|
Post by Can Tho on Oct 9, 2010 3:59:44 GMT 9
Vạch Áo Cho Mọi Người Cùng Xem - Phan Thanh Tâm Ông Phan Thanh Tâm, tác giả bài này, là cháu năm đời của cụ Phan Thanh Giản. Trước 1975, ông làm ở Việt Tấn Xã, Sài Gòn. Sau 75, ông vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ 13 người từ năm 1976. Lưu lạc một tháng trời giáp một vòng bờ biển các nước Đông Nam Á, đâu đâu ông cũng bị người ta đẩy trở lui ra biển cả. Chặng cuối cùng là đảo Palawan, Phi Luật Tân, thuyền được nhận trở lại vào bờ, nhờ sự can thiệp của một ông cố đạo người Ý đang coi một họ đạo tại đảo này. Ông là một trong nhũng «thuyền nhân» đầu tiên được đặt chân lên đảo nói trên. Bài này viết cách đây 6 năm rồi, với một phong thái thẳng thắn, nhưng ôn hoà, về một vấn đề tự-bản khá gay gắt. Tác giả sẵn lòng cho phép đăng lại để độc giả có dịp chia sẻ những suy nghĩ với ông.Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại và nhất định không có chuyện vạch aó cho mọi người cùng xem. Đó là phương châm của phe ta. Tại sao vậy? Tự cho là thuộc dòng giống con rồng cháu tiên, và có quá khứ hơn bốn ngàn năm văn hiến nên người mình lúc nào cũng tốt, cũng bảnh, cũng anh hùng, xuất chúng. Hễ nói tới người ngoại quốc thì xách mé, trịch thượng; gọi họ bắng thằng, bắng con. Còn nước VN phải là minh châu trời đông, là bó đuốc soi đường. Tuy nhiên gần đây, có dư luận lên tiếng là phải xét lại cái ý tưởng tự tôn, tự đại, ngông cuồng đó. Họ cho rằng cứ hót ca, nâng bi dân tộc mình một cách lộ liễu như vậy hoài thì ta sẽ mãi mãi ngất ngư như con gà mắc dây thun. Chắc hằn phải có vấn đề, có trục trặc đâu đó vì tài khôn như vậy mà chưa ra cái con gì cả trong khi các nước lân bang ở Đông Nam Á nay đã là con cọp, con beo, con sư tử rồi. Cái hay ở chỗ, người tạo ra dư luận là một nhà thơ hồi nhỏ ở Sài Gòn, du học ở Nhật; năm 1966, định cư ở Pháp; năm 1996, trong khi sang Tàu, vớ đựơc một cuốn sách khiến ông “thích thú quá cơ” và ông nghĩ rằng “bất cứ người VN nào khác đọc được, bảo đảm cũng sẽ thích thú”' như ông. Ông tin rằng quyển sách sẽ “giúp nhìn lại mà đánh giá bản thân, dân tộc và văn hoá của mình trong giai đoạn hiện nay”. Vì thiện ý, ông bỏ công ra dịch và mong có nhiều người đọc. Nhà xuất bản Chân Mây Cuối Trời phát hành bản dịch lần đầu tiên tại Paris năm 1998. Cuốn sách được đón tiếp nồng hậu. Giới báo chí đua nhau nói về nó. Nhà xuất bản Văn Nghệ ở quận Cam, thủ đô người tị nạn, hưởng ứng in lại; quyển sách được coi là bán chạy trong năm 1999. Nhà báo Lê Đình Điểu, trước khi qua đời, trong lúc nằm trên giường bệnh, viết bài điểm sách đăng trên Thế Kỷ 21 số tháng 04/1999: “Đọc Người Trung Hoa Xấu Xí của Bá Dương", người VN nào cũng liên tưởng đến việc đây là chuyện của mình. Có lẽ chỉ thay cái tựa là Người Việt Nam Xấu Xí cuốn sách cũng vẫn có ý nghĩa. Phải chăng đó là lý do nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ bỏ thì giờ, công sức ra dịch cuốn sách sang Việt Ngữ? Trả lời câu hỏi của nhà phê bình văn học Đặng Tiến, đăng trong Việt Mercury, dịch giả, tên thật là Nguyễn Khôi Minh, sinh năm 1945 tại Hà Bắc nói sự đời là thuốc đắng đả tật; có chướng tai cũng phải lên tiếng. Ông tâm sự: «không đọc quyển sách này có khi đở phải nghĩ ngơị lôi thôi; còn chẳng may đọc cò thể sẽ bị đau khổ nhiều hơn là thích thú». Trong bàì phỏng vấn hồi tháng 10/1999, khi đề cập về những cuốn sách như Người Việt Đáng Yêu, Người Việt Cao Quý, dịch giả, đã có bảy tập thơ xuất bàn ờ ngoại quốc từ năm 1968, cho biết: «Đó là chuyện ngược đời. Ở những nước tiên tiến giàu mạnh, chưa có nước nào bốc thơm dân tộc mình một cách lố bịch như thế cả. Người Mỹ, người Nhật, người Pháp, người Đại Hàn đều chỉ có những sách nói lên khuyết điểm, những cái tồi dở của dân tộc, đất nước mình. Bây giờ đến lượt người Trung Hoa. Cuốn Người Trung Hoa Xấu Xí xuất bản ban đầu ở Đài Loan; sau đó được tái bản ở lục địa. Họ đã biết nghĩ, tuy là môt nước lớn, văn hoá lâu đời, nhưng nếu cứ mãi ra rả về những cái vĩ đại thì theo nhá báo Bá Dương, tác giả cuốn sách, Trung Hoa sẽ đi đến chỗ diệt vong mà thôi». Nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ, trong phần lời người dịch viết, ngay sau khi từ Trung Hoa về đến VN, ông đã đưa bản sao cho một ngươi bạn ở Hà Nội và cổ võ người này dịch ra tiếng Việt. Nước Trung Hoa Cọng Sản đã chấp nhận cuốn sách. Người Âu Mỹ cũng thế, thì không có lý do gì người VN lại không thề được đọc nó, cho dù không phải đề học hỏi, mà có thể vì hiếu kỳ, tin tức về một nước láng giềng. Ông đã hy vọng cuốn sách sẽ xuất hiện tại VN; nhưng cho đến nay, người trong nước vẫn chưa được đọc. Theo dịch giả, cuốn sách sẽ rất có ích cho tất cả các cộng đồng có liên quan it nhiều đến văn hoá Trung Hoa. Chủ đích của tác giả Bá Dương là nếu muốn phục hưng dân tộc, phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, sai trái của mình. Đọc người rồi ngẫm đến ta Tác giả Bá Dương, là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là sử gia, sinh năm 1920, chạy sang Đài Loan năm 1949, ở tù 10 năm vì các bài viết bị xem là phạm thượng. Ra tù ông đi diễn thuyết về hiện tượng Người Trung Hoa Xấu Xí. Cuốn sách gồm những bài nói chuyện của ông và của những người tranh luận với ông. Có người cho rằng nếu không đọc được sách của Bá Dương là một sự thiệt thòi lớn. Sách hấp dẫn hơn chuyện chưởng của Kim Dung vì nó khiến thiên hạ phải đọc người rồi ngẫm đến ta. Thấy sao nó giống dữ vậy. Giống dễ sợ. Theo ông, văn hoá Trung Hoa đã biến thành một đầm nước chết, càng lâu càng thối, thành một vại tương rồi. Đăc tính rõ nhất của người Trung Hoa là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Có nhiều nơi, nếu người Trung Hoa đến ở là những người khác dọn đi. Bất kỳ ở chân trời góc biển nào hễ có người Trung Hoa là có cắn xé nhau. Mỗi người Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba người Trung Hoa họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi. Người Trung Hoa vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tai sao họ lại không đoàn kết. Bất cư xã hội người Hoa nào it nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết, hay ho đến Thượng Đế cũng có thể khóc được. Những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: chết cũng không chịu nhận lỗi. Họ thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hay tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định. Người Trung Hoa sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả, cánh hưũ, trung lập, độc lập, thiên tả, trung, trung thiên hưũ, hưũ thiên trung vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà mò. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố mình. Thật không hiểu là thứ dân tộc gì? Đối xử với người Trung Hoa tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính là ngươi Trung Hoa với nhau. Bán rẻ, hăm doạ người Trung Hoa lại không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Người Tây Phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Hoa đã đánh nhau rồi thì cưù hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đơi cũng chưa hết. Sống trường kỳ trong cái hũ tương lâu ngày quá tự nhiên sinh ra thói cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng khí dùng để đả kích kẻ khác; chửi bới sau lưng; yêu thì sợ chúng cười, ghét thì sợ chúng thù. Họ vĩnh viễn không thể nào so sánh được với người Do Thái, chỉ cần so sánh với người Nhật, ngươi Đại Hàn là cũng thấy bị thua tới cả trăm nghìn năm ánh sáng rồi. Người Hoa sợ sệt đủ mọi thứ trên đờì. Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan không bao giờ bị tiêu diệt, và đã biến dân tộc Trung Hoa thành một dân tộc hèn mọn. Sức tưởng tượng, óc suy xét, tư tưởng của giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000 năm, từ Khổng Tử trở đi, không còn có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương văn hoá, cái hũ tương thối làm cho người Trung Hoa xấu xí, không thể dùng tư tưởng của mình giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư tưởng của kẻ khác; lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu. Trung Hoa diện tích rộng thế, lâu đời thế mà người Hoa lại có một tâm địa thật hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Phải chăng Thượng Đế đã phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa? Trên đây là những đoạn trích các ý tưởng trong sách của nhà báo Bá Dương. Ai cũng biết, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Hơn một ngàn năm bị đô hộ, lại sống sát nách một kẻ như thế, chẳng lẽ ta gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn? Họ sao ta vậy hay ta tệ hơn thì chẳng có gì lạ cả. Hơn nữa, mỗi dân tộc có mỗi bệnh trạng xã hội. Bệnh trạng của ta cọng thêm bệnh trạng của anh bạn láng giềng thì chắc phải hết thuốc chữa; hèn gì nước ta lúc nào cũng loay hoay như gà mắc đẻ, lệt bệt đi sau hửi đít thiên hạ. Nếu văn hoá Trung Hoa đã biến thành một cái hũ tương thối thì văn hoá ta là cái hũ gì? Hũ vàng hay là hũ mắm thối? Còn Người VN ra sao? Thử nhìn thoáng vào gương xem. Mẫu người Việt Nam Trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có đoạn tả tính tình người VN trước năm 1930 như sau: Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người VN có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy cũng có hay tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hoà bình nhưng mà đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật. Tâm điạ thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang, và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma, tin quỷ, sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà thì hay làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ moi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quý là tiết, nghĩa, cần, kiệm. Với mẫu người nói trên và nếu cho rằng, văn hoá là sinh hoạt, ta không hiểu văn hoá ta là văn hoá gì, lại có thể sinh ra một tay gian hùng nhưng rất thành công như Trần Thủ Độ. Việt Nam Sử Lược của học gỉả Trần Trọng Kim cho biết, vì cốt gây dựng cơ nghiệp cho nhà Trần, dù tàn bạo đến đâu Trần Thủ Độ cũng làm cho được. Ông đã chôn sống cả giòng họ Lý. Trước đó, Trần Thủ Độ nói với vua Lý Huệ Tông, tuy đã bỏ ngôi vua, xuất gia đi tu, môt câu để đời “nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái”. Trong khi đó, Nguyễn Trãi, đại công thần của vua Lê Lợi, thảo ra Bình Ngô Đại Cáo, môt bản văn chương giá trị, và là tác gỉả câu đầy tình người 'Thương người như thể thương thân', trong tập Gia Huấn Ca, thì lại bị giết cả họ vì bị kết tội là dùng người thiếp đẹp và giỏi thơ, Nguyễn Thị Lộ, để mưu hại nhà vua. Trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, tác giả Hoàng văn Chí cho biết, vào những năm 1954 và 1956, khi Cộng Sản Việt Nam đem chiến thuật «Cải Cách Ruộng Đất» của Mao Trạch Đông, áp dụng tại Bắc Việt, mới thấy người mình sao lại có đầu óc nô lệ dữ vậy. Đúng như cụ Trần Trọng Kim phê bình: «Từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dơ». Mà theo Bá Dương, Trung Hoa hiện tại còn là một nước dã man nguyên thuỷ, thì việc Cọng Sản Việt Nam đưa ra phương châm: “thà sai hơn là bỏ sót” trong khi phát động chiến dịch long trời lở đất nói trên cũng là điều hiển nhiên thôi. Ở các nước văn minh thì khác. Nguyên tắc luật pháp của họ là: thà tha lầm hơn bắt lầm. Mặt khác, trên sân khấu chình trị nước ta có một “diễn viên kỳ tài”, chữ của nhà văn Vũ Thư Hiên khi nói về Hồ Chí Minh, một người làm cách mạng chuyên nghiệp, được huấn luyện tại Nga, tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Ông tiến, ông thoái, khi hai bước, khi ba bước, khi khóc, khi cười, khi ôm hôn thắm thiết, biến ảo khôn lường. Cả thế giới đều nghe danh ông. Cho đến nay chưa ai biết rõ «con đường bác đi». Theo giáo sư Nga Anatoli Sokolov, chuyên viên Liên Sô về Việt Nam Học, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Phương ở Mạc Tư Khoa, trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, ông có trên 150 bí danh. Để cho «chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới» ông sẵn sàng mua chiến thắng đó «dẫu phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn» hay phải «đánh Mỹ đến người VN cuối cùng». Không hiểu khí thiêng sông núi VN thế nào mà lại có thể sinh ra một con ngươi kỳ dị như vậy? Chính ông đã gây ra bao cuộc bể dâu, chết chóc. Hồi thập niên 60, có bài Tâm Ca Số Năm của Phạm Duy mang tên Để Lại Cho Em nói lên thực tế của đất nước: «Bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế»; và «Đường về tương lai nghẽn lối». Thế hệ đàn anh chỉ đề lại «những giả dối, đê hèn, và vụng dại». Bài hát lưu hành ở miền Nam rồi rơi vào quên lãng, bị át bởi tiếng xe tăng, máy bay, hoả tiển, AK, M16. Vũ khí này được cung cấp bởi các nước đồng minh của hai miền Nam Bắc. Đó là hệ quả của việc tìm đường cứu nước của bậc tiền bối. Kẻ đi Tàu, đi Nga, ngưòi đi Tây, đi Nhật, đi Mỹ. Ai cũng cho là thuốc mình mang về là thuốc tiên; nhưng vì muốn độc quyền trị nước nên VN thành nơi thử lửa cuộc chiến tranh lạnh. Nước ta hết nạn hủ nho, thì đến nạn hủ Marx, hủ Mao. «Tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin». Ông Hồ Chí Minh đã khẳng định như thế (1). Trong ba mươi năm nội chiến từng ngày, nửa nước từ con sông Bến Hải trở ra Bắc theo Nga, theo Tàu; nửa nước phía Nam chống lại bằng dựa vào Tây, vào Mỹ. Cuối cùng miền Nam sụm vì đỡ hoài thì ắt có ngày bị đánh gục. Lại nữa, Hoa Kỳ rút lời cam kết, ngưng viện trợ. Chỉ nội hai tháng 03 và 04 năm 1975, cả một chế độ tan tành. Khôn sống, mống chết. Tướng tá cao chạy xa bay, tìm đường thoát thân. Trong lúc trời đất nổi cơn gió bụi mới thấy nhân tài, khôn lanh thì nhiều như lá mùa Thu, còn tuấn kiệt thì như sao mai buổi sớm. Có bao nhiêu người đứng lại chịu chết, chịu tù, chịu nhục, chịu chia sẻ với thuộc cấp? Anh hùng tất phải hiếm. Điều đó dễ hiểu. Nhưng đâu rồi câu hát “Dân ta hằng anh dũng, dân ta vẫn oai hùng, dân ta dù nguy biến không nao”? Ngày 30/04/1975 là ngày phơi bày rõ ràng bộ mặt của cấp lãnh đạo hai miền: Miền Nam hèn kém, miền Bắc xảo trá, đê tiện, đầu óc nô lệ. Sau khi chiếm Sài Gòn, nhà cầm quyền Cộng Sản tìm cách tiêu diệt các thành phần tinh nhuệ bằng học tập cải tạo và vơ vét, cướp bóc tài sản của miền Nam một cách có hệ thống bằng hai chữ quản lý. Họ lại đốt sách báo và cấm lưu trữ các sản phẩm văn hoá cũ như thời Tần Thuỷ Hoàng. Họ cố xoá bỏ căn cước của dân miền Nam. Dân miền này không thấy được giải phóng mà thấy mình là dân bị trị, bị người anh em làm nhục, trả thù vì thế mới có chuyện người Việt dù chết vẫn tìm cách lao đầu ra biển, làm mồi cho hải tặc, cho sóng dữ. Đến ngay «cả cái cột đèn nếu biết đi cũng còn muốn bỏ nước ra đi». Dân tộc VN, có quá khứ dài lâu; anh em như thể chân tay, sao lại không thể sống chung với nhau, mà lại đi ra xứ người sống với thiên hạ? Con Rồng Cháu Tiên? Sau thế chiến thứ hai, chỉ trong vòng 20 năm, hai nước chiến bại, Đức và Nhật đã phục hưng nhanh chóng, trở thành cường quốc kinh tế. Ông Bá Dương đã ví họ, “chẳng khác nào, một anh khổng lồ ba đầu sáu tay, đùng một cái bị đánh gục xuống đất, một lúc sau từ từ hồi tỉnh, đứng dậy phủi quần aó bước đi, vẫn đường đường là một hảo hán”. Còn nước ta, Việt Nam là một nước nghèo. Đời sống nói chung so với các nước ở Đông Nam Á hãy còn thấp. Theo tin báo, nhà nước lại tăng cường tốc độ các bức tường lửa để kiểm soát các ngươì vào Internet. Người dân chưa được tự do sử dụng máy in, một phát minh từ thế kỷ 15 của ông Johann Gutenberg. Mọi ấn phẩm đều phải có giấy phép của nhà cầm quyền. Ở thời đại tin học mà còn phải làm báo chui, báo lậu như tờ Thao Thức của một số sinh viên thì phải kể là chuyện lạ bốn phương. Tháng 05/1999, nhà văn Dương Thu Hương, từ trong nước đã gửi lén ra Hải Ngoại một đoản văn. Theo bà: “sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dải đất này vẫn chỉ nghe rõ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào Nam, từ nam ra Bắc” và «Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thoả hiệp hơn vơi sự nhục nhã, dễ cúi đầu hơn trước tội ác». Tại sao vậy? Ông Nguyễn Gia Kiểng, thuộc nhóm Thông Luận trong bài Vết Thương 30/04/1999 cho rằng: "Đó là vì dân tộc ta đã rã hàng, mỗi người tự thấy mình cô đơn, có muốn cũng chẳng làm được gì. Đó cũng là vì đã quá chán đất nước, đã mệt mỏi, đã mất ý chí và lòng tự hào. Đảng Cọng Sản không phải chỉ đánh gục phe quốc gia hay miền Nam. Họ đã đánh gục được cả dân tộc VN. Chúng ta đã bị đả thương quá đau nên không thể đứng dậy». Còn Hải Ngoại, được coi như là một VNCH nối dài thì thế nào? Tờ báo Hợp Lưu số 49 viết: «có nước nào trên thế giới chỉ bé tí bằng lỗ chân lông như Bolsa tiểu quốc, thế mà cái gì cũng thặng dư lạm phát. Báo chí thì rợp trời kín đất như lá mùa Thu. Văn bút thì chúng tôi có đến nhị vị chủ tịch (dù bây giờ chả còn ai trên thế giới công nhận, nhưng mặc xác thế giới, chúng tôi cứ là văn bút, cứ là chủ tịch, làm gì nhau?), cộng đồng cũng đương kim hai ngài Tổng Thống (dù thật thà mà nói, trông mặt các ngài, con nít sẽ khóc thét như gặp ma, người lớn sẽ nôn nao ruột gan muốn ói), và chính phủ lưu vong cùng đảng phái yêu nước, nói không phải khoe, trung bình mỗi tháng mọc thêm chừng mươi cái, nhanh, nhiều như nấm dại mùa Đông». Sang đây, mất tất cả, thiên hạ mơ có quyền lực, mong có cái danh. Ông nào cũng tự cho mình có sứ mệnh, như «ai bao năm từng lê gót nơi quê người» của thuở nào. Vàng thau lẫn lộn, không biết đâu là thật, đâu là giả. Năm 1958 hai tác giả William J Lederer và Eugene Burthingy cho phát hành cuốn The Ugly American (Người Mỹ Xấu Xí), nói về thói hư, vụng về, ngu dốt, tham nhũng, dốc tướng, của các chính khách Mỹ. Cuốn sách gây xôn xao trong chính trường Hoa Kỳ, bán rất chạy. Hơn sáu triệu ấn bản được bán ra. Tổng Thống Mỹ Eisenhower phải cho thành lập một uỷ ban gồm chín nhân vật có uy tín để duyệt xét lại các chương trình viện trợ quân sự. Thượng Viện Hoa Kỳ cùng lập một nhóm nghiên cưú cuốn sách và gửi cho mỗi Nghị sĩ mỗi người một cuốn. Ông Bá Dương viết, họ có năng lực sửa sai, tự điều chỉnh mình. Thay vì lấy tay che đít, họ nói toáng lên cho mọi người biết “'tôi có bệnh trĩ đây”. Họ có được cái trí tuệ và dũng cảm, tìm cách sửa đổi và giải quyết một cách thoả đáng những lỗi lầm. Nước Việt Nam cứ lẩn quẩn trong vòng chậm tiến, cũng «hoang mang lúng túng chẳng kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ» là vì ta không biết mình biết ta. Ta cần có một cuốn Người Việt Xấu Xí để «nôn ra được tất cả những thứ dơ bẩn trong ruột», rồi tìm ăn những thứ có chất dinh dưỡng tốt, giúp ta có thể tự phản tỉnh. Bỏ chuyện tự kiêu hão, giấy rách giữ lấy lề hay đói cho sạch rách cho thơm, thẳng thắn nói lên những tệ hại của dân tộc mình, để cùng nhau cải tiến. Trong thế kỷ và thiên niên kỷ mới, nhân loại đang tiến nhanh tiến mạnh trong cuộc cách mạng truyền thông, chúng ta phải lẹ lẹ lên. Chậm thì chết. Chúng ta hãy hè nhau vạch áo cho mọi người cùng xem, nếu không, thay vì Con Rồng Cháu Tiên lại trở thành con khùng cháu điên mất. Phải không quý vị? Phan Thanh Tâm (1) Viết cho Mẹ & Quốc Hội của Nguyễn Văn Trấn, nhà xuất bản Văn Nghệ năm 1995.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2010 7:04:58 GMT 9
Đừng nghe những gì…
Nguyễn Thanh Ty Thời Tông Tông Nguyễn văn Thiệu còn ngồi trên ngai vàng, Việt cộng không có ngán ông chút nào hết. Ngày nào chúng cũng pháo kích, đặt mìn, đào đường đắp mô, phá rối, khủng bố… đủ thứ chuyện trên đời, để lật nhào ông và làm cho chế độ tự do mau sụp đổ để chúng vào cai trị, đè đầu, đè cổ dân chúng miền Nam. Thậm chí, chúng còn cho người “chui cao, luồn sâu” tận giường ngủ của ông để đêm đêm thọt cù lét cho ông nhột chơi nữa. Nhưng khi, ông không còn cơ hội cầm cờ trong tay để phất nữa, thì chúng lại sợ và thù ông chí chết Cả một đời làm tổng thống, ông Thiệu chỉ để lại cho hậu thế một câu danh ngôn “đáng đồng tiền bát gạo”, giá trị hơn nhiều tỉ Mỹ Kim, hơn hẵn 36 tấn vàng mà Bắc Bộ Phủ vội vàng bợ về Bắc chia chác cho nhau ngay những ngày đầu 75. “Đừng nghe những gì cọng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cọng sản làm” Câu danh ngôn này, ba mươi mốt năm qua, đã làm cho Việt cộng xang bang xất bất. ( không phải cho người Việt hải ngoại tha bang thất quốc đâu) Nó trở thành một câu “thần chú” vô cùng hiệu nghiệm để hoá giải các chiêu thức của Vi Xi đưa ra “mà mắt thiên hạ”. Câu “thần chú” này được “nhân dân hóa” thành một “khẩu quyết” dễ nhớ, dễ thuộc để đối phó với ngón võ “Ơn Đảng, ơn Bác”. Việt cộng bất cứ làm gì, nói gì, ban hành nghị quyết gì, người dân chỉ đọc câu “khẩu quyết” trên là mọi sự đều hóa giải thành con số không hết trọi. Việt cộng lo sợ, điên đầu và căm thù cái “khẩu quyết” này vô cùng tận. Nhưng cũng không tìm ra chiêu thức mới nào để trừ khử tiêu diệt được nó. Càng ngày cộng sản càng lộ chân tướng là con cáo đội lốt người, người ta mới thấy và khâm phục “tuệ nhỡn” của Tông Tông Thiệu. Nó giống y chang câu nói của tướng độc nhãn Do Thái Mosche Dayane: Muốn thắng Cộng sản thì hãy cho Cộng sản vô nhà. Bây giờ thì cộng sản đã “lọt ổ” vô nhà rồi. Bây giờ thì cộng sản tuy tiếng rằng chiếm được đất nhưng đã thấm đòn bị thua. Từ thua tới thua trên mọi con đường: Chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn… nhất là nhân tâm. Người dân trong nước phản kháng chế độ hà khắc bằng cách bất hợp tác. Do sự kiêu căng, hãnh tiến và ngu dốt, họ đã kéo lùi dân tộc ngày càng trở về thời đồ đá, đồ đồng và bây giờ là đồ đểu. Bây giờ thì Đảng ta ra sức hô hào đổi mới. “Đổi mới hay là ngỏm củ tỉ ” câu khẩu hiệu này đã được trương lên hơn hai mươi năm. Có lẽ dân miền Bắc thấy nó có đổi mới thật. Nhưng dân miền Nam thì thấy nó cũ xì. Nó đang trở lại y chang thời kỳ trước năm 1975 hay còn tệ hơn thế nữa. Từ chiếc áo dài tha thướt được phục hồi thay cho bộ đồng phục vải Nam Định nhuộm nâu, nhuộm xám ngoài Bắc tràn vô, cho chí mấy cái “văn hóa đồi trụy” như thi tuyển hoa hậu, nhảy đầm…được Đảng ta ra sức phát huy và được long trọng gọi tên khác đi (tránh bắt chước tụi Ngụy) là “Duyên dáng Việt Nam” và “múa đôi” cho có vẻ “đậm đà bản sắc dân tộc” và “hoành tráng - ấn tượng” Mấy bà già trầu, “má nuôi chiến sĩ” ngày xưa từng đào hầm, gánh gạo nuôi giấu “cán bộ ta” nay mất ruộng, mất nhà, ra vỉa hè nằm lăn lóc, xin ăn qua ngày, há hốc miệng ra, kêu lên: - Chèng ơi! Sao thấy giống hồi thời Mỹ Ngụy dzậy cà? Nói cách mạng đổi mới sao không thấy tới mà cứ thấy thụt lùi hoài dzậy? Lão Thiệu nói thiệt đúng! Cách mạng mình nói dzậy mà không phải dzậy! Ơn Bác, ơn Đảng! Thiệt tình! Nói dzậy mà không phải dzậy! Mời độc giả xem qua cái quyết định dưới đây để coi Đảng ta “Nói dzậy mà…” Quyết định số: 1568/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 11 năm 2006 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003; Xét đề nghị của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Quyết định: Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Điều 2: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương… Chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật. … Điều 4:Bộ Quốc phòng (Quân khu 7) thực hiện việc di chuyển… hoàn tất trong tháng 7 năm 2007. Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng (ấn ký) ( Công báo số 09-10 (7/12/ 2006) Trước khi xem cái Quyết định này có ý nghĩa gì, xin mời quí độc giả lượt qua môt đoạn phim ngắn về “quá trình công lao” của tướng râu kẽm Nguyễn cao Kỳ cho cái thành quả này. Phim có tính chất hư cấu. “Phó vương Kỳ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, vễnh hàm râu kẽm, hùng dũng tuyên bố với binh sĩ: - Chúng ta quyết đánh tụi Vi Xi đến giọt máu cuối cùng”. Xế chiều, trên TV người ta thấy Phó vương bay trực thăng ra hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Cảnh tiếp theo Phó vương xô chiếc trực thăng xuống biển để hạ quyết tâm: - Không đánh đuổi được tụi Vi Xi ra khỏi nước, quyết không về! (Giống câu thề khi đi nhậu: Không say không về!) Nhiều năm ( bắt chước Bác) tìm đường cứu nước tại Mỹ, Phó vương Kỳ bị thất bại liên miên. Đêm đêm ông mài kiếm dưới trăng, vừa uống X.O vừa chửi trời, chửi đất và chửi đời. Đời đã đá ông bầm dập. Không giống như trong hồi ký ông tự viết về đời mình như là “một đứa con cầu tự”. Đi đánh cá thì cá trốn ráo trọi. Bán ghe lên bờ, mở tiệm rượu. Khách chưa kịp đến mua thì Phó vương sẵn buồn tình trong lòng, nên uống hết sạch. Sập tiệm. Hết vốn vay mượn, phải đến ở nhờ nhà đàn em kiếm cơm qua ngày. Gia đình ly tán. Vợ là Đặng thị với con gái bỏ đi làm MC ca nhạc để mưu sinh. Năm 1992, Phó vương làm đơn xin về nước, bắt chước Hàn Tín áp dụng “khổ nhục kế” để mưu đại sự. Bắc Bộ phủ vừa nghi kỵ vừa hận về mối thù cũ nên sổ toẹt đơn của Phó vương, không cho về. Trong thời gian ẩn nhẫn đợi chờ thời cơ, Phó vương chiếm được trái tim bà vợ của đàn em mà mình đang ăn nhờ ở đậu. Người đàn em bị đàn anh “vi chủ thành khách” bèn “ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu!. Tháng 6 năm 2003, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Việt cộng, Trần đình Bin, sang Mỹ làm công tác kiều vận, kêu gọi “đàn bò sữa đem sữa về nhiều thêm”. Phó vương chớp thời cơ mời Bin đi đánh gôn và ăn cơm nhà hàng. Dịp này, Phó vương xin Bin giúp cho về “thăm quê hương” một chuyến. Lấy cớ là tuổi già sắp theo Bác. Bin ngẫm nghĩ hồi lâu rồi gật đầu đồng ý giúp. Năm đó, Phó vương về, đi lông rông, không làm nên tích sự gì vì Bắc Bộ phủ còn cho “âm binh” theo dõi và điều tra hành vi nhất cử nhất động “diễn tiến hoà bình” của tên phản động nhiều nợ máu với nhân dân. Cũng thời gian đó, ở hải ngoại không hiểu được “chí lớn” của Phó vương cứ cho là tên phản bạn lừa thầy nên chửi rủa, thóa mạ kịch liệt. Trước những phản ứng gay gắt, giận dữ của tập thể “huynh đệ chi binh” và Cộng đồng người Việt hải ngoại, Phó vương chỉ nhếch hàm râu kẽm cười khinh bỉ. Cho bọn lính tráng và đám phó thường dân ganh ăn, ghét ở, là lũ chuột nhắt hồ đồ, là chim se sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng, chim hộc. Qua năm sau, Phó vương lập được công lớn. Lần này về nước, Phó vương dẫn theo mấy tay “đế quốc tư bản” mang kè kè túi bạc đô la xanh kếch sù, tìm kiếm đất đai tốt để lập nơi du hí. Bắc Bộ phủ thấy đô la đổ ra ào ào, híp mắt sung sướng. Từ đó, Phó vương được Đảng ta tin dùng, nhưng cũng “có mức độ”. Những lời nói của Phó vương đều được “trên” xem xét, mớm trước rồi mới được phát. Hoặc lúc cao hứng, bốc đồng Phó vương có phát ngôn loạn xị thì báo chí cũng được lệnh cắt xén, ráp nối thành những “hòn đá bắn hai chim”, làm cho Phó vương ở cái thế toòng teng “đi chẳng nở, ở không xong”. Dịp may đến lần thứ hai, phước vô đơn chí, họa bất trùng lai, năm 2005, nhân dịp Tể Tướng Khải sang Mỹ cầu viện đô la, phu nhân mới của Phó vương (vợ của đàn em bị chiếm) thỏ thẻ với đức lang quận: -Thiếp có họ hàng với Tể Tướng Khải, tướng công nên tìm cách cận kề thì sẽ được nhiều lợi lộc về sau. Vợ chồng Phó vương y kế, tìm cách lân la mời Tể tướng Khải đi “in roi” mấy chổ nhảy sexy. Kết quả rất mỹ mãn. Tể tướng Khải hứng chí ra mặt. Nhưng ban đầu, Tể Tướng Khải vẫn có thói quen “cảnh giác”, địch lúc nào cũng tìm cách xâm nhập phá hoại ta nên có ý nghi ngờ, e mụ này ý đồ “thấy sang bắt quàng làm họ” nên bắt mụ phải kinh qua “thử máu nhận họ”. Nếu đúng, mới cho lại gần. Hai người nhỏ máu đầu ngón tay vào ly…nước lã. Hai giọt máu dần dần hòa vào nhau và lạ thay môt ngôi sao vàng hiện lên giữa màu máu đỏ tươi. Thế là vui quá. Tha hương ngộ cố tri. Hỏi rõ ngọn ngành, té ra hai bên là thông gia. Từ đó, những ngày ở tại Mỹ, Phó vương Kỳ với Tể Tướng Khải bá vai nhau đi đánh gôn và nhảy đầm, uống rượu và xem vũ sexy thoải mái. Một hôm, đang lúc vui vẻ, Khải bỗng thở dài, mặt sụ xuống, tỏ vẻ buồn bả. Kỳ ướm lời hỏi han. Khải than rằng: - Mấy năm nay, bọn Việt kiều gởi tiền về nước nhiều quá, gần bằng 1/5 tổng số tiền cả nước làm hộc máu một năm. Với món hời như thế, bất chiến tự nhìên thành, khoẻ re như bò kéo xe, nên Đảng ta thừa thắng xông lên, muốn moi thêm càng nhiều càng tốt, bèn kêu gọi “hòa hợp hòa giải” để chiêu dụ bọn nó mang đô la về nước làm ăn. Nhưng, kêu khản cả cổ, tốn nhiều giấy in nghị quyết này quyết định nọ vẫn chẳng thấy mấy đứa về. Chỉ tại cái thằng Thiệu nó đầu độc bà con ta là “Đừng tin những gì cộng sản nói”.Ta nghĩ đến đó là lòng thấy buồn, miệng ăn không thấy ngon, rượu X.O uống không thấy đậm đà, mấy em không còn mấy hấp dẫn như trước! Thời cơ đến, Kỳ được dịp tỏ lòng tri kỷ, hiến kế: -Tể tướng đừng lo lắng quá mà có hại cho mình rồng. Thần nghĩ, chiêu dụ bọn nó không khó gì. Bọn nó có tính nhân của đàn bà và hay quên. Bây giờ Đảng ta chỉ cần tỏ ra chút ít nhân đạo thì bọn nó sẽ “hồ hởi phấn khởi” quên hết quá khứ đau thương ngay ráo trọi. - Bằng cách gì? Khải hỏi tới. - Trước tiên, theo ý Thần thì nên trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà cho bọn họ. - Tại sao trả cái nghĩa địa xác chết mà bọn nó lại yên lòng được? - Hãy bắt chước Nguyễn Trãi “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Bước một Ta vờ hòa giải với người chết trước. Bước hai hòa giải với người sống. Khi được rồi thì ta nắm đầu chúng chẳng khó gì. Cái sách lượt 10 ngày học tập để tỏ lòng nhân đạo khoan hồng cũng còn xài tốt lắm. Khi bọn chúng lũ lượt kéo về thì ta sẽ… - Ừ! Nghe cũng phải. Để ta xem xét cẩn thận mới được. Đó là rượu nói. Về đến nhà Tể tướng Khải quên tuốt lời hứa. Phó vương Kỳ lại được ( bị) người Việt hải ngoại chửi bới thêm một trận te tua nữa. Nhưng cũng nhờ bà vợ có chút máu mủ thông gia với Tể Tướng Khải nên vợ chồng Phó vương Kỳ về Việt Nam đều đều như đi chợ để làm “Cò” và “trúng quả” nhiều lắm. Có người tò mò hỏi: - Tụi Việt cộng nó thù Ngài lắm. Sao bây giờ cho Ngài đi đi, về về Việt Nam như con thoi vậy? Kỳ cười bí mật, hàm râu kẽm nhúc nhích lên xuống, hạ giọng thầm thì: - Mấy “người anh em” họ tha thiết mời tôi về đấy chứ. Tôi nào có thèm lậy lục van xin như cái bọn bố láo, bố lếu ở ngoài này vu cho tôi. Tôi có sứ mạng! Đùng một cái, Tể Tướng Khải bị Bắc Triều cho rớt đài. Anh nông dân du kích nửa mùa ở miền Tây là Nguyễn Tấn Dũng được Hồ Cẩm Đào đưa lên thay thế. Ban đầu, Bắc bộ phủ ai nấy đều ngạc nhiên lấy làm lạ. Một người như Dũng không có tí thành tích gì trong quá khứ, lại là dân miền Nam không tin được, bỗng chốc nhảy tót lên bàn độc. Sau, bức màn thâm cung bí sử được ông cựu TBT Nguyễn văn Linh hé ra mới biết: Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn chí Vịnh đều là “Hổ chủng” của tướng Nguyễn chí Thanh, một tướng của Bắc triều đào tạo, giống như Nông đức Mạnh là “Long chủng” của “Bác Hồ muôn vàn kính” yêu vậy. Mọi người lúc đó mới mừng rỡ, sung sướng thở phào ra: - À ra thế! Thời gian cứ đủng đỉnh trôi và mấy cái sân gôn “hoành tráng đầy ấn tượng” ở Sài Gòn, Phú Quốc, Hà Nội…được hình thành. Phó vương Kỳ trúng mối lớn, ăn chia huê hồng phần trăm với “mấy người anh em” một cách rất “ấn tượng” và vui vẻ trên mức tình cảm. Trong lúc cụng ly X.O với “mấy người anh em” vấn đề “hòa hợp hòa giải” với người chết lại được Phó vương khoèo lại với Tể tướng Dũng. Tể tướng Dũng trẻ,đẹp trai, mặt mày sáng sủa, tuy hơi dốt một chút, nhưng không sao. Bác Mười đã từng là thợ thiến heo, Bác Anh từng là phu đồn điền cao su có học hành gì đâu? Thì đã sao? Vẫn đánh thắng được ba tên đế quốc đầu sỏ thế giới. Nước ta vẫn từng bước tiến vững chắc tới hố Chủ Nghĩa Xã Hội đó mà. Tể tướng Dũng tửu lượng rất cao, xưa kia lúc còn là du kích, đã từng chơi hàng lít đế Gò Đen, nên uống rượu X.O như uống nước lã. Lần này vừa cụng ly với Kỳ vừa bàn chuyện “lấy nhân nghĩa mà thay cho cường bạo” rất lấy làm tâm đắc. Sau khi cạn chừng ba chai X.O Hennessy, Tể tướng Dũng vỗ vai Phó vương Kỳ và quyết: - Nghe người anh em nói, tui thấy được quá! Tui chơi tới bến luôn! Nói thì nói vậy, Phó vương về nhà thao thức chờ đợi “ Cú chơi tới bến”, không ngủ được, hai con mắt cứ trỏm lơ như hai cái vỏ con nghêu úp lên vậy. Mãi cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2006 mới thấy cái Quyết định ở trên ban hành. Phó vương Kỳ chụp vội và đọc cái Quyết định rất kỹ. Đọc tới đọc lui năm lần, bảy lượt vẫn không tin ở mắt mình cái hàng chữ ỡm ờ trong quyết định viết rành rành: “Điều 1: Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế-xã hội tỉnh Bình Dương.” Phó vương Kỳ lẩm bẩm: - Mẹ nó! Mình lại mắc lừa nó rồi! Hôm trước mình xin nó làm một “cú” thật ngoạn mục để mình lấy điểm đặng dằn mặt với cái bọn bố láo hải ngoại rằng là: “Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã hộI Chủ nghĩa Việt nam xin trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân các tử sĩ Quân lực VNCH, được trùng tu phục hồi như cũ, để tỏ thành tâm thiện chí trong việc “hòa hợp hòa giải dân tộc”. Mà bây giờ, trong quyết định, chúng lại nói khơi khơi “chuyển sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế”. Thế là thế nào? Thế có chết mình không chứ! Hôm sau, Phó vương Kỳ ôm theo cái bản sao Quyết định lên Phủ Tể Tướng xin gặp Dũng để dọ hỏi xem người soạn thảo có viết nhầm hay không. Chầu chực mãi cho đến trưa, bụng đói, mắt hoa, tay chân bắt đầu bắt chuồn chuồn mới được Dũng cho kêu vào. Phó vương Kỳ chưa kịp nói lời nào, Tể tướng Khải đã chặn họng: - Tôi đã biết ý anh muốn nói gì rồi. Đây là quyết định của Bộ Chính trị, chứ không phải cá nhân tôi. Tôi có hứa với anh thật, nhưng anh cũng rõ là Đảng và Nhà nước ta đều ở trong cơ chế làm chủ tập thể. Việc anh nêu ý kiến thì tốt đấy. Nhưng Trưng Ương xét thấy mấy cái hài cốt của lính Ngụy đánh thuê cho Mỹ nằm đấy phí đất đi. Nay Đảng quyết định dụng 58 ha đất đó làm kinh tế thì tỉnh Bình Dương nói riêng và đất nước ta nói chung sẽ giàu to. Anh cứ tính nhẩm xem thì biết: Cứ 1 mét vuông trị giá sơ sơ chừng 1 lượng vàng y bốn số chín. 58 ha = 580.000 m2 x 1 lượng vàng = - Thôi anh lui ra. Khỏi ý kiến, ý cò gì nữa. Đảng đã quyết rồi. Không thể sửa. Nói xong, sai cận về đuổi ra cửa. Phó vương Kỳ tính trong bụng chắc mẫm kỳ này lập công to nhưng không dè cú đá giò lái của Tể tướng Dũng còn độc hơn cú đà đao của Quan vân Trường hay cú hồi mã thương của La Thành nên đứng chết trân. Hai hàng râu kẽm trên mép bỗng quặp xuống, trở nên cứng hơn thép, làm cho môi trên không nhúc nhích được. Từ đó Phó vương Kỳ bị chứng á khẩu. Chỉ có miệng ăn chớ không có miệng nói. … Trở lại cái chuyện nghĩa địa Bình An và Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Thế hệ sinh sau năm 1975 có lẽ không biết cái trò lập lờ đánh lận con đen về chữ nghĩa này: Nghĩa địa và nghĩa trang. Suốt chiều dài chống cộng giữ nước hơn hai mươi năm, mười tám ngàn lính chiến VNCH miền Nam đã hy sinh và được chôn cất tại đây. Phần đất mà những người lính anh dũng đã yên nghĩ vĩnh viễn ở đây đã được Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa long trọng đặt tên là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Sau năm bảy lăm, không những Việt cộng bắt tất cả Quân, Cán, Chính miền Nam vào các trại tù để lao động khổ sai mà chúng còn giam cầm cả người chết để trả thù. Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũng bị giam cầm, canh giữ suốt ba mươi hai năm bởi Quân khu 7. Tính chính xác đến ngày hôm nay là 32 năm 2 tháng. Chúng cố tình xóa đi cái tên “Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa” và thay vào đó cái tên “nghĩa địa Bình An” để người dân lâu ngày quên đi cái di tích này. Hành động trả thù người chết của Việt Cộng để thỏa mãn lòng hận thù không thua gì hành động của Vua Gia Long đối với nhà Tây Sơn thuở xưa. Câu “nghĩa tử là nghĩa tận” đối với cộng sản không có nghĩa lý gì. Tất cả các nghĩa trang công hay tư khắp miền Nam đều bị cào mồ, cuốc mả, san bằng để chiếm dụng vào việc gọi là “dân sự”. Nghĩa trang VNCH ở Cần Thơ, ở Gò Vấp, bị sang bằng ngay trong những năm đầu tiên để xây nhà cho cán binh VCở. Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nghĩa trang Bắc Việt, Nghĩa trang Chi Hoa cũng bị san phẵng để làm công viên. Hãy ngẫm lại mà xem, hài cốt lính Mỹ rãi rác khắp nơi từ núi cao cho đến chốn rừng sâu, Việt cộng cũng cố công đi tìm từng lóng xương, để trao trả cho Chính quyền Mỹ. Còn mồ mả lính Cộng Hòa, những người anh em cùng da vàng máu đỏ thì bị cào đi là nghĩa làm sao? Ngày xưa, Việt cộng xem Mỹ là kẻ thù không đội trời chung, nay lại trãi thảm đỏ mời rước vào Dinh Chủ tịch nước vào Phủ Thủ tướng. Trong khi “những khúc ruột xa ngàn dặm” lại cấm cửa. Muốn vô nhà phải xin phép. Vậy cớ làm sao? Tất cả chỉ vì đồng đô la màu xanh chứ không thể vì cái chữ “nhân” vô nghĩa. Miệng thì hô hào “hãy quên thù hận cũ để hòa hợp hòa giải” mà bàn lông lá tay lại thò sang tận hai hòn đảo hoang ở Mã Lai và Nam Dương đập nát hai tấm bia của người tỵ nạn.bị bỏ thây dưới lòng đại dương trên đường chạy trốn cái chế độ bạo tàn. Hành động đó đã đủ nói lên cái chủ trương “ giết tuyệt, diệt tận” của VC. Tờ Nhân Dân trong số đề ngày 29 tháng 12/2006 có đăng một tin, tựa đề: “Xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân phải theo qui hoạch” Nội dung cho biết là Bộ Xây Dựng đang lấy ý kiến hoàn chỉnh dự thảo “Nghị định về xây dựng, quản lý và sử dụng nghĩa trang nhân dân” trình Thủ tướng trong thời gian tới. Nhiều người có con em, chồng con hay thân nhân, bạn bè được chôn cất trong Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa bấy lâu nay, rất đau lòng vì không được bén mãng tới nơi để thăm viếng, thắp nén hương trên mộ hằng năm như trước, nay nghe thấy cái Quyết định vừa ban hành của Thủ tướng Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng đã vội mừng. Và họ cho rằng cộng sản đã đến lúc hồi tâm chuyển ý. Đồ tể bậy giờ đã chịu bỏ dao xuống để thành Phật. Nhưng qua những sự thật vừa liệt kê trên, cho thấy cộng sản không từ một thủ đoạn nào để xóa bỏ tất cả “tàn tích” của chế độ cũ. Bao nhiêu di tích lịch sử đã bị phá bỏ, bao nhiêu nghĩa trang đã bị san bằng, thì cái Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cái gai cuối cùng Việt cộng phải nhổ đi thôi. Đã nhổ được cái gai trước mắt, thu được một số tiền khổng lồ từ người chết, lại được tiếng “hòa hợp hòa giải” thì ngu gì mà không làm. Đạo lý là cái gì? Lương tâm là cái gì? Chỉ là thứ xa xĩ của bọn tiểu tư sản. Người cộng sản không có và cũng không cần những thứ vô bổ đó. Nó không giúp ích gì cho công cuộc xây dựng và tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, tiến tới Thế giới Đại đồng. Rồi đây, sau thời gian ấn định, tháng 7 năm 2007, tỉnh Bình Dương chắc sẽ ra thông báo cho dân chúng khẩn cấp di dời mộ ở “nghĩa địa Bình An”. Mộ nào không di dời sẽ được coi là mộ hoang, chính quyền sẽ “giúp đỡ di dời”. 58 ha đất vàng ở đây sẽ được mau lẹ chia lô bán để phát triễn kinh tế - xã hội. Chẳng mấy chốc sau đó nhiều hotel ba sao, năm sao sẽ mọc lên. Sân gôn hoành tráng sẽ khánh thành. Nhiều nhà tắm hơi mát xa, cà phê ôm, làng nhậu… sẽ nở rộ. Đám tư bản đỏ cùng cậu ấm cô chiêu sẽ dập dìu kéo nhau tới đó ăn chơi du hí thả dàn. Người dân nghèo đứng hai bên đường nhìn cảnh tượng đó sẽ ngậm ngùi than lên rằng: Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói không sai, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” Nguyễn Thanh Ty
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 31, 2010 9:47:38 GMT 9
Sổ Tay: Nghĩ về người lính VNCH
Nguyễn Thị Thu An LTS - Bài viết này, tác giả Nguyễn Thị Thu An viết dưới đề tựa “Hãy Vinh Danh Người Lính VNCH.” Nay Trang Cựu Chiến Binh xin mạn phép tác giả thay tựa của bài viết là “Nghĩ về người lính VNCH” và chia thành nhiều bài ngắn trong mục Sổ Tay. Lý do vì toàn bài viết tác giả đã nêu lên được tâm tình của người dân Việt đã chỉ có sau khi cộng sản đã chiếm xong toàn lãnh thổ mà nếu đọc một lèo, người đọc có thể bị phân tán, rất uổng. Mong tác giả Nguyễn Thị Thu An đồng tình với Trang Cựu Chiến Binh/Người Việt. Bài thứ I: Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương. Bắt đầu từ thập niên 60, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích còng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam. Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ. Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy. Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi. Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở miền Ðông xác thân thối rữa từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một trong 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân Quốc Gia được sống no ấm ở hậu phương. Những người dân Quốc Gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính. Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón tay. Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lõng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thỏa mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. Người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương. Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hóa rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các trung tâm huấn luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương. Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước. Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô. Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có những người sẵn sàng giẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân. Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh. Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.
|
|
|
Post by NhiHa on May 2, 2011 7:27:04 GMT 9
LẦN VẾT GIAI THOẠI
Khải Nguyên
15 tháng 04 năm 2011 T ruyện này viết ra ắt có thể bị cho là chuyện bịa, chuyện hoang tưởng, cùng lắm cũng chỉ được coi là giai thoại. Biết làm sao được! Có nhà văn lão luyện bảo : "Biết viết thì bịa mà như thật; không biết viết thì chuyện thật trăm phần trăm cũng là không thật". Tôi chẳng khéo viết, mà không viết thì lại chẳng yên lòng. Thôi thì ghi được giai thoại cũng đã là may lắm. Nhưng giai thoại là gì nhỉ? Phải chăng là chuyện đời ẩn sau những lời kể thường được đánh giá là chẳng mấy nghiêm túc?* * * Chùa Hương. Ngày xuân. Mùa hội. Người lũ lượt đi và leo. Thanh niên, người già, và cả con nít. Đủ sắc màu trang phục: trẻ trung, rực rỡ ; quê mùa, cũ kĩ ; sang trọng, lố lăng ; nghiêm chỉnh, chững chạc. Vừa đi vừa cười đùa; vừa leo dốc vừa tụng niệm. "A di đà Phật!" và "A di đà mệt!". Trên một bãi cỏ mơn mởn hơi cách xa lối đi, một toán sáu người ngồi vây quanh một mâm cỗ "dã ngoại" thịnh soạn. Cứ nghe khẩu khí của họ thì đó hẳn là các vị thượng lưu đời nay. Thức ăn đã dàn ra sẵn sàng. Những lon bia hộp chưa khui. Trước mặt mỗi người, một chén nước cay màu hổ phách đợi được chạm môi. Nhưng ở đây lúc này một sự im lặng ngưng đọng đang ngự trị, tựa hồ một mảnh nhỏ thế giới tách biệt với con đường nườm nượp khách lại qua. Ở đây, người thì nghiêng nghiêng mặt tư lự, tay xoa cằm; người thì nghếch nhìn chỏm núi xa; người thì khoanh tay trước ngực cúi soi mặt vào chén rượu; … Tất cả những con người ấy, dẫu có vẻ đang dồn sức nghĩ, thỉnh thoảng vẫn đưa mắt liếc nhanh một người mặt đỏ, dáng phổng phao, đang bệ vệ ngồi dựa lưng vào gốc một cây mơ già. Người này thì rõ ràng đang "vò chín khúc", đang "chau đôi mày". Chợt người trẻ nhất, hoạt bát nhất trong bọn, chừng ngoài ba mươi tuổi, hất cái đầu đội mũ phớt quát lên: - Này, bác kia! Nghiêng ngó gì thế? Mọi người giật mình nhìn lên. Một người chưa già, không trẻ, chân đi giày vải bộ đội, quần áo không sang, không tồi, không mới, không tàng, đến cạnh tự bao giờ. Anh ta đứng, hai bàn tay chụp lên đầu chiếc gậy lụi chống chếch trước mặt, đưa mắt điểm tiệc rượu, thản nhiên nói: - Tôi là khách vãn cảnh, thấy cảnh lạ thì ngắm thôi. - Cái gì lạ? - Thú Hương Sơn thu lại vừa đầy một mâm rượu thịt. Song cỗ bày ra không phải để cúng, mà cũng chẳng phải để ăn. Chẳng là đáng lạ sao? Anh mũ phớt gân mặt lên, nhổm người, nhưng rồi chững lại, hướng tới người mặt đỏ: - Thưa anh, cái anh này… Ông mặt đỏ khẽ hất một ngón tay, anh mũ phớt ngồi xệp ngay xuống, chĩa cái nhìn khinh thị sang kẻ quấy rầy: - Anh nên biết chúng tôi đang bận làm thơ. Đã có sáng kiến là ai nghĩ ra thơ trước thì được nâng chén trước. - Làm thơ à? Sao mà chậm chạp quá vậy? Thức ăn thiu hết còn gì! - Người lạ lắc đầu ra vẻ phiền muộn. Bấy giờ ông đỏ mặt mới ngồi thẳng dậy nói không lên giọng mà nghe vang âm quyền thế: - Chú có vẻ là dân lãng tử hơn là khách hành hương. "Lãng tử" cười nụ: - Sinh thời Cụ Hồ gọi chú xưng bác nghe giản dị, thân mật mà đẹp. Chẳng phải ai cũng nên bắt chước cụ, e rằng lại như Đông Thi bắt chước Tây Thi mất. Không chắc ông mặt đỏ có am tường điển tích "Đông Thi bắt chước Tây Thi", nhưng nhìn mặt mấy người trong đám sầm lại, ông đoán chừng thằng cha kia lỡm mình; tuy vậy ông khoan dung nói: - Anh chê chúng tôi nghĩ thơ lâu, anh có giỏi thì thử một bài xem nào. Cứ đọc ngay bốn câu, hay dở gì cũng được, chúng tôi sẽ mời anh cùng dùng bữa. Coi như tiệc "Tao đàn quần hội", hả! - Ông cười kha kha tự thưởng thức câu nói cao nhã. "Lãng tử" giơ một bàn tay đập nhẹ vào gáy mình, nhăn nhó: - Chà, chà, chà! Thôi được! Xin hẹn nhau thế này: nếu tôi đọc ngay bốn câu thơ thì tôi xin vô phép trước các vị, ăn và uống tùy thích. Các vị chịu khó xơi sau khi tôi xong. Có được vậy, tôi mới nhận thách. Thằng cha này muốn rút lui trong danh dự, ra điều kiện oái oăm. - Ông đỏ mặt nghĩ thầm, rồi nói to: - Được! Ta chấp nhận. Nếu anh thua, anh phải để giầy và gậy chống lại đây. Các đồng chí ta có nhất trí vậy không? Mâm tiệc nhộn hẳn lên vì sự hóm của người có vẻ là bề trên hơn hết. Một ông đeo kính nãy giờ chỉ ngồi gại ria mép, hắng giọng lên tiếng: - Xin nêu thêm điều kiện: làm thơ về chùa Hương, lấy vần "hương", có ý "hương", nhưng cấm dùng chữ "hương". Hạn trong một phút. - Vừa nói, ông ta vừa chìa cổ tay trái đeo chiếc đồng hồ Nhật Bản loại sang ra, dùng ngón trỏ tay phải gõ gõ lên mặt kính. Nói xong, ông ta nhìn ông mặt đỏ và những người ngồi quanh đắc ý ra mặt. Lãng tử lại đưa tay gãi gáy. Mọi con mắt chĩa vào anh ta đón trước cái vẻ tẽn tò của anh chàng không được mời mà tự dẫn xác đến. Nhưng anh ta đã "e hèm" một tiếng, cao giọng đọc: Chưa đến chùa đã rõ thơm Tiếng đồn nức dạ khách thập phương Khua chèo suối Đục chồn đôi gối Xử gậy non Tiên lép bạnh sườn - Tôi đã có bốn câu như các vị yêu cầu. Cũng đã đủ để thành bài thơ rồi, nhưng còn có thể mở thành một bài bát cú. Tôi xin đọc hai câu kết nhường hai câu luận cho các vị: Vườn mơ ai vẽ cho ai trẩy Tụng niệm mà chi - Khỉ vọc vườn! Mọi cái miệng đối phương sắp tủm tỉm khép cả lại. Ông đeo kính cau mặt: - Thơ thẩn như anh thì đình chùa hết cả linh thiêng. - Thế là tôi được cuộc chứ ạ. - Lãng tử tỉnh bơ - Nào, mời các vị đứng lên cho! Có mấy người mặt muốn tím lại, nhưng ông mặt đỏ và ông đeo kính đã đứng lên. Họ tản ra luẩn quẩn gần đó. Khu vực quanh mâm cỗ được giải phóng. Lãng tử ung dung đặt gậy xuống, chẳng cởi giầy, ngồi xếp bằng vào chỗ ông bự vừa dời đi. Anh ta chỏm luôn một hộp bia. Anh mũ phớt xua tay rối rít: - Ấy chớ! Bia chúng tôi chỉ còn vừa đúng mỗi người một hộp. Anh uống rượu kia kìa, tha hồ. - Sao lại thế? - Lãng tử nói giọng bảo ban - Tôi lại thích bia. Anh ta thành thạo kéo khóa nắp hộp bia, ngửa cổ tu một hơi dài. Lúc đó, một bé trai gầy guộc dắt một bà cụ lọm khọm trên đường đi lên chùa trong chợt rẽ vào. Cháu bé tần ngần nhìn mọi người rồi ấp úng nói: - Các bác, các chú có nước cho bà cháu xin ngụm. Cháu có mang theo chai nước nhưng vừa trót đánh vỡ. Lãng tử ngắm hai bà cháu, một bóng âm u trườn qua vẻ mặt nhơn nhơn phớt đời mà anh ta vẫn giữ từ đầu câu chuyện tới giờ. Trước mặt anh là sự khốn khó hiện hình. Anh nhoài người nắm tay cháu bé kéo lại gần mình ôn tồn bảo: - Ở đây không có nước cháu ạ, chỉ có bia thôi. Uống bia giải khát được lâu. Có tiếng nói giật giọng phía sau: - Này, bà già! Đi một quãng nữa có giếng tiên, uống nước giếng ấy vào giải được mọi nỗi oan, khách đi lễ người ta tranh nhau uống đấy. Lãng tử không ngoảnh lại: - Nước ấy không vệ sinh lắm, ông bạn cũng biết chứ. Mà chẳng tiên nào, thánh nào giải được các nỗi oan nhân thế đâu. Cụ ơi! Cụ thử uống một ngụm bia, nhẹ lắm, không say đâu, cụ ạ. Bà già lóng ngóng đỡ lon bia đưa lên miệng nhấp một hớp rồi nhổ ra ngay: - Nước gì có vị rượu lại khai mùi nước chè thiu thế này? - Đồ giải khát nhưng thường lại dành cho những người chẳng khát đấy cụ ạ. - Lãng tử quay sang cháu bé - Cháu mang gì trong túi vậy? - Anh trỏ cái túi vải nâu thằng bé đeo quàng qua vai. Đứa bé thẻn mẻn: - Thẻ nhang và thức ăn trưa của bà cháu và cháu. - Cho chú nếm thử nhá. - Chỉ có cơm nắm thôi, chú ạ. - Thằng bé ôm chặt lấy cái túi bằng cả hai tay. - Không sao. Đã lâu chú quên mất vị cơm nắm rồi. Anh gỡ nhẹ bàn tay cháu bé, đỡ cái túi, moi ra một cái gói mo cau. Trong gói là một cục cơm gạo đỏ độn những khúc sắn trắng nén khá chặt, điểm xuyết một ít muối vừng. - Chú đoán đúng mà - Anh dùng dao xén một miếng cơm nắm nhai ngon lành. - Bùi thật! Nhưng mà thế này thì suất ăn trưa của hai bà cháu bị lạm rồi. Để chú đền cho những thứ kia. Thằng bé giẫy nẩy: - Không! Không! Cháu chẳng đồng ý đâu. Bà cháu và cháu không quen. Bà cụ rụt rè lên tiếng: - Ông ơi! Ông trêu chọc cháu già làm gì cho tội. - Tôi nói thật đấy cụ ạ. Cụ nên nếm qua cho thấm thía - vừa nói, anh vừa vươn tay ra mâm thức ăn. Anh mũ phớt đứng đằng sau vội chồm tới nắm chặt lấy cánh tay anh: - Anh tự tiện quá đấy. Của nhà anh đấy à? Lãng tử bình tĩnh gạt tay anh kia, ngoảnh nhìn ông mặt đỏ: - Thế nào bác nhỉ? Ông này bặm môi, rồi nói không mấy xởi lởi: - Hợp! Mặc anh ta. Mà anh bạn này! Việc của anh là ăn thôi đấy. - Bác yên tâm! Tôi chẳng vi phạm giao kèo đâu. - Anh nhanh nhẹn lấy trên mâm cỗ mỗi thứ một miếng xếp đầy mo cau và túi vải của cháu bé. Bỗng thằng bé kêu lên: - Chú đừng nhét khúc dồi ấy vào. Dồi luộc dối còn đỏ hon hỏn mà lại bốc mùi thum thủm. - Dồi luộc dối đâu nào? À, lạp xường đấy cháu ạ. Cũng là những thứ dồi, lối Tàu có lạp xường, lối Tây có xúc xích. Phải kẻ sang giàu mới biết chuộng. Chú cũng chỉ mới được ăn có vài lần. Cháu cố nếm thử, khó nuốt thì quẳng cho mèo. Xong rồi! Cháu đỡ bà lên đường đi tiếp đi. A di đà Phật! Chúc cụ dẻo chân leo dốc. Lãng tử thong thả nhai nốt miếng cơm độn sắn, nhìn theo hai bà cháu đang cập rập dắt nhau đi, chiêu thêm ngụm bia, đứng lên: - Xin mời các vị. - Anh nghiêng đầu, đưa hai tay ra một cách lịch sự, rồi cúi nhặt chiếc gậy bước khỏi mâm tiệc. Trước khi bỏ đi, anh bảo ông đeo kính: - Anh bạn ạ, mấy câu thơ dù có tuyệt bút chăng nữa thì cũng chẳng thể làm mấy pho tượng chễm chệ trên ngai mất thiêng được đâu, nếu người đời còn cả tin hoặc cả sợ. Anh thong dong bước, đầu gậy điểm nhịp cho đôi chân. Nghe rõ tiếng nói không kìm nén ở phía sau của ông mặt đỏ: - Hừ! Đáng tóm gáy thằng bắng nhắng kia mang quẳng xuống suối Giải oan. Đồ phản động! Toàn giọng xỏ lá. Mà ai là khỉ mới được chứ? * * * - Nghe như chuyện Ba Giai, Tú Xuất ấy nhỉ? - Không! Đúng điệu một nhân vật vùng tôi. Vùng tôi có một tay vốn nòi nhà nho hay khoa hoạn gì đó. Cũng đã lâu rồi. Hồi ấy, hắn ta mới lớn lên, học hành dở dang đâu như mới đỗ Sơ học yếu lược thời Pháp thuộc; vì cha chết phải ở nhà làm ruộng. Làm anh nông dân con, nhưng hắn khá sành thơ phú cổ. Lần bầu Quốc hội đầu tiên, dân ta đang xóa nạn mù chữ, lại chưa quen việc bầu bán dân chủ. Để hướng dẫn cử tri, bộ phận thông tin tuyên truyền địa phương mới làm những bài vè, đại loại có những câu như: Ông Mai thì nên chọn họ Lương Đồng bào ta hãy nhớ cho tường Xứng danh đại biểu không ngần ngại… Hẳn là trong danh sách ứng cử viên có đến mấy ông Mai. Cái tay ấy - lúc đó, vừa đủ tuổi để được cầm phiếu bầu - bèn làm một bài thơ viết ngay vào lá phiếu: Bầu bầu cử cử khéo lôi thôi Ai được ai không đã biết rồi Bắt dân học thuộc tha hồ chép Quá chuyện khôi hài mấy chú ơi! Các vị thấy thằng cha có láo lếu không? Dám gọi các bậc bề trên là "mấy chú" một cách xách mé. Xược quá đi chứ! Người ta nhận ngay ra nét chữ của hắn. Xã mới đem hắn ra ngồi sám hối trước bàn thờ Tổ quốc. Hồi ấy, chưa có cái lệ "đấu tố". Hắn ngồi trên một manh chiếu cách biệt với vòng người phía ngoài. Lũ trẻ con cứ nghển cổ nhóng vào bấm chóe nhau vừa sợ vừa thích sự lạ. Hắn bỗng hát tướng lên bài Diệt phát xít: "Việt Nam bao năm ròng lên xiết lầm than…" với cái giọng vỡ của trai mới lớn, bất kể nhịp và điệu. Mọi người ngớ ra. Trẻ con ré lên cười. Ông trưởng ban quân sự quát: "Anh kia! Anh hát cho ai nghe đấy?" " Cho người nào muốn nghe". "Ai người ta thèm nghe". "Thì tôi hát cho bò nó nghe". "Được! Tự vệ đâu! giải nó đi, trói vào cột chuồng bò! Cho xuống đó mà hát”. Hắn được một đêm nếm mùi muỗi chung với bò, song hắn lại không có được cái đuôi bò, mà tay thì không rảnh. Hắn bị giải lên trên. Quanh quẩn thế nào mà rồi hắn được thăm nhà lao tỉnh. Đến đấy chưa được một ngày hắn đã có thơ ngâm ngợi công khai. Cảnh sát dọa cùm chân, hắn hỏi: "Có cùm mồm không?" Hậu quả của cái vạ miệng có thể khó lường, nếu chuyện không đến tai ông chủ tịch tỉnh. Về ông chủ tịch này có một giai thoại. Cách mạng tháng Tám, cướp chính quyền tỉnh xong, đoàn thể cử ông làm chủ tịch, ông lắc đầu quầy quậy: "Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, tôi có biết làm chủ tịch là làm cái quái gì đâu. Làm cách mạng thì tôi làm, làm chủ tịch thì tôi chịu". Trong giờ nghỉ giữa buổi họp, ông kéo một đồng chí ra một nơi. - Mày làm thay tao nhé. Cho tao về huyện, sức tao cố lắm cũng chỉ với tới cấp huyện thôi. - Đoàn thể cử mày chứ có cử tao đâu. - Đoàn thể thì cũng do mấy đứa mình đề xuất. Mày ưng thì tao trao đổi lại với các đồng chí. - Đi lâu rồi muốn về gần mẹ đĩ phỏng? - Chẳng phải vậy. Tao không quen việc giấy tờ. - Mày từng là giáo học; trong tù mày còn dạy tao cơ mà. - Tao ngại sa vào cảnh quan cách mạng lắm. Thôi thế này nhé: mày và tao bắt thăm. - Khôn thế! Vậy là ông bất đắc dĩ ngồi lên cái ghế chủ tịch tỉnh! Mấy đêm đầu, chiếc giường lò xo trong dinh tên công sứ Pháp cũ cứ nhún nhẩy dưới người ông, ông không sao chợp mắt nổi. Ông phải trải chiếu trên nền gạch hoa mà nằm. Tất nhiên giai thoại vẫn là giai thoại. Mấy ông quan chức ngày nay nghe chuyện chắc là cười mũi. Ông chủ tịch tỉnh cho gọi nhà thơ ngông lên. "Thấy bảo anh hay ngâm thơ, anh ngâm cho tôi nghe với nào". "Thưa ông, không tiện ạ". "Sao lại không tiện?". "Thưa, vì tôi chưa biết rõ về ông lắm". "Nên anh sợ không dám cho tôi nghe thơ anh chứ gì". "Thưa, sợ thì chẳng sợ. Nhưng bài thơ ấy không phải để tặng ông". "Thế thì tặng ai?" "Tặng những người mà tôi biết rõ là đáng tặng". "Được, anh cứ cho tôi nghe". "Ông đã bảo vậy thì xin vâng. Tôi xin phép đọc thôi, vì muốn ngâm thì phải hợp cảnh: … Cảnh sát cằn nhằn tuồng lại thuộc Ủy ban hò hét giọng đường quan Chính sách nghe hay người lại dở Khéo mà trăm họ lại lầm than!" "Hừm! Nói đến ủy ban mà bảo không tặng tôi. Thế ra tôi đứng ngoài ủy ban à? Hay là đứng trên? Nhưng thôi, chuyện đó cho qua. Bây giờ cách mạng rồi, làm gì còn đường quan với lại thuộc mà anh bêu riếu". "Thưa, tôi chỉ nói sự thật mà bị bắt, hết xã lại huyện, rồi đến tỉnh. Có ông ủy ban đập bàn quát nạt tôi, còn cảnh sát thì nhiếc móc, đe nẹt tôi". "Anh nói sự thật nào? Số đông dân chúng có được học hành như anh đâu. Mà anh thì đã học những gì? Anh tưởng dễ mà bắt dân học thuộc rồi đem chép được à?". "Vâng, nhưng không nên coi như con nít". "Con nít cũng chẳng phải bảo gì nghe nấy đâu. Anh cứ ngẫm anh thì thấy. Còn trong ủy ban, trong cảnh sát, cũng có người chưa tốt. Đoàn thể biết, nhưng phải từ từ. Mất hết cán bộ, ai làm việc cho? - Ông chủ tịch nhẹ giọng- Có chỗ cậu nói đúng: cán bộ dở thì làm hỏng chính sách, cũng tác hại như chính sách dở. Nhưng ngồi chửi đổng thì chẳng ích lợi gì cho ai. Cậu có muốn góp phần mình cho trăm họ khỏi lầm than không?". Hắn ta được thả. Hắn xin vào trường Lục quân đào tạo sĩ quan và được chấp nhận chẳng khó khăn gì. Thời ấy, người ta còn ít nệ lí lịch, cũng không mấy thành kiến. Song từ đấy hắn bặt tăm. Không khéo tay lãng tử kia chính là hắn đổi lốt cũng nên. Có hồi hắn hay kí Mộng Hoài, chẳng rõ có phải vì mơ cô Hoài hay không. Hắn thì có đến mấy cái tên ấy. * * * - Đúng! đúng! Ha, ha, đúng tủ rồi! - Cái gì đúng tủ? - Tạ Hoài chứ không phải Mộng Hoài. Anh ta đi bộ đội chứ gì? Tôi có biết một chuyện kiểu như thế của anh ta, nhưng lần này thì với một ông quan thật, "đường quan chánh hiệu", có điều là quan cựu. Hồi ấy, xã tôi có một đơn vị Vệ quốc đoàn về diễn kịch. Trong vở kịch có vai một ông quan to muốn theo cách mạng. Trang phục cho vở diễn hẳn là khó rồi. Ai đó bàn nên kiếm một bộ áo mão thật. Gần miền có một ông Nghè, tổng đốc về hưu thời thuộc Pháp, người ta quen gọi là cụ thượng Trần. Sau này, người ta lại gọi là cụ thượng "Đại Đồng". Nguyên do là thế này. Trong thời vàng son của cụ, cụ thượng có "mời" ông cộng sản nào vào tù không thì không rõ, chỉ biết hai tiếng "cách mạng" thì cụ kiêng hoặc kiềng. Cách mạng tháng Tám thành công, người ta mời cụ vào ban chấp hành hội Liên Việt huyện, cụ cáo bệnh; mời làm Liên Việt tỉnh, cụ nhận. Cụ siêng năng đi họp, sốt sắng lên diễn đàn khi được yêu cầu - mà cụ thì không thiếu gì dịp được yêu cầu -. Trong một lần mít-tinh long trọng kỉ niệm ngày 6-1 (sau này chỉnh lại là ngày 3-2) cụ hùng hồn phát biểu: "Tôi thiết tha mong Đảng cộng sản lại ra công khai để dẫn dắt nhân dân sớm đi đến thế giới đại đồng". Cụ có một ngôi nhà ngang rộng bỏ không, xã mượn tạm làm lớp học, cụ bảo cụ dành nơi đó để mình nghiên cứu chủ nghĩa Mác cho tĩnh. Một trong những thú vui của cụ là hàng tháng đem phơi bộ phẩm phục vua ban ngày cũ vào những hôm nắng to. Tự tay cụ làm cái việc phơi phóng đó. Cụ lần giở, cụ săm soi, cụ vuốt, cụ ngắm hàng giờ. Con cháu cụ, kể cả những đứa cụ cưng nhất, chớ có chạm tay vào! Rõ ràng chuyện mượn bộ áo mão của cụ thượng Đại Đồng xem chừng quá viển vông, nếu không nói là phiêu lưu. Anh em trong đội kịch mới đố: Ai mà mượn được thì mọi người sẽ góp nhau đãi một chầu "mộc tồn" (thịt chó). Một cán bộ đại đội nhận thách. Có phải người mà các vị vừa kể vóc tầm thước, da đồng hun, cười nói to không? Anh ta đấy. Anh ta xin nghỉ hẳn một ngày để về làng cụ thượng làm gì chẳng biết. Xong rồi, anh ta yêu cầu một cái giấy giới thiệu nhân danh chính ủy trung đoàn, - hồi ấy, chính ủy trung đoàn đã là to lắm, - nhưng không đóng dấu được vì văn phòng đoàn bộ ở xa. Giấy giới thiệu được phong kín. Đến gặp vị cựu tổng đốc, anh bộ đội đĩnh đạc nhưng nhũn nhặn trình bày lời đề nghị của đội kịch, đưa giấy giới thiệu và tạ trước rằng con dấu cũ của đơn vị bị nứt vỡ, đang cho khắc con dấu mới. Quan thượng cựu ung dung bóc phong bì, ung dung lướt qua giấy giới thiệu, và ung dung… từ chối: "Những thứ ấy gói kín cất kĩ rồi, chẳng tiện lục ra", rồi ung dung đút lại tờ giấy vào phong bì và ung dung dán lại, - theo nếp quen của cụ trong những trường hợp tương tự. Anh bộ đội vội can: " Ấy! Xin lỗi. Dấu chưa đóng được tôi còn khắc; thư đã bóc rồi cụ chớ phong!" Cụ Nghè sững người, phong thư trong tay cụ rơi xuống đất. Cụ nhìn trân người khách vệ quốc đoàn. Các vị có biết vì sao không? Cụ thượng cựu vốn tên là Trần Khắc Phong. Câu nói mà anh bộ đội làm như vô tình thốt ra chính là một đôi câu đối rất chỉnh: Dấu chưa đóng được, tôi còn khắc. Thư đã bóc rồi, cụ chớ phong. Đối với các nhà nho xưa, chơi chữ kiểu này làm đau hơn cả một câu chửi. Song thật xứng danh cụ thượng, cụ mỉm cười ngay được, ung dung cúi nhặt cái phong bì, ung dung mời nước nôi, ung dung hỏi chuyện gần xa, rồi dẫn sang chuyện văn chương. Anh bộ đội như vừa sực nghĩ ra: "Tôi mới đến vùng này nhưng thấy làng ta quả là đẹp, trước hết là thế đất. Nghe nói một vị túc nho nào đó đã xướng lên hai câu khai đề một bài ngâm vịnh cho thiên hạ nối vào…" "Đồng chí bộ đội có biết hai câu đó không?" "Dạ, có phải thế này không ạ: Trên thì cận thị, dưới kề giang Ở giữa trồi lên một cái làng" (Hai câu này nguyên là của cụ Nghè. Nói đến thơ cụ thì ngay chàng trai khéo mồm nào đang ve con gái cụ cũng không dám khen trước mặt bất cứ ai, ngoài cụ). "Đồng chí bộ đội thử làm tiếp đi!" "Dạ, - anh vệ quốc làm bộ nghĩ một chốc, - xin vô phép cụ "nối điêu" hai câu cho thành bài tứ tuyệt: Có chợ, có sông, còn có cả… Đa mang là nợ cái văn chương! "Chính lắm! - Cụ thượng vỗ đùi - Âu cũng là cái duyên nợ văn chương, tôi cho đồng chí mượn bộ phẩm phục của tôi. Nói thật với đồng chí, nó là cái tình tri ngộ, chứ giấy giới thiệu thì dẫu có đóng đến mười cái dấu đi nữa cũng không mượn được đâu". "Đồng chí bộ đội" mang "chiến lợi phẩm" đi rồi, cụ Nghè còn ngồi gật gù ngâm lại bốn câu thơ. Bỗng cụ ngừng bặt, ngờ ngợ… Có được bộ áo mão thứ thiệt, buổi kịch khá xôm trò, nhưng ở cái khía cạnh khá bất ngờ đối với cụ Nghè lẫn đội kịch: Bộ áo mão ấy quá rộng mà người đóng vai quan lớn thì quá nhỏ thó. - Ông bạn có vẻ biết kĩ cái anh chàng Tạ Hoài lắm nhỉ. - Đâu có. Chủ yếu cũng là qua lời đồn. Nghe nói sau hiệp định Giơ-neo, anh ta đã chuyển ngành đi học sư phạm hay thủy sản gì gì đó. Chẳng rõ rồi anh ta biến đi đâu. * * *
|
|
|
Post by NhiHa on May 2, 2011 7:28:25 GMT 9
"Cái tên từa tựa thì tôi đã từng nghe. Chưa chắc đúng là người anh đang muốn biết. Vóc dáng, tính cách và hành tung thì có vẻ giống đấy. Nhưng cũng chẳng sao. Vào cái thời Trạng Quỳnh, những giai thoại Trạng Quỳnh chẳng thấm vào đâu; song một Trạng Quỳnh thực thụ lại chẳng thể nào kham nối ngần ấy giai thoại. Tôi cứ kể nhá. Anh ghi thế nào tùy anh".
Một buổi chiều muộn đẹp trời, một người đàn ông tầm thước, dáng tự tin bước vào phòng thường trực ti văn hóa tỉnh T.
- Tôi muốn gặp đồng chí trưởng ti.
Người thường trực già lúng túng. Tuy mới hơn bốn giờ, nhưng lúc này trưởng ti hẳn đang ở phòng bóng bàn với mấy cô, cậu cán bộ, nhân viên. Người khách đến thật không đúng lúc, dẫu phong thái ông ta đàng hoàng thế kia,…
- Đồng chí trưởng ti đang rất bận. Hôm nay đồng chí ấy không tiếp khách.
- Tôi là bạn anh Ân.
- Thế ạ. Thế thì mời đồng chí lên phòng khách chờ cho một chút. Này cô gì ơi! - Người thường trực vẫy tay gọi một cô gái đi qua phía ngoài - Cô dẫn khách hộ tôi, rồi sửa soạn các thứ đi nhé, để tôi đi mời anh Ân.
Trưởng ti vừa bước vào phòng, khách đã đứng dậy vồn vã:
- Chào anh Ân. Anh có khỏe không?
- Cảm ơn anh. Vẫn chơi "ping-pong" liền dăm "xéc" được. - Trưởng ti Ân xiết chặt tay khách mà lòng thì hồ nghi. Ai nhỉ? Trí nhớ của mình… Có người bạn đáng giá nào mình quên đâu! Nhưng tay này có tư thế lắm, chẳng phải loại làng nhàng. - Mời anh ngồi. Lắm việc quá anh ạ. Kìa! Anh xơi nước đi! - Tôi ở xa nghe tiếng lăng mộ cụ Nguyễn, một lãnh tụ phong trào Cần Vương chống Pháp - Khách vào đề luôn. Trưởng ti Ân giật thót. - là loại lăng mộ cổ bằng đá, kiến trúc đẹp, có bia khắc thơ của các cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can, ca ngợi công đức cụ Nguyễn, một nơi đáng được xếp hạng di tích lịch sử và văn hóa…
- Vâng, đúng thế. Bộ văn hóa cũng đã chuẩn bị văn bản. Tiếc rằng người ta đã san bằng để mở rộng sân phơi của hợp tác xã mất rồi. Anh tính dân mình còn lạc hậu thế, chỉ biết cái lợi trước mắt.
- Thấy bảo đây là hậu quả sâu xa của việc tranh giành quyền bính và lợi lộc giữa hai dòng họ lớn nhất xã Trung và là hệ quả trực tiếp của những đơn từ tố giác những vụ bê bối của những kẻ đương quyền xã ấy.
- Cũng có thể là như vậy. Nhưng quả thật muốn mở rộng sân cũng vướng lăng mộ, khó có cách nào khác. Chung qui cũng do dốt nát mà ra.
- Sao các anh không can thiệp?
Hừ! Thằng cha này có vẻ muốn hoạnh mình. - Trưởng ti văn hóa khó chịu, nghĩ.
- Chúng tôi biết quá chậm. - Thái độ chủ nhà đã kém hồ hởi, và câu trả lời buông sõng như một lá bài quăng ra. Nhưng nghĩ thế nào anh ta lại dịu giọng. - Họ phá dở dang rồi, anh bí thư tỉnh ủy bảo cho qua luôn.
- Người ta kể rằng lúc lăng đang bị đục đẽo để nhét thuốc mìn vào thì một chiếc xe con của tỉnh đang ở trụ sở xã. Có người chạy đến kêu cầu, người có thẩm quyền phán rằng: "Lăng mộ đã bị phá nham nhở có bảo tồn thì cũng chẳng ra làm sao nữa". Khi xe vừa ra khỏi cổng làng, mang theo một con lợn gần tạ và mấy bao gạo nếp thì nơi lăng mộ mìn nổ.
- Ai bảo anh thế? Mà anh là ai?
- Tôi là một công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Tôi không hề quen biết gì anh. Ai cho phép anh đột nhập một cơ quan Nhà nước mà hoạnh họe? Mời anh đi ra cho!
Cuộc to tiếng kéo người vào chật phòng. Trưởng ti đứng lên, tay chống nạnh:
- Bảo vệ đâu?
Khách vẫn ngồi điềm nhiên:
- Anh hãy bình tĩnh. Nhân đông đủ, để tôi đọc tặng bài thơ tôi ứng tác trên đường.
Trưởng ti Ân bị bất ngờ chưa kịp đối phó. Những người khác thì tò mò muốn chờ xem. Người khách đã cất tiếng đọc to, giọng nam trung vang và rõ.
Lâu ngày trở lại làng Trung
Tìm thăm di tích anh hùng thuở xưa.
Ôi thôi! Nào có ai ngờ
Mộ xưa, bia cũ bây giờ còn đâu!
Giọng đọc cao dần. Mặt người đọc lúc tái đi, lúc lại bừng bừng:
… Bao đời họ Nguyễn nơi đây
Cha, con, ông, cháu đánh Tây lẫy lừng
Tưởng rằng công tích rỡ ràng
Bia xanh còn đó, biển vàng còn đây…
Xung quanh không một tiếng ho, không một tiếng xì xào. Người đọc dường như chẳng còn để ý đến ai. Có lúc giọng anh rung lên: Bác ơi! Bác có thấu chăng?
Cỏ cây xao xác, xóm làng xót xa
Đang tay đào mả ông cha…
Giọng đọc nghẹn ngào và mắt người khách như long lanh ướt. Câu đọc trở lại da diết và khẩn thiết:
… Việc này chúng chẳng chùn tay
Rồi ra thân phận người ngay thế nào?
Ai dung cho lũ cường hào?
Núp danh cách mạng, mượn mầu "vì dân"…
Tiếng đọc dứt, trưởng ti Ân như sực tỉnh. Ông ta cười khẩy một tiếng nghe rợn người:
- À, thì ra đây là tay chân họ Nguyễn làng Trung.
Ông ta ghé miệng nói nhỏ gì đó với trưởng ban bảo vệ, rồi len lén đi ra. Trưởng ban bảo vệ dõng dạc ra lệnh: "Ai ở yên đó! Nội bất xuất, ngoại bất nhập!" Phòng bên cạnh có tiếng vòng số quay lẹt rẹt. Một lát, một chiếc ôtô dã chiến dừng bánh ngay trước thềm phòng khách. Ba người công an lật đật bước vào, trong đó có một thiếu tá. Trưởng ti Ân len trở vào đến bên người chỉ huy công an trỏ tay vào người khách:
- Anh này ở đâu xồng xộc vào đây mạo xưng là bạn tôi. Anh ta đọc thơ xuyên tạc, kích động chống Đảng, chống chế độ, xúc phạm đồng chí bí thư tỉnh ủy, động đến cả Bác Hồ.
Thiếu tá công an hỏi cộc lốc:
- Bài thơ đâu rồi?
- Các đồng chí muốn nghe, tôi đọc lại.
- Không cần! Chưa cần! Sẽ có nơi, có lúc cho anh đọc. Đưa xem giấy tờ! - Tôi chỉ có cái này. - Người khách móc túi đưa ra cái giấy. Viên thiếu tá chăm chú nhìn, lật đi lật lại.
- Đây chỉ là cái thẻ đọc sách thư viện. Giấy thông hành, giấy chứng minh của anh đâu?
- Hiến pháp nước ta ghi rõ quyền tự do đi lại, không ai qui định phải có giấy thông hành. Còn giấy chứng minh ở địa phương đây thế nào không rõ, còn ở các nơi khác, theo tôi biết, còn lâu mới xong cho tất cả mọi người.
- Mời anh đi sang ti công an.
- Các đồng chí định bắt tôi chăng? - Người khách cười nhạt hỏi.
- Tùy anh hiểu. Anh ở địa phương khác đến đây có hành vi khả nghi, liên can đến an ninh chính trị, giấy tờ không minh bạch, chúng tôi cần phải điều tra.
- Nói cho các anh biết: bắt tôi thì dễ, nhưng thả thì khó đấy. Tôi không giấu là tôi định ngay sáng mai tôi sẽ đi Hà Nội cùng bài thơ của tôi.
Viên thiếu tá cắn môi, mày hơi cau lại:
- Anh mang gì trong túi kia? - Anh ta chỉ cái túi xách kiểu kí giả người khách vẫn đặt bên mình.
- Tài liệu riêng của tôi.
- Cho xem!
- Các anh thích lục soát tư trang của công dân thì cứ việc. - Người khách ngả lưng vào ghế, tay khoanh trước ngực.
- Chúng tôi không cưỡng bức. Nhưng anh nên giúp chúng tôi.
- Giúp bắt tôi?
- Giúp gỡ… à, giúp giải mối nghi vấn. - Nói thế thì được. - Sau một thoáng suy nghĩ, người khách đặt lên bàn một cuốn sổ bìa vải bọc mi-ca có mép khép lại như một cái nắp. - Đây! Nếu các anh nghĩ là cần.
Người sĩ quan công an chộp cuốn sổ, lần giở ra. Có những trang ghi thơ. Có những tờ dính ảnh. Khá nhiều ảnh. Thấy vậy, mấy người xúm lại cặm cụi xem. Kinh nghiệm nghề nghiệp cho thấy lắm khi những tấm ảnh mách bảo nhiều điều. Nhưng sự hăm hở dần dần nhường chỗ cho sự phân vân. Những ánh mắt ý tứ liếc nhau. Quái! Kẻ mà họ đang sẵn sàng xích tay đây lại có mặt trong những tấm ảnh mà cả đời họ chẳng dám mơ tới. Đây, Bác Hồ đang chăm chú trước một mô hình. Kia, thủ tướng đang tươi cười giữa mấy người vây quanh. A! Hắn cũng có mặt đang nhe răng cười. A! Ông ta đang thuyết trình gì đó. Toàn là ảnh chụp cùng các vị lãnh đạo cao cấp. Lại có cả một cái tem khổ to in hình Bác Hồ mang chữ kí viết tay của Bác. Thật là khó nghĩ. Viên thiếu tá nhẹ tay gấp cuốn sổ lại, mân mê cái bìa một lát:
- Làm sao anh có được các thứ này? - Người công an dè dặt hỏi:
Kể ra thì chẳng có gì ghê gớm. Chẳng hạn, ai đã có dịp phụ trách một phòng trưng bày được Bác và các nhà lãnh đạo trung ương đến thăm thì vinh dự kia không khó. Nhưng họ không nghĩ ra hoặc chưa kịp nghĩ ra.
- Chuyện đó các anh khỏi cần quan tâm.
Trưởng ti Ân pha chè rót ra các chén, nhưng không lên tiếng mời ai; vẻ mặt ông ta âm thầm. Viên thiếu tá lẳng lặng đặt một chén nước trước mặt khách, một chén trước mặt trưởng ti văn hóa, và tự mình nhấc một chén đưa lên miệng. Mấy ngụm nước nhấp thong thả. Mấy giây im lặng. Chợt anh ta lên tiếng, ánh mắt thân thiện hướng vào người khách: - Đồng chí có thể cho nghe bài thơ được không?
Trưởng ti nhăn mặt. Người khách không để nài. Lần này anh tự kiềm chế hơn, nhưng đọc vẫn rất diễn cảm. Nghe xong, thiếu tá từ tốn đặt chén nước lên bàn, cười lên một tiếng:
- Bài thơ ngộ thật, nhưng hơi ác. Về cái làng Trung thì đã có mấy câu vè nặc danh tệ hơn ấy chứ. Báo cáo anh Ân, hôm nay ở đây có sự hiểu nhầm nhau thôi. Bây giờ khuya rồi, để đồng chí đây đi nghỉ, anh nhỉ. Anh ta quay sang người khách - Bên này chắc không sẵn chỗ ngủ, mời anh sang ti chúng tôi, bên ấy luôn luôn sẵn sàng đón tiếp.
- Cảm ơn. Tôi không quen ngủ độ chỗ công an. - Người khách trước khi đi ra bắt tay chào khắp lượt.
Hôm sau anh lên đường về thủ đô, đâu biết rằng có một bức điện từ tỉnh T, đánh đi đề nghị điều tra về một kẻ đáng ngờ, như thế, như thế,…
Lúc tôi về tỉnh T. Thì chuyện phá lăng ở làng Trung hầu như đã bị lãng quên. Trưởng ti Ân đã về hưu, hình như quá sớm. Đám quyền hành xã Trung cũng ít nhiều thay bậc đổi ngôi. Sân phơi của hợp tác xã quả có mở rộng thênh thang, nhưng bây giờ là nơi chơi đùa, đá bóng của thanh thiếu niên. Duy, khoảnh sân nơi có lăng mộ cũ thì cỏ mọc tùm bum qua các kẽ gạch lát. Chừng bọn trẻ kiêng chốn này. - Chẳng có lẽ chúng sợ ma? - Tôi uổng công dò hỏi tung tích người khách nọ. Đâu như ông ta họ Tạ, hoặc tên là Tạ. Họ là Tạ ư? Hẳn là Tạ Hoài rồi! Còn tên là Tạ thì ai cấm biệt hiệu là Tạ Hoài, hay ghép với tên vợ hoặc tên người yêu là Hoài? Hay là Tạ nhớ ai chăng? Hay là Tạ từ cô Hoài? ấy! Tôi cứ lẩn thẩn nghĩ như thế, cứ lẩm cẩm tin như thế. Rõ khốn khổ!
* * *
Sự tình cờ đưa tôi đến huyện L. Đây là một huyện đồng bằng đông dân, nhưng ở xa tỉnh lị, lại cách một con sông rộng, đò phà nhiêu khê, nên gần như biệt lập. Dẫu vậy, huyện lị khá xinh xẻo, có vẻ trù mật. Phố xá rải ra. Nhiều nhà mới đẹp, hiềm vẫn mang dáng dấp kệch cỡm và diêm dúa của sự học làm sang. Tuy nhiên, cái chướng mắt hơn cả là một cái vườn hoa nhỏ. Nó chướng vì nó lệch, lệch hình thù - gần giống hình tam giác, lệch vị trí nom ngang phè. Nó chướng vì nó tựa kề một biệt thự hai tầng mọc lên phô phang và đài các rởm. Nó chướng còn vì vườn thì bé tí mà giữa vườn ngất nghểu một cột đèn cao áp to sụ lêu đêu. Trong vườn, cỏ dại tràn ra các lối đi, trùm lên các luống hoa, mà hoa thì gần biến thành hoa dại cố ngoi lên lấp ló đó đây.
Thấy tôi đang tư lự trước vườn hoa nọ, một thanh niên đang đi đường ghé lại:
- Chú khoái chốn này hay sao mà ngắm kĩ thế? Chú từ xa đến phải không ạ?
Tôi vui vẻ bắt chuyện, và chẳng mấy lúc được anh bạn trẻ kể cho nghe về cái gọi là vườn hoa này.
- Nó có lâu rồi, từ khi cháu còn bé tí kia. Người ta quen gọi là vườn hoa "Đỗ Thành". Tại sao gọi thế ấy ạ? Là vì do ông Đỗ Thành mà ra. Ông ấy là chủ tịch huyện. Ông chủ tịch huyện cho xây cái nhà lầu kia xong, - không! nhà riêng ông ta chứ ạ. Xây nhà xong, ông ấy bèn cho làm cái vườn hoa này, - làm cho huyện đấy ạ. Chỗ này trước là một ao nước đọng, nơi đổ rác và phóng uế của một góc phố huyện. Phải huy động hàng huyện đến làm đấy ạ. Nói làm cho huyện chứ ông nội cháu bảo: "Vườn hoa nằm chỗ này thì ma nào đến thưởng ngoạn. Công dụng to nhất, và cũng là duy nhất, là chặn mọi khả năng mọc lên công trình nào chắn gió đông - nam thổi vào nhà ông chủ tịch". Có bài thơ hay lắm về cái vườn này, em đọc anh nghe nhé. - Tôi được hạ cấp xuống thành "anh" nghe trẻ hẳn ra cũng khoái, nên gật đầu lia lịa. Chốn huyện lị có vườn hoa chéo
Anh huyện Thành lấy méo làm vui
Đêm đêm ánh điện tỏ ngời
Tầng trên anh ngự anh cười cợt hoa
Chành lún phún cỏ hoa ba góc
Chính giữa giương một cọc ngất nghênh
Người người thắc thỏm đồn khen
Công lao cả huyện mà nên công thành
Nghe đồn là thơ của thầy giáo Hoài dạy trường huyện. (Tôi cố nén để không hỏi ngay về cái tên vừa nghe được). Ông giáo Hoài dạy học ở đây đã lâu. Có đến mấy bí thư, chủ tịch huyện này là học trò cũ của ông ấy. Em nghe kể: Hôm trước huyện làm lễ khánh thành vườn hoa thì hôm sau ông chủ tịch Thành làm lễ mừng nhà mới. Nghe nói quà mừng nhiều vô kể, có cả ti-vi màu; còn những hộp nhỏ, xinh xinh, lịch sự thì người ta tha hồ mà đoán mò. Buổi tối ông chủ tịch mời riêng mấy người quen thân dự tiệc. Thầy giáo Hoài cũng được mời. Ông nội em bảo: "Cái ông Thành này cũng còn có chỗ khả thủ. - Khả thủ là gì hở anh? - Ông ta đối với thầy giáo cũ còn biết giữ lễ. Khối kẻ leo đến chức ông nọ bà kia nếu không vênh mặt lên thì cũng phớt lờ. Tránh mặt hãy còn là biết điều". Nghe nói trong tiệc rượu hôm ấy, để xôm thêm những lời chúc tụng mọi người mới đề nghị ông Hoài đọc thơ. Cũng có lời kể rằng: Bài thơ đã được loan truyền từ trước chưa rõ của ai. Hôm đó, do đã ngà ngà say, cái hứng vui nhộn bốc lên, bí thư huyện ủy mới xướng ra và tán cho mọi người cười chơi. Ông Thành cũng cười thoải mái, rồi hỏi ông Hoài rằng có phải thơ của thầy không. Ông Hoài thủng thẳng nói: "Cứ cho là tôi làm đi. Anh nghĩ sao về bài ấy?" Ông Thành đáp: "Em nghĩ rằng cũng chỉ đùa hóm một chút thôi. Nhưng sợ rồi bị hiểu xuyên tạc đi sẽ không có lợi". Ông Hoài nói: "Cũng có đùa vui thật. Song, chỉ đùa vui thì e rồi chẳng vui được mãi. Có gì để ngẫm mới đáng nói. Nên hiểu đúng, hiểu xuyên tạc lại không đáng sợ". Có người lại nói bài thơ ấy vốn là của mấy ông giáo viên, kĩ sư quanh huyện ngồi xướng họa với nhau, rồi người ta gán cho thầy Hoài. Người ta còn bảo: Thật ra thì chủ tịch Thành căm lắm, chửi vụng thầy giáo cũ là "đồ lừa già học đòi Hồ Xuân Hương" và "rồi sẽ biết". Chuyện đến tai thành ủy. Nghe nói một lần bí thư thành ủy về huyện có ghé trường bảo các giáo viên rằng: "Tôi nghe các thầy giỏi làm thơ lắm. Nhưng có gì thì góp ý thẳng với tỉnh ủy, đừng làm thơ tùm lum, dân người ta chẳng hiểu cho các thầy đâu".
- Vườn hoa sao mà hoang phế thế này? - Tôi hỏi để lái câu chuyện.
- Gần cuối đời ông chủ tịch Thành nó đã bắt đầu tàn rồi.
- Ông ta làm sao?
- Bị tù. Mười năm tù giam. Thấy bảo đã bị bắt một lần, nhưng ông bí thư thành ủy trước thả ra. Ông này có một tuyên ngôn rất chi là trứ danh: Ai tham nhũng, có chứng cứ hẳn hoi thì trị, còn như họ xây nhà chẳng hạn đem lại công ăn việc làm cho dân thì tốt quá đi chứ! Dân xanh mắt. Đến khi ông bí thư ấy được thăng chức lên trên rồi, ông Thành mới bị bắt lại. Tù chưa được ba năm thì ông ta đã về. Nói là kém sức khỏe. Nhưng nom cứ béo phây ra. Vẫn thong dong ra vào tòa lầu ấy. - Còn thầy giáo Hoài?
- Không thấy ở đây nữa.
- Ông Hoài họ gì?
- Em không biết.
Hoài? Cái tên này gợi một cái tên khác. Tạ Hoài?
Tôi muốn tìm hiểu thêm, nhưng những người tôi hỏi chuyện không thể nói rõ gì hơn. Buổi chiều, trong một quán nước, tôi nghe một người trạc trung niên ngồi ôm cái điếu cày ngâm:
Nửa thân dạy học, nửa chăn heo
Cám bã, văn chương lộn với bèo…
Tôi khen để gợi chuyện:
- Ông bạn làm thơ hay quá nhỉ.
Anh ta lắc đầu:
- Thơ thẩn gì tôi. Truyền là "thơ giáo Hoài" đấy.
Tôi lân la hỏi, được biết thêm vài mẩu chuyện đồn thú vị quanh ông giáo trường huyện này. Tỉ như có lần huyện ủy và ủy ban nhân dân huyện cấm mọi người đến chúc Tết tại trụ sở huyện, dù nhân danh tập thể, dù cá nhân. Trước ngày nghỉ Tết, ông Hoài vào huyện xin gặp bí thư và chủ tịch:
"Lệnh huyện cấm, nhưng cũng mạn phép đến đây chúc Tết huyện ủy và ủy ban. Tôi đến nhà riêng lại không tiện".
"…"
"Vì như thế có nghĩa là tôi chúc Tết cá nhân các đồng chí, và làm thế là nghịch thường. Trò không chúc Tết thầy thì thôi, thầy cũ lại đi chúc Tết trò, người ta cười các anh. Tôi cũng chỉ chúc miệng thôi, chẳng dám mang thứ này, thứ nọ như người ta. Tôi chúc Tết rồi, bây giờ xin hỏi một chút có được không?".
"Dạ, thầy cứ hỏi".
"Các đồng chí cấm đến chúc Tết tại nơi làm việc, có cấm đến chúc tại nhà riêng các đồng chí không?".
"Thầy ạ, cấm thế không tiện. Tục lệ cổ truyền… Trên tỉnh cũng vậy".
"Không tiện? Không lợi? - Ông giáo gật gật đầu như tự hỏi - Hay thật! Càng xa rời mặt tích cực trong ý nghĩa cổ truyền thì lại càng hay viện đến cổ truyền? à, hôm trước hai anh có hỏi đùa tôi câu đối mừng xuân, ngay đây, tôi vừa mới nghĩ được một vế cũng cứ xin đọc hai anh nghe: "Tết, vào cửa cấp trên, không lẽ tay không không là chúc Tết?" Tôi chưa nghĩ ra vế đối, các anh đối giùm cho thì hay".
Tôi vẫn không biết được điều tôi muốn biết. Ông giáo Hoài không phải họ Tạ. Hay vợ ông là Thủy Tạ? Tôi cứ muốn nghĩ ông chính là "lãng tử" chùa Hương dám sờ râu mấy vị cao sang phởn phơ, chính là anh thanh niên ngồi đối diện ông chủ tịch tỉnh ngại ghế cao, chính là anh bộ đội chọi chữ với một ông Nghè, chính là ông khách không mời của một trưởng ti văn hóa. Nhưng mà… có nên cố gò không nhỉ? Và có cần phải vậy không? Tôi chẳng mấy tin ở chuyện trùng hợp tình cờ, song cũng không ưa thời nay lại có lắm người hùng ương ương, dở dở. Đành hay mỗi thời có thể có: hoặc một Trạng Quỳnh, hoặc một Xiển Bột, hoặc một Ba Giai,… một người trong vô vàn người, hay vô vàn người gạn lại một người. Nhưng thời nay thì nghe nó lạc lõng, nó trái khoáy, nó vô duyên, nó khó chấp nhận làm sao ấy. Chẳng phải một vị lãnh đạo cấp cao từng nói rằng: "Cái chuyện Trạng Quỳnh là chuyện một thằng xỏ xiên, xỏ lá không đáng đem dạy trong nhà trường" đó sao! Hơn nữa, những chuyện cóp nhặt trên đây sao sánh tày những chuyện của các nhân vật giai thoại vừa kể. Nhưng lại nghĩ: trong cái mớ chuyện vui truyền miệng hỗn tạp, có khi nhố nhăng, biết đâu chẳng có ít mẩu hiếm hoi mang tình và ý của cuộc đời. Cũng như bụi đường chẳng phải đều thuộc loại rác rưởi cả. Bụi đường nhân thế và lịch sử càng không như vậy. Bề dày thời gian, độ rộng không gian mới có thể đưa tới một số kết tinh dân gian ít nhiều ý nghĩa. Vả chăng có phải bất cứ chuyện đời thường nào cũng trở thành giai thoại được đâu.
Đời không giai thoại là đời quá đẹp hoặc đời quá xấu. Đừng để đời biến thành giai thoại cả, mà cũng đừng để đời thiếu đi những giai thoại.
III-1988
|
|
|
Post by NhiHa on May 2, 2011 7:31:07 GMT 9
“NGUỒN GỐC VIỆT NAM CỦA 12 CON GIÁP”
Hà Văn Thùy
14 tháng 04 năm 2011 Trong chuyên khảo của mình, anh Nguyễn Cung Thông khẳng định:
“Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão, Tuất, Hợi… khi nhập vào tiếng Hán đã mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả năng tổ chức.”
Và:
“Do đó, hai âm Mão và mèo đã có sự phân biệt ít nhất từ thời nhà Lê, và xác suất nhầm lẫn giữa Mão11 (âm Hán trung cổ, nhập ngược vào VN khoảng từ thời Đường Tống) và mèo (âm thượng cổ) trong tiếng Việt rất nhỏ!”
“Hệ thống gọi tên các con vật cụ thể (đơn giản) và rất gần gũi với nhà nông khi nhập vào văn hoá Hán đã trở thành hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này cùng khởi sắc khi văn hoá Hán phát triển cực mạnh (Tần, Hán ... Đường, Tống ...) và ảnh hưởng đến các khu vực chung quanh, đây lại là hiện tượng nhập ngược mà ít người ý thức được trong trường hợp Việt Nam.”Nếu tôi không lầm thì những dòng trên có nghĩa là: Từ những con vật bình thường của tộc Việt, người Hoa đã nâng cấp, thăng hoa thành 12 con giáp của Trung Hoa để rồi trở lại khai hóa người Việt? Một ý tưởng như vậy tự nhiên phải đối mặt với những câu hỏi sau: Vì sao nền văn minh lớn Hoa Hạ không tự chế tác được Địa chi từ những con vật gần gũi của mình mà phải vay mượn của kẻ khác tộc, bị coi là man di? Đã là vay mượn, sao không chuyển thẳng từ Mèo sang Thỏ mà phải qua trung gian Mão? Thời gian tồn tại của Mão (nếu có) sẽ là bao nhiêu vì từ thời Chu, Thỏ đã ngồi trong Địa chi rồi! Tại sao lại phải làm cái công việc nông nổi, tạm bợ vậy? Việt và Hoa khác nhau về chủng tộc, văn hóa và ngôn ngữ lại xa nhau vạn dặm thì bằng cách nào, tên mấy con vật của người Việt có thể lên Trung Nguyên? Muộn nhất là vào thời Chu, Mão đã biến mất khỏi Địa chi Trung Hoa thì lấy đâu ra Mão để thời Đường “nhập ngược” vào Việt Nam? Những câu hỏi trên không thể trả lời! Chính vì đề xuất của anh Nguyễn Cung Thông không phù hợp với sự thật nên những câu hỏi trên không thể trả lời được! Tôi xin giả định một kịch bản về sự hình thành Địa chi như sau: Ở thời Phùng Nguyên, văn minh nông nghiệp của người Việt cổ đã phát triển. Nhu cầu làm lịch xuật hiện. Công việc đầu tiên là đặt tên cho 12 giờ trong ngày, các ngày trong tháng…Như truyện cổ của người Dao: “Ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai trời sinh con trâu…” thì ta biết rằng, tổ tiên ta đã chọn và xếp thứ tự 12 con vật trong Địa chi. Việc tiếp theo là đặt tên hèm cho các con giáp. Bởi lẽ, vốn là con vật quen thuộc, nhưng khi vào Địa chi, trở thành linh vật thì giống như thần thánh, không được gọi tên tục mà phải gọi theo tên hèm. Tên hèm khác tên tục nhưng có liên hệ gần gũi với tên tục để cho khi gọi thì người ta hiểu được tên tục của vị thần hay linh vật. Điều này anh Nguyễn Cung Thông giảng giải rất thuyết phục: Chuột à chút = Tý; Trâu à tlủ à sủ = Sửu; Mèo à mãn = Mão… Cuối cùng tổ tiên ta sáng tạo được 12 con giáp để làm ra Âm lịch. Khoảng 5000 năm TCN, Âm lịch theo chân người Việt đi lên phương Bắc. Khoảng 2500 năm TCN, người Hoa Hạ học lịch cùng chữ viết của tổ tiên Việt. Trong một bài trước đây, tôi có viết, đại ý: khi học văn hóa của tổ tiên Việt, do tự tôn và bá quyền, người Hoa Hạ không chấp nhận con Mão xa lạ nên đổi thành con Thỏ! Có lẽ sự việc tự nhiên và đơn giản hơn: rất nhiều thế hệ người Hoa đã học Tý, Sửu, Dần, Mão… một cách nghiêm cẩn như ông cha ta xưa học chữ thánh hiền. Nhưng rồi một hôm, đứa trẻ của Andersen xuất hiện với lời cật vấn ông thầy Việt: - Thưa thầy, con Mão là con gì ạ? - Đó là linh vật mà thánh nhân phương Nam xếp ở chi thứ tư trong Địa chi! - Thưa… thầy đã thấy con vật đó chưa ạ? - Chưa, nhưng nghe người xưa kể thì đó là con vật bốn chân, hay bắt chuột… - Thưa thầy, vậy sao không thay con Mão bằng con vật khác gần gũi hơn! Ông thầy la lớn: - Phản rồi, phản rồi, trò lại dám chê cả thánh nhân! Thôi ngồi xuống, về mà tu tâm dưỡng tính, không rồi lớn lên sẽ thành kẻ vu khoát bất trị! Cậu học trò ấm ức ngồi xuống mà không biết rằng mình đã đưa ra câu hỏi nặng cả nghìn cân! Rất lâu sau, có bậc trí giả, bất giác gật gật đầu: - Phải, thằng bé nói phải! Sao ta lại không thay con Mão vô sở kiến bằng con Thỏ nhỉ? Thì cũng có cặp tai dài mà cách đọc na ná nhau: mão à mãn à vãn = Thố. Lời của thức giả được nhiều người nghe theo. Từ đó con Thỏ thay cho con Mão vào ngồi trong Địa chi. Đồng thời người ta cũng thay đổi cách đọc đơn bằng cách đọc kép: Tý-Thử; Sửu-Ngưu; Dần- Hổ; Mão-Thố… Còn người Việt, sau hàng vạn năm ở phương Bắc, con mèo thì xa mà thỏ lại gần nên cũng vui vẻ chấp nhận sự thay đổi này. Từ đó, Mão biến khỏi Địa chi Trung Hoa. Thời Chiến quốc, nhiều người chạy loạn tới Nhật Bản, Triều Tiên, Lào, Thái… Họ mang theo con Thỏ trong hành trang văn hóa của mình. Duy chỉ có người Việt Nam, là người sáng tạo ra 12 con giáp và sống trên đất cố cựu của tổ tiên, nơi con Mèo gắn bó với mình nên không có gì thay đồi, vẫn giữ con Mão trong Địa chi. Theo thao tác ngôn ngữ so sánh, anh Nguyễn Cung Thông tìm ra dấu vết những con vật Việt trong văn hóa Trung Hoa. Nhưng do không được chỉ dẫn bởi khoa học đáng tin cậy khác, hơn nữa lại bị choáng ngợp trước những đại từ điển Trung Hoa, nên anh tin rằng: từ đầu vào thô là những con vật dân dã Việt, trí tuệ siêu vượt Trung Hoa đã sáng tạo ra những con giáp để rồi khai hóa trở lại người Việt (!) Vô hình trung, anh đã tặng không cho người Trung Hoa thành tựu văn hóa lớn của tộc Việt! H.V.T
|
|
|
Post by NhiHa on May 2, 2011 7:41:14 GMT 9
TẢN BÚT QUA HỒI KÍ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Khải Nguyên
22 tháng 04 năm 2011 Đây không phải là một bài phê bình mà chỉ là đôi điều cảm nghĩ lụn vụn của một người “ngoại đạo”, chẳng phải là nhà phê bình văn học, nhà lí luận càng không phải. Cuốn hồi kí có những trang đọc khá lí thú cho biết một số khía cạnh, kể cả mặt khuất, về cuộc đời và con người, về chính tác giả nữa, trước hết ở những mặt có liên quan đến học thuật, văn nghệ. Ta được biết con đường mà một giáo viên dạy cấp hai (tức cấp trung học cơ sở hay trung học đệ nhất cấp) trở thành một giáo sư đại học tiếng tăm, cùng những thành tựu của ông. Ta được biết một số chuyện “ít ai biết” trong các lĩnh vực văn nghệ, học thuật, giáo dục,..., cả chuyện riêng tư. Có những chuyện khá “bất ngờ”, tỉ như chuyện ông Lê Đức Anh đi giật lùi trước ông Lê Đức Thọ khi chào ông này ra về mà ông Nguyễn Khải và một số nhà văn khác chứng kiến (Chi tiết này bổ túc bức chân dung mà ông Trần Quang Cơ, cựu thứ trưởng ngoại giao, đã kể trong cuốn hồi kí của mình: Bất chấp việc các vị lãnh đạo tối cao, trong đó có ông ta, đã quyết định rằng tiếp viên trợ lí thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc chỉ do thứ trưởng ngoại giao mà thôi, còn cấp cao hơn thì không, ông Anh đã tự tiện đến gặp sau khi viên “đặc sứ thiên triều” này tỏ ra tức tối vì các quan chức VN làm việc với y không chịu tuân theo ý của y. Chưa hết, sau đó khi sang Bắc kinh, ông Anh lại hai lần đến nhà riêng y để xin lỗi!). Nói chung, với những người được đề cập đến, ông Mạnh đều ít nhiều khắc họa được những nét riêng, cung cấp nhiều tư liệu có khi thuộc dạng “bí sử” dù họ đều là những người có tiếng tăm được huyên truyền trong giới không ít . Thanh Tịnh là người ít nổi bật trong số đó, nhưng người ta biết nhiều đến ông qua một số truyện ngắn và bài thơ dễ thương của ông trước Cách mạng, và những bài “độc tấu” của ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông Mạnh cho là “tuyên truyền cao đến như độc tấu của Thanh Tịnh thì cũng vẫn là tuyên truyền” không phải là nghệ thuật, in thành sách rất dở, và “Thanh Tịnh là một trong những nạn nhân bi thảm nhất của lí luận văn nghệ Trường Chinh”. Thật ra, đây chỉ là những tiết mục đệm trong những buổi diễn văn nghệ hay những buổi họp hành; thường chúng rất được đón nhận, nhất là những lúc khán giả hay cử tọa đã mệt mỏi hay chán những tiết mục nhạt nhẽo hoặc những bài nói khô, sáo,... ; cũng có lúc là tiết mục phục vụ bộ đội tại chỗ bên đống lửa trại hay những khi dừng nghỉ trong hành quân chẳng hạn. In làm tư liệu thì được, chắc sinh thời Thanh Tịnh cũng không coi quá cao. Về cái ý của ông Trường Chinh “tuyên truyền cao đến một mức nào đó thì trở thành nghệ thuật” mà ông Mạnh nhắc đến thì cũng hơi... lùng nhùng. “Cao đến một mức nào đó” là sao? (Và trong vế thứ hai: Nghệ thuật thiết thực đến một mức nào đó thì có tác dụng tuyên truyền.- Thiết thực như thế nào?). Tuyên truyền và nghệ thuật là hai lĩnh vực khác nhau song có thể có những trường hợp nào đó gặp nhau không? Cái này có thể dựa vào tác dụng của cái kia; cái kia có thể phát huy ảnh hưởng sang cái này chăng! Bài La marseillaise của nước Pháp ban đầu là tác phẩm tuyên truyền cho cách mạng Pháp sau trở thành quốc ca Pháp; đó có phải là tác phẩm nghệ thuật không? Bài thơ Đợi anh về của Ximônốp làm để cổ vũ cuộc kháng chiến chống Đức của Liên-xô xưa vẫn được đánh giá cao mãi về sau này. Không thấy nói Picasso vẽ bức tranh Ghécnica do thuần túy cảm hứng nghệ thuật hay do cuộc nội chiến Tâybannha thôi thúc, chỉ biết đây là một kiệt tác (nhưng) mà trong nhiều cuộc vận động (tuyên truyền) chống chiến tranh người ta vẫn nhắc đến. Dương Thu Hương lại là người khá nổi bật. Người ta vốn đã biết đến cái “tiếng” ngổ ngáo của nhà văn nữ này. Có lần, trong một hội ngộ văn chương, Tô Hoài khoe đã in hơn trăm đầu sách, bà Hương cho ngay một câu: “thật là vô liêm sỉ!”. Trong một lần được mời nói chuyện về tác phẩm của mình, trên diễn đàn bà ta nói không úp mở: “Cuốn Bên kia bờ ảo vọng tôi viết về N.Đ.T.; mà anh ta bảy phần tôi chỉ mới viết một” (Về sau, trong một trường hợp nào đó bà ta đã chối những lời này). Đọc hồi kí NĐM thấy rõ một DTH đanh đá, ngang ngược trong giao tiếp cũng như trong phát ngôn chính thức, và luôn mồm chửi người này, người nọ là “đồ khốn nạn”. Điều này không phản ánh trong tác phẩm của bà: văn phong của DTH cứng cỏi, quyết liệt nhưng không “tệ hại” như ngôn phong. Ngôn phong ấy cùng tính cách ấy có thể là gia vị cho văn phong ấy đối với loại người đọc này, song có thể là cái mùi phản cảm đối với loại người đọc khác. Ông Mạnh nhận định đúng: ở nhà văn này, văn truyện kí không sắc sảo bằng văn chính luận. Song le, do thiên hướng cực đoan (có cả phát ngôn tùy tiện nữa chăng!), khó tránh khỏi những nhận định võ đoán hoặc phiến diện. Chỉ lấy một dẫn chứng nhỏ: như ông Mạnh kể DTH từng cho rằng “Năm điều bác Hồ dạy (thiếu nhi), không nói yêu cha mẹ nên bây giờ trẻ con hư hỏng hết”. Đó có thể cho là sơ suất trong lời dạy thứ nhất của cụ Hồ, nhưng qui cho đó là nguyên nhân của tình trạng trẻ con hư thì chỉ là nói cho “oai” thôi. Trong hoàn cảnh: xã hội thì tiêu cực, tham nhũng tràn lan mà người đời lại vô cảm; gia đình thì mải lo kiếm sống, hoặc mải lo kiếm chác; nhà trường thì không hoặc khó làm tròn chức năng của mình, dẫu có nhấn mạnh “yêu cha mẹ” đến vạn lần cũng khó mà biến trẻ con hư thành ngoan được. Có ba nhân vật có những điểm nổi bật vừa (có vẻ) giống nhau mà lại rất khác nhau. Đó là các ông Hoàng Ngọc Hiến, Tô Hoài và Trần Đăng Khoa. Giống nhau ở chỗ đều tinh quái nhưng khác nhau ở chỗ: ông thì tinh quái kiểu “triết nhân”, ông thì tinh quái kiểu “ma xó” có nghĩa là biết hầu mọi chuyện của hầu mọi loại người trong giới, ông thì tinh quái kiểu “nông dân hãnh tiến”. Cả ba ông đều rất hay “phán”, mỗi ông phán theo “ngôn phong” riêng của mình. Hình như không thấy ông Hiến khen ai. Những người, những việc nói đến thường được ông ban cho những lời thâm thúy đậm mùi triết lí cay độc, và, như lời ông Mạnh, là những “nhận xét khái quát, mệnh đề chắc nịch, cực đoan” mang tính phán truyền. Chẳng hạn, ông phán người xứ Nghệ “cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc”. Bạn ông, ông Mạnh, khẳng định ông là dân xứ Nghệ nhưng “cái gì cũng biết, kể cả hạnh phúc”; tuy vậy người ta muốn hỏi chính ông về ông, vận vào “định đề” nói trên của ông, cả về những người thân của ông trên đất Nghệ nữa. Đọc hồi kí NĐM thấy Hoàng Ngọc Hiến thích tìm “qui luật”, ví như: giảng viên đại học gồm hai loại, loại động vật và loại thực vật... . Một người học trò Trương Tửu trước đây cho biết vị giáo sư quá cố này từng rất hay đề ra qui luật trong các bài giảng của mình; những qui luật ấy chết yểu. Chẳng biết ông Hiến có hay tìm qui luật trong nội dung các bài giảng của mình không, những “qui luật” ông phát ngoài đời những lúc hơi khinh suất e rằng cũng chẳng thọ; song, những câu sản ra từ chiều sâu suy nghĩ như khi ông nói về “văn nghệ phải đạo”, về “nước ta nó thế”,... có thể đọng lâu. Có vẻ như có những lúc ông theo đà nói cho sướng miệng, chẳng cần biết hậu quả. Như lần ông trả lời phỏng vấn trên Talawas mạt sát và miệt thị nhiều đồng nghiệp, mặc dù phóng viên đã nhắc là sẽ đưa ra công khai đấy; sau đó ông có những lời đúng như người ta tán “sám hối khi tỉnh rượu”. Ông Mạnh vẽ ra một H.N.Hiến ngông nghênh, chẳng sợ ai, song đã có lần ông này khẩn khoản ông kia “Đừng nói với ai nhé!” về một hành động chính trị do bị “xúi dại” của mình. Lần khác, ông “thoát hiểm” là nhờ Lê Đức Thọ cứu (Chuyện này hẳn ông khoe với ông Mạnh nên ông kia mới biết được tường tận). Có một dạo người ta thích những lời phán của H.N.Hiến, nhưng giá ông “điều chỉnh” cách tư duy một chút và tôn trọng đối tượng “mục tiêu” hơn, không nhất thiết phải điều chỉnh giọng điệu, -một giọng điệu rất riêng, có bản sắc, làm đậm những kiến giải của ông. Ông Mạnh nói về Tô Hoài: “cái gì cũng biết, không gì qua mắt được” “mà toàn thiên về phía mặt trái của cuộc đời, mặt trái của con người”, “tỉ mỉ, thóc mách”, “sành sỏi, lọc lõi”, “tinh quái”, “khinh bạc”. Song, ông có vẻ phục nhà văn kì cựu này. Tô Hoài chỉ cần đưa ra vài từ “rất gọn và đích đáng” để phát hiện ra những khía cạnh buồn cười và làm cho đối tượng nhận xét “lập tức trở thành tầm thường”. Chẳng hạn, bảo “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh chỉ là tập thơ kêu oan. Ông Mạnh cho rằng “kể ra cũng đúng” ở một số bài như bài “Đi Nam Ninh”: Hôm nay xiềng sắt thay dây trói (Ông Mạnh viết “giây”) Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung Tuy bị tình nghi là gián điệp Mà như khanh tướng vẻ ung dung Một bài thơ hàm ý trào lộng như vậy mà các vị đọc ra tiếng kêu oan thì “tài” thật! Tô Hoài còn biết nhiều điều mà “không phải ai cũng biết rõ”. Tỉ như (ông phán): Vụ Nhân văn-Giai phẩm thật ra là một vụ án chính trị do “hai thằng Tây” xúi giục, “một là Tổng giám mục ở nhà thờ Hà Nội... , hai là tay tùy viên văn hóa của sứ quán Pháp... ” (Ông T.Hoài nhầm, hồi đó Pháp chỉ mới có phái đoàn đại diện tại Hà Nội chứ chưa có đại sứ như ở Sài Gòn) chứ chẳng phải án văn nghệ(!) (Các vụ án “ngục văn tự” nào trong lịch sử đông tây mà không dính tới chính trị? Vấn đề là đối tượng để phê phán thuộc lĩnh vực văn nghệ), hay như: “Nguyễn Hữu Đang bị giam 15 năm /.../ khi ra tù không hề biết có chiến tranh phá hoại của Mĩ và sự kiện giải phóng miền Nam 30-4-1975”(!) (Ông Đang bị bắt giam năm 1958 thì hẳn ra tù năm 1973; mặt khác, ít ra thì trong tù người ta cũng cho ông Đang đọc báo và nghe đài để “giáo dục cải tạo tư tưởng” chứ!). Cái tinh quái, Tô Hoài sử dụng vào tác phẩm ở mức độ trong các tập O chuột, Ba người khác,... là vừa; đậm hơn có khi lại không hay lắm. Trần Đăng Khoa trong hồi kí NĐM “từ bộ dạng, cách nói năng đến thói quen ăn uống đều đặc nông dân” và “đặc biệt có tật nói dối” nhưng “mồm mép ghê gớm”, “rất to mồm muốn áp đặt tư tưởng của mình” cho kẻ khác, là người “đầy tự tin, có phần kiêu ngạo nữa” lại “có ý thức mình là thần đồng”. Không thấy bóng dáng nhà thơ đâu, chưa nói “nhà thơ thần đồng”, song lại thấy những nét tinh quái. Tinh quái ở những phát ngôn hoạt khẩu, ở cách “diễn đạt tinh quái”, “chống chế rất giỏi”, dùng giọng tếu táo hoặc tưng tửng, hài hước mà “chế diễu rất ác” và “biến thành khôi hài” những gì mình ghét. Ông Mạnh bảo “nghe Khoa nói, chỉ nên tin một nửa”, nhưng căn cứ vào những gì ông mô tả về nhân vật này thì như thế cũng là hơi nhiều; còn khi ông cho rằng Khoa “có phần kiêu ngạo” thì lại (cũng) chỉ đúng một nửa, có nghiã rằng thật ra thì “nhà thơ thần đồng” này rất kiêu ngạo song ở tầm “siêu”. Một lần, có người viết trên báo rằng “Khoa về hưu từ khi 10 tuổi”, ngụ ý chê tài thơ của ông ta cùn quá sớm, ông ta dùng giọng tưng tửng sở trường mà trả lời trong một cuộc phỏng vấn (đăng báo) rằng: người ta “xếp tôi ngang với thánh Gióng, thánh Gióng 3 tuổi đã về hưu còn tôi 10 tuổi đã xong một sự nghiệp”, nhưng “tôi còn bao thứ làm sau khi ‘hưu’ nữa”,-tức là còn vượt xa thánh Gióng(!). Không nói chuyện cố tình hoặc vờ không hiểu hình tượng Thánh Gióng: Tuổi lên ba là tuổi ấu thơ của dân tộc trong buổi mai lịch sử; ba năm nằm yên “chẳng nói, chẳng cười trơ trơ” là ba năm nằm yên hấp thụ khí thiêng sông núi và giống nòi; nạn ngoại xâm là yếu tố kích thích tự vươn mình vùng dậy lớn bổng lên. Chỉ nói cái ý ngạo mạn coi những bài thơ trong “góc sân nhà (em)” là “một sự nghiệp” ngang với chiến công của thánh Gióng thì Khoa đâu chỉ “có phần” kiêu ngạo?! (Cũng phải thôi! được o bế và nâng đỡ từ bé, cả ở cấp lãnh đạo văn nghệ tối cao, cùng với việc được báo chí nâng niu ngợi ca hơn bất cứ ai khác trong làng văn thơ từ trước tới nay ở VN, trừ Tố Hữu, thì có kiêu ngạo và tự mãn cũng có thể thông cảm được, nhưng chớ tự “u mê hóa” mình rồi tự đánh giá quá xa sự thực, dẫu thường được khôn khéo che đậy!) Có thể nghĩ ông Mạnh đồng tình với nhiều lời phán mà ông thuật lại một cách “khách quan”, có khi lại tiềm ẩn nét vui vui, không có ý gì phê phán dẫu là phê phán ngầm kiểu bút pháp Xuân Thu. Chẳng ai viết hồi kí chỉ để cho riêng mình và thân thích đọc (Có học giả, -như N.H.L. chẳng hạn, viết rằng chỉ để cho con cháu đọc thôi, nhưng thực ra giọng điệu cũng như ý tứ trong hồi kí của ông ta không tỏ ra như vậy). Thảng hoặc có người chỉ muốn làm chứng nhân, nhưng nói chung thì ai cũng chủ yếu là nói về mình, về những gì liên quan đến mình. Điều này chẳng lẽ là không chính đáng? Hồi kí của NĐM cũng vậy. Điều đáng ghi nhận là ông Mạnh viết ra tâm trạng thực của mình, ý nghĩ thực của mình không gây quá bất ngờ như trường hợp N.K. Ông nhà văn này “biết điều” quá lâu cho tận đến ngày gần giã từ cõi đời mới tung ra một “tuyên ngôn phản tỉnh” muộn màng. Ông Mạnh hứng khởi nói về những thành tựu của mình và căm uất về những “tai nạn” do tổ chức hay cá nhân gây ra cho ông. Trong cuốn hồi kí, có người ông ưa, có người ông đối xử phải chăng, có người ông ghét -kể cả ghét thậm tệ. Đặc biệt, ông có vẻ hãnh diện được một số người quí: Dương Thu Hương, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu,... -cả Tố Hữu nữa, dẫu khó xếp ông này vào diện “ưa” của ông. Cũng đặc biệt, những người ông ghét hầu hết là những người ít nhiều đã phê phán ông trong những bài viết, bài nói. Thường thì với những người khác, nếu có đụng đến khuyết điểm, nhược điểm, ông không nặng lời; với những người ông không ưa, ông chẳng “hà tiện” lời phỉ báng: “thiếu văn hóa”, “thô bỉ”, “nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu”, “chỉ nghĩ đến đã đủ chán đời lắm rồi”, “một lũ bù nhìn vô tích sự”, ... Một số nhân vật bị ông điểm tận mặt: H.T. “ngang nhiên bợ đỡ”; T.V.T. “thằng cha láo lếu, mất dạy”; P.C.Đ. “thằng đểu”; M.Q.L. và T.M.H. “những kẻ hung hăng và to mồm” (hai người này chỉ “đồng ngôn” trong cuộc “đấu” với các ông Mạnh, Sử,... một lúc nào đó, còn thì không thể coi là “cùng chung trận tuyến”;... Có những lời và cách ứng xử không nên có hoặc không cần thiết. Chẳng hạn, Trần Thanh Đạm viết bài phê phán ông nhưng gặp ông vẫn “tỏ cảm tình”, ông cho là “lạ”, “khó hiểu”, “vì anh là người Huế -sơn bất cao, thủy bất thâm... ?”. Người viết bài này không mấy thích những bài viết của ông Đạm, nhưng cho rằng cách xử sự của ông ta như vậy là bình thường, là có văn hóa. Có bút chiến với nhau nẩy lửa cũng không nên và không thể biến nhau thành kẻ thù, huống chi chỉ là mấy ý chê trong một số bài phê bình. Với Trần Mạnh Hảo, người nổi tiếng luận chiến hồi nào với những ý kiến sắc và bạo cùng tài cắt xén và nhào nặn câu chữ của phía đối thoại, nhưng là người “sớm đầu, tối đánh” và đã ba lần trở cờ, ông từng nói trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo rằng không thể hạ mình đối đáp vì không muốn biến mình cũng hàng tôm hàng cá như ông ta, vậy sao lại phải chửi bới và “tặng” những từ như “lưu manh”, “đầu gấu”, “vừa ngu, vừa đểu”, “tên vô lại”, “một tệ nạn nguy hại hơn ma túy, mại dâm” thay vì những nhận xét và phê phán bình tĩnh, điềm đạm, đích đáng. Dường như ông Mạnh cho rằng viết hồi kí có thể dùng thoải mái ngôn từ, cách nói những lúc tếu táo hay đốp chát nhau ngoài đời tuy chẳng phải với dụng ý tu từ. Ông không ngại dùng những từ “xách mé” vào những chỗ, những lúc mà văn cảnh không đòi hỏi. Riêng từ “tay” có thể dẫn ra hai trường hợp. “Hai tay nông dân hợp nhau”, nói về Lê Lựu và Trần Đăng Khoa. “Ba tay trực tiếp chỉ đạo /.../ Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!”, nói vê Stalin, Rudơven và Sớcsin (lãnh đạo tối cao của Liên Xô, Mĩ và Anh trong chiến tranh thế giới thứ hai). Trường hợp thứ nhất tạm coi như một lối suồng sã vụn vặt chứ không phải khinh khi. Trường hợp thứ hai có thể coi là một sự khinh nhờn ngạo mạn vô thức. Dẫu vậy, cả hai trường hợp, cũng như các “sự cố” đáng tiếc khác, không làm trang hồi kí đẹp lên. Đọc hồi kí NĐM, thấy vừa thích, vừa tiếc. Thích, vì thêm hiểu biết, vì đáp ứng sự tò mò. Tiếc, vì dường như chưa thật xứng tầm một giáo sư danh tiếng. Một tiếc nhỏ: Trong hồi kí có khá nhiều lỗi chính tả; và có những câu văn khá tùy tiện. Hải Phòng, đầu năm 2010
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 4:34:10 GMT 9
Văn chương về tình dục: Có thật “Việt Nam lạc hậu trăm năm”? Nguyễn Khắc Phê Trên báo Tiền Phong ngày 10/3, tác giả Lan Anh trong bài viết nhân cuộc trao đổi giữa hai nữ nhà văn Việt Nam với một nhà văn Ý về “Văn chương về tình dục” đã giật “tít” Việt Nam lạc hậu trăm năm. Kết luận này đúng hay sai, xin dành cho các cơ quan nghiên cứu văn học. Tôi chỉ xin cung cấp một tư liệu tham khảo. Năm 1999, tôi được giáo sư Phan Văn Các, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm tặng cuốn “Hoa viên kỳ ngộ” (NXB Văn học, 1998), tác giả “khuyết danh” và tác phẩm ra đời khoảng cuối triều Lê, nghĩa là cách đây đã mấy trăm năm! Trong “Lời giới thiệu” cuốn sách có đoạn viết: “…Hai chị em Lan Huệ đều say đắm công tử họ Triệu… thậm chí nhường nhau trong buổi giao hoan cùng chàng rồi cuối cùng “tận hưởng cuộc hoan lạc trong cõi nhân gian, không còn biết Sinh là Sinh, Lan Huệ là Lan Huệ nữa”…Tác giả còn để cho Triệu công tử đề nghị hai tiểu thư Lan Huệ kéo cả hai thị nữ Xuân Hoa, Thu Nguyệt vào cuộc…”. Lại thử trích một đoạn xem người xưa đã dám miêu tả như thế nào. Đây là cảnh lần đầu Sinh đến với Huệ: “…Nói xong, cố sức đẩy Huệ xuống gối. Huệ cũng không cố chống cự. Trong đệm phù dung hải đường máu nhuộm, dưới chân phỉ thúy, đan quế hương bay. Mày ngài liên hồi chớp chớp mặc cho bướm lượn săn tìm, mắt phượng lim dim mơ màng, không cấm ong bay hút mật. Xiêm màu phấp phới khác nào mưa trút hoa sen, tóc mây rối bời, hệt như gió thổi cành dương. Thật là một khắc ngàn vàng…” Còn đây là cảnh “nhất dạ nhị giao” với cả hai nàng: “…Hai nàng nhường nhau hồi lâu, Sinh cũng không thể tự chủ được nữa bèn một tay kéo lấy vai Lan, tay kia mân mê vú Huệ, mặc sức đùa cợt trong chăn phỉ thúy, tận hưởng cuộc hoan lạc…Nửa đêm, Sinh nói: “Đây quả thật là cuộc kỳ ngộ, chúng ta nên có thơ ghi lại…” Các “cụ” ngày xưa cũng ghê thật, hình như bây giờ chưa có nhà văn nào “chứng tỏ” sự “mới mẻ” của mình bằng cách viết “sex” đến mức vừa “thưởng” vừa làm thơ như thế! Chưa hết! Một đêm, sau cuộc xướng họa thơ ca, tác giả đã tả cảnh “sex” như sau: “Ca vừa xong thì Sinh kéo Huệ đè xuống. Huệ nói: - Trăng sáng giữa trời thế kia, sao có thể làm vậy? Sinh nói: - Bể biếc trời xanh cũng chiều lòng… Rồi đẩy ngã vào trong đệm, phỉ sức mây mưa. Xong rồi Sinh lại kéo Lan, Lan cũng không chống lại. Bắt chước theo hình dáng chim âu, chim vụ, phỏng học theo tư thái uyên ương, quả là niềm cực lạc trong cõi nhân gian…” Một tiến sĩ văn học thấy tôi trích dẫn như trên đã hỏi nhỏ: “Có thật không?...” rồi hỏi mượn cuốn sách. Để “làm tin” xin in hình bìa sách kèm theo! Cũng cần nói cho sòng phẳng là do quan niệm ấu trĩ một thời, nên trong văn chương nghệ thuật mấy chục năm trước “Đổi Mới” hầu như kiêng kị nói đến “sex”, vốn là một mặt quan trọng của cuộc sống muôn loài; từ đó, nhân vật trong tác phẩm dễ bị khô cứng, phiến diện. Tình hình nay đã khác, nếu không muốn nói là “ngược lại”: đó là xu thế thích thể hiện “sex”, tưởng rằng mạnh bạo viết về “sex” là mới và hiện đại để rồi cố “chứng tỏ” mình cũng hiện đại chẳng kém gì “nước ngoài” bằng cách hễ trang viết có cảnh trai gái gặp nhau là ngay sau đó kéo nhau “lên giường” bất chấp hoàn cảnh, tính cách nhân vật và chuyện “lên giường” có giúp cho tác phẩm thêm hay, thêm giá trị hay không. Một nhà văn bản lĩnh và thức thời không nên để bị lôi kéo vào kiểu “thời thượng” mà dễ dãi như thế, dù với “chiêu thức” đó, sách có thể dễ bán hơn. Nói rộng ra, trong văn chương nghệ thuật, phàm đã bị bó buộc vì “kiêng kị” bất cứ điều gì (chứ không chỉ với “sex”) thì đều hạn chế sức sáng tạo của văn nghệ sĩ; nhưng buông thả, tung mọi thứ lên trang sách, hình vẽ một cách tùy tiện, dễ dãi thì cũng không thể tạo nên cái ĐẸP, không thể gọi là một sản phẩm VĂN HÓA. /. Theo TPO Nguyễn Khắc Phê
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 4:41:56 GMT 9
Đã đến lúc cần một cách nhìn toàn diện , tôn trọng sự thật Nguyễn Khắc Phê Lâu nay bàn về đề tài chiến tranh, chúng ta thường đòi hỏi dựng cho được hình tượng người anh hùng. Điều đó là đúng vì nhân vật anh hùng hướng người đọc tới cái cao cả, một phẩm chất rất cần thiết cho cuộc sống, nhất là khi con người phải đối đầu với thử thách khắc nghiệt trong chiến tranh. Mấy chục năm qua, văn học nghệ thuật đã tạo ra được nhiều điển hình về người anh hùng nhưng vẫn còn “mắc nợ” với nhân dân vì nếu nhìn thẳng vào sự thật thì hình tượng người anh hùng chưa có sức lay động mãnh liệt, chưa có sức sống lâu bền trong tâm hồn công chúng. Lý giải điều này hẳn là có nhiều nguyên nhân mà trước hết phải nói đến là tài năng, nội lực của người viết còn yếu kém. Điều này có lẽ “muôn thuở” đúng, nhưng thiết nghĩ chẳng phải bàn luận nhiều vì về cơ bản, nó là thứ “Trời cho”, không có thì đành chịu, nếu cố sức đạt đến thường chỉ hoài công. Vậy nên xin bàn đến những nguyên nhân khác mà chúng ta có thể thay đổi, “cải tiến” được. Theo tôi, một nguyên nhân không kém phần quan trọng khiến các tác phẩm viết về chiến tranh chưa thoả mãn người đọc là quan niệm, cách nhìn về chiến tranh, về người anh hùng, vì lẽ này lẽ khác, còn phiến diện. Do đó, chiến tranh hiện ra trên trang sách không sinh động, thường chỉ một chiều diễn tả, chứng minh “ta thắng-địch thua” và người anh hùng thì thường đơn giản, xơ cứng. Nói cho công bằng thì từ ngày đất nước “Đổi Mới”, cũng đã có một số tác giả, tác phẩm cố gắng vượt lên những hạn chế này. Như tiểu thuyết “Đất trắng” của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, có lẽ là tác phẩm đầu tiên “dám” miêu tả một chính uỷ hèn nhát đào ngũ; hay như “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh đã thể hiện những mặt bi thảm của chiến tranh. Có điều cả 2 tác phẩm vừa kể đều đã bị phê phán rằng sao lại dám miêu tả cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc ta như thế. Ở Thừa Thiên - Huế, nhà văn Nguyễn Việt, trong tác phẩm “Người lính đào hoa” (NXB Lao Động, 1998) đã không ngại ngần chọn nhân vật chính là một chàng trai có số “đào hoa”, yêu đương hết mình cũng như đánh giặc, bên cạnh một vị chỉ huy hèn nhát, hám gái, hám công; còn nhà văn Nguyễn Quang Hà, trong tiểu thuyết “Sông dài như kiếm” (NXB Quân đội nhân dân, 2001) cũng đã phơi bày thói kèn cựa, đố kỵ, hưởng lạc của người có chức quyền ngay trong chiến tranh gian khổ. Hình như cũng có người không đồng tình với tác giả về cách nhìn này. Đúng ra, cần phải quan niệm, một cuộc chiến tranh khốc liệt đến mức người chính uỷ từng trải bao thử thách vẫn phải bỏ chạy, một cuộc chiến tranh có những cảnh bi thảm và có kẻ đố kỵ như Bảo Ninh, Nguyễn Quang Hà miêu tả, mà chúng ta vẫn chịu đựng được và đánh thắng thì càng chứng tỏ phẩm chất anh hùng của dân tộc ta. Xin được nói ngay ở đây là những tác phẩm đó chưa phải là toàn bích, chưa dựng được hình tượng người anh hùng thật sống động và tiêu biểu cho cuộc chiến tranh lâu dài khốc liệt của dân tộc ta, càng chưa phải là những tác phẩm tái hiện được toàn diện cuộc chiến tranh vừa qua như nhiều người đòi hỏi. Mà thật ra, mỗi tác phẩm - dù là tác phẩm xuất sắc nhất - cũng chỉ thể hiện được một phần, một khía cạnh, một vùng đất, một khoảng thời gian nhất định của cuộc chiến tranh trường kỳ, ác liệt, phức tạp và rộng khắp từ Nam đến Bắc mà dân tộc ta vừa trải qua. Đòi hỏi có tác phẩm lớn, tái hiện “toàn diện” cuộc chiến tranh đó có lẽ là ảo tưởng. Phải nhiều tác giả, nhiều tác phẩm cộng lại mới mong hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề này. Tuy vậy, trong văn học nghệ thuật có đặc thù “qua giọt nước có thể nhìn thấy biển cả” - một tác phẩm quy mô nhỏ, như một truyện ngắn, vẫn có thể phản ánh được bản chất của cuộc sống. Và mỗi tác phẩm, dù chỉ miêu tả một giai đoạn, một vùng đất trong cuộc chiến tranh cũng phải có cách nhìn toàn diện, tôn trọng sự thật mới có thể đạt đến giá trị cao được đông đảo độc giả thừa nhận. So sánh hơi khập khiễng một chút, nhưng cũng tương tự như ăn một chiếc bánh - dù là chiếc bánh nậm mỏng manh của xứ Huế, dù chọn lấy phần nhân tôm thịt ở giữa có “chất lượng” nhất, cũng không ngon bằng thưởng thức tất cả một lúc. Ai cũng biết cuộc chiến tranh nào, trận đánh nào cũng có hai bên, nhưng thử hỏi các tác phẩm của chúng ta đã diễn tả thân phận con người “bên kia chiến tuyến” được mấy phần trăm sự thật? Họ có là con người không, hay chỉ được nhìn như là một động vật hai chân độc ác, dâm đãng, uống máu người không tanh? Về người anh hùng, thì ai cũng biết là con người thường chỉ có thể lập được sự tích phi thường trong một giai đoạn, thậm chí trong phút chốc - “chỉ một phút làm nên lịch sử” như anh hùng Nguyễn Văn Trỗi; còn nữa thì vẫn là một con người bình thường với mọi nỗi buồn vui, hờn giận, thậm chí là hèn yếu của kiếp nhân sinh. Thử hỏi các hình tượng anh hùng trên trang sách có được mấy phần trăm hình ảnh con người chân thật sinh động như vậy? Trước đây, khi cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt, khi ranh giới địch-ta không thể một chút nhoà mờ, lầm lẫn, do yêu cầu của nhiệm vụ tuyên truyền, động viên mọi nguồn lực để giành chiến thắng và cũng do thiếu hiểu biết, những người cầm bút chưa thể miêu tả được cuộc chiến đấu muôn màu muôn vẻ với thân phận con người cả hai bên chiến tuyến đúng như nó đã diễn ra. Nay thì đất nước hoà bình đã hơn 30 năm, nhiều tài liệu - kể cả những tài liệu mật đã được “mở khoá”, và quan trọng hơn, con người ở hai bên chiến tuyến đã sống bên nhau - thậm chí trở nên “thông gia”, cùng chung một mục đích là xây dựng một nước Việt Nam “công bằng-dân chủ-văn minh” thì không lý gì trên trang sách lại chỉ viết “một nửa sự thật”. Cần phải nói rõ đây không phải là sự “mơ hồ” về lập trường “địch-ta” hay mắc mưu”diễn biến hoà bình” mà cuộc sống vốn nó như thế, bạn đọc đòi hỏi như thế. Và chỉ có như thế văn nghệ mới có sức sống lâu bền, mới làm tròn phận sự của nó. Hiện tượng “Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm” là một bằng chứng hiển nhiên cho những điều vừa trình bày. Cuốn nhật ký không phải là một tác phẩm có nghệ thuật cao cường mà vẫn hấp dẫn đông đảo người đọc - kể cả những người xưa kia là kẻ thù của chúng ta, cả những trí thức Việt kiều từng tỏ ra bất đồng chính kiến với chúng ta. (Xin dẫn ý kiến của …) Vì sao vậy? Đơn giản chỉ vì nó miêu tả chân thực tâm trạng, thân phận con người trong chiến tranh, chứ không phải vì thành tích chiến đấu của anh hùng Đặng Thuỳ Trâm. Đọc “Nhật ký…”, chúng ta được tiếp xúc với một anh hùng có nhiều nước mắt, nhiều nỗi buồn, có tình yêu nồng nhiệt mà thầm kín với người em “kết nghĩa”, với cả người lãnh đạo Đảng của địa phương…Mặc dù thế, chị vẫn sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và chính vì thế chúng ta càng yêu quý người anh hùng. Cuốn “Nhật ký…” còn hấp dẫn vì “lịch trình” kỳ lạ của nó, vì chúng ta bỗng như ngỡ ngàng khi thấy trong hàng ngũ “kẻ thù độc ác” lại có người biết quý trọng “chất lửa” trong cuốn “Nhật ký…”, rồi gìn giữ nó như một báu vật suốt 30 năm ròng! Hai tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Mường Mán xuất bản gần đây cũng thể hiện cách nhìn mới về chiến tranh. Với trên hai chục đầu sách - trong đó có trên chục truyện dài dành cho tuổi học trò, nhà văn Mường Mán không phải là một tên tuổi xa lạ với bạn đọc. Nhưng qua tuyển tập truyện ngắn "Cạn chén tình" (NXB Trẻ - 2003), chúng ta còn gặp một cây bút truyện ngắn đặc sắc, một “Mường-Mán-khác”, một cách nhìn chiến tranh từ bên kia chiến tuyến. Điều đặc biệt dễ thấy hơn cả là trong tuyển tập dày dặn gồm 48 truyện ngắn này có quá nửa là những truyện viết trước năm 1975, khi tác giả là phóng viên báo chí Sài Gòn ở chiến trường miền Trung. Lâu nay, không ít người, khi nói về thế hệ nhà văn ở miền Nam trong giai đoạn này thường chỉ lưu ý đến những cây bút “phản chiến” hoặc những kẻ “bồi bút chống cộng”; Mường Mán có con đường riêng của mình. Trên những truyện in trong tuyển tập này hầu như không có tiếng bom đạn, không miêu tả trận đánh nào, cũng không thấy những “cuộc đấu” quyết liệt về ý thức hệ, về chuyện thắng bại “địch - ta” mà đầy ắp nhân tình - tình yêu quê hương, trai gái, vợ con, bạn bè..., cả những tình yêu thoáng qua, những kẻ bạc tình và bao trùm lên tất cả là tình yêu thương của tác giả đối với những cuộc đời bất hạnh, những số phận trớ trêu. Có thể có bạn đọc sẽ trách tác giả lảng tránh những “điểm nóng” của thời cuộc và hẳn rằng đó không phải là cách tốt nhất để nhà văn phản ánh cuộc sống sôi động mấy chục năm qua như nhiều người đòi hỏi. Nhưng một nhà văn được bạn đọc nhớ đến trước hết nhờ có cách thể hiện cuộc sống với bút pháp riêng, xây dựng được một thế giới nghệ thuật độc đáo giàu sức truyền cảm và gợi nghĩ đến những vấn đề sâu xa về lẽ sống ở đời, chứ không phải là viết về đề tài “nóng” hay “lạnh”, “lớn” hay “nhỏ”. Nhiều truyện ngắn trong “Cạn chén tình” đã tạo được hiệu quả nghệ thuật như thế. Cần nói thêm là tuy tác giả không trực tiếp viết về chiến tranh, nhưng những đảo lộn và dư âm của cuộc chiến khốc liệt để lại dấu ấn sâu sắc trong nhiều truyện ngắn. Và ngẫm cho cùng, quả bom hay viên đạn nổ bùng trong giây lát, nhưng hậu quả của nó, nỗi đau nó gây ra thì đeo đẳng con người ta suốt cả cuộc đời. Bà mẹ của Phan suốt ngày đêm, từ năm này sang năm khác, mỏi mòn tựa cửa đợi con về; cô em gái mỗi lúc quá buồn lại bịa chuyện mẹ chết để gọi một người bạn của Phan về cho có bóng dáng đàn ông trong nhà, nhưng bà mẹ nhất quyết không cho ai bước vào cửa, nếu không phải là Phan! Và thảm kịch đã xảy ra khi người yêu của cô em gái đặt chân lên thềm, bà mẹ đã túm đầu một bức tượng đập lên đầu chàng trai...(Truyện “Bi kịch”) Nhân vật không tên trong truyện “Người đàn ông hay cười” ba lần li hôn, không sao kiếm được việc làm chỉ vì cái tật hay cười, ngay cả trong đám tang và trước nỗi bất hạnh của người đời! Mãi rồi người ta mới hiểu người cựu chiến binh ấy vì “một miểng bom hay đạn gì đó nhỏ xíu kẹt lại trong hộp sọ không thể gắp ra... thỉnh thoảng gây những xung động trêu ngươi, buộc anh phải nở những nụ cười ngoài ý muốn!” Truyện “Bi kịch” viết từ năm 1972, truyện sau viết năm 1995; tác giả không nói rõ, nhưng độc giả nếu quen phân tích nhân vật theo kiểu “địch-ta” có thể nhận ra “người đàn ông hay cười” là một chiến sĩ cách mạng. Còn Phan? Anh lên “rừng” theo cách mạng, hay đi lính “cộng hoà”, hay chỉ vì thất vọng trước thời thế mà bỏ nhà phiêu bạt? Sự mơ hồ này có lẽ là chủ ý của tác giả và nhờ đó, truyện có ý nghiã khái quát hơn, có sức sống lâu hơn. Tuy thế, Mường Mán không phải là cây bút “trung lập” hay “mất lập trường”. Chỉ một truyện ngắn “Những mùa trăng ca múa” viết năm 1972 với hình ảnh chiếc mũ cối bộ đội, với “o Dương” cùng những đồng chí du kích đánh Tây ở làng quê anh được miêu tả qua những trang văn thật đẹp và đậm đà tình nghiã đã thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những người đã hy sinh vì Tổ Quốc, thể hiện tình yêu da diết đối với quê hương. Giọng điệu Huế, hình ảnh Huế và làng Chuồn quê anh thấm đẫm trên rất nhiều trang sách. “... Tôi bỏ những đường phố lớn, lẩn lút trốn vào Đại Nội men theo chân thành cổ. Bóng chiều và niềm im lặng tuyệt vời thả trí tôi tận đáy hồ xanh. Trên mặt hồ xanh, tôi ngồi xuống, lòng thanh thản nhẹ tênh, cái mũ cối úp lên đùi. Cái mũ cối già nua bạc màu kỷ niệm. Tôi nhìn cái mũ và nhớ o Dương...Tôi im nghe tiếng hát o xưa lồng lộng vọng về. Tôi hát, hát say mê những tiếng hát đầu lòng xưa, mơ hồ thấy vầng trán quấn quýt tóc bay của o khẽ chạm tới vầng trăng vô hình nào đó...” (Tạp chí “Văn nghệ Quân đội” từng in lại truyện này với lời giới thiệu trân trọng của nhà văn Nguyễn Khải.) Trong truyện “Về giữa mùa hè” (viết năm 1973) in đầu cuốn sách với rất nhiều chi tiết, nhân vật chân thật như là một đoạn hồi ký thì tác giả đã dành những dòng thật xúc động khi viết về người Cha kính yêu của mình đã hy sinh trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất... Với "Sáu giang hồ và những mảnh đời phiêu dạt khác” (NXB Trẻ, 2005), Mường Mán lại bất ngờ tung ra những truyện không thiếu tiếng bom đạn, tranh đấu "địch-ta" có sức lay động người đọc với cái nhìn nhân bản từ một góc độ mới - nói chính xác hơn là góc nhìn cận cảnh của người trong cuộc "bên kia chiến tuyến", lâu nay hiếm thấy trên các trang sách xuất bản trong nước. Cuộc "kỳ ngộ" tại mặt trận Khe Sanh giữa một thiếu úy quân đội Sài Gòn và nhóm tù binh "Việt Cộng" trước sự "chứng kiến" của nữ phóng viên Mỹ có chồng là phi công vừa bị chết tại đây - chính viên thiếu úy đã xông ra cứu một tù binh dính đạn pháo kích khi họ đưa anh lên trực thăng về căn cứ...("Ngày không đáng nhớ") Rồi cuộc đời bi thảm của trung úy Hãn, từ cuộc tháo chạy ra cửa Thuận An mùa Xuân 1975 đến khi rời trại cải tạo Hiệp Đức với thương tật oái oăm khiến anh mất khả năng làm chồng sau một tai nạn lao động...("Chớp mắt trăm năm"); Một sĩ quan Ban 5 (Ban chiến tranh chính trị) lại có cảm tình với cô tù binh "xã đội phó" Út Chuyên khi biết cô vừa được làm mẹ, đến ngày trao trả tù binh tại sông Thạch Hãn thì vị trí "kẻ thắng và người bại" lại hoán vị và gã sĩ quan sau 7 năm cải tạo lại "đụng đầu" cô du kích "năm xưa", chỉ khác là cô vừa ra tù sau mấy năm thất bại trên thương trường; cả hai "không còn người thắng lẫn kẻ thua" và họ đã trao thân cho nhau rồi sang Mỹ theo diện H.O, nhưng vẫn chẳng tìm thấy hạnh phúc...("Xa như cổ tích"). Cần nói thêm là nhờ không khí cởi mở hơn trong hoạt động sáng tác, xuất bản hiện nay - nhất là khi mà vị đứng đầu Chính phủ công khai "cảm ơn và mong muốn có được tin tức về thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu của quân đội đối phương"(**) - những truyện như thế đã đến được với bạn đọc một cách thuận lợi. Việc một người như Nguyễn Trung Hiếu vẫn biết quý trọng cuốn "Nhật ký có lửa" cùng với các nhân vật là sĩ quan quân đội Sài Gòn trước đây trong truyện của Mường Mán như thiếu úy Tạo ("Ngày không đáng nhớ") "gã sĩ quan Ban 5" ("Xa như cổ tích")...đã giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc chiến đã qua, thấy rõ hơn sự phi lý nếu cứ duy trì "cách nhìn hẹp hòi, biệt phái, bởi chuyện phân biệt thắng-thua, bởi những kỳ thị ta-ngụy..." như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã viết trong dịp kỷ niệm 60 Quốc khánh vừa qua. (Xem báo "Nhân dân" và "Tuổi trẻ" 29/8/2005). Riêng về sáng tác văn nghệ, nhất là trong sáng tác về đề tài chiến tranh, cách nhìn lịch sử, con người toàn diện, tôn trọng sự thật sẽ giúp mở rộng chân trời sáng tạo để có những tác phẩm sâu sắc hơn, nhân bản hơn; và như thế sẽ có giá trị lâu bền hơn. (Tham luận tại Toạ đàm viết về chiến tranh cách mạng do Hội Nhà văn Thừa Thiên - Huế tổ chức. Đã đăng trên Tạp chí “Văn nghệ quân đội” số tháng 5/2006) (**) Trích thư ngày 4/8/2005 của Thủ tướng Phan Văn Khải gửi Tòa soạn và bạn đọc báo "Tuổi trẻ" sau khi đọc Nhật ký của hai liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc. Nguyễn Khắc Phê
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 18, 2011 18:45:54 GMT 9
Cây Tre Trăm Mắt
Tác Giả: Khuyết Danh Ngày xưa, có một ông già nhà quê có một cô gái đẹp. Trong nhà phải thuê một đầy tớ trai, ông ta muốn lợi dụng nó làm việc khỏi trả tiền, mới bảo nó rằng: "Mày chịu khó làm ăn với tao rồi tao gả con gái cho". Người ở mừng lắm, ra sức làm lụng tới khuya không nề hà mệt nhọc. Nó giúp việc được ba năm, nhà ông ta mỗi ngày một giàu có. Ông nhà giàu không còn nghĩ đến lời hứa cũ nữa, đem con gái gả cho con một nhà phú hộ khác ở trong làng. Sáng hôm sắp đưa dâu, ông chủ gọi đứa ở lên lừa nó một lần nữa, bảo rằng: "Bây giờ mày lên rừng tìm cho ra một cây tre một trăm mắt đem về đây làm đũa ăn cưới, thì tao cho mày lấy con gái tao ngay". Đứa ở tưởng thật, vác dao đi rừng. Nó kiếm khắp nơi, hết rừng này qua rừng nọ, không tìm đâu thấy có cây tre đủ trăm mắt. Buồn khổ quá, nó ngồi một chỗ ôm mặt khóc. Bỗng thấy có một ông lão râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy trúc hiện ra bảo nó: "Tại sao con khóc, hãy nói ta nghe, ta sẽ giúp cho". Nó bèn đem đầu đuôi câu chuyện ông phú hộ hứa gả con gái cho mà kể lại. Ông lão nghe xong, mới bảo rằng: "Con đi chặt đếm đủ trăm cái mắt tre rồi đem lại đây ta bảo". Nó làm theo y lời dặn, ông dạy nó đọc: "Khắc nhập, khắc nhập" (vào ngay, vào ngay) đủ ba lần, thì một trăm khúc tre tự nhiên dính lại với nhau thành một cây trẻ đủ một trăm mắt. Nó mừng quá, định vác về, nhưng cây tre dài quá, vướng không đi được. Ông lão bảo nó đọc: "Khắc xuất, khắc xuất" (ra ngay, ra ngay) đúng ba lần thì cây tre trăm mắt lại rời ra ngay từng khúc. Nó bèn bó cả lại mà gánh về nhà. Đến nơi thấy hai họ đang ăn uống vui vẻ, sắp đến lúc rước dâu, nó mới hay là ông chủ đã lừa nó đem gả con gái cho người ta rồi. Nó không nói gì, đợi lúc nhà trai đốt pháo cưới, bèn đem một trăm khúc tre xếp dài dưới đất, rồi lẩm bẩm đọc: "Khắc nhập, khắc nhập" cho liền lại thành một cây tre trăm mắt, đoạn gọi ông chủ đến bảo là đã tìm ra được, và đòi gả con gái cho nó. Ông chủ lấy làm lạ cầm cây tre lên xem, nó đọc luôn: "Khắc nhập, khắc nhập", thì ông ta bị dính liền ngay vào cây tre, không làm sao gỡ ra được. Ông thông gia thấy vậy chạy đến, định gỡ cho, nó lại đọc luôn: "Khắc nhập, khắc nhập", thì cả ông cũng bị dính theo luôn, không lôi ra được nữa. Hai họ thấy thế không còn ai dám lại gần nó nữa. Còn hai ông kia không còn biết làm thế nào đành van lạy xin nó thả ra cho. Ông chủ hứa gả con gái cho nó, ông thông gia xin về nhà ngay, nó để cho cả hai thề một hồi rồi nó mới đọc: "Khắc xuất, khắc xuất" thì hai ông rời ngay cây tre, và cây tre cũng rời ra trăm khúc. Mọi người đều lấy làm khiếp phục đứa ở, ông chủ vội gả con gái cho nó, và từ đó không còn dám khinh thường nó nữa. Khuyết Danh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 8:18:46 GMT 9
‘Việt Cộng Con’ * Nguyễn Khắp Nơi (Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc) Ðương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi. Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm. Một cảnh thăm nuôi tù ở các trại tù miền Bắc vào các năm cuối thập niên 1970. (theo: Google) Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đã được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hãnh diện khoe với ông bà ngoại: “Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Hòa đấy. ” Tức là tôi không có dính dáng gì đến Việt Cộng cả. Vậy thì tại sao tôi lại có cái tên...“ Việt Cộng Con”? Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Ðến năm 1979 thì mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đình tôi không có “hộ khẩu,” phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc gì thì làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, vì ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh giành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ. Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, vì Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang thì bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường mòn xuyên qua núi. Thì ra đó là những người vợ người con của Lính Cộng Hòa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang thì có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù thì phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới. Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám giành mối như trước nữa. Thực ra, cũng vì không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá; vì thế, cuộc sống của gia đình tôi mới đỡ vất vả. Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người miền Nam này, bố mẹ tôi đã được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và còn chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả giò... Ðã có một lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa no say. Ðến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những“Món Ngon Miền Nam.” Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ “Miền Nam” đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi vì thế mà lúc nào cũng đông khách. Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh thì phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi còn mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa. Trong thời gian làm việc, tôi đã được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàigòn làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc. Vào tới Sàigòn rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là “lãnh đạo cơ quan” mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy được nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi thì lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều. Và cũng vì sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng Miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nhìn thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đã bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: “Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét.” Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đòi hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy. Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao nhưng lại nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng thật là hòa nhã và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng ra, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đình tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ý, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Ða số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền hòa có nhiều nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đã chọn môn học về tài chánh ở trường Ðại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc. Dù là đã có một ít vốn liếng tiếng Anh đã học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đường nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông giảng viên tóc vàng nói cái gì cả, vì giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đã từng nghe ở Việt Nam. Môn học kế tiếp thì tôi lại còn thua nặng hơn nữa, vì giảng viên này gốc người Ấn Ðộ, tiếng Anh của ông còn pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe. Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đã khá hơn trước và cách phát âm cũng vì thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc. Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi. Tôi mua vé máy bay về Sàigòn trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nhìn vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Mãi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm giùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lý để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ. Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đã được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăng trối của vợ ông trước khi chết. Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết tên ông là gì và ông cũng chẳng biết tôi là ai? Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Ðang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đã gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào. Ông cho tôi biết đã đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đã đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đã xin được việc làm và đang làm việc ở Sàigòn, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có thì giờ đi đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui. Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Hòa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một chuẩn úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, còn tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ý định gì về tương lai cả. Về lại Sàigòn, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Ðảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi. Thanh đã ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy còn độc thân nhưng đã lớn tuổi rồi (so với Thanh thì tôi còn nhỏ lắm), nên đồng ý làm vợ Thanh. Thanh làm bữa tiệc gia đình để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ý kiến gì, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Ðảo San Hô: “Thật là... hoành tráng chưa từng thấy. Ði xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán khuyến mãi, thích ghê...” Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nhìn tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng hình như không có nói chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạn thân của Thanh đã hỏi thẳng tôi: “Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?” Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh: “Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?” Tôi nghe Thanh trả lời: “Ðâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!” Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi: “Ông hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, vì dù sao cũng là bạn bè.” Tôi ngần ngừ nói với Thanh: “Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... mình đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy?Em nói tiếng Bắc, vì em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội tình gì đâu?” Thanh an ủi tôi: “Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu nên không thể có cảm tình với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.” Tôi sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói: “My... baby brother.” Những người bạn chúc mừng Thanh... “Ðáo Mã Thành Công. ” Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nhìn sợi dây mà hỏi tôi: “Cái gì vậy?” “Dây chuyền hộ mạng của em đấy. ” “Ðẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, hình như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen thì phải.” Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ý đến. Khi thấy ai cũng nhìn vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi dây chuyền cho tất cả cùng nghe: “Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Ðó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người. “Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đình tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đình của các bác các chú đã gồng gánh từ quê lên Hải Phòng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường thì gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Phòng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Ðến chiều tối thì có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Phòng. Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Phòng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không dược hỏi han gì cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Ðến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chĩa súng bắt đi bộ vào trong rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đã phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân. “Ðến lúc đó, mọi người mới biết rằng đã bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là ‘Cổng Trời.’ “Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là ‘Biệt Kích Miền Nam’ được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt. “Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đã bị ngã xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nhìn thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt Kích đi ngang, thấy vậy đã thòng dây đu xuống tận vực sâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đình tôi. Người Biệt Kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đã gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói: ‘Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.’ Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đã khuyên bố mẹ tôi nên tìm cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở mãi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu. Năm 1979, khi Trung Cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đã bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà tìm đường trốn về Hà Nội, vì thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay. Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quý mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi: “Gia đình của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à? Chỉ vì muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho gia đình chị, những người Việt Nam yêu tự do, còn sống được cho đến ngày hôm nay. ” Tôi mỉm cười nói thêm vào: “Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi tìm tự do vào năm 1954 được, thì đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đã tìm được tự do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ tình người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng vì thế mà dù có ai nói gì thì nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Hòa mà tôi quý mến.” Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đã thay đổi thái độ với tôi. Các anh đã gọi tôi là“Chị Thanh” và các bà đã gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ.” Con tôi đã được năm tuổi rồi, cháu đã đi học mẫu giáo, tôi có thì giờ đi tìm một công việc tạm thời. Tôi tìm đến một văn phòng luật sư của người Việt để xin làm điện thoại viên. Ông luật sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi: “Ðể chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, còn công việc nghe điện thoại, chú sẽ tìm người khác.” Tôi thông cảm với ông luật sư, mọi người vẫn còn... ác cảm, còn... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi. Tôi xin lỗi đã nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ gì để nói về hoàn cảnh của tôi. Chồng tôi đã thông cảm với tôi, anh Thanh đã nói với tôi: “Người ta nói ‘Cái áo không làm nên ông thầy tu.’ Nhưng thực sự cái áo đã làm cho người ta nhìn lầm người mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em còn dùng những từ ngữ mà cái đám Việt Cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Hòa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em. Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... hoành tráng, đừng... bức xúc nữa, có được không?” Tôi suy nghĩ... Ðúng! Chồng tôi nói đúng. Nhập Gia Tùy Tục - Nhập Giang Tùy Khúc. Tôi đã lấy chồng Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi. Bây giờ, tôi không còn...“ xử lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa. Ðôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con.” Nhưng họ nói chỉ để mà đùa giỡn mà thôi, chứ không còn châm chọc như trước nữa. Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe: “Con là con của ‘Lính Cộng Hòa’ mà!”
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 16, 2013 3:32:24 GMT 9
CHI TIẾT HÀNH TRÌNH VƯỢT BIÊN CỦA MC NGUYỄN NGỌC NGẠN
Đây là câu chuyện của Nguyễn Ngọc Ngạn , cho mọi người đọc để những ai chỉ vì câu chuyện đó mà mua PBN 77 thì không cần phải mua, nếu thấy xót thương cứ việc mua đĩa truyện ngắn, hay truyện của Nguyễn Ngọc Ngạn là OK rồi. Nhưng nói chung lớp trẻ thì nên nhìn vào phía trước mà sống, đọc chơi để tham khảo, khong cần nhìn lại phía sau làm gì cho ủ ê, hận thù, già người . Oan Oan tương báo đến bao giờ mới dứt.
Chuyện Cũ
Ðời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đờị Ðó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm quạ
Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe Ðã thế, chính sách áp dụng lại không đồng nhất, mỗi phường mỗi tổ là một lãnh chúa, phát huy sáng kiến mà bức chế nhân dân. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ . Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới . Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do . Những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi và hăm dọa thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.
Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phộ Giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đọ Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi,em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng ? Ði bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầụ Có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một ngườị Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!
Bà xã tôi bận con nhỏ -- khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi -- cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồị Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ! Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!
Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấỵ Khu vực Công giáo tôi cư ngụ lại hay xảy ra những vụ bắt bớ bí mật, vì những tin đồn về các tổ chức Phục Quốc -- cả thật lẫn giả -- làm liên lụy đến khá nhiều người vô can. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Nhà thờ Vinh Sơn là nơi phát khởi vụ nổi dậy chống chính quyền đầu tiên, sau 30 tháng 4 năm 75, và linh mục Nguyễn Quang Minh bị bắt ngay sau đọ Cha Vàng ở trường Saint Thomas cũng đã bị bắt, vì nghe đồn bị vu cáo có giấu vũ khí trong khuôn viên trường học. Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục nàỵ Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch, nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù . Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi .
Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôị Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lạị Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúi nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ . Nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78. Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gị Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổị Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!
Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơị
Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 ngườị Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút ***t lại bị ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tớị Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở qúa trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đạ Họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn. Ðây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 nguời đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Ðàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữạ. Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoạ Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm bên cạnh tôị Vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôị Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực. Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củị Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.
Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầụ Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh, Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển. Vì qúa chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ Ðến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dướị Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thệ
Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:
- Anh Ngạn Anh Ngạn ơi!
Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôị Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậỵ Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ:
- Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!
Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo:
- Ðêm qua bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả ngườị Anh lên một chút đi!
Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên, Cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bâygiờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm, nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tốị Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp. Nhà tôi ưu tư bảo:
- Tầu sắp đắm mất, anh ạ!
Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạỵ Hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhaụ Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng, Tôi nhìn lại phía buồng máỵ Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máỵ Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vợ Ðàn bà con nít, nguời đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nàỵ Bà xã tôi bảo:
- Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!
Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện. Ðêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổị Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xạ Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vộ Nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợị Người đã lên bờ thì bỏ mặc. Ðàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầụ Hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường! Tôi biết mình sắp chết, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:
- Con ơi! Ðằng nào tầu cũng sắp chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào ...
Tôi không biết bơị Mà có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưạ Ðứa con trai hơn 4 tuổi , quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầụ Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẹ Quanh tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:
- Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết!
Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu ru lên, bị tiếng gầm của sóng át đị Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em. Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa! Ðứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển. Tôi níu được một sợi giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính cứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một aị Tất cả đều rụng xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi!
Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơị Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Ðàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bán lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhaụ Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đờị Ðọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được. Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kình qua bao nhiêu năm gian khộ Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần hành quân ở Cái Bè, tôi đứng dưới đường mương bên gốc xoài, VC từ cánh đồng trước mặt bắn đạn pháo trúng ngọn xoài chỗ tôi đứng, miểng văng tung tóe, làm bay mất cây súng Colt tôi đang đeo bên hông và cắt đứt sợi giây ống liên hợp máy truyền tin PRC 25 tôi đang nói chuyện với Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Lúc ấy tôi thấy số mình còn lớn lắm, chỉ bị trầy sát nhẹ ở bên đùi! Rồi khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha vệ Vậy mà cũng không sao! tôi uất ức tự hỏi tại sao vươ biển gần đến nơi thì lại chết ? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa!
Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm baọ. Ðứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:
- Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Ðắm tầu, chú Ngạn ơi!
Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và nhắc lại:
- Chú Ngạn ơi! Ðắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!
Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những người sống sót vào gốc dừạ Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần. Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôị Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậỵ Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áọ Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thệ Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rọ Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác!
Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào thét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển, thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa , nhưng cũng không thấy vợ tôị Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể
Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã quạ Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Ðức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do!
Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bộị Ðoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!
Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôị Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầụ Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi -- người giới thiệu tôi cho ông Ân -- nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vaỵ Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúạ Còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh. Vợ con tôi chết trước mặt tôị Hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôị Mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót! Ðó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm. Nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt. Các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đị Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy baỵ Năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!
Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tự Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ aị Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình, hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.
Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước, và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài "Những người đàn bà còn ở lại" trong 3 tháng ở trại tạm cự Cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao, nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.
Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hề viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khự Ðó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm naỵ Nguyễn Ngọc Ngạn, Tháng 4/2000
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 8, 2014 17:58:15 GMT 9
Ông thông giaPosted on February 8, 2014 Vũ Thư Hiên Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra. Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, chung quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn bỗng tôi bị một cái gì va vào làm tôi vùng vẫy, sặc sụa. – Cậu ngủ say quá thể! – tôi nghe tiếng người, tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu. Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại không được. Thế là tỉnh hẳn. – Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi càu nhàu. Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Nó gần như mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia. Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc. – Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi. Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi. Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, cái duyên của cô ngày trước, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở quai hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc. – Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng, trách – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không? – Ngày gì? – Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy. – Ờ… Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè. – Em mang ít đồ cúng sang cho cậu. Trên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén. – Cảm ơn cô. Cô cười không tươi. – Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá? – Ờ… – Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu… Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi. – Việc gì vậy? Cô ngần ngừ. – Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến. Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu. – Đi Berlin? Làm gì chứ? Cô nhoẻn cười, ngượng ngập: – Hỏi vợ cho cháu Hiếu. * * * Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ. Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nổi tiếng nhờ món bún mọc. Tôi sẽ không tả nó ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai cạnh tranh được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm ai đến trước, ai đến sau, lần lượt múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế. Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà. Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, như thể đàn bà. Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy. Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả: Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? – Kìa, anh giai! – rồi khi múc bát mọc rồi, cô tươi cười hỏi, không thể nói rằng cô hỏi lấy lệ – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Anh giai sành một cây, em biết tính ông anh mà, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa? Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả: – Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không ạ? Hoặc: – Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui. Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp. Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu. Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ. – Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi cũng không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy. Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ? * * * Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kông. – Giời ạ, cậu! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây? – Thì có gì lạ? – Cậu là cán bộ kia mà. Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Khi dùng với người ngoài nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có dòng dõi hoặc thuộc vai vế xã hội trên mình. – Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa? – Hai năm rồi. Còn cậu? – Mới. – Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải ra đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu lại phải đi? – Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao cô lại dẹp hàng, rồi ở đây? – Cũng là chuyện dài, cậu ơi. Chuyện dài ấy là thế này. Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát. Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ, Hà Đông, làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột. Vốn liếng thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui ở trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến. Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con. Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ. Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Người dư dả đồng tiền ngẩn ngơ không biết dùng nó làm gì. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô, như các cụ nói, như mèo giấu cứt. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày? Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành đồ cổ, nhất là trong lĩnh vực gốm sứ, tôi có nghe tiếng. Ngay Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không được nhận vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền. Ông khuyên cô: – Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, như cướp không, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán. Quen rồi, người nọ mách người kia, chú sẽ mua được khối thứ. Mua rồi cứ để đấy. Cô hỏi ông anh: – Mua để đấy phỏng có ích gì? – Xì, chú không biết nhìn xa. – Là thế nào ạ? Ông nói chắc nịch: – Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của. Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ quý, cô mua. Dần dà, nhờ sự dạy dỗ của ông anh, cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị. Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cũng ngay đấy công an ập vào khám để tìm những hiện vật Viện bảo tàng vừa mất trộm. Người ta tìm ra tức khắc – chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô tích cóp được trong mấy năm trời. Cô Lương bị bắt vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu. – Rồi họ xác minh cô vô tội? – Làm gì có chuyện ấy! – lần đầu tiên tôi thấy cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy. – Rồi cô nhận? – Chứ sao. Đồ cổ. Nguồn: OntheNet Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự, không còn ý chí, không còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ: – Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Bây giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi chú mới sa vào vòng tù tội… Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai. Người có số may mắn hiếm lắm. * * * Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép. Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi. – Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu. – Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy. – Gutten tag … – nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ? Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi. – Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. Tôi cười xuề xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai. Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao. – Ba, con ra tiệm nét một lát – nó bước ra cửa – Con đi chếch meo. Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé! Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”. Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay: – Chuýt! Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó. – Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây cả. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu? Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì. – Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá. – Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi. – Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy? – Ta, cậu ạ. May thế! Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó. Cô phân trần: – Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe. – Nặng không? – Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang. – Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ? – Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu. Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống. * * * Rothenburg-ob-der-Tauber, miền nam nước Đức. Nguồn: fodors.com Làng chúng tôi ở miền Nam nước Đức. Làng nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện,cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi: – Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry bác, mấy ông khốt giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp… Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi. – Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Còn nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái imbiss. Tội nghiệp, không biết liệu ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không? Không giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó nói với tôi nhiều hơn nói với bố. – Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói. – Ông ấy khoẻ như vâm, – thằng Hiếu nhún vai – nghĩ gì đến di chúc. – Vạn nhất ông ấy không qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm. Trong câu nói của cô Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy. – Ông ấy có gì để lại? Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn thuế cả chục năm rồi chúng nó vẫn moi ra đấy. Chúng tôi đến Berlin vào buổi tối. Bà thông gia phốp pháp, son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái. – Chúng em không oẻ hoẹ tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác, gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải coi trọng, là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất cứ phải theo phép xưa mới chịu. Phật tử đấy ạ. Chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có phải gần đâu. Tối nào cũng ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật đấy ạ. – Ông bà nghĩ thế là chí phải. – cô Lương chắp tay lễ phép – Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất thố xin ông bà bỏ qua cho. Cô Lương nói trơn tru trước sự ngạc nhiên của tôi. Thường ngày cô có cái giọng ấy, có õng ẹo cũng là chất phác, mộc mạc. – Con Thuỷ đâu rồi? – bà cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây. Một cô gái trẻ, vận quần áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên. Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận xét. – Con chào hai bác đi. Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể, mà có kén cũng chẳng được, thời bây giờ chúng nó kén nhau chẳng khiến ta, em nói thế có phải không ạ? Là cái duyên cái số cả. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. – bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến. Năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà em lái xe cẩn thận lắm, mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn ấy, nó phóng bạt mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau mà, bọn Đức thế cả, ai chả biết. May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần… Cô Lương đến lúc ấy mới dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi. – Thưa, bệnh tình ông nhà… thế nào rồi? Bà thông gia vui vẻ: – May, tưởng nặng, hoá không phải. Không phải mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt không ra đâu. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm các danh lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà em. Được cái nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi phòng ạ. – Cảm ơn bà, bà chu đáo quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện đặt phòng ở một khách sạn quen rồi – cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong là ăn tối luôn ở đấy cho tiện rồi mới lại yết kiến bác… Chợ Đồng Xuân, Berlin. Nguồn: OntheNet * * * Khi chúng tôi đến phòng bệnh thì thấy một bác sĩ Đức đang ở trong đó, đang đọc bệnh án. Nhác thấy người bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương lùi phắt lại như bị điện giật, nắm chặt lấy tay tôi. – Ông sao vậy? – tôi ghé sát vào tai cô Lương, thì thào. Cô Lương xua xua tay: – Không, không sao. Mắt vẫn không rời khe cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Cô lôi tôi khỏi chỗ. – Thằng Hiếu đâu rồi? – Tôi không biết. Nó vừa đây mà. Thì ra thằng Hiếu dừng lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả theo sau. Đứng trước mặt con, cô dằn giọng: – Hiếu, bố vợ mày tên là gì? Nó trố mắt: – Sao, có chuyện gì mà ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế? – Tao hỏi: bố vợ mày tên gì? Thằng Hiếu ngớ ra. – Ông ấy tên là Khởi, ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba? – Đúng, đúng là nó. Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng: – Ba, ba sao vậy? Bác có biết ba cháu bị sao không? Tôi lắc đầu. Cô Lương phẩy phẩy tay: – Đi về. Đi về. – Sao đến đây rồi lại đi về, ba? – Đi về là đi về. Tôi đoán là có chuyện nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia. Tôi kéo cô vào quán nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì đi. Đặt cô ngồi xuống ghế, tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào: – Ông biết ông ta? Cô Lương nhìn chằm chằm vào khoảng không, môi mím chặt: – Chính là nó. Chính là nó đấy, ông ạ. Khi có người thứ ba, chúng tôi không xưng hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ đồng mưu. – Mà nó là ai kia chứ? – tôi gặng. Cô hít vào một hơi rồi thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực: – Là thằng làm đời tôi tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy. Một giọt nước mắt xúc động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con: – Thằng Hiếu nghe đây! Thằng Hiếu ngẩn ngơ trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên. Nó bất giác khoanh hai tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm. – Dạ. – Nghe tao nói đây: mày sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa, không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó… Thằng Hiếu im lặng ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố. Vẫn giọng chắc nịch, cô Lương không nói, mà tuyên bố: – Thà chết, chứ tao không thông gia với cái giống ấy. Tôi ôm lấy vai cô: – Việc gì thì cũng phải bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Bây giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp. * * * Ngày hôm đó kẻ vất vả nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một hình tam giác – khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn – bố nó bất thình lình trúng gió, nằm liệt, không đi lại, không làm gì nổi. Ông bố không nói gì, nhưng bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có hiệu quả – ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả. Tôi không nói với cô Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần. Đêm đến, thấy cô có vẻ đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ: – Cô nóng quá. Sự đời rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chấp nhận, chứ biết làm sao? Cô Lương trợn mắt: – Cậu nói thế là ý thế nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con Thuỷ cho thằng Hiếu? – cô Lương tung chăn ngồi dậy, ôm đầu rền rĩ – Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó. Em không thể làm thông gia với nó. Không là không. – Thì tôi có bảo cô phải đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải nghĩ cách sao cho vẹn cả mọi đường… – Cách gì? – Thì phải nghĩ đã chứ. Sao cho chúng nó không đau khổ. – Chúng nó đau khổ thì mặc chúng nó. Cô Lương quay đi, chấm dứt câu chuyện. Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời. Gần sáng, tỉnh dậy, thấy cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo: – Thế này: tôi đưa cô ra ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện địa phương tiếp tục điều trị. Cô lắc đầu: – Việc gì phải nói dối? Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù nó. Tôi thở dài: – Từ từ đã nào. Có phải cô nhờ tôi đi để làm việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Trông thằng Hiếu mà thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp ló ở đấy. Cô Lương ngước mắt lên, hỏi: – Cậu nghĩ sao? Nó sợ hay nó ghét mặt bố nó? Tôi quả quyết: – Nó sợ đấy. Lúc cô thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm. Mặt cô Lương dãn ra ra khi nghe tôi nói thế. – Nhưng mà em dù sao thì cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. – cô lại ôm đầu – Không đời nào. – Thì tôi đứng ra mà. Không phải cô. Tôi cũng không để cô muối mặt gặp thằng ấy. Coi như tôi là bố nuôi thằng Hiếu, cô không đến được thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn sau này ra sao hạ hồi phân giải. Nghe đến đấy cô Lương quay mặt vào tường, im lặng. * * * Nằm trên giường bệnh là một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết bì, mũ bình thiên”. Thằng Hiếu cho biết: khi tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường về sau. Nó dẫn tôi đến, rồi đứng ngoài, để hai người lớn nói chuyện. – Tôi trông ông quen quen. – ông ta vui vẻ nói. – Tôi cũng vậy. Tôi cũng có cảm giác chúng ta đã gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi nói cho có chuyện. – Già rồi là hay quên lắm, tôi cũng không nhớ ra. Tôi cố lấy giọng trịnh trọng: – Chắc cháu Hiếu đã thưa với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí, nhất thời không đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu… Ông bố vợ thằng Hiếu cười hì hì: – Biết rồi, biết rồi. Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa thôi. – rồi hạ giọng, thân mật – Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt… Giọng nói của ông ta gợi nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ? – Tôi là người hiện đại. – ông ta tiếp tục vui vẻ – Lễ nghĩa là cái gì? Che mắt thế gian thôi. Cưới là cái gì? Là để lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo… – Quả có thế. – Ở bên Tây này khỏi nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở chung, vui ra phết… – Dù sao thì… – Ông muốn nói: cứ phải theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi. Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy… – Dạ. – Ông thấy cần làm gì cứ làm, tôi không phản đối. Mà này… – Ông bảo sao? Ông ta suồng sã nháy mắt với tôi: – Có cái hủ tục ấy anh em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ. Thế là thế nào? Trong một thoáng tôi sực nhớ ra: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong cuộc hỏi cung kéo dài bất tận. Chuyện là thế này. Tôi có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi cung chính, hắn là phụ tá. – Tôi nhớ ra rồi. Ông là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại tình cờ gặp nhau ở đây. – tôi cười chua chát – Ông nhận ra tôi? – Chứ sao! – hắn cười to – Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để không quên. – Tài thật. Bằng ấy năm rồi mà ông vẫn nhận ra ngay. – Còn hơn thế nữa kia. Tôi biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến. – Hắn nói chậm, rõ từng tiếng: – Ông đến là vì cô đồng Lương không muốn giáp mặt tôi. Tôi ngạc nhiên. Phải nói là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến một phút. – Quỷ quái, ông đã nhìn thấy? Ông nhận ra ông ấy? Vẻ đắc thắng, hắn hơi nhổm người lên, cười vào mặt tôi: – Sao không? Chỉ thoáng thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm. Ông khác, ông quên rồi. Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ bình thản: – Không, tôi không quên. – Ông quên. Bằng chứng là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc. – Tôi vốn không có tài nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con người không thể quên. – Thế là tốt. Nhớ nhiều quá chẳng hay gì. Khởi cười khẩy, cái cười khẩy rất đểu, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung. Đêm ấy hắn cũng cười như thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?” Tôi nhìn vào mặt hắn: – Tôi có điều không hiểu: tại sao ông lại ở đây? – Dớ dẩn. Ông đặt một câu hỏi không nên hỏi tí nào. Đơn giản là trả lời: cũng như các ông thôi. – Chúng tôi khác, ông khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì? Khởi vẫn không mất vẻ tươi cười: – Tội nghiệp, ông âm lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so sánh để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là cái xấu. Tôi chọn cái tốt. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng thế, ở đây cũng thế. Tôi khen hắn, thật lòng: – Ông thật tinh quái. – Chúng tôi được dạy dỗ để trở thành tinh quái mà. – hắn cười, vừa độ lượng vừa thoả mãn – Ông cứ xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Thì tôi phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Đó là sự lạc hậu. Tôi mím môi, thở dài qua mũi. Hắn nắm tay tôi: – Quên, tôi chưa hỏi ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào? – Không. Ông ấy đi làm nhà máy. Rồi về hưu. Hắn cũng thở dài: – Dại. Dại quá. Có tài nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện cho con ăn học đến nơi đến chốn. – Hai cháu cũng được học hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn. Hắn đặt bàn tay béo tốt, gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa: – Thế này nhé! Chuyện thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời chúng ta. – Dù sao thì chúng tôi cũng phải có lời xin cháu làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ giữ cho đủ lễ. Hắn nhếch mép cười buồn. Rồi bảo: – Con người ta tham lắm, ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp. Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu vậy. Khi tôi kiếu từ, hắn còn nói theo: – Ông yên trí, tôi sẽ nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ, không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không cho nó được là không nó không có cao vọng. * * * Câu chuyện tầm phào này đến đấy là kết thúc. Như mọi câu chuyện tầm phào khác, nếu nhìn bằng cái nhìn chăm chú thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để ta suy ngẫm, cho dù sau đó chẳng đến được một kết luận rõ ràng. Tôi không tường thuật cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi. Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn. Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra. Ba năm liền, hai ông thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm. Quảng trường Brandenburg. Nguồn: pha.jhu.edu Năm thứ tư, tôi bắt gặp hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg. Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi. Nó tin cậy giao hai bàn tay bé tí cho hai ông nó dắt.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 17, 2014 4:13:49 GMT 9
Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam : Thủ đoạn của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407Nguyễn Huệ Chi Lời dẫn của BBT Diễn Đàn Forum ( www.diendan.org ) : Nguyên đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên "Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau" viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong nước thời gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ - kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương rất bài bản và "cao tay"... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc - cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của sử thần Lý Văn Phượng 李文 鳳, soạn năm 1540. Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại mới - triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên - Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới - triều đại đế quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh - mới nắm được "ngôi trời" - cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc "chinh phục" Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của "thiên triều". Ngay khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta. Nhưng nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi. * * * Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên "Đại Hán" mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm (1406 - 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh hồi sinh. Ngón đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất nhiều cuộc "Nam chinh" trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được "thiên triều" chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà "sinh sự", và về thực chất, phải làm sao dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị "con trời", ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... "tội" (!). Nhung "hỏi tội" một vị vua vì "chống nạn cứu dân" mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng 9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo quân "tiễu phạt" của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để "thiên triều" mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không cấp lính và voi. Một vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự "Đại Minh" vẫn phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ "đi trước" đã không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: "Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế"(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng - viên tướng đầu tiên cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y - đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại của Tống và Nguyên: "Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành"(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần - Hồ không những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về trước!): "Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường"(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách cho cha con họ Hồ "đem trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang"(6). Kỳ thực, có đúng thế hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu Năng - gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây - Minh Thành Tổ đã thổ lộ "can tràng" của ông ta: "Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt... Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết"(7). Gớm ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng "thiên tử"! Duy có điều là ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào là "nước An Nam giàu mạnh đã lâu"(8), nào là "quân lính của họ tất có phòng bị trước", nào là "cha con họ Lê - tức họ Hồ - lắm mưu mẹo giảo quyệt", tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: "Cứ đóng quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn"(9). Rõ ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của "thiên triều" phải mang tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là vì vậy. * * * Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. "Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng người"(10). Có thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người - trị người - dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,... nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm. Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt - Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh "bị người Minh sai khiến mà mất cả gia thuộc"(12), "bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn phương" (13). Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem "tiến" về Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;... Mỗi năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về. Nhưng cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách "mặt trái" rất khôn khéo: chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem "cung hình" (thiến) nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ! Đặc biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,... chính vua Minh trực tiếp chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh nghiệm về việc "dùng người" và than thở không thôi(17). Sự chu đáo trong chính sách "chiêu hồi" này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế "bồi dưỡng về lập trường quan điểm", rồi sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18). Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu - và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược - chính là một phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: "Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy"(19). Chắc ai cũng phải lấy làm lạ: một bằng chứng "chinh phục" tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả "sự nghiệp" vênh vang của "tiền nhân", phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất "một đồng một cốt" giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc "chiến bại", thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng - mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành lòng thừa nhận - cứ tự nó phát huy tác dụng: "... dù có cướp được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được"(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của "thiên triều"? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần. Lần đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến "ngài" không thể không "chinh thảo", là họ Hồ đã tự coi "đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp"(22), v.v. Cơn giận của "ngài" kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là "thần tử" của Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm "đạo thống" thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của "thiên triều" tới các cõi xa, nói như họ Khổng là "làm cho xa thư về một mối". Và khi đã "gắn bó với nhau về ý thức hệ" thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu. Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho nước "man di" kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự "hoả khí" lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: "Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu "Thượng đại nhân, khưu ất dĩ" một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn"(23). Thử lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của "nước mẹ Đại Minh". Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là... không tồn tại. Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: "Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ, như loại "Thượng đại nhân, khưu ất dĩ" một mảnh một chữ đều phải đốt hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại"(24). Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: "Nay An Nam đã bình định xong; [...] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện"(26). Tưởng cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng bước "tiến", "thoái", "thắt", "cởi" cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần "tự diệt", thì nghệ thuật xóa dấu vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà. N.H.C. (Nguồn : www.diendan.org ) Chú thích: (1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189. (2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của nhà Minh (1402 - 1424), tức Minh Thành Tổ. (3) Lý Văn Phượng 李文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất văn bản cuốn sách này của Thư viện Khoa học xã hội: 173/1, nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh, 1996, vì thế có đối chiếu và điều chỉnh số quyển và tờ theo văn bản mới này, chệch nhau không đáng kể. Q. 2; tờ 29b: 今安 南 雖 在 海 陬 。自昔 為 中 國 郡 縣 。五季 以 來 力 不 能 制 。歷宋 及 元 雖 欲 圖 之 而功 無 所 成 。貽 笑 後世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế). (4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 31a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋元 皆 發 兵 征 討 安 南。將驕 兵 懦。貪 財 好 色。以此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành). (5) "Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam", đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 43a. Nguyên văn:其臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎狼 之 心 。竟 為 吞 噬之 。舉 弒 其 國 王。戕其 本 宗。覃 被 陪 臣重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺戮。毒 病 生 民 。雞 犬弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ). (6) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 28a. Nguyên văn: 今廣 西 奏 。安 南 遣 人來 貢 謝 罪 。原 胡 奄。 父 子 罪 本 難 容 。今既 改 過 自 新 。只 著他 辨 黃 金 五 萬 。象一 百 隻 。 以 贖 其 罪。金象 不 足 。許 以 珠 玉寶 貝 代 之 。以 足 其數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến). (7) Sắc chỉ bí mật, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. (Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn kèm theo tờ sắc này): 今遣 朱 勸 張瑛 齎禮 部 咨 文 往 安 南 索其 金 象。此計蓋 欲 弛 其 鬥志。非真 實 意 也。朱勸 等 臨 行 朕 曾 面 諭之 。今 到彼 只 住 五日 。若 五 日 內 措 辨不足 。許隨 多 少 先 將 來 。後卻 差 人 納 足 。爾 待朱 勸 等 人 去 。大 軍隨後亦 進 。若遇 差 出 納 金 象 之 人就 執 之 。訖 問 聲 息。 須 勿 令彼 知 差 來被 執 。今 朱 勸 等 到處 。爾 事 機 切 不 可令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ thiết bất khả linh nhân tri chi). (8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd tờ 31a: 安南 自 我 朝 以 來 [。。。] 數十 年 不 曾 用 兵 。其國 中 富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ). (9) Việt kiệu thư, Sđd; tờ 37a. Nguyên văn: 頓兵 江 上 與 賊 相 持 。黎賊 之 計 正 欲 持 久 以待 瘴 癘 之 發 。破 之貴 在 神 速 。不 宜 遲緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn). (10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262. (11) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 34b đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安南 金 場 。銀場 遙 聞 原 是 占 城 之地 而 界 相 爭 已 久 。亦未 可 信 。平 定 之 後。只 以 見 得 地 界 為準 。縱 然 占 城 有 請亦 不 可 擬 還 (An Nam kim trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả. (12), (13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 250, 262. (14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 37a. Nguyên văn: 大軍 入 安 南 。但 有 助黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之。 若有 能 棄 甲卻 戈 降 者。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát). (15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 35a. Nguyên văn: 其有 年 少 而 罪 當 死 者。宜 處 以 宮 刑 。亦可 以 保 全 其 命 。他日 又 得 以 克 使 令 (Kỳ hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh). (16) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 59a. (17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 46a. Nguyên văn: 敕傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為將 之 。道 在 於 用 人。一 裴 伯 耆 不 能 用何 以 能 成 事 功 俠 。朕有 南 鄙 又 憂 。古 人用 人 之 法 具 右 方 冊。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc). (18) Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 40a - b. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者。即陸 續 遣 之 來 朝 。聽朕 面 諭 。給 與 印 信俾 還 管 事 。如 或 事世 未 可 又 在 。隨 宜處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất). (19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 - 8 - 1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26b. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦便 碎 之。委之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân). (20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 7 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 40a. (21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47. (22) "Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam", đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 43a. Nguyên văn:自以 為 道 優 於 三 王 。德高 於 五 帝 。以 禹 湯文 武 不 足 法 。周 公孔 子 為 不 足 師 。毀孟 子 為 盜 儒 。謗 周程 張 朱 為 剽 竊 。欺聖 欺 天 。無 倫 無 理 (... tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý). (23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 - 8 - 1406) - theo bản Thư viện KHXH: 1731/I. Trong bản Việt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản thì không đề ngày, nhưng xếp thứ tự ở giữa hai đạo sắc ban bố ngày 4 - 7 - 1406 và ngày 29 - 7 - 1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26a - b. Nguyên văn: 兵入 。除釋 道 經 板 經 文 不 燬。外 一 切 書 板 文 字以 至 俚 俗 童 蒙 所 習。如 上 大 人 丘 乙 已之 類 。片 紙 隻 字 悉皆 燬 之 。其 境 內 中國 所 立 碑 刻 則 存 之。但是 安 南 所 立 者 悉 壞之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như "Thượng đại nhân Khưu ất dĩ" chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn). (24) Sắc chỉ đề ngày 10 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (16 - 6 - 1407), Việt kiệu thư, Thư viện KHXH: 1731/I. Q. 2; tờ 49a (trong bản Việt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản đạo sắc này bị xếp vào thời điểm sau khi đã chiếm xong nước ta, điều này không hợp lý). Nguyên văn: 屢嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有一 切 書 板 文 字 。以至 俚 俗 童 蒙 所 習 。如上 大 人 丘 乙 已 之 類。片 紙 隻字及 彼 處自 立 碑 刻 。見 者 即便 毀 壞勿存 。今 聞軍 中 所 得 文 字 不 即令 軍 人 焚 毀 。必 檢視 然 後 焚 之 。且軍 人 多 不 識 字 。若一 一 令 其 如 此 。必致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾今 宜 一 如 前 敕 。號令 軍 中 但 遇 彼 處 所有 一 應 文 字 即 便 焚毀 。 毋得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như "Thượng đại nhân Khưu ất dĩ" chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu). (25) Chỉ người Việt. (26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 50a - b. Nguyên văn: 今安 南 已 平 [。。 。] 除制 諭 外 應 發 去手 敕及記 事 小 帖 成 國 公 領帶 去 小 冊 子。及 條畫 事 件 。盡 數 檢 對。 密 封 繳 來 。 不 許存 留 一 字 。 漏落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình [...] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:01:57 GMT 9
Kẻ vô ơnPosted on June 30, 2014 Vũ Thư Hiên Tôi không tưởng tượng được cái tai họa giáng xuống gia đình tôi lại lớn đến như thế, lại kinh khủng đến như thế. Đau đớn nhất là cái sự tôi là bộ đội chẳng giúp được gì cho các cụ. Không mảy may.1. Zurich. © Atlantide Phototravel/Corbis Nghe tôi nói đến “Hiếu Nhà Băng”, ông Thạc lộ vẻ ngạc nhiên: - “Hiếu nhà băng” ở Zurich? Ông cũng quen hắn à? - Quen. Nhưng chưa lâu lắm. Ông biết ông ấy? - Biết chứ. Từ hồi kháng chiến chống Pháp kìa. Lúc ấy hắn có cái biệt danh khác – “Hiếu tồ”. - Trái đất tròn thật. Tôi gặp ông Hiếu trong chuyến du lịch trên sông Nil, lâu rồi, dễ cũng đến ba hoặc bốn năm. Quen nhau kiểu ấy thì chỉ loáng thoáng thế thôi, mãi đến năm ngoái gặp lại nhau ở Genève hai đứa mới có dịp tâm sự. Ông này tính tình cởi mở, dễ chịu lắm, tuy có hơi tồ tồ một chút thật, ông gọi là Hiếu tồ cũng không ngoa. Nghe ông nói mới biết, chứ tôi cứ tưởng ông ta là dân Bắc kỳ di cư rồi vọt qua đây sau tháng tư 75. Cái vụ thuyền nhân bi thảm là thế, thế giới chửi cho mất mả, vậy mà cũng có cái mặt hay của nó – người mình giờ ở đâu cũng có, dễ chỉ thua dân Trung Quốc. Người ta bảo ở đâu có gián ở đấy có người Trung Quốc. - “Hiếu tồ” đi sang bên này khoảng 78 hay 79 chi đó. - Thuyền nhân? Ông gật đầu. - Tức là có đi kháng chiến một đoạn, rồi dinh tê? - Đại khái thế. Nghe nói bây giờ hắn giàu. Không phải giàu thường thường, mà giàu lắm. Ông Thạc liếm đôi môi khô. Trong giọng nói của ông có một chút khó chịu, hoặc một chút ghen tị, hoặc cả hai. - Trông ông ấy bề ngoài thì cũng bình bình, vầy vậy, không có dáng giàu có – tôi thấy cần nói nhận xét của mình, tôi không thích cái sự khó chịu vì người khác giàu ở ông Thạc – Ăn vận xuyền xoàng, xe không sang – một cái BMW không còn mới. Đại khái thì cũng như mọi người khác, người bình thường, không vênh, cũng không hãnh. Nghe ông ấy kể thì đúng là trước khi về hưu ông ấy có làm việc ở một ngân hàng lớn. Phó giám đốc hay là chuyên viên gì đấy. - Giám đốc đấy, ông ạ. Làm đến chức ấy thằng chó nào mà không giàu cơ chứ? Ông Thạc đổi giọng ngậm ngùi: - Ngẫm ra cái số con người ta thật lạ, lên voi xuống chó khôn lường, có giời biết trước. Tôi biết Hiếu lắm. Trước đây, hắn công tác cùng chỗ với tôi. Đến lượt tôi ngạc nhiên: - Tức là ông Hiếu còn ở bộ đội nữa? - Chứ sao. Cấp dưới của tôi. Nhưng hồi ông đến công tác ở chỗ tôi thì hắn không còn đấy nữa. Đào ngũ rồi. - Năm nào? - Đầu năm 54. - Chiến thắng đến nơi mà còn chuồn, rõ hoài, có phải không ông? Ông Hiếu có không muốn nhắc đến giai đoạn ấy cũng là phải thôi, chẳng vinh quang gì. Tôi với ông Thạc quen nhau hồi ông còn làm trưởng phòng chính trị quân khu 3, tôi từ Việt Bắc về làm công tác tổng kết quân sự. Rồi tiếp quản thủ đô, mấy đợt rèn cán chỉnh quân, chúng tôi gặp nhau luôn. Ông về hưu với quân hàm đại tá. Người khác ở tuổi ông, có thâm niên quân đội như ông, thì đã lên tướng từ lâu. Chuyện dân “tạch tạch xè”, đi kháng chiến bị phân biệt đối xử là chuyện thường tình, chẳng làm ai ngạc nhiên. Quen nhau lâu thế nhưng tình bạn giữa chúng tôi không thể gọi là thân thiết, có lẽ tại tính tình không hợp, hoặc tại cái gì đó không giải thích được, nhưng biết nhau hơn nửa thế kỷ mà vẫn giữ được quan hệ quen biết nhau thì cũng coi như có sự gần gụi. Ông sang Đức ở với con gái, không hiểu nhờ ai mà biết địa chỉ của tôi, ông có biên thư hỏi thăm, thành thử có việc qua vùng ông ở, tôi rẽ vào thăm. Ông mừng lắm, ôm chặt, vỗ lưng tôi đồm độp, mắt nhòa đi. Ông đang trong cơn cô đơn, tôi đoán. Tâm trạng này,với từng cơn ác tính, có ở bất cứ người lớn tuổi nào trong cuộc sống xa quê. Hỏi thì ông bảo cuộc sống của ông tạm ổn, không có gì đáng phàn nàn. Anh con rể người Đức là chuyên viên của hãng Siemens nổi tiếng, lương cao; cô vợ trông nom một cửa hàng hoa tươi, nhiều khách quen, có bề phát đạt. Ngoài ngôi nhà ở khang trang ở trung tâm Stuttgart, hai vợ chồng còn tậu được một nhà vườn. Ở nước Đức như thế là thuộc loại trung bình khá. Khi mới sang, ông bố vợ ở chung với các con, ít lâu sau ông dọn ra ở nhà vườn. Ông bảo ở đây cũng đủ mọi tiện nghi, lại được ở một mình, dễ chịu hơn, chưa kể sáng sáng còn có việc làm – với cái cuốc, cái kéo tỉa cây, bình tưới, ông chăm sóc mấy giàn hoa leo, mấy luống rau thơm, ăn không ngồi rồi buồn chết đươc. Thỉnh thoảng, cuối tuần, hai vợ chồng dẫn mấy đứa cháu ngoại ra thăm ông. Ông không biết một tiếng Đức nào, với ai ông cũng chỉ gật đầu mỉm cười thay lời chào. Anh con rể gật đầu chào lại, nhưng không cười. Hai đứa cháu trai nghịch như quỷ sứ, vừa ra đến nhà vườn là chúi ngay vào các trò chơi của chúng, la hét om sòm. - Cái giống Đức tính lạnh, ông ạ, không như người mình – ông nhận xét. Giao thiệp với dân Đức không dễ, chẳng biết trong bụng chúng nó nghĩ gì. Thằng rể tôi đươc cái lễ độ, biết kính trọng bố vợ. Ông tiếp tôi ở nhà vườn, xăng xái đi nấu cơm thết bạn. Tôi thấy ông đi đứng còn nhanh nhẹn, lưng không gù, giọng sang sảng, duy có nước da mai mái, dấu ấn của bệnh sốt rét kinh niên, làm ông hơi xấu mã. Hàm dưới đưa ra, má hóp lại. Ở tuổi bảy mươi sáu mà được như thế là tốt rồi. Trong phong thái, ông vẫn còn giữ được chút gì đó của một thời chinh chiến, khi ông còn là một cán bộ quân sự quen ra lệnh. Bây giờ không ra lệnh được cho ai thì ông ra lệnh con béc-giê giống Đức lúc nào cũng quanh quẩn bên chủ. Nó to như con bê, mà hiền khô. Dưới sự chỉ huy của ông nó biết ăn cơm nguội rưới tí nước thịt, y như một con vàng hoặc con vện Việt Nam. Tôi muốn hỏi ông sang Đức sống lẻ loi thế này làm gì cho khổ, trong khi ở Việt Nam ông có bạn bè, có họ hàng. Tuổi già sống cô độc ở xứ người có vui gì. Lương hưu cấp tá giờ rất khá, hơn trước nhiều lắm, thừa đủ cho một cuộc sống không còn nhiều đòi hỏi. Ông cũng cho biết nhà nước bây giờ chiều cán bộ hưu lắm, nhất là đám có thâm niên cách mạng cao, không muốn họ gây chuyện nay kiến nghị mai phản đối, hoặc a dua với bọn hới mưng đòi dân chủ. - Sang đây ông có gặp lại ông Hiếu không? - Có. Mà không. - Là thế nào? - Tôi có trông thấy hắn ta, nhưng không gọi. - Sao vậy? – tôi trợn mắt – Ông giận ông ấy? Giận cái chuyện đào ngũ ấy à? Vớ vẩn. Chuyện từ đời tám hoánh mà đến giờ còn để bụng thì ông quẫn rồi đấy. Bọn mình, thằng chó nào cũng vậy, gần đất xa trời cả rồi, mọi chuyện xửa xưa ông nghe tôi, cứ quăng tuốt đi, cho nó nhẹ. Ông âm lịch quá. Ông Thạc nhún vai, môi dưới trề ra. Im lặng một lúc, ông thủng thẳng: - Không phải tôi giận hắn cái chuyện ấy đâu, chuyện ấy tôi không tính, bộ đội hồi ấy đào ngũ nhiều, chẳng phải mình hắn … Hồi Cải cách ruộng đất bọn con cái địa chủ, phú nông, không trước thì sau, theo nhau chuồn bằng sạch. Không như chúng ta, đã đi với cách mạng là ta đi đến cùng. Chúng nó không thể kiên trì lập trường cách mạng là do bản chất giai cấp của chúng nó khác ta … Tôi che miệng ngáp. Giời ạ, lại cái bài ca lập trường giai cấp cũ rích tưởng chừng không còn có thể nghe thấy ở bất cứ đâu, đùng một cái lại gặp nó giữa lòng nước Đức. Chán ơi là chán. Thậm chí tôi còn không còn thấy ngạc nhiên nữa. Từ lâu rồi, chính cái ông bạn tôi này từng than thở với tôi rằng chúng tôi, có nghĩa là ông, và cả thế hệ ông nữa, bây giờ là cái vỏ chanh vắt kiệt bị quẳng vào thùng rác lịch sử, rằng cuộc cách mạng đầy lãng mạn là lẽ sống một thời trai trẻ của lớp người như ông đã biến mất, thay vào đó là một xã hội của những kẻ đi sau về trước, trong cái xã hội đó những người như ông chẳng là cái gì hết. Biết thì ông biết đấy, không phải ông ngu, ông không biết, nhưng trong tâm tư ông, trong cái vô thức vô duyên của ông, lại có cái gì đó chống lại cái biết của ông, khốn nạn vậy. Những người như ông không ít. Trong họ cái quá khứ hào hùng nặng như cối đá, bất chấp sự biết ấy, sự ngộ nhận ấy, vẫn cứ tiếp tục tồn tại, nó sống không cần anh có biết đến nó hay không, nó hiện hữu thường trực như một bản năng được cấy ghép, âm thầm hiện hữu, thậm chí ta không nhận thấy nó, nhưng thỉnh thoảng nó lại trỗi dậy, thỉnh thoảng lại hung hăng lên tiếng. Trong cái xã hội do chính họ tạo ra, nhưng lại hình thành ngoài ý muốn của họ, theo một cách khác hẳn, họ chẳng còn gì để tự hào, họ thấy mình là đồ bỏ trong lòng xã hội ấy, thế là họ đành nhẫn nhục sống với những kỷ niệm, với những giáo điều đã chết và những hào quang không còn lấp lánh. - Vậy thì vì cớ gì ông giận? - Hắn là thằng vô ơn, ông ạ – ông thở dài. Tôi giận là giận cái sự vô ơn ấy. Hắn chịu ơn tôi, nhưng khi gặp tôi, hắn lờ. Tôi chỉ cần được nhìn thấy hắn mừng rỡ khi gặp lại tôi thôi, thế là đủ, thế là được, khốn nạn, nào tôi có mong gì hơn, nhưng không, khi gặp tôi, hắn lờ tịt. 2. Ông Hiếu cười buồn khi nghe tôi kể chuyện tôi gặp ông Thạc. - Tôi nhớ ông ấy chứ, quên sao được. Trí nhớ tôi không đến nỗi tồi. Tôi có nhìn thấy ông ấy thật. Và tôi đã không gọi, đúng thế. Chuyện ông ấy kể cho ông nghe không sai, ông ấy không bịa, đúng là ông ấy có làm ơn cho tôi thật. Nhưng là một thứ ơn mà người mang ơn không muốn nhớ đến … Chúng tôi ở trong một biệt thự nhỏ và xinh xắn bên bờ hồ Bodensee, còn có tên là hồ Konstanz, chung biên giới với ba nước Đức, Áo, Thụy Sĩ. Hồ này rộng mênh mông, nó đứng thứ hai tính về diện tích các hồ thuộc vùng núi Alpes. Giá đất ở những nơi có địa thế đẹp ở ven hồ Konstanz đắt khủng khiếp, có thể so với giá đất ở Hà Nội. Ở những địa điểm có thể xây khách sạn, nhà nghỉ phải có nhiều tiền lắm lắm mới xây được một biệt thự riêng. Tôi hiểu như thế nên rất ngạc nhiên thấy bên trong ngôi biệt thự chắc chắn là đắt tiền của ông Hiếu chẳng có gì sang trọng. Giữa phòng khách chình ình một cái chõng tre y như trong một quán nước ở đồng bằng sông Hồng; trên đó lỏng chỏng một cái ấm giỏ và mấy cái bát sành. Ghế ngồi là những thân gỗ mộc xù xì, nhưng có đệm dành cho khách không quen ngồi ghế gỗ. Tôi đã gặp cách bài trí theo lối cổ ở nhiều nhà người Việt ly hương, với những hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, những sập gụ, tủ chè, tràng kỷ, cái nào cái nấy thuần bằng gỗ quý đặt trong nước làm … Cũng là nỗi nhớ quê hương, nhưng khác với nỗi nhớ của ông Hiếu, nó là nỗi nhớ trưởng giả hoặc mang hơi trưởng giả. - Tại sao? Ông Hiếu bắt đầu câu chuyện gợi trí tò mò của tôi vào một đêm khuya, cả hai đều khó ngủ. Chúng tôi ngồi bên nhau, an nhàn tựa lưng trên ghế dài đặt sát mép nước hồ. Ban đêm mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương vô cùng lớn màu đen, với những đốm lửa nhấp nháy ở chân trời, rất xa, nơi có quần thể đông đúc khách sạn và nhà hàng. - Ông Thạc chưa kể cho ông nghe? - Chưa. Ông kể đi. Ông Hiếu im lặng một lúc lâu. Hình như ông do dự, ông không muốn kể, có thể là ông không muốn gợi lại một quá khứ muốn quên. Ông chỉ kể khi tôi phải thúc giục vài lần nữa. Sau đây là câu chuyện tôi được nghe trong đêm ấy. Ông Thạc lúc bấy giờ đã là bí thư chi bộ, tôi là quần chúng. Chúng tôi đều là học sinh xuất thân, lý lịch của chúng tôi đơn giản, chúng tôi vào bộ đội như là lẽ đương nhiên – thanh niên thời chiến thì phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Tôi với ông Thạc vừa là bạn, vừa có quan hệ cấp trên cấp dưới. Cái sự tôi ở trong diện cảm tình đảng, đang thời kỳ thẩm tra lý lịch để kết nạp cũng là do ông Thạc quan tâm nâng đỡ. Chứ tôi, nói thật với ông, chẳng thuộc diện được đảng chú ý, tôi thì cũng chẳng mặn mà gì cái sự vào đảng. - Vào thời ấy mà không biết quý cái sự vào đảng thì, nói thế nào cho đúng nhỉ – tôi nói – hoặc ông rất cấp tiến, hoặc ông hâm. - Tôi không cấp tiến, cũng chẳng hâm – tôi lười, ông ạ – ông Hiếu cười khe khẽ. Người ta phấn đấu để được vào đảng, để được đề bạt, để được oai với người khác, tôi thì không. Còn chiến tranh thì mình làm lính, hết chiến tranh thì thôi, chẳng lẽ ở bộ đội cho đến hết đời à? Trong đảng họ nghĩ gì về tôi, tôi không biết. Mà họ nghĩ gì mới được chứ? Họ coi tôi bình thường, như mọi người lính không có gì đặc biệt. Tôi ở đơn vị chiến đấu suốt từ những ngày đầu kháng chiến cho tới khi quân khu lấy về làm ở phòng chính trị, dưới quyền ông Thạc. Tôi không thích làm lính ống quyển, nhưng quân lệnh như sơn, cứ là phải chấp hành. - Ông có phạm kỷ luật gì trong thời gian ấy không? - Không. - Ông Thạc nói ông mang ơn ông ấy là ơn thế nào? Tôi rụt rè hỏi. Ông Hiếu im lặng. - Tôi đoán … ông phạm kỷ luật gì đó và ông ấy đã gỡ tội cho ông? - Cái ơn còn lớn hơn. Tôi sẽ kể ông nghe. Ông không kể ngay. Ông nhìn ra hồ. Khi có gió, mặt nước cũng lăn tăn một chút làm xao động những đốm lửa xa. Tôi im lặng chờ. Cuối cùng rồi ông Hiếu cũng bắt đầu câu chuyện gợi trí tò mò của tôi: 3. Một hôm, ông Thạc gọi tôi ra chỗ vắng. Ông thì thào: - Lâu nay cậu có tin tức gia đình không? - Không. Cũng đến cả năm rồi không thấy thư từ gì hết. Chắc cũng chẳng có chuyện gì đâu, vùng tôi ít bị máy bay bắn phá – tôi nói. Ông cụ tớ cũng bận. Làm chủ tịch xã, lại còn kiêm nhiều việc trên huyện nữa. Tớ tính sau đợt chỉnh quân tới sẽ xin đi phép về thăm các cụ. Ông Thạc có vẻ lúng túng. Có vẻ ông ấy phải chọn lời: - Tớ nói chuyện này, nhưng cậu phải tuyệt đối bí mật nhá. - Cậu biết tính tớ rồi, tớ không phải đứa bép xép. Ông chớp chớp mắt rồi ghé sát vào tai tôi, giọng trầm trọng: - Ông cụ bà cụ cậu bị lên địa chủ phản động rồi … Tôi chết điếng. Tôi không tin ở tai mình. Lúc bấy giờ ở vùng chúng tôi đóng quân đã qua bước giảm tô giảm tức, đang đi vào cải cách ruộng đất, nhưng đơn vị chúng tôi chỉ học tập chủ trương chính sách để ủng hộ chứ không trực tiếp tham gia công tác cùng các đội các đoàn. Trong học tập tôi được biết cải cách ruộng đất do đảng lãnh đạo là một cuộc cách mạng long trời lở đất, là sự đổi đời ở nông thôn, giai cấp nông dân vùng lên đánh đổ bọn cường hào gian ác. Thế nhưng, tôi cũng như nhiều đồng đội của tôi, cứ nghĩ rằng ở đây, hoặc ở đẩu ở đâu kia, mới có những tên địa chủ tàn bạo, ác độc, chứ những quân quỷ sứ ấy không thể có ở quê mình, đừng nói gì ngay trong nhà mình. - Nghe đâu lại còn Việt Quốc hay Việt Cách gì đó nữa … Tôi không còn nghe thấy gì nữa. Tôi gục xuống. - Chắc cậu cũng chẳng biết hết những việc làm của ông cụ đâu … Tiếng ông Thạc văng vẳng bên tai tôi – Nhưng chẳng có gì giấu được quần chúng được phát động … - Làm gì có chuyện ấy được. Tôi đứng phắt dậy; tôi kêu lên, rền rĩ. Ông cụ bà cụ tớ hiền như đất ấy mà, nào có biết đảng phái là cái gì. - Địa phương gửi công văn đến, hỏi về cậu đấy. - Hỏi về tớ? - Phải. Tớ đã viết công văn trả lời sau khi hội ý toàn chi bộ, bảo đảm cậu là cán bộ tốt. - Chuyến ấy xảy ra khi nào? Ông Thạc thở dài: - Ba tuần rồi. Tôi nhớ lại: có một cái gì đó không bình thường trong ánh mắt của các đảng viên khi gặp tôi. Dường như họ tránh nhìn tôi. Trong sinh hoạt cơ quan, mọi chuyện chỉ có đảng viên được biết, quần chúng chỉ có thể đoán rằng có chuyện gì đó, xấu hoặc tốt, căn cứ thái độ của họ. - Sao cậu không cho tôi biết? - Nói sao được?! Nguyên tắc. - Bây giờ cậu bảo tớ phải làm gì? Ông Thạc suy nghĩ lung. - Bây giờ cậu về nhà đi. Đừng nói với ai cậu đi đâu, chuyện đó mặc tớ lo. Đây là công lệnh, bản sao công văn đơn vị gửi chi bộ địa phương, cứ cầm theo, phòng xa, có khi hữu dụng. Về đến nhà rồi, gặp được ông cụ bà cụ rồi thì trở lại ngay đơn vị. Đấy là tất cả những gì tớ có thể làm cho cậu. Tôi nói: - Ông Thạc đối với ông thật là tốt. - Tôi không nói ông ấy xấu. – ông Hiếu đáp – Ông nghe nốt câu chuyện đã. Tôi lập tức lên đường. Đi suốt đêm. Suốt ngày hôm sau. Vừa đặt chân vào nhà, tôi bị bắt ngay. Đám du kích ập đến, trói gô tôi lại. Chúng quát tháo, chúng chửi mắng, không cho tôi kịp mở miệng. Mà chúng nó là ai chứ? Toàn người quen kẻ thuộc cả, ông ạ, không hàng xóm láng giềng thì cũng người cùng thôn, cùng xã. Nghe chúng nói với nhau tôi mới biết mẹ tôi không chịu được hành hạ đã thắt cổ tự vẫn tuần trước, còn cha tôi sẽ bị bắn vào sáng hôm sau. Tôi lặng đi. Tôi không khóc được. Nước mắt chưa chảy đã cạn. Mẹ tôi là một nửa cuộc sống của tôi. Ngay cả khi sống xa nhà tôi vẫn cảm thấy mẹ ở bên tôi. Cha tôi khác, tôi yêu cha, kính trọng cha, nhưng không gần gụi cha như gần gụi mẹ. Tôi không tưởng tượng được cái tai họa giáng xuống gia đình tôi lại lớn đến như thế, lại kinh khủng đến như thế. Đau đớn nhất là cái sự tôi là bộ đội chẳng giúp được gì cho các cụ. Không mảy may. Ngày nay ai cũng biết rõ rằng những khẩu hiệu “Người cày có ruộng,” “Đánh đổ bọn cường hào ác bá, nông dân giành lấy chính quyền,” “Nông dân là quân chủ lực của cách mạng” … chỉ là những lời lừa mị. Nhưng lúc ấy khác, lúc ấy chúng có một tác dụng ghê gớm. Một cảnh đấu tố thời “Cải cách ruộng đất” tại Bắc Việt. Ảnh: OntheNet. Nông dân ào ào đi theo đội cải cách, hô những khẩu hiệu đùng đoàng ấy đến khản tiếng, đến rạc người. Có thể họ chân thành tin ở cuộc đổi đời mà đảng hứa hẹn, rồi đây họ sẽ trở thành những ông chủ bà chủ ở trong làng, họ sẽ có những gì mà những người sang trọng có, có thể là như thế. Điều tôi biết chắc là những con người khốn khổ hi vọng ở số quả thực sẽ được chia ngay lập tức sau khi bọn nhà giàu trở thành kẻ có tội với cách mạng – một thúng thóc, cái mâm đồng, cái phản gỗ, có khi là cả cái sập gụ cũng nên … Sáng hôm sau, tôi bị điệu ra trường đấu. Dân chúng cả mấy xã tề tựu ở sân trường học của xã. Tôi đã nghe tiếng loa thúc giục mọi người đi dự cuộc đấu “tên phản động đầu sỏ, tên cường hào gian ác, tên địa chủ có nợ máu với nhân dân” từ khi còn tối đất. Trường học này đầy ắp những kỷ niệm thời thơ ấu của tôi và của những người bạn học mặt sát khí đằng đằng lăm lăm súng trường mã tấu đứng ở vòng ngoài. Tôi nhìn thấy cha tôi, bị trói giật cánh khuỷu, bị lôi đi xềnh xệch, bước chân lảo đảo, giữa một đám đông xỉa xói, gào thét, những bộ mặt biến dạng với những đôi mắt đỏ ngầu, những cái miệng há to, nhớt dãi chảy xuống ngực áo, giữa rừng cánh tay vung lên hạ xuống theo những khẩu hiệu đòi trả nợ máu … - Kinh khủng! Hồi ấy tôi đang theo học ở Liên Xô nên không được chứng kiến những gì xảy ra, chỉ được nghe kể lại, sau này … - May cho ông, ông là người gốc thành phố, chứ dân nông thôn chúng tôi hồi ấy, chỉ cần hơi có máu mặt một tí là toi. Chẳng riêng gia đình tôi, người cùng cảnh ngộ với chúng tôi nhiều vô số kể … Tôi nói hơi có máu mặt, tức là những người có của ăn của để, chứ không nói những người có dư chút ít ruộng đất. Ở nông thôn miền Bắc nước ta, ông biết đấy, đâu có nhiều địa chủ lớn. Gọi là địa chủ, chứ đó chỉ là nông dân khá giả, do chăm chỉ làm ăn hoặc khéo sắp xếp thu vén mà hơn người. Hơn cũng chẳng nhiều, bất quá vài ba mẫu là cùng, mà lại là mẫu ta. Ông Hiếu thở dài. - Có cần kể cho ông nghe chi tiết cuộc đấu không? Ông Hiếu đặt câu hỏi, rồi im lặng hồi lâu, như thể ông đang nhớ lại cảnh tượng hãi hùng mà ông không phải chỉ là người chứng kiến. Ông là người trong cuộc, người chịu đựng. - Đại khái là có một cuộc đấu kéo dài, một cuộc xử án chớp nhoáng. Tất cả diễn ra trong những tiếng hô khẩu hiệu không ngớt. Rồi cha tôi bị điệu ra trước bức tường xa nhất của trường học, nơi vẫn còn cái khẩu hiệu do chính tay tôi viết năm 1945: “Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Minh vạn tuế!” Cha tôi bị bắn ở đó. Trước khi bị bắn, cụ chằm chằm nhìn tôi, nước mắt đầm đìa. Có vẻ cha tôi muốn nói điều gì đó với tôi nhưng không thể nói được – trong miệng cụ là một búi giẻ bẩn thỉu, từ đó nhểu xuống đất những giọt dãi … - Cụ “đi” có nhanh không? - Không – ông lắc đầu – Lúc đấu thì hùng hổ lắm, nhưng đến lúc phải cầm súng bắn người thì hình như không ai muốn, hoặc người nào cũng không muốn mình là người bắn viên đạn giết chết một mạng người, thành thử những người du kích được phân công hành quyết đều bắn trượt trong loạt đạn đầu tiên. Những “ông đội” “bà đội” phải hò hét, quát tháo liên hồi, giật lấy súng chỉ cách cho họ bắn họ mới bắn được. Có vài viên trúng, máu loang trên ngực cha tôi, nhưng cụ vẫn chưa nhận được viên đạn kết liễu. Một “ông đội” mắt long sòng sọc chạy xổ đến bên cọc, rút súng lục, bắn thêm một phát vào thái dương cụ mới “đi”. Tôi nhắm mắt lại, không muốn hình dung cảnh tượng gớm ghiếc đó. 4. Chúng tôi ngồi bên nhau, im lặng rất lâu. - Về sau này, khi nhớ lại những phút hãi hùng đó tôi mới hiểu ra vì sao trước khi đưa những người gọi là địa chủ phản động ra đấu chính thức, người ta bắt nông dân phải đấu lưng trước đã … - Đấu lưng? - Vâng, đấu lưng. Tức là người bị đấu phải quỳ, nhưng không được quay mặt lại đám đông đấu mình, còn những khổ chủ, những người được “đội” bồi dưỡng để đấu thì xỉa xói vào lưng người bị đấu mà kể khổ, kể tội … Chẳng qua nếu những người nông dân hiền lành thật thà mà nhìn vào mặt người hôm qua còn là họ hàng, làng xóm, tối lửa tắt đèn có nhau thì họ không nỡ lòng nào bịa đặt ra những tội lỗi không có, không thốt nổi thành lời những điều vu oan giá họa bất nhân, bạc ác như đội dạy được. Con người không phải dễ dàng trở thành quỷ. Phải dạy dỗ, phải huấn luyện, ông ạ. Và không phải bao giờ người ta cũng thành công. Có nhiều người thà chết chứ không chịu trở thành quỷ. - Tôi tin có những người như thế. - Điều đáng buồn là một khi đã thành quỷ rồi thì khó trở lại làm người lắm. Tôi có chú em họ, hồi cải cách ruộng đất còn nhỏ đã đi theo đội học đòi đấu tố, lớn lên thì vào đảng, rồi làm quan, ăn bẩn, cho đến khi về hưu không bị sứt mẻ gì, gọi là hạ cánh an toàn. Giàu có lắm, nhưng bị người trong họ ngoài làng xa lánh. Cũng có người cực chẳng đã phải nhờ vả chú ấy việc này việc khác, nhưng trong thâm tâm họ đều khinh bỉ. Chú ấy phân trần với tôi: “Thời thế nó thế thì phải thế, ai cũng phải làm phải ăn, em cũng không thể khác, người ta không hiểu em, chứ em có lòng dạ nào làm hại bà con.” “Nhưng họ khinh chú là phải chứ?” tôi hỏi. “Thì họ có cách nào khác, yêu em à?”, chú ấy bùi ngùi. - Sau vụ ấy ông trốn vào thành? Ông Hiếu tránh nhìn tôi. - Vâng. Ông nói khẽ. Tôi còn biết đi đâu? - Tôi hiểu. Lúc ấy trong lòng tôi đầy mâu thuẫn thì đúng hơn. Tôi không muốn rời bỏ hàng ngũ kháng chiến. Nhưng tôi cũng không thể ở lại. Quên, chưa nói để ông biết, ông Thạc nhìn xa đã cấp cho tôi đủ giấy tờ cần thiết để tôi không bị lôi vào cuộc đấu tố cùng với gia đình. Đội cải cách đã tha cho tôi trở lại đơn vị. - Nhiều người ở trong hoàn cảnh ông đã không “dinh tê”. Vâng, có người rồi còn trở thành cán bộ cấp cao nữa, tôi biết. Họ phải trả giá đắt cho sự thăng tiến ấy, bằng sự dối trá thường xuyên, bằng sự hàng phục tuyệt đối. Tôi không có đủ dũng khí, và lòng kiên trì nữa, để làm được như họ. Khi đã ở trong thành rồi, có nhiều lúc tôi lại muốn trở ra vùng kháng chiến. Có một sự giằng xé như thế đấy. Hồ Bonensee. Ảnh: Dumitru Brinzan Sương xuống làm tôi rùng mình. Cả một vùng hồ Bodenzee lặng lẽ như không lúc nào nó lặng lẽ như thế. - Ông có gia nhập quân đội Pháp không? Tôi muốn nói ông rồi có bị bắt lính và phải chiến đấu ở phía bên kia không? - Không. Tôi trốn lính. Tôi không muốn cầm súng nữa, dù ở bên này hay ở bên kia. Nhưng cũng phải thú thực với ông: sau cái chết của cha tôi, cũng có lúc tôi có ý định đi với quân Pháp để đánh lại những kẻ đã mang lại thảm họa cho gia đình tôi. Tôi cũng căm thù lắm chứ. Nhưng tôi đã không làm điều đó nhờ một lời khuyên. Chả là lúc mới về thành tôi ở nhờ trong một ngôi chùa. Khi biết ý định của tôi, sư cụ bảo: “Con tính sai rồi. Đi với cái Ác này để diệt cái Ác kia không được đâu. Chỉ có cái Thiện mới diệt được cái Ác thôi, con ạ.” Tôi nghe lời sư cụ, nhưng tôi không tìm thấy cái Thiện ở đâu cả. - Tìm ra cái Thiện đích thực thật là khó. - Vì không tìm ra nó, tôi chỉ biết làm một người dân bình thường. Nhưng đến năm 75 thì tôi hiểu – cái Ác đang thắng, nếu không làm được gì để chống nó thì chỉ còn cách tránh xa nó, tránh thật xa, xa chừng nào hay chừng ấy, có gọi là chạy trốn nó thì cũng đúng. Tuy chẳng có gì vinh quang trong sự chạy trốn ấy … Chúng tôi đi ngủ. Đêm đã quá khuya. Hôm sau, trong bữa điểm tâm, ông Hiếu đột ngột ra cho tôi một câu hỏi lạ tai: - Ông có nghĩ rằng cải cách ruộng đất là một sai lầm như người ta thường nói không? - Một sai lầm chứ. Đó là điều không thể chối cãi được. Chính đảng cộng sản vốn không bao giờ chịu nhận mình sai, cũng đã thừa nhận là thế. Người ta đã phải sửa sai ngay sau đó. - Ông tin người ta có sửa sai? Tôi có cảm giác ông Hiếu chỉ chờ tôi nói khẳng định để cười vào mũi tôi. Hẳn ông có cách nhìn khác đối với việc ấy. Tôi gật đầu. - Họ có sửa sai. Nhưng có sửa đến nơi đến chốn hay không lại là chuyện khác. Và còn phải sửa dài dài, bởi vì trang sử cải cách ruộng đất cho đến nay vẫn chưa khép lại được. Nghe nói mới đây thành phố Hà Nội vừa quyết định đền bù cho những gia đình có người bị giết trong cải cách ruộng đất. - Đền bù thế nào? - Một hay hai triệu đồng gì đó cho mỗi người bị chết oan. Ông Hiếu cười khe khẻ: - Tức là khoảng trên dưới một trăm đô la, theo tỷ hối hiện tại. - Khoảng ấy. Ông Hiếu trầm ngâm nhìn vào ly cà phê. - Tôi thì không nghĩ đó là một sai lầm. Nói cho đúng, bây giờ tôi mới nghĩ được như thế. Trước kia thì không. Trước kia tôi không nghĩ ra. Một sai lầm có tính toán trước rằng kết quả nó sẽ là như thế nào, không thể gọi là một sai lầm. Ông Hiếu thở dài. Người ta chỉ buộc lòng gọi nó là sai lầm khi mưu toan của họ bị bóc trần. - Cái gì làm cho ông nghĩ như thế? - Ông nhớ lại xem. Ông sẽ thấy điều này: ở bất cứ quốc gia nào, để tiến hành cải cách ruộng đất người ta phải điều tra tình hình ruộng đất trước đã. Nhưng ở miền Bắc trước cải cách ruộng đất, ông thấy không, đã không có một cuộc điều tra nào hết. Tôi giật mình. Ý nghĩ ấy chưa từng đến với tôi. - Ông có lý. Tôi thừa nhận. Tôi hồi ấy ở một trong những cơ quan trung ương. Tôi không được biết có một báo cáo nào về chuyện ấy. - Người ta tính những cái mà hồi ấy chúng ta không nghĩ tới. Người ta muốn thanh toán cho bằng hết những người đã ủng hộ cuộc kháng chiến trong thời kỳ cách mạng còn trứng nước hiện đang giữ những chức vụ trong chính quyền kháng chiến để thay vào đó những người hoàn toàn mới. Những người mới này sẽ hoàn toàn là người của họ. Để làm gì? Để những kẻ được chia quả thực cướp được kia, những kẻ bỗng dưng có được địa vị ăn trên ngồi trốc kia sẽ hết mình với họ … Chỉ có chúng mới là những kẻ rất mực trung thành với họ. - Tôi muốn hỏi thêm ông một câu. - Ông hỏi đi. - Tôi nghĩ ông Thạc muốn ông được gặp mặt cụ nhà lần cuối là một ý nghĩ tốt. Ông không nghĩ thế? Ông Hiếu cười khe khẽ. Tiếng cười gằn nghe đầy cay đắng. - Một ý nghĩ tốt chứ. Tôi thừa nhận. Có khi nó còn tốt hơn cả những gì tôi nghĩ nữa. Ông ấy đã giúp tôi tỉnh ngộ. Tôi phải chịu ơn ông ấy. Nhưng tôi không cảm được cái ơn ấy trong lòng tôi. Có lẽ tôi tham lam chăng, khi tôi cho rằng trong những ngày ấy tôi cần một cái gì hơn thế. Một cái gì đó chứng tỏ ông ấy đứng về phía tôi, kẻ chịu đựng một bi kịch không đáng có. Một cái gì đó chứng tỏ ông ấy không đứng về phía những tên đao phủ. Cái gì đó ấy sẽ an ủi tôi nhiều hơn, sẽ cho tôi thêm một chút niềm tin đã mất vào con người … 5. Ít lâu sau cuộc gặp gỡ với ông Hiếu, tôi lại gặp ông Thạc. Ông vừa về Việt Nam tham dự cuộc họp mặt truyền thống của quân khu. Ông vui hẳn lên, khác với lần chúng tôi gặp nhau ở Stutgart. Ông kể chuyện những đổi thay ở đất nước, chuyện Hà Nội khác trước đến không nhận ra, chuyện ông vừa được nhận thêm một huân chương vì những công trạng trong quá khứ … - Ông đã gặp “Hiếu Nhà Băng” rồi hả? Hắn nói sao? Tôi lúng túng: - Ông ấy vẫn nhớ ông. Nhưng ông ấy không muốn gặp lại … Vì cuộc gặp lại ấy sẽ làm ông ấy nhớ đến những ngày ông ấy không muốn nhớ đến nữa. - Cái thằng … Bây giờ mà không biết quên đi quá khứ, hướng tới tương lai là ngu, là xuẩn ngốc. Nó y như mấy thằng đang đòi dân chủ ấy, trong tụi nó có cả những thằng cánh ta ngày trước, tức là đã từng trong quân ngũ, chúng nó mắt nhắm tịt, ương như cua, không biết rằng nước ta bây giờ dân chủ lắm rồi, hơn hẳn ngày xưa rồi, ngày xưa không có nhiều dân chủ là do hoàn cảnh, là chuyện bất khả kháng, chứ bây giờ khác, bây giờ đảng ta vững mạnh, có lực lượng quân đội, công an hùng hậu, thì cho hay chưa cho, cho nhiều hay cho ít, là cái quyền của đảng, đảng không keo xỉn trong chuyện ấy, vấn đề là phải có tính toán; cho cái gì trước cho cái gì sau, cho bao nhiêu, cho vào lúc nào … Tôi nhìn ông. Ông nói say sưa. Ông bốc. Trong ông ấn tượng của chuyến đi đầy tràn. - Ông Hiếu gửi lời thăm ông. Tôi nói để mà nói. - Thế hả? Nó chỉ gửi lời thăm thôi? Không nói thêm gì nữa? - Không. Ông Thạc sa sầm mặt. - Cái thằng vô ơn đến thế là cùng. Để lúc nào tôi kể ông nghe đầu đuôi chuyện tôi đã làm gì cho hắn … Bây giờ chúng mình kiếm cái gì chén đã. Chắc ông đi đường cũng đói bụng rồi. Tôi vội vã chìa tay ra: - Xin lỗi, hôm nay tôi mắc một cái hẹn. Để bữa khác vậy. Trong lòng bàn tay tôi là một vật mềm, nhũn nhẽo. - Ờ, ờ … Tiếc quá! Có bao chuyện muốn kể ông nghe. - Tiếc quá! - Nói tóm lại, thằng Hiếu là một thằng vô ơn, ông nhớ đấy, tôi nói với ông rồi đấy. Ông Thạc nói theo, khi tôi đã ra đến cửa.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:19:26 GMT 9
Miền Thơ ẤuPosted on July 6, 2014 Vũ Thư Hiên Nếu không có Hà Mậu Nhai, cuốn sách này không thể ra đời. Nếu không có Tô Hoài, nó không thể được giải thưởng văn chương. Cả hai người đỡ đầu cho nó nay đã không còn. Nhưng kỷ niệm về họ không hề phai nhoà trong tôi. Miền Thơ Ấu – NXB Văn Nghệ TPHCM 1988 được giải thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988. Lời nói đầu cho Miền Thơ Ấu Tôi sung sướng được viết lời tựa cho ấn bản Miền Thơ Ấu tại hải ngoại. Đây là niềm vui bất ngờ cho tôi. Khi tôi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà hôm nay bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Lại càng không thể hình dung được rồi đây nó sẽ tới tay những người con của nước Việt lầm than giờ đây lưu lạc bốn phương trời. Đối với tôi, cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Tại Hỏa Lò Hà Nội, một viên chấp pháp đã nói với tôi một câu thế này: “Anh bảo anh không sợ chết. Thế thì tôi phải nói để anh biết rằng có những cái còn đáng sợ hơn cái chết nhiều. Ở đây lâu rồi anh khắc biết”. Câu này tôi nhớ mãi. Càng ngẫm càng thấy anh ta có lý. Cái đáng sợ hơn cái chết mà anh ta muốn nói là sự ở tù vì lý do chính trị. Anh cứ việc nằm xà lim dài dài, không bao giờ biết được ngày về. Nhà cầm quyền Việt Nam, cũng như nhà cầm quyền ở bất cứ quốc gia cộng sản nào khác, rất khoái áp dụng cái chết từ từ cho các đối thủ chính trị có thật và không có thật. V. Lênin, một trong ba ông tổ cộng sản, từng tuyên bố không một chút đắn đo rằng chuyên chính vô sản là thể chế không cần tới pháp luật. Trong thể chế này mỗi công dân đều bình đẳng trong quyền được là một người tù dự khuyết. Sinh mạng anh ta nằm gọn trong tay đảng cầm quyền, hoặc nhóm cộng sản cầm quyền. Cho tới nay, chưa có một con số thống kê nào đáng tin cậy về số người bị chết mòn mỏi trong nhà tù tại các quốc gia được gọi là xã hội chủ nghĩa. Xà lim có nhiều loại, nhiều kiểu, như nhiều người Việt Nam được biết, gián tiếp hoặc trực tiếp. Tựu trung, chúng giống nhau ở chỗ xà lim nào cũng là một căn phòng hẹp, nếu ta có thể gọi cái chuồng người này là căn phòng, với rất ít ánh sáng và rất nhiều hôi thối. Thêm một cái cùm sắt ở cuối phản nằm – biểu tượng khắc nghiệt của quyền uy. Tôi ở qua nhiều xà lim, tính ra gần bốn năm rưỡi liên tục. Marx cho rằng ở xà lim 5 năm thì con người sẽ trở thành mất trí. Những ngày đầu ở xà lim là những ngày tồi tệ nhất – từ khoảng không rộng rãi bên ngoài, đùng một cái, anh phải làm quen với sự sống chuồng cũi, với mấy bước cuồng cẳng trong mớ bùng nhùng những ý nghĩ lộn xộn về cuộc sống bị bỏ lại ngoài cửa nhà tù. Và bắt đầu một nỗi nhớ bâng khuâng về quá khứ, cho dù quá khứ mới là ngày hôm qua… Mùa đông năm 1967 là một một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà ngục. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim bỗng dưng gây nên nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt, thả hồn về quá khứ, tự hứa với mình rằng thể nào cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Người ta cần làm cho người tù ngu đi tối đa. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt “tiếp tế”. Thế thì còn nói chi tới viết sách. Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không ngờ tới. Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Chúng tôi, những người một thời là người của Đảng (viết hoa), được Đảng đưa vào đây để giáo dục (!) trong một vụ án được coi là để trong nội bộ Đảng chứ không đưa ra trước pháp luật (sic) thì cứ nằm chết đấy cho tới ngày được Đảng “giải quyết”. Không một ai có thể biết được bao giờ cái ngày ấy sẽ tới, và Đảng sẽ “giải quyết” vụ án của chúng tôi bằng cách nào. May cho tôi, trong một lần “tiếp tế” vợ tôi mang cho tôi một cây bút bi hai màu. Có lẽ vợ tôi tặng tôi món quà này theo thói quen, tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút, chứ người trong gia đình tôi không thể không biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy. Tôi tiếc rẻ phải kín đáo phá nát cây bút tuyệt đẹp để mang lọt được vào xà lim hai cái ruột bút nhét giữa hai đường chỉ áo bông. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ “tiếp tế” (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu “bản thảo” lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì bí mật tuồn ra cho mẹ tôi, vợ tôi. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại cũng gây ra mối lo. Mà không phải gặp có kỳ có hạn đâu, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp, không cho thì cứ chờ. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì – chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc. Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng do bình tĩnh đối phó, hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi – Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa – hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày trở về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ngu ngốc. Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu – tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn. Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người làng tôi sẽ nhận ra người quen của họ trong khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm hóa học, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống của tôi hơn. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó kỹ thuật sản xuất các vật phẩm liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao ? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in ? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế. Tô Hoài (1920-2014). Nguồn: OntheNet Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Nhân văn-Giai phẩm, một Xét lại Hiện đại, chiếm hai giải thưởng trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố “đổi mới” và “cởi trói”. Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai đã bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc nhà xuất bản cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc nó được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình “Đọc truyện đêm khuya”, nhà xuất bản Kim Đồng ỏ Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần… So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản này của Nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster thì không thiếu giấy, nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã được tái bản tới lần này là lần thứ tư. Nó đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một chỗ khác. Miền Thơ Ấu, câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: “Hãy như con trẻ!” Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nghe lời Chúa, biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, nơi miền đất tuổi thơ của mỗi chúng ta. Chữ ký của tác giả Miền Thơ Ấu năm 1990. Nguồn: OntheNet Nguồn: Lời Tựa Miền Thơ Ấu. Vũ Thư Hiên. Facebook. 6/7/2014.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 23, 2015 4:42:50 GMT 9
Xuân, Hạ, Thu, Đông … rồi Xuân. Tùy bút Toại Khanh (Chân dung Nhà thơ Toại Khanh – Thượng Toạ Thích Giác Nguyên) Toại Khanh là bút hiệu của Sư Giác Nguyên thuộc Theravāda, là một vị “thượng toạ”. Ông là nhà văn, nhà thơ, dịch giả của nhiều bộ sách quan trọng. Giỏi Anh, Pāḷi, Hán, Thái, nghiên cứu thêm tiếng Nhật, Sanskrit, Tạng… Hiện giờ muốn đi vào thế giới tư tưởng của một số triết gia Đức nên ông đã sang Đức, đang học đại học ngôn ngữ ở đây. Gia đình ông có 7 anh em trai, đều là nhà sư, đều có tài và có danh cả. Riêng ông sống đời ta-bà vô trú, chiêm nghiệm, học hỏi liên tục; và là giỏi nhất trong số 7 anh em tu sĩ. Chủ trương trang nhà điện toán toàn cầu: www.luylau.comCó bài đăng trên báo chí và website Phật Giáo Việt Nam như Phương Trời Cao Rộng, Quảng Đức, Thư Viện Hoa Sen, v.v… Tác phẩm đã xuất bản: – A Tỳ Đàm Trong Truyền Thống Hữu Bộ – Jintaro Takakusu, Giác Nguyên dịch Việt – Giáo Tài A Tỳ Đàm – Hòa Thượng Saddhammajotika, Giác Nguyên dịch Việt – Văn Học A Tỳ Đàm Ở Miến Điện – Shwe Zan Aung, B.A., Giác Nguyên dịch Việt – Họ Đã Nghĩ Như Thế. Toại Khanh Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền… Cuốn phim của Hàn Quốc, cái tựa thậm thượt và nghe phát nản: Spring, Summer, Fall, Winter… and Spring. Và đúng như cái tựa, chuyện đời của các nhân vật trong phim cứ từng bước phù trầm đổi thay qua từng dấu mốc thời gian hệt như bốn mùa trong năm. Cả cuốn phim cơ hồ chỉ nói đến hai người, mà nổi bật có lẽ chính là nó! Nó hồn nhiên lớn khôn như một hòn cuội, một cánh bướm, một con nhái bén bên hồ. Sư phụ là tất cả đối với nó, và chỗ ở của hai thầy trò có lẽ thơ mộng đáng vào bậc nhất thế giới: Một am gỗ xinh xắn và cổ kính nằm giữa hồ nước mênh mông, bốn bề là cây rừng và đá núi . Nó nghịch ngợm đáo để, nhưng cũng nhiều ngộ tánh. Có lẽ đó là lý do để sư phụ xem nó như chút bận lòng của ông giữa cuộc phù sinh nhất thiết giai không này. Nó lầm lỗi, ông phạt nó, dạy nó. Nó khóc một, ông đau mười, nhưng ông vui vì nó hiểu chuyện nhanh lắm và cũng giàu lòng nhân. Hai cái đó cộng lại cũng đủ biến nó thành ông thầy tu rồi còn gì. Dòng đời nhanh và gọn như từng mùa mưa nắng trong cõi nhân gian. Thoắt cái, cậu bé kháu khỉnh ngày nào bây giờ đã ra một chàng trai trẻ vạm vỡ, khôi ngô, dù vẫn tiếp tục hồn nhiên tắm gội trong suối nguồn đạo tình thâm hậu của người sư phụ mà mái đầu giờ đã pha sương. Một chuyện nhỏ nhưng lại là một biến cố lớn đã xảy đến với chốn thanh tu tịch mịch này vào một ngày có khách đàn việt ghé chân. Họ là hai người phụ nữ, một khỏe một bệnh. Sau cuộc thương lượng đơn giản, cô gái mắc trọng bệnh kia được gửi lại chùa để uống thuốc núi. Cô ở lại một mình và sau dăm ngày lạ lẫm với nếp sống tẻ nhạt lặng lẽ ở đây, cô đã tìm thấy một niềm vui mới. Vị sư già xem cô như một đứa con, và chàng thanh niên vô tư lự kia đã đem cái hồn hậu của núi rừng mà đối xử với cô như một cô em gái. Thế rồi tiếp nối theo đó là những ngày vui bất tận của hai người. Con thuyền nhỏ của chàng đã đưa nàng đến từng bờ cây, hốc đá, nơi đã một thời là thế giới tuổi thơ của chàng, để cùng nghe chim hót, nước chảy. Chàng lần đầu gặp mặt và sống gần một người không phải sư phụ, và đó lại là một thiếu nữ có nhiều cá tánh. Chàng đã chết ngất trong ánh mắt, nụ cười và cả giọng nói của người bạn mới. Đổi lại, cơn bệnh trầm kha của nàng đã bay biến đâu mất, và thay vào đó là một sức sống mãnh liệt với một thứ ân tình khó gọi tên, đã kín đáo nẩy mầm với ngay người bạn khác phái vẫn gặp gỡ, rong chơi với nhau mỗi ngày. Vào một chiều nắng quái bên hồ, giữa khung cảnh trời nước bao la gợi cảm, họ đã cuồng nhiệt yêu nhau ngấu nghiến, quên mất người sư phụ bên kia hồ đang sửa soạn buổi kinh chiều. Chuyện vụng trộm giữa hai người dĩ nhiên không thể giữ kín mãi. Hôm đó, sau một cuộc vui cháy bỏng ngay trên con thuyền nhỏ giữa hồ, hai cô cậu đã hồn nhiên ôm nhau ngủ say, bỏ mặc sóng nước vô tình muốn đưa đẩy về đâu cũng được. Chẳng biết cơn gió quái ác nào đã xô con thuyền tự trôi về phía am. Và người sư phụ đã nhìn thấy cảnh tượng mà ông tuyệt không ngờ được. Ông đã gọi hai người đến để hỏi thăm bệnh trạng của nàng, và sáng hôm sau đã buộc nàng rời am về phố. Nàng đã ra đi trong cái dõi nhìn đau đớn của chàng. Đạo tâm của gã tiểu tăng bây giờ chỉ còn là một bọt nước sẵn sàng vỡ tan. Hắn đã từ một phút rong chơi bến tục mà quên mất nẻo về bờ giác. Trách gì người Trung Hoa xưa giờ vẫn truyền khẩu câu nói tiểu Hòa thượng miệng niệm Phật mà lòng không có Phật. Phật vẫn ngồi đấy thiêng liêng trong ánh nến của ngôi cổ am, nhưng trong mắt gã tiểu tăng kia, giờ chỉ còn một bóng hồng áo lục đã khuất nẻo từ lâu, mà đến tận buổi khuya này, chừng như vẫn còn lẫn khuất đâu đây với một làn hương nhẹ nhàng mộng mị. Rạng sáng hôm sau, lặng lẽ rời am với bức tượng Phật cổ trên tay như chút vốn liếng trên đường đời trước mặt, gã tiểu tăng đã bỏ am, bỏ thầy lên đường không một lời chào. Gã đi theo tiếng gọi của Vô minh. Nhưng tất cả những tình tiết nhiều kịch tính từ đầu bài đến đây, thực ra, chỉ là cái nền cho một nội dung nằm ngoài mọi dự tưởng. Năm tháng lại trôi đi như từng mùa xuân thu. Người sư phụ ngày nào giờ đã là một lão tăng quắc thước. Một chân nhân thâm hậu đạo lực và một cụ già hom hem hẩm hiu – cùng lúc tồn tại trong một hình hài còm cõi già yếu đó. Ông vẫn sáng sáng chèo thuyền vào xóm hóa duyên, lặng lẽ mong manh trên con thuyền nhỏ giữa hồ như một cái bóng câm lặng. Sáng hôm đó, mở gói giấy báo đựng bánh khất thực để chuẩn bị độ trai, ông bất chợt đọc được lệnh truy nã của nhà đương cuộc đối với một hung thủ sát nhân. Tin đăng kèm ảnh. Ông lặng lẽ đưa mắt nhìn ra mặt hồ mênh mông, như để cố nhớ lại khuôn mặt bầu bĩnh của cậu đệ tử bé xíu năm nào. Ông thấy hết, biết hết, nhưng không sao đổi khác chuyện đời. Rồi đúng như nhà sư già đã định liệu, hắn đã trở về. Gã đệ tử vô hạnh kia đã trở về ngôi cổ am để gặp ông và mang trả lại thầy bức tượng Phật ngày nào. Ông hỏi chuyện, hắn khóc như đứa trẻ và trả lời không giấu diếm. Bỏ chùa ra đi ngày ấy, hắn đã tìm gặp được nàng và lấy nhau hạnh phúc. Nhưng cái hồn hậu, đơn bạc của núi rừng đã không cho hắn biết được cái mặt trái nghiệt ngã của chợ đời, khi hắn thật ra không có được những gì nàng muốn. Tình phai rồi tình phụ, nàng bỏ hắn để theo một người khác. Yêu cho nhiều để hận cũng lắm, hắn giết nàng rồi tìm về với sư phụ như một phản ứng tự nhiên của đứa bé nhớ mẹ. Bây giờ hắn đã trở về, đang ngồi đó đau đớn trước mặt ông. Chiều nay hắn khóc vì đã giết nàng, hận nàng, như ngày xưa hắn đã từng khóc vì yêu nàng, xa nàng. Nhà sư già đã lặng lẽ và kiên nhẫn xoa dịu những cơn bồng bột ngu khờ của hắn như vẫn xem hắn bé bỏng như thuở nào. Ông biết tất cả những gì phải đến nhưng không thể sửa được chuyện đời. Ông chỉ có tấm lòng và tận lực, thế thôi. Ông đã nuôi hắn từ bé, nhìn hắn lớn khôn và vụng dại. Trước sau, với hắn, ông như một người mẹ già góc núi: Cưu mang, đỡ nâng, tha thứ và chờ đợi. Bao năm qua ông chẳng phải vẫn đợi chờ ngày hắn trở về đó sao. Chỉ vì ông hiểu, ông biết, và ông có cõi lòng một bà mẹ. Như đã đọc được một tương lai nào đó, ông lặng lẽ pha mực rồi khẽ khàng chép lại từng chữ bài Bát-nhã Tâm Kinh ngay trên khuôn sân bằng gỗ của ngôi cổ am, và vẫn bằng thứ khẩu lệnh nghiêm khắc ngày nào, ông bắt hắn dùng chính con dao đã gây án kia để khắc lại từng chữ đại tự mà ông vừa phóng bút trên sân. Hắn khắc chưa xong chục chữ, người ta đến đọc lệnh bắt. Nhà sư già bình thản như không, ông nghiêm trang đề nghị họ hãy đợi hắn khắc xong bài Tâm Kinh, như lời ông bảo đảm, chỉ một đêm thôi. Thời gian chờ đợi đó của mọi người, có lẽ là một trong những giây khắc đẹp nhất trong phim. Đẹp và thật nhiều ý nghĩa. Sáng hôm sau hắn bị áp giải lên đường và bắt đầu những ngày tù tội. Thời gian trôi đi bao lâu không ai nói được, nhưng rồi gì cũng qua. Mùa đông năm kia, có một viễn khách phong trần ghé về cổ am. Khách bồi hồi bước qua mặt nước hồ giờ đã đóng băng, và trước sau cổ am vắng ngắt như tờ. Nhìn ra mặt hồ bát ngát, khách chết điếng khi nhìn thấy xác con thuyền xưa đang khuất trong băng giá với những vết lửa cháy nham nhở dở dang. Khách chắp tay cúi đầu như cố hình dung một chuyện cũ. Ngày đó, nhà sư già đã âm thầm hóa thân ngay trên con thuyền với một mồi lửa ngay sau lúc tiễn biệt đứa học trò trên sân. Vậy là phút cuối, hắn cũng đã trở về. Có điều là lần trở về muộn màng, hắn về cho chính hắn. Sư phụ đã không còn nữa. Hắn quyết định lớn khôn lần nữa trước vong linh của người sư phụ mà hắn không còn cơ hội gặp lại, dù đâu đó quanh quẩn trong ngôi cổ am lúc nào cũng có một con rắn lặng lẽ nhìn hắn như chứng minh, như chia sẻ và cùng vui buồn. Sư phụ đấy chăng? Hắn đã quay lại con đường mà ngày xưa hắn chưa từng bước đi, dù nó luôn thuộc về hắn. Hắn trần trụi phơi mình trong băng tuyết để tạc tượng, luyện công và sớm chiều hai buổi tụng niệm, như thể không còn kịp nữa. Hắn đi tìm mình, và cũng để gặp lại bóng hình của người sư phụ tình thâm tợ hải. Từng mẩu nến khuya, những tiếng mõ canh tàn hay trong chiều muộn đã từng phút giây đưa hắn trở về ngôi nhà ấu thơ với tất cả niềm nỗi thống hối, bùng vỡ. Và giai đoạn cuối cùng của cuộc trở về ấy đã đến lúc hoàn mãn. Trong một buổi kinh khuya hắn bỗng nghe tiếng người gọi cửa. Chút bụi trầm luân đã rớt xuống bên hiên cổ am để đưa hắn lại cuối đường. Người thiếu phụ với đứa bé mủm mỉm trên tay đã tìm đến chùa giữa một đêm tuyết lạnh. Không sao nhìn thấy khuôn mặt của nàng. Ở đó lúc nào cũng là một tấm lụa mỏng màu tím. Nàng là ai? Hắn tò mò muốn biết nhưng đành chịu. Lo cho mẹ con nàng một chỗ nằm tạm trong cổ am, một bên bàn Phật, hắn không biết phải làm gì hơn. Chỉ còn biết nhìn nàng và nghe nàng khóc. Giá còn sư phụ! Sáng hôm sau, nghe tiếng trẻ con khóc bên ngoài, hắn chạy vội ra sân chùa. Trên mặt nước hồ giờ đã thành băng ấy, đứa bé không mẹ đang từng bước bò về phía cổng, nơi hắn đã khoét băng làm một giếng nước dùng qua mùa đông. Hắn kéo cái xác người lên khỏi giếng. Người thiếu phụ đêm qua đã lọt chân xuống đây khi muốn bỏ con lại cổ am và một mình lẻn đi trong khuya. Đến bây giờ thì tấm lụa che mặt nàng đã có thể gỡ xuống. Hắn đã thấy gì, đó vẫn là một ẩn số của câu chuyện. Chỉ trong một tích tắc, câu chuyện ấu thơ của hắn từ mấy mươi năm trước bất ngờ sống dậy mãnh liệt với từng chi tiết nhỏ. Ngày đó thằng bé trong cổ am đã trốn thầy vào núi xuống hồ rong chơi. Như điềm báo của một định nghiệp, nó đặc biệt thích thú trò chơi cột đá vào bất cứ con gì bắt được để xem con vật phải vất vả ra sao mà sống còn với một gánh nặng quá sức mình. Sư phụ đã phạt thằng bé đeo một hòn đá nặng trên lưng để hiểu được nó đã làm gì trên chúng sinh khác. Ngày ấy, trong tâm tưởng một thằng bé, đó chỉ là một bài học về hạnh từ bi. Nó đã biết khóc khi không kịp cứu sống con rắn đã bị nó cột đá. Nó cứ tưởng suốt đời mình sẽ không bao giờ tái phạm trò chơi độc ác đó nữa. Nhưng ngày trưởng thành, biết yêu biết ghét, nó đã làm ngược lại. Hắn lạnh người khi thấy rõ mình đã cột đá vào không biết bao người. Hai người thân thương nhất trong cuộc đời hắn đã phải vì hắn mà oằn lưng với những hòn đá nặng chết người. Lẽ ra hắn chỉ nên để mọi người, kể cả chính hắn, cùng được thanh thản nhẹ nhàng mà đi. Nhưng tất cả đều ngược lại. Bây giờ sư phụ không còn nữa, hắn phải tự phạt mình, để thấm thía tận cùng cái gì là vướng vít, đè nặng. Thật khó lòng tìm thấy một hình ảnh nào trong đời có thể bi tráng hơn thế. Hắn một mình kéo lê một hòn đá lớn, tìm lên đỉnh núi giá lạnh không người. Trên tay ôm ghì bức tượng Quán Âm. Một hình ảnh khốc liệt. Tôi muốn gọi hắn lúc này là một hành giả, một hành giả vác tượng lên ngàn. Một hành giả đang ngược nguồn để hành hương giữa mùa đông cuộc đời, mà cũng là mùa đông tâm linh. Nhạc phim lúc này cũng bất chợt trầm hùng vang vọng một thứ âm thanh xa vời, mộng mị. Bài Bát-nhã Tâm Kinh trong giọng đọc tiếng Hàn của người con gái nào đó như đi về từ một cõi chiêm bao với từng câu chữ Xá-lợi Tử! Sắc Bất Dị Không, Không Bất Dị Sắc… Lần đầu tiên tôi cảm nghe dòng kinh Bắc truyền đó thơ mộng và quyến rũ đến vậy. Theo từng bước lê chân nặng nhọc của hắn qua những ngõ mòn sỏi đá, lời kinh kia như nương gửi gió rừng mà lan tỏa, phủ đầy một cõi huyền âm. Tiếng kinh thấm đẫm lòng người, len vào từng khe đá, thớ gỗ. Lời kinh làm rung chuyển mọi cõi miền không gian, đánh thức mọi mê lầm ngái ngủ, cho tất cả cùng bật dậy một sức sống tỉnh thức. Biển khổ mênh mông, mà quay đầu lại là bờ. Và bến bờ ấy đã hiện ra trong mắt hắn. Hắn cung kính an vị bức tượng lên mỏm đá trang trọng nhất trên đỉnh núi và cúi đầu chiêu niệm. Hắn đã bỏ lại tất cả gánh nặng trên từng dặm đường đến đây. Hắn đã diễn dịch huyền nghĩa bài Tâm Kinh ra nhiều tâm ấn cụ thể giữa đời: Tha thứ, can đảm, bao dung, thấu hiểu, cưu mang và buông bỏ. Hắn muốn vác thay cho muôn loài tất cả những gánh nặng. Hắn sám hối và đáp đền cho vạn hữu đã cưu mang hắn, trong đó sư phụ và người đàn bà đã đi qua đời hắn đang là hai giọt nước cùng hòa tan vào đại dương. Và lần đầu tiên trong đời mình, hắn bất chợt thấu hiểu tận cùng câu minh chú ở cuối bài Tâm Kinh đó: Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāha. Lên đường, lên đường đi, hãy qua sông để tìm về bờ bến khác! Hắn về lại cổ am, và một mùa xuân mới lại bắt đầu trên chính cậu bé mồ côi vừa nhập môn bất đắc dĩ kia. Nó chính là hắn mấy mươi năm trước. Một chu kỳ mới, một tuần hoàn mới. Mọi thứ lại tái hiện trong bối cảnh hồ nước tan băng, hoa cỏ sung mãn, hồ rộng núi xanh và mọi thứ lại bắt đầu. Ngoài kia nắng đã lên giữa một mùa xuân có rừng phong và núi đá xanh rêu. Trong cổ am, con rắn già chậm rãi bò ngang bàn Phật, lặng lẽ, thành kính. Toại Khanh nguoitinhhuvo.wordpress.com/2015/06/25/xuan-ha-thu-dong-roi-xuan-toai-khanh/
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 24, 2015 16:20:18 GMT 9
Ở cuối hai con đường Tác giả: Phạm Tín An Ninh (Vương quốc Na Uy)
KD: Bạn bè iu quí gửi cho câu chuyện này. Lần theo đường link, mới biết của một Blog. Một câu chuyện buồn nhưng thấm đẫm chất nhân văn. Chiến tranh, số phận con người, với những hoàn cảnh, những tình huống đan xen oái oăm. Chỉ có tính người, tình người ở lại. Cho dù khi đó họ ở hai con đường
Xin đăng lên Blog để bạn đọc chia sẻ
——————
Những năm “cải tạo” ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi “biên chế” xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ “đồng chí cán bộ quản giáo” đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: – Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi “báo cáo” môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản “lý lịch trích ngang”.
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ “tội” dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm – bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm – bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
– Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
– Thưa cán bộ, có tôi ạ.
– Anh ở trung đoàn mấy.
– Trung Đoàn 44.
– Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
– Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
– Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
– Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
– Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
– Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
– Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
– Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
– Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luột sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc dấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ “giao ban”, quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
– Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
– Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
– Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? – một anh tù hỏi.
– Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị “hạ tầng công tác” ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: “ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn”. Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ – 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
– Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
– Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
– Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
– Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
– Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
– Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
– Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
– Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
– Ba cháu bây giờ làm gì?
– Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.
><><><><><><><><
“Các Anh thân quí,
Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: “Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại”. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.
Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian…”
* * * * *
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 14, 2017 1:22:49 GMT 9
Con chim Hán học cuối mùa ở ngôi trường thành phốNguyễn Văn Sâm Thích thú khi kỷ niệm tưởng chừng đã bị phủ kín dưới tầng tầng lớp lớp thời gian bỗng được phép màu khơi dậy cuồn cuộn tuôn về không thể kềm chế, lúc tôi nhìn thấy lại hai câu đối ngày nào trước cổng trường. (1) Cám ơn bạn bè đã giữ được trong trí tinh chất tư tưởng của vị thầy tôi kính mến. Cám ơn anh em cùng chung mái trường thuộc những thế hệ khác nhau, giờ lạc lõng quê người, cùng nhau hội lại, đã giúp tôi có dịp đào xới những gì đã vùi chôn trong ký ức. Tôi đọc câu đối bằng trí nhớ “Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt, Âu Tây khoa học yếu minh tâm” khi những cảm tường về nơi mình tòng học đang được tiếp nối phát biểu thật cảm động trên sân khấu! Anh ngồi gần ngời sáng ánh mắt, rung động vì thời trai trẻ hiện về. Em nào đó lẩm nhẩm cố ghi nội dung ẩn tàng trong các chữ thật bình thường trước mặt. Hình ảnh vị giáo sư vỡ lòng tôi chữ Hán hơn ba thập niên trước hiện rõ ràng trong trí. Vị thầy một niên khóa xa xưa người học trò một đời chịu ảnh hưởng. Vị thầy khuất núi từ lâu người trò như còn mơ hồ nghe đâu đây lời giáo huấn. Thầy tôi, Giáo Sư Ưng Thiều, vị giáo sư già, người thầy trễ tràng rớt rơi lại của giai đoạn Hán học cuối mùa, một thời nặng nợ trường ốc, khổ tâm với “điêu trùng,” “trường quy” năm đó lạc lõng giữa đám học trò nhìn chuyện xưa như những điều kỳ dị, ngô nghê, cổ hủ. Ánh mắt thầy không vừa ý khi có đứa đùa kêu thầy bằng ông nội, cử chỉ ngừng giảng của thầy biểu lộ sự thất vọng khi thấy cả lớp có độ hơn mười đứa thì hầu như đủ chục“cúi đầu bái thiên địa” khi thầy giảng điều hay ho trong Ngọc tỉnh liên phú, trong Chí linh sơn phú hay ngâm nga xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã… Có thể trong những đứa ngủ gục nhiều nhứt có tôi. Có thể trong những đứa phá thầy nổi tiếng cũng có tôi, không nhớ rõ. Chỉ biết giờ nầy nhiều khi buồn tình đọc lại cổ văn bí lối, tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ… Nhưng làm sao kéo được thời gian trở về? Vị thầy cũ, con yến muộn màng của Mùa Xuân Hán Học đã không còn nữa. Mùa Xuân đó cũng đã trôi qua theo dòng liên tục của thời gian miên viễn, lấp chìm trong sự tiến hóa tất nhiên của đời, của đất nước. Và chính học trò mình cũng đã quên trong bao nhiêu năm tháng chạy theo ảo ảnh phù du mà gọi bằng thực tế áo cơm. Cách học trò năm mươi tuổi, thầy tôi da mặt nhăn nheo theo sự tàn phá của thời gian, luôn luôn xúng xính trong bộ quần áo rộng thùng thình, đôi giầy da màu nâu to lớn, đôn đốc từng đứa sổ phải ngay, ngang phải thẳng, đá phải sắc. Thầy nhắc chừng đứa nầy viết trái cựa, đứa kia viết thiếu nét, nhận xét tập nào viết như gà bới, cua bò, tập nào dơ như nhai mà nhả. Thầy luôn luôn bận rộn, khuyên nhủ, canh chừng, khuyến khích, trái hẳn với những bức tranh thầy đồ dạy học với ông thầy già ngồi hút thuốc lào, cây roi mây cật to tướng cạnh bên, anh lớn dạy trò nhỏ, mạnh ai nấy ê a, học cách nào cũng được sự đóng góp của thầy có tính cách xúc tác hơn tác dụng. Nhiều lúc thầy tôi đứng cạnh một anh học trò giỏi giảng thêm về khí, về lực, về thần trong cách viết chữ Nho, chúng tôi cố vểnh tai nghe lén nhưng độ hiểu giới hạn mà lòng thích thật vô cùng ít ỏi… Chúng tôi ai nấy ham vui, chểnh mảng, cố tìm lý chứng biện minh cho sự lười biếng của mình. Rồi ngày tháng trôi qua, 214 bộ của chữ Hán như 214 vũ khí quay quần tấn kích chúng tôi, không một anh nào thuộc hết, không một anh nào nhớ rõ bộ nào trước bộ nào sau, không anh nào có thể xác định được một cách chắn chắn chữ nào thuộc về bộ nào nếu trước đó chưa từng gặp. Người xưa học một biết mười, thơ phú, văn từ mây trôi nước chảy, chúng tôi học trăm điều chưa chắc nhớ một, lè què mấy chữ, xọ nọ qua kia, tác thành tộ, ngộ thành quá, mã thành yên, lộn tùng phèo, rối nhùi mớ bòng bong. Thầy tôi, thầy Ưng Thiều, không có trách nhiệm gì hết trong sự dốt nát đó của học trò. Lỗi chúng tôi, chút nắng quái chiều hôm Hán học không soi đủ hang tối dốt nát, u mê trễ lười. Lời giảng thiết tha như nhỏ máu từ con tim, có thể tác dụng như “mổ óc nhét vào” của thầy, hiệu quả với ai chứ không đủ sức rửa được sự u trệ của những đầu óc non nớt ham vui. Có thể chúng tôi lúc đó còn thơ dại, những con chim chưa đủ lông cánh, chưa đứng vững trên đôi chân mình, trí tuệ nào để hiểu hết lời thầy nói. Có thể hình thù chữ Hán hiện ra ngay từ phút đầu đã là con ngáo ộp biến hóa khiến ai cũng ngán ngẩm bút lông và sợ hãi trước những nét đá, phết, ngang xổ xa lạ. Trường hợp tôi là một điển hình. Ðậu vào lớp Ðệ Thất từ một lớp Nhứt của trường danh tiếng ở Sài Gòn, ngôi trường mang tên người đồng thời với Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, và cũng nổi tiếng nhờ viết lách như ông: Thế Tải, Trương Minh Ký, tôi cũng là một đứa nhỏ ham chơi chưa có ý thức được sự cần thiết phải học huống chi sự quan trọng của chữ Hán! Ghi học Hán văn vì ở nhà lúc đó không biết do ai mua, lang thang mấy cuốn Minh Tâm Bảo Giám, mấy cuốn kinh, vài cuốn Tứ Thư do học giả Ðoàn Trung Còn dịch, có in chữ Hán kèm theo, buồn tình tôi đọc tới đọc lui đã thuộc được một số mặt chữ. Bước vào thực tế tôi mới thấy biết vài ba chữ học lóm không đầy lá mít của mình là đương đầu không biết người biết ta với con-ngáo-ộp-biến-hóa-thiên-hình vạn-trạng-ba-đầu-sáu-tay-mười-hai-con-mắt là chữ Hán. Sau vài tháng còng lưng mỏi cổ, mỏi tay, tôi chán chi hồ, giả, dã. Tôi tự biện hộ rằng biết nghĩa, biết chuyện xưa tích cũ là đủ, biết mặt chữ Hán cũng vô ích thôi và bắt đầu dòm qua các bạn cùng lứa tay cặp cuốn Anglais visant hay Anglais sans peine thầm nghĩ ráng cho tới Hè, rồi năm tới từ giã bút lông, chia tay thứ chữ ngoằn ngoèo xa lạ đó. Lúc ấy bên ngoài những chiếc tàu Mỹ khổng lồ đang tuôn đổ hàng vạn đồng bào tôi từ xa xăm tới. Tôi lạ lùng với quần áo và tiếng nói của họ, nhưng tôi cũng bị choáng váng vì sự vĩ đại của con tàu nọ bên cạnh những chiếc tàu đi sông đi cận duyên như con voi đứng bên con kiến. Nghĩ đến sự văn minh, kỹ thuật, tôi chợt thấy chữ Hán là một cái gì đó lỗi thời, như người tiền sử đứng trước cai máy thâu thanh. Phải học tiếng Anh, tiếng Pháp! Ngày lại ngày, chiến cụ, súng ống, xe tăng, xe jeep được chở đến chạy rầm rầm, rung rinh thành phố, lay động căn gác nhỏ trong xóm nhỏ nghèo nàn cả gia đình tôi chui rúc, trong khi những giọng Anh ngữ rất sang, hứa hẹn những chân trời mới từ các lớp bên cạnh của mấy thầy Sang, Thọ, Khoa, Thái mỗi khi tôi có dịp đi ngang đều đánh rộn ràng tim tôi bằng một sự hấp dẫn khôn cưỡng. Thèm được học tiếng Anh nhưng thích nghe chuyện thánh hiền, hai đối lực dằn vặt trong tôi suốt mấy tháng trường, cuối cùng hình ảnh thầy Thiều đã thắng, hằng ngày tôi cùng một số ít ỏi bạn bè chăm chỉ còng lưng với môn Hán văn trong khi một phần lớn đã đổi sang Anh ngữ. Thầy giảng dạy về sự đa nghĩa của tiếng Hán Việt tùy theo cách viết: Chữ tân tùy lúc là khách, là mới, là bờ sông; chữ minh tùy lúc là sáng, là tối. Chữ Hán tùy theo bộ thủ mà thay đổi nghĩa, tiếng Việt phần lớn mượn từ tiếng Hán, nên nhờ đó cũng phong phú, đa nghĩa theo. Tôi làm quen với kho tàng ngôn ngữ Việt từ đó. Thầy tôi giọng trọ trẹ, chúng tôi những đứa nhỏ sanh trưởng ở Sài Gòn, rất lạ tai với cách phát âm bỏ dấu nặng trên khắp mọi chữ, nhiều khi ngẩn ngơ nhìn nhau lắc đầu. Mặc dầu trong gia đình tôi hết phân nửa sanh trưởng ở Huế, tôi lắm khi cũng lúng túng không hiểu rõ thầy nói gì. Một vài đứa bạn cùng lớp lần đầu gặp mô, tê, răng, rứa, càu nhàu sao trường không mướn một ông thầy Việt Nam, thầy Thiều người Huế nói khó nghe quá. Tôi lờ mờ thấy rằng thầy mình cũng là người Việt Nam nhưng vào lúc đó chưa đủ khả năng để đính chính điều sai lầm trầm trọng nầy. Sau nầy, một hai năm sau, khi lớn hơn đôi chút biết về cây một gốc Huế-Sài Gòn-Hà Nội quê hương ta thì thầy không còn dạy nữa. Thầy mất hay về hưu tôi không rõ vì còn mải mê với những điều khác, chọc thầy Tập Petit Xồi về chuyện chuyên môn đem quyển Le petit Chose của Alphonse Daudet ra giảng, kể cho nhau nghe để cùng cười hì hì về chuyện đã qua mặt được thầy Khiêm với những tờ đơn cáo lỗi vắng mặt đứa nầy viết giùm đứa kia, chuyện hùn tiền mướn ông xích lô già vô gãi đầu gãi tai xin phép vì “con mình” đã bị bịnh nghỉ hết mấy ngày, hoặc rủ những đứa chịu chơi không phải một lớp mà ba bốn lớp lân cận trốn học ngồi lềnh khênh đầy rạp hát bóng Nam Việt hay lang thang khắp nơi trong Sở Thú. Nghe lời bạn bè, tôi xin đi tiểu để qua mấy lớp lớn, đi thật chậm hay thập thò vểnh tai nghe tiếng được tiếng mất mấy ông Tây bụng phệ cắt nghĩa bài để rồi trong bụng mình ước ao phải chi mình sanh ra trước vài năm, nói tiếng Tây hay như mấy ảnh, ra đường không sợ ông Tây, bà đầm… Thầy Thiều thể hiện một sự dung hợp kỳ diệu giữa Ðông-Tây. Thời đó rất nhiều giáo sư vào lớp, ngồi yên vị trên ghế, mắt nghiêm khắc đảo qua đảo lại xem học trò có đứng nghiêm hay không. Sau khi thấy cả lớp im phăng phắc rồi thầy mới ra lịnh ngồi xuống. Chưa hết, tất cả khoanh tay trên bàn, thầy vừa ý mới cho mở tập ra. Thầy Thiều không vậy, chờ học sinh ngồi xuống là thầy viết bài trên bảng và bắt đầu giảng. Thầy nói đến sự kính thầy học nhưng không khúm núm, trọng thầy nhưng không sợ để xa cách, thân nhưng không lờn… Với tôi lúc đó như có điều gì lạ lùng trong mấy khái niệm trên. San Antonio, TX 09-82 (Nguồn: samnguyen20002002@yahoo.com) ——— (1) Hai câu đố ở trước cổng trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. (Nguồn: samnguyen20002002@yahoo.com) (1) Hai câu đố ở trước cổng trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:00:04 GMT 9
Hồ Phú Bông Phần 4: Mơ miền Nam baotiengdan.com/2017/05/13/nhung-chuyen-chua-quen-phan-4/
Ai ơi đừng lấy thợ cưa
Trên tàng dưới mạt dái đưa lòng thòng.Sự khổ cực của người thợ cưa gỗ ngày xưa đã đi vào ca dao, bây giờ đám tù đói đang phải thực hiện. Đội mộc chọn 7 người vào toán cưa xẻ. Là những tù trẻ, thuộc loại to con, sức khỏe còn tương đối khá hơn hết. Nhóm được ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, 18 cân. Việc làm tự giác và có nhiều cơ hội cải thiện. Toán gồm Đương cốm, Dân lùn, Trí, Phước dù, Phương râu, Nghi và Tòng cháy. Đương cốm phụ trách toán. Ông chín ngón đã lùng sục khắp trong rừng. Nơi nào có cây to, gỗ tốt, ông đều kiểm tra, chọn địa điểm và lên kế hoạch. Kiểm lâm sức mấy mà vào đến đây được. Toán cưa xẻ sẽ làm việc trực tiếp với ông, vì đây là kinh tế của riêng ông, của cấp chỉ huy ông. Hai lưỡi cưa cá mập là linh hồn của ông. Nhờ nó ông sẽ có những miếng gỗ rộng bản, dày mỏng tùy ông muốn. Ông sẽ bắt toán mộc đóng cái tủ, cái bàn, cái ghế. Căn nhà ước mơ cả đời người của ông sẽ có. Xóm giềng sẽ vị nể ông và ít nữa, khi ông về lại gia đình, vợ ông phải nhìn ông thán phục. Vợ ông sẽ hãnh diện vì ông quyền uy, giàu có. Ông không thể là cô bé đội thúng trứng trên đầu, mơ ước những quả trứng sẽ thành đàn gà con, rồi đàn gà con sẽ lớn và bán rồi mua con bò, con bò sẽ cho sữa… cô mừng quá, nhảy lên và thúng trứng rơi xuống đất! Để bảo đảm kế hoạch riêng được tốt đẹp, không còn khe hở, ông phải nghĩ đến cách thực hiện kỷ luật nghiêm khắc toàn trại. Tạo bộ mặt trại thật nề nếp, khang trang. Bộ mặt trại thật quan trọng. Ở trên nhìn xuống sẽ thấy ông làm việc rất tốt, rất chuyên chính với kẻ thù, thể hiện tấm lòng của ông với Đảng, với giai cấp. Ông cho thực hiện ngay việc nuôi cá trám cỏ. Cái hồ nước đang có sẵn, chỉ tu sửa lại, be bờ cho bằng phẳng. Xuất ngân quỹ đợt đầu 30.000 cá trám cỏ con được thả xuống. Từ bộ chỉ huy trại nhìn xuống, trông thật đẹp mắt. Ông gật gù. Nhóm cưa xẻ hàng ngày vác hai lưỡi cưa cá mập vô rừng. Nhóm chia hai toán nhỏ. Mỗi toán ba người. Hai người cưa, một người nghỉ và luân phiên. Cả nhóm bàn kế hoạch cải thiện. Rừng chỉ có cây quế là nhiều, còn không có cây gì khác có thể ăn được, kể cả rau tàu bay, rau má. Các cây khô mục cũng không thấy bóng dáng nấm mèo. Nghi thử xuống suối, mò cua, bắt ốc. Suối nước rất lạnh và trong vắt. Không thấy bóng dáng một con cá nhỏ nào. Mấy tiếng đồng hồ bì bõm, không kết quả. Nghi trở lên đồi. Cả toán không ai có kinh nghiệm. Vầu, dang rất nhiều nhưng không tìm được một mụn măng. Tòng cháy đem về hai mụn măng nhỏ nhưng khô cứng và đắng, không thể nào ăn được. Đương cốm là dân biệt kích nhảy dù nên tương đối có kinh nghiệm, nhưng không thể rời nhóm lâu vì đề phòng ông chín ngón đến kiểm tra bất ngờ. Cho nên, có chút thì giờ, có củi lửa, có gô coóng, nhưng ngoài thuốc lào, nước sôi, chẳng còn gì khác. Ở đâu có nước, ở đó có cá, cho nên Đương cốm nhất định dòng suối lớn và sâu đến thắt lưng như vậy thì không thể không có cá. Đích thân đi quan sát một tiếng đồng hồ sau trở lại, Đương cốm báo tin mừng: có cá và cá rất to. Một loại cá tương tự như cá chép, nhưng nhỏ hơn, có vảy màu hồng. Chúng bơi thành đàn năm bảy con. Khi Đương cốm xuống vẫn không thấy tăm hơi một con cá nhỏ nào, do đó Đương cốm nghĩ rằng phải có cá lớn, vì cá nhỏ không dám ở trong khu vực nầy. Đương cốm ẩn mình trong lùm kín, chờ đợi, nửa tiếng sau, bầy cá màu hồng nhởn nhơ xuất hiện. Chúng bơi ngược dòng nước, có đàn mười mấy con. Đương cốm vừa đứng dậy thì đàn cá vụt biến mất. Nhóm cưa xẻ có đề tài bàn thảo, đặt kế hoạch bắt cá. Đầu tiên nghĩ đến việc dùng mùng muỗi ngăn hai đầu lại nhưng dòng suối rộng và sâu không thể nào thực hiện được. Câu thì không có lưỡi câu, dây cước và cũng không chắc loại cá nầy sẽ cắn câu. Cho nên, nhóm cưa xẻ biết để mà biết, để mà ấm ức. Những miếng ván đầu tiên đã ra đời. Ông chín ngón săm soi kỹ lưỡng nhưng không khen, cũng không chê. Đường cưa không phẳng nhưng nhóm tù đói bước đầu đã đạt được như vậy là tốt rồi. Ông chín ngón như vô tình: – Tiêu chuẩn cao cả đấy. Chắc không phải ý ông muốn nói về ván gỗ là tiêu chuẩn cao trong đời sống. Tù hiểu ý, nhưng mặt tù sưng sưng, chì chì, như không còn cảm giác. Nghi rẽ các lùm cây, đi xuống suối để lấy nước, hôm nay Nghi làm anh nuôi cho toán. Nhớ lời Đương cốm, Nghi đi thật nhẹ nhàng như không gây ra tiếng động, với hy vọng sẽ được nhìn thấy đàn cá màu hồng mà Đương cốm mô tả. Phải thấy để thỏa mãn, để ước mơ, và biết đâu Nghi sẽ nghĩ ra được cách bắt chúng. Nắng đã lên cao nhưng tàng cây che khuất, chỉ cho những bóng nắng chạy nhảy lẻ loi trên lối đi xuống suối. Nghi nghe tiếng nước chảy róc rách vọng về nhưng hình như có thêm tiếng người. Vâng, hai giọng nữ đang trò chuyện. Óc tò mò trẻ thơ bỗng chốc nổi lên, giữa núi rừng hoang dã nầy sao lại có tiếng người? Nữ bộ đội hay dân thiểu số? Nghi ẩn mình vào trong bụi rậm. Mười, mười lăm thước không chừng. Nghe giọng nói mệt mỏi, có chút âm hưởng đắng cay của tù, ngày nầy qua ngày khác, nghe giọng nói chì chiết của các ông quản giáo, vệ binh, ngày nầy qua ngày khác, nay bất chợt, nghe lại giọng nói của người nữ, thật lạ lùng. Thanh âm sao trong thế? Trẻ thế? Nó như tiếng chim gọi buổi sáng để đánh thức núi rừng. Nó như tiếng chim đánh thức tâm hồn Nghi. Hóa ra anh cũng còn tràn đầy cảm xúc mà tưởng đã chai lỳ. Mà tưởng đã khô cứng. Những nàng tiên trong cổ tích hiện về. Bầy tiên nào đó đang đùa tắm giữa rừng hoang? Nghi thấy hai cô gái đang dầm mình trong dòng suối. Hai gùi măng đang để trên bờ. Một cô đang tắm và cô kia đang kỳ cọ búp măng trắng nõn. Khi cô bước lên bờ để bỏ búp măng vô gùi, Nghi như đứng tim. Nín thở. Đôi mắt Nghi như hoa lên. Nghi không thể tin ở thực tại. Da thịt những vùng kín trên cơ thể cô gái tuy không trắng như búp măng cô đang cầm, nhưng cũng nõn nà, phân biệt thật rõ ràng với đôi cánh tay, với khuôn mặt và cái cổ rám nắng. Cảm giác đến ồ ạt. Ngột ngạt. Lần đầu tiên Nghi biết lại chính mình. Nghi vẫn còn là một người đàn ông trẻ! Những ray rức, rạo rực, tiềm ẩn như côn trùng âm ỉ dưới lớp cây lá mục, phút chốc lột xác thành những con đom đóm lòe ra, bay bổng trong bóng đêm. Cái ấn tượng ấy một lần Nghi đã gặp. Đã sững sờ. Lần đó Nghi và toán lính nằm phục kích trên một khu vực đầy lá đen, ẩm ướt. Bóng đêm vừa sụp xuống thì hàng trăm con đom đóm phút chốc đã hóa thân và bay lên như cả trời sao di động. Giây phút hóa thân. Giây phút tiềm ẩn. Giây phút bản năng sống thức dậy. Chờ cho hai cô gái tắm xong, chuẩn bị đi, thì Nghi gây tiếng động. Và tiếp tục đi xuống suối. Nghi như vô tình không biết có họ ở đó. Hai cô gái thấy Nghi cũng có vẻ ngạc nhiên, một cô lên tiếng: – Anh là cải tạo đấy à? – Dạ. – Anh chỉ đi một mình cơ à? – Dạ không. Còn một nhóm anh em cưa xẻ trên đồi. Tôi xuống đây lấy nước. – Các anh lao động xa trại nhỉ? – Dạ. Tiếng anh thoát ra từ miệng một cô gái đã cho Nghi trở lại đời thường trong giây lát. Cũng là tiếng anh, nhưng thoát ra từ miệng các ông quản giáo, vệ binh, luôn có vẻ là một tiếng đệm, gằn giọng, mang một ý nghĩa khác. Ôi chao, cũng một tiếng gọi nhưng ý nghĩa lại khác nhau. Một đàng của tù ngục. Một đàng của tự do. Nghi muốn hỏi nhưng Nghi thận trọng. Nội quy trại cấm tuyệt đối không được giao tiếp với dân trong vùng mà họ gọi là quan hệ. Cho nên Nghi chỉ trả lời những câu hỏi. Họ hình như là hai chị em. Khuôn mặt giống nhau. Nhân dáng giống nhau. Nhưng có một điều dễ nhận ra là họ không phải là người địa phương, không phải là người thiểu số tại đây. Nét mặt thanh tú. Dáng dấp không quê kệch, cục mịch. Đôi bàn tay cũng không quá cỡ, sần sùi. – Anh là cải tạo từ miền Nam ra? – Dạ. – Chúng em nhỏ hơn anh. Đừng dạ với chúng em như vậy. – Dạ. Rồi Nghi tiếp: – Kỷ luật của trại… Tôi đang nói chuyện với hai cô là vi phạm nội quy. – Anh đừng lo. Chúng em từ Hà Nội lên kinh tế mới ở đây sáu bảy năm rồi. Gia đình thầy mẹ chúng em là giới tiểu thương, hết tiền hối lộ, nên bị đưa đi. Em là Tố Nga, còn Tố Uyên là em. Chỉ qua mấy câu đối thoại ngắn ngủi đã cho Nghi an tâm hơn. Tố Nga và Tố Uyên đang có tự do. Loại tự do được chỉ định nơi núi rừng. Chỉ tự do với núi rừng. Họ có khác gì anh không? – Hai cô ở gần đây không? – Xa, khoảng năm ki lô mét cơ ạ. – Hai cô tìm đâu ra nhiều măng quá. Anh em chúng tôi cũng cố tìm nhưng chẳng thể tìm được một búp nào cả. – Đây là măng vầu. Các anh không biết, vì rất khó tìm thấy. Măng vầu không mọc chung tại bụi như măng dang. Măng vầu thường mọc đơn độc. Chỉ nhú lên khỏi mặt đất vài cen ti mét thì đào lên mới ăn được. Nếu chúng lên cao hơn thì rất đắng. – Dạ, cô có thể hướng dẫn cách tìm cho tôi được không? Tố Nga cơi cơi đống vỏ măng vừa lột bên suối. Cô vớ lấy một đỉnh nhọn đã cắt bỏ, đặt lên mặt đất, đỉnh nhọn hướng lên trời: – Đấy, giống như thế nầy. Nhưng chiều cao cỡ 2 cen ti mét cơ. – Màu vỏ măng, màu đất, lại giống nhau mà chỉ nhú lên chút xíu, trong lúc mặt đất đầy cây lá mục, quả là khó nhận ra thật. Anh em chúng tôi không biết là khó tìm đến như vậy, mà chỉ nhìn những cây măng đã lên cao cao trên đất. Tố Uyên xen vào: – Quen như chúng em thì nhận ra dễ hơn các anh. Nhìn hai gùi măng đã lột, rửa trắng phau, Nghi nói: – Tìm được nhiều măng như thế nầy chắc hai cô tốn nhiều thời gian lắm? – Đi từ rạng sáng đến bây giờ thôi ạ. Mùa măng đã hết nên chỉ có thế, chứ trước đây khoảng hai tháng thì nhiều hơn lắm cơ. Tố Uyên tiếp: – Chúng em hái và làm măng khô bán về xuôi. Nhưng lúc nầy hết mùa rồi. Mà thôi, đừng nói về măng nữa! Chúng em thích nghe chuyện miền Nam cơ. Anh kể cho chúng em nghe nhé? Miền Nam như một huyền thoại đối với người miền Bắc. Miền Nam hấp dẫn. Miền Nam văn minh. Miền Nam có nhạc vàng. Lúc ở trại 5, nông trường chè Trần Phú, tỉnh Hoàng Liên Sơn, Nghi cũng đã có dịp nói chuyện với hai cô gái hái chè ở đó. Họ cũng đi kinh tế mới đến đấy. Lần đó cả đội đi đốn dang. Nghi và Dũng đốn chung, nhưng cả hai không thể nào đạt chỉ tiêu vì những cây dang khoe thân mình xanh mượt, nằm cạnh ngoài của bụi dang, rất dễ đốn, nhưng ngọn dang đã bị dây rừng quấn chặt, do đó đốn rất dễ, nhưng không thể nào kéo xuống được. Dũng và Nghi đã trầy trụa, mệt nhừ, nhưng cũng không làm ngọn dang rơi xuống đất. Nó cứ nhùng nhằng, đong đưa. Bỏ thì tiếc, nhưng kéo xuống thì không thể. Nghi và Dũng đang ngồi nghỉ xả hơi thì gặp hai cô gái đi vào khu vực đốn dang. Có chút e dè khi mới gặp nhau nhưng trao đổi đôi ba câu chào hỏi, Nghi thấy hai cô rất chân thật và nhiệt tình: – Trước khi các anh bị đưa ra đây thì địa phương đã phải học tập, đã được nghe họ mô tả các anh như không còn mang tính người. Phải ghê sợ các anh. Khi thấy các anh thì phải tránh cho xa kẻo bị các anh giết chết. Nhưng vì chính sách khoan hồng, nên dù bản tính các anh có như vậy, Đảng không giết mà chỉ giáo dục để các anh trở thành người dân lương thiện. Chỉ đánh người chạy đi, chứ không ai đánh người chạy lại. Do đó ban đầu khi vừa thấy các anh là chúng em tránh xa ngay, nhưng dần dần chúng em nghĩ khác. Các anh từ nét mặt, đến nhân dáng, đều không có nét hung dữ. Các anh không là những con quái vật mà rất hiền lành. Do đó chúng em thường tìm cách tiếp xúc với các anh để được nghe kể chuyện về miền Nam. Một cô hỏi: – Các anh có biết nhạc vàng không? Nghi cười hiền lành: – Biết chứ. Biết nhiều lắm. – Anh hát cho chúng em nghe đi cơ. Biết thì biết rất nhiều, nhưng hát, mà hát trong hoàn cảnh như thế nầy, thì dù có là ca sĩ cũng không thể nào cất giọng được. Nghi nghĩ như vậy nhưng không nói ra. Cô kia tiếp: – Hai anh hát cho chúng em nghe, chúng em sẽ đốn hộ dang cho hai anh. Dù có mệt mỏi thế nào cũng không thể không cười được. Một sự trao đổi rất sòng phẳng. Rất mộc mạc. Nhạc vàng là loại nhạc Đảng muốn tiêu hủy. Đảng muốn tận diệt. Di sản văn hóa miền Nam phải đốt sạch. Đó là văn hóa Mỹ-Ngụy. Nó ghê gớm, độc hại đến như vậy mà sao hai cô gái nông trường nầy đòi đổi lấy mồ hôi của chính mình để được nghe? Phong trào cấm nhạc vàng càng mạnh, thì nhạc vàng với những dòng nhạc mềm mại, những dòng nhạc trữ tình, những dòng nhạc phản ảnh trung thực tình cảm tự nhiên của con người, lại có thêm sức hút. Cái gì Đảng muốn, quả thật, rất khác với tình tự con người! Những ngày đầu 30-4-1975, mở radio theo dõi tin tức, thì cứ nghe giọng nói đanh thép, lạnh lùng của xướng ngôn viên, rồi hàng hàng lớp lớp những bản nhạc, ít khi nghe rõ được lời. Giọng ca chạy lên óc. Giọng ca làm nổi cả gai ốc. Giọng ca the thé, cứ dồn đuổi theo nhau, đã làm Nghi bật khóc. Khóc nức nở. Miền Nam mất rồi. Mất thật sự rồi. Những điệu nhạc thường ngày bỗng dưng biến mất. Mất trọn vẹn. Thế giới đang sụp đổ. Phố phường đang qua giai đoạn khác. Giai đoạn xa lạ. Giai đoạn mà khi nói phải nghiến răng. Giai đoạn the thé. Giai đoạn long óc. Khi hát như nghiến răng. Khi nói như nghiến răng. Ù lỗ tai, dội lên tận óc. Nhạc Việt hay nhạc Trung Quốc? Đài Việt Nam hay đài Trung Quốc? Việt Nam độc lập rồi ư? Đảng bảo độc lập cơ mà! Miền Nam đang thật xa xôi với hai cô gái nông trường nầy. Miền Nam là ngoại quốc văn minh, từ vật chất tới nhạc vàng. Và, người miền Nam đó, những người miền Nam với án lệnh tập trung. Những con người hiền lành với khổ ải không có ngày về. Các cô hiểu cái án tập trung. Người miền Bắc hiểu cái án tập trung. Cái án cao su. Cái án không có án. Cái án cố trù dập thân phận con người. Những con người không theo Đảng. Nhưng người miền Nam mới bắt đầu biết. Chỉ mới bắt đầu. Bánh xe của Đảng đang trên đường đi tới. Lần đó Nghi và Dũng không hát được, nhưng đọc cho hai cô gái nông trường chè Trần Phú lời của hai bản nhạc tình theo nhạc điệu của nó. Hai cô không có bút, không có giấy, nên cố nhớ. Lặp đi, lặp lại. Dù Nghi và Dũng can ngăn nhưng hai cô nhất định trả công bằng hai bó dang đúng chỉ tiêu để Nghi và Dũng vác về trại. Một phút quên chính mình. Một phút Nghi thấy thương đời sống và tuổi trẻ như Tố Uyên, Tố Nga. Chỉ một phút thôi. Một phút của tự do chợt đến. Một phút quặn thắt. Một phút quên thân phận tù. Một phút xúc động trong tình người. Tố Uyên lấy ra mấy búp măng trao cho Nghi: – Anh đem về toán để các anh cải thiện. Tố Nga đưa cho Nghi một gói lá chuối khá nặng mà màu xanh của lá đã bị hơi nóng làm đổi ra màu nâu sậm: – Đây là xuất trưa của chúng em, anh mang về tất. Nghi xúc động trong giọng nói: – Hai cô giữ lại một ít để đỡ đói trên đường về nhà. Tố Nga không trả lời và tiếp: – Nếu anh muốn tìm măng cải thiện thì ngày mai chúng em sẽ trở lại đây, anh đi với chúng em. Nghi ngần ngừ: – Tôi muốn lắm nhưng vô cùng nguy hiểm. – Cảnh giác. Chúng em biết. Lối xóm với nhau còn phải cảnh giác cơ mà! Chúng em quen chuyện bị theo dõi, nên mỗi người phải luôn đóng một vai nào đó để đánh lạc hướng. Công an ở mọi nơi. Công an ở cả núi rừng. Nhưng phải làm thôi anh ạ. Không luồn lách thì không thể nào sống được. Cứ chối bay chối biến, nếu chúng tóm được. Đến khi hết đường chối cãi thì cho chúng khảo của. Nghi trở lên đồi khá trễ nhưng những chiến lợi phẩm Nghi mang về làm cả toán ngạc nhiên. Nghi kể lại từng diễn tiến nhưng giấu biệt không kể về chuyện Nghi trộm nhìn say sưa hai tiên nữ tắm suối. Đây là câu chuyện Nghi có thể khoe khoang, có thể thêu dệt theo thói thường. Nhưng có chút gì đó, tự nhiên chợt đến, như riêng tư, như thật riêng tư, nên Nghi giữ kín, dù Nghi chưa cảm nhận được một cách trọn vẹn. Buổi tối, Nghi thấy hơi khó ngủ. Cứ nghĩ đến cái hẹn ngày mai. Dòng suối. Tố Uyên. Tố Nga. Tù. Cùm. Tra tấn. Đói. Vừa hồi hộp sợ sệt, vừa thích thú. Nghi biết đây không phải là chuyện bình thường. Đây là trò đùa với lửa. Đem sinh mạng ra đùa với tử thần. Kỷ luật trại. Đương cốm và cả toán cưa xẻ cũng bàn kế hoạch trả lời cho suôn sẻ, nếu ông chín ngón kiểm tra nhân sự bất chợt. Những mảnh lá chuối gói cơm nếp Tố Nga cho hôm qua, cũng đã cho vào lửa tại chỗ, cẩn thận. Bên dưới làn da mặt sưng sưng, chì chì của tù, đang thoáng có chút sinh khí. Mỗi người đang đóng một vai nào đó, như Tố Nga đã nói. Buổi sáng rừng núi như còn đang ngái ngủ. Tiếng chim vang vọng thật xa. Trong vắt. Khói sương còn đang lướng vướng trên các ngọn cây cao. Từng cụm. Nắng nhợt nhạt trải trên các lối đi ẩm ướt sương mưa. Toán cưa xẻ lầm lũi trên đường ra hiện trường lao động. Hôm nay khác với thường ngày, cả toán yên lặng, mỗi người theo một suy nghĩ riêng. Có chút căng thẳng. Nghi xuống suối theo một lối khác. Vào phía sâu hơn, theo Tố Nga chỉ ngày hôm qua. Cây lá cọ quẹt trên lối đi làm áo quần Nghi ướt đẫm. Chỉ có tiếng chim buổi sáng chào đón nắng sớm và tiếng suối róc rách, rì rào. Nghi hồi hộp và có cảm tưởng như là buổi hẹn hò, tình tự. Càng vào sâu, dòng suối rộng hơn và hoang vu hơn. Đến ngả ba, nơi có một dòng suối khác nhập lại, một cụm cây mọc bao quanh một tảng đá khá lớn, chắn lối giữa ngả ba, nước chảy xoáy quanh, nơi Tố Nga hẹn gặp Nghi. Bên kia suối, rừng khá rậm rạp. Có nhiều bụi dang và vầu. Nghi chưa dám ra gần suối vì còn cảnh giác. Bất cứ người nào phát hiện Nghi ở đây cũng có thể bắt Nghi về giao nộp cho trại vì tội trốn trại. Nghi ngồi yên chờ đợi. Nghe có tiếng động ở phía sau, Nghi quay lại thì thấy Tố Nga đang đi tới. Tố Nga đi một mình. Tố Nga không mặc bộ đồ lam lũ, hái măng hôm qua. Cô mặc một áo sơ mi cũ, màu cháo lòng và quần tây màu xanh đậm. Cô mang một túi vải thay cho cái gùi măng. Nghi ngạc nhiên lên tiếng: – Cô Tố Nga đi một mình, còn Tố Uyên đâu? – Tố Uyên đang lo dịch vụ tại Hợp Tác Xã vì sắp có hàng phân phối về. Nghi tỏ ra phân vân. Tố Nga tiếp: – Trên đường về hôm qua, Tố Uyên cứ bảo, tù gì như anh mà lành như bụt đấy cơ. Ngưng một lát, Tố Nga tiếp: – Tố Nga không hái măng hôm nay nhưng vẫn ra đây để chỉ cho các anh tìm cái cải thiện. Khu vực nầy chúng em thường đi hàng năm. Bên kia suối, có thể còn một ít măng vầu. Nghi nhìn dòng suối: – Nước hơi sâu làm sao Tố Nga qua bển được? Tố Nga nhíu mày: – Bển? – Bển là bên kia. – Lạ nhỉ. Bển. Lần đầu tiên Tố Nga nghe từ bển đấy. Nghi có chút căng thẳng nhưng Tố Nga thì thật tự nhiên: – Vào bên trong chút nữa sẽ có một thân cây vắt ngang suối. Chúng mình qua ngả ấy. Rồi Tố Nga tiếp: – Khi đánh được nhiều măng thì lúc trở về không thể theo lối nầy nhưng chúng em lột vỏ măng và tắm tại đây. Vừa tắm, vừa kiểm tra cho nhau, có con vắt nào bám trên người không. Ban đầu, chúng em sợ vắt kinh khiếp lắm, bây giờ vẫn sợ, nhưng đỡ hơn và vì kinh tế gia đình cả anh ạ! Nghi chợt hiểu và nhớ lại hình ảnh Nghi bắt gặp hôm qua. Nghi thấy rạo rực trong lòng. Nghi định hỏi, bộ không sợ người khác nhìn thấy hay sao, nhưng Nghi kịp ngừng lại. – Chúng mình qua bên kia suối đi anh. Nghi theo Tố Nga đi dọc theo bờ suối, vừa đến một khúc quanh, thì một thân cây khô mục nằm vắt ngang qua dòng suối, quấn đầy dây lá rừng. Tố Nga lên tiếng: – Rất trơn trợt, anh cẩn thận đấy. Tố Nga vịn vào các nhánh cây khô, xoay ngang người, từng bước, bước qua bên kia. Nghi theo Tố Nga không khó. Nghi nhớ đến những cây cầu khỉ ở quê anh. Bên dưới là dòng nước đục ngầu phù sa mang những khóm lục bình trôi vô định. Những chiếc thuyền ba lá là phương tiện di chuyển, chở cây trái từ miệt vườn ra chợ. Nơi nào cũng có trái ngọt, cây lành, quanh năm không bao giờ nghĩ đến đói. Đứa con mộc mạc quê anh đó, bây giờ lại phải đi tìm cái ăn vì sự sống còn. – Mình qua được “bển” rồi phải không anh? Tố Nga cứ kéo dài chữ bển ra để trêu Nghi. Nghi cười hiền lành. Anh nhìn trong đôi mắt long lanh, tinh nghịch của Tố Nga như muốn nói: cám ơn em, giữa chúng ta không có sự hận thù mà Đảng mong muốn. – Chỗ nầy khuất và an toàn. Anh dùng chút cơm Tố Nga mang cho anh đã, rồi mình đi tìm măng. Tố Nga trao cho Nghi một gói cơm với muối vừng còn nóng. Cầm gói cơm trong tay, Nghi không nói được câu nào, Nghi chỉ nhìn Tố Nga thật yên lặng và sâu thẳm. Sự xúc động của Nghi làm cô bối rối. Cô lẫn tránh cái nhìn đó và giục: – Ăn đi anh. Những búp măng vầu được Nghi và Tố Nga đào lên từ lòng đất khá to và nặng. Cả hai đều ướt đẫm mồ hôi nhưng không ai thấy mệt. Họ vừa tìm, vừa đào, vừa nói chuyện nên thời gian trôi rất nhanh. Nhìn nắng đã lên khá cao, Nghi nói: – Măng đã đủ cho ngày hôm nay và cả ngày mai nữa. Mình trở xuống suối kẻo trưa rồi. Tố Nga nhìn Nghi như muốn nói sao thời gian trôi nhanh thế. Cô lặng lẽ chuốt một cành cây nhọn, đâm xuyên qua các chóp măng. Nghi luồn một sợi dây rừng qua đó và mang tất cả măng xuống suối. Nghi theo sát Tố Nga. Bất chợt Nghi nhìn thấy một vết đen thẫm, cồm cộm, gần giữa lưng nơi có sợi dây nịt ngực của Tố Nga. Nghi vội vã: – Tố Nga, có thể có con vắt ở sau lưng áo! Nghi bỏ lửng câu nói. Tố Nga dừng lại. Cô bỏ ngay cái túi vải đang mang trên vai xuống đất. Cô cố khuỳnh tay ra phía sau kiểm soát. Cô thảng thốt, cuống quýt: – Ấy chết, anh giúp hộ em. Tố Nga ôm chầm lấy Nghi, mặt tái nhợt, úp vào ngực Nghi, sợ hãi giục: – Nhanh, nhanh lên… Nghi quăng xách măng xuống, cũng cuống quýt. – Nhanh, nhanh đi anh. Nghi luồn tay dưới áo sơ mi của Tố Nga, nhưng Tố Nga còn mặc một áo mỏng khác bên trong, làm Nghi luống cuống. Thấy Tố Nga không có phản ứng nào, nên một tay Nghi cố kéo chiếc áo lót đang bó sát người Tố Nga, tay kia lần ngược lên. Nhưng chiếc áo lót quá chật, lại bằng vải, không có độ dãn. Tố Nga mở các nút áo sơ mi. Nghi kéo dần chiếc áo lót lên cao. Một con vắt mập ú, mềm nhũn, đang bám chặt vào da Tố Nga, dưới chéo vải nối với sợi dây thun của cái áo ngực. Con vắt thật trơn và bám thật chắc. Nó đang say máu nên không thể kéo ra dễ dàng. Tố Nga đưa ngược hai tay ra phía sau lưng lần mở cái móc chiếc áo ngực. Con vắt màu đen xám, tròn trĩnh như một giọt mực lớn trên lưng Tố Nga. Nghi phải vất vã mới kéo được con vắt rớt ra. Một dòng máu đỏ tươi chảy trên tấm lưng trần, trắng mịn. Nghi lấy ngón tay di di nơi vết cắn. Lưng Tố Nga nóng ran. Người Tố Nga nóng ran. Cả người Nghi cũng nóng ran. Cánh tay còn lại của Nghi ghì chặt lấy Tố Nga. Cô mềm nhũn trong tay Nghi. Hơi thở cả hai dồn dập. Vết cắn bị bỏ rơi. Hai tay Nghi xục xạo. Tìm tòi. Nghi qùy xuống, úp mặt mình vào đôi vú trần đang săn cứng. Tố Nga liên tiếp mất thăng bằng. Mười ngón tay cô bấu chặt vào chân tóc Nghi, rên rĩ: – Đừng. Đừng anh. Nghi lần tay xuống bên dưới. Chiếc quần lót cũng bằng vải. Không đàn hồi. Không mềm, mượt, mịn, sờ đến mát cả tay như của các cô ở miền Nam. Tố Nga cào cấu trên tóc, trên cổ, trên lưng Nghi. Hình như có tiếng anh nho nhỏ phát ra từ đôi môi run rẩy của Tố Nga. Nhưng âm thanh bị méo đi. Lạc giọng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:06:19 GMT 9
Hồ Phú Bông Những chuyện chưa quên (phần 1) Ảnh bìa sách “Những Chuyện Chưa Quên” của tác giả gửi tới. Tặng các bạn tù đã đặt chân đến An Thới, Phú Quốc, buổi sáng ngày 27 tháng Chạp năm Ất Mão (27-1-1976) trên Dương Vận Hạm HQ 503 của Hải Quân VNCH bỏ lại.Phần 1: Chuyến tàu Đi làm cỏ ở Trung Đoàn, Mẫn đem về một cây ổi con. Gốc nó được bó một nắm đất bằng ngón tay cái. Mẫn xem lá xem nhánh thế nào đó và kết luận đây là ổi xá lị. – Vài hôm nữa về tôi sẽ trồng nó trước sân nhà! Hợp có chút mỉa mai: – Nhà nào? Mẫn cam phận: – Thì nhà ở kinh tế mới cũng được. Tín xen vào: – Thôi đi cha nội. Đem nó trồng đàng sau hè ở đây đi. Bao giờ có trái thì trèo lên cây hái, mang về nhà làm quà biếu vợ con, mừng ngày sum họp! Câu nói phang ngang của Tín như một gáo nước lạnh tạt ngay vào mặt. Không phải mặt của riêng Mẫn, mà cả mọi người đang huyên náo về tin đồn. Mẫn là một trong số người tích cực tiếp hơi cho tin đồn lan truyền nhanh hơn. Cứ như là càng rùm beng thì sẽ nhanh chóng biến thành sự thật! Những chiếc bánh vẽ đôi lúc cũng giúp làm đã cơn thèm trong giây lát! Chương trình học mười bài mới nửa chừng nhưng Tết thì chỉ còn chưa tới mười ngày nữa. Nội việc tù lán phó đi họp nhưng chưa nghe hậu cần thông báo kế hoạch Tết, cũng là một tin đồn loại sốt dẻo: – Nếu còn ở lại thì chắc phải có kế hoạch Tết rồi! – Chương trình học mười bài, nếu học ở đây chưa kịp thì về học tại địa phương. Kế hoạch đồng nhất và mấy ổng nói thì trước sau như một mà! Mỗi người đều lý luận sao cho hợp với mong muốn của mình. Nếu mọi người được cho về thì hơn cả tháng dài, cả trại đi gỡ PSP ở phi trường trực thăng khiêng về, làm cái hội trường đồ sộ để làm gì? Hình như không ai muốn đặt câu hỏi kiểu nầy! Sau giờ thảo luận buổi chiều, mọi người đang lu bu lo chuyện cơm nước thì tiếng còi tập họp bất ngờ nổi lên. Từng ông quản giáo đến ngay lán kêu khẩn trương nhanh lên tập họp. Tù nhìn nhau với nhiều thái độ. Mẫn hớn hở, lớn giọng và kéo dài từng tiếng một: – Tới. . . rồi. . .! Tín thì bình tĩnh, cũng lớn tiếng, nhưng gãy gọn: – Tới rồi! Mẫn tới rồi với cây ổi xá lị sẽ đem về trồng trước sân nhà. Tín thì tới rồi với tư thế sẵn sàng đi đến bất cứ một nơi nào trên con đường vạn dặm. Xám xịt! Tín mang tâm trạng của Thúy Kiều sau khi ra khỏi nhà: cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần tới đâu! Cho dù hiện tại chưa thấy bóng dáng chàng Thúc Sinh mà đang trong vòng tay họ Sở! Những người bị đọc tên vội vàng quay vô thu dọn đồ cá nhân. Nghiêm trong nhóm ba người bị gọi tên. Bố Tôn phụ giúp Nghiêm gom góp đồ đạc: – Bố có nhớ địa chỉ nhà tôi ở Sài Gòn không? – Cậu cũng còn nhớ địa chỉ nhà tớ ở Thị Nghè chứ? Còn có ngày về thì liên lạc với nhau. Đàng kia Tín phụ giúp Mẫn. Khi nghe gọi tên mình trong danh sách toàn an ninh, tình báo, chiến tranh chính trị, Mẫn hụt hẫng. Tái xanh. Mẫn như không còn nhớ cả những đồ đạc cá nhân, vì đối với Mẫn thì đây là chuyện không thể tưởng tượng được. Thư của vợ Mẫn cho biết, cha mẹ vợ Mẫn là người của cách mạng, đã bảo lãnh cho Mẫn rồi, nên Mẫn chỉ chờ đợi được gọi tên cho về. Cây ổi bao giờ sẽ có trái, không ai biết, nhưng trái tình yêu đầu tiên của vợ chồng Mẫn thì hai tháng nữa ra đời! Tuy tính tình khác biệt nhưng Tín và Mẫn lại chơi rất thân. Tiễn Mẫn, Tín mới lộ chút xúc động. Cắn răng, quai hàm bạnh ra. Bắt tay Mẫn khá chặt: – Nhớ giữ gìn sức khỏe! Đám tù ra đi lặng lẽ khuân vác đồ đạc. Căng thẳng nên không nói với nhau một lời nào. Di chuyển đến trung đoàn. Đoàn molotova khá dài đã vén bạt phía sau đang chờ sẵn. Mỗi xe có hai ông bộ đội súng đạn sẵn sàng. Hình ảnh nầy đã giết chết suy nghĩ còn sót lại của vài người ngây thơ, vẫn bám víu hy vọng được cho về ăn Tết! Tù ngồi từng cụm với đồ đạc lộn xộn, đợi các ông cán bộ bàn giao cho nhau. Bóng tối chụp xuống. Mấy chiếc xe nổ máy, mở đèn chiếu vào đám tù để các ông cán bộ tiếp tục làm việc. Khẩu phần lương khô do Trung Quốc cung cấp cho bộ đội miền Bắc, được đem phân phát cho tù. Mỗi người nhận ba ngày ăn. Khẩu phần lương khô của Trung Quốc như một chiếc bánh in phong kín bằng giấy thô, khác hẳn với lương khô của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, có gạo sấy đựng trong bọc plastic trắng trong và thịt hộp. Với ba ngày lương khô thì tù sẽ bị đưa về đâu? Tù lại suy nghĩ, lại đoán mò! Có thể lên cao nguyên Trung phần, nhưng lực lượng Fulro còn đó và đang chống họ. Họ không thể thả hổ về rừng? Đi Bắc chăng? Xe cộ họ đang rất cần để chở tài sản của miền Nam ra Bắc có đâu để chở bọn tù? Khoảng chín giờ đêm, từng toán khoảng ba mươi người với đồ đạc cá nhân nhồi nhét lên từng chiếc molotova. Tấm vải bạt được trùm xuống. Đời tù lại ngộp thở, tối tăm. Xe dằn, xóc. Quẹo phải, quẹo trái, lầm lũi trong đêm. Thỉnh thoảng có vài ánh đèn lọt được vào bên trong cho tù biết xe đã gần vào một thị trấn nào đó. Tù tìm cách đâm thủng bạt để xem đường. Từng chặng, từng chặng đều có tù âm thầm thông báo nhau. Khi nghe thông báo xe trực chỉ về Sài Gòn thì mọi người đều tỉnh ngủ hẳn. Nôn nao và chờ đợi. Ai cũng muốn nhìn lại được cảnh đường phố Sài Gòn như thèm được nhìn lại khuôn mặt người tình sau mấy tháng dài xa cách. Chỉ cần nhìn thấy bất cứ góc phố hay con đường nào của Sài Gòn cũng được. Sài Gòn, người tình yêu dấu. Sài Gòn, người tình với nỗi khát khao mong đợi. Sài Gòn, người tình trăm năm. Bây giờ người tù có được cái lỗ trên tấm bạt để thấy tí chút bên ngoài, đang làm thông tín viên, là người hạnh phúc nhất. Sài Gòn về đêm thênh thang ngày xưa, đủ loại ánh đèn với những dòng xe xuôi ngược, không bằng Sài Gòn sắp xuất hiện qua cái lỗ nhỏ như đầu ngón tay trên tấm bạt bây giờ! Nếu xe chạy về hướng bà Quẹo, xuống ngã tư Bảy Hiền, quẹo trái qua Lăng Cha Cả thì sẽ gần nhà Nghiêm lắm. Nghiêm chỉ nghe thông báo, không thấy gì bên ngoài nhưng cũng mong xe chạy về hướng nhà mình. Nhà Nghiêm nằm sâu trong hẻm nên tấm bạt xe nếu có vén lên, có được ngồi nhìn thoải mái chung quanh cũng không thể nhìn thấy. Nhưng từng góc phố, từng trụ đèn đường Nghiêm cũng có thể hình dung ra được. Trụ đèn đường xéo cửa nhà Nghiêm bị bể mất một miếng bên góc để lộ một cọng sắt cỡ bằng ngón tay, mấy mươi năm rồi cũng như vậy. Nơi đó, đêm đêm có chiếc xe phở của đôi vợ chồng bán đến khuya. Người chồng dùng hai thanh gỗ gõ vào nhau như tiếng vang của con chim gõ kiến về đêm để rao hàng. Âm thanh đó đã trở nên quen thuộc trong cả xóm. Tuổi học trò, những đêm thức học thi, đói bụng nhưng lười xuống tầng dưới mở cửa, Nghiêm có thể ra trước hiên lầu mua, rồi thòng một sợi dây xuống kéo cái xô có đựng tô phở với đầy đủ gia vị lên. Góc bên phải nhà Nghiêm có một bụi biện lý, hoa nở quanh năm, hai màu đỏ trắng, tàng lá sum suê rợp bóng, đủ để bà Tư già với chiếc bàn nhỏ ngồi bán lặt vặt, trái chuối, cái kẹo. Xa hơn là căn nhà lầu ba tầng của ông Hợp, có cái xe Lam ba bánh, mỗi 3 giờ sáng là bắt đầu rời nhà chạy ra bến đón khách. Tiếng máy nổ dòn tan trong khi cả khu phố còn say ngủ, đã đánh thức cả xóm, nhưng không ai phàn nàn. Cái xóm lao động ồn ào náo nhiệt nầy càng ồn ào náo nhiệt hơn sau ngày 30-4-1975. Mọi sinh hoạt đều đảo lộn. Xe phở biến mất. Đôi vợ chồng nầy cùng con cái, nghe đâu đã tháo chạy di tản. Người thì bảo đi thoát, người lại bảo bị chết, không thể nào xác định được. Chỉ biết, trước ngày đi họ còn kịp cho tất cả vật dụng cho vài người thân trong xóm. Chiếc xe phở và những dụng cụ mấy mươi năm cần mẫn, chắc chắn là những mảnh đời gắn liền với nhau, như là một phần của da thịt để lại. Chiếc xe Lam vẫn còn đó. Tiếng nổ dòn dã trong đêm về sáng vẫn còn đó, nhưng tiếng vang của nó không còn đánh thức mọi người mà lại như một nhắc nhở của quá khứ, vì mọi việc rồi sẽ đổi thay. Tiếng hai thanh gỗ gõ vào nhau của xe phở đã mất, chỉ còn lại tiếng máy xe Lam như một cái gì đơn lẻ, thiếu vắng. Nhưng dưới bóng mát của chùm hoa giấy, với thúng quà vặt, bà Tư già vẫn còn ngồi lại một mình. Mọi người đem ra đường tất cả bàn ghế, tủ giường bày bán khắp nơi. Bán đổ bán tháo! Bán cho trống nhà để trở thành vô sản! Vô sản chuyên chính. Nghiêm vẫn còn nhớ giọng bà Tư già nói với Nghiêm, khi bà chỉ vào tấm ảnh màu của ông Hồ Chí Minh đã được bày bán khắp nơi: – Bán, bán cho sạch nhà, sạch cửa để rước ông Nội tôi vô ở! Khi nghe tù thông tín viên cho biết xe không về hướng Bà Quẹo, nhưng ra ngã xa lộ Đại Hàn, thì mọi người trong xe mới trở về thực tại. Một thực tại ê chề mà tù chỉ mới vừa quên đi trong giây lát. Về đâu? Vẫn có tù chưa chịu chấp nhận sự thật: – Có chắc xe đang chạy trên xa lộ Đại Hàn không? Giấc mơ được nhìn một góc phố, một con đường Sài Gòn về đêm không còn nữa. Một giấc mơ quá ngắn. Tù thông tín viên thông báo tiếp. Xe quẹo vào Xa Lộ Biên Hòa. Cầu Sài Gòn. Và sau đó là hai tiếng New Port. Không còn tù nào thắc mắc, nhưng tù thông tín viên cũng quan sát lại thật kỹ, rồi tái xác nhận lần nữa: – Đúng rồi! Tân Cảng New Port! Hai tiếng New Port, Tân Cảng được lặp lại như có echo cứ vang vang lùng bùng trong lỗ tai, thốn đến màng nhĩ! Cả xe tù chết lặng! Đêm đã vào khuya. Sương xuống lạnh. Cái pha đèn từ con tàu khổng lồ đang há mõm chiếu sáng cả một khu vực rộng lớn. Người và người lố nhố. Tù và tù nhợt nhạt, xanh xao, dưới ánh đèn pha chói chang. Bộ đội dày đặc, súng cầm tay cô lập từng đám tù. Dòng sông đêm trước mặt, nước đen quánh, vẫn cuồn cuộn trôi. Còn đâu những chiều vàng ngồi với người tình trong chiếc lều quán bên xa lộ Biên Hòa, nhìn dòng sông đục ngầu phù sa, kể chuyện về lính, nói chuyện tương lai, những yêu thương đằm thắm, mộng mơ? Còn đâu những hàng dừa nước hai bên bờ sông thơ mộng, in trong màu mắt biếc của người tình, cùng nhau nghe tiếng xành xạch của những chiếc ghe máy, tiếng mái chèo quẫy nước, con thuyền rẽ sóng lướt đi? Dòng sông trôi ra biển có bao giờ quay lại? Đời tù theo dòng nước sẽ trôi về đâu? Cả 2000 tù yên lặng. Chỉ có tiếng tu huýt ré lên liên tục. Tù lần lượt bước xuống cầu thang. Chiếc cầu thang không còn mang ý nghĩa của sự nối liền nhưng là sự chia cắt. Chia cắt với đất liền. Chia cắt giữa hiện tại và tương lai. Chia cắt giữa Sài Gòn thân yêu, gia đình, vợ con, với đọa đày trước mắt. Bộ đội ghìm súng đứng hai bên sẵn sàng bắn vào tù nào dám phản ứng. Mẫn biết, nhưng hoảng loạn trong tuyệt vọng, bất ngờ hét lớn: “Bắn đi. Bắn đi…” rồi lao mình xuống dòng sông đêm. Súng nổ. Những tràng AK vang dội. Mọi khẩu súng khác đều hướng vào tù sợ bạo loạn. Chuyện vừa xảy ra của Mẫn, với chuyện về cây ổi xá lị, rơi lại phía sau lưng. Tù bị đẩy nhanh về phía trước. Con quái vật khổng lồ đang há mõm thật lớn nuốt vội vàng đám tù! Ngậm miệng, rồi vẫy sóng xa bờ. Tù chen chúc nhau trong hầm tàu. Hầm tàu là một hộp sắt vuông vức, rộng như một hội trường lớn, vách bằng thép dày, han rĩ màu nâu đỏ. Về phía đuôi tàu, có một hành lang duy nhất với song sắt thưa ở trên cao, thông vào buồng lái và boong tàu, nơi đó mấy ông bộ đội đứng ghìm súng nhìn xuống. Những cửa liên lạc với hầm tàu bên dưới đều đóng kín. Im ỉm. Cả 2000 tù cộng với hành trang, chêm chặt như nêm. Thế ngồi co cụm, không đủ chỗ để duỗi chân. Có người ngồi trên sàn, có người ngồi trên túi quần áo, có người đứng để dễ thở hơn, nhưng nằm thì không đủ chỗ. Ngồi xuống sàn thì đầu gối gấp lại chân sẽ bị tê rất nhanh. Ngồi trên túi áo quần có chút thư giãn hơn nhưng cơ thể thì nghiêng ngửa không có điểm tựa. Có người thử tựa lưng vào nhau nhưng cũng không thể chịu đựng lâu. Đứng thì cũng không thể đứng hoài một chỗ không cử động. Cứ thế, hết ngồi lại đứng, hết đứng lại ngồi, tại một chỗ cố định. Người nào có nhu cầu tiêu tiểu thì cả một cực hình. Cái đệ tứ khoái của con người, giờ đây là một tai họa. Phải chen chân vào chỗ người khác ngồi, để lần từng bước, đi về hướng mấy cái buồng xí ở trung tâm hầm tàu. Nơi đó được che sơ sài, tạm bợ bằng vải bạt, chứa một số thùng phuy cắt ngắn, hai miếng gỗ đậy lên mặt có chừa một khe trống ở giữa. Nhiều người phùng mang trợn mắt, không còn ai giữ gìn ngôn ngữ trong tình huống nầy. Loại tử tế nhất là: đừng đạp lên đầu con nghe cha nội! Khi càng âu lo về nhu cầu tiêu tiểu thì cơ thể hình như bị kích thích ngược lại. Cho nên nhu cầu sẽ nhiều hơn! Cố gắng ngồi yên thì có chút dễ chịu, nhưng đến khi buồn tiểu không thể nín được nữa thì cũng không thể đứng thẳng người lên được, vì bọng đái căng cứng, đau đớn. Ráng cố gắng lần mò đến được buồng xí thì mãi mười, mười lăm phút cũng không thể tiểu ra được, trong lúc cả hàng dài chờ đợi phía sau với đầy đủ điệu bộ, ngôn ngữ thô lỗ nhất! Khi xuống tàu phải theo hướng dẫn của mấy ông cán bộ, đã chia thành từng ô cho từng đơn vị tù. Những đơn vị tù nào phải chịu vòng quanh khu mấy cái buồng xí thì quả thật là đại họa! Con tàu đang đi về đâu? Với ba ngày lương khô thì có thể đi về đâu? Ánh nắng buổi sáng chiếu lọt vài tia lẻ loi vào hầm tàu như những sợi chỉ lân tinh đầy sinh động. Mấy điểm sáng hình bầu dục rơi trên đám tù hay đọng trên vách hầm tàu, thu hút nhiều suy diễn về hướng đi của con tàu. Tù loại hải quân có thể ước tính thời gian tàu còn ở trong sông hay đã ra biển, đi về hướng nào, thời gian bao lâu. Ra Bắc, Côn Đảo hay Phú Quốc? Những khuôn mặt hốc hác, bơ thờ. Những đôi mắt của loài thú bị đông lạnh, sâu trũng, thâm quầng. Tuyệt vọng. Đã biết là tù, đi đâu cũng là tù, đến đâu cũng là tù, thế giới của tù thì nơi nào cũng như nhau, bị hăm dọa, đày ải giống nhau, nhưng tù vẫn mong được ra Côn Đảo hoặc Phú Quốc hơn là đi Bắc, dù Côn Đảo đã nổi tiếng trong lịch sử. Cái bén nhạy của tù cho biết dù là Côn Đảo vẫn còn hơn thiên đường ở miền Bắc. Trong lúc nầy, chỉ cần một địa danh nào đó còn liên hệ với miền Nam cũng là điểm bám víu trong bước khốn cùng! Buổi chiều, khi thấy những giọt nắng bò dần trên vách trái về hướng mũi tàu, tù hy vọng sẽ được ra Côn Đảo hay Phú Quốc. Cũng buổi chiều, quang cảnh trung tâm của hầm tàu bắt đầu đổi khác. Khu vực quanh các buồng xí dần dần trở nên mất trật tự. Những dòng tù hướng về đó vì nhu cầu khẩn thiết, đều bị cự tuyệt, phản đối. Đám tù quanh các buồng xí la ó, kêu gào. Những tù đã giải quyết xong nhu cầu, trên đường về trở lại, cũng bị la ó, phản đối. Phân người và nước tiểu tràn dần ra, chảy ướt chung quanh. Những đôi bàn chân tù đến đó hoặc trở về đều ướt đẫm. Cứ thế. Cứ thế. Nhầy nhụa từ từ lan dần khắp nơi. Tiếng văng tục, kêu gào, la ó từ trung tâm hầm tàu cũng lan dần, lớn dần ra chung quanh. Mấy ông bộ đội ở trên cao vẫn ghìm súng nhìn xuống. Họ điếc đặc như những bức tượng! Người lái tàu chỉ có nhiệm vụ lái con tàu. Người cầm súng canh giữ chỉ có nhiệm vụ canh giữ. Không có ai giải quyết chuyện dưới hầm tàu hoặc đã được quyết định từ trên với ông hạm trưởng rồi (?) Tất cả đều im lặng như những con người máy. Tù chưởi rủa: tù nghe. Tù kêu gào, la ó: tù khô hơi tắc tiếng. Những con người máy vẫn đứng ở trên cao với khẩu súng! Đám tù vẫn kêu gào từ địa ngục. Địa ngục không thể cao dần lên. Địa ngục chỉ có chiều sâu. Thăm thẳm. Chiều sâu không bao giờ thấy đáy! Sức khỏe cạn kiệt. Phải vật lộn với nhầy nhụa hôi thối mấy ngày đêm, đôi bàn tay không thể còn sạch nhưng không có nước để rửa. Chính mình phải sợ hãi đôi bàn tay của mình như của một người xa lạ! Đầu óc tù đã hoảng loạn hoặc đã thành đá, thành băng. Lũ tù là lũ heo đang ở trong chuồng, không phải là loại heo nuôi theo công nghiệp, nhưng là loại heo nuôi để lấy phân ở các chuồng vùng quê! Không cần biết nơi nào sẽ đến. Côn Đảo, Phú Quốc hay thiên đường miền Bắc, nơi nào cũng được. Phải đến. Con tàu phải dừng lại trước khi mọi người đi vào hôn mê. Số tù di chuyển cùng xe với Nghiêm có chút may mắn hơn là được sắp xếp ở cạnh bên hông tàu, gần phía sau cùng. Độ nhầy nhụa, ướt át ít hơn. Dù vậy, mọi người đều phải ngồi lên túi áo quần và bên dưới đã bắt đầu ngấm nước! Khi không còn sức để gìn giữ, mọi việc đều phải buông trôi. Không còn sức để lên tiếng, không còn nghe tiếng sóng vỗ bên ngoài, chỉ có tiếng máy tàu nổ đều đều ghê khiếp. Tiếng máy như lớn dần, lớn dần. Có phải tiếng T 54, tiếng M 113 hay là M 48 đang chồm tới, sắp cán qua người… trong hôn mê, hoảng loạn! Lượng nhầy nhụa và nước lại từ từ dâng lên, dâng lên gần đến mắt cá chân. Rồi lại từ từ rút dần xuống chỉ để lại nhớp nháp, nhèm nhẹp. Thì ra chiếc tàu đang chuyển mình! Nghiêng qua, đảo lại. Hai bên hông hầm tàu cứ như triều dâng, lúc đầy lúc vơi. Lại đến lúc mấy chiếc quạt khổng lồ đang hút gió từ đại dương, thổi vào hầm tàu, bỗng im bặt! Không còn dưỡng khí, tù ngạt thở. Không khí như đặc lại. Mọi người đang lịm đi. Một số tù nào đó ở phía đuôi tàu, đang cố gắng kêu gào lần cuối cùng. Họ đang nâng một xác người trần truồng, mềm nhão, lên khỏi đầu, như đang dâng một con vật trong lễ tế thần. Ở hành lang phía trên kia, vẫn những bức tượng cầm súng. Điếc đặc! Hơi người đọng lại chảy thành dòng trên vách sắt. Khi ngạt thở con người thường dướn cổ dài ra hoặc chúi mũi vào góc kẹt tìm chút sinh khí. Hình ảnh con người trong các lò hơi ngạt thời Đức Quốc Xã đang bắt đầu. Trong giây phút tử thần xuất hiện thì cánh cửa sắt khổng lồ trước mũi tàu từ từ mở ra. Một mảnh trời trong xanh cứ lớn dần, lớn dần. Luồng sinh khí tràn vào. Biển nước trong xanh, trời trong xanh, không khí trong lành. Giây phút cõi thiên đường mở cửa! Những chiếc quạt lớn để thông gió trong hầm tàu ngưng lại, không phải vì lý do kỹ thuật khi mở cửa con tàu![1] Chắc ông hạm trưởng đã nhận được lệnh trên, làm tù hoàn toàn kiệt sức, để tránh mọi phản ứng tuyệt vọng của tù khi đổ bộ lên bờ (?) Tù dắt dìu nhau lội xuống biển. Tầm nước ngang ngực. Hành trang nổi lềnh bềnh trên sóng nước. Là không khí. Là nước. Là gió. Chưa bao giờ, tuyệt đối chưa bao giờ, tù cảm thấy tuyệt vời như vậy! Không một ai có thể hình dung ra được niềm hạnh phúc lớn lao nầy! Nhìn lại, đây không phải là 2000 tù đang đổ bộ lên đảo! Là một đàn chim biển bị ô nhiễm sinh thái, do một chiếc tàu dầu khổng lồ nào đó bị tai nạn gây ra! Tù lần lượt về các trại, trong liên trại tù binh Cộng Sản trước kia. Đơn vị tù bọn Nghiêm vào trại 11, liên trại 3. Hệ thống nước cũ trong trại đã bị phá hỏng. Mỗi người chỉ được cấp phát một ca nước làm vệ sinh cá nhân. Hành trang ba ngày đêm ướt đẫm không thể nào giặt, đành trải ra phơi. Không đủ chỗ, tù phải phơi cả trên nền cát. Cả trại tù như không phải của con người, là mùi vị, hang ổ của một loài thú ăn thịt sống lâu ngày! Vào buổi chiều, ba ngày sau, bọn Nghiêm mới được dẫn ra ngoài tắm giặt. Đám tù vác toàn bộ hành trang đi trên con đường mòn, khúc khuỷu hơn hai cây số để ra biển. Vài căn nhà lá lụp xụp bên đường đã đốt hương đèn trên bàn thờ. Một bà mẹ quê đang ngồi làm thịt gà bên lu nước, cạnh bụi chuối. Mấy em bé đã mặc đồ mới, ngơ ngác nhìn tù. Ai đó trong đám tù mới sực nhớ ra, lên tiếng: – Ba mươi Tết, chuẩn bị đón ông bà. Một người khác tiếp: – Không biết người Cộng Sản có ông bà không nhỉ? _____ [1] Người viết đã phối kiểm với vài vị Sĩ Quan Hải Quân, được biết, không có lý do kỹ thuật nào bắt buộc khi mở cửa tàu phải tắt quạt thông gió.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:08:53 GMT 9
Hồ Phú Bông Những chuyện chưa quên (phần 2) Ảnh minh họa. Nguồn: internet Phần 2: Giết trâu ở trại NămTiếp theo phần 1 Những ngày đầu ở trại mới nầy thật bận rộn. Một trại tù cũ bị bỏ hoang phế lâu ngày nằm nơi hang hốc hiểm trở, trong khu vực nông trường trà Trần Phú, tỉnh Hoàng Liên Sơn, nay số tù mới từ miền Nam ra, phải dọn dẹp, sửa soạn lại hang ổ. Dù phải trải qua cuộc hành trình dài, căng thẳng và mệt mỏi nhưng tù không được nghỉ xả hơi. Công việc gì cũng chẳng giống công việc gì nhưng cứ như con rối. Phải múa. Phải quay. Kinh nghiệm nầy tù đã học được ở các trại trong Nam rồi. Đây là thời gian họ muốn theo dõi phản ứng của tù. Ngày nào cũng có một số tù bị kêu đi làm việc. Đi làm việc hay làm việc với cán bộ là danh từ họ dùng khi kêu một người ra hỏi cung, để điều tra một việc gì, hơn là tìm hiểu thêm lý lịch. Vì đã được tuyển chọn ra đây rồi thì lý lịch họ đã biết rõ từng người cho nên cái còn lại là họ muốn tìm cách đe dọa hoặc mua chuộc những người nầy để làm ăng ten. Một mũi tên bắn cả hai con chim. Một người cứ nhiều lần ra gặp riêng cán bộ thì các bạn tù khác dễ nghi ngờ. Khi bị nghi ngờ thì người đó bị đẩy vào chỗ cô đơn, từ chỗ cô đơn nầy họ gây chút tác động tâm lý nữa thì dễ moi được tin tức sinh hoạt của anh em tù khác. Một tuần lễ đã trôi qua. Mọi sắp xếp chỗ ăn, ở và làm cỏ coi như tạm xong. Tù được thông báo là sáng mai sẽ được học tập chính trị. Cán bộ ở Trung Đoàn xuống dạy. Mọi người phải mặc sạch sẽ, đem theo tập vở để ghi chép. Cán bộ làm như rất quan trọng, tù cũng làm như nghe rất chăm chỉ nhưng về lán lại bàn tán với nhau về con trâu già do hai người lán 4 dắt về trại tối hôm qua. Một tụ điểm thuốc lào gần đầu hồi của lán, khá đông người, được hình thành mau chóng. Vì vừa ở trong Nam ra, nên lượng thuốc lào còn khá nhiều. Tù chia nhau từng bi thuốc. Những chiếc điếu cầy ré lên liên tục. Một vài tù hút ếm tất cả khói vào trong buồng phổi, đang tựa ngửa, ngất ngưởng. Có tù khen và có tù bàn góp: – Tôi mới nhận được quà của gia đình hôm trước, thì hôm sau bị đưa ra đây. Thuốc lào Cái Sắn đó. – Thuốc ba số 8 nầy đằm hơn nhiều. Giọng một tù khác ở xa, chợt chen vào: – Một số 8 đã khẳm rồi em ạ. Lại đòi tới ba. Tù hiểu người ấy đang nhắc tới cái còng số 8, nhưng ngần ngại, nên không có ai lên tiếng tiếp. Rồi câu chuyện xoay qua con trâu già. Thế kể: – Hôm qua lẽ ra về sớm hơn, nhưng con trâu già quá đi không nổi! – Ông quản giáo ra lệnh lán 4 cử một tổ làm thịt trâu vào sáng mai. Cường cho biết như vậy. Hải chen vô: – Hôm qua tôi đã nghe lán của Toàn Tái phụ trách mổ trâu. Anh chàng nầy còn hăng hái lắm. Thiện chậm rãi góp thêm chuyện: – Tôi biết. Hắn cùng trại với tôi ở trong Nam. Thành phần tiên tiến đó. Đệ tử của nó cũng ra đây. Thầy trò nó lúc nào cũng được biểu dương ở Tiểu Đoàn cả. – Thế thì vui mừng đi anh em, chúng ta đang sống với những con người tiên tiến, chắc chắn sẽ mau tiến bộ hơn nữa. Chúng ta đã nhờ họ, nên tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc một lèo từ Nam ra Bắc. Mọi người quay lại nhìn, lại cái anh chàng nầy. Anh chàng thường nhảy xổm vào câu chuyện của người khác bằng những câu nói rất lạ tai và rất tỉnh bơ! Chuyện thịt trâu rất mới mẻ với cả trại tù nên câu chuyện về con trâu già sắp bị làm thịt được bàn tán nhiều. Bố Thục khá rành về cách ăn thịt trâu. Bố là người miền Bắc, trước kia cũng ở một vùng nào đó ngoài nầy. Bố di cư năm 54 và nay lại hồi hương trong cái thế chẳng đặng đừng. Bố là người già nhất lán 8. Bố Thục bảo ăn thịt trâu phải có rau tía tô hoặc kinh giới và nhiều gia vị mới giảm bớt mùi thịt trâu. Tù chỉ nghe vậy và biết vậy thôi. Đa số tù chưa bao giờ biết ăn thịt trâu. Anh chàng ở góc nhà lại lên tiếng tiếp: – Học ăn, học nói… Cách Mạng đang dạy anh em mình học ăn trước! Học làm con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa là phải như vậy đó! Khoảng hơn 300 tù tụ tập xuống hội trường, vì hội trường nằm cạnh dòng suối dưới chân sườn đồi. Mấy ông cán bộ chỉ huy trại và các quản giáo đều mặc gọn sạch hơn ngày thường. Ông Hoàng, Thượng Úy trại phó, hôm nay tinh tươm hơn hết. Ông đứng trên bục giảng với cặp quân hàm mới, đỏ chói. Dáng dấp khá cao lớn, vững chãi. Ông lặp đi lặp lại nhiều lần về qui định ở lớp học và giờ thảo luận ở lán. Giọng oang oang và cách nói cũng trơn tru hơn những ông khác. Nhưng dù có muốn làm gì chăng nữa, ông cũng không thể nào tạo được sự uy nghiêm mà ông thích có. Hàm răng vẩu và cáu bẩn của ông đã hại ông. Cũng từ hôm nay ông mang biệt danh ông răng vẩu. Ông răng vẩu quán triệt với tù xong, tiếp: – Tôi đề nghị anh nào quản ca, nên đây cầm càng hát một bài. Các anh phải hát cho thật khí thế, nếu không, thì phải hát nại nhiều nần. Ông răng vẩu vừa dứt lời thì Toàn Tái đứng lên. Tù có cảm tưởng Toàn Tái sợ có người khác đứng lên nhanh hơn anh ta. Cứ tưởng Toàn Tái bắt giọng nhưng Toàn Tái lại nói: – Chúng ta vừa nghe cán bộ quán triệt qui định của lớp học. Trong tinh thần hồ hởi, phấn khởi đó xin anh nào có khả năng văn nghệ, lên đây cầm càng hát một bài. Nếu không nhìn thấy, mà chỉ nghe giọng nói thì có thể tưởng rằng một ông cán bộ khác vừa phụ họa với ông răng vẩu. Trong đám tù có vài người đề nghị. Tuyển có chút phân vân rồi đứng lên nói: – Tôi xin phép bắt giọng bài Tiến Về Sài Gòn! Tuyển vừa dứt lời thì ông răng vẩu cản lại ngay: – Các anh “nàm thao” mà tiến về Sài Gòn được? Các anh phải hát như có Bác trong ngày vui đại thắng. Trong đám tù, chắc chắn có người hát như có Bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán, vì hắn đang làm cả nước điên khùng! Hội trường đang vang tiếng hát thì ông cán bộ cấp Trung Đoàn đến. Ông răng vẩu lại lên giới thiệu. Cũng chẳng khác gì trong Nam, tù chỉ biết là cán bộ cấp Trung Đoàn chứ không bao giờ được nghe giới thiệu tên họ, cấp bậc hay chút tiểu sử thu gọn của thuyết trình viên, nhưng quân hàm của ông là Trung Tá. Cũng cái xắc cốt lòng thòng bên hông, khi lên bục giảng ông Trung Tá lục soạn ra một xấp giấy. Ông bắt đầu bài lên lớp bằng cách nhận xét khi nghe tù hát: – Đứng bên ngoài, tôi nghe các anh hát rất có khí thế nhưng nếu các anh hát nớn hơn nữa thì mới biểu nộ tinh thần hồ hởi phấn khởi tham gia học tập chính trị được… Ngừng một lát ông tiếp: – Hôm nay tôi sẽ nên nớp với các anh bài chính sách khoan hồng của Cách Mạng nà trước sau như một. Lại bài ca khí thế hồ hởi, phấn khởi… đi ở tù! Bài học mà mỗi lần đến trại mới đều phải nghe. Bài học của những danh từ quái đản. Bài học mà họ dùng để giải thích cho cái thông cáo mười ngày tập trung cải tạo của chính phủ cho đến nay đã hơn ba năm trôi qua nhưng vẫn trước sau như một! Khi tù đang học tập chính trị tại hội trường thì một tổ năm người của lán 4 đang bắt đầu làm thịt con trâu già bên ngoài trại, bên dòng suối, gần nhà bếp bộ chỉ huy. Cứ mỗi lần có học tập chính trị là mỗi lần họ cho làm thịt trâu hoặc thịt heo mà họ gọi là ăn tươi. Khẩu phần ăn hôm đó có chút thay đổi. Hằng ngày thì ăn bo bo, sắn, bắp hột hay khoai lang nhưng có học tập chính trị thì thay vào đó tù được khoảng một chén cơm trắng với chút thịt ăn tươi! Mới tờ mờ sáng vệ binh đã vào kêu tiểu tổ giết trâu đi làm việc. Ra đến nơi đã thấy mấy ông hậu cần đứng ở đấy. Sau khi nghe ông cán bộ hậu cần lên lớp riêng về quy định khi giết trâu (với họ thì cái gì cũng phải quán triệt và qui định cả!) tiểu tổ giết trâu bắt đầu công việc. Một số lá chuối xanh với dao, thúng đã có sẵn. Trong màn sương mỏng nơi núi rừng, với ánh sáng nhợt nhạt xanh xao của buổi sáng, da con trâu già ốm yếu, trông mốc thếch. Hai mảng hông sâu hoắm như đã thiếu thực phẩm và nước uống cả đêm qua. Sợi dây mũi của con trâu già được buộc vào một gốc cây khá lớn. Con trâu nhìn đám người đầy nghi ngại nhưng phản ứng chậm chạp. Tiểu tổ giết trâu thì ngù ngờ không biết việc, ngoại trừ anh Tỉnh có đôi chút tự tin hơn. Ông hậu cần muốn dắt con trâu đến gần mé nước để tiện việc vệ sinh khi rả thịt. Anh Tỉnh tiến lại phía con trâu tìm cách mở sợi dây mũi thì con trâu bắt đầu phản ứng. Loài vật trước khi bị giết như cũng có được linh tính. Con trâu già không còn đứng yên. Nó lùi lại trong thế thủ. Tuy con trâu không có phản ứng nhanh nhẹn nhưng cho biết nó sẽ dùng tất cả sức lực để tự vệ trước kẻ thù. Đôi sừng to và dài đảo qua đảo lại dù đang bị sợi dây mũi vướng víu khó khăn. Ông hậu cần chỉ anh Tỉnh và lên tiếng: – Cái anh kia, tìm cách nắm cho được sợi thừng và giật giật cái mũi cho thật đau thì con trâu phải khuất phục thôi. Anh Tỉnh tiến lại gần hơn và nói như phân trần: – Tao cũng đâu có muốn… Con trâu thở khì khì và huơ sừng về phía anh. Anh Tỉnh lùi lại. Ông hậu cần thấy vậy nên chỉ vào Tươi ra lệnh: – Cái anh nầy, anh vòng ra phía sau con trâu để nó quay đầu nại phản ứng với anh… Đánh nừa nó và anh kia nhớ tranh thủ nắm sợi thừng nhé… Con trâu bị đánh lừa. Anh Tỉnh thừa dịp nắm được sợi dây đã buộc vào mũi con trâu giựt giựt và cố thu ngắn sợi dây lại để dễ khống chế con vật. Con trâu già đau đớn, đứng yên thở phì phì. Tù còn lại đem thêm dây thừng tìm cách buộc vào hai sừng và cổ con trâu già. Đám tù cố gắng kéo con trâu về gần mé nước. Con trâu nhất định không xê dịch. Mấy ông bộ đội dùng roi đập lên mình nó. Vết roi hằn lên mông, mũi con trâu máu đã đổ từng giọt nhưng con trâu vẫn bất động. Đôi mắt con trâu đã đỏ ngầu, hai dòng nước mắt lăn dài hai bên má. Cuối cùng ông cán bộ hậu cần thay đổi ý định, ông cho buộc cổ con trâu già vào gốc cây, tại chỗ. Anh Tỉnh được giao cho một cái búa lớn và ông hậu cần hướng dẫn anh dùng búa đập vào trán con trâu, nơi giao điểm của hai cái sừng. Đứng nhìn con trâu đã bị buộc khá chặt nơi gốc cây, nhất là với đôi mắt đẫm nước mắt, anh biết mình không thể làm được. Anh từ chối với lý do anh sợ và đề nghị nên lấy lá chuối che đôi mắt con trâu lại. Cả nhóm tù đều từ chối cách giết một con trâu với phương pháp ghê rợn như thế nầy nhưng không ai dám thẳng thắn lên tiếng. Một trong số các ông bộ đội giằng lấy cái búa trên tay anh Tỉnh và ra tay. Mấy nhát búa đập thật mạnh lên trán con trâu cái già nhưng con trâu vẫn không quỵ xuống. Đôi mắt trâu lại mở lớn, đầy máu. Ông cán bộ hậu cần cũng ngạc nhiên. Ông bộ đội ra tay tiếp… Tàn lực của con trâu vùng lên. Sợi dây buộc mũi sứt ra. Máu trào ra từ nơi mũi. Con trâu nhảy lồng lên và bị các sợi dây buộc quanh cổ kìm giữ lại, cả tàng cây rung mạnh. Con trâu cái oằn oại ngạt thở. Máu từ trong miệng trâu phun ra tung tóe. Nhưng con trâu cái già bị buộc chặt vào thân cây vẫn còn đứng đó dù toàn bộ thần kinh đã tê liệt. Không thể lường được phản ứng cuối cùng của con trâu nên ông cán bộ hậu cần chạy nhanh về lấy cây súng AK. Cũng ngay vị trí nơi búa đập, mấy phát đạn vang lên. Óc con trâu vở toang. Thân hình con trâu già đổ xuống nhưng cái đầu và đôi sừng bị dây giữ lại, làm cái mũi hếch lên, đầy bong bóng máu. Đám tù vô cùng xúc động nhưng các ông cán bộ và vệ binh không lộ vẻ gì đặc biệt. Công việc kế tiếp của anh Tỉnh là phải cắt một mảng da gần nơi ngực của con trâu rồi dùng một ống nứa dài đâm thẳng vào tim để lấy cho được huyết tươi còn đang nóng hứng vào một cái soong, đây là loại đồ nghề lấy huyết trâu của người thiểu số! Lúc nầy có thêm mấy ông bộ đội chạy đến, ông nào cũng cầm sẵn trên tay một cái chén. Họ múc từng chén huyết trâu đầy bọt, có người pha thêm chút rượu trắng, có người không cần. Họ chia nhau uống rất ngon lành trước sự ngỡ ngàng của đám tù! Đảng đã mô tả tù là lũ ăn gan người, uống máu người không biết tanh mà chẳng có ai nhìn thấy nhưng các ông cán bộ và bộ đội đang uống huyết tươi, còn nóng, của con trâu cái già là chuyện có thật đang diễn ra trước mắt đám tù! Khi bụng của con trâu cái già được mổ banh ra, anh Tỉnh nhìn thấy một cái bọc được gọi là cái hà nàm[1] khoảng vài tháng thì ông cán bộ hậu cần mừng lắm. Ông cho người đem ngay về nhà bếp bộ chỉ huy trại. Toán tù bàng hoàng. Không hiểu con trâu cái già đã chiến đấu với tử thần bằng tất cả sức lực của nó là vì chính bản thân nó hay vì cái bào thai trong bụng? Sự chiến đấu của con trâu cái già là như thế! Còn những người tù? Toán tù mổ trâu bị hối thúc làm cật lực, vì đã trễ. Hai toán tù từ trại khác cũng đã quang thúng tới chia thịt. Đám tù lớ ngớ nhìn nhau nhưng không ai dám lên tiếng tìm hiểu. Phần thịt ngon dành cho bộ chỉ huy. Phần còn lại chia đều cho cả ba trại. Trại làm thịt trâu được giữ lại bộ lòng và da, đó là thỏa thuận giữa các ông cán bộ hậu cần với nhau. Dù hoàn toàn im lặng khi gặp nhau cũng như khi phân chia thịt nhưng lúc chia tay tù cũng biết được đó là tù từ trại 2 và trại 6, cùng một liên trại, cũng từ miền Nam mới ra. Khi nhận phần ăn tối, cả trại đều biết chuyện con trâu cái già. Miếng thịt trâu ngang ngang nơi cỗ họng của tù đói. Miếng thịt trâu lan man trong bóng đêm. Những đêm đen trên đất Bắc. _____ [1] bào thai
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:10:37 GMT 9
Hồ Phú Bông Phần 3: Trại Khe TốiẢnh: Dãy Hoàng Liên Sơn. Nguồn: travelvietnamtour.blogspot.com Tiếp theo phần 1 và phần 2 Áp Tết. Trời se lạnh. Những cơn mưa phùn thoa mỡ trên các lối đi. Tù trợt té lạch bạch. Tù trẻ còn gượng đứng dậy, nhưng tù già phải có người đỡ. Tù dặn dò nhau trước: vác cây vầu như thế nào để khi trợt chân thì quăng nó ra xa dù lăn xuống suối bèn không thì cũng gãy cổ hoặc gãy chân, vì vầu vừa nặng, vừa dài đến bảy tám mét lại cong, nên rất khó giữ thăng bằng. Bùn đất không chỉ trên quần áo. Bùn trên mặt. Trên tóc. Trên khắp người. Cá lóc tẩm bùn, nướng tên lửa rơm, khi chín lột ra, là một món ăn tuyệt vời của người miền Nam, nhưng tù đói tẩm bùn từ miền Nam ra, lại ăn món điểm tâm: một giờ lao động Xã Hội Chủ Nghĩa sáng Chúa nhật! Ông Thiên, trật tự trại, thông báo tối qua, sáng mai, Chúa nhật, toàn trại có một giờ lao động Xã Hội Chủ Nghĩa. Mọi người đều phải tham dự, chỉ trừ những ai được cán bộ y tế cho nghỉ bệnh. Công việc là vô rừng vầu, đã có các đội đốn sẵn chất thành đống, vác một cây vầu ra đường ô tô cách trại khoảng 2 cây số. Vầu là họ nhà tre, giống như tre Mạnh Tông ở miền Nam. To. Dài. Ruột gần như đặc. Vầu càng non càng nặng, vì chứa nhiều nước. Một cây vầu khoảng 25 đến 30 ký. Ông cán bộ quản giáo lên lớp trước: – Các anh mà cũng được nao động Xã Hội Chủ Nghĩa nà một vinh dự nắm. Vì trước đây nao động Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ dành cho người dân nương thiện để góp phần vào xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội mà thôi. Như vậy, chính ông quản giáo đã chỉ cho tù biết, tù là loại bất lương và Chủ Nghĩa Xã Hội lại cần đến công sức tù đói và bất lương để xây dựng! Đây là trại Khe Tối thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trại nằm sâu trong một thung lũng hẹp. Sườn đồi có độ dốc thật đứng. Từ lộ chính đi vào phải qua một cây cầu khỉ, có suối khá lớn bên dưới. Đi trên đường lớn, nếu không tinh ý thì không nhận ra. Cây cầu thật nhỏ nhưng một trại tù thật lớn bên trong. Qua cây cầu khỉ là con đường độc đạo, rộng khoảng một mét, chạy viền theo lưng chừng đồi. Một đập nước đắp cao ngăn dòng suối nhỏ nên khu lòng chảo biến thành một hồ nước thật lớn. Triền đồi hai bên hồ còn trơ những thân cây khô mục, cỏ mọc um tùm cao quá đầu người, chứng tỏ đây là một trại tù cũ đã hoang phế, nay lại đón tù mới. Gần ba trăm người, lũ lượt bị gậy đi vào cổng. Hai lớp hàng rào nứa đã xiêu vẹo. Trong sách giáo khoa cấp tiểu học, có bài tả về những ổ rơm trong mùa lạnh ở miền Bắc, thì lần đầu tiên, tù từ miền Nam được biết đến thế nào là ổ rơm. Một số lán đã xiêu vẹo, đổ nát, nên tù không đủ chỗ ở. Nghiêm thuộc trong nhóm được chia cho một phần tư hội trường, và ngủ trong ổ rơm. Nền đất hang hốc, ẩm mốc, bốc lên một mùi ngai ngái. Rơm cũng không có đủ cho nên chỉ trải ra một lớp thật mỏng rồi mỗi người đem đồ cá nhân ra trải lên làm chỗ nằm. Đám tù thật mệt mỏi nên chẳng mấy chốc đã thiếp vào giấc ngủ. Nhưng giấc ngủ thì chập chờn vì cơn đói lại hành hạ. Có tù đang lục soạn lại hành trang, moi móc chút sắn “đánh” được đêm qua ở trại tù cũ. Có tù khật khừng bên điếu thuốc lào. Tiêu với lấy cây đàn thùng tự làm của Nghiêm, so dây, rồi đánh nhịp rời một tình khúc. Nhiều tù đang nằm im, nhiều tù vắt tay lên trán. Tiếng đàn, từng giọt, từng giọt, rơi vào mênh mông. Tiếng suối róc rách đâu đó, chảy len lỏi qua những riềm lá mục, âm vang giữa hoàng hôn của núi rừng tĩnh mịch. Tù không có án nên không biết ngày về. Công tác đầu tiên là dựng lại trại. Đội làm nền. Đội vào rừng, đốn dang, chặt gỗ. Đội chặt dang thành từng khúc ngắn, dài độ bốn tấc, rồi đập dập, tách ra thành miếng, đan lại thành từng tấm lớn làm tranh để lợp nhà. Công việc tất bật vì phải hoàn thành để kịp đón năm mới, để khỏi bị ướt lạnh vì những cơn mưa phùn. Chỉ ba tuần nữa là Tết. Ba tuần nầy bên ngoài xã hội rất nhộn nhịp. Vất vả. Nghiêm lại nghĩ về Hoàng. Cô nữ sinh chưa kịp rời mái trường đã bị ném thẳng vào biến cố trọng đại của xã hội, không một xu dính túi, lại đèo bòng hai con còn thơ dại. Hoàng giờ nầy đang làm gì? Đang sửa soạn đón Tết hay vẫn những khoai sắn, nơi kinh tế mới? Con đâu rồi, đứa về nội, đứa về ngoại, hay mẹ con cùng ở với nhau đón Tết? Tết ngày xưa mất rồi. Tết đã trong mịt mờ, ký ức. Cứ mỗi lần di chuyển là mỗi lần tù nghĩ về gia đình, và mỗi lần xa gia đình hơn. Dao thì cùn mà cạnh dang rất sắc. Sắc như dao cạo. Chúng cứa một đường ngọt lịm, đến khi biết đau thì đã ăn sâu vào tới tận xương. Tù thiếu máu, nhưng máu tù lại rải rác khắp nơi. Nào muỗi, nào vắt, nào đỉa, nào rệp, nào ruồi vàng, nào con ve. Gặp ruồi vàng hoặc ve chích thì đau buốt tới tim. Máu tù đã thiếu nhưng rẻ. Máu tù đâu phải là máu người! Đảng đã dõng dạc lên lớp khi còn ở trong Nam: các anh nà tội đồ của dân tộc, các anh đã từng ăn gan người, uống máu người không biết tanh. Cách Mạng giải phóng các anh sớm, nếu không, các anh đem dâng cả vợ con các anh cho đế quốc Mỹ để đổi nấy bơ thừa, sữa cặn! Máu, cái quý nhất của sự sống thân xác, giờ đây là con số không. Con chó còn để giữ nhà hoặc ăn thịt, nhưng tù thì không là gì cả. Từ ông trại trưởng cho đến các ông quản giáo đều cùng một điệp khúc trong dịp Tết: thi đua nập công dâng Đảng. Năm mới thắng nợi mới. Tập trung cải tạo tốt, nao động tốt, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy trại để sớm được về đoàn tụ với gia đình. Tù nghe điệp khúc nầy để có được mấy miếng thịt trâu, mấy điếu thuốc, cục thuốc lào, một tí đường. Hồ hởi. Phấn khởi! Trên hội trường, ông Đại Úy trại trưởng không bao giờ xưng tên (nên tù đặt tên ông là “chín ngón”, vì một bàn tay của ông cụt mất một ngón) bắt đầu điệp khúc. Sau đó, ông nhìn khắp hội trường như tìm kiếm một điển hình quan trọng. Cuối cùng ông chỉ tay vào Việt, một tù trẻ gầy yếu, mang đôi kính dày cộm. Việt đứng dậy, gỡ mắt kiếng ra, vì nội qui bắt buộc bất cứ tù nào nói chuyện với cán bộ đều phải lấy kiếng xuống, để tỏ ý tôn trọng, nhưng thực ra họ rất dị ứng với những người đeo kiếng. Ông chín ngón hỏi Việt: – Tôi nghe nhiều người than là đói quá không cải tạo được, anh kia, trả lời tôi là có cải tạo được không? Có lẽ là do thói quen, sau khi đặt câu hỏi, ông chín ngón đặt tay mặt của ông lên khẩu súng lục ông đang đeo lủng lẳng bên hông. Việt, sĩ quan tình báo mới ra trường còn hiền lành đến ngây thơ. Khi lấy kiếng xuống, đôi mắt Việt như lồi ra, khuôn mặt thật khù khờ: – Tôi tên là Nguyễn Hoàng Việt, xin trả lời cán bộ: dạ, thưa được. Việt ngồi xuống. Ông cười. Nếp nhăn hai bên má ông sâu xuống. Lưỡng quyền nhô lên. Hàm răng vẫu, vàng khói thuốc, lộ rõ. Ông tiếp: – Anh Việt nói được, còn cả hội trường, ai nói không được, thử đưa tay lên coi nào? Hội trường im phăng phắc. Tù ngơ ngác nhìn nhau. Yên lặng. Yên lặng là đồng ý! Tù “đồng ý” là cải tạo được. Vì cải tạo là tư tưởng. Tư tưởng đâu có liên quan gì đói hay no. Trong truyện phim Cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn, đã được học tập, chiến sĩ Nam sốt đến 41 độ C nhưng nhờ tư tưởng vững mạnh nên vượt qua cả bệnh để tiếp tục chiến đấu cơ mà! Do vậy, bệnh tật đâu có ảnh hưởng gì đến tư tưởng! Đảng bảo được, thì dĩ nhiên là được. Đảng bảo khắc phục, thì dĩ nhiên là khắc phục. Đảng như không khí, trùm lấp khắp nơi. Đôi mắt của Đảng nhìn thấy tất cả. Xuyên qua bóng đêm. Thấy cả những giấc mơ của tù, kể cả trong việc đi ỉa, đi đái (vì nội quy trại bắt buộc, ban đêm tù ra khỏi chỗ ngủ, đều phải nói to vào bóng đêm: xin phép cán bộ tôi đi đái hay xin phép cán bộ tôi đi ỉa). Trong đêm thanh vắng, tĩnh mịch nơi núi rừng, cứ vang vang tiếng đi ỉa đàng nầy, tiếng đi đái đàng kia. Tiếng ỉa, đái rõ ràng thay vì dùng tiếng khác tế nhị, lịch sự. Loại ngôn ngữ thô lỗ nầy là hình thức giải tỏa những dồn nén, thay cho tiếng chưởi vào tai cán bộ. Vô tình, Đảng là bóng đêm đầy đe dọa, đang rình mò những việc riêng tư nhất của con người! Ông chín ngón trại trưởng, đại diện cho Đảng, cho nên ông thấy hết, ông biết hết. Nhân danh Đảng, ông bắt mọi người tuân hành. Rồi ông mở lại điệp khúc khoan hồng nhân đạo, yên tâm cải tạo tốt, đường lối chính sách trước sau như một (dù cái thông cáo tập trung cải tạo hai tuần của chính phủ Cộng Hòa Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vẫn còn đó). Có bao giờ ông Đại Úy trại trưởng chợt hỏi trong đêm: Đảng, Đảng là ai mà giờ nầy chính bản thân ông và đơn vị của ông cứ lận đận trong rừng sâu cả cuộc đời? Đố ai biết! Ông đang sống không vợ con, không nhà cửa. Ăn theo tiêu chuẩn, có chút cơm, nhưng cũng phải độn khoai, sắn dù ông đang có quyền, cái quyền trên ba trăm sinh mạng tù. Thứ quyền nhờ ông đang có khẩu súng bên hông. Còn ngoài ra ông không có được cái gì cả. Không có được đời sống của chính ông. Tù đói canh chừng ông hơn canh chừng một con cọp. Vì con cọp có thể vồ con mồi bất cứ lúc nào. Nhưng con cọp là con cọp, con cọp không thể là con người! Đảng là ông. Ông là con cọp. Con cọp thì làm sao khuất phục được con người? Người tù! Có thể ông biết nhưng bổn phận ông phải nói, ông cứ nói. Có thể ông không biết, vì ông tin là Đảng hoàn toàn sáng suốt. Ông Tố Hữu đã ca ngợi ba mươi năm đời ta có Đảng, Đảng đã cho ta sáng mắt, sáng lòng! Ông Tố Hữu là Nguyễn Du thứ hai của Việt Nam, các ông bên văn học ở Hà Nội nói vậy, chẳng lẽ họ sai? Nhưng nếu đúng, thì ông rất có công với Đảng! Chính Ủy nhìn ông. Các đồng chí nhìn ông. Ông phải đi tới! Ba ngày tết qua đi. Đời tù không mới như mùa xuân đang về. Rừng núi vây quanh vẫn đầy đe dọa và bí hiểm. Khẩu phần ăn ngày một tuột dốc. Sắn tươi không có, khoai bắp không có, đừng nói gì đến cơm! Liên tục là sắn. Sắn xắt lát đã lên màu xanh, loại sắn xắt lát nhưng không có nắng để phơi nên ẩm mốc và bốc mùi. Có lẽ heo cũng không muốn ăn nhưng giờ đây là khẩu phần chính của tù. Tiêu chuẩn được một chén. Lúc nhão. Lúc khô. Lúc đầy thêm một tí. Lúc vơi đi một tí. Muối cũng thiếu và được hòa tan trong nước, vì họ sợ tù tích trữ muối để trốn trại, nên phải dùng muỗng để chia. Rừng chung quanh không có gì để cải thiện. Những nơi khác còn có rau tàu bay, rau kim thất, nhưng ở đây chúng cũng không mọc lên nổi. Tù quơ quào cây lá hai bên đường khi đi lao động, như đàn bò bị lùa đi, nhưng mồm cứ ngoạm đại một chút lá xanh xanh bên đường. Đội rau xanh, bao nhiêu giống gieo xuống đều không thấy một cây nào mọc lên. Tại đất? Tại nước? Tại giống? Tại khí hậu? Hay tại tù? Tù không biết. Một vùng đất thật khắc nghiệt. Sức khỏe ngày một tồi tệ. Những bộ xương tù di động. Dật dờ! – Ngày mai ba đội đi dỡ sắn. Sáu giờ sáng sẽ rời trại! Chưa bao giờ tin đi lao động lại được tù hoan hỉ đón nhận như vậy. Những người bệnh nhẹ cũng đi. Đường thì chắc hẳn xa vì phải khởi hành sớm, nhưng cũng không cần đắn đo. Đi. Phải đi để kiếm sống. Kiếm chút gì bỏ vào bụng. Bụng đói đầu gối phải bò! Buổi tối, nằm suy nghĩ cách “chôm”. Những tù thân nhau đặt cả kế hoạch riêng. Phải chôm như thế nào để thoát được quản giáo. Thoát được vệ binh. Để đem được vô cổng trại! Những cây đòn để khiêng bằng dang loại lớn, được âm thầm đục xuyên các mắc bên trong, chỉ chừa một mắt đầu cùng. Những lát sắn xắt nhỏ, những củ sắn vừa phải, sẽ được lột vỏ, luồn vào, rồi dựng đứng cây đòn lên như không có chuyện gì xảy ra. Những mảnh niềng sắt nhỏ, mảnh thiếc các lon sữa bò, được mài bén và nhọn để sẵn sàng xắt nhỏ các củ sắn trong thời gian nhanh nhất. Đựng vào ống bương. Đựng vào bi đông. Đựng vào bình chứa nước. Đựng vào lon lọ. Đựng vào bất cứ thứ gì có thể đựng được. Chọn bộ quần áo nào dày và rộng, có may sẵn các túi bên trong. Thực sự thì bộ quần áo nào đối với tù bây giờ cũng rộng thùng thình cả, vì thân xác chỉ còn là da và xương. Cái quần được treo lủng lẳng trên hai xương hông nhờ sợi dây lưng buộc nơi bụng. Chưa bao giờ có một âm mưu chôm nào to lớn như vậy, đối với tù. Đó là thành quả của ba năm tù, từ Nam ra Bắc. Đó là kết quả của các lần biểu dương học tập tốt, lao động là quang vinh, mà Đảng muốn đào tạo. Từ những con người trí thức, lương thiện, đã trưởng thành trong nền giáo dục nhân bản, thoáng chốc đã trở thành con người mới: con người Xã Hội Chủ Nghĩa! Tù mừng rơn, khi giờ giải lao tại hiện trường dỡ sắn được cho kéo dài. Trời lại mưa bụi, sình lầy nhầy nhụa, nên quản giáo và vệ binh trú trong nhà dân. Giờ nghỉ trưa là thời điểm tù tranh thủ cật lực nhất. Như một đàn khỉ rừng tràn về phá nương rẫy! Tha hồ lựa sắn ngon mà ăn. Củ sắn lớn không ngon bằng củ sắn nho nhỏ, dài dài. Dòn và ngọt. Mọi kế hoạch chuẩn bị trong đêm qua đều được thực hiện chu đáo. Đường về thì nặng và xa nhưng tù khiêng chung với nhau tiếp tục bàn bạc để khi về đến kho giao nộp cho hậu cần không gặp trở ngại, sau đó tập họp vô cổng trại được an toàn. Toan tính, hồi hộp, âu lo, làm đường dài như ngắn lại. Khát nước cũng cắn răng chịu đựng, vì bi đông, ống bương, gô coóng, đều đầy ắp sắn. Quần áo cũng bớt rộng thùng thình, vì sắn lớn, sắn nhỏ, được cài cùng khắp. Trời lại mưa dai dẳng, ướt đẫm, giúp cho việc ngụy trang được dễ dàng hơn. Những trái tim bình tĩnh, chai lỳ trong chiến trận trước kia, giờ đây lại đập vang cả lồng ngực khi sắp vào đến kho hậu cần. Lúc nầy thì những cây đòn khiêng đã được dựng lên đây đó. Nơi thì hàng rào, nơi thì gốc cây. Tù dùng tay khiêng mấy chục ký sắn để cân nhập kho. Lệnh ông quản giáo là chờ tất cả nhập kho xong các đội mới được tập họp vô trại. Cho nên tù nhập kho trước quay ra đứng lớ ngớ, hoặc ngồi chuyện vãn với nhau, trông thật hiền lành. Khi tù cuối cùng cân xong thì ba ông quản giáo xuất hiện cùng một lúc, ra lệnh tập họp, khác với ngày thường khi vừa về đến trại thì các ông quản giáo đã biến mất và giao hai ông vệ binh tập họp, đếm rồi cho vô trại. Tù nhìn nhau hồi hộp, nhưng vẫn hy vọng. Hy vọng luôn luôn là cái đặc biệt nhất của con người trong những éo le gay cấn. Vẫn hy vọng. Hy vọng mấy ông quản giáo lên lớp ngắn, gọn, nhận xét lao động trong ngày, rồi cho vào trại. Nhưng tất cả vệ binh không lơ đễnh như hàng ngày. Vệ binh chia nhau đứng rải rác khắp nơi. Có vệ binh đứng gần một số đòn khiêng đang dựng ở bờ rào. Có vệ binh đứng gần ở những lùm bụi. Bình thường mặt ông quản giáo nào cũng mét mét, tai tái, nhưng hôm nay lạnh lùng hơn. Chì chiết hơn, dõng dạc: – Các anh nới rộng hàng. Trật tự trại cùng các đội trưởng, lục soát kỹ từng người. Không để sót bất cứ vật dụng gì. Tù xanh mặt. Đứng yên như phỗng. Ba ông quản giáo trực tiếp xét từng người một. Một ông vệ binh dời một cây đòn sắp ngã, ngạc nhiên vì cây đòn rất nặng. Cây đòn được hạ xuống. Những cây đòn được hạ xuống. Ông vệ binh gom hết lại. Những bi đông, những gô[1], những coóng[2], những ống bương, bình đựng nước chất thành đống. Từng tù một, dang tay, dạng chân như kiểm tra vũ khí. Vài tù đau lòng quá, co cượng, bị những cái tát xiểng liểng. Đám tù bây giờ mới thật sự thê thảm. Bầy khỉ rừng đã tung hoành nơi rẫy sắn, bây giờ đứng chết dí, vì những chiếc vòng kim cô của Phật Bà Quan Âm[3]! Những Tôn Ngộ Không ứa máu! Ông quản giáo mặt mét như chì. Lạnh lùng: – Tịch thu tất cả! Cho vào trại! Không tù nào nói với nhau câu nào. Tất cả yên lặng vào cổng. Mỗi tù đau khổ khác nhau. Riêng Nghiêm thì quặn thắt: mất cái bi đông màu ô liu có dòng chữ nổi QLVNCH đã được cấp phát từ ngày đầu vào lính. Ngày 13 tháng 7 năm 1968. Vào lán, Tiêu than: – Mất cái gô, hết đường ca coóng. Chỉ an ủi còn được cái nầy. Tiêu kéo trong đáy quần ra một bọc nhỏ chứa củ sắn khá dài, đã lột vỏ trắng phau, được Tiêu đeo tòn teng giữa háng. Hôm sau, ngoài hiện trường lao động, nghe hai ông vệ binh nói chuyện: – Kế hoạch cả đấy! Có thế chúng mình mới có sắn ngoài tiêu chuẩn chứ lỵ. ____ [1] Lon sữa hộp guigoz bằng nhôm được buộc sợi dây kẽm trên miệng để có thể móc trên một nhánh cây, đứng từ xa có thể đưa vào trong lửa để nấu. [2] Cái ca bằng nhôm được dùng như cái nồi , để nấu [3] Truyện Tây Du Ký
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:11:53 GMT 9
Hồ Phú Bông Phần 5: Con vàngẢnh minh họa. Nguồn: internet Tiếp theo phần 1, phần 2, phần 3 và phần 4 Con vàng bị trói gô bốn chân, đặt nằm gần cửa ra vào của bếp bộ chỉ huy trại. Tuần trước chủ nó đã bàn với đồng đội, để “chén” nó. “Chúng mình thiếu chất quá nên phải ‘chén’ nó thôi”. Mấy lời ngắn ngủi của chủ nó đã quyết định sinh mạng nó. Nhưng con vàng không hay biết. Con vàng vừa nhận được củ sắn khá lớn của chủ quăng xuống, nó ngoạm lấy và chạy ra ngoài nằm gặm. Thường ngày con vàng cũng nhận được thức ăn của nhiều người quăng xuống, cho nên đến giờ ăn, con vàng thường quanh quẩn ở nhà bếp của bộ chỉ huy. Chỉ thỉnh thoảng con vàng mới chạy vô nhà bếp trong trại tù và bếp chuồng heo. Thực phẩm không đủ, nhưng con vàng cũng không đói lắm. Mỗi người quăng xuống gầm bàn chút thức ăn thừa cũng đủ cho con vàng qua bữa. Con vàng đang tuổi lớn nên không mập, cũng không ốm lắm. Thường ngày con vàng quấn quít lấy chủ. Nó là niềm vui chung của bộ chỉ huy. Của thủ trưởng. Của quản giáo và vệ binh. Họ thường đùa giỡn với nó cho qua những buổi chiều tẻ nhạt nơi núi rừng. Con vàng cũng quen với đám tù, khi tù lao động quanh trại. Có những buổi sáng, khi tù đi lao động, trên đường ngang qua khung, con vàng đứng trên cao nhìn xuống nhưng không bao giờ sủa. Nó đã quen với cái lôi thôi, lếch thếch của tù, không nghi ngại. Đôi khi được sự cổ võ của tù, nó còn chạy theo được một quãng đến khi bị vệ binh đuổi, mới chạy trở về. Con vàng là chút vui của toàn trại. Ở đây con người có giai cấp thống trị và bị trị. Giai cấp quản giáo và vệ binh. Giai cấp cai tù và tù. Nhưng với con vàng thì lại bình đẳng. Nó gần gũi với mọi hạng người. Nó thân mật với cai tù và tù. Nó không biết che dấu hay ngụy trang tình cảm. Nó thực thà với chính nó và với mọi người. Nó khác hẳn với cách con người cư xử với nhau ở đây. Nó ngoắt đuôi mỗi khi lại gần ai. Nó có tiếng kêu sung sướng khi có tù vuốt vuốt lên đầu nó, dù có tù đùa giỡn, hăm he: nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ vện, về chất lượng thịt của nó. Con vàng không có chủ nghĩa. Không có hận thù giai cấp. Con vàng được tự do. Tự do ở ngoài khung. Tự do vô cổng trại. Tự do đi bất cứ nơi nào nó muốn. Chỉ chút tự do đó thôi mà nhiều tù ngồi nhìn nó, đã mong ước được như nó. Sống với cái tự nhiên như nó. Thỉnh thoảng ông chín ngón kêu con vàng theo ông đi kiểm soát toán cưa xẻ. Nó chạy theo ông. Con vàng bao giờ cũng đến trước ông chín ngón. Vô tình, con vàng là người đưa tin có ông chín ngón đến kiểm tra. Mấy ông bộ đội loay hoay trong bếp để chuẩn bị làm thịt con vàng, đang kháo nhau: – Đéo mẹ, phải cuốc bộ cả năm ki nô mét mới có chút riềng và dúm rau mùi đấy ạ. – Có phải vì riềng hay vì chị em nhà nó? Khai thật đi, bố bảo. – Mày bảo mày hay mày bảo tớ? – Gay đấy, không có chỗ cho mày đâu. Mấy tên công an xã ngày đêm chầu chực nên chúng cứ vênh mặt nên cơ đấy. – Gái Hà Nội mà nỵ. – Có ngày chúng cũng phải sút quần ra thôi. – Ông đấm buồi vào đấy. Mấy ông bộ đội bắt đầu huyên náo chuyện về gái thì ông chín ngón bước vào. Ông lên tiếng: – Các đồng chí tác phong nhé. Đối tượng chung quanh các đồng chí đang nghe cả đấy. Toán nhà bếp chợt yên lặng. Rồi lại cùng lên tiếng: – Chào thủ trưởng. – Chào thủ trưởng. – Món tiết canh chỉ có thủ trưởng đánh giúp thôi. Thủ trưởng nổi tiếng với món nầy mà nỵ. – Còn món dồi thì tớ no được. Ông chín ngón thấy mọi việc chưa sẵn sàng để ông đánh món tiết canh nên ông chín ngón bước lại chỗ con vàng. Thường ngày, ông đùa giỡn với nó, nhưng bây giờ ông nhìn con vàng như chưa bao giờ ông biết nó. Ông đạp đạp chiếc dép râu của ông lên lưng nó và nói: – Phải ba cân rưỡi đến bốn cân cơ đấy. Con vàng đang chờ chết. Đôi mắt nâu hiền lành hàng ngày, bây giờ kinh hoảng, có màu xanh biếc, trong suốt, giống như màu mắt mèo bị phản chiếu ánh đèn xe ban đêm. Cái mũi con vàng nhăn lên và hai hàm răng trắng nhe ra. Nó thở khì khè, điên dại. Cái chân đạp nhẹ lên lưng con vàng như nhắc nhở bản năng sinh tồn của nó trước cái chết cận kề. Con vàng cố cắn sợi dây buộc và gắng sức vùng vẫy. Ông chín ngón bước ra cửa, nói vọng lại: – Lúc nào sẵn sàng thì báo cho tớ biết. Ông chín ngón vừa bước xuống sân thì bất ngờ con vàng vùng thoát. Nó tông mạnh vào chân ông, kêu ăng ẳng, rồi lao thẳng về hướng cổng trại tù. Con vàng chạy theo bản năng hay nhờ tù che chở (?). Ông chín ngón rượt theo và hét lớn: – Tóm lấy nó. Tóm lấy nó. Mấy ông bộ đội trong nhà bếp tung ra. Rượt đuổi. Ông vệ binh đang đứng gác trên chòi lao xuống. Con vàng vừa chạy, vừa kêu ăng ẳng xuyên qua cổng trại, rồi lao về phía chuồng heo. Ông chín ngón hét tiếp: – Bắn nó. Bắn nó. Ông vệ binh gác cổng cầm khẩu AK đuổi theo thì con vàng đã theo ngã chuồng heo băng qua bên kia con suối cạn, qua khỏi hàng rào, cắm đầu chạy miết vô rừng. Ông vệ binh vượt suối, nước tung tóe, đến hàng rào thì tì súng bắn theo. Những phát nổ chát chúa xé rừng, vang dội, rồi phút chốc trở lại im ắng. Con vàng biến mất. Tù trong láng đổ ra, vừa sợ hãi, vừa ngạc nhiên. Cứ tưởng có tù nào dám vượt trại ban chiều. Toán bộ đội trách cứ nhau. Một ông quản giáo cầm một khẩu AK khác băng qua bên kia suối, theo dấu vết con vàng giữa màu nắng úa hoàng hôn. Con vàng biến mất. Không để lại một dấu vết. Mỗi buổi chiều sau khi ăn xong, thường có mấy ông bộ đội cầm súng AK đi bên ngoài hàng rào theo ngả con vàng đã chạy vô rừng. Con vàng không còn là con chó nhà. Con vàng đang là con thú hoang bị săn đuổi. Trời mới tối nhưng như đã vào khuya. Mặt trăng rừng như chiếc đĩa bạc, đang treo lơ lửng trên trời sao thưa. Đêm nay ít mây, trời không trong lắm. Mây bông lãng đãng từng cụm. Huỳnh và Nghiêm co ro trong mấy lớp áo dày chống lạnh đang chuyện gẫu ở đầu hồi của lán, nơi ngủ của Huỳnh. Những mẩu chuyện không đầu, không đuôi, nhưng là những mẩu chuyện làm quên cơn đói đang dày vò trước khi ngủ. Huỳnh ngạc nhiên khi tiếng con heo trong chuồng, cạnh bờ suối, ụt ịt hơi lớn, mà không nghe tiếng eng éc kêu đói, như hàng đêm. Đây là phản ứng của con heo sợ con khác giành thức ăn. Có thể chậu thực phẩm chính nó không thể ăn được nhưng lại có con vật khác thèm thuồng. Huỳnh và Nghiêm bước ra. Ánh trăng xuyên lỗ chỗ qua các song thưa của chuồng heo. Còn xa, nhưng Huỳnh và Nghiêm cũng nhận ra, có bóng dáng một con vật nhỏ, quanh quẩn ở gần đó. Nghiêm kéo tay Huỳnh đứng lại quan sát. Hy vọng là con thỏ rừng hay con chồn nhỏ. Không ai nói với nhau nhưng cả hai cùng ý nghĩ, phải làm sao tìm cách bắt cho được. Con thỏ không còn là con thỏ nhỏ nữa. Con chồn không còn là con chồn nhỏ nữa. Nó là một con thịt khổng lồ trong đôi mắt phờ phạc vì đói. Con vật phản ứng thật nhanh. Thoáng chốc đã biến mất nơi chuồng heo. Nghiêm và Huỳnh chạy tới nhìn theo. Bên kia suối, con vàng vừa chui ra khỏi hàng rào, đang cụp đuôi, chạy dưới ánh trăng hoang. Mấy hôm sau, không biết tin từ đâu, các ông bộ đội đã biết con vàng về quanh quẩn ở chuồng heo kiếm ăn, nên khi trời vừa sụp tối, hai ông bộ đội đã thông báo ở các đầu lán, cấm không tù nào được ra ngả chuồng heo. Rồi hai ông ngồi núp nơi góc hội trường, cách chuồng heo không xa, chờ đợi. Đó là vị thế tốt nhất để quan sát. Qua hai đêm yên ắng. Con vàng không trở lại. Cả trại tù cũng nín thở theo dõi. Đêm thứ ba, theo sau một tiếng súng nổ chát chúa, xé cả không gian yên tĩnh, con vàng kinh hoảng la ăng ẳng. Khi hai ông bộ đội rượt đến chuồng heo thì con vàng lại biến mất. Cả trại tù thở phào, nhẹ nhõm. Một cái gì đó, từ sâu thẳm như có sự liên hệ giữa con vàng và tù. Giữa đói và rừng. Giữa tù và bị săn đuổi. Không có ai lên tiếng nhưng tù cứ đang âm thầm mong con vàng đừng bao giờ quay lại. Rừng khắc nghiệt. Rừng đói. Rừng lạnh lùng. Rừng bao la nhưng con vàng không có một chỗ để dung thân. Gần mười ngày đã trôi qua, con vàng không thể tìm được chút gì để ăn. Để sống. Thân xác tiều tụy. Bơ phờ. Con vàng đã mất đi cái nhanh nhẹn thường ngày. Con vàng không thể chịu đựng cơn đói hành hạ! Chỉ có nơi chuồng heo, con vàng hy vọng có thể có chút đồ ăn. Con vàng phải quay trở lại dù biết nơi đây tử thần đang chờ đợi. Sau lần bắn hụt, ông quản giáo vẫn kiên nhẫn chờ đợi con vàng. Ông nghĩ ra thêm kế hoạch để bắn hạ nó. Ông lấy một khúc sắn luộc, còn nguyên củ, buộc một sợi dây vào giữa. Đầu sợi dây còn lại ông buộc vào trụ của chuồng heo gần bếp. Nơi đó có ánh trăng soi rõ và là góc độ tốt nhất để ông nhắm bắn. Con vàng sẽ không ngoạm khúc sắn đi ngay tức khắc được vì còn vướng sợi dây. Nó nhùng nhằng ở đó, thừa đủ thời gian để ông nhắm và bóp cò. Nghiêm và Huỳnh vẫn ngồi ở đầu lán chuyện gẫu và chờ đợi. Tù khác cũng theo dõi. Cả trại tù yên lặng và chờ đợi. Cái án tử hình sắp được thực hiện. Con vàng chui vào hàng rào trại thực êm. Băng qua con suối cạn không một tiếng động. Chỉ có tiếng nước chảy róc rách và tiếng gió xào xạc trên cành cây. Con vàng đang phân vân, nghe ngóng. Nó nhìn về hướng hội trường, nơi hai đêm trước đã phát ra tiếng nổ. Cái chân trước co lên, lưỡng lự. Con vàng lại quay ra hàng rào, rồi đứng nhìn vô nơi hội trường. Con vàng đang chiến đấu với cơn đói, thèm thuồng và nỗi sợ hãi. Một lát sau, con vàng cắm cổ chạy thẳng một mạch, băng qua suối, vô nơi chuồng heo phía bên kia bếp. Được một lúc, con vàng chạy vòng qua phía bên nầy, nơi có củ sắn đang buộc vào chân cột nhà. Con vàng lại co một chân trước nhìn vô hội trường. Thấy yên tĩnh, con vàng cúi xuống ngoạm củ sắn định tha đi. Củ sắn bị sợi dây kéo lại, rớt xuống đất. Con vàng lại cúi xuống ngoạm tiếp. Phát súng nổ xé màn đêm. Xé cả không gian. Ông quản giáo hét lớn: – Ngã rồi. Rồi ông cầm súng chạy nhanh tới trước. Ánh đèn pin lóe lên nơi tay ông vệ binh. Ông vệ binh chạy theo. Lồng ngực con vàng mở toang hoác. Mắt con vàng chưa kịp nhắm lại. Con vàng không kịp kêu tiếng kêu kinh hoàng của nó. Ông quản giáo: – Tớ nhắm ở đầu cơ mà! Sau một lúc quan sát, ông vệ binh nắm chân sau con vàng, xách ngược lên. Đầu con vàng lủng lẳng bên dưới. Thân xác nó đã bị xé làm đôi. Hai ông bộ đội xách con vàng ra hướng cổng trại. Tù ra khỏi lán nhìn theo. Có hai bóng tù lao nhanh về phía chuồng heo. Nghiêm và Huỳnh. Củ sắn vẫn còn trong sợi dây buộc. Dấu vết răng con vàng còn đó. Máu tươi của con vàng bê bết trên màu ngà của củ sắn. Huỳnh cố che giấu trắc ẩn bên trong, nói gãy gọn với Nghiêm: – Xuống suối rửa. Tụi mình không dính máu con vàng. Chỉ ăn thừa của nó thôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 24, 2017 3:15:13 GMT 9
Hồ Phú Bông Phần 6: Cái chết của chiến sĩẢnh: Trảng Lớn, Tây Ninh. Nguồn: autofun.net Tiếp theo phần 1, phần 2, phần 3, phần 4 và phần 5 Cái chết của con vàng cứ ám ảnh Nghiêm. Nó không có liên quan gì cả. Thế nhưng nó là nỗi ám ảnh không rời. Từ sự kiện kiên trì hàng đêm của ông quản giáo, quyết tâm hạ cho bằng được con vàng, đến cái ngực con vàng mở ra toang hoác… bê bết máu. Đó là cái chết của một con vật. Vâng, một con chó. Không phải là một con người. Một con chó đói! Lúc đó Nghiêm còn ở trại cải tạo Tây Ninh. Dãy trại là khu trại gia binh cũ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nằm bên trong căn cứ quân sự Trảng Lớn. Trại có nhiều lớp hàng rào kẽm gai bao bọc và một giao thông hào sâu. Bên kia rào, phía cổng vào, là phi trường trực thăng cũ. Văn phòng phi trường trước kia chỉ còn trơ lại những bức vách quét vôi màu vàng. Ở đó, vâng, ở cái sân nhỏ trước những bức vách quét vôi màu vàng đó, là phiên tòa án nhân dân xét xử Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa! Hôm đó trại 3 đến ngày thảo luận bài học. Đây là một bài học trong loạt mười bài mà có rất nhiều tin đồn là học xong sẽ được cho về. Buổi thảo luận bắt đầu tám giờ tại từng lán. Ông quản giáo thường đến đúng giờ và ngồi ngay cửa ra vào. Hôm đó ông vừa đến thì có lệnh từ trung đoàn xuống, phải cử ngay tất cả lán phó đi tham dự mít tinh đặc biệt. Lán trưởng ở lại chủ trì thảo luận. Nghiêm rời lán, lòng có chút vui. Thoát được cảnh “ngồi đồng”, phải nghe lải nhải, lặp đi lặp lại thì còn gì vui hơn? Một số cán bộ súng ngắn và mấy ông vệ binh súng dài áp giải tù tham dự mít tinh đặc biệt. Tù lán phó sắp thành hai hàng dài đi về hướng cổng trại. Không tù nào biết đang đi đâu nhưng đều cảm thấy thoải mái. Khi ra khỏi cổng trại, rẽ về bên phải, nơi hàng ngày tù tháo gỡ các tấm vĩ sắt PSP, sàn phi trường trực thăng, khiêng về làm hội trường, có mấy chục dân thường đã tụ tập sẵn ở đó. Một cái bàn và ba cái ghế chưa có ai ngồi. Một số bộ đội khác đang đứng rải rác. Xa hơn, một cây trụ gỗ được trồng trên một nỗng đất cao mà chiều hôm qua sau giờ cơm tối, tù lảng vảng bên nầy bờ rào thấy mấy ông bộ đội đang hì hục đào nhưng không ai biết là chuyện gì. Dưới đất, nơi cây trụ, đã rải vôi bột trắng xóa. Cách cây trụ không xa, một cái thùng bằng thiếc, có thể là thùng chứa vôi bột còn lại (?) Cả đám tù khựng lại. Có tù hoa cả mắt. Đám dân cũng yên lặng, không thấy nói năng, chỉ trỏ, như những đám đông thường lệ. Đám tù được đứng bên hông, cách ly với đám dân. Đám dân đứng đối diện với hai cái bàn và ba cái ghế trống. Từ dân tới tù chưa ai biết cái không khí nầy, dù đây là loại dân chắc đã được tuyển chọn đặc biệt! Hơn nửa tiếng đồng hồ sau, ba ông bộ đội với súng AK cầm tay, áp giải một người tù tới. Hai tay người tù bị trói gập sau lưng. Một ông bộ đội nắm giữ và đẩy đi. Người tù mặc bộ đồ đen mới, nếp gấp còn rất rõ. Mái tóc cũng cắt ngắn theo kiểu bộ đội. Người tù ốm và xanh như lá chuối non. Họ vừa lôi người tù nầy từ conex ở trung đoàn ra. Người tù bị giam trong đó bao lâu không ai biết. Đôi mắt người tù chắc đã quen với ánh sáng bên ngoài nhưng vẫn còn nheo lại. Toàn bộ người tù như một thứ cây thiếu sáng. Èo uột. Dài. Và mềm nhũn. Tù conex là loại tù đặc biệt. Cái conex là một hộp sắt dày, lớn, gần như vuông vức, của quân đội Mỹ dùng để chở vũ khí cho an toàn. Kích thước cỡ 1,8 x 1,8 x 2,4 mét. Ban đêm trong conex lạnh như mùa đông. Ban ngày như một bàn ủi nóng khổng lồ. Tiêu tiểu tại chỗ. Người nào đã nghĩ ra việc dùng cái conex để giam giữ người khác, quả là một sáng kiến kinh khiếp! Đây là một bước tiến mới của con người trong quá trình đày ải kẻ thù. Một sáng kiến cần phải được ghi vào sử sách! Ba ông bộ đội áp giải người tù vào giữa sân. Người tù nhìn thoáng qua đám đông. Chắc chắn người tù hiểu chuyện gì đang xảy ra. Rồi người tù nhìn đám tù. Đôi mắt anh không nói lên điều gì. Phẫn nộ hay kinh hãi. Đó là đôi mắt bình thản. Hờ hững. Một đôi mắt đã đạt được mức độ vô vi. Hình như không còn có gì bận tâm trong đôi mắt ấy. Nếu gọi là giải thoát, thì đã được giải thoát. Nếu gọi là bình an, thì đã có bình an. Nếu gọi là chịu đựng, thì hình như đã qua khỏi giai đoạn đó rồi. Tôn giáo nào cũng tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn. Sự bình an khi gặp giông bão trong cuộc đời. Đôi mắt người tù đã đạt được điểm ấy. Bao nhiêu tù đang xúc động. Có tù tê tái, không dám nhìn thẳng vào thực tại. Có tù đang sợ hãi cùng tột. Có tù đang phẫn nộ ngấm ngầm. Nhưng tất cả đều được che giấu ở bên trong. Chỉ có người tù nhân vật chính sáng nay, lại bình thản. Anh đang chết khi đang sống. Và anh đang sống, đang đứng giữa nơi đây. Anh đang sống bình an trong khi sự chết sẽ xảy ra rất gần. Không. Không là gì cả. Không sống. Không chết. Không kinh hoàng. Không sợ hãi. Tất cả đều tự nhiên. Thật tự nhiên. Thật bình thường như không có gì. Thật không có gì. Không có gì có thể kiềm tỏa thân xác nầy, vì thân xác sẽ về với cát bụi. Không có gì có thể kiềm tỏa linh hồn nầy, vì linh hồn sẽ về nơi cõi đời đời. Quê hương đã mất vào tay bạo tàn thì đời trai dọc ngang như đã kết thúc. Phẫn nộ trước kẻ thù nói lên mình đang uất ức, thua cuộc. Sợ hãi trước kẻ thù nói lên mình hèn nhát. Chỉ có bình thản trước kẻ thù là khí phách tinh anh, coi kẻ thù không là gì cả. Tại sao phải bối rối với kẻ mà mình coi chẳng ra gì? Đấy, là thái độ của anh trước tòa án nhân dân của chế độ mới! Vào giữa sân, anh ngồi xuống đất. Ba ông bộ đội cầm súng đứng chung quanh. Một chiếc xe quân đội chạy tới, thả ba ông cán bộ xuống. Cả ba ông đều đội nón cối có gắn ngôi sao vàng giữa trán, đeo xắc cốt và mang dép râu. Không thấy có ông nào đeo cấp bậc trên cổ áo. Toán bộ đội đang đứng rải rác bây giờ tập trung lại sau đám đân. Ba ông cán bộ mới tới tự động ngồi vào ghế. Nghiêm đoán ông ngồi giữa là chánh án, hai ông ngồi hai bên sẽ là một công tố và một biện hộ. Ông ngồi giữa lấy giấy tờ ra khỏi xắc cốt. Ông bắt đầu: – Hôm nay thừa lệnh Đảng và chính phủ, tòa khai mạc phiên xử tù nguy hiểm và âm mưu trốn trại. Câu mở đầu đã nói lên tính cách mới của chế độ. Ở đây không có lập pháp, hành pháp và tư pháp ngang hàng và độc lập với nhau nữa. Ở đây không nhân danh công lý, luật pháp, mà là thừa lệnh Đảng! Chính phủ hay quân đội mở phiên tòa là thừa lệnh Đảng. Tù nguy hiểm đã được gọi rõ ràng thay cho chữ cải tạo viên như danh xưng hàng ngày. Ông ngồi bên trái cũng móc từ xắc cốt, cầm xấp giấy ra đọc. Lại có cả lý lịch, gia cảnh của bị cáo nữa. Cũng nhờ đó mà mọi người tham dự được biết thêm chút tiểu sử của người tù. Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa, quê ở Quảng Ngãi, có vợ hai con. Tội ác bị cáo buộc thì viết khá dài kể từ binh chủng cũ của anh cho đến hiện tại. Nhưng lòng vòng để qui tội chỉ có: cực kỳ phản động, đã dùng đại bác bắn phá cách mạng, đã không chịu ăn năn hối cải, lại âm mưu trốn trại và đã cắt đường dây điện thoại từ bộ chỉ huy ra cổng trại. Tội ác ghê gớm cũ và mới mà công tố viên cáo buộc chỉ có như vậy. Không ai hiểu tại sao phải giới thiệu quê quán và gia cảnh của anh. Phải chăng ý ông công tố muốn nhấn mạnh, anh là người cùng quê hương với ông Phạm Văn Đồng, đương kiêm Thủ Tướng chính phủ ở miền Bắc, mà lại cực kỳ ngoan cố? Không thấy ông ngồi bên kia nói gì. Chỉ thấy ông cũng để cái xắc cốt trên bàn và mấy tờ giấy. Ông ngồi lơ đễnh nhìn về đám dân, có các bộ đội đang đứng ở phía sau. Ông công tố đọc xong cáo trạng. Anh vẫn ngồi im. Bình thản. Ông ngồi giữa hỏi đám đông: – Nhân dân và các đồng chí có ý kiến gì không? Tất cả im lặng. Ông hỏi lần thứ hai. Cũng im lặng. Cuối cùng ông thấy được một cánh tay đưa lên. Ông như vồ lấy, sợ cánh tay thụt trở xuống. – Thưa đồng chí, tôi thấy tội lỗi đã rõ ràng. Xin đề nghị án tử hình. Người vừa nói là một thanh niên có mái tóc ngắn, kiểu bộ đội nhưng mặc thường phục. Họ là đồng chí với nhau! Có lẽ đám dân đã được tuyển chọn, chưa ai tỏ ra có kinh nghiệm về vụ xử án như thế nầy, nên không khí mới yên lặng sau câu hỏi của ông ngồi giữa. Ông ngồi giữa nói: – Đã có đại diện của nhân dân nêu ý kiến. Tôi xin ghi nhận. Ông lại hỏi tiếp. Không còn ai phát biểu. Cuối cùng ông quyết định: – Các đồng chí phụ trách cho bị can quì xuống nghe tuyên đọc án lệnh. Mọi đôi mắt đổ dồn về anh. Anh cũng bình thản nhưng nhất định không chịu quì. Ba ông bộ đội kéo anh đứng lên, rồi lại ấn xuống, bắt anh quì. Đôi tay anh bị trói chặt phía sau lưng nhưng anh vẫn phản ứng cương quyết. Và vẫn không thèm lên tiếng. Một ông bộ đội dùng bán súng đánh vào mặt anh. Một dòng máu rĩ ra từ khóe môi. Anh ngã chúi xuống đất trong tư thế chổng mông. Ông ngồi giữa từ tốn: – Các đồng chí có nhiệm vụ, không được đánh bị cáo giữa phiên tòa. Không khí căng thẳng. Mọi người nín thở chờ đợi. Rồi ông ngồi giữa đọc bản án: – Thay mặt Đảng và chính phủ, tòa tuyên án tử hình. Án phạt phải được thi hành ngay tại chỗ. Anh được kéo đứng dậy. Một ông bộ đội trùm lên đầu anh một túi vải đen như bộ quần áo anh đang mặc. Anh không có phản ứng. Ông bộ đội dẫn anh từng bước đi về hướng cây trụ. Hai tay anh vẫn ở vị thế sau lưng, bị trói chặt vào trụ trước, rồi đến hai chân. Đến lúc nầy thì ông ngồi phía bên phải mới rời ghế. Ông không phải là ông biện hộ như Nghiêm nghĩ. Ông đang chỉ huy việc hành quyết! Một phụ nữ trong đám dân bất ngờ kêu rú lên, rồi bỏ chạy. Mấy người khác cũng hấp tấp chạy theo. Số bộ đội đứng sau lưng đám dân không kịp cản lại. Chỉ có tù lán phó là bất động. Tất cả phải nhìn về phía cây trụ. Không một ai dám quay lại vì các ông vệ binh đang cầm súng đứng ở sau lưng. Anh vẫn đứng yên. Đầu không nhúc nhích. Ánh nắng buổi sáng đang chiếu vào người anh. Hình ảnh anh nổi bật trên nền trời có mây trắng phía xa. Ba ông bộ đội lùi lại phía sau. Đứng ngang hàng, chỉa súng nhắm vào anh. Ông chỉ huy hành quyết khoát tay ra lệnh. Đám tù lán phó, nhiều người nhắm mắt lại. Có người cúi xuống, lặng lẽ làm dấu thánh giá. Sáu tiếng súng nổ. Nửa người anh bật ngửa ra phía sau, rồi ngã gập lại về phía trước. Đầu gục xuống. Xác anh tụt xuống. Đầu gối hơi co lại. Ông chỉ huy hành quyết đưa tay lên, ra dấu ngưng bắn. Ông đích thân đi lại bên xác anh. Khẩu súng lục ông cầm nơi tay, để vào bên tai trái anh, bóp cò. Phát súng ân huệ! Thời gian xử tử xảy ra khá nhanh và yên lặng. Đây không phải là thời gian cần tiếng nói của con người, là thời gian của tiếng súng! Nhiều tù lán phó ngồi bệch xuống trên cỏ. Xanh mét. Đầu cúi thấp. Không một ai chứng kiến cảnh ghê rợn như thế nầy trong cuộc đời. Nhưng mấy ông cán bộ và bộ đội thật bình thản, như một công việc đã quen! Một bản án chỉ có giá trị khi công lý đã được thi hành. Bản án của anh Ngô Nghĩa đã được đọc. Đã được thi hành. Nhưng chân lý không ở nơi người nhân danh pháp luật mà lại nằm ở nơi anh. Mọi người đã hiểu rõ thêm bản chất của chế độ mới. Của luật pháp mới. Của tính ưu việt Xã Hội Chủ Nghĩa hơn gấp trăm lần các bài học đang được thảo luận. Làm Cách mạng là lo trước cái lo của thiên hạ, cho nên chưa mở phiên tòa, đã lo trồng trụ, lo vôi bột. Làm Cách mạng oai thiệt. Giết một con người chỉ cần đôi ba lời nói và mấy dòng chữ viết! Đơn giản chỉ có vậy. Không có câu trả lời đây là tòa án quân sự của chính phủ Cộng hòa Giải phóng miền Nam Việt Nam hay tòa án nhân dân của chế độ mới! Chỉ biết đó là cái án tử hình, xử ngay tại chỗ. Cả mấy tuần lễ sau, cho đến ngày Nghiêm chuyển trại, cây trụ gỗ vẫn còn đó. Đứng sừng sững. Họ muốn khoe khoang sức mạnh. Đó là uy quyền của chế độ mới. Đó là lời cảnh cáo hãy liệu hồn đấy! Nhưng với tù, cây trụ còn đứng chơ vơ trên nỗng đất, lại giống như một dấu chấm than lớn của chế độ mới và cũng là dấu chấm than của miền Nam tự do! Khoảng mười giờ đêm, tù chuẩn bị đi ngủ, thì một tiếng nổ vang dội làm rung chuyển các dãy nhà đang ở. Tù nhốn nháo ra khỏi lán. Một số chạy về phía hội trường, nơi phát ra tiếng nổ. Nghiêm thấy một đám khói còn đang bốc lên trong ánh đèn đêm lờ mờ. Có tiếng tù từ đó kêu thảng thốt: – Gọi ngay cứu thương Có tiếng thảng thốt khác: – Lựu đạn MK 2. Nghiêm chạy theo đám đông, đang đổ về bên hông của hội trường, cạnh bụi chuối. Bụi chuối tả tơi. Gãy gục. Bức tường vôi vàng, lỗ đỗ dấu vết đất và máu. Quá đông người vây quanh nên Nghiêm không thể thấy được gì. Từ sau ngày Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa bị xử tử, không khí toàn trại đầy dao động. Nhiều tin đồn râm ran từ lán nầy qua lán khác. Một số tù có thân nhân theo cách mạng thì cố gắng nuôi giấc mơ sẽ được bảo lãnh về sớm. Một số tù còn sót lại, khi cả gia đình đã di tản, thì lặng lẽ trong tuyệt vọng. Một số thì vẫn ngây thơ, thật thà nghĩ cuộc chiến đã qua rồi nên những bài đang học là căn bản cần thiết để hiểu biết chế độ mới rồi sẽ được cho về. Số nầy tin ở các đài phát thanh của nhà nước, đang ra rả về chính sách khoan hồng nhân đạo. Một số khác, chín chắn hơn, thì bắt đầu chuẩn bị cho mình một đời tù lâu dài, kinh nghiệm từ cuộc cộng sản cướp chính quyền ở Nga, kinh nghiệm từ cuộc cộng sản cướp chính quyền ở Trung Quốc. Các ông quản giáo ở tiểu đoàn đánh hơi được như vậy, nên lệnh mới ban xuống cấm tuyệt đối không được quan hệ với các đội khác. Không bàn tán, đưa tin đồn thất thiệt, nếu bắt được sẽ bị xử lý! Nghe từ xử lý mới mẻ nhưng đầy hăm dọa nên đa số tù tự cô lập mình. Tiêu chuẩn ba không được diễn thật hay: không biết, không nghe, không thấy. Những ăng ten cũng bắt đầu phát tín hiệu lập công để mong được cho về sớm. Tù bước đầu tập cho mình một nếp sống tù thật sự. Ngu ngu, ngơ ngơ. Nín thở nhưng chưa biết bao giờ mới qua được sông sâu! Nhưng thế giới riêng của tù vẫn rầm rì với nhau và tránh càng xa những tù ăng ten càng tốt. Tiếng mấy ông bộ đội đang cầm AK chạy đến, la lớn: – Các anh khẩn trương về nại nán ngay. Tù nghe lệnh nhưng cũng tụ năm, tụ ba, bàn tán xôn xao rồi mới từ từ tản hàng về lại lán, vì biết các ông bộ đội đang phải tập trung tại nơi phát ra tiếng nổ. Trung úy Tâm (?) thuộc binh chủng Không quân (?) tự sát. Sáng hôm sau, trước khi đi vào thảo luận tiếp bài học, ông quản giáo được lệnh trên, phải dành ra một tiếng đồng hồ để thảo luận về cái chết của Trung úy Tâm đêm qua. Ông mở đầu: – Hậu quả của chế độ Mỹ Ngụy đang để nại cho đất nước ta có thể thấy ngay trước mắt. Đêm qua, anh Tâm tự sát. Trước khi chết anh Tâm đã để nại hai ná thư. Một ná viết cho cách mạng, bày tỏ sự ăn năn, hối cải nà đã phục vụ cho Ngụy quân, Ngụy quyền, phản nại cách mạng. Ná thứ hai anh viết cho người vợ sắp cưới của anh, nhờ cách mạng chuyển. Thư chị gửi anh, khuyên anh ăn năn, hối cải, để sớm được khoan hồng nhưng trong thư anh gửi chị, anh cho biết, anh đang bị căn bệnh xã hội, mà anh đã giấu chị. Căn bệnh nàm dương vật của anh bị nở noét và cụt mất, nên anh không thể sống để trở về nập gia đình với chị. Đây nà một nạn nhân trực tiếp của văn hóa đồi trụy Mỹ Ngụy. Do đó, tôi muốn các anh thảo nuận sôi nổi về hậu quả nguy hiểm mà đế quốc Mỹ đã để nại cho nhân dân ta. Cả nhóm thảo luận không ai biết căn bệnh xã hội mà ông quản giáo nói là bệnh gì. Hột xoài, mào gà, lậu, giang mai thì biết, nhưng bệnh lở loét, làm cụt cả dương vật, trong khi Trung úy Tâm đã ở trong tù 6 tháng và hàng ngày vẫn đi lao động bình thường, là một chứng bệnh thật lạ! Trong nhóm, có hai bác sĩ quân y, nhưng tù hiểu nhau, nên yên lặng, không đòi hỏi đến kiến thức chuyên môn của hai tù bác sĩ nầy. Buổi tối, hai tù bác sĩ Minh, Tường, chuyện gẫu với Nghiêm. Minh nói: – Cách mạng đã đem đến thật nhiều điều mới lạ. Có lẽ tao phải trở lại trường Đại học Y khoa của cách mạng để học thêm cho biết, căn bệnh xã hội đã làm rụng mất của quý mà bệnh nhân không hề đau đớn, vẫn đi lao động bình thường! Tường thêm vào: – Bọn đế quốc đểu thật! Căn bệnh nầy chúng lại không ghi vào sách vở! Bên tiểu đoàn một, Trung úy Quân y Mai Gia Thược, là dược sĩ đồng khóa, cũng đã tự sát bằng lựu đạn, nhưng không phải loại lựu đạn công phá như MK 2, M 26 nên cái chết đau đớn hơn rất nhiều. Trung úy Thược đã dùng lựu đạn hóa chất lân tinh, nên cả thân người bị cháy bỏng, đã phải nằm trần truồng trong mùng ở trung đoàn suốt mười ngày, không được chăm sóc thuốc men, hôi thối đến lợm giọng rồi mới chết. Trạm xá ở trung đoàn rất nhiều tù bị bệnh nặng đủ loại, không thuốc men, nằm chờ chết. Còn các cô hộ lý thì thích nói chuyện, đùa giỡn với bộ đội thay vì chăm sóc người bệnh. Chỉ một thời gian ngắn, khu đất gần phi trường trực thăng, đã biến thành một nghĩa địa nhỏ với những nấm mồ hoang. Chỉ vài ngôi mộ có miếng gỗ ghi tên người chết! Vùng đất sống ngày nào, vùng đất đầy sinh động ngày nào, bây giờ là một vùng đất chết. Vùng an nghỉ của những con người chiến bại và ngây thơ! Đêm đêm, phía vườn cao su, có tiếng chuông trong vắt, ngân dài, và tiếng mõ tụng kinh đều nhịp, của một gia đình nào đó, cứ vọng vào, thêm nỗi tịch liêu. Gần sáng thì tiếng xe bò với nhịp chuông loọc coọc, rời rạc, nhắc nhở một ngày nữa đang đến. Một ngày dài thiên thu. _____ [1] Nghĩa địa nầy còn nhiều nấm mộ hoang. Kính xin quý độc giả cung cấp thêm tên tuổi những chiến sĩ đã bị chôn tại đây để lần tái bản, chi tiết về nghĩa trang nầy được đầy đủ hơn.
|
|