|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:22:00 GMT 9
Ðơn xin học nội trú trường Thuộc Ðịa của Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh gởi Bộ trưởng bộ Thuộc Ðịa Pháp -------------------------------------------------------------------------------- Marseille le15 Septembre 1911 À Monsieur le Ministre des Colonies Monsieur le Ministre J'ai l'honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d'être admis à suivre les cours de l ' École Coloniale comme interne . Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l'Amiral Latouche Tréville. Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m' instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction . Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam. En attendant votre réponse que j ' espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ' assurance de ma reconnaissance anticipée . Nguyễn-tất Thành, né à Vinh, en 1892 ,fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois Tạm dịch : Marseille ngày 15 tháng chín 1911 Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa Kính thưa ông Bộ Trưởng , Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa. Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville) . Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích về học vấn. Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam . Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi. Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:25:18 GMT 9
Hồ chí Minh và "Tầm hữu vị ngộ" Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ -------------------------------------------------------------------------------- Trong hợp tuyển thơ-nhạc-họa-ảnh nghệ thuật "Quốc Học trường tôi" , do nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) ấn hành năm 1996 nhân kỷ niệm 100 năm thành lập trường Quốc Học Huế (1896-1996), thấy có trưng dẫn 100 bài thơ gồm nhiều thể loại của 100 tác giả (vốn là những người được xem như có liên hệ ít nhiều với trường, hoặc giảng dạy hoặc theo học trong một thời gian dài hay ngắn). Ở hợp tuyển này có một nghi vấn cần được giải minh liên quan đến bài thơ nhan đề "Tầm hữu vị ngộ" (tt72,73) mà nhóm chủ trương thực hiện ghi nhận là của Hồ chí Minh, có cả chữ ký của tác giả (tức ông Hồ) ở cuối bài, có phần dịch nghĩa và dịch thơ (dịch giả là Ðăng Thao) và phần chú dẫn dựa theo tạp chí Thế Giới Mới số 2-1990. Vấn đề được nêu ra nơi đây là "Có phải thật chính ông Hồ chí Minh đã sáng tác bài thơ này hay không ?" . Thơ nguyên tác bằng chữ Hán , được phiên âm như sau : Tầm hữu vị ngộ Bách lý tầm quân , vị ngộ quân , Mã đề đạp toán lĩnh đầu vân . Qui lai, ngẫu ngộ sơn mai thụ , Mỗi đóa hoàng hoa, nhất điểm xuân . Ðây là một bài thơ viết theo thể cổ thi luật Ðường "thất ngôn tứ tuyệt", có niêm luật, âm vận rất chỉnh, là một bài thơ hay lại viết bằng ngoại ngữ. (Nhà văn cộng sản kỳ cựu Ðặng Thái Mai có lần hoài nghi "không thể không lấy làm lạ là Bác đã viết thơ chữ Hán") . Thơ ông Hồ, xét dựa theo phẩm chất một số bài khác được ghi nhận là của ông, thật khó đạt được mức điêu luyện này . Ở thơ ông, người ta thường thấy có ít nhiều trục trặc về âm điệu, khó có thể ngâm lên nghe cho êm thuận , chẳng hạn : Nước ta ở về xứ nóng khí hậu tốt , Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu ... (1) Những từ ngữ được ông dùng trong thơ thường cũng đơn giản, mộc mạc nhiều khi theo lối "vè" có vẻ rất "bình dân" , như : Diên Hồng thề trước thánh minh , Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành . Nếu ai muốn đến giành đất Việt Ðưa dân ta ra giết sạch trơn Một người Việt hãy đang còn Thì non sông Việt vẫn non sông nhà . (2) hoặc : Ba bốn năm trời luống nhớ thương Nhớ chàng lưu lạc tại tha hương Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp Lụy nhớ e chưa ráo mắt chàng Thù nước thù nhà chàng gắng trả Việc nhà việc cửa thiếp xin đương ... (3) hoặc : Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường Hiên ngang dàn trận khắp trong phường Bác khen các cháu dân quân gái Ðánh giặc Huê Kỳ phải nát xương (4) Xét về nội dung, bài thơ " Tầm hữu vị ngộ "này thể hiện một tư tưởng phóng khoáng, lãng mạn, trữ tình với thi tứ dạt dào, lai láng ... mang nặng tính " vị nghệ thuật " không mảy may vương nhiễm chất " văn nghệ tuyên truyền ", vốn là đòi hỏi tất yếu để đáp ứng nhu cầu về đấu tranh tư tưởng của người cộng sản . Với ông Hồ, văn nghệ phải có tính "vị chính trị" (mà giới văn nghệ sĩ cộng sản mỹ hóa bằng nhóm chữ "vị nhân sinh") , nghĩa là phải đáp ứng đòi hỏi phục vụ chủ thuyết vô sản , cổ võ thế giới đại đồng : Bác đưa một nước qua nô lệ Tôi dắt năm châu đến đại đồng ... (5) hoặc phải đề cao tình đoàn kết thắm thiết keo sơn của khối Xã hội chủ nghĩa : Nhân dân dũng cảm và cần kiệm Các nước anh em giúp đỡ nhiều (1) hoặc mang nặng tính sách động, hô hào sắt máu : Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ Tiến lên ! toàn thắng ắt về ta . (Mừng xuân 1968) Tóm lại , bài thơ " Tầm hữu vị ngộ " xét về hình thức lẫn nội dung không phù hợp với thi cách lẫn khuynh hướng của ông Hồ nói riêng và người cộng sản nói chung . Dưới các phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ còn có phần chú dẫn như sau : "Bài thơ này mới được phát hiện. Ðược biết, Hồ chủ-tịch viết bài thơ vào mùa xuân 1954 khi người đến thăm bạn – một vị tướng "chiến hữu" trong những ngày mở màn chiến dịch lịch sử Ðiện Biên Phủ . Ðó là Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, một tài năng lớn về quân sự, vốn cũng từng xuất thân từ trường Quốc học-Huế (Theo tạp chí Thế Giới Mới số 2-1990)" Với lời chú thích ngộ nghĩnh này, không biết người ta muốn bốc thơm ca tụng hay là muốn chơi khăm ông Hồ đây ? Nếu là để ca tụng thì lối ca tụng này quá vụng về, để lộ rất nhiều sơ hở . Còn nếu để chơi khăm thì đây quả là một cú chơi thâm và ác . Một mai khi thần tượng "Bác" bị sụp đổ như thần tượng Staline thì giai thoại thơ này sẽ được phổ biến rộng rãi để mọi người có thêm một chuyện cười lúc trà dư tửu hậu . Bảo rằng bài thơ được ông Hồ viết vào mùa xuân 1954 và mới được phát hiện quả thật là chuyện khôi hài . Vào đầu thập niên 30 , khi ông Hồ bị nhà cầm quyền Anh ở Hong Kong bắt nhốt và vào đầu thập niên 40 , bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ ở tỉnh Quảng Tây , chung quanh ông không có thuộc hạ thân tín mà chỉ có những cai tù người Anh hay người Trung Hoa Quốc Dân Ðảng , thế mà những bài thơ do các tù nhân Trung Hoa viết lên vách ngục hay trên giấy thảo hoặc chỉ truyền miệng đều được cho là do ông sáng tác , ma øcó dư luận quả quyết rằng tác giả thực sự vốn là tù nhân khác (xem "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký" của Lê Hữu Mục, Văn Bút Việt Nam Hải ngoại xuất bản 1990) đều được góp nhặt, ghi chép, phiên dịch toàn bộ vào những năm 1959,1960 đưa vào trong một tập thơ nhan đề " Nhật ký trong tù " tức "Ngục trung nhật ký", để đem phổ biến khắp nơi . Ðằng này , năm 1954 là một thời điểm hết sức quan trọng của cuộc chiến , lúc đó ông Hồ đã là một lãnh tụ cộng sản cao giá , hễ ông đi đâu hay ông làm gì bên cạnh ông đều phải có nhiều cán bộ thủ túc theo sát để bảo vệ, để nhận lệnh, để ghi chép thành tích của ông thì tại sao một bài thơ được ông sáng tác hay ho đến thế mà không người nào ghi chép , lưu giữ , đến nỗi phải bị thất lạc , mãi tới năm 1990 (36 năm sau) mới được tạp chí Thế Giới Mới phát giác và công bố ? Giai đoạn mở đầu chiến dịch Ðiện Biên Phủ , tình hình cực kỳ căng thẳng , hai phe đối đầu không những chỉ tranh thắng bại trên chiến trường lửa đạn mà còn kèn cựa hơn thua nhau trên các mặt trận ngoại giao, tuyên truyền..., còn rình rập nhau về mặt gián điệp tình báo... Liệu lúc đó lãnh tụ cầm đầu một phe như ông Hồ lại dám bất cẩn khơi khơi cỡi ngựa đi thăm bạn, không e ngại trở thành mục tiêu của máy bay địch hay làm mồi cho biệt kích tình báo địch hay sao ? Vào thời điểm này , bộ đội cộng sản mỗi khi chuyển quân, tiếp vận đều phải ngụy trang kỹ , lắm lúc chỉ di chuyển ban đêm ẩn núp ban ngày , lẽ nào các cán bộ lớn nhỏ của "Ðảng" lại tĩnh bơ để "Bác" của họ thong dong cỡi ngựa đi trăm dặm thăm bạn và tìm thi hứng ! Giữa lúc tình hình đang đi vào giai đoạn gay cấn về mọi mặt , ông Hồ là người đứng đầu một phe phải bận lo nghĩ trăm bề , làm sao có thể thảnh thơi nhàn hạ đi tìm thăm bạn ! Ông Hồ là lãnh tụ , là chúa còn ông Giáp là cán bộ, là bề tôi. Ông Giáp lúc đó đang điều binh khiển tướng nghĩa là đang thi hành quân vụ , ông Hồ đi thăm ông Giáp tức là đi thị sát mặt trận , theo lẽ và theo luật ông Giáp có nhiệm vụ phải nghênh đón , phải tích cực bố trí an ninh tối đa cẩn mật để bảo vệ ông Hồ , phải lo trình diện để phúc trình , báo cáo , nhận chỉ thị... đâu lại dám vắng mặt khơi khơi , khiến cho ông Hồ đành thong dong rong vó ngựa ra về một cách thảnh thơi để mà thơ thẩn ngắm nhìn hoa lá rồi tức cảnh làm thơ ! Và, phải chăng ông Hồ ra về cô đơn lẻ loi một mình nên tuyệt tác "Tầm hữu vị ngộ" không có ai ghi chép, bảo quản đến nỗi bị thất lạc, mãi tới 36 năm sau mới được phát hiện mà cũng chẳng thấy nói rõ được phát hiện cách nào , ở nơi đâu và vào cơ hội nào ? Ðối với ông Hồ , ông Giáp chỉ là một thuộc cấp phụ trách mặt quân sự thường được ông gọi bằng chú tức "chú em", không phải là bằng hữu ngang vai vế để ông Hồ cần phải "bách lý tầm quân" . Trong hệ thống cộng sản đẳng cấp được phân định rõ ràng , làm gì có chuyện "chú Giáp" ngang vai vế với "bác Hồ" , "chú" chỉ là một đồng chí thuộc cấp của "bác" mà thôi . Bình sinh ông Hồ là người rất tự tôn , đôi khi kiêu ngạo dám tự xem mình như đồng trang lứa với tiền nhân một các khiếm lễ . Cứ tính trung bình một thế kỷ có ba thế hệ thì Ðức Thánh Trần (thế kỷ XIII) ít lắm phải cùng thời với cụ tổ mười tám đời trước của ông Hồ , thế mà ông ấy dám nghênh ngang xưng hô với Ngài bằng bác tôi , tôi bác : Bác anh hùng , tôi cũng anh hùng Cũng bậc râu mày , cũng kiếm cung . Bác đuổi quân Nguyên vung kiếm bạc , Tôi trừ giặc Pháp phất cờ hồng ... (5) Vậy thì nói chi tới Võ nguyên Giáp , làm sao có được ví trí bình đẳng với ông Hồ đến độ ông ấy phải "tầm quân vị ngộ quân". Thông thường sau khi hoàn tất một bài thơ , tác giả ghi bút hiệu hay tên thật ở dưới , đôi khi có chua thêm ngày tháng và nơi sáng tác . Chỉ khi nào làm thơ tặng ai mới có lời đề tặng và chữ ký . Trường hợp nếu ông Hồ vì thận trọng , lo ngại có kẻ khác sang đoạt thơ của mình nên cẩn thận ký tên để bảo chứng tác quyền thì ông chỉ có thể ký ở nguyên bản sau khi hoàn tất, ông cũng có thể ký ở các bản sao chép lại nhưng chỉ trong thời gian ông còn tại thế mà thôi . Ðằng này trong hợp tuyển "Quốc Học trường tôi" ,bài thơ "Tầm hữu vị ngộ" ở các trang 72,73 rõ ràng được trình bày thực hiện ấn loát cùng một lúc với 99 bài thơ khác , có cùng y một loại chữ , một cỡ chữ, một kiểu phối trí nghĩa là tất cả cùng đều được thực hiện vào năm ấn hành 1996 thì làm sao ông Hồ có thể cầm bút tự tay ký tên mình vào cuối trang thơ khi ông đã qua đời từ năm 1969 . Rõ ràng có bàn tay của một kẻ khác đã lá lay ký giùm "bác" hoặc cắt xén chữ ký của "bác" từ một tài liệu nào đó (chẳng hạn một huân chương , một bức ảnh , một chỉ thị...) đem ráp ghép vào dưới bài thơ, nghĩ rằng như thế là có thể giúp "bác" phần nào trong việc hợp thức hóa ngôi vị "danh nhân văn hóa". Ðây là một nghi án về thi ca mà những ai yêu chuộng lẽ phải và sự thật cần phải lên tiếng hầu ngăn chận tình trạng "đem râu ông nọ cắm cầm bà kia" trong lĩnh vực văn học . Ðể câu chuyện được sáng tỏ, để biết ai thực sự là tác giả của bài thơ trên (mà nhất định không phải là ông Hồ) , rất mong được sự tiếp tay của mọi giới thức giả , nhất là những vị đang có trong tay những tài liệu bằng chứng liên hệ . Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ Chú thích: (1)-Sổ tay văn hóa Việt Nam , Phần I-Ðất nước và con người , trang 9 . Trương Chính và Ðặng đức Siêu soạn , Nhà Xuất Bản Văn Hóa Hà Nội 1978 . Thơ không có đầu đe à, chỉ thấy tài liệu ghi "Hồ Chủ Tịch có bốn câu thơ " . (2)-Nghĩ cạnh dòng thơ của Chế Lan Viên , tr 174 , Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội , 1981. Theo tài liệu này , ông Hồ viết bài thơ năm 1927, dưới bí danh Thầu Chin ở Xiêm . (3)-Nghĩ cạnh dòng thơ của Chế Lan Viên , tr 175, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội , 1981. Theo tài liệu này năm 1940 " bài thơ ấy ông Trần-tên Bác lúc bấy giờ-làm theo lời vợ đồng chí Trịnh Ðông Hải gửi cho chồng làm công nhân ở Vân Nam ". (4)-Người xa Huế , nhiều tác giả, tr 22 (bài viết : Nguyễn Tuân với Huế của Ðoàn Minh Tuấn), Nhà Xuất Bản Trẻ, 1999 . (5)-Ngẫu hứng vào dịp viếng đền thờ Ðức Thánh Trần, khoảng đầu thập niên 50 .
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:27:12 GMT 9
Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh Nguyễn Minh Cần
--------------------------------------------------------------------------------
(Lời giới thiệu - VNN) Ông Nguyễn Minh Cần, sinh năm 1928, tham gia kháng chiến trước tháng 8-1945 khi còn học sinh ở Huế. Năm 1946, ông là đảng viên Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, và hoạt động ở Thừa Thiên với chức vụ Uỷ viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên. Sau đó, ông hoạt động bí mật tại Hà Nội từ năm 1951. Từ tháng 10/1954 đến 1962, ông là Uỷ viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Chủ nhiệm báo Thủ Ðô Hà Nộị Năm 1962, ông được cử đi học ở trường Ðảng Cao Cấp ở Liên Xô. Do bất đồng những chính sách cai trị của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), ông bị khủng bố về tư tưởng nên đã thoát ly khỏi đảng năm 1964; trong khi đó đảng CSVN ra lệnh bắt giam nhiều sĩ quan, cán bộ đảng ở Việt Nam trong cái gọi là "Vụ án xét lại chống đảng". Từ đó, ông xin cư trú chính trị ở Nga cho đến ngày hôm naỵ Sau hơn 30 năm sau, ông Nguyễn Minh Cần mới có cơ hội kể lại những gì đã trôi qua trong khoảng đời đen tối của ông và nhiều cựu đảng viên khác. Sau đây là một trong những bài viết mới nhất của ông, nhằm vạch mặt những tên lãnh đạo cộng sản lưu manh, tàn ác, trong đó có Hồ Chí Minh. VNN xin chân thành cảm ơn tạp chí Thế Kỷ 21 đã cho phép sử dụng bài viết này và xin mời qúy vị theo dõi...
*****
Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà -- như lời giải thích miệng "từ Trên," khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người." Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"
Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mớI ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là... ông Hồ Chí Minh. Thế nhưng báo chí chính thức ở Việt Nam cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c...". Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" cộng sản, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu thế là Stalin và Hồ Chí Minh. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấỵ.." (trích sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!
Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lại, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. Ðó là tấm gương để đời! Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình." Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử. Ðấy là một ý kiến haỵ Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?" Hay là đoạn nói về thời gian "khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi," thế mà cậu bé 15 tuổI ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân Việt Nam muôn ngườI như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đốI với vị Cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu."
Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức chân dung của ông Hồ Chí Minh nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lại là không "phịa"? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5 cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi).
"Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở Việt Nam, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.
Một án mạng xe cán.
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoàI nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Uỷ ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Uỷ ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo vớI mình. Tôi im lặng chờ đợị Qốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh ạ, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán ngườị.." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong rồi." Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.
Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ," tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại -chống đảng," đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lại một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Ðình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân...". Tôi đáp lại: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!". Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà." Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tại đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật...".
Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên ngườI Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nộị Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tại đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối," và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.
Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề nàỵ Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tàI liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửI ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư ÐCSVN, ông Phạm Văn Ðồng, Chủ tịch HÐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HÐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hại nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tàI liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.
Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: "Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NgaiI Vàng Của Các Ngàị Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ Hồ Chí Minh này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôị" (đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:28:08 GMT 9
Vụ cô Phương Mai.
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện, đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ Chân Lý và chống lại điều ác được? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị em trong nước và được tàI liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kiạ Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận," năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồI trong bài "Viết cho Ðào Duy Tùng." Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký "Ðêm Giữa Ban Ngày" của anh. Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi kể lại chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lại có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng," v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực... "không bị đứt đầụ" Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy hiểm. Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậỵ Hôm đó, sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lại ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Ðang nóI chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong." Trần Vỹ nóI tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: "Sạch nước cản... thế mà tướng Nguyễn Sơn lại chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì!" Cả ba cùng cười, rồi Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà... Bác và các anh (ý nói Bộ chính trị) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn."
Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lý" được điều hòa thì tốt cho sức khỏẹ Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phảỉ có hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.
Cô Xuân bị giết như thế nào?
Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Ðược mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần Ðăng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là để phục vụ Bác Hồ." Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Ðệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
"Em có nhiệm vụ bế cháu," đấy là lời Vàng kể lại cho ngườI chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đâỵ Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết." Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước." Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôị" Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái"....
Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lý. Nhưng phải được Bộ chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữạ.. Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô ở đây có nhiều ngườI lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâụ Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng công an nói dối? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị".
Ðến ngày 11 tháng 2 năm 1957, vào bảy giờ tối, một chiếc xe Com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xẹ Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt bế, lên xe công an vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc....
IÕt lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết vụ bê bối nàỵ Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. - Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tại bệnh viện Hòa An".
Ðây là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng. Ðến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Ðệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở Hoàng Bồ. Ðược tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lâỵ Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành ngậm hờn chờ chết... ".
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:28:45 GMT 9
Những câu hỏi về Hồ Chí Minh....
Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói:
1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lại lấy vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Ðông, hay đi hoang, rồi có con vớI người khác, như trường hợp Karl Marx, (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, chí ít là một con người siêu phàm, không vợ không con... thì càng thêm uy tín chính trị. Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. Ðấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đốI với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nóI sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấỵ Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó.
2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cáI "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân," ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôị Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi ký "Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của Lý Chí Tuy). Mồm ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơị Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi:
a. Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tại sao ông lại không để cô ở chung tại ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách) là nhà của công an, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi. Trong những năm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậỵ Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng, cơ mà!
b. Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, Bộ chính trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ý, Vũ Kỳ đã (chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ý) đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! - đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được?
3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ý nói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lý, nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao," không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong Bộ chính trị. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết!
4) Còn có nhiều điều khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối vớI cô Xuân? Dù cô không phải là vợ chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ, cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế? Hay là y đã biết một quyết định nào đó... về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời," trước sau rồi cô cũng chết?
Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những ngườI lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ý nghĩa gì? Có đúng là do bộ trưởng công an mớm cho ông hay không? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không? Trách nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương đảng, của Bộ công an, của Trần Quốc Hoàn trong việc này như thế nào? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957), cũng như từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau đến thế? Ðiều đó có ý nghĩa gì? Vân vân và vân vân... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ý, góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa tộỉ Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo vớI lòng dạ bất lương?.. Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch Sử cân lượng, phán xét, Lịch Sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòạ Ý muốn nhỏ nhoi đã được nóI ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện," qua đó người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.
Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi ký, và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi ký anh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán Việt Nam tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm." Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ký của anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rờI khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để... bưng bít sự thật.
Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch Sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công Lý đòi hỏi như thế!
Nguyễn Minh Cần
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:30:22 GMT 9
Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh (Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)
--------------------------------------------------------------------------------
Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983. Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi xắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.
Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghẹ Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:
Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.
Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con traị Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rôØi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.
Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.
Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.
Chị xô nó ra nói:
“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.
Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.
Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.
Chị ngồi xụp xuống ghế nói:
“Anh cứ bắn đi”.
Nó cười khì khì :
"Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác".
Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.
Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết“.
Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? Phẩm tiên đã đến tay phàm, thì vin cành quýt cho cam sự đời.
Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.
Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái “.
Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:
"Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.
Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô" .
Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mâỵ Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.
Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.
Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.
Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.
Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”.
Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.
Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.
Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.
Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.
Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.
Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.
Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Min h, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.
Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:
1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.
2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.
3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêụ Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thaọ Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.
Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.
Vợ chồng Nguyễn thị Vàng
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 13, 2006 9:33:29 GMT 9
Thơ Bút Tre
--------------------------------------------------------------------------------
Thơ Bút Tre là một loại thơ lục bát gồm có hai câu của Ðặng văn Ðáng. Ông sinh ngày 23-8-1911, quê quán tại xã Ðồng Lương, huyện Sông Thao tỉnh Vĩnh Phú. Ðặng văn Ðáng đã từng giữ chức Bí Thư Bộ Ngoại Giao CS năm 1956. Năm 1960, Ðáng giữ chức Trươœng Phòng Thông Tin Văn Hóa tỉnh Phú Thọ, ông mất ngày 18-5-1987. Thơ Bút Tre của Ðáng đã được loan truyền rộng rãi khắp nơi vì tính chất ngô nghê, ngớ ngẩn khiến người đọc muốn hiểu sao thì hiểu. Ra tới hải ngoại Thơ Bút Tre đã được nhiều cây viết hưởng ứng nồng nhiệt để đả phá các lãnh tụ CSVN và bè lũ tay sai của chúng.
Chúng tôi xin sao lục lại nơi đây để chúng ta cùng đọc. Có gì thiếu sót xin quý vị và các tác giả bổ sung cho.
-------------------------------------------------------------------------------- Nếu đời không Nguyễn Sinh Cung Dân đâu phải đọa Hồ Khùng Chính Mi! Ðảng ta chọn tướng họ Lê Ðức Anh thất đức nên bê lên ngồi
Liên bang Xô Viết vỡ rồi Văng Linh, văng Kiệt, Ðỗ Mười văng luôn
Nước ta bầu cử tự do Lọc qua, lừa lại toàn lò Mác Lê
Bác khiêm tốn nhất trần gian Nếu không cứ hỏi Trần Dân Tiên còi
Không đi không biết Tam Ðao Ði thì không biết nơi nào mà ngu.
Trung ương chỉ thị ba cùng Ðảng viên phải bám quần chùng nhân dân.
Vì Ðảng xây dựng trong quần Chúng nên Ðảng được nhân dân thương yều
Ðảng ta đã có truyền thông Sống và chiến đấu ở trong quần chùng
Bác Hồ là lão già dê Lấy Minh Khai, vợ cuả Lê Hồng Phòng
Bác Hồ lấy vợ cuả đồng Chí Lê Hồng Phòng là chị Minh Khai
Tin đâu như sét đánh ngang Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Tin đâu như sét đánh gần Bác Hồ đang sống từ trần chuyển sang
Bác Hồ thuở học chữ Nho Cùng đèn cùng sách cùng lò Bác Tôn
Bác Hồ thuở nhỏ bồi Tây Về già Bác lại đu giây Nga Tàu.
Cuộc đời cách mạng Bác Hồ Nâng bi cụ Mác bưng bô cụ Mào
Việt kiều ai thấy có kinh... Nghiệm về xây dựng nước mình thành rông
Ðảng viên nhiệm vụ được giao- Hợp với cán bộ đi đào xác My
Bác Hồ nằm giữa hòm kinh- Nguyệt soi chẳng thấy tức mình chùi ra Ngoài quần chúng ngỡ là ma- Cô đi dắt mối hóa ra Bác Hồ
Ðảo kinh là cái đỉnh cao Trí tuệ nên đảng hô hào văn minh Ðảng viên cán bộ thất... kinh Văn minh cho lắm vẫn mình cán ngô
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp ta thắng trận Ðiện Biên lẫy lừng.
Hoan hô đồng chí Sít Ta Lin Ða hở rốn hóa ra Trang Ðài
Anh đi công tác Pờ Lây Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
Thương thay thủ tướng Võ Văn Kiệt sức, kiệt lực chết lăn giữa giường!
Chị em du kích giỏi thay Bắn máy bay Mỹ rớt ngay cửa mình
Rằng nghe một chuyện đứng tim Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm chim thằng Tầu
Tin buồn noan báo trên đài Xe tăng bác nái nật hai ba nần!
Tin thua như sét đánh ngang Làm Bác chết cứng, lúc đang cởi quần
Hôm qua còn sống sờ sờ Mà nay bác đã cứng đơ cái mình
Hôm nay vui sướng làm sao Anh Ga Ga Rỉn bay vào vũ tru
Mừng ngày mùng sáu tháng ba Chị em phụ nữ chúng ta vung lền!
Chị Bình đón Bác dưới mưa Chị thấy Bác ướt bèn đưa cái nòn!
Vào thăm lăng Bác âm u Các chị bộ đội ngã mu ra chào!
Ngồi câu chẳng thấy cá ăn Buồn tình nhổ ít lông măng Bác Hồ
Khôn hồn thả cải tạo ra Kẻo Ngụy trở lại chết cha Ðỗ Mười
Tổ cha cái bọn đười ươi Ðỗ Tám, Ðỗ Chín, Ðỗ Mười ăn... "biu"
Hoan hô đồng chí Goóc Ba| Chớp được chị vợ đàn bà Liên xô
Trạch Dân có họ Giang mai Này dân Trung Quốc đói dài vì ông
Ðỗ Mười sang lạy Trung Hoa Kính dâng quần đao Trường Sa cho Tầu
Nghe tin đồng chí Võ Văn Kiệt quệ cổ võ xin ăn láng giềng.
Ðồng chí tham quan Tân Gia Ba chân kiềng gẫy, ối Nga, ối Tầu! Ðỗ Mười ở lại càu nhàu, Kiềng ba chân gẫy, ối Tầu, ối Nga!
Giỏi a! Ðồng chí Ðỗ Mười Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư.
Anh mò địa đạo Củ Chi Củ chi là cái củ gì? Củ anh?!
Thương nhớ bác Hồ Chí Minh Dán hình bác trước cửa mình... khỏi quên!
Bác Hồ sống rất thanh đàm Heo gà dâng đến bác làm sạch trơn!
Chị Ðịnh khen bác khiêm tồn, Bác Hồ cảm động rờ ... chị Ðinh
Mỗi khi muốn hút thuốc ngon Bác kêu chị Ðịnh giở nòn chị ra.
Mỗi khi buồn bực trong lòng Bác kêu chị Ðịnh chổng mông bác nhìn!
Bác Hồ có một con chim Bác nhờ chị Ðịnh đi tìm cái lông.
Bác Hồ làm sổng con chim Chị Bình hộc tốc đưa chim của mình
Bác Hồ có một con cu Ðứa nào động đến đi tù mọt gông
Trên đường kháng chiến gian khồ Có con cu của bác Hồ cũng vui
Nửa đêm trăn trở nửa đêm Bác lần ra cửa mò chim chị Bình
Ở trong địa đạo âm u Bác mò mẫm kiếm cái mu chị Sàu
Máy bay bom thả ù ù Bác đút đầu bác vào mu chị Sàu!
Vừa chui ra khỏi địa đào Bác Hồ liền giúp chị Sàu mặc quân
Thấy chị Sáu đứng ngờ ngờ Giữa trưa nắng cực... bác rờ cái cây!
Mỗi khi đi ỉa ngoài đồng Sẵn hột giống, bác liền trồng vào ngay.
Thú vui của bác tầm thường Thích nhìn sơn nữ trần truồng tắm suôi
Hoảng hồn chủ tịch Goóc Ba Chớp ngay đồng chí Rai-sà phu nhân
Ðỗ Mười đấm ngực kêu trời Lênin ngã xuống không lời trối trăn.
Nếu theo chân bốn con rồng Ðảng ta phải dẹp hai ông Mác Lề
Ðảng thờ Lê, Mác quang vinh Ðẩy cho Tổ Quốc xuống sình cũng vui.
Hoan hô đồng chí Goóc Ba Chớp chơi dữ, đảng tan ra tức thì
Hạ cờ máu ở Mút Cu Lộn liềm, rớt búa, sao lu hết trờn
Mác Lê, Nga đã phóng uê Việt cộng đớp lấy nhất tề vùng lên
Ðầu cộng đã ngỏm cù ti Cái đuôi còn vẫn ngu si làm càn
Ðuôi cộng rồi cũng sẽ tan Việt, Cu Ba, Tẫu, Bắc Hàn đi đoong!
Liên Bang Sô Viết vỡ rồi Văng Linh, văng Kiệt... Ðỗ Mười văng luôn
Bốn anh nghèo xác, nghèo xơ Khấu đầu van lạy ăn nhơ Hoa Kỳ
Lãnh tụ học hết lớp ba Ðỉnh cao trí tuệ đảng ta thiệt giòi!
Cái tình hữu nghị Việt Trung Bền chặt như sợi giây thung cột quần
Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc Ðẻ con rắn mắc tên là Sinh Cung
Bác Hồ thuở nhỏ chăn trâu Lớn lên chơi dại bị Tầu bắt giam
Bác Hồ khoe bác có kinh Nghiệm trong sử sách có mình bác thôi!
Tổ sư là bác Lê Nin Cũng là sư tổ linh tinh hại đời
Trách ai sinh thứ họ Hồ Ðể cho cả nước như đồ vất đi
Chị Bình với lại chị Ðinh Hai chị đều khoái bác Hình Chí Mô
Nước ta bầu cử tự do Lọc qua, lừa lại toàn lò Mác Lê
Ðaœng ta chọn tướng họ Lê Ðức Anh thất đức nên bê lên ngồi
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tầu
Hẩu lớ! Ðồng chí Phạm văn Ðồng lòng cùng bác bán phăng cõi bờ
"Dọn đường về nước" ai ơi Nhớ vác máy "fax" thư rơi đều đều
Bác đi công tác Ban Mê Thuột xong một cái lại về hang ngay
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2009 6:21:30 GMT 9
Chia tay người của “Nếp cũ” TT - Tôi biết không thật nhiều về cụ Toan Ánh nhưng cũng như không ít người khác, vẫn luôn luôn quý cụ ở tuổi tác và về những gì cụ đã đóng góp rất đáng kể cho sự tìm hiểu về phong tục, tập quán và con người Việt Nam. Tháng 5-2004, NXB Trẻ ký hợp đồng mua tác quyền toàn bộ tác phẩm của cụ Toan Ánh (ảnh) trong thời hạn đến năm 2015. Từ đó đến nay đã có gần 20 tác phẩm của cụ được in lại một cách có hệ thống theo hình thức Toan Ánh toàn tập - Ảnh: L.Điền Chúng tôi còn quý cụ ở một số đức tính khác: hiền lành và khiêm tốn, chuyên cần tự học, làm việc âm thầm, nhẫn nại và theo đuổi chí hướng đến cùng trong việc tìm hiểu để ghi lại một cách có hệ thống tất cả những gì có liên quan đến phong tục, nếp sống của người Việt Nam từ gia đình đến ngoài xã hội. Nhà văn Toan Ánh từ trần Nhà văn Toan Ánh đã trút hơi thở cuối cùng giã từ học giới VN lúc 23g50 ngày 14-5 sau hơn 10 ngày nằm bệnh tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Sinh năm 1915 tại Thị Cầu, Bắc Ninh, nhà văn Toan Ánh, tên thật là Nguyễn Văn Toán, bắt đầu viết văn từ năm 1934. Ông gắn bó mật thiết với đề tài văn hóa truyền thống của VN từ nông thôn đến thành thị, từ Bắc vào Nam và để lại cho đời khoảng 124 tác phẩm có giá trị học thuật. Bạn đọc vẫn nhớ đến nhà văn Toan Ánh với các tác phẩm: Nếp cũ gồm 11 cuốn, Việt Nam chí lược, tập truyện Trong lũy tre xanh (1957) phê phán hủ tục làng quê, Phong lưu đồng ruộng (1958), Bó hoa Bắc Việt (1958), Tiết tháo một thời (1957). Linh cữu nhà văn Toan Ánh hiện đang quàn ở nhà riêng tại 20/302C Phan Huy Ích, P.12, Q.Gò Vấp, TP.HCM. Lễ viếng bắt đầu lúc 8g ngày 16-5, lễ động quan lúc 8g ngày 19-5, sau đó đưa đi hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa. LAM ĐIỂN Nối tiếp một số cụ tiền bối như Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố, Chu Thiên..., nhà văn Toan Ánh bắt đầu khuynh hướng viết tiểu thuyết phong tục của mình từ năm 1957 với truyện ngắn Trong lũy tre xanh, và mấy bộ tiểu thuyết cùng loại đề tài sau đó như Ký vãng (1958), Nếp xưa (1962)... Nếp xưa là một tiểu thuyết tài hoa và đầy sức hấp dẫn mà vẫn đảm bảo được tính học thuật nghiêm túc, kết tinh từ năng khiếu quan sát, ghi nhận cuộc sống ở khía cạnh phong tục, nếp sống xưa và thủ pháp thể hiện sinh động của tác giả. Ấy là vì cụ Toan Ánh đã sống hết mình trong không gian cụ từng hít thở, trải nghiệm từ khi bắt đầu lớn khôn đến lúc thâm nhập cuộc sống với một lòng thiết tha yêu đời, yêu người và cảm nhận chân thành về quê hương xứ sở. Không giới hạn trong phạm vi tiểu thuyết, từ cuối những năm 1950 nhà văn Toan Ánh kiên trì biên khảo về phong tục, tập quán, với khởi đầu là quyển Phong lưu đồng ruộng kể lại sinh động những thú vui tao nhã của người Việt ở nông thôn miền Bắc. Sau đó ông ngày càng mở rộng đề tài với bộ sách tiêu biểu lấy tên chung "Nếp cũ", bao gồm một loạt chủ đề mang tính hệ thống liên quan đến mọi khía cạnh sinh hoạt của đất nước: Hội hè đình đám (1970), Tín ngưỡng Việt Nam (1971), Con người Việt Nam (1972), Làng xóm Việt Nam (1978), Tiêu khiển Việt Nam (năm quyển cho năm đề tài khác nhau từ 1978-1996)... Ngoài ra còn có Cầm ca Việt Nam (1974), Trang sức Việt Nam (1996)... Ðó là những đóng góp quan trọng cho kho kiến thức văn hóa Việt cũng là một phần của Việt Nam học. Cụ Toan Ánh nổi bật trong số không nhiều người viết về phong tục Việt Nam từ xưa đến nay bởi cụ đã tập trung cả cuộc đời mình vào một công việc chuyên nhất ấy. Những công trình của cụ như nhịp dẫn đưa thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay trở về tìm hiểu nếp xưa của ông bà mình, tìm về nguồn cội với một hệ thống kiến thức cần tham khảo để vận dụng cho đời sống hiện tại. Thượng thọ ở tuổi 94, cụ Toan Ánh ngồi chung chiếu với những người xưa nay cực quý hiếm, bản thân cụ với tuổi đời như thế đã là đáng quý lắm rồi. Nhiều nhà văn, nhà giáo, nhà hoạt động văn hóa cùng thế hệ và là bạn bè của cụ cũng đã lần lượt qua đời trước đó, như Nguyễn Hiến Lê, Vương Hồng Sển, Giản Chi, Bàng Bá Lân, Sơn Nam... để lại cho cụ một tuổi già khá cô đơn và buồn bã, mặc dù cụ vẫn luôn được con cháu chăm sóc một cách tận tình, chí hiếu. Cuối đời, với việc được Nhà xuất bản Trẻ tổ chức in lại một số tác phẩm biên khảo tiêu biểu về phong tục, theo một hợp đồng có tính hỗ trợ, nhiều người quen biết trông thấy cụ vui lắm và cụ đã không giấu được một nỗi tự hào thật xứng đáng mà cũng thật dễ thương, mỗi khi nhắc nhớ lại những việc mình đã làm được cho đời. Cụ Toan Ánh mất đi nhưng những kiến thức cụ thu thập ghi chép được vẫn còn đó, với trên 120 tác phẩm đủ loại, chắc chắn sẽ trở thành một kho tư liệu tham khảo rất quý dành lại cho những thế hệ mai sau. TRẦN VĂN CHÁNH Các tin khác Nhà văn Toan Ánh từ trần - (15/05) Trao giải thưởng văn học nghệ thuật thủ đô năm 2008 cho Thơ Trần Dần - (14/05) Cuộc thi thơ Bút Mới lần 8 - “Tôi đi tìm tôi” - (10/05) Vị của lá nho - (10/05) Tác giả "No country for old men" thắng giải văn học PEN - (08/05) Trần Dần thơ được trao giải thưởng Văn học - nghệ thuật thủ đô - (08/05) Vĩnh biệt nhà thơ Phạm Phú Hải - (07/05) Phát hiện hơn 20 bức tranh của Bùi Giáng - (06/05) Buổi trưa nước sôi - (03/05) Tác giả Edgar Allan Poe được đặt tên quảng trường - (28/04) *************************** Văn học Thứ Năm, 24/06/2004, 21:18 (GMT+7) Nhà văn Toan Ánh: Gìn giữ nét đẹp truyền thống dân tộc Nhà văn Toan Ánh Hơn nửa thế kỷ nhà văn Toan Ánh chăm chú ghi nhận, khám phá rồi cặm cụi ghi lại tỉ mỉ những phong tục tập quán, lề thói dân gian, lễ hội đình đám, tín ngưỡng, địa dư chí, ca dao... của từng vùng miền trên dải đất VN với tâm huyết: làm sao để những nét đẹp truyền thống của dân tộc không bị mai một và những thế hệ kế thừa vẫn gìn giữ, tiếp nối thuần phong mỹ tục. Toan Ánh tên thật là Nguyễn Văn Toán, sinh năm 1914, tại Đáp Cầu (Bắc Ninh). Thuở nhỏ ông thường được bố công kênh đi thăm các lễ hội quanh vùng; được mẹ, ngày đi bán hàng xáo, tối về vừa xay gạo vừa dạy chữ Hán và đạo làm người cho con; được thọ giáo với thầy đồ Chu Phượng Nghi nổi tiếng vùng Kinh Bắc. Chính vì thế mà những chi tiết về tập tục, lễ hội và cả những khuôn phép đạo lý phương Đông đã thấm nhuần trong ông. Lúc trưởng thành, làm nhiều công việc khác nhau (thuế vụ, thanh tra, quản thủ thư viện, dạy học...), việc luôn thay đổi nhiệm sở đã đưa ông đến nhiều vùng của đất nước. Đến đâu ông cũng chú tâm tìm hiểu tập quán, hội hè, ca dao... và ghi chép lại một cách rất cẩn thận (thế nhưng tác phẩm đầu tay của ông lại là một truyện ngắn: Chiếc nhẫn quý in trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1935)... * Cuối tháng 5-2004 NXB Trẻ đã ký hợp đồng xuất bản tác phẩm của cụ. Xin cụ cho biết chi tiết bản hợp đồng này? - Trước đây sách của tôi cũng đã được xuất bản lẻ tẻ ở các NXB: Nam Chi tùng thư, Lá Bối, Khai Trí. Sau 1975 có các NXB TP.HCM, An Giang, Cà Mau, Văn Học, Thanh Niên, Phụ Nữ... in. Riêng với NXB Trẻ, chúng tôi ký Hợp đồng nhượng quyền có thời hạn để họ độc quyền xuất bản trên toàn quốc Toan Ánh toàn tập (gồm 124 tác phẩm đã in và chưa in) trong thời hạn 10 năm (2004-2015). Trong đó có nhiều bộ sách giá trị và quan trọng như bộ Nếp cũ gồm 11 cuốn, nói đầy đủ về vòng đời của một con người Việt Nam (từ lúc thai nghén, sinh ra, đi học, đi làm, lập gia đình, chết, cải táng v.v..., đã in 6 cuốn). Bộ Việt Nam chí lược gồm 5 cuốn mới in được 3: Người Việt đất Việt, Miền Bắc khai nguyên, Cao nguyên miền thượng (2 cuốn còn lại là: Miền Trung kiên dũng, Miền Nam phú cường). Nếu tập truyện Trong lũy tre xanh (viết năm 1957) phê phán hủ tục làng quê thì Phong lưu đồng ruộng (1958) ca tụng nét đẹp của đời sống tinh thần nơi thôn xóm. Nếu Bó hoa Bắc Việt (1958) đề cao phẩm chất hiền thục, đảm đang của người phụ nữ VN thì Tiết tháo một thời (1957) nêu gương khí phách của sĩ phu VN. Cuốn Hương nước hồn quê (1999) dùng những câu chuyện tình để giải thích ca dao. Lại có 2 tập truyện ngắn khá thú vị là Những truyện ăn trộm và Nghệ thuật bắt trộm, rồi Cầm ca Việt Nam, Hồn muôn năm cũ, Trong họ ngoài làng, Ta về ta tắm ao ta... * Ở cái tuổi đại thọ như cụ, điều gì cụ đã hài lòng và còn điều gì khiến cụ băn khoăn? - Nói gần thôi nhé, điều hài lòng là lúc cuối đời cũng đã tìm được nơi để ký gởi toàn bộ tác phẩm của mình bởi đã nhiều năm rồi cứ ngồi nhìn chồng bản thảo chưa in mà... thở dài. Băn khoăn là xã hội VN thay đổi quá nhanh, những nét đẹp truyền thống ngày mỗi mai một trong khi đó lại du nhập nhiều thói quen sinh hoạt theo ngoại quốc, nhưng lại không chắt lọc những cái tốt mà lại thu nhận cả những điều xấu. Theo TN
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:26:05 GMT 9
Lối sống người Hà Nội qua ba thế hệ một gia đình trí thức
Hoàng Hưng I. Hạn định khái niệm Lối sống “Người Hà Nội” trong bài này 1/ Tôi muốn nói về lối sống một thời của “Người Hà Nội” mà người ta thường nhắc đến như “người Tràng An”, với “thanh lịch” là nét đẹp nổi bật của nó. Tôi cho đó là lối sống định hình trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, từ khi Pháp đặt xong nền móng hành chính, giáo dục của chế độ thuộc địa cho đến trước cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954. 2/ Lối sống ấy hình thành trong điều kiện xã hội tương đối ổn định. Hà Nội đã thành hình rõ nét một đô thị hành chính, văn hoá, thương mại mang tính thuộc địa nhưng còn giữ được nhiều nét truyền thống và mối liên hệ chặt chẽ với các làng xã. Thành phần dân cư gồm chủ yếu là tiểu tư sản thành thị: tiểu thương tiểu chủ, công chức viên chức, sinh viên học sinh. 3/ Lối sống ấy kết tinh văn hoá “Kinh kỳ” của giới nho sĩ và thương nhân “kẻ chợ” (tập trung tại “36 phố phường”) hoà với những yếu tố của văn minh Pháp được tiếp thu bởi trí thức Tây học và viên chức nhà nước bảo hộ (sự hoà hợp này diễn ra từ mỗi gia đình với sự nối tiếp của hai thế hệ). 4/ Lối sống ấy bị phá vỡ từng bước từ những năm 1960 với cuộc cải tạo tư sản và xây dựng “chủ nghĩa xã hội”, chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, sự phát triển hỗn loạn sau “đổi mới”, đến nay gần như đã bị thay thế bằng một lối sống hỗn tạp, còn lâu mới định hình; nhưng một số nét của nó còn in dấu bền bỉ trong những “người Hà Nội gốc” qua mọi thăng trầm. 5/ Có thể chia thành ba thời kỳ thành-trụ-hoại của lối sống ấy: (1) Cuối thế kỷ XIX-đầu TKXX là thế hệ khởi sự xây dựng nên lối sống, trong đó nếp sống truyền thống vẫn là chủ đạo. (2) Đầu thế kỷ XX-trước 1946 là thế hệ định hình lối sống, có sự cân bằng giữa những yếu tố truyền thống với những yếu tố Tây phương. (3) 1946-1975 là thế hệ níu giữ một số nét của lối sống ấy qua hai cuộc chiến. Sau 1975, đặc biệt từ khi “đổi mới”, lối sống “người Hà Nội” có thể coi như bị phá huỷ, do sự thay đổi triệt để về thành phần dân cư cùng với sự quá tải của hạ tầng đô thị (với sự áp đảo của dân mới nhập cư) và sự “thay bậc đổi ngôi” trong nội bộ dân Hà Nội (với sự giàu lên “trong một đêm” của một bộ phận dân cư). Trong khi đó, sau cuộc di dân lịch sử 1954, lối sống này được lưu giữ nhiều trong những người Hà Nội “lưu vong” (vào Sài Gòn, rồi qua Pháp, Mỹ). 6/ Lối sống ấy không chỉ toàn ưu điểm theo con mắt “hoài cổ” (cái gì đã mất bao giờ cũng đẹp); cần có cái nhìn khách quan và đối chứng (với lối sống của các đô thị như Huế, Sài Gòn cùng thời, và lối sống của người Hà Nội hiện nay) để nhận ra những hay dở của nó. Những nhận xét trên xin được thẩm định bởi các nhà xã hội học, văn hoá học, nhân học với các công trình đi sâu nghiên cứu của họ. Dưới đây tôi gợi ra một số nét mà mình được biết và trực tiếp quan sát qua thực tế đời sống ba thế hệ của gia tộc bản thân, một gia tộc trí thức ở Hà Nội trong suốt thế kỷ XX. Có thể coi đó là chút tư liệu sống cho các nhà nghiên cứu. II. Một số nét về lối sống của gia tộc Hoàng Thuỵ ở Hà Nội qua ba thế hệ trong suốt thế kỷ XX 1/ Thế hệ thứ nhất (sinh vào khoảng thập kỷ 1880): Đó là thế hệ ông bà nội của tôi. Cụ ông là Hoàng Thuỵ Chi, quê gốc thôn Phù Lưu (Chợ Giàu, nay là khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn), phủ Từ Sơn (nay là thị xã Từ Sơn), Bắc Ninh, một làng đã đô thị hoá khá sớm, cách Hà Nội chỉ 19km. Đầu TK XX, trong khi làm quan Tổng đốc Bắc Giang, cụ đã bảo lãnh cho cụ bà vay tiền của Đông Dương Địa ốc Ngân hàng mua đất xây nhà ở Hà Nội. Ngôi biệt thự mang tên Villa Hoàng Thuỵ Chi ở 14 Đường Thành (rue de la Citadelle) có mặt bằng trên 1000 m2, hoàn thành năm 1926, và một dãy gồm mười mấy ngôi nhà phố kiểu Tây liền nhau ở phố Yết Kiêu (rue Bovet). Cụ Hoàng Thuỵ Chi (người thời đó quen gọi là Cụ Tuần Chi) giỏi Hán Nôm, là cử nhân trẻ nhất khoá thi 1900 (khi mới 19 tuổi), còn để lại nhiều biên khảo về văn hoá, địa dư (được lưu giữ trong Thư viện Hán Nôm). Cụ bà nhũ danh là Nguyễn Thị Hân, con gái một ông quan tri phủ sống ở phố Hàng Đào và cháu ngoại một vị quan đại thần sống ở phố Châu Long; cụ không biết chữ quốc ngữ, chỉ huy tính toán xây nhà toàn bằng bàn tính ta. Villa 14 Đường Thành của cụ Tuần Chi do KTS Hoàng Như Tiếp thuộc lứa KTS đầu tiên của VN thiết kế nhưng thể hiện rõ lối sống của chủ nhân: sinh hoạt tiện nghi kiểu Tây với thẩm mỹ trộn, lai Tây – Tàu: nhà 3 tầng tường bê-tông dày 40cm, bố trí phòng ốc kiểu nhà Tây, cổng trong bằng sắt trổ chữ Thọ, cổng ngoài có 2 cột mang đôi câu đối khảm mảnh sứ đỡ tấm hoành bê-tông trang trí cảnh sơn thuỷ kiểu Tàu với nhiều tượng sứ Tàu, mặt tiền nhà trang trí những miếng gốm màu hoa dây như ở Nhà Hát Lớn và các chữ triện Phúc Lộc Thọ, trong nhà có lò sưởi nhập từ Tây bằng cẩm thạch trắng, có bàn gỗ lim lớn kiểu Tây nhưng mặt bàn khảm 100 chữ Phúc Lộc Thọ các kiểu bằng đồng, có dàn cửa kính màu như trong nhà thờ Tây lại có cửa và bình phong gỗ khảm chữ nho, có bàn thờ đồ sộ sơn son thếp vàng truyền thống nhưng ảnh thờ là ảnh chụp in trên sứ, có bộ sưu tập đồ cổ bằng ngọc, sứ Tàu và trống đồng Lạc Việt... Cụ ông cụ bà và phần lớn các con ăn vận theo nam phục, chỉ có hai người con trai lớn học đại học Y và Luật thì mặc âu phục. Gia đình giữ nghiêm nếp nho phong, đáng chú ý là uy quyền và vai trò “nội tướng” của bà chính thất. Cụ ông có hai bà “thiếp” (“nàng hầu”) chỉ được các con bà chính thất gọi là “cô” và tên thì gọi bằng tên làng quê của các bà (cô Xuân, cô Vẽ). Các con được đặt tên một cách nôm na theo thứ tự ra đời (Ba, Tứ, Năm, Lục…). Việc hôn nhân của các con: vợ chính thất là do cha mẹ sắp đặt, những bà sau mà các ông con trai kết duyên một cách tự do không được các cụ công nhận chính thức, có thể cùng sống ở nơi khác nhưng không được đem về nhà. Tuy nhiên con cái của các bà này, đặc biệt là con trai, lại được các cụ yêu quý và đối xử bình đẳng như các con bà chính thất. Các cụ giữ quan hệ rất chặt chẽ với làng quê. Cụ Tuần Chi là nhà bảo trợ lớn của làng Phù Lưu, là người lát đá xanh toàn bộ đường làng, xây cổng làng, cổng đình, nhà thờ hương hiền, đồng thời xây cái lăng lớn với khuôn viên trên 3000 m2 cho gia tộc Hoàng Thuỵ kiêm luôn chức năng vườn hoa công cộng cho làng (những việc này được kể trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân). Người làng ra Hà Nội nhờ cậy mọi việc đều được giúp đỡ chu đáo. 2/ Thế hệ thứ hai (sinh vào thập kỷ đầu thế kỷ XX): Bố tôi, Hoàng Thuỵ Ba và chú ruột là Hoàng Thuỵ Năm, là thế hệ Tây học. Ông Hoàng Thuỵ Ba là một trong hai bác sĩ đầu tiên của trường Đại học Y Hà Nội (cùng với ông Đặng Vũ Lạc), hai năm cuối phải sang Pháp học để lấy bằng bác sĩ (1927), sau đó về nước làm quan chức trong ngành y tế. Ông Hoàng Thuỵ Năm học Luật, ra làm quan chức hành chính của chính quyền Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Tuy theo Tây học, trong quan hệ gia đình các ông vẫn giữ nếp gia phong truyền thống. Sự nghiệp công danh không lấn át bổn phận gia đình. Chữ Hiếu vẫn là đầu mọi sự. Ông Hoàng Thuỵ Ba đang giữ một chức vụ cao trong ngành y tế kháng chiến, nhưng khi bà mẹ sống trong “thành” (Hà Nội tạm chiếm) ốm nặng và gọi về, ông xin phép các cấp lãnh đạo đưa con cái về lại Hà Nội đề chăm sóc mẹ (sau khi “về thành”, để tỏ rõ thái độ chính trị, ông không nhận bất cứ chức vụ nào do chính quyền Bảo Đại sẵn lòng phong tặng mà chỉ mở bệnh viện tư; năm 1954, từ chối lời mời làm Tổng trưởng Y tế trong chính phủ mới lập của ông Ngô Đình Diệm, ông ở lại Hà Nội đón “Cụ Hồ”). Năm 1955, khi mẹ qua đời ở Sài Gòn, ông đã xin phép chính phủ VNDCCH vào Nam chịu tang mẹ - một sự kiện làm xôn xao người dân Hà Nội lúc ấy (nhưng cũng lại một lần nữa ông từ chối lời mời ở lại làm việc cho chính quyền Sài Gòn để trở ra Hà Nội). Đối với các bà vợ, nhất là bà chính thất mà cha mẹ sắp đặt cho, mặc dù không thuận, có thể ly thân, nhưng không ly hôn. Với con cái, mặc dù vợ nọ con kia, các ông luôn làm tròn bổn phận người cha là nuôi dưỡng cho ăn học, bảo đảm sự bình đẳng về mọi quyền lợi vật chất cho những người con các dòng. Tuy nhiên trong quan hệ hàng ngày, người cha luôn giữ khoảng cách, không gần gụi, hầu như không chuyện trò tâm sự với con cái, và để các con tự do đi theo con đường phát triển của chúng. Trước biến động ghê gớm của thời cuộc, từ đỉnh cao rơi xuống, nhưng thế hệ này có khả năng thích nghi với những thay đổi căn bản của điều kiện sinh hoạt, có khả năng chan hoà có mức độ với những tầng lớp khác nhưng vẫn giữ một cách thế riêng biệt, sự kín đáo riêng tư của đời sống gia đình, bản thân. Không ai hình dung nổi một “quan đốc” (docteur) quen đi xe hơi riêng, nhảy đầm, chơi mạt chược, tiệc tùng thường xuyên, nói tiếng Tây nhiều hơn tiếng Việt lại có thể sống ở nông thôn nhiều năm trong nhà nông dân trong 2 cuộc kháng chiến, hoặc ngày ngày đi ăn “cơm đầu gánh” (“cơm bụi”) ở chợ Hàng Da trong lúc các con phải đi sơ tán khỏi Hà Nội. Cũng thế, ông có thể sống chung hoà bình suốt mấy chục năm trời với mấy chục gia đình “cán bộ” mà ông phải chia sẻ ngôi biệt thự lớn của ông cha để lại. Nhưng khi quyền sở hữu của ông bị xâm phạm, ông lặng lẽ và kiên trì đấu tranh đến cùng để giành lại (vụ khiếu nại nổi tiếng của BS Hoàng Thuỵ Ba đòi lại 2 căn buồng cho một ông vụ trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao mượn, kéo dài 20 năm mới giải quyết được). Trong khi đó, ông Hoàng Thuỵ Năm cùng phần lớn thành viên gia tộc Hoàng Thuỵ vẫn giữ nếp sống cũ ở trong “thành” (Hà Nội 1946-1954) cũng như ở Sài Gòn (từ 1954). Khi sang châu Âu, tôi có nhận xét nếp sống này được duy trì một cách đáng kinh ngạc ở các thế hệ con cháu sống ở Pháp, Thuỵ Sĩ, Anh. Tuy đi theo hai con đường chính trị khác nhau, điểm chung nhất ở hai ông là tình nghĩa gia đình. Dựa vào tình cảm này, chính quyền Hà Nội giao cho BS Hoàng Thuỵ Ba làm trưởng ban đấu tranh thống nhất của HĐND thành phố, đề nghị ông thường xuyên viết thư thăm hỏi người em ở Sài Gòn thông qua phái đoàn quốc tế kiểm soát đình chiến (lúc đó ông Hoàng Thuỵ Năm làm trưởng đoàn liên lạc của chính quyền Sài Gòn tại Uỷ ban Kiểm soát). Cũng có thể nhận thấy một điểm chung khác là sự thanh bạch, chính trực (qua lời ông Trần Bạch Đằng kể về ông Năm trong cuốn “Ván bài lật ngửa), và uy tín xã hội của hai ông (qua đám tang của BS Hoàng Thuỵ Ba năm 1994 ở Hà Nội và đám tang Đại tá Hoàng Thuỵ Năm năm 1961 ở Sài Gòn). 3/ Thế hệ thứ ba (sinh vào những năm 1930-1940): Là thế hệ chúng tôi, những học sinh trung hoặc tiểu học thời Hà Nội tạm chiếm, tiếp thu nền giáo dục của “nhà trường xã hội chủ nghĩa” sau 1954; khi vào đời phải xa Hà Nội trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ (1965-1973), trở về Hà Nội và trở thành chủ gia đình ít lâu trước hoặc sau cuộc chiến. Trong thế hệ này, gia tộc Hoàng Thuỵ có một số tên tuổi như PGSTS Y khoa Hoàng Văn Sơn, Tổng thư ký Hội Sinh hoá Việt Nam; GSTS Y khoa Hoàng Văn Minh ngành lao - bệnh phổi; 1 nhà thơ – dịch giả. Có thể nói, lối sống của thế hệ “người Hà Nội” này bị biến chất, pha tạp rất nhiều do hoàn cảnh xã hội, chịu tác động của ba yếu tố lớn nhất là: lối sống tập thể (quân đội, bệnh viện, trường học là những nơi họ làm việc và sống trong khu tập thể), lối sống thời chiến và lối sống tiểu nông (do về nông thôn sống trong thời chiến). Tuy nhiên, họ còn lưu giữ, tuỳ mức độ theo hoàn cảnh và bản tính từng người, một số nét của “người Hà Nội xưa” mà họ được thấm nhuần trong thời thơ ấu qua giáo dục của nhà trường và gia đình. Họ cố gắng hoà đồng với lối sống của các đồng nghiệp có gốc từ nhiều địa phương khác nhau, nhưng vẫn nổi bật trong đó với những ứng xử văn hoá tinh tế hơn, ngược lại thường bị xem là khép kín hơn, “mở cửa sổ nhưng cửa ra vào thì đóng kín”. “Thiếu chan hoà với quần chúng” là khuyết điểm phổ biến mà tập thể thường phê bình họ. III. Thử nêu vài đặc điểm của lối sống “Người Hà Nội” Như trên đã nói, xin coi đây là những quan sát từ người trong gia tộc, bạn bè và người quen của gia đình, có nghĩa là hết sức chủ quan, phiến diện. 1/ Coi trọng đời sống gia đình. Một gia đình yên ổn, nền nếp, có trên có dưới, có tình có nghĩa. Khó hy sinh gia đình cho sự nghiệp, lý tưởng. Cũng không hy sinh gia đình cho những thú vui bản năng (“vợ cái con cột” bao giờ cũng ở trên “vợ lẽ con thêm”). Không muốn ai nhòm ngó vào chuyện riêng tư của gia đình mình (“đèn nhà ai nhà nấy rạng”). Cũng dễ trở thành ích kỷ, chỉ biết ôm lấy vợ con. 2/ Có ý thức mạnh mẽ về lợi ích cá nhân, quyền tư hữu, không dễ để người khác xâm phạm, dễ bị coi là “khoảnh”, tính toán, nhưng cũng không thích xâm phạm lợi ích người khác, sòng phẳng, rạch ròi (“yêu nhau rào giậu cho kín”). Có thể giúp đỡ người khác nhưng có mức độ, không muốn bị làm phiền, khó “sẻ nhà sẻ cửa”. (Lưu ý: trong những hoàn cảnh đột xuất như cách mạng, kháng chiến, “người Hà Nội” đã vượt lên trên lối sống ngày thường, sẵn sàng hy sinh gia tài và cả tính mạng cho đại nghĩa. Một thí dụ: Trong kháng chiến chống Pháp, BS Hoàng Thuỵ Ba đem vàng của gia đình mua lương thực cho học sinh trường nữ hộ sinh ở Thanh Hoá mà ông làm hiệu trưởng). 3/ Coi trọng tự do cá nhân của mình cũng như của người. Trong quan hệ ngoài gia đình như bà con, bè bạn, đồng nghiệp, hàng xóm… giữ giới hạn ở mức phải chăng, “thoang thoảng hoa nhài”. Ngại tranh chấp, đối đầu, “dĩ hoà vi quý”. Dễ bị xem là “khôn ngoan”, dễ trở thành ba phải, “hoà cả làng”. 4/ Lịch sự, tế nhị trong giao tiếp xã hội, cả về ăn vận lẫn lời ăn tiếng nói. Ghét sự thô thiển, lố bịch, trắng trợn. Ngại “nói toạc móng heo”. Chỉ muốn làm người tử tế, biết điều, không phải người “chịu chơi”, không thật nhiệt tình, hồ hởi, hào sảng. Dễ bị coi là giữ kẽ, khách sáo, cũng dễ trở thành màu mè giả tạo. 5/ Không chỉ cắm cúi làm việc mà biết hưởng thụ cuộc sống, và hưởng thụ một cách hào hoa, thanh nhã, có chừng mực, không mê đắm, sa đà hay “sả láng”. 6/ Tôn trọng nền nếp có sẵn: gia phong, luật lệ, quy ước xã hội. Có thể thích nghi với sự thay đổi chứ không chủ động tạo nên thay đổi. Hầu như không có máu phá phách, “nổi loạn”. 7/ Trọng danh dự, trọng chữ “tín” trong các quan hệ. Tự trọng trong công việc, có lương tâm nghề nghiệp. Có thể kiên nhẫn để vươn lên hoặc khôi phục quyền lợi, điạ vị bị mất một cách từ tốn. Không thích mạo hiểm hay thành công bằng mọi giá. Không nuôi chí lớn, không có mưu sâu. 8/ Trung dung, một vừa hai phải. Ôn hoà, không cực đoan hay quyết liệt. Lý trí mạnh hơn tình cảm. Tư duy lô-gích mạnh hơn trực cảm, bản năng. Nhìn chung, lối sống “người Hà Nội” hợp với thời kỳ xã hội yên bình, ổn định, với loại người làm ăn hay học hành trong những điều kiện bảo đảm, có mức sống dễ chịu, có thể nói là lối sống điển hình của lớp trung lưu một thời quen được gọi là “tiểu tư sản thành thị”, hỗn danh là “tạch tạch xè”! Hoàng Hưng
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2010 8:05:45 GMT 9
Bước tiến trong nghiên cứu văn minh Chăm - Văn học Chăm Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, ngoài những khám phá các di chỉ khảo cổ mới quan trọng ở Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam, đã có những công trình nghiên cứu đáng kể về nền văn minh Chăm được xuất bản, nối tiếp truyền thống nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc của các nhà sử học và khảo cổ người Pháp thuộc trường Viễn đông bác cổ vào những năm đầu đến giữa thế kỷ 20. Các công trình này cho ta hiểu rõ thêm về lịch sử và văn hóa của dân tộc Chăm ở Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho sự phát triển tìm hiểu một nền văn minh cổ bản sứ, rực rỡ và rất đặc thù ở Đông Nam Á. Có thể liệt kê một vài kết quả gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu mà tôi cho là đáng ghi nhận. Ở ngoài nước hiện nay có các học giả như A. Hardy, I. Glover, M. Yamagata, P. Zolese, Po Dharma, E. Guillon, G. Wade, A. Schweyer, W. Southworth, M. Vickery (6)(7)(8)(9)(20)(21). Guillon (10) đặc biệt cho ta thấy ảnh hưởng và sự liên hệ của nghệ thuật ở bắc Champa (Thừa thiên, Quảng Trị) qua các tượng bồ tát Avalokitesvara Phật giáo Đại thừa trải rộng đến nghệ thuật ở thung lũng Chin và Mun (bắc Thái), nghệ thuật Môn Dvaravati (Miến Điện và trung Thái Lan) và nghệ thuật ở Vân Nam. Levin (18) cho thấy qua sự khám phá năm 2001 ở Khương Mỹ (Quảng Nam) các nền của ba đền và điêu khắc ở chân nền tả các cảnh từ câu truyên thần thoại Ramayana Ấn độ mà trong đó có cảnh về sự đối chọi giữa Ravana và Sila ở vườn Asoka. Cảnh này chưa bao giờ được thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc đền ở Đông Nam Á và Nam Ấn. Vì thế Levin cho là sự sắp loại nghệ thuật đền Khương Mỹ là giai đoạn chuyển tiếp của phong cách Đồng Dương đến phong cách Mỹ Sơn mà các nhà nghiên cứu ở thế kỷ trước như Parmentier cho là do ảnh hưởng của nghệ thuật từ Java bắt đầu từ thế kỷ 9 có thể phải xét lại và thật sự là có chiều hướng đi ngược lại: Champa ảnh hưởng lên nghệ thuật Java. Nhưng điều chắc chắn là Champa và Java đã có những tiếp xúc trao đổi sâu đâm về văn hóa và cả chiến tranh giữa hai bên qua đường hàng hải. G. Wade cho rằng nguồn gốc của chữ viết Tagalog Phi Luật Tân trước khi chuyển ra chữ latin vào thế kỷ 17 là từ chữ viết Chăm (20). W. Southworth và M. Vickery phân tách lại các nguồn dữ kiện và cho rằng Maspero có những sai lầm: có nhiều tiểu quốc Chăm chứ không phải một vương quốc Champa và Lâm Ấp không phải là thực thể Chăm trong giai đoạn đầu (21). Và sau cùng Po Dharma đã lấp lỗ hổng lớn về lịch sử cận đại của dân tộc Chăm vùng Panduranga trong giai đoạn các thập niên đầu thế kỷ 19 đánh dấu sự hiện diện cuối cùng của vương quốc Champa (19). Ở Việt Nam, chú trọng về lịch sử, khảo cổ, nghệ thuật là những nhà nghiên cứu như Ngô Văn Doanh (1),(2), Trần Kỳ Phương (3)(4)(5). Đặc biệt về văn học Chăm là những công trình của Inrasara, một người Việt gốc Chăm (11)(12)(13)(14)(15). Ngô Văn Doanh phổ thông các kiến thức hiểu biết về văn minh văn hóa Chăm trong độc giả Việt nam trong nhiều năm qua các sách về lịch sử Champa và di chỉ văn hóa Champa như Mỹ Sơn, mà năm 1999 được liệt kê là Di sản văn hóa thế giới bởi tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc. Dựa vào những kết quả của các cuộc khai quật ở các di chỉ khảo cổ gần đây bắt đầu từ năm 1993 ở Trà Kiệu và những kết quả trước kia của Claeys do trường Viễn đông Bác cổ thực hiện ở Trà Kiệu vào năm 1927-1928, Trần Kỳ Phương đã chỉ ra sự liên hệ mật thiết giữa kiến trúc đền tháp Chăm và các điêu khắc chung quanh bệ thờ ở trung tâm đền, chia ra thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu bệ thờ trung tâm nằm “lộ thiên” ở giữa đền không có tường đá và đền được xây bằng khung gỗ với mái ngói dựa trên các cột đá (như đền B14 Mỹ Sơn), giai đoạn hai tất cả đền đựợc xây bằng gạch đá với các cửa giả (3). Từ đó Trần Kỳ Phương cho rằng bệ thờ Trà Kiệu với điêu khắc tinh xảo tuyệt mỹ (mà ông cho là từ huyền thoại Ramayana) xuất phát từ điểm B nơi chỉ còn lưu lại nền kế cạnh bên điểm A nơi là vị trí chính của tháp trong họa đồ khảo cổ của Claeys. Tuy vậy P. Baptist (16) thì lại cho rằng bệ thờ Trà Kiệu thật ra là xuất phát từ chân của tháp chính của đền. Khác với các nhà nghiên cứu chuyên về khảo cổ, lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật Chăm, Inrasara tập trung vào văn học Chăm. Đây là lãnh vực mà chúng ta còn thiếu hiểu biết và là mảng trống to lớn mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa và tâm linh của dân tộc Chăm. Có thể các nhà nghiên cứu đã quá ấn tượng với một nền văn minh cổ để lại những dấu vết vừa hùng vĩ vừa kỳ bí qua những tháp chàm, bia ký.. để nhìn về quá khứ cố gắng soi sáng mong sao hiểu được đôi chút về điều gì, động cơ nào của một dân tộc trong quá khứ đã tạo thành những di sản trên mà quên đi rằng hậu duệ của dân tộc này hiện nay mặc dầu trong một không gian hạn hẹp vẫn còn và đang cố gắng giữ gìn, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, văn hóa, lịch sử mà tổ tiên họ đã truyền lại trong một thế giới mới nhiều đổi thay, đầy bất trắc của thời đại toàn cầu hóa mà ngay cả nền văn hóa chính của xã hội mà họ đang sinh sống cũng phải đối chọi để giữ lại được sắc thái riêng. Chính vì thế mà vai trò của Inrasara rất là quan trọng. Inrasara có một vị trí đặc biệt và thuận lợi vì anh vừa là người Việt và người Chăm thấm nhuần cả hai nền văn hóa. Chúng ta thật may mắn là nhờ anh, chúng ta đã có thể được hé nhìn và thưởng thức những thành quả của một nền văn hóa bản địa, một nền văn minh đã có lâu đời ở miền Trung Việt Nam, tiếp nối của một nền văn hóa tiền sử không kém rực rỡ ở Đông Nam Á: văn hóa Sa Huỳnh. Ít có ai trong chúng ta biết là chỉ cách đây khoảng 200 năm, vẫn còn một tiểu quốc Chăm ở Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay) thần phục và triều cống vua Gia Long và sau này tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt khi vua Gia Long mất. Tiểu quốc Panduranga đã hiện diện cho đến năm 1833 khi vua Minh Mạng dẹp tan liên minh Lê Văn Khôi (Gia Định thành) – Katip Sumat (Panduranga), phá bỏ Gia Định thành và sát nhập Panduranga vào tỉnh Bình Thuận (19). Inrasara đã trải qua nhiều năm khổ cực, lắm lúc gian nan thu thập tư liệu từ nhiều nguồn trong dân gian, từ sách, tư liệu viết tay để lại.. để cuối cùng anh viết lại và cho ra đời các công trình nghiên cứu về văn học Chăm một cách có hệ thống. Các tư liệu viết tay là đều bằng chữ Chăm akhar thrah. Inrasara dự định xuất bản toàn bô gồm 10 quyển, 3 quyển đã được công bố: Văn học dân gian, sử thi Chăm và trường ca Chăm. Cho đến nay văn tự cổ nhất chữ Phạn tìm thấy ở Đông Nam Á là trên bia Võ Cảnh, gần Nha Trang thuộc thế kỷ 3, và tiếng Chăm vào khoảng thế kỷ 6 trên bia tìm được vào năm 1936 ở Đông Yên Châu gần Trà Kiệu. Chữ Phạn được giới cầm quyền, giới thượng lưu như giáo sĩ Brahma dùng lúc đầu nhưng sau này vào khoảng thế kỷ 8 CE thì tiếng Chăm qua chữ viết akhar thrath (bắt nguồn từ mẫu tự Brahmi ở Nam Ấn) mới được dùng nhiều và sau thế kỷ 16 thì phổ biến rộng rãi hơn trên các bia ký. Còn tồn tại nhiều nhất là các tư liệu viết tay trên giấy, trên lá buông mà cổ nhất là cách đây khoảng 200 năm. Đây là những tư liệu mà Inrasara tập trung, với nội dung vừa truyền thống và vừa cận đại Trong tác phẩm Văn học Chăm – khái luận (11), Inrasara đã đề cập hầu như toàn bộ văn học Chăm bắt đầu từ văn học dân gian như d**nưy (thần thoại, truyền thuyết), Dalikal (chuyện cổ tích), Panwơc yaw (tục ngữ), Panwơc pađau (câu đố), Panwơc Pađit (ca dao), Kadha rinaih dauh (đồng dao), các loại hát dân gian, akayet (sử thi), ariya (thơ ca trữ tình), thơ thế sự, gia huấn ca, thơ triết lý cho đến văn học Chăm hiện đại ngày nay. Chi tiết hơn là các tác phẩm cho từng lãnh vực trên gồm các trích tuyển bằng chữ akhar thrath (*), chuyển âm qua chữ latin và dịch ra tiếng việt: Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm (12), Akayet - Sử thi Chăm (13), ariya cam trường ca chăm (14). Sơ qua về sự phong phú và chi tiết của các công trình nghiên cứu trên, tôi xin trích lược một vài đoạn tư liệu trong toàn bộ công trình đầy lý thú và đáng để ý này. Về thần thoại Chăm, điểm đặc biệt như ta biết là yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của thần thoại Ấn độ thường rất ít hoặc đa số đã bị bản địa hóa. Thí dụ thần thoại Pram Dit-Pram Lak dựa vào thần thoại Ramayana Ấn độ nhưng đã được bản địa hóa với yếu tố Chăm là nổi trội. Trong thần thoại Chăm, Ppo Inư Nưgar (Mẹ của xứ sở hay Bà Chúa Xứ) đóng một vai trò chủ đạo. Thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya kể rằng, thuở sơ khai, lúc vũ trụ còn chìm trong tối tăm, Ppo Inư Nưgar là một sinh thể tự sinh đầu tiên và duy nhất. Từ ngài phát sinh ra Ppo Yang Amư (thần cha) tạo ra muông thú và viết sử, Ppo Alwah dùng chính phần châu thân mình hóa Thánh đường truyền dạy giáo lý cùng phong tục tập quán cho người Chăm Bàni (Awal) và Ppo Debita Swơr hóa mâm thờ và lo cho bên Chăm Bà-la-môn (Ahier). Ppo Alwah được tôn vương trị vì đất nước. Sau đó mỗi cử động của Ppo Inư Nưgar, xuất hiện tinh tú, trời, đất, sấm, sét… Ở đây ta thấy thần mẹ Ppo Inư Nưgar quan trọng hơn thần cha Ppo Yang Amư, một nét đặc biệt có nguồn từ xã hội mẫu hệ Chăm truyền thống xa xưa. Tuy nhiên sự hiện diện của Ppo Alwah cho người Chăm Bani (Hồi giáo bản xứ) và được tôn vương trị nước cho thấy d**nưy Ppadauk Tanưh Riya có lẽ đã được sửa đổi hay thêm vào sau này trong thần thoại cổ Chăm sau khi Hồi giáo du nhập và chiếm vị trí trội hơn Bà Là Môn truyền thống bắt đầu từ thế kỷ 12. Ngoài thần thoại về Ppo Inư Nưgar về sự thành lập trời, đất, con người và muôn thú, đất nước, tập quán, xã hội.. còn có câu truyện Atmuhekat (hay Sự tích con gà gáy sáng) về sự hình thành vũ trụ. “Chuyện kể rằng, Thánh Ppo Kuk Parahimuk là Đấng sáng tạo ra vũ trụ và mọi vật trong trời đất. Một ngày kia, Ppo Kuk phái Thánh Iparahamuk cùng các vị thánh khác xuống trần gian để cai quản thế giới. Không ngờ, các vị thánh này bê tha rượu chè, ngủ say sưa để chỉ trong một đêm, quỷ Mưnưmax Xibac Kayong đến lén lấy cây cung và mũi tên vàng của Ppo Kuk, bắn tan nát hết mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú. Trời đất trở nên tối tăm, mù mịt. Muôn loài lại chìm trong hỗn loạn. Vùng thức giấc, Ppo Kuk biết nỏ thần bị đánh cắp, Ngài cũng chẳng thấy cột thánh đường đâu cả. Ngay tức thì, Ppo Kuk triệu tập những đại biểu ưu tú nhất của muôn loài để cùng Ngài đi tìm mặt trời, mặt trăng để thắp sáng vũ trụ trở lại. Ppo Kuk vượt đại dương cùng với đôi bạn gà vịt tự nguyện (gà gáy báo sáng và vịt chở họ đi) và tìm được mặt trời, mặt trăng đang lẩn trốn trong con ngươi của thần Inưrathwơl Akmư Lia-el. Vũ trụ được thắp sáng trở lại, trật tự được tái tạo, và xã hội loài người ổn định từ đó.” (11) Tại sao lại có hai thần thoại khác nhau về sự thành lập vũ trụ, vạn vật ?. Theo tôi thì thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya về Ppo Inư Nưgar với tính cách nghiêm trang xuất khởi từ giai cấp giáo sĩ thượng lưu trong vương triều. Ngược lại Atmuhekat với sự nhân cách hóa các vị thánh thần (cũng bê tha rượu chè) bắt nguồn từ quần chúng Chăm. Ta cũng không loại trừ sự khác biệt do thời gian trong lịch sử và nguồn gốc khác nhau từ các vương quốc Chăm trong khắp vùng từ Indrapura đến Panduranga. Trong các truyền thuyết, tôi để ý đến nhất là truyền thuyết về Ppo Rome (d**nưy Ppo Rome) và truyền thuyết Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) với lý do chính là chúng có liên quan đến những sự kiện trong lịch sử Việt Nam d**nưy Ppo Rome kể chuyện dựa vào sự kiện vua Rome lấy công chúa Đại Việt (như có ghi trong chính sử), và vào chuyện chặt cây kraik - cây lim thần (biểu tượng cho sức mạnh và linh hồn của Champa) “.. quần chúng Chăm đã thêu dệt xung quanh hai sự kiện này vô vàn chi tiết mang tính huyền hoặc. Công chúa đã giả vờ đau bệnh, đã giấu bánh tráng dưới chiếu để tạo tiếng kêu như tiếng xương gãy khi lăn qua lăn lại trên giường bệnh, và được lành hẳn khi kraik bị đốn. Còn kraik: kraik đã than vãn, đã phun máu giết chết đám quần thần khi họ đến đốn kraik. Rồi thì tiếng khóc của kraik trước nhát búa đầu tiên của Ppo Rome, cái chết với dòng máu đỏ của kraik! Óc tưởng tượng của quần chúng cũng không dừng lại ở đây: gỗ kraik tiếp tục được mang đi đóng thuyền chiến dẫn Ppo Rome vượt đại dương làm nên những chiến tích lẫy lừng. Khi gặp địch đóng cọc ở cửa khẩu, thuyền kraik biết trước, dừng ngay lại. Ppo Rome không chịu hiểu kraik, nổi cơn thịnh nộ và chặt bỏ mũi tàu được đóng bằng phần quý nhất của gỗ kraik. Đến lúc này kraik mới chịu chết thật sự. Sau đó là cái chết không tránh khỏi của Ppo Rome, cùng lúc là sự sụp đổ của vương triều Ngài.” (11) Qua câu chuyện này, ta thấy rất rõ là người dân Chăm tin rằng nguyên nhân chính mà vương quốc Chăm mất là do nội xâm từ bên trong vương triều, tầng lớp thượng lưu. Và Đại Việt đã mượn tay họ để giết đi sinh khí, cái hồn của dân tộc mà quần chúng Chăm đã bất lực không thể cứu vãn được. Niềm tin này có cơ sở hay không, hay chỉ là một lý luận bào chữa lãng tránh về sự yếu kém của vương quốc Chăm trong sự tranh đấu sanh tồn giữa các dân tộc trong lịch sử là một vấn đề gây nhiều bàn cãi. “Chuyện Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) đã thủ đắc được cây thanh long đao (bat) bách chiến bách thắng cùng với những chiến công hiển hách cũng được bao bọc bởi một màn thần thoại khác. Riêng về cái chết của Ngài, truyền thuyết kể rằng khi đầu Ngài đã rơi vào tay quân thù, thân Ngài vẫn tiếp tục sống, hẹn với đầu sẽ nối kết lại khi về đến quê hương. Trở về đến bãi biển làng Bal Riya (Bính Nghĩa - Ninh Thuận), bị bọn trẻ chăn trâu hiểu nhầm, đã lên tiếng chế nhạo. Khi đó Ngài mới ngã xuống và chết thực sự.” (11) Thông qua chuyện thần thoại này, theo tôi thì người dân Chăm mặc dầu kính trọng Ppo Bin Swơr như một vị anh hùng qua những chiến thắng lớn lao của ngài nhưng coi những chiến công đó là do có được cây thanh đao thần kỳ chứ không do biệt tài quân sự mà ông thực ra đã được đánh giá như một vị vua lỗi lạc nhất trong lịch sử Champa. Phải chăng Ppo Bin Swơr đã chưa thuyết phục được dân tộc Champa về đường lối và chính sách của ngài trong quan hệ và chiến tranh với Đại Việt. Và niềm tin của Ppo Bin Swơr cho đất nước Champa mãi mãi không bao giờ mất. Đối với quân thù, ngài không bao giờ chết nhưng ngài chỉ thực sự chết khi người dân Champa không còn tin tưởng ở ngài. Ta có thể hiểu được tâm tình của đất nước Champa trong giai đoạn lịch sử này khi nghiên cứu thần thoại của Champa về Ppo Bin Swơr. Liên hệ đến chuyện thần thoại là các chuyện cổ tích. Đọc Inrasara về phần chuyện cổ tích Chăm, tôi cảm thấy như đi vào một thế giới kỳ ảo đầy bất ngờ, hồn nhiên đầy sức sống. Chuyện cổ tích Chăm rất phong phú như các truyện giải thích với ẩn ý giáo dục như chuyện con hổ có nhiều đốm vằn vện là hậu quả của sự ngu ngốc, chuyện con vịt không ấp trứng chỉ là phần thưởng cho đức hi sinh (Sự tích con ễnh ương) hay giải thích những hiện tượng đã có trong thiên nhiên như màu lông sặc sỡ của loài công hay màu đen thui của con quạ (Truyện Quạ, Dông và Công). Lý do trái bầu có eo ở khúc giữa hay lá chuối có đường rãnh (Truyền thuyết về Ppo Klaung Girai). Nguyên nhân ra đời của phong tục tập quán dân tộc như tại sao người Chăm Bà-la-môn kiêng thịt bò (Bà thần Kapil), tín đồ Bàni (đạo Hồi Chăm đã được bản địa hóa) không được uống rượu… Ta thấy có vài truyện cổ tích Chăm có vài điểm tương đồng với chuyện cổ tích Việt Nam như chuyện con công và quạ. Trong dân gian Việt Nam truyền tụng chuyện trạng Quỳnh thì chuyện cổ tích Chăm cũng có diễn tả thực tài tình trí thông minh láu lỉnh như chùm truyện về Trạng Con (ám chỉ Ppo Klaung Girai) đấu trí với quan quân của triều đình, đánh lừa các sứ giả vượt qua tất cả những thử thách của nhà vua, đã làm cho nhiều thế hệ quần chúng Chăm tắc lưỡi thán phục. Blơk blơng amư (Chúa nói dối) đã chọc thiên hạ cười suốt từ đầu đến cuối câu chuyện không chỉ do yếu tố gây cười ở cốt truyện mà chính là bởi trí thông minh sắc sảo của chàng trai lãng tử (11). Như mọi dân tộc khác, tục ngữ là tích đọng túi khôn và chúng có nhiều điểm tương đồng lẫn nhau rất lý thú. Tục ngữ Chăm cũng vậy. Inrasara đã tổng hợp, hệ thống hóa với các dị bản và xuất xứ các sưu tầm của anh trong nhiều năm từ dân gian qua các điền dã và từ vài tư liệu đã xuất bản trước về tục ngữ ca dao như Dictionnaire Cam – Vietnamien – Francais do G. Moussay và một số cộng tác viên Chăm biên soạn năm 1971 v.v.. để cho ra một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ nhất hiện nay vê văn học dân gian gồm hơn 1500 câu tục ngữ, thành ngữ, hơn 70 bài ca dao, đồng dao và hơn 70 câu đố Chăm (12). Ở đây ta có thể thấy một vài thí dụ đặc thù như (12) Rimaung gamrơm rimaung bbơng asuw, rimaung ppadơp kakuw rimaung bblơng mưnwix Cọp gầm to là cọp ăn chó, cọp giấu vuốt mới là cọp vồ người. Palak tangin hu inư kađieng, inư canuw Bàn tay có ngón út, ngón cái. Dak lihik kabaw yuw oh dak di mưluw bbauk Thà mất đôi trâu còn hơn mất mặt Hay ca dao (kadha pađit) qua thể thơ ariya diễn tả tâm tình của người con trai đi xa chiến đấu và khi ngoảnh nhìn lại, không gian ở quê hương chỉ toàn là một vùng mây mù, không thấy đâu là cửa nhà, đâu là làng xóm (12) Cơk glaung glai cơng mưng nak Kuw maung mai wơk o bboh dhan phun Núi cao rừng lá che ngang Ngoái nhìn nào thấy bóng làng ta đâu. không khác chi tình cảm của người Việt đối với quê hương xóm làng mình khi đi xa. Giá trị của công trình “Văn học dân gian” là ở chổ tác giả Inrasara đã minh định rõ các thuật ngữ dịch từ tiếng Chăm trước khi phân loại, hệ thống hóa, chi tiết các dị bản cũng như xuất xứ, nguồn.. Đây là những thao tác không thể thiêu của một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Thể thơ Ariya tương tự như thơ lục bát Việt và Inrasara cho ta thấy qua đối chiếu và phân tích sơ bộ, lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau. Trong đó cái giống nhất là nhịp điệu của chúng. Thể thơ ariya đã được mang vào các tác phẩm về thơ ca trữ tình, tương tự như thể thơ lục bát trong những tác phẩm văn học Việt Nam như Bích câu Kỳ ngộ, Lục Vân Tiên hay Truyện Kiều. Tuy nhiên có điều khác biệt là ngoài Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy của Ppo Thien (Thiên Sanh Tây), Ariya Rideh Apwei của Phú Bô, tất cả các tác phẩm văn học trước thế kỷ 20 kể cả ariya thơ ca trữ tình, sử thi Akayet đều là khuyết danh, không xác định được tác giả. Inrasara cũng đã phân loại một loại thơ mà anh gọi là thơ thế sự (11). Thơ thế sự xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 20 gồm những sáng tác mô tả các cuộc nổi dậy của nông dân Chăm chống lại triều đình nhà Nguyễn như Ariya Twơn Phauw (71 câu), Ariya Kalin Thak Wa (80 câu). Ariya Twơn Phauw nói về cuộc khởi nghĩa của một thủ lảnh tên Twơn Phauw cùng với Lê Văn Khôi chống lại Minh Mạng. Hay Ariya Glơng Anak (116 câu) kể về tâm tư , nổi ưu sầu về thế sự của tác giả (khuyết danh) trong tình cảnh đất nước suy tàn, thu hẹp và loạn lạc dưới thời chúa Nguyễn và sau đó Tây Sơn và niềm hy vọng nhỏ bé vào cuộc sống của chính mình lúc nào cũng mở rộng với lòng bao dung độ lượng chứ không yếm thế và hận thù. Tâm trạng của tác giả trong Ariya Glơng Anak có thể cũng thể hiện tâm tư của đại đa số dân Chăm lúc đó. Một tác phẩm triết lý tuyệt tác trong văn học Chăm. Các loại thơ thế sự như trên là các tư liệu văn học có giá trị cho nghiên cứu lịch sử và xã hội Chăm vào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Ngoài ra còn một tập thơ thế sự khác có giá trị trong nghiên cứu xã hội và lịch sử Việt Nam là Ariya Ppo Parong. Tập thơ này mô tả chuyến du khảo điền dã của tác giả (nay được xác định là Hơp Ai) vào năm 1885 cùng với nhà nghiên cứu Pháp E. Aymonier đi từ Phan Rang đến Nha Trang, Phú Yên, Bình Định, Huế, Hà Nội rồi quay trở lại Saigon và sau cùng về lại Phan Rang. Tác giả đã thích thú học hỏi, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và mô tả cảnh vật, cuộc sống dân tình, phong tục ở mỗi nơi: nông dân, đàn bà, giọng nói ở xứ Bắc, đồng ruộng, sông Hồng, rừng mía ở Nha Trang, tàu Pháp bắn hỗ trợ lính Lê Dương trong lúc đánh kinh thành Huế, phố xá choáng ngợp ở Saigon, quan sát đủ sắc dân trong đoàn lính Lê Dương v.v... (11). Một nhân chứng sống động về xã hội Việt Nam ở cuối thế kỷ 19. Trong các tác phẩm nổi tiếng về thơ ca trữ tình phải kể đến Ariya Bini – Cam, Ariya Xah Pakei. Hai tác phẩm này xuất hiện sau thời đại Po Rome vào thế kỷ 18 trong khoảng thời kỳ phân tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh. Lúc này vương quốc Chăm đôi lúc trở thành bãi chiến trường của quân đội Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ariya Sah Pakei nói về một chuyện tình và phản ảnh nhân sinh quan Chăm qua triết lý âm-dương (mà linga-yoni là biểu tượng), một triết lý chủ đạo chi phối lối suy nghĩ, sự sinh hoạt của người Chăm trong cuộc sống. Ariya Bini-Cam nói lên sự xung đột giữa hai tôn giáo Bàlamôn Ấn độ và Hồi giáo qua một chuyện tình đổ vỡ giữa một hoàng thân Chăm và công chúa Hồi giáo. Sự xung đột và mất niềm tin của người Chăm với văn hóa Ấn Độ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chăm. Hồi giáo được mang vào không những ở Champa mà ở các nước Đông Nam Á hải đảo từ thế kỷ 9 CE qua các thương gia Ả Rập. Tôn giáo này phát triển mạnh bắt đầu từ thế kỷ 12 khi các tầng lớp thượng lưu và cai trị ở các vương quốc trong vùng Đông Nam Á bỏ đạo Bà La Môn chuyển sang Hồi giáo. Thời điểm này cũng là thời kỳ mà sự giao thương liên hệ và ảnh hưởng văn hóa giữa Champa và thế giới Mã Lai hải đảo phát triển mạnh mẽ ở điểm cao trong lịch sử quan hệ giữa hai vùng. Sự du nhập của Hồi giáo đã gây nhiều đổi thay và biến động trong xã hội Đông Nam Á mà văn hóa truyền thống trước đó là văn hóa Ấn độ Bà La Môn. Nhưng so với các nơi khác như Trung Đông, Ấn Độ thì sự đổi thay ít có xung đột và có chiều hướng hòa bình hơn qua sự bản địa hóa các ý thức hệ du nhập trong một xã hôi mà cơ bản là đa dạng. Có phải sự phân cực văn hóa tôn giáo trong xã hội Chăm là nguyên nhân chủ yếu gây nên sự suy tàn và cuối cùng là sự biến mất hoàn toàn của vương quốc Champa trước sức mạnh Nam tiến của Đại Việt hay không là một vấn đề đáng lưu tâm suy nghĩ và cần nghiên cứu. Về sử thi thì ba sử thi quan trọng nhất trong văn học Chăm là Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra và Akayet Um Mưrup. Văn bản in Akayet Dewa Mưno và Akayet Inra Patra lần đầu được xuất bản trong các năm đầu thập niên 1970 do nhóm nghiên cứu của Trung tâm văn hóa Chàm-Phan Rang gồm G. Moussay, Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh, Nại Thành Bô, Đàng Năng Phương, Lưu Ngọc Hiến và Trượng Tốn thực hiện. Akayet Deva Muno là thi phẩm ca nổi tiếng, đóng vai trò quan trọng trong văn học Chăm và được phổ biến rất rộng rãi. Có lẽ đây là tác phẩm đầu tiên được sáng tác bằng chữ akhar thrah. Tác phẩm kể về cuộc chiến đấu cam go anh hùng của Deva Muno chống lại Deva Samulaik, cứu công chúa Ratna và mang lại hòa bình cho thế giới trần gian. Năm 1975, G. Moussay đã xác định nguồn gốc Mã Lai của thi phẩm Akayet Deva Muno. Sử thi Akayet Deva Muno vay mượn cốt truyện Hikayat Deva Mandu của Mã Lai có ảnh hưởng Ấn độ. Bản in sử thi này đã được chuyển tự ra tiếng Pháp, Việt, Mã Lai và xuất bản ở Mã Lai năm 1989. Tuy vậy bản in đã có một số sai lầm mà Insara đã vạch rõ và vì thế sau đó đã được sửa chửa và hiệu đính trong các bản in sau này. Akayet Inra Patra cũng có nguồn gốc từ Hikayat Indra Putera của Mã Lai có ảnh hưởng Hồi giáo Ả Rập được sáng tác gồm 581 câu ariya vào đầu thế kỉ XVII. Tương tự như mô tip Deva Munro, người anh hùng Inra Patra (biểu hiện cho cái thiện), sau khi vượt qua bao khó khăn và với đức độ của mình đã chiến thắng các lực lượng đại diện cho cái ác, cuối cùng mang lại an bình cho xứ sở, hạnh phúc cho nhân dân. Trong ba sử thi trên thì Akayet Um Mưrup là sáng tác bản địa hoàn toàn của Chăm không vay mượn yếu tố nào từ ngoài. Tuy vậy mặc dù có vay mượn cốt truyện hay không, nhưng các Akayet Chăm có những đặc trưng và phong cách riêng như Inrasara phân tích sau (13) "Mặc dù hai trong ba akayet nổi tiếng được vay mượn từ ngoài, vay mượn từ cốt truyện đến tên nhân vật, địa danh… nhưng với chữ viết (akhar thrah) và ngôn ngữ của mình, các thi sĩ Chăm đã kịp thời hoán cải chúng cho phù hợp với đặc trưng văn hóa dân tộc. Do đó, xét về mặt hình thức, dù các akayet Chăm không có được cái tầm vóc đồ sộ của sử thi Ấn Độ hay các tác phẩm cùng thể loại của các nước trong khu vực, nhưng chúng luôn đạt tới một bố cục gẫy gọn và cô đúc. Điều cốt yếu là chúng đã nêu bật được hành động và tính cách anh hùng của nhân vật bằng các trận giao chiến với kẻ thù, các chiến công lẫy lừng, í chí vượt trở ngại để đi đến tiêu đích một cách anh dũng. Cả ba sử thi đều lược bỏ mọi sinh hoạt đời thường, các lễ nghi phong tục tập quán rườm rà và cả quang cảnh hùng vĩ cũng được tiết chế một cách đáng kể. Tất chi tiết đều nằm trong màn kịch và chỉ phục vụ cho tấn kịch.” Với cốt truyện về sự va chạm giữa ý tưởng mới Hồi giáo và Bà la Môn truyền thống, sử thi Chăm Akayet Um Mưrup cho ta thấy hoàn cảnh xã hội và tâm tư con người Chăm trong bối cảnh lịch sử Champa lúc đó. Đây là những tư liệu quý giá bổ sung cho các nhà nghiên cứu lịch sử Chãm. Theo Inrasara thì sự phân cực và đối chọi giữa hoàng tử Um Mưrup (đại diện cho Hồi giáo) và vua cha (đại diện cho Bà La Môn truyền thống) cuối cùng dẫn tới vương quốc Chăm phải chấp nhận Hồi giáo. “Một khía cạnh khá độc đáo nổi bật lên ở các akayet này là, bên cạnh hai khuôn mặt đại diện cho sức mạnh của thế lực cũ là Dewa Mưno và Inra Patra, xuất hiện một khuôn mặt hoàn toàn mới: Um Mưrup. Có lẽ chính vì thế mà trong khi Dewa Mưno và Inra Patra, sau khi vượt qua mọi hiểm nguy, trở về quê hương trong khúc ca khải hoàn thì, Um Mưrup lại kiêu dũng gục chết nơi chiến trường. Nhưng cái chết của tráng sĩ này báo hiệu một lực lượng mới đang đi tới, rầm rộ và không gì cản nổi, hướng về vương quốc Champa. Để rồi sau đó, Champa, trước nguy cơ tan rã, đã phải mở vòng tay đón nhận một luồng ảnh hưởng mới khác từ bên ngoài: văn hóa Hồi giáo." (13) Và sau cùng Inrasara đã phát họa tổng quan cho chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng khác mà ít ai đề cập đến. Đó là văn học Chăm hiện đại. Trong khái luận về văn học Chăm hiện đại, Inrasara sơ lược các nhà văn, thơ Chăm từ đầu thế kỷ 20 như Ppo Thien (Hữu Đức) đã có hai tập thơ Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy được truyền tụng trong quần chúng. Nhà thơ Mưdwơn Jiaw được Inrasara coi như là một gạch nối giữa văn học cổ điển và văn học hiện đại Chăm. Sau Mưdwơn Jiaw, là nhà thơ Jaya Mưyut Cam có một bài thơ dài “Su-on bhum Cam” (Nhớ quê Chăm) được nhiều người biết, và các nhà thơ nhà văn Jaya Panrang, Huyền Hoa, Jalau, Chế Thảo Lan... đóng góp trong các đặc san Hồn quên Ninh Thuận, Panrang, Ước Vọng xuất bản ở Phan Rang trước 1975. Các tác giả Chăm sau này có Trà Vigia với tập truyện Chăm H’ri, nhà thơ Chế Mỹ Lan, Đồng Chuông Tử, Jalau Anưk, Jaya Hamu Tanran (chuyên sáng tác bằng tiếng Chăm), Phú Đạm, Trầm Ngọc Lan, Trà Ma Hani, Trần Wũ Khang, Tuệ Nguyên và Inrasara với tập thơ nổi tiếng Tháp Nắng, Lễ tẩy trần tháng Tư, tiểu thuyết Chân dung cát. Văn hóa Chăm sẽ khó có cơ hội bảo tồn và phát triển nếu không có sự liên tục tiếp nối của những người đi sau với truyền thống để lại của tiền nhân. Văn hóa Chăm phải là một thực thể hữu cơ tiến hóa trong hoàn cảnh và môi trường mới luôn thay đổi của thời đại. Hiểu được điều này, Inrasara, bản thân cũng là một nhà văn, đã tích cực trở thành một trong những người sáng lập và xuất bản thường kỳ tuyển tập Talagau tập hợp các tác giả, nhà văn, nhà nghiên cứu Chăm hiện đại sáng tác hay viết về các vấn đề văn học, xã hội, ngôn ngữ, lịch sử... liên quan đến văn hóa Chăm. Ngoài các công trình nghiên cứu văn học chính như đã nêu trên, còn có các bài về vấn đề văn học, văn hóa, tự thuật cũng như các nghiên cứu về xã hội .. đã được đăng nhiều nơi nay được trình bày chung trong quyển “Văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại “(15). Trong đó có các bài với đề tài như ‘Người Chăm Pandagura ở Thành phố Hồ Chí Minh”, “Thử soi rọi ba vùng mờ của văn hóa Chăm: “Họ” của người Chăm, Múa Chăm, Harơk Kah ở đâu ?”,”Chế độ mẫu hệ Chăm”, “Xã hội Chăm hôm nay và tương lai cộng đồng”, “Làm thế nào để nói tiếng Chăm”, “Để hiểu văn chương Chăm”, “Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”, ‘Chuyện chữ”, “ Tagalau, bảy năm nhọc nhằn và kiêu hãnh”… đều là những tư liệu xã hội, văn hóa có giá trị. Để kết luận cho bài này, theo tôi thì nếu G. Coedes trước đây (1944) đã thành công tổng hợp các thành quả nghiên cứu khảo cổ, sử học của các học giả về các vương quốc Ấn độ hóa ở Đông Nam Á để cho ta một công trình có tầm vóc với cái nhìn toàn cảnh về lịch sử và sự liên hệ của các nước trong vùng, trở thành một cuốn sách (16) tham khảo gối đầu giường cho tất cả những nhà nghiên cứu thì những công trình của Inrasara về văn học Chăm cũng đã thành công tương tự trong lãnh vực văn học. Mặc dầu anh chủ yếu là nhà văn nhưng những công trình của anh qua các thao tác có tính cách khoa học và hệ thống là những thành quả hàn lâm nghiêm túc rất giá trị. Có thể Inrasara chưa được đánh giá đúng mức trong giới học giả trên thế giới vì những tác phẩm nghiên cứu của anh được viết bằng tiếng Việt và cũng có thể anh không thấy cần thiết là phải đăng trong các tạp chí hàn lâm. Nhưng tôi tin rằng chẳng bao lâu những thành quả của anh sẽ được tham khảo rộng rãi và dịch ra tiếng nước ngoài. Mà thật ra các thành quả của anh đã được tiếp cận và tham khảo gần đây rồi bởi một số các nhà nghiên cứu về văn minh và lịch sử Chăm. Nhưng quí giá hơn hết và quan trọng hơn hết là như anh đã viết (11) “Chòm nến thơ ca kia ngỡ đã tắt hẳn, nhưng không. Các thế hệ Chăm đi tới vẫn cứ sống, làm việc, làm thơ… và làm nên phép lạ. Khik baik adat Cam drei Bilan saung harei jang tơl pajơ Cố giữ nhé, đạo cha ông Sắp đến rồi kia ngày mai tươi sáng. (Pauh Catwai 3, Inrasara dịch)“ (Sydney 5/1/2010) Tham khảo (1) Ngô Văn Doanh, Văn hóa cổ Champa, Nxb Văn hóa dân tộc, 2002 (2) Ngô Văn Doanh, Thánh địa Mỹ Sơn, Nxb Trẻ, 2003 (3) Trần Kỳ Phương, The relationship between architecture and sculpture in Cham sacred art of the Seventh to the Ninth Centuries CE, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 55-72. (4) Trần Kỳ Phương, The wedding of Sita: A theme from the Ramayana represented on the Tra Kieu pedestal, in "Narrative sculpture and literary traditions in South and Southeast Asia", ed. by J. Fontein, M. Klokke, 2000. (5) Tran Ky Phuong, Rie Nakamura, The Mỹ Sơn and Pô Nagar Nha Trang sanctuaries: On the cosmological dualist cult of the Champa kingdom in Central Vietnam, Asia Reseaarch institute Working paper Series No. 100, 2008, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps08_100.pdf(6) A. Hardy, M. Cucarzi, P. Zolese, Champa and the Archaeology of My So'n (Vietnam), Nus Press, 2009. (7) Po Dharma, Le Panduranga (Campa), 1802-1835: Ses Rapports Avec Le Vietnam, 1987, Ecole Francaise d'Extreme-Orient. (8) Emmanuel Guillon, Cham art: treasures of the Da Nang museum Vietnam, 2001, River Books, Bangkok (9) Emmanuel Guillon, Hindu-Buddhist Art of Vietnam: Treasures from Champa (translated from the French by Tom White). Trumbull, CT: Weatherhill, 1997. (10) Emmanuel Guillon, The archaeology of Champa, North of Hue - Towards new perspectives, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 73-84. (11) Inrasara, Văn học Chăm - khái luận, Nxb Văn hóa dân tộc, 1994 (12) Inrasara, Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm, Nxb văn hóa Dân tộc, 2006. (13) Inrasara, Akayet - Sử thi Chăm, Nxb Khoa học xã hội, 2009. (14) Inrasara, ariya cam trường ca chăm, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006 (15) Inrasara, văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, Nxb Văn Học, 2007. (16) G. Coedes, The indianized states of Southeast Asia, East West Center, Honolulu, 1968. (17) P. Baptiste, The dancers and musicians of Tra Kieu: Pedestal or base, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 46-54. (18) C. Levin, Recasting the sacred heroes: a new discovery of sculptural epic narration from ancient Champa, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 85-99. (19) Po Dharma, Le Panduranga (Campa) 1802-1835: ses rapport avec le Vietnam, Publication de l’ Ecole Francaise d’Extreme-Orient (EFEO), Paris, 1987. (20) G. Wade, On the Possible Cham Origin of the Philippine Scripts, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 24, 1993 pp. 44-87. (21) M. Vickery, Champa revisited, ARI working paper 37, 2005, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps05_037.pdf (*) Chữ akhar thrath hiện nay cũng đã được đưa lên máy tính.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:19:46 GMT 9
Quốc Tử Giám Vietsciences-Nguyễn thị Chân Quỳnh Văn miếu là nơi thờ cúng Khổng Tử cùng môn đệ và các danh nho đời sau (như Chu văn An) có công truyền bá, giữ gìn Chính đạo (đạo Nho) để tỏ đạo học có nguồn gốc, Xuân Thu nhị kỳ vua thân đến tế. Quốc tử giám thoạt đầu là chỗ dậy các Hoàng tử sau mở rộng cho con các quan đại thần rồi con nhà bình dân ai thông tuệ cũng được vào học (1). Quốc Tử Giám ở Thăng-long dựng ngay sau Văn Miếu. Năm 1802 vua Gia-Long bãi Quốc Tử Giám Thăng-long, đem lập lại ở Phú-xuân. Và để đền bù cho dân Hà-thành đã dựng Khuê văn các (2) trong Văn Miếu, trước hồ Thiền-quang, kế bên những tấm bia đề danh Tiến sĩ các khoa nhà Lê và Nguyễn sơ. Hà-nội ngày nay tuy không còn Quốc Tử Giám nhưng vẫn giữ cái tên "nhà Giám" để trỏ Văn Miếu. Quốc Tử Giám cũng như Văn Miếu và Khoa cử đều xuất phát từ Trung quốc. Nhà Đường đặt ra Quốc Tử Giám coi việc học chính, quản lĩnh sáu học quán là : Quốc Tử Giám, Thái học, Tứ môn học, Luật học, Thư học, Toán học. Đứng đầu Quốc Tử Giám là Tế tửu, Tư nghiệp làm Phó. Con quan, tùy phẩm trật của cha, và con nhà bình dân học ở học quán khác nhau. Lại có hai văn quán riêng cho con các hoàng thân quốc thích. Đời Minh ở Nam kinh, Bắc kinh đều có Quốc Tử Giám, các quan Tế tửu, Tư nghiệp, Bác sĩ lo việc giáo tập. Minh Thái Tổ đặt ra Quốc tử học, ngoài học văn chương còn tập luyện chính trị, hàng năm lấy nhiều sinh viên ra làm quan (3). I- Quốc Tử Giám Thăng Long 1070 Dựng Văn Miếu ở Thăng long. 1076 Xây Quốc Tử Giám ở phía sau Văn Miếu làm nơi học tập cho Hoàng Thái tử. 1087 Dựng gác Bí thư chứa sách vở hiếm. 1253 Trần Thái Tông lập Quốc học viện ở kinh đô cho con nhà quyền quý vào học, sau mở rộng cho con nhà bình dân người nào tuấn tú cũng được học. Lập Giảng vũ đường, xuống chiếu gọi học giả vào giảng Tứ Thư, Ngũ Kinh (4). 1434 Thi học sinh trong nước, lấy đỗ trên 1000 người, chia làm ba hạng : hạng nhất và nhì đưa vào Quốc Tử Giám, hạng ba cho về nhà lộ học. Đều miễn dao dịch. Cho các Giám sinh và Sinh đồ ở huyện được mang mũ áo và cho Giáo thụ Quốc Tử Giám cùng giáo chức ở các lộ được đội mũ cao sơn, trước đây đội mũ thái cổ (5). 1483 Đầu triều Lê, nhà Thái học vẫn theo nếp cũ nhà Trần, quy chế phần nhiều còn thiếu sót. Nay hạ lệnh sửa rộng ra, xung quanh có tường bao. Đằng trước nhà Thái học dựng Văn Miếu, có điện Đạt thành thờ Khổng Tử, đông, tây giải vủ thờ Tiên hiền và Tiên nho, điện Cảnh-phục làm nơi túc yết (các quan dự tế túc trực trước ngày chính tế). Đằng sau nhà Thái học dựng cửa Thái học, nhà Minh Luân (làm sáng tỏ luân lý), Giảng đường phía đông và tây, đặt thêm kho Bí thư chứa ván gỗ khắc thành sách. Bên đông và tây nhà Thái học làm nhà có tường bao cho học sinh ba xá, mỗi bên ba dẫy, mỗi dẫy 25 gian làm chỗ nghỉ ngơi cho học sinh. 1484 Bắt đầu dựng bia Tiến sĩ ở Văn miếu, dựng ngược lại từ khoa 1442 (6). 1645 Định hàng năm tu bổ hay xây dựng thêm ở Quốc Tử Giám, lát gạch, dọn cỏ v.v... Lệ cũ, hạng binh ở các huyện xã, các phường hai huyện Thọ-xương và Quảng-đức (7) phải làm những công tác này. Nay cấp thêm dân xã để trông nom, phụng sự. Chuẩn cho các huyện xã phụ trách cùng hai huyện Thọ-xương, Quảng-đức dự để tiền về công tác này chứ không bắt dân chịu (8). 1723 Cấp 60 mẫu ruộng cho trường Quốc học, các trường Hương học tùy lớn nhỏ cấp từ 16 đến 20 mẫu để lấy hoa lợi chi việc dầu đèn. 1803 Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích tuân theo chỉ dụ của vua Gia-Long ra thú thì sẽ được tha tội nhưng vẫn bị đem ra Văn Miếu kể tội (làm tôi nhà Lê mà sau lại theo vua Quang-Trung) rồi đánh đòn, Ngô Thì Nhậm bị đánh đến chết (9). Quốc Tử Giám bị vua Gia-Long bãi, đem lập lại ở Kinh. Cơ sở nhà học cũ biến thành đền Khải thánh thờ cha mẹ Khổng Tử. 1805 Xây Khuê văn các. 1827 Vua Minh-Mệnh sai quan ở Bắc thành (Thăng-long) kiểm điểm sách vở ở Văn Miếu như Tứ Thư, Ngũ Kinh, Đại Toàn, Chính sử, Tứ trường văn thể đưa vào kinh, để ở Quốc Tử Giám. * Vị trí - Phong cảnh Thời Lý, Trần, Văn Miếu dựng ở thôn Minh-giám, huyện Thọ-xương, phía tây nam phủ Phụng-thiên, trong kinh thành. Văn Miếu nằm cạnh Thái hồ. Hồ này rộng mênh mông, sau bị lấp chỉ còn phần phía nam trước cổng Văn Miếu, gọi là Văn hồ. Khu này còn có làng Văn chương vì thời Lê nho sĩ tụ tập ở Quốc Tử Giám để nghe bình văn một tháng hai lần. Khoảng 1771 cái hồ to ở trước mặt nhà Thái học gọi là ao Bích-thủy. Trước kia dân phố phần nhiều dựa lưng vào ao mà làm nhà. Học quan xây bức tường bình phong để che xe ngựa. Khi ấy Nguyễn Hoãn bổ chức Tri Quốc Tử Giám đuổi phố xá đi mà mở rộng ra, trồng cây, lát đường, lập bia Hạ mã ở trước cửa, làm cho quang cảnh nhà Thái học nghiêm trang (10). Khoảng đầu đời Tự-Đức, phía đông Văn hồ có Nho sinh quán do một Hương quan làng Minh-giám lập ra cho học trò nghèo các tỉnh tới trọ. Tương truyền chủ quán ra một vế đối, treo giải thưởng nhưng không ai đối được : Nước Văn hồ tha hồ tắm mát, Rượu Hồ đình thơm ngát đón làng Văn. (Hồ đình là cái đình hóng mát hình hồ rượu dựng trên một đảo nhỏ của Văn hồ) (11). 1865 Văn hồ đình bi ký :"Trước Văn Miếu có hồ lớn, giữa hồ có bãi Kim-châu. Khoảng năm Cảnh-trị (1663-71) Tham tụng Phạm tiên sinh (Phạm Công Trứ) từng sáng tác chùm thơ "Phân thủy thập vịnh" tả cảnh đẹp nơi đây. Thời gian lâu xa, cỏ mọc um tùm quanh hồ, lòng hồ tắc ứ ngày một cạn. Năm 1863, Bố chính Lê Hữu Thanh và Án sát Đặng Tá dựng Bi đình. Năm 1865, Đặng Án sát mua ngói lợp đình, đặt tên là Văn hồ đình. Trong đình khắc mười bài thơ "Phân thủy" của Phạm Công Trứ" (12). Đầu thế kỷ XX Pháp xây lại Hà nội, phá hủy làng Văn hồ để mở đường, xây nhà. II- Quốc Tử Giám thời Nguyễn (Huế) Năm 1803 Gia-Long bãi Quốc Tử Giám ở Thăng-long, về lập lại ở Phú-xuân. Buổi quốc sơ, dựng Văn Miếu ở xã Triều-sơn, huyện Hương-trà, ngoài kinh thành. 1759 Dời Văn Miếu qua Long-hồ, tả ngạn sông Hương, địa thế nhỏ hẹp. 1803 Dựng Đốc Học đường (cũng gọi là Quốc học đường) gồm : Đốc học Chánh đường và hai tòa nhà hai bên, do Đốc học và Phó Đốc học giảng dậy. 1808 Vì Văn Miếu ở Long-hồ nhỏ hẹp, chọn đất ở An ninh-dựng Văn Miếu mới. quy chế rộng rãi, phía tây ngoài kinh thành, gần chùa Thiên-mụ, tức là Văn Miếu ngày nay. 1820 Ngoài cửa Đại-thành đặt hai nhà : nhà bên tả là Sùng Văn, bên hữu là Duy Lễ (13). Bắt đầu xây Quốc Tử Giám ở xã An-ninh phía tây ngoài kinh thành (Văn Miếu ở phía tả Quốc Tử Giám). 1821 Làm xong Quốc Tử Giám. Phía trước là Di Luân đường nơi dậy các Tôn sinh, phía sau là Giảng đường nơi dậy các Giám sinh, hai bên tả hữu là phòng ốc cho học trò ở, bên phải cho các Tôn sinh gồm 3 gian, bên hữu cho Giám sinh gồm 16 gian (14). Bộ Lễ tâu xin đặt vị vọng bái Tiên thánh ở nhà Di Luân, Giám thần và học sinh đến bái yết rồi hàng ngày ngồi ở Giảng đường dậy để mở con đường Sùng nho thịnh vượng cho muôn đởi. Bắt đầu đặt các chức Tế tửu (hàng chánh tứ phẩm), Tư nghiệp (hàng tùng tứ phẩm), Học chính (sau cải là Trợ giáo) và Giám thừa, Điển tịch, Điển bộ (15). Sai Vũ Xuân Biều hàm chánh tam phẩm, sung chức Tế tửu, Giáp Phó Đốc học Quốc Tử Giám Ngô Trọng Vân bổ làm Tư nghiệp. Vua bảo Điều :"Nhà Quốc Tử Giám là nơi giáo dục nhân tài, ngươi nên mỗi tháng một lần tâu lên ai có tài hạnh thì cấp lương tiền để nên học nghiệp, không thì cách cho về. Lấy Hương cống triều Lê Thái Doãn Tá làm Tư nghiệp. 1822 Nhà Di Luân bị sét đánh, bộ Công phải sửa chữa. Dựng nhà cho Giám thần ở. Nhà Di Luân cùng phòng Giám sinh thì cấm đàn bà con gái không được qua lại. * Lệ cấm này cũng đã được Phạm Đình Hổ nhắc tới trong Vũ Trung Tùy Bút : "Khoảng năm Giáp Thìn, Ất Tỵ đời Cảnh hưng (1784-85), nhà Giám khi trước gập ngày mồng một, ngày rầm thường họp học trò lại bình văn, các quan đều đến hội họp, người đến nghe bình văn vòng trong vòng ngoài, đông nhu kiến. Khi ấy có một người đàn bà đến trước cửa nhà Giám muốn xin vào xem, lính canh đuổi không cho vào. Bà ta đứng trông vào trước cửa nhà Giám vái lạy mà rằng :"Chẳng hay khi xưa thánh nhân lập giáo thế nào mà nay các quan hễ hạ ngòi bút xuống phán xét một lời là không còn kêu ca vào đâu được nữa ?". Người đàn bà ấy vừa lạy vừa khóc mà đi. Ôi ! người đàn bà quê mùa ấy chẳng trách làm chi, nhưng các ngài là bậc văn học, làm nên quan mà để cho dân đến nỗi thế thì nỡ lòng nào ?" (16). 1825 Sửa nhà Di Luân, Giảng đường, nhà học Tôn sinh, dựng lại phòng ốc các Giám sinh : nhà ngói ở hai bên tả hữu đều 20 gian. Phía trước nhà Di Luân năm trước xây tường gạch, nay xây thêm tường gạch ở ba mặt tả, hữu và hậu. 1850 Dựng nhà cho Học quan phía hữu 15 gian, dựng thêm phòng ốc cho Ấm sinh, Giám sinh ở phía tả là 19 gian. 1896 Xây trường Quốc học. Dựng nơi công thổ tả doanh Thủy sư một tòa Đốc giáo đường 3 gian, 2 chái, nơi cư trú của các Trợ giáo. 1898 Thêm hai dẫy trường ốc để làm chỗ dậy học, dẫy trước 30 gian. Sau Đốc giáo đường làm nhà vuông (Di Luân), xung quanh xây la thành (tường bao). Mặt trước xây môn lâu hai từng, từng trên treo bảng khắc chữ Quốc học bằng Pháp văn, sơn đỏ thếp vàng, dựng năm 1918 (17) . 1917 Xây Quốc Tử Giám mới : Cổng vào có 4 cột đá trên treo biển gỗ "Quốc Tử Giám". Có hai phần cách nhau một lối đi chạy hết chiều ngang 176 mét 50, từ cửa Cơ mật viện đến hào của Hoàng thành. Xung quanh có tường bao vây. Chính giữa là nhà Di Luân hình vuông, chu vi 85 mét, từng dưới treo bức hoành "Di Luân Đường" chữ vàng, phía sau, bên phải đặt chuông, bên trái đặt trống to (ở kinh thành cấm đánh trống nên chỉ có chuônt báo hiệu giờ học). Từng trên treo biển "Minh Trưng Các" và "Đạo Tâm Hiên", chữ vàng. Các cửa ra vào đều lắp kính sáng sủa. Phòng rộng rãi, là nơi giảng dậy hay để các Học quan hội đồng. Phòng học ở hai bên nhà Di Luân, 4 tòa : 2 trước 2 sau. Hành lang rộng nhưng hướng đông và tây nên có nắng suốt ngày nóng nực. Xung quanh trồng cây. Khu thứ hai chia làm ba, ngăn bằng tường gạch, gồm "Tân Thơ Viện" ở giữa, có tủ sách sơn son đựng các sách chép tay của Nội các hay sách của tòa Khâm sứ. Hai bên là hai tòa nhà cho Đốc học và Phó Đốc học ở. Cách Quốc Tử Giám không xa, gần cửa đông nam, ở chân thành có hai dẫy nhà mỗi dẫy 9 phòng, mỗi phòng cho 4 người, và nhà vệ sinh cùng bếp nước. Học sinh phải tự lo liệu việc ăn uống. Khá bừa bãi, bẩn thỉu (18). III- Học Quan Đầu đời Hậu Lê có các chức Tế tửu (dùng đại thần kiêm lĩnh) và các chức Tư nghiệp, Trực giảng, Bác sĩ, Giáo thụ, Trợ giáo. Chức Đề điệu thì dùng đại thần không cứ văn hay võ. Đời Trung hưng bãi bỏ chỉ còn Tế tửu (đại thần đứng đầu Quốc Tử Giám), và Tư nghiệp (quan giảng dậy). 1647 Bắt đầu đặt chức Ngũ kinh Bác sĩ. Bấy giờ Giám sinh học Thi, Thư thì nhiều, Lễ ký, Chu Dịch, Xuân Thu thì ít nên đặt chức này để mỗi người chuyên trị một kinh dậy. Đời Bảo-thái (1720-8) Quốc Tử Giám có Giáo thụ hàm Chánh bát phẩm, Học chính hàm Tùng bát phẩm. 1767 Nguyễn Nghiễm làm Tri Quốc Tử Giám, Vũ Miên kiêm Tế tửu, Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên làm Tư nghiệp hàng ngày giảng dậy ở Quốc Tử Giám (19). 1803 Gia-Long đặt 1 Đốc học, 2 Phó Đốc học để dậy ở Đốc học đường (cũng gọi là Quốc học đường). 1804 Vua đến nhà Quốc học triệu các Học thần bàn bạc điều cốt yêu trong việc học của người xưa. Chọn con em Tôn thất từ 10 đến 15 tuổi cho vào học. Cấp lương tháng cho các quan ở Quốc Tử Giám : Chánh Đốc học được 6 quan tiền, 6 phương gạo (20), Phó Đốc học được 5 quan tiền, 5 phương gạo. 1816 Lấy Hàn lâm viện Chế cáo Nguyễn Đăng Ngạn làm Chánh Đốc học Quốc Tử Giám, Tiến sĩ đời Lê là Nguyễn Du (không phải tác giả Truyện Kiều) làm Phó Đốc học Quốc Tử Giám. Du vì già xin từ. 1821 Vua Minh-Mệnh bỏ các chức Đốc học, bắt đầu đặt 1 Tế tửu (chánh tứ phẩm), 2 Tư nghiệp (tùng tứ phẩm) và các chức phụ tá : Giám thừa, Điển tịch, Điển bộ v.v... Dụ cho Tế tửu một tháng một lần tâu, ai có tài hạnh thì cấp lương tiền học nghiệp, không thì cách cho về. 1822 Đặt hai chức Học chính ở Quốc Tử Giám (tùng lục phẩm) chuyên dậy các Tôn sinh, sai Tế tửu, Tư nghiệp chọn hai, ba người có học hạnh bổ vào. 1823 Vua triệu Đốc học Gia-định Nguyễn Đăng Sở vào bệ kiến, hỏi :"Năm ngoái có chiếu phải tiến cử Học sinh mà Gia-định không cử người nào là tại sao ?". Sở tâu :"Chiếu gửi từ thành đến trấn, từ trấn đến phủ huyện, chưa từng hỏi đến Học thần nên tuy có biết cũng không dám vượt quyền mà cử". Vua phán :"Muốn biết sĩ tử mà không hỏi Học thần thì hỏi ai ?". Lập tức hạ lệnh cho quan tỉnh chuyển sang hỏi Học thần chọn người có thể cống cử. 1880 Quan ở Giám nếu có học trò đi thi hỏng 1 tên thì giáng 1 cấp, hỏng 2 tên thì giáng 2 cấp, hỏng 3 tên thì giáng 3 cấp, được lưu lại làm việc, hỏng 4 tên, giáng 4 cấp, điều đi nơi khác, hỏng 5 tên thì cách chức (21). IV - Học Trò Danh hiệu - Học trò ở Giám có nhiều loại : a- Tôn sinh là con em trong Hoàng phái, do Tôn nhân phủ tiến cử. 1804 Chọn con em Tôn thất từ 10 đến 15 tuổi cho vào Quốc Tử Giám học. b- Ấm sinh là con các quan đại thần. 1829 Vua dụ bộ Lễ :"Đường lối thịnh trị tất phải thành tựu nhân tài mà phương pháp thành tựu là phải bồi dưỡng từ trước. Đời xưa con trưởng các công khanh đại phu và những người tuấn tú con nhà thường dân đến 15 tuổi thì vào Đại học, phép giáo dục đầy đủ. Năm trước từng cho quan văn võ tam phẩm mỗi viên được một người con vào nhà Giám học tập cùng với Giám sinh, nay chuẩn cho các con quan Kinh văn từ tứ phẩm, ngũ phẩm, thì người con trưởng được bổ làm học sinh Quốc Tử Giám. Lương bổng và quy trình giảng tập chuẩn cho các bộ bàn định, thi hành, thành tài sẽ bổ dụng. 1830 Con các quan văn học ở Quốc Tử Giám nếu cha có lỗi bị cách thì con xóa sổ ; cha bị giáng đổi thì con được lưu học nhưng chỉ cho nửa lương. c- Học sinh là học trò tuấn tú của lớp bình dân cống từ mỗi huyện phủ, khảo sát lại, có khá mới cho vào Quốc Tử Giám. 1822 Năm nay mỗi huyện cống một người Học sinh, từ sau hàng năm mỗi phủ cống một người, do quan ở Giám phúc hạch, trúng bốn kỳ thì làm danh sách tâu lên để cấp lương ăn học ở Quốc Tử Giám. Gập khoa thi Hội, quan ở Giám lại sát hạch rồi nếu đỗ thì tâu xin cho cùng với Hương cống vào thi. Người nào văn học không thông thì cho về, bắt phủ huyện cử người khác điền vào. Những người nộp quyển dự sát hạch vào lớp cao đẳng ở Quốc Tử Giám từ 1821 về trước thì các Tế tửu, Tư nghiệp gọi đến ra bài thi ở trước mặt, lấy đỗ 100 tên, chia làm ba hạng, làm danh sách do bộ Lễ đề đặt để cho làm Giám sinh, cấp tiền gạo theo thứ bực khác nhau. Lại cấp thêm cho áo lam, khi có tiết Đại khánh đều được đi chiêm bái. d- Cống sinh là Nho sĩ được chọn lọc từ mỗi tỉnh, do Tế tửu và Tư nghiệp sát hạch lại, có thực tài mới cho vào Quốc Tử Giám học. e- Hương cống / Cử nhân thi Hội hỏng, tình nguyện xin vào Giám học thì bổ làm Giám sinh, cấp mỗi tháng ba quan, hai phương gạo , 5 cân dầu. g- Giám sinh là tên gọi chung các Hương cống / Cử nhân và các Học sinh được cống cử từ địa phương, đã sát hạch lại, được theo học lớp cao đẳng. 1829 Giám sinh tọa Giám mà ốm chết thì cấp tiền tuất. A- Học quy a- Trước thời Nguyễn 1429 Định chương trình học cho Tôn sinh. Bộ Lễ thấy Tôn sinh tọa Giám nhiều người tạ sự cáo nghỉ, tâu :"Từ trước đến nay phép dậy chưa có chuẩn tắc, nên định rõ quy thức : 1) Học sinh Tôn học mỗi quý (tháng cuối mỗi mùa) xét số người học nhiều hay ít cùng nghĩa lý học thuộc hay không, văn nghệ tập tành thông hay không, chia hạng ưu, bình, thứ, liệt, do quan Học chính làm danh sách tâu lên. Hạng ưu thì tăng một nửa nguyên bổng, hạng bình như thường, hạng thứ giảm một phần ba, hạng liệt giảm một nửa. 2) Định lại lệ xin nghỉ : Phàm gập ngày húy (giỗ) cha mẹ cho nghỉ 5 ngày, cha còn hay mẹ còn thì cho 3 ngày ; gập ngày húy ông bà, cụ kỵ mà cha mẹ mình đều mất cho nghỉ 3 ngày ; đau ốm nhẹ thì điều dưỡng trong phòng, nặng thì cho nghỉ 10 ngày, chưa khỏi lại gia một hạn. Nếu vô cớ thác bệnh không ở tại phòng thì bị đánh roi. 1483 Theo chế độ cũ, con cháu quan viên người nào thi Hương trúng ba kỳ được sung vào Hiệu sinh trường học trong phủ mình, trúng bốn kỳ sung Giám sinh trường Quốc học, còn quân và dân nếu ứng thi có trúng tuyển cũng không được dự. Nay ra sắc dụ : Quân và dân thi Hương trúng ba kỳ được sung vào Sinh đồ trong phủ mình, trúng bốn kỳ được sung Học sinh trong Tăng Quảng Đường ở Quốc Tử Giám. Giám sinh thi Hội trúng ba trường thì cho sung vào Thượng xá sinh, trúng hai trường thì sung Trung xá sinh, trúng một trường thì sung Hạ xá sinh. Mỗi xá là 100 người, cấp cho tiền lương ba xá mỗi người 9 tiền. Khi bổ dùng bộ Lại và quan ở Quốc Tử Giám bảo cử, chọn bổ ba xá không phân biệt. Bọn Phó Đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm tâu :"Tiền lương ba xá xin đổi : Thượng xá thêm một tiền cho đủ một quan, Trung xá giữ nguyên 9 tiền, Hạ xá giảm một tiền, còn 8. Khi bổ dùng thì cho Thượng xá sinh ba phần, Trung xá sinh hai phần, Hạ xá sinh một phần. Vua y. 1511 Điểm mục : Các Giám sinh, Nho sinh, Sinh đồ cứ đến ngày rầm, mồng một đều phải mũ áo đến điểm mục. Phải tuân theo học quy, tập học nghiệp cho thành tài, giúp ích cho nước. Ngưởi nào dám rong chơi đường xá, trễ bỏ việc học, thiếu điểm mục một lần thì phạt 20 tờ giấy trung chỉ, thiếu ba lần thì đánh 40 roi, thiếu 4 lần thì kiểm xét tâu lên, giao cho bộ Hình xét hỏi, thiếu 5 lần thì tâu lên bắt sung quân. 1721 Định rõ quy chế việc học, phép thi khảo tại các trường Quốc học và Hương học. Tế tửu, Tư nghiệp giảng dậy, con cháu các công thần và nho sĩ đều được học. Mỗi tháng Học quan ra một bài Tiểu tập thi khảo học trò đã được vào học đo các quan Giáo thụ và Học chính quản lĩnh ; bốn tháng trọng (tháng thứ nhì trong mùa) Giám khảo ra một bài Đại tập thi khảo các học sinh và Hương cống do quan ở Quốc Tử Giám chịu trách nhiệm. Ai bốn kỳ (nội khóa, 4 tháng trọng) đều trúng tuyển thì quan ở Quốc Tử Giám đứng ra bảo cử, bộ Lại sẽ theo thứ tự bổ dụng. 1728 Đặt viên quan kiêm giữ công việc Quốc Tử Giám để cho chức trách được long trọng : mùa Xuân, mùa Hạ khảo xét phương pháp, mưu lược và việc binh của quan võ ; mùa Thu, mùa Đông khảo xét việc thảo thiên từ chương, mệnh lệnh của quan văn. Tham tụng Nguyễn Công Hãng cho là lối văn Bát cổ thu được nhiều tài lạ, muốn biến đổi thể văn, thường dẫn quan văn vào Quốc Tử Giám luyện thể văn Bát cổ của nhà Thanh để mùi giũa lấy nhiều sĩ tử. Định đến kỳ kinh nghĩa thi Hương, thi Hội sẽ dùng văn Bát cổ nhưng chưa kịp thi hành đã mất ngôi Tham tụng (22).
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:21:52 GMT 9
b- Thời Nguyễn 1823 Học sinh do địa phương cống cử đã được làm Giám sinh thì miễn thuế thân, cấp mũ văn tú tài bằng ô sa, áo dài vải đen viền bảo lam, cổ bằng lĩnh trắng, xiêm lụa lam. Bộ Lễ bàn việc giảng dậy ở nhà Giám : 1- Hàng năm sau khi khai ấn đầu Xuân một ngày thi khai giảng. Giám thần mặc mũ áo thường triều đến Di luân đường làm lễ cáo tiên sư, các Giám sinh mũ áo bồi bái. Lễ xong Giám thần đến Giảng đường ngồi, các Giám sinh thay áo làm lễ lạy chào, lễ xong ngồi nghe giảng. 2- Ngày thường thì trước giảng Kinh Truyện để rõ nghĩa lý rồi giảng chính sử, tính lý. Ngày chẵn học Tứ thư, Ngũ kinh, ngày lẻ học sử, chư tử, tính lý. Đặc biệt nên chỉ bảo những mối vinh nhục và liêm sỉ, nêu rõ những nghĩa hiếu đễ, trung tín để chính tâm thuật. 3- Hàng tháng lấy những ngày mồng 3, 9, 17, 25 làm ngày tập văn bài. Đầu bài thì theo thể văn bốn trường hoặc tập xen lối văn thù phụng. Có yết bảng để khuyến khích. Những người lười biếng thì phạt roi, tội nặng thì trình lên bộ Lễ để nghiêm trừng và ghi vào học bạ. Quá dốt có thể bị đuổi, còn những người giỏi được thưởng giấy bút . 4- Hàng năm những kỳ khảo hạch thì lấy bốn tháng trọng. Chấm phê cốt tinh tường, không thiên vị. 5- Giám sinh nếu có tệ rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, trai gái thì cho xét cử lên để cách đuổi. Kẻ nào tự tiện bỏ ra ngoài một, hai lần thì Giám thần tự trách mắng, ba lần cho xét cử lên. 6- Hàng năm ba tiết lớn (Vạn thọ, Chánh Đán, Đoan dương) các Giám sinh đều mũ áo vào sân điện Cần chính để chiêm bái. 7- Hàng năm cứ đến cuối tháng chạp, sau ngày cất ấn một ngày thì nghỉ học. Cũng tế lễ như ngày khai giảng. Vua chuẩn. 1826 Sắp thi Hội, gia ơn cho học trò mỗi người 10 quan. Sai Giám thần xét hạch ai trúng ưu, bình, thứ cho thi cùng với Hương cống, hạng liệt sung bổ thư lại nhập lưu ở các bộ, viện và tả hữu Thừa Ty các dinh trấn. Đổi cấp mũ áo Giám sinh : 1 mũ Tú tài bằng the nam, đằng trước đính một hoa bạc 1 áo tràng vạt bằng the nam mầu xanh lót lụa trắng 1 xiêm lụa mầu lam Khăn, màng lưới (buộc tóc) Hia tất. 5 năm đổi một lần. 1827 Giám sinh tọa giám được thăng bổ hay có lỗi phải cách thì mũ áo thanh khâm nhà nước phát phải chiếu lệ nộp trả, người ốm chết thì cho đem theo. 1828 Vua phán :"Mùa đông năm nay giá rét, bọn Giám sinh sách đèn cần khổ lấy gì chống rét ?", ban cho mỗi người 10 quan. 1829 Việc giảng tập thì trước giảng Ngũ kinh, Tứ Truyện, rồi Chính sử và Tính lý. Tập bài mỗi tháng chia làm bốn kỳ : ngày 3, 9, 17, 25. Sau lại cho con các quan văn hưu trí hay đã quá cố từ tứ phẩm trở lên mỗi viên được một người dự. 1835 Ban cho Quốc Tử Giám 50 bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Tiểu học thông giám, Thi sách chế nghệ, Luật phú, Thi thiếp, Tiểu học thể chú để cấp phát cho Tôn snh, Ấm sinh, Sơ học sĩ nhân. Lại sai khắc sách Tứ thư, Nhân vật bị khảo, Thi vạn tập yếu in 1000 bộ cấp thêm cho sĩ tử mượn về xem. 1836 Bộ Lễ tâu : Nhà Di Luân đặt bài vị tiên sư để làm chỗ cho học sinh bái vọng. Hàng năm khai giảng, nghỉ giảng đều làm lễ triều bái ở đó, Tiến sĩ tân khoa làm lễ Thích điện (24) cũng tại đó. Văn Miếu ở bên tả Quốc Tử Giám, bái yết ở đó mới hợp nghi. Từ nay hễ học sinh vào nhà Giám, Giám thần mặc phẩm phục đem học sinh đến Văn Miếu làm lễ cáo yết xong lại về Giảng đường làm lễ tham yết. Khi các Tiến sĩ làm lễ Thích điện cũng xin cho làm ở sân miếu mới tỏ được trang trọng, kính cẩn. Còn chỗ bái vọng xin đừng đặt nữa. Vua y. 1837 Ấm sinh học Quốc Tử Giám được một năm trở lên, kỳ khảo khóa làm đủ văn thể ba trường nếu gập kỳ thi Hương thì cho được thi, không câu nệ phải đủ hạn hai năm. Tôn sinh ở Giám từ xấp xỉ 13, phải học thuộc lòng giảng tập, lấy chuyên cần hạn định ; 20 tuổi trở lên làm một bài Kinh, một bài Truyện và văn thể khoa trường, văn sách hỏi về việc đổi hoặc điều luật. Đến kỳ khảo khóa, bộ Lễ ủy người có khoa mục cùng sát hạch, người nào ở hạng kém thì người ấy và tư giáo phải tội như lệ cũng như Giám thần, Học chính và cha anh ngày thường không biết bảo thêm. Trong một năm và trong một hệ đuổi về Tôn tịch đến ba người thì Giám thần, Học chính, Tư giáo phải tội nặng hơn. Tư chất chậm, dốt, sức học không tiến, bẩm phủ rút về. Tôn sinh như có việc, Tư giáo chuyển trình Giám thần, Học chính, gia hạn cho về thăm nhà, hết hạn không đến thì răn phạt mỗi ngày thêm một bậc, tội chỉ đến 50 roi, nếu vô cớ mà bỏ thiếu, Giám thần, Học chính và cha anh phải đem trừng trị, dung túng thì giao cho bộ nghiêm trị. 1854 Vua đến nhà Di Luân khảo xét và ban thưởng cho học trò. 1869 Định rõ chương trình Quốc Tử Giám : a- Tôn sinh chưa tập đủ thể văn, chưa phân biệt chấm câu, chấm ngắt, quan Học chính phải sớm chiều dậy bảo, hoặc đã tập đủ thể văn ba kỳ, sát hạch trúng hạng ưu,bình và đã thi Hương thì cho được cùng học với học sinh ở Giám chờ có tiến bộ, lại theo lệ cho làm Tôn sinh thượng hạng. b- Ấm sinh học ở Giám đã đỗ Tú tài thì cho hội đồng khảo hạch không câu nệ niên hạn. Hàng năm 2 tháng trọng sát hạch học sinh, khi chấm xong đem suốt cả sách học tập nửa năm trước xét kỹ học lực chăm hay lười, cân nhắc tính khấu trừ định hạng. c- Giám sinh đã được xét bổ mà chưa có nơi khuyết, trừ người tình nguyện ở lại Giám thì cho học bổng, còn thì cho về quê chờ bổ. Người mới vào Giám, tuổi 50 trở lên, chuẩn cho được chọn bổ giáo chức (25). B- Khảo hạch Khảo hạch ở Giám có nhiều loại khác nhau, tùy trình độ mà đặt câu hỏi khó hay dễ nhưng cũng không ngoài Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách gia chư tử v.v... a) Thi để được vào học ở Quốc Tử Giám : các Học sinh / Cống sinh được tiến cử từ các phủ huyện hàng năm hay vài ba năm một lần, phải qua một kỳ thi do quan ở Giám sát hạch có đỗ mới được học. Kỳ thi này cũng để xét trình độ mỗi người mà cho vào học một trong ba xá sinh. Hạng ưu,bình dù không đỗ Hương thí cũng được vào học ở Quốc Tử Giám, hạng liệt bị đuổi về. b) Kiểm soát - Những người đang học ở Quốc Tử Giám hàng năm vào bốn tháng trọng (tháng giữa mỗi mùa) phải thi để kiểm soát học lực có tiến bộ hay không. Kỳ thi này do bộ Lễ chủ trì, Giám thần và các quan Đô Giám viện khảo hạch. Sau mỗi kỳ thi đều có bản phúc trình lên vua. 1829 Bộ thần bàn : Phàm người nào được bổ Học sinh thì do quan Giám thần xét lại. Bậc nhất kiêm thông văn thể ba, bốn trường ; bậc nhì thông văn thể một, hai trường ; bậc ba chưa thông văn thể. Cấp cho bậc nhất mỗi tháng 2 quan tiền, 2 phương gạo. Cấp mũ áo. Về đề mục thì bậc nhất theo đầu đề mà tập ; bậc nhì và bậc ba thì : Chế nghĩa 6 đề, tập 1 Kinh, 1 Truyện, thơ 1 bài, phú 6 vần, văn sách tập 1, 2 đoạn văn sử. Bậc nhất hạn học 2 năm, bậc nhì hạn 3 năm, bậc ba hạn 4 năm. Nếu mãn hạn mà chưa học đủ văn thể 4 trường, chưa thi chưa trúng kỳ khảo sau 3 năm mà không được 1 ưu, 1 bình thì đều cách. Học lười, nết xấu, thiện tiện dời bỏ nhà trường thì đánh đòn. Rượu chè, cờ bạc, trai gái bị cách đuổi. Vua y. Lại cho con quan tứ phẩm trở lên hưu trí hay đã chết cho một con làm học sinh. c- Thi lấy học bổng - Những kỳ thi lấy học bổng do Giám quan và quan Học chính phụ trách. - Tôn sinh -- Thi vào 4 tháng mạnh (tháng đầu mỗi mùa), được ưu hay ình thì tùy điểm mà cho học bổng, 3 lần bị liệt thì đuổi. - Học bổng hàng tháng của Tôn sinh là 2 quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu thắp đèn. Sau khi thi : - hạng ưu được tăng một nửa học bổng - hạng thứ bị giám một phần ba học bổng - hạng liệt truất ba tháng, 2 liệt thì truất 6 tháng, 3 liệt thì đuổi. - Ấm sinh - Thi vào 4 tháng trọng (tháng giữa mỗi mùa), chia ra ba hạng, học 2 năm hay 3, 4 năm Học xong thi cũng giống Giám sinh, được thi Hương, nếu không đủ khả năng làm văn thể trường thi thì bị đuổi. Học bổng hàng tháng của mỗi hạng là : Hạng nhất (Ấm sinh thượng hạng / Thượng xá sinh) : 2 quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu Hạng nhì (Trung xá sinh) được 1,5 quan tiền, 1,5 vuông gạo, 2,5 dầu Hạng ba (Hạ xá sinh) được 1 quan tiền, 1 vuông gạo, 2 cân dầu. 4 lần "thứ" thì đuổi. Năm thứ 4 được học bổng như Giám sinh, thưởng phạt theo số điểm như nhau. - Học sinh - Như Ấm sinh. Những người được ưu, bình, chưa đỗ thi Hương, được giữ lại học ở Quốc Tử Giám, điểm xấu thì đuổi. Học bổng hàng tháng là 2 quan tiền, 1 vuông gạo, 3 cân dầu. Sau khi thi : hạng ưu tăng lên 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 5 cân dầu hạng bình được 2 quan tiền, 1,5 vuông gạo, 4 cân dầu hạng thứ được 1,5 quan tiền, 1 vuông gạo, 3 cân dầu ; 4 lần thứ thì đuổi. - Cử nhân -- Thi vào tháng trọng mỗi mùa. Được ưu hạng thì tăng học bổng, 4 lần "thứ" thì đuổi. Học bổng hàng tháng của Cử nhân là 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 5 cân dầu. Sau khi thi : hạng ưu được tăng 1 quan tiền hạng bình giảm 1 cân dầu hạng thứ giảm 1 quan tiền, 2 cân dầu, thứ bốn lần thì bị đuổi. - Giám sinh - 1826 Lệ cấp học bổng cho Giám sinh tọa Giám : hạng ưu mỗi tháng được 4 quan tiền tiền, 2 vuông gạo, 5 cân dầu hạng bình mỗi tháng được 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 4 cân dầu hạng thứ mỗi tháng 2 quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu (26). d- Hạch thi Hương, thi Hội - Ba năm một lần sát hạch trước mỗi kỳ thi Hương, thi Hội để chọn người được phép đự thi. Sĩ nhân phải khai tên tuổi, quê quán... đệ trình lên bộ Lễ rồi qua một cuộc Đình khiêu (khiêu= chọn lựa) do quan trong triều chủ trì. 1830 Lệ khảo hạch thi Hội : Trước kia các Giám sinh do quan ở Giám sát hạch rồi cho thi. Nay danh sách do quan nhà Giám dâng lên, vua sai sát hạch lại : hạng ưu được cùng thi với các Cử nhân, hạng nhì ở lại nhà Giám học tập, hạng liệt bổ làm vị nhập lưu thư lại ở các bộ. Lệ này sau bãi bỏ, vua cho là quan ở Giám hiểu rõ trình độ học sinh hơn là khảo quan chỉ thi có một ngày, hễ Giám thần chọn là được đi thi, nếu có gì thì cứ Giám thần mà trách. 1837 Ấm sinh học ở Quốc Tử Giám một năm trở lên, kỳ khảo khóa làm đủ văn thể ba trường, nếu gập kỳ thi Hương thì cho được thi không câu nệ phải đủ hạn hai năm. C- Bổ dụng 1509 Sắc chỉ : Quốc Tử Giám sinh ba xá sinh, người nào 30 tuổi trở lên thì bản quan mới được bảo cử bổ dụng. 1674 Giám sinh đã làm việc ở Giám 15 năm gọi là "thâm niên", đi thi nhiều lần, số vào đã đến thập trường (10 kỳ), nếu được quan ở Giám bảo cử, ở kinh thì được làm các chức Trưởng sử, Bạn độc, Tư nghị, Giảng dụ, Giám bạ, Tự ban, Cáp môn, Đô sự... ; ở ngoài thì làm Huyện úy, Tri châu, Huấn đạo. Sau khi nhậm chức mãn hạn hai tao ở kinh thì thăng Viên ngoại, Tự thừa, Lục sự, Huyện úy, Học chính... ; ở ngoài làm Tá mục, Đô quan... Viên nào trúng tam trường thi Hội, ở kinh thăng Lang trung, Thiếu khanh, Giáo thụ... ; ở ngoài làm Hiến phó. Nhiệm kỳ mãn hạn thăng Tham nghị (27). 1824 Chọn 10 Giám sinh giỏi giao bộ Lễ sát hạch, bộ Lại nghị bổ : quê từ Quảng-bình vào Nam làm Hàn lâm viện Kiểm thảo hay Điển bạ sung làm Hành tẩu văn phòng, quê từ Nghệ-an ra Bắc bổ Tư vụ 6 bộ. 1825 Kỳ khảo khóa tháng trọng Xuân sai Tham tri bộ Lễ Nguyễn Đăng Tuân , Ký lục Vũ Huy Đạt sung Chủ khảo, bọn Thiêm sự Trương Minh giảng12 người làm Phân khảo, đến Di Luân đường họp các học sinh tọa Giám khảo hạch. 7 người đỗ hạng ưu bổ Hàn lâm viện Kiểm thảo ; hạng bình ở lại học tập ; hạng thứ đình lương một tháng ; hạng liệt cùng những người cáo ốm trốn hạch 52 người đều bị cách. Thự Tế tửu Trần Trọng Huyến và Thự Tư nghiệp Thân văn Quyền bị giáng chức : Giám sinh Lý Trần Trinh đến trước quan điển khảo tự trần rằng hạch 5 khóa y đều được ưu mà không được tuyển, những người được cử thì có người chỉ hạng bình, hạng thứ cùng là người mới bổ. Vua cho xét lại, giáng Huyến làm Chủ sự bộ Lễ, Quyền làm Chủ sự bộ Lại. * Ngoại hạng : 1841 Nguyễn Xuân Thưởng, ngoài 60 tuổi mà không dự hạng lấy đỗ (thi Hội). Vua xem danh sách, bảo Nội các :"Nhà nước dậy nuôi nhân tài muốn được kịp thời bổ dụng, sao nỡ để cho họ chìm mãi trong nhà Học, đọc sách đến bạc đầu ư ?". Truyền cho bộ Lại sát hạch, bổ làm Huấn đạo huyện Phú-xuyên. Châtenay-Malabry tháng 3, 2004 Nguyễn Thị Chân Quỳnh Sửa lại tháng 12, 2005 Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Nơi được coi là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Ảnh: Bùi Tuấn (trích ĐHQGHN) CHÚ THÍCH 1- Một vài sử gia viết :"1076 lập Quốc Tử Giám, nền Đại học của ta bắt đầu thành hình" e không được chính xác. Những sắc lệnh thời Lê, Nguyễn, cho thấy học trò Quốc Tử Giám chia ra ba hạng : Hạ xá sinh cho những người sơ học còn chưa biết cách chấm câu, Trung xá sinh đã biết làm văn bài, có thể đi thi Hương, thi Hội và Thượng xá sinh dành cho những người có trình độ cao nhất, như Hương cống (tức Cử nhân) hay Giám sinh chuẩn bị thi Hội. Học sinh theo học cấp cao đẳng gọi là Học sinh Thượng hạng. Trần Quý Cáp tuy không đỗ Cử nhân nhưng được dự thi Hội với tư cách là Học sinh Thượng hạng). Nghìn Xưa Văn Hiến,IV, tr. 65 - Tuyển tập Văn bia Hà nội, tr. 14. Khuê là tên một vì sao trong nhị thập bát tú, chủ về văn chương, đỗ đạt cao. Trung Quốc Sử Cương, tr. 150, 271-3. Tứ thư là : Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử. Ngũ kinh là : Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu. Mũ cao sơn có từ đời Trần, tựa như mũ viễn du (cao 9 tấc, thân thẳng, đỉnh hơi lõm, có ống suốt ngang để tháo ra) nhưng không có lõm hay ống suốt. Mũ thái cổ = đời Trần, bằng vải thâm, của người mới gia quan đội. Lịch Triều Hiến Chương - Khoa Mục Chí, 12. Đời Lê, kinh thành (Thăng-long) nằm trong địa bàn phủ Phụng-thiên, phủ chia làm hai huyện Thọ-xương (trước là Vĩnh-xương) và Quảng-đức (trước là Vĩnh-thuận), mỗi huyện gồm 18 phường (Thăng-long, Đông đô, Hà-nội, tr. 46). Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr. 167. Phần đông chép là Ngô Thì Nhậm bị đem đến Văn Miếu đánh, nhưng Đại Nam Thực Lục Chính Biên lại chép là đem đến "Đốc Học Đường (Quốc Tử Giám) đánh". Tôi chép theo phần đông vì nghĩ rằng năm 1803 Gia-Long bãi Quốc Tử Giám ở Thăng-long, mà Ngô Thì Nhậm trước đã bị đem vào Huế rồi vì Gia-Long nghe Đặng Trần Thường xúi giục lại giái ra Thăng-long nghị tội, rồi bị đánh đên chết cũng năm 1803, rất có thể lúc ấy không còn Quốc Tử Giám. Đại Việt Sử Ký Tục Biên, tr. 345. Thăng-long, Đông đô, Hà-nội, tr. 51-4. Văn khắc Hán Nôm, 882. Đại Nam Nhất Thồng Chí - Kinh sư, tr. 37-8. Đại Nam Nhất Thống Chí - Kinh sư, tr. 80 - BAVH, số 1, 1917, tr. 38. Kinh sư, tr. 80. Vũ Trung Tùy Bút : nhà xuất bản Đông Nam Á ở Paris in lại bản của nhà Văn Học ở Việt Nam (1972) thiếu đoạn này. Kinh Sư, tr. 80-81. Kinh sư phân biệt Quốc Tử Giám với trường Quốc học, Thực Lục dùng lẫn lộn hai từ này. Bulletin des Amis du Vieux Hué, số 1, 1917. Tục biên, tr. 314. Có chỗ chép là phương gạo, có chỗ chép là vuông gạo. 1 phương gạo = 13 thăng hay 30 bát gạt bằng miệng, năm 1804 (theo Thực Lục, I I I, 241 - Đại Nam Điển Lệ, 223). 1 vuông gạo = 40 lít, theo Việt-Nam Tự Điển của Lê văn Đức. 1 vuông gạo = 604 gr 50, theo Nguyễn vănTrình và Ưng Trình, BAVH, số 1, 1917. 21- Đại Nam Thực Lục Chính Biên, XXXIV, 386. Lịch Triều Tạp Kỷ, tập II, tr.153. Mũ tứ phương bình đính = bằng da, bốn bề khâu giáp lại, trên hẹp dưới rộng, chóp phẳng (Cương Mục, I I I, 7).. Lễ Thích điện = cúng tế Khổng Tử. Thực Lục XXXI, tr. 309-10. Đại Nam Điển Lệ, tr. 273. Lịch Triều Tạp Kỷ, tập I, tr. 44. SÁCH THAM KHẢO Đại Nam Điển Lệ. Nguyễn Sĩ Giác phiên dịch. Saigon : Viện Đại học Saigon, Trường Đại học Luật khoa, 1962. Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh Sư. Dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo. Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1960 ; tập I I I , "Tỉnh Hà nội". Hà nội : KHXH, 1971. Đại Nam Thực Lục Chính Biên. Hà nội : Sử Học, Khoa Học, KHXH, 1962-78. Đại Việt Sử Ký Tục Biên (1676-1789). Hà nội : KHXH, 1991. Dịch giả và khảo chứng : Ngô Thế Long - Nguyễn Kim Hưng. Đinh Gia Khánh chủ biên, Thăng long, Đông đô, Hà nội. Sở Văn Hóa Thông Tin Hà nội, 1991. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Dịch giả : Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà nội : Văn Sử Địa, 1957. Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập. Saigon : Nam Chi Tùng Thư, 1966. Tái bản ở Mỹ. Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính. Dịch giả Nguyễn Sĩ Giác. Saigon : Luật Khoa Đại Học, 1961. Minh-Mệnh Chính Yếu, I. Huế : Thuận hóa, 1994. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, I. Dịch giả Cao Huy Giu. Hà nội : KHXH, 1967. Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ. Dịch giả Hoa Bằng. Hà nội : KHXH, 1975. Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Văn khắc Hán Nôm. Hà nội : KHXH, 1992-3. Nguyễn văn Trình và Ưng Trình, "Le Quoc Tu Giam", BAVH (Bulletin des Amis du Viêux Hue), No 1, 1917. Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tùy Bút. Dịch giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Hà nội : Văn Học, 1972 ; Paris : Đông Nam Á tái bản, 1985. Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Khoa Mục Chí. Tổ biên dịch : Viện Sử Học Viêt-Nam. Hà-nội : Sử Học, 1961. Phan Khoang, Trung Quốc Sử Cương. Chợ lớn : Hồng Phát; 1958 ; Đại Nam tái bản ở Mỹ. Trần Quốc Vượng, Giang Hà Vị, Nghìn Xưa Văn Hiến, IV. Hà nội : Kim Đồng, 1984. Ưng Trình, "Le Temple des Kettrés", BAVH, số 4, 1916. Vũ Tuân Sán, Ngô Thế Long, Trần văn Giáp phụ trách việc biên dịch, Tuyển tập Văn bia Hà nội, I. Hà nội : KHXH, 1978. Nguyễn Thị Chân Quỳnh
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:28:28 GMT 9
Lịch sử thi cử Việt Nam
Vietsciences- Nguyễn Thị Chân Quỳnh Thi cử Việt Nam công hay tội? Xã hội ta xưa đại để chia ra làm hai loại người : quan và dân. Quan là người giúp vua điều khiển guồng máy chính trị để đem lại trật tự, an ninh cho dân. Quan trường do Nho phái xuất thân, cách kén người ra làm quan gọi là Khoa cử. Tuy nhiên, làm quan không cứ phải theo cử nghiệp, ngoài Khoa cử ta còn có lệ Cống cử, hay Bảo cử, tức là các quan phải tiến cử những người có tài và có đức ra làm quan. Nhưng phương pháp này không cung cấp đủ người cho bộ máy hành chánh vì những người đứng ra Bảo cử, nếu lỡ tiến lầm người dở thì sẽ bị nghiêm trừng, do đó thường xuyên phải dùng Khoa cử để kén nhân tài. Khoa cử xuất hiện từ bao giờ ? Nguyễn Hiến Lê (Triết học Trung Quốc, Chiến Quốc Sách), Đào Duy Anh (Trung Quốc Sử Cương), Trần Văn Giáp (Khai Trí Tập San), Trần Quốc Vượng (Lịch Sử Việt Nam, I) đều chép Khoa cử xuất hiện ở Trung quốc từ nhà Tùy, nhà Đường (cuối thế kỷ thứ VI, đầu thế kỷ thứ VII), thời nhà Hán chỉ có lệ dân cử người hiền tài, song theo Chu Thiên (Bút Nghiên) và thứ nhất Trần Trọng Kim (Nho Giáo) thì Khoa cử bắt đầu có từ Hán Vũ Đế : "Hán Vũ Đế (140 tr. TL) ra bài sách cho những người đã trúng tuyển, trong số đó có Đổng Trọng Thư". Ta có thể hiểu là Khoa cử manh nha từ nhà Tây Hán, nhưng đến nhà Tuỳ, nhà Đường mới được khai thác và tổ chức có quy mô. Cùng chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, song Việt Nam, Cao Ly và Nhật Bản đặt ra Khoa cử từ lâu, Âu châu phải đợi đến thế kỷ thứ XIX mới dùng thi cử để kén người (1). Thời Bắc thuộc (111 tr. TL-938) văn hoá cổ của ta - và có lẽ cả chữ Việt cổ - dần dần bị chính sách đồng hoá của Trung Hoa hủy diệt (2). Chữ Hán được nâng lên địa vị chính thức. Tuy vậy, người Nam muốn học cao và thi cấp trên vẫn phải sang tận Trung quốc. Năm 845, vua nhà Đường lại hạn chế số sĩ tử của ta sang thi khoa Tiến sĩ không được quá 8 người, thi khoa Minh kinh (giảng giải kinh sách) không được quá 10 người (3). Người hiển đạt thời ấy còn hiếm nhưng không phải là không có, chẳng hạn : Đời Hán Minh Đế (58-75) có Trương Trọng, người Giao chỉ, du học Lục dương, rồi làm Thái thú Kim thành. Đời Hán Linh Đế có Lý Tiến, người Giao Châu, khoảng 184-89 được làm Thứ sử Giao châu (như Thủ hiến), Sĩ Nhiếp lúc ấy làm Thái thú. Đời Đường có Khương Thần Dực, người quận Cửu chân, làm Thứ sử châu Ái (Thanh Hoá). Hai người cháu du học kinh đô Tràng An, cùng đỗ Tiến sĩ : Khương Công Phục làm đến Bắc bộ Thị lang, anh là Khương Công Phụ làm đến Gián nghị Đại phu dưới Đường Đức Tôn và Đường Thuận Tôn (4). Sang thời tự trị, sau khi chỉnh đốn việc nước, năm 1075 vua Lý Nhân Tôn mở khoa thi Tam trường (thi Đại khoa gồm ba kỳ) đầu tiên ở nước ta, mô phỏng theo Khoa cử của Trung quốc. Dần dần về sau, các triều Trần, Hồ, Lê, Mạc v.v... cải sửa thêm, đến đời Lê Thánh Tôn, thế kỷ XV, Khoa cử cực thịnh. Từ Lê Trung Hưng (1533-1787), trở đi, Khoa cử ngày càng xuống dốc, thiên về hư văn. Những điểm khác biệt với Trung quốc Tuy rập theo khuôn mẫu của Trung Hoa, song Khoa cử ở Việt nam cũng có những điểm dị biệt : 1) Trước hết, ngoài Bắc sử, ta phải học thêm Nam sử để biết rõ thêm những gì đã xảy ra ở nước mình. 2) Tuy chữ Hán giữ địa vị chính thức ngay cả thời tự trị, nhưng ta đã dựa vào chữ Hán đặt ra một thứ chữ riêng để viết thêm những âm không có trong chữ Hán, gọi là chữ Nôm (có lẽ do chữ "Nam" đọc trệch đi). Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người đầu tiên đem ra dịch Kinh sách từ thế kỷ thứ XIV, mãi đến 1565, đời Mạc Mậu Hợp, mới dùng chữ Nôm lần đầu trong một khoa thi Tiến sĩ (đề mục kỳ đệ tứ là một bài phú Nôm), và phải đợi đến Quang Trung mới dùng chữ Nôm trong khoa th Hương đầu tiên ở Nghệ Ani, Nguyễn Thiếp, tức La Sơn Phu Tử, làm Đề Điệu (thời ấy Chánh khảo là quan văn, gọi là Đề Điệu, sau này chức Đề Điệu trỏ vào một quan võ trông coi trật tự trong trường thi). Nhờ biết sử dụng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, ta đặt ra loại chơi chữ rất độc đáo, người Tầu không thể có được, chẳng hạn trong câu : Da trắng vỗ bì bạch " bì " = da, " bạch " = trắng, là chữ Hán, nhưng " bì bạch " lại là chữ Nôm khi mô tả tiếng vỗ trên da thịt. Câu này rất khó đối, mãi gần đây mới thấy ông Phan Ngọc đưa một vế đối chỉnh của một người bạn : Rừng sâu mưa lâm thâm 3) Trung quốc cho thi Tú tài riêng gọi là Phủ thí, năm sau thi Cử nhân gọi là Hương thí, nhưng ở Việt Nam, ít nhất cũng dưới triều Nguyễn, Cử nhân và Tú tài thi chung, người đỗ gọi là Cử nhân, người hỏng nhưng được xếp cao cho đỗ Tú tài, trung bình cứ lấy đỗ một Cử nhân thì lấy đỗ ba Tú tài. Tú tài được miễn dịch vụ cùng sưu thuế, nhưng không được phép thi Hội (6). Ở Trung quốc danh từ "Sinh đồ" chỉ những người từ nhà học, nhà hiệu tại các châu, huyện cử ra, Cống cử hay Hương cống không do nhà học, nhà hiệu ra, mà do trúng tuyển, trong khi ở Việt Nam, thi Hương trúng ba trường thì gọi là Sinh đồ (ông Đồ), sau gọi là Tú tài, đỗ cả bốn trường thì gọi là Hương cống (ông Cống), sau gọi là Cử nhân. 4) Chu Xán, Thị lang bộ Lễ nhà Thanh, sang sứ Việt Nam năm 1688, về ghi trong Sử giao ký sự : "Trường thi nước ấy không có nhà làm sẵn, sĩ tử phải ngồi trong lều phục xuống đất mà viết" (7). Mãi tới 1843, vua Thiệu Trị mới cho xây trường thi bằng gạch đầu tiên ở Thừa Thiên. Trước đó, mỗi khoa thi người ta xây trường sơ sài nhà tranh vách nứa để sau khi thi phá bỏ lấy đất trồng trọt, nhưng bởi là đất công, không ai chăm bón, nên cây cằn cỗi, đứng xa thấy cả khu trường thi nổi bật lên một mầu vàng úa giữa đám cây cối xanh tươi xung quanh. 5) Theo Lê Quý Đôn, triều đình ta " đối với những người thi đỗ đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao...so với việc đặt Khoa mục ở Trung quốc từ xưa đến nay chưa từng có ". Công hay tội ? Trong non một ngàn năm tự trị, Nho học và Khoa cử đã đào tạo được nhiều bậc khoa bảng ngoài sự nghiệp văn chương đều có công giúp nước, triều nào cũng có, xin tạm nêu ra : Đời Trần có Chu Văn An ( ?-1370) đỗ Tiến sĩ, giữ chức tư nghiệp (dạy ở Quốc Tử Giám, tức trường Đại học của ta), dạy Thái tử và con các Đại thần, dâng sớ " thất trảm " đòi chém 7 kẻ gian thần, vua không nghe, ông treo mũ từ quan. Sau được thờ trong Văn Miếu, tức là nơi thờ phụng Khổng Tử, ông tổ đạo Nho. Đời Hồ có Nguyễn Trãi (1380-1442) đỗ Thái Học Sinh (như Tiến sĩ). Sau khi giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, ông viết bài "Bình Ngô Đại Cáo" được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta (8) và là tác giả nhiều thơ văn Hán Nôm còn lưu truyền. Đời Nguyễn có Nguyễn Công Trứ (1778-1859) đỗ Giải nguyên, thi Hương (1819), lập nhiều công lớn và đặc biệt khai khẩn đất hoang miền duyên hải Nam Định và Ninh Bình, lập ra hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn, và hai tổng Hoành Thu, Minh Nhất. Nhờ có một tổ chức giáo dục và Khoa cử sớm hoàn bị, nước Việt Nam xưa được coi là một nước văn hiến. Thế mà chỉ mới bị bãi bỏ có hơn 70 năm, ngày nay phần đông chúng ta không mấy ai biết đến Khoa cử nữa. Hoặc chúng ta mỉm cười chế giễu, hoặc chúng ta lên án nghiêm khắc. Trong Việt Nam quốc sử khảo Phan Bội Châu viết : "Trung quốc bỏ Khoa cử từ năm Canh Tý (1900)(9), Triều Tiên bỏ từ năm Giáp Ngọ (1894), đó là một việc nhơ nhớp duy chỉ nước ta còn có mà thôi" và "người ta mửa ra, mình lại nuốt vào". Vì sao cha ông ta lại quá nặng lời như vậy ? Có phải vì các vị quá phẫn uất trước thảm bại của nước nhà trong tay quân viễn chinh Pháp, mà giới lãnh đạo của ta lúc ấy do Khoa mục xuất thân, cho nên cha ông ta quy hết mọi tội cho Khoa cử đã đào tạo ra một lũ hủ Nho, mở miệng chỉ biết "chi, hồ, dã, giả", và một đám tham quan ô lại, chuyên bắt nạt dân đen, nhưng trước họng súng của Tây phương thì lại bó gối, cúi đầu, khiến cho lòng người chán nản, hết tin tưởng ở giai cấp lãnh đạo mà họ vẫn phục tùng xưa nay, do đó chúng ta phủ nhận luôn cả những khía cạnh tích cực của Khoa cử ? Đành rằng Khoa cử ngày một hủ bại, không thiết thực, chuộng hư văn, nhưng có thật lỗi ở Khoa cử hay ở người áp dụng nó ? Con dao nào dùng mãi cũng cùn, ta không biết mài lại cho nó sắc lại đổ lỗi cho dao xấu, đi mua dao khác thay thì suốt đời còn phải thay. Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương, viết : "Xem việc thi cử hay hay dở thì biết nước thịnh hay suy ". Thời thịnh của Khoa cử là thời kẻ sĩ coi nó chỉ là phương tiện, tạo điều kiện cho mình thi thố tài năng giúp đời, đạo đức vẫn là chính, văn học chỉ là thứ yếu (" văn " phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả chính trị, mưu lược quân sự, kinh tế, triết học v.v...chứ không phải chỉ học làm thơ suông). Mục đích dạy " văn " là để đào tạo ra hạng người có kiến thức, có mưu trí, có tài ứng đối mẫn tiệp, biết cách cư xử khôn khéo trên chính trường ngoại giao. Đã đành ngày nay tin tưởng văn thơ có thể đuổi được giặc là chuyện buồn cười, song ta không nên quên rằng chính trị, ngoại giao thời xưa rất khác, văn học không phải là chuyện phù phiếm. Ngày nay chúng ta thường băn khoăn tự hỏi sao tổ tiên ta lại hồ đồ kén chọn người ra gánh vác việc nước bằng văn thơ ? Đọc lại những sự kiện lịch sử còn được lưu truyền thì thấy dù trong thời tự trị, ta vẫn bị Trung quốc đàn áp, nay đánh, mai doạ, tuỳ ta yếu hay mạnh. Họ lại thường dò xét xem ta có nhân tài hay không bằng cách đưa ra những câu đố hiểm hóc, những bài thơ oái oăm bắt giảng và họa lại, nếu ta hiểu và đối đáp trôi chảy, có khí phách, họ kết luận nên lui binh, cho hoà. Thí dụ thời nhà Mạc, quân Minh kéo sang định thôn tính nước ta. Tướng Mao Bá Ôn đóng quân ở cửa nam Quan, làm bài thơ "Cái bèo" đưa sang, ngụ ý khinh người Nam như cái bèo, phải một trận gió là tan. Sư Giáp Hải, đỗ Trạng nguyên, được cử ra làm thơ hoạ lại, hàm ý ta không sợ vì không thiếu nhân tài (dưới lớp bèo) "nào cá, nào rồng trong ấy ẩn", ta sẵn sàng ứng chiến. Bá Ôn đọc xong, rút quân về (10). Thư sinh không thể làm tướng thì làm sứ. Trạng Bùng Phùng Khắc Hoan (1528-1613) đi sứ cũng nhờ văn tài làm vua quan Tầu kính phục, không những khiến họ lui binh, mà nước ta từ đó thoát khỏi phải cống hiến nước giếng Trọng Thuỷ để rửa ngọc trai, và người bằng vàng đúc (11). Gần ta hơn, năm 1789, vua Quang Trung (1752-92), trước khi đại thắng quân Thanh đã tuyên bố : "Chỉ trong vòng mười ngày nữa thế nào ta cũng quét sạch quân Thanh, nhưng nước Thanh lớn hơn ta gấp mười lần, bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ binh lửa liên miên thật không phải hạnh phúc cho dân, lòng ta sao nỡ ? Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo "dùng ngọn bút thay giáp binh" (lấy lời lẽ khéo léo để giảng hoà, đẩy lui quân địch). Việc ấy phi Ngô Thời Nhậm (1746-1803) không ai làm nổi. Đợi mươi năm sau, ta đủ thì giờ gây nuôi, nước giầu, dân mạnh thì ta có sợ gì nó ? " (12). Quang Trung thành công một phần nhờ tài biết dùng người. Quả nhiên sau này khi cầm đầu phái bộ ta sang Trung quốc, Ngô Thời Nhậm chứng tỏ Quang Trung không lầm người. Lúc tiến vào cửa Sứ quán, thấy hàng chữ đề "An Nam di sứ công quán" (Công quán của Sứ bộ xứ man di An Nam) Ngô Thời Nhậm không chịu vào, nói : "Ta không phải đại diện cho một xứ man di, nên không vào Sứ quán ấy". Quan nhà Thanh chữa rằng đối với Trung quốc thì tất cả đều là man di, mọi rợ hết, Ngô Thời Nhậm cười rằng : "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (trâu tìm trâu nhập bọn, ngựa tìm ngựa nhập bọn). Phải chăng Đại quốc là mọi rợ khác ?". Nhà Thanh đành phải sửa lại cái biển thành "Nam quốc Sứ quan Công quán", lúc đó Ngô Thời Nhậm mới chịu dẫn đoàn ngoại giao của ta bước vào (13). Những lỗi lầmBất cứ một chế độ nào dù hay đến đâu cũng phải có ngày suy. Một trong những lỗi lầm lớn của Khoa cử là quá trọng đãi những người thi đỗ, vô hình trung tạo ra hạng người học chỉ vụ lấy đỗ, còn đạo nghĩa trong kinh sách thì không mấy quan tâm đến. Lê Quý Đôn đã tóm thâu cái học của họ trong câu "thi thiên, phú bách, văn sách, năm mươi" nghĩa là chỉ cần học thuộc lòng 1000 bài thơ, 100 bài phú và 50 bài văn sách là đủ vốn để dựa theo đó làm văn bài và thi đỗ ! Vì quá phục văn hoá Trung Hoa, vì khiêm tốn tin rằng chỉ bậc thánh mới xứng đáng viết sách dạy học và những gì đáng viết đều đã có trong kinh sách, cho nên ngoại trừ Nam sử và vài cuốn sách vỡ lòng như "Nhất Thiên Tự " (sách 1000 chữ), " Tam Thiên Tự " (sách 3000 chữ) v.v...ông cha ta ít dám viết sách dạy học. Phần đông khi học lại chỉ vận dụng trí nhớ để học thuộc lòng, thiếu óc suy luận, không tìm hiểu nghĩa thâm thuý bên trong mà chỉ áp dụng cái vỏ bên ngoài. Chẳng hạn cho rằng đã làm con thì phải thực hiện tất cả mọi ý muốn của cha mẹ mới là có hiếu. Sự thực , "Đức Thánh Khổng" có dạy như thế không ? Cổ Học Tinh Hoa chép rằng Tăng Sâm, một trong những học trò giỏi của Khổng Tử, một hôm bừa cỏ lỡ tay làm đứt mất một ít rễ dưa, cha giận cầm gậy đánh. Tăng Sâm đau quá gục xuống một lúc mới hồi lại. Về nhà thưa với cha rằng : "Lúc nẫy con có tội để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo". Nói xong lui xuống, vừa gẩy đàn vừa hát, có ý để cha biết rằng mình không còn đau. Khổng Tử biết chuyện cấm cửa không cho Tăng Sâm vào. Sâm tự nghĩ mình vô tội, nhờ bạn đến hỏi vì cớ gì mà thầy giận. Khổng Tử nói : "Ngày trước, ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì thì ở luôn bên cạnh, lúc cha giận giữ thì lánh xa, lúc cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu, đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm liều mình chịu đòn đến nỗi ngất đi để chiều cơn giận của cha, nếu lỡ cha đánh chết thì có phải khiến cho cha mắc tội không ? Tội bất hiếu còn gì to hơn nữa ?" Bàn đến chữ "trung" nhiều người tin rằng đạo làm tôi phải hết sức phục tùng vua, vua trái thì can hoặc treo mũ từ quan, vua giết thì cam chịu chứ không được chống đối. Cao Bá Quát chống lại triều đình lập tức mang tiếng "giặc" (giặc châu chấu). Khổng Tử tuy nói rằng vua thay trời trị vì dân, dân phải phục tùng, nhưng cũng nói vua có bổn phận của vua, tức là phải chăm lo hạnh phúc cho dân. Mỗi khi vua ở trái đạo thì Trời ra tai (lụt lội, đói kém) hoặc sinh ra những chuyện bất thường (nhật thực, nguyệt thực v.v...) để thức tỉnh. Lúc ấy vua phải ăn chay, sám hối, sửa đổi đường lối chính trị, phóng thích tù nhân, phát chẩn cho người nghèo để chuộc lỗi. Thuyết này tuy hoang đường nhưng có công dụng là kiềm chế được phần nào các "đấng quân vương" còn chút ít lương tâm. (Giở sử ra, ta thấy nhan nhản những vụ như sau : " Năm 1345, tháng tư, tháng năm đại hạn. Ra lệnh ân xá cho tù nhân "). Mạnh Tử còn đi xa hơn Khổng Tử với câu : "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Nho học chủ trương lập đức là chính, học đạo để thành người quân tử. Lúc đầu chữ " quân tử " trỏ vào đám quý tộc cầm quyền chính, sau Không Tử cho rằng chỉ những người có đức hạnh mới xứng đáng cầm quyền, nên người quân tử cũng trỏ vào những người có đức hạnh. Nhà Nho sở dĩ trọng sự thanh bạch cũng vì tin rằng cái nghèo luyện cho ta bớt kiêu căng, bớt xa xỉ, bớt lười biếng, tóm lại là gây nhân cách cho con người. Một ông quan nghèo chắc chắn là một ông quan thanh liêm, không tham nhũng cho nên mới nghèo. (Paul Doumer chép trong Hồi Ký rằng Phan Thanh Giản Làm quan to mà lúc chết vẫn chỉ có một túp nhà tranh đơn sơ). Tuy nhiên, trong thực tế, hạng này càng ngày càng hiếm, mà hạng vơ vét của dân làm giầu thì càng ngày càng nhiều, bởi đạo hạnh đã kém mà tục lệ khao vọng của ta lại nặng nề, khiến người thi đỗ mang công mắc nợ, đã thế nếp sống nhà quan thường xa hoa trong khi lương bổng ít (14) cho nên "túng thì phải tính". Ca dao ta có những câu chua chát : Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình Ba Bộ đồng tình cướp gạo con tôi ! hay : Con ơi, nhớ lấy câu này : Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan ! đủ nói lên tình trạng đám quan lại khi đạo suy. Nho giáo coi việc tu thân là cần, giữ sao cho tính tình lúc nào cũng điềm đạm, ôn hoà, cho nên nhà Nho khinh những người cậy sức khỏe lấn át kẻ khác. Nhà Nho chỉ "đấu khẩu" chứ không thèm "đấu chân tay", chê các võ quan là hạng "vai u, bắp thịt, mồ hôi đầu", "có khỏe mà chẳng có khôn", hoặc "văn thời tứ phẩm đã sang, võ thời nhất phẩm còn mang gươm hầu"... Lâu dần thành thói quen "trọng văn, khinh võ". Việc dụng binh trong nước coi là bất thường, thời bình cho quân lính ở nhà cấy ruộng, hữu sự mới triệu ra, cho nên quân sĩ thiếu luyện tập. Vì tin rằng con người quý ở chỗ tinh thần thảnh thơi, không bị cái "hình dịch" (đeo đuổi công danh, phú quý để phục vụ cho hình xác) nó làm cho quay cuồng, nên ta coi rẻ phú cường mà cầu an lạc, không chú trọng đến khoa học thực tiễn, không lo mở mang kinh tế cho nước giầu mạnh mà chỉ lo nhẹ thuế cho dân an vui là đủ. Từ ưa hoà bình thanh nhàn, ta biến dần thành tính cầu an, rồi nhẫn nhục, và sau cùng đi đến chỗ hèn yếu. Khi va chạm với súng ống tối tân của Tây, thảm bại là cái chắc. Tuy các quan ta không thiếu người có khí tiết, nhưng vì quá khinh ngành võ, lại thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm chiến đấu nên tỏ ra hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của quân Pháp. Cái mớ kinh nghiệm trị nước bằng đức, đối ngoại bằng văn tài của tiền nhân để lại không còn thích hợp nữa nên Hoàng Diệu (1828-82), Nguyễn Tri Phương (1796-1867) v.v...chỉ đành đem cái chết để tỏ lòng mình. Hoang Dieu Chính sánh "bế quan tỏa cảng" càng khiến ta thu hẹp tầm mắt, chỉ biết có văn minh Trung Hoa, ngoài ra không coi ai ra gì, tự kiêu, tự mãn cho mình là văn minh, không thèm học hỏi thêm. Nguyễn Tường Tộ viết : "mỗi khi chê Tây nhỏ yếu, thì mọi người hân hoan, vui vẻ, còn nói sự thật thì lập tức bị thoá mạ, nghi là ăn hối lộ của Tây, vì thế ai cũng cắn răng ngậm miệng, không dám nói sự thật" (15). Phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ Pháp về kể lại những chuyện mắt thấy tai nghe xứ người thì bị coi là nói chuyện hoang đường : "làm gì có thứ nước chảy từ dưới lên trên (nước phun trong công viên), và đèn gì lại chúc đầu xuống mà vẫn cháy được?". Chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ Tây phương đặt ra, lại do một lớp thông phán thiếu đức độ sử dụng lúc đầu, cho nên một số người cho học chữ Quốc ngữ là " vong bản ", thà bỏ thi cử khi Quốc ngữ trở nên bắt buộc, chứ không thèm học loại chữ " con nòng nọc ". Hành động này tuy do lòng nhiệt thành ái quốc mà ra song là một hành động quá khích bởi chữ Hán cũng đâu phải chữ của ta ? Cải cáchNgày nay ta chê Khoa cử "dùng thơ phú để kén nhân tài" có hơi oan cho Khoa cử . Thực ra thi Hương cũng như thi Hội bao giờ cũng có một kỳ thi văn sách (có chỗ chép là vấn sách) gồm hai phần : Cổ văn hỏi về chính sự và sử Trung quốc. Kim văn hỏi về chính sự hiện tại của nước nhà. Thí dụ : Năm 1868, đầu bài Kim văn thi Hội là : "Quân xâm lăng (Pháp) hiện nay càng ngày càng gây hấn, đồn luỹ dựng lên khắp nơi, vậy nên đánh hay nên hoà?"(16). Ngô Thì Sĩ trong bài tự trướng mừng Lê Quý Đôn đỗ Bảng nhãn cũng viết : "Thi văn sách, chuyện được mất xưa nay, điều hay điều dở của chính sự, chỗ cao thấp của nhân tài, sự khoan nghiêm của pháp lệnh, điều nào ông cũng lần lượt trình bầy rõ ràng, rành mạch, tuyệt vời, tỏ ra hiểu sâu kinh, rộng sử, bác cổ thông kim"(17). Có người trách Phan Thanh Giản (1796-1867), Chánh Sứ 1863, sang Pháp để xin chuộc ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Ông sinh ở Vĩnh Long, năm 1825 đỗ Cử-nhân, 1826 đỗ Tiến-sĩ. Được cử làm Phó-sứ sang Tàu năm 1832, làm quan đến chức Hiệp-biện Đại học sĩ, sung Vĩnh long Kinh lược sứ ( 1866), tùng nhất phẩm. Năm 1867, sau khi mất nốt ba tỉnh Vĩnh-Long, An-Giang và Hà-Tiên, ông để lại một bức thư trần tình rồi xếp đồ triều phục, các đạo sắc gửi trả về Kinh, tuyệt thực 17 ngày không chết, sau phải uống thuốc độc. Triều đình luận tội, cách chức đục tên ông trên bia Tiến-sĩ, mãi năm 1886, vua Đồng Khánh mới cho ông phục chức.Ông để lại chừng 10 bộ sách Hán văn và một ít văn quốc âm. Trích trong Khoa-cử ở Việt-Nam (chưa in) Phan Thanh Giản nhường ba tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long cho Pháp năm 1867, dù chết cũng không đủ chuộc tội. Nhưng đứng trước hoả lực tối tân của Pháp, mưu lược hay đến đâu mà không có vũ khí tốt đi kèm cũng khó mà thắng huống chi lại là mưu lược chỉ thích hợp cho một đường lối hành quân cổ xưa và một nền tâm lý khác hẳn. Thử đem những người tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị của Pháp chẳng hạn, bảo họ cầm quân xuất trận xem họ có lúng túng hay không ? Nếu họ cũng giỏi như những người tốt nghiệp trường võ bị Saint Cyr thì chẳng hoá ra học Saint Cyr là thừa ư ? Phan Thanh Giản tuẫn tiết tỏ ra không tham sinh, uý tử, nhường ba tỉnh cho Pháp tất nhiên không phải vì tư lợi mà muốn tránh cho dân khỏi chết thêm trong một cuộc chiến tuyệt vọng. Giáo dục của ta không phải chỉ dạy toàn ngâm thơ, vịnh nguyệt, nhưng đối với thời nay quả có thiếu phần thực dụng, cần phải canh cải. Song không phải mãi sau khi đụng chạm với Tây phương ông cha ta mới tỉnh ngộ. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly đã sáng suốt muốn ly khai ảnh hưởng Trung quốc bằng cách nâng cao địa vị chữ Nôm lên. Năm 1393, Quý Ly soạn sách Minh Đạo bằng chữ Nôm bàn về các nhân vật và kinh điển đạo Nho, chê các danh Nho đời Đường, đời Tống chỉ biết chắp nhặt văn chương, học rộng mà viễn vông. Sách dâng lên Thượng Hoàng Nghệ Tông khen, nhưng bị phe bảo thủ chỉ trích trong đó có vài học quan ở Quốc Tử Giám. Năm 1395, Quý Ly dịch thiên "Vô Dật" trong Kinh Thư ra dạy vua ; 1396 làm sách Thi Nghĩa bằng Nôm (giảng nghĩa Kinh Thi) cho nữ quan dạy các hậu phi và cung nhân (18). Những cố gắng cải cách của Quý Ly không thu lượm được mấy kết quả vì nhà Hồ mất sớm, sách vở viết ra lại bị quân Minh đốt sạch. Gần ta hơn có Lê Quý Đôn cũng muốn cải tổ Khoa cử và văn học. Song ngay lớp sĩ phu thời đó cũng chưa mấy ai thấy rõ tầm quan trọng của các đề nghị cải cách. Ngược lại, lợi dụng danh nghĩa cải cách, tự do, một Thí sinh đùa bỡn viết ngay vào quyển thi : May sinh gập thời bình, Thần xin lấy ba vợ (19). Đầu thế kỷ XIX, Cao Bá Quát (1808-54/55) khi đi sứ Tân Gia Ba có dịp mở rộng tầm mắt, đã choáng người trước " Tầu thủy Hồng mao ", làm ngay một bài thi ca tụng, rồi tự phê phán : " Đáng phàn nàn cho ta bấy lâu chỉ lo đóng cửa gọt rũa câu văn, lải nhải từng câu từng chữ có khác nào con sâu đo muốn muốn đo cả Trời Đất ? " (20). Phạm Phú Thứ (1820-1881), Phó Sứ (44 tuổi) Ông người Quảng-Nam, đỗ Tiến-sĩ năm 1843, năm 1863 giữ chức Tham tri bộ Lại, tùng nhị phẩm. Năm 1866 làm Hộ bộ Thượng-thư, năm 1876 Tổng đốc Hải Dương. Ông nổi tiếng vì có óc duy tân. Ngụy Khắc Đản (1815-?, Bồi sứ (48 tuổi) Ông sinh ở Nghệ-An đỗ Cử-nhân năm 1841, Thám-hoa năm 1856. 1863 giữ chức Thị lang bộ Hình, tùng tam phẩm. Chính vua Minh Mệnh cũng nhận xét : "Văn cử nghiệp chỉ câu nệ những cái hủ sáo... học như thế trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi ?" Một số người cho rằng Khoa cử bị bãi bỏ là do người Pháp cưỡng ép, thực ra giới trí thức của ta lúc ấy nhao nhao đòi cải tổ giáo dục và Khoa cử : Nguyễn Tường Tộ (1830-71), Phạm Phú Thứ (1820-81), Phan Bội Châu (1867-1940), Trần Quý Cáp (1870-1908) vv đều xin cải sửa, đặc biệt có Trần Bích San (1840-78) đỗ tới Tam Nguyên cũng xin bãi Khoa cử. Phan Chu Trinh xuất thân Nho học, đỗ Tiến sĩ, mà lên án Hán học rất nặng lời : "Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc !" (không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam). Phương Sơn sửa lại : "Bất chấn Hán học, bất túc dĩ cứu Nam quốc" (không chấn hưng Hán học thì không cứu được nước Nam). Khoa cử hủ bại, chúng tôi đồng ý về điều ấy, còn Hán học đã đào tạo ra biết bao anh hùng, liệt sĩ thì sao ta lại phế bỏ đi? (21). Huỳnh Thúc Kháng (1876-1948) tuy kết tội Khoa cử, nhưng công nhận phần lớn lỗi ở người học đạo không đến nơi : "Mình nhận lối học Khoa cử cùng lối học Tống Nho làm lối học Khổng, Mạnh, chính là chỗ hư, chỗ hở của người Tầu mà mình bắt chước ". Rõ ràng Huỳnh Thúc Kháng chỉ phê bình lối học "tầm chương, trích cú" chứ không nói trùm lấp cả lối kén người bằng thi cử, và chính ông đã ca tụng cái học cùng Khoa cử đời Trần, nhìn nhận nó gần chánh đạo. Lại cũng chính ông nghiêm khắc lên án thái độ của một số người theo Tân học : Chẳng qua ngày trước nói Khổng, Mạnh thì ngày nay thay vào Hi lạp, La mã, Mạnh đức thư cưu (Montesquieu), Lư thoa (Rousseau), đổi cái "chi, hồ, dã, giả" bước sang "a, b, c, d". Phan Chu Trinh còn gay gắt hơn : " Ngày trước học chữ Hán thì làm hủ Nho, ngày nay học Tây thì làm hủ Âu" (22). Thế là thế nào ? Khoa cử đã bị bãi bỏ, chương trình cải cách đã được áp dụng, tại sao hai vị còn chưa vừa lòng ? - Ấy là vì cả hai đều nhận ra cái cái óc học để làm quan của ta vẫn còn, và cái óc ấy không hẳn là " độc quyền " của Hán học và Khoa cử.. Người ta thích làm quan để được giàu sang, trọng vọng. Xưa kia các bà, các cô có phải chỉ tham "cái bút, cái nghiên" suông đâu ? Tham là tham một bước lên quan khi "anh Đồ" thi đỗ đấy chứ. Bởi thế khi Khoa cử tàn, các cô bèn "xếp bút nghiên" lại, không phải để "lên đường tranh đấu" mà là để tuyên bố "Phi Cao đẳng bất thành phu phụ !" Ta chê Khoa cử, thực ra là chê cái học thiếu thực dụng, chứ còn cách dùng thi cử để kén nhân tài thì ngày nay trên khắp thế giới vẫn phải dùng đến. Khoa cử tương đối công bằng và bình đẳng, ít ra cũng hơn chế độ "con vua thì lại làm vua". Trong Hồi ký, Paul Doumer nhắc đến trường hợp một người con nông dân được lấy đỗ trong khi một người khác con quan lại bị đánh trượt mặc dầu văn tài hai người suýt soát nhau, để chứng tỏ các quan trường không tư vị. Song Khoa cử chỉ tương đối công bằng, con nhà "xướng ca vô loài" chẳng hạn, không được đi thi. Đào Duy Từ thi Hội đỗ, chỉ vì cha là người cầm đầu đội nữ nhạc trong cung vua Lê mà bị đánh hỏng, ai dám bảo là công bằng ? Phụ nữ cũng không được phép bén mảng đến trường thi, thậm chí dự một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng bị đuổi ra (23) thì bình đẳng ở chỗ nào ? Phong trào duy tân ngày một lan rộng, nhất là từ khi ta thấy Nhật trở nên hùng cường nhờ Âu hoá, thắng được quân đội Nga và Trung Hoa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Ngày nay chúng ta bỏ hẳn Hán học, theo Tây học, song một số không ít đã nhận thấy đời sống Âu, Mỹ tuy đầy đủ tiện nghi, nhưng con người quay cuồng, phờ phạc vì công ăn việc làm, lúc nào cũng vội vã, sắp đặt thì giờ từng giây, từng phút, đến nỗi không biết gì đến sinh thú nữa. Đời sống vội vã, căng thẳng ấy chưa hẳn đã thích hợp với tâm hồn của ta. Mặt khác, cái học Đông phương quá chuộng thanh nhàn, coi rẻ đời sống vật chất nên người dân phải vất vả, lầm than, thiếu đủ thứ cũng không tạo được sự an lạc cho họ. Cho nên cuối cùng tất phải đi đến một giải pháp dung hoà. Song dù giầu hay nghèo, dù sang hay hèn, phần đông dân ta đều trọng tình cảm và đạo đức, khiến người ngoại quốc phải kính trọng. Đấy là do ảnh hưởng một phần không nhỏ của Nho giáo đã thấm đến cốt tủy của ta, kể cả những người không trực tiếp học đạo. Nho học đã tạo ra một từng lớp sĩ phu có khí tiết, đức độ, rất có uy tín trong dân gian. Ngày nay phái Tân học tuy không biết đạo Nho nhưng vẫn được thừa hưởng cái uy tín của từng lớp trí thức trước để lại. Mà Nho học bành trướng được một phần là nhờ Khoa cử (Khoa cử kén người hỏi về đạo Nho vì đạo Nho dạy cách trị quốc, an dân, lại tôn quân quyền nên được vua chúa dùng làm quốc giáo) cho nên Khoa cử không hẳn chỉ có tội đối với quốc dân ta.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:32:46 GMT 9
Hình ảnh về thi cử ngày xưa(Trích từ trang web của anh Nguyễn Tấn Lộc có rất nhiều hình ảnh xưa: nguyentl.free.fr/index.htm) Chú thích(1) - Connaissance du Việt-Nam, tr. 84 (2) - Văn hoá Đông sơn được coi là văn hoá cổ của ta, cực thịnh vào cuối thời các vua Hùng. Chữ Việt cổ nếu có cũng không còn chứng tích. (3) - An-nam chí lược, tr. 251 (4) - An-nam chí lược, tr. 232-4 Theo Đào Duy Anh (Đất nước Việt-Nam qua các đời, tr. 69) hiện còn đền thờ Khương Công Phụ tại quê hương là làng Cẩm Chướng, huyện Yên Định (Thanh Hoá). (5) - Đoàn Kết số 411 (6) - Ta thường dịch Tú tài thời xưa cũng là "bachelier", có lẽ chữ "sous-admissible" thích hợp hơn vì Tú tài xưa là những người thi Hương không đỗ, nhưng có chân trên bảng dự khuyết. (7) - Kiến văn tiểu lục, tr. 113 (8) - Bài thơ "Nam quốc sơn hà, Nam đế cư" của Lý Thường Kiệt được coi là bản thứ nhất. (9) - Trung quốc bỏ Khoa cử năm 1905 chứ không phải năm 1900. (10) & (11) - "Nói về truyện các cụ ta đi sứ Tầu", Nam Phong số 92 Có lẽ Nguyễn Hữu Tiến đã lầm Trạng nguyên Giáp Hải đời Mạc với sư Giác Hải đời Lý Nhân Tông (Thiền Uyển Tập Anh ) ? Bài thơ "Cái bèo" có thể cũng chỉ là một giai thoại bịa đặt. Cương Mục XIV, 28-32 lại chép Mạc Đăng Dung, không đẩy lui được Mao Bá Ôn, xin hàng. Lịch triều hiến chương chép Giáp Hải đỗ Đình nguyên khoa 1538. Công dư tiệp ký -tập I, tr. 100 nói Giáp Hải đỗ Trạng nguyên khoa 1553, nhưng có con, không phải sư ; cũng không nói đến bài thơ "Cái bèo ". - tập II, tr. 118, cho biết Mao Bá Ôn rút quân sau khi xem bài biểu xin hàng của Mặc Đăng Dung do Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu hay Trạng nguyên Trần Tất Văn viết. (12) - Ngô gia văn phái, tr. 29 Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 306 (13) - Nghìn xưa văn hiến, tr. 306 Phủ biên tạp lục, tr. 19-20, lại chép là Lê Quý Đôn chứ không phải Ngô Thì Nhậm. (14) - Nguyễn Trường Tộ, tr. 74 (15) - Nguyễn Trường Tộ, tr. 304 (16) - Giai thoại làng Nho toàn tập, tr. 534 (17) - Ngô Thì Sĩ, tr. 212 (18) - Biên niên lịch sử Cổ Trung đại, tr. 230-3 (19) - Lê Quý Đôn, tr. 221 và 185 Câu này còn được chép trong Công dư tập ký tập III, tr. 86, viết khoảng 1755 tức là từ trước khi Lê Quý Đôn làm chủ khảo (1772). Vũ trung tuỳ bút thì nói Trần Tiến chép câu này trong bài thi ứng chế (tr. 166). (20) - Thơ Cao Bá Quát, tr. 22 (21) - Đông kinh nghĩa thục, tr. 81 (22) - Khổng học đăng, tr. 774-86 (23) - Vũ trung tuỳ bút, tr. 96-8 Sách tham khảo Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Dôn ; Hà Nội, 1985. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. Hà Nội : KHXH, 1965. Paris : Đông Nam Á tái bản. P. Huard & M. Durand, Connaissance du Vietnam, Paris, 1954. Lãng Nhân, Giai thoại làng Nho toàn tập. Saigon : Nam chi tùng thư, 1966. Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục. Hà Nội : Sử học, 1962. Dịch giả : Phạm Trọng Điềm. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Hà Nội : KHXH, 1977. Lê Tắc, An-nam chí lược. Viện Đại học Huế, 1961. Ngô Thì Chí, Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch Ngô Tất Tố. Phong trào văn hoá tái bản, 1969. Nguyễn Hiến Lê, Đông kinh nghĩa thục. Saigon, 1956. Xuân Thu tái bản ở Mỹ. Nguyễn Hữu Tiến, "Nói về truyện các cụ ta đi sứ Tầu", Nam Phong số 92. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút. Hà Nội : Văn học, 1972. Paris : Đông Nam Á tái bản, 1985. Dịch giả : Nguyễn Hữu Tiến. Phan Bội Châu, Khổng học đăng. Xuân thu tái bản ở Mỹ. Phan Ngọc, " Chơi chữ trong câu đối Việt Nam ", Đoàn Kết số 411. Trần Lê Văn, Ngọc Liêu, Chương Thâu, Nguyễn Tài Thu, Một số tác giả và tác phẩm trong Ngô gia văn phái. Hà Sơn Bình, 1960. Trần Quốc Vượng, Giang Hà Vị, Nghìn xưa văn hiến, tập IV, Hà Nội, 1984. Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ, Hà Nội, 1987. Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo. Hồ Chí Minh, 1988. Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký. Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962. Dịch giả : Nguyễn Đình Diệm. Thơ Cao Bá Quát. Hà Nội : Văn học, 1984. Biên niên lịch sử Cổ Trung Đại. Hà Nội : KHXH, 1987. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Hà Nội : Văn Sử Địa. Tổ biên dịch : Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần Văn Giáp. Châtenay-Malabry, tháng 8, 1989. Tài liệu trích từ Khoa cử ở Việt Nam Đã đăng Làng Văn, số 70, tháng 6/1990) Nguyễn Thị chân Quỳnh
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 4:58:08 GMT 9
Nguyễn Hiến Lê Ngô Thế Oanh “Tôi sinh ra và lớn lên ở ngõ Phất Lộc, trông ra bờ sông Nhị Hà. Ngõ rộng độ hai thước, dài độ hai trăm thước, mươi căn nhà dồn vào ngõ hẹp thấp hơn mặt đường đến một thước mà ngày cũng như đêm đều tối om om. Đã không có gì đẹp lại còn bẩn thỉu nữa… Bên ngoài, trên đường Bờ Sông, gần ngõ Phất Lộc có một cái đình không biết thờ vị thần nào mà kiến trúc rất đơn sơ. Hai cánh cửa gỗ luôn đóng kín, trên mái cổng tam quan có đắp một bầu rượu khá lớn nằm giữa hai con rồng uốn khúc châu đầu vào. Thuở bé, tôi được theo bà ngoại vào đình mấy lần, tôi thấy bên trong là một khoảng sân rộng vắng ngắt. Tuy vậy, mà quang cảnh lạnh lẽo trầm mặc thâm u của ngôi đình bỗng nhiên len sâu trong tâm tư tôi những khi ngồi học trong lớp, hoặc những khi tôi đến chơi nơi nào đông vui là tôi lại chạnh nghĩ đến ngôi đình, nhớ đến bà ngoại tôi. Nhất là sau ngày cha tôi và bà ngoại tôi vĩnh viễn ra đi trong cái ngõ hẹp tối tăm ấy...” Bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một bài văn ngắn từ hồi trẻ… Lộc là ngõ Phất Lộc, còn Đình là cái đình ấy… Cái ngõ Phất Lộc đã từng có mặt trong văn Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài... Cái ngõ Phất Lộc chắc bây giờ chẳng còn mấy dáng dấp của 70 năm trước, khi người kể những hồi ức trên rời quê hương vào Nam lập nghiệp. Đó là một buổi trưa ngày rằm tháng Chạp năm Giáp Tuất, trời u ám, mưa phùn lất phất và lòng người đi buồn vô hạn. Điều buồn tiếc hơn nữa là, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, nhà văn, nhà văn hóa Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê cũng không có dịp nào được trở về... Bây giờ thì ở thành phố Hồ Chí Minh đã có một đường mang tên Nguyễn Hiến Lê để tưởng lệ những đóng góp của ông với văn hoá dân tộc. Bây giờ thì sách của đã được tái bản với lượng in hàng vạn bản, xếp đầy các giá ở những hiệu sách lớn. Nhưng hình như rất nhiều người Hà Nội vẫn còn chưa được biết ông chính là đứa ở của đất Kẻ Chợ Thăng Long và tên tuổi ông gắn chặt một với cái ngõ nhỏ thân yêu tự thuở thơ ấu. Ngày 22/12/2004 là kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất nhà văn gốc Hà Nội - Lộc Đình Nguyễn Hiến Lê. Sinh năm 1912, cùng năm với Hàn Mạc Tử, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng, nhưng hình như định mệnh đã ưu ái với ông hơn, ông đã được sống và làm việc cách đều đặn, vì chỉ mất vào năm 1984, vì tuổi già. Song ở một khía cạnh khác, hình như định mệnh lại cũng thách ông, như một nhà văn đã viết: trong làng văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh: trên mười năm trời...". Cả một thời gian rất dài, mặc dù sách ông làm ra đã ấn hành rất nhiều, tên tuổi ông vẫn không mấy được nhắc đến. Trong cuốn Từ điển văn học, hai tập, hàng nghìn trang in khổ lớn, xuất bản 1984, không thấy một dòng nào dành cho ông. Riêng ở Hà Nội, mươi năm trở lại đây, khi hàng loạt sách của ông được bản, người đọc bình thường mới dần làm quen với tên một nhà văn, một học giả: Nguyễn Hiến Lê và có lẽ cũ còn rất ít ai biết nhà văn vốn sinh ra và trưởng thành tài từ Hà Nội. Một lần, vào năm 1978, một nhà văn trẻ, trong khu tài liệu cho một cuốn tiểu thuyết lịch sử về thành Thăng Long, đã vào Sài Gòn, tìm đến tận nhà thăm ông và xin được ông chỉ giáo. Qua câu chuyện khá dè dặt của một con người thận trọng, trầm tĩnh, nhà văn trẻ được biết ông đang cố gắng để hoàn thành một sự nghiệp với khoảng một trăm tên sách với trung bình 800 trang bản thảo đều đặn mỗi năm, như một người bạn gần gũi, ông đã viết trong một chân dung văn học, toàn bộ tác phẩm của ông ước đến mấy mươi nghìn trang in. Nào bút ký văn học. Nào khảo luận. Nào nghiên cứu. Nào dịch thuật... Một sức lao động thật kinh ngạc và đáng cho bất cứ một ai cũng phải kính trọng, khâm phục. Và đó là những cuốn sách như thế nào? Hãy đơn cử mấy cuốn Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử, Đại cương triết học Trung Quốc vừa ra gần đây. Với số lượng in đến mấy nghìn bản, và chắc chắn không phải là dễ đọc lắm, vậy mà trên những quầy sách lớn Thủ đô, chỉ bày chưa đầy ba tuần đã không dễ còn tìm mua được. Còn đến lượt cuốn Liệt tử - Dương tử... “Từ trước tới nay chưa có một học giả nào, cựu học và tân học, mà có công giới thiệu Cổ học Trung Hoa bằng ông Nguyễn Hiến Lê" - một nhà văn đã nhận xét. Nhưng ông đâu chỉ am tướng triết học hay riêng triết học phương Đông. Để có một khái niệm nào đó về nhận thức uyên bác và biên độ sáng tạo của ông trong nhiều lĩnh vực tưởng chừng khá xa nhau, ta thử lướt qua một vài tên sách trong danh mục rất dài gắn với tên tuổi, với thành quả lao động của ông. Tôi tập viết riêng Việt. Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam. Hương sắc trong vườn văn. Trên đường thiên lý. Tổ chức công việc theo khoa học. Đắc nhân tâm, bí quyết để thành công. Xung đột trong đời sống quốc tế. Bảy bước thành công. Gương kiên nhẫn. Đông Kinh nghĩa thục. Đại cương văn hợc sử Trung Quốc. Nho giáo: một triết lý chính trị. Đại cương triết học Trung Quốc (viết chung với Chi). Sử ký Tư Mã Thiên (dịch chung với Giản Chi). Lâm Ngữ Đường: Một quan niệm sống đẹp. Dịch L.Tônxtôi: Chiến tranh và hoà bình. Dịch bộ lịch sử văn của Will Durant với các tập quan trọng nhất như: Văn Trung Hoa, Văn minh Ấn Độ, Văn minh Ả Rập, Bài học lịch sử. Từ cổ đại đến hiện đại. Từ Tây sang Đông. Từ văn học đến triết học. Từ ngôn ngữ học đến sử học. Từ nghệ thuật là đến nghệ thuật kinh doanh. Cả về Đông y, về Tử vi, Dịch lý, về Địa lý phong thuỷ... Tưởng như không một lĩnh vực nào ông không quan tâm. Ông xứng đáng là một nhà bách khoa uyên bác đáng tin cậy. Có lẽ, thấm sâu những tư tưởng Lão - Trang, ông đã cố để cho đời đừng biết đến mình. Ông sống lặng lẽ, làm việc lặng lẽ, cố đem những gì tiến bộ nhất trong tư tưởng, trong khoa học là mình hiểu biết để giúp đỡ. Và lý tưởng của nhà văn đơn giản chỉ vậy thôi. Như một người bạn của ông kể lại, cứ xét lối làm việc thì ông là người mới? Có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học, nhưng xét về lối sống, lối cư xử thì ông là một người cổ: thanh bạch, giản dị, chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là ồn ào của danh vọng, tính tình có vẻ hơi nghiêm, đối với bạn bè thì chân thành nhưng đượm vẻ đạm bạc của nhà nho... Cũng có lẽ, vì thế, mà cho đến nay, sự nghiệp của ông lớn lao là thế, hữu ích là thế mà hầu như vẫn nằm trong khuất lấp. Có cả một công trình của nhà nghiên cứu in về ông, những chân dung do họ, do học trò, đồng nghiệp ông viết lại, trân trọng, kính phục. Một lần, ông tâm sự: 'Tất nhiên ai viết thì cũng mong sách bán được, tôi đã sống chuyên về cây viết thì lại càng không thể bỏ qua phương diện đó. Nhưng có những cuốn tôi biết rằng bán sẽ rất chạy mà không khi nào tôi viết. Lại có những cuốn tôi biết chắc rằng không bán được mà tôi vẫn bỏ ra mấy năm để viết... Điều quan trọng là ta phải thành thực với mình. Và chưa bao giờ tôi viết một cuốn sách nào mà không thành thực với tôi, mà không thích nó, không tin rằng nó có ích” Tưởng không có lời nào chính xác hơn về ông. Từ rất lâu, tên tuổi Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) đã được nhiều người biết tới như một nhà văn, một học giả, một nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm biên soạn và dịch thuật để đời có giá trị, thuộc đủ mọi lãnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký... Ngoài ra, thế hệ hậu bối còn noi gương được ở ông nhiều thứ: gương tự học, tinh thần làm việc nghiêm túc, và nhất là nhân cách cao thượng của một người trí thức chân chính. Ông Nguyễn Hiến Lê không trực tiếp làm chính trị, nhưng lúc nào cũng đau đáu lo việc cho đời, bằng cách thế hoạt động của riêng mình. Ông tin ở các giá trị văn hóa như một yếu tố sức mạnh tinh thần có ý nghĩa quyết định cho tương lai của dân tộc hơn là những hành động chính trị nhất thời, nên đã tận tụy làm việc cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, tìm mọi cách lay động trái tim con người nhằm phổ biến và cổ vũ cho những ý tưởng nhân bản thâu góp từ đông tây kim cổ mà ông thấu hiểu và đề nghị mọi người chia sẻ như là căn bản của một nền chính trị bền vững khả dĩ mang lại cuộc sống phát triển trong ổn định và ấm no hạnh phúc của nhân dân. Đời sống bản thân ông khiêm tốn, giản dị, làm việc nhiều hưởng thụ ít, không thích ồn ào, nhưng tư tưởng, tâm hướng và lòng ông thì thật sâu kín, rộng rãi, nồng nàn, có lẽ vì thế mà viết ra điều gì cũng với lời văn giản dị, dễ hiểu, trung thực với ý mình. Ông luôn đứng về phía nhân dân lao động nghèo khổ mà cả một thời thơ ấu hàn vi ông đã từng chia sẻ, nên đã mạnh dạn phê phán những hành vi sai trái của các nhà đương cuộc mà ông luôn quy trách nhiệm chính cho những tình trạng suy bại xã hội của mọi thời. Trước sau ông không xu phụ, thỏa hiệp với giới cầm quyền đương thời để được hưởng những đặc quyền trong xã hội. Mặc dù vậy, tâm huyết của ông cũng không được đời đáp ứng là bao, nên không tránh khỏi có những lúc phải ngậm ngùi chua xót cho sự bất lực của mình trước thời cuộc. Tâm sự của ông có lẽ cũng giống như Tô Thức, một tác giả Trung Quốc ông yêu thích mà có lần ông đã dẫn chứng mấy câu thơ: Thẹn hoài cho người nước này, đau xót như có gai đâm trong da thịt, bình sinh đọc năm ngàn quyển sách, nhưng không có một chữ nào cứu đói cho dân được. Nhiều người hiểu Nguyễn Hiến Lê hơn qua tập Hồi ký (NXB Văn Học, 1993) và Đời viết văn của tôi do ông tự viết (NXB Văn Hóa, 1996). Ông cũng tự kể về cuộc đời và việc làm của mình qua bài trả lời phỏng vấn khá dài của ông Nguyễn Ngu Í đăng trên tạp chí Bách khoa (1965) trong mục “Sống và viết với...”, rồi in thành sách (1966), và một bài khác nữa do ông Lê Phương Chi thực hiện (in trong tập Tâm tình văn nghệ sĩ, NXB Thanh Niên, 2001). Ngoài ra còn có cả một tập tiểu sử Nguyễn Hiến Lê, cuộc đời và sự nghiệp của Châu Hải Kỳ (NXB Văn Học, 1993) dày đến trên 300 trang. Để tìm hiểu về ông, tưởng như thế cũng đã tạm đủ. Tuy nhiên càng về sau, nhất là khi sách Nguyễn Hiến Lê được xuất bản sau thời kỳ chuyển hình của đất nước (mà người khai phá đầu tiên là ông Ba Kính, giám đốc NXB Long An trong những năm 90), nhiều người càng biết rõ chân giá trị những tác phẩm của ông hơn, cũng như chí hướng và lòng tinh thành mà ông đã gởi gắm hết vào, thì có nhiều tác giả lại viết thêm về ông đứng từ những góc độ nhìn khác nhau. Theo Văn hiến Việt Nam ****************** Tác phẩm của học giả Nguyễn Hiến Lê VĂN HỌC Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) - 1962 Luyện văn I (1953), II & III (1957) Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) - 1955 Cổ văn Trung Quốc - 1966 Chiến Quốc sách (viết với Giản Chi) - 1968 Sử Ký Tư Mã Thiên - 1970 Tô Đông Pha - 1970 Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) - 1970 NGỮ PHÁP Để hiểu văn phạm - 1952 Khảo luận về ngữ pháp VN (viết với TVChình) - 1963 Tôi tập viết tiếng Việt - 1990 TRIẾT HỌC Nho giáo một triết lý chính trị - 1958 Đại cương triết học TQ (viết với Giản Chi) - 1965 Nhà giáo họ Khổng - 1972 Liệt tử và Dương tử - 1972 Một lương tâm nổi loạn - 1970 Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại - 1971 Mạnh tử - 1975 Trang tử - 1994 Hàn Phi tử - 1994 Tuân tử -1994 Mặc học - 1995 Lão tử - 1994 Luận ngữ - 1995 Khổng tử - 1992 Kinh Dịch - 1990 LỊCH SỬ Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) - 1955 Đông Kinh nghĩa thục - 1956 Bài học Israel - 1968 Bán đảo Ả Rập - 1969 Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch W. Durant) - 1971 Bài học lịch sử (dịch W. Durant) - 1972 Nguồn gốc văn minh (dịch W. Durant) - 1974 Văn minh Ả Rập (dịch W. Durant) - 1975 Lịch sử văn minh TQ (dịch W. Durant) - 1997 Sử Trung Quốc (2 quyển) - 1997 GIÁO DỤC - GIÁO KHOA Thế hệ ngày mai - 1953 Thời mới dạy con theo lối mới - 1958 Tìm hiểu con chúng ta - 1966 Săn sóc sự học của con em - 1954 Tự học để thành công - 1954 33 câu chuyện với các bà mẹ - 1971 Thế giới bí mật của trẻ em - 1972 Lời khuyên thanh niên - 1967 Kim chỉ nam của học sinh - 1951 Bí quyết thi đậu - 1956 Muốn giỏi toán hình học phẳng - 1956 Muốn gỏi toán hình học không gian - 1959 Muốn giỏi toán đại số - 1958 TIỂU THUYẾT Kiếp người (dịch S.Maugham) - 1962 Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) - 1969 Chiến tranh và hoà bình (dịch Tolstoi) - 1968 Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Paton) 1969 Quê hương tan rã (dịch C.Acheba) - 1970 Cầu sông Drina (dịch I.Andritch) - 1972 Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) - 1968 Con đường thiên lý - 1990 Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn) - Những quần đảo thần tiên (dịch Maugham) - 2002 CHÍNH TRỊ - KINH TẾ Một niềm tin - 1965 Xung đột trong đời sống quốc tế - 1962 Hiệu năng - 1954 Tay trắng làm nên - 1967 Tổ chức công việc theo khoa học - 1949 Tổ chức công việc làm ăn - 1967 Lợi mỗi ngày một giờ - 1971 Những vấn đề của thời đại - 1974 GƯƠNG DANH NHÂN Gương danh nhân - 1959 Gương hi sinh - 1962 Gương kiên nhẫn - 1964 Gương chiến đấu - 1966 Ý chí sắt đá - 1971 40 gương thành công - 1968 Những cuộc đời ngoại hạng - 1969 15 gương phụ nữ - 1970 Einstein - 1971 Bertrand Russell - 1972 Đời nghệ sĩ - 1993 Gogol - 2000 Tourgueniev - 2000 Tchekhov - 2000 CẢO LUẬN - TUỲ BÚT - DU KÝ Đế Thiên Đế Thích – 1968 Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954 Nghề viết văn - 1956 Vấn đề xây dựng văn hoá - 1967 Chinh phục hạnh phúc (dịch B. Russell) - 1971 Sống đẹp - 1964 Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch A. Maurois) - 1968 Chấp nhận cuộc đời (dịch L.Rinser) - 1971 Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) - 1970 Hoa đào năm trước - 1970 Con đường hoà bình - 1971 Cháu bà nội tội bà ngoại - 1974 Ý cao tình đẹp - 1972 Thư gởi người đàn bà không quen (A.Maurois) - 1970 10 câu chuyện văn chương - 1975 Đời viết văn của tôi - 1996 Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - 1992 Để tôi đọc lại - TỰ LUYỆN ĐỨC TRÍ Tương lai trong tay ta - 1962 Luyện lý trí - 1965 Rèn nghị lực - 1956 Sống 365 ngày một năm - 1968 Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953 Sống 24 giờ một ngày (dịch A.Bennette) - 1955 Luyện tình cảm (dịch F.Thomas) - 1951 Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) - 1957 Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) - 1951 Quẳng gánh lo đi (dịch Dale Carnegie) - 1955 Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) 1956 Bảy bước đến thành công (dịch G.Byron) - 1952 Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) - 1965 Xây dựng hạnh phúc (dịch Huxley) - 1966 Sống đời sống mới (dịch Powers) - 1965 Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) - 1967 Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) - 1969 Con đường lập thân (dịch Ennever) - 1969 Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) - 1971 Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) - 1971 Tổ chức gia đình - 1953 CÁC BÀI ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ: 242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách của văn hữu
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 9:48:21 GMT 9
"Lĩnh Ðịa Thời Vua Trưng"Friday, October 01, 2010 LTS: Xin cảm ơn quí vị Dieu Huỳnh, Nguminh Trần, Ha Nguyen & Hoàng Thế Ðịnh đã email cho phần cuối của bài này. Trần Ðại Sỹ Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng, Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây,Vân-nam,Quý-châu vàTứ-xuyên...tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà.Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao.Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan.Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-nam,nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn.Tại thư viện bảotồn ditích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám, chép sự tích nữvương Phật Nguyệt như sau: “Ngày xưa,Ngọc-hoàngThượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu.Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc.Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giới.Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có162 vị tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn.Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa,có ý ngần ngừ không dám đi.Ngọc-hoàngThượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo.Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán.Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông-Hán.Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ,vào nhà họ Trưng.Chị là Trắc,em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sứcmạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả choÐặng Thi-Sách.Thi-Sách làm phản,bị Thái-thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa,được162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-Hoa ởphía Nam sôngTrường-giang:Cửu-chân,Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm,Tượng-quận, Nam-hải.Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua,thường gọi là vua Ba. Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện.Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc.Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng-đình.Mã Viện,LưuLong bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Ðộng-đình, oán khí bốc lên tới trời.Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại.Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại.Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại.Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ,bỏ đi tu.Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối:Tích trù Ðộng-đình uy trấn Hán,Phương lưu thanh sử lực phù Trưng (Một trận Ðộng-đình uy trấn Hán.Tên còn trong sử sức phù Trưng).” Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh: Ðạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại.Vua Bà màngười Trung-hoa thờ như một thứ tôngiáo,chính làvua Trưng. Kết luận: « Khi đã có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Ðộng-đình. Mà có trận hồ Ðộng-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ». Quả có trận Trường-sa, hồ Ðộng-đình năm 39 sau Tây-lịch, Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng: Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Ðộng-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địaphương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đoạn chép: « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá». Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn. Kết luận: « Thời Lĩnh-Nam quả có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Ðề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa, hồ Ðộng-đình ». Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch, Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Ðào là Chiêu-Hiển, Ðô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng vì quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đã tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối: Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.Nghĩa là:Trận Tượng-quận dương oai, rõ tài tướng giỏi.Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung. Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long.Vả lãnh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy? Chú thích: Bản đồ Nhà Hán (206 B.C.- A.D 220), với thủ đô Tràng An (Chang’an) (Nguồn: Google) Tôi không tin lýluận này.Tôi quyết có trận Tượng-quận.Vì sao?Vì ba ngài chiếnđấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thấtthủ,tuẫntiết thì tuẫntiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy nghìn cây số,rồi mới tự tử?Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuấthiện vào năm 1427-1428,khi vua LêThái-tổ vây Ðông-đô(Thăng-long).Vì vậy,trong dịp hè năm1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC (1) sang Vân-Nam,Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride…Lợi dụng dịp nầy,tôi quyết tìm cho ra sự thực. Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Ðộ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ nhàở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba.Ông chủ nhà khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa,hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:Khẳng khái,phù Trưng,thời bất lợi,Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết...can vân.Nghĩa là:Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu. Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay,phải tự tận, khí tiết ngút từng mây. Tôi xin vào trong miếu xem,thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ.Hai bên bệ cũng có đôi câu đối:Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung. Nghĩalà:Trên sông Trường-giang, ba vị anhhùng phò tá nữ chúa.Tại bến Bồ-lăng,trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.Ông chủ nhà cho rằng, bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu.Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất.Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế.Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn.Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng.Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội: Tái Bắc tức chinh trần,công cao trục Ðịnh,Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng. Nghĩa là:Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Ðịnh.Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng. Kết luận: Như vậy thì quả có trận Tượng-quận.Mà có trận Tượng-quận thì biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay. Nghiên cứu những khai quật Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam.Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ,nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương.Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu.Tôi đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật.Chính vì vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam »(2). Bấy giờ tôi còn trẻ,không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lýthuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, t ương đương với thời đại đồ đá mài (le éolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (3). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Ðông Vân-Nam, Quảng-Ðông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ tìm được lọai rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn-hóa Ðông-sơn (4) hay đồ đồng (âge de bronze).Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Ðông-sơn trên bờ sông Mã (Thanh hóa).Sự thật trốngđồng đã tìm thấy ở toànbộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam,Quý-châu,Vân-nam, Quảng-đông,Quảng-tây, Nam-dương, Lào (5) Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt,rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau. Ðồng 53%, Thíếc 15-16%, Chì 17-19%, Sắt 4%. Một ít vàng bạc. Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đã biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt , Hoa lập quốc. Kết luận,« Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Ðộng-đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ». Tổng kết, Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi tìm, tất cả đều còn đầy đủ di tích.Như vậy:Biên giới cổ của nước Việt-Nam,với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng-đình, phía Tây giáp Tứ-xuyên. KẾT LUẬN: Thưa Quý-vị, Quý-vị đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt. Trong chính sử Trung-quốc,Việt-Nam đều ghi rõràng nguồn gốc tộcViệt,nhưng cái nguồngốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa,nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra,rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ.Sự thực nhờ hệ thống ADN,chúngta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Ðông Nam-á trước,rồi di chuyển lên Hoa-Nam.Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu,rồi từ châuÂu vào Trung-á,hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán.Nhưngngược lại,do cổthư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rõ biêncương nướcViệt thời mới lập quốc. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh nhữngnhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa,người Việt viết. Vànhững sách này đều chép rằng tộcViệt gồm có trămhọ khácnhau, mang tên Bách-Việt.Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Ðông-Việt, Nam-Việt,Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trămhọ hay trămViệt (Bách-Việt) phát xuất từ huyềnthọai vuaLạc-Long sinh ra trăm con.Trăm cónghĩa là toàn thể, tất cả,chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay(6). Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Ðộng-đình với sông Tương,núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đình cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu).Chính tôi cũng nhìn nguồngốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học.Nay tôi mới chứng minh được. Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già,một trẻ đã có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nhìn rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quý-vị. Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-gòn, thuộc Việt-Nam cộng-hòa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc tìm kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp tìm kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt. Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng:Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họviết,dù ngày nay họ còn nghĩ như vậy.Họ cũng không tự sinh ra,rồi tản đi tứ phương. Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay vì lý do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị.Như ngày nay, người Việt di cư đi sống khắp thế giới.Lại càng không có việc người Việt gốc từ dòng giống Mã-lai, như một số người đãđưa ra. Theo sự nghiên cứu bằng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa,do giống người từ Ðông Nam-á đi lên.Những người Ðông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước.Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm.Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa. TộcViệt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang,xuống mãi vịnh Thái-lan. Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Thái-lan,Ðông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay. Ðến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quý khách các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quý vị đến tháng 11-92, tôi sẽ trình bày trước quý vị về nguồn gốc triết Việt. Trân trọng kính chào quý vị. Trần Ðại-Sỹ * * Trần Ðại Sỹ: tốt nghiệp y khoa, hiện làGiám đốc Trung-quốc sự vụ tại viện Pháp Á (Institute Franco-Asiatique) và giáo sư y khoa trường ARMA( Paris). Với bút hiệu Yên Tử Cư Sĩ, ông còn là một tác giả lâu nay nổi tiếng, nhờ vào những cuốn tiểu thuyết dã sử tổng cộng hàng chục ngàn trang sách. Như Anh Hùng Lĩnh Nam, Anh Hùng Tiêu Sơn, Anh Linh Thần Võ Tộc Việt…( trích website: Chú giải của Tăng Hồng Minh, (1) Phái đoàn gồm:Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ; Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault,và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng. Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêu-dương, Ðông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Ðiền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris .Khi tới Ðông-xuyên, giáo sư Trần Ðại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Ðoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Ðoàn cho biết: 'Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang.' Thế là giáo sư Trần Ðại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris . Trên đường từ Ðộ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam,sẽ qua...Bồ-lăng. Ðược đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết! Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn. Theo tôi, với số tiền ấy,mà kết quả tìm được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồnđại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L.(từng làbộtrưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộtrưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để tìm di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ý: 'Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền.' Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: 'Ví dù Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộVăn-hóa mà tìm tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp thì là điều đáng khuyến khích.Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam,Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chưù.' Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa,tôi xin tiết lộ một chi tiết này,để các vị độc giảViệt-Nam suy nghĩ! (2) Vũ Văn-Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư-pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51. (3). Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ý nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đã tìm thấy những cổ vật đồ đá. (Thời kỳ đồ đá) (4). Chữ văn hóa Ðông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Ðông-sơn, đã tìm thấy đồ đồng (thời đồ đồng). (5). Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian còn lại, Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Ðông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni.Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ đã tìm lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đã mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris . (6). Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa. Có nghĩa là đời người như: Trăm năm trong cõi người ta.Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều) Trăm năm xe sợi chỉ hồng, Bắt người tài sắc buộc trong khung trời. Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng,Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay.(ca dao) Có nghĩa là chết: Khi nào cụ tôi trămnăm đi rồi.Nhânsinh báchtuế vikỳ(Người ta sinh ra lấy trămnăm làm hẹn)Trăm năm như cõi trời chung,Có nghề cũng phải có công mới thành.(ca dao) Có nghĩa là tất cả: Trăm họ, hay trăm bệnh,Trăm hoa đua nở mùa xuân,Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ?(ca dao) Trăm dâu đổ đầu tằm.(Tục ngữ) Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này. Tài liệu nghiên cứu chính: SÁCH CHỮ HÁN : Tư Mã-Thiên, Sử ký,Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959. Ban-Cố,Tiền Hán thư, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959. Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959. Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Ðài Bắc xuất bản, 1959. Cố Dã-Vương, Ðịa-dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920. Trần Luân-Quýnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản, thư viện Paris . Lê Quý-Ðôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris .Lê Quý-Ðôn, Ðại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris .Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương loại chí, cổ bản của thư viện Paris . Quốc-sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris . Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris .Ðịa đồ xuất bản xã, Trung-hoa nhân dân cộng hòa quốc phân tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974.Ðại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980. ..Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả,lưu trữ tại thư viện,bảo tàng viện Hồ-nam,Quý-châu, Quảng-đông,Quảng-tây,Vân-Nam SÁCH CHỮ PHÁP :Léonard Aurouseau. La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII. Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII. SÁCH CHỮ VIỆT: Ðào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2010 6:49:25 GMT 9
VŨ ANH KHANH
NHÀ VĂN ĐẦU TIÊN CHỐNG LẠI CSVN
HỒ ĐINH Vũ Anh Khanh và Xuân Vũ là hai người bạn chí thân trong văn chương và quảng đời dấn thân chống Pháp cứu nước suốt chín năm máu lửa 1945-1954, khi thực dân trở lại dày xéo quê hương Việt Nam lần thứ hai. Mang chí cả của người trai thời loạn, sống hết mình cho lý tưởng phụng sự đất nước , hai ông cũng như bao nhiêu người con thân yêu của Mẹ, lầm đường lạc lối trước những xảo thuật chính trị tuyên truyền của đệ tam quốc tế, qua cái bình phong Mặt trận Việt Minh. Do đó, ngày hòa bình trở lại năm 1954, đã hăm hở , bỏ lại gia đình, theo ‘ Bác Đảng ‘ tập kết ra Bắc. Nhưng than ôi tất cả chỉ là ảo vọng khi cái mặt thật của thiên đường xã nghĩa hiện ra trong máu lệ, qua cảnh đời nghèo đói bất công và nổi cùng khốn tận tuyệt của dân chúng vô tội bên bờ này vỹ tuyến, qua cái gọi là cải cách ruộng đất và vụ án trăm hoa đua nở, mà chánh quyền cọng sản rập khuông theo Trung Cộng để diệt các tầng lớp phú, nông, thợ thuyền và trí thức VN, những người đã làm đá lót đường, làm cầu qua sông, làm phương tiện cho đảng chiếm được nửa nước để thụ hưởng và cầm quyền. Như Phùng Quán đã viết : “ Tôi đã đi qua những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt, Tôi đã gặp những bà mẹ già quấn dẻ rách Da đen như củi cháy giữa rừng Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng Bới đồn giặc trồng ngô trỉa lúa.. Yêu ai cứ bảo là yêu, Ghét ai cứ bảo là ghét..” Thế nên hai người đã quyết ý, phải từ bỏ thiên đường đang ngoi ngóp sống, để quay về Nam với Mẹ với em, với những thân thương đang ràn rụa nước mắt đợi chờ. Nhưng than ôi, số đời đã định, cùng ra đi trong khi Xuân Vũ biết rằng “ Đường đi không đến” thì lại đến vào năm 1965 tại Củ Chi. Trong lúc đó Vũ Anh Khanh đã sắp vói tay được vào bờ nam dòng sông vỹ tuyến, thì một mũi tên tẳm thuốc độc vô tình đã kết liểu cuộc đời tài hoa của người chiến sĩ vào năm 1956. Mới đây, trên tờ Văn Hoá VN, số 14 mùa thu 2001, xuất bản tại Houston Texas, Xuân Vũ nhớ bạn có nhắc lại câu thơ : “ Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn”, rồi kể lại câu chuyện của một người chết không mồ. Cuộc đời của những người yêu nước là vậy đó, bảo sao mà không buồn ? nhất là qua biến cố 30-4-1975 đã cho chúng ta thấy một cách minh bạch rằng : ‘ chế độ thực dân đồng chủng hay dị chủng, Pháp hay Việt Cộng, bản chất vẫn như nhau ‘. Bởi vậy, những điều mà các nhà văn kháng chiến miền Nam, trong đó kiệt hiệt nhất là con chim đầu đàn Vũ Anh Khanh, Người Bình Thuâ.n-Phan Thiết của miền Trung duy nhất, qua các bản cáo trạng, tới nay vẫn còn giá trị. Có điều thật là bất công và tàn nhẫn đối với những người yêu nước, trong đó có Vũ Anh Khanh, nhất là tại VNCH miền đất được mệnh danh là tự do dân chủ. Nhưng mai mĩa thay trong khi chương trình Việt sử bậc Trung và Đại Học Quốc Gia long trọng đề cập tới cuộc kháng chiến của Dân Tộc qua sự nghiệp lật đổ ách thống trị của Thực dân Pháp từ 1945-1954 tại Nam Kỳ. Nổi đời lại càng bi phẩn hơn qua việc lãnh đạo miền Nam, đã mở rộng tim để chấp nhận bản Thanh niên hành khúc của Lưu hữu Phước làm Quốc Thiều VN, sau khi được sửa chữa một vài chữ. Ai cũng biết họ Lưu là Việt Cộng chứ không phải Việt Minh, nhất là sau khi Miền Nam mất nước, ngày 20-8-1975, Lưu hữu Phước qua chức phận Bộ Trưởng Thông Tin Văn Hoá của cái Chính phủ Lâm thời CHMN, đã ký nghị định “ Đốt sách chôn học trò “ trên khắp lãnh thổ VNCH cũ. Trong khi đó chỉ vì chính trị và định kiến hẹp hòi, Miền Nam đã gạt bỏ những người yêu nước như Vũ Anh Khanh, kể luôn các tác phẩm vô cùng giá trị, Ngày nay trắng đen đã rõ, chỉ đau đớn là Quê Hương vẫn còn Ly loạn mà Ông không biết đã về đâu ? 1). VŨ ANH KHANH QUA MINH HỌA CỦA NHÀ VĂN XUÂN VŨ: Qua các tài liệu rất ít ỏi, được biết Vũ Anh Khanh tên thật là Võ Văn Khanh, sanh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuâ.n. Ngoài bút hiệu trên, ông còn ký tên Vương Ấu Khương khi viết truyện ngắn “ Mắt xanh sống vẫn lầm than bụi đời” đăng trên tờ Xuân VN vào Tết năm 1951. Mũi Né, quê hương của nhà văn, vốn là một thị trấn miền biển bao gồm hai xã Khánh Thiện và Thạch Long, nằm cách Phan Thiết về hướng đông bắc chừng 20 km, xưa hay nay cũng vẫn là miền đất trù phú và thơ mộng của tỉnh Bình Thuâ.n. Ba trăm năm qua như một giấc mộng nhưng cái tên Mũi Né vẫn tồn tại trong tâm khảm của mọi người, cho dù trên giáy tờ hay bản đồ qua thời gian với bao nhiêu cái tên như Vị Nê, Cap Nê, Hải Long, Hàm Dũng và gì gì nữa trong tương lai. Điều trên cũng giống như thân phận của nhà văn Vũ Anh Khanh, kẻ chết không mồ nhưng vẫn sống mãi với những tác phẩm đấu tranh để đời mà ai cũng biết tới , dù đã có thời gian và ngay bây giờ chúng vẫn bị cấm đọc hay quảng bá. Sách của ông không nhiều vì cuộc sống của nhà văn ngắn ngủi, hơn nữa trong lúc văn thi tài đang lên như diều gặp gió, thì năm 1950 ông đột ngột từ bỏ thành đô hoa lệ, sau một chuyến viếng thăm Tha La xóm đạo, một làng quê êm đềm thơ mộng như chính quê hương Mũi Né, với những rặng dừa xanh ẻo lã, chạy song song với đồi cát trùng trùng, ngày tháng nép mình ôm ấp biển xanh : “ Đây Tha La xóm đạo, Có trái ngọt cây lành Tôi về thăm một dạo Giữa mùa nắng vàng hanh..” Nhưng rồi giặc đến, vào làng giết người cướp của, cuộc sống an bình của quê hương bổng chốc thành máu lệ, bao nam nử đã ra đi để hiến mình cho quê hương đất nước, chỉ còn lại nổi tang tóc, buồn hiu : “ Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng ? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng Nhẹ bảo chàng, em chẳng biết gì ư ? Bao năm qua khói lửa phủ mịt mù Người nước Việt ra đi vì nước Việt.” (Tha La xóm Đa.o-Vũ Anh Khanh ). Đó chính là lý do, làm cho ông đã từ bỏ tất cả để dấn thân vào cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ dữ dội khắp nước, dù lúc đó rất nổi tiếng, đang có nhiều sách bán chạy như chuyện dài BẠC XÍU LÌN, được Tiếng Chuông xuất bản năm 1949, chỉ trong 2 tháng đã bán hết 10.000 cuốn, sau đó phải tái bản nhiều lần vẫn không cung ứng nhu cầu của người ái mộ. Nói chung theo giáo sư Nguyễn văn Sâm viết trong “ Văn Chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950, thì hầu hết tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị và tiêu biểu trong dòng văn chương đấu tranh thời đó, dù là thơ như CHIẾN SĨ HÀNH (Tân VN, Sài Gòn 1949), Truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gồm 2 tập (Tân VN, Sài Gòn 1949), CÂY NÁ TRẮC (Tân Việt, Sài Gòn 1947), truyện ngắn NGŨ TỬ TƯ (Tân VN, Sài Gòn 1949), ĐẦM Ô RÔ (Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949), SÔNG MÁU ( Tiếng Chuông, Sài Gòn 1949) và BÊN KIA SÔNG ( Tân VN, Sài Gòn 1949) .Riêng bài thơ Tha La Xóm Đạo của ông, sau này được nhạc sĩ Dũng Chinh, tên thật là Nguyễn văn Chính, cũng là người Phan Thiết, phổ nhạc và rất được mọi người ưa thích, giống như bài “ Hoa trắng thôi cài trên áo trắng” của thi sĩ Kiên Giang. Ngoài ra soạn giả cải lương nổi tiếng Viễn Châu cũng đã mượn ý của Vũ Anh Khanh để viết tình khúc tân cổ giao duyên “ Tha La xóm đạo”. Theo Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lớn hơn ông chừng vài tuổi, hai người đã quen biết nhau khi cùng ở chung trong hàng ngũ kháng chiến quân, gọi tắt là Việt Minh, một tổ chức chống Pháp qui tụ toàn dân VN không phân biệt đảng phái chính trị. Qua hí họa của họa sĩ Thanh Long và các bằng hữu lúc đó đang phục vụ tại Ban Tuyên Huấn, Phòng Chính Trị, đóng ở Cái Thun, gần Cái Chanh Lớn, miệt Cạnh Đền miền tây Nam Phần như các Thi sĩ Rum Bảo Việt, Nguyễn văn Trị , Điêu khắc sư Trần văn Lắm, Sơn Nam, Hà Huy Hà, các họa sĩ Thanh Tòng, Thanh Long, Hoàng Tuyển, nhà thơ Việt Ánh, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Trí, Phạm công Nhiều, Quốc Hương và Xuân Vũ thì Vũ Anh Khanh lúc đó dù là một nhà văn đang nổi tiếng và có rất nhiều tác phẩm bán chạy, lại là một sĩ quan lục quân, tốt nghiệp tại Trường Lục quân, thuộc Phân hiệu II Trần Quốc Tuấn nhưng tánh tình khiêm cung, hiền hậu, có thể nói là chẳng bao giờ để lộ cái tôi ra ngoài, khiến cho cả đơn vị kể luôn Xuân Vũ lúc đó, không hề biết ông là ai. Đối với những tâm hồn nghệ sĩ lớn như Vũ Anh Khanh, viết lách, làm thơ , phát biểu những ẩn ức trong lòng, được coi như lẽ sống của kẻ cầm bút, nhưng theo Xuân Vũ thì từ năm 1950 khi về phục vụ tại cơ quan chính trị kháng chiến, không hiểu vì lý do gì Vũ Anh Khanh trở nên bất động, thậm chí tại Khu có tờ báo mang tên Tiếng Súng Kháng địch, sau đổi thành tờ Quân đội nhân dân miền tây, vậy mà Vũ Anh Khanh hầu như không hề biết tới, kể cả những lúc sinh hoạt cũng chẳng hề có ý kiến, nếu bị hỏi tới mới nói :” tôi đồng ý thế thôi “. Như vậy , chẳng lẽ lúc đó ông đã nhận ra cái mặt thật của Việt Minh đang bị Việt Cộng núp bóng điều khiển hay vì cực khổ nên hối hận ? cả hai thắc mắc không thấy Xuân Vũ đề cập tới, ngoài một thố lộ chân thành là Vũ Anh Khanh với người bạn kháng chiến Nguyễn hữu Trí, em ruột tướng Nguyễn thanh Sơn, xuất thân trong một gia đình vọng tộc, đại diền chủ tỉnh Vĩnh Long, và Vũ Anh Khanh cũng thuộc một gia đình giàu có ở Mũi Né, Phan Thiết..nên trong lúc cả nhóm đi cải thiện sinh hoạt, kiếm thêm chất tươi để bồi dưỡng vì thức ăn hằng ngày chỉ có muối, chao và các loại rau da.i. Những lúc này, hình như Vũ Anh Khanh không biết làm gì cả ngoài việc quơ quào các thứ rau má ngoài vườn. Lại có người hỏi sao không đi cắm câu, bắt cá thì ông chỉ cười và trả lời từ nhỏ tới lớn, gia đình không cho làm chuyện này, dù rằng tại quê hương Mũi Né của ông cũng có vườn, ruộng và biển. Thêm một chi tiết khác là ông còn độc thân cho tới lúc qua đời. Cũng theo lời kể của Xuân Vũ, thì hai ông sống chung rất lâu nhưng năm 1954 tập kết ra Bắc, Xuân Vũ đi tại bến Chắc Băng, Cà Mâu và chỉ gặp lại Vũ Anh Khanh tại Hà Nội trong khu tập thể của dân Nam kỳ tập kết. 2). XUÂN VŨ KỂ LẠI CÁI CHẾT CỦA VŨ ANH KHANH: Ngay khi vừa ký kết hiệp định ngưng bắn năm 1954 tại Genève chia đôi đất nước, Bắc Việt đã mở ngay chiến dịch tuyên truyền về cái gọi là Kháng chiến VN, đánh dưổi Pháp-Nhật do đảng cọng sản lãnh đạo, bằng cách cho nhiều phái đoàn văn nghệ sĩ VN đến các nước thân cộng, cọng sản, trung lập hay có liên hệ ngoại giao để tuyên truyền. Trong chiến dịch qui mô này, Hồ đã cho Nguyễn văn Bổng, tức Trần Hiếu Minh sau này được cài vào VNCH tổng chỉ huy đám văn nghệ sĩ nằm vùng, Đoàn Giỏi, Anh Thơ, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Tuân đi Tân Tây Lan và Úc Đại Lơ.i. Nguyễn đình Thi, Nguyễn Huy Tưỏng đi Liên Xô, Trung Cộng, Tô Hoài đi Đông Âu còn Nguyễn công Hoan, Võ Huy Tâm, Phạm hữu Tùng và Vũ Anh Khanh đi Ấn Độ. Trước khi đi, Khanh có đến thăm các bạn Nam Kỳ trẻ tập kết lúc đó chưa có tiếng tăm gì như Nguyễn quang Sáng, Bùi Đức Ái, Xuân Vũ...đối với cây đại thụ trong làng thi văn Nam Kỳ là Vũ Anh Khanh. Bao nụ cười ra nước mắt, những đáng cay chua xót của kiếp người nhất là những người văn nghệ sĩ có tim, óc và tri thức đã được Xuân Vũ đắng cay cười cợt diễn tả nhắc lại qua các mẫu đối thoại giữa hai người bạn thân cùng trong cảnh ngộ lầm đường lạc lối, bỏ tất cả để hôm nay chuốc lấy sự nãn phiền và đau lòng. Có đọc Xuân Vũ mới biết về Vũ Anh Khanh, có nghe Xuân Vũ tự sự về bạn mình từ lúc sống với nhau trong khu đồng chua nưóc mặn ở tận cùng cảnh nghèo cực của miền tây Nam Kỳ và sau này trong thiên đàng xã nghĩa chết bỏ tại Bắc Việt , ta mới nghiêng mình cảm phục những tâm hồn hy sinh vì nước của các đại gia công tử giàu sang phú quý như Vu,õ như Khanh, như Trí và cũng vì đã từng sống trong cảnh giàu , trước khi dấn thân vào con đường chông gai chống Pháp, họ đã biết tự trọng như việc Vũ Anh Khanh mượn quần áo sang của Đảng để diện khi đi ngoại quốc làm vẹt tuyên truyền, lúc về vẫn hoàn trả nguyên vẹn, mà theo bè bạn lúc đó là chuyện điên rồ. Cũng theo Xuân Vũ thì mới đây, nhà văn Nhuệ Hồng viết trên tờ Thời Luận hải ngoại, cho biết năm đó ông đại diện cho VNCH cùng đi dự Hội nghị các nưóc Á Phi và có gặp Vũ Anh Khanh tại New Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Chắc chắn đây là nguyên nhân thúc đẩy ông tìm đường về Nam, một việc đã nung nấu từ lâu nhưng không thực hiện được hoặc vì một lý do thầm kín mà chúng ta không biết dược vì bản tính của Vũ Anh Khanh trước sau kín như bưng, kể cả người bạn thân Xuân Vũ cũng không hiểu đươc. Sau khi ở hội nghị về, Vũ Anh Khanh có mua một chai rượu quý của Anh quốc để giải sầu với đám bạn bè Nam kỳ tập kết. Theo Việt Thường trong tác phẩm “ Chuyện thâm cung DTDHCM” thì năm đó (1956), tình hình miền Bắc vô cùng rối loạn, nhất là Bộ đội miền nam tập kết ra Bắc, thuộc sư đoàn của Đồng văn Cống và Tô Ký, bất mãn nên nổi loạn cưóp phá tỉnh Ninh Bình, một số trốn chạy về Nam. Giống như tâm trạng của những người bộ trên, Vũ Anh Khanh đã kín đáo mượn cớ đi Ấn Độ về, ông dùng rượu để chia tay bạn bè thay lời vĩnh biệt, vì sau đó trong một cuộc Hội nghị khoáng đại của Hội Liên Hiệp Văn Nghệ, Xuân Vũ mói biết tin Vũ Anh Khanh đã chết ở Vĩnh Linh, Quảng Trị vì tai na.n. Sự thật theo tiết lộ của Võ hồng Cương, phó Tổng thư ký Hội cũng là Cục phó Cục Tuyên Huấn quân đội nhân dân Bắc Việt thì năm 1956, Vũ Anh Khanh được nghĩ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành Vĩnh Linh, Quảng Trị và từ đó bơi qua sông Bến Hải quảng trên cầu Hiền Lương vài cây số , quyết tâm về Nam tìm tự do. Nhưng hỡi ơi Trời không thương người hiền, nên khi sắp tới bến tự do thì bị Bộ đội biên phòng bờ Bắc phát giác và để khỏi bị Ủy ban quốc tế làm biên bản vi phạm Hiệp định ngưng bắn, thay vì dùng súng, Việt Cộng dùng tên tẳm thuốc độc bắn chết Vũ Anh Khanh. Sông Bến Hải lớn hơn sông Mường Mán tại Phan Thiết và thủy triều lên xuống bất thường, nên xác của người chết nhất là một phạm nhân vượt tuyến nếu may mắn không bị trôi ra biển đông hay xuôi về mạn ngược, mà tắp vào một bãi bờ nào đó trong khu phi quân sự, thì chắc chắn cũng được dân chúng vùi dập vội vả để làm phước, chứ đâu có ai dám truy nguyên lý lịch của nạn nhân, để tự chuốc họa cho mình ? Mấy năm sau Xuân Vũ theo phái đoàn văn nghệ đi công tác ở Vĩnh Linh, Quảng Trị và ông cũng đã có ý định như Vũ Anh Khanh , bơi qua sông tìm tự do nhưng khi chợt nhớ tới giọng ngâm sang sảng năm nào của người quá cố : “ Vũ Anh Khanh, quê hương còn ly loạn”..thì tỉnh ngộ, nhờ vậy trong cuộc trường kỳ “ đường đi không tới “ nhưng cuối cùng ông đã tìm được tự do thật sự khi ra hồi chánh vào năm1965 tại Củ Chi, Hậu Nghĩa. 3). VŨ ANH KHANH, MỘT ĐỜI ĐÁNG KÍNH: Sống trong buổi loạn ly, nhà tan nước mất, chỉ có một thiểu số không tim óc dững dưng nhìn thế sự xoay vần, mặc cho quốc dân bị đè bẹp dưới gót sắt của ngoại bang. Nhưng tuyệt đại đa số dân chúng VN đã đứng dậy hưởng ứng phong trào chống trả với giặc thù. Cuối tháng 12-1946, quân Pháp ch1nh thức làm chủ Sài Gòn và cũng giống như lần trước, giặc đã gặp phải sự chống trả của toàn dân. Lần trước vào năm 1862, người Việt dùng những vũ khí thô sơ và lòng yêu nước để chống chọi với súng đạn tối tân. Lần này, người Việt tuy vô Chánh phủ và thực tế chỉ là những lực lượng tự phát nhưng lại có trong tay các loại vũ khí hiện đại như người Pháp, của Nhật để la.i. Thêm vào đó là tim óc của các tầng lớp trí thức tân học, thể hiện qua các tác phẩm tuyên truyền, những lời hiệu triệu, những tờ truyền đơn nẩy lửa, tố cáo sự dã man của Pháp, đồng thời kêu gọi toàn dân đứng lên đáp lời sông núi, tiêu diệt kẻ thù. Ngày xưa các cụ Đồ Chiểu, Huỳnh mẫn Đạt, Nguyễn Thông, Phan văn Tri...cũng đã từng dùng thơ văn cổ xúy cho cuộc kháng Pháp của Trương Định, Nguyễn trung Trực, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương..nhưng lúc đó vì phương tiện và hoàn cảnh eo hẹp nên ảnh hưởng không được bao nhiêu. Trái lại khoảng thời gian năm năm 1945-1950, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo , nói chung là văn nghệ sĩ miền Nam đã tiếp tay cho kháng chiến một cách tích cực, góp phần lớn với toàn dân cả nước, tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, thu lại nền hòa bình độc lập cho dắt nước . Trong chiều hướng trên, các tác phẩm văn xuôi của Vũ Anh Khanh, từ truyện ngắn cho tới truyện dài, qua nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học hiện đại, trong đó có giáo sư đại học Nguyễn văn Sâm, đều đáng được xem là những tiêu biểu nhắm vào các mục đích đấu tranh nhằm tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp, làm cản trở sự tiến hóa của dân tộc VN. Tình trạng tạo nên cảnh ngu dân này, trước đây cũng đã được các nhà ái quốc tiền phong như Phan bội Châu, Phan chu Trinh..đặt thẳng vấn đề với nhà cầm quyền Pháp nhưng có lẽ quyết liệt hơn hết là tôn chỉ của VN Quốc dân đảng, được cố Đảng trưởng Nguyễn thái Học, viết trong bức thư tuyệt mệnh vào tháng 3-1930 gởi cho Hạ nghị viện Pháp , yêu cầu mở trường cũng như cải tổ nền giáo dục tại VN. Nối tiếp tâm nguyện của tiền nhân, Vũ Anh Khanh qua các tác phẩm BÊN KIA SÔNG và CÂY NÁ TRẮC, đã công khai tố cáo Pháp cố tâm ngăn chận sự học hành của VN. Trong truyện ngắn MỘT ĐÊM TRĂNG, Vũ Anh Khanh qua lời nhân vật của mình, đã thổn thức :”..Dân VN hiếu học nhưng bao lâu nay, họ cam tâm chịu dốt nát vì bị người ta tìm cách chèn ép..”. Hậu quả trên đã tạo nên tuyệt đại tầng lớp dân chúng thất học, chịu câm lặng cúi gập trước nổi bất công phi lý, như hầu hết các nhân vật trong truyện dài NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ gánh chi.u. Song song, ông còn mạnh mẽ tố cáo Pháp cố tình tạo nên một xã hội băng hoại, để đầu độc dân tộc VN , là tác giả của những tệ nạn rượu chè, hút sách, cờ bạc, đĩ điếm, công khai khuyến khích hay dùng bạo lực bắt dân chúng phải mua rượu, trồng nha phiến, mở sòng bạc, ổ điếm. Tất cả những tệ nạn xã hội trên đều được Vũ Anh Khanh ghi lại đầy đủ và nát tim trong các tác phẩm BẠC XÍU LÌN, SÔNG MÁU và ĐẦM Ô RÔ ..Tất cả các cơ sở trụy lạc trên đều nhan nhản khắp nước, đặc biệt là tại Hà Nội, Hải Phòng và nổi tiếng ở Sài Gòn-Chợ Lớn với hai sòng bạc Kim Chung và Đại thế giới, do các xì thẩu Hoa, Ấn và Pháp kiều toa rập làm chủ, kết quả nhiều người Việt vì say mê cờ bạc, thần đề, bàn đèn, đĩ điếm..phải tan gia bại sản và cuối cùng đã : “..bán con, thế vợ, đợ chồng hết cơ, mất nghiệp, thần vòng rũ đi..” Sau rốt, ông đã tố cáo thực dân làm cho người VN trở thành lạc hậu, hung tàn, mất hết bản tánh con người văn hiến. Trong lãnh vực này, Vũ Anh Khanh xứng đáng là một chiến sĩ,, một nhà văn can trường khi dám dùng trí óc như những phát súng thần công nhắm thẳng vào bọn cầm quyền Pháp, lũ xì thẩu bất nhân Hoa kiều và đám tư bản bóc lột Ấn Độ, chuyên sống ký sinh trên thân thể đầm đià máu lệ của người Việt, được lột trần qua các truyện ngắn như Sài Gòn ơi, Ma thiên Lãnh, Hối tắc..Nóm tóm lại dưới chế độ thực dân, cảnh nghèo cực tối tăm, người Việt không còn tương lai và gần như đánh mất hết đạo lý của thánh hiền, trở nên yếu hèn nông nổi vì quanh quẩn bị bạo lực vây bủa, kềm chế, sống trong cảnh một cổ bốn tròng,chia rẽ Trung Nam Bắc dù tất cả đều là VN và thê thảm nhất về kinh tế, Pháp và bọn ký sinh Hoa-Ấn hầu như nắm hết tất cả nguồn lợi quốc gia. Nạn đói năm Ất Dậu 1945 khiến cho hơn 2 triệu người bị chết đói, là hậu quả tất yếu của chính sách trên, sau này được Vũ Anh Khanh lập lại trong truyện dài ưng ý và nổi tiếng nhất của ông NỬA BỒ XƯƠNG KHÔ..Văn chương của Vũ Anh Khanh phản ảnh đúng nét đặc trưng của người Bình Thuận, ngay thẳng, trung hậu vì vậy thật linh động, có lúc thống thiết lâm ly, có khi mĩa mai cay độc nhưng vẫn không dấu nổi nét cảm khái hùng hồn, chưa chan niềm uất hâ.n. Vũ Anh Khanh hiện diện trên cõi đời thật ngắn ngũi (1926-1956), giống như hoàn cảnh của Vũ trọng Phụng cũng tài hoa lại vắn số, nhưng ông cũng đã làm tròn thiên chức của một thanh niên thờûi đại, trong cảnh quốc phá gia vong. Đây cũng là cái giá trị cao quý nhất của kiếp người, nhất là giới mày râu hàng tri thức có lương tri và nhân phẩm, cái hào quang để thế nhân phân biện được hư thực, tốt xấu của con người. Sau năm 1975, nhiều văn nghệ sĩ miền Bắc thẳng thắng bảo rằng, cái chết sớm của Vũ Anh Khanh là một hạnh phúc, để ông không trở thành cái bình vôi như hầu hết các văn thi sĩ tiền chiến đã lãnh trong suốt thời gian sống nhục nơi cõi thiên đàng xã nghĩa u trầm. Qua việc Vũ Anh Khanh tập kết ra Bắc năm 1954, nhiều người kết tội ông là cọng sản. Cũng vì lý do này mà suốt thời gian1955-1975, tác phẩm của ông lại bị cấm tiếp, không được tái bản, lưu hành, không có tên trong chương trình giáo dục, dù năm 1956 ông đã bị cọng sản miền Bắc bắn chết trên sông Bến Hải, khi quyết lòng đi tìm tự do sau khi đã đối mặt với sự thật nảo lòng. Thật ra việc Vũ Anh Khanh có là cọng sản hay không, giờ này cũng chưa có ai xác nhận được vì trong 9 năm chống Pháp, đảng VC núp bóng Việt Minh để quản thúc toàn dân kháng chiến và trong Việt Minh lúc đó có đủ mọi thành phần, đảng phái. Vũ Anh Khanh, Xuân Vũ..hay mọi người khác trong dòng người yêu nước lúc đó, biết ai là Việt Minh hay Việt Cô.ng. Còn vấn đề về Tề hay tập kết phần lớn chỉ vì mang tâm trạng sợ bị trả thù, nên bặm môi tới đâu hay đó. Nhưng thôi sự thật giờ đã rõ ràng, bộ mặt thật của cọng sản từ 1930-2006 cũng đã trôi hết lớp son phấn và huyền thoại, cho nên sự thức tỉnh của Vũ Anh Khanh năm 1956 là thái độ của một anh hùng đáng kính phục và mến mộ. Hơn nữa công hay tội của một con người xin hãy để cho lịch sử định đoa.t. Tự dưng tâm hồn cảm xúc và bối rối kỳ lạ khi bâng quơ đi vào ngỏ khuất của một phần đời nhà văn bị đời quên lãng VŨ ANH KHANH. Trong gió, trong mưa, trong cảnh mùa đông sụt sùi nước mắt, hình như có tiếng ai đang thì thầm :” Hãy khóc lên đi cho quê hương yêu dấu. Quê hương vẫn còn trong cơn ly loạn mà Anh nay ở đâu ?. Nhiều người nói, nhờ gương can đãm của nhà văn Vũ Anh Khanh, qua hành động chống lại CSVN bằng hành động vượt biên tìm tự do, đã mở đường cho nhiều văn nghệ sĩ khác của Miền Bắc tỉnh thức, như Phan Nghị, Xuân Vũ..sau đó là Hoàng Hữu Quýnh, Bùi Tín, Việt Thường, Phạm Thành Phương, Vũ Thư Hiên, càng làm sáng tỏ thêm chính nghĩa tự do của Dân Tộc Viê.t. HỒ ĐINH Xóm Cồn, Hạ Uy Di, 1-12-2006
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 11:57:04 GMT 9
Dân biểu Trần Ngọc Châu
CHÍNH SÁCH MỸ VÀ QUÂN ĐỘI VNCH Năm 1970, TT Nguyễn Văn Thiệu bắt Dân biểu Trần Ngọc Châu bỏ tù, Elizabeth Pond viết "The Chau Trial". (Hình bên: Dân biểu Châu gặp gỡ báo chí trước trụ sở Hạ Viện, Saigon, 1970). Bốn mươi năm sau, cuối 2008, thêm một sách mới của Rufus Phillips vừa nhắc đến trường hợp Trần Ngọc Châu: “Why Vietnam Matters” với tiểu tựa: An eyewithness account of lessons not learne / chứng từ của một nhân chứng về những bài học không được học.“ Từ năm 1991, Trần Ngọc Châu cũng đã là nhân vật chính cho một tác phẩm quan trọng của Zalin Grant: "Facing The Phoenix: CIA and the Political Defeat in Vietnam / Đối diện Phượng Hoàng” Báo New York Times đã giới thiệu sách này như sau: “Phượng Hoàng trong tựa sách là để chỉ Trần Ngọc Châu và sự sống sót phi thường của ông ta như một người lính, một viên chức, một người tù bị phản bội của chính phủ Nam Việt Nam, trong trại tù cải tạo sau chiến thắng của miền Bắc Việt Nam, một thuyền nhân, di dân tới nước Mỹ cũng như vai trò ông ta, người bố đỡ đầu bất hạnh cho chương trình Phượng Hoàng, một chiến dịch bình định thành công của CIA trong chiến tranh Việt Nam.” Lần đầu tiên, sách “Vụ Án Trần Ngọc Châu” được ấn hành ở hải ngoại. Ngoài đầy đủ bản dịch "The Chau Trial", phần trích lược sách báo và các tài liệu mật liên quan tới cuộc chiến Việt nam còn có bài viết đặc biệt của chính ông Trần Ngọc Châu. Sau đây là phần trích từ bài viết đặc biệt này. IÌ. THĂM NƯỚC MỸ LẦN ĐẦU Năm 1955, tôi được chỉ định và sốt sắng gia nhập nhóm 25 sĩ quan Việt Nam đầu tiên đi Hoa Kỳ mười tháng dự khóa huấn luyện bộ binh cao cấp. Trước hết chúng tôi bay từ Sài Gòn tới Guam, ghé Hạ Uy Di, và cuối cùng đến Cựu Kim Sơn, rồi chúng tôi tới trại Mason gần đó để nghỉ lại. Đi từ miền nam Việt nam đến một quốc gia mở mang hùng mạnh nhất thế giới là một kinh nghiệm khó quên và có đôi nhiều khám phá mới mẽ và thú vị. Chúng tôi thực sự không biết kỳ vọng cái gì. Sự kiện lúc đó là chúng tôi biết rất ít về người Mỹ. Dù chúng tôi lo âu vì trở ngại ngôn ngữ, câu chuyện sau đã xẩy ra như sau: Hôm trước ngày khởi hành đã định từ Cựu Kim Sơn đến trại Fort Benning, Georgia, một đại úy Mỹ đến thông báo cho chúng tôi phải dùng xe tắc-xi loại vàng (Yellow Cab) tới ga xe lửa hôm sau. Anh em sĩ quan chúng tôi cực kỳ sửng sốt vì tin đó. Chúng tôi tự hỏi, được đưa lên xe tắc- xi vàng vì chúng tôi là dân tộc Á Châu da vàng chăng? Người Mỹ có thực sự kỳ thị chủng tộc như chúng tôi được cho biết trước đây không? Xúc động lên cao nên anh em sĩ quan Việt chúng tôi thảo luận hoàn cảnh này. Chúng tôi phân vân không biết nên đối phó thế nào. Một số cho rằng chúng tôi không nên nói gì cứ lấy xe tắc-xi tới ga, số người khác muốn chúng tôi phải nói lên sự phản đối và yêu cầu được bay trở lại quê nhà tức khắc. Cá nhân tôi thất vọng thấy người Mỹ lại đón khách như vậy. Sau cùng, tôi lấy can đảm tới gặp viên chỉ huy Mỹ, và với vốn liếng Anh ngữ không gẫy gọn tôi cố gắng làm chọ họ hiểu được quan điểm của tôi. Họ lắc đầu và phá lên cười. Họ giải thích chỉ có hai công ty tắc xi chính ở cựu Kim Sơn, xe Vàng (Yellow Cab) và xe Vạch xanh (Blue Ribbon). Họ bảo chúng tôi dùng xe tắc xi vàng không có nghĩa là làm mất phẩm cách, hoặc kỳ thị, nhưng nếu chúng tôi không muốn đi xe vàng, họ sẽ lo liệu để chúng tôi dùng xe tắc- xi giải xanh. Nghe tôi kể câu chuyện lại cho anh em sĩ quan học viên được nghe, và sau đó không có gì hơn là tất cả chúng tôi đều cất tiếng cười vang. Đó là một bất ngờ nhỏ xẩy ra, dù sao rõ ràng lúc đó, chúng tôi không yên tâm tin tưởng vào người Hoa Kỳ. Chúng tôi nhận thức rằng có sự bất công, kỳ thị màu da tại Hoa Kỳ. Chúng tôi nhận thức có ảnh hưởng đến chúng tôi như thế nào. Có thể còn tệ hơn thế nữa. Khi việc này được giải quyết xong, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Sau mười tháng huấn luyện, tôi hòa đồng với người Hoa Kỳ và chấp nhận suy tư mình nên làm việc với họ. Thêm vào đó, chúng tôi rất khâm phục khả năng đồn trại Fort Benning khi họ biểu diễn sức mạnh quân sự và tàn phá khủng khiếp của hỏa lực. Tôi hài lòng có được một đồng minh đầy uy lực trong khi vẫn còn nghi ngờ về kết quả của các kỹ thuật đó một khi đem áp dụng tại Nam Việt Nam. KHÔNG CÓ SỰ LỰA CHỌN NÀO KHÁC HƠN Tốt nghiệp khóa huấn luyện tại Fort Benning vào tháng 9 năm 1956, tôi trở về làm giám đốc huấn luyện trường Võ bị quốc gia Đà Lạt. Đầu tiên, tôi thành lập một ủy ban nghiên cứu các chương trình huấn luyện quân sự của các trường nổi tiếng trên thế giới như trường Sandhurst Anh Quốc, trường Võ bị Saint Cyr Pháp quốc, trường Võ bị Đài Loan v.v... để tìm kiếm những phần thích hợp cho chương trình của trường Đà Lạt chúng tôi. Tôi trù tính soạn ra một chương trình huấn luyện do các sĩ quan ưu tú Việt Nam giảng dạy, bao gồm nững kỹ thuật tân tiến từ nước ngoài lồng trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Viên sĩ quan cố vân của tôi, thiếu tá Butterfield, một sĩ quan ưu tú, tốt nghiệp trường West Point đề nghị chúng tôi nên chấp nhận một chương trình bốn năm mà Hoa Kỳ đã thiết lập tại Phi luật Tân. Ông khuyên chúng tôi nên mượn các huấn luyện viên từ trường Phi này để phụ cùng các huấn luyện viên quốc gia chúng tôi giảng dạy các sinh viên sĩ quan Việt Nam. Tôi không đồng ý về đường lối này, cho nên tôi tìm đến gặp vị Trung tá chỉ huy trưởng trường Võ bị để xin ông cho quyết định. Trung tá nói chính phủ Hoa Kỳ sẽ đổ hàng chục triệu đô la vào Việt Nam để mở mang và tối tân hóa trường Võ bị chúng ta, và trường West Point được xem như là đứng vào hàng đầu thế giới, ông khuyên chỉ nên nghe theo mà thôi. Ông chưa bao giờ đi Hoa Kỳ, ôngxuất thân từ hàng hạ sĩ quan của Pháp là một trong những sĩ quan Việt Nam cho là người Mỹ giỏi hơn người Pháp rất nhiều. Ít tuần sau đó, thiếu tá Butterfield và đoàn phụ tá huấn luyện Hoa Kỳ trình bày với sĩ quan cao cấp Việt Nam về kế hoạch trong tương lai cho trường Võ bị quốc gia. Không một ai phản đối chương trình này! Khi thảo luận với các sĩ quan Việt Nam tại Bộ Tổng Tham Mưu, các đơn vị bộ binh, các đơn vị cấp tỉnh, tôi nhận thấy toàn thể đều có một ý nghĩ là nên theo đề nghị của phái đoàn cố vấn Mỹ. Đại để, phía Việt Nam bị thụ động, và hoàn toàn nghe theo ý kiến của đồng bạn Hoa Kỳ. Đây là vấn đề trầm trọng, người Hoa Kỳ và người Việt Nam đều thiếu tinh thần cộng tác và cảm thông nhau. Tôi cho rằng cả hai bên đều có lỗi: Người Hoa Kỳ bấy lâu nay có mặc nhiên tự tôn, còn người Việt Nam thì mặc cảm tự ti vì bị Pháp đô hộ gần một trăm năm qua. Do đó, tai hại là điều dĩ nhiên. Quan điểm thi hành chiến tranh, và cách chiến đấu ra sao tại Nam Việt Nam của Hoa Kỳ thì phía Việt Nam chỉ biết thụ động nghe theo. Như vậy, phía Hoa Kỳ không bao giờ có thể học được những gì mà người Việt Nam biết, cái biết rấ nhiều hơn hẳn họ về những sự việc cần phải làm tại nam Việt Nam. Đó là một sự thật rõ ràng, và rất tai hại khi biết rằng Việt Cộng, một địch thủ lợi hại mà chúng ta trong tương lai phải đối phó. Có khá nhiều người Việt Nam thông hiểu về ưu và nhược điểm của Cộng sản nhưng dường như người Hoa Kỳ ít quan tâm tìm đến họ mà chỉ tin chắc rằng chung cuộc rồi sức mạnh quân sự của họ sẽ hóa giải mọi trở ngại và họ sẽ chiến thắng. Như vậy, Hoa Kỳ là chủ chốt, lãnh trách nhiệm chính trong sự hình thành quân đội VNCH. Việc đầu tiên là họ phải đề ra đường lối chiến tranh quy ước. Về phần tôi, ngoài nhiệm vụ thông thường là phụ trách huấn luyện, tôi được cử tham dự vào sự cải biến sư đoàn 7 (tổ chức của Pháp trước đây) thành sư đoàn 4 bộ binh theo khuôn mẫu Hoa Kỳ. Tôi phải nhìn nhận là lúc đó tôi rất hăng say thấy quân đội Việt Nam cộng hòa bừng đứng dậy, được trang bị tối tân xe tăng, pháo binh, võ khí tự động và cả phi cơ nữa. Tôi cũng tin chắc rằng Nam Việt Nam có khả năng đánh bại nếu CS Bắc Việt từ miền Bắc tiến xuống xâm lăng miền Nam. Nhưng tôi không chắc là quân lực chính quy Nam Việt Nam có thể đánh có kết quả những đơn vị nhỏ Việt Cộng dùng chiến thuật du kích đánh bất ngờ, rút nhanh, đánh như thời tôi đã chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh. Vào thời gian này, nhất là khoảng trước 1960, hoạt động du kích quân tại nông thôn còn rất yếu ớt. Như vậy, cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã tự thỏa mãn, và cho những việc họ làm đã đạt được khá nhiều kết quả.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 11:58:29 GMT 9
IÌI. MẦM MỐNG CHIẾN TRANH MỚIKhoảng cuối năm 1959, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho lệnh chuyển tôi từ quân đội chính quy sang làm thanh tra lực lượng Bảo an và Dân vệ, các lực lượng này có nhiệm vụ bảo vệ dân chúng nơi làng xã, quận và tỉnh. Việc đầu tiên của tôi là phải đi thăm viếng 40 tỉnh để thẩm định tình trạng sinh hoạt và hoạt dộng của các lực lượng này và cung cách cư xử, giao tế giữa các lực lượng này với dân chúng có được tốt đẹp không. Sau ba tháng đi thăm tất cả địa phương, tôi làm một báo cáo dài, đầy đủ trình lên Tổng Thống. Phúc trình ghi nhận là Bảo an cũng như Dân vệ nhận được lương bổng thật ít oi, trang bị vũ khí thì rất thô sơ, và cũng không được huấn luyện đầy đủ. Hơn nữa, họ không được huấn luyện gì về chính trị, vì thế không vận động và không có khả năng khích động tốt dân chúng địa phương. Tôi còn được biết một số vần đề khác đã làm tôi xúc động, có khi nản lòng nhiều hơn. Phần lớn những viên chức chính quyền, ngay cả ở cơ quan tình báo, an ninh quân đội và cảnh sát, tất cả đều cũng là những bộ mặt trước đây đã làm thời kỳ còn Pháp thuộc. Nhìn chung thì họ là những người tốt, có khả năng nhưng họ đã dược người Pháp huấn luyện và học tập kinh nghiệm với người Pháp trong suốt cuộc chiến chống Việt Minh. Ở một góc độ nào đó, có vẻ đã có một sự thay đổi sâu xa đến với miền Nam Việt Nam. Người Pháp đã ra đi sau gần 100 năm đô hộ thuộc đia này. Một chế độ mới, một nước Việt Nam cộng hòa được khai sinh với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Người Hoa Kỳ tới để giúp đỡ miền Nam thành lập một thể chế dân chủ, tổ chức một quân đội hiện đại. Nhưng nhìn toàn thể đất nước nói chung, không có gì là đổi mới cả. Bắt đầu nhìn xung quanh, tôi nhận thấy không những chỉ miền nông thôn không có sự thay đổi, mà ở toàn thể mọi nơi cũng đều như thế cả. Ngay cả phần lớn những người thân cận bao quanh Tổng Thống Diệm đêù là những nhân vật xưa kia đã phục vụ cho chính phủ thuộc địa Pháp. Từ bộ trưởng đến giám đốc, tỉnh trưởng, quận trưởng và sĩ quan cao cấp trong quân đội , hầu hết đều được đào tảo bởi và trước kia đã phục vụ dưới quyền người Pháp. Hậu quả thật là rõ ràng. Người Pháp đã ra đi, tuy nhiên đường lối chính trị và tập tục của họ đối với dân nông thôn vẫn còn tồn tại. Người dân vẫn tiếp tục công việc như xưa nay đã từng làm, như vậy có nghĩa là tiếp tục chịu sự đàn áp, sống hai mang và chấp nhận tham nhũng. Và như vậy cũng có nghĩa là những ai trước đây đã ủng hộ lực lượng Hồ Chí Minh chống Pháp, nay bị nghi là thành phần thân Cộng. Điều chánh yếu, là những ai trước đây muốn người Pháp phải rời khỏi Việt Nam đều bị chính quyền ghi vào "danh sách sổ đen". Sự việc người Hoa Kỳ tới, đã mang đến một điều tốt nào đó, và ít nhất Cộng sản cũng có một lý do tuyên truyền nào để đề cập tới. Từ lâu, Cộng sản coi người viên chức Việt Nam như là gia nô cho Pháp, thì nay họ lại coi như là gia nô cho Hoa Kỳ. Như vậy, chiến tranh Việt Nam lần thứ hai đã được gieo mầm. Và lần này, cũng như lần đầu. Tại miền nông thôn toàn quốc. Nhìn lại ta thấy Tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm mất cơ hội dành được sức hậu thuẫn của người dân nông thôn. Theo lẽ ông nên nghiên cứu kỹ càng lại chính sách đối với một số khá đông đảo nông dân đã coi chính quyền như thù địch. Ông Diệm cũng nên hoạch định một chính sách hòa giải lôi kéo những phần tử cựu Việt minh trở về với chính quyền. Thay vì làm như vậy, ông lại trối bỏ đẩy họ vào thế phải quay trở lại vào vòng tay Cộng sản. Những sai lầm nghiêm trọng này là một sự thật. Cả ông Diệm và phân lớn cố vấn Hoa Kỳ đã toan tính sai lầm nặng nề khi không tôn trọng nông thôn và những người dân sống tại đó. Đó là một sai lầm lớn nhất của ông Diệm và Hoa Kỳ. BÀI HỌC VỠ LÒNG VỀ CUỘC CHIẾN MỚI Giữa năm 1960, tôi được chỉ định làm Chỉ huy Trưởng các đơn vị Bảo an và Dân vệ của các tỉnh khu Tiền Giang/ đồng bằng Cửu Long. Trên thực tế, chính các tỉnh trưởng có nhiệm vụ tuyển mộ và chỉ huy các lực lượng này. Công việc của tôi chỉ bao gồm thanh tra và huấn luyện. Lực lượng Cộng sản mới chỉ bắt đầu gây rối loạn, ban ngày thì làm việc bình thường trên đồng ruộng, ban đêm thì họp hành phân công đi hoạt động gây nên một tình trạng bất an. Song hành, có những nhóm nhỏ Việt cộng võ trang đi hoành hành mọi nơi, ám sát các viên chức làng xã và những người mà chúng nghi là có hợp tác với chính quyền Sàigòn. Một hôm trong một chuyến đi thăm tỉnh Kiến Hòa, tôi ngừng xe trước trụ sở xã nơi có một đám đông đang tụ họp. Tôi thấy có 12 xác Việt cộng nằm la liệt và bốn, năm khẩu súng kiểu cũ từ đệ nhị thế chiến vất ngổn ngang cạnh khu vực. Tôi được thông báo là những tử thương nằm đó do anh em dân vệ phục kích hạ sát đêm hôm trước, tại một nơi cách quận lỵ, khoảng hai cây số. Mười đàn ông và hai phụ nữ tuổi khoảng từ 15 đến 35, và tất cả là nông dân. Trong nhiều năm tham dự hành quân, là chiến sĩ tôi đã từng thấy hàng trăm xác chết, tôi luôn luôn cảm thấy động lòng trắc ẩn trước kẻ quá cố và thân nhân còn sống sót. Tuy nhiên tôi còn tự an ủi, vì chết chóc vẫn là một hiện tượng tàn nhẫn trong thời chinh chiến. Nhưng nay thì lại không giống như hồi đó. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác những nông dân bị xúi dục hành động chống lại chính quyền mà chính quyền này lại đã cố gắng bảo vệ họ. Đúng như vậy, tôi rất xúc động nhưng lại rất bất bình. Không có thân nhân nào của các người chết đã kêu khóc như họ đã thuờng làm trong trường hợp như thế này. Một phụ nữ khoảng 30 tuổi đã tỏ ra căm hờn khi chằm chằm nhìn vào bộ quân phục tôi đang mặc. Tôi trở nên ưu tư và suy ngẩm nhiều ngày đêm về sự kiện này. Tôi đã lưu ở lại làng đó ba ngày, nói chuyện với dân làng để tìm giải đáp cho những câu hỏi, những băn khoăn thắc mắc. Tỉnh Kiến Hòa trước kia gọi là Bến Tre bao gồm ba cù lao lớn nằm giữa hai nhánh chính sông Cửu Long. Tổng số khoảng 600,000 dân, mà gần phân nửa là Công giáo. Số nửa còn lại theo Phật Giáo và Cao Đài giáo. Nhóm Cao đài tại đây giữ không có quân đội riêng như Cao đài Tây Ninh. Kiến Hòa là một khu vực tương đối phồn thịnh với tài nguyên chính là ruộng, vườn trồng dừa và cây ăn trái và hải sản. Tỉnh trưởng Bến Tre sau chót của Pháp là Đại tá Leroy. Pháp gọi "Le roi" là "Vua". Như vậy, đại tá Leroy được rất nhiều người biết tới, kể cả Pháp lẫn Việt, người ta gọi ông là Vua Bến Tre. Đại tá Leroy cai trị Bến Tre như ông là chủ nhân lãnh thổ. Ông tổ chức một hệ thống riêng về thuế má, và các viên chức mọi cấp trong tỉnh đều lãnh lương của chính quyền trung ương. Ông cũng có một hệ thống quân đội riêng, phần lớn tuyển mộ từ giáo dân. Đại tá Leroy rời Việt Nam năm 1954, nhưng sự chuyên chế và luật lệ ông để lại vẫn còn được duy trì. Nhiều tỉnh trưởng Việt Nam sau này, kể cả viên tỉnh trưởng mà lần đầu tôi tới thăm cũng tiếp tục theo đường lối Leroy. Có thể khả tin mà nói rằng suốt cả giải miền quê Nam Việt Nam, không có một khu vực nông thôn nào lại bị áp chế khắc nghiệt như tại tỉnh Kiến Hòa. Và không có gì lấy làm lạ vì sao Việt Cộng chính thức khai sinh ra Mặt trận giải phóng miền Nam năm 1959, tại tỉnh Bến Tre. Từ đó, Kiến Hòa được mệnh danh là "Đồng Khởi, cái nôi của Cách mạng Miền Nam". Có một việc gì đó mà tôi đã nhận ra trong chuyến thăm Kiến Hòa lần đầu năm 1960. Tôi được biết là khi hoạt động du kích chống chính quyền tăng gia thì những phản ứng và sự đàn áp của chính quyền cũng theo đà leo thang. Cái vòng luẩn quẩn cứ xoay quanh như vậy, và mãi mãi. Sự đàn áp của chính quyền càng nặng nề nhiều thì Việt cộng càng tuyển mộ nông dân dễ hơn bấy nhiêu. Vài tháng sau khi trở lại khu làng trước kia, tôi đước biết phần đông những thân nhân của những người bị phục kích giết đêm hôm trước, một phần đã bị chính quyền Nam Việt Nam bắt giữ, phần khác đã trốn theo Cộng sản, số còn lại chui lẩn sống trong đám dân cư đông đúc tại thành thị.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 11:59:35 GMT 9
III. LÀNG XÃ LÀ CHÍA KHÓA GIẢI QUYẾT CHIẾN TRANH
Tôi đi đến một kết luận chắc chắn: cuộc "nổi dậy" tại Nam Việt Nam không tùy thuôïc ở quân đội chính quy quyết định, dù quân đội được trang bị tối tân, có kỹ thuật tân kỳ và được Hoa Kỳ huấn luyện. Thay vào đó, cuộc chiến sẽ được giải quyết ngay tại làng, xã thôi bởi các viên chức địa phương, cảnh sát, và quan trọng nhất là do Bảo an và Dân vệ hổ trợ. Những thành phần này có sự liên hệ trực tiếp với giới nông dân địa phương. Nếu chúng ta tìm đạt được sự trung thành của nông dân, và nếu chúng ta chiến thắng được quân cộng sản dấy loạn, chúng ta cần phải có những cán bộ quân sự và chính trị của chúng ta có mặt ở ngay tại trần tiền. Tôi quyết định lập một trung tâm huấn luyện gần Mỹ Tho để huấn luyện tất cả các Bảo an và Dân vệ trong khu vực, đặc biệt nhấn mạnh tới các phần tác phong của chỉ huy và binh sỉ và sự giao tế giửa họ và dân chúng. Từ những kinh nghiệm tôi đã được thụ huấn 15 năm trước đây khi tôi còn chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh, tôi khai triển thành năm phần chính trong công tác huấn luyện: - Phần thứ nhất, là làm sao để bảo vệ dân làng chống địch quân phá phách. - Phần thứ hai, làm thế nào đạt được sự ủng hộ và lòng trung thành của dân làng. Phần thứ ba, làm sao có được tin tức từ phía dân để bổ túc những tin tức từ những nguồn chuyên môn, những thành phần tình báo được trả lương v.v.. - Phần thứ tư, phải thi hành theo nguyên tắc chiến thuật căn bản cần thiết nào để bảo vệ dân, và ngăn Cộng sản không thể khai thác lấy được nhân vật lực từ phía dân chúng. Phần thứ năm, cải thiện phong cách các đơn vị Bảo An và tự cải tiến công tác và tác phong thông qua các sinh hoạt tự kiểm hàng ngày. Để giúp cho những học viên có được những kinh nghiệm thực dụng, tôi kết hợp các làng xã chung quanh Trung tâm huấn luyện thành một khu thực tậpä rất sống động. Như vậy, chúng tôi gánh trách nhiệm quản trịù các làng xã này và báo cáo trực tiếp lên tỉnh trưởng. Các học viên có một khu vực để thực hành tất cả những điều mà họ đã học hỏi.
CHƯƠNG TRÌNH DÂN Ý VỤ Để hoàn thành phần vụ thứ ba trong chương trình huấn luyện của chúng tôi về phần thu thập các tin tức tình báo và dân sự, tôi đề ra một chương trình gọi là "Dân Y VụÙ". Thật là giản dị. Hàng ngày một thành viên của mỗi gia đìmh trong ấp được yêu cầu gặp một cán bộ Dân Ý Vụ để trả lời ba câu hỏi căn bản như sau: 1/ Trong thời gian 24 giờ qua, có những điều gì tốt và có những điều gì xấu xảy ra trong ấp? 2/ Ai là người làm ra điều đó? 3/ Anh, Chị, Ông, Bà muốn chúng tôi phải làm gì để làm tốt hơn trong việc bảo vệ, giữ an ninh ấp cho Ấp và cải thiện đời sống trong ấp? Vì mỗi người nào cũng đều được hỏi riêng rẽ và trong 10, 15 phút nhất định những câu hỏi giống nhau, cho nên Việt cộng không thể tìm ra người nào báo tin. Và kết quả là, phần lớn những Việt cộng bí mật nằm vùng đều lần lượt bị phát giác hoặc cảm thấy bất an nên phải bỏ đi hoặc đầu thú. Chương trình "Dân Ý" đã thành công trong sự làm gia tăng an ninh cho làng xã. Thật không ngờ mà đến, chương trình này cũng đã tìm ra nhiều hành động tiêu cực từ phía chúng ta, đặc biệt những quấy rầy và những lạm dụng quyền hành của những viên chức sở tại. Chương trình đã trở nên công tác chính yếu giúp cho tỉnh trưởng và các viên chức sửa lại những sai quấy. Thời gian này, không có sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ được phái tới bộ chỉ huy của tôi. Tuy nhiên, Trung tá Frank Clay cố vấn trưởng sư đoàn 4 VN đã rất để ý tới công việc chúng tôi đang làm. Ít lâu sau, tôi được Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Hoa Kỳ mời lên Sàigòn để thuyết trình công việc của chúng tôi trước một số nhân viên cao cấp trong đó có các Tướng McGarr và Timmes, có cả Huân tước Robert Thompson, trưởng phái bộ cố vấn danh tiếng chống phiến loạn tại Mã Lai Á. Trong khi có nhiều người Mỹ đã lưu tâm tới công việc của tôi, thì các sĩ quan VN không có ai để ý tới. Viên Đại tá tư lệnh sư đoàn khu vực tôi, tôi thường gặp ông trong những bữa ăn. Ông không hề hỏi tôi về những việc tôi đang làm. Tương tự như phần lớn những sĩ quan cao cấp khác, ông chú tâm nhiều về những chiến thuật của chiến tranh quy ước mà ông đã học hỏi từ những người bạn Hoa Kỳ. Ông say mê, chú ý vào những điều như: Hỏa lực, cơ động, pháo binh, thiết giáp và sự yểm trợ của không lực, hải lực. Mặc dầu các đơn vị Bảo an đã chiến đấu chống quân phiến loạn từ gần hai năm qua, quân chính quy vẫn còn đang trong thời kỳ tái huấn luyện và cải tổ thành đại đơn vị cấp sư đoàn theo kiểu Hoa Kỳ. Sĩ quan, các Bảo an quân và Dân vệ chỉ dược coi như những thành phần phụ lực. Chứng cớ là thời đó không có Cố vấn Hoa Kỳ được đặt tại các đơn vị Bảo an, Dân vệ. Rất đơn giản, các giới chức Hoa Kỳ cũng như Việt Nam không nghĩ rằng các đơn vị Bảo an, Dân vệ là những thành phần quan trọng như tôi vừa trình bày.
THAM QUAN, HUẤN LUYỆN TẠI MÃ LAI Á Như đã đề cập tới ở phần trên, một trong những người hiểu biết về công việc của tôi là Huân Tước Robert Thompson, một nhân vật đã thành công trong nỗ lực dẹp phiến loạn tại Mã Lai Á vào những năm đầu thập niên năm mươi. Ông đã trực tiếp gặp và đề nghị Tổng Thống Diệm gửi tôi đi Mã Lai Á để quan sát những điều tôi muốn học hỏi. Tổng Thống Diệm gọi tôi lên, và gửi tôi đi tham dự công vụ này. Ông nói với tôi là có thể dùng thời gian bao lâu cũng được, và hãy chắc chắn khi trở về gửi lên ông một phúc trình dài không quá một trang. Tôi tới Mã lai Á với một mục tiêu thật rõ ràng, đem trở về nước nhà một quan điểm hữu hiệu hơn để đánh bại Cộng sản Việt Nam. Tôi đã lắng nghe và nói chuyện với nhiều người phụ trách nhiều lãnh vực khác nhau như: Quân đội, tự vệ, cảnh sát, tình báo, dân sự vụ, thông tin, và phát triển cộng đồng. Sau 4 ngày ở một khách sạn nhỏ tại Tân Gia Ba để viết báo cáo, tôi đã cố gắng rút ngắn được bản thảo 12 trang (để tham khảo bổ túc) thành 1 trang theo ý của Tổng Thống. Sau đây là các điểm chính trong báo cáo: 1. Hệ thống chính quyền Tiểu bang và Liên bang được tổ chức trên cơ sở truyền thống của mỗi Tiểu bang (như tỉnh của Việt Nam); các lãnh đạo Tiểu bang được bầu lên làm Quốc Vương Liên bang. Để đối phó với tình trang khẩn cấp chống phiến loạn Cộng sản, ở cấp Liên bang, có bộ tham mưu do một Tổng Ủy viên phối hợp, điều khiển. (Huân tước Robert Thompson đâ từng đảm trách chức vụ này). 2. Ở cấp Tiểu bang, Thủ tướng đảm nhiệm điều hành. Cảnh sát trưởng là chỉ huy phó để bảo đảm tất cả các hoạt động chống phiến loạn phải được thi hành đúng theo điều khoản luật pháp của Tiểu bang và Liên bang. 3. Chỉ huy trưởng quân sự có Cảnh sát trưởng phụ tá, được chỉ định một khu vực hoạt động riêng biệt với mục tiêu rõ ràng. 4. Tin tức thông báo cho dân chúng phải chính xác. Trường hợp phải bảo mật, để tránh gây hoang mang trong dân chúng, phải nói là vấn đề đang được điều tra, nhưng không được loan tin sai trái. Tổng Thống Diệm đọc bản tường trình rồi yêu cầu tôi đưa thêm một bản sao để trình bày với Cố vấn Ngô Đình Nhu. Sau khi nghe tôi trình bày khoảng một tiếng đồng hồ, không cầnù đọc bản tường trình, ông Như phát biểu với một giọng quả quyết: "Ở đây chúng ta đối diện với một loại phiến loạn khác, thì cần có giải pháp khác". Tôi lễ độ, đáp lại: "Thưa ông Cố vấn, tôi nghĩ rằng phương pháp tuy có khác, nhưng nguyên tắc của vấn đề vẫn là một". Ông Nhu nói, ông thấy vấn đề coi như xong. Rồi ông mở sách ra và bắt đầu đọc. Bao giờ Tổng Thống Diệm cũng thân mật chân thành, còn ông Nhu thì lại quá lạnh lùng. Cuối cùng, bản tường trình của tôi theo thời gian, bị rơi vào quên lãng. Năm 1991, Huân tước Robert Thompson mời vợ chồng chúng tôi đến thăm ông bà tại nhà riêng ở ngoại ô Luân Đôn. Tối hôm đó, rất khuya sau bữa cơm tối, ông nói ông ta có gặp ông Nhu vào cùng thời điểm, Ông cũng có gợi ý nên canh cải hệ thống cảnh sát, tòa án, nhưng ý này bị bỏ ngoài tai. Ông cho biết thêm, những năm về sau, được Tổng Thống Nixon yêu cầu ông tới Nam Việt Nam để nhận định tình hình, ông làm việc như một quan sát viên hơn là một cố vấn. Ông Thompson nói, người Hoa Kỳ rất thông minh, nhưng họ không muốn học hỏi thêm bất cứ một điều gì, một khi họ đã sắp sẵn những điều trong đầu óc của họ. Riêng đối với ông, họ đối xử rất tử tế, lịch sự, ân cần hơn là thật sự chú ý lắng nghe những điều mà ông đề nghị.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:01:16 GMT 9
IV. KIẾN HÒA: CÁI NÔI ĐỒNG KHỞI CỦA VC Đầu năm 1962, Tổng Thống Diệm gọi tôi đến văn phòng ông tại dinh Gia Long. Trước sự hiện diện của ông Bộ trưởng bộ Nội vụ Bùi Văn Lương, Tổng thống chỉ thị tôi đảm nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Hòa. Tôi lễ phép từ chối với lý do chưa được huấn luyện thành thạo cho một công vụ lớn lao như vậy. Tổng Thống nói: "Ta đã quyết định rồi, hãy theo gương tổ phụ và thân phụ của anh trước kia mà làm." Lời nói của Tổng Thống làm tôi rất cảm động. Cả cha và ông tôi đã từng phục vụ trong chế độ Nam Triều nhiều năm trước, với mực thước của Nho giáo. Tôi tới tỉnh Kiến Hòa với một sự hiểu biết sẵn có khá đầy đủ về tình hình nơi đó. Số dân cư toàn tỉnh là 600,000, chỉ có khoảng 80,000 dân được chính quyền chặt chẽ kiểm soát. Tôi đi đến một ý nghĩ đơn giản mà thật rõ ràng là phải đặt nặng sự tranh đấu chính trị với Cộng sản hơn là bằng quân sự. Mục tiêu chính là bình định dân chúng nông thôn, tìm để có sự hậu thuẫn của họ, loại bỏ sự ủng hộ của nhân dân đối với họ. Chỉ xử dụng lực lượng quân sự để yểm trợ cho các hoạt động chính trị và dịch vụ khác mà thôi. Đầu tiên, tôi hoạch định cho thi hành chương trình "Dân Y Vụ", bắt đầu từ các xã thôn gần cận nơi các nơi đồn trú của các lực lượng quân sự. Những tin tức của các cán bộ Dân Ý Vụ là nền móng hướng cho những nổ lực bình định nơi thôn xã. Nhiều Việt cộng đang bí mật ẩn náu trong những thôn xã đó phải tức tốc rời khỏi ngay, nếu không sẽ bị lộ diện, và bị bắt liền. Đồng thời, chúng tôi cho thực thi để giảm thiểu những bất công xã hội, những chèn ép kinh tế do những viên chức địa phương gây ra phương hại tới dân làng. Chúng tôi đặt định chính sách "Chiêu hồi" để mở đường ân xá cho các quân phiến loạn. Như tôi đã nói ở phần trên, một trong những sai lầm lớn của chính phủ vào những ngày đầu là chính sách đối xử với các cựu Việt cộng. Sau hiệp định Gevene 1954, các cựu Việt Cộng đáng lẽ phải được chiêu hồi về hàng ngũ VNCH thì trái lại họ bị xử nhục, săn bắt, đôi khi còn bị giết. Với chương trình chiêu hồi, chúng tôi cố gắng sửa chữa lỗi lầm đó, đưa cơ hội cho những địch thù, cựu địch thù để họ có thái độ dứt khoát với Cộng Sản. Chúng tôi còn giúp dân làng thực hiện những chương trình "tự túc phát triển" đầy hứa hẹn. Sau hết, có thể là quan trọng nhất, chúng tôi hướng dẫn, giúp toàn thể dân chúng tham gia bầu cử viên chức hành chính xã, viên chức an ninh là những người đại diện cho thính họ. Chúng tôi cũng yêu cầu tất cả toàn dân tình nguyện tham gia tổ chức tự vệ, chiến đấu bảo vệ thôn xã. Cuộc chiến đấu ở cấp thôn xã đòi hỏi một sự duyệt xét lại lối làm việc ngay từ ở cấp tỉnh. Thông thường thì từ cấp trên đưa lệnh xuống, đường lối mới đòi hỏi viên chức tỉnh, cảnh sát, quân đội phải thanh thỏa những yêu cầu hợp lý từ xã thôn đưa lên. Thí dụ, các chương trình xã hội, và kinh tế do dân chúng đề ra, rồi chuyển tới ban "Dân Y Vụ" thay vì do các viên chức cấp tỉnh hoạch định đưa xuống. Sau một năm, một giám định của phái bộ quân sự Mỹ chính thức ước lượng có 220.000 dân tỉnh Kiến Hòa đã trung thành với chính phủ, như vậy so với trước tăng 140.000. Căn nguyên của sự thay đổi là đặc tính chính trị trong tỉnh. Chớ không phải do những chiến thắng lớn về quân sự. Nó là sự chuyển hướng từ khối dân đông đảo nghĩ tới sự liên hệ với chính phủ và những đại diện của họ. Thay vì ngược đãi, tước quyền lực của người dân như họ đã từng chịu đựng từ nhiều năm qua, chúng tôi giúp dân có nhiều quyền trong đời sống, quyền tự bảo vệ, quyền tự quản và thẳng tiến tự quản lý kinh tế.
VỤ CỜ PHẬT GIÁO Đầu năm 1963, Tổng Thống Diệm ra lệnh không được treo cờ gì khác ngoài cờ quốc gia vào lúc các chùa và tư gia Phật tử đều đã treo cờ Phật giáo trên mọi chùa chiền và tư gia. Lệnh của Tổng thống được hiểu ngay là phải hạ cờ Phật giáo xuống. Tôi nghĩ đó là một sự sai lầm chính trị nghiệm trọng nhất là Tổng Thống, một người công giáo đã có quyết định như vậy. Tôi điện thoại trình với Tổng Thống những điều tôi nghĩ. Ông yêu cầu tôi về Sài Gòn để bàn thảo vấn đề nói trên. Thật là rõ ràng, dù miễn cưỡng không thay đổi đường lối, ông đã đồng quan điểm cùng tôi. Và quả thật, ông đã tỏ ý rõ là ông không phản đối nếu tôi tiếp tục để treo cờ Phật giáo trên các chùa tại tỉnh Kiến Hòa, một việc mà tôi đã làm ngay. Tuy nhiên, thật là bất hạnh, tôi đã không đủ khả năng thuyết phục để ông thay đổi chính sách cho toàn quốc, và như vậy tình hình trở nên tồi tệ hơn. Biến cố đẫm máu đã xảy ra ở Huế. Tổng Thống Diệm lại gọi đến tôi, ông nói ông có ý muốn giao cho tôi một nhiệm vụ quan trọng để giúp giải quyết vấn đề Phật giáo. Ông nói, tiên khởi ông có ý gởi tôi đi Huế, trung tâm của vấn đề khủng hoảng, nhưng sau đó ông e ngại tôi có thể có sự xung đột với bào huynh ông là tổng giám mục Ngô Định Thục, và bào đệ Cố vấn chỉ đạo Ngô Đình Cẩn, cả hai đều ở Huế. Do đó, ông quyết định cử tôi làm thị trưởng Đà Nẵng, cách Huế khoảng 60 dặm về phía Nam, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ Tổng trấn khu vực Quảng Nam/ Đà Nẳng. Tổng Thống Diệm còn nhấn mạnh là tôi chỉ nghe lệnh từ ông mà thôi. Sau đó tôi hỏi ông một câu, như sau: "Nhiệm vụ mới của tôi là giúp giải quyết vụ Phật giáo, tôi muốn Tổng Thống nói cho tôi được biết thật rõ ràng thái độ và đường lối đối với Phật giáo và cộng đồng Phật giáo đang chống lại tổng thống và chính phủ ra sao?" Tổng thống Diệm hầu như không để ý nghe lới tôi nói. Trái lại ông lấy mấy ngón tay vân vê điếu thuốc ông đang hút một khoảnh khắc ngắn, chừng một hai phút. Rồi đột nhiên, ông chăm chú nhìn thẳng vào tôi, ông nói: "Anh hãy làm tất cả những gì để giải quyết vụ khủng hoảng này phù hợp với thái độ và đường lối của anh đối với Phật giáo và các Phật tử". Tôi hiểu như thế có nghĩa là ông đã tin tưởng nơi tôi, là một Phật tử luôn luôn làm việc phải. Tôi cũng hiểu là ông cho tôi toàn quyền làm những gì tôi nghĩ là đúng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:02:18 GMT 9
V. CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU VÀ TT. DIỆM Sáng sớm hôm sau, phi cơ riêng của Tổng Thống đáp xuống Kiến Hòa, chở tôi đi Đà Nẵng. Từ Đà Nẵng tôi điện đàm hầu như mỗi ngày với Tổng Thống, và sau nữa bay về Sài Gòn diện kiến ông hầu như mỗi tuần. Có một lần, tôi rất ngạc nhiên khi ông hỏi ý kiến tôi ra sao, nếu ông bãi chức em ông, cố vấn Ngô Đình Nhu và phái vợ chồng Nhu ra ngoại quốc một thời gian. Giơi thạo tin cho rằng ông Nhu là người định ra đường lối đối với Phật giáo. Thời gian, dư luận đều đồn đại là Hoa Kỳ muốn ông Diệm loại Ngô Đình Nhu ra khỏi quyền lực. Các báo chí đều đăng tin như vậy. Chính Tổng thống Diệm hình như cũng cảm thấy ông Nhu đã mang lại tai hại lớn cho ông, nhưng ông lại ngại rằng việc đưa ông Nhu ra nước ngoải, dân chúng sẽ nghĩ là ông làm theo sự ép buộc của Hoa Kỳ. Ông không muốn bị hiểu là bù nhìn hoặc là gia nô của Hoa Kỳ. Tôi nói với Tổng Thống, nếu loại bỏ người em để ông được hưởng tư lợi thì hành động đó thật là sai lầm. Nhưng nếu làm vì quyền lợi của quốc gia thì đó là một quyết định khôn ngoan và là một quyết định đúng. Ông Diệm nói là có thể ông Nhu sẽ được cử đi đảm đương một chức vụ chính thức tại nước ngoài. Người ta có thể lấy làm lạ chuyện có thể xảy ra tại Nam Việt nam, và vụ ám sát tổng Thống Diệm có thể tránh được nếu ông làm theo thiên bẩm chính trị của ông, và đưa đẩy vợ chồng ông Nhu ra ngoại quốc.
NHẬN THỨC TỪ ĐÀ NẴNG ... Sau khi được Tổng thống Diệm cử ra làm thị trưởng Đà Nẵng. Tại đây tôi đã âm thầm vận động với Thầy cũ là Thich Mật Hiển (người cũng từng là thầy của các Thượng tọa một thời bạn đồng trường với tôi là Thích Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Hoa...) đóng góp một phần vào việc hình thành thỏa hiệp chung giữa Phật giáo và Chính phủ. Cũng chỉ sau ngày đươc bổ nhậm vào chức vụ Thị trửơng ĐàNẵng kiêm Tổng trấn Quảng Nam - Đà Nẳng (chức vụ đặc biệt đối phó với tình hình biến động trong địa phương lúc bấy giờ - ngoài các tổng trấn Saigòn, Nha Trang và Dalat) tôi mới có dịp đươc tiếp xúc mật thiết với nhiều vị lãnh đạo Phật giáo đã từng là thầy là bạn của mình, và với các vị Tổng giám mục Ngô Đình Thục, Linh muc Cao Văn Luận, Lê Văn Ấn, Cố vấn Ngô Đình Cẩn ... và nhiều người trong các tầng lớp khác nhau của quần chúng. Trải qua những tiếp xúc sâu rộng nầy và quan sát các hoạt động của họ (thêm vào những học hỏi đươc từ Cố vấn Ngô Đình Nhu và những nhân vật khác quanh Tổng Thống trước đó) tôi mới hiểu được rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm tuy có đầy đủ tấm lòng và phong cách của một nhà lãnh đạo quốc gia nhưng trong thực tế quyền lãnh đạo tuyệt đối lại nằm trong tay vị huynh trưởng “quyền huỳnh thế phụ”, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, với “tham mưu trưởng” Ngô Đình Nhu. Cố vấn Ngô Đình Nhu chỉ đạo và giám sát toàn diện các tổ chức an ninh, công an, mật vụ chìm và nổi. Chính những người lãnh đạo các cơ quan này nắm quyền phán quyết ai là quốc gia ai là cộng sản, ai là phản động -- hầu hết theo lời trình của những cấp chỉ huy được chọn lọc từ thành phần nhân sự đã được Pháp rèn luyện. Theo tôi chế độ Diệm phải được nhìn nhận dưới hai góc độ khác nhau. Đức Cha Thục, Cố Vấn Nhu và Tổng thống Diệm có hoài bão rất cao quý là muốn đem đạo lý và thế lực Ki-Tô-Giáo làm căn bản lãnh đạo đất nước và dân tộc Việt Nam ra khỏi cảnh hậu tiến, lạc hậu và nghèo khó. Điều tai hại là để thực thi nhiệm vụ cao cả đó, họ đã sử dụng ngay chính bộ máy nhân sự và kỹ thuật (phương pháp) mà Thực dân Pháp đã rèn luyện, ứng dụng qua suốt 9 năm chiến tranh Pháp Việt. Quần chúng Việt Nam không nhìn thấy mục tiêu cao quý của các vị lãnh đạo mà chỉ thấy những hoạt động cụ thể hàng ngày vẫn tiếp diễn rập theo khuôn khổ của thực dân Pháp và tay sai trước kia.
TỔNG THỐNG DIỆM BỊ THẢM SÁT Ông Nhu lại vẫn không bị loại bỏ. Tình hình Phật giáo trở thành trầm trọng hơn. Toàn thể thế giới chứng kiến nhiều vị sư xả thân tự thiêu, lực lượng võ trang chính phủ tấn công Phật giáo đồ. Quân đội càng ngày càng không còn giữ được sự nhẫn nại nữa. Người Hoa Kỳ cũng vậy, đặc biệt là Đại sứ Cabot Lodge. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, một cuộc đảo chính tiến hành và hai anh em ông Diệm bị giết ngay ngày hôm sau. Cuộc đảo chính do một số sĩ quan cao cấp tổ chức, điều động với sự yểm trợ của chính phủ Hoa Kỳ. Rõ ràng, Hoa Kỳ muốn thay đổi người thủ lãnh Việt Nam, phù hợp với quyền lợi của họ. Sự lật đổ Tổng Thống Diệm là tấn bi kịch to lớn cho miền Nam Việt Nam, và riêng cho cá nhân tôi nữa. Nhiều khi tôi không đồng ý với chính quyền, nhưng tôi kính trọng Tổng Thống Diệm và coi ông là một người yêu nước chân chính. Không may, ông Nhu đã ảnh hưởng vào ông quá nhiều, và chính sách của ông đã tạo nên nhiều phần áp chế. Tôi không biết tại sao ông Diệm không thực hiện, làm theo ý ông là loại bỏ ông Nhu? Có thể ông đã bị lệ thuộc vào ông Nhu quá nhiều, hoặc có thể ông không nỡ lòng nào bỏ rơi em ông. Và có thể Hoa Kỳ đã dồn dạp tạo quá nhiều áp lực nên ông vẫn phải gắn bó với người em, dù phải trả với bất cứ giá nào. Tôi luôn luôn mong chuyện lành có thể xảy ra nếu Tướng Lansdale được cử làm Đại Sứ thay vì ông Lodge. Trong những năm đầu của đệ nhất Cộng Hòa, Lansdale và ông Diệm luôn luôn sát cánh, và hai người đã trở nên đôi bạn thân thiết. Lansdale rất có thể giúp ông Diệm giải quyết ổn thỏa vụ khủng hoảng Phật giáo (hoặc tránh để không xảy ra), và khéo léo làm giảm áp lực từ phía ông Nhu đưa tới. Có một cái gì đó mà chúng ta không bao giờ có thể hiểu được.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:03:07 GMT 9
V. ĐẠI TƯỚNG WESTMORELAND VÀ TÔI Đảo chính ngày 1 tháng 11/ 1963 đã làm tất cả nỗ lực bình định nông thôn của chúng tôi tan đi trong mây khói. Lợi dụng sự hỗn loạn tại Sài Gòn cũng như toàn quốc, Cộng sản tăng gia du kích chiến đánh phá khắp nơi. Khi trở lại Kiến Hòa để tái nhậm chức vụ tỉnh trưởng, tôi nhận thấy phần lớn những tiến bộ trước kia đã bị tan vỡ. May mắn thay, tiếp theo đường lối trước chúng tôi nỗ lực công tác bình định và tới cuối năm 1965, tình hình đã tiến triển bội phần. Trong khoảng thời gian này, Đai tướng Westmoreland, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Nam VN tới thăm chúng tôi. Ông và bộ tham mưu nghe tôi thuyết trình khoảng hai tiếng đồng hồ về nỗ lực bình định nông thôn trong toàn tỉnh. Sau đó, bộ tham mưu ông rời phòng họp, và ông cùng tôi hội bàn riêng. Ông muốn tôi nêu lên những ý kiến của tôi. Tôi khuyến cáo là vấn đề bình định nên được coi như hàng đầu, ưu tiên số một quốc gia, và quân đội chính quy, lực lượng bán quân sự cần được sử dụng để yểm trợ công tác này. Tôi đề nghị Dân Vệ là lực lượng tuyến đầu, yểm trợ bởi các đơn vị Bảo an. Quân đội chính quy được phân tán thành những Lữ đoàn nhẹ lưu động, can thiệp kíp thời, yểm trợ các đơn vị bảo an. Chót là, quân độ Hoa Kỳ nên trú đóng tại những khu vực chiến lược như vùng giới tuyến và đường Hồ Chí Minh, sẵn sàng yểm trợ quân lực VNCH. Tôi cũng lưu ý là lực lượng đặc biệt và biệt cộng quân cần được xử dụng trong công tác phá rối địch theo dải đưởng mòn Hồ Chí Minh. Tôi còn đang muốn đưa thêm nhiều đề nghị khác nữa, đột nhiên Tướng Westmoreland đứng dậy, bắt tay tôi và ra về! Tôi phỏng chừng ông mệt mỏi khi phải nghe ý kiến của một trung tá như tôi, nhất là ý lại cấp tiến, khác với những điều màong đã thường nghe từ nơi các tướng lãnh Việt Nam tại Sài Gòn. Cả đêm đó tôi không thể ngủ được. Tôi ngạc nhiên thấy một vị tướng bốn sao Hoa Kỳ đã từng chiến thắng quân Đức quốc xã tại Châu Âu và quân Trung Cộng tại Triều Tiên, nhưng hình như lại thiếu căn bản hiểu biết về chiến tranh tại Nam Việt Nam, và có vẻ như không muốn tìm hiểu. Thật là đáng buồn, Tướng Westmoreland đã đương nhiên tin vào phần lớn các Tướng lãnh VN, các vị này có rất ít kinh nghiệm chiến đấu, lại hiểu rất ít về Việt Cộng và cũng không biết nhiều về những gì xảy ra tại nông thôn. Phần lớn các vị này được ban phát địa vị và chức vụ, vì họ trung thành với cấp trên quyền lực hơn là những thành công nơi chiến trường. Họ không có sự hiểu biết và cũng không có sự quả quyết để định một chính sách vững vàng. Những người hiểu tình hình nơi trận địa là các sĩ quan trẻ, nhưng bất hạnh thay họ bị chèn ép, đe dọa bởi cấp trên, và tiếng nó của họ rất ít khi được nghe thấy. Chung cuộc là các tướng lãnh Hoa Kỳ và VN đã chỉ chủ yếu điều khiển nỗ lực chiến tranh mà không thật sự hiểu biết trận chiến tiến hành ra sao. BÌNH ĐỊNH VÀ CIA Tôi may mắn có cơ hội đưa được ý kiến của tôi đến một số viên chức Dân chính Hoa Kỳ phục vụ tại Nam VN. Cơ quan Trung ương tình báo đặc biệt thích những gì tôi đang làm, cả đại diện cơ quan viện trợ kinh tế và giới thông tin Hoa Kỳ cũng tán trợ. John Vann, một Trung tá hồi hưu làm việc với cơ quan viện trợ kinh tế tới gặp tôi luôn luôn, và chúng tôi cùng nhau thảo luận vấn đề bình định. Ông đem theo tiến sĩ Daniel Ellsberg tới để đàm luận, sau trở thành một phần tử đầu não nho nhỏ riêng của chúng tôi (Ellsberg sau bị cáo vì đã tiết lộ tài liệu chiến tranh Ngũ giác đài). John O'Donnell, một đại diện Nông thôn vu, là người hiểu biết rất nhiều về tình hình tỉnh Kiến Hòa. Chúng tôi, tất cả đều tin tưởng phần căn bản chiến tranh VN là một cuộc đấu tranh chính trị, muốn thắng phải dùng những phương sách chính trị, chính phủ phải được dân kính trọng và được sự trung thành của dân, nhất là dân ở nông thôn, Cộng sản không thể tiếp tục hoạt động du kích. Như vậy, CS bị buộc phải chiến đấu theo chiến tranh quy ước như đã xẩy ra tại Triều Tiên, trường hợp này chúng ta tin chắc sẽ thắng cuộc chiến. Cuối năm 1965, tôi được yêu cầu thiết kế một chương trình bình định rộng lớn toàn quốc giống như tôi đã làm tại tỉnh Kiến Hòa. Khởi đầu do cơ quan Trung ương tình báo Hoa Kỳ yểm trợ. Bộ phát triển nông thôn được tân lập trong chính phủ, đứng đầu là Tướng Nguyễn Đức Thắng. Tôi được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Cán bộ Xây dựng (Phía Mỹ gọi là phát triển cách mạng) và là Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện tại Vũng Tàu. Nhiệm vụ của chúng tôi là huấn luyện các cán bộ để thi hành chương trình bình định toàn quốc. Sau vài tháng làm việc với cơ quan trung ương tình báo, Tướng Thắng và nhiều cơ quan khác, tôi nhận thức được rằng ý tưởng của họ hoàn toàn khác với chương trình của tôi đã thực hiện tại Kiến Hòa. Về hình thức thì có vẻ giống nhau, nhưng chương trình đã không được xây dựng dựa trên căn bản chính trị và quy luật như chương trình của tôi. Tôi đã càng ngày càng tỉnh ngộ. Tôi buồn phiền sâu xa về sự lộ diện một cách quá rõ ràng của nhân viên cơ quan tình báo Hoa Kỳ. Thỉnh thoảng, tôi đã cố gắng thuyết phục các bạn hữu tôi cả Việt và Hoa Kỳ là nhân viên cơ quan trung ương tình báo nên hoạt động phía sau hậu trường, và thật kính đáo. Và như đã thấy, nhân viên cơ quan trung ương tình báo đã có mặt ở mọi nơi để điều khiền các cán bộ VN. Đối với tôi, đó là một việc không thể chấp nhận được. Như vậy là xác nhận sự tuyên truyền của Cộng sản luôn luôn nói rằng chúng ta là những gia nô của Hoa Kỳ. Quan trọng hơn thế nữa, những hành động đó thương tổn đến tinh thần của các cán bộ, nhất là cán bộ trẻ nam cũng như nữ, và làm cho tất cả cảm thấy là được Hoa Kỳ trả lương để làm cách mạng. Những nỗ lực của tôi nhằm thay đổi đường lối đó đã được đón nhận một cách rất ngờ vực bởi cả giới chức Việt cũng như Hoa Kỳ. Một người bạn Mỹ, John Paul Vann đã đưa chức nghiệp của anh vào một tình trạng ngặt nghèo khi anh chính thức công khai ủng hộ ý kiến của tôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:04:31 GMT 9
VI. TỪ CHIẾN TRƯỜNG ĐẾN CHÍNH TRƯỜNG Tôi từ nhiệm chức vụ tại bộ XâÏy Dựng vào năm 1966. Tôi cũng xin giải ngũ ra khỏi quân đội năm 1967. Đó là con đường mà tôi bày tỏ trung thành với lý tưởng căn bản của tôi và đối với đất nước tôi. Tôi viết một cuốn sách nhan đề: "Từ chiến tranh đến hòa bình: "Phục hưng xã thôn". Lại một lần nữa, cố gắng của tôi vẫn vô hiệu quả, khi muốn đưa lên để giới cầm quyền tin tưởng người dân nông thôn là chìa khóa chính của chiến tranh Nam Việt Nam, và muốn có sự thâu phục được họ, chúng ta phải có một nỗ lực bình định toàn diện dựa trên căn bản nòng cốt thông qua chương trình Dân Ý Vụ. Vào giữa năm 1967, tôi trở về Kiến Hòa để tranh cử một ghế Dân biểu trong Quốc hội. Tôi suy luận là ở vị thế một nhà chính trị, tôi có thể làm cho ý tưởng của tôi được thông qua nhiều hơn. Tôi thật thoã mãn khi được số đông đảo cử tri Kiến Hòa dồn phiếu để tôi đạt được mục tiêu mà tôi ấn định. Nỗ lực chiến tranh đã hoàn toàn nằm trong tay giới quân phiệt, sự đưa nửa triệu quân Mỹ vào miền Nam VN đã cho chúng ta thấy rõ. Và trong khi Nam VN có được một chế độ quân phiệt chuyên chế đứng đầu là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu do chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ. Sự tiến hành công cuộc bầu cử thật sự là một trò hề, cốt sao làm giảm những sự chống đối chiến tranh của dân chúng tại Hoa Kỳ. Trong khi ấy tại Nam VN, một nhóm nhỏ thuộc cơ hội chủ nghĩa lợi dụng chiến tranh đầu cơ, bóc lột xương máu của hàng ngàn, hàng vạn công chức và quân đội yêu nước đang phục vụ tổ quốc ta. Sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Việt cộng vào Tết Mậu Thân năm 1968, rõ ràng là dân Mỹ không còn muốn ủng hộ mãi mãi cuộc chiến tại miền Nam VN nữa, và sự rút viện trợ của Hoa Kỳ là điều không thể tránh được. Do đó, tôi bắt đầu nghĩ tới nhiều lối để giữ cho nền độc lập của miền Nam VN, trong đó có thể có cả việc thành lập một chính phủ liên hiệp với Mật Trận giải phòng miền Nam để đổi lấy sự thỏa hiệp với Miền Bắc để cho một Lự lượng quốc tế kiểm soát Đường Mòn HCM và Vỉ tuyến 17 ngăn chận sự thâm nhập của cả hai phía Bắc Nam. Nhiều lần, tôi đã gặp anh tôi là Trần Ngọc Hiền, một sĩ quan cao cấp tình báo Việt cộng để bàn về vấn đến nói trên. Sau buổi gặp gỡ đầu tiên năm 1965, tôi báo cho John Paul Vann và Trung ương tình báo CIA được biết, họ bất thần bắt Hiền và dùng Hiền để kể tội tôi là thân cộng sản. Là một dân biểu, tôi được quyền đặc miễn bị cáo sự buộc tội đó, nhưng Tổng Thống Thiệu với sự yểm trợ của Hoa Kỳ đã không hành xử theo như vậy. Đến tháng 2 năm 1970 tôi biï bắt ngay tại tòa nhà Quốc Hội; bị tố cáo "thân Cộng", để rồi sau những ngày biểu tình, tố Cộng ằm ỉ, rốt cuộc Tòa Án Quân Sự Đặc biệt cũng chỉ có thể tuyên án rằng tội đã phạm tội "Móc nối với phần tử có hoạt động làm nguy hại đến an ninh quốc gia" và tuyên án phạt tôi 10 năm tù. Mặt đầu sau đó Tối Cao Pháp Viện đã phán quyết tiêu hủy bản án, tôi vẫn tiếp tục bị giam cầm suốt bốn năm trời, để sau cùng mục kích miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản. Đừng nghe những gì Cộng sản nói Sau ngày chiến thắng, Cộng sản cũng đã bất chấp lời tuyên bố của chính họ trước kia rằng "tất cả các 'ngụy' quân và 'ngụy' quyền đã rời khỏi hàng ngũ trước năm 1972 khỏi phải trình diện học tập cải tạo." Công an cộng sản đã đến đến bắt tôi tại nhà đưa thẳng vào nhà tù, được họ gọi là học tập cải tạo- mặc dầu tôi đã rời khỏi hàng ngũ và bị chính quyền Miền Nam cầm tù từ đầu năm 1970. Sau hiệp định Paris năm 1973, anh Trần Ngọc Hiền của tôi được chính quyền miền Nam trao trả lại cho phía Cộng sản. Hiền bị Cộng sản tước đoạt hết quân hàm, đảng tịch sau suốt 30 năm chiến đấu như người Cộng sản trung kiên nhất. Cả hai anh em chúng tôi đã chứng minh qua thử thách của suốt 4 năm tiếp xúc (bị Cơ quan Trung Ương Tình báo Mỹ theo dõi; viên sĩ quan liên lạc trực tiếp giữa Hiền và Trung Ương Cục Trung Ương Hà Nội đã bị mua chuộc từ đầu mà cả hai chúng tôi không hề biết). Hai chúng tôi đã không ai thuyết phục được ai; Hiền thủy chung là người Cộng sản trung kiên, tôi là người quốc gia chung thủy. Em gái con ông chú ruột tôi là Trần thị Bích Hồng (cô Mại) có em trai đã hy sinh và được Cộng sản tuyên dương là anh hùng liệt sĩ, nhưng chồng cô Hồng và con trai làm nghề bán xăng lại bị Việt Cộng chôn sống trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế. Năm 1949 trên đường "trở về thành" tôi đã cố đưa hai cháu trai con anh tôi là Trần văn Thông, 14 tuổi, và Trần như Tiếp, 16 tuổi, từ vùng Việt Minh ở Quảng Nam về Huế. Chỉ có Thông về được; mấy năm sau Thông bị động viên vào Thủ Đức sau ra trường và chết trong quân phục Trung Úy Pháo binh của Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1975, Trần như Tiếp -anh ruột của Thông- vào tiếp thu Đà Nẵng trong bộ quân phục Thiếu tá của quân đội Cộng sản. Tôi kể chuyện anh em tôi và trong gia đình tôi để nói lên thảm cảnh chung của hàng trăm ngàn gia đình Việt Nam. Ba mươi năm chiến tranh, hầu như gia tộc Việt Nam nào nhiều ít đều phải chịu những thảm cảnh tương tự. Điều đáng nói ở đây là Cộng sản sau khi chiến thắng đã không có hành động hàn gắn mà lại còn đưa hàng trăm ngàn chiến sĩ (như Trần văn Thông) quốc gia trung kiên vào tù đày, chết chóc và hàng triệu người phải ra đi với hang trăm ngàn người chết chìm trên biển cả.
Chúng tôi gặp lại nhau nhiều lần... Năm 1993, gần 15 năm sau khi lưu vong ở xứ người, theo sự gợi ý của ông bà Thiệu, chúng tôi đã gặp lại nhau nhiều lần ở Woodland Hills và Boston. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau với Tình Thương và Kính Trọng, vì cả hai đều hiểu rằng chúng tôi đã đối nghịch nhau chỉ vì khác nhau về quan điểm nhưng cùng nhìn chung về một mục đích tối thượng là để bảo tồn một miền Nam không cộng sản. Chung cuộc thì cả hai chúng tôi -và những người cùng quan điểm với mỗi người chúng tôi- đều đã thất bại. Sự mất mát quá to lớn, đã đưa chúng tôi vào con đường lưu vong, phải rời bỏ những người một thời đã tin tưởng vào mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:11:32 GMT 9
The Chau Trial của tác giả Elizabeth Pond / Hậu quả III:vụ án Khởi đầu sự cáo chung của CHẾ ĐỘ Là một tác giả và diễn giả danh tiếng chuyên về các vấn đề quốc tế, tên tuổi Elizabeth Pond (hình bên) được nể trọng ở Âu Châu và Hoa Kỳ, trong cả hai lãnh vực báo chí và hàn lâm. Ngoài công việc giảng dạy tại các đại học Đức và Mỹø, bà còn là thành viên nhiều hội đồng tham vấùn và viện nghiên cứu chiến lược quốc tế và là tác giả của 11 cuốn sách có nội dung đã đụng tới các vấn đề nóng bỏng nhất tại nhiều khu vực của thế giới như bức tường Bá Linh, Chính sách Mỹ đối với nước Đức; Biến động vùng Balcans; Nhận thức về nước Nga; Sự tái sinh của Âu châu... Sự nghiệp của Elizabeth Pond bắt đầu bằng The Chau Trial. Đúng 40 năm trước đây, sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, cô dành nửa năm để ở lại Saigon theo dõi tại chỗ. Và The Chau Trial trở thành tác phẩm đầu tay của Elizabeth Pond, với kết luận Đây là bước khởi đầu sự sụp đổ của ông Thiệu. Cho tới nay, 40 năm sau Vụ án Trần Ngọc Châu, tác giả và nhân vật chính trong vụ án - Pond và Châu- vẫn chưa hề gặp nhau. Sau đây là bản dịch Việt ngữ Vụ Án Trần Ngọc Châu do THANH NGUYỄN và HOÀNG NGỌC TRÁC chuyển ngữ từ nguyên tác The Chau Trial. *** Elizabeth Pond nhận xét về Hậu quả vụ án Muốn mường tượng ra hình dạng thay đổi như thế nào thì cần bắt đầu với một số giả định về khuôn khổ suy luận. Những giả thuyết của tôi là: 1. Tình hình đàm phán có xoay chuyển thế nào đi nữa, Mỹ tiếp tục rút quân, chắc chắn tới cấp độ của những lực lượng canh gác, có khi thấp hơn. Và tốc độ triệt thoái trước mắt sẽ tùy vào những chỉ dẫn của Nixon về giảm quân để chủ yếu giữ vai trò yểm trợ tác chiến vào mùa Xuân tới. 2. Ít nhất qua năm tới, Hoa Kỳ tiếp tục ngăn chặn mọi cuộc đảo chính tại Sàigon - với hiệu quả. 3. Việc Mỹ tiến quân qua Cămbốt là ngoại lệ hơn là chiều hướng của tương lai và Hoa Kỳ sẽ không đảo ngược quyết định xuống thang chiến tranh, trừ phi Cộng sản mở những cuộc tấn công lớn. Về phía Bắc Việt và Mặt trận: 1. Bắc Việt chưa bị kiệt quệ tới cùng, lại còn được Trung Quốc cung cấp mọi yêu cầu về võ khí nhỏ nên vẫn có thể tiếp viện chiến trường miền Nam theo sát với mức độ tác chiến mong muốn. 2. Vốn đã thành công tại nhiều nơi, đặc biệt trong vùng châu thổ đông dân ở miền Nam, việc Chính phủ phá vỡ lực lượng võ trang bảo vệ cán bộ Cộng sản sẽ giảm dần nhưng vẫn không ngăn được Mặt trận xây dựng lại cơ sở với các bộ đội Cộng sản mới tăng cường. Về phía miền Nam: 1. Ông Thiệu tiếp tục nghi ngờ các đồng minh đến tối đa và vì vậy sẽ còn duy trì việc khống chế đối lập hơn là vận động sự ủng hộ hay tìm thế phòng thủ qua sự dung hoà với các nhóm xã hội chính trị (không cộng sản.) 2. Thành phần quốc gia chống Thiệu và không cộng sản sẽ còn ngại ngần đoàn kết và sự phân hoá tiêu biểu của miền Nam còn tiếp tục. Về đánh và đàm: 1. Không đạt thoả thuận rồi tôn trọng ngưng bắn cho tới khi có lắng dịu kiểm chứng được tại một số chiến trường (có thể ở Cămbốt hay cả tại Việt Nam). Và điều kiện này khó xảy ra cho tới khi Mỹ coi như đã hoàn tất việc triệt thoái và tới khi các lực lượng Cộng sản đã giành lại cân bằng và phục hồi những gì họ đã mất trong trận đánh năm 1968 và trong đợt bình định 1968/1969. 2. Những xung đột sẽ tiếp tục trong khoảng một năm nửa với cường độ tương đối thấp như trong hiện tại - và với giao tranh ngoài biên giới hay các đợt tấn công trong khu đông dân. Trong hoàn cảnh đó, quân Bắc Việt và Mặt trận sẽ không dại dột trì hoãn việc Mỹ rút quân bằng những trận đánh lớn, nhưng sẽ tăng cường lực lượng cho các đợt tấn công ráo riết vào cuối giai đoạn triệt thoái của Mỹ. 3. Washington và Sàigòn sẽ không thương thuyết một giải pháp liên minh không phản ảnh lợi thế Mỹ-Việt đang có ngoài chiến trường (đo lường ở khả năng kiểm soát tình hình tại các khu đông dân). 4. Trong khi Bắc Việt và Mặt trận - dù quyết liệt phản đối - có thể đồng ý với thế liên minh của chính quyền trung ương gồm có Thiệu, Kỳ hay Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, chắc chắn là họ không bao giờ chấp nhận quyền đại diện của các dân biểu địa phương hoặc của từng khối dân cử trong Quốc hội hiện hành. Và vì vậy, việc đàm phán sẽ gặp bế tắc chính trị trong ít nhất một năm nữa. Những giả thuyết ấy đúng hay sai về thời điểm thì vẫn là điều mơ hồ. Cho nên hình như người ta có được một năm, đôi khi là hai năm, xoay trở trước khi sức ép quân sự và - hay là - chính trị sẽ lại gia tăng. Sau đó ra sao thì không thể đoán được. Về phía Hoa Kỳ thì điều ấy hàm ý là ông Thiệu có thể ổn định đủ tình hình cho Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến, tương tự như ông Kỳ đã tạm ổn định tình hình cho Mỹ nhảy vào cuộc. Ảnh hưởng về phía Việt Nam thì khó biết hơn. Trong hoành cảnh giả định ấy, thời điểm thay đổi chính trị có vẻ thuận lợi nhất là vào mùa hè tới, khi mọi người chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống vào mùa thu. Một vụ đảo chánh sớm như vậy là hơi khó. Ông Thiệu vẫn có vẻ kiểm soát đủ tình hình - và Mỹ vẫn còn đủ ảnh hưởng - để chặn được mọi cuộc đảo chánh. Đã thế, trong hiện trạng, những tay muốn thử thời vận lại cũng chẳng nhiều. Không có ai chịu làm đảo chánh, một chính khác than vãn như vậy; nếu có người thì đỡ hơn nhiều. Ông ta nói tiếp, khi ấy mình sẽ có trật tự thay vì sự hỗn loạn sau Thiệu. Trong ngắn hạn thì đây không phải là mùa đảo chánh. Tình hình chính trị sẽ thay đổi mạnh tới độ đảo chánh sẽ dễ hơn với thời gian. Vì vậy thời điểm này chưa phải là lúc các chuẩn ứng viên đảo chánh xuất hiện. Ngoài ra, vẫn còn tràn trề hy vọng là Hoa Kỳ sẽ bất ngờ đi tìm một thỏa hiệp chính trị và sẽ chiếu cố một đối thủ nào đó của ông Thiệu, cho nên các đối thủ vẫn tự chuẩn bị cho tình huống đó. Thành thử, thay vì là đảo chánh sẽ là những di hại của bất ổn chính trị công khai vào đầu xuân. Trong đợt tới, nhiều phần sẽ là sinh viên sách động hơn là thương phế binh. Một số nhà sư trẻ trong khối Phật giáo Ấn Quang cũng có thể giành lấy quyền lãnh đạo của các vị sư cao tuổi hơn và thổi lên những cuộc biểu tình Phật giáo, nhưng chưa có dấu hiệu gì về chuyện đó. Sẽ là bất ngờ nếu những đợt chống đối sắp tới lại có tính chất quyết định như đợt trước. Mặt trận chưa hồi phục đủ để khai thác tình hình trong năm 1971. Nhưng chống đối sẽ gây thêm bất trắc cho tình hình chung, và đẩy bất mãn chính trị đi xa hơn. Qua năm tới, dù có biểu tình hay chỉ là biểu tình hình thức, tôi vẫn chờ đợi một sự tan rã chung ở bên dưới vì việc Mỹ triệt thoái bắt đầu gây ảnh hưởng chính trị. Một phần, sẽ có sự đảo ngược quyền lực từ trung ương tuột xuống các tư lệnh quân khu và các tướng khác. Phần kia sẽ thêm lẽ chần chờ - thêm lối nước đôi có lợi cho Măt trận trong các thành phố, thêm sự dung hòa lần nửa lại có lợi thêm cho Mặt trận ở các địa phương. Ngần ấy chuyện đều có thể xảy ra mà chẳng thấy có gì thay đổi đáng kể về tình hình chiến sự hay về khả năng kiểm soát của chính phủ trên một số lớn các khu đông dân của miền Nam. Từ 1972 về sau, tôi chờ đợi tình hình chính trị sẽ suy đồi với nhịp độ nhanh mà khó lường. Và tôi chờ đợi Mặt trận Giải phóng - với cơ sở cán bộ duy nhất có kỷ luật và trải rộng toàn quốc, sẽ có thể khai thác được sự suy đồi chính trị này. Con đường dẫn tới sự khống chế của Mặt trận - và Bắc Việt - ở miền Nam không nhất thiết phải qua một cuộc tấn công quân sự. Nhiều phần sẽ là do kết hợp nỗ lực xâm nhập, hăm dọa và biểu tình ngoài đường cùng với sức ép quân sự. Địa bàn thử nghiệm có thể là Quân khu I ở miền cực Bắc, vừa trống trải trước các đợt tấn công quân sự của Bắc Việt, vừa bị soi mòn vì các phong trào ly khai ở bên trong. Rõ là làn sóng bất bình của quần chúng đã dâng đủ mạnh để bất cứ ai muốn là có thể thổi lên bão tố. Thất tán và tan tác vì chiến cuộc, nỗi lo về chiến tranh, khát khao hòa bình, tinh thần chống Mỹ, bực dọc vì tham nhũng và đặc quyền, là những yếu tố có thể tác động bất lợi cho chính phủ Sàigòn hơn là cho Mặt trận. Có khi đòn dứt điểm sẽ là nỗi khó khăn về kinh tế. Hẳn là trong sinh hoạt thường nhật những mơ ước ngày một cao hơn của người dân bình thường vào thời đại Honda sẽ tiêu tan trước nạn lạm phát và thất nghiệp, khi việc làm cho Mỹ hết dần, trợ cấp của Mỹ cho nhập cảng cạn dần, và vật giá gia tăng khiến cảnh sát và quân cảnh sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Điều éo le là thành phần vô sản mới ở thành phố mà người Mỹ đã quy tụ được trong năm năm qua - trong một chiến lược nhằm đánh bật dân chúng từ thôn quê ào ạt đổ vào các khu tồn tàn ở thành phố - có khi lại gây tác dụng ngược, là biến họ thành hậu thuẫn cho Cộng sản. Một phần tư thế kỷ nay là một cuộc đấu tranh giữa các thành trì dù bất trắc của chính phủ với các hậu cứ nổi loạn hay các đường vận chuyển ngoài thôn quê. Nhưng trong hiện tại, khả năng di động tự do của phe nổi loạn đã bị thu hẹp trong vùng châu thổ đông dân nhờ nỗ lực bình định của chính phủ trong khi động loạn tại thành phố mà chính phủ không kiểm soát nổi lại gia tăng rất mạnh. Và người ta được biết rằng tổ chức của Mặt trận trong các thành phố lại vững hơn thời gian ngay sau khi ông Diệm bị lật đổ, để có thể chủ động gây ra hỗn loạn chính trị. Những yếu tố khả dĩ cản trở hay trì hoãn sự chiến thắng của Cộng sản có thể bao gồm: thiếu một lãnh tụ có uy thế tương tự như Hồ Chí Minh; thời gian cần thiết để xây dựng lại lực lượng Cộng sản tại miền Nam; hai ba năm được sinh hoạt trong không khí tương đối an ninh của các làng quê trong vùng châu thổ nhờ sự bảo vệ của chính phủ; và kế hoạch cải cách ruộng đất. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng tổ chức Cộng sản sẽ vượt qua được những chướng ngại đó. Đã vậy, tôi phải tin rằng những chiều hướng ấy vẫn tiếp tục cho dù ông Thiệu ở lại, hay một người như Thủ tướng Khiêm hoặc Dương Văn Minh có thể kế nhiệm ông Thiệu vào năm 1971. Ông Khiêm sẽ kế thừa những thiếu sót chính trị của ông Thiệu và tự thân cũng không có điểm gì hấp dẫn hơn để bù đắp sự thiếu sót ấy. Dù bản thân ông Minh có thể có hậu thuẫn chính trị khá hơn, nhưng suy ra từ thời ông ta có một chút hy vọng lãnh đạo sau khi lật đổ ông Diệm, dường như Minh không thể xoay lợi thế tình cảm ấy thành khả năng cầm quyền và cai trị vững bền. Giờ thì tôi cho rằng bất cứ một vụ đảo chính nào cũng chỉ giúp cho Mặt trận đạt thêm lợi thế đi lên. Vì vậy, câu hỏi được nêu lên là Mặt trận (hay Bắc Việt, nếu như Hà Nội muốn công khai hóa ý đồ nắm quyền) sẽ làm thế nào để đạt lẽ chính danh cho việc cai trị hay cho thiên mệnh của mình, và nhờ đó xoay chuyển thế lực thành một "quyền lực" ổn định mà Nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm nói tới? Câu hỏi cũng được đặt ra về cái lẽ cân bằng giữa chiều hướng hoà giải với phản ứng "tắm máu" trong giả thuyết Cộng sản sẽ cướp chính quyền. Nhưng, đó là những câu hỏi cho một giai đoạn mới. Với bản tin này, tôi chỉ ghi lại những cảm nghĩ của mình, rằng đây là bước khởi đầu sự cáo chung của ông Thiệu. Tôi dè dặt hơn khi phải dự đoán thêm về tương lai. Các biến cố chính trị thường có lối trêu chọc mọi lời tiên đoán bằng trò bất ngờ, và lịch sử (hay thiên mệnh) thường chỉ được coi là tất nhiên khi mình nhìn lại về sau. Tuy nhiên, nhà báo (và cả các nhà làm chánh sách hay thường dân), vẫn phải suy xét chánh sách hôm nay căn cứ trên ý nghĩa của chúng cho tương lai. Đây là điều mà tôi cố viết ra ở đây, với nhận thức tối đa của mình. ELIZABETH POND (Nhận được tại New York, ngày 22-10 năm 1970.) Kỳ tới: Điện văn mật quanh vụ án Trần Ngọc Châu ELIZABETH POND
|
|