|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 5:30:38 GMT 9
Richard WilhelmVietsciences- Lê Anh Minh Richard Wilhelm (1873-1930) người bắc nhịp cầu tâm linh giữa Đông và Tây Richard Wilhelm (1873-1930) Richard Wilhelm (tên chữ Hán là Vệ Lễ Hiền 衛禮賢, 1873-1930), đã mở ra cho thế giới Tây phương nhìn thấy một di sản tâm linh phong phú của Trung Quốc cũng như của Châu Á. Ông đã phiên dịch hầu hết những kinh điển trọng yếu của Nho giáo và Đạo giáo, cũng như các tác phẩm triết học của Trung Quốc từ Hán ngữ sang Đức ngữ, và từ đó, các bản dịch từ Đức ngữ sang Anh ngữ và các ngôn ngữ khác của Âu Châu cũng chào đời. Cho đến hôm nay, trong số hàng chục bản dịch khác nhau của kỳ thư Kinh Dịch này, bản dịch xuất bản năm 1923 của Wilhelm vẫn là độc nhất vô nhị, và có lẽ trong tương lai khó có bản dịch nào vượt qua bản dịch của Wilhelm. Không chỉ là một học giả và nhà ngữ học, Wilhelm còn là một người truy cầu về tâm linh. Tuy thâm nhập vào cõi minh triết của Trung Quốc nhưng ông vẫn không đánh mất sự liên lạc với cõi Tây phương. Sống tại Trung Quốc hơn 20 năm, ông đã chứng kiến những biến chuyển về văn hoá và tâm linh giữa hai thế giới Đông và Tây. Bấy giờ, người Âu Châu đang chinh phục Trung Quốc, nhưng họ rất ít hoặc không hề quan tâm đến văn hoá Trung Quốc. Còn phía dân Trung Quốc thì luôn xem người Âu Châu là bạch quỷ, do đó họ đã không thể phổ biến kho báu minh triết của họ cho Tây phương. Wilhelm là một trong những người tiên phong đã nhận ra giá trị quý báu của tư tưởng Trung Quốc, nên ông đã nỗ lực bắc một nhịp cầu tinh thần giữa hai cõi Đông và Tây. Richard Wilhelm sinh năm 1873 tại nước Đức. Khi còn là một học sinh của trường Tubinger Slift danh tiếng, ông đã quan tâm nhiều đến văn hoá và hết sức yêu thích các tác phẩm của đại thi hào Johann Wolfgang von Goethe. Với xu hướng về đời sống tâm linh, Wilhelm đã chọn ngành thần học (theology). Năm 1895, ở tuổi 22, ông được thụ phong mục sư. Năm 26 tuổi, ông gia nhập Allgemein Protestantischer Missionsverein (Đức Quốc Cơ Đốc Giáo Đồng Thiện Hội), và năm 1899 ông được biệt phái đến Thanh Đảo của Trung Quốc để truyền giáo. Kể từ khi Wilhelm đến Trung Quốc năm 1899, ông đã giao tiếp với đủ các thành phần văn nhân học giả tại đây, kể cả giới huyền bí học, tức những người tu luyện theo bí giáo (kim đan đạo) hay tu tiên (trường sinh bất tử). Sau đó, ông thành lập Wilhelms Bibliothek (Lễ Hiền Thư Viện). Ông đến Thanh Đảo chẳng bao lâu thì Loạn Quyền Phỉ (tức Nghĩa Hoà Đoàn) nổi lên. Những người Trung Quốc cấp tiến đã thành lập phong trào chống chủ nghĩa thực dân Âu Châu. Tất cả những người Âu Châu tại Trung Quốc đều có nguy cơ trở thành mục tiêu bị tấn công, sát hại, nhất là các giáo sĩ, tức những người mà dân bản địa nghĩ rằng đã gieo rắc tà thuyết chống lại truyền thống cố hữu của Trung Quốc. Cuối cùng Loạn Quyền Phỉ cũng bị dẹp tan, và người Âu Châu đã nhận ra nhu cầu tìm hiểu thêm về Trung Quốc để hiểu biết và giao tiếp tốt hơn với dân bản địa. Trong tình hình đó, ngay khi đến Trung Quốc, Wilhelm bắt đầu học Hán ngữ. Với năng khiếu bẩm sinh về ngôn ngữ, ông nhanh chóng tinh thông Hán ngữ và những ngôn ngữ liên quan như Nhật ngữ và Hàn ngữ (Korean). Năm 1905, tức năm mà người con trai thứ ba (Helmut Wilhelm) của ông chào đời, ông đã bắt đầu phiên dịch một số tác phẩm từ Hán ngữ sang Đức ngữ. Công việc biên khảo và dịch thuật của ông vẫn liên tục miệt mài từ lúc đó cho đến khi ông lìa đời (1930). Khi học Hán ngữ, ông tập trung nhiều nhất việc đọc hiểu và phiên dịch các kinh điển Trung Quốc và ông càng say sưa tìm hiểu văn hoá của đất nước này. Tại Thanh Đảo cũng như tại Bắc Kinh, ông luôn quảng giao với các văn nhân và học giả đương thời. Sự hội nhập của ông với văn hoá Trung Quốc và Hán ngữ đã chuyển hoá ông thành một con người mới. Lúc đầu đến Trung Quốc với sứ mạng truyền giáo cho dân bản địa, nhưng cuối cùng ông đã bị văn hoá và tôn giáo Trung Quốc cải hoán lại. Về sau này, ông đã thú nhận với người bạn chí thân là Carl Gustav Jung (cha đẻ của Tâm lý học phân tích) rằng suốt 20 năm sống tại Trung Quốc, ông chưa hề làm phép bí tích cho một người dân Trung Quốc nào cả. Thay vào sứ mạng truyền giáo đó, ông nghĩ rằng cái sứ mạng đích thực mà ông phải làm chính là phải bắc một nhịp cầu tâm linh giữa hai cõi Đông phương và Tây phương, thông qua việc biên khảo và phiên dịch kinh điển Trung Quốc. Lao Nãi Tuyên (1843-1921)Năm 1911, lúc 38 tuổi, Wilhelm có duyên may gặp gỡ Lao Nãi Tuyên 勞乃宣(1843-1921), vốn là một văn nhân, đã đậu tiến sĩ và từng làm quan. Lao Nãi Tuyên đã giúp Wilhelm rất nhiều trong việc nghiên tập Hán học. Đó là một hiền giả đã giúp Wilhelm hoá giải những xung đột nội tâm giữa hai nền văn hoá và tư tưởng dị biệt giữa Đông và Tây, và đã giúp ông tìm sự an tĩnh nội tâm. Sau khi gặp Lao Nãi Tuyên, Wilhelm thành lập Tôn Khổng Văn Xã (Confucius Society) tại Thanh Đảo và mời Lao Nãi Tuyên quản lý. Mối chân tình giữa Wilhelm và Lao Nãi Tuyên ngày càng gắn bó. Thời gian ở Trung Quốc, ông nhận thấy Kinh Dịch chiếm địa vị hết sức trọng yếu trong Thập Tam Kinh của Nho giáo, nên ông đã nhờ Lao Nãi Tuyên truyền dạy cho. Suốt 10 năm cuối đời của Lao Nãi Tuyên, nhà hiền triết này đã dạy Kinh Dịch cho Wilhelm, và cùng thời gian này (kể từ 1913) Wilhelm đã dịch Kinh Dịch sang Đức ngữ. Ông viết về công trình phiên dịch công phu suốt 10 năm ấy như sau: «Sau cách mạng Tân Hợi (1911), Thanh Đảo trở thành nơi tạm cư cho các học giả danh tiếng nhất thuộc phái cổ học của Trung Quốc. Trong các vị học giả ấy, tôi quen được Lao Nãi Tuyên. Ông là người đầu tiên khai mở cho tôi sự bí mật của Kinh Dịch. Rồi chúng tôi cộng tác với nhau. Ông giảng Kinh Dịch cho tôi nghe bằng Bạch thoại, và tôi ghi chú. Sau đó tôi dịch kinh văn sang Đức ngữ cho riêng tôi. Rồi tôi bỏ văn bản Hán ngữ gốc sang một bên và dịch ngược từ Đức ngữ sang Hán ngữ, để Lao Nãi Tuyên xem tôi có hiểu đúng vấn đề không. Sau đó tôi nhuận sắc lại bản dịch Đức ngữ và viết lời bình một cách chi tiết. Tôi còn phải hiệu đính ba bốn lần nữa và ghi thêm những giải thích quan trọng nhất. Bản dịch đã hoàn thành như thế.» (xem: I Ging, Diederichs, 2001, trang 21) Wilhelm đã xem Lao Nãi Tuyên như một nhà nho kiệt xuất đương thời và kính trọng ông như một bậc Đạo sư (Guru). Lao Nãi Tuyên là một nhà nho thức thời, ông đã sớm nhận ra rằng sự cách biệt của Trung Quốc với thế giới bên ngoài đã đến lúc chấm dứt. Không chỉ thuộc giòng nho gia, Lao còn là người hâm mộ Đạo giáo và tập luyện tĩnh tọa dưỡng sinh. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng đặc biệt đến Wilhelm. Năm 1920, Wilhelm trở về nước Đức, nhưng rồi ông lại sang Trung Quốc lần nữa vào năm 1922. Năm 1921, khi những trang cuối cùng của bản dịch Đức ngữ của Kinh Dịch hoàn thành, Lao Nãi Tuyên tạ thế, và sứ mạng của bậc hiền giả này đã hoàn thành. Wilhelm tiếp tục biên tập và ghi thêm lời bình chú bộ sách này cho đến 1923. Cùng năm này, ông được cử làm Tham tán Văn hoá cho Sứ quán Đức tại Trung Quốc và được Đại học Bắc Kinh thỉnh giảng về môn văn học và triết học Đức. Năm 1924, Wilhelm trở về Đức và nhận dạy Hán ngữ tại Đại học Frankfurt. Năm 1925 ông sáng lập Trung Quốc Học Viện (China Institut) tại Frankfurt am Main và làm việc tại đây cho đến lúc tạ thế (1930). Từ 1924 đến 1930, ông chuyên về biên khảo, dịch thuật, và giảng dạy. Ông đã cố gắng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau về văn hoá tư tưởng giữa Đông phương và Tây phương. Mọi nỗ lực của ông thoạt đầu đã không hanh thông. Ông gặp phải sự chống đối từ nhiều phía. Giới hàn lâm đại học thì không tin ông vì ông vốn là một mục sư, còn Giáo Hội và cộng đồng tín hữu cũng không thích ông vì ông đã bỏ đạo. Nhưng ông cũng có nhiều người ủng hộ, chẳng hạn Bá Tước Keyserling, vốn là một người cũng bị giới hàn lâm đại học, những nhà theo chủ nghĩa quốc gia, và giới Thiên Chúa giáo chính thống tẩy chay. Wilhelm đã chấp bút viết một chương cho quyển sách của Bá Tước Keyserling nói về hôn nhân. Ở đây Wilhelm viết về hôn nhân của người Trung Quốc và nhấn mạnh ý nghĩa tâm linh của hôn lễ. Wilhelm đã gia nhập một phái bí giáo tức Trường Minh Triết (the School of Wisdom) tại Darmstadt. Do ảnh hưởng của Wilhelm đối với Bá Tước Keyserling và con trai của bá tước là Arnold Keyserling, môn triết học Trung Quốc, nhất là Kinh Dịch được giảng dạy tại đây như là một môn học trọng tâm. Tại Trường Minh Triết (the School of Wisdom), Richard Wilhelm đã hội ngộ Carl Gustav Jung, nhà sáng lập môn tâm lý học phân tích (analytical psychology), và họ đã trở thành bạn thân thiết của nhau. Jung cũng nhận ra ý nghĩa trọng đại ở những công trình của Wilhelm, nhất là Kinh Dịch. Jung đã giúp Wilhelm giành được sự trọng vọng trong giới đại học Đức. Bản dịch Kinh Dịch của Wilhelm đã giúp Jung soi sáng thêm về bộ môn tâm lý của chính mình, rồi ông mời Wilhelm sang Câu Lạc Bộ Tâm Lý (Psychologischer Klub) tại Zürich để biểu diễn bói Dịch. Jung đã viết thêm phần dẫn luận rất dài cho bản Đức ngữ Kinh Dịch của Wilhelm và rồi bảo Cary Baynes, một học trò của ông, dịch từ Đức ngữ sang Anh ngữ. Sau đó ông bảo Cary Baynes dịch tiếp bản Đức ngữ Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ của Wilhelm sang Anh ngữ nốt, và trong quyển này ông cũng viết thêm phần dẫn luận rất dài. Johann Wolfgang von Goethe Herman Hesse Martin Buber Với sự trợ giúp của Bá Tước Keyserling và Jung, dần dần tác phẩm của Wilhelm được công chúng Đức biết đến. Các bài viết và các trứ tác của ông dần dần thu hút thêm sự tán thưởng và hâm mộ công chúng. Sách của ông được xuất bản và ông kết giao thêm nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng như nhà văn Herman Hesse, Martin Buber, nhạc sĩ Joseph Hauer, v.v... Salome Wilhelm, vợ của Richard Wilhelm, năm 1956 tại Köln đã xuất bản hồi ký Richard Wilhelm, der Mittler zwischen China und Europa (Richard Wilhelm, người bắc nhịp cầu tinh thần giữa Trung Quốc và Âu Châu), kể rằng ông là một nhân cách sôi nổi, vồn vã, quảng giao. Trứ tác rất nhiều, nhưng ông không hề cảm thấy mệt mỏi, và nhất là ông không bao giờ xuôi theo trào lưu chính trị và tư tưởng đương thời. Mộ phần của Richard Wilhelm và vợ (Salome Wilhelm) với hình Thái Cực - Bát Quái.Sau chỉ 4 năm tại quê nhà (tức là từ năm 1924), bấy giờ 55 tuổi, ông lại bị bệnh lỵ amíp (amoebic dysentery) hành hạ, chứng bệnh đã đeo đuổi ông dai dẳng kể từ những năm ông sống tại Trung Quốc. Và rồi ông tạ thế năm 1930. Trong vô số các trứ tác biên khảo và dịch thuật của Wilhelm, hai tác phẩm nổi bật nhất (với sự cộng tác của nhà tâm lý học phân tích Carl Gustav Jung) hẳn là I Ging – Das Buch der Wandlungen (Dịch Kinh - Quyển kinh về những biến dịch, tựa tiếng Anh là I Ching: the Book of Changes) và Das Geheimnis der goldenen Blüte (Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ, tựa tiếng Anh là The Secret of the Golden Flower). Hai tác phẩm này có thể nói đã bắc được nhịp cầu tâm linh giữa hai cõi Đông và Tây vậy. Tác phẩm chính của Richard Wilhelm: - Das wahre Buch vom quellenden Urgrund (Xung Hư Chân Kinh 沖虛真經, tức Liệt Tử 列子), Jena, 1911. - Lao-tse, Tao-te-king, Das Buch des Alten vom Sinn und Leben (Đạo Đức Kinh 道德經), Jena, 1911. - Kungfutze Gespräche (Luận Ngữ 論語, dịch ra Đức ngữ và chú thích), Jena, 1910. - Khung-tse, Leben und Werk (Khổng Tử, Cuộc Đời và Tác Phẩm), Stuttgart, 1925. - Mong-dsi (Mạnh Tử 孟子, dịch ra Đức ngữ và chú thích), Jena, 1916. - Dschuang-dsï, das wahre Buch vom südlichen Blütenland (Trang Tử Nam Hoa Chân Kinh 莊子南華真經), 1923. - I Ging, Das Buch der Wandlungen, aus dem Chinesischen verdeutscht und erläutert (Dịch Kinh, quyển sách về những biến dịch, phiên dịch từ Hán văn và chú giải), Jena, 1924. - Die Seele Chinas (Trung Quốc Tinh Thần), Berlin, 1925. - Lao-tse und der Taoismus (Lão Tử và Đạo giáo), Stuttgart, 1925. - Konfuzius und der Konfuzianismus (Khổng Tử và Nho Giáo), Stuttgart, 1925. - Ostasien, Werden und Wandel des chinesischen Kulturkreises (Đông Á, Chuyển biến của giới Văn hóa Trung Quốc), Potsdam, 1928. - Frühling und Hebrst des Lü Bu We (Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋), 1928. - Die Religion und Philosophie Chinas (Tôn Giáo và Triết Học Trung Quốc), [năm?]. - Geschichte der chinesischen Zivilisation (Trung Quốc Văn Minh Sử), được G. Lepage dịch ra Pháp văn Histoire de la Civilisation chinoise, Paris, 1931. - Das Geheimnis der goldenen Blüte - Ein chinesisches Lebensbuch (Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ - Trung Quốc Đan Thư 太乙金華宗旨中國丹書), Stuttgart, 1965. R. Wilhelm dịch Hán-Đức và chú giải, Carl G. Jung viết lời tổng luận. Quyển này gồm Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ do Lã Động Tân (Lã Tổ) giáng bút dạy luyện đan, và một phần của Huệ Mạng Kinh 慧命經(Das Buch von Bewußtsein und Leben) của Liễu Hoa Dương 柳華陽, một tổ sư của phái Ngũ Liễu 伍柳 của Đạo giáo. (Cary F. Baynes dịch ra tiếng Anh: The Secret of the golden Flower, 1962). - Wandlung und Dauer (Biến và Hằng), tuyển tập 4 bài viết của Richard Wilhelm, Irene Eber (nữ đệ tử của Hellmut Wilhelm) tuyển dịch từ Đức sang Anh, nhan đề I Ching - Constancy and Change, Princeton, 1979. - v.v... TƯ LIỆU THAM KHẢO1- Richard Wilhelm, I Ging – Das Buch der Wandlungen (Dịch Kinh - Quyển kinh về những biến dịch), Heinrich Hugendubel Verlag, München, 1973.
2- Richard Wilhelm, I Ching: the Book of Changes (Dịch Kinh - Quyển kinh về những biến dịch), trans. by Cary F Baynes, London, 1969.
3- Richard Wilhelm & Carl Gustav Jung, Das Geheimnis der goldenen Blüte 太乙金華宗旨 (Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ), Rascher Verlag, Zürich und Stuttgart, 1965. Quyển này có kèm theo một phần của quyển Huệ Mạng Kinh 慧命經 (Das Buch von Bewußtsein und Leben) của Liễu Hoa Dương 柳華陽, một tổ sư của phái Ngũ Liễu 伍柳 của Đạo giáo.
4- Richard Wilhelm & Carl Gustav Jung, The Secret of the Golden Flower 太乙金華宗旨 (Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ), trans. by Cary F Baynes, New York, 1962.
5- C.G. Jung, Memories Dreams Reflections (Ký ức, giấc mơ, hồi niệm), New York, 1963.
6- Richard Wilhelm, Lectures on the I Ching: Constancy and Change (Bài giảng về Dịch Kinh: Hằng và Biến), trans. by Irene Eber, Princeton, 1979.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 5:35:15 GMT 9
Joseph Needham Vietsciences- Lê Anh Minh Cống hiến của Joseph Needham (1900-1995) cho lĩnh vực Trung Quốc học Joseph Needham (1900-1995)Joseph Needham (tên chữ Hán là Lý Ước Sắt 李約瑟) là một khoa học gia hiện đại của Anh Quốc, tự là Đan Diệu 丹耀, hiệu là Thập Túc Đạo Nhân 十宿道人 và Thắng Nhũng Tử 勝冗子. Ông sinh 09-12-1900, mất 24-3-1995. Thời niên thiếu đến lúc trưởng thành: Joseph Needham là con trai duy nhất của một gia đình trí thức trung lưu gốc Tô Cách Lan, sống tại London. Cha ông là một bác sĩ tài giỏi và là một tín hữu giáo phái Quaker, sở hữu một thư viện riêng với vô số sách về tôn giáo và triết học; nhưng đó là một người chồng cộc cằn và hơi bủn xỉn tiền bạc, nên không bao giờ hoà hợp với vợ. Mẹ ông là một nhạc sĩ soạn nhạc có tài. Bà là tác giả của bản nhạc danh tiếng Nellie Dean. Khi thơ ấu, Joseph Needham luôn tránh né đi vào phòng khách để khỏi phải chứng kiến những trận xung đột cãi vã thường xuyên của cha mẹ. Ông đã trải qua thời thơ ấu lẻ loi cô độc, bởi vì cha mẹ ông quan niệm họ thuộc tầng lớp thượng lưu cho nên đã hạn chế sự giao tiếp của ông với mọi người, thậm chí cấm chỉ các bạn học cùng lớp của ông đến nhà chơi. Thuở nhỏ ông học trường Oundle School mà hiệu trưởng là ông F. W. Sanderson, một người ái mộ và là bạn của H. G. Wells. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông học y khoa và hoá học tại Đại Học Cambridge (Anh Quốc Kiếm Kiều Đại Học). Ông đỗ cử nhân tháng 6-1921; đỗ Master tháng 01-1925, và tiến sĩ (Ph.D.) tháng 10-1925. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông vào làm việc trong phòng thí nghiệm sinh hóa của giáo sư F.G. Hopkin thuộc Đại Học Cambridge. Khuynh hướng: Chủ đề nghiên cứu của ông tập trung vào phôi thai học (embryology) và sự phát sinh hình thái (morphogenesis). Năm 1931, ông xuất bản bộ sách ba tập nhan đề Chemical Embryology (hoá-phôi thai học) với lời dẫn nhập khá dài về lịch sử phôi thai học. Đây là đóng góp đầu tiên của ông về lịch sử khoa học. Không chỉ yêu thích khoa học tự nhiên (y khoa, hoá học, sinh học), Joseph Needham còn thích triết học và tôn giáo nhất là huyền bí giáo (esoterism). Năm 1922-1924, ông là thành viên trong Hội Huynh Đệ Thiên Chúa Giáo (Christian Brotherhood), nhưng rồi từ bỏ tổ chức này để lấy vợ (tháng 9-1924). Vợ ông là Dorothy Moyle (1896-1987), một đồng nghiệp của ông trong khoa sinh hoá của Đại Học Cambridge. Hoạt động: Suốt Thế Chiến thứ 2, nước Anh là đồng minh của Trung Quốc. Năm 1942, Joseph Needham được chính phủ Anh phái đến Trùng Khánh (Tứ Xuyên) với nhiệm vụ thiết lập quan hệ với các nhà khoa học Trung Quốc tại địa phương, tư vấn và cung cấp tư liệu cho họ. Từ 1942 đến 1946, ông làm tham tán khoa học tại Sứ Quán Anh ở Trùng Khánh (Tứ Xuyên), và làm quán trưởng của Sino-British Science Co-operation Office (Trung Anh Khoa Học Hợp Tác Quán). Năm 1946, do một người bạn cũ tiến cử, ông trở thành thủ trưởng của Phân bộ Khoa học UNESCO mới thành lập tại Paris. Năm 1948, ông trở lại Cambridge và giảng dạy môn sinh hoá. Từ 1948, tại Đại Học Cambridge, ông chuyên tâm nghiên cứu về lịch sử khoa học của Trung Quốc. Ông đã giữ các chức danh như: * Viện sĩ của Anh Quốc Hoàng Gia Khoa Học Viện, * Viện sĩ có quốc tịch ngoại quốc (ngoại tịch viện sĩ) của Trung Ương Nghiên Cứu Viện và Bắc Bình Nghiên Cứu Viện, * Viện sĩ của Anh Quốc Học Thuật Viện, * Viện sĩ của Quốc Tế Khoa Học Sử Nghiên Cứu Viện, * Giáo sư danh dự tại Trung Quốc Khoa Học Viện và Trung Quốc Xã Hội Khoa Học Viện, v.v... Quan tâm đến văn hoá Trung Quốc: Joseph Needham đang nghiên cứuÔng bắt đầu quan tâm đến văn hoá Trung Quốc từ 1937 (tức lúc ông 37 tuổi), do tiếp xúc với ba nhà khoa học Trung Quốc được mời sang nghiên cứu tại Cambridge. Đây là bước ngoặt lịch sử trong cuộc đời ông. Trong những lúc trò chuyện với ông, các nhà khoa học Trung Quốc này nêu vấn đề tại sao trong quá khứ Trung Quốc rất giỏi về các vấn đề khoa học thế mà trong các thế kỷ vừa qua lại thua kém Tây phương quá nhiều. Đây là một câu hỏi rất lớn dành cho Joseph Needham. Dần dần Joseph Needham bắt đầu yêu mến Trung Quốc. Ông bắt đầu đọc sách về văn hoá và triết học Trung Quốc. Từ 1938 ông bắt đầu học Hán ngữ, mà người dạy cả Hán ngữ cổ đại và hiện đại cho ông chính là Lỗ Quế Trân 魯桂珍 (Lu Gwei-djen, 1904-1991), một trong ba nhà khoa học Trung Quốc nói trên. Lỗ Quế Trân là con gái của một dược sĩ, nguyên quán Nam Kinh. Bà là một nhà sinh hoá và rất quan tâm đến khoa học cổ truyền của Trung Quốc. Năm 33 tuổi (1937), bà sang Cambridge làm nghiên cứu sinh, và là học trò của nữ giáo sư Dorothy Needham (vợ của Joseph Needham, lúc đó Dorothy 41 tuổi). Năm 1948, khi Joseph Needham từ Paris trở lại Cambridge và giảng dạy môn sinh hoá thì Lỗ Quế Trân sang Paris và làm việc cho UNESCO. Năm 1989, tức hai năm sau khi vợ qua đời, Joseph Needham đã tục huyền với Lỗ Quế Trân. Ở tuổi xế chiều, Joseph Needham bị bệnh parkinson càng ngày càng nặng và ông ra đi thanh thản tại tư gia Công trình bách khoa Science and Civilisation in China (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử 中國科學技術史): Cống hiến lớn nhất của ông là bộ Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử, giới thiệu toàn diện về văn minh kỹ thuật Trung Quốc suốt mấy ngàn năm, đặc biệt là thuật luyện đan và Đạo giáo Trung Quốc. Công trình này được phác thảo khoảng năm 1939. Ông và các đồng nghiệp Trung Quốc đã xây dựng một đề án viết một bộ toàn thư về khoa học, y dược, và kỹ thuật Trung Quốc. Trong những năm 1942-1946 tại Trùng Khánh, ông đi tham quan khắp mọi nơi của Trung Quốc, những nơi mà Nhật chưa chiếm đóng. Ông biết được nhiều về văn hoá và lịch sử khoa học của Trung Quốc. Ông hiểu rằng phương pháp in hoạt bản, la bàn, thuốc súng đã được phát minh tại Trung Quốc trước tiên, trước cả Âu Châu. Cùng với vợ (Dorothy Needham), ông xuất bản một quyển sách nhan đề Chinese Science (Khoa học Trung Quốc) năm 1945. Ông bắt đầu bộ Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử vào năm 1954. Nữ khoa học gia Lỗ Quế Trân (Lu Gwei-Djien, người đã cộng tác với ông tại Cambridge và dạy Hán ngữ cho ông vào những năm 1930) gia nhập nhóm biên soạn vào năm 1957. Ngoài Lỗ Quế Trân, ông còn có sự cộng tác của học giả Vương Linh (Wang Ling), và họ đã làm việc trong một nơi đầy ắp các tư liệu. Sau Tập IV, họ đã mời thêm các chuyên gia tài giỏi khác. Tại Trung Quốc, ông kết giao với sử gia Vương Linh, người sau này trở thành một cộng sự thân thiết nhất của ông trong bộ toàn thư Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử. Trong thời gian chiến tranh, Lỗ Quế Trân di cư sang Mỹ, và năm 1945 bà gia nhập Sino-British Science Co-operation Office (Trung Anh Khoa Học Hợp Tác Quán) của Needham với tư cách là chuyên viên tư vấn về dinh dưỡng. Trên lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ông có nhiều đóng góp đáng kể. Trứ tác:(1) Man, a Machine (Con người: một cỗ máy), New York, 1928. (2) The Sceptical Biologist (Nhà sinh vật hoài nghi), London, 1929. (3) Chemical Embryology (Hóa Học Phôi Thai Học), 3 quyển, Cambridge,1931. (4) The Great Amphibium: 4 lectures on the position of religion in a world dominated by science (Đại lưỡng diện: Bốn bài giảng về vị trí của tôn giáo trong một thế giới bị khoa học thống trị), London, 1931. (5) A History of Embryology (Lịch Sử Phôi Thai Học), Cambridge,1934. (6) A Revaluation of the Idea of Progress (Đánh giá lại ý tưởng về sự tiến bộ), Oxford, 1937. (7) A Biologist’s View of Whitehead’s Philosophy (Quan điểm của một nhà sinh vật về triết lý của Whitehead), Chicago, 1941. (8) Biochemistry and Morphogenesis (Sinh Vật Hóa Học và Hình Thái Phát Sinh), 1942. (9) Time, the Refreshing River (Thời gian: Giòng sông làm tươi trẻ), London, 1942. (10) Chinese Science (Khoa học của Trung Quốc), London, 1945. (11) History is on our side: a contribution to political religion and scientific faith (Lịch sử ở về phía chúng ta: Sự đóng góp vào tôn giáo chính trị và đức tin khoa học), London, 1946. (12) Background to Modern Science (Bối cảnh của khoa học hiện đại), 1951. v.v... Tác phẩm liên quan đến Trung Quốc: (1) Science and Civilisation in China (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử), Cambridge University Press, Cambridge, UK, 1954 - 1995. (Xem chi tiết dưới đây) (2) Science and Society in East and West (Khoa học và Xã hội ở Đông phương và Tây phương), George Allen & Unwin Ltd, London, UK, 1969. (3) Science in Traditional China (Khoa học Trung Quốc cổ đại), September 1982. Các giải thưởng:Award of the George Sarton Medal of the History of Science Society (1968), Award of the Bernal Prize of the Society for the Social Studies of Science (1984), v.v. Cơ cấu bộ Science and Civilisation in China (Trung Quốc Khoa Học Kỹ Thuật Sử): Bộ sách được xuất bản từ 1954, gồm 7 quyển; từ quyển IV trở đi mỗi quyển lại chia ra làm các tập rời. Công trình khoa học đồ sộ này vẫn còn tiếp tục do Needham Research Institute (Viện Nghiên Cứu Needham) thực hiện. * Quyển I. (1954) Introductory Orientations (Những định hướng ban đầu); Joseph Needham và Wang Ling (Vương Linh). * Quyển II. (1956) History of Scientific Thought (Lịch sử tư tưởng khoa học); Joseph Needham và Wang Ling (Vương Linh). * Quyển III. (1959) Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth (Toán học và khoa học về thiên địa); Joseph Needham và Wang Ling (Vương Linh). NEEDHAM RESEARCH INSTITUTE (Viện Nghiên Cứu Needham) 8 Sylvester Road, Cambridge CB3 9AF, England * Quyển IV. Physics and Physical Technology (Vật lý học và kỹ thuật vật lý): - Tập1 (1962) Physics (Vật lý học); Joseph Needham, Wang Ling (Vương Linh), và Kenneth Girdwood Robinson. - Tập 2 (1965) Mechanical Engineering (Kỹ thuật cơ học); Joseph Needham và Wang Ling (Vương Linh). - Tập3 (1971) Civil Engineering and Nautics (Xây dựng công trình công cộng và hàng hải); Joseph Needham, Wang Ling (Vương Linh), và Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân). * Quyển V. Chemistry and Chemical Technology (Hoá học và kỹ thuật hoá học): - Tập1 (1985) Paper and Printing (Giấy và ấn loát); Tsien Tsuen-Hsuin (Tiền Tồn Huấn). - Tập 2 (1974) Spagyrical Discovery and Invention: Magisteries of Gold and Immortality (Sự khám phá và phát minh của Luyện đan thuật: Những tinh chất hoán đổi của vàng và sự bất tử); Joseph Needham và Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân). - Tập 3 (1976) Spagyrical Discovery and Invention: Historical Survey, from Cinnabar Elixirs to Synthetic Insulin (Sự khám phá và phát minh của Luyện đan thuật: Khảo sát lịch sử, từ kim đan đến chất insulin tổng hợp); Joseph Needham, Ho Ping-Yu (Hà Bính Úc), Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân). - Tập 4 (1980) Spagyrical Discovery and Invention: Apparatus and Theory (Sự khám phá và phát minh của Luyện đan thuật: Bộ máy và lý thuyết); Joseph Needham, Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân), và Nathan Sivin. - Tập 5 (1983) Spagyrical Discovery and Invention: Physiological Alchemy (Sự khám phá và phát minh của Luyện đan thuật: Luyện đan về sinh lý); Joseph Needham và Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân). - Tập 6 (1994) Military Technology: Missiles and Sieges (Kỹ thuật quân sự: Hoả tiễn và công thành); Joseph Needham, Robin D.S. Yates, Krzysztof Gawlikowski, Edward McEwen, và Wang Ling (Vương Linh). - Tập 7 (1987) Military Technology: The Gunpowder Epic (Kỹ thuật quân sự: Bản hùng ca về thuốc súng); Joseph Needham, Ho Ping-Yu (Hà Bính Úc), Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân), và Wang Ling (Vương Linh). - Tập 9 (1986) Textile Technology: Spinning and Reeling (Kỹ thuật dệt: Se chỉ và đánh chỉ); Dieter Kuhn. - Tập 12 (2004) Ceramic Technology (kỹ thuật gốm); Rose Kerr, Nigel Wood, Ts’ai Mei-fen, và Zhang Fukang. - Tập 13 (1999 [?]) Mining (ngành khai mỏ); Peter Golas. (Chưa có các tập 8, 10, 11) * Quyển VI. Biology and Biological Technology (Sinh vật học và kỹ thuật sinh vật) - Tập 1 (1986) Botany (Thực vật học); Joseph Needham, Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân), và Huang Hsing-Tsung. - Tập 2 (1988) Agriculture (Nông nghiệp); Francesca Bray. - Tập 3 (1996) Agroindustries and Forestry (các ngành nông học và lâm nghiệp); Christopher.A. Daniels, Nicholas .K. Menzies. - Tập 5 (2000 [?]) Fermentations and Food Science (Sự lên men và khoa học thực phẩm); H.T. Huang. - Tập 6 (1999 [?]) Medicine (Y học); Joseph Needham, Lu Gwei-djen (Lỗ Quế Trân), và Nathan Sivin. * Quyển VII ([?]): The Social Background (Bối cảnh xã hội): - Tập 1 (1998) Language and Logic (Ngôn ngữ và lôgíc); Christof Harbsmeier. - Tập 2 (2004) General Conclusions and Reflections (tổng luận và suy tư); Joseph Needham, biên tập: Kenneth Girdwood Robinson, Ray Huang, phần dẫn nhập của Mark Elvin. (Các tập kế tiếp đang được thực hiện) o0o Nguồn tham khảo Bài viết trên tổng hợp thông tin và sử dụng hình ảnh từ các trang web sau đây: The Needham Research Institute www.nri.org.uk/joseph2.html iias.leidenuniv.nl/iiasn/iiasn5/eastasia/needham.html www.riseofthewest.net/thinkers/needham01.htm www.riseofthewest.net/thinkers/needham02.htm www.edp.ust.hk/math/history/3/3_167.htm homepage2.nifty.com/shigeru-histsci/needham.html
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 5:05:53 GMT 9
Đi tìm Bùi ViệnTrần Giao Thủy Tại sao tấm hình ghi “Bùi Viện, 1839-1878, (ảnh thờ tại từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình)” lại là một tài liệu có vấn đề? Câu chuyện làng văn: Đi tìm Bùi công gặp ông bác sĩ Đường Bùi Viện Sài Gòn. Nguồn: Sithzam Art “Chuyện Bùi Viện đi Mỹ, lịch sử hay ngụy biện Chủ nghĩa Dân tộc?” đăng trên DCVOnline từ tháng 6, 2012 là một bài viết về Bùi Viện, một viên quan nhà Nguyễn đời Tự Đức, và vấn đề tại sao người viết sử Việt Nam lại hư cấu câu chuyện ông đi Mỹ hai lần: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có Phan Trần Chúc, 194x-6, Việt Nam Cộng hoà và Việt Nam hải ngoại có Thái Văn Kiểm, 1962, 1970, 1978. Bài này, phần chính là để làm sáng tỏ về nhân dạng, hình ảnh của Bùi Viện. Ảnh minh hoạ trong bài viết năm 2012 chỉ có mỗi tấm hình ở Sài Gòn mang tên ông đó là hình đường Bùi Viện. Sách sử phổ thông viết rất ít về vị quan này và dĩ nhiên không có cuốn sách nào trước năm 1975 ở cả miền Bắc và miền Nam hay của tác giả nước ngoài có in hình ông Bùi Viện. Lý do? Một, đơn giản, là Bùi Viện (1837-1878) sinh vào giữa thế kỷ XIX khi kỹ thuật nhiếp ảnh mới khai sinh (collodion process 1950). Hai là, quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây thời đó chưa chặt chẽ. Ba là, Bùi Viện không có duyên gặp nhiếp ảnh gia quốc tế hay ở những người đã đến Việt Nam. Hoàng đế Việt Nam thời đó là Tự Đức cũng không có tấm ảnh nào chụp bằng kỹ thuật nhiếp ảnh. Như đã biết ông Bùi Viện cũng không có hình nào chụp ở Mỹ hay ở Yokohama hoặc ở Hong Kong. Một bài viết khác cùng tác giả, “Đoàn sứ giả Việt Nam tại Paris năm 1863”, cũng đăng ở DCVOnline vào tháng 6, 2012 cho thấy hình ảnh của một số quan viên triều Dực Tông (Tự Đức) chụp ở Paris vào năm 1863 – Đó là những tấm ảnh đầu tiên của người Việt Nam do Jacques-Philippe Potteau thực hiện, tuy không nhiều và vẫn còn khuyết điểm, đã giúp cho người đọc hình dung được một cách chân thực hơn về nhân dạng, ngoại hình và trang phục của quan, lính, văn nhân, võ tướng Việt Nam ở cuối thế kỷ thứ XIX. Tại Việt Nam, những nhiếp ảnh gia người Pháp tiên phong đã để lại một nguồn tài liệu lịch sử vô giá về văn hoá, đời sống, di tích, và con người trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Đó là những tác phẩm của Émile Gsell (1838-1879), Gustave Ernest Trumelet-Faber (1852-1916), Charles-Édouard Hocquard (1853-1911), Aurélien Pestel (1855-1897), Firmin-André Salles (1860-1929), Pierre Dieulefils (1862-1937), v.v. Bạn đọc có thể tham khảo thêm ở cuốn “Les premiers photographes au Việt-Nam” của nhiều tác giả do Académie des sciences d’outre-mer phát hành vào tháng 12, 2015.(1) Hình do Hippolyte Arnoux & Emile Gsell chụp. Từ trái, hàng trên (p40): Người Annam gánh than củi; PetrusTrương Vĩnh Ký; Ba Thương, Đốc phủ sứ tại Saigon. Từ trái, hàng dưới (p42): Phu nữ Annam; Phan Thanh Giản, Kinh lược sứ Nam kỳ sau cùng; Người Tieng (phía Bắc Nam phần). Hippolyte Arnoux & Emile Gsell (1838-1879), Voyage de l'Égypte à l'Indochine (1880) trang 40 và 42. Nguồn: gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b84515897Hình do Hippolyte Arnoux & Émile Gsell chụp. Từ trái, hàng trên (p40): Người Annam gánh than củi; Petrus Trương Vĩnh Ký; Ba Thương, Đốc phủ sứ tại Saigon. Từ trái, hàng dưới (p42): Phu nữ Annam; Phan Thanh Giản, Kinh lược sứ Nam kỳ sau cùng; Người Stieng (phía Bắc Nam kỳ). Hippolyte Arnoux & Emile Gsell (1838-1879), Voyage de l’Égypte à l’Indochine (1880) trang 40 và 42. Nguồn: gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b84515897Trong những nhiếp ảnh gia Pháp có tác phẩm tại Việt nam thì Émile Gsell (1838-1879) là người cùng thời với Bùi Viện. Tuy nhiên Gsell chỉ có mặt ở Đông Dương trong khoảng 1858, 20 tuổi, đến lúc mất tại Sài Gòn vào năm 1879 khi 41 tuổi. Gsell có một số ảnh chụp ở Việt Nam từ năm 1866, bắt đầu từ Sài Gòn. Đến 1875 Gsell mới có ảnh chụp ở Huế, và từ tháng 11, 1876 đến tháng 1, 1877 Gsell mới có ảnh chụp miền Bắc Việt Nam(2). 81 trang, 184 tấm hình trong cuốn Voyage de l’Égypte à l’Indochine (1880) của Hippolyte Arnoux & Emile Gsell đã số hoá và lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Pháp chỉ có 3 tấm ảnh người Việt Nam có ghi tên: 1. Petrus Trương Vĩnh Ký, 2. Ba Thương, Đốc phủ sứ tại Saigon, ở trang 40, và 3. Phan Thanh Giản, Kinh lược sứ Nam kỳ sau cùng, trang 42. Những nhiếp ảnh gia khác đều thuộc thế hệ sau Émile Gsell và Bùi Viện, và chỉ đến Việt Nam sau đó: 1884, Charles-Édouard Hocquard(3), Firmin-André Salles(4); 1885, Aurélien Pestel(5); 1988, Gustave Ernest Trumelet-Faber(6), và Pierre Dieulefils. Hình Pierre Dieulefils chụp ở miền Bắc. Nguồn: www.sothebys.com/Cùng thời với Gsell còn có John Thomson (1837-1921), người Tô Cách Lan (Scotland), một trong những nhiếp ảnh gia, nhà địa lý học đầu tiên ghi lại cuộc du hành sang Đông Á. Ông có một số ảnh chụp ở Sài Gòn năm 1867 hiện đã được số hoá và lưu trữ tại Thư viện Wellcome, tại London, Anh Quốc. River-bridge, Saigon. Nguồn: Wellcome Library, London. Wellcome Images images@wellcome.ac.uk wellcomeimages.org Saigon, Cochin China [Vietnam]. Photograph by John Thomson, 1867. 1867 By: J. ThomsonPublished: 1867. Copyrighted work available under Creative Commons Attribution only licence CC BY 4.0 creativecommons.org/licenses/by/4.0/River-bridge, Saigon. Nguồn: Wellcome Library, London. Wellcome Images images@wellcome.ac.uk wellcomeimages.orgSaigon, Cochin China [Vietnam]. Photograph by John Thomson, 1867. 1867 By: J. ThomsonPublished: 1867. Copyrighted work available under Creative Commons Attribution only licence CC BY 4.0 creativecommons.org/licenses/by/4.0/Một số hình Việt Nam ở cuối thế XIX khác của “Héliog Dujardin” là những hình in bằng kỹ thuật photogravure do Louis Dujardin thực hiện từ những tấm ảnh do những nhiếp ảnh gia khác đã chụp. Phố Hàng Bông Hà Nội. Ảnh in photogravure của Héliog Dujardin. Nguồn: Louis Salaun, “L’Indochine”, Paris : Impr. Nationale, 1903. Như thế đi tìm hình ảnh của Bùi Viện, dù với công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, cũng không phải là việc dễ làm. Dùng Google để tìm “Bùi Viện” người ta thấy ngay kết quả đầu tiên là trang của Bách Khoa Toàn thư mở (Wikipedia.org), trong đó tấm ảnh duy nhất là “Bảng di tích Từ đường họ Bùi ở Trình Phố”, và ghi chú “Trong từ đường có thờ Bùi Viện. Ông là đời thứ tám của họ Bùi Trình Phố”. Tuy nhiên, không có hình ông Bùi Viện ở trang này. Bảng di tích Từ đường họ Bùi ở Trình Phố. Trong từ đường có thờ Bùi Viện. Ông là đời thứ tám của họ Bùi Trình Phố. Nguồn: Codobai – Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra, CC-BY-SA 4.0, commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=42352574Bảng di tích Từ đường họ Bùi ở Trình Phố. Trong từ đường có thờ Bùi Viện. Ông là đời thứ tám của họ Bùi Trình Phố. Nguồn: Codobai – Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra, CC-BY-SA 4.0, commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=42352574Những kết quả sau đó phần rất lớn là hình ảnh sinh hoạt trên đường Bùi Viện Sài Gòn; tuy nhiên cũng có một vài tấm hình của một viên quan Việt Nam mặc triều phục, ngồi trên ghế cạnh bàn ba chân trên có để một bình hoa. Một tấm khác cũng là hình vị quan đó ghép cạnh hình Tổng thống Ulysses Grant của Mỹ. Tất cả những trang mạng (đều bằng tiếng Việt) trưng bày hình viên quan đó đều ghi tên là ông là Bùi Viện, nhưng không ghi xuất xứ hay/và tác giả. Đặc biệt, tại “Cổng Thông tin Điện tử Ban Liên lạc Cộng đồng Họ Bùi Việt Nam” đăng hai bài viết về Bùi Viện. Một là “Ước mơ lớn của Bùi Viện”, 1/1/2016, của Từ Khôi – Daidoanket.vn và hai là “Ai là sứ giả Việt đầu tiên vượt trùng khơi đến Hoa Kỳ?”, 1/11/2015, của Trần Hoà, báo Kiến Thức. Cả hai bài đều có tẩm ảnh của vị quan ngồi cạnh bình bông và chú “Bùi Viện (1838-1879)” hay “Chân dung Bùi Viện”. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử Ban Liên lạc Cộng đồng Họ Bùi Việt Nam Riêng tác giả Trần Hoà cho biết đã về xã An Ninh, tên hiện nay của làng Trình Phố (Tiền Hải, Thái Bình) và gặp ông Bùi Luật, “người giữ việc nhang khói ở từ đường họ Bùi, cũng là khu lưu niệm của quan Bùi Viện đang nắm giữ khá nhiều tư liệu cổ.” Tác giả đính kèm hình chụp ông Bùi Luật và những tư liệu về Bùi Viện. Ông Bùi Luật và những tư liệu về Bùi Viện. Nguồn: Trần Hoà, báo Kiến Thức Bài viết trên DCVOnline hay những trang báo, diễn đàn khác thường được cắt & dán lại ở nhiều nơi khác nhau; trong thời đại tự do thông tin và tự do cắt dán, một số nhỏ bài đăng lại có ghi xuất xứ, nhưng phần lớn thì không. Có khi còn tệ hơn nữa, như trường hợp những bài in trên tạp chí (báo giấy) cũng bị đưa vào báo mạng, đổi tên tác giả, cắt xén, thay kết luận như trường hợp của Nguyễn Văn Lục/Nguyễn Thuỵ Hinh với diễn đàn Nam Kỳ Lục Tỉnh(7). Tiêu chuẩn phát hành, và tôn trọng tác quyền của những trang mạng, những diễn đàn tiếng Việt thường khác xa với tiêu chuẩn của những trang báo, diễn đàn của người phương Tây; do đó người viết cũng không ngạc nhiên khi thấy hình ông quan ngồi cạnh bàn có bình bông, được cho là hình của ông Bùi Viện, xuất hiện ở nhiều trang web tiếng Việt. Tuy nhiên, tình cờ, mới đây người viết đọc một bài viết từ 2002 của một tác giả đã có nhiều bài luận văn nghiên cứu về lịch sử đăng trên tạp chí “Nghiên cứu và Phát triển” của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, những trang web như gio-o.com, damau.org ở hải ngoại, và cũng đã có một số tác phẩm phát hành ở Việt Nam như “Thanh-Việt nghị hòa. Tiến trình công nhận triều đại Quang Trung” (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2015), “Việt Thanh Chiến Dịch” (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2016). Đó là bài “Bùi Viện 裴援 (1839-1878) & Cuộc Cải cách Hải quân” của tác giả Nguyễn Duy Chính. Luận văn này cũng được đề cập đến ở phần “Liên kết ngoài” trên trang Bách khoa Toàn thư mở viết về Bùi Viện. Ở trang thứ ba của luận văn 41 trang đó là tấm hình của một vị quan ngồi ghế cạnh bàn ba chân có để một bình hoa và những vật dụng khác. Dưới tấm hình là 3 hàng chữ “Bùi Viện, 1839-1878, (ảnh thờ tại từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình)” Nguồn: Nguyễn Duy Chính, “Bùi Viện 裴援 (1839-1878) & Cuộc Cải cách Hải quân”, 2002 Đó cũng chính là tấm hình đã xuất hiện ở những trang mạng tiếng Việt nói trên. Nhưng tấm ảnh và luận văn của Nguyễn Duy Chính có những điểm khiến người viết phải ngừng lại và suy nghĩ, không như khi đọc bài trên các trang mạng có hình “ông Bùi Viện”. Thứ nhất, người viết tin rằng tác giả là một người làm việc cẩn thận, nghiêm túc; kế đến, ở trang thứ hai của luận văn, ông ghi “Ðể cho em và các con, N.D.C.”; thứ ba tác giả ghi xuất xứ tấm hình là “từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình” Hai điểm sau cho thấy luận văn “Bùi Viện 裴援 (1839-1878) & Cuộc Cải cách Hải quân” là một công trình quan trọng, có giá trị đặc biệt đối với tác giả và gia đình của ông. Và vì thế người viết tin là tác giả phải có lý do thuyết phục để đưa tấm ảnh của vị quan lớn triều Nguyễn vào khung và chú là hình của ông Bùi Viện. Một trong những lý do đó có thể là xuất xứ của tấm hình, “từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình”. Con cháu của ông Bùi Viện để ảnh thờ tổ tiên trong từ đường thì ắt phải là ảnh thật? Thường thì thế, nếu đó là chuyện thế kỷ XX hay sau khi tự chụp ảnh số (selfie) đã trở thành chuyện bình thường trong đời sống người dân Việt Nam. Nhưng trường hợp và ở thời của Bùi Viện thì chưa hẳn như thế. Ở Lời nói đầu, tác giả đã viết, “Trở ngại chủ quan là người viết là không có điều kiện để truy nguyên những nơi có thể còn giữ một số văn bản liên quan đến Bùi Viện ở Huế, cũng chưa thể trực tiếp về làng Trình Phố để làm công việc sưu tầm và thu thập dữ kiện.” Nếu như vậy ảnh thờ ông Bùi Viện ở từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình mà tác dùng trong luận văn có thể chỉ là thông tin từ họ Bùi làng Trình Phố và không phải là điều mắt thấy hay đã truy nguyên cặn kẽ hoặc là dữ kiện do chính tác giả sưu tập. Tuy nhiên đọc “Bùi Viện 裴援 (1839-1878) & Cuộc Cải cách Hải quân” người ta thấy tác giả nhiều phần tin rằng Bùi Viện là một vị quan to triều Nguyễn dù ông cũng đã nhận thấy rằng, “Ngay cả tài liệu ghi lại trong Gia Phả Họ Bùi mà chúng tôi đối chiếu cũng có giới hạn. Một số sự kiện chép lại từ sách báo không được tra cứu kỹ lưỡng […] cùng những truyện kể của các cụ truyền lại, nhưng không có gì để kiểm chứng. […] ít phần tài liệu lịch sử nên cũng không sử dụng được bao nhiêu.” (Lời nói đầu). Ở phần B, “Vai trò của Hải quân trong việc bảo vệ đất nước”, tiểu mục, 2b, “Tổ chức”, tác giả trích dẫn Phan Trần Chúc(8), “Bùi Viện được giao cho chức Tuần Tải Nha Chánh Quản Ðốc kiêm Tham Biện Thương Chính” và khai triển thêm ở cước chú như sau: “Phan Trần Chúc cho rằng chức này tương đương với Tổng Trưởng bộ Hải Quân kiêm Hàng Hải và Thương Mại nhưng e rằng không chính xác. Cũng trong lời phê của vua Tự Ðức có bảo ông phải bàn với Bố Chánh Thanh Hóa rồi hợp tấu lên nhà vua. Bố Chánh (coi việc hành chánh của một tỉnh) triều Nguyễn hàm Chánh Tam Phẩm, như vậy có lẽ chức vụ của Bùi công cũng tương đương, nghĩa là khoảng nhị hay tam phẩm. Vả lại trong tổ chức dưới quyền ông, cao nhất là tứ phẩm nên có lẽ ông cũng chỉ hơn một chút.” Tóm lại, tác giả Nguyễn Duy Chính cho rằng Bùi Viện là một vị quan nhị phẩm hay tam phẩm. Và nhị hay tam phẩm đều là những trật quan to của triều Nguyễn. Đây có thể là một lý do khác, bên cạnh thông tin từ họ Bùi ở Trình Phố, khiến ông đã dùng hình vị quan ngồi ghế cạnh bàn ba chân trên có để vật dụng và bình hoa như hình của ông Bùi Viện. Khi Bùi Viện đỗ Cử nhân (17/22) ân khoa Mậu Thìn 1868 ở Trường Nam Định thì quan Chủ khảo(9) không ai khác hơn là Bố chính Nghệ An Nguỵ Khắc Đản (1817–1873); Năm 1863, 5 năm trước đó, quan Án Sát Nguỵ Khắc Đản, phó tỉnh, trách nhiệm về hình luật và trạm dịch, Quảng Nam(10) là Bồi sứ trong Sứ đoàn Việt Nam sang Paris với Phan Thanh Giản. Đi sứ về, 1864, ông mới được thăng làm Bố Chính Nghệ An, phó tỉnh, phụ trách việc hộ – thuế má, dinh điền, lính tráng và truyền đạt các chính sách, chủ trương của triều đình. Án sát là văn quan trật Tòng tam phẩm. Bố chính là văn quan trật Chánh tam phẩm(11). Đến cuối đời, Nguỵ Khắc Đản mới lên đến trật Tòng nhị phẩm (Tham Tri Bộ Hộ) rồi Chánh nhị phẩm (Thượng thư Bộ Bịnh, Bộ Công). Đệ nhất giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Dần 1856, Thám Hoa Nguỵ Khắc Đản, lập nhiều công trạng dưới triều Tự Đức đến khi qua đời mới là quan Chánh nhị phẩm văn giai(12). Án sát Nguỵ Khác Đản, Bồi sứ , Đoà Sứ giả Việt Nam tại Paris 1863. Nguồn: Jacques-Philippe Potteau Quan Án sát Quảng Nam, Nguỵ Khác Đản, Bồi sứ , Đoàn Sứ giả Việt Nam tại Paris 1863. Tác giả: Jacques-Philippe Potteau Ông Bùi Viện đỗ Cử nhân năm 1868, trong 10 năm ông đã làm nên công trạng gì để có thể là văn quan trật nhị phẩm hay tam phẩm? Vũ Ngự Chiêu, trong phần 2, “Thực chăng Bùi Viện tới Mỹ?” của bài “Nguyễn Ái Quốc: Người Việt Đầu Tiên Đến Mỹ?”(13) đã trả lời câu hỏi nêu trên bằng 2 tài liệu lịch sử, Nguyễn Triều Châu Bản, Tự Đức [CBTĐ], và Đại Nam Thực Lục Chính Biên [ĐNTLCB]. Dẫn ĐNTLCB, IV, 30: 175-176, 227 , tác giả viết về chức quan của Bùi Viện như sau: “Sử nhà Nguyễn ghi rõ Bùi Viện đang mang hàm “Biên tu [7-1, chánh thất phẩm] lãnh trước tác [6-1, chánh lục phẩm]” khi được bổ làm Chánh quản đốc Nha tuần tải” năm 1877. “Bùi Viện chỉ đậu Cử Nhân trường Nam Định, ân khoa năm 1868, nên hoạn lộ khởi đầu với hàm chánh bát phẩm (8:1), rồi ít năm sau mới lên tới biên tu.” ĐNTLCB lại chép “Bùi Viện để thiếu rất nhiều; em là Bùi Bổng phải nhận lĩnh chở thuê để khấu trừ.” (Tháng Chạp Mậu Dần – 12/1878-1/1879) CBTĐ ghi “Ngày 14/9/1878, bộ Hộ trình việc Bùi Viện can tội hối lộ nên không được xét thưởng. Ngày 19/2/1879, bộ Hộ trình việc Bùi Viện vay 100 lạng bạc từ kho Nam Định, bị khiển trách. Trong ba năm 1878-1880, bộ Hộ nhiều lần trình việc các tàu thuyền do Bùi Viện và Bùi Bổng [Phụng] thuê chở hàng hóa đâm phải đá ngầm bị đắm và phải đền bù hàng hóa bị hư hỏng, thiếu hụt.” Và Vũ Ngự Chiêu kết luận, “Bùi Viện lại bị trách phạt nhiều lần, không được thăng thưởng, cách nào lên tới “tham tri” [2:2, tòng nhị phẩm] (tương đương chức Thứ trưởng hiện nay) để phụ trách việc thương chính [khác với tuần tải] miền Bắc?” Tác giả chứng minh Bùi Viện không thể là Tham tri là để phản biện Nguyễn Quốc Thắng & Nguyễn Bá Thế ghi trong Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam là, sau khi được gặp Tổng thống Ulysses S. Grant (1873) về nước Bùi Viện được Tự Đức bổ làm Tham Tri. Mới là văn quan trật Chánh bát phẩm (sau khi đỗ Cử nhân), “đi Mỹ về” bỗng được thăng trật Tòng nhị phẩm là điều không thể xảy ra. Xin xem lại hoạn lộ của quan Nguỵ Khắc Đản. Mặt khác, về chức quan “Tham Biện Thương Chính”, Đỗ Văn Ninh, trong “Từ điển Chức Quan Việt Nam”, viết, “1610. Thừa Biện | Chức quan thời Nguyễn. Ở cấp Bộ, Viện, tỉnh được Trưởng quan trao việc một thời gian, chỉ thừa hành. Khác với Tham Biện có thể tham gia bàn việc. […] Trật Chánh ngũ phẩm văn giai.” (trang 819-20). Như thế, Tham Biện là một chức quan văn giai, có thể ở trật Chánh ngũ phẩm hay Tòng tứ phẩm? Tóm lại biện luận cách nào đi nữa, nếu không có một sử liệu nào khác xác minh Bùi Viện là văn quan tam phẩm trở lên dưới triều Tự Đức, thì tấm hình ghi chú “Bùi Viện, 1839-1878, (ảnh thờ tại từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình)” là một tài liệu có vấn đề. Tại sao tấm hình ghi “Bùi Viện, 1839-1878, (ảnh thờ tại từ đường họ Bùi, làng Trình Phố, Thái Bình)” lại là một tài liệu có vấn đề? Dù là ảnh trắng đen, nếu hiểu về quy chế triều phục của bá quan văn võ Triều Nguyễn năm 1845, người xem ảnh có thể nhận ngay ra vị quan ngồi ghế cạnh bàn có bình bông là một quan văn triều Nguyễn, trật tam phẩm trở lên vì ông trong phẩm phục đại triều, đội mũ phốc đầu tròn và mặc áo (mãng) bào, chân mang hài, tay cầm hốt. Ảnh của Bùi Thụy Đào Nguyên (2012). TGT phụ chú. Xem kỹ hơn nữa, dù là ảnh trắng đen và cánh chuồn không rõ chi tiết, người ta thấy phía trước mũ phốc đầu tròn của vị văn quan có 1 bác sơn (vàng), 2 khoá giản (vàng), 1 hoa (vàng), và 2 giao long (vàng) là tập hợp trang sức mũ phốc đầu của quan chánh nhị phẩm hay chánh tam phẩm văn giai. Nếu sau mũ có hai hoa (vàng) thì đó là mũ của quan văn Chánh nhị phẩm, nếu chỉ có một hoa (vàng) thì đó là mũ của Chánh tam phẩm văn giai.(14) Một cách khác, có thể giúp xác định được tấm hình vị quan (chánh nhị phẩm hay chánh tam phẩm văn giai) có thể là hình của Bùi Viện hay không: đi tìm xem nó được chụp khi nào và tác giả là ai. Sử dụng kỹ thuật tìm hình của Google người ta sẽ thấy gần 200 trang tiếng Việt, Pháp, Hoa, Anh đều có tấm ảnh vị quan trong câu chuyện. Phải gạn lọc mới có thể để tìm đến những trang có tương đối đủ thông tin về tấm ảnh cũng như xuất xứ của nó. Trang hình ảnh và tài liệu “Nguyễn Tấn Lộc” nguyentl.free.fr/ có lẽ là xuất xứ của những tấm ảnh đã được cắt và dán lại ở những trang khác. Ở đây, trang “Nguyễn Tấn Lộc”, người xem sẽ thấy nhiều hình ảnh của những vị quan triều Nguyễn ở trang 6, dưới tiểu đề “Les portraits (1884-1885)” trong tiểu mục Les photos du Docteur Hocquard ou le Vietnam en 1884-1885, ở trang “Images d’autrefois”, trong đó có tấm ảnh của viên quan trong câu chuyện. Tác giả của những tấm hình đó là Bác sĩ Charles-Édouard Hocquard. Ông chụp những tấm ảnh đó trong khoảng 1884-1885, triều vua Hàm Nghi. Bác sĩ Charles-Édouard Hocquard. Nguồn: Charles-édouard Hocquard, “Une campagne au Tonkin: Partie 2″ (French Edition) (French). Adamant Media Corporation – Mar 22, 2002 Theo thông tin của trang “Nguyễn Tấn Lộc”, tất cả những hình ảnh của Charles-Édouard Hocquard lưu trữ tại đây là đóng góp của ông Trần Quang Đông ở Na Uy. Hơn nữa, toàn bộ ảnh của Bác sĩ quân y Pháp Charles-Edouard Hocquard đã được Centre des Archives d’Outre-Mer à Aix-en-Provence phát hành dưới dạng CD-ROM. Như thế, vị quan đội mũ phốc đầu tròn, mặc áo bào, chân mang hài, tay cầm hốt — phẩm hục đại triều của văn quan Triều Nguyễn — ngồi bên cạnh bàn ba chân có bình hoa và một số vật dụng không thể nào là ông Bùi Viện. Tấm ảnh đó là một trong những tác phẩm của Charles-Édouard Hocquard chụp ở Việt Nam trong khoảng 1884-1985, đời vua Hàm Nghi, mà Bùi Viện thì đã qua đời năm 1878, 6-7 năm trước đó, đời vua Tự Đức. Mặt khác, xem ảnh ba vị quan triều Nguyễn dưới đây, người ta khó có thể kết luận vị quan văn XYZ trạc tuổi quan văn Hồ Văn Nhuận, 42 tuổi, hay quan văn Trần Tế, 39 tuổi. Từ đó có thêm câu hỏi, tại sao người ta chọn hình vị quan văn XYZ và cho đó là hình của Bùi Viện, qua đời ở độ tứ tuần, dưới triều Tự Đức? Ba vị quan văn triều Nguyễn (Tự Đức & Hàm Nghi). Nguồn: Jacques-Philippe Potteau và Charles-Édouard Hocquard Và so sánh hình 4 vị quan văn ở Huếvà Bắc Kỳ trong bộ ảnh của Bác sĩ Hocquard dưới đây, người ta có thể có câu trả lời tại sao hình vị quan XYZ lại được chọn làm hình của Bùi Viện. Hình của B.s. Charles-Édouard Hocquard chụp ở Huế và Bắc Kỳ trong khoảng 1884-1885. Dưới đây là tấm ảnh vị quan văn (tam phẩm / nhị phẩm) triều Nguyễn trong phẩm phục đại triều do Docteur Charles-Édouard Hocquard chụp ở Tonkin (Bắc Kỳ) trong khoảng năm 1884-1885. Ảnh số gốc tên là “Mandarin annamite en costume de cérémonie” , số mã FRANOM27 049FI 08N182, có chữ ký “D. Hocquard” ở khung hình. Ảnh do B.s. Charles-Édouard Hocquard chụp hiện lưu trữ tại Thư viện số của Archives nationales d’outre-mer, 29, chemin du moulin de Testas, 13090 AIX-EN-PROVENCE, FRANCE, telephone: 00 33 (0)4-42-93-38-50, e-mail: anom.aix@culture.gouv.fr anom.archivesnationales.culture.gouv.fr/Nguồn: anom.archivesnationales.culture.gouv.fr/madarin_hoquard_1884-85a Vì vậy, tất cả những nhận xét, phân tích về phẩm trật, chức quan của Bùi Viện cũng như về quy chế triều phục của bá quan văn võ Triều Nguyễn hay so sánh ngoại hình và tuổi tác ở phần trên chỉ có tính hàn lâm. Người viết tin rằng hậu sinh chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết mặt ông Bùi Viện. Dưới đây là một đoạn trao đổi, hơn bốn năm trước, giữa tác giả “Chuyện Bùi Viện đi Mỹ, lịch sử hay ngụy biện Chủ nghĩa Dân tộc?” và VTT, người phụ trách trang “tranlucsaigon”. Nguồn: tranlucsaigon Đi tìm Bùi Viện tuy không gặp được mặt ông nhưng người viết hy vọng câu chuyện làng văn này sẽ góp được một phần nhỏ cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam, và ít nhiều cũng là sự trân trọng với tất cả hậu duệ của Bùi Viện, nhất là những người đang giữ trách nhiệm thờ phụng ông ở làng Trình Phố, nay là xã An Ninh, Tiền Hải, Thái Bình. Tháng 10, 2016. DCVOnline Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài và hình do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính. (1) “Les premiers photographes au Việt-Nam”, Les carnets de Philippe Truong, 13 December 2015. goo.gl/cHQAwG (2) John Hannavy (Editor), “Encyclopedia of nineteenth-century photography”: A-I, index, Volume 1, Routledge; 1 edition (Aug. 24 2007), trang 1318-9 và Émile Gsell, Wikipedia.org, goo.gl/IdQ3kI (3) Charles-Edouard Hocquard (1853−1911), “Une campagne au Tonkin” (A campaign in Tonkin), L. Hachette, Paris, CE 1892 (4) “Salles, Firmin André, 1860-1929 et le docteur Baurac – Indochine et autres, 1884-1899”, Des Photographes en Indochine, dir. Philippe Franchini et Jérôme Ghesquière, Paris, Marval/RMN, 2001, goo.gl/UVFvyo (5) Achives nationales d’outre-mer, “Aurélien Pestel’s Indochina”. goo.gl/PKA4Fm (6) “Trumelet-Faber, général Gustave Ernest 1852-1916, Indochine, 1888-1891”, Des photographes en Indochine, dir. Philippe Franchini et Jérôme Ghesquière, Paris, Marval/RMN, 2001, goo.gl/ojo9D4. (7) Nguyễn Văn Lục, “Nguyễn Thuỵ Hinh là ai?”, © DCVOnline, Septemeber 6, 2016. (8) Nguyễn Duy Chính trích lại Phan, Trần Chúc, “Bùi Viện với Chính Phủ Mỹ – Lịch sử ngoại giao triều Tự Ðức”. Paris: Ðông Nam Á, 1985. (chụp lại bản Chính Ký, Hà Nội 1953). (9) Cao Xuân Dục, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thuỵ Lãm dịch Cao Tự Thanh hiệu đính, “Quốc Triều Hương Khoa Lục”, NXB T.p. Hồ Chí Minh, 1983, trang 397-9. (10) Trần Giao Thủy, “Đoàn Sứ giả Việt Nam tại Paris năm 1863”, © DCVOnline, 6 tháng 6, 2012. (11) Đỗ Văn Ninh, “Từ điển Chức Quan Việt Nam”, NXB Thanh Niên, 2005, trang 101-2, 129-30) (12) Ngụy Khắc Đản, Bách khoa Toàn thư mở trích lại Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam chính biên liệt truyện”. Nhà xuất bản Văn Học, 2004. goo.gl/401KIY (13) Vũ Ngự Chiêu, “Nguyễn Ái Quốc: Người Việt Ðầu Tiên Ðến Mỹ?” Hợp Lưu số 93 (2/2007) và số 94 (4/2007). (14) Trần Quang Đức, “Ngàn năm Áo Mũ”, NXB Nhã Nam, 2013, trang 311-4 và Phụ lục “Quy chế triều phục của bá quan văn võ Triều Nguyễn năm 1845” (theo Hội điển). (15) Archives nationales d’outre-mer, AIX-EN-PROVENCE, FRANCE, anom.archivesnationales.culture.gouv.fr/
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 8, 2017 11:11:01 GMT 9
Vẽ Lại Bản Đồ Trật Tự Toàn Cầu Sau Thế Chiến II
Võ Thành Văn Vẽ Lại Bản Đồ Trật Tự Toàn Cầu Sau Thế Chiến II Trong vòng ba thập niên, từ 1914 đến 1945, gần 100 triệu người Âu Châu thiệt mạng không vì thiên tai mà vì một nhân họa, là chính trị: chiến tranh, cách mạng, tàn sát vì nạn diệt chủng hay cải cách nông nghiệp hoặc cải tạo xã hội…. Từ một lục địa đã từng chinh phục cả thế giới trong hơn 400 năm, tai họa ấy lan thành thảm kịch toàn cầu qua Thế chiến I (1914-1918) rồi Thế chiến II (1939-1945). Hai năm sau Thế chiến II, với dấu mốc là 1947, khi các định chế quốc tế do các nước đồng minh thành lập khởi sự hoạt động và khi Kế hoạch Marshalls của Hoa Kỳ bắt đầu tái thiết Âu Châu thì thiên hạ có được thái bình, gọi đó là… Chiến tranh lạnh. Một trật tự khác đã thành hình. Ngày nay, 70 năm sau, trật tự đó chậm rãi tan rã trước mắt chúng ta. Sau đó là gì từ Trung Đông đến Trung Quốc thì chưa ai biết được….
map-middle-east-conflict-war_424219Bản đồ Thế giới Hồi giáo.
Một Chút Lịch Sử Tôn Giáo
Câu hỏi đầu tiên, vì sao Âu Châu đã chinh phục thế giới trong hơn 400 năm – nếu lấy chuyến hải hành năm 1492 của Columbus làm khởi điểm - rồi quay vào giết nhau qua hai Thế chiến? Y như chuyện ngày nay, mọi sự có thể đã khởi đầu từ… Hồi giáo, từ Địa Trung Hải.
Âu Châu thời ấy theo Thiên Chúa giáo, xin dùng tạm một tên chung. Bên kia Địa Trung Hải là Hồi giáo. Hai tôn giáo có quan hệ gắn bó không chỉ từ Cựu Ước mà còn qua giao thương, hợp tác và chinh chiến. Từ vùng biển Địa Trung Hải, văn minh Thiên Chúa giáo bành trướng qua hướng Đông, vào đất Nga ngày nay theo Chính Thống giáo, là một hệ phái Thiên Chúa giáo, và vượt rặng Alps vào nước Đức, nước Anh và các nước Bắc Âu, nay theo đạo Tin Lành hay Anh giáo. Cũng từ Địa Trung Hải, văn minh Hồi giáo Nam tiến vào Phi Châu, trổ ra hướng Đông tới vùng biển Ấn Độ Dương và phía Tây Thái Bình Dương, mà ta gọi là Đông Nam Á.
Ngày nay, nhiều người quên rằng trong các nền văn minh của nhân loại, văn minh Hồi giáo mới phát triển rộng lớn nhất, từ xứ Maroc tại Bắc Phi xuống tới phân nửa lục địa Phi Châu, từ Bắc Phi đến Trung Đông, Trung Á và Đông Nam Á. Nhìn trên bản đồ thì nền văn minh đó có ảnh hưởng tỏa rộng hơn nền văn minh của các Đế quốc Hy Lạp và La Mã thời cổ đại.
Nhờ phát triển mạng lưới như vậy, thương nhân Hồi giáo thả neo buôn bán tại nhiều bến cảng Hồi giáo từ Tây qua Đông, và chiến thuyền Hồi giáo rất giỏi về hải hành cận duyên mà khỏi cần kỹ thuật viễn duyên. Vào thời đó, đầu thế kỷ 15, Trung Hoa cũng đã có cơ hội phát triển mạng lưới viễn duyên từ một Đô đốc Hồi giáo là Tam bảo Thái giám Trịnh Hòa vào đời Minh. Nhưng tám chuyến hải hành của ông từ 1405 tới 1433 kết thúc vì kinh tế kiệt quệ do mối nguy Hung Nô ở mạn Bắc, lại bị hao tốn vì 20 năm kháng chiến của nước Việt ở miền Nam, và nhất là vì tư tưởng Khổng Nho bảo thủ có ảnh hưởng trong triều Minh. Lệnh “Hải Cấm” ban hành sau đó khiến Trung Hoa lỡ hẹn với các đại dương - cho tới ngày nay.
Islam_by_country-1024x472Viễn chinh Hồi giáo tràn vào Âu Châu năm 711.
Sau nhiều thế kỷ chinh chiến rồi giao thương giữa các nước Hồi giáo và Thiên Chúa giáo - lần đầu khởi sự từ năm 711 khi quân viễn chinh Hồi giáo chiếm Tây Ban Nha, vượt rặng Pyrénées tấn công nước Pháp với tham vọng lên tới Anh quốc - thì từ giữa Thế kỷ 15, văn minh Hồi giáo đã phong tỏa toàn cõi Âu Châu Thiên Chúa giáo và năm 1453 đóng chốt phía Đông của Địa Trung Hải khi chiếm kinh đô Constantinople của Đế quốc Đông La Mã Byzantium theo Thiên Chúa giao (Istanbul ngày nay). Các học giả và trí thức Thiên Chúa giáo Đông phương dạt về hướng Tây, sau mở ra phong trào Phục Hưng và khai sáng Âu Châu.
Đấy là lúc các vương quốc bán đảo ở miền Nam Âu Châu, là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trên bờ Địa Trung Hải, có phản ứng. Không phải ngẫu nhiên mà hai nước này theo đạo Công giáo.
Từ mỏm cực Tây gọi là Cabo de São Vicente và thị trấn Sagres, là “cuối bãi đầu ghềnh chân trời góc biển” của Âu Châu, Hoàng thân Henry của Bồ Đào Nha (có biệt danh là Nhà Hải hành Henry, Henry the Navigator) đã xây dựng “bệ phóng”. Ngày nay, bệ phóng có thể là cơ quan NASA để các phi thuyền chinh phục không gian. Thời đó, “bệ phóng” là trung tâm truyền bá kiến thức hải hành để tạo cơ hội cho các nhà thám hiểm lịch sử giăng buồm ra biển, như Vasco de Gama hay Christoper Columbus.
Vì bị Hồi giáo chặn mất hướng Đông, với kiến thức khoa học, sức yểm trợ của vương triều và nhất là niềm tin tôn giáo, họ lao về hướng Tây, vượt Đại Tây Dương tại mạn Bắc mà tìm ra “Tân Thế Giới” là Mỹ Châu, hoặc men theo bờ biển miền Tây của Phi Châu và vòng xuống phía Nam, qua Mũi Hảo Vọng rồi trổ lên Đông Phi tìm ra Ấn Độ Dương và Đông Á. Chúng ta thấy là trước đó, nhiều dân tộc hay nền văn minh khác cũng có kiến thức viễn duyên, nhưng vì sao, hai vương quốc Công giáo này lại sớm chinh phục toàn cầu? Câu trả lời đầu tiên vẫn là tín ngưỡng, là tôn giáo. Sau đó mới là kinh tế, ngoại giao, chính trị và an ninh….
Cũng từ phong trào Phục Hưng, nội tình Công giáo bùng nổ cách mạng với sự xuất hiện của hệ phái Tin Lành rồi Anh giáo tại các nước miền Bắc. Chính mâu thuẫn tôn giáo và nội chiến tại Anh Quốc vào Thế kỷ 17 mới khiến nhiều người theo Thanh giáo, Puritanism, chống ảnh hưởng còn lại của Công giáo trong Anh giáo, mới bỏ nước đi tìm đất sống. Vùng đất mới không thể là thuộc địa Trung Nam Mỹ của hai Đế quốc Công giáo Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang xung đột với Đế quốc Anh nên họ dạt vào Bắc Mỹ. Lớp người Thanh giáo tránh nạn bách hại tôn giáo tại Âu Châu đã lập ra các thuộc địa đầu tiên sau này là Hoa Kỳ.
Từ đấy, Âu Châu khống chế thế giới suốt 500 năm, cho tới khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 và phong trào Hồi giáo thức tỉnh với loại tư tưởng cực đoan nhất. Dưới các tên gọi như Al-Qaeda, ISIS hay Taliban, họ mở cuộc Thánh Chiến để chinh phục toàn cầu, trước nhất là để đánh gục Âu Châu theo Thiên Chúa giáo, gồm có Công giáo, Tin Lành, Anh giáo và Chính Thống giáo...
Ngày nay, và ta nối chuyện ngàn xưa, văn minh Hồi giáo đang làm Âu Châu rúng động. Khốn nỗi, văn minh Thiên Chúa giáo tại các nước Tây phương đã phát huy chế độ thế quyền và tự phế bỏ niềm tin vào nếp tín ngưỡng xa xưa, khi trận chiến mấy trăm năm tái diễn và sẽ làm Âu Châu thay đổi…. Lần trước, Âu Châu bị thay đổi là từ Thế chiến II, sau trận chiến Pháp-Phổ năm 1871 và Thế chiến I. Lần này, sự thay đổi cũng mang kích thước toàn cầu, từ mỏm Tây Âu của các quốc gia bán đảo và quần đảo qua nước Nga nằm ngang đại lục Âu Á tới Trung Quốc tại Đông Bắc Á. Bên dưới là phong trào Thánh Chiến Hồi giáo, với lòng cuồng tín và phương pháp khủng bố, đang từ Bắc Phi Trung Đông bành trướng vào Trung Á qua Nam Á và Đông Nam Á.
Nếu có khác xưa, thì ngày nay các nước Nam Âu theo Công giáo lại kiệt quệ lạc hậu hơn nhóm Bắc Âu theo Tin Lành và đang gây khủng hoảng cho khối Euro và cho cả Liên hiệp Âu Châu. Và do địa dư hình thể, các nước Nam Âu đó trên bờ Địa Trung Hải hết là “bệ phóng” mà là “bãi đáp” cho làn sóng nạn dân của thế giới Hồi giáo tràn lên từ Trung Đông.
Trật tự cũ đang tan rã
Sau một vòng lịch sử thật nhanh, hãy nhìn vào hiện tại.
Nhân loại ngày nay có khoảng bảy tỷ 400 triệu người thì gần năm tỷ dân sống trên đại lục địa Âu-Á, trải ngang từ Tây Âu qua nước Nga, Trung Á và Ấn Độ tới Viễn Đông. Đại lục này từng là trận địa của Thế chiến II, lãnh bom từ London, Berlin tới các quần đảo Phi Luật Tân rồi Tokyo hay bán đảo Triều Tiên và chỉ có hòa bình tương đối – tương đối thôi, Việt Nam ơi – trong 70 năm.
Ngày nay, nền hòa bình đó không còn. Đại chiến hay thế chiến có xảy ra không thì chưa ai rõ, nhưng trật tự cũ thì đã hết, nên nguy cơ chinh chiến có thể tái diễn. Ngày nay, thế giới đang có bốn “điểm nóng” là tại Âu Châu, Nga, Trung Đông và cả Trung Quốc.
Tại Âu Châu, cái mỏm cực Tây của đại lục Âu-Á, bốn yếu tố bất ổn đang gây khủng hoảng là kinh tế, xã hội, định chế, và an ninh. Nguy ngập nhất là hệ thống Liên Âu không thể thống nhất quan điểm về định chế hay cơ chế quyền lực để giải quyết hai bài toán an ninh và kinh tế. Trong năm 2017, các cuộc bầu cử tại nhiều nước Âu Châu càng làm hai bài toán đó gây thêm phân hóa cho cơ chế chung. Và hiện tượng ly khai của Anh quốc là Brexit có thể tái diễn nơi khác.
Tại Liên bang Nga, mối nguy sẽ là kinh tế và chiến lược khiến chế độ tập quyền của Tổng thống Vladimir Putin rung chuyển khi ông chuẩn bị tái tranh cử năm 2018. Giải pháp bành trướng quân sự vào Trung Đông để mặc cả với các nước Tây phương về số phận của Ukraine trong quỹ đạo Nga chưa chắc đã đạt kết quả, ngay cả trong trường hợp Putin hòa giải với Chính quyền Donald Trump của Hoa Kỳ. Mà Liên bang Nga theo Chính thống giáo cũng chẳng thoát mối nguy của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, với điểm nóng trong điểm nóng các nước Cộng hòa Hồi giáo ở miền Nam chỉ muốn ly khai.
BA-BM481C_China_B1280_20161104212734Ngòi nổ tại Trung Quốc.
Tại Trung Quốc với bản chất là Trung Cộng, bài toán kinh tế không có lối thoát sẽ gây bất ổn xã hội, dội ngược lên thượng tầng chính trị khi lãnh đạo Cộng sản Bắc Kinh chuẩn bị Đại hội đảng khóa 19 vào tháng 10 năm nay. Chế độ độc tài độc đảng đã áp dụng kinh tế thị trường có chọn lọc nên chỉ xây dựng được chủ nghĩa tư bản thân tộc, là sự cấu kết giữa đặc quyền chính trị với đặc lợi kinh tế. Sự cấu kết ăn sâu vào cơ chế quyền lực từ dưới lên, từ các địa phương tới trung ương, vào đến Bộ Chính Trị và tay chân thân tộc.
Vì vậy, kinh tế không thể phát triển mà cơ chế chính trị lại bị ruỗng nát, hủ bại. Chiến dịch diệt trừ tham nhũng của Tập Cận Bình không giải quyết nổi bài toán thuộc về bản chất là tư bản thân tộc và cấu kết mà chỉ củng cố ách độc tài. Trong khi đó, y như tại Nga, chủ nghĩa Đại Hán của Bắc Kinh cũng gặp phản ứng chống đối và ly khai của các sắc tộc bị đàn áp. Hiền lành và bần bị là dân Tây Tạng, dữ dội nhất là từ các lực lượng khủng bố Hồi giáo tại Tân Cương nay đã bắt tay với phong trào Thánh Chiến từ Trung Á và ra tay tại nhiều nơi khác. Khi Hoa Kỳ gây áp lực chứ hết tương nhượng như trước, chế độ sẽ lung lay và Trung Quốc Mộng chỉ là Trung Quốc Mị.
Tiếp cận với đại lục Âu-Á, khu vực Trung Đông đang có nội chiến vì cuộc khủng hoảng của văn minh Hồi giáo, mà lại còn muốn mở rộng chiến tranh qua nước khác.
Sau khi nhắc lại lịch sử tôn giáo ở trên, nếu muốn tìm hiểu bài toán Hồi giáo ngày nay, ta nên thấy hai trận Thế chiến xuất phát từ Âu Châu lại lồng làm một, với 31 năm tạm hưu chiến ở giữa! Thế chiến II bùng nổ một phần vì hậu quả kinh tế từ Thế chiến I tỏa rộng lên các nước Đức, Nga, Anh, Pháp. Đấy cũng là lúc mà sự xuất hiện của ba cường quốc mới, là Đức, Nhật và Mỹ, đảo lộn trật tự do hai Đế quốc Anh Pháp thiết lập từ Thế kỷ 19 và làm suy yếu Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo. Vì ngần ấy cường quốc đều nghi ngờ nhau nên sẵn sàng nổ súng!
Khi Thế chiến I kết thúc, hai Đế quốc Anh Pháp cùng nhau làm thịt Đế quốc Ottoman, họ vẽ lại bản đồ Trung Đông với sự hình thành giả tạo của các nước Hồi giáo. Các quốc gia này chỉ có sự ổn định với ách độc tài, còn ý thức hệ hay tín ngưỡng Hồi giáo bị nước Anh đẩy lui và Liên Xô phá hủy bằng chế độ thế quyền thay vì thần quyền. Ngày nay, “Trật tự giả tạo” tại Trung Đông đang cáo chung, nhiều nước muốn tìm lại sức mạnh nguyên thủy của văn minh Hồi giáo. Trong số này, chủ nghĩa Hồi giáo quá khích với phương pháp khủng bố xưng danh Thánh Chiến muốn xây dựng lại Đế chế Hồi giáo huy hoàng thời xưa. Họ muốn vẽ lại bản đồ thành hình từ năm 1921.
Vì vậy, nội bộ Thế giới Hồi giáo bị khủng hoảng giữa các nước có mục tiêu trái ngược, và trào lưu cuồng tín quá khích không chỉ muốn giữ vai trò thống trị mà còn tấn công thẳng vào Tây phương. Cột trụ của khối Tây phương đó là Hoa Kỳ cũng không thoát.
****
Khi nhìn lại Trật tự Thế giới từ Thế chiến II, ai cũng thấy Hoa Kỳ giữ vai trò then chốt.
Trước khi Âu Châu rơi vào cuộc tương tàn, cường quốc đang lên là nước Mỹ đã muốn thay đổi hệ thống quốc tế của Thế kỷ 19 và gặp sự cưỡng chống của các cường quốc truyền thống tại Âu Châu. Ngày nay, hoàn cảnh đảo ngược vì Hoa Kỳ mới trở thành cột trụ của thế lực truyền thống, muốn duy trì trật tự hình thành từ sau Thế chiến II. Sau khi Liên Xô tan rã và mặc nhiên kết thúc 500 năm khống chế của Âu Châu, từ 1492 đến 1991, Hoa Kỳ trở thành siêu cường độc nhất và lạc quan tin rằng từ nay thế giới sẽ đi vào “Trật tự Hoa Kỳ” – Pax Americana.
Nhưng vụ khủng bố 9-11 đảo lộn trật tự đó và khiến Hoa Kỳ lâm chiến trong 15 năm liền mà chưa có kết quả. Ngày nay, Hoa Kỳ lại bị các cường quốc hung đồ thách đố - như Nga, Trung Quốc, hay các nước Hồi giáo - và còn bị các đồng minh Âu Châu giới hạn tầm ảnh hưởng mỗi khi có thể để tiếp tục xây dựng Liên Âu theo mô thức đang phá sản.
Dù là siêu cường số một, có sản lượng kinh tế cao nhất với khả năng quân sự toàn cầu, Hoa Kỳ không thể một mình quản lý được thiên hạ sự, mà cũng chẳng thể lui về cố thủ trong pháo đài nằm giữa hai đại dương. Với chủ nghĩa quốc gia đang hồi sinh, Hoa Kỳ xét lại ưu tiên, phó thác cho xứ khác giải quyết các mâu thuẫn riêng, đa số nằm tại đại lục địa Âu Á, nhưng quyết liệt canh chừng không xứ nào thách đố được quyền lợi của mình. Chế độ hung đồ Trung Quốc sẽ được biệt nhãn: chẳng những lưỡi bò bền ngoài bị chặt mà xương sống bên trong sẽ bị vuốt.
Nhìn theo lịch sử trăm năm, Hoa Kỳ có thể lui về trạng thái của 1917 và 1941, là tránh bị lôi vào các xung đột lớn ở nơi khác và chấp nhận cho Trật tự Toàn cầu hình thành từ năm 1947 sẽ thay đổi. Điều kinh khủng là ngoài Hoa Kỳ, không cường quốc hay lực lượng nào có thể ngăn được sự thay đổi ấy. Vì vậy, đà chuyển hóa sẽ gia tốc, ngày một mạnh hơn, với nhịp độ khủng hoảng dồn dập hơn.
Nhưng nếu cuối chân trời là nguy cơ đại chiến, Hoa Kỳ sẽ lại miễn cưỡng tái xuất hiện….
Võ Thành Vân
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 7, 2017 1:15:38 GMT 9
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và chính phủ Tây Tạng lưu vong tại Ấn Độimage010.gif Đạt-Lai Lạt-Ma (達賴喇嘛) là danh hiệu của một nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc trường phái Cách-Lỗ (格魯派, gelugpa) hay còn gọi là Hoàng mạo phái (黃帽派) tức phái mũ vàng.Đạt-Lai Lạt-Ma là đọc theo phiên âm Hán Việt (達賴喇嘛). “Đạt-Lai” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả” còn “Lạt-ma” là từ tiếng Tây Tạng được dịch từ tiếng Phạn “guru” là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt-Lai Lạt-Ma” có nghĩa là “Đạo sư với trí huệ như biển cả”. Trong lối dùng hàng ngày nhiều người còn dùng từ Phật sống (hoạt Phật) để chỉ Đạt-Lai Lạt-Ma. Danh hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của trường phái Cách-Lỗ (còn gọi phái Hoàng giáo) vào năm 1578. Kể từ 1617, Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 trở thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người Tây Tạng xem Đạt-Lai Lạt-Ma là hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm, và Ban-Thiền Lạt-Ma (Panchen Lama) là người phụ chính. Mỗi một Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là tái sinh của vị trước.Tính đến nay Phật giáo Tây Tạng đã có 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma lãnh đạo phái Cách-lỗ như sau: 1, Căn-đôn Châu-ba (根敦珠巴, Gendun Drub, 1391-1474) 2, Căn-đôn Gia-mục-thố (根敦嘉穆錯, Gendun Gyatso, 1475-1542) 3, Toả-lãng Gia-mục-thố (瑣朗嘉穆錯, Sonam Gyatso, 1543-1588) 4, Vinh-đan Gia-mục-thố (榮丹嘉穆錯, Yonten Gyatso, 1589-1616) 5, La-bốc-tạng Gia-mục-thố (羅卜藏嘉穆錯, Losang Gyatso, 1617-1682) 6, Thương-ương Gia-mục-thố (倉央嘉穆錯, Jamyang Gyatso, 1683-1706) 7, Cách-tang Gia-mục-thố (格桑嘉穆錯, Kelsang Gyatso, 1708-1757) 8, Khương-bạch Gia-mục-thố (姜白嘉穆錯, Jampel Gyatso,1758-1804) 9, Long-đa Gia-mục-thố (隆多嘉穆錯, Lungtog Gyatso, 1806-1815) 10, Sở-xưng Gia-mục-thố (楚稱嘉穆錯, Tsultrim Gyatso, 1816-1837) 11, Khải-châu Gia-mục-thố (凱珠嘉穆錯, Kedrub Gyatso, 1638-1856) 12, Xưng-lặc Gia-mục-thố (稱勒嘉穆錯, Trinle Gyatso, 1856-1875) 13, Thổ-đan Gia-mục-thố (土丹嘉穆錯, Tubten Gyatso, 1876-1933) 14, Đăng-châu Gia-mục-thố (登珠嘉穆錯, Tenzin Gyatso, 1933-nay) Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6/7/1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Tên trước khi được thừa nhận trở thành vị Đạt-Lai Lạt ma thứ 14 là “Lhamo Dhondup”. Ngài được thừa nhận là Đạt-Lai Lạt-Ma vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là Hoá thân của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13.Đạt-Lai Lạt-Ma được tấn phong tước vị vào ngày 22/2/1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng. Nguyên quán & cơ duyên image004.gif Khi Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong v Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ Tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma cũng được hiểu là Hộ Tín,”Người bảo vệ đức tin” (Defender of the Faith), Huệ Hải, “Biển lớn của trí tuệ” (Ocean of Wisdom), Pháp vương,”Vua của Chánh Pháp” (King of Dharma), Như ý châu, “Viên bảo châu như iệc tìm kiếm một người thừa kế. Năm 1935, vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ linh thiêng này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka vàMa hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ. Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đạt-Lai Lạt-Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt-ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt-ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt-ma Kewtsang có mang một xâu tràng hạt (rosary) của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu cầu được cầm xem. Lạt-ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là “Sera aga”, nghĩa là “Lạt-ma ở tu viện Sera”. Tiếp đó, sư hỏi chú bé vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng, và chú cũng cho biết tên chính xác của người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra tất cả và nói: “của tôi, của tôi”. Chú bé ấy chính là Đạt-Lai Lạt-Ma hiện nay. Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh limdo, nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 13. Quá trình tu học tại Tây Tạng Đạt-Lai Lạt-Ma bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của Phật giáo Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ Phật học (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng. Trước đó Ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (sanskrit), Y học (medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát-nhã-ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā), Trung quán (mādhyamika), Giới luật (vinaya), A-tỳ-đạt-ma và Lượng học (pramāṇa). Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thi ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phrasing). Vai trò và trách nhiệm lãnh đạo Vào ngày 17/11/1950, Đạt-Lai Lạt-Ma 14 đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma (bìa phải) gặp gỡ Mao Trạch Đông (ngồi giữa) năm 1954 Đức Đạt Lai Lạt Ma và Mao Trạch Đông Năm 1954, Ngài đã đến Bắc Kinh thương thuyết hòa bình với Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùngNgài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài.Năm 1954, Ngài đã đến Bắc Kinh thương thuyết hòa bình với Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùngNgài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài. Đào thoát khỏi Tây Tạng Nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Ngài cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Cũng trong lúc đó, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ chống đối sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10/3/1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn của quân đội điên cuồng của Hoa lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đạt-Lai Lạt-Ma 14 vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959. Chính phủ lưu vong tại Dharamsala, Bắc Ấn Độ Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một “Lhasa nhỏ”, lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội đồng Dân cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People’s Deputies) vào năm 1960. Trong những năm đầu lưu vong, Đạt-Lai Lạt-Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội đồng Lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đạt-Lai Lạt-Ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn Độ để tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng. Năm 1963, Đạt-Lai Lạt-Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên hiệp quốc để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai. Năm 1965, Ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng Ấn Độ là ông Jawaharlal Nehru, và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng. Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đạt-Lai Lạt-Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, Ngài sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa. Năm 1987, Đạt-Lai Lạt-Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đôWashington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương trình Hòa bình Năm điểm bao gồm: 1, Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình; 2, Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng; 3, Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng; 4, Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; và 5, Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa. Ngày 15/6/1988, tại Strassbourg – Pháp, Ngài nhắc lại Chương trình Hòa bình Năm điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc Kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9/10/1991, trong khi phát biểu tại Đại học Yale – Hoa Kỳ, Ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Ngài nói: – Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nổ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại… chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết. Một Tu sĩ Phật Giáo bình thường Dù được xem là một vị hoá thân, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma 14 thường nói rằng: “Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém” (I am just a simple Buddhist monk – no more, no less). Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ. nghiencuulichsu.com/2017/06/28/duc-dat-lai-lat-ma-va-chinh-phu-luu-vong-tai-an-do/
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 23, 2018 11:59:52 GMT 9
Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VNPhạm Cao Phong Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Paris 16 tháng 1 2017 Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp kết hợp với Tòa thị chính Paris tổ chức triển lãm "Nghệ thuật hòa bình: Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp" Bộ Ngoại Giao và Phát Triển Quốc Tế Pháp, kết hợp với Tòa thị chính Paris đang cho ra mắt công chúng tại Petit Palais (Paris) triển lãm «Nghệ thuật hòa bình: Những bí mật và kho báu của nền ngoại giao Pháp». Đây là lần đầu tiên những kỷ vật hiếm hoi được giữ gìn từ Thế kỷ 4, những tranh, tượng của những danh họa, nghệ sĩ, văn bản, nghi chép nói về con đường gieo mầm, gặt hái hòa bình từ những xung đột, chiến tranh của ngoại giao Pháp ra mắt công chúng. Trong số những tài liệu quý, tôi thấy có bản sao 'Công chứng' với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502. Ngoài ra là 'Văn bản đầu hàng' Đế chế Đức ký kết chấm dứt chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1917, hoặc 'Biên bản trao đổi' giữa Hitler và đại sứ Pháp tại Berlin trước ngày nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ hai. Người ta cũng có thể thấy cẩm nang viết và tra cứu mật mã những văn bản ngoại giao, tài liệu mật giai đoạn Hồng y Richelieu, cùng thời với chàng l'Artagnan trong tiểu thuyết 'Ba chàng lính Ngự lâm' của Alexandre Dumas. Bản sao 'Công chứng' với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502Bản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG Bản sao 'Công chứng' với bút tích viết tay của nhà hàng hải Christophe Colomb ký với Ferdinand và Isabelle Tây Ban Nha năm 1502 Một tài liệu độc đáo khác là bức thư viết trên vàng lá của vua Xiêm (Thái Lan) Mongkut-Rama IV gửi Hoàng đế Napoléon III ngày 17/03/18615 (Ảnh 5). Đại sứ Xiêm đã trình quốc thư độc đáo đó kèm nhiều tặng phẩm quý tận tay Napoléon III và hoàng hậu Eugénie tại lâu đài Fontainebleau ngày 27/06/1861. Với Việt Nam, có hai văn bản nên ngược dòng lịch sử, để ghi nhận và suy ngẫm. Văn bản thứ nhất là 'Hiệp định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954', nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). Văn bản thứ hai là 'Hiệp định Hoàng Phố 1844'. Ai thắng ai ở Geneve 1954? Văn bản Hiệp Định Geneve trưng bày bản gốc tiếng Pháp và tiếng Việt, các trang liên kết với nhau bằng 2 dải dây lụa xanh trắng, trang bìa gắn dấu xi chữ ký Cộng Hòa Pháp và quốc huy của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bản tiếng Việt đựng trong bìa carton mầu vàng nhạt, mầu những bức tường cổ Hà Nội. Bản tiếng Pháp có bìa mầu hồng. Đằng sau những cặp bìa chứa chấp những mưu mô đổi chác, những giọt nước mắt, nụ cười và bi kịch. Người anh cả Nga đã đi đêm, khi Tướng Giáp còn chưa hất tung những chàng lính dù Pháp như nướng những chiếc bánh crêpes bằng những khẩu đại bác của mình. Bản gốc 'Hiệp Định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954' nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương được trưng bày tại triển lãmBản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG Bản gốc 'Hiệp định đình chiến Geneve (Thụy Sĩ) 1954' nhằm chấm dứt chiến tranh tại ba nước Đông Dương được trưng bày tại triển lãm ở Paris Tháng 1/1954 tại Berlin, trong những bàn cãi về thống nhất nước Đức, Ngoại trưởng Nga Vyacheslav Molotov (1890-1986) ngỏ ý giúp Pháp thu xếp đình chiến tại Đông Dương, đổi lại việc Pháp rút ra khỏi khối 'Cộng đồng phòng thủ chung châu Âu'. Lẽ ra ủng hộ phái đoàn Phạm Văn Đồng tại Geneve, người anh thứ hai Trung Hoa lại 'thân thiết, gần gũi' với Pháp, kẻ thất bại trên chiến trường đang cháy lòng tìm kiếm một lối thoát khả thi. Đọc hồi ức của các tướng lĩnh và sử gia Pháp giai đoạn này, người Việt sẽ đánh giá lại món ăn cay sực gia vị 'nghệ thuật ngoại giao Paris' đã dọn cho họ ra sao. Giới quân sự Pháp rền rĩ trước canh bạc trắng tay, rủa những nhà ngoại giao chết nghẹn đi không nghĩ rằng phái đoàn Georges Bidault đến Thụy Sỹ đã cứu thoái cho đạo quân viễn chinh mất tinh thần chiến đấu, tan hàng còn hiệu quả hơn những chiến dịch giải cứu Atlante, Arréthus hay Axelle. Các nhà ngoại giao Pháp lọc lõi, hồng hào, tươi tắn như thể họ còn những con bài sáng giá, mà thật ra đã bị dồn đến chân tường. Ngày 19/06/1954 lên nhậm chức, Thủ tướng Pierre Mendes France đã hứa trước quốc dân sẽ tái lập hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng, muộn nhất là vào ngày 20/07. Song kịch hạn chót của thời điểm, các cuộc thương lượng vẫn dang dở. Để cho chính phủ Pháp không bị đổ vì hứa suông cũng như tôn trọng hình thức công pháp quốc tế, tại phòng đàm phán 'Palais des Nations' ở Geneve, hai chiếc kim đồng hồ giữ nguyên ở số 12. Pháp đến Geneve nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên để cứu đội quân viễn chinh, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp với lập trường của Pháp Trích từ 'Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua', NXB Sự Thật, 10/1979 Sự thật là sang 2 giờ ngày 21/7/1954, Hiệp định đình chiến về Việt Nam và Lào mới được đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký. Hiệp định đình chiến ở Campuchia được ký vào cuối buổi sáng 21/07. «Tuyên bố cuối cùng» mãi đến chiều ngày 21/07 mới được hội nghị thông qua. Tháng 10/1979, nghĩa là sau một phần tư thế kỷ, Hà Nội công bố Bạch thư «Sự thật về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc 30 năm qua». Phải đợi những chiếc xe tăng Bát Nhất chọc thủng phòng tuyến Kỳ Lừa và biển người của Giải phóng quân Trung Hoa tràn sang giết chóc, những dòng chữ như thế này mới được viết: «Pháp đến Geneve nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên để cứu đội quân viễn chinh, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp với lập trường của Pháp.» Các nhà đàm phán Việt Nam thiếu cái hoài nghi lịch lãm nhưng lại lành mạnh đủ mức với những gì những nhà làm chính trị phải có để nhìn ra những cạm bẫy hai khối dành cho họ. Họ dèm pha và khinh miệt đối phương. Căn bệnh tự phụ, răn dạy đạo đức luôn luôn cho rằng mình đúng, những suy nghĩ của họ là bất di, bất dịch. Người ta chế nhạo giọt nước mắt của Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ của Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Việt Nam Cộng hòa sau này, người đã không chịu đặt bút ký vào văn bản chia đôi Việt Nam mà dòng sông có tên Hiền Lương như nụ cười nhạo báng, trớ trêu, chẳng 'hiền' mà cũng chẳng 'lương' trong suốt 30 năm. Không ai nghĩ rằng đó là những giọt nước mắt đầu tiên nhỏ xuống sinh mạng 5 triệu người Việt Nam và 58.000 quân nhân Mỹ sẽ chết. Song đó chưa phải là giá đắt nhất. Đến bây giờ người Việt đối thoại với cựu thù Pháp, Mỹ dễ hơn đối thoại giữa người Việt có quá khứ khác nhau. Họ hỏi nhau đến từ đâu, Nam hay Bắc trong câu hỏi đầu tiên. Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàngBản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG Image caption Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàng Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàngBản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG Ảnh chụp 'Hiệp Định Hoàng Phố 1844' trưng bày tại bảo tàng Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 24/10/1844 giữa Hoàng đế Pháp Louis Phillippe và Hoàng đế nhà Thanh được gọi là 'Hiệp ước hữu nghị và thương mại' trong nguyên bản, thực chất là một trong những dạng hiệp ước bất bình đẳng. Nhà Thanh phải nhượng quyền buôn bán tại năm hải cảng, chấp nhận hiện diện của Pháp tại Trung Hoa, mở đầu tiến trình thực dân hóa của Pháp tại châu Á. Ngay từ năm 1842, Trung Quốc đã bị Anh, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Bồ Đào Nha chẹt cổ bằng hàng loạt các hiệp ước lép vế như Hiệp ước Nam Kinh (1842), Hố Môn (1843), Vọng Hạ, Thiên Tân (1844), Yên Đài (1876), Mã Quan (1895)… Tiến thêm một bước nữa, sau Hiệp ước Hoàng Phố đúng 40 năm, Paris ký với nhà Nguyễn Hòa ước Pháp-Việt Giáp Thân, 1884, còn gọi Hòa ước Patenôtre, đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam. Nhìn những văn bản được trưng bầy tôi có dòng suy nghĩ. Nước Pháp đã thở phào nhẹ nhõm khi thôn tính nền độc lập của Việt Nam, nước được họ coi là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á, một thế lực lớn ở Châu Á sau chiến thắng của Nguyễn Ánh trước nhà Tây Sơn. Trận thủy chiến thư hùng Thị Nại hồi 1801, quân chúa Nguyễn đánh tan hạm đội Tây Sơn gồm 1.800 chiến thuyền, 600 đại bác và 20.000 binh sĩ của Đại tư đồ Vũ Văn Dũng, đã tạo uy danh cho Vua Gia Long. Các cường quốc phương Tây chủ yếu sử dụng 'chính sách pháo hạm' bắt nạt Trung Quốc, Nhật Bản phải dè chừng. 'Qua sông phải lụy đò', sợ cũng phải. Có phải vì vậy mà Việt Nam bị bắt nạt chậm hơn Trung Hoa đến gần nửa thế kỷ? Uy dũng Tây Sơn: Trên chiến trường và trong cuộc đấu ngoại giao "Những trận thắng oanh liệt của Vua Quang Trung khiến nhà Thanh phải e sợ, và khiến nước Việt có tư thế bình đẳng với Trung Hoa" Năm Kỷ Dậu, Quang Trung đánh tan quân Thanh cũng là năm Cách mạng Pháp 1789. Nước Pháp chắc cũng ngần ngại nếu sau khi đặt chế độ bảo hộ lên đất Việt lại phải cử một phái đoàn ngoại giao 'kiểu Nguyễn Huệ' sang Trung Quốc. Họ cũng sẽ run, sẽ sợ 'bút sa không phải gà chết mà nước mất' nếu phải đề cử võ tướng Vũ Văn Dũng giỏi múa kiếm, phá thành hơn cong lưỡi làm thơ, bút đàm làm trưởng đoàn soán chỗ quan văn Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ sang nghị hòa với Càn Long tại Bắc Kinh 18/1/1789. Họ cũng sẽ thấy bức thư gửi 'Thiên triều' ngang ngạnh quá, đi giảng hòa mà ngạo nghễ ngang tàng, như lên lớp cho Trung Hoa về nghệ thuật chiến tranh «quân đội cốt ở chỗ đoàn kết một lòng, không cốt ở chỗ đông, binh lính quý ở chỗ tinh nhuệ không quý ở chỗ nhiều. Kẻ khéo thắng ở chỗ vô cùng mềm dẻo, chứ không phải ỷ mạnh lấn yếu, lấy đông hiếp ít đâu... ». Lần thứ hai phái đoàn Phạm Văn Trị đi Tầu 1/1790 vẫn có kẻ 'Vai năm thước rộng, thân mười thước cao', 'Chinh Nam Đại tướng quân' Ngô Văn Sở, dũng tướng được Nguyễn Huệ gọi là 'nanh vuốt của ta', người đã chém đầu Đề đốc Hứa Thế Hanh và Tả dực Thượng Duy Thăng, bức tử Sầm Nghi Đống, sang đòi bỏ lệ cống người vàng cúng cái đầu Liễu Thăng rơi ở ải Nam Quan. Lần thứ ba đi sứ cũng vẫn là võ tướng Vũ Văn Dũng với nhiệm vụ rõ ràng: «Sắc truyền cho Hải Dương Chiêu viễn Đô đốc tướng quân Dực vận công thần Vũ quốc công được gia phong chức chánh sứ đi sứ nước Thanh, được toàn quyền trong việc đối đáp tâu xin hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc tức." "Phải thận trọng đấy! Hình thế trong chuyến dụng binh đều ở chuyến đi này. Ngày khác làm tiên phong (đánh nước Thanh) chính là khanh đấy. Kính thay sắc này.» Triều đại Việt nào làm ngoại giao tế nhị, tinh tế như thế? Triều đại Tây Sơn không chỉ đánh đuổi giặc ngoại xâm từ phương Bắc mà còn tỏ thái độ cứng rắn trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc Những người chơi đồ cổ Hà Nội rất vui khi kiếm được một món đồ nào đó của triều đại này. Một triều đại được họ cho là 'nhân văn, nhân ái'. Triều đại không muốn nghe nhắc đến tên một dòng sông đất Việt, không muốn nhớ đến võ công một nước bé tý đã thắng đội quân Mông Cổ mà chính Trung Hoa đã phải quỳ gối hồi Thế kỷ 13. Nước Pháp kỷ niệm 200 năm Cách mạng 1789 đã từ chối lời ngỏ ý của tướng Giáp được tham dự ngày hội trên Quảng trường Concorde. Đất nước 'ánh sáng, văn minh' đi gần sang Thế kỷ 21 mà còn nặng lòng, ấm ức với người thắng họ ở Điện Biên Phủ. Càn Long 'lú' không ngửi thấy mùi thuốc súng còn vương trên chiến bào của Võ Văn Dũng, Ngô Văn Sở? Quan binh chết nghẽn dòng Nhị Hà ai cũng sướng 'làm quỷ nước Nam, hơn làm vua đất Bắc', chẳng kẻ nào lê gối về khóc với Bắc Kinh? Quan binh chết nghẽn dòng Nhị Hà ai cũng sướng 'làm quỷ nước Nam, hơn làm vua đất Bắc', chẳng kẻ nào lê gối về khóc với Bắc Kinh? Phạm Cao Phong Định mệnh cho thêm Quang Trung một vài năm, đất Việt sẽ có một công chúa nhà Thanh đôi mày xanh chiêm bao về làm dâu với hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây như nhượng địa 'xin đểu' kiểu Hong Kong, Ma Cao? Và lúc đó, Việt Nam chứ không phải là Pháp sẽ ký tại Quảng Tây Hiệp ước Hoàng Phố, trong tiếng Anh gọi là Whampoa này. Có thể còn trước hơn rất nhiều? Mong ước của Quang Trung có 10 năm yên ổn phát triển thì "mình sợ gì nó (chỉ Trung Hoa)" không có. Việt Nam chưa từng có một cơ hội như Pháp ký với Trung Hoa một hiệp định chặn họng tương tự. Sau chiến thắng khẳng định nền độc lập 1789, nước Việt có tư thế bình đẳng với Trung Hoa. Song lợi thế này không được khai thác và tiếp nối sau khi Quang Trung mất. Việt Nam đã thiếu tự tin để cuối cùng phải nhận một bản hiệp ước mất chủ quyền như Hòa ước Patenôtre? Người Pháp khi đàm phán về ba tỉnh miền Nam nhủ thầm "nếu đòi được chiến phí vài triệu frances thì quá tốt rồi", thì họ lại được cả ba vùng đất. Việt Nam là một trong ba trường hợp hiếm hoi như Nga, Hoa Kỳ từ Thế kỷ 17 mà sự mở rộng bờ cõi không bị lịch sử trừng trị và lụn bại. Nước Pháp có trọn vẹn Waterloo, Điện Biên Phủ, song vẫn giữ vị thế là một trong năm cường quốc. Nên học gì ở họ để 'dân giầu, nước mạnh'? Napoleon nói: «Những thiên tài như những mảnh thiên thạch chói sáng dẫn dắt lịch sử». Đất Việt thiếu những thiên thạch để mở mặt, như họ đã để tuột các cơ hội chăng? Có quá nhiều giả định, nhiều 'NẾU' trong bước đường khẳng định một quốc gia hùng cường. Chữ 'NẾU' ấy chỉ như đám mây ngũ sắc, chiếc cầu vồng bắc qua nền trời sau cơn mưa. Những tuấn kiệt của lịch sử hay kẻ nghèo hèn đều không bước chân lên được chiếc cầu hư ảo để sang bờ bên kia của Định Mệnh, chỉ còn vạt nắng trôi theo chân người của tiếc nuối, cam chịu. Một lúc nào đó chúng ta sẽ có cơ hội được xem những văn bản "Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam", được 'chiêm ngưỡng' Hiệp định Thành Đô ở Hà Nội chăng, như hôm nay ở Paris? Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả hiện sống tại Paris, Pháp.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 30, 2019 6:54:06 GMT 9
TRUNG CỘNG, SẼ LÀ CON CỜ THỨ 2 CỦA CỘNG ĐỒNG MỸ GỐC DO THÁI
Ngày đăng: 2019-06-26 Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
TT Donald Trump đánh giá cao sự hợp tác của Do Thái 1.- Cộng Đồng Giàu Nhất Thế giới Cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái có khoảng từ 5,3 đến 8,4 triệu người gồm 3 nhóm, lớn nhất là nhóm Ashkenazi, chiếm đến 90% dân số cộng đồng, hai nhóm khác là Sephardic và Mizrahi. Người Do Thái xem quan trọng 3 thứ : Do Thái Giáo (Judaism), trí thức và tài sản. Do Thái Giáo đã giúp cho người Do Thái bị phiêu bạt mấy ngàn năm mà không mất gốc. Trí thức giúp cho người Do Thái vươn lên đứng đầu mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại (30% giải Nobel được trao cho người Do Thái). Tài sản đã làm cho người Do Thái giàu có mà đặc biệt là cộng đồng Do Thái tại Mỹ đang quản lý một số tài sản có thể ngang với từ 15 % đến 20% tài sản của nhân loại. Người Do Thái rất đoàn kết, có tổ chức và không giữ bí mật để làm lợi riêng nên khi họ quây quần thành tập thể thì họ có cơ chiếm hết mọi quyền lợi chung quanh và trở thành mối họa cho những cộng đồng bản xứ nơi họ định cư. Thế chiến thứ II, người Đức đã thấy được mối họa Do Thái nên đã diệt chủng hơn 2 triệu người Do Thái. Thảm cảnh Holocaust đã làm động tâm cả nhân loại nên các cường quốc mới dành một mảnh đất nhỏ bên bán đảo Sinai của Ai Cập để cho người Do Thái có chổ đi về, nước Israel. Cộng đồng Do Thái ở Mỹ thoát được sự tàn phá của hai trận thế chiến và không bị họa Holocaust nên họ vươn lên giàu có rất nhanh và chiếm lấy nước Mỹ và dùng nước Mỹ như một con cờ điều khiển cả thế giới. ( Helen Thomas, một phóng viên nổi tiếng và là một thành viên của cơ quan báo chí Tòa Bạch Ốc hơn 50 năm, đã bị sa thải. Về sau, bà đã đọc một diễn văn tại một hội nghị ở Detroit trong đó bà trình bày quan điểm cho rằng “Quốc Hội, Tòa Bạch Ốc, Hollywood, và Wall Street đều bị Do Thái làm chủ. Dứt khoát là thế.” (Congress, the White House, Hollywood, and Wall Street are owned by Zionists. No question in my opinion.) 2.- Mục tiêu tối hậu : Tiền Nhóm Sephardic là nhóm người Do Thái đầu tiên từ Tây Ban nha và Bồ Đào Nha di cư sang Mỹ, Đến năm 1749 đế quốc Anh làm luật cho ưu tiên người Do Thái di cư sang thuộc địa cùa Anh tại Hoa Kỳ. Năm 1880 Châu Âu đi vào khủng hoảng kinh tế nên cộng đồng Do Thái nói tiếng Yiddish thuộc nhóm Arkenazi ở các nước nghèo đói Trung Âu và Đông Âu tuôn sang Hoa Kỳ khoảng 2 triệu người. Họ làm đủ nghề thấp kém nhất để kiếm sống và nhanh chóng biến thành ông chủ trong mọi ngành. Nay điều hơi khó khăn là tìm cho ra một người Mỹ gốc Do Thái không phải là triệu phú, họ tập trung đông nhất ở mạn dưới Manhattan của New York, từ đó bàn tay Do Thái vươn ra quậy khắp thế giới với một mục đích tối hậu là để kiếm …. TIỀN. Khi phân tích tình hình thế giới đi về đâu, cái gì đang xảy ra, cái g ì sẽ xảy ra mà muốn điều phân tìch ấy sâu sắc và chính xác thì chúng ta nên nhìn vào khối tài sản của cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái hướng vào đâu để đầu tư, như thế là nên nhìn cho ra địa điểm đầu tư, hướng giải quyết sản phẩm đầu tư hay nhìn vào hướng cung và hướng cầu có thề làm cho số tiền đầu tư ấy được sinh lợi thì mới biết được mục đích của các diễn biến trên trường quốc tế. 3.- Các địa điểm đầu tư trước đây. Một số chuyên gia về đầu tư cho rằng có 3 yếu tố cần phải nghĩ đến khi bắt tay vào việc đầu tư : Yếu tố thứ nhất : Địa điểm đầu tư (Location) Yếu tố thứ hai : Cũng là địa điểm đầu tư Yếu tố thứ ba : và cũng là địa điểm đầu tư Địa điểm đầu tư của tập đoàn tư bản Do Thái tại Hoa Kỳ lẽ dĩ nhiên là nước Hoa Kỳ, là một vùng an toàn nằm ngoài nhiều xung đột của thế giới, khi đầu tư thành công thì lợi nhuận làm cho số tài chánh ngày càng tăng thì phải nghĩ đến một địa điểm đầu tư khác nằm ngoài Hoa Kỳ, để cho số tài chánh thặng dư sinh thêm lợi nhuận. Sau thế chiến thứ II địa điểm đầu tư ngoài nước Hoa Kỳ mà tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái chọn là 2 nước Đức và Nhật, bởi hai nước này là hai nước hoang tàn đổ nát, các cơ sở sản xuất vẫn có mà công nhân thì đang chết đói đang cần những bị bạc của những nhà tư bản Do Thái vực dậy để sản xuất ra những sản phẩm rẽ mạt bán khắp năm châu. Sau hơn 20 năm thâu lợi nhuận hã hê, một người Nhật hay người Đức làm ra một đồng thì phải chia cho người Do thái ở Mỹ một ít, tập đoàn tư bản Do Thái rút tiền đầu tư từ hai nước này về vì họ nhìn ra một địa điểm đầu tư khác hấp dẫn hơn, nước Trung Quốc. Nước này đang bị đại loạn của Hồng Vệ Binh, anh Mao Xếng Xáng giết các đồng chí của anh ta nên gây ra thảm cảnh 36 triệu người chết… vì đói. Các cơ sở sản xuất tiêu điều mà công nhân hơn 1 tỷ người đang thất nghiệp. Tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ rót tiền vào đâu tư làm ra những sản phẩm rẽ mạt ” Made in China” bán ra toàn thế giới. 4.- Khủng hoảng địa điểm đầu tư : Để giải quyết những sản phẩm quân sự làm ra tại địa điểm đầu tư ở Hoa Kỳ, tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái đã đem quân Mỹ gây bất ổn khắp Trung Đông khiến cho các ông vua dầu lửa phải chạy đua vũ trang hay nói cách khác đem tiền bán dầu đưa cho tập đoàn tư bản Do Thái để đổi lấy những đoàn tàu bay tàu bò giết nhau cho bỏ ghét. Chính sách này gây cho nước Mỹ bị thù ghét khắp Trung Đông. Vụ đánh sập Tòa Tháp Đôi năm 2001 ở New York đã làm cho những tập đoàn tư bản Do Thái giật mình hoảng sợ và điều đầu tiên mà bất cứ anh nhà giàu nào khi lo sợ cũng phải làm là lo giữ của. Sau một thời gian dài hơn 20 năm thâu lợi nhuận nhờ đầu tư vào đúng địa điểm, một nước Trung Cọng nghèo đói tan hoang. Tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái tính toán không thể kiếm thêm lợi nhuận hơn nửa vì chi phí đầu tư quá cao và sẳn dịp Tòa Tháp Đôi bị đánh sụp nên họ đồng loạt rút tiền về nước rồi đem cho vay dễ dàng, tắt trách mới sinh ra cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Hoa Kỳ vào năm 2008. Hiện nay số tài sản kết sù này đang đưa nền kinh tế Hoa Kỳ qua cơn suy thoái, đang chê Châu Âu già cổi nên khó kiếm ra tiền, Châu Phi hoảng loạn không an toàn để đầu tư, Trung Đông nguy hiểm lắm kẻ thủ vừa mất tiền đầu tư vừa mất mạng. Khối tài sản kết sù này đang nhắm nhé hướng về Châu Á Thái Bình Dương, một vùng năng động chưa khai phá hết, để đầu tư nên nước Mỹ mới lập nên có hiệp định TPP làm nòng cốt, và chính quyền Hoa Kỳ xoay trục sang Châu Á để bảo vệ vùng đầu tư. Nhưng các quỉ đầu tư của các tập đoàn tư bản Do Thái chưa chuyển động, phải chăng họ đang mưu tạo ra một địa điểm đầu tư lý tưởng ở Châu Á như Đức và Nhật sau thế chiến thứ II ? 5. Mưu tạo địa điểm đầu tư mới Nay chúng ta thấy tình hình Châu Á có những biến chuyển như sau : Trung Cọng gây bất ổn ở Biển Hoa Đông và Biển Đông. Siêu quyền lực Bilderberg club họp ngày 6/6/2014 tại Watford ở Anh Quốc lên kế hoạch chia Trung Cọng thành 5 nước nhỏ. Trung Cọng bồi đắp các đảo nhân tạo để núng ra ở Biển Đông. Các nước Đông Nam Á lo sợ chạy đua vũ trang. Hoa Kỳ đè dặt tuần tra Biển Đông v.v… Mấy hôm nay người viết bài này đọc được bản tin như sau : Ông Obama đã cảnh cáo quan chức Trung Quốc: Nếu quý quốc dám gây chiến tranh với Philippines, Việt Nam, Nhật Bản, tôi chỉ cần nói ra 6 điều là Trung Quốc tan vỡ, không phải sử dụng đến dù chỉ một người lính. 1. Công bố tài khoản nước ngoài của quan chức Trung Quốc và cho đóng băng. 2. Công bố danh sách quan chức Trung Quốc có hộ chiếu Mỹ. 3. Công bố danh sách người nhà các quan chức cấp cao Trung Quốc định cư tại Mỹ. 4. Ra lệnh thanh tra biệt thự và tình nhân của quan chức Trung Quốc ở Los Angeles. 5. Đưa người nhà quan chức Trung Quốc đang sống tại Mỹ đến nhà tù nổi tiếng của Mỹ ở Guantanamo (Cuba). (!)** 6. Tiếp tế vũ khí cho công nhân thất nghiệp ở Trung Quốc (có lẽ chỉ cần áp dụng điều thứ 6 này là đủ). Người viết nghĩ : Đây là lời đe dọa thứ hai nhắm vào Trung Cọng sau khi đe dọa lên kế hoạch chia Trung Cọng thành 5 nước nhỏ. Đe dọa có nghĩa là anh phải thực hiện những thỏa thuận đã đề ra. Nếu anh không thực hiện những thỏa thuận đã đề ra thì tôi sẽ thực hiện những thứ sau đây …. làm anh thiệt hại. Vậy những thỏa thuận đã đề ra là những thỏa thuận gì ? Những thỏa thuận đã đề ra thường thuộc loại TOP SECRET nên không ai biết được. Giống như thỏa thuận bán đứng MNVN giữa tên Do Thái Henry Kissinger và thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Cộng phải 30 năm sau mới lòi ra. Người viết xin đoán mò : Thỏa thuận 1 : Làm bất ổn để Châu Á chạy đua vũ trang cho tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ bán vũ khí kiếm tiền (đã và đang thi hành) Thỏa thuận 2 : Gây chiến tranh phá nát vùng Đông Nam Á để tạo một địa điểm đầu tư lý tưởng cho tập đoàn tư bản Do Thái ở Mỹ bỏ tiền vào đầu tư ( chưa thực hiện ). Người viết xin bình luận thỏa thuận 2 : Tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái và chính quyền Hoa Kỳ tuy hai mà một tuy một mà hai. Trung Cọng muốn độc hiếm Biển Đông thì phải đánh chiếm trọn Đông Nam Á mới thành công. Đánh chiếm Đông Nam Á lại là cơ hội cho các cường quốc xâu xé nước Trung Hoa thêm một lần nửa. Tiến thoái lưỡng nan đang làm cho anh Đại Hán tham ăn ngồi trên đống lửa. Nostradamus tiên tri thế chiến thứ III xảy ra do AntiChrist điều khiển. Các thầy bàn Phương Tây đang đi tìm AntiChrist là ai. Họ quên rằng Nostradamus không nói AntiChrist là cá nhân hay tập đoàn. Nếu là tập đoàn thì chuyện tìm ra AntiChrist thì cũng dễ thôi.
Nhất Hướng Nguyễn Kim Anh
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 21, 2019 2:15:49 GMT 9
CHỮ VẠN - BIỂU TƯỢNG CỦA TƯƠNG TÁC VÀ VẬN ĐỘNG CỦA VŨ TRỤ.diendan.lyhocdongphuong.org.vn/chu-de/Bản chất thật của chữ Vạn là gì? Cho đến ngày hôm nay, khi tôi đang gõ những hàng chữ này, những nhà nghiên cứu vẫn đang đi tìm bản chất của chữ Vạn, vốn xuất hiện trong các nền văn minh cổ đại trên thế giới từ 16. 000 năm qua. Và họ chỉ dừng lại với quan niệm cho rằng: "Chữ Vạn là một biểu tượng mang tính tín ngưỡng". Nhưng từ 16. 000 năm trước - tức là khi mà các dân tộc trên thế giới này chưa hình thành để xuất hiện những tín ngưỡng, thì biểu tượng chữ Vạn có một nội hàm như thế nào? Trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia mô tả chữ Vạn như sau: Trích: Chữ Vạn (tiếng Phạn: स्वस्तिक svastika, chữ Hán: 卍) là một biểu tượng chữ thập với bốn góc vuông về góc phải và hướng sang bên phải, có hướng các đầu mút xoay ngược chiều kim đồng hồ (đường đi rẽ phải). Tên gọi svastika (gồm chữ sv và asti ghép lại) hiểu theo tiếng Phạn có nghĩa là "phúc lộc, an khang, thành công thịnh vượng". Biểu tượng chữ Vạn của Ấn Độ giáo, đôi khi còn được trang trí thêm các chấm tròn ở các góc một phần tư. Đây là biểu tượng của sự may mắn, đã từng xuất hiện lần đầu khoảng 16.000 đến 14.000 trước công nguyên. Biểu tượng này được lấy ý tưởng từ việc quan sát vũ trụ, hệ mặt trời, nó thể hiện nơi phát sinh ra nguồn sống vô tận, và sự vĩnh hằng. Trong tín ngưỡng Ấn Độ giáo, chữ Vạn được đồng hóa với thần Vishnu và được liên kết với thần Shiva và việc thờ rắn thần Nagar. Chữ Vạn là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật, vị trí trên ngực. Nó biểu thị công đức vô lượng của Phật. Chữ Vạn là phù hiệu, không phải là chữ viết. Viết xoay bên trái hay bên phải đều được, tuy rằng có một số nhà Phật học tranh luận nhau về hướng xoay của phù hiệu này. Lịch sử Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ này. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô (Phạn ngữ: Visnu), Cát Lật Sát Noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy. Theo công trình nghiên cứu của tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở trường đại học Quốc Sĩ Quán, Nhật Bản thì chữ Vạn vốn không phải là chữ viết. Bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên đã thấy ghi trong đạo Bà-la-môn ở lồng ngực của thần chú Tỳ Thấp Noa với ký hiệu là vátsa, cho tới thế kỷ thứ III trước Công Nguyên mới được dùng trong kinh Phật. Đến thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên lại đổi tên thành svastiko, vốn là tướng hình trôn ốc túm lông đầu con trâu, lại biến thành lông ngực của thần chủ Tỳ Thấp Noa, sau đó trở thành một trong 16 tướng tốt, rồi lại thành một trong 32 tướng tốt.[1] Theo kinh Trường A Hàm, chữ Vạn là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật. Theo Đại Tất Già ni càn tử sở thuyết kinh quyển 6, chữ Vạn là tướng tốt thứ 80 của Thích Ca Mâu Ni, nằm trước ngực.[1] Trong Thập địa kinh luận quyển 12 có nói, khi Bồ Tát Thích Ca chưa thành Phật, giữa ngực có tướng chữ Vạn kim cương, biểu thị công đức trang nghiêm. Nhưng Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm quyển 3 có nói đầu tóc của Phật cũng có 5 tướng chữ Vạn.[1] Trong Hữu bộ Tỳ nại Da tạp sự quyển 29 nói: Ở lưng của Phật cũng có tướng chữ Vạn.[1] Trong kinh Đại Bát Nhã quyển 381 nói rằng: chân tay và trước ngực của Phật đều có "Cát tướng hỷ toàn" để biểu thị công đức của Phật, tức là chữ Vạn.[1] Cưu Ma La Thập và Huyền Trang dịch chữ Vạn là chữ Đức, ngài Bồ Đề Lưu Chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào kinh truyện, đến năm 639, thời Võ Tắc Thiên, mới đặt ra chữ này, đọc là Vạn và cho rằng chữ này có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành. Năm 1935 – Đức Quốc Xã ban hành luật tước đoạt quyền công dân của người Do Thái tại Đức và đổi quốc kỳ mới có chữ Vạn. Thưa quý vị và các bạn. Từ năm 2001, trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", tôi đã chưng minh chữ Vạn chính là một biểu tượng mô tả sự vận động và tương tác của vũ trụ. Chữ Vạn ngược, chính là biểu tượng chiều vận động của vũ trụ; chữ Vạn xuôi, chính là biểu tượng chiều tương tác của vũ trụ (Chiều ngược lại). Trên trang web của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - Tòa Thánh Tây Ninh - cũng có bàn về chữ Vạn. Và họ cũng xác định không rõ ràng về biểu tượng Chữ Vạn thế nào là đúng. Cuối cùng, cũng nói chung chung cho rằng "Chữ Vạn tượng trưng điều lành, điều tốt đẹp, vì nó hiện ra trên ngực của Đức Phật, nó là một trong 32 tướng tốt của Phật". Nhưng vấn đề đặt ra: "Chữ Vạn trên ngực Đức Phật là chữ Vạn nào? Khi có đến hai chữ Van với hai chiều khác nhau". Thưa quý vị và các bạn: Tôi xác định rằng: Chữ Vạn theo chiều xuôi kim đồng hồ chính là biểu tượng của chiều tương tác của vũ trụ, Hình dưới bên phải (Chiều tương sinh Ngũ hành của Hà Đồ) . Chữ Vạn ngược chính là chiều vận động của vật chất trong vũ trụ này - Hình dưới bên trái (Chiều tương khắc Ngũ hành của Lạc Thư). Không có văn bản thay thế tự động nào. Quý vị và các bạn so sánh hình minh họa dưới đây: CHỮ VẠN NGƯỢC CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG TRÊN THỰC TẾ CỦA VŨ TRỤ - SO VỚI ĐỒ HÌNH LẠC THƯ. CHU VAN 2.jpg CHỮ VẠN XUÔI CHIỀU KIM ĐỒNG HỒ - MÔ TẢ CHIỀU TƯƠNG TÁC TRONG VŨ TRỤ - SO SÁNH VỚI ĐỒ HÌNH HÀ ĐỒ. Bây giờ quý vị và các bạn xem lại hình minh họa cho sự vận động của vũ trụ và so sánh biểu tượng chữ Vạn trong hình dưới đây và đối chiếu với hình Âm Dương Lạc Việt: Không có văn bản thay thế tự động nào. Thưa quý vị và các bạn. Tôi đã chứng minh rằng: Đồ hình Âm Dương Lạc Việt là một biểu tượng phổ biến trong tất cả những di sản của các nền văn minh cổ đại, được phát hiện trên thế giới. Và chúng có nhiều nhất trong những di sản văn hóa truyền thống Việt, chính là biểu tượng của sự vận đông tương tác của vũ trụ. Đó cũng chính là biểu tượng của chữ Vạn. buc-tranh-dong-ho-lon-dan-son-dau-dep.jpg Tất cả mọi sự trùng khớp, mang tính hợp lý lý thuyết, đã minh chứng cho một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ - mà ít nhất có từ 16. 000 năm trước, qua di sản chữ Vạn - đã tồn tại trên trái Đất này. Nền văn minnh này đã thể hiện một tri thức thiên văn siêu việt, qua biểu tượng chữ Vạn, mà phổ biến nhất chính là đồ hình Âm Dương Lạc Việt. Điều này là một bằng chứng sinh động và sắc sảo nữa xác định rằng: Nền văn minh Lạc Việt chính là hậu duệ của nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên trái Đất này. Và chỉ có những di sản huyền vĩ lưu truyền trong những giá trị của văn hóa truyền thống Việt, mới đủ khả năng phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch. Đó chính là Lý thuyết thống nhất (Grand Unification Theory) mà nhân loại đang mơ ước.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 16, 2022 17:19:06 GMT 9
Thống Tướng MacArthur & Thủ Tướng Shinzo Abe: Hai Nhân Vật, Một Tấm Lòng Vương Trùng Dương .
“Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác”. (Triết gia Marcus Tullius Cicero) Mỗi nước theo truyền thuyết và lịch sử có vài tên gọi khác nhau, trong đó Nhật Bản với các tên gọi: Đất Nước Mặt Trời Mọc, Xứ Sở Hoa Anh Đào, Xứ Sở Phù Tang, Đất Nước Hoa Cúc… Kể từ thời Kama-kura, hình ảnh hoa cúc 16 cánh được sử dụng làm con dấu của Thiên Hoàng. Cho đến nay, biểu tượng loài hoa này vẫn được xem là biểu tượng quan trọng của Hoàng Gia Nhật Bản. Ngày 11/7/2022, chính phủ Nhật đã truy tặng Huân Chương Hoa Cúc - huân chương cao quý nhất của Nhật để vinh danh cố Thủ Tướng Shinzo Abe. Cố Thủ Tướng Shinzo Abe là thủ tướng thứ 4 của Nhật Bản được trao tặng huân chương cao quý này sau Đệ Nhị Thế Chiến, các vị tiền nhiệm có Shigeru Yoshida, Eisaku Sato và Yasuhiro Nakasone. Nhật Bản ngày nay không những trở thành cường quốc kinh tế mà gìn giữ được nếp sống văn minh, lịch sự, phong tục tập quán cao đẹp, tinh thần tự trọng… và, đặc biệt nói “không” với trộm cắp. Người Nhật với tinh thần trách nhiệm cao, mạnh mẽ và luôn luôn hướng thiện. Với nền giáo dục khắt khe, đức dục là vấn đề quan trọng nhất dạy dỗ, rèn luyện trẻ thơ từ khi bước vào mái trường. Trong những lần xảy ra thiên tai (động đất, sóng thần) tại Nhật, những hình ảnh ghi lại cho thấy tinh thần tự trọng, nhân bản… của các nạn nhân khi xếp hàng nhận cứu trợ, trật tự, bình thản, biết nhìn nhượng nhau… mọi người trên thế giới nễ phục. Ở nông thôn, chủ nhà vườn bán sản phẩm cho khách hàng, không cần hiện diện mà chỉ để trên bàn, số lượng với giá tiền… khách hàng ý thức “thuận mua vừa bán” sòng phẳng… Đơn cử vài điểm son đó thể hiện tinh thần và xã hội Nhật Bản ngày nay xóa tan bóng đen bao phủ trước Đệ Nhị Thế Chiến. * Từ cựu thù trở thành Thiên Sứ Sáng ngày 15/4/1951 khi Thống Tướng MacArthur (1880-1964) ngồi lên xe ra phi trường quay về Mỹ thì nhận được tin đích thân Thiên Hoàng Hirohito và Thủ Tướng Yoshida đến văn phòng tiễn chân vị “Shogun” (Sứ Quân) mà họ vô cùng cảm phục. Trên suốt hai bên con đường dẫn đến phi trường Atsugi, hàng trăm ngàn người dân Nhật xếp hàng dài dày đặc ở hai bên đường hàng chục cây số để tiễn đưa ông lần cuối. Họ kêu to “Sayonara, Sayonara,” hay giơ cao biểu ngữ ghi “Chúng tôi thương mến Tướng Quân MacArthur,” và “Chúng tôi cảm ơn ông”. Danh từ Shogun (Thiên Sứ, Tướng Quân) theo tiếng Nhật là Seii Taishōgun để nói lên sự tôn trọng với nhân vật khả kính có công với đất nước. Hồi ký của Kiichi Miyazawa (Thủ Tướng Nhật nhiệm kỳ 1991-1993) xuất bản năm 1991, viết về quan hệ Nhật-Mỹ, là một trong các cuốn bestseller hồi ấy, với những dòng tiếc nuối: “Ngày 11/4/1951, truyền thông loan tin MacArthur bị miễn chức. Tin này làm người Nhật vô cùng sửng sốt, họ không thể nghĩ tới chuyện Thống Tướng MacArthur - người có uy quyền như Thái Thượng Hoàng nước Nhật - lại có thể bị bãi miễn dễ dàng bởi một mệnh lệnh của tổng thống. MacArthur là người nắm quyền lực tối cao ở Nhật”. Khi Đệ Nhị Thế Chiên (1939-1945) xảy ra, Tổng Thống Harry S. Truman (Tổng Thống thứ 33 của Hoa Kỳ,1945-1953) gọi ông trở lại phục vụ trong quân đội. Trong Đệ Nhất Thế Chiến, ông được bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn bộ binh 42 của Mỹ. Đến năm 1935, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt chọn MacArthur làm cố vấn quân sự tại Philippines. Ông giải ngũ vào tháng 12/1937, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Lục Quân Mỹ tại Viễn Đông với cấp bậc trung tướng. Vừa nhận lãnh trách nhiệm, ngày 7/12/1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), thuộc tiểu bang Hawaii gây tổn thất nặng nề cho quân đội Mỹ, riêng về về nhân mạng khoảng 2.402 người tử trận và 1.282 người khác bị thương. Lực lượng không quân của ông bị thiệt hại hoàn toàn. Lúc đó phe Trục (Ý, Đức Nhật) tấn công như vũ bão, tàn phá nhiều nước từ trời Tây sang Đông, gieo rắc kinh hoàng, thảm khốc trên thế giới. Từ trước đến nay, nước Mỹ chưa bao giờ bị tấn công nên khi Nhật xâm phạm lãnh thổ của Mỹ nên hậu quả dẫn đến việc Mỹ phản công thả bom nguyên tử xuống hai thành phố công nghiệp là Hisosima và Nagasaki. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử mang tên Little Boy trên pháo đài bay B-29 Enola Gay của phi đoàn 509, thả xuống Hiroshima, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quả bom mang tên Fat Man trên pháo đài bay B-29 Bock's Car, thả xuống Nagasaki. Trước khi thả bom nguyên tử, Mỹ đã rãi truyền đơn cảnh báo nhưng phát xít Nhật coi thường và ngoan cố. Truyền đơn viết bằng tiếng Nhật: “… Trong vài ngày tới, một số hoặc tất cả những thành phố được liệt kê trong danh sách ở mặt sau truyền đơn này sẽ bị phá hủy bởi những quả bom của người Mỹ. Những thành phố này có các hãng xưởng, nhà máy lắp ráp chế tạo thiết bị quân sự. Chúng tôi quyết tâm tiêu diệt tất cả những trang thiết bị mà các phe phái quân sự đang sử dụng để kết thúc cuộc chiến vô nghĩa này. Nhưng, không may, những quả bom không có mắt. Vì vậy, theo các chính sách nhân đạo của Mỹ, Không Quân Mỹ, chúng tôi không muốn làm tổn thương người vô tội, do đó chúng tôi cảnh báo và yêu cầu bạn hãy di tản khỏi những thành phố được liệt kê để cứu lấy mạng sống của chính bạn. Người Mỹ không chiến đấu chống lại nhân dân Nhật Bản, mà chiến đấu chống lại các thế lực quân sự đang sử dụng nhân dân Nhật Bản. Nền hòa bình mà Mỹ mang lại sẽ giải thoát cho người dân như các bạn đang phải sống trong sự áp bức của quân đội Nhật và đồng thời cũng có ý nghĩa mang đến một Nhật Bản mới tốt đẹp hơn. Các bạn có thể mang hòa bình trở lại bằng cách chọn ra những người lãnh đạo mới và giỏi, những người thật sự muốn kết thúc chiến tranh. Do vậy, hãy chú ý đến cảnh báo này và sơ tán khỏi các thành phố này ngay lập tức!” (Nếu so sánh hành động của chính quyền Truman của Mỹ với Nhật và chính quyền Putin của Nga với Ukraine hiện nay là hai thái cực giữa chế độ dân chủ và chế độ độc tài). Sau khi ném bom nguyên tử ở Hiroshima, TT Truman đã lên làn sóng phát thanh kêu gọi Nhật đầu hàng, nếu không tai họa như Hiroshima sẽ tiếp tục nhưng Hội Đồng Tối Cao của Nhật Bản vẫn ngoan cố nên Mỹ tiếp tục thả trái bom thứ hai. Ngày 14/8/1945, Nhật Hoàng tuyên bố trên đài phát thanh chấp nhận đầu hàng không điều kiện các nước Đồng Minh, nhưng đến ngày 2/9/1945, nghi lễ đầu hàng của Nhật trước quân đội Đồng Minh mới được thực hiện trên chiến hạm USS Missouri (BB-63) của Hải quân Hoa Kỳ. Và, từ đó, ở trời Tây, Ý và Đức bị quân đội Đồng Minh phản công mãnh liệt, Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Năm ngày sau khi Nhật ký hiệp ước đầu hàng, ngày 7/9/1945, Thống Tướng McArthur, chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương, thiết lập văn phòng làm việc tại Tokyo, mở đầu cho giai đoạn Mỹ chiếm đóng nước Nhật kéo dài trong sáu năm, tám tháng. Trước khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng, Nhật và Mỹ vẫn còn là hai nước kẻ thù không đội trời chung. Trong 4 năm chiến tranh ác liệt tại Thái Bình Dương, đã làm cho quân đội Mỹ hy sinh khoảng 360.000 binh sĩ. Sau khi ký xong hiệp ước đầu hàng, Thống Tướng MacArthur đại diện của Đồng Minh đọc bài diễn văn ngắn gọn, chứa đựng tinh thần cao thượng của người Mỹ, ông kết thúc bài diễn văn: “Đây là hy vọng thiết tha nhất của tôi, và thật sự cũng là hy vọng của toàn thể nhân lọai, rằng từ sự kiện trang nghiêm này một thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện ra từ máu và sự chém giết nhau trong quá khứ - một thế giới sẽ phục sự cho nhân phẩm con người và để hòan thành ước nguyện cao cả nhất cho tự do, lòng bao dung và sự công bằng”. Tuy không phải là kinh tế gia nhưng Thống Tướng MacArthur với tấm lòng nhân ái, đức độ và tận tình với nước thù địch để phục hồi đất nước Nhật từ đống tro tàn, đổ nát được vực dậy chỉ trong gần 6 năm (15/8/1945 cho đến ngày 11/4/1951). Ngoài ra, Sứ Quân MacArthur đã làm thay đổi nhân sinh quan tư duy của người Nhật từ Thiên Hoàng cho đến người dân. Ngay sau khi đặt chân đến thủ đô Tokyo, Thống Tướng MacArthur ra lệnh cho các binh sĩ dưới quyền ông không được trả thù người Nhật vì bất cứ lý do gì và ưu tiên hàng đầu của ông là phải lo cho người dân Nhật qua khỏi cơn đói rách do các hậu quả của chiến tranh. Ngay từ đầu Tướng MacArthur viết thư trình bày với Quốc Hội, với chính phủ Hoa Kỳ để xin cứu trợ và chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận trợ cấp khẩn cấp cho chính phủ Nhật Bản gồm: Ba triệu rưỡi tấn lương thực, thuốc men cùng với hai tỷ đô la. Việc làm đầu tiên của Thống Tướng MacArthur ra lệnh chở lương thực và các vật dụng cần thiết cho đời sống đến Nhật để cứu đói và tránh các bất ổn xã hội do nạn đói và thiếu thốn gây ra. Thực hiện chương trình cho học sinh ăn trưa tại các trường học Nhật. Toàn bộ quân đội Nhật bị giải tán. Các binh sĩ được cho về quê sống. Lính Mỹ được lệnh phải tôn trọng phong tục tập quán của nước Nhật và giúp đỡ người dân. Từ chế độ phát xít xâm chiếm các nước láng giềng, nước Nhật trở thành một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ và đặt nền tảng cho một cường quốc kinh tế sau này. Để phục hồi nước Nhật, chương trình viện trợ Marshall, Mỹ đã đổ vào nước Nhật hàng tỷ đô la, cùng với những ý kiến sáng suốt và những chương trình cải cách thiết thực xây đựng nước Nhật thuần túy về kinh tế và đời sống, nhờ vậy chỉ 25 năm sau chiến tranh nước Nhật trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới. Dĩ nhiên kết quả này phần lớn cũng do sự nỗ lực làm việc, sự hy sinh và tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Thống Tướng MacArthur trừng phạt những tôi phạm chiến tranh nhưng chống lại việc đưa Nhật Hoàng Hirohito ra Tòa Án Quốc Tế như một tội phạm chiến tranh. Nhật Hoàng Hirohito, đứng ra nhận tất cả trách nhiệm về cuộc chiến và chấp nhận từ chức nếu Mỹ yêu cầu nhưng ông không đòi hỏi Nhật Hoàng từ chức. Tống Tướng thấy Nhật Hoàng là người được toàn dân Nhật tôn trọng nên ông muốn Nhật Hoàng được tại vị để làm biểu tượng đoàn kết dân Nhật và đem lại ổn định về chính trị. Cảm kích tấm lòng đó nên danh xưng Shogun (Thiên Sứ, Tướng Quân) từ Nhật Hoàng khi nhật Hoàng đã tiếp xúc với ông qua 11 lần gặp mặt. Trong hồi ký “Reminiscences” của Douglas MacArthur, nhà xuất bản McGraw-Hill, 1964, ghi: “Sau lần ấy Nhật Hoàng đến thăm tôi thường xuyên, chúng tôi bàn về hầu hết các vấn đề quốc tế. Tôi luôn luôn giải thích kỹ càng những lý do quan trọng nhất về chính sách chiếm đóng,và tôi nhận thấy ông hiểu biết uyên thâm về khái niệm dân chủ hơn hầu hết những người Nhật tôi có dịp trò chuyện. Ông đóng vai trò rất lớn trong sự hồi sinh tinh thần của Nhật Bản, và sự hợp tác trung thành và ảnh hưởng của ông đã tác động rất nhiều đến sự thành công của công cuộc chiếm đóng”. Trong cuốn “12 Người Khai Lập Nước Nhật Hiện Đại” của Sakaiya Taichi, Tướng MacArtthur là người nước ngoài duy nhất, với tựa “MacArthur: Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một “nước Mỹ lý tưởng”, ngay cả Thiên Hoàng Minh Trị (người khởi xướng phong trào Duy Tân) cũng không có tên trong danh sách này. Sách 12 chương với những nhân vật: Thái tử Shotoku, Hikaru Genji, Minamoto Yoritomo, Oda Nobunaga, Ishida Mitsunari, Tokugawa Ieyasu, Ishida Baigan, Okubo Toshimichi, Shibusawa Eiichi, MacArthur - Thí nghiệm biến Nhật Bản thành “nước Mỹ lý tưởng”, Ikeda Hayato và Matsunutsa Konosuke. Tác giả Sakaiya Taichi (1919-2007) được coi là chuyên gia hàng đầu về kinh tế, Thủ Tướng Obuchi mời vào làm Bộ Trưởng Kế Hoạch Kinh Tế… Trong 12 nhân vật, không ai là vị vua khai thiên lập địa, không ai là vị tướng tài đánh dẹp ngoại xâm, mà là những người đã đưa ra quan niệm tôn giáo, tiêu chuẩn luân lý, phong cách xử thế, đề cao giá trị tinh thần của người Nhật, trên lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội còn ảnh hưởng lớn tới ngày nay. Với nhưng công lao, đóng góp của Sứ Quân MacArthur từ tinh thần đến vật chất cho nước Nhật không thể nào kể xiết đã được ghi vào trang sử, lưu lại hậu thế. Nhà văn Sodei Rinjiro đã đọc hơn 10 nghìn thư của người Nhật, và chọn 120 bức thư thú vị, quan trọng để ấn hành cuốn sách mang tên “Tướng MacArthur thân mến: Những bức thư gởi từ người Nhật trong thời gian Mỹ chiếm đóng”, xuất bản năm 2001. Thủ Tướng Yoshida của Nhật (từ năm 1946 đến năm 1947 và từ năm 1948 đến năm 1954), nói: “Tướng Quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước đi trên con đường hòa bình. Tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.” * Giữa vinh quang và tủi nhục Sau khi Đệ Nhị Thế Chiên chấm dứt, bán đảo Triều Tiên bị chia cắt làm hai khu vực chiếm đóng quân sự do các hoạt động của Hoa Kỳ ở phía Nam và Liên Xô ở phía Bắc. Năm 1948, chính quyền miền Nam thành lập nhà nước Đại Hàn Dân Quốc theo chế độ dân chủ dưới sự bảo vệ của Hoa Kỳ. Bắc Triều Tiên theo chủ nghĩa cộng sản được thành lập dưới sự hỗ trợ của Liên Xô. Sau khi Trung Cộng cưỡng chiếm Trung Hoa năm 1949, Bắc Triều Tiên tấn công Hàn Quốc dẫn đến chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Liên Hiệp Quốc dưới sự chỉ huy của Thống Tướng MacArthur (rời Nhật Bản để sang Nam Hàn), nhanh chóng đẩy lui quân miền Bắc và truy đuổi đến tận sông Áp Lục, nằm trên biên giới Triều Tiên - Trung Quốc. Đầu tháng 10/1950, các lực lượng Liên Hiệp Quốc vượt qua biên giới tiến vào Triều Tiên. Quân Đoàn 10 của Mỹ đổ bộ lên Wonsan và Iwon, hai nơi quân Đại Hàn đã tấn công chiếm được trước đó. Các lực lượng còn lại của Mỹ sát cánh với quân Đại Hàn tiến quân theo phía bờ tây của Triều Tiên, chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19/10 và đến cuối tháng, 135.000 binh lính Triều Tiên đã bị quân Liên Hiệp Quốc bắt làm tù binh. Tuy nhiên, Trung Quốc đã xua quân vượt sông Áp Lục và phản công quân LHQ. Trước đó, TT Truman đã cảnh báo MacArthur không nên khiêu khích Trung Quốc nhưng ông tự tin Bắc Kinh sẽ không can thiệp, dẫn đến thất bại sau đó. Tức giận trước việc Trung Quốc tham chiến, Tướng MacArthur vẫn tiếp tục đem quân sang bên kia sông Áp Lục, mở chiến dịch không kích các mục tiêu quân sự tại Trung Quốc. Tướng MacArthur muốn không kích vào khu vực Mãn Châu và từ biển Nhật Bản đến Hoàng Hải,… TT Truman lo ngại chiến dịch của Tướng MacArthur có thể châm ngòi cho Đệ Tam Thế Chiến vì vậy TT Truman quyết định tước chức tư lệnh của ông vào tháng 4/1951, dân Mỹ bị bất bình và phản đối dữ dội lên Quốc Hội Hoa Kỳ. Nhưng với tinh thần người lính “thi hành trước, khiếu nại sau” nên Tướng MacArthur phải chấn hành mệnh lệnh. Trên đường từ Triều Tiên ghé lại Nhật và trở về cố hương sau khi bị TT Truman triệu hồi, cuộc chia tay cuối cùng giữ Nhật Hoàng và người dân như đã đề cập ở trên là điều không thể nào ngờ với vị Tướng xuất chúng, tài ba nhưng bị thất sủng. MacArthur trở về thủ đô Washington, ông xuất hiện trước công chúng lần cuối cùng trong bài diễn văn chia tay bị gián đoạn với 30 lần hoan hô nhiệt liệt trước Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong lời cuối kết thúc diễn văn, ông nhắc lại lời bài hát đã có từ trước: “Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ mờ nhạt dần.” “Và giống như người lính già của bài hát đó, bây giờ tôi đóng lại đời binh nghiệp của tôi và mờ nhạt dần — một người lính già đã cố sức mình làm tròn bổn phận của mình khi Thượng đế ban cho tôi ánh sáng để tôi thấy được bổn phận đó. Xin tạm biệt.” Câu nói “Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ mờ nhạt dần” trở thành danh ngôn của vị Tướng xuất chúng còn mãi lưu truyền. Dư luận cho rằng cuộc điều tra vào năm 1952 trong việc cách chức danh tướng của Ủy Ban Thượng Viện Hoa Kỳ do Richard Brevard Russell, Jr. làm chủ tịch cũng có mục đích chính trị vì nếu “ứng cử viên tổng thống” MacArthur cho một cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc sẽ dễ thành công. Trong hồi ký Reminiscences, MacArthur luôn nói rằng ông không có những tham vọng về chính trị. Trên chính trường Hoa Kỳ có những điều thường hay xảy ra và không bao giờ ngờ tới! Tướng MacCathur mất ngày 5/4/1964 tại Quân Y Viện Walter Reed ở tuổi 84. Ngày 7/4, linh cữu vị danh tướng được chuyển đến đồi Capitol ở Washington trong nghi thức quốc tang với sự tham dự của hơn 150.000 người và được an táng tại khu tưởng niệm Douglas MacArthur ở Norfolk, tiểu bang Virginia. Để tỏ lòng biết ơn, năm 1965, chính phủ Nhật tặng cho thủ đô Washington 3.800 cây anh đào trồng phủ kín xung quanh bờ hồ Tidal Basin, để hàng năm vào cuối tháng 3, hai thủ đô Tokyo và thủ đô Washington cùng bước vào mùa hoa anh đào, hàng triệu người đổ về, rạng rỡ đi dưới những tán hoa tươi thắm xóa đi nỗi đau chiến tranh tàn khốc giữa hai dân tộc Nhật-Mỹ. * Shinzo Abe, người con ưu tú xứ sở Phù Tang Ông Shinzo Abe là Thủ Tướng lâu nhất của nước Nhật, trong thời gian cầm quyền Thủ Tướng Shinzo Abe đã hai lần từ chức vì lý do sức khỏe (2006 & 2007, 2012-2020). Với đức tính của vị lãnh đạo đất nước, ông cương quyết theo đuổi chính sách, đường lối đã hoạch định nhưng uyển chuyển, tế nhị để gây hòa khí với nhau nên gây được cảm tình trên chính trường. Ngày 8/7/2022, người dân Nhật bàng hoàng, xúc động khi nghe tin cựu Thủ Tướng Shinzo Abe Abe bị ám sát khi đang có bài phát biểu trong một chiến dịch tranh cử ở Nara, miền nam Nhật Bản. Thủ Tướng Abe sinh ngày 21/9/1954 trong một gia đình có truyền thống chính trị nổi tiếng tại Nhật Bản. Ông nội Kishi Nobusuke từng là Thủ Tướng Nhật Bản giai đoạn 1957-1960. Chú của ông là Sato Eisaku cũng từng giữ chức vụ này từ 1964 tới 1972. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp đại học Seike ở Tokyo, ông theo học cao học ngành khoa học chính trị tại UCLA (University of California, Los Angeles). Năm 1979, ông trở về Nhật Bản, tham gia đảng Dân Chủ Tự Do (LDP) và được bầu vào Hạ Viện Nhật Bản năm 1993, từ đó sự nghiệp chính trị của ông tiếp tục trên chính trường đất nước nầy. Khi trở lại với cương vị Thủ Tướng, ông Shinzo Abe thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại quyết liệt hơn, nhằm “hồi sinh” Nhật Bản sau thời gian dài trì trệ về kinh tế. Về đối ngoại, Thủ Tướng Abe áp dụng đường lối cứng rắn với Triều Tiên, ủng hộ các lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc đối với Triều Tiên sau khi nước này thử nguyên tử và áp dụng biện pháp trừng phạt, trong đó có lệnh cấm tất cả tàu Triều Tiên cập cảng Nhật Bản. Với Trung Cộng và Đài Loan, Nhật ủng hộ Đài Loan và đã nhiều lần đối đầu Trung Cộng trong âm mưu “Nhất Đới Nhất Lộ” của Tập Cận Bình trên Thái Bình Dương. Với Hàn Quốc, bóng ma trong quá khứ vẫn còn ám ảnh nạn nhân khi Nhật chiếm đóng. Tháng 12/2015, Tokyo và Seoul đạt thỏa thuận song phương về vấn đề “phụ nữ mua vui” làm nền tảng cho quan hệ Hàn-Nhật nhưng sau đó mối quan hệ song phương xuống mức thấp. Thủ Tướng Abe với các sáng kiến trao đổi văn hóa, giáo dục và kinh tế để hàn gắn vết thương trong quá khứ. Với Hoa Kỳ và các nước phương Tây, với đường lối ngoại giao mềm mỏng và chân tình của ông về thương mại để xuất nhập cảng sau thời gian Nhật Bản suy thoái kinh tế… Chính sách đối ngoại của Thủ Tướng Abe đã đánh giá theo Viện Nghiên Cứu Lowy của Úc, cho rằng Nhật Bản “là lãnh đạo về trật tự tự do của châu Á”. Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (Institute of Southeast Asian Studies) năm 2020 đánh giá Nhật Bản là quốc gia đáng tin cậy nhất trong khu vực. Về đối nội, Thủ Tướng Abe cũng tìm cách tăng cường sức mạnh quân sự cho Nhật Bản bằng cách thúc đẩy sửa đổi hiến pháp, hợp tác với các quốc gia khác ở châu Á để đối phó với Trung Cộng tranh chấp trên biển và với Bắc Triều Tiên đe dọa vũ khí nguyên tử. Chương trình Abenomics của Thủ Tướng Abe với chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và tăng trưởng kinh tế để khuyến khích đầu tư tư nhân. Chính sách kích thích tài chánh nhằm giảm lạm phát, điều chỉnh lại sự nâng giá quá mức của yên Nhật, xây dựng trái phiếu chính phủ bởi ngân hàng Nhật Bản, sửa đổi lại đạo luật ngân hàng Nhật Bản… Quá trình thực hiện rất khó khăn, gây phản ứng cùa thành phần đối lập nhưng dần dà đã thực hiện được kế hoạch. Hỗ trợ kích thích kinh tế được chính phủ Nhật Bản sử dụng từ năm 2013, trị giá 20,2 nghìn tỷ yên (tỷ giá một đô la khoảng 125 yên - JPY - vào thập niên 2010), trong đó có 10,3 nghìn tỷ yên xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng (cầu, đường hầm và đường chống động đất). Nhật Bản công bố thêm ngân khoản kích thích 5,5 nghìn tỷ yên vào tháng 4/2014 và ngân khoản kích thích trị giá 3,5 nghìn tỷ yên sau cuộc bầu cử tháng 12/2014. Giai đoạn 2015 - 2017, do kinh tế phục hồi chưa được như kỳ vọng nên Nhật Bản tiếp tục duy trì thâm hụt ngân sách và tiếp tục thực hiện các ngân khoản kích thích. Tháng 8/2016, chính phủ Nhật Bản thông qua ngân khoản kích thích trị giá 28.100 tỷ yên tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội; Tháng 10/2016, chính phủ Nhật Bản phê chuẩn ngân khoản kích thích thứ hai trong năm 2016 trị giá hơn 4.000 tỷ yên nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng; Tháng 3/2017, Quốc Hội Nhật Bản thông qua ngân sách cho năm tài khóa 2017 trị giá 97.400 nghìn tỷ yên với mục tiêu tiếp tục tăng chi tiêu cho an sinh xã hội, quốc phòng và những lĩnh vực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sau 5 năm (2013-1018) kể từ khi Thủ Tướng Abe lên nắm quyền và thực thi chính sách Abenomics, nền kinh tế Nhật Bản đã trở nên mạnh hơn nhưng vẫn chưa hoàn thành như ý muốn và những thách thức phía trước… Trong thời gian năm 2019, 2020 nạn dịch Covid-19 lan rộng trên thế giới, các nước trong cơn khủng hoảng vì lo đối phó với nạn dịch, phải ngăn ngừa bệnh dịch lây lan… phải “bế quan tỏa cảng” nên Nhật cũng rơi vào quỹ đạo nầy, kế hoạch Abenomics bị trì trệ. Đối với nền kinh tế Nhật Bản, dù tỷ lệ nợ công ở mức trên 200% GDP, nhưng vẫn được đánh giá là nền kinh tế ổn định. Phần lớn nợ công của Nhật Bản thuộc về tay chủ nợ nội địa (các công ty trong nước và người dân Nhật Bản nổi tiếng về tiết kiệm trên thế giới). Chẳng hạn Mỹ là chủ nợ khoảng 30.000 tỷ đô la nhưng vẫn là cường quốc kinh tế số một trên thế giới. Điều quan trọng, với ngân khoản của chính phủ bỏ ra hỗ trợ lớn lao như vậy của chính quyền được tin tưởng vì không xảy ra tình trạng tham những, bè phái, đặc quyền đặc lợi cho tham quan. Đó là vết son cho đất nước này. Với Việt Nam, “đi với ma mặc áo giấy” nên chương trình ODA (Official Development Assistance) lãi suất thấp, một phần viện trợ, thời hạn cho vay lâu dài để xây dựng hạ tầng cơ sở… đã xảy ra những trò hối lộ, tham những… khi giới truyền thông phanh phiu, những tay dính chàm của Nhật bị trị thẳng tay nhưng ở Việt Nam vẫn “bình chân như vại”. Cố Thủ Tướng Shinzo Abe trở về với cát bụi, thi hài của vị lãnh đạo Nhật Bản được hỏa táng tại nhà tang lễ Kirigaya ở Tokyo. Sáu thập niên về trước, người Nhật tiễn đưa Sứ Quân MacArthur trở về cố hương, sáu thập niên sau người Nhật vĩnh biệt cố Thủ Tướng Shinzo Abe trong niềm thương tiếc.
Ngày 27/12/2016, Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe có bài phát biểu Trân Châu Cảng. Bài phát biểu rất chân tình và cảm động. Nhìn nhận lỗi lầm của Nhật trong chiến tranh và biết ơn Mỹ không mang thù hận mà xây dựng lại nước Nhật. Trích: “Giờ đây, tôi đang đứng ở Trân Châu Cảng, Pearl Harbor, với tư cách là Thủ Tướng Nhật Bản. Khi lắng tai nghe, tôi có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ và trở lại ngoài khơi. Mặt vịnh xanh và yên bình được chiếu sáng bởi ánh nắng mềm mại tỏa xuống từ mặt trời. Phía sau tôi, trên biển kia là khu tưởng niệm Arizona (Arizona Memorial) màu trắng… Giờ đây, đã 75 năm trôi qua, dưới con tàu Arizona nằm nghiêng dưới đáy biển sâu vẫn còn rất nhiều binh sĩ đang yên nghỉ. Khi lắng tai nghe với tất cả lòng mình, tôi nghe thấy tiếng của những người lính cùng với âm thanh của gió và của sóng. (Ghi chú: Con tàu Arizona là thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39) của Hải Quân Hoa Kỳ hạ thủy vào ngày 19/6/1915. Arizona trang bị trang bị vũ khí hùng hậu với các dàn pháo và hai ống phóng ngư lôi. Ngày 7/12/1941 phi cơ Nhật tấn công vào Hạm Đội Thái Bình Dương, phá hủy con tàu làm thiệt mạng 1.177 người trong tổng số 1.400 thành viên thủy thủ đoàn). … Khi nghĩ đến sự thật nghiêm trọng ấy và cảm nhận sâu sắc nó, tôi đã không thể thốt nên lời. Hỡi những linh hồn, xin hãy ngủ yên! Tôi, với tư cách là đại diện cho quốc dân Nhật Bản đã thả hoa xuống biển nơi những người lính đang an nghỉ với cả tấm lòng thành. … Tôi, với tư cách là Thủ Tướng Nhật Bản, xin được gửi lời chia buồn chân thành mãi mãi tới linh hồn của những người đã bỏ mạng ở mảnh đất này, tới tất cả những người dũng cảm đã bỏ mạng bởi cuộc chiến tranh bắt đầu từ đây và cả linh hồn của vô số người dân vô tội đã trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh. … Khi chiến tranh kết thúc, lúc Nhật Bản trở thành cánh đồng cháy trụi mênh mông và khổ sở trong tận cùng của nghèo đói, người đã không hề ngần ngại gửi đến thức ăn, quần áo là nước Mỹ và quốc dân Mỹ. Nhờ những tấm áo ấm và sữa mà quý vị gửi đến mà người Nhật đã giữ được sinh mệnh tới tương lai. Và rồi nước Mỹ cũng đã mở cho Nhật Bản con đường trở lại cộng đồng quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của nước Mỹ, chúng tôi, với tư cách là một thành viên của thế giới tự do đã được hưởng thụ hòa bình và sự phồn vinh. Tấm lòng khoan dung rộng lớn, sự giúp đỡ và thành ý như thế của quý vị đối với người Nhật chúng tôi, những người đã từng đối đầu quyết liệt như kẻ địch đã khắc sâu trong lòng ông bà, bố mẹ chúng tôi. … Nhật-Mỹ, hai nước đã bỏ đi sự thù hận và nuôi dưỡng tình bạn, sự tin cậy dưới những giá trị chung lúc này có nghĩa vụ phải tiếp tục nói với thế giới về tầm quan trọng của khoan dung và sức mạnh của hòa giải...” Nghĩ đến con người xứ người mà tủi nhục cho con người xứ ta sau cuộc chiến! Little Saigon 7/2022 Vương Trùng Dương
|
|