|
Post by Can Tho on Apr 24, 2018 16:42:08 GMT 9
Dinh Gia Long trong dòng lịch sử cận đại của Sài Gòn Khi nói đến những những dinh thự ở Sài Gòn người ta thường chỉ nhắc đến Dinh Ðộc Lập, rất ít người nhớ hay biết đến Dinh Gia Long mặc dù Dinh này nằm cách Dinh Ðộc Lập chỉ có một con đường, và cũng đã từng đóng nhiều vai trò và chứng kiến rất nhiều biến cố quan trọng xảy ra trong khoảng thời gian hơn 100 năm qua của thành phố Sài Gòn. Bài viết này cố gắng ghi lại lịch sử của Dinh Gia Long trong bối cảnh đó. Hình mặt tiền của Dinh Gia Long (Nguồn: Internet) So với Dinh Ðộc Lập, Dinh Gia Long nhỏ hơn rất nhiều, chỉ chiếm một diện tích khoảng gần 2 mẫu, và giới hạn bởi 4 con đường như sau: ● Phía trước mặt: đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng) ● Phía sau lưng: đường Lê Thánh Tôn (nay vẫn là đường Lê Thánh Tôn) ● Phía bên tay phải (từ đường Gia Long nhìn vào): đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) ● Phía bên tay trái (từ đường Gia Long nhìn vào): đường Pasteur (nay vẫn là đường Pasteur) Kiến trúc sư Alfred Foulhoux (1840-1892) Kiến trúc sư người Pháp đã thiết kế Dinh Gia Long là ông Alfred Foulhoux (1840-1892). Ông sinh ngày 23-9-1840 tại làng Mauzun, thuộc tỉnh Puy-de-Dôme, ở giữa nước Pháp, với thành phố Clermont-Ferrand là tỉnh lỵ Ông theo học ngành kiến trúc trong thời gian 1862-1870 tại trường Ėcole des Beaux Arts ở Paris, và sang làm việc tại Sài Gòn vào năm 1874, đãm nhận chức vụ Giám Ðốc Sở Công Trình Dân Sự (Directeur des Bâtiments Civils). Ðến năm 1879, ông được Le Myre de Vilers (1833-1918, làm Thống Ðốc Nam Kỳ trong khoảng thời gian 1879-1882) cử làm Kiến-Trúc-Sư-Trưởng (Architecte-en-Chef) chịu trách nhiệm thiết kế cho các công trình dân sự cho toàn thuộc địa. Ông chính là người đã vẻ kiểu cho một số những công trình dân sự cho thành phố Sài Gòn vẫn tồn tại cho đến ngày nay: Dinh Gia Long, Tòa án, Bưu điện, Trụ sở Hải quan. Ông mất ngày 20-1-1892 lúc 52 tuổi tại Sài Gòn sau một cơn bệnh ngắn và được an táng trong nghĩa trang của thành phố (tại địa điểm ngày nay là Công Viên Lê Văn Tám), với ngôi mộ trong hình dưới đây: [1] Hình ngôi mộ của Kiến trức sư Alfred Foulhoux (Nguồn: Internet) Dinh Gia Long trong thời gian trước 1945 Lúc khởi đầu, Alfred Foulhoux được chỉ thị vẽ kiểu cho một Viện Bảo Tàng Thương Mại sẽ được sử dụng làm nơi triển lãm các sản phẩm của đất Nam Kỳ. Ðến nữa chừng thì mới có lệnh là tòa nhà sẽ làm nơi cư trú cho vị Phó Toàn Quyền Ðông Dương nên Alfred Foulhoux phải điều chỉnh bãn vẽ lại rất nhiều. Việc xây cất bắt đầu vào năm 1885 và hoàn thành vào năm 1890. Vị Phó Toàn Quyền vào cư ngụ trong Dinh Gia Long đầu tiên là ông Henri Eloi Danel (làm Phó Toàn Quyền từ ngày 9-8- 1889 đến ngày 11-9-1892). Người dân Nam Kỳ lúc đó thường gọi tòa nhà này là Dinh Phó Soái. [2] Sau ông Danel, các vị Phó Toàn Qyền người Pháp thay nhau tiếp tục làm chủ Dinh Gia Long.[3] Từ năm 1892 đến năm 1911, đã có thêm tất cả 14 vị Phó Toàn Quyền khác (trong số 14 vị này có một số vị đãm nhiệm chức vụ này 2 hay 3 lần) cư ngụ trong Dinh Gia Long. Ðó là các ông: ● Augustin Julien Fourès ● Eugène Auguste Navelle ● Alexandre Antoine Ėtienne Gustave Duclos ● Gustave Guillaume Sandret ● Ange Eugène Nicolai ● Ėdouard Picanon ● Ferdinand Georges Jules Bocquet ● Louis Paul Luce ● Henri Félix de Lamothe ● François Pierre Rodier ● Olivier Charles Arthur de Lalande de Calan ● Louis Alphonse Bonhoure ● Ernest Outrey ● Jules Maurice Gourbeil Từ năm 1912, chính phủ Pháp bỏ chức vụ Phó Toàn Quyền Ðông Dương và thay bằng chức vụ Thống Ðốc Nam Kỳ. Từ 1912 cho đến ngày 9-3-1945 (khi quân Nhựt đảo chánh, lật đổ chính quyền Pháp) đã có thêm tất cả 16 vị Thống Ðốc Nam Kỳ (trong số 16 vị này cũng có một số vị đãm nhận chức vụ này 2 hay 3 lần) cư ngụ trong Dinh Gia Long. Ðó là các ông: ● Jules Maurice Gourbeil ● Leon Destenay ● Maurice Joseph Le Gallen ● Louis Félix Marie Ėdouard Rivet ● Georges René Gaston Maspéro ● Paul Achille Michel Quesnel ● Maurice Cognacq ● Auguste Eugène Ludovic Tholance ● Aristide Eugène Le Foi ● Paul Marie Alexis Joseph Blanchard de la Brosse ● Eugène Henri Roger Eutrope ● Jean-Félix Krautheimer ● Pierre André Michel Pagès ● Henri Georges Rivoal ● René Veber ● Ernest Thimothée Hoeffel Dinh Gia Long đổi chủ liên tục trong năm 1945 Trong thời gian Thế Chiến II (1939-1945), nước Pháp thua trận bị Ðức chiếm đóng phân nửa lãnh thổ ớ phía Bắc, với thủ đô Paris nằm trong sự kiểm soát của Ðức. Phía Nam còn thuộc chính phủ Pháp với Quốc Trưởng là Thống Chế Philippe Pétain, và đặt thủ đô tại thành phố Vichy. Nhựt Bản, cùng ở trong phe trục với Ðức, lúc bấy giờ đang có chiến tranh với Trung Hoa nên cần phải đóng quân ở Việt Nam để có thể kiểm soát đường xe lửa Hải Phòng – Vân Nam, hầu cắt đứt đường tiếp tế của Hoa Kỳ từ bên ngoài vào cho Trung Hoa. Nhựt thương thuyết với Chính phủ Pháp tại Vichy về việc này nhưng thấy Pháp cố tình kéo dài việc thương thuyết, Nhựt sử dụng vũ lực đánh chiếm các vị trí quan trọng ở biên giới Hoa-Việt như Ðồng Ðăng, Lạng Sơn, sau đó chiếm Hải Phòng, Ðồ Sơn, Phủ Lạng Thương, và sau cùng sân bay Gia Lâm (Hà Nội). Chính phủ Pháp phải đồng ý cho Nhựt vào đóng quân tại Việt Nam từ cuối năm 1940. Tuy nhiên Nhựt vẫn để cho chính quyền Pháp tiếp tục nắm quyền tại Việt Nam. Sang đầu năm 1945, vòng vây của quân Mỹ ngày càng xiết chặt, phi cơ Mỹ hàng ngày oanh tạc các mục tiêu quân sự của Nhựt tại Việt Nam, Nhựt sợ Pháp sẽ làm nội ứng cho Mỹ nên quyết định ra tay trước. Ðêm 9-3-1945, quân Nhựt trên khắp Ðông Dương đồng loạt tấn chiếm các cơ sở chính quyền của Pháp, bắt giam tất cả các cấp chỉ huy huy dân sự và quân sự của Pháp, trong đó, dĩ nhiên, là có cả vị chủ nhân của Dinh Gia Long lúc bấy giờ là Thống Ðốc Nam Kỳ Ernest Thimothée Hoeffel. Dinh Gia Long lại có chủ nhân mới là Thống Ðốc Nhựt Yoshio Minoda nhưng ông này cũng sẽ không chiếm ngụ Dinh được bao lâu. Vua Bảo Ðại nhân cơ hội việc Nhựt lật đổ chính quyền Pháp, chớp thời cơ, tuyên bố Viêt Nam độc lập, xóa bỏ tất cả các hòa ước bất bình đẳng mà Pháp đã buộc triều đình Huế ký kết vào cuối thế kỷ 19 và bổ nhiệm học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ đầu tiên cho Việt Nam.[4] Một trong những công tác quan trọng của Chính phủ là thương thuyết với Nhựt để lấy lại đất Nam Kỳ cho Việt Nam. Thủ Tướng Trần Trọng Kim đã đích thân ra Hà Nội gặp gở và trao đổi với Tướng Tsuchihachi Yuitsui, Toàn Quyền Ðông Dương của Nhựt và ông đã thành công.[5] Ngày 3-8-1945, trong một buổi họp của Chính phủ, Thủ Tướng Trần Trọng Kim đã đề cử ông Nguyễn Văn Sâm, một nhân sĩ người Miền Nam giữ chức vụ Khâm Sai Nam Bộ và không có ai phản đối cả. Ngày hôm sau, vua Bảo Ðại ban chiếu chính thức bổ nhiệm ông Sâm làm Khâm Sai Nam Bộ. Việc ông Sâm đi xe hơi vào Sài Gòn để nhận chức là cả một cuộc phiêu lưu, đầy bất trắc, hiểm nguy vì bị Việt Minh gây rất nhiều khó khăn, ngay cả bắt giam ông Sâm tại Khánh Hòa.[6] Sau cùng, Khâm Sai Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm cũng về được đến Sài Gòn, được Thống Ðốc Nhựt Minoda (lúc đó Nhựt đã đầu hàng Ðồng Minh rồi) tiếp đón và giao trả Dinh Gia Long. Ông Sâm làm chủ Dinh Gia Long trong một thời gian vô cùng ngắn ngủi. Tình hình chính trị tại Việt Nam thay đổi nhanh chóng. Chỉ trong vòng mấy ngày mà hàng loạt biến cố quan trọng đã xảy ra. Tại Hà Nội, ngày 23-8-1945, Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Lâm Thời. Tại Huế, ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại chính thức ban chiếu thoái vị ở Huế, trao quyền cho Chính phủ lâm thời. Tại Sài Gòn, ngày hôm sau, 25-8-1945, Việt Minh cũng cướp chính quyền và thành lập Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ (gọi tắt là Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ) do Trần Văn Giàu đứng đầu. Ông Nguyễn Văn Sâm phải giao Dinh Gia Long cho Trần Văn Giàu dùng làm trụ sở của Lâm Ủy Nam Bộ. Nhưng rồi Lâm Ủy Nam Bộ cũng không chiếm ngụ Dinh Gia Long được bao lâu. Theo thỏa thuận của phe Ðồng Minh, sau khi Nhựt đầu hàng, quân Trung Hoa sẽ vào Việt Nam để giải giới quân Nhựt ở phía Bắc vĩ tuyến 16, và quân Anh sẽ giải giới quân Nhựt ở phía Nam. Thi hành quyết định này, quân Anh vào Sài Gòn ngày 13-9-1945 để giải giới quân Nhựt, họ chiếm Dinh Gia Long để làm trụ sở, Lâm Ủy Nam Bộ (lúc này đã đổi tên thành Ủy Ban Nhân Dân Nam Bộ) phải dọn về Dinh Ðốc Lý (sau này là Tòa Ðô Chính Sài Gòn). Sau đó quân Pháp, dưới quyền chỉ huy của Tướng Philippe Leclerc, được sự thỏa thuận của Anh, tiến vào tái chiếm Sài Gòn. Tướng Leclerc là chủ nhân mới của Dinh Gia Long. Từ đó Dinh Gia Long trở thành nơi cư ngụ của Ủy Viên Cộng Hòa Pháp. Kháng chiến chống Pháp bắt đầu ở Nam Bộ. Dinh Gia Long trong thời kỳ 1946-49 Sau khi chiếm lại trọn Nam Kỳ, Pháp bắt đầu dòm ngó tới Miền Bắc. Ðể tạo bộ mặt đoàn kết quốc gia, Hồ Chi Minh cải tổ chính phủ và thành lập Chính phủ Liên hiệp với sự tham gia của một số nhân sĩ thuộc các đảng phái quốc gia vào ngày 2-3-1946.[7] Ngày 5-3-1946, sau khi thi hành xong nhiệm vụ giải giới quân Nhựt, quân Anh rút khỏi Nam Bộ. Trong khi đó, quân Trung Hoa vẫn chưa chịu rút ra khỏi Miền Bắc. Pháp phải điều đình với Trung Hoa và ký hiệp ước Pháp – Hoa ngày 28-2-1946, đồng ý trả lại Trung Hoa những tô giới mà Pháp đã chiếm trong thế kỷ 19; ngược lại Trung Hoa đồng ý để cho Pháp vào thay thế để giải giới quân Nhựt ở Bắc Bộ. Trước tình thế này, Hồ Chí Minh phải ký với Pháp Hiệp Ước Sơ Bộ 6-3-1946, đồng ý cho Pháp đem 15.000 quân vào Miền Bắc để giải giới quân Nhựt. Pháp và Việt Nam họp hội nghị ở Ðà Lạt ngày 17-4-1946 để bàn thêm về Hiệp Ước Sơ Bộ nhưng không có kết quả. Ngày 27-5-1946 Hồ Chí Minh dẫn một phái đoàn sang Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau để tiếp tục điều đình. Ðể ngăn chận việc Nam Kỳ có thể trả lại cho Việt Nam, Ủy Viên Cộng Hòa Pháp Jean Sédille, được sự đồng ý và hỗ trợ của Cao Ủy Pháp Georges Thierry d’Argenlieu, cho tiến hành việc tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Ngày 7-5-1946, Chính phủ Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ được thành lập với Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ Tướng. Chỉ được nửa năm, ngày 9-11-1946, Thủ Tướng Thinh tự tử. Bác sĩ Lê Văn Hoạch được cử lên thay vào ngày 15-11-1946, và một năm sau, ngày 23-5-1947, Pháp trao trả Dinh Gia Long để làm trụ sở cho chính phủ Nam Kỳ Tự Trị này.[8, 9] Cũng trong khoảng thời gian này, đối với Cựu Hoàng Bảo Ðại, đã có nhiều biến cố bất ngờ và quan trọng đưa đến việc trở lại chính trường của Ngài. Sau khi thoái vị, Ngài đã ra Hà Nội và nhận làm Cố Vấn cho Chính phủ Lâm Thời. Ngày 16-3-1946, Chính phủ cử Ngài và một phái đoàn thiện chí đi Trùng Khánh với mục đích tạo một bang giao tốt với Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Thống Chế Tưởng Giới Thạch. Mục đích này không đạt được, và phái đoàn trở về Việt Nam ngày 15-4-1946, riêng Cựu Hoàng bị bỏ lại. Ngài ở Côn Minh một thời gian gần nữa năm và ngày 15-9-1946 Ngài sang Hong Kong.[10] Cuối năm đó, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19-12-1946. Lúc đầu Pháp thắng thế, chiếm đóng các thành phố, tỉnh lỵ của Miền Bắc. Nhưng càng về sau, lực lượng kháng chiến càng mạnh hơn và Pháp bắt đầu rơi vào thế phòng thủ và thụ động. Không thể thắng về quân sự được, Pháp cần một giải pháp về chính trị cho Viêt Nam. Pháp tìm cách tiếp xúc với Cựu Hoàng. Ngày 6-7-1947 báo chí loan tin: “Nhiều giới, cả Việt lẩn Pháp, đã nêu vấn đế: Pháp nên nghĩ tới việc điều-đình với Cựu-Hoàng Bảo-Ðại, thì hơn là điều-đình với Hồ-Chí-Minh.” [11] Qua tháng 8-1947, ngày 12, một cuộc biểu tình lớn đã diễn ra tại Huế ủng hộ Cựu Hoàng. Một tuần sau, ngày 18-8, “Nhiều đoàn-thể chính-trị nhóm họp và gửi điện sang Hong Kong yêu cầu C.H. Bảo-Ðại về nước, và đứng ra điều-đình với Pháp.” [12] Ngày 1-9-1947, tại Hà Nội, một cuộc biểu tình lớn ủng hộ Cựu Hoàng cũng đã diễn ra. Ngày 5-9-1947, tại Hong Kong, Cựu Hoàng tuyên bố với báo chí Ngài sẳn sàng tiếp đại diện của dân chúng. Ngày 9-9-1947, một đoàn đại biểu gồm 24 người đại diện cho các đảng phái và đoàn thể sang Hong Kong để gặp Cựu Hoàng trình bày nguyện vọng chung là “…yêu cầu Cựu hoàng Bảo Ðại, người đại diện độc nhất, đủ tư cách của dân tộc Việt Nam ra chấp chính và mở cuộc đàm phán với nước Pháp, hầu tái lập hòa bình ở Việt Nam và thực hiện hòa bình và độc lập.” [13] Về phía Pháp, Cao Ủy, Emile Bollaert, trong một diển văn đọc tại Hà Ðông, vào ngày 10-9-1947, cũng tuyên bố Pháp ưng thuận về nguyên tắc trao trả độc lập cho Việt Nam.[14] Sau cùng, ngày 14-9-1947, tại Sài Gòn, cũng đã diễn ra một cuộc biểu tình lớn ủng hộ Cựu Hoàng. Ðến đây thì mọi việc đã rõ ràng: dân chúng Việt Nam ở cả 3 miền Nam Trung Bắc đều mong muốn Cựu Hoàng trở về nước để lãnh đạo cuộc thương thuyết với Pháp hầu lấy lại độc lập cho Việt Nam. Cuối năm 1947, Cựu Hoàng gặp Bollaert tại Vịnh Hạ Long và sau đó Ngài sang Pháp tiếp tục thương thuyết với Chính phủ Pháp. Trong tiến trình thương thuyết này, Cựu Hoàng đề ra 2 mục tiêu phải đạt được: 1) độc lập, nghĩa là Pháp phải trao trả hoàn toàn chủ quyền cho Việt Nam, và, 2) thống nhứt, nghĩa là Pháp phải trả Nam Kỳ lại cho VIệt Nam. Chính vì mục tiêu thứ nhì này mà việc thương thuyết kéo dài mãi cho đến ngày 23-4-1949 khi Hội Nghị Nam Kỳ “biểu quyết với đa số, sự tái nhập của Nam-Kỳ vào Quốc-Gia V.N.” [15] Ngày hôm sau, 24-4-1949, Cựu Hoàng mới chịu lên đường về nước, và ngày 1-7-1949, Ngài thành lập Chính phủ, đích thân đãm nhận chức vụ Thủ Tướng, chia VN làm 3 phần gọi là Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt với mỗi phần có 1 vị Thủ Hiến đứng đầu. Dinh Gia Long trong thời kỳ 1950-1955 Ông Trần Văn Hữu được bổ nhiệm giữ chức Thủ Hiến Nam Việt. Dinh Gia Long trở thành Dinh Thủ Hiến Nam Việt. Ngày 9-1-1950, học sinh Sài Gòn biểu tình đòi Pháp trả tự do cho một số học sinh trường Pertus Ký đã bị Pháp bắt vào cuối năm 1949. Học sinh kéo nhau đến Dinh Thủ Hiến, xô xát với cảnh binh và cảnh binh đã nổ súng gây tử thương cho một học sinh của Trường Petrus Ký là anh Trần Văn Ỏn. Ðám tang Trần Văn Ỏn, vào ngày 12-1-1950 với hàng trăm ngàn người tham gia, là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử của thành phố Sài Gòn. Từ 1950 đến tháng 6-1954 Dinh Gia Long tiếp tục đóng vai trò Dinh Thủ Hiến Nam Việt. Sau khi ông Ngô Ðình Diệm được bổ nhiệm làm Thủ Tướng vào cuối tháng 6-1954, Dinh Gia Long trở thành Dinh Thủ Tướng, và được Ðức Quốc Trưởng Bảo Ðại chính thức đặt tên là Dinh Gia Long, với đường La Grandière chạy ngang trước mặt Dinh cũng được đổi tên thành đường Gia Long. Dinh Gia Long trong thời kỳ 1955-1961 Ngày 23-10-1955, Chính phủ Ngô Ðình Diệm tổ chức Trưng Cấu Dân Ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và ngày 26-10-1955 tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) với ông Diệm làm Tổng Thống. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm sử dụng Dinh Ðộc Lập làm Dinh Tổng Thống, và Dinh Gia Long được chỉ định làm Dinh Quốc Khách dùng làm nơi cư ngụ cho các vị Quốc Trưởng đến viếng thăm chính thức VNCH. Trong thời gian này, Dinh Gia Long đã có dịp được sử dụng làm nơi trú ngụ chính thức của các vị Quốc Trưởng sau đây: ● Tổng Thống Lý Thừa Vản của Ðại Hàn: tháng 11-1958 ● Tổng Thống Rajendra Prasad của Ân Ðộ: tháng 3-1959 ● Tổng Thống Carlos Garcia của Phi Luật Tân: tháng 4-1959 ● Quốc Vương Bhumibol Adulyadej và Hoàng Hậu Sikirit của Thái Lan: tháng 12-1959 Dinh Gia Long trong thời kỳ 1962-1966 Ngày 27-2-1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc của Không Quân VNCH đã đội bom và phá hủy một phần Dinh Ðộc Lập. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm phải tạm thời dọn về sinh sống và làm việc tại Dinh Gia Long. Khi cuộc đảo chánh của các tướng lãnh dưới sự chỉ huy của Trung Tướng Dương Văn Minh diễn ra vào ngày 1-11-1963, Dinh Gia Long là một mục tiêu quan trọng mà quân đảo chánh phải đánh chiếm. Các lực lượng đảo chánh đã giao tranh với các binh sĩ của Lữ Ðoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống suốt từ chiếu ngày 1-11 đến sáng ngày 2-11 mới chiếm được Dinh sau khi binh sĩ của Lữ Ðoàn chịu đầu hàng. Dinh Gia Long đã bị thiệt hại rất nặng nề. (Sau vụ đảo chánh này bổng có tin đồn về sự hiện diện của một đường hầm bí mật trong Dinh Gia Long đã giúp cho hai anh em ông Diệm – Nhu thoát ra khỏi Dinh mà quân đảo chánh không hay biết gì cả. Về sau, tin đồn này được xác nhận là đúng: hầm này được xây cất gấp rút sau vụ Dinh Ðộc Lập bị ném bom, khá kiên cố để có thể chống lại đạn trọng pháo hay bom 500 kg.[16] ) Sau khi được tái thiết, trong khoảng thời gian 1964-1965, Dinh Gia Long được sử dụng làm Dinh Quốc Trưởng, nơi cư ngụ và làm việc của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Dinh Gia Long đã là nơi chứng kiến sự thành lập của hai chính phủ dân sự Trần Văn Hương (từ 4-11-1964 đến 27-1-1965) và Phan Huy Quát (từ 16-2-1965 đến 18-6-1965). Hình Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu với Chính Phủ Trần Văn Hương trước Dinh Gia Long chụp vào ngày 4-11-1964 Hình Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu với Chính Phủ Phan Huy Quát trước Dinh Gia Long chụp vào ngày 16-2-1965 Sau cuộc khủng hoảng nội các (bắt đầu vào cuối tháng 5-1966) đưa đến việc phe quân nhân lên nắm chính quyền (từ ngày 19-6-1966), Dinh Gia Long trở thành Phủ Chủ TỊch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, nơi đặt văn phòng làm việc của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ TỊch Ủy Ban. Sau khi Dinh Ðộc Lập mới được khánh Thành vào ngày 30-10-1966 thì Trung Tướng Thiệu dọn vào làm việc tại Dinh Ðộc Lập. Một thời gian sau khi nền Ðệ Nhị Cộng Hòa được thành lập (theo Hiến Pháp ban hành ngày 1-4-1967), Dinh Gia Long được chỉ định làm trụ sở của Tối Cao Pháp Viện cho mãi đến ngày 30-4-1975. Hiện nay Dinh Gia Long được sử dụng làm trụ sở của Viện Bảo Tàng Thành phố (từ ngày 13-12-1999). Hình một phòng trưng bày trong Viện Bảo Tàng TP hiện nay Thay Lời Kết Sau hơn một thế kỷ hiện diện như một dinh thự hàng đầu tại thành phố Sài Gòn, chứng kiến không biết bao nhiêu biến cố quan trọng về chính trị và quân sự của Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, cũng như trãi qua không biết bao nhiều đời chủ nhân hết người Pháp rồi đến người Việt Nam (không kể một vài trường hợp của người Nhựt và người Anh), Dinh Gia Long, sau cùng, đã được sử dụng đúng với chức năng mà người vẽ kiểu cho nó, kiến trúc sư người Pháp Alfred Foulhoux, đã nhận được chỉ thị để thực hiện: làm trụ sở cho một viện bảo tàng. ____________________________ Ghi Chú: 1 . Foulhoux’s Saigon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: www.historicvietnam.com/foulhouxs-saigon/2. Dinh Gia Long, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: honngocviendong.vn/2016/03/28/dinh-gia-long/3. List of administrators of the French colony of Cochinchina, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: en.wikipedia.org/wiki/List_of_administrators_of_the_French_colony_of_Cochinchina 4. Phạm Cao Dương. Trước khi bảo lụt tràn tới: Bảo Ðại – Trần Trọng Kim và Ðế Quốc Việt Nam (9/3/1945 – 30/8/1945). San Bernardino, Calif.: Truyền Thống Việt, 2017. Tr. 43. 5. Phạm Cao Dương, sđd, tr. 228-233. 6. Nguyễn Kỳ Nam. Hồi ký: 1925-1964. Tập II: 1945-1954. [Sài Gòn]: [Không ghi nhà xuất bản], 1964. Tr. 34-48. Lúc bấy giờ ông Nguyễn Kỳ Nam là Ðặc Ủy Viên của Bộ Tư Pháp (mà Bộ Trưởng là Luật sư Trịnh Ðình Thảo) cùng đi, và sau cùng, chính ông là người lái chiếc hơi hiệu Ford này đưa Ông Sâm về đến tận Dinh Gia Long ở Sài Gòn. 7. Ðoàn Thêm. Hai mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân. Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản, [1979?]. Tr. 20. 8. Dinh Gia Long, tài liệu đã dẫn ở ghi chú số 2. 9. Ðoàn Thêm, sđd, tr. 34. 10. Bảo Ðại. Con rồng Việt Nam: hồi ký chính trị (1913-1987). [Không ghi nơi xuất bản]: Nguyễn Phước Tộc xuất bàn, 1990. Tr. 237-249. 11. Ðoàn Thêm, sđd, tr. 36. 12. Ðoàn Thêm, sđd, tr. 37. 13. Bảo Ðại, sđd, tr. 284. 14. Ðoàn Thêm, sđd, tr. 38. 15. Ðoàn Thêm, sđd, tr. 54 16. Dinh Gia Long, tài liệu đã dẫn. Tài liệu này có kèm theo 1 băng video về cái hầm này. Theo tài liệu này được minh họa bởi băng video kèm theo, thì nếu nói cho đúng đây chỉ là một cái hầm để trú ẩn chớ không phải là một đường hầm. Lâm Vĩnh Thế 13/12/2017
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 1, 2018 10:22:18 GMT 9
Chùa Một CộtNguyễn Nam Kinh (1) Chùa Một Cột ở Hà Nội hiện nay là tên quen thuộc của Liên Hoa Ðài dựng trong khuôn viên của một quần thể kiến trúc chùa, gồm chính điện thờ Tam Bảo, nhà Tổ, nhà khách v.v. được gọi chung là chùa Diên Hựu (lấy tên đầu của Liên Hoa Ðài). Chùa Một cột nổi danh vì kiến trúc độc đáo là một lầu gỗ hình vuông đặt trên một cột đá trồng giữa một hồ nước. Lầu được củng cố bằng một hệ thống con sơn sóc nách bằng gỗ. Tất cả tượng hình cho một bông sen vươn lên khỏi mặt nước, do đó mà có tên là Liên Hoa Ðài. Liên Hoa Ðài theo sử biên niên đã được dựng vào thời Lý năm 1049. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: "Mùa đông tháng 10 âm lịch, dựng chùa Diên Hựu ở vườn Tây cấm (bên phía Tây cấm thành Thăng Long). Trước đấy vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Ðức Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi vua tỉnh dậy, vua đem việc đó nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột trụ như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn chung quanh tụng kinh, cầu cho vua trường thọ". Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài tuổi thọ). Năm 1105 vua Lý Nhân Tông lại cho sửa sang, tô điểm Liên Hoa Ðài, đào thêm hồ, xây tháp báu ở phía trước. Văn bia tháp Sùng thiện Diên Linh trên núi Ðọi (tỉnh Hà Nam) có đoạn ghi tả chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Thăng Long như sau: "Ðảo ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột đá hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng một ngôi đền đỏ xẫm, trong đền đặt một pho tượng Quan Âm sắc vàng. Vòng quanh ao có dẫy hành lang trang trí bằng những hình vẽ bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, mỗi phía đều bắc cầu cong để đi lại. - sân trước mặt, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu ly..." Hai tháp báu này xây bằng gạch nung đất trắng, một cạnh gạch có chạm rồng (kiểu rồng thời Lý) ngoài cũng phủ men trắng mà khoảng năm 1954 đã được tìm thấy trong khuôn viên chùa Diên Hựu. Thiền sư Huyền Quang, đệ tam tổ phái Trúc Lâm thời Trần có làm thơ vịnh cảnh Diên Hựu Tự dưới trăng thu, có đề cập đến những ngọn tháp này: "Thượng Phương thu dạ nhất chung lan, Nguyệt sắc như ba phong thu đan, Xi vần (chi vẫn)* đảo miên phương kính lãnh, Tháp quang song chĩ, ngọc tiêm hàn" Phương trượng đêm thu vẳng tiếng chuông, Lá bàng đỏ xẫm ánh trăng suông, Gương hồ in ngược chim đầu nóc, Một đôi tháp ngọc nhọn đầu vươn. Vua Lý Nhân Tông còn cho xây thêm một gác chuông bằng đá cao mấy trượng và đúc một quả chuông thật lớn định để treo lên, nhưng chuông rè, không kêu nên để bỏ ở thửa ruộng bên chùa. Ruộng trũng nhiều rùa, nên được gọi là chuông Qui điền. Chuông này sau Vương Thông nhà Minh bị Bình Ðịnh Vương vây hãm, phá đi để lấy đồng đúc khí giới (T.K.X.V). Vào những ngày sóc (mồng một), ngày vọng (rằm) mỗi tháng nhà vua thường đến lễ chùa và hàng năm đến ngày Phật Ðản (mồng 8 tháng tư ta) vua đều đến dự lễ tắm Phật. Ðó là thời cực thịnh của chùa Diên Hựu. Từ đó đến nay, chùa cùng với đất nước trải qua bao cuộc thịnh xuy nhưng vẫn tồn tại và đã được tu sửa nhiều lần. Ý niệm xây dựng chùa Một Cột có lẽ đã phát xuất từ thời Ðinh Lê (T.K.X.) bằng chứng là ở Hoa Lư cũng còn di tích của một chùa Một Cột. Còn chùa Một Cột thời Lý tức Diên Hựu Tự là "Hoa sen nghìn cánh nở trên cột đá " trên dựng điện Phật, mặc dù «hoa sen nghìn cánh" có là mỹ tự đi nữa thì kiến trúc xưa cũng to lớn huy hoàng hơn bây giờ. Một số nhà khảo cứu đã đưa những con số chiều cao, chiều rộng to lớn gấp bội hiện nay nhưng không biết căn cứ vào đâu. Những hình ảnh xưa nhất của Liên Hoa Ðài, được ghi lại là những tấm hình chụp về cuối thế kỷ XIX (khoảng trên một trăm năm trước đây) cho ta thấy chùa Một Cột bấy giờ trông tương tự như bây giờ, nhưng tình trạng bắt đầu hư nát và quang cảnh xung quanh khá hoang tàn. Ðến năm 1923 chùa Một Cột được trường Viễn Ðông Bác Cổ xây cất lại và xây bao lan bọc quanh 4 phía hồ. Nhưng cuộc trùng tu này vì thiếu kinh nghiệm nên kết quả không được mỹ mãn lắm. Kích thước thì nhỏ hẹp đi, mái cũng thấp hơn, quang cảnh có gọn gàng phong quang hơn nhưng đường nét cũng khô khan hơn. Nhưng từ đây trở đi nhờ phương tiện truyền thông, sách vở, báo chí hình ảnh, chùa Một Cột được phổ biến, thậm chí nha bưu điện Ðông Dương cũng dã mấy lần phát hành tem chùa, nên càng ngày kiến trúc này càng được biết đến, không những ở Việt Nam mà cả trên thế giới nữa. Ðến cuối năm 1954 khi thi hành hiệp định Genève, quân Pháp sửa soạn rút lui khỏi Hà Nội và miền Bắc Việt Nam thì có kẻ lạ mặt đặt thuốc nổ phá hủy chùa Một Cột ngày 11-9-1954 (rằm tháng tám ta). Liên Hoa Ðài bị phá hủy từ mặt sàn trở lên vì chất nổ được dấu ở dưới bát hương. Tuy nhiên, pho tượng Quan Âm nơi đây, vẫn ngồi y nguyên ở gần ngay đấy, chỉ bị rời mấy cánh tay gỗ chắp. Sau khi tiếp quản Hà Nội, được mấy tháng thì chính quyền tiếp quản quyết định phục hồi lại chùa và ủy nhiệm cho chuyên viên Sở Bảo Tồn Cổ Tích Nguyễn Bá Lăng, nghiên cứu họa đồ và điều khiển công trường. Họa đồ đã được nghiên cứu căn cứ theo một ảnh chụp cũ khoảng cuối thế kỷ XIX của trường Viễn Ðông Bác Cổ. Vì là ảnh chụp lập diện (géométral) nên những kích thước cũ, chiều rộng, chiều cao, độ dốc mái kể cả chi tiết tầu đao, lan can được phục nguyên một cách chính xác. Cột đá đường kính 1m20 và bộ con sơn sóc nách bên dưới vẫn được giữ nguyên, còn bên trên bình đồ vuông nay được phục nguyên mỗi mặt rộng 4m20, chiều cao từ sàn đến diềm mái là 2m20. Chi tiết trang trí trên nóc mái là đôi rồng ngoảnh cổ lại chầu mặt nguyệt, là đặc điểm trang trí từ thời cuối Lê sang Nguyễn được đắp lại như cũ. Bốn góc mái đao được làm cong hớt lên hơn trước một ít. Những hình đắp trang trí trên bốn góc đao trong hình chụp không rõ vì đã hư mòn thì được đắp lại theo hình đầu rồng lá lật như kiểu cuối thời Lê, còn thấy khá phổ thông ở các kiểu kiến trúc cổ tại miền Bắc. Vách gỗ bao quanh cung thờ được làm theo kỹ thuật cổ truyền là vách nong đố gỗ. Lan can được làm con tiện và cái "vỉ ruồi" trang trí ở hai đầu hồi thì được chạm theo kiểu chép ở nhà thủy tạ chùa Tam Sơn, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Bên trong, phía sau bên trên bàn thờ Ðức Quan Thế Âm, được trang trí bằng một giải ván thượng diệp chạm lưỡng long chầu nguyệt dập theo một kiểu chạm gỗ ở đình làng Ðình Bảng (Bắc Ninh). Cũng ở đây bên trên giáp mái treo tấm bảng chữ Hán "Liên Hoa Ðài". Tòa Liên Hoa đài này đã được dập kiểu để dựng trong vườn của một bảo tàng viện tại Varsovia (Ba Lan) nhưng theo tỷ lệ thu nhỏ ơ và thay thế cầu thang gạch bằng cầu thang gỗ. Làm như vậy có lý hơn vì rất có thể là trước kia người ta leo lên Liên Hoa đài bằng một thang gỗ, rồi đến cuối thế kỷ trước Kinh lược Hoàng Cao Khải trong đợt tu bổ cổ tích mới cho xây bằng gạch như hiện nay: Liên Hoa đài nằm chếch phía sau, bên phía Tây Bắc chính điện thờ tam bảo trong khu vườn riêng của chùa, thì nay vườn này được mở rộng thành công viên của thành phố, mé bên kia khu vực chùa Diên Hựu thì khoảng thập niên 80 dùng để xây tòa nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh đồ sộ cao lớn ở gần xát ngay bên, không biết tôn trọng di sản lịch sử văn hóa xưa. Tuy nhiên khách vào thăm chùa Một Cột vẫn đông đảo vì ai cũng nhận thức là chùa Một Cột đích thực là kiến trúc văn hóa Việt Nam. Nguyễn Nam Kinh (1) * Một loại chim, đắp bằng sành để trang trí trên đầu nóc mái _______________________ (1) - Nguyễn Nam Kinh là một bút hiệu của Nguyễn Bá Lăng. Bài này được đăng lần đầu tiên trên báo Hương Sen số 60 - Ngày 19-2-1996 Xuân Bính Tý. (Trên báo Hương Sen, sau bài chùa Một cột, các bài khác, trong những số kế tiếp, đều được ký tên thật là Nguyễn Bá Lăng). Vào năm 1996, tác giả có gửi kèm theo ba tấm ảnh: - Chùa Một cột trước khi bị phá năm 1954 - Chùa Một cột đang cất dựng lại hồi đầu năm 1955 - Chùa Một cột ngày nay. Lúc đó, điều kiện kỹ thuật không cho phép in lại ảnh trên báo Hương Sen. Ngày nay, dù bản thảo ngày xưa của tác giả còn giữ được, nhưng rất tiếc các ảnh đã thất lạc, nhất là ảnh Chùa Một cột trong khi đang cất dựng lại năm 1955. Tác giả đã qua đời. Chúng tôi (chủ biên CVCN, cũng là chủ biên báo Hương Sen 1990-2000) đã tìm cách liên lạc với gia đình của tác giả , hy vọng còn giữ được hình ảnh nào chăng, nhưng chưa được. ************************************************************************************************ Hiên ngang đứng giữa đất trờiNguyễn Dư Ngày bé, mình xem Chùa Một Cột, thấy cái cột bằng gỗ, chứ không xây như bây giờ. Cột mà xây thì còn gì là hay nữa. (Nguyễn Công Hoan (1903-1977), Nhớ và ghi về Hà Nội, nxb Trẻ, 2004, tr. 117). Hay hay không hay ? Cột xây hay cột gỗ ? Muốn biết thì... dựa cột mà nghe! Đại Việt sử kí toàn thư chép : năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu. Trước đấy, vua chiêm bao thấy phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bầy tôi. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật Quan Âm ở trên cột, giống như đã thấy trong mộng. Một tấm bia, khắc năm 1665, kể rằng : " Năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường [...], dựng một cột đá ở giữa hồ. Trên cột xây một toà lầu ngọc, trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ cúng " (...). (Tuyển tập văn bia Hà Nội, quyển 1, Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 59). Chùa Một Cột năm 1884 (ảnh Hocquard) Chùa được sửa chữa nhiều lần. Năm 1847 : " May nhờ các quan Đốc bộ đường trước nay và các viên văn vũ bản tỉnh, xúc cảm trước cảnh chùa, phát lòng bồ đề, gia công tu bổ, khiến cho cửa Thiền lộng lẫy, tượng Phật huy hoàng, sánh với hoàng đô muôn đời bất diệt, so cùng cột đá, lâu mãi vững bền. Công này, đức này, tiếng để ngàn năm " (...). (sđd, tr. 61). Cái cột đá của chùa Một Cột đã có từ thời nhà Lý, hay trễ nhất cũng là từ thế kỉ 17. Tháng 5 năm 1884, bác sĩ Hocquard dạo chơi quanh Hà Nội, có ghé thăm chùa Diên Hựu. " Hai cụ từ giữ chùa ở trong một ngôi nhà rất ngộ nghĩnh. Nhà được xây cất trên cột đá dựng giữa một cái ao đầy bèo và sen. Trông như một cái tổ chim. Ngôi nhà được mấy thanh gỗ ngang gắn vào cột đá chống đỡ. Giống mấy cái nan ô được gắn vào cán ô ". (Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 266). Ngày xưa, đã có lúc chùa Một Cột được dùng làm chỗ ở của người trông coi chùa Diên Hựu. Mấy tấm ảnh của Hocquard (bản khắc tr. 211, sđd), của Dieulefils (Indochine pittoresque & monumentale ( Annam - Tonkin ), của trường Viễn Đông Bác Cổ, của bưu ảnh, chụp trong khoảng từ cuối thế kỉ 19, sang đầu thế kỉ 20, cho đến năm 1950, đều cho thấy cái cột đá. Chưa thấy tài liệu nào đả động đến cái cột gỗ của Nguyễn Công Hoan. Năm 1954, thực dân Pháp sửa soạn rút khỏi Hà Nội. Ngày 11 tháng 9, chùa Một Cột bị đặt chất nổ ! Tan tành. Cái cột bị huỷ hoại.(Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, tr. 84). Rất may, thông tin của Papin không hoàn toàn chính xác. Có người chụp ảnh chùa bị phá. Cột đá chỉ hơi bị nghiêng. Hai tảng đá vẫn còn nguyên vẹn. (Carnet du Viêt Nam, tháng 8/2004, tr. 33). Chùa Một Cột năm 1954 Năm 1955, chùa Một Cột được xây cất lại. Chuyên viên Sở Bảo Tồn Cổ Tích Nguyễn Bá Lăng được uỷ nhiệm nghiên cứu họa đồ và điều khiển công trường. (Nguyễn Nam Kinh, Chùa Một Cột, Hương Sen số 60, Hội Phật Tử Việt Nam tại Pháp, 1996, tr. 27). Chính Nguyễn Bá Lăng đã công nhận : " thành phần (của chùa Một Cột) mà ta có thể tin được là nguyên vẹn từ triều (Lý) này thì chỉ có cây cột đá gồm hai khúc tròn chồng khớp lên nhau đường kính 1m20 đội toà chùa bên trên như thể một cái cuống đưa đoá hoa sen nổi trên mặt một hồ nước vuông nhỏ mỗi bề rộng khoảng 16m ". (Nguyễn Bá Lăng, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, tập 1, Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1972, tr. 85). Ai phá hoại chùa Một Cột ? Nhiều người nghi là quân đội Pháp. (France Mangin,Hanoï, Edition Recherches, Ipraus, 2001, tr. 149) . Nghi vấn này bị Duyên Anh bác bỏ : - (...) Cuối năm 1954, đảng Đại Việt (không phải nước Đại Việt) gài mìn cho nổ sập Chùa Một Cột. Nói rằng, Chùa Một Cột phải tan nát, " quân ta " mới có ngày về " giải phóng " ! Báo chí quốc gia chửi đảng Đại Việt thậm tệ, gọi Đại Việt là bọn phá hoại ngu dốt. Phật giáo phẫn nộ. Chúa đảng Đại Việt, Nguyễn Hữu Trí, bị bắn chết ở Tân Sơn Nhất, hôm di cư vào Nam (...). (Duyên Anh, Ca dao quyện lấy miếng ngon dân tộc, Vũ Trung Hiền xuất bản, 1995, tr. 186). Chùa Một Cột bị phá nhưng cái cột đá vẫn hiên ngang đứng giữa đất trời. Ngạo nghễ giữa bùn, sen, mưa, nắng ! Nguyễn Công Hoan nhớ sai. Cột đá mới vững, mới bền, mới... hay! Nguyễn Dư (Lyon, 3/2010)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2019 3:04:34 GMT 9
Tòa Thánh cốt tre nổi tiếng thế giới của Việt Namdansaigon.com/2018/07/14/anh-toa-thanh-cot-tre-noi-tieng-the-gioi-cua-viet-nam/?fbclid=IwAR3NFbo9dRVLR8UhXSNKIoZ97x0pSL_DOYHe7Uf4B99W6u_IvZvtEMWMTdY Ảnh/Tứ xứ/Văn hoá Dansaigon Tòa Thánh Tây Ninh (Thị trấn Hòa Thành, Tây Ninh) của đạo Cao Đài có lẽ là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo nhất trên thế giới. Tòa thánh Tây Ninh được khánh thành năm 1947. Tổng thể công trình mang hình tượng Long Mã bái sư. Mặt tiền Tòa Thánh như đầu Long Mã nhìn thẳng về phía Tây. Hai lầu chuông và trống vươn lên như hai sừng nhọn. Nằm giữa lầu chuông và lầu trống là tòa nhà lầu với tầng trệt có tên Tịnh Tâm Đài như miệng Long Mã hả ra. Khu vực Bát Quái Đài nằm phía cuối của Đền Thánh là phần đuôi của Long Mã. Một điều đặc biệt là công trình này được xây dựng bằng bê tông cốt tre. Nằm trên Tịnh Tâm Đài ở mặt tiền, Phi Tưởng Đài như cái trán với hai cửa được coi như hai con mắt. Giữa hai cửa là biểu tượng Thiên Nhãn. Trên cao có tượng Phật ngồi trên lưng hổ và tòa sen. Biểu tượng con hổ tượng trưng năm Bính Dần (1926) là năm Khai Đạo Cao Đài. Bức tranh Cao Đài Tam Thánh (ba vị Thánh của đạo Cao Đài) ở lối vào chính của Tòa Thánh, do Họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ năm 1947. Từ trái sang phải: Tôn Dật Tiên, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nền Tòa Thánh có 9 cấp gọi là “Cửu phẩm thần tiên”, mỗi cấp tương ứng với một phẩm cấp của tín đồ. Trên trần là 9 khoảng bầu trời với các hình vẽ mây, rồng và sao. Hai hàng cột bên trong Tòa Thánh được trang trí hình rồng, chạm khắc tinh xảo, màu sắc rực rỡ. Khu chính điện của Tòa Thánh là nơi thờ Thiên Nhãn – biểu trưng cho con mắt của Thượng Đế nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của khắp nhân gian, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình. Nơi đây có quả Càn Khôn lớn tượng trưng cho vũ trụ với Thiên Nhãn nằm trên vì sao Bắc Đẩu xung quanh là 3.072 vì sao tượng trưng 72 quả địa cầu và 3.000 thế giới. Xung quanh vách của Đại điện có những khung cửa sổ được trang trí bằng họa tiết hoa sen đỡ một khung hình Thiên Nhãn chính giữa một tam giác đều, có làm những tia hào quang phát ra. Ngoài lối vào chính, Tòa Thánh có 6 lối vào phụ, hai bên có tượng Kim Mao Hẩu (sư tử lông vàng – con vật Văn Thù Bồ Tát cưỡi trong tích truyện Phật giáo). Nghinh Phong Đài là một đài cao 17m, trên có tượng Long Mã mang Hà Đồ chạy về hướng Tây, quay đầu về hướng Đông, hàm nghĩa “Đạo phát ư Đông, di ư Tây, phản hồi ư Đông” (Đạo xuất phát từ phương Đông, truyền qua phương Tây, rồi cũng trở về phương Đông). Tòa Thánh còn có nhiều biểu tượng ẩn chứa những ý nghĩa đặc biệt, giống như những lời tiên tri trong các sấm truyền đang chờ người giải đáp. Theo thiết kế ban đầu, Tòa Thánh dài 135m, rộng 27m, nền cao 1,8m. Tuy nhiên, khi mới khởi công xây dựng Tòa Thánh, Hội Thánh gặp khó khăn về tài chính nên khi thi công đã thu bớt lại kích thước trên. Kích thước thực tế chỉ còn dài 97,5m, rộng 22m. Tòa Thánh tọa lạc trong khu Thánh địa có diện tích khoảng 100 ha, có hàng rào bao bọc xung quanh. Chánh môn là cửa chính và là cửa lớn nhất trong 12 cửa ra vào nội ô Thánh địa. Cửa này thường đóng và chỉ mở vào các dịp đón tiếp nguyên thủ các quốc gia, lãnh đạo các Tôn giáo. Từ Chánh môn có con đường dẫn thẳng hướng Đông, qua khuôn viên trung tâm Đền Thánh. Tại khuôn viên này có 3 Bửu tháp của Hộ pháp Phạm Công Tắc, Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư và Thượng sanh Cao Hoài Sang, được chạm đắp nhiều hoa văn, họa tiết tinh tế. Trước Tòa Thánh là một sân rộng gọi là Đại Đồng Xã với thảm cỏ xanh, với tượng Thái tử Si Đạt Ta (tên Đức Phật thời trẻ) ngồi trên lưng ngựa đi tìm đạo. Tiếp theo là Cửu Trùng Thiên (nơi đặt di cốt của các chức sắc Cao Đài được phong từ bậc Tiên trở lên để hành tang lễ) có hình bát quái với 9 bậc và được sơn ba màu vàng, xanh, đỏ. Hai bên có hai khán đài gọi là Đông khán đài, và một ở phía tây gọi là Tây khán đài, là nơi để tín đồ hành hương và du khách về xem rước Cộ mẫu vào các kỳ Đại lễ và trưng bày những gian triển lãm của tín đồ các châu đạo về dự lễ. Khoảng sân gạch trước cửu trùng thiên hướng ra cây Bồ đề cổ thụ do Đại đức Thera Narada, phó Tăng thống Phật giáo Srilanka, tặng cây con chiết từ cây Bồ đề ở Chùa Mahabodhi (Bồ Đề Đạo Tràng), Ấn Độ cho Tòa Thánh năm 1953. Cách cội bồ đề không xa có cột phướn cao 18m. Đạo Cao Đài là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Đây là một tôn giáo có tính dung hợp các tôn giáo lớn mà chủ yếu là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và Kitô giáo. Ngoài việc thờ Thiên Nhãn, đạo còn thờ các vị như Phật Thích Ca, chúa Giê su, Khổng Tử, Lão tử, Phật Bà Quan Âm… Ước tính hiện tại, toàn đạo có khoảng gần 3 triệu tín đồ trong cả nước, sinh hoạt tại 38 tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở Nam Bộ. Với kiến trúc độc đáo, thể hiện một sự dung hòa của nhiều yếu tố tâm linh từ Đông sang Tây, Tòa Thánh Tây Ninh không chỉ là nơi hành hương của các tín đồ đạo Cao Đài mà còn thu hút một lượng lớn du khách trong và ngoài nước tới tham quan mỗi năm. Nếu muốn quan sát cách hành lễ của các tín đồ đạo Cao Đài, du khách nên đến tham quan Tòa Thánh vào khoảng 12 giờ trưa, giờ Tòa Thánh tổ chức Thánh lễ. Được nghe những bài Thánh ca của đạo Cao Đài vang lên trên nền nhạc được diễn tấu bằng các loại nhạc cụ truyền thống là trải nghiệm khó quên đối với mỗi du khách khi ghe thăm Tòa Thánh Tây Ninh. Theo KIẾN THỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 14, 2019 19:30:26 GMT 9
Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, AmKhông phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am… Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó,… Vì vậy, chúng tôi đã biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì?Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì?Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Đình làng Đình Bảng. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì?Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Đền Kiếp Bạc. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì?Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam) Nghè là gì?Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương). Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì?Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì?Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì?Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Bích Câu đạo quán. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng). Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên). Am là gì?Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Theo Hành trình tâm linh ************************************************************* Đình Long hồ với nghệ thuật hát bội.Đình Long Hồ ( thật ra phải gọi là Long Hồ Võ Miếu ) tọa lạc tại khóm 4 phường tư , thp Vĩnh Long. Đình thần trước đây được xây dựng bằng cây lá đơn sơ tại vàm Ông Me vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX , thuộc làng Long hồ, tỗng Long An, huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long , trên phần đất 8000mv của bà Huỳnh thị Chiếm hiến. Trong khi xây dựng nhân dân phát hiện tại đây có một khuôn hòm được cho là của ông Me ,các vị hương chức đã tiến hành di táng quan tài ra phía sau miếu Năm 1971 ,nhân dân cho xây lại mộ Ông Me bằng gạch tiểu và để mộ chí ghi danh Ông Me. Vào đầu thế kỷ XX, ban Hội hương và dân làng Long hồ tiến hành trùng kiến lại ngôi đình trên nền cũ. Việc xây dựng do ông Nguyễn Văn Trinh là thợ mộc giỏi nhất đương thời đứng ra đảm trách, khoảng vài tháng mới xong và giao nguyên vào năm Ất Tỵ 1905. Đình được xây dựng theo kiểu xếp đọi, gồm có võ ca, võ qui và chánh điện. Chánh điện xây dựng theo kiểu tứ trụ,cột kèo bằng gổ căm xe và thao lao, mái lợp ngói âm dương. Xung quanh có hành lang rộng 3m . Võ ca có sân khấu để hát bội trong những ngày lễ cúng. Năm 1917, hội hương đình xây dựng thêm buồng hát. Phía sau đình , hội hương kiến tạo một nhà bát giác, lợp ngói, cột gỗ, nền lót gạch tàu, trên nóc gắn lưỡng long tranh châu. Đình thờ Thành Hoàng Bỗn Cảnh được vua Tự Đức sắc phong năm 1853 và hiện nay còn lưu giữ sắc của vua Gia long phong chức Khâm sai Nguyễn Đức Kế ( 1802) và chiếu của vua Minh Mạng mãn hạn cho cai đội Nguyễn Đức Kế (1829 ) Từ xưa theo phong tục lệ làng , hội hương có phận sự phụng thờ và tổ chức các cuộc tế lễ hàng năm : 1- Lễ khai sơn “mùng 7 tháng giêng âl. 2-Lễ cầu an : 16, 17,18 tháng 3 âl . 3-Lễ Hạ điền : 10.11 tháng 5 âl. 4 Lễ Thượng điền : 16,17 tháng 10 âl. 5- Lễ đưa chư tiên và ông táo : 23/12 âl. 6- Lễ tết : Mùng 1 tháng giêng âl. Năm nào cũng có mướn ban hát bội đến tại miếu để biểu diển hát một chầu ba thứ.Phần xây chầu hát bộ do một ông hương chức lão thành lên sân khấu tay cầm dùi trống bịt vải đỏ, vẽ lên mặt trống một chữ bùa với ba câu khấn nguyện như sau : Nhứt đã cỗ : Cầu quốc thái dân an. Nhì đã cỗ : Cầu an cư lạc nghiệp. Tam đã cỗ : Cầu thương trường phát đạt. Sau đó bắt đầu lễ Đại bội , Tứ thiên vương dâng một đôi liểng đỏ cho Bổn thần, cầu an bá tánh. Xong là đào kép bắt đầu diễn tuồng tích như San hậu, Đich thanh, Nhạc phi, Chung vô diệm, Phạm công Cúc hoa. .v.v
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 26, 2019 18:23:48 GMT 9
văn hóa cổ truyền Việt Nam trong kiến trúc Đình BảngMời các bạn tạm gát lại những công việc bận rộn hằng ngày và tìm đến sự an nhiên qua khung cảnh của ngôi đình miền Bắc nổi tiếng từ xưa: Đình Bảng. Cái hồn Việt như phảng phất đâu đây, niềm hoài cổ lan man khi lướt qua những chi tiết kiến trúc của ngôi đình cổ. Thả hồn vào không gian tĩnh mịch của ngôi đình để thấy hết những nét tinh tế của văn hóa cổ truyền Việt Nam trong thời kỳ vàng son.... Kiến trúc sư Nguyễn tường Quý đã nghiên cứu những kiến trúc văn hoá về đình làng và chùa chiền xưa. Anh viết bài "Nói về cái đình làng ta" như sau: Truyền thống nước Việt Nam ta có câu “Phép vua còn thua lệ làng”. Pháp luật của vua xuất phát từ Cung Điện Kinh Thành, còn tục lệ làng thì do dân tụ tập tại cái Đình của làng mà quyết định nên. Vì vậy vị trí của cái Đình cần phải ở trung tâm của làng, chính giữa làng để tất cả người dân trong làng có thể dễ dàng trông thấy, và đi đến đấy để mà tụ tập nhau. Nói một cách nôm na, vị trí của Đình trước hết cần phải tiện lợi cho mọị người sinh sống trong làng. Tụ tập với mục đích gì? Đầu tiên, dân làng tụ tập nhau ở đình khi có vấn đề nào cần thảo luận hay tham khảo công khai chung cho tất cả những dân cư trong làng. Chẳng hạn họp để có ý kiến nhất quyết chung, như kiểu "Nên Hòa hay nên Chiến" của Hội Nghị Diên Hồng vào thế kỷ 13 triều đại Nhà Trần để chống quân Mông Cổ sang xâm chiếm nước ta. Sau đó là những cuộc hội hè đình đám của làng... Do đó, nhu cầu bên trong Đình phải rộng rãi, tạo được sự mát mẻ cho những đêm hè nóng nực khi cần có những buổi hội họp lớn. Nhưng cái đình làng hiện diện từ thủa nào? Chưa ai dám chắc biết được một cách chính xác. Chỉ có thể nói là hình dáng của cái Đình đã xuất hiện trong một khoảnh đất rộng và thường thì ở trọng tâm của làng, từ khi dân Việt ta biết tụ tập thành làng xã mà sinh sống làm ăn gần gũi với nhau lâu đời. Hình dáng cái đình như thế đã dần dần biến thành một ngôi nhà lớn (như loại nhà rồng có mái cao của người thượng du Việt Nam hiện giờ còn sử dụng). Tuy nhiên, dân chúng ở làng thuộc những vùng đồi và đồng bằng vì lối sống phức tạp hơn nên đã thiết lập các ngôi Đình có sức chứa nhiều hơn và có dáng trang nghiêm để thờ phụng các vị tiên hiền có công với làng xã, các vị Thần, các bà Chúa hoặc thờ Thần Nông, Thần Núi, Thần Hoàng Làng v.v... Cho nên lối kiến trúc của Đình cần mang một sắc thái uy nghi và to lớn, phù hợp với các thần tượng mà cả làng tôn thờ. Đình là nơi lưu trữ nếp văn hóa của dân làng. Đình Bảng – ngôi đình cổ đẹp nhất Việt Nam Trong ba ngôi đình đã đi vào câu ca dao “Thứ nhất là đình Đông Khang / Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm”, chỉ còn đình Bảng được bảo tồn nguyên vẹn cho đến nay. Ngôi đình này thuộc làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình được xây dựng từ thế kỉ XVIII, quá trình xây dựng suốt 36 năm. Từ năm 1700 đến 1736 mới hoàn thành. Một sự đặc biệt của đó chính là người đầu tiên xây dựng nên đình chính là người làng. Ông là Nguyễn Thạc Lương và vợ ông Nguyễn Thị Liên đã cùng mua gỗ lim về để dựng ngôi đình. Thăm làng Đình Bảng du khách sẽ cảm nhận được không gian rộng lớn, thanh bình của làng quê Việt Nam. Hơn nữa du khách sẽ được chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo của mái đình, cột đình… Trước đây đình được dựng lên để thờ các vị thần thành hoàng: thần Nước, thần Đất và thần Núi. Sau đó nhân dân đã thờ 6 vị có công lập lại làng. Đình làng có con chó đá ngự tại sân đình, con chó đá ấy cũng có “tuổi” bằng với tuổi đình. Trong đình còn có miếu thờ thần thổ công được nhân dân quét dọn và thắp hương. Sân đình rộng rãi luôn là địa điểm tổ chức các hoạt động sinh hoạt trong làng. Mỗi khi tới đình làng, mọi người đều như sống trong lịch sử, ngắm nhìn những kiến trúc thời xưa mà không khỏi thán phục tài năng của ông cha ta. Hát quan họ, nét đặc trưng của văn hóa Việt trong các dịp lễ lạc hội hè. ************************************** LỄ CÚNG MIỄU “Đừng thấy miếu rách mà khinh Miếu rách mặc miếu, thần linh hãy còn” (Ca dao Việt Nam) Ở Nam bộ, việc cúng đình miếu đã bớt tính chính thống. Thời cận đại, giới phụ nữ có thể đến lễ bái hoặc tham gia một số công việc một cách tự nhiên. Thế nhưng việc tổ chức và tế lễ đều do giới đàn ông đảm nhiệm. Trái lại, lễ cúng miễu thì bình dị hơn, nam nữ, già trẻ đều có thể đến cúng lạy. Ban tổ chức cúng kiến có thể là một vị có chức sắc trong làng, một bô lão, một một nông dân, một phụ nữ cũng được. Lễ vật cúng kiến biểu hiện cho tấm lòng của bà con trong xóm. Trừ một số lễ bị cấm theo truyền thống, nhìn chung không có quy định khắt khe như lễ cúng đình. Tùy theo đối tượng của miếu thờ phượng, chia ra làm 3 loại lễ cúng miễu: 1/ LỄ CÚNG MIỄU ÔNG Miễu ông là miễu thờ các vị nam thần xuất phát từ văn hóa Hán – Việt, gồm có Quan Công, Thổ địa, thần Nông. Nghi lễ cúng miễu ông là nghi lễ Nho giáo, gồm có các lễ: - Thỉnh Tro (thỉnh lư hương từ đền thờ chính về miễu, mang ý nghĩa thỉnh thần về dự lễ) - Cúng Tiến Yết - Chánh cúng - Cúng Tiên sư, Tiền vãng (tức là những bậc có công với xóm ấp, những người đứng ra lập miễu). Những nơi có điều kiện có thể dùng nghi thức tế với nhạc lễ, nhạc sanh… thay vì dùng nghi thức cúng vái bình thường. Trừ những nơi thờ Quan Công phải có ba ngày vía: - Vía sanh ngày 13 tháng Giêng âm lịch, - Vía tử ngày 13 tháng Năm - Vía hiển Thánh 23 tháng Sáu Lưu ý: - Vía sanh, vía tử có thể cúng mặn. - Riêng ngày vía hiển Thánh, người ta tin Đức ông Quan Công đã quy y Phật giáo nên cúng chay. Còn các miễu thờ Thổ địa hoặc thần Nông chỉ có hai ngày lễ gọi là: - Lễ xuất tế hay lễ thu tế - Lễ Hạ điền và lễ Thượng điền. Các ngày vía này do địa phương quy định, không thống nhất. Gần đây, tín ngưỡng Phật giáo tràn về nông thôn nên nhiều miễu khi cúng có mời sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong xóm ấp. 2/ LỄ CÚNG MIỄU CÔ HỒN Chương trình cúng miễu cô hồn cũng giống như chương trình cúng miễu ông, tức là có các nghi tiết cúng (hay tế), tiền vàng, tiền sư, Tiền yết và Chánh cúng. Ngoài ra, khi cúng miễu cô hồn còn phải mời sư đến tụng kinh cầu siêu và thí thực cho cô hồn. Những nơi có điều kiện, lễ cúng cô hồn kéo dài ra 3 ngày, mời nhiều sư đến “ứng phú” và giàn nhạc lễ đến làm lễ theo khoa nhi Phật giáo như: - lễ Hưng tác - lễ Khai chung bản thỉnh Phật, thỉnh Tổ - lễ Chiêu u - lễ Đề phan - lễ Tịch trù cấp thủy - lễ Lược pháp - lễ thỉnh Thập điện - lễ các Thủy quan - cuối cùng là lễ đăng đàn Chân tế cô hồn. 3/ LỄ CÚNG MIỄU BÀ Tại Vĩnh Long có nhiều miễu thờ Thất thánh Nương nương, Ngũ hành Nương nương, Thiên hậu Thánh mẫu… (thuộc văn hóa Hán - Việt) nhưng đều áp dụng nghi lễ cúng miễu nữ thần Thiên Y A Na (hoặc Chúa xứ Thánh mẫu, Thủy long Thần nữ…). Chương trình cúng miễu bà gồm các nghi thức: - Lễ thỉnh Đất và Nước (đất và nước lấy từ giữa dòng sông đưa về, ngụ ý mời thần về dự lễ, ý nghĩa tương tự lễ thỉnh Tro). - Lễ cúng (hay tế) Tiên sư, Tiền vãng. - Lễ Tiền yết, lễ Chánh cúng. Đặc biệt vì nữ thần Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi vì gốc từ tín ngưỡng Chăm nên trước kia có tục mời bà bóng đến rỗi mời, múa dâng lễ (gồm dâng một mâm vàng – mô hình chiếc tháp Chàm bằng giấy, dâng ba chén bông và ba chén trái cây). Các nghi tiết này đều có giàn nhạc lễ diễn đầu. Những nơi có điều kiện có thể mời diễn viên (thường là các thầy đờn và các bà bóng) múa tạp kỹ, hát tuồng “Địa nàng” hay “Địa trạo nghinh năm bà”. Chương trình văn nghệ này mang tính tùy hứng đề nghị, ít khi tổ chức trước. Điều đáng chú ý là tục mời bà bóng đến rồi mời múa dâng lễ là tục lệ không có gì đáng phê phán. Chỉ trừ tiết mục có người lợi dụng danh nghĩa “bà về”, dùng lời huyễn hoặc, mê tín. Nhiều nơi khi cúng miễu bà cũng mời sư đến tụng kinh cầu an (Sưu tầm)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2019 3:07:48 GMT 9
Kiến trúc sư! Họ là ai? 29/02/2016 NGUYỄN TRỌNG HUẤN
Những điều tôi nói sau đây rất có thể bị xem như là "ngớ ngẩn" khi khẳng định rằng “Kiến trúc là một nghệ thuật", và ở nước ta, từng có thời, có những công trình kiến trúc được xem là “Tác phẩm nghệ thuật".
Điều đó chắc chắn như "Sáng hôm nay mặt trời vừa mọc vậy!".
Có lẽ không ai có ý định tranh cãi cùng tôi khi tôi khẳng định rằng: “Gác Khuê Văn là một kiến trúc nghệ thuật. Lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, tổng thể công trình cung điện Huế là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật!”
Cùng với tháp Bình Sơn, tháp chuông chùa Cổ Lễ, gác chuông chùa Keo, Văn miếu, tháp chàm Trà Kiệu, Mỹ sơn v.v... và nhiều công trình lớn nhỏ khác đã từng có thời làm nên một nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam độc đáo, rực rỡ, chẳng thua kém bao nhiêu những nền nghệ thuật kiến trúc của các dân tộc khác, quốc gia khác cùng thời.
Nhưng:
Tháp Rùa không phải là một kiến trúc nghệ thuật! Nhà bia trong lăng Tự Đức ở Huế không phải là một kiến trúc nghệ thuật, thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh không phải là một kiến trúc nghệ thuật. Và nhiều công trình kiến trúc một thời làm nên bộ mặt thủ đô Hà nội, Huế, Sài gòn và nhiều thành phố khác ở nước ta chưa phải là những kiến trúc nghệ thuật.
Ý kiến này, chí ít là của riêng tôi.
Như vậy là có những kiến trúc nghệ thuật, có những kiến trúc chẳng nghệ thuật gì cả và còn có cả những kiến trúc phản nghệ thuật. Đơn giản là không phải tất cả những khung vải được trát màu đều được gọi là tranh, là “tác phẩm” nghệ thuật tạo hình, không phải cứ ghép chữ thành vần thì gọi là “thi ca”, ghép âm thành điệu thì được coi là “âm nhạc”. Đặc thù của sản phẩm nghệ thuật có chỗ giống và không giống với các sản phẩm khác. Và lao động nghệ thuật cũng có những cái chung, riêng, giống và không giống với lao động sản xuất, lao động bình thường. * Chắc rằng sẽ không ai nỡ rầy la khi tôi nói lên tại Đại hội này những suy nghĩ chân thật và ngây thơ trên đây của mình. Nhưng tôi thành thật e ngại rằng nhiều đồng nghiệp đáng kính sẽ phẫn nộ khi tôi nói:
"Nền nghệ thuật kiến trúc mang bản sắc Việt nam từng một thời rực rỡ đã chết, đã đi qua cùng với những người thợ cả vô danh đã hóa thân trong những kiệt tác kiến trúc của đất nước, của dân tộc, không màng lợi danh”.
Lịch sử thành văn của ta ghi lại rất nhiều tên tuổi những người viết văn, làm thơ bên cạnh những danh nhân đánh giặc, giữ nước, giữ làng mà gần như không giữ lại tuổi tên của một nhà kiến trúc nào! Việt sử thông giám cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn là trường hợp duy nhất có chép một cái tên: “VŨ NHƯ TÔ”, đời Lê Tương Dực, lấy mía xếp mô hình đền đài trăm nóc và là tác giả Cửu Trùng đài dưới danh hiệu “một người thợ khéo ở Cẩm Giàng”. Còn chúng ta biết đến NGUYỄN AN, tác giả quy hoạch thành Bắc kinh và Cố cung là một người Việt bị bắt đưa về Trung quốc trong đám thợ thuyền khi Hồ Quý Ly thất bại, là nhờ Minh sử.
Nghề kiến trúc và xây dựng ở nước ta xưa, theo truyền thống vốn đồng nhất trong vai trò người thợ, vừa thiết kế, vừa thi công, kể cả trang trí, chạm trổ, như một loại hình lao động tự do. Và chính bằng tâm hồn của người nghệ sỹ, và một tính cách hoàn toàn phóng khoáng được thể hiện qua bàn tay tài, khéo, cảm hứng nghệ thuật của người xưa, trải qua thời gian, năm tháng, trải qua thời tiết, rêu phong vẫn như còn ngưng đọng trên những đầu đao run rẩy chùa Tây Phương, những đường diềm chạm trổ như thêu hoa dệt gấm trên gác chuông chùa Keo, trong cái vững chãi vĩnh hằng của tháp chuông chùa Thiên Mụ. Tác phẩm nghệ thuật trường tồn, còn tác giả hầu như hoá thân vào gỗ đá, để lại cho muôn đời con cháu những cảm hứng đã một lần ngưng đọng.
Nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam một thời huy hoàng đó đã lụi tàn mau chóng vì không còn đất sống trong thân phận tôi đòi của một dân tộc đã bị tước đoạt quyền độc lập khi người Pháp hoàn tất cuộc xâm lăng vào cuối thế kỷ thứ XIX, và đã du nhập vào Việt nam một cách sống khác, một kỹ thuật xây dựng khác và một hệ thống quan niệm khác về cái đẹp.
Trong cuộc giao hoà Đông-Tây đó, lăng Khải Định ở Huế là sản phẩm vụng về của một ông Tây nói tiếng ta. Còn sự bùng nổ những công trình xây dựng của các thế hệ thầu khoán ít được học hành buổi đầu thế kỷ XX đã tạo nên bộ mặt kiến trúc đô thị Việt nam theo kiểu người Việt nói tiếng bồi. Nền nghệ thuật kiến trúc chân chính Việt nam đã hòa nhập vào một thế giới mới không phải với những giá trị trong sâu thẳm truyền thống của chính mình, mà nhanh chóng, vội vàng, vụng về sao chép một khuynh hướng xa lạ đến từ những chân trời xa xôi khi chưa kịp hiểu biết và nhận thức nó một cách thấu đáo. Riêng chứng vọng ngoại này của người Việt nam không chỉ trong kiến trúc. Cách tiếp thu ảnh hưởng từ bên ngoài hoàn toàn khác với cách tiếp nhận mà người Nhật đã làm.
Phải hàng chục năm sau, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương mới cho ra đời thế hệ kiến trúc sư Việt nam đầu tiên. Và cũng là lần đầu tiên có sự phân công xã hội trong kiến trúc- xây dựng, tách người thầy ra khỏi người thợ, khoa học hơn nhưng cũng xa vời truyền thống hơn.
Rất tiếc là những thế hệ kiến trúc sư đầu tiên này đang trên đường tìm tòi, thử nghiệm, chưa kịp làm quen với nghề thì đã phải cùng dân tộc, cùng đất nước “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”.
Rõ ràng là trong cuộc tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài, so với nghệ thuật tạo hình, cùng một “lò Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương” thì giới kiến trúc sư tỏ ra thích ứng chậm hơn. Bên những công trình lớn ở Hà nội, Sài gòn, Huế vv... do các kiến trúc sư Pháp vẽ, bên mảng kiến trúc thầu khoán rộng lớn, các công trình ít ỏi và khiêm tốn mà thế hệ các anh để lại, còn mang nhiều vẻ rụt rè, e ấp buổi dò đường, tìm kiếm một thế giới quan, tìm kiếm một phong cách. Thế hệ kiến trúc sư Việt nam đầu tiên đã không đủ thời gian cần thiết để tự khẳng định mình, và xã hội Việt nam cũng chưa kịp làm quen với một loại hình lao động mới: "Lao động sáng tạo của người kiến trúc sư".
Không biết có phải vì thế không mà buổi sinh thành chính thức của ngành kiến trúc Việt nam với tư cách là một hoạt động Quốc gia, kiến trúc đã được xếp chung trong cùng một bộ, có tên là Bộ Thủy lợi và Kiến trúc (Có lẽ được hiểu là cùng một ngành thổ, mộc như nhau) và phương châm chỉ đạo của ngành là: "Bền vững – Rẻ tiền - Thích dụng – Mỹ quan trong điều kiện có thể".Yếu tố kinh tế -kỹ thuật đứng đầu, còn nghệ thuật, được đặt thứ tư, sau cùng, và cũng chỉ trong giới hạn được chăng hay chớ! Hoạt động quy hoạch và kiến trúc, có vai trò và tác động rộng lớn và sâu sắc trong đời sống xã hội không thể coi nhẹ thì vẫn chỉ là một thành phần “ăn theo, nói leo” trong cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng xây dựng!
Và từ đó đến nay, đối với xã hội chúng ta, kiến trúc là gì và kiến trúc sư, họ là ai? vẫn tồn tại như một nghi án, chưa dễ gì một sớm một chiều có thể làm sáng tỏ! * Sau hơn ba mươi năm hoạt động, đến nay, toàn bộ hệ thống tổ chức ngành cũng chỉ mới có hai đơn vị mang danh hiệu kiến trúc, hai đơn vị rất vô hại, không tác động được bao lăm trong sự nghiệp kiến trúc nước nhà: Hội Kiến trúc sư Việt nam và Trường Đại học Kiến trúc. Riêng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, một thời đã được sáp nhập thành một khoa của Trường Đại học Xây dựng, thuộc hệ thống quản lý của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, đồng hạng với các trường đại học kỹ thuật khác, không tính đến đặc thù nghề nghiệp. Sau ngày giải phóng, có thêm Trường Đại học Kiến trúc Sài gòn, nay là Đại học Kiến trúc thành phố Hồ chí Minh. Và điều trớ trêu là trong rất nhiều năm, hai trường đại học này, một trường được giao cho một kỹ sư vật liệu, một trường giao cho một kỹ sư kết cấu làm hiệu trưởng trong nhiều năm. Còn các cơ quan hành nghề kiến trúc được giao cho kỹ sư các ngành khác, có khi chẳng liên quan gì đến kiến trúc làm giám đốc, lãnh đạo thì nhiều vô kể, không thể đếm hết. Có cả một viện quy hoạch-kiến trúc lớn mà người lãnh đạo trong nhiều năm là một phó tiến sỹ mà đề tài khoa học khi bảo vệ luận án là một đề tài về cống rãnh.
Thân phận Hội Kiến trúc sư Việt nam lại còn “bèo, mây” hơn cả cô Kiều! Lúc thì thuộc hệ thống chỉ đạo của Bộ Xây dựng, lúc lại thuộc Ban Công nghiệp trung ương, lúc lại thuộc sự "bảo trợ"(?) của Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, khi lại về với Ban Văn hoá -Văn nghệ trung ương, long đong không bút nào tả xiết! Chỉ riêng một điều, ngần ấy năm, hầu như Bộ Văn hoá chưa bao giờ coi kiến trúc là một bộ phận hợp thành của văn hoá Việt nam trong tất cả chủ trương và việc làm cụ thể của mình! Trong gia đình văn hoá, kiến trúc được xem như một người bà con nghèo. Điều đó không phải là không có lý khi cho đến tận ngày hôm nay, bản thân người kiến trúc sư, trong phân loại lao động, vẫn được xem là một loại “kỹ sư thiết kế”, “kỹ sư kiến trúc” thuộc “thang lương kỹ sư”!
Trong Mặt trận Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật mà Hội Kiến trúc sư là một thành viên đã không phải không có nhiều cái nhìn ngờ vực. Tại sao lại có "một ông sư” lọt vào tổ chức của “các ông sỹ”? Còn trong Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật không thể giải thích được tại sao lại có một tổ chức thuộc sự chỉ đạo của Ban Văn hoá – Văn nghệ trung ương?!
Đặc thù nghề nghiệp này không có trong bất cứ ngành văn hoá nghệ thuật nào, cũng như trong bất cứ ngành khoa học kỹ thuật nào và thực trạng đó để lại trong giới kiến trúc một di chứng lâu dài, cực kỳ tai hại: “Thái độ nhẫn nhục”.
Có thể vì sự thâm nhập quá nhanh và khá sâu của khoa học, kỹ thuật vào kiến trúc đã gây nên tội nợ, đã làm mờ nhoà đi yếu tố biểu hiện, yếu tố sáng tạo hình tượng vốn là đặc trưng của kiến trúc, của sáng tạo nghệ thuật, mà ở nước ta, gần như ai cũng làm kiến trúc được. Một kỹ sư kết cấu, một kỹ sư thi công, một kỹ sư cấp thoát nước, thậm chí mấy ông thợ nề cũng có thể thiết kế và chỉ đạo thiết kế. Nhiều kỹ sư đô thị các ngành, kể cả kỹ sư điện đã và đang sáng tác đồ án kiến trúc quy hoạch một cách rất tự nhiên! “Lộng giả thành chân", lâu ngày đâm quen dẫn đến mặc cảm tự kỷ: "Ở nước ta, thiết kế kiến trúc, nôm na gọi là vẽ kiểu là việc ai chả làm được, chỉ cần biết chút ít kỹ thuật xây dựng!
Những chuyện tuế toái trong kiến trúc và kiến trúc sư còn nhiều và là đặc điểm nổi bật trong cung cách tổ chức hệ thống các cơ quan làm kiến trúc của ta hiện nay là:
“Không phải người kiến trúc sư chịu trách nhiệm về tác phẩm của chính mình, mà ông viện trưởng, ông giám đốc cùng bộ máy giúp việc kềnh càng của ông ta với những thủ tục phiền toái, phức tạp và lạc hậu trong qúa trình xét duyệt đồ án để “lấy ý kiến tập thể” mà trong thành phần xét duyệt đó có những người không biết kiến trúc là gì, có khi kể cả chính ông giám đốc!”
Kiến trúc sư đang làm một cái nghề mà gần như ai cũng có quyền ban cho “vài lời dạy bảo rất thiện chí” miễn là có tổ chức và có quyền!
Tôi không có ý định phản bác gì mấy ông giám đốc, trong họ có những người rất đáng kính trọng, nhưng rõ ràng là cung cách làm ăn hiện nay đã và đang hạ thấp vai trò của người kiến trúc sư đối với chính công trình của họ và như thế cũng chính là hạ thấp vai trò của họ trong xã hội, đối với xã hội. Cách quản lý hiện nay là cách tốt nhất để thủ tiêu cá tính, loại trừ phong cách, triệt tiêu mọi hứng thú tìm tòi trong sáng tác kiến trúc.
Khi người kiến trúc sư không trực tiếp chịu trách nhiệm nghề nghiệp, chịu trách nhiệm xã hội về chính tác phẩm của mình đã mang nặng đẻ đau thì mặc nhiên, chính chúng ta đã kéo lùi sự phân công lịch sử, kéo người thầy ra khỏi người thợ và biến kiến trúc sư thành một thứ thợ khác “thợ vẽ”.
Tất nhiên còn nhiều vấn đề quan trọng nữa như vấn đề đào tạo và sử dụng kiến trúc sư, vấn đề nghiên cứu, lý luận, phê bình tiếp sau đường lối, chủ trương phát triển kiến trúc.
Xin được trích sau đây một câu trong “Nghị quyết của Ủy ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô” mà tạp chí Kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt nam đăng lại trong số tháng 4 – 1987 (trang 15):
“... Kiến trúc có tác động thường xuyên đến ý thức xã hội, là phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mỹ một cách hữu hiệu cho nhân dân và hình thành thế giới quan cộng sản. Các tác phẩm kiến trúc là kết quả lao động chung của các kiến trúc sư, các nhà bác học, những người xây dựng, thể hiện sự thống nhất của nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật, văn hoá, vật chất và tinh thần của xã hội…".
* Như vậy là, để có được trong nhiều năm tới một nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc như ta hằng mong muốn, việc đầu tiên cần làm theo ý chúng tôi là:
“Trả lại cho họ, những kiến trúc sư, vai trò chủ thể sáng tạo ở vị trí trung tâm của trách nhiệm chính trị, xã hội, trách nhiệm về kinh tế, văn hoá và nghệ thuật mà họ là người đầu tiên và cuối cùng chịu trách nhiệm trước thời gian và lịch sử".
Để thực hiện yêu cầu này, tôi xin trân trọng đề nghị với Đảng và Nhà nước:
1. Xem xét lại toàn bộ những chủ trương và biện pháp đã qua về chiến lược xây dựng và phát triển một nền kiến trúc Việt Nam, XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Coi kiến trúc không chỉ là một hình thức hoạt động kinh tế, khoa học - kỹ thuật đơn thuần mà còn là một phạm trù ý thức, tư tưởng có tác động quan trọng, thường xuyên về nhiều mặt đến tiến trình xã hội Việt Nam trong quỹ đạo XHCN.
2. Sớm thành lập Hội đồng nghệ thuật kiến trúc quốc gia, tạo điều kiện và đặt trách nhiệm cho giới kiến trúc cùng gánh vác trách nhiệm với Đảng và Nhà nước về một nền nghệ thuật có ý nghĩa biểu hiện trình độ phát triển của xã hội, của bộ mặt Đất nước.
3. Thành lập Viện nghiên cứu khoa học và nghệ thuật kiến trúc, nhanh chóng thúc đẩy nền kiến trúc nước nhà phát triển, sớm rút ngắn khoảng cách so với nền kiến trúc đương đại của thế giới.
4. Cải cách tổ chức và chương trình giảng dạy tại hai trường Đại học Kiến trúc về mục tiêu, nội dung, phương pháp. Nâng thời gian đào tạo kiến trúc sư công trình lên 6 năm, kiến trúc sư quy hoạch lên 7 năm.
5. Xem xét và cải tiến chế độ quản lý hiện hành của các cơ quan thiết kế kiến trúc, thay đổi phương pháp quản lý hành chính - kỹ thuật đơn thuần trong quá trình thiết kế, sáng tạo đang có nguy cơ "công chức hóa kiến trúc sư".
6. Khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành quy chế hành nghề kiến trúc sư, chế độ kiến trúc sư trưởng, phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp và yêu cầu đổi mới của Đảng. Đặt mỗi một kiến trúc sư trước trách nhiệm xã hội và lịch sử đối với sáng tác của mình và tương lai của nền kiến trúc Việt Nam.
T.P. Hồ Chí Minh, 14-4-1989 (Tham luận tại Đại hội Kiến trúc sư Việt Nam lần thứ 4) N.T.H.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 31, 2020 4:51:10 GMT 9
KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNGxuandienhannom.blogspot.com/2018/04/tray-hoi-chua-tay-phuong-chiem-nguong.html?fbclid=IwAR2nhretMSosQ938fSgeZCr5HAeWSYU5NcHAyhEz1rMCsZIe-eSEud3yqn4Nhớ ngày mùng 6 tháng 3 Ăn cơm với cà, đi hội Chùa Tây. (Ca dao cổ xứ Đoài) VẺ ĐẸP ĐỘC ĐÁO KIẾN TRÚC CHÙA TÂY PHƯƠNG Nguyễn Xuân Diện viết năm 1991 Chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa to và đẹp nhất ở đồng bằng Bắc bộ, đã từng hấp dẫn bao nhiêu nhà nghiên cứu mỹ thuật, nhà văn, nhà thơ, nhiếp ảnh gia xa gần. Đây là một công trình kiến trúc nổi tiếng bởi vẻ đẹp của nó. Chùa có tên chữ là Sùng Phúc tự, tọa lạc trên ngọn núi cổ hình lưỡi câu gọi là Câu Lậu sơn, cao khoảng 50m, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất (Hà Tây cũ). Ngay cả việc chọn địa thế xây dựng chùa cũng là điều đáng để chú ý. Chùa được xây ở nơi có địa thể tốt đẹp theo quan niệm phong thủy xưa. Có tả thanh long, hữu bạch hổ chầu vào, nước non khuất khúc hữu tình. Đặc biệt hơn, với những ngôi chùa khác, thường được xây dựng vào triền đồi hoặc núi tạo sự vững chãi, bề thế, phù hợp với mô hình kiến trúc phổ biến của Phương Đông, riêng chùa Tây Phương được xây dựng trên đỉnh núi. Một lối dẫn lên chùa, theo đường dốc, gần như thẳng đứng, gồm gần 250 bậc đá ong. Con đường lên chùa Tây Phương cheo leo này phải chăng là biểu hiện cho con đường đi đến cõi Tây Phương cực lạc? Các chùa chính của chùa Tây Phương được bố cục theo hình chữ Tam tách biệt hẳn nhau, gồm ba nếp nhà hai tầng mái theo kiểu chồng diêm đặt song song. Kiểu kiến trúc này còn gọi là “Trùng thiềm điệp ốc” (nhà liền nhau, mái chồng lên nhau), chúng ta có thể thấy ở chùa Kim Liên (xã Quảng An, Từ Liêm, Hà Nội). Kiểu kiến trúc này tạo cảm giác bề thế, trùng điệp theo kiểu kiến trúc cung điện của các vua chúa (chùa Tây Phương do Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho sửa chữa lớn vào năm Canh Tý - 1660). Chùa này có ngói đặc biệt, không thấy có ở nơi khác. Đó là loại khói mũi hài cổ, to và dài, mặt dưới từng viên đều có một màu, tạo cho mặt trong của chùa như một chiếc áo cà sa ngũ sắc của nhà Phật. Vào thăm chùa Tây Phương ngẩng đầu lên, trông thấy mái chùa cao lồng lộng với màu sắc đó, tạo người ta cảm giác dễ chịu và thích thảng một niềm lâng lâng thoát thực, lại như được bình yên trong tâm tưởng về sự chở che. Về trang trí, các góc mái đao chùa Tây Phương đều có gắn tứ linh (long, ly, quy, phượng) được đắp bằng sành nung rất tinh xảo. Các bức hoàng, xà, ván lúa giữa hai tầng mái cùng các diềm mái đều thưa thoáng, ưa nhìn. Thông thường trong chùa người ta ít sử dụng họa tiết tứ linh, nhất là con rồng để trang trí, vì nó là sản phẩm của Nho giáo (ở đình, đền, miếu thì phổ biến) nhưng ở chùa Tây Phương ta thấy đủ cả tứ linh, có lẽ không nhằm chủ yếu để minh họa cho một ý tưởng tôn giáo mà chỉ với ý đồ trang trí. Các đầu đao của chùa Tây Phương đứng so le với nhau, từ góc nào cũng có thể thấy được các lớp mái, nói rõ ý phô diễn trong kiến trúc. Chùa Tây Phương còn có các ô cửa sổ tròn ở đốc tưởng với ý nghĩa “sắc sắc không không” ít thấy ở các chùa khác. Những ô cửa này là cho tưởng nhà chùa bớt đi vẻ nặng nề, u tịch vốn có của chùa chiền, tạo một sự hài hòa với tường chùa, với mái đao và toàn bộ kiến trúc chùa. Chùa nằm trên đỉnh một ngọn núi cao, không thể đào giếng được. Người ta khắc phục chuyện này bằng cách xây các bể để đón nước mưa. Hai bể chùa lớn được đặt giữa các mái chùa, ý nghĩa của việc đặt hai bể lớn này còn có thể giải thích bằng nhiều cách khác nữa. Chùa đặt trên ngọn núi cao của vùng Trung du nắng nóng; vật liệu xây dựng kiến thiết (cả tượng gỗ nữa) dễ bị nứt nẻ, hai bể nước đã tỏa hơi nước vào các tòa chùa, tạo một độ ẩm thích hợp để khắc phục. Về ý nghĩa tôn giáo: Hai bể nước đón ánh mặt trời soi xuống, tia nắng mặt trời khúc xạ qua nước, hắt lên mái chùa ngũ sắc tạo một không khí hư ảo, lung linh với ý nghĩa “sắc sắc không không” của đạo Phật. Chùa Tây Phương KHÔNG CÓ khu đại bái (còn gọi là bái đường, tức chỗ ngồi để tụng niệm, cúng bái). Đại bái lại chính là chùa Hạ, chỗ ngồi để lễ chỉ là một diện tích rất nhỏ hẹp, không đáng kể. Chùa là nơi tu hành, truyền bá của đạo Phật, cũng là tụ điểm tín ngưỡng của hầu hết quảng đại quần chúng (trong khi đình chỉ dành riêng cho quan viên sắc mục và trai đinh); và do vậy đại bái trong chùa rất quan trọng. Tây Phương là chùa lớn, lại do chúa Trịnh chi trùng tu, sửa sang, cũng như là nơi các vua chúa hay lui tới, mà không có đại bái là một điều rất lạ. Như vậy, chùa Tây Phương là một ngôi chùa mang đậm nét kiến trúc cung đình, thể hiện không chỉ ở chỗ nó nằm trong một quần thể cảnh trí tươi đẹp mà còn qua những lối kiến trúc độc đáo, sáng tạo và phóng khoáng. Với 62 pho tượng cổ được đánh giá đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam, với lối kiến trúc độc đáo, chùa Tây Phương mãi mãi xứng đáng là “danh lam cổ tự” của đất nước và của Hà Tây nói riêng. 1991
|
|
|
Post by Can Tho on May 23, 2020 14:43:42 GMT 9
Quy Hoạch Dalat Qua Các Thời Kỳ
Thời kỳ trước năm 1945- Chương trình xây dựng đầu tiên
Khi còn ở Hà Nội, Toàn quyền Paul Doumer đã cho thiết lập một “Chương trình xây dựng đầu tiên cho Đà Lạt” với chức năng:
- Đà Lạt sẽ trở thành nơi nghỉ dưỡng cho những kiều dân và công chức với đường giao thông thuận lợi và dễ dàng. - Đà Lạt là một trung tâm hành chính và doanh trại quân đội quan trọng, sẽ quy tụ một phần quân đội dự bị để được huấn luyện có đầy đủ sức khỏe, phòng khi cần đến.
Theo chương trình này, Đà Lạt sẽ là một thành phố hoàn chỉnh với đầy đủ các công trình kiến trúc, các trụ sở hành chính, các trường học, doanh trại quân đội,…
Những đường nét ban đầu của thành phố tương lai đã được vạch ra dựa theo những con đường mòn có sẵn của người dân tộc ở trong vùng. Bố cục chính của thành phố được sắp xếp dọc theo bờ phía nam suối Cam Ly trong vùng cao nguyên rộng lớn với cao độ trung bình 1500m. Vùng phía bắc suối Cam Ly được dành cho doanh trại quân đội.
Đã có bản đồ cụ thể bố trí các công trình: dinh Toàn quyền, toà công sứ, khu công chính, đồn cảnh sát, bệnh viện, nhà ở công chức, khu giải trí, trường học, doanh trại quân đội. Nguồn nước được dự trù cho 10.000 dân (tương lai lên đến 40.000 dân), được lọc bằng phương pháp ozon. Điện được cung cấp từ một nhà máy thủy điện công suất 2.760 mã lực ở vùng thác Ankroët.
Năm 1902, Toàn quyền Paul Doumer thuyên chuyển về Pháp, tất cả các chương trình phát triển bị đình trệ, lãng quên và kinh phí bị cắt. Những công trình xây dựng tại Đà Lạt bị ngưng lại, chỉ còn mươi căn nhà gỗ nghèo nàn, đơn sơ. Thời gian này kéo dài khoảng hơn 10 năm.
Đồ án quy hoạch đầu tiên (1906)
Năm 1906, ông Paul Champoudry - Thị trưởng Đà Lạt - đã thiết lập một họa đồ tổng quát cho Đà Lạt kèm theo Dự án chỉnh trang và phân lô cho thành phố trong tương lai.
Do ông Champoudry đã có ít nhiều kinh nghiệm về vấn đề đô thị (ông đã từng là Chủ tịch Hội đồng thành phố Paris), nên đồ án thiết lập đã phân định được quy mô diện tích, ranh giới giữa những khu đất có chức năng khác nhau và ấn định vị trí cho các công trình tương lai. Đây là một áp dụng của phương pháp quy hoạch “zonning” (quy hoạch phân khu chức năng) rất hiện đại lúc bấy giờ, theo đó thành phố tương lai được bố trí thành các khu chức năng như sau:
- Trại lính nằm ở phía bắc cao nguyên, hữu ngạn suối Cam Ly. Thành phố tương lai nằm ở phía nam, tả ngạn suối Cam Ly, nơi có nhiều ngọn đồi nối tiếp nhau, tương đối cao ráo, cho phép dễ dàng xây dựng các công trình cần thiết của đô thị. - Trung tâm dịch vụ công cộng và hành chính hợp thành một khu để thuận tiện phục vụ, bảo đảm an ninh, đồng thời dễ tạo dựng bộ mặt đô thị khang trang. - Trung tâm thương mại được thiết lập gần chợ và gần trung tâm thành phố. Trong vùng này còn có khách sạn và khu giải trí (casino). - Nhà ga được dự trù không xa vị trí hiện nay và gần đó có trụ sở bưu điện và các công trình phục vụ đô thị khác. - Đường sá được thiết kế với bề rộng 20m cho đường chính, 16m cho đường hạng hai và 12m cho các nhánh đường phụ.
Một phần lớn đồ án này đã được thực hiện và hình thành hệ thống khung sườn chính cho thành phố hiện nay. Tuy nhiên chưa có những quy định có tính pháp lý bắt buộc để hướng dẫn cho sự phát triển thành phố.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, thực dân Pháp tăng cường mở rộng khai thác thuộc địa trên quy mô lớn với mục đích nhanh chóng ổn định và phát triển kinh tế ở chính quốc bị kiệt quệ nặng sau chiến tranh. Người Pháp sang Đông Dương nhiều hơn và mở rộng các hoạt động kinh tế. Người ta không dừng lại ở những vị trí từng công trình, mà đã bắt đầu ý thức phải nghiên cứu tổng thể các công trình, kể cả thiết kế các đồ án mở rộng trong tương lai của các đô thị cùng với việc áp dụng những nguyên tắc thiết kế đô thị hiện đại thịnh hành trên thế giới.
Trước sự chuyển biến này, bản sơ phác của ông Champoudry có lẽ đã không còn phù hợp nữa. Toàn quyền Đông Dương nhận thấy cần phải có một “Chương trình chỉnh trang tổng quát” cho Đà Lạt để quản lý, điều hành việc phát triển xây dựng thành phố một cách hợp lý và thẩm mỹ.
Đồ án quy hoạch Hébrard (1923)
Năm 1921, Toàn quyền Maurice Long đã giao trách nhiệm cho kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết lập đồ án với nhiệm vụ thiết kế: Phát triển Đà Lạt từ một nơi nghỉ dưỡng thành một thủ đô hành chính Đông Dương khi cần thiết, bao gồm các công sở của chánh quyền trung ương, ngoài ra còn phải đáp ứng đủ các nhu cầu của việc thiết lập các doanh trại quân đội.
Sau hai năm nghiên cứu, đến năm 1923, KTS Hébrard hoàn tất công tác, đồ án được Toàn quyền phê duyệt và ban hành áp dụng vào tháng 8-1923. Theo đó, Đà Lạt sẽ là một thành phố nghỉ mát trên cao (station d’altitude) kiểu mẫu; thành phố được thiết kế theo quan điểm của các nguyên tắc về “Quy hoạch thành phố vườn“ và “Quy hoạch thuộc địa”. Lần đầu tiên các vấn đề phức tạp để phát triển đô thị Đà Lạt đã được đặt ra, được nghiên cứu một cách tổng hợp và nhiều giải pháp có ý nghĩa trong định hướng phát triển thành phố đã được đề xuất.
Vấn đề bảo vệ, tôn tạo cảnh quan và bố cục không gian mỹ cảm cho thành phố được tác giả quan tâm đặc biệt. Ý tưởng chính xuyên suốt là: Xây dựng cho được một “thành phố trong cây cỏ và cỏ cây trong thành phố”, một thành phố sinh thái không có ống khói của ngành công nghiệp.
Trên một vùng thiên nhiên rộng lớn của cao nguyên Lang Biang, thành phố được bố trí, sắp đặt trong một phạm vi có diện tích vừa phải khoảng 30.000 ha (bề ngang 7km theo hướng đông - tây, bề sâu 4,3 km theo hướng bắc - nam). Đây là một diện tích hợp lý cho một thành phố vườn với quy mô dân số từ 30.000 đến 50.000 dân (lúc đó dân số Đà Lạt khoảng 1.500 người). Việc cho phép xây dựng chỉ gói gọn trong ranh giới này.
Ngoài phạm vi của thành phố là cảnh quan của đồi núi và rừng thiên nhiên được giữ gìn như lúc ban sơ với con đường vòng Lâm Viên vừa là đường giới hạn vừa là đường giao thông phục vụ nhu cầu du lịch, ngoạn cảnh và săn bắn, không được phép làm nhà ở.
Nét nổi bật của đồ án là cách giải quyết vấn đề tạo dựng cảnh quan cho thành phố nghỉ dưỡng du lịch. Dòng suối tự nhiên Cam Ly được tôn tạo tích cực để trở thành một trục cảnh quan trung tâm hấp dẫn cho thành phố, với hệ thống các hồ cảnh nhân tạo lớn nhỏ, uyển chuyển theo địa hình, có các tuyến đường dạo bao quanh, men theo sườn dốc, nối kết liên lạc với nhau theo sơ đồ hình mạng nhện.
Bố cục chính của thành phố nghỉ mát và thủ đô tương lai được tổ chức quanh trục cảnh quan này, mỗi hồ là một trung tâm cảnh quan của các công trình trong một phân khu chức năng.
Nối với quốc lộ là trục đường xương sống của thành phố kéo dài từ nhà ga xe lửa đến thác Cam Ly, dựa theo đường đỉnh của địa hình khu vực (đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ,… ngày nay). Tầm nhìn từ trục đường này lướt qua hồ Xuân Hương, đồi Cù, rừng dự trữ thiên nhiên,... hướng về phía núi Lang Biang ở cuối chân trời đặc biệt rất sinh động và ấn tượng.
Trung tâm công cộng của thành phố được ưu tiên bố trí trên một đoạn của trục lộ này gồm có trung tâm hành chính địa phương với các công trình sắp xếp xung quanh một quảng trường công cộng: toà thị sảnh, ngân khố, bưu điện, cảnh sát, công chánh,…
Ngoài ra còn có nhà thờ, trường học, thư viện, khách sạn hạng 2, khu thương mại người Âu, văn phòng du lịch,… Xa hơn về phía tây nam, trên ngọn đồi cao là dinh Toàn quyền, Cao ủy phủ và cạnh đó là Viện điều dưỡng (khu Dinh 3).
Khu vực phân lô biệt thự cho người Pháp được bố trí phía nam suối Cam Ly (đường Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Cô Giang, Phan Chu Trinh, Hoàng Văn Thụ, Huyền Trân Công Chúa ngày nay) được phân lô thành 3 hạng:
- Hạng 1: từ 2.000m2 đến 2.500m2. - Hạng 2: từ 1.000m2 đến 1.200m2. - Hạng 3: từ 500m2 đến 600m2.
Khu vực dân cư dành cho người Việt Nam được bố trí một số về phía đông khu trung tâm và phần lớn được bố trí tập trung ở các khu vực có dòng chảy tự nhiên thuộc hạ lưu hồ (giới hạn bởi đường phân thủy qua đồi dinh thị trưởng đổ về suối Phan Đình Phùng) gồm có: chợ, trường học, bệnh viện, chùa, công viên, lò sát sinh, các khu nhà phố thương mại, các khu nhà ở,…
Khu dân cư này được dự trù với nhiều nhà biệt lập với luật lệ hạn chế những dãy nhà liền căn, loại nhà chỉ được cho phép xây cất trong khu thương mại (phân khu chức năng rõ rệt).
Về công trình kỹ thuật, đường xe lửa và nhà ga được bố trí gần lối vào của quốc lộ 20B, cạnh đó là khu vực dự kiến dành cho khách sạn, kho hàng, khu tiểu công nghệ và công xưởng.
Các giải pháp về cấp nước, cấp điện, thoát nước, xử lý rác, nghĩa địa, lò sát sinh,… cũng được đề ra sao cho phù hợp với quy mô của thành phố.
Lộ giới và khoảng cách bắt buộc từ ranh giới đất đến công trình (khoảng lùi) đã được quy định cho từng cấp hạng đường. Luật lệ xây dựng trong nội thị Đà Lạt được áp dụng chặt chẽ với các quy định về sử dụng đường và quy định về xây cất công trình.
Sau gần 10 năm áp dụng, tình hình có nhiều biến đổi, cuộc khủng hoảng năm 1933-1935 xảy ra, tình hình kinh tế tài chính khó khăn khiến người ta phải xem xét lại giá trị áp dụng của đồ án Hébrard. Những vấn đề mới được đặt ra:
Vì lý do kinh tế, việc thực hiện đồ án rất tốn kém (chủ yếu là hệ thống cảnh quan chuỗi hồ).
Nét đẹp cảnh quan từ tầm nhìn toàn cảnh bị đe dọa bởi ý định phân lô xây dựng biệt thự ven Hồ Lớn ở trung tâm (phía trên một phần đồi Cù hiện nay).
Cần có một đồ án chỉnh trang mới, chính xác, cụ thể hơn, kèm theo những quy định có hiệu lực pháp lý để hướng dẫn mọi công tác xây dựng, nhất là những sáng kiến tư nhân khi họ có yêu cầu xây dựng công trình, nhà cửa.
Đồ án quy hoạch Pineau (1933)
Vào năm 1933, kiến trúc sư Louis Georges Pineau (1898 - 1987) trình bày một nghiên cứu mới về “Chỉnh trang thành phố Đà Lạt” có quan niệm thực tế hơn Hébrard: Trước mắt Đà Lạt chưa là thủ đô hành chính hay là thủ đô nghỉ hè của Đông Dương, chương trình phát triển đựợc giới hạn lại, chỉ chỉnh trang một nơi nghỉ dưỡng với mức phát triển tương đối vừa phải. Những nguyên tắc định hướng cho nghiên cứu này là vấn đề bảo vệ cảnh quan thành phố:
- Mở rộng hơn nữa hồ nước và các công viên. - Thiết lập những khu vực xây dựng phù hợp với cảnh trí và phù hợp với điều kiện khí hậu của địa phương. - Bảo vệ “tầm nhìn toàn cảnh cao nguyên với cảnh quan tuyệt vời” bằng cách đề nghị thành lập một vùng bất kiến tạo rộng lớn hình rẽ quạt có gốc từ Đà Lạt hướng về núi Lang Biang, trong đó là công viên rừng săn bắn hoặc là công viên rừng quốc gia.
Những ý tưởng của đồ án Pineau rất có giá trị, đặc biệt hấp dẫn và đã được những người kế nhiệm quan tâm nghiên cứu trong các dự án chỉnh trang thành phố Đà Lạt kế tiếp.
Trong thời gian này, Đà Lạt thay đổi rất ít, cuộc khủng hoảng đã lên đến cao độ, ngân sách bấp bênh, tình thế chung không được ổn định. Công việc của Pineau đương nhiên bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy vậy cũng có một số công tác được thực hiện gắn liền với việc chỉnh trang các công trình hiện hữu và cảnh quan được giữ gìn với những khoáng địa (đất trống) rộng rãi, để chờ đón một khả năng tốt hơn trong tương lai.
Đồ án quy hoạch Mondet (1940)
Vào những năm 1940, kiến trúc sư Mondet trình bày một “Tiền dự án chỉnh trang và phát triển Đà Lạt”. Kiến trúc sư Mondet nhận xét rằng:
“Đà Lạt kéo dài quá mức từ tây sang đông, về cơ cấu chưa tạo thành một thể thống nhất. Điều này được lý giải vì người ta cảm thấy dễ dàng xây dựng dọc theo các con đường chính. Có một sự e ngại quá đáng khi người ta muốn bảo vệ cảnh quan bằng biện pháp mở rộng vùng cấm xây dựng quá lớn ở trung tâm thành phố. Đó là một nghịch lý cần xem xét. Muốn phát triển thành phố mà lại ngăn cấm xây dựng”.
Do vậy, kiến trúc sư Mondet đã đề nghị một phương án không kéo dài thành phố nữa mà tổ chức hợp nhóm lại, mở rộng ra bằng cách ưu tiên sử dụng những lô đất gần trung tâm và được phát triển chung quanh một trục. Những khoáng địa được dành cho tương lai chiếm một phần quan trọng ở ngay trung tâm đô thị. Sự phân lô được tính toán khoảng 6.000 lô, trong đó khu người Âu khoảng 1.000 lô, kể cả các lô có sẵn. Khu người bản xứ đáp ứng khoảng 5.000 lô, khu ngoại ô gồm những khoáng địa rộng lớn được phân tách khoảng 1.500 – 2.000 lô.
Ngoài ra công tác chỉnh trang cụ thể những công trình hiện có được chia thành 4 phần :
- Giao thông tổng quát. - Cải tạo vệ sinh môi trường. - Khoáng địa và kế hoạch trồng cây. - Trung tâm công cộng.
Thành phố trở nên chật hẹp với sự phát triển quá độ và vô trật tự, một vài khu vực dân cư được dựng lên một cách gấp rút, tạm bợ, mặc dù Đà Lạt đã là một thành phố xinh đẹp, hài hòa với những viễn cảnh rộng rãi và những khu vực được xây dựng hoàn hảo.
Trước tình hình này, Toàn quyền Decoux quyết định phải thiết lập ngay một “Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” có hiệu lực pháp lý để điều chỉnh sự phát triển của thành phố theo một trật tự hợp lý và hài hòa.
Theo tinh thần nghị định ngày 3-9-1941, công tác này được giao cho Sở Quy hoạch Đô thị và Kiến trúc Trung ương nghiên cứu thực hiện.
Trong lúc đó, những biện pháp bảo vệ được áp dụng để chờ đợi ngày công bố đồ án chỉnh trang: bãi bỏ những nhượng địa trong vùng nội thành, giám sát khai thác hầm đá, bổ sung các quy định về phân lô ở vùng vành đai và trong tỉnh Lang Bian, bãi bỏ vùng ngoại ô.
Đồ án Lagisquet (1943)
Ngày 27-4-1943, đồ án chỉnh trang mới của Đà Lạt do kiến trúc sư Lagisquet chủ trì nhóm nghiên cứu đồ án đã được Toàn quyền Decoux chấp thuận và ban hành áp dụng.
“Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt” đã được nghiên cứu theo nguyên tắc tổng quát hướng dẫn việc thiết lập các tài liệu, những quy định có tính chất pháp lý để phát triển thành phố một cách hài hoà, từ tổng thể đến chi tiết các thành phần. Chính nhờ sự tham khảo những nguyên tắc này mà các vấn đề khác nhau đặt ra cho Đà Lạt đã có được lời giải đáp hấp dẫn.
Người ta đã thấy rằng Đà Lạt có một hình thể kéo dài quá mức, kéo dài từ tây sang đông trên một đường mảnh mai. Khu gia cư không có bề sâu, thành phố thiếu sức sống, không có trung tâm hoạt động và hấp dẫn để thu hút dân chúng. Những khu vực thương mại, những trung tâm hành chánh thì phân tán và hầu như không đáp ứng được nhu cầu hiện thời.
Trái lại, theo họa đồ chỉnh trang mới Đà Lạt sẽ được tổ chức thành một thể thống nhất, tập trung xung quanh hai trục đường khung sườn của thành phố. Sự phát triển được dự trù về phía nam, tây và tây bắc thành phố (thuộc hạ lưu Hồ Lớn).
Khu dân cư được dự trù phát triển thật rộng rãi. Diện tích xây dựng khoảng 180 ha, sẽ được mở rộng đến 300%, gồm khoảng 2.200 lô đất. Những khu gia cư sắp xếp thứ tự xung quanh một trung tâm đã được chọn lựa. Trên bờ phía nam của Hồ Lớn có những khách sạn, khu giải trí, khu thương mại,... Những cực phát triển được sắp xếp gần đó sẽ tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh.
Trung tâm hành chính được bố trí phân tán hay tập trung lại tùy theo chuyên ngành, được sắp xếp xung quanh hồ tạo nên một điểm nhấn trung tâm lớn và lộng lẫy sẽ làm nổi bật cảnh trí chung của thành phố.
Ở phía bắc, tòa thị sảnh mới vươn lên trên nền cây xanh che phủ những biệt thự sáng sủa với đường nét giản dị. Phía tây là khu thương mại sống động, phía nam có những khách sạn lớn, một khu giải trí (casino), có thể phản chiếu ánh đèn trên mặt hồ trong suốt vào ban đêm. Về phía đông, tháp chuông của trường Lycée Yersin, tòa nhà vĩ đại của văn phòng Toàn quyền, giới hạn đường chân trời, tạo thành một điểm sáng. Nhà thờ, dinh Toàn quyền, trụ sở hành chánh nổi lên ở chân trời thứ hai.
Tác giả đồ án cũng quan tâm giải quyết vấn đề gia cư cho dân lao động Việt Nam. Những cư dân này chỉ được bố trí ở những khu có tính cách phụ thuộc. Những vùng rộng lớn đã được sung dụng tùy theo tính chất khác nhau của các tầng lớp cư dân. Trước hết, một khu thương mại quây quần xung quanh chợ, tiếp theo là khu biệt thự song lập và nhà liên kết đặc biệt dành cho thợ thủ công, người lao động mà công việc của họ cần được bố trí gần trung tâm thành phố.
Một vùng đất rộng được xác định cho những thôn ấp Việt Nam với dáng dấp nông thôn và tiểu thủ công. Ở đó sẽ quần tụ những người làm nghề thủ công, sản xuất nhỏ hay trồng trọt. Khu vực này được ấn định ở vành đai thành phố. Những tính chất của vùng này đã được chỉ định, cho phép mỗi cư dân có một khoảnh đất để làm ăn sinh sống, vừa nuôi sống gia đình vừa đóng góp sản phẩm thặng dư cho thành phố.
Như thế, đặc tính của thành phố vườn cũng sẽ được thấy rõ trong vùng này. Những gia cư sẽ biểu hiện tính cách nông thôn và những điều khoản được dự trù để ngăn chặn những chuồng trại lợp tôn rỉ. Đất đai được sung dụng cho dân lao động làm nông nghiệp có diện tích đủ tiếp nhận một số dân gấp 5 lần dân số đương thời (gần 11.000 ha).
Cuối cùng, đồ án cố gắng đánh dấu đặc tính riêng của Đà Lạt là thành phố nghỉ dưỡng, thành phố trường học, trung tâm tuyển chọn huấn luyện thanh niên, trung tâm văn hoá,…
Một khu bệnh viện được dự trù ở tây nam thành phố để đảm đương nhiệm vụ phục vụ cho yêu cầu lúc bấy giờ. Các trường học được phân đều trong thành phố tùy theo điều kiện thích hợp. Những cơ sở chính có đủ đất để phát triển. Những không gian mới đã được dành cho những trường học trong tương lai. Một khu thể thao với khoáng địa rộng lớn được chỉnh trang dành cho sân vận động, sân golf, sân thể thao, sân chơi các loại,... Một nơi cắm trại dành cho thanh niên được phát triển về phía tây.
Trung tâm văn hoá được thiết lập ngay ở trung tâm thành phố có thể bao gồm Trường Viễn Đông Pháp và cả nhà bảo tàng.
Thời kỳ 1945 - 1954
Năm 1945, Đà Lạt đã có trên 1.000 biệt thự với muôn vàn kiểu dáng khác nhau, đa số được thiết lập theo trường phái kiến trúc địa phương Pháp, sử dụng vật liệu tại chỗ như gạch, ngói, đá, gỗ,... Mỗi biệt thự đều được phân lô có sân vườn rộng rãi thành từng khu vực (cité), tạo nên một tổng thể duyên dáng rất đặc thù.
Công việc xây dựng trong giai đoạn này kể như không có kết quả bao nhiêu ngoài một số khu nhà ở và một số trường học.
Thời kỳ 1954 – 1975
Sau Hiệp định Genève (1954), người Pháp ra đi khỏi Việt Nam, đất nước tạm thời bị chia cắt, Đà Lạt bắt đầu bước phát triển mới với dân số đông hơn.
Giai đoạn 1954 - 1963
Ong Ngô Đình Diệm làm Tổng thống,nguoi co cong xay dung dat nuoc, vấn đề chỉnh trang Đà Lạt được T Thong Ngo Dinh Diem đặc biệt quan tâm. Với các điều kiện tự nhiên độc đáo, Đà Lạt được xác định không còn là nơi nghỉ mát dành riêng cho giới thượng lưu, tư sản, mà là cho mọi người dân đến đây để định cư làm ăn sinh sống.
Thành phố được định hướng trở thành thành phố nghỉ mát nổi tiếng, một trung tâm giáo dục lý tưởng từ bậc tiểu học – trung học đến đại học, một nơi huấn luyện quân sự tốt, một vùng đất ẩn cư để đào tạo và phát triển cơ sở tôn giáo, cũng như là nơi sản xuất đặc sản rau hoa quả cung cấp cho toàn vùng và xuất khẩu.
Trong khi chờ đợi thiết lập đề án chỉnh trang mới cho Đà Lạt, đồ án Lagisquet (1943) kèm theo một “Chương trình địa dịch” đã được chính quyền đương thời dựa theo, nghiên cứu biên soạn lại cho phù hợp với điều kiện thực tế để giải quyết nhu cầu xây dựng, công nhận và đảm bảo tính liên tục của quyền tư hữu đất đai, nhà cửa. Công tác xây cất các cơ sở công cộng được tính toán trên các phần đất công sản còn lại. Có thể kể đến một số công trình mới đã được xây dựng trong giai đoạn này như sau:
Khu Chợ Mới Đà Lạt và quảng trường trước chợ, Khu Hội trường Hòa Bình, Giáo hoàng Chủng viện, Viện Đại học Đà Lạt, Trường Võ bị Đà Lạt, Trường Đại học Quân sự, Thao trường, Lữ quán Thanh niên, Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử,...
Có thể nói bộ mặt thành phố Đà Lạt đã được bổ sung bằng các công trình mang dáng dấp hiện đại do các kiến trúc sư Việt Nam thiết kế.
Giai đoạn 1963 – 1975
Đà Lạt ít nhiều chịu tác động của tình hình chính trị không ổn định với sự can thiệp cua Bac Viet xua quan thon tinh mien Nam . Nhất là vào năm 1965,Bac Viet trực tiếp đưa quân tham chiến tại mien Nam Việt Nam,Chanh Phu VN CH tiến hành xây dựng trước tiên các cơ sở hạ tầng phục vụ thanh pho Da Lat phat trien: các trung tâm huấn luyện quân sự, thiết lập trạm radar trên núi Lang Biang, một trạm khác ở Cầu Đất, sân bay Cam Ly, sân bay Liên Khương.Nhiều công trình dân dụng cũng được đầu tư xây dựng: Làng cô nhi SOS, Trung tâm trẻ khuyết tật, Trường Kỹ thuật Lasan, Trường Don Bosco, Trường Phao- lồ,... Các công trình dịch vụ thương mại, các khách sạn, nhà hàng mọc lên ở khu trung tâm thành phố.
Các dự án quốc tế đầu tư xây dựng như: Dự án cải tạo nguồn nước mới cho thành phố lấy từ hồ Dankia do Đan Mạch tài trợ; Dự án khai thác du lịch “Trung tâm nghỉ mát hồ Suối Vàng“ ở Dankia do công ty Sanyei -(Hongkong) thiết lập,…
Đáng chú ý, vào năm 1967, vấn đề bảo vệ môi sinh của Đà Lạt (qua tiến trình bồi lắng nhanh hồ Xuân Hương) đã được các học giả đương thời lên tiếng báo động. Đến năm 1973, đề án quy hoạch chỉnh trang Đà Lạt đã được cơ quan chuyên môn lập xong có đề ra biện pháp bảo vệ môi sinh ven sông suối ở Đà Lạt, nhất là các lưu vực đổ về hồ Xuân Hương. Ở các vùng này, theo khuyến cáo, chỉ được trồng cây gây rừng, không được khai thác trồng rau làm nông nghiệp, vì đó là tác nhân gây ra ô nhiễm và bồi lấp các hồ ở hạ lưu.
Trong khi đó, việc xây cất bất hợp pháp xảy ra dưới nhiều hình thức đã làm mất vẻ mỹ quan của thành phố. Có hai hình thức chủ yếu:
Một số quan chức có quyền thế trong chính quyền VNCH tranh thủ thời cơ xay cat .
Loại nhà tạm bợ gỗ tôle xuất hiện sau Tết Mậu Thân (1968) và nhiều nhất vào cuối năm 1971 do thương phế binh VN CH đòi hỏi quyền lợi đua nhau lấn chiếm, đa số ở ngay khu vực trung tâm.
Đồng thời với sự chiếm đất làm nhà cũng có người chiếm đất làm vườn như khu ấp Ánh Sáng, khu Thao Trường,...
Đây là một hiện tượng xã hội của sự phát triển đô thị đặt ra những vấn đề nan giải trong công tác chỉnh trang bảo vệ nét đặc thù, vẻ thẩm mỹ của thành phố Đà Lạt và vẫn còn tồn tại cho đến nay.
Trích "Địa Chí Dalat"
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2020 1:11:36 GMT 9
Từ Sài Gòn Nhiệt Đới Đến Kiến Trúc Nhiệt Đới Sài Gòn17/04/2019 canhquan.net/tap-chi/khac/tu-sai-gon-nhiet-doi-den-kien-truc-nhiet-doi-sai-gon?p=2Nếu như “kiến trúc Đông Dương” xuất hiện ở nhiều đô thị trên cả nước thì kiến trúc nhiệt đới giai đoạn 1954 – 1975 chủ yếu xuất hiện ở Sài Gòn. Là đô thị duy nhất có điều kiện tiếp cận với kinh tế, khoa học kỹ thuật nước ngoài, kiến trúc ở đây đã có điều kiện phát triển và để lại những giá trị cần khẳng định. 1/ Đã có thời ngang tầm khu vực
Từ năm 1954 – 1975, Sài Gòn, dưới sự quản lý của chính quyền quốc gia đương thời với tình hình xã hội đã có giai đoạn tạm yên, kinh tế được phát triển, sức hút đô thị gia tăng kéo theo tốc độ đô thị hoá phát triển nhanh chóng.
Thư viện Khoa học tổng hợp do KTS Nguyễn Hữu Thiện và KTS Bùi Quang Hanh thiết kế, hoàn thành xây dựng năm 1972 được đánh giá cao về giải pháp kiến trúc thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều.
Từ những năm 1960, nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ ồ ạt của các nước tư bản đồng minh đổ vào, đặc biệt là Mỹ. Đô thị Sài Gòn có cơ hội phát triển mở rộng thêm. Các mạng lưới đường sá, trục lộ chính được mở rộng và xây mới. Dân số Sài Gòn lúc bấy giờ hơn ba triệu người và đã trở thành một đô thị cực lớn, là trung tâm dân cư, trung tâm việc làm và tị nạn chiến tranh. Đầu thập niên 1970, do có chính sách đầu tư kinh tế thu hút tư bản nước ngoài, công nghiệp thành phố phát triển mạnh mẽ, hàng loạt xí nghiệp quy mô lớn xuất hiện. Song song với việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, điện, nước; cơ sở hạ tầng xã hội, các công trình công cộng, thương mại, dịch vụ, cư xá lớn, cao ốc, các bệnh viện, trường đại học được đầu tư xây dựng phát triển với chất lượng cao hơn trước.
Bên cạnh đó đã ra đời một lực lượng khoa học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật, thợ thủ công có trình độ cao và đông đảo. Trong đó đội ngũ kiến trúc sư Việt Nam được đào tạo từ nhiều nguồn trong và ngoài nước như Pháp, Mỹ đã đáp ứng được nhu cầu thiết kế và xây dựng của Sài Gòn.
Dựa trên nền tảng kinh tế – xã hội đương thời, hoạt động xây dựng được phát triển cùng sự giao lưu mật thiết với các nước tư bản phương Tây đã tạo điều kiện cho các trào lưu nghệ thuật trên thế giới du nhập vào Việt Nam một cách tự do. Trong đó phong cách kiến trúc hiện đại quốc tế đang được ưa chuộng đã góp phần làm thay đổi diện mạo kiến trúc Sài Gòn. Phong cách kiến trúc này đã bắt đầu thay thế dần các hình thức kiến trúc cổ điển, tân cổ điển phương Tây rườm rà và gò bó trước đây, làm cho kiến trúc Sài Gòn mang nhiều yếu tố của một nền kiến trúc đô thị hiện đại, so ra không thua kém các nước trong khu vực châu Á tại thời điểm này. Đáng chú ý là hầu hết các công trình kiến trúc đó đều do chính đội ngũ kiến trúc sư người Việt thiết kế và thi công đạt tiêu chuẩn hiện đại quốc tế.
Ngôi nhà sàn cách điệu đứng trên hồ nước và bức tường hoa trên mặt đứng phòng đọc là giải pháp hợp lý
Xu hướng kiến trúc hiện đại khi xâm nhập nước ta đã được các kiến trúc sư áp dụng cho phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương và đã hình thành nên phong cách “kiến trúc hiện đại nhiệt đới”. Thật ra phong cách này xuất hiện hầu như rộng khắp các nước có khí hậu nhiệt đới như Brazil của Nam Mỹ, một số nước Nam Phi, các nước Nam Á như Ấn Độ, Sri Lanka hay từ các nước vùng Đông Nam Á. Chúng có đặc điểm chung là hình khối đơn giản, cao tầng, vật liệu xây dựng bêtông cốt thép, nhôm kính, đề cao giá trị công năng, sử dụng chi tiết cấu tạo ô văng, lam che nắng và hành lang phù hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là “kiến trúc hiện đại nhiệt đới” ở Sài Gòn đã được các kiến trúc sư người Việt kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa các yếu tố kỹ thuật hiện đại phương Tây và văn hoá phương Đông, khai thác các nét đặc trưng kiến trúc truyền thống trong công trình. Sự hoà hợp giữa kiến trúc, con người và thiên nhiên đã làm cho các công trình này thật sự trở thành những tác phẩm đương thời đáng được trân trọng.
2/ Đặc trưng nhiệt đới và sắc thái Sài Gòn
Nói đến công trình kiến trúc tiêu biểu thời kỳ này, không thể không nhắc đến dinh Độc Lập do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và các cộng sự thiết kế. Đồng nghiệp của tôi cũng có bài phân tích về công trình này trong cùng số báo, tuy nhiên, tôi vẫn muốn nhấn mạnh, đây là một công trình biểu hiện sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố văn hoá phương Tây và phương Đông, tạo nên một công trình có phong cách “hiện đại nhiệt đới” làm điểm nhấn không gian hoành tráng cuối trục đường Lê Duẩn.
Kiến trúc mặt đứng công trình được phân làm ba mảng đặc – rỗng – và đặc phần nào lặp lại bố cục dinh Norodom trước đây, tuy nhiên, cũng có thể gợi nhớ đến bóng dáng của ngôi nhà ba gian hai chái cổ truyền, tương ứng với các khu chức năng bên trong. Tầng trệt được thiết kế cửa kính rộng lớn nhằm đưa cây xanh mặt nước lồng vào công trình một cách tối đa. Hình ảnh nổi bật trên mặt đứng là bức “rèm hoa đá” độc đáo, tên gọi của tác giả dành cho tác phẩm của mình. Vì mặt đứng công trình quay hướng Đông – Bắc, nên để có nhiều ánh sáng tự nhiên mà vẫn hạn chế được tia bức xạ mặt trời, tác giả đã khéo léo kết hợp vật liệu kỹ thuật của phương Tây với quan niệm thẩm mỹ truyền thống sáng tạo nên hình ảnh bức rèm khiến người ta liên tưởng đến những hình tượng con tiện hay các dóng trúc vốn là biểu tượng của người quân tử trong quan niệm của người phương Đông. Chúng đem lại cảm giác rất đỗi thân quen đối với người Việt Nam. Phía trong bức rèm hoa là hiên rộng thoáng chạy dài, tràn ngập ánh sáng như gợi nhớ tới cái hiên trong kiến trúc nhà ở dân gian.
Các không gian trong nhà được tác giả tạo dựng theo nguyên tắc không gian mở thông thoáng tự nhiên nhằm khai thác cảnh quan xung quanh và cũng để phù hợp với khí hậu nơi đây. Ngay cả giải pháp cách nhiệt cho mái cũng được quan tâm. Mái có cấu tạo sàn hai lớp, bên dưới là lớp bêtông chịu lực, bên trên là các tấm đan chống nóng đặt trên gối gạch cách sàn 40cm, chính nhờ lớp đệm không khí đối lưu ở giữa nên giữ cho nhiệt độ trong nhà lúc nào cũng mát mẻ. Đồng thời trong công trình sử dụng một số vật liệu đặc thù như đá rửa, đá mài để tô tường, chẳng thế mà có người đặt dinh Độc Lập vào loại “kiến trúc nhiệt đới tạo nên sắc thái Sài Gòn trong tổng thể chung của kiến trúc đương đại Việt Nam”.
Công trình không còn là một khối hình hộp đồng nhất mà đã sử dụng nhiều yếu tố của kiến trúc gỗ truyền thống như cột, dầm, công xôn, mái đua vươn ra khỏi tường nhà, thậm chí những bề mặt trơ trụi quen thuộc của những mảng tường lớn theo phong cách kiến trúc hiện đại cũng được xử lý bằng vật liệu đá rửa kẻ gioăng khít và được trang trí phù điêu rồng phượng. Hình khối và các chi tiết cho thấy tính chất Việt hoá cũng như nhiệt đới hoá kiến trúc hiện đại ở thư viện Khoa học tổng hợp đã đạt tới đỉnh điểm.
Đó là cách xử lý kiến trúc mặt đứng kho sách bằng các mảng tường đặc chạy dài theo phương vị ngang, tượng trưng cho những quyển sách xếp chồng lên nhau và chỉ chừa lại những khe cửa sổ nhỏ vừa đủ để lấy ánh sáng, nhằm tránh các tia nắng chiếu trực tiếp làm vàng ố các tư liệu bên trong. Hay như hình ảnh ngôi nhà sàn được cách điệu đứng trên hồ nước trong bố cục hình khối mặt đứng công trình, sàn tầng trệt được nâng cao khỏi mặt đất đem lại cảm giác gần gũi thích thú nhưng không làm mất đi sự bề thế của ngôi nhà. Do công trình quay hướng Tây Bắc – Đông Nam nên việc sử dụng bức tường hoa trên mặt đứng khối phòng đọc là khá hợp lý, vừa chống được bức xạ mặt trời vừa tạo được sự thông thoáng cho hành lang và các phòng ốc bên trong. Đặc biệt ở đây các tác giả đã hiện đại hoá các yếu tố kiến trúc truyền thống để tạo ra các hoạ tiết mang tính trang trí vô cùng biểu cảm, đem lại sự thành công mỹ mãn. Công trình gây được ấn tượng mạnh mẽ, khó quên chính là nhờ bức tường hoa này.
Các tác giả đã tổ hợp hình khối công trình theo chủ nghĩa công năng bằng cách tạo ra hai khối có dáng hình học dứt khoát rõ ràng nhưng đã khéo léo sắp xếp chúng tương phản nhau. Khối nằm ngang là các phòng đọc và khối đứng là kho sách, cùng với giải pháp mặt đứng một khối đặc và một khối rỗng đem lại hiệu ứng thị giác bất ngờ và ấn tượng. Mặc dù đây là thủ pháp mà chúng ta thường bắt gặp trong một số công trình hiện đại phương Tây, tuy nhiên ở đây các tác giả đã thể hiện sự nhất quán từ nội dung đến hình thức một giải pháp kiến trúc thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm lắm nắng nhiều mưa. Đồng thời các tác giả cũng đã biết cách kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa các yếu tố thẩm mỹ phương Tây và yếu tố truyền thống của Việt Nam tạo dựng nên một công trình mang sắc thái độc đáo. Vào năm 1972, công trình thư viện Khoa học tổng hợp do các KTS Nguyễn Hữu Thiện và Bùi Quang Hanh thiết kế được xây dựng xong. Công trình nằm ở vị trí khá đắc địa tại trung tâm thành phố, đối diện với dinh Gia Long cũ – nay là bảo tàng Cách mạng thành phố – ở góc đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Lý Tự Trọng ngày nay.
Công trình trường đại học Y dược. Các khối nhà lại được gắn kết với nhau nhờ các dãy hành lang có mái che cả ba tầng nhà, nên sự lưu thông giữa các khối chức năng khá thuận lợi và gắn kết một cách hữu cơ với những khu vườn, cây xanh, mặt nước. Đây cũng là công trình thành công về giải pháp chống các tia bức xạ mặt trời. Đối với các mặt nhà quay ra hướng Đông và Tây, hệ thống lam đứng và dày kết hợp với hành lang đã được sử dụng. Còn đối với các mặt nhà hướng Nam và Bắc thì sử dụng giải pháp hành lang kết hợp hệ thống lam hỗn hợp trên cao.
Có thể điểm thêm một công trình khác nữa, đó là trường đại học Y dược. Nằm trong một khuôn viên rộng lớn, với kiểu bố cục phân tán nhưng các khối nhà lại được gắn kết với nhau nhờ các dãy hành lang có mái che cả ba tầng nhà, nên sự lưu thông giữa các khối chức năng khá thuận lợi. Cũng chính nhờ kiểu bố cục này mà công trình gắn kết một cách hữu cơ với những khu vườn, cây xanh, mặt nước, len lỏi trong khuôn viên tạo nên một không khí tươi mát, làm dịu bớt cái nắng gay gắt của khí hậu nhiệt đới phương Nam, đồng thời cũng thể hiện sự vận dụng các nguyên lý của trường phái kiến trúc hữu cơ mà các bậc thầy như Frank Lloyd Wright, Alvar Aalto, Richards Neutra đã đề xướng. Mặc dù có sự hạn chế của những hình khối vuông vức, nhưng do cách tạo ra mặt bằng phóng khoáng, do cách giải quyết không gian một cách linh hoạt nên đã kết hợp được khá chặt chẽ giữa các không gian trong và ngoài nhà, giữa các công trình kiến trúc với thiên nhiên một cách hài hoà, sinh động. Công trình trường đại học Y dược là một ví dụ rất thành công về giải pháp chống các tia bức xạ mặt trời. Đối với các mặt nhà quay hướng Đông và Tây, hệ thống lam đứng và dày kết hợp với hành lang đã được sử dụng. Còn đối với các mặt nhà hướng Nam và Bắc thì sử dụng giải pháp hành lang kết hợp hệ thống lam hỗn hợp trên cao.
Nhìn chung kiến trúc công trình trường đại học Y dược có sự thống nhất cao nhờ sử dụng giải pháp hệ thống hành lang rộng thoáng kết hợp với các dạng lam, cầu thang xương cá, tường trắng đá rửa nổi bật trên nền xanh của cây cối miền nhiệt đới, tất cả tạo nên một phong cách “kiến trúc nhiệt đới Sài Gòn” rất đặc trưng. Mặc dù chỉ đơn cử một số ví dụ tiêu biểu trong bức tranh tổng thể của kiến trúc đô thị Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1975, nhưng cũng cho chúng ta hình dung ra nền kiến trúc Sài Gòn giai đoạn này đã có một bước tiến vượt bậc, vừa thích ứng với khí hậu nhiệt đới vừa đáp ứng được nhu cầu lối sống đô thị mới của người dân nơi đây. Mỗi khi nhắc đến giai đoạn này, ai cũng đều tự hào về một nền kiến trúc có tên gọi chung là phong cách kiến trúc “hiện đại nhiệt đới hoá”, một danh xưng được nhiều nhà nghiên cứu quốc tế ưu ái dành tặng. Với sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa tính hiện đại và tính dân tộc trong kiến trúc, giữa các yếu tố kiến trúc, khí hậu và con người, các công trình trong giai đoạn này thật sự đã đặt được nền móng vững chắc cho các bước tiếp theo của nền kiến trúc đương đại Việt Nam. Theo PGS.TS.KTS Nguyễn Khởi
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2020 2:41:46 GMT 9
Ai Là Người Thiết Kế Thành Cổ Loa?14/04/2019 Cổ Loa từng là kinh đô của nhà nước Âu Lạc thời kỳ An Dương Vương (thế kỷ III TCN) và của nước Đại Việt thời Ngô Quyền (thế kỷ X) mà thành Cổ Loa là một di tích minh chứng còn lại cho đến ngày nay. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Dời đô từ vùng núi đến đây và xây dựng nên một thành trì to lớn. An Dương Vương đã tìm hiểu những thuận lợi về mặt địa lý để kiến tạo nên một ngôi thành lịch sử. Thời xưa, Cổ Loa nằm ở vị trí đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng. Nơi đây giao thương dễ dàng khi giao tiếp cả đường thủy và đường bộ. Khi nắm giữ nơi đây, người Âu Lạc sẽ bao quát cả vùng đồng bằng và kiểm soát cả vùng núi.
Thành Cổ Loa nằm bên con sông Hoành. Nơi giao thoa nối liền sông Hồng và sông Cầu (Con sông lớn nhất trong hệ thống sông rạch chằng chịt Thái Bình). Việc nắm giữ đường thủy cả hai con sông Hồng và sông Thái Bình mang đến lợi thế thông thương to lớn cho thành Cổ Loa. Hai con sông này gần như chiếm toàn bộ hệ thống đường thủy Bắc bộ thời bấy giờ. Nếu muốn ra biển lớn chỉ cần xuôi theo con sông Hồng. Nếu muốn đi ngược lại vùng đồng bằng Tây Bắc thì xuôi theo con sông Thái Bình.
Mặt còn lại của thành Cổ Loa là vùng đồng bằng rộng lớn. Nơi đây bắt đầu xuất hiện nhiều xóm làng, dân chúng sống đông đúc. Kinh tế phát triển vượt bậc với đủ các loại nghề: Trồng lúa, thủ công nghiệp, đánh bắt cá,… Tuy giai đoạn trị vì của An Dương Vương chỉ khoảng 30-50 năm. Nhưng đây là giai đoạn đánh dấu sự chuyển mình của dân tộc Việt cổ. Địa lý từ vùng núi sang vùng đất đồng bằng trù phú. Không những là kinh tế tăng trưởng vượt bậc mà nền văn hóa Đông Sơn cũng rực rỡ nhất vào giai đoạn này.
1. Xây dựng thành và kiến trúc thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km… Diện tích trung tâm lên tới 2 km².
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8-12 m. Chân lũy rộng 20-30 m, mặt lũy rộng 6-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dầy đặc đã được tạo ra, thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê – Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Nhân dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)… thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế tạo côn, kiếm, dáo, mác và nỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở đây.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Đền Thượng (đền Thục Phán An Dương Vương)
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Tường Thành Cổ Loa
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hoàng.
Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000 m, cao trung bình 3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.
Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng.
Thành Cổ Loa xưa và nay có sự khác biệt. Thời gian trôi qua, với sự tác động của thiên nhiên và con người đã làm thành Cổ Loa thay đổi.
Theo sử sách xưa, thành được xây quanh co chín lớp, chu vi chín dặm, sâu nghìn trượng, xoáy tròn như hình ốc. Nên được gọi là Loa Thành (“loa” có nghĩa là con ốc). Thành còn có tên nôm là Chạ Chủ và nhiều tên khác như Khả Lũ (“Lũ” có nghĩa là quanh co nhiều lớp), Côn Lôn thành (ý nói thành cao như núi Côn Lôn bên Trung Quốc) hoặc Việt Vương thành (thành của vua xứ Việt), dân địa phương gọi bằng tên tiếng nôm là thành Chủ.
Để có đất xây thành, An Dương Vương phải cho dời dân tại chỗ đi nơi khác. Theo truyền thuyết thì làng Quậy hiện nay nguyên vốn ở tại Cổ Loa đã phải dời xuống vùng đất trũng cuối dòng sông Hoàng để An Dương Vương xây thành.
Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của nước ta”
Vào thời Âu Lạc, con người chỉ mới làm quen với một ít kỹ thuật sơ khai, công cụ lao động còn rất thô thiển, ít hiệu quả, tất cả công việc đều do bàn tay người mà ra. Muốn xây được công trình với “quy mô lớn vào bậc nhất” này, phải có một số lượng khổng lồ đất đào đắp, đá kè và gốm rải. Nhà nước Âu Lạc hẳn đã phải điều động một số nhân công rất lớn để lao động trong một thời gian rất dài mới có thể hoàn thành được. Các nhà khảo cổ học cho rằng đã phải có đến hàng vạn người làm việc hàng năm cho công trình này.
Khi xây thành, người xưa đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền núi. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Tường thành phía ngoài được xây dựng đứng để gây khó khăn cho đối phương, còn mặt trong thì được xây thoai thoải để dễ dàng lên xuống.
2. Cao Lỗ - Người thiết kế và chỉ huy xây dựng Thành Cổ Loa và cha đẻ của Nỏ Thần
Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là Nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Cha đẻ nỏ Thần Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (nỏ thần), bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần. Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ. Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc. Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn. Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
3. Những giá trị thành Cổ Loa mang lại
Trong cấu trúc thành Cổ Loa khi xây dưng, thành Cổ Loa tận dụng lợi thế thiên nhiên khá nhiều. Vì vậy, trên những gò đất cao và dài là những ụ, lũy được xây dựng để canh gác. Một số lũy như vậy được dân đặt tên như Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn…
Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm chứng nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.
Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
4. Thành Cổ Loa từ đời Ngô Quyền đến hiện nay.
Ngô Quyền cho đóng đô ở thành Cổ Loa. Ngô Quyền đã tiến hành nhiều cải cánh khác nhau. Mà điển hình là việc tu sửa lại thành Cổ Loa thành nơi trung tâm về quân sự, kinh tế và văn hóa của cả nước. Tuy vậy Ngô Quyền chỉ tại vị được 6 năm, một tòa thành Cổ Loa hoàn toàn mới của triều đại nhà Ngô như ý kiến của một số nhà nghiên cứu, thật khó có điều kiện khả thi. Thành Cổ Loa trong thời gian ngắn này có lẽ chỉ được đắp thêm từng phần trên cơ sở tòa thành cũ của An Dương Vương đã được gia cố nhiều lần trong thời kỳ Bắc thuộc.
Thành Cổ Loa hiện nay và quy hoạch tương lai
Trong những năm gần đây thành Cổ Loa bắt đầu khoác lên mình một diện mạo mới hơn. Các dự án quy hoạch và tu sửa thành Cổ Loa đang được phát triển thêm nhiều hơn. Một số dự án tu bổ tôn tạo trong khu vực Cổ Loa như: Am Mỵ Châu, đình Ngự triều di quy, đền An Dương Vương, đình-chùa Mạch Tràng, Giếng Ngọc, khảo cổ học Mắt Rồng, Bãi Mèn, Đồng Vông… cùng một số công trình giao thông đã hoàn thành như đường vào cửa Tây, cầu qua sông Hoàng, bãi để xe và một số hạng mục phụ trợ.
Xã Cổ Loa hiện có 14 thôn, xóm trong đó 11 xóm ở trên, trong hoặc giữa các vòng thành. Điều này đã tạo nên sự khác biệt của Cổ Loa so với các khu di tích khác. Khu di tích này vẫn cộng động cho người dân sống xen kẻ bên trong. Cũng từ đây nảy sinh những khó khăn trong công tác bảo tồn. Theo thống kê năm 1997, số hộ dân trên mặt thành và hào là 330 hộ. Theo thống kê năm 2005 của Văn phòng Tư vấn và Chuyển giao công nghệ xây dựng – trường Đại học Kiến trúc Hà Nội(đơn vị lập báo cáo đầu tư tu bổ tôn tạo khu di tích Cổ Loa) thì tổng số dân trên đất thành là 394 hộ, trong đó khu thành Nội có 119 hộ. Sự tăng hộ này là do dân số tăng tự nhiên trong các xóm, làng (tỉ lệ tăng tự nhiên ở Cổ Loa là 1,33%/năm). Số nhà mới xây dựng vì thế cũng tăng lên, hầu hết là xây dựng trên đất thổ cư đã được cấp giấy phép quyền sử dụng đất.
5. Cổ Loa: Liệu có thể cứu vãn?
Có lẽ, hầu hết người Việt Nam đều thuộc nằm lòng truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy, vốn là bài học được nhắc đến nhiều lần trong sách Ngữ Văn và sách Lịch sử phổ thông. Nhưng Thành Cổ Loa, nằm cách Hà Nội chưa đầy 20 km, là nơi khởi nguồn của truyền thuyết từ 2300 năm trước, vẫn còn dấu tích kiến trúc độc đáo của Kinh thành năm xưa lại không nằm trong tâm trí của nhiều người Việt và du khách quốc tế đến Hà Nội.
Ảnh Lễ hội Loa Thành
Mỗi năm, khu di tích Cổ Loa đón khoảng 130 nghìn lượt khách (để tiện so sánh, cố đô Huế đón một triệu lượt khách trong ba tháng) nhưng chỉ tập trung vào những ngày xung quanh thời điểm Lễ hội Cổ Loa diễn ra vào tháng Giêng. Hơn nữa, mang trong mình những huyền sử đầy bi tráng và lãng mạn, đậm chất Phương Đông, nhưng kì lạ là, nếu tìm kiếm trên mạng Internet, Cổ Loa chỉ có một bài review Tiếng Anh duy nhất trên trang blog du lịch Rusty Compass, được lập ra bởi một người Úc yêu Đông Nam Á đang ở Việt Nam, Mark Bowyer. Mark viết rằng, Cổ Loa được ít người biết đến một cách đáng kinh ngạc, và anh là khách du lịch duy nhất trong hai lần đến thăm.
TS. Richard A. Engelhardt, nguyên là chuyên gia tư vấn khu vực về Văn hóa vùng Châu Á Thái Bình Dương của UNESCO cho biết, lần đầu tiên đến Cổ Loa cách đây 20 năm, ông đã bị ấn tượng bởi kiến trúc thành nhiều lớp được tạo nên bằng đất, hệ thống hào và kênh mương, dựa trên hiểu biết về địa thế và sông nước, thể hiện tài năng quy hoạch địa hình đầy tiên tiến và đổi mới sáng tạo thời kì bấy giờ. Theo nhận định của ông, một nhà Nhân học, Khảo cổ và Lịch sử học tốt nghiệp tại Đại học Yale và Harvard, Mỹ, đó là một công trình độc nhất vô nhị, dung hòa được cả mục đích quân sự và dân sinh, mang tính tiên phong và có ảnh hưởng trên khắp các công trình kiến trúc quân sự và quy hoạch của khu vực Đồng Bằng Sông Hồng và phía Nam Trung Quốc sau đó. Lúc bấy giờ, ông ngạc nhiên về sự nguyên vẹn của ba vòng thành của Cổ Loa và đường nét của nó vẫn có thể thấy rõ trên thực địa, sau hơn 2000 năm. Nhưng vào thời điểm cách đây hai năm khi quay trở lại thăm một lần nữa, ông vô cùng thất vọng bởi những gì mình chứng kiến trước đó đã xuống cấp thê thảm, đến mức không còn nhận ra hình dáng của ba vòng thành nữa trước quá trình hiện đại hóa ở vùng quê này.
Cổ Loa có số phận khá long đong, lận đận cả về mặt được công nhận giá trị, công tác quản lý cho đến quy hoạch. Được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận là Di tích Quốc gia từ năm 1962 nhưng đến mãi gần đây, năm 2012, Cổ Loa mới được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt, có giá trị về Lịch sử, Kiến trúc nghệ thuật và Khảo cổ. Trước năm 1995, Cổ Loa được quản lý bởi chính quyền địa phương. Sau đó, được chuyển qua nhiều đơn vị quản lý, từ Ban Quản lý Di tích - Danh thắng thuộc Sở Văn hóa đến Trung tâm Bảo tồn di tích Cổ Loa – Thành cổ Hà Nội (hiện là Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội) nhưng phụ trách trực tiếp chỉ là một tổ trong một phòng với quyền hạn vô cùng khiêm tốn. Đến năm 2014, Ban Quản lý khu di tích Cổ Loa mới được thành lập, là đơn vị hành chính cấp hai trực thuộc Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội. Sau hai năm được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt, Thủ tướng đã phê duyệt quy hoạch tổng thể Khu di tích Cổ Loa thành Công viên Lịch sử - Sinh thái – Nhân văn với tỉ lệ 1/2000. Để thực hiện qui hoạch này thì công việc tiếp theo là phải triển khai lập quy hoạch chi tiết 1/500 để có cơ sở cắm mốc bảo vệ di tích. Ban đầu, Trung tâm được giao lập qui hoạch “Vùng lõi” (tức vùng trung tâm di tích) nhưng đến năm 2017, nhiệm vụ lập qui hoạch chi tiết cho toàn bộ Khu di tích đã được Thành phố giao cho tập đoàn Bất động sản Sun Group thực hiện.
a. Khi ban quản lý không thể bảo vệ di tích
Một đoạn thành Nội đang bị san phẳng chỉ vài ngày trước khi chúng tôi đi Cổ Loa thực địa. Trước thực trạng này, TS Trịnh Hoàng Hiệp, Viện Khảo cổ học Việt Nam kiến nghị: “Cần tiến hành bảo vệ và khai quật khẩn cấp với những đoạn thành đang bị phá”. Ảnh: Hảo Linh.
Điều gì là giá trị lớn nhất của Cổ Loa mà từ trước đến nay đều bị đánh giá một cách sai lầm trong các quy hoạch?
Đến thăm Cổ Loa, đa số du khách thường chỉ tập trung tham quan ở “vùng lõi”, thuộc khu vực Thành Nội, với các địa điểm nổi bật như Đền Thượng thờ An Dương Vương, Hồ Giếng Ngọc, đình Ngự Triều, am thờ Mỵ Châu, … Và, không ngạc nhiên, quy hoạch chi tiết cũng ưu tiên khu vực này và Ban quản lý khu di tích chỉ được phép phụ trách các địa điểm trên, cùng vài khu đất gần trụ sở làm việc với tổng diện tích khoảng 04 ha. Trong khi đó, toàn bộ khu di tích Cổ Loa rộng gần 900 ha và ba vòng thành đất mà ông Lê Viết Dũng, Phó ban Quản lý (phụ trách) khu di tích Cổ Loa khẳng định rằng “đó mới là giá trị cốt lõi, là cái quý nhất ở đây” thì lại do chính quyền địa phương và người dân quản lý, (khai thác) không phải như với đối tượng là đất di tích mà như là đất đai thông thường. Vì thế, vì nhu cầu dân sinh, người dân canh tác trên thành, nuôi cá dưới hào, những hộ dân ở sát chân thành đã được cấp sổ đỏ, một số đoạn trên mặt thành được xẻ, làm thành đường nhựa cho xe cơ giới qua lại... Giờ đây, vòng thành nội đã gần như mất đi toàn bộ hình dáng, chỉ còn sót lại một vài ụ đất rải rác. Hào trong Thành Nội thì đã được lấp để xây nhà và đường hoặc không thì cây và cỏ dại mọc um tùm. Còn hai vòng Thành Trung và Thành Ngoại, mặc dù vẫn còn nguyên đường nét nhưng không còn giữ được độ cao như trước (chiều cao gốc của thành là từ 7-8m, có nơi có thể lên tới 10m, nhưng giờ đây chỉ còn là 3m trở xuống, có nơi chưa đầy 1m) còn hào thì được trưng dụng để làm diện tích trồng lúa. Đó còn chưa kể, các di tích khảo cổ học (chẳng hạn như di chỉ Đồng Vông ở trên doi đất bên sông Hoàng hết sức quan trọng, thể hiện các giai đoạn khảo cổ học phát triển liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn) đều đang trên bờ vực xóa sổ vì các công trình dân sinh.
Cổ Loa có số phận khá long đong, lận đận cả về mặt được công nhận, quản lý cho đến quy hoạch. Được công nhận là di tích quốc gia từ năm 1962 nhưng đến mãi gần đây, năm 2013, Cổ Loa mới được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, có ý nghĩa lịch sử, văn hóa quan trọng.
Hơn nữa, nhìn thấy những “vi phạm” trên, Ban quản lý di tích chỉ có chức năng “kiểm tra, phát hiện và báo cáo” chứ không được xử phạt. Gửi báo cáo và góp ý nhiều lần nhưng ý kiến của Ban quản lý thường không được lắng nghe. Một ví dụ nhỏ, đó là Cửa Trấn Nam – một điểm rất quan trọng của di tích, bị che khuất hoàn toàn bởi hàng quán. “Tôi đã làm việc với lãnh đạo xã nhiều lần, kể cả đã phát biểu trong một số cuộc họp trên huyện, đề nghị ủy ban nhân dân xã lưu ý dẹp hàng quán, giao cho ai đó quản lý, có thể giao cho thôn, mà nếu khó khăn thì giao cho chúng tôi. Thì hiện nay nó vẫn cứ như thế thôi. Lời nói vẫn cứ như là viên gạch ném xuống hồ” – ông Dũng nói.
Có một cách trao thêm quyền cho Ban quản lý di tích mà không chồng chéo lên nhiệm vụ của các cơ quan chức năng khác đó là tham gia giám sát độc lập việc xây dựng, thi công trong khu vực Cổ Loa, theo đó bất cứ công trình nào cũng chỉ được triển khai sau khi xin ý kiến và được Ban quản lý chấp thuận. Đó là gợi ý từ quy chế Quản lý, Bảo tồn Phố cổ Hà Nội, mà ông Lê Viết Dũng là người viết Đề án thành lập Ban Quản lý Phố cổ Hà Nội vào năm 1997. Tuy nhiên, điều đáng nói là sau khi công bố Qui hoạch Tổng thể 1/2000 thì Qui chế Quản lý qui hoạch, trong đó có xác định trách nhiệm của từng cơ quan vẫn chưa được ban hành.
b. “Vừa làm vừa dò dẫm”
Một đoạn thành nội đã bị một nhà dân san lấp và xây nhà ở. Ảnh: Bảo Như.
Khi chưa có quy hoạch chi tiết 1/500, mọi hoạt động bảo tồn di tích cổ Loa đều bị ngưng trệ. Là một người nhiệt tình với việc bảo vệ di sản và “đau xót” với Cổ Loa từ cách đây hơn 20 năm lúc còn làm trong Ban quản lý Phố cổ Hà Nội, khi đến với Ban quản lý di tích Cổ Loa cách đây hai năm, ông Dũng “ngay trong tuần đầu tiên” đã đề ra một số việc cần làm ngay, trong số đó là làm biển chỉ dẫn cho khách tham quan đi từ các tuyến đường chính vào Khu di tích Cổ Loa và đi khắp các vòng thành. Ngay cả khi huy động được nguồn vốn xã hội hóa, ý tưởng đơn giản này cũng không dễ thực hiện, vì các doanh nghiệp đầu tư, tài trợ sẽ e ngại một khi biết rằng sẽ có một tập đoàn khác tiếp quản khu vực. Ông Dũng kể lại: “Từ khi tôi mới về đây tôi đã phát tín hiệu với rất nhiều người, anh em bạn bè chiến hữu, những người có quan tâm đến di tích, thậm chí là những nhà đầu tư. Nhưng khi đến đây tìm hiểu xong thì họ đều lặng lẽ không thấy quay trở lại bởi vì họ đã biết là khu này rồi sẽ được giao cho ai, rồi làm gì, xu thế như thế nào.”.
“Hiện tại các công việc mà chúng tôi làm vẫn trong tình trạng là vừa làm vừa dò dẫm, vừa nghe ngóng chứ chả dám làm gì lớn” – ông Dũng nói và cho rằng Ban quản lý di tích đang huy động bằng tất cả những gì có thể khai thác được để quảng bá di tích đến với mọi người. Họ cũng đề xuất kế hoạch quản lý di tích đến năm 2020, bản kế hoạch đã hoàn chỉnh qua nhiều lần lấy ý kiến của người dân, của các sở, ngành, chính quyền xã, huyện và cấp lãnh đạo cao nhất của Thành phố nhưng đến nay còn đang chờ Thành phố phê duyệt thì mới có kinh phí. Tuy nhiên, đó chỉ là hoạt động quản lý thường xuyên còn chiến lược phát triển Cổ Loa vẫn là câu chuyện quy hoạch, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên (bao gồm nhà khoa học, doanh nghiệp, các cấp chính quyền) với một sự cam kết lớn. Hiện nay, Ban quản lý di tích cũng chưa được biết Sun Group có “động tĩnh” gì về qui hoạch 1/500 hay chưa.
c. Lợi thế chưa thể đánh thức
Cổ Loa bây giờ vẫn giữ được không khí thanh bình của làng quê Việt Nam với hàng chục ngôi nhà cổ, mỗi xóm đều có điếm, trong số đó nhiều nơi có kiến trúc và không gian đẹp và nếp sinh hoạt truyền thống gắn với nghề trồng lúa. Tuy nhiên, người dân nơi đây chưa có ý định biến những đặc trưng này thành lợi thế du lịch. Ban đầu, họ còn không dành nhiều thiện cảm cho Ban quản lý di tích. Khi Ban quản lý di tích tạo lập Không gian Việt – một chỗ vui chơi cho người tham quan, giới thiệu về văn hóa Việt và tổ chức các trò chơi dân gian trên nền của khu trường cấp II cũ (do Ban đang quản lý) đã chịu sự phản đối kịch liệt của người dân mà đại diện là Hội người cao tuổi xã Cổ Loa, họ cho là “xẻ thịt di tích”. Đối với chính quyền địa phương cũng vậy, lúc đầu cũng tưởng Ban quản lý khu di tích sử dụng vào mục đích kinh doanh thu lợi. Phải mất nhiều thời gian mới có thể thuyết phục được họ.Toàn bộ khu di tích Cổ Loa rộng gần 900 ha và ba vòng thành đất mà ông Lê Viết Dũng, Phó ban Quản lý (phụ trách) khu di tích Cổ Loa khẳng định rằng “đó mới là giá trị cốt lõi, là cái quý nhất ở đây” thì lại do chính quyền địa phương và người dân quản lý, khai thác không phải như với đối tượng là đất di tích mà như là đất đai thông thường.
Đánh thức tiềm năng của Cổ Loa đòi hỏi việc xây dựng ý thức của cộng đồng, để người dân tham gia vào làm du lịch là điều không hề đơn giản đối với ban quản lý. Ông Dũng mong ước có thể tổ chức những buổi nói chuyện hằng tuần về phát huy giá trị di sản, về du lịch cộng đồng cho những người dân trong xã Cổ Loa nhưng ý định này chưa nhận được được sự quan tâm của các cấp quản lý. Từng có kinh nghiệm bảo tồn phố cổ Hà Nội, ông Dũng cho biết, một tác động lớn mà khu phố cổ này trở nên nổi tiếng và sôi động trong một thời gian ngắn là nhờ một loạt các dự án nghiên cứu và truyền thông của các tổ chức nước ngoài (từ Thụy Điển, Úc, Pháp, Bỉ và Nhật Bản) trong nhiều năm liền đã làm thay đổi nhận thức người dân qua việc treo paneau, áp phích khắp các đường phố cho đến trao đổi trong các cuộc họp tổ dân phố. Làm về quản lý di sản hơn 20 năm, ông Dũng quá rõ quá trình từ ý tưởng đến thực tế trong lĩnh vực này đòi hỏi sự kiên nhẫn như thế nào (ông đã chứng kiến việc nhỏ như chỉnh trang mặt phố và lát gạch trên đoạn ngắn phố cổ Tạ Hiện ở Hà Nội theo nghiên cứu bảo tồn của chuyên gia người Pháp phải mất gần mười năm mới có thể hoàn thành) nhưng hiện nay số phận của khu di tích Cổ Loa đang hết sức mong manh: “tốc độ di tích bị hủy hoại càng ngày càng lớn và điển hình trong mấy tháng trước, chỉ cần một ca máy xúc là đã đi một đoạn thành rồi” – ông Lê Viết Dũng nói.
Bảo tồn Khu di tích Cổ Loa không chỉ là việc của Ban quản lý khu di tích, của người dân, của chính quyền mà còn là của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị cũng như các doanh nghiệp, các nhà Khoa học, … và của tất cả những người yêu nước Việt, yêu văn hoá Việt và có trách nhiệm với truyền thống lịch sử của Tổ tiên người Việt. - ông Lê Viết Dũng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 18, 2020 4:04:48 GMT 9
Nguyễn Tấn Đời & dự án Sài Gòn MớiTN Nguồn: baotreonline.com/.../nguyen-tan-doi-du-an-sai-gon... Đã có Chợ Lớn cũ, Chợ Lớn mới, tiến tới cũng có Sài Gòn cũ và Sài Gòn mới. Sài Gòn mới sẽ có bến ghe, tàu thương mại từ các tỉnh tải hàng về đô thành. Đó là một vài suy nghĩ cho dự án táo bạo của tỷ phú Ngyễn Tấn Đời vào đầu thập niên 1960 và đến cuối đời, ông còn hối tiếc vì chưa thực hiện được. Khi còn là nhân viên của Viện Quy hoạch, tôi vẫn thường nghe nhắc tới quy hoạch Sài Gòn II chứ ít nghe nói là Sài Gòn mới. Mới hay cũ mà ông Nguyễn Tấn Ðời nhắc lại trong suy nghĩ của mình khi lên kế hoạch cho một dự án tầm cỡ gọi là “Dự án mỗi người dân một mái nhà” với tổng diện tích sử dụng trong bán đảo Thủ Thiêm lên đến 500 hécta. Thuở ông lập dự án trình chính phủ Ngô Ðình Diệm, 500 hécta là một diện tích rất lớn, so với ngày nay, quy mô quy hoạch Thủ Thiêm thành một đô thị rộng đến 650 hécta bao gồm các phường Thủ Thiêm, An Khánh, An Lợi Ðông, và Bình Khánh. Thủ Thiêm ngày đó còn hoang sơ lắm, chưa có con đường tráng nhựa nào chỉ có con đường đất đỏ (Trần Não hiện nay), giao thông qua lại Sài Gòn bằng phà, ghe. Dân số thưa thớt, sống dọc theo bờ sông kéo dài đến tận kho 5, kho 10 nhìn sang phía Tân Thuận Ðông. Giai đoạn 1957 – 1961 khi Mỹ đầu tư dự án xa lộ Biên Hoà và cầu Sài Gòn để kết nối giao thông tiện lợi đến Khu Công nghiệp Biên Hoà thì các dự án quy hoạch Thủ Thiêm mới thật sự bắt đầu hình thành. Với tầm nhìn xa trông rộng của một thương nhân, ông Nguyễn Tấn Ðời bắt nhịp nhanh với sự phát triển đô thị Thủ Thiêm trong tương lai. Trong hồi ký của mình, ông thuật lại nguyên nhân khiến ông vạch ra những dự án lớn mang tính tầm cỡ. Dự án 1: Mỗi người dân một mái nhà; dự án 2: Giữ gìn an ninh biên giới Việt Miên. Nội dung các dự án đều gắn liền với mục đích dân sinh, phát triển gia cư kết hợp với chính sách dồn dân lập ấp của chính phủ Ngô Ðình Diệm thời bấy giờ. Nguyễn Tấn Ðời được xem là người tiên phong lập dự án khu đô thị Thủ Thiêm. Ông viết: “Những năm 1960, những người đứng đầu chính phủ thường xuyên đến các vùng nông thôn. Những năm đó tôi có dịp đi theo, vì nghĩ rằng việc nước là việc chung, dù kẻ thất phu cũng có trách nhiệm, không thể khoán trắng, trông cậy vào một ai, mà mình đứng ra ngoài, ngồi không, để chỉ trích khen chê… Dẫu chẳng tài ba, tôi cũng cố gắng lập ra một vài dự án, trong sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình, gọi là góp phần của một người công dân biết lo âu cho đất nước…”. Ông bộc bạch trong hồi ký: “Sau khi thành công trên đường sự nghiệp, một ngày đẹp trời nọ, tôi đứng trên cao ốc, tầng 12 của President Hotel số 727 đường Trần Hưng Ðạo Sài Gòn. Nhìn quanh tứ phía, tôi thấy nhà cửa dân nghèo ở thủ đô Sài Gòn, được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Ðông” hay “Sài Gòn hoa lệ…” “Người dân đang sống trong các chòi ọp ẹp, sình lầy, tối tăm, bẩn thỉu, kém xa cuộc sống ở đồng quê, nhà tranh, vách đất mà thoáng khí… Không kể có lũy tre xanh, hàng dừa cao, vườn rau, cây ăn trái, có sông sâu, đồng lúa vàng thơm ngát… Tôi chạnh lòng nhớ đến những tá điền quen thuộc xưa kia. Họ mộc mạc, hiền lương, đầy tình người và thật thà giản dị… Cũng tự nghĩ, dù tôi có giàu đến đâu đi nữa, chỉ được tiếng giàu có như “Thạch Sùng”, cũng ngày ba bữa ăn thôi, rồi khi chết, chỉ còn lại hai bàn tay trắng với một nấm mồ ở lòng đất lạnh…” “Nay tôi đã giàu có rồi, dư ăn dư để, thử hỏi tại sao tôi tiếp tục làm giàu thêm để sống một nếp sống ích kỷ, không nghĩ đến kẻ bất hạnh nghèo khó, chân lấm tay bùn, chỉ vì chiến trận mà họ bỏ cả nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ cả ruộng vườn, nhà cửa; cũng vì chiến trận, họ tìm nơi lánh nạn, chịu ở chui rúc như ổ chuột… Vậy tôi phải làm gì, trước để giúp dân, sau để lòng mình được an vui thanh thản, còn để lại tiếng tốt cho mai sau, hơn là cứ dấn thân vào tiền tiền, bạc bạc mãi…” “Nhân dịp viếng thăm một vùng nông thôn, đến cư xá Tân Thuận Ðông do chính phủ thành lập với mục đích di dân lập ấp, tôi nhận thấy đây là một sáng kiến hay. Nhưng người thừa hành, lúc thi hành chương trình lại quá cấp bách, cốt ý làm vừa lòng cấp trên, nên không làm sao tránh được những sơ sót, không thỏa mãn được người dân. Người dân quê, trước kia dẫu làm ruộng rẫy, chân lấm tay bùn, tắm nước ao hồ, đốt đèn dầu cá, nhưng nay đời sống phải hưởng những tiện nghi tối thiểu, mang giày dép, thắp đèn điện, phải có nước sạch mặc dầu phải ra ngoài vòi nước công cộng lấy vào nhà xài…” “Vậy mà nay nhiều nhà vẫn chỉ có túp lều lợp lá, mái tôn, cất trên sình lầy hôi hám, muỗi mòng. Người Việt Nam có câu “Ăn thì nhiều, ở chẳng bao nhiêu”. Họ ra ngoài đường kiếm ăn suốt ngày, lao động mệt nhọc, đâu còn tâm trí thời giờ để thưởng thức được sự ấm cúng dưới mái nhà. Họ chỉ cần có chỗ để nghỉ, đụt mưa che nắng lúc về đêm, họ nằm xuống là ngủ thẳng chân thẳng tay. Ðến hôm sau mờ sáng lại đi làm lụng kiếm ăn… Họ chỉ mơ được an thân, vừa đủ ăn, đủ ấm, họ chưa hề được quyền mơ một mái nhà khang trang, quần áo đẹp đẽ… Vậy tôi cố làm sao giúp tạo được giấc mơ khiêm nhường mà họ chưa hề mong ước…” Dự án trên giấy cuối cùng được hoàn thành. Ông trình bày cho Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, sau khi trao đổi, tu chỉnh một vài điều, trình lên chính phủ. Khi dự án được chấp thuận, bổ túc những điều cần thiết, pháp lý thi hành, dự án được giao cho Bộ trưởng Bộ Công chính Trần Ngọc Oanh, xuất quỹ xổ số kiến thiết quốc gia 500 triệu mượn không lấy lời trong vòng 10 năm cho chương trình “Một người dân, một mái nhà”. Ông Ðời được toàn quyền điều hành dự án với điều kiện đem tất cả tài sản ra bảo đảm, điều hành dự án bất vụ lợi, không hưởng thù lao. Bộ Tài chánh quản lý tiền bạc đầu tư dự án. Các điều khoản thi hành dự án được vạch ra rất chi tiết, từ việc thu hồi đất, đền bù, cho đến giải quyết nền đất, xây dựng công trình hạ tầng đường sá, điện nước, công viên giải trí, phương tiện giao thông… trước khi thực hiện công trình xây dựng nhà cửa. Tiếc rằng, dự án gốc ông không mang theo được khi sang Canada định cư, trên đây là những gì ông nhớ và thuật lại trong hồi ký của mình. Tấm lòng nhân ái của ông Ðời thể hiện rõ mong muốn lo cho người dân có một mái nhà nhưng để thực hiện dự án táo bạo cho một đô thị lớn ở Thủ Thiêm bao gồm các công trình lớn nhỏ đòi hỏi thời gian dài và chi phí đầu tư rất lớn. Khi Ðệ Nhị VNCH lên cầm quyền cũng đã theo đuổi các dự án quy hoạch khu Thủ Thiêm, xem nó là Sài Gòn II hiện đại bên cạnh Sài Gòn I đã định hình với các công trình kiến trúc hoa mỹ thời thuộc địa. Ðầu tiên là quy hoạch chung thành phố Sài Gòn do công ty Doxiadis Associates Consultants on Development and Ekistics của Hy Lạp lập nên năm 1965. Khi Thủ Thiêm (quận 9) được thành lập năm 1966 thì công ty Mỹ Wurster, Bernardi and Emmons lập dự án quy hoạch phát triển Thủ Thiêm vào năm 1972. Các bản đồ quy hoạch, mô hình, nghiên cứu địa chất, khảo sát hiện trạng sử dụng đất, lập bản đồ hiện trạng được thực hiện theo tài liệu có sẵn từ cuối năm 1970. Tôi còn tìm thấy trong kho bản đồ của Viện Quy hoạch sau khi được chuyển về từ Tổng Nha Kiến thiết và Thiết kế đô thị. Trong số tài liệu có quyển thổ nhưỡng và địa chất các khu vực thành phố, trong đó có khu vực Thủ Thiêm là nền đất yếu, trũng mà việc san nền, thiết kế nền móng sẽ gây tốn kém rất nhiều. Các vị kiến trúc sư và nhà quy hoạch đều không cho rằng đó là nguyên nhân chính mà chiến tranh lan rộng mới là nguyên nhân chính gây cản trở việc thực hiện xây mới đô thị Sài Gòn II. Sau năm 1975, việc khảo sát và quy hoạch Thủ Thiêm tiếp tục được thực hiện. Thủ Thiêm hoang sơ ngày nào vẫn hy vọng có ngày thay đổi diện mạo bên cạnh con sông Sài Gòn thơ mộng. Ðiều này chắc chắn sẽ xảy ra để phần nào an ủi hương hồn của ông Nguyễn Tấn Ðời, người tiên phong lập nên ước vọng dự án “mỗi người dân một mái nhà” cách nay 60 năm trước. TN Nguồn: baotreonline.com/.../nguyen-tan-doi-du-an-sai-gon... **************************** Nhà lầu trong văn hóa Nam Kỳ xưa Bài viết từ Nguyễn Gia Việt Người Miền Nam kêu nhà cao lên trên trời có sắp tầng là nhà lầu, đếm tầng lầu. Miền Nam chúng ta khi cất nhà sẽ có nhà trệt hay nhà lầu. Nhà một trệt hai lầu sẽ hiểu là nhà đó chỉ có hai lầu, phần dưới đất là nhà trệt Người Miền Nam gọi nhà sát mặt đất là trệt, rồi đến lầu 1, lầu 2, lầu 3 và trên là sân thượng. Nhà lầu quá nhiều tầng kêu là cao ốc, thí dụ cao ốc có 12 lầu và 1 hầm cùng 1 trệt Xét lịch sử thì chữ nhà lầu của dân Đàng Trong từ Miền Trung trổ vô Nam Kỳ. Thí dụ cao lầu ở Hội An, rồi lầu Ông Tư hay lầu Ông Năm Yersin ở Nha Trang "Ngó ra ngoài biển thấy tàu Ngó vô trong bãi thấy lầu ông Năm" Nam Kỳ có nhà lầu là nhà của nhà giàu trong vùng, thường là quan Tây thuộc địa. Xóm làng Nam Kỳ còn nhiều khu lầu Ông Ba, lầu Bà Sáu, lầu Ông Đốc, lầu ông Phủ "Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh Bánh nào trắng bằng bánh bò bông Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng Đêm nằm nghĩ lại, nước mắt hồng tuôn rơi." Tại Vĩnh Long còn cái Cầu Lầu: "Đèn nào cao bằng đèn Cầu Lộ Gái nào ngộ cho bằng gái Cầu Kinh Trai nào xinh bằng trai Cầu Thiềng Đức Nhiều lục bình nhứt là sông Cầu Lầu" Cầu Lầu vì nó có cái lầu trên cầu,kiểu như cái nhà hóng gió xưa. Cầu Lầu là cầu bắc qua đầu vàm rạch Cái Cá, là một đoạn hào thành Long Hồ xưa Thời Nguyễn, Cầu Lầu là một cầu bằng cây căm xe, lát ván, giữa có vọng lâu (lầu) dựng trên 4 cây cột cao, lầu sơn son thếp vàng. Cái lầu này để lính canh phòng mặt sông Cổ Chiên và canh tuần người dân qua lại vô thành Sau 1975 nhà lầu bị xóa và kêu kiểu Bắc là "nhà cao tầng". Rồi áp văn hóa Miền Bắc vô Miền Nam kiểu tính tầng trệt là tầng 1, kêu tầng lầu 1 là tầng 2 Theo cách tính kiểu Bắc như vậy thì kỳ lạ khi nhà trệt lại là tầng 1, lầu 1 tương đương tầng 2, lầu 2 tương đương tầng 3 Nếu mua nhà của người Bắc hoặc tiếp xúc công ty môi giới của người Miền Bắc bán nhà bạn phải chú ý kỹ, không là bị mua nhà kiểu mất một lầu Điều đáng buồn là ngày nay ở Miền Nam lại có nhiều người xài ngôn từ Bắc áp vô xã hội Miền Nam Chữ "nhà lầu" rất yêu thương và quen thuộc với người Miền Nam, thành ra các bạn trẻ chú ý không xử dụng chữ "nhà cao tầng" khi nói về nhà lầu Chúng ta là dân Miền Nam thời phải nói Tiếng Miền Nam mới đặng bụng.
|
|