời phá hủy tất cả những kho đạn và những mục tiêu trọng yếu, mà chắc chắn chúng đã có được sơ đồ chi tiết do bọn nội tuyến cung cấp. Đại tá Chỉ huy trưởng căn cứ ra lệnh cắm trại 100% đồng thời mọi kế hoạch phòng thủ được âm thầm tiến hành sẵn sàng chờ địch. Đứng trước tình hình nghiêm trọng ấy, trong tay Trung tá Tường không còn bất cứ một lực lượng trừ bị nào ngoài Liên đội Trinh sát Tiểu khu của Trung úy Khuynh với quân số khoảng 250 binh sĩ. Phòng ngự không để cho địch tràn ngập căn cứ là thiết yếu, nhưng phản công tiêu diệt địch lại là một vấn đề quan trọng hơn. Giữa lúc ấy, một đoàn xe chở một Tiểu đoàn Biệt động quân về thụ huấn tại TTHL/Lam Sơn, đang di chuyển ngang qua Tỉnh Bình Định,Trung tá Tường, sau rất nhiều khó khăn trong buổi sáng Chủ nhật ấy, mới xin phép được Thiếu tướng Phan Trọng Chinh, để được sử dụng Tiểu đoàn BĐQ này để tăng cường phòng thủ cho phi trường, tuy nhiên không được sử dụng Tiểu đoàn làm lực lượng tấn công, giải tỏa. Biết chắc chắn là với lực lượng còn lại, không đủ khả năng tấn công trực diện địch mà phải sử dụng kỳ binh tốc chiến, tốc thắng, âm thầm đánh vào sườn địch vào giữa lúc bất ngờ nhất, Trung tá Tường đã xin lệnh Quân đoàn được phép xử dụng Chi đoàn Thiết giáp đang trú đóng tại An Khê để bảo vệ trục lộ cho các đoàn xe tiếp tế từ Qui Nhơn lên Pleiku. Tuy nhiên Trung tướng Toàn, Tư lệnh QĐ2 đã đi họp tại Sàigòn, Ch/tướng Cẩm, Tư lệnh phó không có mặt, Sĩ Quan trực TTHQ cho hay không biết Ch/tướng Cẩm ở đâu trong ngày chủ nhật hôm ấy. Trước tình trạng cấp bách, Trung tá Tường xử dụng trực thăng do Đại tá Tuyền biệt phái, đáp xuống An Khê, gặp Trung úy Mỹ, Chi đoàn trưởng Chi đoàn Thiết giáp, giả lệnh của Quân đoàn, đặt chi đoàn dưới quyền điều động của ông, đồng thời ông cũng ra lệnh đình hoãn tạm thời các đoàn công voa tiếp tế lên Cao nguyên cho đến khi có lệnh mới. Chi đoàn thiết giáp được lệnh đổ đèo An Khê xuống Bình Khê chờ lệnh. Ông trình bày kế hoạch tấn công, nhiệm vụ của Chi đoàn và Liên đội thám sát Tiểu khu, có trách nhiệm tấn công sườn phía Nam của địch, tuyến xuất phát từ phía Bắc bờ sông Côn khi có lệnh. Kế hoạch của ông là, Liên đội Thám sát tùng thiết đánh thốc từ phía Nam lên với sức mạnh hỏa lực tối đa, với vận tốc tối đa, không được dừng lại để thu nhặt chiến lợi phẩm mà phải chia cắt nát mặt trận của địch. Trong khi ấy, ông sẽ dùng Tiểu đoàn BĐQ giả làm lực lượng tấn công trực diện, với tất cả hỏa lực và những vũ khí cộng đồng để thu hút địch. Trung tá Tường đáp xuống bờ bắc sông Côn, cách Đền thờ Đức Quang Trung khoảng 50m, dẫn Tr/úy Mỹ và Tr/úy Khuynh cùng ông vào điện thờ làm lễ dâng hương, xin anh linh thần dũng của người Anh hùng năm xưa, đã chớp nhoáng đánh tan 20 vạn quân Thanh vào đầu Xuân năm Kỷ-dậu 1789, phù trợ cho các chiến binh hậu duệ của Ngài. Sau đó ông cùng Tr/úy Mỹ và Tr/úy Khuynh lên trực thăng đi thám sát địa thế, bởi vì địa hình khu vực Bắc Bình Khê, Tây Phù Cát, An Nhơn có nhiều bất lợi cho cuộc tấn công chớp nhoáng bằng thiết giáp, do đó người chỉ huy phải nắm vững địa hình một cách chặt chẽ. Sử dụng 1 Chi đoàn Thiết giáp với một Liên đội làm mũi nhọn, làm chủ lực tấn công một địch thủ mà quân số và hỏa lực gấp 10 lần là một điều ít ai dám làm, thậm chí không dám nghĩ tới. Thế nhưng trong chiến sử cổ kim và đông tây đã từng xảy ra với các danh tướng đã từng chiến thắng trong mỗi hoàn cảnh với những yếu tố bất ngờ, thần tốc … Đêm chủ nhật hôm ấy, các chiến binh căn cứ Không Quân/Chiến Thuật trong tư thế sẵn sàng chờ địch. Và quả nhiên, cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng hàng ngàn trái đạn đủ loại. Tiểu đoàn Trinh sát Sao vàng ồ ạt tấn công cao điểm 151 do Trung đội Nghĩa quân thuộc chi khu Bình Khê trú đóng. Đồi 151 bị địch tràn ngập và chiếm ngự, chúng dùng điểm cao nầy để chế ngự phi trường. Riêng ngọn đồi 69 nằm trong vòng đai phòng thủ Bắc Tây Bắc phi trường do một trung đội của Tiểu đoàn 263 tử thủ, đã đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Trung đoàn 2 Sao Vàng, Trung đoàn được gọi là “con át chủ bài” nghĩ rằng với yếu tố bất ngờ và với hỏa lực ưu thế, chúng sẽ dễ dàng chọc thủng tuyến phòng ngự và tràn ngập căn cứ một cách dễ dàng. Nhưng chúng không thể ngờ, các chiến sĩ của căn cứ đã chờ đợi chúng và bằng tất cả sức chiến đấu mãnh liệt, từng đợt tấn công của cộng quân đã bị đẫy lui. Trong lúc ấy, tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn BĐQ được trang bị bằng những vũ khí hạng nặng, khai hỏa ào ạt, được ngụy trang như những chiến xa, lôi kéo hỏa lực địch, chúng nghĩ rằng những chiến xa của ta bắt đầu xung kích… Giữa lúc địch tấn công vào căn cứ, cũng là lúc Chi đoàn thiết giáp chuyển các chiến binh của Liên đội Thám sát Tiểu khu bắt đầu vượt tuyến xuất phát, âm thầm xuất kích đánh vào sườn trái của địch. Trong bóng đêm mịt mùng, mãi mê vì bị lôi kéo, hòng ngăn chặn thiết giáp đánh ra từ căn cứ (do BĐQ ngụy trang), cả Trung đoàn 2 Sao Vàng và các đơn vị tăng cường dồn hết mọi hỏa lực về phia trước. Chúng không ngờ bên sườn trái, tử thần đang từng phút kề cận. Cho đến khi toàn bộ hỏa lực của Chi đội thiết giáp và Liên đội Trinh sát tấn công ào ào như sấm dậy, như sét đánh không kịp bưng tai, nổi kinh hoàng tràn ngập trận tuyến địch, địch không kịp quay súng, từng lớp bị đốn ngã… Giữa đêm đen, khi đã phát hiện ra lực lượng tập kích sườn trái, từng lưới đạn vẫn ào ào đổ xuống, lớp chết , lớp bị thương, địch bỏ súng tháo chạy, lớp này cuốn theo lớp khác bị bắn hạ. Toàn thể Trung đoàn 2 Sao Vàng “anh hùng” thoắt chốc tan tác, cuống cuồng tháo thân… Tiểu đoàn Trinh sát Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn trên đồi 151 không hề hay biết, cho đến lúc một đại đội của liên đội Trinh sát tiểu khu do Tr/úy Khuynh chỉ huy, đánh thốc lên từ sau lưng bằng lựu đạn, tên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Sao Vàng bị đốn ngã ngay từ phút đầu tiên, cả tiểu đoàn buông súng lao xuống sườn đồi tháo chạy, bất kể phương hướng, chúng kinh hoàng bởi sự đột kích hết sức bất ngờ, tử thần đã từ phía sau ập đến… Xác địch ngỗn ngang trên đồi cao, cùng một số thi thể của các chiến sĩ nghĩa quân đã hy sinh lúc khởi đầu chiến trận. Cuộc tháo chạy kinh hoàng, bỏ lại đủ loại vũ khí trên đường tiến quân của ta. Ngược lại, như một sự linh thiêng mầu nhiệm, lực lượng tấn công của ta hoàn toàn vô sự. Trung úy Khuynh gỡ chiếc “xà cột”trên vai xác tên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát Sư đoàn 3 Sao Vàng. Mọi ý đồ của địch được ghi chép trong tài liệu bắt được cho thấy trận đánh này chỉ là bước khởi đầu cho một trận tấn công toàn lãnh thổ tỉnh Bình Định. Ý đồ của chúng bị bẻ gẫy, bị đập tan ngay từ bước khởi đầu. Cùng lúc, những tên còn sống sót của Trung đoàn 2 Sư Đoàn 3 Sao vàng cuống cuồng tháo chạy, Chi khu Phù Cát tổ chức cuộc hành quân trực thăng vận khẩn cấp với 2 Trung đội Nghĩa Quân đổ xuống mục tiêu đã được dự trù, tịch thu được 1 khẩu súng “bắn hỏa tiển” loại mới với những trái đạn khổng lồ còn lăn lóc (đây là một loại vũ khí mới nhất của Trung Cộng, súng dùng để bắn hỏa tiễn với máy nhắm hiện đại. Máy nhắm này phía Hoa Kỳ đã xin mượn để nghiên cứu, vì đây là loại súng bắn hỏa tiễn tối tân nhất của Trung cộng, bị tịch thu ở chiến trường miền Nam, với mức độ chính xác gấp nhiều lần so với dàn phóng hỏa tiễn có từ trước). Ngoài ra còn tịch thu được: - 1 súng cối 120 ly - 4 đại bác 82 ly - 1 đại bác 122 ly Số lượng vũ khí cộng đồng, cá nhân và xác địch quân bỏ lại trên chiến địa không đếm xuể, hầu như toàn bộ lực lượng địch tham chiến bị tiêu diệt gần hết. Một điều kỳ diệu là thiệt hại của lực lượng bạn không đáng kể, ngoại trừ trung đội Nghĩa quân của chi khu Bình Khê trú đóng trên đồi 151 đã hy sinh lúc khởi đầu trận đánh. Sau chiến thắng, Chuẩn tướng Cẩm, Tư lệnh phó Quân đoàn 2, đề nghị Tướng Toàn phạt Trung tá Nguyễn Mạnh Tường 30 ngày trọng cấm với lý do đã điều động và xử dụng chi đoàn Thiết giáp khi chưa được “ông-tướng-rong-chơi” này cho phép(!!!), trong khi 2 Trung tá Không quân thuộc căn cứ 60/KQ/CT được vinh thăng Đại tá tại mặt trận, một số sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ được thăng cấp rất hạn chế… Điều bất công ấy đã khiến cho Đại tá Nguyễn Hồng Tuyền và toàn thể Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh sĩ tham chiến kinh ngạc và phẫn nộ. Ngay cả đến Trung tướng Tư lệnh Không Quân Nguyễn văn Minh cũng tức giận. Trung tướng Minh ra thăm căn cứ K/Q Chiến thuật, cho tổ chức tiệc ăn mừng chiến thắng. Tướng Minh đã ca ngợi và giới thiệu Trung tá Tường với thuộc cấp như vị “ân nhân” của binh chủng Không quân, lệnh cho binh chủng luôn ghi nhớ công sức của người đã cứu nguy và mang lại chiến thắng cho binh chủng, và sẽ luôn phải ưu tiên thỏa mãn cho Tr/tá Tường những nhu cầu công cũng như tư. Đại tá Tuyền từ đó đã dồn mọi ưu tiên không yểm cho Trung tá Tường trong các yêu cầu tại chiến trường. Cũng vì thế, Tư lệnh Sư đoàn 22/BB đã kiện về Bộ Tổng tham mưu về sự ưu tiên nầy. Bộ Tổng tham mưu đã phái một Đại tá ra điều tra sự kiện thưa gởi ấy. Đại tá Tuyền đã trả lời một cách minh bạch: - “Điều ấy dễ hiểu, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường đã giúp chúng tôi một cách tận lực trong lúc nguy nan, cấp cứu và giải thoát cho những phi đoàn của chúng tôi lúc bị bắn hạ một cách mau chóng. Trong khi ấy, Sư đoàn đã không làm gì trước những yêu cầu như thế. Do đó, chúng tôi phải tận lực yểm trợ cho Trung tá Tường là điều đương nhiên!” Người chỉ huy và mang lại chiến thắng trong trận Phù Cát, Trung tá Nguyễn Mạnh Tường, bị đối xử như thế, đã khiến Trung tướng Minh bất bình và không thể im lặng, do đó, trong một cuộc họp các tướng lãnh tại Sài gòn, có mặt Đại tướng Trần thiện Khiêm, đương kim Thủ tướng Chính phủ, Trung tướng Minh đã nêu lên thắc mắc này. Đại tướmg Khiêm đã hỏi Đại tướng Cao văn Viên về sự kiện ấy, ông Viên trình bày là “đã hết cấp số!”. Đại tướng Khiêm lệnh mang hồ sơ của Trung tá Nguyễn Mạnh Tường cho ông đích thân cứu xét, và ngay tức khắc Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm đã ký nghị định thăng cấp Đại tá thực thụ cho Trung tá Nguyễn Mạnh Tường ngay sau cuộc họp. Đó là vào khoảng tháng 8/1974. Sau khi được thăng Đại tá, một tưởng thưởng muộn màng, Đại tá Tường được thuyên chuyển về làm Phụ tá Hành quân cho tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5BB. Kể từ ngày ấy, tôi không gặp lại Đại tá Tường, mãi cho đến cuối năm 1977 mới gặp lại ông tại Hoàng Liên Sơn trong một lần đi vác nứa. Tôi đã đứng nghiêm kính cẩn chào ông bằng lễ nghi quân cách với những dòng nước mắt nghẹn ngào. Ông vẫn bình thản như ngày xưa, vẫn đôi mắt và nụ cười thuở trước. Dường như sự đày đọa trong tù ngục không ảnh hưởng gì đến ông. Người chiến binh già ấy đã từng làm cho tôi kính trọng thuở nào, càng làm cho tôi kính yêu hơn nữa trong cung cách thản nhiên chịu đựng sự nhục mạ, sự đọa đày hèn hạ trong chốn lao tù. Bẳng đi bảy năm sau đó, 1984, tôi được gặp lại ông tại Z30A Xuân Lộc, ông sống âm thầm trong cuộc sống đày ải như một bậc chân tu. Ông dạy tôi về Thiền, về khí công, về cách điều tức “sâu-dài-êm-đềm-chậm”. Thì ra chính Thiền công đã khiến ông vượt qua được tất cả, kể cả mọi bệnh tật cũng không xâm nhập được vào cơ thể người chiến binh năm xưa. Thỉnh thoảng ông mới được thăm nuôi, cuộc sống cực kỳ đạm bạc, thế mà ông vẫn chia xẻ những món quà khiêm tốn, ít ỏi cho những anh em đồng tù bất hạnh, không kể thân sơ, chỉ giữ lại cho mình những hủ tương mặn chát. Trong tù, tôi được nghe nhiều người nhắc đến ông trong thời gian ông về làm Phụ tá hành quân Sư đoàn 5, kể lại cuộc rút quân thần kỳ cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, cùng những đức tính cao quý, không chỉ những sỹ quan thuộc Sư đoàn 5 mà còn rất nhiều người đã sống bên ông trong quãng đời tù đày. Mãi đến năm 1992, tôi mới gặp lại ông tại Sài gòn. Ông sống một mình trong một con hẻm đường Công Lý. Ngày từng ngày, ông đi chữa bệnh cho những ai cần đến ông. Ông không nhận bất cứ thù lao nào từ những bệnh nhân được ông chữa khỏi. Những lúc rảnh rỗi, ông lên gác chuông chùa Vĩnh nghiêm đọc kinh Phật. Năm 1993, tôi bị CSVN bắt lại với án tù 12 năm về tội “âm mưu lật đổ chính quyền”, may mắn được Quốc tế can thiệp và được ra khỏi tù cuối năm 1998. Đầu năm 1999, tôi sang Mỹ theo diện H.O được chiếu cố vì quá muộn màng. Và vui mừng xiết bao vì lại được gặp lại ông. Nhân lời yêu cầu của nhóm nhà văn quân đội chủ trương thực hiện tập “Những Trận Đánh Không Tên Trong Quân Sử”, tôi xin phép ông cho phép tôi được viết lại một cách khiêm tốn quãng thời gian ông đã tham dự và chỉ huy các trận đánh ở chiến trường gian khổ Bình Định, cùng những chiến thắng lẫy lừng của các chiến sỹ Địa phương quân và Nghĩa Quân âm thầm mà ông chính là người đã, với tài trí và đức độ của mình, đưa đến những chiến thắng thần kỳ trong sự hạn chế và gìn giữ tối đa sinh mạng và tài sản của dân lành vô tội. Ông đã từ chối rất nhiều lần với ý muốn thành khẩn của tôi, khi tôi muốn đưa một tài năng chỉ huy của quân lực vào Quân sử, với lý do là ông đã quên hết trong thế giới của Thiền đạo. Và cũng bởi vì, với kết cuộc thảm khốc của sinh mạng QLVNCH trong tháng Tư đen tối 1975, thì mọi chiến công đã trở thành tận cùng đau đớn, có nhắc lại chỉ thêm đắng cay, mà mỗi người trong chúng ta chỉ nên âm thầm trong sám hối bỡi những hành vi đã có, đóng góp một phần trong cuộc bại trận này. Theo ông, có 3 đại họa trong thiện hạ là: 1/ Công ít mà bỗng lộc nhiều 2/ Tài mọn mà địa vị cao 3/ Chí nhỏ mà mưu việc lớn. Tôi hoàn toàn thẩm thấu được nổi đau lòng ấy, nhưng tôi thưa với ông là “VNCH của chúng ta bị bức tử vì nhiều mặt. Tuy nhiên, các chiến-sỹ QLVNCH đã chiến đấu vô cùng anh dũng, biết bao người đã nằm xuống, đã đổ máu xương cho một Việt Nam Tự do, và giờ nầy các chiến binh vô danh cả triệu người đang sống trong tối tăm, trong đọa đày tủi nhục, trong đau đớn ê chề… Vậy thì hãy cất tiếng nói, HÃY TRẢ LẠI DANH DỰ CHO CÁC CHIẾN BINH ÂM THẦM kia, trả lại cho lịch sử mai hậu về một VNCH và một QLVNCH đã có những đứa con xứng đáng trong bất khuất, anh dũng trong hy sinh, vinh hiển trong máu xương oan khuất. Việc nhắc đến, vinh danh những chiến binh đã chiến đấu, đã nằm xuống như dòng nước mát, như nén hương thơm cho Quê Hương Việt Nam thống khổ. Và sau cùng, vì những điều tôi vừa trình bày. Cuối cùng, ông đã đồng ý cho tôi viết những dòng trả lại vinh quang cho những người lính miền Nam. © Trần Thúc Vũ ******************************* NhaKyThuatJanuary 6, 2011 at 11:09 AM Hom ray dinh goi dien-thoai 'Khen' Em , dua bai noi ve Dai-ta Tuong rat dung thoi diem .Bai viet rat hay , nhat la phan ' ca-tinh' cua D/T Tuong rat dung .Ong ay qua gioi .Nhat la may 'Ong Lon' neu khong co gi 'xuat-sac' ; se bi Ong lam 'lu mo' di .Ve viec ong bi 'do-ky' cung la viec thuong tinh . D/T Tuong nam i960 tham gia dao chanh voi D/T Nguyen-chanh-Thi .,bi tu . o Con-Dao .Dau nam 1964 duoc tha , va ve lam Truong phong 3/SLL ;luc nay moi thanh lap( Nam ben trong Bo TTM, sau do vai thang, moi di chuyen ra doanh trai; BTL/LLDB, ma sau nay la Trai Nguyen-cao-Vy ) ).Khoang nam 1968 ban giao Truong phong 3/SLL cho T/T Vo-tan-Tieng ,ve lai BCH/NKT .Sau do ve BCH/CSQG lam viec voi D/T Lieu .Khong biet sau khi roi CSQG Ong co thuyen chuyen ve dau khong .,nhung cuoi cung Ong ve Tieu-khu Binh-dinh .Co 1 chuyen it nguoi biet : La chinh Quoc-truong Phan-khac-Suu ,dung ra lam Chu-hon, cuoi vo cho D/T Tuong. Vi thoi gian o tu Con-dao Q/T PKS rat quy Ong Tuong . Anh co rat nhieu ky niem voi D/T Tuong ,luc Anh o BDQ ve trinh dien P3/SLL ,thoi gian nay cac si quan doc than nhu : D/T Tuong , Tr/T Tran-thuy-Ly , Tran-trung-Ginh ,Anh ; va may si quan nua, deu ngu trong trai , va cung thuong di an, di choi voi nhau rat than mat . Than men . Anh Minh .
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 0:33:36 GMT 9
Vụ ‘bắn lầm’ trong Trận Mậu thân (đợt 2)Trần Lý Vụ ‘bắn lầm’ trong Trận Mậu thân (Đợt 2), tuy đã xẩy ra cách nay gần 40 năm, nhưng nhựng bí ẩn vẫn chưa được tiết lộ. Nhiều câu hỏi chưa được giải đáp và những nghi vấn cùng những hệ lụy chính trị vẫn còn là những ẩn số ! Chúng tôi xin gửi đến quý vị những chi tiết, sưu tầm được qua những bài trích trong hồi ký của những người trong cuộc, và những đoạn viết về vụ này trong sách báo Mỹ. Chúng tôi hy vọng qua bài viết này sẽ nhận được những ý kiến hay những chi tiết chính sác hơn của ‘những vị biết sự thực’..hầu những thế hệ sau biết được thêm một vấn đề lịch sử..Vụ trực thăng Mỹ bắn rocket vào trrường Phước Đức, xẩy ra vào ngày 2 tháng 6 năm 1968, gây tử thương và bị thương cho một số sĩ quan QLVNCH, đang họp hành quân.. được chính thức giải thích là ‘bắn lầm’ nhưng vẫn được nhiều người cho là một ‘cuộc thanh toán chính trị’ do Mỹ và TT Thiệu đạo diễn để ‘tỉa bớt’ vây cánh và ‘cảnh cáo’ Tướng Kỳ..
Tác giả Chính Đạo trong Mậu Thân 68 Thắng hay bại viết (trang 334-335). (Chính Đạo là bút danh của Vũ Ngự Chiêu, Ph.D Sử học)
‘ Giữa lúc đó, một tai nạn xẩy ra ở đường Khổng Tử khiến quân chính phủ thiệt hại nặng. Vào lúc 6 giờ chiều, một trực thăng võ trang Mỹ-theo báo cáo chính thức vì ống phóng hỏa tiễn bị hư-đã oanh kích lầm vào vị trí Bộ Chỉ huy hành quân đặt tại trường Phước Đức (286 đường Khổng Tử). Sáu sĩ quan cao cấp của VNCH bị tử nạn, gồm có : Trung Tá Nguyễn Văn Luận, Giám đốc Cảnh Sát Đô Thành; Trung Tá Nguyễn Ngọc Trụ, Trưởng Ty CS quận 5; Trung Tá Đào Bá Phước, CHT Liên đoàn 5 BĐQ; Trung Tá Phó Quốc Chụ, Giám đốc Nha Thương Cảng Sài Gòn; Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Sinh, Phụ tá GĐCSĐT; Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thùy, Chánh Sở An Ninh Sài Gòn (em Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, đương kim Bộ trưởng Xây Dựng Nông Thôn). Một số người khác bị thương như Đại tá Văn Văn Của, Đô trưởng Sài Gòn; Đại tá Nguyễn Văn Giám, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô; Trung tá Trần Văn Phấn, Phụ tá TGD/CSQG (cụt chân). Tai nạn này xẩy ra chỉ cách tuyến giao tranh khoảng 150 thước. Trung tướng Khang, Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tổng trấn sài Gòn, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc-Vài phút trước đó, một cố vấn Mỹ mời Khang ra ngoài thảo luận. Tại sài Gòn, lập tức có tin đồn cho rằng phe Thiệu đang ra tay thanh toán nhóm Kỳ. Tin đồn này càng có vẻ khả tín hơn khi được ‘móc nối’ với việc Chuẩn tướng Loan bị thương ở cầu Phan Thanh Giản, Đại tá Lưu Kim Cương chết ở khu Ông Tạ, Chính phủ Nguyễn Văn Lộc phải từ chức cho Trần Văn Hương, người ra mặt chống đối Kỳ, lên thay. Rồi đến việc bổ nhiệm tướng Nguyễn Văn Minh ‘đờn’ Tư lệnh Sư đoàn 21, làm Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô thay Khang trong tháng 6/1968 và ép Khang từ chức Tư lệnh QĐ III hai tháng sau. Việc Thủ tướng Hương mang hoa và một phái đoàn ký giả vào nhà thương thăm Loan, hay đặc cách Loan lên Thiếu tướng và Nguyễn Đức Thắng lên trung tướng ngày 3/6/1968 -theo chuyên viên về ‘thuyết âm mưu'(conspiracy)-chẳng là gì hơn thủ thuật bôi thuốc đỏ lên những vết chém trên lưng Kỳ..’
Trong phần Phụ chú , Chính Đạo ghi thêm : Đại tá Trần văn Hai được cử thay Loan. Cùng ngày 7/6/1968 Đỗ Kiến Nhiễu thay Văn Văn Của làm Đô trưởng.
Tác giả Trương Dưỡng trong Góc chiến trường xưa : Trong trận Tết Mậu Thân trên Người Việt Online, January 17,2006 viết :
‘Trong trận Mậu Thân đợt II có một việc đau lòng xẩy tại chợ kim Biên khi một chiếc trực thăng võ trang của Hoa Kỳ đã bắn lầm vào trường tiểu học Phước Đức, trong đó Bộ Chỉ Huy Phản công của ta đang họp mặt tại BCH/HQ?Liên Đoàn 5 BĐQ để hoạch định đối sách. Hậu quả là Đại tá Đào Bá Phước, Liên đoàn trưởng LĐ 5 BĐQ, Trung tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng ty CS Quận 5, ông Phó Quốc Trụ thuộc Nha Thương cảng, Thiếu tá Nguyễn Bảo Thùy (em của Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) đều bị hy sinh. Đại tá Văn Văn Của bị thương và Đại tá Phần, Phó GĐ Cảnh sát bị cụt hai chân. Trước đó khoảng 5 phút, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Quân đoàn III và Đại tá Trần Văn Hai vừa rời khỏi trường Phước Đức ra phía ngoài gần đó quan sát. Thiếu tá Hồ Văn Hòa, TĐ trưởng TĐ 35 BĐQ đang điều động càn quét đám đặc công VC. Nếu ông đi sớm 5 phút thì đã nguy hiểm đến tánh mạng. Và sau 10 phút khi hai trái rocket nổ thì Phó TT Nguyễn Cao Kỳ đến (theo lời kể lại của niên trưởng Đặng Kim Thu, khóa 19 Đà Lạt, tùy viên của ĐT TTM trưởng lúc đó có mặt tại hiện trường). Cũng có tin đồn đây là một vụ thanh toán phe phái trong hàng tướng lãnh cao cấp lúc bấy giờ. Nhưng đây chỉ là một tin đồn, chưa có bằng chứng rỏ ràng..’
Một trong những ‘nhân chứng’, có mặt trực tiếp tại hiện trường lúc xẩy ra vụ ‘bắn lầm’ là Nhà văn Nguyễn Thụy Long đã kể lại trong Hồi Ức 40 năm làm báo đăng làm nhiều kỳ trên Oregon Thời Báo, các tháng 8, 9 và 10 năm 2006, ghi lại như sau :
‘ Khoảng 9 giờ 30 sáng, phái đoàn của tướng Lê Nguyên Khang, tham mưu trường vào thị sát mặt trận.Ông chỉ thị cho các sỉ quan thuộc cấp chỉ huy mặt trận không được dùng súng lớn để dập đối phương đang ẩn nấp, tránh thiệt hại cho dân.Phải dùng những cánh quân mỏng xâm nhập mục tiêu dù có bị thiệt hại.. .. .. Từng bước một đoàn quân tiến lên, họ tiến vào trường trung học Phước Đức của người Hoa, đó là điểm dừng quân. Máy bay bay quần quần ở trên đầu, giữa buổi trưa nắng gắt. Tôi nhận thấy một số sĩ quan chỉ huy mới hồi sáng còn thấy mặt, bây giờ biến đâu mất, như Đại tá Trần Văn Hai. Còn lại một số sĩ quan khác ngồi trên tam cấp trường Phước Đức, cúi đầu trên tấm bản đồ mặt trận, hoạch định kế hoạch tấn công. Tôi có mặt ở đó, và thấy mình thừa thãi, trong khi đã thu thập đầy đủ tin tức cuộc tiến công diễn ra trong đêm nay. Bộ chỉ huy mặt trận ngồi trên tam cấp trường Phước Đức tỏ ra hăng hái, tất cả có sáu vị tá, có những người không giữ nhiệm vụ gì, nhưng cũng ngồi cả đãy. Tôi gặp Trung tá Phó Quốc Chụ, ông nói : – Tôi chẳng có nhiệm vụ gì ở đây hết, tôi sang chợi, hy vọng tìm được khẩu súng Sao đỏ (K54) để làm kỷ niệm.. .. …Ông Nguyễn Thụy Long dành một đoạn để viết về con vịt giữa lửa đạn mà ông tìm cách cứu. Sau đó Ông bỏ con vịt vào túi và tiếp tục nhiệm vụ săn tin chiến trường , như vì con vịt kêu quá nên Ông đành rời buổi họp của các vị Tá .Đoạn kể tiếp về vụ ‘bắn lầm’ như sau : Trên đầu chúng tôi máy bay bay quần quần, một quả khói vàng nữa được bắn ra từ ban chỉ huy, đánh dấu điểm cho chắc ăn. Tôi bước ra khỏi ban chỉ huy chừng năm, sáu thước, nghếch mắt nhìn hai chiếc trực thăng chiến đãu lao xuống, hai tia lửa hỏa tiễn phụt ra khỏi ổ phóng, phản ứng tự nhiên, tôi lăn mình xuống ngay bờ hè cống thoát nước. Hai tiếng nổ đinh tai nhức óc, kèm thêm một băng đạn đại liên bắn bồi. Mảnh bom bay vèo vèo qua đầu tôi. Khói chưa tan hẳn, tôi nhỏm dậy và thấy sáu vị tá ngồi trên bậc tam cấp tung lên, người đã chết và người còn oằn oại. Máy bay ngóc đầu bay chạy khỏi hiện trường, một băng đạn đại liên ở trên cao ốc gần đó bắn đuổi theo, nhưng hình như không trúng đích. Trực thăng bắn lầm vào quân ta rồi ? .. ..Tôi gặp ký giả Chàng Phi từ đâu chạy đến.. Chàng Phi giữ tôi lại : -Tao thấy rõ ràng đây là một vụ thanh toán nội bộ, giữa phe của Kỳ và Thiệu, không thể có vụ oanh kích lầm được. Mày có thấy người bị thương vong toàn là người của Kỳ không, những sỉ quan của Thiệu biến mất từ trưa nay..
Sau đây là phần trích từ tập sách Mộng không thành của BS Văn văn Của (BS Văn văn Của, lúc đó, là Đô Trưởng Sài Gòn và là một’nạn nhân’ trực tiếp trong vụ bắn lầm..’)
Ngay trong trang mở đầu của tập sách, Tác giả đã ghi :
Kính tặng Anh linh các Chiến Sĩ : Trung Tá Nguyễn văn Luận, Giám đốc Nha Cảnh sát Đô Thành Trung Tá Đào Bá Phước, Chỉ huy trưởng LĐ 5 Biệt Động Quân Trung Tá Phó Quốc Chụ, Giám Đốc Nha Thương Cảng SG Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng Ty CS Quận 5 SG Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Sanh, Phụ Tá Giám Đốc CS Đô thành Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thùy, Chánh Sở An Ninh Đô thành … Đã bị giết hại oan uổng trong khi đang làm phận sự đấu tranh chống Cộng Sàn.
Vụ ‘bắn lầm’ được kể lại trong các trang từ 331 đến 341.. trong đó phần mô tả sự việc được kể rất chi tiết (từ 331 đến 339) và phần ‘nghi vấn’ trong các trang 340-341..
Những sĩ quan có mặt trong buổi họp ‘tham mưu’ gồm : – Trung tướng Lê Nguyên Khang (được Cố vấn Mỹ rủ (?) đi khỏi nơi họp trước khi xẩy ra vụ bắn lầm- xem tài liệu sau..) – Đại Tá Trần văn Phấn Tham mưu trưởng hành quân Tổng Nha CS (thay mặt Tướng Loan) – Đại Tá Nguyễn văn Giám, Biệt Khu Thủ đô – Đại Tá Văn văn Của Đô trưởng Sài Gòn – Trung Tá Đào Bá Phước , Chỉ huy trưởng LĐ 5 BĐQ – Trung Tá Lê ngọc Trụ, Trưởng ty CS Quận 5 – Trung Tá Nguyễn văn Luận, Giám đốc Nha CS Đô Thành – Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Sinh Tham mưu trưởng hành quân CS – Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thùy, Chánh sở An Ninh Đô thành – Trung Tá Phó quốc Chụ , Giám đốc Nha Thương Cảng ( tình cờ đến dự buổi họp (?) vì cùng đi với ĐT Giám). – theo chương trình sẽ có cả Phó TT Nguyễn Cao Kỳ (?) (xem bài của Ô Kỳ ở phần dưới) Sau đây là diễn tiến vụ ‘bắn lầm’ :
‘.. Cuộc họp diễn ra tại tam cấp của trường Phước đức. Ngồi trên bậc cao nhất (và được tường của phòng học trên lầu che một phần cơ thể) là Đại tá Giám và Đại tá Phấn, tham mưu trưởng hành quân của Tổng nha Cảnh Sát và đại diện cho Tướng Loan; 2 vị Đại Tá này chủ toạ buổi họp. Từ bậc dưới kế đó đến bậc thấp nhất chia ra 2 bên là các Trung Tá Đào bá Phước, Lê ngọc Trụ, Phó quốc Chụ và Nguyễn văn Luận, các Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Bảo Thùy. Tôi (ĐT Của) ngồi ở bậc thấp nhất. Một bản đồ thành phố SàiGòn được trải ỡ giữa.. Buổi họp sắp chấm dứt, các nhiệm vụ chính yếu và nhu cầu cho ngày hôm sau đã được quyết định, chỉ còn phân chia ranh giới khu vực bố trí quân ban đêm là việc giữa BĐQ, CS Đô thành và CS Quận 5, thì hạ sĩ quan truyền tin BĐQ đến đưa máy liên lạc Không quân, nói chuyện với trực thăng đến yểm trợ cho Tr Tá Phước. Thì ra trực thăng Mỹ ở Tân Sơn Nhất đến giúp… Tôi nghe rõ ràng Tr/Tá Phước cho tọa độ khu Ngọc Lan Đình, nói rõ cao ốc hình hộp 4 tầng duy nhất trong khu, trục bắn từ Đông sang Tây theo đại lộ Đồng Khánh.. Cũng trong lúc ấy có tiếng trực thăng đến gần, tôi nhìn lên thấy một trực thăng từ hướng Đông bay đến, đúng theo trục Đồng Khánh, lúc ấy cách chỗ họp còn chứng 30 giây bay, nghĩa là sắp đến lúc bắn yểm trợ.. .. Lúc bấy giờ, nhiệm vụ của cấp Đại Tá coi như đã xong. Trên bực cao nhất, ĐT Giám đứng lên bước vào sâu trong hàng hiên nơi đặt máy truyền tin liên lạc riêng của hệ thống BKTĐ. ĐT Phấn, lúc trước chồm người vào chỗ bản đồ, bây giờ ngồi thẳng người lên, thân mình được che khuất bởi tấm vách của phòng học, chỉ còn chân thò ra ngoài. Phần tôi, thấy cần phải đi ra ngoài kiểm soát lại đám cháy ban trưa.. Sau khi ra lệnh cho sĩ quan cứu hỏa ở chỗ xe jeep đỏ chỉ huy đậu sát lề đường ngay trước cổng trường, tôi quay trở vào chỗ họp. Vụa qua khỏi cổng còn bốn, năm bước nữa mới đến tam cấp tôi bỗng cảm thấy một sức ép không khí nặng nề đè lên người xô tôi ngã ngửa.. ĐT Của viết tiếp về vụ ‘điều tra’ tai nạn như sau : Chiếc trực thăng Mỹ thay vì bắn vào mục tiêu theo trục Đồng Khánh (từ Đông sang Tây) thì đổi hướng Bắc-Nam qua đầu chỗ đang họp tham mưu mà không thông báo cho dưới đất biết, vì thế bắn 2 quả roc kết thì quả đầu vào Ngọc lan đình, quả sau vào tường phòng họp bên trên tam cấp nổ chụp lên đầu nhóm đang họp. Tất cả sĩ quan tham dự buổi họp đều tử nạn chỉ trừ ĐT Giám lúc ấy đang đứng khuất trong hiên, ĐT Phấn nhờ ngồi thẳng người lên nên chỉ nát 1 gối phải cưa chân, và tôi bị thương ở đầu, mặt, ngực toàn phần mềm không trúng tạng phủ và nặng nhất là gãy khuỷu trái. Trung sĩ y tá Trần trùc Trâm đi hộ vệ Đô trưởng cũng bị một mảnh đạn vào tim. Sáng ngày 3/6 tôi được ĐT Hoành trưởng đoàn thanh tra của Bộ TTM QLVNCH đến Bệnh viện Grall điều tra về tai nạn bắn lầm. Tôi kể lại sự việc từ lúc Trung tá Đào bá Phước điện đàm với trực thăng đến lúc tôi bị thương và yêu cầu làm sáng tỏ các vấn đề sau đây: Là một trực thăng của Quân đội Mỹ và phi công là người Mỹ, gây tử thương cho một số sĩ quan VN mà phái đoàn chỉ có Việt Nam ? Tại sao không bắn theo hướng và trục yêu cầu ? Tại sao đổi hướng bắn mà không thông báo cho dưới đất biết để lấy nhựng biện pháp an toàn cần thiết ? Dưới đất đã ấn định rõ mục tiêu duy nhất, trường Phước Đức không có trong mục tiêu yêu cầu, mà nơi đó lại dễ nhận định là bạn vì có nhiều xe jeep (hơn chục chiếc) : đủ mầu, mầu quân đội. mầu trắng và xanh của cảnh sát, mầu đỏ của Cùu hỏa, trên không có thể thấy rõ, không thể lầm lẫn với mục tiêu yêu cầu, mà tại sao lại quyết định bắn qua đầu ? Không có một góc độ nào khác để bắn vào mục tiêu mà không qua đầu trường Phước Đức ? Có một yêu cầu nào khác từ dưới đất thêm trường Phước Đức là mục tiêu thứ 2 ? Tôi yêu cầu nhất định được giáp mặt với các phi công của trực thăng để đói chất trước sự hiện diện của một Ban điều tra hỗn hợp Việt-Mỹ. Sáng hôm sau, Đ/tá Hoành trở lại gặp tôi, đưa cho xem bản phúc trình của phi công nói vắn tắt rằng sở dĩ có tai nạn là vì trục trặc kỹ thuật: quả đạn rocket thứ hai phát hỏa chậm. Chấm hết. Còn tất cả các câu hỏi khác đều không được trả lời. Tôi xin được giáp mặt phi công thì Đ/tá nói rằng phi vụ đó chỉ có một phi công và người đó đã về Mỹ ngay tối ngày 2/6 (sao về gấp thế ? nếu chỉ là lỗi kỹ thuật ?) Tôi nhấn mạnh tại sao đổi hướng bắn mà không cho dưới đất biết thì Đ/tá VN trả lời thay cho Mỹ rằng.. thủ tục đó..không có trong Quân đội Mỹ !.. .. ..
Sau cuộc bỏ chạy 1975, Đ/tá Trần văn Phấn, chỉ còn một chân, và tôi bị kẹt lại (Mỹ đã hứa cho di tản mà rồi không đến chỗ hẹn rước đi), đi học tập cải tạo, VC lại sắp cho 2 chúng tôi cùng một buồng giam và cùng một độ, cho nên ban đêm thường nhắc lại chuyện xưa. Theo Đ/tá Phấn thì có một lệnh từ dưới đất chỉ cho trực thăng thêm một mục tiêu ngoài Ngọc lan đình là trường Phước Đức. và người ra lệnh là Đ/tá Giám, trước lúc đó rời chỗ họp đến chỗ máy truyền tin riêng của Biệt Khu Thủ đô, khuất sâu trong hiên, nên là người duy nhất không bị thương tícg gí, còn hai chúng tôi thoát chết là nhờ may mắn. Năm 1995..tại Mỹ..tôi có dịp gặp nột cựu Trung Tướng QL VNCH và kể lại lời buộc tội của Đ/tá Phấn; vị Tr/tướng là thành phần của HĐ QL từ lâu, trả lời :’Nghi như vậy oan cho Anh Giám, muốn biết ai làm việc này, thì tìm xem, ai lả người ”Ông Thiệu” cho lên cấp và giữ chức vụ quan trọng sau đó (nguyên văn). Tức là có âm mưu đó..
Tướng Nguyễn Cao Kỳ (Trong thời gian xẩy ra vụ bắn lầm, giữ nhiệm vụ Phó Tổng Thống) ghi lại sự kiện này trong tập sách Buddha’s Child, trang 269-270. Câu chuyện của Ông Kỳ có nhiều điều huyền bí và Ông quy trách nhiệm về vụ này cho ĐT Trần văn Hai (?) :
‘ .. Khoảng 3 tháng sau cuộc tấn công của địch quân, một sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy của Biệt Khu Thủ Đô mời tôi và một số sĩ quan trung cấp đến thăm một trường học của người Hoa tại Chợ lớn để xem một cuộc triển lãm các vũ khí và đạn dược tịch thu được. Tôi cho Ông ta biết là đến đón chúng tôi tại Dinh vào sáng hôm sau, khoảng 8 giờ sáng. Đến dự các buổi lễ này là để chứng tỏ tinh thần huynh đệ chi binh và cổ vỏ cho tinh thần binh sĩ.. Đêm hôm đó, tôi mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Tôi đang bay và máy bay của tôi bất ngờ nhào xuống bị hút vào một giếng lớn. Tôi cảm thấy không chống lại được, không thể thoát được khỏi giếng sâu, mày bay sẽ bị rơi và tôi sẽ chết. Vào đúng lúc đó, Đại tá Cương, Chỉ huy trưởng Căn cứ Tân Sơn Nhất, đã nói với tôi, từ ghế sau của chiếc máy bay mà tôi đang bay. Ngay trong giấc mơ, Tôi đã rất ngạc nhiên, vì cách đó vài tháng, có lẽ ngay trong tuần đầu của cuộc Tấn công Tết, Cương đã chết vì trúng một quả đạn B40 của VC. Vào lúc đang trong giấc mơ, khi tôi tự nói với tôi là tôi sắp chết, Cương nói ”Không sao, Thiếu tướng, tôi sẽ đưa Ông lên’ và sau đó phi cơ của tôi bay lên được khỏi cái giếng. Và khi chùng tôi đang bay trên không, Cương chỉ tay về một nơi ở dưới đất đang có giao tranh. Anh ta nói :’Ong nhìn đi, ông có thấy nơi có đám khói vàng kia không ? Hãy cẩn thận, đó là nơi mà họ sẽ oanh kích.’ ‘ Khói vàng là đánh dấu quân bạn mà’, tôi đáp ‘tại sao lại oanh kích quân bạn ?’ ‘ Ông nói đúng,’ Anh trả lời. ‘Nhưng nhớ kỹ lời tôi.’ Và sau đó Anh cho tôi xem một bức hình có 7 người gục chết trên mặt đất. Tôi thức giấc trước khi trời sáng, người toát mồ hôi và mệt nhoài, tôi có cảm giác là đang có một vấn đề khó hiểu, một cảnh tượng..bị cấm hay tôi đã quên một việc tối quan trọng. Khoảng 7 giờ 30 sáng, một sĩ quan đến để đưa tôi đi Chợ Lớn vói cùng nhóm. Tôi nói :’ Hôm nay Tôi bị đau, Cứ đi tôi không đến được’, và trờ về giường, ngủ tiếp thêm vài tiếng. Đến 10 giờ sáng, tin từ Chợ lớn báo về: Những người thân cận ủng hộ tôi, đến trường học của người Hoa đã bị trúng đạn rocket phóng đi từ một trực thăng Mỹ. 6 người chết và 2 bị thương nặng. Khi tôi xem một bức hình báo chí chụp cảnh sân trường, vài phút sau sự việc, thì đó chính là bức hình tôi đã thấy trong giấc mơ- chỉ khác là trong giấc mơ có 7 xác người tử nạn, và nơi sân trường chỉ có 6. Tôi không hiểu thế nào hay tại sao, nhưng tôi chắc chắn là Cương đã cứu mạng tôi. Tôi không bao giờ biết được là ai đã điều hành chiếc trực thăng võ trang Mỹ buổi sáng hôm đó hay tại sao trực thăng Mỹ lại tấn công quân bạn tại sân trường giữa một thành phố đã bình định. Tôi cũng nghe những tin đồn cho rằng Thiệu là người chủ mưu, Ông ta mưu toan kết hợp với người Mỹ hy vọng giết được tôi. Vài năm sau, tôi nghe nói, một Đại tá Trần văn Hai nào đó đã có mặt trên chiếc trực thăng. Tôi chỉ biết sơ về Ông này. Thiệu sau đó cho Ông ta làm Tư lệnh Cảnh Sát quốc Gia, thay cho Tướng Loan, cần nhiều tháng mới lành được thương tích..
Tập san Biệt Động Quân trong các số 12 và 13 có 2 bài rất đặc biệt, phỏng vấn một số sĩ quan BĐQ, có mặt tại chỗ và chứng kiến từ đầu đến cuối ‘Sự kiện Trường Trung Học Phước Đức’.
Tập san BĐQ số 12 trong bài ‘ Sự kiện Trường Trung Học Phước Đức’ đã ghi lại cuộc phỏng vấn Thiếu tá Hà Kỳ Danh (cấp bực lúc xẩy ra sự kiện) chức vụ là Trưởng Ban 3 của LĐ 5 BĐQ , người đã chứng kiến từ đầu đến cuối vụ ‘bắn lầm’. Thiếu tá Danh đã cung cấp một số chi tiết rất ‘đáng chú ý’. Sau đây là những câu hỏi và trả lời liên hệ đến vụ ‘bắn lầm’ (Những chữ nghiêng là nguyên văn các câu hõi và trả lời trong bài đăng trên Tập san BĐQ. Quý vị muốn đọc các bài này xin vào website : www.bietdongquan.com/baochi/munau
BBT (Ban Biên tập) : Có phải khi xẩy ra trận công kích Tết Mậu Thân đợt 1 thì LĐ 5/BĐQ đã đánh địch tại Chợ Lớn không ? HKD (Thiếu Tá Danh) : Không phải LĐ5/BĐQ chỉ đánh địch ở Chợ Lớn khi chúng mở đợt công kích thứ nhì. BBT : Trong cuộc công kích đợt 2, LĐ5/BĐQ được điều động vào diệt địch tại Chợ Lớn, nghe nói rằng cuộc hành quân này do Bộ Chỉ Huy BĐQ và Đại Tá Trần văn Hai trực tiếp chỉ huy phải không ? HKD: Tất cả đều do sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Bộ CH BĐQ không có dính dáng tới sự điều động này hết. BBT : Sao nghe nói lúc đó ĐT Hai chỉ huy mặt trận này mà anh ? HKD : Không, ĐT không có chỉ huy hay điều động đơn vị nào hết. Có điều là tuy không phải nhiệm vụ nhưng nhiều lần tôi thấy ĐT Hai tới sát mặt trận, cách chỗ đánh nhau vài chục mét.. (Th/T Danh giải thích thêm cho biết ĐT Hai đến để khích lệ và kiểm soát các binh sĩ BĐQ ngăn ngừa phạm pháp..) BBT :..Trở lại vụ Mậu Thân đợt 2 với trái rocket bắn xuống làm chết mấy Ông sĩ quan tại BCH/HQ trong một trường học ở Chợ Lớn. Trường đó tên gì và thuộc quận mấy ? HKD: Trường đó là trường trung học của người Hoa tên Phước Đức , ở ngay trung tâm Chợ Lớn, đường Khổng Tử. Có lẽ tôi nói cho rõ hơn một chút, khu vực hành quân lúc đó bao gổm các con đường Tổng Đốc Phương, Lý Thành Nguyên và Khổng Tử. Tại nơi này có nhà hàng Soái kình Lâm đã bị VC chiếm và cố thủ. BCH hành quân của LĐ 5 đóng tại trường Phước Đức (Ghi chú của Trần Lý : có sự nhầm lẫn của Th Tá Danh về tên Nhà hàng bị VC chiếm..xem phần trả lời phỏng vấn của Thiếu Tá Nam trong bài). BBT : Như trên đã nói BCH/LĐ5 đóng tại Trường đua Phú Thọ, tại sao lúc đó BCH/LĐ lại đến đặt tại Trường Phước Đức ? HKD : tại Trường đua Phú Thọ là Bộ Chỉ Huy nặng, còn Bộ Chỉ huy lưu động của LĐ thì chỗ nào sôi động, đánh nhau mạnh thì BCH/HQ lưu động tới gần đó cho tiện việc theo dõi, đôn đốc và chỉ huy..
Sau khi Th/tá Danh giải thích về lý do đặt BCH LĐ tại Trường Phức Đức, cách Nhà hàng SKL khoảng 50m đường chim bay, BBT hỏi tiếp:
BBT : Vì tình hình sôi động nên BCH/LĐ5/HQ phải di chuyển đến trường Phước Đức, vậy tại sao lại có những người không dính dáng gì đến việc chỉ huy hành quân lại có mặt tại đó ? Họ đến đó để làm gì? HKD : Anh muốn nói những người nào ? BBT : Thí dụ như Ông Tru. Cảnh sát Quận 5, Ông Chụ, Ông Phấn, các Ông quan thuế, cảnh sát gì đó.. HKD : Làm sao tôi biết được các ông ấy đến để làm gì ! BBT : Khi BCH/LĐ5 di chuyển từ trường đua Phú Thọ đến trường Phước Đức thì các ông sĩ quan kia cũng từ đó đi chung với Ông Đào Bá Phước hay họ đến sau từ các nơi khác ? HKD : BCH/LĐ5 tới rồi, các ông ấy một lúc sau mới đến, các ông đến lai rai cách nhau khoảng 5,10 phút mỗi người.. BBT: tại sao các Ông ấy biết ông ĐB Phuớc ở đó mà họ đến ? HKD : Tôi cũng không rõ làm sao các ông ấy biết để tới. BBT : Nhưng Anh là Trưởng ban 3 mà ? HKD : Dù là Trưởng ban 3 nhưng tôi không có quyền triệu tập mấy ông ấy và tôi cũng không nghe thấy gọi trên máy. Có thể ông Phước gọi các ông ấy tới ? BBT : Anh có biết Ông Phước gọi các ông ấy đến để làm gì không ? HKD : Làm sao tôi biết được. Ông Phước không nói gì với tôi về việc này. Nhưng có điều này tôi nghĩ cũng nên nói cho các anh nghe : khi BCH/HQ/LĐ5 vừa đến trường Phước Đức thì có một phái đoàn ký giả và phóng viên chiến trường quốc tế đủ mọi thứ Anh, Mỹ, Pháp..v.v kéo đến. Có lẽ họ biết BCH/LĐ5 đến trường Phước Đức vì Tr/tá Phước gọi về BKTD xin pháo binh bắn vào SKL..Có lẽ đám ký giả này đang ở BTL/BKTĐ nên họ biết và kéo đến đây để lấy tin.. Họ nói chuyện với Tr/tá Phước một lúc rồi kéo nhau đi. Khi đám ký giả đi rồi thì các Ông Lê Ngọc Chụ, Trưởng ty CS Quận 5 đến và sau đó là Th/tá Phó quốc Chụ giám đốc thương cảng Saigon, Đại Tá Phấn, Ông luận thuộc Tổng Nha Cs, Th/tá Xinh CSQG, Th/tá Nguyễn Bảo Thùy Phân Khu Đô thành, Th/tá Tô Biệt đội trưởng CSDC và có cả Đ/tá Văn văn Của Đô trưởng Saigon. Sau đó tôi được biết Đại tá Giám, Tư lệnh BKTĐ sẽ đến BCH/LĐ5 để thị sát tình hình và cho chỉ thị. Khi Đại tá Giám đến thì tất cả các vị nói trên đều có đủ mặt. BBT : Tôi muốn biết rõ hơn, suốt thời gian đó, anh vẫn đứng cạnh Tr/tá Phước ? HKD : Thì tôi vẫn đứng tại đó. Sau khi Đ/tá Giám đến nơi và biết rõ tình hình thì đích thân ông gọi máy lên QĐ 3 xin cho gunship yểm trợ. BBT : Xin gunship chừng bao lâu thì có ? HKD : Chừng 30 phút BBT : Nếu có gunship thì tất nhiên sẽ phải có C&C phải không ? Vậy thì ai ngồi trên C&C ? HKD : Tôi không thấy chiếc C&C nào cả, về phía VN thỉ chỉ có độc nhất một mình Đại úy Tống viết Lạc ngồi trên chiếc gunship.. BBT : Thế Đ/u TV Lạc thuộc đơn vị nào, và nhiệm vụ của Ông ta ? HKD : TV Lạc lúc đó là Trưởng ban 3 của TĐ 30/BĐQ và ông đi với gunship để yểm trợ cho chính đơn vị của Ông. BBT : Trưởng ban 3 TĐ 30/BĐQ đang hành quân ở vùng Chợ lớn làm sao về Biên Hòa cho kịp để leo lên gunship ? HKD : Đâu cần về Biên hòa, gunship đáp xuống đường Tổng Đốc Phương, vì khu vực này clear rồi, duy nhất chỉ có 2 chiếc gunship của Mỹ và không có chiếc C&C nào cả. Khi Tống viết Lạc leo lên gunship là tôi contact với Lạc ngay và Tr/tá Đào Bá Phước đích thân gọi cho Lạc và cho toạ độ tác xạ. Ông bảo rằng chỉ được bắn vào mục tiêu nhà hàng SKL mà thôi, không được bắn vào bất cứ mục tiêu nào khác vì chung quanh đó là quân bạn. Hai chiếc gunship bay vòng hai ba lần để pilot và Lạc nhận định rõ mục tiêu và ngay sau đó tất cả vị trí quân bạn đều thả trái khói màu vàng, kể cả BCH/LĐ5 theo yêu cầu của Đ/u Lạc. Sau khi quan sát và nhận định mục tiêu xong, Đ/u Lạc gọi tôi và nói : ‘ Tôi đạ nhận định rất rõ hai vị trí trường học và Nhà hàng SKL rồi, bây giờ có cho bắn hay không để tôi báo cho pilot biết ?’ Sau đó Đ/tá Giám và Tr/tá Phước liên lạc trực tiếp với Đ/u Lạc và cho lệnh bắn. BBT : Khi ra lệnh cho gunship bắn thì trái rocket đầu tiên nổ ngay vào BCH/ LĐ hay sao? HKD : Nó như thế này : sau khi chuẩn bị xong xuôi hết rồi thì cũng là lúc Đ/tá Giám nói với tôi : Anh Danh vẽ cho tôi cái sơ đồ khu vực hành quân của các anh lên bản đồ của tôi để tôi đem về theo dõi’. Tôi đang ngồi tại hành lang trường học cùng các ông ấy, nghe nói vậy tôi đứng lên và cầm bản đồ của ông bước vào trong để vẽ thì cũng là lúc gunship chuẩn bị bắn. Trong lúc tôi đang vẽ, khoảng 2 phút, thì Đ/tá Giám bước vào đến bên cạnh tôi và hỏi : anh Danh vẽ xong chưa, đưa cho tôi để tôi còn về BTL/BKTĐ.’ Bỗng nhiên lúc đó nghe một tiếng nổ thật lớn.
Cũng trong cuộc phỏng vấn này Th/tá Danh xác nhận chỉ có một trái rocket đầu tiên và duy nhất nổ trúng vào trường Phước Đức. Đại tá Giám lúc xẩy ra vụ nổ ở tại phòng trong với Th/ tá Danh. Sau khi xẩy ra vụ nổ, Th/tá Danh mô tả thêm các chi tiết về tình trạng tử nạn của các sĩ quan có mặt như Thiếu tá Tô (CSDC) bị thương nặng; hai Ông Trụ và Chụ chết tại chỗ; Tr/tá Đào Bá Phước còn sống được Th/tá Danh ôm đưa ra xe, chạy vào BV Chợ Rạy cấp cứu, nhưng chết tại BV vì bị mảnh rocket ghim vào đầu. Th/tá Danh cũng xác nhận là khi Ông ra khỏi phòng thì Đ/tá Giám đã vọt ra trước và lên xe chạy về BKTĐ ngay ..
Thiếu tá Danh cũng kể thêm :
BBT : Sau sự kiện đó anh có liên lạc với Đ/u Tống Viết Lạc không ? HKD : Mấy ngày sau đó, khi trở lại trường đua Phú Thọ thì có phái đoàn của Bộ TTM (hỗn hợp Việt-Mỹ) đến điều tra, họ gọi Tống Viết Lạc lên để hỏi. Cũng có tôi ở đó nữa, nhưng lạ một điều là không ai hỏi tôi một câu nào cả mà chỉ chú trọng vào hỏi TVLạc mà thôi.. Sau đó tôi gặp riêng TV Lạc và hỏi : ‘Theo tôi biết, gunship bắn rất chính xác, và độ chính xác của nó lên đến 5-10m, vậy tại sao trường Phước Đức cách Nhà hàng SKL đến 50m mà gunship lại bắn nhầm ?’ TV Lạc trả lời :’ không phải bắn nhầm, pilot cho biết là khi anh ta bắn trái rocket thứ nhất thì bị trở ngại kỹ thuật và anh đã bắn trái thứ nhì và không hiểu vì trở ngại gì đó trái thứ nhì đã bị ngắn tầm và đi trật mục tiêu, khi biết đã trật mục tiêu tôi đã cho ngưng tác xạ ngay cho nên chỉ bắn duy nhất có một trái thôi’..
Tất cả những giải thích của phi công Mỹ cũng chỉ được biết có bấy nhiêu thôi ! Cũng trong bài ‘Sự kiện Trường Trung Học Phước Đức’ (Tập san BĐQ số 12), Ban biên tập còn phỏng vấn NT Ngô Minh Hồng (LĐT/LĐ5/BĐQ 1971-73), phục vụ tại BCH/ BĐQ lúc xảy ra sự kiện ‘bắn lầm’ với chức vụ Phụ tá Trưởng Phòng 3 của Bộ Chỉ Huy BĐQ. Thiếu tá Ngô Minh Hồng cho biết lúc trái rocket bắn vào BCH/LĐ5 thì Ông đang ở Bộ Chỉ Huy Hành quân BĐQ tại Trường Cây Mai. Ngày hôm đó, Ông và ĐT Trần văn Hai dự định sẽ đến BCH/LĐ5 để gặp một số nhân vật (mà Ông cũng không biết là những ai) nhưng ‘không hiểu tại sao chúng tôi lại đến trễ..’ Trả lời câu hỏi: Tại sao ngày hôm đó Đ/tá Hai lại muốn đến Trường Phước Đức ? Th/tá Hồng cho biết ĐT Hai là Tư lệnh hành quân của Khu vực (?) nên muốn đến gặp các nhân vật có liên quan đến chiến dịch như Tư lệnh QĐ3, hoặc Tư lệnh BKTĐ. Thật sự ‘không ngờ sau này tại BCH/HQ/LĐ5 lại có một số anh em Cảnh sát, Thương cảng v.v..cái đó tôi không hiểu được..’ May mắn là lúc trái rocket nổ, chúng tôi chưa đến..’
Cũng theo Th/tá Hồng : sau đó ít lâu Thủ tướng Trần văn Hương bổ nhiệm Đ/tá Hai làm TGĐ CSQG và Ông cũng được biệt phái qua CS và làm Chánh Văn Phòng Tổng Nha, Ông có được đọc hồ sơ điều tra của CS về vụ ‘Phước Đức’. Lý do CS có mở cuộc điều tra vì có một số sĩ quan CS bị tử nạn và :
BBT : Thưa Anh, Anh đã được đọc hồ sơ điều tra của Tổng Nha CS, xin Anh cho biết anh có suy nghĩ gì ? NMH (Ngô Minh Hồng) : Theo tôi, chắc không phải như những lời đồn đoán của người ta là một cuộc thanh toán mà theo hướng điều tra thì đây là một trở ngại kỹ thuật từ gunship..Nhưng vì số người tử vong lại có những người không có nhiệm vụ gì trong cuộc hành quân đó của BĐQ, đâm ra có mối nghi ngờ, người ta cho rằng đây là một cuộc thanh toán nhau vì phe phái..’
Tập san Biệt Động Quân số 13 cũng đăng thêm một bài bổ túc về ‘Sự kiện Trường Trung Học Phước Đức’ với bài phỏng vấn Thiếu tá Nguyễn văn Nam, khi xẩy ra vụ ‘bắn lầm’ Ông là Trung Úy Đại đội trưởng ĐĐ4/TĐ30 là đơn vị trực tiếp tham chiến, đánh nhau với VC trong khu vực có Nhà hàng SKL. Ông Nam (NVN) cho biết những câu trả lời phỏng vấn của Th/tá Danh đều đúng, chỉ có một điều không chính xác là mục tiêu xạ kích không phải Nhà hàng Soái Kinh Lâm, vì chính đơn vị của Ông đã đánh chiếm Nhà hàng này từ trước đó. Sau đây là những câu hỏi và trả lời đáng chú ý :
BBT : Anh còn nhớ ngày TĐ xin trực thăng là ngày nào không ? NVN : Tôi không nhớ được là ngày nào, có lẽ vào ngày thứ ba của trận đánh, tức là ngày N+2. TĐ đã ở trong khu vực này 3 ngày chứ không phải là 1 ngày. Và đơn vị tôi đã chiếm Nhà hàng SKL trước đó hai ngày. BBT : Anh bảo rằng TĐ xin trực thăng để tác xạ vào cao ốc 7 tầng. Tại sao từ trước đến nay chỉ nghe nói là trực thăng bắn vào SKL mà thôi và chưa bao giờ nghe nói đến cao ốc đó ? NVN : Tôi cũng không hiểu tại sao như vậy. SKL thì tôi đã chiếm xong trước đó 2 ngày. Tôi cũng không hiểu tại sao anh HK Danh lại nói là xin trực thăng bắn vào SKL. Có lẽ vì sự kiện xẩy ra đã quá lâu nên anh ấy không nhớ rõ. Vả lại khi trực thăng lên vùng thì TĐ 30 trực tiếp điều động chứ đâu phải BCH/LĐ. Cũng có thể là vì trong khu vực ấy Nhà hàng SKL quá nổi tiếng, làm cho anh Danh chỉ nhớ đến địa danh này.. … BBT : Khi chiếc trực thăng đã lên vùng thì ai là người trực tiếp liên lạc ? NVN : Chính tôi là người trực tiếp liên lạc với anh Tống viết Lạc đang ngồi trên chiếc gunship cùng với Đại úy Evan là Cố vấn trưởng của TĐ. Tôi phài liên lạc trực tiếp không qua trung gian của BCH/TĐ để khỏi mất thì giờ. Trước khi trực thăng bắn thì Th/tá Sành (TĐT/TĐ30) bảo tôi đến gặp Tr/tá Phước tại Bộ Chỉ huy LĐ nhận 4 chiếc chiến xa M41 để khi trực thăng bắn xong sẽ sử dụng các M41 này tấn công thanh toán mục tiêu.. BBT : Khi anh và những chiến xa M41 đi đến đâu thì trực thăng bắt đầu tác xạ ? NVN : Khi còn đang di chuyển trên đường Khổng Tử, chưa đến ngã tư Tổng Đốc Phương thì anh Tống Viết Lạc trên trực thăng gọi cho tôi và báo là trực thăng đã sẵn sàng rồi. Yêu cầu tôi cho con cái đánh dấu vị trí quân bạn bằng trái khói để trực thăng tác xạ. Khi đã nhận định được vị trí bạn và địch, anh Tống Viết Lạc cho trực thăng bắn trái rocket đầu tiên. Khi trái rocket được bắn đi, tôi và 4 chiến xa M41 vẫn chưa rẽ vào đường Tổng đốc Phương- đó là trái rocket đã bắn trúng vào BCH/LĐ5BĐQ BBT : Khi biết trái rocket đã đi trật mục tiêu là rơi vào vị trí quân bạn thì anh có liên lạc và cho anh Tống Viết Lạc biết không ? NVN : Tôi chụp ngay ống liên hợp và la lên trong máy cho anh TV Lạc hay :’ bắn sao kỳ cục vậy, trúng ngay BCH/LĐ rồi, anh cho ngưng ngay’ Anh Lạc cho hay là anh đã biết rồi và cũng không hiểu tại sao kỳ cục vậy. Anh đã nói với Đại úy Evan là cho ngưng ngay không bắn nữa. Như anh đã biết trực thăng chỉ bắn có một trái rocket mà thôi Hình như tôi cũng nghe một tràng đại liên bắn từ trực thăng xuống, hình như thôi, tôi không chắc chắn..
Qua các bài viết của các người trong cuộc, kể cả những vị đã ‘thoát chết’ trong ‘tai nạn’ này, có khá nhiều vấn đề chưa có câu giải đáp như : Buổi ‘Họp hành quân’ tại Trường Phước Đức theo dự trù sẽ có những ai ? (PTT Nguyễn cao Kỳ : vì nằm mơ, sợ nên không đến (?), Tướng Lê Nguyên Khang, thoát nạn, do Cố vấn mời đi sớm hơn (?) Lý do sự có mặt của các vị sĩ quan CSQG (không do sự mời củaBĐQ?) Vai trò hành quân của Đại Tá Trần văn Hai và sự may mắn (?) của Ông khi ..đến trễ (theo Tr/tá Ngô Minh Hồng) Ai là người liên lạc với Đ/u Tống Viết Lạc để xác định vị trí cần xạ kích ? Trên trực thăng (gunship) có những ai : Phi công, Đ/u Lạc, Đ/u Evan.. Có 1 hay 2 trực thăng tham dự vào phi vụ yểm trợ này ?
Ngoài những bài viết của những người ‘trong cuộc’ còn một số các bài viết Việt và Mỹ khác chỉ nêu sự kiện và giải thích theo suy đoán.. đồng thời Đại tá Lê văn Thảo, người tham dự cuộc điều tra của KQ VNCH về tai nạn cũng đưa ra những nhận xét kỹ thuật về tai nạn này :
Ngoài những lời kể lại do những người trong cuộc (kể cả các nạn nhân trực tiếp) còn có một số ý kiến phỏng đoán dựa trên những sự kiện hay theo quan điểm cá nhân (dĩ nhiên là chủ quan).. như :
Tác giả Nguyễn Kỳ Phong trong ‘ Vủng lầy Cuộc chiến-Trích Chương 9 : Những Con Khỉ của năm Mậu Thân’ đã viết : ‘ Chiều 2 tháng 6 năm 1968, trong cuộc Tổng Công Kích đợt 2 của CQ vào Sài Gòn, một trực thăng võ trang trong lúc yểm trợ, bắn lầm vào Bộ Tư lệnh dã chiến đang quan sát chiến trường tại Chợ Lớn, làm 6 sĩ quan cao cấp chết và 2 bị thương. Tin đồn lan truyền ra đây là vụ mưu sát đến từ TT Thiệu hay người Mỹ, vì tất cả các nạn nhân là người thân cận của PTT Kỳ. Sự nghi ngờ tăng thêm, khi ngày sau, Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh TQLC kiêm Tư Lệnh Quân đoàn 3..từ chức như là một lời phản đối..’
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Nhà báo Trần Phong Vũ, Cựu Phụ tá Đặc biệt của TT Thiệu, Nguyễn văn Ngân , khi được hỏi về vụ ‘Bắn lầm..’ này đã cho biết : ‘ Đây chỉ là một vụ xạ kích lầm vì mặt trận Chợ lớn bấy giờ chuyển động hàng giờ, ta và địch ‘trộn trấu’. Các sĩ quan tử thương là những sĩ quan trung cấp, trong đó có một số sĩ quan thuộc bộ phận kinh tài của Ông Kỳ, nếu được xem là quan trọng. Tòa Đại sứ Mỹ đã có thư xin lỗi.. Trong thực tế người Mỹ và Ông Thiệu không cần phải hành động như vậy, vì phe nhóm Ông Kỳ chỉ là phe nhóm quyền lợi, một khi Ông Kỳ không còn quyền lực thì họ sẽ tự động rã hàng. Tôi biết Ông Thiệu là người có tự trọng và tự ái quốc gia, không hèn hạ đến mức độ nhờ bàn tay người Mỹ thanh toán người quốc gia (Oregon thời báo số 237 ngàỳ 20-10-2006)
Rất ít sách Anh ngữ viết về Chiến tranh Việt Nam đề cập đến vụ bắn lầm này và tất cả đều chỉ cho là một vụ ‘Friendly fire’ khó hiểu nhưng không giải thích.. Tác giả Ronald Spector trong After Tet , trang 164-165 đã viết : ‘ Vào cuối tháng Năm, Cộng quân lại mở cuộc tấn công vào khu vực Chợ lớn và vùng gần Trường đua Phú Thọ thuộc Thành phố Sài Gòn. Quân du kích, tăng cường thêm Tiểu đoàn 6 CQ đã xâm nhập khu vực đường Đồng Khánh nơi có một số Nhà hàng ăn nổi tiếng và giao tranh với các binh sĩ TQLC và BĐQ VNCH. Ngày 2 tháng 6, một nhóm sĩ quan cao cấpVNCN họp tại Trường Phước Đức để theo dỏi tiến trình cuộc giao tranh. Một sĩ quan BĐQ đã liên lạc vô tuyến cùng một trực trăng võ trang HK đang bay quần trên đầu. Viên sĩ quan BĐQ cho Phi công Mỹ biết, bằng Anh ngữ :’ Chúng tôi sẽ đánh dấu vị trí của chúng tôi bằng khói màu xanh lam” Mục tiêu xạ kích là một cao ốc nằm cách nơi khói khoảng 200m về hướng Bắc’. Chiếc trực thăng võ trang bay 3 vòng quanh khu vực và sau đó bắn một quả rocket.. ngay vào trường học, kèm theo một tràng súng máy. Quả rocket trúng trường học giết chết vi. Chỉ huy Cảnh Sát Sàigònvà Chỉ huy trưởng LĐ 5 BĐQ cùng một số người khác..Nhiều người tại Nam VN cho rằng đây là một hành động cố ý của người Mỹ nhằm thanh toán nhửng người thân cận với PTT Kỳ để giúp TT Thiệu có thêm lợi thế chính trị. Nhật báo Công Chúng đã khẳng định : Không thể nào ..bắn lầm ! và đòi hỏi một cuộc điều tra liên hợp Việt Mỹ để tìm sự thật. Lời giải thích chính thức của Mỹ là quả rocket khi bắn ra bị trục trặc nên bay lạc mục tiêu. Nhưng rất nhiều quân nhân Mỷ và Nhà báo đã cho biết là..trực thăng cố tình bắn vào vùng khói xanh lam.. vì hiểu nhầm lời yêu cầu của viên sỉ quan BĐQ !’ Ronald Spector cũng cho biết là đã trích dẫn từ bài báo trên tờ Washington Star, ngày 7 tháng 6 năm 1968, với tựa đề khá độc đáo ‘Rocket Mistake No Error, Saigon Paper Intimates’ !
Tác giả Bernard Nalty trong ‘Air War over South VietNam 1968-1975’ trang 73-74 , ghi lại sự kiện dưới cách nhìn chuyên môn của KQ HK như sau : ‘ Tuy TướngWeygand đã đưa ra những mối quan ngại về vấn đề dùng rocket để tấn công ban đêm, có thể bắn nhầm vào quân bạn, nhưng tai nạn nghiêm trọng nhất đã xẩy ra giữa ban ngày. Ngày 2 tháng 6, một quả rocket bắn đi từ một trực thăng Lực quân Hoa Kỳ đã nổ giữa một nhóm sĩ quanVNCH đang quan sát cuộc giao tranh giữa quân đội VNCH và một nhóm VC xâm nhập vào khu vực Chợ lớn, Trung tâm của người Hoa, 7 người chết, trong số đó có cả người em rể của PTT Kỳ..’
Cũng nhìn về khía cạnh chuyên môn, Đại Tá Lê văn Thảo, người tham dự cuộc điều tra của KQ VNCH trong tai nạn’ Bắn lầm..’ đã viết : (Các điện thư trao đổi giữa ĐT Thảo và Người viết) ’.. Có những tin đồn sai lầm về việc này, bảo rằng việc sát hại có tính cách chính trị muốn chặt bớt cánh tay của PTT Kỳ. Sự thật hoàn toàn do sự thiếu khả năng của viên Captain pilot Mỹ đen lái chiếc gunship. Sau tai nạn này anh (ĐT Thảo) được bổ nhiệm trong toán điều tra cùng với cố vấn Mỹ bay đi, bay lại trên chiếc gunship do captain Mỹ đen lái để thu thập dữ kiện và trong buổi họp sau đó, đối chiếu lời khai của đương sự và những dữ kiện thu thập được, mọi người trong buổi họp đều đồng ý ngưng bay đương sự, đuồi hắn về Mỹ và đề nghị có biện pháp kỷ luật..’
Và để trả lời câu hỏi về thay đổi hướng bắn (như của ĐT Văn văn Của), ĐT Thảo cho biết : ‘Trục bắn thường chúng tôi chọn trục bắn theo đường tuyến giữa quân bạn và quân địch, vì kiểm soát hướng trái hay phải của mục tiêu chính xác hơn và xác xuất cao hơn là độ dài hay ngắn (trước hay sau) mục tiêu. Hướng bay của phi cơ thay đổi ít và dễ kiểm soát hơn là tốc độ phi cơ, tùy thuộc vào độ chúi, cao độ và tác động tâm lý khi có phòng không. Chọn trục bắn từ hướng bạn về phía quân địch sẽ làm cho quân bạn lên tinh thần và an toàn hơn (bay trên đầu quân bạn) cho phi cơ, tuy nhiên dễ bị lạc đạn..’
Về vấn đề khói mầu : ĐT Thảo cũng giải thích : ‘ Thả khói màu đánh dấu mục tiêu, tùy theo mặt trận, như trường hợp mặt trận Chợ lớn trở thành da beo : quân địch có thể bên phải hay bên trái, trước hay sau lưng quân bạn, như vậy không có chiến tuyến.. Khi gọi vô tuyến bảo thả khói màu, tuyệt nhiên anh không báo trước thả khói màu gì mà phải hỏi phi cơ yểm trợ hỏa lực thấy khói màu gì.. để phân biệt và nhận diện ra bạn và địch.. (Nếu anh báo trước sẽ thả khói màu vàng thì trên mặt trận sẽ đầy khói vàng vì địch quân củng thả khói vàng..nên rất dễ ngộ nhận..’
Qua tất cả những dữ kiện cũng như những tài liệu sưu tập được, chúng tôi xin phép tạm kết luận là ‘Vụ Bắn lầm’ hãy còn là một nghi vấn lịch sử, những người có thẩm quyền như TT Thiệu, và nhân chứng quan trọng nhất là Đ/U Tống Viết Lạc đều đã ra đi, mang theo những bí mật mà chỉ họ biết.. (Đ/U Lạc đã chết trong Trại Cải Tạo CS). Trần Lý (12-2007)hoiquanphidung.com/content.php?4479-V%E1%BB%A5-b%E1%BA%AFn-l%E1%BA%A7m-trong-Tr%E1%BA%ADn-M%E1%BA%ADu-th%C3%A2n-(%C4%91%E1%BB%A3t-2)-Tr%E1%BA%A7n-L%C3%BD
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 10, 2018 8:26:46 GMT 9
50 Năm Tết Mậu Thân: Mở Hồ Sơ Mật CIA08/04/201800 Huỳnh Kim Quang 50 Năm Tết Mậu Thân: Mở Hồ Sơ Mật CIA Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson (giữa) lắng nghe Tướng Greighton Abrams và Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cuộc họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia vào tháng 3 năm 1968, chỉ 4 ngày trước khi ông tuyên bố không tái tranh cử TT. (LBJ Library) Tháng Giêng năm 2018 là thời điểm đánh dấu 50 năm biến cố Tết Mậu Thân 1968, khi mà Cộng Sản Bắc Việt cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một tổ chức bù nhìn do Hà Nội dựng lên để làm tay sai tuyên truyền và phá rối địa phương tại Miền Nam Việt Nam, đã mở cuộc tấn công trên nhiều thành phố khắp Miền Nam ngay trong giờ phút thiêng liêng của Lễ Giao Thừa đón Tết cổ truyền của dân tộc. Hệ quả của cuộc tấn công đầy dã tâm đó đã làm cho CS Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thảm bại chua chát trước sự kháng cự và phản công oanh liệt của toàn quân dân Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh Hoa Kỳ quyết giữ vững từng tấc đất tự do. Có tới 36,000 du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và bộ đội CS Bắc Việt đã bị giết chết trong trận tấn công Tết Mậu Thân. Nhưng nạn nhân đau thương nhất vẫn là hàng ngàn người dân Miền Nam vô tội đã chết trong bom đạn của trận chiến, hoặc đã bị du kích Mặt Trận Giải Phóng và quân đội Miền Bắc thảm sát, kinh hoàng nhất là những vụ chôn sống người tập thể tại Thành Phố Huế. Năm mươi năm qua nhiều tài liệu viết về cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã được biên soạn và phổ biến bởi các bên tham chiến tại Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và CS Bắc Việt. Nhưng, các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đã nghĩ gì, làm gì đối với trận tấn công Tết Mậu Thân? Quân đội Hoa Kỳ và VNCH có biết trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Việt Cộng và CS Bắc Việt? Tình báo Mỹ và VNCH biết gì, nói gì và làm gì đối với cuộc tấn công Tết Mậu Thân? Vào ngày 28 tháng 4 năm 1997, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã giải mật hồ sơ "tuyệt mật," nhận được từ Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ (CIA) gửi tới ngày 3 tháng 4 năm 1968.(1) Thêm vào đó, vào ngày 19 tháng 3 năm 2007 Cơ Quan Tình Báo CIA cũng đã phổ biến bản phân tích của Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Chicago là Harold P. Ford, cũng là cựu viên chức tình báo CIA làm việc từ năm 1950 tới năm 1974. Bản phân tích này của Harold P. Ford là một phần của nỗ lực liên tục của Trung Tâm Nghiên Cứu Tình Báo để cung cấp sự minh bạch các hồ sơ về những hoạt động của CIA. Bản phân tích này đã được cập nhật vào ngày 12 tháng 4 năm 2016.(2) Bản phân tích này được Harold P. Ford in thành tác phẩm "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962-1968."(3) Bài viết này dựa trên hai tài liệu nói trên của Cơ Quan Tình Báo CIA và một số tài liệu khác để góp thêm tài liệu liên quan đến biến cố Tết Mậu Thân 1968. Điều quan trọng cần nói ngay ở đây là tài liệu CIA cho thấy rằng Hà Nội đã đánh giá và lượng định sai lầm về mục tiêu và thành quả chiến lược của cuộc tấn công Tết Mậu Thân của họ. Tài liệu của CIA cho biết Hà Nội tin chắc rằng người dân Miền Nam sẽ hưởng ứng, ủng hộ cuộc tấn công của Cộng quân, đồng thời đứng lên lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa khi du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và bộ đội của Cộng Sản Bắc Việt bất thần tấn công toàn diện vào các thành phố gồm Thủ Đô Sài Gòn vào đúng ngày Mùng Một Tết Mậu Thân. Nhưng, Hà Nội đã thất bại vì điều đó không hề xảy ra. Vậy, tài liệu mật của CIA vừa được giải mật vào ngày 28 tháng 4 năm 1997 nói gì về cuộc tấn công Tết Mậu Thân? Bản chụp lại trang 1 hồ sơ mật của CIA được giải mật ngày 28 tháng 4 năm 1997. Hồ Sơ Mật Của CIA Về Cuộc Tấn Công Tết Mậu ThânCâu hỏi được đặt ra trước tiên là liệu các cơ quan tình báo Hoa Kỳ và VNCH có biểt trước rằng Cộng quân sẽ mở cuộc tấn công vào dịp Tết Mậu Thân? Phái Đoàn Các Cơ Quan Tình Báo Mỹ Điều TraTài liệu cho biết rằng từ ngày 16 tới 23 tháng 3, các đại diện từ Cơ Quan Tình Báo CIA, Cơ Quan Tình Báo Quân Đội DIA, và Bộ Tổng Tham Mưa Hoa Kỳ đã đến Việt Nam để điều tra về cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng quân. Họ đã gặp Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương (CINCPAC), Bộ Chỉ Huy Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) và trạm CIA tại Sài Gòn. Để giúp cho việc thu thập nhiều tài liệu thích đáng, phái đoàn đã có những cuộc họp để nghe báo cáo tin tức và thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn, tại Sài Gòn và tại các chiến trường, với nhiều viên chức cao cấp Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Về phía Hoa Kỳ, các thành viên của phái đoàn nói trên đã trao đổi với Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN Bunker, Đại Tướng Westmoreland, Đại Tướng Abrams, Đại Sứ Komer, Trung Tướng Cushman, Trung Tướng Rosson, Thiếu Tướng Peers, Thiếu Tướng Eckhardt, và các tướng chỉ huy trưởng Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 4 Bộ Binh. Họ cũng đã phỏng vấn nhân viên tình báo của Quân Đoàn I và II và nhân viên tình báo của Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến Quân Đoàn III, và các cố vấn tình báo và viên chức CIA Khu Vực tại tất cả 4 Vùng Chiến Thuật. Họ đã nghe báo cáo từ Cơ Quan Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam MACV J-2 và trạm CIA tại Sài Gòn, và đã gặp Giám Đốc Tình Báo, Đơn Vị Không Quân Số 7, Đại Diện Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ NSA tại Việt Nam, Bộ Tư Lệnh Quân Khu Tại Sài Gòn. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, phái đoàn nói trên đã phỏng vấn các tướng tư lệnh Quân Đoàn I và II, Cơ Quan J-2 của Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân và phụ tá, và phó giám đốc Quân Cảnh. Các thành viên của phái đoàn Hoa Kỳ cũng đã đích thân đến Phú Bài, Đà Nẵng, Pleiku, Camp Enari, Nha Trang, Biên Hòa, Long Bình, và Cần Thơ để tìm hiểu tình hình tại chỗ. Những Phát Hiện Tổng QuátQua cuộc điều tra của phái đoàn đại diện nhiều cơ quan tình báo quốc gia Mỹ nói trên đưa tới một số phát hiện cho thấy như sau. 1/ Cơ Quan CIA đã thông báo cho Hội Đồng Cố Vấn Tình Báo Hải Ngoại của Tổng Thống [Hoa Kỳ] vào tháng 2, có bằng chứng, tại Sài Gòn và Washington, rằng địch quân (CS) đang tiến hành "chiến dịch đông-xuân" ồ ạt và đang chuẩn bị hàng loạt vụ tấn công có phối hợp điều binh, có thể trên phạm vi lớn chưa từng có từ trước tới nay. Có bằng chứng trong tháng 1 rằng một số vụ tấn công tại cao nguyên có thể sẽ được thực hiện trong dịp nghỉ lễ Tết. Một phần báo cáo sau đó trong tháng này cho thấy có chứng cứ rằng nhiều cuộc tấn công khác sắp xảy ra, và một số mục tiêu đã được xác định. Tại Sài Gòn và Washington báo cáo tình báo này đã được trình cho các giới chức quân sự và chính trị cao cấp. Kết quả, hàng loạt hành động đã được thực hiện tại Việt Nam đưa tới việc giảm bớt ảnh hưởng của cuộc tấn công của địch quân. 2/ Việc cảnh báo đã được cung cấp như thế cho thấy không có thành tích nhỏ nào đạt được đối với bộ máy tình báo của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Nó cho thấy không có sự xâm nhập bí mật cấp cao nào vào trong hệ thống cấp bậc lãnh đạo Cộng Sản và các cơ quan truyền thông Cộng Sản cao cấp là phần không thể biết được nhiều nhất. Do đó, nó phải dựa vào các kỹ thuật đặc trưng cổ điển. Cách này thì thật là khó thực hiện ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Tự thân tổ chức tình báo quân đội và dân sự của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa thì phức tạp và rộng lớn để nó đảm đang. Vì vậy, những báo cáo từ nguồn tình báo nhân sự đã không được chú ý. 3/ Địch quân đã sơn phết rất giỏi để che đậy ý định của chúng. Nhận biết được các kế hoạch của chúng hoàn toàn bị ngăn chận và lệnh tấn công thực sự đã được phổ biến cho các đơn vị tấn công chỉ từ 24 tới 72 giờ sau cùng trước cuộc tấn công. Dù các viên chức thẩm quyền Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã nhận được một số báo cáo về các kế hoạch tấn công riêng rẽ, có thể không một lãnh đạo Cộng Sản cấp thấp của Cục Trung Ương Miền Nam (COSVN), mặt trận, hay quân khu nào biết được toàn bộ phạm vi cuộc tổng tấn công. Đại Tướng Westmoreland tin rằng Cộng Sản đã hy sinh sự phối hợp điều quân cho sự bảo mật an toàn, và đây là chứng cứ trong các cuộc tấn công sớm bởi nhiều đơn vị của Quân Khu 5 (MR 5) trong đêm 29-30 tháng Giêng năm 1968, nhờ các cuộc tấn công sớm này đã đóng vai trò cảnh báo các chỉ huy Hoa Kỳ đối với nhiều cuộc tấn công mở rộng trong đêm tiếp theo. 4/ Bất kể các biện pháp an ninh bí mật của Cộng quân, thông tin tình báo cũng có thể cung cấp cảnh báo rõ ràng rằng các cuộc tấn công, có thể trên diện rộng lớn nhất từ trước tới nay, được đưa ra. Nhiều thông điệp của địch quân bao gồm các cấp trung bình và thấp đã được đọc. Những thông điệp này xuất hiện tại nhiều vùng của Nam Việt Nam. Chúng bao gồm những ám chỉ các cuộc tấn công sắp xảy ra, rộng lớn và nhiều hơn bất cứ khi nào trước đó. Chúng cho thấy một ý nghĩa khẩn cấp, cùng với sự nhấn mạnh qua kế hoạch và bí mật chưa từng thấy trước đây trong các thông tin như thế. Tuy nhiên, các biểu thị đó đã không đủ để tiên đoán thời gian chính xác của cuộc tấn công. Bản chụp lại trang web tài liệu của CIA có bản phân tích của Tiến Sĩ Harold P. Ford. Ảnh Hưởng Của Cuộc Tổng Tấn CôngDù việc cảnh báo đã được đưa ra như thế, nhưng cường độ, sự phối trí điều quân, và thời gian của cuộc tấn công của địch quân đã hoàn toàn không được tiên đoán. Yếu tố quan trọng nhất là thời gian. Có rất ít giới chức Hoa Kỳ hay VNCH tin rằng địch quân sẽ tấn công trong ngày Tết, quần chúng Việt Nam cũng không tin như thế. Tết là ngày lễ quan trọng nhất tại Việt Nam, là dịp mà tất cả thành viên trong gia đình bất kể là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, hay Cộng Sản đều giữ gìn. Rõ ràng là Cộng Sản tin rằng họ có thể khai thác sự đồng nhất này để tạo ra cuộc nổi dậy chống chính quyền, chống quân đội ngoại nhập, chống chiến tranh. Nhưng điều này đã không xảy ra. Do đó, địch quân đã phải trả giá đắt trong sự đối kháng mà họ tạo ra trong các thành phố đông dân, nhưng họ đã thu hoạch rất lớn trong 2 cách: Quân số hiện diện của quân đội và cảnh sát VNCH rất thấp so với mức ổn định bình thường, và thông lệ sinh hoạt nhộn nhịp của ngày Tết làm cho Cộng quân có thể đưa một số lượng lớn Việt Cộng vào các thành phố mà không bị phát hiện. Đại tướng Westmoreland dự đoán các cuộc tấn công quy mô trước hoặc sau Tết, và khi gần Tết và nhiều vụ tấn công lớn đã không được thực hiện, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VNCH đã cho 50% lính về nghỉ Tết. Vì vậy sức mạnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại những vùng cho phép binh sĩ về nghỉ Tết đã bị sút giảm. Yếu tố lớn thứ hai không tiên liệu được là số vụ tấn công xảy ra cùng một lúc. Tình báo Hoa Kỳ có cho biết địch quân có khả năng tấn công tất cả các địa điểm mà thực tế họ đã tấn công và việc nối kết cảc cuộc tấn công có phối hợp tại nhiều vùng. Tuy nhiên, tình báo Mỹ đã không nói đến khả năng đặc biệt các vụ tấn công có phối hợp trên tất cả khu vực cùng một lúc. Điều quan trọng hơn nữa là tính chất của các mục tiêu đã không được tiên liệu trước. Washington và Sài Gòn đã dự đoán các vụ tấn công tại một số thành phố, nhưng họ đã không dự đoán được cuộc tấn công để chiếm một số cơ sở trong thành phố như bộ chỉ huy dân sự và các trung tâm kiểm soát, các đài phát thanh và các trụ sở cảnh sát như là những mục hàng đầu. Sau cùng, phẩm chất của các loại vũ khí mới, tối tân được Lực Lượng Việt Cộng Chính Quy và Địa Phương sử dụng trong các cuộc tấn công là điều vượt xa dự đoán. Súng AK-47 và lựu đạn chống xe tăng RPG-7 đặc biệt có hiệu quả chống lại các đơn vị chính quy và Lực Lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Quân Lực VNCH. Nằm dưới những vấn đề đặc biệt này là điều cơ bản hơn: hầu hết các vị tư lệnh và viên chức tình báo, ở tất cả các cấp, đều không thấy được địch quân có khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề ra như chúng xuất hiện trong tuyên truyền và trong các tài liệu đã tịch thu được của chúng. Các phỏng đoán phổ biến về sự hao hụt, thâm nhập và tuyển dụng người tại địa phương, các báo cáo tinh thần xuống giốc, và hàng loạt những vụ bại trận đã hạ thấp hình ảnh của địch quân. Bức tranh toàn cảnh được trình bày là một kẻ thù không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công trên phạm vi và cường độ mạnh như thế. Các vị chỉ huy và các viên chức tình báo đã nhìn những lời kêu gọi được phổ biến về một "cuộc tổng nổi dậy" chỉ như là lời hô hào, và không phải là bản kế hoạch cho việc sắp làm. Hơn nữa, trong quá khứ nhiều "cuộc tấn công lớn" đã được công bố trong tuyên truyền của Cộng Sản nhưng thực tế đã không được thực hiện. Phản Ứng Với Những Cảnh BáoWashington và Sài Gòn, như đã trình bày ở trên, đều hiểu rõ rằng địch quân đã đặt kế hoạch cho một cuộc tấn công lớn, có thể là những cuộc tấn công có phối hợp tại phía bắc Vùng I Chiến Thuật, tại Dak To trên cao nguyên Vùng II Chiến Thuật, và hướng về Sài Gòn từ tất cả mọi phía tại Vùng III Chiến Thuật. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1968, Đại Tướng Westmoreland đã hủy bỏ một số hoạt động đã được lên kế hoạch tại phía bắc Vùng III Chiến Thuật để tái bố trí lại các lực lượng Hoa Kỳ tới gần Sài Gòn hơn. Trong những ngày kế tiếp, ông đã đưa ra hàng loạt cảnh báo cho các vị tư lệnh của ông, và cho các cơ quan Hoa Kỳ, rằng địch quân đang chuẩn bị tấn công. Dù ông ấy đã không dự đoán từ đầu các cuộc tấn công trong dịp Tết, ông ấy đã nhận thức được tầm quan trọng của các cuộc tấn công sắp xảy ra tại Quân Khu 5 [của Việt Cộng] và trong thông báo gửi cho tất cả các vị tư lệnh của ông vào ngày 30 tháng 1 dự đoán các cuộc tấn công vào đêm đó. Kết quả, tất cả các đơn vị Hoa Kỳ đều được cảnh giác đầy đủ, dù trong hầu hết trường hợp họ đã không có thì giờ hay thông tin để thực hiện các biện pháp phản công chống lại địch quân trước khi chúng tấn công thực sự. Tất cả các căn cứ của Đơn Vị Không Quân Số 7 đều được đặt trong tình trạng cảnh giác tối đa, và Giám Đốc Tình Báo của Đơn Vị Không Quân Số 7 đã xác thực rằng bước này để "bảo toàn Phi Trường Tân Sơn Nhất." Có lẽ chứng cứ tốt nhất mà các biện pháp của Bộ Tư Lệnh Hỗ Trợ Quân Đội Hoa Kỳ tại VN là hiệu quả và rằng tình báo chiến lược của địch quân là sai lầm đó là, với ngoại trừ Huế ra, địch quân đã thất bại trong việc giữ được bất cứ mục tiêu quân sự chính nào trong một khoảng thời gian đáng kể. Tuy nhiên, cảm giác khẩn trương tại Sài Gòn thì không được cảm nhận đầy đủ tại Washington ngay thời điểm trước cuộc tấn công. Kết quả, báo cáo tình báo được phổ biến tại Washington đã không chứa đựng không khí khủng hoảng hiện hữu tại Sài Gòn. Điều sai lầm này không phải do bất cứ ai. Thông tin sẵn có đã được truyền đạt và được phân tích hợp lệ, nhưng không khí thì không thể chuyển qua đường dây điện thoại. Dù các viên chức cao cấp tại Washington đã nhận được các cảnh báo vào thời gian từ ngày 25 đến 30 tháng 1, họ đã không nhận được trọn vẹn cảm giác tức thì và mãnh liệt đã hiện hữu tại Sài Gòn. Mặt khác, với Sài Gòn đã cảnh giác, hầu như không có gì có thể được làm thêm nữa tại Washington mà sự trễ nãi trong cuộc chơi đã có thể ảnh hưởng đến kết quả. Trong bức tranh tổng quát này, có nhiều khác biệt đáng kể trong số 4 quân khu. Sư Đoàn III Thủy Quân Lục Chiến [Hoa Kỳ] được dự đoán sẽ bị tấn công tại Khe Sanh và Quảng Trị. Tin tình báo đó đã nhận được từ cơ sở CIA địa phương về chiến dịch mà địch quân sẽ tấn công Đà Nẵng, nhưng không có ngày giờ. Tướng Cushman nói rằng ông dự đoán sẽ bị tấn công vào dịp Tết, và các hoạt động của địch quân tại phía bắc Vùng I Chiến Thuật đã làm cho giới chức cao cấp hủy bỏ ngưng bắn dịp Tết tại Vùng I Chiến Thuật. Kết quả, các lực lượng Hoa Kỳ và VNCH đã được chuẩn bị tốt hơn những nơi khác. Hầu hết các đơn vị quân đội VNCH đều có quân số gần như đầy đủ. Sự kéo dài và phối hợp của các cuộc tấn công của địch quân, đã vượt quá mức dự đoán, như địch quân đã chiếm cứ lâu dài tại Huế. Tuy nhiên, nhìn chung, các cuộc tấn công của Cộng quân đã dễ dàng bị phản công. Tại Vùng II Chiến Thuật, lực lượng đồng minh tại các vùng ven biển là phần bị tấn công nhiều nhất trong đêm 29-30 tháng Giêng bởi các đơn vị Việt Cộng. Họ đã không có lợi thế của việc báo trước mà những cuộc tấn công này cung cấp nhiều đơn vị đi xa xuống phía nam, họ cũng không ở trong tư thế "cảnh giác" các lực lượng Đồng Minh tại Quân Khu I. Các lực lượng Đồng Minh thì ở trong tình trạng cảnh giác cao hơn bình thường, tuy nhiên, họ đã được điều hướng để chống lại những vụ vi phạm ngưng chiến chắc chắn xảy ra hơn là với các cuộc tấn công tại các thành phố. Tại các vùng cao nguyên, không giống bất kỳ khu vực nào khác, tình báo sẵn sàng từ thông tin liên lạc, tù nhân, phản ánh các kế hoạch cụ thể đối với các cuộc tấn công trong dịp Tết. Thí dụ, các kế hoạch của Việt Cộng cho việc tấn công Dak To, Pleiku, và Kontum đều được biết trước rõ ràng, và Sư Đoàn 4 Hoa Kỳ đã có thể liên kết chúng với các cuộc bố trí quân của địch. Điều này cung cấp một trong vài cơ hội cho lực lượng Hoa Kỳ để thực hiện các biện pháp năng động chống lại địch quân; Pleiku là chiến dịch tấn công của Hoa Kỳ thành công nhất. Tình báo tại những nơi khác ở cao nguyên thì không tốt bằng, nhưng đã có đủ thông tin để khiến cho 2 trong số 3 tư lệnh sư đoàn của Quân Đội VNCH tại Vùng II Chiến Thuật hủy bỏ tất cả các cuộc nghỉ phép. Tuy nhiên, chúng ta không tin rằng các lệnh này có hiệu quả toàn diện trong việc phục hồi nhân lực mà đã đi trước. Như đã đề cập ở trên việc tái bố trí quân đội Hoa Kỳ tại Vùng III Chiến Thuật đã bắt đầu vào giữa tháng 1. Các hoạt động này được bắt nguồn bởi việc tập trung của 3 sư đoàn địch quân dọc theo biên giới Cam Bốt nằm ở phía bắc và tây bắc Sài Gòn và bởi các chỉ dấu rằng những đơn vị này bắt đầu điều động quân xuống phía nam hướng về thành phố [Sài Gòn]. Hơn nữa, các sĩ quan tình báo của Hoa Kỳ và VNCH suy đoán trước đó từ sự tái tổ chức của cơ cấu chỉ huy của địch quân tại Quân Khu 4 [của VC], bao quanh khu vực Sài Gòn, mà mục đích của họ là để cải thiện việc chỉ huy và kiểm soát cho việc phối trí một cuộc tấn công vào thành phố [SG]. Quân Khu III và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã được đặt trong tình trạng cảnh giác chung vào ngày 30 tháng 1 (Các hành động của Tướng Westmoreland bắt nguồn từ các cuộc tấn công tại Quân Khu 5 [VC] vào đêm trước đó), và trong thời gian của ngày đó đã nhận được tin cụ thể rằng Sài Gòn sẽ bị tấn công vào đêm đó. Tại hầu hết các đơn vị Quân Đội VNCH tại Quân Đoàn III binh sĩ có vẻ ở trong tình trạng ăn Tết bình thường. Tại Vùng 4 Chiến Thuật, tính chất và mức độ của các cuộc tấn công của địch quân đã hoàn toàn không được tiên liệu. Các lực lượng Đồng Minh đã ý thức rằng khả năng của Việt Cộng đã được cải thiện. Một phúc trình của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA) vào ngày 25 tháng 1, đã cảnh báo về khả năng có thể có các cuộc tấn công sắp xảy ra tại những khu vực khác, nói rằng các đơn vị tại "vùng Nam Bộ," gồm Vùng Đồng Bằng [Sông Cửu Long], cũng có thể bị tấn công. Việc cung cấp các loại vũ khí tối tân đã gia tăng và Việt Cộng cho thấy khả năng thực hiện hàng loạt các cuộc tấn công có phối hợp trên khắp Vùng Đồng Bằng. Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, điều này có thể được diễn giải như là các phản ứng đối với tư thế mạnh mẽ hơn của đồng minh tại vùng này. Tại các thành phố trong Vùng Đồng Bằng [Sông Cửu Long] sự hiện diện của Việt Cộng trong dịp Tết là rất truyền thống vì được chấp nhận như là thói quen. Tướng Eckhardt, Cố Vấn Cao Cấp, nói rằng cảnh giác duy nhất mà ông nhận được là lời cảnh giác của Tướng Westmoreland vào ngày 30 tháng 1. Tướng Eckhardt đã có thể cảnh giác các đơn vị hỗ trợ và hậu cần Hoa Kỳ tại Vùng Đồng Bằng, nhưng không thể có thời gian để phục hồi lại đủ quân số các đơn vị Quân Đội VNCH. Tư Lệnh Quân Đoàn của VNCH và 3 tư lệnh sư đoàn của ông ấy đã có mặt tại tổng hành dinh khi cuộc tấn công nổ ra, nhưng các đơn vị của họ thì quá yếu ớt. Trang bìa sách "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962 -1968." Các Công Điện Giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh ĐốnSau đây là một số công điện báo cáo và trao đổi giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn từ Tổng Thống Johnson, Bộ Quốc Phòng, Bộ Ngoại Giao, CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam để cho thấy thêm một số chi tiết về các cảm nhận, nhận định và phản ứng của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ đối với cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Việt Cộng. Tài liệu này trích dịch từ văn kiện của Phòng Lịch Sử của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tên, "Các Quan Hệ Ngoại Quốc Của Hoa Kỳ, 1964-1968, Tập VI, Việt Nam, Từ Tháng 1 đến tháng 8 năm 1968."(4) Xin trích dịch mấy điểm đáng quan tâm như sau. 44. Ghi Nhớ Được Chuẩn Bị tại Cơ Quan CIA Washington, Ngày 2 Tháng 2 Năm 1968 Chủ đề: Việt Nam Cú Sốc Của Cuộc Tấn Công 1/ Trận tấn công Tết Mậu Thân rõ ràng cho thấy sức mạnh của Việt Cộng vấn tiếp tục mà qua đó kêu gọi cái nhìn mới trong phương thức của chúng ta [Mỹ] đối với chiến tranh Việt Nam và đối với Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa. Qua nhiều năm các nhà lãnh đạo Việt Nam [Cộng Hòa] đã phát triển sự chắc chắn tự mãn rằng sự hậu thuẫn của người Mỹ là bất biến. Hệ quả là họ đã cảm thấy thoải mái để tiến hành cuộc chiến từ từ, hài lòng trong vòng lẩn quẩn của các nhân vật lãnh đạo và chỉ chú ý ngẫu nhiên đối với việc huy động sự hậu thuẫn và tham gia rộng rãi của dân chúng một cách tích cực vào cuộc chiến. Trận tấn công Tết Mậu Thân có thể được sử dụng trong cuộc tấn công trực diện vào các thái độ và thói quen này, bởi vì nó biểu thị một cách áp lực rằng Chính Quyền VNCH mất một số đặc tính chính của chủ quyền. Họ [VNCH] không thể bảo vệ các mặt trận nếu không có nửa triệu binh sĩ Hoa Kỳ và ngay cả không thể làm cho Tòa Đại Sứ Mỹ sử dụng Tòa Đại Sứ của mình. Cuộc tấn công này khẳng định lập trường từ lâu rằng nỗ lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam chỉ để giúp người dân Việt Nam tự giúp họ, không phải để chiến đấu thay cho họ. Quan điểm này đã được trình bày trong một cuộc phỏng vấn nhanh chóng trước đây giữa Đại Sứ Bunker, có sự tham dự của Tướng Westmoreland, Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ. 2/ Cuộc tấn công Tết Mậu Thân bởi Việt Cộng cũng cho thấy sự yếu kém của nền an ninh của Chính Quyền VNCH và sự thiếu vắng giải pháp phổ biến góp phần chống Việt Cộng, với ám chỉ rằng các viễn kiến thành công và những kế hoạch lâu nay là không đủ. Điều này cần được hiểu rằng chủ nghĩa từ từ không còn được chấp nhận như là phương thức về phía chúng ta đối với cuộc chiến và nó cần được nói ra một cách áp lực rằng từ nay Chính Phủ VNCH phải theo sự chỉ thị của Hoa Kỳ trong một kế hoạch điều chỉnh tình trạng của chiến tranh. 3. Trong kế hoạch nói trên, Hoa Kỳ đòi hỏi Tướng Nguyễn Đức Thắng phải được công cử làm Tổng Trưởng Nội Vụ và Quốc Phòng, với "toàn quyền" hành xử cơ chế quân sự, cảnh sát và bộ binh. Tham Mưu Trưởng Liên Quân Tướng Cao Văn Viên phải được chỉ thị rằng tất cả quân lực VNCH từ nay sẽ được sử dụng để hỗ trợ trực tiếp trong việc tham gia chương trình do Tướng Thắng chỉ huy. 5. Tổng Thống Thiệu phải tìm kiếm sự chấp thuận của Quốc Hội để thành lập Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết. TT Thiệu phải làm Chủ Tịch Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết, và Phó TT Kỳ làm Phó Chủ Tịch và Giám Đốc Hoạt Động, Tướng Thắng làm Phó Giám Đốc Hoạt Động, và có các đại diện của các Bộ, Quân Đội cũng như Thượng và Hạ Viện. Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết phải có các Hội Đồng Chiến Tranh và Tái Thiết ở các cấp tỉnh và quận, có sự tham gia của các hội đồng tỉnh và quận. 7. TT Thiệu phải được cho biết rằng chúng ta [Hoa Kỳ] xem chương trình này phải có các thành quả tích cực trong vòng 100 ngày sau Tết (tức đầu tháng 5). Nếu không như vậy hay TT Thiệu từ chối đề nghị này, thì phải cho ông ấy biết rằng Hoa Kỳ sẽ thay đổi lập trường tôn trọng Chính Phủ VNCH. Trong trường hợp này, TT Thiệu nên hiểu là Hoa Kỳ có thể tìm một Chính Phủ VNCH khác thay thế. 48. Công Điện Tình Báo Từ Giám Đốc Sở Tình Báo và Nghiên Cứu (Hughes) Gửi Cho Ngoại Trưởng Rusk Washington, Ngày 3 Tháng 2 Năm 1968 Số 97, chủ đề: Việt Nam: Phỏng Đoán Chiến Lược Của Cộng Sản Trong Những Tháng Tới Các sự kiện trong nhiều ngày qua cho thấy rằng Cộng Sản đã lao vào một chiến dịch được hoạch định rất kỹ lưỡng của những nỗ lực có sự hậu thuẫn nhiều mặt về quân sự, chính trị và ngoại giao để làm sụp đổ hoàn toàn vị thế của Chính Phủ VNCH và xóa sổ nền tảng chính trị đối với sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Nếu điều này đã được phát triển, thì những cuộc thương lượng đã có thể bảo đảm thành công hơn là con đường dẫn tới tình cảnh mà trong đó sự thành công có thể đạt được. Trong khi đó, họ sẽ tiếp tục mở ngỏ khả năng thương thuyết. 49. Ghi Nhớ Từ William J. Jorden của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Gửi Cho Phụ Tá Đặc Biệt (Rostow) của Tổng Thống Washington, Ngày 3 Tháng 2 Năm 1968, Chủ đề: Tình Hình Tại Việt Nam Trước hết, quan điểm của tôi là hàng loạt các cuộc tấn công có phối hợp tốt của Cộng Sản Bắc Việt/Việt Cộng trên tất các vùng trên toàn quốc cho thấy sự thất bại rõ ràng đối với Chính Phủ tại Sài Gòn và đối với chúng ta. Tôi cho rằng những sự kiện này là thất bại bởi vì: -chúng phản ảnh sự thất bại tồi tệ nhất của tình báo chiến tranh. Nếu Việt Cộng và CS Bắc Việt có thể di chuyển có lẽ 30,000 lính đến nơi để tấn công tại tất cả các vùng trên toàn quốc mà không bị phát hiện, thì có điều gì đó sai lầm với hệ thống tình báo của Chính Phủ VNCH. -cuối cùng, rõ ràng từ báo cáo tình báo trong vòng một hai ngày qua rằng nhiều người dân Việt Nam đã được chuẩn bị để tin và để tung tin đồn hoang đường về người Mỹ -- rằng chúng ta đã giúp Việt Cộng vào Sài Gòn, rằng chúng ta đang làm việc với VC để dựng lên một chính phủ liên hiệp, mà chúng ta đang tìm cơ hội để rút khỏi [VN], v.v... Điều này đối với tôi có nghĩa là tuyên truyền của VC cực kỳ ảnh hưởng. 53. Điện tín từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam gửi cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Sài Gòn, ngày 4 tháng 2 năm 1968, 1100Z; Số 17920. Từ Đại Sứ Hoa Kỳ tại VN Bunker gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ. Kèm theo báo cáo hàng tuần lần thứ 37 của tôi 7. Rằng những cuộc tấn công lan rộng có phối hợp sẽ có kết quả thất bại quân sự to lớn đối với địch quân mà bằng chứng cụ thể là trong số lượng tử thương được báo cáo vào sáng Thứ Bảy. Từ 6 giờ chiều ngày 29 tháng 1 lúc bắt đầu thời điểm ngưng bắn dịp Tết, tới nửa đêm, ngày 2 tháng 2, theo số liệu của chúng tôi, 12,704 địch quân bị giết chết, và 3,576, đa phần sẽ trở thành tù bình chiến tranh, bị bắt giam; 1,814 người và 545 toán quân sử dụng vũ khí bị bắt. Đồng Minh có 983 người bị tử thương mà trong đó 318 binh sĩ Hoa Kỳ, 661 binh sĩ VNCH, và 4 quân nhân thuộc Thế Giới Tự Do; số quân đồng minh bị thương là 3,483 người. Số tử thương của địch quân trong vài ngày này được xem là lớn hơn bất cứ tháng nào trước đây trong cuộc chiến. Dựa trên số địch quân bị giết, tôi đã hỏi Tướng Westmonreland về con số phỏng đoán tổng số địch quân bị giết và ông ấy cho biết ông nghĩ là con số này có thể lên tới 36,000. 62. Điện tín từ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam gửi Bộ Ngoại Giao Sài Gòn, ngày 8 tháng 2 năm 1968, số 1115Z. Số 18582. Gửi cho Tổng Thống từ Đại Sứ Bunker. Kèm theo báo cáo hang tuần lần thứ 38 của tôi B) Số lượng địch quân tham gia trận tấn công được xem là lớn hơn phỏng đoán mà tôi đã báo cáo trong phúc trình lần trước của tôi. Phỏng đoán hiện nay là 52,000 quân địch, cộng với 10,000 du kích, tổng cộng có tới 62,000 quân địch, tham chiến trong các cuộc tấn công khắp nơi. E) Từ sáng sớm ngày 31 tháng 1 cho tới nửa đêm ngày 7 tháng 2, địch quân đã mất gần 25,000 quân, gần 5,000 quân bị bắt, hơn 5,500 người và gần 900 toán quân sử dụng vũ khí. Về phe ta thì 2,043 binh sĩ tử vong (gồm 703 binh sĩ Hoa Kỳ, 1,303 binh sĩ VNCH, và 37 binh sĩ Thế Giới Tự Do), ít hơn 1/12 tổn thất của địch quân. Tướng Westmoreland cho biết rằng số quân địch bị giết nói trên là chưa kể số địch quân bị chiến đấu cơ và đạn pháo giết chết. H) Sáng nay, ngày 8 tháng 2, số người tị nạn tại khu vực thành phố Sài Gòn là 93,000 và trên toàn quốc là khoảng 190,000 người. Tới giờ này, có 31 tỉnh trong số 50 tỉnh báo cáo, tổng số người di tản có thể đạt tới từ 250,000 tới 300,000 người. Khoảng 15,000 căn nhà bị phá hủy được báo cáo, chắc chắn sẽ còn gia tăng. Số thường dân bị thiệt mạng qua báo cáo sơ khởi là 800 người chết, 7,500 người bị thương, dù thực tế nhiều hơn. Ngoài ra, trong tác phẩm "CIA and the Vietnam Policymakers: Three Episodes 1962-1968," nói trên, Harold P. Ford cho biết rằng chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, địch quân đã tấn công vào 39 trong số 44 thành phố của Nam Việt Nam, trong số đó 5 trong 6 thành phố lớn đông dân đã bị tấn công, 71 trong số 242 quận lỵ bị Cộng quân tấn công. Tại Thủ Đô Sài Gòn, 11 tiểu đoàn Việt Cộng địa phương đã tấn công vào dinh tổng thống, Phi Trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, và nhiều địa điểm khác; không ít, họ đã xâm nhập và tràn vào một khoảng thời gian nào đó trong khuôn viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Harold P. Ford cho biết thêm rằng CIA phỏng đoán cho tới tháng 5 năm 1968, Cộng quân có khoảng từ 450,000 tới 600,000 quân tại Miền Nam VN. Trong tài liệu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có tên "Foreign Relations, 1964-1968, Volume VI, Vietnam, January-August 1968," số 32-49, từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2: Trận Tấn Công Tết, ghi chú của ban biên tập số 33, cho thấy rằng có tới 84,000 Cộng quân gồm quân đội Bắc Việt và Việt Cộng tham gia vào các cuộc tấn công Tết Mậu Thân trên toàn Miền Nam.(5) Theo tài liệu "Vietnam War: Tet Offensive, Cia - Department Of Defense - State Dept Files, South Vietnamese Army History - U.S./South Vietnam Army Photos, nói về trận tấn công Tết Mậu Thân tại Huế cho biết rằng Cộng quân đã chiếm giữ 26 ngày, với khoảng 12,000 lính gồm bộ đội Bắc Việt và Việt Cộng địa phương. Báo cáo cho biết có từ 2,000 tới 3,000 công chức, cảnh sát của chính quyền VNCH, và những thành phần khác mà Cộng Sản gọi là phản cách mạng đã bị Việt Cộng thảm sát tại Huế trong thời gian đó. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ chưa tới 2,500 binh sĩ đã chống cự và đánh bại hơn 10,000 Cộng Quân và đã giải phóng thành Phố Huế.(6) Tài liệu này cũng nói rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân về mặt chiến thuật đã đánh bại các lực lượng Việt Cộng và Bắc Việt. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng được mọi người xem như là khúc quanh trong chiến tranh Việt Nam dù tổn thất của Cộng Sản rất lớn lên tới 32,000 quân bị giết và khoảng 5,800 lính bị bắt. Một trong những hệ quả của trận tấn công Tết Mậu Thân, theo tài liệu này, là chính phủ Johnson nhận ra rằng muốn chiến thắng cuộc chiến VN thì Hoa Kỳ phải tăng quân số -- quân số lính Mỹ tại VN lúc đó đã lên tới 525,000 -- và chi phí nhiều hơn là những gì người dân Mỹ muốn. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Johnson tuyên bố không tái tranh cử nhiệm kỳ kế tiếp, công bố ngưng ném bom Bắc Việt, và thúc giục Hà Nội đồng ý hòa đàm. Vào đầu tháng 1 năm 1969, hòa đàm Paris bắt đầu diễn ra với sự tham dự của đại diện 4 bên, gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Sản Bắc Việt, và Mặt Trận Giải Phóng. Tháng 6 năm 1969, Hà Nội lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (PRG). Cầu Tràng Tiền tại Thành Phố Huế bị gãy đổ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân.( www.tripadvisor.com ) Kết LuậnNăm mươi năm trôi qua, sự thật về cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 đã được phơi bày ra ánh sáng bởi rất nhiều tài liệu giá trị, đúng đắn và đáng tin cậy, gồm hồ sơ mật của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhưng, chính quyền CSVN cho đến nay vẫn không dám công khai thừa nhận thất bại và sai lầm của họ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà trong đó họ đã lợi dụng ngày Tết cổ truyền thiêng liêng nhất của dân tộc để mở các cuộc tấn công và giết hại thường dân vô tội, như trường hợp thảm sát hàng ngàn sinh mạng tại Huế. Tại sao? Một chế độ không dám nhìn nhận sự thật như thế, dù đó là sự thật lịch sử không thể phủ nhận, thì có phải là một chế độ đáng để người dân tin cậy chăng? Xin cầu nguyện cho tất cả những nạn nhân của biến cố Tết Mậu Thân được siêu thoát. Huỳnh Kim Quang Chú Thích: (1) www.cia.gov/library/readingroom/docs/DOC_0000097712.pdf (2) www.cia.gov/library/center-for-the-study-of-intelligence/csi-publications/books-and-monographs/cia-and-the-vietnam-policymakers-three-episodes-1962-1968/epis3.html (3) www.cia.gov/library/center-for-the-study-of-intelligence/csi-publications/books-and-monographs/cia-and-the-vietnam-policymakers-three-episodes-1962-1968/index.html (4) history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v06 (5) history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v06/d33 (6) www.paperlessarchives.com/vw_tet_offensive.html
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:36:17 GMT 9
TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19-1-1974.Thềm Sơn Hà Mặc dù biến cố Hoàng Sa (HS) đã trải qua 38 năm, nhưng cho đến nay biến cố này vẫn còn gây ra nhiều nghi vấn. Hầu hết các bài viết và câu trả lời trong các cuộc phỏng vấn đều dựa trên trí nhớ… và theo thời gian nhiều khi không chính xác, các sự kiện rất mâu thuẫn, nếu không tìm được tài liệu còn lưu trữ thì cũng rất khó để tìm ra sự thật. Vì vậy không thể đổ lỗi cho một ai khi sau này tìm ra được tài liệu bằng giấy trắng mực đen để kiểm chứng lại. Trong tất cả các bài viết, rất ít tài liệu viết về Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Khoảng thời gian gần đây tác giả may mắn tìm thêm một số tài liệu liên quan đến ông, hy vọng sẽ trình bày phần nào về vai trò của ông trong biến cố lịch sử này. Thềm Sơn Hà------------- o0o ----------------- Từ lúc Trung Cộng (TC) tuyên bố chủ quyền trên khắp các hải đảo trong vùng biển Đông gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa cho đến ngày 19-1 xảy ra trận hải chiến khốc liệt giữa Hải quân VNCH và hải quân TC . Và tiếp theo vào ngày 20-1-1974, TC đổ quân chiếm trọn HS, Tổng Thống Thiệu (TT Thiệu) chưa một lần xuất hiện trước quần chúng trên đài truyền hình, lên tiếng trên đài phát thanh hoặc họp báo để phản đối TC xâm chiếm HS. Ông cũng gây ngạc nhiên cho Hoa Kỳ (HK) khi ngay cả trong thông điệp chúc Tết ông cũng không đá động một lời nào về HS. (1) Như vậy trong biến cố HS, ông đã làm gì? Và đã có những hoạt động nào ? 1.- Thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ : (2) TT Thiệu đã thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ một tuần trước Tết Nguyên Đán ( ngày 22 tháng 1-1974 là ngày mùng một) theo chương trình như sau: - Quân Đoàn I : Ngày 15-1, TT Thiệu bắt đầu ủy lạo một số đơn vị ngoài mặt trận thuộc tỉnh Quảng Ngải. Vào chiều ngày 15, ông đến Đà Nẵng và dùng cơm tối tại Bộ Chỉ Huy/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê. Ngày 16-1, lúc 8 giờ sáng TT Thiệu đến Bộ Tư Lệnh/Vùng 1 Duyên Hải (BTL/VIDH). Sau đó ông thăm các chiến sĩ đóng tại phía Bắc đèo Hải Vân. - Quân Đoàn II : Ngày 17-1, ông đến Quân đoàn II và ghé thăm Trung Đoàn 47 thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh ở Pleiku, đơn vị này đã tham dự cuộc hành quân tái chiếm Plei Kjerang. Tiếp theo ông đến tỉnh Quảng Đức, thăm căn cứ Trung Đoàn 45 ở quận Đức Lập là đơn vị đã chiếm lại quận Kiến Đức. Trưa ngày 17-1, ông ghé thăm tiền đồn Biệt Động Quân gần Daksong. Ngày 18-1, ông chủ tọa lễ mãn khóa 27 tại trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt, trong bài diễn văn, TT Thiệu không đề cập đến Hoàng Sa. Ông nghỉ đêm tại Đà Lạt. Trong cùng ngày, theo ĐĐ Trần Văn Chơn TL/HQ :” Trước đó tôi nhận được tin cho biết Tổng Thống tham dự một cuộc lễ mãn khóa ở Đà Lạt và Tổng Thống muốn gặp tôi ở trên đó nhưng khi tôi lên gặp thì Tổng Thống không nói gì cả.” (3) - Quân Đoàn III : Rời Đà Lạt sáng ngày 19-1, TT Thiệu tiếp tục đi ủy lạo chiến sĩ thuộc Quân Đoàn III ở An Lộc, Lai Khê. Từ An Khê, trực thăng của ông bay dọc theo quốc lộ 13, về hướng bắc tỉnh Chơn Thành, dọc theo lộ trình, khi thấy một đơn vị Thiết giáp, ông đã ra lệnh trực thăng đáp xuống và tự tay phát quà cho họ, hành động này đã làm các chiến sĩ thiết giáp ngạc nhiên. Theo chương trình ông sẽ tiếp tục thăm viếng Quân Đoàn IV (không tìm thấy tài liệu về chuyến thăm viếng QĐIV, có thể vì biến cố HS nên ông đã hủy bỏ). 2.- Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa: 2.1.- Thời gian xác định: - chiều ngày 15, tại căn cứ BCH/Tiếp Vận I ở Mỹ Khê, Phó Đề Đốc (PĐĐ) Hồ Văn Kỳ Thoại TL/HQ/V1DH đã trình lên TT Thiệu sự việc phát hiện chiến hạm TC (LTG: thực sụ đây là tàu đánh cá ). - Sáng ngày 16-1, ông đến BTL/V1DH, có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐI tháp tùng. Sau khi nghe PĐĐ Thoại thuyết trình, ông đã viết thủ bút chỉ thị biện pháp thi hành cho Tư Lệnh Hải Quân V1DH (TL/HQ/V1DH). (4) - Sáng ngày 19-1, từ Đà Lạt ông gọi điện thoại ra Trung Tâm Hành Quân BTL/VIDH (TTHQ/V1DH). Theo HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH (TTT/TTHQ) thì sau khi : [“Đại Tá Ngạc chỉ thị cho toán Người nhái và toán Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hòa đang có quân TC chiếm đóng để yêu cầu bọn chúng rời khỏi đảo và xem phản ứng của chúng như thế nào. Nhưng khi lực lượng ta tiến vào đảo đã bị chúng nổ súng trước (chúng có công sự chiến đấu) và bên ta có 2 người tử thương. Toán đổ bộ nhận được lịnh rút lui trở về chiến hạm. Cũng trong lúc này, từ Đà Lạt Tổng Thống Thiệu gọi điện thoại về TTHQ/VIDH hỏi :”Tình hình Hoàng Sa như thế nào rồi?” TL/HQ/VIDH Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trả lời trực tiếp với Tổng Thống Thiệu : ”Ta đổ bộ lên đảo có quân TC đã bị chúng bắn trả gây cho ta 2 tử thương” liền theo đó Tổng Thống Thiệu hỏi: ”Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?”] (5) Và ông chấm dứt cuộc điện đàm với TL/VIDH bằng một câu hỏi. - 20 tháng 1-1974, TT Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị Ngoại Trưởng (NT) Vương Văn Bắc gọi điện thoại cho Đại Sứ (ĐS) HK Martin để thảo luận về việc xử dụng một số biện pháp ngoại giao như sau: 1.- thông báo cho Hội Đồng Bảo An và Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc nhưng chưa có quyết định về việc có cần triệu tập buổi họp của Hội Đồng Bảo An. 2.- đưa kháng thư lên Tổ chức các quốc gia vùng Đông Nam Á (SEATO). 3.- đem vấn đề tranh chấp ra trước Toà án quốc tế, nhưng NT Bắc còn lưỡng lự vì lo ngại là TC sẽ không chấp nhận quyền xét xử của toà án này, ngoài ra ông cũng không chắc là tòa án sẽ đưa ra phán quyết có lợi cho VNCH. 4.- thông báo các quốc gia ký kết Hiệp định Paris về việc TC tấn công HS, vì theo tinh thần hiệp ước này thì các nước sẽ tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ cuả VNCH, và TC là một trong những nước đã ký tên vào hiệp ước này. Ngoài ra NT Bắc còn cho ĐS Martin biết là TT Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi đến sự giúp đở của HK, là người bạn và cũng là đồng minh thân thiết nhất. Ông hy vọng HK sẽ tận lực ủng hộ trong các vận động ngoại giao này. (6) - Ngày 21-1, Đại Sứ Martin cho biết là :”… sáng ngày 21 tháng 1, ông nghe tin TT Thiệu đã ra lệnh không quân VN oanh tạc lực lượng TC ở HS. Lệnh này đã được ngưng lại.” (7) - ngày 21-1, Đại Sứ Martin trong văn thư gởi về BNG/HK :”.. Tôi hoàn toàn chắc chắn là hành động như vậy sẽ không thể nào xảy ra nếu không có sự chấp thuận của chính Tổng Thống Thiệu, người đã hiện diện tại Đà Nẵng vào thời điểm đó, mặc dù chúng ta có thể cho là, theo ý kiến của của tôi, hành động này được coi là thiếu cân nhắc … “ (8) - Ngày 22-1, mùng 1 Tết, TT Thiệu đọc thông điệp chúc Tết đến toàn dân. trong thông điệp này ông không có một lời nào đề cập đến trận hải chiến và cũng không lên tiếng tố cáo TC đã dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Trong khi đó ông lại nói về đạo luật bầu cử mà quốc hội đã thông qua vào ngày xảy ra trận hải chiến, ngày 19 tháng 1-1974 !!!! Đạo luật này cho phép ông và các vị Tổng Thống kế nhiệm được quyền ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và nhiệm kỳ Tổng Thống sẽ được kéo dài 5 năm thay vì 4 năm. (1) - Ngày 22-1, TT Thiệu gởi thơ cho Tổng Thống HK Richard Nixon để yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ “…hết lòng hỗ trợ về vật chất và chánh trị cần thiết…” mặc dù Đại Sứ Martin đã ngăn cản. (9) (Thay vì viết phúc thư trực tiếp đến Tổng Thống Thiệu, Tổng Thống Nixon đã gởi điện văn cho Đại Sứ Martin khoảng 3 tuần sau đó và chỉ thị ông đến gặp thẳng Tổng Thống Thiệu để diễn đạt lại nội dung của bản phúc đáp.) (10) - Sáng ngày 22 tháng 1, nguồn tin từ dinh độc lập cho hay là chánh phủ VN cảm thấy bắt buộc phải mở cuộc hành quân cứu cấp không/hải để tìm kiếm những người có thể sống sót trên biển. (11) 2.2.- Thời gian không xác định: 1.- Cựu Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã viết: a.- ” ….tôi cần minh xác là Bộ Ngoại Giao cũng như cá nhân tôi không hề được Tổng Thống……. tham khảo ý kiến hay thông báo diễn tiến vế các vấn đề quân sự, các cuộc hành quân…… (trước trận hải chiến). b.- “… tôi còn nhớ có tham gia một phiên họp cấp cao ở miền duyên hải Trung phần để thảo luận về vụ Hoàng Sa, sau khi quần đảo nầy đã bị Trung Cộng cưỡng đoạt. Tôi nhớ trong phiên họp nầy có mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Ðại Tướng Cao Văn Viên và mấy vị khác mà ngày nay tôi không còn nhớ rõ tính danh…” (12) 2.- HQ Đại Tá Đỗ Kiểm : “Ngay lập tức sau trận chiến Kiếm đã phải bay ra Phan Rang để thuyết trình trong chuyến đi nghỉ mát của Tổng Thống Thiệu. Ông không dám nói với TT Thiệu là Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó /HQ đã bỏ lỡ trận hải chiến duy nhất trong lịch sử hải quân hiện đại, tuy nhiên ông đã đề cập đến việc không có sự yễm trợ của lực lượng không quân. Cuộc thuyết trình đã diễn ra dưới bóng mát của một vọng lầu bằng gạch được xây ngay trên bãi biển, trong lúc các người trong gia đình của ông Thiệu đi qua đi lại, tìm khăn tắm hoặc thuốc lá. " Đại Tá Kiểm đừng lo", Thiệu xoa dịu, "chúng tôi sẽ cho anh chiếc tàu khác.” (13) NHẬN XÉT Cho đến nay vẫn còn nghi vấn về lệnh khai hỏa trong trận hải chiến HS. Theo PĐĐ Thoại thì ông là người trực tiếp ra lệnh khai hỏa dựa trên thủ bút của TT Thiệu viết cho ông ngày 16-1 khi TT Thiệu đến thăm VIDH. Nhưng trong bài viết ‘Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lệnh Hải Quân’ của HQ Đ/Úy Lê Văn Thự phổ biến trên www.hqvnch.net vào tháng 12-2008 (như đã dẫn chứng đoạn trên) thì PĐĐ Thoại đã ra lệnh khai hỏa ngay sau khi TT Thiệu chấm dứt cuộc điện đàm. Để tìm câu trả lời về lệnh khai hỏa trong ngày 19-1, bài viết sẽ phân tích về chỉ thị của TT Thiệu và nhận xét về cuộc điện đàm giữa TT Thiệu và TL/V1DH. 1.- Phân tích về chỉ thị của TT Thiệu viết cho PĐĐ Thoại Trong cuốn sách “Can trường trong chiến bại” PĐĐ Thoại viết về hoạt động của HQ 16 trong ngày 16-1 (chính xác là ngày 15-1): ”Sáng ngày 16, chiến hạm HQ 16 khi đến nơi vùng đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, báo cáo rằng có một số tàu đánh cá chạy về hướng Bắc và đồng thời khi người nhái của Hải Quân Việt Nam đổ bộ để thám sát các đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán quân nhân Trung Cộng………… (trang 155) Và sau đó trong ngày 17-1 (chính xác là ngày 16-1) , PĐĐ Thoại viết tiếp :” Trong đêm tình hình yên lặng. Sáng ngày 17-1, tuần dương hạm HQ 16 báo cáo là hai tàu đánh cá Trung Cộng không tuân lịnh của chiến hạm Việt Nam ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Ngoài ra chiến hạm HQ 16 báo cáo sự xuất hiện của hai tàu chở quân của Trung Cộng đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ Trung Cộng. Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và mười bốn đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Cộng và thay bằng cờ Việt Nam. Khi lên bờ toán này gặp nhiều người Trung Hoa nhưng không rõ là ngư phủ hay binh sĩ tuy nhiên toán đổ bộ được chỉ thị không được bắn trước trừ khi phải tự vệ….. (trang 156) Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, tổng thống và phái đoàn ………….đến bộ tư lịnh Vùng 1 Duyên Hải bằng xe…………….. Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lãnh hải một cách ôn hòa nhưng tình hình trong 24 giò qua cho thấy Trung Cộng có ý định khiêu khích.” Đoạn viết trên của PĐĐ Thoại đã cho thấy những diễn tiến dồn dập kể từ lúc HQ 16 đến HS vào lúc sáng ngày 15-1 cho đến khi TT Thiệu đến BTL/V1DH lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau 16-1 và ông đã trình bày với TT Thiệu :”….Tôi nhấn mạnh việc chiến hạm Việt Nam cố gắng mời chiến hạm Trung Cộng rời khỏi lãnh hải một cách ôn hòa nhưng tình hình trong 24 giờ qua cho thấy Trung Cộng có ý định khiêu khích.“ (4) (trang 157&158). Diễn tiến và thời gian qua báo cáo của PĐĐ Thoại : a.- Diễn tiến : khi TT Thiệu đến vùng I, lúc bấy giờ báo cáo từ HQ 16 là chỉ có 1 tàu đánh cá TC mà thôi. (PĐĐ Thoại báo cáo cho TT Thiệu là 2 chiến hạm TC, trong khi ông báo cáo cho TL/HQ là 2 tàu đánh cá có võ trang và trong bài phỏng vấn với Tuyết Mai thì ông trả lời “Chỉ thị của Tổng Thống là mời các ngư thuyền cũng như chiến hạm lạ ra khỏi lãnh hải của chúng ta. Lúc đó tôi cũng chưa chắc những chiến hạm hiện diện đó là của Trung Cộng”.) (14) Thực tế như tác giả đã chứng minh trong bài viết “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1-1974 của Trung Cộng” (15) là từ chiều ngày 15-1 cho đến sáng ngày 16-1 lúc TT Thiệu đến V1DH vẫn chỉ có một tàu đánh cá mang số 402 có treo cờ TC đã được HQ 16 phát hiện vào chiều ngày hôm trước 15-1. :” Lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 1, chiến hạm HQ 16 của HQVN neo ở hướng đông đảo Cam Tuyền cách bờ 100m đã phát hiện tàu TC neo phiá ngoài đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo HS, cách bờ 100m. Tàu TC là loại tàu đánh cá khoảng 100 tấn, trang bị một số antenna. Trên đảo Cam Tuyền có cờ TC. HQ 16 ra hiệu yêu cầu tàu TC rời khỏi khu vực nhưng không có phản ứng.” (15) Công điện dẫn chứng trên đã xác nhận một cách đầy đủ và rõ ràng thời gian, vị trí, loại tàu, quốc tịch và hoạt động của tàu đánh cá khi bị HQ 16 phát hiện và báo cáo về BTL/V1DH. b.- Thời gian : HQ 16 báo cáo phát hiện tàu đánh cá TC về TTHQ/V1DH khoảng 5 giờ chiều ngày 15-1. Đến 8 giờ sáng ngày 16-1, TT Thiệu đến BTL/V1DH như vậy chỉ sai biệt trong vòng 15 giờ (khác với 24 giờ cách biệt như PĐĐ Thoại đã viết) và theo Đ/Úy Đào Dân sau khi phát hiện, HQ 16 đã dùng loa phóng thanh phát tiếng Trung Hoa để yêu cầu họ rời khỏi hải phận VN cho đến khi trời tối, HQ 16 phải vận chuyển ra xa để giữ an toàn cho chiến hạm. (16) Nhận Xét: Thực sự ngoài PĐĐ Thoại, cho đến nay không ai biết được là ông đã trình bày những gì với TT Thiệu và thủ bút của TT Thiệu đã chỉ thị cho ông ra sao. Nhưng theo PĐĐ Thoại, sáng ngày 16-1, sau khi nghe ông thuyết trình, TT Thiệu đã viết thủ bút chỉ thị ông: ”Thứ nhứt là tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lãnh hải VNCH. Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ VNCH .(4) Đề Đốc Trần Văn Chơn TL/HQ trả lời cuộc phỏng vấn là: “Khi ông Thoại báo cáo cho tôi về vấn đề HS, ông không báo cáo là có tàu binh của Trung Quốc mà chỉ nói là có hai chiếc tàu đánh cá có gắn súng đại liên thôi.” thì ông đã trả lời một cách ngắn gọn :” Tôi liền ra lịnh cho Đô Đốc Thoại đuổi 2 tàu đánh cá Trung Quốc ra khỏi hải phận của ta, nếu nó không nghe thì lôi nó giải giao về Đà Nẵng” (3 trang 324). Vì theo ông, TL/V1DH đã điện trình lên ông là: ”Tổng Thống ra lệnh cho Đô Đốc Thoại phải giữ vững Hoàng Sa và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi hải phận” (16) Chỉ thị của TT Thiệu và của ĐĐ Chơn không khác nhau lắm và đây cũng chỉ là phản ứng thông thường mà các vị Tư Lệnh vùng duyên hải vẫn thường xuyên ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc thi hành mỗi khi phát hiện tàu thuyền ngoại quốc xâm phạm lãnh hải VNCH. (trong rất nhiều trường hợp, tại vùng biển Phú Quốc thuộc V4DH, chiến hạm hải quân đã sử dụng vũ khí để bắt giữ tàu đánh cá Thái Lan vi phạm hải phận). Có lẽ đối với TT Thiệu đây là trường hợp đơn giản, chỉ cần thẫm quyền V1DH giải quyết, do vậy ông đã chỉ thị TL/HQ/V1DH thi hành. Dĩ nhiên là một vị tướng lãnh thâm niên, nếu nhận thức tình thế nghiêm trọng người mà ông ra chỉ thị phải là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay vì PĐĐ Thoại. Về phần BTL/HQ, sau khi nhận công điện báo cáo phát hiện tàu TC từ V1DH, BTL/HQ đã không có chỉ thị khẩn cấp và đã không điều động cấp thời chiến hạm nào ra V1DH để trợ lực với HQ 16, điều này phải được hiểu đây chỉ là trường hợp vi phạm lãnh hải rất thường xảy ra và sự hiện diện của HQ 16 cũng quá đủ để đối đầu với một tàu đánh cá của TC. Có lẽ PĐĐ Thoại cũng hiểu chỉ thị của TT Thiệu là chỉ để đối phó cấp thời đuổi tàu TC ra khỏi hải phận. Do vậy ông rất e dè sử dụng biện pháp mạnh. Sự dè dặt trong việc sử dụng biện pháp cứng rắn đối phó với lực lượng TC hiện diện trong khu vực nhóm Nguyệt Thiềm đã được ghi nhận qua sự kiện các chiến hạm VN chưa hề nhận được lịnh sử dụng vũ khí, kể cả vũ khí cá nhân, ngay khi tàu đánh cá và chiến hạm địch khiêu khích bằng cách vận chuyển đâm ngang mũi hoặc quá gần chiến hạm ta. Theo lời PĐĐ Thoại thì ông luôn nhấn mạnh tới điểm xử dụng biện pháp ôn hòa để mời tàu đánh cá và chiến hạm TC ra khỏi lãnh hải VNCH từ ngày 15-1 đến sáng ngày 19-1. Và cũng chính vì sự dè dặt này mà 2 tàu đánh cá TC 402 và 407 vẫn tự do hoạt động trong nhóm Nguyệt Thiềm và đã thực hiện công tác hướng dẫn và đổ quân chiếm trọn 3 đảo còn lại là Cam Tuyền, Hoàng Sa và Vĩnh Lạc trong ngày 20-1. (15) Khi lực lượng Người Nhái và Biệt hải đổ bộ lên đảo Quang Hòa, cùng lúc TC cũng đổ bộ khoảng 2 đại đội lên hướng Đông Bắc, đưa đến sự nguy hiểm và bất lợi cho lực lượng ta, các chiến hạm vẫn không nhận được lịnh tác xạ lên bờ để dọn đường và yễm trợ cho lực lượng đổ bộ cũng như khi TC tác xạ vào lực lượng đổ bộ gây cho ta tử thương 2 người và bị thương 3 người, Đại Tá Ngạc phải ra lịnh triệt thoái, phiá bên ta vẫn bất động. PĐĐ Thoại trả lời câu hỏi số 5 của UBHS (3) :” Không ai nghĩ ra sẽ có một cuộc hải chiến, kể cả Tổng Thống Thiệu”. Có lẽ ý nghĩ này đã hạn chế ông sử dụng vũ lực ngay cả trong thời gian đầu khi HQ 16 phát hiện tàu đánh cá 402, và chắc ông cũng hiểu rõ là chỉ thị của TT Thiệu viết cho ông không phải ủy quyền cho ông ra lệnh khai hỏa để khởi đầu một cuộc hải chiến mà hậu quả không thể nào lường. Như vậy thì động lực nào đã thúc đẩy PĐĐ Thoại phải ra lịnh khai hỏa ? Có phải chăng là cú điện thoại mà TT Thiệu đã gọi vào TTHQ/V1DH vào sáng ngày 19-1 như Đại Úy Lê Văn Thự đã viết trong tham khảo (4). 2.-Nhận xét về sự xác thực của cuộc đàm thoại giữa TT Thiệu và PĐĐ Thoại. Như đã dẫn chứng phần trên, chỉ thị của TT Thiệu và ĐĐ Chơn để đối phó với tàu đánh cá số 402 phát hiện trong chiều ngày 15-1 và chiếc số 407 vào trưa ngày 16-1 gần khu vực đảo Cam Tuyền đã không được V1DH chỉ thị cho HQ16 và HQ 4 (đến HS vào trưa ngày 17-1) thi hành. (1) Như vậy có thể nào TL/V1DH lại có thể đơn phương ra lệnh nổ súng vào chiến hạm TC dẫn đến trận hải chiến với kết quả là mất trọn cả nhóm Nguyệt Thiềm, nếu như không có một chỉ thị nào khác hơn là câu hỏi ‘Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?’ của TT Thiệu tù Đà Lạt gọi điện thoại vào TTHQ/V1DH trước khi ông lên đường tiếp tục ủy lạo chiến sĩ tại Vùng 3 Chiến Thuật. Điều này chứng tỏ là câu hỏi ngắn gọn của TT Thiệu đã được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đã nổ súng vào lực lượng ta. Như vậy, câu hỏi có tích cách lịch sử này cần phải được cứu xét để xác định sự xác thực của cú điện thoại và nội dung của cuộc điện đàm. Điểm nghi vấn được đặt ra ở đây là PĐĐ Thoại đã không đề cập đến cú điện thoại này trong sách hoặc trong bất cứ một cuộc phỏng vấn nào từ trước đến nay. Và người độc nhất tiết lộ về chi tiết này là HQ Đại Úy Lê Văn Thự trong bài viết “Trận hải chiến HS và nước mắt của vị Tư Lịnh HQ” đã được phổ biến hạn chế trong số bạn hữu tại tiểu bang Oklahoma vào năm 1997. Bài này đã được ông viết lại và tái đăng trong hqvnch.net/default.asp?id=1267&lstid=135 tháng 12-2008. HQ Đại Úy Thự giữ chức vụ Trung Tâm Trưởng/TTHQ/VIDH từ tháng 10-1973 cho đến khi QĐI thất thủ và nhiệm vụ của TTT/TTHQ là nhận và thi hành chỉ thị thượng cấp trong việc điều động các đơn vị trực thuộc, tiếp nhận báo cáo từ các đơn vị trực thuộc, liên lạc các TTHQ quân binh chủng trong vùng trách nhiệm….. Trong ngày 19-1, ông đã có mặt từ sáng cho đến chiều trong TTHQ. Theo ông thì hệ thống liên lạc trong TTHQ (máy truyền tin và điện thoại) khi nhận và phát thì tất cả những người có mặt trong trung tâm đều nghe rõ. Qua bài viết của Đ/Úy Thự, TT Thiệu đã chấm dứt cuộc điện đàm bằng một câu hỏi ”Như vậy Hải quân đã làm gì chưa?” và từ câu hỏi ngắn gọn này của TT Thiệu đã được PĐĐ Thoại hiểu như là một mệnh lệnh, bắt buộc ông phải có phản ứng cứng rắn để đáp lại việc TC đã nổ súng vào lực lượng ta và Đô Đốc Thoại không còn phản ứng nào khác hơn là quyết định ra lệnh khai hỏa.” HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê viết trong HSTT “ hồi 08:35H, bên bờ phía Tây Nam đảo Duncan, Trung Cộng bắt đầu nổ súng tấn công trung đội Hải Kích. Ngay phút đầu tiên, ta tử thương 2 và bị thương 3. Hải kích phải rút về bìa san hô vì địch quá mạnh. Hồi 08:50H, Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải chỉ thị chiến hạm bắn tối đa vào đảo; đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch” (16) Và theo tài liệu từ phiá HK thì PĐĐ Thoại ra lịnh khai hỏa vào lúc 08:50H các chiến hạm HQVN đã nhận được lịnh tác xạ vào đảo trong lúc triệt thoái toán Người nhái và Biệt hải về tàu nhưng không giao chiến với tàu TC (VNN SHIPS WERE ORDERED TO SHELL ISLAND WHILE EXTRACTING TROOPS, BUT NOT TO ENGAGE THE PRC SHIPS.)(17) Hai tài liệu dẫn chứng trên đã cho thấy sự trùng hợp về thời gian và mục tiêu của lệnh khai hỏa chỉ có một điểm khác là bài viết của Đại Tá Khuê có thêm câu “… đồng thời, nếu cần, triệt hạ luôn chiến hạm địch” Theo Đại Tá Khuê thì TC bắt đầu nổ súng vào lực lượng ta vào lúc 08:35H. Như vậy câu hỏi đặt ra ở đây là nếu dựa vào thủ bút của TT Thiệu thì TL/V1DH phải ra lệnh phản pháo ngay vào giờ phút này khi địch nổ súng gây thương vong về phía ta, không cần phải chờ đến 15 phút sau mới quyết định ra lệnh khai hỏa. Điều này cho thấy là ông vẫn còn ngần ngại trong quyết định sử dụng vũ lực để đối đầu với TC và ông chỉ ra lệnh khai hỏa sau khi đã có một sự hối thúc nào đó từ cấp thẫm quyền cao cấp hơn và thẫm quyền này không ai khác hơn là TT Thiệu qua câu hỏi chấm dứt cuộc điện đàm. Do vậy có thể xác định thời gian TT Thiệu từ Đà Lạt gọi vào TTHQ/V1DH là trong khoảng từ 08:35H đến 08:45H sáng ngày 19-1-1974. Đại Tá Ngạc cũng đã diển tả tương tự tuy thời gian sai biệt nhau 40 phút:” Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết gì khác hơn.” Điểm cần ghi nhận là từ sau trận hải chiến HS cho đến khi mất miền Trung, PĐĐ Thoại TL/HQ/VIDH vẫn còn tại chức. Như vậy là dưới mắt TT Thiệu, TL/V1DH đã thi hành đúng chỉ thị của ông khi ra lệnh khai hỏa. Có điều hơi khó hiểu là để trả lời cho câu hỏi :” Với tư cách là Tư Lệnh Chiến Trường, Đô Đốc có dự trù là nếu trong trường hợp đổ bộ lên đảo Quang Hòa không thành công, Đô Đốc sẽ rút toán Hải Kích về tàu, chỉ thị chiến hạm quay lại đổ bộ toán Người Nhái và Hải Kích lên tăng cường 3 đảo còn lại ở hướng Tây là Vĩnh Lạc (Money), Cam Tuyền (Robert) và Hoàng Sa (Pattle). Như vậy ta vẫn còn quân phòng thủ trên các đảo còn lại và vẫn còn 4 chiến hạm làm thành tuyến ngăn chận từ Hoàng Sa đến Quang Hòa trong khi chờ đợi những diễn tiến mới về chính trị, ngoại giao…?” [(2) câu hỏi số 13, trang 354)], PĐĐ Thoại đã không cho là ông phải thi hành lệnh của TT Thiệu như những lần trước mà ông lại trả lời :”Chỉ có nhựt ký của Trung Tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải mới trả lời được câu này.” Có phải chính ông cũng đã dự trù hành động như câu hỏi nêu trên, nhưng TT Thiệu vì tự ái dân tộc, căm phẩn trước kẻ thù truyền kiếp TC đã ngang nhiên xâm phạm lãnh thổ và nổ súng giết chết binh sĩ ta đã vội vàng đặt câu hỏi để kết thúc cuộc điện đàm như là một mệnh lệnh buộc ĐĐ Thoại không còn cách chọn lựa nào khác hơn là phải ra lệnh khai hỏa. Và biết đâu nếu như không có cú điện thoại của TT Thiệu, ngày nay Việt Nam vẫn còn giữ lại các đảo phiá Tây nhóm Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa và TC sẽ bớt hung hãn hơn trong vùng Biển Đông. Xác nhận TT Thiệu đã ra lệnh khai hỏa từ phiá HK: 1.- Đại Sứ Martin.(xem ‘Các hoạt động liên quan đến biến cố Hoàng Sa’ ở phần trên) 2.- Indochina resource center, Washington,D.C. FEB 1, 1974 : ’báo cáo cho là chính TT Thiệu đã ra lệnh khai hỏa những phát súng đầu tiên vào Trung Cộng ở Hoàng Sa.’ 3.- Ký giả Phil McCombs thuộc báo Washington Post ở Sài Gòn viện dẫn nguồn tin từ các giới chức thẫm quyền HQVN cho biết là chính TT Thiệu đã ra lệnh chiến hạm VN khai hỏa trước, sau khi các chiến hạm TC khiêu khích các chiến hạm VN trong vùng (18) Phân tích về nhận định của cựu Bí thư Hoàng Đức Nhã về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong biến cố Hoàng Sa. Gần đây trong ngày 23 tháng 9, trên www.bbc.co.uk có đăng bài phỏng vấn với tựa đề :“Cựu bí thư Hoàng Đức Nhã nói về di sản của cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Văn Thiệu và "bi kịch" mất Hoàng Sa.” nội dung như sau: Hoa Kỳ "không thông báo" cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa:"Sao Hoa Kỳ thấy như vậy với bao nhiêu phương tiện quan sát điện tử, thấy sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc lại không cho phía Việt Nam Cộng hòa biết." Ông Nhã cho biết ông và Tổng thống Thiệu đã "không tin" khi nghe đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, ông Graham Martin nói rằng phía Hoa Kỳ "không thể thấy được". Ông Hoàng Đức Nhã nói ông đã chất vấn Đại sứ Martin Ông Nhã khẳng định ông Thiệu đã ngay lập tức chỉ đạo chính quyền, ngoại giao và quân đội Việt Nam Cộng hòa phản đối hành động "xâm lăng" khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Trong một công bố với tư cách của người làm chứng, ông Hoàng Đức Nhã thuật lại, dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Thiệu, ông đã "gọi điện cho đại sứ Hoa Kỳ" và chất vấn vì sao rằng chuyện một hạm đội di chuyển mà người Mỹ "không thấy" thì quả là khó tin.” Trong đoạn phát biểu này, ông Nhã không nói rõ thời gian là lúc nào. Nhưng qua câu :”… phản đối hành động “xâm lăng” khi hạm đội của Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa.” có thể suy ra là ông Thiệu đã chỉ thị cho ông Nhã trong hoặc sau ngày 20-1, sau khi lực lượng HQVN đã rút về Đà Nẵng trong ngày 19-1 và TC đã đưa lực lượng Hải Lục và Không quân tiến chiếm trọn vẹn quần đảo HS trong ngày 20-1-1974. Hầu hết tài liệu viết về trận hải chiến HS đã chứng tỏ là trước và trong lúc xảy ra trận hải chiến, lực lượng TC tham dự gồm có 4 chiếm hạm tương đương hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, 2 tàu đánh cá và 1 hoặc 2 tàu đổ bộ. Sau khi các chiến hạm ta rời vùng, lúc 12 giờ 12 phút có thêm 2 chiến hạm khác đến tăng cường đánh chìm HQ 10. (19) Viên chức dân sự Gerald Kosh thuộc tòa Tổng lãnh sự HK tại Đà Nẵng đã cho biết là trong khuya vào lúc 03:30H ngày 21-1, ông đã được đưa xuống tàu rời đảo HS và trên đường di chuyển ông đã nhận dạng 18 chiến hạm TC hiện diện trong vùng (20). Như vậy sự kiện TC đưa lực lượng hùng hậu để chiếm HS là chuyện có thật và điều này cũng dễ hiểu vì họ đã dự trù là với một lực lượng như thế , TT Thiệu sẽ phải cân nhắc cẩn thận trước khi có ý định sử dụng vũ lực để tái chiếm HS. Có điều là TT Thiệu chất vấn HK để làm gì khi mọi chuyện đã an bài, thì dù HK có thông báo đi nữa cũng làm sao đổi ngược lại tình thế một khi VNCH đã không có kế hoạch nào để đối đầu với sách lược của TC kể từ lúc đầu và làm sao có khả năng quân sự để tái chiếm HS một khi HK đã nhất quyết không can dự ! Thật là trớ trêu khi từ ngày 11-1 cho đến ngày 19-1, không tài liệu nào chứng tỏ là chánh phủ VNCH đã có bất cứ lần tiếp xúc nào với phiá HK, ngoại trừ ĐS Martin trong ngày 17-1 đã gặp NT Vương Văn Bắc để cho biết về lập trường của HK và đề nghị với VNCH phương thức hành xử . Nhưng đến khi mất HS thì lại trách HK không thông báo về sự di chuyển của hạm đội TC. Ví thử HK có thông báo thì TT Thiệu sẽ đối phó cách nào. Ngay cả dự định gởi F-5 ra oanh tạc HS trong ngày 21-1 cũng phải hủy bỏ thì ông còn cách gì khác hơn ? (21) Và làm cách nào để giải thích lý do từ khi ông “giao khoán” trách nhiệm đối đầu với lực lượng TC cho TL/V1DH không có một tài liệu nào chứng tỏ là ông đã có sự quan tâm và theo dõi đến tình hình HS, khi gặp TL/HQ Trần Văn Chơn tại Đà Lạt trong chiều ngày 18-1, ông cũng không hỏi han gì đến những diễn tiến ngoài HS. Sáng ngày 19-1 khi được tin cuộc đổ bộ lên đảo Quang Hòa thất bại, TC đã nổ súng gây thương vong cho lực lượng ta, ông vẫn thản nhiên tiếp tục chương trình thăm viếng chiến sĩ tại Quân đoàn 3. Sau khi mất HS, ông mới bắt đầu lo ngại Trường Sa sẽ là mục tiêu sắp tới của TC. Do vậy, ông đã làm HK ngạc nhiên khi chỉ khoảng 10 ngày sau đó vào ngày 31-1, ông ra lệnh cho HQ/VNCH tiến chiếm thêm 5 đảo ỏ Trường Sa. (22). Đây có thể nói là quyết định rất mạo hiểm vào lúc bấy giờ nhưng lại là một quyết định rất sáng suốt vì đã góp phần vào việc cũng cố và duy trì chủ quyền của nước Việt Nam trên hầu hết vùng Trường Sa cho đến ngày nay. Tiếc thay, phải chi ông có mối ưu tư ở HS kể từ lúc phát hiện tàu đánh cá TC cắm cờ trên đảo Cam Tuyền hoặc sớm hơn vài năm trước, có lẽ TC không quá lộng hành ở Biển Đông như ngày hôm nay Để kết luận, có thể nói khuyết điểm lớn nhất của TT Thiệu trong biến cố Hoàng Sa là ông đã không tiên liệu âm mưu chiếm đoạt HS của TC vì vậy ông đã không chỉ đạo các cấp lãnh đạo dân sự và quân sự dự trù kế hoạch đối phó và phối hợp phương thức hành động. Và cũng như tất cả những người Việt Nam yêu nước, ông đã căm phẩn khi TC không những xâm phạm lãnh thổ nước ta mà chúng còn nổ súng gây tử vong cho chiến sĩ ta, do vậy ông đã nóng lòng vội vàng đặt câu hỏi “như vậy hải quân đã làm gì chưa?” không có ý nghĩa nào khác hơn là chúng đã bắn mình trước các anh còn chờ gì nữa, và ĐĐ Thoại đã hiểu ý của TT Thiệu, lệnh khai hỏa đã được ban hành và đã dẫn đến kết quả quần đảo HS hoàn toàn thuộc về TC. THAM KHẢO : - (1) Điện văn số 072480 ngày 24 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK - (2) Điện văn số 046612 ngày 22 tháng 1-1974 của TĐS/SG gởi BNG/HK. - (3) Ủy ban nghiên cứu trận hải chiến Hoàng Sa “Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974”- TH/HQ&HH/VNCH tháng 9-2010, USA. - (4) Hồ Văn Kỳ Thoại “Can trường trong chiến bại” USA, 5-2007. - (5) Lê Văn Thự (HQ Đại Úy Trung Tâm Trưởng TTHQ/HQ/V1DH) :” Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lệnh Hải Quân” hqvnch.net/default.asp?id=1267&lstid=135. - (6) Điện văn số 029248 ngày 20 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK . - (7) Điện văn số 0587 ngày 21 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi Tướng Brent Scowscoft-Hội Đồng An Ninh Quốc Gia HK (NSC-National Security Council). Trong điện văn này Đại Sứ Martin không nói rõ có phải chính ông đã can thiệp buộc TT Thiệu phải ngưng lệnh dội bom HS. - (8) Điện văn số 924 ngày 21 tháng 1-1974 cuả TĐS/HK/SG gởi BNG/HK. - (9) Thềm Sơn Hà “Thư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gởi Tổng Thống Richard Nixon” hqvnch.net/default.asp?id=1047&lstid=135- (10) Văn thư ngày 8 tháng 2-1974 của NSC gởi Ngoại Trưởng Henry Kissinger - (11) Điện văn số 303253 ngày 22 tháng 1-1974 của Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp (JCS-Joint Chiefs of Staff) gởi BTL/HQ/HK, - (12) Vương Văn Bắc “ Nhớ lại và suy ngẫm về vụ hải chiến Hoàng Sa”, nhật báo Nguời Việt online Saturday, February 21, 2009. - (13) Kiem Do and Julie Kane "Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer's War", Naval Institute, Press, Annapolis, Maryland, 1998. - (14) Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Nói Về Hải Chiến Hoàng Sa TUYẾT MAI . Việt Báo Thứ Bảy, 1/12/2008, 12:02:00 AM. - (15) Thềm Sơn Hà “Kế hoạch cưỡng chiếm Hoàng Sa tháng 1-1974 của Trung Cộng”. Đặc san Đồng Nai-Cửu Long số 12 tháng 3-1011 và hqvnch.net/default.asp?id=1036&lstid=135- (16) Hải Sử Tuyển Tập “Hải chiến Hoàng Sa” Tổng Hội HQHH ấn hành 2004 – USA. - (17) Điện văn số 025483 ngày 19 tháng 1-1974 của TĐS/HK/SG gởi BNG/HK - (18) Điện văn số 075995 ngày 22 tháng 1-1974 cuả BNG/HK gởi TĐS/HK/SG. - (19) Thềm Sơn Hà “ Lực lượng Trung Cộng trong biến cố Hoàng Sa”http://hqvnch.net/default.asp?id=1000&lstid=135. - (20) Điện văn số 325606 ngày 01 tháng 2-1974 của ban thẩm vấn G. Kosh gởi cho Tư Lệnh/LL/HK tại Thái Bình Dương. - (21) Điện văn số 0587 ngày 21 tháng 1-1974 của Đại Sứ Martin gởi Brent Scowcroft (NSC - National Security Council) - (22) Thềm Sơn Hà “HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa vào tháng 2-1974”.http://hqvnch.net/default.asp?id=1429&lstid=135 Phụ Chú: 1.- Trong tham khảo (5), HQ Đ/U Lê Văn Thự viết về TL/HQ :”…Nghe tin xấu về HQ 10, Đô Đốc Trần Văn Chơn quá xúc động , ông gục đầu vào máy KW 58 nước mắt chảy dài.” Ngoài ra trong điện văn số 076622 ngày 06 tháng 2-1974 của TĐS/HK/SG gởi về BNG/HK cũng đã viết về sự nhạy cảm của ông : “…Đô Đốc Chơn TL/HQ đã khóc trong buổi tiếp đón tù binh đã được TC phóng thích ngày 31 tháng 1.” 2.- Trong bài “Lệnh khai hoả trận Hoàng Sa 34 năm về trước“ tác giả Giao Chỉ viết : ”Khi đặt bút viết bài này có tựa đề là Lệnh Khai Hoả. Tác giả là một chiến binh lục quân chân đất, hoàn toàn không có kiến thức Hải Quân nên chỉ xin lạm bàn chút đỉnh. Lệnh khai hoả thực sự bắt đầu từ đâu và vào lúc nào? Ðô Đốc Kỳ Thoại viết trong chương sách về trận Hoàng Sa có ghi rằng đại tá Ngạc chỉ huy hạm đội xin ông lệnh khai hoả. Qua máy truyền tin tiếng súng bắn tại Hoàng Sa, đại tá Ngạc mở lớn cho ông Thoại nghe thấy. Bút ký của sĩ quan truyền tin trên HQ 5 cũng ghi rõ đoạn này. Tài liệu bằng Anh ngữ của đại tá Ðỗ Kiểm thuộc bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn lại ghi rằng đại tá Ngạc điện thoại về xin lệnh khai hoả của đề đốc tư lệnh Hải Quân. Lúc đó tư lệnh đang trên đường bay ra Vùng I. Vì chuyện khẩn cấp nên đại tá Kiểm xin lệnh của đô đốc Diệp Quang Thủy có mặt tại bộ tư lệnh Sài Gòn. Nhận lúc họp bạn với anh em Hải Quân để viết lại câu chuyện làm phim, chúng tôi có dịp nói chuyện thêm chi tiết với đô đốc Thủy. Bây giờ đại tá Hà Văn Ngạc không còn nữa. Người viết chuyện tò mò muốn tìm hiểu đành phải suy nghĩ rằng trước khi nổ súng ông đã gọi bộ tư lệnh Hải Quân để xin phép trước. Qua Đô Đốc Diệp Quang Thủy ông được lệnh Sài Gòn. Sau đó ông cẩn thận xin lệnh Ðà Nẵng qua đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và lệnh khai hoả bắt đầu.” Trong trích đoạn trên, quả nhiên đã có sự mâu thuẫn về lệnh khai hoả như tác giả Giao Chỉ viện dẫn. Để sáng tỏ sự việc, cần phải có một bài viết dài để phân tích (tác giả hy vọng sẽ có bài viết sau này). Ở đây, xin đưa ra vài nhận xét ngắn gọn: * Dựa trên dẫn chứng từ tài liệu tham khảo (17) thì ĐĐ thoại ra lệnh các chiến hạm tác xạ vào đảo vào lúc 08:50H nhưng vì lý do gì các chiến hạm đã không lập tức thi hành lệnh của ông mà phải đợi đến 10:24H các chiến hạm mới bắt đầu khai hỏa nhưng lần này mục tiêu là các chiến hạm TC ? Qua các bài viết từ các chiến sĩ đã tham dự trực tiếp trận hải chiến, có thể tìm được câu trả lời hợp lý nhất như sau: “ Khi Đại Tá Ngạc (thi hành lệnh ĐĐ Thoại) gọi máy ra lệnh cho các Hạm Trưởng khai hỏa lên đảo, các vị này nhận thấy lệnh này không hợp lý và họ đã trình bày ý kiến của mình. Phản ứng của các vị Hạm Trưởng đã đặt Đ/Tá Ngạc trong tình trạng khó xử và có lẽ chính ông cũng nhận thấy sự vô lý nên đã gọi máy về BTL/HQ để giải thích và xin chỉ thị. Và đây có lẽ là lý do vì sao PĐĐ Diệp Quang Thủy và HQ Đ/Tá Đỗ Kiểm đã gián tiếp can dự vào trận hải chiến Hoàng Sa”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 12, 2018 16:42:52 GMT 9
HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa vào tháng 2-1974 hqvnch.net/default.asp?id=1429&lstid=135Thềm Sơn Hà Trong khoảng thời gian gần đây, tác giả may mắn có dịp gặp vị Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân Trần Hưng Đạo 48 (THĐ48) là HQ Đại Tá Nguyễn Văn May. Ngoài ra tác giả cũng đã trao đổi điện thư với HQ Trung Tá Vũ Quốc Công nguyên Hạm Trưởng HQ 07 và HQ Trung Úy Trương Văn Liêm tác giả bài viết “Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và Hoàng Sa 19 tháng 1-1974” để tìm hiểu thêm chi tiết. Thêm vào đó, HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Cần đã gởi cho tác giả bức hình chụp trong lần công tác Trường Sa xác nhận ngày và đơn vị Địa Phương Quân đổ bộ lên đảo Song Tử Tây. Dựa trên những lời bổ túc của Đại Tá May, các điện thư, hình ảnh và các tài liệu liên hệ xác nhận sự tham dự của HQ5 trong cuộc hành quân THĐ48 (tài liệu do TĐS/HK dịch lại từ bản tin của Việt Nam Thông Tấn Xã ngày 23 tháng 2 năm 1974 không có tên HQ5) (1), tác giả xin viết lại bài này một cách đầy đủ hơn và được đăng dưới đây.
------------------------------------------- Lời mở đầu: Sau ngày 20 tháng 1-1974, quần đảo Hoàng Sa hoàn toàn thuộc về Trung Cộng. Đã biết trước thái độ không can dự về mặt quân sự lẫn nhân đạo của người bạn đồng minh Hoa Kỳ, tuy vậy, ngày 22 tháng 1, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn gởi thơ cho Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon yêu cầu “ hết lòng hỗ trợ về vật chất và chánh trị cần thiết “, nhưng bức thơ này đã không được Hoa Kỳ ưu tiên phúc đáp. Lo ngại về việc TC có thể tiến chiếm Trường Sa sau khi đã cũng cố Hoàng Sa (2) (cũng như lần khai hỏa ở Hoàng Sa, không cần hội ý trước với Hoa Kỳ), Tổng Thống Thiệu đã làm cho Hoa Kỳ sững sốt khi vào ngày 30 tháng 1-1974 ( 10 ngày sau khi mất Hoàng Sa), ông đã ra lịnh cho Hải quân VNCH mở cuộc hành quân THĐ48 trực chỉ Trường Sa đổ quân chiếm đớng thêm 5 đảo (3). Cuộc hành quân này đã chứng tỏ cho thế giới thấy là mặc dù đã chịu đựng tổn thất trong trận hải chiến Hoàng Sa và với các chiến hạm có khả năng hoạt động viễn duyên hầu hết đều cũ kỷ, chậm chạp, vũ khí lỗi thời nhưng Hải quân VNCH đã chứng tỏ vẫn còn đủ khả năng để cũng cố chủ quyền quốc gia Việt Nam ở Trường Sa và ngang nhiên thách thức Trung Cộng nếu chúng có ý định tiến chiếm Trường Sa. Trong ấn bản”Conway’s All the world Fighting Ships 1947-1982 – Part II ấn hành năm 1983” đã viết về Hải quân VNCH như sau :”HQVNCH đã chứng tỏ sự dũng cảm trong tháng 1-1974. Trung Cộng đưa một tiểu đoàn xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cách 225 hải lý về hướng Đông Viêt Nam, nhưng cường quốc Cộng Sản đã phải trả gíá với 2 chiến hạm bị đánh chìm và 2 chiếc chiếc khác bị thiệt hại nặng bù lại một chiến hạm Việt Nam bị chìm (có 23 người sống sót đã được thương thuyền Hòa Lan cứu vớt). Mười ngày sau đó chiến hạm Viêt Nam đã đổ quân lên quần đảo Trường Sa vài trăm hải lý về hướng Nam để ngăn ngừa bị cưỡng chiếm” Mặc dù đây là một quyết định rất mạo hiểm của Tổng Thống Thiệu, nhưng chính quyết định này của ông đã nới rộng chủ quyền của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa và đã khiến TC hoản lại ý định bành trướng đế quốc của họ xuống Trường Sa cho đến năm 1988.* * * Thi hành lịnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ngày 30 tháng 1-1974 (chỉ 10 ngày sau trận hải chiến với hải quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa 19-1-1974) Hải quân VNCH đã phát động cuộc hành quân trực chỉ Trường Sa để cũng cố chủ quyền và mở rộng sự kiểm soát của Việt Nam trong khu vực này. Mục đích của cuộc hành quân là thiết lập sự hiện diện của VNCH trên các hòn đảo chưa bị chiếm đóng. Vị chỉ huy truởng hành quân đã nhận chỉ thị là không nên có hành động thù nghịch đối với bất cứ lực lượng nào khác có thể có mặt trong vùng và không được đổ quân lên bất cứ đảo nào đã bị chiếm đóng từ trước. 1.-Tình trạng quần đảo Trường Sa. Cho đến tháng 1-1974, ngoài Việt Nam còn có Đài Loan và Phi Luật Tân đã chiếm cứ một số đảo sau đây trong quần đảo Trường Sa: - Đài Loan (Trung Hoa Quốc Gia): đảo Ba Bình hay Thái Bình (Itu Aba) là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Tháng 1-1946, THQG tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa Tháng 12-1946 Đài Loan với danh nghĩa đại diện Đồng minh đã gởi một toán hải quân lên tiếp thu đảo Ba Bình từ tay Nhật Bản (3) (theo tài liệu của BNG/HK thì vào tháng 12-1945). Ngày 1 tháng 12-1947, Đài Loan loan báo đã tiêu chuẩn hóa tên các đảo lớn, nhỏ, các bãi đá ngầm và bãi cạn trong quần đảoTrường Sa. Tháng 7-1971, Đài Loan tăng cường quân số trên đảo Ba Bình lên đến khoảng 500 người (lực lượng trú đóng thuộc Thủy Quân Lục Chiến). - Phi Luật Tân: năm 1967, Phi đã đưa người lên các đảo để giúp cho việc duy trì các trạm trợ giúp hải hành. Sau khi phản đối Đài Loan đưa thêm quân lên đảo Thái Bình, khoảng vài ngày sau đó cũng trong tháng 7-1971, Phi đổ quân chiếm 5 đảo là Song Tử Đông (Northeast Cay - Parola island), đảo Thị Tứ (Thitu Island - Pagasa island), đảo Loại Tá (Loaita island – Kota island), đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island – Lawak island) đảo Dừa (West York island – Likas island) (4). Trong số này ba đảo Song Tử Đông, Thị Tứ và Loại Tá đã được Hải Quân VHCH dựng bia chủ quyền trong tháng 5 năm 1963. Hiện tại khoảng một Đại đội TQLC Phi Luật Tân với đầy đủ cấp số đang trú đóng 5 đảo nêu trên.(5) - Việt Nam Cộng Hòa: chiếm cứ đảo Nam Yết từ tháng 7-1973, có 64 Địa Phương Quân trú đóng trên đảo. 2.- Hành quân Trần Hưng Đạo 48. Chiến dịch này được đặt tên Trần Hưng Đạo 48, do Hải quân chỉ huy. Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân là HQ/ Đại Tá Nguyễn Văn May* (ông đang là CHT Hải Đội Tuần Duyên -Hải Đội I- thuộc BTL/Hạm Đội). Bộ chỉ huy hành quân đặt trên HQ07. Nguồn tin từ BTL/HQ cho hay Lực lượng đặc nhiệm gồm có một Tuần dương hạm (CG Cutter)-HQ5, một Hộ tống hạm (PCE)-HQ07 chở theo 17 Địa phương quân để thay thế cho các quân nhân quá nhiệm kỳ trên đảo Nam Yết (theo Hạm Trưởng HQ07 thì ông chỉ đưa toán ĐPQ lên đảo, không có tiếp nhận toán lính đáo hạn kỳ) và một Hải vận hạm (LSM)-HQ405 (6) chở theo 119 Địa phương quân thuộc tỉnh Phước Tuy với nhiệm vụ đổ quân lên 5 đảo dự trù sẽ chiếm cứ. Nhưng theo Đại Tá May thì lực lượng hành quân xuất phát từ Vũng Tàu sáng ngày 30 tháng 1 năm 1074 chỉ có hai chiến hạm là HQ07, HQ 405 và ĐPQ. Vài ngày sau, vào đầu tháng 2, Tuần dương hạm (TDH) Trần Bình Trọng-HQ5 đang công tác Vùng I Duyên hải nhận được lịnh trực chỉ Trường Sa để tăng cường {HQ tham dự trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1-1974, về Đà Nẵng ngày 20-1-1974 được sửa chửa khẩn cấp, đến ngày 22-1-1974 (mùng một Tết) nhận lịnh công tác ra khơi tìm kiếm các chiến sĩ đào thoát mặc dù chiến hạm còn trong tình trạng thiếu thốn, dụng cụ hư hại không được thay thế, các lỗ hổng chỉ được vá lại tạm thời... }. HQ07 và HQ405 đến địa diểm vào khoảng 00.40 giờ sáng ngày 1 tháng 2 và nhận lịnh chuẩn bị đổ quân vào lúc 0700 giờ. Công tác dự trù hoàn tất trong vòng vài ngày, nhưng vì thời tiết xấu, biển động và thủy triều xuống thấp nên việc đổ quân và quân cụ lên các đảo đã bị trì hoãn và kéo dài khoảng gần một tuần. Theo kế hoạch hành quân, Hải quân đã cho đổ bộ từ 20 đến 40 Địa phương quân lên các đảo sau đây : - đảo Trường Sa (Spratly island) - đảo Sinh Tồn (Sin Cowe island) - đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) - đảo Sơn Ca (Sand Cay island) Riêng đảo An Bang (Amboyna Cay) vì quá nhỏ (rộng khoảng 2 hectares) và cao hơn mặt biển độ 1m, nên giới chức thẩm quyền đã quyết định không đưa lính lên chiếm cứ đảo. Tuy nhiên đảo này vẫn được xem là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Mỗi đơn vị trú đóng trên đảo được cung cấp 2 chiếc xuồng, một số lều, giường ngũ, vũ khí cá nhân và một số dụng cụ để săn bắt hải sản quanh đảo dùng cho thức ăn hàng ngày. Lực lượng bộ binh trú đóng ở Trường Sa thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 371 Địa phương quân tỉnh Phước Tuy. Bộ chỉ huy đặt căn cứ trên đảo Nam Yết do Trung Úy Đoàn Cận Tiêm chỉ huy. Tất cả đều xung phong tình nguyện để bảo vệ quê hương trước âm mưu xâm lăng của giặc thù Trung Cộng. Trong lúc hành quân đã không có sự va chạm nào với các lực lượng ngoại quốc mặc dù có hai chiến hạm của Đài Loan hiện diện trong vùng. Theo HQ Đại Tá Nguyễn Văn May thì HQ07 do HQ Trung Tá Vũ Quốc Công làm Hạm Trưởng đã phát giác sự có mặt của 2 chiến hạm Đài Loan đang tiến về đảo Ba Bình (Itu Aba), một chiếc là Khu trục hạm (Destroyer –DD loại này lớn hơn loại DE) và chiếc kia là Dương vận hạm (LST). Vì hai chiến hạm Đài Loan không có thái độ thù nghịch nên vị Chỉ huy trưởng hành quân đã không ra lịnh cho các chiến hạm vào nhiệm sở tác chiến. Hạm Trưởng HQ07 đã viết về giai đoạn này như sau:”….. Đài Loan luôn có 1 Khu trục hạm (DD) túc trực tại cầu tầu ở phía nam đảo Ba Bình. Họ tăng cường thêm một Khu trục hạm (DD) và một Dương vận hạm (LST) trong thời gian hành quân THD48 triển khai. Chiến hạm này nhập vùng cùng ngày với HQ07. Trên mỗi khu trục hạm của Đài Loan đều có 1 trực thăng. Không thấy sự hiện diện của các loại phi cơ khác. Vào ngày TQLC Đài Loan tập trận, được nhân viên báo cáo, tôi lên Đài chỉ huy để quan sát thấy khoảng 6 chiếc thiết giáp lội nước đang từ bên trong chiếc LST (chiếc này thường ủi bãi Đông Nam của đảo Ba Bình) chạy ra vào đội hình hàng ngang tiến vào bãi. Lính gác báo cáo trước đó khoảng 15 phút đã có một đợt thiết giáp lên bờ và phân tán sau rặng cây. Do vậy tôi đoán là họ có ít nhất là 2 chi đội thiết giáp lội nước (amphibious tank) đồn trú trên đảo. Chúng tôi vừa quan sát, vừa đề phòng một cách kín đáo. Trong thời gian bao vùng yểm trợ cho bộ binh trấn thủ đảo Trường Sa và đảo Sinh Tồn, HQ07 thường vào neo trong vịnh nhỏ nằm giữa Ba Bình và Sinh Tồn. Đôi bên(ta và Đài Loan) có liên lạc bằng quang hiệu và cờ, nhưng luôn giữ hòa khí (tất cả các súng đều được bao lại...). Tôi không còn nhớ "họ" và "ta" trao dổi những gì...” Khoảng giữa tháng 2, BTL/HQ đã gởi thêm một số chiến hạm gồm có Tuần Dương Hạm (TDH) Phạm Ngũ Lão-HQ15, TDH Ngô Quyền-HQ17 và Yểm Trợ Hạm Mỹ Tho-HQ800 chở vật liệu và toán Công Binh Kiến Tạo để lo việc xây cất doanh trại cho các toán ĐPQ trú đớng trên các đảo ở Trường Sa. Cuộc hành quân kéo dài khoảng gần một tháng và khi các chiến hạm ta rời vùng, chiếc LST của Đài Loan cũng hải hành về hướng Bắc, có lẽ trở về Đài Loan. Tuy nhiên HQ5 vẫn ở lại vùng hoạt động cho đến khoảng giữa tháng 4 mới được lịnh chấm dứt công tác trở về Sài Gòn (7) (HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Cần đã cho phép tác giả xử dụng bức ảnh này) Hình chụp bia lưu niệm trên đây đã chứng minh ngày, tháng và đơn vị Địa Phương Quân đổ bộ lên đảo Song Tử Tây trong cuộc hành quân Trần Hưng Đạo 48 do Hải Quân tổ chức. Không tìm thấy hình ảnh bia này trong các bức hình do CSVN phổ biến từ sau năm 1975. Ghi chú:- 1 hectare=10,000m2 * HQ Đại Tá Nguyễn Văn May tốt nghiệp khóa 5 SQHQ/NT năm 1955. Ông là vị Tư lịnh sau cùng của Vùng 5 Duyên Hải. Học tập cải tạo13 năm và đến định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1993. *** Đây là đoạn email của HQ Trung Tá Vũ Quốc Công: a.- Cây dừa ở phía Đông Nam đảo là đặc trưng của đảo Song Tử Tây. Trong hình, xa xa sát cây dừa là lô-cốt (blockhaus) do Pháp hay Nhật xây (Lô cốt nằm ở phía Nam Song Tử Tây). b.- Khoảng 10;0 AM ngày 2/5/1975, khi dẫn lộ HQ 802 đi tị nạn, khi qua Song Tử Tây, tôi dùng hệ thống speaker thông báo cho anh em Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Bộ Binh và Không Quân mà tôi đón lên HQ 802 trong các ngày 28, 29, 30 tháng 4/1975 và bà con dân sự mà tôi vớt từ các ghe tàu đánh cá đủ loại để họ nhin đảo Song Tử Tây. Lúc đó tôi nói: " Ở phía bên phải tàu là Đảo Song Tử Tây. Đảo là nơi có cây dừa nhô lên, chếch nghiêng về phía sau lái tàu. Đây là cơ hội cuối cùng để bà con nhìn VN lần cuối..." Mọi người chen nhau nhìn về Song Tử Tây... Tất cả đều sa nước mắt. Đó một kỷ niệm khó quên. Tài liệu tham khảo:(1) điện thư số 018391 ngày 23FEB74 của TĐS/HK tại Sài Gòn “…the mission was carried out within operation Tran Hung Dao 48 launched early February,1974 with the participation of four patrol craft : Dong Da HQ 07, Tran Hung Dao HQ 01, Pham Ngu Lao HQ 15 and HQ 17 and a Landing Ship Tank (LST) My Tho HQ 800…” (2) -điện thư số 070943 ngày 23JAN1974 của BNG/HK “…chánh phủ VNCH cho là lực lượng Trung Cộng chiếm HS có thể sửa soạn tiến về quần đảo TS” (3)- điện thư số 099386 ngày 08FEB74 của TĐS/HK tại Đài Bắc. - Bài viết “Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam” của tác gỉả Lãng Hồ thì :”…Trung Hoa Dân Quốc cho quân chiếm đóng hai quần đảo vào ngày 7-1-1947, Chánh phủ Pháp vào ngày 13-1-1947 đã chính thức phản kháng với Trung Hoa Dân Quốc và tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam.” (trang 103 tập san Sử địa, số 29 từ tháng 1 đến tháng 3-1975) - Lịnh đầu hàng do Đồng Minh yêu cầu Nhật Bản thi hành như sau : ”Các cấp chỉ huy cao cấp Nhật Bản và tất cả các lực lượng Hải, Lục, Không quân và lực lượng phụ thuộc trong phạm vi nước Trung Hoa (ngoại trừ Mãn Châu), Đài Loan và Đông Dương thuộc Pháp nằm ở hướng Bắc vĩ độ 16 Bắc sẽ đầu hàng Thống Chế Tưởng Giới Thạch – The senior Japanese commanders and all ground, sea, air and auxiliary forces within China, (excluding Manchuria), Formosa and French Indo-China North of 16 degrees North latitude, shall surrender to Generalissimo Chiang Kai-shek” (4) - theo tài liệu cuả Lưu Văn Lợi chỉ có 4 đảo ( không có đảo Dừa –West York island) - Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa&Trường Sa - Luận văn tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh cuả Sinh Viên Đinh Phan Cư, tháng 9-1972 (trích trong Hoangsa.org). - điện thư số 078114 ngày 06FEB74 của TĐS/HK tại Manila (5) điện thư số 098104 ngày 26JAN74 của TĐS /HK tại Manila (6) “Hải chiến Hoàng Sa, HQ 5 Trần Bình Trọng” của HQ Thiếu Úy Phan Công Minh đăng trong www.hqvnch.net. viết là HQ 407. - trong bài này có đề cập đến sự hiện diện của hai chiến hạm Đài Loan. (7) “Soái hạm HQ 5 và trận hải chiến Hoàng Sa” Bùi Ngọc Nở,www.ubhoangsa.org
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2018 1:00:58 GMT 9
Thượng Đức : Trận đánh đầu tiên
Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản mới đây mà đã 30 năm. Đối với lịch sử, 30 năm không là gì cả, nhưng đối với một đời người, 30 năm là một quảng thời gia quan trọng, nó dài hơn một phần ba cuộc đời, nhất là khi đó là một phần ba cuối đời!
Cách đây 10 hay 15 năm về trước, một số chính khách miền Nam lưu vong vẫn còn nuôi mộng trở lại nắm một địa vị hay một chức vụ nào đó trên quê hương, trong đó có cả cựu Quốc Trưởng Nguyễn Khánh và cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng lịch sử chẳng chờ ai. Thay vì quay trở lại quê hương, họ đã lần lượt đi vào lòng đất!
Cho đến hôm nay, nhiều người vẫn đang còn cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi: Tại sao miền Nam đã mất quá nhanh như thế? Thời gian 30 năm cũng đủ để cho mọi xúc cảm lắng xuống và quay nhìn lại lịch sử một cách khách quan và chính xác hơn, từ đó rút ra những bài học cho các thế hệ đang tới, dù là những bài học rất đau đớn.
Để góp phần trả lời câu hỏi nói trên, trước hết chúng tôi xin trình bày qua về trận đánh THƯỜNG ĐỨC, một trận đánh mở màn cho cuộc xâm chiếm miền Nam của Hà Nội. Qua trận đánh này, chúng ta sẽ thấy các chiến sĩ VNCH ngoài mặt trận đã chiến đấu rất kiên cường và rất thiện chiến, sẵng sàng hy sinh tất cả cho tổ quốc, trong khi đó các cấp lãnh đạo lại quá yếu kém về cả quân sự lẫn chính trị, lại còn độc đoán và tham những, nên đã đưa miền Nam vào cảnh tang thương chưa từng có trong lịch sử với những hậu quả còn kéo dài đến ngày nay!
SƠ LƯỢC KẾ HOẠCH CỦA HÀ NỘI
Tháng 10 năm 1973, nghĩa là mới 9 tháng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, hội nghị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 21 họp tại Hà Nội đã đưa ra nghị quyết như sau: “Con đường thắng lợi của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng, bất cứ trong tình hình nào cũng phải giữ vững đường lối chiến lược tiến công, phải nắm vững thời cơ và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng tiến lên.” Nghị quyết nầy mở màn cho những cuộc tấn công mới chiếm miền Nam sau Hiệp Định Paris.
Để có thể kết thúc chiến trường một cách nhanh chóng, kế hoạch của Cộng Quân là đánh thẳng vào đầu não của miền Nam ở Sài Gòn, bỏ qua các tỉnh miền Trung. Muốn vậy, phải đưa quân vào Phước Long và Bình Long. Muốn đưa quân vào hai tỉnh này, công việc đầu tiên mà Bắc Việt phải làm là hoàn thành con đường Đông Trường Sơn, khúc từ Đông Hà (Quảng Trị) đến Phước Long. Hà Nội cho biết nếu phải vận chuyển bằng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào, từ Nghệ Tĩnh vào đến Pleiku, quân đội Bắc Việt phải mất ít nhất 6 tháng. Trái lại, nếu vận chuyển bằng đường Đông Trường Sơn trên lãnh thổ miền Nam, chỉ mất có một tháng. Vì thế, Hà Nội phải cho làm con đường Đông Trường Sơn bằng mọi giá. Trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” xuất bản năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng đã viết:”Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức khẩn trương nối liền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000 kilô mét...
”Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000 kilô mét ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt cả sông, suối sâu, núi cao, có ngọn hơn 1000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe các loại vào, ra trên đường...”
KHÁI LƯỢC VỀ ĐÔNG TRƯỜNG SƠN
Ngày xưa, sau khi chiếm Đông Dương, Pháp đã cho thiết lập một quốc lộ đi nép chân phía đông dãy Trường Sơn trên lãnh thổ Việt Nam, gọi là Quốc lộ 14. Quốc lộ này có tổng chiều dài là 1.380km và đi qua 10 tỉnh: Từ Nghệ An qua Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Kon Tum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Bình Phước. Khi lập con đường này, Pháp nhắm các mục tiêu sau đây:
(1) Bảo vệ an ninh lãnh thổ, (2) Hành quân thanh toán các tổ chức buôn lậu, (3) Khai thác lâm sản (4) Khai triển và xử dụng các sắc tộc thiểu số.
Trong chiến tranh Việt - Pháp từ 1945 đền 1954, con đường này bị bỏ phế vì Pháp không đủ khả năng bảo vệ. Sau Hiệp Định Genève 1954, khi vừa ổn định xong miền Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nghĩ ngay đến việc làm lại Quốc lộ 14 để bảo vệ lãnh thổ. Công việc này được khởi sự từ năm 1958 và giao cho Liên Đoàn 4 Công Binh phu trách. Liên đoàn này do Trung Tá Trần Văn Kha chỉ huy. Có lần Tổng Thống đã đích thân đến xem xét tại chỗ. Nhưng khi làm đoạn Kontum - Gia Vực, công việc cứ cù nhầy hoài, Trung Tá Kha bị cất chức. Chuyện xây dựng đường 14 chưa hoàn tất thì Tổng Thống Diệm đã bị Mỹ giết.
Khi Mỹ đổ quân vào miền Nam, quân đội Mỹ đã cho thiết lập các đồn bót trên con đường 14, từ Khe Sanh ở Quảng Trị đến Ban Mê Thuột, để ngăn chận sự di chuyển của Cộng quân. Vì không thể xử dụng con đường này, Cộng quân phải làm con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào để chuyển quân. Tiếc thay, sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam, các nhà lãnh đạo quân sự VNCH không nhận ra được tầm quan trọng của con đường 14 và cũng không có đủ phương tiện để bảo vệ, nên Cộng quân đã biến con đường này thành con đường chiến lược xâm chiếm miền Nam!
Đại khái, lộ trình con đường Đông Trường Sơn do Cộng quân làm lại như sau: Khởi đầu từ Khe Cát thuộc huyện Bố Trạch ở Quảng Bình, vượt sông Bến Hải phía trên nguồn đi qua chiến khu Ba Lòng ở Quảng Trị vào Thừa Thiên, qua A Lưới, A Shau rồi đi nép theo biên giới Việt - Lào phía sau đèo Hải Vân vào Quảng Nam, khi đến Khâm Đức thì vòng lên Ngọc Hồi thuộc Kontum. Đến đây, vì khúc đường 14 từ Kontum đến Ban Mê Thuột đang do quân đội VNCH trến giữ nên Cộng quân phải làm con đường thứ hai lấy tên là đường 14A đi sát biên giới Việt - Lào qua các tỉnh Kontum, Pleiku và Ban Mê Thuột. Tại đây, hai đường Trường Sơn Tây và Trường Sơn Đông gặp nhau rồi đổ xuống Lộc Ninh, Chơn Thành, Bình Long và Phước Thành.
Kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy nhiều khúc đường 14 từ Thừa Thiên đến Ban Mê Thuột đang được Cộng quân sửa chửa hoặc chuyển quân. Cạnh con đường đó, có một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt. Biệt kích đã được thả xuống nhiều nơi để thám sát hoặc phá vỡ. Các phi cơ A.37 được gọi đến để oanh tạc những đoàn xe đang chạy trên đường 14 hoặc các toán nhân công đang làm đường, nhưng phá xong thì chỉ ít lâu sau, Cộng quân đã làm lại. Chỉ có B.52 mới có thể phá sập những hệ thống đường và ống dẫn dầu rộng lớn. Nhưng lúc đó B.52 không còn!
Tuy nhiên, trên con đường 14 có hai cái chốt do Quân lực VNCH trấn giữ, Cộng quân không thể đi qua được, đó là THƯỜNG ĐỨC ở phía tây Đà Nẵng và ĐỨC LẬP ở phía tây Ban Mê Thuột. Vậy muốn thông con đường Đông Trường Sơn, Cộng quân phải thanh toán THƯỜNG ĐỨC và ĐỨC LẬP bằng mọi giá. Điều đáng tiếc và cả Tổng Thống Thiệu lẫn các Tướng Lãnh VNCH đã không nhận ra được chiến lược và chiến thuật của địch, nên không có các biện pháp bảo vệ hữu hiệu.
KHÁI LƯỢC VỀ THƯỜNG ĐỨC
Thường Đức (có sách viết là Thượng Đức, nhưng không đúng) thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm ở phía tây Đà Nẵng, cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số và cách biên giới Việt - Lào khoảng 50 cây số. Để giúp độc giả dễ nắm vững hơn những trận đánh được mô tả trong bài này, trước tiên chúng tôi xin mô tả qua về địa thế tỉnh Quảng Nam và vị trí quận Thường Đức trong tỉnh này.
Lãnh thổ miền Trung khi đi qua ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên thì thu nhỏ lại, có nơi bề ngang chỉ 50 cây số, nhưng khi qua khỏi đèo Hải Vân đi vào tỉnh Quảng Nam, lãnh thổ bung rộng ra. Vì thế, tỉnh Quảng Nam rất lớn, có diện tích đến 11.043 cây số vuông. Tuy nhiên, 72% lãnh thổ tỉnh này là núi rừng, trong đó có rất nhiều đỉnh núi rất cao như đỉnh Lam Heo 2.045m, đỉnh Tion 2.032m, v.v. Có nhiều khu rừng nguyên sinh chưa khai phá như rừng Phước Sơn. Chỉ khoảng 25% lãnh thổ là đồng bằng. Vì thế, việc bảo vệ Quảng Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Năm 1962, để bảo vệ an ninh lãnh thổ và phát triển, chính phủ Ngộ Đình Diệm đã ban hành sắc lệnh chia tỉnh Quảng Nam ra thành hai tỉnh: tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam từ đèo Hải Vân đến sông Rù Rì và tỉnh Quảng Tín là phần đất còn lại.
* Quảng Tín gồm 6 quận: Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Hiệp Đức, Hậu Đức và Lý Tín. * Quảng Nam được chia ra 9 quận: Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang và Hiếu Nhơn.
Thường Đức là một quận mới được thành lập năm 1962, tách ra khỏi quận Đức Dục cũ, nằm sâu vào trong núi. Từ quận Điện Bàn nằm trên Quốc lộ 1 có Liên tỉnh lộ 4 chạy nép theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, nhưng đường sá rất hiểm trở. Thường Đức nằm ở ngã tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc lộ 14. Sở dĩ chính phủ Ngô Đình Diệm cho thành lập quận này là để cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân di chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh sống.
Con đường 14, khi qua khỏi phía sau đèo Hải Văn thì gặp Hiên, người Pháp gọi là Prao, nằm cách Đà Nẵng khoảng 90 cây số, sau đó đi xuống thung lũng sông Vu Gia, nơi có bến Giằng nằm trên nhánh sông Cái và quốc lộ 14. Thung lũng này không rộng lắm. Tại đây có một đồn biên giới của Pháp ngày xưa và có một số làng Việt Nam sống bên ngoài thung lũng. Chính phủ Ngô Đình Diệm đã dùng nơi đây làm quận lỵ Thường Đức.
Qua khỏi Thường Đức, đường 14 đi vào mật khu Hiệp Đức của Cộng quân, chạy dọc phía trên các quận Đức Dục, Tiên Phước, Hiệp Đức và Hậu Đức, vào đến Khâm Đức thuộc Phước Sơn rồi quẹo lên Kontum.
DỨT ĐIỂM THƯỜNG ĐỨC
Tỉnh Quảng Nam là vùng xôi đậu. Dựa trên tài liệu “Việtnam from Cease-Fire to Capitulation” (Từ Đình Chiến đến Đầu Hàng) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ do Đại Tá William E. Le Gro biên soạn, và dựa trên sự tường thuật của nhiều nhân chứng, chúng tôi xin tóm lược về trận Thường Đức như sau:Trong thời gian 1973 và 1974, phía Việt Nam Cộng Hòa có Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ tỉnh Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Tín. Sư đoàn này có ba trung đoàn cơ hữu là Trung Đoàn 2, Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57. Trung Đoàn 2 phụ trách khu vực Gò Nồi và quận Đức Dục. Trung Đoàn 56 chịu trách nhiệm về hai quận Quế Sơn và Thăng Bình. Trung Đoàn 57 là trung đoàn trừ bị.
Hai nơi hiểm yếu và chịu áp lực nặng nhất là Nông Sơn và Thường Đức, được giao cho Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân. Liên đoàn này có 3 tiểu đoàn là 77, 78 và 79. Tiểu Đoàn 78 đóng ở Nông Sơn và Tiểu Đoàn 79 đóng ở Thường Đức. Quận lỵ Thường Đức vốn do một tiểu đoàn Địa Phương Quân bảo vệ. Vào giữa tháng 6 năm 1974, khi được tin Cộng quân có thể tấn công Thường Đức, Tiểu Đoàn 79 mới được đưa từ Quảng Ngãi về trấn giữ vị trí này.
Phía Cộng quân có Sư đoàn 711 và Trung Đoàn 52 biệt lập. Sư đoàn 711 có các trung đoàn 31, 38 và 270. Ngoài ra, Cộng quân còn có Tiểu Đoàn 10 Đặc Công. Sư Đoàn 711 đặt bản doanh tại mật khu Hiệp Đức nằm khoảng giữa Nông Sơn và Hậu Đức thuộc tỉnh Quảng Tín, và khống chế toàn bộ con đường 14 trong lãnh thổ tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, vì kẹt đồn Thường Đức, Cộng quân không thể khai thông đường 14 được. Tháng 6 năm 1974, Hà Nội ra lệnh dứt điểm Thường Đức, trước là để khai thông con đường Đông Trường Sơn, sau là thăm dò phản ứng của Hoa Kỳ.
Trong năm 1972, Sư Đoàn 711 đã chiếm quận Quế Sơn của tỉnh Quảng Nam và Tiên Phước của tỉnh Quảng Tín. Tháng 7 năm 1972, Sư Đoàn 3 VNCH và Biệt Động Quân đã chiếm lại hai quận này, sau đó mở cuộc hành quân Quang Trung 81 tiến từ Quế Sơn vào mật khu Hiệp Đức. Sư Đoàn 711 bị thiệt hại nặng, Trung Đoàn 270 của sư đoàn này phải bị giải thể. Đến năm 1974, Sư Đoàn 711 được đổi tên thành Sư Đoàn 2 và bắt đầu hoạt động trở lại với ba Trung Đoàn 1, 31 và 38. (Xin đừng lầm lẫn Sư Đoàn 2 này với Sư Đoàn 2 Sao Vàng đã bị B-52 tiêu diệt trong trận Kontum năm 1972 và sau đó phải giải thể). Vào khoảng tháng 6 năm 1974, kẻ viết bài nầy có đi với một phái đoàn báo chí ra Đà Nẵng và được đưa lên Thường Đức bằng trực thăng để quan sát mặt trận. Chúng tôi được nghe thuyết trình về các hoạt động của Cộng quân chung quanh quận Thường Đức và cho biết Cộng quân sắp tấn công Thường Đức. Như vậy Quân Đoàn I đã nắm rất vững kế hoạch tấn công của địch và sau đó đã đưa Tiểu Đoàn 79 BĐQ về trấn giữ ở đây.
Tuy Thường Đức chỉ do Tiểu Đoàn 79 BĐQ và một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trấn giữ, nhưng các Tướng của Cộng quân đã cho rằng “đánh Thường Đức còn khó hơn đánh Quảng Trị”, vì vị thế của Thường Đức rất hiểm trở. Vì thế, Bắc Việt phải huy động gần 3 sư đoàn để đánh Thường Đức: Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 304, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308.
Ở đây chúng tôi cũng xin mở một dấu ngoặc: Sư Đoàn 308 là một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, đã từng gây kinh hoàng cho Sư Đoàn 3 VNCH trong Mùa Hè Đỏ Lữa ở Quảng Trị. Nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, Sư Đoàn 308 đã bị B-52 tiêu diệt, chỉ còn lại khoảng một trung đoàn, tập hợp là thành Trung Đoàn 36. Phải chăng trong trận này, Cộng quân muốn dùng cái tên Sư Đoàn 308 để uy hiếp tinh thần của Sư Đoàn 3 VNCH?
Sư Đoàn 2 CQ và Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 có nhiệm vụ chận các đường tiếp viện. Trung Đoàn 29 thuộc Sư Đoàn 324B và Sư Đoàn 304, một sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt, mở cuộc tấn công thẳng vào Thường Đức. Mặt trận do Tướng Hoàng Đan, Quân Đoàn Phó Quân Đoàn 2 của Cộng Quân làm Tư Lệnh.
Trước khi đánh Thường Đức, ngày 18.7.1974 Cộng quân cho Trung Đoàn 36 của Sư Đoàn 308 đánh chiếm Nông Sơn, nơi đang do Tiểu Đoàn 78 BĐQ trấn giữ. Cụm phòng thủ Nông Sơn “ Trung Phước nằm hai bên bờ sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc chỉ 16 cây số. Với sự tăng cường của 2 tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 2 CQ và Tiểu Đoàn 10 Đặc Công, vào trưa 18.7.1974, Cộng quân đã tràn ngập căn cứ Nông Sơn. Sư Đoàn 3 VNCH liền đưa Trung Đoàn 2, một pháo đội 155 ly, một pháo đội 175 ly và một chi đoàn của Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh đánh chiếm lại, nhưng không tái chiếm được và bị thiệt hại nặng. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 VNCH phải huy động Liên Đoàn 12 BĐQ (gồm ba tiểu đoàn 21, 37 và 39) vào thay Trung Đoàn 2 mới tái chiếm được.
Ngày 29.7.1974, Cộng Quân mở cuộc tấn công vào quận Đức Dục do Tiểu Đoàn 21 BĐQ trấn giữ và bắn pháo vào phi trường Đà Nẵng, đồng thời cho Trung Đoàn 29 tấn công vào Chi Khu Thường Đức do Địa Phương Quân trấn giữ. Thông tin với Chi Khu bị mất liên lạc. Từ Đồi 52 gần Đại Lộc, Cộng quân đã pháo kích rất chính xác vào các vị trí phòng thủ của Tiểu Đoàn 79 BĐQ. Hai tiền đồn BĐQ ở phía tây bị mất liên lạc.
Sáng 30.7.1974, Chi Khu Phó Chi Khu Thường Đức bị thương do pháo kích, nhưng các cuộc tấn công của Cộng quân đều bị đẩy lui. Sau đó, phi cơ quan sát của Không Quân nhìn thấy một đoàn xe của Cộng quân đang di chuyển trên Liên tỉnh lộ 4 ở phía tây Thường Đức, liền gọi phi cơ đến oanh tạc, phá hủy được 3 chiến xa của Cộng quân và nhiều xe vận tải khác. Cũng trong ngày 30.7.1974, Biệt Động Quân đã bắt được một tù binh của Cộng quân và biết được lực lượng của Cộng quân đang mở cuộc tấn công là Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324B.
Ngày 31.7.1974, Cộng quân bắt đầu cho bộ đội tấn công vào Thường Đức. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 79 BĐQ gọi pháo binh bắn trọng pháo vào ngay Bộ Chĩ Huy của tiểu đoàn. Điều này chứng tỏ Công quân đã tràn ngập Bộ Chỉ Huy của tiểu đoàn. Được tin này, Tướng Nguyễn Duy Hinh quyết định cho Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 3 đang ở phía tây Đại Lộc tiến theo LTL 4 đến giải cứu Thường Đức, nhưng không tiến được. Tướng Hinh phải đưa đại bác 175 ly vào Hiếu Đức để bắn yểm trợ cho Thượng Đức, trong khi đó Không Quân đến oanh tạc vòng đai quanh Thượng Đức, gây tử thương cho 13 Cộng quân và 45 bị thương.
Tiểu đoàn 79 BĐQ có nhiều người bị thương nên đã yêu cầu cho trực thăng đến chuyển thương, nhưng Không Quân trả lời rằng chỉ khi nào diệt xong các ổ súng phòng không của Cộng quân quanh Thường Đức, trực thăng mới có thể hạ cánh được.
Khi thấy tình hình nguy ngập, Tướng Ngô Quang Trưởng đã ra lệnh cho một Chi Đội Thiết Giáp M-48 đang đóng ở Tân Mỹ, Thừa Thiên, di chuyển ngay vào Đà Nẵng để giải cứu Thường Đức. Ngày 1.8.1974, khi Chi Đội M-48 vừa đến Đà Nẵng, Tướng Hinh liền cho thiết lập một lực lượng đặc nhiệm gồm có Trung Đoàn 2 Bộ Binh và Thiết đoàn 11 Kỵ Binh đi tái chiếm Thường Đức, nhưng lực lượng này không tiến lên được.
Ngày 4.8.1954, Biệt Động Quân tìm thấy 53 xác Cộng quân bị máy bay oanh tạc chết ở những ngọn đồi phía tây nam Thường Đức.
Ngày 5.8.1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 bắt được một tù binh. Tù binh này khai thuộc Trung Đoàn 29 và cho biết trung đoàn này đang đóng giữa Thường Đức và Đồi 52. Tướng Hinh liền cho Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 57 tiến chiếm Đồi 52, nhưng khi còn cách đồi này khoảng 4 cây số thì phải dừng lại vì pháo của Cộng quân quá mạnh.
Trong khi đó, Trung đoàn 66 của Sư Đoàn 304 bắt đầu tấn công vào Thường Đức. Tiểu đoàn 79 BĐQ cho biết đạn dược và lương thực bắt đầu cạn. Máy bay đã đến thả đạn dược và lương thực xuống cho Tiểu Đoàn 79, nhưng không may tất cả đã rơi ngoài vòng rào, vì máy bay không dám bay thấp.
Ngày 6 và đêm 7.8.1974, Cộng quân pháo khoảng 1200 trái pháo vào căn cứ Thường Đức, sau đó cho bộ binh tràn vào. Lúc 8 giờ 30 sáng ngày 7.8.1974, Tiểu Đoàn 79 BĐQ thông báo không còn giữ căn cứ được, phải rút lui và cắt đứt liên lạc. Thường Đức hoàn toàn bị thất thủ.
LỰC LƯỢNG DÙ THAM CHIẾN
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, cuộc chiến Việt Nam tạm ngưng, nhưng hai sư đoàn tổng trừ bị là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến vẫn còn được Tướng Ngô Quang Trưởng lưu giữ tại Quân khu I.
Ngày 7.8.1974, sau khi Thường Đức bị chiếm và áp lực của Cộng quân đè nặng ở phía tây Đà Nẵng, Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định đưa Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù từ Thừa Thiên vào Đà Nẵng để tái chiếm Thường Đức.
Ngày 8.8.1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm 3 tiểu đoàn trực thuộc đã được vận chuyển đến Đại Lộc ở phía đông Thường Đức. Ngày 11.8.1974, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được di chuyển bằng phi cơ xuống phi trường Đà Nẵng sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm cho Liên Đoàn 15 BĐQ. Sau đó, Tướng Lê Quang Lưởng cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù vào đặt bản doanh gần bờ biển Non Nước, phía đông nam thành phố Đà Nẵng để chỉ huy.
Biết Quân Lực VNCH sẽ tìm cách chiến lại Thường Đức, Cộng quân cho Trung đoàn 29 chiếm giữ những ngọn đồi thấp ở phía nam của dãy núi núi cao chạy dọc theo sông Vu Gia và Liên tỉnh lộ 4, ngăn chận con đường gồ ghề và ngoẳn nghèo đi vào Thường Đức. Điểm cao nhất của dãy núi nầy là đỉnh 1235 cách Liên tỉnh lộ 4 khoảng 6 cây số về phía bắc. Đỉnh thứ hai là đỉnh 1062 nằm ở phía nam cách đỉnh 1235 khoảng 2 cây số. Cộng quân đã chiếm đỉnh 1062 để có thể kiểm soát đoạn đường từ Đại Lộc đến Thường Đức. Cộng quân cũng cho các tiền sát viên điều chỉnh pháo binh bắn chính xác vào các đơn vị của VNCH ở Đại Lộc. Vì thế, nhiệm vụ đầu tiên của hai Lữ Đoàn Dù là phải chiếm đỉnh 1062 bằng mọi giá.
Trước hết, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù được giao phó nhiệm vụ ngăn chận địch xâm nhập vùng quận Hiếu Đức. Ngày 18.8.1974, khi ba Tiểu đoàn 1, 8, và 9 Nhảy Dù vừa tiến quân thì đụng đầu ngay với các đơn vị của Trung đoàn 29 ở phía đông đồi 52 gần xã Hà Nha. Sau một tháng đánh nhau, hai bên đều bị thiệt hại nặng. Cộng quân phải điều Trung đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 2 vào Thường Đức thay thế Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 để Trung Đoàn 66 phụ lực với Trung đoàn 29 chống lại các đơn vị Nhảy Dù.
Vì Cộng quân đã cho làm các hầm hố kiên cố quanh đỉnh 1062 bằng những thân cây rừng to lớn nên pháo binh và không quân của VNCH không thể phá vỡ được. Do đó, Lữ Đoàn Dù đã phải quyết định phóng lựu đạn cay và bình E8 để buộc địch phải chui ra khỏi các hầm trú ẩn rồi xin máy bay thả bom lửa Napalm đốt. Nhưng Lữ Đoàn Dù vừa chiếm được các vị trí quan trọng quanh đỉnh 1062 được ít lâu, Cộng quân đã dùng một lực lượng đông đảo hơn để chiếm lại. Hai bên bị tiêu hao rất nặng.
Vào đầu tháng 9/1974, Cộng quân cho thêm Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đến trợ chiến với Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 66. Nhưng vào chiều ngày 19.9.1974, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù báo cáo đã chiếm được đỉnh 1062.
Ngày 2.10.1974, Tiểu đoàn 2 và Thiểu Đoàn 9 Nhảy Dù mở cuộc lục soát ở khu vực quanh đồi 1062 và dãy Sơn Gà, khám phá ra khoảng 300 xác địch và bắt sống được 7 tù binh thuộc Sư Đoàn 304. Một tuần sau, Sư Đoàn 304 lại mở cuộc tấn công tái chiếm đỉnh 1062. Nhưng nhờ pháo binh và phi cơ yểm trợ, các đơn vị Dù vẫn giữ vững đồi 1062.
Tính đến trung tuần tháng 10/1974, sau gần 2 tháng quần thảo với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 304 của Cộng Quân, Lữ Đoàn 1 Dù gồm 4 tiểu đoàn đã bị tổn thất khoảng 500 chiến sĩ vừa chết vừa bị thương. Phía Cộng quân bị thiệt mất trên 1200 người và 14 người bị bắt làm tù binh.
Ngày 29 tháng 10 năm 1974, Trung đoàn 24 của Sư Đoàn 304 đã dùng súng phóng hỏa đốt đồi 1062 khiến các lực lượng Dù phải rút khỏi đỉnh đồi. Ngày 1.11.1974 Cộng quân lại chiếm giữ đồi 1062 một lần nữa.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng liền ra lệnh cho Tướng Lê quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, phải lấy lại đồi 1062 với bất cứ giá nào. Ngày 8.11.1974, lực lượng Dù lại bắt đầu mở cuộc phản công và 3 ngày sau đã chiếm lại được đồi 1062,
Kể từ ngày 11.11.1974, Lực Lượng Dù đã ngự trị trên toàn ngọn đồi máu 1062 ở phía đông Thường Đức và thành lập tuyến phòng thủ trên các triền núi quanh đồi này. Công quân bị tiêu hao quá nhiều, không dám trở lại tấn công nữa. Tuy nhiên, Sư Đoàn 304 và Trung Đoàn 29 của Cộng quân đã thành lập một hệ thống phòng thủ vững chắc quanh Thường Đức để bảo vệ con đường 14, Quân Lực VNCH không thể tái chiếm Thường Đức được.
Vào cuối năm 1974, Lực Lượng Dù chỉ để lại trên đồi 1062 Tiểu Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 7, và đặt Bộ Chỉ Huy tại đỉnh Đông Lâm cách đồi 1062 khoảng 4 cây số về phía đông, để ngăn chận không cho Cộng quân tái chiếm đồi 1062.
KẾT QUẢ TRẬN CHIẾN THƯỜNG ĐỨC
Những trận đánh ác liệt quanh Thường Đức kéo dài từ ngày 18.7.1974 đến ngày 11.11.1974 đã đem lại những kết quả như sau:
Về nhân mạng: Theo sự ước tính của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, khoảng 2000 Cộng quân đã bị thiệt mạng và 5000 bị thương. Về phía VNCH, Tiểu Đoàn 79 BĐQ không còn nữa. Lực lược Nhảy Dũ cả chết lẫn bị thương gần đến 50%.
Về lãnh thổ: Lực Lượng Nhảy Dù đã chiếm lại được đồi 1062 ở phía đông Thường Đức, nhưng không tái chiếm được Thường Đức.
Năm 1965 cũng đã xẩy ra một trận đánh lớn ở đây. Cộng quân đã tập trung một lực lượng khá lớn để mở cuộc tấn công vào quận Thường Đức. Lực lượng này gồm có Mặt Trận 44 Quảng Đà, Trung Đoàn Q.82 và Nông Trường 2 Sao Vàng. Trận đánh diễn ra tại Ba Khe, Hà Nha và đồi Tétonon (1062). Trung Đoàn 51 Bộ Binh biệt lập của Việt Nam Cộng Hòa phải chiến đấu một cách anh dũng và vất vả mới có thể giữ được phần đất này. Sau trận đánh đó, hầu hết nhà cửa trong quận đều bị thiêu rụi, xác chết trôi đầy sông. Những trận đánh lớn như thế lại tiếp diễn vào tháng 1 năm 1972. Nhưng chưa lần nào Thường Đức bị mất hẵn vào tay Cộng quân như lần này.
KHÔNG TRI BỈ TRI KỶ
Ngày xưa, khi đến cai trị Đông Dương, người Pháp đã nhận ra ngay tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức trên đường 14, nên đã lập một đồn tại đó để kiểm soát. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng đã nhận ra tầm quan trọng của Thường Đức trên đường tiến quân của Bắc Việt, nên đã biến Thường Đức thành một quận và hình thành Chi Khu Thường Đức để trấn giữ. Mỹ can thiệp vào Đông Dương cũng đã đánh giá cao tầm quan trọng của Thường Đức, nên đã tìm cách khóa chặt chốt này, không cho Cộng quân di chuyển xuống miền Nam. Cộng quân phải xử dụng con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào rất vất vã.
Điều đáng tiếc là sau khi cuộc chiến được “Việt Nam hóa”, các nhà lãnh đạo quân sự của miền Nam đã không nhận ra được tầm quan trọng của cái chốt Thường Đức, không thấy được chiến lược và chiến thuật của Cộng quân là khai thông đường Đông Trường Sơn để đưa quân xuống đánh thẳng vào Sài Gòn, nên không quan tâm đến Thường Đức.
Nếu các tướng lãnh VNCH nhận ra được tầm quan trọng của Thường Đức, đưa khoảng một Liên Đoàn Biệt Động Quân đến thiết lập những nút chặn quanh Thường Đức, Cộng quân khó có thể khai thông con đường Đông Trường Sơn được.
Tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những không nhận ra được tầm quan trọng của việc cắt ngang con đường Đông Trường Sơn ở Thường Đức mà còn muốn mở thông con đường này cho Cộng quân chuyển xuống miền Nam để Vùng I của ông khỏi bị áp lực nặng!
Tân Sơn Hòa chuyển
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 17, 2019 1:29:13 GMT 9
Uẩn khúc Chiến dịch Lam Sơn 719, Đường 9-Nam Lào Phan Nhật Nam
Từ Đông Hà, thị trấn cực bắc lãnh thổ miền Nam, Đường số 9 bắt đầu chạy về hướng Tây qua những vùng đồi Cam Lộ, Hương Hóa, Lao Bảo để cuối cùng đến Khe Sanh với tiền đồn Làng Vây, sát biên giới Lào-Việt. Qua biên giới, con đường tiếp tục đi dọc sông Tchépone một đoạn dài khoảng 40 cây số, giao tiếp với đường [mòn] Hồ Chí Minh tạo nên vùng hậu cần quan trọng thuộc hệ thống Binh Trạm 604, 611 (lưu ý các phiên hiệu 604, 611 -Có nghĩa, cơ sở đã thành hình từ những năm 60, 61- Thời điểm dựng bảng hiệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960) của đường dây chuyển vận Bắc-Nam, nguồn huyết mạch sinh tử đối với binh đội cộng sản. Thế nên Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc quyết chiếm giữ, duy trì vùng tiếp vận quan yếu này bằng mọi giá trong suốt cuộc chiến tranh xâm nhập, lật đổ Miền Nam.
Tổng Công Kích đợt I Mậu Thân đầu năm 1968, miền Nam đã có hơn 19,000 người chết gồm dân và lính (số chính xác là 4,959 quân nhân VNCH tử trận và 14,300 thường dân thiệt mạng) Và đến năm 1970, toàn bộ sào huyệt hậu cần, từ chiến khu C, D miền Đông Nam Bộ đến Trung ương Cục Miền Nam trên đất Miên bị phá vỡ... Giới chức Mỹ-Việt ước đoán tiềm lực xâm lược miền Nam của phía cộng sản phải có dấu hiệu đình hoãn, hoặc suy giảm, và chiến dịch đánh qua đất Lào (đầu năm 1971) được hình thành để thực hiện quan niệm: Cắt đứt đường tiếp vận Bắc–Nam với tên thường gọi, Đường mòn Hồ Chí Minh. Nhưng không đúng với thực tế, bởi đã là một hệ thống đường có khả năng để chiến xa hạng nặng di chuyển với ống dẫn dầu, hệ thống tiếp liệu, tiếp vận quan trọng bố trí dày đặc tại điểm sinh tử Tchépone để đổi lấy một số thời gian an toàn đủ hoàn thành các đợt rút quân; ký kết Hiệp Định Paris trên thế lợi, tiếp rút khỏi Đông Dương như ứng cử viên tổng thống (tháng 10/1968) Nixon đã từng hứa hẹn với cử tri Mỹ.
Sự thật không xảy ra như ước tính và hy vọng (!), dù với tỷ lệ khả thể nhỏ nhất. Để yểm trợ cho những mặc cả chính trị tại Hội Nghị Ba-Lê đang đi vào thời điểm quyết định (mà sau này sẽ thấy rõ hơn ở năm 1972), phía Hà Nội lại chuẩn bị cho lần xâm lược mới qua việc thành lập Quân Đoàn 70B chỉ huy hành quân ba sư đoàn 304, 308 và 320 – những đơn vị phụ trách toàn vùng Nam Lào, bao gồm khu Phi Quân Sự, lãnh địa cực Nam của Miền Bắc. Tướng Võ Nguyên Giáp từ Tháng 10/1970 đã ra chỉ thị cho những đơn vị trên chuẩn bị kế hoạch phản công trường hợp quân đội miền Nam tiến đánh vùng Nam Lào qua việc thiết lập những vị trí pháo, khu vực phục kích, những vùng trực thăng (có thể) đổ quân... Có nghĩa: Phía Bắc quân đã chuẩn bị kế hoạch phản công từ khi chưa có lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 trước những bốn tháng!
I. Lam Sơn 719, Như thế nào? Để làm gì?
Kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719 được thiết lập và Ngày 8 Tháng Hai, 1971, chiến dịch bắt đầu với vùng hậu cần Tchépone là mục tiêu cần phải đánh chiếm, giữ vững trong một thời hạn đủ để phía cộng sản phải giảm mức tấn công tại Miền Nam (do thiếu tiếp vận, yểm trợ chuyển đi từ Miền Bắc). Thêm một lần, vùng địa đầu Quảng Trị “được” chọn lựa làm nơi chốn cho cuộc huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã kể, bởi cuộc hành quân này tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là nhân tố thực hiện chiến thuật.
Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy Đường số 9 làm địa giới trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành quân khai diễn đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn I Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù do Đại tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả ngạn sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North (39BĐQ); Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực 30 (TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số 9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ (đặt thuộc quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Nhảy Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9 và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau này tăng cường TĐ7 Dù), bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân này.
Sư Đoàn I Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt Nam Đường 9, hữu ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết lập các căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta1 để bảo vệ cạnh sườn trục tiến quân trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn I Thiết Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệu. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn này.
Tướng Abrams đã thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của Westmoreland. Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị tương đối nhỏ (không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những đại đơn vị, như người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị những đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình hình an ninh tương đối ổn định, cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ nào bị cộng sản chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài Gòn. Ngày 8 tháng 6, 1969 kế hoạch rút 25,000 quân chính thức được công bố với đơn vị đầu tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo, 29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6000 người. Ngày 9 tháng 10, sau nhiều tính toán đầy kịch tính, Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird công khai trình diễn màn kịch lớn – Việt Nam Hóa Chiến Tranh – Viên đá tảng của chiến lược Nixon.
Cũng cần nói rõ thêm về yếu tố chính trị đã dẫn đến Hành Quân Lam Sơn 719. Không phải đến thời điểm 69, 70 này, Tổng Thống Mỹ Nixon, người được Billy Graham đánh giá và mô tả chính xác: “người được chuẩn bị kỹ nhất để làm tổng thống nước Mỹ” đã phát hiện và xây dựng nên kế hoạch. Nhưng đúng ra từ tháng 10, 1968, đang trong giai đoạn vận động tranh cử, Nixon đã nhận ra “ẩn số” của vấn đề Việt Nam – Rút quân đội Mỹ khỏi chiến trường – Lời giải phương trình này không do ai xa lạ làm nên, chính tổng thống đảng Dân Chủ, Johnson đã gióng trước qua Thông Cáo Chung Manila ngày 25 Tháng 10, 1968 (được hoàn thành với nguyên thủ các nước tham chiến tại Việt Nam gồm Phi, Úc, Đại Hàn, Tân Tây Lan, và Thái Lan) – Với điều khoản trụ cột: Quân Mỹ và Đồng Minh sẽ rút hỏi miền Nam Việt Nam cùng lần quân với Bắc Việt. Hà Nội cũng phải cam kết không xâm nhập, yểm trợ lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam (?!)
Tuy đánh giá kế hoạch này là “không tưởng” với các phụ tá trong ban tham mưu tổ chức tranh cử, nhưng Nixon, con người với mẫn cảm chính trị tinh tế cũng đã nhận ra giải pháp thật sự có khả năng thực hiện để giải quyết mối rối Việt Nam – Cũng là phương cách hữu hiệu và an toàn nhất để “tháo gỡ” mối liên kết Nga-Hoa, đánh vỡ phần cân bằng cố kết của phe cộng sản trong chiến lược chính trị thế giới. Việt Nam Hóa Chiến Tranh Đông Dương với sự rút đi của quân lực Mỹ là bước chiến thuật vô cùng tinh tế lợi hại (lẽ tất nhiên phải chịu những hậu quả bất lợi cục bộ ban đầu) để tổ chức lại, tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương (vấn đề Miền Nam có tồn tại được hay không theo sau kế hoạch này là một chuyện khác). Hành Quân Lam Sơn 719 với xương máu Lính Việt nơi vùng heo hút Khe Sanh, Tchépone là “nền tảng ban đầu xây dựng nên Trật Tự Thế Giới Mới” hôm nay, với sự biến mất không cơ hội hồi phục của lực lượng cộng sản đệ tam. Qua thế kỷ 21, chúng ta có thể nói chắc như thế mà không sợ sai lầm.
Trở lại với chiến trận, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị lệnh hành quân đến ngày N của chiến dịch đã có những sự kiện “bất thường” tai hại để sau này biến hành tai họa vô lường đối với các đơn vị tham chiến. Lấy lý do bảo mật, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, cơ quan chỉ huy tổng quát cuộc hành quân hạn chế tối đa nhân sự tham dự việc soạn thảo lệnh, chỉ gồm những giới chức cao cấp (Phòng Ba, Hành Quân và Phòng Hai, Quân Báo), ban tham mưu quân đoàn dưới quyền Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, có tham dự của Trung tướng James W. Sutherland, Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV, đơn vị Mỹ trách nhiệm không, pháo yểm và tiếp liệu cho chiến dịch với hậu cần ở Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, Đà Nẵng.
Điển hình cho sự hạn chế này, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, đơn vị giữ nhiệm vụ nỗ lực chính cuộc hành quân chỉ được thông báo vào “Ngày 2 Tháng Hai – Một tuần trước khi chiến dịch khai diễn”. Sĩ quan tham mưu, chỉ huy các đơn vị trực thuộc của Sư Đoàn Dù ra đến Đông Hà, chuẩn bị vào vùng hành quân mới biết nhiệm vụ đánh qua đất Lào – Tin tức do dân chúng truyền rao! Nhưng thực tế, “bảo mật” đã là một điều bi hài, sau khi chiến dịch kết thúc, cơ quan CIA tổng kết, lượng giá kế hoạch, diễn tiến hành quân, đã phát hiện ra điều nguy biến đầu tiên và chính yếu: Toàn bộ lệnh, phóng đồ hành quân, những căn cứ hỏa lực dự trù, điểm đổ quân, thậm chí vị trí hỏa tập tiên liệu, lẽ tất nhiên tọa độ phi pháo yểm (của phía Hoa Kỳ, tùy thuộc vào mức độ thông báo từ phía Mỹ đối với bộ tư lệnh Quân Đoàn I)... Tất cả tài liệu “bảo mật” này đồng được chụp lại, sao y phó bản từ nơi in ấn lệnh hành quân!
Cũng không loại bỏ nguồn tin bị thất thoát từ bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, nơi Phủ Tổng Thống đường Công Lý. Sau 30 Tháng Tư, 1975, những điều tồi tệ tai họa này đã là sự kiện đương nhiên được xác định.
Cũng trong ý hướng bảo mật cuộc hành quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở VN, MACV, ra lệnh “cấm phổ biến” đối với báo chí, phát ngôn viên quân sự được lệnh không đề cập đến diễn tiến cuộc hành quân. Nhưng, tất cả đã là một “lầm lẫn vụng về”, như Kissinger mô tả về việc “cấm vận tin tức”, vì những nguồn tin đã lan tràn khắp nơi, bắt đầu từ nhiều nguồn mối. Và khi báo lên khuôn ở Hoa Thịnh Đốn đã có đầy đủ tin tức, kể cả tin về vụ việc “cấm vận”. Cuối cùng, Ngày 4 tháng Hai, lệnh cấm vô ích này được chính thức bãi bỏ. Thật sự, từ Ngày 2, Tháng Hai, một tuần trước “Ngày N-Ngày Khai Diễn” của chiến dịch, tin tức và lời tố cáo “hành vi xâm lăng Lào” đã tràn đầy trên trang nhất của báo chí Mỹ cũng như toàn thế giới.
Dân biểu George Aiken, Tiểu Bang Vermont, dẫu từ dưới thời Johnson vốn là người yểm trợ chính quyền đối với sách lược thực hiện ở Việt Nam, nhưng đối với cuộc hành quân lại đặt nên vấn đề với quốc hội “Dân Mỹ có quyền ‘phải’ được biết về tin tức mà cả thế giới đã biết theo như Tu Chính An Thứ Nhất ấn định..”
Ngày N-8 Tháng 2, 1972 Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 đã là một “bạch văn” phổ biến rộng rãi khắp thế giới, chỉ trừ những người lính đổ bộ xuống bãi đáp đang bị pháo kích, trên Đường Số 9 dày đặc mìn chống chiến xa mà bộ đội cộng sản đã có một thời gian lâu dài để chuẩn bị chôn dấu. Cuối cùng, tai họa đã thực sự xảy ra khi chiếc trực thăng chở phái đoàn báo chí ngoại quốc có Đại tá Phạm Vy, Trưởng Phòng 4, kiêm Tham Mưu Phó Tiếp Vận Quân Đoàn bị bắn rơi trong tuần thứ hai khi chiến dịch đang khai diễn – Toàn bộ hồ sơ trận liệt, diễn tiến hành quân đã bị phía cộng sản thâu giữ – Sự kiện Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 bị mất không hề được báo cáo! Thế nên vấn đề “bảo mật” của cuộc hành quân thật sự đã là một hài kịch thảm hại, và Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gánh hết phần hậu quả tai họa oan khốc này.
Đối lại với kế hoạch trên của phía Việt-Mỹ, Đoàn 70B với ba sư đoàn cơ hữu thuộc vùng giới tuyến và Hạ Lào, 304, 308, và 320; với thành phần yểm trợ tác chiến gồm một trung đoàn pháo, một trung đoàn chiến xa, quân số tổng cộng khoảng 36,000 người. Do có được đầu mối từ nhiều nguồn tin mật như phần trên vừa trình bày, Hà Nội rất mực yên tâm dồn quân vào vùng chỉ để một đơn vị, Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320 giữ mặt Bắc vùng phi quân sự. Do được bảo mật tối đa, áp dụng kỹ thuật ngụy trang tinh vi, quân cộng sản bố trí một trận địa pháo dày đặc từ cối 80, pháo tầm xa 130 ly, hỏa tiễn 122 ly theo một chiến thuật mới mẻ, “phân tán pháo binh-tập trung hỏa lực” để khi muốn tấn công một căn cứ hỏa lực, nhiều vị trí pháo đổ xuống cùng một lúc, phía quân Miền Nam khó lòng chỉ định mục tiêu phản pháo.
Song song với trận địa pháo, Bắc quân thiết lập một hệ thống phòng không chung quanh các bãi đáp, đường tiếp cận của phản lực khi yểm trợ, hoặc của trực thăng khi đáp xuống một căn cứ, ngoài đại liên phòng không 12.7 ly thông thường, còn có những đại bác phòng không hạng trung và hạng nặng 23, 37 và 57 ly. Quan trọng hơn hết là chiến xa T54 lần đầu tiên được dùng vào chiến trường Miền Nam, loại chiến xa hạng nặng này vượt trội khả năng lẫn hỏa lực so với chiến xa M41 thường dùng của quân đội miền Nam, chỉ chiến xa M48 mới có khả năng đương cự tương đương.
Đối với T54, bộ binh miền Nam với hỏa tiễn chống chiến xa M72 không thể triệt hạ được. Thế nên sau này, khi trận chiến bùng vỡ, trước T54, người lính chỉ còn phương tiện duy nhất: Dùng chính thân xác mình với lựu đạn tay để phá hủy chúng mà thôi.
Với chuẩn bị chiến trường chu đáo, bảo mật tuyệt kỹ, quân số vượt trội, hỏa lực áp đảo, Bắc quân bắt đầu trận đánh với chiến thuật tập trung tấn công từng cụm căn cứ hỏa lực theo hướng từ Bắc xuống Nam.
II. Trận chiến
Căn cứ Ranger North của Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân bị tấn công trước nhất. Sau nhiều ngày thám sát, dò đường chung quanh căn cứ, sáng ngày 19 tháng Hai, 1971, Trung Đoàn 102, Sư Đoàn 320 (tỷ lệ 4 đánh 1) sau nhiều giờ pháo kích bằng đại pháo tầm xa 130 ly, đến lượt sơn pháo bắn thẳng, che cho bộ binh tấn công từ mặt đông căn cứ, nơi tuyến phòng thủ mỏng manh nhất. Với yểm trợ hữu hiệu của pháo binh bạn từ những căn cứ xung quanh và phi cơ oanh tạc, tác xạ sát cận tuyến phòng thủ, Biệt Động Quân giữ vững căn cứ qua ngày thứ hai, mãi đến đêm tối trận chiến mới tạm chấm dứt.
Tin căn cứ TĐ39BĐQ bị đánh bay về Sài Gòn, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung tướng Lãm tạm đình chỉ kế hoạch tiến chiếm Tchepone như trù liệu với Lữ Đoàn I Dù và Thiết Kỵ? Nhưng cũng có ý kiến sáng suốt, đấy là Tướng Abrams đã thúc dục Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên hãy ra lệnh Tướng Lãm đừng để phí thời gian, lúc cộng sản chưa chuẩn bị đủ. Ngày 14, Abrams quá nóng ruột, đích thân cùng Tướng Viên ra Đông Hà gặp Tướng Lãm và Sutherland để quan sát tại chỗ và dục ông Lãm hãy khai triển gấp Sư Đoàn I Bộ Binh trên những cao độ nam Đường 9 để bảo vệ cạnh sườn cho Nhảy Dù và Thiết Kỵ tiến chiếm Tchépone như kế hoạch, dự liệu trong vòng ba đến năm ngày. Tướng Lãm đã để khoảng thời gian quý giá này trôi qua cho đến ngày 18, 19 như vừa nói trên.
Chẳng hiểu quá vâng lời ông Thiệu hay không đủ tự tin, Tướng Lãm đình chỉ lực lượng thiết giáp ngưng tiến quân, không có một quyết định, ý kiến nhỏ về, từ thực tế chiến trường. Hơn thế nữa, mối liên hệ “không cộng tác” giữa những viên tướng Tư lệnh Sư đoàn (Tướng Đống, Nhảy Dù; Tướng Khang, TQLC) với Tướng Lãm lại là yếu tố tai hại ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết định quan trọng tại chiến trường.
SĐ320 cộng sản thay đổi các đơn vị cơ hữu tiếp đánh vùi TĐ39BĐQ, quyết dứt điểm Ranger North để có khí thế ban đầu. Ngày 20, trực thăng cố vào vùng để tản thương và tiếp tế đạn cho TĐ39BĐQ, xạ thủ phòng không cộng sản bắn hạ một trực thăng tản thương, y tá Dennis Fujii phải ở lại cùng căn cứ. Trong cái rủi có điều may, Fujii trở thành y tá của căn cứ kiêm luôn nghiệp vụ hướng dẫn phi cơ oanh kích cận phòng. Cuối cùng, Fujii cũng được móc ra, nhưng trực thăng chở anh lại bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống Ranger South.
Viên y tá trở nên là nhân chứng sống cho cuộc chiến đấu kiên cường của Biệt Động Quân, sau này có những tay viết báo muốn khai thác khía cạnh bất lợi đối với quân miền Nam. Đã có nhiều lúc, những phi công F4 Phi Đoàn 40 Chiến Thuật nhìn thấy binh sĩ TĐ39BĐQ nằm trong màn lửa bom Napalm do họ thả xuống chung quanh căn cứ. Không được tiếp tế đạn, lính TĐ39 Biệt Động phải sử dụng lại súng, đạn của kẻ địch để tiếp tục trận chiến. Cuối cùng, chiều tối ngày 21 tháng Hai, sau hơn ba ngày đêm đương cự, với 178 người chết và bị thương nặng, quân số Tiểu Đoàn 39BĐQ chỉ còn 107 người, kể cả bị thương nhẹ có thể chiến đấu; quân cộng sản sử dụng một lực lượng (không phải gấp ba, bốn lần hơn như những ngày đầu trận đánh) tới 2,000 người với vũ khí mới trang bị, để thay thế cho hơn sáu trăm xác bỏ lại lềnh kênh quanh căn cứ (không ảnh đếm được số chính xác là 639), quyết trả hận Biệt động quân.
Nửa đêm, nương bóng tối, TĐ39BĐQ phải bỏ căn cứ rút về Ranger South. Cộng quân không chịu mất đà, dồn nỗ lực pháo cối dập xuống căn cứ Nam (Ranger South). Để giữ tinh thần chiến đấu cho binh sĩ còn lại và đỡ gánh nặng cho Tiểu Đoàn 21 BĐQ, một cuộc hành quân không vận với phối hợp chặt chẽ giữa phi cơ chiến thuật và trực thăng võ trang, 13 trực thăng đã hoàn tất một cuộc tải thương chớp nhoáng, lấy ra được 112 thương binh kể cả anh chàng “tiền sát viên bất đắc dĩ” Fujii. Tiểu Đoàn 21 BĐQ sau khi mất điểm tựa phía Bắc (Ranger North), cùng thành phần còn lại của TĐ39BĐQ rút về Đồi 31 của Nhảy Dù, sau đó được di tản khỏi vùng hành quân.
Chiến sử Lam Sơn 719 đoạn đầu với Biệt Động Quân được Tướng Sutherland đánh giá: “Một chiến thắng lớn của Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”, cho dù có những bôi bẩn ác ý do đám phóng viên tụ tập tại Khe Sanh khai thác hình ảnh ăn khách “lính bám càng trực thăng” trở về từ Hạ Lào do một vài binh sĩ trong cơn hốt hoảng, nhân lần tải thương kể trên đã bỏ trốn khỏi vùng hành quân. Ngoài ra, có một sự kiện xảy ra nơi xa nhưng quả thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Hạ Lào – Nếu như Tướng Đỗ Cao Trí không tử nạn máy bay (đến giờ này vẫn còn là một nghi vấn) và ông có mặt tại Khe Sanh trong ngày 23 Tháng Hai – Ngày Biệt Động Quân rời bỏ căn cứ thì có lẽ tình thế Lam Sơn 719 đã đổi khác. Bởi đã hơn một lần, với những đơn vị biệt động như những Tiểu Đoàn 21 và 39 BĐQ này, năm 1970, Tướng Trí đã một lần tạo nên kỳ công ở chiến trường Campuchia. Lịch sử rất nhiều lần bị biến đổi hẳn do những nguyên nhân rất nhỏ và bất ngờ. Bi kịch Hạ Lào tiếp diễn với lực lượng Nhảy Dù nơi Đồi 31 và 30 khi mặt Bắc hoàn toàn trống trải nguy nan.
Dư luận chính trị thế giới nói chung và riêng nước Mỹ thật không hề công bằng đối với quân lực Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa; không phải những tiếng lời phát xuất từ số đông quần chúng bình dân hoặc những bài báo độc địa, xuyên tạc của đám ký giả ngoại quốc hạng nhì, nhâng nháo nơi những quán rượu Sài Gòn; nhưng khởi động từ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, tác động đến cục diện toàn cầu như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Than; Trưởng Khối Đa Số Thượng Viện Mỹ, Mike Mansfield... Tất cả những nhân vật tiếng tăm này đồng dấy lên chiến dịch tố cáo: “Quân đội Mỹ tấn công chiếm đóng Lào!”, tức hàm ý cáo buộc lực lượng Mỹ của Tướng W. Sutherland qua hành quân Dewey Canyon, yểm trợ quân đội Miền Nam thực hiện Lam Sơn 719.
Cần nói thêm một lần để xác định: Bộ binh Mỹ không hề vượt qua biên giới Việt-Lào ở địa điểm Làng Vây. Lẽ tất nhiên, những lời cáo buộc trên được lập lại nguyên bản với bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Xô, Trung Cộng và Hà Nội. Cụm từ ngữ “Chiến tranh đế quốc xâm lược Mỹ” dần trở nên là một “thực thể” của diễn tiến chính trị thế giới – qua báo chí (cũng nơi đất Mỹ) – thúc dục những đám phản chiến xuống đường kêu gào “hòa bình” và “giết Nixon cùng tất cả những kẻ nào chận bước tiến (của chúng ta) tới... tự do”. Những lời đao búa này của David Hilliard, thủ lãnh nhóm Báo Đen được Washington Post tán tụng: “... Xuyên sâu những ngôn từ mạnh mẽ hùng hồn này, chúng ta khám phá ra những điều kỳ lạ và đẹp đẽ biết bao. Họ (những kẻ phản chiến) đã là hỗ trợ cho những điều tốt lành nhất đối với đất nước!”.
Tất cả những cáo buộc sai lạc hàm hồ này được thành hình từ đầu Tháng 2, 1971, khi lực lượng VNCH còn ở trong lãnh thổ Việt Nam. Những kẻ trên hoàn toàn không biết (do ngu muội) hoặc không muốn biết (do ác ý) sự kiện: “Quân xâm lược thực thụ phải là đoàn quân có danh hiệu Quân Đoàn 70B của cộng sản Bắc Việt. Để sau 1975 được được chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn hãnh diện xác nhận: Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”
Nhắc lại thêm một lần cũng không thừa: Binh đoàn quân đội chính quy cộng sản Bắc Việt đã thành hình và có mặt nơi đất Lào từ năm 1970. Chính phủ Lào ở Vạn Tượng cũng không nói những gì khác và đúng hơn về những điều gì đang xảy ra trên đất nước họ.
Cánh quân trung phong gồm Lữ Đoàn I Nhảy Dù với các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Lữ Đoàn I Thiết Kỵ từ căn cứ Hàm Nghi tiến chiếm những những mục tiêu Bravo, Alpha, A-Lưới trên Đường 9 không mấy khó khăn dù hướng tiến quân đã bị gài đặt mìn bẫy từ nhiều ngày qua. Căn cứ tiền phương A Lưới, cách Tchépone khoảng dưới mười dặm được thiết lập vào buổi chiều ngày 8 đúng như dự định, bộ phận bộ binh Bắc Việt giữ chốt trên Đường 9 không ngăn nổi sức tiến quân nhanh chóng, thần tốc của Nhảy Dù và Thiết giáp. Hơn thế nữa những pass B52 đánh theo yêu cầu chiến thuật của lực lượng dưới đất, dọc hai bên con đường đã hủy diệt phần lớn cánh quân phục kích này. Các đơn vị Nhảy Dù trên Đường 9 khám phá nhiều kho tàng vũ khí quan trọng, gồm 3,000 xe đạp mới, cũ, kho nhiên liệu xăng, dầu cặn, áo quần, lương khô Trung Cộng, Nga lần đầu tiên được sử dụng ở chiến trường miền Nam và hằng trăm, hằng ngàn xác chết vương vãi không toàn thây của những đơn vị Bắc Việt.
Về chiến trường mặt bắc Đường 9, Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù được trực thăng vận xuống hai Đồi 30, 31; hai căn cứ hỏa lực được thiết lập với chỉ danh của hai cao độ này. Nhưng chiến trường không hề thuận tiện như những ngày đầu vì Bắc quân đã gióng trước với lính Dù qua máy truyền tin: “... chúng mầy sẽ biết thế nào là trận địa pháo của quân giải phóng!” Lời đe dọa không hề là giả thiết và cảnh địa ngục thật sự đã mở ra.
Chúng ta hãy chứng kiến một đoạn về trận chiến nơi Đồi 31, căn cứ hỏa lực Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù, cũng là vị trí đầu cầu của Tiểu Đoàn 3 Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung úy Phạm Đồng (tác giả Phan Hội Yên) được lệnh chiếm đóng trong những ngày đầu của chiến dịch. Viên Trung úy Trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 33, kể lại trong tập chuyện “Hạ sĩ Khinh Binh”:
“Tôi phất tay cho trung đội đồng loạt ném hết số mìn chiếu sáng về phía trước... Tách! Tách!... Xoè... xoè... Bốp, bốp... Ngọn lửa bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía địch quân; râu tóc mặt mày chúng tôi cũng cháy nám khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở... Lửa cuộn trong tiếng quân reo. Lửa tràn lên theo cỏ tranh dòn dã, khói bốc mịt mù... Khói làm màn che cho quân ta tiến tới. Vùng vẫy trong bão lửa, quân xông lên.
Lưỡi lửa liếm một vòng cung, thắt gọn vị trí địch trong vùng hỏa công dữ dội. Những căn hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon cho ngọn lửa. Hầm đạn nổ tung toé, cả vùng đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa. Địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có kẻ trên lưng đang bốc khói.
Tổ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh những ổ kháng cự yếu ớt còn sót lại.. Làm sao có thể chống cự được, khi trước mặt là lửa táp, khói thốc theo luồng gió lùa vào mồm, mũi... Chưa kịp dụi mắt, ngáp gió, lấy hơi, quân ta đã tiến tới, lưới đạn càn quét, quyết liệt... Trong ráng chiều chưa tắt, nắng xuyên qua khói, lửa giải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân chạy dọc ngang trên đỉnh đồi như phút giây linh thiêng hào hùng sông núi chuyển mình...”
Sau khi trung đội của Trung úy Phạm Đồng đã chiếm lĩnh được mục tiêu với lần mất đi sinh mạng những chiến hữu thiết thân, những khinh binh Chí, đề-lô pháo binh Tâm, và chỉ dấu thua thiệt lớn nhất: Đại úy Lê Thành Bôn, đại đội trưởng, tác giả của trận đánh hỏa công của đoạn viết kể trên. Đồi 31 trở nên cảnh chết tàn khốc vào ngày 25 tháng Hai: “Sau trận tập trung pháo kích, xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong...Hai, ba, năm... bảy, tất cả mười một chiếc bỏ lại bộ binh (của phía Bắc quân), cùng lao xuống đồi về phía chúng tôi. Một chiếc đang bò ngang chông chênh trên sườn đồi lãnh ngay một trái 105 trực xạ, hất nhào xuống vực thẳm. Nhưng đoàn xe tăng vẫn tiếp tục vừa bắn vừa tiến và chiếm dần bãi trực thăng.
Hạ sĩ nhất Chính và tiểu đội khinh binh lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu khi tăng tiến qua bãi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp (giữa hai đỉnh đồi) trước khi bám đánh khu vực phòng thủ trung tâm căn cứ. Chính dẫn theo Bình, Tám, Ngôn, mỗi người thủ sẵn một cây M72 (hỏa tiễn chống chiến xa) đã ở vị trí chờ kích hỏa; Chuẩn úy Nghĩa, trung đội phó, đòi đi theo tổ khinh binh; mắt anh hừng hực uất hận bởi thấm đau từ lần đụng trận đầu tiên của đời lính, đã hiểu nghĩa tận cùng cào xé trước xác thân đồng đội.
Mỗi người chúng tôi quả có tâm lý của kẻ không đường trở lại, phải tiến lên phía trước, vượt qua hèn mọn của chính mình... Mất đi ý niệm phân biệt sống, chết. Mà có khi phải chết còn thanh thản hơn được sống! Hai chiếc tăng ùn ùn tiến vào khu vực trung tâm, Nghĩa nhảy phắt lên chiếc thứ hai, thảy gọn trái M26 vào lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống thì trúng đạn, nằm chồng lên xác địch thủ. Cùng lúc, có tiếng nổ “bục” tức tối, khói từ trong chiếc tăng bốc lên... Nhưng sao nó vẫn tiếp tục chạy! Quờ quạng được một đoạn ngắn, chiếc chiến xa nổ tan làm hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng xác Nghĩa.
Và trận đánh kết thúc với cảnh tượng vô vàn bi tráng mà phải là người trong cuộc mới có thể viết nên với những dòng đẫm máu như sau:
“... Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch, chúng tôi (Đại đội 31 và 33) chỉ còn giữ được một phần bộ chỉ huy tiểu đoàn và lữ đoàn, nhưng không còn ai trong những vị trí hầm chỉ huy cả, tất cả đã ra ngoài, sát vai tác chiến cùng khinh binh, xạ thủ nơi tuyến đầu; hệ thống truyền tin chỉ huy vẫn được duy trì ở cấp trung đội, dù trên thực tế, mỗi trung đội còn không quá mười người...
Tất cả khái niệm sống, chết đã trở thành vô nghĩa. Và cũng không còn thì giờ, hoàn cảnh để chọn lựa. Những người lính còn lại của lữ đoàn đồng hăm hở lao lên trong cố gắng tuyệt vọng... Bắn... bắn, thụt thêm một trái M72 đi. Lựu đạn... lựu đạn... Những bóng áo rằn rì nhảy lên pháo tháp xe tăng địch, những thân người vùng vẫy cào cấu, lắt lẻo trên thành xe, tan nát dưới lườn xích sắt. Bây giờ bộ binh địch đã phối hợp cùng chiến xa, tràn lên căn cứ... Mặt đối mặt với lưỡi lê, báng súng, lăn xả vào nhau, bắn giết, đâm chém... Hoặc loay hoay với những khối sắt không làm sao phá vỡ với tay trần, với vũ khí cá nhân.
Bom bầy, pháo lũ dội xuống... Bom của ta, pháo của địch, lưới lửa của cả hai bên đồng chụp xuống một chỗ, lính hai bên cùng chia nhau lãnh đạn... Những chiếc nón sắt rơi lông lốc, những đôi dép râu đứt quai nhầy nhụa trong dòng nước đỏ ối, đậm đặc đang dần kết thành giải suối máu lăn lóc chảy chậm xuống sườn đồi!
Cuối cùng, hai Đại Đội 33, 34/TĐ3ND không thể nào giữ được Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 do quân Bắc Việt tập trung toàn bộ lực lượng bộ binh của mặt Bắc Đường 9 được pháo 130 ly yểm trợ, chiến xa T54 dẫn đầu... Những chiến xa hạng nặng này cày vỡ tất cả công sự chiến đấu của Đồi 31, đè sập hầm chỉ huy của Lữ Đoàn III nên Đại tá Thọ đã yêu cầu Pháo binh Nhảy Dù bắn tiêu hủy ngay trên vị trí phòng thủ. Trung tá William. N. Peachey, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ158/Không Vận Mỹ từ trên chứng kiến những giây phút bi thảm cuối cùng của Đồi 31. Đến một lúc, lính Bắc Việt không cần phải nổ súng bởi những chiếc T54 chỉ việc đè lên những người lính Nhảy Dù trấn giữ đồi 31.
Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan Lữ Đoàn III, Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh gồm Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Trung tá Trần Văn Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, Đại úy Lê Đình Châu và nhiều sĩ quan trung cấp, hạ sĩ quan, binh sĩ bị bắt sống, phần đông đã bị thương, mất năng lực chiến đấu, hết đạn, vũ khí không còn sử dụng vào những ngày trước khi căn cứ bị tràn ngập.
Lực lượng Nhảy Dù quả đã hẳn ưu thế chiến đấu khi bị bó chặt nhiệm vụ trên những cao độ không còn được yểm trợ liên hoàn, do để trống mặt Bắc khi các Tiểu Đoàn Biệt Động 21, 39 phải rời bỏ căn cứ như đã trình bày ở đoạn trên. Sự kiện mất căn cứ Đồi 31 cũng có nguyên do là đoàn chiến xa M41 thuộc Thiết Đoàn 17 Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ có hai đại đội Tiểu Đoàn 8 Dù từ căn cứ A Lưới được lệnh di chuyển tăng cường cho Đồi 31 đã không đến kịp điểm hẹn. Toán quân này lại bị phục kích vào ngày sau khi trên đường tiến gần mục tiêu, cuối cùng nhờ B52 đã can thiệp hiệu quả bằng cách dội bom tiếp cận đội hình tiến quân, phá vỡ trận địa phục kích của Bắc quân. Sau hai pass B52, chiến trường hoàn toàn yên lặng, người sống sót nằm ngất trên mặt đất bị đào xới tung tóe lầy nhầy thịt xương người của các đơn vị bộ đội thuộc Sư Đoàn 320. Tổng số 800 xác chết là số lượng đếm được về đơn vị cộng sản bị giết bởi B52.
Căn cứ Đồi 31 thất thủ, Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ còn lại trơ trọi suốt một vùng mặt Bắc Đường 9, và biến thành điểm lửa của toàn bộ hệ thống hỏa tập Bắc quân. Nhưng kỳ diệu thay, do bản lĩnh riêng của viên tiểu đoàn phó và sĩ quan hành quân, Thiếu tá Nguyễn Văn Mạnh, Đại úy Trần Công Hạnh, tiểu đoàn đã cầm cự được suốt một tuần sau và chỉ rời bỏ căn cứ khi Hotel (danh hiệu truyền tin của Đại úy Hạnh) trực tiếp liên lạc với phi hành đoàn của các phi cơ yểm trợ chiến thuật và trực thăng Mỹ để tác xạ trực tiếp và dội bom lên ngay tuyến phòng thủ đơn vị...
Nương theo khe hở sống chết này, Tiểu Đoàn 2 Dù rút khỏi vòng vây với quân số chỉ bị tổn thất tương đối. Hơn thế nữa, đơn vị này trên hướng di tản khỏi căn cứ còn mở đường cứu vây Tiểu Đoàn 7 Dù, đơn vị vào tăng cường cho TĐ1 và TĐ8 Dù, hai tiểu đoàn này cũng đã bị tổn thất nặng trong tuần lễ cố giải vây cho Lữ Đoàn III Dù ở đồi 31 (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1ND Nguyễn Văn Phan tử trận; hai tiểu đoàn phó, Trần Đăng Khôi, TĐ7; Đào Thiện Tuyển, TĐ8 bị thương nặng, phải di chuyển khỏi vùng hành quân). Cuối cùng, lệnh tiến chiếm Tchépone như dự trù với lực lượng Nhảy Dù và Thiết Kỵ trên Đường 9 không hề được thi hành. Lời thúc dục, khuyến cáo của Tướng Cao Văn Viên, Abrams với Tướng Lãm tại Đông Hà ngày 16 tháng hai về việc thực hiện quan niệm hành quân trên đã không hề được quan tâm. Nghi án sự chậm trễ và thay đổi kế hoạch điều động các đơn vị đến nay vẫn còn là một ẩn số chưa có lời giải thích thỏa đáng.
III. Tchépone, Chiếc bẫy sập đóng lại
Khi lực lượng Nhảy Dù và Thiết Kỵ bị cầm chân ở A-Lưới thì việc tiếp tục tiến chiếm Tchépone với bộ binh chỉ còn là một “mục tiêu bề mặt”, cốt để biện hộ một cách tai hại về một ước tính quân sự sai lầm, nhằm mục đích yểm trợ cho một sách lược chính trị. Sách lược ấy được nhận ra, khi Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo về Hoa Thịnh Đốn một nội dung khả thể, đêm 7 tháng 4 Tổng Thống Nixon có thể nói cùng dân chúng Mỹ: “Đêm nay tôi có thể báo cáo rằng chính sách Việt Nam Hóa đã thành công!”, nhằm trấn an những nhóm biểu tình phản chiến, đòi cải thiện chế độ an sinh xã hội cho người da đen ở các tiểu bang miền Nam nước Mỹ.
Ngày 3 tháng Ba, hai Lữ Đoàn A, B Thủy Quân Lục Chiến từ Khe Sanh được đưa vào thay thế các đơn vị Sư Đoàn I Bộ Binh thuộc vùng trách nhiệm hai căn cứ Delta và Hotel. Như thế, mặt trận Hạ Lào chỉ còn một lữ đoàn TQLC làm thành phần trừ bị; cũng có nghĩa tương tự đối với toàn bộ lực lượng quân sự miền Nam. Những tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn I rời bỏ vùng vừa bàn giao, tiến sâu về phía Tây, lập các căn cứ hỏa lực Sophia, Liz và LoLo trên các cao độ 748, 690, và 723, Đông-Nam mục tiêu Tchepone. Lolo thực sự chỉ là một bãi đáp chứ không hẳn là một căn cứ hỏa lực.
Ngày 6 tháng Ba, một phi đội khổng lồ gồm 120 trực thăng Huey được trực thăng võ trang Cobra và phản lực chiến đấu yểm trợ bao vùng đổ quân bộ xuống bãi đáp Hope, bốn cây số Đông-Bắc Tchépone, sau khi B52 đã trải thảm dọn sạch khu rừng rậm hằng trăm năm không dấu vết người chung quanh bãi đáp. Cuộc không vận được xếp hạng là một trong những [cuộc] hành quân [bằng] không [quân] lớn nhất chiến sử Đông Dương; năm 1954, lực lượng không quân vùng Tây-Bắc của Tướng Cogny chỉ có đúng hai trực thăng Alouette cho Chiến Dịch Castor để chiếm đóng Điện Biên Phủ.
Cuộc không vận đưa Tiểu Đoàn 4/Trung Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 2 vào vùng lửa Tchépone, đây là hai đơn vị ưu tú nhất của Sư Đoàn I BB do Trung tá Lê Huấn và Trung tá Trần Ngọc Huế chỉ huy; cả hai cùng Khoá 18 Trường Võ Bị Đà Lạt và được đánh giá là những sĩ quan xuất sắc của khoá. Nhưng dù hai tiểu đoàn trên có gồm những người lính can trường, được chỉ huy bởi những sĩ quan xuất chúng bao nhiêu, cứ điểm Hope mà hai đơn vị có nhiệm vụ đổ bộ xuống để rồi sau đó làm đầu cầu đột kích trong im lặng tuyệt đối vào “thị trấn Tchepone” đã là một nơi hoang vắng với những thây chết rải rác cũng có nghĩa “Kế Không Thành” mà Bắc quân giương ra đã hoàn tất.
Toàn bộ các bãi đáp, địa điểm này đã là những “điểm hỏa tập tiên liệu” của pháo, cối, hỏa tiễn diện địa của bộ đội cộng sản. Kết quả bi thảm đương nhiên xảy đến, Tiểu Đoàn Trưởng Lê Huấn tử trận, Trần Ngọc Huế bị bắt sống... Hai tiểu đoàn tan vỡ như những mảnh vụn của những khẩu pháo 105 thả xuống ở các căn cứ Hope, Sophia, Liz... Có những khẩu chưa hề bắn được một viên đạn, vì những lưới đạn quả thật chưa hề được thả xuống kịp trước khi các căn cứ tan vỡ. Ông Thiệu ra lệnh “rút quân” sau “chiến thắng Tchepone”, bất chấp lời khuyến cáo từ phía Tướng Abrams – Tăng cường Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho mặt trận Hạ Lào và giữ chặt nút chận Tchépone để hoàn thành mục tiêu chiến lược – Cắt đứt đường tiếp vận Bắc-Nam của quân đội cộng sản.
Cuộc rút quân không chuẩn bị tất nhiên biến thành lần tháo chạy, khi các căn cứ lần lượt bị đánh vỡ, mất hẳn thế “yểm trợ liên hoàn – viên đá tảng cột trụ của chiến thuật Căn Cứ Hỏa Lực”. Sau Sư Đoàn Nhảy Dù của giai đoạn đầu, Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở giai đoạn hai, tiếp theo, đến lượt Sư Đoàn TQLC chịu lần phanh thây trên những đỉnh núi trần trụi dưới cơn mưa lũ đại pháo của Bắc quân được chuẩn bị từ một năm trước, năm 1970.
Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến nhận vùng trách nhiệm, bố trí các tiểu đoàn theo hướng Bắc-Nam. Tiểu Đoàn 4, 7, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A có pháo binh Tiểu Đoàn 2 Pháo yểm trợ. Căn cứ hỏa lực chính được Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” bảo vệ, đồng thời làm thành phần trừ bị. Phía Nam, Lữ Đoàn A, hai tiểu đoàn 3, 8, có nhiệm vụ phá thế trận cộng sản bao vây, chia cắt. Nhưng tất cả phối trí chiến thuật này đã trở nên bất khả dụng, bởi phe cộng sản đã chuẩn bị đủ cho chiến trường, từ quốc tế đến quốc nội, với biểu ngữ của đám biểu tình phản chiến ở Mỹ đến Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.
Cụ thể nơi mặt trận Hạ Lào, quân cộng sản đã bắn không trật một viên đạn ra ngoài các căn cứ hỏa lực. Và sau khi các căn cứ Nhảy Dù ở mặt Bắc bị tràn ngập; Sư Đoàn I Bộ Binh phải rút bỏ sau cái gọi là “chiến thắng chiếm đóng Tchépone”; vùng trách nhiệm của TQLC gánh khối nặng còn lại của trận chiến vô lý bi thảm này... Lữ đoàn A TQLC với Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” của Tiểu Đoàn Trưởng, “Robert Lửa” Nguyễn Xuân Phúc trở thành tụ điểm của tất cả nguồn lửa lớn của chiến trường.
Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc nói với Đạt, chỉ huy trưởng pháo binh, đơn vị pháo còn lại duy nhất của trận địa: “Ông khỏi yểm trợ cho ai nữa, hạ nòng súng xuống, “cua” nó lên con nào, ông nướng con ấy cho tôi”.
“Cua”, Phúc dùng chữ với ý khinh miệt hơn nghĩa khôi hài để nói về những chiến xa của Bắc quân. Và đến lúc cuối cùng, Phúc hét lớn qua máy truyền tin: “Khỏi cần hỏi lệnh tôi, còn bao nhiêu đạn ông cứ chơi hết bấy nhiêu...” Hai Tiểu Đoàn 4 và 7 ở vùng ngoài căn cứ vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám kẻ thù say máu như con hổ trọng thương bị loài kên-kên rúc rỉa. Phúc hướng dẫn từng phi tuần từ hạm đội bay vào cứu bạn. Những viên phi công Mỹ dần quen với giọng nói của “Foxtro” (ám danh đàm thoại không-lục của Phúc với phi công Hạm Đội 7), để đến một đêm... Đêm hỏa ngục lật ngược để bày ra trên trần gian nguồn lửa lênh láng hung tàn không hề cạn. Lửa rùng rùng lay động suốt dãy núi rừng ầm vang tiếng nổ. Tiếng nổ của đại pháo, hỏa tiễn bắn từng đợt, từng tràng một lần mười, hai mươi trái, từ bốn, năm vị trí. Trong chuỗi âm động quái dị ấy, súng tay đì đẹt nhỏ nhoi như một loại pháo lép và cuối cùng với những đợt bom. Bom ném một lượt từ ba phi tuần phản lực nối cánh nhau như cảnh tượng trong các phim chiến tranh. Phi cơ Mỹ bao vùng suốt từ sáng sớm, Đà Nẵng, Thái Lan, Hạm Đội 7, Guam qua chiều vào đêm, bay đến...
Đêm đến, Bắc quân từ hang ổ, đường thông thủy, giao thông hào, địa đạo theo xe tăng tấn công lên đồi tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A, Tiểu Đoàn 2 Pháo qua hàng rào phòng thủ của “Trâu Điên”. Và Tiểu Đoàn 2 TQLC quả thật là một con trâu điên đơn độc đương cự giữa bầy sài lang nanh vuốt. Phúc đã theo dõi và thấm hiểu nỗi đau những lần thất thủ của các đơn vị bạn, những Tiểu Đoàn 37 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2, 3, Lữ Đoàn III Dù... Hai tiểu đoàn 4, 7/TQLC ngoài căn cứ chỉ còn một đường liên lạc qua hệ thống truyền tin của Tiểu Đoàn 2 TQLC. Phúc hướng dẫn phi cơ Mỹ thả trái sáng để hai đơn vị này lần đường về phía Nam, nơi các Tiểu đoàn 3 và 8 đang đợi “bắt tay”. Bộ chỉ huy lữ đoàn hoàn toàn tê liệt, pháo binh cũng chỉ còn những viên đạn cuối cùng, Đạt báo cáo với Phúc... “Tụi nó tràn ngập vị trí, tôi phá súng!”
Và cuộc hỗn chiến trong đêm bắt đầu. Tiếng súng lớn đồng im bặt, tiếng súng nhỏ cũng không còn, chỉ âm động của da thịt người bị xé rách, đâm nát, vỡ nhầy dưới xích xe tăng. Trong bóng tối chập chờn tàn lửa, nghi ngút khói của những trận pháo càn từ bao ngày qua, từ giờ trước... Những bóng người nhào vào nhau, tìm đường chạy hoặc cách giết người hiệu quả để được lần sống sót. Phúc hằng tiên liệu rõ tình huống tuyệt vọng gớm ghê này, nên anh đã ra lệnh cho toàn đơn vị “tay áo phải xắn cao, tay áo trái thả dài xuống”, làm dấu hiệu nhận bạn giữa đêm tối, vượt nỗi chết. Và từ vũng sâu cảnh điạ ngục trần gian kia, người ta nghe rõ tiếng hét lớn lập lại nhiều lần...”I’m crazy buffalo battalion commander, đ...m... tao ground chief... go ahead, do it please...”
Bầu trời, mặt đất cùng bị vỡ tung, những quả bom chạm nổ ngay khi vừa rời khỏi cánh tàu bay. Phúc nương theo đợt dội bom, hứng đủ trận bom, bảo vệ bộ chỉ huy lữ đoàn, Tiểu đoàn 2 pháo và đơn vị rút khỏi căn cứ. Trong bản ghi dữ kiện của máy bay, tọa độ Phúc yêu cầu dội bom cũng là tọa độ của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A TQLC mà Hạm Đội 7 đã yểm trợ từ bao ngày qua.
Bốn giờ sáng, Phán, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 TQLC từ trên đỉnh ngọn Cô-rốc, đỉnh núi cao nhất vùng, nhìn suốt hai bên sườn Đông, Tây Trường Sơn, lắng nghe tiếng nói khẽ, đứt khúc của Phúc... “mầy... mầy thắp đèn cầy (trái sáng), tao dẫn tụi thằng 4, 7 và con cái tao về...”.
Chín giờ sáng hôm sau, Phán xuống núi, Phúc đang dìu Đại tá Thông bước chập choạng. Giữa đám quân tan tác, Phúc là người nhỏ, thấp, gầy nhất. Nhưng quả tình anh là người cao, bền hơn hẳn. Như Người Lính không hề chết. Và nếu họ có mất đi hình hài cũng chỉ để Tổ Quốc hằng muôn thuở tồn sinh.
Tổng kết trận Hạ Lào, Trung tá Pháo Binh Nhảy Dù Bùi Đức Lạc nhận xét: “Máu của Người Lính đã đổ xuống Hạ Lào, thịt xương họ không vun trồng màu mỡ quê mẹ mà làm tươi tốt cho đồng, rừng xứ người. Nhưng đau thấm thía, lâu dài hơn khi trận Hạ Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ bằng màn khói bại trận, lại được tô son chuốc lục bởi phóng viên người Việt với màu tang trắng quê hương...”
Hậu Từ
Hôm nay, kể từ buổi binh đao tàn khốc kia, Thắng, Bại; Công, Tội của những bên lâm chiến đã được lịch sử chứng minh. Chỉ riêng Người Lính – Những Người Lính không trở về – Những Người Lính sống sót cùng Nỗi Đau không hề chấm dứt với khổ nạn Quê Hương. Đại tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù Nguyễn Văn Thọ là một trong những người lính phẫn hận kia.
Sau lần sống sót dưới cơn bão dữ đạn bom của cả hai phía, Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Trung tá Trần Văn Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, các Đại úy Lê Đình Châu, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Quốc Trụ... thuộc bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh ND được lệnh di chuyển ra Bắc với chân trần, trên thân người vết thương còn tươi máu. Tại Hà Nội, họ được đưa ra trình diện báo chí (của miền Bắc và khối cộng sản) để làm cớ chứng: Quân đội Mỹ-Ngụy tấn công lãnh thổ của nước Lào (gọi là) trung lập. Đồng thời viên cán bộ chính trị cao cấp điều hành buổi họp báo cũng lên tiếng: “Cực lực bác bỏ lời tố cáo của báo chí miền Nam: cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam qua ngã Lào (!)” Đài phát thanh Hà Nội lớn tiếng rêu rao: “Trận chiến Đường 9 Nam Lào là một đòn sấm sét của lực lượng nhân dân yêu chuộng hòa bình của ba nước Đông Dương đã đoàn kết chiến đấu, đập tan âm mưu của tập đoàn thực dân mới Mỹ nhằm mưu định chiếm đóng Đông Dương mà ngụy quyền Sài Gòn là tay sai đắc lực nhất.”
Lời cáo buộc được cả thế giới “tin cậy” nên từ Hội Nghị Paris (1968-1973) trở về Hà Nội, bí thư Xuân Thủy được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến do những nỗ lực gọi là “tái lập hòa bình ở VN” của y ta đại diện cho Hà Nội tại bàn hội nghị. Chưa hết, thế giới lại “rất sáng suốt” trao giải Nobel (gọi là) Hòa Bình cho Lê Đức Thọ. Đây cũng là viên bí thư chiến dịch Hồ Chí Minh lần tiến chiếm Sài Gòn (4/1975) với 16 sư đoàn bộ binh cộng sản Bắc Việt như lời than vãn của Kissinger, kẻ đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với Thọ.
Trong chiều hướng “tin cậy đối với cộng sản Bắc Việt”, Hiệp Định Ba-Lê ký kết ngày 27 Tháng 1, 1973 đã long trọng xác nhận “Hai bên miền Nam Việt Nam trao trả cho nhau những nhân viên quân sự được bắt giữ...” Với định nghĩa này, toàn bộ các Sư đoàn bộ binh, khối lượng vũ khí khổng lồ gồm xe chiến xa, đại pháo của cộng sản miền Bắc nơi mặt trận Hạ Lào đồng được “hóa không” để trở thành “quân đội giải phóng Lào yêu nước” hoặc của “lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam”! Và hệ quả tiếp theo là: “Không có tù binh VNCH nào của mặt trận Đường 9 Nam Lào trong danh sách trao trả theo Nghị Định Thư về Tù Binh của Hiệp Định Paris 1973.”
Văn bản được long trọng ký kết trước cộng đồng thế giới, được 13 nước ký Định Ước Bảo Đảm Thi Hành bao gồm Liên Xô, Trung Cộng! Màn dối gạt ngang ngược vô liêm sỉ đối với thế giới tiếp tục hiện thực trong Ngày 30 Tháng 4, 1975 với sự đồng thuận của chính phủ Mỹ. Cuối cùng, chỉ một năm sau, 1976, nhóm người tù miền Nam trong một buổi đi ra Đoàn (Đoàn 776) ở Yên Bái để lãnh gạo. Chúng tôi nhận ra người tù Hạ Lào: Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, Trung tá Trần Ngọc Huế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/2/SĐ1BB và nhiều anh em tù binh khác thuộc các binh chủng TQLC, BĐQ, BB, Thiết Kỵ, đông đảo nhất là những Biệt Kích Quân, tổng số của những tù binh VNCH rơi ra ngoài danh sách trao trả theo Hiệp Định Paris. Đại tá Thọ giữ nhiệm vụ chăn nuôi, Trung tá Huế dầm suối chuyển cây gỗ... Chúng tôi đứng nghiêm chào kính: Chào Đại tá! Ông trầm giọng buồn phiền: Các em cố gắng nghe! Vâng, tụi em cố gắng!
Năm 1996, người viết qua Úc, nói chuyện ở Sidney, gặp lại Người Lính Nhảy Dù không mệt mỏi, đến góp tiếng với “thằng em”. Tôi khám phá ra một điều cao thượng bất biến: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8; Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 ND; Tù Binh Hạ Lào; Người già tỵ nạn nơi đất Úc...Tất cả luôn ở trong một tình trạng “cố gắng”.
Nhảy Dù Cố Gắng! Đích Thân về cõi Phật bình an (*).
Thiếu úy Phan Nhật Nam Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù/SĐND/QLVNCH, KBC 4919
Tác giả ghi chú:
(*) Đích thân: Người Chỉ Huy – Ám danh đàm thoại của các đơn vị tác chiến Nhảy Dù.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 17, 2019 2:00:27 GMT 9
Chiến dịch quân sự, hành quân 719 Lam Sơn Te Nguyen (@ Facebook)
Về cuộc hành quân này phía VNCH các tác giả Nguyễn Đức Phương (1) Hoàng Lạc, Hà Mai Việt (2) đã đề cập tới cách đây trên 10 năm và gần đây, năm 2013 tác giả Nguyễn Kỳ Phong đã viết riêng một cuốn biên khảo tỉ mỉ về toàn bộ diễn tiến quân sự của chiến dịch (3). Đây là một cuộc hành quân qui mô lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, được gọi là hành quân Lam Sơn 719.
Trong phạm vi bài này trước hết tôi xin đề cập cơ bản của chiến dịch, kế hoạch của Ban tham mưu và Tòa Bạch Ốc qua lời kể của Henry Kissinger, cố vấn Tổng thống Nixon (4). Phần sau nói về chi tiết diễn tiến chiến dịch qua nhận định của Phillip B. Davidson (5), cựu Trung tướng tình báo, phụ tá Tướng Westmoreland và Abrams. Kissinger là người phối hợp thực hiện chiến dịch qua báo cáo và thảo luận với các giới chức quân sự trong khi Davidson chỉ là nhà nghiên cứu cuộc hành quân này.
Trước hết xin nói sơ về hoàn cảnh lịch sử trong mấy năm đầu của Hành Pháp Nixon. Năm 1969 Nixon vào tòa Bạch Ốc giữa khi phong trào chống chiến tranh Đông Dương lên cao, gió đã đổi chiều, người dân đòi phải rút quân về nước tìm hòa bình. Phong trào phản chiến của sinh viên kết hợp với truyền thông không để cho chính phủ yên, họ yêu sách, biểu tình thậm chí bạo động, lại nữa đảng Dân chủ vừa thôi lãnh đạo cuộc chiến trở mặt quay ra chống chiến tranh.
Từ gần cuối 1969 Nixon cho rút quân đơn phương để xoa dịu sự chống đối trong nước. Hòa bình bế tắc, BV ngoan cố đòi Mỹ rút không điều kiện, loại bỏ chính phủ Thiệu, lập chính phủ liên hiệp, ngoài ra không có gì đề đàm phán. Người Mỹ biết rõ Hà Nội không muốn ký Hiệp định mà chỉ muốn xử dụng vũ lực chiếm miền nam. Họ tiếp tục ngày đêm vận chuyển vũ khí đạn dược, nhân lực vào nam qua đường mòn Hồ chí Minh. Trước tình thế ngày một khó khăn, một mặt Nixon cho rút từ từ, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
Henry Kissinger: Laos Operation
Xây dựng một chiến lược
Cuối 1970 nội bộ chính phủ Nixon chán nản, bị người dân chỉ trích là không chịu nhượng bộ, tỏ thiện chí với Hà Nội, một nhượng bộ đơn phương của Mỹ là rút nhanh hơn mùa thu 1970 khi ngày 20-4-70 Nixon tuyên bố sẽ rút 150,000 trong 12 tháng. Tướng Abrams khuyên Nixon hoãn lại việc rút tới 1971 để phòng khi địch đánh lớn. Lập Pháp cắt giàm ngân sách quốc phòng, Bộ trưởng Quốc phòng Laird lệnh cho các Tướng ở VN báo cáo lịch trình rút 90,000 người năm 1970 và 60,000 tháng 5-1971. Sang năm 1971, Nixon tuyên bố rút hết để lấy lòng dân và oanh tạc BV trở lại, trong khi Hà Nội chờ phản chiến chống đối ngăn chận áp lực quân sự của Hành pháp. VNCH tùy thuộc yểm trợ của không quân Mỹ để có thể đẩy lui BV.
Muốn thành công phải làm suy yếu địch càng nhiều càng tốt, chiến dịch đánh sang Miên tháng 5-1970 đã làm chậm lại việc tái lập các kho tiếp liệu ít nhất là hơn một năm, nó sẽ làm VNCH vững mạnh hơn, người Mỹ cố làm cho miền Nam tự bảo vệ được.
Tháng 11-1970 Nixon-Kissinger lên kế hoạch để thực hiện trong năm 1971, 1972 gồm những mục tiêu chính: 1-Rút quân; 2-tăng cường quân đội VNCH, 3-làm suy yếu địch. Hoàn tất các nỗ lực kể trên cho phép Mỹ rút quân mà không làm sụp đổ đồng minh (6). Quân số của miền Nam được gia tăng từ gần 900 ngàn năm 1969 lên một triệu năm 1971 (7). Để làm suy yếu CSBV, Mỹ và VNCH lên kế hoạch đánh vào các căn cứ hậu cầu của địch tại Miên, Lào bên kia biên giới. Vì theo kế hoạch này mà Mỹ và đồng minh mở chiến dịch sang Lào năm 1971
Chiến dịch Hạ Lào
Cuối năm 1971, Hà Nội bỏ hết một năm để xây dựng các kho tiếp liệu hậu cần cho miền nam VN, Mỹ ước lượng địch sẽ tấn công năm 1972 để gây ảnh hưởng bầu cử TT Mỹ cùng năm. Mỹ nghiên cứu về khả năng tự vệ của VNCH và nhận định, nếu Mỹ rút, địch tăng cường tiếp liệu, quân đội miền Nam thiếu 8 tiểu đoàn (hơn 2 trung đoàn). Sự thiếu hụt sẽ gia tăng lên 35 tiểu đoàn (10 trung đoàn) nếu BV thắng ở Lào, Miên trước cuộc tấn công 1972. Họ kết hợp chính qui và du kích, nếu chỉ chống du kích, chính qui sẽ chiếm lãnh thổ, nếu chống chính qui, du kích sẽ chiềm miền quê.
Miền nam VNCH (Vùng 3, 4) dư quân nhờ chiến dịch đánh sang Miên, nhưng bắc VNCH (Vùng 1, 2) thiếu quân, các sư đoàn tại các vùng (sđ cơ hữu) đóng cố định trừ quân tổng trừ bị. Nếu VN hóa chiến tranh thành công, địch sẽ không chiếm được Lào Miên, việc lập các căn cứ tiếp liệu cho mùa khô của địch bị ngăn trở, vô hiệu hóa. Vấn đề của Mỹ là làm sao giải quyết sự thiếu 8 tiểu đoàn bằng cách tăng cường sức mạnh cho quân đội VNCH và làm suy yếu địch nhất là phá các căn cứ tiếp liệu.
Vì thế tới mùa khô VNCH (được giúp) sẽ tấn công ngăn cản địch vận chuyển tiếp liệu.. để bù dắp thiếu hụt 8 tiểu đoàn và buộc Hà Nội phải đàm phán nghiêm chỉnh. Quân đội Mỹ không thể tham gia tấn công vì phản chiến chống đối (Kissinger, White House Years, trang 990)
Kissinger đưa ra kế hoạch cho mùa khô, VNCH dùng quân trừ bị đánh càn quét căn cứ tiếp liệu tại biên giới Việt Miên, ông tiên đoán địch có thể tấn công Cao nguyên (Vùng 2) hay khu phi quân sự (Vùng 1) vào năm 1972. TT Nixon đồng ý, Kissinger gửi Tướng phụ tá Haig sang Sài Gòn nghiên cứu, ông này trở về nói Đại sứ Bunker, Tướng Abrams, ông Thiệu còn đề nghị táo bạo hơn: đánh cắt đường tiếp liệu địch tại Hạ Lào nơi gần khu phi quân sự
Từ nhiều năm nay BV xây dựng đường tiếp liệu chuyển quân qua đường mòn Hồ chí Minh, thực ra con đường dài hơn 1,500 dặm (khoảng 2,000 km). Tại Tchepone nơi tập trung các tuyến đường từ đó cung cấp nhân lực vật lực cho miền nam VN. Khoảng từ 40 tới 50 ngàn người vận hành tiếp liệu cùng với lực lượng an ninh mỗi năm từ tháng 10 tới tháng 5 năm sau. Từ năm 1966 tới 1971, họ vận chuyển xâm nhập ít nhất là 630,000 người, 100,000 tấn lương thực, 400,000 tấn vũ khí, 50,000 tấn đạn dược tương đương 600 triệu viên đạn tới miền nam VN.
Từ khi Sihanouk bị đảo chính, cảng Sihanoukville bị đóng cửa, CSBV phải dựa vào đường mòn Hồ Chí Minh. Theo lối nhìn của Tướng Abrams, Haig, nếu đường mòn Hồ Chí Minh bị vô hiệu hóa chỉ trong một mùa khô thì cuộc tổng tấn công của họ vào miền nam VN và Miên sẽ bị phá hỏng
Tướng Abrams đề nghị một kế hoạch táo bạo: Quân Mỹ sẽ đóng dọc theo khu phi quân sự, chiếm lại Khe Sanh, pháo binh Mỹ sẽ đưa tới biên giới Lào, Sư đoàn I VNCH sẽ theo đường số 9 vào Tchepone, Sư đoàn Dù chiếm phi trường Tchepone liên kết với đoàn xe tăng bằng đường bộ. Cuộc tấn công sẽ mất 4, 5 năm ngày, phá hủy các kho tiếp liệu tại Tchepone và ngăn chận đường tiếp tế. Kế hoạch nếu thành công sẽ khiến miền nam yên được hai năm. Về vấn đề Miên, Abrams đề nghị dùng một sư đoàn VNCH tại Vùng 3 đánh qua biên giới tới đồn điền cao su, phá hủy các căn cứ BV và VC
Kế hoạch chỉ hay trên giấy tờ nhưng các sư đoàn VNCH chưa hề đánh CSBV qua biên giới, họ sẽ chiến đấu không có cố vấn Mỹ vì bị luật Cooper-Church cấm, như thế các đơn vị VN chưa hoàn hảo để đánh sang Lào (trang 992). Vả lại Bộ chỉ huy cao cấp VNCH chưa đủ kinh nghiệm đảm nhận hai chiến dịch lớn cùng một lúc. Sau cùng Tchepone có vị trí thuận lợi cho Hà Nội tăng viện từ Bắc và Nam VN (tại trên khu phi quân sự).
Bộ trưởng quốc phòng Laird ủng hộ kế hoạch tiến sang Lào, ông cho là cắt đường mòn Hồ Chí Minh sẽ mua thời gian một năm, địch sẽ mất một năm. Ông cho rằng cuộc tấn công lớn lần đầu tiên của VNCH không có quân bộ của Mỹ chứng tỏ chương trình VN hóa chiến tranh thành công.
Laird đi Sài Gòn ngày 5-1-1971, khi ông về, TT Nixon triệu tập phiên họp, Laird thuyết trình, hy vọng kế hoạch thành công sẽ đẩy mạnh rút quân về nước. Mỹ cũng cũng phác họa kế hoạch tấn công CSBV bên đồn điền Chup tại Căm Bốt như các cuộc hành quân năm trước (1970) nhưng không có quân Mỹ tham dự nên không có ai phản đối.
Sau khi nghỉ 15 phút rồi họp tiếp, Laird nói trước hết lực lượng Mỹ đóng tại đường số 9 trong địa phận VN, chiếm lại Khe Sanh làm căn cứ khoảng 29 tháng 1. Giai đoạn II quân VNCH theo đường số 9 vào Lào khoảng 8 tháng 2. Laird và TMTLQ Moorer rất tin tưởng, Helmo cho rằng kế hoạch này đã được nghiên cứu trước đây nhưng bị bác vì rất khó, hồi đó Westmoreland cho là phải cần hai quân đoàn Mỹ. Nixon đồng ý, Kissinger họp WSAG (8) ngày 19-1 thi hành chi tiết kế hoạch.
Nixon nhận định trừ khi ngăn được con đường tiếp liệu Hồ Chí Minh thì miền nam VN mới không bị đe dọa, ông liền chấp thuận kế hoạch. Theo Kissinger khuyết điểm của chính phủ là mất quá nhiều thời giờ để đi tới đồng thuận của các cố vấn và không bỏ nhiều thì giờ để xét những khuyết điểm của kế hoạch. Những người trong nội các sợ dân trong nước chống đối sự tham gia của Mỹ, lần này TT hạn chế sự tham gia quân Mỹ tại Lào. Sự hạn chế tham gia Mỹ đưa tới khó khăn chiến trường
Nói về căn bản lựa chọn của một nhà lãnh đạo là dùng sức mạnh hay không dùng? Nếu xử dụng sẽ thành công, e ngại sẽ thất bại, nếu hạn chế tức tạo thuận lợi cho địch. Một khi quyết định dùng sức mạnh, Tổng thống phải theo đuổi quyết định và chuyển tinh thần đó đến người khác. Đường lối của chính phủ Nixon tiến hành tốt khi vấn đề quân sự được giải quyết mạnh tại Cao Miên, nó cũng ảnh hưởng tới ngoại giao thí dụ như mở cửa với Trung Cộng, đàm phán với CSVN và Nga (ý kiến Kissinger).
Năm 1971, sự đồng ý trong phiên họp từ 23-12 tới 18-1 tan biến đi khi Roger (Bộ trưởng ngoại giao) trình bầy nói các chuyên viên của ông chống đối. Thứ trưởng Alex Johnson làm kéo dài thời gian, ông đòi phải có sự chấp thuận của Thủ tướng Lào Souvana Phouma. Kissinger cho rằng lý luận của ông thật kỳ lạ khi CSBV đã chiếm Lào từ mấy thập niên rồi, chúng vi phạm Hiệp định Geneve từ lâu rồi. Mỹ oanh tạc đường mòn Hồ chí Minh đã có sự đồng ý ngầm của Souvana, ông này đồng ý mà không dám ra mặt vì sợ CSBV trả thù, ông không lên tiếng phản đối chiến dịch tức là đồng thuận rồi.
Ngày 25-1, trước phiên họp hai ngày Kissinger duyệt kế hoạch và hỏi Đô đốc Moorer (TMTLQ) nếu cắt đường mòn Hồ Chí Minh, CSBV sẽ đánh bằng được và họ sẽ tăng viện từ miền Bắc và cả miền Nam, ta sẽ khiến cho VNCH bị thiệt hại. Các sư đoàn VNCH sẽ chiên đấu ra sao nếu không có cố vấn Mỹ và yểm trợ không lực trong lúc sôi động, ông ta bi quan về kế họach. Kissinger gửi văn thư lên muốn họp với Tông thống và Moorer ngày 26-1. Đô đốc TMTLQ nói nếu CSBV tấn công, không lực Mỹ sẽ gây thiệt hại nặng cho chúng, chiến dịch sẽ bảo đảm thành công của VN hóa chiên tranh, nó sẽ giúp Mỹ rút nhanh hơn, Miên đứng vững hơn.
Moorer trình bầy cho Nixon nghe kế hoạch chiếm Tchepone, Roger nói nó rất rủi ro nguy hiểm (risky), chúng ta đưa quân VNCH vào chiến dịch khi ta có 500 ngàn quân mà không đánh, nếu VNCH thua ta sẽ mất những kết quả đã có ở những năm trước. Kissinger nghĩ là Roger nói đúng, Nixon không tin vì vụ Cam Bốt trước đây cũng đã có phản đối, ông tin Abrams, Moorer, ông ra lệnh tấn công đồn điền Chap ở Vùng 3 và tiến hành giai đoạn I của chiến dịch (tức quân Mỹ canh giữ đường 9 trong địa phận VN)
Ngày 21-1 sáu mươi bốn dân biểu Mỹ đề nghị ra luật cắt ngân khoản dành cho sự yểm trợ Không quân, Hải quân Mỹ dành cho chiến trường Miên. Ngày 27-1 Thượng nghị sĩ Mc Govern và Hatfield cùng 19 TNS khác cũng đề nghị dự luật chấm dứt chiến tranhVN, rút hết quân cuối tháng 12-1971(thay vì 30-6). Ngày 3 tháng 2, báo New york Times, Los Angeles Times lo ngại về kế hoạch này, các báo khác chỉ trích kế hoạch ngăn chận đường mòn Hồ Chí Minh sẽ thất bại.
Ngày 1-2 Kissinger thuyết trình với Phó TT Agnew, Connally (Bộ trưởng ngân khố).. về kế hoạch này. Chính phủ bị chia rẽ vì các ý kiến, ngày 3-2 TT Nixon quyết định thi hành kế hoạch, Kissinger duyệt lại với (WSAG) Nhóm Đặc nhiệm Hoa thịnh Đốn, 6 giờ chiều ông tuyên bố những điểm chính của Quyết định.
Ngày 8-2 quân đội VNCH vượt biên giới tiến vào Lào thực hiện giai đoạn II của kế hoạch. Ngày 9-2 dân biểu O’Neil và 37 đồng viện đưa dự luật cấm Mỹ trực tiếp tham chiến hoặc trợ giúp cuộc hành quân sang Lào. Kissinger nói lúc nào cũng có sẵn đầy những quyết định Lập pháp nhằm ngăn chận mọi cố gắng soay sở (của chính phủ, trang 1002)
Chiến dịch quân sự, hành quân 719 Lam Sơn
Quân đội VNCH thường thế thủ khi CSBV tấn công hoặc chỉ hành quân bình định và họ chưa hề mở chiến dịch lớn nhất là tại bên kia biên giới, đây là lần đầu tiên lực lượng VNCH tấn công địch ở địa thế khác, nhất là địch lại ở gần các căn cứ tiếp liệu của họ. Kissinger cảnh báo nêu VNCH chỉ phòng thủ sẽ thua và bị tống xuất khỏi Lào. Năm 1971 Bộ chỉ huy Mỹ tại Sài Gòn đã lên kế hoạch tránh thảm bại nhưng lại cho rút 60,000 quân trong khi đang tiến hành chiến dịch. Khó có thể làm hai nhiệm vụ một lúc, vừa rút quân vừa tấn công. Bộ chỉ huy Mỹ không kiểm chứng lại xem không quân VN có thể thay Mỹ được không.
Các sư đoàn VNCH không có trợ giúp của không quân Mỹ như kế hoạch đã dự trù, họ tiến được khoảng 8, 10 dặm thì ngưng lại đóng quân. Ngày 16-12 Tướng Abrams trả lời câu hỏi của Kissinger về sự tiến quân của VNCH, ông lạc quan tin tưởng kế hoạch sẽ hoàn tất tốt đẹp. Nhưng những báo cáo lạc quan không ăn khớp với tình trạng bế tắc trên bộ. Tới 18-3 khi chiến dịch đã chấm dứt thì người Mỹ khám phá ra là ngày 12-2, ông Thiệu đã lệnh cho các Tư lệnh của ông là tiến cẩn thận và ngưng khi bị thiệt hại lên tới 3,000 người. CSBV biết tin này do tình báo nên chúng cố giết cho nhiều quân lính VNCH, nếu biết vậy Mỹ đã không chấp nhận kế hoạch. Khi Kissinger hỏi Bunker, Abrams, họ nói VNCH không quyết tâm theo đuổi chiến dịch tới cùng.
Kissinger nói các Tướng ngày nay của Mỹ muốn xử dụng hỏa lức mạnh đánh tan đối phương hơn là theo chiến thuật, quan điểm này phản ảnh xã hội nghiêng về kỹ thuật không cần quân sự. Nhưng đối với cuộc chiến tranh hao mòn không thể thắng địch, chúng lẩn trốn nên Westmoreland đã không đánh sụp được địch vì chúng lựa thời điểm, lựa chiến trường.
Trận Mậu thân 1968, BV thua về quân sự nhưng thắng tâm lý, Mỹ phải rút vả lại Westmoreland hành động dưới sự hạn chế của chính trị (chiền tranh giới hạn).
Westmoreland nói với Kissinger cần phải có 4 sư đoàn Mỹ để giữ và chiếm Tchepone, mà thực ra quân số VNCH chỉ có chưa tới 2 sư đoàn (17,000 người) có nghĩa là thiếu. Ông ta khuyên oanh tạc bằng không lực rồi chạy (hit and run) xuất phất từ Khe sanh khiến cho hệ thống tiếp liệu của CS rối loạn mà ta it bị rủi ro nguy hiểm, Kissinger cho là hợp lý, Westmoreland đã chỉ trích kế hoạch (hành quân) khi nó còn đang được duyệt xét. Gần cuối tháng 2, BV huy động 40,000 quân tới đánh, họ kéo quân tới từ miền Bắc chứ không phải từ miền Nam, họ đông hơn ta ước lượng.
Kissinger sơ lược diễn tiến:
1-TT Nixon đã thuyết trình cho biết VNCH sẽ tấn công chiếm Tchephone trong 4, 5 ngày.
2-Ngày 15-2 ông được báo cáo về thời tiết, tiếp liệu, đường số 9, địch chống cự mạnh khiến VNCH phải mất 9, 10 ngày mới chiếm được mục tiêu
3-Tchepone không quan trọng, đường qua Tchepone bị cắt ở phía Đông Nam
Kissinger quan tâm và lo ngại về lực lượng VNCH không đủ quân số để hoàn thành kế hoạch khi BV có thể đưa nhiều quân vào, tình trạng phụ thuộc vào thời tiết, địa thế, chiến thuật địch…ngày 8-3 Tướng Abrams cho biết VNCH đã chiếm Tchepone, họ đã hy sinh nhiều nhân mạng để chiếm Tchepone rồi lại bỏ. Mục đích của chiến dịch là cắt đường tiếp liệu mùa khô, phá hủy các căn cứ, kho tiếp liệu của địch. Ngày 9-3, Đại sứ Bunker, Tướng Abrams gặp ông Thiệu, ông này nói sẽ thay thế các đơn vị Tổng trừ bị bằng những đơn vị mới, sau khi tìm phá các cơ sở quân sự tại Tchepone sẽ rút về Đông nam đường 914 tới căn cứ 611 của BV phá hệ thống tiếp liệu địch. Tuy nhiên Kissinger cho biết Mỹ nghi ngờ, đơn vị mới nào? ở đâu ra? Trong vòng 10 ngày, Mỹ thúc dục TT Thiệu cho sư đoàn 3 thay thế nhưng ông từ chối nói sư đoàn nay không đủ sức nhận trách nhiệm.
Sự thực VNCH quyết định rút khỏi Lào, mà chỉ lấy cớ thay thế bằng những đơn vị mới thực ra vì đã thiệt hại 3,000 người (quota), chiến dịch đã xong. Nhận định này của Kissinger cho thấy phía Mỹ trách VNCH, ông ta gửi Tướng Haig sang quan sát, bộ trường quốc phòng Laird nhận trách nhiệm
Ngày 19-3 Haig tới Sài Gòn báo cáo về Mỹ cho biết các Tướng Tư lệnh VNCH không muốn tiếp tục chiến dịch “Quân đoàn I cho biết không thể tăng viện hay ở lại, và VN chỉ rút được khi Mỹ tập trung hỏa lực yểm trợ giúp”
Ít ngày sau đạo quân đã rút hết, nói chung biểu hiện chấp nhận được, trừ một số người lính hốt hoảng bám vào càng máy bay di tản do môt số TV Mỹ loại tồi chiếu lại, Kissinger cho là chiến dịch đã làm sai kế hoạch.
Cuộc tấn công đồn điền Chup ở Miên do Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy thành công. Trận tấn công mùa khô năm 1971 là những trận cuối cùng có quân Mỹ tham dự nhưng ít thôi. Cuộc tấn công Tchepone không ngăn được Cộng Sản xây dựng căn cứ tiếp liệu để tránh cuộc tấn công địch năm 1972. Mặt trận chính khi địch vượt khu phi quân sự và nó ít bị ảnh hưởng bởi trận tấn công Lào, Miên. Những mặt trận xa hơn ở miền nam như Vùng 4 trong trận Mùa hè đỏ lửa này nói chung nhẹ hơn (Vùng 1) vì căn cứ và hệ thống tiếp liệu địch bị phá hoại trong chiến dịch mùa khô tại Lào Miên. Chiến dịch đã làm suy yếu cuộc tấn công của BV năm 1972, nếu không có cuộc hành quân Miên, Lào thì tình hình gay go hơn. Theo Kissinger chiến dịch mùa khô 1970-71 đã cứu được miền nam năm 1972.
Ông ta cho là cuộc hành quân yếu kém ngoài mong đợi, các nhà kế hoạch gia phía Mỹ đã không chịu đánh giá tỉ mỉ cuộc hành quân phía VNCH mà chỉ nghiên cứu phía Mỹ. Kế họach gặp trở ngại vì luật pháp cấm quân Mỹ tham chiến và yểm trợ oanh tạc, các phi vụ giảm vì ngân sách bị cắt xén.
Kissinger nhận xét VNCH có nhiều khuyết diểm (trang 1010) về vấn đề Lào, kế hoạch trừu tượng, họ chỉ áp dụng đúng như Bộ tham mưu Mỹ huấn luyện và hướng dẫn họ mà không chịu thích hợp với hoàn cảnh địa phương. Mục đích của chúng ta không phải là chiếm Tchephone mà là ngăn chận hế thống tiếp liệu địch suốt mùa khô để khỏi bị tấn công năm 1972, ông Thiệu chỉ muốn đánh cho nhanh. VNCH có khuyết điểm trong cơ cấu tổ chức quân sự, họ ít quân trừ bị, họ sợ bị thiệt hại nhân mạng nhưng quân đội miền Nam đã chiến đấu tốt hơn trước
Cuộc tấn công mùa khô năm 1971 (hành quân Lào) không ngăn được cuộc tấn công của Hà Nội năm 1972 mà ta hy vọng tuy nó nhẹ hơn.
Phillip B. Davidson: 23 The Raid Too Far, Lam Son 719, 1971
Davidson đi vào chi tiết hơn Kissinger khi nói về chiến dịch này nhưng ông không giữ vai trò nào trong chiến dịch, mà chỉ mà chỉ là nhà nghiên cứu.
Mỹ và VNCH mở chiến dịch này nhằm cắt đường tiếp liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh và phá hủy các căn cứ tiếp liệu CSBV tại Hạ Lào để giúp cho Mỹ dễ dàng rút quân nhờ VN hóa chiến tranh. Chủ trương này do thành công trong chiến dịch đánh qua Miên năm 1970, Lon Nol đóng cửa cảng Sihanoukville, các căn cứ BV, VC tại Miên bị tấn công nặng khiến cơ sở hậu cần của chúng tại miền trung và nam VN bị hủy hoại. Nay họ chỉ trông vào tiếp liệu trên đường mòn Hồ Chí Minh (HCM) từ Bắc cho Cộng quân tại miền nam.
Mỹ-VNCH đã nghĩ tới kế hoạch cắt đường mòn HCM nhưng có nhiều khó khăn như phía Mỹ bị người dân chống đối, VNCH yếu không đủ khả năng. Sau chiến thắng tại Căm Bốt năm 1970, Mỹ cho là VNCH có thể đánh cắt đường mòn HCM nhờ yểm trợ không quân và pháo binh Mỹ. Lực lượng tham chiến sẽ chỉ có VN vì Mỹ bị tu chính án Cooper-Church cấm quân Mỹ sang Miên, Lào.
BV đoán trước Mỹ-VNCH sẽ tấn công các kho tiếp liệu hậu cần tại Lào, Khu phi quân sự và đã chuẩn bị từ tháng 1-1971. Davidson chỉ trích miền nam VN: Sự thai nghén kế hoạch nay vẫn còn mơ hồ, mặc dù 3 sư đoàn VN tham gia chiến dịch nhưng VN trơ trẽn phủ nhận trách nhiệm, họ nói chiến dịch Miên, Lào đều do MACV khởi xướng, thực ra trong khi Cao Văn Viên, TT Thiệu đã rất nhiệt thành đồng ý chiến dịch
Tác giả cho biết Kissinger chấp nhận kế hoạch của Abrams sau ông ta chỉ trích Abrams vì đã làm ông tin tưởng thắng lợi. Davidson chỉ trích Kissinger là người dân sự muốn quyết định chiến dịch, nếu thắng ông được ca ngợi, thua đổ cho Abrams, đúng ra Kissinger phải chịu trách nhiệm. Davidson nói Kissinger chấp nhận kế hoạch của Abrams nhưng chính ông là Tư lệnh chiến trường gồm cà TL Thái bình dương, Tham mưu trưởng liên quân và Bộ trưởng quốc phòng
TMTLQ đô đốc Moorer không có kinh nghiệm về bộ chiến và phải ủng hộ kế hoạch, chỉ có Westmoreland (TMT) là người biết nhiều về sự nguy hiểm của kế hoạch. Năm 1987 ông nói với tác giả đã không được tham khảo ý kiến nhưng Moorer, Laird (BTQP) phản bác cho là ông đã được hỏi ý kiến. Người quyết định là TT Nixon, ngày 23-12-1970 ông chấp nhận trên nguyên tắc, Abrams thay mặt Tổng thống nói với Cao Văn Viên đầu tháng 1-71, ngày 18-1 TT Nixon chấp nhận chi tiết kế hoạch, trong hồi ký ông chỉ kể lại có một trang, theo Davidson đó là kế hoạch táo bạo.
Tấn công sang Miên 1970, Lào 1971, yểm trợ trận 1972, oanh tạc năm 1972 để rút giống như Hitler phản công tại Ardennes năm 1944. Tóm lại Abrams đề nghị kế hoạch này với Kissinger và được Cố vấn an ninh chấp nhận rồi đưa qua TMTLQ, Bộ trưởng QP… Họ đồng ý và giao cho TT Nixon, thực ra Abrams phải chịu trách nhiệm. Mục đích phá các kho hậu cần 604, 611 bên Lào, kết hợp với cuộc hành quân sang Căm Bốt ít nhất cũng trì hoãn được cuộc tấn công của BV một năm. Kissinger tưởng các cuộc tấn công Miên, Lào 1970, 71 sẽ khiến Hà nội nghiêm chỉnh đàm phán.
Abrams đề nghị 4 kế hoạch táo bạo
1- từ cuối tháng 1-70 Mỹ chiếm đóng từ Khê Sanh tới biên giới Lào
2-VNCH đánh theo đường số 9 vào Tchepone.
3-Phá căn cứ 604 của địch.
4-VNCH rút từ đông nam căn cứ 604 tới căn cứ 611 phá hủy nó sau đó trở về VN.
Chiến dịch dự trù 90 ngày kể từ 8-2-1971, Mỹ sẽ yểm trợ trực thăng, oanh tạc, pháo binh… vì tu chính án Cooper-Church cấm không cho Mỹ được vào Lào, Miên. Các cố vấn Mỹ, chuyên viên về pháo binh, không quân không được theo quân VN vào Lào khiến cho sự phối hợp Mỹ-VN khó khăn và giảm hiệu quả yểm trợ cùa không quân.
Ngoài ra thời tiết xấu ảnh hưởng tới hoạt động không quân
Theo Davidson BV có khoảng 20 tiểu đoàn phòng không từ 170-200 khẩu ( 23 ly-100 ly), lực lượng địch khoảng 22,000 (7,000 chiến đấu, 10,000 lính hậu cần binh trạm và 5,000 Lào Cộng). Các nhà kế hoạch Mỹ-Việt lo âu trong hai tuần 8 trung đoàn chủ lực CSBV có pháo binh, phòng không có thể sẽ tới, quân đội VNCH sẽ phải đối đầu với bốn sư đoàn BV và còn nữa. Mỹ -Việt hy vọng chiến thắng, có thể địch đưa thêm 2 sư đoàn. BV biết trước chi tiết cuộc hành quân Lam Sơn 719 do báo chí Mỹ và cả do gián điệp từ phía VNCH nên cuộc tấn công mất yếu tố bất ngờ.
Ngày 6, 7 tháng 2 thời tiết xấu khiến máy bay Mỹ không oanh kích được các dàn phòng không BV. Ngày 8-2 quân đội VNCH tiến vào đường số 9, hôm sau (9-2) thời tiết xấu , ngày 11-2 VNCH dậm chân tại chỗ, chiến dịch ngừng khiến Abrams xin Cao Văn Viên cho tiến lên.
Phòng không địch gia tăng mạnh, ngày 18-2 sư đoàn 308, 304 xuất hiện cùng với xe tăng, sau này người Mỹ biết là ngày 12-2 ông Thiệu nói với Tướng tư lệnh Hoàng Xuân Lãm nếu tổn thất lên tới 3,000 thì phải bỏ chiến dịch rút về. Ngày 19-2 Thiệu họp với Lãm cho biết tình hình nguy khốn, nhất là Tchepone và mặt Bắc. Khi quân đội VNCH (BĐQ) bị các đơn vị Sđ 308 cùng với chiến xa pháo binh tấn công, từ cuối tháng hai BV có 10 trung đoàn (3 sư đoàn) cùng với xe tăng, pháo binh tấn công mạnh. Phòng không địch dầy đặc gây nguy hiểm cho trực thăng.
Dòng xe công voa trên đường số 9 bị đánh phá liên tục , ngày 28-2 ông Thiệu cho TQLC thay quân Nhẩy dù, Davidson cho rằng đây là một điều tai hại. Từ ngày 3 tới 6 tháng 3, B-52 và các oanh tạc cơ ném bom tấn công. Ngày 7-3 các đơn vị VNCH vào Tchepone, ngày 8 rút về phía nam, từ đây là một giai đoạn khó khăn khi VN rút dưới hỏa lực địch.
Ngày 9-3 Tướng Lãm bay về Sài Gòn trình ông Thiệu kế hoạch rút quân: sư đoàn 1 rút trước, sau tới Dù, sau cùng TQLC. Tướng Abrams phản đối rút quân và bảo đưa sư đoàn 2 ở Quảng ngãi tăng cường sang Lào, ông Thiệu đề nghị cho một sư đoàn Mỹ đi theo khiến Abrams chịu thua. Cuộc rút lui bi thảm, địch bắn rớt trực thăng và tấn công căn cứ hỏa lực, phục kích đoàn quân rút lui, hai bên thiệt hại nặng khi B-52 và các phi cơ chiến thuật oanh tạc tối đa để bảo vệ cuộc rút lui, ngày 25-3 VNCH về tới biên giới.
Davidson tóm tắt tình hình như sau: ngày 8-2 VNCH với 17,000 quân mở cuộc tấn công, họ đối đầu với các trung đoàn BV và 8 binh trạm, tổng cộng 22,000 người. Khi cuộc lui binh chấm dứt (khoảng 23-3) lúc ấy lực lượng địch địch tăng 12 trung đoàn (4 sư đoàn) được tăng cường xe tăng pháo binh, phòng không với lực lượng chính qui ít nhất cũng 40,000 người đuổi đánh khoảng bẩy, tám ngàn lính VNCH rút chạy.
Hai bên đều nói thắng lợi, miền nam VN đã tới Tchepone và BV đã đuổi được VNCH. Thống kê thiệt hại cũng mơ hồ, theo báo cáo của Quân đoàn 24 (US) cho biết BV có 19, 360 bị giết, tổn thất kể cả thương binh là 26,000, có thể họ mất 20,000, một nửa lực lượng tham chiến phần lớn do B-52 và phi cơ chiến thuật oanh tạc. Báo cáo của Mỹ cho biết Mỹ-VNCH tổn thất 9,065 người trong đó Mỹ là 1,402, chết 215, phía VN tổn thất 7,638, chết 1,764.
Báo Newsweek ngày 5 tháng 4-71 nói VNCH thiệt hại 9,775 người trong đó có 3,800 chết
Về trang bị hai bên thiệt hại nhiều VNCH mất 211 xe vận tải, 87 xe tác chiến, 54 xe tăng, 96 khẩu pháo vá các máy móc như xe ủi. Thiệt hại CSBV lớn hơn: 2,000 xe cộ (được xác nhận kiểm tra 422) 106 xe tăng (kiểm tra xác nhận 88 cái), 13 khẩu pháo, 170,340 tấn đạn (kiểm tra xác nhận 20,000), 1,250 tấn gạo. Mỹ mất 108 trực thăng, 618 hư hại, Mỹ-Việt bắn nửa triệu quả đạn pháo.
Đó là những thống kê tốt nhất mà ta có được nhưng không có về kết quả chiến dịch, nó ngăn chận đường mòn HCM được vài tuần, địch phải thiệt hại người, trang bị mà đáng lý xử dụng cho cuộc tấn công 1971, 72. Kissinger cho biết cuộc tấn công Miên 1970 Lào 1971 đã giúp Mỹ-VNCH thắng cuộc tấn công 1972. Tác giả nói thực ra Tướng Giáp đã chuẩn bị tấn công cho năm 1972, dù Mỹ-VN có được kết quả nhưng trả giá đắt.
Nhiệm vụ của cuộc hành quân Lam Sơn 719 chiếm cứ hậu cấn 604 và 611 (của BV) 90 ngày để phá hủy các kho hàng, mà VNCH chỉ ở lại có 45 ngày bất động hay rút, căn cứ 604 bị chiếm nhưng không bị phá hủy hết, căn cứ 611 không bị phá hủy. Chỉ một tuần sau khi VNCH rút đi, BV lại vận chuyển bình thường. Báo chí nói cuộc hành quân thất bại. Nixon nói nó thất bại về tâm lý, các gia đình nạn nhân xúc động, phía VN coi như thua.
Tác giả nói phía VNCH có nhiều khuyết điểm cho thấy những hy vọng VN hóa thất bại, lãnh đạo chính trị (VN) thiếu khả năng. Trung tướng Hoàng Xuấn Lãm không chỉ huy nổi 2 ông Tư lệnh Dù, TQLC cũng là Trung tướng. Hành động của TT Thiệu cho thấy lãnh đạo bất lực không can thiệp vào để giúp Tướng Lãm, Thiệu phụ thuộc vào Sđ Dù vì họ gác dinh cho ông.
Ông Thiệu sai ở chỗ ở chỗ sao lãng trách nhiệm, mới đầu hăng hái đồng ý kế hoạch sau trốn tránh trách nhiệm khi tình hình khó khăn cam go hơn. Ông đã can dự và làm hỏng kế hoạch. Quyết định của ông hôm 12-2 (mất 3,000 quân thì phải rút) khiến kế hoạch ngưng lại và làm hỏng cuộc hành quân 719 đưa quân đội VNCH lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Sau này ông đưa 2 tiểu đoàn của Sư đoàn I vào thay sư đoàn Dù không có kết quả. Để bảo vệ sư đoàn Dù (gác dinh cho ông) TT Thiệu đưa TQLC thay Dù không thực tế, sau lại đưa Sư đoàn I vào. Sau ông từ chối đầu tháng 3 đưa Sư đoàn 2 vào là là đúng vì sư đoàn này không bằng các sư đoàn trên, nó sẽ làm tăng tổn thất. Thiệu là một nhà lãnh đạo chính trị gốc quân đội không có kinh nghiệm điều động những đơn vị lớn, chiến tranh qui ước khó và phức tạp như Lam sơn 719. Bộ Tham mưu và các Tư lệnh của ông cũng thiếu khả năng như ông trừ Tư lệnh Sư đoàn I.
Ngoài khuyết điểm về lãnh đạo cuộc hành quân Lam sơn 719 cho thấy khuyết điểm không thể chữa được của VNCH đó là chiến thuật giữ đất (home-guard) của các sư đoàn bộ binh (cơ hữu). Các sư đoàn bộ binh (trừ Sư đoàn 1) không đủ tiêu chuẩn để thành đơn vị lưu động. Toàn bộ chỉ có Sư đoàn Dù và TQLC
Chiến dịch này cho thấy các đơn vị (lớn) VNCH không phải là lính nhà nghề (lack of professionalism). Họ phải dựa vào cố vấn Mỹ nhất là về điều động oanh tạc của máy bay chiến thuật và pháo binh hoặc kêu trực thăng vận, chỉ có một số đơn vị tốt, nói chung dở. Họ không được huấn luyện về phối hợp bộ binh và thiết giáp, xe tăng, bộ binh chiến đấu riêng rẽ bị thiệt hại, báo cáo dưới sai, một ông Tướng VNCH là sử gia nói nó tồi tệ vì các Tư lệnh quân đoàn, sư đoàn ít khi thị sát trận tuyến. Cuộc chiến diễn ra thiếu tin tức, tình báo, kiểm soát. Bảo mật truyền tin dở, bản tin trao đổi không xài mật mã sơ đẳng. Qua Lam Sơn 719 cho thấy VNCH thiếu huấn luyện, kỷ luật.
Quân đội VNCH học cái dở của Mỹ, họ hay dựa vào trực thăng mà có khi đi bộ còn nhanh và an toàn hơn. Khi gặp quân địch họ hay kêu phi pháo, đại bác thay vì tấn công địch. Tướng Abrams nói: “tôi không biết lính VNCH có học cái hay của Mỹ không nhưng tôi biết chắc họ học cái dở của Mỹ.” Chiến dịch cho thấy VNCH phụ thuộc Mỹ, không có yểm trợ Mỹ thì không có hành quận Lam sơn 719.
Tác giả cho biết phía Mỹ cũng có nhiều sai lầm: kế hoạch soạn thảo vội vã, quân đội VNCH không được huấn luyện đặc biệt cho chiến dịch. Thảo kế hoạch và thi hành của Mỹ-VNCH thiếu thống nhất, không ai chịu trách nhiệm chiến dịch vì nhu cầu chính trị của Thiệu và kế hoạch bị dập nát vì lệnh tai hại của ông ta. Kế hoạch không để ý tới thời tiết địa hình và khinh địch, họ tự tin vào ưu thế quân đội và cơ giới. Đất xấu không thuận tiện cho bãi đáp trực thăng, thời tiết trở ngại cho không quân mà chiến dịch phụ thuộc.
Tướng Giáp đã đưa vào khoảng 20 tiểu đoàn phòng không, tình báo đánh giá thấp thiết giáp, pháo binh địch, chiến dịch không có quân trừ bị. Mục đích chiến dịch là chiếm rồi cắt đường mòn Hồ Chí Minh ba tháng trước mùa mưa khiến CS không tiếp liệu được cho miền nam. Nếu con đường này bị cắt sẽ là mối nguy cho BV và họ phải đánh bằng được.
Ngày 7-4, ít lâu sau khi VNCH rút khỏi Lào, TT Nixon nói trên truyền hình cuộc hành quân Lam Sơn 719 và VN hóa chiến tranh thành công, Davidson cho là sai, VN hóa không thành công. Tháng 6-1971, MACV sửa sai, họ huấn luyện quân đội VN về vế bộ binh và không quân phối hợp cũng như bộ binh và xe tăng phối hợp.
Tác giả nói:
“Phải công nhận trong chiến dịch Lam sơn 719 này BV được trang bị xe tăng T-54 loại trung bình hỏa lực mạnh hơn xe M-41 lại nhẹ của VNCH, cơ quan MACV đã cấp cho VNCH một tiểu đoàn thiết giáp M-48 (Mỹ) lớn hơn và cấp cho pháo binh VNCH một tiểu đoàn đại bác 175 ly tự hành (tự di chuyển được) để đối đầu với đại bác 130 ly của BV do Nga chế nhưng sự nâng cấp này không đủ cho chiến trường. Đúng ra toàn bộ xe tăng VNCH phải được cấp M-48, và một số tiểu đoàn pháo binh phải là loại 175 ly có hỏa lực tàn phá. Sự kiện liên hệ về xe M-48 và súng 175 ly cho thấy sự yếu kém của VN hóa chiến tranh. Qua chính sách này, việc nâng cấp không quân VNCH cần để đối đầu với sự hiện đại hóa khí giới cũng như chiến thuật của BV (trang 660).”
Ngoài ra tác giả dẫn lời Tướng Hinh (TL Sđ 3) sau này nhận xét về Lam Sơn 719 nói Sư đoàn 1 Không quân VNCH không yểm trợ gì nhiều cho Quân đoàn 1. Thực ra không quân VNCH không có vai trò gì quan trọng trong Lam Sơn 719.
Nhận định
Tác giả George Donelson Moss nói Lảo được trung lập hóa từ 1962 (Hiệp định Geneve) nhưng hai bên đều vi phạm, kế hoạch Lam Sơn 719 do ông Thiệu và Tướng Cao Văn Viên chịu trách nhiệm phá hủy các căn cứ tiếp liệu, ngăn trở CSBV vận chuyển tiếp liệu trên đường HCM xong rút về trước mùa mưa. Không quân Mỹ yểm trợ, VNCH tự chiến đấu.
Theo ông trái với cuộc hành quân sang Miên năm trước (1970) Cộng quân bỏ chạy, tại Tchepone họ sẵn sàng đánh trả. Khi quân đội VNCH tiến qua đường 9 họ đã biết trước nên không có yếu tố bất ngờ. Tác giả cũng đổ lỗi ông Thiệu rút sư đoàn Dù về để gác dinh. Khoảng 40 ngàn quân BV có xe tăng đại bác truy đuổi 8 ngàn quân VNCH rút chạy khiến cho VN hóa chiến tranh mất ý nghĩa. Không quân Mỹ yểm trợ oanh tạc, bắn phá pháo binh, thiết giáp địch giúp VNCH rút. Mỹ thiệt hại 108 trực thăng, 618 cái hư hại, 89 phi công mất tích, tử thương, 178 bị thương. George Moss cho là Lam Sơn 719 và VN hóa chiến tranh thất bại, miền nam đoán trước và tại Sài Gòn báo chí chống VN hóa cho là người Mỹ hy sinh quân đội VNCH (9)
Kissinger và hai tác giả Moss, Davidson đều nhìn nhận cuộc hành quân Lam sơn 719 thất bại, họ đổ lỗi cho VNCH. Kissinger là người được TT Nixon giao trách nhiệm nghiên cứu lập kế hoạch, ông không phải là nhà quân sự, chỉ trích của ông có phần nhẹ. Ông ta nói ông Thiệu chỉ muốn đánh cho nhanh. VNCH có khuyết điểm trong cơ cấu tổ chức, ít quân trừ bị, họ sợ bị thiệt hại nhân mạng …Hai tác giả còn lại chỉ trích sự sai lầm của ông Thiệu nhưng Tướng Davidson chê bai nặng nề hơn. Ông này nói Thiệu trốn trách nhiệm, mới đầu hân hoan đồng ý chiến dịch sau cho rút làm hỏng bét hết. Ông cũng đánh giá thấp tài lãnh đạo, chỉ huy của TT Thiệu và các Tướng tư lệnh VNCH.
Kissinger, Moss và nhất là Davidson chỉ trích cơ cấu tổ chức quân sự VNCH, thiếu quân lưu động, trừ bị, nặng về chủ trương giữ đất. Những điểm yếu kém của VNCH về lãnh đạo, chỉ huy của cấp Tướng lãnh… có thể đúng nhưng không phải là lý do chính cho sự thất bại. VNCH thiếu quân trừ bị hoặc chỉ lo giữ đất là do Mỹ, quân đội miền Nam phải phụ thuộc vào Mỹ cũng là do Mỹ, họ tổ chức và trang bị, viện trợ cho nam VN.
Sở dĩ cuộc hành quân thất bại vì người Mỹ không viện trợ giúp đỡ VNCH nhiều như khối CS đã giúp đồng minh CSBV của họ. Đúng 30 năm sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, hai tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch Sử Quân Sự CSVN có bài tham luận rất đầy đủ về về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến (10) . Theo đó ngoài viện trợ to lớn của Nga, Trung Cộng, các nước XHCN Đông Âu cũng đóng góp rất nhiều cho CSVN trong khi miền nam VN chỉ trông vào Hoa Kỳ. Các nước đồng minh Anh, Pháp, Tây Âu.. đều không giúp gì, họ phá Mỹ, bênh vực CSVN mà vẫn núp dưới cây dù nguyên tử Mỹ. Sở dĩ các nước CS giúp BV nhiều hơn vì họ không phải đưa ra Quốc hội, muốn viện trợ bao nhiêu tùy ý trong khi Hành pháp Mỹ phải vận động Lập pháp, thăm dò dân… nên viện trợ tới tay miền Nam thường bị cắt giảm, có khi nhỏ giọt.
Về điểm này chính Davidson đã công nhận CSBV được cấp xe tăng, đại bác tối tân như trên, họ luôn mạnh hơn VNCH, Mỹ nâng cấp quân đội miền nam VN cho bằng BV nhưng quá trễ và quá ít (“too little, too late”) nguyên văn.
“Vì thế quân đội BV luôn đi trước quân đội VNCH một bước. Việt Nam hóa chiến tranh là chuyện chạy đua (vũ trang) quá ít, quá trễ” (11)
VNCH tổng cộng có một triệu quân năm 1971 như Kissinger nói trên nhưng thực ra chủ lực quân chỉ có 11 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn tổng trừ bị (Dù, TQLC) và 15 liên đoàn Biệt động quân trong khi CSBV có 15 sư đoàn chính qui (4 quân đoàn và đoàn 232) (12) và 26 trung đoàn độc lập (13)
CSBV được trang bị mạnh hơn, quân số họ đông hơn VNCH. Tổng cộng miền nam VN có 44 tỉnh, tính trung bình một trung đoàn bảo vệ một tỉnh nên thiếu quân di động trong khi CSBV không phải giữ đất. Cuộc hành quân sang Miên năm 1970 thành công vì có quân đội Mỹ cùng tham gia, tại đây Cộng quân xa hậu cần miền Bắc, họ không có xe tăng, pháo binh, không được tăng viện nên bỏ chạy. Ngược lại tại Tchephone Lào rất gần hậu cần miền Bắc, Cộng quân được tiếp viện nhanh, được trang bị pháo binh, phòng không, thiết giáp nên rất mạnh. VNCH không được Mỹ yểm trợ nhiều (bị Quốc hội chống đối) nên không thể đương đầu với lực lượng địch đông đảo trang bị mạnh hơn. VNCH giữ đất còn chưa xong, không thể một mình làm nhiệm vụ tấn công, chiến dịch Hạ Lào của Mỹ coi như thất sách, không thể đổ lỗi cho VNCH.
Về tổn thất hai bên ông Nguyễn Đức Phương dựa theo tác giả R.H Cole trong Southern Defeat on the Ho Chi Minh Trail. The Vietnam War, Salamander Books Ltd, pp190-197, 198. cho biết (14)
Mỹ 176 chết, 1,942 bị thương, 42 mất tích, thiệt hại quân dụng: 108 trực thăng và 7 phi cơ bị phá hủy.
VNCH: 1,483 người chết, 5,420 bị thương, 691 mất tích. Thiệt hại quân dụng: 75 chiến xa và thiết vận xa, 405 xe vận tải bị phá hủy; mất 198 vũ khí cộng đồng và 3,000 vũ khí cá nhân.
CS: 13,535 chết, 69 tù binh. Thiệt hại quân dụng: 76 đại bác, 106 chiến xa, 405 xe vận tải bị tịch thu hoặc phá hủy; 1,934 vũ khí cộng đồng và 5,066 vũ khí cá nhân bị tịch thu”.
Theo tác giả Nguyễn Kỳ Phong, mấy tuần sau Lam Sơn 719 kết thúc Bộ Tư lệnh MACV và Bộ TTM VNCH tuyên bố:
Phía VNCH 1,529 người chết, 5,423 bị thương (21% so với quân tham chiến), mất 111 xe M-41, M-113, 90 dại bác, 70 quân xa.
Mỹ 174 chết, 1,027 bị thương, 42 mất tích.
CSVN 16,224 chết, 81 bị bắt, 4 đầu hàng, mất 308 đại bác phòng không, 48 đại bác, 223 súng cối, 207 súng hỏa tiễn 122 ly, 106 chiến xa, 291 xe vận tải (15)
Chiến dịch có lợi cho 2 nhà lãnh đạo Mỹ, nếu thành công sẽ thuận lợi cho chương trình rút quân của Nixon và cho cuộc hòa đàm của Kissinger tại Paris. Mục tiêu chính của chiến dịch là làm suy yếu địch giúp cho miền nam VN không sụp đổ khi Mỹ rút.
Trọng Đạt
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 24, 2019 17:53:55 GMT 9
LỮ ĐOÀN 258 - CHIẾN TÍCH SAU CÙNG
CHIẾN SỬ BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN Tác giả: Mũ xanh Mai Văn Tấn
Sau ngày lễ Giáng Sinh 1972 Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258 di chuyển từ trường Tiểu Học của Quận Hải Lăng về Ấp Hội Yên, trên đường phố “Street Without Joy”. Ký giả Bernard fall đã đặt tên cho con đường này trong thời chiến Việt Minh và Pháp. Nơi đây trong trận tái chiếm Quảng Trị là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến, dân cư thưa thớt, sống về ruộng rẫy và đánh cá. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 258, Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh thiết lập căn cứ. Vì có sự hiện diện của Quân Đội nên một vài quán cóc cũng được dân chúng địa phương dựng lên bên lề đường nơi ngã tư Hội Yên và Hương lộ 555 để bán cà phê, nước ngọt và lặt vặt. Muốn đi chợ thì phải ra Quận Hải Lăng hoặc đi Phong Điền. Mỹ Thủy nằm ở phía Đông Nam Cửa Việt 30 cây số, từ Quốc lộ 1 có đường xe chạy thẳng tới Mỹ Thủy qua Hải Lăng, Hội Yên là 3 cây số. Biển vắng, chỉ có vài nhà dân cư ngụ. Có lẽ nơi đây có gió nhiều quanh năm nên cũng không thuận tiện cho việc làm những căn nhà lá đơn sơ tại bãi biển thơ mộng này. Sau ngày ngưng bắn 28 tháng 1 năm 1973 được quy định bởi hiệp định Ba Lê. Ta và Địch bố trí trên những vị trí cuối cùng đã chiếm được trước ngày ngưng bắn. Hai bên đóng chốt gần nhau, có nhiều vị trí chỉ cách nhau 1m. Tôi còn nhớ trong dịp Tết Nguyên Đán năm Qúy Sửu tháng 2 năm 73 các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở trên tuyến đầu có được tiếp tế thịt heo ăn Tết. Thấy bên ta nấu nướng linh đình, lính Việt cộng rất thèm nhưng làm như cũng có heo để thịt, ban đêm cấp chỉ huy Việt cộng cho dắt mấy con heo đi dọc theo tuyến đóng quân, vừa đi vừa đánh heo, bị đòn đau heo kêu eng éc suốt đêm, chúng làm như vậy để cho ta tưởng rằng chúng cũng làm thịt heo cho lính ăn Tết. Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng đến thăm anh em ở trên tuyến ban đêm nên được chứng kiến cảnh này. Chỉ thấy tội nghiệp cho những con heo vô tội sống dưới chế độ cộng sản bị đánh đập để lường gạt ta và chính bản thân họ. Trong thời gian ngưng bắn, vào khoảng cuối năm 1973 đầu năm 1974 có một đêm tối trời mưa to gió lớn chúng đã cho xâm nhập vào vùng trách nhiệm của ta cả 1 Trung Đoàn, đi qua phòng tuyến của một đơn vị Địa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Trị tăng phái. Sự xâm nhập của chúng bị phát giác vì những con đường mòn trên cỏ từ trên tuyến vào khu vực của ta mà ngày hôm trước không thấy có. Dân làng cho biết chúng rất đông và mới đến hồi đêm. Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến điều động các đơn vị trực thưộc (Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 8 và Tiểu Đoàn 9) mỗi Tiểu Đoàn 2 Đại Đội cùng đơn vị Thiết kỵ tăng phái bao vây và loa phát thanh cho chúng một thời gian là 24 tiếng đồng hồ phải rút về bên kia giới tuyến, đồng thời Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn gửi Công Điện lên Sư Đoàn và thông báo lên Quân Đoàn để xin lệnh sử dụng hoả lực Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến nếu chúng ngoan cố không chịu rút ra khỏi khu vực. Cùng lúc xin Quân Đoàn 1 lên tuyến đầu để tiếp xúc với cấp chỉ huy phía bên kia, buộc họ rút ra khỏi phạm vi trách nhiệm của ta. Sư Đoàn và Quân Đoàn chấp thuận cho phép Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng được làm công việc này bằng công điện trả lời chính thức. Các chiến xa và thiết vận xa cùng các đơn vị đã sẵn sàng, Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến sẵn sàng tác xạ vào mục tiêu, vì thi hành đúng đắn lệnh ngừng bắn nên ta không tác xạ, chỉ áp lực cho chúng phải rút ra mà thôi. Song song với việc làm trên. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng lên tuyến đầu, tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 9 để yêu cầu phía bên kia cho gặp cấp chỉ huy có thẩm quyền của họ. Khi gặp cấp chỉ huy phía bên kia, tôi và một số anh em được tháp tùng theo. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng mặc quân phục có mang cấp hiệu và bảng tên đàng hoàng, còn phía bên kia thì không. Cùng đến với người chỉ huy phía Việt cộng có một số cận vệ đi cùng. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng đưa điều kiện cho họ là phải rút hết thành phần đã xâm nhập ra khỏi vùng trong vòng 24 giờ, nếu không sẽ bị tiêu diệt toàn bộ. Chúng chấp nhận và ngày hôm sau chúng rút ra đi theo con đường chúng đã vào đêm hôm trước, đi hàng 1 mà từ trưa đến chiều tối mới rút ra hết, đa số đơn vị này là phụ nữ, trang bị vũ khí đầy đủ. Cũng vì biết Việt cộng không tuân hành lệnh ngưng bắn, chúng thường lén lút xâm nhập mỗi khi có thể được, nên các đơn vị luôn luôn cảnh giác đề phòng. Tuyến đầu cách Cửa Việt chừng 11 cây số. Đông Hà là một căn cứ tiếp liệu quan trọng của Cộng sản, các quân trang quân dụng, vũ khí đạn dược được mang từ cảng Cửa Việt vào tồn trữ. Hàng ngày có khoảng 10 tầu vận tải của Trung quốc từ Bắc việt vào Cửa Việt. Cũng để tránh Việt cộng có thể dùng chiến xa tấn công bất ngờ các đơn vị của ta ở dọc bờ biển phía Nam Cửa Việt, như là Việt cộng đã vi phạm lệnh ngừng bắn và tấn công vào lực lượng Thủy Quân Lục Chiến ngày 31 tháng 1 năm 73. Những bãi mìn chống chiến xa đã được đặt dọc bờ biển. Mùa hè Đỏ lửa từ 72 cho tới tháng 4/75, các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Quảng Trị và các đơn vị Thiết Giáp tăng phái đã góp phần không nhỏ trong việc mang lại những chiến thắng cho Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến. Những Tiểu Đoàn Địa Phương Quân cũng làm những trách vụ như Thủy Quân Lục Chiến trên các tuyến đầu sau khi hiệp định ngưng bắn Paris. Đơn vị Kỵ Binh Thiết Giáp đã có mặt hầu hết trong các mặt trận của Thủy Quân Lục Chiến ở giới tuyến. Các đơn vị này đã góp công mang lại những chiến thắng vẻ vang chung cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Sau ngày ngưng bắn, Lữ Đoàn 258 trách nhiệm phía biển, Tây là Lữ Đoàn 369 Nam là Tiểu Khu Quảng Trị. (Xem phóng đồ). Các đơn vị trực thuộc và tăng phái cho Lữ Đoàn 258 bố trí 11 cây số phía Nam Cửa Việt dọc theo bờ biển xuống tới khu vực thôn Mỹ Thủy, trên tuyến đầu là Tiểu Đoàn 105 Địa Phương Quân, kế đến là Pháo Đội B + 1 Trung Đội Tiểu Đoàn 2, Pháo Đội C + 1 Trung Đội Tiểu Đoàn 2 ở phía Nam Pháo Đội B hai cây số. Cánh B Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến + Trung Đội Quân Y 258 cách Mỹ Thủy 4 cây số về hướng Tây Bắc. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh (–), Chi Đoàn 3/20 Chiến Xa M48 và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh tại thôn Hội Yên (2) gần ngã tư Hương lộ 555 và đường đất 602, (462-524) bản đồ 1/50000, L7014 tờ số 6442-2. Ký giả Bernard fall đã gọi nơi này là “Street Without Joy”, mà ta đặt tên là “Dẫy Phố Buồn Thiu,” nói là phố chứ đâu có phố phường gì chỉ có nhà cửa dân chúng lưa thưa rải rác ở trong vùng. Đường đất 602 là con đường bắt đầu từ Hải Lăng ra tới Mỹ Thủy. Hương lộ 555 là đường nối liền với hương lộ 592 tại ranh giới Quảng Trị và Thừa Thiên và từ đó qua Hội Yên (2) rồi lên đến Tri Bưu, Quảng Trị. Bãi biển tại thôn Mỹ Thủy rất đẹp và yên tĩnh về buổi sáng, nơi đây chỉ có vài gia đình sinh sống nghèo khó, nhộn nhịp thường về chiều khi các thuyền đánh cá cặp vào bãi để đem cá lên chợ Hải Lăng bán trước khi về Thuận An. Từ Hội Yên (2) ra tới Mỹ Thủy là 5 cây số. Sáng ngày 20/6/74 hồi 6 giờ 30 sáng. Sĩ quan trực Trung Tâm Hành Quân Lữ Đoàn, Thiếu Úy Chương và Trung Úy Vinh được Tiểu Đoàn 105 Địa Phương Quân tại (418-626) báo cáo thấy một tàu, không phải là loại tàu đánh cá vẫn xuất hiện thường ngày, tàu này đang di chuyển về hướng Nam cách bờ khoảng hơn một cây số, trời quang đãng. Có thể quan sát thấy tàu nhưng không thấy chi tiết như là mang cờ nước nào hoặc số đăng bộ. Tàu tiếp tục đi qua Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến tại (463-585) thì trời đã sáng rõ, nơi đây báo cáo là chiếc tàu vận tải loại lớn hơn LCM, và nhỏ hơn LCU di chuyển về hướng Nam cách bờ khoảng hơn một cây số, có mang cờ Việt cộng (Mặt Ttrận Gỉai Phóng Miền Nam). Lữ Đoàn báo cáo lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở Hương Điền tại (634-428), đồng thời xin Bộ Tư Lệnh xác nhận có tàu bạn đi công tác đặc biệt ở phía Bắc trở về không. Bộ Tư Lệnh xác nhận là không có tàu nào của Hải Quân hoặc của đơn vị Đặc Biệt nào hoạt động ở vùng này trong buổi sáng ngày hôm đó. Lữ Đoàn cho lệnh các đơn vị sẵn sàng đồng thời điều động Chi Đoàn 3/20 chiến xa M48 và Trung Đội Đại bác 106 ly của Lữ Đoàn di chuyển ra Mỹ Thủy. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258, Trung Tá Đoàn Trọng Cảo Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh, Thiếu Tá Quách Ngọc Lâm Trưởng Ban 4 Lữ Đoàn có mặt ở Mỹ Thủy khi chiếc tàu đang từ Bắc di chuyển xuống. 9 giờ Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư Lệnh Sư Đoàn đã dùng trực thăng bay trên vùng để quan sát chiếc tàu lạ. Lúc này tất cả các thành phần có mặt ở Mỹ Thủy đã bố trí sẵn sàng. 9 giờ 45 tàu đi ngang Mỹ Thủy và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn được các giới chức có thẩm quyền xác nhận chắc chắn không phải là tàu Bạn. Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến được lệnh tác xạ ngăn chặn để tàu phải ngừng và cặp vào Mỹ Thủy nhưng tàu vẫn chạy và còn tác xạ xối xả vào các đơn vị ta bằng đại liên 50. Đại Úy Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/20 Chiến Xa M48 được lệnh khai hoả vì tàu ở trong tầm tác xạ, lúc này là 10 giờ sáng ngày 20 tháng 6 năm 74 vị trí tàu tại (500-580), mới chỉ có loạt đạn Đại bác 90 mm đầu tiên, chiếc tàu đã bị chiến xa M48 bắn trúng khu vực máy tàu nằm phía sau làm hư hại, tàu mất thăng bằng quay vòng tròn và từ từ chìm dần, đây là vùng biển không sâu nên tàu không chìm hẳn, phía mũi tàu còn nổi ở trên mặt nước. Có 1 thủy thủ nhẩy ra khỏi tàu nhưng vì quá xa bờ nên bị chết đuối. Người này đã được các anh em Thủy Quân Lục Chiến vớt lên và chôn cất tại Mỹ Thủy. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến có cho 1 toán người nhái do Đại Úy Đào Ngọc Kỳ chỉ huy, đến Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn để được hướng dẫn ra chỗ chiếc tàu chìm. Toán người nhái được Công Binh Lữ Đoàn đưa ra chỗ tàu chìm bằng xuồng cao su. Đại Úy Kỳ báo cáo là tàu chở đầy các thùng gỗ lương thực đóng hộp có nhãn hiệu của Trung quốc, thùng gỗ lớn bằng thùng đạn pháo binh 105 ly của Mỹ. rất nhiều đạn dược các loại cho súng cá nhân và súng cối 82 ly, thủy thủ đoàn còn lại trong tàu là 7 người, tất cả đều chết. Sau khi chiếc tầu Bắc việt bị bắn chìm thì 1 Chiến hạm của Hải Quân Việt Nam cũng được Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 điều động có mặt ở cạnh chiếc tàu bị bắn chìm, để đề phòng trường hợp Hải quân Việt cộng có thể từ Cửa Việt đến tiếp cứu đồng đội. Trưa ngày 20, Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân Tư lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng đến Mỹ Thủy. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến đã hướng dẫn Chuẩn Tướng Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến xem các thùng thực phẩm khô, đạn dược của Trung cộng và tài liệu. Chiếc tàu này mang số danh bộ T-174 thuộc Trung Đoàn 5 Hải Quân Bắc Việt trú đóng tại Cửa Việt (344-700). Còn tàu này xuất phát từ đâu và sẽ đi đến đâu thì không có tài liệu nào nói về việc này nên không thể biết được tàu này sẽ đi về đâu vì thủy thủ đoàn không còn người nào sống sót. Chúng tôi có theo dõi trên hệ thống truyền tin của phía Việt cộng nhưng không thấy họ đả động gì đến biến cố này. Có thể Bắc việt sợ nếu lên tiếng công nhận là tàu của họ thì có thể có hậu quả nghiêm trọng không có lợi cho phía Cộng sản. Không biết Tàu này đi lạc hay đi về đâu, không có gì để kiểm chứng, nhất là ngày hòm đó trời quang đãng, tầm quan sát xa, nếu nói là đi lạc 30 cây số về hướng Nam thì cũng rất là mơ hồ không chính xác, và nếu sự thật là tàu đi lạc 30 cây số thì Sĩ quan Hải Quân Bắc Việt quá giỏi về Hải hành. Theo tôi nghĩ rất có thể chúng đi tiếp tế cho một trạm tiếp nhận nào của chúng ở phía Nam Quảng Trị hoặc Bắc Thừa Thiên. Khó mà tin đươc là tàu Việt cộng đi lạc. Đây là chuyện khó tin nhưng có thật đã xẩy ra ở cuộc chiến Việt Nam là Thiết Giáp bắn chìm tàu của Hải Quân Bắc Việt xâm nhập miền Nam. Cũng Chi Đoàn 3/20 chiến xa M48 tăng phái cho Lữ Đoàn 258 tại Ái Tử tháng tư năm 1972 đã cùng với các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến bắn hạ nhiều chiến xa trong cuộc tấn công phối hợp Bộ binh và Chiến xa của Quân Đội Bắc Việt đầu tiên trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngày 9 tháng 4 năm 1972 tại chiến trường Quân Khu 1. Sau khi sự xâm nhập bằng đường biển bị phát giác thì Hải Quân Việt Nam có mặt thường xuyên để tuần tiễu khu vực Nam Cửa Việt. Viết lại những chiến tích này để đóng góp vào chiến sử Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nói chung. Một binh chủng thiện chiến, một Quân Lực hùng mạnh vào bậc nhất ở Đông Nam Á mà phải rã ngũ đầu hàng khi Đồng minh buông tay thật là đau sót. Nhớ ngày cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã nói “Cuộc chiến tranh này không phải là cuộc chiến tranh bấm nút, mà cuộc chiến tranh lấy lý tưởng đối đầu với lý tưởng, cuộc chiến tranh liên hệ tới toàn dân mà yếu tố tin tưởng lý tưởng mình là tất thắng” Chúng ta đã đánh mất chính nghiã từ khi quân đội Đồng minh đổ quân vào Nam Việt Nam để giúp chúng ta. Điều này trở thành mục tiêu cho cộng sản Việt Nam tuyên truyền và xuyên tạc. Chúng ta đã trả giá quá đắt về sự trả thù tàn bạo và dã man của cộng sản Việt Nam qua các “trại cải tạo” mà hơn 100 ngàn quân cán chính phải gánh chịu. Biết bao nhiêu người đã làm mồi cho cá hoặc chết trong rừng sâu trên đường trốn chạy cộng sản. Đến ngày hôm nay hơn 2 triệu người sống rải rác khắp năm châu. Toàn dân miền Nam bị cộng sản kìm kẹp và đày đoạ ở các vùng mà chúng gọi là “Kinh tế mới”. Con cháu chúng ta cũng bị phân loại lý lịch xấu để kỳ thị trong học đường. Thương phế binh, những người đã hy sinh một phần thân thể của mình để bảo vệ miền Nam Tự do bị chúng sỉ nhục, kỳ thị sống âm thầm trong tủi nhục. Mặc dù chúng ta chưa đạt được chiến thắng sau cùng, nhưng những trang Quân Sử đã nói lên ý chí cương quyết, sự chiến đấu mãnh liệt của tất cả quân cán chính các cấp cho hai chữ “Tự Do”. Giờ đây chúng ta mặc dầu đã gìà, nhưng ý chí phấn đấu không ngừng để rút tỉa những kinh nghiệm cho con cháu nhìn thấy trong quá khứ ông cha chúng đã chiến đấu để chúng tiếp tục con đường đấu tranh đến chiến thắng cuối cùng. Nhất định quang phục quê hương, nhìn về tương lai một nước Việt Nam Tự Do, Độc Lập Nhân Quyền và Phú Cường. Indiana mùa Đông năm 2005 (Niên Trưởng Đồ Sơn gợi ý và chi tiết cùng hình ảnh để ghi lại những chiến tích cách đây 31 năm) MX Mai Văn Tấn
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 28, 2019 2:46:23 GMT 9
LỮ ĐOÀN 147 - TỪ MỘT CUỘC DI TẢN CHIẾN THUẬT 1975
CHIẾN SỬ BINH CHỦNG THỦY QUÂN LỤC CHIẾN Tác giả: Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
[LTG: Bài viết này xin dành tặng các chiến hữu Thủy Quân Lục Chiến, những người vì nhiều lý do đã không hiện diện tại mặt trận phía Bắc vùng đất trách nhiệm của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến vào những ngày cuối cùng tháng 3 năm 1975 buồn thảm. Tôi kể lại những gì mắt thấy tai nghe về những đau thương, mất mát, cay đắng, nghiệt ngã của cuộc lui binh lịch sử ngoài khả năng hiểu biết của một người lính mà sự khổ đau, thua thiệt chịu đựng quá nhiều, còn niềm hy vọng sống còn chỉ là điều hiếm mọn ít oi.]
Đầu tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân Đoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau. Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 Sư Đoàn tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Đông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14/9/72. Sư Đoàn Nhảy Dù được điều động về mặt trận Đức Dục, Quảng Nam. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Đông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dãi Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Động Ông Đô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ồ… Liên Đoàn 911 và các Đại Đội biệt lập Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hành Quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn công tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đặc biệt Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế của địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973. Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa sức ngăn chận mọi cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt từ phương Bắc xuống. Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã quyết định điều động phần lớn các lực lượng Thủy Quân Lục Chiến về Nam gồm các Lữ Đoàn 258, Lữ Đoàn 369 và Lữ Đoàn 486 vừa mới được thành lập. Lữ Đoàn 147 do Đại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu Đoàn 3, 4, 5, Tiểu Đoàn Pháo Binh, 2 Đại Đội Viễn Thám và Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango do Đại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Đoàn Biệt Động Quân với trang bị quân số thiếu hụt. Đây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngỏ sau này ở mặt trận Bắc Quảng Trị. Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một Trung Đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc lộ 1, cây số 23. Đơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sàng Đại Đội Phó Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu Pháo Binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc Không Lực Vùng I Chiến Thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngổn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẩn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, Tiểu Đoàn 121 Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên Trung Đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng Quận Hương Điền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời Hậu Trạm Máng Cá Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Đà Nẵng và Hậu Trạm cũng được Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh. Tôi chỉ thị cho các Đại Đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của Đại Đội 2 Tiểu Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến. Vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung Đội tận cùng cánh trái của Đại Đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Đại Úy Trần Văn Loan Đại Đội Trưởng hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng ra lệnh là bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất. Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, Đại Đội 4 của Đại Úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Viên Trình ra biển Đông, phòng tuyến cao nhất phía Bắc của miền Nam. Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận được lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn. Đại Tá Lương, Lữ Đoàn Trưởng cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biện Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch… Cũng như Thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó. Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, ta mới vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” máu của hàng vạn đồng bào, máu của chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Đô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu Cộng sản. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nổi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận. Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm đuợc đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu Tá Ngô Thành Hữu, Tiểu Đoàn Phó và Đại Úy Giang Văn Nhân, Ban 3 đang chờ đợi tại Bộ Chỉ Huy Tiều Đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hoả tiển TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Đại Đội 1 của Đại Úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không sử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế Quốc lộ 1 khi các Đại Đội đã bám sát được với nhau. Đã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chĩa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Đến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Đông Quốc lộ, Tiểu Đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trể nải sau cùng. Điều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho Trung Đội Nghĩa Quân Quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người Trung Đội Trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hoà lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ bgày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi. Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa Cộng sản bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã quỵ dọc đường. Rời ngã ba An Hoà rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngỏ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung toé lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hoà lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều Đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Đông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu. chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này. Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong cái vòng lẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Đạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Đường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, quả thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”. Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Đại Bàng Long Mỹ (Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng), ông giao cho một sấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, Thường Vụ Tiểu Đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi: - Nhậu đi Đại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh. - Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt. Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta. - Coi chừng việt cộng đó Đại Bàng. Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàn cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy! Qua khỏi cầu Đập Đá một quãng nữa, bắt đầu rẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đấm trong màn đêm u tịch. đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vường trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Đến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường. - Phá hủy xe đi ông thầy. - Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ. Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói: - Ai ngu để cho lũ ác ôn sử dụng, mình không dùng, phá hư luôn… hì… hì… Đến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mêng mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hứa hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo xấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay. Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bải bốc để lên tàu. Đó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Đoàn tập họp trên bãi cát trắng theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Đâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trôn trong đoàn quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1), chiếc HQ-801 dành riêng cho Thủy Quân Lục Chiến đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn độn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ. Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh dành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngoe nguẩy. Như sức bật của các lò xo, tất cả ùa nhau mà ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè lên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lỉm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Địch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Địch đã bắt sống một số lính trễ nải phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển. Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Để được an toàn hơn, Lữ Đoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dể nhận ra nhất là Đại Úy Ân, Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị. Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phía sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên Lữ Đoàn có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km2, đang gìơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Đơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng mênh mông để báo hiệu màn đêm buôn xuống. Lữ Đoàn quyết định rải quân phòng thủ. Tiểu Đoàn 4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, Tiểu Đoàn 3 phía Nam, Tiểu Đoàn 5 chúng tôi phía Bắc. Đại Úy Tô Thanh Chiêu, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 và Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Điều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hoá, định mệnh! Tin từ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh, Tiểu Đoàn 4, Tiểu Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn 7… Đúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càn sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Điều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây. Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hoả lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên ca, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi. Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Đông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của Bộ Chỉ Huy. Đã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Địch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Đây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên Trung Đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính Cộng sản Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt. Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài… Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hoả tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến. Để bớt căn thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vùng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “vẫn đang có ta đây!”. Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu Tá Võ Đằng Phương, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến, Đại Úy Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút sử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu. - 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái. - Vâng! Nhận rõ 416! 207 là biệt hiệu của Thiếu Tá Phạm Cang Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung Tá Nguyễn Đằng Tống Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 147. Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các Đại Đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Đạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các Đại Đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến Quân Đội và Tổ Quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vặn máy qua tần số Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Đà Nẳng. Người tiếp tôi là Đại Úy Đan, Tùy Viên Tư Lệnh: - Đại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến). - Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển. - Nhờ Đại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp. - Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh! Mặt mày tối tâm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát… self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai nấy lo, có thể là tan hàng! Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc Hải Quân khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chùng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phía Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, Tiểu Đoàn 4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu Tá Đinh Long Thành, tân Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi Hạ Sĩ 1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu quai nón của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ Tổng Tham Mưu cấp hẳn hòi với lý do: “Uy tín cấp chỉ huy”. - Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân. Nam do dự mếu máo: - Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc. - Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà. Đầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Đại Úy Đan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khoẻ mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghọ thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Điều này quá trân tráo và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các Đại Đội Trưởng lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 cùng Thiếu Tá Sử Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát. Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít bối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1, 2, 3, 4… 1, 2, 3, 4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo…” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng thep kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Đứa con đầu của Tiểu Đoàn 3 Sói Biển đang bị một Đại Đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đùn tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ nghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là Việt cộng nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu là thượng sách nhất. Đây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ nghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên Việt cộng chín rõ muời mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhân (B3), Ngọc (B2) đã làm thịt tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao! Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn. Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đoạn đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?. Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến, đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bảo vệ miền Nam tự do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi… Mũ Xanh Phạm Văn Tiền
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 6, 2020 1:17:19 GMT 9
Địa Phương Quân Lê Phi Ô và trận Võ Đắc suốt 33 ngày đêm chìm trong địa ngụcVăn Lan/Người Việt February 4, 2020 Đại Úy Lê Phi Ô, Tháng Mười Một, 1970, thăng cấp Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 344/Địa Phương Quân. (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) SAN JOSE, California (NV) – Người lính Lê Phi Ô là lính Địa Phương Quân ở Bình Tuy nơi ông sinh ra, nên ông thuộc lòng địa thế từng con đường, từng ngõ ngách, từng con lạch, ngọn đồi, từng cánh rừng để bảo vệ làng xóm được yên vui. Và hơn hết, đó cũng là nơi ông và đồng đội góp phần chiến đấu để bảo vệ miền Nam Việt Nam.Hiện ở San Jose, miền Bắc California, ngồi nhớ lại chuyện xưa, cựu Đại Úy Lê Phi Ô kể, tỉnh Bình Tuy là tỉnh thuộc miền Nam Trung phần, trong đó có quận Hoài Đức nằm về phía Đông Nam và quận Tánh Linh cách đó khoảng 15 km. Trong trận Võ Đắc, quận Hoài Đức là mục tiêu của Việt Cộng đánh chiếm, xong sẽ tràn qua quận Định Quán, Long Khánh, để dễ dàng di chuyển từ Quân Khu 2 qua Quân Khu 3 bằng quốc lộ 20 đi Đà Lạt. “Tin từ phòng nhì Bộ Tổng Tham Mưu trước đó cho biết Việt Cộng mở chiến dịch Tánh Linh-Hoài Đức để đánh chiếm hai chi khu này trước khi tiến đánh thị xã Xuân Lộc, nếu không thành công thì ít ra cũng cầm chân được một số lớn đơn vị của ta để đánh chiếm tỉnh Phước Long, và Hoài Đức là quận xa nhất cách tỉnh Bình Tuy khoảng 80 cây số đường chim bay,” ông Lê Phi Ô cho biết. Nhưng theo ông Ô thì: “Chiến dịch Tánh Linh-Hoài Đức của Cộng Sản bị thất bại, chúng chỉ chiếm được Tánh Linh nhưng không chiếm được Hoài Đức. Kế hoạch cắt đứt quốc lộ 20 đi Đà Lạt bị thất bại hoàn toàn, đường đi từ Phương Lâm lên Đà lạt vẫn thông thương được. Nếu chiếm được Hoài Đức, bọn Việt Cộng sẽ cắt đứt quốc lộ 20 đường đi Đà Lạt tại cây số 125 thuộc xã Phương Lâm, quận Định Quán của tỉnh Long Khánh.” “Vì Chi Khu Hoài Đức được Sư Đoàn 18 Bộ Binh giải vây nên Cộng Sản chỉ chiếm được Tánh Linh nằm sâu trong lãnh thổ Bình Tuy, quốc lộ 1 và 20 vẫn không bị áp lực nặng, nếu không bọn chúng có thể từ vùng rừng núi ở Quân Khu 2 từ bên Lào qua Lâm Đồng, tiến tới Tánh Linh, Hoài Đức rồi băng về các tỉnh vùng biển thì khó có thể ngăn cản được,” ông kể. Ông Lê Phi Ô ở San Jose hôm 30 Tháng Tư, 2018. (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) “Sau này khi đọc thêm tài liệu của Dr. Nguyễn Đức Phương, tác giả ‘Việt Nam Chiến Tranh Toàn Tập,’ tôi biết thêm rằng đầu Tháng Mười Hai, 1974, Tướng Trần Văn Trà – Tư Lệnh Quân Khu 7 Việt Cộng – tập trung Sư Đoàn 6 gồm Trung Đoàn 274, Trung Đoàn 33, Trung Đoàn Pháo và 3 Tiểu Đoàn Đặc Công 18, 19, 20. Ngoài ra còn được Quân Khu 6 Việt Cộng tăng cường thêm Trung Đoàn 812 và Tiểu Đoàn Đặc Công 200C từ Phan Thiết vào. Quân số Cộng Sản ước chừng từ 8 đến 10 ngàn người, mưu toan đánh chiếm hai chi khu cực Bắc của tỉnh Bình Tuy là Tánh Linh và Hoài Đức, mà Việt Cộng đặt tên là Chiến Dịch Tánh Linh-Hoài Đức,’” ông Ô kể thêm. Áp lực với Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân, tái chiếm đồi Bảo Đại Đầu Tháng Mười Hai, 1974, Việt Cộng bắt đầu pháo kích Chi Khu Hoài Đức dữ dội bằng hỏa tiễn 107 ly và cối 82 ly, trung bình 500 quả một ngày. Đêm 9 Tháng Mười Hai, 1974, bọn chúng đồng loạt tấn công hai Chi Khu Tánh Linh và Hoài Đức. Tại Tánh Linh, đồi Lồ Ô nơi đặt hai khẩu đại bác 105 ly đã thất thủ. Trước trận đánh, vì không đủ quân số nên Quân Đoàn 3 chỉ tăng cường một tiểu đoàn Địa Phương Quân cho Chi Khu Tánh Linh, còn Tiểu Đoàn 344 của Lê Phi Ô thì bổ túc quân số hơn 500 người, lấy từ các tiểu đoàn khác trong tiểu khu. Sau khi Tánh Linh thất thủ vào đêm Noel 1974, Việt Cộng dồn hết lực lượng cấp sư đoàn để tấn công Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân và Chi Khu Hoài Đức do Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân cùng Đại Úy Lê Phi Ô tử thủ với quân số chỉ còn lại khoảng hơn 200 người. Tại Chi Khu Hoài Đức, Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân do Đại Úy Lê Phi Ô chỉ huy đã đánh bật Việt Cộng ra khỏi vòng đai chi khu. Trong khi đó, Việt Cộng vẫn liên tục pháo kích vào Chi Khu Hoài Đức với cường độ ngày càng gia tăng, gây thương vong đáng kể cho quân ta, Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân cũng đang đụng độ nặng với Việt Cộng nên không thể cứu viện Hoài Đức. Tháng Mười Hai, Đại Úy Lê Phi Ô (ngồi giữa) thảo kế hoạch tái chiếm đồi Bảo Đại (chỉ trong hai ngày đã chiếm lại được ngọn đồi này). (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) Ông cho hay, với quân số đông hơn ta gấp 20 lần, Việt Cộng dùng chiến thuật biển người tràn ngập lực lượng phòng thủ nhưng đều bị Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân đẩy lui. Tình hình ngày càng nguy ngập khi thương vong của ta ngày càng cao, không có phi cơ yểm trợ, pháo binh hết đạn vì phải ưu tiên cho Phước Long, lại được tin Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân triệt thoái để nhận nhiệm vụ khác quan trọng hơn. “Lúc ấy hai Đại Đội 1/344 và 2/344 do tôi chỉ huy tăng phái cho Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, phải tìm cách vượt khỏi vòng vây của Việt Cộng, trở về phòng thủ cứ điểm cuối cùng là Chi Khu Hoài Đức, trong khi Đồi Bảo Đại cách đó về hướng Bắc đã bị địch đánh chiếm trước đó vì là cao điểm duy nhất, là đài quan sát tốt nhất, Việt Cộng thấy rõ hoạt động của quân ta, do đó phải chiếm lại ngọn đồi bằng mọi giá. Khi hai Đại Đội Địa Phương Quân 1/344 và 2/344 tăng phái cho Liên Đoàn 7/Biệt Động Quân về được tới hàng rào chi khu, quân số của mỗi đại đội chỉ còn phân nửa, tôi được lệnh chỉ huy, tái chiếm lại được ngọn đồi Bảo Đại, đẩy lùi địch quân về hướng Đông ra khỏi khu vực chợ cách chi khu khoảng 300 mét,” cựu Đại Úy Lê Phi Ô kể. “Đích thân tôi cùng bộ chỉ huy Tiểu Đoàn và Đại Đội 2/344, trong lúc Đại Úy Trương Kiêm chỉ huy Đại Đội 1/344 đẩy lùi quân địch, tái chiếm lại khu chợ và truy kích địch thêm 500 mét nữa thì khựng lại vì địch quá đông. Ngay đêm đó Việt Cộng phản công, đại đội của Trương Kiêm tan hàng và mất hẳn liên lạc. Còn về cánh quân của tôi, sau một đêm phá chốt, đánh cận chiến và dùng đại bác 57 ly đánh sập các hầm hố kiên cố của Việt Cộng, đến trưa hôm sau đã chiếm lại được đồi Bảo Đại,” ông kể tiếp. Hồi tưởng lại khúc phim chiến đấu trong ký ức, ông Lê Phi Ô kể tiếp: “Qua một đêm tạm yên, đêm hôm sau Việt Cộng tập trung quân lại khoảng hai đại đội, pháo dữ dội phủ đầu chúng tôi, sau đó từ ba hướng bọn chúng xông lên chiếm lại ngọn đồi. Đại Đội 2/344 chống trả quyết liệt, đốn ngã từng đợt xung phong của địch nhưng cũng không thể cầm cự được lâu. May sao Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân chưa triệt thoái hẳn, vẫn còn pháo đội đại bác 105 ly do pháo đội trưởng Nguyễn Hữu Nhân chỉ huy, nghe được sự cầu cứu của chúng tôi, đã quay súng lại nã hàng trăm quả đại bác lên đồi, bọn Việt Cộng lãnh đủ, thừa lúc ấy chúng tôi cùng binh sĩ rời hố chiến đấu đánh cận chiến với địch, bọn chúng bỏ chạy tán loạn xuống đồi quên mang theo vũ khí và cả xác đồng bọn.” Thiếu Úy Lê Phi Ô, hình chụp Tháng Mười Một, 1965. (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) Nhưng ngọn đồi Bảo Đại cũng không giữ được lâu, Đại Đội 2/344 Địa Phương Quân được lệnh bỏ đồi để tránh bị tiêu diệt. Lại một trận mở đường máu để trở về, khi đi quân số đại đội là 60 người nay chỉ còn lại 26 người, và đại đội này được lệnh giữ bệnh viện và bãi đáp trực thăng trước mặt Chi Khu Hoài Đức khoảng 100 mét. Sau khi Đại Đội 512 Trinh Sát do Trung Úy Đường, đại đội trưởng chỉ huy, giữ vòng đai phía Nam chi khu đã hy sinh, và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân rút lui, Chi Khu Hoài Đức chỉ còn đơn độc Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân do Đại Úy Lê Phi Ô chỉ huy, với quân số còn lại hơn 200 người phải đương đầu với quân số Việt Cộng từ 8 đến 12 ngàn. Quân trú phòng không đủ đạn dược chiến đấu, pháo binh hết đạn không được tiếp tế, lại không có không quân yểm trợ vì tất cả phải ưu tiên cho mặt trận Phước Long đang hồi quyết liệt. Lúc đó Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân lại bị Sư Đoàn 6 Việt Cộng tân lập bao vây, cùng với Trung Đoàn 812 Sông Mao và bốn tiểu đoàn đặc công 18, 19, 20 và 200C tấn công liên tục ngày đêm. “Tôi cho tu sửa cấp thời các vị trí chiến đấu còn sử dụng được và ra lệnh tất cả sĩ quan rời bỏ vị trí chỉ huy, tất cả ra tuyến ngoài cùng anh em binh sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Thượng cấp cho tôi toàn quyền quyết định, tôi đã cho thăm dò nhiều lần đường rút lui nhưng không thể thực hiện được. Riêng lính tráng thì được nhưng còn vợ con họ thì sao? Và thương binh nữa? Chúng tôi quyết định tử thủ,” ông Lê Phi Ô nhớ lại. Mặt trận Hoài Đức, Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân tử thủ 33 ngày đêm Vào thời điểm Mỹ đang rút quân với chiến thuật “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” nên tất cả phương tiện, đạn dược trên chiến trường đều thiếu thốn, nhất là không quân và pháo binh yểm trợ bị hạn chế tối đa. Đại Úy Lê Phi Ô đã nhiều lần yêu cầu xin tăng viện thêm pháo binh, tiếp tế đạn dược, không quân yểm trợ, tải thương… nhưng tất cả đều được trả lời không có! Ông Lê Phi Ô ở San Jose tại lễ Memorial Day năm 2019. (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân hoàn toàn rút lui, Chi Khu Hoài Đức lúc đó chỉ còn đơn độc Tiểu Đoàn 344 của Lê Phi Ô với quân số còn lại hơn 200 người so với quân số của Việt Cộng từ 8 đến 12 ngàn người bao vây, với chiến thuật “Tiền pháo hậu xung.” Sau những đợt pháo dồn dập liên tục ngày đêm, bọn Việt Cộng áp dụng chiến thuật biển người, hò hét man rợ, như những con thiêu thân lao vào ánh đèn ngày cũng như đêm. Dù bị từng tràng đại liên 30 trên pháo tháp cũng như 50 của Commando Car V100 liên tục đẩy bật ra, bọn chúng vẫn tiếp tục xông vào, chiến trường tràn ngập máu và xác chết của cả hai bên. Toàn bộ khu vực bốc mùi tử khí với xác chết Việt Cộng la liệt khắp nơi, xác lính thì chôn tạm, phủ poncho. Thương binh còn kẹt lại khoảng 50 người cả nặng lẫn nhẹ, trực thăng tản thương không vào được do phòng không địch dày đặc, nhiều chuyến bay phải quay đầu lại để ưu tiên cho mặt trận Phước Long. Trước giờ hấp hối của lực lượng trú phòng, bỗng nhiên trong máy truyền tin có giọng nói lạ vang lên, tiếng của Thiếu Úy Nguyễn Phát Tài, sĩ quan tiền sát pháo binh của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, yêu cầu đơn vị tử thủ cho tọa độ chính xác để pháo binh tác xạ yểm trợ ngay. “Sau đó là hàng ngàn quả đạn đại bác 105 ly, 155 ly của ba Tiểu Đoàn Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh đồng loạt trút cơn bão lửa xuống đầu bọn Việt Cộng, và từng đợt phản lực cơ F5 gầm rú trút hàng loạt bom Napal xuống đầu giặc. Võ Đắc như một địa ngục ngập tràn biển lửa thiêu rụi bọn Việt Cộng, chiến trường bấy giờ là thân xác bọn sinh Bắc tử Nam bị hất tung lên từng đợt trong tiếng đạn nổ bom rơi long trời lở đất, máu, thịt xương vung vãi khắp nơi, và lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy được địa ngục trần gian!” ông Lê Phi Ô nhớ lại. Ông Lê Phi Ô (phải) trong sinh nhật 4 Tháng Sáu, 2019, ở San Jose. (Hình: Lê Phi Ô cung cấp) Đơn vị giải vây cho Tiểu Đoàn 344 Địa Phương Quân lúc bấy giờ chính là Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, đã kịp thời giải cứu Chi Khu Hoài Đức, với ba gọng kềm gồm Trung Đoàn 52 Bộ Binh tấn công địch từ phía Nam, Trung Đoàn 43 Bộ Binh từ phía Bắc đánh xuống, và Tiểu Đoàn 2/43 thiện chiến nhất của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, vị sĩ quan giỏi nhất của sư đoàn, là mũi tấn công chính đánh vào lực lượng Việt Cộng. Cùng lúc là các máy bay oanh tạc từ ba phi trường Phan Rang, Biên Hòa và Bình Thủy (Cần Thơ) gầm rú lao vào trận địa, dội xuống đầu địch quân từng trận bão lửa khủng khiếp. Cả vùng như những cơn bão lửa bao trùm, thiêu sống địch quân. Sư Đoàn 18 Bộ Binh như hai gọng kềm kẹp chặt địch quân vào giữa, tha hồ cho pháo binh và không quân tiêu diệt gọn. Những giọt nước mắt vui mừng lăn dài trên gương mặt sạm đen khói súng của những người lính Địa Phương Quân tử thủ rơi xuống bộ đồ trận đã khô cứng vì máu của đồng đội… Võ Đắc đã hồi sinh sau 33 ngày đêm đắm chìm trong địa ngục. Võ Đắc hoàn toàn được giải tỏa vào trưa ngày 5 Tháng Giêng, 1975. (Văn Lan) Kỳ cuối: Trận chiến đấu cô đơn cuối cùng của Đại Úy Lê Phi Ô Lê Phi Ô là cựu học sinh Trường Công Lập Phan Bội Châu Phan Thiết từ năm 1955. Ông tốt nghiệp Khóa 15 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức: Nhập khóa ngày 4 Tháng Sáu, 1963. Mãn khóa ngày 27 Tháng Mười Một, 1963, với cấp bậc Chuẩn Úy (Trung Đội Trưởng Tác Chiến). Ngày 27 Tháng Mười Một, 1965, thăng cấp Thiếu Úy (Đại Đội Trưởng Tác Chiến). Ngày 27 Tháng Mười Một, 1967, thăng cấp Trung Úy (Đại Đội Trưởng Tác Chiến). Ngày 1 Tháng Giêng, 1970, thăng cấp Đại Úy (Đại Đội Trưởng – 1972 Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 344/Địa Phương Quân). Ngày 1 Tháng Giêng, 1975, Tiểu Đoàn Phó rồi Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 344/Địa Phương Quân thuộc tỉnh Bình Tuy. Thăng cấp Thiếu Tá ngày 1 Tháng Giêng, 1975, nhưng quyết định thăng cấp từ Bộ Tổng Tham Mưu không gởi đến được vì tình hình chiến sự đang khốc liệt, gấp rút gần đến ngày cuối cùng cuộc chiến. Ông đã nhận 29 huy chương các loại gồm có: -1 Lục Quân Huân Chương. -23 Anh Dũng Bội Tinh các loại (vàng, bạc và đồng). -2 Chiến Thương Bội Tinh. -1 Chiến Dịch Bội Tinh. -1 Quân Phong Bội Tinh. -1 Quân Vụ Bội Tinh.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 15, 2020 3:12:53 GMT 9
CỐ TRUNG TÁ LƯU TRỌNG Kiệt & TIỂU ĐOÀN 42 BIỆT ĐỘNG QUÂN.CỌP BA ĐẦU RẰN
Cố Trung tá Lưu Trọng Kiệt, một trong những quân nhân xuất sắc, được trao tặng huy chương nhiều nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, của Binh Chủng Biệt Động Quân nói riêng, và của Tiểu Đoàn 42 “Cọp Ba Đầu Rằn” Biệt Động Quân, nói ngắn gọn. Cố Trung Tá Kiệt đã giã từ Quân Đội, giã từ Binh Chủng quá mau, quá đột ngột và quá trẻ. Chỉ Từ năm 1960 cho tới năm 1967, ông đã từ một Chuẩn Úy, đặc cách vinh thăng luôn luôn tại mặt trận, tới cấp bực Thiếu Tá, và rồi Cố Trung Tá, ở lứa tuổi 30. Trung Tá Kiệt ra đi, để lại muôn ngàn tiếc thương cho các đồng đội, cho toàn thể Quân Dân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa. Nhân ngày lể kỷ niệm 50 năm thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân, chúng ta hãy cùng nhau dở trang Quân Sử, để biết thêm về: Cố Trung Tá Kiệt xuất thân khóa 7 Trường Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp (cuối năm 1959), ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội Trinh Sát của Sư Đoàn 21. Tới năm 1966, ông được vinh dự nhận chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tỉểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông đã tử trận ngày 8 tháng 12 năm 1967 tại Vị Thanh khi tham dự cuộc hành quân Dân Chí do Sư Đoàn 21 đảm trách. Do đó, khi nói tới Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt, chúng ta phải nói tới cá nhân của ông, nói tới Sư Đoàn 21 và đặc biệt là, nói tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Khi nói tới Cố Trung Tá Kiệt, mọi người đều nói tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Và ngược lại, bất cứ ai trong chúng ta, khi nhắc tới Binh Chủng Biệt Động Quân, thế nào chúng ta cũng sẽ nhắc tới Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân, và chắc chắn sẽ nhắc Tới Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt. Vậy thì, Ai làm cho Ai được trọng nể? Cố Trung Tá Kiệt làm rạng danh Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân? Hay là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân đã làm cho Cố Trung Tá Kiệt trở thành Bất Tử?
Lưu Trọng Kiệt quê quán ở Cần Thơ. Cha ông mở tiệm hớt tóc, lấy tên là “Nghệ Sĩ” để sinh sống và nuôi dậy anh em ông Kiệt nên người. Ông Kiệt có dáng người thư sinh trắng trẻo, nhưng lại ham mê võ thuật từ thủa nhỏ. Thời còn học tại trường Trung Học Phan Thanh Giản, ông đã là Judo (Nhu Đạo) Đệ Tam Đẳng Huyền Đai và mở trường dậy về môn võ Judo đầu tiên ở Cần Thơ. Nhờ tay chân lanh lẹ và phản ứng cũng thật là nhanh, nên mỗi khi đấu võ, ông đã ra đòn chớp nhoáng, làm cho địch thủ chưa thấy rõ ngón đòn của ông, đã bị ông khóa chân khóa tay thúc thủ rồi. Vì thế mà ông có biệt danh: “KIỆT . . . DEPART” Có nghĩa là Kiệt . . . Quá Lẹ! Hai bên vừa mới chào nhau xong, địch thủ chưa kịp xuống tấn thì ông đã . . . depart rồi. Năm 1959, miền Nam Việt Nam vẫn còn thanh bình lắm, Tổng Thống Ngô Đình Diệm vẫn còn điều hành guồng máy quốc gia, dân chúng sống an cư lạc nghiệp. Thời gian này, người trai trẻ họ Lưu vẫn có thể ung dung học xong trung học, lên đại học để trở thành một Kỹ sư hay Bác Sĩ . . . Nhưng Lưu Trọng Kiệt đã chọn cho mình con đường võ học và con đường binh nghiệp: Học xong trung học, ông đã tình nguyện gia nhập quân đội, thụ huấn khóa 7 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội Trinh Sát của Sư Đoàn 21, một trong những sư đoàn bộ binh nổi tiếng của Vùng IV chiến thuật. Sư đoàn có 3 Trung đoàn là 31 32 và 33 cùng với những đơn vị Pháo binh, Cơ Giới Truyền Tin . . . . Để lấy tin tức tình báo và thi hành những cuộc hành quân lục soát, dọ thám và đột kích, Sư đoàn có một đơn vị rất ưu tú, đó là Đại đội Trinh Sát. Sĩ quan chỉ huy và binh sĩ của Đại đội Trinh Sát phải là những người can đảm, nhiều kinh nghiệm chiến trường, chịu đựng gian khổ. nhọc nhằn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đụng trận trong những ngày đầu tiên, Chuẩn úy Kiệt đã chứng tỏ tài nghệ của mình, ông đã chỉ huy trung đội tiến nhanh như vũ bão, đột nhập những sào huyện của bọn Việt cộng, tiêu diệt bọn chúng và tịch thu nhiều tài liệu quan trọng. Trong một cuộc hành quân ở Trà Vinh, tuy ông được vinh thăng Thiếu úy, nhưng cũng bị thương ở chân, phài đưa về bệnh viện mổ xẻ điều trị và dưỡng thương. Tư Lệnh Sư Đoàn 21 lúc đó là Tướng Trần Thiện Khiêm, đã biết tới tài nghệ của ông, muốn đưa ông về làm Tùy viên, nhưng ông xin được ở lại với Thám Báo. Sau khi dời bệnh viện, vỉ vết thương chưa lành hẳn, ông được đưa vào toán huấn luyện của Sư đoàn để đi huấn luyện cho cho Địa Phương Quân của Biệt Khu Hải Yến, Cà Mau. Biệt khu này do một Đại Tá Tuyên Úy Công Giáo Phan Lạc Hóa (Tên Trung Hoa đổi qua tên Việt Nam) của Tướng Tưởng Giới Thạch chỉ huy. Sau trận chiến với Mao Trạch Đông năm 1949, quân của Tưởng Giới Thạch bị thua, di tản đi khắp nơi, Đại tá Tuyên Úy đem quân lính và dân theo tới Cà Mâu và được chính quyền Việt Nam cho sinh sống tại đây và trao cho họ nhiệm vụ bảo vệ dân và tiêu diệt bọn Việt Cộng nằm vùng. Lành vết thương, Thiếu Úy Kiệt trở lại với Đại đội Thám Báo của Sư Đoàn 21. Với khả năng thiên phú về quân sự, sự nhậy bén lanh lẹ và can đảm, chỉ trong vòng ba tháng hành quân đầu tiên, ông Kiệt đã từ Thiếu úy vinh thăng lên Trung úy. 5 tháng sau, ông lại được đặc cách vinh thăng Đại Úy. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1960, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký nghị định thành lập Binh Chủng Biệt Động Quân. Khởi đầu, đó là những Đại Đội Biệt Lập, chuyên môn dùng chiến thuật Phản Du Kích để chống lại chiến thuật Du Kích Chiến của Việt Cộng. Sau hiệp định Genève 1954, bọn Việt cộng phải rút hết về miền Bắc, nhưng chúng đã xảo trá cài lại một số cán bộ để tổ chức những cuộc chiến tranh du kích: Trốn biệt ở những nơi rừng sâu, thỉnh thoảng ra ngoài điều nghiên từng làng từng xã. Khi nào thấy chắc ăn thì ào ra đánh lén, xong rồi lại chạy về mật khu. Lính Biệt Động Quân được huấn luyện về du kích chiến, nên biết rành rẽ nơi nào bọn Việt cộng có thể ẩn nấp, họ cũng dùng chiến thuật du kích, di chuyển đến tận mật khu của bọn Việt cộng, bất ngờ đột kích giết và phá hết cơ sở nằm vùng của bọn chúng. Tên nào thoát chết thì bắt làm tù binh. Biệt Động Quân cũng có thể nằm chờ ở những nơi nghi ngờ có Việt cộng ẩn nấp, tới lúc bọn chúng lộ diện đi thâu thuế, góp lương thực . . . Biệt Động Quân mới phục kích giết sạch bọn chúng. Trong giai đoạn mới thành lập này, một số lớn những quân nhân xuất sắc nhất ở các đơn vị bộ binh đã được vinh dự thuyên chuyển về phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân. Những quân nhân xuất sắc này đã giáng cho bọn Việt cộng những ngón đòn khủng khiếp, chớp nhoáng, làm cho bọn Việt Cộng sợ Lính Biệt Động Quân như là những “Ông Cọp” trong thần thoại, gọi tên các đơn vị Biệt Động Quân bằng những cái tên kinh thiên động địa, góp phần đưa tên tuổi của Biệt Động Quân lên hàng đầu cùng với cái đơn vị thâm niên, ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đầu năm 1964, do nhu cầu chiến trường, các Đại Đội Biệt Động Quân Biệt Lập đã được sát nhập lại để trở thành Tiểu Đoàn. Tới năm 1967, theo tổ chức mới của binh chủng Mũ Nâu, các tiểu đoàn Biệt động quân được hợp lại để thành lập các liên đoàn tại các Vùng chiến thuật. Tiểu đoàn 42 Biệt động quân trở thành đơn vị cơ hữu của liên đoàn 4 Biệt động quân. Đầu năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dự trù sat nhập các Liên Đoàn Biệt Động Quân lại để thành lập 2 Sư Đoàn Biệt Động Quân: Sư Đoàn 101 và Sư Đoàn 106. Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân chính thức thành lập vào năm 1964 và được đặt thuộc quyền điều động của bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh. Khi đã thành lập xong, bắt đầu đi hành quân chung, thì Đại úy Nguyễn Văn Biết được chỉ định làm Tiểu Đoàn Trưởng đầu tiên. Một thời gian sau, Thiếu Tá Biết được chỉ định nhận nhiệm vụ mới, trao lại Tiểu đoàn cho Đại úy Nguyễn Tấn Giai. Mười hai tháng qua đi, do nhu cầu công vụ, Huynh trưởng Giai lại được thuyên chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Đại Úy Lưu Trọng Kiệt đã trở thành vị Tiểu Đoàn Trưởng thứ ba của Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. Tiểu đoàn 42/Biệt Động Quân trong thời gian đầu, được tăng phái cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đã tham dự hầu hết các cuộc hành quân Dân Chí của Sư đoàn này tổ chức, tại các đia danh thuộc Khu 42 Chiến Thuật như sau: * Kinh Thác Lác, Phụng Hiệp, Búng Tàu v…v… (thuộc Tỉnh Cần Thơ). * Đầm Dơi, Thới Bình, Khai Quang, Biện Nhị, Năm Căn, Bờ Đập (thuộc Tỉnh Cà Mau). * Rạch Sỏi, Đầm Răng, Đầm Rầy, Cán Gáo v…v… (thuộc tỉnh Rạch Giá). * Hỏa Lựu, Hưng Long, Long Mỹ, Ngọc Hòa v…v… (thuộc tỉnh Chương Thiện).Đại Úy Kiệt, với chiến thuật thần tốc, với khả năng chiến đấu vô giới hạn, với những người lính Biệt Động Quân gan dạ, kiêu hùng, đã đánh cho bọn Việt Cộng những trận đòn thất điên bát đảo. Trong thời gian này, Thám báo lại được bổ xung thêm một sĩ quan mới ra trường, trong đó có Chuẩn úy Hồ Ngọc Cần, khóa 1 Sĩ Quan Đặc Biệt Thủ Đức. Cả hai đã hợp sức chiến đấu đánh tan những cơ sở của Việt Cộng trong khu vực trách nhiệm. Theo tài liệu của báo Tiền Tuyến, trong mục “Nhân Vật Của Chúng Ta”, phát hành trong năm 1967, đã giới thiệu: “Thiếu tá Kiệt là sĩ quan trừ bị, chỉ trong vòng 14 tháng, ba lần được đặc cách thăng cấp tại mặt trận: Từ Thiếu úy thăng Trung úy: 3 tháng, Từ Trung úy thăng Đại úy: 5 tháng, Từ Đại úy thăng Thiếu tá: 6 tháng.Khi đi hành quân thì như vũ bão, nhưng mỗi khi trở về hậu cứ, Thiếu tá Kiệt hiền khô như một bạch diện thư sinh. Ông ít khi uống rượu, thương lính, lo săn sóc cho những người lính bị thương, lo cho đời sống vợ con lính trong trại gia binh. Chưa bao giờ thấy ông nổi giận với lính, nhất là không bao giờ gọi lính của mình là “Thằng”. Đã có một lần, hành quân về, ông và một người bạn lái xe ra bến Ninh Kiều uống . . . sinh tố. Bất chợt có một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân bước vào quán, cử chỉ kiêu căng, hống hách, nói chuyện ba hoa, tự khoe mình là “Lính Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân” Thiếu Tá Kiệt nhìn mãi không ra người lính này thuộc Đại đội nào? Trung đội nào? Ông cho người Trung sĩ tài xế ra hỏi người quân nhân đó, xem anh ta thuộc đơn vị nào? Té ra anh ta là lính Địa Phương Quân, thấy mọi người nể trọng “Lính Cọp Ba Đầu Rằn” nên mới giả dạng mặc đồ bông hù bà con. Thay vì đưa người lính này về Quân cảnh, Thiếu tá Kiệt chỉ cảnh cáo anh ta và bắt cởi áo ra mà thôi (Người lính này, sau đó đã xin đăng lính Biệt Động). Giống như vị Tiểu đoàn trưởng của mình, những người lính tiểu đoàn 42 được dân chúng thương mến là vì họ không phá làng phá xóm mỗi khi hành quân trở về. Khi đi hành quân, tiểu đoàn thuờng chia làm hai cánh: Một cánh do Tỉểu đoàn phó Hồ Ngọc Cẩn điều khỉển, cánh kia do chính Tiểu đoàn trưởng Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Hai cánh quân thường đổ bộ cùng một lúc, ở hai địa điểm khác nhau, rồi cùng lặng lẽ tiến tới mục tiêu. Khi tấn công, cả hai cánh quân đồng loạt xung phong hoặc là một cánh xung phong, cánh kia phục kích ở nơi bọn Việt cộng tan hàng chạy ra thì quét sạch bọn chúng.Do cách thức hành quân thần tốc, gan dạ, mà tiểu đoàn 42 đã trở thành hung thần của đám Việt Cộng. Do tiểu đoàn 42 đội nón sắt có vẽ hình con cọp đen trên nền ngôi sao trắng, chung quanh vẽ rằn ri mầu Nâu, Đen, Xanh lá mạ, nên bọn Việt Cộng đã kiêng nể mà đặt tên cho tiểu đoàn này là: “Cọp Ba Đầu Rằn” Hễ đụng trận, hễ thấy bên lính Cộng Hòa thấp thoáng có nón sắt “Cọp Ba Đầu Rằn” là bọn Việt cộng cuống cuồng bỏ chạy, làm cho lính 42 không có địch mà đánh. Do đó, vào khoảng đầu năm 1967, Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu 4, đã ra lệnh: “Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân phải sơn lại nón sắt trở lại bình thường như các đơn vị Bộ Binh khác Trận chiến cuối cùng của Cố Trung Tá Kiệt, tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân ra trận với cái nón sắt Bộ Binh mầu xanh lá mạ, tham dự chiến dịch “Dân Chí . . .” do Sư Đoàn 21 Bộ Binh điều động, với nhiệm vụ hành quân càn quét, tiêu diệt địch, tiểu đoàn đã đụng độ với Trung đoàn D2 với tiểu đoàn chủ lực cơ động Tây Đô của VC trên bờ kinh Thác Lác, thuộc tỉnh Chương Thiện. Theo lời kể của Thiếu Tá Đoàn Anh Cường, Tỉểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 3/31, trận chiến xẩy ra như sau: Cả Sư đoàn 21 và hai tiểu đoàn 42, 44 Biệt Động Quân cùng tham dự trận đánh này. Thiếu Tá Lê Văn Hưng, quyền Trung đoàn trưởng 31 ra lệnh: Tỉểu đoàn 42 và 44 đổ quân tấn công phía Bắc của Kinh Thác Lác. Tiểu đoàn 3/31 và 2/31 đổ quân tấn công phía Nam Kinh Thác Lác, Tiểu đoàn 1/31 do tôi chỉ huy, tiếp ứng tại phi trường Chương Thiện cùng với 10 chiếc trực thăng. Mới đầu, tin tình báo là chỉ có Trung đoàn D2 Việt cộng mà thôi, nhưng khi đụng trận, phòng không của bọn Việt cộng bắn ra rất là dữ dội, Thiếu tá Kiệt cho toán thám sát đi dò tin tức, mới biết là, không phải chỉ có D2, mà còn có thêm cả Trung đoàn D1 và 1 tiểu đoàn phòng không của địch nữa. Toán thám sát bị vây cứng, không sao rút lui được. Thiếu Tá Kiệt cho toàn bộ Tiểu đoàn đánh cứu bồ. Tiểu đoàn 44 do Đại úy Lượng chỉ huy cũng tấn công cùng một lúc, nhưng không làm sao đẩy lui bọn Việt cộng được. Cánh quân phía Nam tiến đánh, cũng bị khựng lại. Chuẩn Tướng Minh, Tư lệnh Sư Đoản 21, muốn xin B52 yểm trợ, nhưng Thiếu Tá Hưng không đồng ý, vì quân ta và quân địch quá gần nhau. Thiếu tá Hưng đang bay trên trực thăng, nóng lòng vì thế trận không thuận lợi, đã yêu cầu phi công đáp ngay xuống mặt trận để ông nhẩy xuống, chỉ huy cánh quân phía Nam. Trực thăng bay trở về phi trường Chương Thiện đón Tướng Minh lên thị sát mặt trận. Cánh quân phía Nam ào lên tấn công như vũ bão, đẩy dồn bọn Việt Cộng về phía Bắc. Bọn cộng quân như chó bị dồn vào chân tường, tuyệt vọng đánh trả lại. Trận chiến chưa ngã ngũ thì tôi nghe trên máy báo cáo là Thiếu Tá Kiệt bị thương ở đầu, cần phải tải thương gấp. Chiến trường đang sôi động, làm sao vị chỉ huy có thể dời bỏ đơn vị cho được? Nhưng máu đã ra quá nhiều, không thễ trì hoãn được nữa. Trung úy Tiểu đoàn phó Hồ Ngọc Cẩn khẩn khoản yêu cầu trực thăng tải thương ngay, nhưng Thiếu Tá Kiệt nhất quyết tấn công xong mới chịu tải thương. Khoảng nửa tiếng sau, Trung úy Cẩn nghẹn ngào báo tin: “Thiếu Tá Kiệt đã tử trận” Trung úy Cẩn lên nắm quyền Tiểu đoàn trưởng, ra lệnh tiếp tục tấn công. Phòng tuyến phía Bắc của cộng quân bị tan vỡ, bọn Việt cộng kéo nhau bỏ chạy tứ tán. Sau trận đại thắng, quân nhân các cấp đều được thăng cấp. Trung úy Hồ Ngọc Cẩn lên Đại úy (trở về Sư đoàn 21), Đại Úy Lượng lên Thiếu Tá. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt cũng được thăng chức, nhưng thăng lên bàn thờ để trở thành Cố Trung Tá. Ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong năm nhân tài của “Ngũ Hổ U Minh Tiến Thượng Lê 1. Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 Sư Đoàn 21. 2. Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 Biệt Động Quân, 3. Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 Biệt Động Quân, 4. Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/33 Sư Đoàn 21; 5. Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 Sư Đoàn 21.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 15, 2020 3:22:25 GMT 9
ĐỠ ĐẠN CHO ÔNG THẦY Tác giả: MX Phan Công Tôn
Trong bài “Như Áng Mây Trôi” do tôi viết và được đăng vào Đặc San Sóng Thần 2014,tôi có nhắc đến chuyện “bốn thầy trò chúng tôi” trong thời gian Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến tham gia “Cuộc Hành Quân Bình Định Gò Công” vào năm 1964, một trong ba “chú đệ tử” rất thân thiết với tôi thời đó là chú Nguyễn Văn Bẹt, người Tuy Hoà. Năm sau (1965), Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến tham dự cuộc hành quân tại vùng thung lũng Suối La Tinh, vùng giáp ranh giữa Quảng Ngãi và Bình Định. Đây là một cuộc hành quân đặc biệt, vì vùng này mới được lực lượng trực thăng Hoa Kỳ rải thuốc khai quang (Agent Orange hay Herbicide Orange) nằm trong Chiến Dịch “Operation Ranch Hand” – một phần của Chiến Tranh Hoá Học trong Quân Đội Hoa Kỳ – với mục đích làm rụng lá cây và rừng trở nên trơ trụi, để lực lượng du kích Việt cộng hoặc “Lực Lượng đi B” của bộ đội cộng sản Bắc Việt xâm nhập vào miền Nam không có chỗ đóng quân hoặc ẩn nấp. Phía Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta thường dùng chữ “Rải Thuốc Khai Quang” nhưng Việt cộng thì gọi là “Chất Độc Màu Da Cam” (tên của nó được lấy từ Màu của những Sọc được vẽ bên ngoài các thùng “phuy” đựng chất hoá học này). Thường thường, vùng rừng núi nào được trực thăng rải thuốc khai quang thì khoảng hơn tuần lễ sau, lực lượng quân sự tại địa phương mở cuộc hành quân vào vùng đó sục tìm vị trí đóng quân hoặc ẩn nấp của Việt cộng để tiêu diệt chúng và đặc biệt là để quan sát và báo cáo tác dụng và hiệu quả của thuốc khai quang như thế nào? Vào mùa Xuân năm 1965, trong khi đang hành quân trong vùng Quảng Ngãi, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến được điều động đến vùng thung lũng Suối La Tinh để tham dự cuộc hành quân đặc biệt trong vùng mới được rải thuốc khai quang. Sau hơn một tuần trèo đèo lội suối và lùng sục, chỉ đụng độ sơ sơ với Việt cộng nên coi như không có chiến thắng lớn nào được ghi nhận, ngược lại toàn thể Tiểu Đoàn bị… “lãnh cán búa”. Số là, sau hai, ba ngày leo rừng và lội suối, mỗi người kiểm soát lại đôi chân của mình, ai cũng thấy bị lở loét dưới bàn chân và giữa các ngón chân. Hỏi thì Bác Sĩ Quân Y cùng đi với Tiểu Đoàn cho biết: - Suốt mấy ngày lội nước, thuốc khai quang đã bị thấm vào đất hay bị trôi và hoà tan vào các suối nước, trong thuốc khai quang có chất độc Dioxin đã làm cho da mình bị lở loét như vậy… Thế là, mọi người chỉ biết bôi thuốc đỏ hoặc cho Ông Thầy alcohol để… cầm hơi, như một kiểu trị bệnh tâm lý cho an tâm vậy thôi! Sau hơn 10 ngày, được lệnh rút ra khỏi vùng thung lũng Suối La Tinh, ai cũng mừng húm! Một ngày, trên đường hành quân rút lui vào khoảng xế chiều, Đại Đội tôi đi đầu cánh A, phải vượt qua một con suối khá rộng, nước ngập đến bụng, bên kia bờ là một giải đất có mô cao, tiếp theo là sườn đồi thoai thoải chạy lên đồi cây xanh. Tôi ra lệnh cho hai Trung Đội vượt suối trước và bố trí tại các mô đất cao. Tới lúc Ban Chỉ Huy Đại Đội vượt suối, chú Bẹt sợ tấm bản đồ tôi đang cầm bị ướt nên lấy nhét vào ba lô của mình, hai tay cầm ba lô đưa lên cao để lội qua suối. Khi tôi lội qua gần tới bờ bên kia thì súng nổ chát chúa. Chú Bẹt đang nâng ba lô lên cao và lội suối phía sau tôi vài thước, tôi không kịp lấy lại tấm bản đồ, chạy ào lên khu mô đất cao để quan sát. Súng Việt cộng trên đồi cây xanh bắn xuống vị trí chúng tôi rất ào ạt và hai Trung Đội qua bờ trước đang bắn trả. Tôi điều động hai khẩu đại liên vào vị trí, bắn lên đồi và ra lệnh cho Trung Đội thứ 3 tiếp tục vượt suối. Hai bên bắn qua lại hơn 15 phút, tôi điều động Trung Đội bên trái (được tăng phái một khẩu đại liên M30) chạy lên chiếm vùng có nhiều ụ đất, cách vị trí tôi khoảng 50 thước. Khi chiếm xong, dùng đại liên bắn lên đồi cây xanh để yểm trợ cho Trung Đội thứ hai chạy lên chiếm vùng ụ đất bên tay phải. Tôi chạy lên cùng với Trung Đội thứ hai này. Khi Trung Đội thứ ba đã vượt qua suối, tôi cho lệnh toàn thể Đại Đội tấn công lên đồi cây xanh dưới sự yểm trợ hoả lực của Đại Đội bạn đi đầu Cánh B (bên phía trái). Sau hơn nửa tiếng đồng hồ, Đại Đội 2 của tôi chiếm được đồi cây xanh này, Việt cộng đã tháo chạy, để lại một số tử thương và chúng tôi tịch thu được một số chiến lợi phẩm. Trong khi đang lăng xăng tại mục tiêu vừa chiếm được thì chú Nho chạy đến báo cho tôi biết là chú Bẹt bị thương nặng, đang nằm dưới sườn đồi cách đỉnh đồi cây xanh khoảng 20 thước. Được tin, tôi hốt hoảng chạy xuống vị trí chú Bẹt đang nằm. Chú bị thương vào vùng bụng và ngực. Cái bản đồ hành quân của tôi (mà chú Bẹt giữ dùm khi lội qua suối) cũng bị lũng vì một vết đạn và đang nằm dưới đất, bên tay trái chú Bẹt. Thấy tôi chạy đến, chú nhìn tôi với đôi mắt đầy lo âu nhưng thật nhiều trìu mến, rồi chú liếc xuống phía bên trái của mình, nơi có tấm bản đồ hành quân của tôi và nói thều thào: - Tấm bản đồ của ông Thầy, em chạy theo đưa cho ông Thầy, đây nè! Nói xong, hình như quá mệt, chú nhắm mắt lại và im lặng. Sau khi tôi báo cáo về Tiểu Đoàn số lượng tổn thất của Đại Đội (2 chết và 5 bị thương), Tiểu Đoàn ra lệnh phải mang tất cả xuống đồi, qua bên kia bờ suối, ở đó mới có bãi đáp an toàn cho trực thăng đáp xuống tải thương. Tôi điều động đơn vị chuyển anh em bị thương và bị chết xuống bãi đáp bên kia suối. Trước khi nháy mắt cho hai anh lính khiêng chú Bẹt đi, tôi nắm và vỗ vào bàn tay trái của chú rồi nói: - Chú Bẹt ơi! Em chỉ bị thương nhẹ thôi, có tải thương liền, Không sao đâu! Rồi chú được khiêng xuống đồi, đưa qua bên kia suối và cuối cùng được trực thăng tải thương về Quảng Ngãi! Đêm đó, giữa vùng đồi núi, Tiểu Đoàn tạm dừng quân để ngày hôm sau rút ra quận Ba Tơ. Chú Nho, người “đệ tử” thân cận của tôi và cũng là “bạn nối khố” với chú Bẹt, ngồi nói chuyện với tôi xoay quanh trận đụng độ lúc chiều. Khi nói đến vết thương của chú Bẹt, tôi thấy không yên tâm vì theo kinh nghiệm, những quân nhân khi bị thương mà máu me ra tùm lum, coi vậy mà ít nguy hiểm hơn những người ít bị ra máu. Lúc chiều, tôi thấy những vết thương nơi bụng và ngực của chú Bẹt chỉ có một ít máu nên bây giờ tôi đâm ra lo! Chú Nho buột miệng nói: - Do đó, hồi chiều em nói với ông Thầy, thằng Bẹt nó bị thương nặng mà! Rồi chú tiếp tục nói như lời kể lể hay lời tâm sự: - Ông Thầy biết không? Hồi chiều, thằng Bẹt cầm cái bản đồ, ráng chạy theo để giao lại cho ông Thầy. Việt cộng nhắm bắn vào nó vì Việt cộng tưởng nó là cấp chỉ huy! Hồi chiều, nếu ông Thầy cầm cái bản đồ, thì có thể ông Thầy đã bị… lãnh đạn! Thôi! Cứ coi như thằng Bẹt đã đỡ đạn để cứu mạng cho ông Thầy đi! Nghe đến đây, tôi bật khóc thành tiếng và khi nhìn qua chú Nho, chú cũng đang ràn rụa nước mắt! Hai thầy trò chỉ cầu xin, nhờ Ơn Trên phù hộ cho chú Bẹt để chú được an lành và ba thầy trò sẽ được quây quần bên nhau như hai năm vừa rồi! Tôi không bao giờ quên được những lời tâm sự của chú Nho và những giọt nước mắt của hai thầy trò khi nhắc đến chú Bẹt trong đêm dừng quân trên đường lui binh về Ba Tơ năm đó! Lời chú Nho như vẫn còn văng vẳng bên tai: - Thôi! Cứ coi như thằng Bẹt đã đỡ đạn để cứu mạng cho ông Thầy đi! (Thời đó, bản đồ hành quân của các sĩ quan chỉ được bọc trong một bao plastic trắng nên khi được nhét vào dây “bretelle” (tiếng Pháp: đai đeo quần) hay cầm trong tay thì tấm bản đồ bị nhá sáng lên, do đó từ xa, Việt cộng sẽ “phát hiện” được vết nhá sáng này và biết chắc đó là cấp chỉ huy nên nhắm bắn vào người cầm bản đồ. Mấy năm sau, các sĩ quan đã “tối tân hoá” cách bọc các tấm bản đồ hành quân: bản đồ được bọc trong một bao, mặt trong là plastic trắng để dễ đọc bản đồ, nhưng mặt ngoài là vải ngụy trang Thủy Quân Lục Chiến để bớt bị nhá sáng và bớt bị phát hiện. Ngày hôm sau, khi Tiểu Đoàn ra đến quận Ba Tơ, tôi liên lạc được với toán hậu trạm của Tiểu Đoàn tại Quảng Ngãi và nhận được tin rụng rời như sét đánh bên tai: chú Bẹt đã chết ngay đêm đầu tiên khi được đưa vào bệnh viện Quảng Ngãi và hậu trạm đang lo thủ tục chuyển quan tài của chú Bẹt và các quân nhân tử trận khác về hậu cứ! Biết bao nhiêu lần tôi đã từng ôm xác của bạn bè hay thuộc cấp bị chết ngay tại trận địa, và tôi đã từng biết cái cảm giác đau buồn và nhức nhối như thế nào! Còn với chú Bẹt? Không lẽ cái nắm và vỗ vào bàn tay của chú hai ngày trước đây là động tác cuối cùng của tôi để chia tay và vĩnh viễn giã từ chú? Và bây giờ, tôi ghi nhận được cái cảm giác đau buồn và nhức nhối trong tôi càng… dâng cao! Tôi đã dùng mọi phương cách qua truyền thông để nhờ Trung Sĩ Tham - người phụ trách hậu cứ của Đại Đội 2 thuộc Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến tại trại Phạm Khắc Dật ở Thủ Đức - liên lạc với người bạn gái của tôi tại Sài Gòn để nhờ cô bạn này lo liên lạc và tiếp xúc với gia đình của chú Bẹt tại Tuy Hoà. Gia đình chú Bẹt vào Sài Gòn hơn 10 ngày và cô bạn của tôi đã lo cho họ tươm tất mọi thứ, kể cả các thủ tục hành chánh và tài chánh liên hệ. Và cô cũng giúp một tay với đơn vị hậu cứ để lo mọi vấn đề liên quan đến việc chôn cất chú Bẹt tại Nghĩa Trang Quân Đội ở Gò Vấp, trong vùng Hạnh Thông Tây (năm đó chưa có Nghĩa Trang Quân Đội tại Biên Hoà). Cô bạn của tôi tên thật là T.V. và có nickname (biệt danh) là M.T. Nhóm bạn thân của tôi trong đơn vị và các chú đệ tử của tôi thường dùng ám danh đàm thoại của truyền tin để gọi tên cô. Do đó thời gian đầu họ thường gọi là “Mạnh mẻ, Tư tưởng”, về sau rút gọn lại chỉ còn: “Mạnh Tư” và cuối cùng đổi thành “Mợ Tư” để gọi cô. Đó là lý do tại sao cô M.T. lại có cái “chết tên” là “Mợ Tư” từ đó mà đi… Mợ Tư đã gặp chú Bẹt và chú Nho nhiều lần. Từ khi biết hai chú thường lo lắng và săn sóc cho tôi rất chu đáo trong lúc hành quân, nên Mợ Tư càng quý mến hai chú nhiều hơn. Đặc biệt, khi chú Bẹt chết, Mợ Tư đã khóc thật nhiều, một phần vì thương tiếc chú, phần khác, có thể bị rơi vào nỗi xót xa và ân hận như lời kể lại của chú Nho: - Thôi! Cứ coi như: thằng Bẹt đã đỡ đạn để cứu mạng cho ông Thầy đi! Khoảng hai tháng, sau ngày chú Bẹt tử trận, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân. Thời gian này Mợ Tư đã trở thành nữ Tiếp Viên Phi Hành cho Air Viet Nam và Mợ Tư hướng dẫn tôi lên thăm và thắp nhang nơi mộ của chú Bẹt mấy lần. Tôi đang ngồi viết bài này là thời gian sắp rơi vào Mùa Giáng Sinh 2016 tại xứ Núi Utah, nơi tôi đang sống, vì bài “Đỡ Đạn Cho Ông Thầy” là một kỷ niệm buồn liên quan đến người đệ tử thân yêu của tôi đã hy sinh trong chiến trận của một thời binh lửa bên quê nhà! Qua câu chuyện, có nhắc đến người bạn gái của tôi: “Mợ Tư”, do đó tôi muốn thêm vào phần cuối của bài này một vài kỷ niệm và sự kiện có liên quan đến tình thương và nỗi niềm của những nhân vật liên hệ. Vào cuối năm 1965, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến hành quân tại Pleiku, Mợ Tư thường bay với Air Viet Nam lên Pleiku để mang quà và thức ăn cho tôi. Thức ăn và quà cáp này được gởi qua một trực thăng tăng phái cho Tiểu Đoàn để đưa vào vùng hành quân và Tiểu Đoàn sẽ chuyển dùm đến cho tôi. Một hôm từ Sài Gòn, Mợ Tư mang thức ăn nóng lên Pleiku cho tôi, hôm đó trực thăng tăng phái bị hư máy nên không thể vào vùng hành quân được. Mợ Tư nhờ một vị sĩ quan Không Quân giúp, gởi các thức ăn này qua một trực thăng khác, đem vào cho Tiểu Đoàn trong vùng hành quân, để chuyển đến cho tôi. Vì việc nhờ mang thức ăn vào vùng hành quân cho tôi, mà Mợ Tư và vị sĩ quan Không Quân này đã trở thành bạn của nhau từ đó! ***** Sau khi được thả ra khỏi tù vào cuối năm 1984, tôi vượt biên ba lần trong hai năm 1985 và 1986 nhưng không thành. Và vượt biên thành công lần thứ bốn vào tháng giêng 1987 từ Rạch Giá đến Thái Lan bằng đường biển. Tôi bay từ Bangkok, Thái Lan sang đến Salt Lake City, Utah ngày 25 tháng 8/1987 và sống tại tiểu bang này cho đến bây giờ! Vợ chồng Mợ Tư và ba người con sang Mỹ năm 1991 theo diện HO. Chúng tôi thường liên lạc với nhau qua email và điện thoại và có nhắc đến những “kỷ niệm ngày xưa”, có nhắc đến những bạn bè cũ thời Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến và dĩ nhiên, không thể không nhắc đến các chú Đại truyền tin, chú Nho, và đặc biệt là chú Bẹt! Đùng một cái, tin buồn đến với chúng tôi: Mợ Tư bị “coma” phải đưa vào bệnh viện trong tháng 9/2013 và qua đời vào ngày 9 tháng 11 năm 2013. Sau khi biết tin Mợ Tư chết, cá nhân tôi, đã nhiều lần ngồi cầu nguyện và nói chuyện riêng với Mợ Tư. Và qua những lần chuyện trò đó, tôi cũng có nói chuyện thêm với chú Bẹt: - Chú Bẹt ơi! Sau hơn 48 năm, bây giờ chú mới có dịp gặp lại Mợ Tư một cách tự nhiên và thoải mái! Nhớ lại ngày xưa, mỗi lần Mợ Tư ghé thăm mấy thầy trò mình, tại hậu cứ hay tại các vị trí đóng quân vùng ven đô Sài Gòn, v.v… Chú thường hốt hoảng và vội vàng tìm chỗ mang đi “ém” hay dấu mấy cuốn “Nhât Ký Đời Tư Của Ông Thầy”. Vì ông Thầy thường hăm: “Chú nào mà để cho mấy cô đào của tui chốp và đọc được mấy cuốn nhật ký này, thì chú đó… chỉ có nước “thác” với tui!” Bây giờ thì đã khác với “thời xưa” dưới trần thế này rồi, phải không chú Bẹt? Bây giờ, chú không cần phải lo đi dấu, đi ém gì nữa rồi! Bù lại, chú được tha hồ tiếp và chuyện trò vui vẻ với Mợ Tư nơi vùng trời yên bình. Tít tắp Trên cao Trích “Đỡ đạn cho ông thầy” MX Phan Công Tôn
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 27, 2022 18:27:43 GMT 9
Ngũ Hổ Miền Tây Lưu Trọng Kiệt: Cọp rằn miền Tây với khuôn mặt thư sinh Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt là một trong Ngũ Hổ Miền Tây. Lưu Trọng Kiệt quê quán ở Cần Thơ. Cha ông mở tiệm hớt tóc lấy tên là Nghệ Sĩ để sinh sống. Ông Kiệt có dáng người thư sinh trắng trẻo nhưng lại ham mê võ thuật từ thủa nhỏ. Thời còn học tại trường trung học Phan Thanh Giản, ông đã là Nhu đạo đệ tam đẳng huyền đai và mở trường dạy về môn võ Judo đầu tiên ở Cần Thơ. Năm 1959, miền Nam Việt Nam vẫn còn thanh bình, dân chúng sống an cư lạc nghiệp. Thời gian này, người trai trẻ họ Lưu vẫn có thể ung dung học xong trung học, lên đại học… Nhưng Lưu Trọng Kiệt đã chọn cho mình con đường binh nghiệp. Học xong trung học, ông tình nguyện gia nhập Quân Đội VNCH, thụ huấn Khóa 7 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Đại Đội 21 Trinh Sát của Sư Đoàn 21 Bộ Binh VNCH, một trong những sư đoàn Bộ Binh nổi tiếng của Vùng IV Chiến thuật. Để lấy tin tức tình báo và thi hành những cuộc hành quân lục soát, dọ thám và đột kích, sư đoàn có một đơn vị rất ưu tú, đó là Đại Đội 21 Trinh Sát với những sĩ quan chỉ huy và binh sĩ nhiều kinh nghiệm chiến trường. Đụng những trận đầu tiên, Chuẩn Úy Kiệt đã chứng tỏ khả năng của mình. Trong một cuộc hành quân ở Trà Vinh, ông được vinh thăng thiếu úy, nhưng cũng bị thương ở chân, phài đưa về bệnh viện điều trị và dưỡng thương. Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB lúc đó là Tướng Trần Thiện Khiêm, đã biết tới khả năng muốn đưa ông về làm tùy viên, nhưng ông xin được ở lại với Thám Báo. Sau khi rời bệnh viện, ông được đưa vào toán huấn luyện của sư đoàn, đi huấn luyện cho cho Địa Phương Quân của Biệt khu Hải Yến, Cà Mau. Biệt khu này do Đại Tá Tuyên Úy Công Giáo Phan Lạc Hóa (tên Trung Hoa đổi qua tên Việt Nam) của Tướng Tưởng Giới Thạch. Sau trận chiến với Mao Trạch Đông năm 1949, quân của Tưởng Giới Thạch bị thua, di tản đi khắp nơi, ông Tuyên Úy đem quân lính và dân tới Cà Mau và được chính quyền Việt Nam cho sinh sống tại đây và trao cho họ nhiệm vụ bảo vệ dân và tiêu diệt bọn cộng phỉ nằm vùng. Lành vết thương, Thiếu Úy Kiệt trở lại với Đại Đội Thám Báo của Sư Đoàn 21 Bộ Binh VNCH. Với khả năng thiên phú về quân sự, nhạy bén, lanh lẹ và can đảm, chỉ trong vòng 3 tháng, ông Kiệt đã từ thiếu úy vinh thăng lên trung úy. Năm tháng sau, ông lại được đặc cách đại úy. Khi đi hành quân thì như vũ bão, nhưng mỗi khi trở về hậu cứ, Thiếu Tá Kiệt hiền khô như một bạch diện thư sinh. Ông ít khi uống rượu, thương lính, lo săn sóc cho những người lính bị thương, lo cho đời sống vợ con lính trong trại gia binh. Chưa bao giờ thấy ông nổi giận với lính, nhất là không bao giờ gọi lính của mình là thằng. Một lần hành quân về, ông và một người bạn lái xe ra bến Ninh Kiều uống… sinh tố. Bất chợt có một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân bước vào quán, cử chỉ kiêu căng, hống hách, nói chuyện ba hoa, tự khoe mình là lính Tiểu Đoàn 42 BĐQ. Thiếu Tá Kiệt nhìn mãi không ra người lính này thuộc đại đội nào, trung đội nào. Ông cho người trung sĩ tài xế ra hỏi người quân nhân đó, xem anh ta thuộc đơn vị nào. Té ra anh ta là lính Địa Phương Quân, thấy mọi người nể trọng lính Cọp Ba Đầu Rằn nên mới giả dạng mặc đồ bông hù bà con. Thay vì đưa người lính này về Quân Cảnh, Thiếu Tá Kiệt chỉ cảnh cáo anh ta và bắt cởi áo ra mà thôi. Giống như vị tiểu đoàn trưởng của mình, những người lính Tiểu Đoàn 42 BĐQ được dân chúng thương mến là vì họ không phá làng phá xóm mỗi khi hành quân trở về. Khi đi hành quân, tiểu đoàn thuờng chia làm hai cánh: Một cánh do Tỉểu Đoàn Phó Hồ Ngọc Cẩn điều khỉển, cánh kia do chính Tiểu Đoàn Trưởng Lưu Trọng Kiệt chỉ huy. Hai cánh quân thường đổ bộ cùng một lúc, ở hai địa điểm khác nhau, rồi cùng lặng lẽ tiến tới mục tiêu. Khi tấn công, cả hai cánh quân đồng loạt xung phong hoặc là một cánh xung phong, cánh kia phục kích ở nơi bọn Việt cộng tan hàng chạy ra thì quét sạch bọn chúng. Do cách thức hành quân thần tốc, gan dạ, mà Tiểu Đoàn 42 BĐQ đã trở thành hung thần của lũ khủng bố cộng phỉ. Do Tiểu Đoàn 42 BĐQ đội nón sắt có vẽ hình con cọp đen trên nền ngôi sao trắng, chung quanh vẽ rằn ri mầu Nâu, Đen, Xanh lá mạ, nên bọn cộng phỉ đã kiêng nể mà đặt tên cho tiểu đoàn này là: “Cọp Ba Đầu Rằn” Hễ đụng trận, hễ thấy bên lính Việt Nam Cộng Hòa thấp thoáng có nón sắt “Cọp Ba Đầu Rằn” là bọn cộng phỉ kinh hãi hoảng sợ và lo cuống cuồng bỏ chạy, làm cho Tiểu Đoàn 42 BĐQ không có địch mà đánh. Do đó, vào khoảng đầu năm 1967, Chuẩn Tướng Đặng Văn Quang, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu 4, đã ra lệnh: “Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân phải sơn lại nón sắt trở lại bình thường như các đơn vị Bộ Binh khác”. Trận chiến cuối cùng Ngày 8 tháng 7, năm 1967, Tiểu Đoàn 42 BĐQ tham dự chiến dịch Dân Chí 179 do Sư Đoàn 21 Bộ Binh điều động, với nhiệm vụ hành quân càn quét, tiêu diệt địch. Tiểu Đoàn 42 BĐQ đã đụng độ dữ dội với Trung Đoàn D2 với Tiểu Đoàn chủ lực cơ động Tây Đô của bọn cộng phỉ trên bờ kinh Thác Lác thuộc tỉnh Chương Thiện. Trận chiến vẫn còn đang chưa ngã ngũ thì nghe trên máy báo cáo là Thiếu Tá Kiệt bị thương ở đầu, cần phải tải thương gấp. Chiến trường đang sôi động, làm sao vị chỉ huy có thể rời bỏ đơn vị cho được? Nhưng máu đã ra quá nhiều, không thể trì hoãn được nữa. Trung Úy Tiểu Đoàn Phó Hồ Ngọc Cẩn khẩn khoản yêu cầu trực thăng tải thương ngay, nhưng Thiếu Tá Kiệt nhất quyết tấn công xong mới chịu tải thương. Khoảng nửa tiếng sau, Trung Úy Cẩn nghẹn ngào báo tin Thiếu Tá Kiệt đã tử trận. Rất nhiều binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan đã khóc nức nở bên xác Thiếu Tá Kiệt. Thiếu Tá Kiệt đã tử trận ngày 8 tháng 7 năm 1967 lúc 14 giờ 15, tại bờ kinh Thác Lác, tỉnh Chương Thiện. Ông được truy thăng Cố Trung Tá. Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt đã giã từ Quân Đội, giã từ Binh Chủng BĐQ quá mau, quá đột ngột và quá trẻ. Chỉ từ năm 1960 cho tới năm 1967, ông đã từ một Chuẩn Úy, đặc cách vinh thăng luôn luôn tại mặt trận, tới cấp bực Thiếu Tá, và rồi Cố Trung Tá, ở lứa tuổi 30. Cố Trung Tá Lưu Trọng Kiệt đã anh dũng hy sinh, để lại muôn ngàn tiếc thương cho các đồng đội, cho toàn thể Quân Dân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa. (Nguyễn Nhật Quang Vinh / Sài Gòn trong tôi – theo BĐQ Quân Sử)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2024 19:51:05 GMT 9
TỔNG CÔNG KÍCH MẬU THÂN ĐỢT 2, SG Sau khi thất bại qua đợt tấn công đầu vào dịp Tết, Việt Cộng vẫn không từ bỏ kế hoạch “tổng công kích, tổng nổi dậy” của chúng. VC nghĩ rằng một đợt tấn công thứ hai sẽ có thể lôi kéo dân chúng Miền Nam nổi dậy. Họ đã đánh giá sai dân tình miền Nam. Họ vẫn không hiểu được rằng dân miền Nam được sống trong một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng tương đối tự do và chưa bao giờ thực sự tin theo VC. Ðợt tấn công Mậu Thân 2, khởi đầu từ ngày 5 Tháng Năm, 1968. Trong đợt này VC tập trung nỗ lực vào những khu đông dân cư, lựa chọn những địa thế khó xoay trở cho ta, chúng đồng loạt xâm nhập và bắn phá tại đô thị, những khu nghèo đông dân cư, nhà cửa chen chúc và đường hẻm chằng chịt khiến cho việc lưu thông hằng ngày và công tác cứu hỏa rất giới hạn và khó khăn.Song song với các tin tức tình báo QLVNCH thu nhặt được qua cuộc hành quân Quyết Thắng, ngày 10 /4/1968 Thượng tá Việt Cộng tên Tám Hà về hồi chánh tiết lộ tin tức Việt Cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Saigon, Chợ Lớn và Gia Định gồm khoảng chừng trên 10,000 cán binh Việt Cộng vào ngày 22 tháng 4/1968. Nhưng có thể vì lý do nào đó đã chậm lại. Lực lượng tấn công của Việt Cộng gồm 2 trung đoàn thuộc Công Trường (CT) 9, hai trung đoàn thuộc Công Trường 5 và được tăng cường thêm chừng hai trung đoàn địa phương gồm các Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn Đồng Tháp. Ngày 3/5/1968 Hoa Kỳ và Hà Nội đồng ý chọn Paris làm địa điểm hội nghị hòa bình và ngày khởi sự sẽ bắt đầu vào ngày 10/5. Do đó Chỉ 24 giờ sau khi tin Hoa Kỳ và Bắc Việt thảo luận họp nhau ở Paris được tung ra là Việt Cộng đã mở cuộc tấn công vào Saigon . Ngày 4/5/1968 một tiếng nổ rất to do Việt Cộng gây ra ở gần đài vô-tuyến truyền hình tại Saigon. Khoảng 60 kg chất nổ TNT được dấu trên xe taxi. Lúc 13 giờ trưa, chiếc taxi nổ gây cho 3 người chết và khoảng 30 người khác bị thương. Một căn nhà ở gần đài truyền hình cũng bị sập đổ. Người ta cho rằng tiếng nổ này là một hiệu lệnh của Việt Cộng phát động cho cán binh của họ mở cuôc tấn công vào thủ đô Saigon và vùng phụ cận để yểm trợ cho mục tiêu chính trị mà chúng đã lựa chọn.. Cuộc tấn công này phát xuất lúc 03 giờ 10 ngày 5 tháng 5/1968. Lúc đầu, Việt Cộng bắn những loạt trọng pháo, hỏa tiễn vào thành phố gây một số thương vong cho người dân. Sau đó các đơn vị võ trang của họ xuất hiện tại nhiều nơi. . Khoảng 2 giờ sáng ngày 5/5 một Tiểu đội Ðặc công VC đã xâm nhập gần các đường Cô Giang-Cô Bắc. Chúng xuất hiện rải truyền đơn và tuyên truyền sách động đồng bào tại các khu chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Ðề Thám-Bùi Viện. Tiếng súng VC cũng đồng loạt tấn công ở một vài nơi khác. Trong đợt 2 từ ngày 6 đến 12 tháng 5 năm 1968, VC đã tiến công và chiếm cầu Chữ Y.. và bị chặn đúng tại đây. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt , khó khăn vì VC trà trộn khu dân chúng, lực lượng CS bị thiệt hại nặng , rút lui sau đó 7 ngày . Quận Tư vùng Khánh Hội, Quận 5 khu Trần Nhân Tôn, Quận 3 khu Chùa Bà Lớn gần đường Nguyễn Thiện Thuật, Quận Nhất khu Phan Ðình Phùng-Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Ðài phát thanh, Gò Vấp Kho Quân Cụ, khu Phú Thọ Hòa vùng Gia Ðịnh đồng loạt bị VC tấn công. Vài nơi tại vùng Khánh Hội và Chợ lớn đã bắt đầu bốc cháy.Các lực lượng võ trang Việt Cộng cũng lọt được vào một vài vùng ven đô. Ngày 6/ 5/1968 Việt Cộng lại mở thêm mặt trận ngã tư Bảy Hiền. một đơn vị Việt Cộng xâm nhập từ hương lộ 14 qua đường Hồ Tấn Đức, Lê Văn Duyệt ngã tư Bảy Hiền vào nghĩa trang quân đội Pháp. Vào lúc 8 giờ 30 sáng, các khu trục cơ A-1 Skyraider được gởi đến thi nthi nhau dội bom vào khu nghĩa địa. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được điều động bằng xe, từ Biên Hòa về tiếp cứu Biệt Khu Thủ Đô. Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù khởi sự xuất phát từ Ngả Tư Bảy Hiền, chia làm 2 cánh,, từ cuối đường Lê văn Duyệt tấn công vào khu nghỉa địa. Cánh trái do Trung Tá Lê Văn Ngọc TĐT, chỉ huy 3 Đại Đội, tiến chiếm khu trường trung học Đắc Lộ, và khu “nhà thợ dệt” phía sau trường học. Cánh phải do Thiếu Tá Lê Minh Ngọc TĐP, điều động 2 Đại Đội 71 và 73, tiến theo đường Nguyễn Văn Thoại, về hướng Lăng Cha Cả. Nửa đường, Đại Đội 73 do Trung Úy Nguyễn Viết Thanh chỉ huy bắt đầu chạm địch. Cộng quân từ các công sự kiên cố bằng bê tông cốt sắt trong khu nghĩa trang cũ của Pháp, khai hỏa dữ dội vào đoàn quân Mủ Đỏ... Các chiến sĩ ĐĐ73 Nhảy Dù dùng lựu đạn khói màu làm màn che, rồi xung phong đánh cận chiến chớp nhoáng với tiểu liên và lựu đạn, nhanh chóng chế ngự chiến trường. Trận xung phong này kết thúc với 60 Việt Cộng bị hạ, 11 bị bắt sống, khoảng 100 nhà cửa của dân chúng ở ngã tư Bảy Hiền phía bên mặt đường Lê Văn Duyệt bị thiêu hủy. Cây xăng Shell cũng bị cháy và lực lượng Nhảy Dù tịch thu được võ khí đủ loại trong đó có một súng phòng không và một khẩu đại bác không giật 75 ly. Việt Cộng tới sát trường Quốc Gia Nghĩa Tử mà chưa đột nhập được vào bên trong nơi có nhiều lưu trú học sinh. Theo tù binh Việt Cộng, đơn vị tấn công tại ngã tư Bảy Hiền thuộc một thành phần của Trung Ðoàn 272 thuộc Công Trường 9 từ Tây Ninh kéo qua ngã vườn cao su vào khu hãng dệt Vinatexco (bị thiêu hủy kỳ tấn công Tết Mậu Thân) và khu nghĩa địa quân đội Pháp với mục đích tấn công căn cứ Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù tại trại Hoàng Hoa Thám. Nhưng Việt Cộng tới trễ vào lúc trời sáng nên bị các đơn vị chánh phủ chận đánh. Toán Việt Cộng xâm nhập vào nghĩa địa Pháp coi như hoàn toàn bị tiêu diệt. Còn những phần tử khác tẩu thoát về ngã Phú Thọ Hòa. Cánh quân của TĐ7ND tiếp tục lục soát giải tỏa cho đến cổng Phi Long của BTL Không Quân... mãi sáng ngày 7 tháng 5/1968 các đơn vị VNCH mới thanh toán hết những cán binh Việt Cộng chạy tán loạn và ẩn núp trong trại chăn nuôi của Bộ Canh Nông. Vì vậy mà lần đầu tiên dân chúng trong khu Ông Tạ (đa số là dân di cư Công giáo Bắc Việt) phải chạy loạn. Con đường Nguyễn Văn Thoại tới ngày 8 tháng 5/1968 mới mở lại sự lưu thông đều hòa Sau đó, TĐ7ND được lệnh đổi hướng, di chuyển ngược lại trên đường Nguyễn văn Thoại, hướng về Chợ Lớn giải tỏa xong tiếp tục tiến chiếm vùng nghĩa trang Nhị Tỳ Quảng Đông. Nơi đây, quân Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự rất mạnh. .. Đến tối, TĐ7ND theo bóng đêm, len lỏi xâm nhập được vào bên trong nghĩa trang, rồi thanh toán từng chốt địch, đến khuya mới làm chủ được tình hình nơi đây, rồi sáng hôm sau, bàn giao lại cho Cảnh Sát Dã chiến. Ngày 8 tháng 5, TĐ7ND được lệnh di chuyển bằng xe, trở ngược lại Ngả Tư Bảy Hiền, trực chỉ lên hướng Quang Trung, đến hảng Bột Ngọt Vị Hương Tố, để tiếp tay với TĐ1ND giải tỏa khu 18 Thôn Vườn Trầu, ra đến xã Nhị Bình ngày 9 tháng 5/1968. Một Đại Đội đặc công cộng quân bị bao vây tại đây, vì chúng không thể vượt sông Saigòn được. TĐ7ND và TĐ1ND đã phối hợp mở cuộc hành quân lục soát, trong hai ngày tiêu diệt đại đội này, bắt được nhiều tù binh và vũ khí cùng tài liệu. TĐ1ND cũng đã chạm địch mạnh tại vùng Nhị Bình. Cũng trong ngày 8/5/1968, một mặt trận mới nữa được mở ra tại mật khu An Phú Đông của VC. Ngay khi cộng quân vừa phát động tấn công đợt 2 , TĐ3ND đã đến trấn đóng và lục soát mật khu nầy như khu chợ Cầu, vùng Tân Thới Hiệp Hốc Môn… Ngày 25/ 5/1968 Việt Cộng lại tấn công thủ đô Saigon. Lần này họ xâm nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu vực Ngã Năm Bình Hòa và những khu kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của thường dân để chống lại cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tại Chợ Lớn, Việt Cộng cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc Quận 6. Họ tổ chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư, chiếm mấy nhà kiên cố làm pháo đài. Các trận chiến xảy ra tại những khu vực này vô cùng khốc liệt Trung Đoàn Đồng Nai, Việt Cộng đã từ vùng An Phú Đông xâm nhập vào thành phố Gia Định để đưa bộ chỉ huy nhẹ của Trung Đoàn Đồng Nai với Tiểu Đoàn K3 Phú Lợi vào trước. Toán quân này đã len lõi vào tới khu chùa Tập Thành thuộc Ấp 7. Họ đợi có nhiều cán binh Việt Cộng khác xâm nhập thêm để rồi từ vùng này băng qua cầu tiến tới vùng Bà Chiểu, vượt đường Bùi Hữu Nghĩa qua Ấp 4 xã Bình Hòa, vào đường Trần Nhật Duật để làm đà vọt vào Quận 1 ở Saigon. Nhưng khi họ đến chùa Tập Thành thì bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa phát giác. Liền ngay đó, các lực lượng chánh phủ được điều động đến ngăn chận và mở cuộc hành quân tảo thanh cho nên chiến sự đã chỉ hạn chế trong khu Ấp 7, khu cầu Sơn, cầu Băng Ky, Cây Quéo và Cây Thị. Ngày 31/5/1968 Trung Đoàn Quyết Thắng CS với tiểu đoàn 1 và 2 của Gò Môn (Gò Vấp và Hóc Môn) từ khu Rạch Ông vượt qua đường rầy xe lửa vào vùng Cây Thị để tăng viện cho các hoạt động trong nội thành. Lực lượng Việt Cộng khi vào thì chạm trán với Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) và xảy ra các cuộc đụng độ ở vùng cầu Băng Ky, nhưng chỉ trong 2 ngày lực lượng Thủy Quân Lục Chiến đã dẹp tan hết các toán Việt Cộng ở đây. Lực lượng Nhảy Dù đã gặp một sức chống trả mảnh liệt của Việt Cộng ở khu chùa Tập Thành. Việt Cộng đã tổ chức hầm hố quyết tử thủ khu vực này. Sau 13 ngày giao tranh ác liệt, ngày 5 tháng 6/1968 thì quân đội chánh phủ mới kiểm soát được khu vực chùa Tập Thành. Việt Cộng tăng viện thêm quân và phân tán thành nhiều toán nhỏ. Họ định lợi dụng đêm tối mở lối qua cầu Mới để vào Saigon một số Việt Cộng đã bị hạ khi định lọt qua. Sáng ngày 8 tháng 6/1968, Tiểu đoàn Biệt Cách Nhảy Dù xuất phát từ Trung Tâm Tịnh Xá mở hành quân thăm dò địch đóng tại khu vực trường Đức Tin. Đại Ðội 1 đi tiên phong. Cuộc đụng độ xảy ra lẻ tẻ từng lúc. Đến 14 giờ, sau khi biết rõ vi trí Việt Cộng, Đến 19 giờ, Biệt Cách Nhảy Dù bắt đầu mở cuộc công kích bằng hỏa lực đủ loại súng vào hướng Việt Cộng. Mười lăm người toán Biệt Cách Nhảy Dù và Delta mọi người ngoài vũ khí riêng mang theo 10 quả lựu đạn cứ 3 người thành một tổ, Khi còn cách tuyến VC độ 10 mét, những người lính này đánh bằng lựu đạn. Các nhóm Biệt Cách Nhảy Dù và Delta liền xung phong đánh xáp lá cà. Một số Việt Cộng chết và bị thương,và một số khác liền tách làm hai mũi mở đường máu chạy thoát thân. Đến sáng, Biệt Cách Nhảy Dù hoàn toàn làm chủ tình hình. Việt Cộng để lại 21 xác và một người bị bắt. Tù binh Việt Cộng bị bắt khai thuộc Tiểu oàn 1 của Trung oàn Đồng Nai mới xâm nhập vào đây được 3 hôm. Ngày 9/6/1968 Đại Ðội 52 lực lượng Nhảy Dù nằm án ngữ trong khu tứ giác Lê Quang Định, Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu và đường ranh xóm Thơm với 4 chiến xa M-41 hỗ trợ. các đơn vị thuộc Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù ép từ phía Tây Nam qua, Việt Cộng bị lọt vào trong gọng kìm nên đã dồn hết hỏa lực bắn vào. Lúc 20 giờ 20, Việt Cộng nhận thấy không chọc thủng nổi phòng tuyến của Nhảy Dù nên họ phải di chuyển về hướng xóm Thơm. Ngày 12/6/1968 Vừa dứt mặt trận Cây Quéo, mặt trận Cây Thị lại mở ra trong ngày 12 tháng 6/1968 rất sôi động. Sau đúng một tuần lễ giao tranh, các đám tàn quân Việt Cộng kiệt quệ định rút lui mà không có lối thoát để rồi cuối cùng tất cả những kẻ sống sót còn lại của Trung Đoàn Quyết Thắng đã phải đầu hàng tập thể ngày 18 tháng 6/1968. Ca sĩ Bùi Thiên từ Bắc vào Sài Gòn - Gia Định tham gia đợt hai trận Tết Mậu Thân cùng Trung Đoàn Quyết Thắng ra hồi chánh giữa tháng 6 năm 1968 cùng với gần 100 người còn lại của trung đoàn này, trong đó có Đoàn Chính, con trai ca sĩ Đoàn Chuẩn. Sau đó Bùi Thiên thường hát với ca sĩ Sơn Ca
|
|