|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:25:38 GMT 9
Làng hoa kiểng Sa ĐécSuu TamHơn một trăm năm qua, Sa Đéc nổi tiếng khắp cả nước với nghề trồng hoa, cây cảnh truyền thống. Sản phẩm hoa, cây cảnh của Sa Đéc hiện đang cung cấp cho nhiều thị trường trong và ngoài nước. Thị xã Sa Đéc (tỉnh Đồng tháp) có hơn 1.500 hộ trồng hoa, cây cảnh với trên 1.000 chủng loại hoa cảnh khác nhau, tạo nên một nét riêng độc đáo rực rỡ sắc màu bên con sông Tiền. Bình quân mỗi ha trồng hoa kiểng thu lãi hơn 200 triệu đồng/năm, lãi gấp 5-10 lần trồng lúa. Sa Đéc trồng hoa kiểng với qui mô ngày càng nhiều không chỉ phục vụ trong dịp Tết mà là sản xuất quanh năm phục vụ mọi đối tượng. Hoa và kiểng Sa Đéc không chỉ mang lại nguồn lợi kinh tế cao cho địa phương mà đây là nơi thu hút nhiều du khách trong nước, nước ngoài đến tham quan du lịch. Riêng nhu cầu phục vụ Tết hàng năm, làng hoa kiểng Sa Đéc có trên 2 triệu giỏ hoa kiểng, nhiều nhất là hoa hồng, cúc mâm xôi, vạn thọ, thược dược, mãng đỉnh hồng chiếm từ 40-50%. Chị Phạm Thị Liễu, một nông dân có nhiều năm trong nghề trồng hoa, kiểng ở Tân Quy Đông cho biết: với diện tích gần 2 ha đất, chị thu lợi hàng năm trên 200 triệu đồng, đủ trang trải trong gia đình, nuôi con ăn học và có của dư của để. Anh Trần Văn Sơn ở ấp Khánh Hòa, thôn Tân Khánh Đông, chuyên trồng hoa xương rồng: móc câu vàng, móc câu hồng, khế xanh, khía ba màu, kim hổ, nanh heo. Anh trồng chỉ có 500m2 đất nhưng mỗi tháng bán trên 500 cây với giá 6.000-10.000 đ/cây. Ở Sa Đéc có những ngôi nhà như một “cung điện bình dân”, hoa kiểng bốn mùa khoe sắc. Đặc biệt là có nhiều vườn kiểng nổi tiếng của các nghệ nhân Ngô Văn Hay, Hai Ký, Tư Mạnh, Bảy Chùa có hàng trăm chủng loại kiểng cổ quí hiếm, có từ 50 đến 150 năm tuổi như cần thăng, kim quýt, mai tứ quí, mai vàng, khế… Những loại cây này đã được uốn với đường nét khá độc đáo theo các thế: xung phong, mẫu tử, hoặc tam tòng - tứ đức… trên chót là 3 nhánh nhỏ tiêu biểu cho Nhật - Nguyệt - Tinh. Nhánh kiểng phải “hô, ứng”, nhánh này nghinh thiên, nhánh kia yểm địa… Bên cạnh cây kiểng là hoa, hàng ngày làng hoa Sa Đéc đã xuất từ hàng chục xe hàng hoặc chuyên chở bằng tàu, ghe các loại đưa đi khắp mọi miền đất nước và sang tận Campuchia. Anh Trần Văn Thăng - Hội Sinh vật cảnh Sa Đéc cho biết: “Trước giải phóng 30/4/1975, ở đây chỉ có 30-40 hộ trồng hoa kiểng, nay đã lên hàng ngàn hộ. Điều mà người dân trồng hoa kiểng Sa Đéc hiện nay quan tâm nhất là có sự tác động của khoa học kỹ thuật về ghép lai tạo giống, làm kiểng bonsai… Hoa kiểng truyền thống ở Sa Đéc, một thứ hàng hóa đặc thù, không chỉ hiệu quả về kinh tế, mà bao hàm cả văn hóa, nghệ thuật, thẩm mỹ, bảo vệ môi trường sinh thái và Sa Đéc trong tương lai không xa trở thành một điểm du lịch lý thú mang sắc thái độc đáo riêng của vùng sông nước Cửu Long”. Một tương lai sáng sủa cho làng hoa kiểng Sa Đéc khi nơi đây vừa được các Hội Sinh vật cảnh bình chọn là con chim đầu đàn về sản xuất hoa tươi và là một “vựa kiểng” lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Tuy có hơn 176 ha trồng hoa kiểng hiện nay, nhưng nơi đây đã giải quyết việc làm cho gần 3.000 lao động. Hàng năm Sa Đéc cung cấp cho thị trường trong nước và nước ngoài hơn 8 triệu giỏ hoa và hơn 20 ngàn chậu kiểng các loại; doanh thu hàng năm từ nghề trồng hoa kiểng đạt hơn 29 tỷ đồng, qua đó đã góp phần đáng kể trong chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của thị xã. Những năm gần đây, nhiều hộ trồng hoa kiểng còn mua về nhiều giống mới của các nước Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc. Tỉnh Đồng Tháp đang lập dự án xây dựng “Làng hoa kiểng Sa Đéc” đến 2010 có tổng diện tích là 300 ha, xây dựng phương án chọn lọc, bảo tồn và phát triển các loại hoa kiểng bản địa đặc thù; ứng dụng công nghệ sinh học vào việc nhân giống, lai tạo giống mới, đưa nghề trồng hoa kiểng trở thành một trong những nghề sản xuất tiềm năng. Nụ cười cô gái làng hoa Sa Đéc Chăm sóc vườn hoa cúc Sa Đéc sản xuất nhiều loại cây cảnh phục vụ thị trường Chuẩn bị hoa phục vụ dịp Tết Từ Sa Đéc, hoa, cây cảnh đưa đi tiêu thụ ở nhiều địa phương trong cả nước và xuất khẩu Bài: Hữu Thành
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:30:10 GMT 9
Phục dựng kiến trúc xưaPhố Tạ Hiện - một trong những phố khá nổi tiếng của Hà Nội - được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XX trong đó, dãy số lẻ gồm 10 ngôi nhà liền khối, quy mô 2 tầng, mái ngói dốc, giống nhau, mang ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, còn dãy chẵn lại mang đậm kiến trúc Việt Nam đang được cải tạo, phục dựng lại. Hiện trạng, kiến trúc cũ trên con phố này đã bị biến dạng. Những ngôi nhà đã cũ, mái ngói xưa bị thay thành mái tôn, đôi chỗ dột nát, gây ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của người dân. Còn những ngôi nhà được xây theo kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam, nguyên bản tầng 2 thường được xây lùi vào, tầng 1 đưa ra sát mặt đường nhưng hiện nhiều người dân cơi nới nên phần tầng 2 các nhà đều di chuyển hết ra phía ngoài, gây ảnh hưởng đến kiến trúc khu phố. Một số ngôi nhà đã được cải tạo hoàn thiện “Dự án cải tạo chỉnh trang thí điểm đoạn phố Tạ Hiện” do BQL phố cổ Hà Nội thực hiện với sự giúp đỡ của TP Toulouse (Pháp), nhằm bảo tồn kiến trúc đặc trưng, tạo thành điểm nhấn về kiến trúc và du lịch ẩm thực cho du khách trong và ngoài nước, thúc đẩy các hoạt động thương mại, du lịch, đồng thời góp phần nâng cao điều kiện sống cho người dân. Theo đại diện BQLDA, đoạn phố Tạ Hiện bắt đầu từ phố Lương Ngọc Quyến đến phố Hàng Buồm sẽ được cải tạo hệ thống hạ tầng kỹ thuật như thay thế hệ thống điện sinh hoạt, hệ thống nước, điện chiếu sáng công cộng, cấp thoát nước, bố trí bãi đỗ xe, thêm cây xanh... Mặt đứng kiến trúc của các dãy nhà cũng được cải tạo các hạng mục: kích thước cửa, mái vẩy, màu sơn, vị trí lắp đặt điều hòa cũng được sắp xếp theo quy chuẩn. Riêng công trình rạp Quảng Lạc cần lập dự án nghiên cứu riêng biệt do tính chất đặc thù của công trình. Bên trên là công trường đang thi công, cuộc sống của người dân vẫn diễn ra thường nhật. Cụ thể, dãy nhà số lẻ từ số 5 đến số 27 (chiều sâu trung bình 15m), dãy nhà số chẵn từ số 8 đến 18 (chiều sâu trung bình 19m). Cửa chính tầng 1, mái vẩy, vị trí đặt máy điều hòa, biển hiệu quảng cáo, hệ thống thoát nước, màu sơn mặt đứng... sẽ được cải tạo đồng bộ. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật như: điện sinh hoạt, điện chiếu sáng công cộng, cấp thoát nước, giao thông tĩnh - động, thông tin liên lạc, cây xanh... sẽ được cải tạo hoàn chỉnh. Lòng đường của khu phố cổ được bảo tồn, cải tạo sẽ được lát bằng đá tự nhiên. Một ngày đầu hè, mới sáng sớm nhưng con phố đã nhộn nhịp đông người qua lại, công trường cũng bắt đầu thi công với tiến độ gấp rút. Ngay bên trên đường đi, một giàn giáo được lắp đặt, các cán bộ, công nhân kỹ thuật say sưa làm việc, còn bên dưới, cuộc sống thường nhật của người dân vẫn tiếp diễn. Họ vẫn buôn bán như bình thường, hàng quán vẫn nườm nượp người qua lại và đông du khách nước ngoài. Theo quan sát của phóng viên, đến thời điểm này, một số ngôi nhà thuộc dãy chẵn đã được cải tạo hoàn thiện. Xà gồ mục nát đã được thay bằng gỗ lim, mái tôn cũ hoen gỉ cũng được thay bằng mái ngói đỏ tươi, kiến trúc mặt đứng của một số ngôi nhà cũng đã hoàn thiện với màu vôi vàng như màu nắng, cửa gỗ lim 4 cánh vững chắc được sơn xanh nổi bật, cửa sổ cũng bằng gỗ lim. Một số ngôi nhà cũng được chủ nhân tranh thủ xây sửa lại bên trong. Bác Dậu, chủ nhà số 11 (tầng 1) phố Tạ Hiện cho biết: “Nhà tôi đã được cải tạo hoàn thiện. Sau khi cải tạo xong, ngôi nhà sạch sẽ và đẹp hơn nhiều. Chúng tôi rất vui”. Tuy nhiên, cũng như hầu hết các hộ dân đang sống ở đây, bác Dậu băn khoăn: Theo thiết kế, phần mái vẩy tầng 1 được thiết kế là mái ngói nhưng thực tế lại bị thay thế bằng hệ thống khung sắt bọc vải bạt. Trần thạch cao chưa thực sự được chống thấm tốt. Mặt khác, dù hệ thống thoát nước ở đây tiêu thoát khá tốt nhưng nếu mưa quá to thì ngập đột xuất là không tránh khỏi. “Nếu ngập mà cửa gỗ như hiện nay thì sẽ ảnh hưởng đến cửa và nước vào nhà là không tránh khỏi. Chúng tôi mong khi cải tạo đường, BQL dự án phố cổ… sẽ cho nạo vét cống, tránh ngập lụt khi mưa to”, bác Dậu đề xuất. Đại diện đơn vị thi công cho biết: Khó khăn nhất trong quá trình triển khai dự án là làm sao phục dựng được kiến trúc xưa, thi công cải tạo mà không làm ảnh hưởng đến cuộc sống ổn định của người dân. Dự án đã nhận được sự đồng thuận của người dân, nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thi công, nếu không thì không thể làm được. Theo: baoxaydung
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:32:42 GMT 9
Kiến trúc Hà NộiGìn giữ vẻ đẹp kiến trúc Pháp ở Hà Nội Lịch sử kiến trúc Hà Nội gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử Thủ đô. Cùng với những công trình kiến trúc cổ có giá trị lớn về mặt lịch sử, văn hóa còn lưu giữ được như: Văn Miếu, Quốc Tử Giám, chùa Một Cột... sau này là các khu phố mà người ta thường quen gọi là khu phố cổ (khu 36 phố phường xưa), Khu phố cũ (khu phố Tây) từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX với những sắc thái riêng đã góp phần làm nên dấu ấn của kiến trúc Hà Nội . Nhiều công trình kiến trúc lớn được xây dựng trong thời kỳ này nằm rải rác ở một diện tích khá rộng của Hà Nội như Phủ Toàn quyền (Phủ Chủ tịch nay); Bắc Bộ phủ (Nhà khách Chính phủ nay); cầu Long Biên, Nhà hát lớn Hà Nội, Chợ Ðồng Xuân... cho đến giờ gần như vẫn còn nguyên vẹn Việc du nhập kiến trúc Pháp vào Hà Nội đã làm thay đổi qui mô, đường nét nghệ thuật, kết cấu kỹ thuật, vật liệu xây dựng truyền thống. Từ những nguyên liệu làm nhà chủ yếu bằng tre, nứa, lá, gỗ, gạch, ngói... Hà Nội thời kỳ này đã bắt đầu biết tới những bản vẽ thiết kế xây dựng, được làm quen với các loại vật liệu xây dựng mới như xi măng, cốt thép... Mặc dù vậy, các công trình kiến trúc Pháp lại được thiết kế rất phù hợp với khí hậu cũng như điều kiện sống của người Hà Nội và hoàn toàn mang một dáng dấp riêng biệt Theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành, đến nay kiến trúc Pháp ở Hà Nội vẫn đẹp, tiêu biểu cho hình thức kiến trúc của một thời đã qua với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, cơ cấu công trình phục vụ đáp ứng có bản nhu cầu sử dụng của người dân thời đó. Kiến trúc sư Nguyễn Ðình Toàn, Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc cho rằng: Hà Nội hiện còn rất nhiều công trình kiến trúc Pháp tốt, có giá trị kiến trúc, lịch sử, văn hóa cần được gìn giữ, bảo tồn. Ðã đến lúc Hà Nội phải kiểm kê lại những công trình kiến trúc Pháp cũng như đặt ra tiêu chí về kiến trúc, cảnh quan... để các nhà kiến trúc, xây dựng có thể thực hiện tốt yêu cầu quan trọng đó. [nguồn: www.kts.org.vn/]Ôi có đôi khi thèm như gió đi hoang Sống kiếp lang thang dạo chơi khắp núi rừng... *************** Cột cờ Hà Nội Với chiều cao đáng kể, Cột Cờ này được nhà binh Pháp khi đó dùng làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc giữa ban chỉ huy với những đồn bốt xung quanh, ban ngày dùng làm tín hiệu, ban đêm dùng đèn. Cột cờ được xây năm 1812 gồm 3 tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạ - Tầng một: Mỗi chiều 42,5 mét, cao 3,1 mét có hai thanh gạch dẫn lên. - Tầng hai: Mỗi chiều 27 mét, cao 3,7 mét có 4 cửa, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ "Nghênh húc" (đón ánh nắng ban mai), cửa Tây với "Hồi Quang" (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với "Hướng minh" (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không có đề chữ. - Tầng ba: Mỗi chiều 12,8 mét, cao 5,1 mét; có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân cột cờ, hình lăng trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, cao 18,2 mét, moỗi cạnh đáy chừng 2 mét. Trong thân này có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình hoa thị và 6 lỗ hình dẽ quạt. Những lỗ này được đặt dọc các mặt, mỗi mặt có từ 4 đến 5 lỗ. - Đỉnh cột cờ: Được cấu tạo một lầu hình bát giác, cao 3,3 mét, có 8 cửa tương ứng 8 mặt. Giữa lầu là một trụ tròn đường kính 0,4 mét cao đến đỉnh lầu, là chổ để cắm cán cờ (cao 8 mét). Như vậy toàn thể cột cờ cao 33,4 mét, nếu kể cả trụ treo cờ thì trên 41 mét. *************** Văn Miếu - Quốc Tử Giám Việc vua Lý Công Uẩn chọn Đại La làm nơi đóng đô vào năm 1010, đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay, tên gọi buổi đầu là Rồng lên) thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và hoài bão lớn lao của một vương triều thịnh trị. Một quốc gia độc lập tự chủ đã ra đời sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, quật cường đánh bại mọi âm mưu thôn tính đồng hoá và giành được thắng lợi vẻ vang. Vào năm 1070, vua Lý Nhân Tông đã cho dựng Văn Miếu, và sau đó mở tiếp Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của quốc gia 6 năm sau đó, đặt nền tảng vững chắc cho nền văn hoá Đại Việt đang trên đà phát triển rực rỡ. Nét nổi bật của Văn Miếu Hà Nội là sự gắn kết Văn Miếu nơi thờ phụng danh nhân văn hoá với Quốc Tử Giám, nơi đào tạo nhân tài của quốc gia. Qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn luôn tồn tại. Sau mỗi cuộc xâm lăng, khu di tích bị tàn phá nặng nề, các triều đại vua Đại Việt vẫn chủ trương tu bổ và xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày một rộng lớn hơn. Quốc Tử Giám được vua Lý Nhân Tông thành lập năm 1076. Vào năm 1253, đời Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được trùng tu dưới tên Quốc học viện. Dưới đời Lê chính thức đặt làm Thái học viện. Đứng đầu Quốc Tử Giám là quan Tế tửu, tương đương với Hiệu trưởng Đại học, kiêm chủ lễ tế ở Văn Miếu và quan Tư nghiệp, Hiệu phó. Đảm nhận việc giảng dạy ở Quốc Tử Giám có các Giáo thụ, Trực giảng và Trợ giáo. Học trò, được gọi là Giám sinh, được chia làm ba hạng: thượng xá sinh, trung xá sinh và hạ xá sinh hưởng mức học bổng khác nhau. Tại trường Giám thường có những buổi giảng văn, bình văn rất sôi nổi và lý thú. Năm 1483, vua Lê Thánh Tông đã cho sửa chữa, tu tạo lại khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Theo ghi chép trong cuốn Việt sử thông giám cương mục thì: "Hồi đầu triều Lê, nhà Thái học vẫn theo nếp cũ triều Trần, quy chế phần nhiều còn thiếu thốn, đến nay nhà vua cho sửa sang rộng thêm... Đằng sau nhà Thái học dựng cửa Thái học, nhà Minh luân. Giảng đường phía Đông và giảng đường phía Tây là nơi dạy học; lại đặt thêm kho bí thư để chứa ván gỗ đã khắc in sách, bên đông bên tây nhà Thái học, làm nhà cho giám sinh ba xá, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy hai mươi lăm gian làm chỗ ăn nghỉ cho giám sinh, bên đông bên tây mỗi bên đều có một nhà bia quy mô có phần rộng lớn khang trang". Vào năm 1484, tức là một năm sau, vua Lê Thánh Tông chủ trương dựng bia tiến sĩ, đặc biệt tôn vinh các vị đại khoa. "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia... Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật... Việc dựng tấm bia đá này ích lợi rất nhiều: kẻ ác lấy đó làm điều răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho Nhà nước", lời bất hủ ấy đã được ghi trong bài ký đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) ở tấm bia sớm nhất dựng trong Văn Miếu theo chủ trương của vị minh quân - nhà văn hoá Lê Thánh Tông. Thời Mạc, các khoa thi vẫn được tổ chức đều đặn. Việc tu bổ Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được tiến hành từ năm 1536 đến mùa xuân năm 1537 thì hoàn tất. Năm 1662, dưới thời vua Lê Trung Hưng, khu di tích được tu tạo với quy mô đáng kể dưới sự trông nom của Tham tụng Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ Yên quận công Phạm Công Trứ. Trong cuốn Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn từng mô tả: "Cửa Thái học ba gian có tường ngăn lợp ngói đồng. Nhà bia phía đông và phía tây mỗi dãy đều mười hai gian. Khu để ván khắc sách in bốn gian... Nhà Minh luân ba gian hai chái. Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều một gian có tường ngang. Nhà giảng ở phía Đông và phía Tây hai dãy, mỗi dãy mười bốn. Phòng học của học sinh tam xá ở phía Đông và phía Tây đều ba dãy, mỗi dãy hai mươi lăm gian, mỗi gian cho hai người ở". Như vậy, vào thời điểm trùng tu xong, Quốc Tử Giám có thể đón được 300 giám sinh. Vào mùa hạ năm 1785 dưới triều vua Cảnh Hưng đã diễn ra đợt trùng tu cuối cùng dưới triều Lê, do Hành tham tụng Bùi Huy Bích trông coi. Thời Sơn Tây, tương truyền vua Quang Trung đã phê vào tờ tấu xin sửa sang Văn Miếu - Quốc Tử Giá hai câu thơ nôm lục bát như sau: Nay mai xây dựng lại nước nhà Bia nghè lại dựng trên toà muôn gian Nhưng tiếc thay triều đại ngắn ngủi ấy lại chưa kịp thực hiện điều mong ước này. Khi Gia Long lên ngôi đóng đô ở Phú Xuân - Huế, Thăng Long chỉ còn là một trấn của Bắc Hà. Văn Miếu dưới triều Nguyễn được xây dựng ở Huế. Từ đó Văn Miếu Thăng Long chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, Quốc Tử Giám thành nhà học của phủ Hoài Đức. Tuy vậy, tới năm Gia Long thứ 4 (1805), Văn Miếu - Quốc Tử Giám lâm vào cảnh "khói lạnh, hương tàn" do cuộc xâm lược của Pháp và tiếp đó là việc bãi bỏ khoa cử sau khoa thi cuối cùng năm 1919, rồi trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) cũng chịu thêm nhiều tổn thất, tuy có dựng lại được hai dãy Tả vu và Hữu vu nhờ hảo tâm của một số nhân sĩ. Chỉ sau ngày kháng chiến thắng lợi, Nhà nước Việt Nam mới có điều kiện để bảo vệ và tôn tạo Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Khu này được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Nhà nước theo quyết định ngày 28/4/1962. Thành phố Hà Nội ngày 25/4/1988 đã quyết định lập Trung tâm hoạt động văn hoá, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. [nguồn: www.kts.org.vn/]
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:34:18 GMT 9
Kiến trúc ngôi chùa trong lịch sử Việt Nam
Trong lúc văn hoá Hán thâm nhập bằng bạo lực, thì từ đầu Công nguyên cùng với sự giao lưu kinh tế với Ấn Độ, nhân dân ta đã tiếp nhận sự thâm nhập hoà bình của đạo Phật, lấy Phật giáo làm ngọn cờ và vũ khí đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng.
Phật giáo ở giai đoạn đầu, những kiến trúc có thể chỉ là những am miếu thờ Phật. Đầu thế kỷ III, Khương Tăng Hội gọi những kiến trúc Phật giáo ở ta là ''Miếu đường'' hoặc ''Tông miếu'', gợi lên những điện thờ tổ tiên theo tín ngưỡng nguyên thuỷ mà người Việt rất mực coi trọng; cho đến thế kỷ V-VI, thư tịch cho biết trên đất Giao Châu đã có tới hai mươi chùa tháp. Từ cuối thế kỷ VI, với sự phát triển của dòng Tì-Na-Đa-Lưu-Chi, Phật giáo dung hợp với các tín ngưỡng dân gian để đi sâu vào trong quần chúng, và do đó chùa tháp phải được xây dựng khá chiều. Nhưng cũng do nó hội nhập đủ các thứ thần linh bản địa, mà cho đến hết thời Bắc thuộc, chùa tháp vẫn chưa có được một mẫu hình chuẩn, còn tự phát tuỳ theo tập tục địa phương. Những ngôi chùa dựng trong suốt thời Bắc thuộc, cho đến nay không để lại dấu vết gì ngoài những ghi chép vắn tắt của thư tịch.
Trải qua giai đoạn đầu của thời kỳ tự chủ ở thế kỷ X, trong bước quá độ xây dựng đất nước, các sư tăng đã là những trí thức tiêu biểu, phục vụ đắc lực cho chính quyền trung ương tập quyền, đặc biệt đã chuẩn bị tích cực cho việc thành lập nhà Lý. Và nhà Lý đã tạo mọi thuận lợi cho Phật giáo trở thành quốc giáo.
Nhưng Phật giáo đời Lý với ba dòng thiền là Quán Bích, Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi và Thảo Đường có khuynh hướng tu hành và đối tượng phát triển khác nhau. Theo sử gia Lê Văn Hưu, trong nước "chỗ nào cũng có chùa", hay như Nho thần Lê Quát ở bia chùa Thiệu Phúc thì ''chỗ nào có người ở tất cả chùa thờ Phật''. Và cụ thể hơn như bia chùa Linh Xứng. ''Hễ có cảnh đẹp núi non thì không nơi nào là không xây dựng chùa chiền''. Xây dựng ở nơi thắng cảnh nên chùa tháp thời Lý phần lớn là những danh lam. Nhà Lý dựa vào số tự điền và canh phu, chia các chùa đẹp ra làm ba loại là đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam.
Trong kiến trúc chùa tháp thì càng ngược về nguồn, tháp càng đóng vai trò chính, là cái đền Phật giáo. Từ khi Phật giáo mới vào ta, nơi hành đạo của các sư tăng chính là tháp. Thời Lý xây rất nhiều tháp, chỉ kể những tháp được ghi lại cũng gần 20, trong đó một số phế tích để lại đều là tháp lớn: Phật Tích, Tường Long, Chương Sơn, Long Đọi... Khảo cổ học đã đào được nền tháp Tường Long cạnh 8m và nền tháp Chương Sơn cạnh hơn 19m, tất cả đều bình diện vuông. Gạch xây tháp Phật Tích có in hình những cây tháp giống nhau đều 9 tầng có chiều cao gấp 5 cạnh chân. Các tháp thời Trần còn lại có chiều cao gấp 4 cạnh chân. Nếu tháp thời Lý có cùng tỷ lệ trên thì phải cao khoảng 30-40m (tháp Phật Tích, tháp Tường Long) đến 70-80m (tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn) biểu hiện khí thế vươn lên của cả dân tộc, phù hợp với hình tượng trong văn thơ và số liệu trong sử sách. Những cây tháp thời Lý thường xây trên lưng chừng hoặc đỉnh những núi không cao mấy đột khởi giữa đồng bằng là thắng cảnh tự nhiên, lấy núi vững chãi làm nền để tôn vẻ bề thế nguy nga của mình.
Những cây tháp ấy là kiến trúc chính của toàn cảnh chùa và chính thức là điện thờ Phật, trong lòng tháp có đặt tượng Phật. Các Phật tử tiến hành nghi lễ quanh tượng Phật, có thể ở ngay trong lòng tháp hoặc chung quanh tháp. Riêng tháp chùa Báo Thiên với tên Đại Thắng Tư Thiên thì cơ bản là đài chiến thắng, tuy ở chùa và bốn cửa tháp có bốn đôi tượng Kim Cương, nhưng trong lòng tháp lại có tượng người tiên, chim muông, giường ghế, chén bát bằng đá.
Tháp thời Lý với bình diện vuông được bắt nguồn từ các tu viện Phật giáo Ấn Độ vốn là kiến trúc trải rộng được biến thành kiến trúc cao tầng bình diện vuông, hình tháp, trong có tượng Phật là nơi thờ. Bình diện vuông của tháp, theo tư duy Việt cổ quan niệm trái đất vuông, được bốn phương neo giữ. Những cây tháp cao ấy không trơ trụi, lại hoà với hành lang, giải vũ ở hai bên, với những toà nhà ở phía sau, và cây cối tạo thành một cảnh quan tổng thể có cả chiều cao và bề rộng, vừa thiêng liêng vừa ấm cúng.
Phong phú hơn tháp cả về số lượng và kiến trúc phải là chùa. Dựa vào thực địa và thư tịch có thể chia chùa thời Lý thành bốn loại có bố cục khác nhau. Trước hết là kiểu chùa dựng trên một cây cột, phát triển theo kiến trúc tháp, tiêu biểu là chùa Một Cột tuy của hoàng gia nhưng đã đi lên từ kiến trúc truyền thống mà gần đây còn thấy trong dân gian là cây hương đặt trên đầu cọc, hay trên trụ gạch, toàn thể là bông sen nghệ thuật khổng lồ. Loại thứ hai là những chùa vừa thờ Phật để cầu phúc cho hoàng gia vừa là hành cung để vua nghỉ ngơi khi du ngoạn quanh vùng. Loại chùa này thường được vua đến thăm và để di bút, có quy mô lớn, ngoài tháp còn có nhiều kiến trúc vật bề thế. Loại chùa thứ ba không có tháp, cũng không phải là hành cung, quy mô có kém một chút nhưng còn rất lớn, phát triển theo chiều sâu và nâng cao dần, hai bên cân đối, khu điện thờ bố cục gần giống mặt bằng của tháp. Ngoài ra còn những chùa nhỏ lẫn trong thôn xóm, lúc đầu có thể chỉ là một cái am làm nơi tu dưỡng của một nhà sư, sau đó được mở mang nhưng cơ bản là đẹp trong khuôn khổ gọn nhỏ. Nhìn chung các chùa thời Lý có quy mô lớn, nhưng Phật điện nhỏ, tượng thờ còn ít, thường chỉ có một pho tượng Phật ứng với một chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một pho tượng, trong cách thờ có sự tương đồng với cả khu vực Đông Nam Á.
Từ thời Trần, Phật giáo còn để lại một số Phật điện và tháp khá nguyên vẹn. Ở giai đoạn đầu, các thiền gia nổi tiếng tập trung ở tầng lớp trên, nên chùa tháp thường được xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà nước, như chùa Phổ Minh. Đến cuối thời Trần, do sự phân hoá xã hội mạnh, chùa làng phát triển còn để lại một số điện thờ và nhiều bệ thờ bằng đá. Do quan niệm ''vô chấp'' nên chùa là nơi đàm đạo Phật pháp của chư tăng và Phật tử, có khi thờ Phật mà không cần đến pho tượng nào. Chùa không gắn với hình Phật mà không cần đến cả tượng Phật nên ngày nay chưa tìm được pho tượng Phật nào. Chùa không gắn hành cung nữa mà thuần tuý làm nơi tu hành. Một số chùa có tháp, nhưng tháp không còn là kiến trúc trung tâm nữa, xây ở ngay sân trước, vẫn nhiều tầng, cao khoảng trên dưới 15m, lòng hẹp không đủ sức làm một Phật điện, nên phải có một điện thờ Phật ở phía sau. Các chùa làng như chùa Thái Lạc và chùa Bối Khê còn giữ được điện Phật xây trên nền cao, mỗi cạnh trên dưới 10m tạo một nền đế gần vuông, bên trên dựng một kiến trúc một gian hai chái, trên mái với các đao cong như bông hoa. Bộ khung gỗ chủ yếu gồm hai vì kết cấu theo lối chồng rường ở hai bên giá chiêng đặc tạo ra nhiều diện để trang trí. Do điện Phật ở trên nền cao, không có tường vách, bên trong thoáng sáng, nên các hình chạm trang trí trau chuốt và ở trên cao vẫn rõ ràng. Ở một số chùa làng, trong điện Phật còn giữ được bệ thờ bằng đá dài suýt chiều rộng gian giữa chùa 3m và cao rộng hơn 1m, được người xưa gọi là ''Phật bàn'' hay ''Phật thạch bàn'' tức bàn đá thờ Phật như một nhang án, không có dấu vết tượng đặt trên, và cũng chưa phát hiện được pho tượng Phật nào, Có thể dân gian đã thờ tranh Phật hay chữ ''Phật" chăng?
Sang thời Lê sơ, Phật giáo bị Nhà nước hạn chế, chùa mới không được xây, chùa cũ hỏng bỏ hoặc phải dồn nhiều chùa làm một. Ở một vài làng quê đã tìm được bia đá liên quan đến việc trùng tu chùa. Tuy nhiên số lượng rất ít và dấu tích vật chất của kiến trúc cũng không có gì chắc chắn.
Qua sự khủng hoảng của Nho giáo ở đầu thế kỷ thứ XVI, triều Mạc ra đời đã mau chóng ổn định xã hội, phát triển kinh tế cả nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự cởi mở về tư tưởng kết hợp với số ổn định về kinh tế đã làm cho Phật giáo được phục hồi. Cùng với sự bảo trợ của lớp quý tộc mới, nhân dân các làng đã sửa chữa và dựng mới nhiều chùa. Các chùa làng thời Mạc về cơ bản vẫn theo hình mẫu chùa làng cuối thời Trần, nhất là về kết cấu kiến trúc. Tuy nhiên, nếu như các chùa từ thế kỷ XV trở về trước, trên điện Phật rất ít tượng, thì từ thời Mạc do cách thờ Phật theo lối ''Thế gian trụ trì Phật pháp'' đòi hỏi phải có hình ảnh cụ thể về thế giới nhà Phật, nên điện Phật đã khá đông đúc cả về số lượng và chủng loại mà tuỳ từng chùa đã tìm thấy bộ ba tượng Tam thế, một số tượng Quan Âm Nam Hải, có cả tượng Thích Ca sơ sinh, thậm chí cả các thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp thành bộ Tứ pháp cũng được Phật hoá... nhưng nói chung vẫn là những nhân vật Phật thoại và thần thoại. Do đó điện Phật vẫn là toà Tam Bảo nhưng được mở rộng hơn về hai bên để chứa được nhiều tượng Phật. Điện Phật đông vui thì đồng thời cũng bình dân hơn, và chùa làng thực sự là trung tâm văn hoá của làng xã.
Vào thế kỷ XVII, do chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài, nhân dân bị động viên cả người và của không đủ sức dựng chùa riêng cho làng nữa, tầng lớp quý tộc không tin ở thực tại nữa, tìm đến cầu cứu cửa Phật, và đã xuất tiền của cho việc mở mang cảnh chùa. Đồng thời Phật giáo Trung Hoa với các phái Lâm Tế và Tào Động cũng thừa cơ du nhập vào ta. Trong chùa ngoài các loại tượng như ở thời Mạc, giờ đây có thêm bộ ba tượng Di Đà tam tôn, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Tuyết Sơn... thuộc thế giới Phật thoại, và cả tượng các cao tăng đá trụ trì tại chùa, các vị Phật tử góp nhiều tiền của cho chùa... tức những ngươi đã có những việc thực tiễn lợi ích cho chùa. Ngoài ra, một số cao tăng có công khai sáng chùa, được truyền thuyết hóa với nhiều phép nhiệm màu, giờ đây trở thành ''Đức Thánh'' linh thiêng được giành nơi thâm nghiêm và trang trọng nhất của chùa để thờ. Do Phật điện đông đúc, điện Phật một nếp nhà chữ nhật không đủ sức chứa nữa, lại càng không có chỗ hành lễ, nên khu vực thờ của chùa ngoài điện Phật chuyển sang chữ ''Công'', còn có thêm nhà Tổ nữa, và đặc biệt một số chùa có cả điện Thánh, ngoài ra còn hành lang giải vũ ở hai bên để chuẩn bị cho các dịp hội chùa hàng năm. Thế là mặt bằng kiến trúc chùa kiểu ''Nội công ngoại quốc'' ra đời, có nghĩa là vừa phát triển ngang, phát triển dọc, lại bao quanh, lại còn ở rải rác vườn chùa có thêm các tháp mộ sư.
Chuyển qua thế kỷ XVIII, các kiểu chùa của thế kỷ XVII vẫn duy trì, có thêm một số tượng như Kim Cương và đặc biệt nhiều chùa được tô vẽ bộ phù điêu Thập Điện Diêm Vương để răn đe kẻ ác. Đến thời Tây Sơn, với sự phát triển của phong trào chính trị từ Nam ra Bắc, và được sự ủng hộ của cả một số trí thức tiên tiến yêu nước, Phật giáo có bước phát triển mới, nghệ sĩ tìm hiểu các thế thứ sư tổ của Phật giáo Đại thừa để biểu hiện tình cảm ca ngợi và phê phán xã hội, đã dẫn tới việc làm mới một số chùa mà nổi trội lên là chùa Tây Phương ở đỉnh một núi đất không cao mấy. Chùa chính gồm ba nếp nhà song song kiểu chữ ''Tam'' giãn cách bởi hai sân hẹp để thông thoáng và lấy ánh sáng, từng nếp nhà lại theo kiểu chồng rường 2 tầng 8 mái, nâng chiều cao không gian trong chùa thích hợp với nhịp điệu các tượng đứng ngồi xen kẽ nhau. Bao quanh chữ ''Tam'' là vòng tường hồi tưởng lại chữ ''Công''.
Thế kỷ XIX tiếp tục xây thêm nhiều chùa, nhất là khu vực Huế, có sự bảo trợ của triều đình, còn ở ngoài Bắc chủ yếu là chùa làng do dân đóng góp xây dựng, nhưng ở những chùa lớn còn được sự ,"công đức'' của thương nhân hy vọng buôn may bán đắt, nên tượng ngày càng nhiều và phức tạp, bên cạnh bộ tượng ''Thập Bát La Hán'' bày kín hai hành lang, trong khu tượng Phật còn cả tượng Quan Âm Thị Kính, Lão Đam, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Thập Điện Diêm Vương... lại còn thêm cả điện Mẫu để con hương đệ tử hầu đồng bóng, tất cả tạo nên một sự pha tạp hỗn độn.
Chùa tháp là kiến trúc Phật giáo, song Phật giáo ngay từ khi du nhập vào ta trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ, đã gắn liền với làng xóm, nên chùa cũng màng tính chất dân gian của người lao động. Ngay trong giai đoạn thịnh hành nhất của thời Lý, bên cạnh đại danh lam, kiểu hành cung đã không ngăn cấm người bình dân, đã có những tiểu danh lam, những am và chùa làng. Chùa làng từ cuối thời Trần ngày càng phát triển, là một cụm trong tổng thể xóm làng, của dân làng, và cả khi có sự bảo trợ của quý tộc vẫn là trung tâm văn hoá của địa phương.
Nhìn chung kiến trúc chùa tháp là sự tổng hoà của kiến trúc vật với môi trường, có các loại nhà cửa quan hệ hữu cơ với hồ ao, sân, vườn đủ loại cây cao thấp, tất cả được quây lại bằng hàng rào hoặc tường xây để giữ nguyên tắc khép kín. Nguyên tắc này còn được đặc biệt coi trọng ở nhiều chùa có "Điện Thánh" thâm nghiêm kín đáo. Thậm chí cả khi "Điện Phật" từ thời Mạc về sau dù bình đồ chữ "Công" hay "nội công ngoại quốc", và cả "nội tam, ngoại công" thì cũng biệt lập với bên ngoài, tạo ra một thế giới tôn giáo, một "đất Phật" để ai vào cũng thấy được thăm cảnh riêng. Nhưng ngay trong sự khép kín lại có nguyên lý mở, trước hết là sự hoà quyện của nhà cửa với vườn cây và ao hồ, thực và hư, huyền ảo, nhân quy mô lên. Từng kiến trúc cụ thể có kết cấu riêng, song không ngăn tách ra bằng tường xây, không tạo ranh giới dứt khoát, mọi dòng chảy của du khách, cả của ánh sáng đều không bị ngắt quãng, vào trong nhà rồi vẫn thấy ngoài trời, lúc nào cũng gần gũi thiên nhiên.
Cái tổng thể và cả cái kết cấu bộ khung gỗ của chùa cũng hoàn toàn cùng quan niệm với ở nhà dân, nếu không phải là kiến trúc dân gian (rõ nhất là các đại danh lam thời Lý), thì cũng là những kiến trúc mang tính dân gian.
Nguồn tin: Theo “ Mỹ thuật Lý Trần, Mỹ thuật Phật giáo”
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:35:41 GMT 9
Đền Hồng Sơn - Một công trình kiến trúc cổ kính của Nghệ AnĐền tọa lạc trên một khu đất cao ráo ngoảnh mặt ra sông cửa Tiền, cạnh ngõ phía Tây của ngôi chợ tỉnh. Vì có khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng, trồng nhiều loại hoa tươi cây cảnh, có sân cỏ và hồ bán nguyệt nên tuy ở sát đường, gần chợ mà đền vẫn giữ được vẻ tĩnh mịch với bầu không khí trong lành. Sách An Tĩnh xưa nói đền này được lập từ hồi Minh Mệnh thứ 18, là năm Kỷ Hợi (1839) nhưng theo ký ức của dân gian thì nó ra đời khi đô thị Vinh mới được nhóm lên, tức thời vua Quang Trung (1788- 1792). Nếu vậy thì đền đã có trên hai trăm mười năm tồn tại. Ban đầu đền thờ vị tướng võ là Quan Vân Trường nên có tên miếu Quan Công hay Võ Miếu. Một thời, bên kia con đường phía Đông lại có đền nhà Bà nên Võ Miếu cũng được gọi là đến Nhà Ông. Sau này vì đền Nhà Ông thuộc đất phường Hồng Sơn nên nó có tên gọi như bây giờ. Nay nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương và sức đóng góp của thiện nam, tín nữ gần xa, đền Hồng Sơn đã có quang cảnh mới khá sầm uất và tráng lệ với 19 công trình gồm cả bảo tồn và xây dựng mới, trông hòa hợp nguy nga. Trong đó tam quan, tạc môn, tháp, gác trống, gác chiêng và các tòa trung điện, thượng điện dã có từ thời Nguyễn. Còn những phần khác như hạ điện, các lối hữu vu, tả vu, tả hiền, hữu hiền, sân giữa, bờ tường bao quanh mới được xây dựng sau này. Cách bố trí các công trình kiến trúc ở đây tuân thủ theo sự đăng đối từng cặp một và được nâng dần lên từ ngoài vào trong. Tòa nhà cao nhất là thượng điện, tạo cho đền một quần thể kiến trúc vững chãi, tâm nghiêm. Hạ điện rộng 274m2. Tuy mới được trùng tu năm 1998 nhưng nó đã lấy lại được phong cách kiến trúc của thời xưa. Trong đó, đặt các hương án bày khám thờ sơn son thiếp vàng, đính các câu đối, các bức đại tự cùng trống, chiêng, gươm, giáo bằng gỗ, là nơi thờ Thánh Mẫu, Tứ Phủ Diệu Linh cùng Quan Hoàng Mười. Sân trước Hạ điện cũng dành khoảng không gian cho việc hành lễ, tế lễ trong những ngày lễ trọng. Trung điện rộng 65m2, là nơi tập trung những đặc sắc nghệ thuật về kiến trúc, các rường bẫy uốn cong có xoi lồng những búp sen cùng chim, cá sống động. Các giao điểm giữa cột và xà bẫy có chạm trổ tứ linh xen với các cành lá, hoa trái trông khá hài hòa. Đồ thờ và các bức câu đối đại tự cũng được chọn lọc, trần thiết trựng bày kỹ lưỡng hơn. Trung điện là nơi thờ tự Đức Tháng Trần, cùng gia quyến và Tướng lĩnh như: Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Thị Dung, Đệ nhị Vương Cô( con gái Đức thánh Trần)…. Thượng điện rộng102m2, mái cao xếp 4 tầng, các góc đều uốn cong và đắp những rồng, phượng. ở đây, trên cao đặt tượng Ngọc hoàng Thượng Đế, Nam Tào Bắc đẩu. Vị trí thờ tự chính ở đây là Quan Thánh Đế Quân – vị thần chủ của Đền. Hiện nay tại đền Hồng Sơn, bên trong các miếu điện là công trình kiến trúc cổ kính, mỹ lệ, còn lưu giữ được 383 hiện vật với chất liệu quý gồm nhiều loại hình phong phú, có giá trị nghệ thuật cao, là nơi hội tụnhững văn hóa tế khí hiếm có ở tỉnh Nghệ An. Từ xưa, cùng với các bà, các chị đến thắp hương, cầu phúc, từng đôi trai gái dạo bước bên nhau thủ thỉ tự tình, đền Nhà Ông còn là nơi để các tao nhân, mặc khách gặp gỡ nhóm họp, bình văn họa thơ, suy nghĩ về nhân tâm, thế cố và định liệu cho công việc của ngày mai. Cùng với Thành cổ, Lâm viên Dũng Quyết, Quảng trường Hồ Chí Minh...đền Hồng Sơn cổ kính đã góp phần tạo cho thành phố Vinh một quần thể di tích danh thắng đáp ứng yêu cầu tham quan, khảo cứu của nhân dân trong tỉnh, trong nước và mời đón khách du lịch đến từ muôn phương. Nguồn tin: Vinhcity hanoi.vnn.vn/minhhoa/File_Min...1490652005.jpgNGUYỄN HỮU THƠ
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:37:10 GMT 9
Nhà Rông Tây NguyênTheo Tạ Đức trong cuốn Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn, thì chính anh hùng Núp kể sự tích nhà Rông như sau: Sau nạn hạn hán làm cháy hết cả làng, người con lớn của Bok Sơgơ (ông Trống) đưa dân làng đi tìm được rừng mới, nhưng mọi người lại bị lạc nhau. Người con lớn liền đánh trống chiêng gọi lũ làng về. Gặp nhau, mọi người mừng rỡ, ăn hút nhảy múa vui chơi suốt ngày đêm cho đến lúc người con lớn của Ông Trống họp lũ làng lại hỏi. - Bấy lâu ta bị lạc nhau, nay ta phải ở lại gần nhau. Ta phải làm nhà chung để ở chung, chơi chung. Như thế có được không? - Được, nhưng lũ làng ta đông lắm, ở một nhà chung có hết không? - Muốn ở hết ta phải cất nhà thật lớn, thật cao mới đủ. Thế là lũ làng lại ra đi, vào rừng. Lấy cây rừng mất một năm, làm nhà đã một năm, nóc nhà mới đã cao gần tới dưới chân nhà ông Trời. Lũ làng gọi đó là nhà Rông. Nhưng một hôm, trời bỗng nổi mưa to gió lớn ào ào mấy ngày đêm liền làm sườn nhà Rông kêu răng rắc. Xảy ra một việc lạ, lũ làng cùng nhà bỗng không hiểu tiếng nói của nhau, buộc phải chia tay, mỗi người một ngả, ai ở đâu lại về đó. Người Bana ở lại với người con lớn của Ông Trống tại nhà Rông. Tốp cuối cùng đi về phía đồng bằng là người Kinh... Trong câu chuyện kể này, có hai điều thật đáng chú ý: nếu trong các huyền thoại thường thấy có nạn đại hồng thủy, thì ở đây lại là trận hạn hán thiêu cháy tất cả, trước khi những người còn sống sót làm lại cuộc sống của loài người. Và ta lại gặp ở đây, xa xôi đến thế, chuyện xây dựng ngọn tháp Babel với tham vọng muốn lên đến tận Trời của con người và Trời đã trừng phạt sự kiêu ngạo đó bằng cách làm cho mọi người bỗng nói các thứ tiếng khác nhau khiến người ta không thể hiểu nhau nữa... Tạ Đức cho rằng mô-típ "tháp" (ở đây là nhà Rông) chính là một biến thể của biểu tượng cây vũ trụ trong huyền thoại khởi nguyên của nhiều tộc người. Còn về ý nghĩa của từ Rông? Cũng theo Tạ Đức, Từ điển Bana - Pháp của Guilleminet cho biết: rông = hơrông = jong = wal đều có nghĩa là nhà công cộng ở người Bana, Xê-đăng và một làng Giarai tiếp giáp với người Bana. Đó là nơi hội họp của cả làng, là trụ sở của dân quân tự vệ làng, nơi ngủ của trai chưa vợ, đàn ông góa còn trong tuổi cầm vũ khí, nơi đón tiếp khách và nơi nghỉ của khách quý... Như vậy, nhà rông là một dạng nhà đàn ông - nhà làng khá phổ biến trong các xã hội cổ ở châu Mỹ, châu Phi và đặc biệt còn tồn tại dai dẳng ở Đông Nam Á. Theo Condominas, trong tiếng Muông Gar có từ ndroong Yaang có nghĩa là cái bàn thờ nhỏ treo một bên mái, chỉ làm khi cúng trâu; và từ rơơn có nghĩa là nhà trong làng ở tạm. Theo Nguyễn Văn Lợi, người Rục có nhà djon = nhà sàn. Theo Nguyễn Hữu Hoành, trong tiếng Cơtu: dông = nhà, sang = sân, dông sang và dông dak là từ ghép chỉ nhà cửa nói chung. Theo Roux, ở người Khơmu (Tây Bắc) gang giông = nhà sàn, và theo Izikowitw người Khơmu ở Tây Bắc và người Lamet ở Lào có công = nhà làng. Trong tiếng Xiêm, có rong = nhà, rong raem = khách sạn, rong phây barn = bệnh viện. Theo Nguyễn Đại Lượng, rum, rung t'rưng là nhà ở tạm khi rời buôn của người Ê đê. Và theo Benedict thì ở người Lê b(a) rong/ barung/ balung = lều = phong/bloong = nhà... Trong các tộc người nói tiếng Nam Đảo ở Tây Nguyên chỉ có người Gia-rai có nhà làng giống như nhà rông của người Bana là dân tộc láng giềng của họ. Theo Dournes, trong tiếng Gia-rai có các từ rung = đám đông, sự hỗn độn; dam rung = các chàng trai, đàn ông; sang rung= nhà các chàng trai, "chiến binh"; rung = nhà công cộng, nhà của các chàng trai, trạm gác. Cuối cùng, Eberhard cho biết người Choang ở nam Trung Quốc có malang/lang/ lan = nhà sàn = nhà đàn ông = những chàng trai sống ở nhà đó. Và người Naga ở Assam (Đông ấn Độ) có belang/ mơrung = người/ chàng trai = nhà dành cho các chàng trai/ đàn ông... Nguồn: Diễn Đàn SV du học Nhà Rông “trái tim” của buôn làng Tây Nguyên Du khách đến thăm các buôn làng Tây Nguyên, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chính là ngôi nhà Rông cao vút, hiên ngang với dáng hình oai phong trông như một lưỡi rìu chém ngược lên trời xanh. Nhà Rông xuất hiện từ bao giờ chưa có ai nghiên cứu kỹ, chỉ biết, khi mới thành lập buôn làng, đồng bào Tây Nguyên không thể quên xây dựng cho buôn làng mình một ngôi nhà Rông to lớn, đẹp đẽ. Tập tục ấy vẫn giữ từ đời này sang đời khác. Đối với đồng bào Tây Nguyên, việc xây dựng ngôi nhà Rông là một nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người. Nhà Rông, tức nhà làng. Đồng bào Djarai gọi là “Sang Roong”, Bahnar gọi là “Nal” hay “H’năm fơng”, Triêng gọi là “N’Ring”, K’Tu gọi là “ Gươl”... Nhà Rông, cũng là loại nhà sàn được xây dựng rất chắc chắn, to lớn, rộng rãi với những hàng cột chống làm bằng thân cây gỗ quí. Phên vách được đan bằng tre nứa rất cẩn thận, các nẹp thường làm bằng cật tre già. Mái lợp bằng tranh săn. Nhà Rông rất rộng, bên trong tuyệt đối không có cột vướng víu, không ngăn ra phòng to, phòng nhỏ, đặt nhiều bếp lửa, rất thuận tiện cho việc hội họp, liên hoan hay tổ chức các lễ hội hoặc dùng làm nơi tiếp khách. Ngoài ra, bên trong nhà Rông còn treo nhiều cồng chiêng, trống, cung tên và giáo mác... có nơi, ở giữa nhà còn dựng lên một cây cột cao, trên đỉnh có khắc hình các vị thần linh. Ở phía bắc Tây Nguyên, nhà Rông của đồng bào Sédang, Giẻ Triêng, mái nhà có dạng lưỡi búa, lưỡi rìu cao vút. Nhà gồm hai mái chính, dốc đứng trong khi hai mái phụ hình tam giác cân nhỏ hẹp. Các làng người Rơn – gao, Giẻ, Xơ- đăng ở sát biên giới Lào, hình thức nhà Rông biến dạng rất nhiều. Ở đây, nhà Rông có cạnh hình vuông, bốn mái chụm lại và cao vút như hình mái chùa Khmer. Trên đỉnh là một hình gỗ đẽo thành những bầu tròn, tận cùng là một hình gỗ đẽo thành những bầu tròn, tận cùng là một mũi nhọn như lối tranh hoàng đỉnh các mái chùa Thái hay chùa Lào. Có lẽ hình dạng kiến trúc này chịu ảnh hưởng rõ rệt của người Lào. Nhà Rông của người Xơ - đăng có mái thẳng và rộng hơn nhà Rông của người Bahnar và Djarai. Nhà Rông của đồng bào Djarai thì ngắn, mái cao dốc thẳng và hẹp. Có làng xây dựng nhà Rông lớn hơn nhà thường chút ít, có khác chăng là hai mái nhô cao hơn và trên đỉnh thường trang hoàng bằng những hình đan hay các góc uốn cong có dạng đặc biệt. Nhà Rông của đồng bào Bahnar trông thanh thoát, khá đẹp. Gần đỉnh người ta đan những nẹp tre chạy song song với đỉnh để tăng thêm phần vững chắc cho mái. Trên đỉnh nhà Rông người Bahnar còn trang hoàng những hình đan bằng sợi mây giống như đuôi rồng theo óc tưởng tượng của họ. Những hình đan này đều sơn màu đen làm nổi bật lên nền xám của mái tranh. Nhà Rông càng to đẹp chứng tỏ buôn làng đó giàu có, thịnh vượng. Thông thường mỗi làng chỉ có một nhà Rông, nhưng có làng vì quá nghèo nên đành chịu thiếu vắng mái nhà thiêng liêng đó. Có nơi, mỗi làng có đến vài, ba nhà Rông, chứng tỏ làng đó to lớn, dân cư đông đúc, thịnh vượng. Theo số liệu điều tra của Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Kon Tum thì toàn tỉnh có 265 nhà Rông, trong đó tại thị xã có 37 nhà Rông trong tổng số 55 làng. Như vậy chỉ có 18 làng không có nhà Rông. Và số nhà Rông còn giữ được nét độc đáo truyền thống chỉ chiếm 40,1% số còn lại bị xuống cấp, sửa chữa không đồng nhất, hoặc có nhà thì xây dựng theo kiểu hiện đại bằng bê tông, cốt thép, mái lợp tôn. Nhà Rông được mọi người tôn kính và lưu lại nhiều đời sau như là nơi hội tụ khí thiêng của đất trời, sông núi, là nơi lưu giữ những giá trị thiêng liêng của buôn làng. Nhà Rông là nơi diễn ra các lễ hội dân gian, là nơi tiếp đón khách quí đến thăm buôn làng. Nhà Rông là nơi hội họp của các già làng, phân xử các vụ kiện tụng, tranh chấp liên quan đến cộng đồng. Nhà Rông còn là nơi để các thanh niên nam nữ đến gặp gỡ, tỏ tình và kết duyên chồng vợ. Theo tập tục ở đây, thanh niên chưa vợ, chưa chồng ban đêm phải đến ngủ tại nhà Rông, ngay cả phụ nữ chết chồng hay li dị chồng cũng vậy. Tuy gần gũi nhau, nhưng trai gái các buôn làng không bao giờ để xảy ra chuyện ái tình vụng trộm, do bị phong tục lên án gắt gao và bị lệ làng phạt vạ rất nặng. Buôn làng có nhà Rông như được tiếp thêm sức sống, bởi vậy, kiến trúc dân gian của nhà Rông hết sức độc đáo và mỗi dân tộc mang một kiểu cách khác nhau. Tất cả được xây dựng bằng đôi tay tài hoa, bằng cả trí tuệ và sức lực của cộng đồng. Nhà Rông gắn chặt với tâm lý, tình cảm và sinh hoạt xã hội, tôn giáo của đồng bào Tây Nguyên. Xa nhà Rông thì nhớ, đến với nhà Rông thì vui. Nhà Rông là trái tim của buôn làng đời đời không thể nào xoá nhoà trong tâm trí người Tây Nguyên. Nhân Thống
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:40:39 GMT 9
nhà mồ cổ của người Giarai
Người Giarai rất coi trọng những người đã khuất, vì thế khi những người thân trong gia đình hay họ tộc mất đi họ làm những ngôi nhà mồ rất cầu kỳ và hoành tráng để thờ cúng. Theo thời gian, nhà mồ của người Gia rai có nhiều thay đổi nhưng những nhà mồ cổ còn lại vẫn được coi là mẫu mực trong kiến trúc văn hoá của người Gia rai.
Nhà mồ của người Giarai thường có nhiều hoa văn trang trí trên mái và có nhiều tượng. Nhà mồ được dựng theo mẫu, hai mái lớn (2 mái chính) hình thang cân; 2 mái nhỏ ở 2 đầu hồi đều hình tam giác cân, vách được ghép kín bằng những thân gỗ dựng sát vào nhau, có 2 cửa nhỏ mở về hướng đông. Thường thì nhà mồ có 8 cột gỗ đỡ bộ mái, tạo thành 2 hàng cột theo chiều dọc nền nhà.
Kết cấu mái nhà mồ khá đơn giản, gồm một hệ thống các xà dọc và xà ngang, trên đó lợp bằng những tấm gỗ ván dày khoảng 3 cm, cạnh bên có đẽo gờ để lắp chồng khít với nhau. Trên hai mái chính đều lợp một tấm đan bằng nan tre lồ ô với đầy hoa văn trang trí.
Hoa văn trên mái nhà mồ được trang trí công phu thường vẽ theo lối dân gian, thường là hình cây “rau dớn”, “cây đót”, “hoa bát canh”, “hoa hạt đa”, “hoa sao”, “hoa chàm”… đặc sắc nhất và nổi bật nhất là ''hoa cây đoái", chiếm vị trí trung tâm ở mỗi mái, gồm hình 5 thân cây có cành lá hoa quả và có những con chim bay lượn phía trên; dưới gốc cây, có người dùng nỏ bắn chim, phụ nữ đeo gùi, những người uống rượu cần… Trên mái nhà mồ, ngoài các đồ án hoa văn vẽ, cũng có mô tip hoa văn hình quả trám được tạo bởi kỹ thuật đan nan, tất cả như tạo thành một bức tranh rất lớn, đẹp và hấp dẫn.
Điều quan trọng và đặc sắc nhất của nhà mồ Giarai còn là ở hình các tượng gỗ. Thường quanh mỗi nhà mồ là 27 tượng gỗ nhô lên nối liền với những cột chính để liên kết với hàng trăm khúc gỗ tròn nhỏ dựng thành hàng rào. Tính cả hàng rào bao quanh, ngôi nhà mồ có diện tích khoảng 45m2. So với nhà mồ của các dân tộc khác thì nhà mồ của người Giarai là to hơn cả. Người Giarai có tục chôn chung, những người trong gia đình có thể lần lượt được chôn chung vào một quan tài. Trong cùng một mộ lại có thể có nhiều quan tài của những người họ tộc thân thuộc với nhau. Tượng mồ khá thô phác, được tạc chủ yếu bằng rìu, thể hiện bằng cách kết hợp các mảng và khối để tạo nên hình, gợi hình.
Mặt tượng ở dạng cổ truyền có đặc điểm là dẹt, phẳng; mắt, miệng, mũi, tay v.v... đều được thể hiện một cách đơn giản. Những ngôi tượng này được làm với rất nhiều hình dáng nhưng tiêu biểu và phổ biến nhất là tượng người ôm mặt. Thường thì nhà mồ có 5 tượng loại này, trong đó 4 tượng dựng ở 4 góc bờ rào, còn một tượng dựng chính giữa hàng rào phía đông. Có rất nhiều quan niệm về những tượng gỗ này, có quan niệm cho rằng: xưa kia những người giàu chết thường chôn theo các nô lệ để hầu hạ dưới cõi âm, vì vậy bây giờ khi xây nhà mồ họ làm những tượng gỗ với ý nghĩa là kẻ phục vụ, hầu hạ ma người chết. Lại có quan niệm cho rằng, người Giarai có tục bỏ mả, hằng ngày tang gia mang cơm với thức ăn đồ uống ra mộ để ''nuôi'' người chết. Mỗi lần như vậy, họ ngồi khóc lóc và kể lể tâm tình với người chết. Họ ngồi xổm trên mộ, 2 tay chống lên đầu gối, bàn tay ôm má. Thời gian tang chế thường kéo dài nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, vì vậy hình tượng gỗ ôm mặt gợi lại cảnh thân nhân của người dưới mộ hằng ngày vẫn đến thăm nuôi người đã khuất và buồn rầu tưởng nhớ người chết.
Ngoài ra còn có các tượng mặt dài chỉ bao gồm đầu với khuôn mặt tượng trưng cho hình ảnh của bram (người hoá trang trong nghi thức cuối cùng trong lễ bỏ mả của người Giarai), hay tượng phụ nữ ôm những ống cơm lam, tượng người đánh trống, tượng chim ó, tượng chó cõng khỉ… cũng được người dân ở đây thường xuyên sử dụng khi làm nhà mồ.
Kim Anh - Theo cpv.org.vn ***** Ngôi nhà sàn của người Thái
Theo truyền thống, người Thái ở nhà sàn như họ đã xác định trong thành ngữ: "Nhà có gác, sàn có cột" (Hươn mi hạn quản mí xau). Nhà sàn của người Thái mang một nét đẹp riêng biệt, đơn sơ nhưng cũng không kém phần bề thế, sang trọng.
Ngôi nhà sàn được cấu trúc bởi các loại cây thân gỗ và các loại cây như tre, vầu, nứa... lợp bằng cỏ gianh. Nếu ai đó đã quen với nếp sống thủ công nghiệp mà chưa một lần được nhìn ngắm ngôi nhà của người dân tộc Thái thì khi được tận mắt ngắm nhìn sẽ không sao tránh khỏi ngạc nhiên, vì đó là một ngôi nhà sàn khá đồ sộ như nhà của các gia đình quý tộc ngày xưa mà "không phải dùng đến một mẩu sắt nhỏ nào trong thiết kế xây dựng". Thay vào những cái đinh là cả một hệ thống dây chằng, buộc thắt khá công phu và tinh xảo bằng lạt, tre, giang và mây, hoặc vỏ những cây chuyên dùng như năng hu, năng xa, năng xiểu. Khi làm nhà, để nối cái cột kèo, người Kinh thường lắp mộng thắt, còn nhà sàn người Thái sử dụng những đòn dầm xuyên suốt qua các lỗ đục của các cột. Kiểu kiến trúc có vẻ đơn sơ nhưng lại rất chắc chắn, nó đủ lực để chống nắng, mưa, gió, bão và đặc biệt là động đất như hiện nay. Thậm chí có những nếp nhà sàn tồn tại tới hàng trăm năm. Chính vẻ đẹp khác biệt của ngôi nhà mang đậm nét văn hóa truyền thống ấy đã đem đến nguồn cảm hứng sáng tác cho một số thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ...
Nhìn vào cấu trúc mái của nhà sàn, ta có thể phân biệt kiểu nhà của từng nhóm địa phương khác nhau:
Nhà sàn của người Thái đen và người Thái trắng ở Tuần Giáo (Ðiện Biên) thì có mái "vòm khum mui rùa" (tụp cống) và thường đặt ở hai đầu hồi, biểu tượng tạc bằng gỗ quét vôi trắng tựa như hai đôi sừng gọi là khâu cút. Khâu cút có nhiều loại như: khâu cút bẻ, khâu cút méo và khâu cút pụa là một hình thức trang trí hoa văn của dân tộc Thái đen.
Nhà sàn của người Thái trắng ở Mường Lay, Phong Thổ và Mường Tè (Lai Châu) do có mặt phẳng cắt hình chữ nhật gần vuông nên có bốn mái thẳng và gấp góc (gọi là tụp lặn). Bởi vậy, một nhà thơ người Thái đen quê ở Mai Sơn cuối thế kỷ 19, khi quan sát thấy được nét khác biệt của những nếp nhà sàn này so với nhà sàn quê mình, đã có hai câu thơ:
"Là nhà người Hán?
Nhưng sao là nhà sàn?
Nhà người Thái nhưng sao có
Bốn mặt hình vuông?..."
Một nếp nhà sàn là một đơn vị không gian chứa đựng một tế bào của xã hội nên người Thái mới gọi là "Cộng đồng nhà" (chúa hướn). Ðó có thể là một gia đình nhỏ gồm một cặp vợ chồng và con cái chưa đến tuổi trưởng thành để lấy vợ, lấy chồng rời ra ở riêng. Hoặc đó cũng có thể là một gia đình lớn gồm ba, bốn thế hệ cùng chung sống hòa thuận bên nhau.
Hiện nay, trước sự phát triển và không ngừng đi lên của xã hội, người Thái đã áp dụng những khoa học kỹ thuật để tự cải tiến và thay đổi kiến trúc nhà ở của mình. Sự cải tiến và thay đổi ấy phần lớn do ảnh hưởng bởi cách làm nhà của người Kinh. Nhà sàn được kê và lắp ghép theo phương pháp nối dầm vào cột bằng mộng thắt. Sự giao thoa văn hóa giữa hai dân tộc đã tạo ra các kiểu nhà sàn đẹp đẽ và bề thế vô cùng. Ngày nay, ở nhiều nơi, đặc biệt là dọc theo đường quốc lộ và ven thị trấn, thành phố, đã có nhiều nhà sàn lắp cầu phong litô lợp ngói (vì cỏ gianh ngày càng hiếm). Mọi người đang đua nhau xây dựng nhà ngói hai, ba,... tầng hoặc các kiểu nhà có mái bằng xi-măng cốt thép. Bởi vậy, bước tới các bản Thái, nhất là vùng dọc quốc lộ và ven thị trấn, thành phố, ta khó có thể tìm ra được một nếp nhà sàn cổ có cấu trúc theo cung cách truyền thống một cách rõ rệt.
Ngày nay người Thái đang lựa chọn nhà ở hợp với không gian văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Hy vọng trong tương lai đồng bào sẽ tạo ra những kiểu nhà sàn đẹp, nhưng không để mất đi nét đẹp truyền thống ngôi nhà sàn dân tộc mình.
Theo Nhân dân.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:41:24 GMT 9
Kiến trúc nhà ở của người Chăm H'roi Bình Định
Nhà sàn của người Chăm Vân Canh thường có kích thước nhỏ, cân xứng và thoáng mát, chắc chắn và ấm cúng. Về cấu trúc, nhà sàn người Chăm H'Roi thường có hình dáng vuông, cân đối và ổn định. Hai mái có độ dốc lớn để chống mưa gió. Nhà được trổ cửa sổ ở hai phía đầu hồi nhà. Bước lên cầu thang là một khoảng sân hẹp lộ thiên trông như một cái hành lang. Khoảng sân này ngoài dùng để phơi phóng còn có tác dụng làm cho ngôi nhà thêm xinh xắn.
Khi xây dựng nhà, người Chăm cũng rất chú trọng đến độ bền vật liệu, thông thường họ chọn các loại gỗ tốt như Xay, Kiền Kiền, Trắc, Muồng. Trong kết cấu nhà, họ chú trọng đến bộ mái và nóc nhà; hai mái nhà được liên kết với nhau thông qua đòn nóc đẽo gọt công phu. Người Chăm cho rằng, nóc là biểu tượng của ngôi nhà. Sự tồn tại của nóc nhà là sự tồn tại của ngôi nhà. Từ sau ngày đất nước thống nhất, thực hiện chính sách định canh định cư, phân bố lại lực lượng lao động, cải tạo cung cách làm ăn… kinh tế xã hội miền núi nói chung có sự biến đổi nhất định… Trong kết cấu từng ngôi nhà cũng đã chuyển biến. Các nhà sàn người Chăm thu nhỏ lại cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại. Mái nhà cũng được thay bằng nguyên liệu mới, kết cấu khung nhà cũng đổi thay đáng kể.
Ngoài nhà ở thường ngày, các dân tộc đều có một ngôi nhà sinh hoạt cộng đồng, ta quen gọi là nhà Rông. Trong ba dân tộc ít người ở Bình Định, chỉ có dân tộc Ba na là có nhà Rông, một số làng người Chăm ở Vân Canh cũng có nhà Rông nhưng theo giới nghiên cứu, thì nhà Rông người Chăm là kết quả tiếp thu, ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa Ba na và Chăm. Vì theo kết quả nghiên cứu về người Chăm ở Phú Yên sống gần với người Êđê nhưng không có nhà Rông.
Về kiến trúc nhà của người Chăm, ngoài nhà ở còn có dạng nhà Chòi. Đó là loại kiến trúc chủ yếu phục vụ cho sản xuất. Kho thóc và nhà Chòi đều thuộc nhà sàn 4 cột nhỏ, kết cấu đơn giản. Kho là nơi chuyên cất giữ lương thực (chủ yếu là thóc lúa) thường kho thóc được cất xa nơi cư trú để đề phòng hỏa hoạn xảy ra. Nhà Chòi còn là nơi để trông coi nương rẫy, là chỗ nghỉ ngơi cho các thành viên trong thời gian làm rẫy (ăn cơm, tránh nắng, mưa…) vào mùa thu hoạch, nhất là những ngày bận rộn có thể nghỉ đêm tại chòi. Ngoài ra, chòi còn là nơi cất giữ lương thực tạm thời mới thu hoạch. Trước đây, cũng như hiện nay chức năng của nhà kho và nhà Chòi không thay đổi. Còn nhà Rông vẫn còn chức năng là nơi sinh hoạt cộng đồng, nay lại thêm một chức năng mới đó là nhà văn hóa hay còn gọi là nhà Rông văn hóa.
(Theo Baobinhdinh)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:42:48 GMT 9
Nhà dài của người Ê-đêMọi người đến với Tây Nguyên không chỉ tìm hiểu về núi rừng đại ngàn hùng vĩ, mà còn thưởng thức những nét văn hóa riêng có của cộng đồng người Tây Nguyên. Mỗi dân tộc có nét văn hóa riêng, người Ê-đê cũng vậy, cộng đồng dân tộc này có những nét văn hóa đặc sắc. Bài viết này xin nói về ngôi nhà dài. Ngôi nhà dài của người Ê-đê là thể hiện nét đặc trưng của chế độ mẫu hệ, nó được xây dựng phù hợp điều kiện tự nhiên của vùng đất mà buôn làng đó sinh sống cộng với những yếu tố tinh thần như tập quán, tình cảm, thần linh... Sự kết hợp này mang một nghệ thuật riêng của cộng đồng người Ê-đê. Ngôi nhà dài chừng nào, khi nhìn qua ta biết trong ngôi nhà đó có bao nhiêu thế hệ đang sinh sống, bởi trong ngôi nhà này là nơi tập hợp nhiều gia đình nhỏ theo dòng họ mẹ, đây là yếu tố quần cư cộng đồng thị tộc; hiện nay thông thường trong ngôi nhà dài có ba nhóm thành viên chính sinh sống, đó là những người phụ nữ theo dòng họ mẹ, hai là những người đàn ông thuộc dòng họ mẹ và nhóm thứ ba là những người đàn ông không thuộc dòng họ mẹ. Theo quan niệm của người Ê-đê, ngôi nhà không chỉ là nơi cư trú của gia đình mà còn thể hiện phong cách, nếp sống, sự giàu sang, "đẳng cấp" của gia đình đó trong cộng đồng. Xét về kiến trúc, nhà dài có ba phần: Sân sàn, ngăn khách và ngăn ở. Mỗi phần đều có tác dụng riêng có của nó và mỗi ngăn phải được sử dụng theo mục đích, yêu cầu của từng ngăn, sao cho mọi người nhìn vào đều phân biệt được cả hình thức và nội dung của từng ngăn trong ngôi nhà dài. Ngay cả cửa sổ bên hông ngôi nhà, nhìn vào ai cũng biết trong ngôi nhà dài này đã có bao nhiêu phụ nữ đã lập gia đình, bao nhiêu chưa có gia đình... Ðó là nét văn hóa độc đáo mà cộng đồng dân tộc này lưu truyền, gìn giữ từ xa xưa cho đến hôm nay. Sân sàn ở phía trước nhà, tiếng Ê-đê gọi là Dring gah, nơi đây thường làm nơi giã gạo, nơi ngồi trò chuyện của gia đình sau ngày lao động nên những gia đình khá giả thì được "trang bị" hai chiếc ghế để mọi người ngồi, trên mặt ghế có chạm khắc hình mặt trăng. Phía trước sân sàn trước là cầu thang lên xuống được chạm cặp vú phụ nữ, quanh cặp vú có hình đôi chim cu đất hay hình mặt trăng. Xin nói đến chiếc cầu thang trong ngôi nhà dài của người Ê-đê. Từ xa xưa chiếc cầu thang là niềm tự hào của gia đình và cộng đồng, nó là vật có hình khối cân đối làm bằng gỗ đặc ruột được đẽo vát nối tiếp nhau từ dưới đất lên đến sàn nhà, mặt phẳng của các bậc thanh thường nghiêng về bên trong và các bậc đều lên xuống đều mang số lẻ, đây là con số lý tưởng của người Ê-đê. Cầu thang thường có hai chiếc, một dành cho khách và một dành cho người nhà khi lên xuống. Thiếu nữ bên chiếc cầu thang nhà dài Sân sàn sau, đây là lối đi riêng của những người trong nhà, du khách không được đi lối đi này. Bên cạnh hai sàn sân, người thăm ngôi nhà dài thường chú ý đến phòng ngăn khách, nơi đây diễn ra mọi sinh hoạt của gia đình lớn và là nơi để các vật dụng quý, thiêng của cả nhà. Những gia đình giàu có, sang trọng đều "trưng" các bộ chiêng, ché hay các vật dụng đắt tiền và tại đây còn có gian bếp riêng, gọi là Kpưr gah, trong ngăn này bao giờ cũng có một chiếc ghế dài, có người gọi là ghế độc mộc, tiếng Ê-đê gọi là Kpan. Ghế được làm bằng lõi một cây cổ thụ nguyên cây, không bị sâu bệnh, ghế không được ghép, chắp với cây gỗ nào khác và chiếc Kpan thường dùng cho các nghệ nhân đánh chiêng trong những lễ hội, cúng mừng của gia đình hay cộng đồng. Như trên đã nói, chế độ mẫu hệ chi phối đến vị thế của mọi người trong gia đình người Ê-đê, phụ nữ gần như nắm giữ toàn bộ sinh hoạt trong gia đình. Ngăn đầu tiên tính từ sân sàn sau nhà là phòng của bà chủ nhà, gian này đặt bếp nấu ăn và bầu đựng nước sinh hoạt cho cả ngôi nhà và mọi hoạt động trong ngôi nhà do bà chủ quyết định. Khi bà chủ mất hay tuổi đã già yếu thì "chức chủ nhà" giao cho cô con gái út, cho nên cô con gái út lấy chồng khi bà mẹ còn sống thì gia đình cô được sống sát gian của gian chủ nhà. Ngôi nhà dài còn thể hiện yếu tố tâm linh, như cột cúng Yàng là chiếc cột của gian nhà bà chủ. Việc hình thành ngôi nhà dài là vấn đề quan trọng, nó được thể hiện từ chỗ bà chủ nhà mời thầy cúng thần chọn đất dựng nhà đến khi làm các chi tiết trên từng cột nhà, nhất là cột khách, cột chiêng, cầu thang... và bà chủ nhà là người chặt nhát dao đầu tiên cũng như cuối cùng lên vật dựng làm nhà. Thông thường người Ê-đê chọn hướng nhà (hai sàn nhà) theo hướng Ðông - Tây và vị trí tốt nhất là gần bến nước, đây vừa là yếu tố tâm linh vừa là yếu tố sinh hoạt. Bà con rất ngại làm nhà mới, cho nên các gia đình thường nối thêm phía sau nhà mỗi khi chật chội. Nhà dài Ê-đê là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng vừa là nơi sinh hoạt riêng của từng gia đình nhỏ, nơi đây tạo nên sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nó gần giống như đình làng của người Việt. Hình ảnh ngôi nhà dài như con thuyền lướt sóng, chiếc cầu thang là một biểu trưng thể hiện vẻ bên ngoài đầy chất hoang sơ, mẫu hệ của người Ê-đê, đôi bầu sữa, một biểu trưng độc đáo. Từng chi tiết trong ngôi nhà dài giúp chúng ta hình dung nếp sinh hoạt, nét văn hóa của cộng đồng Ê-đê. Thiết nghĩ, chúng ta cần quan tâm đầu tư, bảo tồn một trong những nét văn hóa riêng có của người Ê-đê: ngôi nhà dài. (Theo Nhandan)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:44:13 GMT 9
Hình tượng hoa sen trong nghệ thuật kiến trúc Hoa sen mọc từ đầm nước, từ một cõi trần ô trọc đã vươn lên trở thành một bông hoa thanh cao, bông hoa của vũ trụ. Bông hoa này đã đi vào tâm thức của mọi người, trở thành hình tượng trong nghệ thuật, trong kiến trúc và điêu khắc. Đặc biệt hoa sen trở thành biểu tượng trong nghệ thuật Phật giáo của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo, tư tưởng sâu kín. Trong nghệ thuật Việt Nam, hình tượng hoa sen dày đặc từ các phù điêu, đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật đến các dáng gốm và họa tiết trang trí. Song cô đọng và sáng tạo hơn cả là hình tượng hoa sen trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Từ xa xưa, người Việt ta đã có câu ca dao: "Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Mặc dù sinh ra trong bùn lầy nhưng hoa sen không bị ô nhiễm mà lại có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh sống, vì hoa sen hễ mọc ở nơi nào thì sẽ làm cho nước đục nơi đó lắng trong. Sen có cả hương lẫn sắc, nhưng hương sen không quá nồng mà dịu, gợi một tinh thần cao thượng. Sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng phớt hồng, nhụy vàng. Từ khi nở đến khi tàn không hề bị ong bướm bén mảng tới. Qua bao ràng buộc bởi đất, nước đến được chỗ khoáng đạt hư không, sen tiếp tục vươn lên dưới ánh mặt trời, kết lấy hoa khai nở, khoe sắc và xông hương tràn ngập không gian. Sự hình thành của sen diễn ra theo qui luật nhân quả luân hồi. Sen có cả nụ - hoa - hạt. Hoa nở tượng trưng cho quá khứ, đài sen tượng trưng cho hiện tại và hạt sen tượng trưng cho tương lai, sự nối tiếp liên tục. Trong Phật giáo, hoa sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện, sự duy trì và phát triển Phật pháp, trí tuệ dẫn đến niết bàn. Trên thế giới ít có loài hoa nào có nhiều phẩm chất cao quý như hoa sen. Bởi vậy mà nhà Phật ví nó như những đức tính của người tu hành. Trên một số quả chuông như chuông chùa Liên Phái, Hà Nội, hay ở kiến trúc chùa và nhất là trong lời cúng của các sư tăng thường có cụm từ "Mún ma ni bát mê hồng" có nghĩa là cầu được lên tòa sen ngọc báu. Bát mê (padma) có nghĩa là hoa sen. Trong kiến trúc Phật giáo, hình tượng hoa sen được lồng vào cấu trúc nhà, một bộ phận kiến trúc hoặc cả tổng thể công trình với ý nghĩa về sự giải thoát, giác ngộ Phật pháp. Những công trình kiến trúc tiêu biểu với hình tượng hoa sen thường xuất hiện trong những giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo. Đó là thời Lý thế kỷ thứ 11 với Chùa Một Cột - Hà Nội; thế kỷ thứ 17 với tháp Cửu phẩm liên hoa, Chùa Bút Tháp - Bắc Ninh; thế kỷ 18 với Chùa Tây Phương - Hà Tây, Chùa Kim Liên - Hà Nội. Hình tượng hoa sen ở tháp Cửu phẩm liên hoa - Chùa Bút Tháp là một tổ hợp kết cấu gỗ dạng tháp quay chín tầng chồng lên nhau. Mỗi tầng có một đài sen rộng chừng 2 m, cao 50 cm. Cả tháp cao 7, 8 m, phía ngoài tháp các cánh sen bằng gỗ sơn đỏ tạo thành tầng tầng lớp lớp so le nhau. Tầng một đến tầng chín biểu hiện cho những nấc thang của sự tinh tiến trong đạo Phật. Tháp có thể xoay được bởi nó được ăn chân trụ với một chiếc cối đồng chôn ngang mặt đất và hệ thống bốn cột cái đặt chung quanh tháp. Cứ mỗi vòng quay của tháp tương ứng với 3.452.400 lời niệm. Số niệm càng nhiều thì sự thành đạt của kiếp tu hành càng mau có kết quả. Tháp được đặt trong tòa Tích Thiện Am, ngôi nhà ba tầng, bốn mái tương ứng với ba cấp chứng quả của người tu hành. Tháp quay Cửu phẩm liên hoa là một tổ hợp cao hơn giá trị đơn lẻ của một biểu tượng bông sen. Hay trong hệ thống các hàng lan can ở quanh Thượng điện và quanh tháp Báo Nghiêm cũng có những bức chạm cả hồ sen với cá, chim rất ngoạn mục. Nếu ở thời Lý và thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17, hình tượng hoa sen trong kiến trúc Phật giáo chỉ có tính chất đơn lẻ trong từng chùa như Chùa Một Cột hoặc một bộ phận kiến trúc như tháp quay ở Chùa Bút Tháp thì đến thế kỷ 18, hoa sen đã trở thành phong cách kiến trúc của cả một giai đoạn. Nó đánh dấu sự bừng nở của một phong cách nghệ thuật độc đáo, khởi đầu từ Chùa Kim Liên và được kế tiếp ở Chùa Tây Phương, một ở trên hồ, một là trên núi vừa hòa nhập vào thiên nhiên, vừa xác định vị trí, hình khối của mình trong không gian. Nếu kiến trúc trước đó thường chú trọng tuyến ngang, tức là các lớp nhà kéo dài trên một trục chạy như hình con rồng. Đến giữa thế kỷ 18, năm 1792 với kiến trúc Chùa Kim Liên đã xác lập một ý tưởng không kéo kiến trúc chạy dài, mà cô gọn thành một cụm hình tượng bông sen. Thực chất là kiểu kiến trúc đưa ba gác chuông gộp lại làm một tạo thành kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái "Trùng thiềm điệp ốc". Kiểu kiến trúc này đã có từ thế kỷ thứ 17 với kiểu kiến trúc tháp chuông Chùa Keo - Thái Bình. Hay ở Chùa Kim Liên, không chỉ có vẻ đẹp về hình khối, về ý tưởng kiến trúc, Chùa Kim Liên còn giải quyết được ánh sáng, độ thông gió... Kết cấu theo bốn hàng chân, nhất quán lối kiến trúc chồng rường. Từ kết cấu đến từng chi tiết kiến trúc của chùa đều gọn gàng, tạo hình khối kiến trúc ổn định, ăn nhập với các yếu tố phù trợ khác như đầu đao cong vút, ô cửa sổ bán âm bán dương trên bức tường ốp gạch trần. Tất cả tạo nên một vẻ thanh thoát, cổ kính, huyền bí. Đứng trên đê nhìn xuống, Chùa Kim Liên thấp thoáng trong lùm cây xanh um tùm chung quanh là hồ, chẳng khác gì đóa sen nở trên mặt nước. Cũng với kiểu kiến trúc Chùa Kim Liên, Chùa Tây Phương được xây dựng tinh xảo hơn. Chùa được xây dựng trên một ngọn núi hình lưỡi câu, gọi là "Câu lậu sơn". Đi hơn 250 bậc đá là tới khu chùa chữ tam với ba tòa Thượng - Trung - Hạ, kết cấu kèo chồng rường. Các đầu đao kép uốn hình rồng cong, so le. Đứng ở góc chéo có thể nhìn thấy ba góc kia, thấy được sự giãn nở của nhiều lớp mái do việc sử dụng độ cao hợp lý. Mái được nâng cao, đồng thời mở nhiều ánh sáng trong nội thất làm thay đổi khí sắc tôn giáo của ngôi chùa. Các đầu cột ở hai ngôi chùa này được làm thành bông hoa sen hoặc làm thành cả hồ sen, thể hiện sự tài hoa, khéo léo của những người thợ xây dựng chùa. Đặc biệt phong phú là sen trang trí các hình rồng mây, hình hoa cúc... Chất trang trí đã làm cho đài sen tươi tắn và sinh động hơn. Như hình chạm cả dàn nhạc công đang tấu nhạc dâng lên đức Phật ở chân cột đá Chùa Phật Tích. Hình Phật được tượng trưng bằng một vòng sáng nhọn đầu, còn đài sen được chạm rất kỹ, tỉ mỉ. Như vậy, nét đẹp giá trị nghệ thuật của kiến trúc Phật giáo nói chung, và kiến trúc hình tượng hoa sen nói riêng là ở kết cấu kiến trúc thực được tạo ra để thể hiện những ý niệm triết học trừu tượng của Phật giáo, chỉ bằng một hình tượng đơn giản, giản dị, đó là bông sen. www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/de...hp?id=245&a=76
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:47:25 GMT 9
Vũ điệu cung đình Chămpa trên tác phẩm điêu khắcNgày nay, khi các tư liệu thành văn về lĩnh vực múa của người Chămpa cổ rất hạn chế, thì việc nghiên cứu những di vật cổ chạm khắc người múa sẽ góp thêm những tri thức về vũ đạo truyền thống Chămpa cũng như vai trò của nó trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân Chăm trong quá khứ. Ngôn ngữ điêu khắc là nguồn tư liệu đáng tin cậy, từ nguồn tư liệu câm lặng này có thể cho ta biết chắc chắn được rằng, người Chămpa cổ từ trong lịch sử họ đã có một nền nghệ thuật múa phát triển đa dạng. Tượng thần Mahisamandhi có niên đại TK XII (Bình Nghi - Tây Sơn) hiện đang trưng bày trong Bảo tàng Bình Định. Trong nghệ thuật điêu khắc đá Chămpa, hình tượng người múa được khắc tạc nhiều. Loại hình này thường được gắn ở trán cửa hay trên các dải băng trang trí của những ngôi tháp Chàm… Bình Định từng là một trong những trung tâm lớn của vương quốc Chămpa cổ (trung tâm Vijaya). Nằm chung trong truyền thống của nền văn hóa này, giống như những nơi khác, hầu hết các tượng đều thể hiện những điệu múa mang hình thái tôn giáo, tín ngưỡng (các thần) và múa cung đình (lễ nghi, chúc tụng, đón khách). Bên cạnh các điệu vũ của thần Siva, nữ thần Uma, nữ thần Sarasvati… thì vũ điệu tiên nữ Apsara cũng là một hình tượng quen thuộc mà chúng ta thường bắt gặp. Theo truyền thuyết Chămpa, tiên nữ Apsara là vũ nữ chuyên múa hát trên cõi trời do thần Indra (thần sấm sét) cai quản. Hình tượng tiên nữ Apsara được thể hiện theo nhiều bố cục khác nhau: tiên nữ múa tập thể, tiên nữ độc diễn… Và ở mỗi phong cách tạo hình, vũ điệu của các tiên nữ Apsara mang những nét sinh động, linh hoạt khác nhau. Bức phù điêu bằng đá sa thạch, khắc tạc hình vũ nữ Apsara trong "điệu múa thần thánh" hiện đang trưng bày trong Bảo tàng Bình Định, thể hiện vũ nữ trong tư thế đang nhảy múa bay lượn trên không trung. Xung quanh là những đám mây. Đầu vũ nữ đội mũ chóp nhọn nhiều tầng, mặt nhìn nghiêng. Thân hình uốn uyển chuyển, bộ ngực nở căng đầy sức sống. Hai tay tiên nữ vươn lên; quanh bụng quấn sampót nhiều lớp, tà bay uốn lượn mềm mại. Hai chân nhún nhảy, chân phải hơi co lên, chân trái nhún hất về phía sau trong tư thế động. Hình ảnh tiên nữ được diễn tả sinh động, đầy sức sống. Phía bên trên cũng có một hình vũ nữ nữa được khắc tạc tương tự nhưng đã bị sứt mẻ. Chỉ còn lại một cái chân. Hình ảnh vũ nữ múa tập thể ta còn thấy trên mặt đứng phiến đá áp trang trí chân tháp Bánh Ít (Tuy Phước), thể hiện 4 vũ nữ trong tư thế nhảy múa, bộ ngực to nở căng sức sống, mỗi cánh tay thể hiện một phong cách khác nhau: tay phải chống nhẹ vào hông, tay trái giơ cao. Thân hình tròn gọn để trần, quanh bụng quấn sampót với nhiều vòng, tà sampót bay ra phía sau. Mỗi vũ nữ thể hiện một tư thế, kết lại thành một băng trang trí hoàn chỉnh, được thể hiện đẹp và đầy sức sống. Cũng với động tác múa, nhưng phù điêu vũ nữ ở Hải Minh (Quy Nhơn) lại diễn tả độc diễn, có choàng khăn mỏng, hai tay giơ vòng lên đỉnh đầu kéo theo dải voan phía sau trông như cánh bướm, hai chân chùng xuống rất đều. Trong nghệ thuật múa Chămpa cổ, động tác múa xoãi chân ra hai bên và chùng xuống đổ dồn trọng lượng cơ thể trên đầu mũi chân là rất phổ biến. Có lẽ tác phẩm điêu khắc vào loại đẹp nhất của nền điêu khắc cổ Chămpa là bức phù điêu phát hiện ở núi Cấm (Bình Nghi - Tây Sơn). Hình tượng được thể hiện là nữ thần Mahisamandhi có niên đại thế kỷ XII (một trong những tính nữ của thần Siva). Nữ thần đang múa trong tư thế hai chân chùng xuống, hơi đưa mông về bên trái, tay trái chống hông, tay phải cầm mũi tên. Tám tay phụ như mọc ra từ phía sau lưng vũ nữ, uyển chuyển nhịp nhàng trong những động tác múa khác nhau và làm động tác như đang dâng vật gì đó ngay phía trên đầu; sáu tay phụ kia, mỗi tay cầm một vật : tù và, cánh cung và cakra (cây trượng) ở bên trái, chuông nhỏ, đoản kiếm và chiếc giáo ở bên phải. Người phụ nữ đang múa trên mình hai con thủy quái makara (xem ảnh). Bức phù điêu phát hiện ở tháp Dương Long là hình ảnh tương tự. Phù điêu thể hiện thần Brahma (thần Sáng tạo) có niên đại thế kỷ XII. Vị thần đứng trong tư thế hai chân chùng xuống, bành hai đầu gối khá mạnh ra hai bên, hai tay chính đang bắt quyết trước ngực. Từ phía hai bắp tay, mỗi bên còn mọc ra thêm ba tay phụ cầm những vật khác nhau: tay dưới cầm một con dao găm, tay trên cầm đóa hoa sen, tay giữa cầm một vật gì đó đã bị vỡ nên không nhận ra được. Thần có ba đầu : một đầu chính giữa nhìn thẳng, hai đầu kia như cố nhô ra để nhìn về phía trước. Cả ba đầu đều có khuôn mặt vuông vức, nghiêm nghị và đầu đội chiếc mũ hình chóp nón trơn. Thần không mặc áo, nên cả phần thân trên hiện ra lực lưỡng, cường tráng. Y phục duy nhất của thần là chiếc quần cộc được giữ lại ở bụng bằng một dây thắt rộng bản trang trí các hình cánh sen. Chiếc dây thắt có một vạt dài rủ từ phía trước bụng xuống. Quanh vị thần là những tia hào quang hình cánh sen (xem ảnh). Như vậy động tác choãi chân hai bên được thể hiện lặp đi lặp lại nhiều trong điêu khắc Chămpa, điều đó chứng tỏ trong vũ điệu cổ Chămpa, động tác đôi chân dường như không có sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên không vì thế mà nó mất đi tính biểu đạt cũng như vẻ linh hoạt trong sự phối hợp với đôi tay và toàn bộ cơ thể trong các vũ điệu. Để có thể định hình cho từng động tác tay mang ý nghĩa gì là một điều rất khó, bởi các văn bản nói về ý nghĩa của các động tác tay trong vũ đạo Chămpa hầu như không còn. Tuy nhiên, để tìm hiểu, khai thác những gì liên quan đến vũ đạo Chămpa truyền thống, không thể không tìm về cội nguồn xuất phát điểm của nó, đó là văn hóa Ấn Độ nói chung và vũ đạo Ấn Độ nói riêng. Tượng thần Brahma có niên đại cuối TK XII (Dương Long - Tây Sơn) hiện đang trưng bày trong Bảo tàng Bình Định. Từ rất sớm trong lịch sử, vương quốc Chămpa đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Ấn Độ, những di vật tìm thấy được trên vùng đất Chămpa cũ đã phần nào nói lên điều này. Theo đó, nghệ thuật múa Ấn Độ cũng được du nhập vào Chămpa, nhưng cụ thể vào thời điểm nào thì không có tư liệu nào nhắc đến. Tuy nhiên, hình tượng các vũ nữ trên bệ thờ ở Trà Kiệu được trưng bày ở Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng (thế kỷ VII - VIII) đã chứng minh cho sự xuất hiện một lĩnh vực nghệ thuật của văn hóa Ấn Độ ở Chămpa lúc bấy giờ. Chủ đề tác phẩm là minh họa tác phẩm Bhayavatapurana của Ấn Độ. Lĩnh vực ca múa và những người tiếp thu nền vũ đạo Ấn Độ trước hết chính là tầng lớp quí tộc bên trên. Như vậy, từ chỗ đóng vai trò nghệ thuật phục vụ tôn giáo trong văn hóa Ấn Độ, vũ đạo đã trở thành loại hình nghệ thuật được coi trọng trong cung đình Chămpa cổ. Điều này hoàn toàn trái với quan niệm của các triều đại phong kiến Đại Việt ở phương Bắc, đặc biệt là từ triều hậu Lê trở về trước, vốn rất coi khinh những người hành nghề ca múa, như trường hợp Đào Duy Từ chẳng hạn. Việc nghệ thuật múa được coi trọng trong cung đình Chămpa cổ cũng phần nào lý giải vì sao phần lớn các tác phẩm người múa đều được trang trí ở phần thượng tầng các kiến trúc của tháp Chămpa. Vào đầu Công nguyên, trong cuốn Lý thuyết về múa hát Natyashatra của Bharata đã liệt kê có đến 24 động tác một tay, 13 động tác hai tay; còn cuốn Abhinaya Darapanam của Nad**esvars thì cho biết có đến 28 động tác một tay và 23 động tác hai tay. Điều đó chứng tỏ, trong vũ đạo Ấn Độ, đôi tay thể hiện tất cả sắc độ tinh tế của tư duy, tình cảm; mỗi vũ điệu có những cách biểu đạt khác nhau. Tuy vậy, có thể suy đoán rằng, trong buổi đầu tiếp nhận nghệ thuật múa Ấn Độ, nghệ thuật múa Chămpa cũng không ngoài mục đích thể hiện tôn giáo và vương quyền. Đối với các vị thần linh, ý nghĩa của từng động tác tay và những binh khí, mang biểu trưng quyền lực; còn đối với những tiên nữ Apsara là sự dâng lễ, kính chào thần hoặc chúc mừng. Có thể nói, trong các phù điêu Chămpa, đôi tay là sự biểu đạt cao nhất trong việc thể hiện nội dung và phong cách của một vũ điệu. Nhận xét về động tác đôi tay trong vũ đạo phương Đông, một nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng " đó là một khoa học để phục vụ sân khấu". Theo nghĩa đó, từng động tác tay trong vũ điệu mang một ý nghĩa tượng trưng và biểu đạt vô cùng to lớn mà để hiểu được nó một cách cụ thể và sâu sắc, cần phải có sự tìm hiểu và đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu. Về quan điểm thẩm mỹ, cũng như các vũ nữ Ấn Độ, vũ nữ Chămpa được diễn tả bao giờ cũng phô diễn cái đẹp kiều diễm của cơ thể, dù chỉ là những tác phẩm bằng đá thôi, nhưng ta cũng cảm nhận được phần lớn các vũ nữ khi múa đều để mình trần, phô diễn cái đẹp nhất mà thượng đế ban phát cho họ, tất cả chỉ được che giấu dưới lớp vải mỏng. Người Chăm hiện nay đã trở thành một thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phần lớn người Chăm cư trú chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình Thuận, một số ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng Nam Bộ. Ở Bình Định chỉ có khoảng trên 2.000 người cư trú ở Vân Canh (nhóm Chăm H’roi). Mặc dù hiện nay có thể những điệu múa cung đình Chămpa không còn tồn tại nhưng tinh thần vũ đạo vẫn là dấu ấn in đậm trong đời sống của người Chăm. Trong nghệ thuật múa Chăm phần lớn đã mang tính dân gian, song trong phong cách biểu diễn ta vẫn thấy yếu tố xưa còn được giữ lại : yếu tố Ấn Độ hóa vẫn còn, ví dụ như vai trò của phụ nữ trong các lễ hội tại đền tháp, tính độc diễn của từng vũ nữ, các động tác biểu diễn… Ngoài ra, một số điệu múa dân gian như múa đội nước… Tuy nhiên, khi so sánh qua các tác phẩm điêu khắc ta thấy , người Chăm hiện nay chưa thể đạt đến trình độ múa của các thần linh được diễn tả trong các tác phẩm điêu khắc. Nhưng một điều ghi nhận là nghệ thuật biểu diễn của người Chăm hôm nay có sự tiếp nhận, bảo lưu những nét văn hóa cổ xưa của người Chămpa cổ trong nghệ thuật biểu diễn của mình, nhưng không còn là nguyên bản mà đã bị hòa nhập, hòa tan sau cả ngàn năm tồn tại. Và, ảnh hưởng nghệ thuật múa Ấn Độ đối với người Chăm xưa thật sâu đậm như một số nhà nghiên cứu bấy lâu nay đã ghi nhận. Hồ Thùy Trang
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 16:48:30 GMT 9
Nét đẹp trong kiến trúc tháp ChămViệt Nam là một trong những quốc gia có nền văn hóa đa dạng bởi sự góp mặt của 54 dân tộc anh em sinh sống trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong kho tàng các di tích lịch sử và văn hóa của đất nước thì các tháp Chăm có một chỗ đứng nhất định. Qua hàng trăm, hàng ngàn năm, các ngôi tháp vẫn còn đó với một vẻ đẹp độc đáo. Là những công trình tôn giáo tín ngưỡng dùng để thờ cúng các vị thần hoặc các vị vua được tôn lên làm thần, nên các tháp Chăm thường được đặt tại các vị trí cao như: gò, đồi, hoặc đặt trên núi, theo tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Chăm, tạo cảm giác hoành tráng và tôn nghiêm. Cho đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu say mê bởi vẻ đẹp và cả bí ẩn của tháp Chăm mà vẫn chưa được lý giải trọn vẹn. Tháp Chăm vẫn đứng đó với biết bao huyền thoại. Về nghệ thuật cổ truyền, dân tộc Chăm đã góp vào kho báu nghệ thuật Việt Nam nhiều thành tựu lớn lao rất đặc sắc, nhất là kiến trúc và điêu khắc. Hệ thống tháp và tượng Chăm xứng đáng được xem là di sản văn hóa thế giới. Nếu xếp đặt nghệ thuật kiến trúc tháp Chăm theo lịch trình phát triển thì tháp Chăm có lịch sử phát triển liên tục khá dài từ đầu thế kỷ thứ IX với các tháp Phú Hài, Hoà Lai, đến thế kỷ XVI với tháp Pôrômê. Trong 8 thế kỷ đó, người Chăm đã xây dựng không biết bao nhiêu đền tháp. Tuy vậy, các tháp Chăm nằm rải rác suốt từ Quảng Nam - Đà Nẵng tới Ninh Thuận, Bình Thuận vẫn là những viên ngọc quý của nền kiến trúc cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Vào những năm 80 của thế kỷ 20, các nhà khoa học Việt Nam và Ba Lan đã cứu chữa cho những tháp Chăm ở Quảng Nam, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Định. Nhiều tháp đã kịp thời cứu chữa để chống sự xuống cấp nhanh chóng. Về kiến trúc và điêu khắc Chăm, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bom đạn của giặc đã phá huỷ những công trình kiến trúc Chăm rất nặng nề. Cho đến hôm nay, chúng ta còn khoảng 19 địa điểm có di tích kiến trúc Chăm với khoảng chừng 40 cây tháp. Những tháp Chăm đều có bình đồ là hình vuông, có 4 cửa ở 4 phía nhưng chỉ có phía Đông mới là cửa chính có lối ra vào, có hành lang, tiền sảnh chạy dài phía trước, còn 3 phía bên là cửa giả. Những ngọn tháp vươn cao lên tựa như một linh ga để trên quả đồi là Yoni, tượng trưng cho sự đủ, đầy của tạo hóa. Tháp Pôklongiarai được xây trên đỉnh Đồi Trầu, cách thị xã Phan Rang chừng 3 km về phía Tây Bắc. Tổng thể kiến trúc xưa gồm 5 tháp, nay còn 3 tháp là tháp Cổng, tháp Lửa và tháp Chính. Tháp Chính là tháp lớn nhất, cao hơn 21m, mỗi cạnh dài 10m, gồm 4 tầng lên cao thu nhỏ dần rồi tận cùng bằng một linh ga đá. Các mặt của 4 tầng đều có vòm cửa. Quanh thân tháp được trang trí rất khéo léo. Người xưa đục gọt gạch thành những băng hoa kỷ hà, những dải cánh sen, những đường uốn lượn vui mắt quanh các ô cửa, tạo thành những vòng hào quang toả sáng. Ngoài tượng các thần phương hướng, tháp còn có tượng bò, dê và đặc biệt có tượng thần Siva ở mí cửa ra vào. Khu tháp được xây dựng để tưởng nhớ vị vua Pôklongiarai, một vị vua đã có công trong việc dẫn thuỷ, hạ điền của địa phương. Ở tháp Hòa Lai có mặt bằng hình chữ nhật. Các cạnh trước, cạnh sau dài khoảng 8m, cao 10m. Mặt chính của ngôi tháp được đặt ở phía Đông, nhưng 2 mặt bên cũng đều có trổ cửa ra vào để đón ánh sáng. Có thể nói, ngôi tháp Hoà Lai là những kiến trúc thành công nhất của phong cách với khối thân hình lập thể mạnh mẽ, bên trên là hệ thống cổ điển của các tầng nhỏ dần. Tuy nhiên, tháp trang trí giới hạn ở các chỗ khung cửa và các cột ốp, các đường diềm nhấn ở các tầng. Phong cách trang trí vừa nhấn mạnh, tô điểm cho các cấu trúc đỡ, vừa phô bày ra một thị hiếu hoàn hảo. Yếu tố tiêu biểu của tháp Chăm là các vòm cửa nhiều múi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Tuy có vai trò như trán nhà, vòm cửa của tháp Chăm uốn cong, các vành được trang trí bằng các hình cuốn. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường gờ nặng nề ở giữa. Các trụ ốp được tô điểm bằng các hình lá uốn cong, ở giữa là các hình thực vật. Trong đó, hình người đắp nổi, gợi đến chủ đề ở bệ đá Mỹ Sơn. Tất cả tạo cho tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát. Nếu tính hoành tráng và đường bệ được bộc lộ ra bằng sự nhịp nhàng của những cột vách, thì những băng trang trí với những hoạ tiết xum xuê, đôi khi rối rắm lại sản sinh ra một kiểu cửa vòm mạnh và sống động. Cả 2 xu thế đó ở tháp Chăm hoà vào nhau trong sự cân đối và tiết độ, tạo cho tháp Chăm vừa vững chắc, vừa cao quý và cổ kính. Tháp Pôrômê là ngôi tháp được xây dựng khá muộn, tháp được xây dựng trên một quả đồi cao chừng 50m thuộc làng Hâu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Khu tháp này có 3 ngọn tháp nhưng nay chỉ còn một cây tháp chính thờ Pôrômê, còn tháp phụ phía sau thờ Hoàng hậu và tháp bên phải thờ thần Hoả đã bị huỷ hoại hoàn toàn. Tháp chính Pôrômê về bố cục và hình dáng giống tháp Pôklongiarai nhưng nhỏ hơn một chút, cao chừng 18m, cạnh chân dưới 8m, các đường gờ ngang và cột ốp dọc ít hơn, các tượng gắn với tháp chỉ có ở hai tầng dưới. Theo các cụ già ở đây truyền lại rằng, tháp này vốn của Po Mun Taha là bố vợ của Pôrômê. Sau này Pôrômê được bố vợ truyền ngôi nhờ có nhiều công và được thờ trong tháp này. Theo quá trình biến động của lịch sử, người Chăm không thường xuyên đến các tháp Chăm nữa nhưng trong tâm thức của họ ai nấy đều rất tự hào, nhất là khi có điều kiện vẫn tổ chức đi lễ các tháp (đặc biệt đi lễ tháp mẹ Po Nưga ở Nha Trang) như một cuộc hành hương về đất Mẹ, về cội nguồn. Từ những thế kỷ trước công nguyên, đồng thời với văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ ở Bắc Bộ và Bắc Trung bộ, thì trên dải ven biển miền Trung nổi lên văn hóa Sa huỳnh. Nền văn hóa này vừa có mối quan hệ với văn hóa Đông Sơn, vừa có mối quan hệ văn hóa kim khí ở vùng Đông Nam Á. Từ toàn cảnh tháp Chăm và dừng lại ở một số khu tháp tiêu biểu, có thể thấy, tháp Chăm là một loại kiến trúc tôn giáo, được xây dựng thành từng cụm, thường hướng phía Đông, nơi mặt trời mọc để xua tan đêm tối, làm chỗ dựa tinh thần của người Chăm, đồng thời gợi về cộng đồng Mã Lai - Đa đảo, là tiền đề tạo nên sự hoành tráng cho kiến trúc của những cư dân vùng biển cả. Trong mỗi cụm kiến trúc có một tháp chính và một số tháp phụ bao quanh, bố cục theo nguyên tắc hướng tâm, cho thấy nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của dân tộc Chăm đã góp phần không nhỏ vào kho báu nghệ thuật Việt Nam nhiều thành tựu lớn lao. www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/de...hp?id=261&a=76
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 3, 2011 17:39:28 GMT 9
Lịch Sử Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn – Khuyết Danh
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, tên chính thức là Vương Cung Thánh Đường Chính Tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (sau 75 mang tên Số 1 Công Trường Công Xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách thăm viếng nhất tại thành phố.
Lịch sử
Ngay sau khi chiếm Saigon, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Thiên Chúa Giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).
Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô Đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng Hòa là trụ sở Tòa Tạp Tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của "dinh Thống Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong. Tháng 8 năm 1876, Thống Đốc Nam Kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Thiên Chúa Giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotic đã được chọn.
Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi: • Trên nền Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh Sự Pháp). • Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ). • Vị trí hiện nay. Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Thiên Chúa Giáo muốn xây nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Sau một thời gian tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm. Riêng phía Thiên Chúa Giáo, giám mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu. Đến ngày bắt thăm, phía Thiên Chúa Giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Thiên Chúa Giáo lại trúng thăm [1]. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô Đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám Mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó Soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục Sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được Giám Mục Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống Đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị dẫn đầu công trình xây cất. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí bên trong đều do Soái Phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, thánh đường có tên gọi là nhà thờ Nhà Nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý. Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám Mục hiệu tòa Adran) dẫn Hoàng Tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Đức Cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn Hoàng Tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "Hai hình" để phân biệt với tượng "Một hình", là bức tượng của Đô Đốc Hải Quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên. Năm 1959, Linh Mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám Mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm.
Khi tượng từ Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh Mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng Y Aganianian từ Roma qua Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại Hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà Thờ Đức Bà. Ngày 05/12/1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà Thờ Chánh Tòa Saigon lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức là Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Saigon. Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám Mục tại Hà Nội, Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng Giám Mục Saigon cho đến ngày nay.
Những nét đặc sắc Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế Chiến II do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon - Gia Định lúc ấy và bây giờ. Bên trong thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể tới 1.200 người. Thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.
Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều theo kiểu mẫu Roman và Gotic, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.
Thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với cách dùng ánh sáng mặt trời tuyệt hảo, hài hòa tạo nên một ánh sáng êm dịu, một cảm giác an lành và thánh thiện.
Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một phân Anh. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Bên trong gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo họa đồ của Kiến Trúc Sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150 kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.
Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30. Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông. Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km tính theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ Vương Hòa Bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).
Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh: REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17.02.1959 Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2011 14:05:20 GMT 9
Điêu khắc đình làng ở Việt NamĐình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Đình An Hải Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình. Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu. Đình Hải Châu Ở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế: "Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...". Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí trên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn. Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ... Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước. Theo Bưu điện Tp. Đà Nẵng Hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng Việt thế kỷ XVIICuối thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc kiến trúc đình làng Việt và nhiều ngôi đình nổi tiếng xuất hiện trong giai đoạn này như: đình So, đình Chu Quyến (Hà Tây), đình Kiền Bái (Hải Phòng), đình Diềm (Bắc Ninh ) . Hiện chưa có một thống kê đầy đủ về số lượng những ngôi đình thế kỷ XVII, nhưng có thể khẳng định chúng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong loại hình đình làng Việt, tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ và rất nhiều trong số đó còn bảo lưu được các giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật. Đi liền với những công trình kiến trúc công cộng làng xã là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian, góp phần tạo nên giá trị độc đáo của kiến trúc đình làng thế kỷ XVII. Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc đình làng giai đoạn này, hình tượng con người nổi lên như một hình ảnh trung tâm, một điểm nhấn độc đáo(1). Điêu khắc gỗ tại đình Hà Hiệp – Hà Tây Nghệ thuật đã phát triển lên một trình độ mới, thể hiện ý thức về cuộc sống tinh thần của người dân đương thời. Hình tượng con người không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà còn đa dạng về thủ pháp nghệ thuật diễn đạt và chiếm một vị trí trang trọng trong đình. Có thể chia theo hai nội dung chính: – Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại, ước lệ được thể hiện ở những mảng trạm khắc theo các chủ đề: “Vũ nữ thiên thần” “người cưỡi rồng, phượng, hạc”, “táng mả Hàm Rồng” “Người cưỡi hổ” – Với hình tượng con người phản ánh cuộc sống xã hội đương thời được thể hiện ở cảnh”Đấu vật”, “uống rượu”; “đánh cờ”; “mẹ con”; “cưỡi ngựa”, “chọi gà, lễ hội”, “nam nữ tình tự”, “thiếu nữ tắm hồ sen”, “chèo thuyền”, “đi săn”. Với hình tượng con người mang yếu tố thần thoại nổi bật với những hình tượng vũ nữ thiên thần có cánh và không có cánh.Tượng vũ nữ ở vị trí ván gió cánh gà thường chạm chính diện với khuôn mặt trái xoan , mũi thấp , môi mỏng , cổ cao thanh tú , đôi khi thể hiện rõ cả 3 ngấn (Đình Diềm – Bắc Ninh). Có khi tượng vũ nữ lại có những đặc điểm chung là ngực nở bụng thon , cánh tay dài với những ngón tay búp măng mềm mại. Bên cạnh đó còn rất nhiều hình tượng con người khác như những đạo sĩ ngồi bó gối trầm tư (đình Hạ Hiệp), người bắt lợn (đình Hạ Hiệp, đình Hương Canh…), chồng nụ, chồng hoa, thôn nữ ngồi trên đầu rồng, đá cầu (đình Hạ Hiệp, đình Hương Canh), cưỡi ngựa, cưỡi voi, quản tượng… Với hàng trăm con người đã vẽ lên bức tranh làng quê xưa: có điều thiện và tội ác, có hạnh phúc và khổ đau, có nụ cười và nước mắt, có khát vọng, lạc quan và bi luỵ, đau thương… Tuỳ từng đề tài mà cách diễn đạt, mô tả, nhấn mạnh từng đặc điểm khác nhau. Đạo sĩ thường có khuôn mặt đăm chiêu (đình Hạ Hiệp), cảnh đấu vật, đi săn.. thì nhấn mạnh các bắp thịt cuồn cuộn của nhân vật chính (đình Hạ Hiệp, Đại Phùng, Hoàng Xá), cảnh nam nữ tình tự, cảnh thiếu nữ… lại chú ý diễn tả khuôn mặt vui vẻ, viên mãn; các cô gái được diễn tả với khuôn ngực căng tròn, đầy sức sống (đình Phù Lão); Người nông dân thường có đặc điểm: đầu tròn, to, cạo trọc; đàn bà thường có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc búi thành búi lớn trên đỉnh. Nói chung hình ảnh con người đa phần đều mang những nét cơ bản của người bản địa, thuộc chủng tộc Nam á, với những đặc điểm: người thấp, đậm, mặt tròn, mũi to, sống mũi thấp, môi dày, mắt to… Cũng có một vài mảng chạm người đàn ông có vóc dáng khá cao lớn, mũi cao, và đặc biệt dựa vào trang phục (áo dài, chân đi ủng, đầu đội mũ phớt rộng vành…), có thể đó là những người phương Tây đến nước ta buôn bán trong giai đoạn này; Những bức chạm mô tả người đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn, táng mả hàm rồng… thường có thân hình vạm vỡ, ngực nở, đôi khi các cơ bắp được phóng đại lên quá mức. Nhìn chung, hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng thế kỷ XVII thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ, chỉ bằng 1/3. Một đóng góp quan trọng của điêu khắc đình làng là sự phản ánh cuộc sống hiện thực của nông thôn Việt Nam thế kỷ XVII. Hoàn cảnh kinh tế xã hội lúc đó không chỉ có sự thay đổi về vật chất mà còn mang lại những trào lưu tư tưởng mới. Chính vì thế, khi ngọn lửa của cuộc nội chiến vừa tắt, thôn xóm mới trở lại yên bình, người dân đã bắt tay xây dựng đình, chùa. Người nghệ sĩ dân gian đã thể hiện cách nhìn lãng mạn của họ về một thế giới đang hồi sinh: cảnh náo nhiệt của hội làng, phút giây đoàn tụ chồng vợ, cuộc hò hẹn của bạn tình, sự nồng nàn của ái ân, nụ cười không tắt của cuộc rượu, phút thư nhàn của buổi săn… tất cả đều tươi mát tình nhân ái, tính nhân văn. Song, cái chất lãng mạn của điêu khắc đình làng không mang tính dung tục, thấp hèn. Có rất nhiều cảnh tình tự không hề khơi dậy cảm giác xác thịt mà chỉ thể hiện tình yêu và cái đẹp cùng ý thức phản kháng mãnh liệt của con người đương thời. Có thể thấy qua những bức chạm của đình làng Việt thế kỷ XVII rất nhiều mặt của đời sống xã hội: trong lao động – cảnh đi săn thú, trong sinh hoạt – vợ chồng gãi chân cho nhau, đá cầu, đấu khiên, hát chèo, nam nữ tự tình, uống rượu… Ngoài ra còn khá nhiều bức chạm mô tả về tầng lớp quan lại: cảnh người hầu quạt cho quan, cảnh quan cưỡi ngựa, cảnh cướp con, đòi nợ và đặc biệt là cảnh phạt vạ gái chửa hoang ở sân đình (đình làng Phù Lão)… Tính hiện thực thể hiện ngay trong từng chi tiết: Khẩu súng kíp, đao, kiếm, cung của thế kỷ XVII; Y phục của con người thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội đương thời: (váy, mũ miện, hạt cườm của phụ nữ; áo dài, ủng, mũ phớt của đàn ông…); Những nhạc cụ cổ xưa (kèn, sáo, trống, thanh la…) hay các trò chơi dân gian (đấu vật, chọi gà, đá cầu…) vv… Đó là những tư liệu phong phú, sống động cho các ngành khoa học như: Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Lịch sử quân sự… Thông qua tính hiện thực của đề tài, điêu khắc trang trí đình làng Việt thế kỷ XVII còn thể hiện tính đấu tranh sâu sắc. Dưới chế độ phụ quyền Nho giáo, người phụ nữ bị khinh miệt, coi rẻ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “phụ nhân nan hoá”)…. Vì vậy, người phụ nữ không được tới đình làng. Vậy nhưng điêu khắc đình làng lại dày đặc hình ảnh người phụ nữ. Họ tự do thể hiện tình yêu với chồng, với con, với bạn bè; tự do vui đùa, ca hát… Có thể nói, không ở một công trình kiến trúc dân gian nào khát vọng yêu đương lại được bộc lộ mạnh mẽ như ở đình làng Việt. Điêu khắc gỗ tại đình Phù Lưu – Bắc Ninh Bên cạnh chủ đề ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, một phần nội dung nghệ thuật đã trở thành tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến đương thời. Đó là cảnh những tên quan bụng phệ ngồi trên sập có thê thiếp hầu quạt. Cảnh phạt vạ của làng với một cô gái đang bụng mang dạ chửa (đình Phù Lão). Đây chính là những lời tố cáo đanh thép. Tóm lại, dù phản ánh hiện thực cuộc sống hay phản ánh ước mơ, khát vọng của người nông dân đương thời thì những tác phẩm điêu khắc trang trí đó vẫn mang đậm tính dân gian, dân dã. Người thợ chạm khắc gỗ thế kỷ XVII đã tự vượt ra khỏi khuôn khổ gò bó để tạo nên những tác phẩm sinh động, cởi mở. Chỉ với vài nét đục, vài đường chạm sơ phác nhưng những tác phẩm điêu khắc đó đã trở nên có hồn, vô cùng sống động. Hơn thế nữa các đề tài thể hiện lại vô cùng phong phú, cho thấy đời sống và sinh hoạt của người dân rõ ràng đã có ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí kiến trúc và ngược lại, kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc lại là tấm gương phản ánh cuộc sống của người xưa. Ghi chú: 1. Thực tế sang thế kỷ 18 ta vẫn gặp một số đình làng mô tả hình tượng con người trên điêu khắc kiến trúc (đình Hồi Quan – Bắc Ninh, đình Hoành Sơn – Nghệ An…). Theo kientrucvietnam
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 27, 2011 14:09:28 GMT 9
Nghệ thuật điêu khắc ở khu tháp Chiên ĐànVào năm 1989, tại nhóm tháp Chiên Đàn, trong một cuộc khai quật để làm phát lộ chân tháp chuẩn bị cho việc trùng tu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một hệ thống mô típ trang trí chân tường cùng hàng trăm tác phẩm điêu khắc có giá trị bằng sa thạch, đó là những tượng nam thần, nữ thần, nhạc công, Apsara, tượng động vật, các vật trang trí kiến trúc, đài thờ, bi ký...Phần trang trí chân tường là những thớt sa thạch lớn ghép quanh chân tháp, được chạm trổ hình những chiến sĩ cầm vũ khí đang múa cùng với các vũ nữ, nhạc công, nhưng đầu Makara, mặt Kala. Ở mặt bắc của tháp giữa có bức chạm hình một cặp voi quay đầu vào nhau, ở giữa cặp voi là một cụm hoa lá sen, cặp voi trông sống động và ngộ nghĩnh. Trong số những hiện vật tìm thấy năm l989 có một bức tympan sa thạch với đề tài Mahisasuramardini (Nữ thần giết quỉ đầu trâu), thể hiện nữ thần Devi (một hóa thân của nữ thần Uma) có 6 cánh tay, hai tay trên chắp lại trên đầu, bốn cánh tay còn lại cầm cung, tên, đinh ba, vòng. Nữ thần đạp trên lưng một con trâu, chân phải cong lại, chân phải duỗi ra trong tư thế rất dũng mãnh. Tượng động vật ở Chiên Đàn gồm rắn Naga, ngỗng thần Hamsa, chim thần Garuda, voi, sư tử, nai, Gajasimha...Nhiều vật trang trí kiến trúc thể hiện đầu makara phun ra người hoặc động vật khác; những vật trang trí góc chạm các loại hoa lá cách điệu... Những hiện vật phát hiện được vào năm l989 đã làm cho các nhà nghiên cứu có một cái nhìn khác về khu tháp Chiên Đàn, bởi lẽ trước đây các học giả người Pháp chỉ tìm thấy một số lượng nhỏ các tác phẩm điêu khắc ở đây, do vậy họ đã xếp các tượng ở Chiên Đàn vào phong cách nghệ thuật Chánh Lộ (thế kỷ XI). Xét về mặt tiếu tượng học thì các tác phẩm điêu khắc ở Chiên Đàn rất gần với phong cách Chánh Lộ, tuy nhiên J. Boisselier đã có lý khi cho rằng những bức chạm nổi (relief) ở Chiên Đàn kém thuần nhất hơn ở Chánh Lộ (theo J. Boisselier - La Statuaireu Champa, Paris, 1963), điều đó khá dễ hiểu, bởi ba ngôi tháp ở Chiên Đàn được xây dựng tuần tự trong một thời gian dài, từ đầu đến cuối thế kỷ XI và có thể sang đầu thế kỷ XII. Không chỉ có thế, vào cuối năm 2000, trong đợt tôn tạo cảnh quan sân vườn quanh khu tháp, tại khu vực phía trước tháp giữa, chúng tôi đã phát hiện được nền móng của một phế tích có thể là một ngôi nhà dài (mandapa), phần chân móng của mandapa nằm ở độ sâu khoảng 1 mét so với móng của tháp giữa, cũng giống như chân tháp, dưới chân mandapa được lót những viên đá cát hạt thô màu trắng đục, từ chân lên đến nền mandapa các lớp gạch được xây giật cấp, chạm trổ thành những tầng sen cách điệu dạng kỷ hà; bao quanh phần còn lại của thân mandapa là một số tượng người ngồi xếp bằng được chạm trực tiếp vào gạch. Tiếp theo mandapa về phía đông có lẽ là một tháp cổng (gopura); trong hố khai quật còn tìm thấy khoảng 100 hiện vật, gồm tượng các nam thần, nữ thần, Kinnnara, vũ công, tu sĩ Bà-la-môn, tượng động vật, đồ trang trí kiến trúc, cùng nhiều mảnh vỡ của các di vật bằng sa thạch. Trong nghệ thuật điêu khắc Champa, ngoài y phục, các đồ trang sức, đồ đội của các nhân vật là đặc điểm để phân biệt các vị thần, tu sĩ, những người trong hoàng gia, chiến sĩ..., nhưng cũng như các tượng trong phong cách Chánh Lộ, đồ trang sức của các pho tượng ở Chiên Đàn rất đơn giản có khi không có món trang sức nào, do vậy chỉ có thêm nhận biết nhân vật qua động thái, vật cầm tay, đồ đội trên đầu của nhân vật ... Các loại đồ đội ở Chiên Đàn có thể chia làm hai nhóm: nhóm một gồm loại đồ đội thấp có dạng vương miện không che toàn bộ mái tóc. Nhóm hai gồm những đồ đội cao hình chóp, đó là những kirita-mukuta có ba hoặc bốn tầng được gắn những đóa hoa hình tam giác; hoặc một vương miện kết hợp với tấm bọc búi tóc thành hình chóp, được thắt lại như vỏ ốc xoắn. Trang phục phụ nữ là một kiểu váy ngắn đến đầu gối, thắt lưng vải buông xuống ở giữa thành một vạt lớn và dài, cong và nhọn ở đầu mút trông giống như một chiếc khố. Vòng đeo tay và vòng cổ là loại vòng kim loại có vẽ nặng nề, ít chi tiết. Các tượng ở Chiên Đàn được thể hiện khá đơn điệu, mộc mạc; chúng không còn vẽ duyên dáng nhẹ nhàng như phong cách Trà Kiệu, đồng thời cũng chưa đến mức rườm rà, chi tiết như phong cách Tháp Mẫm. Kéo dài trong khoảng một thế kỷ, các tác phẩm điêu khắc ở Chiên Đàn đã bộc lộ sự tiến hóa khá rõ nét; những tượng vũ công thuộc giai đoạn sớm vẫn mô phỏng theo động tác uốn mình của các vũ công trên đàn thờ Trà Kiệu, tuy nhiên kém mềm mại hơn; những búi tóc to hình ô-van nằm ngang, đôi mắt hình khuy áo không có con ngươi; những con Garuda với đôi tay đưa thẳng lên đầu; những con voi có đầu quay ngang với đôi tai to là ảnh hưởng của phong cách Trà Kiệu ở cuối thế kỷ X. Những tượng ở giai đoạn muộn (cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII) đă xuất hiện một số đặc điểm gần với phong cách Tháp Mẫm : những con Gajasimha mập và lùn với những chi tiết khá tỉ mỉ trên bộ lông bờm; trên các bệ thờ, bàn thờ, chạm trổ những cánh sen có đầu mút cong nhọn vễnh lên... Một số tác phẩm điêu khắc mới được phát hiên vào cuối năm 2000: + Bức chạm nổi (relief) thể hiện hai vị nam thần, một lớn, một nhỏ; được làm bằng sa thạch màu vàng đất - một loại sa thạch mềm; kích thước 42cm x 40cm x l7cm. Nhân vật lớn đầu đội mũ miện; tóc búi cao, thắt lại ở giữa bằng một dãi lụa. Gương mặt trái xoan, bị mòn không còn rõ chi tiết; thần đeo một đôi khuyên tai tròn và to trên đôi tai dài. Trên cổ thần là một vòng kim loại khá dày không có hoa văn. Bộ ngực nở nang, thân trên để trần, thân dưới mặc một sampot ngắn. Tay phải thần cầm một cuốn sen, đặt ở bụng; tay trái nâng hoa sen lên; hai chân duỗi ra, chân phải ở trên, chân trái ở dưới; toàn thân trong tư thế như đang bay hoặc bơi. Nhân vật nhỏ ngồi trên chân phải nhân vật lớn; trang phục vị thần này rất đơn giản, gần như khoả thân, trên đầu đội một kirita-mukuta, tay trái đưa lên như đang vẫy chào. Cả hai nhân vật được bao quanh bởi những đám mây hoặc sóng nước cách điệu. Đây là một bức chạm nổi có nội dung khá độc đáo; đóa hoa sen có cuống dài dường như mọc ra từ rốn nhân vật lớn, khiến chúng tôi liên tưởng đến cảnh "Đản sinh Brahma". Những bức chạm mô tả cảnh Đản sinh Brahma thường thể hiện thần Vishnu đang nằm trầm tư trên lưng rắn thần Sésa có 7 đầu, bồng bềnh trên biển vũ trụ Ananta; từ rốn thần Vishnu mọc ra một đóa hoa sen, trên tòa sen là thần Brahma ngồi xếp bằng. Trong bức chạm này, nhân vật lớn có lẽ là thần Vishnu đang bơi trên biển Ananta, nhân vật nhỏ là thần Brahma sau khi giáng thế đã bước ra khỏi đóa sen. + Tympan sa thạch màu vàng đất, kích thước: 41cm x 32cm x 11cm, thể hiện một nữ thần ngồi xếp bằng. Nữ thần đội mũ hình chóp như một búp sen, gương mặt trái xoan, mắt nhìn thẳng, môi dày, miệng hơi mĩm cười, đôi khuyên tai tròn có vẽ nặng làm cho đôi tai của nữ thần dài thêm. Trên cổ nữ thần đeo kiềng bằng kim loại không có hoa văn. Thân trên nữ thần để trần với bộ ngực nở nang, eo thon; bên dưới mặc một chiếc váy không rõ đường nét. Hai tay nữ thần cầm hai đóa sen tì lên đầu gối, đây là tư thế quen thuộc của những tượng nữ thần Laskmi. + Tượng nam thần được làm bằng sa thạch màu vàng đất, kích thước: 45,5cm x 34cm x 15cm . Tượng ngồi xếp bằng. Tóc ông ta được tết lại thành một búi lớn hơi nhọn ở đỉnh; mặt trái xoan, mắt nhìn thẳng, tròng mắt không có con ngươi. Thần có đôi tai dài, đeo khuyên tai tròn; thân trên để trần, ngực nở; tay phải cầm một vỏ ốc đặt trước ngực, tay trái cầm một đóa sen đưa lên ngang vai trái. Thân dưới thần mặc một sampot ngắn. Căn cứ vào vật cầm tay, chúng tôi nghĩ rằng đây là tượng thần Vishnu. + Tượng nam thần ngồi xếp bằng, được làm bằng sa thạch màu vàng đất; kích thước: 44,5cm x 34cm x14,5cm. Đầu thần đội mũ miện; tóc tết lại thành nhiều lọn nhỏ, búi lại ở trên thành hình 4 cánh sen chụm lại, búi tóc được thắt bằng một dải ruban. Thần có hai hàng lông mày mảnh; mắt hình khuy áo, tròng mắt không có con ngươi, đặc điểm nầy là yếu tố bảo lưu của phong cách Trà Kiệu. Cánh mũi rộng, đôi môi dày, hơi mĩm cười. Tay phải thần cầm một đóa sen; tay trái cầm một vật không rõ hình dạng, có một dải lụa thòng xuống.Trên cổ tay thần đeo vòng tay kép, trên hai cánh tay đeo đôi vòng đính đóa hoa 4 cánh. Thân trên thần để trần, thân dưới mặc một sampot ngắn. + Bức chạm nổi hình lá đề, được làm bằng sa thạch màu vàng đất; kích thước 45,5cm x 25cm x l5cm. Bức chạm thể hiện một Kinnara (nhạc công thiên tiên có đầu người mình chim); tóc Kinnara tết lại thành nhiều lọn nhỏ, búi cao, thắt lại ở giữa bằng một ruban, chân tóc trước trán nổi cao như một đường viền. Mặt Kinnara hơi nghiêng về bên trái, gương mặt thanh tú, đôi môi dày hơi mĩm cười. Đôi mắt hình khuy áo và hai hàng lông mày mảnh; đôi tai đeo khuyên tai hình tràng hoa dài chấm vai, đó là những đặc điểm của phong cách Trà Kiệu. Cổ Kinnara đeo vòng, hoa văn không còn rõ . Thân trên để trần, nghiêng về phía bên trái. Tay phải cầm hoa sen đưa lên về phía vai trái. Thân dưới chỉ được thể hiện đến ngang hông. Sau lưng Kinnara là đôi cánh dang rộng như đang bay; chung quanh là những đám mây cách điệu... + Tu sĩ Bà-la-môn được làm bằng sa thạch; kích thước: 36cm x 24cm x 08cm. Trên đầu tu sĩ đội một mũ miện hình hoa sen nở, tóc tết lại thành nhiều lọn nhỏ, búi lại giống như một chiếc mũ; gương mặt hiền từ, mắt hơi khép lại, cánh mũi rộng, miệng mĩm cười; tay dài đeo khuyên tại tròn và to. Thân trên để trần, phía dưới mặc một sampot ngắn. Tay trái cầm một vật hình chóp, tay trái cầm phất trần; trên cổ tay đeo 2 vòng tay kép. Tu sĩ trong tư thế quì gập đầu gối, 2 bàn chân duỗi về phía sau, lòng bàn chân hướng lên trên, mông đặt trên 2 bàn chân. + Nhạc công được làm bằng sa thạch màu vàng đất. Kích thước: 59cm x 29cm x 16cm. Tượng ngồi gập gối, hai đầu gối hướng về bên trái, mông đặt trên hai gót chân. Hai tay nhạc công cầm một chiếc đàn có cần dài ép trước ngực, đầu cần đàn gác lên vai trái, bàn tay trái như đang khảy vào dây đàn, bàn tay phải bấm vào cần đàn. Trang phục của nhạc công rất đơn giản, thân trên để trần, phía dưới mặc một sampot ngắn. + Trang trí đầu makara phun ra người, kích thước: 38,5cm x 22cm x13cm. Thể hiện một đầu makara đang há rộng miệng, từ trong miệng makara nhô ra một người chắp tay, nhân vật nầy đội mũ miện, tóc búi thành hình chóp, miệng mĩm cười đeo khuyên tai tròn và nặng. Cho đến thời điểm hiện nay (tháng 6 năm 2001), Chiên Đàn là nơi có số lượng hiện vật điêu khắc bằng sa thạch nhiều nhất được biết đến trong các nhóm 3 tháp, phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở đây có thể xếp vào phong cách Chánh Lộ, tuy vậy vẫn có những tác phẩm mang tính tiếp nối phong cách Trà Kiệu, và có những bức chạm thể hiện sự chuyển tiếp từ phong cách Chánh Lộ sang Tháp Mẫm. Theo tạp chí Văn hoá Quảng Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 4, 2012 9:47:50 GMT 9
Đình làng Nam Bộ Bùi Thụy Đào Nguyên
Đình làng hay đình thần, là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn làng. Nhìn chung ở Nam Bộ (Việt Nam), sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc & công sức đóng góp của cư dân, mà tiến hành xây dựng một ngôi đình. Từ đó, ngôi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy. Kiểu thức
Không như ngôi đình làng ngoài Bắc là một kiến trúc gỗ đồ sộ, gồm 5-7 gian; ngôi đình Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi nhà sát liền nhau theo kiểu sắp đọi [1]; và thường được xây dựng ở vị trí cao ráo, tiện việc đi lại, ít bị chi phối bởi thuật phong thủy.
Ngày nay, đình thần Nam Bộ có lối kiến trúc khá đa dạng, bởi sau khi bị hư hại bởi thời gian & chiến tranh; kiểu thức truyền thống chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy đã ít nhiều thay đổi, nhưng một ngôi đình ở Nam Bộ, lần lượt từ ngoài vào trong đại để như sau:
- Cổng đình có kiểu dáng không chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái lợp ngói, hoặc trên hai trụ có đặt cặp lân bằng sành tráng men. - Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Mặt bình phong thường đắp nổi hoặc vẽ cảnh cọp vàng (hoàng hổ) đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành lá; hoặc cảnh long mã chở cái phù đồ, hoặc cảnh long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên nhìn rồng đang bay ẩn trong mây nhìn xuống); cốt để biểu thị âm dương hòa hợp.
- Sân đình thường có đàn thờ Thần Nông (tức Tắc thần), có nơi lập đàn tế chung với thần Thần Đất (tức Xã thần) gọi là đàn Xã Tắc [2]. Hai bên đàn thường là các miễu thờ cọp (Chúa xứ Sơn quân), miễu thờ Hội đồng hoặc miễu thờ nữ thần (có thể là một trong các nữ thần sau: Năm Bà ngũ Hành, Chúa Xứ Nguyên Nhung, Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Tiên, Chúa Ngọc...).
- Ngôi đình chính thường là ba hoặc nhiều nếp nhà tứ trụ (tức nhà vuông có 4 cột cái, một gian, hai chái), cùng kiểu cùng cỡ, bố trí theo kiểu "trùng thềm điệp ốc". Mái đình thường lợp ngói âm dương hoặc ngói ống kiểu Trung Quốc, ngói kiểu vảy cá (kiểu Pháp, có sau năm 1920); trên nóc thường gắn những hình sành tráng men màu như Lưỡng long tranh châu, chim phượng ngậm cuốn thư, lân mẹ dạy lân con, cá hóa long, bát tiên, ông mặt trời, bà mặt trăng, con nạ (một loài thủy quái theo truyền thuyết); nhằm tượng trưng cho âm dương hòa hợp, sung túc, thiêng liêng.
Bên trong mỗi đình có cách phân chia hơi khác nhau, nhưng thường là có ba gian chính: -Vỏ ca (gian trước), dành làm nơi xây chầu & hát Bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên. -Vỏ qui còn gọi vỏ cua hay nhà chầu (gian giữa), có nơi như Đình Phú Nhuận (thành phố Hồ Chí Minh), đặt bàn thờ Hội đồng ngoại [3]; có nơi như Đình Mỹ Phước (Long Xuyên, An Giang) đặt bàn thờ 18 đời vua Hùng, bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh; và cũng có nơi dùng làm chỗ cho các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát Bội) hoặc hội họp.
-Chính điện hay Chính tẩm (gian cuối), là gian được coi là mỹ thuật nhất ở đình, gồm hoành phi, câu đối, khám thờ, các bao lam và các mảng phù điêu...Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng đẹp đẽ, tinh tế. Ở gian này, đối tượng thờ chính là Thành Hoàng làng; ngoài ra có nơi như Đình Mỹ Phước có thờ thêm Hội đồng nội.
Ngoài ra, ở hiên phụ (cất dọc theo các gian chính), có thờ thêm Tả ban, Hữu Ban, Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền...Và tùy theo diện tích đình, mà có thể có thêm: -Nhà hậu hay nhà hội, để hương chức, ban tế tự hội họp; để dân làng qui tụ chuẩn bị lễ cúng tế.
-Nhà trù (nhà bếp) và nhà ở của ông Từ giữ đình v.v...
Bày trí
Tuy mỗi nơi có đôi chút dị biệt, nhưng việc bày trí thờ thần ở đình phải tuân thủ mấy nguyên tắc sau. Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì:
- Câu đối ở đình chỉ trạm triện rồng hoặc tứ linh (long, lân, qui, phụng). - Bát bửu là 8 món quí báu gồm: bút, sách, quạt, gươm, lẵng hoa, đàn và sáo, bầu rượu, túi thơ. Có nơi là: pho sách, ngọc như ý, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ bà, quạt, phất trần.
- Cửa võng (bao lam) thường chạm lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu mặt trăng), hoặc là: lục long ngự thiên (sáu con rồng bay về trời), ngũ phụng hàm thư (năm con phụng ngậm tờ thư).
- Bàn thờ thần Thành hoàng có ngai chạm hai con rồng, với cái long vị hình chử nhật (thần vị) mô phõng dáng người ngồi, ghi tên hiệu của thần...Trước long vị, đặt cái gương nhỏ, tượng trưng cho cái hốt mà vị quan cầm che trước mặt mỗi khi vào chầu vua. Ngoài ra, ở đây còn có tráp đựng sắc phong[4], tam sự hoặc ngũ sự (Tam sự là cái lư để đốt trầm và hai cái chân đèn. Ngũ sự thì có thêm hai ống cắm nhang), bình, khay, kỷ tam sơn là ba khối vuông (khối giữa nhô lên) dùng để lư hương, trầu, rượu, gợi bóng dáng ba ngọn núi.
Ở đây còn có vài tàn lọng, cờ vía, đồ lỗ bộ, mũ cùng quần áo thờ. Hai bên hương án thường là đôi hạc đứng trên lưng rùa. Nếu thần là quan võ, có nơi còn có chưng cái giá, trên để ba thanh gươm cán dài, gọi là gươm vía hoặc gươm cẩn và ngựa...Chiêng trống là dụng cụ cần thiết khi tế lễ. Cái mõ là một khúc cây dài khoét bọng, dấu ấn của thời xưa, dùng để đánh lên báo động khi trong làng xảy ra hỏa hoạn, hoặc có giặc cướp... Tế lễ
Tùy theo tập quán của từng địa phương, không nơi nào giống hệt nơi nào, nhưng nhìn chung ở đình làng Nam Bộ thường diễn ra các cuộc lễ như sau:
- Lễ Niêm ấn & lễ Khai sơn [5]: Xưa, vào ngày 25 tháng Chạp, hương chức làm lễ rửa con dấu, bỏ vào hộp niêm kín. Kể từ ngày này, công việc hành chính trong làng đều đình chỉ cho đến mồng 7 tháng Giêng. Lễ Khai sơn (hay Khai hạ, Khai ấn), được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Xưa ngày này có lễ Hạ nêu và lễ Khai ấn. Hương chức làm lễ làm lễ Khai sơn xong, thì lấy cuốc bổ vài nhát tượng trưng gọi là động thổ, cho dân theo đó mà khởi sự cày cấy, trồng trọt; và các công việc hành chính trong làng trở lại bình thường.
- Lễ Bầu ông: Thuở Nam Bộ còn hoang vu, nhiều người sợ cọp nên mỗi làng chỉ cử đến Hương chủ, vì chức Hương cả phải nhường cho cọp (tục lệ này có ghi trong Minh điều hương ước ban hành năm 1852). Và bởi cọp là hương chức đứng đầu, nên hàng năm, tùy theo đình chọn ra một ngày [6] để làm lễ "Bầu ông": cúng một con heo trắng, kèm theo một tờ cử hương chức. Gần đây, tục cúng Cả cọp vẫn còn nhưng chỉ nhằm cầu an cho bá tánh.
- Lễ Tam Nguyên (hay Tam Ngươn): là lễ cúng vào ba ngày rằm lớn: tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.
- Lễ Hạ điền và Thượng điền: Đây là hai lễ lớn trong năm (Xuân Thu nhị kỳ). Hai lễ này chính là sự biến đổi từ tập tế xuân (Xuân tế) và tế thu (Thu tế). Ở Nam Bộ, lễ Hạ điền, được cử hành vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như khai trương việc cày cấy, trồng trọt. Lễ Thượng điền, được cử hành vào cuối mùa mưa, lúc mùa màng đã có kết quả. Hai lễ này mang tính chất lễ nghi nông nghiệp rõ rệt. Bên cạnh việc cầu Quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình; là lễ cúng Thần Nông, Hậu Tắc, Vũ Sư, Phong Bá, Điển Di...Thông thường, lễ Hạ điền long trọng hơn lễ Thượng điền.
Ngoài ra ở đình Nam Bộ còn có các lễ nhỏ khác, như: Giỗ hậu và Giỗ các anh hùng lịch sử; lễ vía Bà (các nữ thần được phối tự); và các lễ khác gọi chung là Tứ thời tiết lạp, gồm: Nguyên Đán, Hàn Thực (3 tháng Ba âm lịch), Thanh Minh (trong khoảng tháng Ba âm lịch), Trung Thu (rằm tháng Tám âm lịch), Trùng Cửu (mồng 9 tháng Chín âm lịch), Trùng Thập (mồng 10 tháng Mười âm lịch), Trừ Tịch (30 tháng Chạp âm lịch)... - Lễ Kỳ yên Đây là lễ chính trong năm. Lệ phổ biến là 3 năm cúng lớn một lần, gọi là Đại lễ Kỳ yên (Tam niên đáo lệ Kỳ yên). Sách Gia Định thành thông chí chép: Mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu, cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy.
Ban quí tế Tên cũ là Ban Hương chức hội tề, hay Ban tế tự, gồm nhiều người có đạo đức tốt, có nhiều cống hiến cho đình, cho làng. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì đại khái chia ra làm ba loại hương chức:
- Hương chức loại 1: tức hương chức Hội chánh, gồm có: Kế hiền (Hội trưởng); Chánh bái (hay Chánh niệm hương), Phó bái, Bồi bái, Tiên bái (bốn chức chung lo việc ngoại vụ); Chánh tế, Phó tế, Bồi tế (ba chức chung lo việc nội vụ). - Hương chức loại 2: tức hương chức Hội tề, gồm có: Giáo sư (cố vấn mọi mặt), Hương quan (cố vấn nghi lễ, tục lệ), Hương lễ (chỉ huy ban lễ sinh), Hương nhạc (chỉ huy ban nhạc lễ), Hương văn ( soạn thảo văn tế), Hương ẩm (tổ chức tiệc tùng), Thủ bổn (lo việc sổ sách và kiểm tra lễ vật), Thủ từ (giữ đình, lo việc đèn nhang mỗi ngày).
- Hương chức loại 3: tức hương chức Hội hương hay Ngoại hội tề, gồm những người phụ giúp việc đình miếu.
Một điều khác lạ là ở Nam Bộ, dù là người đỗ đạt cao hay làm quan to thì cũng chỉ là khách quí khi về dự cúng đình chứ không được đứng làm chủ tế. Một điều khác nữa là ở Nam Bộ không hề phân biệt dân cố cựu, dân ngụ cư. Dân mới cư ngụ đôi ba năm, vẫn có thể được cử làm hương chức. Và ở đây cũng không hề có trường hợp bắt họ phải làm "thằng mõ".
Có thể nói Ban quí tế đình miếu ở Nam Bộ là một tổ chức bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn. Tuy có nơi, họ bị mang tiếng là bọn xôi thịt; nhưng đa phần đều là những người đáng kính, bởi họ thường gia nhập một cách tự nguyện, tự giác; bổn phận nhiều hơn quyền lợi. [7]
Ý nghĩa
Đình là thiết chế văn hóa tín ngưỡng của làng xã thời xưa, là nơi thờ thần Thành hoàng, được sắc phong theo ý nghĩa là thần phù hộ cư dân một làng. Ngoài ra, ngôi đình còn là nơi thờ các vị phúc thần, thần linh, danh nhân lịch sử, Tiền hiền, Hậu hiền (những người có công thành lập và xây dựng làng xã); là nơi dân làng đến lễ bái cầu mưa thuận gió hòa, xóm làng yên ổn, là nơi tụ họp dân làng, yến ẩm, vui chơi... Trong một giai đoạn ngắn của lịch sử hành chánh, ngôi đình còn là trụ sở hành chánh của làng xã.
Trích thêm nhận định của các nhà nghiên cứu.
- Sơn Nam:
Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng "lưu dân tập thể", mặc dù làng lắm gạo nhiều tiền...[8] Sách Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch: Ngôi đình ở Nam Bộ gần như thống nhất từ đầu với lịch sử ngôi làng ngay từ lúc mới thành lập. Công trình này là nhân chứng và là một lực lượng (ít nhất là về tinh thần) vào sự hình thành, phát triển của vùng đất mới này. Ngoài ra, đình còn biểu hiện sinh hoạt luân lý, đoàn kết, hội hè của những kẻ tha phương...[9] Nguyễn Đăng Duy: Đình Nam Bộ không có ruộng công. Kinh phí cho hoạt động thờ thần, hội làng đều do các các nhà hảo tâm, do dân làng tự nguyện đóng góp. Đặc biệt, ở đây việc ăn uống, chỗ ngồi không bị phân ra ngôi thứ quá khắt khe như ở các đình đền ngoài Bắc. Cái khác nữa, là các đình ở ngoài Bắc, thường chỉ thờ một nhân thần hoặc một nhiên thần; còn ở Nam Bộ, đình là trụ sở của một tập hợp thần linh đa tạp. Tất cả được hỗn dung tổ hợp từ nhiều nguồn, nhiều phía. Có thể tạm phân ra như sau:
- Từ ý thức biết ơn, biểu dương các người có công giữ nước, dựng làng.
- Từ ý thức hiếu nghĩa đối với tổ tiên.
- Từ ý thức nhớ về cội nguồn vẻ vang.
- Từ ý niệm thiêng liêng phong sắc cho thần.
- Từ ý niệm thờ thần gắn với không gian nghề nghiệp.[10]
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn. Chú thích [ 1 ] - Đọi: từ cổ, tương đương chữ chén bát ngày nay.
[ 2 ] - Xã thần (Thần Đất,社) và Tắc thần (tức Thần Nông, 稷 ) là hai vị thần của nền văn minh lúa nước.
[ 3 ] - Hội đồng nội và ngoại, theo Sơn Nam gồm các vị thần sau: Mục đồng, Hậu thổ, Bà chúa Ngọc, chúa Ngung, Chúa Xứ, Ngũ hành nương nương, Táo quân, Cọp, Cá Voi v.v...(Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 28).
[ 4 ] - Nhiều đình không để sắc phong ở tráp, mà để ở nhà một hương chức có uy tín để tiện bảo quản. Khi có lễ, mới cử đoàn đi rước sắc về đình.
[ 5 ] - Có thể tục có nguồn gốc từ các thôn làng ở gần núi nên có tên là lễ Khai sơn.
[ 6 ] - Đình làng Trà Tân ở Cai Lậy, làm lễ "Bầu ông" ngày 17 tháng Ba (âm lịch), Đình làng Tân Tĩnh ở Mỹ Tho làm lễ ngày 16 tháng Giêng (âm lịch).
[ 7 ] - Lược theo Trương Ngọc Tường, Đình miếu ở đồng bằng sông Cửu Long, in kèm trong Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 80-83. ở sách Kiến thức phục vụ thuyết minhdu lịch, tên chức danh trong Ban quý tế có hơi khác.
[ 8 ] -Đình miếu & lễ hội dân gian, tr. 21
[ 9 ] -Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch, tr. 351.
[ 10 ] - Lược theo Văn hóa tâm linh Nam Bộ, tr. 103-117.
Tài liệu tham khảo
- Sơn Nam, Đình miếu & lễ hội dân gian, Nxb TP. HCM, 1992.
- Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam , Nxb Trẻ, 2005.
- Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (giáo trình cho ngành du lịch, sách do nhiều người soạn), Nxb TP. HCM, 1995.
- Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ, Nxb Hà Nội, 1997.
- Sổ tay hành hương đất phương Nam, Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên, Nxb TP. HCM, 2002.
Nguồn gốc và chức năng đình làng Việt Nam ngày 8 tháng 11 năm 2013 Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô đọng nhất là lễ hội....
Thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn có nhiều giả thuyết khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỉ II, thế kỉ III. Trong “Lục bộ tập kinh” của Khang Tăng Hội có đoạn: “Đêm đến ông lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở một ngôi đình trống. Người giữ đình hỏi: “Ông là người nào”. Ông trả lời: “Tôi là người xin nghỉ nhờ”... (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam). Chi tiết “ngôi đình trống” trong đoạn văn trên cho ta cơ sở khẳng định đó là trạm nghỉ chân dọc đường, còn chi tiết “người giữ đình” cho ta giả thiết đó là ngôi đình là nhà công cộng của làng xã. Tuy nhiên, giả thiết này còn thiếu chắc chắn. Như vậy, đình trạm là hiện tượng phổ biến ít nhiều từ thế kỉ thứ II. Thời nhà Đinh, ở cố đô Hoa Lư đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trước khi vào trầu vua. Đến đời Trần, đình với tư cách là trạm nghỉ chân được ghi trong Đại Việt sử kí toàn thư: “Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta, phàm chỗ nào có đình trạm đều phải tô tượng phật để thờ. Trước là tục nước ta, sau là vì nắng mưa nên làm đình để cho người ta đi đường nghỉ chân, trát vách bằng vôi trắng gọi là đình trạm” (Theo Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự - Đình Việt Nam). Dưới thời nhà Lê, đình làng đã phát triển. Một sự kiện quan trọng dưới thời Lê Thánh Tông đã được Hồng Đức thiên chính ghi chép lại về việc lập đình như sau: “Người giàu đã bỏ tiền làm đình hay công đức làm chùa. Thế mà (người sau giữ việc hậu) không biết đền đáp ơn đức, chỉ lừa người lấy của, chẳng bao lâu, tình nhạt lễ bạc, quên cả lời đoan, sinh thói bạc ác hoặc bỏ cả giỗ chạp, không như đời trước, hoặc là làm cỗ bàn không như khoán ước, hoặc năm thì trước năm thì sau, không đúng tháng hoặc trẻ thì lạy lớn thì không, chẳng đồng lòng. Vậy con cháu đặt hậu ở đình hay ở chùa mà thấy kẻ giữ ở hậu có trái lễ thì trình báo với nha môn để thu lại tiền công đức” (Theo Hà Văn Tấn - Đình Việt Nam). Đình có bia xưa nhất là đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xưa thuộc làng Thanh Hà cổ, nay thuộc phố ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận Thiên thứ 3 (1433). Các cứ liệu trên cho phép ta khẳng định đình làng đã có từ thời Lê Sơ, đầu thế kỉ XV. Những ngôi đình xưa nhất còn bảo tồn đến ngày nay đều có niên đại vào thời nhà Mạc, thế kỉ XVI, đó là: - Đình Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Nội) dựng năm Đại Chính thứ 2 (1531). - Đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa, Bắc Giang) được ghi vào niên hiệu Sùng Khang (1566 - 1577), nhiều người dự đoán vào năm 1576. - Đình Phù Lưu (Tiên Sơn, Bắc Ninh), được dựng vào cuối thế kỉ XVI. - Đình Là (Thường Tín, Hà Nội) dựng năm Diên Thành thứ 4 (1581). - Đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội) dựa vào phong cách kiến trúc và điêu khắc, người ta dự đoán được dựng vào thế kỉ XVI. Căn cứ vào tài liệu, bi kí, chúng ta có thể biết thêm về những ngôi đình được dựng trong thế kỉ XVI. Bia đình Nghiêm Phúc (xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) dựng năm Hưng Trị thứ 4 (1591) ghi rằng đình được làm vào niên hiệu Cảnh Lịch (1548- 1553). Văn bia đình Đại Đoan (xã Đoan Bái, Gia Lương, Ninh Bình) cho biết đình dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành (1583)… Về nguồn gốc đình làng cũng có nhiều ý kiến khác nhau và cũng chưa có giải đáp chắc chắn. Có ý kiến cho rằng, đình vốn là hành cung của vua, được xây dựng dành cho vua khi đi tuần thú, sau mới thành đình làng. Có ý kiến khác cho rằng, vào thời Lý ở Thăng Long, người ta xây dựng những phương đình (có quy mô nhỏ) để dán các thông báo của chính quyền, hoặc là nơi người ta tuyên đọc các văn kiện của nhà vua. Sau đó, kiến trúc loại này tỏa về làng với chức năng như trụ sở hành chính của làng. Một vài ý kiến khác cho rằng đình làng có thể bắt nguồn từ các kiến trúc thờ thần đất và thần nước. Các cư dân Việt cổ trong tín ngưỡng bản địa, sùng bái thần đất và thần nước che chở nuôi sống họ. Đáng lưu ý là ở Tuyên Quang có đình Tân Trào và đình Hồng Thái được xây dựng vào thế kỉ XX, thành hoàng làng được thờ là thần núi của làng. Theo nguyên lý văn hóa “hóa thạch vùng biển” thì hai ngôi đình Hồng Thái và Tân Trào gợi cho chúng ta về ngôi đình sơ khai đầu tiên của người Việt, kiến trúc khung gỗ, lợp lá cọ, bộ mái lớn, xà thấp, kết cấu nhà sàn và thông thoáng tứ bề. Quy hoạch mặt bằng hình chữ nhất, vì kèo bốn hàng cột. Tín ngưỡng thờ thần đất và nước biến đổi theo thời gian, khi tiếp thu văn hóa phương Bắc thì thần đất, nước được khoác bộ áo của thần thành hoàng Trung Quốc, từ đó biến thành hoàng làng Việt Nam. Do vậy, đình làng với tín ngưỡng của nó có thể có nguồn gốc từ việc thờ thần đất, nước, hai vị thần quan trọng nhất của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, thờ mẫu, thờ sức mạnh tự nhiên, và có phần ảnh hưởng không lớn lắm của đạo Phật, đạo Nho đã được bổ sung tạo ra những biến thể phong phú của Thành Hoàng làng Việt Nam. * Chức năng: Đình làng là một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng tổng hợp, có ba chức năng: Tín ngưỡng, hành chính, văn hóa. Rất khó để xác định chức năng nào có trước, chức năng nào được bổ sung. Hơn nữa, ba chức năng đan xen, hòa quện với nhau đến mức khó có thể phân biệt. 1. Chức năng tín ngưỡng: Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ cúng là Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần, thần hộ mệnh của làng. Khi tín ngưỡng Thành Hoàng du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc cũng nảy sinh ra một số Thành Hoàng mà chức năng cũng giống như ở Trung Quốc…Các vua triều Nguyễn còn lập miếu thờ Thành Hoàng làng ở tỉnh và huyện. Nhưng khi tín ngưỡng Thành Hoàng về làng, xã thì nó đã biến đổi khác với tín ngưỡng Thành Hoàng ở Trung Quốc. Như vây, tín nguỡng Thành Hoàng Trung Quốc khi du nhập vào làng xã Việt Nam thì các yếu tố văn hóa Hán, hoặc hiện tượng Hán hóa khác bị cổng làng chặn lại thì nó lại tìm thấy các tín ngưỡng bản địa có tính tương đồng, nên hội nhập rất thuận lợi với hệ thống tín ngưỡng đa nguyên của Việt Nam. Nguồn gốc của Thành Hoàng cũng rất phức tạp. Trước hết là các thần tự nhiên (thiên thần hay nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng. Các vị thần này đều được khoác áo nhân thần với các tiểu sử thế tục. Được thờ chủ yếu là Sơn Tinh (thần núi), Thủy Tinh (thần sông, thần biển), trong đó, Tản Viên Sơn thánh có địa vị cao hơn cả. Ngoài ra, các vị thần núi có tên như Cao Các, Quý Minh được thờ ở nhiều nơi. Các thần núi ở địa phương, như: Tam Điệp Sơn, Điệp Sơn cũng được tôn làm Thành Hoàng làng. Thành Hoàng làng thứ hai là các nhân thần. Các nhân vật lịch sử, như: Lí Bôn, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo… Chiếm số đông trong các nhân thần là những người ít nổi tiếng hơn như: Quan lại, nho sĩ và đặc biệt là các tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra là các nhân vật truyền thuyết, mang tính giả lịch sử hơn. Thành Hoàng làng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa, như tục thờ cây, thờ đá thời nguyên thủy... Ngoài các vị thần, ở đình làng còn thờ những người có công khai phá đất mới, lập làng, như: Hai hoàng tử thời Lý là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương, Nguyễn Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Cư Trinh … Ở miền Bắc thường gặp ở các vùng ven biển dân làng thờ những người có công khai hoang lấn biển. Những người gọi là “tiên hiền” là những người đến trước, “hậu hiền” là những người đến sau tiếp tục công cuộc “khai canh, khai khẩn”. Thành Hoàng có thể là người xuất thân hèn kém, có người chết vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Trong lễ hội, người ta thường cử hành “hèm” để nhắc lại thần tích của các vị Thành Hoàng làng này. Những người có công đóng góp cho làng sau khi chết được dân làng thờ làm “hậu thần”, hàng năm cúng giỗ ở đình. Có người khi còn sống đóng góp cho làng trên cơ sở có khoán ước với làng, được ghi thành văn bản, đôi khi được khắc vào bia đá. Họ được “bầu hậu” khi chết đi được thờ làm “hậu thần” và được làng hương khói hàng năm. Ngoài ra, ở một số làng nghề thủ công người ta còn thờ tổ nghề gọi là “tiên sư”. Trong miền Nam các “tiên sư” được thờ ở nhà hậu của đình làng, chỉ có một số ít “tiên sư” được thờ ở chánh điện. Tóm lại, các thần làng Việt Nam biểu hiện một hệ thống tín ngưỡng đa nguyên. Đó là một hệ thống pha lẫn nhiều yếu tố tín ngưỡng sơ khai của cư dân nông nghiệp (tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ mẹ, các thần sức mạnh tự nhiên…) với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người anh hùng và có phần ảnh hưởng không nhiều của của đạo Phật và đạo Nho. 2. Chức năng hành chính: Đình làng thực sự là trụ sở hành chính - nơi mọi công việc về hành chính của làng đều được tiến hành ở đó. Từ việc xét xử các vụ tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, từ thu tô thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất phu đinh. Chủ thể tiến hành các hoạt động hành chính ở đình làng là các vị có chức danh Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý, Trưởng tuần và các viên quan của Hội đồng hương kì, kì mục. Cơ sở để giải quyết các công việc của làng được dựa vào lệ làng hoặc hương ước. Hương ước là một hình thức luật tục. Gắn với hoàn cảnh, phong tục, tập quán lâu đời của từng làng mà nhân dân có các bộ luật nhà nước không thể bao quát được. Các làng đều có hương ước riêng với nội dung rất cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, hương ước làng bao gồm những nội dung chủ yếu sau: + Những qui ước về ruộng đất: việc phân cấp công điền, công thổ theo định kì và qui ước về việc đóng góp (tiền và thóc). + Qui ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy trì đê đập, cấm lạm sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa bãi. + Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch trong làng. Việc xác định chức dịch trong làng nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng. + Những quy định về văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng. Đó là những quy ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm, dòng họ, gia đình, láng giềng, được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công vào việc sửa chữa, xây dựng đình, chùa, điện, quy định về thể lệ tổ chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp cheo… Hương ước còn có những quy định về hình phạt đối với ai vi phạm. Vi phạm mức độ nào thì nộp phạt hoặc phải làm cỗ ở đình làng để tạ tội với Thành Hoàng làng. Hình phạt cao nhất là bị đuổi ra khỏi làng. Có thể nói, hương ước là một bộ luật của làng xã. Về cơ bản, hương ước chứa đựng nhiều giá trị văn hóa dân gian tốt đẹp, được hình thành lâu đời và nếu được chắt lọc có thể phát huy những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống làng xã hiện nay. Với đặc điểm của tính tự trị và tính cộng đồng của làng xã, hoạt động hành chính và quản lí của làng xã được tiến hành có hiệu quả. Đình làng với tư cách là trụ sở hành chính đã trở thành biểu tượng của tính tự trị và sự cố kết cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử của mình. 3. Chức năng văn hóa: Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng. “Cây đa, bến nước, sân đình” đã đi vào tâm hồn của người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa ở đình làng là lễ hội. Làng vào hội cũng được gọi là vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng. Ở các làng quê Việt Nam còn có hội chùa, hội đền nhưng phần lớn là hội làng được diễn ra ở đình làng gắn với đời sống của dân làng. Lễ hội bao gồm hai phần chính là: Phần lễ và phần hội: + Lễ là các hoạt động có tính nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng. + Hội là hoạt động mang tính giải trí, gắn liền với thế tục, nghệ thuật, thể dục, thể thao. Nhưng trong một số trò chơi hội làng cũng có ý nghĩa tâm linh, gắn với mục đích cầu mưa, cầu mùa. Lễ hội ở làng diễn ra “xuân thu, nhị kì” vào các dịp nông nhàn. Lễ hội phần lớn vào tháng Giêng, có nơi vào thành hai, tháng ba âm lịch. Lễ hội thu thường vào tháng bẩy, tháng tám. Đó là hai lễ hội lớn, còn trong năm người ta cúng lễ Thành Hoàng làng. Lễ cúng Thành Hoàng làng trong khi mở hội có quy trình như sau: - Lễ trộc dục: Lễ tắm tượng thần hay thần vị. - Lễ tế Gia quan tức là lễ mặc áo, đội mũ cho tượng thần. Nếu chỉ có thần vị thì đặt áo, mũ lên ngai. - Rước thân: Khi mở hội, người ta rước thần từ đền ra đình. Khi kết thúc hội thì lại rước thần về đền. Ở nhiều làng, người ta thờ Thành Hoàng làng ngay trong đình. Trong ngày hội, người ta rước thần đi vòng quanh làng và quay về đình. - Đại tế: Là lễ tế quan trọng nhất. Có một người đứng chủ trì lễ (chủ tế), còn gọi là mạnh bái. Ngoài ra còn có hai hoặc bốn người bồi tế, hai người đồng xướng, hai người nội tán, mười đến mười hai người chấp sự. Sau buổi đại tế, người ta coi thần luôn có mặt ở đình nên các chức sắc và bô lão phải thay nhau túc trực. Mở hội gọi là nhập tịch, hết hội gọi là ngày xuất tịch hay còn gọi là ngày dã đám. Sau phần tế lễ là các hoạt động vui chơi, giải trí. Sân đình trở thành sân khấu diễn xướng, ca hát. Ở những hội làng Bắc Bộ, sân đình thường có chiếu chèo, vùng Bắc Ninh, Bắc Giang sân đình gắn với hội hát quan họ. Mỗi địa phương có trò chơi khác nhau, thỏa mãn con người với nhiều nhu cầu như: Nhu cầu tâm linh (các trò chơi gắn với cầu mưa, cầu mùa, cầu ngư...), nhu cầu cộng cảm, nhu cầu thể hiện sức mạnh, sự tài trí. Các trò chơi gắn liền với nghi lễ cầu mưa, cầu mùa, như: Cướp cầu, kéo co, đua thuyền… Cho đến nay, cúng đình và lễ hội vẫn là hình thức sinh hoạt cộng đồng tiêu biểu ấn tượng nhất của làng xã. Trong sinh hoạt tín ngưỡng đó, người dân vẫn tin vào sự phù hộ của các vị thần trong mùa màng và đời sống. Hội làng ở đồng bằng Bắc Bộ sau một thời gian bị đứt đoạn đã có sự phục hồi nhanh chóng, chứng tỏ dân làng vẫn có nhu cầu về tâm linh. Điều đó cũng chứng tỏ sức sống bền bỉ của tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Tóm lại, đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn hóa Việt Nam. Những nhân tố tự nhiên và xã hội đã hình thành nên làng, một cộng đồng làng, lối sống làng. Đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng ra đời từ thời Lê Sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Đình làng là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân chủ của làng xã. Ngôi đình là trung tâm văn hóa của làng mà thể hiện cô đọng nhất là lễ hội.
Thắng Trần
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 15, 2013 19:04:19 GMT 9
Đừng 'áp đặt sáng tạo' cho kiến trúc VN
Chỉ thị bị in nhầm của Bộ Xây dựng về việc không cho xây nhà bắt chước kiểu dáng của nhà kiến trúc Pháp khiến truyền thông và mạng xã hội xôn xao bình luận.
Theo truyền thông Việt Nam, công văn số 942/BXD-KTQH ngày 23/5/2013 do Bộ Xây dựng ban hành có đoạn ghi rõ: “Lưu ý: Không xây dựng các công trình kiến trúc theo hướng nhại kiến trúc cổ điển Pháp - châu Âu.”
Tuy nhiên đến ngày 13/06/2013 một công văn khác được Bộ gửi ra, đính chính và gỡ bỏ phần “lưu ý” của công văn cũ, và giải thích lý do là “trong quá trình in ấn có sự sai sót”.
BBC phỏng vấn kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, về quyết định trên của Bộ Xây dựng và một số vấn đề quy hoạch đô thị cũng như không gian sống ở Việt Nam.
Ông Nguyễn Hữu Thái từng có thời gian thỉnh giảng ở Pháp, làm việc ở Canada, và gần đây nhất là sang trao đổi ở Trung Quốc về kiến trúc và quy hoạch đô thị.
BBC: Vừa rồi Bộ Xây dựng ra văn bản cấm xây nhà bắt chước kiểu dáng nhà Pháp, nhưng sau khi dư luận, báo chí tỏ ra phản đối, thì Bộ gửi ra công văn khác rút lại lệnh cấm đó, ông bình luận sao về chuyện này?
Theo tôi biết thì vừa rồi họ đã ngưng chỉ thị đó. Và có chuyện đó là do ý muốn ngăn ngừa kiểu kiến trúc cổ điển phương Tây mà không thích hợp với phong cách truyền thống và địa phương của Việt Nam.
Giới kiến trúc sư Việt Nam gần đây có phản ứng về một số công trình xây dựng nhất là ở miền Bắc, người ta nhái phong cách biệt thự cổ của Pháp một cách rất lạc hậu, và nhất là các công trình của nhà nước, thì người ta rất phản ứng về cái đó.
Trong các hội thảo của Hội Kiến trúc sư ở Hà Nội cũng nhiều lần đề cập đến vấn đề này và phản đối kiến trúc loại đó. Nhưng Bộ Xây dựng cũng hơi có vẻ áp đặt khi đưa ra vấn đề này.
Người ta vẽ theo phương Tây thì người ta vẫn làm chứ, chẳng hạn như ở Đà Lạt, hay phố cổ thời Pháp ở Sài Gòn, hay ở Hà Nội. Những phố cổ đó vẫn mang nét Pháp vẫn được, ai cấm đâu.
Đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, không ai có thể cấm trong vấn đề sáng tạo.
BBC: Như vậy có phải do vấn đề quy hoạch không gian sống ở các đô thị lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang gặp bế tắc?
Vấn đề này thì ngay đến các kiến trúc sư quốc tế cũng phải bàn thảo rất nhiều. Duy trì cái truyền thống và hiện đại như thế nào. Truyền thống không thể chỉ xây cái mái chùa là được gọi là truyền thống.
Giới kiến trúc ở Việt Nam đang bàn cãi để tìm ra nét kiến trúc vừa hiện đại vừa dân tộc. Nghĩa là, nó phù hợp với khí hậu nhiệt đới, tiết kiệm năng lượng và hòa mình với thiên nhiên, thì phù hợp hơn là áp đặt kiểu kiến trúc hiện đại bê nguyên của phương Tây, hoặc là nhái kiến trúc cổ điển của Pháp, của Âu châu, không thích hợp với Việt Nam. Mình phải tìm ra được đường lối riêng của mình.
Nhưng vấn đề đó cũng tùy vào những người chủ đầu tư. Nghề kiến trúc là nghề sáng tác, không thể dùng biện pháp hành chính để áp đặt.
Khủng hoảng quy hoạch
BBC: Không gian sống như thế nào thì phù hợp với người Việt Nam thưa ông? Và khi xã hội thay đổi rất nhanh, liệu có nhất thiết phải giữ mãi lấy lối kiến trúc dân gian?
Tôi vẫn không đồng ý cái chuyện đó. Ở Trung Quốc tôi đã qua thăm rồi, họ cũng đặt ra vấn đề này.
Nhưng mà cuối cùng chính quyền Trung Quốc và các kiến trúc sư Trung Quốc đi thẳng vào vấn đề hiện đại luôn.
Họ giải quyết các vấn đề đời sống theo kiểu người Trung Quốc nhưng chấp nhận kiến trúc hiện đại rất mạnh dạn.
Việt Nam bây giờ đang bối rối về vấn đề hiện đại và dân tộc là như thế nào thì sẽ còn bàn cãi và chưa ngã ngũ.
Tôi nghĩ là thích hợp nhất, và ngay cả người nước ngoài họ cũng khen rằng kiến trúc các khu resort của Việt Nam ở bờ biển miền Trung, vẫn khai thác được nét truyền thống của Việt Nam và vẫn thích hợp cho đời sống hiện đại.
Theo tôi hướng đó là tốt nhất, ở Việt Nam chúng tôi gọi là kiến trúc xanh, mang tính cách Việt Nam.
BBC: Các đô thị ở Việt Nam hiện nay có nhiều nhà xây khá lộn xộn, theo ông có cách nào khắc phục được không? Và vừa rồi Việt Nam giao dự án quy hoạch Hà Nội cho công ty IAU-Ile de France của Pháp, ông có cho là sẽ cải thiện được tình hình? Tại sao các nhà quy hoạch và kiến trúc sư Việt Nam không tìm được lối đi cụ thể cho chính mình?
Chúng tôi gọi đây là khủng hoảng về quy hoạch đô thị ở Việt Nam. Đô thị ở Việt Nam, khi người ta bước qua từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường thì người ta rất lúng túng.
Những khu đô thị mới, chẳng hạn như ở Hà Nội có khu Mỹ Đình thì người ta cũng làm được. Còn mấy khu cũ thì người ta bối rối.
Hầu hết các đô thị Việt thì đang cần phải tiến lên, nhưng đang bàn cãi rất nhiều và chưa ngã ngũ trong các vấn đề như thành lập các đại đô thị (mega city) như Sài Gòn và Hà Nội. Và trong đó có đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh xung quanh như ở London, người ta đã làm từ vài chục năm nay, rất là tốt.
Việt Nam chưa học được bài học đó. Phải nhìn nhận lại Việt Nam là đang từ một nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên Xô, kiểu Trung Quốc, kiểu xã hội chủ nghĩa.
Bây giờ là giai đoạn chuyển tiếp, và giới quy hoạch đô thị, giới kiến trúc đang lên tiếng và đặt ra những hướng đi cho đúng.
BBC: Vậy nguồn gốc của kiến trúc và quy hoạch lộn xộn trong đô thị ở Việt Nam là do đâu?
Nguồn gốc là do biến chuyển từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường làm cho người ta lúng túng.
Ở trên thì áp đặt, làm theo a, b, c hay là cái gì đó. Còn ở dưới, nhân dân quần chúng, hay công ty làm ăn, cũng không có tiếng nói trong lĩnh vực của họ.
Tất cả những phản hồi từ phía nhân dân trở lên trên là chưa có. Việt Nam đang lúng túng là phải chọn giải pháp để nghe tiếng nói ở dưới lên, nhất là trong quy hoạch đô thị, chứ không phải ở trên áp đặt xuống.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 14, 2013 10:13:33 GMT 9
Nhà rường ở HuếChu Sơn Huế không chỉ có thành quách cung điện, đình chùa, sông núi, Huế còn có nhà rường. Vua chúa ở nhà rường. Hoàng thân quốc thích ở nhà rường. Quan lại ở nhà rường. Người giàu ở nhà rường. Phật thánh ở nhà rường. Ma quỉ cũng ở nhà rường. Ông bà tổ tiên ở nhà rường. Con cháu cũng ở nhà rường. Nhà rường vẫn là đặc trương của kiến trúc, văn hóa Huế một thời xưa cũ. Nhà rường vẫn lác đác tồn tại đó đây trong nội thành, ngoại thành và cả những làng mạc xa xôi của Thừa Thiên Huế hôm nay. Nhà rường sẽ vững chãi đứng ở cái nơi của nó đến bao giờ? Bởi vì nhà rường là một bộ phận không thể tách rời của di sản lịch sử, văn hóa Huế. Điện Cần Chánh Nguồn ảnh: Phan Thanh Hải và www.tuyettran.deNét tài hoa của người thợ gốc Bắc cộng với tâm hồn của núi Ngự, sông Hương đã thổi vào những khúc cây, mảnh gỗ vô tri một linh hồn sâu thẳm, tinh tế, sinh động khi ta nhìn nhà rường giữa một bối cảnh mà nó là thành viên. Nhà rường còn có một đời sống riêng vô cùng phong phú với những vật dụng, những con người, những lề thói tiêu biểu cho một trình độ phát triển của một thời kỳ văn minh nông nghiệp, phong kiến và gia trưởng. Ngoại trừ ngói ở mái, gạch đá ở nền móng, vách bao, toàn bộ các bộ phận khác của nhà rường đều bằng gỗ: cột, kèo, xuyên, trếnh, đòn tay, rui mè bằng gỗ, cửa bàn khóa, cửa hông, ngưỡng, vách ngăn, liên ba, thành vọng, rầm thượng, diềm… bằng gỗ. Bệ thờ, sập, ngựa, ván, bàn ghế, giường, tủ, tợ, kệ... bằng gỗ. Cây của một mé rừng, đôi khi không đủ để làm một ngôi nhà rường hoàn chỉnh. Ngôi nhà rường hoàn chỉnh gồm cổng ngoài, cổng trong, bình phong, nhà chính, tả vu, hữu vu, nhà phụ, nhà bếp. Một ngôi nhà rường đủ tiêu chuẩn phải thượng chua, hạ mít hay thượng kiền hạ gõ. Mít là mít vườn cao tuổi ở những làng ven núi. Gõ thì Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên nổi tiếng có vân đẹp. Kiền kiền thì Bà Nà, Nam Đông mới tốt. Gỗ làm nhà rường lấy từ những cây có tên tuổi và lấy đúng thời vụ, để thật nguội (thật khô) hầu tránh sâu mọt vênh tréo. Nhà rường có nhiều dạng. Nhà rường một căn hai chái, nhà rường ba căn hai chái, nhà rường năm căn hai chái v…v. Ở Huế phổ biến nhà rường ba căn hai chái. Dạng nhà rường này có mặt bằng khoảng 7,5 x 11,5 mét, có tám cột cái (cột hàng nhất) 16 cột lỡ (cột hạng nhì), 24 cột con (cột hạng ba), 8 cột hiên (nếu hiên là nhà vỏ cua tiền đường thì nhiều cột hơn), tổng cộng 56 cột (không kể cột hiên bên, hiên sau, và tiền đuờng). Nhà ba căn hai chái có rầm thượng chạy suốt ba căn. Ở nhà rường bao giờ căn giữa (căn chủ) cũng có lòng căn rộng hơn các căn bên, căn bên rộng hơn căn chái. Tất cảc các chi tiết gỗ của nhà rường được nối kết với nhau bởi các ngàm, miệng (miệng cột, miệng kèo), nêm, chốt. Ở nhà rường tuyệt đối không dùng đinh, óc vít, dây néo, hay bất cứ một chi tiết kim loại nào. Cũng không có sự nối kết kiên cố nào giữa phần gỗ và nền móng. Cột đặt trên các chân cột bằng đá đẽo hình khối vuông hay hình trái bí để chống ẩm, mọt mối. Mái nhà rường thường lợp bằng ngói liệt, ở nông thôn nhiều nhà lợp bằng tranh. Móng nhà rường được xây bằng đá hộc, đá chẻ, vách đố hay tường xây bằng gạch, nền bằng đất nện, lát gạch đỏ, tráng xi măng hay lát gạch ca rô ( tráng xi măng hay lát ca rô ở thời sau này) chi-tiet-go Nguồn ảnh : Báo Thừa Thiên - Huế Điều đặc biệt ở nhà rường là nghệ thuật tạo hình bằng chạm khắc, khảm trên các đầu kèo, đầu xuyên, trếnh, các dây liên ba thành vọng, các dây đòn tay truớc, trên các vách ngăn, trên các hoành phi câu đối, sập gụ, tủ thờ, khám thờ, các khung tranh thờ. Người Huế thường nói: “Sống cái nhà thác cái mồ”. Chữ sống ở đây không bao hàm ý nghĩa cư trú. Các hình tượng long lân qui phụng, phúc lộc thọ, nhị thập tứ hiếu, ngư tiều canh mục, tuyết nguyệt phong hoa, tứ thời bát tiết, bát tiên, thất thập nhị hiền, các loại văn hoa được khắc chạm trên nhiều vật thể, nhiều đồ dùng trong ngôi nhà rường là những khái niệm bao quát tư tưởng triết lý, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật chi phối mọi hoạt động, sinh hoạt hàng ngày cũng như khát vọng ngàn đời của những con người là thành viên của gia đình, của cộng đồng trần thế, của vũ trụ và cả của thế giới tâm linh. Phần chính, phần trang trọng nhất trong ngôi nhà rường nhất thiết phải là nơi thờ tự. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người ruột thịt khác đã chết vẫn tồn tại nơi đây. Và người đàn ông, đặc biệt là gia trưởng, là nhân vật trung gian giữa người chết và kẻ sống, ông ta đi lại, đứng ngồi, ngủ nghỉ, sai phái, điều hành công việc đại gia đình, thờ cúng tổ tiên, tổ chức các ngày kỵ chạp, gả cưới, các lễ lạc với tư cách là gia trưởng và đồng thời là giáo trưởng. Người này ở cạnh bàn thờ. Đôi khi ở trước bàn thờ. Con trai cả ở cạnh ông ta. Con trai thứ, út ở xa hơn, phụ nữ, đàn bà con gái, trẻ con thì ở căn chái sát lều hay nhà phụ, tuyệt đối không được nằm ngồi, đi đứng, nói cười trước bàn thờ. Vâng lời, khép nép, nhỏ nhẹ, lễ phép, dịu dàng, chịu đựng là những đức tính của những con người mà giá trị mười bằng không trong khu nhà rường một thời vang bóng. Ngày nay thì mọi chuyện đã khác. Những người chủ đích thực của các ngôi nhà rường đã về với tổ tiên. Ở khu vực thờ tự ông ta không còn là nhân vật số một như khi còn tại thế. Ông ta đã bị xuống cấp rồi. Và người con trai cả mà ông ta đã tập tành để kế nghiệp ông ta cũng chẳng còn vai trò. Hầu hết các ngôi nhà rường đã cũ kỹ, dột nát, sụp đổ hư hao. Tràng kỷ sập gụ, tủ chè, ngựa gõ, đồ cổ, vật thờ để mất mát, bán nhượng khá nhiều. Vườn tược thì tiêu điều, chia năm xẻ bảy, xây cất lung tung. Những đứa con, đứa cháu sinh ra và lớn lên trong và quanh ngôi nhà rường đa phần tan tác tứ phương như bầy chim trước những cơn bão dữ tợn của cuộc bể dâu. Người thủ từ hiện tại của ngôi nhà rường nổi tiếng ở Long Thọ (nhà cụ nghè Đường) là anh con trai đời vợ thứ bảy của một ông Nghè đã rất chật vật để giữ gìn di sản của cha ông. Anh này là một thầy giáo ở trường đại học đồng thời là một nhà nghiên cứu về các nghề truyền thống ở Huế. Anh ta đã trân trọng trìu mến ngôi nhà cũng như hàng ngày phụng dưỡng người mẹ già đã gần tròn trăm tuổi. Nguồn ảnh : Tạp chí Huế Xưa và Nay Một ngôi nhà rường khác của cụ Thượng ở Lại Thế hiện do một bà cháu gái trông coi và hương khói. Ngôi nhà tương đối tồn tại hoàn chỉnh, chỉ mất đi căn nhà khách và các đồ khí bảo quí giá. Gần nhà cụ Thượng là một cái nền hoang trong khu vuờn xơ xác vốn là tư dinh của một đại thần một thời khét tiếng. Một phụ nữ gốc Huế, tuổi ngoài bốn mươi, cháu nội của ông chủ nhà rường vọng tộc, đã tâm sự: Về lại Huế ư? Năm nào cũng có về một hai bận. Không thể không ngoái đầu lại được. Nhưng về ở hẳn '' trong khung cửa hẹp '' thì không. Các con mình chúng cao, đi qua cửa phải khom lưng, cúi đầu. Trong nhà thì cột nhiều quá, tới, lui, qua, lại phải chú ý coi chừng, không thì bưu đầu bể trán. Chẳng những đụng cột, đụng ngựa gõ, sập gụ, tủ chè mà đụng cả quá khứ, giáp mặt với quá nhiều vong linh. Một người Huế khác, tuổi chưa lấy gì làm cao, một tay chơi đồ cổ, thì hùng hồn liếng thoắt : '' Nhà rường ư? Tuyệt, tuyệt lắm. Những thợ mộc, thợ chạm khắc, khảm của ta thật tài tình. Nhìn các hàng cột bóng láng, các dây kèo xuyên, trếnh, liên ba, thành vọng chạm khắc phượng múa rồng bay, ta như sống lại một thời huy hoàng. Nhà rường là cả một thế giới sinh động mà sâu thẳm, một thế giới mà những giá trị truyền thống làm phong phú tâm hồn chúng ta hôm nay... '' Chỉ trong vòng một năm, tôi đã gặp tay chơi đồ cổ ở Huế ba lần. Một lần anh ta mang ra khỏi Huế một căn nhà rường với rất nhiều đồ cổ. Anh ta nói : '' Bảo quản nhà rường tại Huế quả thật quá khó. Đa phần các gia đình còn ở trong nhà rường ngày nay khó khăn kinh tế, họ không có điều kiện để gìn giữ, tôn tạo ngôi nhà họ đang ở. Trách họ không được. Tôi muốn bảo quản nhà rường ở nơi tôi có điều kiện... '' Lời của hai người gốc Huế đều có phần hay ho của nó '' Rằng hay thì thật là hay... '' Chu Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 14, 2014 14:11:48 GMT 9
HỘI KỲ YÊN - NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Vĩnh Trường là tên một làng cũ (nay thuộc xã Hòa Thuận, huyện Châu Thành, Trà Vinh) bên bờ hữu ngạn và ở phía hạ lưu ngã ba sông Cổ Chiên với vàm sông Trà Vinh. Ngôi làng này được thành lập vào giữa thế kỷ XIX, có một thời gian dài từ thời các chúa Nguyễn đến đầu đời Thiệu Trị, Vĩnh Trường là lỵ sở huyện huyện Trà Vang (phần đất nay là tỉnh Trà Vinh). Chính vì vậy, không chỉ là “dân làng cựu”, người Vĩnh Trường còn có dáng dấp của “dân Kẻ Chợ” với phong cách lịch lãm, hào hoa từ nhiều đời cha ông để lại. Ngày nay, trong sinh hoạt đời thường hàng ngày, người Vĩnh Trường vẫn còn giữ được nhiều giá trị văn hóa tinh thần truyền thống đáng được khảo sát, nghiên cứu và bảo tồn. Trong đó, rõ nét nhất là lễ hội Kỳ yên.
Dân làng về dự hội Kỳ yên Lễ hội Kỳ yên là hội làng truyền thống của người Việt, được tiến hành tại ngôi đình làng. Đối với đời sống tinh thần của người Việt, chúng ta có thể nhìn kiến trúc và thái độ của cư dân địa phương đối với ngôi đình mà phần nào đánh giá được mặt bằng dân trí, nền nếp gia phong, nền nếp sinh sống của cả ngôi làng ấy. Ngôi đình Vĩnh Trường được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, chỉ vài thập niên sau khi thành lập làng, với kiến trúc tre lá đơn giản. Đến đầu thế kỷ XX, Hương chủ Trần Đắc Châu vận động tài lực trong nhân dân tôn tạo lại, tường xây, mái lợp ngói âm dương. Nhìn chung, cũng giống như hầu hết các ngôi đình truyền thống, đình Vĩnh Trường nằm cặp lộ giao thông, có trục theo hướng bắc – nam (ngưỡng vọng triều đình), bao gồm Vỏ ca (nơi hát bội, hội họp dân làng), chánh điện (còn gọi là đình trung, nơi diễn ra các nghi thức chính), hậu điện (còn gọi là hậu cung, nơi đặt án thờ Thần), nhà tiền vãng (nơi thờ những người có công với làng), nhà khói (còn gọi là nhà bếp, nơi nấu nướng và khoản đãi dân làng). Phía trước Vỏ ca, qua một khoảng sân rộng là án thờ Thần Nông và miếu thờ Thanh Long, Bạch Hổ. Qua nhiều lần trùng tu, đình Vĩnh Trường cơ bản vẫn giữ được nét kiến trúc truyền thống nhưng không còn Vỏ ca, mái đình trung lợp fibro ximăng chứ không còn lợp ngói, phía ngoài án thờ Thần Nông nay dựng thêm một Đài tử sĩ. Đình Vĩnh Trường có sắc phong Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh (thần vô danh) vào năm Tự Đức đệ ngũ niên (1852). Trước ngày giải phóng, sắc Thần được gởi tại nhà ông Chủ Châu, mỗi năm đến dịp Kỳ yên, các bậc hương chức hội đình đều lân trống, cờ xí long trọng rước sắc về đình (gọi là lễ “Thỉnh sắc”). Sau đó, tiến hành nghi thức “Khán sắc”, nhằm bố cáo với dân làng rằng sắc Thần vẫn còn và là sắc thật. Sau khi ông Chủ Châu qua đời, sắc được rước về gởi nhà ông Trần Văn Hành (người đứng ra trùng tu ngôi đình), đến khoảng cuối thập niên 1980, sắc được lưu giữ tại án thời Thần trong hậu điện. Kỳ yên 1993, khi tiến hành nghi thức “Khán sắc”, những người có trách nhiệm mới phát hiện sắc thần đình Vĩnh Trường đã bị đánh cắp (?).
Nghi thức Khán sắc được tiến hành trang trọng Hội Kỳ yên (có nghĩa là Cầu an) đình Vĩnh Trường được tiến hành trong hai ngày Rằm và Mười sáu tháng Ba âm lịch. Ngày Rằm gọi là Túc yết, ngày Mười sáu chính lễ gọi là Đoàn cả. Túc yết có nghĩa là toàn thể ban Hương chức hội đình (nay gọi là Ban quản trị) tề tựu tại đình nhằm tránh chuyện gối chăn, giữ mình thanh sạch, chờ giờ ra mắt Thần. Vị Chánh bái hiện nay của đình Vĩnh Trường là ông Năm Trừ, tuổi ngoài 80, phụ tá và cũng là người đang “học việc” để sẵn sàng kế vị ông là anh Hai Lân, tuổi độ ngoài 40. Chiều ngày Rằm, Ban quản trị chỉ tiến hành một lễ thức là tế Tiền vãng (Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ). Do Vĩnh Trường là làng ngã ba sông, có nhiều người sinh sống bằng nghề đi sông, đi biển nên vật phẩm tế Tiền hiền phải là các loại đặc sản biển, ngày nay, phong tục này không được duy trì.
Nghi thức Tế Thần nông Lễ thức chính của lễ hội Kỳ yên đình Vĩnh Trường là lễ Chánh tế, được tiến hành vào khoảng 8 giờ – 9 giờ ngày Mười sáu tháng Ba cũng là lúc thủy triều bắt đầu lớn. Đầu tiên, vị Chánh bái dẫn đầu Ban quản trị và các bậc kỳ lão mang trà, rượu cùng các vật phẩm khác ra tế Thần nông, tế Thanh long, Bạch hổ. Sau đó, các nghi thức tập trung diễn ra tại đình trung và hậu điện mà vật phẩm dâng cúng thường là con bò hoặc con heo dạng toàn sinh toàn sắc (bò, heo trắng để nguyên con). Dưới sự hướng dẫn của Chánh bái, trong nền nhạc Nghinh thiên tiếp giá do giàn nhạc lễ tấu lên, sáu học trò lễ có nhiệm vụ mang rượu, trà, hương đăng, hoa quả… từ ngoài đình trung do vị Bồi bái cắt đặt vào hậu điện, trước án thờ Thần, có vị Chánh bái đợi sẵn để dâng cúng Thần. Giữa ba tuần rượu, vị Bồi bái độc bài Chúc văn ca ngợi công đức “bảo ngã lên dân” của vị Thần Thành Hoàng, cung thỉnh các vị thần tiên phật, người khuất mày khuất mặt khác cùng về phối hưởng vật phẩm dâng cúng và phò trợ cho dân làng một mùa vụ mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, sinh sôi nẩy nở.
Đọc Chúc văn trong nghi thức Chánh tế Ngày nay, dù các sinh hoạt mang tính vật chất ít nhiều đã chi phối nếp ăn ở nhưng người dân Vĩnh Trường, dù giàu hay nghèo, dù thành đạt hay thất bại, dù ở nguyên quán hay tha phương cầu thực, xứ lạ quê người vẫn coi ngày hội Kỳ yên đình làng là một sinh hoạt văn hóa truyền thống cần gìn giữ. Từ sáng ngày Rằm tháng Ba, hàng chục nam nữ thanh niên, các bà có tuổi đã tề tựu tại nhà khói để lo chuyện bếp núc, nấu nướng, che trại dựng rạp. Đến chiều, người mỗi lúc một đông. Người ta đến để chung tay phụ vài việc lặt vặt cho các nghi thức cúng tế cũng như ngày hội vui diễn ra trôi chảy, người ta đến còn để gặp gỡ, thăm hỏi nhau sau một năm làm ăn, lao động vất vã. Nam thanh nữ tú trong làng và các làng lân cận xem đây là dịp vui chơi, là dịp để gặp gỡ, tìm hiểu lẫn nhau. Và biết đâu, sau mỗi mùa Kỳ yên vui tươi sẽ chẳng là một mùa cưới hạnh phúc.
Nhà Nam bộ học Sơn Nam dự hội Kỳ yên Đến với đình làng Vĩnh trường trong ngày hội Kỳ yên, nghiêng mình cung kính tưởng nhớ người đi trước trong các nghi thức cúng tế; vui với các hoạt động vui chơi, giải trí của ngày hội; ăn miếng cơm cộng đồng để giữ gìn, cố kết tình đoàn kết, tương thân tương trợ lẫn nhau và cũng để thêm chút tự hào truyền thống văn hóa đẹp đẽ của một “làng cựu” ngay sát cửa ngõ thị xã Trà Vinh. TRẦN DŨNG
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 21, 2014 9:21:35 GMT 9
Việt Nam đang 'chảy máu' nhà cổ Friday, December 19, 2014 Bài và ảnh: Phi Khanh/Người Việt QUẢNG NAM (NV) - Nhà cổ Việt Nam có ba dòng căn bản: nhà miền Nam; nhà miền Trung và nhà miền Bắc. Nhà cổ trên 100 tuổi của cụ Nghè Trần Huỳnh Sách. Ba dòng nhà cổ này có chung đặc điểm là mái ngói nhọn (còn gọi là “nhổn”), có ba gian ngang hoặc năm gian ngang, lợp ngói âm dương, ngói vảy chuốt hoặc lợp tranh, tường vôi hoặc vách đất. Nhưng giữa ba dòng nhà cổ này lại mang những đặc trưng rất riêng, thể hiện khí chất, cơ địa của mỗi miền đất nước. Trong đó, điểm quan trọng nhất là ba dòng nhà cổ Việt nam đều mang hơi hướm rất Việt, bứt thoát khỏi lối kiến trúc Trung Hoa. Rất tiếc, phong trào chơi nhà cổ, phục dựng nhà cổ hiện tại lại vô hình trung biến nhà cổ Việt Nam thành một loại nhà na ná Trung Quốc và càng ngày, nạn chảy máu nhà cổ càng trầm trọng. Ba dòng nhà cổ Bắc, Trung, Nam Một chuyên gia về nhà cổ cho hay, “Nhà cổ miền Bắc, đặc biệt là nhà ở Tây Bắc thường có vách đất, lớp cách âm và cách nhiệt bằng hủ hoặc chai lọ kê sát chân tường.” “Trước nữa là bằng những ống tre, ống nứa lót một dãy dựng đứng sát chân tường, nhà cũng ba gian, hai mái và lợp lá, lợp tranh. Trường hợp nhà xây thì dùng vôi trộn với mật mía đường, cây dương xỉ và xương rồng giã nhuyễn trộn với vôi, cát, mật mía đường nhằm tạo độ bám và chống ẩm. Nhà cổ miền Bắc có chiều cao tương đối giới hạn so với chiều cao của nhà cổ miền Trung.” “Nhà cổ miền Trung có một nét rất riêng là ngoài các yếu tố kiến trúc vốn có của nhà cổ miền Bắc và nhà cổ miền Nam, có thêm điểm nhấn là gian gác, còn gọi là gác nhị. Vì miền Trung thường có bão lụt nên từ xưa, ông bà mình đã nghĩ đến chuyện cải biên một căn nhà rường trở nên vững chãi, mạnh mẽ và có chỗ trốn lụt.” “Nhà cổ miền Trung rất nhiều, đặc biệt là ba tỉnh Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và Bình Định, đây vốn là vùng đất từng là kinh kỳ của các triều đại hoặc là nơi có nhiều vị quan lớn trong các triều đại. Chính vì vậy, nhà của họ cũng xây dựng cầu kì, đẹp. Ví như nhà cổ Quảng Nam thì có nhiều cột to, vững chãi để chống bão lụt thì nhà cổ ở Huế lại có nhiều cột nhưng nhỏ, thanh, mang dáng vẻ cung đình, quí phái.” Đầu kèo được chạm khắc công phu. “Nhà cổ miền Nam ảnh hưởng một phần văn hóa Chăm, Khơ Me, chính vì vậy mà nhà có chân cột tương đối nhiều để gánh một sàn nhà bên trên, sau đó mới đến phần nhà, có thể lợp lá hoặc ngói vảy chuốt. Nhà có phần kho để chứa lúa vì đây là vùng chuyên trồng lúa, vựa lúa của cả nước từ thời xưa đến bây giờ. Hiện tại, các vùng Cà Mau, Sóc Trăng, Long Xuyên, mô hình nhà cổ vẫn còn rất nhiều.” “Riêng nhà cổ miền Trung là bị chảy máu nhiều nhất, nó chảy máu theo hai hướng: Bị bán đi một cách rẻ rúng, bị sụp đổ và bị xây dựng, phục chế đầy tính xuyên tạc, méo mó, không giữ được nét kiến trúc gốc. Đặc biệt, các công ty chuyên doanh về nhà Việt thì lại không hiểu gì về nhà Việt, sự kinh doanh và xây dựng cẩu thả của họ khiến cho nhà cổ Việt Nam ngày càng bị Trung Quốc hóa!” “Chảy máu” nhà cổ đang bị trầm trọng Theo một thợ mộc làng Kim Bồng, tên Tiễn, có hơn bốn mươi năm theo nghề chạm khắc cột, kéo, vĩ nhà cổ, chia sẻ thì hiện nay, nhà cổ ở Quảng Nam đã bị lai căn một cách vô tội vạ, chuyện mua bán đã làm cho nhiều ngôi nhà cổ hoàn toàn bị bốc hơi, sườn nhà bị giới buôn nhà cổ mang về tùng xẻo, một ngôi nhà cổ sẽ phân ra thành mười nhà, nghĩa là trong một ngôi nhà cổ mới xây dựng chứa chừng 10% những chi tiết gốc của căn nhà đã mua về. Không dừng lại ở đó, các chi tiết bị méo mó, uốn éo theo những mẫu nhà Trung Quốc, lấy mẫu ở khu nhà Minh Hương, phố cổ Hội An, những mẫu đền chùa... Chính vì vậy, cấu trúc cơ bản của nhà Việt bị phá vỡ hoàn toàn. Kiến trúc nhà rường với nhiều cột và nhiều gian. Cô Toàn, cháu ba đời của chủ một ngôi nhà cổ ờ Điện Bàn, Quảng Nam, chia sẻ, “Ông tôi là cụ Nghè Sách, cụ là người xây dựng trường Nguyễn Duy Hiệu, Điện Bàn, xây chùa Nghĩa Trũng, xây trạm bơm thủy lợi đầu tiên ở đây. Cụ cũng là học trò của cụ Trần Quí Cáp, người bốc mộ cụ Trần từ Diên Khánh về an táng tại Điện Bàn.” “Hồi đó khi bốc mộ, đi qua mỗi tỉnh, ông tôi đều đặt một hương án để chí sĩ trong tỉnh đó đến viếng Cụ Trần, khi an táng xong, ông tôi đã viết cuốn Cuộc Đời Và Hoạt Động Của Chí Sĩ Trần Quí Cáp, đây là cuốn sách đầy đủ nhất về Cụ Trần. Nhưng cho đến bây giờ, con cháu tứ tán, không còn dấu vết nào, ngôi nhà cổ của ông tôi rất đẹp, sắp sụp hẳn mà chẳng có hy vọng gì....” “Ngôi nhà xây dựng năm 1900, đến năm 1955 thì làm thêm mái hiên phía trước theo kiến trúc Pháp, sau này một phần do chiến tranh, một phần do thời gian, cứ xuống cấp sau mỗi mùa mưa. Nét chạm trổ bên trong rất đẹp, do thợ Kim Bồng thi công. Cũng có người đến hỏi mua nhưng nếu bán đi thì sẽ mất hết.” “Rất tiếc là những người có vai vế trong nhà lại muốn bán đi để xây dựng một ngôi nhà kiểu mới để thờ phụng, mà như vậy thì mọi dấu vết bị xóa đi. Mà nếu bây giờ phục chế thì cũng chưa chắc có thợ để phục chế, tôi quan sát nhiều nhà phục chế xong nhìn chẳng còn là ngôi nhà cũ vốn có nữa!” Nước lụt - kẻ thù lớn nhất của những ngôi nhà cổ. “Nhà xưa, riêng giàn gỗ từ cột, kèo, rui, mè, trính, đòn tay... đều dùng phương pháp thủ công, người ta đục những con sẻ, con vụ để luồn vào nhau và gông lại bằng những cây đinh gỗ đồng chất, nghĩa là gỗ lim thì phải khoan lỗ, đóng cây đinh bằng gỗ lim để định vị. Chính nhờ kết cấu đồng chất và liên kết bền vững, một ngôi nhà cổ đích thực có thể chịu đựng qua cơn siêu bão. Còn nhà bây giờ, người ta dùng cả keo để dán những mép gỗ lại với nhau, gió nhẹ một trận cũng đủ rụng tá lả...” “Nhưng do nhà cổ hiếm, kinh doanh có tiền nên nhiều người xưng danh là công ty nhà Việt, công ty chuyên bảo tồn nhà cổ và làm khắp nơi nhưng họ chưa bao giờ nắm được cái hồn của nhà cổ. Chính vì vậy mà nhà cổ Việt Nam bị chảy máu, bị mất hết hồn vía...” “Ngay cả bảo tàng bảo tồn nhà nước, có hẳn một đội ngũ kĩ sư xây dựng, kiến trúc sư để tư vấn nhưng khi phục chế nhà, người ta vẫn đặt nặng giá trị ngôi nhà hơn là giá trị của người chủ nhà từng xây dựng nó. Mà văn hóa nhà cổ, hồn vía nhà cổ cũng như giá trị của ngôi nhà cổ nằm ở chủ nhân của nó từng là ai hết trên 50%, số chưa tới 50% còn lại là kiến trúc ngôi nhà.” “Chính vì không thấy được điều này nên người ta phục chế, xây dựng rất buồn cười. Thậm chí người ta ngang nhiên đập phá đi để xây cái mới. Như trường hợp Thương Xá Tax ở Sài Gòn và sắp tới là văn phòng ủy ban quận 1 Sài Gòn, và những hàng cây cổ thụ... Tất cả những điều ấy phản ánh văn hóa cũng như tri thức thời đại. Nhà cổ Việt Nam bị chảy máu không chỉ vì người ta đập phá, bán nó đi mà còn vì cả chuyện xây dựng hiện tại. Họ đã đánh mất chiều sâu văn hóa...” Câu chuyện về ngôi nhà cổ của người ông mà cô Toàn kể lại còn rất dài, và chuyện có nhiều công ty chuyên xây dựng nhà cổ ở Việt Nam ngày càng mọc ra thêm nhiều cũng rất phức tạp, nó không những làm cho nhà cổ bị mất đi mà khiến cho cả một hệ thống văn hóa vật thể - nhà cổ - bị lai tạp đủ hình thù, càng nhìn càng thấy giống một căn nhà Trung Hoa nằm giữa một khu vườn Trung Hoa thu nhỏ trên đất nước Việt Nam. Thế mới hiểu nhà cổ Việt Nam đã rơi vào tình trạng khủng hoảng về mặt tên gọi và đặc trưng!
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 24, 2014 5:45:17 GMT 9
5 ngôi chùa nổi tiếng nhất Việt NamTừ bao đời nay, đạo Phật đã gắn liền với cuộc sống của người dân Việt Nam chính vì vậy chùa là nơi có giá trị tinh thần trong đời sống tinh thần Việt. 1. Chùa Trấn Quốc, Hà Nội. Nguyên là chùa Khai Quốc, được xây dựng từ thời Lý Nam Đế tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng, chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Đến năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi và tồn tại cho đến ngày nay. Nơi đây là chốn dừng chân hành đạo của nhiều danh tăng xưa và nay, đông thời còn là nơi lưu giữ nhiều pho tượng Phật, Bồ tát có giá trị nghệ thuật, như pho tượng đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn bằng gỗ sơn son thếp vàng. 2. Chùa Hang, Quảng Ngãi. Chùa Hang có tên chữ là “Thiên Khổng Thạch Tự” (chùa do trời sinh ra), được xếp hạng thắng cảnh quốc gia năm 1994. Nằm trong một hang đá lớn, ăn sâu vào lòng núi Thới Lới, mặt hướng ra biển Đông. Tương truyền rằng cách nay chừng 400 năm, khi các bậc tiên hiền ra Lý Sơn lập làng An Hải đã dựng ngôi chùa này. Nằm sâu trong một hang đá sâu chừng hai chục mét, cao chừng ba lần thân người. Chùa có bàn thờ Phật Di Đà, Như Lai, Di Lặc ở chính giữa, bàn thờ Sư Tổ Đạt Ma ở bên trái, bàn thờ 12 Diêm Vương, ba vị thủy tổ kế tiếp phụng sự chùa (là Trần Công Thành, Trần Công Hiền, Trần Công Quân) và sáu vị tiên hiền làng An Hải bên phải. Các bệ thờ được gia công từ nhũ đá tự nhiên. Đặc biệt có hai lối hẹp dài hun hút với hai hướng đối ngược, được dân bản địa quan niệm là “đường lên trời và đường xuống địa ngục”. Chùa Hang có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của người dân địa phương, cùng với quần thể cảnh quan thiên nhiên đẹp, thật xứng đáng được gọi là đệ nhất danh thắng của biển đảo miền Trung. 3. Chùa Khleang, Sóc Trăng Chùa Kh'Leang được xây trên nền đất cao rộng, không gian thông thoáng, xung quanh có nhiều cây xanh đặc biệt là cây thốt nốt, loại cây đặc trưng của người Khmer, dưới mỗi gốc cây đặt những băng ghế đá dùng để nghỉ chân tạo cho du khách một cảm giác hết sức thoải mái, mát mẻ. Chùa được bao quanh bằng ba vòng rào với khoảng cách rộng. Trước chùa có hai tháp hình bầu dục ở hai bên tả hữu, dùng là nơi yên nghỉ của các vị trụ trì. Cổng chùa được trang trí hoa văn cầu kỳ với mầu sắc rực rỡ mang đậm phong cách văn hóa Chăm. 4. Chùa Bửu Long, TP HCM. Chùa Bửu Long có tên chính thức Thiền Viện Tổ Đình Bửu Long nguyên là một Tịnh Thất, tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa có khuôn viên rộng hơn 11ha, nằm trên ngọn đồi phía Tây ngạn sông Đồng Nai, trong Công Viên Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc. Kiến trúc chùa theo văn hóa Phật giáo cổ đại và liên tục được trùng tu tôn tạo gồm chính điện, tăng xá, trai đường, tăng khách đường, tổ đường, thiền thất của chư tăng, ni viện, ni xá và am thất của tu nữ, tịnh nhân. Đặc biệt, chùa Bửu Long có một Bảo tháp Gotama Cetiya thờ xá lợi Đức Phật và Chư Thánh Tăng, rộng trên 2.000m², cao 70m, một kiến trúc vừa hoành tráng hiện đại vừa biểu hiện nét cổ kính nhất của nền văn minh Suvannabhumi cổ đại trong vùng Đông Nam Á 5. Chùa Hương Tích(còn gọi là chùa Hương), Hà Nội. Chùa Hương chỉ cách Hà Nội 60 km về phía Tây Nam nhưng lại hội đủ loại hình du lịch: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch hang động... Hội chùa Hương kéo dài tới hơn 2 tháng từ trước rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba Âm lịch. Không chỉ hấp dẫn du khách ở vẻ đẹp thiên tạo, nơi đây còn giữ lại dấu tích văn hóa của nhiều giai đoạn lịch sử. Đó là những sản phẩm vô giá kết tinh tài năng trí tuệ, tâm tư tình cảm của nhân dân lao động, phản ánh tư tưởng của các thời đại. Một trong những cổ vật ghi niên đại sớm nhất ở Hương Sơn là quả chuông đồng có tên "Bảo Đài Hương Tích Sơn Hồng Chung". Ở chùa Hương cổ vật bằng đá cũng khá nhiều. Điển hình là bia đá, có loại bia dẹt, bia trụ (tứ trụ, lục trụ), bia mài khắc trên đá. Trong đó bia có niên đại sớm nhất là bia "Thiên Trù tự bi ký" hiện dựng ở nhà bia trên đường từ bến Thiên Trù vào chùa. Ngược sông Yến đến với chùa Hương Hội chùa Hương Những ngôi chùa nổi tiếng ở miền BắcĐang được xây dựng và đến năm 2010 mới hoàn thiện, nhưng chùa Bái Đính (Ninh Bình) đã nổi tiếng cả nước bởi lớn nhất, chuông to nhất, nhiều tượng La Hán nhất và khuôn viên rộng nhất. Nhìn từ xa, chùa Bái Đính nổi bật trên nền trời xanh giữa những ngọn núi hùng vĩ. Ngay trên đường lên chùa, du khách đã gặp hai tháp chuông. Tháp lớn có 3 tầng, 24 mái, đặt quả chuông đồng nặng 36 tấn. Nét độc đáo là trên thân chuông có khắc bài kinh Đại Bi Bát Nhã bằng chữ Hán cùng nhiều hoa văn theo chủ đề Thiền học và Phật học. Đặc biệt, 500 tượng La Hán bằng đá trắng nguyên khối - mỗi vị một vẻ mặt khác nhau được những người thợ chạm khắc rất tinh xảo, sống động. Những khối gỗ quý, bức hoành phi, câu đối khổng lồ được sơn son thếp vàng cũng đang trong quá trình hoàn thiện, góp phần cho ngôi chùa càng thêm hoành tráng, rực rỡ. Khuôn viên cả khu chùa Bái Đính có diện tích 107 ha, tại ngôi chùa này có tượng Phật Tổ Như Lai bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á nặng 100 tấn và ba pho tượng Tam Thế, mỗi pho nặng 50 tấn... Chùa Bút Tháp tọa lạc ở phía tây thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng từ thời hậu Lê (thế kỷ 17). Theo lịch sử, chùa được bà Trinh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thánh Tông) cùng hai nhà sư người Việt gốc Hoa thiết kế. Chùa Bút Tháp có nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ độc đáo tài tình, có nhiều tượng Phật và cổ vật quý. Pho tượng Quan Âm trong chùa cao 3,7m, có 11 đầu, 42 bàn tay lớn và 958 tay nhỏ. Mỗi bàn tay có một mắt, độc đáo là nhịp điệu mỗi cánh tay không giống nhau. Tượng được đặt trên toà sen Rồng đội, đằng sau là vầng hào quang toả sáng, bên dưới là các hình trang trí sóng nước sống động như một thuỷ cung. Toà "Cửu phẩm Liên Hoa" bằng gỗ, gồm 9 tầng có khắc tượng phật xung quanh.Đặc biệt là nó có thể quay được và không hề phát ra tiếng kêu dù được làm từ mấy thế kỷ. Yên Tử, nơi cội nguồn của Phật giáo Việt Nam tọa lạc ở Quảng Ninh. Núi Yên Tử sừng sững như con voi nằm phủ phục, tạo nên một non thiêng Yên Tử vừa uy nghiêm vừa hùng vĩ. Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử trải dài ngót 20km, dọc lộ trình của vua Trần Nhân Tông về Yên Sơn tu hành rồi hiển Phật - chùa Bí Thượng đến chùa Đồng trên đỉnh Yên Sơn cao nhất vùng đông bắc 1.068m. Đền Cửa Ông cũng là một trong những di tích nhà Trần nổi tiếng ở vùng Đông Bắc. Đền có 3 khu: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng tạo thành quần thể kiến trúc hình chân vạc trông ra vịnh Bái Tử Long hùng vĩ. Chùa Hương (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) là một quần thể văn hóa - tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Mùa lễ hội ở đây kéo dài từ sau tết Nguyên đán đến tháng ba âm lịch. Du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh núi cao rừng thẳm, suối dài được kết hợp hài hoà giữa một vùng đồng bằng ruộng lúa xanh tươi. Động Hương Tích - nơi chúa Trịnh Sâm đến vãn cảnh động đã tự tay đề lên cửa động "Nam thiên đệ nhất động". Giá trị nhất về mặt nghệ thuật điêu khắc là pho tượng Phật Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn. Pho tượng bằng đá, có dáng người thon thon, mặt trái xoan, nét thanh tú, đầu đội mũ Bồ Tát. Trong động Hương Tích còn có quả chuông đồng cao 1,24 m. Đền Trần ở phía đông chùa Phổ Minh, thuộc xã Lộc Vượng, Nam Định. Đền được xây trên phần đất của cung điện Trùng Quang nhà Trần. Trong quần thể Đền Trần có đền Thiên Trường được xây dựng từ thời hậu Lê, thờ 14 vị vua Trần. Ngày lễ quan trọng nhất tại lễ hội đền Trần là lễ khai ấn. Hoạt động này khởi nguồn từ tập tục là sau những ngày nghỉ Tết, từ rằm tháng Giêng thì triều đình trở lại làm việc bình thường. Lễ khai ấn thường được tổ chức vào đêm ngày 14 rạng ngày 15 tháng giêng hàng năm.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 24, 2014 5:56:53 GMT 9
Những ngôi chùa nổi tiếng ở Sài GònKhông chỉ là nơi giúp con người lấy lại cân bằng, chùa chiền còn là nơi lưu giữ những dấu tích đặc sắc về kiến trúc, văn hóa, lịch sử... 1. Chùa Giác Lâm - chùa "lớn tuổi" nhất Sài Gòn Địa chỉ: 118 Lạc Long Quân, P. 10, Q. Tân Bình, TP SG. Chùa Giác Lâm thành lập năm 1744 là một trong những ngôi chùa có mặt sớm nhất ở đất Gia Định còn tồn tại đến nay, do cư sĩ Lý Thụy Long, người Minh Hương, xây dựng. Kiến trúc chùa Giác Lâm được coi là tiêu biểu cho lối kiến trúc của các chùa Nam Bộ, với mặt bằng tổng thể theo kiểu chữ Tam, gồm 98 cột chống đỡ, bên trong bài trí 113 pho tượng cổ với nhiều chất liệu khác nhau. Chùa là ngôi Tổ đình danh tiếng bậc nhất, chứa đựng nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo như hoành phi, câu đối, bàn thờ, đồ thờ cổ... Riêng bộ tượng Thập Bát La Hán là minh chứng rõ nét nhất cho quá trình phát triển của Phật giáo ở Nam bộ. Điểm đặc sắc trong trang trí là chùa đã sử dụng gần 7.500 chiếc đĩa kiểu cẩn dọc theo hai mặt tường của Tây đường, điện Phật, tháp Tổ, nóc mái... và được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập là ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam. 2. Chùa Vĩnh Nghiêm - Nơi có tháp đá cao và công phu nhất Việt Nam Địa chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.7, Quận 3, TPHCM. Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của TPHCM. Ngoài ra chùa còn được ghi nhận là nơi có tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam, với 7 tầng, cao 14 m được khánh thành năm 2003. Tháp được xây dựng với nghệ thuật trổ đá dày đặc, công phu với hoa văn, họa tiết điêu khắc phủ kín… tất cả đều theo phong cách văn hóa Lý - Trần. 3. Chùa Xá Lợi - Chùa có tháp chuông cao nhất Việt Nam Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, P. 7, Q. 3, TPHCM. Chùa Xá Lợi không chỉ được biết đến với kiến trúc và cảnh quan tuyệt đẹp mà còn nổi tiếng là nơi có tháp chuông cao nhất Việt Nam gồm 7 tầng, cao 32 m, khánh thành năm 1961. Tầng cao nhất có treo một đại hồng chuông nặng 2 tấn, với tiếng chuông ngân nổi tiếng, từng được nhiều thế hệ biết đến qua bài vọng cổ “Tiếng chuông chùa Xá Lợi” do soạn giả Viễn Châu sáng tác. Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên là chùa Xá Lợi. Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường. 4. Chùa Vạn Đức - Chùa có chánh điện cao nhất Việt Nam Địa chỉ: 23/4 Tô Ngọc Vân, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, TPHCM. Tòa chánh điện chùa Vạn Đức cao 43,5 m, là tòa chánh điện cao nhất hiện nay. Công trình mất 2 năm với hơn 60 thợ xây để thực hiện. Ngoài giá trị về mặt thẩm mỹ, thâm nghiêm, công trình còn là một kiểu mẫu cho nghệ thuật tạo hình trong kiến trúc hiện đại. 5. Chùa Hoằng Pháp - Nổi tiếng với khóa tu mùa hè dành cho Teen Điện thoại: (+84). 8.37130 002 / (+84).8.37133 827 Địa chỉ: Xã Tân Hiệp, Hóc Môn, TPHCM www.chuahoangphap.com.vnChùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật nhất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày, rất được các teen hưởng ứng. Khóa tu mùa hè chia làm 2 đợt, thu hút gần 5.000 học viên tham gia. Đến đây, bạn được học cách tự chăm sóc bản thân, biết yêu thương, chấp nhận những vấp ngã, khó khăn như là những điều tất yếu. Trong 7 ngày mọi kết nối bên ngoài đều bị cắt đứt, teen phải tập sống “cách ly” với gia đình, không TV, không điện thoại, không internet… Khóa tu mùa hè còn là môi trường tâm linh lành mạnh, giúp bạn cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, hóa giải buồn phiền, xây dựng hành trang cần thiết cho tương lai, tìm về về những giá trị sống đích thực. Những bài học Phật pháp không hề khô khan mà trở nên sinh động không ngờ nhờ sự lồng ghép dí dỏm của các thầy. Những quy tắc sinh hoạt nghiêm khắc như đi ngủ, thức dậy sớm… giúp teen “cai nghiện” máy tính. Đây là khóa tu hoàn toàn miễn phí. 6. Chùa Một Cột ở miền Nam - Nam thiên đệ nhất trụ Địa chỉ: 511 Đặng Văn Bi, P. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TPHCM. Ngoài Chùa Một Cột cực kì nổi tiếng ở Hà Nội, TPHCM cũng có một nơi tương tự. Đó chính là “Nam Thiên nhất trụ” gọi nôm na là chùa Một Cột ở miền Nam, do hòa thượng Thích Trí Dũng dựng vào năm 1958 và hoàn tất vào năm 1977. Nam Thiên Nhất Trụ tuân thủ khuôn mẫu Thăng Long nhất trụ (Chùa Một Cột ở Hà Nội) nhưng thấp và nhỏ hơn. Nhìn từ cổng tam quan, Nam Thiên Nhất Trụ được dựng giữa lòng hồ Long Nhãn, với hoa sen dập dìu trên sóng nước, vừa tạo nét gần gũi tinh khiết, vừa tạo nên không gian thanh tịnh. Ngoài ra, đến đây bạn còn được chiêm bái tượng Đức Địa Tạng nặng 61 kg được đúc bằng kim loại quý. 7. Chùa Ngọc Hoàng - Nơi chốn linh thiêng Địa chỉ: 73 Mai Thị Lựu, P.Đa Kao, Q.1, TPHCM. Chùa Ngọc Hoàng hay còn gọi là Ngọc Hoàng Điện, rộng khoảng 2.300 m2. Cái tên này do một người tên Lưu Minh đặt ra, có nghĩa là nơi thờ thần Hoàng, ngôi chùa vốn được xây dựng từ năm 1892. Lối kiến trúc hoàn toàn theo lối của người Hoa, với nhiều hoa văn họa tiết được xây dựng bằng gạch xưa, mái lợp ngói âm dương với nhiều màu sặc sỡ. Được xây dựng từ năm 1892 và trải qua 16 năm sau mới được khánh thành là Ngọc Hoàng Điện. Theo sử sách ghi lại thì kiến trúc ban đầu được ông Lưu Minh (người Quảng Đông) xây dựng để thờ cúng cho việc làm ăn thuận lợi sau này đến năm 1982 chùa được hòa thượng Thích Vĩnh Khương tiếp quản. Kể từ đó ngôi chùa đã thuộc về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, trong tâm thức của người Việt thì ngôi chùa này mang sự linh thiêng cùng nhiều ấn tượng với tên gọi là Phước Hải Tự nhưng người dân quen gọi là chùa Ngọc Hoàng hơn. Khi bước vào ngôi chùa, du khách sẽ thấy sự thích thú với hồ nước, hoa sen, nơi giữa sân, trong khói hương bay tỏa khắp sân chùa, ngắm dòng người đang thành kính lễ phật. Đặc biệt, nơi đây có hồ nuôi rùa, rất nhiều rùa tập trung ở đây. Với người Việt, đây là ngôi chùa rất linh thiêng, được nhiều du khách chọn làm nơi nghé thăm. Sự rộng mở đón khách bất kể giờ nào của ngôi chùa từ hàng trăm năm quả là điều thú vị. 8. Chùa Ấn Quang - trụ sở Phật học đường Nam Việt Địa chỉ: 243 đường Sư Vạn Hạnh, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh. Chùa được Hoà Thượng Thích Trí Hữu từ chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng vào lập nên năm 1948, mang tên Ứng Quang Tự. Đến năm 1950 Hoà thượng Thích Thiện Hòa đã tôn tạo ngôi chùa, xây dựng ngôi chánh điện và lập trường Phật học. Sau đó chùa được đổi tên là Ấn Quang và được chọn làm trụ sở Phật học đường Nam Việt. Từ năm 1955 đến năm 1978, Hoà thượng Thích Thiện Hoà đã cho tái thiết ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Điện phật được bài trí đơn giản, trang nghiêm. Chính giữa thờ Đức Phật Thích ca Mầu ni. Chùa đã từng đặt trụ sở Giáo hội Tăng già Việt Nam (1950-1963), văn phòng Viện Hoá đạo và Viện Tăng thống giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (1967-1980). Từ năm 1982, chùa đặt trụ sở Ban trị sự Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh. 9. Chùa Bà Thiên Hậu - Chùa của công đồng người Hoa Địa chỉ: 710 đường Nguyễn Trãi, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa có tên gọi khác là miếu Bà Thiên Hậu, Tuệ Thành Hội Quán, thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, một vị thần biển của người Hoa Nam chuyên cứu giúp người dân Trung Quốc bị nạn trên biển. Chùa được cộng đồng người Hoa gốc Tuệ Thanh (Trung Quốc) ở Chợ Lớn xây dựng năm 1760, kiến trúc theo lối Trung Hoa cổ. Tường xây bằng gạch liền mí không hở mạch. Từ màu sắc bên ngoài đến trang trí bên trong, những hình ảnh theo điển tích Trung Hoa với nhiều màu sắc rực rỡ. Đặc biệt phù điêu và tượng bằng gốm tráng men trang trí ở ngoài trời và trên mái nhà hơn 2 thế kỷ vẫn sáng đẹp. Chùa hiện có một chuông đồng đúc từ năm 1796 và một bia đá khắc năm 1859, là số đồ vật cổ quí giá. Trong chính điện, hai bên cửa thờ Quan Môn (Thần giữ cửa) và Ông Bổn (Thổ địa), giữa thờ Bà Thiên Hậu, hai bên thờ bà Kim Hoa và Long Mẫu Nương Nương, con vua Thuỷ Tề. Ngoài ra còn có bàn thờ Quan Công, thần Tài. Hàng năm hội vía Bà được tổ chức long trọng vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. 10. Chùa Linh Sơn - Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học Địa chỉ: 149 Cô Giang, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh. Khoảng hai trăm năm trước, nơi đây là ngôi miếu thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. Đến cuối thế kỷ 19, các phật tử và nhân dân địa phương đã xây dựng nơi đây thành ngôi chùa nhỏ. Năm 1929, chùa đã được trùng tu trở thành ngôi thiền viện khang trang. Ngày 26/8/1931, Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học ra đời, đặt trụ sở ở chùa. Hội ra tạp chí Từ Bi Âm từ ngày 1/1/1932; lập Pháp bảo phường, thỉnh Tam Tạng kinh từ Trung Quốc về làm tài liệu nghiên cứu, phiên dịch những phần cốt yếu trong kinh ra chữ quốc ngữ, mở Thích học đường đào tạo tăng, ni để phát triển đạo Phật tại miền Nam. Kiến trúc chùa ngày nay do Hoà thượng Thích Nhật Minh trùng tu vào năm 1968 và hoàn thành vào năm 1971. Chùa thường xuyên đón tiếp nhiều du khách, phật tử đến tham quan, chiêm bái. 11. Chùa Phụng Sơn (Chùa Gò) - Chùa nổi tiếng với những pho tượng điêu khắc đặc sắc Địa chỉ: 1408 đường 3 tháng 2 quận 11, Tp. Hồ Chí Minh. Chùa được Thiền sư Liễu Thông tạo lập vào đầu thế kỷ 19. Chùa đã qua hai lần đại trùng tu. Lần thứ nhất do Thiền sư Tuệ Minh tổ chức từ năm 1904 đến năm 1915. Nhiều pho tượng ở chùa được nhóm thợ Sa Đéc tạo tác trong thời gian này. Lần thứ hai vào năm 1960, vẫn giữ kiểu kiến trúc cổ. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa có khoảng 40 pho tượng thờ chủ yếu là tượng gỗ sơn son thiếp vàng trong đó có một số pho tượng quý như bộ tượng Di đà Tam Tôn, bộ tượng Ngũ Hiền thượng kỳ thú, tượng Phật bằng đá dát vàng, tượng ngài Tiêu Diên bằng gốm. Ở nhà tổ còn có tượng Phật Nhật Bản, tượng Phật Thái Lan. Vào các năm 1988 và 1991, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật tại khu đất của chùa và phát hiện nhiều hiện vật như mặt người bằng đất nung, đồ gốm… thuộc văn hoá Óc Eo. Trước đó, nơi đây cũng đã tìm thấy một pho tượng Phật bằng đồng theo phong cách Thái Lan. Chùa đã được Bộ Văn hoá công nhận là di tích lịch sử – văn hoá quốc gia. 12. Việt Nam Quốc Tự - Mang đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam Địa chỉ: tọa lạc tại 16B đường 3/2, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Quốc Tự (chữ Hán: 越南國寺) được khởi công xây dựng vào ngày 26/4/1964. Chùa do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ đồ án xây dựng, công trình bao gồm một ngôi tháp 7 tầng mái cong, chạm trổ tinh vi trong không gian thiên nhiên rộng rãi trên vùng đất rộng 45.000m², với các cảnh quan đặc sắc hài hòa mang đậm bản sắc phong cách kiến trúc Việt Nam. Do chiến tranh nên chùa xây xong ngôi tháp thì bị bỏ hoang phế, đến năm 1988, chùa mới được khôi phục lại, nhưng diện tích chỉ còn 3.712m². Năm 1993, chùa được trùng tu và tôn tạo mới với nhiều hạng mục hơn, ngôi tháp 7 tầng và các cảnh Phật được hoàn thiện. Chùa toạ lạc trong một khuôn viên thanh tịnh, với những tán cây đại thụ toả bóng mát quanh năm, là một công trình kiến trúc đẹp và có nhiều ý nghĩa lịch sử. Mỗi tầng tháp đặt một pho tượng Phật khác nhau, bên ngoài là cổng Tam quan, cạnh cổng là hai bức tượng phật Thích Ca với hai tư thế khác nhau. Tiếp theo là tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn và tượng Quan Âm Bồ Tát đứng trên toà sen, chánh điện thờ Phật Thích Ca và Phật Di Lặc. Từ trai đường, có lối cầu thang đi lên 7 tầng lầu của tháp, bên trong lầu 1 thờ tượng các đức Phật Thích Ca, A Di Đà và Dược Sư, bên ngoài thờ 30 vị Phật thiền định trên đài sen. Bốn góc sân có tượng Tứ Thiên Vương, phía sau thờ tượng Bồ tát Di Lặc. Ngoài ra chùa còn có đại hồng chung nặng 800kg được đúc từ năm 1963.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 7:43:02 GMT 9
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC THỜI TÂY SƠNkhanhhoathuynga.wordpress.com/2010/05/02/ngh%E1%BB%87-thu%E1%BA%ADt-ki%E1%BA%BFn-truc-th%E1%BB%9Di-tay-s%C6%A1n/Chùa Tây Phương (hay Sùng Phúc Tự). Chùa thường gọi là chùa Tây Phương . Tọa lạc trện đỉnh đồi tây Phương , hình cong như lưỡi câu (xưa gọi là núi Câu lậu ) cao chừng 50m , thuộc núi Ngưu Lĩnh ( núi con Trâu ), xã Thạch Xá , huyện Thạch Thất , tỉnh Hà Tây cũ , thành phố Hà Nội ngày nay . Chùa cách trung tâm Hà Nội 40km về hướng tây bắc , cách thị xã Sơn Tây 18km về hướng đông nam . Từ chân núi , qua 239 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa .Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song : bái đường , chính điện và hậu cung . Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm , tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ , để trần , tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc ,điểm những cửa sổ tròn với biểu tượng sắc và không , các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen . mái lợp hai lớp ngói : mái trên có múi in nổi hình lá đề , lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hang rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn . Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều trạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn , trên mài gắn nhiều con giống bằng đất nung , các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa , lá ,rồng , phượng ,giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm . Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen . Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý “sắc sắc không không “ của nhà Phật . Chùa được dựng từ lâu đời và đã được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ XVI , XVII, XVIII . năm 1554 , chùa được xây lại trên nền cũ . Năm 1632 , chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian . năm 1660 , Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới . Đến năm 1794 , dưới thời Tây Sơn , chùa được đại trùng tu , lấy tên chùa Tây Phương . Năm 1893, Tỳ Kheo Thích Thanh Ngọc trụ trì đã tổ chức trùng tu chùa , tạc tượng quan âm trăm tay , Thiện Tài Long Nữ ,Bát Bộ Kim Cang , La Hán Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác quý hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ ,phù điêu và tạc tượng . Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ . các đầu bẩy , cac bức cổn , xà nách , ván long …đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt : hình lá dâu , lá đề , hoa sen , hoa cúc ,rồng , phượng ,hổ phù …rất tinh xảo . Điện Phật ở cả 3 nếp nhà đều bài trí tôn nghiêm . Hệ thống tượng thờ ở chùa khá đầy đủ , chủ yếu được tạc bằng gỗ mít . Trong chùa có 72 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi . các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng . Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp , cao chừng 3m , trang nghiêm phúc hậu . Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18 . Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19 .
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 17, 2016 16:14:36 GMT 9
Nhìn lại những phương án đạt giải “Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng bão lũ, ngập lụt”16/10/16 Những ngày qua, dưới tác động của áp thấp nhiệt đới cùng việc xả lũ tại các hồ thuỷ điện đã gây ra lũ lụt, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của người dân các tỉnh miền Trung khiến cả nước đều xót xa. Dưới góc nhìn của kiến trúc, những mô hình nhà ở chống lũ nếu được phát triển sẽ trở nên thiết thực và có thể giúp đỡ được rất nhiều đồng bào trước những tình huống bất ngờ này.Người dân xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch chỉ biết đứng nhìn theo dõi nước cuồn cuộn chảy. (Ảnh: Văn Bình) Những năm qua, giới KTS đã đóng góp nhiều mô hình nhà chống lũ, đặc biệt với Cuộc thi “Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng bão lũ, ngập lụt” do Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức 2010-2011, những đồ án được giải cao đều là ý tưởng cho nhà chống lũ, hướng về miền Trung. Một trong số đó đã được đưa vào xây dựng thực tế ở Hà Tĩnh. Tuy nhiên, những đồ án được xây dựng thực tế còn quá ít. Mong rằng giới hành nghề kiến trúc sư sẽ tiếp tục có những đóng góp tích cực về những giải pháp chống lũ và các cơ quan ban ngành sẽ có sự quan tâm, hỗ trợ để những giải pháp phù hợp có thể trở thành hiện thực. * 03 tác phẩm đạt giải A tại cuộc thi “Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng bão lũ, ngập lụt” đều có ý tưởng về nhà chống lũ hướng về miền Trung Sống cùng Lũ Lụt, nhà chống lũ lụt đa năng Hương Khê, Vũ Quang, Hà Tĩnh Nhà ở nông thôn vùng bão lũ Nhà lõi – Khu vực Miền Trung và Tây Nam bộ Thiết kế nhà chống bão lũ Khu vực Miền Trung Khu vực Miền Trung * 05 tác phẩm đạt giải B tại cuộc thi “Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng bão lũ, ngập lụt” Nhà ở nông thôn vùng bão lũ Vùng Bắc Trung Bộ Làng ven sông Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình Nhà ở nông thôn vùng bão lũ Nam Đàn, Nghệ An Nhà ở mùa nước nổi Float-S house Đồng Bằng Sông Cửu Long Nhà ở tỉnh Bến Tre Tây Nam Bộ Anh Dũng / tckt.vn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 14, 2017 0:51:09 GMT 9
Những mâu thuẫn song hành khi thiết kế, tư vấn Hành nghề Kiến trúc sư Cứ mỗi lần tiếp xúc khách hàng cần tư vấn, thiết kế, xây nhà mới hay sửa chữa nhà cũ… là các nhà chuyên môn lại phải trao đổi, tranh luận không ít về những vấn đề mang tính mâu thuẫn trong ý tưởng và triển khai ý tưởng, kiểu như là: Nhà muốn có thật nhiều ánh sáng vào trong, nhưng mà nóng thì phải làm sao? Thích có những khung cửa mở rộng để được view nhìn thoáng, không muốn làm chấn song ngăn trộm, nhưng… chuyện an toàn thì tính sao? Không muốn dùng máy lạnh, nhưng mở cửa ra thì bụi quá!Những âu lo cụ thể ấy liên quan mật thiết đến các yếu tố kỹ thuật và cách thức xử lý sao cho tiện lợi và chủ động. Và mọi vấn đề, mọi giải pháp luôn hàm chứa những mặt mâu thuẫn cần hóa giải, trong đó nhà chuyên môn chỉ là người tư vấn, phân tích mọi mặt, còn chính gia chủ mới là người quyết định sau cùng. Nhận diện đúng và đủ các mâu thuẫnAi đó đã nói “không làm gì thì mới không sai” quả chí lý trong chuyện làm nhà. Bởi bất cứ vấn đề gì đặt ra cũng đi kèm với bài toán và những mâu thuẫn đôi khi khá nan giải. Ví dụ như giữa việc ngăn được nhiều phòng với ý thích nhà liên thông thoáng đãng! Bản thân việc ngăn đã đi kèm với chia, dựng vách lên là sự cách biệt xuất hiện. Trong vô số công việc phải xử lý, nhà chuyên môn phải kiêm luôn vai trò người phân xử, bởi ông chủ thì thích mở thoáng còn bà chủ thì lại ngại bụi bặm; hay đám trẻ thì mê nhà nhiều khung kính để hưởng “view hoành tráng” nhưng nhóm trung niên thì ngao ngán trước nắng nung và làm rèm mệt nghỉ. Do vậy quyết định được đóng ở mức nào, mở bao nhiêu mới đủ, là khoa học chứ không thể cảm tính. Trước hết cần hiểu rằng làm nhà ở xứ nhiệt đới dù có thông thoáng tự nhiên tốt đến đâu không có nghĩa là né tránh hệ thống điều hòa cơ khí. Dùng máy lạnh đúng chỗ, tiết kiệm điện và có điều chỉnh hợp lý vẫn hơn là phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, nhất là thời thiên nhiên đang biến đổi nhiều như hiện nay. Hơn nữa khi bên ngoài trời nhiệt độ lên trên 35oC thì dù có mở cửa thoáng cỡ nào cũng chỉ… đưa thêm khí nóng vào nhà nhiều hơn. Các khu resort cao cấp ở nơi thoáng mát vậy, đa số thường làm nhà theo kiểu không gian truyền thống, nhưng vẫn phải gắn máy lạnh. Quan trọng là gắn thế nào và hiệu năng sử dụng máy lạnh ra sao. Các mâu thuẫn song hành trong giải pháp thường tập trung vào 3 nhóm chính: nhóm giữa nhu cầu với thực tế, nhóm giữa kinh tế và công năng, nhóm giữa kỹ thuật và thẩm mỹ, thậm chí có những mâu thuẫn xuất hiện cả trong 3 nhóm kể trên. Nhận diện đúng và đầy đủ các mâu thuẫn để đi tới kết luận sau cùng là điều nên làm. Ví dụ như muốn làm khung sắt chống trộm nhưng lại sợ xấu xí như chuồng cọp, hay muốn mở rộng cửa thông thoáng nhưng lại ngại bụi và ồn, v.v. tất cả đều phải đưa ra từ đầu với nhà chuyên môn để cùng thảo luận bàn bạc và nêu hướng giải quyết. Tư duy mới + công nghệ mới Đây là công thức được nhiều công ty thiết kế – xây dựng hiện nay áp dụng thành công bước đầu, ít ra là để các gia chủ và nhà chuyên môn không còn mơ hồ hay hiểu sai ý tưởng của nhau. Phía gia chủ có thể nghĩ thông gió đơn thuần hoặc là mở cửa sổ, hoặc đóng lại và bật máy lạnh. Nhưng nhà thiết kế sẽ dùng phần mềm tính toán hướng gió thuận lợi, đối lưu không khí trong nhà thế nào, và chứng minh với gia chủ cách thức mở cửa đón gió, hút gió sao cho hợp lý. Lợi thế công nghệ giúp các bên cùng hình dung và cân nhắc lợi hại của mọi giải pháp, cộng thêm tư vấn của bên thứ ba (thầu phụ, nhà cung cấp vật liệu, thiết bị chuyên sâu). Cụ thể như máy lạnh âm trần, thang máy, thiết bị giám sát thông minh, v.v. trước kia chỉ dùng cho công trình lớn hoặc quán xá, nay đã làm ngày càng nhiều hơn ở căn hộ, nhà phố. Khái niệm vật liệu – thiết bị cao cấp hay bình dân hiện nay cũng không chỉ ở mức giá nữa, mà đánh giá toàn diện hơn ở mức độ xử lý và sử dụng sao cho hiệu quả tối ưu, đạt chuẩn môi trường. Ví dụ, tường xây bằng gạch đất sét nung kiểu cũ sẽ tốn năng lượng, thải khí môi trường, tốn thêm chi phí vật liệu và nhân công cho vữa trát hoàn thiện, tăng bụi bặm thải ra, v.v. so với gạch bê tông nhẹ không nung. Hoặc các tấm lợp cách âm và cách nhiệt tốt hơn tôn thường bao nhiêu phần trăm, lắp đặt thế nào, v.v. đều có chi tiết trên mạng lẫn chuyên gia tư vấn trực tiếp, gia chủ gọi là có mặt ngay. Thị trường vật liệu – thiết bị hiện nay đầy đủ chủng loại và tính năng hiện đại, phù hợp với nhiều mức yêu cầu, vấn đề là cả giới chuyên môn và truyền thông chưa quảng bá rộng rãi để thay đổi thói quen tiêu dùng của chủ đầu tư. Xem thêm: Nhà 4.45×11.8 – Ngôi nhà với tư duy mới “Bớt để được nhiều hơn” Xử lý đúng mức các vật liệu sẽ đem đến hiệu quả tiết kiệm chi phí. Cấu trúc hợp lý từ đầu cho mái, bao che… sẽ tạo không gian hài hòa sinh thái, giảm thiểu tiêu tốn năng lượng để làm mát Không quên học hỏi truyền thống Nhiều công trình vừa và nhỏ của kiến trúc sư Việt Nam hiện nay đã có ít nhiều sáng tạo trên cơ sở kế thừa các giá trị kinh nghiệm truyền thống trong xây dựng. Đó là tín hiệu đáng mừng và cũng là xu hướng chung trên thế giới trong thời kỳ đối mặt với biến đổi khí hậu toàn cầu. Có thể thấy hầu hết giải pháp xử lý của cha ông ta đều xoay quanh vấn đề thích ứng với khí hậu nhiệt đới nắng lắm, mưa nhiều, gió mùa và độ ẩm cao, cộng thêm bão lũ, côn trùng, thiên tai và cả nhân tai đe dọa sự an lành của nơi cư ngụ. Khi vật liệu chưa đa dạng như hiện nay, nhà Việt xưa đã biết chống nóng hiệu quả từ khâu chọn đất, đắp nền cao, đào ao tạo mặt nước mát mẻ, trồng cây, mở cửa rộng sang hướng tốt, xoay đầu hồi kín về phía nắng xấu. Những thủ pháp đó tới nay vẫn luôn là bài học sống động, và diễn giải đơn giản là: mua vật liệu nào mà chống nóng, cách nhiệt tốt thì sẽ tiết giảm về lâu dài chi phí, dù lúc đầu có thể đầu tư tốn tiền hơn vật liệu khác. Chọn giải pháp nào mà có thể lúc đầu phải chăm chút kỹ lưỡng, nhưng khi sử dụng khai thác hiệu quả, đáng đồng tiền bát gạo bỏ ra, thì sẽ bền vững. Ví dụ nếu lợp mái tôn bình thường xong lại phải đóng trần cách nhiệt thì vừa tốn tiền, vừa tốn công sức mà hiệu quả cũng chưa chắc tốt hơn so với chọn tấm lợp có cách nhiệt tốt ngay từ đầu. Hay hệ thống các lam gỗ nhân tạo, nhựa giả gỗ, nhựa lõi thép, v.v. hiện nay bắt đầu được dùng nhiều trong tạo vỏ mặt tiền, che nắng và chống trộm khá hiệu quả mà lại thẩm mỹ, ít phải sơn phết bảo trì nhiều như khung sắt hay lưới thép trước đây. Xi măng trần, gạch không nung và không tô trát, chỉ thi công thô cho thật kỹ thì sẽ rất bền và đẹp, giảm chi phí và tạo ra phong cách riêng. Tức là nếu chọn đúng giải pháp, dùng đúng loại vật liệu, thi công đúng quy cách thì sẽ ít phải thêm bớt, chắp vá, quá trình sử dụng và bảo trì tiện lợi. Trở lại vấn đề “mở cho thoáng nhưng lại ngại bụi, hay thích nhiều ánh sáng nhưng nóng thì làm sao”, có thể thấy ngôi nhà cũng như con người, không thể chỉ có một trạng thái duy nhất trong suốt ngày, suốt tháng, suốt năm được. Lúc nóng thì cần giải nhiệt và che chắn, lúc bụi thì cần khép kín che chắn, lúc đóng lúc mở thích ứng khác nhau, nên cấu trúc nào linh hoạt thì sẽ được chọn, sẽ dùng lâu dài. Cụ thể là cấu trúc nhiều lớp và xốp rỗng, nhẹ nhàng và linh động, ví dụ như: Mái chồng mái, trên mái bằng có lớp mái dốc che thêm để thoát mưa, cản nắng, hoặc trên sân thượng có dàn lam. Sàn gạch bộng, sàn 2 lớp có khoảng thông khí giữa để cách nhiệt và chống thấm. Tường nhiều lớp, giữa có lớp chống nóng, cách nhiệt, chống ồn. Tường kết hợp đặc rỗng của gạch thông gió, lam bê tông hoặc lam gỗ, lam nhôm, tường kính ở trong (có thể trượt mở) đi với tường lam ở ngoài. Cửa ngoài chớp, giữa là lớp khung bảo vệ, trong có kính, v.v. từ thời nhà Tây đã nổi tiếng đẹp bền, nay có nhiều biến tấu như cửa gấp nhiều cánh, cửa kết hợp lam trượt, cửa kính hộp cách nhiệt cách âm, v.v. Một số ví dụ nêu trên sẽ giải quyết chuyện lúc nóng thì trượt cửa ra thông thoáng lấy gió, lúc ồn thì đóng lại ngăn bụi ngăn ồn. Những cấu trúc – cấu tạo – chi tiết như vậy được sự trợ giúp của kỹ thuật – vật liệu tiên tiến nên ngày càng gọn, nhẹ, thông minh và phong phú về kiểu dáng, màu sắc, bề mặt, liên kết, v.v. hơn là dạng cũ. Cùng diện tích như nhau mà khoảng sân nào lát gạch toàn bộ sẽ luôn nóng bức hơn so với với khoảng sân biết lát gạch xen lẫn với cỏ, vì nắng nung nóng bề mặt bê tông rồi tích tụ lại, rồi phản xạ vào nhà, lại phải tốn chi phí gắn máy lạnh, gắn quạt phun hơi nước. Cùng diện tường hướng tây nắng nóng mà nhà nào biết dùng vật liệu cách nhiệt, giải pháp giải nhiệt (như tường nhiều lớp, giàn cây xanh, lam che chắn, v.v.) thì nhà đó mát hơn. Tóm lại, các mâu thuẫn song hành trong quá trình làm nhà thực ra là tác nhân tốt giúp các bên cùng “động não” tìm tòi, kế thừa và sáng tạo, chứ không có vật liệu nào, giải pháp nào là “đũa thần” trong mọi trường hợp. Cho nên hiện nay bên cạnh các công trình thông minh, tiết kiệm, hiệu quả, vẫn còn không ít công trình chỉ chuyển từ hình thức này sang hình thức khác, kinh nghiệm xưa được sàng lọc và nâng cấp, thêm bớt vào thời nay, thông qua vài “chiêu thức” quen thuộc như dùng gạch trần, trồng cây xanh, gắn lam, v.v. Đó là các giải pháp không hẳn tạo nên trào lưu hay đổi mới kiểu dáng công trình, mà là sự kế thừa có chọn lọc trên các nhận thức, quan niệm về môi trường của chủ đầu tư lẫn người xây dựng. Từ hệ cửa và hành lang nhà Việt, đến các lam xoay tại Úc hiện nay, cấu trúc che chắn hợp lý luôn đảm bảo che chắn tốt mà vẫn thoáng đãng. Lam thông gió, gỗ tận dụng, tấm phên tre… là những chất liệu giúp ngôi nhà có thể “hô hấp” tốt nhờ độ xốp rỗng. Cây xanh, mặt nước giảm bớt nóng nực, thay vì “bê tông hóa” toàn bộ. Theo KTS Huân Tú/Tạp chí Kiến trúc & Đời sống
|
|