|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 9:00:32 GMT 9
Thư Hồ Chí Minh gửi Stalin về chương trình cải cách ruộng đất tại Việt Namhung-viet.org/p34a20936/thu-ho-chi-minh-gui-stalin-ve-chuong-trinh-cai-cach-ruong-dat-tai-viet-namNguyễn Thị Từ Huy Thư Hồ Chí Minh gửi Stalin về chương trình cải cách ruộng đất tại Việt Nam Một người bạn thân của tôi nói rằng hiện nay tư liệu về Hồ Chí Minh rất nhiều nên việc giải thiêng không còn cần thiết nữa. Theo tôi, người bạn này sống chủ yếu ở Mỹ nên mới nói như vậy. Bởi vì, một người bạn khác, là giảng viên đại học ở Việt Nam, cho biết rằng sinh viên đang hào hứng tham gia cuộc thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lê nin. Dĩ nhiên là tìm hiểu theo định hướng của đảng. Đồng thời, cá nhân tôi, khi tìm thông tin trên mạng thì thấy phong trào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh hiện đang được thực hiện một cách rầm rộ ở các trường đại học khắp cả nước, từ Bắc chí Nam. Tư liệu về Hồ Chí Minh nhiều, nhưng ở Việt Nam, sách lịch sử chính thống và báo chí chính thống chỉ cho phép công bố và truyền bá những tư liệu được phép của Ban Tuyên giáo. Hãy hình dung rằng cả thế giới biết việc Marx có con riêng, nhưng báo chính thống Việt Nam không thể đăng thông tin đó. Marx hay Hồ Chí Minh đều bị kiểm duyệt, nếu các thông tin làm ảnh hưởng tới cái gọi là « tư tưởng Marx-Lê nin » và « tư tưởng Hồ Chí Minh » mà đảng đã và đang tuyên truyền. Môn lịch sử, cũng như mọi môn khoa học xã hội khác, được dùng làm công cụ tuyên truyền trong các chế độ toàn trị cộng sản. Thậm chí, cách vận hành của hệ thống toàn trị khiến cho bản thân lịch sử cũng biến mất. Đến mức Václav Havel nói rằng trong chế độ toàn trị « không có lịch sử ». Sẽ rất nhầm lẫn nếu cho rằng người dân Việt Nam hiện nay đã hiểu rõ chế độ của mình. Đáng tiếc, sự thật là, chỉ có một số rất ít người nhìn thấy bản chất của chế độ. Đấy là lý do khiến những người đấu tranh cho dân chủ ở trong nước nghĩ rằng cần phải đi con đường khai minh, thông qua giáo dục. Tuy nhiên, bế tắc là ở chỗ, một khi trường học bị biến thành công cụ tuyên truyền của chính quyền, với sự hỗ trợ của các tổ chức đảng, của bộ máy an ninh mật, an ninh văn hóa và cảnh sát, thì việc khai minh qua con đường giáo dục trên thực tế sẽ bị cản trở, thậm chí không thể tiến hành được. Hoặc nếu thực hiện được thì cũng chỉ nửa vời, bởi bản thân sự hợp tác, trong xã hội toàn trị, đã bao hàm trong nó sự thỏa hiệp. Nan đề là ở chỗ : sự thỏa hiệp không cho phép thực hiện được mục đích giáo dục khai minh và giáo dục tự do. Liệu có thể giải quyết được nan đề, vừa thỏa hiệp với quyền lực toàn trị vừa thực hiện được một nền giáo dục đích thực ? Một trong những con đường có thể có hiệu quả hiện nay là truyền thông tự do trên mạng (trong đối lập với truyền thông tuyên truyền chính thống). Đại lộ thông tin internet là không gian mà những người muốn tiến hành các chương trình khai minh, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí cần sử dụng. Ngoài ra, mọi con đường đều dẫn tới thành Rome. Câu hỏi có lẽ là: bao giờ những người hiện đang đi trên những con đường khác nhau có thể kết nối lại với nhau? Những người muốn xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, phát triển về kinh tế, khoa học, văn hóa, muốn xây dựng một xã hội dân chủ tại Việt Nam, cần đối diện với khó khăn to lớn này : việc bưng bít thông tin, truyền thông tuyên truyền một chiều, chính sách ngu dân… được thực hiện nhiều thập kỷ nay đã mang lại hậu quả ghê gớm đối với các thế hệ người Việt. Hậu quả đó chính là những bộ não bị đúc khuôn, bị tẩy trắng, mất khả năng tư duy, sẵn sàng tin vào những gì được tuyên truyền mà không hề hoài nghi, không hề đặt câu hỏi. Và mặt khác của vấn đề là ở chỗ những bộ óc như vậy lại tin rằng mình nắm giữ chân lý, rằng những ai khác mình đều là lạc hậu, phản động… Trong bối cảnh đó, xin giới thiệu lại cùng quý độc giả hai bức thư của Hồ Chí Minh gửi Stalin vào tháng 10 năm 1952 về vấn đề cải cách ruộng đất. Nội dung của chúng xác nhận rằng Hồ Chí Minh là người thiết kế chương trình cải cách ruộng đất tại Việt Nam, dưới áp lực của Liên Xô và Trung Quốc. Hai bức thư này đã được một số người dịch và phân tích trên một số website và blog. Ở đây tôi sử dụng bản dịch tiếng Pháp, được giới thiệu trong công trình khảo cứu lịch sử « Le communisme vietnamien (1919-1991) » của nhà nghiên cứu Céline Marangé, in năm 2012, tại Paris. Đồng thời tôi cũng dịch một đoạn phân tích của Tiến sĩ Khoa học chính trị Céline Marangé về bối cảnh lịch sử của hai bức thư này, và một đoạn ngắn khác bình luận về tính chất phức tạp của các nhân vật lịch sử và các sự kiện lịch sử Việt Nam. Nguyễn Thị Từ Huy I. Phân tích của Céline Marangé về bối cảnh lịch sử của hai bức thư: Đầu những năm 1950, điện Kremlin vẫn còn rất thận trọng đối với cuộc chiến tranh Đông Dương và nhân vật Hồ Chí Minh. Kremlin chỉ ủng hộ đề nghị gia nhập Liên Hợp Quốc do nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đệ trình ngày 29/12/1959, khi mà 9 tháng sau, Pháp cũng đưa ra một đề nghị tương tự cho « Nước Việt Nam của Bảo Đại » và cho các vương quốc Lào và Campuchia. Tương tự như vậy, khi mà tất cả các đại diện của các đảng cộng sản nước ngoài đã được mời đến dự đại hội lần thứ XIX của đảng cộng sản Liên Xô, Hồ Chí Minh buộc phải viết thư cho Stalin để được mời tham dự. Ngày 30 tháng 9 năm 1952, Hồ Chí Minh gửi cho Stalin một bức điện tín từ Bắc Kinh để xin ông ta cho phép được bí mật tới Moscou. Ngày 2 tháng 10 Stalin cho phép Hồ Chí Minh tới tham dự với hình thức « không chính thức ». Trong thư trả lời Stalin, gửi ngày 17 tháng 10, Hồ Chí Minh đề nghị Stalin cho Liu Shao-qi tham dự vào những thảo luận về Việt Nam. Ba người đó gặp nhau tại Moscou ngày 28 tháng 10 năm 1952. Trước cuộc họp, Liu Shao-qi đã đề nghị Stalin phải nài Hồ Chí Minh để ông ta tiến hành cải cách ruộng đất tại Việt Nam. Hồ Chí Minh lúc đó muốn dừng lại ở việc giảm tiền lĩnh canh. Nhưng khi Stalin yêu cầu ông ta thực hiện một cuộc cải cách ruộng đất theo mô hình cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã chịu thuận theo ý muốn của Stalin. Hai ngày sau, ông viết cho Stalin đề nghị gửi tới Việt Nam hai cố vấn Xô Viết, ưu tiên người nói tiếng Pháp, và đề nghị nhận các sinh viên Việt Nam đến đào tạo tại Moscou, và đặc biệt là cung cấp các vũ khí hiện đại. Hôm sau, ngày 31 tháng 10, Hồ Chí Minh chuẩn y một chương trình cải cách ruộng đất, đã được hiệu chỉnh với sự hỗ trợ của Liu Shao-qi và Wang Jiaxiang, đại sứ đầu tiên của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô (1949-1951). Trước khi rời khỏi Moscou, Hồ Chí Minh viết một lá thư cảm ơn Stalin, trong đó một lần nữa ông hứa với Stalin sẽ dành tâm lực vào cuộc cải cách ruộng đất. Những bức thư này mang lại cảm giác rằng Hồ Chí Minh đã chấp nhận tiến hành cải cách ruộng đất để có được vũ khí với số lượng lớn và để tạ lỗi với Stalin, cho đến lúc đó vẫn tiếp tục dè chừng Hồ Chí Minh. Tháng 12, Stalin tuyên bố với Liu Shao-qi và đại sứ Trung Quốc rằng ông ta « về phần mình, đánh giá Hồ Chí Minh là một người tốt, dù ban đầu thì không tốt ». Khi trở về Việt Nam, Hồ Chí Minh đề nghị Mao Trạch Đông cung cấp các chuyên gia về cải cách ruộng đất và cung cấp các ý tưởng. Ban bí thư trung ương của đảng cộng sản Trung Quốc gửi sang Wang Li, người đảm nhiệm chức vụ « cố vấn tinh thần và ý thức hệ », đồng thời, về sau, đó là một trong những người chỉ huy Cách mạng văn hóa Trung Quốc, trước khi bị bắt vì tội « khuynh tả cực đoan », vào năm 1967. Để đến phụ giúp cho Việt Nam, Wang Li có thêm Qiao Xiaoguang, một chuyên gia về cải cách ruộng đất, người đã lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc vùng Quảng Tây. Ngày 2 tháng 3 năm 1953, tức là ba ngày trước khi Stalin chết, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua một nghị định về việc phân loại bộ phận dân cư ở nông thôn, nghị định này được dùng làm cơ sở pháp lý cho cải cách ruộng đất và cho « tòa án giai cấp ». (Trích từ cuốn « Le communisme vietnamien (1919-1991) », Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 193-195) II. Hai bức thư của Hồ Chí Minh gửi Stalin Thư thứ nhất Đồng chí I.V. Stalin thân mến Tôi đã bắt đầu soạn thảo dự án chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, và sẽ nhanh chóng trình bày với đồng chí. Tôi gửi tới đồng chí cùng một số yêu cầu sau đây, và hy vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này. 1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng tại chỗ. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp, họ có thể thể giao tiếp với một tầng lớp rộng rãi. Mất khoảng mười ngày để đi từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi. 2. Chúng tôi muốn gửi 50-100 học sinh sang Liên Xô học tập, họ đã có trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, một vài ngườ trong số họ là đảng viên và những người khác chưa phải là đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí có nhất trí về vấn đề này không? 3. Chúng tôi muốn nhận từ các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh (thuốc chống sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa là cứ nửa năm nhận 5 tấn. 4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau đây : a) Pháo binh phòng không 37 li cho 4 trung đoàn, tổng số là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo. b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tổng số là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu. c) Súng máy phòng không 12,7 li cho hai trung đoàn, tổng số là 200 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu. Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định sẽ rời khỏi Moscou vào ngày 8 hoặc ngày 9 tháng 11 [1952]. Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và những lời chúc tốt đẹp nhất ! Hồ Chí Minh 30-10-1952 2. Thư thứ hai Đồng chí I.V. Stalin thân mến Tôi gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Dự án chương trình do tôi soạn thảo, với sự hỗ trợ của đồng chí Liu Shao-qi và [đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô từ 1949-1951 Wang Jiaxang]. Mong đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này. Gửi đồng chí lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh 31/10/1952 (Phụ lục 4, Le communisme vietnamien (1919-1991), Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 534-535) III. Bình luận của Céline Marangé về tính phức tạp của các nhân vật lịch sử và các vấn đề lịch sử của Việt Nam: Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam vẫn còn là một chủ đề nhạy cảm và tương đối ít được khai thác. Kỷ niệm về cuộc chiến tranh Việt Nam, được khơi dậy bởi sự can thiệp của Mỹ tại Irak năm 2003, và đặc biệt là cái kỷ niệm, được người ta thi nhau lý tưởng hóa, về phong trào sinh viên phản đối chiến tranh, cuộc chiến được nhìn nhận như là « chiến tranh vệ quốc chống đế quốc Mỹ », ở Pháp, kỷ niệm ấy vẫn luôn đảm bảo cho những cảm tình nhất định đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Ở phía ngược lại, trong một bộ phận khác của dân chúng Pháp, ký ức về cuộc chiến tranh Đông Dương, thậm chí hoài niệm về Đông Dương thuộc Pháp, vẫn còn chưa tắt hẳn. Ở Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam tiếp tục kích động những thiên kiến tồn tại rất lâu sau khi xe tăng Bắc Việt tiến vào Sài Gòn và sau khi chế độ Miền Nam Việt Nam thất thủ vào ngày 30/4/1975. Đối với những người Việt lưu vong căm thù chế độ cộng sản, Hồ Chí Minh bị cố tình biến thành quỷ dữ. Người ta gán cho ông tính cách gian xảo, quỷ quyệt, hay thậm chí cả tính cách bá quyền mà chắc hẳn ông không bao giờ có. Tương tự như thế, mặc dù tướng Giáp giành được sự khâm phục ở những vị tướng vốn là kẻ thù của ông, nhưng ông thường xuyên bị miêu tả như một kẻ tính toán lạnh lùng, thờ ơ với số phận của lính tráng, và bị xem như một lãnh đạo có quyền lực tuyệt đối. Tai tiếng của hai người này lớn đến mức che lấp hết những nhân tố hàng đầu khác ở họ. Thế nhưng, trong thực tế, không có gì đơn giản. Không ai đơn giản hết. Cả Hồ Chí Minh, cả tướng Giáp đều không đơn giản, và có thể còn phức tạp hơn đối với những lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô đã cố bẻ cong các sự kiện ở Việt Nam. Từ những năm 1960 trở đi, quyền lực phần lớn đã không còn nằm trong tay họ. Những người khác đã nắm giữ quyền lực. (Trích từ cuốn « Le communisme vietnamien (1919-1991) », Céline Marangé, Paris, SciencePo/Les Presses, 2012, tr. 29)
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 9:03:45 GMT 9
Phỏng vấn Vũ Thư Hiên (phần 1)hung-viet.org/p34a24000/phong-van-vu-thu-hien-phan-1-Nguyễn Thị Từ HuyVũ Thư Hiên Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH): - Thưa ông, từ khi còn rất nhỏ, tôi đã có dịp nghe đến cuốn « Đêm giữa ban ngày » của ông, được nhắc tới trong các câu chuyện của ba tôi và bạn bè ông ấy. Giờ đây, thật may mắn cho tôi có dịp được trò chuyện cùng ông. Hy vọng, trong tư cách nhân chứng, ông sẽ giúp mọi người nhìn thấy một số mặt khuất trong lịch sử của chúng ta, cái lịch sử vốn còn rất nhiều điều chưa được rõ ràng. Câu hỏi đầu tiên của tôi liên quan đến vai trò của Hồ Chí Minh trong cấu trúc quyền lực của chính quyền cộng sản Việt Nam. Nhiều sử gia quốc tế chứng minh rằng khoảng từ những năm 1960 Hồ Chí Minh không còn có thực quyền nữa. Quyền lực chuyển vào tay bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh. Ông có thể nói gì về điều này ? Vũ Thư Hiên: - Trước hết, để mở đầu câu chuyện, tôi muốn bạn ngoái nhìn bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào năm những năm 1938-1939, khi Mặt trận Bình dân Pháp (liên minh các lực lượng cánh tả gồm Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, SFIO, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế) bị đổ. Chính quyền thuộc địa thừa dịp liền mở một cuộc tổng khủng bố tràn lan – tất cả những người có liên quan với phong trào dân chủ Đông Dương, có xu hướng chống chế độ thuộc địa – các đảng viên cộng sản, quốc dân đảng, kể cả những người thuộc diện tình nghi đều bị bắt. Lúc bấy giờ hai ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phải trốn gấp, người đưa hai ông đi trốn là cha tôi, Vũ Đình Huỳnh. Ông Trường Chinh được cha tôi gửi gắm ở nhà ông Trần Văn Vần ở Phúc Yên. Từ Phúc Yên quay về Hà Nội, cha tôi bị Pháp bắt ở ga Hàng Cỏ, đưa vào Hoả Lò. Người duy nhất biết Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt ở đâu bị đưa đi an trí ở nhà tù Sơn La. Mất liên lạc, Trường Chinh ở Phúc Yên cho đến hết năm 1940. Nói thêm: ông Trần Văn Vần không phải đảng viên cộng sản, nhưng đã bảo vệ ông Trường Chinh rất chu đáo. Vì không tìm thấy quyền Bí thư Trường Chinh đâu, nên một số Trung ương uỷ viên và xứ uỷ Bắc Kỳ đã triệu tập một cuộc họp Trung Ương bất thường và mở rộng tại Bắc Ninh, người được bầu làm tổng bí thư lâm thời là bí thư xứ ủy Bắc Kỳ, Đào Duy Kỳ (tôi nghe ông Đào Duy Kỳ kể, không nhớ thời gian). Sự kiện này tôi không thấy được ghi trong chính sử của ĐCS. Đào Duy Kỳ trả lại cho Trường Chinh vị trí này khi Trường Chinh ra khỏi nơi ẩn nấp. Trong mắt lớp người cách mạng thì việc núp quá kín trong một thời gian dài chứng tỏ Trường Chinh hèn và nhát. Trong giai đoạn đó người ta trọng những người cách mạng trung thành, dũng cảm, còn giỏi hay không giỏi, là cái không ai quan tâm. Năm 1941 Trường Chinh, cùng một số đồng chí đi qua biên giới đón Nguyễn Ái Quốc. Trong bối cảnh ấy, khi gặp Nguyễn Ái Quốc, Trường Chinh đã kêu to lên rằng : “Lãnh tụ tối cao đây rồi!” Tôi lưu ý bạn câu nói này, nó được ghi trong những hồi ký. Nó đáng được chú ý, vì từ trước chưa ai gọi Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ tối cao, cho dù ông nổi tiếng với tư cách một nhà cách mạng ở ngoại quốc. Tôi nhớ, cũng trong các hồi tưởng về cuộc gặp gỡ này, ông Hồ Chí Minh đã ôm Trường Chinh mà khen ngợi: “Đồng chí này là một người học trò ưu tú của Mác”. Sự xác nhận này là rất tốt, và rất cần thiết, cho Trường Chinh khi ấy. Chuyện quyền lực về sau này có liên quan tới sự kiện tôi vừa nhắc tới. Nó giúp cho việc lý giải dài hơn, đủ hơn, về quyền lực của ông Hồ Chí Minh trong câu hỏi. Các sử gia quốc tế khi nói về quyền lực trong tay ai cũng chỉ căn cứ vào thống kê những lần xuất hiện của những nhân vật cầm quyền trước công chúng và trên mặt báo để phỏng đoán chứ không thể có bằng chứng văn bản học. Cũng xin nói trước rằng tôi cũng thế thôi, tôi chỉ có thể nói về những gì tôi tôi thấy, tôi nhớ được, cộng với những nhận định mà tôi cho là có lý. Ý kiến của tôi nằm bên ngoài sử học, nó không có gì hơn một tham khảo, hoặc một gợi ý để các sử gia tìm thêm những bằng chứng khả tín. NTTH: Theo những gì ông biết thì Hồ Chí Minh như thế nào vào những ngày Tháng Tám năm 1945? Vũ Thư Hiên: Khi ấy tôi là một đứa trẻ. Nhưng là một đứa trẻ trong một gia đình cách mạng, được gặp nhiều người về sau trở thành những nhân vật lịch sử, được nghe nhiều chuyện người lớn nói với nhau. Theo ông Nguyễn Lương Bằng (sau là phó chủ tịch nước) thì ông Hồ Chí Minh không nắm rõ tình hình trong nước lắm đâu. Tại hội nghị Tân Trào năm 1945, ông Bằng dẫn cha tôi gặp ông Hồ Chí Minh báo cáo với ông Hồ về phong trào cách mạng ở các địa phương, về những nhân vật mà ông Hồ muốn biết. Dưới vỏ bọc người chào hàng cho các hãng buôn, cha tôi thường xuyên vào Nam ra Bắc để liên lạc, chắp nối giữa các chi bộ đảng với nhau và với nhiều người có tư tưởng chống Pháp, kể cả những tổ chức cách mạng không cộng sản. Cha tôi kể: trong cuộc trò chuyện ấy ông Hồ Chí Minh tỏ ra không nhận được những thông tin chính xác, thậm chí ông còn hỏi cha tôi: ông Huỳnh Thúc Kháng hình như đã “đầu Tây” (đầu hàng), phải không? Cha tôi nói ông vừa gặp ông Huỳnh Thúc Kháng mấy tháng trước, và cho ông biết đó là tin thất thiệt - Huỳnh Thúc Kháng là người rất kiên cường. Kết quả cuộc gặp gỡ này là trong một cuộc họp trung ương đảng vào ngày 27 hay 28 tháng 8 năm 1945, ở phố Hàng Ngang, ông Nguyễn Lương Bằng đã đưa ý kiến cha tôi bỏ công tác quân sự (theo quyết nghị ở Tân Trào thì Võ Nguyên Giáp và Vũ Đình Huỳnh phụ trách quân sự), để làm bí thư cho ông Hồ. Ông ấy rất cần một người như thế ở bên cạnh. Nhân tiện cũng nói để bạn biết thêm rằng vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám, lực lượng cộng sản không có bao nhiêu đâu. Theo cha tôi thì chỉ có chừng dăm bảy trăm đảng viên thực sự tích cực, hoạt động có hiệu quả. Thành công của cách mạng tháng 8 là nhờ lòng yêu nước của nhân dân và thời cơ thuận lợi - Nhật đầu hàng và chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo ra khoảng trống quyền lực để đảng cộng sản phất cờ khởi nghĩa. cachmangthangtam NTTH: - Như vậy, ông Hồ Chí Minh có vai trò quyết định trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, chứ không phải Trường Chinh? Vũ Thư Hiên: Theo những đảng viên mà tuổi cách mạng nhiều hơn tuổi đảng (những người hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc từ khi đảng chưa ra đời) bên cạnh một Hồ Chí Minh – Nguyễn Ái Quốc được nói đến như một nhà ái quốc vô song, cứu tinh của dân tộc, thì vai trò của Trường Chinh khi ấy rất mờ nhạt. Ấy là chưa kể cái lỗi đi trốn quá lâu bỏ bê việc đảng của ông ta chưa phai nhạt. Chính vì lẽ đó, sau khi lấy được chính quyền, vai trò của ông Hồ Chí Minh là vai trò lớn nhất. Thời gian cuối năm 1945 và suốt năm 1946, Hồ Chí Minh hiển nhiên là ngôi sao sáng chói trên bầu trời chính trị Việt Nam. Ông là người quyết định mọi việc lớn nhỏ - từ việc đối phó với các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc, đàm phán với các đại diện Pháp, cho tới việc lo dự trữ muối cho cuộc kháng chiến mà ông biết trước sẽ lâu dài… Tôi hay ra vào Chủ tịch Phủ để mang thức ăn bổ dưỡng mẹ tôi làm cho ông Hồ Chí Minh, chạy việc vặt khi ông sai bảo, tôi thấy ông làm việc không lúc nào ngơi nghỉ. Từ Việt Bắc về Hà Nội, Hồ Chí Minh gầy yếu, sức khoẻ rất kém, ông còn bị lao phổi nữa. Cha tôi lo lắng cho sức khoẻ của ông, mới nhờ người bạn thân là bác sĩ Trần Duy Hưng đến Bắc bộ phủ lo chữa bệnh cho ông Hồ. Tình thân của ông Hồ với ông Trần Duy Hưng bắt đầu từ đấy. Mặc dầu ông Trần Duy Hưng không phải đảng viên cộng sản, nhưng ông Hồ vẫn bảo cha tôi: anh Huỳnh vận động anh Hưng làm chủ tịch Hà Nội đi. Là người xa cách chính trị, nhưng ông Trần Duy Hưng không từ chối việc nước, ông nhận lời và làm chủ tịch Hà Nội từ ngày ấy cho đến khi về hưu. Mọi chuyện thời bấy giờ rất đơn giản thế đấy. Ông Hồ bổ nhiệm nhiều người khác vào chính phủ cũng không xét nét lý lịch, miễn là người không từ nan việc nước là ông mời. Hồ Chí Minh rất hiểu dân chúng chẳng biết Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp hay Phạm Văn Đồng là ai, nhưng tiếng tăm của những nhân sĩ Bắc Hà thì dân biết. Ông thấy cần phải mời các nhân sĩ tham gia chính phủ là ông mời, không cần hỏi ý kiến ai, thậm chí cũng chẳng đòi hỏi họ phải có lập trường chống Pháp. Có sự tham gia của các vị ấy thì chính phủ cách mạng mới có bộ mặt chính phủ của dân tộc, vậy thôi. Các vị vốn là những người có chuyên môn, không biết việc hành chính, khi nhận lời làm việc với những cương vị lớn thì lúng túng lắm, thôi thì cứ theo cung cách của chính quyền thuộc địa và chính quyền Nam triều cũ mà bắt chước, lồng vào đấy một nội dung cách mạng là xong. Cứ xem những văn bản thời bấy giờ thì có thể hình dung ra cái sự lúng túng ấy nó thế nào. Bây giờ người ta tô vẽ cho nó như là một cái gì chính thống lắm, nhưng thật sự không phải như vậy. Mà tô vẽ thế là dại. Chính cái lúng túng ấy là nét đẹp của chính quyền cách mạng. Về chuyện bổ nhiệm công tác theo cách đơn giản như thế tôi xin kể một thí dụ: khi Trung ương Đảng bàn về việc phân công cho ai làm việc công an thì mọi người đều ngớ ra – chẳng có ai biết việc ấy làm thế nào, tổ chức nó ra sao. Rốt cuộc, ông Hồ cử ông Lê Giản làm Tổng Giám đốc Nha công an. Ông Hồ cho rằng chỉ có ông Lê Giản sau khi được Mỹ giải phóng từ Madagascar, đã được Mỹ đưa đi huấn luyện ở New Delhi (Ấn Độ), xem ra mới là người còn biết tí chút về ngành này. Thậm chí trong sở Liêm Phóng Hà Nội (tên gọi của Sở CA Hà Nội hồi ấy) còn có một cán bộ là nhà văn chưa từng làm công an bao giờ. Người ta cho rằng ông Phạm Cao Củng đã là tác giả các tiểu thuyết trinh thám: “Lê Phong phóng viên”, “Đảng bàn tay ma”... thì ắt phải biết nghề công an nó thế nào. NTTH: - Như vậy, ông Hồ Chí Minh là người toàn quyền quyết định các vấn đề nhân sự trong giai đoạn cuối 1945 và 1946? Vũ Thư Hiên: Tôi nghĩ vậy. Và những người làm việc với ông Hồ Chí Minh cũng không nghĩ khác. Vào thời kỳ đó mọi công việc của chính phủ đều diễn ra tại Bắc bộ phủ (phủ Thống sứ thời thuộc Pháp). Trong những hồi ký về hai năm đầu của chính phủ cũng không thấy ai nói khác. NTTH: - Xin ông nói về chủ trương cải cách ruộng đất, theo hiểu biết của ông? (Còn tiếp) Paris, tháng 4 năm 2017 Vũ Thư Hiên - Nguyễn Thị Từ Huy
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 9:05:29 GMT 9
Phỏng vấn Vũ Thư Hiên (phần 2)hung-viet.org/p34a24020/phong-van-vu-thu-hien-phan-2-Nguyễn Thị Từ HuyVũ Thư Hiên Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH): - Xin ông nói về chủ trương cải cách ruộng đất, theo hiểu biết của ông? Vũ Thư Hiên: Trường Chinh Khi chủ trương cải cách ruộng đất được đặt ra, ông Hồ có nói với cha tôi: “Chuyện này tôi nghĩ mình chẳng cần phải làm ngay bây giờ, để kháng chiến xong mình làm cũng không muộn. ”Ông Hồ không muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức, đó là sự thật. Điều cha tôi kể lại cho tôi nghe cũng không phải bịa đặt. Nhưng rồi sau, như ta biết, chính ông Hồ, với tư cách chủ tịch nước, đã ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, năm 1953. Theo lời những cán bộ cách mạng lão thành, mà tôi thấy là có lý, thì Trường Chinh mới là người muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức. Chủ trương này phù hợp với lời dạy của Mao Trạch Đông (cách mạng vô sản phải tiến hành song song hai nhiệm vụ phản phong và phản đế, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực). Người ta đã vội vã tiến hành cải cách ruộng đất dưới chiêu bài ấy, không nhằm mục tiêu cải cách ruộng đất thực sự đâu. Nó mang mục đích chính trị. Có thể lý giải sự việc như thế nào? Để cải cách ruộng đất phải có những cuộc điều tra kỹ càng về tình hình ruộng đất, nước nào cũng vậy. Nhưng đã không có một cuộc điều tra nào như thế, trừ sự sử dụng vài con số thống kê do người Pháp làm trong thời thuộc Pháp. Ý đồ được ẩn giấu là: gạt ra ngoài lớp người đã tham gia từ đầu việc cướp chính quyền năm 1945 – những người không coi trọng tôn ti trật tự trên dưới, mà coi mọi người tham gia cách mạng đều bình đẳng. Mà, theo Trường Chinh, tôn ti trật tự là cái rất cần cho cách mạng, để thực hiện những mục tiêu của cách mạng. NTTH: - Vậy có thể hiểu: người chủ trương cải cách ruộng đất ngay lập tức là Trường Chinh? Vũ Thư Hiên: Cuộc cải cách ruộng đất có mặt nổi và mặt chìm của nó. Từ năm 1949, khi biên giới Trung-Việt đã thông và nhiều đoàn cố vấn quân sự của Trung Quốc sang Việt Nam thì tình hình đổi khác hoàn toàn. Mọi sự được rập theo khuôn mẫu Trung Quốc (Mao), từ việc nhỏ đến việc lớn. Các bạn khó hình dung cảnh này: khi một viên tướng Tàu cần dùng ngựa thì một người lính Tàu lập tức chạy đến để viên tướng nọ dẫm lên lưng mình mà lên yên. Chưa hết, tướng Tàu đi đâu cũng có một toán lính phục dịch: lính bảo vệ, lính vác đệm, chăn, màn, gối cho tướng ngủ, lính cấp dưỡng lo cơm nước, lính giám mã chăm lo ngựa. Thế nhưng ban lãnh đạo đảng cho thế là phải, thế mới là tôn ti trật tự cách mạng. Ảnh hưởng Tàu vào miền Bắc Việt Nam lúc đó mạnh lắm. Ở bên Tàu có chỉnh đốn tam phong (văn phong, tác phong, đảng phong) thì ở ta có chỉnh huấn, chỉnh quân. Mọi tài liệu huấn luyện để dạy dỗ chúng tôi đều là sách dịch từ các tác phẩm của các lãnh tụ Tàu: Mao Trạch Đông , Lưu Thiếu kỳ, Ngãi Tử Kỳ…Một cán bộ vận áo đại cán (áo kiểu Tôn Trung Sơn), ngực đeo huy hiệu Mao Trạch Đông, túi áo gài bút máy Kim Tinh là một cán bộ được ngưỡng mộ vì được huấn luyện ở bên Tàu về. Những phát ngôn của anh ta trong những hội nghị, những cuộc học tập được coi như chân lý không thể phản bác. Thậm chí chuyện mức ăn trong quân đội cũng phân biệt đẳng cấp: đại táo, tiểu táo, trung táo. Đặc táo là mức ăn cao nhất, với nghĩa đặc biệt, là cái trên hết các thứ “táo”. Nó không có giới hạn. Mọi thứ đều được sao chép nguyên xi của Tàu. Như vậy ảnh hưởng Tàu trong việc tiến hành cải cách ruộng đất là sự đương nhiên. Nó phù hợp với ý muốn của Trường Chinh - người lãnh đạo đảng. Tôi nói chuyện chuyện ảnh hưởng Tàu để dẫn tới một lý giải chưa chắc đã được sự đồng tình, vì nó khác với những gì từng được viết ra về cải cách ruộng đất. lý giải ấy thế này: mấy năm đầu kháng chiến bộ đội là do dân nuôi, chẳng có đảng nào nuôi hết, kho bạc nhà nước cũng chẳng có đồng nào. Dân nuôi bộ đội, cán bộ là sự thật. Nhưng không phải là dân nói chung, lại càng không phải là bần cố nông nghèo khó, mà là những người có của (thị dân, địa chủ). Vào thời gian ấy họ được tâng bốc là những nhà hằng tâm hằng sản, trong thực tế chính họ mới là những người có khả năng đóng góp cho kháng chiến. Bấy giờ những người chỉ có vài ba mẫu ruộng (mẫu Bắc bộ bằng 3600 mét vuông, không phải hectar bằng 10.000 mét vuông), cũng đã bị gọi là địa chủ rồi. Trong sự đồng tâm hiệp lực cho mục đích cao cả là đánh Pháp giành độc lập mọi người đều thấy mình bình đẳng, với nhau, và cả với những người cầm quyền. Quan niệm bình đẳng là quan niệm tự sinh, tự nó có, trong dân chúng cũng như trong quân đội. Võ Nguyên Giáp mà đến đơn vị chúng tôi thì cũng ngồi ăn với chúng tôi, không phân biệt quan lính. Quan niệm bình đẳng ấy, khốn thay, lại là cái làm cho Trường Chinh và những người như ông ta không ưa. Trường Chinh thèm được dân sùng phục mình như những người ở vị trí tương đương ở bên Tàu. Muốn dẹp quan niệm bình đẳng thì phải thanh toán những kẻ mang tư tưởng ấy – những người tham gia từ những ngày đầu cách mạng. Từ đó mới sinh ra sự triệt hạ những người đang nắm quyền ở nông thôn, thường là những người đã tích cực đóng góp cho cuộc kháng chiến, gọi họ là cường hào, ác bá. Song song với cải cách ruộng đất là cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương phụ trách. Người ta chụp lên đầu những người đang cầm quyền ở nông thôn đủ mọi nhãn hiệu: tay sai đế quốc, làm việc cho Phòng Nhì của Pháp, là đảng viên các đảng phản động chống phá cách mạng - Quốc Dân Đảng, Đại Việt vv… Rốt cuộc, bằng cách tước đoạt tài sản của những người bị dán nhãn hiệu cường hào, ác bá với mọi loại phản động bị đấu tố, bị xử bắn, xử tử rồi đem chia cho bần cố nông là những người chưa hề tham gia cách mạng, chưa hề có công với cách mạng, họ sẽ mang ơn các lãnh tụ, mang ơn đảng. Và cái quan trọng hơn cả là sau khi xoá bỏ chính quyền cũ ở nông thôn, chính quyền mới được dựng nên sẽ tuyệt đối trung thành với tôn ti trật tự mới. Hiểu được cái mục đích che giấu ấy ta sẽ thấy cải cách ruộng đất không hề sai lầm – nó đã làm được cái việc nó cần làm. Biết trước việc làm sẽ như thế nào sao có thể gọi là sai lầm? Chỉ vì nó lỡ trớn, vượt quá cái người ta mưu toan, chỉ vì bị phản ứng mạnh ngay trong đảng và ngoài xã hội mà phải thừa nhận rằng có sai và phải sửa sai mà thôi. NTTH: - Thế còn những nhân sĩ đã tham gia chính phủ lâm thời, có chức vụ cao trong chính phủ mấy năm đầu trong thời kỳ cải cách ruộng đất, họ ra sao? Vũ Thư Hiên: Các nhân sĩ trí thức tham gia chính phủ kháng chiến không bị đụng đến trong cải cách ruộng đất. Nhưng nói chung các vị ấy cũng bị ảnh hưởng của cách đối xử theo lối Trung Quốc. Mốc 1949 là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến từ sự tồn tại của một nhà nước mưu cầu độc lập sang một nhà nước lệ thuộc. Di chứng của nó, như nay ta thấy, kéo dài mãi về sau. Nói về thái độ trong quan hệ của ông Hồ Chí Minh với các nhân sĩ trí thức tôi muốn nói lời công bằng, như tôi thấy - đối với các vi ấy ông Hồ có sự trọng thị thật sự. Ông rất giữ lễ xưa trong khi gặp gỡ các cụ cao tuổi như cụ Bùi Kỷ, Bùi Bằng Đoàn, tôi được chứng kiến. Thêm một thí dụ: khi đến thăm gia đình ông Trần Duy Hưng, bao giờ ông Hồ cũng xin phép được vào chào cụ thân sinh ông Hưng trước đã. Cách cư xử như thế có thể là do truyền thống trọng sĩ phu ngày trước chưa mất đi trong lòng ông. Với ban lãnh đạo đảng cộng sản thì không được như vậy. Ngay từ đầu, họ coi các nhân sĩ nọ như một thứ hàng hóa bắt mắt, chỉ để bày. Ở trong khu an toàn các nhân sĩ vẫn còn được giữ những chức vụ trên danh hiệu như năm 1945-1946, tuy công việc về thực chất từ đây đã do các đảng viên nắm, với chức vụ khiêm tốn chỉ là phụ tá, là phó trong các cơ quan. Nhưng tới giữa năm 1950 (tôi nhắc lại, khi lối sống Trung Quốc được tích cực sao chép) đã hoàn toàn thống trị, thì tất cả các nhân sĩ đang ở khu An toàn huyện Sơn Dương đều bị đưa lên cư trú bắt buộc tại huyện Chiêm Hoá (huyện phía Bắc tỉnh Tuyên Quang) ngồi chơi xơi nước. NTTH: - Ai là người đưa ra quyết định đó? Vũ Thư Hiên: - Cũng là Trường Chinh, nhiều người nói thế, tôi thấy có lý. NTTH: - Ông Hồ không có can thiệp gì vào việc đó sao? Vũ Thư Hiên: - Tôi không thấy sự can thiệp nào của ông ấy. Là Chủ tịch đảng, trên danh nghĩa, nhưng ông Hồ vẫn phải tuân theo mọi quyết định của Bộ Chính trị, đứng đầu là Trường Chinh. Bác lại Bộ Chính trị à? Trong việc đưa các nhân sĩ đi tập trung ở Chiêm Hóa chắc chắn không phải sáng kiến của ông ấy. Theo nhiều người nhận xét, Hồ Chí Minh là người nhu nhược. Tôi nghĩ khác - ông ấy chẳng mấy quan tâm tới số phận những người ông ấy từng mời mọc hợp tác trong chính phủ lâm thời. NTTH: - Hồ Chí Minh ở trong khu kháng chiến có chứng kiến và có biết trực tiếp những chuyện xảy ra lúc đó tại các địa phương trong việc xử lý cải cách ruộng đất không? Vũ Thư Hiên: - Theo tôi nghĩ, chứng kiến và biết trực tiếp thì không, nhưng ông Hồ có nhận được những báo cáo chứ, sao không, có điều chúng là những báo cáo không trung thực. NTTH: - Còn cái vụ ông Hồ bịt râu đi xem hành quyết bà Năm, như đồn đại, ông nghĩ sao? Vũ Thư Hiên: -Tôi không tin đồn này. Thứ nhất là từ Núi Hồng, chỗ Hồ Chí Minh ở, cho đến làng Đồng Bẩm, nơi đấu bà Nguyễn Thị Năm, khoảng 75 đến 80 cây số đường chim bay. Để ông Hồ di chuyển chừng đó cây số, theo lệ thường, phải có ít nhất một trung đội bảo vệ và một tiểu đội tiền trạm. Đội tiền trạm phải đi trước xem xét chỗ ông ấy sẽ nghỉ, trung đội bảo vệ với ông ấy đi sau phải bố trí ở quanh ông. Ông Hồ cưỡi con ngựa được đặt tên cao ủy Pháp Bolaert chỉ đi từng bước, không bao giờ phi nước kiệu hay nước đại, phải từ hai ngày rưỡi tới ba ngày mới tới được Đồng Bẩm. Cái version ông ấy bịt râu xem đấu khó tin lắm. Đám bảo vệ bao quanh ông lúc nào cũng lom lom nhìn vào mặt từng người đứng gần ông trong đám đông, chẳng giấu được ai, thể nào người ta cũng nhìn ra, không ngay lập tức, thì sau đó, không người này thì người kia. Tác giả Đèn Cù là người duy nhất ghi lại tin đồn, ngoài ra tôi không được nghe ở nguồn nào khác. NTTH: - Còn bài báo tố bà Năm ký tên CB thì sao, thưa ông? Vũ Thư Hiên: - Bài đó là của ông Hồ, do chính ông ấy viết. Với việc ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, ông ấy là tội đồ dân tộc. Cần sòng phẳng trong việc này. Tội thì phải gọi là tội. quocvan-bogiaoducxuatban1953-ancobonnoxuong-nguyenthinamcathanhlong Tôi không tin câu chuyện ông Hoàng Tùng viết trong hồi ký rằng ông Hồ không muốn xử chết bà Năm, nói: “Không nên đánh người đàn bà dù bằng một cành hoa”. Nếu ông Hồ cương quyết chống lại việc làm ác độc ấy, chắc chắn nó không thể xảy ra. Nhưng ông đã buông xuôi, theo ý Trường Chinh “cần mở màn cải cách ruộng đất bằng một bản án mạnh”. Ở đây có một cái gì đó khó giải thích, một nghịch lý cùng tồn tại trong một con người chăng? Những gì tôi thấy ở ông Hồ trong những dịp gần ông, quan sát ông, tôi không có cảm giác ông một người ác, nói cách khác không mang bản tính ác. Hẹp hòi thì có, chấp nhặt cũng có. Thấy cán bộ dùng xà phòng thơm, ông bĩu môi khinh bỉ, nhưng chỉ thế thôi, không phê phán nặng lời, không kỷ luật. Có lần ông sai thư ký Vũ Kỳ gọi tôi đi dịch cho ông nói chuyện với chuyên gia Liên Xô ở nhà máy điện Vinh, tôi thoái thác, tôi kêu tôi đau đầu, để không đi. Thế rồi khi bắt quả tang tôi không chịu làm việc cho ông để đi chơi với bạn gái, ông cũng chẳng nói gì. Tôi nghĩ, ông ấy, cũng như nhiều người khác ở cương vị lớn mà tôi biết, nhúng tay vào tội ác mà không hề áy náy, nhờ ẩn nấp dưới chiêu bài ý thức tổ chức. Đảng đã quyết, thì ta làm, đảng bao giờ cũng sáng suốt. Người bản tính không ác vẫn an nhiên làm những việc ác là thường tình. Họ bịt miệng lương tâm bằng sự biện minh rằng họ làm ác chẳng qua để thực hiện thiện. Ở những nước xưng chuyên chính vô sản hiện tượng này xảy ra nhiều lắm lắm, chẳng cần phải dẫn chứng. hochiminhkhoc NTTH: - Danh sách những người bị đấu tố và bị giết trong cải cách ruộng đất có được đưa lên cho ông Hồ duyệt không? Vũ Thư Hiên: - Làm gì phải đến ông Hồ? Mạng người trong cải cách ruộng đất chẳng là cái gì hết. Tất cả những người bị đấu tố, rồi bị lên án tử, chỉ đưa lên đến Đoàn uỷ là hết. Bí thư Đoàn ủy ký xong thì đem bắn. NTTH: - Đoàn uỷ là cái gì, ở đâu? Vũ Thư Hiên: - Dưới ủy ban cải cách ruộng đất là các Đoàn ủy cải cách ruộng đất. Nó là một tổ chức thi hành cải cách ruộng đất. Một tỉnh lớn có thể có hai Đoàn uỷ, tỉnh nhỏ một Đoàn uỷ. Dưới Đoàn ủy là các Đội. Các đội đi đến các làng, sống cùng với nông dân, làm các công việc được gọi là thăm nghèo, hỏi khổ, bắt rễ, xâu chuỗi để làm công việc cuối cùng là đấu tố địa chủ (với các thứ cường hào, ác bá, và các thứ đảng phái phản động khác luôn thể), chia quả thực (các thứ thu được), chia ruộng đất. Để hiểu hết từ ngữ chuyên biệt của thời kỳ này cần phải đọc các sách viết về cải cách ruộng đất, chúng hoàn toàn khó hiểu với người không sống trong thời kỳ đó. NTTH: - Như vậy phải chăng trong việc bổ nhiệm cán bộ sau năm 1946 ông Hồ không thực sự có quyền ? (Còn tiếp) Paris, tháng 4 năm 2017 Vũ Thư Hiên - Nguyễn Thị Từ Huy Nguồn Blog Nguyễn Thị Từ Huy
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 9:12:11 GMT 9
Phỏng vấn Vũ Thư Hiên (phần 3)hung-viet.org/p34a24062/phong-van-vu-thu-hien-phan-3-Nguyễn Thị Từ HuyVũ Thư Hiên www.rfavietnam.com/node/3839Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH): - Như vậy trong việc bổ nhiệm cán bộ sau năm 1946 ông Hồ không thực sự có quyền ? Vũ Thư Hiên: - Ông Hồ Chí Minh không còn bao nhiêu quyền lực như năm 1946, bắt đầu sớm hơn, nó ít dần từ năm 1947 kia, khi chính phủ rời Hà Nội lên Việt Bắc, theo cha tôi. Chủ tịch phủ thời kháng chiến đóng ở Thác Dẫng huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) hầu như rất ít công việc. Tôi có thời gian ở đấy, khoảng độ nửa năm. Tôi và anh Phạm Sĩ Liêm (sau làm phó chủ tịch Hà Nội) cùng làm việc ở đó như một thứ nhân viên văn phòng, làm cả việc chép sách kinh điển mác-xít, cả việc chạy công văn khi hai cậu liên lạc tên Bính và Phoóng, người Tầy, lên cơn sốt rét. Quan sát công việc của Chủ tịch phủ lúc bấy giờ tôi thấy nó giống một cái cơ quan hành chính rỗi việc. Các sắc lệnh do bên đảng quyết, các cán bộ chủ tịch phủ soạn văn bản, ông Hồ Chí Minh ký. Phủ chủ tịch không phải, không hề giống cơ quan chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Nói nó là đại bản doanh của chính phủ kháng chiến như người ta miêu tả là nói quá. Những quyết định quan trọng cho cuộc kháng chiến là ở những cuộc họp, chúng diễn ra không phải ở một nơi nhất định, chắc chắn không ở thác Dẫng. Chủ tịch phủ không phải là nơi điều khiển công việc điều hành đất nước. Tất cả các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đóng trong một khu an toàn (gọi tắt là ATK) , có một trung đoàn bảo vệ, lấy bí danh là tiểu đội Thanh Sơn. Có thể nói sự xa cách về địa lý giữa các cơ quan cũng làm cho ông Hồ dần mất quyền quyết định trong mọi việc. Nơi ông Hồ ở là Núi Hồng cách thác Dẫng không xa. Ông thường chỉ ra thác Dẫng khi tiếp khách. Mọi cơ quan đều mang bí danh: Chủ tịch phủ là ban Kiểm tra 12, Bộ nội vụ là Tiểu đội 1. Bộ Thông tin Tuyên truyền là Ban canh nông xã Công bằng. Nha công an Việt Nam là Ông Cả Nhã hiệu Việt Yên. Các cơ quan đều ở cách nhau khá xa, gần nhất cũng năm bảy cây số đường rừng. Liên lạc giữa các cơ quan đều dùng người chạy công văn, không có điện thoại dây hoặc phương tiện khác. Ngay giữa chủ tịch phủ và nơi ông Hồ ở cũng liên lạc bằng công văn chạy bộ. Lúc bấy giờ Hồ Chí Minh không còn nhiều người ở bên cạnh như khi ở Hà Nội. Trong tình hình ấy vai trò của ông Trường Chinh khác trước rất nhiều. Vì sao? Vì tất cả các tỉnh uỷ, tức là hệ thống đảng, là do Trường Chinh nắm, mà nguyên tắc đảng lãnh đạo thì cả hệ thống hành chính đều tùy thuộc vào nó (đảng). Sự chỉ huy này không nằm ở chủ tịch phủ. Một thí dụ: Trung Quốc nhiều lần nhắc nhở, mà nhắc nhở ông Trường Chinh, chứ cũng không cần nhắc nhở ông Hồ Chí Minh, rằng để một người do đế quốc đào tạo làm Bộ trưởng Bộ công an là không được. Bên Trung Quốc không làm như thế. Ông Hồ có hỏi cha tôi nghĩ sao về việc thay ông Lê Giản bằng Trần Quốc Hoàn. Cha tôi trả lời : “Anh Hoàn ở tù cùng với tôi ở Sơn La. Người này không có học. Bộ này cần người có học”. Chuyện Trần Quốc Hoàn là người thế nào tôi có viết trong hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày”. Vì ăn cắp chữ chì có hàm lượng antimoine cao của nhà in IDEO để bán cho các lò đúc gang, Trần Quốc Hoàn bị bắt. Trong tù, Hoàn được mấy ông cộng sản thương tình khuyên là nên khai lấy chữ chì cho đoàn thể để in truyền đơn, thì sẽ được xem là tù chính trị, sẽ không bị đánh đập như tù hình sự. Thế là Trần Quốc Hoàn trở thành tù chính trị. Lúc đó Lê Đức Thọ cũng ở Sơn La. Lê Đức Thọ lấy em vợ của ông Đặng Châu Tuệ, một cán bộ cách mạng lão thành, bà này có một cửa hàng sách ở Nam Định, hằng tháng gửi cho chồng 5 piastres (năm đồng bạc Đông Dương), trong khi giá gạo chưa tới 2 piastres một tạ. Lê Đức Thọ chỉ cần thuê Trần Quốc Hoàn chừng 5 hào (50 centimes) là đủ để Trần Quốc Hoàn vui vẻ phục dịch Thọ mọi việc hàng ngày. Sau này người hầu mẫn cán được Lê Đức Thọ nhớ đến, đưa lên làm Bộ trưởng Bộ công an. - Nhưng nếu nói là Hồ Chí Minh không có thực quyền thì công lao của ông Hồ đối với hai cuộc kháng chiến nằm ở đâu ? - Nằm ở hình ảnh ông ấy, được ngành tuyên truyền dày công dựng nên. Ông được thánh hoá trong sự sùng bái, cứ như thể ông là người lãnh đạo trong mọi việc. Trong thực tế, công việc chỉ huy (tôi không muốn dùng chữ lãnh đạo với ý nghĩa người có được sự đồng thuận của nhân dân coi là người chỉ đường cho mình) nằm trong tay Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, (về danh nghĩa thì có cả Phạm Văn Đồng, nhưng ông này chẳng quyết định việc gì), tiếp đến là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. Căn cứ vào một bằng chứng duy nhất được nhiều người biết thì đến năm 1964 ông Hồ mới thực sự bị loại khỏi hệ thống quyền lực. Bằng chứng ấy là:trong một cuộc họp với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên vào năm này, Tố Hữu đã nói: “Ông Cụ lẫn cẫn rồi. Bây giờ mọi việc do anh Ba và chúng tôi đảm nhiệm”. Mà Tố Hữu, uỷ viên Ban Bí thư trung ương đảng, có thể coi như người phát ngôn chính thức của ban lãnh đạo đảng. NTTH: -Vấn đề là tại sao bộ máy quyền lực phải tuyên truyền cho ông Hồ ? Tại sao trong kháng chiến chống Pháp ông Trường Chinh không làm một chiến dịch tuyên truyền hình ảnh của mình ? Vũ Thư Hiên: - Trường Chinh có muốn thế cũng không được. Trong đảng lúc ấy còn rất nhiều người tính về thâm niên cách mạng còn hơn Trường Chinh. Họ không dễ tán đồng một sự sùng bái như thế. Vào giai đoạn năm 45-46 ông Hồ đã là một ngôi sao sáng rồi, sáng đến mức không thể dập tắt được, để có thể thay thế bằng một ngôi sao khác. Ông Hồ được tuyên truyền rộng rãi như một người suốt đời tận tuỵ với dân tộc, không ham hố quyền lực cũng như danh vọng. Trường Chinh không thể nào sánh bằng. Người ta chỉ có thể tuyên truyền cho vai trò Trường Chinh bằng cách phát hành lẫn vào chân dung các lãnh tụ cộng sản quốc tế: Marx, Engels, Lenin, Stalin, với Hồ Chí Minh và Trường Chinh được treo ở vị trí thấp hơn. Những chân dung màu đẹp đẽ được in ở bên Tàu, bằng giấy tốt, được phát không cho dân chúng, được trang trọng treo ở các nhà bên trên cái gọi là ban thờ tổ quốc. Tôi cho rằng trong một bối cảnh như thế ông Hồ cũng chẳng cần đến quyền lực, nó chẳng để làm gì, một khi ông đã được đàn em bê lên bệ thờ, được mê mẩn trong khói hương với những bản tụng ca không lúc nào tắt tiếng ở bên dưới. NTTH: - Một câu hỏi ngoài lề: trong sinh hoạt, ông Hồ Chí Minh là người thế nào? Vũ Thư Hiên: hochiminhhutthuocTheo tôi biết, mà biết chắc, về chuyện ăn uống, ông là người rất giản dị, có thể dùng chữ “đạm bạc”. Trong kháng chiến chống Pháp, mọi thứ đều thiếu. Mọi người chiều ông, rất quan tâm bữa ăn cho ông, ông muốn ăn gì chẳng được, nhưng tôi biết, ông không hề đòi hỏi. Bữa ăn của ông thường chỉ có rau dưa, vài khúc cá kho mặn (người Nghệ mà). Người ta chiều ông đến nỗi khi nghe ông nói thèm cà Nghệ, thế là cà Nghệ được chuyển từ Nghệ An, qua bao nhiêu tỉnh, qua cả vùng địch chiếm, để mang tới Việt Bắc quả cà còn tươi nguyên. Đó là lòng dân, là chuyện có thật, chính tôi được ăn ké món cà muối xổi. Trong ông Hồ, theo tôi thấy, bằng mắt mình, có một anh nông dân thâm căn cố đế. Tôi nhớ những lần ông ra thác Dẫng, anh Phạm Sĩ Liêm khoe bí đỏ đậu nhiều lắm, thế là ông tức tốc ra vườn cùng anh Liêm kiếm cái lót dưới quả bí non để nó không bị thối, còn tôi thì có thể lợi dụng thời gian đó ung dung xoáy của ông vài điếu thuốc lá cho hai đứa. Phải rất nông dân thật thà mới nói thế này với ông bà Trần Duy Hưng: “Cô chú đông các cháu, hằng tháng cho các cháu lên ăn với tôi một vài bữa". Lời kể của ông Trần Duy Nghĩa, con bác sĩ Trần Duy Hưng, cho tôi thấy thêm một lần chất nông dân của ông, khi đứa trẻ Trần Duy Nghĩa vô ý làm vãi vài hạt cơm trong bữa ăn với ông Hồ. “Cháu phải biết: cái này là của ngọc thực, nông dân phải làm lụng một nắng hai sương mới ra được hạt gạo, cháu nhặt lên mà ăn nhá!” – ông nhẹ nhàng bảo. Đức tính tiết kiệm của ông được nói đến nhiều, được ca ngợi nhiều, nó cũng là sự thật. Bên cạnh sự thật ấy có một sự thật khác. Ông Hồ không thể bỏ thói quen nghiện thuốc lá ngoại. Thuốc lá ngoại thời kháng chiến rất đắt, phải mua ở các chợ giáp ranh giữa vùng giải phóng và vùng tạm chiếm, tiền mua vài bao thuốc có thể nuôi sống một gia đình nông dân đông con một tháng. Ông nghiện thuốc lá Mỹ: Craven A, Phillips Morris, State Express 555, đôi khi là Camel, không bao giờ ông hút thuốc lá Pháp như Bastos, Melia, Cotab. Tôi không biết nếu người ta không chiều ông, lo thuốc lá Mỹ cho ông hút thì tình hình sẽ ra sao? Ông có hút thuốc sừng bò như bộ đội không? Người ta đã chiều, và tôi nghĩ chiều thế cũng phải thôi, ông dù sao cũng là chủ tịch một nước, mà ông không có đòi hỏi gì hơn. Tôi có đọc một hồi ký buồn cười khi thấy tác giả viết rằng người ta dùng một đại đội biệt động áp tải cả tạ thuốc lá từ Hà Nội ra cho ông Hồ hút. Cứ như thể ông ấy hút mỗi ngày vài tút, và thuốc lá dự trữ không bao giờ bị mốc. Còn chuyện khi về Hà Nội ông có đầu bếp riêng, ông thích ăn ngon, với những món ăn khó kiếm như gà Quảng Châu vv…, tôi không được biết, thời kỳ này tôi không còn có dịp gặp ông, được ăn cùng ông để biết bữa ăn của ông thế nào, nhưng tôi tin những bài viết ấy là thực. Cái gọi là tiêu chuẩn cho “lãnh tụ”, nó còn hơn suất “đặc táo” trong kháng chiến rất nhiều. Các ông “lãnh tụ” tự cho mình có quyền được hưởng những thứ mà dân thường không thể hình dung, là chuyện bình thường. Có hẳn một “Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương” lo toan đủ thứ cho các vị được sống sung sướng, sống hạnh phúc cơ mà. Cái gì ta không biết, ta có thể tưởng tượng. Có nhiều người cho rằng trong việc chuyển đổi thể chế từ độc tài cộng sản sang dân chủ phải bắt đầu từ việc giải thiêng hình tượng ông Hồ Chí Minh. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng những cuộc đấu tranh nhằm vào những sai trái của thể chế hiện tại, đấu tranh từng điểm một, tiến lên từng bước một, đưa đấu tranh từ ngoài vào trong, khuyến khích đấu tranh từ trong ra ngoài, mới là cái quan trọng sẽ dẫn tới sự chuyển đổi mong muốn. NTTH: - Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn này. Nguyễn Thị Từ Huy Nguồn Blog Nguyễn Thị Từ Huy *********************************************************************************** Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài LoanPhạm Quế Dương www.geocities.ws/xoathantuong/pqd_denghilamsang.htm?fbclid=IwAR05_c1fjCNigYs9xmGht2iZOEizdE18UQe64ShuM_f7qmA_22UT4x1CH_kGần đây, dư luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách "Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh."(Hồ Chí Minh sinh bình khảo ), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008.Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử. Người dịch ra tiếng Việt Nam là Thái Văn (không biết là người Việt Nam hay Trung Quốc.) Sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng,1931 cụ sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam. Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh. Tác giả Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan và là cháu ruột của Hồ Tập Chương. Sách gồm 6 chương, dày 342 trang khổ 15x21 cm . Nguyên văn lời tựa như sau: "Thay lời tựa Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí Minh" Các nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều đều có những bí mật riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít khi được công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam là một trường hợp điển hình. Cho dù hiện giờ đã là thiên niên kỷ thứ hai, kỹ thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh yên nghỉ trong quan tài thủy tinh tại lăng Ba Đình Hà Nội đã bốn mươi năm, nhưng hoàn cảnh gia đình, lịch trình học tập, khả năng ngôn ngữ, lý tưởng động cơ cách mạng, thực trạng hôn nhân, quá trình hoạt động tại Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện ký tìm mọi cách lắp ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và trình bày một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh. pqd_denghilamsang1.jpg Hai người này là một? Nhà sử học Việt Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học và nhân văn Đại học Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đôc Đại học Thuận Hóa, chủ nhiệm khoa Văn Sử Đại học Sài Gòn, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard Hoa Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đã dày công nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo. Trong tác phẩm "Con đường chính trị của Hồ Chí Minh", Nguyễn giáo sư từng nói: "Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông đã mất từ lâu, nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn trong cuộc đời nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu quá khứ và những hoạt động của mình, cố ý xóa sạch các dấu vết, vì thế, mọi cố gắng tìm hiểu những chi tiết chân thực trong cuộc đời hoạt động của ông chẳng khác gì đứng trong đám mây mù vần vụ mà thưởng hoa vậy. Vì thế, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh có đến 3 cái tên giả, tự mình kể chuyện về mình đầy tràn sắc thái thần bí với nhiều sự hàm hồ, vô vàn tình tiết nghi hoặc, chẳng những không thể phân tích rõ ràng, mà còn bỗng nhiên tự tâng bốc mình với mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp chính trị hoặc là một thánh nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đã trường kỳ nghiên cứu, nỗ lực bóc gỡ dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí Mịnh bị biến dạng hoặc bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện ký, chỉ có điều là vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt." Nhà sử học Hoa Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả trác việt chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William J. Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đã được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa Kỳ tài trợ. William J. Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga và Việt, đã vào đọc hầu hết các thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu và châu Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với các quan chức chính quyền Việt Nam sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, và đã tìm được những tài liệu quý hiếm. Vào năm 2000, William J. Duiker hoàn thành tác phẩm "Truyện Hồ Chí Minh", xuất bản bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy nhiên chính ông cũng phải thừa nhận, không thể nào tìm được những tài liệu ở cơ quan đầu não, bởi luôn có sự ngăn cản việc tìm ra sự thật. William J. Duiker nói: "Những tài liệu nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người Việt Nam và người nước ngoài thâm nhập tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng như vậy, ta không thể tìm những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi để lộ những thông tin thuộc loại này." Học giả Anh Quốc Sophie Quinn- Judge cũng là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại học London tài trợ. Bà đã đến Việt Nam, các nước Đông Nam Á và Nga Xô, tìm được những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và tình báo Pháp làm cơ sở cho công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Năm 2002, Sophie Quinn - Judge đã xuất bản tại London cuốn sách "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941". Trong lời đầu, tác giả nói rõ, lấy "truyền kỳ về con người hai mặt"làm tiêu đề, bởi vì, đối với Hồ Chí Minh còn rất nhiều điều nghi vấn, đặc biệt tiêu đề chương sáu, dùng sự kiện "Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa", coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh, đồng thời đặt dấu hỏi nghi ngờ. pqd_denghilamsang2.jpg Vì ông Hồ Chí Minh cố tình che giấu tung tích của mình đã đưa đến nghi vấn ông có phải Hồ Tập Chương người Đài Loan hay không. Trong phần giới thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn-Judge viết: "Hồ Chí Minh tìm mọi cách để giấu đi quá khứ của mình. Nhiều năm qua, những thứ mà ông đã cung cấp toàn là loại "dật sự", thường là mâu thuẫn nhau, không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950, được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan đề "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". Qua cuốn sách, người đọc biết rất rõ là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét, "Truyện Hồ Chí Minh", bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung văn, "Ba Nguyên thư ốc"Thượng Hải xuất bản năm 1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên là "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội). Năm 1962, nhà Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí Minh, có hỏi đến những chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả lời: "Các ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho mình một chút thần bí. Tôi cũng bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có thể hiểu được". Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay không, nhưng William J.Duiker trong cuốn sách nổi tiếng "Truyện Hồ Chí Minh"đã viết: "Không khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh luôn luôn được duy trì, chí ít ra là trong các tác phẩm tự truyện như thế này". Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan? Vì sao cho đến lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra những bí mật của mình? Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người đời biết bao câu hỏi nghi ngờ? Vì sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương Cảng), Mỹ... đến nay từng bước đã được giải mật, vậy mà nhà nước Việt Nam, Trung Quốc và Nga vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong hòm kín? Các chuyên gia, học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất rõ, trong hồ sơ giản lược về cuộc đời ông, trước sau đều phát sinh mâu thuẫn, nhưng không biết làm cách nào tìm được cách giải thích hợp lý. Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng thú cho người ta bỏ nhiều thời gian, công sức tìm tòi tư liệu để viết về thân thế Hồ Chí Minh. Việc này cũng giải thích vì sao, giới lãnh đạo cao cấp Việt cộng, Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô vẽ hoặc ngụy tạo. Nhiều năm trước, một người bạn thương gia Đài Loan đã nói với tôi: "Hồ Chí Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?". Tin đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đã hai lần tôi trực tiếp nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn khởi. Đây phải chăng là dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được giải mật? Có một người họ Hồ, nhân viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc dân tộc Khách Gia Quảng Đông, sinh vào năm Dân Quốc thứ năm mươi, trong dịp về tế tổ họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi: "Hồ Chí Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người Miêu Lật?"Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể". Thời gian gần đây tôi đã hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật. Từ Việt Nam, tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh quán ở Miêu Lật, Đồng La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng bỗng nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là người Đài Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong ký ức gia tộc họ Hồ ở Miêu lật, Đồng La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông Trời, vấn đề là, chưa tìm được chứng cứ đủ sức thuyết phục mà thôi. Trước đây ít năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn sách "Giải nghĩa 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh". Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau: 1 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1890 - 1932) là Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam. 2 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương của Đài Loan. Nói cách khác, truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt nam Hồ Chí Minh, nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có quá trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đạt được những thành tựu trong cuộc đời hoạt động. Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là đại biểu Quốc tế cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix, bí thư Công hội Thái Bình Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau khi truy vấn, cảnh sát đã bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng. Không may, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường trốn chạy từ Hương Cảng đến Thượng Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời. Mùa hè năm 1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng Hải, được Cục Viễn Đông phái đến làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương". Cũng bởi có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn đến Quảng Châu rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu năm 1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc này, chủ quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva đặt kế hoạch cho Hồ Tập Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái Quốc, nhằm phủ định sự thật Nguyễn Ái Quốc đã chết, thay thế ông này, bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch truyền kỳ Hồ Chí Minh "thật giả kiếp người". pqd_denghilamsang3.jpg Ông này là ai? Hồ Chí Minh hay Hồ Tập Chương người Đài Loan? Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sững sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm này? Độ tin cậy của thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời gian, không gian và tính logic của vấn đề? Về trình tự làm cuốn sách, trước hết là trình bày việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này hoàn toàn đảm bảo tính khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ một tiên đề giả thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người. Trong quá trình khảo cứu, tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh"như sau: 1 - "Hài kịch tráo rồng đổi phượng"(Nguyễn Ái Quốc chết mà sống lại). 2- "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người"(Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng lên vũ đài lịch sử). 3 -"Cuộc sống lưu vong phiêu bạt"(Hồ Chí Minh ở Liên Xô và Trung Quốc). 4- "Khúc bi ca về tình yêu và hôn nhân"(Sự thật về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh). 5 - "Nhật ký trong tù và Di chúc"(Làm rõ khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh). Từ cách nhìn lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng sản giao phó, rất mong được các chuyên gia học giả cùng bạn đọc chỉ giáo. Thời đại internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất rộng rãi. Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng trực tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn… Một số người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, "đổi trắng,thay đen." Một số người thì bảo chuyện này cũng đã được nghe từ lâu. Và tin lời tác giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp, chỉ cử 2 cán bộ cao cấp tiếp. Bản thân tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đã 45 năm là "Lính Bác Hồ.", "Bộ đội Bác Hồ." Khi làm Tổng biên tập báo Phòng Không-Không Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng và trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ Tịch và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài Gòn đến Cảng Nhà Rồng thăm nơi "Bác Hồ đi tìm đường cứu nước.". Nhiều lần vào lăng viếng Bác. Kính mong nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học lịch sử làm rõ sự thật vụ việc này. Nếu tác gỉả bịa đặt thì đưa ra tòa án quốc tế xét xử, làm rõ sự thật. Ngày 25/8/2013 Phạm Quế Dương Đ/C: 37 – Lý Nam Đế - Hà Nội ĐT: 627 00002 Nguồn: Tập san TỔ QUỐC số 164 Đọc thêm: Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh: "Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi", 2013 Nguyễn Duy Chính, Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, 2008. Thiên Ðức, Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh, 2009 Vũ Thư Hiên, 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh, 2013 Vũ Quang Hiển, VN 'thiếu tư liệu về Hồ Chí Minh', 2013 Nhóm Hành Khất, Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình Khảo", 2013 Tạ Nhất Linh, Bàn về Hồ Chí Minh - Hồ Tập Chương, 2013 Thiên Nam, Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền VN, 2011 Trần Bình Nam, Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: một hay hai người? 2013 Bùi Tín, Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt, 2009 Đặng Huy Văn, Tôi không tin Hồ Chí Minh, Hồ Tập Chương là một!, 2013. Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh sinh bình khảo, 2008
|
|
|
Post by Huu Le on Apr 28, 2020 9:20:45 GMT 9
Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của một cựu phiên dịch thân cậnwww.voatiengviet.com/a/ho-chi-minh-bac-kinh-trung-quoc-viet-nam/3985105.htmlLê Anh Hùng Hồ Chí Minh là một nhân vật gây rất nhiều tranh cãi không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giã từ trần thế, song hình ảnh của ông vẫn phủ bóng lên gần như mọi sinh hoạt chính trị quan trọng trên dải đất hình chữ S, đồng thời in đậm trong tâm trí hàng triệu người dân Việt. Chừng đó đủ cho thấy việc mô tả chân dung nhân vật lịch sử này nhạy cảm và dễ đụng chạm đến thế nào.
Tuy nhiên, khi thời gian càng lùi xa thì người ta càng có cơ hội để hình dung ra bức tranh nhân cách đầy đủ của ông từ những góc nhìn đa chiều. Dưới đây là hình ảnh ông Hồ Chí Minh qua con mắt một người từng là phiên dịch thân cận, qua cuộc trao đổi của tác giả với ông vào ngày 31/7 vừa qua.
Đại tá Đoàn Sự nguyên là phiên dịch Tiếng Trung trong đại bản doanh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ. Năm 1955, khi đang dạy Tiếng Trung cho Thiếu tướng Trần Quý Hai, Phó Tổng tham mưu trưởng, ông được điều sang Trung Quốc để làm phiên dịch cho một nhóm cán bộ quân đội cao cấp đang học tại một trường quân sự ở Nam Kinh, do Thượng tướng Tống Nhiệm Cùng (cựu Phó Tổng Tư lệnh Chí nguyện quân tại Triều Tiên, về sau là Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương) làm hiệu trưởng. Khóa học gồm chừng 20 người, với những tên tuổi như Vương Thừa Vũ, Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo…
Vài tháng sau, Đại sứ Hoàng Văn Hoan đến thăm Hiệu trưởng Tống Nhiệm Cùng thì gặp người em trai của Đại tá Lê Trọng Nghĩa (tên thật là Đoàn Xuân Tín, Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng, Cục trưởng Cục Quân báo, trợ tá thân cận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Viên Đại sứ liền điều ông về Bắc Kinh tăng cường cho phòng quân sự của Đại Sứ Quán (ĐSQ - lúc đó mới chỉ có 2 người và còn thiếu kinh nghiệm). Ông được giao nhiệm vụ làm bí thư thứ ba và trợ lý cho tuỳ viên quân sự ĐSQ, và ở đấy cho đến đầu năm 1960 mới về nước.
Lúc bấy giờ cả ĐSQ Việt Nam tại Bắc Kinh chỉ có 4 người thành thạo Tiếng Việt và Tiếng Trung (ông về ĐSQ một thời gian thì Đại sứ Hoàng Văn Hoan về nước, ông Nguyễn Khang sang thay): Phó Đại sứ Phạm Bình; một người Trung Quốc; ông Đặng Nghiêm Hoành, người về sau trở thành Đại sứ tại Trung Quốc từ 1989-1997; và ông Đoàn Sự. Ông Phạm Bình là Phó Đại sứ nên làm phiên dịch không tiện; ông người Trung Quốc cũng vậy; ông Đặng Nghiêm Hoành thì chưa phải đảng viên. Vì thế, ĐSQ quy định là những việc gì liên quan đến đảng (nhất là những chuyện cơ mật) thì ông Đoàn Sự được giao nhiệm vụ làm phiên dịch. Vậy nên mỗi khi ông HCM sang Trung Quốc thì ông Đoàn Sự lại đi theo.
Ông Đoàn Sự (hàng đầu bên phải) và Hồ Chí Minh tại Bắc Kinh năm 1957. Ảnh do Đại tá Đoàn Sự cung cấp.
“Đi theo nhưng thực ra mình có làm cái gì đâu. Ông Cụ nói thẳng chứ có cần gì… Ông Cụ cứ thoăn thoắt sang luôn…”
Nhiệm vụ chủ yếu của ông Đoàn Sự vì thế là để theo dõi xem các vị lãnh đạo trao đổi với nhau những gì, có gì quên không ghi lại hay không; và để nhắc nhở lãnh tụ trong trường hợp ông đang nói chuyện với nhiều người mà với vị thế nguyên thủ quốc gia, ông không nên nói Tiếng Trung.
Bấy giờ Liên Xô tặng cho Việt Nam 1 chiếc máy bay IL-18 (họ còn tặng cho Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai mỗi người 1 chiếc). Do Việt Nam chưa có người lái cũng như chỗ chứa máy bay nên chiếc IL-18 này được gửi lại Bắc Kinh. Khi nào ông Hồ cần sang Trung Quốc thì viên phi công người Trung Quốc sẽ bay từ Bắc Kinh sang Hà Nội để đón ông. Ông Đoàn Sự vì thế cũng thường xuyên đi đi về về giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
“[…] Lần này… khoảng tháng Sáu, tháng Bảy gì đấy, Bác đi Liên Xô dự hội nghị 61 đảng về [Bắc Kinh]. Bác vào thăm ông Mao Trạch Đông. Ông ấy bảo: ‘Này, tôi trông anh sắc thái không được khoẻ. Ở lại đây nghỉ một thời gian. Anh về bây giờ công việc bận rồi ốm đấy.’ Cụ Hồ thì rất nể. Người khác mà nói [thế] là không được với Cụ đâu. Cụ nói thế này: ‘Vâng. Tôi xin chấp hành chỉ thị của Chủ tịch.’ Thế là ông ở lại…”
“Sống với ông Cụ thì thấy vinh dự, nhưng mà rất khó sống… vì ông Cụ khó tính lắm, chứ không phải dễ đâu. Cụ chỉ dễ tính với mấy bà phụ nữ thôi… muốn cái gì cho cái đó, rất là thân thiết… Còn mấy ông con trai, nhất là mấy ông có tuổi đến, là Cụ mắng cho sa sả đấy…”
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Tư tưởng Hồ Chí Minh là đa nguyên đa đảng. Lúc đầu, năm 1945, Cụ cho thành lập Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội. Ngoài ra còn có Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Năm đảng cơ mà…”
“Cụ bảo, lúc nào trong con người ta cũng có cái nhân và cái nghĩa, có cái thiện và cái ác. Có người cái thiện nhiều, cái ác ít. Nhưng người nào cũng có cả. Cho nên phải làm thế nào để giảm bớt cái ác, phát huy cái thiện của người ta. Đừng quan niệm rằng đã là kẻ thù là xấu…”
“Thực ra ban đầu Cụ về, Cụ rất muốn đi theo con đường quan hệ với Mỹ đấy… Tôi còn có tài liệu về việc Cụ gửi cành đào cho ông Ngô Đình Diệm. Chính Cụ rất muốn lợi dụng chuyện đó… Xẩy ra cuộc chiến tranh Việt - Pháp là Cụ đã hết sức nhân nhượng rồi, nhưng vì rằng tình thế lúc đó, cộng với các nước cộng sản đã muốn rằng đây là một chiến trường để thử thách. Do đó buộc ta phải nhảy vào chiến tranh. Trong chiến tranh, về sau này, khi trận Điện Biên Phủ xong rồi… chuyển sang thời kỳ đánh Mỹ. Quan điểm của Cụ về chuyện đó là khác. Cụ rất muốn để cuộc chiến tranh ấy cố gắng giữ ở mức độ nào đó để Mỹ không vào được. Nhưng mà các ông nhà ta cứ làm…”
“Khi thành lập nước, Cụ Hồ cho giải tán trường luật. Điều đó là không được, vì lúc đó Cụ quan niệm trường luật là theo luật pháp của đế quốc, cho nên Cụ giải tán. Chính ra là phải bảo vệ trường luật để sau này xây dựng hệ thống pháp luật.”
Ông Đoàn Sự vừa sang Quảng Châu từ ngày 30/5 - 9/6, thăm di tích trụ sở Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Ông tìm ông Hoàng Tranh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, người từng viết một cuốn sách về bà Tăng Tuyết Minh, nhưng không gặp. Năm 1955, ông từng đến thăm bà Tăng Tuyết Minh. Lần này ông đến thì bà đã mất (từ năm 1961). Người ta nói là phần mộ của bà không có, vì khi mất, bà yêu cầu thiêu xác và thả tro xuống dòng sông Hồng.
“Cụ Hồ có bao nhiêu vợ thì tôi không lạ gì, nhưng trong số những người quan hệ với Cụ thì chỉ có bà Tăng Tuyết Minh là có làm lễ thành hôn rõ ràng…”
Khoảng năm 1955-1956, Hồ Chí Minh gặp Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông Đào Chú. Trong cuộc gặp đó, Đào Chú muốn đưa bà Tăng Tuyết Minh về với Hồ Chí Minh, nhưng ông Hồ từ chối, nói rằng với vị trí của mình lúc này mà có vợ là người nước ngoài thì sẽ mang tiếng. Ý kiến của Bộ Chính trị là không nên, mà chỉ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ cho bà tồn tại thôi. Bà Tăng Tuyết Minh không lấy ai cả. Khi về hưu bà được hưởng trợ cấp đặc biệt. Năm 1955, ông Đoàn Sự đã cùng Đại sứ Hoàng Văn Hoan bí mật đến thăm bà. Lúc bấy giờ ông Hồ Chí Minh giao cho ĐSQ hàng năm đến thăm và tặng quà cho bà. Ông Hoàng Văn Hoan dặn ông là phải giữ bí mật về chuyến đi, không được nói cho ai biết. (Ông Hồ Chí Minh không gặp lại bà Tăng Tuyết Minh lần nào nữa.)
“… Tôi còn tìm hiểu và biết là Cụ Hồ còn nhiều đám lắm… Nguyễn Thị Minh Khai, kể cả với bà Tống Khánh Linh… Năm 1924 [?] cụ từng sang Vienna, cụ yêu cả bà Tống Khánh Linh đấy. Khi tôi đưa Cụ về Thượng Hải để thăm bà Tống Khánh Linh thì đi chiếc xe mui trần. Lúc bấy giờ bà Tống Khánh Linh là Phó Chủ tịch nước… Hôm đó tháng Sáu, tháng Bảy gì đó… Cụ Hồ ngồi bên cạnh bà Tống Khánh Linh… Giời nắng, ông cụ lấy cái mũ chụp lên đầu bà ấy… Khi về đến chỗ ở của bà Tống Khánh Linh, Cụ Hồ gọi Tống Khánh Linh là “Tống muội”… Bọn tôi mới thầm thì: “Gớm, sao mà đẹp đôi thế!”… Bác Hồ không kể [chuyện tình với bà Khánh Linh], nhưng qua những chuyện đó, rồi qua [việc] ông Vũ Kỳ kể lại những mối tình của Bác… Ông ấy [Vũ Kỳ] kể cả bà Tống Khánh Linh, ông ấy kể cả vợ của ông Hồ Tùng Mậu nữa cơ… vân vân… nhiều lắm… Tại vì thế này này, thời kỳ hoạt động cách mạng, các ông ấy cứ ghép nhau… Cũng như là bà Nguyễn Thị Minh Khai, có dạo sống với Cụ Hồ đấy chứ, mà đăng ký đi học là vợ chồng đấy chứ…”
“Thế nhưng những chuyện đó là bình thường thôi… ta bây giờ cứ xoay vào đó, rồi thì là khoét sâu nó… thực ra chẳng ra gì cả. Khi tôi ở Hàng Châu với Cụ, có hôm thứ Bảy rỗi rãi, tôi mới bảo bà Tống Minh Phương là hỏi xem người yêu của Cụ Hồ có những ai và ở đâu, vì anh Vũ Kỳ cứ bảo rằng ông ấy [HCM] có quyển sổ tay ghi tháng nào thì phải gửi thư cho bà Madam này, Madam kia… Mình mới gạ hỏi… Đang vui vẻ cười thế này. Bà Tống Minh Phương với Cụ Hồ bình thường rất là thân, cho nên bà mới bạo dạn bảo: ‘Bác ơi, Bác kể những mối tình của Bác cho chúng tôi nghe với nào.’ Thế là Cụ nghiêm mặt lại Cụ bảo: ‘Bây giờ có lẽ không còn chuyện gì để moi chuyện tôi nữa nên các cô các chú lại… Kể ra bây giờ thì chưa phải lúc. Nhưng mà thôi, hôm nay tôi cũng nói sơ cho cô chú… Tôi là người, chứ tôi không phải là ông thánh. Tôi có nhu cầu tất cả mọi thứ. Khi ra ngoài tôi ở đâu tôi cũng có người yêu cả. Mà người yêu không phải chỉ là [quan hệ] vớ vẩn, người yêu là phải sống với nhau như vợ chồng đấy. Nhưng mà tôi phải có nghị lực…’ Sau rồi Cụ mới chỉ vào mình…: ‘Khi tôi ở nước ngoài, tôi diện hơn các cô các chú nhiều lắm. Tôi không ăn mặc thế này đâu. Sau này về Trung Quốc rồi, tôi thấy mặc thế này nó tiện hơn. Nó phù hợp với Á Đông hơn…’.”
“Ông Cụ cũng có những cái hóm hỉnh lắm. Thí dụ như hôm tôi đưa Cụ đi đảo Hải Nam về, [chỉ tay lên tường] khi chụp cái ảnh này này. Khi lên bên Châu Giang ở Quảng Châu… [người ta] huy động dân Quảng Châu đông lắm, đứng ở bên sông hoan nghênh. Ô tô từ trên tàu chạy thẳng lên. Cụ ngồi trên xe vẫy tay. Về chỗ nghỉ rồi chúng tôi mới hỏi, ‘Tại sao dân hoan nghênh đông thế nhỉ?’ Cụ bảo, ‘Chú Sự xem tại sao?’ ‘Thưa Bác, vì Bác là bạn thân của ông Mao, bạn thân của ông Lưu Thiếu Kỳ, bạn thân của ông này ông khác... Chứ cháu ở Trung Quốc 8 năm nay rồi, cháu đi rất nhiều nơi rồi, nhưng mà cháu chưa thấy các nguyên thủ quốc gia các nước khác đến các tỉnh người ta hoan nghênh lắm, người ta bình thường thôi, chỉ mấy ông lãnh đạo gặp nhau thôi.’ Thế là Cụ cười, Cụ bảo, ‘Ờ, thế cũng có lý. Nhưng mà này, người ta hoan nghênh chúng ta là người giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, người ta không hoan nghênh chúng ta bởi chúng ta là cộng sản đâu.’ Lúc bấy giờ cách đây 60 năm nhé. Tôi mới thấy lạ quá. Tôi không dám hỏi gì. Tôi im. Sau tôi quay lại tôi hỏi ông Vũ Kỳ, ‘Quái nhỉ. Cụ Hồ 100% là cộng sản mà sao Cụ nói câu gở thế nhỉ?’ Ông Vũ Kỳ vuốt râu bảo, ‘Cái này phải suy nghĩ lâu dài. Ông cụ nói là có hàm ý sâu sắc lắm đấy.’
“60 năm sau, tôi nhớ lại chuyện này. Vừa rồi tôi sang [Trung Quốc] tôi đã đến bến Châu Giang, cái nơi mà tôi đón Cụ Hồ để tôi nhớ lại cái đó, là ngay từ đó Cụ Hồ đã có cái suy nghĩ như vậy. Do đó nên vừa rồi rất nhiều người viết rất nhiều chuyện về Cụ Hồ... thì có cái tôi công nhận [đúng].”
Lê Anh Hùng
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 2:12:04 GMT 9
Sai lầm lớn nhất của họ Hồ01 Tháng Mười Một 2019 hung-viet.org/p34a27222/sai-lam-lon-nhat-cua-ho-hoTrọng Đạt Ai gây nên cảnh hoang tàn?Lê Duẩn nằm xuống đã được 33 năm (tháng 7-1986-tháng 7-2019) sau mấy chục năm trị vì, những năm tháng cầm quyền (1960-1986) của y là những năm chinh chiến máu chẩy thịt rơi, mấy chục năm tang thương đau khổ, hết chống Mỹ lại đến chống Tầu rồi tới chiến tranh với các chế độ Cộng Sản... Nay phía CSVN đưa nhiều sự kiện hoặc nhân vật chính trị lên mạng Wikipedia theo tinh thần Bách khoa toàn thư để phổ biến kiến thức, họ ra vẻ khách quan. Nói về Lê Duẫn họ cũng như nhiều nhà nghiên cứu Tây phương thường ra vẻ trịnh trọng kính cẩn như: “Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư có thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, ông có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Việt Nam, và theo một số nhận định khi Việt Nam thống nhất ông là nhà lãnh đạo có vị trí cao nhất và có ảnh hưởng nhất tại Việt Nam trong những năm tháng tại vị. Ông chính là một trong những kiến trúc sư hàng đầu trong Chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ và các đồng minh kéo dài suốt 20 năm. Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam”. Trên BBC Tiếng Việt (từ ngày 2-5-2006) có đăng một loạt 4 bài tham luận về Lê Duẩn, nội dung cho thấy nhân vật này đã ảnh hưởng rất lớn tới cuộc chiến Việt Nam lần thứ hai (1960-1975). Chắc đây là phiên dịch từ một bài khảo cứu của Tây phương (không tên tác giả, dịch giả) Bài 1- Nhìn lại vai trò của Lê Duẩn (ngày 2-5-2006). Bài 2- Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực (4-2-2006).. Bài 3- Cuộc đấu tranh trong nội bộ (10-5-2006). Bài 4- Một di sản gây tranh cãi (19-5-2006). Trong bài Nhìn lại nhân vật Lê Duẩn có nói: “Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất. Vì nhiều lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa được giải mật, cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết được hết mức độ ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy chục năm qua. Lê Duẩn - Hồ Chí Minh Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam. Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with China", 2001), Lê Duẩn là một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp thỏa hiệp”... Nhiều nhận định nhất là của các nhà học giả, nhà nghiên cứu Tây Phương khi nói về Lê Duẩn đều có một giọng nghiêm túc trịnh trọng làm như nhân vật này là thiên tài. Thật ra sự nghiệp chính trị của Lê Duẩn chỉ là một chuỗi dài may mắn y như chó ngáp phải ruồi, xin kể sơ lược như sau: -Trường Chinh bị ép từ chức vì Cải cách ruộng đất, Lê Duẩn được Hồ chí Minh cất nhấc lên thay, có bầu cử nhưng chỉ là hình thức. -Chủ tịch cất nhắc Duẩn chứ không cất Giáp vì ông này quá nổi, ông Hồ sợ khó điều khiển (theo Trần Khải Thanh Thủy) -Duẩn được tên phụ tá đắc lực Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Đảng cài đặt các nhân vật thân tín của đồng bọn vào các vị trí then chốt. -Năm 1964 bên Nga Khrushchev bị hạ bệ, chấm dứt thời kỳ sống chung hòa bình với Mỹ, chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ cuối 1963, Lê Duẩn thu tóm nhiều quyền lực, đưa nhiều trung đoàn chính qui xâm nhập vào Nam. -Năm 1965 Mỹ đổ quân ồ ạt, Duẩn được Tổng bí Thư mới của Nga Brezhnev viện trợ nhiều vũ khí tối tân, tới thập niên 70 Nga cấp cho BV đại bác, xe tăng, phòng không, tên lửa các loại. -TT Johnson sai lầm trong chiến tranh VN, ông ta áp dụng chiến tranh giới hạn (limited war)) gây lên phong trào phản chiến, tới Tết Mậu Thân 1968 cuộc chiến sụp đổ vì phản chiến lên quá cao, quá nhanh. Sau 1968 số phận Đông Dương đã được quyết định rồi, người Mỹ buộc chính phủ phải rút quân về nước. Địch thảm bại trận Tết Mậu Thân, năm 1968 ta đánh thắng một trận lớn nhưng thua cuộc chiến Tháng 8-1965 tỷ lệ ủng hộ 61%, tháng 3-1968 – là 41%, tháng 8-1968 – còn . .. 35% (1) -Năm 1969, Nixon đắc cử Tổng thống, đem quân về nước như đã hứa khi tranh cử. Cuộc chiến dưới thời Nixon được sử gia George Moss gọi là A War To End A War, đánh để chấm dứt chiến tranh tức đánh để rút bỏ (2) Nước Mỹ chia rẽ trầm trọng, đảng Dân Chủ hùa theo phản chiến, theo truyền thông để phá Hành pháp Nixon. Kissinger kể lại trong hồi ký... (3) “Sau khi Nixon vào Tòa Bạch Ốc (1969), những người đã đem quân can thiệp vào VN (tức Dân chủ), mới đầu trung lập (giữa phản chiến và Hành pháp) sau quay ra chống chính phủ, họ buộc Nixon phải chịu trách nhiệm với cuộc chiến tranh mà ông chỉ thừa hưởng, họ nói ông phải làm thế này thế nọ mà chính họ khi cầm quyền lại không chịu giải quyết”. Nguyên văn: ..“And after Nixon toke office those who has created our involvement in Vietnam moved first to neutrality and then to opposition, saddling Nixon with responsibility for a war he had inherited and attacking him in the name of solutions they themselves had neither advocated nor executed when they had the opportunity”... Thật vậy đảng Con Lừa chỉ chuyên trò đánh phá, thọc gậy bánh xe dọn cỗ sẵn cho địch xơi, chính họ đã đem quân vào Đông Dương năm 1965, họ sai lầm trầm trọng và sa lầy trong cuộc chiến bây giờ lại đánh phá đối lập làm lợi cho địch, giặc từ bên trong đánh ra. Phong trào phản chiến lên cao dữ dội... bạo động, đổ máu, chết người. (4) TT Nixon giúp VNCH đánh sang Miên (29-4-1970 tới 22-7-1970) Lào để làm suy yếu địch nhưng gây ra phản chiến mạnh hơn thời TT Johnson. Người dân quá chán cuộc chiến muốn vứt bỏ Đông Dương. Lê Duẩn chỉ có ngón đòn thí quân là lợi hại nhất, năm 1968 Võ Nguyên Giáp trả lời ký giả Ý Oriana Fallaci rằng CSBV mất hơn nửa triệu quân. Trong trận Tổng tấn công 1972 Duẩn đã đẩy hàng trăm ngàn thanh niên vào chỗ chết, nhờ phản chiến nên CSBV bất chiến tự nhiên thành. Nếu không có phản chiến dù Lê Duẩn có đẩy thêm hàng triệu thanh niên vào tử địa cũng chỉ làm mồi cho pháo đài bay B-52 mà thôi. Tất cả những cái may trời cho của Lê Duẩn giúp cho y tác yêu tác quái một phần tư thế kỷ, Duẩn càng nhiều may chừng nào thì đất nước càng điêu linh khốn khổ chừng nấy. Y đã gây cuộc chiến cốt nhục tương tàn, núi xương sông máu. Hết chống Mỹ Lê Duẩn lại đẩy hàng vạn thanh niên đổ xương máu sang Miên 1978, rồi bắt nhân dân chết như rạ tại biên giới Việt-Hoa 1979. Miền Nam cũng như miền Bắc đâu đâu cũng toàn là cảnh hoang tàn đổ nát, cho tới 1986 khi Duẩn chết, CSVN cử Nguyễn Văn Linh lên làm Tân Tổng bí Thư với chính sách Đổi mới. Các nhà nghiên cứu Tây phương nói năm 1986 trở đi đã đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ lãnh đạo kiểu Staline. Rạn nứt thành hai pheGiáo sư Pierre Asselin Đại học Chaminade, Honolulu, nhận định Bộ chính trị CSVN những năm 1956, 57 miễn cưỡng chấp thuận cuộc chiến tại miền Nam của Duẩn. Họ e ngại sau 1954 Cải cách ruộng đất đã trở nên tàn bạo mất lòng dân, vả lại quân đội Bắc Việt chưa hồi phục sau tám năm khói lửa (1946-54). Hà Nội không muốn khiêu khích để Mỹ can thiệp nhất là năm 1956 CS Nga chấp nhận chủ trương sống chung hòa bình với Mỹ của Thủ tướng Khrushchev. Pierre Asselin trong bài “Tướng Giáp-Người phản đối chiến tranh” đăng trên BBC Tiếng Việt ngày 28-10-2013 cho rằng Tướng Giáp không có vai trò quan trọng trong cuộc chiến VN từ sau 1965, ông ta phản đối chiến tranh từ đầu. Từ 1956 Hồ và Giáp chống lại tiếp tục chiến tranh ở VN (sau Geneve). Nội bộ CSVN rạn nứt thành hai phe, xin sơ lược như sau: Hiệp định được ông Hồ và Giáp tin tưởng, nếu gây chiến ngay có thể kích thích sự can thiệp quân sự của Mỹ. Sau tám năm kháng chiến, họ không có điều kiện để nghênh chiến ngay với quân đội Mỹ. Điện Biên Phủ là một chiến thắng ngoạn mục, nhưng với cái giá quá đắt. Do đó, sau năm 1954, ông Hồ và Giáp là những người ủng hộ nhiệt thành của "đấu tranh hòa bình" ở miền Nam, tránh khiêu khích Washington, và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" ở miền Bắc. Cam kết của lãnh đạo Liên Xô, Nikita Khrushchev "chung sống hoà bình" với phương Tây từ 1956 xác nhận quan điểm của hai ông Hồ và Giáp chống lại việc tái mở chiến tranh ở Việt Nam. Quyết định đình lại "cuộc đấu tranh giải phóng" trong năm 1954 và việc không thể nối lại chiến tranh ngay lập đã khởi đàu rạn nứt. Tác giả cho rằng Lê Duẩn và phe chủ chiến đã sớm gạt bỏ phe Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ra ngoài lề. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, bực bội với việc hai ông Hồ và Giáp ủng hộ hiệp định Geneva. Duẩn và Thọ sau này sẽ mở ra một chiến dịch kêu gọi nối lại ngay lập tức cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Đường lối của họ và sự chống đối của ông Hồ và Giáp tạo ra rạn nứt trong giới lãnh đạo. Cuộc rạn nứt này đã phân ra một bên là phe "ôn hòa", bao gồm ông Hồ, Giáp, và các đệ tử của họ - và bên kia là phe "chủ chiến", bao gồm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh... cho rằng việc "giải phóng" miền Nam là không thể chờ đợi. Cuộc tranh cãi tại Hà Nội lên đến đỉnh điểm vào cuối năm 1963, sau khi ông Diệm bị đảo chính 1-11, phe chủ chiến đã tổ chức một cuộc đảo chính tại Hà Nội, thâu tóm việc kiểm soát ra quyết định. Các ông Hồ, Giáp và những người ôn hòa khác đã bị gạt ra ngoài lề sau đó, và Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng đã đảm nhận việc cầm cương của quá trình hoạch định chính sách tại Hà Nội. Với sự thúc giục của Lê Duẩn, vào tháng 12/1963, ban lãnh đạo Cộng sản ban hành Nghị quyết 9 kêu gọi tiêu diệt quân thù ở phía dưới vĩ tuyến 17. Năm 1966 Võ Nguyên Giáp viết một bài nói về cuộc chiến miền Nam có thể kéo dài mất nhiều năm, ông không tin vào “các trận đánh xử dụng đại đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến lược của kẻ thù.” Tướng Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục chính trị) bèn phản ứng, ông này viết bài đăng ở Tạp chí Học Tập nói ông tin tưởng vào chiến lược tấn công ở miền Nam (đánh chính qui) là đúng, những người chỉ trích (tức Võ Nguyên Giáp) là không logic. Tác giả Robert Brigham trong bài “Why the South won the American war in Vietnam” cho biết đã từ lâu Võ Nguyên Giáp công khai nghi ngờ chiến lược của Tướng Nguyễn Chí Thanh. Lê Duẩn tạo cơ hội cho Tướng Thanh, ông ta thành công khi tạo một thần tượng mới trong Quân đội nhân dân. Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, Thanh quan niệm cuộc chiến không thể thắng lợi nếu thiếu các đại đơn vị chính qui lớn. Lê Duẩn làm giảm uy tín của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp và đưa người trung thành lên để tạo quyền lực tối cao. Duẩn không ưa VN Giáp nhưng không dám nghĩ tới chuyện loại bỏ ông ta, Tướng Giáp vẫn được nhiều người trong Quân đội sùng bái, ngưỡng mộ, loại bỏ ông Giáp là đi vào con đường tự sát. Sự thật cho dù Thanh không chết vì đau tim tháng 7/1967 tại Hà Nội, Duẩn vẫn phải xài Tướng Giáp vì Nguyễn Chí Thanh i tờ về quân sự, xuất thân nông dân chưa đi lính ngày nào chỉ có tài đẩy thanh niên vào tử địa. Sai lầm lớn nhất của Hồ Chí MinhNếu Trường Chinh không bị ép từ chức thì một người vô danh như Duẩn không thể leo lên làm Tổng bí thư. Nếu họ Hồ không cất nhắc Lê Duẩn lên chức vụ này thì y chỉ là một đảng viên tầm thường như trăm ngàn người khác. Năm 1954, khi Việt Minh từ hậu phương về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội... người ta chỉ nghe nói Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Văn Tiến Dũng ... Người dân không biết Lê Duẩn là ai. Thập niên 60, từ một người vô danh Lê Duẩn đã leo lên một địa vị đầy quyền lực. Trên nguyên tắc, Chủ Tịch đảng là người chỉ huy tổng quát nhưng trên thực tế Tổng bí thư được giao quán xuyến mọi việc trong đảng như Trường Chinh những năm 50 trong hậu phương. Từ thập niên 60 Lê Duẩn được Hồ Chí Minh giao quyền trong đảng, lại nữa y giao cho Lê Đức Thọ, phụ tá thân cận nhất làm Trưởng ban tổ chức đảng, củng cố quyền lực. Về nguyên do tại sao Hồ Chí Minh lại cất nhắc Lê Duẩn lên chức Tổng bí thư mà không đưa Võ Nguyên Giáp lên trong khi Giáp là người thân cận nhất của ông, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy nhận xét như sau: “Ngay cả ông Hồ cũng không chịu nổi uy tín và sự nổi tiếng của ông sau chiến dịch Điện Biên Phủ (khi đó, dưới ngọn cờ cách mạng bay lồng lộng là hình ảnh tướng Giáp) nên thay vì đề cử người kế cận mình là tướng Giáp, đã đề cử Lê Duẩn, hy vọng con ngựa Lê Duẩn sẽ chịu để ông cầm cương, thuần dưỡng... Không ngờ, năm 1963, chính ông lại là người bị hai học trò "xuất sắc" là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ vô hiệu hoá”. (5) Nếu Họ Hồ không cho gọi Lê Duẩn từ trong Nam ra thay thế Trường Chinh, nếu ông ta không cất nhắc y lên thì muôn đời Duẩn chỉ là một tên vô danh tiểu tốt. Duẩn được ông Hồ chiếu cố vì năm 1946 có làm việc bên Chủ tịch. Từ 1946-1954 Duẩn làm Bí thư xứ ủy Nam bộ, Năm 1951 y được vào Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị. Năm 1952 Duẩn ra Việt Bắc họp Trung ương đảng được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá tới đầu năm 1954, được cử làm quyền bí thư Trung ương cục miền Nam. Khác với Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh những người đã sát cánh làm việc với ông Hồ từ năm 1940. Nhờ Hồ Chí Minh ủng hộ trong cuốc bầu cử tháng 9-1960, tại Đại Hội Đảng Lao Động năm 1960, Duẩn đã được vào Bộ Chính trị và được giữ chức Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương đảng. Duẩn học lực tiểu học nhưng được trời phú cho những mưu mẹo động trời, vừa nắm được quyền năm 1960, y giao cho người phụ tá thân cận nhất làm Trưởng ban Tổ chức đảng để đưa tay chân bộ hạ vào, loại bọn xét lại (sống chung hòa bình) ra. Chính CSVN cũng nhận định như vậy trong bài Vụ Án Xét Lại Chống Đảng (6). Đây là vụ án chính trị do do Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Công an) chỉ đạo đã bắt giam từ năm 1967 tới 1973 mới được thả ra. Nhiểu đảng viên, nhân vật quan trọng bị bắt không xét xử, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. CSVN dựa trên ý kiến của các nhà nghiên cứu Tây phương cho rằng vụ này bắt nguồn từ tranh chấp nội bộ. Một bên là phe ôn hòa gồm Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh. Phe kia hiếu chiến gồm Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh. Ngay từ đầu 1957, 59 Bộ Chính trị tin tưởng tinh thần Hiệp định Genève để xây dựng xã hội chủ nghĩa trước theo đề nghị của Lê Duẩn, họ có ủng hộ cuộc chiến hạn chế tại miền Nam. Khi Hồ Chí Minh cất nhắc Lê Duẩn lên làm Bí thư thứ nhất thì tình hình đã tỏ ra bất lợi cho phe ôn hòa Trường Chinh, Họ Hồ và Tướng Giáp. Phe ôn hòa muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc trước và không dám trực diện chiến tranh với Mỹ nhưng đã quá muộn. Ông Hồ, Tướng Giáp, Trường Chinh đều biết rằng đánh với Mỹ chỉ là “từ chết tới bị thương” nhưng đành phó mặc hai miền cho bọn đồ tể để rồi đất nước đã trải qua mấy chục năm tang thương đau khổ, miền Bắc, miền Nam đâu đâu cũng toàn là cảnh hoang tàn đổ nát. Một phần vì Lê Duẩn bất chiến tự nhiên thành nhờ tình hình quốc tế ngày càng trở lên thuận lợi cho bọn đồ tể bên Nga Thủ tướng Khrushchev chủ trương sống chung hòa bình bị lật đổ 1964, Brezhnev lên thay, viện trợ cho Duẩn nhiều vũ khí hơn trước để đánh Mỹ. Nhưng thực ra Lê Duẩn trở thành người nhiều quyền lực nhất tại BV là do Hồ Chí Minh cất nhắc y lên. Từ giữa thập niên 60 trở đi, Họ Hồ không còn quyền hành, bị gạt ra rìa chán nản bỏ sang Tầu chữa bệnh mặc cho Lê Duẩn muốn làm trời làm đất thì làm. Kết LuậnTrong thời kỳ kháng chiến, vai trò của Lê Duẫn nhỏ xíu vô cùng khiêm tốn, trong khi chiến trường miền Nam chỉ toàn là đánh du kích thì những trận đánh lớn cấp sư đoàn do Võ nguyên Giáp chỉ huy đã diễn ra tại miền Bắc như Cao Bắc Lạng, Vĩnh Yên, Mạo Khê, Hòa bình ... và Điện Biên Phủ trận đánh rung động cả thế giới. Từ 1950, Trung Cộng chiếm được nước Tầu giúp Việt Minh thành lập nhiếu sư đoàn chính qui như 304, 308, 312, 316, 320.. trong khi tại Miền Nam Lê Duẩn chỉ là Tư lệnh du kích chiến so với Tướng Giáp. Từ một đảng viên vô danh nhờ Bác cất nhắc lên ngôi đầu thập niên 50, Duẩn đền ơn Sư phụ bằng một cú đá tuyệt diệu, họ Hồ chết cay chết đắng nhưng cũng đành ngậm quả bồ hòn làm ngọt. Lê Duẩn gạt Họ Hồ ra rìa sớm lắm, phim The Vietnam war cũng có nói ông Hồ không còn quyền hành thập niên 60, phim bị CSVN phản đối điểm này. Nói về cái gian của Duẩn thì phải kể hàng đầu, họ Hồ là tay gian hùng quốc tế nhưng cũng phải chịu thua Duẩn, chính y đã ăn cháo đá bát, lừa thầy phản bạn thế mà khi Sư phụ nằm xuống Duẩn khóc thật to. (7) Wikipedia tiếng Việt ghi nhận lời Duẩn: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”. Duẩn cho xây cái lăng to đùng, bắt nhân dân tưởng nhớ cúng bái cái xác chết để tôn vinh Chủ Tịch, muốn cho mọi người thấy y không có vai trò lãnh đạo gì. Nay quốc hội CS VN, Phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng Phạm Bình Minh mới đề nghị cho đốt xác Họ Hồ đem chôn là đẹp nhất, sự việc đúng như nhiều người đã tiên đoán trước đây. Duẩn luôn ca ngợi “Hổ Chủ Tịch muôn năm, Hồ Chủ Tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” mà thực ra y đã tước đoạt hết quyền hành của Sư phụ. Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh ủng hộ chủ trương xử dụng những đại đơn vị để chiến thắng tại miền Nam, nhưng thực tế chứng tỏ chiến lược này chỉ là đẩy thanh niên vào chỗ chết. Nhiều người khen Duẩn đánh lớn mới giải phóng miền Nam nhưng các tay đồ tể đã gặp may, gặp lúc phong trào chống chiến tranh lên quá cao, họ bất chiến tự nhiên thành. TT Nixon nói về chiến lược đánh lớn của CSBV “Bắc Việt chọn đánh (qui ước) theo lối chiến tranh mà chúng ta quá rành...” Và “... nay Hà Nội đánh theo chiến tranh qui ước với những đại đơn vị. Các sư đoàn bộ binh của họ cùng hàng đoàn chiến xe, hệ thống tiếp liệu thành mục tiêu tuyệt hảo cho không lực của ta...” Nguyên văn “The North Vietnamese had chosen to fight the kind of war we fought best...” “...Its infantry divisons, tank columns, and logistics system all made perfect targets for our air power.. .” (8) Họ chiếm được miền Nam là nhờ phong trào phản chiến, nếu không có phong trào này thì dù Duẩn có đẩy thêm hàng triệu quân vào tử địa cũng chỉ làm mồi cho B-52 một cách vô ích. Dưới bài Nhìn lại vai trò của Lê Duẩn trên BBC tiếng Việt (ngày 2-5-2006) có hơn 10 người góp ý, phần nhiều người miền Bắc, tôi xin đưa một số điển hình: Góp ýMột Bạn đọc ở Hà Nội “Ông Duẩn nổi lên được là do sự cất nhắc của ông Hồ Chí Minh… Sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Nam Việt Nam đã làm cho luận điểm chiến tranh chính quy của ông Duẩn trở nên thắng thế so với đường lối thận trọng của ông Giáp. Tuy nhiên, nếu không có uy tín của ông Hồ đối với cả Liên Xô lẫn Trung Quốc thì ông Duẩn khó có thể duy trì sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Cuộc chiếm đóng Campuchia lâu hơn cần thiết và cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979 chứng tỏ đường lối thiếu mềm dẻo cũng như sự kiêu ngạo của ông Duẩn ....khi ông chết phần lớn người dân VN đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm” Một người ẩn danh “Tôi là thế hệ trẻ, được sinh ra khi nước nhà đã thống nhất.... Khi ông ta (Duẩn) lên nắm quyền Tổng bí thư thì đưa ra những chính sách làm dân hết sức khốn khổ... tôi nghĩ là để ông nắm giữ chức Tổng bí thư là một sai lầm của Trung ương. Trong mắt của bao thế hệ người Việt, chính Lê Duẩn là người có tội với dân tộc Việt Nam, ông ta là tác giả của bao nhiêu lỗi lầm tai hại, đưa Việt Nam theo đường lối Nga sô nhưng không có sự chọn lọc cho phù hợp với hoàn cảnh nội tại. Lê Duẩn là con người sắt đá, một khuôn mẫu của Stalin và hiếu chiến”. Nguyễn Thanh, Thanh Hóa Lê Duẫn là một tài năng lớn của đất nước …Nhưng tôi tin có lẽ lịch sử Việt Nam đã khác, đất nước sẽ đỡ lạc hậu hơn bây giờ nếu năm mất của ông không phải là 1986 mà là 1976! Lê Duẩn đẩy hàng triệu thanh niên, sinh viên vào chỗ chết trong khi con cái của các bà vợ bé, vợ ba của y đểu được du học bên Nga. Con cái Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh đều đã được du học bên Nga, nay chúng đều làm lớn giầu sụ, đại gia ăn trên ngồi chốc. Sự việc cho thấy cái trò hèn hạ bẩn thỉu của đám lãnh đạo CS Hà Nội. Các nhà chính trị, quân sự CSVN không có được cái khí phách như các Tướng lãnh Tây phương: De Lattre, Tư lệnh Đông Dương cho con trai độc nhất của ông trung úy Bernrad De Lattre ra trận và tử thương tại Ninh Bình năm 1951. Đô đốc John Sidney McCain Jr, Tư lệnh Thái Bình Dương vẫn cho con trung úy phi công John McCain ra trận và bị bắt làm tù binh tại Hà Nội năm 1967. Chế độ cha truyền con nối trong xã hội CS rõ hơn bao giờ hết. Nhiều người khen Lê Duẩn anh hùng, yêu nước chống Tầu nhưng tôi không nghĩ vậy, ông ta độc đoán, kiêu ngạo u mê. Ba Duẩn giống như anh đầy tớ theo hầu ông chủ này đánh lại ông chủ kia, đó là một sự lựa chọn ngu đần nhất trong lịch sử. Hàng triệu thanh niên vô tội phải chết oan, gánh chịu sự ngu muội của một nhà chính trị gia u mê thất học. Đất nước tan hoang, mấy chục năm tang thương khốn khổ chỉ vì một sự sai lầm của lịch sử cũng như sự sai lầm của chính họ Hồ. Trọng Đạt Tham khảo: 1) Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war. (2) George Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 311 (3) Chương VIII The Agony of Vietnam, trong White House Years trang 277 (4) Richard Nixon: No More Vietnams, trang 126 (5)“Tướng Giáp tiết lộ 4 bí mật về chiến tranh Việt Nam”, bài đăng trên nhiều báo và trang mạng Hải ngoại (6) Wikipedia tiếng Việt: Vụ Án Xét Lại Chống Đảng (7) Wikipedia tiếng Việt: Lê Duẩn: (8) No More Vietnams, trang 144, 145
|
|
|
Post by Huu Le on May 1, 2020 2:18:28 GMT 9
Sự ra đời của đảng CSVN và hệ quả con đường cứu nước của Hồ Chí Minh04 Tháng Hai 2020 hung-viet.org/p34a27445/su-ra-doi-cua-dang-csvn-va-he-qua-con-duong-cuu-nuoc-cua-ho-chi-minhThiện Ý Sự ra đời của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh có mối quan hệ nhân quả như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, bài viết lần lượt trình bày:
Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng Cộng Sản Việt Nam. Hệ quả con đường cứu nước của ông Hồ Chí Minh
I - Bối cảnh và vai trò của Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng Cộng Sản Việt Nam
1 - Bối cảnh ra đời của đảng CSVN
Theo tài liệu lịch sử, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc vào những thập niên đầu Thế Kỷ 20 đã là bối cảnh ra đời của đảng CSVN. Trước đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khởi sự và tiếp nối kể từ sau khi thực dân Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng vào năm 1858 mở đầu cuộc xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam.
Như chúng tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây trên diễn đàn này nhan đề “Bối cảnh lịch sử đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam”. Theo đó, cho đến lúc đảng CSVN ra đời vào ngày 3-2-1930, đã có các cuộc chống Pháp dưới sự lãnh đạo các sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ quốc gia chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng “Thần quyền Thiên Mệnh” Đông phương làm nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế, đã phát động và tiến hành qua các phong trào Cân Vương, Văn Thân, Đông Du… Tiếp đến là các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của các nhà ái quốc chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây làm nến tảng cho mục tiêu giành độc lập để thiết lập chế độ dân chủ lập hiến, tiêu biểu là sự ra đời của một chính đảng quốc gia đầu tiên “Việt nam Quốc Dân Đảng” (1924) với lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Yên Báy do Viện Nam Quốc Dân Đảng thực hiện thất bại vào năm 1930, cùng năm với sự ra đời của đảng CSVN.
Thế là từ đó và sau đó, công cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ngoài các nhà ái quốc, các chính đảng quốc gia thành lập sau Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Nhân xã Đảng… lãnh đạo kháng chiến theo ý thức hệ quốc gia truyền thống trước đó, có thêm vai trò lãnh đạo kháng chiến chống Pháp của những người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, một người theo chủ nghĩa yêu nước trước khi trở thành người cộng sản Việt nam đầu tiên, đứng ra thành đảng Cộng sản Việt Nam.
2 - Vai trò của Ông Hồ Chí Minh với sự ra đời của đảng CSVN
Theo tài liệu lịch sử của đảng CSVN, trước những thất bại của các cuộc kháng chiến chống Pháp trước đó do các nhà ái quốc lãnh đạo theo hệ tư tưởng quân chủ Phương Đông hay dân chủ tư sản Phương Tây (gọi chung là ý thức hệ quốc gia) đều thất bại; năm 1911 Nguyễn Tất Thành, một người yêu nước, không học vị (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí minh là một) đã xuất dương ra đi tìm đường cứu nước. Sự ra đi này xuất phát từ nhận định cho rằng các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vì vậy nhà ái quốc Nguyễn Tất Thành thấy cần ra đi tìm đường cứu nước.
Ông Hồ Chí Minh. Sau nhiều năm bôn ba ở các nước thuộc địa cũng như đế quốc tư bản ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, Nguyển Tất Thành đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới của Ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc, khi đứng tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” (trong Luận Cương chính trị Tháng 4) của Lênin và từ tư tưởng đó, đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Ông Hồ đã hét to một mình trong phòng trọ ở Paris Pháp Quốc, rằng “Đây rồi, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản…” .
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) (*) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.Ông nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Trong thời gian này, Ông Hồ cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Ông lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng minh hội (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Đầu năm 1930 Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cộng sản quốc tế, chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Vẫn theo tài liệu của đảng CSVN Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam(**). Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương và Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng CSVN đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
II - Hệ quả con đường cứu nước của lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh
Con đường cứu nước mà ông Hồ Chí Minh tìm được là “con đường cách mạng vô sản” mà đảng Cộng sản Việt Nam do Ông thành lập đã là công cụ để thực hiên con đường này. Chính cương và sách lược tóm tắt được công bố trong Đại Hội thành lập đảng CSVN đã xác nhận rõ hai giai đoạn cách mạng nhằm thành đạt hai mục tiêu:
1 - Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải quyết mâu thuẫn dân tộc với thực dân pháp, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, trên thực thế, đảng CSVN đã thực hiện bằng chiêu bài ngụy dân tộc để khai thác triệt để “Chủ nghĩa yêu nước” hầu khơi động tinh thần chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Đảng CSVN đã thành công, trong vai trò chủ đạo kháng chiến, đã đánh đưổi được thực dân Pháp sau cuộc kháng chiến 9 năm sau cùng (1945-1954). Thế nhưng không phải giành độc lập cho dân tộc, mà chỉ cướp được chính quyền trên một nữa nước Miền Bắc để xây dựng xã hội chủ nghĩa, đặt mình trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế (Vì ông Hồ đã khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thề tách rời của cách mạng vô sản hay cộng sản quốc tế mà?). Đồng thời “Đảng Ta” củng cố Miền Bắc xã hội chủ nghĩa thành hậu phương lớn, vẫn dưới ngọn cờ “ngụy dân tộc” phát động cuộc chiến tranh cộng sản hóa nửa nước Miền Nam thuộc chính quyền chính thống quốc gia của Vua Bảo Đại, sau là Việt Nam Cộng Hòa, đưa đất nước vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là đưa cả nước vào một cuộc “chiến tranh cốt nhục tương tàn”, đất nước tan hoang, vì bom đạn ngoại bang thuộc cả hai phe cầy nát, giết hại hàng triệu dân Việt trên cả hai chiến tuyến đối đầu, nhân dân đói khổ lầm than vì chiến tranh, gây hận thù trong lòng dân tộc, di hại nghiêm trọng toàn diện, lâu dài cho đất nước và dân tộc… Vậy hệ quả con đường ông Hồ đã chọn và được đảng CSVN thực hiện như thế là “ con đường cứu nước” hay là “Con đường phá nước”?
2 - Cách mạnh xã hội chủ nghĩa để giải phóng giai cấp thực hiện xã hội “Xã hội chủ nghĩa” và xác định cuộc cách mạng này là một bộ phận của cách mạng vô sản tức cộng sản quốc tế đứng đầu là Liên Xô. Thực hiện thế nào, hệ quả ra sao?
Chẳng cần viết ra thì những người Việt Nam từng sống và là nạn nhân trong cuộc chiến tranh “Nồi da sáo thịt” nay còn sống đều đã biết. Sau khi cướp được chính quyền quốc gia ở nửa nước Miền Nam, thực hiện chủ nghĩa xã hội trên cả nước đã gây khốn khổ, kinh hoàng một thời cho nhân dân thế nào rồi (1975-1995)… Nhất là 10 năm đầu (1975-1986) thực hiện triệt để các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội, độc tài toàn trị về chính trị, quốc hữu hóa mọi phương tiện sản xuất, kinh doanh, tập thể hóa mọi lực lương lao động trên mọi lãnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ…Hậu quả là mọi quyền dân chủ dân sinh, nhân quyền bị bóp nghẹt, kinh tế bị đình đốn, dẫn đến thảm trạng nhân dân cả nước không đủ lương thực, thực phẩm với chế độ tem phiếu (trừ giai cấp cán bộ đảng viên có chức, có quyền có tiêu chuẩn riêng…). Tất cả đã phải sống trong cảnh thiếu thốn, đói khổ lầm than,; cả nước phải ăn độn ngô, khoai, sắn và cả bobo, một thực phẩm vốn dành cho súc vật được Liên Xô viện trợ lúc đó để cứu nguy. Đảng CSVN vội thi hành “Chính sách đổi mới” (1985-1995) theo gương Liên Xô. Thế nhưng “Đổi mới” cũng không cứu vãn được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chế độ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết” vào năm 1991 sau hơn 70 năm xây dựng; còn “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” thì tồn tại thêm thời gian đến hôm nay nhờ kịp thời theo gương Trung Quốc “Mèo trắng (tư bản) hay mèo đen (Cộng sản) không quan trọng, miễn là mèo ấy bắt được chuột”. Cộng đảng Việt Nam bắt đầu thực hiện “Chính sách mở cửa” làm ăn với các nước “Tư bản không rãy chết” trong đó mở đầu với cựu thù “Đế quốc Mỹ” bãi bỏ cấm vận, thiết hệ quan hệ ngoại giao và trở thành “Đối tác” thay vì “Đối phương” với Việt Nam.
Từ đó và nhờ đó Việt Nam đã phát triển toàn diện (1) về kinh tế nhờ “con đường kinh tế thị trường, định hướng tư bản chủ nghĩa” (chứ không phải định hướng xã hội chủ nghĩa như “Đảng Ta” tuyên truyền lừa mị để che đậy sự thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội) mà trình đô phát triển ngày một nâng cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện để sau 25 năm (1995-2020) Việt Nam đã có bộ mặt phồn vinh như hôm nay. (2) về chính trị, Đảng và nhà nước CSVN trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” (thuật ngữ người viết thường dùng) các diễn biến sau đây tịnh tiễn xẩy ra: một là các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hóa từng bước để trở thành các nhà tư sản hay “tư bản đỏ”; Hai là nhà nước Việt Nam đã và đang được tư bản hóa bằng chính sách “giải tư” từng bước làm tiêu vong cơ cấu kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa còn sót lại, tiến đến cơ cấu kính tế thị trường tư bản chủ nghĩa ngày một hoàn chỉnh, với các quyền sở hữu tư nhân về vốn, công cụ, phương tiện sản xuất…Ba là dân chủ hóa từng bước, nhờ đó người dân ngày một được nhà cầm quyền trả lại các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tuy còn nhiều hạn chế…Cả ba tiến trình này ai cũng có thể kiểm chứng được qua thực tế diễn ra 25 năm qua (1995-2020).
III - Thay lời kết
Vậy thì, đến dây có thể khẳng đinh qua hệ quả thực tiễn, con đường mà lãnh tụ Cộng đảng Hồ Chí Minh chọn vào năm 1920, rồi đứng ra thành lập đảng CSVN năm 1930 như công cụ thực hiện 90 năm qua (1930-2020) có đúng như sự vui mừng sau khi đọc được “Luận cương chính trị Tháng 4” (****) của lãnh tụ Cộng đảng Bolsevik Nga Vladimir Lenin không, rằng “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản (hay cộng sản cũng thế)”?
Hay thực tế phải nói là, vì ông Hồ đã chọn lầm “con đường cách mạng vô sản” nên đã là “con đường phá nước”. Vì con đường ấy đã không giải phóng được dân tộc mà đã xích hóa dân tộc vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa đứng đầu là “Tân đế quốc Đỏ Liên Xô” (với sự cạnh tranh của đế tân quốc đỏ Trung Quốc) và tư bản chủ nghĩa đứng đầu là “Tân đế quốc Trắng Hoa Kỳ”. Vì nếu Ông Hồ không chọn lựa con đường này và không thành lập đảng CSVN, thì chắc chắng tình hình Việt Nam sẽ biến chuyển theo một chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước.
Một cách cụ thể là Việt Nam đã có độc lập rất sớm (Khi Nhật trao trả độc lập cho Vua Bảo Đại với chính phủ Trần Trọng Kim vào tháng 3-1945) và nhân dân Việt Nam đã không phải hy sinh quá nhiều xương máu trong 9 năm kháng chiến chống Pháp sau cùng (1945-1954).Vì nhiều nước thuộc địa trong vùng cũng như trên thế giới đều lần lượt được độc lập sau Thế Chiến II không cần kháng chiến(Do chủ nghĩa thực dân cũ bước vào thời kỳ suy tàn). Sau đó, cũng đã không xẩy ra cuộc chiến tranh Quốc-Cộng “cốt nhục tương tàn” khốc liệt kéo dài 21 năm sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước (7-1954) do đảng CSVN phát động, tiến hành, đã làm tan hoang đất nước, giết hại nhiều sinh linh dân Việt.Và sau cùng nhân dân Việt Nam đã không phải trải qua thời kỳ khổ nạn hơn 20 năm làm vật tế thần cho công cuộc thử nghiệm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng trên cả nước, vốn là “con đường cứu nước” mà lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn. Thế nhưng thực tế đã trở thành “con đường phá nước” gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước và dân tộc thế nào, chẳng cần kể ra, thì chắc quốc dân Việt Nam ai cũng biết, nhất là những ai từng là nạn nhân của “con đường phá nước” này.
Thiện Ý
Houston, ngày 30-2-2020 Nguồn : VOA
(*) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo Chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
(*)Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế, tiếng Anh The International Workingmen's Association (IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ở Luân Đôn vào ngày 28 tháng 9 năm 1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin
Đệ Nhị Quốc Tế còn gọi là Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại châu Âu, được thành lập ngày 14 tháng 07 năm 1889 ở Paris, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.. Năm 1895. Frederich Engels qua đời. Phong trào công nhân bị tổn thất nặng. Các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đại diện là Eduard Bernstein, dần dần chiếm ưu thế trong Đệ Nhị Quốc tế. Tuy rằng vẫn có nhiều thành viên tiếp tục đi theo con đường của Engels, do không được tiến hành triệt để nên không thu được kết quả. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức, Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ.
(**) Theo lịch sử đảng CSVN thì lúc đầu lấy tên Đảng Cộng Sản Việt Nam một thời gian ngắn thì đổi tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương để đóng vai trò lãnh đạo kháng chiến trên cả 3 nước Đông Dương thuộc Pháp là Việt-Miên-Lào. Sau lấy lại tên đảng CSVN cho đến thời kỳ kháng chiến 9 năm thì muốn dấu mặt, đã tuyên bố giải tán đảng CSVN, lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh, như mặt nạ của đảng CSVN để chủ đạo kháng chiến dưới ngọn cở “Giải phóng dân tộc”. Sự dấu mặt này là do tình hình lúc đó thế giới coi cộng sản là một hiểm họa cần ngăn chặn tiêu diệt, hình thành cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa các nước tư bản đứng đầu là Hoa Kỳ và các nước cộng sản đứng đầu là Liên Xô, một chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945).Đối với nhân dân trong nước chủ nghĩa cộng sản còn xa lạ và là nỗi kinh hoàng vì được nghe nói cộng sản là “chủ nghĩa Tam vô” (vô tổ quốc, vô gia đình và vô tống giáo), rất tàn ác, nên sợ và tìm cách xa lánh cộng sản. Năm 1952 đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam và dùng tên này trong suốt thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) để tiếp tục “ngụy dân tộc” tiến hành “Chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước”. Sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam (30-4-1975), mới lấy lại tên Đảng Cộng Sản Việt Nam, đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc…đến sự sụp đổ hoàn toàn” sau 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng thất bại hoàn toàn (1975- 1995).
(***) Luận cương chính trị tháng Tư tên nguyên thủy là “Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay’, là một văn kiện có tính cương lĩnh do V. I. Lenin soạn thảo và trình bày vào Ngày 16 tháng 4 năm 1917, Lenin đã đến Petrograd trình bày trước Trung ương Đảng Bolshevik một bản báo cáo. Bản luận cương được xuất bản trên báo Sự thật (Pravda) số 26 ngày 7 tháng 4 năm 1917 . ******************************************************************************* Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt Bùi Tín Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo của Hồ Tuấn Hùng: Cuốn sách hoang tưởng gây nhiễu loạn Tháng 11-2008, một nhà "nghiên cứu lịch sử" tên là Hồ Tuấn Hùng người TQ sống ở Đài Loan, cho ra cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo (Nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh), dày 342 trang, chữ Hán, đưa ra nhận định giật gân, độc đáo là: ông Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước năm 1941 lập Việt Minh, rồi lãnh đạo Cách mạng Tháng 8-1945, trở thành chủ tịch nước VNDCCH, chết năm 1969, không phải là ông Nguyễn Tất Thành ở Việt Nam hồi nhỏ, rời VN năm 1911, không phải là ông Nguyễn Ái Quốc ở Moscow năm 1924-1925, sau đó về Hoa Nam hoạt động ở Quảng Châu - Hong Kong. Ông này đã chết vì bệnh ho lao từ năm 1932. Tác giả chứng minh rằng ông Hồ Chí Minh sau đó là một người khác, gốc Trung Quốc 100%, người dân tộc Miêu Lật ở đảo Đài Loan, tên là Hồ Tập Chương, đã đóng giả Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc rất khôn khéo, trọn vẹn, đội danh Hồ Chí Minh cho đến khi chết ngày 2 tháng 9 năm 1969 ở Hà Nội. Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả. Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội Tháng 8-1945, bà Thanh, chị ruột ông Hồ, ra gặp ông, hai người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống. Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ". Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé. Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy! Xin giáo sư Hồ Tuấn Hùng lý giải cho tôi được thông suốt. Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài Loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh (!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài Loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương (là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung Hoa, Việt Nam trong nhiều năm trời... Họ làm như thế để làm gì? Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để, trong một tương lai gần hay xa, Việt Nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung Quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung Quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu (!). Trên đời vẫn thường có kẻ nửa khùng nửa điên, kỳ quặc như thế. Đây là sự xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng CS Việt Nam không ra gì, nhưng nhóm lãnh đạo ở Hà nội cắn răng chịu đựng, không thấy me-sừ Lê Dũng mở mồm. Chỉ khôn nhà dại chợ! Hồ Chí Minh là người dân chủ - cộng hoà (Democrat-Republican) chứ không phải người cộng sản? Cũng chỉ là một lập luận đảo ngược sự thật! Trong cuộc hội thảo tại Hà nội từ 5 đến 7 tháng 12-2008 mang tên "Việt Nam - Hội nhập và phát triển", một "học giả" Nhật Bản làm một cuộc khảo cứu để đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh về cơ bản là người yêu nước chứ không phải là người Cộng sản (!), rằng ông Hồ là người theo chủ nghĩa cộng hòa hơn là theo chủ nghĩa cộng sản. Không có gì sai lầm hơn! Không có gì trái với sự thật hơn! Đó là sự lầm lẫn bản chất với hiện tượng, lấy mặt nạ làm mặt thật, lấy mặt thật làm mặt nạ. Trước khi từ Anh sang Pháp vào khoảng 1918, Nguyễn Tất Thành còn có thể là người theo chủ nghĩa dân tộc. Sau khi gia nhập đảng Xã Hội năm 1920, rồi đảng Công Sản Pháp, ông là người cộng sản. Từ khi sang Nga - 1924 - ông được huấn luyện, đào tạo có hệ thống thành một cán bộ cộng sản nòng cốt, từ đó ăn lương của Đệ Tam Quốc Tế cộng sản. Ông sùng bái Staline, sùng bái Mao Trạch Đông sâu đậm, cả cho đến khi tệ sùng bái Staline bị Đại hội đảng CS Liên Xô lần thứ 20 lên án năm 1956, xác Staline bị đưa ra khỏi lăng ở quảng trường Đỏ, cả sau khi Mao dựng lên cuộc cách mạng văn hóa vô sản điên loạn hồi 1964 - 1967... Người ta dễ nhầm lẫn vì bản chất ông Hồ rất khôn ngoan đến mức có thể gọi là "xảo trá", khi chủ trương "lạt mềm buộc chặt", chiến thuật rất mềm dẻo, nhưng lập trường cộng sản rất kiên định - mù quáng, dễ đánh lừa thiên hạ. Nhà triết học và nghiên cứu chính trị Pháp Jean François Revel Từng viết bài "Hồ Chí Minh - sự tước đoạt lòng yêu nước" ( "HCM - le Détournement du Patriotisme") chứng minh rằng HCM đã lợi dụng lòng yêu nước của dân Việt làm công cụ phục vụ cho mục tiêu cộng sản của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản. Điều này rất rõ, trước khi chết, trong di chúc ông đắn đo kỹ, và mong sẽ được về theo cụ Mác cụ Lénine của ông ta, chứ không về theo cụ Lê Lợi hay Trần Hưng Đạo, hay là Nguyễn Trãi. Xin mời các bạn nghe lời giải thích về lời trứ danh nhất của ông Hồ: "Không có gì quý hơn đôc lập tự do" của Học viện Nguyễn Ái Quốc - nay là Học viện Chính trị Quốc gia HCMinh - rằng: "ý Hồ Chí Minh khi nói tự do là tự do cho dân tộc, chứ không phải tự do cá nhân tư sản đồi truỵ". Cho nên ông Hồ không chút quan tâm đến Tự Do của người công dân cá thể, cho nên dân quyền và nhân quyền bị chà đạp là quốc sách của đảng cộng sản; tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do kinh doanh tệ hơn thời phong kiến, thực dân; không một người dân nào có hộ chiếu xuất cảnh, đảng CS một mình một chiếu, độc quyền ngự trị xã hội không có ai kiểm soát. Ông là ông trùm thủ tiêu Tự Do. Sự lạc hậu, lỗ hổng tệ hại về tự do, về quyền sống công dân kéo dài, đày đoạ xã hội ta hơn nửa thế kỷ, cho đến tận hôm nay, là một điểm "đặc sắc" bi thảm nhất của thời đại Hồ Chí Minh, khi đảng cộng sản lộng hành với đường lối toàn trị dai dẳng. Phải chăng trước sự phá sản của chủ nghĩa CS ở Đông Âu và đặc biệt là ở gốc gác Liên Xô, phải chăng khi chủ nghĩa Cộng sản bị cả liên minh Châu Âu lên án nặng nề không kém gì chủ nghĩa phát xít, khi một nước cộng sản cũ như Ba Lan công khai đặt chủ nghĩa CS ra ngoài vòng pháp luật, nhóm lãnh đạo đảng CS Việt Nam vội vã nghĩ đến chuyện gỡ tội, chạy tội cho lãnh tụ của họ, và cho chính bản thân họ, rằng họ chỉ là những người yêu nước, dân chủ, cộng hoà? Chậm quá rồi, các người ạ! Bùi Tín Paris. 8-3-2009 Bài liên quan • Nguyễn Duy Chính, "Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo". BBC Tiếng Việt, ngày 31.12.2008. • Tiến Hồng, "Nghĩ từ một cuộc hội luận về Hồ Chí Minh" Thông Luận, ngày 08/01/2009. • Phong Uyên, "Ông Hồ là cộng sản hay cộng hoà? ĐCSVN theo chủ nghĩa gì?..." Thông Luận, ngày 21/01/2009. © Thông Luận 2009 www.ethongluan.orgĐọc thêm: Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh: "Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi", 2013 Nguyễn Duy Chính, Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, 2008. Phạm Quế Dương, Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch HCM là người VN hay Đài Loan, 2013 Thiên Ðức, Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh, 2009 Vũ Thư Hiên, 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh, 2013 Vũ Quang Hiển, VN 'thiếu tư liệu về Hồ Chí Minh', 2013 Nhóm Hành Khất, Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình Khảo", 2013 Tạ Nhất Linh, Bàn về Hồ Chí Minh - Hồ Tập Chương, 2013 Thiên Nam, Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền VN, 2011 Trần Bình Nam, Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: một hay hai người? 2013 Đặng Huy Văn, Tôi không tin Hồ Chí Minh, Hồ Tập Chương là một!, 2013. Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh sinh bình khảo, 2008 ******************************************************************** Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặtBùi Tín Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo của Hồ Tuấn Hùng: Cuốn sách hoang tưởng gây nhiễu loạn Tháng 11-2008, một nhà "nghiên cứu lịch sử" tên là Hồ Tuấn Hùng người TQ sống ở Đài Loan, cho ra cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo (Nghiên cứu cuộc đời Hồ Chí Minh), dày 342 trang, chữ Hán, đưa ra nhận định giật gân, độc đáo là: ông Hồ Chí Minh từ Trung Quốc về nước năm 1941 lập Việt Minh, rồi lãnh đạo Cách mạng Tháng 8-1945, trở thành chủ tịch nước VNDCCH, chết năm 1969, không phải là ông Nguyễn Tất Thành ở Việt Nam hồi nhỏ, rời VN năm 1911, không phải là ông Nguyễn Ái Quốc ở Moscow năm 1924-1925, sau đó về Hoa Nam hoạt động ở Quảng Châu - Hong Kong. Ông này đã chết vì bệnh ho lao từ năm 1932. Tác giả chứng minh rằng ông Hồ Chí Minh sau đó là một người khác, gốc Trung Quốc 100%, người dân tộc Miêu Lật ở đảo Đài Loan, tên là Hồ Tập Chương, đã đóng giả Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc rất khôn khéo, trọn vẹn, đội danh Hồ Chí Minh cho đến khi chết ngày 2 tháng 9 năm 1969 ở Hà Nội. Theo tôi đây là một chuyện dựng đứng, bịa đặt, hoang tưởng, không có gì là nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh cả. Tôi đưa ra vài dẫn chứng: sau khi ông Hồ về ở Hà Nội Tháng 8-1945, bà Thanh, chị ruột ông Hồ, ra gặp ông, hai người lập tức nhận ra nhau, và ông Hồ trở lại nói hoàn toàn giọng Nghệ An, với âm sắc riêng của vùng Thanh Chương - Nam Đàn, hỏi thăm rất nhiều người trong họ đã chết và còn sống. Bà Thanh còn nhìn hai tai ông, mũi và cằm ông, nói: "đúng là tai, mũi và cằm của thằng Coong thời trẻ". Rồi năm 1957, khi ông Hồ về thăm quê cũ ở Kim Liên, ông đi ngay vào ngõ bên trái nhà ông khi xưa, không đi vào cổng mới làm sau này, sau đó tự ông sang lò rèn phía trái để hỏi thăm các cụ ở lò rèn xa xưa, nơi ông thường qua lại khi còn bé. Làm sao một người Tàu quê ở đảo Đài Loan lại có thể nói tiếng Nghệ An, lại theo thổ âm Nam Đàn, và nhập vai trọn vẹn là em ruột bà Thanh, và về quê Kim Liên xa lạ, lại am hiểu địa hình và nhân vật làng quê cũ xa xưa thuần thục đến như vậy! Xin giáo sư Hồ Tuấn Hùng lý giải cho tôi được thông suốt. Để cố tô vẽ một điều hoang tưởng thành sự thật, nhà xuất bản Đài Loan khoe rằng tác giả là nhà nghiên cứu lịch sử nghiêm chỉnh (!), có 30 năm là giáo sư ở Khoa sử Đại học Quốc gia Đài Loan, người cùng dân tộc Miêu Lật với ông Hồ Tập Chương (là ông Hồ giả), đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ của Anh, Nhật, Trung Hoa, Việt Nam trong nhiều năm trời... Họ làm như thế để làm gì? Để bán sách? Một giả thuyết nữa, hay là những người có tư tưởng bành trướng Đại Hán bên Tàu muốn chuẩn bị tư tưởng cho dân Việt để, trong một tương lai gần hay xa, Việt Nam sẽ "tình nguyện" một cách cưỡng bức thành một tỉnh của Trung Quốc, với một lãnh tụ vốn dĩ là một người Trung Quốc đặc sệt 100 % chánh hiệu (!). Trên đời vẫn thường có kẻ nửa khùng nửa điên, kỳ quặc như thế. Đây là sự xúc phạm rất ngang nhiên và tuỳ tiện ông Hồ, coi người lãnh đạo đảng CS Việt Nam không ra gì, nhưng nhóm lãnh đạo ở Hà nội cắn răng chịu đựng, không thấy me-sừ Lê Dũng mở mồm. Chỉ khôn nhà dại chợ! Hồ Chí Minh là người dân chủ - cộng hoà (Democrat-Republican) chứ không phải người cộng sản? Cũng chỉ là một lập luận đảo ngược sự thật! Trong cuộc hội thảo tại Hà nội từ 5 đến 7 tháng 12-2008 mang tên "Việt Nam - Hội nhập và phát triển", một "học giả" Nhật Bản làm một cuộc khảo cứu để đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh về cơ bản là người yêu nước chứ không phải là người Cộng sản (!), rằng ông Hồ là người theo chủ nghĩa cộng hòa hơn là theo chủ nghĩa cộng sản. Không có gì sai lầm hơn! Không có gì trái với sự thật hơn! Đó là sự lầm lẫn bản chất với hiện tượng, lấy mặt nạ làm mặt thật, lấy mặt thật làm mặt nạ. Trước khi từ Anh sang Pháp vào khoảng 1918, Nguyễn Tất Thành còn có thể là người theo chủ nghĩa dân tộc. Sau khi gia nhập đảng Xã Hội năm 1920, rồi đảng Công Sản Pháp, ông là người cộng sản. Từ khi sang Nga - 1924 - ông được huấn luyện, đào tạo có hệ thống thành một cán bộ cộng sản nòng cốt, từ đó ăn lương của Đệ Tam Quốc Tế cộng sản. Ông sùng bái Staline, sùng bái Mao Trạch Đông sâu đậm, cả cho đến khi tệ sùng bái Staline bị Đại hội đảng CS Liên Xô lần thứ 20 lên án năm 1956, xác Staline bị đưa ra khỏi lăng ở quảng trường Đỏ, cả sau khi Mao dựng lên cuộc cách mạng văn hóa vô sản điên loạn hồi 1964 - 1967... Người ta dễ nhầm lẫn vì bản chất ông Hồ rất khôn ngoan đến mức có thể gọi là "xảo trá", khi chủ trương "lạt mềm buộc chặt", chiến thuật rất mềm dẻo, nhưng lập trường cộng sản rất kiên định - mù quáng, dễ đánh lừa thiên hạ. Nhà triết học và nghiên cứu chính trị Pháp Jean François Revel Từng viết bài "Hồ Chí Minh - sự tước đoạt lòng yêu nước" ( "HCM - le Détournement du Patriotisme") chứng minh rằng HCM đã lợi dụng lòng yêu nước của dân Việt làm công cụ phục vụ cho mục tiêu cộng sản của Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản. Điều này rất rõ, trước khi chết, trong di chúc ông đắn đo kỹ, và mong sẽ được về theo cụ Mác cụ Lénine của ông ta, chứ không về theo cụ Lê Lợi hay Trần Hưng Đạo, hay là Nguyễn Trãi. Xin mời các bạn nghe lời giải thích về lời trứ danh nhất của ông Hồ: "Không có gì quý hơn đôc lập tự do" của Học viện Nguyễn Ái Quốc - nay là Học viện Chính trị Quốc gia HCMinh - rằng: "ý Hồ Chí Minh khi nói tự do là tự do cho dân tộc, chứ không phải tự do cá nhân tư sản đồi truỵ". Cho nên ông Hồ không chút quan tâm đến Tự Do của người công dân cá thể, cho nên dân quyền và nhân quyền bị chà đạp là quốc sách của đảng cộng sản; tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do kinh doanh tệ hơn thời phong kiến, thực dân; không một người dân nào có hộ chiếu xuất cảnh, đảng CS một mình một chiếu, độc quyền ngự trị xã hội không có ai kiểm soát. Ông là ông trùm thủ tiêu Tự Do. Sự lạc hậu, lỗ hổng tệ hại về tự do, về quyền sống công dân kéo dài, đày đoạ xã hội ta hơn nửa thế kỷ, cho đến tận hôm nay, là một điểm "đặc sắc" bi thảm nhất của thời đại Hồ Chí Minh, khi đảng cộng sản lộng hành với đường lối toàn trị dai dẳng. Phải chăng trước sự phá sản của chủ nghĩa CS ở Đông Âu và đặc biệt là ở gốc gác Liên Xô, phải chăng khi chủ nghĩa Cộng sản bị cả liên minh Châu Âu lên án nặng nề không kém gì chủ nghĩa phát xít, khi một nước cộng sản cũ như Ba Lan công khai đặt chủ nghĩa CS ra ngoài vòng pháp luật, nhóm lãnh đạo đảng CS Việt Nam vội vã nghĩ đến chuyện gỡ tội, chạy tội cho lãnh tụ của họ, và cho chính bản thân họ, rằng họ chỉ là những người yêu nước, dân chủ, cộng hoà? Chậm quá rồi, các người ạ! Bùi Tín Paris. 8-3-2009 Bài liên quan • Nguyễn Duy Chính, "Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo". BBC Tiếng Việt, ngày 31.12.2008. • Tiến Hồng, "Nghĩ từ một cuộc hội luận về Hồ Chí Minh" Thông Luận, ngày 08/01/2009. • Phong Uyên, "Ông Hồ là cộng sản hay cộng hoà? ĐCSVN theo chủ nghĩa gì?..." Thông Luận, ngày 21/01/2009. © Thông Luận 2009 www.ethongluan.orgĐọc thêm: Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh: "Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi", 2013 Nguyễn Duy Chính, Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, 2008. Phạm Quế Dương, Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch HCM là người VN hay Đài Loan, 2013 Thiên Ðức, Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh, 2009 Vũ Thư Hiên, 'Tác phẩm giả tưởng' về Hồ Chí Minh, 2013 Vũ Quang Hiển, VN 'thiếu tư liệu về Hồ Chí Minh', 2013 Nhóm Hành Khất, Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình Khảo", 2013 Tạ Nhất Linh, Bàn về Hồ Chí Minh - Hồ Tập Chương, 2013 Thiên Nam, Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền VN, 2011 Trần Bình Nam, Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: một hay hai người? 2013 Đặng Huy Văn, Tôi không tin Hồ Chí Minh, Hồ Tập Chương là một!, 2013. Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh sinh bình khảo, 2008 ********************************************************* CÂU CHUYỆN PHÍA SAU CHAI NƯỚC MẮM LIÊN THÀNHHôm nay buổi chiều đi siêu thị, chợt nhìn thấy trên kệ hàng có chai nước mắm Liên Thành, mình quay sang hỏi bạn đi chợ cùng: - Nhìn chai nước mắm này có gợi cho điều gì không? - Thì là chai nước mắm chứ gợi điều gì nữa? - Bạn ấy nói. Mình bảo: - Nhưng ngoài là chai nước mắm ra, cái tên nhãn chẳng hạn. - Thì là Liên Thành. - … Cầm chai nước mắm Liên Thành trên tay, người đầu tiên khiến không khỏi không nghĩ tới là cụ Phan Châu Trinh (1872 – 1926). Có lẽ hầu hết chúng ta đều biết phong trào Duy Tân được khởi động bởi Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Và chính từ phong trào Duy Tân này, một nhóm các chí sĩ yêu nước đã kiến lập Liên Thành Thương Quán, Liên Thành Thư Xã và Dục Thanh Học Hiệu, với suy nghĩ rất thực tế: * Liên Thành Thư Xã: được thành lập năm 1905 để truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước. * Liên Thành Thương Quán: được thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1906 để làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân. * Dục Thanh Học Hiệu: được thành lập năm 1907, dạy cho con em người Việt yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ. Tên Liên Thành với ngụ ý Trở Thành Hoa Sen, đồng thời cũng là tên cũ của tỉnh Bình Thuận. Société de Lien Thanh là một thương hiệu đã được đăng ký với nhà cầm quyền Pháp hồi đầu thế kỷ 20, từ cơ sở ban đầu ở Bình Thuận, cho tới sau này phát triển thành một doanh nghiệp lớn ở Chợ Lớn, Khánh Hội, Vĩnh Hội. Cho tới năm 1922, nước mắm Liên Thành tham gia triển lãm ở Marseille, Pháp và tạo ra tiếng vang lớn. Từ sau đó, công ty Liên Thành dần mở rộng mạng lưới gồm các chi nhánh ở Phú Hài, Mũi Né, Hưng Long (Phan Thiết), Phan Rí, Hội An, với địa bàn phân phối nước mắm ở nhiều tỉnh miền Trung và miền Nam, phủ qua Campuchia và cả ở châu Âu. Tài liệu vẫn còn ghi lại: Công ty Liên Thành đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành lưu trú ở Phan Thiết. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành được ông Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất, hai trong sáu sáng lập viên của công ty Liên Thành, giúp đỡ từ Phan Thiết vào Sài Gòn với giấy thông hành tên Văn Ba, đồng thời bố trí cho Nguyễn Tất Thành ở lại trụ sở chi nhánh của công ty Liên Thành tại Chợ Lớn ở 1/2/3 Quai Testard (Nay là số 5 Châu Văn Liêm, Quận 5). Và trước khi lên tàu rời khỏi Việt Nam, Liên Thành đã tặng cho Nguyễn Tất Thành 18 đồng Đông Dương làm lộ phí. Điều này xóa đi giai thoại anh Văn Ba chìa hai bàn tay trắng ra (ở tiểu thuyết Búp Sen Xanh, tác giả Sơn Tùng, xuất bản 1981) nói với bạn đồng hành về phương tiện để ra đi: - Đây, tiền đây. (Và tài liệu vẫn còn ghi lại lá thư của Nguyễn Sinh Sắc gửi cho Phan Châu Trinh nhờ trông nom, bảo ban dạy dỗ giùm cho đứa con trai Nguyễn Sinh Cung khi qua tới Pháp). Mùa thu năm 1918, khi Nguyễn Văn Ba đặt chân lên đất Pháp và tới Paris, là lúc hai cha con Phan Châu Trinh đang sinh sống ở Paris bằng nghề chụp ảnh. Phan Châu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật sang Pháp từ năm 1911. Điều này cũng lý giải cho chi tiết trong sách giáo khoa hồi nhỏ được học rằng: "Bác tự kiếm sống mưu sinh ở số 9, ngõ Công-Poăng, Paris bằng nghề chụp ảnh"… là do đâu mà ra và ngôi nhà này là của ai thuê). Cho tới sau tháng chín năm 1975, khi cuộc "đánh tư sản & cải tạo công thương nghiệp" diễn ra thì công ty Liên Thành bị buộc phải "hiến lại" cho nhà nước với hai điều kiện của Hội đồng quản trị là: 1. Giữ lại tên Liên Thành 2. Giữ lại bàn thờ 6 cụ tổ sáng lập. Bỏ hai chai nước mắm vào giỏ xách. Về nhà tranh thủ nêm nước mắm Liên Thành mỗi khi có dịp, có món cần dùng tới. Nếm vị mắm đậm đà, nghĩ tới lịch sử 111 năm của một thương hiệu Việt cùng bao thăng trầm mất còn, không khỏi ngậm ngùi cho những bi ai, những man trá, và tan hoang của thời cuộc. 12.03.2017 Theo Fb Nguyễn Mạnh Hiệp
|
|