|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 12:41:45 GMT 9
Phạm Quỳnh Vietsciences-Trần Văn Chánh - Phạm Tôn I) Thử nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh Phạm Quỳnh ngoài bút hiệu Hồng Nhân hoặc Hoa Đường còn có bút hiệu Thượng Chi. Ông quê gốc ở làng Lương Ngọc (nay là xã Thúc Kháng) phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, nhưng gia đình ra Hà Nội sinh sống lập nghiệp và sinh ra ông tại đây ngày 17 tháng 12 năm 1892. Đáng thương tâm là chỉ mới chín tháng sau thì bà mẹ đã chết. Cha ông là một nhà nho dạy học, cũng mất khi ông lên chín tuổi, từ đó phải sống cuộc đời cơ khổ linh đinh, được bà nội nuôi cho ăn học, như ông đã có dịp ngậm ngùi nhắc lại trong tập Pháp du hành nhật ký. Năm 1908, Phạm Quỳnh thi đỗ bằng Thành chung rồi vào làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ Hà Nội, có cơ hội đọc được nhiều sách và học thêm chữ Hán. Từ năm 1913, ông cộng tác viết một số bài dịch thuật văn học và tư tưởng cho tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1917, với sự bảo trợ của Louis Marty, Trưởng phòng chính trị tại phủ Toàn quyền Pháp, ông đứng ra thành lập tạp chí Nam Phong, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Năm 1922, ông được cử sang Pháp với tư cách đại diện hội Khai Trí Tiến Đức mà ông là thành viên sáng lập chính, dự hội chợ triển lãm Marseille, lên Paris ở lại ba tháng, diễn thuyết nhiều lần trước ban chính trị và ban luân lý của Viện hàn lâm Pháp. Ông tận lực trong việc phiên dịch và truyền bá tư tưởng dân chủ của phương Tây, cổ xúy cho việc gây dựng một nền học quốc gia mới (gọi là quốc học) có tính chất chiết trung Đông Tây thay thế cho Hán học đang suy tàn, gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn hòa dựa trên cơ sở văn hóa. Về chính trị, ông chủ trương thuyết quân chủ lập hiến, theo đó phải quy định rõ ràng quyền của dân, của vua quan và của nhà nước bảo hộ bằng hiến pháp. Tháng 11 năm 1932, Phạm Quỳnh được mời vào Huế nhận chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại theo ý đồ cải cách chính trị của Pháp, sau đó giữ chức Thượng thư Bộ Học (giáo dục) rồi Bộ Lại (1942), toan thi hành một số cải cách lớn về giáo dục và chính trị nhưng không đạt kết quả. Sau Cách mạng tháng Tám, ngày 23.8.1945, ông bị chính quyền cách mạng bắt và xử tội ở Huế. Hai trang nhật ký năm 1922 tại Pháp của Phạm Quỳnh Trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận-hiện đại, Phạm Quỳnh có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ gây nên nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói như vậy, dù tán thành hay phản đối, hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên mọi người đã thừa nhận vai trò không thể bỏ qua hoặc xem thường của nhân vật nầy trong một bối cảnh lịch sử-văn hóa cụ thể nhất định. Tuy nhiên, nếu chỉ tính trong khoảng hầu hết thời gian của 30 năm trở lại đây, tên tuổi Phạm Quỳnh hầu như hoàn toàn đã bị khuất lấp vào dĩ vãng vì những lý do ngoắt ngoéo tế nhị của lịch sử hiện đại. Ở miền Nam trước năm 1975, trong vài sách văn học sử tiêu biểu như của Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng..., Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí được giới thiệu khá chi tiết, thường dài trên cả trăm trang, với đầy đủ những khía cạnh phức tạp của vấn đề. Rồi vào khoảng năm 1963, đã nổ ra một cuộc tranh luận kịch liệt kéo dài gọi là “Vụ án truyện Kiều”, có sự tham dự của rất nhiều văn nhân, học giả và nhà nghiên cứu văn học tiêu biểu, mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã có công tập hợp lại thành một hồ sơ để giới thiệu cho các sinh viên đại học văn khoa Sài Gòn thời đó. Phạm Quỳnh qua đời năm 1945, nhưng ngay từ năm 1941, khi ông còn sống, tên ông như là người đại diện của “Nhóm Nam Phong” đã được đưa vào một chương trong sách Việt Nam văn học sử yếu của cố giáo sư Dương Quảng Hàm, trong phần chương trình dành cho Năm thứ ba ban Trung học Việt Nam, với những đánh giá cơ bản là rất tốt vì giáo sư Dương Quảng Hàm hầu như không để ý gì đến khía cạnh các mối quan hệ chính trị của nhân vật nầy trong thời cuộc lúc đó: “Cả cái văn nghiệp của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam Phong, tạp chí ấy trong một thời kỳ, đã thành được một cơ quan chung cho các học giả cùng theo đuổi một chủ đích với ông...”. Và khi đánh giá chung Phạm Quỳnh bên cạnh Nguyễn Văn Vĩnh (nhóm Đông Dương tạp chí), giáo sư Dương Quảng Hàm đưa ra kết luận để kết thúc chương sách nêu trên: “Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân. Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy”. Ngay trong quyển văn học sử có thể coi là quy mô đầu tiên của Dương Quảng Hàm nói trên, hơn một nửa số tài liệu đã được tham khảo sử dụng từ tạp chí Nam Phong, còn về bố cục và nội dung thì phảng phất gần đúng với bản chương trình “Ngôn ngữ và văn chương Hán Việt” do Phạm Quỳnh vạch ra năm 1924 để dùng cho việc giảng dạy của ông ở trường Cao đẳng Đông Dương, mà có người coi là mầm mống của những môn học thuộc văn khoa Việt Nam sau nầy. Nếu chỉ tính riêng cái “công với việc thành lập quốc văn” thôi thì cũng đã là một công lao đóng góp không nhỏ. Năm 1942, khi xuất bản sách Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cũng đã dành cho Phạm Quỳnh nhà văn đến hơn ba mươi trang sách với hết lời ca ngợi liên quan đến những công trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận: “Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong. Một điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật của ông là ông không cẩu thả... Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn”. Cuộc đời của Phạm Quỳnh gắn liền với tạp chí Nam Phong (từ năm 1917 đến năm 1932). Tất cả mọi chủ trương, quan điểm, việc làm của ông cả về văn hóa lẫn chính trị cũng đều được thực hiện thông qua tạp chí nầy với sự tham gia của cả đồng đội bao gồm những người đồng thanh khí đã đi theo đường lối của ông trên suốt một đoạn đường dài. Đây là tờ tạp chí do người Pháp lập ra giao cho Phạm Quỳnh điều khiển, dưới tên Nam Phong có ghi rõ là “Thông tin Pháp” (L’information française), giống như ngày nay dưới mỗi tờ báo người ta ghi “Cơ quan ngôn luận của...”, nên mục đích của nó dĩ nhiên trước hết là biện minh, phục vụ cho chính sách cai trị của người Pháp ở Việt Nam. Điều nầy đã quá rõ ràng, nhưng nếu nói Phạm Quỳnh chỉ là một tên “Việt gian tay sai phản động buôn dân bán nước mãi quốc cầu vinh” thì là nói quá dễ, trong khi việc đời đâu có đơn giản như vậy, vì như thế là không thấy hết mọi khía cạnh quan hệ phức tạp của con người với thời cuộc trong một giai đoạn lịch sử đặc thù. Mộ Phạm Quỳnh tại chùa Vạn Phước, Huế. Có thể nói, hầu như ai cũng trách họ Phạm trong đất nước nô lệ chẳng những không đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân một cách tích cực bằng bạo động mà còn a dua theo Pháp. Trên thực tế hành động, về chính trị ông chỉ là một người theo chủ nghĩa cải lương bảo thủ, chủ trương chính thể quân chủ lập hiến, tạo lập một nước Việt Nam mới tự trị bằng cách xây dựng một nền giáo dục và quốc học Việt Nam dung hợp những tinh hoa tư tưởng đông tây nhằm đào tạo một tầng lớp trí thức mới học hỏi theo những điểm tiến bộ của phương tây trên cơ sở chấp nhận chế độ thuộc địa và có sự giúp đỡ của người Pháp. Ngay cả điều nầy, xét về kết quả thực hiện vốn rất hạn chế, cả khi nắm được đại quyền trong tay với chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng cho triều đình Huế (1932), rồi Thượng thư Bộ Học, Thượng thư Bộ Lại, xem ra Phạm Quỳnh cũng chỉ là một nhà chính trị đầy mộng tưởng. Nói cách khác, ông chỉ là một nhà văn-nhà báo-nhà giáo dục và học giả giỏi chứ không có cái năng khiếu, sở trường lẫn sở thích của một người hoạt động chính trị dù theo chủ nghĩa cải lương hay cách mạng. Về phương diện nầy, có lẽ ông rất giống với một người cùng thời cũng từng cộng tác với Nam Phong là Trần Trọng Kim, chỉ làm việc tốt với vai trò của nhà giáo dục-học giả chứ không thể làm chính trị được. Nếu vì những lý do run rủi của cuộc sống, thời cuộc hoặc do nhận thức không chính xác về bản chất, khả năng của mình mà hạng học giả phải dấn thân vào con đường chính trị với chút hi vọng thực hiện hoài bão thì trước sau gì cũng thất bại thê thảm, như một Trần Trọng Kim sau “một cơn gió bụi”, cuối cùng cũng phải ngậm thở ngùi than mà thôi, bằng mấy câu thơ Đường mượn của Đái Thúc Luân “Liêu lạc bi tiền sự, chi li tiếu thử thân” (Quạnh hiu thương chuyện xưa kia, vẩn vơ lẩn thẩn cười chê thân mình). Đây là một chân lý đã được lịch sử chứng minh chắc nịch, và nếu cứ tiếp tục suy diễn theo lối nầy, giả định Phạm Quỳnh có dấn thân vào con đường cách mạng bạo động để chống Pháp thì kết quả cùng lắm nếu không như Nguyễn Thái Học phải lên đoạn đầu đài rất sớm thì cũng giống cụ Phan Bội Châu và một số sĩ phu yêu nước khác. Không những thế, có thể còn vì lý do giả định nầy mà ngoài tác dụng làm gương và động viên dân chúng về tinh thần yêu nước chống Pháp, Phạm Quỳnh chẳng những không thể trở thành một lãnh tụ chống Pháp thành công mà cũng chẳng đóng góp được việc gì quan trọng tích cực trên phương diện xây dựng văn hóa-giáo dục như ông đã làm được. Do vậy dứt khoát chúng ta không nên lấy lẽ Phạm Quỳnh chủ trương Pháp-Việt đề huề chẳng hạn để làm lý do kết án ông một cách quá nặng nề như một số người thiển cận và quá khích đã làm, mà chỉ coi đó cũng là một chủ trương chính trị bên cạnh nhiều chủ trương loại khác, trong một đất nước mất chủ quyền mà sự phân liệt về tư tưởng, đường lối của hàng ngũ trí thức để tìm ra một hệ giải pháp cứu nước là điều hầu như không thể nào tránh khỏi. Còn việc ông ca ngợi thực dân Pháp có lẽ cũng đáng trách, nhưng sẽ có thái độ bao dung nhiều hơn nếu người ta chịu thừa nhận một thực tế rằng, trừ trường hợp ở trong một chế độ dân chủ đã thật sự phát triển, coi báo chí đối lập là tự nhiên, còn thời nào cũng vậy, nội dung báo chí đặt dưới sự chủ quản của ai thì cũng phải nói theo người đó. Xét về mặt nầy, tờ báo của Phạm Quỳnh coi vậy thỉnh thoảng cũng có những ý kiến độc lập hoặc đối lập, nhất là từ năm 1922, khi nó không còn là một cơ quan chuyên nịnh hót chính quyền, hoặc hoàn toàn không có thái độ đòi hỏi gì khác, xem ra còn khá hơn không ít tờ báo của những giai đoạn mới hơn sau nầy, được hoạt động trong môi trường quốc gia độc lập nhưng nội dung lại rất tầm thường kém cỏi. Phạm Quỳnh không làm cách mạng nhưng hầu như ông không hề có một lời lẽ nào nói xấu các chí sĩ hoạt động yêu nước. Trái lại, ông coi những người làm quốc sự lúc đó là thành phần khả kính, đứng trên ông một bực, chấp nhận mỗi người một việc theo chí hướng riêng, vì ông không có cái can đảm hoặc hoàn cảnh để làm được như họ. Khi viết bài trả lời lại bài “Cảnh cáo các nhà học phiệt” (đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 62 ra ngày 24.7.1930) của Phan Khôi công kích thái độ làm thinh tự cao coi thường dư luận của ông khi bị cụ nghè Ngô Đức Kế mạt sát trong vụ ông suy tôn Truyện Kiều vào dịp lễ kỷ niệm Nguyễn Du hồi sáu năm trước (năm 1924), vì bị gán cho những mục đích không tốt đẹp, Phạm Quỳnh đã dùng những lời lẽ rất nhã nhặn và tôn kính khi nhắc đến bậc quốc sĩ: “Họ Ngô đối với tôi vốn không hiềm khích gì. Ông là người quốc sự phạm cũ, vì việc nước mà long đong chìm nổi trong bao năm, dẫu người không đồng tư tưởng, đồng chánh kiến với ông, cũng phải kính trọng cái thân thế của ông. Tôi cũng vậy, thủy chung vẫn coi ông như bậc đàn anh”. Cũng nhân bài viết nêu trên, ông xác định lại thái độ chính trị của mình, là chỉ làm văn hóa chứ không làm chính trị: “Tôi vốn là nhà làm văn, nhà học vấn. Cái chủ nghĩa tôi phụng sự bấy lâu nay – kể có trên dưới mười lăm năm trời thật là dốc một lòng, chuyên một dạ – chính là chủ nghĩa quốc gia, nhưng chỉ mới phụng sự về phương diện văn hóa, chưa hề chuyển di sang phương diện chính trị. Tôi thiết nghĩ rằng muốn cho nước nhà được độc lập, thì phải gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân. Muốn gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân thì phải có khí cụ để tuyên truyền giáo dục. Cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục là ngôn ngữ văn tự trong nước. Bởi thế cho nên 15 năm nay, tôi không làm một việc gì khác cả: chỉ cúc cung tận tụy về một việc, là cổ động cho quốc văn, tài bồi cho quốc văn, gây dựng cho quốc văn thành một nền văn chương đích đáng, có thể dùng làm cái lợi khí để truyền bá văn minh trong nước. Các bạn đồng chí trong Nam ngoài Bắc cũng đã công nhận cho cái công phu ấy không phải là vô ích. Vì tôi chỉ chuyên chủ về một việc tài bồi quốc văn như vậy, cho nên thật không để chí vào việc chính trị. Ai bình phẩm tôi về chính trị là bình phẩm sai cả. Tôi cho là bất túc kính trọng, nên không hề đối đáp, không hề cải chính bao giờ”. Trên thực tế, nhờ kiên trì nhẫn nại đấu tranh theo đuổi mục đích, và giữ vững lập trường văn hóa, Phạm Quỳnh đã cơ bản đạt được những hoài bão chính của mình. Vào chặng cuối đời, sau khi vào triều đình Huế giữ các chức thượng thư mà cũng chẳng thi hành được thuyết lập hiến, rồi đến ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), Phạm Quỳnh và cả nội các cũ bị thay thế, coi như con người chính trị đã thất bại. Người ta để ý có lúc Phạm Quỳnh dường như chán nản, lui về sống âm thầm cuộc đời của người ẩn dật trong một căn nhà hẻo lánh trên bờ sông An Cựu ở Huế, không tham gia chính phủ mới của Trần Trọng Kim, không chạy theo thực dân Pháp để được Pháp bảo vệ, nhưng cũng không theo một phe phái cách mạng nào. Sự thất bại chính trị đã làm hại không ít uy tín của con người văn hóa Phạm Quỳnh, gây nên rất nhiều cách đánh giá khác nhau của hậu thế về nhân cách cùng sự nghiệp của ông, để đến Cách mạng tháng 8.1945 thì “bị chính quyền cách mạng xử tội” (theo Đinh Xuân Lâm-Trương Hữu Quýnh: Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB. Giáo Dục, năm 2000, tr. 351). Về sự kiện kết liễu cuộc đời của nhân vật thời đại – học giả Phạm Quỳnh, hiện nay chúng ta chưa có tài liệu công khai đầy đủ để biết rõ, nên khó đánh giá lại tội ông có đáng bị xử chết vào thời điểm lịch sử nước sôi lửa bỏng đó hay không, nhất là khi so sánh với Bảo Đại vốn là quân vương của ông, cũng theo Pháp, cùng với nhiều người khác, nhưng số phận ít bi thảm hơn. Có loại ý kiến tương đối trầm tĩnh, cho rằng: “Trong cuộc đời Phạm Quỳnh, cái bước rẽ 1932 không phải là bước rẽ đưa đến nẩy nở và vinh quang mà là đưa đến chấm dứt sự nghiệp. Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm Quỳnh là nghiên cứu nhà báo và nhà văn của tạp chí Nam Phong, con người và tư tưởng trước 1932, con người tốt đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong một giai đoạn lịch sử chánh trị và nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và nền văn mới” (Phạm Thế Ngũ: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư, 1965, tr. 170). Bỏ qua tất cả mọi vấn đề thuộc về quan điểm lập trường cùng thái độ, phương cách dấn thân, ai cũng thấy về phương diện cá nhân, Phạm Quỳnh là một người suốt đời làm việc siêng năng tận tụy, không ăn chơi trác táng, thậm chí còn sống khắc khổ nữa là khác. “Nhà văn ấy ở tư tưởng cũng như ở đời tư có lẽ kém lãng mạn nhất thế hệ... Suốt đời ông chỉ là một thứ thầy dòng giảng đạo, nghiêm nghị đạo mạo... Phê bình Phạm Quỳnh, người ta vẫn thường chịu ảnh hưởng những thành kiến chính trị, và cái vụ Ngô Đức Kế vẫn còn đè nặng lên một bên cán cân của dư luận đối với ông, ngay ở dư luận những người làm văn học” (Phạm Thế Ngũ, sđd., tr. 159). Ngay trong giai đoạn ra làm quan ở Huế, người ta có thể chê Phạm Quỳnh là không sáng suốt, bất thức thời vụ nầy khác, hoặc cũng ít nhiều ham mê chức vụ (ai mà không ít nhiều như vậy?), và cuối cùng thất bại, nhưng dù sao ông cũng là một ông quan lớn có học vấn uyên bác gần như có thể nói là bậc nhất thời đó, và chưa nghe ai có một lời phê bình ông là kẻ tham quan ô lại hoặc lạm dụng chức quyền để được nhà cao cửa rộng phục vụ cho những mục đích thuần túy cá nhân. Xét về phương diện đó, nếu có ai muốn xếp ông vào hạng chính nhân quân tử thì chúng ta ngày nay cũng không nên cản vì không phải là điều quá đáng. Nhờ suốt đời tận tụy làm việc, Phạm Quỳnh đã để lại một sự nghiệp văn hóa quả thật đồ sộ. Tạp chí Nam Phong ra trong 17 năm được 210 số, riêng ngòi bút Phạm Quỳnh viết ra đã có tới chục ngàn trang. Trong số năm viết lách kể trên, ông trở thành một nhà ngôn luận có khả năng bàn một cách rành mạch và có sức thuyết phục về đủ thứ chuyện trên đời. Một phần những loạt bài biên dịch, khảo cứu, du ký có giá trị của ông thuộc đủ thể loại về sau đã được sắp xếp lại để in thành sách trong bộ Nam Phong tùng thư. Riêng bộ Thượng Chi văn tập gồm năm quyển chỉ là một phần nhỏ những thiên nghị luận hoặc biên khảo tương đối quan trọng được dọn lại trong năm 1942 khi đã vào làm quan ở Huế, chọn lọc từ số hàng trăm bài báo viết ra trong giai đoạn đầu Nam Phong (1917-1922), gồm những bài ông khiêm tốn gọi là “coi được”, tựu trung phát biểu được hầu hết những ý kiến chủ yếu của ông liên quan đến các vấn đề văn hóa, ngôn ngữ, văn học, giáo dục, chính trị, kinh tế, triết học... mà ngày nay đọc lại vẫn còn có thể rút ra được rất nhiều điều bổ ích. Nhưng bản chất khắc nghiệt của dòng chảy lịch sử thường ít tạo cơ hội để xét riêng cho những trường hợp đặc biệt, nhất là trong lúc phong trào cách mạng cuộn dâng như vũ bão tạo nên những khoảng tranh tối tranh sáng khiến khó tránh khỏi tình trạng của một số người bồng bột quá khích. Có lẽ vì vậy mà cuộc đời Phạm Quỳnh đã bị kết thúc một cách không êm thắm, hoàn toàn không có chút gì tương ứng với bộ mặt thư sinh hiền lành của ông trong bộ quốc phục cùng với cặp kính trắng của nhà học giả không biết sắt máu là gì, suốt đời chỉ chúi mũi làm bạn với sách vở và vì thế không thể có cái lanh lợi ứng biến khôn ngoan của một người lọc lõi chính trị. Tên tuổi của Phạm Quỳnh cũng vì lý do đó bẵng đi một thời gian rất dài không thấy được nhắc tới trong chương trình văn học của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Quyển Từ điển Văn học bộ cũ của Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1983 của thế kỷ vừa qua cũng không thấy có mục tên ông. Mãi đến năm 2000, sau khi đã vượt qua một cách khá khó khăn thời kỳ mông muội cực đoan của chủ nghĩa giáo điều, để bắt đầu nhận thức lại một cách trầm tĩnh hơn những vấn đề thuộc quá khứ lịch sử, tên Phạm Quỳnh mới được chính thức nêu thành mục từ trong quyển Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo Dục (không kể một cuốn khác cùng tên được xuất bản trước đó gần 10 năm, của Nguyễn Bá Thế-Nguyễn Q. Thắng, có một mục về ông nhưng không phải của Nhà xuất bản Giáo Dục). Gần đây nhất, trong bộ Từ điển Văn học bộ mới (Nhà xuất bản Thế Giới, tháng 10.2004), tên ông đã được bổ sung trong mục Phạm Quỳnh do Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến 3 trang giấy khổ lớn, với một sự trình bày khá khách quan và trân trọng, thừa nhận hầu hết tất cả mọi công lao đóng góp của ông đối với nền văn hóa nước nhà. Trong sách thí điểm phân ban môn văn học thực hiện từ năm nay (2005), Phạm Quỳnh lần đầu tiên mới được đưa vào sách giáo khoa nhà trường phổ thông, nhưng còn rất ít, ở những chỗ nói về sự phát triển của nền văn học-báo chí quốc ngữ và cuộc tranh luận Truyện Kiều giữa ông Ngô với ông Phạm, kể ra cũng là một điểm tiến bộ rất đáng khích lệ trong quá trình điều chỉnh nhận thức. Trước đó, quý II năm 2003, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây cũng đã xuất bản một tuyển tập gần 30 bài viết của ông, lấy tên Phạm Quỳnh, luận giải văn học và triết học (do Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, giới thiệu). Mấy tập du ký của ông như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành nhật ký cũng được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn lần lượt cho in lại (tháng 4.2004) một cách trân trọng. Như vậy, trong thực tiễn đổi mới của hoạt động văn học, vấn đề Phạm Quỳnh đã được xã hội nhận thức lại một cách sáng sủa thỏa đáng và công bằng hơn nhiều so với trước đây, không cần phải thúc đẩy vận động gì thêm nữa. Nhưng sở dĩ có những phân tích dài dòng trên kia về cuộc đời hoạt động và tư tưởng của ông là để từ một trường hợp cụ thể Phạm Quỳnh, chúng ta còn có thể rút ra bài học kinh nghiệm chung khi cần phải xét lại những người nào khác có cảnh ngộ tương tự như Phạm Quỳnh, để chuộc lại những lầm lỡ nếu có trong cách suy nghĩ hoặc hành động của quá khứ. Đằng khác, nếu chịu khó đi xa hơn, chúng ta ngày nay sẽ phải thẳng thắn để nhìn nhận rằng, dường như cùng với câu chuyện Phạm Quỳnh, còn có rất nhiều vấn đề chung khác cũng phải bình tâm xét lại một thể, như về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, giữa văn học với cách mạng hiểu theo nghĩa làm chính trị cách mạng từ trong sâu xa vốn dĩ không phải là cứu cánh tối hậu của cuộc sống mà chỉ là phương tiện chẳng đặng đừng để thanh toán một tình trạng chính trị tệ hại nào đó đã có trước đó, ở đây là chủ nghĩa thực dân Pháp, tương tự như việc Mác bắt buộc phải làm chống lại chủ nghĩa tư bản man rợ hồi giữa thế kỷ 19 với chủ tâm hướng tới giải phóng cho toàn nhân loại ra khỏi tình trạng tha hóa mọi mặt chứ không phải để chống lại nhân loại. Việc làm nầy luôn phải có sự trả giá, đôi khi rất đắt, thậm chí đổ máu nhiều nữa, và một khi hoàn cảnh đã đổi thay trong cái dòng vận động bất tuyệt của cuộc đời trùng trùng duyên khởi, có khi chúng ta vĩnh viễn sẽ không có cơ hội nào sử dụng lại những biện pháp chính trị bất đắc dĩ đã thi thố trong một thời, nhưng lại phải luôn sử dụng những giá trị văn hóa nhân bản được chắt lọc lại từ trong thực tiễn của cuộc đấu tranh vinh quang nhưng cũng đầy khổ đau của cả một dân tộc, trong đó có những công trình đóng góp của Phạm Quỳnh và của những người khác tương tự như ông. Xét cho cùng, giả định nếu mọi thành phần trong dân tộc đều muốn làm cách mạng hết thì điều đó cũng có nghĩa là không bao giờ có cách mạng, vì không có cái tiền đề cho sự hình thành những lực lượng cần thiết như vậy; rà rồi nếu điều giả định là xảy ra được, thì đất nước sẽ duy nhất chỉ có một loại người tốt làm cách mạng cùng với một dòng văn học duy nhất làm bá chủ, không có mùi mẽ gì khác, phỏng có thể nào chịu nổi được không? Cách nhìn nhận nầy là dựa hẳn trên quy luật biện chứng, phối hợp với sự xét đoán của lương tri và đối chiếu thực tế lịch sử, có khác với loại quan điểm xưa nay vẫn lưu hành muốn đối lập rạch ròi giữa hai loại người, hai dòng văn học, hai thứ văn hóa..., mà không chịu thấy mối quan hệ tương giao tương tác giữa chúng để hình thành nên cái chỉnh thể thực tế lịch sử đang xuất hiện rành rành ở trước mắt mọi người chúng ta. Thiết nghĩ, mọi vấn đề xây dựng văn hóa trong tương lai, cũng như chuyện hòa giải hòa hợp dân tộc, đều nên được xem xét theo một quan điểm cởi mở như bài viết nầy đã cố gắng phân tích, đề nghị. Trần Văn Chánh Tháng 7-2005 Đã đăng tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (55). Huế: Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế, Quý 2, 2006. E-mail: Kcmtthue@dng.vnn.vn ***********************************
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 12:50:49 GMT 9
*********** Ông Phạm Quỳnh là một người suốt đời làm văn hóa ,ông luôn muốn tách rời chánh trị ra khỏi hoạt động văn hóa , nhưng đối với ông Chủ tịch Hồ Chí Minh thì điều đó là một việc làm mang tính " phản động " nhằm chống lại cao trào cách mệnh vô sản thế giới,là việc làm có tính cách chống phá con đường cách mệnh của chủ tịch ,nên bản án tử hình của cách mệnh giành cho ông là điều không thể tránh khỏi , dù con và cháu ông là những cán bộ trung kiên của cách mệnh , chính nhạc sĩ Phạm Tuyên - con trai ông là người nghệ sỉ nhân dân kính phục chủ tịch Hồ chí Minh , đã sáng tác bài nhạc nổi tiếng " Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng " ngày tháng Tư 1975 . Ông Phạm Quỳnh đã bị cách mệnh trừng trị đích đáng năm 1945 tại Huế với bản án tử hình , cùng bị đập đầu chết chung với hai cha con ông Ngô đình Khôi . Sau khi nhận được tin bản án tử hình 3 người đó đã được thực thi thành công , chủ tịch Hồ chí Minh chỉ nói với người đưa tin là " Lỡ rồi " .II) Phạm Quỳnh -người nặng lòng với nhà Cụ tổ của Phạm Quỳnh là Cử nhân Dưỡng Am Phạm Hội (1791-1854). Cụ có hai đời vợ và một bà thiếp. Nhưng đến năm bốn mươi tuổi mới sinh được một trai là ông Khiêm Trai Phạm Ngạch. Ba mươi hai tuổi, ông Ngạch đỗ tú tài, có hai con đều chết khi mới mười bảy tuổi. Nên khi ông mất sớm, đã cho ông nội Phạm Quỳnh thừa tự gia sản của cụ Phạm Hội để lại: một căn nhà nhỏ hình ống ở số 1 phố Hàng Trống Hà Nội, do học trò xây dựng nên để thờ thầy21[1] Ông nội lại chỉ sinh được một trai là Phạm Hữu Điển (thân phụ Phạm Quỳnh), rồi bị cảm mà chết trẻ ngay khi vừa làm xong bài thi, cho vào ống quyển còn đeo ở cổ, chưa kịp nộp. Sau được xét chấm đỗ tú tài. Phạm Hữu Điển cũng đỗ tú tài, sinh được Phạm Quỳnh mới chín tháng thì vợ mất, mẹ phải bế cháu nội sang hàng xóm xin bú chực và mớm cơm cho ăn, rồi sớm khuya chăm sóc tận tình khi cháu bị đậu mùa. Mãn tang vợ ít lâu, ông Điển tục huyền, sinh được một trai nữa, đặt tên là Phạm Bái. Năm Phạm Quỳnh lên chín, thì ông mất; sau đó chú bé Bái cũng chết yểu. Bà vợ kế còn trẻ, đi bước nữa. Phạm Quỳnh thơ dại sống với bà nội và cụ Tú, vợ ông Ngạch, người cho gia đình thừa tự. Và ông đã lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc chu đáo của hai bà cụ nghèo khổ, vắt kiệt sức tàn gìn giữ giọt máu hiếm hoi của cả dòng họ. Côi cút, cô đơn từ nhỏ, Phạm Quỳnh tha thiết quý mến từng người ruột thịt thân yêu của mình. Điều đó ăn sâu vào tiềm thức của ông. Suốt đời ông yêu thương chăm sóc những người thân như luôn e sợ có thể có ngày ông lại mất họ…như đã từng mất mát quá nhiều từ thuở lọt lòng. Nhà văn hoá Hoàng Đạo Thuý, năm 1994. Cụ Tú và cụ Cả là bà nội Phạm Quỳnh, sống trong cảnh gieo neo, chật vật, bòn từng quả táo, trái bồ hòn, ít rau cỏ lèo tèo trong vườn sau nhà và buôn bán lặt vặt nuôi cháu khôn lớn22.[2]Đến năm mười sáu tuổi, Phạm Quỳnh đi làm, đời sống gia đình mới bớt khó khăn. Hằng ngày, đi bộ từ Hàng Trống vòng qua hồ Hoàn Kiếm đến làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaise d’Extrême Orient), Phạm Quỳnh đi qua một cửa hiệu bán đồng hồ, bao giờ cũng dừng lại ngắm nghía chiếc đồng hồ quả quýt xinh xắn bày trong tủ kính, thèm thuồng mà không dám nghĩ đến chuyện mua. Sau này, khi ông nhận thêm việc dạy tiếng Việt tính theo giờ cho một vài người Pháp ở trường, thu nhập có khá hơn, ông mới dành dụm mua cho mình chiếc đồng hồ đúng như thế, ở hiệu ấy, và giữ luôn bên mình như một vật báu suốt nhiều năm ròng, kể cả khi đã trở thành Thượng thư triều đình Huế23[3] Hồi trẻ, say mê văn minh Pháp, nên khi hai bà cụ bảo về quê thăm và sửa sang phần mộ ông cha thì ông từ chối không đi, nói là: “Người đã mất rồi thì nên để cho người ta yên”; cho là: “Người mất rồi thì kỉ niệm để trong lòng là đủ”. Nhưng đến khoảng năm 1915, khi ông chừng hai mươi hai tuổi, bà cụ Tú qua đời, thì ông lại giữ đúng lễ xưa, khiến Hoàng Đạo Thuý, người bà con kém ông bảy tuổi, cũng là người say mê văn minh Pháp phải ngạc nhiên: Đầu đội mũ dứa, tay chống gậy trúc, đưa tiễn cụ đến tận nơi yên nghỉ cuối cùng ở cánh đồng Bạch Mai, cạnh một bờ rào24[4] Từ nhỏ ở Hàng Trống, cho đến sau này về Hàng Da, rồi vào Huế, Phạm Quỳnh bao giờ cũng giữ nguyên nếp kê bàn học và làm việc dọc trước bàn thờ tổ tiên. Trên bàn thờ, có đặt những bài vị ghi danh các vị bằng chữ Hán và sau này, còn đánh số thứ tự để khi giỗ vị nào thì vợ con theo lời ông bảo dễ dàng lấy đúng bài vị vị đó đặt ra trước, tiện chuẩn bị bày biện bàn thờ. Ông rất trọng kị giỗ gia tiên. Khi cỗ bàn đã bày xong thì ông khăn đóng áo dài, trịnh trọng thắp nhang khấn vái, sau mới đến vợ và các con vào lễ. Ông còn kể cho vợ và các con về tiểu sử vị giỗ ngày hôm đó và thường dạy các con: “Phải làm sao cho gia đình mình trong như thuỷ tinh, không chút bụi mờ; giữ gìn đạo đức, nền nếp sao cho khỏi hổ với vong linh các cụ”25[5] Với người khuất núi còn như vậy, Phạm Quỳnh càng yêu kính hơn những người trên còn sống. Chính vì thấy cụ Tú quá già, cụ Cả tuy còn khoẻ nhưng tuổi cũng cao mà hai cụ ngày đêm vẫn vất vả vì mình, cho nên đi làm được một năm thì ông lấy vợ là cô Lê Thị Vân, để có người đỡ đần hai cụ. Ông thường cùng vợ về quê ở thôn Nhân Thục làng Thọ Vực tổng Xuân Cầu huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh26[6]thăm mẹ vợ, thường gọi là cụ Ký (do ông chồng làm ký lục, bấy giờ đã qua đời), thăm các cô em vợ là Hợp, Mai và cậu út Tốn. Chính những lần về quê vợ này, ông ra đồng xem bà con nông dân làm lụng mà đã ghi được biết bao câu ca dao tục ngữ dân ca hay, tăng thêm đáng kể vốn từ ngữ dân tộc của ông.27[7] Hồi đã khá giả ông nói với cậu Tốn là muốn biếu bà mẹ vợ một ngôi nhà, hỏi có muốn lấy nhà ở Hà Nội cho tiện việc học hành làm ăn sau này của các em không, thì cậu Tốn trả lời là anh chị cho thì tùy anh chị thôi. Thế là ông bàn với vợ, bà bảo: “Cứ làm cái nhà to ngay giữa làng, chớ làm ở Hà Nội, dân làng có mấy ai ra Hà Nội đâu mà biết”. Rồi cho dỡ ngôi nhà gỗ còn tốt đi để xây ngôi nhà mới tại làng, đến nay (năm 2000) vẫn còn.28[8] Cô Vân có em gái là Hợp, nhà quen gọi là cô Nhỡ, bởi dưới cô còn một em gái nữa là cô Mai. Chị đi lấy chồng bấy giờ đã là nhà báo nổi danh ở Hà Nội, còn em vẫn ở quê làm ruộng, mò cua, bắt ốc, hái rau,…Có khi nhớ chị, cô đem những thứ ấy sang tận Hà Nội, lên bán ở chợ Hàng Da ngay gần nhà chị để tiện ghé thăm. Bà chị xấu hổ vì thấy em gái ăn mặc lôi thôi lếch thếch, lại còn quang gánh, thúng mủng, nên thấy mặt là thường đuổi về ngay. Nhưng những lần gặp ông thì thật là may. Ông mở cửa, đi thẳng vào nhà như “những nhà nho chân chính”, không thấy em vợ đứng cạnh cửa. Khi cô đánh tiếng chào, thì ông mừng rỡ, vồn vã hỏi thăm buôn bán thế nào, mẹ và các em bên nhà có được mạnh khoẻ không, rồi cuối cùng, bao giờ cũng móc túi lấy tiền dúi cho, bảo là: “Dì cầm tạm, đỡ tiền tàu xe”. Sau đó, mới gọi to báo cho vợ biết là có em gái sang chơi. Trước khi về, cô sang chào ông thì bao giờ ông cũng đưa sang vợ, nói là “Cho dì tiền tàu xe và mua quà cáp cho bà và các em bên nhà”29[9] Sau này, năm 1928, ông có mua lại của ông chủ Mỹ Ký (chuyên làm đồ trang sức bằng vàng giả, nổi tiếng một thời) một trang trại ở ấp Thái Hà, nhưng chỉ để mẹ vợ ở cùng gia đình cậu út Tốn; gia đình ông thỉnh thoảng mới về thăm thôi30[10] Phạm Quỳnh rất yêu vợ nhưng tính tình kín đáo, thường ít để lộ ra ngoài. Năm 1909, mới làm việc có một năm, ông đã được Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội cử sang Pháp làm chức trợ giáo ở khoa tiếng An Nam trường Đông Phương Bác Ngữ (Ecole des Langues Orientales), một dịp may hiếm có, thời ấy người trẻ tuổi nào cũng ao ước. Vậy mà ông đã từ chối. Chỉ vì mới … lấy vợ! Sau này, năm 1922 có dịp sang Pháp thăm trường ấy, ông đã ghi lại trong nhật ký: “Giá nhận đi hồi ấy thì Trường Bác Cổ không đề cử ông Phan (Văn Trường- PT ghi chú), và sự nghiệp mình có lẽ lại xoay ra một phương diện khác.” Nhưng ông không hề tỏ ý tiếc… Cũng trong dịp này, sau khi thăm bảo tàng Trocadero và bảo tàng Guimet ở Paris, ông lại ghi: “Thứ bảy, 27-5: Người Tây bình phẩm đàn bà An Nam có thói nhuộm răng đen thường nói rằng: Trông miệng người đàn bà An Nam tối om như cái hố sâu. Người Tây có lẽ lấy thế làm xấu thật, nhưng ta lại cho thế là đẹp. Cô con gái nào nhuộm răng khéo, đen nhánh như hạt huyền, thì tựa hồ như có duyên thêm lên. Tôi xin thú thật rằng, tôi không thể trông được một người đàn bà An Nam để răng trắng, dẫu đẹp mười mươi mà xem bộ răng đủ chán ngắt rồi. Vì người đẹp là người thế nào? Là một người hệt với hình ảnh một kẻ “ý trung nhân” của mình. Kẻ “ý trung nhân” của người An Nam ta là một người đàn bà da trắng, tóc dài, hình dáng yểu điệu… mà phải có bộ răng đen nhay nháy (chúng tôi nhấn mạnh – PT) mới được. Nếu răng trắng thời hỏng toẹt, không hệt với người trong mộng nữa.” Ông ghi nhật ký đúng như thế. Mà đây lại là nhật ký để đăng công khai đều đặn trên báo Nam Phong của ông! Vì ông đang nhớ vợ, mà kẻ “ý trung nhân” như ông tả ở trên, thì bất cứ ai đương thời quen biết gia đình ông đều dễ dàng nhận ra ngay đó chính là chân dung của vợ ông, cô gái một làng quan họ xứ Kinh Bắc. Ngày 23-6, ông ghi: “mình mặc jaquette, vào hiệu ảnh chụp cái ảnh gửi về nhà”. Đó là bức ảnh đầu tiên ông mặc âu phục, tóc cũng đã cắt mất cái “búi tó củ hành”. Trước thay đổi lớn đó về hình thức, ông thấy cần “thông báo khẩn” cho vợ biết. Ông gửi ngay ảnh đó về31[11]với lời đề tặng đúng kiểu của riêng ông “Gửi hiền thê, ở nhà”32[12] Vợ chồng đồng tuổi Nhâm Thìn với nhau nên thương yêu, chiều chuộng, giúp đỡ nhau, suốt đời không hề có xích mích gì. Bà Cả Mọc, tên thật là Hoàng Thị Uyên, một nhân vật nổi tiếng về hoạt động xã hội của Hà Nội đầu thế kỷ thứ 20, là cháu bà thiếp của cụ Phạm Hội, lập hội Tế Sinh. Đây là một hội từ thiện chuyên trông con nhỏ cho những người lao động nghèo đi làm ban ngày và còn mở một trại dưỡng lão ở Phúc Yên giúp các cụ già cô đơn, không nơi nương tựa.33[13]Phạm Quỳnh coi bà như bà mình, thường đến thăm hội, trò chuyện cùng bà. Bà Cả Mọc nhận vợ Phạm Quỳnh làm thủ quỹ của hội. Cô Vân vốn không biết chữ, nhưng tinh ý lại nhớ dai. Cô chỉ thu, chi rồi cố nhớ thật kỹ, về nhà thuật lại để chồng ghi chép hộ. Hằng tháng, ông phải viết hàng trăm biên lai, chứng từ và vào sổ sách thay cô. Ông viết bằng bút lông ngỗng, chữ nhỏ mà rất đẹp. Các vị trong hội biết chuyện thường gọi đùa ông là “ông thủ quỹ”34[14] Bà Cả Mọc. Sau này, tuy bận nhiều công việc, ông vẫn cố dành chút giờ rảnh rỗi đem Nhị Độ Mai, Kiều… ra đọc cho vợ nghe. Vì bà, tuy không biết chữ nho lẫn chữ quốc ngữ nhưng lại rất sành tiếng Việt, thuộc nằm lòng Truyện Kiều và vô số ca dao tục ngữ dân ca…35[15]Tuy không ham, nhưng ông cũng cố học đánh mạt chược mà ông biết bà thích và chơi khá thạo. Chỉ cốt để cùng bà và gia đình tiêu khiển trong mùa mưa xứ Huế.36[16] Còn có bằng chứng nào “hùng hồn” hơn về tình yêu của ông đối với vợ là họ đã có với nhau đến mười sáu mặt con! Ông bà sống với nhau được ba mươi sáu năm, kể từ người con trai cả sinh năm 1911 đến cô con út sinh năm 1938, trong hai mươi bảy năm ấy, ngoài ba người mất từ khi chưa đầy tuổi tôi, cũng còn lại đến năm trai và tám gái. Tuy đông con như thế nhưng hiếm có người cha nào trên đời này lại yêu thương chăm sóc con cái đến như ông. Những người con của ông, ít tuổi nhất nay cũng đã ngót bảy mươi, người lớn tuổi nhất hiện còn sống đã ngoài chín mươi, nhưng không một ai quên được nhưng kỉ niệm về tình thương yêu và sự chăm sóc ông đã dành cho mình. Đông con như thế mà ông vẫn chú ý đến từng người một, và yêu thương chăm sóc các con như nhau, không hề có sự “trọng nam, khinh nữ” hoặc “con yêu, con ghét” như thói thường vẫn vậy. Ông cũng không bao giờ lấy quyền làm cha để bắt các con phải theo ý mình, mà chỉ cảm hoá bằng tình thương yêu và lẽ phải mà thôi. “Dĩ thân vi giáo” là cách giáo dục của ông. Ông bao giờ cũng thân thiết, gần gũi bầy con đông đúc, nhiều vẻ. Các con ông gọi cha bằng Thầy, gọi mẹ bằng Me và xưng là Em. Có lẽ là do ông gọi vợ theo kiểu Tây là Me (Mère) nó, còn bà thì gọi ông theo kiểu ta là Thầy nó. Và cả hai đều quý các con, thường gọi nựng khi còn nhỏ là Em, lâu ngày hình thành nếp xưng hô độc đáo của riêng gia đình ông. Mười bảy tuổi lấy vợ thì mười tám tuổi ông có con trai đầu lòng, đặt tên là Phạm Giao. Theo lệ cũ: tên con trai suy từ tên cha ra, đã có cây quỳnh tất phải có cành giao. Hai năm sau, vợ ông sinh một bé gái trắng nõn nà như cọng giá, nhà bèn đặt tên là Giá, ông cũng chấp nhận. Hai năm sau nữa, lại một bé gái ra đời, cứ ngày ngủ đêm thức, nhà lại đặt luôn cho tên là Thức, ông lại cũng chấp nhận, cho làm khai sinh như thế. Sự dễ dãi này cũng dễ hiểu, người thời ấy thường không coi trọng việc đặt tên cho con gái, vì sau này lấy chồng thì sẽ lấy tên chồng thôi. Nhà số 1 phố Hàng Trống là nơi chôn nhau cắt rốn của ba anh em. Sau này, khi đã là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Nam Phong, dọn về ở số 5 phố Hàng Da, các con sinh ra đều được ông chọn đặt tên cẩn thận. Trước chuyến đi Pháp năm 1922, ông có thêm ba con, một trai là Phạm Bích, hai gái là Hảo và Ngoạn. Mới hai mươi chín tuổi, ông đã sinh đến sáu con.37[17]Chỉ đọc những dòng ông viết trong Pháp du hành trình nhật ký đăng trên báo Nam Phong năm ấy, cũng thấy được ông thương yêu các con đến thế nào “Thứ ba, 20-6: Chánh Công ty rượu Đông Pháp mời cơm trưa…Dự tiệc… còn có ông em ruột… bà em dâu và hai đứa cháu gọi ông bà bằng bác. Hai thằng bé ngộ quá, mình chơi đùa với chúng nó lại càng thêm nhớ đến lũ con ở nhà.” Phải, ở nhà ông cũng có hai thằng bé là Giao và Bích mà… “Thứ sáu, 23-6:…vào hiệu ảnh, chụp cái ảnh gửi về nhà”.38[18]Ông gửi ảnh ấy về thì bà lại gửi sang cho ông bức ảnh ông mặc áo gấm bế bé gái Ngoạn. Ảnh chụp trước lúc ông đi xa. Ai ngờ, sau đó ông diễn thuyết đến bốn bận, có lần ở cả Viện Hàn Lâm Pháp, khiến các báo Paris xôn xao lên, tranh nhau đăng bài nói của ông, còn xin cả ảnh để đăng kèm cho thêm sức thuyết phục. Bấy giờ, tuy mới chụp ảnh mặc âu phục gửi về nhà, nhưng ông lại không dùng ảnh ấy, mà đưa đăng bức ảnh mặc áo dài khăn đóng, đang bế con gái mới vừa mấy tháng. “Bé” Phạm Thị Ngoạn, sau này là tiến sĩ đại học Sorbonne Paris với luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (Introduction au Nam Phong) nghiên cứu về sự nghiệp chủ yếu của đời ông, vẫn luôn giữ bên mình bức ảnh đó, coi như báu vật quý nhất đời mình. Bà nắn nót đề sau ảnh dòng chữ: “Tôi đã có mặt trên báo chí Paris từ năm 1922”. Năm 1922 chính là năm sinh bà Ngoạn. “Thứ bảy, 24-6: cơm trưa rồi đi chơi cửa hàng Bon Marché ở đường De Sèvres… Nhân vào khu bán các đồ chơi trẻ con, mua mấy thằng phệnh, con thú, cái xe để gửi về lũ trẻ ở nhà cho vừa kịp tết tháng tám. Nhà hàng nhận gói, gửi cẩn thận, chỉ phải chịu thêm tiền bưu phí mà thôi. Lũ trẻ nhận được mấy gói này chắc là mừng lắm. Nghĩ đến chúng nó lại càng thêm nhớ.” Thế là đang sống giữa Paris phồn hoa đô hội bậc nhất thế giới, lòng ông vẫn hướng về quê nhà; ông vẫn nhớ là sắp đến Tết Trung thu, và càng nhớ các con. “Thứ năm, 29-6: Năm giờ chiều mới ở vườn bách thú ra, trước khi lên xe, mua một mớ cartes postales (bưu ảnh) các giống thú lạ để gửi về cho các trẻ nhỏ ở nhà. Nào là sư tử, nào là hổ báo, nào là hươu nai, nào là vượn khỉ, mỗi cô mỗi cậu được mấy con giống, xem mà tranh nhau ỏm tỏi! Còn cái con nai cao cổ kia, chắc anh chị nào cũng thích, ta phải mua đến nửa tá mới đủ.” Nửa tá là đúng, bấy giờ ông có vừa đúng nửa tá…con, hai trai bốn gái, kể cả cô mới sinh mấy tháng trước khi ông đi. Và rồi, “Thứ hai, 17-7: đi vào vườn Luxembourg. Vào đến giữa vườn, trông cái cảnh mới đẹp sao!...Nhưng đẹp nhất là cái cảnh mặt trời về tây, bóng dương đã xế, mây vàng ngẩn ngơ, thật là Trời tây bảng lảng bóng vàng “Không gì đẹp bằng góc trời đó, mà cũng không gì buồn bằng đám mây đó. Vì trông mây, lại sực nhớ đến nhà: Lòng quê gửi đám mây vàng xa xa. Mến cảnh nhớ nhà, nhớ nhà mà mến cảnh, trong lòng lại càng ngổn ngang thêm nữa. Trời vừa sập tối, lính canh vườn đã nổi trống để giục khách tháo lui. Lủi thủi bước ra, đi thẳng về trọ…mãi canh khuya vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Từ ngày sang đây đến giờ, đến hôm nay, mới thấy buồn là một, thật là: Lạnh lùng thay giấc cô miên”39[19] Ông nhớ nhà, nhớ vợ và các con là phải. Biết bao việc hằng ngày trong gia đình gắn bó với ông. Ở nhà, bữa ăn nào các con trai cũng ngồi bàn ăn cùng thầy, các con gái thì ngồi sập ăn cùng me. Thỉnh thoảng có thì giờ, ông cùng các con đi xem phim, cứ mua bốn năm vé, mấy cha con cùng ngồi xem. Thời ấy, phim câm, thỉnh thoảng có chiếu chữ Pháp trên màn ảnh. Ông đọc rồi giải thích cho mấy anh chị em, cứ truyền khẩu nhau mà nghe. Khi có kịch cải lương hoặc vở chèo nào hay, thì ông mua vé cho vợ đi xem cùng các con.40[20] Sáng sáng, ông dậy sớm, đun nước pha cà phê, không phải để ông uống mà là dành cho các con. Ông mua sẵn từng chai lít dầu cá (thứ thuốc bổ tốt nhất thời ấy) cho lũ trẻ. Mỗi sáng, gọi các con đến xếp hàng, tự tay ông rót từng thìa dầu cá cho vào chén cà phê nhỏ, đưa cho từng đứa uống, rồi bảo lau miệng bằng giấy bản ông để sẵn bên bàn, sau đó ăn xôi, đi học. Trước khi ăn cơm, ông bảo các con rửa tay xà phòng trong chậu đặt gần bàn ăn. Ông lo chăm sóc các con như thể sợ vẩn vơ là có thể lúc nào đó, ông sẽ bị mất một đứa, mà đứa nào ông cũng quí, cũng yêu với tất cả tấm lòng! Vậy mà, ông đã phải gánh chịu tai hoạ đó. Không phải chỉ một lần… Cô con thứ bảy mất lúc mới được nửa năm, còn cô thứ chín cũng chỉ sống với ông vẻn vẹn có chín tháng. Cả hai đều trắng trẻo, xinh xắn. Ông mời thầy thuốc người Pháp là Piquemal đến tận nhà chạy chữa hằng ngày mà vẫn không sao cứu được. Ông đi bộ theo chân kiệu tang bé nhỏ, đưa các con đến tận mộ. Vậy mà đêm về, có lần đang ngủ ông bỗng hốt hoảng choàng dậy, vội vã chạy sang buồng vợ, tưởng như nghe thấy có tiếng con nhỏ khóc. Ông vốn cận thị, lại không kịp đeo kính, nên lao cả đầu vào cửa kính mới bừng tỉnh, rồi thở dài, lủi thủi về lại giường nằm, trằn trọc cho đến sáng. Con gái đầu của ông, cụ Phạm Thị Giá, đến năm ngoài tám mươi tuổi, vẫn còn nhớ như in trong óc cảnh tượng này. Năm 1926 ông bà lại sinh một gái. Ông quyết định đặt tên con là Hoàn và nói rằng: “Đây là trời “hoàn” lại, thay cho hai người con gái đã mất”. Bé Hoàn được ông bà yêu chiều đặc biệt. Bữa cơm thì cho ngồi ghế mây cao ở giữa, ông một bên, bà một bên. Ông hỏi: “Em yêu thầy hay me?”. Khi cô bé trả lời: “Em yêu thầy và me”, thì bà lại hỏi: “Em yêu me hay thầy?”. Và cô bé đáp: “Em yêu me và thầy!”. Ông như muốn nhìn thấy qua hình hài bé Hoàn cả hình bóng hai con gái ông rất mực yêu thương nhưng mệnh yểu. Nhưng định mệnh trớ trêu vẫn bắt ông phải đau khổ vì mất con một lần nữa. Sau bé Hoàn, bà lại sinh cho ông một bé gái, đứa con thứ mười một của ông. Thấy con gái xinh xắn, nhỏ nhoi, ông mới đặt tên cho em là Yến. Bấy giờ có nữ thi sĩ Pháp là bà Jeanne Duclos Salesse mến phục tài ông, thường lại nhà chơi, thấy cháu bé mới sinh, hỏi tên, rồi làm tặng một bài thơ, có câu: “Xin chào Chim Yến Nhỏ, đã khéo chọn hình mẫu từ những nét của mẹ em xinh đẹp, để ngời sáng lên như một viên kim cương, ơi Chim Yến” Nhưng mới được năm tháng tuổi thì em mắc bệnh hiểm nghèo, chữa chạy chăm sóc thế nào bệnh cũng chẳng hề thuyên giảm, cứ ngày một nặng lên. Bé Yến suy kiệt, héo hon dần ngay trước mắt ông. Nhiều đêm, ông bế con gái nhỏ, yếu ớt như cái giải khoai, để em gục đầu vào vai mà nhẹ nhàng đi quanh bức tượng Phật Bà Quan Âm bằng sứ trắng muốt, cao chừng tám mươi phân, cổ tượng ông có đeo cho một chuỗi hạt san hô đỏ, trước tượng, đặt một lư trầm thơm ngát. Ông cứ đi như thế suốt đêm, bế con vác vai, miệng khe khẽ ngâm nga những câu thơ cổ, mong ru em ngủ, giấc ngủ mong manh, chập chờn. Nhưng rồi, việc ông lo sợ nhất vẫn cứ đến, Chim Yến Nhỏ lại cũng bỏ ông mà bay đi. Sau khi tác giả bài thơ tặng em về Pháp được một tháng. Nhiều năm sau, khi được tin bà Salesse mất, ông có làm bài tưởng niệm, trong đó có câu: “Bà Jeanne Duclos không còn nữa! Kỉ niệm về bà gắn bó với một sinh linh nhỏ nhoi thân thiết với tôi, sau khi bà lên đường một tháng, đã bay về Trời; nơi ấy, chắc là bà sẽ gặp lại em” Ông vẫn không sao quên được tổn thất lớn lao mình đã phải chịu đựng năm ấy. Mất một đứa con, là ông đứt một khúc ruột Giữa hai cô con yểu mệnh, ông được một trai khôi ngô, mừng rỡ đặt tên là Khuê, ngôi sao sáng trong “nhị thập bát tú” (sau này sẽ là Giáo sư nổi tiếng về lão khoa, Nhà giáo Nhân dân, Chủ tịch đầu tiên của Hội Người cao tuổi Việt Nam, và từng được bầu làm đại biểu quốc hội của tỉnh Hải Dương quê hương ông, với số phiếu cao nhất). Sau Chim Yến Nhỏ, ông lại được thêm một trai nữa. Cậu này thay chỗ bé Hoàn trong bữa ăn gia đình, được ngồi giữa ông bà. Ông đau dạ dày, quanh năm chỉ ăn xôi với ít thịt gà thịt lợn kho. Bữa xôi nào, ông cũng chỉ xắn ăn chung quanh, để lại giữa đĩa một cái “cù lao” nhỏ, dành cho bé Tuyên. Cái cung cách để dành lại cho con một chút thức ăn đó, ông có đã lâu. Cụ Phạm Thị Giá còn nhớ rõ: “ Có đêm, tôi ngủ đã lâu, tỉnh dậy, thấy bên bàn giấy thầy đèn vẫn sáng. Tôi thương thầy làm việc quá khuya, mở cửa sang, thì thầy hỏi: “Con ngủ rồi à, sang đây ngồi chép cho thầy.” Tôi ngồi vào bàn viết và thầy ra ngồi ghế xích đu, cầm quyển sách, dịch và đọc thẳng như người ta đọc chính tả cho tôi viết, đến mỏi cả tay. Đêm càng khuya, thầy càng tỉnh táo và giọng đọc vẫn rõ ràng. Sau chừng hai tiếng đồng hồ, tôi vừa mỏi tay, vừa buồn ngủ thì thầy mới như chợt nhận ra, và bảo tôi cắt cam cho thầy xơi…Cam bổ làm sáu, thầy xơi bốn miếng, còn hai miếng, bảo tôi ăn. Thầy còn nói vào mắc áo có cái gi-lê trắng của thầy, trong túi có gì thì thầy cho. Tôi vào lục túi, được mấy hào lấy làm sung sướng lắm, đó là thầy thưởng công cho tôi”.41[21] Sau đó, ông bà còn sinh hai gái nữa, đặt tên là Diễm (tên khai sinh bị ghi nhầm là Giễm, không sửa được!) và Lệ; chỉ bằng vào hai cái tên thôi, cũng đủ biết hai cô xinh đẹp dường nào. Rốt lòng là một trai tên Tuân, một gái út tên Viên, có thể là do khi sinh ra cô tròn trặn, mà cũng có thể ông cho đàn con đông đến như vậy là “viên mãn” rồi. Bà Phạm Thị Hoàn còn nhớ: “Vào Huế tôi có thêm ba em, hai gái một trai. Tôi nhận thấy chiều nào đi làm về, thầy tôi cũng xuống ngay nhà ngang thăm em bé, đặt em bé xuống giường, lấy hai tay vuốt từ đùi xuống chân, hoặc nắn hai cánh tay trở ngược lên vai, vừa vuốt vừa nựng: “Vươn vai, chóng nhớn, vươn vai, chóng nhớn”. Tôi được chứng kiến thầy tôi “tỏ tình” với các em bé, nên cũng yên chí là các anh chị tôi và tôi cũng đều đã được chăm sóc như vậy”.42[22]Ông vẫn yêu mến, chăm sóc các con hết lòng, dù đó đã là các con thứ mười bốn, mười lăm, và mười sáu của ông. Ông thường nói với các con là mình không có tuổi thanh niên. Trong thời gian còn làm báo, đôi khi ông cũng có lần cùng bạn bè tới các ca lâu tửu điếm, thưởng thức hát ả đào. Theo tập quán thời ấy cho phép, người ta hỏi ông có “chấm” một cô đào nào không thì ông trả lời: “Tôi có con sớm quá, khiến khi các đào nương còn ít tuổi đến với tôi, tự nhiên tôi liên tưởng đến các con gái tôi, và vì vậy, nên không bị cám dỗ”.43[23] Ông không bao giờ cáu giận, to tiếng với ai cả. Bực mình lắm, cũng chỉ thấy ông tặc lưỡi là cùng. Ông không bao giờ dùng quyền uy hay hình phạt. Con trai cả ông đã kết duyên với con gái ông bạn văn thân thiết nhất của ông, sinh được hai trai, thì lại đem lòng yêu thương và lấy một cô gái Huế “tân thời”, rồi đưa nhau vào tận Sài Gòn sinh sống như dân lao động, khi ông đã là mệnh quan của triều đình. Ngày giỗ kị, các quan mũ áo chỉnh tề đã tề tựu đông đủ, mới thấy cậu cả về nhà, mặc bộ đồ tây vàng, thời ấy chỉ những người phát thư mới mặc, đi thẳng vào giữa hàng các quan đang khúm núm, chìa tay ra suồng sã bắt tay từng người và chào hỏi tự nhiên. Tin đồn: “Cậu cả con cụ Thượng vào Sài Gòn mở tiệm cơm đeo bị cói đi mua thịt bò ở chợ Bến Thành” khiến không ít người dị nghị: “Sao cụ lại để ông con cả lấy nghề của chú Ba Tàu!” Nhưng ông chẳng có hình thức trừng phạt gì, cũng không trách mắng con trai. Ông vẫn thương và giúp đỡ tận tình cả con trai với cô vợ cả và hai con trai, lẫn cô vợ lẽ và ba đứa con, không hề phân biệt đối xử, coi cũng như các con cháu khác của ông vậy, khiến cho gia đình tám con người ấy vẫn sống hoà hợp lâu dài mà không đi đến hận thù, đổ vỡ. Đương thời, một thạc sĩ y khoa trẻ, tốt nghiệp từ Pháp về Huế, do yêu thương và quyết xin cha cho lấy một cô gái Huế “tân thời” người Hoàng Tộc, nhưng trái ý cha, đã bị bắt nằm sấp trước bàn thờ tổ tiên, trên mông đặt một cái roi mây “để tổ tiên trừng phạt tội bất kính, làm bại hoại gia phong”, ngay trước mặt bà con dòng họ, làm xôn xao xứ Huế một thời.44[24] Biệt thự Hoa Đường bên sông An Cựu, ngoại thành Huế. Cổng có hai chữ nho Hoa Đường. Phạm Quỳnh đứng trong khuôn viên, gần cổng, mùa hè năm 1945. Ông theo dõi tỉ mỉ và tạo mọi điều kiện cho con cái phát huy thiên hướng của mình, không hề áp đặt, kể cả trong học hành lẫn vui chơi, giải trí. Hồi đi công cán Quảng Trị, ông mua hẳn một ngôi nhà gỗ lớn, rồi cho tháo dỡ về lắp trong khuôn viên biệt thự Hoa Đường của gia đình, giữa vườn cây cỏ hoa lá xanh tươi. Chung quanh nhà, chạy một hàng hiên tráng xi-măng xanh mát rượi. Kế đến là dãy phòng xinh xắn bao quanh một hội trường nhỏ. Có lẽ vì nghĩ đến bầy con cháu đông đảo đang trưởng thành mà ông đã chọn mua ngôi nhà gỗ lớn này. Đúng là một Thiên Đường của lũ trẻ, giữa thiên nhiên thoáng mát. Con trai con gái lớn ông, mỗi người một phòng riêng. Cậu cả thì thích ghi-ta phím lõm, chơi các bản vọng cổ cải lương; cậu hai lại thích ghi-ta cổ điển phương tây; cậu ba ham đàn phong cầm; cậu tư mê cả ghi-ta lẫn phong cầm, sau này sẽ thành nhạc sĩ nổi tiếng của nước ta là Phạm Tuyên, tác giả hơn sáu trăm ca khúc.. Có lần rỗi rãi, ông xuống thăm nhà gỗ, thì gặp Phạm Bích con trai thứ hai của ông đang đệm đàn và hát cùng Hoàng Gia Lịnh bài Việt Nam bất diệt anh này mới sáng tác đưa bạn xem thử. Ông khen hay, bảo cứ hát tiếp đi, rồi đứng yên nghe hai người hát cho đến hết bài, mới đi chỗ khác. Kỉ niệm ấy, đến năm ngoài tám mươi tuổi cụ Lịnh vẫn còn nhớ rõ.45[25] Phạm Tuyên (24 tuổi), con trai thứ tư và Phạm Vinh (22tuổi) cháu đích tôn của ông, chụp ảnh kỉ niệm trên cầu Thê Húc hồ Gươm, sau khi gặp lại nhau năm 1954 tại Hà Nội vừa giải phóng. Lần khác, muốn giới thiệu các con với một bạn người Pháp, ông đưa bạn xuống nhà gỗ, tình cờ gặp đúng lúc bọn trẻ đang tổ chức “chiếu phim” với máy chiếu tự làm lấy bằng bìa và phim bằng giấy bóng kính do Phạm Tuyên vẽ. Âm nhạc do Phạm Vinh, đính tôn của ông (sau này, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là nhạc sĩ quân đội, trưởng Đoàn Văn công Trường Sơn) tùy cảnh trong phim mà mở các đoạn nhạc thích hợp có trong những đĩa hát cũ, bằng kèn hát lên dây cót. Các cháu nhỏ, đứa lo “soát vé”, đứa lo “đưa chỗ” cho khách. Ông khách người Pháp được xem buổi chiếu phim ấy vừa thích thú vừa thương lũ trẻ, sau này đã gửi tặng các con ông một máy chiếu phim 8mm hiệu Pathée, thật ngoài mong ước của lũ trẻ. Còn các cô gái thì đan len, thêu thùa hoặc học hát cũng là ở nhà gỗ cả. Các con cháu ông có thói quen hát nhiều bè, chỉ cần một người cất tiếng hát là có người khác phụ hoạ, hát đệm theo luôn, có khi đến ba bốn bè. Về thể thao, các con ông ham bơi lội, quần vợt, săn bắn và câu cá ở ngay con sông nhỏ An Cựu trước cổng nhà. Hầu như ai cũng biết vẽ. Và tất nhiên, ham đọc sách báo, thích thơ văn. Gia đình có cả một thư viện đồ sộ hàng vạn cuốn sách, tủ sách kín tường, cao đến tận trần nhà. Trong nhà cũng ra được một tờ Gia đình tuần báo, có đủ cả “bản báo phóng viên”, “biên tập”, “hoạ sĩ trình bày”…thuật lại những diễn biến trong đại gia đình tuần qua, giới thiệu các món ăn kỳ lạ, và có phóng sự thuật cả chuyện “có tiếng ai đó khóc trong đêm khuya…” để trêu chọc nhau cho vui. Hội trường nhà gỗ còn là nơi các thầy dạy kèm được ông mời đến dạy các con cháu nhỏ học buổi chiều và buổi tối. Hầu như ông không phải nhắc nhở con cháu về việc học, tự chúng có lòng ham học, ham hiểu biết rồi.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 18, 2010 12:53:06 GMT 9
Vào tuổi xế chiều, Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Tập vẫn thấy cần chia sẻ một ký ức tuổi thơ với đông đảo cử tọa của Ngày Phạm Quỳnh (năm 1999). Một hôm cậu Tập, học trò lớp nhất tiểu học được bạn cùng bàn là Xương mời đến chơi biệt thự Hoa Đường. Cậu đến thì bị hai lính lệ gác cổng đuổi. Hôm đi học, bèn nói cho Xương biết. Chủ nhật sau, cậu đi câu cá ở sông An Cựu, qua cổng thì hai anh lính hôm trước rượt theo, lễ độ Mời vào chơi với cậu Xương và Cụ Thượng muốn gặp cậu. Cậu vào thì Xương giới thiệu với bác mình là cụ Thượng. Giáo sư kể: “Thong dong, hiền từ, tế nhị không nhắc đến chuyện cũ, cụ Phạm thăm hỏi gia đình tôi và dẫn vào thư viện xem sách. Sách, đâu cũng sách là sách… Cụ giảng cho biết thế nào là loại sách quí…”46[26] Con người cô đơn là ông luôn tìm thấy niềm vui, nguồn sống trong bầy con cháu đông đảo, lạc quan, năng động. Ông như thấy có trách nhiệm với cái bộ lạc mà ông đã sinh ra ấy, đến mức ông ngần ngại trước tất cả những quyết định gì có thể gây tổn thất cho bộ lạc của mình, làm “sẩy đàn, tan nghé”, ông e ngại tất cả những gì quyết liệt, mang tính bạo lực. Những việc ông dồn tất cả tâm sức vào làm cũng chỉ là để chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân dân, cho đất nước sau này, mà ông còn chưa biết chắc là sẽ nên làm thế nào để đạt được. Ông chỉ cố gắng làm những gì mà sức mình có thể làm được thôi. Có lẽ vì thế mà ông ít tâm sự cùng vợ con việc mình làm, cứ lặng lẽ âm thầm làm một mình, chẳng dám lôi kéo ai, kể cả những người thân nhất của ông đi vào con đường của mình, mà ông biết là có không ít chông gai, lại khó được chia sẻ. Ông tìm nguồn an ủi, chỗ dựa tinh thần chính từ trong bộ lạc thân yêu của mình, để tiếp tục sống mà làm việc. Có lẽ ông nghĩ: không nên làm cho con cháu sớm phải bận tâm với những việc ngoài tầm suy nghĩ của chúng; cứ để cho chúng sống hồn nhiên được lúc nào hay lúc ấy; bởi cái gì phải đến, tất sẽ đến đúng lúc cần phải đến thôi…Ông vốn là người cho thì thật nhiều, mà nhận thì chẳng bao nhiêu. Ông cũng không nệ “môn đăng, hộ đối” như lề thói đương thời. Cô con cả ông được một thanh niên nghèo người Huế đem lòng yêu thương. Anh là con một quan huỵên thanh liêm về hưu trước tuổi, tự làm việc nuôi thân ăn học thành tài, lại thay cha nuôi cả gia đình đông đúc, sau này là một trong tám vị sáng lập trường Thăng Long (Ngõ Trạm) nổi tiếng ở Hà Nội. Thấy người có đức có chí, khi con gái thuận tình, thì ông cũng bằng lòng gả cho. Ông trọng ông thông gia là quan huyện thà về hưu ở lứa tuổi bốn mươi còn hơn là theo lệnh Tây đi lùng bắt những “người làm quốc sự” mà mình cho là lương dân. Một lần sinh nhật ông, ông này đến dự, có cho người mang theo một mâm lễ lớn, phủ vải đỏ. Ông đưa hai tay đón nhận, cảm ơn là Đã cho quà nhiều quá! Và sai người nhà mang vào nhà trong, rồi kính cẩn mời ông thông gia vào bàn thượng khách. Ông không cho khách dự - phần lớn là các quan trong triều và giới thượng lưu trí thức- thấy món quà tặng đó: Chỉ là một buồng chuối tiêu cắt ở vườn nhà!47[27] Vợ chồng cô con cả sinh con đầu lòng năm 1932, ông vào tận bệnh viện thăm cháu gái và cho biết là năm ấy, ông sẽ vào làm quan trong Huế. Ông vuốt má cháu ngoại đầu tiên mà nói: “Sang năm, vợ chồng cho cháu về Huế thì tiện, có bên nội lại có cả bên ngoại nữa.” Sau đó, cứ mỗi lần gia đình này về Huế, ông lại cho lái xe ra tận ga đón, rồi đưa thẳng cả nhà về bên nội ở một thời gian, sau mới cho đón về bên ngoại, ở lại lâu hơn. Các con ông đều lấy người mình yêu thương, không hề có cảnh “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” như đương thời. Ông yêu quý tất cả dâu rể, âu yếm tất cả các cháu nội ngoại. Khi ở Huế, những dịp con cháu về đông đảo, cả nhà quần tụ trong biệt thự Hoa Đường rộng lớn, bữa ăn phải đánh chuông báo mới biết mà về cùng ăn. Ông ngồi đầu một bàn dài, ăn xôi, vợ con dâu rể và lũ cháu nội ngoại lớn nhỏ tuỳ tiện chọn lấy chỗ nào thích thì ngồi hai bên bàn, ăn uống trò chuyện vui vẻ. Buổi chiều mát thỉnh thoảng có mụ Mệ người làng An Cựu bán chè đậu ván quen, gánh một gánh đầy vào nhà, là con cháu bu lại, mỗi người một bát, ăn cho nhanh còn thêm bát nữa, chỉ loáng cái đã hết cả gánh hàng. Mụ Mệ cười tươi, phô hai hàng lợi cứng, không còn sót một cái răng nào, giữa tiếng xôn xao của lũ trẻ mời mụ ngày mai lại đến. Con cháu mụ Mệ cũng thường vào Hoa Đường chơi với con cháu ông. Phạm Quỳnh thân thiết với những người giúp việc gia đình hằng ngày như người nhà. Cho nên, sau khi gia biến, ông không còn, nhưng cụ Hạt, cụ bếp Nguyên, u Nấm, u Viết vẫn giúp việc vợ con ông cho đến tuổi già, tận tình và trung tín. Cụ thợ may Liễn (tên thường gọi là ông Hai Lươn, em ông Cả Trạch), thường xuyên thăm nom, giúp đỡ gia đình cô con cả ông những khi có việc. Các con cái cụ như Sâm, Nhung… thường đi lại, gắn bó thân thiết với cháu ngoại Phạm Quỳnh. Các ông Bồng, Huệ, Thìa, Khoá, Hồ, Gà… vẫn gắn bó như xưa. Năm 1954, Hà Nội giải phóng, hội nghị giáo dục toàn miền Bắc họp lần đầu. Con trai Phạm Quỳnh là giáo viên Khu Học xá Trung ương từ Nam Ninh (Trung Quốc) về nước dự. Buổi tối, họp kín, chỉ toàn Đảng viên. Giờ giải lao, thì có một người cùng họp đến gặp, hỏi có phải là con Cụ Phạm không, rồi tự xưng Tôi tên là Thìa, em anh Khoá đây, thân thiết, không chút e ngại. Trẻ con đông, lại nhiều cháu trai hiếu động, gây ồn ào, đổ vỡ, hư hỏng này nọ. Nhưng, tuyệt nhiên không đứa nào bị ông trách mắng hay có hình phạt nào cả. Có con cháu quây quần là ông vui rồi. Phạm Quỳnh và vợ cùng các con trai, gái, dâu, rể và các cháu nội, ngoại trong lễ mừng ngày sinh lần thứ năm mươi của hai ông bà cùng tuổi nhâm thìn, gia đình tổ chức tại biệt thự Hoa Đường, năm 1942. Vốn là nhà nghiên cứu, ông lập hẳn một quyển sổ ghi tên từng người con, lúc sinh nặng mấy cân, hay mắc bệnh gì, tính tình ra sao, lớn lên lấy vợ lấy chồng tên là gì, năm nào sinh con ông ghi đủ cả48[28] Bà Hoàn, hồi nhỏ ở Huế thường giúp ông các việc vặt như: mở máy hát các điệu Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, hò mái nhì mái đẩy, những bản ca trù, hát nói, chèo cổ, Kiều lẩy, Tần Cung Oán…hay đọc sách cho ông nghe và chuyên cắt móng tay cho ông. Năm gần bảy mươi tuổi, bà vẫn còn nhớ: “Mỗi lần như vậy, thầy tôi lại nói đùa: Thầy là một nhà nho để móng tay ngắn. Riêng câu đó cũng chứng tỏ thầy tôi luôn luôn dung hoà cái xưa và cái nay”.49[29] Ông yêu quý những người thân của mình và cũng được đáp lại bằng tình cảm kính yêu chân thành, tha thiết nhất. Năm 1945, sau khi từ quan rút về sống ẩn dật trong biệt thự Hoa Đường lúc mới năm mươi hai tuổi, ông nghiền ngẫm và miệt mài đọc, dốc tâm huyết dịch những bài thơ Đỗ Phủ mình tâm đắc nhất. Được đúng năm mươi mốt bài thì gửi Đông Hồ Lâm Tấn Phác, người bạn văn chương thân thiết sành thơ và bắt đầu viết Kiến văn cảm tưởng: Hoa Đường tuỳ bút trong một cuốn vở học trò, mới được non năm mươi trang giấy.50[30] Tháng sáu năm ấy, nhà báo Nguyễn Vạn An, đại diện nhóm Tri Tân, được cụ Nguyễn Văn Tố, người đồng sự với ông ngày trước ở Trường Viễn Đông Bác Cổ, giới thiệu đến thăm ông. Sau này, khi viết bài Khi danh vọng về chiều: Tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, ông An có thuật lại những lời ông nói bấy giờ: “Tôi đã lỡ lầm mà ra làm quan, vì trước khi dấn thân vào hoạn lộ, thật ra tôi vẫn tưởng tôi sẽ làm được rất nhiều việc mà trước kia tôi chỉ phụng sự được trong mực đen giấy trắng”…”Hiện thời, tôi phải tĩnh dưỡng trong ít lâu, rồi tôi sẽ trở lại hoạt động cho văn học”…” Tương lai nước ta sau này là do ở chữ quốc ngữ, nó sẽ là nền móng của công cuộc giải phóng và độc lập sau này”…”Trong một thời gian ra làm quan, tôi tự nhận thấy thâu thái học hỏi thêm được “nhân tình thế thái” rất nhiều. Ngày nay, trở lại nghiệp cũ, có lẽ ngòi bút của tôi sẽ được dồi dào, phong phú hơn xưa…Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học, thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ dở.”51[31] Phạm Quỳnh, Thượng thu Triều đình Huế (từ 1932--3/1945) Từ lâu, ông đã muốn thoát khỏi quan trường mà không sao thoát được. Năm 1932, nghe tin ông nhận vào Huế làm quan, Hoàng Đạo Thúy đã can ngăn hết lời, nhưng ông vẫn ngây thơ trả lời rằng: “Tôi vào thử một tháng, không làm được gì thì tôi lại ra”.52[32]Ông còn nói với nhà báo Nguyễn Vạn An vào tháng 6-1945: “Trong trường hợp nào, chúng ta cũng phải đặt quốc gia lên trên hết, dù trong địa hạt văn hoá cũng vậy. Cá nhân không có nghĩa và cũng không có sức mạnh gì cả”.53 _________________ 21 Hoàng Đạo Thuý: bản dịch Trích gia phả họ Hoàng Đạo; Phụ: Bên Ngoại (Hoàng Đạo Thành soạn, viết); Phả ký học trò viết (Tô Ngọc Huê soạn, Ngô Văn Dạng viết) 22 Hoàng Đạo Thuý: Các việc tiếp theo (viết ngày 16-7-1991, tại Hà Nội) 23 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 24 Hoàng Đạo Thuý: Băng ghi âm lời nói với con trai Phạm Quỳnh (ngày 19-4-1991, tại Hà Nội) 25 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 26 Theo lời kể của ông Lê Đức Vượng, cháu gọi Phạm Quỳnh bằng bác, trực tiếp kể cho người viết bài này, năm 1999 27 Theo lời kể của cụ Lê Thị Hợp, em vợ Phạm Quỳnh trực tiếp kể cho người viết bài này từ 1960 đến 1975 28 Theo lời kể của bà Lê Thị Trung, cháu gọi Phạm Quỳnh bằng bác, trực tiếp kể cho người viết bài này ngày 19-1-2000 29 Theo lời kể của cụ Lê Thị Hợp, em vợ Phạm Quỳnh trực tiếp kể cho người viết bài này từ 1960 đến 1975 30 , 32 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 31 Phạm Quỳnh: Hành trình nhật ký, NXB Ý Việt, Paris, 1997 33 Hoàng Đạo Thuý: Phố phường Hà Nội xưa, NXB Văn Hoá - Thông Tin, Hà Nội, 2000 34 Hoàng Đạo Thuý: Băng ghi âm lời nói với con trai Phạm Quỳnh (ngày 19-4-1991, tại Hà Nội) 35 Phạm Thị Hoàn: Thầy tôi, viết tại Yerres, bài đọc trong lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Phạm Quỳnh tổ chức tại Paris ngày 19-12-1992. Báo Ái Hữu số 115 tháng 6-1992, Paris 36 Phạm Thị Ngoạn: Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (bản dịch của Phạm Trọng Nhân, NXB Ý Việt, Paris, 1993) 37 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 38 Phạm Quỳnh: Hành trình nhật ký, NXB Ý Việt, Paris, 1997 39 Phạm Quỳnh: Hành trình nhật ký, NXB Ý Việt, Paris, 1997 40 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 41 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 42 Phạm Thị Hoàn: Thầy tôi, viết tại Yerres, bài đọc trong lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Phạm Quỳnh tổ chức tại Paris ngày 19-12-1992. Báo Ái Hữu số 115 tháng 6-1992, Paris 43 Phạm Thị Ngoạn: Tìm hiểu tạp chí Nam Phong (bản dịch của Phạm Trọng Nhân, NXB Ý Việt, Paris, 1993) 44 Theo lời kể của bác sĩ Ngô Văn Quỹ, trực tiếp kể cho người viết bài này, tại Thành phố Hồ Chi Minh, năm 1999 45 Theo lời kể của Giáo sư Sử học Hoàng Gia Lịnh, sống ở Paris trực tiếp kể cho người viết bài này. 46 Nguyễn Phước Bửu Tập - Chiến sĩ ái quốc Phạm Quỳnh, tạp chí Văn Hoá số 50, Mỹ 47 Theo lời kể của bà Tôn Nữ Việt An, cháu ngoại Phạm Quỳnh, trực tiếp kể cho người viết bài này qua điện thoại (tháng 1-2006) 48 Phạm Thị Giá: Thư gửi con trai (tháng 4-1988); Thư gửi con trai (25-5-1988); Thư gửi em gái (14-9-1992) 49 Phạm Thị Hoàn: Thầy tôi, viết tại Yerres, bài đọc trong lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Phạm Quỳnh tổ chức tại Paris ngày 19-12-1992. Báo Ái Hữu số 115 tháng 6-1992, Paris 50 Phạm Quỳnh: Tuyển tập và Di cảo, NXB An Tiêm, Paris, 1992 51, 53 Nguyễn Vạn An: Khi danh vọng về chiều: Tôi đã gặp Phạm Quỳnh ở biệt thự Hoa Đường, báo Tin Điển, ngày 23-3-1952 52 Hoàng Đạo Thuý: Băng ghi âm lời nói với con trai Phạm Quỳnh (ngày 19-4-1991, tại Hà Nội) Phạm Tôn
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 4:48:40 GMT 9
TÂM LÝ NGÀY TẾT Phạm Quỳnh . . Lời dẫn của Phạm Tôn: Bài này Phạm Quỳnh viết bằng tiếng Pháp nhan đề Psychologie du Tet, đăng trên phần Pháp văn của Tạp chí Nam Phong số 149-1924, sau này có in trong Tiểu luận 1922-1932 (Essais 1922-1932) và đã được nhà văn Nguyên Ngọc dịch rất đạt ra tiếng ta, xuất bản năm 2007. Nhưng ở đây, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc bản dịch của Tiến sĩ Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, và là tác giả luận văn Tìm hiểu tạp chí Nam Phong để tạo thêm một nét hứng thú trong ngày Tết này.Những dịp để cho cả một dân tộc cùng nhau hướng về một tình cảm, một tư tưởng, để cùng nhau rung động…thật là hiếm có. Thường phải có những sự xẩy ra khá quan trọng, có ảnh hưởng đến tính mạng cả một đoàn thể, để ai nấy đều phải để hết tâm trí vào. Dân Việt Nam ta có cái may mắn, cái đặc ân là có một dịp vui chung cho tất cả, dịp ấy cứ đều đặn mỗi năm một lần vào ngày đầu xuân năm mới. Về dịp này tất cả đàn con đất Việt, từ người giàu cho đến kẻ nghèo, từ người tiên tiến cho đến kẻ thủ cựu đều một lòng một dạ, cùng nhau hớn hở đón chúa xuân, trong mấy ngày lễ long trọng, trang nghiêm mà cũng rộn ràng náo nhiệt biết bao! Ngày ấy là ngày TẾT. “TẾT”, chữ màu nhiệm thay! Như đã chứa chất biết bao niềm vui mừng của cả một dân tộc vô tư vui vẻ, cứ mỗi năm, đến kỳ xuân tới là quên cả hết thẩy những nỗi lo lắng khó khăn của năm cũ để sẵn sàng hoan hỷ bước vào năm mới với chứa chan hy vọng. Vậy thời ý nghĩa của ngày TẾT, của cái thực thể huyền bí ấy mà người ta sùng bái như một vị thần thánh có sức mạnh đến nỗi có thể khiến cho cả một dân tộc, trong khoảng mấy ngày tròn, đã cùng một tâm hồn, cùng một tình cảm, mà nhất là cùng một hy vọng tin tưởng ở ngày mai, hy vọng và tin tưởng mà nhiều khi họ rất cần phải có, để đương đầu với một cuộc đời vất vả bấp bênh… TẾT không phải chỉ là ngày đầu năm mà thôi, vì nếu kể cả những ngày sửa soạn linh đình trước và những cuộc vui đùa giải trí sau, thì TẾT ít ra cũng phải kể tất cả là ba tuần. Nhưng dù sao tâm trạng của người ta mà ngày TẾT đã gây nên chưa dễ đã xóa nhòa trong chốc lát, và ta cũng nên thử nghiên cứu xem, để tìm hiểu giá trị đặc biệt của ngày lễ long trọng ấy. TẾT không phải hoàn toàn không có nghĩa lý, mà lại còn bao trùm cả một “triết lý”. Trong một năm bốn mùa liên tiếp nối nhau và đó là một hiện tượng tự nhiên rất quan trọng cho một dân tộc nông nghiệp. Theo như thuyết “Vũ trụ khai tịch” xưa, khoảng thời gian đông qua xuân tới là đánh dấu một thời kỳ hoàn toàn đổi mới, người và vạn vật thiên nhiên như sống lại và cùng nhau thông cảm trước sự đổi mới vui tươi để hăng hái đón mừng xuân mới. Trong mấy ngày cổ truyền ấy, con người ta phải hoàn toàn đổi mới, lột hết những gì cổ hủ của con người cũ đi mà tự tạo nên một tâm hồn mới mẻ; phải đuổi hết những tư tưởng yếm thế, phải tạo ra những ý vui, chỉ nói những lời ngọt ngào dễ thương, quên hết những hận thù, để đối với ai, – dù là kẻ thù chăng nữa- cũng một lòng khoan hồng bác ái. Như thế là ta đã góp phần vào sự gây dựng vũ trụ điều hòa, và do đó gây dựng hạnh phúc của xã hội và đồng thời hạnh phúc của chính mình. Những lời nặng nhẹ, những cử chỉ không hợp phép, những sự buồn bực, bất bình thổ lộ ra trong những ngày TẾT không những trái với lễ độ cổ truyền và rất kỵ trong những ngày tốt lành nhất của một năm ấy mà lại là một sự phản bội đối với vạn vật thiên nhiên, và như thế kẻ đã phạm tội ấy sẽ bị tai họa. Dị đoan lại khiến cho người ta tin rằng tất cả những gì xẩy ra trong mấy ngày đầu năm đều có ảnh hưởng huyền bí, hay, dở đến cả một năm. Vì vậy sáng sớm ngày đầu năm, người khách đầu tiên đến nhà có thể coi như đã đem đến cho gia đình ấy hạnh phúc hay tai họa, tùy theo nếu người ấy là một người sướng hay khổ, có chức phận trong xã hội hay không, giàu hay nghèo, con cháu đông đủ hay hiếm hoi, tính nết tốt hay xấu, nhiều may mắn hay không…Một người có tang vừa đau khổ, một người rủi ro vừa bị thất bại trong công việc làm ăn…chớ nên đến thăm ai trong buổi sáng đầu năm vì sợ có thể sẽ đem lại rủi ro đến cho người ta. Để khỏi phải có những sự bất ngờ chẳng hay, người khách đầu tiên đến “xông đất” mỗi nhà, nghĩa là người khách có thể coi như sẽ đem lại may mắn hay rủi ro đến cho gia đình, đều được chủ nhà sắp đặt trước. Người ấy sẽ được lựa trong những bà con bè bạn thân thiết và là người được coi như có hạnh phúc đầy đủ, vừa giàu sang phú quí lại con cháu đầy đàn, để sáng sớm đầu năm làm “sứ giả” đem Hạnh phúc đến cho cả gia đình. HẠNH PHÚC! Hạnh phúc là cái mộng đẹp mà hết thảy chúng ta ai cũng mong ước. Ở nước Nam này, mỗi năm xuân tới, người ta kêu gọi, cầu khẩn, tìm kiếm Hạnh phúc bằng đủ mọi cách. Họ ca ngợi Hạnh phúc trên những câu đối đỏ chói treo trên tường bên những cánh cửa nhà. Màu đỏ là màu tượng trưng điểm lành, điểm tốt, vì vậy từ sân nhà cho đến trên bàn thờ, mỗi gia đình, chỗ nào cũng rải rác đầy xác pháo đỏ cùng những cánh hoa đào. Người ta cũng thế, ai cũng có vẻ tạo ra một vẻ mặt sung sướng, vui tươi, niềm nở như để dễ quyến rủ cái Hạnh phúc nó như cái bóng phảng phất khó lòng mà nắm được, tựa hồ như con chim hoàng oanh của nhà thi sĩ nọ, ríu rít hót ca trên cành liễu này rồi phút chốc đã lại bay qua cành liễu khác. Thật không cái gì cảm động bằng cái lòng nguyện vọng thiết tha của cả một dân tộc, nguyện vọng đến được một đời sống thanh nhàn hạnh phúc, mà tất cả đều mơ ước, nhưng dễ mấy ai đã tới được! Vậy thì TẾT là gì? Là lời kêu thiết tha của cả đàn dân Việt trong dịp vạn vật đổi mới, nói lên lòng tin tưởng ở năm mới sẽ đến, và sự khát khao một đời sống thảnh thơi sung sướng. Ngày TẾT lại còn có một ý nghĩa khác nữa. Ngày TẾT còn là sự thánh hóa, sự ca tụng, tán dương chủ nghĩa gia tộc và sự thờ phượng tổ tiên. Với tư cách này TẾT có thể coi như một thiết lập có liên hệ mật thiết với sự thành lập gia tộc ở nước Việt Nam ta. Mấy ngày TẾT chính là những ngày mà cả đại gia đình đông đủ sống quây quần tụ họp làm một. Gia đình Việt Nam thường có cha mẹ, anh chị em, hay là cả ông bà cô chú, có khi lại có cả cụ nội ngoại ở cùng cả một nhà. Những gia đình có con cháu đi làm xa trong cả năm, đến kỳ TẾT đều trở về đông đủ dưới mái nhà của tổ tiên. Những hôm đó trên bàn thờ trang hoàng rực rỡ, những bài vị ghi tên tuổi các vị tổ tiên đã mất, đều được mở ra chưng bày, những đèn hương sắp lên nghi ngút, những đồ mã tượng trưng nén vàng nén bạc để cung hiến tổ tiên được chất thành từng đống. Vì TẾT không phải chỉ là ngày vui cho người sống mà còn cả cho người chết nữa. Chính trong những ngày TẾT các vị tổ tiên ông bà đều về sống chung với gia đình con cháu. Hôm ba mươi Tết, mỗi gia đình đều có một lễ thỉnh mời tổ tiên về. Rồi cứ mỗi ngày hai lần, dâng lễ cúng cơm cùng nước trà bánh trái. Đến ngày thứ ba là ngày cúng tiễn biệt, để rồi hồn của tổ tiên lại trở về nơi chín suối, mang theo lời chúc tụng cùng tâm sự của con cháu mà các ngài vừa được chung sống trong mấy ngày Tết vừa qua, và tuy từ biệt ra về, tổ tiên vẫn không quên phù hộ và che chở cho con cháu bằng một cách huyền bí. Trong mấy ngày Tết, người sống và người chết lẫn lộn chung sống dưới mái gia đình. Bà con bạn bè đến thăm viếng nhau ngày Tết, trước hết không quên đến kính cẩn lễ trước bàn thờ tổ tiên rồi mới cùng nhau chúc tụng năm mới. Tết với những tượng trưng và nghi lễ của ngày ấy đã ghi vào đời sống của chúng ta một giai đoạn vui sướng, mà giai đoạn ấy chúng ta có cái may mắn là cứ mỗi năm ta lại được sống lại một lần. Sống mấy ngày hoan hỷ vui chung cả quốc dân, tự thấy mình đã cũng chia sẻ sự vui sướng ấy và cùng thông cảm với tất những người đồng chung về một ý thức, một tư tưởng, đó là niềm vui không phải nhỏ; niềm vui ấy, chính ngày Tết đã đem lại cho ta, và ta sẽ không bao giờ quên ơn. Riêng về phần tôi, mõi lần ngó về dĩ vãng, nhớ lại những ngày thơ ấu, những năm của tuổi trẻ đã qua, ngày Tết đã để lại cho tôi toàn những kỷ niệm êm đềm. Một ngày kia nếu phải bỏ phiếu để bãi bỏ cái ngày lễ ấy đi, thì dù ai biện lẽ phải gì hay ho tốt đẹp đến đâu, tôi cũng bỏ phiếu chống sự bãi bỏ ấy, mặc dầu họ có thể cho tôi là một anh thủ cựu bướng bỉnh hay liều lĩnh. Thượng Chi (Phạm Quỳnh)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 31, 2013 5:19:16 GMT 9
Phát hiện thủ bút Trần Trọng Kim: Thư gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947 Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện.Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần – Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên. 200px-Trần_Trọng_KimChúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay. Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt. Nội dung như sau : Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471 Ông Hãn2 Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài4 xem. Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có. Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8. Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa. Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12. Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu. Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao. Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là: 身 在 南 蕃 無 所 預 心 懐 百 憂 復 千 慮 (Thân tại Nam phiên vô sở dự, Tâm hoài bách ưu phục thiên lự. = Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị, Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự) Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm. Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁 (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết. Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy: Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ Đất khách mơ – màng những thở – than, Mảng tin bác bị lũ hung tàn. Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn, Căm giận quân thù đã tím gan. Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước. Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá. Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22 Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả. Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì? Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn. Nay kính thư Trần Trọng Kim [tr4] Chú thích: 1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ. 2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội. 3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam. 4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại – Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd) 5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng. 6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd) 7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd) 8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167… 9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.” 10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, … sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd) 11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”. 12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp. 13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội. 14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd) 15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd) 16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự “khó tính” của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần “Nam kỳ quốc” và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này. 17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?) 18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ. 19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd) 20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969) 21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd. 22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi. 23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd) 24. Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd). _____________ Thư mục tham khảo 1.Lệ thần – Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969 2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986 3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982 4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987 5. La Sơn Yên Hồ – Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t) Phụ lục ảnh nguyên bản:
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 18, 2015 8:27:24 GMT 9
‘Nên tham khảo Trần Trọng Kim’ cho cách dạy và học sử24/10/2019 www.voatiengviet.com/a/n%C3%AAn-tham-kh%E1%BA%A3o-tr%E1%BA%A7n-tr%E1%BB%8Dng-kim-cho-c%C3%A1ch-d%E1%BA%A1y-v%C3%A0-h%E1%BB%8Dc-s%E1%BB%AD/5138285.htmlNgọc Lễ Ông Nguyễn Lương Hải Khôi trả lời phỏng vấn VOA bên lề hội thảo về nền cộng hòa và các giá trị Cộng hòa của miền Nam Việt Nam Cách dạy và học Sử ở Việt Nam hiện nay quá tập trung vào chiến tranh mà bỏ qua những mảng quan trọng khác của lịch sử và do đó nên tham khảo cách tiếp cận của Sử gia Trần Trọng Kim là tìm hiểu lịch sử dưới góc độ tiến hóa, một nhà nghiên cứu về tư tưởng châu Á nói với VOA. Nhận định này được Tiến sỹ Nguyễn Lương Hải Khôi, hiện đang là nghiên cứu viên tại Viện các vấn đề Toàn cầu thuộc Đại học Oregon ở Eugene, đưa ra tại một cuộc hội thảo về các nền Cộng hòa và các giá trị Cộng hòa hôm 14/10 tại Eugene, Oregon. Tại hội thảo này, ông Khôi đã có bài tham luận về phương pháp luận lịch sử của ông Trần Trọng Kim, một chính khách và học giả tên tuổi của Việt Nam dưới thời kỳ thực dân vốn có thời kỳ làm Thủ tướng dưới trướng Quốc trưởng Bảo Đại, qua tác phẩm để đời của ông là ‘Việt Nam Sử lược’. ‘Xây dựng hồn dân tộc’ Việt Nam Sử lược, được xuất bản bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1920, là giáo trình hiện đại đầu tiên của lịch sử Việt Nam được sử dụng rộng rãi trong các trường học ở khắp ba miền Việt Nam dưới thời thực dân Pháp và sau đó được Việt Nam Cộng hòa sử dụng làm sách giáo khoa ở miền Nam từ năm 1954 cho đến 1975. Ông Khôi lưu ý rằng trong Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim đã cố gắng xây dựng nên bản sắc dân tộc và ‘hồn dân tộc’ – những khái niệm không tồn tại trong cách viết sử dưới thời phong kiến hàng ngàn năm trước đó. “Việt Nam Sử lược đóng vai trò quan trọng trong việc đem đến hiểu biết lịch sử và ý thức dân tộc cho người dân Việt Nam kể từ đầu thế kỷ 20,” ông Khôi cho biết. “Tác phẩm của ông không trình bày lịch sử qua các triều đại và các đời vua như các nhà sử học tiền hiện đại mà đi vào giải thích mối quan hệ nhân quả của các hiện tượng lịch sử trên ba góc độ: văn hóa, xã hội và chính trị,” ông trình bày. Trong Việt Nam Sử lược, ông Trần Trọng Kim đã giới thiệu rất nhiều khái niệm của phương Tây vốn không có trong thư tịch Việt Nam mãi cho đến cuối thế kỷ 19 như ‘quốc gia, dân tộc, quốc hồn, quốc ngữ, tiến hóa, chính trị, chính thể, nhân dân, cạnh tranh, văn minh, kỹ thuật, giáo dục…’ “Đối với Trần Trọng Kim, mục đích của Sử học là xây dựng ‘linh hồn dân tộc’, là giúp cho thế hệ trẻ ngày nay biết về lịch sử nước nhà,” ông Khôi phân tích. “Khi đó họ sẽ xây dựng được ‘quốc hồn’, bao gồm tinh thần dân tộc và lòng yêu nước.” Theo lời giải thích của ông Khôi thì tinh thần dân tộc xem đất nước và dân tộc Việt Nam lớn hơn bất cứ cá nhân vị quân chủ hay triều đại nào và vượt qua giai cấp, tầng lớp. “Trần Trọng Kim đã dành khá nhiều công sức trong cuộc đời học thuật của ông để tìm hiểu các giá trị tuyền thống của Việt Nam,” ông Khôi nói và cho biết ông Kim cũng đã viết luận về Nho giáo cũng như nghiên cứu về tinh thần Phật giáo. Tuy nhiên, ông Kim lại đề xuất Việt Nam nên theo mô hình kinh tế-chính trị-xã hội của các nước Tây phương, nhưng theo ông, ‘quốc hồn của người Việt không phải là tờ giấy trắng để từ đó vẽ lên hình ảnh của Tây phương mà đã có lịch sử hàng ngàn năm’. “Làm thế nào để vẽ hình ảnh hiện đại lên bức tranh cổ. Làm thế nào để hài hòa hai bức tranh này. Đó là trăn trở của Trần Trọng Kim,” ông Khôi nói. ‘Tiến hóa luận’ ‘Tiến hóa luận’ là điểm then chốt trong tư duy lịch sử của Trần Trọng Kim, ông Khôi nói và cho biết đây là điểm khác biệt giữa Trần Trọng Kim với các sử gia phong kiến và các sử gia của Đảng Cộng sản sau này. Tiến hóa luận, ông Khôi giải thích, là nhìn vào khả năng sáng tạo của một dân tộc, một đất nước. “Việt Nam Sử lược xem đối tượng nghiên cứu lịch sử là trình độ tiến hóa của một dân tộc. Tiêu chuẩn để xác định các thời kỳ lịch sử Việt Nam là mức độ tiến hóa và khả năng phản ứng lại trước các thách thức bên ngoài,” ông nói. “Theo Việt Nam Sử lược, lịch sử Việt Nam là sự tiến hóa từ giai đoạn dã man chưa có văn minh và sau đó nhờ học tập Trung Quốc mà văn minh hóa rồi trải qua thời kỳ tự chủ Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn rồi mở mang bờ cõi xuống phương Nam. Đến giai đoạn tiếp xúc với văn minh phương Tây thì thất bại,” ông giải thích. Ông đưa ra một ví dụ so sánh để làm rõ quan điểm tiến hóa này. Theo đó, trong khi các nhà viết sử cộng sản nhìn vào thế kỷ 19 là thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, nhà Nguyễn phản bội quyền lợi dân tộc và cấu kết với người Pháp, nhân dân đấu tranh anh dũng với quân Pháp nhưng đều thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, thì Trần Trọng Kim lại nhấn mạnh đến cuộc chiến Pháp-Thanh để giành quyền thống trị ở Việt Nam, điều mà các sử gia miền bắc bỏ qua. “Trần Trọng Kim xem thế kỷ 19 là lúc Việt Nam phải đối diện với hai nền văn minh, một là văn minh Trung Hoa đã lỗi thời, một là văn minh hiện đại của người Pháp,” ông Khôi giải thích. “Theo ông Kim, lựa chọn đúng đắn duy nhất của Việt Nam là phải hiện đại hóa để trở nên hùng cường như Nhật Bản từ đó mới giành được độc lập. Nhưng ông lại cho rằng vào thời điểm đó không có lực lượng chính trị xã hội nào có thể làm được nên Việt Nam chỉ có hai con đường: hoặc là chư hầu của nhà Thanh hoặc là thuộc địa của Pháp.” Trả lời câu hỏi của VOA về quan điểm viết sử của miền Bắc, ông Khôi nói trong khi Trần Trọng Kim nhìn trên quan điểm tiến hóa thì các nhà sử học cộng sản nhìn lịch sử Việt Nam theo quan điểm ‘lịch sử tranh đấu’, tức là một chuỗi của các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và giành độc lập cho dân tộc. Cách nhìn này, theo ông Khôi, đã bỏ qua những mảng khác cũng rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam. “Theo cách nhìn này thì người dân Việt Nam suốt mấy ngàn năm không có làm gì khác ngoài đấu tranh chống giặc ngoại xâm,” ông nói. “Nhưng ngoài ra Việt Nam còn có văn hóa, chính trị, xã hội và quan trọng hơn nữa là lịch sử tiến hóa của dân tộc.” Từ quan điểm tiến hóa luận này, ông Trần Trọng Kim đã phê bình rằng dân tộc Việt Nam suốt mấy ngàn năm không có sáng tạo nào về mặt tư tưởng mà chỉ tiếp nhận Nho giáo của Trung Quốc và Phật giáo từ Ấn Độ, trong khi Nhật Bản tiếp nhận Nho giáo nhưng đã có tác phẩm luận giải về Nho giáo. Phản dân tộc, phản cách mạng? Theo lời ông Khôi thì trong suốt cuộc chiến giữa hai miền, Việt Nam Sử lược vẫn được miền Nam sử dụng làm sách giáo khoa lịch sử trong tất cả các trường học và ‘có đóng góp to lớn trong việc hình thành bản sắc tinh thần của miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, sau khi những người cộng sản lên nắm quyền ở miền Bắc thì tác phẩm này đã bị cấm và bị chỉ trích nặng nề là ‘mang tư tưởng phong kiến, tư sản, phản dân tộc và phản cách mạng’. Trả lời VOA bên lề hội thảo về những sự chỉ trích này, ông Khôi cho rằng chúng xuất phát từ sự hiểu lầm hay ‘cố tình hiểu sai’ của các nhà sử học miền Bắc, nhất là những nhà sử học đầu đàn như Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu. Trần Trọng Kim bị lên án vì phê phán ‘dân tộc không có khả năng sáng tạo’, ông Khôi cho biết nhưng nói rằng Trần Trọng Kim ‘có lẽ là tác giả đầu tiên đưa Truyện Kiều của Nguyễn Du vào một công trình luận về lịch sử dân tộc’ để chứng minh rằng đây là ‘tác phẩm tiêu biểu về sức sáng tạo của dân tộc trong thời phong kiến’ và tham gia vào phong trào thúc đẩy tìm hiểu Truyện Kiều. “Trần Trọng Kim phê phán dân tộc không có tinh thần sáng tạo vốn không có mục đích nào khác ngoài nhìn vào sự thực là dân tộc Việt Nam không tiến hóa bằng con đường sáng tạo, phát minh chứ không có ý định vùi dập dân tộc gì cả,” ông Khôi biện hộ. Một điểm nữa khiến ông Kim bị chỉ trích ‘phản dân tộc’ là khi ông phê phán phong trào Bình Tây Sát Tả của giới văn thân, tức tầng lớp trí thức ở nông thôn, vào thế kỷ 19, là ‘không phải tinh thần dân tộc’ mà chỉ là sự phản kháng lại các yếu tố của xã hội mới mà ‘họ không thích ứng được’ như các chính sách kinh tế-chính trị của người Pháp hay Thiên chúa giáo. Trong khi đó, sử gia miền Bắc Trần Huy Liệu từ năm 1950 đã xem phong trào Văn thân là phong trào yêu nước đánh giặc Pháp và có tinh thần dân tộc cao. Ông Khôi nói các sử gia như Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu cũng được giao nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa dân tộc ở miền Bắc và đó là ‘chủ nghĩa dân tộc cộng sản’. “Chủ nghĩa dân tộc theo cách nhìn của những người cộng sản là lịch sử chỉ có đấu tranh chống giặc ngoại xâm và đấu tranh giai cấp và chỉ có những người cộng sản là kế thừa đầy đủ những giá trị truyền thống của dân tộc,” ông nói với VOA bên lề hội thảo. Ông cho biết là quan điểm sử luận của Trần Trọng Kim ‘đã in dấu lên các trước tác chính trị, văn hóa, xã hội ở miền Nam Việt Nam’ và dẫn ra tác phẩm ‘Chính đề Việt Nam’ của nhóm ông Ngô Đình Nhu dưới thời Đệ nhất Cộng hòa mà trong đó ‘khái niệm tiến hóa được lặp đi lặp lại trên 30 lần’. “Độc lập dân tộc không phải là vấn đề quan trọng nhất mà là phát triển dân tộc,” ông Khôi giải thích về sự khác biệt trong quan điểm của Trần Trọng Kim với các sử gia miền Bắc. “Bởi vì nếu anh độc lập về chính trị mà không phát triển dân tộc thì độc lập đó cũng là giả vì sớm muộn gì anh cũng trở lại như cũ.” Nên tham khảo Trần Trọng Kim? Trao đổi với VOA, ông Khôi nói rằng phương pháp luận lịch sử của Việt Nam hiện nay ‘nên tham khảo cách nhìn tiến hóa của Trần Trọng Kim nhưng không phải áp dụng hoàn toàn’. “Tiến hóa luận xã hội ngày nay cũng đã lỗi thời và trở nên nhạy cảm vì nó chi lịch sử ra các giai đoạn từ thấp đến cao nên vô hình chung tạo ra sự phân biệt đối xử,” ông phân tích. “Nhưng tinh thần của tiến hóa luận xã hội vẫn chưa chết và vẫn thể hiện rõ trong kinh tế học phát triển vốn nghiên cứu về chiến lược và con đường phát triển của các cộng đồng đang phát triển.” “Điều cần phải tránh là viết sử chỉ tập trung vào chiến tranh. Trong thời đại ngày nay và từ thời Trần Trọng Kim đã nhận ra rằng lịch sử của sự sáng tạo mới là yếu tố quyết định đến sự phát triển của quốc gia,” ông nói. “Đánh nhau với nước ngoài sẽ có ích trong thời điểm chiến tranh chống ngoại xâm nhưng rõ ràng không có ích trong thời đại xây dựng đất nước.” Chính phủ Trần Trọng Kim – Chính phủ đầu tiên của nước VN độc lậpChính phủ Trần Trọng Kim. Ảnh Google Sau khi vua Bảo Đại công bố Bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ngày 11-3-1945, Phạm Quỳnh cùng toàn thể thượng thư sáu bộ trong triều đình Huế xin từ chức. Vua Bảo Đại triệu tập nhân sĩ khắp nước đến gặp, để thăm dò việc thành lập chính phủ mới. TRẦN TRỌNG KIM LẬP CHÍNH PHỦ Lúc đó, người Nhật đưa Trần Trọng Kim từ Singapore về Sài Gòn ngày 30-3-1945, rồi đưa ông ra tới Huế ngày 5-4-1945. Trần Trọng Kim sinh tại Hà Tĩnh năm 1883, học trường Vinh, rồi trường Thông sự Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp, học trường Thương mại La Salle tại Lyon, sau chuyển qua trường Thuộc Địa Pháp, rồi trường Sư Phạm Melun. Tốt nghiệp năm 1911, ông trở về nước dạy tại trường Trung học Bảo Hộ (Lycée du Protectorat) và trường Sĩ Hoạn (Hà Nội), rồi làm Thanh Tra Tiểu học Bắc Kỳ, hưu trí năm 1942. Ông viết nhiều sách nghiên cứu giá trị về văn chương, triết học, nhất là bộ Việt Nam sử lược, xuất bản lần đầu tại Hà Nội năm 1920. Năm 1943, được tin bị người Pháp nghi ngờ, ông nhờ người Nhật đưa vào Sài Gòn cùng Dương Bá Trạc. Đầu năm 1944, hai ông qua Singapore. Tại đây Dương Bá Trạc từ trần vì bịnh phổi ngày 10-12-1944. Tháng 1-1945, Trần Trọng Kim đi Bangkok. Ông trở về nước sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945. Là một nhà giáo và là một nhà nghiên cứu nghiêm túc, Trần Trọng Kim cho rằng vua Bảo Đại là vị vua ham ăn chơi, không chăm lo việc nước nên không muốn gặp. Tuy nhiên, theo lời khuyên của Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim đồng ý triều yết vua Bảo Đại ngày 7-4-1945. Gặp xong, ông thay đổi ý kiến. Hoàng Xuân Hãn kể lại như sau: “Cụ [Trần Trọng Kim] hỏi tôi thì tôi cũng nói với cụ nên gặp ông Bảo Đại, rồi có ý gì thì cụ nói sau, chứ cụ đừng có nói trước. Cụ cứ bảo: “Bảo Đại là một cái anh chỉ biết ăn chơi, không hiểu cái gì cả”. Cụ cứ nói như thế. Sau cụ vào thăm ông Bảo Đại thì cụ ngồi đến 2, 3 giờ đồng hồ cơ. Lúc ra thì trái lại, lại thấy cụ nói: “Nó thông minh lắm chứ không phải như tôi tưởng.” (Hoàng Xuân Hãn trả lời phỏng vấn đài R.F.I (Paris) do Thụy Khê thực hiện, đăng lại trong mục “Những cuộc tiếp xúc khó quên”, sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), do Hữu Ngọc – Nguyễn Đức Hiền sưu tập, tập I, Con người và trước tác (phần 1), Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 481.) Trong cuộc triều yết nầy (7-4), Trần Trọng Kim đề nghị với vua Bảo Đại nên mời Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Nhà vua liền nhờ người Nhật tìm kiếm ông Diệm để mời ông ra chấp chánh. Người Nhật trả lời không kiếm được ông Diệm, mặc dầu ông Diệm đang sinh sống tại Sài Gòn. Theo Trần Trọng Kim, có thể vì ông Diệm thuộc phe cánh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cuối thế chiến thứ hai, Nhật không chọn Cường Để và chọn vua Bảo Đại, nên Nhật cũng không mời ông Diệm. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tt. 49-50.) Vua Bảo Đại đợi ba tuần lễ mà không gặp được Ngô Đình Diệm, nên nhà vua uỷ cho Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các. Lúc đầu, Trần Trọng Kim từ chối, thì vua Bảo Đại nói: “Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.” Sau lời thuyết phục của vua Bảo Đại, Trần Trọng Kim “thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng: “Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, song ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51. Trần Trọng Kim thấy hữu lý nên chấp thuận. Ông đưa ra hai tiêu chuẩn để chọn bộ trưởng vào chính phủ: “Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 51.) Ngày 17-4-1945, tại điện Thái Hòa (Huế), Trần Trọng Kim trình danh sách chính phủ lên vua Bảo Đại và được chuẩn y. Lúc đó, có cả sự hiện diện của viên đại sứ Nhật tại Huế là Massayuki Yokohama. Nội các Trần Kim gồm đa số là những chuyên gia và trí thức: “Tất cả những vị nầy đều là những vị ái quốc chân thành. Họ không hận thù gì nước Pháp. Trẻ tuổi, can đảm, ý thức được nhiệm vụ ngắn ngủi của mình, họ muốn rằng chủ quyền quốc gia được đánh dấu khởi đầu từ họ.” (Bảo Đại, sđd. tr. 167.) Sau đây là thành phần chính phủ Trần Trọng Kim tại Huế ngày 17-4-1945: Nội các Tổng trưởng [thủ tướng] : Trần Trọng Kim, giáo sư Nội vu Bộ trưởng : Trần Đình Nam, y sĩ Ngoại giao Bộ trưởng : Trần Văn Chương, luật sư Tư pháp Bộ trưởng : Trịnh Đình Thảo, luật sư Gíáo dục và Mỹ nghệ Bộ trưởng : Hoàng Xuân Hãn, toán học thạc sĩ Tài chánh Bộ trưởng : Vũ Văn Hiền, luật sư Thanh niên Bộ trưởng : Phan Anh, luật sư Công chánh Bộ trưởng : Lưu Văn Lang, kỹ sư [Không nhận] Y tế Bộ trưởng : Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ Kinh tế Bộ trưởng : Hồ Tá Khanh, y khoa bác sĩ Tiếp tế Bộ trưởng : Nguyễn Hữu Thí, cựu y sĩ (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 52-53.) CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM KHÔNG CÓ BỘ BINH Đây là chính phủ đầu tiên của Việt Nam độc lập được tổ chức theo cơ cấu tây phương, gồm nhiều bộ. Đứng đầu mỗi bộ là một vị bộ trưởng phụ trách chuyên ngành. Tất cả những bộ trưởng trong chính phủ đều là những chuyên gia tân học, gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư. Đặc biệt chính phủ nầy không có bộ Binh, hay bộ Quốc phòng, hoặc bộ An ninh. Trước đây, sau khi vua Bảo Đại từ Pháp về cầm quyền năm 1932, Pháp cải tổ triều đình Huế ngày 2-5-1933, bộ Binh bị bãi bỏ. Nay chính phủ Trần Trọng Kim dưới quyền vua Bảo Đại cũng không có bộ Binh. Không biết lý do nào, một chính phủ được tổ chức theo lối mới, lại không có bộ Binh hay bộ Quốc phòng? Riêng Trần Trọng Kim, trong hồi ký của mình, giải thích như sau: “Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Ở kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an, tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ. Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì có độ chừng vài chục người. Việc phòng bị do quân Nhật Bản đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ Quốc phòng. Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ Quốc phòng thì chỉ có danh không có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với họ. Hai là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 57-58.) Tuy Trần Trọng Kim giải thích như thế, nhưng có hai dư luận bàn tán khác nhau về việc nầy: Thứ nhứt, người ta cho rằng chính phủ Trần Trọng Kim gồm toàn khoa bảng chuyên viên, ít hiểu biết về việc quân sự nên không thấy rõ tầm mức quan trọng của bộ Quốc phòng. Thứ hai, có thể người Nhật muốn nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng mà không giao cho chính phủ Trần Trọng Kim, vì sợ chính phủ nầy theo Đồng minh, có thể bất ngờ tấn công Nhật. Làm như thế, Nhật còn buộc chính phủ Trần Trọng Kim lệ thuộc vào chính sách quân sự chung của Nhật tại Đông Nam Á. Dầu sao, việc quốc phòng chỉ dựa trên quân Nhật là điều sẽ rất tai hại về sau, vì khi quân Nhật rút lui hay đầu hàng Đồng minh, thì chính phủ Trần Trọng Kim không có lực lượng quân sự để tự bảo vệ mình, bảo vệ an ninh lãnh thổ, và sẽ dễ dàng bị sụp đổ. Không tổ chức bộ Quốc phòng, chính phủ Trần Trọng Kim mở trường huấn luyện thanh niên, chú trọng đến việc phát triển phong trào thanh niên. Về phần vua Bảo Đại, ngày 8-5-1945, nhà vua đưa ra chủ trương xây dựng một hiến pháp theo khẩu hiệu “Dân vi quý” của Mạnh Tử, và ngày 30-6-1945, nhà vua ban hành sắc dụ thành lập Hội đồng soạn thảo hiến pháp. Hội đồng mới bắt đầu làm việc, thì tình hình thay đổi nhanh chóng. QUỐC HIỆU, QUỐC KỲ VÀ QUỐC CA Bắt tay vào làm việc, trước hết vào ngày 4-5-1945, chính phủ quyết định quốc hiệu mới là Đế Quốc Việt Nam, chứ không dùng các danh xưng An Nam, Đại Nam hay Đại Việt. 181 2 1945 ĐẾ QUỐC VIỆT NAM - Hoàng đế Bảo Đại & Nam Phương Hoàng Hậu (mẫu tem in thử) Kinh đô Huế được đổi thành Thuận Hóa. Ngày 2-6-1945, chính phủ chọn quốc kỳ Việt Nam nền vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ ly. Quốc ca là bài “Đăng đàn cung”. Quẻ ly là một trong tám quẻ đơn của bát quái trong kinh Dịch, gồm ba hào (vạch ngang): hào dương dưới cùng (một vạch ngang), hào âm ở giữa (một vạch ngang đứt ở giữa), và hào dương trên cùng (một vạch ngang). Ly vi hỏa là lửa, sáng màu đỏ. Theo quan niệm của Hậu thiên bát quái, ly đóng ở phương nam. Như vậy, màu vàng của nền cờ quẻ ly vừa là màu cờ long tinh của hoàng gia (truyền thống), vừa tượng trưng cho “thổ”, thích hợp với quẻ ly để chỉ vị trí nước ta (phương nam), và cả về màu sắc (hỏa, màu đỏ, sinh thổ, màu vàng, theo ngũ hành tương sinh), đồng thời với ý nghĩa người Việt Nam máu đỏ da vàng. Sau đây là lời giải thích của Trần Trọng Kim về lá cờ do ông đưa ra: “Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc sử diễn ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng: “Đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là vì trong lối chơi chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở kinh Dịch, mà quẻ ly chủ phương nam. Chữ ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương. Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý nghĩa.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd, tt. 60-61.) Khi Trần Trọng Kim chọn cờ quẻ ly, ông cũng biết rằng “có người nói: cờ quẻ lý là một điềm xấu cho nên thất bại vì ly là lìa. Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và việc làm của một chính phủ là cốt ở nghĩa lý, chứ không phải là sự tin nhảm vô ý thức.” (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 61.) Trong khi đó, theo các nhà Nho học, bài thiệu về các quẻ trong bát quái có câu “càn tam mãn, ly trung hư”, tức quẻ càn gồm có ba vạch ngang đầy đủ, trong khi quẻ ly có vạch giữa bị đứt đoạn, nên các ông cũng cho đây là điềm không tốt. Lời bài quốc ca “Đăng đàng cung” như sau: “Kìa núi vàng bể bạc Có sách trời… sách trời định phần! Một dòng ta – gầy non sông vững chắc. Đã ba ngàn mấy trăm năm! Bắc Nam cùng một nhà con Hồng cháu Lạc. Văn minh đào tạo Màu gấm hoa càng đượm Rạng vẻ dòng giống Tiên Long. Ấy công gầy dựng Từ xưa đà khó nhọc Nhớ ơn dày nặng Lòng trung quân đã sẵn Cố thương nhau … thương nhau một niềm. Nguyện nhà Việt muôn đời thạnh trị.” (Lê Văn Lân, “Quốc kỳ và quốc ca Việt Nam thời quân chủ trong thế kỷ 20 qua”, Tuyển tập Nhớ Huế số 12, không đề năm, California, tr. 27.) Như thế, vua Bảo Đại và Trần Trọng Kim đã hợp nhất hai nền hành chánh bảo hộ Pháp và địa phương Việt, nên ban đầu còn nhiều khó khăn trong buổi giao thời. Chính phủ nầy không tồn tại được lâu dài, nhưng cũng đặt định được một số nền tảng căn bản như chúng ta sẽ thấy trong hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước, 2014.) TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, Canada)
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 3, 2015 5:36:28 GMT 9
Vua Phật Jayavarman VII xây dựng đền Angkor ThomBài và ảnh (*) Võ Quang Yến Vào đầu thế kỷ XI, Suryavarman I bên Cao Mên (Kambuja, Campuchia) là một vị vua đảm đang, chăm lo mở mang bờ cõi đất nước phía Xiêm La đến Lopburi, phía Lào toàn thể miền nam, còn lãnh thổ Chăm Pa thì đã thôn tính rồi. Tuy quốc giáo là đạo Ấn, lại là người sùng bái Shiva, ông xuất thân từ cửa Phật một tỉnh Khơ Me ở Mã Lai nên suốt triều đại khá dài 1002-1050, ông luôn khuyến khích, cổ vũ Đại thừa như thấy được trong những hình tượng ở Angkor. Ông cho xây dựng nhiều đền điện nhưng công trình nổi bật lên trên hết là đền-núi Ta Kéo. Con ông, Udayadityavarman II, nối nghiệp cha, không ngừng khẳng định và mở rộng đất nước cho đến 1066, đặc biệt thực hiện quy hoạch hồ nhân tạo baray dài đến 8 km là một bể chứa nước rât lớn, xây dựng đền Baphuon với những kích thước khổng lồ 425 x 125 m. Em ông, Harshavaraman II, lên ngôi tiếp theo nhưng đến lúc ông mất năm 1080, giang san gần 80 năm xây dựng hoàn toàn tan hoang...Người Chăm nổi dậy chống ách đô hộ Khơ Me, đánh chiếm và đốt cháy kinh đô Chen La trên bờ sông Mê Kông là Sambor. Thấy Harshavaraman II quá nhu nhược, theo gương Suryavarman I trước đây, một người dòng dõi quý phái loại bỏ được nhiều đối thủ, thành công tiếm quyền lên ngôi vua Jayavarman VI. Cao Mên lúc nầy lâm vào một giai đoạn rối loạn nên vua không ngự ở Angkor mà về trú ở Preah Vihear và Vat Phu ngoài miền bắc là nơi truyền thống nghệ thuật Khơ Me còn được giữ kỹ. Khi ông mất năm 1107, các anh em của ông chia nhau nắm quyền cho đến lúc một người cháu, Suryavarman II, chiếm ngôi và năm 1113 dời đô về lại Angkor. Nuôi nhiều tham vọng, có chí chinh phục, ông bành trướng tột bậc giang san Khơ Me, phía tây đến Xiêm La, biên thùy Pagan, bao gồm một phần lớn bán đảo Mã Lai. Vấn đề ông gặp là ở phiá đông và phía bắc : vì từ chối tiếp tay đánh chiếm Đại Việt, vua Chăm bị ông truất phế năm 1144 và đất nước bị ông chiếm đóng, nhưng bốn năm sau quân Chăm thành công dành lại được độc lập. Suryavarman II cứ khăng khăng muốn tiếp tục đánh chiếm Đại Việt, khi băng rừng vượt núi bệnh sốt đã tàn sát mất cả một đội quân hùng mạnh. Ông chết đi năm 1150, để lại một giang san rối loạn, chia rẽ, khánh kiệt. Quân Chăm lợi dụng cơ hội chiếm đánh Angkor, vơ vét của cải tích lũy từ lâu, đốt cháy miếu điện bằng gổ, đúng vào cuối thời kỳ cổ điển nghệ thuât Khơ Me đã đưa hai nền kiến trúc và chạm trổ lên tuyệt đỉnh (**). Đây là lần đầu tiên kinh đô Khơ Me Angkor bị đánh chiếm. Angkor Vat Suryavarman II 1177 là năm hủy diệt một dòng dõi những vị vua-thần, chấm dứt một thời đại. Tên tuổi của Suryavarman II dính liền với Angkor Vat, ngôi đền-núi thừa kế di tích Baphuon. Bao quanh một nương hào rộng 200 m, dài 5500 km, Angkor Vat có đủ nước để phục vụ dân cư đông đúc. Bắt đầu từ 1122, đền nầy chỉ xong vài năm trước khi ông mất. Nhiều người đã tự hỏi làm sao xây dựng được một công trình lớn như vậy khi khối đá tính ra khoảng bằng kim tự tháp Kephren, mà còn phải đẻo gọt, chạm trổ. Không bàn đến những chi tiết kiến trúc, địa thế của ngôi đền hướng về phía bắc là không gian của những người chết, hơn nữa một hình khắc nổi thấp trên sân hiên trình bày Yama (tức Diêm Vương) xét xử những người ở thế giới bên kia : rõ ràng Suryavarman II cho xây Angkor Vat như một nhà mồ, đồng thời là một chốn thiên đàng trong ấy ông được thần hóa thành Vishnu. Trong bầu không khí hư ảo điên cuồng nầy, vua chỉ lo chuyện cúng tế, hết còn quan tâm đến đời sống của dân chúng, quên bỏ những thành phần cấu tạo nền tảng thế lực của ông. Mê muội trong cuộc xây dựng những đền miếu cuối cùng hết còn đẹp đẽ như trước, vua quên chăm sóc những kênh lạch dẫn nước ngày càng bị lấp bùn lầy. Jayavarman VII, con vua Dharanindravarman II và hoàng hậu Jayarajacudamani, thừa kế một tình cảnh đất nước thảm hại. Thật ra, ông không nối ngôi ngay. Trong thời gian vua Suryavarman II lao đao với những kế hoạch xây cất đầy tham vọng, trong lúc quân Chăm tàn phá kinh đô, dưới thời người bà con nối nghiệp Yacovarman II và người tiếm quyền Tribhuvanadityavarman, ông sống gần như ẩn dật ở Kompong Svay, gần vương quốc Cham Pa. Có lẽ đây là một chiến lược hữu hiệu vì ông có thì giờ chỉnh đốn quân đội Khơ Me, qua nhiều trận đánh khốc liệt trên đất và một trận thủy chiến trên các hồ, các kênh lạch, thành công đuổi quân Chăm xâm lược ra khỏi đất nước. Nếu Jayavarman VII (sinh khoảng 1120-1125), gọi là Vua-Phật (Buddharaja), sau nầy thành công phục hưng thanh danh của Angkor là nhờ đã dựa lên những nền tảng xã hội tôn giáo khác hẳn. Lên ngôi vua năm 1181, đến lượt ông tấn công Cham Pa, năm 1190 chiếm đóng kinh đô Vijaya, năm 1203 biến Cham Pa thành một tỉnh Khơ Me cho đến năm 1220. Vào tuổi 65, ông bắt đầu một loạt chiến dịch để nới rộng biên thùy đế quốc Khơ Me, phía nam đến bán đảo Mã Lai, phía tây đến Miến Điện, phía bắc đến Vạn Tượng, hăm he nhìn qua Đại Việt (***). Jayavarman VII và Jayaradevi ở viện Bảo tàng Guimet Jayavarman VII ở Viện Bảo tàng Siem Rap Angkor Thom That Luang Viêng Chanh Từ nhiều thế kỷ nay, Phật giáo Đại thừa đã lan tỏa khắp Đông Dương. Nếu những vị vua trước Jayavarman VII luôn trung thành với Ấn giáo hợp pháp hóa vương triều, dân chúng dần dần hướng về Phật giáo là một đạo giáo hòa bình và cứu tinh. Sự kiện quân Chăm cướp phá Angkor có thể được xem như là một hình phạt đối với vị vua không còn biết quý dân, thương nước. Tuân theo phong tục của thời đại, Jayavarman VII quy theo Phật giáo. Trong trường phái Đại thừa, vua nhận dạng mình là một vị Phật đã khắc phục đau khổ, một vị Bồ tát bên Cao Mên gọi là Lokheshvara tức là Avalokitesvara biến chuyển thành đức Quán Thế Âm ở nước ta cũng như bên Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Jayavarman VII có ba bà vợ, ba chị em. Bà thứ nhất, công chúa Jayarajadevi, có ba hoàng tử, rất mộ đạo, được trình bày như một Tara, bổ thể của Avalokitesvhara (nhờ có hình tượng đức A Di Đà trên búi tóc jina). Bà thứ nhì, công chúa Rajendradevi, có một hoàng tử, được xem như là bà vợ chính theo văn bia Preah Khan. Bà hoàng thứ ba Indradevi, được vua cưới sau khi chị mất, hết lòng theo Phật và có nhiều ảnh hưởng lên tín ngưỡng của ông vua chồng. Thay vì giáo điều của những thần Shiva, Vishnu trước kia, bây giờ những nguyên tắc Phật giáo là nguồn sống của vương quyền, sự thịnh vượng của đất nước, sự phát đạt của người dân. Những văn bài ghi khắc lưu truyền những sáng lập sùng đạo của nhà vua : bệnh viện, chùa chiền, những nhà nghỉ cho khách hành hương... không ngoài mục đích gia nhập đa số những Phật tử mà sự trung thành với vương triều Khơ Me đã bị nao núng sau những biến cố vừa qua. Những công việc nầy chứng minh nhà vua hết còn tin tưởng ở các vị thần thánh của những bậc tiền bối và cố tìm một sự bảo trợ tinh thần vững chắc hơn. Niềm tin của nhà vua chắc phải vô cùng lớn lao nhìn qua số đền miếu được xây dựng khắp nước, ở ngay Angkor cũng như ở thôn quê xa lánh. Người ta bảo số chùa chiền của Jayavarman VII vượt quá tổng số đền miếu các vị tiên vương. Tinh thần xây dựng náo nhiệt, hăng say của nhà vua ngày nay còn phảng phất trong không khí, khi khách rảo bước quanh những tường vách sụp đỗ lấp ló sau rễ cây rườm rà, những gì còn lại của các đền miếu xây dựng cách đây hơn tám thế kỷ ! Bayon Ta Prohm Cửa Nam Cửa Bắc Angkor Thom Thật vậy, từ năm 1200 Jayavarman VII đã cho bắt đầu xây quanh Baphuon của Udayadityavarman II thành phố Angkor Thom, tức Angkor lớn hay Mahanagara, còn được gọi Indrapattha, một biểu tượng núi vũ trụ Meru (Tu di, Mê lư). Chạy quanh chu vi 12 km một hình vuông 3 km mỗi cạnh là một mương hào rộng đến 100 m làm thành một hệ thống nước tưới bao la phức tạp nhưng hữu hiệu. Dọc theo mương hào là thành lũy kiên cố cao 8 m, ra vào có năm cổng đồ sộ, bốn cái nằm đúng bốn phương trời, cái thứ năm phía đông cạnh Cổng Tử Thần, tương ứng với cựu thánh lộ nối liền hoàng cung Phimeanakas và Ta Kéo. Cổng nầy mang tên Cổng Chiến Thắng dành cho những đoàn quân thắng trận trở về. Trên mỗi cổng là một công trình vĩ đại được xem là sáng tác kiến trúc độc đáo nhất của Jayavarman VII. Tượng trưng cho uy quyền nhà vua, những tháp với bốn mặt người hình dung Lokhesvara cũng là tín điều khẳng định thế lực của ông lên bốn phương trời. Ở chính trung tâm Angkor Thom, ông cho xây công trình đền-núi của ông mang tên Bayon: những tháp-điện tua tủa dựng lên cũng mang bộ bốn mặt rạng rỡ đã thấy ở cổng lẫn mình trong những tầng mái giả mà những bậc, góc nhô nổi gây ra cảm tưởng một kiến trúc tám cạnh. Ở đâu cũng có đầu Phật với nụ cười tươi sáng. Trên cao cùng, những tháp phình ra như những mũ miện, có vòm che hình tam giác nhô ra ngoài. Tuy nhiên, các nhà kiến trúc nhận ra Bayon, nói chung Angkor Thom, được xây dựng gấp gáp, thiếu thận trọng, những bố trí được thực hiện ngay tại chỗ, vật liệu cũng không phải thuộc hạng tốt nhất. Angkor Thom cũng như Bayon hoàn thành vào khoảng 1220, tuy gồm có mọi chi tiết cốt yếu của phong cách Jayavarman VII, còn được tiến triển trong những đền miếu khác xây dựng cùng thời. Những tu viện đáng được chú ý là Banteay Kdei dành cho sư phụ (bắt đầu từ 1181), Ta Prohm cung hiến bà mẹ hiện thân của Bát nhã ba la Mật đa Prajnaparamita (1186), Preah Khan cung hiến ông cha hiện thân của Quán Thế Âm Lokheshvara (1191), Banteay Chmar thờ một đứa con chết trận. Tất cả những đền miếu nầy đều được xây theo cùng một bình đồ gồm có ở trung tâm một tháp-điện mở ra phía đông, xung quanh là những hành lang bốn góc nối liền những tháp góc và những đình tạ. Dưới thời Jayavarman VII, nhiều đền miếu nhỏ được xây thêm vào những chố trống, độc đáo nhất có lẽ là Neak Pean trên một bệ tròn giữa hồ baray Jayatataka lớn phía đông bắc Angkor: nước được tháp-điện rút từ một hồ baray nhỏ chuyển qua bốn hồ nhỏ kề cạnh trước khi cho chảy ra baray. Thiết bị nầy tượng trưng một cái hồ huyền diệu có khả năng chữa bệnh trong thần thoại Ấn Độ hiến cho chúng ta một thành công nghệ thuật, mỹ học lỗi lạc của những kiến trúc sư Jayavarman VII. Baphuon Sân hiên Ông Vua Hủi Sân thượng những con voi Điện Phimeanakas, nơi nhà vua ngự, được nối liền với các cung điện khác cùng những hồ nước qua một loạt sân hiên bằng đá đắp cao và chạm trổ công phu. Sân thượng đồ sộ nhất được trang hoàng với một dải nhiều voi, một trong những di tích được trùng tu chu đáo. Ở chính giữa, nơi có khán đài dành cho vua những ngày lễ phục, cột chống sân thượng là những hình tượng chạm nổi thấp chim thần Garuda, vật cưỡi của Vishnu. Bậc thềm hướng về phía đông, đúng vào trục đường qua cổng Chiến thắng dẫn đến Ta Kéo. Về phía bắc, trên mặt trước sân hiên thường được gọi của "Ông Vua Hủi", có thể là nơi dùng để làm hỏa táng những nhà quý tộc triều đình, những hình tượng chạm trổ trình bày những vị thần thánh. Nhưng như đã thấy, điểm tụ tiêu mọi tượng trưng Angkor là tác phẩm Bayon. Ngay ở đường vào phía nam, 54 người khổng lồ bằng đá, đại diện cho những vị thần thiên cung, ở đường vào phía băc cũng 54 vị thần âm cung, cùng nhau kéo ngược chiều thân thể con rắn naga. Theo truyền thuyết Ấn Độ về sự sáng tạo thế giới, rất được phổ thông ở tín ngưỡng Khơ Me, trong cuộc đánh kem đại dương nguyên thủy, ngọn núi Meru được xem như là trục đứng, con rắn vũ trụ là sợi giây làm chuyển động, nay được cuốn tròn quanh Bayon. Như vậy, Meru không chỉ là trung tâm sáng tạo nhân loại mà còn là đấng Tạo hóa toàn thể vũ trụ. Người Khơ Me tin con rắn naga là biểu tượng cho cầu vồng ánh sáng, tất nhiên là đường dẫn lên trời. Những người khổng lồ được đựng lên ở đây là để tôn vinh Bayon đồng thời cũng để biểu dương hình ảnh nhà vua. Rất đáng tiếc là cách đây không lâu, tất cả những đầu người khổng lồ đều bị cắt trộm, rất dễ tháo ra vì toàn cơ thể không phải nguyên khối. Sự kiện mất mát nầy chứng minh những di tích dù không phải hoàn hảo luôn được dòm ngó và không thiếu người kém lương tâm muốn chiếm đoạt của công đem về tích trữ trong kho tàng riêng của mình. Muchalinda Trong tín ngưỡng Cao Mên, con rắn naga có một chân đứng quan trọng như thường thấy trong thần thoại Ấn Độ : nó có mặt khắp nguyên thủy các nguyên tố, đặc biệt là nước. Như vậy dễ hiểu Angkor quan niệm như một hệ thống tưới nước thì phải được rắn thần bảo hộ mà ngay Vishnu Ấn giáo, rất phổ thông ở Cao Mên, cũng thường thấy có hình tượng núp bóng. Jayavarman VII, như đã thấy, là một Phật tử thì người được bảo vệ là đức Phật Thích Ca : rất nhiều hình tượng trình bày Ngài thiền định dưới gốc cây bồ đề được rắn thấn Muchalinda cuốn mình làm bệ nâng lên khỏi mặt nước và xoè bảy đầu làm mũ trùm che cho khỏi mưa rơi vào. Thông minh, nhà vua biết phối hợp naga, tượng trưng cho nguồn gốc vũ trụ của cuộc sống, cuộc đời và đức Phật chiến thắng thành một hình ảnh biểu hiệu vương quyền. Hình tượng nầy cũng được trình bày trong điện chánh, trên bệ cao hơn 40 m, giữa vũ trụ bao la. Trong những điện nhỏ xung quanh rải rác khắp các sân hiên Bayon, những đình thần sẵn sàng phục vụ đức vua-thần trong thiên cung. Để tạo một không khí thần thánh, phía trong hành lang chạy dài một dãy hình chạm nổi thấp trình bày những giai đoạn thần thoại Ấn Độ. Tuy nhiên nhà vua không quên dân chúng và xen lẫn với hình tượng vua chúa, còn có nhiều tác phẩm trình bày với nhiều chi tiết chợ búa, săn bắn, chọi gà,... Người Cao Mên luôn còn nhớ đến những cuộc xâm lăng rồi đánh đuổi một đạo quân Chăm Pa hăm he, qua những bức chạm trổ quân binh, thuyền chiến quân địch. Ngoài những hình tượng bằng đá, Angkor Thom cũng có để lại một số đồ nghệ thuật bằng đồng thanh trình bày những vị thần thánh. Tuy thực hiện dưới thời Jayavarman VII, trong một phong cách không được thuần túy lắm, theo nhiều chuyên gia, những tác phẩm nầy bị ảnh hưởng nhiểu nghệ thuật Suryavarman II. Quân đội Cham Pa và quân đội Khơ Me Thủy chiến Cham Pa - Khơ Me trên Biển hồ Tonlé Sap Thời tàn của Angkor bắt đầu ngay sau lúc Jayavarman VII mất đi khoảng 1215-1218, thọ 85-90 tuổi. Từ nay ông được gọi Maha Paramasangata Pada. Trong số mấy đứa con của ông, Tamalinda trở thành tu sĩ và qua ở bên Tích Lan, Virakumara soạn văn bản bia Preah Khan; đứa con thứ ba nối ngôi ông dưới hiệu Indravarman II. Có thuyết cho rằng ông nầy sẽ là "Ông Vua Hủi". Người nối nghiệp tiếp theo là vua Jayavarman VIII. Bị người Thái từ Xiêm La qua xâm lăng ở phương bắc, triều đình Khơ Me phải chạy xuồng trốn ở miền đồng bằng sông Cửu Long. Trước tiên là đạo Bà la môn, sau đến trường phái Tiểu thừa dần dần chiếm chỗ, đưa Cao Mên vào một đường hướng khác. Mâu thuẩn là Jayavarman VII, một ông vua-Phật, lại là một ông vua chiến sĩ. Lên ngôi vào khoảng lục tuần, trị vì hơn 30 năm, ông luôn chăm lo củng cố đất nước, mở mang bờ cỏi, bên phía nam Lào, Miến Điện cũng như bên hướng Mã Lai. Cuộc đánh chiếm kinh đô Cham Pa là một thành tích chiến tranh lỗi lạc nhất của triều đại ông và trong toàn lịch sử Cao Mên. Đồng thời ông cũng ra công xây dựng đền đài, thực hiện nhiều kế hoạch chính trị - đạo giáo, 121 nhà nghỉ, 102 bệnh viện, tăng gia đường sá để nối liền ngôi đền-núi Bayon với mọi phương hướng. Jayavarman II có thể xem là ông vua lớn nhất của đế quốc Khơ Me Angkor. Nền văn minh nầy hoàn toàn chấm dứt trước cuộc bành trướng của thời đại Sukhotai. Mừng Phật Đản 2559 Xô thành 2015, hai mươi năm sau Kỷ niệm chuyến đầu tiên dẫn đoàn Arts et Víe 1995 (*) Ảnh tượng chụp ở viện Bảo tàng Á Đông Guimet Paris, ảnh Angkor chụp năm 1995, sao từ dương bản. (**) Xem thêm :Võ Quang Yến, Hình tượng thần thánh một thời Angkor, Chim Việt Cành Nam 55 (01.05.2014) (***) Từ 1123 đến 1136, Suryavarman II nhiều lẩn đem quân đánh Đại Việt nhưng luôn thất bại. Năm 1128, ông điều khiển 20.00 quân nhưng bị thua và phải rút lui khỏi Nghệ An. Vài tháng sau ông chỉ huy 700 chiến thuyền đến tàn phá bờ biển vịnh Bắc Kỳ rồi cùng quân Chăm trở lại đánh Nghệ An, lần nầy cũng lại bị thua. Năm 1136, vua Chăm Jaya Indravarman III cầu hòa với Đại Việt và không muốn liên minh với quân Khơ me nữa. Năm 1144, Suryavarman II qua đánh chiếm Cham Pa và truất phế vua Chăm. Một năm sau, ông thôn tính đât Cham Pa và đặt em rễ Harideva lên làm vua chư hầu. Qua năm 1147, vua Chăm Jaya Harivarman I chống cự đắc lực quân Khơ me, giết được Harideva trong lúc tái chiếm thành Vijaya. Năm 1150, Suryavarman II qua đánh Cham Pa một lần nữa và bi tử thương. Nối nghiệp ông tuần tự Dharamindravarman II, Yasovarman II rồi Tribhuvanadityavarman. Ông vua nầy trị vì vào lúc vua Chăm Indravarman IV, cầu hòa được với vua Đại Việt, năm 1177 ngược dòng sông Mé Kong lên đến Biển hồ Tonlé Sap. Theo một tài liêu Trung Quốc, vua Chăm đã bất ngờ điều khiển một đội thủy binh hùng mạnh đánh phá kinh đô Khơ Me và bất chấp đê nghị đàm phán đã giết vua. Quân Chăm chiếm đóng đất Khơ Me đến 1181. Angkor hoàn toàn tan hủy và đất nước tơi bời. Một hoàng thân, con vua Dharanindravarman II, đã từng đánh Chăm dưới triều vua Dharanindravarman II, âm thầm huy động lực lượng Khơ Me và năm 1181 thành công đánh đuổi được quân Chăm, lên ngôi lấy hiệu Jayavarman VII.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 5, 2015 16:05:32 GMT 9
Bác sĩ Yersin, người đầu tiên tìm ra vùng đất Đà LạtNgày nay, đứng trước phong cảnh nên thơ, những hàng thông thẳng ngọn, những hồ nước trong xanh, những ngôi nhà kiến trúc tối tân của Đà Lạt xinh đẹp, có bao giờ ta nghĩ rằng xưa kia nơi đây chỉ là một vùng đất trơ trọi hoang vu, và tự hỏi ai là người đầu tiên tìm ra miền cao nguyên thơ mộng ấy không? Tôi xin dựa theo một ít tài liệu trong mấy tờ tạp chí Pháp xuất bản ở Đông Dương trước đây, lược thuật lại cuộc đời và sự nghiệp của bác sĩ Yersin, người được coi là có công trong việc khám phá ra vùng đất Đà Lạt, để gọi là tỏ chút lòng tưởng nhớ một bậc danh nhân đã giúp cho chúng ta một nơi nghỉ mát tốt lành và tô điểm cho quê hương mình thêm đẹp thêm xinh. 1. Nơi mảnh đất sinh thành Alexandre Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863, tại miền đồng quê tổng Vaud, hạt Lavaux, nước Thụy Sĩ. Tổ tiên ông gốc người Pháp, sang định cư ở làng Rougemont (thuộc hạt Lavaux) vào thời vua nước Pháp hủy bỏ sắc luật cho phép dân chúng theo đạo Gia tô cải cách (Resvocation de l’Edit de Nantes). Sắc luật mới này do vua Louis thứ 14 ký ngày 18-10-1685. Thân phụ ông là một nhà khảo cứu Côn trùng học hữu danh, làm giáo sư dạy khoa Vạn vật học. Thuở nhỏ, Yersin học ở tỉnh Morges. Lúc 20 tuổi (1883) ông khởi đầu thuộc thuốc ở học viện Lausanne bên cạnh hồ Léman (Thụy Sĩ). Kế tiếp ông đến học ở Marbourg (Đức), rồi sang tới Paris (Pháp). Ba năm sau ông giúp việc tại phòng thí nghiệm ở Hotel Dieu. Vào lúc đó, Pasteur đang nổi tiếng về công cuộc tìm ra thuốc trừ bệnh chó dại. Ông xin vào làm ở phòng thí nghiệm của Pasteur và tôn ông này như là một bậc thầy. Năm 24 tuổi (1887), Yersin nhập quốc tịch Pháp, và trình một luận án đặc sắc về bệnh lao của giống thỏ nhà để thi bằng bác sĩ Y khoa. Sau đó, ông đến Bá Linh ở một năm theo học hỏi bác sĩ Koch, người đã nổi tiếng nhờ sự tìm ra vi trùng bệnh lao. Năm 1888, ông trở về Pháp tiếp tục nghiên cứu ở Viện Pasteur Paris vừa mới được khánh thành. Ông được bác sĩ Roux mến tài mời cộng tác tìm thuốc chữa bệnh yết hầu. Ông ký với Roux ba bản kỷ yếu (trois mémories) quan trọng, chứng nhận rằng vi trùng Klebs-Loeffler là giống vi trùng truyền bệnh Yết hầu. Ba bản kỷ yếu đó sau này trở nên những bản làm quy tắc trong các đại học đường khoa học và chính nhờ đó mà khoa vi trùng độc chất học (Toxicologie microbienne) được tiến triển, đồng thời còn giúp ích cho sự phát minh các thứ thuốc khử độc (Antitoxines) và phòng bệnh (Sérothérapie). Chính trong thời gian này ông quen biết bác sĩ Calmette. Bấy giờ, mới 26 tuổi đầu, danh tiếng ông đã vang lừng trong giới khoa học. Nhưng ông không vì thế mà tự mãn, lúc nào cũng chịu khó cầu tiến. 2. Bén duyên với Đà Lạt Cuối năm 1889, ông bắt đầu sang Đông Dương, làm y sĩ cho hãng tàu Messageries Maritimes. Mỗi lần tàu cập bến Nha Trang, ông thích thú đưa mắt nhìn ngắm dãy Trường Sơn bao la hung vĩ. Trước sức hấp dẫn của cảnh trí thiên nhiên đó, ông chợt có ý định đi bộ từ Nha Trang đến Sài Gòn, dù lúc đó chưa có đường xe hơi và xe lửa. Năm 27 tuổi, vào khoảng tháng 7-1890, ông từ Nha Trang đi ngựa vào Phan Rí. Từ Phan Rí, ông nhờ một người dẫn đường lần mò vào rừng, và sau hai ngày đường khổ cực, ông tới Di Linh. Cuối cùng, ông xuống Phan Thiết, đi thuyền buồm đến Nha Trang rồi ra tới Qui Nhơn. Vào những năm 1890-1894, các miền rừng núi dọc dãy Trường Sơn từ phía Bắc Nam kỳ đến phía Nam Trung kỳ và Hạ Lào hãy còn là những vùng bí hiểm, chưa được khai khẩn, ngoài một ít bộ lạc thiểu số, chưa ai đặt chân đến vùng đất hoang vu ấy. Vậy mà một người ngoại quốc như bác sĩ Yersin, đơn thân độc mã không kẻ tùy tùng, dám dấn thân vào miền rừng sâu nước độc, bất chấp cả dã thú và sự giết người của thổ dân, thì thật là có gan mạo hiểm phi thường. Trong cuộc thám hiểm miền Dran vào năm 1893, ông bị bọn cướp chém đứt nửa ngón tay cái trái và bị đâm nhiều nhát dao găm vào ngực đến ngất ngư. Theo hồi ký của ông, bọn cướp này do tên Thouk cầm đầu, vốn là những tên tù chính trị ở Bình Thuận, sau khi thất bại trong việc mưu toàn đánh chiếm tỉnh lỵ này mới trốn vào miền rừng núi. Mặc dù trong lần thám hiểm mày có ba người Việt Nam tháp tùng ông với ba cây súng trường và một cây súng lục, ông vẫn bị chúng tước khí giới, ba người tùy tùng đều bỏ chạy, một mình ông đành chịu trận bán sống bán chết kháng cự với bọn cướp. Theo lời khai của viên đầu đảng sau khi nhà cầm quyền bắt thì nếu mấy tên kia gan dạ hơn một chút, chúng đã cắt cổ ông xong rồi. Sau khi thoát nạn, nửa đêm ông nhờ người ta võng về Phan Rang. Dọc đường lại rơi vào giữa đàn voi. Mấy người cõng ông hoảng sợ bỏ chạy trốn hết, còn ông một mình bơ vơ giữa rừng. Ông kiệt sức, không hoạt động gì được, đành nằm chờ chết. Nhưng may đàn voi rẽ đi đường khác, không chà đạp thân thể ông. Dù bị thương nặng, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, ông vẫn không từ bỏ lòng say mê thám hiểm. Đi đến đâu ông cũng ghi chép địa thế từ dòng sông, từ con suối, ông còn nhận xét về phong tục, về giá trị kinh tế của từng miền. Ông không là nhà du lịch đi ngắm cảnh đẹp thiên nhiên như một khách nhàn du; ông chính là một nhà thám hiểm say mê tìm cái lạ, học cái hay để mở mang kiến thức và mưu ích cho con người. Sau ba cuộc thám hiểm liên tiếp, bác sĩ Yersin tìm ra Cao nguyên Lâm Viên. Ngày 21-6-1893, đứng trước phong cảnh hung vĩ ở độ cao cách mặt biển 1.500 thước, ông bày tỏ cảm nghĩ của mình như sau: “Cảm tưởng của tôi rất sâu xa khi vượt khỏi rừng thông; tôi đối diện với một cao nguyên mênh mông, không cây cối và hoang vu, có dáng như một vùng biển xao động mãnh liệt bởi một loạt sóng cồn ba động màu xanh biếc. Dãy núi Lâm Viên đứng sừng sững ở phía chân trời tây bắc cao nguyên, làm cho phong cảnh tăng thêm vẻ đẹp và nổi bật trên một hậu cảnh mỹ lệ”. (Tôi cảm thấy chưa dịch được hết ý mấy câu văn đặc sắc của tác giả, nên xin chép lại nguyên văn của ông: Mon impression a été profon de lorsque, débouchant de la forêt de pins, je me suis trouvé en face de ce vaste plateau dénudé et dé sert, don’t l’apparence rappelait celle d’une mer boulever sesee par une houle esnorme d’ondulations vertes. Le massif du Lang-bian se dressant à l’horizon nord-ouest du plateau, accentuait la beauté du site en lui donnant du relief et en lui formant un arrièreplan splendide). Theo hồi ký ông viết, lúc ông đặt chân đến vùng này, thì ở đây chỉ có rải rác vài làng của thổ dân người Lát tụ họp dưới chân núi, dân cư thật là thưa thớt. Vì nhận thấy vùng đất này khí hậu tốt lành và phong cảnh xinh đẹp, bác sĩ Yersin đề nghị cùng Toàn quyền Paul Doumer nên lập một thành phố tại đây để làm nơi nghỉ mát và dưỡng bệnh. Đề án đó được chấp nhận, và sau khi phái hai đoàn thám hiểm vào năm 1897 và 1898 lên quan sát tại chỗ, Toàn quyền Pháp cho khởi công xây dựng Sở Khí tượng và căn cứ thí nghiệm trồng trọt, lại mở một con đường chạy dài từ miền duyên hải Trung kỳ lên tận miền sơn cước. Thành phố Đà Lạt bắt đầu khai sinh từ đấy. Nhờ ở vị trí cao lại không xa bờ bể là mấy nên quanh năm khí hậu ở Đà Lạt mát mẻ, thời tiết không thay đổi, trung bình là 18 độ. Từ năm 1933, sau khi quốc lộ số 20 dài 300 cây số được hoàn thành, bao nhiêu du khách ở đồng bằng miền Nam đều có thể dùng xe hơi đến viếng Đà Lạt một cách dễ dàng để nghỉ mát trong những ngày nóng bức. Người có công tìm cho chúng ta một nơi nghỉ mát nên thơ đó chính là bác sĩ Yersin. Đến năm 31 tuổi (1894), bác sĩ Yersin dẫn theo mười lăm người lính tập từ phía Nam đi lần lên tỉnh Đăk Lăk và Kon Tum, vào các xóm người dân tộc thiểu số phía bắc dãy núi Lâm Viên. 3. Nghiên cứu bệnh dịch hạch Lần đi thám hiểm cuối cùng này về, ông nghe tin bệnh dịch hạch đang phát hiện ở Vân Nam, gần biên giới Việt Hoa, làm chết ngót sau mươi ngàn người ở miền Nam Trung Quốc. Ông liền xin Chính phủ đến tại nơi quan sát bệnh tình về phương diện “vi trùng”. Đang lúc ấy bệnh dịch hạch lại lan tràn sang Hồng Kông. Ông quay lại đáp tàu ra Hải Phòng đi Hồng Kông. Thế rồi 48 giờ sau, ông đặt chân đến Hồng Kông, thuê người cất một căn nhà bằng tre lợp tranh dùng để làm phòng thí nghiệm. Ông mua mấy xác chết về mổ xẻ, lấy vi trùng trong các hạch người chết, cấy vào giống chuột bạch và chuột Ấn Độ, thì nhận thấy các con chuột này cũng chết vì dịch hạch. Ông bèn kết luận: Bệnh dịch hạch của người ta giống y như bệnh dịch hạch của loài chuột. Sau đó ông gởi loại vi trùng dịch hạch về Paris cho các bác sĩ thí nghiệm. Họ cũng đồng một ý kiến với ông là thứ vi trùng ấy chính là căn nguyên bệnh dịch hạch. Đến năm 1895, ông lập viện Pasteur ở Nha Trang, rồi trở về Pháp, cùng với hai bác sĩ Calmette và Roux kiếm thuốc ngừa bệnh dịch hạch; năm sau ông trở lại Viễn Đông, mang theo thuốc ngừa dịch hạch vừa tìm ra. Bấy giờ bệnh dịch hạch lại tràn sang Quảng Châu và Hạ Môn. Ông bèn đến tận nơi, thử dung thứ thuốc mới trị bệnh, ông cứu sống được một số người, đủ chứng tỏ là thuốc do nhóm ông tìm ra rất hiệu nghiệm. 4. Vĩ thanh Sau đó ông trở lại Việt Nam, làm việc ở viện Pasteur Nha Trang cho đến ngày từ giã cõi trần, ngoại trừ mấy năm (1902-1904) ông lo mở trường Cao đẳng Y khoa ở Hà Nội và về Pháp mấy lần thăm bác sĩ Roux. Từ năm 1905-1918, ông làm Giám đốc hai viện Pasteur Sài Gòn và Nha Trang. Năm 1925, ông làm Tổng Thanh tra các viện Pasteur ở Đông Pháp. Từ ngày lập viện Pasteur Nha Trang, ông chuyên môn quan sát các bệnh của súc vật và tìm ra được thứ thuốc chữa và phòng bệnh trâu bò. Ông lại cùng với các người giúp việc quan sát các chứng bệnh khác như Barbone, Sura và Piroplasmose. Ngoài việc nghiên cứu về Y học, bác sĩ Yersin còn là một nhà trồng tỉa, một nông học gia nổi danh. Ông lập ra vườn trồng cây để thí nghiệm những giống cây vùng nhiệt đới. Các loại cây như Guttapercha, Coca, Cacao, cây cọ Phi châu và nhất là cây cao su lấy giống ở Mã Lai đề được ông trồng có kết quả rất tốt tại đồn điền Suối Dầu. Năm 1918, ông lại thử trồng cây Quinquina trên đảo Hòn Bà, nhưng kết quả không tốt vì đất cứng và khí hậu không hợp như ở Suối Dầu. Ông lại đi tìm những vùng đất màu tốt và khí hậu thích hợp ở Dran, Diom, Di Linh. Từ đó về sau, người nước ta khỏi mua chất Quinine ở nước ngoài về làm thuốc, ấy là nhờ công lao hai mươi lăm năm chịu khó ươm giống, thử đất, trồng cây của bác sĩ Yersin. Lúc làm việc tại Nha Trang, ông sống rất giản dị thanh bạch, mặc dù ông có thừa phương tiện để hưởng thụ cuộc đời phù phiếm xa hoa. Ông ở trong một tòa nhà vuông, cao, có hai tầng. Nhà được cất trên nền cái đồi thứ nhất dựng ở Nha Trang, tại cửa sông, đối diện với di tích Chàm Po Nagar, dưới thấp chung quanh là những căn nhà lụp xụp của dân chài lưới. Bốn mặt nhà đều có hành lang chạy vòng quanh, đứng ở dấy có thể phóng mắt nhìn ra bốn phương trời, núi non hiện ra trước mặt thật bát ngát hung vĩ. Quanh nhà, các loại bìm bìm, bông bụp lục và đỏ, hồng và tím mọc đầy, không hề có một vườn rau, hoa trái, hay cây cảnh dùng trang hoàng cho ngôi nhà của ông thêm đẹp mắt. Bác sĩ Yersin là một người sống rất bình dân, thường chỉ mặc bộ ka ki màu vàng, và dù đã 80 tuổi rồi mà sáng nào ông cũng cưỡi xe đạp tới viện Pasteur. Ông lại có lòng nhân ái, hay dùng thời giờ rỗi rảnh dạy dỗ mở mang thêm cho những người dân chài lưới chất phác ở miền ông cư trú. Ông thương cả đến loài cầm thú, chim muông và mỗi khi gọi con vật nào cũng lót hai chữ “người ta” ở trước: người ta chó, người ta mèo, người ta két… Ngày 1-3-1943, bác sĩ Yersin mất tại Nha Trang, hưởng thọ 80 tuổi. Thi hài ông được an táng trên một khoảnh đồi ở khu đồn điền Suối Dầu, bên cạnh những cây cao su thẳng ngọn lên trời xanh. Đây chính là nơi ông đã khai khẩn trồng trọt rộng ngót năm trăm mẫu đất, và di sản này ông tặng cho viện Pasteur Nha Trang. Theo di chúc của ông, đám tang diễn ra cực kỳ giản dị, chẳng có một bài điếu văn nào, nhưng mọi người tiễn đưa ông về ba tấc đất ai cũng ngậm ngùi mến tiếc sự ra đi vĩnh viễn của một bậc vĩ nhân. Nguyễn Văn Y (Theo Tạp chí Xưa và nay, số 320-2008)
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 23, 2017 4:04:36 GMT 9
CHỮ QUỐC NGỮ - Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách (tại Đức)
Sự ra đời của chữ quốc ngữ - CHỮ QUỐC NGỮ
Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . .
Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.
Nhà truyền giáo đến với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam xưa Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc. Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế. Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi. Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum). Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina. Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật. Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt. Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách,
Thăm mộ cố Alexander De Rhode an-táng tại Iran ALEXANDRE DE RHODES, NGƯỜI TẠO RA BỘ CHỮ TIẾNG VIỆT Câu chuyện về người con đất Việt tìm thăm lại mộ ngài Alexandre de Rohde ở miền đất xa xôi, làm cho người đọc cảm thấy ấm lòng. Anh Trường là hướng dẫn viên du lịch, đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa nhưng trong lòng vẫn mong ngóng về một điều bấy lâu, đó là được tới tận nơi ngài Alexander De Rhode an nghỉ, đặt lên mộ ngài một bó hoa và nói nên lời cảm tạ từ đáy lòng. Sài Gòn Buổi Sáng xin phép anh Trường gửi tới bạn đọc câu chuyện về hành trình Thăm mộ cụ ALEXANDRE DE RHODE “Từ thuở còn sinh viên, khi được học về nguồn gốc chữ quốc ngữ mà chúng ta có được để sử dụng một cách dễ dàng và tiện lợi như ngày nay. Tôi đã thầm cảm ơn những nhà truyền giáo phương Tây, đặc biệt là Alexandre de Rohdes, người đã có đóng góp lớn lao trong việc hoàn thiện hệ thống bảng chữ cái cho người Việt Nam của chúng ta. Và may mắn thay, trong chuyến đi Iran lần này. Một cơ duyên vô cùng quý báu đã giúp tôi có cơ hội đến viếng thăm ngôi mộ, nơi yên nghỉ của ông trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran. Vùng đất Esfahan, Iran nơi ngài Alexandre de Rhodes an nghỉ. Ảnh google map SỰ CHỈ GIÚP CỦA NHỮNG NGƯỜI BẠN TỐT BỤNG Từ lời gợi ý của một chị bạn, chúng tôi biết được thông tin về ngôi mộ của Alexandre de Rhodes được an táng trong một nghĩa trang công giáo của người Armenia tại Esfahan. Nhưng do thời gian lưu lại nơi đây khá ngắn, vì thế hy vọng được đến viếng thăm ngôi mộ của ông là khá mong manh cho chúng tôi. Khi nghe chúng tôi nói về ước nguyện của mình, cô Malih- một hướng dẫn viên người Iran vô cùng thông cảm và hết sức tận tình giúp đỡ. Mặc dù với thâm niên hơn 10 năm làm nghề hướng dẫn viên, đã đưa biết bao nhiêu đoàn khách từ khắp năm châu đến thăm Esfahan, nhưng là người Hồi giáo cho nên cô chưa hề biết đến thông tin về khu nghĩa trang người công giáo Armenia nằm ở đâu. Và cô cũng không hề biết đến thông tin nào về Alexandre de Rhodes. Người đã giúp anh Trường có được tờ giấy phép vào thăm mộ ngài Alexandre de Rhodes
Sau quá trình tìm kiếm, thông qua một người bạn gái gốc Armenia, cô Mila hỏi thăm được địa chỉ của nghĩa trang. Nhưng vấn đề là không phải ai cũng được vào thăm nghĩa trang. Mà cần phải có sự đồng ý của người quản lý ở nghĩa trang. Một lần nữa, chúng tôi may mắn gặp được một vị quản lý ở nhà thờ Vank, ông đã nhiệt tình viết cho chúng tôi một tờ giấy phép để xuất trình cho người quản lý ở nghĩa trang. Cầm tờ giấy trên tay, chúng tôi vội vàng đi về phía ngoại ô thành phố Esfahan. Nơi có nghĩa trang của cộng đồng người Armenia sống tại đây. NƠI NGƯỜI NẰM XUỐNG Trước mặt chúng tôi là một nghĩa trang rộng lớn. Những dãy mộ xếp hàng dài nối bên nhau mênh mông. Chúng tôi biết là sẽ không dễ dàng để tìm ra vị trí lăng mộ của ngài. Chúng tôi tìm gặp một cụ già quản mộ ở đây dò hỏi. Cụ nhanh chóng lên xe đưa chúng tôi đến ngôi mộ có tên Alexandre de Rhodes…. Đường vào nghĩa trang nơi ngài Alexandre de Rhodes an nghỉ Hôm chúng tôi đến, là ngày đầu năm mới của tết cổ truyền Nowruz của người Ba Tư (Iran), một vài ngôi mộ gần đấy được đặt những chậu hoa. Còn ngôi mộ của ông không có một cành hoa nào, đó chỉ là một nấm mồ nhỏ làm bằng một tảng đá hình chữ nhật nằm khép mình khiêm tốn bên những ngôi mộ khác. Anh Trường cùng mọi người mua hoa trước khi đến thăm mộ ngài Alexandre de Rhodes Một niềm xúc cảm thân thương nghẹn ngào mà tôi không thể tả thành lời đang tuông chảy trong tôi. Đây là nơi an nghỉ của người đã có đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam. Dưới lớp đất ấy là thi hài của một người phương Tây xa lạ. Ông đã mất từ gần 4 thế kỷ trước , nhưng ông là người đã giúp cho dân tộc Việt Nam có được một bảng chữ cái với các thanh sắc uyển chuyển nhẹ nhàng, nhằm để ghi lại và diễn đạt tiếng mẹ Việt Nam. Mộ ngài Alexandre de Rhodes Đặt một chậu hoa tím mua được trong một hiệu bán hoa tết của người Iran lên mộ ông. Chúng tôi không ai nói lời nào. Nhưng giữa chúng tôi có một sự đồng cảm sâu sắc. Chấp tay lên ngực, tôi khẻ cúi đầu xin gửi đến người một lời tri ân sâu sắc. Nhìn thái độ thành khẩn và tôn kính của chúng tôi dành cho người nằm dưới nấm mộ. Người quản trang hỏi cô Malih: ông ấy là ai mà chúng tôi có vẻ tôn kính thế. Và ông đã vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng đây là người đã có công hoàn thiện bản chữ cái cũng như xuất bản những quyển tự điển Việt-Bồ-La tinh đầu tiên cho người Việt Nam từ những năm 1651. Người con Đất Việt đặt lên mộ ngài bó hoa tươi thắm với tấm lòng thành kính NGƯỜI CAI QUẢN NGHĨA TRANG
Qua cuộc chuyện trò, tôi đuợc biết người cai-quản nghĩa trang tên gọi là Rostam Gharibian, ông làm việc ở đây được 17 năm. Tôi hỏi, trong 17 năm đó có bao giờ ông thấy ai là con cháu hay người thân của ngài Alexandre de Rhodes đến viếng mộ ông ấy hay không ? Thoáng chút đăm chiêu, ông trả lời rằng: vì là một thầy tu cho nên khi mất đi cũng như bao người khác Alexandre de Rhodes cũng không có vợ con. Và họ hàng thì cũng ở xa tít tận châu Âu cho nên chắc cũng không ai còn nhớ. Vì thế trong 17 năm nay ông cũng chưa hề nghe thấy một người họ hàng hay con cháu nào của ông đến thăm. Chỉ thỉnh thoảng đôi khi ông thấy có một vài người Việt Nam đến viếng mà khi đó thì ông cũng không biết họ là ai và có quan hệ như thế nào với người đã mất… Anh Trường cùng người cai quản nghĩa trang
THAY LỜI TRI ÂN Theo truyền thống của những người Iran, tôi lấy một ít nước rửa lên nấm mồ của ông. Những giọt nước mát trong chảy lên bia mộ ông tựa như lời thì thầm của chúng tôi xin gửi đến người. Cả một đời ông cống hiến vì đạo. Và trong quá trình truyền giáo, với mục đích mong muốn truyền tải những thông điệp trong kinh thánh một cách dễ dàng hơn. Ông đã không quản khó nhọc để tìm cách sáng tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt. Và đến khi cuối đời, ngài đã lặng lẽ nằm lại nơi xứ người. Có lẽ giờ đây ông không còn một người bà con họ hàng nào nhớ đến ông để thỉnh thoảng ghé thăm chăm nom nấm mồ của ông nữa, nhưng có lẽ ông cũng ấm lòng khi biết rằng vẫn còn đó những người con nước Việt.
Vẫn còn đó hơn 90 triệu người con nước Việt trên khắp 5 châu sẽ Mãi Mãi không bao giờ quên ơn ông. Người đã có công vĩ đại trong việc chấm dứt 1000 năm tăm tối, 1000 năm khốn khó khi những người Việt phải đi mượn chữ Tàu ghi lại tiếng Việt. Và giờ đây, hạnh phúc thay. Chúng ta đã có được bảng chữ cái của riêng mình. Một bảng chữ cái dựa trên các ký tự La Tinh nhưng vô cùng uyển chuyển và dễ học. Xin cám ơn người, một vị đại ân nhân của những người con nước Việt. Xin tri ân người với lòng kính yêu sâu sắc: Alexandre de Rohde !” Esfahan, Iran. 21/3/2017 TRẦN VĂN TRƯỜNG
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 23, 2018 4:56:45 GMT 9
Về cuộc hôn nhân chính trị gần 400 năm trước Đỗ Kim Trường chimvie3.free.fr/69/dokimtruong_HonNhanChinhTri_069.htmGần 400 năm trước, năm 1620, một cuộc hôn nhân đã mở đầu cho công cuộc mở đất vùng Nam bộ mà lịch sử gọi là hôn nhân chính trị. Về vấn đề này Phan Khoang là người đề cập đầu tiên. Trong Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777, ông viết: "Từ thế kỷ XVII, đã có nhiều người Việt đến hai xứ Đồng Nai và Mỗi Xuy của Chân Lạp, tức Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay, để vỡ đất làm ruộng. Vua Chân Lạp Chey Chetta II muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Tiêm La nguy hiểm kia, đã xin cưới một công chúa Nguyễn, làm Hoàng hậu, trông mong được ủng hộ của triều đình Thuận Hóa, và Chúa Hy Tông, có mưu đồ xa xôi, năm 1620, đã gả cho vua Chân Lạp một công chúa"(1). Ở phần chú thích cho đoạn sử trên, ông nói rõ: "Việc này, sử Việt Nam đương thời đều không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan niệm như vậy thì không đúng, hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở Việt Nam, thì chính sách ấy đã đem lại nhiều lợi ích quan trọng..." (2) Tác giả đã sử dụng thuật ngữ "hôn nhân chính trị" để chỉ tính chất của cuộc hôn nhân này. Thuật ngữ gồm hai thành tố "hôn nhân" và "chính trị". "Hôn nhân" là "việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng" (3). "Chính trị" gồm nhiều nghĩa, ở đây được hiểu: "(thường dùng phụ sau danh từ, trong một số tổ hợp). Những hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, tổ chức quần chúng thực hiện một đường lối, những nhiệm vụ chính trị nhất định" (4). Tổng hợp nội hàm của hai thành tố trên có thể hiểu hôn nhân chính trị chỉ việc kết hôn nhằm thực hiện một đường lối, nhiệm vụ chính trị. "Chúa Hy Tông, có mưu đồ xa xôi, năm 1620, đã gả cho vua Chân Lạp một công chúa" trong sử liệu cho phép chấp nhận cách hiểu trên. Trong đoạn dẫn của Phan Khoang, trước hết về danh xưng "công chúa" theo chúng tôi là chưa chính xác. Bởi vì lúc này (năm 1620) vương triều Nguyễn chưa xác lập nên con gái chúa không thể gọi như trên(5). Theo chúng tôi danh xưng "Hoàng nữ" thích hợp hơn Vị hoàng nữ được gả cho vua Chân Lạp Chey Chetta II là con của Chúa Hy Tông. Tra cứu Đại Nam liệt truyện mục Truyện các công chúa, ở tiểu mục Các con gái Hi Tông Hoàng Đế thấy chép chúa có bốn Hoàng nữ: Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa và Ngọc Đỉnh. Trong đó, Ngọc Liên được phối hôn cùng Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh, Ngọc Đỉnh gả cho Phó tướng Nguyễn Cửu Kiều. Còn lại Ngọc Vạn và Ngọc Khoa sách chép "Không có truyện" (6) nghĩa là không rõ (hay không chép?) chuyện chồng con. Ở đây có hai vấn đề đặt ra. Một là, tại sao "không có truyện"? Nếu cả hai hoàng nữ nói trên chết từ nhỏ thì theo quy định phải chép là "Khuyết" (7). Có thể như ý kiến của Phan Khoang, do việc gả con chúa cho vua phiên là không môn đăng hộ đối ("không đẹp") nên các sử thần triều Nguyễn giấu đi chăng? Hay vì lý do nào khác (bí mật quốc gia, sách lược ngoại giao chẳng hạn?). Thứ hai, người về làm vợ vua Chân Lạp là ai? Phan Khoang cũng chưa xác định khi ông viết: "Vậy, người gả cho Chey Chetta II là Ngọc Vạn hoặc Ngọc Khoa" (8). Về vấn đề thứ nhất, nếu cho rằng việc chúa Nguyễn gả hoàng nữ cho phiên vương là "việc không đẹp" thì chưa thỏa đáng. Bởi không phải đến thời Nguyễn mới có con gái vua Việt về làm vợ phiên vương, mà quan trọng hơn là những việc của họ làm sau đó cho quốc gia dân tộc. Quốc sử cho biết một sự kiện tiền lệ đã diễn ra ở thời Trần như sau: "Bính Ngọ, [Hưng Long] năm thứ 14 [1306], ... Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm thành Chế Mân. Trước đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành đã hứa gả rồi." (9) Quyết định của Thượng hoàng Trần Nhân Tông gả con gái cho vua Chiêm có thể xem là cuộc hôn nhân chính trị đầu tiên trong sử Việt, để từ đó Đại Việt tiếp nhận hợp pháp hai châu Ô, Lý. Điều này là một quyết sách chính trị vì qua đó lãnh thổ Đại Việt được mở rộng, tình giao hảo Việt - Chiêm thêm thắt chặt và an ninh quốc gia phía Nam được củng cố, đặt cơ sở cho công cuộc mở đất về phương Nam ở các giai đoạn sau nên các sử thần Lê triều chép rõ trong Toàn thư. Từ sự kiện trên đối chiếu với ức đoán của Phan Khoang ("việc không đẹp nên giấu đi chăng"?) là chưa phù hợp. Ở đây theo thiển ý, nên hiểu vấn đề mang tính chính trị quốc gia, thuộc đường lối, nhiệm vụ chính trị của chúa Nguyễn. Vấn đề thứ hai, Ngọc Vạn hay Ngọc Khoa làm Hoàng hậu Chân Lạp? Sử triều Nguyễn không chép nên tìm hiểu gặp nhiều trở ngại, đúng như nhận định: "Sự thiếu hụt các nguồn sử liệu khiến việc nhận thức chi tiết, cụ thể hơn về quan hệ Chân Lạp - Đại Việt dưới thời Trần, Hồ, Lê Sơ và Nam - Bắc Triều gặp khá nhiều khó khăn nên điều cần thiết là phải khai thác triệt để hơn nữa các nguồn tư liệu bản địa, khu vực cũng như thông tin khoa học liên ngành để tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu." (10) Để tiếp tục tìm hiểu, nhiều công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân đã đưa ra kiến giải về vấn đề này. Năm 1621, giáo sĩ Cristophoro Borri đã đến Đàng Trong và ghi chép trong tập hồi ký của mình một chi tiết như sau: "Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa các lân bang với nhau, [...] Bởi vì họ có thói quen mời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba nghìn người" (11)Và ở đoạn sau: "Ngoài ra Chúa còn chuẩn bị vũ khí liên tục và mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm..." (12) Từ hai chi tiết này, các dịch giả viết trong Lời giới thiệu cuốn sách: "Ông cũng nói về lực lượng của Chúa Đàng Trong lúc đó, sự việc một công chúa Việt Nam kết hôn cùng vua Campuchia, và dĩ nhiên sự bang giao thân thiện giữa hai nước láng giềng, việc gửi phái đoàn ngoại giao tới nước bạn." (13) Mặc dù đọc hết tác phẩm không thấy viết như trên nhưng đám tiệc có đến "hai, ba nghìn người" phải chăng tác giả muốn nói hôn lễ của hoàng nữ chúa Nguyễn với vua Chey Chetta?. Kết hợp việc trợ giúp quân sự ở đoạn sau vì vậy mới có nội dung như Lời giới thiệu đã nêu. Ở đây tiếp tục xuất hiện một câu hỏi tại sao nguyên tác không nêu việc kết hôn mà bản dịch lại đề cập? Tra cứu trước tác của Phan Khoang nhận thấy ý sau liên quan đến vấn đề: "Sử Việt Nam không chép, nhưng theo các sử sách Cao Miên do các học giả Pháp biên soạn, thì quả Chey Chetta II năm 1620 có cưới một công nữ con Chúa Nguyễn, Giáo sĩ Bori ở Đàng Trong trong thời gian ấy cũng có nói đến cuộc hôn nhân này."(14) Như vậy rõ ràng các dịch giả Xứ Đàng Trong năm 1621 đã chịu ảnh hưởng từ tác giả Việt sử xứ Đàng Trong khi viết lời giới thiệu. Cả Phan Khoang và Phan Huy Lê đều không cụ thể tên vị hoàng nữ Việt. Tuy nhiên theo tác giả Việt sử xứ Đàng Trong, qua các sử sách Cao Miên do các học giả Pháp biên soạn, Chey Chetta có cưới một hoàng nữ con Chúa Nguyễn năm 1620. Người con gái đó là ai? Gần đây trong nhiều nghiên cứu, vấn đề đã được xác định, nhưng thiếu thống nhất: Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX tại Thanh Hóa từ ngày 18 đến 19/10/2008, nhiều tham luận đã được trình bày liên quan đến vấn đề. Tiêu biểu là Phan Văn Hoàng, Nguyễn Quang Ngọc, Ngô Minh Oanh, Võ Văn Sen - Trần Nam Tiến, Nguyễn Đình Tư, Trần Thuận. (15)Trong các tham luận của các tác giả trên, đều thống nhất chi tiết vị hoàng nữ con Chúa Nguyễn gả cho vua Chân Lạp Chey Chetta II là Ngọc Vạn. Riêng Phan Văn Hoàng ở phần kết của tham luận, cho biết: "Như vậy trong hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, ai là hoàng hậu xứ Chùa Tháp, ai là phu nhân của thương gia Nhật Bản? Trước đây, khá nhiều người cho rằng hoàng hậu Ang Cuv chính là công nữ Ngọc Vạn. Nhóm biên soạn Nguyễn Phúc tộc thế phả (NXB Thuận Hóa, Huế, 1995) thừa nhận như vậy. Từ điển bách khoa Việt Nam (NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003, tập II, tr. 125) cũng viết như vậy. Gần đây một số người lại cho rằng vợ của thương gia Araki Soutarou mới là công nữ Ngọc Vạn." (16) Để minh chứng, tác giả ghi trong chú thích ý kiến trên là của Vũ Minh Giang và Trịnh Tiến Thuận và kết luận: "Để nhớ ơn người phụ nữ đã đóng góp lớn vào công cuộc mở đất phương Nam, thiết nghĩ các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn trách nhiệm tìm lời giải đáp cho câu hỏi nêu trên" (17).. Lược sử vùng đất Nam bộ Việt Nam do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam biên soạn, giai đoạn từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII, sách viết: "Năm 1620, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II làm Hoàng hậu của Vương triều Chân Lạp" (18) Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam bộ (từ khởi thủy đến năm 1945) do Trần Đức Cường chủ biên, ở Phần thứ hai: Vùng đất Nam bộ thời kỳ từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1858, các tác giả viết: "Năm 1818, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung điện nguy nga tại Oudon, rồi cử hành lễ cưới trọng thể với một nàng công chúa Việt Nam rất xinh đẹp là con chúa Nguyễn" (19). Ở đây cần hiểu năm 1618 là năm lên ngôi, sau đó xây cung điện rồi cưới "công chúa Việt Nam", chứ không phải thời gian trên là năm diễn ra hôn lễ. Và người con gái ấy được tác giả chú thích: "Công chúa Ngọc Vạn là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (ở ngôi 1613 - 1635)" (20). Công cuộc mở đất Tây Nam bộ thời chúa Nguyễn, Đỗ Quỳnh Nga viết: "Sự kiện quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho mối quan hệ chính thức giữa Chân Lạp và Đàng Trong, cũng như đối với quá trình mở đất của chúa Nguyễn chính là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa vua Chân Lạp là Chey Chettha II với công nương Ngọc Vạn - con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm 1620"(21). Ở đây, tác giả dùng thuật ngữ "hôn nhân ngoại giao" thay vì "hôn nhân chính trị". Bộ thông sử Lịch sử Việt Nam do Viện Sử học biên soạn gồm 15 tập, ở Tập 4: Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, sách viết: "Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã đem công chúa Ngọc Vạn gả cho vua Chân Lạp..." (22). Tác giả cũng viết chú thích tương tự như của Phan Khoang (xem chú thích 16 ở trên). Biên khảo Biên Hòa sử lược toàn biên của Lương Văn Lựu (23) và Trần Thuận trong Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa (24)các tác giả cũng trình bày tương tự. Riêng Trần Thuận ở phần chú thích cho biết Chúa Nguyễn Phước Nguyên có 11 công tử và 4 công nữ. Trưởng nữ Ngọc Liên gả cho Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh, công nữ Ngọc Vạn gả cho quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II, công nữ Ngọc Khoa gả cho quốc vương Champa Pô Romê, công nữ Ngọc Đãnh(Đĩnh) gả cho Phó tướng Nguyễn Cửu Kiều và người con nuôi công nữ Ngọc Hoa gả cho thương gia người Nhật Bản tên là Araki Shutaro (25). Tổng hợp các tài liệu đã dẫn, nhận thấy nội dung ghi thống nhất về thời gian cuộc hôn nhân, tên chúa Nguyễn, tên vua Chân Lạp (chỉ Lương Văn Lựu có sai biệt). Điều này chứng tỏ đây là sự thật lịch sử. Tuy nhiên, có sự chưa thống nhất ở chi tiết người về làm Hoàng hậu vua Cheey Chetta II là ai? Có 6 ý kiến thống nhất là Hoàng nữ Ngọc Vạn; 1 không đồng ý (Phan Văn Hoàng); 1 cho rằng vợ thương gia Nhật Bản là Hoàng nữ Ngọc Hoa (Trần Thuận); 1 cho đó là Ngọc Vạn (Phan Văn Hoàng). Qua đây chứng tỏ, mặc dù vấn đề đã được xác định nhưng vẫn còn chưa đồng thuận. Đây là hướng tiếp tục cần nghiên cứu của giới sử học. Sau khi về làm Hoàng hậu Chân Lạp, Ngọc Vạn rất được nhà vua sủng ái. "Với tư cách này, bà luôn luôn hậu thuẫn cho người Việt làm ăn, sinh sống ở đất Chân Lạp. Có người được bà tiến cử cho giữ chức vụ hệ trọng trong triều. Bà lập xưởng thợ và nhiều nhà buôn ở gần kinh đô ... Bà luôn luôn góp ý với nhà vua để mối bang giao tốt đẹp giữa hai nước Việt-Chân Lạp ngày càng được củng cố" (26) Được sự bảo trợ của Ngọc Vạn, nhiều lớp cư dân Việt từ vùng Thuận-Quảng đã vào cộng cư với người Khmer bản địa, người Hoa, Chăm, ... và cùng khai phá vùng đất mới ở lưu vực sông Đồng Nai, sau đó đến sông Cửu Long và hoàn thành công cuộc mở đất phương Nam vào năm 1757 như thực tế lịch sử đã diễn ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Khoang (2016), Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), Nxb. Khoa học Xã hội và Sách Khai Tâm.
2. Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Giáo dục - Trung tâm Từ điển học.
3. Bùi Thiết (2017), Từ điển vua chúa Việt Nam, Nxb. Dân trí - Cty TNHH Văn hóa Đông Tây.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, Tập 1 - 2, Nxb. Thuận Hóa.
5. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb. Khoa học Xã hội.
6. Phan Huy Lê (chủ biên) (2017), Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Cristophoro Borri (2014), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
8. Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa - Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới.
9. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ Việt Nam, Nxb. Thế giới.
10. Trần Đức Cường (chủ biên) (2016), Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam bộ (từ khởi thủy đến năm 1945), Nxb. Khoa học Xã hội.
11. Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam bộ thời chúa Nguyễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật.
12. Trần Thị Vinh (chủ biên) (2017), Lịch sử Việt Nam, Tập 4, Nxb. Khoa học Xã hội.
13. Lương Văn Lựu (2015), Biên Hòa sử lược toàn biên, Nxb. Thế giới - Alpha books.
14. Trần Thuận (2014), Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa, Nxb Văn hóa - Văn nghệ
15. Kỷ yếuNam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX. Trường ĐHSP TPHCM tổ chức, tháng 5-2002.
CHÚ THÍCH
[1] - Phan Khoang (2016), Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam), Nxb. Khoa học Xã hội và Sách Khai Tâm, tr. 305 - 306.
[2] - Phan Khoang (2016), Sđd, tr. 306.
[3] - Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Giáo dục - Trung tâm Từ điển học, tr.445.
[4] - Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Sđd, tr.158.
[5] - "Công chúa: Là danh xưng để gọi con gái của Hoàng đế (vua) ... Các triều đại Việt Nam hết thảy đều dùng danh xưng này." Xin xem: Bùi Thiết (2017), Từ điển vua chúa Việt Nam, Nxb. Dân trí - Cty TNHH Văn hóa Đông Tây, tr. 209. Sử quan triều Nguyễn chép con gái các chúa thời Tiền biên là Hoàng nữ và con gái các vua thời Chính biên là Công chúa. Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, Tập 1 - 2, Nxb. Thuận Hóa, tr. 56 - 62 và tr. 208 - 213.
[6] - Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, Tập 1 - 2, Sđd, tr. 57.
[7] - Ví như các con Hiển Tông Hoàng đế, các hoàng tử thứ 6, 35, 36: Khuyết. Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam liệt truyện, Tập 1 - 2, Nxb. Sđd, tr. 41 và tr. 46.
[8] - Phan Khoang (2016), Sđd, tr. 306.
[9] - Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 96. Cũng xin nói thêm, trước đó Công chúa An Tư năm 1285 sang làm vợ Thoát Hoan là một vấn đề khác, chúng tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.
[10] - Phan Huy Lê (chủ biên) (2017), Vùng đất Nam Bộ - Quá trình hình thành và phát triển, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 379. Cũng xin nói thêm, ở phần Tổng quan của bộ sách trên, các tác giả đã rất thận trọng khi viết: "Từ đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XVII, do chính sách khuyến khích của chúa Nguyễn, lại được sự bảo trợ của Hoàng hậu vương triều Chey Chetta II của Chân Lạp, lưu dân người Việt tìm đến khai phá vùng đất này ngày một đông ...". ? đây, vẫn chưa nêu tên vị hoàng nữ Việt - Hoàng hậu Chân Lạp. Sđd, tr, 470.
[11] - Cristophoro Borri (2014), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 61.
[12] - Cristophoro Borri (2014), Sđd, tr. 84.
[13] - Cristophoro Borri (2014), Sđd, tr. 8.
[14] - Phan Khoang (2016), Sđd, tr. 306.
[15] - Xin xem: Phan Văn Hoàng, Đóng góp của một công nữ họ Nguyễn vào công cuộc mở đất phương Nam trong thế kỷ XVII, tr. 90 - 101; Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Phúc Nguyên: Vị Chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII, tr. 137 - 147; Ngô Minh Oanh, Nhìn lại hệ thống đối sách của các Chúa Nguyễn với Chân Lạp và Xiêm trong quá trình khai phá, xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam bộ thế kỷ XVI - XVIII, tr. 176 - 182; Võ Văn Sen - Trần Nam Tiến, Văn hóa chính trị của các Chúa Nguyễn trong việc mở mang lãnh thổ Đàng Trong, tr. 187 - 196; Nguyễn Đình Tư, Công chúa Ngọc Vạn với vùng đất Nam bộ, tr. 197 - 201; Trần Thuận, Cuộc nhân duyên giữa Công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp đôi điều suy ngẫm, tr. 209 - 213. Trong: Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa - Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới. Sau đây xin gọi tắt Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn ...
[16] - Phan Văn Hoàng, Đóng góp của một công nữ họ Nguyễn vào công cuộc mở đất phương Nam trong thế kỷ XVII, trong: Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn ..., Sđd, tr.101.
[17] - Xin xem chú thích 3, trong: Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn ..., Sđd, tr.101.
[18] - Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ Việt Nam, Nxb. Thế giới, tr. 27.
[19] - Trần Đức Cường (chủ biên) (2016), Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam bộ (từ khởi thủy đến năm 1945), Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 128.
[20] - Trần Đức Cường (chủ biên) (2016), Sđd, Chú thích 1, tr. 128.
[21] - Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam bộ thời chúa Nguyễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 50.
[22] - Trần Thị Vinh (chủ biên) (2017), Lịch sử Việt Nam, Tập 4, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 145.
[23] - Lương Văn Lựu (2015), Biên Hòa sử lược toàn biên, Nxb. Thế giới - Alpha books, tr. 24 - 25.
[24] - Trần Thuận (2014), Nam bộ vài nét lịch sử - văn hóa, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, tr. 99.
[25] - Xin xem: Trần Thuận, (2014), Sđd, tr. 98.
[26] - Xin xem: Phan Đăng Thanh, Vài khía cạnh hành chính-pháp lý trong quá trình thu nhận và quản lý bước đầu vùng đất Gia Định, trong: Kỷ yếu Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX. Trường ĐHSP TPHCM tổ chức, tháng 5-2002, tr 155.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 27, 2019 8:07:36 GMT 9
Lữ Phương/ Nguyễn Trung Tôn/ Nguyễn Công Khế & Nguyễn Thị Bình S.T.T.D Tưởng Năng Tiến Tôi sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này nhưng tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng kiến cảnh gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản. (Mục Sư Nguyễn Trung Tôn) Bút Ký Những Chuyến Ra Đi của ông Lữ Phương (nguyên) Thứ Trưởng Thông Tin Văn Hoá, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam, có nhiều trang rất thú vị. Đọc lai rai vài đoạn cho vui, nếu rảnh: Vào mùa khô năm ấy, tôi xin cơ quan cho tôi đến vùng biên giới Bố Bà Tây, liên hệ với gia đình. Lần này ngoài vợ và đứa con gái lớn, còn có em gái tôi cùng với hai đứa con gái nhỏ của nó đi theo, lúc nhúc một đoàn, không tưởng tượng nổi! Nhờ chuyến thăm này tôi mới rõ được chuyện nhà từ lúc tôi ra đi. Vợ tôi ngoài việc đi dạy học còn tìm được việc làm ở một tòa án tỉnh nữa. Những người quen biết đều biết vợ tôi có chồng là VC, bị cảnh sát Sài Gòn o ép, dụ dỗ nhiều cách, nhưng đều hết lòng giúp đỡ, che chở (ngay cả những viên chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn): chẳng phải vì lý do gì khác hơn là ở đây người ta chưa có thói quen “chính trị hoá” mọi quan hệ xã hội. Cái “chính quyền Sài Gòn” hồi đó, xem ra, khác xa (và khác hẳn) cái chính phủ Hà Nội bây giờ. Tuần qua – vào ngày 9 tháng 4 năm 2019 – FB Trang Nguyen vừa buồn bã, và ái ngại cho hay: VỢ MỤC SƯ NGUYỄN TRUNG TÔN BỊ AN NINH THANH HÓA KHỦNG BỐ TINH THẦN Không chỉ thường xuyên xua quân đi canh cửa, an ninh Thanh Hóa còn liên tục gửi giấy mời, giấy triệu tập như là một thủ trấn áp tinh thần bà Nguyễn Thị Lành - vợ của Mục sư, TNLT Nguyễn Trung Tôn. Chồng bị bỏ tù, một mình bà Nguyễn Thị Lành phải vất vả gánh vác gia đình. Những ngày qua càng thêm vất vả bởi chăm mẹ chồng lớn tuổi mắc bệnh phải nhập viện, và con bị tật nguyền. Nhưng bà Lành vẫn liên tục bị an ninh tỉnh Thanh Hóa sách nhiễu, đe dọa… Vợ chồng Nguyễn Trung Tôn chào đời không đúng chỗ, và cũng không đúng lúc (wrong time and wrong place) nên gặp phải lắm nỗi gian truân. Ông bà Lữ Phương sinh sống tại miền Nam (vào một thời điểm khác) nên cuộc sống của họ cũng hoàn toàn khác, êm thắm và khoẻ khoắn hơn nhiều. Hồi đó bà Lữ Phương vẫn được mọi người, “ngay cả những viên chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn hết lòng giúp đỡ che chở.” Thỉnh thoảng, bà lại cùng cả đại gia đình “lúc nhúc một đoàn” kéo nhau vô bưng để thăm nom và chăm sóc cho đức phu quân – dù cuộc sống trong bưng biền không thiếu thốn hay nhọc nhằn chi cả: Các nhân vật trong “Mặt trận 2” này đã được Đảng chăm sóc một cách đặc biệt: bất cứ việc gì, từ sinh hoạt ăn uống, chỗ ở, quần áo, tiền tiêu vặt mỗi tháng đều được cung cấp chu đáo bởi cả một khung cán bộ và nhân viên chuyên lo việc tiếp phẩm và phục vụ phối hợp với một đội bảo vệ được tuyển khá kỹ lưỡng về thành tích và lý lịch. Chả riêng chi ăn uống, ăn nói cũng thế, cũng được Đảng bao biện tất: Riêng đối với những bài viết, bài phát biểu mà các vị trong Liên Minh phải trình bày hoặc trên báo chí, đài phát thanh hoặc trong các Hội nghị này nọ thì đều do một số nồng cốt thực hiện, cuối cùng bao giờ cũng được Huỳnh Tấn Phát xem và sửa chữa lại. Thiệt là quá đã và quá đáng! Nhà nghiên cứu Lữ Phương “dấn thân” vào đến tận chiến khu để làm cách mạng mà sinh hoạt cứ y như trong nhà giữ trẻ vậy. Ông chắc là đẻ bọc điều nên lúc nào cũng được cuộc đời chiều đãi. Năm 2018, năm Nguyễn Trung Tôn bị tuyên án lần thứ hai ("12 năm tù và ba năm quản chế”) thì Lữ Phương được trao giải Giải Văn Hóa Phan Châu Trinh, vì đã có “những công trình nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa Marx.” Trong diễn từ nhận giải, ông phát biểu: Như mọi người đều biết, học thuyết Marx đã được du nhập vào Việt Nam không phải trong một hoàn cảnh bình thường của một xã hội bình thường ở đó người ta có thể coi việc nghiên cứu Marx như một thao tác nghề nghiệp mang tính học thuật hàn lâm thuần tuý. Đất nước bấy giờ chìm đắm trong bóng tối của sự bất bình thường: nhà nước dân tộc bị tước mất chủ quyền, nhân dân sống trong nô lệ, trí thức thì bơ vơ, tuyệt vọng. Chủ nghĩa Marx đã đến với chúng ta (tnt tô đậm) trong tình thế đó, và mặc dù không có đủ điều kiện để tìm hiểu đến nới đến chốn, chúng ta đã tiếp nhận học thuyết ấy như biểu tượng của sự giải phóng chói loà ánh sáng: không phải chỉ mang đến cho dân tộc biện pháp xây dựng hiệu nghiệm cuộc sống mới mà còn giúp người trí thức lấp đầy được cái khát vọng ngàn đời của mình về sự tồn tại của một trần gian ở đó con người có thể hoà giải vĩnh viễn với nhau. Trong khung cảnh tinh thần đó, việc tìm đến Marx đối với chúng ta đã mang nội dung một cuộc dấn thân toàn diện và triệt để, bấy giờ thường được xưng tụng là “hiện thực và khoa học”, nhưng thực chất lại rất giống với một hình thức tín ngưỡng nào đó, đặt niềm tin tuyệt đối vào một đấng bậc phi phàm có thể dẫn đường một cách kỳ diệu cho các kế hoạch mà chúng ta vạch ra để cải tạo thế giới, làm lại con người. Trong số “chúng ta” đã từng “tiếp nhận học thuyết chủ nghĩa Marx … như biểu tượng của sự giải phóng chói loà ánh sáng” theo diễn từ thượng dẫn (dường như) không có ông bà và cha mẹ của Nguyễn Trung Tôn – qua lời tự sự của chính tù nhân lương tâm này, trước khi bị giam giữ lần thứ hai: “Tôi là một trong số hàng trăm triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam. Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây chưa thể nào vạch trần hết tội ác của chủ nghĩa rừng rú này; nhưng cũng sẽ góp một phần nhỏ để những ai còn ngây thơ mù quáng đi theo nó sớm nhận ra và từ bỏ còn đường tăm tối được thêu dệt nên bằng những dối trá và tội ác. “Tôi sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này nhưng tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng kiến cảnh gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản.” Cùng với hằng chục triệu gia đình “suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản” tại Việt Nam, ảo tưởng và sự nhầm lẫn về chủ nghĩa Marx – nói nào ngay – cũng đã “vô tình” đem đến hào quang (cũng như danh lợi) cho không ít kẻ ở xứ sở này. Xin đan cử thêm một trường hợp nữa, rõ nét hơn nhiều: Nguyễn Thị Bình. Chủ tịch Mao Trạch Đông của Trung Cộng đón Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình và Đại sứ Nguyễn Văn Quang tại Trung Nam Hải, Bắc Kinh. (Ảnh & chú thích: BBC) Bà nguyên là Phó Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam, từ 1992 đến 2002, và hiện là Chủ tịch Hội Đồng Quản Lý Qũi Văn Hóa Phan Chu Trinh. Danh lợi bà có đủ, kể cả huân chương (Huy Hiệu 70 Năm Tuổi Đảng) cùng những lời khen thưởng không thiếu trên mọi phương tiện truyền thông. Mới đây – vào ngày 12 tháng 4, 2019 – khi góp ý về vụ nhà nước VN thất kiện trọng vụ án Trịnh Vĩnh Bình, nhà báo Nguyễn Công Khế đã không quên tán dương công đức của “bà chị” như sau: “Tôi vừa ra Hà Nội thăm chị Bình, chân chị yếu nhưng trí tuệ chị thật minh mẫn. Tấm lòng của chị với đất nước này chưa bao giờ nguôi phai. Chị lo cho đất nước này như chăm lo cho một gia đình yêu quí nhất của mình.” Thiệt là qúi hoá! Chỉ có điều hơi đáng tiếc là dường như trong cái “đất nước này” của Nguyễn Thị Bình không bao gồm hằng chục triệu gia đình (“bốn đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản”) như trường hợp của tù nhân lương tâm Nguyễn Trung Tôn, và cũng chả có phần nào biển đảo cùng lãnh thổ đã bị xâm chiến hay đang bị đe doạ cả. Thế nên dù trí tuệ “còn thật minh mẫn,” bà chị vẫn nhất định không hé môi nói lấy một lời – nửa lời cũng nỏ. Riêng có cậu em Nguyễn Công Khế là vẫn cứ mồm năm mép mười – dù chả ai nhờ. Tuy chỉ thuộc thế hệ ăn theo cái “ảo tưởng và sự nhầm lẫn về chủ nghĩa Marx” nhưng cậu này cũng hoạn lộ hanh thông từ A tới Z. Nay đã may mắn hạ cánh an toàn song vẫn chưa chịu sống an thân, vẫn còn thích đóng vai kẻ sỹ – phù thế giáo một vài câu thanh nghị – và cố tình quên rằng chính mình đã góp phần (tích cực) trong việc tạo ra cái xã hội nhiễu nhương trước mắt.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 16, 2019 19:28:17 GMT 9
Ngô Thế Vinh: Chín mươi sáu phút với Thượng Tọa Thích Trí Quang (05.05.1966) Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) (Tiểu sử Ngô Thế Vinh được trích lại từ trang Văn Học Nghệ Thuật của thi sĩ Phạm Cao Hoàng, do nguyệt san Chánh Pháp cung cấp) Nhà văn Ngô Thế Vinh Ngô Thế Vinh, cũng là bút hiệu, chánh quán Hà Nội, sinh năm 1941 tại Thanh Hoá. Tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn 1968.Trong ban biên tập, nguyên tổng thư ký rồi chủ bút báo sinh viên Tình Thương trường Y khoa Sài Gòn từ 1964 tới 1967 [khi báo bị đình bản]. Nguyên y sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Tu nghiệp ngành Y khoa Phục hồi tại Letterman General Hospital San Francisco. Sau 1975, tù ba năm qua các trại tù cải tạo. Tới Mỹ cuối 1983, bác sĩ nội trú rồi thường trú các bệnh viện Đại học SUNY Dowstate Brooklyn, New York. Tốt nghiệp ngành Nội khoa, bác sĩ điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện miền nam California. Tác phẩm đã xuất bản: Tiếng Việt Mây Bão (Nxb Sông Mã Sài Gòn 1963, Nxb Văn Nghệ California 1993), Bóng Đêm (Nxb Khai Trí Sài Gòn 1964), Gió Mùa (Nxb Sông Mã Sài Gòn 1965), Vòng Đai Xanh (Nxb Thái Độ Sài Gòn 1971, Nxb Văn Nghệ California 1987), Mặt Trận ở Sài Gòn (Nxb Văn Nghệ California 1996), Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng(Nxb Văn Nghệ California 2000, Nxb Văn Nghệ Californiatái bản 2001, Việt Ecology Press & Giấy Vụn VN tái bản 2014), Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (Nxb Văn Nghệ Mới California 2007, Nxb Văn Nghệ Mới tái bản 2007, Nxb Giấy Vụn VN tái bản 2012), Audiobook Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (Nxb Văn Nghệ Mới 2007, Việt Ecology Press & Nxb Nhân Ảnh 2017). Tiếng Anh The Green Belt (Ivy House 2004), The Battle of Saigon (Xlibris 2005), Mekong The Occluding River (iUniverse, Inc. 2010), The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil (Việt Ecology Press & Nxb Giấy Vụn 2016). *** LỜI DẪN NHẬP: Đã 44 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi.(1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn theo tài liệu giải mật của CIA thì đánh giá Trí Quang không phải cộng sản, mà là một nhà tu hành đấu tranh cho hòa bình và muốn sớm chấm dứt chiến tranh. Thêm nguồn tài liệu còn lưu trữ về những cuộc đàm luận giữa Trí Quang và các giới chức Hoa Kỳ, cho rằng Trí Quang chống cộng mạnh mẽ và hiểu được sự việc xử dụng quân đội Hoa Kỳ để chống lại Cộng sản Bắc Việt và Trung cộng.
Và trong phần trả lời phỏng vấn của báo Sinh viên Tình Thương 1966, cách đây 53 năm, khi "đề cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, TT Trí Quang đã so sánh họ với những chiếc lá vàng có đóng đinh, phải cần tới một cơn gió lốc cách mạng thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm tin mà là bốc sạch đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản."
Vậy thì đâu là sự thật? Đâu là con người thật của Thích Trí Quang? Như câu hỏi trong phim Rashomon, một kiệt tác điện ảnh của Nhật Bản. Người viết sẽ không đưa ra một kết luận nào về chân dung TT Thích Trí Quang, nhưng muốn trở lại bối cảnh chính trị xã hội của thập niên 1960s, khi mà tên tuổi Trí Quang hầu như gắn liền với những biến động thời bấy giờ.
Từ sau 1975, TT. Trí Quang sống lặng lẽ những năm tháng cuối đời trong ngôi chùa Già Lam ở Gò Vấp Sài Gòn, rồi sau đó trở về chùa Từ Đàm Huế. Và mới đây, khi tin Thích Trí Quang vừa viên tịch ngày 8.11.2019 ở tuổi 96 (ông sinh năm 1923) cũng tại chùa Từ Đàm Huế – nơi chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn ngày 5 tháng 5, 1966 cách đây cũng đã hơn nửa thế kỷ. Trên báo chí truyền thông và dư luận trong và ngoài nước lại dấy lên những ý kiến rất khác nhau về ông, nhưng các thông tin về ông thì lại rất ít.
Nhìn lại thập niên 1960s, trong khi tin tức về các phong trào Phật giáo tranh đấu ngoài miền Trung rất nhiễu loạn, thì tại Sài Gòn, ngoài một cuộc phỏng vấn hiếm hoi dành cho tuần báo TIME ngày 22.04.1966 với hai ký giả McCulloch và James Wilde (2); TT Trí Quang sau đó trở ra Huế và rất ít khi dành cho báo giới Tây phương những cuộc tiếp xúc nào khác. Riêng với TÌNH THƯƠNG tuy chỉ là tờ báo của Sinh viên Y khoa nhưng lại rất quan tâm theo dõi thời cuộc, nên hai phóng viên Phạm Đình Vy (5) và Ngô Thế Vinh được sự chỉ định của Toà soạn, đã bay ra Huế, được gặp và thực hiện cuộc phỏng vấn Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. Và bài phỏng vấn này đã được đăng ngay trên báo Tình Thương số 29, 1966, và đã được phóng viên của US News & World Report xin dịch sang tiếng Anh nhưng rồi không rõ lý do, bài báo đã không được phổ biến sau đó.
Và nay qua bộ báo Tình Thương mà Thư quán Bản Thảo của nhà văn Trần Hoài Thư (4) mới tìm lại được từ Thư viện Đại Học Cornell, trong đó có số báo TT 29, với 4 trang 2-3-4-5 đăng trọn vẹn cuộc phỏng vấn đã thực hiện từ hơn nửa thế kỷ trước. Chúng tôi cho phổ biến bài báo này – với không bình luận, không ngoài mục đích chỉ muốn cung cấp tới các bạn trẻ và các sử gia tương lai có thêm một sử liệu hiếm quý về TT Trí Quang tưởng như đã thất lạc.
Ngô Thế Vinh *** CHÍN MƯƠI SÁU PHÚT VỚI THƯỢNG TOẠ THÍCH TRÍ QUANG [05.05.1966] NGÔ THẾ VINH & PHẠM ĐÌNH VY ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY Với những rối loạn chính trị trong tuần lễ vừa qua, có một hiện tượng TRÍ QUANG trên khắp các báo chương ngoại quốc. Tuần báo Time coi ông như xuất hiện một Machiavel mới, trong khi báo L'Express gán cho ông là mẫu người đang làm rung động cả Mỹ quốc, đó là chưa kể tới những bài báo nói về ông đăng trên US News and World Report và Newsweek... Hiện tượng trên cũng được các báo Việt ngữ toa rập theo, thích thú đem ra phiên dịch và đăng tải; nhiều người coi đó như một khám phá mới lạ về một nhà tu hành tài ba, nhiều quyền lực nhưng cũng rất bí ẩn và khó hiểu. Đã từ lâu chúng tôi vẫn có thành kiến với các nhà báo ngoại quốc khi họ nhận định về các vấn đề Việt Nam và chúng tôi thành thật tin tưởng rằng không một người ngoại quốc nào am hiểu vấn đề Việt Nam bằng chính những người Việt. Cái thái độ dễ dàng tin cậy vào mấy ông nhà báo ngoại quốc trong công việc tìm hiểu đất nước mình nếu không bắt nguồn từ một thái độ ỷ lại của báo chí Việt thì cũng đang coi là một hiện tượng quái gở. Trở lại trường hợp Thích Trí Quang, từ nhận định bảo ông là cộng sản đến ý nghĩ một tay quốc gia cực đoan, hình như chỉ cần một chút ngộ nhận. Nghĩ rằng tôn giáo sẽ còn đóng một vai trò quan trọng trong tương lai chính trị miền Nam, việc tìm hiểu mẫu một nhà tu-hành-dấn-thân đang có nhiều ảnh hưởng là điều cần thiết, đó là lý do cuộc gặp gỡ Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. NHỮNG SAI LẦM CỦA TIME Hình như có một sự khác biệt rất xa giữa thực trạng miền Trung và các tin tức thổi phồng trên báo chí. Sau hơn bốn tuần lễ tranh đấu, Huế đã có một khuôn mặt sinh hoạt bình thường ngoại trừ những biểu ngữ khẩu hiệu còn treo dán rải rác, các chữ Bãi Khoá Bãi Thị kẻ sơn còn lưu vết trên nền tường; các cô nữ sinh Quyết tử đã lại tóc thề áo dài trắng tới trường đi học, súng ống cũng được trả lại cho quân đội, đài phát thanh cho đọc thông cáo kêu gọi tất cả sinh viên họp đại hội để bàn về bình thường hoá sinh hoạt Đại học. Nơi bến Toà Khâm, ngay trước khu Đại học, các tàu Há Mồm của Mỹ đang đổ lên bến chồng chất những thực phẩm và đạn dược, đám trẻ con xúm quanh đùa rỡn với những anh lính Thuỷ quân Lục chiến Mỹ. Trước trụ sở Thông tin ngoài các khẩu hiệu đòi bầu cử Quốc hội, chống chánh phủ Trung ương, còn có khẩu hiệu lên án Việt cộng pháo kích vào Thành nội sát hại dân chúng... Dấu vết những ngày máu lửa chỉ có vậy. Trên dốc tới Nam Giao, chùa Từ Đàm vẫn yên tĩnh nằm đó. Ngoài một số đệ tử đi lễ chùa, trong sân không có chút náo nhiệt của những phút tranh đấu. Nơi nhà Trai, trong bộ đồ rộng trắng, Thượng toạ Trí Quang đang ngồi bình thản đánh cờ với một cụ già, ngồi cạnh đó là một nhà sư trẻ Thích Mẫn Giác. Khi chúng tôi tới ván cờ đã mãn với phần thắng về phía Thượng Toạ, dĩ nhiên. Tuy chưa giáp mặt ông lần nào, chúng tôi đã biết mặt Thượng toạ qua hình ảnh báo chí, và đặc điểm đầu tiên để nhận ra ông là đôi mắt vô cùng sắc sảo. Không với một cử chỉ xa cách nghiêm trọng, không với cả tia nhìn mãnh liệt như thôi miên, Thượng toạ vui vẻ tiếp chúng tôi qua những nụ cười dễ gây thiện cảm và những cử chỉ tự nhiên thoải mái. Vào đề ngay, chúng tôi nhắc tới những lời tuyên bố của Thượng toạ trên các báo chí ngoại quốc, đặc biệt là bài của tuần báo TIME (2). Thượng Toạ cho biết: - Họ có tới gặp tôi hỏi ý kiến, tôi cũng có trả lời họ một số những câu hỏi, nhưng khi bài đăng có cả những ý kiến mà tôi không hề nói, tính tôi không bao giờ muốn đính chính, bởi vậy trong các bài báo đó có những điều sai lạc. Chẳng hạn tuần báo TIME gán cho tôi óc bài ngoại gay gắt và nhất là muốn quay lại thời Hoàng kim của đời nhà Lý là một điều hoàn toàn bịa đặt. Không bao giờ tôi chủ trương như vậy; hơn nữa công thức đời nhà Lý với những thày chùa hăng hái nắm quyền chính hoàn toàn không còn thích hợp với thời đại bây giờ, mơ ước điều đó là vô lý. Cũng như khi hỏi tôi về Quốc hội, tôi chỉ nhấn mạnh với họ ở mấy điểm: số người đi bầu, sự xâm nhập của Việt cộng và cách bầu gián tiếp người lãnh đạo hành pháp qua một Quốc hội trung gian. Còn về tiểu sử Thượng tọa, ông cho rằng đó chỉ là tài liệu không xác thực của Công an. Xem ra bài báo TIME đã mô tả nhiều điều không đúng ý Thượng toạ nhưng chúng tôi không muốn đi sâu vào thêm. CHIẾN TRANH HAY HOÀ BÌNH Từ những nhận định cho ông có óc bài Mỹ, nhiều người e sợ rằng Quốc hội đầu tiên được thiết lập với ảnh hưởng của Phật giáo sẽ biểu quyết yêu cầu Mỹ rút lui khỏi Việt Nam để đi tới thương thuyết và chấm dứt chiến tranh. Thượng toạ cho rằng: - Bây giờ còn quá sớm để nói tới nên thương thuyết hoặc tiếp tục chiến tranh. Chỉ biết rằng chính quyền hiện tại chẳng đại diện cho một ai và hậu quả là tình trạng vô cùng bi thảm về chính trị cũng như quân sự. Nói chiến tranh thì chẳng ra chiến tranh, nói thương thuyết thì lại càng nhục nhã, chỉ có Mỹ với Hà Nội mà không ai đếm xỉa tới chính phủ Sài Gòn. Bởi vậy, chúng ta bắt buộc phải có một Quốc hội, một chính quyền dân cử, tạo một khuôn mặt quốc gia cho đúng nghĩa một Quốc Gia, việc chiến hay hoà là do nơi Quốc hội. Nếu tiếp tục chiến tranh thì lúc đó mới đúng nghĩa là một cuộc chiến tranh và nếu thương thuyết thì đó đúng là một cuộc thương thuyết nghĩa là chúng ta đã có một ưu thế. Phải ngồi trên chiếc xe lúc đó mới nói tới chuyện lái tới hoặc lui. Đó là phải cho có một Quốc hội. Và tôi cũng không dại gì đính chính là không muốn thương thuyết để mang lấy tiếng hiếu chiến. Khi nhắc đến giải pháp Trung Lập mà có người nghĩ rằng đó là chủ trương tương lai của Phật giáo, Thượng toạ Trí Quang nói: - Nếu có thương thuyết để tiến tới giải pháp trung lập thì nền trung lập đó phải như thế nào. Người liều lĩnh nhất cũng không thể chấp nhận một hoàn cảnh như Lào. Pathet Lào trước đó là một phe nổi loạn, hiệp ước đình chiến 62 ở Lào là một công khai chấp nhận cuộc chiến tranh đó, Pathet Lào đương nhiên được hợp thức hoá và lại tiếp tục chiến đấu và thực sự không có một nền trung lập ở Lào. Như Việt Nam với tình trạng hiện giờ, một ký kết như thế là đương nhiên chấp nhận Việt Cộng và chỉ trong sáu tháng là miền Nam rơi vào tay họ. Bởi vậy tôi vẫn nghĩ phải có chiếc xe cái đã, một Quốc hội được đa số dân chúng đi bầu, đến lúc đó hãy tính xa hơn. Mọi dự đoán trước theo tôi là quá sớm. MỘT QUỐC HỘI KHÓ KHĂN Khi đề cập tới những khó khăn của một Quốc hội sắp tới: Cộng sản, Chính quyền hiện tại và người Mỹ; Thượng toạ cho rằng: - Hơn ai hết, người dân quê Việt Nam đã có kinh nghiệm Cộng sản là thế nào rồi và họ biết rõ ai là Cộng sản ai không. Bởi vậy không đáng lo ngại sự xâm nhập của Việt cộng vào Quốc hội. Còn về phía chính quyền, Phật giáo đã giữ đúng lời hứa và để cho chính quyền có cơ hội thực hiện lời cam kết của mình với dân chúng về vấn đề Quốc hội. Nếu là một chính quyền thiện chí họ hãy tỏ thiện chí đó trong việc đi tới một Quốc hội. Nếu chính quyền phản bội thì không những lịch sử sẽ phán xét họ mà chính dân chúng sẽ có ngay phản ứng. Việc duy trì chính phủ hiện thời cho tới ngày bầu Quốc hội cũng là một cách để những tướng lãnh phản bội âm mưu phá hoại không có cơ hội lẩn tránh hèn nhát những trách nhiệm mà họ gây ra trước lịch sử. Còn người Mỹ thực tâm muốn miền Nam có một Quốc hội hay họ muốn ngăn cản, điều đó chưa thể đo lường được, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tin ở mình và không nên có những hành động làm cho người Mỹ khiếp sợ. CÁC TƯỚNG LÃNH SAU QUỐC HỘI Khi đề cập đến vai trò các tướng lãnh hiện thời và sau ngày có Quốc hội, Thượng toạ Trí Quang nhận định: - Nào là tình trạng chiến tranh, nguy cơ của Cộng sản, các tướng lãnh kêu gọi dân chúng, tôn giáo, đảng phái phải đoàn kết thì chính họ lại chia rẽ hơn ai hết. Họ tranh giành quyền hành, thanh toán nhau vì quyền lợi và loại dần những tướng lãnh có công khác. Nhưng trước sự chống đối của dân chúng, trước hiểm hoạ đe doạ họ liên kết chặt chẽ hơn ai hết để bảo thủ quyền lợi và lũng đoạn dân chủ. Bởi vậy mối băn khoăn chính của nhiều người là làm sao trả họ về vị trí thuần tuý quân sự, gây lại sức mạnh uy tín và kỷ luật quân đội cùng phục hồi danh dự cho những tướng lãnh có công khác. Hiện thời người ta phải chứng kiến một trung ương các tướng lãnh chỉ âm mưu thanh toán nhau để tự đi đến chỗ đào thải. Tại các địa phương dân chúng vẫn dành nhiều cảm tình cho các tướng lãnh trong sạch có công với cách mạng tháng 11. Như trung tướng Đính được dân chúng miền Trung chấp nhận cũng ở trong trường hợp đó. VỚI NGƯỜI MỸ Cuộc tranh đấu cho Quốc hội vừa qua có pha mùi Bài Mỹ khiến cho nhiều e ngại và tự đặt ra nhiều giả thuyết về sự lợi dụng của Cộng sản. Với vai trò của người Mỹ ở Việt Nam, Thượng toạ Trí Quang cho rằng: - Sau cuộc cách mạng 63, người Mỹ được hưởng ở Việt Nam vô số lợi lộc: gia tăng gấp bội quân số, chiếm được những căn cứ tốt như Đà Nẵng, Cam Ranh; được thêm cả nước Thái Lan. Không chắc người Mỹ thực tâm muốn chống cộng tại Việt Nam, họ muốn duy trì Cộng sản, duy trì cuộc chiến tranh này để thủ lợi. Vì nếu thực tâm người Mỹ muốn, họ có thể làm khá hơn nhiều cục diện bây giờ bằng cách trợ giúp Việt Nam vừa chống cộng vừa xây dựng những căn bản dân chủ hơn là nâng đỡ những chính phủ tay sai. Điển hình là vụ Đà Nẵng vừa qua. MỘT TRƯỜNG HỢP ĐÀ NẴNG Theo Thượng toạ thì nhờ phước ông bà mới không xảy ra vụ đổ máu tại Đà Nẵng. Ngoài trách nhiệm lỗi lầm của ông Kỳ trước lịch sử còn những trách nhiệm lớn lao của Mỹ. Việc người Mỹ xử dụng những chiếc C130 để chở những tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và xe tăng ra đàn áp phong trào dân chúng đấu tranh tại miền Trung là một lỗi lầm không thể tha thứ, Thượng toạ nói: - Chỉ cần một chút nữa là xẩy ra đổ máu lớn lao với trách nhiệm nặng nề về phía người Mỹ. Lịch sử Mỹ Thế kỷ Hai Mươi sẽ có ba vết nhơ: ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản, đàn áp nền cộng hoà San Domingo và vết nhơ thứ ba là vụ Đà Nẵng. MỘT CHÍNH PHỦ PHẬT GIÁO Khi nhắc tới nhận định của Tuần báo Newsweek cho rằng sở dĩ Thượng toạ Trí Quang đòi bầu cử gấp rút một Quốc hội vì ông tin rằng tổ chức Phật giáo sẽ thắng thế trong cuộc bầu cử đó và chính phủ tương lai sẽ là một chính phù Phật giáo với bàn tay chi phối trực tiếp của Chùa chiền, Thích Trí Quang đã phủ nhận mạnh mẽ ý kiến đó và bày tỏ rằng: - Quan niệm đó không những không có lợi gì mà còn làm mất Danh Dự của Phật giáo. Tôi hoàn toàn không mong muốn như vậy. Kinh nghiệm cho thấy với những chính phủ tạm thời dù được hậu thuẫn của tôn giáo này hay tôn giáo khác chỉ cần những cuộc biểu tình vài trăm người cũng đủ sụp đổ. Như một chính phủ thành lập do hậu thuẫn của Phật giáo sẽ gặp ngay những khó khăn với các tôn giáo bạn, không làm được việc gì mà chính Phật giáo lại mang tiếng. Bởi vậy Phật giáo không bao giờ muốn tái diễn những lỗi lầm của thời ông Diệm. Tranh đấu cho Quốc hội, Phật giáo chỉ muốn xây dựng một cái gì thực sự cho quốc gia dân tộc trong đó không phải chỉ có những Phật tử mà là cả những thành phân Tôn giáo bạn và các tầng lớp dân chúng. Quốc hội, Chính phủ sẽ không đại diện cho một ưu thế riêng nào mà là đại diện xứng đáng của dân chúng. CHIẾN TRANH TÔN GIÁO Rối loạn tháng Tám năm 1964 với những vụ thảm sát trong thành phố vẫn lá ám ảnh đen tối trong đầu óc nhiều người. Sự cọ sát giữa hai tôn giáo trong những ngày gần đây làm thức dậy nỗi ám ảnh đó. Viễn tượng một cuộc chiến tranh tôn giáo đã được một số báo chí e ngại nhắc tới. Theo ý Thượng toạ sự thật sự đe doạ đó như thế nào. Thích Trí Quang cho rằng: - Sự e ngại đó quá đáng và không thể nào có. Những đáng tiếc hồi tháng Tám là do âm mưu của Nguyễn Khánh, hoàn toàn ngoài ý muốn của các vị lãnh tụ Tôn giáo. Khi phải tiếp xúc cới những vị lãnh đạo tôn giáo bạn, tôi có nói rằng chẳng thà thực sự có một cuộc chiến tranh tôn giáo vì quyền lợi hai phía; nhưng mâu thuẫn quyền lợi đó hoàn toàn không có. Bởi vậy không vì lý do gì để xảy ra những điều đáng tiếc mà nguyên nhân chỉ tại một anh tướng Kaki đứng ở giữa. TÍN ĐỒ HAY CÔNG DÂN Việc tiến tới Quốc hội Lập hiến một cách nhanh chóng là công của Phật giáo, nhiều người nghĩ như vậy. Đó là điều mà Thượng toạ Trí Quang không muốn. Ông nói: - Một phong trào đấu tranh có màu tôn giáo sẽ gặp nhiều khó khăn, tự nó gây ra những mặc cảm thắng bại nơi các tôn giáo bạn. Bởi vậy tôi vẫn muốn các phong trào tranh đấu dân chủ phát xuất tự quần chúng không mang màu sắc tôn giáo, nếu có lợi cho tổ quốc, Phật giáo sẽ đứng sau hậu thuẫn. Trong cuộc xáo trộn vừa qua, khi gặp các Đại diện Hội đồng Đô Thành, tôi có nói: quý vị là đại diện cho các tầng lớp dân chúng, nếu chính quý vị đứng ra tranh đấu cho Quốc hội, Phật giáo sẽ đứng sau ủng hộ quý vị. Và trong thâm tâm tôi mong muốn như vậy. Sau khi tỏ ý không tin tưởng vào thực lực các đảng phái quốc gia, Thượng toạ cho rằng vai trò tranh đấu cho tự do dân chủ chính là bổn phận của thanh niên sinh viên chứ không phải của Phật giáo hay một tôn giáo nào. Thượng toạ nói: - Tôi hiểu rằng khi các anh em sinh viên tham dự cuộc tranh đấu chống ông Diệm năm 1963, anh em nhìn các vị Thượng tọa hồi đó khác bây giờ. Tôi muốn được giữ nguyên cái nhìn lúc trước, bởi vậy tôi muốn Phật giáo cũng như các tôn giáo bạn được trở về vị trí của mình. Phật giáo bất đắc dĩ phải đứng ra lãnh đạo các cuộc đấu tranh là một điều tôi thấy rất chướng *** Nguyệt san Sinh Viên Y Khoa Tình Thương số 29, 1966: trang 1, Mục Lục. [tư liệu Ngô Thế Vinh] Nguyệt san Sinh Viên Y Khoa Tình Thương số 29: 1 trang trong số 4 trang, 2-3-4-5 đăng trọn vẹn cuộc phỏng vấn 96 phút với Thượng Tọa Thích Trí Quang ngày 05.05.1966 tại Chùa Từ Đàm Huế. [tư liệu Ngô Thế Vinh] NIỀM TIN TẤT THẮNG Trái hẳn với triết lý nhà Phật hiểu theo nghĩa thông thường là xuất thế và yếm thế, Thượng toạ Thích Trí Quang mang khuôn mặt của một nhà tu hành mới: một Nhà-Sư-Dấn-Thân, dấn thân vào tất cả những biến động xã hội, dùng tất cả những uy tín và quyền năng sẵn có để lèo lái tới một cảnh đời thích hợp với sự phát triển của đạo giáo. Với con mắt nhận xét tinh tế về thời cơ đúng lúc, với niềm kiêu hãnh cao độ về nhân cách Á Đông của mình cộng thêm với tinh thần quốc gia cực đoan cố hữu, triết lý hành động kỳ lạ của Thích Trí Quang ở nơi niềm tin sắt đá về sự tất thắng trong mọi mưu lược tranh đấu. Tên ông đồng nghĩa với những âm mưu nhưng chính ông muốn đối thủ phải kính trọng cái nhân cách Á Đông của mình nên mọi hành động của ông đều được báo trước. Thượng toạ nói: - Nhiều người gán cho tôi mối liên hệ mật thiết với ông Lodge, sự thật không có. Với ông Lodge hay Taylor (3) cũng vậy, mỗi lần tranh đấu tôi đều gặp, nói cho họ biết lập trường của Phật giáo thế nào, còn người Mỹ muốn sao tuỳ họ. Tôi hành động đều có báo trước ít nhất là 24 tiếng. Như vụ tranh đấu gần đây tôi chỉ gặp ông Lodge có một lần, nói rõ lập trường của Phật giáo về Quốc hội. Ông ta nói Thượng toạ nên nghĩ lại. Tôi chỉ cười và trả lời đã nghĩ rồi. Có vậy thôi. Còn dư luận cho rằng ông Kỳ đã gặp tôi trước vụ hạ Trung tướng Thi là hoàn toàn bịa đặt. Tôi chưa hề gặp ông Nguyễn Cao Kỳ một lần nào. LÁ VÀNG VÀ GIÓ LỐC Có lá vàng thì phải có gió lốc. Đó là câu so sánh của Thượng toạ Trí Quang với hiện tình người Mỹ và Cộng sản: - Lá vàng đó là Cộng sản, và gió lốc chính là người Mỹ. Muốn chống Cộng thì phải cần tới người Mỹ, thế thôi. Đối với tôi, những ảnh hưởng ngoại lai chỉ nên dùng như những phương tiện chứ bảo chấp nhận thì không. Đề cập tới sự nguy hiểm của Cộng sản, ông nói họ không phải chỉ là những chiếc lá vàng làm nhớp nhà mà là những chiếc lá vàng có đóng đinh. Vì khía cạnh chống Mỹ trong các phong trào tranh đấu vừa qua của Phật giáo, có báo ngoại quốc cho rằng Thượng toạ Trí Quang muốn đuổi Mỹ. Thượng toạ nói: - Người Mỹ rất ngờ nghệch, họ không phân biệt được giữa Bài Mỹ và Chống Mỹ. Bài Mỹ là một thái độ thù ghét đương nhiên, dù người Mỹ có làm hay đến đâu cũng vẫn bị ghét bỏ, có khi lại còn thù ghét hơn. Trong khi Chống Mỹ là một thái độ phản kháng xây dựng. Bởi quan niệm hai người cùng ngồi trên một chiếc xe, thấy người kia lái bậy thì người nọ phải giành lấy mà lái nếu không muốn rớt xuống hố. Các phong trào vừa qua không mang tính chất bài Mỹ mà là chống Mỹ; chống Mỹ đã ngăn cản việc đi tới Quốc hội, chống Mỹ đã hậu thuẫn những chính phủ tay sai thối nát, chống Mỹ đã giúp phương tiện đàn áp Đà Nẵng. Thì ra thái độ của Thượng toạ là muốn cảnh giác người Mỹ. Cơn gió lốc phải được thổi đúng hướng, không phải làm bay những niềm tin mà là bốc sạch đám lá vàng có đóng đinh là Cộng sản. NGÔ THẾ VINH PHẠM ĐÌNH VY Chùa Từ Đàm, Huế 05.05.1966 [Trích Nguyệt san Tình Thương, số 29, 1966] Ghi chú: 1/ Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War. James McAllister; Department of Political Science, Williams College, Williamstown, MA 01267 2/ A Talk with Thich Trí Quang. McCulloch, James Wilde. Time Magazine, April 22, 1966 | Vol. 87 No. 3/ Henry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1963-1964. Maxwell D. Taylor, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam 1964-1965 4/ Hành Trình Tình Thương. Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản Thảo, số 74, Tháng 4, 2017 5/ Phạm Đình Vy, nguyên chủ nhiệm Tình Thương 1964-1967, bác sĩ Thuỷ Quân Lục chiến VNCH, sau tù cải tạo 3 năm vượt biển, sang định cư và hành nghề y khoa tại Pháp.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2022 1:50:57 GMT 9
Toàn văn Chiếu thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại vị vua cuối cùng - Triều đại Phong kiến Việt Nam (công bố chính thức từ 25/08/1945) CHIẾU THOÁI VỊ " Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Vì nền độc lập của Việt Nam. Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc. Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 23 tháng 8, Trẫm đã nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết. Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng. Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho đất nước. Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã quyết định thoái vị, và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa. Trước khi từ giã ngai vàng, Trẫm chỉ có ba điều muốn nói: —Thứ nhất: Trẫm yêu cầu tân chính phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng gia. —Thứ hai: Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân. —Thứ ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia. Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta. Việt Nam độc lập muôn năm..." Đại diện Việt Minh chấp nhận ba điểm của vua và đề nghị thêm: 1- Bảo Đại phải ra khỏi Hoàng cung và chỉ được mang theo những đồ dùng riêng. 2- Trừ của riêng, tài sản của triều đình là tài sản của chính quyền cách mạng. Ảnh: Vua Bảo Đại đứng chờ phái đoàn của Chính phủ Lâm thời do ông Trần Huy Liệu (dẫn đầu), ông Nguyễn Lương Bằng và ông Cù Huy Cận vào điện Kiến Trung, chuẩn bị lễ trao ấn kiếm thoái vị. Theo Fb Nguyễn Thái Sơn.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2023 20:04:52 GMT 9
HÀNH TUNG BÍ ẨN CỦA MỘT NHÀ SƯ KÍNH MỜI QUÝ VỊ ĐỌC KỸ & LƯU TRUYỀN CHO CON CHÁU CHÚNG TA BIẾT RÕ ĐỂ CẢNH GIÁC VÀ TU HÀNH CHO ĐÚNG NGHĨA!!! Một bài viết nhiều chi tiết, mời đọc để biết! Travid Duong
Sư Gián Điệp và Sư Công An đã rất đắc lực giúp đảng Cộng Sản phá nát đất nước Việt Nam để đưa đến thảm họa mất nước như ngày hôm nay Bài 1: Hòa Thượng Thích Minh Châu, một nhà tu có hành tung bí ẩn và gây nhiều tranh luận, đã qua đời ngày 01/09/2012 tại Sài-Gòn, hưởng thọ 94 tuổi. Mặc dầu ông là người nổi tiếng, năm 1964 đã được GHPGVNTN (Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống Nhất) can thiệp bằng mọi giá để buộc Tướng Nguyễn-Khánh phải cho ông từ Ấn-Độ về Sài-Gòn làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh và ông đã từng giữ chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Giáo Dục trong GHPGAQ (Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang) cho đến sau năm 1975, các cơ quan truyền thông Việt ngữ ở hãi ngoại chỉ loan tin việc ông qua đời dựa theo các bản tin của báo nhà nước ở trong nước, còn các tổ chức thuộc GHPGAQ ở hải ngoại gần như im lặng. Trong khi đó, hầu hết các cơ quan truyền thông nhà nước, kể cả Thông Tấn Xã Việt-Nam, đã loan tin rộng rãi và viết khá nhiều về ông. Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay ở Sài-Gòn đã sưu tầm và viết về tiểu sử của ông khá đầy đủ, nhưng không nói đến những bí ẩn đã gây nhiều tranh luận về chính bản thân ông cũng như những tổ chức đã xử dụng ông. Dưạ trên tài liệu của tình báo Pháp và VNCH (Việt-Nam Cộng-Hòa) mà chúng tôi đã đọc được trước năm 1975, khi xuất bản cuốn “Những bí ẩn đàng sau những cuộc thánh chiến tại Việt-Nam” vào năm 1994, chúng tôi đã tiết lộ nhiều chi tiết bí ẩn về cuộc đời và những hoạt động của ông, khiến nhiều người ngạc nhiên. Người ta thường nói “Nghĩa tử là nghĩa tận”, nhưng Thích Minh Châu vừa là một nhân vật tôn giáo vừa là một nhân vật chính trị, những gì ông đã làm hay để lại, đã và đang gây khá nhiều hậu quả tang thương cho Phật Giáo và cho đất nước, nên chúng tôi thấy cần phải đưa ra ánh sáng những sự thật lịch sử để rút kinh nghiệm và tránh đi vào vết xe cũ. Vài nét về quê quán: Ở Việt-Nam, ít ai biết đến hành tung của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện trưởng Học Viện PGVN (Phật giáo Việt-Nam)…. vì ông giấu rất kỹ. Một người ở cùng làng với ông và rất thân với gia đình ông khi còn nhỏ, đã nhận ra ông khi ông về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đã tìm đến thăm ông và hỏi han về gia đình của ông ở miền Bắc, nhưng ông chối dài và nói anh ta đã nhận lầm. Đến khi anh ta nhắc tới tên đứa con trai của ông và cho biết chính anh là người đã dạy đứa con đó, ông mới chịu xuống giọng. Hòa Thượng Thích Minh Châu có tên thật là Đinh-Văn-Nam, sinh ngày 20/10/1918. Tài liệu VNCH ghi ông sinh ở làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nhưng các cơ quan truyền thông trong nước nói ông sinh ở Quảng Nam. Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay nói rõ hơn ông sinh tại làng Kim Thành ở Quảng Nam, nguyên quán ở làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chúng tôi biết ở Quảng Nam có làng Kim Thành thuộc huyện Điện Bàn. Như vậy, có thể cụ Đinh-Văn-Chấp đã sinh ra Đinh-Văn-Nam khi đến làm quan ở Điện Bàn. Gia đình Hòa Thượng Thích Minh Châu thuộc dòng dõi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Đinh-Văn-Chấp, Tiến sĩ Hán học của nhà Nguyễn, thân mẫu là bà Lê-Thị-Đạt. Ông là con thứ ba của gia đình có 8 con, theo thứ tự như sau: Đinh-Văn-Kinh là con trưởng, đến Đinh-Văn-Quang, Đinh-Văn-Nam (tức Hòa Thượng Minh Châu), Đinh-Văn-Linh, Đinh-Văn-Phong, Đinh-Thị-Kim-Hoài, Đinh-Thị-Kim-Thai và Đinh-Thị-Khang. Báo Đạo Phật Ngày Nay cho biết gia đình ông có đến 11 anh em và ông là con thứ tư.. Như chúng ta đã biết, những người giàu có thời đó thường có nhiều vợ. Cụ Đinh-Văn-Chấp cũng có nhiều vợ thứ. Trước khi cưới vợ chánh là bà Lê-Thị-Đạt (mẹ của Thích Minh Châu), ông đã cưới một người vợ thứ rồi, vì thế anh chị em nhà này rất đông. Nếu tính cả con vợ thứ, con số 11 có lẽ cũng đúng. Đại đăng khoa và tiểu đăng khoa: Anh chị em gia đình Thích Minh Châu rất thông minh, được học cả Hán học lẫn Tây học. Năm 1940, khi 22 tuổi, Đinh-Văn-Nam đậu bằng Tú tài toàn phần, tại trường Khải Định, Huế (nay là trường Quốc Học). Người Việt ngày xưa theo tục lệ của Trung-Hoa, Đại đăng khoa rồi Tiểu đăng khoa. Đại đăng khoa là tiệc mừng tân khoa thi đỗ về làng, còn Tiểu đăng khoa là tiệc cưới mừng tân khoa thành lập gia thất. Cũng trong năm 1940, Đinh-Văn-Nam đã lập gia đình với cô Lê-Thị-Bé, con của một gia đình khoa bảng khác ở cùng làng là cụ Lê-Văn-Miến. Cụ Miến là một người vừa đậu Tây học vừa thông Hán học nên làm giáo sư Hán văn và Pháp văn, sau vào dạy ở Quốc Tử Giám (đại học của triều đình) ở Huế. Đinh-Văn-Nam ở với vợ là Lê-Thị-Bé được 3 năm, sinh được hai người con, một trai và một gái. Người con trai đầu lòng tên là Đinh-Văn-Sương.. Người con gái tên là Đinh-Thị-Phương (chúng tôi không nhớ tên lót chính xác). Năm 1943, Đinh-Văn-Nam trở lại Huế và xin làm thừa phái (Thư ký) cho tòa Khâm Sứ của Pháp ở Huế. Từ đó, ông rất ít khi về Nghệ An thăm vợ con. Vợ ông phải làm việc rất vất vả để nuôi con. Khi thời thế đổi thay: Theo hồ sơ của mật thám Pháp để lại, Hoà Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc trường An Nam Phật Học ở Huế gia nhập Đảng Cộng Sản năm 1941, còn Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường năm 1943. Như vậy Đinh-Văn-Nam đã vào Đảng Cộng Sản sau khi bỏ Nghệ An trở lại Huế. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945, cụ Đinh-Văn-Chấp, thân phụ của Đinh-Văn-Nam, đã tản cư từ Huế về Nghệ An và được Việt Minh mời làm Chủ Tịch Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-Lê. Sau khi cụ Đặng-Hướng, Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ An lên làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Liên Khu IV, cụ Đinh-Văn-Chấp thay cụ Đặng-Hướng làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt tỉnh Nghệ An. Còn cụ Lê-Văn-Miến, nhạc phụ của Đinh-Văn-Nam, là người liêm khiết nên rất nghèo. Khi cụ trở về quê ở Kim Khê thì không có nơi cư ngụ. Các học trò của cụ phải góp mỗi người 5$ làm cho cụ một căn nhà lá nhỏ ở tạm. Vốn là thầy giáo, không quen các nghề bằng tay chân và nhất là với sĩ diện của một nhà Nho, cụ không có kế gì để sinh nhai. Nghe nói về sau cụ bị chết đói. Hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc là nơi Đảng Cộng Sản Đông Dương lập các cơ sở đầu tiên của họ. Gia đình cụ Nguyễn-Sinh-Sắc (cha của Nguyễn-Sinh-Cung, tức Hồ-Chí-Minh) ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, nên Hồ-Chí-Minh quen biết rất nhiều trong vùng này. Ông cho người đi móc nối các sĩ phu, thuyết phục họ tham gia Cách Mạng. Trong hai huyện Nghi Lộc và Nam Đàn, không ai lạ gì gia đình của Hồ-Chí-Minh. Anh của Hồ-Chí-Minh là Nguyễn-Sinh-Khiêm, một người mắc bệnh tâm thần, không có nghề nghiệp, thường lui tới các gia đình của những người quen biết ở hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc để xin ăn. Chị của Hồ-Chí-Minh là Nguyễn-Thị-Thanh, trước có làm liên lạc cho cụ Phan-Bội-Châu, sau bị mật thám Pháp theo dõi, phải trở về làng sống trong một túp lều tranh nhỏ bé và xiêu vẹo, rất cơ cực. Sĩ phu trong hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương khá nhiều. Đinh-Văn-Nam cũng ở trong trường hợp đó. Trần-Điền, người ở cùng làng với Thích Minh Châu, một đảng viên cao cấp của Việt Cộng, đã xin cuới cô Đinh-Thị-Kim-Hoài, em của Thích Minh Châu, nhưng bị từ chối. Tuy không được làm rể nhà họ Đinh, Trần-Điền vẫn giữ liên lạc tốt đẹp với gia đình Thích Minh Châu. Trần-Điền đã làm Đại Sứ của Hà-Nội tại Nam-Vang, Cao-Miên, trong thời kỳ Sihanouk chấp chánh. Đây là một đường dây liên lạc tốt của Thích Minh Châu. Sau này, cô Đinh-Thị-Kim-Hoài làm vợ bé của Thiếu Tướng Nguyễn-Sơn khi Tướng này về làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Liên Khu IV, một Liên Khu vững vàng nhất của Việt Cộng thời đó. Nguyễn-Sơn là một Tướng tài, đẹp trai và lịch thiệp, nên đi đến đâu đều được các cô các bà bám chặt. Ông ở nơi nào ít lâu là có vợ ở nơi đó. Cuộc đời của ông có khoảng 15 bà vợ. Khi ông vào Nghệ An, cô Đinh-Thị-Kim-Hoài rất thích ông. Ít lâu sau, hai người lấy nhau, mặc dầu lúc đó ông đã có khoảng 13 hay 14 bà vợ rồi. Đinh-Văn-Linh, em của Thích Minh Châu, là một Đại Tá trong bộ đội Việt Cộng, từng làm Đại Sứ của Hà-Nội ở Bắc Kinh và sau về làm Chủ nhiệm nhật báo Quân Đội Nhân Dân của Việt Cộng. Khi Dương-Văn-Minh tuyên bố đầu hàng, Đinh-Văn-Linh là người đầu tiên được Việt Cộng đưa vào Sài-Gòn để tiếp thu. Một người ở làng Kim Khê cho biết Thích Minh Châu đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh vào đầu thập niên 1940, khi Mặt Trận này mới thành lập. Nhóm của ông thường họp tại chùa Cẩm Linh, Diệc Cổ Tự hay trụ sở của Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Kỳ ở trong nội thành của thành phố Vinh. Một tăng sĩ Phật Giáo đã công khai phản đối việc dùng chùa để làm nơi hội họp bí mật của nhóm nói trên là Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu. Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu tên thật là Trương-Thế-Giám, trụ trì ở chùa Phước Hòa, Sầm Sơn, Thanh Hóa, là người thông thạo cả Hán học lẫn Tây học. Ông biết chuyện một số người đã dùng chùa và trụ sở của Phật Giáo hội họp làm chính trị, nên lên tiếng phản đối. Năm 1954, khi Hiệp Định Genève ký kết, ông đã liên lạc với các làng công giáo chung quanh để tìm cách di cư vào Nam nhưng đi không lọt. Trong cuộc đấu tố năm 1957, ông bị chôn sống. Chúng tôi ghi lại những chi tiết này để giúp đọc giả hiểu được tại sao Đinh-Văn-Nam đã gia nhập Đảng Cộng Sản và trở thành một đảng viên trung kiên của đảng này. Trong số tới, chúng tôi sẽ nói về những gay cấn trong việc đưa Thượng Tọa Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Viện Đại Học và chuyện gặp gỡ vợ con của Thích Minh Châu sau 30/04/1975. Bài 2: Trong bài trước, chúng tôi đã trình bày qua lý lịch của Hoà Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, với nhiều bí ẩn về gia tộc, vợ con và con đường hoạt động chính trị của ông. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn con đường dẫn ông đến với Đảng Cộng Sản, chuyện ông xuất gia để phục vụ Đảng, áp lực đưa ông về ngồi chổm chệ giữa Sài-Gòn “Tiền đồn chống cộng ở Đông-Nam-Á”, hoạt động của Việt Cộng trong Viện Đại Học Vạn Hạnh, sự lộ diện của ông ngày 30/04/1975, chuyện ông gặp lại vợ con, chuyện ông đưa GHPGVNTN vào cửa tử và “Những ngày vinh quang” của ông. Đây là những chuyện rất ly kỳ. Câu hỏi thứ nhất: Một câu hỏi được đặt ra là Pháp biết Hoà Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc trường An Nam Phật Học, đã vào Đảng Cộng Sản năm 1941, Đinh-Văn-Nam (tức Thích Minh Châu) và Võ-Đình-Cường năm 1943, tại sao họ không bắt? Như chúng tôi đã chứng minh trong cuốn “Những bí ẩn đàng sau những cuộc thánh chiến tại Việt-Nam” xuất bản năm 1994, vào thập niên 1930, Toàn Quyền Pasquier đã đưa ra chủ trương thành lập các phong trào thể thao và “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” để vô hiệu hóa các cuộc nổi dậy chống Pháp. Nhiều viên chức cao cấp đã được Pháp giao cho thực hiện công tác này như Trần-Nguyên-Chấn ở miền Nam, Lê-Đình-Thám ở miền Trung và Lê-Dư ở miền Bắc. Ngoài ba nhân vật chính này, còn rất nhiều viên chức khác tham gia như Trần-Trọng-Kim, Bùi-Kỷ, Nguyễn-Đỗ-Mục, Dương-Bá-Trạc.... và nhiều nhân vật Phật Giáo đã công nhận đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo Việt-Nam. Biết rõ chủ trương của Pháp, Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng dựa vào Phật Giáo để xây dựng các cơ sở Đảng. Sở dĩ mật thám Pháp biết Hòa Thượng Trí Độ, Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường vào Đảng Cộng Sản nhưng không bắt vì lúc đó Pháp muốn dùng lực lượng của Cộng Sản để chống Nhật. Nhiều đảng viên cao cấp của Cộng Sản bị bắt đã được thả ra. Chúng tôi xin nhắc lại rằng năm 1944, Hoa-Kỳ đã phối hợp với Pháp và chính phủ Tưởng-Giới-Thạch, thành lập một toán do Hồ-Chí-Minh lãnh đạo, đưa từ Liễu Châu về Pác Bó. Toán này được huấn luyện và trang bị vũ khí để chống Nhật. Nhờ vậy, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Việt Minh đã cướp được chính quyền ở Hà-Nội vào tháng 08 năm 1945. Câu hỏi thứ hai: Bác sĩ Lê-Đình-Thám, Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học, người dẫn dắt Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường, đã vào Đảng năm nào mà sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V từ 1946 đến 1949? Quả thật, Bác sĩ Lê-Đình-Thám đã giấu tông tích của ông rất kỷ, ông lại là người được Pháp giao nhiệm vụ “Phật giáo hóa” tại miền Trung, nên mật thám Pháp không nghi ngờ gì về ông. Dĩ nhiên, ông phải là đảng viên cao cấp mới được Đảng Cộng Sản cho giữ một chức vụ quan trọng như vậy. Lần theo những bước chân của ông, chúng ta có thể tìm ra con đường Thích Minh Châu đã gia nhập vào Đảng Cộng Sản. Con đường Thích Minh Châu đi: Bác sĩ Lê-Đình-Thám sinh năm 1897 tại Quảng-Nam, tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Y Khoa Đông Dương Hà-Nội năm 1916. Năm 1932, ông thành lập Hội An Nam Phật Học tại Huế, trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm.. Bên ngoài ông thuyết giảng và truyền bá Phật Giáo, nhưng bên trong hoạt động cho Cộng Sản. Đinh-Văn-Nam (tức Thích Minh Châu) và Võ-Đình-Cường là hai “đệ tử ruột” của Bác sĩ Lê-Đình-Thám, nên thầy đi đâu, trò theo đó. Trang nhà Đạo Phật Ngày Nay của báo trong nước đã nói rất rõ: Phong trào học Phật do Bác sĩ Lê-Đình-Thám tổ chức có "Nhiều trí thức yêu nước" tham gia như: Ngô-Điền, Phạm-Hữu-Bình, Võ-Đình-Cường…. Đinh-Văn-Nam và em là Đinh-Văn-Linh đến với phong trào học Phật từ năm 1936. Đinh-Văn-Nam đã đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký của Hội An Nam Phật Học. Kể từ đó, ông "Gắn liền với Hội và là hạt nhân nòng cốt phát động phong trào yêu nước chống Pháp". Năm 1940, Bác sĩ Thám cho thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do Phạm-Hữu-Bình làm Trưởng Đoàn, Đinh-Văn-Nam (tức Thích Minh Châu) làm Phó Đoàn, Ngô-Điền làm thư ký. Trong các nhân viên của Đoàn, người ta thấy có Đinh-Văn-Linh và Võ-Đình-Cường. Năm 1944, tại đồi Quảng Tế ở Huế, Bác sĩ Lê-Đình-Thám thành lập Gia Đình Phật Hóa Phổ. Người ta thấy Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường trong đại hội này. Tổ chức này sau được biến thành Gia Đình Phật Tử do Võ-Đình-Cường lèo lái. Tháng 10 năm 1945, Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh hô hào tiêu thổ kháng chiến và tản cư. Các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo ở Huế cũng đi tản cư. Ngày 07/02/1947, Pháp chiếm lại Huế, đa số dân chúng, kể cả các tăng sĩ và cư sĩ Phật Giáo đều hồi cư. Một số tiếp tục hoạt động cho Việt Minh bị Pháp bắt, nhưng nhờ bà Từ-Cung, mẹ của Hoàng Đế Bảo-Đại, can thiệp Pháp đã thả ra, trong đó có Thượng Tọa Thích Đôn Hậu. Xuất gia năm nào? Tài liệu của báo nhà nước cho biết Đinh-Văn-Nam xuất gia năm 1946. Nhưng chúng tôi không tin.. Lúc đó Huế đang có lệnh tản cư và tiêu thổ kháng chiến, mọi người đều lo tản cư. Bác sĩ Lê-Đình-Thám đi vào Quảng-Nam và được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ ở Liên Khu V. Không lẽ trong tình trạng hổn loạn đó, Đinh-Văn-Nam lại đi vào chùa? Cuối năm 1947, Hội An Nam Phật Học hoạt động trở lại và đặt trụ sở tại số 1b đường Nguyễn-Hoàng, Huế. Việt Minh đã giao cho Võ-Đình-Cường và Phan-Cảnh-Tú vận động tái lập Gia Đình Phật Hóa Phổ để làm cơ sở hoạt động của Việt Minh. Tổ chức này đã mượn trụ sở Hội An Nam Phật Học làm nơi sinh hoạt tạm thời. Ngày Chúa Nhật 18/01/1948, Võ-Đình-Cường chính thức làm lễ ra mắt tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ mới tại chùa Từ Đàm, người ta thấy có mặt của Đinh-Văn-Nam, Tống-Hồ-Cầm, Hoàng-Thị-Kim-Cúc, Cao-Chánh-Hựu, Văn-Đình-Hy,..v.v... Một tài liệu khác cho biết Đinh-Văn-Nam xuất gia năm 1948. Tin này có vẽ hợp lý hơn, vì năm 1948 các chùa ở Huế mới hoạt động trở lại. Có lẽ Bác sĩ Lê-Đình-Thám đã phân công cho Võ-Đình-Cường hoạt động trong giới Phật tử, còn Đinh-Văn-Nam hoạt động trong giới tăng sĩ. Lúc đó Đinh-Văn-Nam đã 30 tuổi, xin đầu sư với Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết ở chùa Tường Vân. Năm 1949, Hoà Thượng Tịnh Khiết cho ông thụ giới “Cụ túc” tại giới đàn Hộ Quốc, chùa Bảo Quốc với pháp danh là Minh Châu. Giới “Cụ túc” là những giới luật mà hàng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni phải thọ trì. Tỳ kheo là tên gọi những người xuất gia đã thụ giới Cụ túc. Năm 1952, ông được cho đi Sri-Lanka học tiếng Pali rồi qua Ấn-Độ học tại đại học Bihar và năm 1961 ông đậu Tiến sĩ Phật Học. Cùng đi với ông có Nguyễn-Đình-Kỳ. Nguyễn-Đình-Kỳ chỉ lo tu học về Phật Giáo và đã chết ở Ấn-Độ. Nếu chuyện chỉ như thế, chẳng ai để ý làm gì! Đưa Cộng Sản vào Sài-Gòn: Câu chuyện đã đổ bể khi Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN đề nghị với chính phủ Nguyễn-Khánh cho ông về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh của Phật Giáo. Kinh Phổ Diệu của Đạo Phật nói “Xuất gia tứ nguyện”. Xuất gia là rời bỏ gia đình, rời bỏ cảnh giới thế tục để tu tịnh hạnh. Tứ nguyện là bốn nguyện của người xuất gia: (1) Nguyện tế độ chúng sinh khỏi nguy khốn tai ách. (2) Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh. (3) Nguyện đoạn trừ tà kiến giúp chúng sinh. (4) Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng khổ ải. Nhưng Hòa Thượng Minh Châu xuất gia không phải để thực hiện những điều kinh Phật dạy, mà thực hiện những điều Đảng dạy! Năm 1964, khi GHPGVNTN mới được thành lập, Viện Hoá Đạo của Giáo Hội này đã viết văn thư xin chính phủ Nguyễn-Khánh cho Thượng Tọa Thích Minh Châu ở Ấn-Độ được về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh sắp được thành lập. Tướng Nguyễn-Khánh yêu cầu cơ quan an ninh sưu tra lý lịch. Cơ quan an ninh đã sưu tra hồ sơ và tìm thấy Đinh-Văn-Nam và Võ-Đình-Cường đã vào Đảng Cộng Sản năm 1943. Đinh-Văn-Nam có vợ và hai con đang ở miền Bắc. Cơ quan an ninh liền liên lạc với Tòa Đại Diện VNCH ở Ấn-Độ và xin cho biết trong thời gian ở Ấn-Độ, Thích Minh Châu đã sinh hoạt như thế nào.. Toà Đại Diện cho biết trong thời gian ở Ấn-Độ, Thích Minh Châu đã hoạt động cho Hà-Nội. Tòa Đại Diện đã cung cấp nhiều bằng chứng về sự kiện này. Chúng tôi chỉ nhớ hai bằng chứng chính: - Bằng chứng thứ nhất: Năm 1952, Trung Cộng đã mở Hội Nghị Hòa Bình Châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh. Đảng Cộng Sản Việt-Nam đã gởi một phái đoàn tới tham dự. Phái đoàn do Luật sư Nguyễn-Mạnh-Tường làm Trưởng đoàn. Thích Minh Châu từ Ấn-Độ đã lén qua Bắc Kinh tham gia phái đoàn. Sau hội nghị, phái đoàn đã đưa ra một bản tuyên bố trong đó có đoạn như sau: “Nhân dân thế giới đều đồng tình, đòi quân đội ngoại quốc xâm lược phải rút ra khỏi ba nước Việt-Nam, Cao-Miên, Lào. Ba nước Việt-Nam, Cao-Miên, Lào độc lập hoàn toàn và thực sự”. - Bằng chứng thứ hai: Ngày 10/02/1958 Hồ-Chính-Minh qua Ấn-Độ vận động thống nhất Việt-Nam, đòi tổng tuyển cử. Công việc tiếp đón đều do Thích Minh Châu phụ trách. Hà-Nội có cho ông Nguyễn-Di-Niên đi theo làm thông dịch. Nhưng khi đến Ấn-Độ, Thích Minh Châu là thông dịch viên chính của Hồ-Chí-Minh. Toà Đại Diện có gởi về một tấm hình Thích Minh Châu chụp chung với Hồ-Chí-Minh tại Red Fort ở thủ đô Delhi, trong một phiên họp do Thích Minh Châu tổ chức..... Tướng Nguyễn-Khánh đã thông báo các tài liệu này cho Viện Hóa Đạo biết và nói rằng chính phủ rất tiếc không thể cho Thích Minh Châu trở về Việt-Nam được, vì ông đang hoạt động cho Việt Cộng ở Ấn-Độ. Vốn tự coi mình là một tổ chức quyền lực tối cao, sống trên và ngoài luật pháp quốc gia, GHPGVNTN liền gởi cho Tướng Nguyễn-Khánh một văn thư nói rằng ngoài Thích Minh Châu ra, hiện tại không tăng sĩ Phật Giáo nào có đủ khả năng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, vậy xin cứ để cho Thích Minh Châu về, Giáo Hội bảo đảm sẽ không cho Thích Minh Châu hoạt động cho Việt Cộng nữa. Thượng Tọa Thích Trí Quang còn đe doạ rằng nếu Tướng Nguyễn-Khánh không đáp ứng nhu cầu chính đáng của Phật Giáo, Phật Giáo bị bắt buộc phải hành động. Trong thông báo gởi cho các viên chức Hoa-Kỳ ở Hoa-Thịnh-Đốn (Washington) ngày 11/05/1964, Đại Sứ Cabot Lodge đã có nhận xét như sau: “Đã lật đổ được một chính phủ, ông ta (Thượng Tọa Thích Trí Quang) nghĩ rằng có thể làm như thế để chống lại Khánh.” (Having overthown one government, he may feel like trying again against Khanh.) [FRUSS 1964 – 1968, Volum I, Vietnam 1964, tr. 304 – 305, Document 147]. Sợ Phật Giáo gây khó khăn, Tướng Khánh đã phê lên hồ sơ: “Cho về và theo dõi”. Ngày 13/11/1964 Viện Hoá Đạo của GHPGVNTN đã ban hành Quyết Định số 156-VT/QĐ cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh! Bài 3: Ngày 13/03/1964, GHPGVNTN quyết định dùng chùa Pháp Hội ở số 702/105 đường Phan-Thanh-Giản, Quận 10, Sài-Gòn, làm Viện Cao Đẳng Phật Học và cử Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Viện Trưởng. Đây là cơ sở dự bị để tiến tới thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh. Chuyện rắc rối nội bộ: Lúc đó có ba tăng sĩ có thể được chọn làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đó là Thượng Tọa Thích Thiên Ân, Thiền sư Nhất Hạnh và Thượng Toạ Thích Minh Châu. Như vậy không phải Phật Giáo Việt-Nam lúc đó không có ai có thể làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh ngoài Thích Minh Châu như Viện Hóa Đạo đã nói với Tướng Nguyễn-Khánh. Chúng tôi đã nói về Thượng Tọa Thích Minh Châu, ở đây chúng tôi cũng xin nói qua về Thượng Tọa Thiên Ân và Thiền Sư Thích Nhất Hạnh để đọc giả có thể hiểu tại sao Thích Minh Châu đã được chọn. 1) Vài nét về Thượng Tọa Thiên Ân: Thích Thiên Ân, thế danh là Đoàn-Văn-An, sinh năm 1925 tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ông đi tu từ lúc 10 tuổi (1935) và cùng thụ giới Cụ túc năm 1948 cùng một lượt với Thích Minh Châu ở tổ đình Bảo Quốc do Hòa thượng Tịnh Khiết làm Đường đầu truyền giới. Ông đi du học Nhật-Bản năm 1954 và đậu Tiến sĩ Văn Chương năm 1960 rồi trở về nước. Để chuẩn bị cho ông làm Viện Trưởng một Viện đại học Phật giáo sắp được thành lập, các cao tăng đã khuyến khích ông “Cần phải trau giồi thêm kinh nghiệm, phương pháp quản lý một đại học Phật giáo có tầm cỡ quốc tế”, vì thế năm 1961 ông lại xuất dương để tu nghiệp ở Nhật-Bản và lần này ông tìm học pháp môn Thiền Rinzai (Lâm Tế) chính thống của các thiền sư Nhật-Bản. Ông đã đạt được sở nguyện. Năm 1963 ông trở lại Việt-Nam. 2) Tung tích Thiền sư Nhất Hạnh: Tung tích của Thiền sư Nhất Hạnh cũng bí ẩn như tung tích của Thượng Tọa Minh Châu, nhưng qua nhiều cuộc sưu tra, chúng tôi biết được Thiền sư Nhất Hạnh có tên thật là Nguyễn-Đình-Bảo, sinh ngày 11/10/1926 tại làng Thành Trung, xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ là người gốc Thanh Hóa, mẹ người làng Lệ Lộc, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông là con thứ trong một gia đình 5 con. Ông có người em là Nguyễn-Đình-An dạy học ở Nha Trang trước năm 1975. Ông xuất gia năm 1942 lúc 16 tuổi, và thụ giới Cụ túc tại tổ đình Từ Hiếu với Hòa Thượng Thích Nhất Định. Khi đặt pháp danh cho các tăng sĩ tu học tại đây, các vị chủ trì thường dùng chữ “Nhất” để làm chữ đệm. Có lẽ cũng vì thế, Nguyễn-Đình- Bảo đã được ban cho pháp danh là Thích Nhất Hạnh. Thích Nhất Hạnh theo học trung học ở Huế và năm 1956 đã vào Sài-Gòn theo học ở Đại Học Văn Khoa. Ông tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa ở Sài-Gòn vào khoảng năm 1959. Năm 1961, ông được chính phủ Ngô-Đình-Diệm cho đi học về môn Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative religion) tại Princeton University ở New Jersey, Hoa-Kỳ. Sau khi chính phủ Ngô-Đình-Diệm bị lật đổ, tình hình bắt đầu rối loạn, có nhiều sự tranh chấp đã xẩy ra trong nội bộ Phật Giáo về việc thiết lập và lãnh đạo GHPGVNTN (xem Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu). Để tạo thanh thế cho mình, chống lại phe Bắc và phe Nam, năm 1964 Thượng Tọa Thích Trí Quang đã đích thân viết cho Thiền sư Nhất Hạnh một lá thư yêu Thiền sư trở về Việt-Nam gấp để giúp ông trong việc thống nhất Phật Giáo và vạch một hướng đi cho Phật Giáo Việt-Nam trong giai đoạn tới. 3) Tranh chấp trong nội bộ: Một câu hỏi được đặt ra là tại miền Nam lúc đó có hai người đã được huấn luyện để làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đó là Thượng Tọa Thích Thiên Ân và Thiền sư Nhất Hạnh, tại sao Viện Hóa Đạo không chọn một trong hai người này mà phải đòi cho được Thượng Tọa Minh Châu, mặc dầu biết rõ ông đang hoạt động cho Cộng Sản ở Ấn Độ? Như đã nói trên, Thượng Tọa Thiên Ân và Thiền sư Nhất Hạnh đều là người Thừa Thiên. Hai tăng sĩ này chịu ảnh hưởng nặng của Thích Trí Quang. Thân phụ của Thích Thiện Ân là Thích Tiêu Diêu đã tự thiêu tại chùa Từ Đàm đêm 16/08/1963. Ông vùng chạy khi ngọn lửa đang bóc cháy. Còn Thiền sư Nhất Hạnh là đàn em của Thích Trí Quang, được đi du học Hoa-Kỳ là nhờ Thích Trí Quang xin ông Ngô-Đình-Cẩn can thiệp giúp. Mặc dầu được tu học ở Huế, Thích Minh Châu không chịu ảnh hưởng của Thích Trí Quang nên các tăng sĩ trong Viện Hoá Đạo muốn đưa Thích Minh Châu về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, chứ không muốn chọn một trong hai tăng sĩ chịu ảnh hưởng của Thích Trí Quang. Điều đáng ngạc nhiên là không hiểu vì lý do gì hoặc có sự can thiệp bí mật từ đâu, Thích Trí Quang cũng đã đồng ý chọn Thích Minh Châu. Khi Thượng Tọa Thích Minh Châu từ Ấn-Độ về nước, ông được cử làm Phó Viện Trưởng Điều Hành của Viện Cao Đẳng Phật Học, còn Thích Thiên Ân làm Giáo Thọ Trưởng. Có lẽ buồn lòng về quyết định của Viện Hóa Đạo, Thích Thiên Ân và Thiền sư Nhất Hạnh đã chọn con đường bỏ nước ra đi. Năm 1966, Thích Thiên Ân đi du học Hoa-Kỳ rồi ở lại Hoa-Kỳ, lập Trung tâm Thiền học Quốc tế và chùa Phật Giáo Việt-Nam ở Los Angeles, Hoa-Kỳ, và qua đời năm 1980 tại đây, thọ 75 tuổi. Cũng trong năm 1966, Thiền sư Nhất Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết và thành lập một chính phủ hòa giải hòa hợp. Ông làm phát ngôn viên cho GHPGAQ, đứng về phía Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và phe phản chiến ở Hoa-Kỳ. Ông đem cả cô Fleurette Cao-Ngọc-Phượng, “Pháp danh” là Sư cô Chân Không, và đứa con trai qua ở luôn tại Pháp, lập Làng Hồng sau đổi thành Làng Mai. Lúc đầu Làng Mai do bà Elizabeth Bùi-Kim-Tiền, mẹ của cô Phượng, đứng tên. Khi bà này qua đời, cô Phượng lên thay. Viện đại học Vạn Hạnh: Dược sĩ Nguyễn-Cao-Thăng, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị hãng OPV (Office Pharmaceutique du Vietnam), một hãng sản xuất và nhập cảng duợc phẩm, đã thoát nạn nhờ biết chạy chọt qua ngã nhà chùa. OPV là một công ty dược phẩm của người Pháp tại Sài-Gòn, được ông Ngô-Đình-Cẩn giao cho Dược sĩ Nguyễn-Cao-Thăng đứng tên sang lại vào khoảng năm 1956, khi Pháp rút ra khỏi Việt-Nam, nên được dư luận coi là tổ chức kinh tài của Đảng Cần Lao. Giới thạo tin tại Sài-Gòn lúc đó đều biết người đứng ra làm trung gian thu xếp giữa OPV với các nhà lãnh đạo Phật Giáo và các tướng lãnh cầm quyền để Dược Sĩ Nguyễn-Cao-Thăng khỏi bị bắt và OPV khỏi bị tịch thu là bà Đào-Thị-Xuân-Yến, nguyên Hiệu Trưởng trường trung học Đồng Khánh ở Huế. Bà là vợ ông Nguyễn-Đình-Chi, Tuần Phủ Hà Tĩnh, nên thường được gọi là bà Tuần Chi. Ông Nguyễn-Đình-Chi có họ hàng với Nguyễn-Cao-Thăng. Bà Tuần Chi cũng là đệ tử ruột của Hoà Thượng Thích Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ. Trong vị thế đó, bà đã đứng ra “Vận động” (lo lót) để chính quyền và Phật Giáo không đụng đến OPV. Sau vụ Tết Mậu Thân 1968, bà Tuần Chi đã theo Hòa Thượng Đôn Hậu đi ra Hà-Nội. Qua sự thu xếp của bà Tuần Chi, Nguyễn-Cao-Thăng đã tặng cho Phật Giáo một khu đất rộng khoảng 4000 m2 ở số 222 đường Trương-Minh-Giảng, Quận 3, Sài-Gòn. Sở đất này lúc đó do bà Trương-Ngọc-Diệp, vợ của Nguyễn-Cao-Thăng đứng tên. Số tiền mặt “Cúng dường” bao nhiêu không biết được. Viện Hóa Đạo quyết định dùng khu này để xây cất Viện Đại Học Vạn Hạnh. Trong cuốn Bạch Thư đề ngày 31/12/1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu còn cho biết Tướng Nguyễn-Khánh đã cho GHPGVNTN thuê tượng trưng một khu đất gần 5 mẫu ở đường Trần-Quốc-Toản để làm trụ sở chính của Giáo Hội và cúng 10 triệu đồng để làm chùa. Sau đó, Hòa Thượng có mượn thêm của chính phủ Nguyễn-Cao-Kỳ 50 triệu nữa và giao cho các Hoà Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Trí Thủ và Từ Nhơn để xây Việt-Nam Quốc Tự, nhưng họ giữ tiền và không xây (tr. 22 và 23). Thật ra họ chỉ xây cái tháp! Theo yêu cầu của Viện Hóa Đạo, ngày 17/10/1964, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã ban hành Nghị Định số 1805-NĐ/PG/NĐ hợp thức hóa Viện Cao Đẳng Phật Học. Viện này tạm đặt trụ sở tại Chùa Pháp Hội và Chùa Xá Lợi ở Sài-Gòn. Ngày 13/11/1964, Viện Hóa Đạo ban hành Quyết Định số 156-VT/QĐ cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng thay thế Thượng Tọa Thích Trí Thủ. Ngày 09/06/1965, là ngày lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất Viện Đại Học Vạn Hạnh ở số 222 đường Trương-Minh-Giảng (nay là Lê-Văn-Sĩ). Cuối năm 1965, Viện Hóa Đạo xin phép đổi tên Viện Cao Đẳng Phật Học thành Viện Đại Học Vạn Hạnh và cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng, Thượng Tọa Thích Mãn Giác làm Viện Phó. Năm 1966, việc xây cất Viện Đại Học Vạn Hạnh hoàn tất, gồm tòa nhà chính với bốn tầng lầu. Đây là nơi đặt văn phòng làm việc của Viện Trưởng, văn phòng các Phân Khoa, văn phòng các nha sở, thư viện, câu lạc bộ, các giảng đường, phòng học của sinh viên.... Năm 1970, Viện xây thêm Toà nhà B làm cơ sở cho Phân Khoa Giáo Dục. Năm 1972, Viện mua thêm bất động sản số 716 đường Võ-Di-Nguy (nay là Nguyễn-Kiệm), Phú Nhuận, để làm cơ sở II. Thầy sao trò vậy: Khi Viện Đại Học Vạn Hạnh được khánh thành, các cơ quan tình báo của VNCH và CIA đã cài người vào để theo dõi các hành động của Thích Minh Châu. Họ có thể là sinh viên, nhân viên, giảng viên,..v.v... Khi còn ở Việt-Nam, tôi có đọc một tài liệu của một tổ chức phản chiến Hoa-Kỳ, tố cáo CIA đã huấn luyện và cài Đoàn-Viết-Hoạt và người anh của Thích Minh Châu là Đinh-Văn-Kinh vào Đại Học Vạn Hạnh để theo dõi. Khi qua Hoa-Kỳ, tôi có viết thư cho tổ chức này xin tài liệu, nhưng họ không trả lời. Quả thật Thích Minh Châu đã đi đúng con đường mà thầy của ông đã đi. Bác sĩ Lê-Đình-Thám khi được Pháp giao cho thành lập phong trào chấn hưng Phật Giáo ở Huế để trấn an các cuộc nổi dậy, ông đã đi học về đạo Phật, rồi rước Hòa Thượng Thích Trí Độ, một đảng viên Cộng Sản, từ Bình Định ra Huế lập trường An Nam Phật Học để huấn luyện các tăng sĩ, còn ông lập Hội An Nam Phật Học. Bên ngoài, Thích Trí Độ và Bác sĩ Lê-Đình-Thám giảng về Phật pháp rất nhiệt tình, nhưng bên trong lập các cơ sở đảng. Thích Minh Châu, Võ-Đình-Cường, Ngô-Điền.… đều được Lê-Đình-Thám chiêu dụ vào đảng. Mãi cho đến khi Việt Minh cướp chính quyền, người ta mới khám phá ra Thích Trí Độ và Lê-Đình-Thám là hai đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản! Biết mình bị theo dõi, trong thời gian làm Viện Trưởng, Thích Minh Châu không hề có một hành động hay lời tuyên bố nào liên quan đến chính trị, kể cả việc ủng hộ các cuộc tranh đấu của GHPGAQ, mặc dầu ông là Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục của Giáo Hội này. Tuy nhiên, cơ quan an ninh đã khám phá ra một đảng viên của Thành Ủy Huế được Thích Trí Quang gởi vào nằm vùng ở đây, đó là Nguyễn-Trực. Các cuộc xách động sinh viên Vạn Hạnh chống chính quyền đều do Nguyễn-Trực thực hiện. Hồ sơ của Nguyễn-Trực có đầy đủ tại Ty Cảnh Sát Huế, nhưng có lệnh không được bắt, đợi đến khi Nguyễn-Trực về Huế họp với Thành Ủy xong mới bắt. Cơ quan an ninh đã tra khảo và định đưa Nguyễn-Trực đi giam ở Phú Quốc, nhưng Thích Trí Quang can thiệp, chính quyền lại ra lệnh thả ra. Nguyễn-Trực và Võ-Đình-Cường là hai đảng viên được Thích Trí Quang bảo vệ rất chặt chẽ. Đến ngày 30/04/1975, Thích Minh Châu và Nguyễn-Trực mới công khai xuất đầu lộ diện. Câu chuyện này chúng tôi sẽ nói sau. Bài 4: Trong cuốn Bạch Thư đề ngày 31/12/1993, Hoà Thượng Thích Tâm Châu đã viết: “Khi quân Cộng Sản từ rừng về Sài-Gòn, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào”. Chắc đa số quý vị đã biết người dẫn gần 500 Tăng, Ni đi đón “quân giải phóng” đó là ai rồi. Ngoài công tác khởi đầu nói trên, sau ngày 30/04/1975, Thượng Tọa Thích Minh Châu đã được Đảng CSVN (Cộng sản Việt-Nam) giao cho hai nhiệm vụ rất quan trọng, đó là phá sập Giáo Hội Ấn Quang và huấn luyện hệ thống sư quốc doanh. Đón quân giải phóng: Báo Sài-Gòn Giải Phóng điện tử ngày 06/05/2009, có đăng bài “Buổi bình minh ở khu căn cứ lõm” của Phạm-Thục kể lại chuyện quân Việt Cộng tiến vào Sài-Gòn qua ngã tư Bảy Hiền, trong đó có đoạn ghi như sau: “Khoảng 15 giờ ngày 30 tháng 04, lực lượng của anh Hai Nhựt, anh Tư Vũ (Nguyễn-Thế-Thông) và các đồng chí khác đã về đến Bảy Hiền. Nơi đây bà con đã tập trung rất đông để chào đón những đứa con giải phóng”.. Số “Bà con đã tập trung rất đông” nói ở đây là khoảng 500 người, bao gồm một số tăng ni, sinh viên Đại Học Vạn Hạnh và một số phật tử thuộc Giáo Hội Ấn Quang. Nhóm này được Thích Minh Châu và Nguyễn-Trực điều động và dẫn đi. Khi có lệnh các công chức và quân nhân chế độ cũ phải ra trình diện, Viện Đại Học Vạn Hạnh đã tự động biến thành một địa điểm trình diện do Nguyễn-Trực điều hành. Sau đó, Nguyễn-Trực trở thành một thành viên của Ủy Ban Quân Quản Quận Ba. Các công chức cao cấp và sĩ quan trong vùng, ít ai dám đến trình diện ở Viện Đại Học Vạn Hạnh, vì kinh nghiệm của vụ Phật giáo đấu tranh chiếm Đà Nẵng năm 1966, họ biết rằng đến một nơi do nhóm “Cách mạng giờ thứ 25” chiếm đóng, có thể bị mất mạng như chơi. Sau này, Nguyễn-Trực tổ chức vượt biên để kiếm tiền đã bị bắt và bị khai trừ. Một nguồn tin cho biết gần đây Nguyễn-Trực đã được đến định cư tại Orange County, tiểu bang California, Hoa-Kỳ, do sự bảo lãnh của một người con vượt biên. Vợ của Thích Minh Châu là Lê-Thị-Bé đã hoạt động tích cực trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945 và sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Sau 30/04/1975, Lê-Thị-Bé và hai con đã được Đảng cấp giấy phép cho vào Sài-Gòn thăm chồng là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nhưng chỉ được phép ở lại Sài-Gòn 10 ngày mà thôi. Trong dịp này, bà có đến thăm một vài gia đình quen thân cũ đã di cư vào Nam năm 1954. Đảng không muốn dân chúng biết lai lịch của Thích Minh Châu để bảo vệ uy tín của ông và xử dụng ông vào công tác Phật Giáo vận quan trọng sau này. Chúng tôi may mắn được gặp và nói chuyện với một người thân đã đón tiếp bà Lê-Thị-Bé nên biết được nhiều chuyện bí mật về cuộc đời của Thích Minh Châu và gia đình của ông. Phá sập Giáo Hội Ấn Quang: Cũng trong cuốn Bạch Thư nói trên, Hoà Thượng Tâm Châu đã viết: “- Ngày 19/05/1975, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ-Chí-Minh tại chùa Ấn Quang. - Hiệp Thương Chính Trị thống nhất hai miền Nam, Bắc của Cộng Sản, một Thượng Tọa của phe Ấn Quang đã làm một bài tham luận, nịnh Cộng Sản, kể công của Ấn Quang và đả kích Nha Tuyên Úy Phật Giáo cùng Giáo Hội Thích Tâm Châu”. Nhiều người đã đặt câu hỏi: Cứ theo Bạch Thư của Hoà Thượng Tâm Châu, Giáo Hội Ấn Quang rất “Có công với Cách Mạng”, tại sao nhà cầm quyền VNCS (Việt-Nam Cộng sản) lại đánh sập giáo hội này? Thích Minh Châu đã đóng vai trò gì trong vụ đó? Câu chuyện khá phức tạp. Khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt-Nam, đa số các tăng sĩ trong Giáo Hội Ấn Quang tin tưởng một cách đơn giản rằng họ là những người “Có công với Cách Mạng” và Phật Giáo sẽ trở thành một thế lực lớn mạnh nhất khi thống nhất được Phật Giáo Nam – Bắc. Công việc đầu tiên là phải thống nhất Phật Giáo dưới sự lãnh đạo của Giáo Hội Ấn Quang, sau đó sẽ dùng Phật Giáo “hóa giải” Cộng Sản và tiến tới nắm chính quyền. Trong “Đơn xin cứu xét nhiều việc” gởi nhà cầm quyền VNCS, Hoà Thượng Huyền Quang kể lại rằng sau ngày thống nhất đất nước, Giáo Hội Ấn Quang đã viết thư cho Hội Phật Giáo ở miền Bắc đề nghị thống nhất, nhưng Hội Phật Giáo này không đáp ứng. Giáo Hội đã cử Hòa Thượng Thích Đôn Hậu từ miền Bắc về, đại diện cho Giáo Hội đến xin gặp ông Nguyễn-Văn-Hiếu, lúc bấy giờ là Bộ Trưởng Văn Hóa. Hoà Thượng Huyền Quang cho biết về câu chuyện gặp gỡ giữa hai bên như sau: “Hòa Thượng chúng tôi xin phép cho Giáo Hội chúng tôi vận động thống nhất Phật Giáo Việt-Nam, sau đó tiến đến thống nhất Phật Giáo hai miền. Nhưng bị ông Bộ Trưởng Văn Hóa từ chối với lý do: “Thống nhất Phật Giáo thì tốt, nhưng thống nhất với Phật Giáo cách mạng, chứ thống nhất làm gì với Phật Giáo phản động!” Hòa Thượng chúng tôi hỏi: “Phật Giáo phản động là ai?” Ông Bộ Trưởng Hiếu không trả lời (Ông Hiếu ám chỉ Giáo Hội chúng tôi là phản động)”. Bị coi là “Phật Giáo phản động”, Giáo Hội Ấn Quang tưởng như đang ở dưới thời VNCH, mở chiến dịch chống lại. Cộng Sản đã đàn áp thẳng tay và tìm biện pháp xóa sổ Giáo Hội Ấn Quang. Ngày 12/02/1980, Hà-Nội cho Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, Quyền Hội Trưởng Hội Phật Giáo Thống Nhất (Quốc doanh miền Bắc) vào Nam vận động thống nhất Phật Giáo. Ông họp với 20 đại biểu của các tổ chức và tông phái Phật Giáo miền Nam do Mặt Trận Tổ Quốc lựa chọn. Kết quả, hội nghị đã quyết định thành lập Ủy Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo và bầu Thượng Tọa Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Ấn Quang làm Trưởng Ban, còn Hòa Thượng Đôn Hậu, Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, làm Cố Vấn. Thượng Tọa Minh Châu đã đóng vai trò gì trong cuộc “vận động” này? Tài liệu cho biết Thượng Tọa Minh Châu đã họp các Thượng Tọa Trí Thủ, Trí Tịnh, Thiện Hào, Thiện Châu, Từ Hạnh và Hiển Pháp cùng với các cư sĩ Đỗ-Trung-Hiếu, Võ-Đình-Cường, Tống-Hồ-Cầm.... thành lập một nhóm chống lại sự phản kháng của nhóm Thượng Tọa Huyền Quang và Quảng Độ. Ngày 17/08/1981, Thượng Tọa Minh Châu đã làm một bản tường trình cho biết tại Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo Giáo Hội Ấn Quang “Đã diễn ra những sự kiện khác thường”, đó là việc “Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo, triệt hạ uy tín toàn Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo, ngang nhiên thách thức Chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt-Nam”. Chúng ta cần nhớ rằng kể từ khi GHPGVNTN bể làm hai vào năm 1966, Thượng Tọa Minh Châu luôn ở trong Giáo Hội Ấn Quang với chức vụ Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục cho đến sau năm 1975. Trong đại hội ngày 04/11/1981, tại chùa Quán Sứ ở Hà-Nội, có 164 đại biểu của các tổ chức, giáo hội và hệ phái Phật Giáo tham dự, Thượng Tọa Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Ấn Quang, đã đem Giáo Hội này sát nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam, tức Giáo Hội nhà nước, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự. Hòa Thượng Thích Trí Tịnh làm Phó Chủ Tịch, còn Thượng Tọa Minh Châu giữ chức Phó Chủ Tịch kiêm Tổng Thư Ký liên tiếp ba nhiệm kỳ I, II và III từ 1981 đến 1997. Sau đó, ông làm thành viên của Hội Đồng Chứng Minh. Các Thượng Tọa Thiện Minh, Huyền Quang, Đức Nhuận, Quảng Độ và một số vị khác không tán thành, đã bị bắt. Trường huấn luyện các sư quốc doanh: Năm 1976, Thượng Tọa Minh Châu đã bàn giao Viện Đại Học Vạn Hạnh cho Bộ Giáo Dục, sau đó lên cơ sở II ở Phú Nhuận, thành lập Phật Học Viện Vạn Hạnh. Công việc chính được Đảng Cộng Sản giao cho ông là huấn luyện các sư quốc doanh. Năm 1981, ông được đưa ra Hà-Nội mở Trường Cao Cấp Phật Học Việt-Nam Cở Sở I ở chùa Quán Sứ và làm Hiệu Trưởng. Nay trường này đã được đổi thành Học Viện PGVN (Phật Giáo Việt-Nam) và năm 2006, được dời về một cơ sở rộng lớn mới được xây cất ở thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà-Nội. Năm 1984, ông trở lại Sài-Gòn và biến Phật Học Viện Vạn Hanh thành Trường Cao Cấp Phật Học Cơ Sở II do ông làm Hiệu Trưởng. Nay, trường này cũng đã được biến thành Học Viện PGVN. Hiện nay, tại Việt-Nam có 4 Học Viện Phật Giáo trên toàn quốc trực thuộc Trung ương Giáo Hội Phật Giáo nhà nước được dùng để huấn luyện các sư quốc doanh, đó là các Học Viện PGVN tại Hà-Nội, Sài-Gòn, Huế và Học Viện Phật Giáo Nam Tông Khmer tại Cần Thơ. Theo tài liệu, các tăng ni sinh khi trúng tuyển vào học tại các Học viện này, được tu học nội trú 100% trong ký túc xá. Tăng ni sinh được miễn 100% chi phí ăn ở và 90% chi phí huấn luyện trong suốt thời gian tu học. Các báo trong nước viết: “Hòa thượng (Minh Châu) đã mở trường trong Đạo và ngoài đời để huấn luyện hàng nghìn Tăng Ni cấp Cử nhân Phật học cho Giáo hội, hàng chục nghìn sinh viên có bằng cấp thành đạt cho xã hội.” Thực chất của các “Sư quốc doanh” hay “Sư công an” được Thích Minh Châu huấn luyện như thế nào, các bloggers đã mô tả khá nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ xin trích lại một đoạn của một tác giả trong nước phổ biến trên các diễn đàn: “Nhân ngày làm lễ tốt nghiệp ra trường “Đại Học Phật Giáo” cho 274 tăng ni tại thành phố Sài-Gòn hôm kia, làm tôi nhớ lại chuyến đi thăm trường “Đại Học Phật Học” này. Khi tôi vào thăm trường, cả 6 lớp đang học tiếng Phạn, khoảng 30 phút sau thì đến giờ nghỉ giải trí. Nghe nói hôm đó Thầy Thích Thanh Tứ đến nói chuyện với các tăng ni trong trường nên không khí rất vội vàng và nghiêm chỉnh. Nhìn bãi để xe của nhà trường làm tôi suy nghĩ. Các nam nữ tăng ni đi học đại học hầu hết là bằng xe gắn máy phân khối lớn và toàn loại sang. Có nhiều tăng ni đi đến trường cả bằng xe hơi nữa. “Trong giờ nghỉ giải trí, quanh các quày bán sách, và sân trường, tiếng chuông điện thoại di động của các tăng ni reo không ngừng. Hầu hết các “Hoà thượng trẻ” đều dùng điện thoại đời mới và nhỏ xíu. Tôi ghé vào quán sách dưới bóng cây bồ đề ở góc sân trường, để tìm mua một vài quyển sách, thì thấy ở đây sách rất nhiều in và bìa đẹp, nhưng giá thì rất đắt, có quyển giá tới 540.000$. Thoạt đầu, tôi tưởng với giá đắt như thế các bậc Hoà thượng tương lai, sẽ ít mua, nhưng trái với dự đoán của tôi, bác bán sách cho tôi biết nhiều hôm không có đủ sách để bán. “Tôi đang đứng suy nghĩ điều gì đó dưới bóng cây bồ đề, bỗng có một vật lạ bay vào đầu tôi và tôi ngạc nhiên quay về phía sau thì thấy ba nữ Ni sinh Đại học Phật Giáo, xấu hổ quay mặt đi vì các cô đó ném cái hạt ô-mai trật mục tiêu,... Lẽ ra nó phải bay xa hơn nữa và trúng vào vị nam Tăng sinh đẹp trai, người đang đứng phía trước tôi và đang say sưa trả lời điện thoại....” Theo phúc trình mới nhất, hiện nay trong nước có khoảng 17.000 cơ sở chùa chiền với khoảng 50.000 tăng ni. Dĩ nhiên, trong số này cũng có rất nhiều vị chân tu, đi tu để tìm “Con đường giải thoát”. Nhưng đa số Sư Công An đều thuộc loại “Chân tu mà tay không tu”. Họ được phái đến “Trụ trì” tại các cơ sở Phật Giáo để bảo vệ an ninh và kinh tài. Một đảng viên đúng tiêu chuẩn: Các chức vụ và huân chương mà Thích Minh Châu được chính quyền ban cho kể từ sau ngày 30/04/1975 quá nhiều không thể ghi lại hết được, trong đó có làm đại biểu quốc hội 4 khóa liền, từ khoá VII đến khoá X. Không như Thích Trí Quang, tâm đầy tham vọng và ảo tưởng lúc nào cũng xưng hùng xưng bá khoác lác và hung hăng..., Thượng Tọa Minh Châu là một con người hòa nhã không hiếu động luôn hành động theo đường lối của Đảng, không để lộ tung tích. Ông đã làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó trong công tác trí vận ở miền Nam trước và sau năm 1975, đã góp công rất lớn trong việc dẹp tan “Phật Giáo phản động” và huấn luyện cho Đảng một hệ thống sư quốc doanh hoạt động có hiệu năng. Vì thế ông là một tăng sĩ có uy tính nhất đối với Đảng và nhà cầm quyền VNCS. Người được chọn để thay ông là Hoà Thượng Thích Trí Quảng, một đảng viên người gốc Củ Chi, cũng có kiến thức và những đặc tính tương tự như Thích Minh Châu. Sau khi Thích Minh Châu qua đời, báo trong nước cho biết các phái đoàn như Tổng Bí Thư BCH TW (Ban Chấp Hành Trung Ương) Đảng, Chủ Tịch nước, Quốc Hội, Chính phủ, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt-Nam, Bộ Công an.... đã đến dâng hương và đảnh lễ. Qua ông, chính sách tôn giáo vận của Đảng Cộng Sản coi như đã thành công, nhưng ông ra đi không thấy Niết Bàn mà "Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ"! Điều đáng ngạc nhiên là mặc dầu Thích Minh Châu đã góp công rất lớn trong việc làm tan rã Giáo Hội Ấn Quang, làm biến thể Phật Giáo và biến Phật Giáo thành công cụ của Đảng CSVN, ông vẫn được một số tăng ni và phật tử của Giáo Hội này quý mến và tôn sùng. Thật đắng cay cho vận nước!
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 20:53:44 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc)Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Lê Thy đánh máy từ sách do TM gởi tặng: baovecovang2012.wordpress.com/2021/05/14/toi-giet-nguyen-binh-tran-kim-truc/Mùa Đông năm 1946. Trong căn nhà lớn, bịnh xá của khu 7 tại miền Đông Nam Bộ, giữa rừng già Tân Uyên, bác sĩ Nguyễn văn Hưởng, Bộ trưởng Y tế trong Ủy ban Hành Kháng Nam Bộ, không dấu nổi vẻ băn khoăn, lo ngại trên khoé mắt. Mặc dầu giữa chiến khu, Bác sĩ Hưởng cũng đội nón, áo choàng dài trắng muốt và đeo “găng” cao su. Các phụ tá, mang trên tay chiếc khay bạc đựng dụng cụ giải phẫu cũng lo âu chẳng kém bác sĩ khoa trưởng. Chưa bao giờ, trong căn phòng nhỏ giải phẫu, đèn “măng xông”, lại được thắp nhiều và sáng như vậy. Bác sĩ Hưởng đưa mắt quan sát bệnh nhân. Bệnh nhân nằm dài trên chiếc bàn mộc, chỉ còn thoi thóp thở, đôi mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, máu đỏ còn rỉ qua băng quấn trên ngực và bụng. Một người đàn ông cao lớn đeo kính trắng, mặc bà ba đen, khẽ đẩy cửa phòng bước vào: – Thưa bác sĩ có chút hy vọng nào không ? Bác sĩ Hưởng trầm ngâm: – Tôi không dám quả quyết nhưng còn nước còn tát. Giải phẫu trong tình trạng này có thể làm bệnh nhân chết tức khắc hay hy vọng cứu được. Ông bí thư nghĩ sao ? – Thưa tôi cũng nghĩ như bác sĩ “còn nước còn tát”, may ra cứu sống được Khu trưởng. – Vậy ông bí thư ra ngoài, chúng tôi bắt tay vào việc. Cửa phòng khép kín, Bác sĩ Hưởng bắt mạch bệnh nhân Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình, một lần nữa rồi quyết định giải phẫu. Những vết thương nơi ngực không nguy hiểm, đầu đạn đã trổ ra ngoài mà không phạm vào phổi nhưng 4 viên trúng bụng thì thực là trầm trọng. Bác sĩ Hưởng quay lại nói nhỏ với một viên phụ tá vài câu rồi mới bắt tay vào việc. Không khí trong phòng giải phẫu thật nặng nề. Tiếng “soạt soạt” của chiếc dao bạc giải phẫu trên da thịt át cả hơi thở của các bác sĩ đương hành nghề. Giọng chỉ huy của bác sĩ Hưởng máy móc, ngắn ngủi nhưng cực kỳ nghiêm trang:”dao số 3, kìm số 1, kéo số 7, cắt đoạn này 2 phân nối ống cao su 1 phân, khâu lại bằng chỉ bạc số 6″. Các bác sĩ chuyên khoa làm việc như những chiếc máy tinh vi, nhanh nhẹn và đúng mức. Ánh sáng lên cao, xuyên qua các kẽ hở của cửa sổ làm lu mờ ánh đèn măng-xông vẫn chưa có ngọn nào bị tắt đi. Bác sĩ Hưởng xòe tay : – Kẹp cuối cùng. Mọi ngưòi thở phào vì biết cnộc giải phẩu gần 12 giờ liên tiếp đã chấm dứt. Bác sĩ Hưởng hạ lệnh: – Trong hai ngày đầu, phải thay phiên nhau, hai người thường trực suốt ngày đêm lo về tiếp máu và coi chừng hô hấp. Tới ngày thứ ba, thêm một người lo về lương thực. Chỉ dùng sữa và nước cháo loãng bơm thẳng vào bao tử, mọi biến chứng dầu nhỏ nhặt tới đâu cũng phải cấp tốc cho tôi hay. Khu trưởng sẽ hôn mê ít nhất trong một tuần. Qua thời gian đó là chắc sống nhưng phải điều dưỡng trong sáu tháng. Bác sĩ Hưởng ra khỏi phòng giải phẫu, không phải để nghỉ ngơi, mà cấp tốc gặp Nguyễn văn Thắng bí thư của Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình. – Bằng đủ mọi cách, nội trong ba ngày ông bí thư phải có cho tôi những loại thuốc và vật dụng này. Bác sĩ Hưởng hí hoáy viết đầy trên một tờ giấy trắng. Nguyễn văn Thắng lo lắng : – Thưa bác sĩ Bộ trưởng có hy vọng… Bác sĩ Hưởng mỉm cười : – Tôi chưa thấy ai có sức chịu đựng như Khu trưởng Nguyễn Bình. Sau cuộc giải phẫu, tuy Khu trưởng có yếu đi nhưng hơi thở không hỗn loạn, cho phép tôi hy vọng rằng Khu trưởng sẽ thoát nạn. Nguyễn văn Thắng xin phép ra ngoài phòng để trao cho cán bộ thân tín “toa” của bác sĩ Hưởng: – Bằng đủ mọi cách, và trong thời gian ngắn nhất, về Thành (Saigon) trao cho Phạm Ngọc Thảo “toa” này và bảo Thảo cung cấp đầy đủ trong một ngày, rồi cấp tốc mang về đây (Phạm Ngọc Thảo, cháu ruột của Phạm văn Bạch, Chủ Tịch Ủy ban Hành Kháng Nam bộ, thời đó là chỉ huy trưởng công tác Thành). Nguyễn văn Thắng trở lại phòng vẫn thấy bác sĩ Hưởng trầm ngâm. – Xin mời bác sĩ Bộ trưởng đi nghỉ. Với lương tâm nghề nghiệp, bác sĩ Hưởng hỏi lại : – Liệu có những” món đó ” trong hai ba ngày ?. – Thưa, có thể sớm hơn… – Tất cả ? – Dạ tất cả. Bác sĩ Hưởng đã đứng lên, nhưng lại ngồi xuống : – Tôi hơi tò mò, nhưng sự tò mò này quan trọng về nghề nghiệp vì có hiểu được mới ngăn ngừa các phản ứng khi Khu trưởng tỉnh dậy. Tại sao Khu trưởng làm… Nguyễn văn Thắng thở dài, nhẹ lắc đầu. *** Đúng một tuần lễ sau, tin Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình còn sống làm rúng động khắp Nam Bộ. Khởi đầu, người ta có cảm tưởng rằng đó chỉ là một tin nhằm trấn an tinh thần kháng chiến. Nhưng những kẻ từ Tân Uyên chính mắt trông thấy Nguyễn Bình còn thở, chính tai còn nghe Nguyễn Bình phều phào nói, xác nhận tin trên khiến không còn ai nghi ngờ. Tại làng An Tịnh, thuộc quận Tràng Bàng, tỉnh Tây Ninh, một phiên họp tối khẩn và tối mật được triệu tập. Tham dự phiên họp này có: – Huỳnh văn Trí tức Mười Trí, Tư lịnh Trung Đoàn 4 Bình Xuyên, – Sáu ” Xếch xông”, Tư lịnh Phó của Mười Trí, – Phạm Hữu Đức, Tư Lịnh Trung Đoàn 5 (thối thân của Đệ Tam Sư Đoàn), – Bùi Hữu Phiệt, Tư lịnh Trung Đoàn 25 (thối thân của bộ đội An Điền) – cùng viên Tham Mưu trưởng Trung Đoàn, Trình Minh Thế, Chỉ huy trưởng Cao Đài kháng chiến cùng thuộc hạ. Mười Trí đưa mắt nhìn Trịnh Minh Thế và Bùi Hữu Phiệt. Cả hai đều lắc đầu lầm bầm : – Không thể nào ngờ được. Phải, không ai cỏ thể ngờ được Khu trưởng Nguyễn Bình qua cuộc giải phẫu của bác sĩ Hưởng, lại còn sống. Cuốn phim dĩ vãng quay ngược trong đầu mọi người.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 20:56:16 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Cách đây hai tháng, Sáu “Xếch xông”… mang “mỹ hiệu” này vì trước thời kháng chiến, làm tiểu đội trưởng (Chef de Section) cho Pháp đại diện cho Mười Trí, đi dự phiên họp quân sự khu 7.
Khi trở về Ấp số 8, (Phú Lâm) nơi Trung Đoàn 4 đồn binh, sáu “Xếch xông” không dấu nổi sự băn khoăn, vui mừng lẫn lộn, khiến Mười Trí kéo vào phòng riêng hỏi:
– Sáu à có chuyện gì vậy mày ?
– Thưa anh lớn…
– Với tao như anh ruột màv, chuyện gì mày cũng có thể nói thiệt được.
Điều này, sáu “Xếch xông” công nhận nên lưỡng lự một chút rồi nói rõ :
– Thưa anh lớn, cuộc họp tại khu bộ chẳng có gì quan trọng. Không hiểu sao Khu trưởng biệt đãi em. Cuộc họp chấm dứt, Khu trưởng lưu em lại một ngày để… nói chuyện.
Mười Trí tánh nết nóng như lửa, ngắt ngang :
– Mà chuyện gì chứ? Sao mày ấp úng hoài ?
– Thưa anh lớn, Khu trưởng đề nghị với em tìm bắt bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 giao cho Khu trưởng. Xong việc…
Mười Trí đập bàn quát :
– Sao mầy không bắn vào đầu nó ? Mầy dư biết rằng tất cả anh em chỉ huy Trung Đoàn 25 là đảng viên Đại Việt, là đồng chí với tao mà!
– Dạ, thưa anh lớn em biết nên mói không dám nhận lời.
Mười Trí dịu giọng :
– Hay lắm, kể lại tao nghe tất cả những gì Nguyễn Bình đã nói với mày.
– Thưa anh lớn, Khu trưởng nói rằng: sau khi bắt hết bộ chỉ huy của Trung Đoàn 25 rồi em sẽ được thưởng 20.000 đồng và tức khắc Khu trưởng phong cho em làm Tư lịnh Trung Đoàn đó, Khu trưởng có cho em, trước khi ra về, một khẩu “ngựa bay” và 5.000 đồng gọilà… đặt cọc. Hôm nào em quyết định, Khu trưởng sẽ trao nốt số tiền còn lại…
Hai mươi ngàn đồng, số tiền không phải nhỏ vì “lương” của một người lính kháng chiến, mỗi tháng chỉ là 60 đồng nếu bộ chỉ huy có tiền.
Mười Trí hỏi tiếp :
– Ngày nào mày phải trả lời dứt khoát?
– Thưa, đúng một tuần, trong kỳ họp quân sự lần thứ hai tại khu bộ.
– Thôi được. Đừng nói cho bất luận ai biết. Tao cần đi gặp Bùi Hữu Phiệt gấp.
Sáu “Xếch xông” la lên :
– Thưa anh lớn.
– Yên chí. Có tao đây anh em Đại Việt không ai bắn mày đâu mà sợ… Và nếu bắn, thì chính tao đã bắn mày rồi.
Mười Trí vội vã qua Ấp số 4, nơi Trung Đoàn 25 và 5 đồn binh, chỉ cách Ấp số 8 có con lộ trải nhựa.
Sự qua lại giữa hai ấp, từ cấp chi huy đến binh sĩ là chuyện thông thường nên lính canh bồng súng chào mà không chút ngạc nhiên trước sự xuất hiện của Mười Trí.
Mười Trí đi thẳng tới Tổng hành dinh của Trung Đoàn 25, đưa mắt nhìn mọi người đương làm việc rồi nói.
– Các em. Qua có chuyện riêng muốn nói với anh Phiệt vài phút.
Mười Trí nói với Bùi Hữu Phiệt bằng giọng ỡm ờ:
– Anh Phiệt, dạo này có nhiều tiền xài không ?
Bùi Hữu Phiệt lắc đầu :
– Tháng này các anh em ở thành chưa cho người tới tiếp tế.
Trưng đoàn 25 tức bộ đội An Điền đặt dười quyền chỉ huy của Đại Việt Quốc Dân Đảng Xứ Bộ Nam Việt, nên thường được Đảng tiếp tế tiền bạc và vũ khí.
Mười Trí vẫn giọng cười đùa cợt:
– Tôi cho anh 10.000 đồng, chịu không ?
Bùi Hữu Phiệt ngạc nhiên trước số tiền lớn lao, trố mắt hỏi lại:
– Thiệt không ? Tiền đâu mà anh Mười có nhiều vậy ?
Trung Đoàn 25 liên minh với Bình Xuyên và mang danh là của Bình Xuyên nên sự trợ giúp lẫn nhau là chuyện thông thường.
Mười Trí cười.
– Thiệt chứ. Đó là phân nửa số tiền tôi bán cái đầu anh cho Nguyễn Bình.
Chờ cho Bùi Hữu Phiệt đã “tỉnh trí” Mười Trí mới kể rõ đề nghị của Khu trưởng Nguyễn Bình với Sáu “Xếch xông”.
Bùi Hữu Phiệt trầm ngâm :
– Bây giờ anh Mười tính sao ?
Giọng nói của Mười Trí trở lại vô cùng nghiêm nghị :
– Mình tương kế tựu kế. Tôi cứ sai thằng Sáu đi họp khu bộ kỳ tới, nhận lòi với Nguyễn Bình, lãnh tiền về rồi tụi mình chia đôi.
– Như vậy không ổn. Nguyễn Bình bị lừa sẽ căm giận Sáu “Xếch xôn” sẽ trút tất cả thù hận lên đầu anh.
– Tụi mình sợ gì ? Với Trung Đoàn 2,3, 4, 5 và 25 Bình Xuyên cộng thêm với anh em Cao Đài và Hòa Hảo kháng chiến,dư sức “ăn chung” đủ với Nguyễn Bình.
– Nhưng mối thù hận sẽ kéo dài và cuộc thanh toán giữa kháng chiến với kháng chiến chẳng ích lợi gì cho đất nước.
Mười Trí gật đầu tán thành :
– Đúng. Vậy anh có kế hoạch gì khác không?
Bùi Hữu Phiệt đảo mắt nhìn quanh như sợ “vách có tai” rồi mới nói nhỏ cho Mười Trí ra kế hoạch của mình.
Mười Trí mừng rỡ lộ trên nét mặt:
– Đúng đúng. Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ. Nhưng tại sao anh phải di binh ? Và tại sao lại phải cần tới Trình Minh Thế ?
Bùi Hữu Phiệt giải thích :
– Ấp số 4 quá gần Saigon lại là “Tổng hành dinh” của anh, ” con mồi” chưa chắc gì dám tới, mà nếu có tới thì những gì xảy ra, anh lãnh đủ hậu quả.
– Còn việc nhờ tới Trình Minh Thế ?
– Đó là đòn “hư hư thực thực”. Trên phương điện công khai Cao Đài Kháng chiến lãnh hậu quả của vụ này, nhưng anh Thế đồn binh tại Dòng Lớn sát với Cao Miên, biên thùy một cõi, thì có thể bất chấp những gì xảy ra sau “vụ đó”. Một điều hợp lý hơn nữa là cả Nam bộ, ai cũng biết Nguyễn Bình và Trình Minh Thế có mối thù không đội trời chung.
Mười Trí vỗ tay cười :
– Hợp lý. Nhưng ngày nào anh di binh?
Bùi Hữu Phiệt cũng cười:
– Ngày mai anh Mười triệu tập một cuộc họp quân sự giữa Trung Đoàn 4, 5 và 25 đi. Anh đề nghị đánh Chợ Lớn. Tôi và anh Phạm Văn Đực phản đối đề nghị này. Chúng mình công khai công kích nhau, tôi gây sự bất hòa. Sau đó, tôi hạ lệnh di binh ngay, anh Đức cũng tách rời khỏi khu vực Phú Lâm.
– Nhưng nếu anh Đức cùng đi với anh…
– Anh Đức sẽ đi sau tôi một ngày và không đồn binh cùng một chỗ…
Một lần nữa Mười Trí cười lớn :
– Tư Đức đồn binh ở địa điểm có thể tương trợ anh nếu Nguyễn Bình đưa quân của thằng Lê Hồng Giỏi, Huỳnh Tấn Chùa, Đao sơn Tây tới tấn công bộ đội anh chứ gì?
– Dạ phải.
– Thế còn vụ Trình Minh Thế ?
– Tôi sẽ cho liên lạc ngay. Anh Thế gặp tôi ở nơi đồn binh mới.
Mười Trí vui vẻ đứng dậy muốn ra về.
Bùi Hữu Phiệt nói đùa:
– Anh Mười nhớ cho người mang 10.000 đồng bán đầu tôi tới địa điểm mói nghe ?
Cuộc họp quân sự tại ấp số 8 (Phú Lâm) nổi sóng. Lần đầu tiên Phạm Hữu Đức và Bùi Hữu Phiệt lớn tiếng công khai chỉ trích quyết định đưa quân tấn công Chợ Lớn của Mười Trí.
Mười Trí, bằng những “danh từ Bình Xuyên” đã mạt sát Bùi Hữu Phiệt và Phạm Hữu Đức là thỏ đế.
– Vậy mà cũng Tư lịnh này Tư lịnh nọ, cầm quân kháng chiến.
Bùi Hữu Phiệt và Tư Đức giận dữ bỏ phòng họp đi thẳng một mạch về ấp số 4. Tấn tuồng họ đóng khéo léo tới mức không một ai nghi ngờ.
Tư lệnh Trung Đoàn 25 hạ lệnh, chập tối hôm đó, phải cấp tốc di binh.
Lưu Nhất tức Tiến,chỉ huy quân sự ngăn cản:
– Anh Sáu (Bùi hữu Phiệt) nóng quá. Để thủng thẳng bàn luận với anh Mười xem sao ?
Sáu Phiệt cười lạnh lẽo:
– Thảo luận gì nữa ? Nội đêm nay anh Mười đưa quân đánh Chợ Lớn hay ít lắm cũng đánh Phú Lâm, thì sáng sớm mai Tây nó sẽ trả đũa, chúng mình ở đây hứng lấy cái chết hay sao ?
Trung Đoàn 25 Bình Xuyên nhổ trại trước sự luyến tiếc của anh em chiến sĩ trong Liên Minh.
Khuya đêm đó, họ tới nơi đồn binh đã dịnh, bến Lò Đường tại Vàm Cỏ Đông.
Lưu Nhất tức Tiến mừng rỡ vì nơi đây là chỗ đồn binh lý tưởng.
Lẽ cố nhiên, vì chiến thuật di động cần thiết cho du kích chiến, Bộ Tham Mưu đã phải định trước những địa điểm di và đồn binh, nhưng nơi vừa tới thực quá “đẹp”.
Về đường bộ, nếu địch quân tới phải băng qua một cánh đồng rộng mênh mông và trơ trụi không thể nào lọt khỏi con mắt quan sát của tình báo hay tiền đồn.
Về đường thủy, địch quân phải đi dọc theo sông Vàm Cỏ Đông, đổ bộ nơi bến Lò Đường cũng quá lộ liễu đối với tình báo, liên lạc viên của Trung Đoàn tung ra khắp nơi.
Hơn nữa, bộ Tổng Tham Mưu được đặt tại căn nhà lớn, cách bến Lò Đường cả gần cây số ngàn.
Muốn tới bộ Tổng Tham Mưu người ta phải băng qua nhiều khu đất trống, nhà cửa thưa thớt rồi cuối cùng vượt cây cầu gỗ khá lớn bắt ngang rạch mới tới tiền đồn của bộ Tổng Tham Mưu .
Điểm đắc lợi nhất nơi đây là binh đội được đóng thành hình chữ I tại các căn nhà dọc theo bờ sông sình lầy, đầy dừa nước, số còn lại đồn trú nơi nội địa hình cánh cung.
Như vậy dầu bị tấn công thì Trung Đoàn 25 cũng dư điều kiện thuận lợi để kháng chiến, có thua thì cùng đủ “đất” để rút lui một cách an toàn.
Bùi Hữu Phiệt gọi vị chỉ huy quân sự tới:
– Anh cho liên lạc đi mời gấp Trình Minh Thế.
– Thưa anh lớn…
– Tôi đã thỏa thuận với anh Tư Đức về vấn đề tương trợ phía Nam nhưng còn phía Bắc cần anh Thế.
Lưu Nhất cãi:
– Thưa anh Tư lịnh, phía Nam hay Bắc mà bị địch tấn công, với địa thế này, Trung Đoàn chúng ta cũng đủ sức tự vệ.
Sáu Phiệt dịu đàng, một điều ít khi có trong những cuộc thảo luận với thuộc cấp :
– Tôi cũng biết vậy. Anh Tư Đức và anh Thế cũng là liên minh với tụi mình thì tính toán thế chân vạc tương trợ lẫn nhau vẫn hơn là tự mình phải đảm đương hết mọi chuyện.
– Dạ đúng.
Sáu Phiệt vẫn chưa muốn cho Lưu Nhất biết rõ bí mật đương được “dệt thành màng lưới ” nên đáp :
– Tấn mà thắng là điều mong muốn nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới cái thoái an toàn của anh em.
Lưu Nhất công nhận:
– Thưa anh lớn, tôi sẽ phái liên lạc đi ngay. Anh lớn có cần biên thư…
– Khỏi cần. Liên lạc nói với anh Thế rằng “việc cay đắng” là đủ.
Đó là mật hiệu giữa các vị Tư lịnh trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến miền Nam.
Nhận được “mệnh lệnh tối khẩn ” Trình Minh Thế tức tốc tới bến Lò Đường.
Bùi Hữu Phiệt hơi ngại vì Trình Minh Thế đem theo một tiểu đội cận vệ trong đó có cả Tư lệnh phó Cao Đài kháng chiến tên Luyến.
Luyến nhiều tuổi hơn Thế nhưng lại nóng nảy, luôn luôn đeo trên vai khẩu súng trường của kỵ binh Nhựt. Luyến là tay thiện xạ, trong vòng 100 thước, chưa hề bắn phát nào không trúng đích.
Nhiều người ngạc nhiên vì địa vị cao mà còn mang súng trường thì Luyến đáp :
– Nói thiệt với các anh, đi đường xa, thấy “cái gì” khả nghi trong 200 thước trở lại, với cây súng này, nếu tôi không bắn chết thì cũng làm “nó” bị thương.
Trò chơi ưa thích nhất của Luyến là khi bắt được các cán bộ Việt Minh, sau cuộc điều tra, trói địch dưới gốc cây rồi tuyên án:
– Mày VM hạng nhẹ, tao bắn cháy tóc. Mày VM cỡ trung tao “xin” một tay. Mày nặng quá rồi, đạn phải ghim giữa trán.
Không bao giờ “bản án đã tuyên” lại bị truyền thi hành sai lệch.
Như hiểu ý Bùi Hữu Phiệt, Trình Minh Thế nói:
– Tôi có một chuyện rất khó, nói riêng với mình anh được không?
Bùi Hữu Phiệt nhận lời ngay. Như vậy cuộc gặp gỡ tay đôi do khách đề nghị. Trung Đoàn 25 không còn lo đã tỏ ra coi khách kẻ trọng người khinh
Khi chỉ còn hai người đối điện. Bùi Hữu Phiệt, kể tỉ mỉ về đề nghị của Nguyễn Bình với Sáu ” Xếch xông “, về mưu tính của Mười Trí và luôn cả tấn tuồng cãi lộn ở ấp số 8 Phú Lâm:
– Anh đảm nhiệm được vai trò quyết định đó không ?
Trình Minh Thế trả lời ngay :
– Lẽ cố nhiên là được nhưng tại sao các anh dành cho chúng tôi ?
– Điều đó cũng dễ hiểu. Nếu có sự nhúng tay lộ liễu của anh Mười Trí thì toàn thể Bình Xuyên sẽ lâm nguy vì địa điểm đồn binh của Bình Xuyên dễ bị tấn công. Hơn nữa, anh Mười không phải là Tư lệnh của toàn thể Bình Xuyên. Hậu quả xảy ra, Năm Hà, Sáu Đời, Tư Tỵ, Bảy Viễn có thể trách cứ anh Mười gây xáo trộn nội bộ.
Trình Minh Thế gật đầu:
– Điều đó đúng, nhưng Sáu “Xếch xông”…
– Anh Mười có thể đổ quấy rằng Sáu “Xếch xông” phản Trung Đoàn 4 Bình Xuyên.
Trình Minh Thế mỉm cười, đăm đăm nhìn Bùi Hữu Phiệt :
– Sao các anh không tự giải quyết vụ nầy, nhất là Nguyễn Bình đã muốn “lấy đầu anh”? Tôi đã dự cuộc thi bắn có mặt cả Nguyễn Bình, các em của anh bắn còn chính xác hơn người khác ?
– Đúng vậy, nhưng công khai, Nguyễn Bình chưa hề có điều gì thất thố với chúng tôi, trái lại bề ngoài lúc nào”Khu trưởng” cũng ưu ái.
Trình Minh Thế phá lên cười:
– Mặc dầu chính các em anh đã một lần mưu sát Khu trưởng ?
Bùi Hữu Phiệt thở dài:
– Phải, nhưng tất cả sự việc đó đều trong vòng bí mật mà chỉ chúng ta biết với nhau.
Trình Minh Thế mơ màng :
– Tôi hoàn toàn tán thành vụ này nhưng tôi khó mà đích thân…
Bùi Hữu Phiệt qua cuộc thi bắn đã biết rằng Trình Minh Thế rất giỏi về chỉ huy quân sự, nhưng tài súng sáu lại tầm thường, nên đáp:
– Tôi “biếu” anh một tay xạ thủ cừ khôi….
Như chợt nghĩ ra, Trình Minh Thế reo lên:
– Không cần. Tôi cũng có “quan dưới trướng” đáng mặt.. anh hùng.
Bùi Hữu Phiệt nghiêm nghị:
– Anh hơn chúng tôi ở chỗ biên thùy một cõi. Vụ này vì đại cuộc.
Trình Minh Thế ngắt lời :
– Tôi đã bằng lòng rồi mà. Một liên lạc của tôi sẽ để… anh nuôi cơm. Khi cần tức tốc nó về báo cáo. Anh tin đi, tôi xếp đặt mọi chuyện thực chu đáo.
Nhưng một tuần sau cuộc thảo luận giữa Bùi Hữu Phiệt và Trình Minh Thế trôi qua, nước sông Vàm Cỏ vẫn êm dịu chảy, mây trắng vẫn bay mà chưa có tin của Mười Trí.
Mười giờ sáng hôm đó, hai chiếc xuồng ba lá, dài và to hơn xuồng thông thường, cặp bến Lò Đường.
Hơn một tiểu đội, đội nón lá lụp xụp, mặc tuyền bà ba đen, võ trang tiểu liên lăm lăm trên tay trừ hai người chỉ huy đeo súng lục, vội vã bước lên bờ.
Người đi đầu bỏ nón lá ra, vẫy vẫy như chào những người lính gác vọng đầu và được kính cẩn chào lại vì người đó là Sáu “Xếch xông” quá quen thuộc với anh em Trung Đoàn 25.
Đoàn người tiến mau vào nội địa. Còn cách cây cầu vài trăm thước, Sáu “Xếch xông ” quay lại nói nhỏ với người đeo súng lục. Người này gật đầu, bỏ hàng ngũ, một mình tiến vào tòa Miếu hoang gần đó.
Sáu “Xếch xông” tiếp tục hướng dẫn tiểu đội tiểu liên nhắm hướng cầu thẳng tiến.
Người ở lại đã vào trong Miếu, bỏ nón lá xuống.
Y cao lớn, đeo cặp kiếng đặc biệt nửa trên màu đen thẳm, nửa dưới màu xanh nhạt. Khẩu súng đeo bên hông của y cũng khác thường, khẩu Wicker, nòng quá dài, khẩu súng tùy thân của những người săn sư tử bên Phi Châu.
Y đảo mắt nhìn quanh, rồi như linh tính báo động, quay ngoắt lại :
– Anh là ai ?
Kẻ mới xuất hiện nơi ngưỡng cửa Miếu, cũng mặc bà ba đen nhưng không đội nón lá, và tay cầm khẩu Colt 11,45 lễ phép đáp :
– Thưa Khu trưởng…
– Anh biết tôi ? Anh đến đây làm gì ?
– Thưa Khu trưởng, vâng lệnh các anh lớn trong Liên Minh Quốc Gia Kháng Chiến, và của anh Tư lệnh tôi….
Nguyễn Bình ngắt lời:
– À tôi nhớ ra rồi. Anh là người của Trình Minh Thế đã tham dự cuộc bắn thi ở Rừng Thơm.
– Dạ phải. Thưa Khu trưởng tôi đến đây để xử tử Nguyễn Bình.
Phản ứng của Nguyễn Bình thực mau lẹ, nhảy xéo qua đưa tay rút súng nhưng kẻ thi hành án lệnh còn nhanh hơn, bắn viên đầu trúng bả vai phải của Nguyễn Bình và ngay phát sau trúng ngực trái.
Nguyễn Bình bỏ chạy về phía tượng Phật nhưng chỉ còn đưa tay trái ra nắm lấy chân tượng rồi từng phân một quỵ xuống, cuối cùng ngã ngửa trên sàn gạch rêu đã phủ xanh.
Kẻ thi hành án lệnh muốn bắn thêm “phát ân huệ “. Từ phía cầu, tiểu liên nổ ròn tan và liên tiếp kế tiếng chân vội vã chạy về phía Miếu hoang.
Kẻ thi hành án lệnh mỉm cười, đi về phía sau Miếu rồi mất dạng.
Các vệ sĩ của Nguyễn Bình đã vào trong Miếu.
Nguyễn Bình đương dãy dụa, hai tay ôm chặt lấy bụng, máu đỏ từ các kẽ tay tuôn ra nhuộm đỏ cả rêu xanh.
Có tiếng hạ lệnh :
– Khiêng Khu trưởng xuống xuồng. Rút lui mau.
Tiếng chèo khua nước, chiếc xuồng chở Nguyễn Bình nằm ngửa, chân còn dãy dụa vì đau đớn, rẽ sóng lướt mau trên mặt nước.
Trên bờ dọc theo mé sông Vàm Cỏ Đông, sau những bụi dừa nước um tùm, đoàn quân của Trung Đoàn 25 đã phục kích sẵn với cả những khẩu đại liên Maxim’s.
Xạ thủ đại liên hỏi vì hai chiếc xuồng đã nằm gọn trong ổ phục kích.
– Thưa anh lớn, ta nhả đạn chứ ?
Lưu Nhất đã chứng kiến từ lúc đầu khi Nguyễn Bình được khiêng xuống xuồng, chép miệng đáp :
– Không cần. Dẫu sao chăng nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình cũng đáng được chôn cất đường hoàng chứ không đến nỗi phải… mò tôm (tiếng của kháng chiến ám chỉ kẻ chết bị thả xuống sông).
Vì muốn dành một chút danh dự cuối cùng cho một vị Khu trưởng mà sau này, kháng chiến Nam Bộ nổi lên biết bao sóng gió…
***
Văn phòng bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 lại nhộn nhịp nhưng trong một phòng kín chỉ có Bùi Hữu Phiệt, Lưu Nhất, Sáu “Xếch xông”, vị Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 và “anh lính Cao Đài” xạ thủ hội họp.
Bùi Hữu Phiệt hỏi “anh lính Cao Đài”:
– Em có chắc Nguyễn Bình bị chết không ?
– Thưa anh lớn, một phát trúng bả vai, một phát trúng ngực không nguy hiểm lắm, nhưng bốn phát trúng bụng thì tôi chưa thấy ai có thể chịu được.
Lưu Nhất tiếp:
– Đạn Colt II, 45 bắn gần, có thể làm đứt từng khúc ruột.
Bùi Hữu Phiệt quay qua hỏi Sáu “Xếch xông”.
– Sao tới mãi hôm nay mới thi hành được một vụ ?
Sáu “Xếch xông” vội đáp :
– Trong phiên họp khu bộ kỳ 2, Nguyễn Bình thấy em nhận lời… bên anh, thì mừng lắm muốn ra tay ngay nhưng cuối cùng lại trì hoãn bởi có bận nhiều công việc quan trọng khác. Y lưu em lại khu bộ, em nóng lòng muốn chết vì phải thông báo cho anh Mười rõ. Nguyễn Bình cũng rõ bổn phận của em sau khi đi họp, nên viết thư tay, cho liên lạc của khu bộ đi trao cho anh Mười nói rằng còn nhiều việc hệ trọng bàn với em nên phải trong một thời gian nữa mới về được.
Cuối cùng em mới hiểu rằng Nguyễn Bình nghi ngờ em hay ít lắm, vào lúc giờ chót có thể thay đổi ý kiến nên giam lỏng em ở Khu để dò xét.
Nhận được thư, anh Mười đã biết, rồi thông báo hành trình của tụi em hằng ngày cho anh biết.
– Tại sao Nguyễn Bình lại phải làm thế?
– Một phần y sợ đàn em không hoàn tất được sứ mệnh, phần nữa y phải kèm sát em sợ mưu toan bị lộ.
Lưu Nhất gật đầu :
– Dĩ nhiên là Nguyễn Bình phải hành động như vậy.
Sáu “Xếch xông” kể tiếp :
– Đã lọt vào nội địa bên Lò Đường rồi, em đề nghị Nguyễn Bình vào Miếu lánh mặt bởi lẽ tất cả các anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 đều biết mặt Khu trưởng. Nếu mẻ lưới không bắt được trọn bộ Tham Mưu, chỉ một tên thoát thôi cũng đủ vở lỡ hết mọi chuyện. Hơn nữa sự xuất hiện đột ngột của Khu trưởng có thể gây phản ứng bất ngờ mà anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 ai cũng có súng, ai bắn cũng mau như Khu trưởng đã biết. Nguyễn Bình công nhận hữu lý nên mới tạm lánh nơi miếu hoang.
Sáu “Xếch xông ” chợt hỏi :
– Thí dụ như Nguyễn Bình không chịu vào Miếu thì các anh tính sao ?
Lưu Nhất mỉm cười:
– Thì… tốn thêm ít viên đạn nữa. Gần tới cầu, anh Sáu thấy loáng thoáng vài người ra vào bộ Tham Mưu nhưng quanh sân, trung đội Thompson phòng vệ bộ Tham Mưu đã phục kích sẵn. Thí dụ như trung đội này thua tiểu đội tiểu liên của Nguyễn Bình thì còn vòng đai bên ngoài…
Lưu Nhất nghiêm giọng :
– Sáng sớm hôm nay tôi mới được anh Tư lịnh Trung Đoàn cho hay, nhưng khi thấy Nguyễn Bình đặt chân lên Lò Đường là đã coi y như cái thây ma dầu y có mang theo cả một đại đội vệ binh vì cả đại đội này sẽ bị quân phục ven sông bắn chìm xuồng trước khi đặt chân lên đất liền.
Thí dụ rằng, giờ phút chót, Nguyễn Bình đổi ý kiến, quay xuồng cùng tiểu đội cận vệ ra về thì máu loang nhiều trên sông Vàm Cỏ chứ làm sao thoát được tử thần.
Sáu ” Xếch xông” rùng mình, Lưu Nhất hiểu ngay :
– Trong trường hợp đó thì cũng hơi nguy hiểm cho anh vì đạn vốn không có mắt.
Sáu “Xếch xông” thắc mắc :
– Nhưng tại sao Nguyễn Bình lại thù hận các anh như vậy ?
Bùi Hữu Phiệt đưa mắt cho Lưu Nhất rồi cùng phá ra cười :
– Không, Khu trưởng Nguyễn Bình không “ghét” chúng tôi như anh tưởng đâu.
Câu hỏi của Sáu “Xếch xông” không phải là vô lý nhưng Bùi Hữu Phiệt và Lưu Nhất đã cười xòa, lãng sang chuyện khác bởi vì dầu sao cũng không cần phải cho Sáu” Xếch xông” hiểu biết về sự sống chết ngấm ngầm giữa Nguyễn Bình và Trung Đoàn 25 Bình Xuyên.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 20:57:39 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nguyễn Bình tên thực là Nguyễn Thông Thảo hay Nguyễn Phương Thảo vì cả hai tên đó đều đúng, nguyên là đảng viên của VNQDĐ, Nguyễn Bình đã trung kiên theo tinh thần của đàn anh Nguyễn Thái Học mà hoạt động nên bị Pháp kết án và đày ra Côn Đảo.
Nơi Côn Đảo, Nguyễn Bình đụng chạm với nhiều đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế, chịu ảnh hưởng của những “bạn mới” này. Điều đó quá thông thường. Nhưng Nguyễn Bình lại mắc một lỗi lầm quá lớn là sau khi chịu ảnh hưởng của cán bộ Đệ Tam Quốc Tế rồi, chịu làm chỉ điểm viên cho Chúa ngục Toustou, tố ngược lại những dự tính những âm mưu thầm lặng của các đồng chí cũ.
Thời kỳ đó,”Chúa ngục” Toustou là Vua với đấy đủ quyền hành tại Côn Đảo.Toustou muốn biết một điều gì, có thể tra tấn phạm nhân tới mức gẫy nát đôi chân, sống lây lất hay chết thì cho xuồng đưa thi hài ra bỏ ngoài biển cả.
Hình phạt tầm thường nhất của Toustou là nghe báo cáo kẻ nói xấu sau lưng mình sẽ bị bỏ xuống hầm xay lúa một vài tháng.
Trong hầm này, suốt ngày đêm không có một chút ánh sáng. Phạm nhân, ở trần truồng đẩy trụ máy xay lúa như con trâu kéo trục ép mía ở các lò đường. Phạm nhân nhắm chặt mắt khi làm việc vì có mở mắt cũng chẳng thấy đường, và mở sẽ bị bụi tấm, trấu bay mù mịt lọt vào mắt, nhức nhối vô cùng. Phạm nhân nơi hầm xay lúa mỗi ngày được hai vắt cơm, một chút muối hột, và một lon nước lạnh.
Nguyễn Bình đã tố cáo nhiều đồng chí cũ, hầu hết là cao cấp mà cán bộ Đệ Tam Quốc Tế e dè, phải sống cảnh “địa ngục Côn Đảo”.
Điều này khiến cho các “can phạm áo xanh” như kỹ sư Phan Khắc Sửu nhân viên trong văn phòng của Côn Đảo; “Ông già Tín” đặc trách lo về việc tù nhân đốn cây và hái ớt v.v… tức bực.
Càng tức bực và xấu hổ hơn nữa là các can phạm đảng viên của VNQDĐ. Bởi vậy họ đã phục kích Nguyễn Bình và vây đánh đòn hội chợ nhừ tử tới mức Nguyễn Bình bị hư con mắt bên trái. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của các thày chú thì chắc chắn Nguyễn Bình đã bỏ mạng ngoài Côn Đảo.
Thêm nhiều đảng viên VNQDĐ xuống hầm xay lúa, nhưng có lẽ cũng vì trận đòn này, Nguyễn Bình phần nào thay đổi tính nết: một nửa còn hào khí của con người quốc gia, một nửa của con người Đệ Tam Quốc Tế.
Ngày đảm nhiệm thức vụ Khu trưởng Khu 7 tại Nam Bộ, Nguyễn Bình đơn thương độc mã tới thăm bộ đội mạnh nhất là An Điền (sau đổi thành Trung Đoàn 25 Bình Xuyên).
Nguyễn Bình ngỡ ngàng nhất khi gặp lại Tổng Tham Mưu bộ đội An Điền, từ Phan Khắc Sửu, ông già Tín, Bùi Hữu Phiệt, Huỳnh văn Thảo tức giáo Thảo, Trần Quốc Bửu, Văn Ngô và nhiều người khác, nhưng lại là những người đã từng bị giam cầm tại Côn Đảo, những người đã từng biết rõ hành động của Nguyễn Bình nơi hòn đảo “địa ngục” này.
Một điều “ngán ngược” hơn hết cho Nguyễn Bình là hiện diện trong bộ Tham Mưu của bộ đội An Điền còn có một người thanh niên từng đảm nhiệm cấp bậc chỉ huy của sư đoàn Sao Trắng hoạt động tại vùng Tiên Yên Móng Cáy chạy dài xuống Quảng Yên (BV) khi ông HCM mới lên nắm chánh quyền tại Hà-nội .
Nguyễn Bình đã từng được lệnh của Việt Minh cầm quân đánh phá Sư đoàn Sao Trắng của Đại Việt Quốc Dân Đảng do tướng Vũ Kim Thành chỉ huy.
Tuy nhiên An Điền là “địa chủ”, cuộc đón tiếp Khu trưởng Nguyễn Bình vẫn diễn ra vô cùng lịch sự và hòa nhã, đúng tinh thần thượng võ Á Đông “người ta là khách”.
Nhưng đôi bên “hờm” nhau từ đó.
Chuyện Côn Đảo xa xôi bởi vì những người mà Nguyễn Bình đụng mặt tuy biết rõ những gì đã xảy ra, nhưng không ai trực tiếp là nạn nhân của Nguyễn Bình thời đó.
Phạm Hữu Đức, sư đoàn phó Đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, Tư lịnh Trung Đoàn 5 theo sự “cải tổ quân sư” nhưng chưa bề bị đày nơi Côn Đảo nên không chút thù hận Nguyễn Bình.
Nhưng sự hiện diện của một người đã từng lãnh nhiệm vụ quan trọng trong sư đoàn Sao Trắng BV làm cho Nguvễn Bình e dè nhất: Vũ Kim Thành.
Vũ Kim Thành, Tư lịnh Sư đoàn Sao Trắng, cũng như cụ Nguvễn Hải Thần, đã từng hoạt động nơi Trung Hoa lục địa trong hàng ngũ của Tưởng Giới Thạch.
Khi Nhựt vào đầu hàng Đồng Minh, Vũ Kim Thành được lệnh của Đại Việt Quốc Dân Đảng kéo quân về nước, phối hợp với các cán bộ chiến khu Triệu, tiến chiếm Hà Nội.
Một trận bão lụt đã làm cho đoàn quân này phải ngừng lại vài ngày và để cho đoàn quân giải phóng Việt Minh gồm không đầy 200 người, dưới quyền chỉ huy của Văn Thiết Dũng tới thủ đô BV trước.
Võ Nguyên Giáp hạ lệnh cho Nguyễn Bình đưa quân gồm những lính cũ “khố xanh, khố đỏ” của Pháp, chặn đánh sư đoàn Sao Trắng.
Nhiều trận đụng độ ác liệt xảy ra, đôi bên còn trong thế ngang ngữa thì dưới áp lực của Lữ Hán và Tiêu Văn, hai tướng Tàu qua giải giới Nhật, Hồ Chí Minh buộc lòng phải hòa hoãn với phe quốc gia.
Hành động chống đối sư đoàn Sao Trắng của Nguyễn Bình đã quá lộ liễu, nhà cầm quyền Việt Minh chỉ còn cách là cho Nguyễn Bình rời khỏi Hà Nội, theo phái đoàn Bắc Việt vào Nam bộ.
Để giữ hoàn toàn bí mật Nguyễn Phương Thảo lấy tên là Nguyễn Bình, một nhân viên tầm thường tháp tùng phái đoàn Lê Duẫn vào Nam.
Nhưng khi đã đặt chân trên giải đất miền Nam rồi, con cọp được xổng chuồng, mang danh Nguyễn Bình thay vì Nguyễn Phương Thảo hay Nguyễn Thông Thảo.
Tình thế quân sự Nam Bộ, hồi đầu năm 1946 vô cùng phức tạp, có thể nói là “102 sứ quân” chứ không phải 12 sứ quân vì bất luận ai, qui tụ được một số người, có trong tay vài khẩu súng y cũng có thể “làm vua một cõi “.
Nguyễn Bình được phong hay tự phong làm Khu trưởng khu 7 bao gồm miền Đông Nam Bộ, một khu vô cùng quan trọng vì quân đội Pháp chỉ mới lan tràn nơi đây.
Nguyễn Bình nhận xét rất mau và rất đúng tại khu đương bốc lửa này, những bộ bội do cán bộ Cộng sản chỉ huy hay thân Cộng như bộ đội của Huỳnh Tấn Chùa, Đào Sơn Tây, Huỳnh văn Nghệ chỉ có danh mà không có thực lực, lèo tèo vài chục khẩu súng quá cũ kỹ.
Trái hẳn lại, những bộ đội kháng chiến “chỉ biết đánh Tây” như Bình Xuyên lại được Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường khi còn là Giám đốc và Phó Giám đốc Công an Nam bộ thời Nhựt vừa đảo chánh Pháp, cung cấp cho nhiều vũ khí lấy được của Pháp chôn dấu.
Bên cạnh Bình Xuyên, và liên kết hẳn với Bình Xuyên còn có Đệ Tam Sư đoàn (Việt Nam Quốc Dân Đảng) và nhất là bộ đội An Điền (Đại Việt Quốc Dân Đảng) được Nhựt cung cấp cho quá nhiều súng đạn.
Đó là thế quân sự, thế nhân dân Bình Xuyên, VNQDĐ, ĐVQDĐ còn cùng với Cao Đài và Hòa Hảo lập thành Mặt trận Quốc Gia Liên hiệp.
Ngay từ giờ phút đầu vừa “nhậm chức” nếu Nguyễn Bình ra mặt chống đối mặt trận này thì chắc chắn sẽ bị thanh toán trong chớp nhoáng.
Nguyễn Bình thi hành kế hoạch tế nhị hơn là “làm thân” với kẻ mạnh.
Nguyễn Bình không ngần ngại cùng với tên bí thư Nguyễn văn Thắng ” song mã” mở cuộc viếng thăm thân thiện các bộ đội trong Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Nguyễn Bình còn lỳ hơn nữa là đám “ăn dầm ở dề ” nhiều ngày tại Bộ Tham Mưu của các bộ đội trong Mặt Trận này.
Sở dĩ, Nguyễn Bình táo bạo như vậy vì tin chắc rằng không ai bắn mình khi còn là khách của các bộ đội đó.
Và Nguyễn Bình lỳ hơn nữa là trong các vụ tranh luận, khi thua chỉ cười xòa, hẹn tới lần sau.
Huỳnh văn Trí tức Mười Trí, Tư lịnh Trung Đoàn 4 Bình Xuyên, với tư cách là “địa chủ” nơi liên ấp số 4 và số 8 tại Phú Lâm, luôn luôn niềm nở tiếp đón Ngnyễn Bình, long trọng đúng với một vị Khu trưởng.
Những bữa tiệc được linh đình đặt ra thết đãi quý khách. Trên chiếu trải dài nơi sân gạch, trong vuông tre cao ngất (vuông tre tiếng địa phương vì tại hai ấp số 4 và số 8 mỗi nhà đều trồng tre hình vuông vắn chung quanh) dưới ánh trăng xanh mát hay dưới ánh đuốc rực rỡ, Nguyễn Bình luôn luôn ngồi đối diện với Mười Trí giữa bàn tiệc, còn các “ghế” khác được xếp đặt đúng nghi lễ, tùy theo địa vị của “quan khách ” như bí thư Nguyễn văn Thắng ngồi bên tay trái Mười Trí, Tư lệnh Trung Đoàn 25 Bùi Hữu Phiệt bên mặt, Phạm Hữu Đức ngồi bên tay mặt Nguyễn Bình, Huỳnh văn Thao phía tả vv…
Mười Trí, trong những bữa tiệc đông đảo này, nói cười luôn miệng và bao giờ cũng hướng dẫn câu chuyện vào những vấn đề vui đùa, hết sức tránh thảo luận về quân sự nhất là chánh trị.
Nói như vậy không phải Mười Trí thuộc giới dao búa của Bình Xuyên, không hiểu chút gì về quân sự hay chánh trị.
Mười Trí cũng như Ba Dương thủ lãnh của Bình Xuyên thời kỳ Pháp thuộc cũng như Nhật thuộc, đã bí mật giao thiệp rất nhiều với anh em cán bộ của Đệ Tứ Quốc Tế, nghĩa là đã có căn bản về chánh trị.
Ngày khởi đầu kháng chiến sau khi tiếp xúc với bộ đội An Điền tức Trung Đoàn 25 Bình Xuyên, Mười Trí gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng.
Mười Trí gia nhập Đại Việt không phải là sự tình cờ. Tư Thiên tức Maurice Thiên, một trong mười con “Rồng Xanh” lãnh đạo Bình Xuyên, khi VN vừa “độc lập” đã từ Saigon ra Hanoi và được đích thân ông Trương Tử Anh đảng trưởng Đại Việt thu nhận và huấn luyện.
Khói lửa lan tràn tại miền Nam. Tư Thiên rời Hà-nội về Saigon và đã cho Ba Dương, Năm Hà và Mười Trí rõ về Đại Việt.
Mười Trí không muốn đưa vấn đề chánh trị ra thảo luận với Nguyễn Bình, mặc dầu biết rõ về Nguyễn Bình, chỉ vì còn mang nặng tính chất anh hùng Lương Sơn Bạc, không bao giờ muốn thắng khách trong nhà mình.
Một lần giáo Thảo đã đề nghị với Mười Trí “hạ Nguyễn Bình” nhưng Mười Trí gạt đi:” làm như vậy người ta nói chủ hiếp khách “.
Tuy nhiên, Mười Trí có rào đón tới đâu, thì trong những bữa tiệc kéo dài đôi khi từ chập tối tới khuya, cũng có những chuyện ngoài ước tính của Mười Trí xảy ra.
Có lẽ cao hứng vì rượu đã ngà ngà, Nguyễn văn Thắng nói lớn :
– Chiến tranh sắp chấm dứt, chúng ta sẽ thắng Pháp vì Thorez lãnh tụ Cộng sản Pháp hiện nắm đa số trong quốc hội Pháp thì chẳng còn bao lâu nữa sẽ làm Thủ tướng Pháp.
Huỳnh văn Thảo, ngồi cạnh Nguyễn Bình, nhỏ nhẹ hỏi lại :
– Thưa Khu trưởng tin có đúng như vậy không ?
Thông thường Nguyễn Bình giữ gìn cẩn mật, nhất là đã nhiều phen tranh luận thua giáo Thảo và Bùi Hữu Phiệt, không hiểu sao cao hứng đáp :
– Đúng, điều đó đồng chí Thắng nói đúng. Tôi cũng tin chắc như vậy.
Vẫn bằng giọng của một thi sĩ, giáoThảo tiếp:
– Tôi có thể thưa cùng Khu trưởng điều này không ?
– Ồ… anh em cả mà…
– Vấn đề đưa quân viễn chinh qua tái chiếm thuộc địa VN được thảo luận kỹ lưỡng tại quốc hội Pháp. De Gaulle là tên “quân phiệt thực dân”chẳng nói làm chi, nhưng tại sao đảng viên Cộng sản trong quốc hội Pháp, với thế đa số, nghĩa là bác một cách dễ đàng, lại cũng bỏ thăm chấp thuận đề nghị của thực dân ? Xin Khu trưởng giải thích cho tất cả anh em có mặt nơi đây được rõ.
Nguyễn Bình như tỉnh hẳn rượu, đáp quanh co:
– Điều đó còn nhiều bí ẩn. Tôi sẽ nói cho anh em rõ một ngày gần đây.
Có nhiều anh em trẻ đã cất tiếng cười khá sỗ sàng.
Nhưng chuyện lỡ rồi, Nguyễn Binh đã một phút bồng bột để lộ chân tướng.
Như đã nói, Nguyễn Bình là một “cây lì” tuy bị Huỳnh văn Thảo làm cho “lỡ làng” giữa bữa tiệc, nhưng không chút nao núng, không lộ sự tức giận ra ngoài mặt.
Nguyễn Bình xoay chuyển liền câu chuyện từ chánh trị qua quân sự và đưa ra đề tài hào hứng khiến các cán bộ trẻ trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 hoan nghênh ngay: “thi bắn được tổ chức vào ngày mai”.
Tuy nhiên dưới con mắt tinh đời của Mười Trí, Phạm Hữu Đức, “ông già Tín” và cả Bùi Hữu Phiệt, Huỳnh văn Thảo, sự căm thù giữa Khu trưởng Nguyễn Bình và Trung Đoàn 25 Bình Xuyên vừa phát sinh nơi chén rượu đêm nay.
Sáng hôm sau, các xạ thủ đã được lựa chọn dời Phú Lâm tiến về Rừng Thơm,” khu an toàn ” để vững tâm trổ hết tài nghệ.
Cũng như trong tất cả các cuộc đấu võ quốc tế, những xạ thủ “dọn sân” được đưa ra trước.
Tuy nhiên các “xạ thủ dọn sân” này, hầu hết vừa quá tuổi 20, còn quá thư sinh, gương mặt chưa bị nét phong trần kháng chiến hằn lên, lại gây sự kinh ngạc vô cùng đối với Nguyễn Bình.
Có dư luận cho rằng, chính vì vậy mà sự e ngại, sự quyết tâm thanh toán Trung Đoàn 25 Bình Xuyên càng ăn sâu vào trong đầu óc Nguyễn Bình.
Xạ thủ đầu tiên biểu diễn trong Trung Đoàn 22 là một sinh viên luật khoa vừa từ Bắc vào Nam với phái đoàn Huỳnh văn Tiếng, Đặng Ngọc Tốt. Y đề nghị vẽ một vòng tròn lớn, trong đó đặt sáu mục tiêu, bất luận ở đâu miễn nằm trong vòng tròn, nhưng khi đặt mục tiêu, thì băng kín mắt y lại. Mục tiêu đặt xong, y đứng cách vòng tròn 20 thước, sẽ được tháo băng mắt, khi nghe tiếng hô “vô”.
Sau tiếng hô, xạ thủ chạy như bay vào vòng đã vẽ, lăn tròn mình một vòng, rồi mới rút súng lục đeo bên nách bắn liền 6 phát.
Tiếng reo hò vang lên vì cả 6 phát đạn đó đều trúng 6 mục tiêu.
Nguyễn Bình ngơ ngẩn vì Khu trưởng khu 7 không biết rõ rằng xạ thủ đó đã từng được huấn luyện về một ngành chuyên môn về điệp báo tại Lục Quân Đại học Hiệu Yên Bái của Đại Việt Quốc Dân Đảng.
Nơi đây, và trong ngành này, các cán bộ cũng được, hay “bị ” huấn luyện như những “con chó săn” trong chuyện Báo Thù (Vendetta) của dân đảo Corse hay như các quân khuyển ngày nay.
Riêng về tác xạ, các cán bộ, sau khi nghe tiếng hô “xung phong” phải phá cửa lao mình vào trong một phòng tối rộng lớn, bắn hạ cho được các người nộm ” địch thủ” của mình, được đặt rải rác trong phòng, rồi tông cửa khác lao ra.
Hành động này được “bấm phút” từ khi cán bộ tác xạ đạp cửa vào phòng và tông cửa thoát ra, cộng thêm với bao nhiêu địch thủ đã bị bắn trúng để định đoạt tài nghệ.
Như vậy chỉ bằng mắt rồi nhảy vào vòng tròn giữa thanh thiên bạch nhật, đối với các cán bộ này thực là quá dễ dàng.
Xạ thủ thứ hai của Trung Đoàn 25 Bình Xuyên cũng là một thanh niên vừa mới quá 20 tuổi. Y cao lớn và mang tên “bình dân” là Bê.
Thực sự anh Bê là Nam Tước Watanabé Hitomi, bí thư của Đại tướng Sato,Tư lệnh quân đội Hoàng Gia Nhựt tại Đông Nam Á, và được lệnh của Đại tướng Sato đi theo bộ đội An Điền (tức Trung Đoàn 25 Bình Xuyên của Đại Việt Quốc Dân Đảng).
Anh Bê cầm cây súng của kỵ binh Nhựt trên tay, chưa lên đạn trong súng, bằng lòng để một người khác giữ con chó cách xa 100 thước và khi người đó bắn một phát súng lục gần con chó để đuổi nó, mới hành động.
Đúng như điều kiện đã giao kết, con chó vừa hoảng hốt chạy vì tiếng súng lục bắn ngay kế cận, Anh Bê mới nạp đạn. Và con chó tội nghiệp bị lăn tròn nhiều vòng rồi nằm dẫy dụa.
Giữa cuộc “đấu súng” hào hứng đó Sáu Lào vội vàng tới nói nhỏ với Mười Trí.
Mười Trí cười lớn :
– Tôi xin báo với các đồng chí là cuộc thi bắn này còn có cả Đức Hùynh Giáo chủ và Tư lịnh Cao Đài Trình Minh Thế tới tham dự.
Đức Hùynh Giáo chủ vẫn trong bộ bà ba đen, tươi cười đi tới ôm vai cán bộ Trung Đoàn 25 trước khi chào hỏi Nguyễn Bình.
Và Trình Minh Thế cũng có hành động như Đức Hùynh Giáo chủ.
Đức Hùynh Giáo chủ, sau cuộc đại hội tại xã Mỹ Lộc (Tân Uyên) nơi Nguyễn Bình chọn làm tổng hành dinh cho khu 7, đã trở thành ưu tiên đặc biệt trong Ủy ban Hành kháng Nam bộ gồm những nhân vật mới như:
– Chủ tịch là luật sư Phạm ngọc Thuần,
– Phạm Thiều, Ủy viên Tuyên truyền cùng với Đặng ngọc Tốt,
– Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Ủy viên tài chánh
– và Kỹ sư Kha Vạng Cân, Ủy viên kinh tế.
Việc tham dự Ủy han Hành kháng Nam bộ với chức vụ không rõ rệt của Đức Hùynh Giáo chủ không làm hài lòng Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến. Tuy nhiên, khi Đức Hùynh Giáo chủ tới thăm vẫn được Liên Quân niềm nở đón tiếp.
Đức Hùynh Giáo chủ ưa thích Liên Quân vì anh em chỉ huy đều còn rất trẻ, trực tính và hăng say trong nhiệm vụ.
Anh em Liên Quân rất mong Đức Hùynh Giáo chủ tới thăm vì… đi theo con người cao lớn, đôi mắt long lanh như điện, luôn luôn mặc bộ đồ bà ba bằng lụa đen, còn có vài người nữa, mang theo những bọc quần áo, tiền bạc, tặng cho Liên Quân.
Đã có lần một nhân viên trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 nói đùa :
– Thưa Giáo Chủ, mỗi lần tới thăm anh em, Giáo Chủ có cảm tưởng như bị bóc lột ?
Đức Hùynh Giáo chủ đáp ngay :
– Không, tôi có cảm tưởng là được thực sự chia xẻ nỗi khó khăn mọi phương diện của anh em.
Một lần nữa, Đức Hùynh Giáo chủ ngủ chung với anh em trong bộ Tham mưu Trung Đoàn 25. Sáng dậy, một thanh niên ngỡ ngàng khi thấy chân mình gác lên bụng Đức Thầy nên vội chữa thẹn :
– Thưa Giáo chủ, đêm qua tôi nằm mơ thấy có đám mây nhỏ dám che khuất mặt trời.
Đức Hùynh Giáo chủ cười:
– Có sao. Đó là sự tuần hoàn của tạo hóa.
Ngoài biệt tài đối đáp, Đức Hùynh Giáo chủ còn làm cho anh em trong Liên Quân vô cùng kính nể vì óc thông minh đặc biệt của mình.
Một hôm trời mưa, Huỳnh văn Thảo đưa lý thuyết chánh trị ra thảo luận cùng Đức Hùynh Giáo chủ. Đây là lý thuyết Dân tộc sinh tồn của Đại Việt.
Đức Hùynh Giáo chủ ngỡ ngàng lúc đầu yêu cầu giáo Thảo đọc cho nghe trước từng đoạn rồi lập tức có thể tranh luận với giáo Thảo về đoạn đó.
Đức Hùynh Giáo chủ và Trình Minh Thế là hai thái cực, một người trắng trẻo như “thư sinh” bao nhiêu thì người kia khô cằn, đen đủi và “nông dân ” bấy nhiêu.
Đức Hùynh Giáo chủ thích thảo luận, Trình Minh Thế thích trầm ngâm, ngoài ra các cuộc hội họp bắt buộc, tìm chỗ vắng để làm bạn với cây đờn kini. Tuy vậy, Trình Minh Thế cũng được anh em Liên Quân rất ưa thích qua tánh nết bộc trực thực thà.
Sự có mặt của hai nhân vật đặc biệt này nơi xạ trường biến bầu không khí còn khét lẹt khói súng, thành trang nghiêm lại pha lẫn với sự ồn ào vui vẻ.
Đức Hùynh Giáo chủ hỏi thăm từng người một. Trình Minh Thế thì líu tíu kể lại những gì đã xẩy ra từ trên lộ trình từ Dồng Lớn tới Rừng Thơm.
Nhân vật quan trọng vào bực nhứt Nam bộ lúc đó là Khu trưởng Nguyễn Bình cảm thấy quá lẻ loi. Như để trút bớt phiền muộn Nguyễn Bình rút khẩu Wicker nòng dài bốn sườn ra nhắm 1 cành cây khô gần đó nổ liền ba phát nhưng chỉ có những lá vàng rơi lả tả.
Những anh em trẻ tuổi vui vẻ đề nghị:
– Bây giờ xin để Đức Hùynh Giáo chủ và Khu trưởng đua tài. Cành cây khô kia làm đích được rồi.
Nguyễn Bình chấp thuận ngay bắn thêm 3 phát nữa, trong tiếng reo hò tán thưởng của mọi người vì lần này có cành cây gẫy xuống.
Bầu không khí dễ thở trở lại.
– Bây giờ đến lượt Giáo Chủ.
Đức Hùynh Giáo chủ tuy luôn luôn đeo khẩu súng lục “Chiêu Hòa” bên hông nhưng chưa ai thấy Đức Thầy rút súng ra hay bắn một lần nào nên đề nghị trên càng được mọi người cổ võ.
Đức Hùynh Giáo chủ mỉm cười lắc đầu:
– Tôi thấy trước, thua Khu trưởng rồi. Có bắn hay không cũng thế mà thôi.
Mười Trí bắn thế Đức Thầy 3 phát “đáp lễ ” Nguyễn Bình rồi mời tất cả trở về ấp số 8.
Mười Trí cũng như Nguyễn Bình đều hiểu rằng không phải tình cờ mà Đức Hùynh Giáo chủ cùng Trình Minh Thế tới thăm viếng anh em Liên Quân.
Bữa cơm tối vô cùng náo nhiệt và thịnh soạn vì đây là lần đầu tiên Liên Quân được hân hạnh thù tiếp một lúc cả Khu trưởng Nguyễn Bình, Đức Hùynh Giáo chủ, và tư lịnh Cao Đài kháng chiến Trình Minh Thế.
Mười Trí vô cùng tinh ý, sau khi mời các quý khách ngồi xuống nơi xứng đáng với địa vị mình như với địa vị chủ nhà Mười Trí ngồi đối diện với Nguyễn Bình chính giữa nơi hai đầu chiếu dành cho Đức Hùynh Giáo chủ và Trình Minh Thế.
Như vậy thực khách không có cảm nghĩ minh bị coi như kém kẻ khác, lại tránh được những cuộc tranh luận gay go có thể xẩy ra nếu “khách quí” ngồi gần nhau.
Mười Trí luôn miệng kể những chuyện vui,nói bông đùa và láy máy cho Huỳnh văn Thảo. Giáo Thảo hiểu ý, nên “cảm hứng” làm thơ, ngâm thơ, ra câu đối và đáp với Hùynh Giáo chủ.
Nhưng khi nhiều vò rượu đã cạn, một người cao hứng đưa vấn đề tình yêu trai gái ra thảo luận. Trọn bàn tiệc chỉ là đàn ông nên chẳng ai e dè.
Nguyễn Bình cũng kể một mối tình của mình rồi sau đó quay hỏi Đức Hùynh Giáo chủ:
-Thưa Giáo Chủ đã yêu bao giờ chưa ?
Mọi ngưòi như tỉnh hẳn rượu trước câu hỏi đột ngột này, lo ngại đưa mắt nhìn Đức Hùynh Giáo chủ.
Đức Hùynh Giáo chủ vẫn thản nhiên gật đầu :
– Có, tôi cũng đã từng yêu, yêu rất nhiều.
Rồi Đức Hùynh Giáo chủ cao giọng ngâm bài thơ ứng khẩu:
Ta có tình yêu rất đượm nồng. Yêu người yêu lẫn cả non sông Tình yêu chan chứa trong hoàn vũ. Không thể riêng yêu khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn được yêu. Thì trong tâm trí phải xoay chiều Hướng về phụng sự cho dân tộc Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Tiệc rượu được kết thúc trong bầu không khí vô cùng vui vẻ.
Tuy trời đã khá khuya, Nguyễn Bình đứng dậy từ biệt để lên đường vì còn nhiều việc gấp. Kháng chiến lấy đêm làm ngày là chuyện quá thông thường nên sự từ biệt của Nguyễn Bình không làm ai ngạc nhiên. Mười Trí mời Nguyễn Bình ở lại cho phải phép nhưng thấy Nguyễn Bình cương quyết cũng không níu kéo thêm.
Nửa giờ sau, Đức Hùynh Giáo chủ, Trình Minh Thế, Mười Trí, Tám Phiệt, Tư Đức ngồi trong phòng kín, sau những chén trà thơm bốc khói.
Đức Hùynh Giáo chủ nói ngay vào vấn đề :
– Ngày 10 tháng 4 vừa qua (năm 1946) Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ta tuyên ngôn tại Ba Quẹo. Thành phần tham dự gồm Việt Minh, Cao Đài, Hòa Hào, Thanh Niên Tiền Phong, Công giáo và Phật giáo. Nhưng chỉ có danh mà không có thực vì những người được coi là “đại diện” lại chẳng đại diện cho ai. Tôi thiết nghĩ chính chúng ta và thêm một số anh em vừa nêu nắm lấy Mặt Trận này mới đúng. Tôi có thảo luận sơ với anh Thế, anh Thế cũng đã bằng lòng. Các anh nghĩ sao ?
Quanh bàn hội nghị, không ai trả lời nhưng đồng một lượt gật đầu.
Đức Hùynh Giáo chủ thở ra khoan khoái:
– Như vậy là xong.
Trình Minh Thế tiếp:
– Tôi muốn nhờ anh Phiệt cho người lên Tây Ninh đón bộ đội của Nguyễn Thành Long về với chúng ta.
Bùi Hữu Phiệt nhận lời ngay. Nguyễn thành Long, thuộc Đệ Tứ Quốc Tế, khởi đầu cuộc kháng chiến là Tư lịnh Đệ Ngũ Sư Đoàn, lúc đó lực lượng không còn bao nhiêu đương sống qua ngày nhờ sự che chở của anh em Cao Đài.
– Chúng ta nên lấy Ba Quẹo làm địa điểm đại hội. Địa điểm này rất thuận lợi. Đức Thầy, anh Thế đi tới cũng tiện, tôi dưới này kéo lên cũng gần. Anh Phiệt và anh Tư Đức đưa quân lên đó trước sửa soạn đón tiếp anh em. Đúng ngày này, tháng tới chúng ta đại hội xếp đặt mọi công chuyện. Thôi công việc ai nấy lo.
Hội nghị định đoạt cho khúc quanh của lịch sử kháng chiến không ai có thể ngờ được rằng lại chấm dứt trong một thời gian ngắn ngủi chưa từng thấy với sự đồng ý hoàn toàn của tất cả mọi người.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 20:59:32 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nguyễn Thành Long, quen thuộc với anh em Cách mạng và Kháng chiến qua mỹ hiệu “Long què”. Không ai rõ Nguyễn Thành Long bị thọt một chân trong trường hợp nào nhưng chắc chắn không mang cố tật hồi mới ra chào đời. Anh em, dầu thân mật tới đâu, tò mò hỏi Long thì “chúa thọt” chỉ mỉm cười nói qua chuyện khác.
Nguyễn Thành Long mang nhiều giai thoại trong những ngày đầu “Việt Nam Độc Lập”. Long què đích thân mang một số tài liệu tới Tín Đức Thư Xã ở đường Tạ Thu Thâu (nhà in của bà dân biểu Trần Kim Thoa ngày nay) để nhờ in thì bị từ chối mặc dầu, qua bộ quần áo lam lũ, Long bằng lòng trả tiền in trước.
Vài ngày sau, khi Saigon trong cơn sốt biểu tình, phô trương lực lượng, Nguyễn Thành Long dẫn đầu Đệ Ngũ sư đoàn, dưới lá cờ Đệ Tứ Quốc Tế, nền trắng, trái địa cầu màu xanh và có đường điện xẹt cũng màu xanh, thì người đại diện cho Tín Đức Thư Xã lại đích thân tới yêu cầu “Tư Lệnh sư đoàn” muốn in gì thì in với sự ủng hộ.
Cũng như Đệ Nhị sư đoàn của Nguyễn văn Đẩu, tức trung úy Đẩu – Ủy viên quân sự của Phong trào Thanh Niên Ái quốc Đoàn, Đệ Tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, Đệ Ngũ sư đoàn của Nguyễn Thành Long tan tác ngay trong những ngày đầu kháng chiến, không phải vì chạm địch mà vì “ngày độc lập” còn xa vời, sư đoàn ít súng lại quá đông người, sự tiếp tế khó khăn nên làm nhiều “chiến sĩ” nản lòng, bỏ về thành.
Những cốt cán của Đệ Ngũ sư đoàn sống vất vưởng tại vùng Trảng Bàng với sự ủng hộ vật chất của giáo dân Cao Đài.
Đã được báo trước nên phái đoàn Trung Đoàn 25 tới làng Anh Tịnh được Nguyễn Thành Long niềm nở đón tiếp:
Nguyễn Thành Long đã nghẹn ngào nắm tay anh đại điện phái đoàn và tuyên bố.:
– Tôi như kẻ sống lại vì được gia nhập hàng ngũ của anh em quốc gia kháng chiến. Nếu trong cuộc tranh đấu này, tôi có bị chết thì cũng an ủi rằng còn có anh em thân mến khác chứ không đến nỗi chết bơ vơ, cô quạnh.
Buổi lễ xuất quân giản dị nhưng vô cùng long trọng. Vị đại điện cho phái đoàn tuyên đọc quyết định của Mặt Trận với Sư Đoàn 5 và Nguyễn Thành Long cũng long trọng cam kết sống chết với Mặt Trận.
Khi về với Quéo Ba, mọi người ngạc nhiên trước sự hiện diện của Đặng Ngọc Tốt, Ủy viên Tuyên truyền của Hành Kháng Nam bộ, cũng dẫn anh em thân tín tới tham dự Đại hội của Mặt Trận.
Việc Đặng Ngọc Tốt tham dự Mặt Trận thực ra không có gì lạ. Đặng Ngọc Tốt, Huỳnh văn Tiếng cũng chỉ là đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng được Trung Ương biệt phái vào Nam.
Những ngày tiền đại hội vô cùng náo nhiệt vì sự gặp gỡ đột nhiên của các bạn cố tri, vì chiến cuộc mà phải mỗi người đi một ngã.
Vấn đề Đặng Ngọc Tốt rất tế nhị được Phạm Hữu Đức và anh em trong Bộ Tham Mưu Trung Đoàn 28 đưa ra thảo luận với họ Đặng.
Đặng Ngọc Tốt thở dài:
– Tôi biết rằng chỉ có mặt tại Quéo Ba thôi, chưa cần tham dự Đại hội. Khi trở về Tân Uyên cũng khó tránh nỗi sự đàn áp của Nguyễn Bình nhất là sự đàn áp đó ngày nay đối với Tân Dân Chủ đã lộ liễu.
Trước ngày đại hội của Mặt Trận, Đặng Ngọc Tốt được lệnh của Ủy ban Hành Kháng Nam Bộ phải trở về Tân Uyên gấp. Nhiềư anh em khuyên nhủ, ngăn cản nhưng Đặng Ngọc Tốt quyết định ra đi.
Sau tiệc tiễn hành, Đặng Ngọc Tốt giã biệt anh em, lủi thủi đi giữa hai hàng đuốc sáng rực tiễn đưa. Đi đã khá xa, Đặng Ngọc Tốt đột nhiên quay trở lại trước sự mừng rỡ của mọi người nhưng Tốt chỉ muốn tặng anh em bài thơ ứng khẩu :
Đời loạn người ta đều loạn cả Lễ nghi quên hết lễ nghi xưa Riêng anh còn giữ nho phong cũ Lưu luyến trăm bề buổi tiễn đưa
Hôm nay non nước cách xa anh Trong lúc gần xa rộn chiến tranh Ghi mấy vần thơ lưu để lại Tặng anh ba chữ “thẩm kỳ tình”
Đặng Ngọc Tốt ra đi để lại câu thơ Tặng anh ba chữ “thẩm kỳ tình” khiến tất cả anh em tham dự bữa tiễn đưa, đều có linh cảm Tốt ra đi sẽ không bao giờ trở lại.
Nhưng thời gian vẫn lạnh lùng quá, các bộ đội tham dự đại hội lục tục kéo tới Quéo Ba.
Quéo Ba, khu phi chiến hay khu an toàn là một gò nổi giữa vùng sình lầy của tuyến địa đầu Đồng Tháp. Quéo Ba còn được hai tiền đồn cũng là gò nổi che chở là Chòi Mòi và Rạch Bắp.
Muốn từ đất liền vào tới Quéo Ba, các bộ đội từ Dòng Lớn xuống như bộ đội của Cao Đài Trình Minh Thế, từ khu 9 sang như bộ đội của Đức Huỳnh Giáo chủ, từ khu 7 lên như bộ đội của Mười Trí, đều phải lội sình trọn một đêm.
Xuồng nhỏ chỉ là phương tiện để cho anh em chiến sĩ nhẹ bớt gánh nặng, gửi quần áo, súng đạn, trong khi vừa lội sình, vừa đẩy xuồng.
Trung Đoàn 4 và Trung Đoàn 25 tới Quéo Ba trước, có bổn phận dàn binh sẵn để bảo vệ an ninh cho các bộ đội khác tới tham dự đại hội của Mặt Trận tại Quéo Ba.
Phạm Hữu Đức, Bùi Hữu Phiệt dàn quân tại các tiền đồn Chòi Mòi và Rạch Rít. Như vậy, dầu quân Pháp có dám lội sình suốt đêm để tấn công địa điểm của Đại Hội cũng phải san bằng hai tiền đồn kể trên.
Nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra đúng vào ngày mà đại hội của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp khai mạc.
Khoảng 11 giờ sáng hôm đó; đột nhiên phi cơ Pháp xuất hiện trên vòm trời Quéo Ba.
Đoàn chim sắt, không nhắm mục tiêu nào nhất định, dội bom, thả lựu đạn và bắn súng xuống đảo nổi Quéo Ba.
Các yếu nhân tham dự đại hội không chút hoang mang vì đã được chỉ dẫn trước, đường tiến, bước thối.
Căn nhà lớn làm trụ sở hội họp được các vuông tre dày và cao bao quanh. Dưới chân các vuông tre này đều đào hố sâu, vì chủ nhà bồi đất lên nuôi dưỡng tre. Các yếu nhân chỉ cần nằm yên nơi hào sâu đó cùng đủ tránh bom, đạn vì bom đạn của Pháp không đủ sức bứng “thành lũy tre xanh”.
Nhiều làn khói đen, nhiều cây lửa đỏ đã bốc cao tại Quéo Ba vì bom đạn của Pháp. Nhưng từ Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ tới một người lính bảo vệ địa điểm của đại hội vẫn an toàn.
Tuy nhiên, nằm một chỗ để chịu dựng từ trưa tới gần chiều sự tàn phá của không quân Pháp, khiến nhiều người bực mình.
Những oanh tạc cơ Pháp trút hết bom phải rời xa mặt trận, nhưng những quan sát cơ loại L-19 được mệnh danh là “máy bay bà già” vẫn luẫn quẫn trên trời, đáp lựu đạn và bắn súng trung liên Thompson xuống.
Mười Trí, nóng nảy nhất không còn chịu đựng được nữa, nhảy ra khỏi “chiến hào” đứng chơ vơ giữa sân, trong khi “bà già” bay tới, chỉ tay lên trời la lớn :
– Đ.M “giường cữ” (giường của đàn bà đẻ nằm, ám chỉ đồ vật dơ dáy) không bỏ bom mà bắn súng Thompson. Thực mắc cỡ.
Mười Trí còn la lối và chửi thề nhiều hơn nữa giữa tiếng đạn Thompson nổ.
Trong khi đó, Đức Huỳnh giáo Chủ, thản nhiên ngâm câu thơ của Xuân Diệu:
Hãy mở miệng vàng và nói yêu tôi Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
Có lẽ Đức Huỳnh Giáo chủ có cảm giác rằng giờ phút chót của cuộc đời đã điểm nên mới ngâm hai câu thơ trên.
Sau cuộc oanh tạc Quéo Ba, tình báo cho biết rằng tại chợ Trảng Bàng “người ta” dán truyền đơn “thách thức”: chúng tao họp đại hội tại Quéo Ba (ngày giờ đó), mày (Pháp) có giỏi thì tới đó đua tài”.
Những anh em trẻ trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 đề nghị ám sát Nguyễn Bình.
Đề nghị này không được “các anh lớn” trong đại hội tán thành nhưng cũng không phản đối.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:01:03 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nhắc lại, Nguyễn Bình theo bức thư viết tay vắn tắt có vài hàng của Hồ chí Minh đã rời bỏ Bắc Việt để vào chỉ huy cuộc kháng chiến Miền Nam vào đầu năm 1946.
Lúc đó có miền Đông là lan tràn khói lửa.
Nguyễn Bình kiểm điểm tình thế, và hiểu ngay rằng thực lực của các bộ đội Cộng sản hay thân Cộng tại Miền Đông nói riêng, chẳng có là bao: Huỳnh văn Nghệ, Kiều Đức Thắng, Đào Sơn Tây, Tô Ký, Tám Chùa chỉ có danh có tướng mà không có quân nhất là không có vũ khí.
Trái lại, các bộ đội quốc gia, hay nói nôm na theo danh từ dân chúng thời đó là “bộ đội đánh Tây” như Bình Xuyên, Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phạm Hữu Đức nguyên Tư Lệnh phó Đệ Tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Thiệp, chỉ huy. Đại Việt Quốc Dân Đảng thể hiện bằng bộ đội An Điền (sau là Trung Đoàn 25 Bình Xuyên) do Bùi Hữu Phiệt chỉ huy, lại quá mạnh mẽ về quân số cũng như về vũ khí.
Sở dĩ các bộ đội này hùng mạnh, đầy đủ vũ khí, phần lớn do binh đội Nhựt trao cho, do chiếm đoạt được của Nhựt, của Chà Chóp và sau này của Pháp.
Vũ khí của Bình Xuyên đã được Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường, khi chỉ huy ngành Công an (Nam Kỳ), thời Nhật vừa đảo chánh Pháp, trao cho.
Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức là nhân viên cao cấp trong Hiến binh Nhựt, nên khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh, trao cho Đệ Tam sư đoàn nhiều súng đạn là sự dễ hiểu.
Trường hợp của bộ đội An Điền lại vô cùng đặc biệt.
Khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945, Trung-ương Đại Việt Quốc Dân Đảng phái một số cán bộ chánh trị và quân sự đi cùng với Huỳnh văn Tiếng, Đặng Ngọc Tốt vào Nam chỉ với mục đích là bành trướng đảng, sau đó đấu tranh chánh trị.
Trong “phái đoàn quân chánh Đại Việt” vào Nam thời bấy giờ có:
– Thiếu tướng Phạm Thiết Hùng, người Việt, đã từng là anh hùng mặt trận Trường Sa Trung Hoa Dân Quốc kháng Nhật (anh vợ của tướng Phan Trọng Chinh ngày nay),
– Nguyễn văn Hướng bí danh Mười Lễ em bà bác sĩ Nguyễn thị Sương, vợ của ông Hồ Vĩnh Ký nguyên Tổng thư ký Tổng thống phủ và hiện là Chủ nhiệm nhựt báo “Đời Sống Việt Nam”,
– Triệu Phong tức Trần Kim Phượng hiện là Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao sau nhiều năm làm Đại sứ,
– Triệu Tín tức luật sư Nguyễn tấn Thành, v.v…
Thực sự, lúc đó Đại Việt Quốc Dân Đảng chỉ nghĩ nhiều tới vấn đề chính trị, nhưng vấn đề chính trị tại Việt Nam lại diễn tiến ngoài sự dự liệu của Đại Việt: Việt Minh lên nắm chánh quyền chứ không phải đảng phái quốc gia hay khâm sai Nguyễn văn Sâm khi Nhựt đầu hàng Đồng Minh.
Phiên họp tối mật tại biệt thự của bà Hồ Vĩnh Ký, với sự tham dự của:
– đại diện Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (Cao Đài Tây Ninh),
– Lê Kim Tỵ (Cao Đài Bến Tre),
– Phạm Hữu Đức (Việt Nam Quốc Dân Đảng),
– Dương văn Giáo,
– Hồ văn Ngà (đại diện Khâm Sai Nguyễn văn Sâm) để lật đổ Trần văn Giàu, có thể coi là Chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Nam Bộ (vì Phạm văn Bạch – Chủ tịch được chỉ định vắng mặt) kiêm Ủy viên quân sự,
không đi đến kết quả mong muốn vì sự lưỡng lự của nhân sĩ Cách mạng Dương văn Giáo.
Ngày 28 tháng 9 năm I945, Pháp công khai tấn công “quân đội” Miền Nam.
Đại Việt Quốc Dân Đảng buộc lòng phải chuyển mình qua thế quân sự. Và bộ đội An Điền, tên tại một Tổng ở quận Thủ Đức, nơi các cán bộ Đại Việt “chiêu quân”, được thành lập dưới quyền chỉ huy của một người dân địa phương tên Trần văn Quới, tức Bảy Quới, sinh viên luật khoa cũng vừa từ Bắc trở về cố hương.
Chiến trận miền Đông trong thời kỳ khói lửa ngất trời thì Bảy Quới được lệnh ra Bắc. Quyền chỉ huy bộ đội An Điền trao lại cho Bùi Hữu Phiệt, một nhà cách mạng quốc gia vừa từ Côn đảo trở về, đồng chí với Đinh Khắc Thiệt, Đinh Khắc Quyết thủ lãnh của Thanh Niên Ái Quốc Đoàn với sự tham đự của cụ Hồ Nhựt Tân, Tú Quyền và bà Song Thu.
Bùi Hữu Phiệt chỉ gia nhập Đại Việt khi là Tư Lệnh bộ đội An Điền.
Sự lớn mạnh của bộ đội An Điền là cả một giai thoại. Lẽ cố nhiên là khi đồn trú tại An Điền, rồi sau Tăng Nhơn Phú (Thủ Đức) bộ đội đã có khá nhiều vũ khí “ăn chùm” những bộ đội Cộng Sản như Đào Sơn Tây, Tô Ký (Thủ Dầu Một) Huỳnh Tấn Chùa v.v…
Một sự tình cờ đặc biệt khiến cấp lãnh đạo An Điền ngạc nhiên :
Một chiều Tám Sanh, Trưởng ban tình báo và liên lạc của bộ đội đưa về bộ Tổng Tham Mưu một người Nhựt cao lớn, nhưng nét mặt còn đầy vẻ thư sinh, mang theo cả năm khẩu vừa súng trường vừa súng lục, nói muốn gia nhập kháng chiến Việt Nam.
Thời đó, người ta có thể giết chết cả mười người để lấy một khẩu súng thì một người tới với năm khẩu súng đáng được coi như thượng khách.
Tiệc liên hoan đã qua, trong văn phòng bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn vài người, “khách” mới nhỏ nhẹ thưa bằng tiếng Việt khá rành rẽ:
– Tôi có thể nói với ông chỉ huy trưởng một việc riêng.
Bùi Hữu Phiệt đáp :
– Được. Nơi đây chỉ còn những người có đầy đủ trách nhiệm.
“Khách” móc trong túi ra một bức thư dài kiểu Á Đông, nhưng phía dưới có ấn vuông lớn, dấu son và chữ ký nghiêm trang, không khác gì một sắc phong của nhà vua, hai tay cầm kính cẩn dâng lên.
Bùi Hữu Phiệt, giỏi chữ Nho, giỏi chữ Nhật, mới liếc qua bức thư, đã giật mình: đây là bức thư của Đại Tướng Sato, Tổng Tư Lệnh quân đội Hoàng gia Nhựt tại Đông Nam Á cho phép Trung úy Nam Tước Watanabe Hitomi được “đào ngũ” tham dự kháng chiến Việt Nam đánh đuổi đế quốc Pháp vì đó cũng là chủ trương “Đại Đông Á” của Nhựt Hoàng.
Bức thư còn nói rõ, nếu Trung úy Nam Tước Watanabe tham dự bộ đội An Điền của Đại Việt Quốc Dân Đảng là điều Đại Tướng rất mong muốn.
Công việc đầu tiên của Nam Tước Watanabé Hitomi là đi chiếm hầm vũ khí của Nhựt chôn dấu ở vườn cao su Bình Thung và Bình Thắng cũng thuộc quận Thủ Đức.
Trung úy NamTước Watanabé hỏi Bùi Hữu Phiệt:
– Ở đây “Tư Lệnh” có bao nhiêu lính và bao nhiêu súng ?
Bộ bội An-Điền lúc đó còn được mệnh danh là “bộ đội Bắc bộ” vì hầu hết các cấp chỉ huy và chiến sĩ đều là người Bắc, chiến sĩ phu đồn điền cao su Pháp gốc người Bắc.
Lý do: lúc đó tại Saigon, Phong trào chống người Bắc dâng cao nếu người trong bộ đội hầu hết là người Bắc thì tránh khỏi cảnh đầu thú (về hàng) và buộc họ sống chết với kháng chiến.
Bùi Hữu Phiệt không chút ngần ngại, nói rõ về nội bộ.
Trung úy Nam Tước Watanabé Hitomi, về sau này mang tên bình dân”Anh Bê”, đáp ngay:
– Tôi sẽ đưa một số huấn luyện viên quân sự tới đây và nhất là mang nhiều súng về.
Anh Bê đã giữ lời hứa.
Vài ngày sau, qua sự chỉ dẫn của anh Bê, Tám Sanh đưa về bộ đội nhiều “người bạn Nhựt” có người chuyên môn về tình báo vì đã hoạt động trong Hiến binh, có người đặc trách về huấn luyện quân sự đánh trận địa chiến cũng như du kích chiến.
Một công tác đặc biệt nhất của anh Bê là đã dám cùng một người bạn trẻ trong Bộ Tham Mưu đi từ Tăng Nhơn Phú qua rừng cao su Bình Thắng, hậu cần quan trọng nhứt của quân đội Nhựt tại miền Đông để xin súng.
Anh Bê mặc bộ đồ bà ba đen của kháng chiến quân, thủ khẩu súng lục nơi bụng, nhưng lại đeo thanh trường kiếm, thanh kiếm gia truyền được Nhựt Hoàng ban tặng của giòng họ quý phái Watanabé.
Trong binh đội Nhựt, từ Trung sĩ trở lên đã có quyền đeo gươm nhưng giá trị của thanh gươm đó lại ghi thực rõ nơi chuôi qua mầu sắc của tua kết, qua sự chạm trổ, và nhất là qua những viên ngọc bích gắn nơi đó.
Chỉ là một Trung sĩ thôi, nhưng nếu đeo thanh gươm do Nhựt Hoàng đã ban tặng, thì khi gặp thượng cấp kể luôn cả vị Tướng, thì chính vị Tướng này chào trước, chào thanh gươm như trong binh đội Pháp, các cấp bậc đều phải chào “chiến sĩ bội tinh” (Médaille militaire).
Anh Bê tới cửa trại Bình Thắng, người lính gác nhận ngay giá trị của thanh gươm, nhưng vẫn nghi ngờ rằng chủ nhân của nó là người Việt nên hô nhiều câu tiếng Nhựt.
Anh Bê xưng danh tánh và cấp bực trong quân đội Hoàng gia.
Tức khắc viên Tư Lệnh doanh trại được thông báo và một cuộc đón tiếp cho đúng nghi lễ, tuy đơn sơ, dành cho một vị Nam Tước được diễn ra.
Anh Bê nói rõ mục đích: tôi xin súng cho kháng chiến quân. Viên Tư Lệnh doanh trại với cấp bậc Đại tá, đưa hai tay liên tiếp vò cái đầu trọc, lẩm bẩm”khó quá, khó quá”.
– Tại sao khó ?
– Cách đây một tuần nội vụ giải quyết quá dễ dàng. Tôi đưa cả xe lớn chở đầy súng tìm “một hai” (Thanh Niên Tiền Phong) để cho nhưng sau đó, được thượng lệnh, đã khai số vũ khí còn lại với Đồng Minh rồi. Nếu ngày họ giải giới…
Anh Bê hiểu ngay vấn đề thực khó khăn vì đã biết quá rõ quân kỹ của binh đội, sự thất vọng hiện trên nét mặt.
Vị Đại tá Tư Lệnh doanh trại như thông cảm với Nam Tước Watanabé (anh Bê) nói ngay :
– Tất cả súng đạn hiện nay đều tập trung tại kho Bình Thung, cùng trong rừng cao su, cách đây 5 cây số. Nam Tước biết nơi đó không ?
– Biết.
– Hôm nào Nam Tước muốn lấy hết kho súng đó ?
Anh Bê mừng rỡ :
– Đại tá cho phép…
– Không cho phép gì cả. Ngày nào Nam Tước muốn chiếm kho súng đạn đó, tôi sẽ hạ lệnh chỉ để hai người lính lại thôi. Nam Tước đưa người tới giết lính gác để đoạt súng, tôi nhắc lại giết họ để có bằng cớ nói với Đồng Minh.
Anh Bê quay lại hỏi người bạn Việt đồng hành.
Thấy nét lưỡng lự trên mặt người thanh niên, Đại tá Tư Lệnh doanh trại nói ngay:
– Tôi hiểu, ông không nỡ quyết định giết hai người lính gác nhưng ông hiểu rằng với số súng đạn đó trong tay, kháng chiến quân sẽ giúp được bao nhiêu ngàn người dân Việt khỏi bị Pháp giết? Nếu chỉ giúp được hai ngàn người khỏi bị chết đói với hai người lính Nhựt, cũng là điều quá vinh dự cho chúng tôi.
Chính vì những lý luận đó mà An Điền (Trung Đoàn 25 Bình Xuyên sau này) nhiều súng hơn lính.
Và cũng chính vì vậy mà Khu trưởng Nguyễn Bình năng lui tới với anh em trong Liên Quân Quốc Gia Kháng Chiến nhất là tìm đủ mọi cách làm thân với các thanh niên trong bộ tham mưu của An Điền.
Những chàng trai trẻ này biết rõ về dĩ vãng của Nguyễn Bình, lại là cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng mà lý thuyết “dân tộc sinh tồn” trái ngược hẳn với chủ nghĩa Mác Lê, nên không ưa Khu trưởng khu 7 nếu không muốn nói rằng là thù nghịch.
Trước thái độ “hiếu khách vì là chủ nhà” của Mười Trí, trước những ngăn cản của “các anh lớn” họ không dám công khai tranh luận với Nguyễn Bình.
Tuy nhiên, họ cũng bàn luận riêng với nhau, xếp đặt một kế hoạch đặt tất cả “các anh lớn” trước một việc đã rồi là mưu đồ lén lút hạ sát Khu trưởng.
Qua quá nhiều các cuộc gặp gỡ và thảo luận với anh em Liên Quân trong bầu không khí được coi là cởi mở và nể nang, Nguyễn Bình tin tưởng tới mức độ là báo trước các cuộc viếng thăm để anh em Liên Quân sửa soạn đón tiếp.
Nguyễn văn Thắng cho hay hai hôm nữa, Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ từ Tân Uyên tới thăm anh em Liên Quân tại ấp số 8, Phú Lâm.
Liên Quân hoan hỷ đón nhận tin này nhưng “mỗi giới” hoan hỉ một khác.
“Giới già” như Mười Trí, Tư Đức, Tám Phiệt, Giáo Thảo nghĩ ngay tới việc hân hạnh được Khu trưởng luôn luôn viếng thăm; sẽ có những tin tức mới, sẽ có những cuộc thảo luận sôi nổi mới.
“Giới trẻ” hoan hỉ vì biết được trước ngày giờ mà Khu trưởng Nguyễn Bình sẽ vô tình dấn thân vào trước các họng súng của họ.
Đúng ngày Nguyễn văn Thắng đã loan báo, bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 đột nhiên vắng vẻ vì khi mặt trời vừa lặn, nhiều anh em, bỏ cả bữa cơm tối, rủ nhau đi… uống cà phê.
Sự việc này cũng thông thường. Sau những giờ làm việc, đêm là ngày, nếu không phải phục kích nơi đâu hay tấn công địa điểm nào, anh em trong bộ Tham Mưu có quyền đi… uống cà phê, đồng nghĩa với giao thiệp ngoài đời hay nôm na là đi “o mèo” giải quyết sinh lý.
Chính Mười Trí đã nhiều lần, trên chén rượu, tuyên bố :
– Mấy em còn trẻ, sao “hèn” thế ? Hồi “qua” bằng tuổi các em, có đêm nào “qua” ở nhà mà ngủ yên được ? “Qua” không chịu các cuộc “lộn xộn” trong bộ đội thôi, còn ra ngoài thì thả dàn.
Mười Trí đôi khi còn khuyến khích bằng cách hạ giọng thì thầm:
– Tụi bay, nếu có “món nào” ngon lành cho “qua”… biết miễn là đừng báo cáo cùng mẹ con Liên. (Má con Liên là vợ chánh thức của Mười Trí.)
Bởi vậy sự vắng mặt của một số anh em “đi uống cà phê” không làm cho “các anh lớn” trên chiếu rượu chiều hôm đó thắc mắc.
Trăng xanh mát đã vượt qua ngọn các vuông tre.
Tham Mưu trưởng của Trung Đoàn 25 chưa tới 23 tuổi, nhưng đã vì thời thế, theo học qua các khóa quân sự của Đại Việt và của Nhựt, đưa mắt nhìn địa thế rồi vẫy bốn anh em lại gần.
Họ ngồi trên mặt đất.
Viên Tham Mưu trưởng dùng cây khô vẽ lên các vị trí phục kích.
Viên Tham Mưu trưởng giải thích :
– Theo lời của Nguyễn văn Thắng loan báo, thì Nguyễn Bình sẽ tới địa điểm này trước hay sau một chút nửa đêm. Không ai đạp gai, lội ruộng để tới ấp số 8. Nguyễn Bình và Thắng nay thêm vài tên cận vệ nữa sẽ đi trên con đường mòn trước mặt chúng ta. Anh em đã nhận thấy chỗ phục kích của mình chưa ?
Từng lãnh vai trò quan trọng trong bộ Tham Mưu nhưng không phải chỉ chuyên lo “cạo giấy”, và tham dự với tính cách chỉ huy nhiều trận đánh, cán bộ theo viên Tham Mưu trưởng đưa mắt nhìn quanh đã biết ngay vị trí thuận tiện trong cuộc phục kích như người ta dành chỗ tốt để… lãnh phát chẩn.
Sự sốt sắng này khiến anh Tham Mưu trưởng hài lòng :
– Các em núp cho kỹ sau gò mối. Cần nhớ rõ điều này là trăng sáng sẽ “hất” bóng các em về phía sau dễ làm cho một kẻ tinh mắt và kinh nghiệm chiến trường nhận thấy ngay.
Quan sát một lần nữa, viên Tham Mưu trưởng tiếp:
– Phục kích như vậy, đúng vị trí rồi. Các em chỉ nổ súng khi “họ” đã lọt vào đây (viên Tham Mưu trưởng đứng vào vị trí lựa chọn) rồi mới nổ súng theo kiểu đan lưới. Với những khẩu “gà cồ”(trung liên Thompson, theo tiếng lóng của kháng chiến vì súng nổ nghe “cộc, cộc, cộc” như tiếng gà cồ dụ mái),”họ” không thể thoát khỏi lằn đạn của chúng ta.
Trời thực cao, xanh và trăng thực sáng làm cho cảnh vật đều mang vẻ quá dịu hiền, trái hẳn với màn lưới vừa được giăng ra để đi tới máu lửa.
Bầu không khí hoàn toàn yên tĩnh, tiếng gió rạt rào lay khẽ các cành cây cũng vang dội như tiếng sóng đập vào bãi biển.
Theo với ánh trăng, bốn bóng đen to lớn, dài như bất tận, đã hằn in trên nền cát vàng óng ánh của đường mòn dẫn tới ấp số 8.
Đã quá quen thuộc, đội phục kích nhận rõ ngay rằng hai bóng đen đi đầu là Nguyễn Bình và bí thư Nguyễn văn Thắng, những bóng đi sau không “chối cãi” được vai trò vệ sĩ của mình qua khẩu súng trường cao lêu khêu đeo trên vai.
Mỗi bước chân tiến của “họ” đập mạnh trên đường mòn hòa nhịp với những kẻ phục kích.
Những “con mồi” một lúc một tới gần, những bàn tay của những kẻ phục kích mỗi lúc một thêm siết chặt báng súng.
Nhưng đột nhiên, có tiếng nói lào xào, có tiếng chân từ phía sau những kẻ phục kích vọng tới.
Như vây phải chăng đã có “nội thù” báo cho Nguyễn Bình biết trước cuộc phục kích này ?
Như vậy, phải chăng những kẻ phục kích lại lọt vào ổ phục kích của Nguyễn Bình?
Chỉ huy trưởng cuộc hạ sát Nguyễn Bình trên đường vào ấp số 8 vô cùng hồi hộp trước thế “lưỡng đầu thọ địch”.
Bỗng tiếng nói quen thuộc vang lên :
– Chắc chắn chỉ một, hai phút nữa Khu trưởng sẽ tới đây.
Có tiếng đáp lại :
– Dạ Khu trưởng đã tới nơi đầu đường rồi.
Những bóng đen đứng khựng lại như ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất thần của một tiểu đội võ trang.
Mười Trí cười lớn, tiến mau lại:
– Chúng tôi đi rước Khu trưởng. Sao Khu trưởng tới trễ thế, đi đường gặp khó khăn gì không?
Nguyễn Bình cũng tiến mau lại, nắm lấy tay Mười Trí:
– Chúng tôi đi đường bình yên. Sao lần này lại phiền anh Mười…
– Có gì đâu mà Khu trưởng để tâm. Tôi vừa nhận được tin liên lạc cho biết quãng đường này rất có thể không yên nên phải phòng xa.
Mười Trí lại cười :
– Phòng xa vẫn hơn. Rủi có một sự gì đáng tiếc xảy ra ngay trên mảnh đất chúng tôi kiểm soát thì thực là mang tiếng…
Nguyễn Bình đi theo Mười Trí về ấp số 8, cười nói luôn miệng.
Đoàn người đi qua “tử địa” mà đám quân phục kích không dám nổ súng.
Chờ tới khuya, viên Tham Mưu trưởng mới hạ lệnh cho anh em rút lui. Câu hỏi “tại sao Mười Trí đích thân đi đón Nguyễn Bình” quay cuồng trong đầu ?
Lần này Nguyễn Bình chỉ ở chơi có một ngày rồi lại hấp tấp trở về khu bộ, nhưng chắc chắn trong 24 giờ qua đã nói nhiều chuyện quan trọng với Mười Trí nên Mười Trí dầu bản chất mộc mạc, ưa vui đùa cũng không dấu được sự lo âu loé trên khoé mắt.
Nguyễn Bình đã ra đi rồi, Mười Trí mới cho gọi vịTham Mưu trưởng Trung Đoàn 25 tới ngồi riêng trong phòng đàm luận.
Mười Trí nói ngay:
– Tại sao em lại hành động như vậy ?
Vị Tham Mưu trưởng… ngây thơ:
– Thưa anh Mười…. hành động gì ạ?
Mười Trí nghiêm giọng :
– Nếu “qua” không phát giác kịp thì bây giờ biết bao nhiêu chuyện đã xẩy ra.
Như không muốn cho đàn em đóng vai trò “ngớ ngẩn”, Mười Trí tiếp:
– Tối hôm đó, “qua” có chuyện phải cần tới mấy em, cho mời thì em cùng bốn người nữa, tuyền là “thứ dữ” trong bộ Tham Mưu đều đi khỏi. Tối không có công tác định trước, các em rủ nhau “đi uống cà phê” (tiếng lóng trong kháng chiến đồng nghĩa với đi o mèo) cũng là sự thông thường. Công việc “qua” muốn nhờ các em quá quan trọng nên phái liên lạc đi kiếm các em ở những nơi “thông thường” nhưng mọi người đều quả quyết từ chập tối không thấy một em nào lảng vảng tới đó.
“Qua” chợt nhớ rằng đêm đó Khu trưởng tới thăm như đã báo trước. Điều này các em cũng biết. Các em lại không ưa gì Nguyễn Bình vì Nguyễn Bình, dầu là khách đã công khai chèn ép các em ngay nơi đây. Nghi ngờ thoáng trong đầu, qua cho kiểm soát lại vũ khí thì em Chỉ huy trưởng Trung đội Thompson phòng thủ bộ Tham Mưu cho biết, các em, ngoài súng lục vẫn có, mỗi người còn lấy ở Trung đội này một khẩu “Gà Cồ” đem theo nữa.
Như vậy, các em đi đâu, nếu không phải là … ra trận ?
Vị Tham Mưu trưởng nín lặng, công nhận tài nhận xét rất đúng và hành động cấp thời hữu hiệu của Mười Trí. Y hơi ngạc nhiên thấy giọng trách móc của Mười Trí quá hời hợt, khác hẳn với ngày thường nặng nề và đôi khi tục tằn. Dường như Mười Trí hối tiếc một việc gì ?
Vị Tham Mưu trưởng dọ dẫm :
– Nếu Nguyễn Bình bị bắn hạ đêm đó thì đã giải quyết được cho anh Mười nhiều sự khó khăn.
Mười Trí thở dài không đáp.
Vị Tham Mưu trưởng hỏi tiếp :
– Nguyễn Bình đã đề nghị với anh Mười những việc gì ?
Một lần nữa Mười Trí nhẹ thở dài nhưng cũng đáp :
– Nguyễn Bình không đề nghị gì cả mà chỉ thông báo cho “qua” biết rằng thằng Bảy (Bảy Viễn) đã thoả thuận với y, đưa thằng Tư (Tư Tỵ) từ Bình Xuyên về đây làm Tư Lệnh phó Trung Đoàn 25. Nguyễn Bình nhờ “qua” “giải thích” cho anh Tám Phiệt rõ để anh Tám nhận lời.
– Nghĩa là Nguyễn Bình muốn đưa anh Tư tới kiểm soát, kiềm chế anh Phiệt?
Mười Trí gật đầu :
– Nguyễn Bình giải thích rằng thằng Tư sau trận đánh vừa qua ở Bến Tre, lực lượng tiêu hao quá nhiều. Không còn đủ sức tung hoành nữa, cần dựa vào bộ đội hùng hậu nào đó để…. hồi sinh, bổ sung lực lượng nhưng “qua” hiểu, thâm ý của Nguyễn Bình là đưa thằng Tư kiềm chế anh Phiệt, hay hơn nữa tước đoạt quyền của anh Phiệt.
– Anh Mười tính sao ?
Mười Trí trầm ngâm vài giây:
– Thực ra, đối với thằng Tư không đáng ngại. Vài hôm nữa, nó sẽ tới đây với một tiểu đội, với chứng minh thư của Khu trưởng “phong” làm Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25.
Với lực lượng đó, nó khó mà làm gì được anh Phiệt. Hơn nữa dầu sao nó cũng là một trong mười con Rồng Xanh của Bình Xuyên, chắc không hành động xấu xa. Mà dầu nó có tâm địa nào đi chăng nữa, thì còn “qua” đây. “Qua” nhất định không để cho nó toại ý. Em về thưa rõ với anh Phiệt như vậy. Tuy nhiên…
– Thưa anh Mười còn điều gì nữa ?
– Tuy nhiên, qua nghĩ rằng đây là cuộc thử thách, dọ dẫm đầu tiên của Nguyễn Bình đối với Trung Đoàn 25, được đằng chân, chắc chắn Nguyễn Bình sẽ lấn đằng đầu, gây thêm nhiều khó khăn nữa cho anh Phiệt. Cần phải đề phòng kỹ những gì sẽ xẩy ra.
Đúng như lời Mười Trí tiên đoán, Tư Tỵ danh chánh ngôn thuận tới lãnh chức Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25 và được từ Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt cùng các anh em khác vui vẻ đón tiếp.
Tư Tỵ về với Trung Đoàn 25 có tánh cách “tỵ nạn” hơn là tìm cách đoạt quyền hành. Cả nửa tháng trôi qua, Tư Tỵ không đi tới các trại đồn binh để rõ thực lực Trung Đoàn ra sao, nhưng không phải vì vậy mà làm cho anh em Trung Đoàn yên lòng.
Trong thời gian này, Nguyễn Bình có tới thăm Trung Đoàn 25 một lần nữa. Nguyễn Bình hài lòng vì mọi việc đều êm đẹp như ý mình đã xếp đặt.
Cũng trong thời gian đó Dương văn Hà tức Nam Hà, Tư Lệnh Bình Xuyên sau khi người anh ruột là Dương văn Dương tức Ba Dương bị tử nạn tại Bến Tre, cùng Lê văn Viễn tức Bảy Viễn Khu phó Khu 7 kiêm Tư Lệnh phó Bình Xuyên tới chúc mừng Tư Tỵ.
Năm Hà cũng bị Nguyễn Bình đặt vào trong tình thế khó khăn. Với danh nghĩa là Tư Lệnh Bình Xuyên nhưng quyền hành tại Nam bộ lại thua Tư Lệnh phó Bảy Viễn vì Bảy Viễn là Khu phó khu 7. Như vậy, trên danh nghĩa chính Bảy Viễn chỉ huy. Năm Hà quá hiền lành, thực quyền nơi Bình Xuyên đều nằm trong tay Bảy Viễn.
Bảy Viễn chịu ảnh hưởng Nguyễn Bình, đi cặp kè với Nguyễn Bình, Bình Xuyên chắc chắn sẽ có ngày tan vỡ, lâm nguy.
Bởi vậy, lần này, cuộc mưu sát Nguyễn Bình, vẫn do anh em trẻ tuổi trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 chủ trương, gần như mặc nhiên được Mười Trí tán thành.
Cuộc phục kích lần này được tổ chức kỹ lưỡng …nhưng trên con đường mòn từ Long An về Phú Lâm…
Trời mưa rả rích từ chập tối.
Bầu trời như quá thấp, có thể đưa khẩu súng lên “quơ” cũng đụng mây đen bay là tà trên khoảng đồng trống. Sấm nổ rền càng làm cho bầu không khí của cuộc phục kích thêm thuận tiện.
Người chỉ huy đảo mắt nhìn quanh, trước khi chỉ chỗ cho anh em phục kích, hạ lệnh:
– Phải bắn chết hết những người đi cùng Nguyễn Bình tới đây. Hừ, quanh chúng ta có tới bốn cái cái giếng cạn, đủ làm “mồ yên mả đẹp” cho nhiều người. Khi “họ” đã nằm xuống, giếng cạn sẽ “đón” họ ; vài tảng đá, vài mô đất đắp theo, như vậy đã kín “đẹp” có thể vài năm nữa hay vài thế kỷ nữa cũng không ai phát giác ra họ.
Trời càng về khuya, mưa càng nặng hạt.
Đoàn người phục kích vẫn không sờn lòng, vẫn không cả nhúc nhích mặc cho gió tạt mưa vào mặt lạnh ngắt và đau buốt. Họ chỉ chú ý tới việc giữ sao cho súng đạn được khô ráo.
Một tia chớp loé lên.
Họ giật bắn mình vì cách họ không còn xa, bốn bóng đen, đội nón lá đương xăm xăm rảo bước.
Lúc này họ lắng tai nghe. Thính giác, đối với họ, cũng có thể coi như “cái thước” đo đúng khoảng cách giữa tầm súng của họ với những người đương đi.
Một tiếng hô át cả mưa gió :
– Bắn
Và những tràng trung liên nổ liên tiếp át cả tiếng sấm.
Có tiếng hét trong đau đớn, tuyệt vọng :
– Tại sao… tôi…
Giọng hét quá xa lạ giữa lằn chớp nhoáng quá dài.
– Lầm rồi, không phải…
– Súng hướng về phía trước. Đèn bấm chiếu…
Bốn người mặc bà ba đen quằn quại sình lầy. Những tiếng rên yếu dần, những làn hơi thở mỗi lúc một gấp rút chứng tỏ họ sắp trút linh hồn.
Những chiếc nón lá đã văng ra, lật ngửa, đón mưa khuya đương đổ xuống gõ thành nhịp trầm buồn.
Ánh đèn bấm chiếu trên mặt những kẻ hấp hối.
– Không có Nguyễn Bình…
– Không có cả Nguyễn văn Thắng…
– Họ là ai?
– Lục xét trong người họ coi.
Họ là ai ?
Chứng minh thư trong người họ và một bức thư trong túi một người cho biết họ chỉ là nhân viên liên lạc khu bộ và địa phương. Địa phương dẫn đường cho hai liên lạc khu bộ, mang bức thư của Nguyễn Bình tới Mười Trí xin lỗi đã thất hứa vì công việc bắt buộc phải ở lại Long An trong hai ngày nữa nên không thể tới thăm đúng hẹn. Ngày mai, Nguyễn văn Thắng sẽ tới giải thích và xin lỗi.
Giọng nói thất vọng nổi lên:
– Bây giờ tính sao anh ?
Người chỉ huy cuộc phục kích lưỡng lự.
Hai vấn đề cần được giải quyết gấp : trả lại giấy tờ cho những xác chết để nằm đó, nội trong ngày mai sẽ có người phát giác. Dư luận sẽ cho rằng họ bị quân Pháp hay “pạc ti dăng” (người Việt đi lính cho Pháp tức thân binh) phục kích bắn chết. Nhưng điều này hơi khó tin vì thông thường Pháp và “pạc ti dăng” không bao giờ, hay chỉ trong trường hợp đặc biệt mới hành quân ban đêm. Nếu bỏ họ xuống giếng lấp đá, đất lên thì cũng chỉ nội trong ngày mai tin những liên lạc khu bộ và địa phương không tới ấp số 8 cũng được Nguyễn văn Thắng biết và loan truyền đi khắp nơi. Công an Việt Minh bắt buộc phải mở cuộc điều tra và tìm ra cái xác chết nằm dưới đáy giếng cũng chẳng khó khăn gi.
Giải pháp thứ ba bỏ “họ” xuống giếng rồi về cho Mười Trí hay rằng đã nhận được thư của Nguyễn Bình, các liên lạc viên trở về khu bộ địa phương. Cũng không ổn vì trong thư Nguyễn Bình còn nói rõ “phiền anh Mười “nuôi cơm” các em liên lạc hai ngày vì tôi còn cần gấp tới họ”. Điều này chắc chắn Nguyễn Bình hay Nguyễn văn Thắng đã nói cho các liên lạc viên rõ thì bất luận lý do gì họ cũng không dám rời Phú Lâm trước khi Nguyễn Bình tới.
Chỉ còn một phương pháp “kéo dài thời gian”.
Người chỉ huy cuộc phục kích hạ lệnh :
– Bỏ tất cả xuống giếng cạn, lấp đất lên.
Gần sáng hôm đó, đoàn người phục kích mới trở về bộ đội.
Họ lăn ra ngủ và cho tới khi Nguyễn văn Thắng tới thăm họ cững không báo cáo nội vụ tới Mười Trí.
Tin liên lạc không đưa thư của Nguyễn Bính tới Mười Trí nổ như tiếng sét giữa bầu trời quang đãng.
Ai cũng hiểu rằng sự việc này bao trùm một bí mật vô cùng quan trọng vì không bao giờ các liên lạc viên, nhất là liên lạc khu bộ, những người được lựa chọn kỹ lưỡng đóng vai trò phối hợp hành động của Nam Bộ lại không làm tròn nhiệm vụ, trừ trường hợp bị bắt hay giết ở dọc đường.
Nguyễn văn Thắng, sau ít lời xin lỗi thông thường, tức khắc xin từ biệt Mười Trí…
Tin khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình bị ám sát hụt đương lan ra mau lẹ và mãnh liệt như ngọn lửa đã châm trên ngòi của các thùng thuốc súng.
Nguyễn Bình, sau những vụ đụng độ với Sư đoàn Sao Trắng tại Đông Hưng và Móng Cáy (Bắc Việt) sau sự bắt buộc phải thay đổi chánh sách đi tới liên hiệp với các đảng phái quốc gia, của chánh phủ Hồ chí Minh, đã phải đóng vai trò “vô danh tiểu tốt” trong phái đoàn Bắc bộ, do Lê Duẫn chỉ huy để vào Nam.
Tuy nhiên khi tới mảnh đất của Bến Nghé rồi, thì tên “vô danh tiểu tốt Nguyễn Bình” thoát xác, quyền hạn còn nhiều hơn cả Lê Duẩn.
Sở dĩ có sự “lột xác” bất ngờ này là vì Hồ chí Minh muốn tránh cho Nguyễn Bình tất cả những sự bất trắc có thể xảy ra ở dọc đường do hậu quả của cuộc đụng chạm với Sư đoàn quốc gia Sao Trắng.
Thời bấy giờ tuy trên danh nghĩa là Việt Minh nắm chánh quyền “toàn cõi Việt Nam độc lập” nhưng trên thực tế thì trái hẳn lại bất luận Quốc gia hay Cộng sản có vũ khí trong tay vẫn hùng cứ được một phương.
Ông Hồ chí Minh đã biết rõ hơn ai hết về tình hình tại Nam Bộ.
Trần văn Giàu, Ủy viên quân sự Nam bộ, ra Bắc ngay ngày đầu Miền Nam khói lửa, diễn thuyết nhiều về “Nam bộ oai dũng kháng chiến” nhưng những lời nói không che khuất được hết sự thực quá phức tạp tại Miền Nam.
Trước nhà hát Tây Hà Nội, Trần văn Giàu đương diễn thuyết và tự coi mình như một “anh hùng kháng chiến Miền Nam” thì một trái lựu đạn quẵng lên dài. Kế đó Tư Thiên tức Maurice Thiên, một trong 10 con “Rồng Xanh” của Bình Xuyên và một vệ sĩ nhảy lên diễn đàn.
Tư Thiên điểm mặt Trần văn Giàu :
– Anh kháng chiến ngày nào ở Nam bộ ? Anh bắn Tây phát nào ở Nam bộ, hãy nói rõ tôi nghe ?
Thời đó, Bình Xuyên kháng chiến được Hà Nội thổi phồng và truyền tụng trong dân chúng.
Tư Thiên lại là trưởng phái đoàn của Bình Xuyên kháng chiến từ Nam bộ ra Bắc nên tiếng nói của Tư Thiên rất giá trị
Trần văn Giàu chịu thua Tư Thiên trước quần chúng.
Chánh quyền Hà Nội dư biết rằng nói tới Nam Bộ kháng chiến chỉ để kích thích tinh thần người dân và thực tình nơi đây ra sao đều biết rõ.
Bởi vậy Nguyễn Bình “thoát xác” khi tới miền Nam chỉ qua bức thư ngắn ngủi của ông Hồ chí Minh :
– “Chú Bình, Nam Bộ đương là nơi để anh hùng tạo thời thế, tôi giao Nam bộ cho chú”.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:02:13 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nguyễn Bình trước khi vâng lệnh ông Hồ chí Minh vào Nam bộ dĩ nhiên đã được cho biết rõ về tình hình nơi đây.
Về quân sự, các giáo phái, các đoàn thể quốc gia vượt mức các tổ chức của Việt Minh vừa mới được vội vàng khai sanh.
Hai giáo phái địa phương hùng mạnh là Cao Đài và Hòa Hảo qua chánh sách giai đoạn đều thân Nhật chống Pháp nên được võ trang khá hùng hậu khi Nhựt đầu hàng.
Đảng phái thì có Việt Nam Quốc Dân Đảng do Phạm Hữu Đức chỉ huy sau khi Tư Lệnh Đệ Tam sư đoàn Nguyễn Hòa Thiệp về thành.
Phạm Hữu Đức là con của một đảng viên VNQDĐ Miền Nam bị lưu đày và bỏ thây tại Côn Đảo.
Phạm Hữu Đức, đã từng là nhân viên cao cấp trong Hiến Binh Nhựt, nuôi Trần văn Giàu trong khi Hiến binh Nhựt lùng bắt Giàu.
Một sự tình cờ “đặc biệt” đã đưa bộ đội An Điền của Đại Việt Quốc Dân Đảng do Bùi Hữu Phiệt làm Chỉ huy trưởng lên hàng bộ đội hùng mạnh nhất của Kháng chiến Nam bộ thời bấy giờ.
Bình Xuyên có thể nói là “Một đảng chính trị” vì “con Rồng Xanh số 1” là Dương văn Dương tức Ba Dương, còn lưỡng lự trước sự lựa chọn con đường chính trị của mình.
Ba Dương là con người “độc đáo” tại Miền Nam.
Thủ lãnh của Bình Xuyên, đám dân “trốn xâu lậu thuế”, “anh chị đứng bến xe đò hay tầu thủy” chống đối công khai nhà cầm quyền Pháp, người ta hình dung Ba Dương ít lắm cũng cao lớn hơn Mười Trí, nghĩa là ít nhất cao quá 1 thước 75 phân, mặt có “cô hồn” nói năng tục tĩu, và sẵn sàng rút dao tu ra để “giải quyết” mọi chuyện. Ba Dương phải mặc bà ba đen bằng lãnh, đội nón nỉ, quàng khăn lông nơi cổ cho đúng điệu anh chị.
Sự thực trái hẳn lại.
Ba Dương không cao quá 1 thước 55 phân , nhỏ thó, trắng trẻo, luôn luôn “khăn đóng áo dài đen” như một ông đồ nho.
Ba Dương là một ông đồ nho vì theo gia thế học quá nhiều về “tam tự ngũ kinh”, một học vấn mà người Pháp cấm ngặt trong thời đô hộ thuộc địa Nam Kỳ.
Thêm một mầu sắc đặc biệt cho Bình Xuyên là Ba Dương chưa hề bao giờ là “anh chị” đứng bến hay “đả hồ” gác sòng bạc. Trái lại Ba Dương là triệu phú chủ nhân ông hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố tại Chợ Lớn.
Tư Thiên, một trong 10 Rồng Xanh của Bình Xuyên, cũng có nếp sống vương giả như Ba Dương. Tư Thiên, “dân Tây” vì vợ đầm, chỉ “khoái” đua xe đạp, nhưng cũng là chủ nhân ông của hai nhà máy xay lúa tại Chợ Lớn kiêm chủ cả hai “lô” ngựa đua nổi tiếng cho tới thời kỳ kháng chiến.
Bình Xuyên phức tạp như vậy.
Bình Xuyên càng phức tạp hơn nữa vì là người chỉ huỵ tất cả công nhân tại kho 5 rồi sau đó công nhân đóng tàu cây cho Nhựt, Ba Dương giao thiệp rất thân mật với Nguyễn văn Số, cán bộ cao cấp của Đệ Tứ Quốc Tế có lẽ chỉ vì vấn đề lao động.
Ba Dương, trước ngày tàn của Nhựt luôn luôn gặp gỡ Hồ Vĩnh Ký, giám đốc công an Nam Kỳ (thời Nhựt) và nhất là Lâm Ngọc Đường, Phó giám đốc, những người quốc gia.
Như vậy, Ba Dương không thể là con người của Đệ Tam Quốc Tế, nghĩa là thiên hẳn về quốc gia cực đoan như Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường hay Đệ Tứ Quốc Tế theo Nguyễn văn Số.
Một trong hai quyết định này đều hoàn toàn bất lọi cho Đệ Tam Quốc Tế.
Giáo phái, đảng phái là như vậy.
Còn về nhân tâm thì sao?
Người dân miền Nam trực tính, bộc lộ rõ ràng rằng “ai đánh Tây thì ủng hộ”.
Trước những yếu tố đó, Nguyễn Bình con người cầm trong tay bức thư vạn năng của Hồ chí Minh nghĩ sao ?
Những tháng đầu năm 1946 không ai có thể ghi nhận được con đường mà Nguyễn Bình muốn “thênh thang tại Nam Bộ”.
Tuy nhiên hành động dưới đây của Nguyễn Bình đã diễn ra quá công khai khiến mọi người sửng sốt cố tìm hiểu Khu trưởng khu 7 là quốc gia thực sự hay âm mưu gì dưới “cái vỏ quốc gia”.
Khởi đầu “nhận chức”, Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình đơn thương độc mã tới thăm các lực lượng quân sự đối lập với Cộng sản quốc gia hay Đệ Tứ Quốc Tế đã cùng nhau mặc nhiên cố kết.
Cộng sản cũng như Quốc Gia kháng chiến đều dễ dàng hiểu rõ hành động cầu thân này của Nguyễn Bình, nghĩa là có một âm mưu mà chưa tiết lộ.
Nhưng “đòn thứ hai” của Nguyễn Bình lại vô cùng kỳ dị gây hoang mang cho cả phía Quốc Gia và Cộng sản.
Qua một thông cáo chánh thức của Ủy ban Hành kháng Nam bộ, Nguyễn Bình hạ lệnh cho toàn cõi Miền Nam phải tổ chức lễ truy điệu nhà cách mạng Nguyễn Thái Học.
Đối với người dân quê Nam bộ, cái tên Nguyễn Thái Học quả thực là xa xôi, không quen thuộc bằng Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh v.v…
Tuy nhiên với guồng máy tuyên truyền được huy động tới mức tối đa, người dân tại các vùng hẻo lánh cũng biết rằng Nguyễn Thái Học là một nhà cách mạng, một anh hùng dân tộc.
Để đập thẳng vào tâm lý quần chúng còn đương bồng bột với cuộc kháng chiến, các cán bộ tuyên truyền chỉ cần bày ra vài sự việc Nguyễn Thái Học đã đánh Tây nhiều năm, đã giết được nhiều giặc Pháp nhưng sau cùng thất thí bị Pháp đưa lên máy chém tại Yên Báy.
Với thành tích đánh Tây giết Pháp, như vậy đủ rồi. Hơn nữa lại nhận được chỉ thị của Nguyễn Bình, từ Tổng hành dinh Nam bộ tới trụ sở của Ủy ban hành chánh xã xa xôi, đâu đâu cũng tổ chức “ngày giỗ vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học”.
Điều đáng khen Nguyễn Bình là mặc dầu biết rõ là nếu đúng lời ước hẹn từ Tân An về Phú Lâm trong ngày hôm đó, thì chính bản thân mình sẽ bị bắn và liệng xuống giếng cạn chứ không phải là 4 liên lạc viên, nhưng Nguyễn Bình cũng đích thân tới ấp số 4 tham dự lễ truy điệu Nguyễn Thái Học do Phạm Hữu Đức, nhân danh Liên Quân Bình Xuyên tổ chức.
Liên Quân Bình Xuyên dành danh dự này cho Phạm Hữu Đức vì Phạm Hữu Đức “cha truyền con nối” là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Nguyễn Bình tới dự lễ truy điệu cũng vì lẽ đó.
Hơn nữa Nguyễn Bình, mặc dầu là Khu trưởng khu 7, Phạm Hữu Đức chỉ là Tư Lệnh Trung Đoàn 5, cũng dành tất cả danh dự người “chủ tế” cho Tư Đức.
Nguyễn Bình không đọc diễn văn, thúc đẩy từ Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt hành lễ trước rồi mới niệm hương trước bàn thờ của Nguyễn Thái Học.
Hành động này của Nguyễn Bình khiến Phạm Hữu Đức khóc ròng, Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt, và những anh em trẻ trong bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 thắc mắc tự hỏi; “phải chăng Nguyễn Bình, chiếc lá Nguyễn Bình, đã trở về cội ?”
Chính sự “phân vân” này của những nhà cách mạng và kháng chiến Quốc Gia, thêm một lần nữa, đã làm cho Miền Nam Việt Nam bao trùm khói lửa cho tới ngày nay (ngày mà độc giả đương đọc loạt bài này).
Hãy giở ngược lại những trang lịch sử đấu tranh.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chính Pháp.
Tại sao lại có đanh từ “đảo chánh” ?
Từ năm 1940 viện cớ “mượn đường” đánh Hoa Nam (Miền Nam Trung Hoa Dân Quốc) quân Nhựt đổ bộ tại Cầu Niệm, chiếc cầu nối liền thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An. Rồi từ đó, Nhựt đưa quân lên phía bắc Bắc Việt chiếm Cao Bằng Lạng Sơn, đưa quân xuống Miền Nam, lan tràn khắp Đông Dương tiến đánh Miến Điện, Thái Lan v.v…
Tuy nhiên, về quyền hành chánh tại Đông Dương, Nhựt vẫn để cho Pháp nắm giữ mặc dầu thực quyền trong tay binh đội Nhựt.
Khi Nhựt Hoàng hạ lệnh cho quân đội đầu hàng Đồng Minh, riêng tại miền Nam, các đoàn thể thân Nhựt, như Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn v.v… có thể thừa thế nắm chánh quyền nhất là thời kỳ đó, miền Nam đã có một chánh quyền Quốc Gia do ông Nguyễn văn Sâm làm Khâm Sai.
Trần văn Giàu, Nguyễn văn Tạo, Dương Bạch Mai, đại diện cho Việt Minh lăm le muốn nắm chánh quyền nhưng còn e dè các đoàn thể Quốc Gia.
Những cuộc họp báo Quốc Cộng kẻo dài cả tháng tại Tòa Đô Chánh Saigon.
Những cuộc họp riêng giữa các đoàn thể Quốc Gia như Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, diễn ra tại biệt thự của bà Nguyễn thị Sương, vợ ông Hồ Vĩnh Ký đương nắm Công an Nam bộ, và đặt dưới quyền của nhà cách mạng lão thành vừa từ Thái Lan về Saigon: ông Dương văn Giáo.
Các anh em Quốc Gia muốn “một mẻ lưới” bắt hết các đại diện Việt Minh.
Ông Dương văn Giáo lưỡng lự cho tới ngày 2-9-45, Việt Minh trình cùng quốc dân thành phần của Ủy ban Hành Chánh Nam bộ gồm toàn các nhân vật Việt Minh hay thân Việt Minh.
Ông Dương văn Giáo phải bỏ Saigon lên đường qua Thái Lan nhưng bị chặn giết ở dọc đường.
Đó là một cơ hội mà các đoàn thể Quốc Gia vì không dám dứt khoát nên đã bỏ mất chánh quyền tại Miền Nam.
Qua lễ truy điệu Nguyễn Thái Học, các đoàn thể Quốc Gia kháng chiến, một lần nữa, lại không có tư tưởng dứt khoát với Nguyễn Bình.
Và cũng nhờ lễ truy điệu được tổ chức rầm rộ khắp Nam bộ, Nguyễn Bình đã trấn an được dư luận quần chúng, đã đạt được cảm tình của các đoàn thể Quốc Gia kháng chiến.
Nhưng đó chỉ là kế hoãn binh để Nguyễn Bình đủ thì giờ sắp xếp lại nội bộ và thi hành, một vài độc kế.
Qua nhiều lần tiếp xúc với Dương văn Dương tức Ba Dương thủ lãnh của Bình Xuyên, Nguyễn Bình hiểu ngay rằng không thể nào mua chuộc, thuyết phục hay áp lực được con người đó.
Mua chuộc bằng tiền bạc ? Ba Dương tuy mang danh là Bình Xuyên, nhưng lại là chủ hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố tại Chợ Lớn, nay bỏ tất cả để đi kháng chiến “số tiền mua cho được Ba Dương” quá cao, chắc chắn Nguyễn Bình không thể có.
Thuyết phục bằng chủ nghĩa Cộng Sản? Ba Dương là con nhà gia giáo, rất giỏi chữ nho giao thiệp nhiều với các cán bộ Đệ Tứ Quốc Tế như Nguyễn văn Số v.v… lại trong những ngày đầu của “Việt Nam độc lập” liên lạc chặt chẽ với Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường thì tinh thần Quốc Gia và chống Cộng đã quá bộc lộ.
Áp lực một vị thủ lãnh Bình Xuyên ?
Lúc đó Nguyễn Bình mặc dầu là Khu trưởng khu 7 cũng không đủ lực lượng quân sự để thi hành ý muốn.
Chỉ còn một cách duy nhất là dùng những người trong hàng ngũ Bình Xuyên nhưng không phải “gốc B.X” để hạ sát Ba Dương.
Và tin Ba Dương bị phi cơ Pháp bắn chết dưới chân một gốc cây rơm tại Bến Tre làm cho chiến sĩ Bình Xuyên đau đớn nhưng gây một mối nghi ngờ rất lớn trong đầu óc anh em trong Liên Quân Bình Xuyên.
Sau cuộc điều tra cấp tốc và tại chỗ anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 biết rõ rằng Ba Dương bị ám sát.
Ngày tang tóc đó, quả thực có phi cơ Pháp tới bắn phá một làng tại Bến Tre, nơi quân của Ba Dương và Từ văn Ri tức Henri Từ, Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 2 Bình Xuyên trú đóng.
Sau hai đợt bắn phá bằng đại liên, chiến đấu cơ “Spicfire” của Pháp bỏ đi.
Ba Dương vẫn còn sống. Ba Dương chỉ cần lẩn quanh cây rơm cũng tránh được các loạt đạn đại liên của phi cơ Pháp một cách dễ dàng vì nếu phi cơ từ hướng Đông tới, Ba Dương chỉ cần nằm phía Tây nơi gốc cây rơm hay ngược lại.
Sau các chiến đấu cơ, hai thám thính cơ L19 thường được gọi nôm na là “máy bay bà già” và tiếng Bình Xuyên gọi “giường cử” xuất hiện.
Ngoài bổn phận thám thính, “bà già” đôi khi cũng gây khó khăn cho kháng chiến quân bằng cách liệng lựu đạn xuống hay bắn bằng Thompson.
Hôm đó, thám thính cơ của Pháp cũng bắn nhiều loạt Thompson xuống.
Và theo “tin chánh thức” thì Ba Dương bị trúng đạn Thompson mà bỏ mình.
Ba Dương nằm sấp, hai tay vươn về phía trước, chân phải gập dưới bụng, chân trái duỗi dài. Như vậy chứng tỏ rằng Ba Dương chạy từ cây rơm này qua mép nơi cây rơm khác thì bị trúng đạn.
Từ văn Ri xác nhận rằng lúc đó y núp gần đó, và Ba Dương trúng đạn Thompson khi vừa chạy tới gần chân cây rơm lớn và cao ngất.
Chỉ cần coi vết thương anh em trong bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 cũng rõ Từ văn Ri nói dối, nhưng không dám tiết lộ hết sự thực lúc bấy giờ vì chỉ có vài người được phái tới thăm Ba Dương trước ngày thủ lãnh Bình Xuyên lâm nạn.
Lúc đó, Từ văn Ri đang chăm chú quan sát sự nhận xét của anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25. .
Lúc đó, Henri Từ chỉ huy cả Trung Đoàn 3,có nghĩa là nếu cần sẽ giết người để bịt miệng.
Xem xét vết thương của Ba Dương xong, anh em công nhận những lời của Henri Từ “phải thủ lãnh Bình Xuyên” bị đạn Thompson từ trên “máy bay bà già” bắn trúng.
Nhưng sự thực trái hẳn lại: Ba Dương bị một viên đạn bắn từ sau gáy trở lên đỉnh đầu nghĩa là Ba Dương bị kẻ nằm ở dưới đất hướng mũi súng lên bắn lén vì nếu từ phi cơ bắn xuống thì trái hẳn lại đạn phải từ đỉnh đầu trở ra phía sau.
Anh em còn quả quyết hơn nữa Henri Từ là thủ phạm vì chỉ sau ít ngày Ba Dương từ trần, Từ văn Ri dẫn Trung Đoàn 2 rời khỏi hàng ngũ Bình Xuyên về với Nguyễn Bình.
Sau cái chết của Ba Dương và sự rời bỏ hàng ngũ của Henri Từ, Bình Xuyên bắt đầu gặp thêm quá nhiều khó khăn.
Và cũng sau cái chết đau thương của Ba Dương, Nguyễn Bình viện cớ quân của Tư Tỵ tan nát tại Bến Tre nên mới “gởi” Tư Tỵ tới nằm vùng tại Trung Đoàn 25 Bình Xuyên để kiểm soát và kiềm chế Bùi Hữu Phiệt.
Trăng đêm đó sáng quá. Trời xanh mát cao như vô cùng tận; gió mát của Đồng Tháp Mười thổi vi vút khắp “đảo” Quéo Ba, nơi Trung Đoàn 25 và Trung Đoàn 5 có bổn phận sửa soạn, tiếp đón từ Đức Hùynh Giáo chủ, Tư Lệnh Cao Đài kháng chiến, Trình Minh Thế, Tư Lệnh Sư đoàn 5, đảng viên cao cấp của Đệ Tứ Quốc Tế.
Nguyễn Thành Long, vừa được “phái đoàn” của Trung Đoàn 25 rước về, đại diện Tân Dân Chủ Đảng v.v… về họp đại hội.
Mười Trí, từ ấp số 8 Phú Lâm tới Sáu “Xếch Xông” trước các “phái đoàn khách”.
Đối cảnh, Mười Trí hạ lệnh cho “hỏa đầu quân” đặt tiệc rượu thông thường nghĩa là trải chiếu dài trên sàn gạch hay đất nện, để cùng tất cả các anh em cấp bậc chỉ huy đối ẩm.
Mười Trí có biệt tài về những cuộc tổ chức ăn nhậu.
Sau một cuộc hành quân mệt nhọc ngày, bóng đêm vừa tỏa xuống bộ đội được lệnh phải cấp tốc di chuyển vì sợ ngày mai Pháp theo thông thường sẽ huy động nhiều lực lượng mở cuộc càn quét, tới một nơi hoang vắng, thì cũng chỉ với vài chai rưọu đế mà hỏa đầu quân luôn luôn phải sẵn sàng cung cấp, vài trái ổi chua, ô môi, xoài tượng, tùy theo mùa, hay nhiều lắm vài con vịt, gà, Mười Trí cũng có thể làm cho bữa tiệc vô cùng hào hứng.
Mười Trí có biệt tài là pha trộn giữa những sự việc vô cùng quan trọng với sự bông đùa, những việc cần phải đổ máu với tiếu lâm.
Mười Trí từng kể cho anh em nghe cuộc đời ngang dọc của mình khi còn là một tướng cướp, theo lệnh các anh lớn “đánh” ngay cả dinh của một viên quận trưởng Pháp ở Phan Thiết vì nhận được tin rằng “tên này” vừa đào được kho tàng đầy vàng của một bà chúa Chàm mang về chất đống tại tư dinh.
Mười Trí đã thành công trong nhiệm vụ cùng với anh em Bình Xuyên khác, nhưng bi rượt nà, giữa đường rút lui về Nam, nơi các vùng chỉ có đồng bào sơn dã, đã phải đổi cả một rổ vàng để lấy một rổ cơm.
Mười Trí cười lớn :
– Trong đời “qua” chưa hề bao giờ đánh cướp vụ nào mà không đoạt được dưới 2.000 đồng. (Hai ngàn thời trước 1940 bằng 2 triệu thời nay). Tiền này nạp vào “quỹ” để mua ruộng cho dân làng Bình Xuyên. “qua” được thưởng nhiều nhất là 200 đồng. Một lần “qua” đánh xong một vụ, dám chấp cả Catinat (Công an Pháp, trụ sở tại bộ Nội Vụ đường Catinat tức Tự Do bây giờ) tìm kiếm “qua” không nổi. Vậy mà các em biết không…
Mười Trí uống hớp rượu lớn, đưa mắt nhìn quanh :
– Các em biết “qua” muốn nói gì không ?
Một anh em dí dỏm đáp :
– Ồ, chỉ có chị Mười, mới biết anh muốn gì.
Mười Trí đập đùi cười lớn:
– Em thực giỏi. Phải, chỉ có má con Liên (con gái út của Mười Trí) mới biết “qua” muốn gì.
Mười Trí thấp giọng:
– Nói thực với các em, sau mỗi vụ cướp lớn, “qua” về Bình Xuyên nằm nghỉ ngơi, Catinat không cách nào tìm bắt được, “qua” không về Bình Xuyên, ở nơi khác thì Catinat cũng thua. Nhưng điều này thực lạ, khi “qua” có mèo, trốn còn kỹ hơn sau vụ ăn cướp, thì hai ngày sau là má con Liên đã bắt được “qua” tại trận. Sao kỳ vậy?
Mọi người phá lên cười.
Mười Trí không hiểu thực hay mua vui câu chưyện, điều đó không chút quan trọng vì ai cũng hiểu rằng giới chỉ huy Bình Xuyên có những nguyên tắc đã định là không thể cho đàn bà lung lạc hay chia rẽ anh em.
Mười Trí có mèo, trốn nơi đâu thì cũng trong vòng tai mắt của anh em Bình Xuyên. Tức khắc họ ngầm báo cho “má con Liên” biết nên Catinat thua má con Liên ở chỗ đó.
Những “thỏa hiệp” trên của Bình Xuyên còn thể hiện qua một chuyện được coi là ly kỳ và độc đáo giữa Mười Trí và Bảy Viễn trong thời kỳ kháng chiến.
Bữa đó, Mười Trí từ Phú Lâm về Bình Xuyên thăm Bảy Viễn đã lãnh chức Khu phó khu 7, Phó Tư Lệnh quân đội Bình Xuyên.
Mười Trí mặc bà ba đen, như mọi người kháng chiến, cùng vài cận vệ tới nơi được coi là “tư dinh” của Bảy Viễn.
Cuộc đi bộ cũng hơi xa, mặt mũi Mười Trí lem luốc, nhưng cũng tiến thẳng tới tư dinh của Bảy Viễn gõ cửa.
Một thiếu phụ vừa quá 20 tuổi rất đẹp từ trong nhà ra mở cửa Mười Trí :
– Thưa chị, thằng Bảy có nhà không ?
Thiếu phụ quắc mắc nạt:
– Chú biết tôi là ai không? Mà chú là ai mà dám hỏi Khu phó một cách xách mé như vậy ?
Lẽ cố nhiên Mười Trí khi “thưa chị” đã biết thiếu phụ này là vợ nhỏ của Bảy Viễn, nhưng trước những lời sỗ sàng, liền hạ lệnh cho các cận vệ rút lui, không một lời giải thích.
Chiều về, Bảy Viễn được cô vợ nhỏ kể lại tự sự, Bảy Viễn hoảng kinh tức tốc đi tìm Mười Trí thì trong khi đó Mười Trí là cao cấp hơn Bảy Viễn, hạ lệnh cho chính lính của Bảy Viễn bắt “người đàn bà đó” đưa ra rạch xử tử.
Khi đôi bên gặp nhau, Mười Trí chỉ cần giải thích một câu thực vắn tắt:
– Người đàn bà kênh kiệu, chua ngoa như vậy không được, vì sẽ làm mất lòng anh em. Khi anh em đã mất lòng, đại sự phải thất bác.
Bảy Viễn nhận thấy những lời phê bình của Mười Trí là đúng.
Giới anh chị Bình Xuyên trọng vọng người đàn bà hơn tay anh chị dao búa trong “đảng” vì biết rằng nếu người đàn bà có thực thâm đảm đang lo liệu cho gia đình, cho con cái thì “chiến sĩ” mới dám xông pha, vào tù ra khám cũng chẳng chút bận tâm.
Tuy nhiên, người vợ mới quá trẻ đẹp khiến Bảy Viễn đêm đó nằm trên bộ ván bên cạnh Mười Trí, thở dài não nề.
– Bảy, bộ mày tiếc của lắm sao?
Bảy Viễn cũng không dằn được, trả lời bậm trợn:
– Đ.M. mày hạ lệnh giết nó rồi, tao không phản đối một câu, bây giờ tao… thở dài mày cũng cấm đoán sao ?
Mười Trí cười xòa cho êm chuyện.
Tinh thần của những con Rồng Xanh, tức là các cấp lãnh đạo Bình Xuyên là như vậy nên muốn lũng đoạn cả khối này, Nguyễn Bình phải nhờ tay Từ văn Ri tức Henri Từ ám sát Ba Dương, người thủ lãnh mà bất luận.. con Rồng Xanh nào cũng kính nể, cũng không dám phản đối khi Ba Dương đã quyết định một việc gì.
Toàn thể Bình Xuyên đưa Dương văn Hà, tức Năm Hà, em ruột của Ba Dương lên chức thủ lãnh.
Năm Hà, tuy học cao hơn Ba Dương nghĩa là có theo học nhiều năm các trường công lập nhưng thua xa người anh ruột về đủ mọi phương diện, từ sự thông minh, quán xuyến thâm thúy, quyết định đến cả võ nghệ.
Điều đó không có gì lạ vì Năm Hà tuy cũng là 1 trong 10 con Rồng Xanh của Bình Xuyên nhưng thông thường núp dưới nanh vuốt của người anh hơn là tung hoành gây thành tích cá nhân cho mình.
Sự thực trừ những người thân tín nhất ra, chưa ai biết rõ về võ nghệ của Ba Dương cao tới mức độ nào.
Tuy nhiên trong giới võ nghệ miền Nam, người ta còn truyền tụng vụ “đụng độ” hi hữu giữa Ba Dương và Sáu Cường.
Sáu Cường nổi tiếng trong “giới võ lâm” về thế liên châu nghĩa là tung chân phải lên đá chưa dứt đòn thì không cần phải có điểm tựa, không cần chân phải chấm đất, đã có thể phóng chân trái lên đá tiếp và cứ như vậy, liên miên như bất tận, cho tới khi hạ được địch thủ.
Sáu Cường vừa đả lôi đài tại Chợ Lớn, lãnh chức vô địch Nam Kỳ.
Không rõ ai đã nói gì, mà sau ngày “vinh quang” đó, Sáu Cường đơn thương độc mã, tới quán nhỏ trên đường từ Chợ lớn về nhà riêng của Ba Dương mà chờ đợi.
Sau công việc chỉ huy tại nhà máy xay lúa, Ba Dương nhỏ thó, không cao quá 1 thước 60 phân, như một ông đồ nho, khăn đóng, áo dài đen, dù cắp trên tay thủng thẳng về nhà.
Đã từng nghe danh, nhưng chưa hề gặp mặt, Sáu Cường ngạc nhiên khi được dân nhậu trong quán cho biết… anh đồ nho đó là Ba Dương; nhưng cũng vội vàng rời quán, tiến tới, lễ phép :
– Thưa ông Ba (xưng hô vô cùng kính trọng vì Ba Dương và Sáu Cường tuổi xấp xỉ ngang nhau) tôi là Sáu Cường…
Ba Dương mỉm cười niềm nở đáp :
– À ra Thầy Sáu (cách xưng hô này đã hơi trịch thượng so với câu chào của Sáu Cường). Tôi mừng cho Thầy vừa đoạt cbức vô địch.
Sáu Cường hài lòng vì tin tức được loan truyền rất mau và chứng tỏ Ba Dương cũng đặc biệt chú ý tới mình, nên nhũn nhặn đáp:
– Thưa điều đó có gì quan trọng. Tôi muốn gặp ông Ba để xin một điều.
– Thầy Sáu đừng khiêm tốn. Điều gì cứ việc nói.
– Tôi muốn được ông Ba chỉ giáo một chút về võ nghệ. Ngày nào ông Ba cho phép…
“Chỉ giáo” là danh từ khiêm nhượng không dấu được ý của Sáu Cường muốn giao đấu cùng Ba Dương.
Ba Dương đưa mắt nhận xét Sáu Cường.
Nếu phải là hai võ sĩ quyền Anh thượng đài thì không bao giờ ban tổ chức cho “cáp độ” giữa hai người này. Sáu Cường ít lắm cũng cao hơn Ba Dương 10 phân cân nặng hơn ít lắm 20 ký.
Ba Dương như không nhận thấy sự chênh lệch về bề ngoài, dịu dàng đáp:
– Ồ ngày nào cũng được, ngay bây giờ cũng được. Mình “học hỏi” cùng nhau, có điều gì quan trọng đâu.
Sáu Cường tuy ngạc nhiên nhưng trước những cặp mắt tò mò của đông người trong quán, vội trút bỏ nón nỉ, khăn bông quàng cổ, áo bành tô, cột chặt ống quần, thắt lại dây giầy gọn gàng theo ý muốn rồi nhẩy ra khoảng trống trước quán.
Thêm một lần nữa, Sáu Cường ngạc nhiên khi thấy Ba Dương vẫn khăn đóng, áo dài và giữ nguyên chiếc dù trên tay :
– Ông Ba không sửa soạn…
– Tôi sửa soạn rồi Thầy Sáu… bắt đầu đi.
Giọng nói của Ba Dương thực hiền hòa, nhưng ý nghĩa câu nói lại vô cùng trịch thượng khiến Sáu Cường, mặc dầu có e dè tói đâu, cũng chỉ còn cố gắng gượng nói câu khách sáo:
– Vậy, tôi xin phép ông Ba.
Khoảng cách giữa hai đối thủ hơn 6 thước.
Sáu Cường nhún mình nhảy liên tiếp ba lần nhưng khi vừa đúng tâm mức để thi thố thế cước liên châu thì Ba Dương tung chân đá gió khiến Sáu Cường trở lại vị trí cũ.
Sáu Cường bàng hoàng nhưng vẫn tưởng rằng sự thất thế của anh là do háo thắng của chính mình nên mới tạo cho đối phương cơ hội phản công.
Lần này Sáu Cường thận trọng hơn nhưng kết quả cũng không hơn gì lần trước. Và thất bại lần thứ ba, Ba Dương vẫn trong tư thế nho nhã của một ông đồ, Sáu Ctrờng chợt hiểu nên vội vòng tay thi lễ :
– Cám ơn ông Ba đã tha chết hay ít lắm cũng đánh tôi bị thương.
– Có gì mà Thầy Sáu quá lời như vậy?
Sáu Cường lỗ mãng tới đâu chăng nữa, nhưng là con nhà võ, nên hiểu ngay các khuyết điểm của mình.
– Ông Ba thương nên chỉ đá gió đã khiến tôi phải bật lại phía sau. Nếu ông Ba muốn gia hại, chỉ cần chờ tôi tiến sát tới thêm nửa thước nữa thì cái đá của ông Ba chắc chắn làm tôi bị thương, còn muốn giết tôi thì ông Ba chỉ cần chờ tôi tung cước mới đá theo.
Ba Dương cười xòa :
– Thầy Sáu nhận xét tinh vi, lãnh chức vô địch Nam Kỳ quả thực xứng đáng.
Từ đó Sáu Cường rất kính trọng Ba Dương và Ba Dương cũng coi Sáu Cường như kẻ đáng mến vì thẳng thắn và biết người biết ta.
Con người đặc biệt của Ba Dương là như vậy : anh hùng cá nhân tới tuyệt độ, nhưng lại là thủ lãnh của một khối kháng chiến đương quá mạnh về vũ khí cũng như tinh thần
Nguyễn Bình mặc dầu là đảng viên Cộng sản nhưng đôi khi bản chất Quốc Dân đảng cũng “chợt thức giấc” anh hùng cá nhân tính vùng lên lại đứng trong tình thế “có tướng không có quân” thì việc thèm khát địa vị của của Ba Dương hay ít lắm cũng tìm đủ mọi cách hạ cho được Ba Dương để thực hiện ý đồ của mình là sự dĩ nhiên.
Song song với sự ám sát Ba Dương, Nguyễn Bình tìm đủ mọi cách triệt hạ những lãnh tụ có ảnh hưởng trong Liên Quân Bình Xuyên.
Năm Hà được anh em Bình Xuyên tôn lên chức Tư Lịnh, không làm cho Nguyễn Bình lo ngại. Năm Hà, tuy là một trong 10 con Rồng Xanh Bình Xuyên (mười người chỉ huy Bình Xuyên) nhưng tính tình ôn hoà, dễ dãi đôi khi có thể nói rằng mềm yếu đối với anh em, không sâu sắc, thông minh và quyết liệt như Ba Dương, nên Nguyễn Bình không mấy quan tâm.
Tuy nhiên Nguyễn Bình luôn luôn phòng xa vì sợ “nó lú chú nó khôn” nên xếp đặt màng lưới nhện rất tinh vi tại Bình Xuyên.
Bảy Viễn chỉ là Tư Lịnh Trung đoàn 2 Bình Xuyên (trước khi nhường quyền cho Từ văn Ri tức Henri Từ) được Khu trưởng Nguyễn Bình nâng lên làm Khu phó khu 7.
Với sự cất nhắc Bảy Viễn lên địa vị này, Nguyễn Bình đã gây sự mâu thuẫn ngấm ngầm và trầm trọng trong hàng ngũ Bình Xuyên.
Trên thực tế, Bảy Viễn chỉ là Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 2, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Năm Hà, Tư Lịnh Bình Xuyên.
Theo “thứ bực Rồng Xanh” Bảy Viễn còn dưới cả Mười Trí vì đứng hàng thứ 9 nhưng với địa vị mà Nguyễn Bình vừa phong cho, Bảy Viễn trên giấy tờ, còn chỉ huy cả Năm Hà và Mười Trí.
Bảy Viễn rất hãnh diện với địa vị cao mới nên đã không ngần ngại trao quyền chỉ huy Trung Đoàn 2 cho Từ văn Ri, một người dân Pháp, theo kháng chiến về đầu hàng Bình Xuyên, nhưng không phải là “gốc Bình Xuyên”.
Hành động của Bảy Viễn làm cho Bình Xuyên lo ngại vì đã bộc lộ quá rõ ràng rằng Bảy Viễn muốn thoát khỏi sự chỉ huy của Bình Xuyên để đứng lên chỉ huy ngược lại anh em cũ.
Tuy nhiên bên cạnh Năm Hà còn có những con Rồng Xanh khác như Tư Tỵ, Bảy Nam, Sáu Lào và “con Ly”, (dưới cấp Long là Rồng vì Bình Xuyên tổ chức, đặt địa vị anh em theo Tứ Quý: Long, Ly, Quy, Phượng). Dữ tợn nhất là Tư Ý, triệt để tuân theo mệnh lệnh và giúp đỡ nên Bảy Viễn e ngại chưa dám có hành động gì cụ thể chèn ép Năm Hà.
Nguyễn Bình biết rõ điều đó nên giúp tay cho Bảy Viễn, một lần nữa, phân tán thế lực từ “gốc Bình Xuyên”.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:04:12 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Với danh nghĩa Khu trưởng khu 7, Nguyễn Bình hạ lệnh cho Bảy Nam và Sáu Lào về chỉ huy công tác vùng Phú Lâm Chợ Lớn nhưng muốn xoa dịu dư luận, Ban công tác này đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Đoàn 4 Bình Xuyên do Mười Trí làm Tư Lịnh.
Được rời bỏ vùng “hậu cứ” Tân An, Bến Tre, Rừng Sát, để hoạt động tại “tiền đồn” lại cũng vẫn đặt dưới quyền chỉ huy của các anh lớn Bình Xuyên nên Sáu Lào, Bảy Nam không chút nghi ngờ, trái lại còn cám ơn Nguyễn Bình giúp mình được dịp tung hoành.
Mười Trí cũng rất vui khi được tin, theo lệnh của Khu trưởng, có những anh em thân tín tới tiếp tay trong công tác vô cùng khó khăn là điệp báo.
Mười Trí khoe với Bùi Hữu Phiệt và anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 về “tin mừng” này.
Bùi Hữu Phiệt trầm ngâm.
Tham mưu trưởng của Trung Đoàn 25 mỉm cười nhìn Mười Trí:
– Tôi có thể thưa cùng anh Mười dự đoán của tôi về việc Nguyễn Bình “tăng cường” nhân số cho Trung Đoàn 4 (Trung đoàn của Mười Trí) không ?
– Em cứ nói.
– Nguyễn Bình đương thi hành kế hoạch “xé nhỏ” hay phân tán mỏng lực lượng của Bình Xuyên.
Mười Trí cau mày suy nghĩ:
– Có thể đúng. Nhưng Bảy Nam, Sáu Lào, tới đây công tác đều ở dưới sự chỉ huy của “qua”. Như vậy kế hoạch xé nhỏ của Nguyễn Bình thành “đập dày” cho Bình Xuyên sao?
– Anh Mười nghĩ kỹ coi. Mất Bảy Nam, Sáu Lào thì anh Năm (Năm Hà) sẽ ra sao? Phải chăng anh Năm lúng túng trong nhiều việc.
– Đúng.
– Anh Bảy và anh Sáu dầu là người võ nghệ cùng mình được đặt dưới quyền chỉ huy của anh Mười nhưng thử hỏi : Hai anh đó xông pha chiến trận chém giết đối phương thì giỏi nhưng làm sao các anh đó biết mà điều khiển vấn đề điệp báo cũng có nghĩa là “làm lính kín” cho phía mình?
Mười Trí chợt hiểu, thốt ra lời văng tục:
– Thằng Nguyễn Bình, thế mà thâm độc. Bề ngoài người ta tưởng nó giúp đỡ anh em, không xía vào nội bộ của Bình Xuyên, bề trong trái lại muốn chặt vây cánh của Năm Hà, muốn cho Bảy Nam, Sáu Lào không chu toàn được công tác để nó “chặt” như đã “chặt” Ba Nhỏ.
– Thưa anh Mười đúng vậy.
Mười Trí vò đầu vò tai:
– Chuyện lỡ rồi, biết tính sao đây?
– Thưa anh Mười, ta tương kế tựu kế.
– Thế nghĩa là làm sao? Em nói thử “qua” nghe.
Viên Tham mưu trưởng Trung Đoàn 25 ghé tai nói nhỏ với Mười Trí. Nghe xong, Mười Trí tươi hẳn nét mặt, vỗ đùi, cười lớn:
– Hay lắm, hay lắm. Việc này có thằng Bảy Hồng Sơn phụ lực nữa thì chắc chắn thành công.
– Bảy Hồng Sơn là ai thưa anh Mười.
– Em chưa gặp nó vì Bảy Hồng Sơn có công tác lẩn quẩn gần Phú Lâm. Nó là nhân vật kỳ lạ, tu ở núi Thái Sơn. Chiến tranh bùng nổ nên bỏ chùa. Trước khi hạ sơn, có thề rằng sẽ ăn đủ 100 lá gan của Tây mới trở về núi. Vì là chỗ quen biết cũ nên nó tới đây cộng tác với “qua”.
Thế là từ ngày hôm sau, người ta thấy rải rác gần Phú Lâm, Cồn Cát, những quán cóc mọc lên. Quán bán đồ nhậu thực ngon thực rẻ lại do các bà, các cô điều khiển nên được từ lính Tây, Lê Dương, gạch mặt và “pạc ti dăng” lui tới tấp nập.
Các cô cũng không từ chối vài cử chỉ suồng sã và nếu khách quá nài nỉ thì vào phía trong vì quán chia làm hai căn cách biệt: phía ngoài để bán hàng, phía trong là…nơi ăn chốn ngủ của bà chủ và các cô bán hàng.
Điều làm cho khách si tình càng thêm “bốc lửa” là các cô còn quá e thẹn, nếu trong quán có đông người thì cái liếc mắt đưa tình, cái nắm tay cũng là quá nhiều rồi.
Nhưng nếu bóng hoàng hôn đã hạ xuống dưới ánh đèn dầu le lói, quán vắng vẻ, vài thực khách còn “trồng cây si” thì cửa quán sập xuống, đèn phụt tắt và khách được “đền đáp” đầy đủ.
Cũng từ những ngày đó, Bảy Nam, Sáu Lào thâu thập tin tức địch tại vùng Phú Lâm, Chợ Lớn rất đầy đủ.
Và cũng từ những ngày đó, đêm đêm Bảy Hồng Sơn và vài đàn em vai vác súng nghểu nghện, từ phía Phú Lâm, Cồn Cát về nạp cho Mười Trí tại ấp số 4 hay số 8.
Những quán cóc đã trở thành hắc điếm nhưng không phải khách nào được lưu lại đêm cũng bị hạ sát để tước khí giới.
Có khách đã lui tới, trải qua cả chục đêm vui thú bên người đẹp mà sáng sớm vẫn bình an ra về bởi vì khách đó được Bảy Hồng Sơn ghi vào loại “tin tức” hơn là “quân sự”.
Khách thuộc loại “quân sự” nhưng lui tới quán trong trường hợp quá lộ liễu như đồng đội ở đồn bót đã biết mục đích cuộc ngao du, hoặc ở lại khi có nhiều bạn ra về, cũng đã vô tình có lá bùa hộ mệnh.
Chỉ những khách ưa “ăn mảnh” mới bị Bảy Hồng Sơn hay các em út hạ sát, đoạt khí giới. Loại khách này không phải ít vì qua khoé mắt đưa tình, qua lời hứa hẹn kín đáo của các em, đêm đêm khách lẻn tới đôi khi chưa đặt chân vào hắc điếm đã bị hạ sát.
Bảy Hồng Sơn chỉ ra tay khi khách si tình là người ngoại quốc vì đã có lời nguyền “ăn đủ 100 lá gan Tây”.
Tối hôm đó trăng tại ấp 8 thực sáng.
Căn nhà dùng làm Tổng Hành Dinh của Mười Trí nhộn nhịp vì có Khu trưởng Nguyễn Bình và đoàn tùy tùng tới thăm.
Theo thông lệ, những tấm bành rộng và dài được trải khắp sân gạch để “các anh lớn” dự một bữa tiệc thịnh soạn.
Nhiều vò rượu đế đã vơi khi trăng treo trên đầu ngọn tre xanh mát.
Bỗng Bảy Hồng Sơn ngất ngưởng tiến vào sân. Bảy Hồng Sơn ngất ngưởng vì suốt ngày lảo đảo như kẻ say rượu nhưng không ai dám quả quyết rằng y có say thực hay không?
Bảy Hồng Sơn theo đúng “nghi lễ” của giới giang hồ, vòng tay vái chào tất cả “anh lớn” rồi nói:
– Thưa anh Mười, hôm nay trăng sáng, về thăm anh, đi dọc đường thấy họ mổ heo, hai buồng gan tươi và ngon quá, em mua về để các anh lớn…đưa cay.
Bảy Hồng Sơn giơ cao hai buồng gan còn đỏ tươi.
Tiệc rượu đã gần tan nhưng còn hào hứng. Mười Trí hạ lệnh cho hoả đầu quân lấy gan làm món nhậu mới. Món nhậu được tất cả thực khách từ Khu trưởng Nguyễn Bình đến một anh em địa vị nhỏ nhất trên chiếu rượu khen ngon.
Sáng hôm sau, khi Mười Trí dùng trà với Nguyễn Bình, và các nhân vật cao cấp nhất trong Liên Quân thì Bảy Hồng Sơn “xin vào ra mắt để từ biệt”.
Bảy Hồng Sơn nói ngay:
– Thưa anh Mười, chút nữa các em sẽ mang về bốn khẩu súng, hai của Tây và hai của “pạc ti dăng”.
Mười Trí đã biết quá rõ về Bảy Hồng Sơn nên giật mình:
– Vậy gan tối qua mà Bảy mang về đây…
– Thưa anh lớn đó là gan hai thằng Tây…
Như để xác nhận lời của Bảy Hồng Sơn, hai nhân viên công tác vùng Phú Lâm tiến vào, lễ phép trao cho Mười Trí bốn khẩu súng, hai tiểu liên Sten và hai súng trường.
Đến lượt Nguyễn Bình run giọng:
– Gan hôm qua quả thực là gan Tây sao anh Bảy?
Bảy Hồng Sơn đáp gọn: “dạ” rồi xin phép Mười Trí trở về Phú Lâm.
Các thực khách đưa mắt nhìn nhau: dầu là gan heo hay gan người thì cũng đã tiêu hoá rồi.
Nhờ “hắc điếm” Nguyễn Bình đã thua Mười Trí một keo lại vô tình phải ăn gan người nhưng Nguyễn Bình không phải là kẻ chịu thua thiên hạ một cách dễ dàng.
Nguyễn Bình không ưa Mười Trí, tuy là Bình Xuyên nhưng rõ ràng không coi Bảy Viễn vào đâu mặc dầu Bảy Viễn là Khu phó khu 7. Mười Trí lại đồn binh riêng “biên thùy một cõi”, “chiêu hiền đãi sĩ” nên quy tụ được khác đông trí thức cách mạng quanh mình. Mười Trí lại theo đạo Cao Đài nên có khối người hậu thuẫn.
Mười Trí cũng chẳng ưa gì Nguyễn Bình nhất là sau cái chết của Ba Nhỏ rồi Ba Dương, nhưng với tinh thần “Lương Sơn Bạc” bao giờ cũng đón tiếp Nguyễn Bình nồng hậu vì ở vào địa vị của “chủ nhà”.
Nguyễn Bình e ngại những tay anh chị trung thành và sống chết bên cạnh Mười Trí, bên cạnh Bùi Hữu Phiệt.
Chỉ một cái cau mày của Mười Trí chắc chắc những tay đàn em của Mười Trí như Tư Ý, Sáu Đối cũng rút dao 9 ra (dao găm, mỏng như lá lau sắc bén hơn lưỡi dao cạo Đức quốc và dài 9 tấc ta) đâm chết Nguyễn Bình mà không cần hiểu lý do hành động này, bất chấp hậu quả.
Chắc chắn Nguyễn Bình đã được tường thuật rõ hành động của các tay anh chị theo kháng chiến, tôn thờ các vị chỉ huy được gọi là “anh lớn” như một vị thiên thần.
Thời đó bộ đội An Điền (tức Trung Đoàn 25 Bình Xuyên sau này) còn đồn trú tại xã Tăng Nhơn Phú (Chợ Nhỏ, làm trường Sĩ quan Thủ Đức ngày nay) và hai khu rừng cao su Bình Thung, Bình Thắng. Chỉ huy trưởng Bùi Hữu Phiệt thường có những cuộc họp quân sự với Ủy ban Hành Kháng địa phương do Đào Sơn Tây làm chủ tịch.
Bùi Hữu Phiệt có thói quen là đi họp chỉ mang theo một hay hai cận vệ.
Biết rõ điều này, Đào Sơn Tây muốn làm nhục Bùi Hữu Phiệt một lần.
Nhận được giấy mời, Bùi Hữu Phiệt cùng hai cận vệ là Ba Xệ và Tám Sanh lên đường. Khi vừa ra khỏi rừng cao su Bình Thung thì có năm nhân viên Công An Thủ Đức chặn lại hỏi chứng minh thư.
Họ hỏi cho có cớ vì câu hỏi chưa dứt thì một Công An viên cao lớn, chắc là kẻ chỉ huy tiến tới chụp lấy vai Bùi Hữu Phiệt:
– Không có chứng minh thư thì về trụ sở…
Ba Xệ, cao 1 thước 75 phân, nặng hơn 70 kí, nhưng cử chỉ lại dịu dàng, nét mặt bao giờ cũng hoà hoãn, nói năng nhỏ nhẹ như một thư sinh, đứng cách xa Bùi Hữu Phiệt hai bước, bỗng vẹt lên, nhẹ nhàng đập vào vai viên Công An đương nắm Bùi Hữu Phiệt:
– Bữa nay chắc anh tới số rồi mới dám đụng vào người anh lớn tôi.
Viên Công An nhìn Ba Xệ, đôi bên kẻ tám lạng người nửa cân. Hơn nữa hắn còn có 4 đàn em có súng lục trong người. Còn phía Bùi Hữu Phiệt thì chỉ còn Tám Sanh tầm vóc tầm thường, mặt trắng thư sinh chứ không có gì là “cô hồn” cả nên ưu thế rõ ràng về bên mình, nên ngạo nghễ đáp lời Ba Xệ:
– Anh lớn hay anh bé gì của mày hễ tao muốn cũng bắt.
Không một nét thay đổi trên khuôn mặt hồng hào và hiền hoà, nhưng lưỡi dao 9 đã đâm sâu và rạch ngang bụng viên Công An. Và lưỡi dao quay ngược lại rọc một đường dài từ trên xuống dưới “đánh dấu” chữ thập trên bụng viên Công An. Với lối đâm đặc biệt và quá mau lẹ này, ruột của viên Công An đã bị cắt đứt hết.
Viên Công An ngã xuống. Ba Xệ tra dao vào vỏ dấu kín bên mình không chút để ý tới bốn tên Công An còn lại, lễ phép nói với Bùi Hữu Phiệt:
– Xin mời anh lớn tiếp tục lên đường.
Mưu mô hạ nhục Bùi Hữu Phiệt của Đào Sơn Tây chưa hết.
Trong phiên họp, đã xếp đặt sẵn, Đào Sơn Tây để một ủy viên tầm thường nặng lời đả kích Bùi Hữu Phiệt nào là “tiểu tư sản”, “lạc hậu”, “phong kiến” v.v….
Bùi Hữu Phiệt quá quen thuộc với những danh từ này ngay khi còn bị lưu đày nơi Côn Đảo khi tranh luận với các cán bộ Cộng sản nên chỉ mỉm cười.
Ba Xệ thản nhiên theo dõi nét mặt của anh lớn nhưng Tám Sanh mới hơn hai mươi tuổi máu nóng còn quá nhiều, quắc mắt nhìn kẻ công kích anh lớn mình, tay đã nắm chặt báng súng lục Wicker.
Ba Xệ quắc mắt nhìn Tám Sanh nên chàng thanh niên nóng tính này không dám hành động.
Buổi họp quân sự giải tán trong bầu không khí nặng nề.
Trên đường về Tám Sanh lầm lì, Ba Xệ thản nhiên như từ lúc ra đi tới nay không có gì xảy ra.
Bùi Hữu Phiệt hiểu rõ tâm trạng của Tám Sanh nên khuyên nhủ:
– Chúng mình đương lo việc lớn. Một tên Công An, một tên ủy viên tầm thường có sá gì, làm sao ngăn cản được công việc của chúng ta, em đừng để ý.
Giọng “dạ” của Tám Sanh chứng tỏ y không hoàn toàn đồng ý với Bùi Hữu Phiệt nên Bùi Hữu Phiệt nghiêm giọng:
– “Qua” cấm em không được làm một việc gì gây nguy hiểm cho tên ủy viên đó. À, em có biết y tên gì và nhà ở đâu không?
Tám Sanh đáp:
– Dạ em biết. Y tên Tài, nhà ở gần Cầu Đá, Tăng Nhơn Phú.
Tám Sanh biết rõ như vậy vì là Trưởng ban Tình Báo của bộ đội.
Bùi Hữu Phiệt không phải vô tình đặt câu hỏi trên. Biết quá rõ và tâm tính các thuộc viên, Bùi Hữu Phiệt hiểu rõ mặc dầu phải tuân lệnh thượng cấp, nhưng sớm muộn gì y cũng gây khó dễ với kẻ đã dám công khai chỉ trích anh lớn của mình. Đó là “luật pháp” của những tay anh chị giang hồ ở ngoài đời, hay đã gia nhập kháng chiến.
Khuya đêm đó, Bùi Hữu Phiệt cho gọi Tám Sanh.
Tư Hội, mặc dầu nhiều tuổi gấp đôi Tám Sanh , xâm mình những con voi xanh, và chỉ tuyền là voi. Theo anh em trong ban Tình Báo thì Tư Hội gồng ngải cùng mình, nhưng vẫn chịu là “phó trưởng” của Tám Sanh. Tư Hội vội vàng tới Tổng Hành Dinh.
Bùi Hữu Phiệt hơi ngạc nhiên trước sự hiện diện của Tư Hội:
– Tôi nhờ gọi Tám Sanh.
Tư Hội lễ phép đáp ngay:
– Thưa anh lớn, anh Tám đi khỏi.
– Đi đâu, hồi nào anh Tư biết không?
– Dạ đi cách đây chừng nửa giờ, không rõ đi đâu nhưng chỉ dặn em coi sóc anh em trong Ban.
Bùi Hữu Phiệt hiểu ngay, hỏi Tư Hội:
– Anh Tư biết nhà tên Ủy viên Tài ở gần Cầu Đá không?
– Dạ biết.
– Vậy anh Tư đi gọi Ba Xệ tới đây rồi cùng tới nhà Ủy viên Tài.
Ba Xệ tức tốc tới, đã được Tư Hội kể lể những lời “vấn đáp” với Bùi Hữu Phiệt nên nét mặt hầm hầm:
– Thằng Tám này quá rồi. Nó dám trái cả lệnh của Chỉ huy trưởng. …Tôi phải cho nó biết kỹ luật…
Bùi Hữu Phiệt ôn hoà:
– Anh Ba đi với tôi tới đó nhưng với điều kiện…
– Thưa anh lớn với điều kiện gì?
– Chưa chắc gì Tám Sanh đã tới nhà Ủy viên Tài.Nếu tới thì chúng ta chỉ can thiệp trong trường hợp Ủy viên Tài nguy hiểm tới tánh mạng. Nhưng bất luận chuyện gì xẩy ra thì anh Ba phải hứa trước với tôi là không rầy la hay trừng trị Tám Sanh tại chỗ. Việc gì chúng ta cũng có thể đóng cửa dạy nhau.
Ba Xệ đã hoàn toàn trở lại với “bộ mặt ông Địa, ôn hoà và vui cười”:
– Dạ, anh lớn dạy vậy, em xin tuân theo.
Tư Hội dẫn đường. Khi gần tới nhà Ủy viên Tài thì trong bầu không khí mát nhẹ của đêm khuya, dưới ánh trăng xanh vằng vặc, giọng nói quen thuộc của Tám Sanh vọng lại.
Bùi Hữu Phiệt liền hạ lệnh cho Ba Xệ và Tư Hội đi thực nhẹ, lần từng bước tới sát nhà Ủy viên Tài.
Ủy viên Tài độc thân, gốc Tăng Nhơn Phú, ở trong căn nhà ba gian bằng cây, lợp ngói, giữa khuôn vườn khá rộng, nhưng cũng như tất cả các nhà khác trong Xã, không có hàng rào bao quanh.
Bùi Hữu Phiệt, Ba Xệ, Tư Hội đi ngược ánh trăng chênh chếch, tiến sát tới căn nhà của Ủy viên Tài.
Bóng của Tám Sanh in rõ trên đất nện. Tiếng nói của y vang lên trong đêm khuya yên tĩnh.
Núp nơi góc tường đối diện, Bùi Hữu Phiệt, Ba Xệ, Tư Hội chứng kiến một cảnh hi hữu và rùng rợn.
Tám Sanh đứng bên ngoài cửa sổ rộng mở, tay cầm một cái cây giống như tầm vông, nói vọng vào trong nhà:
– Hồi chiều trong cuộc họp mày đã dám nói hỗn với anh lớn tao. Ngay tại đó, chúng mày có bao nhiêu tay súng chăng nữa, tao cũng không sợ và tao có thể giết mày cùng thằng Đào Sơn Tây như con nhái. Sở dĩ tao không rút súng ha dao ra hạ chúng mày là vì anh lớn tao lừ mắt không cho phép. Trên đường anh lớn tao cũng cấm tao giết mày. Nhưng đêm nay tao giết mày hay không còn tùy vài điều kiện.
Một giọng yếu ớt vọng ra:
– Điều kiện gì?
– Mày biết chiếc câu liêm này đã vòng quanh cổ mày rồi chứ gì? Hừ đồ gì ưa gối đầu trên chiếc gối gỗ lại ngủ say nên tao mới luồn được chiếc câu liêm sắc bén này quanh cổ mày.
– Điều kiện gì nói đi.
– Mày nằm ngay ngắn như vậy trên ván, chắp hai tay lại đặt từ trán rồi vái xuống như lễ Phật vậy. Mỗi cái vái, mày hô lớn: “Kính lạy anh Tám Phiệt, em lỗi lầm xin anh tha thứ, lần sau em không dám hỗn nữa”. Mày vái đúng 100 lần, lạy đúng 100 lần và sau mỗi lần vái, lạy thì phải đếm cho rõ. Nếu mày đếm sai một số, tao bắt vái, lạy lại.
Ủy viên Tài nắm lấy một hy vọng:
– Nếu…tôi không chịu, liệu anh có dám giết tôi, trái với lệnh của các anh lớn không?
Tám Sanh trả lời, giọng quả quyết:
– Dám chứ. Tao giết mày, giết mày chỉ cần giật mạnh một cái, đầu mày bay khỏi cổ, rồi về thú tội với các anh lớn. Anh lớn có quở phạt, có đánh vài đòn, nhưng chắc chắn không nỡ xử tử tao về vụ này.
Ủy viên Tài nghe hữu lý nên từ trong phòng y vọng ra những câu vái lạy do Tám Sanh bắt buộc.
Trước cảnh “bi hùng hoạt cảnh” đó, Bùi Hữu Phiệt biết rằng không còn gì nguy hiểm tới tánh mạng của Ủy viên Tài, nên ra dấu cho Ba Xệ và Tư Hội lặng lẽ rút lui.
Khi bộ đội An Điền bỏ Thủ Đức, băng qua Thủ Dầu Một, vùng “cấm địa” của Tô Ký, để về đồn binh gần Trung Đoàn 4 của Mười Trí theo thoả ước giữa Bùi Hữu Phiệt với Ba Dương, Nguyễn Bình lui tới thăm Liên Quân này, đã có lần tỏ ý ngạc nhiên, coi là kỳ lạ về “tài nghệ” của các anh chị Miền Nam qui tụ quanh Bùi Hữu Phiệt.
Điều này chính các anh em trẻ tuổi trong bộ Tham Mưu của An Điền, tức Trung Đoàn 26 Bình Xuyên, cũng vô cùng ngạc nhiên.
Các anh em đã từng ít nhất là đậu Tú Tài (thời 1945) có nghĩa là “văn minh, hiểu khoa học” nhưng vô cùng ngạc nhiên trước những hiện tượng “không khoa học mà có thực” vì chính mắt họ thấy.
Các anh chị Miền Nam bao quanh bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 gồm sáu “tay tổ”: Ba Xệ, Tư Hội, Năm Ký, Tám Sanh và Nhất Chi Mai.
Ba Xệ , đứng đầu “lục tướng”, gốc người Trảng Bàng, Tây Ninh, không bao giờ chịu tiết lộ tên thật của mình, nhưng cao lớn, mập mạp, gương mặt lại hồng hào, hiền hoà, mang thứ ba trong gia đình, nên anh em đặt thêm cho chữ “Xệ” để dễ phân biệt với những “anh Ba” khác.
Sự “lễ phép” không bao giờ nói to tiếng và tay chơi dao 9 của Ba Xệ thì Nguyễn Bình đã rõ qua báo cáo của Quốc gia Tự vệ cuộc (Công An) Thủ Đức trong vụ Đào Sơn Tây muốn làm nhục Bùi Hữu Phiệt.
Nguyễn Bình cần nhận được bản báo cáo khác về vụ “đụng độ” lần thứ hai giữa Công An Thủ Đức và Ba Xệ.
Đàn em của Ba Xệ đi công tác bị Công An Thủ Đức chận bắt vì còn giận vụ cũ. Một người chạy thoát được về báo cáo cho Ba Xệ biết.
Bùi Hữu Phiệt nóng mặt, muốn phái một tiểu đội Thompson cùng Ba Xệ tới “giải quyết nội vụ” nhưng Ba Xệ gạt ngang:
– Anh lớn đừng lo. Em là Trưởng ban, nếu tự em không giải quyết được việc này thì đàn em còn ai tin tưởng nơi em nữa.
Ba Xệ cùng người đàn em đã chạy thoát cuộc vây bắt của Công An Thủ Đức, lặng lẽ đi tới cơ quan này.
Sự xuất hiện bất thần của Ba Xệ mà chỉ có một đàn em theo sau khiến viên chỉ huy Công An Thủ Đức nghi ngờ. Y láy mắt cho nhân viên kiểm soát xem Ba Xệ có đưa quân bí mật phục kích không? Trong khi đó y tìm kế hoãn binh, tiếp đón Ba Xệ niềm nở chờ đợi báo cáo của thuộc viên.
Ba Xệ hiểu ý, nói ngay:
– Tôi tới đây một mình nhưng không biết trụ sở của “đồng chí” nơi đâu nên phải nhờ em nhỏ này hướng dẫn.
Thuộc hạ của viên chỉ huy Công An đã về thì thầm báo cáo. Y đổi ngay thái độ khi rõ rằng lời nói của Ba Xệ đúng:
– Anh tới đây có việc gì?
– Tôi tới để hỏi xem tại sao hai em trong ban công tác của tôi bị bắt? Chúng có đủ chứng minh thư mà?
Viên chỉ huy Công An xẳng giọng:
– Hừ, chứng minh thư, nhưng chứng minh thư đó giả hay thực?
Vẫn với giọng nói ôn hoà cố hữu, Ba Xệ đáp:
– Chính vì vậy mà tôi mới phải đích thân tới đây để công nhận rằng chứng minh thư đó là thiệt.
Dường như tin chắc rằng có thể đàn áp được Ba Xệ qua số đông, viên Công An trả lời vô cùng hỗn xược:
– Đến anh, tôi cũng không tin là thực thì sao?
Ba Xệ không nổi nóng:
– Cái đó tùy anh. Tôi vâng lệnh các anh lớn tới đây để đưa hai anh em bị giữ về Tổng Hành Dinh.
Viên chỉ huy Công Anh cười ngạo mạn:
– Nhưng nếu tôi không muốn thả chúng nó thì sao?
Nét mặt vẫn thản nhiên, nhưng đôi mắt Ba Xệ quắc lên sáng chưa từng thấy:
– Anh nói vậy tức là đã phạm tới anh lớn tôi rồi. Có kẻ phạm tới anh lớn tôi một lần buộc lòng tôi phải ra tay. Vụ này chắc anh đã rõ. Nhưng hôm nay anh hên lắm.
Viên chỉ huy Công An ngạc nhiên:
– Tại sao tôi “hên”?
– Trước khi tôi tới đây, anh lớn tôi đã hạ lệnh không được gây cuộc đổ máu, nếu không thì qua lời nói trên tôi đã phanh thây anh ra rồi.
Giọng nói hiền hoà, đều đều của Ba Xệ khiến viên chỉ huy Công An sởn da gà vì y đã rõ trong trường hợp nào “cố chỉ huy Công An Thủ Đức” bị Ba Xệ phanh thây. Tuy nhiên y vẫn nói cứng:
– Vậy bây giờ anh muốn sao?
– Anh lớn tôi đã hạ lệnh rằng việc lớn còn nhiều, không nên vung phí máu. Vung phí máu có nghĩa là tôi không nên giết anh cùng mấy đứa em của anh, cũng như anh đừng giết tôi và thêm ba đứa em của tôi. Tôi thấy anh cũng là tay giang hồ, vậy chúng mình giải quyết vụ này tay đôi đừng để “vung phí máu” của đàn em.
– Nghĩa là sao?
Ba Xệ đột ngột rút dao 9 bên mình ra, đặt lên bàn, tay cởi khuy áo bà ba để trần từ ngực xuống bụng, giọng nói vẫn hiền hoà:
– Nghĩa là thế này. Dao đây, tôi để anh đâm chém tôi ba nhát trước. Sau đó, nếu tôi còn sống, anh trao dao lại cho tôi, và tôi sẽ đâm chém anh cũng đúng ba nhát. Máu chúng mình đổ, nhưng tôi vẫn vâng lệnh anh lớn tôi là “không vung phí máu”.
Ba Xệ thấy viên Công An trưởng lưỡng lự nên lạnh lùng tiếp:
– Dao đây, anh hãy đâm chém tôi trước đi. Nếu anh không đâm chém tôi thì tôi đâm chém anh.
Trước cảnh một sống một chết mà Ba Xệ xử sự một cách quá thản nhiên khiến viên trưởng Công An Thủ Đức, vì cũng đã từng đá cá lăn dưa, đứng bến, bừng tỉnh:
– Thôi anh Ba . Anh lớn của anh đã hạ lệnh “không vung phí máu” lẽ nào tôi không nể lời anh lớn anh và anh mà không tha mấy đứa nhỏ đó.
Khi hai tên đàn em đã đứng bên cạnh rồi, Ba Xệ mỉm cười nói với viên trưởng Công An Thủ Đức:
– Cám ơn anh. Dịp vui này, tôi muốn tặng anh con dao 9 của tôi.
Viên Công An trưởng còn ngạc nhiên chưa rõ ý định của Ba Xệ, thì Ba Xệ đã nói với đàn em:
– Đặt con dao 9 xuống đất, lật ngửa lưỡi lên và các em nắm cán nó cho thực chắc.
Các đàn em thi hành.
Ba Xệ tháo chiếc giầy hài xảo (giầy như người Tàu thường đi) nơi chân phải ra, rồi với chân không dẫm quăn lưỡi dao 9, lưỡi dao mỏng như lá lau, và sắc bén hơn dao cạo râu của Đức quốc, cho tới khi lưỡi dao đó quăn lại mới thôi.
Ba Xệ cầm con dao 9 “thân yêu” lên đặt trên bàn:
– Tôi tặng anh con dao này như đã hứa để làm kỷ niệm.
Một lần, tại ấp số 4, khi An Điền đã về liên kết với Bình Xuyên , Ba Xệ làm cho Nguyễn Bình và tất cả các anh em trẻ trong bộ Tham Mưu ngạc nhiên, lẽ cố nhiên là trừ Tư Hội, Năm Kỳ, Năm Diện và Tám Sanh.
Nguyễn Bình phàn nàn về “bọn gian thương vũ khí” biết Kháng Chiến cần súng đạn nên đã bán bằng giá cắt cổ với những khẩu bên ngoài , kiểu xi còn bóng loáng nhưng bộ phận bên trong đã hư yếu.
Nguyễn Bình rút một cây súng Colt ra làm thí dụ:
– Các đồng chí coi, khẩu súng này coi bề ngoài đẹp như vậy mà…quá dở.
Ba Xệ được ngồi trên chiếu rượu nhưng phía xa “địa vị đàn em” có lẽ đã ngà ngà nên buột miệng nói:
– Thưa Khu trưởng, tại sao Khu trưởng không thử súng trước khi mua?
Nguyễn Bình muốn tận mắt coi tài nghệ của Ba Xệ nên không chấp trách lời nói leo, vui vẻ đáp:
– Thử bằng cách nào anh Ba?
– Nếu Khu trưởng cho phép, tôi chỉ bắn một phát cũng rõ khẩu súng đó còn tốt hay xấu.
Câu đáp gây thêm sự tò mò, Nguyễn Bình quăng khẩu súng Colt 11,45 cho Ba Xệ:
– Anh Ba bắn thử coi rồi cho tôi biết ý kiến.
Ba Xệ xoè rộng bàn tay trái giở ra trước mặt, tay phải cầm súng Colt nhắm ngay bàn tay trái, chỉ cách họng súng không quá nửa thước mà siết cò trước sự kinh ngạc của mọi người.
Sau tiếng nổ, bàn tay trái của Ba Xệ nắm chặt, tay phải vẫn cầm súng, chậm chạp tiến lại trước mặt Nguyễn Bình :
– Thưa Khu trưởng nói đúng, khẩu súng này cái…”rề xo” yếu quá.
Y xoè bàn tay trái ra, đầu viên đạn 11ly45 còn nằm giữa lòng bàn tay có vết xám vì khói thuốc súng:
– Thưa Khu trưởng, nếu súng còn tốt thì thế nào tay em cũng phồng hay đỏ lên một chút, đằng này…
Ba Xệ không cần nói thêm nhưng mọi người đã hiểu.
Nguyễn Bình bỏ cặp mắt kiếng nửa đen nửa xanh nhạt xuống lau thực kỹ trước khi đeo lại như không tin ở cặp mắt mình qua cặp kính.
Muốn thử Ba Xệ một lần nữa, Nguyễn Bình trao cho “con người trầm lặng” đó khẩu súng khác, khẩu Wicker mà Nguyễn Bình luôn đeo bên người.
Lần này thì tay Ba Xệ quả nhiên có vết phồng đỏ.
Nguyễn Bình tò mò hỏi Ba Xệ đã học tới “gồng ngải” gì mà đạt được kết quả đó nhưng Ba Xệ chỉ mỉm cười mà xin lỗi, không đáp thẳng câu hỏi.
Về sau này, Tám Sanh trước lời gạn hỏi của Bùi Hữu Phiệt và các anh em trong bộ Tham Mưu nên tiết lộ:
– Anh Ba đã học tới cao độ của gồng “xìn tả”.
– “Xìn tả” là gì?
– Tôi cũng không rõ nữa. Dường như là tiếng Tàu hay tiếng Miên gì đó. Có điều ai học gồng này tới mức cao thì “pháo mã bất thương, đao phủ bất thương” nghĩa là súng bắn không lủng, đao chém không đứt.
– Vậy Tám học tới độ nào rồi?
Tám Sanh cười, nhũn nhặn:
– Tôi bì sao được với anh Ba. Hơn nữa anh Ba học một phái khác , tôi học một phái khác.
Như chợt nhớ điều gì Bùi Hữu Phiệt hỏi:
– Năm Ký với Năm Diện cùng học một môn phái với Ba Xệ?
– Thưa anh lớn, gần như vậy nhưng anh Năm Diện lại chú ý nhiều tới nhâm độn hơn võ nghệ.
Bùi Hữu Phiệt hỏi như vậy vì chợt nhớ tới một việc khi còn đồn binh tại vùng Thủ Đức.
Năm Ký có nhà riêng gần chợ Thủ Đức, giàu có nhưng máu mê ham cờ bạc, tứ sắc, bài cào, hốt me đều rất rành. Đã theo Kháng Chiến nhưng Năm Ký không thể bỏ được máu mê cũ.
Ba đêm liên tiếp, Năm Ký hốt hết sòng. Các con bạc bị cháy túi nghi rằng Năm Ký đã gian lận nên đêm chót phục kích tại Xuân Hiệp, trên đường từ Thủ Đức vào Tăng Nhơn Phú.
Năm Ký đương lủi thủi bước thì ba người phục kính nào ra bất thần đè kẻ “hên trên chiếu bạc” xuống đường rồi dùng dao chém loạn khắp người.
Một lát sau, Năm Ký ngước đầu lên nói:
– Chúng mày chém đã tay chưa, buông tao ra bởi vì tao còn phải đi họp, tới trễ giờ các anh lớn rầy tao.
Giọng nói của Năm Ký bình tĩnh quá điều hoà không chút gì những tỏ đã bị thương khiến cho ba “phục kích quân” hoảng sợ bỏ chạy.
Năm Ký xin lỗi đã đến họp trễ vì lý do “bất khả kháng” như trên.
Dầu không muốn tin, tất cả mọi người đều phải tin vì tất cả phía sau bộ áo bà ba bằng lụa đen của Năm Ký không còn một mảnh nào lớn hơn hai ngón tay chụm lại.
Người ta còn đồn rằng Năm Ký có thể để trần ngực cho đạn ghém của súng bắn chim ria tới mà không hề bị thương nhưng không bao giờ Năm Ký chịu biểu diễn cho anh em xem.
Năm Diện, say suốt ngày đêm, chỉ tới Tổng Hành Dinh khi có chuyện cần thiết.
Anh em gọi đùa Năm Diện là “bộ óc của bộ Tham Mưu” vì Năm Diện mỗi khi xuất hiện chỉ nói vắn tắt vài câu:“cần đi khỏi noi đây gấp, về hướng Bắc, 10 cây số” hay “mừng cho anh em thắng lợi. Ngày mai phục kích ở phía Tây, cách đây 3 cây số”, rồi lại lảo đảo ra về.
Kinh nghiệm đã cho thấy rằng bao giờ Năm Diện nhâm độn cũng đúng: di binh vì ngày hôm sau có lực lượng hùng hậu của Pháp tới nơi đó bố ráp, đến phục kích thì thế nào cũng thâu hoạch được vũ khí.
Có một lần, chỉ đưa một tiểu đội phục kích sát lề đường tại Chợ Nhỏ, với cây lớn “đổ bất thần” làm chướng ngại vật”, mà tiểu đội này bắn chết hết lính Pháp, cướp ba xe vũ khí rồi đốt xe khi ba xe này từ Long Bửu chở súng về Thủ Đức.
Thông thường sau một trận đánh, anh em phải di binh. Mọi sửa soạn đã xong, thì Năm Diện xuất hiện, cản lại:
– Đóng yên tại chỗ. Binh của thằng Huỳnh Tấn Chùa, Đào Sơn Tây, Đào Nhất Tứ (ba toán binh đóng tại vùng Thủ Đức) đã dời đi nơi khác. Chúng nó sẽ lãnh đủ.
Dầu tin tưởng Năm Diện tới đâu chăng nữa thì anh em cũng phải ở trong tư thế phục kích sẵn sàng trong vùng và vô cùng hồi hộp.
Tiếng súng tấn công của Pháp vang khắp vùng Thủ Đức. Tốp từ Sàigòn kéo lên, tốp từ Biên Hoà xuống, từ chợ Thủ Đức đánh qua, kéo dài từ mờ sáng tới tối nhưng lạ thay không một tên lính Pháp nào xuất hiện tại làng Tăng Nhơn Phú.
Vài ngày sau mọi người mới hiểu rõ lý do qua lời trình báo của Tám Sanh: có hai kháng chiến quân thuộc bộ đội Đào Sơn Tây trốn ra hàng Pháp nói rõ cho Páp biết về chiến thuật của kháng chiến quân. Tình báo Pháp biết rõ “quân kháng chiến” Thủ Đức đã di chuyển nên chia ba mặt tấn công vào Huỳnh Tấn Chùa, Đào Sơn Tây và Đào Nhất Tứ trong khi bộ đội An Điền án binh bất động.
Tư Hội không bao giờ phô trương võ nghệ nhưng thấy Ba Xệ vị nể nên anh em ngầm hiểu là “không phải tay vừa”.
Tám Sanh giỏi võ, có biệt tài về bắn súng lục.
Còn Nhất Chi Mai – Chỉ huy trưởng ban “Nhất Chi Mai” chuyên nghề ăn trộm súng của Nhựt đôi khi ngay cả của bộ Kháng Chiến khác nếu y thấy súng nào vừa ý.
Nhất Chi Mai là biệt danh. Không ai rõ tên thực của nhân vật này nhưng ai cũng biết y là vua ăn trộm khắp tỉnh Biên Hoà.
Với những nhân vật tay chân như vậy bao quanh Bùi Hữu Phiệt , và với các tay anh chị như Tư Ý, Bảy Nam, Sáu Lào bao quanh Mười Trí khiến Nguyễn Bình e dè cũng không có gì lạ.
Nguyễn Bình còn e dè hơn nữa vì bao quanh Mười Trí, trong bộ Tham Mưu còn có Vũ Tam Anh, “Ông Phán râu kẽm” v.v…cũng như bộ Tham Mưu Bùi Hữu Phiệt gồm tuyền những thanh niên trí thức đã từng huấn luyện về quân sự và chánh trị.
Vũ Tam Anh tên thực là Nguyễn Ngọc Nhẫn hay Nguyễn Ngọc Niên, cả họ, chữ lót và tên đều bắt đầu bằng chữ N nên mới cải tên cách mạng là Vũ Tam Anh (ba chữ N?) đã từng có dĩ vãng tranh đấu đáng kể, tên tuổi được anh em Quốc Gia vị nể.
Vũ Tam Anh cao lớn, gương mặt đẹp na ná như Đức Hùynh Giáo chủ nhưng nhiều kinh nghiệm về tranh đấu hơn.
Vũ Tam Anh được coi như Tham Mưu trưởng của Trung Đoàn 4 nhưng thực sự đảm trách về vấn đề chánh trị nhiều hơn là quân sự. Vấn đề văn thư đều do “Ông Phán râu kẽm” lo liệu.
Anh em chỉ biết, ông này trước kia làm Thông phán Toà Án Sàigòn, có hàm râu mép rậm và cứng nên đặt cho biệt danh “Ông Phán râu kẽm”.
Nguyễn Bình e dè Vũ Tam Anh vì biết rõ họ Võ là linh hồn của Trung Đoàn 4, là “bộ óc” của Mười Trí.
Đối với Bùi Hữu Phiệt, Nguyễn Bình còn có thể kiềm chế bằng cách bổ nhiệm Tư Tỵ làm Trung Đoàn phó Trung Đoàn 25, vì Trung Đoàn 25 là Liên Quân và Tư Tỵ cũng là 1 trong 10 con Rồng Xanh của tổ chức này.
Đối với Mười Trí thì lại khác hẳn. Từ ngày Ba Dương bị ám sát, không một nhân vật nào trong Bình Xuyên lại thế lực hơn Mười Trí, mặc dầu Năm Hà là Tổng Tư lịnh Bình Xuyên và Bảy Viễn là Khu phó khu 7.
Bởi vậy Nguyễn Bình đặc biệt chú ý Vũ Tam Anh. Đặc biệt chú ý của Nguyễn Bình chúng ta còn nên hiểu là Nguyễn Bình tìm đủ cách hạ sát Vũ Tam Anh hay ít nhất tách xa Vũ Tam Anh khỏi Trung Đoàn 4 của Mười Trí.
Tách xa Vũ Tam Anh khỏi Trung Đoàn Bình Xuyên là điều quá khó khăn vì Nguyễn Bình dư hiểu rằng không có một mua chuộc nào đối với Mười Trí có thể làm cho con Rồng Xanh cứng đầu nhứt của Bình Xuyên chấp nhận điều đó.
Đã có lần Nguyễn Bình thăm dò Mười Trí:
– Rất có thể tôi sẽ được cử làm Ủy viên quân sự Nam Bộ (trên thực tế thì Nguyễn Bình, mặc dầu là Khu trưởng khu 7 nhưng có quyền hành như Tư lịnh Nam Bộ bao trùm cả Khu trưởng khu 8 và 9). Trong ngày gần đây Nam Bộ sẽ họp phiên khoáng đại quyết định về việc này.
Mười Trí như thường vui vẻ đáp:
– Tôi thành thực chúc mừng cho Khu trưởng. Khu trưởng xứng đáng làm Ủy viên quân sự Nam Bộ.
Nguyễn Bình nhũn nhặn:
– Cám ơn anh Mười quá khen nhưng đó cũng chỉ mới là hy vọng mà thôi.
– Hy vọng đó quá dễ dàng thành sự thực.
Nguyễn Bình lưỡng lự:
– Nếu được cử đảm nhiệm chức vụ mới đó, tôi phải giải quyết gấp nhiều điều khó khăn.
Mười Trí chưa hiểu hết ý nghĩ ẩn kín của Nguyễn Bình nên đáp:
– Thêm quyền, thêm trách nhiệm, đó là sự dĩ nhiên. Với tài ba của Khu trưởng thì khó khăn gì mà…
Nguyễn Bình ngắt lời Mười Trí:
– Khó khăn cấp thời của tôi là chọn cho được người tín nhiệm và tài ba để thay tôi trong chức vụ Khu trưởng 7.
Mười Trí thành thực:
– Ồ, những người dưới tay Khu trưởng…
Một lần nữa Nguyễn Bình ngắt lời Mười Trí:
– Tôi thành thực bàn tính với anh Mười chuyện này. Theo ý tôi thì hiện nay chỉ có hai người đáng làm Khu trưởng khu 7 là anh Mười và Bảy Viễn. Anh Bảy đã là Khu phó nay lên Khu trưởng cũng hợp tình hợp lý nhưng nếu anh Mười làm Khu trưởng, tưởng còn xứng đáng hơn .
Mười Trí cười lớn, tìm cách thối thác:
– Xin Khu trưởng …tha cho. Đến như làm Phó, thay thằng Bảy , tôi cũng không đủ sức nữa là làm Trưởng. Khu trưởng muốn văn thư gởi cho các Tư lịnh Trung Đoàn…vắn tắt như tôi đã gởi cho Phú Lâm hay sao?
Đến lượt Nguyễn Bình cười lớn.
Nguyễn Bình còn nhớ rằng có hai nhân viên công tác Thành của Mười Trí, bị công an Phú Lâm bắt. Viên công an trưởng nơi đây đã nói một câu rất hỗn:
-Tụi bay công tác của anh Mười chứ anh Ba Mươi (danh từ dân ven rừng dùng để chỉ con cọp vì kiêng kỵ) tao cũng giam.
Câu này tới tai Mười Trí. Mười Trí gọi ngay người thư ký đánh máy lại, để “thảo” văn thư phản kháng.
Bức thư cũng có đánh máy trên cùng của góc trái những câu
“Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Ủy viên ban Hành Kháng Nam bộ Trung Đoàn 4 Bình Xuyên “
và mở đầu bằng câu: ” Tư lịnh Trung Đoàn 4 Bình Xuyên gửi đồng chí Chủ tịch Quốc gia Tự vệ cuộc Phú Lâm” và sau đó: “Thưa đồng chí Chủ tịch ..” nhưng nội dung chỉ vỏn vẹn:
– “Tôi hỏi đồng chí thả hay không thả” rồi đóng dấu ký tên: Huỳnh văn Trí.
Mười Trí gọi một tiểu đội phòng vệ bộ Tham Mưu tới, tiểu đội võ trang tiểu liên Sten và trung liên Thompson, hạ lịnh cho viên Tiểu đội trưởng:
– Mang thư này tới trụ sở Công an Phú Lâm. Nếu nó không thả, mang xác thằng Chủ tịch về đây cho tao.
Lẽ cố nhiên Chỉ huy trưởng Công an Phú Lâm phải thả hai nhân viên công tác của Mười Trí . Và cũng từ đó “công văn” của Mười Trí đi vào lịch sử của Kháng Chiến.
Nguyễn Bình cũng hiểu Mười Trí tìm cớ thoái thác, nhưng còn cố nài nỉ:
– Anh Mười lo gì việc đó. Tôi có thể để lại cho anh Mười hầu hết các nhân viên trong văn phòng Khu trưởng khu 7 để giúp anh Mười trong việc giấy tờ.
Mười Trí hứa với Nguyễn Bình sẽ trả lời dứt khoát về việc này trong một dịp khác và chắc chắn không lâu.
Nguyễn Bình ra về rồi, Mười Trí tâm sự với những người thân tín:
– Nguyễn Bình muốn tái diễn vở tuồng “Trung Đoàn 2”. Bảy Viễn được phong làm Khu phó khu 7, quyền chỉ huy trao lại cho Từ văn Ri nên anh Ba (Ba Dương) mới bị ám sát, nên nay Bảy Viễn ngày nay có tiếng mà không có miếng. “Qua” sống với anh em tại Trung Đoàn 4, Trung Đoàn 5 của anh Tư Đức và Trung Đoàn 25 của anh Tám (Bùi Hữu Phiệt) là mãn nguyện rồi.
Nguyễn Bình mưu toan gì tại Trung Đoàn 4 không thể qua mắt Vũ Tam Anh.
Có thể nói Vũ Tam Anh và Nguyễn Bình là hai kẻ tử thù bề ngoài thì gặp gỡ, đối đáp cùng nhau vô cùng hoà nhã vì cả hai đều nể nhau là “cao thủ võ lâm”, nhưng nếu có dịp lừa nhau một đòn thì không ngần ngại.
Đòn của Vũ Tam Anh đánh trước tại Bình Long tự ở Bến Lò Đường, nơi tả ngạn sông Vàm Cỏ.
Chúng ta đã nói Vũ Tam Anh là Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 4, là “bộ óc” của Mười Trí . Bởi vậy đôi khi những chuyện quan trọng, Sáu “Xếch Xông” báo cáo cho Vũ Tam Anh trước cả Mười Trí.
Chính Vũ Tam Anh, muốn “trả đòn” Nguyễn Bình đã vạch rõ một kế hoạch cho Sáu “Xếch Xông” tổ chức cuộc hạ sát Nguyễn Bình tại bến Lò Đường. Vụ này còn được Mười Trí, Bùi Hữu Phiệt, Tư Đức tán thành nhưng chỉ vì viên Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 25, “anh hùng nể nang anh hùng” không muốn bắn loạt đạn đại liên cuối cùng xuống xuồng chở Nguyễn Bình – đã bị bắn trúng tới sáu phát súng Colt 45- vì không muốn Khu trưởng phải “mò tôm” nên Nguyễn Bình mới được bác sĩ trưởng tận tâm săn sóc và cứu thoát sau sáu tháng điều trị.
Khi nghe tin Nguyễn Bình bị bắn tại Bình Long tự, Ung Văn Khiêm, lúc đó đã cùng Lê Duẫn vào Nam, vội phái cô cháu vợ là Vương thị Trinh tới Tân Uyên để săn sóc Nguyễn Bình.
Nhiều người tự hỏi: tại sao Nguyễn Bình lại quá chủ quan, chỉ cùng một tiểu đội dấn thân tới Bình Long tự để lãnh sự thất bại chua cay.
Sự thực không phải như vậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:05:18 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nguyễn Bình là con người tính toán rất kỹ lưỡng. Sở dĩ chỉ đi cùng một tiểu đội tiến sâu vào “nội địa” của bến Lò Đường là vì hoàn toàn nhận thấy lý lẽ của Sáu “Xếch Xông” là đúng: đưa quân ồ ạt tới không sao tránh được sự khám phá của tình báo Trung Đoàn 25. Hơn nữa Trung Đoàn 25, thời bấy giờ, đã nổi tiếng là Trung Đoàn “du côn” thắng quân Pháp nhiều trận ngoài sức tưởng tượng của mọi người như trận Chợ Nhỏ (Thủ Đức) chỉ với một tiểu đội mà tiêu diệt hết lính Pháp trên ba xe GMC, cướp hết khí giới chở trên ba xe này rồi sau đó thiêu rụi.
Trung Đoàn 25 đã đánh chín trận trong mười một ngày trên đường Saigon, Cap St Jacques (Vũng Tàu) từ dốc 47 (cây số 47 kể từ Saigon ra Vũng Tàu) tới dốc 54 mà trận nào cũng làm cho Pháp thất điên bát đảo.
Chiến thuật du kích của Trung Đoàn 25 vô cùng tân kỳ nhờ sự huấn luyện và định đoạt của Nam tước Trung úy Watanabe Hitomi được chính Đại Tướng Sato Tổng Tư lịnh quân đội Thiên Hoàng cử tới để giúp bộ đội An Điền (tức Trung Đoàn 25 sau này).
Nam tước Watanabe, được anh em trong bộ đội đặt cho tên Việt “ngớ ngẫn” là anh Bê, quá kinh nghiệm trong các cuộc chiến đấu du kích tại Miến Điện nên huấn luyện cho các chiến sĩ cách phục kích vô cùng táo bạo “nằm ngay bên lề đường” và nếu cần phải thắng địch bằng những cuộc xáp lá cà đột ngột,
Trận đánh ngã ba Tân Uyên cũng làm cho Trung Đoàn 25 nổi tiếng vì đã thắng được cả một đoàn xe GMC của Pháp muốn tiến tới thanh toán Tổng Hành Dinh của khu 7.
Đây là trận đánh hi hữu xác định chiến du kích táo báo của “Anh Bê” hữu hiệu và đã khiến cho quân Pháp điên đầu nghiên cứu.
Con đường từ Biên Hòa tẻ vào Tân Uyên có hai ngã: một tiến thẳng tới Tổng Hành Dinh của khu 7, và một tới Biệt thự Suối Reo (Villa la Source) Tổng Hành Dinh của Trung Đoàn 25.
Được tin của Tám Sanh, ngày đó, quân đội Pháp sẽ từ chợ Thủ Đức, tiến sâu vào Tân Uyên, trung đoàn 25 dàn quân phục kích, nhưng phải dùng tới khá nhiều binh sĩ vì chưa rõ quân Pháp sẽ tấn công Tổng Hành Dinh khu 7 hay “Biệt thự Suối Reo”.
Địa điểm phục kích nơi ngã ba đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và vị trí phục kích của mỗi người cũng đã được chỉ định.
Tới ngày đã định, từ mờ sáng, mọi người lên đường .
Một em nhỏ, chưa quá 13 tuổi đòi… ra mặt trận.
Anh Tham Mưu trưởng khuyên nhủ:
– Em ở nhà. Cuộc phục kích này không phải “trò chơi” trái lại vô cùng nguy hiểm.
Em nhỏ cãi lại :
– Tại sao các cuộc phục kích trên đường Saigon, Cấp, anh cho em đi ?
Anh Tham Mưu trưởng ôn tồn giải thích:
– Trong những cuộc phục kích đó “chắc ăn” vì mình ở trên đồi, Tây ở dưới đường, nên chỉ cần “bắn tưới” lên đầu tụi nó. Cuộc phục kích này, trái hẳn lại, phải nằm sát đường, Tây nó…chạy loạn, dẫm lên em, em cũng toi mạng.
Thấy em nhỏ còn chưa chịu nghe, anh Tham Mưu trưởng hạ lệnh:
– “Qua” cấm em không được tới nơi phục kích.
Cưộc phục kích diễn ra đúng như dự đoán của anh Bê : một đoàn 10 chiếc xe GMC của Pháp bị chận đầu và cuối bằng hai cây sao to lớn đổ xuống đúng lúc. Đoàn xe Pháp còn bị chia làm ba đoạn vì hai cây sao khác đổ đúng lên xe phía giữa gây náo loạn cho lính Pháp và “pạc ti dăng” ngay phút đầu.
Cây vừa đổ xuống thì súng cũng bắt đầu nổ.
Viên Thiếu tá Pháp ngồi trên chiếc ghế bành đặt nơi chiếc xe GMC thứ hai, đưa ống dòm lên quan sát hướng có tiếng súng rồi hạ lệnh:
– Tập trung hỏa lực, bắn về phía bên phải.
Quân Pháp phản pháo rất dữ đội nhưng đạn vượt cao qua đầu phục kích quân và chỉ làm cho lá cây rừng rơi lả tả.
Viên Tham Mưu trưởng Trung Đoàn 2 khẽ ra dấu. Mục tiêu quá gần và quá dễ dàng vì lính Pháp đều quay cả lưng về phía bên trái đường.
Thiếu tá Pháp hoảng hốt :
– Tập trung hỏa lực bắn về phía bên trái.
Lần này lính Pháp bắn đã khá yếu ớt, và cũng như lần trước đạn bay bổng vào rừng cây rậm rạp.
Phục kích quân phía bên trái núp kín, yên lặng sau các gò mối, nhường sự hoạt động cho cánh quân bên phải và cứ như vậy lần lượt diễn tiến khiến cho quân Pháp rối loạn. Khi viên Thiếu tá bị bắn gục, đám quân còn lại không biết nên bắn về phía bên trái bay bên phải, nên chọn con đường “thuận tiện” hơn hết là bỏ chạy ngược về phía Biên Hòa.
Mặt trận đã lắng dịu. Những tiếng cười nói vang lên, tiếng cãi cọ vui vẻ khi giành nhau đoạt những khẩu súng lớn.
Anh Tham Mưu trưởng hạ lệnh đốt hết xe Pháp trước khi lút lui.
Trên đường về anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy em nhỏ bị cấm ra trận lúc này vai trái đeo khẩu súng săn hai nòng dài cũng gần bằng thân hình nhỏ bé của nó, vai phải vác khẩu đại liên quá nặng, bước đi một cách vô cùng khó khăn.
Anh Tham Mưu trưởng hỏi.
– Ai bắt em vác khẩu súng lớn như vậy?
Em nhỏ cười tươi :
– Thưa không có ai trao cho em cả.
– Vậy súng này ở đâu ?
Sự hãnh diện lộ trên khuôn mặt còn non dại, giọng nói của em nhỏ trở nên nghiêm nghị:
– Em bắn hạ thằng Tây đoạt súng.
Mọi người nghe câu nói này đều cười rộ. Em nhỏ như bực mình trước sự chế nhạo của người lớn :
– Em nói nói thực mà,
Nó liếc anh Tham Mưu trưởng rồi tiếp:
– Anh lớn cấm em ra trận, Nhưng khi nghe tiếng súng nổ … vui quá, em lén đi tới.. xem. Em núp sau một gò mối gần bên đường. Thằng Tây đặt ngay khẩu súng đại liên này trên gò mối em núp mà bắn, sao nó lại hướng họng súng về phía bên kia đường bắn liên hồi. Em nhô đầu khỏi gò mối thấy nó nằm dài trên mặt đường, tay xiết chặt cò súng. Em đưa khẩu súng bắn chim ra, họng súng chỉ cách…đít nó không đầy hai thước nên em bắn là trúng liền. Thằng Tây dẫy lên đành đạch như con ếch bị đập trúng lưng một hồi rồi nằm yên. Em chờ khi Tây rút lui rồi mới ra lấy súng.
Lần này các anh lớn không cười nữa mà nhìn nó bằng con mắt thán phục.
Trung Đoàn 25 còn đánh nhiều trận nổi tiếng nữa nên vô cùng thiện chiến, và nhất là đầy đủ vũ khí, kể cả những vũ khí nặng hơn tất cả các bộ đội thời bấy giờ.
Sở dĩ Nguyễn Bình nghe theo lời Sáu “Xếch Xông” vì muốn tránh một cuộc đụng độ lớn mà phần thắng bại chưa chắc đã nghiêng về phía bên nào.
Tuy nhiên Nguyễn Bình là con người tính toán rất kỹ đã cho đoàn quân của Hoàng Thọ đóng cách Lò Đường lối 2 trăm thước.
Hoàng Thọ được hai mật lệnh : Chờ Nguyễn Bình ra dấu thì một là chặn sự truy kích của đoàn quân Trung Đoàn 25 khi Bùi Hữu Phiệt và bộ Tham Mưu bị bắt nhưng bại lộ, hoặc bất thần tấn công thẳng vào Trung Đoàn này
Nhưng khi Hoàng Thọ nhận thấy Khu trưởng Nguyễn Bình nằm dài trên xuồng, máu loang khắp nơi, chưa rõ sống chết ra sao, nên vội vàng yên lặng thu quân, lui ngược về chiến khu chứ không tấn công vào Tổng Hành Dinh của An Điền.
Và qua cuộc giải phẫu kỳ diệu 6 giờ liên tiếp của bác sĩ Hưởng, Nguyễn Bình còn hôn mê, nhưng đã thoát tay tử thần.
Ung văn Khiêm phái người cháu vợ là Vương Thị Trinh tới săn sóc cho “người hùng khu 7”
Vương thị Trinh là đảng viên ưu tú và lâu năm của Đảng, không cảm thấy mấy thích thú trước lịnh của Ung văn Khiêm, nhưng cuối cùng phải tuân theo vì kỷ luật Đảng.
Tại sao Vương Thị Trinh lại có rất ít cảm tình với Nguyễn Bình? Là đảng viên Cộng sản, trước mắt Vương thị Trinh, dầu sao chăng nữa, Nguyễn Bình cũng không được “Bác và Đảng” hoàn toàn tin cậy, nhất là sau lễ truy điệu rầm rộ “Ngày tang Yên Bái lãnh tụ Nguyễn Thái Học đảng trưởng VNQDĐ” vì đảng Cộng sản luôn luôn quan niệm rằng “vải xanh” (ám chỉ các đảng phái quốc gia) có “nhuộm đỏ” (sau đó gia nhập đảng Cộng sản) cũng loang lỗ nghĩa là… chỗ xanh nơi đỏ chứ không thực sự đỏ như mảnh vải trắng nhuộm đỏ (những cán bộ chưa gia nhập đảng phái nào mà theo đảng Cộng sản).
Tuy nhiên gái thuyền quyên gần gủi trai hùng cả nửa năm khi nâng giấc khi dỗ dành, tay cầm tay, mặt sát mặt thì rơm gần lửa cũng phải bốc cháy
Vương thị Trinh đã yêu Nguyễn Bình và Nguyễn Bình cũng không thờ ơ trước thiếu nữ đặc biệt như Vương thị Trinh.
Không riêng gì người Á Đông, dân chúng khắp thế giới đều có quan niệm rằng kẻ đa tài thì luôn luôn đa tình. Điều này hoàn toàn đúng với Nguyễn Bình
Tháng hai năm 1946, khi mới “chân ướt chân ráo” vào Nam Bộ còn đóng Tổng Hành Dinh tại xã Mỹ Lộc (Tân Uyên), Nguyễn Bình đã không “qua khỏi ải giai nhân”. Chính vì “ải giai nhân” này đã vô tình gây quá nhiều rắc rối, căm hờn giữa bộ đội An Điền (Trung Đoàn 25 Bình Xuyên sau này) với Khu trưởng Nguyễn Bình.
Hồi đó Tổng Hành Dinh An Điền rời Tăng Nhơn Phú đóng tại Biệt thự Suối Reo (Villa Source) tại Tân Uyên trên đường vào xã Mỹ Lộc.
Biệt thự Suối Reo, một biệt thự lớn của chủ đồn điền Pháp, được thiết lập thực rộng lớn trên ngọn đồi trung bình, chung quanh trồng đầy thông, phượng vĩ và trắc bách diệp với dòng suối khá lớn bao quanh chân đồi. Nước suối chảy, gió thông và trắc bách diệp đưa lên biệt thự thành tiếng nhạc êm đềm thơ mộng, lại còn thoang thoảng cả mùi hương thơm dịu dàng. Bộ Tham mưu An Điền rất vừa ý khi đóng tại đây.
Chiều hôm đó, trời mưa nặng hạt nhưng những giọt mưa chỉ như những sợi lưới mỏng trắng toát xuyên qua các cành lá bao quanh biệt thự
Bỗng anh em trong bộ Tham Mưu, đương đứng thẫn thờ ngắm “mưa giăng lưới” chú ý tới con ngựa bồng cao lớn đương từ trong rừng phóng ra và chạy thẳng lên đồi
Người kỵ mã gò cương gấp trước cửa biệt thự khiến con tuấn mã cất cao hai vó trước, hí lớn một tràng dài nhưng kỵ mã là tay điêu luyện, nên vẫn ngồi vững trên yên và nhẩy mau xuống đất khi con ngựa vừa đứng với cả bốn chân.
Kỵ mã buông cương, phất tay: con ngựa đã được huấn luyện kỹ, vội chạy tới núp mưa dưới gốc cây thông lớn trong khi kỵ mã cũng bước vội vào mái hiên biệt thự.
Tới lúc đó, anh em trong bộ Tham Mưu An Điền mới nhận ra rằng kỵ mã là một phụ nữ, đầu đội chiếc nón của “chà chóp” (giống như nón của lính Úc ngày nay, một bên vểnh cao, đóng vào nút trên nón bên bẻ xuống thấp, che phủ gần tới tai) mặc chiếc áo “sơ mi” bằng lụa vàng, quần đi ngựa, đôi giày ủng cao màu gan gà.
Thiếu nữ hơi cao, so với cùng giới tại VN, nẩy nở và cân đối nhưng gương mặt lại thực đẹp, trái soan, mắt to, đen láy, mũi dọc dừa, miệng “tham lam”, cằm tròn và da thực trắng
Cô kỵ mã, có vẻ bực tức khi thấy cả bầy thanh niên nhìn mình chăm chú mà không ai nói lên một lời, nên vụt mạnh chiếc roi gân bò vào giầy ủng, hỏi hơi gắt gỏng:
– Các anh chưa thấy… người đàn bà bao giờ sao ?
Một thanh niên phản ứng tức thì:
– Thưa, thấy nhiều rồi chớ nhưng chưa thấy ai đẹp và dạn dĩ bằng cô.
Thiếu nữ đã nguôi giận :
– Cám ơn anh. Tại sao tôi dạn dĩ ? Dạn dĩ theo ý anh có phải là con gái dám lên tiếng trước đàn ông ?
Chàng thanh niên lắc đầu :
– Không phải. Cô coi giống như.. đầm dám phóng ngựa tới Tổng Hành Dinh của chúng tôi, lỡ chúng tôi không kịp thời ngăn chặn, lính bắn chết cô thì sao ?
Thiếu nữ ngạc nhiên :
– Kịp thời ngăn chặn ? Quả thực tôi không hiểu ?
– Mời cô vào trong nhà. Mưa đã quá nặng hạt, tạt tới hành lang rồi
“Cô kỵ mã” bỏ chiếc nón “chà chóp” lắc mạnh đầu cho làn tóc mây đen nhánh xỏa xuống tới ngang lưng rồi mạnh dạn theo một đám con trai vào trong nhà.
Thêm một tiếng “ồ” tập thể nữa nổi lên, khiến “cô kỵ mã” ngạc nhiên :
– Sao? Tôi… sao…
– Cô vừa… hiện nguyên hình mất hết vẻ “dữ dằn” của “chiến sĩ” để trở thành thiếu nữ mà chúng tôi quen gặp nơi các khách thính tại Saigon.
Đó là lời khen dịu đàng kín đáo và xa xôi, khiến “cô kỵ mã” mỉm cười đáp nhỏ:
– Cám ơn anh, cám ơn các anh.
Ngồi trước đám con trai nơi chiếc bàn dài bằng gỗ của chủ nhân Pháp để lại.”Cô kỵ mã” tự giới thiệu là Nguyễn thị Thạnh. Cô…dài môi nhái, Thạnh cũng như Thịnh theo tiếng Bắc (vì đám con trai hầu hết là dân Bắc) tôi học trường…
– Marie “Kuyệt”? (tiếng lóng chỉ trường đầm Marie Curie, tại Sàigòn).
Thạnh mở lớn đôi mắt:
– Tại sao anh biết ?
Lại một tràng cười lớn nổi lên, trước khi có câu trả lời :
– Tại cô như đầm vậy.
Giọng nói nghiêm trang nổi lên :
– Chúng tôi xin phép cũng tự giới thiệu cùng cô.
Vẫn giọng tự nhiên của các cô gái đã từng theo học các trường Pháp tại Saigon. Thạnh đáp :
– Tôi rất hân hạnh…
Nhưng Thạnh vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy “bầy con trai” đang ngồi trước mặt nàng đã từng theo học những trường danh tiếng tại Hà-nội, Saigon và “đứa nào” cũng có ít nhất là bằng Tú tài. Trong “chúng nó” còn có cả Sinh viên Luật Khoa và “một tên” ít nói, và nói rất nghiêm nghị là Kỹ sư. Về vấn đề học vấn, người ta khó lừa bịp được đối với một người cũng có học.
Thạnh chỉ cần trắc nghiệm bằng cách đột nhiên trong cuộc đối thoại, đặt một câu hỏi bằng tiếng Pháp, hay về “Kỹ thuật học đường”. Nhưng trước cuộc “trắc nghiệm” đó, “thí sinh” đều “trả bài” lưu loát, thông thường là còn vượt qua sự hiểu biết của “cô giám khảo” nên bầu không khí giữa “đám trẻ” có học vô cùng là thân mật và cởi mở.
Mưa vẫn còn nặng hạt, những rặng cây phi lao quá cao lớn và rậm rạp hất một màn đen u ám trong phòng của Biệt thự Suối Reo.
Bỗng “cô kỵ mã” ồ lên một tiếng kinh ngạc… Biệt thự Suối Reo tràn ngập ánh sáng rực rỡ bóng đèn điện.
Thạnh vội hỏi:
– Tại sao, ở giữa rừng già này các anh..
Một người chỉ anh chàng cả thẹn ngồi yên một chỗ, nhưng khi nói thì giọng nghiêm nghị kiểu “Ông Cụ non”
– Nhờ tài của Ông già này. Cô đoán thử xem ông ấy bao nhiêu tuổi ?
Chàng thanh nièn bị gán mỹ hiệu “ông già” tuy da mặt sạm đen hẳn lên nhiều nét phong trần, nhưng chắc chắn chưa quá hai mươi lăm tuổi. Mà hồi nãy đã được giới thiệu là Kỹ sư Việt.
Trước sự ngạc nhiên về ánh sáng điện của Thạnh, Kỹ sư Việt giải thích :
– Tại biệt thự này có sẵn máy đèn, tuy đôi chút hư hại nhưng sửa chữa lại cũng không có gì là khó khăn.
Đôi mắt Thạnh nhìn chàng “Kỹ sư ông già” với vẻ trìu mến khác thường khiến Việt thẹn thò như cô gái, đỏ mặt, cúi đầu.
Nhận ngay thấy “biến cố” này, một người phụ hoạ:
– Cô chưa biết anh Việt đã từng từ Hà-nội qua Nam Kinh lo việc chế tạo đạn cho Tưởng Giới Thạch trong thời Trung Nhựt chiến tranh. Trở về nước, anh cũng chế tạo nhiều loại vũ khí mới.
Cặp mắt mắt Thạnh mở to:
– Những loại vũ khí gì ?
– Thí dụ như loại lựu đạn không cần “mỏ vịt” không chốt an toàn, hay mìn tự động, chôn dưới đường bánh xe nhà binh Pháp lăn qua nổ liền.
Thạnh vui vẻ cười lớn :
-Tôi có đọc những bản báo cáo về các trận phục kích của các anh trên đường Saigon-Cấp (Vũng Tàu). Chính Thiếu tướng Nguyễn Bình cũng ngạc nhiên về việc đụng là nổ liền. Nhưng tại sao vậy ?
Kỹ sư Việt thao thao bất tận giải thích về vấn đề hoàn toàn kỹ thuật như trái lựu đạn không cần chốt an toàn vì đã đặt hai hột nổ và hai rề-so phía trong, chỉ cần liệng xa từ mười lăm đến hai mươi thước, cao lối hai thước, khi lựu đạn đụng đất cũng gây nổi sức mạnh để trục, hay kim hỏa, đụng hột nổ đầu này hay đầu kia (đầu bị dụng xuống đất) làm cháy thuốc súng và “hột vịt” phát nổ. Phương pháp về trái mìn tự động nổ cũng tương tự vì…
Anh em đưa mắt nhìn nhau ngạc nhiên thấy cô khách chăm chú nghe những lời giải thích khô khan chẳng khác nào người học trò yêu khoa học được vị giáo sư bác học nổi tiếng giảng bài.
Cuối cùng Thạnh bình phẩm:
– Thực là giản dị, giản dị như trái trứng của Kha luân Bố nghĩa là miễn chúng ta nghĩ tới.
Chưa có một lời khen vắn tắt nào làm cho Việt thích thú đến như vậy. Nhắm mắt như hồi tưởng lại ngày thành công rực rỡ khi theo Bùi Hữu Phiệt tới Bình Xuyên ra mắt Ba Dương để thương thuyết việc bộ đội An Điền đứng trong liên minh Bình Xuyên, cùng chiến đấu.
Bùi Hữu Phiệt đề cao kỹ sư Việt nhưng giới lãnh đạo Bình Xuyên không ai có thể tin được rằng chiếc “hột vịt” không chốt an toàn, chế tạo quá giản dị lại có thể cũng hiệu quả như lựu đạn của Nhựt hay của Anh.
Chính Ba Dương đã nhã nhặn nhưng đầy vẻ nghi ngờ đề nghị:
-Sáng chế đó tuyệt vời.Tôi có lời thành thực ngợi khen… em Kỹ sư. Ở đây rảnh rồi, ngày mai em kỹ sư có thể thí nghiệm cho chúng tôi thấy không ?
Bùi Hữu Phiệt hơi lo ngại, nhưng kỹ sư Việt đã bằng giọng hành văn “kiếm hiệp Tàu” một lối hành văn phù hợp, gây thích thú với “Lương sơn Bạc Bình Xuyên”, nhỏ nhẹ đáp :
– Dạ, cung kính không gì hơn là tuân lệnh. Ngày mai em sẽ thí nghiệm cho các anh lớn coi,
Mười giờ sáng hôm sau, nơi cuối sân rộng lớn lát gạch của bộ Tổng Tham Mưu, ba lính “pạc ti dăng” vừa bị bắt trong trận giao phong hôm trước, bị trói vào cột gỗ.
Toàn bộ chỉ huy quân sự của Bình Xuyên tiến ra. Ba Dương nhỏ nhẹ, như thông lệ, nói với Bùi Hữu Phiệt:
-Anh Tám hãy hạ lệnh cho em Kỹ sư liệng trái “hột vịt” về phía tử tù để mọi người thấy rõ hiệu quả về sáng chế của em.
Ý nghĩa câu nói dịu dàng của Ba Dương cũng khiến Bùi Hữu Phiệt lo ngại. Ba Dương có nhã ý là không chỉ huy người của Bùi Hữu Phiệt nhưng nếu cuộc thí nghiệm này vô hiệu quả thì chính Bùi Hữu Phiệt bị mang xấu hơn cả Kỹ sư Việt.
Bùi Hữu Phiệt đưa mắt dọ hỏi Kỹ sư Việt. Kỹ sư Việt bình tĩnh tiến ra sau, tới trước mặt Ba Dương:
– Thưa anh lớn hãy coi thử trái “hột vịt” này có khác các lựu đạn thông thường không ?
Ba Dương đón trái “hột vịt” trên tay Việt quan sát kỹ rồi truyền qua những chuyên viên quân sự Bình Xuyên.
Cả mười phút sau trái “hột vịt” được trao trả lại cho Việt, Ba Dương cười:
– Khác, khác xa lắm. Bây giờ em… Kỹ sư thực nghiệm coi
Kỹ sư Việt đáp :
– Xin các anh lùi lại sau em 20 thước vì sự công phá của trái “hột vịt” rất mạnh
Mọi người đã lui về vị trí. Việt liền ra giữa sân gạch, chạy mau vài thước rồi lăn xuống sân. Đúng lúc đó, tay mới rút lựu đạn bên sườn tung cao và về phía các con vật thí nghiệm.
Một tiếng nổ chát chúa nổi lên khói đen tỏa mù mịt.
Khi bầu trời đã quang đãng, đích thân Ba Dương cùng Năm Hà, Sáu Đối, Bảy Nam, Sáu Lào vội tiến tới những chiếc cọc để trói tử tù. Họ vô cùng ngạc nhiên vì thấy những mảnh “hột vịt” quá nhỏ ghim khắp mình các vật hy sinh.
Tối hôm đó, trong bữa tiệc liên hoan, tất cả mọi người đều vui vẻ. Ba Dương tò mò hỏi :
– Em… Kỹ sư, tại sao trái “hột vịt” của em lại bốc quá nhiều khói đen.
Việt khiêm tốn đáp:
– Thưa anh lớn, tại em cố tình cho thêm phần thuốc súng. Hột vịt nổ, gây thương tích cho địch như anh lớn đã thấy, những khói đen bao trùm giúp ta có thể tiến mau tới liệng thêm nhiều trái nữa.
Ba Dương mỉm cười công nhận lời giải thích trên, trong khi Sáu Đối quá vui la lớn hay, hay lắm thì Từ văn Ri, tức Henri Từ, học trường Pháp khá lâu nên vặn hỏi:
– Nhưng “hột vịt” của anh quá nguy hiểm vì lỡ rớt.
Câu nói của Từ văn Ri chưa dứt thì một trái “hột vịt” từ thắt lưng của Việt đã rớt xuống sàn nhà,gây sự hoảng hốt cho tất cả mọi người tham dự bữa tiệc, trừ Bùi Hữu Phiệt và Việt.
Kỹ sư Việt lượm trái “hột vịt” lên, gài vào thắt lưng, rồi mới giải thích : với khoảng cách nào, trọng lượng đè ép nào, “hột vịt” mới có thể nổ, rồi kết luận :
– Hột vịt hơn tất cả các lựu đạn khác ở chỗ không gây tai nạn bất ngờ, thí dụ như bất thần rút chốt, vì cũng như viên đá nặng một trăm gờ ram, rớt từ một thước xuống sẽ nặng bao nhiêu nhưng rớt từ mười thuớc xuống sức nặng sẽ gấp mười v.v…
Ba Dương trìu mến nhìn Bùi Hữu Phiệt.
– Chúng mình lúc này đã là chính thức liên minh với nhau, anh Tám có thể cho tôi “mượn” em Việt trong ít ngày không ?
Vì bí quyết chế tạo “hột vịt” và mìn tự động đã được Kỹ sư Việt chỉ dạy cho chuyên viên ban vũ khí bộ đội An Điền rõ, nên Bùi Hữu Phiệt vui vẻ đáp :
– Da, được chứ anh Ba.
Ba Dương con ngưòi quá từng trải, quá hiểu việc đời, nên do Bùi Hữu Phiệt vui vẻ đáp như vậy, cũng nói ngay:
– Tôi chỉ “mượn” em.. Kỹ sư ít ngày. Anh Tám biết rằng trong Bình Xuyên có rất nhiều người xuất thân là thợ rèn chuyên nghề đánh đao, đánh kiếm. Em… Kỹ sư chỉ cho họ cách chế tạo “hột vịt” và mìn tự động trong thời gian ngắn chắc họ hiểu ngay. Sau đó, tôi sẽ cho người đưa em… Kỹ sư về với anh Tám.
Bùi Hữu Phiệt cũng vội đáp:
– Anh Ba lo gì tới chi tiết vì mình là liên minh tức là anh em một nhà rồi. Tôi có thể “biếu” anh Ba luôn em… Kỹ sư nhưng chỉ e nó xa bạn bè cũ, buồn mà thôi.
Quay qua Việt, Bùi Hữu Phiệt nói:
– Em ở đây với anh Ba, chỉ cho các anh em khác cách chế tạo vũ khí mới.
Rồi bằng một giọng trầm hùng Bùi Hữu Phiệt tiếp :
– Sau nơi đây, biết đâu anh chẳng gửi em tới những bộ đội khác như là Hòa Hảo, Cao Đài để em chỉ bảo cho cách chế tạo loại vũ khí này. Chúng ta đương phải đâu lưng mà tranh đấu chống Pháp, thì chúng ta không còn là của riêng của bộ đội nào cả. Em nhớ chưa ?
Ba Dương cùng toàn thể anh em Bình Xuyên tán thành ý kiến của Bùi Hữu Phiệt nhưng cũng cam kết :
– Tôi chỉ giữ… em Kỹ sư trong thời gian ngắn đủ chỉ dạy cho các anh em thợ rèn đã rành nghề trong hàng ngũ Bình Xuyên.
Việt bắt tay ngay vào việc. Chàng công nhận chỉ bảo cho các anh em thợ rèn đúc lựu đạn và mìn dễ dàng, mau chóng hơn những người khác rất nhiều. Việc tra bột nổ, phân lượng thuốc súng hơi khó khăn đối với những bàn tay quá thô kệch.
Cuối cùng Việt tìm ra phương pháp hiệu nghiệm : trao công việc tế nhị này cho các cô gái, tra hạt nổ là dễ đàng, phân lượng thuốc súng cần thiết cho một trái “hột vịt” hay trái mìn cũng được giải quyết giản dị, thí dụ vỚi trái “hột vịt” thì các cô gái đong một “gáo” thuốc súng, trái mìn 3 lít v.v
Việt còn chỉ cho anh em Bình Xuyên cách chế đạn khiến Ba Dương vô cùng hài lòng.
Trong thời kỳ kháng chiến, đạn là vấn đề quan trọng nhất, quan trọng hơn cả súng vì súng không đạn sẽ thua cả cây tầm vông vạt nhọn.
Việt khuyên anh em chiến sĩ lâm trận, ráng mang đuôi đạn về vì đuôi đạn muốn chế tạo phải có máy cà than cho mỏng, phải có khuôn ép, một điều kiện mà trong những ngày đầu kháng chiến không thể thực hiện được.
Có đuôi đạn rồi, chỉ cần gắn hột nổ phía dưới, đổ thuốc súng vào trong, gắn thêm đầu đạn là đã có thể bắn được rồi. Đầu đạn chế tạo tương đối dễ dàng. Với cái khuôn bằng đất sét, nung cứng như gạch, các anh em thợ rèn chỉ cần đun cho đồng đỏ than chảy ra, rồi mức đổ vào khuôn, chờ nguội, tháo ra, giũa sơ một chút nhẵn nhụi, nhúng vào chút cánh kiến, lắp vào đầu đuôi đạn là xong.
Thấy cách thức giản dị và hiệu quả, anh em nào cũng cố thâu lượm về những đuôi đạn mà mình đã bắn.
Bình Xuyên còn tổ chức cả một “tiểu ban” dọn dẹp chiến trường, khi tiếng súng giao phong đã yên, ra mặt để lượm vỏ đạn.
Đúng 15 ngày sau, đích thân Sáu Đối đưa Việt trở về với bộ đội An Điền.
Sau phần…giới thiệu dài đòng, Thạnh chăm chú nhìn Việt. Bầu không khí trong phòng yên lặng một cách dịu dàng.
Một người lên tiếng :
– Chúng tôi vô ý quá, chưa mời cô lấy một ly nước. Trời mưa chắc còn kéo dài, cô dùng cơm tối với chúng tôi.
Thạnh vui vẻ gật đầu :
– Chính tôi là người vô ý. Các anh đã tự giới thiệu cả rồi, còn tôi chỉ biết nói… bâng quơ
Thạnh cho biết mình thuộc gia đình giàu có tại Saigon. Rời ghế nhà trường vì chiến tranh nổi lên, Thạnh tản cư rồi theo Kháng Chiến, thích thú như một người đi du lịch vì biết thêm được nhiều nơi, nhiều phong cảnh.
– Bao nhiêu tháng qua, tôi đã tham dự trận nào đâu. Có nghe tiếng súng thì lại chính là tiếng súng tôi bắn bâng quơ giữa rừng khi buồn bực. Tôi biết các trận đánh giao phong qua những bản báo cáo đặt trên bàn của Khu trưởng Nguyễn Bình
– Thạnh mà cũng có khi buồn bực sao?
– Thú thực với anh, lúc đầu tôi hồn nhiên như cây rừng, cỏ nội, nhưng càng đụng chạm với họ, tôi muốn nói đụng chạm với Nguyễn Bình và bộ Tham Mưu khu 7, tôi thấy giá trị cá nhân của họ, đối với tôi, ngày một sút giảm. Họ không còn là “thần tượng kháng chiến” như tôi tưởng lúc đầu.
– Nhưng tại sao Thạnh lại “lọt” vào … văn phòng khu 7 ?
Thạnh nhẹ thở dài :
– Đó là sự tình cờ. Gia đình tôi tản cư về Tân Uyên, nơi quê ngoại tôi Khi nghe dân chúng xầm xì rằng Khu trưởng Nguyễn Bình đóng Tổng Hành Dinh tại xã Mỹ Lộc, Tân Uyên, gần ngay nơi gia đình tôi, nên tôi tò mò tới… coi cho biết con người được coi là “hùm xám Miền đông”.
Lúc đầu họ đón tiếp tôi niềm nở nhã nhặn nên tôi bỏ hẳn gia đình sống nơi văn phòng khu 7 để… tham gia kháng chiến.
Việt hỏi một câu rất ngây thơ:
– Nhưng họ đã làm gì khiến Thạnh phải bực bội ?
Thạnh hơi nhíu mày, nhưng đã quá bạo dạn và chịu ảnh hưởng sâu đậm Tây Phương… phá lên cười:
– Còn gì khác hơn nữa khi họ là đàn ông sống giữa rừng và tôi là con gái khoẻ mạnh, mới lớn lên.
– Ồ..như vậy..họ đã..
Thạnh trề môi “xí” một tiếng
– Không có “ồ”… như vậy, “họ đã” gì cả. Họ cố thuyết phực tôi rằng vấn đề sinh lý, thể xác là tầm thường, có gì đâu mà phải gìn giữ khó khăn ? Tôi cũng coi vấn đề đó là tầm thường nhưng tôi chỉ “cho” khi nào tôi muốn cho và cho ai hoàn toàn tùy theo ý tôi. Họ với tôi khác nhau chỉ ở điểm đó. Họ bực tức thì tôi cũng bực tức. Và mỗi khi khó chịu tôi nhẩy lên ngựa, phóng đi chơi, hôm nay tình cờ gặp mưa nên mới tới đây.
– Trước sự bướng bĩnh của Thạnh mà họ không có phản ứng quyết liệt gì sao ?
– Có chứ nhưng họ biết rõ rằng Nguyễn Bình thích tôi, yêu tôi, cưng chiều tôi nên họ đành cắn răng mà chịu. Tôi chỉ lọt vào tay họ khi tôi đã “cho” Nguyễn Bình và Nguyễn Bình đã chán tôi nhưng chuyện đó chắc còn lâu.
Giữa bữa cơm tối, Thạnh nói đùa nhưng giọng tha thiết và thành thực:
– Giá tôi được ở chung với các anh thì… vui biết bao nhiêu. A… tại sao Khu trưởng Nguyễn Bình lại gọi các anh là “bộ đội du côn” ? Tôi thấy các anh không… dao búa chút nào cả.
– Chúng tôi chỉ.. dao búa ngoài mặt trận, còn du côn vì không biết tuân lệnh bất cứ ai, trừ người chỉ huy trực tiếp của chúng tôi.
Chuông điện thoại reo vang khiến Thạnh một lần nữa ngạc nhiên.Việt đứng dậy nhắc ống lên nghe rồi đáp gọn :
– Chờ tôi một chút.
Việt cho Thạnh hay có một người cỡi ngựa dẫn tiểu đội võ trang còn phải đứng tại trạm gác. Họ cho biết được lệnh của Khu trưởng đi đón cô.
Thạnh nhăn mặt, nhưng cũng thẫn thờ đứng dậy.
Việt vội dùng điện thoại hạ lệnh :
– Cho họ vào.
Thạnh đã ra tới sân, ngước mắt nhìn trời xanh thẳm khi cơn giông tố đã qua. Con ngựa khôn ngoan không cần đợi lệnh chạy ngang tới trước mặt chủ trong khi đoàn người ngựa đi đón cũng đã tới sân biệt thự.
Thạnh bắt tay tất cả mọi người, hứa sẽ trở lại tham dự một trận giao phong, rồi nhẩy lên ngựa, như không thấy những kẻ đi đón mình, thúc cho ngựa phóng nước đại.
Viên tiểu đội trưởng đưa mắt lườm những chàng trai còn đứng trước thềm trước khi phóng ngựa đuổi theo “cô kỵ mã” giữa tiếng cười vang nhạo báng của những tên du côn trí thức này.
Đám du côn trí thức không thể nào lường trước được rằng chính tràng cười nhạo báng đó, sau này đã biến thành những tràng đại liên bắn vào nhau.
Thạnh hứa sẽ trở lại tham dự một trận chiến với anh em.
Nhiều trận đụng độ ác liệt, đôi khi kéo dài trọn ngày, đã xảy ra, nhưng anh em trong bộ đội An Điền vẫn thấy vắng bóng “cô kỵ mã” xinh đẹp
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:07:35 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Thời thế mỗi ngày một biến đổi. Khói lửa không chỉ còn nhen nhúm tại vài Đô, Tỉnh, Thị, mà lan tràn khắp nơi tới những quận làng xa vắng
Nhận thấy nếu tiếp tục đúng thế “anh hùng một cõi” thì tất phải có ngàỵ quân đội Pháp dồn lực lượng hùng hậu tới thanh toán, tuy chưa chắc hẳn bị tiêu diệt, nhưng cũng khó tránh cảnh tiêu hao quá nhiều lực lượng, nên bộ Tham Mưu An Điền theo sự thoả thuận trước vói Tư lịnh Bình Xuyên là Ba Dương, kéo binh từ Thủ Đức, đi bọc một vòng dài, qua Thủ Dầu Một, đổ xuống Vườn Thơm hay Rừng Thơm rồi mới kéo về Ấp số 4 nơi Phú Lâm, đóng thành thế Chân Vạc với Trung Đoàn 4 của Mười Trí, (BX) Trung Đoàn 5 của Phạm Hữu Đức (VNQDĐ).
Từ ngày chánh thức gia nhập liên minh và cũng để xóa bớt mỹ hiệu bộ đội du côn, An Điền trở thành Trung Đoàn 25 Bình Xuyên.
Và cũng từ ngày đó, vì Nguyễn Bình luôn lui tới khu tam giác Phú Lâm thăm viếng Mười Trí nên mới xẩy ra những cuộc đụng độ ngấm ngầm hay công khai giữa anh em trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25 Bình Xuyên và Khu trưởng khu 7
Khu trưởng Nguyễn Bình hai lần bị ám sát hụt.
Lần đầu, chính Nguyễn Bình và viên bí thư Nguyễn văn Thắng đã tự dẫn mình vào vòng hỏa lực của quân phục kích, nhưng Mười Trí kịp thời phát giác âm mưu trên, nên đã cứu thoát Nguyễn Bình trong đường tơ kẽ tóc.
Lần thứ hai, được sự tán trợ ngấm ngầm của Mười Trí, thì, trong cơn mưa gió, quân phục kích lại bắn lầm các liên lạc viên tới Ấp số 8 chỉ có mục đích đưa tin Khu trưởng Nguyễn Bình cáo lỗi, xin hẹn gặp gỡ vào một ngày khác
Vụ ám sát hụt này tới tai Nguyễn Bình.
Giữa sự nóng bỏng chống đối về quân sự đó, Nguyễn Bình còn ghi nhận sự chống đối công khai về chánh trị của Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đệ tứ Quốc Tế.
Nhắc lại, một lần Nguyễn Bình tới thăm Mười Trí tại Ấp số 4 Phú Lâm. Ngay chiều hôm đó, Đức Hùynh Giáo chủ và Tư lịnh Cao Đài Kháng Chiến Trình Minh Thế như “không hẹn mà nên”, cùng với tiểu đội vệ sĩ, tới thăm Mười Trí và Bùi Hữu Phiệt .
Nguyễn Bình hơi ngạc nhiên.
“Địa Chủ” Mười Trí, vô cùng khôn khéo và nhã nhặn, vui mừng vì hôm đó được hân hạnh tiếp đón ba nhân vật lừng danh tại Nam bộ Kháng Chiến.
Mười Trí, một mặt ân cần thăm hỏi, mặt khác thét hỏa đầu quân phải tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn.
Thịt bò, heo gà, vịt là món ăn thông thường vì sẵn có. Thịnh soạn trong buổi tiệc của Mười Trí đãi ba thượng khách là đàn em từ câu Tân Thuận, từ cầu Chữ Y, mang về những con tôm hùm còn đương nhẩy trong lồng.
Nguyễn Bình sống nhiều tháng nơi rừng già Tân Uyên. Trình Minh Thế đóng quân nơi Dồng Lớn, dọc theo biên giói Việt Miên, và ngay cả Đức Hùynh Giáo chủ đều thích thú trước món tôm luộc, bóc vỏ, quấn với rau sống chuối chát, chấm mắm nêm, nhậu cùng ba xi đế.
Bữa tiệc vui vẻ hon nữa là khi hỏa đầu quân đưa lên món chạo tôm nướng mía. Chạo tôm là thịt tôm được vằm nhỏ, đặc biệt của “xếp” hỏa đầu quân Mười Trí là pha trộn thêm vào thịt tôm một chút thịt heo có mở, mộc nhĩ nấm hương và tiêu tán cuốn quanh nhánh mía lau rồi nướng chín trên than hồng.
Thịt tôm chín thì trước sức nóng của lò nương, mía lau cũng tiết ra chất ngọt, chất ngọt quá dịu dàng và quá thơm.
Thực khách ăn chạo tôm nướng mía còn thích thú hơn nữa qua các gia vị mà hoả đầu đã biết pha trộn vào.
Bữa tiệc đêm hôm đó, các món ăn đặc biệt đã làm cho mọi người quên lãng “món ăn” chánh trị và quân sự kể cả luôn việc Nguyễn Bình “tạm quên” sự hiện diện bất ngờ tại ấp số 4 của Đức Hùynh Giáo chủ và Trình Minh Thế.
Nguyễn Bình có lẽ cũng tự hỏi: “tại sao hỏa đầu quân của Mười Trí, lại chẳng kém chỉ huy hỏa đầu quân của những nhà hàng Tây hay Tàu ở Hà Nội cũng như ở Saigon, Chợ Lớn ? “
Điều đó không có chút gì là lạ nếu chúng ta hiểu rõ thế nào là Bình Xuyên.
Trước hết về vấn đề “địa dư” Bình Xuyên chỉ là một làng nghèo khó. Nghèo khó vì ruộng cầy cấy rất ít, sình lầy đầy sông rạch với dừa nước, cây bần mọc dọc theo, tại tỉnh Chợ Lớn ngày xưa.
Dân chúng làng Bình Xuyên sống với hai nghề chính : làm thợ rèn, đưa đồ ra bán tại Chợ Lớn hay đúng hơn, nhận mối của người Tàu Chợ Lớn về làm rồi trao hàng lại để lãnh tiền công và nghề chăn vịt.
Hai nghề chính này không đủ bảo đảm cho cuộc sống của dân làng mỗi năm càng gia tăng.
Muốn sinh tồn họ phải tìm thêm nghề khác, nhưng nghề gì trong khi người Pháp coi họ là bất hảo chỉ vì quá nghèo không đủ tiền đóng thuế nhất là không đủ tiền đóng thẻ tùy thân? (giống như căn cước ngày nay nhưng mỗi năm một đổi và muốn có căn cước mới phải đóng tiền).
Phong trào chống đối Pháp một cách bất đắc đĩ đó nổi lên từ làng Bình Xuyên nhưng chỉ chống đối bằng cách bỏ làng đi tha phương cầu thực.
Những kẻ “chống đối” này sống bằng đủ mọi nghề : Làm phu khuân vác tại bến tàu Saigon, anh chị đứng bến xe lơ, xe đò, gác sòng bài, đâm thuê chém mướn và ngay cả tới đá cá lăn dưa để sống.
Tuy nhiên, họ có một tinh thần đặc biệt về gia đình : họ ra đi tìm sống nhưng vẫn có vợ con, cô bác, sống nghèo nàn nơi làng cũ. Bởi vậy họ vẫn lén lút trở về thăm bà con.
Cho tới ngày những kẻ gác sòng bài cho Sáu Nhiều, ông vua cờ bạc thời bấy giờ, nảy ra vài ý kiến cũng hoàn toàn nằm trong vấn đề “đen đỏ”. Sòng me bị Tây bắt phải chạy thất điên bát đảo, tại sao không tổ chức những sòng me lưu động ?
Và nơi nào tổ chức những sòng me lưu động thuận tiện hơn là Bình Xuyên, nơi có sông rạch như màng nhện, với dừa nước um tùm và cây bần cao vút ?
Và cũng từ mùa nước năm đó, những tay chơi me ăn thua cả chục ngàn (vài triệu bạc ngày nay) thích so tài trên những chiếc ghe lênh đênh tại sông rạch Bình Xuyên,
Họ nhận thấy những điều rất thuận lợi, đánh nơi đây đã không bị lính bắt vì Bình Xuyên tổ chức những trạm gác rất xa và hữu hiệu. Khi lính Pháp tới, chỉ cần dấu hiệu nhỏ như một con vịt trời bay lên thì các tay canh sòng bài đã biết chở “thuyền cờ bạc” nội trong một giờ, thời gian mà lính Pháp chưa có thể qua rạch vào tới nơi đi xa cách nơi “pháp pháp”. Xa từ 10 tới 15 cây số, để các con bạc vẫn ung dưng tiếp tục sát phạt lẫn nhau ngay khi “sòng bạc” di chuyển.
Những điều lệ kế tiếp khiến kẻ có máu mê đen đỏ thích thú là : thắng lớn họ cũng không lo ngại bị chặn cướp giữa đường, vì anh chị Bình Xuyên công khai hay bí mật đưa họ về tới tận nhà. Hay “cháy túi ” họ cũng không đến nỗi bị nhịn đói khi còn ở sòng bài hay phải đi bộ về nhà.
Có những kẻ thua vài trăm ngàn trong cuộc hốt me, chưa dám về nhà, cũng được cung phụng đầy đủ về cơm ăn rượu uống, áo mặc v.v…Và khi quyết định ra về đều được món quà kỹ niệm như những đồ đạc gì đặc biệt mang về cho gia đình nạn nhân ” dễ bề…viện cớ,
Bởi vậy, 4 sòng me Bình Xuyên mỗi năm một thêm nổi tiếng. Dân ham mê món đỏ đen này đều, trước còn chờ mùa nước sau suốt năm, tới ăn thua đủ tại vùng Bình Xuyên.
Một điểm đặc biệt hơn nữa là sòng me Bình Xuyên không bao giờ cho phép các tay gian lận tới để bóc lột con bạc. Bình Xuyên chỉ tổ chức lấy xâu, nhưng không làm cái, như vậy trong đám ưa đỏ đen, ai muốn làm cái cũng được , tùy theo con bạc bằng lòng hay không?
Các tay anh chị gốc Bình Xuyên, từng gác sòng cho thiên hạ, nên đã có nhiều kinh nghiệm về tất cả các cuộc đỏ đen.
Một vụ xảy ra, không phải trên ghe, mà ngay tại căn nhà lớn, gần nhà Mười Trí, khiến các tay chơi me thêm tin tưởng vào Bình Xuyên.
Tất cả con bạc đều biết rằng anh chị Bình Xuyên tổ chức sòng me bảo đảm an ninh cho người tới chơi nhưng không chịu làm cái. Điều này làm các tay chơi vững tin vì như vậy Bình Xuyên là trọng tài (lấy xâu) nhưng không nhúng tay vào các vụ gian lận
Bữa đó có một đại thương gia Tàu từ Chợ Lớn cùng 4 thuộc viên tới hốt me.
Thương gia này giầu có ai cũng biết, và ham chơi cờ bạc thì giới đỏ đen càng biết hơn, vì ông ta có thể một đêm thua bạc ngàn, đêm sau thắng gấp mười là chuyện thường.
Thương gia cháy túi cũng hoàn toàn do sự đỏ đen. Bốn ” thuộc viên ” của thương gia này muốn làm dữ như cho sòng me có “cờ gian bạc lận” cướp phá v.v… vì họ cũng là tay võ nghệ cùng mình. Nhưng sau khi đưa mắt dọ hỏi nhau, đành cắn răng chịu thua trước những bộ mặt lạnh như tiền của các trật tự viên và có “cái gì cồm cộm trước bụng “.
Vị thương gia tỏ ý muốn mượn tiền của chủ sòng để đánh tiếp. Điều này thông thường bị từ chối nếu không có gì quí giá để cầm thế, nhưng “chủ sòng Bình Xuyên” vui vẻ nhận lời.
Quả thực, thương gia này tới ngày xui xẻo nên bao nhiêu tiền mượn đều thua hết, thua tới mức không còn tiền về xe khi ghe xuồng Bình Xuyên đưa ra khỏi mặt trận cờ bạc.
Thương gia ở lại làng Bình Xuyên 3 ngày quan sát, vừa được cung cấp rất đầy đủ về ăn uống, và nơi nghỉ ngơi. Cuối cùngười y muốn ra về và được tiễn đưa một cách đường hoàng với số tiền nhỏ nhưng đủ để làm lộ phí.
Không ai có thể ngờ, hai ngày sau, “thuộc viên” của vị thương gia này mang trả đủ số tiền nợ, kèm theo những tặng vật và bức thư ngợi khen “sòng me Bình Xuyên” không những đã đứng đắn còn điệu hơn cả các sòng cờ bạc công khai nổi tiếng trên thế giới.
Vị thương gia quá lăn lộn trên thế giới này hữu lý. Những sòng bạc tại Monaco, Cannes, Nice, tuy có tập quán đưa tiền về xe cho khách đỏ đen tham dự canh bạc lớn cháy túi với số tiền khổng lồ, nhưng không bao giờ chịu cho ai vay mượn nếu không có gì thế chân.
Từ đó sòng me lưu động Bình Xuyên nổi tiếng, lấn áp cả tiếng tăm của “ông Vua cờ bạc” Sáu Nhiều tại Saigon.
Nhưng đó chỉ là khía cạnh cờ bạc. Sự nổi tiếng an toàn này mang lại cho Bình Xuyên một khía cạnh đặc biệt khác. Những tay anh chị, tướng cướp lừng danh và cả những nhà cách mạng bắt đầu để ý tới làng Bình Xuyên.
Những tay anh chị, sau một cuộc “ân oán giang hồ” đẫm máu, những tên cướp lớn, sau cuộc ăn hàng lớn, những nhà cách mạng, sau một cuộc bạo động, đều rút về an toàn khu Bình Xuvên.
Anh chị, hay tướng cướp, lẽ cố nhiên phải mua sự an toàn của mình bằng cách chia sẻ bớt số tiền đã đoạt được cho Xã trưởng Bình Xuyên, nhưng các nhà cách mạng thì hoàn toàn trái hẳn lại, được tiếp đãi long trọng mà không tốn kém một đồng bạc
Nhưng tại sao làng Bình Xuvên lại trở thành “an toàn khu “?
Như đã nói ở phần trên, làng Bình Xuyên sình lầy, có quá nhiều sông, rạch bao phủ bằng dừa nước và cây bần. Dân làng nghèo khổ sống bằng hai nghề: chăn vịt nơi sông rạch và thợ rèn nơi gò cao.
Tổ chức sòng me lưu động, thành công thì cũng có thể tổ chức bảo vệ an ninh cho các tay anh chị, tướng cướp, cách mạng gia an toàn có gì khó, miễn là biết cách tổ chức.
Từ ngày Bình Xuyên “thịnh vượng” có thể mua đất phì nhiêu của các làng lân cạn, chia cho dân chúng (đó là luật lệ của làng nên mới gây được sự đồng tâm nhất trí của dân), thì các em chăn vịt không còn phải lùa bầy gia súc tới tìm ăn ở những nơi thuận lợi nữa. Trái lại đuổi chúng tới một nơi nhất định do “làng” chỉ định. Thí dụ như các đầu rạch, nói rõ là các trạm canh trá hình.
Gia đình và các em chăn vịt yên trí vì nếu không được ăn no thì “làng” cấp thóc cho chúng.
Các em chăn vịt “trưởng trạm gác tiền đồn” đều mang theo trên tay con chim bồ câu mầu sắc khác nhau, hay con vịt trời. Đây là những con vật báo động.
Thí dụ : Lính kín Pháp dùng xuồng máy tiến vào “cửa Đông” làng Bình Xuyên, các em nhỏ chăn vịt chỉ cần chờ xuồng máy Pháp đi qua trạm gác của mình là thả chim bồ cầu hay vịt trời bay lên trời. Những nhân viên trạm gác “nội bộ” thường trực thấy ngay và báo động. Nhân viên an ninh sẽ đưa tất cả “kẻ tình nghi” lưu trú trong làng lên các xuồng chèo đi nơi khác.
Sông, rạch nhỏ, xuồng máy của Pháp có tới được giữa làng thì cũng sau khi “em chăn vịt thả chim” cả giờ đồng hồ, đủ để cho các xuồng nhỏ chở “kẻ tình nghi” len lõi qua lau sậy, dừa nước, rời khỏi nơi đó ít nhất là 10 cây số. Lính kín Pháp có tới cũng chỉ thấy toàn những người dân lương thiện.
Những kẻ tình nghi là những tên cướp nổi danh, sau cuộc ăn hàng lớn, rút về an toàn khu Bình Xuyên để ẩn trú một thời gian. Lẽ cố nhiên họ hiểu luật giang hồ nghĩa là chia một phần tài nguyên cho địa chủ một phần tùy theo số lượng vừa ăn hàng được.
Tuy nhiên Bình Xuyên vẫn rộng mở đón tiếp các tay tướng cướp thất thế, ăn hàng hụt, không có một đồng một chữ trên tay, lại bị truy nã gấp.
Từ tướng cướp tới các nhà cách mạng bị truy nã lấy “an toàn khu Bình Xuyên” làm nơi tạm trú chỉ còn một bước nhỏ.
Chính vì những khách phức tạp như vậy mà Bình Xuyên mang bộ mặt đặc biệt : từ anh chị đứng bến, anh chị gác sòng bài, tổ chức sòng me lưu động; chứa tướng cướp tới dung dưỡng các nhà cách mạng thất thế.
Phải công nhận rằng trong số lớn thuộc 10 con Rồng Xanh Bình Xuyên, như thủ lãnh Ba Dương, Năm Hà, Tư Thiên, Mười Trí, đeo đuổi giấc mộng cứu nước nên họ quen biết nhiều với các nhân vật của Đệ Tứ quốc tế như Nguyễn văn Số, Tạ thu Thâu, nhân vật Quốc Gia như Nguyễn văn Sâm, Hồ văn Ngà, Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường và sau này Phạm Hữu Đức (VNQDĐ) Bùi Hữu Phiệt (Đại Việt Quốc Dân Đảng)
Bởi vậy, sau cuộc họp lịch sử tại Quéo Ba giữa:
– đại diện Bình Xuyên là Huỳnh văn Trí tức Mười Trí,
– Tư Tỵ (Phó Tư lịnh Trung Đoàn 25 Bình Xuyên),
– Bùi Hữu Phiệt (Tư lịnh Trung Đoàn 25, đảng viên Đại Việt Quốc Dân Đảng),
– Phạm Hữu Đức (Tư lịnh Trung Đoàn 5, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng),
– Nguyễn Thành Long tức Long què, (“tàn quân của Đệ ngũ sư đoàn “, đại diện cho Đệ tứ Quốc Tế),
– Trình Minh Thế, đại diện cho Cao Đài Kháng Chiến,
– và nhất là Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo,
tất cả đều muốn làm cho “sống lại” Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Mặt Trận được chia làm hai cục : chánh trị và quân sự,
Quân sự cục được giao cho Mười Trí làm Tư lịnh hay Chỉ huy trưởng, Bùi Hữu Phiệt làm Phó, Tham Mưu Trưởng của Trung Đoàn 25 làm Tham Mưu Trưởng của Cục, với những phụ tá như đại diện của Trình Minh Thế, Phạm Hữu Đức và Nguyễn Thành Long.
Tổng Hành Dinh của Quân sự Cục đóng tại Quéo Ba, gây thế chân vạc giữa Dòng Lớn, đất hoạt động sát biên giới Việt Miên của Trình Minh Thế và Hồng Ngự, đất lành của Phật giáo Hòa Hảo.
Sự xếp đặt này được toàn thể tán thánh
Không cần nói tới Long Xuyên cùng những tỉnh kế cận mà sự kiểm soát hoàn toàn nằm trong tay Phật giáo Hoà Hảo, nơi Dòng Lớn, mỹ thế của Trình Minh Thế lẫy lừng.
Một câu mà dân Miên truyền tụng là : Không sợ Minh (Việt Minh vì lực lượng không len lỏi nổi vào nơi đó), không sợ Tây mà sợ ông Thế, đủ rõ oai danh của Trình Minh Thế trong vùng này.
Thực sự, thực lực của Trình Minh Thế không có bao nhiêu. Chính Trung Đoàn 25 đã cung cấp cho đồng minh Cao Đài Kháng Chiến nhiều vũ khí và chỉ cho lính Cao Đài Kháng Chiến cách chế tạo đạn. Điều này đã thành keo sơn giữa các bộ đội trong Quân Sự cục của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp với dân Cao Đài.
Hơn nữa Mười Trí là tín đồ Cao Đài nên mặc dầu Nguyễn Bình đã hạ lệnh cho Ủy ban Hành Chánh địa phương làm khó dễ, nhưng bộ đội này vẫn sống ung dung khi đồn quân tại các làng Cao Đài.
Đã có một lần, tại một làng nhỏ thuộc quận Trảng Bàng, viên chủ tịch xã từ chối không tiếp tế cho Trung Đoàn 4 của Mười Trí và Trung Đoàn 25 vừa di binh tới. Đây là điều trái với “luật lệ” Kháng Chiến đã được Uỷ ban Hành Kháng Nam bộ chỉ định.
Trưởng ban tiếp tế (lo về quân lương) của Mười Trí và viên Chủ Tịch xã còn đương cãi lý thì một ông già chống gậy bước vào trụ sở xã, chỉ vào mặt viên Chủ tịch :
– Tao hỏi mày, bộ đội Mười Trí đánh Tây hay đánh thằng Nguyễn Bình mà mày không tiếp tế ? Nếu mà mày không tiếp tế thì tao về khui vựa lúa ra tiếp tế cho chúng nó. Mày muốn tính sao thì tính.
Ông già “hách dịch” đó, lại là cha ruột của Ông Chủ tịch Xã nên ông ta phải cân nhắc giữa hai điều : Tiếp tế cho Mười Trí bằng “công quỹ” hay bằng chính tài sản riêng của mình ?
Và dĩ nhiên, cuối cùng, sự tiếp tế cho bộ đội Mười Trí bằng công quỹ vẫn hơn do chính mình phải đài thọ.
Nơi đây chúng ta cũng nên nhắc nhở tới “những ông già” và dân chúng Miền Nam trong kỳ kháng chiến.
Miền Nam không chịu ảnh hưởng nhiều của Cộng sản mặc dầu Miền Nam cũng có những cán bộ cao cấp của Cộng sản như Trần văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Tạo v.v.
Tuy nhiên, dưới triều Pháp, Nhật thuộc, các cán bộ này đã bị lu mờ trước con mắt của dân chúng Saigon, trước các anh chị Bình Xuyên, và hoàn toàn xa lạ với người nông dân Nam bộ.
Đầu năm 1944, Trần văn Giàu đang bị giam ở Bà Rá, một trại tập trung của Pháp dành cho những kẻ bị Pháp coi là “thành tích bất hảo” đột nhiên thấy Dương Bạch Mai bị đày ra Côn Đảo cũng được về đất liền giam chung với mình tại Bà Rá.
Dương Bạch Mai cho Trần văn Giàu biết : một chuyến tầu “tải lương” từ đất liền ra đảo khi trở về đã đón Dương Bạch Mai.
Sau đó, trong một đêm mưa gió, chiếc xe Traction màu đen đã từ Saigon tới Bà Rá chở Trần văn Giàu và Dương Bạch Mai về Saigon
Người Pháp đã thấy rõ những tham vọng của Nhựt nên muốn liên kết với các cán bộ Cộng sản tìm đủ mọi cách phá hoại những hoạt động của Nhựt.
Cần nói ngay rằng thời đó, tại VN có nhiều đoàn thể Quốc Gia, chỉ vì muốn chống Pháp nên đã hợp tác với Nhựt như tại Bắc Việt có Đại Việt Quốc Xã. Miền Nam có Thanh Niên Ái Quốc Đoàn do Đinh Khắc Thiệt làm thủ lãnh, giáo phái Cao Đài v.v…
Phạm Hữu Đức, đảng viên của VN Quốc Dân Đảng Miền Nam, nhưng cha ruột bị Pháp đày ra Côn Đảo, cũng là một nhân viên cao cấp trong Hiến binh Nhựt để chống Pháp.
Pháp đưa Trần văn Giàu, Dương Bạch Mai về Saigon. Dương Bạch Mai hoạt động hoàn toàn bí mật, nhưng Trần văn Giàu, qua nhiều hành động, đã bị Hiến binh Nhựt đặc hiệt chú ý, và theo dõi.
Một điều hi hữu là Hiến binh Nhựt trao cho Phạm Hữu Đức việc lùng bắt Trần văn Giàu, trong khi đó, được Pháp báo động Trần văn Giàu lại sống nơi nhà riêng của Phạm Hữu Đức. Tư Đức chấp thuận cho Giàu ẩn tránh nơi nhà mình chỉ vì tinh thần của một người cách mạng, không cần phân biệt chánh kiến.
Chính vì vậy mà sau này Phạm Hữu Đức Tư lịnh Trung Đoàn 5 bị hạ sát mà chúng ta sẽ nói tới sau.
Và cũng chính vì vậy mà khi Nhựt vừa đầu hàng Đồng Minh, tại Saigon, hồi đầu tháng 9 năm 1945, cả Việt Minh do Trần văn Giàu làm đại diện và phe Quốc Gia còn tranh chấp việc nắm quyền Miền Nam đã xảy ra những vụ hi hữu.
Từ ngày 2 tháng năm 1945, tại Tòa Đô Chánh Saigon, hai phe Quốc Cộng họp bàn liên miên.
Đại điện cho Việt Minh là Trần văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Tạo, và đại diện cho Quốc Gia là Vũ Tam Anh, Hồ Vĩnh Ký, Lâm ngọc Đường cùng giới cao cấp của Cao Đài và Hòa Hảo
Song song với những buổi họp công khai tại toà Đô Chánh, phía Quốc Gia có những buổi họp bí mật nơi khác như tại biệt thự riêng đường Phan Đình Phùng của bà bác sĩ Nguyễn thị Sương tức là vợ của ông Hồ Vĩnh Ký.
Bà Nguyễn thị Sương đậu bằng Y Khoa Bác sĩ tại Pháp, hoạt động nhiều về chính trị nên quen biết hầu hết các cán bộ cao cấp của mọi đảng phái Hơn nữa bà Sương bất chấp “người bạn” đó có khuynh hướng chánh trị gì miễn là tranh đấu chống Pháp là đủ rồi.
Bầu không khí trong phòng họp rộng thênh thang, chỉ có những chiếc ghế kê sát tường. Buổi họp quyết định đêm hôm đó thực nặng nề.
Nhà cách mạng lão thành Dương văn Giáo từ Thái Lan mới trở về, đi đi, lại lại trong phòng, yên lặng, đầu hơi cúi xuống, miệng lẩm bẩm những gì không ai nghe rõ, hai tay chắp sau lưng.
Lê Kim Tỵ, đại diện cho Cao Đài Bến Tre, đưa mắt cho Phạm Hữu Đức, đại điện Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phạm Hữu Đức đảo mắt quanh phòng thấy những bộ mặt nghiêm nghị của các đại diện, đảng phái, đoàn thể khác, như Hồ văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ, Hồ Vĩnh Ký, Lâm Ngọc Đường, Nguyễn văn Hướng, Vũ Tam Anh, rồi nhẹ thở dài.
Trước khi bách bộ trong phòng, ông Dương văn Giáo đã kiểm điểm tình thế chánh trị đương nóng bỏng tại Saigon, rồi nhẹ vỗ vào chiếc cặp da đen căng phồng, tuyên bố :
– Tôi có đủ tài liệu chứng tỏ Trần văn Giàu bán nước cho Tây.
Để chứng minh lời lên án nặng nề của mình, Dương văn Giáo mở cặp, lấy ra một tấm giấy bìa cứng màu xanh, trong đựng vài tờ giấy mỏng, đánh máy đầy chữ trao cho Lê Kim Tỵ ngồi phía phải của mình :
– Ông đọc trước đi rồi chuyền cho mọi người coi cho biết…
Khi tập hồ sơ đã trở lại tay Dương văn Giáo, Lê Kim Tỵ mới khẽ hỏi:
– Sao ông có tài liệu đó ?
Dương văn Giáo mỉm cười:
– Chắc anh Phạm Hữu Đức cũng đã đọc tài liệu này rồi ?
Phạm Hữu Đức gật đầu:
– Phải, Hiến binh Nhựt đoạt được của Pháp trong ngày đảo chánh. Trần văn Giàu cam kết hoạt động cho Pháp, phá rối Nhựt để đòi lấy sự tự do của cá nhân mình và cán bộ cao cấp Cộng Sản. Chắc Hiến binh Nhựt trao cho ông tại Vọng Các khi có tin Trần văn Giàu qua Thái Lan móc nối với nhiều cán bộ khác ở Bắc Thái.
Dương văn Giáo gật đầu:
-Tôi còn những tài liệu khác nữa, chứng tỏ hiện nay Trần văn Giàu vẫn còn liên lạc mật thiết với Pháp, qua những tên Việt Nam tay sai trung thành của Pháp. Nếu các ông…..
Lê Kim Tỵ ngắt lời :
– Chúng tôi tin lời Ông. Cuộc họp đã kéo dài, trời lại sắp sáng, chúng ta chưa đi đến một quyết định nào. Trước những bằng cớ hiển nhiên đó, chúng ta tính sao ?
Những cán bộ trẻ tuổi của Đại Việt và cả Vũ Tam Anh đề nghị táo bạo : tung một mẻ lưới, bắt hết các cán bộ cao cấp Việt Minh đương hoạt động ráo riết tại Sàigòn
Vũ Tam Anh quả quyết:
– Tôi biết gần hết nơi trú ngụ của họ, nhất là nơi Trần văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Tạo hằng đêm thường lui tới. Tôi có đủ lực lượng thi hành êm thắm công tác này nếu Hội nghị quyết định như vậy.
Những đại diện giáo phái đã đứng tuổi thì lưỡng lự cho rằng hành động như vậy sẽ bị quốc dân chê cười là nồi da xáo thịt, là thanh toán nhau vì địa vị, khi thực dân Pháp đương sửa soạn trở lại xâm lăng.
Trước hai luồng tư tưởng đó, sự quyết định của Dương văn Giáo được coi là tối hậu
Ánh hồng xuyên qua khe cửa, kẻ một vệt tươi, dài trên sàn gạch bông bóng loáng.
Dương văn Giáo chỉ thở dài mà không đi đến một kết luận nào hết.
Thiếu tướng Hùng, đặc phái viên của Trung ương Đại Việt Quốc Dân Đảng từ Hà-nội vào Saigon phá bầu không khí nặng nề :
– Nếu cụ Dương (Dương Văn Giáo) chưa quyết định được điều gì thì tốt hơn hết, chúng ta giải tán. Tôi có một điều muốn thưa, không rõ cụ nghĩ sao ?
– Điều gì! Thiếu tướng cứ nói.
– Cụ đang giữ tài liệu quý giá và vô cùng nguy hiểm đối với Trần văn Giàu. Cụ lại không quyết định ra tay hạ Trần văn Giàu nhưng chắc chắn Giàu không tha cụ. Vậy tốt hơn hết cụ nên mau mau trở lại Thái Lan trước khi Việt Minh chánh thức nắm chánh quyền tại Saigon.
Dương văn Giáo gật đầu.
Vũ Tam Anh hỏi Thiếu tướng Hùng :
– Tôi sẽ gặp anh ở đâu ?
– Nội bữa nay tôi và các anh em rời Sài gòn vào Chợ lớn. Tôi ngụ tại khách sạn Tam Dân. Chắc anh biết khách sạn này ?
Vũ Tam Anh gật đầu :
– Nội trong hai ngày tôi sẽ liên lạc với anh.
Thiếu tướng Hùng xuất thân từ trường võ bị Hoàng Phố của Trung Hoa Dân Quốc với cấp bậc Thiếu tá, chỉ huy mặt trận nổi tiếng nhất trong thời kỳ kháng Nhật: mặt trận Trường Sa, nên được đặc phong làm Thiếu tướng
Khách sạn Tam Dân là trụ sở kinh tài của Trung Hoa Quốc Dân Đảng Chợ Lớn. Ngụ nơi đây Thiếu tướng Hùng cùng các đồng chí cán bộ trẻ tuổi được tất cả những sự bảo đảm cần thiết, nhất là đối vói một vị Tướng của Tứ Cường (Anh, Nga, Mỹ,Trung Hoa Dân quốc, sau Đệ nhị Thế Chiến).
Và cũng tại khách sạn Tam Đân đã xảy ra nhiều vụ hi hữu sau ngày 2 tháng 9 năm 1945,ngày Việt Minh chánh thức trình diện Uỷ ban Hành Chánh Nam bộ tại Tòa Đô chánh Saigon.
Lẽ cố nhiên những hành động của phe Quốc Gia khó qua được cặp mắt tình báo của Việt Minh
Trần văn Giàu biết rằng dưới bộ binh phục cao cấp của Trung Hoa Quốc Gia, Thiếu tướng Hùng là người Việt, cán bộ quân sự của Đại Việt Quốc Dân Đảng, phải tìm đủ cách thủ tiêu, nên theo dõi và biết được nơi trú ngụ của viên tướng trẻ tuổi này.
Tuy nhiên họ không biết rõ khách sạn Tam Dân lại còn là trụ sở trá hình của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, cách bố trí ngấm ngầm rất đặc biệt.
Đêm hôm đó, có hai người thanh niên vạm vỡ Việt Nam, bước vào khách sạn thuê phòng. Họ đòi căn phòng lớn nơi lầu ba, tầng lầu Thiếu Tướng Hùng trú ngụ. Họ trả tiền trước rồi thoăn thoắt lên thang lầu.
Viên quản lý khách sạn, gầy đét như kẻ ghiền á phiện kinh niên. Đôi mắt lim dim như ngủ gà ngủ vịt, mỉm cười nhìn theo hai thanh niên Việt. Mắt y bỗng sáng ngời rồi đưa tay bấm nút điện đặt dấu dưới ô kéo đựng tiền.
Trên lầu ba, Thiếu tướng Hùng đã được báo động.
Thiếu tướng Hùng không ở một phòng, trái lại thuê 4 phòng gần nhau, nhưng căn phòng lớn, sang trọng nhất là nơi thiếu tướng thường có mặt.
Hai thanh niên Việt đảo mắt nhìn quanh thấy hành lang hoàn toàn vắng vẻ, ngừng lại trước phòng Thiếu tướng Hùng.
Trong phòng hoàn toàn yên lặng, ánh sáng nhạt, yếu ớt của chiếc đèn ngủ lọt qua khe cửa.
Như những tay ăn trộm, họ mở được cửa phòng rất mau, rất nhẹ nhàng rồi lọt vào trong, không gây một tiếng động nhỏ.
Bộ quân phục vắt trên thành ghế bành, bên cạnh đôi giầy ủng đen bóng loáng như chủ nhân đi chơi về khuya, mệt mỏi, vội trút bỏ ngay đó.
Màn phủ kín giường, nhưng qua làn sa mỏng, họ thấy rõ một người nằm quay mặt vào tường, mền đắp phủ tới vai.
Họ đưa mắt nhìn nhau rồi tiến mau lại. Hai ánh thép vung lên cắm phập xuống nơi lưng kẻ đương say giấc. Nhưng họ ngạc nhiên khi nhận thấy lưỡi dao quá sắc bén của họ không đụng một vật gì rắn chắc như cơ thể con người, trái lại chỉ xuyên qua vật mềm nhũn như bông.
Họ vội lùi lại thì phòng chan hòa ánh sáng.
Trước hai họng súng lục đen ngòm do hai thanh niên, nét mặt cương quyết, cầm lăm lăm trên tay, họ hiểu ngay rằng chỉ một cử chỉ chống đối nhỏ, đạn cũng bay khỏi họng súng.
Thiếu tướng Hùng, từ phòng kế cận, bước ra, ngắm kỹ hai kẻ toan ám sát mình, rồi mỉm cười, nói với cán bộ.
– Các em có nhận ra họ là ai không ?
-Thưa có : Cận vệ của Trần văn Giàu.
Các em hãy đưa họ “về nhà của họ”. Nơi đâu chắc các em biết rồi chứ ?
Hai đàn em của Thiếu tướng Hùng gật đầu, tiến tới, nắm cánh tay trái, nơi gần nách của đối phương, dịu dàng nói :
– Khuya rồi, chúng mình…đi về, để anh lớn tôi còn ngủ chứ.
Hai kẻ lạ mặt ríu ríu bước theo đàn em của Thiếu tướng Hùng vì khẩu súng lục đã dí sát vào nách họ.
Đây là một thế uy hiếp đặc biệt: không “nhường” cho đối phương một hy vọng thoát hiểm nào hết, không để cho đối phương có một phản ứng vì cánh tay trái của đối phương đã bị ghì chặt, nếu cần, chỉ nhẹ tay siết cò là viên đạn nổ, không gây cả một tiếng động, mà xuyên qua tim là đối phương chết tức khắc
Một lần tại Hà-nội, nhân viên ban ám sát của Đại Việt Quốc Dân Đảng đã loại lính kín trung thành và dữ dằn của Pháp bằng hành động trên, giữa ban ngày, giữa đám đông, mà không ai hay biết.
Viên mật thám Pháp vừa từ trên xe kéo bước xuống lề đường. Nhân viên ám sát tiến lại, với thế “nắm tay áo khoác” (pardessus) nổ liền một viên đạn. Viên mật thám Pháp lảo đảo như kẻ vừa trúng gió độc, nhân viên ám sát dìu hắn vào tới trong nhà, trước những cặp mắt thán phục và những lời cám ơn của gia đình nạn nhân,
Và chỉ mãi khi gia đình ngạc nhiên cởi bỏ quần áo cho “người trúng gió” mới thấy một giòng máu còn tươi từ nách rỉ ra nhưng kẻ sát nhân ân nhân đã đi quá xa.
Hai tên toan ám sát Thiếu tướng Hùng thân mật cùng kẻ uy hiếp mình, từ lầu ba xuống đường.
Tại khách sạn Tam Dân, lúc đó cũng còn người ra vào, nhung ai cũng tưởng rằng vừa gặp hai cặp bạn thân đưa nhau đi du hí.
Một chiếc xe chờ sẵn gần khách sạn.
Chưa đầy một giờ sau, chiếc xe hơi trở về chỗ cũ nhưng thiếu hai người vì hai người này đã nằm trước nhà của họ, với một viên đạn xuyên qua nách, chọc thủng tim.
Thiếu tướng Hùng hỏi các cán bộ ;
– Mọi việc êm thắm chứ ? Có ai chú ý không ?
– Thưa chắc chắn là có người chú ý nhưng sáng mai cơ. Anh có có cần thay đổi chỗ ở ?
– Thay đổi làm gì khi nơi đây, chúng ta yên hết ?
– -Địa điểm này đã lộ.
– Chúng ta đi tới đâu rồi thì cũng lộ. Đã vậy, ở nơi khác, chúng ta đâu được thanh y (tình báo Trung Hoa Dân Quốc) bí mật bảo vệ. Dầu sao chăng nữa lúc này, Việt Minh cũng chưa dám công khai đương đầu với “nước bạn đồng minh” được xếp vào hàng ” Đệ tứ cường”… Hơn nữa, ngày mai tôi còn chờ một việc quan trọng.
Ngày hôm sau, cán bộ của Thiếu tướng Hùng biết rõ “việc quan trọng chờ đợi” đó là gì?
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:08:45 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Viên Đại sứ Trung Hoa Quốc Gia tại Sàigòn tới cho Thiếu tướng Hùng hay, Phó Vương Huân tước Mounbatten, thay mặt Anh quốc, đại diện cho Đồng Minh, tới Nam Việt Nam thực hiện việc tước khí giới Nhựt vô cùng thất vọng trong cuộc tiếp xúc với Trần văn Giàu, đại diện Ủy ban Hành Chánh Nam bộ.
Huân tước Mounbatten hẹn ngày giờ gặp gỡ với Trần văn Giàu để thảo luận về tình hình chánh trị từ vĩ tuyến 17 trở xuống Cà Mâu, phần đất mà nước Anh thay mặt Đồng Minh tước khí giới của Nhựt.
Đến ngày giờ đã định, Trần văn Giàu đi xe Traction đen tới tòa nhà đại diện của Anh quốc tại Saigon. Xe vừa ngừng trước thềm, một sĩ quan tùy viên Huân tước Mounbatten trong bộ lễ phục trắng tiến tới mở cửa xe cho vị đại diện Ủy ban Hành Chánh Nam bộ.
Trần văn Giàu bước ra khỏi xe.
Huân tước Mounbatten, dầu với tánh tình trầm tĩnh nổi tiếng của dân Anh, cũng không khỏi nhíu mày : Trần văn Giàu mặc áo cụt tay, đeo “cà vạt” màu, quần cụt màu trắng, đi giầy vải không vớ như đi đánh quần vợt, trong khi Huân tước Mounbatten mặc lễ phục, đeo gươm dài bên sườn.
Tuy nhiên Huân tước Mounbatten cũng bước xuống thềm, niềm nở và đúng lễ nghi đón người khách quý.
Vào tới phòng khánh tiết, sau khi phân ngôi chủ khách, Trần văn Giàu ngồi bật ngửa trên ghế bành bọc da đỏ nói thao thao bất tuyệt.
Trần văn Giàu cho Huân tước Mounbatten biết rằng thực dân Pháp không thể nào tái chiếm Việt Nam vì đảng Cộng sản hiện nay là đa số tại Quốc hội Pháp. Hơn nữa, nếu Pháp muốn tái chiếm Việt Nam thì Nga sô sẽ can thiệp. Hiện nay quân Nga đã tới Thái Lan (tin này được phổ biến bằng bích chương dán cùng thành phố Saigon) chờ có biến cố gì sẽ can thiệp thẳng vào Việt Nam.
Trần văn Giàu còn nói về khí thế cách mạng của nhân dân Việt Nam, cuộc cách mạng nhân dân phải thắng v.v.. Sau khi “giảng xong bài học cách mạng ” Trần văn Giàu đứng ra về.
Huân tước Mounbaten tiễn ra tận cửa, đúng nghi lễ của một chủ nhà đối với quốc khách, khi xe Traction vừa đóng lại, chuyển bánh thì Huân tước không còn tự chủ được nữa, lẩm bẩm:
– Không thể nào điều đình việc gì được với tên trẻ nít đó.
Vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa Quốc Gia tại Sàigòn cho Thiếu tướng biết rõ từng chi tiết trong cuộc gặp gỡ Mounbatten – Trần văn Giàu, đề nghị :
– Thiếu tướng có thể nào thành lập một phái đoàn đi gặp Huân tước Mounbatten không ?
– Phái đoàn thì không khó nhưng gặp để làm gì ?.
– Huân tước Mounbatten nhờ tôi giao thiệp, giới thiệu một phái đoàn hay đại diện cho phía Quốc Gia tại Nam Việt Nam để thương lượng
– Điều kiện thương lượng ?
Viên Tổng Lãnh sự Trung Hoa Quốc Gia mỉm cười :
-Lẽ cố nhiên là thuận lợi cho chúng ta hay nói rõ hơn là cho các đồng chí của Thiếu tướng. Huân tước Mounbatten muốn hợp tác với Chánh phủ Nam Việt Nam để giải giới quân đội Nhựt.
-“Chánh phủ” Nam Việt Nam ?
– Phải, phái đoàn nào thoả thuận được với Huân tước Mounbatten sẽ được chánh phủ Anh coi là đồng minh và công nhận.Trong tình thế hiện tại, chưa có những cuộc bầu cử thì điều này hoàn toàn hợp pháp.
Thiếu tướng Hùng cũng hiểu điều đó,hỏi thêm :
– Còn những người Pháp hiện nay đang hoạt động chung với quân đội Anh ?
Vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa Quốc Gia mỉm cười:
– Tôi cũng đã nghĩ tới điều đó nên đặt câu hỏi thẳng với vị đại diện Anh quốc tại Saigon. Huân tước Mounbatten nói rõ sự hiện diện của một số sĩ quan Pháp bên cạnh quân đội Anh tại Saigon là theo đề nghị “giúp đỡ” của Pháp đối với người Anh vì các sĩ quan này hiểu rõ tình hình Việt Nam. Chánh phủ Luân Đôn chấp nhận sự giúp đỡ này nhưng không cam kết phải dành cho chánh phủ Ba Lê một đặc quyền gì từ vĩ tuyến 17 trở xuống. Trong trường hợp vị đặc sứ Anh thỏa thuận được với Chánh phủ Nam Việt Nam thì tức khắc, các vị sĩ quan Pháp sẽ bị trục xuất khỏi Saigon bằng những lý do ngoại giao. Dân chúng Pháp hiện nay vừa được tái võ trang vũ khí của họ lấy lại được của Nhựt, sẽ bị tước khí giới và tập trung lại như dưới thời Nhựt vừa qua.
Thiếu tướng Hùng đã hài lòng, nhưng còn thắc mắc :
– Để đánh đổi lại những sự việc trên, chánh phủ Anh đòi hỏi những gì nơi Chánh phủ Nam Việt Nam ?
Vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa đáp ngay
– Chính Huân tước Mounbatten đã thố lộ cùng tôi rằng : chế độ thực dân đã cáo chung. Anh quốc rồi đây cũng phải trả lại độc lập cho các thuộc đia cũ, đúng theo thỏa ước Yalta mà tứ cường đã ký kết, thì không có lý do gì Anh giúp Pháp tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Anh quốc chỉ cần “Chánh phủ” Nam Việt Nam dành mọi dễ dàng trong cưộc giao thương trong tương lai, thí dụ như thổ sản Nam Việt Nam xuất cảng qua Anh thay vì qua Pháp, hàng Anh cũng được nhập cảng với số thuế tương đối nhẹ như hàng Pháp cũ. Vấn đề thuế khoán, đôi bên sẽ định đoạt sau, nhưng hoàn toàn trong tinh thần tương nhượng. Tôi nghĩ rằng..
Thiếu tướng Hùng ngắt lời :
– Tôi hiểu. Tương nhượng có nghĩa là lợi cho cả đôi bên, lợi cho Nam Việt Nam nhiều hơn trong tình trạng kinh tế hiện nay của chúng tôi.
– Thiếu tướng hiểu như vậy rất thức thời. Trong bao nhiêu lâu Thiếu tướng cần mới thành lập xong phái đoàn ? Tôi cần nhấn mạnh rằng phái đoàn chỉ gồm hai, ba người đại diện là đủ.
– Trong hai ngày tôi sẽ trả lời dứt khoát với ông Tổng Lãnh sự.
– Được. Tôi bảo đảm mọi sự xê dịch một cách an toàn. Phái đoàn của Thiếu tướng sẽ cùng đích thân tôi, đi trên xe cắm cờ ngoại giao của Trung Hoa Dân Quốc từ Chợlớn tới Sàigòn gặp huân tước Mounbatten. Hai ngày nữa, cũng vào giờ này, tôi tới đây đón Thiếu tướng.
Vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc hân hoan ra về.
Thiếu tướng Hùng gọi các đồng chí lại, kể rõ cuộc thảo luận với vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa.
Các cán bộ hiểu ngay rằng sở dĩ có sự giúp đỡ tận tình của vị Tổng Lãnh sự vì cảm tình riêng với Thiếu tướng Hùng và những quyền lợi mai sau của người Trung Hoa tại Nam Việt Nam.
Phái đoàn sẽ gồm có những ai?
Thiếu tướng Hùng nhíu mày :
– Đó là vấn đề hơi khó khăn trong lúc này. Sau cuộc họp tại nhà chị Sương, những nhà cách mạng quốc gia tên tuổi đã phân tán, mạnh ai trở về nơi mà mình muốn như ông Dương văn Giáo đã lên đường qua Thái Lan, ông Hồ văn Ngà về Hậu Giang, anh chị Hồ Vĩnh Ký cũng đã tản cư, ông Lê Kim Tỵ về Bến Tre. Hiện nay chỉ còn Vũ Tam Anh ở tại Saigon. Nội từ nay tới khuya, các em phải tìm đủ cách liên lạc với anh Vũ và hẹn ngày mai, do anh Vũ định, tới đây gặp chúng ta thì đã ….hơi trễ.
Khuya đêm đó, các cán bộ dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Hùng về báo cáo đã gặp Vũ Tam Anh và họ Vũ hẹn đúng bốn giờ chiều mai sẽ có mặt tại khách sạn Tam Dân.
Đúng giờ, Vũ Tam Anh tới cùng hai cận vệ.
Thiếu tướng Hùng đưa mắt cho các cán bộ, mời cận vệ của Vũ Tam Anh qua phòng bên. Vũ Tam Anh đã biết rõ về Thiếu tướng Hùng nên không chút ngần ngại chấp thuận cuộc nói chuyện “đối diện” tay đôi.
Vũ Tam Anh cười:
– Tôi khen anh để lại cho Trần văn Giàu hai tên cận về đúng ngay trước cửa nhà của họ.
Thiếu tướng Hùng vui vẻ đáp:
– Đâu bằng anh đã “trả lại” hai tên “mượn súng” cũng đúng ngay trước cửa nhà họ.
Vũ Tam Anh phá lên cười vì hành động của họ Vũ không qua mặt Thiếu tướng Hùng và ngược lại.
Số là Vũ Tam Anh được Trần văn Giàu mời họp tại Toà Đô Chánh Sàigòn ngay cả sau khi Việt Minh đã “trình diện” nhân viên Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ.
Vũ Tam Anh đi họp, luôn luôn đeo khẩu “Pạc Hoọc” bên sườn, nên Trần văn Giàu đặc biệt chú ý. Một hôm Trần văn Giàu tiến lại, khen khẩu súng đẹp và ngỏ ý “mượn” đeo chơi. Vũ Tam Anh vui vẻ chấp thuận.
Tối hôm đó, cận vệ của Trần văn Giàu tới căn nhà đường Cao Thắng ngày nay, nơi hẻm bên Chùa Tam Tông Miếu, nơi Vũ Tam Anh thường trú ngụ, đẩy cửa bước vào, và cũng dùng chính khẩu súng “Pạc Hoọc” của Vũ Tam Anh nổ vào “người nằm” trên giường năm phát. Nhưng từ kẹt cửa kế cận, một tràng tiểu liên nổ. Vũ Tam Anh bước ra và phải phụ tay với đàn em “đưa trả” cận vệ của Trần văn Giàu về trụ sở của Việt Minh.
Bởi vậy, khi nghe Thiếu tướng Hùng “trả đũa”, Vũ Tam Anh cười xòa, cả hai bàn tới việc đi gặp Huân Tước Mounbatten.
Nghe xong những gì vị Tổng lãnh sự Trung Hoa Quốc Gia đã cho Thiếu tướng Hùng rõ về đề nghị của Huân tước Mounbatten, Vũ Tam Anh cùng Thiếu tướng Hùng bàn tới các nhân vật quốc gia miền Nam tham dự tân chánh phủ. Cả hai thỏa thuận cùng nhau rất mau từ vị Thủ tướng trở xuống. Nhưng tới chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng đột nhiên “khựng lại”, vì thâm ý của Vũ Tam Anh cũng như Thiếu tướng Hùng đều ước mong chức vụ này.
Thiếu tướng Hùng cuối cùng đề nghị Vũ Tam Anh làm Tổng Trưởng Quốc Phòng, còn mình là Tổng Tham Mưu Trưởng.
Vũ Tam Anh bằng lòng và hẹn chiều hôm sau sẽ tới khách sạn Tam Dân cùng với Thiếu tướng Hùng đi gặp Huân tước Mounbatten.
Nhưng không hiểu tại sao, đúng bốn giờ chiều ngày hôm sau, Vũ Tam Anh lỡ hẹn.
Vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa nóng nẩy không kém gì Thiếu tướng Hùng.
Thời giờ đi mau, vị Tổng Lãnh sự Trung Hoa đành phải gọi dây nói xin lỗi Huân tước Mounbatten và xin hẹn cũng giờ đó hai ngày sau rồi ra về.
Thiếu tướng Hùng phái cán bộ đi kiếm Vũ Tam Anh. Lối xóm tại hẻm Tam Tông Miếu cho biết nửa đêm hôm trước Vũ Tam Anh đã cùng các cận vệ vội vã bỏ nhà ra đi và không biết đi đâu.
Xúc tiến cuộc điều tra, các cán bộ Đại Việt được biết Vũ Tam Anh đã trở về Bà Quẹo nhưng khi tới nơi đây thì lại được tin họ Vũ đã dời đi nơi khác.
Cuộc hẹn lần thứ hai với Huân tước Mounbatten bất thành.
Thiếu tướng Hùng trở ra Bắc.
Huân tước Mounbatten không đạt được một kết quả nào với Việt Minh cũng như với phía Quốc Gia ở Nam Việt Nam nên chán nản, ký giấy ủy quyền việc tước khí giới quân đội Nhựt cho Tướng Leclerc, đại diện của Pháp.
Quân Pháp hoành hành tại Nam Việt Nam là do sự ủy nhiệm này, và hoành hành tại Bắc Việt là do thỏa hiệp Trùng Khánh giữa Pháp, Trung Hoa Quốc Gia cũng như Anh ủy quyền tước khí giới Nhựt từ vĩ tuyến 17 lên tới ải Nam Quan của Pháp.
Khói lửa bao trùm Miền Nam rồi sau đó bao trùm trên khắp nước Việt.
Tuy nhiên những sự thất bại trong phiên họp đặc biệt lịch sử tại nhà bác sĩ Nguyễn thị Sương không phải là vô ích. Trái lại chính những sự thất bại này đã làm cho những người Quốc Gia bừng tỉnh và giúp cho Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ dễ dàng thành công trong việc về Sàigòn thành lập Chính Trị bộ của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt đã được công tác Thành của Liên quân Bình Xuyên bố trí cẩn mật để từ Phú Lâm về Saigon hoạt động.
Sứ mệnh của công tác Thành của Liên quân Bình Xuyên không phải là dễ dàng vì không những phải đương đầu với lính kín Pháp mà còn đương đầu với cả công tác Thành của Việt Minh.
Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt trong bộ bà ba đen từ ấp số 4 tới trạm liên lạc cuối cùng Phú Lâm do Sáu Đối chỉ huy.
Nơi đây tất cả những gì “phong trần của kháng chiến” đều bị trút bỏ. Đức Thầy cũng như Bùi Hữu Phiệt, đều mặc những bộ đồ Tropical sang trọng, đúng thời trang và từ một biệt thự sát đường bước ra, lên chiếc xe hơi đắt giá, có tài xế chờ sẵn để mở cửa.
Xe hơi chạy vào trung tâm Chợ Lớn ngừng trước khách sạn Lệ Cung. Hai “tài lủ” (ông chủ lớn) hiên ngang bước vào khách sạn trước sự chào đón quá lễ phép của nhân viên nhà hàng.
Đây không phải là sự tình cờ.
Tư Thiên, một trong 10 con Rồng Xanh của Bình Xuyên đã được báo trước sự việc. Tư Thiên là tay anh chị nhưng là chủ nhiều nhà máy xay lúa tại Chợ Lớn, chủ nhiều ngựa đua, tay đua xe đạp nổi tiếng, và có vợ đầm (mặc nhiên là dân Pháp hồi đó) nên được các “tài lủ” Tàu kính nể.
Chính Tư Thiên, một anh chị Bình Xuyên đã ra Bắc và liệng quả lựu đạn lên bục gỗ khi Trần văn Giàu diễn thuyết nói về kháng chiến Nam bộ với câu “mày kháng chiến hay chạy”, đảm nhiệm bảo vệ an ninh của Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt trong công tác tại Saigon.
Tư Thiên đã hạ lệnh “đóng cửa Lệ Cung” trong một ngày, dĩ nhiên tất cả phí tổn đều được đền bù, nên mặc dù nhân viên khách sạn long trọng tiếp đón nhưng Lệ Cung vắng lặng vì không có một khách nào khác ngoài nhân viên tín cẩn.
Tuy vậy, sự đề phòng của Tư Thiên cũng lên tới cao độ. “Tài lủ” Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt vào tới khách sạn Lệ Cung rồi, thì chỉ vài phút sau, “khách quý” đã thoát ra cửa sau, trong khi chiếc xe hơi quan trọng cứ vẫn đậu ngoài cửa khách sạn.
Theo sự xếp đặt của Tư Thiên, Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt, áp dụng “chiến thuật Lệ Cung” phải ba lần thay xe mới tới đường Chaigneau (Tôn Thất Đạm ngày nay) và cùng với những bộ quần áo khác, gặp Ông Nguyễn văn Sâm.
Khâm sai Nguyễn văn Sâm, phụ tá Nguyễn Bảo Toàn hân hoan tiếp đón Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt, vì đã là bạn thân cũ và cũng vì đã nghe tiếng nhau.
Đức Hùynh Giáo Chủ đã cùng ông Nguyễn văn Sâm thảo luận và đề ra lý thuyết của Dân Xã Đảng mà ngày nay phía chính trị của Phật Giáo Hoà Hảo còn áp dụng.
Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn nghe danh Bùi Hữu Phiệt là một chính trị phạm bị Pháp đày ra Côn Đảo và hiện nay là Tư lịnh của Trung Đoàn 25 Bình Xuyên, một trung đoàn đầy đủ vũ khí và nhân số nhất thời đó.
Bạn cũ, anh hùng gặp nhau, nên cuộc thảo luận vô cùng cởi mở, dễ dàng đi tới kết quả. Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn, hoàn toàn đồng ý cần phải thành lập hai Bộ trong Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp là bộ Chánh trị” có thể công khai hoạt động tại Thành và bộ Quân sự hoạt động trong chiến khu. Đó là hai điều khó vì khá mâu thuẫn lẫn nhau, nhưng ông Nguyễn văn Sâm sẽ cố sức thực hiện.
Ngày hôm sau Đức Hùynh Giáo chủ và Bùi Hữu Phiệt được Ông Nguyễn văn Sâm hướng dẫn tới gặp bác sĩ Lê văn Hoạch đại diện cho Cao Đài giáo.
Bác sĩ Hoạch tiếp đón các quý khách như những “quốc khách”. Và chỉ trong vài giờ đồng hồ, bác sĩ Hoạch chấp nhận đề nghị của Đức Hùynh Giáo chủ thành lập Chánh trị bộ của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp. Thành phần:
– Đức Hùynh Giáo chủ là Chủ Tịch với bí danh Huỳnh Anh, – Bác sĩ Hoạch làm phó Chủ Tịch, – Ông Nguyễn văn Sâm làm cố vấn chánh trị, – Bùi Hữu Phiệt cố vấn chánh trị và quân sự..
Như vậy, Liên Quân Kháng Chiến Bình Xuyên gồm:
– Bình Xuyên, – Đại Việt Quốc Dân Đảng, – Việt Nam Quốc Dân Đảng, – Hòa Hảo, – Cao Đài, – Đệ Tứ Quốc Tế,
đã có một uy thế mạnh mẽ về chánh trị cũng như về quân sự qua Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
Và lẽ dĩ nhiên trước sự việc này, phản ứng của Nguyễn Bình phải lần lần đi tới quyết liệt: “một mất một còn”.
Nguyễn Bình đánh đòn đầu kềm chế Bùi Hữu Phiệt, Tư lệnh Trung Đoàn 25 Bình Xuyên, bằng cách chỉ định Tư Tỵ là Trung Đoàn phó. Những đòn đầu của Nguyễn Bình ít hiệu quả, vì dầu sao Tư Tỵ cũng nể Bùi Hữu Phiệt, một chiến sĩ đã được thủ lãnh Bình Xuyên là Dương văn Dương vị nể. Hơn nữa bên cạnh Bùi Hữu Phiệt còn có Mười Trí không chút tán thành kế hoạch dùng Tư Tỵ để kềm chế Bùi Hữu Phiệt của Nguyễn Bình.
Nguyễn Bình đánh thêm đòn thứ hai là muốn dùng tay Sáu “Xếch Xông”, phó tướng của Mười Trí làm nội ứng để cảm tử quân của mình bắt trọn bộ Tham Mưu của Bùi Hữu Phiệt.
Mười Trí, Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt đã tương kế tựu kế, đưa Nguyễn Bình tới ngôi miếu hoang, nơi bến Lò Đường bên sông Vàm Cỏ, để cho một tay thiện xạ của Cao Đài, lính Trình Minh Thế bắn trúng sáu viên đạn Colt 11 ly 45.
Viên Tham Mưu trưởng Trung đoàn 25 đã cho quân phục kích dài theo bờ sông Vàm Cỏ, nhưng nhận thấy rằng dẫu sao Khu trưởng Nguyễn Bình cũng không đáng tội phải đi “mò tôm” nên để cho chiếc xuồng chở Nguyễn Bình bất tỉnh, máu me cùng mình, an toàn vượt qua các tầm súng.
Bác sĩ Hưởng đã mất sáu tháng, tận tâm cứu chữa, Nguyễn Bình thoát chết. Và lẽ dĩ nhiên phản ứng của Nguyễn Bình sẽ vô cùng khốc liệt.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 31, 2023 21:11:08 GMT 9
TÔI GIẾT NGUYỄN BÌNH (Trần Kim Trúc) Posted on May 14, 2021 by Lê Thy Nguyễn Bình đã khỏi bịnh trong khi chánh trị cục của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp đang hoạt động mạnh tại Saigon. Nguyễn văn Sâm tuy chỉ lãnh chức là Cố vấn Chánh trị nhưng thật sự là linh hồn của Mặt Trận. Lúc đó, ông Nguyễn văn Sâm là Chủ Nhiệm nhựt báo Quần Chúng, trụ sở tại đường Tôn Thất Đạm (Chaigneau cũ). Dầu sao ngườiPháp cũng nể vì Bác sĩ Lê văn Hoạch và ông Nguyễn văn Sâm nên cái thế khá kỳ lạ của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp nửa kháng chiến nhưng nửa này đánh Tây lại nổi tiếng ở khu, nửa hoạt động gần như công khai tại Thành mà không bị Pháp làm khó dễ khiến Nguyễn Bình e ngại.
Nguyễn Bình vội vàng tổ chức công tác Thành được gọi là “Thành Ủy Saigon” đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn văn Cúc tức Tư Cúc, Nguyễn văn Trên và Cao đăng Chiếm.
Mặt khác Nguyễn Bình, vẫn với danh nghĩa là đảng viên của VNQDĐ hẹn gặp Nguyễn văn Sâm để thảo luận về tình hình đất nước, đi tới một thỏa hiệp chung. Nơi gặp gỡ là một địa điểm trong Chợ Lớn.
Chiều ngày 19-9-1947 sau khi hoàn tất tờ báo Quần Chúng, Nguyễn văn Sâm từ đường Tôn Thất Đạm (Chợ Cũ) ra bến xe “búyt” chạy đường Sàigòn – Chợ Lớn đậu trước chợ Bến Thành, nhưng khi vừa bước tới nơi hò hẹn với Nguyễn Bình thì bị Cao Đăng Chiếm cùng nhân viên công tác Thành bắn nhiều phát vào lưng chết tại chỗ.
Chánh trị cục của Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp mất một đoàn viên hoạt động đắc lực
Thanh toán xong Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Bình tính tới chuyện hạ sát Phạm Hữu Đức và Bùi Hữu Phiệt
Cũng như đối với Trung Đoàn 25 của Bùi Hữu Phiệt, Nguyễn Bình gài Tư Tỵ để kềm chế, Trung Đoàn 5 của Tư Đức bị Nguyễn Bình buộc phải chấp nhận Kiều Mãnh Giá làm Tiểu Đoàn trưởng nhưng giữa hai “nhân” Tư Tỵ và Giá khác hẳn nhau vì Tư Tỵ, không triệt để vâng theo lệnh Nguyễn Bình còn Giá thì khác hẳn.
Tháng 1 năm 1948 Nguyễn Bình được phong Trung tướng, nhường chức Khu Trưởng Khu 7 cho Huỳnh văn Nghệ.
Nhưng mưu kế của Nguyễn Bình không phải dễ dàng thi hành đối với Phạm Hữu Đức. Bởi vậy cho tới mãi ngày 1-8-48, Kiều Mãnh Giá mới bất thần uy hiếp được Tư Đức, buộc Tư Đức phải theo y tới trình diện với Khu Trưởng Khu 7 Huỳnh văn Nghệ.
Mặc dù bị thất thế, Phạm Hữu Đức rút súng nhanh như điện chớp bắn hạ Kiều Mãnh Giá nhưng “đội quân thứ năm” của Giá phục kích cách Tổng Hành Dinh không đầy một trăm thước xả súng bắn hạ Tư Đức.
Trước biến cố bất ngờ, quân đội của Tư Đức không kip phản ứng, nên các nhân viên cao cấp của Trung Đoàn 5 đều bị bắt và sau đó bị thanh toán hay bị tra tấn tàn nhẫn.
Đòn chót của Nguyễn Bình là thanh toán Bình Xuyên.
Sau cái chết của Phạm Hữu Đức, Mười Trí và Bùi Hữu Phiệt đều di binh về làng Bình Xuyên đóng chung với Bảy Viễn.
Bảy Viễn lúc đó vẫn 1à Khu Phó khu 7 nên phải tuân theo lệnh của Khu trưởng Huỳnh văn Nghệ.
Ở trong một thế kẹt, Bùi Hữu Phiệt phải trao lại quyền chỉ huy quân sự cho Tư Tỵ, và mặc dầu vẫn ở tại Tổng Hành Dinh của trung đoàn nhưng Bùi Hữu Phiệt mở trường học lấy sự dạy dỗ đám trẻ nít làm thú tiêu sầu ngoài rượu và làm thơ.
Cuối năm 1948, Bảy Viễn được lệnh phải tới Tân Uyên họp với Khu bộ Khu 7.
Một điều lạ, tới nay vẫn chưa ai giải thích nổi là tại sao trong kỳ “phó hội” này Bảy Viễn mang theo 200 binh sĩ của Trung Đoàn 5 tức bộ đội An Điền ?
Bảy Viễn linh tính được rằng trong chuyến đi này sẽ vô cùng nguy hiểm nên cần hai trăm tay súng thiện nghệ, trung thành và triệt để đánh Tây cũng như chống Cộng hay muốn gây lỗ hổng tại làng Bình Xuyên ?
Bảy Viễn đi tới ấp số 4 Phú Lâm thì bị quân của Huỳnh văn Nghệ chặn đánh.
Tuy nhiên với hai trăm tay súng thiện nghệ và xử dụng tuyền súng tối tân, mặt trận đã bất phân thắng bại suốt ba ngày đêm liên tiếp, có thể nói là phần thắng về đám quân bị phục kích nhưng đường rút về đã bị chặn do quân của Nguyễn văn Huy, “nhân” của Nguyễn Bình đặt bên cạnh Bảy Viễn đảm nhiệm. Tuy nhiên trong thời gian cầm cự đó, cũng đủ cho Bảy Viễn tìm được đường sống : phái La Tài và La hữu Sang về Saigon xin “hợp tác”với chánh phủ Trần văn Hữu.
Quân Pháp tức tốc can thiệp, vì về phương diện chánh trị, đây là một thắng lợi lớn lao, nên Pháp và Trần văn Hữu chấp thuận ngay đề nghị của Bảy Viễn.
Bảy Viễn cùng một trăm chín mươi tám người lính của bộ đội An Điền an toàn, vào Saigon.
Trong khi đó, tại Bình Xuyên, “đạo quân thứ năm” của Nguyễn văn Huy mặc sức tung hoành. Họ tới bắt Bùi Hữu Phiệt cùng nhân viên trong bộ Tham Mưu Trung Đoàn 25.
Bùi Hữu Phiệt kháng cự, và chửi Nguyễn Bình nên bị hạ sát tại sân của bộ Tham Mưu. Nhiều anh em trẻ khác trong bộ Tham Mưu của Trung Đoàn bị đánh tàn nhẫn chỉ vì ngày xưa, tại «Biệt thự Suối reo» đã gây được sự cảm mến của cô Thạnh, người yêu của Nguyễn Bình.
Nguyễn Bình không hạ lịnh giết Mười Trí, nhưng buộc Mười Trí phải rời khỏi binh đội Bình Xuyên, xuống vùng Hồng Ngự (Hòa Hảo) muốn sống sao cũng được.
Mười Trí đành phải nhận lời, đem vợ con mình cùng vợ con Bảy Viễn tới Kinh Tam Tông thành lập một chiến khu đặc biệt “không chống Cộng, không chống giáo phái mà chỉ chống Pháp”.
Mười Trí kéo những ngày tàn nơi đây cho tới khi tập kết ra Bắc, rồi trở về Nam, qua chỉ huy một mặt trận trên đất Kamphuchea rồi bỏ mình trên quê người.
Sự phản công đã diễn ra hoàn toàn theo mong ước của Nguyễn Bình :
– Tại Sàigon nhà cách mạng quốc gia đầy uy tín Nguyễn văn Sâm bị hạ sát, – Tại chiến khu, Liên Minh Quân sự Bình Xuyên bị phá vỡ qua cái chết của Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 5 Phạm Hữu Đức và Trung đoàn 25 Bùi Hữu Phiệt , – Bảy Viễn, Tư lịnh phó Bình Xuyên phải về Thành “hợp tác”, hay theo danh từ thời bấy giờ là “đầu thú”, – Mười Trí bị “đầy” xuống Kinh Tam Tông thuộc ảnh hưởng của Phật Giáo Hòa Hỏa.
Có thể nói rằng Kháng chiến Quốc Gia lâm tình trạng “rắn không đầu”.
Trình Minh Thế, Tư lịnh Cao Đài kháng chiến, rồi sau đó Lê Quang Vinh tức Ba Cụt buộc lực lượng Hòa Hảo kháng chiến cố vùng lên, nhưng vẫn đứng trong tư thế quá yếu ớt vì Ba Cụt với lập trường “khi đầu khi đánh” khiến dân chúng hoang mang, còn Trình Minh Thế vẫn chỉ hoạt động được tại Dòng Lớn, giữa biên giới Việt-Miên.
Nguyễn Bình vô cùng hài lòng vì những gì oán hận chất chứa trong lòng vừa được giải tỏa.
Tuy nhiên Nguyễn Bình lâm tình thế vô cùng nguy hiểm mà chính Nguyễn Bình cũng không hề hay biết hay đề phòng.
Nguyễn Bình, từ những hành động chống Vũ Kim Thành, Tư lệnh đoàn quân Sao Trắng (ĐVQDĐ) tại Tiên Yên, Móng Cái (Bắc Việt) cũng chỉ vẫn là với tinh thần thân Cộng mà chưa phải hoàn toàn là đảng viên Cộng Sản.
Nguyễn Bình vào Nam bộ, với danh nghĩa là một nhân vật trong phái đoàn Bắc bộ do Lê Duẫn cầm đầu, rồi lãnh chức vụ Khu trưởng Khu 7 nhưng vẫn chua hẳn là đảng viên Cộng sản.
Hơn nữa, hiểu biết rõ tinh thần của người dân miền Nam “đánh Tây” và chưa chịu ảnh hưởng trực tiếp của Cộng sản, Nguyễn Bình tổ chức hết sức rầm rộ lễ truy điệu nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, đảng trưởng của đảng Cách Mạng Quốc Gia mà trước đó Nguyễn Bình là đảng viên càng làm cho Cộng sản nghi ngờ.
Nguyễn Bình bị bắn thập tử nhất sanh tại bến Lò Đường, nhưng được bác sĩ Hưởng cứu thoát, là một dịp để Lê Duẫn đưa Nguyễn Bình vào kỷ luật.
Lê Duẫn đã phái cô cháu vợ Vương thị Trinh mới hai mươi tuổi tới tận tình săn sóc cho Nguyễn Bình, đã ngoài bốn mươi tuổi, trong những ngày lâm nguy cho tới khi bình phục.
Vương thị Trinh đã làm tròn sứ mệnh của đảng giao phó : đoạt được tình yêu của Nguyễn Bình và thúc đẩy Nguyễn Bình, bằng đủ mọi cách, trả thù cá nhân là thanh toán các lực lượng quốc gia kháng chiến.
Nguyễn Bình đã trả xong món nợ tự ái, thì Nguyễn Bình lại bước qua một giai đoạn quyết định cho cuộc đời mình : phải chánh thức gia nhập đảng Cộng Sản.
Và Nguyễn Binh đã tuyên thệ, tức là kể từ ngày đó phải tuân theo lệnh của đảng, do cấp trên ban hành..
Sau ngày Nguyễn Bình tuyên thệ gia nhập đảng Cộng Sản được tổ chức vô cùng trọng thể và được toàn dân Nam bộ “hoan hô”, thì chỉ thị của Lê Duẫn ban hành như sau : Cải tổ Ủy ban Hành Kháng Nam bộ, sau khi phong Nguyễn Bình từ Thiếu lên Trung tướng.
Dưới đây là sự quan trọng nhất liên quan tới Nguyễn Bình về việc cải tổ bộ Tư lịnh Nam bộ :
– Dương Quốc Chính : Tư lịnh, – Lê Duẫn: Chính ủy, – Trần văn Trà: Tư lịnh phó, – Lê Đức Anh : Tham mưu Trưởng, – Nguyễn Đăng : Tham mưu Phó
Như vậy Trung Ương cục Miền Nam gạt hẳn Nguyễn Bình ra ngoài cuộc chỉ huy kháng chiến nơi đây.
Nguyễn Bình trở lại Tân Uyên “chiến khu” của Khu trưởng khu 7 khi mới đặt chân lên đất Nam bộ.
Tại một cụm rừng nhỏ ở Cây Bài, một căn nhà nhỏ được dựng lên “Tổng Hành Dinh” của Nguyễn Bình . Nguyễn Bình sống nơi đây, không còn có Vương thị Trinh bên cạnh mà cùng một người đàn bà khác là Hoàng thị Lệ Thanh với đứa con nuôi (con chợ đen) mang tên Trần Quyết Chiến.
Tuy nhiên, “một túp lều tranh, một trái tim” nơi rừng già vắng vẻ, cũng chưa phải là món quà cuối cùng mà Lê Duẫn tặng cho Nguyễn Bình.
Lê Duẫn biên thư với lời lẽ vô cùng dịu ngọt nhưng lên một lệnh đáng sợ: Trung Tướng chưa được khoẻ hãy dưỡng bịnh ít ngày rồi sau đó về Bắc gặp Bác và Đảng.
Nguyễn Bình hiểu rõ phải rời khỏi Nam bộ, còn trên đường chông gai ra Bắc gặp Bác và đảng chưa biết ra sao, nhưng dĩ nhiên, đã là đảng viên thì phải tuân lệnh thượng cấp.
Trung Ương cục miền Nam cho phép Nguyễn Bình tổ chức “phái bộ” ra Bắc. Và Nguyễn Bình đã lựa chọn những người đi theo với mình là Võ Bá Nhạc, nguyên Chánh văn phòng, Đoàn hữu Thanh bí thư, Nguyễn Tấn Sĩ, Phạm thế Liên Y tá và hai cận vệ Nguyễn văn Bổn và Phạm văn Trưng.
Con đường về Bắc, gặp Bác và Đảng đã được Trung Ương cục miền Nam vạch sẵn : qua Miên, Lèo rồi mới tới “đích”, vì Trung tướng Nguyễn Bình sau này có thể đảm nhiệm những chức vụ quan trọng không riêng tại Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương nên cần biết hết địa thế.
Trung Ương cục Miền Nam đã xếp đặt kỷ lưỡng để có thể tự mình hay nhờ quân đội Pháp hạ sát Nguyễn Bình tại dọc đường như từ chiến Khu Đ đến chiến khu Dương Minh Châu, trung đoàn nào phải “bảo vệ” Trung tướng Nguyễn Bình, vượt biên thì ai “phụ trách an ninh” v.v…
Ngoài ra, mỗi khi Trung tuớng Nguyễn dừng lại nghỉ đêm nơi đâu thì phải tổ chức liên hoan rầm rộ và công khai loan báo chặng tới của cuộc “du hành Bắc Việt của người hùng Nam bộ”.
Dĩ nhiên là những cuộc công bố này chỉ nhằm mục địch báo cho quân Pháp biết diễn tiến cuộc hành trình của Nguyễn Bình, khi mà Trung Ương cục Miền Nam không muốn đích tay hạ sát.
Nhưng Trung Ương cục Miền Nam vẫn tính sai một nước cờ, là ngoài đảng Cộng sản Pháp; còn có cả các đảng phái Quốc Gia kháng chiến cũng muốn trả cái gì mà Nguyễn Bình tặng cho họ.
Cuộc tiễn đưa Trung tướng, Nguyễn Bình được tổ chức vô cùng long trọng tại chiến khu Đ. Mọi người đều “ưu ái” với Nguyễn Bình, chẳng khác vị đại diện tôn giáo “ưu ái” với tên tử tù vài phút sau lên máy chém.
Quá nhiều diễn văn đã được đọc lên ca tụng Nguyễn Bình.
Và sau đó “phái đoàn Nguyễn Bình” 1ên đường ra Bắc để trình diện cùng Bác và Đảng.
Từ chiến khu Đ tới chiến khu Dương Minh Châu, “phái đoàn” được bảo vệ kỹ lưỡng an toàn.
Tuy nhiên, dầu sao chăng nữa khi bước qua đất Miên, linh tính cũng báo cho Nguyễn Bình rõ là nhiều nguy cơ đang chờ đợi mình.
Tại Kompong Cham, Nguyễn Bình đột nhiên viện cớ bị bịnh ngừng lại khiến mật thám Pháp, theo sự “vô tình tiết lộ” của Trung Ương cục Nam bộ, ngơ ngác, nhưng quân Quốc Gia Kháng Chiến vẫn không gì có là ngơ ngác.
Tàn quân của Trung Đoàn 25 Bình Xuyên theo Mười Trí tới Kinh Tam Tông (Long Xuyên) bay tới Dòng Lớn hoạt động bên cạnh Trình Minh Thế, luôn luôn phái tình báo, theo dõi đường đi nước bước của Nguyễn Bình.
Bởi vậy, Nguyễn Bình, đứng trong tình trạng “lưỡng đầu thọ địch” chẳng khác như Liên Quân Bình Xuyên ngày trước. Liên quân Bình Xuyên bị Việt Minh tìm đủ mọi cách khuấy phá, kể luôn cả việc báo cho quân đội Pháp vị trí đồn binh để phải đương đầu những trận tấn công tàn khốc.
Nguyễn Bình bị Nguyễn văn Trí, theo lệnh của Lê Duẫn, bỏ rơi tài liệu về lịch trình ra Bắc của Nguyễn Bình nên thường bị phục kích và thoát hiểm phần lớn là nhờ linh tính hay nhờ “viên đạn của tử thần” chưa tới.
Tàn quân của Trung Đoàn 25 luôn luôn bí mật bám sát “phái đoàn Nguyễn Bình” mà chính Trung Tướng Nguyễn Bình không hay biết.
Nguyễn Bình linh cảm được nguy cơ nên đã than thở cùng Võ Bá Nhạc :
– Lưới địch luôn luôn giăng ra, bộ đội đã không tiễn đưa chúng ta tới ngoài ranh giới, hai cận vệ lại được lệnh tách rời phái đoàn. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta chỉ có cách liều thân mà thôi.
Phái đoàn Nguyễn Bình đã tới khu rừng Phum Sre Pock, nghĩa là còn cách một hay hai ngày đường nữa là tới biên giới Việt-Miên-Lào.
Nguyễn Bình, ngồi dưới gốc cây đa xum xuê, nơi đồi sim rộng lớn, đưa mắt ngắm những bông hoa tím xinh tươi, trải khắp đồi như một chiếc thảm nhung rực rỡ mà thở dài.
Dĩ vãng, từ một viên giáo làng, tên tù chánh trị bị đày nơi Côn Đảo, viên tướng tung hoành tại vùng Tiên Yên Móng Cáy, nơi Việt Bắc gây dựng cuộc kháng chiến. Miền Nam phá tan các bộ đội Quốc gia… du côn, và ngày nay ngồi trơ trọi dưới gốc cây đa vì cận vệ đã “đi mở đường” từ sáng. Nhân viên trong phái đoàn, mạnh ai vào rừng kiếm củi nấu cơm, tắm giặt, để ngày mai còn lên đường thiên lý. Ngày mai còn chưa rõ những gì sẽ chờ đón, sẽ xẩy ra và tương lai sẽ ra sao ? ·
Nguyễn Bình thở đài, chán nản đứng dậy và đi sâu trong Phum Sre Pock.
Đó là ngày 27-10-51, ngày lịch sử, ngày chấm dứt cuộc đời tung hoành với quá nhiều mâu thuẫn nội tâm, hành động của Trung tướng Nguyễn Bình.
Vài ngày sau, một thông cáo chánh thức của bộ Tổng Tham Mưu quân Pháp cho biết: chiều ngày 27-10-51 một Trung đội Pháp Miên được lệnh càn quét vùng Strung Treng đã tiến sâu vào sóc Phum Sre Pock.
Trung đội Pháp, Miên bắn hạ một người Việt lạ mặt, đi một mình, lang thang trong sóc. Người lạ này, vội vã bỏ chạy khi đột nhiên đụng đầu với quân tuần tiểu Pháp Miên nên mới bị bắn hạ
Người lạ mặt cao lối một thước bảy mươi phân, to lớn, mặc bà ba bằng lụa đen và mang bên hông khẩu súng Wicker nòng dài, như của các nhà đi săn sư tử tại Phi Châu dùng súng này để tự vệ khi bị sư tử phản công.
Chính vì vậy, mà Trung úy Pháp chỉ huy cuộc tảo thanh nghi ngờ rằng nạn nhân, theo tin tình báo, là nhân viên cao cấp trong phái đoàn Nam bộ ra Bắc nên giữ xác nạn nhân tại chỗ, điện về cho Phòng Nhì và Cảnh sát Công an Saigon phòng chánh trị (Đặc cảnh Miền Đông) cấp tốc tới nơi để điều tra về lý lịch của nạn nhân.
Sau đó, Đặc Cảnh Miền Đông cũng ra thông cáo: Khi các chuyên viên tới nơi, xác của nạn nhân còn tươi. Với vóc dáng đặc, biệt, với khẩu súng Wicker cũng đặc biệt, với con mắt bên phải bị đui và nhất là với cặp kính hai mầu vô cùng đặc biệt, nửa trên màu đen và nửa dưới màu xanh nhạt, các chuyên viên có thể tin tưởng rằng nạn nhân là Trung tướng Nguyễn Bình, trưởng phái đoàn Nam bộ ra Bắc.
Để xác định lý lịch của nạn nhân, các chuyên viên đã chặt hai bàn tay của kẻ xấu số, mang về trụ sở, lăn tay rồi so lại tới dấu tay của Nguyễn Phương Thảo hay Nguyễn Thông Thảo tức Trung tướng Nguyễn Bình thì thấy rằng những dấu tay đó của một người tức của Trung tướng Nguyễn Bình.
Để cho dân chúng tin tưởng hơn vào bản thông cáo của mình, Đặc Cảnh Miền Đông tiếp:
-Sau khi bắn chết kẻ lạ mặt tại sóc Phum Sre Pock, Trung đội Pháp Miên hành quân nghi ngờ rằng còn có nhiều người Việt lạ mặt lẩn quất quanh sóc nên đã đẩy sâu cưộc lục soát. Kết quả lực lượng hành quân còn bắt sống được ba người Việt khác.
Trong cuộc điều tra sơ khởi, những người Việt này, chỉ nhận là kẻ xa lánh chiến tranh tìm tới đồi sim trên đất Miên để sanh sống. Vì họ không có vũ khí trong người nên lực lượng hành quân chỉ còn biết chờ đợi tâm giam họ để điều tra.
Khi các chuyên viên của Phòng Nhì và Đặc Cảnh Miền Đông tới tận nơi mở cuộc điều tra, và nhất là khi biết rõ đã có một người Việt bị bắn hạ trong ngày hôm đó, thì những kẻ bị bắt mất hết tinh thần, hoàn toàn đổi thái độ và sẵn sàng khai hết những gì mà họ biết.
Bản thông cáo nói rõ : Võ Bá Nhạc người được coi là “đệ nhị Trưởng phái đoàn Nam bộ ra Bắc” công nhận người lạ mặt bị bắn là Trung tướng Nguyễn Bình.
Bản thông cáo kết luận, với dấu tay với những lời khai của Võ Bá Nhạc, kẻ bị bắn hạ tại sóc Phuma Sre Pock quả thực là Trung tướng Nguyễn Bình, tên thực Nguyễn Phương Thảo hay Nguyễn ThôngThảo.
|
|