|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:05:12 GMT 9
Chương 40: Chú bếp Tuồng nhảy theo bộ đội -Đi kháng chiến lặn lội khắp nơi
Người ta nói cách mạng là một cuộc đổi đời; Với chú bếp Tuồng, điều đó là sự thật. Ta vừa cướp chính quyền là anh Năm Tuồng vứt bỏ bộ đồ ka ki vàng mã-tà nhảy theo cách mạng. Đây không phải là một quyết định đột xuất mà là một quá trình suy gẫm nhiều năm. Xuất thân từ con nhà nghèo phải sớm đi làm để kiếm sống, lại gặp lúc Tây bắt lính đưa ra mặt trận đánh giặc Xiêm nên Năm Tuồng đành thi vô lính mã tà có cái tên là Brigade Mobile (Lữ đoàn cơ động) chuyên gác tù và đàn áp các cuộc nổi loạn chống Pháp. Anh được đưa lên căng Tà Lài gác tù chánh trị bị tập trung trên rừng. Tà Lài nằm dọc đường 20 Sài Gòn - Đà Lạt, cách Định Quán hai mươi cây số, ở giữa rừng. Đây là nơi mọi người, từ tù đến lính, đều sợ vì sơn lâm chướng khí, bịnh hoạn mà chứng phổ biển nhất là sốt rét rừng. Ngoài ra còn cọp beo, rắn rít. Nhưng trong cái rủi có cái may: anh Tuồng được tiếp xúc với các nhà tri thức cách mạng như Trần Văn Giàu, Kỹ sư Vằn, Nguyễn Công Trung, hoạ đồ Lý, nhà báo Lê Văn Thử... Nhờ học ké chánh trị mà Năm Tuồng biết về tình hình đất nước, biết vì sao anh em Cộng sản khởi nghĩa cướp chánh quyền ngày 23-11-1940 gọi là “Nam Kỳ khởi nghĩa”. Cho nên khi ta cướp chánh quyền tại Sài Gòn ngày 25-8-1945, Năm Tuồng lột xác mã tà để đầu quân vô Cộng hoà vệ binh. Lúc đó có nhiều sư đoàn, tại sao lại chọn Đệ nhất sư đoàn tức Cộng hoà vệ binh? Lý do dễ hiểu. Anh em mã tà đi theo các sĩ quan của mình mà đứng đầu là hai anh adjudant (gọi là ông ách) Trương Văn Giàu và Nguyễn Văn Quạn, ở trong đơn vị GCL (Garde Civile Locale) Chí Hoà. Công tác đầu tiên của anh Năm Tuồng là đưa một trung đội xuống miền Tây với đồng chí Nguyễn Văn Tây, uỷ viên trong Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ kiêm Thanh tra chánh trị miền Tây. Mục đích chuyến đi này là giải quyết vấn đề Hoà Hảo tham gia chánh quyền đồng thời tiếp đón anh em chính trị phạm được tàu Phú Quốc do thuyển trưởng Bảy Ngạnh lái cùng khoảng hai chục ghe của Vàm Láng, Bình Đại ra Côn Đảo rước anh em về đất liền tham gia chánh quyền.
Nhờ có mặt tại Cần Thơ nên Năm Tuồng chứng kiến cuộc xuống đường cướp chánh quyền của Hoà Hảo xuất phát từ Cái Vồn dưới sự chỉ huy của Trần Văn Hoành là con của Trần Văn Soái tức Năm Lửa. Đó là ngày 9-9-1945. Trận đụng độ nẩy lửa diễn ra tại cầu Cái Khế. Các đội Bảo an Hoà Hảo võ trang gươm giáo ồ ạt từ bến bắc Cần Thơ tràn qua cầu. Bên kia cầu là anh em dân quân du kích dưới sự chỉ huy của Cò Hộ (Huỳnh Phan Hộ). Loạt đạn đầu ta bắn chỉ thiên. Hoà Hảo xông tới vì tin rằng súng bắn không chết tín đồ Hoà Hảo. Buộc lòng dân quân phải bắn đúng mục tiêu, những người đi đần gục ngã, tức thì mạnh ai nấy chạy, ném gươm giáo và nhảy xuống sông. Số võ khí vớt lên để đầy hai căn nhà. Vụ xô xát này mở màn cho mối bất hoà giữa Việt Minh và Hoà Hảo.
Vài tuần sau đó, Sóc Trăng làm lễ tiếp đón chánh trị phạm Côn Đảo thật long trọng. Địa điểm làm lễ là trường Taberd của tỉnh. Thanh niên tiền phong quần soóc xanh, sơ mi trắng, đội nón bàng, vác gậy tầm vông diễn hành phất cờ Việt Minh, nền đỏ sao vàng. Thuyền trưởng Bảy Ngạnh vừa về tới Đại Ngãi thì được lịnh trở ra Côn Đảo rước chánh trị phạm một chuyến nữa. Phải chạy đua nước rút với Pháp vì có tin chúng sẽ đưa quân sang chiếm lại thuộc địa Đông Dương, mà Sài Gòn là thành phố chúng nhắm trước tiên. Hai chuyến rước tù Côn Đảo này rất quan trọng trong lịch sử kháng chiến Nam Bộ. Các đồng chí lãnh đạo Nam Bộ phần lớn đều từ Côn Đảo về đất liền trong hai chuyến tàu này như Bác Tôn Đức Thắng, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Công Trung, Phạm Hữu Lầu, Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Tuệ, Võ Quang Anh.
Hay tin Tây sắp đánh Sài Gòn, đơn vị Năm Tuồng cấp tốc trở về Sài Gòn bằng ca nô. Tất cả có 50 Cộng hoà vệ binh mặc quân phục cũ, chỉ có ca-lô(1) là mới.
Đó là ngày 20-9-1945. Ca-nô vừa tới Tân An thì được tin Sài Gòn đã tản cư và quân ta đang chân đánh Tây ở Phú Lâm. Trương Văn Giàu ra lịnh đơn vị Năm Tuồng qua Gò Công đánh tàu Tây tại Cầu Nổi và tàu Nhật tại Chợ Gạo. Tại Cầu Nổi, lần đầu tiên Năm Tuồng được thấy Soái hạm Richelieu của Pháp. Tàu lớn quá thành ra con sông Bao Ngược có vẻ như nhỏ lại. Mấy cây súng Mút cổ lổ sĩ của ta chỉ gãi ngứa nó thôi.
Trận đánh bót Chợ Gạo mới có chuyện đang nói: Ông Dương Khuy, bí thư Mỹ Tho đích thân gánh lựu đạn dẫn đường anh em bộ đội. Tổng cộng dân quân du kích tham gia trận này khoảng 160 người, võ trang lựu đạn ta chế, vỏ tôn có bình dầu, ném nhiều trái mới nổ một trái...
Sau trận đánh tàu Richelieu ở Cầu Nổi, anh em binh sĩ có hơi mất tinh thần, “Tây mạnh quá, mình đánh sao xuể, bỏ về nhà làm ăn”: Nhưng Năm Tuồng không dễ bỏ cuộc, nói: - Mất Gò Công còn Bến Tre, mất Bến Tre còn miền Tây. Mất Nam Bộ còn miền Bắc. Tự động bỏ về là đào ngũ. Phải chờ anh Trương Văn Giàu.
Để củng cố thực lực, ta lập ban quân sự liên tỉnh Mỹ Tho- Gò Công- Bến Tre với ba chủ tịch: Tiếp (Mỹ Tho) Côn (Gò Công) và Cái (Bến Tre). Công việc đầu tiên là in tiền kháng chiến để nuôi quân. Tiền lầy gọi là tín phiếu Đổ Chiểu in bằng nghệ. Mỗi người được phát 20 đồng để ăn Tết. Lúc đó tỏ hủ tiếu là năm cắc.
Tết đầu tiên của nước Việt Nam độc lập có chuyện khó quên là mùng 7 Tết Tây đánh tỉnh Bến Tre. Ta rút ra Chân Bình vào xế chiều. Sáng mùng 8, Tây đánh mạnh. Cộng hoà vệ binh liên quân cùng cánh Bình Xuyên của anh Ba Dương. Hai bên chia lương thực cho nhau ăn để chống giặc. Sáng mùng 9 máy bay lên quần bắn vùng Cổ Cò là nơi anh Ba Dương đóng quân. Anh Ba không xuống hầm mà “xây cây rơm”. không may bị trúng đạn tử thương. Tin này được hai anh Sáu Đối và Từ Văn Ri giữ bí mạt vì sợ anh em mất tinh thần. Sáu Đối đề nghị anh Trương Văn Giàu giúp đưa bộ đội Bình Xuyên về Rừng Sác. Anh Giàu đồng ý và uỷ quyền anh Quạn chỉ huy đơn vị Cộng hoà vệ binh hộ tống Bình Xuyên về miền Đông. Tính đi đường biển, có tin Cần Giờ bị Tây chiếm, đổi kế hoạch đi đường bộ. Trên đường đi, đụng địch ở Cửa Đại, đánh cả ngày, dân nấu cơm gánh ra mặt trận cho lính ăn. Mấy ngày đi ròng rã mới về tới Phước An. Trong chuyến đi này, Năm Tuồng gặp được các chỉ huy Bình Xuyên như Hai Vĩnh, Bảy Viễn... Kỷ niệm khó quên là bộ đội anh đóng trong một làng có cái tên gọi “ớn xương sống”: làng Dao Phay. Làng này thuộc tổng Ăn thịt, sau kêu trại là An thịt. Cộng hoà vệ binh đóng trong miếu thờ Cá Đao. Trên bàn thờ có hai bộ xương cá đao. Đang thiếu thức ăn thời may gặp anh Năm Chàng, chỉ huy Chi đội 2 Bình Xuyên tổ chức đăng, bắt cá đãi bộ đội Khu Tám. Nước ngọt vùng này quý như vàng, phải đi xa mới có. Đi tìm nước ngọt cũng chết sống như ra trận.
Đêm ấy, Năm Tuồng đi Tân Lập lấy nước, xuồng chìm vì gặp sóng tàu Tây. Trời tối, sông lớn, phải ôm xuồng chịu trận. Chừng mò vô xóm thì bị dân quân nghi là địch, lườm súng toan bắn.
Tới Lý Nhơn, Năm Tuồng gặp Bùi Sĩ Hùng là sinh viên năm thứ ba ngành y và là chỉ huy mặt trận An Hoá Giao Hoà. Đau tháng 10-1946, anh Trương Văn Giàu tới Rừng Sác rước quân về Bến Tre. Vì quân số đông phải chia làm hai, một do anh Giàu, một do anh Quạn chỉ huy. Về đường biển, cánh quân anh Giàu đi trót lọt, cánh anh Quạn bị sóng gió đánh gãy cột buồm và bánh lái, tám ghe kẹt lại Cần Giờ. Năm Tuồng bị phỏng hai chân không đi được. Bùi Sĩ Hùng cõng Tuồng tránh vùng địch chiếm. Phải đi lòng vòng từ Cần Giờ qua Tiều, rồi từ Tiều trở lại Cần Giờ tìm đường về Bến Tre. Trong thời gian này, Cộng hoà vệ binh biết cái khát như thế nào. Phải trầm mình dưới nước để trị khát. Thời may gặp chủ tịch Bảy Trân tiếp tế gạo khử, đường và nhất là nước ngọt. Suốt ba tháng đi loanh quanh trong Rừng Sác, áo quần sờn rách. Nạn rận tha hồ hoành hành. Anh em áp dụng phương pháp diệt rận thật hữu hiệu, cởi áo cởi quần ra, dùng ve chai chà đi xát lại. Rốt cuộc rồi cũng tổ chức được thuyền ghe vượt biển về tới Bến Tre.
Sau chuyến đi miền Đông này, Năm Tuồng được anh Trương Văn Giàu tín nhiệm. Khi được bổ nhiệm Khu phó khu Tám (Khu trưởng là Đào Văn Trường) Trương Văn Giàu chỉ định Năm Tuồng làm Trưởng ban quân nhu Chi đội 20 của Vĩnh Trà (Vĩnh Long- Trà Vinh). Đó là ngày 12-9-1946. Lúc đó Khu Tám có hai chi đội chủ lực 19 và 20. Chi đội 19 do các ông Đồng Văn Cống, Nguyễn Công Trung, Huỳnh Thế Phương chỉ huy. Chi đội 20 do các ông Ngô Văn Sung. Đặng Văn Thông chỉ huy. Cũng cần nhắc qua năm 1946 bộ chỉ huy ba khu 7, 8, 9 gồm có: Khu 7: Nguyễn Bình - Dương Văn Dương - Khu 8: Đào Văn Trường - Trương Văn Giàu - Khu 9: Vũ Đức - Nguyễn Ngọc Bích.
Lần đầu tiên Nguyễn Bình được nghe báo cáo tường tận về chuyến viễn chinh của anh em Bình Xuyên dưới sự chỉ huy của Khu phó Dương Văn Dương là Sáu Đối mở đường máu về Rừng Sác. Nghe phân đội trưởng kiêm trưởng ban Quân nhu Chi đội 20 Năm Tuồng kể chuyện về bộ đội Cộng Hoà Vệ Binh, anh Ba Bình rất thú vị. Qua báo cáo của anh Năm Tuồng, anh Ba biết thêm về các anh chỉ huy Cộng hoà vệ binh, xưa đã từng là hạ sĩ quan trong quân đội Pháp như các anh Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quạn. Như hạt giống tốt gặp đúng mảnh đất mầu mỡ họ phát huy khả năng nhanh chóng và trở thành chỉ huy giỏi có uy tín trong ba quân. Anh Ba thấy việc đề bạt Trương văn Giàu tư lệnh phó khu 8 cũng như Dương Văn Dương tư lệnh phó Khu 7 là hợp lý hợp tình. Đồng thời anh Ba ký giấy bổ nhiệm Nguyễn Văn Tuồng là đại diện Chi đội 20 tại Phòng Quân Nhu Nam Bộ. Ký tên Nguyễn Bình, uỷ nhiệm quân sự Nam Bộ kiêm Khu trưởng Khu 7. (Tổng thư ký Ban Quân Nhu Nam Bộ là Trịnh Đình Hoa).
Chú thích: (1) Ca-lô (calot): Mũ vải của lính
Chương 41: Chính bị bắt, Nguyễn Bình xúc động -Phai cứu Chính bất cứ giá nào
Tết Đinh Hợi (1947) chưa được mấy ngày thì tin dữ bay ra bưng: Chính Heo đã bị bắt. Tin này làm bàng hoàng mọi người. Ban công tác số 1 là niềm hãnh diện của kháng chiến. Đó là nắm đấm của nhân dân yêu nước trong vùng tạm chiếm đã từng giáng những cú thôi sơn vào đầu não quân thù khiến cho chúng hoang mang. Nguyễn Đinh Chính là con chim đầu đàn của Ban công tác số 1. - Chính Heo bị bắt trong trường hợp nào? Anh Ba hỏi. Liên lạc thành báo cáo: - Để cho đồng bào nội thành ăn Tết trong tinh thần tự do độc lập, Ban công tác số 1 quyết định đánh lớn, làm nhiều vụ cho Tây và Việt gian “ê càng” bỏ thói ruồng bó làm tiền dân chúng. Phải gây nhiều tiếng nổ diệt ác trừ gian cho bà con lên tinh thần. Tết Đinh. Hợi phải vui hơn Tét Bính Tuất (46) là năm Tây đang thắng thế đẩy lui bộ đội và cơ quan Nanh Bộ chạy tới mũi Cà Mau. Rất tiếc là trong việc vận chuyển súng đạn vô nội thành, vài nơi bị lộ và đường giao liên bị nghẽn. Chính Heo vẫn cho các tổ nổ súng trừ gian. Đêm giao thừa các bót cảnh sát ở Cầu Kiệu (Phú Nhuận), cầu Mạc Mahon (cầu Công Lý), cầu Bông, cầu Thị Nghè đều bị anh em ném lựu đạn và rải truyền đơn. Một số chiến sĩ bị bắt và lựu đạn ta chế không nổ. Phải vô bưng xin thêm súng đạn và lựu đạn. Đích thân Chính Heo đi để báo cáo rõ về tác hại của nạn thiếu lựu đạn trong các trận đánh ở nội thành. Anh tin rằng anh Ba sẽ không tiếc một thứ gì với anh em công tác thành...
Anh Ba gạt nhưng nói: - Đồng chí đi ngay vô đề, đừng dài dòng. Trong tình huống nào Chính Heo bị bắt? - Ra tới Bà Quẹo, anh Chính gặp em Hiệp bị thương ở đùi. Vết thương làm độc, phải mổ ngay. Hiệp mới mười bốn, là đội viên trẻ nhất của Ban công tác số 1 Hiệp và anh trai tên là Hoàng, mười sáu tuổi, là con của ông chủ tiệm đồ da ở đường D Espagne (Lê Thánh Tôn) chiến đấu rất hăng. Hoàng đã ném lựu đạn làm què thằng thực dân già Béziat, chủ tịch Hội đồng tư vấn Nam Kỳ. Chính Heo tạm hoãn chuyến ra bưng để đưa em Hiệp về nội thành chăm sóc vết thương đã nhiễm trùng. Gởi Hiệp tại một nhà cơ sở, anh Chính đi tìm Mạnh thường quân xin tiền mua thuốc cho Hiệp. Không may anh bị bắt tại Phú Nhuận. Ngày đó là mùng sáu Tết. Bắt được Chính Heo, Tây và Việt gian reo hò tở mở. Chúng đã từng treo giá cái đầu Chính Heo khá cao.
Anh Ba cau mày: - Phải giải cứu cho Chinh Heo. Với bất cứ giá nào. Các đồng chí đã có kế hoạch gì? - Đã kiếm luật sư cho anh Chính. Ông Ngô Sách Vinh nhận cãi cho anh Chính không lấy thù lao...
Anh Ba gật: - Nên liên lạc với nhóm Văn hoá Mác xít - Groupe culturel du Marxisme, báo Les Lendemains và các tổ chức tiến bộ trong thành. Phải gõ cửa tất cả những nơi ta có thể tranh thủ được...
Một lúc sau anh Ba lại nói: - Đó là về mặt công khai hợp pháp. Nhưng quan trụng hơn hết là mặt bí mật làm sao tổ chức đường dây vượt ngục. Hãy nghiên cứu hệ thống ông cống thành phố. Có thể có đường dây chạy dưới khu vực Khám Lớn...
Mắt liên lạc thành sáng rực lên: - Một ý hay. Vượt ngục theo ống cống. Nhưng làm sao có hoạ đồ hệ thống cống ngầm Sài Gòn? - Hãy liên lạc với Sở vệ sinh toà đô chính. Cống ngầm Sài Gòn không quy mô như bên Pháp, nếu các đồng chí có xem bọ phim Les misérables thì thấy Jean Valjean lội bì bõm trong ống cống giải thoát cho anh sinh viên, người yêu của Cosette. Cống Sài Gòn không lớn rộng như vậy, nhưng cũng có thể giúp chúng ta đột nhập nội thành. Các đồng chí cố gắng tìm hoạ đồ đem về đây, ta sẽ nghĩ ra kế hoạch...
Thời gian thấm thoắt trôi, Chính Heo đã bị đưa ra toà kết án tử hình. Báo chí Sài Gòn đều có đăng.
Vài hôm sau liên lạc đem báo thành vô khu. Anh Ba đọc hết tất cả các báo nói về vụ xử ngày 10-10-1947. Chánh án kêu tối đa: tử hình. Anh Ba lộ vẻ thất vọng vì không tìm ra cách giải thoát cho Chính Heo.
Mấy tuần sau liên lạc thành đem ra bản sao một bức thư Chính Heo viết trong tù. Đây là bức thư gởi Cụ Hồ mà Chính Heo đã tự cắt tay lấy máu ra viết.
Thư chỉ chép có một đoạn: Thưa Cha, Đến nay con sa vào tay địch, con nắm chắc cái chết trong thời kỳ chúng tra tấn con trong bót Catinat. Rồi chúng đưa con qua Khám Lớn. Con biết chúng sẽ két án tử hình, nên tìm mọi cách vượt ngục.
Tổ chức rất khoa học nhưng không gặp thời cơ. Ra toà ngày 10-10-1947, con bị chúng tuyên án tử hình.
Con chống án và trong phiên xử sau, con sẽ đọc một bản điều trần “Mémoire de défense” vạch mặt bọn xam lăng cướp nước mà vỗ ngực xưng văn minh đi khai hoá nước người...
Ngày 19-5-1948 toà án binh Sài Gòn lại đem tử tội Nguyễn Đình Chính ra xử. Đây là ngày Chính Heo mong đợi. Anh đã chuẩn bị xong bản điều trần lên án bọn thực dân. Bản thảo của anh được anh em tù trí thức như sinh viên trường thuốc Hoàng Xuân Bình, nhà báo Vũ Tùng gọt dũa thêm. Lại được luật sư Ngô Sách Vĩnh chấp bút về ngôn ngữ luật pháp.
Chính Heo đọc rất hùng hồn, bọn Tây hoàn toàn bất ngờ trước bản lĩnh của Nguyễn Đình Chính. Trước vành móng ngựa kẻ tử tội biến thành quan toà dõng dạc lên án cả một chế độ thực dân từ trên xuống dưới.
Báo chí Sài Gòn chỉ loan tin tử tội đọc bản tự bào chữa trước toà, không dám nêu rõ các điểm lớn về nội dung.
Đến khi tử tội bị đày ra Côn Đảo có vài tù nhân Khám Lớn được phóng thích nhảy ra khu. Họ cho biết nội dung bản điều trần của Nguyễn Đình Chính trước toà án binh Sài gòn: đây là một bản án chế độ thực dân. Vô đầu Chính Heo không nhìn nhận tính hợp pháp của phiên toà bởi vì năm 1945 Pháp đã nhục nhã đầu hàng quân đội Nhật. Chủ quyền của Pháp chấm dứt từ khi Bảo Đại thoái vị với lời tuyên bố lịch sử: “Trẫm thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị trị”. Thứ hai Chính Heo bác lời buộc tội làm mất tinh thần chiến đấu của quân đội và gây nguy hiểm cho quốc phòng. Điếu đó vô nghĩa. Thứ ba Chính Heo khẳng định nhưng gì tôi làm, tất cả nghiêng người yêu nước của bất cứ quốc gia nào cũng phải làm. Tôi đã hành động hết sức sáng suốt bình tĩnh. Và bây giờ trong móng vuốt của các ông, tôi sẽ cho các ông thấy tôi có đủ bản lĩnh đón lấy cái chết vinh quang cho Tổ quốc cũng như nhà thơ Corneille đã viết: “Mourir pour le pays est ùn si diglle soạt ét qưon brigllerait en foule une si belle mort”.
Tất cả anh em trong khu đều hãnh diện trước hào khí của Nguyễn Đình Chính. Đúng là con cháu Trần Bình Trọng đã xem thường cái chết nhẹ như mảnh lông hồng. Lời thề “Thà làm quỷ nước Nam, không làm vương đất Bắc” của người xưa đã được con cháu lặp lại với lời lẽ khác nhưng tinh thần bất khuất vẫn như nhau.
Tuy đau buồn, anh Ba Bình rất hãnh diện có một người em “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Nguyễn Đình Chính. Chính Heo đã làm vang danh Ban công tác Thành.
Chương 42: Tại Vườn Thơm, Minh Khai ra mắt -Majéstic đầy xác giặc Tây
Ban công tác số 1 là lá cờ đầu của lực lượng vũ trang Sài Gòn Chợ Lớn. Đơn vị này đã lập nhiều thành tích vẻ vang khiến thực dân ở Sài Gòn và cả Paris cũng hoang mang. Nhưng sự tổn thất của Ban công tác số 1 cũng to lớn. Lần lượt các chi huy tên tuổi như Nguyễn Ngọc Sớm, Trần Phong, Nguyễn Đình Chính bị bắt. Trần Phong bị đem đi thủ tiêu còn hai anh Sớm và Chính đều bị kết án tử hình đầy ra Côn Đảo chờ ngày hành quyết. Trung tướng Nguyễn Bình rất buồn về sự mất mát này. Bao kế hoạch giúp từ tù vượt ngục đều thất bại. Chỉ còn cách đánh lớn để trả thù cho các anh. Anh Ba đang nghĩ về chuyện đó thì trưởng Ban công tác số 10 vô khu báo cáo tình hình.
Đó là anh Nguyễn Văn Nam, tự Danh Khôi. Khôi là người miền Bắc lưu lạc vào Nam làm nhiều nghề, nhưng nghề chính là nhân viên khách sạn.
Anh đã bắt đầu với những công việc vỡ lòng như bồi bàn, phụ bếp. Nhờ đẹp trai, có vốn liếng tiếng Tây anh tiến lên từng bước và vài năm sau đã làm cho các nhà hàng khách sạn lớn ở Sài Gòn như Majéstic, Continental, Hôtel Des Nations, Saigon Palace và lên tận Đà Lạt quản lý Hôtel du Parc, qua Chùa Tháp làm cho Bungalow Kép rồi Grand hôtel d’ Angkor. Nhờ cuộc đời giang hồ này mà anh Khôi gặp được người bạn đời trên Đà Lạt. Năm 1945, Khôi tham gia Thanh niên tiền phong Hẻm Đội Có, Phú Nhuận, sau theo Chi đội 13 của Triệu Cải và Nguyễn Đình Thâu. Sau trận An Phú Đông, anh về Ban Quân Báo Khu 7. Sau sơ ước 6-3-1946, anh được anh Ba Bình phái về nội thành xây dựng cơ sở bí mật ở các vùng cầu chữ Y, Vĩnh Hội, Xóm Chiếu, Tân Thuận... Hoạt động được năm tháng thì bị bắt về Catinat, rồi Khám Lớn, căng Biên Hoà.
Đầu tháng 2-1947, khi mãn tù, Khôi nhảy vô khu, lại được anh em Ba Bình phân công phụ trách Ban công tác số 10. Khôi có sáng kiến tổ chức vài tiểu đội nữ để loạt động dễ dàng hơn thanh niên. Anh Ba tán thành ngay và giao anh Khôi và Huỳnh Văn Khai (Hoàng Hồng Cúc) tuyển sinh, lấy trong số các học viên quân chính gốc Sài Gòn. Anh chọn cho các tiểu đội nữ tên Trung đội Minh Khai.
Sau thời gian huấn luyện, các chị em sử dụng thông thạo các loại súng trường, súng ngắn, lựu đạn. Lễ ra mắt Trung đội Minh Khai được tổ chức trọng thể tại Vườn Thơm. Trung đội trưởng là chị Dư Thị Lắm (tức Nguyễn Thị Hạnh). Khí thế rất hăng các chị em tranh nhau mỗi khi nghe tin sắp có trận đánh. Phải bắt thăm cho công bằng. Một trong nhưng trận đánh có tiếng vang của trung đội là trận ném lựu đạn trong rạp chiếu bóng sang trọng nhất Sài gòn là rạp Majestic, chiếm liền hai căn số 15-17 đường Catinat (Đồng Khởi). Khán giả rạp này là khán giả chọn lọc, nhà giàu, trí thức, ít nhất cũng phải biết nói tiếng Pháp vì rạp chiếu toàn phim Pháp (hồi đó chưa có phụ đề Việt ngữ) phần đông là công chức và sĩ quan Pháp. Trinh sát Ban công tác số 10 được biết vào tôi thứ năm 10-6 năm ấy (1948) bọn sĩ quan Marine (Thuỷ quân) sẽ kéo nhau tới xem phim Adieu, Cherie, một phim tình ướt át. Thủ vai chính là cô đào Danielle Darrieux minh tinh màn bạc số 1 thời ấy. Lập tức ban chỉ huy quyết định đánh. Võ khí có sẵn là ba trái OF, loại lựu đạn của quân Anh dùng để tấn công. Đây là quà chiến lợi phẩm trận Mộc Hoá của trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương (tên thật là Huỳnh Kim Cúc). Bốn nữ đội viên được chọn là Nguyễn Thị Kim Dung, Bùi Thị Huê, Hoàng Thị Thanh (tức Từ Thị Đào), Mạc Thị Lan (tức Huệ Nhỏ).
Gọi Huệ Nhỏ vì trong Trung đội có chị Huệ lớn là chính trị viên của Trung đội Minh Khai. Bốn chị em được chọn rất hân hoan nô nức lập chiến công. Ai nay đều chọn áo quần thật đẹp - không có thì mượn của bạn - để công việc vô cửa được dễ dàng, không bị bọn gác cửa lục bóp đầm. Vào xế chiều ngày ấy, bốn chị em tập họp tại nhà của chị Minh, chủ tiệm may ở đường Mayer (Võ Thị Sáu) gần chợ Tân Định. Kim Dung và Huệ nhỏ đi chung một xích lô. Huệ nhỏ còn dẫn theo một cậu em nhỏ để bọn lính kín không chú ý Thanh và chị Huê đi một xe, cách nhau vài phút.
Kim Dung và hai chị em Huệ nhỏ mua kẹo ở tiệm Chà kế bên rạp, vừa nhai kẹo vừa lững thững bước vô rạp ở cửa bên mặt. Đi ngang qua lính gác, Kim Dung đưa bóp cho chúng xét nhưng tay chị nắm chắc trái lựu đạn gói trong khăn tay đặt dưới đáy bóp, ở trên là mấy viên kẹo. Vài phút sau, hai chị em Thanh và Huê vô cửa bên trái như đã sắp đặt trước. Bốn người tìm chỗ ngồi thuận tiện để ném lựu đạn đúng tầm vào mấy hàng ghế hạng nhất của bọn sĩ quan Pháp ngồi. Hết phim thời sự, bắt đầu vô phim Adieu, Cherie. Trong lúc mọi người dán mắt vô màn bạc thì Kim Dung rút chốt lựu đạn ném trước tiên. Một tiếng nổ kinh hồn. Rồi tiếp theo là hai trái của hai chị Thanh và Huê. Lan tức Huệ nhỏ chỉ đi hướng dẫn chứ không lãnh lựu đạn. Sự kinh hoàng trong rạp không bút mực nào tả xiết, Kim Dung nhớ lời các anh dặn: lau tay trong mu soa tẩm dầu thơm để tay không còn mùi tanh của gang thép lựu đạn. Sau mấy phút hoang mang, bọn linh kéo cửa sắt lại, không cho ai ra. Nhưng Hoàng Thị Thanh đã nhanh chân ra trước. Còn kẹt lại ba chị em. Kim Dung nhanh trí đổi vé ngồi gần hàng ghế các sĩ quan Pháp. Nhờ bình tĩnh mà Kim Dung được cho ra về. Còn Huệ nhỏ thì bị miếng lựu đạn trúng bàn chân, không nặng lắm nhưng vờ la, làm ầm lên. Lính cũng cho hai chị em Huệ nhỏ về. Chỉ còn kẹt lại chị Bùi Thị Huê. Chị có hai điều thất lợi là lãng tai và không biết tiếng Pháp.
Bố trí công tác này cho chị vì kẹt người, vào giờ chót mới giao cho chị. Do hai điều thất lợi trên mà Tây nghi chị Huê, đưa về bót Catinat tra khảo ngay. Chị Huê ráng chịu đòn hai ngày để cơ sở có thì giờ di tản.
Sau đó chị chịu dẫn lính về tiệm may của chị Minh ở góc Garcerie - Mayer (Phạm Ngọc Thạch - Võ Thị Sáu). Chị Hoàng Thị Minh chủ quan vẫn ở nhà nên bị bắt. Hoàng Thị Thanh (tự Từ Thị Đào) chạy vô khu nên địch bắt, chị Nguyễn Thị Đào cũng là đội viên Minh Khai. Kim Dung bị bắt nguội một thời gian sau. Địch đưa tất cả ra toà án binh Sài gòn. Vì số thương vong quá lớn: 20 chết, 50 bị thương (trong số chết có hai đại tá và tên cò mật thám Arbert) địch kêu án một tử hình: chị Huê, một án 20 năm khổ sai: Chị Đào, một mười năm khổ sai: Kim Dung. Phiên xử thứ hai do ta đánh lớn, địch kêu án tối đa: cả ba đều lãnh án tử hình. (Lúc đó là tháng 2-1949). Báo chí Sài gòn phản ứng mạnh nêu rõ Kim Dung mới 16 tuổi. Về sau Tây giảm án còn 20 năm khổ sai.
Tất cả diễn tiễn của phiên toà. Trung trướng Nguyễn Bình đều theo dõi qua báo chí Sài Gòn mà liên lạc thành đưa vô bằng trễ vài ngày. Anh Ba rất xúc động trước chí khí hiên ngang của các chị em trong cảnh biệt giam. Một bài thơ của một chị được đưa lọt ra ngoài: Tuy sa lưới nhưng hồn ta vẫn tiến Thân tù đày ta vẫn nguyện hy sinh Và vẫn mơ tươi đẹp buổi bình minh Ngày chiến thắng trở về cùng đất nước.
Anh Ba chi thị cho các cấp tuyên dương các chiến sĩ trong tù. Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến - hành chính Sài Gòn Chợ Lớn Tạ Nhựt Tứ gởi thủ khen ba chị Huê, Đào, Kim Dung. Phòng chính trị Bộ Tư lệnh Khu 7 ra bản tin đặc biệt ngày 23-9-1949 ca ngợi gương chiến đấu của phụ nữ Sài Gòn. Bộ Tư lệnh Khẩn 7 cấp giấy tuyên dương với hai chữ ký của tư lệnh Huỳnh Văn Nghệ và chánh uỷ Nguyễn Văn Trí.
Riêng anh Ba Bình thì gởi thư, tặng ảnh và tiền cho từng người, giao cho anh Khôi phải tìm cách trao tận tay ba chị.
Vụ Majestic đã nêu cao tên tuổi Trung đội Minh Khai như là tinh hoa của nữ giới Sài Gòn trong thời binh lửa.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:06:41 GMT 9
Chương 43: Ra bưng chơi may gặp Nguyễn Bình -Trần Nam Hưng quyết định đi Khu
Trong số 50 nhân viên đơn vị quân y có cái tên Hôpital d évacuation Motorisé 415của Pháp từ Đức qua Đông Dương chỉ có một người Việt Nam duy nhất: lieutenánt médecin Trần Nam Hưng. Anh Ba Hưng là dân Chợ Giữa, Mỹ Tho tốt nghiệp y khoa bác sĩ Hà Nội khoá 1935-1943. Đơn vị anh gọi tắt là HEM chiếm nhà thương Chợ Rẫy làm trụ sở. Nhân viên hai phần ba là phụ nữ. Những y tá, cứu thương, thuộc hai tổ chức: Croix Rouge (Chữ Thập Đỏ) và AFAT (Auxiliares Féminins de l armée de Terre tức nữ trợ tá Quân đội).
Anh Ba Hưng là bác sĩ mới ra trường, hãy còn trẻ lại đẹp trai nên các cô đầm non rất có cảm tình. Có ba nàng bám sát anh, một cô đầm gốc Nga trong Hội Chữ Thập Đỏ, một cô AFAT và một vợ tên quan ba. Về sau anh Ba Hưng mới biết ngoài tình cảm trai gái, các cô này còn có nhiệm vụ theo dõi anh để báo cáo với cấp trên vì anh bị nghi có cảm tình với kháng chiến. Tại sao anh bị nghi? Lúc đó trung uý quân y Hưng được giao công việc khám bịnh và phát thuốc cho bịnh nhân. Thấy dân quá nghèo túng, anh Ba cho họ rất nhiều thuốc. Vì chuyện phân phối thuốc hào hiệp đó mà Tây “đuổi” anh Ba Hưng. Để thay đổi không khí, anh tính ra bưng tìm hiểu kháng chiến mà anh đã nghe được nhiều giai thoại. Anh đến nhà luật sư Bùi Thị Cẩm là vợ của luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần đang ở trong bưng. Chị Cẩm nói: - Mai có liên lạc đi An Phú Đông, chỗ anh Thuần, anh có muốn vô thăm anh Thuần thì đi. Buồn ngủ gặp chiếu manh, Ba Hưng chụp ngay: - Cho tôi đi chơi!
Vô khu gặp hai anh trí thức quen: Phạm Ngọc Thuần và Nguyễn Ngọc Bích, Ba Hưng bắt đầu khoái không khí bưng biền. Anh định trở về thì anh Thuần rủ qua Vườn Thơm gặp Nguyễn Bình: - Sắp tới sẽ thành lập Uỷ ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ, anh em mình nên cố gắng tham gia. Ba Hưng theo bạn qua Vườn Thơm. Lần đầu tiên anh gặp Nguyễn Bình mà từ lâu anh đã nghe danh. Vị tư lệnh Khu Bảy hết sức ân cần với anh em trí thức trong thành. Biết bác sĩ Trần Nam Hưng chỉ vô chiến khu cho biết và sắp sửa trở về thành: anh Ba cấp cho anh một giấy giới thiệu: “Bác sĩ Trần Nam Hưng có chuyện cần gặp tôi. Liên lạc nên giúp đỡ bác sĩ”.
Về thành, bác sĩ Hưng mở phòng mạch ở đường Follcault (Nguyễn Phi Khanh), Đa kao. Làm ăn cũng khá, nhưng cuộc sống nhung lụa ở thành không hấp dẫn bằng sinh hoạt hào hùng trong chiến khu nên chín tháng sau Ba Hưng lại trở vô bưng. Lần này thì di thiệt chứ không phải vô bằng cho biết như lần trước.
Anh Ba Hưng được anh Thuần tiếp đón nồng nhiệt. Anh Thuần vừa được giữ chức Phó Chủ Tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ. Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình cũng hoan nghênh ngày tái ngộ người trí thức đã trăn trở chọn con đường tiến thủ. Ngành quân y đang là một ngành cần thiết trong kháng chiến. Các đơn vị đang cần y tá, bác sĩ.
Anh Ba đình giao cho anh Ba Hưng trọng trách mở một khoá đào tạo cứu thương cấp tốc 15 ngày. Sau đó lại mở một khoá y tá trong ba tháng. Trong khoá này anh Ba dạy săn sóc vết thương theo phương pháp mới được áp dụng trong đệ nhị thế chiến. Anh tạm gọi là gọi là phương pháp HEM. Trước đây vết thương được rửa và rắc thuốc hằng ngày, còn theo cách điển trị mới thì rắc trụ sinh, băng lại, ba ngày sau mới tháo băng. Thường thì khi tháo băng, vết thương đã kéo da non. Điều đáng nhớ của khoá này là sáng bế giảng, có trung tướng chủ toạ, chiều máy bay lên ném bom. Nhờ sơ tán ngay nên không ai bị thương. Khoá này mở tại Ba Thu, giữa Đồng Tháp Mười. Đồng trống không có cây cao, máy bay tha hồ rà sát đất.
Đó cũng là lần đầu anh Ba Hưng thấy sức mạnh cỉla không quân Pháp ở Khu Tám. Sau ngày lễ Thương Binh 27-7-1948, quân y viện 2 đã cất xong tại một giồng gần Ba Thu. Giồng này không biết tên trong vùng gọi là gì nhưng anh em bộ đội gọi là Giồng Nhà Thương vì mới mở nhà thương tại đây. Anh Ba Bình giao nhà thương này cho anh Ba Hưng. Lúc đó bác sĩ Hồ Văn Huê phụ trách Quân Y viện khu 7 ở Cần Giờ. Bác sĩ Hoa coi bịnh xá của Trung đoàn 308.
Gọi là quân y viện 2 nghe rất xôm nhưng đây chỉ là trại cột tràm mái lá, giường chỏng đóng bằng tre trải đệm bàng. Bác sĩ và bệnh nhân ở chung trại chỉ cách một tấm vách lá. Có một kỷ niệm khó quên trong những ngày đầu phụ trách quán y viện ở Giồng Nhà Thương giữa năm 1947 này. Có hai thương binh được đưa tới: anh Nên thuộc trung đoàn 300 và anh Hoàng thuộc trung đoàn 305. Cả hai đều bị thương gãy xương ở tay. Anh Ba Hưng điều trị theo phương pháp HEM, rửa vết thương, rắc thuốc bột Sunfamit (trụ sinh) để năm ngày mới mở băng ra. Hai anh Nên và Hoàng không biết cách điều trị mới lạ này, cứ thắc mắc vì sao bác sĩ không ngó ngàng gì tới vết thương trong năm ngày. Không rõ ai nói cho hai anh biết bác sĩ Hưng là quan hai thầy thuốc trong nhà binh Pháp, chỉ mới ra bưng có mấy tháng. Thế là hai anh nhìn anh Ba Hưng với cặp mắt nghi ngờ: “phải chăng tay này của địch chui vô hàng ngĩl kháng chiến để ám hại chiến sĩ!”. Những lời thì thầm đó thấu tới tai anh Ba Hưng. Anh giải thích phương pháp điều trị mới, nhưng không ai tin vì các nơi khác, thầy thuốc và y tá thay băng mỗi ngày cho bệnh nhân. Không ai nói trước mặt, nhưng sau lưng nhiều người chửi lén: “đã làm biếng lại còn nói dóc”. Anh Ba Hưng rất khổ tâm về thái độ không thán thiện của anh em thương binh. Có đêm anh ngủ không yên vì sợ một kẻ quá khích nào đó lén sang buồng anh “thích khách”. Hai bên chỉ cách nhau vách lá mỏng manh, sơ sài.
Rất may cho anh là những lời xì xào nghi kị đó thấu tới anh Ba Bình. Và một sáng nọ, anh Ba chống xuồng tới quân y viện 2. Thật là bất ngờ, mọi người xôn xao nhưng anh Ba khoát tay nói: “Cứ làm việc bình thường. Tôi chỉ ghé một chút thôi”. Lúc đó anh Ba Hưng đang tháo băng cho hai anh Nên và Hoàng. Hai anh nhăn mặt lộ vẻ khó chịu vì mùi hôi bốc lên từ vết thương băng đã hơn ba ngày. Nhưng cuộn băng vừa tháo hết thì cả thầy thuốc lẫn thương binh đều reo lên mừng rỡ: - Lành rồi! - Kéo da non rồi! Xương đã ráp cứng. Anh Ba Bình bước tới nhìn kỹ vết thương đã kéo da non của hai anh Nên và Hoàng. Anh gật gù nói với anh Ba Hưng: - Trước đây tôi có nghe bác sĩ nói về phương pháp băng bó của Pháp trong đệ nhị thế chiến. Này mới thấy tận mắt. Kỳ diệu thật! Tên phương pháp là gì vậy? - HEM, tức Hospital d évachation Motorise. Anh Ba Bình gật gù quay lại hai anh thương binh: - Tôi có nghe lời phàn nàn của hai anh về giám đốc Quân y viện 2. Cho nên sáng nay tôi gác công việc để qua đây điều tra tại chỗ. Kết quả cho thấy là hai anh hơi vội vàng trong việc phê phán... Hai anh Nên và Hoàng ấp úng xin lỗi bác sĩ Hưng. Trong khi đó, anh Ba Bình gọi anh Nguyễn Đức Hinh từ dưới xuống lên, nói: - Chụp bác sĩ Hưng và hai anh thương binh này một bức ảnh kỷ niệm đánh dấu ngày thành công đầu tiên của Quân y viện.
Nguyễn Đức Hinh là nhà thơ kiêm nhiếp ảnh. Ra bưng, anh được anh Ba Bình khai thác một tài năng mới: đánh giặc. Dù vậy anh Hinh vẫn không rời cái máy Zeiss I Rón thân thương. Anh mở máy mời anh Ba Hưng và hai anh Nên, Hoàng ngồi trên giường chụp một bức. Xong rồi anh Ba Hưng mời anh Phạm Ngọc Thuần cùng chụp với ba anh một “pose” làm kỷ niệm.
Vài ngày sau liên lạc đem qua một bao thư trong đó có các bức ảnh rọi lớn với mấy chữ đề tặng của Trung tướng Nguyễn Bình. Bức ảnh đó anh Ba Hưng giữ kỹ như gia bảo: “Nếu ra khu không gặp Nguyễn Bình thì mình đã trở về thành ngay từ đầu”.
Chương 44: Tô Ký cưới vợ mời khu trưởng-Nguyễn Bình cưỡi ngựa tới chung vui
Anh em trong Giải phóng quân liên huyện nhớ mãi ngày hôm ấy: chỉ huy trưởng Tô Ký cưới vợ. Từ lâu vị chỉ huy này mê đánh giặc không chịu nghĩ tới việc lập gia đình, chỉ sợ vợ con “vướng tay vướng chân” nhưng rồi chuyện phải tới đã tới: chiến tranh là chuyện lâu dài, có thể kéo dài đời cha tới đời con, như chủ trương “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” mà ai cũng thấm nhuần. Trước khi vào tiệc liên hoan, hãy tìm hiểu về tân bang và tân giai nhân.
Tô Ký theo cách mạng từ nhỏ. Cha là ông Tô Nếp hoạt động bí mật, tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa bị Tây bắt đưa về trại giam Xóm Chiếu và đưa đi thủ tiêu Lúc đó thực dân đưa các chiến sĩ cộng sản ra Mũi Tàu Nhà Bè, xỏ dây kẽm vào lòng bàn tay xâu từng chùm, lùa xuống xà lan đem nhận chìm ngoài biển. Trước Nam Kỳ khởi nghĩa, Tô Ký bị Tây bắt đưa lên trại tập trung giữa rừng gọi là cam des travailleurs Tà Lài, ta gọi là Căng Tà Lài. Đây là trại giam khoét trong rừng sâu dọc con đường 20 Sài Gòn - Đà Lạt, cách Định Quán 15 cây số. Trong năm đợt liền, Tây đưa lên đây mấy trăm nhà cách mạng chúng bắt được khắp Nam Kỳ lục tỉnh để ngăn chặn những cuộc khởi nghĩa mà chúng tiên đoán sẽ xảy ra trong lúc chánh quốc của chúng đang bị Đức quốc xã chiếm đóng. Dù vậy cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn xảy ra. Tây thẳng tay đàn áp và tàn sát hàng ngàn người. Chúng vô tình tập trung một lực lượng dự trữ cán bộ cộng sản ưu tú trong căng Tà Lài. Vài tháng sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, chi bộ nhà tù quyết định cho tám đồng chí vượt ngục dưới sự cầm đầu của bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ Trấn Văn Giàu (Sáu Giàu). Bảy người kia là Châu Văn Giác, Dương Văn Phúc tự Năm Đông, Trương Văn Nhâm, Nguyễn Công Trung, Lê Anh Kiệt tức kỹ sư Văn, Nguyễn Tấn Đức và Tô Ký. Tô Ký theo hai anh Giàu và Giác đi về hướng Đà Lạt còn năm người kia đi về hướng Sài Gòn. Tô Ký bị Tây bắt ở Đà lạt đưa về căng Bà Rá. Sau đó lại đưa về khám Tây Ninh. Ngày Nhật đảo chánh Pháp, ngày 9-3-1945, Tô Ký vận động lính mã-tà giao súng cho anh em tù chánh trị rồi về nhà làm ăn.
Anh trở về quê nhà, Tân Mỹ, Bình Lý (nay là xã Bình Mỹ) tiếp tục hoạt động. Khi ta cướp chánh quyền cuối tháng 8-1945, Tô Ký là chỉ huy trưởng Giải phóng quân liên quận Hốc Môn- Bà Điển- Đức Hoà. Về cô dâu, chị Tân là dân Hốc Môn, gia đình có truyền thống cách mạng. Vụ Tây xử tử người anh hùng Chín Bỉnh (Đặng Công Bỉnh người chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hốc Môn) càng nung chí căm thù quân cướp nước trong gia đình chị Tân. Vợ Chín Bỉnh có bà con với mẹ chị Tân, nhà ở ấp Bến Đò, xã Tân Phú Trung. Có một điều kì diệu là trước đây Chín Bỉnh là tay anh chị, có ai ngờ lại trở thành một nhà cách mạng ngoan cường. Giai thoại cái chết đầy khí phách của “nguyên soái Bỉnh” được truyền miệng khắp Hốc Môn và các quận lân cận Gò Vấp, Thủ Đức, Đức Hoà. Đích thân chủ quận Hốc Môn tên Thọ, thiên hạ gọi là Quận Dẻo vì có tật chân, nhắc ghế mời Chín Bỉnh ngồi khi ông bị áp giải về dinh quận. Nhưng hãy trở lại cô dâu. Chị Tân đậu tiểu học vài năm thì ta cướp chính quyền. Ngày 25-8-1945 cả triệu người, phần lớn là thanh niên các quận nội ngoại thành kéo về Sài Gòn dự mít-tinh, chị Tân cũng ủi quần áo đi dự. Chị không quên gắn phù hiệu Thanh niên tiền phong vào ngực áo, nhưng gặp trục trặc vào giờ chót: các anh không cho chị đi “đàn bà con gái mà đi đâu. Có thể xảy ra lộn xộn, chết chóc”. Dù vậy, sau khi các anh đi rồi, chị Tân cũng đi. Những ngày rực rỡ cờ bay trống thúc, làm sao có thể nằm nhà được! Từ cuộc mít-tinh lịch sử đó, chị Tâm hăm hở tham gia mọi công tác mà cách mạng giao phó. Và trên đường kháng chiến, chị đã gặp chỉ huy trưởng Giải phóng quân Liên quận.
Trong ngày vui đáng ghi nhớ nhất trong đời, hai anh chị quyết định mời trung tướng Nguyễn Bình tới chung vui. Đối với Nguyễn Bình, anh Ba Tô Ký rất có nhiều cảm tình. Anh gọi vị đặc phái viên của Bộ Tổng là “anh Ba” như giới chỉ huy thân cận của Nguyễn Bình. Ngay từ đầu, khi được thư mời dự hội nghị quân sự tại An Phú Xã, Tô Ký đã ủng hộ ngay. Anh nghĩ là “hiện nay Miền Đông đang cần thống nhất các lực lượng võ trang. Người đứng ra làm việc này phải là tay có bản lãnh mới thu phục được đám anh hùng tứ chiếng. Nếu không thì cũng phải là người của Trung ương phái vào. Chưa biết Nguyễn Bình “làm ra cơm cháo” gì không, nhưng mình phải vì việc lớn mà ủng hộ”. Chừng gặp Nguyễn Bình tại hội nghị, anh thấy rõ đặc phái viên Trung ương đúng là một người của tình thế khó khăn và quyết định ủng hộ của anh trước đây rất đúng. Kỷ niệm sâu sắc nhất của anh về Nguyễn Bình là đêm “hội sư” trên sông Đồng Nai vài tháng sau đó. Anh Ba Bình, đã cùng một số chỉ huy quân sự đi thị sát tình hình hai bờ sông Đồng Nai trên một chiếc tàu ta cướp được của Tây. Lúc đó ta phát động dân quân du kích tấn công các đồn điền cao su là nơi Tây thường chiếm để đóng quân và làm điểm xuất quân đánh ta. Đêm đó nhiều sở cao su dọc hai bờ sông Đồng Nai bốc cháy đỏ rực.
Anh Ba Bình chỉ các đám cháy nói với các chỉ huy: - Xem kìa: Lửa Việt Minh thiêu đồn giặc.
Ngày tới Thủ Đầu Một, anh Ba đã ra lệnh đốt sở cao su Phú Riềng, giải thoát dân “contrat”, chiếm xưởng máy đem về xây dựng Binh Công Xưởng.
Qua những tiếp xúc với các chi đội khác, Tô Ký biết anh Ba Bình rất yêu mến binh sĩ và cán bộ quân sự. Anh Ba thường đến các trạm quán y thăm thương binh. Các bác sĩ và y tá đều xúc động khi thấy anh Ba lấy khăn tay đuổi ruồi bu trên các vết thương anh em binh sĩ, nhưng ruồi là giống lì nên anh Ba phải đắp khăn tay của mình lên mặt một thương binh.
Anh Nguyễn Đức Hinh thường khoe chuyện anh Ba Bình và chị Thanh xách cặp gà tới tặng vợ anh sanh được vài tuần. Khi Hinh cám ơn thì anh Ba nói “đó là chánh sách đối với cán bộ chứ có gì riêng tư mà cám ơn”. Sau đó chị Thanh nói riêng với anh Hinh “anh Ba bảo mình có trách nhiệm lo cho hậu phương, vợ con có yên ổn thì chiến sĩ mới yên tâm mà đánh giặc nơi mặt trận”.
Không riêng gì Nguyễn Đức Hinh mà nhiều anh em cũng được anh Ba chăm sóc. Có anh vừa báo tin cưới vợ anh Ba móc túi trao hết xấp tiền phụ cấp tháng mới lãnh để về làm lễ liên hoan mời bạn bè tới chia vui.
Anh Lâm Thái Hoà gắn bó với anh Ba Bình cũng do thái độ chăm sóc ân cần của vị tư lệnh. Lúc anh Hoà đi công tác, anh Ba cho chị Thanh đến nhà giúp đỡ chị Hoà. Chị Phạm Thị Nhiệm, em giáo sư Phạm Thiều và là vợ của anh Phạm Ngọc Thảo sanh con so. Anh Bình cũng bảo chị Thanh tới săn sóc chị Nhiệm. Có chuyện vui, nhà bảo sanh ở Khu 9 đèn lù mù, Phạm Ngọc Thảo đứng ở đầu giường hỏi chị Thanh đang bế đứa nhỏ: “Trai hay gái?” Thấy “dây nhợ lòng thòng”, chị Thanh nói: “con trai”. Chừng xem kỹ lại là con gái. Trai hay gái gì cũng cám ơn vợ. Anh Thảo hấp thụ văn hoá Pháp nên ôm hôn vợ trước cặp mắt ngơ ngác của chị Thanh...
Do biết những giai thoại đó, anh Ba Tô Ký mời anh Ba Bình làm chủ hôn đám cưới của anh. Không riêng vợ chồng anh mà cả Giải phóng quân Liên quận đều hãnh diện về sự có mặt của trung tướng. Anh Ba cưỡi ngựa tới dự hôn lễ cùng một số vị trong Bộ tư lệnh Khu. Vô tiệc anh Ba Tô Ký mới biết anh Ba Bình sống thật “thanh đạm”, không uống rượu, không uống cà phê. Không phải là thầy tu, nhưng vì con mắt hư, phải kiêng cữ các thức uống gây nhiệt. Tuy không dùng rượu, anh Ba vẫn hoà mình vào không khí vui nhộn của tập thể và cũng tỏ ra là “một cây văn nghệ xanh dờn”. Những ai có mặt trong tiệc cưới đó rất thú vị được biết một Nguyễn Bình thân mật gần gũi, khác hẳn chân dung vị tư lệnh mà khẩu hiệu số một trong đời là “kỷ luật” nghiêm minh.
Chương 45; Thanh Sơn phụ trách Campuchia-Uỷ viên quân sự về Nguyễn Bình
Đây nói về Thanh Sơn, Nguyễn Văn Tây, một nhân vật tên tuổi của Nam Bộ. Có chuyện này ít người biết: Thanh Sơn không phải họ Nguyễn. Nội tổ Thanh Sơn là một nghĩa quân của Bình Tây Đại Nguyên Soái Dân Phong - tức Quản cơ Trương Định. Ông nghĩa quân này tên là Phạm Tự. Em của Phạm Tự là Phạm Thị Hiền, tức bà cô của Thanh Sơn, rất giỏi võ, lập ra đội nữ dân binh cùng với anh quyết chí đánh Tây. Khi Trương Định bị tên Việt gian Huỳnh Công Tấn (đội Tấn) hãm hại ở Đám Lá Tối Trời (Gò Công), bà Phạm Thị Hiền bị Tây giết và tru di tam tộc. Ông Phạm Tự chạy về Rạch Rầy, xã Hựu Thạnh, Cầu Kè, nay là Trà Ôn. Vẫn chưa trốn thoát, Tây bắt chặt đầu, ném xác xuống bưng Đập Vong cũng trong xã Hựu Thạnh. Trước nạn tru di tam tộc, ông nội của Thanh Sơn tên Phạm Cao Y đổi là Nguyễn Văn Bằng, cha Thanh Sơn tên Phạm Văn Hiến đổi là Nguyễn Vinh Hiển. Ông Nguyễn Văn Bằng gia nhập “Việt Nam Phục Quốc Hội” của cụ Phan Bội Châu còn ông Nguyễn Vinh Hiển thì làm làng để dễ hoạt động theo lý tưởng của cha ông.
Thanh Sơn nhớ hồi nhỏ thường bị cha bắt chép mấy câu chừ nho “trung hiếu tiết nghĩa”, “trung can nghĩa khí” không phải chỉ chép vài trăm hàng mà chép đầy ba mảnh giấy học trò. Nhờ chép nhiều như vậy mà Thanh Sơn có nét chữ đẹp. Đến khi bị Tây đày ra Côn Đảo cái hoa tay đó có chỗ đắc dụng. Thanh Sơn được đưa vào tổ phục vụ học tập, chép tài liệu Duy vật lịch sử, Duy vật sử quan, Duy vật biện chứng pháp. Đang học collège Cần Thơ dưới Ung Văn Khiêm một lớp, hai anh em bỏ trường theo cách mạng.
Thanh Sơn trốn sang Tàu học trường Hoàng Phố và được vinh dự sớm là học trò của Nguyễn Ái Quốc...
Nhưng hãy trở lại Nam Bộ trong những ngày nước sôi lửa bỏng cuối 1945. Khi ta cướp chánh quyền vào 25-8, Thanh Sơn là uỷ viên trong Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ kiêm Thanh tra chính trị miền Tây.
Mặt trận Cần Thơ đã bao vây địch trong 90 ngày, một thành tích đáng hãnh diện so với 29 ngày Sài Gòn sống trong độc lập tự do (25-8 đến 23-9-1945). Đầu tháng 2-1946 mặt trận Cần Thơ vỡ, Trung ương Quân sự uỷ viên Hội mà chủ tịch là Võ Nguyên Giáp - lúc đó chưa có Bộ Quốc Phòng - rút Thanh Sơn về Trung ương để lo vấn đề chi viện cho kháng chiến trong Nam. Thanh Sơn lên đường ra Bắc với trợ lý là kỹ sư Nguyễn Đăng. Nguyễn Đăng là kỹ sư canh nông làm việc ở Cần Thơ đã theo Thanh Sơn từ đầu năm 1945.
Hai anh em cùng trên đường ra Hà Nội dự kỳ họp Quốc Hội đầu tiên. Tới Vàm Láng (Gò Công) hai anh mướn ghe cửa mua gạo chở ra Phú Yên vừa là cải trang làm dân thương lái vừa tiếp tế miền Trung đang đói.
Lúc đó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng ở Quảng Ngãi là Nguyễn Sơn, nguyên là chánh uỷ quân đoàn Diên An, từng tham gia cuộc Vạn lý trường chinh với quân giải phóng Trung Hoa thời kháng Nhật. Anh em ở Nam Bộ ra thấy tướng Nguyễn Sơn xây dựng vừng Quảng Ngãi như một thủ đô cách mạng, tập trung các thứ Trung ương chi viện cho Nam Bộ để biến căn cứ Quảng Ngãi như một Diên An. Là dân Nam Bộ ăn ngay nói thẳng, Thanh Sơn đã đụng Nguyễn Sơn nhiều trận, rõ ràng là hai ngọn núi không tống chung trên một mảnh đất.
Đụng nhau về chuyện võ khí. Nam Bộ cần súng đạn đánh Tây, được Trung ương chi viện súng đạn là mừng. Thanh Sơn tìm ghe thuyền đưa về Nam Bộ.
Còn Nguyễn Sơn thì cương quyết giữ số súng đạn đó lại cho Quảng Ngãi viện lý do: Tây cắt đường giao thông, làm sao đưa võ khí vào nam Bộ? Thanh Sơn cự: “ Sao không được, ngày xưa Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc giải phóng Thăng Long bằng cách nào? Ghe bầu ở đây thiếu gì!”
Thành Sơn còn tố thêm: - Nếu anh muốn đánh Pháp, xin mời anh vô Nam Bộ. Còn nếu không thì anh phải trả võ khí lại cho Nam Bộ.
Đúng vào lúc đó Trung ương bổ nhiệm Thanh Sơn, Phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ lo tiếp tế cho Nam Bộ để đẩy mạnh kháng chiến chống xâm lăng. Công việc cấp bách lúc đó là xây dựng các kho chứa vũ khí, tìm ghe thuyền đưa võ khí về Nam Bộ. Một trong các kho đó là Vũng Rô mà thủ kho là đồng chí Tất. Chính từ kho Vũng Rô này mà bà Nguyễn Thị Định nhận võ khí chi viện cho Nam Bộ. Các thuyền trưởng Trần Văn Hoài (Hoài Râu), Đặng Văn Qua, Mười Thôi cũng xuất phát từ đó đưa súng đạn về cho ba khu 7, 8, 9.
Tháng 7-1947 Thanh Sơn về Nam Bộ. Cũng trong thời điểm đó hội nghị Xứ đại biểu họp tại Đồng Tháp Mười. Trong cuộc họp này có các đồng chí Lé Duẩn, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Trần Văn Trà. Hội nghị giải quyết các mâu thuẫn giữa Việt Minh Mới, Việt Minh Cũ, thống nhất hai hệ Uỷ ban Hành chánh và Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ và các liên tỉnh, tránh tình trạng không ăn khớp trước đó. Cũng trong thời điểm này, đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương ở phía Nam điện vào ra lịnh cho Thanh Sơn mở mặt trận Kampuchia để cầm chân Pháp bên đó đồng thời giải toả cho Khu 5 đang bị Pháp cô lập.
Thanh Sơn tiếp nhận sứ mạng đó với sự han hoan khó tả: Năm 1946 khi ra Trung ương, Thanh Sơn đã dựa vào Khu Năm, cái ơn đó anh định sẽ trả thì dịp may đến: Trung ương giao cho anh nhiệm vụ giải toả áp lực Pháp đang đè lên Khu 5 đồng thời tiếp tế cho Khu 5 bằng cách mở bến bãi ở Nam Bộ và Kampuchia, cho thuyền ghe chở lúa gạo, khô mắm cho miền Trung. Để thực hiện kế hoạch này, bộ trưởng Canh Nông Ngô Tấn Nhơn (thay Huỳnh Thiện Lộc) đưa hai chục ký vàng vô Nam để chi dụng. Lúc đó Thanh Sơn là uỷ viên Quân sự kiêm Ngoại vụ. Đến năm 48, anh là Trưởng Phân Ban của uỷ viên Kháng chiến hành chánh Nam Bộ ở Miền Tây Nam Bộ. Vì tầm quan trọng của mặt trận Kampuchia, Thanh Sơn giao đại nhiệm vụ uỷ viên Quân sự Nam Bộ cho người khác để tập trung nỗ lực vào trọng trách mới trên đất Chùa Tháp.
Giao cho ai chức uỷ viên quân sự Nam Bộ đây?
Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ thấy không ai xứng đáng hơn trung tướng Nguyễn Bình. Vị phái viên quân sự của Bộ Tổng được Bác Hồ và đồng chí Võ Nguyên Giáp phái vô Nam trong tháng 10-1945 đã nắm được tình hình quân sự và chính trị ở miền Đông Nam Bộ, kịp thời thống nhất các lực lượng võ trang địa phương mà sừng sỏ nhất là Bình Xuyên. Ở vùng giải phóng, Khu trưởng Khu 7 đã chánh quy hoá các bộ đội tổ chức thành các trung đoàn sinh hoạt có nề nếp và tác chiến có bài bản, kỹ thuật và kỷ luật. Ở vùng tạm chiếm, Nguyễn Bình tổ chức các Ban công tác chuyên hoạt động trong thành phố rải truyền đơn, ném lựu đạn, trừng trị giặc Pháp và bọn Việt gian phản động. Tuy có một số đội viên quen tác phong giang hồ vô tổ chức gây nhiều tác hại đáng tiếc, nhưng nói chung thì các đội quyết tử trong nội thành đã gây được nhiều tiếng vang, ảnh hưởng tới tận Paris làm bọn thực dân ăn ngủ không yên.
Sau khi cân nhắc, Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ nhất trí cử trung tướng Nguyễn Bình giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chánh - Kháng chiến Nam Bộ kiêm uỷ viên quân sự Nam Bộ. Đưa Nguyễn Bình lên Nam Bộ cũng có nghĩa là khép vị trung tướng vào khuôn khổ với nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, một nguyên tắc mà trước đây khu trưởng Khu 7 không mấy quan tâm, dẫn đến những quyết định có tánh cách cá nhân như “hành động của một viên tướng ngoài cõi” bất chấp triều đình.
Ngoài ra Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ cũng bàn việc chọn ai giữ chức Khu trưởng Khu 7. Đa số nhất trí chọn anh Tám Nghệ (Huỳnh Văn Nghệ) đang lâ khu phó, một chỉ huy quân sự tuyệt vời đã lập nhiều chiến công hiển hách như Là Ngà, Đồng Xoài, Bàu Cá.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:07:52 GMT 9
Chương 46; Bắt Phán Huề lòi ra chuyện lớn-Tây mưu đồ lập chiến khu ma
Quân khu 7 đang họp bàn vấn đề chánh quy hoá bộ đội, biến các chi đội thành trung đoàn thì có tin điện từ Chi đội 7 cho biết bắt được Phán Huề, nguyên là chủ tịch tỉnh Bà Rịa đã bị Tây bắt trong cuộc tấn công tỉnh Bà Rịa. Không rõ vì sao Phán Huề lại lén lút trở vô khu giải phóng. Đoán biết có chuyện quan trọng, Khu trưởng Nguyễn Bình bèn cùng Mai Văn Vĩnh: Chị đội trưởng Chi đội 7 cấp tốc về Bà Rịa.
Khi bị bắt, Phán Huề nghĩ là cuộc đời mình đã tàn, nhưng Hai Vĩnh khéo léo đối xử để Phán Huề lên tinh thần. Hai Vĩnh đóng vai chiến sĩ quốc gia bất mãn về sự lãnh đạo của cọng sản khéo đến mức Phán Huề tin thật và tiết lộ âm mưu thành lập chiến khu quốc gia của chánh phủ quốc gia Nam phần Việt Nam dọn đường cho giải pháp Bảo Đại. Phán Huề thú nhận lãnh nhiệm vụ vô khu dụ dỗ một số cán bộ kháng chiến về với chánh nghĩa quốc gia.
Phán Huề cũng tiết lộ Bảy Viễn đã phái Lai Hữu Tài dự các cuộc họp của các giáo phái lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại.
Hai Vĩnh tương kế tựu kế viết thư cho Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân tỏ ý hoan nghinh chủ trương kêu gọi chiến sĩ quốc gia bỏ Khu về Thành và đang nghiên cứu để thi hành chủ trương đó.
Đọc bức thư của Hai Vĩnh, Phán Huề phấn khởi, không ngờ mình đã tự thú tội lỗi của mình. Khi Hai Vĩnh báo cáo mọi việc, Nguyễn Bình ra lịnh giải quyết ngay Công An và Quốc vệ Đội Bà Rịa.
Xong rồi, Nguyễn Bình trở về Bộ Tư định lo đối phó với nguy cơ Bảy Viễn ngả theo Phòng Nhì, bắt tay thủ tướng Nguyễn Văn Xuân lập chiến khu quốc gia giả hiệu.
Từ lâu ta đã nắm được tin Bảy Viễn dung túng bọn Phòng Nhì trong Chi đội 9. Nay lại biết rõ thêm là bọn Tư Sang, Năm Tài đã lái Bảy Viễn đi quá xa. Phải ra sức kéo Bảy Viễn trở lại đường ngay nẻo thẳng. Làm sao?
Sau mấy ngày suy tính, Nguyễn Bình cho mời giáo sư Đặng Minh Trứ, chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn bàn cách liên hệ chặt chẽ với anh em Chi đội 9 mà một đại bộ phận đóng trong địa bàn thành phố. Giáo sư Trứ dạy trong trường trung học Pétrus Ký và cùng ra khu tham gia kháng chiến ngay từ đầu với các đồng nghiệp Phạm Thiều, Hồ Văn Lái, Nguyễn Văn Chì, Trần Văn Các. Trong những năm đầu, ông Trứ hoạt động ở miền Đông với luật gia Lê Đình Chi, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, giáo sư Phạm Thiều. Đến khi thành lập Uỷ ban kháng chiến hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn, ông được bổ nhiệm chủ tịch.
Sau khi nghe Nguyễn Bình trình bày Phòng Nhì cố lái Bảy Viễn ngả theo giải pháp Bảo Đại, ông Trứ tán thành việc mời một đại diện Bình Xuyên vô Uỷ ban kháng chiến-hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Người đại diện sẽ do Bảy Viễn và các chỉ huy các Chi đội trong Liên Khu Bình Xuyên chỉ định, nhưng ta có thể đoán trước được là Mười Trí. Nhân vật Mười Trí thì Nguyễn Bình đã nắm được phần nào nhờ có thời gian hai bên đóng sát nhau.
Theo thư mời của giáo sư Đặng Minh Trứ, ngày 24-3-1948, các vị chỉ huy Bình Xuyên gồm có Lê Văn Viễn, khu bộ phó Khu 7 kiêm chỉ huy trưởng Chi đội 9, Dương Văn Hà, Bộ tư lệnh Liên Chi Bình Xuyên, Trần Văn Đối, phó tư lệnh Liên Chi Bình Xuyên, Huỳnh Văn Trí, chi đội trưởng chi đội 4, Lâm Văn Đức tức Tư Tỵ, chi đội 25, Nguyễn Văn Hoạnh, chi đội 21, Lê Văn Chàng, chi đội 2, Ngô Văn Lực chi đội 3 cùng với các ông Nguyễn Hộ, uỷ viên Dân quân thành, Cao Đăng Chiếm, phó giám đốc sở Công An Nam Bộ kiêm trưởng ty Công an thành, đến dự hội nghị.
Đúng chín giờ, giáo sư Trứ trình bày lý do cuộc họp. Hội nghị bầu chủ tịch danh dự: cố khu phó khu 7 Dương Văn Dương vừa được truy phong thiếu tướng.
Chủ tịch hội nghị là Khu phó Lê Văn Viễn, thư ký là ông Nguyễn Hộ.
Ông Đặng Minh Trứ báo cáo về việc thành lập Uỷ ban Kháng chiến-hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn, cần có một đại diện Liên Khu Bình Xuyên trong Uỷ ban.
Hội nghị nhất trí cử ông Mười Trí làm đại diện trong Uỷ ban. Tiếp theo đó ông Bảy Viễn phát biểu cảm tưởng: - Có đại diện Liên Khu Bình Xuyên trong Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Sài Gòn- Chợ Lớn thì mọi sự lủng củng sẽ dễ giải quyết. Ban tiêu dùng sản vật Nam Bộ sẽ hoạt động đắc lực hơn để giúp chánh phủ có đủ tiền cung cấp cho quân đội toàn Nam Bộ. Mười Trí cũng phấn khởi phát biểu: - Ngày 11-3-1948 vừa qua tôi đã dự cuộc hội nghị Uỷ ban Kháng chiến-hành chánh Nam Bộ. Các anh trong Uỷ ban nhìn nhận trước đây có vài lủng củng do thiếu gần gũi, do hệ thống làm việc không ăn khớp. Nếu trong các Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh có đại diện Bình Xuyên thì sẽ tránh được những ngộ nhận đáng tiếc. Các anh Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Ung Văn Khiêm, Lê Duẩn, Diệp Ba, Lê Đình Chi, Nguyễn Thành Vĩnh đều tỏ ý một ngày nào đó Khu bộ phó Lê Văn Viễn về Nam Bộ họp thì chắc chắn tình hình sẽ sáng sủa hơn.
Bảy Viễn đưa hai tay lên tỏ vẻ hân hoan: - Nhất định là tôi sẽ về Nam Bộ họp với các anh để giải quyết một lần cho xong những lủng củng đã kéo dài quá lâu. Tôi hứa chắc là sẽ lên đường một khi nhận được công điện của Nam Bộ.
Ai nấy đều phấn khởi trước kết quả tốt đẹp của cuộc họp. Riêng giáo sư Trứ thì vui mừng đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng mà trung tướng Nguyễn Bình giao cho: Kéo Bình Xuyên về kháng chiến.
Trước đầy giáo sư nghĩ Nguyễn Bình chuyên đánh giặc nhưng nay mới biết về chính trị, anh Ba Bình cũng có bài bản, từng bước thu phục nhân tám.
Nhưng hãy còn quá sớm để kết luận Bảy Viễn tính gặp Nguyễn Bình để đòi lại hai đại đội của hai anh Nghiệp và Dư đã bỏ Chi đội 21 khi Bảy Viễn bắt chính trị viên Lê Hiền. Bảy Viễn không chấp nhận chế độ chính trị viên và cán bộ người Bắc trong Chi đội 9 của ông ta. Ngoài ra còn nhiều đụng chạm khác như vấn đề thu thuế Bình Xuyên và khu Sài Gòn thường dẫm chân nhau...
Trong khi Bảy Viễn chịu gặp Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ thì bọn Sang, Tài rất lo. Chúng sợ Bảy Viễn ngã theo kháng chiến thì vai trò chúng nhận lãnh của Phòng Nhì bên cạnh Bảy Viễn khó thành công. Năm Tài tìm cách cản trở: - Ngài khu bộ phó chớ xuống Đồng Tháp Mười. Giang sơn nào anh hùng nấy. Tụi cộng sản ma giáo lắm. Chúng rất nhiều mưu ma chước quỷ. Chúng tôi lo cho ngài khu bộ phó lắm. Bảy Viễn cười: - Người ta mời mà mình không đi là dở. Người ta sẽ nói là mình sợ. Dân giang hồ không hề biết sợ một thứ gì. Để tao đi. Tụi bây đừng có làm kỳ đà cản mũi...
Nhưng anh em Sang Tài không bỏ cuộc trong việc cản ngăn Bảy Viễn đi xuống Đồng Tháp Mười.
Chương 47: Nguyễn Bình mời, Bảy Viễn do dự -Vào hang cọp Tám Nghệ trổ tài
Trong tinh thần giữ tình đoàn kết, Trung tướng Nguyễn Bình bàn với các đồng chí ở Nam Bộ tìm mọi cách tách rời Bảy Viễn khỏi bọn Phòng Nhì mà nguy hiểm nhất là hai tên Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên. Hai tên này đã cài hai anh em họ Lai chui vào chi đội 9 của Bảy Viễn ngay từ đầu. Cách hay nhất là đưa Bảy Viễn ra khỏi Rừng Sác. Từ lâu Rừng Sác đã trở thành giang san của Bảy Viễn. Đây là một tiểu triều đình có đầy đủ bá quan văn võ, hoạn quan thái giám, cung phi mỹ nữ. Bảy Viễn đúng là một lãnh chúa trong chiến tranh. Cách xưng hô “ngài khu bộ phó” mà hai tên Tài Sang “chế“ ra chứng minh tình trạng “trưởng giả học làm sang” của Bảy Viễn.
Chánh uỷ Hai Trí một lần nữa đem túi khôn người xưa ra áp dụng: điệu hổ ly sơn. Phải dụ con cọp Bảy Viễn ra khỏi hang Rừng Sác. Dụ bằng cách đưa con hắc hổ này lên chức Khu trưởng. Tình thế có thuận lợi cho kế độc này. Nguyễn Bình vừa được đề bạt thành uỷ viên Quân sự Nam Bộ. Các đồng chí lãnh đạo tính đưa Khu phó Tám Nghệ lên Khu trưởng Khu 7. Nhưng vì chuyện lớn, Tám Nghệ có thể nhường chức Khu trưởng cho Bảy Viễn. Nếu nhận chức Khu trưởng Khu 7 thì bắt buộc Bảy Viễn phải về Bộ Tư lệnh đóng ở Đồng Tháp Mười. Như vậy có nghĩa là Bảy Viễn phải rời giang san Rừng Sác. Một khi về ở “gần mặt trời” thì Bảy Viễn không còn làm vua một cõi như trước. Bọn Tài Sang cũng không dám lộ mặt “tả hữu thừa tướng” tác oai tác quái, lèo lái Bảy Viễn theo ý quan thầy Pháp của chúng.
Kế điệu hổ ly sơn của quán sư Hai Trí được mọi người tán thành. Tức thì Nam Bộ xin ý Trung ương về việc đề bạt khu bộ phó. Lê Văn Viễn lên giữ chức Khu bộ trưởng Khu 7 thay trung tướng Nguyễn Bình nay là uỷ viên quân sự Nam Bộ kiêm phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến-hành chánh Nam Bộ. Trung ương đồng ý và đánh công điện phong chức Khu trưởng Khu 7 cho đồng chí Lê Văn Viễn.
Được tin vui mà lạ thay Bảy Viễn lại không mừng. Linh tinh như báo trước một điều gì không ổn, bèn họp chư tướng bàn tính xem đằng sau quyết định này có dụng ý gì. Tất nhiên bọn Phòng Nhì bén nhạy hơn ai hất trong việc nhận định tình hình. Tất cả đều nhất trí: đây là độc kế “dụ hổ ly sơn” của tướng một mắt. Nghe lời chư tướng, Bảy Viễn không tính tới chuyến đi Nam Bộ nhận chức Khu trưởng.
Mấy ngày trôi qua không thấy Bảy Viễn đánh điện trả lời, Người Bình nói với Hai Trí: - Kế độc của quân sư không “ăn” rồi. Bảy Viễn biết ngay ý đồ của mình. Thứ nhất, người đáng nhận chức Khu trưởng phải là Tám Nghệ vì công trận nhiều hơn. Thế thì tại sao vinh dự đó lại chạy về Bảy Viễn? Đúng là có ý đồ gì đây?
Hai Trí gật: - Đúng là ý đồ của mình có phần lộ liễu. Nhưng mà tôi đã có cách. Anh Tám Nghệ có đây không? Nguyễn Bình cười: - Lại bầy trò khích tướng chớ gì? Tôi nghĩ Tám Nghệ đúng là sứ giả của mình trong chuyến du thuyết này.
Khi nghe tư lệnh và chánh uỷ giao công tác xuống Rừng Sác, Tám Nghệ đăm chiêu: - Tôi đã xuống Tiều một lần trong dịp Bảy Viễn làm lễ nhậm chức khu bộ phó. Bây giờ xuống đó mừng ông ta lên chức Khu bộ trưởng và mời ông ta cùng đi với tôi về Đồng Tháp Mười dự lễ tấn phong. Lý do đó đầy đủ lý và tình. Nhưng chưa chắc Bảy Viễn chịu rời Rừng Sác.
Hai Trí cắt lời: - Bởi vậy mới dùng kế khích tướng. Bảy Viễn là dân anh chị, rất trọng danh dự. Hồi ở tù trong Khám Lớn, tôi từng thấy nhiều tay giang hồ xám trên lừng nhiều câu rất hay, như “báo tử lưu bì, nhơn tử lưu danh”, hoặc xâm tiếng Tây “Plutôt la mort que la honte” tương đương với “ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục”. - Được tôi sẽ cố gắng. - Tám Nghệ nói. Hai Trí vui mừng: - Có cần lấy quân hộ tống không? Bao nhiêu thì đủ? Tám Nghệ lắc đầu: -Nếu tính thị uy thì bao nhiêu cũng không đủ. Tô Tần hay Trương Nghi thời Chiến Quốc đi du thuyết chỉ có một mình. Cái lưỡi của kẻ thuyết khách bén hơn kiếm báu, cái dùi của Kinh Kha. Dự Nhượng mạnh hơn cả đại đội hùng binh. Nguyễn Bình thích thú cười với Tám Nghệ: - Tôi đã không lầm khi chọn Tám Nghệ trong khi cả tỉnh Biên Hoà giao quyền hành cho ông Nghệ kia. Hai Trí ngạc nhiên: - Còn Nghệ nào nữa? Tám Nghệ giải thích: - Lúc cướp chánh quyền, Biên Hoà có anh Huỳnh Thiện Nghệ là thầy giáo ở thị xã. Anh Huỳnh Thiện Nghệ nắm Thanh niên tiền phong tỉnh và được xem là lãnh tụ lớn trong tỉnh còn tôi thì chỉ là chỉ huy vài trung đội dân quân trong quận Tân Uyên. Nhờ anh Ba tín nhiệm mà đề bạt tôi lên.
Hai Trí hỏi: - Còn tay Huỳnh Thiện Nghệ kia đâu rồi Tám Nghệ? - Khi Tây đánh chiếm Biên Hoà thì Huỳnh Thiện Nghệ kéo quân ra Bắc. Tới Quảng Ngãi thì bị giữ lại chất vấn: địch tới Biên Hoà sao không đánh mà lại rút ra trung tướng làm gì? Thầy giáo Nghệ trở về Biên Hoà tiếp tục chiến đấu thì bị bịnh nặng chết trên đường hành quân.
Tám Nghệ đơn thương độc mã tới tổng hành dinh Bảy Viễn làm bọn Phòng Nhì hét sức bất ngờ. Nhưng chúng cũng đủ thông minh để biết sứ giả của Nguyễn Bình mạo hiểm vô hang hùm là để thuyết phục Bảy Viễn đi Nam Bộ nhận chức khu trưởng. Tức là Tám Nghệ thúc đẩy kế điệu hổ ly sơn. Năm Tài và Tư Sang quyết ám sát Tám Nghệ nhưng vào giờ chót.
Năm Tài cẩn thận dò ý Bảy Viễn. Vừa nghe Năm Tài gợi ý, Bảy Viễn đã nạt đùa: - Dẹp! Dẹp! Tao không cho phép bây giở trò hèn mạt đó ngay trên giang san của tao? Tám Nghệ là thượng khách của tao.
Hai anh em họ Lại đành huỷ bỏ kế hoạch ám sát đã tính toán kỹ lưỡng. Trong tiệc rượu gọi là tái ngộ, Tám Nghệ nói rõ mục đích chuyến đi của mình, rủ Bảy Viễn cùng đi Nam Bộ nhận chức Khu trưởng: - Lễ tấn phong khu bộ trưởng được chuẩn bị hết sức long trọng tại Nhơn Hoà Lập, nơi Nam Bộ đóng. Có đầy đủ ba ngành Quân Dân Chánh dự.
Bảy Viễn lắc đầu: - Tôi không xứng đáng với chức đó. Anh Tám có thành tích hơn tôi. - Anh Bảy đừng khiêm nhượng. Lãnh đạo đã cân nhắc kỹ rồi. Anh được đề bạt là cả một vinh dự cho cả giới giang hồ đi theo kháng chiến. Làm khu trưởng, anh sẽ quy tụ hào kiệt bấy lâu còn mai danh ẩn tích để hàng ngũ quân ta ngày càng thêm đông thêm mạnh. - Nhưng tôi đã quen với vùng Rừng Sác này, không thể dời đi nơi khác. Dân ở rừng mà về đồng bằng thì “lạnh lưng”. Tám Nghệ cười ha hả: - Cọp ở đâu cũng là cọp. Hắc Hổ Bảy Viễn ở Rừng Sác hay ở Tháp Mười cưng là cọp. Không lẽ cọp trên rừng về đồng thành chồn? Mắt Bảy Viễn sáng rực lên: - Anh Tám nói đúng: cọp ở đâu cũng là cọp. Tôi sẽ về Tháp Mười nhận chức khu trưởng. Cuộc hội kiến kết thúc bằng một tiệc nhậu đặc sản Rừng Sác: cua rang muối. Nhưng rượu thì là rượu chát Tây.
Lính đem ra hai chai Bordeaux trắng và đỏ. Bảy Viễn hỏi: - Anh Tám dùng thứ nào? - Trắng đỏ thứ nào cũng ngon, nhưng dân sành điệu ăn nhậu thì uống rượu chát đỏ với món thịt, còn với món cua sò ốc hến thì dùng loại rượu chát trắng. Bảy Viễn cười gật gù: - Anh Tám sành ăn quá. Tôi thì thế nào cũng được, miễn là rượu Tây chánh hiệu.
Hai bên cụng ly rất là tâm đắc. Tám Nghệ cười nói rốn ràng rất thoải mái: - Ly thứ nhất xin chúc mừng anh Bảy đầy đủ sức khoẻ để làm tròn trọng trách khu bộ trưởng khu 7, một khu cực kỳ quan trọng của Nam Bộ. - Còn tôi thì chúc anh Tám lập nhiều chiến công vang dội như các trận Là Ngà, Bàu Cá làm cho Tây khiếp đảm.
Anh em Tài Sang núp gần đó thấy chủ tướng chúc tụng khách mà tức điên lên. Tây đã treo giải thưởng rất lớn cho ai lấy được đầu của Lưu Bá Thừa Việt nam là tướng độc nhãn Nguyễn Bình. Tám Nghệ là cánh tay mặt của Nguyễn Bình, chỉ cần khẽ nhẹ một phát là đi đời nhà ma. Vậy mà Bảy Viễn cứ làm kỳ đà cản mũi?
Tám Nghệ hoàn thành nhiệm vụ thuyết khách, vui vẻ bắt tay từ giã. Bảy Viễn tiễn đưa khách quý một khúc rồi quay lại bảo Tài Sang: - Tao quyết định xuống Đồng Tháp nhậm chức khu bộ trưởng. Nam Bộ đã chuẩn bị lễ lạt xong xuôi, định vào ngày sanh nhật Hồ Chủ Tịch, 9 tháng 5. Mình phải sửa soạn ngay bây giờ mới kịp... Tụi bây đừng có cản! Không đi là hèn, là dại!
Năm Tài: - Ngài khu bộ phó muốn đi thì phải có hộ tống hùng hậu. Với bọn Việt Minh thì phải thị uy, nếu không thì chúng dám làm ẩu. - Nhứt định phải vậy rồi. Tư Sang phải cấp tốc lập một lực lượng thật mạnh, chừng hai đại đội cứng, mỗi tiểu đội phải có một FM đầu bạc. Nhất là phải có một trung đội Trây-đơ để yểm trợ lúc vượt sông cái...
Vậy là Bảy Viễn quyết định tham dự Hồng Môn hội yến tại Nhơn Hoà Lập.
Chương 48: Ý thế mạnh. Bảy Viễn về Đồng Tháp -Đem tâm can Nguyễn Bình thuyết Bình Xuyên
Bảy Viễn quyết định về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng, Năm Tài biết không thể can ngăn được bèn bàn với anh là Tư Sang: - Chuyến đi này quyết định số phận của Bình Xuyên và cũng là số phận của hai anh em mình. Theo tôi biết thì Nguyễn Bình, Tám Nghệ không đáng sợ bằng tay quân sư Hai Trí. Tên này dám làm ẩu lắm. Cho nên anh phải luôn luôn sẵn sàng, hễ chúng nó ló mồi là mình phải đánh trước. Tiên hạ thủ vi cường.
Tư Sang cười lớn: Đó là nghềcủa chàng! Chú khéo nhắc tuồng làm chi cho mệt? Kỳ này mình đưa hai đại đội cứng đi diễu võ dương oai cho chúng nó ngán. Có trung đội súng lớn với cây trây-đơ của đại đội thằng Xê bên Chi đội 4 của Mười Trí. Có cây này qua sông cái hay qua lộ Đông Dương rất an toàn.
Năm Tài nói: - Về quân sự thì mình ăn trừn chúng nó, nhưng tôi vẫn thấy không an tâm. Nhất là sau khi Tám Nghệ đích thân xuống đây thuyết phục ông Bảy đi Nam Bộ. Tôi nghi là có một sự sắp đặt nào đó để đưa chúng mình vào tròng. Tôi phải hỏi ý hai ông Đường và Thiên.
Sau khi hội ý, Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên nhất trí cứ để Bảy Viễn đi nhậm chức Khu trưởng rồi trở về Rừng Sác chứ không dại gì mắc kế điệu hổ ly sơn của Việt Minh. Nếu gặp trở ngại thì Năm Tài phải cấp tốc về thành chuẩn bị đón tiếp Bình Xuyên bỏ kháng chiến vế với quốc trưởng Bảo Đại. Trong khi Bảy Viễn kéo đại đội hùng binh xuống Đồng Tháp thì Maurice Thiên có nhiệm vụ thông báo kế hoạch tiến thoái của Bảy Viễn cho đại uý Savani, trưởng phòng Phòng Nhì Pháp tại Sài Gòn. Như vậy dù tình huống xoay chiều cách nào, ta vẫn ở trong thế thượng phong.
Với mưu lược cực kỳ tinh khôn của hai bậc thầy, Tư Sang và Năm Tài yên chí lớn hộ tống Bảy Viễn xuống khu 8 nhận chức.
Trước ngày lễ bàn giao chức Khu trưởng cho Bảy Viễn, Trung tướng Nguyễn Bình nhân danh uỷ viên quân sự Nam Bộ mời toàn bộ các chỉ huy Bình Xuyên họp để giải quyết những lấn cấn trong thời gian qua.
Tới dự cuộc họp này ngoài Bảy Viễn có Mười Trí, Chi đội 4 nay là Trung đoàn 304: đại diện Liên khu Bình Xuyên trong Uỷ ban kháng chiến hành Chánh Thành Sài Gòn- Chợ Lớn, Trần Văn Đối (Sáu Đối) phó tư lệnh Liên khu Bình Xuyên, Nguyễn Văn Hoạnh (Tư Hoạch). chi đội trưởng chi đội 21. Mở đầu cuộc họp, Nguyễn Bình tuyên bố lý do: - Mấy năm nay có sự không ăn khớp giữa chúng ta, nay trước khi rời khu 7 để lãnh nhiệm vụ mới, tôi muốn chấm dứt hẳn tình trạng lủng củng đó. Tôi muốn giao lại cho anh Bảy một gia tài sung túc, giao lại một gia đình vui vẻ trên thuận dưới hoà. Tôi không muốn giao lại cho anh Bảy một cái nợ nần, khó khăn. Và trên thực tế thì Khu 7 mà tôi giao cho anh Bảy là một khu có nhiều chiến công nhất, là đàn anh trong Nam Bộ. Nhưng tôi chỉ có một thắc mắc là vì hai bên ở xa cách nên anh Bảy và tôi có nhiều sự hiểu lầm và nhiều mâu thuẫn. Các hiểu lầm và mâu thuẫn đó bị bọn Phòng Nhì lợi dụng triệt để để gây chia rẽ, cố làm tê liệt phần nào về phía anh Bảy và các anh em Bình Xuyên. Do vậy mà trong chủ trương chánh quy hoá quân đội, hai khu 8 và 9 đã làm xong rồi mà Khu 7 còn vài chi đội Bình Xuyên chưa được tổ chức thành trung đoàn. Hôm nay các anh về đây là một cuộc hội nghị lịch sử mà cũng là một điều mà tôi mơ ước bấy lâu nay.
Trước hết, tôi xin cám ơn anh Tám Nghệ đã thi hành uỷ nhiệm của tôi tới tận nơi mời cho được các anh, nhất là anh Bảy về Nam Bộ dự lễ tấn phong khu trưởng. Nhân dịp này tôi cố gắng đánh tan những điều nghi kỵ giữa chúng ta. Đã nhiều lần, trong ba năm nay, tôi mời các anh gặp tôi nhưng lần nào cũng không thành. Bởi vì có những kẻ xúc xiểm tung tin “một đi không trở về”. Các cán bộ của khu tới các anh cũng đều bị nghi ky là người của tôi xuống dò la. Họ bị xem như là lính kín nên phải rút lui sớm. Năm kia, anh Năm Hà, tư lệnh Liên Chi 2-3 về Nam Bộ cũng phải có sự bảo đảm bằng gia đình anh Hai Trọng, anh Năm Hà mới dám đi. Và phải có một đội cảm tử theo bảo vệ. Và anh Năm Hà đã trở về bình an vô sự. Sau đó tới anh Sáu Đối, rồi nhiều anh em khác nữa. Lần lượt các anh em tới với tôi. Chỉ trừ một mình anh Bảy. Tôi biết vì sao có chuyện đáng tiếc này. Đó là vì bên cạnh anh Bảy có những kẻ cản ngăn. Chúng sợ một khi anh Bảy đã gặp tôi rồi thì chúng sẽ không còn chỗ dựa nữa. Bởi vậy chúng thêu dệt đủ điều nói xấu tôi và ngăn cản anh Bảy về Nam Bộ.
Bây giờ xin đi ngay vô đề: Trước khi về Ban Quân sự Nam Bộ, tôi biên thư mời anh Bảy về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng vì anh bảy là khu phó thứ nhất, rồi mới tới anh Tám Nghệ là khu phó thứ hai.
Anh Tám Nghệ nhất trí với tôi trong việc đề cứ anh Bảy là Khu Bộ trưởng và hứa sẽ hết sức giúp đỡ anh Bảy làm tròn nhiệm vụ cũng như trước đây anh Tám Nghệ đã giúp tôi. Nếu anh Bảy cần đưa một người tin cẩn vô Bộ Tư lệnh thì chỉ dề nghị. Để sau này không xảy ra những lủng củng như trước đây. Đó chính là lý do cuộc họp hôm nay. Nhân dịp này, tôi yêu cầu các anh mạnh dạn đưa ra những gì còn thắc mắc để chúng ta giải quyết một lần cho xong. Và tôi xin xung phong kể ra những thắc mắc của tôi đối với anh Bảy: - Thứ nhất: anh Bảy thị chứng bức thư của Lai Hữu Tài mạt sát tôi trong cương vị uỷ viên Quân sự Nam Bộ. - Thứ hai: anh Bảy bao dung cho Lâm Văn Hậu. Tịnh Độ Cư Sĩ thuộc Đệ Tam sư đoàn đi qua khu vực Bình Xuyên tuyên truyền kền gọi anh em chiến sĩ bưng biền về thành đầu Tây. - Thứ ba: anh Bảy chứa chấp Nguyễn Thành Long, Bùi Hữu Phiệt, Lai Hữu Tài đã âm mưu ám sát tôi mà không chịu giải giao về Sở tư pháp. - Thứ tư: anh Bẩy để hai tên Lâm Ngọc Dường, Maurice Thiên lấy danh nghĩa của anh để làm tiền như chứa bài lấy xâu, đồng thời chúng cũng giăng lưới bắt các nhân viên chánh phủ hoạt động ở thành.
Bảy Viễn cau mày lộ vẻ khó chịu. Nguyễn Bình quay lại Mười Trí: Còn về anh Mười Trí thì tôi cũng có vài điều tâm sự: - Thứ nhất: anh Mười mang nặng đầu óc Mạnh Thường Quân nên chứa chấp bao dung nhung kẻ tới xin trú ngụ dưới trướng. Anh Mười không biết đó là những kẻ phản động như Vũ Tam Anh tức Nguyễn Ngọc Nhẫn. Tên này đã đánh chết lính gác cùng với Trần Quang Vinh vượt ngục. Rồi đến tên Nguyễn Hoà Hiệp, Đệ Tam sư đoàn. Anh Mười đã làm giấy bảo lãnh cho nên này để cho nó đem quân ra đầu Tây.
Điều đáng trách là anh Mười để hai tên Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt mạt sát Chính phủ cụ Hồ ngay trước mặt tôi, ông kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, ông Nguyễn Kim Cương, đồng thời chúng ca ngợi hai ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam khi tôi tới viếng thăm anh Mười sau trận ấp số 10.
Cũng như anh Bảy Viễn, anh Mười đã thị chứng bức thư Vũ Tam Anh mạt sát tôi. Anh Mười không thi hành lịnh bắt Vũ Tam Anh của tôi vì nó khóc lóc xin anh che chở. Tóm lại những tên nguy hiểm theo Pháp chống Kháng chiến đều có mặt trong Chi đội 4 của anh Mười. Quan trọng hơn hết là vụ tên Sáu Section nhân danh anh Mười mời tôi tới Chi đội 4 để chúng phục kích ám sát tôi. Việc tày trời như vậy mà tôi đều bỏ qua vì biết anh Mười vô tâm, chỉ bị bọn phản động lợi dụng tính hào hiệp mà thôi...
Quay sang Tư Tỵ, Nguyễn Bình nói tiếp: - Còn về phần anh Tư Tỵ buồn tôi vì tôi đã xuống lịnh cho bắt Trần Quốc Bửu tá túc Chi đội 25 của anh Tư. Tôi biết các anh công nhận các việc làm của tôi là vì quyền lợi quốc, không vì quyền lợi đảng phái hay cá nhân. Vì biết như vậy nên các anh mới bấm bụng bỏ qua. Như thế là cả hai bên chúng ta đều vì đại sự mà bỏ qua tiểu tiết. Hôm nay tôi nhấn mạnh: tôi rất kính trọng các anh là những bậc anh hùng nghĩa hiệp, bao dung đại lượng, khoan hồng tha thứ, các anh là những nhà chân chánh ái quốc, những tướng lãnh bài Pháp, ghét Pháp hơn ai hết. Vì hiểu nhau, tha thứ cho nhau, cố gỡ rối cho nhau, giữ uy tín và danh dự cho nhau là bước đầu đi tới thành công. Để dứt lời, tôi đề nghị chúng ta hãy nói hết sự thật, cái gì dở thì bỏ, cái gì hay thì làm.
Vừa rồi chúng tôi bắt được tên Phán Huề bí mật vô khu để lôi kéo các vị chỉ huy Bình Xuyên về thành dưới chánh phủ thủ tướng Nguyễn Văn Xuân. Chủ tâm của tên Phán Huề này là tìm tới khu bộ phó Lê Văn Viễn để bầy mưu lập chiến khu quốc gia giả hiệu mà chúng tôi gọi là chiến khu ma. Tại sao Tây nhắm vào Bình Xuyên? Vì chúng đã cấy được những tên lợi hại Lâm Ngọc Đường, Maurice Thiên, Lai Hữu Tài, Lai Văn Sang bên cạnh anh Bảy. Chúng tin rằng anh em Bình Xuyên sẵn sàng theo Bảo Đại. Để chống lại chủ trương mua chuộc Bình Xuyên, tôi đề nghị một giải pháp sau đây: bỏ hẳn danh từ Bình Xuyên. Không còn Bình Xuyên thì địch không thể nhân danh Bình Xuyên tuyên truyền cho Bảo đại. Đã bỏ hẳn danh từ Bình Xuyên thì không còn Bộ tư lệnh Bình Xuyên, không còn quân đội Bình Xuyên. Anh em sẽ mang một cái tên chung là Vệ Quốc Đoàn. Từ nay chỉ có một chánh phủ, một quân đội. Không thể có một chánh phủ trong Chánh phủ. Khu Rừng Sác sẽ được tổ chức lại thành một thành trì kháng chiến. Việc thu thuế thuỷ lảm giao lại cho ngành thuế vụ bên hành chánh cho có nề nếp.
Trước khi dứt lời, tôi nhấn mạnh lại một điểm: bạc triệu tiền muốn cũng dễ kiếm, nhưng danh dự anh hùng mà các anh đang có rất quý, vì danh dự đó không thể mua bằng tiền hay bằng vàng, vì danh dự đó được tạo ra bằng tấm lòng yêu nước yêu dân, vì đại nghĩa mà hy sinh tất cả mọi thứ trên đòi. Nếu các anh giữ được danh dự cao quý đó thì tôi cũng được thơm lây vì đã có mắt chọn đúng người đặt đúng chỗ.
Nguyễn Bình nói một tiếng đồng hổ với tất cả tấm lòng, từng lúc dừng lại để quan sát phản ứng của các tư lệnh Bình Xuyên Tất cả các khuôn mặt đều nghiêm nghị vì những tiết lộ của Nguyễn Bình đều chính xác mà Bảy Viễn, Mười Trí đều muốn giấu.
Đến đề nghị cuối cùng, tất cả tư lệnh Bình Xuyên đều nhăn mặt: Giải tán Bình Xuyên? Không đời nào! Và chuyện phải đến đã đến.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:09:45 GMT 9
Chương 49: Mất Bình Xuyên, Bảy Viễn phẫn chí -Cướp Rừng Sác, Hai Trí thị oai
Ngày 26-5-1948 đi vào lịch sử cuộc kháng Pháp như là một cái mốc quan trọng: Ban Thường Vụ Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ họp khoáng đại để giải quyết những xung đột giữa Bộ tư lệnh khu 7 và các chỉ huy Bình Xuyên. Có mặt trong cuộc họp này về phía Uỷ ban là các ông Phạm Ngọc Thuần, quyền chủ tịch Uỷ ban, trung tướng Nguyễn Bình, Phó chủ tịch Uỷ ban kiêm khu trưởng Khu 7, Ung Văn Khiêm, uỷ viên Nội Vụ, Nguyễn Thành Vĩnh uỷ viên tài chánh, Kha Vạn Cân, uỷ viên Kinh tế, Lê Duẩn, Trưởng phòng dân quân, Diệp Ba, giám đốc Sở công an, Lê Đình Chi, giám đốc Tư pháp khu 7, Trịnh Đình Trọng, Trưởng phân sở A, Sở Thông tin - tuyên truyền, Phan Văn Chương, Đổng Lý sự vụ uỷ ban. Về phía Bình Xuyên có các ông Lê Văn Viễn, Khu phó Khu 7, Huỳnh Văn Trí, Trung đoàn trưởng trung đoàn 304, Trần Văn Đôi, phó tư lệnh Liên khu Bình Xuyên, Nguyễn Văn Hoạnh, chi đội trưởng chi đội 21. Ngoài ra còn có hai ông Huỳnh Văn Nghệ, khu phó Khu 7 và Nguyễn Văn Trấn, khu phó Khu 9.
Ông Thuần chủ toạ cuộc họp. Vì đây là hội nghị quan trọng nên phải hai thơ ký: ông Bảy Trấn và Diệp Ba.
Chương trình nghị sự giữa ba điểm: Tình trạng chung Khu 7, tìm giải pháp chung và giải quyết những vấn đề chi tiết.
Mở đầu cuộc họp, Bảy Viễn nhấn mạnh: - Tôi là một chiến sĩ cách mạng. Tôi chiến đấu cho Tổ quốc dưới mạng lịnh của chánh phủ. Tất cả chiến sĩ Bình Xuyên chiến đấu cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Giữa tôi và ông khu trưởng không có vấn đề gì ông khu trưởng muốn bắt một số nhân viên của tôi, cho là tay sai Phòng Nhì, tôi không bao giờ che đậy em út. Nếu chúng có tôi thì tôi trừng trị ngay. Tôi yêu cầu ông Khu trưởng trưởng bằng cớ, nhưng tới nay thưa được trả lời...
Ông Tám Nghệ phân tách tình hình Khu 7 như sau: - Khu 7 chia làm ba khu riêng biệt là Khu 7, địa phương Sài Gòn- Chợ Lớn và Liên khu Bình Xuyên.
Ba khu này đóng xa nhau nên không thống nhất về tổ chức, các hoạt động thường dẫm chân nhau như vấn đề thu thuế chẳng hạn, do vậy mà mất đoàn kết.
Ngay trong Bộ Tư lệnh Khu 7 cũng lủng củng vì một khu phó sống riêng, có quân đội riêng. Tình trạng này không thể kéo dài được.
Ông Thuần nối lời: - Tình hình Khu 7 cần được chấn chỉnh lại. Tôi đề nghị giải pháp: thống nhất chỉ huy để thống nhất hành động. Trung tướng Nguyễn Bình nói: - Sau khi tham khảo nhiều người, tôi đề nghị Bộ Tư lệnh Khu 7 gồm có các ông sau đây: ông Lê Văn Viễn, Khu bộ trưởng, ông Huỳnh Văn Nghệ khu bộ phó, ông Nguyễn Văn Trấn; chánh trị viên. Ông Bảy Trấn hiện là khu phó khu 9, ông Viễn xin ông Trấn về làm việc chung với ông, chúng tôi thấy đề nghị hợp lý nên điện mời ông Trấn lên đây dự cuộc họp này.
Ông Nguyễn Văn Trấn đứng lên nói: - Tôi cám ơn ông Lê Văn Viễn đã đề nghị tôi làm chánh trị uỷ viên. Đây là sự tín nhiệm của anh Bảy đành cho tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu trọn khu bộ cũ đi hết thì công việc sẽ ngưng trệ ít nhất là trong thời gian đầu. Cho nên tôi đề nghị ông chánh trị uỷ viên cũ ở lại còn tôi thì chỉ muốn làm thư ký riêng cho anh Bảy.
Mọi người đều ngó về phía ông Hai Trí chờ ông phát biểu nhưng ông Lê Duẩn nói: - Đi hết sẽ có ngừng trệ nhưng Khu sẽ gởi một số cán sự về tăng cường. Ông uỷ viên chính trị Nguyễn Văn Trí có thể ở lại phụ trách lớp cán sự ấy và cũng sẽ ở gần các ông để giúp trong lúc đầu. Ông Mười Trí nói: - Vế vấn đề thanh trừng, tôi nhìn nhận có chứa chấp vài người chống phá kháng chiến, chúng tôi làm như vậy vì họ năn nỉ ỉ oi xin bảo bọc. Tôi không nỡ bỏ rơi những kẻ sa cơ thất thế. Trong số đó lại có chăng người trước đây là bạn nữa. Còn về phần tôi thì tôi xin nhắc lại là tôi theo kháng chiến không ngoài mục đích cứu quốc. Nếu trung tướng hiểu lầm tôi thì đó là do nhưng người ở gần trung tướng nói xấu tôi...
Nguyễn Bình liền đứng lên: - Anh Mười hãy an tâm. Tôi không bao giờ hiểu lầm anh Mười đâu. Tôi biết anh Mười vô tâm, anh chứa những kẻ kia là vì bản tánh Mạnh thường quân mà thôi, chớ không có ý đồ chống phá cách mạng. Nhân đây tôi đề nghị bàn về các tay Lâm Ngọc Đường, Maurice Thiên, Lai Hữu Tài đang xâm nhập vô hàng ngũ chiến binh Bình Xuyên.
Bảy Viễn cau mày khó chịu trước khi nói: - Tôi đề nghị gác lại. Chờ Ban chỉ huy thành lập xong rồi chúng ta giải quyết. Luôn tiện tôi xin nói rõ cho quý vị biết là không bao giờ tôi để cho Tư Thiên lôi kéo. Chính tôi lợi dụng nó để giúp các Ban công tác Thành hoạt động. Nó là người bạn lâu đời của tôi. Khi Pháp chiếm Sài Gòn, nó bị Tây bắt giam sáu bảy tháng. Nó được thả ra với điều kiện phải làm việc cho Đơ dèm Buy-rô với thằng quan hai Huc. Điều đó tôi có biết. Tôi lợi dụng nó chớ không phải nó lợi dụng tôi. Ông Thuần kết thúc cuộc họp: - Hội nghị thành công tốt đẹp là nhờ tất cả đặt mọi vấn đề trên lập trường cứu quốc. Tôi có cảm tưởng như đây là một hội nghị gia đình, tất cả mọi người thân ái với nhau.
Ông đốc phủ Chương im lặng suốt cuộc họp đưa tay xin nói: - Thú thiệt là từ nãy giờ tôi rất lo. Nay nhờ ông Trung tướng và ông Khu bộ phó Lê Văn Viễn đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên hết mà dẹp qua các vấn đề cá nhơn, mọi việc được giải quyết dễ dàng. Tôi mừng lắm. Tôi đã già rồi nhưng tôi xin sẵn sàng làm thân trâu ngựa để phụng sự mấy ông.
Mọi người đều cảm động trước lời lẽ chân tình của ông đốc phủ yêu nước đã dám bỏ chức đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn để ra bưng kháng chiến. Ông Ba Duẩn vội nói: - Xin ông Đổng Lý chớ nói vậy. Đúng ra là ông Đổng Lý đáng là người cha của chúng tôi. Chúng tôi chỉ là con cháu của ông thôi. Nghe ông nói, chúng tôi không thể nào không đoàn kết với nhau được. Nguyễn Bình hân hoan nói: - Tôi rất sung sướng trước kết quả của cuộc họp hôm nay. Chúng ta sẽ cố gắng thực hiện những lời hứa hôm nay để Hồ Chủ tịch khỏi còn lo ngại về chúng ta nữa.
Hội nghị kết thúc tốt đẹp, nhưng đó chỉ là mặt nước hồ thu. Dưới đây có những ngọn sóng ngầm. Bảy Viễn trở về nơi đóng quân thì bộ tham mưu xúm lại bàn. Tả thừa tướng Năm Tài lắc đầu: - Hai ông Đường và Thiên nhận định thật là tài: Chúng nó bày trò phong chức khu trưởng cho ông Bảy nhưng lại quyết định huỷ bỏ toàn bộ danh hiệu Bình Xuyên. Như vậy cái chức Khu trưởng của ông Bảy chỉ là một cái bánh vẽ to tướng. Không có Bình Xuyên làm hậu thuẫn thì ông Bảy nói ai nghe? Thà làm khu bộ phó mà giữ được danh nghĩa Bình Xuyên thì còn ngon bằng mười lần. Tướng mà không quân thì oai gì
Bảy Viễn ngồi buồn hiu suy nghĩ: - Mấy nói đúng! Mất danh nghĩa Bình Xuyên là mất tất cả! Bây giờ mình phải làm gì? Tụi nó đã quyết định dẹp bỏ hai tiếng Bình Xuyên vì biết thằng Tây đang có ý đồ mua chuộc Bình Xuyên để làm hậu thuẫn cho cựu hoàng Bảo Đại. Mình làm sao đây?
Năm Tài hiến kế: - Không còn con đường nào khác. Mình kéo quân về Rừng Sác tuyên bố lập chiến khu quốc gia. Mình đứng giữa, cứ để Việt Minh với Tây choảng nhau, mình ngồi coi chơi. Đó là kế “bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”, tức là cò ngao trì kéo nhau ông câu bất được cả hai. Ông Bảy thấy tính vậy được không? Bảy Viễn quay qua Tư Sang: - Mấy thấy thế nào? Tư Sang gật: - Năm Tài tính nước đó cũng khá. Theo tôi thì tạm thời ta án binh bất động. Hễ chúng nó rục rịch thì ta ra tay trước.
Đóng quân tại làng Nhơn Hoà Lập được hai ngày đến ngày thứ ba thì hai tên Cung và Hoằng từ tổng hành dinh Bảy Viễn hớt hãi tới báo tin chẳng lành: “Rừng Sác đã bị tảo thanh”.
Tin như sét đánh giữa trời quang, Bảy Viễn cùng gia tướng hoang mang rụng rời: - Nói rõ hơn nghe coi! - Bảy Viễn nóng nẩy ra lịnh. - Tụi nó đã tính trước rồi. Ông Bảy đi được mấy ngày thì chi đội nào cũng xảy ra chuyện bắt bớ lung tung. Bên chi đội 9 thì Tám Tâm cầm đầu kéo quân đi lục xét, ông Lâm Ngọc Đường nhanh chân nhay vô tang, không biết có trốn thoát được hay không. Bên Chi đội 25, ông Tư Tỵ vừa đưa vợ về thành cũng đã bị Lưu Quý Thoái bắt...
Bảy Viễn giậm chân kêu trời: - Tháng Tám Tâm! Rõ ràng là mình nuôi ong tay áo! Phải chi trước đây mình giết phắt nó thì bây giờ đâu bị hậu hoạn. Năm Tài lắc đầu: - Tám Tâm chỉ là con tốt thôi ông Bảy à. Chỉ mưu việc này là thằng cha quân sư Hai Trí. Chính nó đã bày ra kế điệu hổ ly sơn. Chính nó đã sai Tám Nghệ mạo hiểm xuống Lý Nhơn để giở trò khích tướng. Mình vừa đi là chúng “cướp sơn trại”. Tư Sang nghiến răng: - Mấy thằng Việt Minh này chơi không được? Phải đập chúng một trận! Bảy Viễn thở dài: - Rừng Sác đã bị phá nát rồi, mình biết về đâu bây giờ? Năm Tài: - Hai ông Thiên và Đường đã dặn tôi: nếu xẩy chuyện bất lành thì cứ đưa hết đại đội hùng binh về thành. Tướng De la Tour sẵn sàng đón tiếp Bình Xuyên về với Cựu Hoàng Bảo Đại. Ông Bảy nên tính ngay đi. Ngay đêm nay tôi tốc về thành, dọn đường tnrớc. Tướng De la Tour sẽ đón ông Bảy tại cửa ngõ Sài Gòn với tất cả nghi lễ dành cho một tướng lãnh Bình Xuyên trở về với chính nghĩa quốc gia.
Bảy Viễn cứ lắc đầu thở dài. Tư Sang khoát tay cho Năm Tài lui ra: - Cứ đi đi! ông Bảy không còn con đường nào khác!
Chương 50: Bảy Viễn đi, Mười Trí thanh minh - Chận đại đội, Nguyễn Bình tước súng
Bảy Viễn rút quân về thành trong tình thế cực kỳ gay cấn. Nguyễn Bình biết trước ý đồ đó nên cho các chi đội đuổi theo đồng thời điện các đơn vị ở ven đô chân đường chạy về thành. Lúc Bảy Viễn tới sông Vàm Cỏ, Mười Trí ra đón và hứa sẽ thuyết phục Bảy Viễn bỏ ý định về thành để các chi đội bạn không đuổi theo hai đại đội của Bảy Viễn, tránh nạn nổ súng huynh đệ tương tàn.
Mười Trí hết lời can gián nhưng Bảy Viễn chỉ thở dài: - Nhục lắm! Tao đã thua trí tụi nó. Tao đã lầm kế “điệu hổ ly sơn“ của hai thằng Nguyễn Bình với Hai Trí. Trong lúc họp ở Đồng Tháp thì chúng nó tảo thanh Rừng Sác. Sào huyệt tan hoang, tao có gì nữa mà ở lại? Đành phải noi gương người xưa mượn đất Kinh Châu mà ở đó chờ thời.
Không giữ Bảy Viễn được, Mười Trí tìm cách giảm bớt tổn thất cho kháng chiến. Ông bí mật dặn thằng Ly là con đầu lòng của ông ra lịnh cho đại đội trưởng Xê không được đưa đại đội trọng pháo qua sông Vàm Cỏ khi chưa có lịnh của Mười Trí. Đại đội trọng pháo do Xê chỉ huy là của chi đội 4 Mười Trí cho Bảy Viễn mượn để lập liên quân định thị uy Nam Bộ.
Vậy là trên đường về thành, Bảy Viễn mất hết một đại đội. Vào giờ chót thì Bảy Cao với hai tiểu đội của Bảy Viễn chạy về Nam Bộ ra mặt Nguyễn Bình.
Bảy Viễn về thành rồi, Mười Trí nhận khuyết điểm với uỷ viên quân sự Nam Bộ là đã không giữ được Bảy Viễn. Anh Ba Bình mỉm cười trao cho Mười một tờ truyền đơn máy bay Pháp vừa rải xuống Đồng Tháp. Đó là tuyên ngôn của Khu bộ trưởng Lê Văn Viễn khi trở về với chánh nghĩa quốc gia.
Mười Trí cau mày tức giận: - Rõ ràng đây là lời lẽ của bọn Pháp chớ đâu phải của Bảy Viễn. Mấy chữ “cộng sản độc tài”, “chiến sĩ Bình Xuyên bị ngược đãi” là giọng điệu của thằng Tây. Chúng viết sẵn, Bảy Viễn chỉ ký thôi. Anh Ba nói: - Chống lại truyền đơn này chỉ có anh Mười là có đủ uy tín, vì anh là bạn giang hồ đồng sanh đòng tử với Bảy Viễn. Anh Mười nên ra một bản thanh minh. Được chứ? Mười Trí gật: - Tôi sẽ thảo ngay tại đây. Anh Ba Bình đọc xong gật đầu khen: - Anh Mười viết ngắn mà hay. Để tôi in cho. Ông đọc lần nữa bức thanh minh: “Ông Lê Văn Viễn đã gạt được một ít chiến sĩ ra đầu Tây Vừa rồi ông ra tuyên ngôn ủng hộ bù nhìn Bảo Đại và Nguyễn Văn Xuân. Trước đây có Nguyễn Hoà Hiệp, Năm Lửa, nay tới Bảy Viễn. Bọn chạy theo giặc thì đồng bào Nam Bộ chẳng lạ gì. Nhưng tôi là bạn thân với Bảy Viễn nên phải có đôi lời thanh minh: Tôi rất buồn đã không ngăn cản được người bạn đã thề đồng sanh đồng tử từ thuở nhỏ. Chúng tôi từng đi giang hồ, từng chống cường quyền thực dán, từng vào tù ra khám, nhiều lần vượt ngục Côn Đảo về đất liền. Từ năm 1945 chúng tôi đi kháng chiến đánh Tây giành độc lập. mỗi người đóng quân một nơi nên chúng tôi ở xa nhau. Do đó mà bọn phản động chui vào xúi giục Bảy Viễn chóng Việt Minh. Nay thì Bảy Viễn ra mặt đầu Tây không màng lời khuyên can của tôi Bảy Viễn đã chôn vùi thanh danh giang hồ mã thượng, thiêu huỷ sự nghiệp ba năm chiến đấu chống thực dân.
Xem bản tuyên ngôn, tôi thấy rõ lời lẽ của bọn Pháp và Việt gian chớ không phải của Bảy Viễn. Chúng làm sẵn cho Bảy Viễn ký.
Tôi bác bỏ tình bạn bè qua một bên, cương quyết theo kháng chiến tới cùng để giành Độc lập, Tự do và Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Vi chánh nghĩa, vì quốc dân, ta quyết chiến, ta sẽ thắng.
Văn phòng quân sự, ngày 25-6-1948
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304 Huỳnh Văn Trí.
Cùng lúc đó thì Bộ tư lệnh khu 7 cũng nhận được công điện 36 đánh từ ngày 10-6 của các chi đội 2, 3, 4, 5, 7, 9, 21, và 25. Nội dung như sau: “Yêu cầu quý vị chuyển lên Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ và Bộ Quốc Phòng nguyện vọng của chúng tôi: 1. Chiến sĩ Bình Xuyên chúng tôi đã đổ xương máu chiến đấu trong ba năm nay không phải là một vài tên du đãng thổ phỉ hay bọn phòng Nhì, côm-man-đô! 2. Những người anh cả chúng tôi là Khu bộ phó Dương Văn Dương, ông Tám Mạnh, ông Năm Hà. Còn mấy ông Viễn, Trí, Hoạnh, gần đây đã truỵ lạc không xứng đáng là đàn anh của chúng tôi nữa. 3. Chúng tôi hy sinh cho Tổ quốc chớ không hy sinh cho cá nhơn bọn anh chị không xứng đáng ấy. 4. Yêu cầu cho chúng tôi làm người chiến sĩ của quốc gia chớ không phải làm nô lệ cho bọn quân phiệt”.
Lê Tâm không thể quên được chuyến đi tước súng một đại đội của Bảy Viễn khi tay này chạy về thành.
Vừa hay tin, anh Ba quyết định dẫn quân đi tước võ khí đại đội nói trên để tránh những vụ va chạm đổ máu có thể xảy ra. Đây là một đại đội mạnh, mỗi tiểu đội đều có cây “luộc (mitrailleuse lourde) loại sết-sết bắn đạn nồi. Đại đội đang trong thế nghỉ ngơi nhưng rất trật tự. Anh Ba cho quân của mình dừng lại đằng xa và chỉ đi một mình với Lê Tâm đến trước ban chỉ huy đại đội.
Lê Tâm không hiểu vì sao anh Ba lại đưa anh đi theo, chưa hỏi thì anh Ba đã nói: “số vũ khí này sẽ giao cho quân giới để sau đó phân phối cho các đơn vị nào thiếu”.
Sự xuất hiện của trung tướng Nguyễn Bình khiến cả đại đội đặc biệt chăm chú. Hàng trăm cặp mắt ngó lom lom. Nhưng thấy vị tư lệnh đi tới một mình, không có súng gì cả, họ yên chí. Anh Ba hỏi ban chỉ huy: - Có phải các đồng chí là đại đội của Bảy Viễn bỏ lại? Đại đội trưởng Xê chào: - Thưa trung tướng, chúng tôi là đại đội súng lớn của Chi đội 4, là một trong hai đại đội theo hộ tống anh Bảy Viễn về nhận chức khu trưởng khu 7. Nhưng hay tin anh Bảy Viễn quyết định về thành, chúng tôi được anh Mười Trí ra lịnh tách ra. Anh Ba nói: - Thái độ của các đồng chí như vậy là rất tốt. Nhưng trong tình thế hiện nay, các đồng chí nên trao vũ khí cho Bộ Tư lệnh để tránh những va chạm với các đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ... Đại đội trưởng Xê kêu lên: - Tước súng của chúng tôi à? Không đời nào chúng tôi để tước súng. Đó là cái nhục mà không một chiến sĩ nào chấp nhận... Một người khác hoạ theo: - Nếu trung tướng không tin chúng tôi thì chúng tôi xin tự sát trước mặt trung tướng. Tới đây thì cả đại đội đều chụp súng chờ lịnh chỉ huy. Tình thế căng thẳng. Lê Tâm nghĩ thầm: “Nếu lính nổ súng vào anh Ba và mình thì đúng là bi kịch”. Nhưng anh Ba vẫn bình tĩnh nói: - Đừng! Đừng chết vô lý như vậy. Hãy giành cái chết trước quân thù, chết vì lý tưởng cao cả, chết vì độc lập, tự do thì nên, còn chết vì sự hiểu lầm giữa chiến hữu thì không nên. Tôi xin nói rõ một lần nữa ý định của tôi: Trong khi Bảy Viễn trốn về thành, các đồng chí tách ra: ở lại đây là một quyết định sáng suốt. Nhưng trong tình thế hiện nay, các đơn vị đã được báo động. Đã có lịnh tước vũ khí các đại đội của Bảy Viễn. Nếu các đồng chí nào không nghe lời tôi thì sẽ có những vụ xô xát đẫm máu đáng tiếc. Tốt hươn là giao súng ngay bảy giờ để rồi sau này súng sẽ trở về tay các đồng chí...
Đại đội xôn xao, các chỉ huy phân vân. Anh Ba nói tiếp: - Tôi lấy danh dự trung tướng hứa chắc với các đồng chí: đây là biện pháp cần thiết đề bảo vệ các đồng chí. Sau này khi tình hình bớt căng, xét thấy các đồng chí là người chiến sĩ trung thành với cách mạng thì tất nhiên súng sẽ được giao trả lại các đồng chí. Tôi là quân nhân tôi biết cái nhục bị tước vũ khí, nhưng vì sinh mạng chung cho các đồng chí lẫn các đơn vị bảo vệ chiến khu, đề nghị các đồng chí cho giải giới!
Ban chỉ huy đại đội gật đầu quân lịnh. Cả đại dội vừa rơi nước mắt vừa hạ súng, dựng súng từng to ba người hình trụ. Anh Ba khoát tay cho bộ đội tới gom súng. Và đưa đại đội của Mười Trí về nơi tạm trú.
Lê Tâm mừng rỡ: tấn bi kịch đã kết thúc êm đẹp. Đó là một bi kịch lạc quan. Nếu một người nào khác không phải là anh Ba thì không biết sự việc sẽ diễn biến thế nào.
Chương 51: Với Hai Trọng, Nguyễn Bình tâm sự -Đi vào Nam vì mến dân Nam
Ba Dương tử trận ở Bến Tre, Hai Trọng được anh Ba Bình đề đạt uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong một chuyến về Khu họp, anh Ba Bình lại đề nghị rút anh về làm cán bộ nghiên cứu đặc trách các bộ đội Bình Xuyên. Một lần nữa, Hai Trọng vui lòng về làm việc bên cạnh Nguyễn Bình.
Thú vị nhất là những lúc cơm tối xong, rảnh rỗi, hai anh em ngồi dưới ngọn đèn bão - loại đèn đặc biệt có thể xách đi dưới cơn giông bão mà không tắt - khi thì đọc báo lúc bình thơ. Cả hai đều yêu văn thơ, tuy không viết văn làm thơ nhưng biết thưởng thức một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Anh Ba Bình rất thích đọc báo thành. Lúc đó báo Sài Gòn chia làm hai phe, một vài tờ lãnh lương của Pháp nói xấu kháng chiến.
Tất nhiên chúng nhằm vào các vị đứng đầu. Còn đại đa số báo khác đều ủng hộ cuộc kháng chiến. Hai tờ Phục Hưng và Tương Lai là hai tờ ra mặt chống kháng chiến. Các tờ khác nằm trong phe báo chí thống nhất chống thuyết phân ly của thực dân. Anh Ba Bình đọc hết cả hai phe chống và ủng hộ kháng chiến. Hai Trọng hỏi: - Sao anh Ba mất thì giờ đọc bọn bồi bút này? Anh Ba mỉm cười: - Phải đọc cho biết mình yếu chỗ nào. Người xưa nói kẻ nói xấu ta là kẻ giúp ta hoàn thiện. Cho nên đọc những người khen ta thì thích, nhưng đọc những kẻ chê ta lại càng thích hơn... Đây anh xem bài này. Anh Ba trao tờ Journal d Extrême Orient, tờ báo cực kỳ phản động... Chúng nó phong cho tôi cái tên độc đáo: Nguyễn Binh, Lưu Bá Thừa Việt Nam. Anh có biết tại sao không? - Lưu Bá Thừa là tướng một mắt và là tướng chuyên đánh du kích, là hung thần đối với quân Nhật xâm chiếm Trung Hoa... Vào giữa năm 48, Hai Trọng thấy anh Ba bỗng nhiên không được vui. Anh Ba nói: - Không hiểu vì sao ông Cụ lại đánh cho mình cái điện này... Anh Ba trao bắc điện cho Hai Trọng. Nội dung bức điện vắn tắt vài câu hỏi thăm súc khỏe và quan trọng nhất là câu này: Bác tin chú giữ được tình đoàn kết vì chỉ có đại đoàn kết mới đưa tới đại thành công. Chờ Hai Trọng xem xong, anh Ba nói: - Tuy Bác chả trách nhưng... Anh Ba thở dài. Một lúc sau anh lấy giấy bút thảo một bức điện hồi âm: “Thưa cha, con có bao giờ dám quên lời Cha dặn lúc con vế thủ đô...” Anh suy nghĩ mọt lúc rồi bỏ bút xuống, nhìn Hiai Trọng, mắt sáng lên như chợt lóe ra sáng kiến. - Đồng chí Trọng. Tôi nhờ đổng chí một việc. Một việc rất hệ trọng. Đồng chí ra Bắc báo cáo tình lình miền Đông thay tôi. Ông Cụ và Bộ Tổng cần biết tình hình hiện nay, những việc đã làm được và những việc chưa làm được. Hai Trọng giật mình. Anh hoàn toàn bất ngờ trước sự tín nhiệm anh Ba Bình dành cho anh. Trách nhiệm quá lớn lao, anh sợ không đủ sức. Thấy anh lúng túng. anh Ba nói tiếp: - Lúc này tôi không thể rời chiến trường miền Đông được. Mà ngoài kia thì cần nắm tình hình Nam Bộ. Trong vài ngày nữa sẽ có một phái đoàn quân dân chánh ra Trung ương. Tôi chỉ định anh thay mặt tôi báo cáo tình hình quân sự trong Khu 7. Đặc biệt nhấn mạnh vào việc tập hợp các lực lượng võ trang, giải quyết các mối bất hoà mất đoàn kết vì đầu óc địa phương cục bộ cá lớn nuốt cá bé... Anh cần nghiên cứu đặc tính của từng đơn vị, tác phong của từng chỉ huy Bình Xuyên phải được điều tra, phân tách và tổng kết quá trình chuyển biện, từ các tay giang hồ lục lâm thảo khấu mà nay chịu theo cách mệnh đánh giặc gan lì, lập nhiều chiến công. Vì nhưng nguyên do nào mà có sự lột xác để thân sâu hoá bướm... Hai Trọng lắng nghe hết sức chăm chú và thấy với lời giãi bày đó, tự thấy có thể làm được báo cáo anh Ba giao. Như thấy được sự tự tin đang dần dần hiện ra trên nét mặt Hai Trọng, anh Ba nói tiếp: - Đồng chí ngạc nhiên khi tôi chỉ định đồng chí thay tôi ra Bắc, nhưng tôi đã tính kỹ rồi. Lâu nay đồng chí đặc trách liên lạc giữa tôi và anh em Bình Xuyên. Anh đã ở bên cạnh đồng chí Ba Dương từ những trận đánh đầu tiên. Anh Ba Dương tử trận, anh vẫn bám sát Liên Chi 2 - 3 của đồng chí Năm Hà. Anh cũng có dịp biết các chỉ huy các Chi đội 4, 7, 9, 21, 25 - tóm lại là biết tất cả anh em chỉ huy trong Liên Khu Bình Xuyên những tay Mười Trí, Hai Vĩnh, Bảy Viễn, Tư Hoạnh, Tư Ty... anh đều biết cả. Vậy ngay từ đêm nay anh hãy phác thảo cho tôi về các phe nhóm Bình Xuyên trước cách mạng. Sau đó họ lập bộ đội theo kháng chiến. Họ quan niệm cuộc sống mới như thế nào? Họ nghĩ gì về sự lãnh đạo của chúng ta? Qua đó, đồng chí mạnh dạn vạch ra những ưu điểm và những khuyết điểm của ta trong chủ trương thanh trừng bọn Cao Đài phản động do Hộ pháp Phạm Công Tắc từ Toà Thánh Tây Ninh điều khiển... Hai Trọng hí hoáy ghi nhanh chỉ thị giảng của anh Ba. Anh không học tốc ký nhưng nắm lấy ý chánh, gạch đầu dòng thành một dàn bài theo kiểu các nhà báo trong các cuộc phỏng vấn đột xuất. Anh Ba nói tiếp: - Anh tranh thủ làm thật nhanh. Tối mai, ta sẽ duyệt báo cáo. Vì tuần sau phái đoàn đồng chí Trần văn Trà sẽ lên đường. Trong đoàn có chừng một chục đồng chí như Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễn Bá Kính, các đồng chí phụ trách binh công xưởng Phạm Văn Khung, Kiều Công Quế, Trần Văn Nguyên...
Đêm đó Hai Trọng thức gần tới sáng làm báo cáo.
Các chỉ huy Bình Xuyên mỗi người một tính cách, không ai giống ai dù cùng chung một dòng máu giang hồ thích “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật Hai Trọng có dịp gần gũi sau Ba Dương là Bảy Viễn. Anh nhớ một chuyện nhỏ như sau: Hai Trọng đang ở Liên Chi 2-3 thì Nguyễn Đức Huy tới tìm anh. Tay này to cao nên còn có cái tên Hai Đại - anh ta ký tên chữ nho ba nét: Một gạch ngang với chữ nhơn. Hai Đại để một hàng râu rậm cho nên lại thêm một biệt hiệu, ông già râu kẽm. Gian nhà sàn chỉ có hai người nhưng Hai Đại kề tai Hai Trọng nói nhỏ: - Bẩy Viễn định giết hai đứa mình! Hai Trọng trố mắt nhìn Hai Đại: - Có chắc không? Tại sao đồng chí biết? Hai Đại cười bí hiểm: - Sao lại không chắc? Người của tôi đã được bố trí trong Chi đội 9 của nó. Anh Hai tính sao? Hai Trọng lắc đầu: - Biết tính sao! Tôi mới nghe anh nói chuyện đó. Hai Đại xách ba-lô lên chuẩn bị xuống tam bản: - Tính sao thì tính cho nhanh! Chần chừ không xong đâu? Về phần tôi tin tôi đi đây. Thằng đó nguy hiểm lắm! Hai Trọng đâm tức: - Đảng viên mà đụng chuyện là chuồn, bỏ anh em lại sao?
Hai Đại nhún vai rồi chống ghe đi, không thèm bắt tay từ biệt.
Hai Trọng ngồi thừ ra suy nghĩ về Bảy Viễn. Bảy Viễn tuy là anh chị nhưng cũng có một chút lòng yêu nước. Trong Chi đội 9 nếu có ai tính chuyện đầu Tây là Bảy Viễn bắn ngay. Rất tiếc là Bảy Viễn có tánh anh hùng cá nhân rất nặng, lại bị hai thằng nịnh họ Lai kè sát ngày đêm, gây chia rẽ Bắc Nam và chống chủ trương bố trí chánh trị viên trong bộ đội.
Nghe chúng mãi, nhất là Nam Tài biết cách thoả mãn những thèm khát trần tục như tiền, rượu và gái nên Bảy Viễn ngày càng nghiêng về lối sống “đế vương” của một “lãnh chúa trong thời loạn”. Chính Năm Tài thúc giục Bảy Viễn nắm vai trò lãnh tụ Liên Khu Bình Xuyên của Ba Dương để tự do thao túng. Nhưng Hai Trọng không tin Bảy Viễn có ý đầu Tây như Hai Đại nói. Muốn nắm chắc, phải mạo hiểm tới giáp mặt với Bảy Viễn. Chuyến đi có phần phiêu liêu, nhưng “không vào hang hùm làm sao bắt hùm con”, Hai Trọng đi ghe lườn tới nơi Bảy Viễn đóng.
Lính gác báo tin, Bảy Viễn ra đón tận bến: - Hôm nay tốt ngày, anh Hai tới thăm bọn tôi.
Dù Bảy Viễn thân mật như vậy, Hai Trọng cũng có hành động huê dạng chứng tỏ mình tới với tánh cách anh em. Anh tháo thắt lưng da có khẩu súng sáu trong bao ném lên một chiếc chõng sát vách rồi đưa cả hai bàn tay cho Bảy Viễn bắt. Bảy Viễn mời vô nhà: - Anh tới chơi hay có việc gì? Chắc là có chuyện quan trọng nên bí thư của khu trưởng Nguyễn Bình mới thân chinh tới đây. Sau một tuần trà, Hai Trọng mới vô đề: - Tôi nghe vài lời đồn đại về anh Bảy nên qua đây gặp anh cho rõ trắng đen. - Người ta đồn sao đó anh hai? Chắc là không hay rồi. - Tất nhiên là không hay. Người ta đồn anh Bảy muốn thủ tiêu những cán bộ người Bắc, trong đó có tôi? Bảy Viễn bật cười khanh khách: - Có chuyện đó nữa sao? Mà anh Hai có tin chuyện đó không? - Nếu tin thì làm sao tôi dám đơn phương độc mã qua đây phó hội với anh? Bảy Viễn bắt tay Hai Trọng, gật tới gật lui mấy lần: - Anh Hai đúng là tay hảo hớn, tụi tôi không bì kịp. Tôi nói thẳng với anh là tôi không ưa người Bắc, nhưng cũng tuỳ người. Nam hay Bắc gì cũng có người chơi được, người không. Như anh Hai đây, người đã từng sát cánh với anh Ba Dương, nay sát cánh với anh Nam Hà, lại là bí thư của Khu trưởng Nguyễn Bình làm sao không ưa cho được! Những lời đồn gió bay: ăn thua gì! Bây giờ anh em mlnh gặp nhau đây, nhậu cái đã. Rượu là thần dược xoá mọi thắc mắc, mọi hiểu làm.
Bảy Viễn đãi Hai Trọng một chầu bia thành. Trong khi nhậu, Hai Trọng vẫn quan sát Bảy Viễn và thấy rõ anh ta thành thật, nghĩ sao nói vậy. Rõ ràng chuyện Hai Đại tiết lộ với Hai Trọng là mưu mô của bọn Sang, Tài muốn tách rời Bảy Viễn với anh em quê miền Bắc, và các chánh trị viên. Bảy Viễn mà đầu Tây thì do hai tay Phòng Nhì xỏ mũi. Rấc tiếc là ta sống xa Bảy Viễn không lui tới thường xuyên để giúp đỡ từ đầu.
Về Bình Xuyên, hai ông Ba Bình và Hai Trí quan niệm khác hẳn. Hai Trọng biết rõ giữa hai ông có nhiều hục hặc về quan điểm lãnh đạo cũng như về tình cảm riêng tư, Ba Bình có tác phong hảo hán, tánh tình cởi mở, còn Hai Trí có dáng vẻ một tay mưu sĩ kiểu Trương Nghi hay Tô Tần xử sự như các nhân vật thời Đông Chu liệt quốc... Chính vì tư lệnh và chánh uỷ không “en jeur” với nhau mà Khu 7 xảy ra nhiều điều không hay.
Hai Trọng chỉ chợp mắt một chút thì gà gáy rộ. Anh thức dậy rửa mặt cho tỉnh minh rồi chép sạch bản báo cáo. Đến chiều anh mang báo cáo tới để cho anh Ba Bình duyệt. Anh Ba mắt kém, Hai Trọng phải đọc cho anh nghe. Đọc chầm chậm, ngừng từng câu. Khi nào có chữ chưa chính xác, anh Ba góp ý chọn chữ cho thật vừa ý. Gần đến nửa đêm, anh Ba mới duyệt xong bản báo cáo. Đọc tới dòng cuối cùng anh thở phào: - Cám ơn đồng chí đã giúp tôi làm bản báo cáo này...
Trên đường ra Bắc, Hai Trọng gặp lại Hoàng Thọ ở Phú Mỹ. Anh nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên. Năm ấy Hai Trọng từ Bà Rịa về chiến Khu D dự cuộc họp quân sự Khu 7. Lúc đó anh là uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Sau mấy ngày băng rừng lội suốt và vượt mấy con lộ, Hai Trọng về tới căn cứ Bộ Tư lệnh Khu. Hội trường đơn sơ tranh lá nhưng trang hoàng rất đẹp. Nhưng tấm đệm đan bằng lá buông óng ánh một màu vàng nhạt làm cho hội trường sáng hẳn lên. Khẩu hiệu viết bằng mực đỏ trên giấy trắng “Tổ Quốc trên hết” cùng lá quốc kỳ nền đỏ sao vàng nói lên khí thế hào hùng của miền Đông gian lao và anh dũng.
Hai Trọng quên hết mệt nhọc đường xa khi Nguyễn Bình ra đón. Hai anh em ôm choàng lấy nhau, trà thuốc tâm sự. Sáng hôm sau cuộc họp bắt đầu. Có một sự kiện Hai Trọng không thể nào quên. Trong lúc anh Ba Bình đang nói chuyện với các đại biểu toàn là cán bộ trung cấp như uỷ viên quân sự tỉnh, chi đội trưởng... bỗng một người ăn mặc lôi thôi, áo sơ-mi bỏ ra ngoài, tay xách máy ảnh đi lăng xăng khắp hội trường. Cũng như nhiều đại biểu, Hai Trọng đảo mắt nhìn xem cử chỉ lung tung của anh ta, không tập trung tinh thần nghe anh Ba nói. Thoạt tiên Hai Trọng nghĩ anh ta là nhiếp ảnh của báo Tiền Đạo, nhưng dù là phóng viên, cũng phải ăn mặc đứng đắn đàng hoàng, vì anh Ba là vị tư lệnh nghiêm khắc về quân phong quản kỷ. Nhưng anh chàng phóng viên kia càng làm nhiều trò chướng mắt: hết khom lưng, ưỡn ngực, anh ta lại leo lên cột bám lấy đòn vong, đeo toòng ten như diễn viên xiếc. Cũng may là anh ta chụp vài “pô” rối đi mất. Tới đột, ngột và đi cũng đột ngột, như một bóng ma. Hai Trọng định hỏi anh Ba Bình xem “hắn” là ai, nhưng vì bận rộn về các vấn đề quan trọng liền quên khuấy. Hôm sau, Hai Trọng đang uống trà đàm đạo với anh Ba thì “hắn” xộc tới, ngang nhiên như chỗ không người: - Anh Ba, ảnh đẹp hết chỗ nói. Hãy xem đây. - Hắn chìa ra một xấp hình cỡ “xít nớp” - Xem tấm này nè chụp lúc anh đứng nói chuyện, đằng sau là lá cờ đang lay động dưới làn gió nhẹ. Trông anh vừa đẹp vừa oai quá xá ngán!
Anh Ba Bình xem ảnh tấm nào xem xong anh trao cho Hai Trọng xem, nhưng Hai Trọng chỉ liếc sơ qua vì đang lom lom quan sát anh chàng nhiếp ảnh kỳ lạ này. Hắn ta to cao râu quai nón cạo nhẵn mà còn ánh lên một màu xanh rờn. Lần này hắn chịu khó bỏ áo sơ mi vô quần, trông cũng đẹp trai. Lại thêm cái giò heo lủng lẳng bên hông, càng oai tệ. Tuy vậy anh ta là chỉ huy chứ không phải là phó nhòm. Bấy giờ anh Ba mới giới thiệu: - Đây là Hoàng Thọ, chắc anh Hai Trọng chưa biết. Hai Trọng reo lên: - Hoàng Thọ! Tôi đã nghe tên chú lúc tôi còn ở với anh Ba Dương. - Vừa nói Hai Trọng nắm cánh tay Hoàng Thọ lắc lắc giọng thân thật - Chú có biết không. hôm qua tôi rất bực, tính trách anh Ba: hội nghị quan trong như thế mà để thằng cha ăn mặc xập xệ leo trèo chụp ảnh. Nhưng nay biết chú thì thôi!
Cả anh Ba và Hoàng Thọ cùng cười. Anh Ba cười độ lượng còn Hoàng Thọ thì cười thích chú của một thằng em được nuông chiều. Hai Trọng không tán thành thái độ dễ dãi với Hoàng Thọ trong khi lại rất nghiêm nghị với những người khác của anh Ba. Hai Trọng chưa tiện nói ra ý nghĩ của mình vì nghĩ rằng những người lớn đều có những cái yếu nho nhỏ. Với anh Ba, đó là dung dưỡng những thói quen ngang tàng của thuộc hạ, theo kiểu các tay giang hồ tự do, phóng túng. Đó là ấn tượng đầu tiên khi Hai Trọng gặp anh chàng Hoàng Thọ lần đầu tại chiến khu Đ.
Lần gặp lại thứ hai vào tháng 5-1948, trên đường ra Bắc với phái đoàn quan dân chánh do anh Trần Văn Trà làm trưởng đoàn. Hai Trọng gặp Hoàng Thọ tại Phú Mỹ, Bà Rịa. Vẫn tác phong lôi thôi lếch thếch như thường lệ.
- Chú vẫn vậy, không khác mấy so với lần tôi gặp chú ở thà anh Ba. Hoàng Thọ cười, nhưng trong nụ cười có chút gì không vui. - Tính khí trời cho, làm sao đổi được anh Hai! Đoán biết tay tếu có hạng này có tâm sự gì đây, Hai Trọng cố thăm dò: - Năm qua đánh đấm thế nào? Bộ đội lưu động nổi danh như cồn. Đã lên chức chưa? Hoàng Thọ lột phắt cái nón rộng vành bẻ đứng một bên quạt quạt như để xua nỗi bực: - Tảo thanh Cao Đài, đánh đấm liên miên, diệt địch vô số. Vậy mà anh Hai biết không, công đâu chả thấy chỉ mang tiếng háo sát.
À thì ra thế! Hai Trọng biết rõ chủ trương tảo thanh Cao Đài phản động ở miền Đông mà mục tiêu chánh là toà thánh Tây Ninh. Hộ pháp Phạm Công Tác ngày càng tỏ ra phản động. Hắn lập quân đội, trước còn lo thủ Toà Thánh, sau bung lên chiếm các vùng giải phóng. Lúc đầu ta còn tranh thủ Cao Đài, mời họ tham gia mặt trận Việt Minh nhưng dần dần do Tây tung đòn ly gián, tình đoàn kết hai bên rạn nứt, nhưng cuộc xô xát ngày càng tăng. Bộ đội Hoàng Thọ là một trong các đơn vị tích cực đối phó với đám đội lốt Cao Đài hại dân hại nước. Nghe nói tên Hoàng Thọ là dân vùng đạo Cao Đài hãi sợ. Trong trận Cầu Khói gần Tây Ninh, bộ đội Hoàng Thọ liên quân với bộ đội Cao Minh Căng thuộc Chi đội 2 Tỉnh Tây Ninh. Thấy Hoàng Thọ tung hoành ngang dọc, trung đội trưởng Cao Hoài Sai cũng lao theo, lia tôm-xông vào địch đang hoang mang vứt súng chạy dài. Bộ đồ của Sai đã rách nát, anh định bắt sống một thằng Tây để tước bộ ka ki mặc cho chắc. Anh chọn thằng chỉ huy Tây trên xe jeep với bộ đồ còn mới, nhưng Hoàng Thọ đã lia một băng. Thằng Tây gục xuống máu thấm đỏ bộ đồ Sai tinh tước đoạt. Sai tiếc mãi bộ ka-ki ấy.
Hai Trọng vỗ vai Hoàng Thọ: - Giết Cao Đài nhiều qná, chú nghĩ lại xem có đúng không? Hoàng Thọ im lặng. Hai Trọng nói tiếp: - Máu người mình, mình nên tiếc một chút... - Đồng ý là nên tiếc máu người mình, nhưng Cao Đài là bọn phản động... Hai Trọng lắc đầu: - Không nên quơ đũa cả nắm. Phản động là Phạm Công Tắc với đám bộ hạ Trần Quang Vinh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế, còn dân trong vùng thì có tội tình gì mà tảo thanh, mà tàn sát? Nói thật với chú, tôi không tán thành chủ trương tảo thanh dù là binh lính Cao Đài lãnh súng Pháp đánh lại ta. Họ chỉ là những người mù quáng, làm bia đỡ đạn. Nếu chú là dân ở vùng Cao Đài, bị bắt lính, chú làm sao? - Tất nhiên là tôi nhẩy ra khu... - Hoàng Thọ đáp ngay. Hai Trọng cười lớn: - Bởi chú là Hoàng Thọ. Còn tín đồ Cao Đài thì quen tôn sùng các chức sắc thiên phong, quen tin tưởng “thánh ngôn” của Cao Đài Thượng Đế. Họ đâu có biết thánh ngôn là chuyện bịa của bọn buôn thần bán thánh... Được khen, Hoàng Thọ khoái chí: - Anh Hai nói chí lý. Nhiều người đã nói với tôi trước đây, họ nói tảo thanh Cao Đài là hạ sách. Bởi vì lấy oán trả oán thì oán càng chồng chất, không biết tới ngày nào mới hết. Bây giờ anh Hai nói, tôi mới thấy rõ: mình tảo thanh Cao Đài trên một năm nay mà tình hình ngày càng đen tối hơn. Đúng là hạ sách. Ngừng một lúc Hoàng Thọ nói: - Đây là sáng kiến của thằng cha mưu sĩ Hai Trí. Tôi chưa thấy ai như thằng cha này... Tò mò Hai Trọng hỏi: - Chú thấy sao? Nói coi! - Cha này giống như mấy tay trong Đông Chu liệt quốc. Mưu mô xảo quyệt hết chỗ nói. Nghĩ vầy nói khác. Thật khác một trời một vực với anh Ba mình. Tôi khoái anh Ba ở chỗ thẳng thắn nghĩ sao nói vây. Hay nói hay, dở nói dở. Không úp mở, không che đậy. Tại sao người ta lại bố trí cho hai Trí bên cạnh anh Ba? Trước đây anh Ba làm việc với ông Trần Xuân Bộ rất tâm đồng ý hiệp.
Không có thì giờ nói chuyện lâu, Hai Trọng bắt tay từ biệt: - Tôi ra Bắc báo cáo tình hình quân sự miền Đông thay anh Ba, xong là về liền. Chỉ chuyên chú suy nghĩ chín chắn rồi hãy hành động. __________________
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:11:15 GMT 9
Chương 52: Cuối 48 Hai Trọng ra Bắc -Báo với Bác công trạng Nguyễn Bình
Ngày 3-10-1948 phái đoàn quân dân chánh Nam Bộ ra Trung ương báo cáo tình hình Nam Bộ với Hồ Chủ tịch, chánh phủ và bộ Tổng. Trưởng đoàn là Khu trưởng Khu 8 Trần Văn Trà. Trong đoàn có các ông Trần Bửu Kiếm, tổng thư ký Uỷ ban kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ, ông Nguyễn Đức Thuận, Lương Văn Trọng, thư ký riêng của trung tướng Nguyễn Bình, linh mục Nguyễn Bá Kính, Phạm Văn Khung, Kiều Công Quế Lâm, Trần Văn Nguyên.
Nói riêng Hai Trọng. Nhiệm vụ của ông trong chuyến đi Trung ương này là báo cáo công việc thống nhất các lực lượng võ trang ở miền Đông Nam Bộ. Các lực lượng này rất đông. và thuộc nhiều thành phần trong xã hội. Phần lớn là công nhân, lao động dân cạo mủ cao su quê miền Bắc vào Nam gọi là dân “contrat”. Nhưng cũng có một số dân anh chị đứng bến. Những tay này lanh lợi tháo vát nên nắm tiểu đội hoặc trung đội. Phức tạp là ở chỗ đó. Nhiều nhóm quen thói cướp bóc nên sẵn súng lâu lâu làm ăn một đám. Tình thế mới, cách đi “hát” cũng mới: thay vì đánh cướp thì “sung công” tiệm buôn hay ghe hàng. Cho nên công việc khép các nhóm này vô khuôn khổ kỷ luật không phải là dễ. Vụ trừng trị Ba Nhỏ ở chợ Phước Thiền, quận Long Thành của Nguyễn Bình là một điều cần thiết để răn dậy ba quân. Nhờ anh Ba Bình cương quyết mà quân đội nói chung và Bình Xuyên nói riêng có tiến bộ về quân phong, quân kỷ.
Đã được anh Ba Bình gợi ý trước nên Hai Trọng đủ thì giờ thu thập tài liệu để làm báo cáo. Báo cáo cũng đã được anh Ba Bình duyệt rồi nên Hai Trọng rất vững vàng khi lên đường. Tuy nhiên về phương diện tình cảm thì có chút ít lấn cấn: số là Hai Trọng lập gia đình trẻ. Anh chỉ mới cưới vợ khi về lãnh công tác uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vợ anh là cán bộ phụ nữ tương đối trẻ và đẹp. Hai vợ chồng son vừa quá tuần trăng mật thì Hai Trọng được đề bạt về làm thơ ký riêng cho Khu trưởng Nguyễn Bình. Lên khu bộ không bao lâu thì Hai Trọng lại được chọn đi Trung ương. Đây lả một vinh dự không phải ai cũng có được. Nhưng trong thời chinh chiến, ra đi khó hẹn ngày về.
Mấy tháng leo đèo vượt suối băng rừng phái đoàn quân dân chánh Nam Bộ ra tới miền Bắc. Gian nan kể không xiết, có ngày đoàn phải vượt qua cả trăm con suối. Đoàn tới nơi mà không thiệt hại về người và tài liệu là một thắng lợi lớn. Riêng về tài liệu, phải một tiểu đội mang. Chuyến ra Bắc đó đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời Hai Trọng. Anh may mắn được sống bên Bác Hồ ba ngày. Phái đoàn lần lượt báo cáo về tình hình quân, dân, chính trong Nam cho Bác và các đồng chí Trung ương nghe.
Riêng về tình hình quân sự ở Khu 7, nhất là về lực lượng Bình Xuyên, báo cáo của Hai Trọng thay mặt cho trung tướng Nguyễn Bình được đặc biệt chú ý.
Hôm sau đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu Hai Trọng viết một luận án về vấn đề “cách mạng hoá bộ đội giang hồ”.
Nghe qua Hai Trọng toát mồ hôi hột: - Thưa đại tướng, tôi không đủ trình độ để làm luận án đó. Ông Giáp cười nói: - Sao lại không đủ trình độ? Đồng chí cứ viết về nhưng khó khăn mà đồng chí Nguyễn Bình gặp phải trong việc thuyết phục các chỉ huy Bình Xuyên bỏ con đường cũ để theo kháng chiến. Đồng chí đi sâu vào những trăn trở của anh em giang hồ khi từ bỏ những lề thói mưu đồ lợi ích cá nhân đẻ dấn thân vào đại nghĩa, đạt quyền lợi đất nước lên trên tất cả... Trước những đắn đo thắc mắc đó, đồng chí Nguyễn Bình đã có hành động nào để giúp anh em giang hồ yên tâm theo cách mạng. Chuyện chỉ có thế. Đồng chí cố nhớ lại những cá tánh các lãnh tụ Bình Xuyên mà đồng chí có dịp sống gần, như các ông Ba Dương, Năm Hà, Bảy Viễn, Mười Trí v.v. và những chuyển biến trong tâm tư tình cảm của họ trước những mưu mô của bọn Phòng Nhì cho gái đẹp, tiền bạc, xa xỉ phẩm từ Sài Gòn vô Rừng Sác để lung lạc, mua chuộc...
Hai Trọng gật gù: - Nếu làm luận án như đại tướng nói thì tôi có thể làm được. Tôi sẽ cố gắng... Đại tướng cười: - Tôi đã nói là đồng chí đủ sức. Vì đây là chuyện người thật việc thật. Chỉ cần sắp xếp lại cho có mạch lạc để nổi bật chủ đề là nghệ thuật lãnh đạo anh em giang hồ đi theo cách mạng... Đây là việc rất quan trọng. Hiện nay các nước thuộc địa đang vùng lên võ trang khởi nghĩa chống bọn thực dân, giải phóng đất nước, giành độc lập tự do. Tất cả các nước này đều cần học hỏi kinh nghiệm những nước đi trước như Việt Nam ta. Kinh nghiệm “cách mạng hoá bộ đội giang hồ” mà đồng chí Nguyễn Bình đã làm được tại Nam Bộ rất quý. Bởi vì nước nào cũng có giang hồ...
Đại tướng kết thúc cuộc họp: - Đồng chí hiện nay chỉ có một công tác duy nhất là làm bản luận án đó. Tôi đã cho chuẩn bị chỗ ăn ở và làm việc cho đồng chí. Cứ viết thong thả, chừng nào xong cũng được, miễn là viết cho đạt.
Đúng như đại tướng nói Hai Trọng được chăm sóc chu đáo để viết bản tham luận “cách mạng hoá bộ đội giang hồ”. Càng viết anh càng sáng ra. Những năm tháng sống gần gũi với anh em Bình Xuyên như khúc phim quay chậm. Anh nhớ từng khuôn mặt, từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ của các tay anh chị. Tuy đã theo kháng chiến mà vẫn không bỏ được thói quen tật xấu. Nét chung nhất của các tay tổ là ăn trên ngồi trốc bất cứ chuyện gì cũng chơi trội thiên hạ. Mỗi lãnh chúa là một giang san, là một triều đình, có đủ trung nịnh đâu đâu cũng râm rắp phục tùng, “nhứt hô bá ứng”. Quen sóng phong lưu nên vô rừng vẫn thèm cà phê hủ tiếu, la ve xá xị. Lúc rảnh rỗi vẫn quen tay cắc-tê bài cào đậu chấn tứ sắc. Còn chuyện mèo chuột trai gái thì khỏi nói. Một đặc điểm của Bình Xuyên là đa thê. Ông nào cũng có năm ba bà, đúng như câu nói phổ biến ở miền Bắc “vợ cả vợ hai đều là vợ cả”. Có một điểm Hai Trọng đắc ý nhất: Anh tìm được mẫu số chung cho hai giới cách mạng và giang hồ. Đó là tinh thần yêu nước. Chỉ có dân Việt Nam ta mới có chuyện độc đáo này. Các nhóm anh chị nổi tiếng thế giới nhít đảng KKK (Ku Klux Klan) ở Mỹ, bọn Mafia ở Ý chỉ là bọn giết người vì tiền, không hề nghĩ chuyện nước non. Bình Xuyên là truyền thống nghĩa quân Trương Định, lòng yêu nước sục sôi đã được chứng minh trong lịch sử kháng Pháp ngay từ đầu.
Suốt trăm năm, truyền thống dân lân dân ấp nối tiếp từ phong trào nấy sang phong trào khác, hết Cần vương đến Thiên Địa Hội rồi Hội kín Ngnyễn An Ninh, sau cùng là Bình Xuyên. Chính ngọn lửa yêu nước tiềm tàng trong lòng anh em Bình Xuyên đã đưa họ tới với anh em kháng chiến. Tuy cùng đi một con đường mà mỗi người một phách, không ai giống ai. Cách mạng thì muốn thống nhất một mối đề dễ lãnh đạo, còn giang hồ thì quen thói anh hùng nhứt khoảnh chịu làm đầu gà hơn đuôi phụng Cho nên lãnh đạo họ phải khéo, phải hết sức tâm lý, mềm dẻo, tế nhị. Chớ có thô bạo độc đoán mà mong họ tuân theo. Và nhất là phải dũng cảm, gan lì hơn họ, tỏ ra anh hùng hảo hán hơn họ, thì mới chinh phục được những tay hảo hớn.
Càng đi sâu vào bản luận án, Hai Trọng càng mến phục anh Ba Bình. Một mình từ Bắc vô Nam, anh Ba đã tập hợp được các bộ đội rải rác khắp miền Đông, trên hai ba chục nhóm lớn nhỏ đang rình rập nhau “cá lớn nuốt cá bé”. Đâu phải chuyện dễ! Giấy chứng nhận phái viên Trung ương do bộ Tổng ký đâu phải lá bùa hộ mạng. Các tay giang hồ là chúa làm giấy giả giống như thật. Giấy tờ đóng mộc đỏ to bằng khu chén cũng không uy hiếp được họ. Huống chi trong một lần bị quân Nhật bắt, anh Ba đã bị chúng tịch thu tất cả giấy tờ kể cả giấy của Bộ Tổng. Anh tới các bộ đội giang hồ chỉ tự giới thiệu miệng thôi.
Như vậy cái gì đã khiến các lãnh chúa lục lâm tin anh và chịu sự chỉ huy của anh? Chính hai tay tả hữu thừa tướng Lai Hữu Tài, Lai Văn Sang đã “xàm tấu” với Bảy Viễn: “Nguyễn Bình là thằng trôi sông lạc chợ, từ Bắc vô Nam, đã đánh đấm gì mà toan lãnh đạo anh Bảy?”. Nhưng Bảy Viễn đã không nghe lời hai tay Phòng Nhì này mà xem Nguyễn Bình đúng là một phái viên Trung ương được cử vô Nam để thống nhất các bộ đội địa phương.
Đó là về phía giang hồ. Còn về phía cách mạng thì chính anh Ba Trà về sau tâm sự: “Lần đầu tiên tôi gặp khu trưởng Nguyễn Bình là ở Mỹ Hạnh. Nguyễn Bình chỉ tự giới thiệu chứ không đưa giấy tờ. Tuy vậy tôi tin vì anh Ba Bình có tác phong anh hùng hảo hớn. Lúc đó tôi có nhiệm vụ tập hợp các cán bộ Đảng. tập hợp các bộ đội do Đảng nắm và thống nhất các lực lượng võ trang. Nguyễn Bình cũng đang làm nhiệm vụ đó. Tôi phải ủng hộ anh Ba”.
Anh Ba Tô Ký chỉ huy trưởng Giải phóng quân Liên Quận Hốc Môn Bà Điểm Đức Hoà cũng chịu sự chỉ huy của Nguyễn Bình ngay ngày đầu vì mối quan tâm lớn nhất của anh là thống nhất các bộ đội miền Đông để đánh Tây. Anh Ba Bình làm được điều đó cho nên mình phải ủng hộ.
Đại đội trưởng Hứa Văn Yến, chỉ huy mặt trận An Phú Đông trong những giờ phút nghiêm trọng sau ngày 23 tháng 9 đã gặp Nguyễn Bình vào tháng 10-1945, giữa tiếng đại bác nổ ầm dọn đường cho Tây lên chiếm. Anh Ba Bình chỉ đi có một mình với một anh liên lạc. Anh Ba trình giấy phái viên Bộ Tổng và yêu cầu đồng chí Hai Yến cho liên lạc đưa anh qua An Phú xã. Tây đang tiến vô nên Hai Yến không có thì giờ, chỉ làm theo yêu cẩu của anh Ba Bình, nhưng cảm giác đầu tiên về cuộc gặp gỡ này vẫn còn đậm nét mãi mãi sau này: Một con người to cao mặc đồ xá xẩu, mang kính râm, đeo sắc-cốt. Giữa tình thế nước sôi lửa bỏng, anh vẫn bình tĩnh, ung dung. Đúng là một tay hảo hớn...
Đại tướng đọc bản luận án gật gù khen Hai Trọng: - Đồng chí viết rất đạt. Hãy nghỉ ngơi vài bữa cho khỏe.
Thời gian ở Bộ Tổng, Hai Trọng được Bác và đại tướng đặc biệt chăm sóc. Anh hiểu đây không phải dành cho cá nhân anh mà dành cho cả đồng bào Nam Bộ mà người có trọng trách bảo vệ là trung tướng Nguyễn Bình.
Làm xong bản luận án, Hai Trọng nghĩ là công tác ra Bắc của mình đã xong, anh xin được trở về Nam chiến đấu. Nhưng đại tướng nói: - Tôi hiểu tình cảm của đồng chí, nhưng nhân dịp ra đây đồng chí nên tranh thủ học tập thêm. Trung Quốc đang mở lớp chỉnh huấn ở Vân Nam. Đồng chí nên sang đó dự rồi về sẽ trở vào Nam phổ biến luôn.
Hai Trọng lại khăn gói sang Vân Nam cùng một số học viên. Nơi chỉnh huấn là một căn cứ cũ của Mỹ. Nơi đây đồi núi tuyệt đẹp, nhưng lòng dạ Hai Trọng đang nhớ Nam Bộ với anh Ba Bình và vợ trẻ nên không hưởng được cái thú thanh tao của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Khoá học ở Vân Nam ấy có chuyện khác thường là tiết mục “tự phong”. Mỗi học viên phải làm bản tổng kết các loại hoạt động của mình, nêu lên khuyết điểm rồi tự phong. Hai Trọng phát biểu trong tổ: - Tôi từ Nam Bộ ra Bắc, đại diện trung tướng Nguyễn Bình báo cáo tình hình quân sự miền Đông Nam Bộ. Các đồng chí Trung ương chiếu cố Nam Bộ cho tôi đi học. Tại khoá này, không có ai cùng chiến đấu với tôi, không có ai hiểu tôi, giúp tôi tự đánh giá nên tôi không thể tự phong được. Tôi sẽ cố gắng học tập để trở vô miền Nam chiến đấu rồi sẽ tự phong sau. Hiện nay tôi chỉ là khách của Bộ Tổng.
Nhưng nhà trường không chấp nhận quan điểm của Hai Trọng. Ngày thứ hai họ lại yêu cầu anh tự phong như mọi người trong khoá. Một câu cứ ám ảnh anh cả ngày lẫn đêm: Nhà trường yêu càn ta tự phong sao ta không tự phong?”. Nhiều đêm thao thức nhìn ra ngoài. Vùng Dương Đông Hải nổi tiếng danh lam thắng cảnh. Bấy giờ vào mùa cận Tết, hoa đào Vân Nam lộng lẫy dưới ánh đèn đẹp khó tả.
Nhưng Hai Trọng không thưởng thức được vì nỗi nhớ miền Nam và việc tự phong. Tự phong trung đoàn trưởng sẽ bị phê bình là thiếu khiêm tốn. Đành phải sụt xuống một cấp: tiểu đoàn trưởng. Để được yên thân trở về Nam chiến đấu. Hai Trọng tự phong như sau: “Tôi là đại biểu Bình Xuyên với chức vụ chánh uỷ, đặc phái viên của Bộ Tư lệnh Nam Bộ có nhiệm vụ nghiên cứu đường liên lạc Bắc Nam, được dự khoá huấn luyện này, xin tự phong Tiểu đoàn trưởng. Tổ trưởng nhận xét: “chân thật”. Tức thì cả tổ vỗ tay.
Mãn khoá anh trở về cám ơn anh Hoàng Văn Thái đã cấp cho anh con ngựa đua rất hiền và khẩu tôm-xông, cho thêm một cần vụ từ Cao Bằng qua Vân Nam. Thời gian đi học và trở về kéo dài hơn một năm thay vì sáu tháng như dự định.
Hai Trọng lại xin trở vào Nam chiến đấu, nhưng một lần nữa lại được giữ lại. Trọng phản đối mạnh: - Sao giữ tôi lại đây? Miền Nam đang thiếu cán bộ. - Còn ở đây đâu có thiếu cán bộ. Phải cho tôi về với trung tướng Nguyễn Bình. Ngày ra đi, tôi được anh Ba Bình căn dặn: “Báo cáo xong đồng chí trở về ngay. Tôi đang cấn đồng chí”. Đại tướng Giáp chuẩn bị đi chiến dịch, tướng Hoàng Văn Thái giải quyết yêu cầu của Hai Trọng: - Bộ Tổng quyết định giữ đồng chí lại vì đồng chí có trình độ, lại từng hoạt động trong Nam. Đồng chí sẽ làm tham mưu cho Bộ Tổng.
Chương 53: Đánh không thắng, Pháp muốn cầu hoà -Vô Đồng Tháp, sứ Tây chào trung tướng
Cuộc sống trong vùng sâu đồng Tháp Mười, quanh năm trầm lặng như nước lớn nước ròng trên các con kinh hiền lành Nguyễn Văn Tiếp và Dương Văn Dương chạy song song xuyên cánh đồng bảy trăm ngàn mẫu đất. Bỗng một ngày đẹp trời, căn cứ kháng chiến Nam Bộ sôi nổi hẳn lên: có khách nước ngoài tới thăm đầu não kháng chiến. Lần này khách không phải là phóng viên nhà báo như năm trước mà là một nhân vật lớn trong chính giới Pháp từ Paris sang, có nhiệm vụ thăm dò “đối phương” trong vấn đề hoà hay chiến. Trước đây, đô đốc D Argenlieu Cao uỷ Đông Dương, rồi sau đó tướng Leclerc, tổng tư lệnh Đông Dương huênh hoang tuyên bố “bình định Việt Minh trong vòng ba tháng. Nhưng ba năm thấm thoát trôi qua, chiến cuộc đang trong thế ngang ngửa. Chánh phủ Pháp phái sứ giả sang nghiên cứu tình hình. Tên sứ giả là Alain Savary, nghị viên hội đồng Liên Hiệp Pháp, đại biểu đảng Xã hội Pháp SFIO (Section Francaise de l’ Internationale Ouvrière).
Savary tới Sài Gòn tiếp xúc với Tổng thư ký Đảng Xã hội Pháp, chi nhánh Sài Gòn, Hervochon. Anh này hỏi ý nhà báo Thiếu Sơn từng giao du với chi nhánh Pháp ở Sài Gòn. Thiếu Sơn tên là Lê Sỹ Quý, là viên chức Bưu điện nổi tiếng với nghề viết văn và làm báo. Anh quê miền Bắc đổi vô Nam Kỳ trước thập niên 40. Anh là kiện tướng trong làng báo “Thống nhất” tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến, nhiều lần ra bưng dự các lễ lớn mà gần đây nhất là lễ thụ phong trung tướng của anh Nguyễn Bình. Thiếu Sơn là một trong ba thượng khách trong làng báo Sài Gòn của anh Ba Bình. Hai người kia là nhà báo Tam Ích (XXX) và nhà văn Lý Văn Sâm.
Hervochon gõ cửa anh Thiến Sơn vì trước đó anh đã đưa hai nhà trí thức lớn Pháp vô khu gặp các lãnh đạo Nam Bộ. Đó là Giáo sư Tiến sĩ Chesneau, dạy môn xã hội trường đại học Sorbonne ở Paris và giáo sư Petelot. Về sau ông Chesneau là sứ giả nổi tiếng chuyên về Việt Nam và các nước Đông Dương.
Anh Thiếu Sơn bảo Hervochon: “Muốn có hoà bình, phải nói chuyện với kháng chiến. Tất nhiên phải vô Khu”. Savary đồng ý và nhờ Thiếu Sơn dẫn đường.
Thiếu Sơn đưa Savary xuống Tháp Mười và tới tận nơi anh Ba Bình đóng ở Kinh Bùi, xã Nhơn Ninh, nằm giữa hai con kinh lớn Nguyễn Văn Tiếp và Dương Văn Dương. Trong chuyến đi này, anh Thiếu Sơn có sáng kiến mời thêm hai trí thức ở thành cùng đi để Savary có bạn đồng hành. Đó là Luật sư Trịnh Đình Thảo và dược sỹ Nguyễn Văn Liễn.
Tới Thiên Hộ nam trên con kinh Nguyễn Văn Tiếp đoàn gặp bác sĩ Trấn Nam Hưng vừa vô khu kháng chiến không bao lâu. Anh Ba Hưng quê Vĩnh Kim- Chợ Giữa (Mỹ Tho) trước khi ra bưng bị động viên đóng lon “lieutenant – médecin” (trung uý quân y) làm việc tại Bịnh viện Chợ Rẫy. Lúc đó đơn vị quân y này mang tên HEM 415 (Hem là chữ tắt của Hopital d Évacuation Motorisé) từng tham chiến ở chiến trường Tây Âu sang. Anh Ba Hưng nói tiếng Tây giỏi như bẻ củi, khiến Savary thích thú. Té ra nơi bùn lầy nước đọng, dân kháng chiến không thiếu trí thức do Pháp đào tạo. Sau đó Savary được Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát giám đốc Sở Thông tin - tuyên truyền tiếp tại văn phòng là một nhà sàn bên bờ kinh Dương Văn Dương, xã Nhơn Hoà Lạp. Nhà sàn như một nhà sàn trong đồng sâu nhưng cách trang trí thẩm mỹ khiến văn phòng rực sáng, nhưng phong cách hào hoa của chủ nhà càng làm khách từ Kinh thành Ánh sáng đặc biệt chú ý.
Đã được thông báo trước anh Sáu Pháp đưa khách tới thăm trung tướng uỷ viên quân sự Nam Bộ kiêm phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ. Văn phòng anh Ba Bình cũng được sửa sang như nền đất, được trải một lớp tre đập giập để ngăn hơi ầm của đất. Các vách cũng được treo bản đồ quân sự và các lá quân kỳ: rất ra vẻ tổng hành dinh vị tướng tư lệnh.
Khi khách tới, một trung đội bảo vệ mặc ka ki vàng bồng súng dàn chào đúng quân cách. Savary quan sát kỹ từng chi tiết. Ông ta bật cười khi thấy trung đội đi chân đất. Nhưng không đợi giải thích, ông hiểu ngay chiến trường sông rạch, lính tráng không cần giày. Anh Sáu Phát giới thiệu chủ khách. Phía chủ có anh Ba Bình, trưởng phòng quân giới Nam Bộ, kỹ sư Lê Tâm, chánh văn phòng của trung tướng, anh Võ Bá Nhạc.
Tiệc sơ giao do bà Lê Đình Chi nấu nướng được dọn ra. Ông Lê Đình Chi là trưởng phòng quân pháp Nam Bộ đã hy sinh trên đường công tác trước đó một nam.
Sâm banh nổ ròn. Savary đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Trong bưng biền cũng có thứ rượu sang trọng này sao? Anh Ba nâng ly mời khách và nói bằng tiếng Việt. Anh Lê Tâm dịch thật lưu loát.
Về sau Savary mới biết tên Lê Tâm là kỹ sư cầu đường ở Paris về nước kháng chiến sau hội nghị Fontainebleau và được đưa vô đồng Tháp làm cố vấn phá hoại cho trung tướng Nguyễn Bình. Anh Ba Bình nói ngắn gọn. Savary đứng lên nói và nhờ hai anh Sáu Phát và Lê Tâm dịch nhưng anh Phát nói “khỏi phải dịch. Trung tướng nghe được hết”. Savary nói thật trang trọng, gọi anh Ba bằng “mon général” thật là ngọt ngào. Ai nấy đều hân hoan phấn khởi. Nhà chính trị có khác. Không xấc láo như tên Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh Đông Dương D’ Argenlieu từng gọi anh Ba Bình là tướng giặc về sau, Savary tiết lộ “trăm nghe không bằng một thấy. Tôi đã thấy và đã cụng ly với trung tướng Nguyễn Bình mà các tướng lãnh Pháp gọi là “le borgne” (thằng chột).
Savary lần lượt gặp các ông Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thuần, chủ tịch và phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Nam bộ. Ông cũng đi thăm các chợ, trường học, binh công xưởng, nhà in, toà soạn báo Tổ Quốc, phòng triển lãm hội hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Cao Thương v.v... Ông cũng có dịp chạy xuống hầm khi máy bay Spỉtfire lên bỏ bom và bán đại liên xuống xóm nhà hai bên bờ kinh.
Rất may là chuyến đi đó, khách quý không bị bắt như giáo sư Chesneau năm trước vì đụng một cuộc hành quân càn quét của quân đội Pháp.
Khi trở về Paris, nghị viên Alain Savary viết nhiều bài báo ca ngợi kháng chiến và tiên đoán võ lực không thể giải quyết chiến tranh Việt Nam. Chuyến vô Đồng Tháp Mười năm ấy là một kỷ niệm khó phai trong đời ông đại biểu Đảng Xã Hội Pháp Alain Savary.
Chương 54 : Đại hội quân dân y Bưng Kè -Nữ dược sĩ Yên, tôi mê Nguyễn Bình
Cuối 1948 đầu 1949 Nam bộ tổ chức đại hội quân dân y tại Bưng Kè, một địa danh nằm trong xã Mỹ Lộc, giĩra chiến khu Đ. Địa điểm là quân y viện Khu 7 do bác sĩ Võ Cương, chính trị viên Trưởng đoàn 310 làm giám đốc. Về dự đại hội có nhiều bác sĩ, dược sĩ ở ba khu 7, 8, 9 và một số bác sĩ, dược sĩ trong thành nữa. Về mặt tiếp tế, thuốc men và dụng cụ y khoa thì các bác sĩ và dược sĩ Sài Gòn Chợ Lớn đóng góp rất lớn.
Nổi bật trong số dược sĩ này là các anh Hồ Thu, Bùi Quang Tùng, chị Yên.
Anh Hồ Thu sinh 1910 tại Phan Thiết, đậu dược sĩ tại Hà Nội năm 1933. Anh mở tiệm thuốc Tây tại Bến Tre. Anh giao du với nhóm trí thức có tình thần cách mạng nên tham gia kháng chiến ngay từ đầu.
Do quen biết với anh Phạm Văn Sổ, sinh viên dược phụ trách ngành dược trong tỉnh Thủ Đầu Một, anh Hồ Thu đảm trách việc tiếp tế thuốc men cho tỉnh Thủ Đầu Một, sau là Thủ - Biên (hai tỉnh Biên Hoà và Thủ Đầu Một nhập lại). Năm 1949 được thư mời vào Khu 7 họp đại hội quân dân y Nam bộ. Anh Hồ Thu hăm hở theo liên lạc ra khu. Nghe ra quân khu, anh ngỡ là xa xôi diệu vợi, nào ngờ khu ở sát thành phó Sài Gòn nói theo quân sự thì nó nằm trong tầm súng đại bác “vua chiến trường” (35 km). Liên lạc đưa lên Tân Uyên, từ đó đi bộ vô Bưng Kè. Chuyến vô khu lần đầu tiên đã để lại cho anh nhiều kỷ niệm khó quên Nơi rừng xanh đất đỏ anh lại gặp các bạn đồng nghiệp như dược sĩ Phạm Thị Yên. vợ anh Trần Bửu Kiếm và bác sĩ Hồ Văn Huê, Võ Cương...
Còn anh dược sĩ Bùi Quang Tùng là dân Mỏ Cày, Bến Tre, sinh năm 1914, con ông Cai tổng Bùi Quang Đại và là em của lãnh tụ đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu. Bùi Quang Chiêu thứ ba và lớn hơn anh Tùng tới 40 tuổi vì anh Tùng là con dòng sau. Ra Bắc học hai năm, anh Tùng sang Pháp học, đậu dược sĩ Pháp năm 1938. Anh về nước vào năm 1939, khi chiến tranh thế giới sắp nổ ra. Anh mở tiệm thuốc Tây ở Bạc Liêu, gần cầu Quay... Năm 1943 anh sang tiệm thốóc ở Bạc Liêu đế về Sài Gòn: mở tiệm thuốc tây tại đường Tháp Mười trước chợ Bình Tây trong Chợ Lớn...
Ý thức dân tộc nảy ra rất sớm trong đầu anh Tùng. Năm 1930 khi đọc báo ảnh Pháp, tờ L’ Illustration, số đặc biệt kỷ niệm một trăm năm xứ Algérie (Centenaire de l’ Algérie) anh Tùng đã có ý nguyện tranh đấu cho Việt Nam thoát ách đô họ của người Pháp. Lúc đó lại đúng là lúc anh Chiêu “lên hương”: Bùi Quang Chiêu được Pháp phong chức đại biểu Nam Kỳ trong Thượng Hội đồng thuộc địa (Nguyên văn là Délégué de la Cochinchine au Conseil Supérieur des colonies).
Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, Nghiệp đoàn dược sư thay các chuyên viên Pháp ở Sở Y Tế Nam Kỳ, số 59, Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai): Trong Ban chấp hành nghiệp đoàn các anh Lê Quang Thăng, Trần Văn Luân và chị Phạm Thị Yên. Anh Hồ Đắc Ân và chị Yên đề cử Bùi Quang Tùng tiếp quản kho thuốc để phán phối cho các khu.
Công việc này rất khó vì Tây phá bằng cách xé các nhãn hiệu số thuốc chứa trong phòng dược khoa, bịnh viện Grall (Nhi đồng 2)... Ta phải phân chất các loại thuốc và làm nhãn hiệu mới. Tùng lo về chuyên môn còn anh Ân và chị Yên phụ trách chỉ huy chung. Khi Tây trở qua Sài Gòn, chúng bắt được anh Tùng giam hai tuần tại Catinat rồi đưa qua Khám Lớn cho đến đầu 1946 mới thả. Anh mở tiệm thuốc Tây ở chợ Bình Tây và cùng với chị Yên tiếp tế thuốc men vô chiến khu đồng thời đào tạo bào chế viên đưa vô khu 7.
Còn chị Dược sĩ Phạm Thị Yên là vợ Trần Bửu Kiếm những ngày đầu kháng chiến là chủ nhiệm báo Kèn gọi lính. Tờ báo này có nét độc đáo là cả toà soạn với nhà in được đặt trên một chiếc ghe “cà dom” lưu động trên sông rạch khắp miền. Về sau anh Kiếm là Tổng thơ ký Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam bộ. Chị Yên vẫn làm công việc chuyên môn của mình là đào tạo bào chế viên đồng thời tiếp tế thuốc men cho các chiến trường.
Người hăm hở nhất trong cuộc họp Quân dân y Nam Bộ năm ấy là chị Yên. Nhân dịp này chị muốn tận mắt quan sát Chiến khu xanh mà chị mới vừa làm quen trên tờ báo Tiền Đạo, số đặc biệt chiến thắng La Ngà. Năm đó cả ba khu đều thi đua đánh lớn, lập chiến công to. Và cả ba khu đều ra ba tờ báo in chữ chì khổ lớn như báo trong thành. Đó là tờ Tiên Đạo của Khu 7, tờ Tổ Quốc của khu 8 và tờ Tiếng súng kháng địch của Khu 9 và cũng là một điều ngẫu nhiên kỳ diệu là cùng lúc cả ba khu đều có chiến công hiển hách. Khu 7 có chiến thắng La Ngà, Khu 8 có trận Giồng Dứa, khu 9 có chiến thắng Tầm Vu cướp được khẩu đại bác 105 ly.
Bài bút ký “Khách đô thành viếng Chiến Khu Xanh” của anh Bùi Thanh Khiết viết về tình cảm của các cô nữ sinh trường đầm Couvent Des Oiseaux Đà Lạt bị kẹt trong trận phục kích đoàn công-voa nhà binh Pháp và được đưa vô chiến khu vài tuần để tránh cuộc truy kích trả đũa của Pháp. Không khí hào hùng của đoàn quân chiến thắng cộng với tâm hồn mơ mộng của các cô gái Việt học trường đầm tạo một ấn tượng khó phai cho những ai thích phiêu lưu vào những chân trời lãng mạn. Còn một điểm này nữa: mến mộ anh em chiến sĩ đã lập chiến công chị Yên còn mến mộ vị chỉ huy các chiến sĩ này. Báo chí gọi là “Thống nhất” đã viết nhiều về Nguyễn Bình.
Báo Việt Bút viết về một vị tướng đơn phương độc mã từ Bắc vô Nam có chặng phi ngựa vượ. đèo băng suối giữa muôn vàn hiểm nguy. Với đầu óc lãng mạn, Chị Yên hình dung Nguyễn Bình phải là một “Từ Hải hàm én mày ngài, oai phong lẫm liệt!”.
Tại Bưng Kè, giữa rừng già Mỹ Lộc, gặp bác sĩ Võ Cương, bác sĩ Hồ Văn Huê, dược sĩ Hồ Thu, chị Yên hỏi ngay: - Trung tướng Nguyễn Bình có dự đại hội quân dân y này không? Võ Cương đáp: - Trung tướng rất bận, không dự được, nhưng trong ngày đại hội kết thúc, anh Ba Bình sẽ tới nói chuyện với các đại biểu. Chị Yên nói tiếp: - Chuyến đi của tôi vô đây cốt là để gặp trung tướng. Mọi người ngạc nhiên: - Về việc gì? Chị Yên cười lớn: - Chẳng có việc gì hết? Sự thật là tôi mê Nguyễn Bình. Và tôi muốn gặp để xem trong trong có giống như người kỵ mã tôi thấy trong mộng hay không. Mọi người cười rộ lên. Ai cũng thích thú về tánh trung thực, nghĩ sao nói vậy của chị Yên. Bác sĩ Huê hỏi nhỏ: - Chị có dám nói như vậy trrớc anh Trần Bửu Kiếm? Chi Yên gật: - Dám chớ. Anh Kiếm là chồng, còn ông Bình là thần tượng. Hai cái đó khác nhau: chồng thì mình thương mình yêu, còn thần tượng thì mình kính mình phục. Các anh hiểu rõ ý chừ “mê” của tôi chưa?
Chị Yên đã toại nguyện. Trung tướng Nguyễn Bình đã đến chung vui với đại biểu trong liên hoan kết thúc đại hội quân dân y Nam Bộ. Cùng đi với anh Ba có một phụ nữ phốp pháp mà các anh gọi là chị Ba. Sau này chị Yên mới biết là chị Thanh, liên lạc thành kiêm thơ k-v của anh Ba Bình. Khi anh Võ Cương giới thiệu các đại biểu, anh Ba bắt tay từng người, hỏi chuyện công tác rồi chuyện gia đình, thân ái như người trong gia quyến thân tộc.
Đặc biệt với các đại biểu ở thành, anh Ba bắt tay siết mạnh và giữ lâu hơn. Anh có một tình cảm sâu đậm với những gì thuộc về Sài Gòn - Chợ Lớn mà anh đã vài lần đột nhập dưới lốt nhà văn Minh Hương hoặc một phú thương “khách trú”.
Vì có tin Tây tập trung tầu chiến tại Biên Hoà - rất có thể chúng sẽ tấn công chiến Khu Đ nên anh Ba khuyên anh em đại biểu nên trở về đơn vị gấp, các anh Võ Cương, Hồ Thu, Hồ Văn Huê không kịp hỏi chị Yên một câu: “Anh Ba Bình có giống người trong mộng của chị?”
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:13:10 GMT 9
Chương 55: Gặp Nguyễn Đăng Nguyễn Bình ưng -Cuộc họp nào cũng kéo Đăng theo
Kỹ sư Ngô Tấn Nhơn được Trung ương giao chức bộ trưởng Bộ Canh Nông thay ông Huỳnh Thiện Lộc lãnh nhiệm vụ khác. Ông Nhơn giữ kỹ sư Nguyễn Đăng làm phó đổng lý sự vụ Bộ Canh nông. Ông Nhơn tốt nghiệp khoá một còn ông Đăng tốt nghiệp khoá năm. Được đề bạt chức vụ khá cao nhưng ông Đăng không vui. Ông chỉ muốn đánh giặc ngoài mặt trận hơn. Nguyễn Đăng quê ở Suối Đá, một vùng rừng rậm trong tỉnh Tây Ninh, nằm giữa núi Bà và Núi Cậu. (Nay là huyện Dương Minh Châu). Gia đình đủ ăn, Nguyễn Đăng được học bổng nhờ đậu cao lên trung học và đại học. Đậu kỹ sư Nông nghiệp, Nguyễn Đăng được bổ về Cần Thơ làm việc. Đầu 1945 Nguyễn Đăng gặp Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây và tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi còn là sinh viên ở Hà Nội, Nguyễn Đăng đã hoạt động trong Tổng hội sinh viên và sáng lập đảng Dân Chủ. Kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Đăng là một các chỉ huy quân sự trẻ. Khi mặt trận Cần Thơ vỡ sau ba tháng bao vây địch trong thành phố, Thanh Sơn được trung tướng gọi ra Bắc đảm trách việc chi viện cho chiến trường miền Nam. Lúc đó Nguyễn Đăng cũng đi ra Bắc để dự khoá họp đau tiên của Quốc Hội. Nguyễn Đăng đắc cử đại biểu tinh Cần Thơ. Cùng một chuyến đi, Thanh Sơn chọn Nguyễn Đăng làm trợ lý. Ra tới Hà Nội thì tách ra, ai lo việc nấy.
Muốn trở về bộ đội, Nguyễn Đăng điện cho Thanh Sơn bày tỏ nguyện vọng muốn đánh giặc hơn làm văn phòng. Thanh Sơn lúc đó là phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng ở Quảng Ngãi. Thanh Sơn liền can thiệp rút Nguyễn Đăng về giao nhiệm vụ đưa tiểu đoàn Ba Dương vào Nam Bộ.
Đúng ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Pháp đánh Phú Yên. Đầu tháng 1-1947 Bộ Quốc Phòng điện vào bổ nhiệm Nguyễn Đăng làm tham mưu trưởng khu 6 gồm các tỉnh Nam Trung Bộ từ Phú Yên Darlac trở vào. Nguyễn Đăng được giao nhiệm vụ phối hợp lực lượng của Khu 6 và tiểu đoàn Ba Dương chặn mũi tấn công của Pháp ra thị xã Tuy Hoà. Sau mấy trận chiến đấu ác liệt ngay trong những ngày Tết Đinh Hợi. Pháp bị thiệt hại đặng rút lui vào Núi Hiềm, gần Đèo Cả.
Tháng 4-1947, biết được một đoạn đường trong vùng núi từ Khánh Hoà vào Ninh Thuận còn bị tắc do địch khống chế, làm cho nhiều cán bộ lãnh đạo và nhiều tài liệu quý của Trung ương đưa vào Nam Bộ bị dồn đọng lại Phú Yên, Nguyễn Đăng đề nghị Uỷ ban kháng chiến Miền Nam giao cho mình nhiệm vụ mở thông đoạn đường này và sau đó cho được về luôn chiến trường Nam Bộ. Được chấp thuận, Nguyễn Đăng bàn giao ngay nhiệm vụ tham mưu trung Khu 6, nhận một trung đội đi mở đường. Sau hai tháng, đường thông. Đoàn cán bộ Trung ương do ông Thanh Sơn phụ trách hành quân vào Nam có Tiểu đoàn Ba Dương hộ tống. Nhưng vì đoàn đông, đến khu căn cứ tỉnh Khánh Hoà thì bị lộ. Pháp huy động lực lượng từ Nha Trang lên, từ Ban Mê Thuột xuống. Từ Đà Lạt ra bao vây chặn quân ta. Nguyễn Đăng đề xuất ý kiến chia đôi lực lượng vũ trang, một bộ phận lấy tên là bộ đội Ba Dương do Nguyễn Đăng và một số cán bộ trực tiếp chỉ huy, chủ động tấn công địch để thu hút địch vào mình, tạo điều kiện cho bộ phận còn lại lấy tên là bộ đội Hùng Phước mở đường đưa đoàn ông Thanh Sơn vào Nam an toàn. Trong hai tháng trời Nguyễn Đăng cùng đơn vị chiến đất liên tục, có ngày đụng địch ba trận. Sau cùng Tiểu đoàn Ba Dương về tới Bà Rịa, rồi Biên Hoà, Nguyễn Đăng lần lượt gặp các chỉ huy Miền Đông như Hứa Văn Yến, Nguyễn Thuận Thảo, Chi đội 16, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Lung, Chi đội 10 và tư lệnh Khu 7 Nguyễn Bình.
Lúc đó anh Ba đóng ở Giồng Lức. Nguyễn Đăng báo cáo: - Sứ mạng tôi đã hoàn thành. Tôi đã đưa Tiểu đoàn Ba Dương về với Đồng Tháp Mười. Nguyễn Bình gật đầu: - Tôi đã được điện của anh Tám Nghệ báo trước là ông kỹ sư đã cầm chân địch cho đoàn ông Thanh Sơn vào Nam Bộ an toàn. Về Tiểu đoàn Ba Dương, tôi thấy nên bố trí ở Khu 7 là đúng vị trí, vì Khu 7 là muc tiêu số một của thằng Tây. Ông kỹ sư nghĩ thế nào? Nguyễn Đăng bảo: - Vấn đề đó xin đề nghị Khu trưởng bàn với ông Thanh Sơn. Tôi chỉ làm nhiệm vụ đưa Tiểu đoàn về tới Đồng Tháp Mười như đã được định. Nguyễn Bình gật gù: - Tôi sẽ bàn với đồng chí Thanh Sơn. Vài ngày sau Nguyễn Đăng được Nguyễn Bình cho biết: - Tôi đã thống nhất với đồng chí Thanh Sơn là để - Tiểu đoàn ở đây. Ta nên xúc tiến việc bàn giao.
Trong những ngày ở Nam Bộ, Nguyễn Đăng thấy vài việc không ổn như cùng một lúc có hai chức trưởng ban quân sự Nam Bộ tuy danh xưng khác nhau: Thanh Sơn là trưởng ban quân sự Nam Bộ còn Nguyễn Bình là uỷ viên quân sự Nam bộ. Làm sao hai vị này chẳng giẫm chân nhau?
Lúc đó còn có nạn dòm ngó nhau giữa Cộng sản và Dân chủ. Nguyễn Đăng theo Dân chủ. Năm 1944, Nguyễn Đăng là một trong những sinh viên sáng lập ra đảng Dân chủ Việt Nam, trong mặt trận Việt Minh. Năm 1946, tại đại hội Đảng Dân chủ lần đầu tại Hà Nội, Nguyễn Đăng cùng các bạn Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm, Vương Văn Lê, Nguyễn Việt Nam được bầu vô Ban chấp hành Trung ương. Để giải quyết các xung đột giữa hai nhóm, một ban hoà giải được lập ra gồm có các ông Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Đăng, Vương Văn Lễ bên dân chủ, Ung Văn Khiêm, Thượng Vũ, Nguyễn Văn Kỉnh và Hà Huy Giáp bên Cộng sản.
Nguyễn Bình đã được Vũ Huy Xứng, Phòng chính trị khu 7 kết nạp vào năm 1947 nhưng nhiều người vẫn đinh ninh ông Bình là Nguyễn Phương Thảo, đảng viên Quốc Dân Đảng. Có chuyện đáng kể là Nguyễn Bình thích Nguyễn Đăng. Trong các cuộc họp, luôn luôn ông Ba Bình đề cử “ông kỹ sư” làm thư ký. Nhiệm vụ của thư ký hội nghị là làm biên bản ngay tại chỗ, tóm tắt các ý kiến phát biểu và kết luận của chủ toạ, xong rồi đọc cho cử toạ nghe để thông qua, sau cùng đưa cho chủ toạ ký.
Với trình độ đại học thì làm thư ký hội nghị thì công việc đó không có gì là khó khăn, nhiều người cười, cho việc trung tướng đề cử Nguyễn Đăng làm thư ký hội nghị là “giết gà mà dùng dao mổ trâu”. Dù vậy không bao giờ Nguyễn Đăng từ chối đề cử của anh Ba. Do vậy mà trong một thời gian một số biên bản hội nghị đều mang chữ ký của chủ toạ Nguyễn Bình và thư ký Nguyễn Đăng. Thế là thiên hạ đồn Nguyễn Đăng đã được “mắt xanh” trung tướng Nguyễn Bình chấm.
Tin này tới tai đồng chí Lê Duẩn lúc bấy giờ là bí thư xứ uỷ. Anh Ba Duẩn, trước đây đã chú ý tới “ông kỹ sư” trong giới chỉ huy quân sự ở Nam Bộ, Nguyễn Đăng là người trí thức say mê đánh giặc sau luật sư Thái Văn Lung hy sinh quá sớm. Anh Ba Duẩn chọn Nguyễn Đăng làm mô hình để nghiên cứu về người trí thức miền Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Nhận thấy Nguyễn Đăng có đủ điều kiện để trở thành đảng viên cộng sản, anh Ba Duẩn đặc biệt quan tâm tới người cán bộ quân sự trí thức hiếm có này. Nhân đồng chí Dương Minh Châu hy sinh, anh Ba Duẩn tính đưa Nguyễn Đăng về làm chủ tịch Tây Ninh. Việc đề bạt này cũng hợp lý vì tâm lý cử người của địa phương, Nguyễn Đăng là dân Tây Ninh. Nhưng Nguyễn Đăng lại không khoái chức vụ ấy, anh chỉ thích đánh giặc thôi. Khi anh Ba Duẩn gợi ý, Nguyễn Đăng nói rõ ý định của mình. Anh Ba Duẩn bỏ ý định đưa Nguyễn Đăng làm chủ tịch Tây Ninh. Trong việc bố trí lại Bộ Tư lệnh Nam Bộ (bỏ tên cũ là Ban Quân Sự Nam Bộ do Thanh Sơn đảm trách) Nguyễn Bình là tư lệnh, Dương Quốc Chính là chánh uỷ, Nguyễn Đăng làm tham mưu trưởng.
Nguyễn Đăng nói riêng với anh Ba Duẩn: “Tôi thấy không được. Tôi không hợp với trung tướng Nguyễn Bình”. Anh Ba Duẩn lộ vẻ ngạc nhiên: sao tôi nghe nói hai người ăn ý lắm? Nguyễn Đăng cười kể chuyện ông Bình thích đề cử anh làm thư ký hội nghị. Chỉ có thế thôi. Còn về sinh hoạt thì anh không chịu được tác phong huynh trưởng của ông Bình và nhất là chung quanh đám em út của anh Ba Bình có cả người trong thành ra. Là chỉ huy quân sự, Nguyễn Đăng giữ gìn bí mật như giữ gìn con ngươi của mình. Biết bao chiến dịch chuẩn bị chu đáo mà thất bại vì bí mật bị lộ trước giờ nổ súng. Dù Nguyễn Đăng thoái thác vẫn có quyết định bổ nhiệm Nguyễn Đăng tham mưu trưởng Nam Bộ. Anh Ba Duẩn bảo Nguyễn Đăng: “Cố gắng làm thử đi. Có gì báo cáo với tôi!”.
Hai tháng sống ở Bộ tư lệnh Nam Bộ đóng ở Kinh Bùi, Kinh Dương Văn Dương, sát Nguyễn Bình, Nguyễn Đăng tự thấy không thể hoà đồng với không khí còn nhiều mặt chưa hợp nhau nên xin bố trí lại. Anh Ba Duẩn đề nghị Bộ Quốc Phòng cử Nguyễn Đăng giữ chức Tư lệnh phó Khu 8. Lúc đó Bộ Tư lệnh Khu gồm có các ông Trần Văn Trà, tư lệnh, Nguyễn Văn Quạn, phó tư lệnh, Nguyễn Văn Vịnh chánh uỷ.
Kỷ niệm khó quên trong đời Nguyễn Đăng là được anh Ba Duẩn kết nạp vô Đảng Cộng sản vì theo nguyên tắc kết nạp một uỷ viên trong Ban Chấp hành Trung ương một đảng khác, phải là cấp Trung ương. Cuối năm 1949, anh Ba Duẩn nói: - Từ lâu tôi đã chú ỷ tới đồng chí. Đồng chí là một trí thức mà tinh thần yêu nước đã nảy nở trong thời kỳ tiền cách mạng... Đồng chí vào Đảng Dân Chủ là phải. Nhưng để tiện việc đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng, đồng chí nên đứng vào Đảng của Bác.
Năm 1950, khi chi bộ Đảng họp làm lễ kết nạp Nguyễn Đăng, anh Ba Duẩn dự. Anh Ba đã phát biểu ý kiến, chỉ thị về các mặt phấn đấu để làm tròn nhiệm vụ một đảng viên Cộng sản, hướng dẫn, giáo dục, việc rèn luyện đạo đức, tác phong, gắn chặt với giai cấp công nhâu, nhất là mình thuộc giới trí thức Những lời của anh Ba Duẩn đã đi vào lòng Nguyễn Đăng từ ngày ấy.
Chương 56: Về Tháp Mười dự khoá đại đội -Hai Giỏi làm thư ký Nguyễn Bình
Vào cuối năm 49 trung tướng Nguyễn Bình có thư ký mới. Đó là một thanh niên hăm hai tuổi quê ở Long Điền Bà Rịa, tên là Dương Văn Giỏi. Hai Giỏi học tới năm thứ tư trường trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn thì đụng Cách mạng tháng Tám. Năm 1944 Giỏi đã gặp thầy giáo Dương Văn Xá viết báo ký tên Nam Dương là tay hoạt động cách mạng nổi tiếng trong tỉnh Bà Rịa. Tháng 7-1944, Nam Dương phổ biến chương trình Việt Minh cho Hai Giỏi. Hai Giỏi kéo nhóm học sinh Pétrus của anh ở Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ theo Việt Minh. Nhóm này gồm có hai anh em Trần Thượng Thu và Trần Thượng Thủ con của thầy giáo Trần Thượng Tứ, Hoàng Việt, Nghiêm Phú Phi, Nguyễn Văn Tần, ở Vũng Tàu, Nguyễn Văn Tuấn ở Long Hương, Bà Rịa. Giữa 1946 Hai Giỏi gia nhập bộ đội lưu động Hoàng Thọ. Đầu 1949, trên đường từ Bến Cát về Phú Mỹ để rèn cán chỉnh quân, Hai Giỏi bị thương khi băng qua đường sắt cặp con lộ Đông Dương. Bộ đội lưu động Hoàng Thọ được bổ sung để trở thành Tiểu đoàn 303, đơn vị chủ lực của Khu 7. Lễ ra mắt của Tiểu đoàn là ngày 19-5-1949. Vài tuần sau, Hoàng Thọ tuy vẫn là chỉ huy trưởng bất mãn bỏ ra đi, kéo theo vài người thân tín như Tứ, Kính, Thảo, Giỏi. Kính là chính trị viên đại đội, Giỏi là trung đội trưởng, Tứ là thư ký đại đội, Thảo là trung đội trưởng. Riêng về Giỏi thì khi Hoàng Thọ rủ về Nam Bộ dự khoá đại đội, Giỏi vừa bình phục nên muốn xưống Khu 8 để an dưỡng. Anh thận trọng hỏi ý chính trị viên Tiểu đoàn là Trần Đình Cửu. Anh Chín Cửu khuyên Giỏi nên đi dự khoá đại đội ở Khu 8 đồng thời bồi dưỡng để mau phục sức. Việc ra đi bất ngờ của Hoàng Thọ và các cán bộ đại đội làm cả tiểu đoàn xôn xao. Đại đội trưởng Đoàn Duy Ngơi vội báo với anh Chính Cửu. Anh Cửu nói: “Chớ làm to chuyện. Hoàng Thọ không chạy ra thành đâu. Hoàng Thọ cũng chẳng lên Khu. Hoàng Thọ về Nam Bộ thôi”. Trần Đình Cửu biết rõ Hoàng Thọ hơn ai hết vì chính anh là người kết nạp Hoàng Thọ một tháng trước khi thành lập Tiểu đoàn 303 chủ lực của Thủ Biên. Anh em chọn cho Hoàng Thọ bí danh Hai Bằng với ngụ ý: Hai là anh Hai, là người anh cả của bộ đội bấy lâu mang tên Hoàng Thọ, còn Bằng là bằng lòng vô Đảng. Hoàng Thọ vô Đảng vì lý chứ không phải vì tình. Là một “tướng lĩnh” chuyên đánh đấm, Hoàng Thọ không khoái chính trị. Anh không ưa nói chuyện đảng. Anh cũng có lý do của anh: sự nghiệp đánh Tây cứu nước là của toàn dân. Bày ra đảng này đảng kia là làm suy yết lực lượng tác chiến. Sự vụng về của cán bộ chi viện Trần Văn Quán, lấy tên là Hoàng Trường, càng làm cho Hoàng Thọ tin rằng mình nghĩ đúng. Hoàng Thọ đi hội nghị một thời gian về thấy có chuyện lạ trong đơn vị mình. Chuyện lạ đó là một số đội viên sanh hoạt riêng lẻ, bí mật, khi Hoàng Thọ điểm danh thì vắng mặt. Hạch hỏi mới biết họ sinh hoạt Đảng. Hoàng Thọ càng tin chắc đơn vị có sự chia rẽ từ khi có Đảng. Tệ hại hơn nữa là Hoàng Thọ bắt gặp Hoàng Trường lục xét giấy tờ của mình. Thế là cơn giận bấy lâu dồn nén nổ tưng: “Hoàng Thọ này đi kháng chiến là vì dân vì nước, đâu có ngờ ngày nay lại có cái nạn đảng này phái nọ. Đem mà bắn cha nó hết ba cái đảng phái này cho nó rồi!”
Cơn thịnh nộ của Hoàng Thọ thấu tới tai tham mưu trưởng khu là Lê Đức Anh. Khi gặp Hoàng Thọ, ông Anh phê bình ngay: “Hoàng Thọ là công nhân mà phản lại công nhân”. Hoàng Thọ bực lắm, cạo đầu để biểu hiện cơn bực của mình. Nhưng hãy trở lại chuyện đi Nam Bộ của Hai Giỏi.
Tháng 6-1949 Giỏi cùng các bạn Thảo, Kính, Hổ dự khoá đại đội. Thời gian sau đó tin Hoàng Thọ được trung tướng Nguyễn Bình giới thiệu về Bắc nhưng Hoàng Thọ đi vài chặng thì đổi ý trở về Mỹ An, sang một quán lá kề bên trạm gác tại ngã tư kinh Nguyễn Văn Tiếp và kinh Tháp Mười. Với số tiền hai ngàn đồng Đông Dương ngân hàng, Hoàng Thọ sống như một Mạnh thường quân, cán bộ nào đi công tác ngang Mỹ An cũng được Hoàng Thọ mời vô quán ăn uống đãi đằng. Hai Giỏi biết Hoàng Thọ đã trở thành một tay bất mãn mà cả “đại huynh” Nguyễn Bình cũng bó tay uốn nắn được nữa. Anh lấy làm buồn cho một tay chỉ huy đã lập nhiều chiến công vang dội đang tự giết cuộc đời chính trị của mình bằng rượu và sự bất mãn.
Học xong khoá đại đội, Hai Giỏi được giới thiệu về văn phòng trung tướng Nguyễn Bình. Thấy Giỏi có trình độ văn hoá khá, anh Ba thu nhận ngay, giao nhiệm vụ thư ký ghi chép. nghe đài phát thanh tiếng Pháp để báo mỗi đêm. Đồng thời đảm trách luôn việc bảo vệ văn phòng trung tướng.
Không bao lâu văn phòng trung tướng dời về Khu 9 vào năm 1950. Thoạt tiên ở Cá Lốc, trong quận Long Mỹ, sau về sông ông Dẻo, gần Cầu Đúc, quận Gò Quào. Trong thời gian này anh Ba Bình giải phẫu con mắt trái đã hư từ năm 1935 lúc ở tù Côn Đảo - năm đó còn mang tên Nguyễn Phương Thảo, bị Quốc Dân Đảng thanh trừng về tội phản Đảng.
Bác sĩ Thân, một bác sĩ già theo kháng chiến, đã giải phẫu cho anh Ba. Có một chuyện vui: chị Thanh kề cận săn sóc anh Ba đã phải đút thức ăn tận miệng vì cả hai mắt đều bị quấn băng. Không rõ chị Thanh nghĩ ngợi điều gì mà đút muỗng vô mũi anh Ba làm anh Ba kêu lên: “Mồm ở đây này, sao cứ đút vào mũi người ta!”.
Tiếp theo đó là một chuyện bực: Khi vết mổ lành, anh Ba tiếp tục nếp sinh hoạt như thường lệ tức mỗi sáng tập thể dục rồi bơi lội dưới sông. Hai Giỏi có nhiệm vụ ở trên bờ nghe ngóng máy bay. Một hôm có tiếng phi cơ rất gần. Hai Giỏi báo động: “Máy bay nghe anh Ba”. Thay vì lên bờ mặc quần áo, anh Ba lại rầy: “Nó ở tận đâu đâu! Cạu nhát quá!”. Dân đánh giặc mà bị chê “nhát”, Hai Giỏi tự ái: - Tôi có trách nhiệm bảo vệ anh Ba. Có hơi máy bay thì tôi phải cho anh Ba hay. Vậy thôi! Đâu phải nhát!
Đó chỉ là chuyện nhỏ, nhưng lại là giọt nước làm tràn tách nước. Từ lâu Hai Giỏi không khoái tác phong huynh trưởng của anh Ba. Chung quanh anh rất nhiều em út, mà phần đông là nữ. Có tin đồn là gián điệp trẻ đẹp trà trộn trong số em út ở thành.
Thực hư thế nào chưa biết, nhưng rõ ràng là không khí đó không hợp với Hai Giỏi. Đêm đó anh bỏ ra sóc Miên sau khi viết thư xin trở về đơn vị cũ. Nửa đêm có người của anh Ba đi tìm mời Hai Giỏi về. Anh Ba bắt tay Giỏi cười nói “Hồi sáng mình nóng nẩy làm chạm tự ái cậu. Mình xin lỗi cậu”. Hai Giỏi vuốt giận ở lại với anh Ba.
Không lâu sau, văn phòng trung tướng Nguyễn Bình lại lên miền Đông. Đi lòn khu vực Hoà Hảo thật gian nan, lại phải vượt hai con sông Hậu và Tiền. Hai Giỏi chịu trách nhiệm bảo vệ cả đại đội. Không thể nào quên được những đêm vượt trường giang, trong bóng đêm, bờ bên kia tăm tăm mù mù trong màn sương hơi nước. Hai Giỏi không quên hai anh Thới và Danh là trưởng và phó huyện đội Ô Môn đã bố trí những chiếc ghe đặc biệt bốn chèo, tám giầm để đưa văn phòng Trung ương qua sông. Những chiếc ghe này lướt sóng như ca-nô. Lúc đó Hai Giỏi có một ý nghĩ ngộ nghĩnh: nếu sau này mình còn sống, mình phải phục chế một chiếc ghe như thế để chưng trong viện bảo tàng kháng chiến cho con cháu mình xem cho biết kháng chiến ra làm sao.
Tới Đất Cuốc, Hai Giỏi tính xin trở về đơn vị cũ thì dịp may xảy đến: Có tin Trung ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc. Đúng lúc đó Hai Giỏi gặp thiếu tướng Dương Quốc Chính. Anh nói: - Anh Ba Bình đề nghị tôi cùng đi ra Bắc với anh. Nhưng tôi kém sức khỏe, sợ đi không nổi. Tôi tính xin trở về đơn vị cũ.
Ông Chính nói: “Vậy thì cậu cứ ở đây với tôi”.
Thế là nhưng ngày sống kề cận anh Ba Bình của Hai Giỏi chấm dứt vào lúc đó.
Chương 57: Trong ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc -Bao nhiêu đêm thắc mắc suy tư
Giữa năm 1951 có tin Trung ương gọi trung tướng Nguyễn Bình ra Bắc. Bức điện rất vắn tắt. Những người ở ngay trong văn phòng anh Ba cũng không hiểu lý do triệu hồi một vị tướng mà Bác Hồ đã giao Nam Bộ trong những ngày “ngàn cân treo sợi tóc”.
Hai Giỏi là thơ ký kiêm bảo vệ của anh Ba cũng không nắm rõ nguồn cơn. Chỉ thấy anh Ba đăm chiêu nghĩ ngợi. Có lẽ anh Ba tính sổ những gì đã làm được và những gì chưa làm được cho Nam Bộ. Dường như linh tính báo trước là chuyến về Bắc lần này là một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời của mình. Sau mấy ngày suy tư, anh Ba quyết định tuân lịnh thượng cấp. Nguyên tắc mà anh tuân thủ suốt đời chẳng phải là kỷ luật đó sao? Rất có thể mình về Bắc rồi lãnh một công tác khác ở đâu đó chứ không được trở vào Nam. Có lẽ Trung ương đã biết những va chạm mà mình đã gặp trong năm sáu năm hoạt động trong Nam. Đánh địch, mình đã lập nhiều chiến công, đặc biệt qua thành tích diệt ác trừ gian của mười đội công tác thành. Bọn bồi bút Hiển Sĩ, tên thực dân De la Chevrotière, tên gian Trần Tấn Phát, con cáo già Bazin lần lượt gục ngã dưới làn đạn của anh em Công tác thành và đội Công an Xung phong.
Rồi hàng chục sĩ quan hải quân, không quân của địch bỏ xác trong rạp chiếu bóng Majestic, các nhà hàng La Pagode, Impérial, Câu lạc bộ sĩ quan không quân... Rồi các trận đót kho đạn Thị Nghè, kho bom Phú Thọ... Tóm lại Mười Ban công tác Thành là một đội quân tinh nhuệ gieo kinh hoàng trong sào huyệt địch. Đúng là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bình: đem chiến tranh du kích vào tận trung tâm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nhưng bên cạnh những chiến công lại là những mất mát, những hy sinh lớn lao của nhiều đồng chí trung kiên ở cơ sở bí mật. Vấn đề thứ hai là việc thu phục giới giang hồ Bình Xuyên. Kéo được các bộ đội Ba Dương - Năm Hà, Tám Mạnh - Hai Vĩnh, Bảy Viễn, Mười Trí là cả một nghệ thuật, kết hợp bản lĩnh sáng tạo. Giang hồ là con dao hai lưỡi, không khéo sử dụng có thể đứt tay như chơi. Thế mà mình đã sử dụng được, Nhưng vấn đề Bình Xuyên chỉ hay có khúc đầu còn khúc đuôi thì thật đáng tiếc. Bảy Viễn đã đầu Tây. Việc này chắc phải có thời gian để đánh giá.
Còn gì nữa nào? À, còn vụ Hoàng Thọ. Mình đã quá nuông chiều cậu này. Nuông chiều vì một lẽ: Nó là thằng em út đồng hương có nhiều điểm giống mình: anh hùng hảo hớn, trung thực ăn nói ngay thẳng. Khi Hoàng Thọ bất mãn bỏ về tiểu đoàn 303 về tìm mình, mình đã khuyên nó về Bắc lập lại sự nghiệp. Mình đã ký giấy giới thiệu và cho tiền lộ phí.
Tưởng đã giúp được thằng em khỏi nghịch cảnh, nào ngờ đi vài chặng, gặp bạn bè xúi bậy, nó lại đổi ý, trở lại Mỹ An mở quán làm đủ thứ chuyẹn “ba-gai” trên đời. Đến khi nhận yêu cầu phải ký giấy bắt Hoàng Thọ, mình hết sức khổ tâm. Nó đã nhiều lần cứu mình thoát hiểm, vụ Sáu Section mưu sát mình ở Lò Đường, rồi vụ Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt, không có Hoàng Thọ thì Nguyễn Bình đã xanh cỏ từ lâu. Mình suy nghĩ mấy ngày trước khi hạ bút ký bắt Hoàng Thọ. Mình dư biết đó là hạ sách, vì với Hoàng Thọ, chỉ dùng tình cảm mới thu phục được nó. Cho nên ký giấy bắt Hoàng Thọ cũng đồng nghĩa với ký bản án tử hình Hoàng Thọ. Đau xót quá! Nỡ lòng nào đẩy một thằng em út như Hoàng Thọ vào chỗ chết!
Nhưng biết làm sao đây? Không ký thì càng mang tiếng Nguyễn Bình bao che đàn em, thậm chí xúi đàn em khinh thường và coi rẻ thượng cấp.
Chuẩn bị lên đường. anh Ba viết thư tạm biệt các bạn từng sống chết với nhau trên chiến trường miền Đông gian lao mà anh dũng. Anh nhớ ngay tới luật sư Nguyễn Thành Vĩnh và luật gia Lê Đình Chi. Ông Chi không may bị máy bay bắn chết, còn ông Vinh là người trí thức Sài Gòn đã tạo điều kiện cho anh Ba đột nhập Sài Gòn lần đấu tiên vào đầu năm 1946. Ông Vĩnh đã khiến anh Ba khâm phục khi nhà trí thức tư sản này đã yêu cầu anh cho một tiểu đội hộ tống ông về ngôi nhà tổ phụ ở Trung Lương đào hai trăm lượng vàng để làm công quỹ lúc Nam Bộ cạn tiền nuôi quân. Nhờ số vàng đó ta mở được các chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh... Anh Ba soạn một số ảnh có anh và ông Vĩnh - chụp trong các hội nghị lễ tấn phong trung tướng bên bờ kinh Dương Văn Dương, dán vào album nhỏ gọi là có quà mọn lúc chia tay. Trong thư anh Ba cũng nhắc vụ về thành ba ngày ở ngay trong nhà ông Vĩnh, 35 đường Pierre Đakao và không quên chúc sức khỏe bạn để tiến mạnh trên đường giải phóng dân tộc và nhân loại khỏi tham tàn bóc lột của tư bản đế quốc.
Người thứ hai được anh viết thư là ông Lâm Thái Hoà, phụ trách pháo binh. Anh Ba viết đến năm sáu trang, bày tỏ nỗi lòng của người đi xa mà không biết có hy vọng còn gặp lại những người thân. Tất nhiên anh Ba không thể quên Tám Nghệ là vị “tướng trời” theo lối nói của người dân Tân Hoà, Mỹ Lộc, còn anh thì gọi Tám Nghệ là thi tướng vì Tám Nghệ có biệt tài vừa đánh giặc vừa làm thơ. Làm sao quên được bài thơ “Bờ sông xanh chiều hôm buộc ngựa, kiếm gối đầu theo gió thả hồn cao”. Khi quyết định về Bắc, anh Ba đã yêu cầu Trung ương cho Khu trưởng Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ cùng đi. Nhưng không rõ vì lý do gì đề nghị đó không được Trung ương chấp nhận. Người được chọn để cùng đi với anh là chánh văn phòng Bộ tư lệnh Nam Bộ Võ Bá Nhạc.
Với anh Ba thì ông Nhạc là người phụ tá thân thiết, làm việc với anh ngay từ đầu, lúc anh Ba tới Bến Vịnh là vàm Sông Bé đổ ra sông Đống Nai. Ông Nhạc bấy giờ là quản đốc sở cao su Bến Vịnh. Ông đã hiến sở cao su cho anh Ba làm văn phòng chỉ huy, còn ông thì phụ trách văn phòng đó luôn. Cũng được? Trên đường thiên lý có bạn tâm đồng thì đường dài cũng hoá ngắn...
Thấm thoát đã đến ngày lên đường. Bài thơ nhớ Bắc của Tám Nghệ lại vang vọng bên tai: Ai về Bắc, ta đi với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Chương 58; Công tác thành về tận Sa Đéc-Diệt Chanson, thủ hiến Nam Phần
Tháng 7-1951, đúng vào lúc trung tướng Nguyễn Bình sửa soạn lên đường ra Bắc thì một chiểu công của Ban công tác Thành tới tai người anh cả của binh chủng tinh nhuệ này. Một cảm tử của ta đã diệt được Thủ hiến Nam phần Thái Lập Thành và tướng Chanson, uỷ viên cộng hoà Pháp (tương đương Thống đốc Nam Kỳ trước kia). Chiến công này xảy ra tại thị xã Sa Đéc, ngay lễ đài dựng trước toà hành chánh tỉnh.
Hãy nghe chị Lưu Hồng Cúc báo cáo nội vụ: - Tôi là Lê Thị Chẳn sanh đẻ tại Phú Hữu, Cái Tàu Hạ, Sa Đéc nhưng quê nội ở ngã tư Long Hồ, Vĩnh Long. Mười sáu tuổi lên Sài Gòn làm mướn và được anh Bảy Khám gốc Vĩnh Long giới thiệu vô đội cảm tử thành. Về sau được điều về đội 963 hoạt động trong thị xã Vĩnh Long. Tại đây tôi lấy bí danh Lưu Hồng Cúc. Tôi thứ mười nên anh em gọi là Mười Cúc.
Tổ của tôi chỉ có bốn người. tôi là tổ trưởng; ba người kia là các anh Mười Kiên quê ở Trà Vinh, Hùng quê ở Vĩnh Long và Hạnh cũng ở Vĩnh Long. Chỉ huy đội 963 lúc đó là anh Võ Quốc Quân. người đồng hương với tôi (Cái Tàu Hạ). Khi anh Quân hy sinh, anh Trần Xuân Vỹ quê ở Bến Tre lên thay. Để tiện hoạt động, tôi dựa vào đạo Cao Đài. Tôi giao thiệp với lễ sanh Thanh Châu Ơn là người “có máu mặt” trong tỉnh Vĩnh Long. Ông này là chức sắc cao cấp trong đảng Việt Nam Phục Quốc Hội. Tôi thầu chở muối cho Cao Đài để bí mật chở súng giấu dưới muối đưa về Cái Tàu Hạ, từ đó đưa xuống ghe vô căn cớ. Một lần bị lính gác cầu Lẩu chặn xét, tôi cho người gọi lễ sanh Thành Châu Ơn can thiệp “qua truông” được.
Ba ngày trước vụ mưu sát, trinh sát ta được tin tướng Chanson và Thủ hiến Nam phần Thái Lập Thành đi kinh lý Sa Đéc để trấn an tinh thần dân chúng sau những tổn thất dồn dập: ngày 28-4-1951, tướng Harteman, tư lệnh không quân Pháp đi máy bay B26 bị mất tích ở Tiên Yên. Ngày 30-5-1951 con tướng De Lattre là trung uý Jean de Lattre tử trận ở Ninh Bình.
Hay tin này, anh Trần Xuân Vỹ bàn với tôi mưu sát hai nhân vật quan trọng này. Đơn vị có hai trái lựu đạn OF. Chỉ cần một người cảm tử dám mang hai trái lựu đạn này tới lễ đài. Anh Mười Kiên xung phong lãnh trách nhiệm này. Tôi bàn bạc mọi việc với “Kinh Kha” mấy ngày và lo kiếm bộ đồ sắc phục Phục Quốc với phù hiệu để anh Mười Kiên cải trang mà vô lọt khán đài danh dự tiếp cận tướng Chauson và Thái Lập Thành.
Ngày trọng đại đã đến. Cả tổ cùng đi để động viên anh Mười Kiên. Bất ngờ làm sao, vào phút chót anh Kiên “sọc dưa”, Hùng đi kèm bực mình nói: “Không dám làm thì đưa hai trái đó cho tôi”. Anh rút chốt cả hai trái thọc vô hai túi quần xăm xăm đi tới khán đài danh dự. Nhờ có bộ sắc phục Cao Đài mà anh Hùng không bị lính gác ngăn chặn. Cách tướng Chanson ba thước, Hùng đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Lựu đạn nổ tung tức khắc. Trái thứ hai nổ tiếp theo. Tất cả nhốn nháo. Cuộc lễ tự động giải tán. Thái Lập Thành chết tại trận còn Chanson chết trên đường bay về Sài Gòn.
Chúng lục xét các hồ sơ của Phục Quốc Hội thấy có tên Cúc, Kiên và Hạnh. Tôi bị bắt nguội. Chúng giải tôi về Toà Thánh Tây Ninh cột dưới gốc cau tra tấn ác liệt. Tôi cắn răng chịu đau, không hề khai rồi bí mật nhắn lễ xanh Thanh Châu Ơn lên Tây Ninh xin lãnh về “để giáo dục”.
Rất tiếc là về tráng sĩ Kinh Kha Việt Nam đã hy sinh vì đại nghĩa, chị Cúc chỉ biết anh tên Hùng, thậm chí họ của Hùng chị cũng quên. Đúng Hùng là một chiến sĩ vô danh mà thị xã Sa Đéc phải dựng tượng để hậu thế noi gương.
Trong lịch sử kháng chiến, chưa có một vụ ám sát nào mà cả Phòng Nhì lẫn Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đều mù tịt như vụ cảm tử thành tên là Hùng diệt tướng Chanson và thủ hiến Thái Lập Thành tại thị xã Sa Đéc ngày 31-7-1951. Báo chí Sài Gòn đều đổ tội cho Cao Đài và đảng Việt Nam Phục Quốc Hội.
Tin diệt tướng Chanson, uỷ viên Cộng Hoà Pháp ở Nam Phần đến với anh Ba Bình khi anh rời chiến khu Dương Minh Châu. Đây là một an ủi, là một món quà quý báu tiễn chân anh. Tướng Chanson là uỷ viên Cộng hoà Pháp thứ hai bị Ban công tác Thành “giũ sổ”. Uỷ viên Cộng hoà Pháp thứ nhất bị diệt là đại tá Hanh Imfelt, một người Pháp gốc Thuỵ Sĩ làm uỷ viên Cộng Hoà tại Lào nhưng lại lấy Sài Gòn làm trung tâm hoạt động. Anh thợ hớt tóc trẻ - chưa tới hai mươi tuổi - Võ Hồng Tâm đã diệt tên này trong phòng số 28 khách sạn Hôtel des Nations, đường Charner (Nguyễn Huệ), giữa Sài Gòn...
Với nhưng tin chiến thắng ấy anh Ba Bình ra đi trong niềm vui của người đã gieo hạt giống, tin tưởng mùa màng sẽ tốt tươi sau khi mình nằm xuống. Trước tình cảm cao đẹp ấy, các va chạm về nhân tình thế thái bỗng trở nên nhỏ nhen không đáng bận tâm. __________________
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2010 9:23:15 GMT 9
Chương 59: Đêm cuối cùng vợ chồng ngăn cách -Chị Thanh buồn ông khách vô duyên
Đêm nay là đêm cuối cùng, sáng mai anh Ba sẽ lên đường. Đường xa vạn dặm, từ Nam ra Bắc, biết bao giờ mới tới? Và có được trở vào Nam không? Vợ chồng chẳng nào tái hợp? Đó là những thắc mắc lo âu của chị Thanh. Chị tính trong đêm sẽ nói tất cả những lo toan của mình, nhưng một sự kiện bất ngờ làm đảo lộn chương trình của chị. Có một ông khách tới thám bất ngờ.
Cuộc chia tay lẽ ra phải có rượn “tống hành” nhưng anh Ba khỏng uống được rượu nên đành uống trà vậy. Thấy chị Thanh có vẻ buồn ông khách nói: - Chị Ba cứ yên tám. Chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo cho anh Ba. Có đội bảo về chăm sóc sức khỏe anh Ba, có ngựa cho anh Ba cưỡi. Có người đi tiền trạm từng chặng để nắm rõ tình hình. Sẽ không có bất trắc trên đường hành quân đâu!
Chị Thanh được dịp tỏ bày: - Đường đi nguy hiểm, nhưng là tướng, anh Ba biết đi đứng an toàn. Tôi chỉ thắc mắc là ra Trung ương rồi anh Ba có trở vào Nam không? Vợ chồng tôi có còn gặp lại...? Ông khách nói ngay: - Chuyện đó do Trung ương quyết định. Phân công cho một vị trung tướng phải do Bộ Tông tư lệnh. Còn chuyện thứ hai thì chúng tôi sẽ bố trí cho chị Ba về thành để đi theo đường công khai ra Bắc. Chị có giấy tờ hợp pháp thì đi ra Hà Nội dễ dàng, từ đó sẽ bắt liên lạc về vùng giải phóng không khó.
Chị Thanh gật gù nghĩ ngợi, nỗi lo âu của chị đã được giải toả. Chị tính chừng ông khách ra về chị sẽ bàn thêm với anh Ba. Nhưng ông khách lại nẩy ra sáng kiến giăng võng nằm đàm đạo trong đêm với anh Ba. Nhiều lần chị nháy mắt làm ám hiệu nhưng anh Ba không có phản ứng, có thể vì mắt kém, mà cũng có thể anh Ba không tiện cắt đứt cuộc đàm đạo. Vì vậy ông khách vô tình nghỉ đêm tại nhà anh Ba. Chỉ tội cho chị Ba ấm ức không được tự do tâm sự với chồng trong đêm cuối.
Trong đêm chị nghe hai người trao đổi. Ông khách cho chị Ba biết về tiểu đội bảo vệ: Có Vũ Tùng trước ở Ban công tác thành. Vũ Tùng là người Bắc, một thiện xạ chuyên bắn súng Colt 12, ngoài ra còn thủ một tiểu liên Ý Mosqnito, nòng dài có nhiều lỗ hãm nhiệt, báng súng có khắc chữ “bộ đội Hoàng Thọ” chứng tỏ cây súng này do Vũ Tùng cướp được của địch lúc còn ở trong bộ đội Hoàng Thọ. Chỉ có bộ đội này mới có sáng kiến khắc tên vào chiến lợi phẩm: Kế đó là Nguyễn Văn Bổn. Chị Thanh nghe nói Bổn theo bảo vệ anh Ba thì yên trí. Bổn là thanh niên khả ái mà chính chị đã làm mai cưới con nuôi của ông bà luật sư Lê Đình Chi là Ngân. Ngân về ở với chị Thanh trước khi được ông bà Chi gả cho Bổn. Người thứ ba được chọn đi trong đoàn là y tá Liên, là người Miền Nam. Đó là ba người có trách nhiệm săn sóc anh Ba trong chuyến đi. Ngoài ra trong đoàn còn có ông Võ Bá Nhạc, chánh văn phòng của anh Ba trong nhiều năm. Ông Nhạc lớn tuổi nên cũng được cấp một con ngựa như anh Ba. Người được giao chức trưởng đoàn là ông Nguyễn Văn Sĩ cũng được gọi là Sĩ Kiếng. Ông còn là cán bộ trung đoàn được chọn ra Bắc học khoá quân sự trung cao cấp. Tiện dịp, anh Sĩ được giao nhiệm vụ trưởng đoàn với nhiệm vụ bảo vệ anh Ba...
Đêm trong rừng Đất Cuốc vào đầu thu khá lạnh. Chị Thanh cứ thao thức. Niềm kia nỗi nọ cứ ẩn hiện trong đầu! Bỗng chị nhớ tới Hoàng Thọ. Chị không thể nào quên ngày ấy có giấy bắt Hoàng Thọ, yêu cầu anh Ba ký. Lúc đó anh Ba vô cùng khổ tâm. Hoàng Thọ là đầu bò đầu bướu, tuy nói năng lung tung nhưng là người trung thực. Đã có lần cứu anh Ba tại Cần Giè, khi Vũ Tam Anh và Sáu Section mưu sát anh Ba tại Lò Đường. Anh Ba đã không ký và tìm cách cứu Hoàng Thọ. Anh khuyên Hoàng Thọ ra Bắc "làm lại cuộc đời”. Rất tiếc Hoàng Thọ đi được ba chặng, lại nghe lời bạn bè đổi ý quay trở về Đồng Tháp. Trong cơn phẫn chí, Hoàng Thọ đã làm lung tung lên, nói năng chửi bới bừa bãi. Đến nước đó thì khó thể bao che cho em út được nữa rồi. Lần nầy thì anh Ba phải ký giấy bắt Hoàng Thọ. Vào trại quân lao - gọi là đề lao binh - Hoàng Thọ lại đánh lính gác. Vậy là bị đưa ra toà. Với những tội ấy, không ai ngờ toà Quân khu 9 lại kết án tử hình. Tin này tới tai anh Ba vào tháng 4-1951, hai tháng trước khi có điện gọi anh Ba về Bắc. Anh Ba buồn vô hạn. Làm sao cứu được Hoàng Thọ? Anh đã nhiều lần uốn nắn Hoàng Thọ như có lần Hoàng Thọ lấy dao săn toan khử chánh uỷ Hai Trí mà Hoàng Thọ cho là "tay mưu sĩ không chơi được". Anh Ba đã quắc mắt điểm mặt: - Chú đã nhiều lần làm cho tôi mang tai tiếng. Người ta đã tố tôi đung túng chú làm nhiều điều xằng bậy. Hãy bỏ tánh ngông muốn làm đao phủ ấy đi. Công việc đó đã có ngành tư pháp đảm trách, không phải việc của chú.
Hoàng Thọ thấy anh Ba nổi nóng, lặng lẽ bỏ đi. Nhưng sau đó Hoàng Thọ nói riêng với chị Thanh: - Tôi đã nói với anh Ba là phải nhìn đời bằng hai con mắt mới thấy rõ kẻ tốt người xấu, kẻ nịnh người trung.
Chị biết anh Ba đã nghĩ ngợi nhiều về ngã rẽ quan trọng trong đời mình. Nhưng anh Ba không để lộ ra ngoài cho bất cứ người nào, kể cả chị. Anh chỉ nói mí mí thôi. Chị nhất định phải tìm hiểu đằng sau bức điện gọi anh Ba ra ngoài ấy là cái gì. Chị tính sẽ hỏi anh Ba trong đêm nay. Nhưng anh Ba và ông khách cứ mải miết trò chuyện như một đôi bạn chí thân trong đêm cuối cùng trước chuyến viễn du không hẹn ngày về.
Gà rừng đã gáy, đêm sắp tàn, ngày gần rạng. Chị Thanh ấm ức nuối tiếc cái đêm cuối cùng anh Ba ra Bắc vợ chồng không sao tâm tình được. Chị hoàn toàn không ngờ đấy là đêm cuối cùng chị sống bên anh Ba Bình.
Sau do ong Binh bi Ho Chi Minh muon tay Phap de giet Binh, bang cach thong tin cho Phap biet ro duong di cua tuong Ng Binh. The la Ho Chi Minh va dang CS da " nem da dau tay" ma giet duoc mot nguoi hung trong giai doan dau giup minh on dinh tinh hinh, dung nhu Michiael trong tac pham Quan Vuong da noi .
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 5:24:58 GMT 9
Những ngày cuối cùng của cái bản án tù năm năm sao mà dài thế! Dài vô tận. Nhớ hồi nào, khi lãnh án, tôi xem năm năm tù, mười năm biệt xứ như một thời gian tu dưỡng cho bản thân, tựa một phật tử theo định kỳ đi “tịnh” trong khuôn viên một ngôi chùa vậy thôi. Bây giờ, càng gần mãn án, tôi xem mỗi ngày là một chuỗi tràng hạt lần mãi không hết. Tản Đà chẳng đã viết: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê?” Hay quá, hay ở chữ “ghê” đó!Hồi ký Trần Văn Giàu: Biệt thự S Khám Lớn nằm chình ình giữa Sài Gòn trên diện tích non mẫu, bên phải của toà án, bên trái của dinh thống đốc. Tường dày chừng bốn năm tấc, dưới đá trên gạch, cao chừng bảy, tám thước, chơm chởm miểng chai bên trên, bốn góc là bốn chòi canh luôn luôn có lính Âu – Phi gác và giữ cổng một cửa duy nhất. TIN LIÊN QUAN * GS Trần Văn Giàu đã vét cạn đời mình cho nghiệp sử * TP.HCM: Lãnh đạo TP thăm Giáo sư Trần Văn Giàu * Giáo sư Trần Văn Giàu - Một học giả lớn * GS Trần Văn Giàu: Người của Cách mạng Tháng Tám * GS Trần Văn Giàu đã ra đi GS Trần Văn Giàu. Ảnh SGTT GS Trần Văn Giàu. Ảnh SGTT Ở cổng, bất cứ ai vào đây cũng đụng một cái đầu chúa ngục đúc bằng ximăng to tướng, miệng sơn đỏ lòm, răng chơm chởm thấy phát ghê: các tử tù thì bị hành hình dưới mắt của tử thần này… Cổng sắt hai lớp, có một đội cai ngục Tây và mã tà Nam túc trực. Chính giữa sân trong, một lầu chuông cao trông xuống toàn bộ các buồng có cửa song sắt chứa đựng nổi một ngàn tù nhân. Suốt gần tám mươi năm chưa nghe nói có một người tù nào trốn khỏi Khám Lớn. Năm 1916, nghĩa quân Thiên địa hội của Nguyễn Hữu Trí đông mấy trăm người vũ trang bằng gươm dao, búa tạ, chày vồ, không phá nổi cửa khám, tường khám nhằm giải thoát “hoàng đế” Phan Xích Long và chính trị phạm, rốt cuộc phải rút lui thất bại. Khám Lớn vững chắc lắm. Vậy mà từ năm 1937, chính quyền thực dân thấy cần phải xây thêm một cái khám nhỏ riêng biệt trong vòng thành của cái Khám Lớn; khám nhỏ đó, Tây gọi là Bâtiment S; S là “spécial”, đặc biệt, chúng tôi gọi là “biệt thự S”, để nhốt riêng vài ba bốn người tù chính trị mà chúng cho là nguy hiểm đặc biệt, trong số đó có tôi. Tây nó sợ chúng tôi cưa song sắt, khoét vách tường, vượt ngục chăng? Không phải! Có ai vượt nổi Khám Lớn bao giờ? Vậy mà phải cất riêng một khám nhỏ trong Khám Lớn vì lẽ gì? Vì lẽ rất đơn giản là: từ ngày chính phủ mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Paris, toà án Sài Gòn nói chung không xử án chính trị nặng lắm như trước: thường nhất là ba tháng, sáu tháng, một, hai năm tù đối với những người biểu tình, bãi công, làm báo. Anh chị em ta vào Khám Lớn đông lắm, từng tốp từng tốp, vào ít lâu lại ra, ra vào như đi chợ, như đi học. Trong Khám Lớn lúc này, tù “cố cựu” rất ít; hầu hết chính trị phạm của thời 1930 – 1935 đã được chính phủ mặt trận bình dân “ân xá”; số được ân xá có hàng trăm, hàng ngàn, từng đợt, từng đợt. Tôi “lọt sổ” hoài; tôi được Tây xếp gọi lên cho hay “không được ân xá” đâu đến ba bốn lần, không phải do tôi làm đơn mà do đoàn thể, do trạng sư. Nhưng tôi không thất vọng; không thất vọng vì chưa hề hy vọng được ân xá. Mình vào tù đến bốn lần thì Tây nó biết chắc mình sẽ có ngày vào tù lần thứ năm. Anh Tôn Đức Thắng lãnh án hai mươi năm khổ sai, bốn lần nặng hơn mình, vậy mà ai nghe nói anh ấy có hy vọng gì đâu để mà thất vọng? Vả lại tù Khám Lớn Sài Gòn được bạn bè, gia đình thăm viếng mỗi tuần một lần, quà bánh, báo chí có đủ; nhất là ở tù mà vẫn công tác cách mạng sôi nổi thì an tâm quá đi chớ! Công tác của tôi là huấn luyện tù nhân mới vào và sắp ra, họ đông tới hàng trăm, thường xuyên là hàng mấy chục. ... Tôi viết xong trên mười đầu sách; đều là “sách giáo khoa”; sách được giấu trong tường, đục tường lấy ra một cục gạch thì có một tủ sách. Cơm nước xong, cửa khám đóng lại, thì lấy sách ra đọc. Sàn ximăng là bảng đen, gạch vụn là phấn; một số thầy chú dám bí mật đem giấy bút cho chúng tôi. Bài vở viết ra được đánh morse từ khám nam ở trên xuống khám nữ ngay ở dưới. Đánh morse thì nằm sấp để tai sát sàn, lấy một cái bulong quấn vải gõ vào sàn, khám dưới nghe được, chép lại, “phát hàng” đi các khám cũng bằng cách đó. Ngoài công tác liên lạc chính thức thì chuyên viên morse khám nam, anh Nguyễn Hữu Thế, và chuyên viên morse khám nữ, chị Đinh Thị Tiếu, nói gì với nhau, có trời mà biết, chỉ biết rằng, ra tù, hai cô cậu thành vợ thành chồng với nhau. ... “Biệt thự S” là một ngôi nhà nhỏ hoàn toàn không dính với bất kỳ một dãy nhà nào hết; nhà dài mười thước, ngang bốn thước, cao năm thước, chia ra ba buồng. Phía sau mỗi buồng có một cửa sổ gần sát trần nhà, chắn song sắt, bịt lại bằng một cái phễu sắt miệng ngảnh lên mái nhà và mệng sắt có bao lưới sắt; người ngoài không thể ném vào buồng bất cứ vật gì dù là một hòn sỏi; người trong buồng không thể thấy bóng dáng bất cứ một ai đi ngoài sân chung dù là một mã tà. Phía trước của mỗi buồng có cửa sắt mở ra một cái sân chung, nơi ăn uống, đi lại; sân dài mười thước, rộng ba thước, được bao kín bằng vách bêtông cao bốn thước; sân này giống y như một cái giếng cạn; ở trong sân không trông thấy bất kỳ một sinh vật nào trừ một vài con chim se sẻ bay qua hay một con cò lạc lối. Những ngày trời nắng, tường bêtông giữ sức nóng tới nửa đêm; may mà trong mỗi buồng có một vòi nước để tụi tôi tự làm vệ sinh. Không biết Tôn Ngộ Không khi bị Thái thượng lão quân bỏ vô lò bát quái thì Tôn Ngộ Không chịu đựng cách nào chớ tôi trong “biệt thự S” suốt hơn một ngàn ngày thì cũng phải quen dần với cái giếng nổi bêtông của mình. Mỗi ngày hai lần, “cóc vê” đem cơm nước vào; “cóc vê” được chọn trong số tù người dân tộc thiểu số ở rừng núi không biết tiếng Việt, khi qua hai lớp cửa thì phải tuột hết quần áo để lại bên ngoài. Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, giòn rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn. Ở “biệt thự S” chúng tôi được mượn sách của thư viện Khám Lớn, cũng được đem một ít sách ở ngoài vào. Thêm vài chục quyển, thậm chí một trăm quyển nữa, ông Giàu có “đỏ” thêm đâu mà sợ? Tôn Ngộ Không chịu được lò bát quái nhờ đã ăn trộm trái đào tiên vườn thượng uyển, còn tôi chịu được giếng nổi bêtông nhờ sách các bạn mượn giùm. Thời chính phủ mặt trận bình dân, có phần dễ thở hơn trước, nhất là đối với mấy thầy giáo đỏ bị vô hiệu hoá. Không được dạy học, tôi quay ra tự học, tự học để giết thời giờ, tự học để lấp những chỗ trống về kiến thức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, thật sự là được nhiều. Ba năm ở “biệt thự S”, tôi học chữ Hán bằng quyển tự điển Đào Duy Anh để đếm nét tra mặt chữ, tôi lấy một quyển sách Tàu dịch sách Tây để từ đó suy diễn ra mà biết văn phạm chữ Hán, lõm bõm đọc báo, đọc sách được rồi, số chữ đã đầy hơn một lá mít, nhưng vì ít khi dùng nên dễ quên. Còn được cái triết học Trung Quốc và triết học Ấn Độ mà các học giả Pháp, Anh, Đức nghiên cứu kỹ, thư viện của Nguyễn An Ninh và của sư Thiện Chiếu có đủ loại sách này, có bao nhiêu tôi đọc hết bấy nhiêu, đọc rồi giảng lại chút đỉnh cho hai anh bạn tù, nhờ vậy mà tôi càng hiểu rõ. Thật ra thì hai ông “giáo đỏ” ở “biệt thự S” với tôi, họ chả thích triết học chút nào, giảng cho họ hoá ra tôi “trả bài” cho tôi. Một kỳ công là ba năm ở “biệt thự S”, tôi có thời giờ và can đảm để đọc bộ Tư Bản mà khi ở trường đại học Đông Phương, tôi chỉ thuộc mấy trích đoạn bắt buộc của giáo sư hướng dẫn. ... Tôi đã ra sức tự rèn luyện, tôi được bạn tù rèn luyện, tôi cố giữ cho mình một ý chí sắt đá. Vậy mà, những ngày cuối cùng của một bản án chỉ năm năm cấm cố, tôi không khỏi trải qua một tâm trạng băn khoăn cực độ, nói ra đây tôi không thấy xấu hổ chút nào. Làm gì có nợ nước thoát ly khỏi tình nhà?
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 5:39:43 GMT 9
Vụ án Trần Dụ Châu - Chuyện còn ít biết- Năm 1950, Đại tá CS Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu bị tử hình. Chúng ta đều đã được biết qua các bài báo của nhà báo Hồng Hà (nguyên phóng viên báo Cứu Quốc), nhà báo Lưu Vinh… Tuy nhiên, đó mới chỉ là tình tiết về sau của vụ án. Còn diễn biến điều tra bước đầu của vụ tham nhũng này được thực hiện ra sao, thì chưa có tài liệu nào nói tới.Vị đại tá Cục truởng Cục Quân pháp Trước đây, trong một lần đến thăm bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh, trưởng nữ của cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên (1905-1975), bà có cung cấp một tư liệu rất thú vị. Đó là lời kể của cụ Phạm Trinh Cán (Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục từ tháng 4/1953) về cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, tháng 3/1990. Nhưng trước khi về Bộ Giáo dục, cụ Phạm Trinh Cán nguyên là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân pháp nên cụ nắm rõ quá trình tham gia điều tra ban đầu vụ Trần Dụ Châu. Bà Nữ Hạnh căn dặn: “Tôi tặng em để em sử dụng trên báo chí, có thể đưa vào mục những tư liệu mới được phát hiện”. Cụ Phạm Trinh Cán sinh năm 1912, nguyên quán xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Gia đình có khả năng kinh tế nên cụ được học hết bậc Trung học. Dẫu có bằng Tú tài, cụ tự nhận là vẫn thấy mình còn dốt và rất muốn học thêm lên đại học. Học đại học thì phải tự túc nên vừa học khoa Luật trường Đại học Đông Dương cụ vừa đi dạy tư tại trường Trung học Tư thục Thăng Long cùng với các giáo sư Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... Cách mạng Tháng Tám 1945, cụ Phạm Trinh Cán tham gia khởi nghĩa và được cử làm Phó Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Quy Nhơn (nay là Bình Định). Cụ được phong hàm đại tá đợt đầu tiên (năm 1948) và đã trải qua các chức vụ: Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Quân pháp – Bộ Quốc phòng, Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương, Phó Văn phòng rồi Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội). Năm 1973 cụ Phạm Trinh Cán về nghỉ hưu. Cụ mất năm 2003 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi. Vụ án Trần Dụ Châu Sinh thời, cụ Phạm Trinh Cán từng kể diễn biến vụ việc xảy ra từ năm 1949 đến mùa hè năm 1950 như sau: Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám. Cục Quân nhu có nhiệm vụ lo ăn, mặc, thuốc men của quân đội. Quần áo cho quân đội, thuốc men trong nội thành ta chưa sản xuất được nên đơn vị quân nhu đóng ở Thái Nguyên ra vào thành cho dễ. Cục phó là Phạm Toàn, cốt cán cục Quân nhu là Lê Sĩ Cửu – trưởng phòng tiếp liệu (thuốc, giấy pơ-luya, máy chữ...). Bấy giờ hoàn cảnh rất khó khăn. Về gạo ăn, mới kháng chiến nên anh em quân nhu chưa có kinh nghiệm bảo quản tốt, kho cất gạo dùng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều. Lúc bấy giờ, Cục Quân chính do ông Phan Tử Lăng làm Cục trưởng và Cục Quân pháp do ông Phạm Trinh Cán làm Cục trưởng - cùng đóng chung cơ quan ở Thái Nguyên, tổng cộng đến 30 người. Gạo lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua suối để về nấu ăn. Vì vo kỹ thì gạo sẽ tan biến theo nước. Để chống đói, bộ đội phải lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân đội chủ lực phải ăn cháo để truy kích địch. d Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, qui-na-cơ-rin cũng không đủ chữa bệnh sốt rét dùng trong quân y. Vì thế uống qui-na-cơ-rin phải pha vào nước, chỉ có tác dụng tinh thần chứ chữa bệnh sốt rét rất hạn chế. - Anh em đều thấm thía cảnh khổ, rồi than phiền, oán trách Cục Quân nhu làm không tròn nhiệm vụ. - Cụ chậm rãi - Càng oán trách hơn khi nghe ba thằng cha Châu, Cửu, Toàn sống sa hoa lắm. Chúng ăn toàn thứ ngon, rượu Tây, đường sữa, sô-cô-la trong Thành mang ra... Đặc biệt nổi đình đám là đám cưới linh đình của Cửu làm xôn xao cả vùng Thái Nguyên! Bộ đội và nhân dân công phẫn. Chuyện đến tai Bộ Quốc phòng và Trung ương Đảng. Một hôm, anh Trần Tử Bình – Thiếu tướng, Phó cục trưởng Cục Thanh tra quân đội - tìm tôi, hỏi: “Anh nghe tin tức gì về vụ Châu không?”. Tôi trả lời: “Tôi có nghe. Bộ đội công phẫn lắm”. Xong, anh Bình nói với tôi về chỉ thị của Trung ương Đảng: “Ta phải mở cuộc điều tra về vụ này. Chỉ thị này tối mật. Ngoài mấy ông Trung ương, chỉ có tôi và anh biết. Nếu để lộ, Trần Dụ Châu mà dinh-tê vào thành thì chúng mình mất đầu”. (Vì Châu nắm vững nơi đóng quân, quân số, người chỉ huy, chính ủy... các đơn vị toàn quân). Rồi anh Bình giao nhiệm vụ: “Anh tiến hành cuộc điều tra này”. (Phải mở ngoặc nói thêm, những vụ phạm pháp mức độ nào có thể là xử lý trong nội bộ thì Cục Thanh tra giải quyết. Nếu nặng thì chuyển sang Quân pháp). Thế là tôi cử 1, 2 anh rất tâm phúc nghe ngóng tình hình Cục Quân nhu. Điều tra sơ bộ xong, anh em về báo cáo lên Trung ương. Sau khi được nghe báo cáo, anh Trần Tử Bình có hỏi tôi: “Theo điều tra sơ bộ như vậy, có thể truy tố ra Tòa án binh không?”. Tôi đã nói rằng: “Đáng truy tố theo tội trạng như vậy. Nhưng cần tiếp tục điều tra nữa để có thêm tài liệu, dẫn chứng cụ thể, để căn cứ mà kết tội”. Ông Phạm Trinh Cán kể thêm: “Khi xử vụ Trần Dụ Châu, bắt Toàn trước, Cửu sau. Trước khi điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt Phạm Toàn để lấy lời khai. Tạm giam Toàn để lấy khẩu cung tại nhà dân, giao cho bộ đội canh giữ. Tôi trực tiếp hỏi về vụ bê bối của Cục Quân nhu. Đêm ấy, Toàn tự tử bằng cách lấy cắp lựu đạn, mở chốt, úp mặt cho nổ. Cửu cho bắt trước khi bắt Châu. Người ký giấy bắt Cửu, Toàn là tôi. Giam cạnh nhà đơn vị Cục Quân pháp đóng. Mấy ngày sau, Cửu cũng tự tử bằng cách bẻ que nứa cắt mạch máu cổ tay”. Đến thời gian này thì Bộ Quốc phòng tổ chức lại. Sang năm 1950, ông Phạm Trinh Cán chuyển sang Bộ Tổng tham mưu. Vốn là cử nhân Luật (Đại học Đông Dương) nên ông được điều động vào quân đội, xây dựng luật nhà binh và tổ chức Tòa án binh, chứ không phải người được đào tạo quân đội chính quy. Sau đó ông được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương. Vì thế vụ này được bàn giao cho Cục trưởng Cục Quân pháp mới là ông Ngô Minh Loan. - Cụ thể vụ này là: ngoài tội tham ô ra còn bị tội phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng trong Cục Quân nhu, trù dập đảng viên tốt. Sau khi bàn giao công việc, anh Bình có hỏi ý kiến tôi: “Nếu tiếp tục điều tra thêm thấy rõ tin đồn là đúng sự thật thì mức độ kết án thế nào?”. Tôi đã nói: “Tùy theo mức điều tra như thế nào. Theo riêng tôi, nặng nhất phải tử hình, dưới nữa phải 15-20 năm tù. Kể cả mức điều tra quan trọng sau lần điều tra báo cáo Trung ương để có chỉ thị. Nếu kết quả cuối cùng của việc điều tra thấy Châu tội nặng cộng với ảnh hưởng công phẫn trong quân đội thì có thể kết án tử hình được”. Tôi còn nói thêm: “Tới mức ấy không chỉ xin chỉ thị Trung ương mà còn phải xin chỉ thị của Bác”. Việc này phải hết sức thận trọng vì là lần đầu đưa cán bộ cao cấp ra xử, lại là cán bộ hoạt động trước cách mạng. Hè năm 1950, Tòa án binh tối cao xét xử. Chánh án: Thiếu tướng Chu Văn Tấn – Uỷ viên Chính phủ. Công cáo viên: Thiếu tướng Trần Tử Bình. - Châu nghe tuyên án không ngờ mình bị tử hình, mặt tái đi, run lên. Đó là tôi (Phạm Trinh Cán) nghe kể lại chứ tôi không dự vì lúc đó đang đi tìm địa điểm khác để tránh hậu quả sau vụ xử Trần Dụ Châu. Nhỡ còn chân tay của Châu có thể tiếp theo sẽ phá hoại cách mạng. Theo luật, án tử hình được quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Nếu Chủ tịch nước cho ân giảm, không bị đưa ra xử tử thì sẽ đưa về tù chung thân. Khi Tòa án binh tối cao tuyên án, Thiếu tướng Chu Văn Tấn hỏi: “Có xin ân giảm không?” thì Trần Dụ Châu nói: “Có”. Khi đệ đơn xin ân giảm lên Chủ tịch Chính phủ thì Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân giảm. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan * Cụ Phạm Trinh Cán (1912-2003). Hà Nội, ngày 1/12/2010 Kiều Mai Sơn Thiếu tướng Trần Tử Bình, khi đó đang là Phó Tổng thanh tra quân đội, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, đã được Bác Hồ trực tiếp giao nhiệm vụ điều tra vụ tham nhũng của Trần Dụ Châu. Ngày 5/9/1950, Trần Dụ Châu đã bị tuyên án tử hình. Bức thư tố cáo của nhà thơ Đoàn Phú Tứ Một đêm hè 1950, tại Chiến khu Việt Bắc, Thiếu tướng Trần Tử Bình được triệu lên gặp Bác. Bác trao cho ông lá thư của đại biểu Quốc hội Đoàn Phú Tứ: “Đây là bức thư của một nhà thơ gửi lên cho Bác. Bác đã đọc kỹ lá thư này và rất đau lòng!”. Tại Đại hội Đảng II tại Chiêm Hoá, Tuyên Quang, tháng 2/1951: Từ trái qua, hàng đứng: Trần Tử Bình, Nguyễn Văn Vịnh, Phan Trọng Tuệ, Bùi Lâm.3 Hàng ngồi: Đinh Đức Thiện, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Tùng Tại Đại hội Đảng II tại Chiêm Hoá, Tuyên Quang, tháng 2/1951: Từ trái qua, hàng đứng: Trần Tử Bình, Nguyễn Văn Vịnh, Phan Trọng Tuệ, Bùi Lâm.Hàng ngồi: Đinh Đức Thiện, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Tùng Rồi Bác giao cho Thiếu tướng khẩn trương điều tra vụ việc. Khi đó ông là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Thanh tra quân đội. Thư có ghi: “Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu gần đây đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em binh sĩ quân đội. Châu đã dùng quyền lực "ban phát" ăn mặc, nên Châu đã giở trò ăn cắp. Cứ mỗi cái màn lính, Châu ăn cắp mất hai tấc vải nên hãy ngồi lên là đầu chạm đỉnh màn. Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào. Nhiều người biết đấy nhưng không ai dám ho he... TIN LIÊN QUAN Nhân vụ án Trần Dụ Châu (Xã luận báo Cứu quốc ngày 27/9/1950)
Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ làm nhiều điều bỉ ổi đã bị đưa ra trước Tòa án binh tối cao. Ngay ngày hôm sau, tên phản bội quyền lợi nhân dân ấy đã bị bắn để đền tội của y.
Trong tình thế kháng chiến và trong giai đoạn quyết liệt hiện nay, vụ án Trần Dụ Châu có một ý nghĩa lớn lao. Nó làm toàn thể nhân dân bằng lòng và thêm tin tưởng ở chính quyền và đoàn thể nhân dân. Nhân dân đã thấy rõ: Chính quyền và đoàn thể không bao giờ dung túng một cán bộ nào làm bậy, dù cán bộ cao cấp đến đâu đi nữa. Vụ án này còn làm vui lòng tất cả những cán bộ Quân nhu ngay thẳng, chí công vô tư, đã không để Trần Dụ Châu lôi cuốn.
Nó đã cho chính quyền và đoàn thể ta nhiều kinh nghiệm trong việc dùng cán bộ, giáo dục và kiểm soát cán bộ.
Có người e ngại: Chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ nhưng tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách, hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu chính quyền, đoàn thể ta. Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đấy là một sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn, phê bình những sai lầm của cán bộ, của Chính quyền, đoàn thể vì họ đã hiểu chính quyền, đoàn thể ta là chính quyền, đoàn thể của họ và họ nhất định không tha thứ những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ.
Cái chết nhục nhã của Trần Dụ Châu còn là một lời cảnh cáo những kẻ lén lút đang tính chuyện đục khoét công quỹ của Chính phủ, trục lợi của nhân dân. Tất cả những bọn ấy hãy coi chừng dư luận sắc bén của quần chúng và luật pháp nghiêm khắc của Nhà nước nhân dân!
Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những bọn ấy, những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác, để tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng.
Đây không phải là việc riêng của Chính phủ, của đoàn thể mà đấy là bổn phận của tầng lớp đông đảo quần chúng nhân dân chúng ta”.
C.Q
(Nguồn Báo Công An Nhân Dân ngày 24/08/2005)Cháu cùng với một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội vừa đi đánh giặc trở về. Cháu đã khóc nấc lên khi thấy các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng và hầu hết các chiến sĩ đều rách rưới "võ vàng đói rét", chỉ còn mắt với răng mà mùa đông tiết thời chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng băng...”. Sau đó, nhà thơ kể đã được Châu mời dự tiệc cưới của Lê Sĩ Cửu tổ chức ngay chiến khu: “... Trên những dãy bàn dài tít tắp, xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng. Hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp đưa lên. Ban nhạc Cảnh Thân được mời từ Khu Ba lên tấu nhạc réo rắt. Trần Dụ Châu mặc quân phục đại tá choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới...”. Ngạo mạn hơn, Châu mời nhà thơ đọc thơ mừng hôn lễ. Đoàn Phú Tứ với lòng tự trọng của mình đã dũng cảm xuất khẩu: “Bữa tiệc cưới của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay được dọn bằng xương máu của các chiến sĩ”. Tổng Thanh tra quân đội vào cuộc Ngay hôm sau, Tổng Thanh tra quân đội Lê Thiết Hùng triệu tập cuộc họp “Điều tra vụ tham ô của Đại tá Cục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu”. Tới dự có ông Xuân Thủy và nhà báo Hồng Hà. Thiếu tướng đọc lại bức thư. Cả hội nghị im lặng. Ông nói tiếp: “Trong hoàn cảnh hiện nay, cách mạng đang đứng trước những thử thách gay go. Địch tập trung phá hoại kinh tế... Trong thời điểm nóng bỏng này, Trần Dụ Châu và đồng bọn lại mặc sức sống phè phỡn, trác táng... Đọc thư này, Bác yêu cầu chúng ta phải điều tra gấp, làm rõ từng vụ việc”. Ngay hôm sau, cán bộ trong Thanh tra quân đội tỏa về các liên khu. Trực tiếp Thiếu tướng khoác ba lô xuống đơn vị. Ông gặp gỡ từng cán bộ, chiến sĩ để trò chuyện về đời sống của bộ đội, về cấp phát quân nhu của Châu. Chưa rõ ông thuộc cán bộ cấp nào, nhưng cũng là dịp được bộc bạch nỗi niềm bức xúc bấy lâu… Tài liệu từ Khu Bốn gửi ra, từ Khu Ba gửi lên, rồi Chiến khu Việt Bắc... Trần Dụ Châu hiện nguyên hình một kẻ gian hùng, trác táng, phản bội lại lòng tin của Đảng, lợi ích Quốc gia. "Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ" Trước vụ việc này, Bác Hồ dứt khoát: "Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan nguy hiểm". Ngày 5/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên, Tòa án Binh tối cao mở phiên tòa đặc biệt xử Trần Dụ Châu. Chưa đến giờ khai mạc nhưng trong, ngoài đã chật ních người. Tại cửa có căng khẩu hiệu "Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội". Trong phòng xử án treo 2 khẩu hiệu "Quân pháp vô thân!" và "Trừng trị để giáo huấn!". Đúng 8 giờ, đại diện Chính phủ, quân đội, Tòa án Binh tối cao có mặt. Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 2 Hội thẩm viên: Phạm Học Hải - Giám đốc Tư pháp Liên khu Việt Bắc và Trần Tấn - Cục phó Cục Quân nhu. Thiếu tướng Trần Tử Bình, đại diện Chính phủ, ngồi ghế Công cáo ủy viên. Tới dự còn có ông Nguyễn Khang - Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu Việt Bắc, Võ Dương - Liên khu hội trưởng Liên khu Việt Bắc; Đỗ Xuân Dung - Giám đốc Công chính Liên khu Việt Bắc; bác sĩ Vũ Văn Cẩn cùng đại biểu quân đội, đại diện các đoàn thể nhân dân và các nhà báo. Tiếng gọi các bị cáo vang trong phòng họp. Bị cáo Lê Sĩ Cửu vắng mặt vì ốm nặng. Thiếu tướng Chánh án hỏi các bị cáo. Trần Dụ Châu bước ra trước vành móng ngựa, nói nhiều về công lao với cách mạng và đổ cho lính làm bậy, còn mình không kiểm soát được. Trước chứng cứ rành rành, Công cáo ủy viên Trần Tử Bình đứng lên đọc bản cáo trạng: “Thưa Toà, thưa các vị, Trong tình thế gấp rút chuẩn bị Tổng phản công, mọi người đang nai lưng buộc bụng, tích cực phục vụ kháng chiến. Trước tiền tuyến, quân đội ta đang hy sinh để đánh trận căn bản mở màn cho chiến dịch mới, thì tôi thiết tưởng (mà cũng là lời yêu cầu) Toà dùng những luật hình sẵn có để xử Trần Dụ Châu, và theo chỉ thị căn bản của vị cha già dân tộc là cán bộ cần phải “Cần - Kiệm - Liêm – Chính”. Việc phạm pháp của Trần Dụ Châu xảy ra trong không gian là Việt Bắc, nơi thai nghén nền Độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã làm vẩn đục thủ đô kháng chiến… Để đền nợ cho quân đội, để làm tấm gương cho cán bộ và nhân dân, để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ những phương kế xoay tiền của Chính phủ, những lũ bày ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp dưới, để trừ hết bọn mọt quỹ tham ô, dâm đãng, để làm bài học cho những ai đang trục lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy thế để loè bịp nhân dân. Bản án mà Toà sắp tuyên bố đây phải là một bài học đạo đức cách mạng cho mọi người, nó sẽ làm cho lòng công phẫn của nhân dân được thoả mãn, làm cho nhân dân thêm tin tưởng nỗ lực hy sinh cho cuộc toàn thắng của nước nhà. Tôi đề nghị...” Trần Dụ Châu tái mặt, cất giọng yếu ớt xin tha tội. Thiếu tướng Chánh án tuyên bố: “Toà nghỉ 15 phút để nghị án”. Khi Toà trở ra tiếp tục làm việc, Thiếu tướng Trần Tử Bình đọc công lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh: Tước quân hàm đại tá của Trần Dụ Châu. Sau đó, Thiếu tướng Chánh án đứng lên tuyên án: - Trần Dụ Châu can tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến: Tử hình, tịch thu ba phần tư tài sản. Lê Sĩ Cửu, can tội biển thủ công quỹ, thông đồng với bọn buôn bán lậu giả mạo giấy tờ: Tử hình vắng mặt. Hai chiến sĩ công an dẫn Châu rời nơi xử án trở về nhà giam. ... Hồ CM bác đơn xin giảm tội của Châu. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan…
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2011 8:03:16 GMT 9
Những kỷ niệm về Lưỡng quốc Tướng quân10/12/2009 - Tháng 8/2009, Nhà nước cs truy tặng Huân chương HCM cho Tướng Nguyễn Sơn. Trong buổi lễ đón nhận tại Bảo tàng Cách mạng cs, nhiều vị khách kể lại những hồi ức về vị tướng này.
Tướng Quân đội giảng tuyệt hay về Lôi Vũ, Truyện Kiều Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm, ngày Tướng Sơn đưa bộ đội về Thanh, mới có 22 tuổi, đang dạy văn tại trường Đào Duy Từ. Ông nhớ lại: “Khi được đọc bản dịch của giáo sư Đặng Thái Mai về vở kịch “Lôi Vũ”, chúng tôi đã thấy rất thích, nhưng trong buổi nghe Tướng Sơn giảng về “Lôi Vũ”, chúng tôi thấy hấp dẫn vô cùng. Ông hiểu tường tận cả về tác giả, cả từng nhân vật trong tác phẩm. Sau đó, ông còn giảng về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ông “xuất khẩu thành thơ”, tôi nghe rất mê, ghi nhớ từng lời. Mô tả ảnhTướng Nguyễn Sơn Tuy ông là tướng quân nhưng tôi chẳng có mấy kỷ niệm với ông về quân sự. Là giáo viên dạy văn, thông qua những buổi xem đoàn chèo, đoàn kịch của quân khu tập làm cho tôi hiểu rõ và biết yêu nghệ thuật tuồng, chèo. Vở chèo đầu tiên gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi là vở "Súy Vân giả dại"...”. Cuối những năm 40, khi ta còn nhiều khó khăn, Nguyễn Sơn cho mời các văn nghệ sĩ (Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Cẩn, Phạm Duy, Hồ Dzếnh...) vào quân khu, chu cấp cho gạo, tiền để họ có thời gian sáng tác, phục vụ bộ đội. Khu Bốn được coi là nơi tập trung nhiều văn nghệ sĩ và có nhiều tác phẩm bất hủ cho công cuộc kháng chiến. Học trò giỏi nhất của HCM về "đường lối chiến tranh nhân dân" Trung tướng cs Đỗ Văn Đức, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng QĐCSVN, cựu học viên khóa 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946) và là giáo viên từ khóa 2; ông còn được theo Hiệu trưởng Võ bị khóa 2 Nguyễn Sơn cho tới ngày quay trở lại Trung Quốc (1950). Ông Đỗ Văn Đức nhớ lại: - Anh Nguyễn Sơn trông bên ngoài đúng là “râu hùm hàm én, mặt vuông chữ điền, rất dữ dằn”, nhưng ai đã sống với anh thì mới thấy anh yêu lính vô cùng, yêu đồng đội đồng chí, thương anh em. Anh là con người sống rất tình cảm. Buổi trò chuyện với 3 hàng binh người Đức tại Chiến khu Việt Bắc. (Từ trái qua, hàng đứng: các ông Lưu Văn Lợi, Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái... Hàng ngồi: ông Tạ Quang Bửu, 2 hàng binh, vợ chồng Võ nguyen Giap).Theo tôi, anh là học trò giỏi nhất của ong Hồ về “đường lối chiến tranh nhân dân”. Có nhiều kỉ niệm về việc này... Chẳng hạn bấy giờ ở thôn Mậu, làng Cổ Định, " bọn phản động khống chế nhân dân". Bà con lo lắng, không an tâm làm ăn, sinh sống. Nghe báo cáo, anh Sơn quyết định đưa hẳn 1 đại đội Thiếu sinh quân về đóng quân. Lính trẻ như con em họ, về sống “ba cùng” với dân, làm tốt “công tác dân vận” nên dần dần bà con hiểu và quyết tâm đi theo kháng chiến. Trong huấn luyện bộ đội, anh là người đầu tiên áp dụng “Đại hội tập”. Khi thực hiện, chúng tôi cũng chỉ nghĩ đơn giản là anh cho luyện quân thôi. Quân đi đến đâu thì tiến hành “Đại hội tập” ở đó. Ngày đóng quân ở Thanh Hóa, “bộ đội ông Sơn” hành quân từ Tĩnh Gia vòng ra bờ biển, trở về Nông Cống. Luyện tập xong là giúp ngay địa phương xây dựng lực lượng kháng chiến. Bộ đội rút quân đi thì cử lại 1 cán bộ của quân khu triển khai thực hiện. Đến khi tổng kết mới hiểu ra rằng, mục đích của “Đại hội tập” là: 1. Giáo dục nhân dân tích cực kháng chiến, dũng cảm đánh Pháp. 2. Răn đe thực dân Pháp: Kháng chiến toàn dân mạnh như vậy đấy, hãy coi chừng! 3. Rèn luyện cán bộ, rèn luyện bộ đội chịu đựng gian khổ trong chiến tranh. Qua đó nhiều cán bộ trưởng thành. Quân khu đào tạo cán bộ không chỉ cho Liên khu 4 mà cho cả toàn quân. Nhiều sư đoàn đã về xin cán bộ. “Đại hội tập” ngày nay gọi là “Hội thao”. Luyện tập xong là phải thi thố, đánh giá kết quả huấn luyện, có khen thưởng, có phê bình. Ngày “Đại hội tập”, đêm hội diễn văn nghệ. Các đơn vị phải tự biên, tự diễn các tiết mục của mình. Quân ông Sơn đến đâu sôi nổi cả một vùng, làm dân thêm tin tưởng vào đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Cụ Hồ. Cậu Nguyễn Sơn đi xe đạp bằng... mông Ông Vũ Ngọc Phan và bà Lê Hằng Phương (chị của bà Lê Hằng Huân - vợ ông Sơn) có 2 người con trai là Vũ Tuyên Hoàng và Vũ Huyền Giao. Hôm đó, anh Giao xúc động nhớ tới "cậu Sơn": “Chiều chiều, bộ đội ở Quân khu bộ của cậu Sơn đều chơi bóng chuyền. Tôi con bé thích ra xem. Nghịch lắm, thấy bóng là đá văng mạng. Có lần đá vào cả phòng họp, nhưng cậu chỉ nhắc nhẹ nhàng. Rồi cậu bảo với bố mẹ tôi: “Anh chị phải dạy thằng Giao cẩn thận, không sau này thành tướng cướp!”. Bố mẹ tôi lúc đó nuôi 8 chị em chúng tôi và nuôi thêm 2 anh Phan Vịnh, Phan Diễn (giúp bác Lê Thị Xuyến đang công tác ở Việt Bắc). Tổng cộng 10 nhóc, kiếm miếng ăn rất vất vả. Thấy vậy, cậu Sơn giúp bố mẹ tôi bằng cách cho tôi và anh Phan Diễn vào học trường Thiếu sinh quân Khu 4 (mặc dù chúng tôi chưa phải là giao liên và bố mẹ cũng không phải cán bộ quân đội). Cậu Sơn có cái xe Stec-ling và đi xe đạp rất tài, bọn trẻ con rất bái phục. Cậu ít khi cầm ghi-đông mà đút 2 tay vào túi quần, lái xe bằng mông. Dù đường ngoài đồng, hay trên bờ nông giang chỉ rộng khoảng 30 phân, hai bên là gờ cỏ mà cậu vẫn đi xe điêu luyện. Có lần đang chăn trâu dưới cánh đồng, thấy cậu phóng xe qua mà không dám gọi. (Gọi lỡ làm cậu ngã xuống nông giang, sâu những 6-7m thì nguy hiểm!). Còn cậu thì chăm chú nhìn xuống đường, chẳng để ý đến ai. Có lần phóng nhanh quá, gặp barie chắn đường của dân quân không kịp dừng, tay cũng không kịp bỏ ra, cứ thế dùng mông lái xe lượn ra ngoài rào chắn. May không ngã. Anh dân quân tức giận, quát: - Đi thế à? Cứ làm như ông tướng ấy! Cậu Sơn cười xòa: “May mà tớ vừa được phong tướng!”. Tôi nể phục tính ngang tàng của cậu. Sau này, tôi cũng tập đi xe đạp theo kiểu của cậu và 1 lần bị ông lái xe buýt mắng, lần khác bị công an giao thông phạt. ... Năm 1954, anh Vũ Tuyên Hoàng và tôi được sang học tại Bắc Kinh. Đến nơi đúng dịp Quốc khánh 2/9, bọn tôi được mời đến Sứ quán. Đại sứ Hoàng Văn Hoan giới thiệu: “Hôm nay có một vị khách đặc biệt đến dự là Tướng Nguyễn Sơn”. Chúng tôi mừng quá. Rồi cứ chủ nhật, cậu lại cùng dì Huân và các em Hà, Cương đến thăm chúng tôi ở trường Đại học Bắc Kinh (lúc đó lưu học sinh Việt Nam tại đây có khoảng 100). Khoảng tháng 10/1956, tôi đến thăm cậu tại một ngôi nhà cổ của Thành cổ Bắc Kinh. Dì Huân không có nhà. Cậu Sơn ngồi trên ghế bành, tay cầm tờ báo, mồm ngậm thuốc lá. Trước mặt đủ các loại báo chí. Tôi ngồi bên cạnh mà không biết cậu vừa mổ xong. Đến khi cậu rút cặp sốt trong người ra, mới giật mình: 41 độ rưỡi! Sợ quá, tôi nhắc cậu phải “bảo trọng!”. Cậu hút thuốc rất nhiều. Cậu rải thuốc ra các đĩa, để khắp nơi - bàn làm việc, cửa sổ, đầu giường... tiện tay là lấy hút, không cần phải rút ra từ bao. Cho tới nay tôi chưa gặp ai hút thuốc ghê như vậy. Lúc ra về, cậu tiễn tôi ra cổng. Vài tuần sau, đọc báo thấy tin: Cậu mất tại Hà Nội! Thế là chúng tôi mất cậu!”. * Trần Kiến Quốc ********************************* Hoàng Sâm, vị tướng theo ong Hồ từ khi 12 tuổi08/12/2009 - Tướng lĩnh Hoàng gia, sĩ quan “cánh hữu” vốn rất ngang bướng nhưng với tri thức học được qua các trường quân sự ở Trung Quốc, kết hợp kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, kinh nghiệm thu phục các trùm phỉ, ông Hoàng Sâm đã làm cho tướng lĩnh Quân đội quốc gia Lào nể phục. LTS: Đầu năm 1948, Bác Hồ ký quyết định tấn phong quân hàm đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp, trung tướng cho ông Nguyễn Bình và thiếu tướng cho 9 ông: Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Trần Tử Bình và Trần Đại Nghĩa. Nhân kỉ niệm 65 năm ngày thành lập QĐNDVN, Bee khởi đăng loạt bài về các vị tướng “khai quốc công thần”. 12 tuổi đi làm giao liên cho Bác Hồ Hoàng Sâm tên thật là Trần Văn Kỳ, sinh năm 1915 tại Lệ Sơn, Tuyên Hóa, Quảng Bình. Ông theo bố mẹ sang sinh sống ở Nakhon, rồi Chiang Mai (Thái Lan). Khi Thầu Chín (ong Hồ CM) vừa từ Châu Âu về, thấy bé Kỳ mới 12 tuổi nhưng sáng dạ, nhanh nhẹn nên chọn làm liên lạc viên. Theo Thầu Chín đi khắp các tỉnh, vừa làm vừa học, tham gia rải truyền đơn, vận động bà con Việt kiều tham gia phong trào yêu nước. Bị lộ, tổ chức cho ông trốn sang Quảng Châu. Ở nhà, mật thám đã bắt và thủ tiêu bố ông. Ông Hoàng Sâm (trái) cùng ông Văn Tiến Dũng tại chiến khu Việt Bắc, năm 1947. Ảnh tư liệu gia đìnhTại Quảng Châu, ông cùng vào học trường Quân sự Hoàng Phố. Năm 1933, ông được kết nạp vào Đảng. Đầu 1937, từ Trung Quốc về nước tham gia Tỉnh uỷ Cao Bằng. Năm 1938, tham gia đội du kích kháng Nhật của Đảng CS Trung Quốc tại biên giới Việt - Trung. Mùa đông 1940, ông gặp lại ong Hồ cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Ngày 8/2/1941, ong Ho từ Trung Quốc về Pắc Bó (Cao Bằng). Trong chuyến hồi hương, Hoàng Sâm cùng các ông Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba, Đặng Văn Cáp… bảo vệ HCM trở về an toàn. Tháng 5 năm đó, Hội nghị Trung ương 8 họp, quyết định nhiều vấn đề quan trọng. Cuối năm 1941, đội du kích đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 12 chiến sĩ do Lê Thiết Hùng làm đội trưởng, Lê Quảng Ba làm chính trị viên và Hoàng Sâm là đội phó. Đội có nhiệm vụ bảo vệ khu căn cứ, bảo vệ Bác, tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng và tiễu phỉ trừ gian ở vùng biên giới. Từ giữa 1942, ông Lê Thiết Hùng đi “Nam tiến”, Hoàng Sâm thay thế. Thu phục tướng phỉ Lợi dụng điều kiện xã hội phức tạp và địa lý hiểm trở vùng biên giới mà nhiều toán phỉ có vũ trang đã cướp bóc, giết chóc, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống bà con các dân tộc. Đã khổ vì quan Tây, quan Châu, nay lại phải chịu “nạn phỉ“. Nếu không dẹp được “nạn phỉ " thì sẽ khó động viên bà con ủng hộ cách mạng. Từ năm 1939, Châu uỷ Hà Quảng phát động dân lập Hội Chống phỉ với sách lược “kiên quyết trừng trị đi đôi với giáo dục thuyết phục những người nghèo lầm lạc theo phỉ trở về với nhân dân”. Những năm tháng ở Lào (1962-64). Hàng đầu, từ phải qua: Trung tướng Coong-le (1), thiếu tướng Hoàng Sâm, thiếu tướng Lê Chưởng (4) cùng các cán bộ cao cấp và bộ đội Lào bên khí tài mới. Ảnh tư liệuNhưng việc thuyết phục những toán phỉ lớn không phải dễ. Chúng rất đông, có nhiều súng và hoạt động rất tàn bạo. Những tên trùm phỉ sống ngang tàng “anh hùng hảo hán” nhưng rất kính nể những người can đảm, tài ba. Trong số đó có anh em Voòng A Sáng, Voòng A Sính, có Châu Slam Tha (Châu “ba mắt”), Lỳ Síu… Hoàng Sâm còn có tên Trần Sơn Hùng nổi tiếng cả vùng Cao Bằng là người gan dạ “đánh đông dẹp bắc”, bắn súng bằng 2 tay “bách phát bách trúng”, phi ngựa thì như kị sĩ, nói tiếng Quảng thì như người Hoa. Bọn trùm phỉ nghe danh rất kiêng nể nhưng lại muốn thi gan, đọ tài. Một lần, Lỳ Síu kéo quân đến cửa hang Pắc Bó đòi gặp ông Trần và ông Lê (Lê Quảng Ba). Vừa trông thấy 2 ông, hắn vội cúi đầu chào và có lời: “Xin mời cán bộ uống rượu đến say rồi thi bắn súng, ném lựu đạn!”. Quả như lời đồn, gan và tài của ông Trần có một không hai – với tác phong oai phong, khoanh 2 tay trước ngực, súng “pặc-khoọc” đeo lệch một bên vai, con dao quắm đi rừng dắt bên hông – ông lững thững bước ra khoảng trống. Cho dù đã ngấm hơi men nhưng không cần ngắm, ông Trần nâng súng lên, vẩy đâu trúng đó. Lỳ Síu thấy vậy vội quỳ gối, chắp 2 bàn tay, miệng dạ ran: “Bái phục đại ca! Bái phục đại ca!”. Biết những tên trùm phỉ gốc Hoa rất trọng đồng hương, đồng họ, đồng môn, đồng niên… nên Hoàng Sâm đã thân chinh cưỡi ngựa vào tận sào huyệt Voòng A Sáng. Nghe tiếng đã lâu, nay mới “hội ngộ” lại thấy ông anh “đồng họ” (Hoàng phát âm theo tiếng Quảng là Voòng, Hoàng Sâm là Voòng Sám) nên trùm phỉ hết sức quý trọng, mở tiệc chiêu đãi. Trong bữa tiệc, Voòng A Sáng mời Hoàng Sâm uống rượu nhắm với “não hầu” (óc khỉ sống) và đề nghị kết nghĩa huynh đệ. Nhờ hành động rất kiên quyết nhưng lại khôn khéo mà ta đã hạn chế được sự phá phách, cướp bóc của bon phỉ, làm cho nhân dân thêm tin tưởng ở cách mạng. Vì vậy số hội viên cứu quốc theo Việt Minh ngày càng đông. Làm cố vấn quân sự ở Lào Từ giữa 1943, phong trào cách mạng phát triển và tiến dần về xuôi. Đội du kích Cao Bằng phân tán mỗi người một nhiệm vụ. Hoàng Sâm được giao nhiệm vụ tổ chức đội bảo vệ các đội xung phong Nam tiến. Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Sam Cao, Nguyên Bình, Cao Bằng, ông được cử làm đội trưởng. Sau 2 chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, đội phát triển thành đại đội, ông được cử là C trưởng. Ít lâu sau, từ đại đội phát triển thành chi đội (tương đương tiểu đoàn) ông lại được cử làm chi đội trưởng. Theo chân HCM, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống VNCH, đ/c đảm đương các nhiệm vụ: Chỉ huy trưởng mặt trận Tây tiến (1947), Chỉ huy trưởng khu 3 (1948), Đại đoàn trưởng 304 (1952-54) và Tư lệnh quân khu 3... Trong 41 năm tham gia cách mạng cs , ông có 2 năm (1962 - 1964) làm chuyên gia quân sự cho Lào cùng tướng Lê Chưởng. Ngày ấy, giữa Pathet Lào và Hoàng gia lập ra Chính phủ liên hiệp. Cố vấn quân sự Việt Nam sang giúp đỡ cả 2 lực lượng “tả” và “hữu”. Tướng lĩnh Hoàng gia, sĩ quan “cánh hữu” vốn rất ngang bướng, nhưng với tri thức học được qua các trường quân sự ở Trung Quốc, kết hợp kinh nghiệm trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, cả kinh nghiệm thu phục các trùm phỉ, ông đã làm cho tướng lĩnh Quân đội quốc gia Lào nể phục. Điển hình là trung tướng Coong-le - thuộc “cánh hữu”, vốn trẻ, đẹp trai, ngang tàng lại ăn chơi đàng điếm khi gặp ông cũng phải quy phục. Chiến tranh chống mien Nam VN, ông tiếp tục ra trận và hy sinh tại mặt trận Trị Thiên ngày 15/12/1968, tròn 53 tuổi. * Trần Kiến Quốc
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 15, 2011 12:28:31 GMT 9
Trần Văn Giàu Và Căn Bệnh ‘Sùng Bái Liên Xô’ (01/13/2011) Tác giả : Đoàn Thanh Liêm
Ông Trần Văn Giàu, một đảng viên cộng sản kỳ cựu gốc miền Nam, vừa mới qua đời vào cuối năm 2010, ở tuổi đại thọ gần con số chẵn 100 năm. Báo chí của nhà nước cộng sản đã viết rất nhiều về ông với lời ca tụng tán dương hết mực, và một số học giả ngoại quốc cũng đã viết về ông với sự khách quan dè dặt. Trong bài này, tôi không chủ ý viết lời khen chê nào đối với một nhân vật, mà mình đã không để tâm theo dõi tìm hiểu gì nhiều, mà cũng chưa hề bao giờ tôi đã gặp mặt hay chuyện trò gì với ông ta nữa. Mà như trên nhan đề, tôi chỉ muốn ghi lại cái căn bệnh “Sùng bái Liên Xô”, mà nhiều nhà lãnh đạo cộng sản Việt nam trước đây đã mắc phải, và trong số những người đó, ông Giàu là một tiêu biểu khá rõ nét. Thật vậy, ông Giàu đã có lần phát biểu một câu chắc nịch đại ý được ghi lại như sau : “Nói gì thì nói, chứ Liên Xô thì không bao giờ mà lại có thể sai lầm được”. Mà cả lãnh tụ Hồ Chí Minh của ông Giàu, thì cũng đã từng tuyên bố đại khái rằng : “Tôi chẳng có tư tưởng lý thuyết riêng nào cả, mà các lãnh tụ Staline và Mao Trạch Đông đã suy nghĩ đày đủ chu đáo lắm rồi…” Còn ông Tố Hữu, thì đã có bài thơ ca tụng đại lãnh tụ Stalin lúc ông này từ trần vào năm 1953, với những “câu thơ bất hủ” như : “Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương ông thương mười”. Vào hồi đầu thập niên 1940, lại còn có một đảng viên cộng sản miền Nam lấy cả tên hai địa danh chiến tích nổi tiếng của Liên Xô để mà đặt tên cho hai cô con gái của mình, đó là Huỳnh Thị Crimee và Huỳnh Thị Odessa. Cái tên gọi này được chính thức ghi rõ ràng trong giấy khai sinh hồi đó còn viết bằng tiếng Pháp trong sổ hộ tịch ở xứ Nam kỳ thuộc địa, chứ đó không phải chỉ là tên gọi trong chỗ riêng tư của gia đình. Và như ta đã biết, kể từ thập niên 1920, tổ chức Đệ Tam Quốc tế Comintern do Liên Xô lãnh đạo đã tài trợ cho không biết bao nhiêu cán bộ nòng cốt của đảng cộng sản Việt nam, để họ theo học tại Đại học Phương Đông ở thủ đô Moskva. Đó là những nhân vật với tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Văn Giàu, Bùi Công Trừng… Hồ sơ về các sự việc này đều còn được lưu giữ với nhiều chi tiết trong văn khố đồ sộ của cơ quan này. Ngày nay, với sư “Giải mật” (Declassification) về các tài liệu vẫn thường được giữ kín trong các văn khố của nhiều quốc gia, đặc biệt là của Liên Xô, thì giới nghiên cứu lịch sử có thể cung cấp cho chúng ta hình ảnh mỗi ngày thêm chính xác hơn về sự yểm trợ tài chánh và sự chi phối của Comintern và của Liên Xô đối với chính sách và hành động của đảng cộng sản Việt nam, kể từ ngày đảng này mới được thành lập vào đầu thập niên 1930, cho đến các thập niên 50-60 sau này. Điển hình là gần đây, công chúng Việt nam vừa mới được biết đến hai bức thư viết tay bằng tiếng Nga do chính ông Hồ Chí Minh ký năm 1952, để gửi cho lãnh tụ Stalin mà có đính kèm dự thảo chính sách cải cách ruộng đất đã được đảng cộng sản Việt nam soạn thảo, với sự cố vấn của người lãnh đạo cộng sản Trung quốc là Lưu Thiếu Kỳ, thì sự kiện này càng chứng tỏ rằng : “ đảng cộng sản VN đã theo rất sát với sự chỉ dẫn và lãnh đạo của bậc đàn anh Liên Xô”. Và đó là nguyên ủy của mọi tai ương khốn khổ cho dân tộc chúng ta từ hơn 60 năm qua, do lũ người cộng sản cuồng tín quá khích đã du nhập cái thứ “ bạo lực cách mạng đày hận thù đẫm máu” từ Liên Xô, Trung Quốc vào Việt nam để mà tàn phá tan hoang cơ đồ non nước chúng ta. Công cuộc cải cách ruộng đất được phát động rầm rộ ở miền Bắc trong thập niên 1950, mà người cộng sản gọi là “ cuộc cách mạng long trời lở đất”, thì đã gây ra biết bao đau thương chết chóc, khổ nhục cho cả hàng mấy chục vạn nạn nhân được xếp vào lọai “giai cấp địa chủ”. Sự việc này đã được nhiều người biết đến từ lâu rồi, tôi khỏi cần nhắc lại ở đây nữa. Mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến một điểm chủ yếu sau đây : “Đó là đảng cộng sản Việt nam đã áp dụng đúng theo sự chỉ đạo của người anh cả Liên Xô và của người anh lớn Trung Quốc trong vụ cải cách ruộng đất cực kỳ dã man tàn bạo này”. Và trước sự ta thán hốt hỏang, bất mãn của đa số quần chúng về sự tàn ác vô nhân đạo đó, thì giới lãnh đạo mới làm bộ dàn cảnh sửa sai, bằng cách cử Tướng Võ Nguyên Giáp đứng ra “xin lỗi quốc dân”, đồng thời “cách chức Tổng Bí Thư Trường Chinh và một vài cán bộ cao cấp khác”. Việc này chỉ nhằm tạm thời xoa dịu nỗi uất ức của các gia đình nạn nhân mà thôi. Chứ về thực chất, thì chính sách cải cách ruộng đất này là do tòan bộ giới lãnh đạo chóp bu của cộng sản Việt nam đã thông qua quyết định, và tuyệt đối áp dụng theo đúng sự lãnh đạo của các đàn anh Liên Xô, Trung Cộng. Rồi tiếp liền theo sau đó, họ vẫn tung ra chiến dịch “Hợp tác hóa, tập thể hóa nông nghiệp” cũng lại rất tàn bạo sắt máu, cũng lại rập khuôn theo đúng với chính sách của Liên Xô, Trung Quốc. Trở lại với chuyện ở miền Nam vào các năm 1945 – 47, đúng vào cái thời ông Trần Văn Giàu còn đang nắm giữ việc lãnh đạo chánh quyền tại đây, thì đã xảy ra hàng lọat các vụ sát hại những người ái quốc theo khuynh hướng cộng sản Đệ tứ Quốc tế (còn gọi là phe trotskyst, tức là theo chủ trương của lãnh tụ Leon Trotsky, người bị Stalin cho tay sai tới ám sát vào năm 1940, lúc ông sống lưu vong ở Mexico), điển hình là trường hợp bị thủ tiêu ngay tại khu vực phía bắc thành phố Saigon của các ông Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà… Cũng cần phải ghi lại việc thủ tiêu Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập ra Phật Giáo Hòa Hảo, cũng đã xảy ra vào năm 1947 tại khu vực miền Tây Nam Bộ. Các chuyện tàn ác động trời này, ông Giàu và phe cộng sản Đệ Tam của ông đã thực hiện đúng theo chủ trương của Liên Xô, mà ông coi là “không bao giờ mà lại có thể sai lầm được”, như đã ghi ở trên. Tóm tắt lại: Những người lãnh đạo cộng sản nòng cốt vốn được Comintern đào tạo từ lâu tại Moskva, như ông Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu…, thì họ đã áp dụng đường lối chính sách rập theo khuôn mẫu của Liên Xô dưới thời Stalin, mà họ đã thật tâm rất mực sùng bái, đúng như lời phát biểu công khai của họ trước công chúng. Mà cho đến ngày nay bước qua thế kỷ XXI rồi, giới lãnh đạo cộng sản ở Hanoi cũng vẫn còn tuyên bố “kiên trì đi theo đường lối Cách mạng Tháng Mười của Liên Xô” nữa. Thật đây rõ ràng là một tai họa thảm thương cho cả một dân tộc Việt nam vốn đã có lịch sử trên 4000 năm văn hiến vậy. Hỡi ôi! Cái thời đại sao mà quá nhiễu nhương u ám mê hoặc!/ California, Tháng Giêng 2011 Đòan Thanh Liêm
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 13:23:13 GMT 9
In Memory of General GiapI myself have mixed opinions about General Giap, since he was a major player of North Vietnam during the war. Vo Nguyen Giap was a Communist, a prominent leader of North Vietnam who helped Ho Chi Minh defeat the democratic South Vietnam and led the country to Communism. This sounds all too familiar, but when you look at his actions compared to other leaders such as Ho Chi Minh, Le Duan, and Truong Chinh, it is apparent that Giap had Vietnam’s interest first. When North Vietnam defeated the democratic South and implemented the Communist government in 1975, Giap advocated the safety of South Vietnamese workers and professionals instead of killing them out of vengeance. Sources also suggests that Vo Nguyen Giap wanted to fix U.S.-Vietnamese relations after the war and move the country forward. However, other Communist leaders such as Le Duan opposed Giap’s policies and eventually marginalized his position in the Communist Party, neutralizing his influence. In modern Vietnam, General Giap is one of the few individuals courageous enough to oppose the corrupt Communist Party of the 21st century. In the history of contemporary Vietnam, I can hardly find a Communist leader that I actually admire; Ho Chi Minh had us fooled in the past, making us think that he had Vietnam’s interest in mind; Le Duan was a hardline Communist, installing harsh, Stalinist policies that created much suffering for the Vietnamese people. After these men, I can honestly say that no Vietnamese leader within the past 20 years has done anything to help Vietnam. I just want to recognize the contribution of General Vo Nguyen Giap and acknowledge what he has done for Vietnam. After all, let’s not forget how he helped kick out the French in 1954 and then the Americans in 1975.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:01:23 GMT 9
Cuộc Đời Lê Duẩn Tg: Hua Hoanh1. Bí Ẩn Cuộc Đời Lê Duẩn Người CS nào cũng có cuộc đời ly kỳ, do họ cố tình che dấu, ngụy trang để hoạt động. Lê Duẩn (1907-1986) từng là Bí thư của đảng CSVN, nhưng là 1 trong những nhân vật lãnh đạo có trình độ học thức kém nhất, chỉ ở bậc Tiểu học. Do đó, ông ta tàn ác đối với đồng bào còn hơn kẻ thù ngoại nhân. Ông là người có tính tình cục mịch như nông dân, tính cọc cằn. Sau năm 1975, 1 cán bộ cao cấp hỏi ông về chính sách đối đãi với những sĩ quan miền Nam thì Duẩn trả lời bằng cách ra dấu lấy tay quẹt ngang cổ (có nghĩa là giết). Chủ trương tàn bạo, có tính thiếu nhân tính của người lãnh đạo CS, làm cho hàng trăm ngàn sĩ quan cao cấp của QLVNCH phải chết trong các trại cải tạo, phơi thây trong rừng thiêng nước độc, gieo tang tóc đau thương cho gia đình họ. Cuộc đời của Lê Duẩn có nhiều bí ẩn ít ai biết rõ. Tài liệu này được viết dựa. theo những lời kể của người trong cuộc cũng như dựa theo 1 vài tài liệu khác, nhất là do sự giúp đỡ của Xuân Vũ và Dương Đình Lôi, họ đã cho biết những chi tiết sống thực mà chính họ đã chứng kiến. Lê Duẩn, còn được biết là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận hay anh Ba, người thôn Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sinh ngày 7/4/1907 trong 1 gia đình sống bằng nghề đóng quan tài. Chỉ được theo học hết cấp Tiểu học ở Triệu Phong. Năm 18 tuổi, Lê Duẩn xin vào làm cho Sở Hỏa xa Quảng Trị. Theo nhiều người biết thì ban đầu Duẩn làm người "bẻ ghi", cầm cờ hiệu cho xe lửa mỗi khi vào sân ga. Năm 21 tuổi, Duẩn tham gia hoạt động chính trị bí mật chống Pháp, gia nhập "Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội", là tiền thân của đảng CSVN. 1 năm sau, khi đảng CSVN được thành lập ở Hong Kong, 3/2/1930, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại "Sô Viết Nghệ Tỉnh", Duẩn bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La (1931-1936). Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, nới lỏng chế dộ cai trị thuộc địa. Tại Đông Dương, Pháp phóng thích 1 số chính trị phạm. Lê Duẩn được tha trong dịp này. Về Trung Kỳ, Duẩn lại tiếp tục hoạt động. 1 năm sau, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ (1937-1939). Sở dĩ Duẩn được tiếp tục tiến cử vào chức vụ cao hơn là nhờ xuất thân từ giai cấp nghèo khổ, ít học, trung kiên. Năm 1939, Duẩn được vào Ban chấp hành Trung ương đảng (Ủy Viên Thường Vụ Lâm Thời Trung ương đảng, 1939-1940), và được phái vào Saigon hoạt động. Bấy giờ đảng viên CS ở miền Nam chỉ có 1 nhúm người. Lúc đó ở Nam Kỳ có Nguyễn Văn Cừ là Tổng bí thư, và Duẩn dưới quyền của Cừ. Tháng 8/1939, Đảng CS Liên xô ký hiệp ước thân thiện với kẻ thù Đức Quốc Xã, và coi Pháp không còn là đồng minh nữa. Phản ứng lại, ở Đông Dương, Toàn quyền George de Catroux ra lịnh thanh trừng tất cả đảng viên CS. Ngày 17/1/1940, mật thám bắt được tại trận Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư đảng đương thời), Võ Đình Hiệu, Vũ Thiên Tân và Duẩn đang hội họp tại con hẻm số 19 đường Nguyễn Tấn Nghiệm, nay là Trần Đình Xu. 2 hôm sau, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập (Uy viên Trung ương đảng) cũng bị tóm ở Phan Thiết. Tuy nhiên, trong dịp này, số người hoạt động chính trị bị bắt, không chỉ CS mà thôi mà còn gồm đủ mọi thành phần, đủ khuynh hướng chính trị và số lượng bị bắt ngày càng đông. Thống đốc Nam Kỳ Veber có lập trại giam mới ở Tà Lài, nằm sâu trong rừng gần Định Quán, khoảng cây số 123 để chứa thêm, sau khi các nhà tù khác đã "quá tải". Đây là chiến dịch "tổng ruồng, vét sạch" của thực dân, đề phòng cuộc khởi nghĩa của người dân bản xứ. Lúc ấy, Nguyễn Thị Minh Khai (tức Nguyễn Thị Vịnh) cũng bị sa lưới mật thám Pháp (30/7/1940) tại Hóc Môn. Lúc này, Thường vụ Trung ương đảng đang đóng ở miền Nam với Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên,...chưa bị bắt. 30/9/1940, họ đồng thanh quyết nghị khởi nghĩa chứ không chịu ngồi yên chờ chết. Kế hoạch nổi dậy nhiều tỉnh cùng 1 lúc gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa vào cuối năm 1940 (22/11/1940). Phan Đăng Lưu được cử ra Bắc xin chỉ thị, tuy nhiên cuộc họp lần thứ 7 của Trung ương đảng ở Bắc Ninh (có Hoàng văn Thụ, Trần Đăng Ninh, Hạ Bá Cang tức Hoàng Quốc Việt...) đã không tán thành. Theo lịch sử công khai của Đảng thì như thế. Tuy nhiên, có người trong cuộc, biết cái bí ẩn của Nam Kỳ Khởi Nghĩa (22/11/1940). Không phải bỗng nhiên nhóm Thường vụ Trung ương đảng lẫn trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm mà Pháp biết được và bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc "chỉ điểm cho Pháp", vì muốn "đảo chính" Trung ương đảng miền Nam để đem Trung ương đảng ra Bắc Kỳ cho người Bắc lãnh đạo. Họ mượn tay người Pháp để diệt nguội Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan Đăng Lưu bị bắt. Lần lượt, các nhân vật lãnh đạo ở Nam Kỳ bị đưa ra tòa kêu án tử hình. Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành quyết chung (28/8/1941) với Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư năm 1938), Võ Văn Tần (người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng). Từ đó, ở Bắc, vào đầu tháng 11/1940, tại Hội nghị thứ 7 Ban chấp hành Trung ương đảng CS Đông Dương, Trường Chinh lên làm "Tổng Bí thư Lâm Thời" (thay cho Nguyễn Văn Cừ đã bị bắt cùng Lê Duẩn, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân ngày 17/1/1940 tại Saigon), và đầu não CS dĩ nhiên nằm tại Bắc Kỳ. Các đảng viên Bắc và Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong kháng chiến cũng như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương thầm kín của Hồ Chí Minh. Sau khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch,...mặc tình thao túng. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, có đầu óc địa phương, manh nha muốn tách ra khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên Trung và Bắc Kỳ để thành lập 1 quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh (tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926), Hoàng Quốc Việt vào Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về giam lỏng ở Hà Nội. Trong khi đó, vào tháng 9/1945, sau khi Nhật đầu hàng, thì Duẩn rời khỏi Côn Đảo (bị giam từ 1940-1945). Kế đó ít tháng, Duẩn được HCM gọi ra Hà Nội nhận chỉ thị. Khi cuộc chiến tranh Việt - Pháp lan rộng ở Nam Kỳ, Hồ cử Lê Duẩn với chức vụ Bí Thư Xứ Bộ Nam Kỳ (1946) đi vào Nam. Đi theo Duẩn có Lê Đức Thọ. Hồ muốn Duẩn vào Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Những người Trung và Bắc từ trước đến nay sống ở miền Nam như Trần Văn Trà, Võ Quang Anh, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Kim Cương...được Hồ cất nhắc lên cấp chỉ huy. 5 năm sau, 1951, khi Trung Ương Cục Miền Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) được thành lập, Duẩn được cân nhắc lên làm Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Từ đó, Duẩn vào Nam ra Bắc như con thoi : nào là "rèn quân, chỉnh cán", nào kiểm thảo,... Năm 1954, sau khi Hà Nội và Pháp ký Hiệp định Geneva, thì Duẩn được cài ở lại miền Nam, nằm vùng tại 1 căn nhà đường Phan Đình Phùng thuộc khu Bàn Cờ. Duẩn có cấp tốc ra Bắc để nhận chỉ thị lo việc tập kết, ém người và cán bộ ở lại miền Nam, để phát động cuộc chiến tranh mới. Duẩn sử dụng thông hành của 1 thương gia Tàu, do người vợ tên là LKD giới thiệu. Bà này là vợ hờ, theo kiểu già nhân ngải non vợ chồng. Duẩn lợi dụng bà này vì bà là vợ 1 thương gia giàu có, vừa làm cán bộ kinh tài cho CS, mà lại được cảnh "cơm no bò cỡi". Với thông hành hợp pháp, Duẩn đi đường bộ qua Phnom Penh, rồi đáp máy bay của Hàng không Pháp đi Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tới đây, Duẩn đổi máy bay về Hà Nộị Lãnh chỉ thị xong, Duẩn lại đội lốt 1 sĩ quan liên lạc của Bắc Việt, tháp tùng máy bay của Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, trở về Saigon. Sau đó, Duẩn lén về Phụng Hiệp, rồi bí mật trốn ra mật khu ở Cà Mau. Tại nhà thờ Huyện Sử, Duẩn chủ trì 1 phiên họp cán bộ cao cấp của Trung Ương Cục Miền Nam và ra lịnh : - Phân tán, chôn vũ khí, máy móc. - Moi móc những súng đạn phế thải của các công binh xưởng phát ra cho các cán binh CS tập kết cầm theo "làm cảnh", để chứng tỏ cho mọi người và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến rằng họ nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Geneva. Chuyến tàu cuối cùng chậm chạp rời cửa sông Ông Đốc. 2 bên bờ, dân chúng tụ tập để tiễn chân thân nhân tập kết. Mọi người nhìn thấy rõ ràng Bí Thư Lê Duẩn đứng trên bong tàu Bilixki, đưa tay vẫy đồng bào... Khuya hôm đó, khi tàu Bilixki vừa ra khơi, Lê Duẩn xuống 1 chiếc ca nô trở lại bờ. Người tổ chức bí mật việc này là Võ Văn Kiệt, lúc đó làm Bí Thư Tỉnh Ủy Bạc Liêu. Duẩn được cài vào 1 gia đình ở Cà Mau để chờ đợi. Mấy tháng sau, Duẩn lại lén lút về Saigon ăn ở với người vợ hờ vừa kể trên. Đây là 1 người đàn bà lẳng lơ, vóc cao lớn, thân hình hấp dẫn, là đàn em của Mã Thị Chu (dược sĩ, có nhà thuốc Tây ở Cần Thơ), là 1 đại gian thương Chợ Lớn. Bà này có với Lê Duẩn 1 đứa con. Khi Lê Duẩn có lịnh ra Bắc (đầu năm 1957, sau khi Trường Chinh bị thất sủng, và chính phủ VNCH từ chối tổng tuyển cử), chính bà này lái xe đưa Duẩn qua Phnom Penh, để đáp phi cơ ra Hà Nội. Nhưng thực ra, từ đây Duẩn đi thẳng qua Hong Kong, Quảng Châu, rồi đổi máy bay khác về Hà Nội. Nói thêm về tuyến đường này. Kể từ năm 1960, cán bộ cao cấp CS từ Nam VN muốn ra Bắc, họ sử dụng đường bay Phnom Penh - Quảng Châu do hãng Hàng không Air Azur của Pháp khai thác. Trước khi ra mắt Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời ở miền Nam, đại diện CS là Trần Bửu Kiếm cũng qua Phnom Penh rồi đáp máy bay đi Algeria, Cuba, báo tin trước. Khi VC vừa công bố làm lễ ra mắt Chính Phủ trên thì trên đài phát thanh của Algeria, Cuba, người ta nghe tiếng 2 chính phủ này "nhìn nhận" tân chính phủ ấy tức thì. Chuyến về, Trần Bửu Kiếm về thẳng Quảng Châu, qua Hà Nội để đánh lạc hướng tình báo Mỹ. Lần đó, Kiếm về Cục R (Trung Ương Cục Miền Nam) báo cáo diễn tiến Hoà đàm Paris. Khi cuộc chiến miền Nam trở nên ác liệt, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết (Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình) từ Cục R được đưa ra Bắc lánh nạn, cũng sử dụng đường bay nói trên. Sau đó họ được đưa về Đồ Sơn "nghỉ dưỡng". Trở lại năm 1948. Duẩn và Thọ tới chủ trì 1 phiên họp của đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, họp tại mật khu ở Cà Mau. Duẩn gặp 1 cô gái xinh đẹp, có học thức, đang giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Phụ nữ tỉnh Cần Thơ, thì Duẩn mê ngay. Cần nhắc lại, lúc đó Duẩn đã 42 tuổi và có mấy đời vợ ở ngoài Bắc. Người vợ thứ nhứt được Duẩn cưới hồi 20 tuổi, ở quê nhà Quảng Trị, tên Cao Thị Khê. Vì bà vợ này mà Duẩn cất nhắc em ruột bà ta là Cao Xuân Diệm (bí danh Dương Thông), làm Cục trưởng Cục An ninh Nội chính, lúc đó mới cấp Đại tá, sau này lên Trung tướng. 1 người vợ khác của Lê Duẩn là Võ Thị Sảnh, con ông Võ Văn Kính, người Quảng Nam. Ông Kính là công nhân hỏa xa, đồng nghiệp với Duẩn ở Quang Trị. Bà Sảnh gia nhập đảng CS năm 1948, xâm nhập vào hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng để báo cáo cho Trần Văn Trà, lúc đó làm Tư lịnh Quân khu 4. Khi vào Nam, Duẩn tuyên bố là minh chưa vợ vì còn "mãi lo làm cách mạng". Thương hại đồng chí Duẩn, tới tuổi này (42) mà chưa vợ, nhiều cán bộ muốn kiếm vợ cho Lê Duẩn để ông ta an tâm lo việc nước. Cô Đỗ Thị Thúy Nga là con 1 đại điền chủ quê ở Thác Lác, cháu gọi Đỗ Hữu Vị bằng chú ruột, và gọi Đỗ Hữu Phương, người giàu nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20, bằng ông nội. Số là năm 1900, Toàn quyền Doumer có dịp vào Saigon, không biết Phương nịnh hót thế nào mà Doumer đã cấp cho Phương cả ngàn mẫu ruộng ở Thác Lác. Đến năm 1945, số đất ấy chỉ còn vài trăm mẫu, do 1 người con của Phương quản lý. Như vậy cô Nga xuất thân từ giai cấp địa chủ, kẻ thù không đội trời chung với CS. Nhắc lại, lúc đó Nguyễn Văn Trấn (tác giả "Viết cho Mẹ và Quốc hội") vừ đổi xuống miền Tây, mới hơn 30 tuổi. Trấn sanh vào ngày 21/3/1914 tại Chợ Đệm (làng Tân Kiên), huyện Bình Chánh, tỉnh Long An, đang giữ 2 chức vụ quan trọng : Bí Thư Khu Ủy, Chính Ủy Kiêm Tư Lịnh Khu 9, uy quyền tột bực. Trấn lại có học (Trường Tiểu học Phú Lâm, Trung học Petrus Ký, tốt nghiệp Trung học, làm báo), khá điển trai, là đối tượng của các cô gái đẹp ở Saigon mới vô khu kháng chiến. Trấn bắt tình với cô Đỗ Thị Thúy Nga, 1 mối tình qua đường vì Trấn đã có vợ con hẳn hoi. Mối tình vụng trộm này không kéo dài được vì bà vợ của Trấn ghen. Để cứu vãn danh dự và để lấy lòng anh Ba Duẩn, Trấn liền giới thiệu cô Nga cho Duẩn. Thấy Nga, Duẩn rất thích. Nhưng, Duẩn vóc dáng cục mịch, ăn nói cộc lốc như "dùi đục chấm mắm nêm", lại già hơn, gấp đôi tuổi cô Nga, nên Nga từ chối thẳng thừng. Duẩn kêu vài cán bộ thân tín giữ những chức vụ quan trọng tới họp mật. Bà Lê Đoàn, Chủ tịch Ban chấp hành Hộ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, được lịnh anh Ba tới "động viên" cô Nga ưng anh Ba. Anh Ba tuy lớn tuổi nhưng chưa vợ con vì mãi lo việc cách mạng. Rồi Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng), cũng được Duẩn giao nhiệm vụ vận động Thúy Nga. Chưa hết, giáo sư Đặng Minh Trứ, Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ, nhận lịnh Duẩn đến thẳng tư gia của cô Nga để "vận động" song thân của cô. Tất cả đều là công dã tràng, vì cô Nga từng là nữ sinh tường đầm, nói tiếng Pháp như gió, không chịu làm vợ 1 anh nhà quê thất học. 1 người từng ở trong hàng ngũ kháng chiến kể lại rằng, khi mọi cuộc "vận động" bế tắc, Duẩn liền dùng bạo lực. Duẩn cho lịnh mời cô Nga với tư cách đại biểu Cứu Quốc Cần Thơ, đến họp tại 1 ngôi nhà giữa rừng, bên bờ sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ. Đêm ấy trời mưa, chuyện gì xảy ra không rõ, sáng chỉ thấy cô Nga mặt mày sưng húp vì khóc suốt đêm qua. Ván đã đóng thuyền, cô Nga miễn cưỡng làm vợ bé của Lê Duẩn. Từ đó, đảng ra lịnh cấm bất cứ ai bàn tán về việc "đồng chí Ba Duẩn cưới vợ". Năm 1955, cô Nga theo đoàn quân tập kết ra Bắc. Duẩn cho dấu cô Nga với 2 con trong 1 biệt thự trên đường Hùng Vương. Không hiểu do ai báo cáo, bà vợ cả Đỗ Thị Khê tìm tới đánh ghen. Cô Nga chỉ biết ôm mặt khóc. Duẩn dàn xếp dấu Nga ở Hải Phòng, cũng bị vợ lớn tìm tới chửi bới, khiến Nga đòi tự tử. Duẩn báo cáo việc lem nhem với Hồ. Hồ gợi ý đưa Nga qua Trung Quốc tỵ nạn vợ lớn, với danh nghĩa theo học chính trị tại Thiên Tân. Mỗi năm, Hồ cho Duẩn mượn chiếc máy bay riêng, ẩn số BH 195 (có nghĩa là Bác Hồ 19/5) qua Thiên Tân thăm vợ. Mỗi lần đi, Duẩn có đem theo đứa con gái lớn con bà vợ cả là Lê Thị Hồng, để cô này thăm tình nhân là 1 Thiếu úy đẹp trai, quê ở Cái Tàu, Bạc Liêu. Viên Thiếu úy này đang học trường quân sự Cáp Nhĩ Tân. Về sau, nghe đâu cô này học bên Liên Xô và lấy chồng người Liên Xô. Xưa nay, lấy vợ lấy chồng là chuyện bình thường, nhưng có vợ rồi mà còn muốn có vợ bé...lại còn làm việc bất chính để chiếm đoạt. Hồ Chí Minh luôn luôn răn đe đảng viên phải có "đạo đức cách mạng, đời công, đời tư phải trong sáng..." Thật ra, lời giáo dục ấy chỉ là tuyên truyền, áp dụng cho đảng viên cắc ké. Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ ba, dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy gái tơ cỡ tuổi con mình, như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9), Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Hoan,...
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:05:27 GMT 9
Lê Duẩn, một Tần Thủy Hoàng 1. Lê Duẩn, một Tần Thủy Hoàng hoang dâm vô độ Ở miền Nam những năm 47, 48 đã lan truyền câu chuyện "Trung ương cục cướp vợ của học sinh". Đó là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, một ông Bí thư, một ông Phó bí thư, có vợ con đàng hoàng ở miền Bắc rồi, vào trong đó thấy mấy cô học sinh kháu khỉnh ở trong thành ra học ở một trường vùng kháng chiến, liền sinh lòng ham muốn. Mặc dù hai cô này đã sắp là vợ của hai cán bộ, nhưng hai vị vẫn cố tình dùng áp lực trên cướp cho bằng được. Những chuyện đó vẫn không xấu xa bằng chuyện Lê Duẩn sau toàn thắng 75, hiện nguyên hình là một Tần Thủy Hoàng hoang dâm vô độ, trắng trợn đến mức chẳng còn nghĩ gì đến đạo đức, chưa nói đến là người đứng đầu của một Đảng. Tự cho mình là người "khai quốc công thần", Lê Duẩn đã tạo cho mình một cuộc sống như vua chúa đời xưa, với hàng chục "cung tần mỹ nữ" thường xuyên vây quanh, giả danh là mát xa, đấm bóp. Nghe kể rằng một lần trong lúc đê mê sung sướng, Lê Duẩn đã ra lệnh cấp cho Hồng một lúc hai căn hộ liền, một ở Kim Liên, một ở Bách Khoa, mặc dù cô này chưa chồng con gì, trong lúc hàng vạn cán bộ khác chưa được phân một mét vuông nhà ở nào. Nhưng điển hình nhất là vụ quan hệ với nữ Bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con gái Hồ Viết Thắng. Thực ra Hồ Thị Nghĩa chỉ là của thừa của Lê Quang Hòa, nguyên Chính ủy Quân khu 4, nhưng Lê Duẩn có xá gì là của thừa hay không phải là của thừa, miễn là có cái gì mà giải trí sau khi đã được Lê Đức Thọ "duyệt". Xin nói thêm đây là một âm mưu thâm độc của Lê Đức Thọ. Chính mục đích của Lê Đức Thọ là giăng bẫy đưa các cụ vào tròng để dễ dàng bịt mồm, bịt miệng các cụ lại, tha hồ mà mình lộng hành. Đến nỗi Lê Duẩn phải than vãn "Nhân sự Trung ương khóa 4, khóa 5 tôi chỉ biết 1/3 còn 2/3 ở đâu ra tôi chẳng biết gì". Có nghĩa là tất cả quyền hành trong Đảng về tay Lê Đức Thọ cả. Để đổi lại Lê Đức Thọ tạo cho các cụ đê mê trong chốn hành lạc, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Mà có biết cũng chẳng dám nói, vì đã bị Lê Đức Thọ "yểm bằng gái" hết cả rồi. Khi Hồ Thị Nghĩa có thai với Lê Duẩn, Ban Bí thư gặp riêng với Nghĩa khuyên nạo thai. Hồ Thị Nghĩa kiên quyết không nghe, nói: "Đây là con của Tổng Bí thư, rõ ràng thế, làm sao tôi phải nạo?" Do đó, trong đám tang Lê Duẩn, người ta thấy một thiếu phụ trẻ và đứa con trai chít khăn. Đó chính là Hồ Thị Nghĩa và đứa con trai, kết quả mối quan hệ bất chính của Tổng Bí thư Lê Duẩn với cô bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho mình. Đó là chuyện đời xưa, còn hiện nay, ba trong số năm đồng chí Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị cũng có biết bao nhiêu chuyện xấu xa. Lê Đức Anh thì bỏ vợ cũ, một nữ cán bộ cách mạng trung kiên lấy vợ mới. Chuyện này trước đây coi như một tội tày đình phải kiểm điểm, phải khai trừ khỏi Đảng. Còn vị đương kim Thường trực Bộ Chính trị hiện nay thì còn xấu xa hơn nhiều. Năm 1974, Thượng tá chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu quan hệ bất chính với một nữ nhân viên dưới quyền, việc vỡ lở ra, may mà Cục trưởng Cục Cán bộ lúc bấy giờ là Nguyễn Trọng Hợp, cùng quê Thanh Hóa, ém nhẹm đi cho Phiêu, và điều động Phiêu vào Quân khu 9 để phi tang. Có ai ngờ sự chuyển dịch ấy dẫn đến cuộc gặp gỡ giữa hai thầy trò họ Lê, Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu, tạo nên một "cặp bài trùng" cực kỳ nguy hiểm, thao túng toàn bộ nền chính trị nước nhà trong suốt bao đại hội: Đại hội 7, 8 vừa qua và Đại hội 9 sắp tới. Khi Lê Đức Anh sang làm Tổng Tư lệnh Cămpuchia, kéo Lê Khả Phiêu sang giúp về công tác chính trị, và thế là bắt đầu một "liên minh ma quỷ"
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:08:22 GMT 9
Chủ Tịch Hồ Chí Minh1. Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh ‘‘Bao nhiêu sao sáng bấy nhiêu anh hùng vì dân, mà bác Hồ ngôi sao sáng vô ngần, cuộc đời của bác chói ngời gương người cộng sản, quyết làm theo lời bác dạy khuyên. Quê hương yêu dấu Bắc – Nam chung một dòng máu, đoàn kết bên nhau đàn cháu ngoan của bác Hồ,…, nguyện xứng cháu của bác Hồ Chí Minh!’’. Có thể nói rằng không ai là người Việt Nam lại không biết đến CT HỒ Chí Minh, các thế hệ thanh, thiếu niên, nhi đồng lại càng được giáo dục kỹ lưỡng về ông. Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi, dù ông mất đã hơn 30 năm nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách giáo khoa các cấp cũng luôn nói tới ông từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tất cả đều nhằm mục đích làm cho mọi người hiểu rằng: không bao giờ được quên công lao to lớn của ông đối với dân tộc và kêu gọi hãy ‘‘Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.’’. Tài Liệu Giáo Dục Công Dân lớp 7, Nhà Xuất Bản Giáo Dục năm 1997, trang 53 có một bài đọc thêm nhan đề: Tinh Hoa Của Dân Tộc Việt Nam Góp Phần Vào Tinh Hoa Thế Giới, nội dung khẳng định một sự kiện là: vào năm 1990, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học Và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), đã ra một nghị quyết công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới. Trong đó có đoạn: ‘‘Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ…’’. (trích nghị quyết UNESCO, sách đã dẫn.). Trong bài Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Danh Nhân Văn Hóa Của Nhân Loại, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên, nguyên chủ tịch ủy ban UNESCO Việt Nam, viết vào tháng 5 năm 2000 vừa qua cũng tiếp tục khẳng định như vậy. (xem website : www.cpv.org.vn/hochiminh/cuocdoisunghiep/ docs/nguyendynien_danhnhan vanhoa.htm). Dù có ý đọc kỹ nhưng tôi không thấy cả hai bài viết trên ghi cụ thể đấy là nghị quyết số mấy? Ký ngày nào và ai đã ký nó? như thông thường đối với việc trích dẫn một nghị quyết quan trọng như thế. Tuy nhiên ở nước ngoài, vì có điều kiện được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác thì tôi lại thấy những bài viết quả quyết rằng: không hề có một nghị quyết nào như vậy cả! Ðiều đó có nghĩa là CT Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới, mà ông mới chỉ có tên trong danh sách được đề cử, rồi dừng lại ở đó thôi. Nhận thấy đây là một vấn đề lớn nên làm rõ, vì dù ai có chấp nhận hay không thì trong thực tế ông cũng đã là nhân vật lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 vừa qua. Còn cái lịch sử ấy đã và sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào? Tốt hay xấu? v.v… thì đó không phải là mục đích chính mà tôi muốn đề cập đến trong bài viết này. Ngoài ra còn là vấn đề bức xúc hơn, nó liên quan đến sự nghiệp trồng người của dân tộc: những học sinh lớp 7 kia rồi sẽ lớn lên và với thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay, thì việc các em được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác là rất dễ dàng. Khi ấy liệu các em còn biết tin vào đâu? Nguồn nào đúng, còn nguồn nào sai? Nếu chúng tự phát hiện ra sự thật lại ngược hẳn với những gì đã được dạy dỗ từ nhỏ đến lớn thì sao? Từ đó rất có thể chúng sẽ oán trách các thế hệ cha anh đã lừa dối chúng, rồi cứ theo cái vết mòn ấy, biết đâu chúng lại đi lừa dối tiếp những thế hệ sau, thì hậu quả sẽ tai hại biết nhường nào? Cả một dân tộc cứ đi lừa dối lẫn nhau mãi như vậy thì dân tộc ấy sẽ đi về đâu? Chính vì những lý do trên mà ở phần dưới đây, tôi xin được nêu ra một số câu hỏi liên quan đến thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn chưa được làm rõ. Tôi rất mong các nhà nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước, vốn quan tâm đến lịch sử Việt Nam hiện đại, nhất là đến thế hệ trẻ Việt Nam tương lai hãy giải đáp giúp. Tôi nghĩ rằng đây không chỉ đơn thuần là mối quan tâm của riêng tôi - một độc giả, mà còn là của hàng chục triệu phụ huynh học sinh đang có con cháu mình đi học ở Việt Nam. Mặt khác theo tôi, nếu những việc mới diễn ra trong thế kỷ 20 vừa qua, thậm chí chỉ mới 11 năm nay thôi mà chúng ta không làm rõ được, thì nói gì đến việc đi tìm hiểu, xác minh những chuyện lịch sử xa vời có từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước? Những câu hỏi của tôi là: 2. Có phải trước khi xuống tầu buôn Pháp làm phụ bếp... Có phải trước khi xuống tầu buôn Pháp làm phụ bếp vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, thì chàng trai 21 tuổi Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba đã có sẵn ý định ra đi tìm đường cứu nước hay chưa? Nếu anh Ba đã có sẵn mục đích rõ ràng như sau này anh kể lại: ‘‘…Tôi muốn được đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta…’’ thì thật đáng quý biết bao. Tuy nhiên nó lại mâu thuẫn với một sự kiện sau do những tài liệu ở nước ngoài viết rằng: Ngày 15.9.1911, khi vừa đặt chân đến cảng Mác-Xây (Marseille) – Pháp, tức là chỉ hơn 3 tháng sau khi rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn, thì anh Thành đã vội vàng viết đơn xin được vào học nội trú Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale). Nhưng đã bị nhà trường từ chối với lý do: Ðơn không được xét vì anh là đối tượng di chuyển tự túc đến Pháp chứ không phải được tuyển chọn từ xứ Ðông Dương sang, theo như quyết định ban hành ngày 30.4.1910 của Bộ Thuộc Ðịa Pháp. (lá đơn này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm được trong văn khố Pháp ngày 2.2.1983, có sao chụp lại cẩn thận. Cũng cần lưu ý rằng theo những tài liệu trong nước thì: Trường Thuộc Ðịa là nơi chuyên đào tạo những tên Việt gian phản động, tay sai của thực dân Pháp lúc bấy giờ.). Giả sử câu chuyện trên là có thật thì sẽ có thêm một câu hỏi hệ quả là: nếu năm 1911 Trường Thuộc Ðịa chọn anh Thành, thì 9 năm sau anh có còn chọn con đường của Lênin cho cách mạng Việt Nam nữa hay thôi? (theo suy luận chủ quan của tôi thì có lẽ là anh Thành sẽ thôi!).
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:11:51 GMT 9
3. Phải chăng lý do chính rời nước ra đi của anh Thành là bởi...
Phải chăng lý do chính rời nước ra đi của anh Thành là bởi trước đó một năm, trong gia đình anh đã có một biến động lớn diễn ra? Ðó là: năm 1910, cha anh là ông Nguyễn Sinh Huy, tức cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863 – 1929), tri huyện Bình Khê - Bình Ðịnh, trong một cơn say rượu đã sai người đánh chết anh nông dân tên là Tạ Ðức Quang bằng roi và gậy. Sở mật thám Pháp sau khi điều tra xong đã kết ông vào tội ngộ sát khi đang say rượu. Hội Ðồng Nhiếp Chánh tại Huế sau đó đã ra quyết định kỷ luật: hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời bấy giờ, bị triệu hồi về Huế, rồi cuối cùng là ông bị sa thải luôn. (bà Thanh con gái ông cũng kể : ông là người nghiện rượu nặng, hồi nhỏ bà vẫn thường bị bố đánh rất đau bằng roi, có khi lại còn quẳng cả roi đi để đánh bằng tay.).
Một số tài liệu lịch sử trong nước thì viết rằng: “…Cụ Sắc nhà nghèo, ham học, thông minh, thi đậu phó bảng,‘‘bị ép’’ ra làm quan. Có lần cụ nói:“ Quan trường là chốn nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn.”. Cụ thường làm những việc trái ý bọn quan lại, nên bị cách chức.”(!?).
Như vậy là giữa hai nguồn tài liệu đã có những điểm mâu thuẫn lớn cần làm rõ, nhất là lý do ra khỏi chốn quan trường của ông: phải chăng ông ra khỏi đấy vì như ông nói là không muốn bị ‘‘nô lệ hơn’’ trong số những người nô lệ? Hay là bởi rượu đã đưa ông ra? Và vì bị ra khỏi chốn ấy nên ông lại càng uống nó nhiều hơn?(nếu đúng là do say rượu làm chết người ta, thì cũng khó lòng mà phải ý ai được lắm!).
Cũng qua những sách báo ở trong nước kể lại thì : khi từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ (tháng 10.1954), ông đi thăm rất nhiều vùng quê trên miền Bắc, đi ra nước ngoài, v.v… Nhưng riêng quê ông thì mãi tới ngày 16.6.1957, tức là phải gần 3 năm sau ông mới về thăm lần đầu. Có một cái gì đó không ổn trong tinh thần vì nước quên … quê của ông không? Hay ông ngại cán bộ, chiến sỹ và nhân dân biết tấn bi kịch trên của gia đình mình?
4. Ai là người đã viết cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch?
Trần Dân Tiên (HCM): Liên Xô “tuy chưa phải là thiên đàng cho mọi người, nhưng quả thực là thiên đường cho thiếu nhi” Nguồn: academic.brooklyn.cuny.edu Ai là người đã viết cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch vào mùa xuân năm 1948? Cuốn sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên. Năm 1985, giáo sư Hà Minh Ðức đã xuất bản cuốn Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trong đó có đoạn: ‘‘…Ðáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới. Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch…’’. (Hà Minh Ðức, sách đã dẫn, Tr 132, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985).
Như vậy có nghĩa là tác giả Trần Dân Tiên và Hồ Chủ Tịch thực ra chỉ là một người. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, người biết rất rõ ông từ những năm 30, khi cả hai cùng học tập và làm việc ở Liên Xô đã viết lời tựa cho cuốn sách cũng đã khẳng định như vậy. Tôi tin là hai giáo sư ấy viết đúng, vì 2 lẽ: Thứ nhất, đó là việc rất quan trọng mà nếu nói sai thì chính hai giáo sư có thể sẽ bị mang họa, chắc chắn là hai ông đã cân nhắc rất kỹ trước đó. Thứ hai, cứ theo tư duy lôgic mà suy luận: nếu ông Trần Dân Tiên và cụ Hồ là hai người thì nay ông Trần Dân Tiên kia đâu? Còn sống hay đã chết? Nếu sống thì bao nhiêu tuổi rồi? Vợ, con ra sao? Nếu chết thì chết vào năm nào? Hiện chôn ở đâu? v.v…
Còn một khi lại chỉ là một người thì xét theo khía cạnh nào cũng đều không ổn. Chúng ta hãy nghe một vài đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về … Hồ Chủ Tịch như sau : ‘‘…Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho ai nghe về hoạt động của mình; rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc; Bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa…’’! và nữa: ‘‘…Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tinh khiêm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được?…’’! (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn). Cũng cần lưu ý rằng vào năm 1948 thì ‘‘vị cha già của dân tộc’’ ấy mới có 58 tuổi!
Trong thực tế nhân loại cũng đã có những người dùng quyền lực hay tiền bạc để bắt người khác ca ngợi mình. Nhưng nếu Hồ Chủ Tịch lại tự mình đứng ra làm việc đó thì quả là chuyện … xưa nay hiếm! Theo tôi chỉ với một‘‘đóng góp’’ấy thôi thì cũng đủ để ông vi phạm hàng loạt những giá trị văn hóa mà ông cha ta từ bao đời nay vẫn hằng nâng niu, trân trọng.
Trần Dân Tiên, tổ sư agit-prop Nguồn: ảnh: AFP Tôi cũng không rõ là những người đang‘‘giữ gìn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh’’có coi đây như là một trong những‘‘yếu tố cấu thành’’ nên tư tưởng của ông hay không? Và giả sử ở dưới cõi âm kia, nếu ông gặp các vị cách mạng đàn anh khác như Stalin, Mao Trạch Ðông, v.v…thì không nói. Nhưng nếu không may, ông lại gặp Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi thì biết ‘‘ăn, nói’’ thế nào cho phải với những vị anh hùng chân chính của dân tộc ấy đây?
Một điều nữa đáng lo ngại hơn: trong cuốn Dàn Bài Tập Làm Văn lớp 7 (NXB Giáo Dục 1997, Tr 39). Tức là 12 năm, sau khi tác phẩm của giáo sư Hà Minh Ðức nói trên được xuất bản, thì các tác giả biên soạn cuốn sách giáo khoa kia vẫn tiếp tục mập mờ, mà không chịu viết thẳng ra đấy là hai hay chỉ có một người. Nếu cứ cung cấp thông tin và bắt các thầy cô giáo dạy học sinh theo kiểu này, thì đến ngay như người lớn cũng còn bị nhiễu loạn chứ nói gì đến trẻ con?
Hồi đất nước còn chiến tranh, tôi đã được một sỹ quan QÐND Việt Nam cho xem cuốn nhật ký của anh, trong đó có đoạn:
‘‘Ngày 2 tháng 9 năm 1969. Hôm nay Ðài Tiếng Nói Việt Nam báo tin Bác Hồ bị bệnh nặng. Bác ơi! Chúng cháu hiểu là chúng cháu thật có lỗi với Bác, vì đất nước đến lúc này vẫn còn bị chia cắt. Ðơn vị của chúng cháu đã được vinh dự nhận lệnh vào miền Nam chiến đấu, chỉ vài hôm nữa thôi là lên đường. Cháu xin hứa với Bác rằng: dù phải trải qua gian khổ, hy sinh đến đâu thì chúng cháu cũng quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ mà đảng và quân đội giao phó; góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, để sớm được đón Bác vào thăm đồng chí, đồng bào trong ấy…’’.
Cũng cùng một tinh thần đó, từ miền Nam, nhà thơ Lê Anh Xuân viết ra:
Gửi miền Bắc lòng miền Nam chung thủy Ðang xông lên chống Mỹ tuyến đầu…
Nghĩa là tất cả đều hướng lên Ba Ðình tràn đầy một niềm tin trong sáng, một niềm kính trọng vô biên. Bởi vì ở nơi ấy ‘‘có Trung Ương Ðảng, có bác Hồ’’ luôn chỉ lối dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Theo tôi, nếu trong một cuộc chiến tranh, giả sử tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau, thì bên nào có thêm yếu tố tin tưởng và kính yêu lãnh tụ như trên là sẽ rất có lợi thế để giành chiến thắng.
Thế nhưng, nếu vì muốn trở thành một‘‘ngôi sao sáng vô ngần’’ mà chính vị lãnh tụ lại cho ra đời một sản phẩm kiểu như Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch, thì lại là điều không thể chấp nhận được. Bởi vì đó thực chất là quan điểm giành chiến thắng bằng mọi giá, mọi cách. Kể cả những cách rất thiếu tử tế: chủ động đi hủy hoại những giá trị văn hóa của nhân loại nói chung và dân tộc nói riêng mà hậu quả để lại sẽ rất nặng nề cho hậu thế. Bằng cách đó ở một giai đoạn nhất định, có thể ông cũng tự đưa được uy tín của mình lên vị trí rất cao trong lòng một bộ phận dân tộc. Xong nếu xét về lâu về dài, khi phần lớn đã nhận ra sự thật thì cái hình ảnh: ‘‘Cả đoàn quân tiến theo Người như thác đổ’’ sẽ trở nên phũ phàng và thật đáng xấu hổ với bạn bè thế giới.
Tôi cũng được biết một câu chuyện sau: gia đình ấy có 2 anh em; người anh đi bộ đội, còn người em gái ở lại nhà và lấy chồng. Năm 1954 khi người anh từ chiến khu trở về thì em gái mình đã cùng chồng di cư vào Nam. Sau gần 30 năm xa cách, hai anh em mới được gặp lại nhau, khi người em ra Bắc bốc mộ cho chồng; ông bị chết trong thời gian học tập cải tạo ở ngoài ấy. Cô em nói trong nước mắt giận hờn: ‘‘ Tại anh và những người cộng sản như anh nên bây giờ em gái anh khổ, các cháu của anh phải mồ côi cha.’’. - Xúc động không kém, người anh nói: ‘‘ Thôi em ạ, đằng nào thì mọi việc cũng lỡ rồi. Em cứ nghĩ thế này: nếu một người em không hề tin yêu, kính trọng mà làm em đau khổ thì đấy chỉ là một nỗi khổ đau. Nhưng nếu đấy lại là người em hằng kính trọng, tin yêu bao năm trời, kể cả sẵn sàng đem cuộc đời của mình ra để hy sinh, cống hiến, mà nay em lại phát hiện ra rằng thực chất sự tin yêu, kính trọng ấy của mình lại bắt nguồn từ sự giả dối của người kia, thì lúc ấy nỗi đau khổ trong em sẽ phải nhân lên gấp 5, gấp 10. Ðấy chính là tâm trạng của anh lúc này, em ạ.’’. Trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong hơn nửa thế kỷ qua, đã có bao nhiêu con người và gia đình phải lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy?
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:12:38 GMT 9
5. Một vài điểm khác cần xác minh Trong số những người Việt Nam hoạt động ở Paris vào những năm 1910s -1920s là chỉ có duy nhất 1 ông Nguyễn Ái Quốc hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc? Vai trò của chàng trai Nguyễn Ái Quốc – Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động như : thành lập Hội Người Việt Nam Yêu Nước, soạn thảo Bản Yêu Sách 8 Ðiểm Gửi Hội Nghị Véc - Xây năm 1919, ra báo Người Cùng Khổ năm 1922, viết Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp năm 1925, v.v … là tới đâu? Liệu có đúng như các sách báo trong nước hoặc chính CT Hồ Chí Minh đã kể lại hay không? Bởi vì nếu theo các tài liệu ‘‘ngoài luồng’’ thì : - Hội Người Việt Nam Yêu Nước đã được thành lập tại Pháp từ năm 1914, mà tiền thân của nó là Hội Ðồng Bào Thân Ái còn có trước đó nữa. Ðấy là do công lao của những ông Nguyễn Ái Quốc khác, chứ anh Thành lúc ấy lại không có mặt ở Pháp mà là đang mưu sinh ở Anh! (anh Thành ở Anh từ cuối năm 1913 đến 1917. Cuối năm 1917 anh mới rời Anh để sang Pháp và là thường trú nhân ở đấy đến năm 1923 thì sang Liên Xô.). - Bản Yêu Sách 8 Ðiểm gửi hội nghị Véc - Xây có rất nhiều điểm trùng với những bản yêu sách đã có trước đó của cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) gửi khâm sứ Trung kỳ, gửi toàn quyền Ðông Dương và gửi chính phủ Pháp. Như vậy có phải như CT Hồ Chí Minh đã kể:‘‘…Ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra, nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp…’’. (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn). Hay những ý kiến ấy phải là của cụ Phan Chu Trinh mới đúng? Vì cụ Phan đã có mặt và hoạt động ở Paris liên tục trước đó, cụ cũng là sáng lập viên của Hội Ðồng Bào Thân Ái. (cụ Phan thi đậu phó bảng năm 1901, cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh anh Thành.) - Báo Người Cùng Khổ (Le Paria) là do những‘‘ông Tây’’(người Pháp) lập ra, chứ đâu phải của một‘‘ông ta’’nào như sự xác nhận sau:‘‘…Ban biên tập báo Người Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút, giao cho Nguyễn Thế Truyền là một Việt kiều được anh Nguyễn giới thiệu vào Hội Hiệp Thuộc…’’.(?) (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn). Bây giờ giả sử đúng là có ông Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút tờ báo kia đi, nhưng chính xác là ông Nguyễn Ái Quốc nào? Vì ở Paris lúc ấy, như trên đã nói là có tới 5 ông Nguyễn Ái Quốc, còn gọi là nhóm Ngũ Long gồm các ông: Phan Chu Trinh, sang Pháp năm 1911/phó bảng; Phan Văn Trường/1908/luật sư; Nguyễn Thế Truyền/1910/cử nhân; Nguyễn An Ninh/1917/năm thứ 2 trường luật; Nguyễn Tất Thành/1917/tiểu học. Ai ở trong nhóm viết bài cũng ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra chúng ta cũng phải tìm hiểu thêm cả việc ai đã giới thiệu ai? Vì anh Thành mới chân ướt chân ráo đến Pháp, thì nào đã quen biết ai mà giới thiệu cho ông Nguyễn Thế Truyền - một người đã ở đấy lâu hơn, bằng cấp cũng cao hơn anh? (ông Truyền có 2 bằng cử nhân văn chương và hóa học, có vợ người Pháp.) - Cũng theo Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch thì : ‘‘…Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp…’’, thế nhưng với điều kiện thông tin lúc đó, thì theo tôi chính quyển này mới là quyển ông ít có cơ hội tham gia nhất. Bởi vì cả tài liệu trong và ngoài nước đều xác nhận rằng: cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Pháp vào năm 1925, nhưng lúc ấy thì ông Nguyễn không có mặt ở Pháp, mà là đang hoạt động ở Trung Quốc! (ông ở đấy từ tháng 11.1924 đến tháng 5.1927 ông mới rời khỏi đấy để sang lại Liên Xô.). Hơn nữa, cứ giả sử các tài liệu đều viết sai về năm xuất bản, thì cũng cần lưu ý là: chính anh Thành cũng đã phải công nhận rằng anh là người có bút lực yếu ở trong nhóm, nếu như không muốn nói là yếu nhất. Vì anh Thành chỉ mới tốt nghiệp trường tiểu học Pháp – Việt Ðông Ba, Huế niên khoá 1906-1907. Tháng 9.1908 anh vào học trường Quốc Học Huế, nhưng chưa đầy 1 năm sau (tháng 5.1908) thì đã bị đuổi khỏi đấy rồi. Tức là tấm bằng Thành Chung đối với anh cũng vẫn còn xa vời! (xem www.cpv.org.vn/hochiminh/tieusu/ thoinienthieu/index.htm). Tiện đây, chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm cả việc có đúng là anh Thành đã tốt nghiệp bậc tiểu học đạt hạng ưu, như trang tiểu sử trên đã viết hay không? Vì tấm bằng học vấn duy nhất mà anh đạt được trong đời ấy thì nay không ai thấy. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chữ viết thì cũng khó có cơ sở để kết luận rằng đây là một học sinh giỏi được. Bởi một lẽ đơn giản là: ở bậc tiểu học thời ấy hay thời nay cũng vậy, và dù các thầy cô giáo có theo trường phái ta hay tây học gì, thì cũng rất chú trọng đến việc đánh giá chất lượng bài làm của thí sinh qua chuyện viết chính tả, nhưng rất tiếc là về điểm này thì anh Thành lại quá yếu. (cứ nhìn vào các bút tích của Hồ Chủ Tịch cũng đủ thấy.). Cuối cùng, giả sử rằng các thầy giáo hồi ấy đã châm trước cho chuyện viết chữ xấu của anh, và tấm bằng hạng ưu kia là có thật, thì cũng không có gì đáng kể mà phải làm ầm ĩ. Vì khi giành được nó thì anh Thành cũng đã 17 tuổi rồi (1890 – 1907). Theo tôi, với bất cứ ai, dù có là vĩ nhân đi chăng nữa nhưng nếu chỉ dựa trên nền tảng học vấn ấy, thì nội việc đi tiếp thu tư tưởng của người khác cũng đã là quá sức rồi, chứ nói chi đến việc còn hình thành nên được một cái gì đó gọi là “tư tưởng” cho mình, rồi hôm nay lại còn bắt cả một dân tộc phải đi theo. Nói tóm lại, những điểm còn chưa rõ ràng trong thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh là còn rất nhiều. Một lần nữa tôi rất mong các nhà nghiên cứu, các sử gia ở cả trong và ngoài nước hãy vì tính trung thực, khách quan của lịch sử và nhất là vì thế hệ trẻ Việt Nam tương lai, để xác minh cho được chúng càng sớm càng tốt. Viết về CT Hồ Chí Minh, lại lật ngược những vấn đề khá phức tạp và tế nhị lên như thế này, tôi hiểu rằng sẽ làm cho nhiều người vốn tôn kính ông đau lòng. Nhưng theo tôi, thà làm như vậy một lần cho rõ còn hơn là cứ dễ dãi với nhau, để rồi tự làm khổ nhau và làm khổ mãi con cháu chúng ta sau này.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:14:31 GMT 9
6. Một ý kiến đề nghị Như ở đầu bài đã nêu, từ 11 năm qua đã có rất nhiều bài viết với hai xu hướng ngược nhau: thứ nhất, khẳng định rằng CT Hồ Chí Minh đã được UNESCO chính thức công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Thứ hai là phủ nhận nó. Nay tôi xin có một ý kiến đề nghị : dù ai thuộc xu hướng nào cũng được, nhưng nếu đã có tấm lòng quan tâm, mong rằng hãy cùng nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ðối tượng tiếp cận chính là UNESCO, đây là vị trọng tài khách quan, vô tư và hữu hiệu hơn cả. Sẽ có hai khả năng xảy ra: a) Nếu CT Hồ Chí Minh đã thực sự được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới thì với tinh thần trung thực, những cơ quan nào đã đưa tin sai lạc trước đó cần ra một bản tin đính chính lại. Ðó cũng là hành động thể hiện sự tôn trọng các độc giả, thính giả của mình . b) Nếu UNESCO chưa hề có một quyết định như giả thiết a) nêu trên, thì cá nhân hay tổ chức nào có điều kiện tiếp cận được với tổ chức ấy, cần làm sao có được một văn bản phủ nhận chính thức của họ. Dù chỉ là vài dòng thôi, nhưng nó sẽ có tác dụng thuyết phục mọi người hơn là hàng chục, hàng trăm bài báo mà chúng ta cứ cố gắng viết tới viết lui, xong lại không có ai đứng ra làm trọng tài. Ðây cũng là trách nhiệm của mỗi người nhằm giúp UNESCO. Nó cũng là quyền lợi của UNESCO cần phải tự bảo vệ mình, khi có ai hoặc quốc gia nào lợi dụng uy tín của họ để làm những việc khuất khúc. Tôi cũng rất mong rằng nếu trường hợp là b) thì những nhà biên soạn sách giáo khoa ở Việt Nam cần rà soát lại toàn bộ những điểm liên quan và điều chỉnh chúng cho đúng sự thật. 7. Một ý kiến ủng hộ Trong bức thư ngỏ viết vào tháng 5.2001 vừa qua của 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân, gửi tân tổng bí thư ÐCS Việt Nam Nông Ðức Mạnh có một ý kiến đề nghị là: Hãy hỏa táng thi hài của Hồ Chủ Tịch. Bức thư giải thích rằng: những người lãnh đạo đảng và nhà nước vào thời điểm CT Hồ Chí Minh qua đời đã vi phạm ý nguyện ghi trong di chúc của người quá cố. (trong đó ông đã viết rõ ràng như sau: “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến, và như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện thì điện táng càng tốt hơn…”.). Và nay thì những người lãnh đạo mới cần phải sửa lại sai lầm ấy, nếu cần thì tổ chức một cuộc Trưng Cầu Dân Ý về vấn đề này. ( xem website: www.thongluan.org/VN2/viet_frame.htm, 4.6.2001). Hai tác giả cũng phân tích thêm rằng: hình thức ướp xác, tức chôn nổi là hoàn toàn không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, vốn quen với hai hình thức phổ biến là địa táng hoặc hỏa táng. Rồi cảnh báo là nếu không nghiêm chỉnh tuân theo di chúc của người đã khuất, thì gia đình dòng họ và đất nước luôn bị‘‘sái’’, không ngóc đầu, ngóc cổ lên được. Ngoài ra còn là chuyện lãng phí tiền bạc: để duy trì hệ thống lăng CT Hồ Chí Minh thì hàng năm phải tốn kém 100 tỷ đồng VN, dù đấy là tiền thuế đóng góp của nhân dân hôm nay hay là đi vay mượn của nước ngoài, thì sau này con cháu chúng ta cũng phải nai lưng ra trả nợ. Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến trên và tin rằng nguyện vọng của đa số nhân dân Việt Nam hôm nay cũng là như vậy. Chúng ta chỉ cần thử làm một bài toán nhỏ: để xoá đói giảm nghèo cho một hộ gia đình nông dân, theo 2 tác giả là cần 5 triệu đồng VN tiền vốn, giả thiết mỗi hộ có 4 người. Như vậy tổng chi phí cho công trình ấy trong suốt 26 năm qua là 2600 tỷ đồng VN (không tính chi phí xây lăng), là một số tiền rất lớn, đủ để giúp hơn 2 triệu người Việt Nam thoát khỏi cảnh đói nghèo; còn nếu mỗi hộ cần 10 triệu đồng tiền vốn, thì cũng giúp được cho hơn 1 triệu người. Nhưng theo tôi, cái chính của vấn đề là sự lãng phí kia rất vô lý, không đáng có. Ngoài ra tôi cũng xin được bổ xung 1 ý kiến nữa, hy vọng rằng nó sẽ góp thêm cơ sở để dân tộc cùng dứt khoát hơn với đề nghị trên của 2 tác giả. Ý kiến của tôi liên quan đến khía cạnh kiến trúc của lăng: Kể từ khi lăng được khánh thành nhân dịp quốc khánh mùng 2.9.1975 đến nay, thì từ những người dân bình thường tới các kiến trúc sư, nhà xây dựng, v.v… từ Bắc chí Nam mà tôi có dịp được tiếp xúc, phần lớn đều cho rằng: công trình này không có những đường nét của kiến trúc hiện đại, cũng lại rất nghèo tính dân tộc. (mà chỉ được dựng nên bởi sự giầu quyết tâm của bộ chính trị ÐLÐ Việt Nam lúc đó.). Tức là nếu xét thêm về khía cạnh kiến trúc, thì cũng không có giá trị gì đáng kể để mà phải tiếc nuối nó nữa. Có lẽ vì chạnh lòng với công trình quốc gia khá nặng nề và đơn điệu này, ai đó đã sửa lại lời những câu đầu của bài hát Viếng Lăng Bác (Nhạc Hoàng Hiệp, thơ Viễn Phương) mà thành: ‘‘Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, con thấy lăng Ông đẹp hơn lăng Bác, trăm phần trăm,…’’! (lăng Ông: lăng ông Lê Văn Duyệt - một võ tướng đầu triều Nguyễn, lập tại khu Bà Chiểu - Sài Gòn; trăm phần trăm = 100%.).
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:14:50 GMT 9
8. Những lời thay cho kết luận
Trong diễn văn đáp từ của nguyên tổng bí thư ÐCS Việt Nam Lê Khả Phiêu đọc tại Hà Nội ngày 18.11.2000 vừa qua, nhân dịp tổng thống Mỹ lúc ấy là Bill Clinton sang thăm Việt Nam có đoạn: ‘‘ …Ðiều chắc chắn là trong thế kỷ 21, khoa học công nghệ sẽ phát triển như vũ bão. Nhưng lại có một nghịch lý là hố ngăn cách giữa nước giầu và nước nghèo lại ngày càng lớn. Ngày nay, tổng số tài sản của hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng thu nhập của hơn 2 tỷ người ở các nước nghèo…’’.
Ðúng! đấy là thực tế, và người đọc hiểu ngay rằng ý ông muốn nhấn mạnh đến sự bất công của một thế giới ngày càng bị phân hóa giầu – nghèo hôm nay. Nhưng còn một thực tế nữa là: liệu những người lãnh đạo trong ÐCS Việt Nam trước và sau ông, có dám làm triệt để việc kê khai danh sách của 300 người giầu nhất ở Việt Nam hôm nay hay không? Họ là những ai? Có bao nhiêu tiền? Ðể ở những đâu? Bằng cách nào họ đã làm giầu được nhanh như vậy, khi không phải là của ông bà hay cha mẹ họ để lại? Tổng số tiền mà họ đã tích lũy được là bằng thu nhập của bao nhiêu triệu người nghèo ở Việt Nam? v.v…
Theo tôi sự khác nhau về chất của vấn đề là ở chỗ: 300 nhà tỷ phú trên thế giới kia hoàn toàn có quyền tự hào chính đáng về con đường làm giầu của họ, càng giầu bao nhiêu thì họ lại càng tự hào bấy nhiêu. Còn nếu như có một danh sách tương tự ở Việt Nam (đa triệu phú USD chẳng hạn), thì chưa chắc những người có tên trong danh sách lại có được niềm tự hào đó. Chẳng phải là cũng đã từng hô hào rất nhiều, nhưng ở Việt Nam không ai dám làm cái việc kê khai này tới nơi tới chốn đó sao? Tôi tin là ông Lê Khả Phiêu cũng rất thấm thía điều này.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý như 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân đề nghị, nếu nó được tiến hành sẽ là cuộc tổng diễn tập cho một bước dân chủ cao hơn. Ðó là: dân tộc Việt Nam phải được quyền tự mình lựa chọn giữa thể chế chính trị dân chủ đa nguyên và đa đảng của thời đại mới, hay là cứ phải tiếp tục duy trì mãi thể chế nhất nguyên, đơn đảng của‘‘thời đại Hồ Chí Minh’’đầy đau thương hôm qua, lắm bất công hôm nay và vô vàn những rủi ro, bất trắc vào ngày mai. Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể dân tộc ta ở cả trong và ngoài nước, một khi đã nhận thức lại được đúng những vấn đề của quá khứ và hiện tại, thì sẽ vượt qua được những khoảng cách biệt còn lại. Ðể trong tương lai có thể đoàn kết thành một khối thống nhất, tạo ra một sức mạnh tổng hợp, nhằm đấu tranh có hiệu quả hơn với các thế lực bảo thủ hiện nắm thực quyền trong ÐCS Việt Nam.
Trong thực tế có những người giận ngày ‘‘quốc hận’’ 30 tháng 4, giận mùa xuân năm 1975, rồi giận lây sang cả mùa thu năm 1945 với cuộc Cách Mạng Tháng 8 lịch sử, vì cho rằng đây là chiến công riêng do CT HỒ Chí Minh và ÐCS Ðông Dương lúc đó lãnh đạo. Theo tôi đây là điều chứa đựng nhiều sai lầm, bởi vì để có được sự thành công của cuộc CMT8 phải là do chiến công chung, trong đó có cả vai trò của các đảng phái khác. Tất cả lúc ấy đều đã sẵn sàng gác bỏ mọi quyền lợi riêng, để cùng đồng lòng đứng lên giành lại nền độc lập tự do cho Tổ Quốc.
Nó cũng là kết quả được hun đúc bởi truyền thống dựng nước và giữ nước từ ngàn đời xưa, từ lịch sử gần 100 năm kháng Pháp của ông cha ta, và mọi người Việt Nam đều có quyền tự hào chính đáng về nó.
Với một nước Việt Nam mới, chắc chắn trang sử hào hùng ấy của dân tộc cũng phải được các sử gia viết lại cho khách quan và chính xác hơn. Một ngày hội lớn về dân chủ của non sông nhất định sẽ được mở ra trong tương lai, khi mà khối đoàn kết toàn dân gồm 80 triệu người, với hơn 76 triệu đồng bào ta ở trong nước và gần 3 triệu đồng bào ta ở ngoài nước đã được xác lập. Ðó là niềm tin mãnh liệt của tôi!
Phương Nam – Australia. Tháng 7 năm 2001.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 20, 2011 8:15:51 GMT 9
Xác định Hồ Chí Minh là tên Việt gian bán nước. Đạp đổ thần tượng Hồ và vứt bỏ đi những vầng hào quang giả tưởng chống Pháp, chống Mỹ đem lại độc lập thống nhất cho Dân Tộc, giải phóng miền Nam . Những cuộc chiến này không có lý do chính đáng, tốn kém xương máu, và càng không có chính nghĩa.
Có hai trở ngai lớn nhất mà người CS phải vượt qua nếu họ thành tâm tìm đến con đường hòa giải Dân Tộc. Thứ nhất là thần tượng Hồ Chí Minh (HCM), và thứ hai là lòng tự hào của người CS về công lao đem lại độc lập cho Tổ Quốc, giải phóng miền Nam. Đây là chuyện gai góc nhất, vì người CS và người Quốc Gia nhìn những vấn đề trên dưới các quan điểm chính trị khác nhau và theo những góc độ khác nhau. Cả hai bên đều tự hào về tinh thần yêu nước, nhưng lòng yêu nước của người CS chỉ là cái áo khoác ngoài lòa loẹt để che dấu cái thân phận nô lệ bên trong của người mặc nó. Do đó có những nhận thức khác nhau, và có những đánh giá khác nhau. Tuy nhiên sự thực vẫn là sự thực. Dù sao cũng chỉ có một sự thực khách quan không có gì làm thay đổi được. Hồ Chí Minh có phải là người yêu nước không, và đảng CSVN có giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân không thì chuyện vẫn còn đó, lịch sử đang trả lời, và thực tế cũng đang trả lời. Căn cứ vào những sự thật khách quan và những bằng chứng không thể phủ nhận mà các nhà viết sử, các nhà biên khảo đã phanh phui, chúng ta thấy rằng HCM không phải là một người yêu nước và các cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ do Hồ và đảng CS lãnh đạo thật sự không cần thiết và còn đưa đất nước đến chỗ suy vong như ngày nay.
3.1 Thần Tượng Hồ Chí Minh Thần tượng HCM là nền móng chế độ CS xây trên đó. Nền móng sập, chế độ sập theo. CS hiểu rất rõ điều đó nên chúng cố tình tạo ra những huyền thoại về HCM. Chúng tô vẽ Hồ là cha già dân tộc, một con người yêu nước thương dân, cả đời hiến thân cho tổ quốc. Rồi từ đó đẻ ra nào là tư tưởng HCM, đạo đức HCM v.v. Mảng còn dấu kín của cuộc đời Hồ có thể còn lớn hơn mảng đã được phơi ra ánh sáng. Tiểu sử Hồ do đảng CSVN viết ra và một số sách vở do người ngoại quốc biên khảo mô tả Hồ là một ông thánh trong lối sống, và là vị anh hùng của dân tộc. HCM đúng thực là một con người của huyền thoại, nhưng cũng là của dối trá. Con người thần thánh này đang từ từ bị lột mặt nạ.
Chẳng ai biết rõ thân thế HCM. Đại khái được biết là Hồ sinh tại làng Hoàng Trù quê mẹ là bà Hoàng thị Loan, lớn lên tại quê cha làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hồ mang nhiều ngày sinh khác nhau. Tên thật của Hồ là Nguyễn Sinh Cung sau đổi là Nguyễn Tất Thành, con của một viên thư ký Bộ Lễ triều đình Huế là Nguyễn Sinh Sắc. Thế nhưng trong suốt cuộc đời, Hồ có tới trên 100 tên và bí danh khác nhau. Ngay cái tên Hồ Chí Minh cũng là một huyền thoại. Có tài liệu viết rằng HCM là tên hiệu của cụ Hồ Học Lãm Hồ ăn cắp để xài. Nhưng cũng có tài liệu viết rằng HCM là tên trên căn cước của một gã ăn mày homeless, tứ cố vô thân, người Tầu. Người ăn mày chết, Nguyễn Tất Thành ăn cắp được tấm thẻ căn cước của ông ta rồi mang tên ông ta luôn. Ngày xưa nạn xài căn cước lậu bên Tầu rất thịnh hành. Cái hào quang cách mạng, cứu nước đã che lấp đi bản tính gian ác, dối trá, lưu manh, bịp bợm và những tội ác của Hồ. Hồ sang Pháp là để xin vào học trường Thuộc Địa ra làm quan chứ không phải bôn ba tìm đường cứu nước. Hồ ăn cắp thơ văn của người khác, viết sách để tự ca tụng mình, bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, làm mật báo viên cho mật thám Pháp, Nga, và Mỹ. Hồ là cán bộ ăn lương của đảng CS Liên Sô. Hồ ra lệnh giết bà Cát Thanh Long, người đàn bà đã hy sinh rất nhiều cho Hồ và cho đảng CS. Có thể nói Hồ đi đến đâu là lường gạt tình cảm phụ nữ đến đó. Ở Pháp Hồ lấy vợ đầm. Sang Liên Sô Hồ cướp vợ của đồng chí là Nguyễn Thị Minh Khai. Qua Trung Hoa Hồ lấy vợ Tầu. Về Hànội Cô Nông thị Xuân ở với Hồ một thời gian có con rồi bị Hồ ra lệnh thủ tiêu. Ít nữa Hồ có hai đứa con rơi nhưng không được thừa nhận là Nguyễn Tất Trung và Nông Đức Mạnh. Chuyện về đời tư của Hồ thì nhiều lắm, có tài liệu đàng hoàng, không sao kể cho hết được. Xin trích dẫn tài liệu Hồ viết đơn xin học trường Thuộc Địa làm bằng chứng. Tài liệu bằng tiếng Pháp được dịch sang tiếng Việt: Marseille ngày 15 tháng 9, 1911 Kính gửi Tổng Thống Cộng Hoà Pháp Tôi hân hạnh thỉnh cầu Ngài vui lòng cho tôi đặc ân được vào theo học Trường Thuộc Điạ với tư cách nội trú. Hiện nay, tôi làm công cho hãng Chargeurs Réunis Amiral Latouche Tréville để sinh sống. Tôi hoàn toàn túng quẫn và ham muốn được học hành. Tôi ước ao trở nên hữu ích cho nước Pháp trong tương quan đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể giúp đồng bào tôi hưởng những lợi ích của học vấn. Tôi sinh đẻ tại Nghệ An, Trung Kỳ. Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi cho tôi, Tổng Thống hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi. Nguyễn Tất Thành,
Lá thư trên cho thấy HCM vì gia đình túng quẫn phải bôn ba xứ người để tìm kế sinh nhai chứ không phải đi tìm đường cứu nước. Xin học trường Thuộc Địa để ra làm quan cho Pháp là mục đích của Hồ. Một thần tượng như vậy mà đảng CSVN hô hào toàn dân học tập đạo đức của hắn? Còn gì mỉa mai hơn! Đạo đức Hồ như thế. Ấy vậy mà cả nước ta trong mỗi nhà phải đặt ảnh Hồ trên cả bàn thờ tổ tiên. Cả nước bị bịp. Bao nhiêu thế hệ VN bị bịp! Dân tộc VN đã trưởng thành và đang sống trong thời đại văn minh “dot com” không thể để bị lừa bịp như con nít mãi nữa.
3.2 Hào Quang Giả Tưởng Hiện nay đa số cán bộ CSVN có thể đã biết rõ bản chất gian ác, lưu manh của Hồ, nhưng họ vẫn ngưỡng mộ Hồ về tinh thần yêu nước và công lao Hồ đã hiến dâng cho Tổ Quốc. Điều này đã trở thành đức tin không có gì lay chuyển nổi đối với người CS nên khó tẩy xóa được. Chẳng thế mà ông Trần Anh Kim, một người có tên tuổi trong giới tranh đấu cho dân chủ ở trong nước vẫn đánh giá Hồ có 9 công 1 tội đối với đất nước. Công của Hồ cũng kể là công của đảng bởi vì Hồ và đảng CS là hai thực thể không thể tách rời nhau. Những công lao này tạo nên hào quang cho đảng, cũng là cho tất cả mọi đảng viên. Về mặt này Hồ mới chính là thần tượng của người cán bộ CSVN. Tuy nhiên, với những khám phá về Hồ, hiện nay bất cứ người VN nào ở hải ngoại cũng có thể dễ dàng đánh tan những huyền thoại về mặt này của HCM. Trước hết HCM không phải là người yêu nước. Nếu Hồ yêu nước, Hồ đã không bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Nếu Hồ yêu nước, Hồ đã không giàn dựng tấn tuồng giết TT Ngô Đình Diệm vì chính Hồ cũng đã phải nhìn nhận “Ngô Đình Diệm là người yêu nước theo cách thức của ông ta”. Hồ còn ra lệnh giết hoặc thủ tiêu nhiều nhà ái quốc khác. Nếu yêu nước, Hồ đã không ký Hiệp Ước Sơ Bộ 03-3-1946 để mời Pháp trở lại VN và sau đó ngày 19-5 long trọng đón tiếp quân đội Pháp vào Hànội. Tờ Le Paria (Người Cùng Khổ) của Hồ viết “Vô sản Đông Dương không có tổ quốc”. Cụ thể dưới đây là bút tích của Hồ chứng tỏ Hồ là tay sai của Liên Sô. Tài liệu bằng tiếng Nga được dịch sang tiếng Việt:
Đồng chí Stalin kính mến ! Tôi gửi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam . Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này. Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh 31-10-1952
Một người đã manh tâm bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, ký Hiệp Định mời Pháp trở lại VN, rồi lại chống Pháp vì lòng yêu nước, điều đó không nghịch lý lắm sao? Chúng ta có thể giải thích chuyện nghịch lý này bằng cách đặt nước Pháp vào bối cảnh thế giới sau thế chiến, đồng thời xét tương quan giữa Pháp với các thuộc địa của Pháp vào lúc đó. Trích: Vấn đề hoà hợp hoà giải của Duyên Lãng Hà Tiến Nhất
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 8:17:58 GMT 9
Người phụ nữ ẩn mình vào khoa học đã ra đi Vietsciences Hồ Bất Khuất (TuanVietNam) - Trong vòng nửa thế kỷ qua, nếu để trở thành nổi tiếng, không ai hội đủ những điều kiện như chị: thông minh, xinh đẹp, là con gái của Đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp và nhà cách mạng Nguyễn Thị Quang Thái. Chị cũng là một người trong nhóm “hạt giống đỏ”, theo chủ trương của Bác Hồ, được gửi đi Liên Xô học từ năm 1954, giáo sư – tiến sỹ vật lý lý thuyết, là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được giải thưởng khoa học quốc tế Kovalevskaia… Vậy mà chị Võ Hồng Anh đã không nổi tiếng, cho đến trước ngày chị vĩnh viễn đi xa... Những kỷ niệm từ bài báo dở dang GS.TSKH Võ Hồng Anh Nghe tiếng chị từ lâu, lại có cái duyên học cùng trường (tuy chị học trước), nhưng mãi sau này mới có dịp gặp gỡ, trò chuyện. Hóa ra không chỉ là một nhà vật lý mà chị còn quan tâm tới rất nhiều bộ môn khoa học khác, trong đó có cả văn học nghệ thuật. Có lẽ những điều đó chiếm hết thời gian của chị? Chị đón chúng tôi vào ngôi biệt thự lớn để trò chuyện. Đồ đạc trong phòng cũ và cách bài trí cũng tuềnh toàng, nhưng có lẽ chị không bận tâm về những thứ đó. Theo kế hoạch ban đầu, cuộc gặp chỉ trong vòng 2 tiếng, nhưng chúng tôi chỉ ra về sau hơn 5 tiếng đồng hồ. Nói về nước Nga và vật lý lý thuyết, quả tình là không nói ngắn được. Sau khi trò chuyện cả buổi với chị, tôi về viết bài “Người phụ nữ ẩn mình vào khoa học”. Bài báo dở dang… Tôi chưa hoàn thành bài báo không phải vì trước khi rời nhà chị, chị bảo: “Cậu cho mình mượn cái ghi âm, nghe lại những gì mình nói trong mấy tiếng đồng hồ vừa qua”, mà bởi vì tôi muốn hiểu thêm những gì chị làm, đặc biệt là những điều chị cảm nhận. Tôi tin là mình có điều kiện để làm được điều này, vì sau khi đưa danh thiếp cho tôi, chị nói: “Khi nào rỗi rãi, cậu cứ đến chơi, đừng quên là chúng ta học cùng trường đấy nhé!” Sau đó ít lâu, tôi cử phóng viên đến đặt chị viết bài về những kỷ niệm với Bác Hồ. Tôi biết, chị là một trong những người được Bác Hồ yêu mến đặc biệt. Khi chị còn là học sinh trường Internat, mỗi lần sang thăm Liên Xô, Bác Hồ đều ghé thăm trường, chị được tập thể tín nhiệm viết và đọc lời chúc mừng Bác, kể cho Bác nghe về tình hình, học tập, sinh hoạt. Sau này lớn lên, là con gái của vị Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam , chị có điều kiện gặp Bác nhiều. Chị viết rất cẩn thận, nâng niu từng chi tiết, yêu cầu phải in đúng như vậy. Vì phóng viên đó không cẩn thận, có chỗ bị sai, chị gọi điện tỏ ý không hài lòng. Chúng tôi xin lỗi chị, hứa là kiểm điểm phóng viên, rút kinh nghiệm. Hôm sau chị gọi điện, tha thiết đề nghị là không được kỷ luật phóng viên đó. Chị bắt tôi hứa là không được làm cho phóng viên đó buồn và chịu thiệt thòi. Chỉ sau khi tôi hứa như vậy, chị mới nhắc lại: “Khi nào có thời gian, đến nói chuyện dài dài nhé!” Chỉ cần qua vài sự việc như thế, tôi hiểu chị là một con người giàu tình thương và đặc biệt chu đáo. Tuổi thơ dữ dội và vinh quang Bà Võ Hồng Anh và cha - Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Ảnh: Trọng Thanh) Chị là kết quả của mối tình lãng mạng giữa hai trí thức trẻ có hoài bão lớn. Năm 1929, anh thanh niên cách mạng Võ Nguyên Giáp trong vai một nhà báo đi trên một chuyến xe lửa Hà Nội – Huế để thực hiện một nhiệm vụ cách mạng. Khi tàu dừng ở ga Vinh, có hai thiếu nữ xuất hiện và lên tàu. Ngay lúc ấy, Võ Nguyên Giáp đã để ý đến cô gái có mái tóc dày đen nhánh xoã ngang lưng, nước da trắng hồng, gương mặt trái xoan hiền dịu, đôi mắt đen láy ánh lên sự thẳng thắn, cương trực và rất đỗi dịu dàng. Khi được biết đó chính là em gái chị Nguyễn Thị Minh Khai, anh Võ Nguyên Giáp càng để ý hơn. Hôm ấy, cô Quang Thái lên đường vào Huế nhập học ở trường Đồng Khánh. Câu chuyện giữa Võ Nguyên Giáp và người bạn đi cùng sôi nổi, cô Quang Thái ngồi im lặng, mãi sau mới tham gia chuyện trò. Tuy vậy, ấn tượng của anh thanh niên Võ Nguyên Giáp lúc đó về một cô nữ sinh Đồng Khánh - Huế xinh đẹp và ít nói là rất mạnh. Lần đầu tiên trong đời, anh thấy lòng mình rộn lên với những tình cảm xao xuyến. Họ chia tay lưu luyến. Anh Võ Nguyên Giáp, sau khi vào Huế làm việc tại Quan hải tùng thư, rồi làm biên tập cho báo Tiếng dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Không quên được hình ảnh người nữ sinh Đồng Khánh, gặp trên chuyến tàu, anh thỉnh thoảng đạp xe qua trường với hy vọng có thể nhìn thấy người ấy. Thế rồi, một hôm nữ sinh Quang Thái đến có nhiệm vụ tìm gặp một người để nhận công tác đoàn thể. Hóa ra đó lại là anh Võ Nguyên Giáp.Cuộc gặp gỡ đột ngột khiến anh sững sờ, trái tim run lên xao xuyến. Quang Thái lúc đó còn nhỏ tuổi, chỉ coi anh Võ Nguyên Giáp như một đồng chí chỉ huy. Nhưng trong thời gian bị tù sau phong trào cạch mạng 30 – 31, họ đã trở nên thân thiết. Dù hoạt động cách mạng nguy hiểm, dù bị tù đày, nhưng tình yêu mãnh liệt vẫn đến với hai trái tim dũng cảm, hai tâm hồn trong trắng, thơ mộng. Anh Võ Nguyên Giáp cưới Quang Thái, năm đó chú rể 24 tuổi, còn cô dâu 20 tuổi. Sau khi cưới nhau, họ ra Hà Nội, anh dạy học, còn chị thi đỗ và vào học trường Y. Võ Hồng Anh ra đời ở Hà Nội, nhưng không được sống với ba mẹ nhiều, vì ba mẹ bận việc cách mạng. Hồng Anh về ở với ông bà nội ở Quảng Bình. Năm 1942, Quang Thái bị bắt và bị giam ở Hỏa Lò. Bị giam giữ và bị tra tấn nhiều, sức khỏe của bà yếu đi nhiều. Bà mong ước cháy bỏng được gặp Hồng Anh. Bà nội chiều con dâu, đưa Hồng Anh lên tàu ra gặp mẹ, nhưng chuyến tàu đó máy bay của quân đồng minh ném bom, bà cháu không ra Hà Nội được. Thế là bà Quang Thái hy sinh mà không được gặp chồng con. Trong kháng chiến chống Pháp, trước khi lên Việt Bắc với ba, Hồng Anh được gặp ba mấy lần, nhưng dù ba đã bế Hồng Anh ra chỗ vắng, hỏi “Hồng Anh có thương ba không?”, đều chỉ là sự im lặng. Hồng Anh không nói gì vì giận hờn, mà đấy là sự thể hiện tình cảm một cá tính, một sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc hơn lời. Sau đấy, sự im lặng này gần như trở thành quy ước của yêu thương không lời giữa hai ba con. Khi đã ở Việt Bắc, một lần Bác Hồ đến thăm gia đình, Hồng Anh nhận ra ngay, nhưng không dám tới gần. Mãi tới khi ba bảo: “Hồng Anh ra đây chào Bác Hồ đi con!” Lúc đấy chị mới lò dò đến gần Bác và nói: “Cháu chào Bác Hồ ạ!”. Bác Hồ kéo Hồng Anh vào lòng hỏi: “Ra Việt Bắc cháu có vui không?”. “Dạ, có ạ”. Ba Hồng Anh nói thêm: “Nó ra đây thấy cái gì cũng mới lạ. Vừa rồi được đi ôtô lần đầu, cháu reo lên vui thích, nhưng chỉ một lúc sau là ỉu xìu vì chóng mặt” . Bác Hồ cúi xuống hỏi: “Thế lúc ấy cháu có khóc không?” .“Dạ, cháu chưa khóc ạ!”. Bác Hồ liền sửa ngay: “Cháu phải nói là “không khóc” chứ không phải là chưa khóc”. Đây là kỷ niệm đầu tiên của chị Võ Hồng Anh về Bác Hồ, và chị nói là “kỷ niệm không bao giờ quên”. Sau này, sang Trung Quốc, rồi sang Liên Xô học tập, chị bao giờ cũng vững vàng, tự tin, giàu bản lĩnh và học rất giỏi. Huy chương vàng tốt nghiệp phổ thông, bằng đỏ (xuất sắc) tốt nghiệp đại học, học vị tiến sỹ khoa học của chị nói lên điều đó. Nhà khoa học tài năng và trách nhiệm Tôi không dám hỏi chị: “Là phụ nữ, tại sao lại chọn lĩnh vực vật lý lý thuyết vốn khô khan, trừu tượng, mênh mông và khó được mọi người thừa nhận”, vì biết chị đạt được nhiều điều trong lĩnh vực này. Chị đã công bố trên 60 công trình khoa học, chủ yếu ở nước ngoài. Ở Việt Nam , vật lý lý thuyết, hình như chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Chị có vẻ chấp nhận điều này. Nhưng khi tôi nói, có một người Việt Nam nữa, cũng tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Lomonosov, cũng là người đi về vật lý lý thuyết, hiện đang say sưa nghiên cứu hạt cơ bản, chị hỏi ngay “Ai đấy?”. Tôi trả lời “Đàm Thanh Sơn, hiện đang giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Washington, Hoa Kỳ”. Chị nói: “Vậy là cậu ta may mắn, có môi trường và điều kiện tốt để nghiên cứu. Khi nào có điều kiện, cậu làm quen mình với Sơn nhé!”. Tôi biết là từ 1987 – 2003, chị làm việc tại Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia nên rất muốn biết ý kiến của chị về việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam. Là một người có trách nhiệm và trân trọng đồng nghiệp nên chị nói: “Nhà máy điện hạt nhân thì chắc chắn chúng ta phải xây dựng rồi, nhưng ở đâu, lúc nào, chọn công nghệ, nguyên lý gì… là vấn đề tế nhị, nhạy cảm và rất phức tạp. Trên thực tế, đã hình thành một số quan điểm khác nhau. Nói về vấn đề này phải đúng nơi, đúng chỗ, đại diện cho quan điểm nào”. Chị nói vậy cho kín nhẽ, nhưng tôi biết sự lựa chọn của chị rồi. Ưu tiên số một của chị trong việc xây dựng nhà máy điện nguyên tử là an toàn. Chị đặc biệt nhấn mạnh phải đào tạo cán bộ có tác phong khoa học chính xác và nghiêm túc từ bây giờ. Làm điện hạt nhân không có chỗ cho tư tưởng “thà thẻo, rút ruột công trình, hay thái độ tắc trách. Với văn hóa, tác phong và phẩm chất như hiện nay, chúng ta chưa thể làm điện hạt nhân được”. Những mong ước của chị Thật ra, thời gian, địa điểm làm việc đối với chị chỉ có ý nghĩa tương đối. Điều cơ bản xuyên suốt hoạt động của chị là những vấn đề khoa học vật lý lý thuyết và thái độ sống (mà chị chọn cũng trên cơ sở rất khoa học). Dù là Giáo sư – Tiến sỹ khoa học, dù đã có trên 60 công trình khoa học được công bố, được nhiều giải thưởng, nhưng chị không phải là người thành đạt. Chính chị nói: “Có lẽ tôi không thấy mình thích hợp với hai chữ “thành đạt” ”. GS-TS Võ Hồng Anh, - Sinh 1941. - 1954 - 1959: Học tại Internat, Moskva - 1959 – 1965: Sinh viên Đại học Tổng hợp Moskva mang tên Lomonosov - 1965 -1970: Làm việc tại Ủy ban khoa học Nhà nước Việt Nam - 1966 -1968: Làm luận án Phó tiến sỹ tại ĐHTH Lomonosov. - 1982: Bảo vệ luận án Tiến sỹ - 1970 - 1986: Làm việc tại Viện Vật lý, Viện Khoa học Việt Nam - 1987 – 2003: Làm việc tại Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia. - Từ 2004, làm việc tại Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Có lần, giữa đông đảo bạn bè của nhóm “hạt giống đỏ”, chị nói: “Sao bọn Internat chúng mình đã học, đã sống, đã lớn lên như vậy, mà ra xã hội, chả đứa nào, đặc biệt là bọn nam… “làm nên trò trống gì” nhỉ?!” Trò chuyện với chị, tôi biết là chị không hài lòng về mình, chưa hài lòng về những gì chị đã làm được. Vì vậy, sau khi rời Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia, chị về “đầu quân” cho Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam, cùng với những nhà khoa học nổi tiếng như Vũ Tuyên Hoàng, Vũ Đình Cự… mong làm được một điều gì đó có ý nghĩa. Trên cơ sở các bộ môn khoa học như toán, lý, hóa, sinh, triết học, các nhà khoa học muốn xây dựng một bộ môn khoa học mới. Rất không may, Giáo sư Vũ Tuyên Hoàng đã ra đi, bây giờ lại đến lượt chị, để lại những mong ước lại dở dang. Còn nữa, chị nói với tôi là sẽ viết một cái gì đấy về gia đình mình, về ông nội, bà nội - những người đã truyền cho chị những tri thức đầu tiên về văn học dân gian, những bài học đầu tiên về chia ly, đợi chờ, về việc người thân quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Tôi cũng mong được đọc quyển sách như vậy của chị, nhưng có lẽ, không kịp nữa rồi. Chị còn những mong ước dang dở, kể cả mong ước về khoa học lẫn tình cảm. Chị ước mong ba mình – Đại tướng Võ Nguyên Giáp sống khỏe mạnh đến trăm tuổi. Để thực hiện mong ước này, chị sống tại 30 Hoàng Diệu để chăm sóc ba. Có những mong ước của chị sẽ thành sự thật, có những mong ước mãi mãi dở dang, có những mong ước chúng ta phải nỗ lực hết mình trong tương lai mới mong chúng có thể thành hiện thực. Nghe tin chị mất, tôi về tìm lại bài báo “Người phụ nữ ẩn mình vào khoa học” đang viết dở, hoàn thành nốt và thêm vào tít bài ba chữ “đã ra đi”. Tôi lại thầm mong trong giới khoa học, chính khách, doanh nghiệp… Việt Nam luôn có nhiều con người có trí tuệ và nhân cách như chị.
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 9:05:31 GMT 9
Quan tài của Mao Trạch Đông làm thế nào?Làm chiếc quan tài pha lê có kích thức dài 2, 4m, rộng 0,6m, dường như là một nhiệm vụ bất khả thi ở thời điểm đó. Nhưng sau 10 tháng làm việc cật lực, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.Mọi người đều biết thi hài của Chủ tịch Mao Trạch Đông được đặt trong một chiếc quan tài pha lê trong suốt, với lá cờ đỏ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hàng năm, có hàng triệu người trong và ngoài nước đến lăng Chủ tịch Mao để tỏ lòng kính trọng đối với nhà lãnh đạo đã sáng lập ra nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và làm thay đổi số mệnh của đất nước đông dân nhất thế giới này. Tuy nhiên, chuyện chiếc quan tài pha lê miễn khúc xạ trong suốt được chế tác ra sao thì rất ít người biết đến. Mãi đến khi gần đây, khi một số kỹ sư từng tham gia sản xuất chiếc quan tài tiết lộ với tờ Tuổi trẻ Thanh niên Bắc Kinh thì người ta mới biết đến quy trình thực hiện công trình này. Ông Cao Jinrui, một kỹ sư ở nhà máy 605 đã về hưu, cho biết: “Đây là một câu chuyện không thể quên. Khi Chủ tịch Mao qua đời, nhà máy 605, thuộc xí nghiệp thủy tinh Bắc Kinh, được giao trọng trách sản xuất chiếc quan tài pha lê mà ngày nay quy ra tiền giá trị đến vài chục triệu USD. Làm chiếc quan tài pha lê có kích thức dài 2, 4m, rộng 0,6m, dường như là một nhiệm vụ bất khả thi ở thời điểm đó. Nhưng sau 10 tháng làm việc cật lực, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Không phải nhờ công nghệ và sự tài giỏi của chúng tôi mà chính là nhờ niềm đam mê và sự tận tâm mãnh liệt xuất phát từ lòng kính trọng của chúng tôi đối với Mao Chủ Tịch mà chiếc quan tài đã được thực hiện thành công”. Ông Cao hiện ở tuổi 75 và mắc chứng bệnh tắc nghẽn mạch máu não nhưng vẫn còn nhớ rõ ngày ông được triệu tập lại nhà máy với một “nhiệm vụ khẩn cấp và bất khả thi” này. Ông kể tiếp: “Đó là vào ngày cuối tháng 9/1976, khi tôi đang trên đường trở về quê hương Giang Tô, sau 1 tháng đi tị nạn vì trận động đất khủng khiếp Đường Sơn. Tôi nhận được bức điện là phải lên Bắc Kinh ngay lập tức”. Tại nhà máy, ông Cao và các kỹ sư hàng đầu của Đại lục thời đó đã được thông báo: “Chính quyền trung ương đã quyết định bảo vệ thi hài Mao Chủ tịch, do vậy trong vòng 10 tháng phải hoàn thành chiếc quan tài pha lê siêu tốt cùng với sự hoàn thành của lăng tưởng niệm”. Tôi rất lo nhưng cũng rất vui sướng khi nghe điều này. Chủ tịch Mao linh thiêng như phật, đã phù hộ cho chúng tôi. Và tôi cũng thật may mắn có cơ hội làm chiếc quan tài cho ngài”. Dự án thiết kế chiếc quan tài đã được giao phó cho nhiều tổ chức. Các nhà sản xuất đã tốn không ít thời gian để làm chiếc quan tài mẫu bằng thủy tinh hữu cơ trước khi khởi công làm chiếc quan tài pha lê. Phải gần một tháng sau, tức vào khoảng giữa tháng 10/1976, thì công việc thiết kế mẫu quan tài mới hoàn thành. Ông Wang Shicun, một kỹ thuật viên của xí nghiệp thủy tinh Bắc Kinh có trách nhiệm làm chiếc quan tài mẫu nhớ lại: “Đó là một cuộc chạy đua về thời gian. Chúng tôi được yêu cầu phải hoàn thành chiếc quan tài mẫu dựa trên bản thiết kế trong vòng hai tháng với sự chính xác không nhượng bộ. Đó quả là thách thức với chúng tôi. Như bạn đã biết, có một sự khác biệt giữa quan tài thủy tinh hữu cơ với các loại thủy tinh mà chúng tôi thường sản xuất. Hơn nữa, chúng tôi không có thiết bị để sản xuất loại quan tài mà chúng tôi chưa bao giờ biết đến”. Wang chuẩn bị trong vòng một tuần rồi bắt tay vào sáng tạo theo thiết kế. Ông nói tiếp: “Thế hệ chúng tôi trưởng thành với sự ảnh hưởng lớn từ Chủ tịch Mao. Khi có đủ điều kiện quyết định, bạn phải hoàn thành nhiệm vụ. Khi không có đủ, bạn cũng phải hoàn thành nó bằng cách tạo ra điều kiện quyết định cần thiết cho mình. Với quan điểm này, chúng tôi mải miết lao vào công việc. Tinh thần của chúng tôi là không biết đến thất bại”. Đến cuối tháng 11 thì chiếc quan tài mẫu bằng thủy tinh hữu cơ được hoàn thành. Đến giữa tháng 12 thì Wang được giao một nhiệm vụ khác: mài sắc các tinh thể hữu cơ do ông Cao và các đồng nghiệp làm ở nhà máy 605. Việc làm chiếc quan tài bằng pha lê không đơn giản chút nào. Theo kỹ thuật truyền thống thì sẽ không ổn vì khi đổ tinh thể pha lê vào khuôn sẽ có nhiều bọt tăm nổi lên rất rõ. Ở đây cần có bước đột phá trong công nghệ. Những tháng tiếp theo ông Cao và các đồng nghiệp đã phải làm việc ngày đêm. “Tất cả chúng tôi đều không có cơ hội trở về nhà nghỉ ngơi. Cho đến tháng 7/1977 thì chiếc quan tài vô giá mới được hoàn thành. Cho đến nay, công nghệ mà chúng tôi áp dụng ngày ấy vẫn còn được sử dụng. Sau khi công trình hoàn thành, tất cả các kỹ sư chính tham gia chế tác chiếc quan tài pha lê đã được “đặc quyền” mang nó đến lăng của Mao Trạch Đông và đặt nó ở trung tâm của lăng”. Wang nhớ lại: đó là “khoảnh khắc tôi không bao giờ quên”. Còn mỗi công nhân đã tham gia vào công việc này đều được tặng những chiếc huy hiệu có ảnh Mao Chủ tịch như một phần thưởng cao quý
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 9:08:59 GMT 9
Nhiều nguyên thủ tin vào điềm báo từ trờiNghe nói có thiên thạch lớn phát nổ ở ngoại ô Cát Lâm, cố chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông linh cảm có chuyện chẳng lành. Theo ông, trong nhân gian sắp xảy ra biến cố lớn. Cuốn Những ngày cuối cùng của Mao Trạch Đông viết theo lời kể của Tiểu Mạch, hộ lý chăm sóc sức khỏe cho Mao suốt 20 năm, có thuật lại câu chuyện xảy ra vào những ngày cuối đời ông: Một buổi chiều năm 1976, Mao được cô hộ lý đọc báo cho nghe và được biết rằng có một thiên thạch rơi với tốc độ lớn vào khí quyển địa cầu, cháy sáng như một quả cầu lửa khổng lồ rồi phát nổ trên vùng trời ngoại ô Cát Lâm. Đá trời nổ bắn ra bức xạ đá bốn phía, tạo một trận mưa thiên thạch lớn. Có 3 viên rơi xuống đất, tạo thành một hố sâu, làm đất đá văng xa hơn 100 m. Viên lớn nhất nặng gần 1,8 tấn. Mao nghe xong, nhờ người đỡ ngồi dậy ra đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài xa, rồi trầm ngâm nói: "Trung Quốc có một thuyết gọi là thiên nhân cảm ứng, ngụ ý là nếu nhân gian sắp xảy ra một sự biến lớn thì thiên nhiên sẽ có những biểu hiện báo trước. Trời rung, đất chuyển, đá lớn từ trên không rơi xuống đó là điềm gở. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trước khi Gia Cát Lượng, Triệu Vân, Quan Công qua đời đều xảy ra các hiện tượng bất thường như sao rụng, đá rơi, gãy cột cờ". Đến ngày 28/7/1976, một trận động đất kinh hoàng xảy ra ở Đường Sơn làm chết hơn 240.000 người và 160.000 người bị thương. Không biết chuyện thiên thạch rơi và động đất có tác động gì đến suy nghĩ và sức khỏe của Mao Trạch Đông hay không nhưng đến ngày 9/9/1976, ông qua đời. Dư luận cho rằng 3 viên thiên thạch rơi báo hiệu Trung Quốc mất 3 nhân vật vĩ đại, đó là Tổng tư lệnh Chu Đức, Thủ tướng Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông (đều mất năm 1976). Từ Đông sang Tây đều có chiêm tinh học Rất nhiều người tìm đến xin ý kiến nhà chiêm tinh trước khi giải quyết những công việc quan trọng (ở Pháp có đến 10 triệu người xin tư vấn mỗi năm). Thậm chí nhiều nguyên thủ quốc gia cũng thường gặp gỡ nhà chiêm tinh trước những đại sự. Sử gia Plutarch ghi lại: Vào trước ngày 15/3/44 trước Công nguyên, đích thân Hoàng đế La Mã lúc đó là Julius Cesar đã mổ bụng một con vật để đoán vận hạn và thấy nó không có tim. Có nhà chiêm tinh cho là điềm xấu, khuyên ông nên ở nhà hôm đó. Nhưng Cesar không nghe, vẫn đến họp ở Thượng viện và bị ám sát. Hoàng đế Pháp Napoleon Bonaparte trước khi tiến hành một chiến dịch quan trọng đều tìm đến để nghe lời khuyên của nhà tiên tri Normandi. Ông tin rằng mình có ngôi sao chiếu mệnh và khi nào nó tỏa sáng rực rỡ thì chắc chắn trận đánh sẽ thắng lợi huy hoàng. Ngay cả hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, các nhà chiêm tinh vẫn được nhiều người tin tưởng. Gần đây, hai nhà chiêm tinh học ở Pháp đã tiết lộ là có ảnh hưởng đến các quyết định của các tổng thống Francois Mitterand và Charles de Gaulle. Ở Mỹ, tổng thống Ronald Reagan và vợ cũng tham khảo ý kiến các nhà chiêm tinh trước những vấn đề quốc gia đại sự. Trong số khách hàng quen biết của nhà chiêm tinh người Đức Eric Hanussen có những nhân vật nổi tiếng của phát xít Đức như Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Goebbel, Thống chế cảnh sát Himmler và cả Quốc trưởng Hitler. Hanussen từng bị Hitler tống giam do tiết lộ dự báo về sự sụp đổ của phát xít Đức. Ở Anh, nữ hoàng Elizabeth I luôn giữ bên mình nhà chiêm tinh John Dee để giúp bà phác thảo tương lai. Thủ tướng Wilson Churchill cũng đã không ít lần cầu viện ý kiến của nhà chiêm tinh Barbara Harris. Thủ tướng Thatcher rất trọng dụng nhà chiêm tinh Magiory Ozz. Tương truyền bà này đã đoán đúng gần 100% về chính biến ở Nga năm 1991 và tương lai của Tổng thống Nga Boris Eltsin. Ở Đức, cựu Thủ tướng Helmut Kohl thường tham khảo ý kiến nhà chiêm tinh Reneta ở Hamburg khi có vấn đề trọng đại. Có những dự đoán của các nhà chiêm tinh được thực tế chứng minh là chính xác. Chẳng hạn Andre Barbault đã đoán trước vài tuần về cái chết của Stalin (năm 1953) và cho biết Liên Xô sẽ có những thay đổi quan trọng vào thời điểm 1989. Nhưng cũng có vô số dự đoán sai bét: Nhà chiêm tinh Jeane Dixon (Mỹ) cam đoan rằng Chủ tịch Cuba Phidel Castro sẽ bị mất chức vào năm 1970 và phải sống lưu vong. Dixon cũng tiên đoán Phó Tổng thống Mỹ Spiro Theodore Agnew sẽ còn thăng tiến nhưng sau đó ông này bị tù vì tham nhũng và trốn thuế. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 4:33:07 GMT 9
Đinh Từ Thức Từ sinh nhật giả tới di chúc giả và đạo đức giả Từ 61 năm qua, ngày 19 tháng 5 đã được cộng sản Việt Nam coi là ngày sinh nhật chính thức của Hồ Chí Minh. Như nhiều người đã biết từ lâu, đây không chắc là ngày sinh nhật thật, mà có thể chỉ là một ngày được coi là sinh nhật của Hồ Chí Minh, để dùng cho một mục tiêu khác: lấy cớ mừng sinh nhật, để huy động dân chúng cắm cờ, đón đoàn quân Pháp trở lại Hà Nội vào tháng 5.1946. Dù ngày 19 tháng 5 là sinh nhật giả, cũng là chuyện dễ hiểu. Sống trong một xã hội mà mọi người đã quen với giả nhiều hơn thật: Độc lập giả, tự do giả, hạnh phúc giả, dân chủ giả, bầu cử giả, bằng giả, hàng giả, thành tích giả, đạo đức giả, sư giả, linh mục giả, v.v... Nên nếu cả nước có mừng một ngày sinh nhật giả, cũng chẳng sao! Nhưng, nếu sinh nhật của Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 5 thật hay giả, là điều còn bàn cãi, thì di chúc của Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản công bố năm 1969 chắc chắn là giả. Hiện nay, trên báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam có cả hai bản di chúc của Hồ Chí Minh, một giả, một thật. Bản di chúc được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam công bố vào năm 1969, sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đề ngày viết là 10 tháng 5 năm 1965, là bản di chúc giả. [1] Bản di chúc đề ngày viết là 15 tháng 5 năm 1965, được cho lên báo điện tử của Đảng Cộng sản ngày 9 tháng 7 năm 2005, là di chúc thật. [2] Người ta có thể nói rằng cả hai bản di chúc, dù khác nhau, đều là thật, vì bất cứ ai cũng có thể sửa lại, hay viết lại di chúc của mình nhiều lần. Nhưng ta có thể chắc, bản di chúc được công bố năm 1969, đề ngày 10 tháng 5 năm 1965 là giả, vì chẳng những khác về nội dung với di chúc sau này, mà còn một sơ sót tuy nhỏ nhưng chủ yếu, mà Bộ Chính trị đã không nhận ra. Chỉ riêng sơ sót nhỏ này đã đủ để chứng tỏ di chúc thứ nhất công bố năm 1969 không do Hồ Chí Minh viết năm 1965, mà do Bộ Chính trị viết năm 1969, khi Hồ Chí Minh qua đời. Điều sơ sót chủ yếu trong di chúc thứ nhất để phân biệt thật giả chỉ gồm có 6 chữ, là: “Năm nay, tôi vừa 79 tuổi”. Di chúc này đề ngày viết là 10 tháng 5 năm 1965. Năm sinh chính thức của Hồ Chí Minh là 1890. Vậy, nếu vào năm 1965 Hồ Chí Minh đã 79 tuổi, thì năm sinh phải là 1886, không thể là 1890. Hơn nữa, Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, thọ 79 tuổi. Thành ra, di chúc thứ nhất viết “tôi vừa 79 tuổi”, là viết vào năm 1969, rồi đề cả ngày, tháng, và năm giả, là 10 tháng 5 năm 1965. Di chúc thứ nhì là thật, Hồ Chí Minh đề ngày 15 tháng 5 năm 1965, nói rõ viết vào dịp mừng sinh nhật thứ 75, có Lê Duẩn chứng kiến, và 6 chữ chủ yếu là: “Năm nay, tôi đã 75 tuổi”. Năm 1965 đã 75 tuổi, tức là sinh vào năm 1890, hợp với năm sinh chính thức. Di chúc giả do Bộ Chính trị viết, và di chúc thật do Hồ Chí Minh viết có phần giữa giống nhau, nhưng phần đầu và phần cuối khác hẳn nhau. Phần đầu, di chúc giả viết: “… Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta…” Bộ Chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam, chẳng những đã viết ra một di chúc giả mạo, còn đặt vào miệng Hồ Chí Minh những lời lẽ khá nực cười. Bởi vì, trong di chúc, không bao giờ, và không ai viết tôi sẽ đi thăm nơi này nơi kia, hay sẽ gặp người này người khác, vì một lẽ giản dị là đã chết rồi, làm sao có thể đi đâu, hay gặp ai được nữa. Trong di chúc thật, không có phần đầu nực cười vừa rồi, mà có phần cuối nói về việc riêng, khá chi tiết, nguyên văn như sau: “… Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hoả táng". Tôi mong rằng cách "hoả táng" dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì "điện táng" càng tốt hơn. Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.” Ngày 7 tháng 11 năm 2006, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ký Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. [3] Cuộc vận động này bắt đầu từ ngày 03-02-2007 và tổng kết vào ngày 03-02-2011, có sơ kết hàng năm vào dịp sinh nhật “Bác” (19-5). Tư tưởng chớ nên tổ chức đám táng linh đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân, là tư tưởng hay, tuy chẳng mới mẻ gì. Muốn đốt xác thay vì chôn, cũng là theo ý hướng tốt. Bộ Chính trị mở cuộc vận động học tập và làm theo gương Hồ Chí Minh, nhưng đã viết di chúc giả, và làm ngược hẳn với di chúc thật của Hồ Chí Minh. Bằng chứng hiển nhiên là thay vì đốt xác theo di chúc, đã bắt chước Liên Xô, ướp xác “Bác” rồi trưng bày trong lăng miếu đồ sộ, khiến nhân dân không những lãng phí thì giờ và tiền bạc một lần cho đám táng linh đình, mà đã lãng phí thì giờ thăm viếng, và tiền bảo trì lăng cũng như bảo trì xác từ gần 40 năm qua. Bộ Chính trị đã vận động nhân dân theo gương Hồ Chí Minh, trong khi hành động trái ngược hẳn với ý muốn tốt của Hồ Chí Minh. Và mỉa mai thay, cùng lúc ấy, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hình như cũng không hề biết ngượng mồm, khi tuyên bố với cả nước rằng ông yêu nhất sự thật, và ghét nhất sự giả dối. [1]Đọc di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (công bố năm 1969): cpv.org.vn/details.asp?id=BT530749814 Di chúc thứ nhất, khi tác giả viết bài này, ghi năm 1965, nhưng đến khi hoàn thành bài viết thì năm ghi đã thay đổi thành 1969; Bạn đọc có thể tìm thấy bản di chúc có mâu thuẫn trong website của Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh: www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/web/tintuc/default.aspx?cat_id=614 [2]Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bút tích các bản thảo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1965-1969): cpv.org.vn/details.asp?id=BT97055044. [3]Đọc chỉ thị số 06CT/TW: cpv.org.vn/details.asp?id=BT254076790
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:56:29 GMT 9
Kiều Phong “Lẽ đương nhiên” Trước 75, tôi chỉ biết Nguyễn Ngọc Lan dùng văn chương báo chí chửi bới phe quốc gia, tối ngày đề cao cộng sản, tạo thành tích “chống Mỹ, Nguỵ cứu Bác Đảng” rất lẫy lừng. Mới đây, đọc bài “Mùi cộng sản” của ông Sức Mấy, mới biết sự nghiệp phục vụ “Cách mạng” của chàng to lớn, vĩ đại hơn nhiều. Trong vụ Việt cộng tổng tấn công đợt 1 Tết Mậu Thân 1968, Nguyễn Ngọc Lan đã liều mạng, cải trang, lặn lội đến tận Sở Chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam để ca tụng và khích lệ các chiến sĩ giải phóng mau mau tiêu diệt Mỹ Nguỵ, cho toàn miền Nam sớm được sống trong thiên đường cộng sản. Hôm đó ông Lan đã được Trần Bạch Đằng khen ngợi là cởi mở, chân thành, và phong cho làm “chiến sĩ xung kích”. Khi chết, Nguyễn Ngọc Lan được Trần Bạch Đằng đọc điếu văn, nêu cao thành tích là đã kiên cường chu toàn nghĩa vụ xung kích suốt bảy năm trời, cho tới ngày Việt cộng toàn thắng (nguyên văn: “Từ năm 1968 cho đến 30.4.1975, Nguyễn Ngọc Lan trước sau vẫn có mặt trong đội ngũ xung kích của những người yêu nước tại thành phố”). Đang ngạc nhiên, bàng hoàng và tiếc cho nhân cách một cây bút tài hoa nhưng ngây thơ của miền Nam xưa thì lại bị thêm một cú ngạc nhiên không mấy thích thú: Quỳnh Thi, trong mục ý kiến ngắn trên talawas, tỏ ý bất mãn, phản đối kịch liệt vụ ông Sức Mấy gọi “Nguyễn Ngọc Lan là người đâm sau lưng các chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà”. Nghe Nguyễn Ngọc Lan bị gọi thế, Quỳnh Thi thở than: “tôi không khỏi bùi ngùi thương cảm…” Để ngăn chặn Sức Mấy và những người lầm lẫn dám bảo “Nguyễn Ngọc Lan đâm sau lưng chiến sĩ”, Quỳnh Thi đem luật pháp, cấu trúc chính thể Việt Nam Cộng hoà, quyền tự do đối lập trong các nước dân chủ phương Tây ra giảng giải: “Việt Nam Cộng hoà theo chế độ dân chủ đại nghị, tam quyền phân lập, như những nước tư bản dân chủ phương Tây. Do vậy mỗi chính quyền hiện hành tất yếu có những người ủng hộ và những thành phần đối lập. Nguyễn Ngọc Lan và những nhà đối lập khác đã hành xử đúng quyền của mình. Ðó là lẽ đương nhiên.” Không có “lẽ đương nhiên” kiểu đó đâu Quỳnh Thi ạ. Ta chọn Mỹ, một nước Tây phương dân chủ, tự do hơn Việt Nam Cộng hoà nhiều, để nói chuyện “hành xử quyền đối lập” và sự giới hạn quyền ấy nhé. Hãy giả dụ: Trong ngày xảy ra vụ “11 tháng Chín” ở Mỹ có ông công dân Lan Ngọc Nguyễn lâu nay vẫn thầm yêu trộm nhớ trùm khủng bố Bin Laden. Ông ra báo Diện-Đối, quanh năm chửi đế quốc Mỹ là đã ác ôn, côn đồ lại có mùi rất thối, còn mùi Bin Laden của chàng thì thơm phưng phức. Đúng ngày Bin Laden tấn công giết 3000 dân Mỹ, Lan Nguyễn băng rừng, lội suối, năm bảy sông em cũng lội, chín mười đèo em cũng qua, liều mạng vào tận Sở Chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tiền phương của Bin Laden để khuyến khích chàng đánh mau, đánh mạnh. Bin Laden hài lòng, xoa đầu khen em… trai hậu phương Lan Nguyễn là đã chân thành, cởi mở rất nhiều với các anh chiến sĩ tiền tuyến. Mấy ông cò Mỹ bắt quả tang Lan Nguyễn liên lạc, cấu kết, hỗ trợ tinh thần cho kẻ thù, còng tay đưa ra toà. Tại toà, luật sư Thi Quỳnh hồn nhiên bào chữa cho nghi can tội phản quốc Lan Ngọc Nguyễn thế này: “Hoa Kỳ theo chế độ dân chủ. Do vậy chính quyền Mỹ hiện hành tất yếu có những người ủng hộ và những thành phần đối lập. Lan Ngọc Nguyễn hợp tác chặt chẽ với Bin Laden đánh giết Mỹ là đã hành xử đúng quyền tự do đối lập của mình. Ðó là lẽ đương nhiên.” Chắc bồi thẩm đoàn và chánh án không bị luật sư Thi Quỳnh thuyết phục và còn nhìn cái kiến thức về luật pháp của Thi Quỳnh với những con mắt hết sức hãi hùng. Quyền đối lập không cho phép ta đương nhiên, trong lúc địch quân đang tấn công giết chóc đồng bào mình, lặn lội vào tận sào huyệt địch, tỏ dạ trung thành, ôm hôn tướng địch, chúc tụng sớm chiến thắng. Cũng như quyền tự do ngôn luận không cho phép ta giữa rạp hát đông người, bịa chuyện hô to: “Cháy! cháy!” để coi chơi cảnh bà con xô đẩy nhau chạy, chen nhau bẹp ruột. Trước khi nói chuyện luật pháp cần học những điều căn bản ấy. Độc giả diễn đàn talawas đông lắm rồi, nhiều người đang là giảng sư trường luật, hoặc đang sinh sống bằng nghề bảo vệ luật pháp. Ta nên tránh việc tra tấn lỗ tai tinh nhậy của các vị ấy, Quỳnh Thi nhé. Sau khi đem mớ kiến thức về luật pháp có khả năng gieo rắc kinh hoàng cho ngành tư pháp Mỹ ra giảng cho ông Sức Mấy, Quỳnh Thi lại bắt bẻ ông về tội chọn sai đối tượng: “Có bao tướng tá, chính khách xôi thịt “đâm sau lưng chiến sĩ” và còn hèn hạ, buôn xương bán máu, bòn rút vàng bạc kim cương Đô-la cho vợ con trốn thoát trước 30-4-75 để vinh thân phì gia, ông Sức Mấy ạ! Và những nhà báo nổi tiếng viết cho các nhật báo hồi đó cũng biết rõ những kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ”, nhưng lại toa rập với họ để bắt “địa” còn bỉ ổi và ghê tởm dễ sợ hơn nữa kia, chắc ông ký giả Sức Mấy biết rõ hơn tôi. Vậy ông có dám vạch tên những kẻ bỉ ổi “đâm sau lưng chiến sĩ” ấy ra không?” (Câu sau cùng không chỉ bắt bẻ, mà còn thách đố, khích tướng để ông Sức Mấy tức khí làm theo lời hướng dẫn của mình. Quỳnh Thi khôn ghê!) Giới bị nghe nhiều nhất lập luận kiểu Quỳnh Thi trên đây là những cảnh sát tuần tra xa lộ. Nó phóng xe ào ào, qua mặt, đổi lane tuỳ thích, không lý gì đến sự an toàn của các xe khác. Bị chặn lại, nó sửng cồ bắt bẻ ông cò ngay: “Hai thằng kia cũng vượt tốc độ, phóng còn lẹ hơn em nhiều, sao Sir không bắt, mà lại bắt… oan em!” Dù sao, nó cũng chỉ tự so sánh với những đứa vượt tốc độ khác không bị “cóp” vồ. Luật sư Quỳnh Thi bào chữa cho anh hùng xa lộ Nguyễn Ngọc Lan thì bắt bẻ ông cò Sức Mấy gay gắt hơn, so sánh tội của thân chủ mình với những tội lỗi của nhiều quân gian ác ghê gớm khác. Dựa vào cách lập luận trên, ta có thể hình dung câu Quỳnh Thi chất vấn ông cò Sức Mấy như sau: “Cách đây hơn ba mươi năm cũng có nhiều đứa phạm tội vượt tốc độ, có đứa gây tai nạn chết người rồi bỏ chạy. Cũng cách đây trên ba mươi năm có đứa ăn trộm, ăn cướp, buôn xương bán máu, bòn rút Đô-la vàng bạc kim cương cho vợ con trốn thoát trước 30-4-75 để vinh thân phì gia, sao ông không biên phạt, không còng tay, viết bản luận tội để đưa chúng ra toà, lại đứng đây biên phạt người yêu nước, khí phách Nguyễn Ngọc Lan. Ông Lan chạy quá tốc độ cũng chỉ để hành xử quyền đối lập với cái luật hạn chế tốc độ của Nha Lộ vận thôi. Đó là lẽ đương nhiên… Ông có dám đi bắt những hung phạm tôi vừa kể không, tôi thách ông đó!” Chẳng biết ông Sức Mấy có chịu trả lời, và trả lời thế nào câu chất vấn đầy thách đố của Quỳnh Thi. Tôi không dám vô phép đoán mò, chỉ ghi lại mấy câu trả lời quen thuộc của các ông bà cảnh sát Mỹ: “… Hai thằng kia còn chạy nhanh hơn em.” “Yên tâm. Thế nào cũng có một nhân viên công lực khác thấy, chặn họ lại và săn sóc chu đáo. Ta hãy tập trung lo cho bì-si-nét của chúng mình thôi nhé, xin vui lòng cho coi bằng lái xe và thẻ đăng bộ.” “Tôi biết có những tên tướng tá, chính khách xôi thịt “đâm sau lưng chiến sĩ” và còn hèn hạ, buôn xương bán máu, những nhà báo bất lương toa rập bắt địa cách đây 30 năm, cho đến giờ vẫn chưa bị bắt…” “Vậy hả, xin vui lòng cho chúng tôi biết chi tiết về bọn ấy và những bằng cớ buộc tội hiện có để tôi chuyển cho ban thám tử chuyên trách điều tra những vụ “đông lạnh” (cold cases) nhé. Cám ơn rất nhiều. Xin vui lòng cho coi bằng lái…” “Tôi vượt tốc độ có lý do chính đáng. Tôi không phạm luật, tôi chỉ hành xử quyền tự do đối lập với sự hạn định tốc độ mà thôi.” “Wow! Good for you! Nhớ trình bày lý do chính đáng ấy với ông bà chánh án nhé.” Dù sao, cũng có một điều tôi đồng ý với Quỳnh Thi, đồng ý trăm phần trăm. Đó là số phận Nguyễn Ngọc Lan đáng cảm thương thật. Ông ấy xui tận mạng. Suốt đời tận tuỵ phục vụ cộng sản, lúc cộng sản thành công thì bị đẩy ra rìa. Vừa ngo ngoe chống đối là cộng sản bịt miệng, đóng cửa báo, quản thúc tại gia, rồi cuối cùng “tai nạn xe cộ” cho một phát, khiến ông “… bị hất ngã khỏi xe máy và bị đánh. Đầu ông Lan bị đập xuống đường và ông bị chấn thương vĩnh viễn. Vợ ông (ông Lan rời bỏ đời sống tu hành và kết hôn sau năm 1975, trở thành một thường dân) nói rằng nguyên nhân của sự suy sụp sau chấn thương chưa bao giờ được xác định. Sau vụ đó, ông sụt xuống chỉ còn 35 ký và mất khả năng tập trung để có thể tiếp tục viết. (“Việt Nam: những tiếng nói cần thiết” - Sophie Quinn-Judge) Sống ngất ngư, thoi thóp như thế rồi, lúc nằm xuống, ông lại bị Trần Bạch Đằng long trọng kể vanh vách những thành tích ông đi phục vụ, nâng bi chính những kẻ đã hành hạ và ra tay giết hụt ông. Rồi Trần Bạch Đằng còn gắn lên quan tài ông tấm huy chương “chiến sĩ xung kích bảy năm thâm niên công vụ”. Lúc sinh thời Nguyễn Ngọc Lan thường bày tỏ lòng kính trọng tiền nhân, ông viết: “Chỉ có một điều đáng tôi quan tâm là đã viết hay chưa một dòng chữ nào khiến phải thẹn với tiền nhân.” “Viết” đã quan trọng thế, “làm” hẳn còn phải cẩn trọng biết bao nhiêu để tránh khiến tiền nhân đau lòng. Thế mà rồi cuối cùng, ông lại ôm cái tước hiệu “làm” “chiến sĩ xung kích cho kẻ thù” xuống tuyền đài, để trình lên tiền nhân. Chắc ông thẹn lắm. Nay trong đám hậu sinh có người ái mộ, viết bài ca tụng ông là trí thức khí phách yêu nước, cấm thiên hạ gọi ông là kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà”, tưởng cũng được an ủi phần nào. Nhưng rồi bài viết bênh vực của con người ái mộ này lại ngây ngô, ấm ớ, làm người đọc phải cười ré lên từng chập, cứ như đọc truyện tiếu lâm! Đành bắt chước Quỳnh Thi, ngửa cổ than một câu thật não lòng: “Tội nghiệp nhà yêu nước Nguyễn Ngọc Lan quá đi thôi!” 5-2007
|
|