|
Post by NhiHa on Sept 15, 2010 6:30:28 GMT 9
Nên cẩn thận với thuốc generic Võ Ngọc Phước Trong ngành Âu dược, thông thường một bằng sáng chế thuốc chỉ có hiệu lực 20 năm. Cho nên sau khi một loại thuốc gốc mà bằng sáng chế đã hết hiệu lực, chính quyền sở tại ở một nước có quyền cho phép các nhà bào chế thuốc trong nước sản xuất loại thuốc đó, nhưng phải dựa trên công thức, thành phần nguyên liệu có hoạt tính trị liệu căn nguyên bệnh và qui trình chế tạo như đã qui định trong bằng sáng chế thuốc gốc, Trên nguyên tắc căn bản, thuốc phải có công hiệu trị liệu tương đương với thuốc gốc. Loại thuốc được chế tạo hợp pháp như thế này gọi chung là thuốc generic. Vì không phải mất các phí tổn vô cùng to lớn đầu tư ban đầu cho đội ngũ nhân viên nghiên cứu và thiết bị trong công trình nghiên cứu, thí nghiệm, kiểm nghiệm lập đi lập lại nhiều lần để đạt được thành công cuối cùng, cho đến các thủ tục hành chính để có được phép chính thức đưa ra lưu hành trên thị trường cho một loại thuốc gốc mới ( thông thường tất cả thời gian phải mất là khoảng 5 đến 10 năm ), thuốc generic, vì vậy, có gíá thành chế tạo cũng như giá bán rẻ hơn thuốc gốc rất nhuều. Phải biết là do các phí tổn cao đầu tư ở công trình nghiẽn cứu nên một số thuốc gốc để điều trị các bệnh hiểm nghèo hay bệnh khó điều trị thường có giá bán cao. Mỗi viên thuốc gốc loại này thường được bán trên thị trường trên dưới 10 dollar Mỹ, trong khi nếu là thuốc generic thì giá bán sẽ rẻ hơn rất nhiều so với gíá thuốc gốc. Cũng phải nói là nhờ sự sản xuất thuốc generic mà bệnh nhân cũng như các cơ quan y tế ở các nước không có thu nhập cao đã có cơ hội để chữa trị các bệnh hiểm nghèo hay khó điều tri, mà trước đây không thể sử dụng được vì gíá phải mua quá cao. Cũng nhân cơ hội này, các nước đã có cơ sở sản xuât dược phẩm, nhất là các nước ở Á Phi, châu Mỹ La Tinh cũng có dịp để sản xuất hợp pháp thuốc generic sau khi được phép của chính quyền sở tại để vừa cung cấp cho thị trường trong nước, lại vừa có thể bán ra thị trường các nước khác. Như vậy trên nguyên tắc, thuốc generic không phải là thuốc giả, vì thuốc giả là thuốc đuợc làm ra từ các cơ sở sản xuất bất hợp pháp, dù có hình thức bên ngoài giống như thuốc gốc nhưng không có thành phần nguyên liệu hoạt tính hay qui trình bào chế tuân theo bằng sáng chế thuốc gốc qui định; ngoại trừ trường hợp thuốc generic có sự giả mạo việc ghi chú trên nhãn hiệu về cơ sở hay quốc gia sản xuất, chẳng hạn như đã sản xuất tại nước A mà ghi là nước B. Về công hiệu điều trị thì thuốc giả, ngoài việc không có công hiệu điều trị, còn có thể tạo ra các tác hạị nguy hiểm cho người sử dụng.vì các thành phần nguyên liệu trong thuốc giả. Cho nên chính quyền sở tại của mỗi nước cần phải có mọi biện pháp pháp luật triêt để để chận đứng một cách hiệu quả việc lưu hành thuốc giả để bảo đảm an toàn sức khoẻ cho người dân, như việc triệt để không cho phép buôn bán thuốc ở tất cả các nơi không phải là nhà thuốc được nhà nước cho phép hoạt động. Về thuốc generic, tuy trên nguyên tắc nói là có công hiệu như thuốc gốc, nhưng trên thực tế thì không phải thuốc generic nào cũng có công hiệu tương đương như thuốc gốc. Dù căn bản là thuốc generic được bào chế dựa trên qui định của bằng sáng chế thuốc gốc, nhưng ở mỗi nước có sự khác biệt về cơ sở, thiết bị để bào chế thuốc, cũng như phẩm chất của nguyên vật liệu sử dụng, trình độ kỹ thuật của đội ngũ công nhân viên, trình độ quản lý sản xuất, kỹ thuật bảo quản nguyên liệu, chế phẩm…, nên phẩm chất của cùng loại thuốc generic khó có thể giống nhau được. Người ta thường nhận thấy tuy cùng một loại thuốc generic, nhưng khi được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm ở một nước Tây Âu, vì căn bản phải chịu sự quản lý kỹ càng của cơ quan chính quyền sở tại và có kinh nghiệm cũng như trình độ kỹ thuật sản xuất cao, nên phẩm chất của thành phẩm có phần bảo đảm hơn cùng loại thuốc generic được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm địa phương của các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém, nhất là khi không có sự hướng dẫn kỹ thuật chế tạo và sự quản trị sản xuất của một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm.trên thế giới.. Để hướng dẫn việc bào chế thuốc generic được bảo đảm, FDA, cơ quan quản trị dược phẩm và thực phẩm của Mỹ, đã có các yêu cầu căn bản mà cơ sở bào chế thuốc generic cần phải tuân thủ như sau: 1. Phải sử dung các nguyên liệu như thuốc gốc 2. Phải có cùng công hiệu, liều lượng sử dụng và cách thức sử dụng như thuốc gốc 3. Phải có cùng các qui định sử dụng như thuốc gốc 4. Phải được bào chế dưới qui trình sản xuất nghiêm ngặt GMP ( Good Manufacturing Production ) Với các qui định sản xuất như vậy, FDA còn đòi hỏi thuốc generic cần phải đạt được các tiêu chuẩn căn bản sau đây: 1. Có sức công hiệu như thuốc gốc 2. Có cùng tính chất, độ tinh khiết và công hiệu như thuốc gốc 3. Có cùng thời gian sử dụng công hiệu như thuốc gốc 4. Giá bán phải rẻ hơn thuóc gốc 5. Phải được sản xuất theo qui định GMP 6. Phải có hình thức bên ngoài khác với thuốc gốc ( vì hình thức bên ngoài của thuốc gốc thường đã được cầu chứng nên không được làm giống hình thức của thuốc gốc) Tuy nhiên, như đã nói phía trên, ở cơ sở sản xuất dược phẩm ở mỗi nước đều có sự khác biệt về cơ sở sản xuất, hệ thống thiết bị cũng như phẩm chất nguyên liệu sử dụng, trình độ kỹ thuật công nhân viên, hệ thống quản trị sản xuất, cho nên ở các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém khó có thể sản xuất được thuốc generic đạt được các tiêu chuẩn trên của FDA, ngoại trừ chịu sự quản trị chặt chẽ của một cơ sở Âu dược có kinh nghiệm trên thế giới. Vì vậy, do những khác biệt căn bản về sản xuất như đã ghi trên, người ta thường nhận thấy độ tinh khiết cũng như sức công hiệu và thời gian sử dụng công hiệu của thuốc generic thường có phần kém hơn thuốc gốc khi không phải được sản xuất bởi cơ sở có sự quản trị của nhà thuốc gốc, và, hơn nữa, sức công hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của một thuốc generic do nhà sản xuất này khác với cùng loại thuốc generic của một nhà sản xuất khác. Nhưng việc cho phép sản xuất thuốc generic, cũng như kiểm soát qui trình bào chế, sản xuất và kiểm nghiệm thành phẩm là ở trách nhiệm của chính quyền sở tại của mỗi nước. Cho nên, nếu chính quyền sở tại “ lơ là “ trong việc kiểm soát qui trình sản xuất và kiểm nghiệm công hiệu sinh học, thì thành phẩm ngoài việc khó có thể có được công hiệu sinh học tương đương với thuốc gốc, mà còn có thể tạo sinh ra các phản ứng phụ như trong trường hợp có sự lẫn lộn các nguyên liệu ngoài qui định, tác hại nguy hiểm đến người sử dụng.. Một mặt khác cần phải nói đến là gíá thành phẩm sản xuất của thuốc generic là tùy thuộc chính yếu vào gíá nguyên liệu sử dụng, chi phí công nhân viên và hệ thống quản trị, giá chiết khấu sử dụng cơ sở, thiết bị sản xuất và nhiên liệu, điện nước, xử lý nước thải khi sản xuất; thuế khoá cao nên sự sản xuất thuốc generic ở các nước Âu Mỹ sẽ phải chịu nhiều phí tổn cao hơn rất nhiều so với việc sản xuất ở các nươc Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh. Chính vì lợi điểm này nên hiện nay đang có khuynh hướng sản xuất các loại thuốc generic tại các nước Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh, nhất là ở những nơi có nguồn cung cấp các nguyên liệu thành phần hoạt tính của thuốc. Như vậy, thuốc generic khi được sản xuất ở một số nước Á Phi hay Châu Mỹ La tinh sẽ có lợi thế về gíá thành sản phẩm thấp, nhưng trường hợp cơ sở, thiết bị yếu kém, nguyên liệu sử dụng không có phẩm lượng đúng qui định, trình độ kỹ thuật của công nhân viên và trình độ quản trị sản xuất kém thì sức công hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của thuốc generic được sản xuất có thể sẽ bị yếu kém hơn thuốc generic được sản xuất tại các nước có trình độ sản xuất Âu dược cao. Vào năm 2008, FDA đã phải cho phát lệnh cấm nhập và bán trên 30 loại thuốc generic sản xuất bởi một viện bào chế dược phẩm lớn nhất của Ấn Độ, sau khi các chuyên viên của FDA khi đến kiểm soát tại chổ cơ sở sản xuất nhận thấy có quá nhiều yếu kém trong việc sản xuất Âu dược, chẳng hạn ngoài những viêc nhỏ như việc trang bị không phù hợp vệ sinh cho công nhân viên trong cơ xưởng điều chế thuốc…., cho đến việc nghiêm trọng là bột thuốc từ một khu vực bào chế loại thuốc này “ có thể bay qua đươc “ khu vực sản xuất của các loại thuốc khác. Hơn nữa FDA còn đã phát giàc các thành tích kiểm nghiệm công hiệu sinh học ghi giả mạo trên các chứng từ của cơ sở sản xuất dược phẩm này khi nộp cho FDA để xin nhập bán các thuốc generic vào thị trường Mỹ. Dù Ấn Độ đã có phản bác Mỹ về các việc này nhưng sau đó có cho biết sẽ cải thiện.các khiếm khuyết được đề cập trên. Trong một bối cảnh như trên, việc kiểm nghiệm thuôc generic trước khi cho nhập bán trên thị trường、nhất là thuốc generic được sản xuất tại các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém, cần phải được thực thi một cách nghiêm ngặt để bảo đảm sự sử dụng an toàn cho người dân.. Tuy nhiên, để thực hiện việc kiểm nghiệm này một cách qui mô và có hiệu quả, chính quyền có thể sử dung các cơ sở kiểm nghiệm đang có hay phải đầu tư vào cơ sở, thiết bị mới, huấn luyện công nhân viên, chưa nói đến việc các kết quả kiểm nghiệm phải không bị chi phối bởi các áp lực bên ngoài và, trên nguyên tắc, các cơ sở dược phẩm xin nhập bán vào thị trường nội địa các loại thuốc generic này phải chi trả các phí tổn kiểm nghiệm dù chưa biết có được phép nhập bán vào thị trường nội địa hay không. VNP
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 9, 2010 8:59:01 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Vấn Đáp Ẩm Thực
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức 1- “Sữa Ong Chúa” là gì? Giá trị dinh dưỡng và trị bệnh ra sao? Tiếng Anh của Sữa Ong Chúa là “Royal Jelly”. Đây là một chất lỏng như sữa do những hạch đặc biệt ở họng của ong thợ sản xuất chứ không phải do Ong Chúa làm ra. Ong thợ hòa lẫn phấn hoa với mật ong và vài loại enzyme để có sữa. Thành ra có lẽ phải gọi là sữa Nuôi Ong Chúa mới chính xác. Tất cả các ấu trùng ong đều được nuôi với sữa này trong vòng 2,3 ngày để rồi đến ngày thứ tư thì ngưng và trở thành ong thợ. Đặc biệt một trong số các ấu trùng được lựa chọn và tiếp tục dùng chất dinh dưỡng này để trở thành Ong Chúa. Ong Chúa tăng trưởng lớn nặng gấp đôi các ong khác và đẻ ra vô số trứng. Đây là một trong nhiều yếu tố mà các nhà sản xuất sữa căn cứ vào để quảng cáo ảnh hưởng của sữa lên con người. Sữa ong chúa có khoảng 60% nước, các chất dinh dưỡng như đạm, đường, chất béo cộng thêm các vitamin nhóm B, niacin, folic acid, một số enzym. Cho tới nay, khoa học vẫn chưa tìm ra một chất dinh dưỡng quan trọng nào trong sản phẩm này mà thực phẩm thường dùng đã có. Theo nhiều nghiên cứu, dù sữa có đủ các loại enzym đặc biệt, chúng cũng không giúp ích gì cho sức khỏe vì chúng bị biến đổi trong việc tiêu hóa chứ không trực tiếp hấp thụ nguyên trạng vào các cơ quan. Nhiều người dùng sữa ong chúa trong các bệnh như cao cholesterol, hen suyễn, khó ngủ, loét bao tử, viêm gan, tuyến tụy, tăng cường miễn dịch, hói tóc. Một vài nghiên cứu gợi ý rằng sữa ong chúa có thể làm hạ cholesterol, chống viêm, có tác dụng như chất kháng sinh, giúp vết thương mau lành, ngăn ngừa sự thành hình u bướu, xơ cứng lòng động mạch. Tuy nhiên còn cần có nhiều nghiên cứu khoa học nữa để xác định tác dụng trị bệnh của sữa ong chúa với các bệnh kể trên. Năm 1992, Ủy Ban Thương Mại Hoa Kỳ (FTC) chịu trách nhiệm về thực phẩm, có cảnh cáo công ty CC Pollen khi công ty này quảng cáo rằng chỉ có honeybee pollen là có đủ tất cà các loại enzyme với tỷ lệ hoàn toàn cân bằng. Quảng cáo này không được dẫn chứng khoa học hỗ trợ và công ty đã phải bỏ lời quảng cáo có tính cách phóng đại này. Điều cần lưu ý là mật ong hoặc sữa ong chúa có thể gây ra dị ứng như nổi nứa trên da, hen khó thở, viêm xuất huyết dạ dày hoặc phản ứng sốc trầm trọng (phản vệ), đôi khi tử vong (1). Lý do là ong lấy phấn từ nhiều loại hoa khác nhau và nhiều người có thể đã bị dị ứng với phấn hoa này. Do đó không nên dùng khi bị bệnh hen suyễn để tránh bệnh trầm trọng hơn. Chưa có chứng minh an toàn của sữa ong chúa với phụ nữ có thai, cho con bú sữa mẹ. Do đó, các nhà chuyên môn y khoa đề nghị là các vị này không nên dùng sữa ong chúa, để bảo đảm an toàn cho thai nhi. Họ cũng khuyên là không nên dùng sữa ong chúa quá lâu để tránh các rủi ro dị ứng. Có báo cáo cho hay là người đang dùng thuốc chống đông máu Coumadin, nên cẩn thận vì sữa có thể tăng tác dụng của Coumadin, khiến cho rủi ro bầm da, xuất huyết xảy ra nhiều hơn. Trên thị trường, sữa được bán như một thực phẩm phụ (food supplement) dưới hình thức hơi đặc tự nhiên, cần cất giữ trong tủ lạnh, dạng khô trong viên thuốc hoặc trong các mỹ phẩm thoa da. Vì không phải là dược phẩm, nên sữa không đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan thực dược phẩm công quyền. Về liều lượng, nên theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất. Và cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng các chất thiên nhiên, trong đó có sữa ong chúa. 3-Thịt bò, thịt heo do sinh sản vô tính (clone) tạo ra có an toàn cho người tiêu thụ không? Đây là vấn đề còn có rất nhiều tranh luận, không những về khía cạnh an toàn thực phẩm mà còn về đạo đức, tôn giáo. Trước hết clone động vật là gì? Trứng của một vật được lấy đi phần nhân di truyền và thay thế bằng nhân di truyền của con vật khác mà mình muốn clone. Nhân này có thể từ một tế bào nào đó ở dưới da, tai của con vật. Một luồng điện nhỏ kích thích để trứng quyện với nhân di truyền rồi phân sinh làm hai, làm bốn…như các trứng thụ tinh bình thường khác và trở thành phôi bào. Phôi bào được đặt vào tử cung của bò hoặc heo nào đó để mang thai hộ rồi đẻ ra con. Thế là ta được một con vật do sinh sản vô tính với các đặc tính mà mình muốn có. Sinh sản vô tính được thực hiện lần đầu vào năm 1996, khi các khoa học gia bên Anh tạo ra cừu Dolly. Tháng Giêng năm 2008, Cơ quan Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ tuyên bố là thịt và sữa từ bò, cừu, heo do clone đều hoàn toàn giống như thịt từ xúc vật sinh đẻ tự nhiên, bình thường, do đó an toàn cho người tiêu thụ. Đây là kết quả các nghiên cứu mà cơ quan đã thực hiện từ năm 2001. Cơ quan này cũng cho biết là nhà sản xuất không cần ghi nguồn gốc thực phẩm là do sinh sản vô tính trên nhãn hiệu thực phẩm. Tuy nhiên, giới tiêu thụ vẫn còn ngần ngại với lý do là chưa có đủ dữ kiện khoa học chứng minh thịt do clone an toàn. Ngoài ra, vấn đề đạo đức cũng được nêu ra. Như là khi clone như vậy, con người đã đóng vai Thượng Đế để tạo ra một sinh vật và xâm phạm vào lãnh vực ngoài giới hạn của mình. Thịt xúc vật clone chưa được bầy bán vì đúng ra, mục đích của sự clone không phải để lấy thịt mà là để tạo ra con giống tốt. Con cái của những con giống tốt này mới là mục tiêu của nhà sản xuất. Vả lại, clone một con vật cũng rất tốn kém: con bò tốn 18.000 mỹ kim, con.heo tốn 6000 mỹ kim. 4-Thiếu sinh tố A có thể gây ra những bệnh gì? Vitamin A thuộc nhóm các sinh tố hòa tan trong chất béo với các nhiệm vụ như giúp nhìn rõ hơn vào ban đêm, giúp kiến tạo và bảo trì răng, da, xương, giúp sự sinh sản bình thường. Thiếu sinh tố A sẽ đưa tới giảm thị lực, đục giác mạc, còi cọc cơ thể, xương chậm phát triển, da khô có vẩy, sỏi thận, giảm khả năng thụ thai, thai nhi kém tăng trưởng. Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá, gan, thận, sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa như sữa chua, pho mát. Hiện nay, nhiều loại thức ăn điểm tâm như các loại ngũ cốc khô đều được tăng cường với sinh tố A, cho nên ít khi ta bị thiếu. Ngược lại khi tiêu thụ quá nhiều sinh tố A có thể gây ra ăn mất ngon, nhức đầu, rụng tóc, mờ mắt, da khô, tính tình nóng nẩy. 5-Xin chỉ cho cách cắt giảm chất béo trong món ăn. Thực ra, chất béo rất cần vì chúng là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho cơ thể, nhiều hơn là từ chất đạm và carbohydrates. Chất béo cũng có vai trò trong nhiều phản ứng sinh hóa học, cần thiết cho sự tăng trưởng của trẻ em, là thành phần cấu tạo các hormon testosteron, estrogen, là dung môi hòa tan chuyên chở các vitamin A,D,E và K. Tuy nhiên nếu tiêu thụ quá nhiều chất béo thì có rủi ro mắc phải các bệnh tim, mạch máu. Để cắt giảm chất béo trong thức ăn, có thể áp dụng mấy phương thức như sau: -Trước khi nấu, hãy lọc bỏ tất cả các sợi mỡ mà ta nhìn thấy trên miếng thịt hoặc lẫn trong thịt băm, Với gà, vịt, loại bỏ da và lớp mỡ nằm ngay dưới da. -Ăn cá vài ba lần trong tuần, đặc biệt các loại cá có nhiều chất béo omega-3 như cá hồi, cá ngừ, cá thu, cá trích. Cá càng lớn thì omega-3 càng nhiều. -Khi nướng thịt, đặt thịt trên một cái vỉ, để mỡ chảy xuống dưới, thay vì ngấm vào thịt. -Ninh hầm hoặc om thịt để chất béo thoát ra khỏi thịt rồi sau đó gạn bỏ. -Mon thịt có nhiều chất béo sau khi nấu, có thể để trong tủ lạnh. Chất béo sẽ đông lại ở bên trên và có thể được loại bỏ dễ dàng. Khi ăn, chỉ cần hâm nóng món ăn. -Khi hâm món thịt, ta có thể làm thịt mềm ẩm mà không cần thêm mỡ. Hãy đặp một lá cải xanh dưới nồi, đặt thịt lên trên rồi phủ với miếng cải khác. Châm thêm một chút nước dưới đáy nồi. Hâm như vậy, hơi nước sẽ làm cho thịt trở nên mềm và có hương vị ngon hơn. -Xịt xoong chảo với chất chống dính trước khi chiên, như vậy không cần phải dùng đến bơ, dầu. -Khi cần một chút dầu cho món ăn có vị béo, nên dùng dầu mè hoặc dầu olive loại tốt. Các dầu này có nhiều hương vị mạnh, do đó chỉ cần dùng mươi giọt là đã có được một bát súp, món sà lách, đĩa rau ngon miệng. -Thay thế bơ với các loại rau có mùi thơm như cà chua, hành, tỏi, nấm, ớt cũng làm tăng hương vị món ăn, như là với bơ vậy. -Để ý các loại bánh bích quy mỏng, vì chúng thường có nhiều chất béo ma ( Tranfasty-acid), không tốt cho cơ thể. -Lựa cá hộp bảo quản với nước chứ không với các loại dầu. -Dành một chút thời gian để đọc nhãn hiệu thực phẩm coi xem có những chất béo gì và số lượng nhiều it ra sao. Nói chung, để giảm chất béo, nên tiêu thụ nhiều cá, rau, trái cây, và các loại hạt nguyên vẹn. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Texas-Hoa Kỳ (1)Thien FCK, Leung R, Baldo BA, et al. Asthma and anaphylaxis induced by royal jelly. Clin Exp Allergy 1996;26:216-22. Leung R, Ho A, Chan J, et al. Royal jelly consumption and hypersensitivity in the community. Clin Exp Allergy 1997;27:333-6. Yonei Y, Shibagaki K, Tsukada N, et al. Case report: haemorrhagic colitis associated with royal jelly intake. J Gastroenterol Hepatol 1997;12:495-9. Takahashi M, Matsuo I, Ohkido M. Contact dermatitis due to honeybee royal jelly. Contact Dermatitis 1983;9:452-5. BÁC SĨ NGUYỄN Ý ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 9, 2010 9:01:11 GMT 9
Phất Thủ Liệu Pháp
NGUYỄN QUANG ĐẠT . Việt Báo Phất Thủ Liệu Pháp hay còn gọi là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay đã được người Việt chúng ta biết đến khá nhiều trong khoảng 3 thập niên qua. Một phương pháp luyện tập tuy rất đơn giản nhưng có kết quả rất cao với khá nhiều chứng bệnh qua sự chứng nghiệm của rất nhiều người.Nhận thức được chân giá trị của Phất Thủ Liệu Pháp, người viết đã tham khảo và tổng hợp các kiến thức (lý giải) quí giá từ tài liệu của các Đông Y sĩ, Y sĩ và kinh nghiệm của những người luyện tập để đúc kết thành bản tài liệu dưới đây, hầu giúp cho người đọc cũng như người luyện tập có được một cái nhìn trọn vẹn trên nhiều khía cạnh khác nhau.1. Xuất xứ:Phất thủ liệu pháp có nguồn gốc xuất xứ rất mơ hồ và chưa có một tài liệu nào kiểm chứng chính xác. Một số tài liệu lại đặt tên cho phương pháp này là Đạt Ma Dịch Cân Kinh?Theo tài liệu của Bác sĩ Trần Đại Sỹ thì: “Trong thời gian 1960-1975 ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc (1975-2001) lưu truyền một phương pháp luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có một thức duy nhất là đứng thẳng buông lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã chữa khỏi ung-thư gan, lào, thận, Parkinson, huyết áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây là một ấn bản khác của Dịch Cân kinh, tôi đã bỏ công tra trong các thư viện của những Đại-học Y-khoa Thượng-Hải, Giang-Tô, Hồ-Nam, Phúc-Kiến, dĩ chí đến các gia, các phái võ thuộc các hệ Thìếu-Lâm ở Hương-Cảng, Đài-Loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam (DCKVN), vì được sáng tác vào thời kỳ 1960-1975. “Ghi chú: có thể xem các đoạn văn liên quan đến “Dịch Cân Kinh” trong bài viết này đều là “Phất thủ liệu pháp” để khỏi nhầm lẫn với 12 thức của Đạt Ma Dịch Cân Kinh.2. Phương pháp:Chuẩn bị:- Nên tập nơi thoáng mát, không khí trong lành - Mặc quần áo rộng rãi. - Thân trong tư thế thả lỏng, thoải mái, điều hòa nhịp thở và đầu óc được thanh tịnh (điều thân, điều tức, điều thần) trước khi tập.Tư thế:- Đứng thẳng, xương sống thẳng- Hai chân dang ra song song ngang vai.- Các ngón chân bám chặt vào mặt đất. Gót chân để phẳng lên mặt đất.- Gồng cứng (lên gân) bắp chuối và bắp vế của chân, nhớ luôn giữ bắp chân trong trạng thái căng thẳng.- Hậu môn nhíu lại, hội âm hơi nhích lên để kết nối vòng nhâm đốc mạch bên dưới hay còn gọi là “hạ thiết kiều”.- Bụng phải mềm, dưới hơi thót (dấu mông)* Kết hợp của các tư thế trên có phần tương tự như thế tấn “kiềng dương bộ”.- Lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo- Ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên.- Vai xuôi tự nhiên.- Hai cánh tay, bàn tay, cổ tay mềm và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. - Miệng: hai môi và hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau, đầu chót lưởi để trên nướu răng trên để kết nối vòng nhâm đốc mạch bên trên hay còn gọi là “thượng thiết kiều.”- Mặt hướng về phía trước.- Hai mắt khép hờ hoặc có thể chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn.- Đầu treo lơ lửng (đỉnh đầu huyền hay hư linh đỉnh kình) để cổ được thẳng.- Tâp trung ý vào nhịp lắc tay, hay đan điền hoặc hơi thở để dễ nhíp tâm.Kỹ thuật:- Hai tay để thẳng tự nhiên (hơi cong ở khuỷu). - Các ngón tay nên để duỗi tự nhiên, trung dung.* Về phần này có tài liệu khuyên nên giữ các ngón tay luôn dính vào nhau, và cũng có tài liệu khuyên nên xòe ra như cánh quạt. - Khi đánh tay, lòng bàn tay (tâm chưởng) luôn hướng về phía sau.- Đưa hai cánh tay về phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ, đồng thời hít vào. Dùng lực vẫy (phất) hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm (khoảng 60 độ) thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía trước, đồng thời với hít vào.- Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái vẫy tay kết thúc một chu kỳ.- Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái (khoảng 15 phút) một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành tối thiểu từ 1000 cái trở lên.Ghi chú:- Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường, tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập. (Lương y Võ Hà)- Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. - Trên ba dưới bảy: Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt. Nếu không thì công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.- Suốt quá trình tập: Hậu môn luôn thót lại để bế dương khí, không cho thoát ra: Nếu không thót hậu môn, cứ để tự nhiên mà tập, sẽ có thể bị trĩ hoặc sa thực tràng (lòi dom) do khí bị dồn ép xuống Đan điền, tăng sức ép vùng chậu hông. Hô hấp tự nhiên (nhẹ và đều) nhằm giải thoát này một phần. Bế khí lành, trục khí độc.Rất hay quên động tác này. Cố ghi nhớ khi quên sực nhớ ra cứ làm lại và cứ tập. Sau vài buổi tập, tự nhiên điều khiển được. Nhưng phải nhớ hai chân luôn đứng rộng bằng vai. Ngoài ba động tác cố nhớ và cố sức trên đây, toàn bộ các tác động còn lại (trừ động tác phẩy tay ra sau) đều tuân thủ nguyên tắc: tự nhiên, nhẹ nhàng, mềm mại.Khi vẫy tay, các khớp xương tay thỉnh thoảng cong lại rồi duỗi thẳng ra, nhất là khớp cổ tay.Tập mỗi ngày 1-2 lần. Buổi sáng, sau khi đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh thân thể. Buổi tối, sau khi làm vệ sinh thân thể, tập xong lên giường ngủ luôn. Nhớ kỹ: sau khi tập, không được dùng nước lạnh hoặc nước ấm để lau rửa thân thể vì sẽ làm tiêu hao nguyên khí. (BS Phạm Xuân Phụng)- Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức chịu đựng của cơ thể.- Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả phất thủ liệu pháp bằng cách ngồi mà vẫy tay tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân. (Lương y Trần Văn Bình) 3. Xả:Sau khi tập xong, điều quan trọng nhất là phải nhớ luôn xoa bóp tay chân cho khí huyết được lưu thông điều hòa, nếu không có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến các cơ bắp về sau.4.Tác dụng: Tập Phất thủ liệu pháp tác động đến các huyệt đạo:- Bách hội- Đại chùy- Lao cung- Trường cường- Hội âm- Dũng Tuyền- Ấn bạch cũng như nhâm đốc mạch và vận chuyển hoành cách mô xoa bóp các cơ quan trong tạng, phủ.Theo tài liệu của Lương y Trần Văn Bình thì:Luyện Dịch Cân Kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau:- Nội trung: Tức là nâng cao khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu - Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc theo luyện tập. Tứ trung tế song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh - Ngũ tam phát: Nghĩa là 5 trung tâm của nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc bình thường. Đó là Bách hội: một huyệt trên đỉnh đầu, Lao cung: huyệt ở hai bàn tay, Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân. Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt Nhâm đốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ. - Lục phủ minh: Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng.Theo tài liệu Phất thủ liệu pháp của Lương y Võ Hà:Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Phất thủ liệu pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng phất thủ liệu pháp.Đối với y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ đồng một thể. Con người là tiểu vũ trụ. Trời đất thuộc đại vũ trụ. Mối quan hệ giữa con người và trời đất thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thìên căn, hấp tiếp địa khí". Hàng ngàn năm sau, hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng đã nghiên cứu, thí nghiệm và kết luận "vũ trụ lực nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót"*. Những động tác của PTLP tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này cho việc chữa bệnh và tăng cường nội khí. Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay đã kích hoạt huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu và Đại Chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh Dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh Dương và Mạch Đốc.Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.Theo học thuyết Kinh lạc, dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực dương sinh âm và Cực âm sinh dương. Việc nhập xuất, thăng giáng ở các huyệt vị và những đường kinh này những người luyện khí công có khí cảm tốt đều có thể thể nghiệm được. Đây có lẽ chính là con đường mà người xưa đã khám phá và từ đó xây dựng nên học thuyết kinh lạc.Trường Cường nằm trên mạch Đốc, là nơi phát xuất chơn Hỏa, tương ứng với luồng Hỏa xà Kundalini trong hệ thống khí công Ấn độ. Hội Âm nằm trên mạch Nhâm, là điểm giao hội của các đường kinh âm và hai mạch Nhâm, Xung, là điểm thu âm khí quan trọng nhất trong khí công. Do đó mặc dù không vận khí nhưng PTLP đã tác động rất tích cực vào hai mạch Nhâm, Đốc. Y học truyền thống cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các đường kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các đường kinh âm. Tất cả bệnh biến đều có biểu hiện trên hai đường kinh này. Nếu Nhâm, Đốc thông, trăm mạch đều thông. Vì vậy việc khai thông Nhâm, Đốc có ý nghĩa quan trọng cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh. Phất thủ liệu pháp có tác dụng cân bằng âm dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí dương thường thừa mà khí âm thường thìếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). Phất thủ liệu pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) - biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống hạ tiêu. Điều này khí công gọi là khí trầm Đan Điền, đạo gia gọi là qui căn. Đối với y học cổ truyền, đó là thuận khí, giáng hư Hỏa hoặc dẫn Hỏa quy nguyên.Phất thủ liệu pháp cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thìện vốn có của hệ thần kinh trung ương.Theo tài liệu của Lương y Trần Văn Bình:“Sở dĩ bệnh gan là do khí huyết tạng gan không tốt gây nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tì vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt. Về bệnh mắt, luyện Dịch Cân Kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí được cả chứng đục thủy tinh thể; trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến các bộ phận của mắt, do vậy sinh ra các bệnh tật do mắt. Đôi mắt là bộ phận thị giác cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể.”Tiêu trừ các chứng bệnh:Theo như các tài liệu tham khảo thì luyện tập “phất thủ liệu pháp” có thể giúp tiêu trừ các chứng bệnh sau:- Các thứ bịnh nham (ung thư)- Huyết áp cao thấp- Gan cứng- Bán thân bất toại- Huyết quản cứng- Viêm khớp xương- Thần kinh suy nhược- Suy tim và thận- Mỡ dạ dày, tiêu hóa kém- Bổ khí, thêm huyết 5. Phản ứngTập phất thủ liệu pháp có gây phản ứng nguy hiểm gì không?(Theo tài liệu Phất thủ liệu pháp của Lương y Võ Hà)Phất thủ liệu pháp có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.Do không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. Phất thủ liệu pháp tác động kích thích đồng thời các huyệt bách hội, hội âm và trường cường. Do đó, bách hội và hội âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ trường cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa âm và dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.Phất thủ liệu pháp tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý quán chiếu Đan điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma.Trong cơ thể một người bình thường, hai mạch Nhâm, Đốc thường tách rời nhau. Ở người luyện khí công, vòm họng trên và hậu môn có khả năng trở thành những chiếc cầu nối hai mạch này lại nên được gọi là Thượng Thước Kiều và Hạ Thước Kiều. Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn vừa là một yêu cầu luyện công để tăng nội lực, vừa là một biện pháp an toàn do những động tác này nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra thế bình thông nhau giữa hai bể khí Âm và Dương. Sự tương thông này giúp nội khí luân lưu tuần hoàn thành vòng Tiểu châu thìên trong thân người, điều hòa giữa Âm và Dương và thông qua hai đại mạch này tăng cường và điều hòa sinh lực giữa ngủ tạng, lục phủ.Một số phản ứng thông thường trong khi luyện tập:(Theo tài liệu Dịch Cân Kinh của Lương y Trần Văn Bình)Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng, nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được.1) Đau buốt.2) Tê dại (các đầu ngón tay, ngón chân...)3) Lạnh.4) Nóng, mặt nóng bừng5) Đầy hơi.6) Sưng.7) Ngứa.8) Ứa nước giải.9) Ra mồ hơi.10) Cảm giác như kiến bò.11) Giật gân, giật thịt.12) Đầu khớp xương có tiếng lục cục.13) Cảm giác máu chảy dồn dập.14) Lông tóc dựng đứng.15) Âm nang to lên.16) Lưng đau.17) Máy mắt, mi giật.18) Đầu nặng.19) Hơi thở nhiều, thở dốc.20) Nấc.21) Trung tiện.22) Gót chân nhức như mưng mủ.23) Cầu trắng dưới lưỡi.24) Đau mỏi toàn thân.25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân).26) Sắc mặt biến đi.27) Huyết áp biến đổi.28) Đại tiện ra máu.29) Tiểu tiện nhiều.30) Nôn, mửa, ho.31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra.32) Trên đỉnh đầu mọc mụt.33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân.34) Chảy máu cam.Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường không thải nổi. Như luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bã ra ngoài nên sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt.7. Lời ca truyền khẩu về 16 yếu lĩnh & lờI khuyên lợi ích của Phất Thủ Liệu Pháp(Trich từ tài liệu của Bs Phạm Xuân Phụng)Đứng vững chuyển mãi các khớp xươngGân cốt giản ra, hơi độc tiêuHư thực đổi thay hơi khép mởKhí đều tay chân trăm mạch sốngTrên ba dưới bảy có trọng tâmHai chân đứng vững vai trì xuốngKhử bệnh đầu nặng chân nhẹ đóTinh khí tràn trề thân nhẹ nhõmPhẩy tay trị bệnh đúng nguyên nhânHơn cả xoa bóp và châm cứu Khí huyết không thông nảy trăm bệnhKhí hoà tâm bình bệnh khó sinh. 8. Kết luậnPhất thủ liệu pháp là phương pháp luyện tập khí công dùng để tăng cường sức khoẻ, khai thông và vận chuyển khí huyết lên toàn bộ các kinh mạch. Có hiệu quả cao đối với nhiều chứng bệnh khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…Một phương pháp luyện tập rất đơn giản nhẹ nhàng, dễ nhớ và hầu như thích hợp với mọi lứa tuổi và thể chất.Pháp hay sẵn có, chờ người hữu duyên.Tài liệu tham khảo:1. Phất Thủ Liệu Pháp - Lương y Võ Hà.2. Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Lương y Trần Văn Bình.3. Dịch Cân Kinh – Bác sĩ Trần Đại Sỹ.4. Bài Tập Thể Dục Đa Năng – Bác sĩ Phạm Xuân Phụng.5. Kinh Nghiệm Tập Đạt Ma Dịch Cân Kinh – Huỳnh Bửu Khương. Nguyễn Quang Đạtwww.duongsinhthucphap.org NGUYỄN QUANG ĐẠT
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 4:00:10 GMT 9
Bệnh Hói là do tế bào gốc “ngủ quên” Tạp chí Journal of Clinical Investigation cho biết các nhà khoa học đã khám phá ra nguyên nhân sâu xa của hiện tượng hói đầu ở nam giới. Vấn đề nằm ở chỗ những tế bào gốc trên da đầu - loại tế bào chủ có thể chuyển đổi thành tế bào cấu tạo nên nang tóc, trở nên “bất trị” và ngừng phát triển. Theo nghiên cứu của giáo sư George Cotsarelis, chuyên gia về da liễu tại Đại học Pennsylvania, Mỹ, nang tóc của những người mắc chứng hói đầu sẽ teo lại rất nhỏ do những tế bào gốc ngừng biến đổi. Ông cũng phát hiện ra rằng phần da đầu bị hói có cùng số lượng tế bào gốc sản sinh tóc như vùng da đầu bình thường. Vì vậy, nếu chúng ta có thể kích hoạt các tế bào gốc phát triển và biến đổi chúng thành những tế bào nguyên bản của nang tóc, thì nang tóc mới được hình thành sẽ lớn hơn và tóc sẽ nhanh chóng mọc trở lại. Trước đây, các nhà khoa học cũng tìm ra một loại gen mà họ cho rằng có liên quan đến chứng rụng tóc mà nhiều người gặp phải. Loại gen này có tên APCDD1 và có thể di truyền từ bố mẹ sang con cái./. @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@ Sữa và nước tiểu lạc đà có thể chữa bệnh ung thư ? Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Công ty sinh học Arập (ABC) vừa tuyên bố phát triển thành công một loại thuốc gồm một số hợp chất chiết suất từ sữa và nước tiểu của lạc đà để điều trị bênh ung thư. Các nhà nghiên cứu cho rằng hệ miễn dịch của lạc đà là một trong các hệ miễn dịch mạnh nhất. Bởi vậy loại thuốc mới có chứa những tế bào có sức sống mạnh mẽ của lạc đà sẽ tấn công các chất độc trong các tế bào ung thư để tiêu diệt chúng mà không gây hiệu ứng phụ. Nhóm các nhà nghiên cứu trên khẳng định các thí nghiệm trên chuột cho thấy tỷ lệ thành công là 100%. Sau sáu tháng được tiêm loại thuốc mới các con chuột thí nghiệm mang các khối ung thư vẫn sống và hoạt động bình thườngnhư những con chuột khoẻ mạnh khác. Tiến sĩ Abdalla Al-Naja,Chủ tịch Tổ chức Khoa học và Công nghệ Arập (ASTF) cho biết loại thuốc mới là hỗn hợp sữa và nước tiểu lạc đà có khả năng chữa nhiều loại bênh ung thư như ung thư máu (Leukemia), ung thư phổi, gan và vú. Thuốc đã được thử nghiệm có kết quả tốt trên chuột và sắp tới sẽ được thử nghiệm cho người. Trên thế giới mỗi năm có tới 6 triệu người chết vì bênh ung thư, và căn bênh này đứng thứ hai trong số các bênh gây chết nhiều người nhất trong thế giới Arập, sau bênh tim mạch../ @@@@@@@@@@@@@@ Ngón tay tiết lộ nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt? Tờ Tiếng vang ngày 6/1 của Pháp có bài của các nhà nghiên cứu khoa học người Anh đưa ra kết luận cho rằng, đàn ông có ngón tay trỏ dài hơn ngón tay đeo nhẫn có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 30% so với những người đàn ông có ngón đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ. Báo này đã dẫn lại kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc, mới đây đăng trên tờ báo Ung thư của Anh (British Journal du Cancer). Để đưa ra được kết luận đó, các nhà nghiên cứu người Anh đã phải nghiên cứu các ngón tay của 1.500 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và 3.000 người hoàn toàn khỏe mạnh trong vòng 15 năm. Giải thích về mặt hoócmôn, cho thấy, chiều dài ngón tay thứ nhất và ngón thứ ba đã được định hình từ trước khi sinh bởi sự trình bày của các testostéron được sản sinh ra ngay từ trong bụng mẹ. Theo sự giải thích này, nếu sự trình bày của các testostéron mà yếu thì ngón tay trỏ sẽ dài hơn. Tuy nhiên, rất ít đàn ông trưởng thành mẫn cảm với việc phát triển bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì rằng, có đánh giá khác lại cho rằng, một sự trình bày quá yếu testostéron trước khi sinh sau này sẽ giảm nguy cơ bị ung thư. Chính vì vậy, việc quan sát bàn tay đơn giản chỉ để tham gia thêm vào việc xem xét trong quá trình chẩn đoán bệnh mà thôi./ Suu Tam
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:13:03 GMT 9
VÀI PHƯƠNG THUỐC THẦN DIỆU
Rev. Francis Sáng LTS: Bài "Vài Phương Thuốc Thần Diệu" đã đăng trong số báo Xuân Nhâm Ngọ 2002. Gần đây TS nhận được nhiều thư từ và điện thoại yêu cầu đăng lại bài này, vì vậy TS cho đăng lại hầu phục vụ các độc giả đã không thể tìm đọc số báo Xuân 2002.
LTS đăng lần đầu: Tòa soạn vừa nhận được cẩm nang "Vài Phương Thuốc Thần Diệu" để chữa trị các chứng bệnh ung thư, do ông Nguyễn Tài cung cấp để cống hiến cho quý độc giả, và giúp cho những bệnh nhân khi cần chữa trị. TS xin cảm ơn ông Nguyễn Tài đã cung cấp cẩm nang quý giá naỳ.
THAY LỜI TỰA
Nhân chuyến đi dự Đám Cưới của một gia đình thân ở Buffalo, tôi có dịp làm quen với ông Nguyễn Thái Hòa cũng là Người Đồng Hương Nghệ Tĩnh.
Nhờ tình thân hữu và lòng thích quảng bá truyền những gì hữu ích cho kẻ khác, nhất là các môn thể dục và thuốc trị bệnh. Tôi đã giới thiệu cho ông Thái Hòa tập "Suối Nguồn Tươi Trẻ" mà tôi đã tóm tắt lại cho dễ tập. Coi qua, ông Thái Hòa đã cho tôi biết là Ông cũng có những võ học cao quý để luyện thân thể. Và từ đó Ông đã cho tôi biết Ông còn có những môn thuốc điều trị rất hay, như “Huyệt trị đầu kinh niên”, “Thuốc chữa trị bệnh ung thư ”... Nghe đến thuốc “Chữa Nhức Đầu Kinh Niên" thì tôi ham muốn ngay, vì tôi có nhiều người bạn hoặc nhiều giáo dân của tôi luôn bị đau đầu, mà hiện nay, khoa học tân tiến vẫn đang còn bị bó tay. Tôi liền xin Ông Bạn gởi cho tôi cách điều trị ấy.
Sau hơn tuần lễ, ngày 25 tháng 7 năm 2000, tôi đã nhận được nhưng “Phương Thuốc Thần Diệu” sau đây. Và cũng như ý nguyện của ông Nguyễn Thái Hòa, là muốn tôi truyền bá nó cho bà con.
Tôi xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Thái Hòa, và xin cầu chúc Quý Bà Con cố gắng áp dụng cho mình và cho những ai cần đến những vị thuốc thần diệu này.
Kính,
Rev. Francis SángThuốc trị Prostate Cancer ung thư tuyến tiền liệt và khí hư – thận suyThang thuốc này do đạo hữu Thái Huệ Tôn ghi lại và cho phép phổ biến.Cách chỉ dẫn: - Trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer) theo chỉ dẫn sau đây: Sắc 3 chén nước còn lại một chén, uống mỗi ngày một thang. Uống liền 3 tháng, nếu thấy bệnh thuyên giảm, đi tiểu dần dần lại được thì uống tiếp. Từ thang thứ tư trở đi, sắc uống 2 nước, nước nhất 3 chén còn lại 1 chén uống, nước hai 3 chén còn lại 8 phân, uống liên tục khi nào thấy hết bệnh thì thôi (thông thường uống đến thang thứ 7 là hết bệnh). - Trị thận suy, khí hư: Sắc uống 2 nước: nước nhất 3 chén còn lại phân, nước hai 3 chén còn lại 1 chén. Uống thang trong 1 tháng, nghỉ 6 tháng, uống lại thang nữa. Các vị thuốc cần có: Thục địa: 3 chỉ Hoài Sơn: 3 chỉ Trạch tã: 3 chỉ Đơn bì: 2 chỉ Táo ngọc: 2 chỉ Phục linh: 2 chỉ Hắc đỗ trọng: 3 chỉ Ngưu tất: 3 chỉ Bạch truật: 2 chỉ Ngọc thung dung: 3 chỉ Táo nhơn: 4 chỉ Viễn chi: 2 chỉ Quảng bì: 3 chỉ Nguơn nhục: 3 chỉ Đãn sâm: 3 chỉ Phấn thảo: 2 chỉ Câu kỳ: 3 chỉ Chích kỳ: 2 chỉ Nguyễn Văn Tấn viết phổ biến cho Bà Con. Huyệt Chữa Đau Đầu · Huyệt 1 &2: phía sau đầu. Phía sau đầu, ngang 2 tai. Dùng 2 ngón tay giữa ấn mạnh để mò huyệt. · Huyệt 3: Trước mặt. Phía trước đầu. Dùng 2 ngón tay cái bấm mạnh và giữ đầu bằng tay kia. · Huyệt 4,5,6 & 7: Ở cánh tay và bàn tay (cả 2 phía trong và ngoài). Dùng ngón tay cái bấm mạnh, xoáy nhẹ và tay kia giữ chặt tay bệnh nhân. Lưu ý: tất cả mỗi huyệt phải làm khoảng 30 giây, hoặc một phút. Đau đầu thường là khỏi liền, còn đau đầu kinh niên, mỗi tuần chữa 2 hoặc 3 lần. Khoảng một tháng thì hết hẳn. Khi bấm trúng huyệt thì nghe đau. Nếu bấm không đau là chưa trúng huyệt. Thuốc Tỏi Bài thuốc của tổ chức y học thế giới (WHO thuộc LHQ) (đã đăng ở Tạp Chí Y Tế năm 1982, 1983 và 1984)A. Xuất Xứ Vào những năm 1960 – 1970, WHO cơ quan theo dõi sức khỏe và bệnh tật thế giới của LHQ phát hiện ở Ai Cập là một nước nghèo, khí hậu sa mạc khắc nghiệt nhưng sức khỏe chung của nhân dân Ai Cập lại vào loại tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ tương đối cao. WHO đặt vấn đề với chính phủ Nasser, xin cử một số đoàn viên của LHQ vào Ai Cập để nghiên cứu xem tại sao lại có hiện tượng như thế, mà y tế Ai Cập không giải thích được. Được tổng thống Nasser đồng ý, WHO huy động nhiều chuyên gia y tế vào Ai Cập nghiên cứu, chia nhau đi xuống nông thôn, các vùng có khí hậu khắc nghiệt, thu thập các tài liệu đặc biệt. Cuối cùng các nhà nghiên cứu thuộc nhiều nước (đông nhất là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) nhận xét là ở Ai Cập nhà nào cũng có một lọ rượu ngâm tỏi để uống. Nhân dân Ai Cập nói là từ bao thế kỷ nay nước họ vẫn làm như thế. Ngày xưa, Ai Cập là một đế chế lớn, chinh chiến liên miên, chù yếu sử dụng gươm đao chém giết nhau. Lúc ấy làm gì đã có kháng sinh, họ chỉ dùng tỏi để uống và cũng để rửa các vết thương. Ơû các vùng, tỏi được ngâm rượu theo những công thức khác nhau. Chuyên gia các nước đem những công thức đó về nước mình, nghiên cứu phân tích. Đúc kết lại những gì tốt rồi thông qua và gửi cho WHO. Sau đó, WHO tổng kết và tổ chức hội thảo về vấn đề này. Đến năm 1980, họ thông báo rằng rượu tỏi chữa được 4 nhóm bệnh như sau: 1. Thấp khớp (sưng khớp, vôi hóa các khớp, mỏi xương cốt) 2. Tim mạch (huyết áp thấp, huyết áp cao, hở van tim, ngoại tâm thụ) 3. Phế quản (viêm phế quản, viêm họng, hen phế quản) 4. Tiêu hóa (ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét dạ dày) Tới năm 1983, Nhật lại thông báo bổ sung thêm 2 nhóm bệnh nữa: 5. Trĩ nội và trĩ ngoại 6. Đại tháo dường Nhật cũng công bố “Đây là môn thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ và có hiệu quả chữa bệnh cao". B. Nguyên Lý Con người ta từ tuổi 40 trở đi (có thể trẻ hơn nữa) là đã có bệnh. Các bộ phận trong cơ thể bắt đầu thoái hóa, bộ phận nào yếu thì thoái hóa nhanh, đặc biệt làm cho các chức năng hấp thụ chất béo (lipid), chất đường (glucose) bị suy giảm, các thứ đó không hấp thụ hết qua đường chuyển hóa, phần thừa không thải ra ngoài được, dần dần lắng đọng trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch và một số bộ phận khác, rồi lâu ngày gây ra những bệnh như trên. Trong tỏi có 2 chất quan trọng: 1. Phitoncid là loại kháng sinh thực vật có tác dụng diệt một số vi khuẩn. 2. Hoạt tinh màu vàng: giúp lamø tiêu chất béo dưới dạng cholesterol, bám vào thành vách mạch máu, làm cho đường đi của máu từ tim ra và về bị nghẽn. Chính nhờ hai chất đó mà tỏi có tách dụng chữa bệnh cao. C. Công thức điều chế và cách dùng Tỏi khô (túng lắm mới dùng tỏi tái): 40 gram, theo kinh nghiệm thì mua 50 gram, sau khi bóc vỏ chỉ còn 40 gram. Thái nhỏ cho vào lọ rửa sạch. Rượu trắng 45 độ (tốt nhất là rượu lúa mới). Lấy 100ml. Một chai rượu 500 ml dùng được 5 lần ngâm. Ngâm 10 ngày, thỉnh thoảng lại lắc lọ. Mới đầu thì có màu trắng, sau dần dần chuyển sang màu vàng, đến ngày thứ 10 thì trở thành màu nghệ. Cách dùng: 40 giọt compteurgoutes Sáng 40 giọt trước khi ăn, tối 40 giọt trước khi ngủ. Vì chất lượng quá ít, nên cần thêm nước sôi để nguội vào, thì mới uống thành ngụm được. Uống liên tục suốt đời. Người phải kiêng rượu hoặc không uống được rượu vẫn uống được vì mỗi lần chỉ uống 40 giọt, là một lượng rượu rất ít không đáng kể. 40 gram tỏi như thế, uống 20 ngày thì hết. Phải ngâm 10 ngày mới có thể dùng được. Bởi đó cứ sau 10 ngày phải ngâm thêm một lọ để có thể uống liên tục. D. Hiệu quả của sự trị bệnh Tác giả tổng hợp bài này cho biết kết quả của thuốc tỏi như sau: Từ năm 1970 ông bị thấp khớp nặng, sưng cả các khớp, phải đi cà nhắc. Thuốc tân dược và đông y ông đã dùng nhiều, như cao hổ, rượu tắc kè, thế mà bệnh không đỡ, lại nặng thêm. Năm 1975 lại bị ngã gần chết. Năm 1981 bị ngất, phải đi cấp cứu bệnh viện 3 ngày mới hết, nên sức khỏe càng giảm. Vào cuối năm 1982, ông bắt đầu uống thuốc ngâm tỏi. Chỉ 20 ngày sau, bệnh sưng khớp của ông hết hẳn. Qua 3 tháng, huyết trở lại bình thường. Bệnh viêm hong cũng khỏi. Hen phế quản giảm nhiều. Ngoài ra tác giả còn cho biết bệnh trĩ nội của ông mỗi năm đi ra máu 5, 7 lần. Hen phế quản nặng, cấp cứu nằm viện 2, 3 lần. Nay nhờ uống thuốc tỏi, người ông bình thường, ăn uống tiêu hóa đều đặn. Đặc biệt đối với bệnh khớp thì thuốc tỏi được xem như là thuốc thần. Tác giả trước đây khổ sở vì thấp khớp, nay đã khỏi hẳn, không còn một hiện tượng gì đau đớn nữa. Vậy, ‘đây là thứ thuốc tuyệt vời của nhân loại, vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng gì, lại có hiệu quả chữa bệnh cao". Chú ý: Ngâm 10 ngày rồi vớt bả ra, ngâm lâu hư không dùng được. Thuốc Chữa Bệnh Ung Thư Aloe Vera (Cây Dứa Cảnh) – Cây Thuốc Tuyệt Diệu Trị Ung ThưDu khách viếng thăm Thánh Địa, nếu đến Bêlem thế nào cũng có dịp gặp Cha Romando Zago, người Brazil, sống trong cộng đoàn các cha Dòng Phanxicô, quản thủ thánh địa bên cạnh Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh, có hang đá nơi Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây 2000 năm. Từ nhiều năm nay, cha nổi tiếng vì đã chữa rất nhiều người khỏi bệnh ung thư, mặc dù cha không phải là bác sĩ , cũng không phải là thầy phép, lại càng không phải là phù thủy. Cha chỉ dùng sự hiểu biết học hỏi được nơi người dân Brazil khi còn sống tại quê nhà để cứu giúp các bệnh nhân. Cha Romano Zago sinh tại Lajeado trong giáo phận Porto Alegre, Brazil 1932. Sau khi nhập dòng Phanxicô cha được chỉ định làm việc tại Thánh Địa. Ban đầu làm giám hoc trông coi các thầy dòng trẻ đang theo chương trình triết học tại cư sá sinh viên Bêlem, sau đó ngày được đổi vè đại chủng viện quốc tế Giesusalem thuộc tu viên Chúa Cứu Thế Giesusalem. Tại đây, cũng như ở cứ xá sinh viên Bêlem cha dạy môn Latinh. Cha Zago có gương mặt tròn trịa rất hiền lành và đơn sơ. Chính vì thế khi nhìn cha lại càng khó tin là cha có khả năng giúp nhiều người khỏi bệnh ung thư. Cha nói: “Tôi đã học nơi dân nghèo Brazil là những người không có tiền để ăn nên không bao giờ dám bén mãng tới các tiệm thuốc tây để mua các loại thuốc tân tiến phức tạo, vừa đắt tiền vừa không chữa được bệnh ung thư. Họ tới thẳng với Thiên Chúa từ nhân, là Đấng đã tạo dựng nên nhiều lại cây cỏ chữa bệnh rắt tuyệt vời, trong đó có cây Aloe Vera, là một loại dứa cảnh mọc khắp nơi, ngay cả bên vệ đường. Dân nghèo đã dạy tôi nhận diện nó và dùng nó để chữa bệnh ung thư. Toa thuốc chữa bệnh ung thư của cha Zago rất đơn giản. Nó gồm hai lá lớn hai ba lá nhỏ cây Aloe Vera, bỏ chung tất cả vào máy xay sinh tố xay nhuyễn ra thành một loại xirô. Truớc khi dùng thì lắc đều lên. Mỗi ngày uống ba lần, 15 phút trước khi ăn sáng, ăn trưa, ăn tối. Mỗi lần một muỗng canh xirô Aloe Vera. Mật ông là loại thực phẩm con người hấp thụ dễ dàng. Chất ruợu mạnh khiến cho mạch máu nở lớn để cho mật ong pha lẫn với Aloe Vera tới với mọi tế bào trong toàn cơ thể, vừa nươi dưỡng vừa chữa lành các vế thương và lọc sạch máu. Bình thường việc chữa trị kéo dài 10 ngày. Sau 10 ngày nên đi khám nghiệm xem bệnh tình ra sao và so sánh kết quả trước và sau khi điều trị để nếu cần thì uống tiếp thêm 10, 20 hoặc 30 ngày nữa cho tớii khi hoàn toàn khỏi bệnh. Bình thường bênh nhân cảm thấy khá ngay sau đó. Nhưng đây chưa phải là đấu chỉ khỏi bệnh. Cần phải đi bác sĩ khám nghiệm để biết bệnh tình tiến thoái ra sao. Cần phải kiên trì và nhẫn nại. Nhưng hiệu quả của cây Aloe Vera rất chắc chắn và mạnh mẽ, chống lại bất cứ loại ung thư nào từ ung thư da cho tới ung thử cổ họng, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư óc, ung thư dạ dày, ung thư ruột,... và cả ung thư máu nữa. Thật ta dân tộc trên thế giới đều biết đến công hiệu chữa bệnh của cậy Aloe Vera. Có tất cả 300 lại Aloe, nhưng các loại thường được dùng để chữa bệnh là Aloe Vera, Aloe đảo Socotra, Aloe vùng Cap bên Nam Phi, Aloe Saponia, Aloe Sinensis, Aloe Arborescens, Aloe vùng Natale và Aloe Forox. Loại thông thừờng nhất là Aloe Vera. Cây aloe Vera hay cây Aloe Barbadensis là một loại dứa cảnh lá thon hai bnên có gai nhọn, dài trung bình từ 40 đến 50 cm, cây có chiều cao 60 – 90 cm, bên trong lớp vỏ xanh là chất thạch đắng. Theo bảng phân chất của linh mục bác sĩ Grandi cũng dòng Phanxicô làm việc tại trung tâm nghiên cứu La Torre tỉnh Torino trung bắc nước Ý cây Aloe Vera gồm các chất sau đây: 1. Mười ba chất khác nhau thuộc loại Ligine, saponine và antra chinoni chứa các chất trụ sinh chống lại các vi khuẩn: Alonia cartartico ed emetico; Barboloina (glucoside barbaloico): antibiotico e catartico; Isobarbaloina: analgesisco và antibiotico; Antranolo; Antracene; Acido aleoitico; antibiotico; Emodine được’aloe battericia và lassativo; Acido cinnamico: detergente, germida và unghicida; Estere dell’acido cinamico; calmante; Olio etero: analgesico và anesterico; Acido crisfanico; funghicida; Aloe ulcine: inibtore della secrexionce gastrica per reaxione con l’istaminia; Resestanolo. 2. Tám loại Vitamin cần thiết cho sức lớn mạnh của các tế bào, dưỡng nuôi thân thể, chế toại ra máu, điều hòa cơ thể và chữa lành các vết thương: Vitamin A (carotene); B1 (tiamina: cần thiết cho sức lớn mạnh của các tế bào và sản xất năng lượng) B2 (niacina và ribiflavina): tác động chung với vitamin B6 để chế tạo máu; Niacinamide (niacine): giúp điều hòa hệ thống biến sinh thái của thân thể; C (acido ascorbico) cùng với vitamin E chống lại sự nhiễm trùng và giúp vết thương thành thẹo; E (Tocoferolo): công hiệu giống như vitamin C: Colline (vitamin thuộc loại B giúp hệ thống biến sinh thái của cơ thể và sau cùng là vitamin Một trợ giúp chế tạo máu. 3. Cây Aloe Vera chứa hơn 20 muối đạm cần thiết cho cơ thể. Sau đây là những loại chính: Calcio cùng với chất fosforo tạo thành xương; fosforo, potassio ferro (chất sắt trong máu giúp giữ dưỡng khí) sodio, cloro manganese (cùng với chất magnesio giúp các bắp thịt và hệt hống thần kinh hoạt động) cromo (giúp sinh hoạt của các chất men và chất axít béo) zinco (kích thích sinh hoạt của chất protein trong việc làm lành viết thương. 4. Saccaridi đơn và đa dạng: Cellulosa glucosio mannosio aldoso acidouronico lipasi aninasi L-ranose (Carisyn là chất mớii dược khám phá ra có nhiệm vụ cũng cố hệ thống kháng tố) 5. Amnoacide chính yếu 6. Amino acidi phụ thuộc 7. Các chất men: các chất men ốc cít của cây Aloe hút các yếu tố nồng cốt Fosfatasi acida amilasi bradichinasi hay bradichinisia (giảm đau chống sưng kích thích bảo vệ kháng tố) cellulasi (giúp chất cellulosa tiêu hóa) catalisi (ngăn chận không cho chất H2O2 đọng trong tế bào), Lipasi (giúp tiêu hóa) Nucleotidasi fosfatasi alcalina Proteolitiasi hay protesi (giúp các yếu tố tạo thành chất protein tan trong nước) Việc khỏi bệnh ung thư đầu tiên xảy ra hồi năm 1987. Hồi đó tại Bêlem có một ông cụ bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt vào thờii kỳ cuối. Các bác sĩ thất vọng không chữa được nen đã cho cụ rời nhà thương để cụ chết tại nhà, giữa người thân. Cha Romano được gọi tới ban bí tích xức dầu kẻ liệt cho ông. Sau khi ban phép bí tích cho ông, cha đề nghị ông thử dùng phương thuốc của cha cho. Ông cụ đã dùng và đã được khỏi bệnh và hiện nay vẫn còn sống với con cháu rất khỏe mạnh, dù đã 85 tuổu. Sau đó bình xirô Aloe Vera cho Romano làm cho cụ bị một nữ tu giúp việc giòng Phan sinh Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria Aida bỏ quên trong một hộc ở xó bếp, cho tới một hôm nữ tu Silvana y tá của nhà dòng biết tin một bà bạn bị ung thư. Chị chợt nhớ tới bình xirô của cha Romano và đưa cho chị bạn uống, rồi thêm xirô với lá cây Aloe Vera. Chỉ trong ba tháng chị bạn khỏi bệnh ung thư và sống rất khỏe mạnh. Sau đó, một trong hai ông thư ký của trường Thánh Được(ịa Bêlem bụ ung thư cổ họng, nói không ra tiếng. Linh mục Raffaelle Caputo giám đốc trường kêu cầu cha Romano Zago. Cha Zago tới thăm ông với một lo xirô Aloe Verz lớn. Chỉ hai tháng sau ông thư ký khỏi bệnh , nói được, làm việc bính thường trở lại. Tuy nhiên vụ chữa bệnh cảm động nhất mà cha Romano còn nhớ là vụ của chú bé Geraldino người Arghentina, mới lên 5 tuổi. Geraldino bị ung thư máu, sau khi tìm mọi cách chữa trị mà không ôcng hiệum các bác sĩ đề nghị với cha mẹ phương thuốc cấy tỉ vào xương sống của Geraldino. Đây là loại giải phẩu rất phức tạp và tốn kém, nhưng vì thương con, hai ông bà cũng cố gắng. Người cho tỷ khong ai khác là chú bé anh ruột của Geraldino. Vụ giả phẩu cấy tủy được thực hiện tại nhà thương tối tân ở Barcelina, Tây ban Nha và được coi như là thành công mỹ mãn. Nhưng kết quả đãkhông kéo dài được bao lâu. Bệnh ung thư máu tái phátlần này nặng hơn trước. Các bác sĩ hoàn tòan bất lực và thất vọng không cứu sống được Geraldino. Cha mẹ của em rất buồn nhưng là tín hữu có lòng tin sâu xa, hai ông bà quyết định đem đứa con lớn và Geraldino sang hành hương Thánh Địa, vừa để cho Geraldino khuây khỏa, vừa là dịp cho hai con viếng thăm vùn gđất Thanh. Hy vọng có một phép lạ nào đótừ lời cầu nguyện tại nơi chúa đã từng chữa muôn bệnh nhân. Thế rồi họ đã lên đường và một hôm họ đang quỳ cầu nguyện, trước hang đá, lại gặp giờ các cha Phanxicô xếp hàng đi rước kiệu và hát kinh chiều, trong đó có cả cha Romano Zago. Liếc nhìn dôi vợ chồng trẻ và hai đứa con thơ đang quỳ cầu nguyện, cha Romano đoán chắc gia đình đang có vấn đề. Cha đến chào hỏi chuyện và biết được nỗi lo lắng của họ. Cha đã đề nghị hai ông bà thử dùng phương thuốc chữa bệnh của ngài. Và Geraldino đã uống xirô Aloe Vera do cha Romano xay cho em. Sau một tháng, Geraldino đã khỏe mạnh hân hoan bước theo đoàn kiệu của các cha dòng Phanxicô. Em đã ở lại và điều trị trong vòng hai tháng. Sau hai tháng thì các bác sĩ đã cho biết em đã hoàn toàn khỏi bệnh ung thư máu. Chính cha Zago đã kể lại các vụ chữa bệnh công hiệu trên đây trên nguyệt san "Thánh Địa" số ra cho hai tháng 11 và 12 năm 1993, để cho mọi người biết rằng có thể chữa lành bệnh ung thư với các chất liệu đơn sơ, mà Thiên Chúa Tạo Hóa đã dựng nên trong thiên nhiên, để trợ giúp con người. (LM Giuse Hoàng Minh Thắng viết theo Vittorio Bosello Ofm, Il miracolo dell’Aloe e del miele, La Terra Santa, Nevembre, Decembre 1993, Marzo Aprile 1995)
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 11, 2011 8:10:57 GMT 9
Có Thai Đi Máy Bay. Vietsciences- Nguyễn Ý Đức Bản tin cho hay, khi máy bay đang lăn bánh trên phi đạo để lấy trớn cất cánh thì phi công chính được tiếp viên trưởng Phan Thị Hoàng Quyên yêu cầu hủy chuyến bay với lý do chính đáng là một nữ hành khách có thai đang kêu đau bụng có thể sinh con. Ý thức được tầm mức quan trọng của sự việc, ông ta bèn giảm tốc lực máy bay rồi quay về bến đậu, đồng thời thông báo đài kiểm soát, yêu cầu cấp cứu y khoa.Trong khi đó thì cô tiếp viên đã trở thành bà mụ bất đắc dĩ, giúp bà mẹ sanh cháu bé an toàn với sự tiếp tay của một bác sĩ hành khách. Theo cô Hoàng Quyên, từ lúc bà mẹ kêu đau bụng tới khi đứng dậy, sanh con chỉ kéo dài trong vòng 4 phút. Về tới sân đậu, toán y tế cấp cứu đã túc trực, cắt rốn cho bé và đưa ngay vào bệnh viện phụ sản thành phố. Bà mẹ bị chảy máu khá nhiều nhưng may mắn là mẹ tròn con vuông. Khi rời máy bay, bà mẹ tươi tỉnh hơn nhưng cũng hơi mắc cỡ… Chuyện xảy ra vào buổi trưa ngày 16 tháng 1 năm 2011, trên chuyến bay Sai Gòn- Vinh của hãng hàng không Jet Star Pacific. Đựơc biết bà mẹ mang bầu 8 tháng, thai nhỏ lại không khai báo khi mua vé cho nên nhân viên hàng không không để ý. Nhân câu chuyện này, xin cùng tìm hiểu về vấn đề di chuyển bằng máy bay của thai phụ. Mặc dù đang mang thai, nhưng quý bà quý cô cũng vẫn cần đi đây đi đó vì công việc làm ăn, du lịch, thăm viếng, nghỉ ngơi. Di chuyển bằng đường bộ thì không có vấn đề, vì chuyển dạ có thể tạt vào bệnh viện gần kề. Hải hành trên du thuyền thì cũng có ban y tế với bác sĩ, chuyên viên điều dưỡng. Nhưng trên phi cơ, giữa không gian vũ trụ bao la, nhất là đang vượt đại dương thì chắc chắn là có trở ngại khi thai nhi “đôt xuất” muốn nhập thế cuộc, chào đời. Sinh đẻ trên máy bay dù hiếm nhưng cũng đã xảy ra. Hiếm vì mỗi công ty hàng không có các giới hạn về thời gian mà bà mẹ mang thai đựoc bay. Chẳng hạn American Air Line đòi hỏi giấy chứng nhận y khoa cho thai kỳ lành mạnh nếu bay trong vòng 4 tuần lễ trước ngày sinh với đường bay nội địa hoặc tới Canada. Không có giấy chứng nhận an toàn y khoa 7 ngày trước hoặc sau khi sanh cũng không được bay trên đường bay nội địa kéo dài dưới 5 giờ. Còn trên đường bay quốc tế, đặc biệt qua đại dương thì công ty khuyến cáo không nên bay trong thời gian 4 tuần lễ trước ngày dự trù sinh, ngoại trừ khi đã được bác sĩ khám 48 giờ trước khi bay và chứng nhận an toàn. Cảc 2 trường hợp đều phải qua sự thẩm định của một Ủy ban riêng của công ty. Công ty China Airline không nhận hành khách sau 32 tuần lễ của thai kỳ. South West Airline khuyên thai phụ hỏi ý kiến bác sĩ trước khi bay. Y giới cũng có ý kiến về vấn đề này. Theo Hội Sản Phụ Khoa Hoa Kỳ , thời gian an toàn nhất để bay là từ 18 tới 24 tuần lễ của thai kỳ. Bay sau 28 tuần lễ sẽ có nhiều rủi ro sanh non. Bay trước 12 tuần lễ thì nôn khan (morning sickness) nhiều hơn hoặc rủi ro sẩy thai gia tăng. Nói chung, thai phụ có thể bay không giới hạn nếu thai kỳ ở tam cá nguyệt thứ nhất và thứ 2. Tới tam cá nguyệt thứ ba thì có vài giới hạn. Sau 36 tuần lễ thì nhiều hãng không nhận vì đây là thời gian mà sự “nở nhụy khai hoa” có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Công ty hàng không căn cứ trên khái niệm“ý thức đạo đức” (Honor Policy) khi áp dụng quy luật của họ. Khách có trách nhiệm thông báo về thai kỳ của mình khi đặt vé bay. Đại lý bán vé không đề cập tới các giới hạn bay nếu khách không nêu ra. Do đó, nên hỏi ý kiến bác sĩ đồng thời khi mua vé cũng cho hãng hàng không hay là mình có thai, ở thời kỳ nào để họ quyết định nhận hay không. Tránh bối rối cho họ và để an toàn cho mẹ con mình. Cũng nói thêm là nhiều khi khách vì một nhu cầu nào đó mà vẫn muốn đi máy bay, nhưng cố tình che đậy, giấu giếm thai nghén thì nhân viên soát vé lên tầu cũng bó tay, trừ khi bụng mang dạ chửa rõ rành rành. Thai phụ có thể bó bụng, mặc quần áo rộng thùng thình để che giấu, như trường hợp một phụ nữ Phi Luật Tân lén lút sanh rồi bỏ con trong cầu tiêu trên chuyến bay từ Bahran Trung Đông tới thủ đô Manille vào ngày 16-9, 2010. Sau đây là một số thắc mắc thường được nêu ra liên quan tới Có Thai mà đi máy bay. 1-Thời kỳ nào an toàn và nhiều rủi ro khi bay? Theo các nhà chuyên môn y tế, an toàn nhất là từ tuần lễ 18-24 của thai kỳ. Sau 36 tuần lễ sẽ có nhiều rủi ro sanh trên máy bay. Ngoài ra ở thời kỳ cuối này mà mẹ mang nhiều thai nhi, bị tiểu đường, cao huyết áp, xuất huyết cửa mình thì bác sĩ thường khuyên hoãn chuyến bay và ổn định bệnh tình. 2-Các máy rà xét vũ khí tại phi trường có ảnh hưởng gì tới thai nhi không? Máy này không dùng tia X-Ray mà dùng điện từ (electromagnetic) , không có phóng xạ, để khám phá vật kim loại giấu trong người, do đó an toàn cho cả mẹ lẫn con. Máy cho hình dáng đường cong của cơ thể. Nếu có vũ khí kim loại giấu dưới lớp quần áo là thấy rõ. Còn e ngại, yêu cầu rà cơ thể với bàn tay của nhân viên an ninh. Cũng nói thêm là hành lý gửi theo máy bay (check in) đều đựoc kiểm soát bằng máy rọi X-quang. 3-Giảm áp suất không khí trong lòng máy bay có ảnh hưởng tới thai nhi và bà mẹ không? Cơ quan không gian Hoa Kỳ đòi hỏi máy bay thương mại duy trì áp xuất chuẩn trong lòng máy bay, cho nên nếu khỏe mạnh bình thường thì cả mẹ lẫn con đều an toàn. Tuy nhiên áp suất trong máy bay thấp hơn bên ngoài, lượng oxy trong máu hành khách hơi thấp vì vậy nhịp tim cũng như huyết áp sẽ hơi tăng cao để cơ thể có thêm dưỡng khí. Do đó nếu bà mẹ bị bệnh thiếu máu, bệnh hồng cầu liềm (sickle cell disease), tiền sử máu cục hoặc nhau thai yếu thì cả mẹ lẫn con đều có rủi ro và nên hỏi ý kiến bác sĩ. 4-Có người nói bay ở độ cao sẽ chịu ảnh hưởng của phóng xạ vũ trụ. Phóng xạ vũ trụ ở mức độ rất thấp cho nên chưa có chứng cớ ảnh hưởng tới thai nhi. Tuy nhiên thai nhi cũng rất nhậy cảm với phóng xạ này và trong lâu dài có thể có ảnh hưởng nếu bay thường xuyên. Các nhà chuyên môn đề nghị không nên bay quá 200 giờ trong suốt thai kỳ. Và mấy điều nên áp dụng để mẹ con được hạnh thông “đằng vân giá vũ”: 1-Khi đặt vé, nên lựa chỗ ngồi phía giữa khoang máy gần cánh máy bay để giảm thiểu dao động khi phi cơ rơi vào vùng nhiễu loạn áp suất, máy bay nhồi lên xuống. 2-Lấy chỗ ngồi tại cạnh lối đi để dễ dàng đứng lên đi lại hoặc tới phòng vệ sinh. Ghế này cũng tưong đối có khoảng trống để cử động cơ thể, chân tay. 3-Lâu lâu nên đứng dậy, đi tới đi lui trong lòng máy bay để xưong khớp, cơ bắp chuyển động, tránh đau nhức. Ngoài ra khi ngồi bất động một thời gian lâu, sự lưu thông khí huyết các tĩnh mạch nằm sâu ở bắp chân chậm lại, dễ dàng đưa tới kết tụ máu cục (Deep Vein Thrombosis), rất nguy hiểm. Khi ngồi, cũng nên thường xuyên co duổi bàn chân cổ chân. Mặc quần bó sát người che hông chân và bàn chân (pantyhose) cũng giúp cho máu lưu thông tốt. 4-Luôn luôn cài dây an toàn khi ngồi. Đặt dây an toàn phía bụng dưới, ngang hông để dây khỏi ép vào thai nhi. 5-Uống nhiều nước để khỏi bị thiếu vì không khí trong máy bay khô, cơ thể dễ bốc hơi. Trước và trong khi bay, không nên uống cà phê, nước trà vì đây là chất lợi tiểu, đưa tới tiểu tiện nhiều và mất nước. Tránh thực phẩm tạo gas như bắp cải hoặc nước giải khát có gas để tránh gas dãn nở khi lên cao độ, gây ra đầy hơi khó chịu. 6-Mặc quần áo lẻ (separates) thoáng rộng thoải mái, ít cúc, dây cột để dễ dàng trong nhà vệ sinh. Mặc nhiều lớp quần áo để thích nghi với nhiệt độ thay đổi bất thường. Bàn chân dễ bị tụ nước, phù sưng, nên mang giày vừa vặn. Mang theo đôi dép lê nhẹ mềm rộng (slipper) hoặc tất dầy để mang khi muốn bỏ giầy cho thoáng hơi chân. 7-Coi lại bảo hiểm sức khỏe có trả cho phí tổn sanh đẻ hay không, vì có thai là sự kiện có trước (pre-existing condition) và chi phí khẩn cấp ở nước ngoài nhiều khi rất cao. Mang thai đựoc coi như tương đối có nhiều rủi ro, cho nên nhiều bảo hiểm từ chối khi mẹ con bay vào 8 tuần lễ cuối trước khi sanh. Và lời cuối là: yêu cầu bác sĩ của mình giới thiệu cho một bác sĩ sản phụ khoa ở nơi mình sắp tới, phòng hờ khi cần.Cũng nên mang theo một hồ sơ y khoa về tình trạng sức khỏe đặc biệt là các chi tiết liên quan tới thai nghén, như ngày cưối có kinh, có thai bao lâu, kết quả khám nghiệm mới đây, các thai kỳ trước có trở ngại gì không, tình trạng thai nhi, thuốc men đang uống… Thôi nhé, thế là đủ. Chúc mẹ con bay bình an Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 4:07:59 GMT 9
Thực Phẩm và Hạt Phóng Xạ
Vietsciences- Nguyễn Ý Đức
Từ sau khi thiên tai động đất mang tai họa đến cho những con dân dũng cảm xứ Mặt Trời Mọc, tại một thị trấn nhỏ ven biển miền đông nước Nhật, thì dân chúng khắp nơi đều bày tỏ cảm tình, chia sẻ niềm đau của họ. Những lời cầu nguyện, những hỗ trợ tinh thần, vật chất đều tới tấp gửi tới, kể cả lời ca ngợi sự kiên tâm bình tĩnh, trật tự và kỷ luật của dân chúng địa phương, từ người cứu giúp lẫn nạn nhân. Trên blog Kênh Bắc Giang một bạn trẻ viết rằng: “Người Nhật đang dạy chúng ta một điều rằng trong mọi khó khăn ta phải có niềm tin. Và chính niềm tin của người Nhật sẽ đưa Nhật thoát khỏi thảm họa này một cách kỳ diệu. Niềm tin của họ có sức lay động toàn thế giới và mong rằng niềm tin ấy sẽ lay động được bạn, để mong bạn chung tay giúp đỡ người Nhật cũng cố niềm tin vào con người, rằng chúng ta đang làm tất cả những gì chúng ta có thể. Việc còn lại là nguyện cầu nữa thôi. Đồng thời nhiều người phương xa cũng tỏ vẻ lo ngại khi được tin mấy lò nguyên tử sản xuất điện năng đang ở trong tình trạng rò rỉ, gây bất ổn thêm cho sức khỏe cũng như thực phẩm thảo động vật. Bà con người mình cũng e ngại không kém, cho nên xin gửi tài liệu này để kính tường. Bài viết dựa vào các dữ kiện do cơ quan y tế uy tín như CDC, Đại học Idaho phổ biến rộng rãi. Trước hết, là tình hình các lò nguyên tử tại Nhật vào ngày hôm nay 22/3/2011. -Có 6 nhà máy nguyên tử tại khu Fukushima Daichi thì 4 lò có vấn đề. Từ đó một lượng chất phóng xạ đã thoát ra ở ngay tại nhà máy với mức độ 400 millisieverts/giờ còn ở vùng kế cận là 10 millisieverts. Lưu ý là mỗi lần mình làm chụp CT (Scan) bụng có 15 millisieverts thoát ra, X-ray cột sống có 1 millisieverts. -Theo Cơ quan Y tế Thế giới: chưa có sự lan tỏa hạt phóng xạ vào các quốc gia lân bang xa gần. -Có 2 loại phóng xạ thoát ra từ lò là caesium (césium, Cs 137) và iodine (iode, I . Không có uranium và plutonium. Chất caesium được thấm vào lớp đất và tồn tại khoảng 1 năm trong cơ thể. Hạt iodine tự hủy hoại trong vài tháng và ở mức độ cao có thể gây ra ung thư tuyến giáp trạng (thyroid). Chẳng hạn như tại nạn lò nguyên tử Chernobyl, bên Nga vào năm 1986 đã có khoảng 6000 ca ung thư thyroid được ghi nhận với 15 tử vong vào năm 2005. Dân chúng quanh Chernobyl là 17 triệu người. Sau vụ thả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki vào thế chiến 2 có 87,000 nạn nhân sống sót. Tới năm 1992, 40,000 người trong nhóm này mãn phần nhưng chỉ có 690 người chết vì phóng xạ. Trong khi đó, theo CDC, tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 70 triệu CT Scan được thực hiện, gây ra ung thư cho 29,000 người vào năm 2007 Rủi ro nhiễm hạt phóng xạ vào thực phẩm tại vùng thiên tai như rau và sữa cũng đã được ghi nhận nhưng theo các nhà chuyên môn, phải tiêu thụ 1 kg spinach để có một lượng phóng xạ tương đương với phóng xạ do CT scan vùng bụng gây ra. Theo các nhà khoa học, rủi ro bệnh gây ra do phóng xạ thoát ở Nhật còn rất thấp. Hiện nay, theo các báo cáo, Tokyo cách Fukushima hơn 200 cây số có mức độ phóng xạ cao hơn mức độ bình thường 10 lần và mỗi giờ người dân có thể bị nhiễm khoàng 0,809 microsievert( 1/1000 milisievert), tương đương với 1/10 phóng xạ khi đi chụp X-quang. Bác sĩ chuyên khoa ung thư James Cox tại MD Anderson Cancer Center ở Houston cho hay số lượng phóng xạ trong các thực phẩm này không gây ra rủi ro sức khỏe tức thì cũng như có rất ít rủi ro về lâu dài cho loài người. Tiến sĩ Richard Wakeford, Đại học Manchester có cùng ý kiến. Cũng lưu ý là Mỹ chỉ nhập cảng khoảng 0,4% thực phẩm từ Nhật cho nên xin bà con cứ yên tâm. Thực ra, con người luôn luôn tiếp cận với phóng xạ vì chúng có tự nhiên trong thực phẩm, nước, đất và không khí.. Ánh sáng, sóng vi ba mang tín hiệu radio, TV, nướng vỉ thực phẩm cũng do phóng xạ. Phóng xạ cũng được dùng trong việc kiểm soát hành lý tại phi trường, làm vỏ bánh xe bền hơn, trong y khoa, diệt vi trùng trong thực phẩm để cất giữ lâu hơn. Chỉ với việc sống trên trái đất này hoặc đơn giản là du hành trên một máy bay thì tất cả mọi người đều bị nhiễm một lượng nhỏ phóng xạ. Lượng phóng xạ tích tụ trong cơ thể mỗi con người trung bình vào khoảng 2,4 millisievert mỗi năm, thông thường trong khoảng từ 1 đến 10 millisievert tùy thuộc vào địa phương mà người đó sinh sống. Nhân dịp này, xin nói thêm về Thực phẩm Rọi phóng xạ (Food Irradiation), là chuyện ăn uống mà nhiều bà con cũng thắc mắc. Vì trong tương lai gần, thực phẩm chế biến này sẽ rất phổ biến trên thị trường. 1-Tại sao lại chiếu rọi hạt phóng xạ vào thực phẩm? Rọi phóng xạ vào thực phẩm là một kỹ thuật an toàn và mới có thể loại trừ bệnh gây ra do vi khuẩn, nấm độc, sâu bọ trong thực phẩm. Các vi sinh vật này thường làm thối rữa hư hao thực phẩm. Kỹ thuật này cũng được dùng để khử trùng trong y học. Thực phẩm mà các phi hành gia không gian Hoa Kỳ dùng cũng đã được rọi phóng xạ để tránh nhiễm trùng trên không gian.. Tác dụng của phóng xạ vào thực phẩm đã được nghiên cứu kỹ càng và được chứng minh rằng: -Vi sinh vật gây bệnh bị giảm thiểu hoặc loại trừ. -Thực phẩm không bị nhiễm phóng xạ -Không có chất độc hại nào xuất hiện trong thực phẩm -Giá trị dinh dưỡng của thực phẩm hoàn toàn không thay đổi. An toàn vì tại Hoa Kỳ các cơ quan hữu trách liên bang và các nhà khoa học đều xét đoán mức độ an toàn của các phương pháp rọi phóng xạ trước khi cho phép áp dụng. Các tổ chức như Cơ quan Y tế Thế Giới, Ủy ban Nguyên Tử Năng thế giới, Cơ quan CDC Hoa Kỳ, Bộ Canh Nông Hoa Kỳ và Cơ quan Thực Dược phẩm Hoa kỳ công nhận phương pháp này. Khi dùng với rất ít hạt phóng xạ, sự mất mát chất dinh dưỡng không đáng kể và không đo lường được. Nếu dùng nhiều phóng xạ hơn để cất giữ thực phẩm lâu ngày hoặc để diệt hết vi khuẩn thì sự mất mát tương đương với nấu nướng hoặc làm đông lạnh. Với các phương pháp bảo quản khác, chất dinh dưỡng như vitamin có thể giảm. Phương pháp này cũng, tưong tự như khi dùng nhiệt, động lạnh, hóa chất để diệt vi sinh vật gây bệnh. Làm như vậy cũng cất giữ thực phẩm được lâu hơn. Thực ra, phóng xạ cũng không tiêu diệt được hết vi sinh vật gây hại, vì thế để an toàn, thực phẩm cần được cất giữ và nấu nướng đúng cách. 2-Rọi phóng xạ loại trừ được những bệnh nào? Rọi phóng xạ thịt tươi sống tại lò sát sinh có thể loại trừ các vi khuẩn E. coli, Salmonella và Campylobacter. Các sinh vật này mỗi năm gây ra hàng triệu ca bệnh nhiễm và cả ngàn người phải nhập bệnh viện để điều trị.Ngoài ra, phóng xạ cũng loại trừ được loại vi khuẩn Toxoplasma là tác nhân gây bệnh trầm trọng của mắt và nhiễm trùng bẩm sinh. 3-Phóng xạ tác dụng lên thực phẩm bằng cách nào? Như đã nói ở trên, phóng xạ không thay đổi giá trị dinh dưỡng của thực phẩm và cũng không làm thực phẩm trở nên nguy hại. Thực phẩm có thể hơi ấm hơn và khi nếm có thể thấy vị hơi khác, chẳng khác chi vị của sữa khử trùng khác với sữa mới vắt từ con bò. Nếu thực phẩm còn tế bào sống như trong các loại hạt, khoai, động vật có vỏ (tôm, cua, sò, hến) thì các tế bào này sẽ bị hư hao hoặc hủy hại tương tự như là vi sinh vật gây bệnh. Thí đụ, để vất giữ khoai tây, phóng xạ sẽ ngăn không cho khoai nẩy mầm. Một vài loại vitamin như B1 cũng giảm nhưng không gây ra thiếu sinh tố. Các chất đạm, chất béo không bị ảnh hưởng. 4-Thực phẩm nào đã được cho phép rọi phóng xạ. Không phải là thực phẩm nào cũng thích hợp cho roi phóng xạ. Chẳng hạn như sò, tôm, cua…có thể rọi được nhưng giá trị dinh dưỡng mất đi rất nhiều. Đôi khi phóng xạ cũng làm cho trứng gà, vịt trở lên đục lỏng như sữa. Thực phẩm đã được cho phép rọi phóng xạ là bột mì, khoai tây, thịt heo, rau trái cây, gà vịt, thịt bò. 5-Liệu công chúng đã sẵn sàng tiêu thụ thực phẩm rọi phóng xạ chưa? Cũng có nhiều giới tiêu thụ sẵn sàng dùng loại thực phẩm này, nếu nhà sản xuất nêu rõ mục tiêu của phương pháp. Chẳng hạn như để diệt vi sinh vật gây bệnh. 6-Làm sao nhận ra thực phẩm rọi phóng xạ? Không thể nhận ra thực phẩm phóng xạ bằng nhìn, ngửi, nếm mà nhận diện qua hàng chữ "Treated with Radiation",hoặc "Treated by Irradiation. Bao bì chứa thực phẩm rọi phóng xạ cũng mang logo quốc tế “raduara”. Kết luận Rủi ro gây bệnh do phóng xạ thất thoát ra ở vùng thiên tai bão lụt bên Nhật chưa có dấu hiệu gây nguy hiểm, bệnh tật cho cư dân. Con người vẫn thường xuyên tiếp thu một lượng rất nhỏ phóng xạ từ môi trường sinh sống. Thực phẩm khử trùng bằng cách rọi phóng xạ an toàn và giữ đầy đủ chất dinh dưỡng. Không nên quá sợ mà đi mua chất Potassium iode về uống để phòng tránh rủi ro ung thư tuyến giáp vì nhiễm phóng xạ từ Nhật bay sang. Chúng ta ở quá xa Nhật. Hơn nữa dùng Potassium iode không đúng chỉ định cũng gây nhiều rủi ro cho sức khỏe. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 12, 2011 5:25:16 GMT 9
Aloe Vera Nha đam không tốt cho bà bầu - Một vài báo cáo cho thấy, nha đam có thể liên quan với sẩy thai, dị tật bẩm sinh. Phụ nữ có thai và đang cho con bú không nên dùng các sản phẩm từ nha đam. Hãy truy cập chuyên mục bà bầu trên Eva.vn mỗi ngày - để tìm hiểu những vấn đề dành cho phụ nữ mang thai. Nha đam cung cấp hai chất chính: gel (phần trắng, nhớt sau khi gọt bỏ vỏ xanh) và nhựa cây (màu vàng, chảy ra ở mặt cắt của lá). Gel nha đam được ghi nhận có tác dụng tốt trong những bệnh lý như: đái tháo đường, vảy nến, tăng cholesterol máu, bỏng, tổn thương da do tia xạ sau điều trị ung thư, giúp nhanh lành vết thương... Còn phần nhựa cây, là vị thuốc lô hội trong Đông y, vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, thông tiện, là chất tẩy xổ mạnh, chữa táo bón. Tuy nhiên, không phải nha đam đều tốt cho mọi người. Khi sử dụng cần thận trọng đối với những đối tượng sau: - Phụ nữ có thai và đang cho con bú: Một vài báo cáo cho thấy, nha đam có thể liên quan với sẩy thai, dị tật bẩm sinh. Phụ nữ có thai và đang cho con bú không nên dùng các sản phẩm từ nha đam. - Trẻ em dưới 12 tuổi: Nha đam gây đau bụng, vọp bẻ và tiêu chảy. - Bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị thuốc: Một vài nghiên cứu cho thấy, gel nha đam có tác dụng giảm mức đường huyết. Nếu bạn bị đái tháo đường và đang điều trị thuốc mà muốn dùng nha đam, hãy theo dõi chỉ số đường huyết chặt chẽ hơn để phòng ngừa biến chứng hạ đường huyết quá mức, có biểu hiện nhịp tim nhanh, vã mồ hôi, đánh trống ngực, run… nếu nặng hơn có thể gây giảm khả năng tập trung, lú lẫn, hôn mê... Nha đam có thể liên quan với sẩy thai, dị tật bẩm sinh. (Ảnh minh họa) - Người mắc bệnh trĩ: Khi dùng nha đam, đặc biệt là có lẫn nhựa cây sẽ gây kích thích đại tràng, có thể làm bệnh nặng hơn. - Người có bệnh lý thận: Không nên dùng liều cao hoặc kéo dài vì một số hợp chất trong nhựa cây khi tích lũy sẽ gây suy thận. - Phẫu thuật: Do tác dụng làm giảm đường huyết nên nha đam sẽ gây khó khăn trong việc kiểm soát mức đường huyết trong và sau phẫu thuật. Nên ngưng dùng nha đam ít nhất hai tuần trước khi phẫu thuật. - Người đang dùng thuốc Digoxin chữa suy tim, thuốc lợi tiểu, thuốc kháng đông, thuốc chống rối loạn nhịp… chú ý vì nha đam nhuận tràng, gây tiêu chảy và làm giảm ion kali trong cơ thể, gây tăng tác dụng phụ của thuốc. - Người cao tuổi hay người thường bị đầy bụng, ăn không tiêu, đi cầu phân sống, tiêu chảy: Theo Đông y, những chứng trên gọi là bệnh lý tỳ vị hư hàn, không nên dùng nha đam. Một số cách chế biến nha đam đơn giản, dễ thực hiện, có tác dụng tốt trong các bệnh lý đường tiêu hóa như nhiệt miệng, viêm loét dạ dày-tá tràng, viêm gan, hội chứng đại tràng kích thích, táo bón... đồng thời giúp tăng sức đề kháng và miễn dịch cho cơ thể: - Sơ chế: gọt bỏ phần vỏ xanh và gai hai bên lá, rửa kỹ với nước muối loãng nhiều lần để làm trôi sạch phần nhựa màu vàng, sau đó xắt hạt lựu hay thành từng miếng nhỏ vừa ăn. - Nha đam, mật ong (ba-bốn muỗng cà phê): dùng tươi hoặc xay sinh tố. - Nha đam trộn sữa tươi (200ml) hoặc sữa chua (một hũ). - Nha đam, nghệ vàng (dạng bột từ một-hai muỗng cà phê), có thể kết hợp thêm cam thảo 6-8g. - Canh nha đam, rong biển, có thể nấu với thịt hoặc tôm, tép: sau khi nấu nước dùng, nêm vừa ăn, đợi nước sôi lại, bạn hãy cho nha đam và rong biển vào sau cùng. Dùng nha đam làm thực phẩm sẽ đem lại nhiều tác dụng tốt nếu chúng ta sơ chế đúng cách, loại bỏ sạch phần nhựa màu vàng, đồng thời dùng phần gel nha đam với lượng thích hợp, thường trong khoảng 100-200mg trong một ngày. Lưu ý, những thực phẩm chế biến có sử dụng nha đam chỉ nên dùng hai-ba lần trong một tuần. Nếu dùng với mục đích nhuận trường, chữa táo bón không nên dùng quá hai tuần.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 3:10:45 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Điều Trị Phục Hồi Sau Đột Quỵ
Tác giả : Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Đột Quỵ hoặc Tai Biến Động Mạch Não (Stroke) là trường hợp trong đó một nhóm tế bào não đột nhiên không còn được động mạch tiếp tế dưỡng khí và chất dinh dưỡng. Tế bào não bị tổn thương và vùng cơ thể do các tế bào này kiểm soát sẽ không hoạt động được như thường lệ. Nguyên nhân gây ra sự gián đoạn dòng máu chảy tới não là động mạch bị tắc nghẽn vì một cục máu hoặc mạch máu bị đứt đoạn. Tùy theo vùng nào của não bị tổn thương, tổn thưong nhiều hay ít và sự cấp cứu mang máu tới não mau hay chậm mà hậu quả sẽ nặng hay nhẹ, vĩnh viễn hay tạm thời. Thường thường, phần cơ thể đối diện với vùng não bị tổn thương sẽ chịu các hậu quả này. Hội Stroke tại Hoa Kỳ cho hay, hiện nay tại đất nứoc này có trên 4 triệu người đang sống với nhiều khó khăn về sức khỏe cũng như sinh hoạt hàng ngày sau khi bị Đột Quỵ. Ấy là chưa kể nếp sống của cả nhiều triệu người khác cũng gián tiếp bị ảnh hưởng. Đó là các vị phối ngẫu, con cái đang dành nhiều thời gian, sức lực để sống với và chăm sóc người thân thoát khỏi lưỡi hái tử thần vì tai biến. Hậu quả của đột quỵ Hậu quả của Đột quỵ gồm có liệt,yếu, mất cảm giác nửa người. mất thăng bằng cơ thể đi đứng không vững; không diễn tả được ý nghĩ, lời nói, không hiểu chữ viết và lời nói người khác; ăn nuốt khó khăn; giảm thị lực, không nhìn được phía nửa người bị liệt; không kiểm soát được đại tiểu tiện; trí nhớ và sự suy nghĩ giảm, không tự chăm sóc được. Theo thống kê, hậu quả đột quỵ như sau: -10% bệnh nhân thoát hiểm bình phục hoàn toàn -25% phục hồi với tổn thương tối thiểu -40% chịu đựng tổn thương từ trung bình tới trầm trọng, cần sự chăm sóc đặc biệt -10% cần được chăm sóc tại dưỡng lão viện hoặc các cơ sở chăm sóc lâu dài khác -15 tử vong một thời gian ngắn sau tại biến. Điều trị phục hồi Điều trị Phục Hồi Sau Tai Biến (RehabilitationTherapy After Stroke) có mục đích giúp não bộ tự tái tổ chức cấu trúc bị tổn thương, từ đó giúp bệnh nhân tìm lại toàn phần hoặc một phần các chức năng đã bị stroke lấy đi, đồng thời cũng để tránh sự tái phát của stroke. Điều trị này cần đựoc thực hiện ngay sau khi bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, từ khi còn ở bệnh viện , 24- 48 giờ sau khi stroke đã ổn định và tiếp tục tại gia một thời gian lâu dài. Phục hồi sẽ giúp bệnh nhân sồng tương đối độc lập hơn, tự chăm sóc và hòa mình với gia đình,xã hội. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phối hợp với các nhà chuyên môn y khoa học khác để lập một team trị liệu cho bệnh nhân, thường thì gồm có: -Một nhà chuyên môn về Vật lý Trị liệu (Physical Therapist) hướng dẫn bệnh nhân cách tập luyện để phục hồi khả năng đi đứng, lấy lại sự thăng bằng cơ thể, sử dụng tay chân trong các công việc thường nhật, lấy lại sức mạnh cho cơ bắp đã bị suy yếu, giúp khớp không bị đóng băng (frozen), đau cứng. -Một điều trị viên lao động (occupational therapist) để giúp bệnh nhân thích nghi với hoàn cảnh mới, tiếp tục các sinh hoạt hàng ngày cho sự sống như ăn mặc, vệ sinh cá nhân…càng ít phụ thuộc vào người khác càng tốt; sử dụng vài dụng cụ y khoa để tăng sức mạnh cơ bắp, giảm đau nhức khớp xương; giúp đỡ phương tiện di chuyển, mua sắm, nấu nướng… -Chuyên gia tư vấn tâm lý (Psychologist) để giúp bệnh nhân đối phó, giải quyết với cảm giác thất vọng vì đột nhiên trở thành vô dụng, ăn bám rồi buông suôi, trầm cảm, không có động lực cũng như nghị lực để vươn lên. Tâm trạng này là nguyên nhân chính đưa bệnh nhân vào tình trạng suy sụp cả thế xác lẫn tinh thần. -Chuyên viên phục hồi khuyết tật ngôn ngữ (Speech -LanguageTherapist) giúp người bệnh học lại cách phát âm ngõ hầu có thể diễn tả ý nghĩ, lời nói rõ ràng rành mạch hơn. -Chuyên viên xã hội (Social Worker) góp ý lập kế họach điều trị sau khi bệnh nhân xuất viện; tư vấn cho gia đình và bệnh nhân đối phó với hậu quả xã hội của bệnh; giúp bệnh nhân tìm kiếm các dịch vụ mà xã hội cung cấp để người bệnh có đời sống thoải mái hơn và sớm trở lại sinh hoạt bình thường. -Chuyên viên dinh dưỡng (Dietitian) giúp bệnh nhân trong vấn đề dinh dưỡng sao cho thích hợp với tình trạng bệnh. Và bác sĩ gia đình cũng như chuyên khoa các ngành tim mạch, thần kinh luôn luôn theo dõi, điều trị các bệnh mà bệnh nhân đang chịu đựng. Vài điều thưa với bệnh nhân Điều trị phục hồi là việc làm phức tạp, khó khăn nhiều khi bực bội, luôn luôn rơi vào tâm trạng buồn chán buông suôi. Vì khả năng cơ thể mất đi thì mau mà lấy lại thường thì chậm trễ. Cho nên, có những lúc tình hình tưởng như khá hơn rồi thấy như đâu lại vẫn hoàn đó. Nhưng xin ghi nhớ, “có công mài sắt, có ngày nên kim”. Các chuyên viên y tế và người thân luôn luôn sát cánh, tiếp tay. Cũng nhắc lại là tế bào não có một khả năng phục hoạt một phần đã bị tổn thương, đồng thời các tế bào não lành mạnh xung quanh cũng gia tăng lao động để “chị ngã, em nâng”, bù đắp phần vụ của các tế bào bị hư hao. Cái khó là làm sao “động viên” được sự bù đắp này. Xin hãy tận tâm, bền chí và có thái độ tích cưc. Nói hết ước muốn, bực bội, khó khăn của mình cho toán chuyên viên y tế, cho thân nhân để họ giúp đỡ. Ngoài ra, cũng còn nhiều tổ chức trong cộng đồng như Hội Stroke tại địa phương, nhóm thân hữu bệnh nhân stroke…đều sẵn sàng tiếp tay nếu mình yêu cầu. Đôi điều với thân nhân chăm sóc, Trong trách nhiệm khó khăn, nặng nhọc, đôi khi bực mình nản chí vì thay đổi tính tình, trở nên khó tính của người thân bệnh hoạn, e ngại tai biến tái phát, e ngại người thân khó thích ứng với tình trạng kém phần sáng sủa, thêm vào đó không hiểu đời sống của mình sẽ ra sao, liệu còn cáng đáng chăm sóc được bao lâu, chăm sóc có chu đáo không hay là cũng kiệt quệ theo người bệnh… Nhưng nghĩ lại ngày nào mấy chục năm trước đây, ngón tay lồng ngón tay trao nhẫn cưới, quỳ gối trước Thánh Giá, Phật Đài, thề thốt cùng nhau đi trọn cuộc đời vui buồn có nhau… Mà bây giờ thì có lẽ buồn hơi nhiều hơn vui… Hoặc nghĩ tới các đấng sinh thành đã từng chín tháng mang nặng đẻ đau, bôn chải vật lộn với đời sống nuôi dưỡng con cái, mong sao con sớm trưởng thành, nên người. Để mà làm tròn nghĩa vụ làm vợ, làm chồng, làm con. Một đồng nghiệp đàn anh ở Houston miền nắng ấm, niên tuế ngoài tám chục, đã dành gần 1/2 cuộc đời để chăm sóc rất chu đáo người bạn đường bị stroke, đồng thời nuôi nấng bầy con nên người. Mà đàn anh vẫn lạc quan, yêu đời, lại còn có thì giờ nghiên cứu soạn ra nhiều tự điển văn học giá trị. Một thân hữu ở San Jose sau tai biến phải dùng xe lăn nhưng nhờ có nhiều niềm tin tôn giáo, một thân hữu khác ở Los Angeles vẫn bước thấp bước cao tập luyện, chạy bộ bộ mỗi ngày nhờ nhiều nghị lực vươn lên. Họ đều đã vựơt khỏi tàn phế để viết phổ biến các điều ích lợi và đang sống gần như bình thường, với sự hỗ trợ của người vợ hiền và các con, cháu. Còn nước còn tát mà. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ www.bsnguyenyduc.com
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 3:14:53 GMT 9
Tin Mơí Y Học:
Thuốc Zytiga, Tai chi, suy tim
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô Thuốc Zytiga trị ung thư nhiếp hộ tuyến thơì kỳ trầm trọng. Ngày 28 April 2011, FDA cho phép dùng thuốc mới Zytiga (Abiraterone acetate) điều trị ung thư nhiếp hộ tuyến (tuyến tiền liệt). Được phép dùng thuốc Zytiga phối hợp với loại steroid (Prednisone) trường hợp trước đây bệnh nhân đã phải mổ cắt bỏ nhiếp hộ tuyến và đã từng dùng hoá học trị liệu thuốc Docetaxel. Thuốc viên Zytiga khử một bạch đản (protein) tên là cytochrome P450 17A1 (CYP17A1). Chất bạch đản này đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất kích thích tố testosterone. Thuốc Zytiga khử Testosterone (là loại kích thích tố gây tế bào ung thư nhiếp hộ tuyến tăng trưởng). FDA cho phép dùng Zytiga dựa theo kết quả thử nghiệm cho 1,195 bệnh nhân bị ung thư nhiếp hộ tuyến không thuyên giảm sau khi đã giải phẫu cắt bỏ nhiếp hộ tuyến và đã được chữa bằng hoá học trị liệu với thuốc Docetaxel. Thử nghiệm bệnh nhân dùng Zytiga hỗn hợp với thuốc Prednisone. Bệnh nhân dùng Zytiga hỗn hợp với Prednisone có tỉ lệ sống lâu hơn (14.8 tháng) so với bệnh nhân chỉ uống Prednisone nhưng không uống Zytiga (10.9 tháng). Theo FDA thì Zytiga có những công phạt như khớp xương bị sưng và đau nhẹ khó chịu, mức Potassium hạ thấp trong máu, nước giữ làm sưng chân, đau bắp thịt, mặt nổi phừng, tiêu chảy, nhiễm trùng, ho, huyết áp tăng cao, nhịp tim đâp bất thường, đi tiểu đêm thường xuyên, khó chịu bao tử, ăn khó tiêu, và nhiễm trùng phần trên bộ máy hô hấp. Dùng thuốc Zytiga do bác sĩ chuyên niệu khoa (Urologist) hướng dẫn. Cần bàn luận với bác sĩ và cũng nên tìm hiểu thêm những lợi ích và công phạt của thuốc mới này trong FDA.com. Tài chi và suy tim. Bs Gloria Y. Yeh và các cộng sự viên phổ biến kết quả nghiên cứu sơ khởi trong báo Archives of Internal Medicine, 171: 758, 2011, cho biết tập Tài Chi có thể giúp cơ thể con người tốt hơn, tính tình khá hơn và bệnh nhân suy tim khi tập thể dục sẽ khả quan hơn. Các chuyên gia khảo sát 100 bệnh nhân bị tâm thất suy tim. Chia làm 2 nhóm tập thể dục Tài Chi trong vòng 3 tháng so với nhóm bệnh nhân suy tim không tập Tài Chi. Tuy nhiên đây chỉ là kết quả khảo sát sơ khởi, cần nghiên cứu rộng rãi hơn để xác định vấn đề. Tài Chi là môn võ tự vệ của người Trung Hoa do Chiang Fah khởi xướng từ thế kỷ thứ 17. Sau đó môn võ thể dục này được thay đổi nhiều thể loại khác nhau và thể loại mới nhất gọi là Sun do Sun Lutang sáng tạo hồi thế kỷ thứ 20. Trong điện báo Harvard magazine tháng 2 và 3, 2010, có bài viết nói về Tài Chi và lợi ích của môn tập luyên này giúp giảm đau phong thấp khớp xương. Có người cho rằng Tài Chi là phối hợp của tập luyên Yoga và thiền. Người lớn với bệnh cao mỡ (hypertriglyceridemia). Bs JB Christian và các cộng sự viên nghiên cứu 5680 người lớn trên 20 tuổi Mỹ bị bệnh cao mỡ trầm trọng, từ 500 tới 2000 mg/dl. Kết quả cho thấy khoảng 1.7% người ở Mỹ bị loại bệnh này. Tỉ số bệnh nhân uống huống trị cao mỡ loại này thấp: 14% dùng thuốc statins và 4% dùng fibrates. Kết quả đăng trong báo American Jl of Cardiology, 107: 891, 2011. Một trong những nguy cơ bị mỡ cao (triglycerides) là viêm tuyến tụy tạng (pancreatitis), nhưng cơ nguyên sinh lý và bệnh lý học chưa được rõ ràng. Phần lớn các y sĩ điều trị cao mỡ trên mức 500 mg/dl. Phân tích tổng hợp 17 trường hợp nghiên cứu mỡ (triglycerides) cao tăng nguy cơ bệnh động mạch vành là 14% ở đàn ông và 37% ở đàn bà. Triglycerides cao trong máu cũng liên hệ hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome). Khoảng 25% người Mỹ bị chứng bệnh này. (Medical Diagnosis and treatment, 2010). Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 1, 2012 7:50:46 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Khóc 04/27/2012 Tác giả : Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức Khóc là nhỏ lệ trước một hoàn cảnh khốn cùng, đau đớn hoặc buồn rầu. Vĩnh biệt người bạn trăm năm, mất nước phải xa quê hương hoặc bị hành hạ tù đầy khiến nhiều người khóc thầm dai dẳng. Cũng có người khóc vì quá xúc động trước một hạnh phúc tân hôn. Trong động tác khóc. miệng mếu máo đôi khi phát ra thành tiếng nức nở, nước mắt tuôn rơi. Đây là một diễn tiến liên tục do hệ thần kinh tự chủ điều khiển. Tuy nhiên đôi khi có người cũng có thể giả vờ sụt sịt với một mục đích nào đó. Phàm là người thì ai cũng có lúc khóc nhưng văn hóa mỗi quốc gia hoặc truyền thống mỗi gia đình có những luật bất thành văn khác nhau về khóc: khóc khi nào và khóc làm sao để được chấp nhận. Theo Tom Lutz, tác giả sách Crying: The Natural and Cultural History of Tears: “Các nền văn hóa trên thế giới coi khóc là hành động để biểu lộ một tình cảm khi đau đớn thương tiếc. Mỗi văn hóa xác định khóc ở đâu và khi nào thì được chấp nhận”. Có nhiều kiểu khóc khác nhau. Nếu có khóc âm thầm, khóc lén, khóc nỉ non tỉ tê thì cũng có khóc ròng, khóc bù lu bù loa to tiếng, mũi dãi lòng thòng, khóc như mưa, khóc như cha chết, khóc đứng khóc ngồi, khóc dai, khóc tới liệt hơi khản tiếng, bất tỉnh nhân sự, ngất đi … Bé mới sinh thì khóc tu oa, khóc dạ đề cả mấy tháng, khóc oe oe đói bụng đòi ăn, khóc vòi vĩnh điếc cả tai. Cũng có người kịch tính, sụt sùi khóc mướn khóc thuê cho tang chủ, lâu lâu lại khóc rống lên với mục đích cho bàn dân thiên hạ hay là người quá cố được đông con nhiều cháu thương tiếc, tiễn đưa… Có tiếng khóc đau đớn “Giọt châu lã chã khôn cầm” của Thúy Kiều khi bị Hoạn Thư đánh ghen hành hạ, thì cũng có tiếng khóc vì hoàn cảnh bần cùng của Trần Thế Xương “Vay nợ lắm khi trào nước mắt”; khóc khí khái “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” của Tôn Thọ Tường. Hoặc tiếng khóc đa tình của người thiếu phụ trong thơ của Trương Tịch: “Trả chàng đôi ngọc, đôi hàng lệ; Hận chẳng gặp nhau lúc chưa chồng,” Lại còn những tiếng khóc thâm độc, giả nhân giả nghĩa của Tào Tháo giết người rồi khóc rống, tỏ vẻ tiếc thương… Hoặc tiếng khóc vui buồn khó hiểu của thiếu nữ vào ngày vu quy, khi bái biệt cha mẹ ruột để về với tân lang và cha mẹ chồng: “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật”. Nhưng có lẽ tiếng khóc của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi vĩnh viễn của bạn hiền Dương Khuê mới não nề tình cảm làm sao: “Tuổi già hạt lệ như sương Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”. Như vậy thì khóc thường là đi đôi với nước mắt giọt ngắn, giọt dài tuôn rơi. Nước mắt Mà nước mắt cũng có nhiều ý nghĩa, cấu tạo khác nhau. Nước mắt tuôn ra từ tuyến lệ hình hạt hạnh nhân nằm phía trên con ngươi, dưới xương trán. Có khoảng hơn chục ống nhỏ li ti từ tuyến tỏa ra dẫn nước mắt phủ nhãn cầu. Sau đó nước mắt theo một đường chảy từ góc con mắt vào túi lệ, thông xuống mũi, đôi khi có nhiều thì dàn dụa trên mi, xuống má, xuống môi. Nước mắt thành hình từ dung dịch chất lỏng của hệ tuần hoàn với 0.9% muối. Có 3 loại nước mắt: -Nước mắt căn bản thường xuyên tiết ra để bảo vệ và làm ướt nhãn cầu nhờ đó mắt chớp lên chớp xuống, nhìn ngang nhìn dọc dễ dàng. Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ khô, mắt chớp khó khăn và rát. Mỗi ngày có từ 150-300 cc nước mắt với các chất khác nhau như glucose, chất đạm, muối sodium, Kali, magnesium, chất diệt trùng lysozyme, lactoferrin. -Nước mắt phản ứng khi có một vật lạ hoặc ánh sáng quá mạnh xâm nhập kích thích mắt. Chẳng hạn như khi thái củ hành tươi có hơi cay bay vào mắt hoặc mắt vướng bụi bặm. Dây thần kinh cảm giác ở nhãn cầu sẽ chuyển tín hiệu báo cho não biết có vật lạ vào mắt. Não bộ tác động lên tuyến nước mắt, nước mắt chảy ra để loại bỏ vật lạ. -Nước mắt xúc động tiết ra trước một buồn rầu, đau đớn hoặc niềm vui… Nước mắt này có cấu tạo khác với các nước mắt kể trên vì có thêm các chất như prolactin, ACTH, chất chống đau thiên nhiên leucin enkephalin. Vì có muối, cho nên nước mắt hơi mặn và đã có nhận xét rằng cặp môi ướt nước mắt rất tốt khi hôn nhau. Vừa sạch miệng, vừa làm cho nụ hôn đậm đà, tình cảm, nhớ nhau hoài. Mỗi lần mắt chớp là nước mắt được trải rộng trên mặt nhãn cầu. Mắt chớp có công dụng như những cái gạt nước trên mặt kính xe hơi, máy bay. Chớp mắt xảy ra mỗi dăm ba giây đồng hồ và là một động tác tự chủ. Tuy nhiên ta cũng có thể chớp mắt theo ý muốn tỏ vẻ e thẹn khi gặp chàng gặp nàng lần đầu, nhưng khó mà có thể ngưng chớp mắt lâu hơn một phút. Thực ra nước mắt trải trên nhãn cầu có những ba lớp: lớp trên cùng có chất dầu tiết ra từ hạch nhờn ở mi mắt để ngăn lệ bốc hơi; lớp thứ nhì là nước từ tuyến nước mắt và lớp dưới cùng là dịch nhày mucus. Bất cứ bệnh nào ảnh hưởng tới cấu trúc của ba lớp này đều gây trở ngại cho sự nhìn. Theo nhà sinh hóa học William H. Frey, Đại học Minnesota, nước mắt khi xúc động có nhiều chất đạm hơn nước mắt do vật chất hoặc hơi cay kích thích. Nước mắt có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ mắt với vật lạ như vi khuẩn bụi bặm và cũng là chất bôi trơn để mắt có thể điều tiết khi nhìn. Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ trở nên khô, nhiễm trùng đưa tới khiếm thị, mù lòa. Diễn tiến khóc: Một xúc động mạnh, một kỷ niệm đau sót làm con người nín thở, cơ bắp ở miệng co thắt đột ngột, rồi nước mắt trào ra. Họ tiếp tục nức nở, dàn dụa một lúc rồi mọi sự lắng đọng, tâm hồn cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Diễn tiến này cũng tương tự khi vui thì cười. Trong sự khóc, xúc động kích thích dây thần kinh não, não bộ bèn gửi tín hiệu tới hạch nước mắt khiến cho ta khóc và nước mắt tuôn trào. Theo Stephanie Shields, giáo sư tâm lý tại Đại học Pensylvannia, “Nước mắt tốt” là những giọt lệ nhỏ ra mà ta kiểm soát được. Nó chứng tỏ người đó rất xúc động nhưng vẫn làm chủ được lòng mình”. Tại sao khóc? Có nhiều lý do. -Khóc khi chia tay tan rã hôn nhân, vì sinh ly tử biệt người thân vĩnh viễn ra, vì bực tức mà không giải tỏa, đè nén được, vì quá vui, vì đau đớn thể xác. -Để diễn tả cảm xúc, làm dịu xúc động. -Nghe bản nhạc, nghe bài quốc ca, xem một phim buồn, đọc chuyện thương tâm …là cảm động, dớm nước mắt. -Khóc khi vui buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, đau đớn, yêu thương…nhiều khi vu, vơ, không lý do… chỉ muốn khóc. -Khóc để hàn gắn vết thương lòng hoặc để thông báo có chuyện chẳng lành để sửa đổi. Tiến sĩ Judith Kay Nelson phân loại khóc như sau: (a) những cơn khóc phản kháng để giải tỏa hoàn cảnh với tiếng gào thét tức giận; (b) cơn khóc thầm lặng chịu đựng để tạo ra quan hệ mới sau một mất mát; (c) khóc thờ ơ không nước mắt trong hoàn cảnh hoàn toàn thất vọng. Tác dụng của Khóc Đã có nhiều nghiên cứu cũng như nhận xét về tại sao ta khóc và tác dụng của khóc. Nhà tâm lý Sigmund Freud cho rằng sự kích thích hạch nước mắt giúp não bộ giảm tích tụ căng thẳng. Giáo sư William H. Frey có ý kiến tương tự: những căng thẳng không được giải tỏa sẽ tăng rủi ro cơn đau tim và tổn thưong não. Theo ông, “Hít thở để loại thán khí, tiểu tiện loại chất thải urea và khóc để xả stress”. Đi xa hơn, bác sĩ người Anh, Sir Henry Maudsley báo động “Nỗi sầu muộn không được giải tỏa bằng nước mắt sẽ làm các bộ phận khác rỉ nước”. Giáo sư y khoa Trung Hoa Wan Chengkui lại có ý kiến rằng sở dĩ đàn bà sống lâu hơn đàn ông cả 5-7 năm là vì mỗi khi có chuyện ấm ức buồn bực là họ khóc ngay. Theo ông, nước mắt khi khóc vì xúc đo65ng loại khỏi cơ thể nhiều độc chất. Nhưng cũng theo ông, không nên khóc quá năm phút. Tác giả Lael Wertenbaker cho hay kìm hãm nước mắt làm cho stress tăng với các hậu quả như cao huyết áp, bệnh tim, loét dạ dày vì tác động của stress. Nhà nhân chủng học Ashley Montagu quả quyết là nhỏ nước mắt không những tốt cho sức khỏe mà còn là phương tiện đối thoại hữu hiệu, tăng sự quan hệ thân thiện giữa người với người trong cộng đồng. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của các tác giả Susan M. Labott và Randall B. Martin cho hay, người dễ dàng khóc trước các hoàn cảnh tiêu cực của cuộc sống thường hay bị rối loạn tâm tư hơn là thoát khỏi hoặc bớt đi. Văn thi sĩ cũng có ý kiến về khóc. Thi sĩ Richard Crashaw nói “Khóc là làm vơi đi niềm thống khổ”. Còn thi sĩ người Anh Robert Herrick cho là “Giọt lệ là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt. Khi tình yêu chân thật không đủ lời để nói ra, thì nước mắt thay lời nói trong những giây phút im lặng đó”. Tình cảm hơn, nhà văn Pháp Valery Larbaud lại tâm sự “Nhưng tôi yêu những mùi vị của giọt lệ được giữ lại, những giọt lệ dường như chảy từ cặp mắt xuống trái tim. Tôi thu gom nó như một kho tàng”. Nam nữ ai khóc nhiều? Nam nữ, già trẻ lớn bé đều khóc, nhưng ở mức độ khác nhau. Thường thường nữ giới hay khóc hơn nam giới, vì họ nhiều tình cảm, dễ xúc động. Ngoài ra, nhà sinh hóa học William H. Frey đưa ra giả thuyết là hormon prolactin làm giảm ngưỡng xúc động ở phụ nữ bằng cách kích thích hệ nội tiết khiến cho phụ nữ dễ dàng chẩy nước mắt. Prolactin là một loại kích thích tố có nhiêu ở nữ giới đặc biệt là ở tuổi dạy thì, khi có kinh, mang thai và cho con bú sữa mẹ cũng như khi bị căng thẳng tinh thần. Prolactin có ở cả nam lẫn nữ, nhưng tỷ lệ ở nữ cao hơn nam tới 60%. Cho nên khi các bà các cô ở trong các giai đoạn này, xin đừng làm phiền lòng họ kẻo họ bù lu bù loa, khó dỗ. Trước đây cứ nói là nam không khóc nhưng thực ra là họ có khóc nhưng ít hơn. Theo tạp chí Mans Health tháng Tư, 2003 trong một năm, nam khóc 14 lần còn nữ khóc gấp ba gấp bốn, tới 64 lần. Sở dĩ như vậy là do nam giới có khả năng kìm hãm sự khóc hơn là nữ giới. Với một vài văn hóa, khóc là dấu hiệu của yếu đuối, phản ảnh sự bất lực, không tự cường và cần nơi dựa dẫm, dựa vai người khác mà khóc. Tại một số quốc gia, nam giới tự do khóc trong khi đó tại vài quốc gia khác như Hoa Kỳ, người nam mà khóc tu tu thì được cho là yếu đuối, không có nam tính, là “Sissy” là “Crybaby”. Có người cho rằng nam giới mà khóc là do quá nhậy cảm mà nữ giới mà khóc thì lại bị gán cho là quá xúc động đôi khi mánh khóe, có dụng ý lung lạc, tư lợi. Kết luận Để kết luận, xin mượn lời của nhà giáo kiêm tâm lý gia trị liệu, Tiến sĩ Judith Kay Nelson: “Các bác sĩ và nhà tâm lý gắn liền khóc với cảm xúc nhưng lại quên rằng khóc còn là một chức năng căn bản của cơ thể. Khóc liên hệ tới sự sản xuất các loại hormon, sự co của cơ bắp, những thay đổi sinh hóa học, những tín hiệu thần kinh và các diễn tiến tuần hoàn, tiêu hóa hô hấp”. Do đó, tưởng như là giản dị nhưng nhỏ lệ là một thành phần quan trọng và cần thiết trong cơ thể con người. Không có những giọt lệ tuôn ra, trong ngắn hạn, cuộc đời sẽ gặp nhiều tâm trạng khó khăn và trong dài hạn, thị lực sẽ mờ dần. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas - Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2013 5:22:48 GMT 9
Triệu chứng bipolar (VienDongDaily.Com - 19/01/2013) TS. Trần Mỹ Duyệt/Viễn Đông
Question: Tôi có người cháu gái 15 tuổi, hiện cháu mắc chứng Bipolar. Hoàn cảnh của cháu rất đáng thương, mẹ chết, ba lấy vợ khác và đã bỏ rơi nó. Cháu có gia đình nội ngoại nhưng không ai muốn giúp cháu vì “mood swing”. Hai vợ chồng tôi nhận nuôi cháu và em trai cháu, nhưng chúng tôi cũng có 4 đứa con trai 15, 12, 4 và 1 tuổi, cuộc sống rất bận rộn, lại phải deal với cháu gái này. Chồng tôi ít nói và cũng khó chịu khi tôi nhận đưa hai đứa cháu về nhà nuôi được gần 2 năm rồi. Hiện tại tôi không thể đưa hai chị em nó đi đâu được. Lương tâm tôi rất bứt rứt. Khoảng 3 tháng trước đây tôi đã nhờ anh trai tôi thử trông chừng hai đứa, nhưng chúng không được quan tâm săn sóc như ở nhà với tôi. Khi ốm không ai để ý, trễ học không ai nhắc. Tôi cũng đã thăm dò ý kiến của ba má tôi, nhưng ông bà cũng bàn ra, và từ chối giúp cháu. Sau cùng tôi đã phải hỏi ý kiến chồng để đem chúng về. Chồng tôi miễn cưỡng chấp nhận, nhưng rồi chiến tranh lạnh đã xẩy ra giữa vợ chồng tôi. Thường ngày anh đã ít nói, bây giờ càng thêm lầm lì ít nói hơn nữa, khiến không khí trong nhà hết sức nặng nề. Tôi thật sự nhức đầu quá, chỉ còn biết cầu nguyện. Vậy xin ý kiến chuyên môn để giúp tôi trong hoàn cảnh này. Answer: Câu hỏi này hay những câu hỏi tương tự về tâm thần hoặc tâm lý như trên đã nêu lên một thực tế mà thường ngày những ai từng phụ trách giúp đỡ các bệnh nhân trong phạm vi nghề nghiệp đều phải đối diện. Tuy nhiên, có được một phụ huynh hay người giám hộ cởi mở, sẵn sàng đối diện với căn bệnh và chương trình trị liệu thì rất hiếm. Đa số cha mẹ hoặc người trong gia đình chỉ muốn đem con em mình, người thân mình đến các trung tâm tâm thần hay tâm lý như đến với một phòng mạch bác sĩ xin vài viên thuốc nhức đầu, xổ mũi, hoặc đau bụng để rồi hy vọng là sau khi uống vào con, cháu, anh, chị, em, hoặc người nhà sẽ khỏi bệnh. Còn phần mình thì lại tiếp tục lo bươn chải, hoặc làm giầu. Một số phụ huynh hay người thân còn giấu bệnh nhân, không muốn cho ai biết con, cháu, anh, chị, em hoặc thân nhân mình mang những chứng bệnh như vậy sợ bị tiếng đời đàm tiếu cho rằng mình ăn ở thất đức nên đẻ con điên loạn, bị Trời phạt, bị quả báo… Do đó, với kinh nghiệm cá nhân tôi, hành động đón nhận nuôi một đứa cháu mang bệnh Bipolar như bà bác trên đây là một hành động can đảm, rất đáng kính phục. Một đứa trẻ ở tuổi vị thành niên bình thường cũng là khó khăn lắm để hướng dẫn, đàng này bà đón nhận một đứa cháu không những ở tuổi vị thành niên mà còn mang bệnh Bipolar nữa. Không những thế, bà còn phải chăm lo săn sóc cho 4 đứa con và thêm một đứa cháu khác nữa, tất cả chúng đều đang trong tầm tuổi đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm, dậy dỗ, và giáo dục. Trong câu hỏi của bà, ngoài đứa cháu mang bệnh Bipolar, nó còn hàm chứa nhiều khúc mắc liên quan đến những tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng, mối giao tiếp họ hàng, những chương trình trị liệu của xã hội, và bệnh tình của chứng bệnh Bipolar. Vì vậy, theo tôi, những điều bà cần làm trước hết lúc này là: Bằng cách tế nhị, uyển chuyển, và nhẹ nhàng, bà cố thuyết phục chồng bà để ông mở rộng tấm lòng và vòng tay đón tiếp hai đứa trẻ đáng thương như bà và chồng bà đã làm trong gần 2 năm qua. Nếu họ hàng nội, ngoại, và ngay cả người cha ruột của chúng đã bỏ rơi chúng, không lẽ vợ chồng bà cũng đang tâm bỏ rơi chúng nữa sao! “Giọt máu đào hơn ao nước lã”! Ngoài ra, bà còn có thể đến với những chương trình xã hội và những dịch vụ khác chuyên giúp những bệnh nhân và gia đình trong tình trạng tâm thần và tâm lý như vậy. Nhưng Bipolar là gì? Bipolar là gì? Đó là bệnh tâm thần hay một hội chứng tâm lý? Ảnh hưởng của nó như thế nào trong đời sống của bệnh nhân và của gia đình? Làm thế nào để chẩn đoán và chữa trị? Cho đến bây giờ vẫn chưa có một từ ngữ tiếng Việt nào dịch sát nghĩa và hay về chứng Bipolar. Do đó, tôi dùng nguyên ngữ để tránh hiểu lầm lôi thôi. Trước hết, đây là một tâm bệnh (bệnh tâm thần), chứ không phải là hội chứng tâm lý như chậm phát triển, tính tình nóng nảy, thiếu tự chủ, và quá khích… Khi lên cơn, bệnh nhân có thể nguy hiểm cho chính mình và những người chung quanh bằng những hành động bạo tợn, hung dữ... Bipolar là một tình trạng kéo dài suốt cuộc sống của bệnh nhân và nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm cũng như hành động của bệnh nhân. Nó được các nhà chuyên môn nhận diện như một chứng bệnh liên quan đến những thay đổi, xáo trộn tính tình một cách đột ngột, không kiểm chứng được. Nguyên nhân gây ra là do sự bất quân bình hóa chất trong óc đưa đến kết quả như cực kỳ hung dữ, nóng nảy, nguy hiểm, hoặc trầm cảm, tiêu cực hay tấn công. Hầu hết các bệnh nhân khi lên cơn, hầu như rất khó lòng kiềm chế, kiểm soát được tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Tóm lại, Bipolar được coi như chứng bệnh điên loạn dồn nén, ảnh hưởng đến tâm tính, thái độ, và nghị lực của bệnh nhân. Chu kỳ của một lần phát bệnh như vậy có thể lâu hàng ngày, hàng tuần, hoặc hàng tháng. Và không phải như những thay đổi tính khí bất thường thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong đời sống khi con người phải đối diện với những khó khăn, hoặc những điều kiện khiến mình không tự chủ nổi; sự thay đổi tâm tính, thái độ và động thái của người mang bệnh Bipolar có ảnh hưởng rõ ràng đối với những người chung quanh. Tùy theo tình trạng hóa chất ảnh hưởng trong não bộ và tác dụng trên thần kinh người bệnh. Cũng như tùy sự diễn tiến của căn bệnh, bệnh nhân có thể chia thành nhiều trạng thái khác nhau. Và cũng như những tình trạng tâm bệnh khác, Bipolar cũng có những mức độ khác nhau từ nhẹ, đến trung bình và nặng. Do đó, việc định bệnh phải do những bác sĩ chuyên môn, giầu kinh nghiệm. Bipolar thông thường được thấy ở các thanh thiếu niên, những người trẻ ở lứa tuổi 25. Một đôi trường hợp nó cũng phát hiện sớm ở tuổi vị thành niên, hoặc ở tuổi 40 hay 50. Nó xẩy ra đồng đều cho mọi sắc dân, mọi nền văn hóa, và mọi mức độ sống giầu hoặc nghèo. Đây cũng là bệnh có tính di truyền, nếu người cha hoặc người mẹ có bệnh thì con có xác xuất 15-30% mắc bệnh. Trường hợp cả cha lẫn mẹ đều mắc bệnh thì con có tới 50-75% sẽ mắc bệnh. Về phái tính, nữ giới mắc bệnh nhiều gấp 3 lần nam giới. Hiện nay tại Hoa Kỳ có 2-7% dân số có dấu hiệu mắc chứng Bipolar, và khoảng 10 triệu người nằm trong ảnh hưởng này. Tuy nhiên có đến 50% những bệnh nhân này không được chẩn đoán và chữa trị một cách chính xác. Chữa trị Như vừa trình bày trên, đây là một chứng bệnh tâm thần, nên rất cần phải được một bác sĩ tâm thần (psychiatrist) - không phải là bác sĩ thần kinh - chẩn đoán và trị liệu bằng thuốc. Vì ảnh hưởng của Bipolar trực tiếp do những khủng hoảng hóa chất trong não bộ, nên thông thường có vài loại thuốc vẫn được các bác sĩ tâm thần dùng để trị những bệnh nhân Bipolar. Thí dụ, Lithium, một loại thuốc giúp ổn định và làm dịu lại những kích động của tâm tính và hành động. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể cho bệnh nhân uống Zoloft để làm cho bớt trầm cảm, dồn nén. Một số trường hợp, bệnh nhân cũng được cho uống Xanax là một loại thuốc dùng để kiểm soát những cơn giận dữ, hoảng loạn. Tuy nhiên, Xanax là một loại thuốc rất nguy hiểm, bệnh nhân không thể tự ý dùng một mình hay cho uống chung với các thứ thuốc khác, do đó, bệnh nhân hoặc những ai lo cho bệnh nhân phải theo dõi kỹ càng những chỉ dẫn của bác sĩ khi sử dụng Xanax. Nhưng đối với những ai đã có kinh nghiệm hoặc làm việc trong lãnh vực tâm lý và tâm thần đều biết, phản ứng phụ (side effect) của những loại thuốc an thần, tâm thần như vậy gây ra những phản ứng rất khó chịu. Những phản ứng phụ đó như nhức đầu, khô miệng, táo bón, lở loét dạ dầy, liệt dương. Trường hợp dùng lâu ngày, những loại thuốc này còn gây ra tiểu đường. Do đó, đa số các bệnh nhân không muốn uống, hoặc giả vờ ngậm thuốc rồi nhổ ra. Chính vì thế, tại các bệnh viện tâm thần, khi cho các bệnh nhân uống thuốc, các y tá phải kiểm soát, thí dụ, bắt bệnh nhân hả miệng, uốn lưỡi, kiểm soát hàm răng, hoặc uống nước để biết chắc là bệnh nhân đã uống và nuốt thuốc xuống dạ dầy. Ngược lại với những điều khó chịu do thuốc gây ra, phần thưởng rất rõ ràng là những ai uống thuốc đều đặn sẽ có kết quả khả quan ngay sau tuần lễ đầu. Nhiều bệnh nhân tâm thần sau ít tháng hoặc năm hay sáu tháng chữa trị đúng mức, họ đã được xuất viện. Nhưng với một điều kiện, khi về nhà vẫn phải uống thuốc đều đặn, và thường xuyên được theo dõi bởi bác sĩ tâm thần. Những bệnh nhân sau khi được chữa trị về nhà ít tháng sau bị lại, thường là những bệnh nhân đã không uống thuốc đều đặn, hoặc bỏ thuốc. Một trong những cách thức trị liệu khác nữa vẫn thường được đi liền với việc dùng thuốc là tâm lý trị liệu. Các bác sĩ tâm lý (psychologist) sẽ đo lường khả năng tâm lý và tâm thần của bệnh nhân để đưa ra những hướng dẫn, những lời khuyên thích hợp hầu hướng bệnh nhân tìm lại ý nghĩa, tích cực, và vui sống. Thông thường, các bệnh nhân phải đến với các bác sĩ tâm lý ít nhất một tháng, một lần để được kiểm chứng và hướng dẫn thêm. Tóm lại, chữa trị bệnh nhân tâm thần, điển hình là bệnh nhân Bipolar không chỉ đơn thuần uống vài viên thuốc rồi xong. Hoặc phụ huynh hay người có trách nhiệm chỉ cần mang con em mình, bạn hữu hay người thân mình đến văn phòng bác sĩ xin vài viên thuốc an thần là xong. Đây là một chương trình chữa trị lâu dài, bền bỉ, và có phương pháp. Một chương trình trị liệu đòi hỏi sự cộng tác tích cực của bệnh nhân, và trong trường hợp này, sự nâng đỡ, khuyến khích cũng như theo dõi của phụ huynh hay người có trách nhiệm cũng đóng góp một phần rất lớn vào việc chữa trị và phục hồi của bệnh nhân. - (TMD) TS. Trần Mỹ Duyệt ********************* Bệnh cảm xúc theo mùa (VienDongDaily.Com - 29/12/2012) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông
Hôm nay trời nhẹ lên cao Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn Có khi nào bạn cũng ở vào tâm trạng của Xuân Diệu trong hai câu thơ trên? Nếu bạn cứ hay buồn như vậy vào mùa thu và đông, tức những mùa mặt trời hay đi vắng ở các nước miền ôn đới, có thể là bạn đang mắc chứng bệnh gọi là cảm xúc theo mùa. Bệnh này cũng có thể xẩy ra vào mùa xuân hay mùa hè nhưng hiếm hơn.
Triệu chứng Những triệu chứng của bệnh xẩy ra và mất đi vào cùng thời gian mỗi năm. Thường bệnh xuất hiện vào cuối thu hay đầu đông và biến mất vào những ngày xuân và hè có nhiều ánh nắng. Tuy nhiên, một số người thì ngược lại, bị triệu chứng bệnh vào đầu mùa xuân hay hè. Trong cả hai trường hợp, triệu chứng xuất hiện nhẹ vào đầu mùa và ngày càng nặng theo với mùa. 1. Bệnh vào mùa thu và đông: - Trầm cảm - Cảm thấy tuyệt vọng - Bồn chồn lo lắng - Cảm thấy không có năng lượng - Không muốn giao thiệp xã hội - Ngủ nhiều - Không còn thích làm những chuyện trước kia vẫn thích - Cách ăn khác trước, thích ăn món chứa nhiều tinh bột - Lên cân - Khó tập trung hay hiểu sự việc 2. Bệnh vào mùa xuân và hè: - Bồn chồn lo lắng - Mất ngủ - Bứt rứt khó chịu - Dễ bị khích động - Xuống cân - Không muốn ăn - Ham muốn tình dục tăng 3. Bệnh cảm xúc ngược Ở một số người, xuân và hè lại mang đến cho họ cảm giác hưng phấn quá độ hay một hình thức khác nhẹ hơn. Bệnh này được coi như một hình thái của bệnh tâm thần “cảm xúc lưỡng cực” (bipolar disorder). Triệu chứng như sau: - Lúc nào cũng ở trong trạng thái hưng phấn - Tham gia rất nhiều những sinh hoạt xã hội - Tay chân hoạt động không ngừng - Vui vẻ hăng hái quá độ nhưng không hợp với tình thế
Khi nào nên gặp bác sĩ? Lâu lâu có một hai ngày buồn thì được, nhưng nếu bạn cảm thấy buồn bã kéo dài và không còn muốn làm những chuyện trước kia bạn vẫn thích làm, bạn nên đến gặp bác sĩ. Và nhất là khi bạn mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều khác trước; không ăn được hay ăn quá nhiều; có ý định tự tử; cảm thấy tuyệt vọng; mượn rượu để giải sầu, bạn nên gặp bác sĩ.
Nguyên nhân Nguyên nhân chính xác của bệnh thì vẫn chưa được biết rõ. Nhưng những yếu tố như di truyền, tuổi tác và nhất là cấu tạo hóa học tự nhiên của mỗi người có lẽ đóng góp phần quan trọng trong việc gây bệnh. Những yếu tố sau cũng có thể gây bệnh: - Đồng hồ sinh học của mỗi người: Mức ánh sáng thấp của mùa thu và đông có lẽ đã ảnh hưởng lên đồng hồ sinh học điều khiển chuyện thức ngủ trong người bệnh khiến họ bị trầm cảm. - Mực melatonine: Đây là chất ảnh hưởng đến giấc ngủ và cảm xúc. Sự thay đổi mùa đã làm ảnh hưởng lên mực chất này khiến bệnh nhân bị trầm cảm. Bác sĩ có thể quyết định cho bạn uống thêm melatonine. - Mực serotonine: Đây là chất chuyển tín hiệu thần kinh, ảnh hưởng đến mức vui buồn của chúng ta. Thiếu ánh sáng mặt trời trong các mùa thu đông khiến bệnh nhân bị giảm mực serotonine, gây ra trầm cảm. Định bệnh cảm xúc theo mùa đôi khi không dễ vì khó phân biệt với những bệnh tâm thần khác. Bệnh nhân cần được định bệnh theo những tiêu chuẩn của Sách Định Bệnh của Hội Y Khoa Tâm Thần Hoa Kỳ.
Ai dễ bị bệnh? - Phụ nữ dễ bị bệnh, nhưng phái nam nếu bị thì sẽ bị nặng hơn. - Sống xa đường xích đạo dễ bị bệnh hơn, có lẽ vì thiếu ánh sáng mặt trời vào mùa đông và ngày mùa hè dài. - Bệnh sử gia đình. Người bệnh thường có thân nhân cũng bị bệnh này.
Biến chứng Không nên coi thường những triệu chứng của bệnh cảm xúc theo mùa. Nếu bệnh không được chữa trị, có thể đưa đến những biến chứng sau: - Có ý định tự tử hay hành động như muốn tự tử - Thu người vào vỏ, không sinh hoạt xã hội - Không đi học hay đi làm được - Dùng ma túy hay rượu Chữa trị kịp thời có thể giúp tránh những biến chứng này và trở về cuộc sống bình thường.
Chữa trị - Dùng ánh sáng: Bệnh nhân được cho ngồi trước hộp ánh sáng chữa bệnh. Ánh sáng này giống như ánh sáng mặt trời, có thể làm tăng mức những chất hóa học trong óc. Ít có tác dụng phụ tai hại. - Thuốc: Bác sĩ có thể dùng thuốc chữa bệnh trầm cảm nhất là khi triệu chứng nặng. - Trị liệu tâm lý (psychotherapy)
Tự giúp - Giữ môi trường chung quanh chan hòa ánh sáng bằng cách kéo màn ra, ngồi gần cửa sổ nhiều ánh sáng. - Ra ngoài trời vào buổi trưa, ngay cả khi trời âm u. Ra ngoài trời trong vòng 2 giờ sau khi thức giấc sẽ giúp bạn tránh bệnh. - Tập thể dục thường xuyên. - Có thể thử dùng những thuốc dược thảo có tích cách trị bệnh trầm cảm như St. John wort, SAMe, melatonine, Omega-fatty acids. Nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng những thuốc này. - Các phương pháp “ngoại vi” khác như châm cứu, yoga, xoa nắn... - Tham dự những sinh hoạt xã hội, tiếp xúc với người khác.
Viendongdaily.com và tác giả giữ bản quyền bài trên trang này. BS. Nguyễn Thị Nhuận
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2013 5:27:57 GMT 9
Làm sao tránh ung thư? (VienDongDaily.Com - 05/01/2013) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông
Chẳng ai muốn ăn hay cho gia đình mình ăn một thức ăn có thể gây ra ung thư. Thế nhưng chúng ta lại sẵn sàng dùng những chất hóa học gây ung thư trong nhà thường xuyên. Trong vài năm trở lại đây, nhiều nhóm hỗ trợ người tiêu thụ đã tìm hiểu về những chất thường dùng trong nhà và khuyến cáo rằng một số sản phẩm có chứa những chất gây ung thư. Dưới đây là những sản phẩm chứa chất gây ung thư và những chất thay thế, an toàn hơn. Nhưng nếu bạn không thể không dùng những sản phẩm này, bạn cũng không cần phải hốt hoảng. Trong đa số các trường hợp, dùng chúng cũng không có nghĩa là bạn sẽ mắc phải ung thư trong một sớm một chiều. Tuy nhiên, nhiều nguy cơ nho nhỏ cộng lại cũng sẽ trở thành một nguy cơ đáng kể, bạn nên để ý đến.
Radon Đây là một chất phóng xạ không có mùi vị gì cả, được thành hình qua thoái hóa tự nhiên của chất uranium. Bạn có thể hỏi ở đâu mà ra chất phóng xạ này? Chúng có tự nhiên từ đá và đất cũng như trong nước giếng. Sau hút thuốc thì radon là nguyên nhân gây ung thư nhiều thứ nhì trên nước Mỹ. Cơ quan Bảo Vệ Môi Sinh EPA cho hay cứ 3 căn nhà thì có đến gần 1 căn có mức radon cao hơn 4 pCi/L, mức an toàn cho phép. Cách duy nhất để tìm xem nhà bạn đang ở có nhiều radon quá không là phải thử nghiệm tìm nó. Có thể gọi National Safety Council's National Radon Hotline ở số (800) 767-7236 và hỏi về cách thử nghiệm radon. Họ sẽ gửi cho bạn một máy dò radon giá thấp. Bạn cũng có thể mua máy này ở các tiệm bán đồ sửa chữa trong nhà. Chất dùng thay thế: Không có. Muốn trừ hết radon trong nhà, cần có người chuyên môn làm. Teflon Teflon là chất tráng lên trên những chảo, nồi... để khi nấu nướng, thức ăn không bị dính. Tên hóa học của chất làm không dính này là perfluorooctanoic acid (PFOA), một chất gây ra ung thư. Câu hỏi là không biết chất này có lan ra từ chảo nồi vào thức ăn hay không. Nhiều nhà chuyên môn cho rằng chất PFOA và khoảng 15 chất khác có thể thấm từ chảo nồi vào thức ăn, nhất là khi nấu với nhiệt độ cao. Ngoài ra, khi lớp tráng không dính này bị trầy hay tróc ra vì dùng lâu ngày, những chất gây ung thư có thể lan vào thức ăn dễ dàng. Cơ quan bảo vệ môi sinh EPA đã kêu gọi các nhà sản xuất ngưng dùng PFOA nhưng chẳng ai nghe. Không nên dùng chảo nồi có tráng lớp teflon để nấu trên 300 độ F và nên vất chúng đi khi chúng bị trầy tróc. Chất dùng thay thế: Dùng nồi chảo làm bằng thủy tinh, sắt, đồng, sứ... Ngoài ra cũng có những đồ dùng nấu nướng tráng lớp không dính bằng những chất không có hại như sứ (ceramic), titanium.
Mỹ phẩm và thuốc men Bạn có tin là túi chứa mỹ phẩm và tủ thuốc của bạn có thể gây hại cho bạn không? Chắc là không. Vậy mà có đấy. Mỹ phẩm và thuốc men có thể chứa những chất gây ung thư. Ông Philip Landrigan, khoa trưởng trường y khoa Global Health at Mount Sinai, khuyên nên tránh 12 chất nguy hiểm trong những mỹ phẩm dùng săn sóc làn da, trong đó có: thuốc trụ sinh, chất formaldehyde; hydroquinone; thủy ngân và chì; parabens; phenylenediamine; coal tar; diethanolamine; 1,4-Dioxane; nanoparticles; và petroleum distillates. Theo ông Landrigan, những chất hóa học thuộc vào họ “phthalates” dùng trong mỹ phẩm gây hại nhiều nhất vì chúng có tác dụng giống như các kích tố (hormones) thiên nhiên. Chất “phathalates” làm thuốc sơn móng tay chóng khô cứng, giúp keo xịt tóc dính cứng vào tóc, và giữ hương trong nước hoa. Nó còn được dùng trong những bình nhựa mềm chứa mỹ phẩm hay thuốc gội đầu, lotion... và có thể thấm vào các sản phẩm này. Sản phẩm nguy hiểm nhất là son môi vì có chứa chất chì, một chất có thể gây ra nhiều nguy hại sức khỏe kể cả ung thư. Do lời báo động của tổ chức Campaign for Safe Cosmetics, cơ quan kiểm soát thực phẩm và thuốc men FDA đã thực hiện hai cuộc điều tra thử mức chì trong các loại son môi và đưa ra một kết quả đáng sợ. Chì có trong tất cả các thỏi son môi được thử nghiệm, không phải ít thôi mà rất cao. Thử nghiệm đầu cho thấy mức chì là 3,06 ppm (parts per million) và thử nghiệm thứ nhì cho mức chì cao hơn nữa, ở 7,19 ppm. Sau cùng, không phải các nhãn hiệu đều “khai báo thành thật”. Trong một khảo cứu gần đây, thuốc làm thẳng tóc có chất keratin đã viết trên nhãn hiệu là không chứa chất formaldehyde nhưng thử ra thì có chứa chất độc hại này với mức không cao lắm nhưng có thể ảnh hưởng đến các thợ làm tóc vì phải tiếp xúc với chúng hàng ngày. Chất dùng thay thế: Những mỹ phẩm có “hương thơm (fragrance)” có thể chứa rất nhiều chất hóa học thêm vào. Nên chọn những sản phẩm không có hương thơm hoặc có hương thơm làm từ những thực vật, cây cỏ. Nhiều công ty bán những mỹ phẩm thiên nhiên, ghi rõ những chất có trong sản phẩm, không có những hóa chất có hại như phthalates cũng như các chất kim loại nặng như chì và những chất hóa học có hại khác.
BPA (bisphenol A) Chất này hiện thường xuyên được nói tới, nhưng càng nói nhiều thì càng gây hoang mang. BPA là một loại phthalate, là chất kích tố estrogen được tổng hợp trong phòng thí nghiệm, có thể gây ung thư. Năm 2010, President's Cancer Panel khuyên dân chúng không nên dùng bình đựng nước làm bằng BPA và khuyên các nhà sản xuất nên ngưng dùng chất này trong các sản phẩm của họ, nhưng chỉ có một số tiểu bang nghe theo. Tuy nhiên, đa số các hãng có uy tín đã chế tạo bình đựng không có chất BPA và dần dần thì chuyện này đương nhiên sẽ lan rộng. Nhưng những sản phẩm khác vẫn còn chứa BPA, thí dụ như lớp lót bên trong những hộp kim loại. Vì BPA có thể phản ứng với kim loại khi các hộp này được đun nóng lên để diệt trùng, các thức ăn trong hộp có nguy cơ chứa chất độc này. Một chất khác thường được dùng để khiến các hộp plastic mềm dẻo là chất diethylhexyl adipate (DEHA), cũng là một chất có thể gây ung thư. DEHA có trong hầu hết những bao gói nhựa và cũng có tác dụng giống phthalates như BPA, hiện nay vẫn còn được dùng nhiều. Làm bao nhựa nóng lên là một cách giúp những chất hóa học trong bao này thấm vào thức ăn. Do đó, không nên hâm thức ăn đựng trong hộp nhựa bằng microwave, cũng không nên bọc hay che thức ăn bằng miếng plastic như chúng ta vẫn thường làm. Chất dùng thay thế: Mua những hộp đựng bằng nhựa có đề chữ “BPA free” tức không chứa chất BPA. Dùng bình nước kim loại khi ra ngoài và dùng nước đã lọc khi ở trong nhà. Hâm thức ăn trong những đồ đựng bằng sứ hay thủy tinh. Chất dùng lau chùi Hầu hết những sản phẩm “cleaning” tức lau chùi làm sạch đều chứa những chất hóa học tổng hợp, một số đã cho thấy có thể gây ung thư. Nguy hiểm hơn, nồng độ những chất này khi sử dụng trong nhà sẽ cao gấp trăm lần khi sử dụng ngoài trời. Chất thơm “air freshener” giúp không khí có mùi “tươi mát” hơn đặc biệt nguy hiểm, một vài loại có chứa chất isopar tức deodorized kerosene, hay paradichlorobenzene, hai chất được biết là gây ung thư, độc hại cho phổi, gan hay thận. Do đó, phải cẩn thận khi dùng các thuốc xịt hay lau chùi. Trong các thứ nước dùng lau chùi, oxygen bleach cleansers nguy hiểm bậc nhất. Cũng không nên dùng các sản phẩm chứa chlorine bleach hay ammonia. Nguy hại nhất là khi bạn xịt chlorine bleach trong khi tắm vòi sen thì hơi nóng sẽ làm chúng dễ xâm nhập vào buồng phổi của bạn hơn. Chất dùng thay thế: Có rất nhiều các sản phẩm thiên nhiên dùng lau chùi như citrus oil hay enzymes. Bạn cũng có thể tự làm lấy những thứ nước dùng lau chúi bằng baking soda, chanh hay giấm.
Sơn, dầu đánh bóng... Theo tổ chức EPA, các chất sơn, dầu đánh bóng, vẹc ni, một số các chất dùng lau chùi, thuốc chùi sơn, thuốc trừ sâu bọ... có chứa những “volatile organic compounds” (VOCs) có thể gây ung thư. VOCs được thải ra không khí khi đang được dùng và vẫn tiếp tục thải ra trong khi đang khô. Chất nguy hại nhất chính là methylene chloride, vốn được biết là gây ung thư cho thú vật và benzene, gây ung thư nơi con người. Methylene chloride có trong thuốc chùi sơn, thuốc chùi chất dính, và sơn xịt. Chất này có thể chuyển đổi thành carbon monoxie khi vào cơ thể con người và gây ra triệu chứng giống như ngộ độc carbon monoxide. Benzene có trong những vật liệu về sơn và xăng dầu. Chất dùng thay thế: Sơn đề trên nhãn hiệu là low VOCs thì an toàn hơn sơn thường. Sơn hiệu Mythic không chứa các chất độc kể trên và rất an toàn. Khi dùng những vật dụng nói trên nên ở ngoài trời hay trong garage. Nếu bắt buộc ở trong nhà, nên mở hết các cửa sổ và vặn quạt lên. Nên sơn nhà vào mùa xuân và hè khi bạn có thể mở cửa cho không khí tràn vào. Thuốc trừ sâu và cỏ Nhiều chất thường có trong thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ đã cho thấy có thể gây ung thư và bệnh Parkinson. Một khảo cứu năm 2009 cho thấy tỉ lệ ung thư óc cao hơn ở trẻ em có cha mẹ thường tiếp xúc với những chất này ở nơi làm việc hay ở nhà. Những nhà nghiên cứu đã chỉ ra những chất có trong thuốc diệt sâu và thuốc trừ cỏ (gồm chlordane, heptachlor, tetrachlorvinphos, carbaryl, propoxur, lindane, dichlorvos, phosmet, và permethrin) rất có thể đã gây ra bệnh. Bệnh Parkinson cũng đang được nghiên cứu xem có liên quan tới thuốc trừ sâu hay không vì một khảo cứu cho thấy bệnh nhân Parkinson khai là có tiếp xúc với thuốc trừ sâu nhiều gấp đôi người không mắc bệnh. Thuốc diệt sâu dùng trong nhà cũng có thể liên quan tới ung thư. Một nghiên cứu cho thấy 2 chất hóa học dùng trong thuốc xịt trừ sâu trong nhà (foggers) được tìm thấy với nồng độ cao trong nước tiểu những trẻ em bị ung thư máu. Tổ chức EPA đang tìm thêm sự liên quan giữa foggers và các bệnh khác và nhiều tiểu bang đang đề nghị xếp loại foggers vào những thứ chỉ được dùng giới hạn. Chất dùng thay thế: Học cách làm vườn “organic” tức không dùng những chất hóa học, nhổ cỏ bằng tay thay vì dùng thuốc diệt cỏ. Nếu có sâu bọ trong nhà, nên dùng những chất trừ sâu thiên nhiên hoặc không dùng thuốc xịt. Nếu dùng thuốc xịt hay foggers, ra khỏi nhà và mở hết các cửa ít nhất là một ngày trước khi vào lại. Viendongdaily.com và tác giả giữ bản quyền bài trên trang này. BS. Nguyễn Thị Nhuận *************************** Những thắc mắc y tế “đời thường” (VienDongDaily.Com - 21/12/2012) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông
Ai cũng có một số những kiến thức tổng quát về y tế, nếu không qua ngả chính thức như học trong trường lớp thì cũng qua ngả “i meo” hay qua rỉ tai. Tuy nhiên, càng biết nhiều thì chúng ta lại càng có những thắc mắc tuy rất hiển nhiên nhưng ít khi được đề cập tới hoặc trả lời. Sau đây là một số câu hỏi y tế về những vấn đề thiết thực của đời thường với những câu trả lời hợp lý và khoa học.
Đem đồ ăn về nhà trong hộp của nhà hàng có sao không? Hỏi: Tôi thường đem đồ ăn từ nhà hàng về. Nếu tôi cứ giữ những thức ăn này trong hộp của nhà hàng cất trong tủ lạnh thì có sao không? Đáp: Giữ thức ăn trong những hộp “take out” từ nhà hàng về thì cũng không sao. Nhưng tốt hơn cả là gói chúng chặt chẽ trong gói đã hút hết không khí hoặc dán thật kín trong hộp chứa đặc biệt. Những cách này giúp ít bị nhiễm trùng. Cẩn thận hơn nữa: không để hộp thức ăn ở ngoài - trong xe hay trên quầy bếp chẳng hạn - quá hơn 2 tiếng đồng hồ vì vi trùng sẽ sinh sôi dễ dàng trong nhiệt độ của phòng hay xe. Những vi trùng này có thể tiết ra độc tố làm chúng ta bị bệnh ngộ độc thức ăn khi chúng ta ăn những thức ăn này. Nếu không ăn ngay, chúng ta có hai cách để giữ an toàn thực phẩm: Giữ thức ăn nóng bằng cách cho vào lò nóng tới 140 độ F hay hơn, hoặc cho thức ăn vào tủ lạnh rồi hâm nóng đến 165 độ F trước khi ăn. Nên ghi nhớ “luật 2 giờ”: những thức ăn nào dù nóng hay lạnh nếu đã để ở ngoài, nhiệt độ trong phòng, lâu hơn 2 giờ, thì nên vất đi. Nếu nhiệt độ cao hơn 90 độ F thì cắt xuống còn 1 giờ thôi.
High-fructose corn syrup là gì? Có hại gì? Hỏi: Gần đây tôi nghe nói là high-fructose corn syrup, có trong nhiều thứ nước và bánh ngọt, có hại cho sức khỏe. Vậy high-fructose corn syrup là gì và có hại ra sao? Đáp: High-fructose corn syrup là một chất ngọt thường được dùng trong các loại nước ngọt cũng như nước có mùi trái cây. Người ta đã nhận xét thấy từ khi lượng chất này được dùng nhiều thì tỉ lệ mập phì và những vấn đề sức khỏe khác cũng tăng lên khiến mọi người tự hỏi có liên quan gì giữa hai sự kiện này không. Nghiên cứu cho thấy high-fructose corn syrup giống như đường về cấu trúc hóa học. Nhưng cách cơ thể con người tiêu hóa chất này như thế nào thì còn đang được bàn cãi. Ở thời điểm này, chưa có chứng cớ cho thấy “high-fructose corn syrup” có hại cho sức khỏe nhiều hơn các chất ngọt khác. Tuy nhiên cái hại của việc sử dụng quá nhiều chất ngọt, không chỉ chất “high-fructose corn syrup”, thì đã quá rõ: lên cân, tiểu đường loại 2, hội chứng biến dưỡng, và mức triglycerides tăng cao. Tất cả những yếu tố này sẽ đưa đến bệnh tim. Hội Tim Hoa Kỳ khuyên đàn bà chỉ nên ăn thêm chất ngọt ít hơn 100 calories mỗi ngày, đàn ông thì giới hạn ở 150 calories, tức ít hơn 6 muỗng cà phê đường cho đàn bà và 9 muỗng cà phê đường cho đàn ông. Nếu bạn lo lắng cho sức khỏe, tốt nhất là ăn ít đường, dù là bất cứ loại đường nào.
Thực đơn cao chất đạm có an toàn không? Hỏi: Xuống ký bằng cách ăn toàn protein (chất đạm) có an toàn không? Đáp: Đối với đa số những người khỏe mạnh thì chuyện ăn một thực đơn chứa rất nhiều chất đạm (protein) trong một thời gian ngắn khoảng dưới 6 tháng sẽ không gây ra một nguy hiểm nào, và còn giúp cho việc xuống ký. Tuy nhiên, việc ăn theo thực đơn nhiều protein trong một thời gian dài vẫn còn đang được nghiên cứu. Thực đơn quá cao protein ăn trong một thời gian dài có thể đưa đến những hậu quả sau: - Nếu thực đơn cho phép ăn quá ít chất tinh bột và đường (carbohydrates), người ăn kiêng có thể bị suy dinh dưỡng hay thiếu chất sợi khiến đưa đến bón và viêm túi trong ruột (diverticulitis). - Vài chế độ ăn kiêng khuyến khích ăn nhiều thịt đỏ và sữa giữ nguyên chất béo khiến nguy cơ bệnh tim tăng cao. - Ăn quá nhiều protein có thể gây ra suy thận ở người đã có sẵn bệnh thận vì cơ thể không loại ra nổi chất thải từ protein. Nếu bạn muốn xuống ký bằng cách ăn kiêng nhiều protein thì chỉ nên ăn trong thời gian ngắn. Nên chọn những loại protein tốt và ít chất béo như cá, thịt gà bỏ da, thịt bò thịt heo nạc, và sữa giảm chất béo. Nên ăn những loại carbohydrate (tinh bột và đường) có nhiều chất sợi, thí dụ như ngũ cốc dùng nguyên hạt, rau cỏ trái cây Cuối cùng nên nhớ rằng xuống ký chỉ là tạm thời khi bạn ăn kiêng. Sau khi bạn chấm dứt ăn kiêng, số ký sẽ trở lại.
Thần dược acai? Hỏi: Trái acai là gì Tại sao chúng lại tốt cho sức khỏe? Đáp: Trái acai trông giống như trái nho, hái xuống từ cây acai, giống cây có ở những khu rừng dầy đặc miền Nam Mỹ. Acai được người ta đồn rằng là một loại thức ăn “super”, có khả năng chữa những bệnh như thấp khớp, ung thư, xuống cân, cao cholesterol, bất lực, cũng như giúp thải độc tố và làm tăng sức khỏe. Trái acai có thể chứa nhiều chất antioxidant, chất sợi và chất béo tốt cho tim. Nhưng khảo cứu về trái này còn rất giới hạn và những lợi ích về sức khỏe của trái này còn chưa được chứng minh. Nên nhớ là ngoài trái acai này, còn rất nhiều loại trái cây khác cũng có các chất dinh dưỡng tốt và chất antioxidant. Nếu muốn dùng thử acai, có thể mua trái này trong các tiệm health foods; có thể ăn sống, uống dưới dạng viên, cho vào nước juice, smoothies hay nước năng lượng, jelly hay kem.
Bột ngọt có hại cho sức khỏe? Hỏi: Bột ngọt là gì, và hại cho sức khỏe ra sao? Đáp: Bột ngọt có tên hóa học là Monosodium glutamate (MSG), là một chất hóa học có tác dụng làm tăng mùi vị khiến chúng ta thấy thức ăn ngon hơn. Các món ăn Tàu và Việt, cũng như các loại rau đóng hộp, soup, và thịt hộp hay thịt nguội thường được cho thêm chất này. Dù cơ quan Food and Drug Administration (FDA) đã xếp loại MSG là một thứ thực phẩm vô hại nhưng người ta vẫn rất lo ngại về chất này. Do đó, khi chất này được cho thêm vào thức ăn, FDA đòi hỏi phải được ghi rõ trên nhãn hiệu. MSG đã được dùng để tăng thêm mùi vị thức ăn từ rất lâu. Nhiều năm nay, FDA đã nhận được nhiều giai thoại về những phản ứng sau khi ăn thức ăn có MSG. Những triệu chứng này được đặt tên là hội chứng MSG, gồm có: - Nhức đầu - Mặt nóng bừng - Toát mồ hôi - Da mặt bị căng - Tê rần hay cảm thấy như phỏng ở mặt, cổ và những nơi khác - Tim đập nhanh, cạn làm thấy hồi hộp - Đau ngực - Buồn nôn - Cảm thấy yếu ớt Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra liên hệ giữa các triệu chứng này và MSG. Họ công nhận rằng một số nhỏ đã có những phản ứng ngắn hạn với MSG nhưng triệu chứng thường nhẹ và không cần phải chữa trị. Muốn không bị những triệu chứng này thì cách tốt nhất là không ăn những thức ăn có bột ngọt.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 21, 2013 5:31:14 GMT 9
Truy tầm ung thư ruột già (VienDongDaily.Com - 11/01/2013) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông Ung thư ruột già không phải là một bệnh hiếm xảy ra. Ai trong chúng ta cũng từng biết được một người quen bị bệnh này. Đa số các ung thư ruột già bắt đầu bằng một bướu thịt nhỏ, thuộc loại bướu lành. Nhưng dần dần với thời gian, các bướu lành này có thể trở thành ung thư. Khi còn nhỏ, các bướu này ít khi gây ra triệu chứng nhưng nếu tìm ra sớm và cắt đi thì ung thư khó có cơ hội xẩy ra. Do đó, bác sĩ thường khuyên bệnh nhân truy tầm ung thư ruột già hầu tìm ra bệnh và chữa trị sớm. Vậy nên đi tìm ung thư ruột già ở tuổi nào? Đa số chúng ta nên nghĩ đến chuyện tìm bệnh từ tuổi 50 trở đi. Những người có nguy cơ mắc bệnh cao, thí dụ như trong gia đình từng có người bị ung thư ruột già, người da đen hay người da đỏ... nên bắt đầu tìm bệnh từ tuổi 45 trở đi. Có rất nhiều loại thử nghiệm tìm ung thư ruột già, mỗi thử nghiệm đều có lợi hại riêng: - Thử nghiệm tìm máu ẩn trong phân mỗi năm - Soi ruột bằng phương pháp flexible sigmoidoscopy mỗi 5 năm - Soi ruột già mỗi 10 năm - Soi ruột già bằng phương pháp “ảo” (virtual) mỗi 5 năm - Thử DNA trong phân. Phương pháp này còn mới và chưa được cho biết nên làm cách bao lâu. Nếu bạn có nhiều nguy cơ bị bệnh, bác sĩ có thể khuyên bạn nên làm thử nghiệm thường xuyên hơn hay sớm hơn. Nên bàn luận với bác sĩ về lợi hại của từng thử nghiệm để tìm ra thử nghiệm nào tốt cho mình. Quyết định về các thử nghiệm Hãy hỏi những câu sau đây 1. Cần phải chuẩn bị những gì? Việc chuẩn bị cho những thử nghiệm có thể gây khó chịu hoặc bất tiện, nhưng chúng rất cần thiết để thử nghiệm cho kết quả đúng. Các chuẩn bị có thể gồm: không ăn thức ăn đặc trong ngày trước khi thử nghiệm, điều chỉnh thuốc đang uống, và dùng thuốc xổ hay thuốc bơm để làm sạch ruột già. 2. Các thử nghiệm có thuận tiện không? Ngoài việc chuẩn bị cho thử nghiệm, nên xem xét: Thử nghiệm sẽ mất bao lâu? Bao lâu sau mới cần làm lại các thử nghiệm? Có cần dùng thuốc an thần không? Có cần phải làm thử nghiệm tiếp theo để xem kết quả dương tính (có ung thư) là đúng hay sai hoặc phải cắt mô tế bào ra thử? Chi phí là bao nhiêu? Bảo hiểm có trả không? Coi thử xem mình có đủ để trả tiền ngoài những gì bảo hiểm trả không? 3. Bạn cảm thấy thế nào đối với các thử nghiệm? Các thử nghiệm càng kỹ lưỡng thì càng có nhiều cơ hội tìm ra ung thư hay các bướu thịt tiền ung thư. Ngược lại, một thử nghiệm càng kỹ lưỡng thì cũng có thể có nghĩa là sự chuẩn bị bất tiện hay khó chịu hơn, rủi ro biến chứng nghiêm trọng cao hơn một chút... Hãy suy nghĩ về các thử nghiệm này và những gì bạn cho là quan trọng. Bạn sẽ cảm thấy an lòng hơn nếu biết mình đã chọn các thử nghiệm kỹ lưỡng nhất? Bạn sẽ lo lắng hoặc nghi ngờ kết quả nếu bạn chọn một thử nghiệm ít kỹ lưỡng hơn? Bạn có lo lắng nhiều về việc chuẩn bị, tiện lợi, biến chứng nghiêm trọng? 4. Cách bác sĩ làm thử nghiệm ra sao? Bạn cần chắc chắn rằng bạn cảm thấy thoải mái với các thử nghiệm truy tầm ung thư mà bác sĩ đã đề nghị. Nếu bác sĩ của bạn chuyên về một loại thử nghiệm nhưng bạn muốn làm một thử nghiệm khác, nên nói với bác sĩ mong muốn của mình. Nếu cần thiết, bác sĩ có thể giới thiệu bạn tới một người chuyên về thử nghiệm bạn muốn. 5. Nguy cơ mắc bệnh của bạn có cao không? Nguy cơ bị ung thư ruột già của bạn có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn các thử nghiệm. Ví dụ: bác sĩ có thể khuyên bạn nên làm soi ruột già theo đúng một thời hạn nào đó, có thể là mỗi 5, 10 năm, nếu bạn: - Từng bị ung thư ruột già hoặc bướu thịt tiền ung thư - Có cha mẹ, anh chị em hoặc con bị ung thư ruột già - Mang gene (yếu tố di truyền) của hội chứng ung thư ruột già di truyền - Từng hay đang bị bệnh viêm đường ruột, chẳng hạn như viêm loét ruột già (ulcerative colitis) hay bệnh Crohns Những ưu và khuyết điểm của mỗi thử nghiệm Dưới đây là một cái nhìn tổng quát về các thử nghiệm truy tầm ung thư ruột già phổ biến nhất. - Soi ruột già Soi ruột già là một thử nghiệm để tìm những thay đổi hay những bất thường trong ruột già và trực tràng. Một ống soi dẻo dai dễ uốn cong (colonoscope) được đưa vào trực tràng. Một máy quay phim nhỏ gắn ở đầu ống cho phép bác sĩ xem bên trong của toàn bộ ruột già. - Ưu điểm: Soi ruột già thường được xem là “tiêu chuẩn vàng” để tìm ung thư ruột già. Các bướu thịt hoặc các loại mô bất thường có thể được cắt bỏ thông qua ống soi trong lúc thử nghiệm. Mẫu mô (sinh thiết) cũng có thể được lấy đem ra. Cuộc khám nghiệm thường kéo dài khoảng 30 đến 60 phút. - Khuyết điểm: Thử nghiệm có thể không tìm ra tất cả các bướu thịt nhỏ và ung thư. Bạn có thể cần phải điều chỉnh các loại thuốc thường uống trước khi làm thử nghiệm. Thông thường, bạn cần tránh ăn thức ăn đặc trong ngày trước khi đi soi ruột và bạn sẽ cần phải sử dụng thuốc xổ hoặc loại thuốc khác để làm sạch ruột già. Thường bác sĩ khuyên nên uống thuốc an thần. Biến chứng hiếm thấy, có thể bao gồm chảy máu nơi mẫu mô sinh thiết được cắt ra hoặc nơi bướu thịt hay mô bất thường được cắt bỏ, hoặc do rách vách ruột. Bạn có thể bị quặn bụng hay đầy hơi sau thử nghiệm. Vì thuốc an thần có thể rất lâu hết tác dụng, bạn sẽ cần phải sắp xếp cho một người nào đó đưa bạn về nhà. - Soi ảo (CT colonography) CT colonography, còn được gọi là soi ảo, là một thử nghiệm để tìm ra những thay đổi hay những bất thường trong ruột già và trực tràng. Trong thử nghiệm này, một kỹ thuật gọi là chụp cắt lớp vi tính (Computerized Tomography hay CT) được sử dụng để cho ra những hình ảnh cắt ngang của các cơ quan trong bụng. Để giúp tạo ra hình ảnh rõ ràng, một ống nhỏ được đặt vào trong trực tràng để bơm không khí hoặc khí carbon dioxide vào ruột già. - Ưu điểm: Không giống như kỹ thuật soi như trên, bệnh nhân làm CT colonography không cần dùng thuốc an thần hoặc bị nhét ống soi vào ruột già. Thử nghiệm này thường mất khoảng 10 phút. - Khuyết điểm: Thử nghiệm có thể không tìm ra tất cả các bướu thịt nhỏ và ung thư. Bạn có thể cần phải điều chỉnh các loại thuốc thường uống trước khi làm thử nghiệm. Thông thường, bạn cần tránh ăn thức ăn đặc trong ngày trước khi đi soi ruột và bạn sẽ cần phải sử dụng thuốc xổ hoặc loại thuốc khác để làm sạch ruột già. Nhiễm phóng xạ từ các thử nghiệm nhiều lần là một mối quan tâm. Vì cắt sinh thiết các mẫu mô tế bào không thể được thực hiện trong khi thử nghiệm, nếu tìm ra những bất thường, bạn có thể phải đi làm một cuộc soi ruột già thông thường. Bạn có thể bị quặn bụng hay đầy hơi sau thử nghiệm. - Tìm máu ẩn trong phân Tìm máu ẩn trong phân là cách thử nghiệm các mẫu phân để tìm máu mà mắt thường không thấy được, thường thực hiện trong phòng thí nghiệm. - Ưu điểm: Việc thu thập mẫu phân có thể được thực hiện tại nhà. Không cần làm sạch ruột già trước khi thử. - Khuyết điểm: Thử nghiệm không tìm ra hầu hết các bướu thịt nhỏ và một vài ung thư. Có thể phải ngưng ăn một số thực phẩm và thuốc men trong vài ngày trước khi thử nghiệm. Nếu máu được tìm ra, có thể phải làm thêm các thử nghiệm để xác định nguồn chảy máu. Có thể có kết quả âm tính giả và dương tính giả. Soi ruột già sigmoid Đây là thử nghiệm xem xét phần dưới của ruột già (ruột già sigmoid). Một ống dẻo dễ uốn cong (flexible sigmoidoscope) được đưa vào trực tràng. Một máy quay phim nhỏ đặt ở đầu ống cho phép các bác sĩ xem bên trong của trực tràng và ruột già sigmoid. - Ưu điểm: Thuốc an thần thường không cần thiết. Sinh thiết có thể được thực hiện qua ống soi trong khi thử nghiệm. Thử nghiệm này thường mất khoảng 15 đến 20 phút. - Khuyết điểm: Thông thường, cần bơm ruột dưới trước khi thử nghiệm để phần dưới của ruột già được trống. Trong một số trường hợp, bạn không được ăn thức ăn đặc vào ngày trước cuộc thử nghiệm. Thử nghiệm này không cho phép bác sĩ nhìn thấy toàn bộ ruột già, do đó, không thể thấy những ung thư hoặc bướu thịt xa hơn phần dưới ruột già. Biến chứng hiếm thấy, có thể bao gồm chảy máu từ chỗ lấy sinh thiết hoặc bị rách vách ruột. Đau quặn bụng hoặc đầy hơi có thể xảy ra sau khi thử nghiệm. Nếu có bất thường khi soi ruột, bạn có thể phải làm thêm những thử nghiệm khác để định bệnh chính xác. Kết luận Chọn một thử nghiệm để truy tầm ung thư ruột già không phải là một quyết định dễ dàng, nhưng đó có thể là một phương tiện cứu mạng. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ của bạn về các lựa chọn thử nghiệm. Nên theo đúng lịch trình thử nghiệm dựa trên nguy cơ mắc bệnh của bạn. Nên nhớ: ung thư ruột già càng được tìm ra sớm thì càng dễ trị liệu. ******************************
Vấn đề răng khôn (VienDongDaily.Com - 08/12/2012) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông
Răng khôn là chiếc răng hàm thứ 3 nơi góc trong cùng của miệng. Mỗi người thường có 4 chiếc răng khôn ở 4 góc miệng. Chiếc răng này thường bị mắc kẹt vì không đủ chỗ nơi hàm để nó chui lên đầy đủ, thẳng hàng, và vì thế có thể gây ra đau nhức, hư hại cho những răng kế bên và những vấn đề khác. Có những trường hợp răng khôn không gây ra vấn đề gì cấp thời nhưng vì ở vị trí khó với tới khi đánh răng, nó dễ bị sâu và gây bệnh sưng nướu. Răng khôn gây ra vấn đề thường được nhổ bỏ nhưng một số nha sĩ cũng nhổ bỏ những răng khôn không gây vấn đề để đề phòng hậu hoạn về sau.
Triệu chứng Khi bị kẹt và có vấn đề, răng khôn có thể gây ra những triệu chứng sau: - Đau nhức - Nướu răng đỏ và sưng - Nướu răng đau và chảy máu - Sưng chung quanh hàm - Hơi thở hôi - Vị khó chịu trong miệng - Nhức đầu Khi có những triệu chứng này nơi vùng góc miệng chỗ răng hàm thứ 3, nên đi nha sĩ khám răng. Ngoài ra nên thường xuyên khám và làm sạch răng. Chụp hình răng thường xuyên có thể cho thấy răng khôn bị kẹt trước khi vấn đề xẩy ra.
Nguyên nhân gây ra vấn đề Răng khôn thường xuất hiện giữa 17 tới 25 tuổi. Một số người có răng khôn mọc lên thẳng thớm và không gây ra vấn đề gì nhưng đa số chúng ta thường không có đủ chỗ cho răng khôn mọc ra ngay thẳng và vì thế, bị kẹt ở dưới. Răng khôn cũng có thể mọc lên một phần hoặc bị bít hẳn dưới nướu, và có thể: - Mọc xéo, chiếu vô chiếc răng hàm thứ hai - Mọc xéo chiếu vô phía sau miệng - Mọc thẳng góc với răng thứ hai, nằm ngang - Mọc thẳng lên trên hay xuống dưới nhưng nằm gọn trong xương hàm
Những biến chứng sau có thể xẩy ra - Làm hư hại những răng khác: Nếu răng khôn mọc và đẩy vô răng hàm thứ hai, nó sẽ làm răng này hư hại hoặc dễ bị nhiễm trùng. Các răng kế bên cũng bị xô đẩy theo hoặc gây trở ngại cho việc niềng răng. - Bướu nước: Răng khôn mọc trong một túi trong răng hàm. Chiếc túi này có thể chứa đầy chất lỏng làm thành một bướu nước gây hư hại cho xương hàm, răng và dây thần kinh. Nha sĩ có thể phải mổ lấy hết phần mô và xương này ra. - Sâu răng: Răng khôn bị kẹt sẽ dễ bị nhiễm trùng và sâu hơn những răng khác vì vị trí của nó khiến thức ăn dễ đọng lại và khó làm sạch hơn. - Bệnh nướu: Răng khôn ở chỗ khó làm sạch nên cũng dễ gây ra sưng và nhiễm trùng nướu. Đi khám và làm sạch răng mỗi 6 tháng sẽ giúp cho nha sĩ theo dõi biến chuyển của răng khôn và chữa trị theo đó.
Nhổ hay không nhổ răng khôn? Cho tới gần đây, đa số các nha sĩ hay bác sĩ giải phẫu răng miệng thường khuyên nhổ răng khôn trước khi chúng gây ra vấn đề trong tương lai, dù ngay lúc này chúng vẫn bình thường. Nhưng Hội Bác Sĩ Giải Phẫu Răng Miệng Hàm Hoa Kỳ đã ra thông báo vào đầu năm nay là bác sĩ giải phẫu nên xem xét giữ lại răng khôn nơi những người trẻ nếu nó không gây ra vấn đề gì cả. Đây là một sự thay đổi quan trọng đối với trước đây khi đa số các bác sĩ sẽ nhổ răng khôn để phòng ngừa biến chứng. Hiện nay chưa có một quyết định gì rõ rệt về vấn đề này vì nghiên cứu không cho thấy rõ là bên nào lợi hơn. Một số nha sĩ và bác sĩ giải phẫu hàm miệng cho rằng nên nhổ răng khôn dù chưa có vấn đề. Họ cho rằng: - Răng khôn trông bình thường nhưng có thể đã bị nhiễm trùng và là nơi gây ra bệnh nướu và sâu răng. - Nhổ răng ít khi gây ra biến chứng quan trọng nơi người trẻ. - Nhổ răng khi lớn tuổi khó hơn và dễ gây ra biến chứng hơn. Những nha sĩ và bác sĩ giải phẫu hàm miệng khác đưa ra những lý do để giữ lại răng khôn: - Không có đủ chứng cớ cho thấy răng khôn bị kẹt sẽ chắc chắn đưa đến những vấn đề sau này - Phí tổn và nguy cơ biến chứng của việc nhổ răng khôn quá cao so với lợi ích. Theo phong cách “bảo thủ”, tốt nhất là bạn nên cố gắng săn sóc tốt chiếc răng khôn của mình và đến nha sĩ thường xuyên để theo dõi biến chuyển của chiếc răng này và chữa trị kịp thời. Nếu vấn đề xuất hiện, nha sĩ có thể khuyên bạn nên nhổ nó đi.
Nhổ răng khôn Việc nhổ răng khôn thường được thực hiện ngay tại phòng mạch và bệnh nhân ra về ngay sau đó. Bệnh nhân có thể được chích thuốc tê tại chỗ, dùng thuốc làm ngầy ngật hoặc dùng thuốc mê. Bác sĩ sẽ xẻ một chỗ trên nướu, lấy đi phần xương hàm chắn răng khôn và nhổ răng. Sau đó họ sẽ may vết thương và nhét băng vào chỗ trống. Biến chứng ít khi xẩy ra nhưng có thể gồm: - Chỗ trống bị khô hay xương hàm bị lộ ra nếu phần máu đông bị rơi ra khỏi ổ, gây ra đau nhức và lâu lành. - Nhiễm trùng vùng chỗ trống vì thức ăn bị kẹt vô. - Hư hại vùng xoang gần răng khôn hàm trên. - Vùng răng hàm dưới bị yếu đi. - Hư hại dây thần kinh khiến cảm giác môi dưới, lưỡi hay cằm bị thay đổi.
Tự giúp Ý tưởng đến nha sĩ có thể gây ra nhiều lo lắng sợ hãi khiến nhiều người không đi dù đang rất đau răng. Ý tưởng phải nhổ răng cũng làm nhiều người sợ hãi nhưng càng để lâu thì vấn đề càng nguy hiểm và trầm trọng. Nên nói chuyện với nha sĩ để được giải thích tường tận cũng như hỏi cách làm giảm bớt sự lo lắng. Nhiều nha sĩ giúp bớt lo sợ bằng cách cho nghe nhạc hay xem video hoặc cho đem theo bạn bè và người hỗ trợ. Bệnh nhân có thể học những kỹ thuật thư giãn như thở sâu và tưởng tượng những hình ảnh êm dịu. Bệnh nhân cũng có thể được cho thuốc giúp thư giãn.
Viendongdaily.com và tác giả giữ bản quyền bài trên trang này. BS. Nguyễn Thị Nhuận
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 11, 2013 8:32:56 GMT 9
Ban ngày gục ngủ
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng (714) 531-7930 nguyentranhoang@aol.com
Hỏi:
-Năm nay em chỉ mới 25 tuổi, không biết tại sao gần đây em bị một chứng bệnh rất kỳ lạ: có khi trong lúc ngủ, em không thể nhúc nhích được gì cả, một hồi sau thì cử động bình thường; dù ban đêm ngủ vẫn đầy đủ, ban ngày em có những cơn buồn ngủ không thể nào kềm lại được, dù bất cứ đang làm việc gì cũng có thể tự nhiên gục xuống ngủ lịm đi một chút rồi tỉnh lại ngay. Vài ngày trước đây, khi mới thức dậy, em thấy những cảnh như là mình đang mơ, dù là mình đã tỉnh ngủ rồi, làm em rất lo sợ. Các triệu chứng này hình như ngày càng nặng hơn, dù ban ngày em cố ngủ nhiều hơn và uống cà phê vào ban ngày cho tỉnh. Xin bác sĩ cho biết đây là bệnh gì? Tại sao lại bị bệnh này? Có nguy hiểm không? Có cách gì để chữa không? Em cần phải làm gì?
-Con tôi năm nay hơn 19 tuổi, không đến nỗi thiếu ngủ, nhưng gần đây cứ có những cơn ngủ gục rất nặng, có khi đang ăn mà cũng gục xuống ngủ vài ba phút, lúc đó hầu như không còn biết gì cả. Không biết đây là triệu chứng của bệnh gì? Cách chữa ra sao?
Ðáp:
Theo lời kể, dù là cần làm thêm xét nghiệm để khẳng định chẩn đoán, có vẻ như đây là các triệu chứng rất điển hình của một hội chứng tuy không thường gặp lắm nhưng cũng không hiếm lắm, gọi là narcolepsy, tạm dịch là hội chứng ngủ lịm, còn được dịch là chứng ngủ rũ, nhiều người bình thường, gọi là gục ngủ, vì triệu chứng chính là những cơn gục xuống ngủ rũ rượi không thể nào kìm lại được.
Narcolepsy, là một rối loạn gây ra những cơn ngủ sâu bất thình lình. Các cơn gục xuống ngủ, lịm cả người đi, này có thể xảy ra thường xuyên và vào những lúc không thích hợp, ví dụ như trong lúc đang lái xe, đang ăn tối với người yêu, đang nói chuyện với bố mẹ vợ (hay chồng) sắp cưới, vân vân. Dù có thể xảy ra bất cứ lúc nào, những cơn ngủ rũ này thường xảy ra hơn vào những lúc dễ làm ta buồn ngủ, ví dụ như lúc không làm việc gì cả, hoặc làm những việc lập đi lập lại, nhàm chán.
Hội chứng ngủ lịm này thường xuất hiện khi người bệnh ở khoảng từ 15 đến 30 tuổi, nhưng cũng có thể xuất hiện sớm hoặc trễ hơn. Một khi đã xuất hiện, chứng ngủ rũ thường kéo dài suốt đời. Nam hay nữ có tỉ lệ bị rối loạn này không khác nhau.
Một số thống kê cho thấy rằng chứng này ảnh hưởng đến khoảng ít nhất là 120,000 người ở Mỹ, một thống kê khác cho thấy cứ khoảng hai ngàn người thì có một người bị hội chứng này.
Hiện nay, người ta vẫn chưa biết rõ nguyên nhân của hội chứng này. Khoảng 60 phần trăm những người được chẩn đoán với hội chứng này, có sự kết hợp giữa các cơn ngủ lịm đi vào ban ngày với những cơn bắp thịt bị yếu đi trong một thường gian ngắn. Các cơn yếu liệt bất thần này có thể trầm trọng đến nỗi bệnh nhân bị sụm xuống đất, dù là thần trí vẫn tỉnh táo như thường.
Những người bị hội chứng ngủ lịm thường không cần phải ngủ thêm giờ vào buổi tối, nhưng họ cần phải có nhưng giờ “ngủ phụ trội” (naps) vào ban ngày.
Thường thường, khi ta đi ngủ, ta thường phải qua các giai đoạn ngủ nông, rồi với giai đoạn ngủ sâu, khi đó nếu quan sát, ta sẽ thấy mắt có những chuyển động nhanh, gọi là giai đoạn REM (Rapid Eye Movement). Trong giai đoạn này, nếu đo hoạt động điện của não, người ta thấy xuất hiện những sóng não giống như khi ta đang thức. Các giấc mộng thường xảy ra vào lúc này, và trương lực của bắp thịt (cơ-muscle) thường giảm xuống mức tối thiểu trong lúc này. Ở những người bị hội chứng ngủ lịm, não của họ đi thẳng từ giai đoạn thức sang giai đoạn ngủ sâu REM sleep, khiến cho họ chưa kịp thấy buồn ngủ, nằm xuống chuẩn bị ngủ, đã gục xuống ngủ luôn, và vì trương lực cơ có thể bị mất, họ có thể sụm luôn xuống sàn. Sau giai đoạn ngủ sâu ngắn ngủi đó, hoạt động của não lại quay lại giai đoạn thức, và họ lại trở lại trạng thái thức ngay lập tức dù còn đang mơ và giấc mơ có thể chưa kịp chấm dứt dù là họ đã tỉnh ngủ.
Các triệu chứng
Các triệu chứng đầu tiên của hội chứng ngủ lịm thường là buồn ngủ (có thể khủng khiếp) vào ban ngày. Triệu chứng này thường dễ bị lầm lẫn với các nguyên nhân thường gặp hơn gây ra ngủ ngày, và đôi khi phải một thời gian dài, khi các triệu chứng điển hình khác của narcolepsy xuất hiện, bệnh nhân mới được gởi đi làm xét nghiệm và có chẩn đoán chính xác.
Hội chứng ngủ lịm thường bao gồm bốn triệu chứng chính. Tuy nhiên đa số các bệnh nhân không có đủ cả bốn triệu chứng thường gặp này. Bốn triệu chứng chính này là:
-Các cơn buồn ngủ khủng khiếp ban ngày,
-Các cơn liệt ngắn ngủi ban ngày,
-Các ảo giác khi chuẩn bị ngủ hoặc khi mới thức dậy (các cơn mơ lúc đang thức), và
-Các cơn liệt trong khi ngủ.
Thân mến,
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng nguyentranhoang.com
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 16, 2013 9:02:05 GMT 9
Lợi và hại của xét nghiệm tiền ung thư tuyến tiền liệtViệt Hà, phóng viên RFA Khoảng 20 năm trở lại đây, việc xét nghiệm ung thư tuyến tiền liệt ở đàn ông đã trở nên rất phổ biến ở các nước phát triển. Theo khuyến cáo của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ vào năm 1993, đàn ông ở độ tuổi từ 50 trở lên nên đi xét nghiệm ung thư tuyến tiền liệt (hay còn gọi là PSA) định kỳ hàng năm. Tuy nhiên, gần đây đã có những ý kiến khác cho rằng xét nghiệm này là không cần thiết. Tranh cãi xung quanh mặt lợi và hại của PSA hiện vẫn còn đang tiếp diễn và chưa ngã ngũ. Để có thêm thông tin về loại xét nghiệm này, mời quý thính giả tìm hiểu trong trang tạp chí sức khỏe đời sống tuần này do Việt Hà phụ trách. PSA – Lợi hay hại Với rất nhiều người đàn ông có độ tuổi từ 50 trở lên, việc thử PSA để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt kết hợp trong kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm từ lâu đã trở nên hết sức quen thuộc, cũng giống như thử mỡ máu vậy. Các bác sĩ chỉ đơn giản đánh dấu vào mục thử máu của người đến khám và tự nhiên trong kết quả thử máu định kỳ sẽ có phần kết quả PSA. Nếu PSA có dấu hiệu cao hơn mức cho phép, bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân tiến hành thêm các xét nghiệm khác, mà trước nhất là thử sinh tiết để xác định có ung thư hay không. Việc xét nghiệm xem chừng hết sức đơn giản nhưng những gì kéo theo sau đó lại đang gây nhiều tranh cãi giữa các bác sĩ và nhà nghiên cứu. Năm 1993, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ đã khuyến cáo đàn ông từ 50 trở lên nên đi thử PSA định kỳ hàng năm. Với những người có nguy cơ cao như người Mỹ gốc Phi hoặc có người thân cùng huyết thống bị ung thư tuyến tiền liệt, độ tuổi bắt đầu xét nghiệm PSA là 40. Tuy nhiên, đến năm 1997, cũng chính Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ lại nói rằng người bệnh nên nói chuyện với bác sĩ của mình trước khi quyết định có nên thử PSA hay không. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cho rằng việc thử PSA dẫn đến nhiều điều hại hơn lợi ở đại đa số người dân. Bác sĩ Otis Brawley, Giám đốc Y tế thuộc Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cho biết: Có những mặt hại liên quan đến xét nghiệm ung thư tuyến tiền liệt, trước hết là xét nghiệm này sai đến 80%. Có nhiều người sau xét nghiệm này làm sinh tiết thì bị nhiễm trùng, có một số nhỏ người thậm chí tử vong sau sinh tiết. BS. Otis Brawley BS. Otis Brawley: có những mặt hại liên quan đến xét nghiệm ung thư tuyến tiền liệt, trước hết là xét nghiệm này sai đến 80%. Có nhiều người sau xét nghiệm này làm sinh tiết thì bị nhiễm trùng, có một số nhỏ người thậm chí tử vong sau sinh tiết. Có những người bị phát hiện ung thư không nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện các điều trị không cần thiết. Có khoảng 1 trong 100 đến 200 người qua phẫu thuật do ung thư tuyến tiền liệt đã tử vong sau đó. Khi chúng ta nói đến cái hại thì rất nhiều nhưng khi nói đến cái lợi của xét nghiệm này thì đó vẫn còn là một câu hỏi. Nó có thể cứu mạng người. Phần lớn các thử nghiệm lâm sàng cho biết xét nghiệm không hẳn đã cứu được mạng người nhưng có cũng có thể. 90 trên 100 người có PSA bình thường. Số người bị ung thư tuyến tiền liệt là 1 trên 90 người. Courtesy Virginia Commonwealth University Vào năm 2012, Nhóm tư vấn của chính phủ Mỹ về ngăn ngừa bệnh tật (US preventive Service Task Force) thậm chí còn chấm điểm sự cần thiết của PSA là D và khuyên mọi người không nên thử PSA. Theo báo cáo của nhóm này đăng tải trên tờ Annals of Internal Medicine vào tháng 5 năm ngoái, cứ 1,000 người được thử PSA, thì có 5 người bị chết trong vòng một tháng sau khi được phẫu thuật tuyến tiền liệt và có khoảng từ 10 đến 70 người sẽ có những biến chứng phức tạp liên quan sau đó. Có ít nhất 20 đến 30% người đã qua chiếu xạ, phẫu thuật ung thư và liệu pháp hocmon, sẽ chịu những tác dụng phụ dài hạn liên quan đến khả năng tiểu tiện, đại tiện, tình dục, ngực bị phát triển, bị nóng vã mồ hôi bất chợt. Dựa trên những nghiên cứu này, nhóm tư vấn đi đến kết luận nhiều người chịu hại do thử PSA hơn là những người được lợi. Những chuyên gia ủng hộ quan niệm mới về PSA gọi đây là một đứa con được quảng cáo quá mức. Ngay sau khi kết luận này được đưa ra, Hiệp hội tiết niệu học Hoa Kỳ lên tiếng phản đối, cho rằng khuyến nghị mới của nhóm tư vấn là không hợp lý và vô trách nhiệm. Hiệp hội tiết niệu học cho rằng tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt đã giảm đáng kể tại Mỹ là do việc thử nghiệm PSA được phổ biến. Nhóm này con đưa ra dẫn chứng là tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt đã giảm 40%, tỷ lệ người bị di căn giảm 80%. PSA và ung thư tuyến tiền liệt PSA là xét nghiệm để đo một loại protein sản xuất ra trong tuyến tiền liệt, một tuyến trong hệ sinh dục của người đàn ông. Nếu mức PSA cao hơn mức bình thường là 4 nanogram/ml thì bác sĩ sẽ tiến hành bước xét nghiệm tiếp theo là kiểm tra xem tuyến tiền liệt có bị sưng to hay không bằng cách đưa tay vào đường hậu môn. Tiếp theo đó sẽ là kiểm tra sinh tiết, khi bác sĩ dùng kim lấy mẫu tế bào từ tuyến tiền liệt nằm bên trong bụng bệnh nhân. Đây chính là khâu gây ra những đau đớn, khó chịu cho người bệnh vì có thể dẫn đến chảy máu, nhiễm trùng, và 1% các trường hợp phải nhập viện. Ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển chậm, tuy nhiên cũng có những trường hợp di căn và dẫn đến tử vong nhanh. Nói về các triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt và sự cần thiết của xét nghiệm PSA, bác sĩ Brawley cho biết: BS. Otis Brawley: người gặp khó khăn khi tiểu tiện, thấy máu khi xuất tinh hoặc tiểu tiện thì cần phải được kiểm tra xem có bị ung thư tuyến tiền liệt hay không. 20 năm về trước Cơ quan Thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) chấp nhận PSA là xét nghiệm cần thiết đối với những người có những triệu chứng này chứ không phải là xét nghiệm chung cho tất cả. Tỷ lệ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt cũng khác nhau đối với các chủng tộc. Ở châu Á, tỷ lệ này thấp hơn ở châu Âu và Mỹ. Trong khi đó, tại Mỹ, người gốc Phi có tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt sớm cao hơn so với người da trắng. 20 năm về trước Cơ quan Thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA)chấp nhận PSA là xét nghiệm cần thiết đối với những người có những triệu chứng này chứ không phải là xét nghiệm chung cho tất cả bác sĩ Brawley Với những người có người thân cùng huyết thống bị ung thư tuyến tiền liệt, hiện các bác sĩ cũng không có câu trả lời dứt khoát về khả năng họ có bị ung thư thuyến tiền liệt hay không. Bác sĩ Brawley nói: BS. Otis Brawley: rất tiếc là chúng tôi không biết là xét nghiệm PSA có tốt cho những người có người thân cùng huyết thống bị ung thư tuyến tiề liệt trước đó. Chúng tôi không biết nó tốt hay không và tốt đến mức độ nào đối với những người có nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao. Điểm đáng chú ý là ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển rất chậm và không nguy hiểm như các loại ung thư khác. Vì thế có nhiều người lớn tuổi và chết vì các nguyên nhân khác thay vì nguyên nhân ung thư tuyến tiền liệt mặc dù họ bị ung thư này. Mặt khác, có những người có PSA cao hơn mức bình thường nhưng sau khi đi xét nghiệm sinh tiết thì lại không phát hiện thấy ung thư. 65 đến 75% những người có PSA cao sau khi làm sinh tiết không có ung thư. Trong khi đó, PSA cũng không giúp ích gì cho người bị loại ung thư phát triển nhanh và đã di căn sang các phần khác của cơ thể trước khi được phát hiện. Cũng bởi những nguyên nhân này mà nhiều bác sĩ hiện nay áp dụng cách theo dõi PSA định kỳ ở những người phát hiện có tế bào ung thư tuyến tiền liệt thay vì áp dụng ngay các biện pháp tích cực như mổ bỏ tuyến tiền liệt, chiếu xạ hoặc sử dụng liệu pháp hormone. Người bệnh nên tự quyết định Trong khi những tranh cãi về sự cần thiết về xét nghiệm PSA vẫn chưa đến hồi kết thúc, các bác sĩ ngày càng ngả nhiều về một hướng giải quyết khác là để người bệnh tự quyết định việc thử PSA sau khi nói chuyện với bác sĩ của mình. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến khích đàn ông từ 50 tuổi trở lên nên nói chuyên với bác sĩ gia đình về xét nghiệm này. Những người có nguy cơ cao hơn nên bắt đầu thảo luận về xét nghiệm với bác sĩ ở độ tuổi từ 45. Nói về sự cần thiết trong trao đổi thông tin về PSA và chia sẻ quyết định, bác sĩ Paul Han, thuộc Trung tâm Y tế Maine, Portland, cho biết: BS. Paul Han: Bệnh nhân và thậm chí bác sĩ cũng có sự không chắc chắn về việc có nên thử PSA hay không. Chúng ta đang ở trong một tình huống là trong hơn 1 năm qua, ngày càng nhiều bác sĩ nói rằng chúng ta cần có chia sẻ quyết định, bác sĩ và bệnh nhân cần nói chuyện với nhau về những cái được và mất trong việc thử PSA. Ngày càng có nhiều bác sĩ, những người làm nghiên cứu và làm luật cho rằng cần phải có sự chia sẻ giữa bệnh nhân và bác sĩ nhiều hơn nữa liên quan đến việc thử PSA. Trong hơn 1 năm qua, ngày càng nhiều bác sĩ nói rằng chúng ta cần có chia sẻ quyết định, bác sĩ và bệnh nhân cần nói chuyện với nhau về những cái được và mất trong việc thử PSA. BS. Paul Han Bác sĩ Han và các đồng nghiệp của mình đã thực hiện một nghiên cứu gần đây trên 3,400 đàn ông từ độ tuổi 50 đến đầu 70 dựa trên số liệu thống kê quốc gia năm 2010 về việc thử PSA. Kết quả cho thấy 64% đàn ông được hỏi cho biết họ chưa bao giờ thảo luận với bác sĩ của mình về các mặt lợi và hại của PSA. Theo nghiên cứu này thì có đến 44% người được hỏi cho biết chưa bao giờ được thử PSA trong vòng 5 năm qua. Nguyên nhân được bác sĩ Han giải thích như sau: BS. Paul Han: Thường thì bệnh nhân không được thông báo là họ được thử PSA. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng những người đã qua thử PSA không hề biết mình được thử. Bác sĩ chỉ yêu cầu thử PSA đồng thời với một loạt các xét nghiệm đơn thuần khác như thử cholesterol . Họ chỉ đánh dấu vào mục thử PSA và không nói với bệnh nhân. Một lý do khác là mặc dù có những thông tin trên truyền thông về PSA nhưng mọi người lại không biết việc thử này là một lựa chọn làm hay không làm. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ cho thấy bác sĩ cũng không nêu vấn đề lên. Một trong những kết quả mới từ nghiên cứu của chúng tôi là không chỉ có việc không được thông tin và bàn thảo để đưa ra quyết định về việc làm thử nghiệm PSA giữa bệnh nhân và bác sĩ mà một vấn đề lớn hơn là có những người không được thảo luận về thử nghiệm PSA và cũng không hề biết đến thử nghiệm này và thậm chí không được thử vì họ không biết được sự cần thiết của nó. Theo bác sĩ Paul Han vấn đề hiện tại trong xét nghiệm PSA chính là thông tin về xét nghiệm và bệnh ung thư tiền liệt mà người bệnh có được. Trong khi xét nghiệm PSA không cần thiết với nhiều người, thì ở một số người khác, PSA có thể là cần thiết. Điều quan trọng là người bệnh cần phải có thông tin đầy đủ và tự đưa ra quyết định cho mình trước khi các nhà khoa học có một câu trả lời khác cho mọi người về xét nghiệm ung thư tuyến tiền liệt.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 27, 2013 17:33:12 GMT 9
Mỹ phẩm Stem Cells 09/27/2013 Tác giả : Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Trước khi nói về giá trị làm đẹp của mỹ phẩm stem cells, tưởng cũng nên tìm hiểu stem cells là gì.
Stem là phần giữa chính của một cây thảo, cây bụi hoặc cây gỗ từ rễ mọc lên, gọi là thân cây. Từ thân, lá và hoa mọc ra. Stem cũng có nghĩa là cái cuống của lá hoặc hoa quả nối với thân hoặc cành. Cell là tế bào, đơn vị nhỏ nhất của một chất sống có một hạt nhân.
Với cơ thể con người, Stem cells “ tế bào gốc” là những tế bào chưa phân biệt, có thể phân hóa ra cả hàng trăm loại tế bào để tạo thành các cơ quan bộ phận khác nhau, như tim, phổi, thận, não…
Có 2 loại tế bào gốc:
1.Tế bào gốc từ phôi (embryonic stem cells)
Phôi là sản phẩm của sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng nữ ở tử cung trong 8 tuần lễ phát triển đầu tiên. Trong phôi có một nhóm tế bào gọi là tế bào gốc stem cells có khả năng tạo ra tế bào của tất cả các bộ phận trong cơ thể. Tiếc thay, chúng chỉ tồn tại trong dăm ngày ở phôi và cũng thấy có trong máu ở cuống rốn.
Khi tách ra từ phôi, nuôi dưỡng trong phòng thí nghiệm, các tế bào này vẫn có thể phân bào và vẫn có khả năng tạo ra cả trăm loại tế bào trưởng thành khác nhau cho các bộ phận cơ thể. Do đó chúng được mệnh danh là “tế bào gốc đa năng” pluripotent stem cells.
2.Tế bào gốc người lớn, non-embryonic "somatic" hoặc "adult" stem cells
Đây là những tế bào hiện diện trong đa số bộ phận cơ thể người lớn, trẻ em và thai nhi như là trong máu, não bộ, ruột, da với khả năng được định trước. Chúng có thể tạo ra tế bào của bộ phận đó như là tế bào trong máu tạo ra hồng hoặc bạch huyết cầu, trong da tạo ra tế bào da, chứ không tạo ra các tế bào khác của cơ thể. Mới đây, các khoa học gia còn tìm thấy tế bào gốc người lớn trong nhau thai và cuống rốn thai nhi.
Khác với phôi tế bào gốc, tế bào gốc người lớn không nuôi dưỡng trong phòng thí nghiệm được.
Các khoa học gia cũng đã tìm cách tạo ra một loại tế bào gốc gọi là iPS induced pluripotent stem cell. Họ lấy bất cứ tế bào nào từ người lớn hoặc trẻ em, “phù phép” nhân di truyền, biến chúng thành loại tế bào tương tự phôi tế bào gốc, có khả năng tạo ra bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể. Tuy nhiên đây mới chỉ là kết quả sơ khởi, chưa được áp dụng trong thực tế.
Vì phôi tế bào gốc có khả năng tạo ra bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể, cho nên các nhà khoa học suy luận là có thể cấy tế bào gốc vào một bộ phận đang bị tổn thương. Tế bào đa năng này sẽ tạo ra một loạt tế bào mới của bộ phận đó. Sau khi ổn định, phát triển, chúng sẽ thay thế các tế bào tổn thương để làm nhiệm vụ của bộ phận đó. Chẳng hạn, khi tuyến tụy bị bệnh, không sản xuất được insulin để duy trì đường huyết bình thường, thì, nếu được cấy phôi bào gốc, tụy tạng sẽ hồi phục, lại tiếp tục sản xuất ra insulin.
Áp dụng phôi tế bào gốc trong trị bệnh hiện nay đang còn trong vòng nghiên cứu, thử nghiệm. Trên nguyên tắc, trị liệu này được cho là có thể áp dụng để chữa nhiều loại bệnh như bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, Alzheimer, thương tích thần kinh…Tuy nhiên, con đường nghiên cứu từ phòng thí nghiệm tới bệnh viện điều trị là một con đường dài, còn nhiều việc phải làm.
Trước khi áp dụng vào bệnh của con người, các khoa học gia phải nuôi dưỡng một loại tế bào thích hợp, tìm cách thử nghiệm các tế bào này, bảo đảm là an toàn ở súc vật trước khi dùng thử ở một số bệnh nhân tình nguyện. Nếu thấy hoàn toàn safe thì mới mang ra áp dụng rộng rãi.
Vả lại, ghép tế bào gốc không giống như uống mấy chục viên dược phẩm. Ta có thể ngưng thuốc khi có tác dụng ngoại ý, hóa chất sẽ phai nhạt dần, nhưng khi nhận stem cells thì chúng vẫn hiện diện trong cơ thể và ảnh hưởng sẽ kéo dài suốt đời. Ấy là chưa kể hệ miễn dịch người nhận còn phản ứng, không chấp nhận “sống chung” với tế bào mới, dù tế bào gốc này có thể là ân nhân cứu mạng hoặc tế bào gốc cũng có khả năng kích thích tạo ra mô bào, u bướu không muốn có. Lại còn vấn nạn lấy đâu ra tế bào gốc đa năng. Ở phôi ư? Lấy từ phôi sẽ hủy hoại phôi đó, trái với luật pháp và đạo đức, vì phôi cũng được coi như có sự sống như con người.
Vậy mà trên internet đã có cả trăm cả ngàn địa chỉ quảng cáo chữa bằng stem cells cho vô số bệnh như Alzheimer, chấn thương não, ung thư, tiểu đường, Parkinson, viêm khớp, bệnh thận, stroke thậm chí cả trong lãnh vực cải thiện sắc đẹp con người. Trong danh sách này, cơ quan FDA chỉ mới chấp thuận cho phép chuyển ghép stem cells từ tủy xương để điều trị ung thư máu bạch cầu leukemia. Lập trường của FDA là chỉ chấp nhận khi nào chuyển ghép stem cells được chứng minh là công hiệu và an toàn cho bệnh nhân. Hoặc các phương thức đang được nghiên cứu, đã xin phép và đã được FDA chấp thuận cho tiếp tục nghiên cứu.
Tại Hoa Kỳ, FDA có trách nhiệm điều hòa kiểm soát tất cả các phương tiện dùng để trị bệnh, từ dược phẩm tới dụng cụ y khoa, kỹ thuật trị liệu.
Trên đây là nói về stem cell trong việc điều trị bệnh, con đường đi tới cụ thể cũng còn hơi dài, có khi phải chờ cả vài chục năm nữa. Khoa học là vậy. Chậm nhưng chắc. Ấy vậy mà đôi khi còn xảy ra những rủi ro, những hậu quả không ước định được trước.
Còn stem cells trong mỹ phẩm thì sao?
Đây là một đề tài đang được thảo luận rộng rãi khắp nơi vì trong thập niên vừa qua, danh từ stem cells đã trở thành một nhóm chữ có tính cách kỹ thuật, chuyên môn thời thượng trong kỹ nghệ sản xuất mỹ phẩm.
Stem cells xuất hiện trong tên của sản phẩm, trong danh sách thành phần cũng như lời “khuyến thị” khoe công dụng của mỹ phẩm.
Stem cells được các nhà sản xuất mỹ phẩm “phong” cho là lý tưởng để chống lại sự hóa già của lớp da.
Sản phẩm từ stem cells được nói gần nói xa là có thể kích thích để da tạo ra lớp da non và đảo ngược hiện tượng nhăn da.
Mà da nhăn là mối ưu tư lớn của con người, là chỉ dấu của sự già nua, là không còn vẻ đẹp mịn màng mũm mĩm tươi trẻ của thời kỳ nam thanh nữ tú. Và những người ưu tư đó vội vàng đi tìm thuốc tiên, tẩy xóa vết nhăn trên mặt, trên bụng, trên đôi bàn tay gầy guộc, khô cằn. Cosmetic stem cells ra đời qua kỹ thuật stem cells technology và trở thành một kỹ nghệ lớn với lợi nhuận thương mại cả nhiều chục tỷ mỹ kim. Tranh luận về thực hư, lợi hại của cosmetic stem cells giữa các nhà sản xuất mỹ phẩm cũng như giới tiêu thụ và khoa học gia chắc còn kéo dài. Đọc hết nội dung các thảo luận này có khi mình lại hóa già trước khi có sự “đồng thuận” từ các phía. Người viết chỉ xin gửi tới bà con mấy ý kiến đáng suy nghĩ liên quan tới chuyện dài cosmetic stem cells.
Trên đây, có nói stem cell technology là vì, theo các nhà chuyên môn, mỹ phẩm không chứa stem cells con người hoặc stem cells thực vật mà chỉ dựa vào kỹ thuật nghiên cứu công dụng của phôi tế bào gốc. Vì, để sống sót và hoạt động được, theo giáo sư bác sĩ Jorg Gerlach, Đại học Pittsburgh, stem cells cần được nuôi dưỡng bởi máu trong cơ thể hoặc với một chất dinh dưỡng đặc biệt, chứ không phải là bắt một nhúm stem cells bỏ vào một lọ dung dịch nào đó, tung ra thị trường để người mua thoa bôi khơi khơi lên da là da hết nhăn. Vì chúng đã chết hết rồi. Stem cells là tế bào sống, sẽ mau chóng bị tiêu hủy trong môi trường ẩm hoặc serum. Hơn nữa, cấu tạo của da rất kiên cố, đâu có thể để vật lạ xâm nhập dễ dàng như vậy.
Như vậy, theo các nhà chuyên môn, cosmetic stem cells trong mỹ phẩm da có thể được hiểu là:
1- Không có stem cells từ con người mà có thể là từ thực vật.
2.Các stem cells thực vật được lấy ra từ thân (stem) của thảo mộc, do đó chữ stem trong tế bào thảo mộc không đồng nghĩa với chữ stem cells trong cơ thể con người.
3.Đây không phải là tế bào thực thụ mà chỉ là nước triết từ các tế bào thực vật được ép lấy ra rồi chế biến, cho vào mỹ phẩm.
Bác sĩ bệnh ngoài da Fredric Brandt cũng đồng ý là không có tế bào gốc trong bất cứ mỹ phẩm nào mà chỉ là những chất đạm và yếu tố tăng trưởng mà các stem cells thực vật sản xuất. Stem cells phải còn sự sống thì mới hoạt động được như một stem cells, chứ khi đã được thêm vào dung dịch mỹ phẩm thì chúng đã chết ngỏm củ tỏi rồi, đâu còn hoạt động được nữa.
Nhiều nhận xét khác cho hay, plant stem cells từ táo, dưa hấu, gạo làm sao mà kích thích được tế bào gốc trên da con người. Tuy nhiên vì chúng từ thảo mộc mà ra, chúng có thể có vài tác dụng như các chất antioxidant, nhưng giá cả lại quá mắc so với thực phẩm ta dùng hàng ngày. Hơn nữa chắc nhiều người cũng không muốn da mình hấp thụ những tế bào lấy ra từ táo, từ dưa. Ngoài ra, plant stem cells hoạt động khác với human stem cells, không dễ gì mà đưa plant cells vào cơ thể con người để rồi hoạt động chung với tế bào người. Đôi bên xa lạ, sẽ uýnh nhau chí tử.
Tiến sĩ Bruno Bernard, một giám đốc của công ty mỹ phẩm Lancome, Pháp, chân thật thừa nhận rằng kem da “Absolue” do công ty Lancome sản xuất không có stem cells mà chỉ là nước triết táo được kỹ thuật stem cells chế biến thành mỹ phẩm. Khi bôi thoa, dung dịch này thay đổi môi trường chung quanh stem cells ở da, khiến chúng linh động hơn trong việc tạo ra tế bào mới, nhờ đó da nom trẻ trung, đầy đặn hơn.
Nghe cũng suôi tai, vì mỹ phẩm thường đều mong muốn đạt được công dụng như vậy, là đã thỏa mãn ước muốn của giới tiêu thụ có nhu cầu làm đẹp rồi. Vì, theo FDA, mỹ phẩm chỉ là những sản phẩm được thoa, xịt lên một nơi nào đó của cơ thể để lau sạch, làm đẹp, tạo ra sự hấp dẫn hoặc thay đổi diện mạo bên ngoài mà thôi.
Và cuối cùng xin mời bà con đọc ý kiến của nữ tác giả và nhà nghiên cứu về mỹ phẩm Hoa Kỳ Paula Begoun, người được mệnh danh trên khắp thế giới là “Cosmetic Cop- Sen Đầm Mỹ Phẩm” như sau:
“Các công ty mỹ phẩm đều quả quyết là họ đã lấy ra từ plant stem cells nhiều chất như peptides, biến chúng trở nên ổn định để có thể hành động y như stem cells và có ảnh hưởng lên tế bào gốc người lớn có sẵn trong da. Đây là điều không tưởng bởi vì stem cells phải toàn vẹn để có thể hoạt động bình thường.
Dùng peptides hoặc chất liệu khác để tác dụng lên stem cells trong da đang được nghiên cứu nhưng cho tới nay các khoa học gia còn đang vò đầu tìm hiểu làm sao thực hiện được một cách an toàn.
Hiện nay, chưa có một công bố nghiên cứu khoa học chân chính nào kết luận là các chất triết từ stem cells thực vật có thể tác động lên stem cells trong da con người”.
Có người cho là các ý kiến này có vẻ hơi khắt khe thì phải. Vì dù không tác động lên tế bào gốc trong cơ thể, nhưng nếu thực sự công hiệu và đủ an toàn để tô điểm làm đẹp được diện mạo bề ngoài của cơ thể thì người tiêu thụ cũng cảm thấy OK rồi. Có phải không, thưa bà con cô bác.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 7, 2013 9:41:22 GMT 9
Bệnh liệt dương Thursday, December 05, 2013 BS Ðặng Trần Hào Có một lời đồn đại nhiều người tin rằng bệnh liệt dương có một nguyên nhân là do thủ dâm. Có đúng như vậy không ạ ?
Liệt dương là gì ?
Đây là một tình trạng mà dương vật không cương lên được hoặc cương lên nhưng không đủ cứng để duy trì một cuộc yêu tới phút cuối cùng. Đa phần nam giới trong tình trạng này không thể xuất tinh ra được. Vì thế việc chữa liệt dương là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu của nam giới khi mắc chứng bệnh này.
Tuy nhiên, để việc chữa trị hiệu quả thì cần phải tìm hiểu nguyên nhân của nó, có phải thủ dâm có thể là nguyên nhân liệt dương ở nam giới không. Theo tôi là không vì tần suất cũng không cao và cơ chế xuất tinh ra cũng như quan hệ tình dục bình thường, đâu có gì lạ lẫm tới mức gây ra căn bệnh khó nói này . Xoa bop tri liet duong Nguyên nhân gây bệnh liệt dương do đâu ?Dấu hiệu lâm sàng của bệnh liệt dương là dương vật không thể cương cứng được, hoặc chỉ cương cứng được trong một khoảng thời gian rất ngắn. Nguyên nhân dẫn đến bệnh rất nhiều, nhưng chủ yếu đến từ các bệnh của bạn mắc phải hoặc do những thói quen hàng ngày mà dẫn đến bệnh liệt dương. Qua những cuộc nghiên cứu trên những bệnh nhân mắc bệnh, chúng tôi xin chỉ ra các nguyên nhân chính dẫn đến bệnh liệt dương: Các bệnh liên quan trực tiếp:- Ở độ tuổi 50 của nam giới thì nguyên nhân chính dẫn đến bệnh liệt dương là các bệnh về tim mạch: chứng xơ vữa động mạch, chứng bệnh liên quan đến mạch ngoại biên, huyết áp cao, bệnh tim, chấn thương mạch máu, lượng cholesterol cao. - Khoảng 60% nam giới mắc bệnh mãn tính bị bệnh liệt dương: tiểu đường, thận, xơ gan, ... - Phẫu thuật vùng xương chậu cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh liệt dương. Vì khi khi phẫu thuật vùng này sẽ làm ảnh hưởng đến các dây thần kinh kích thích ham muốn tình dục ở nam giới. - Một nguyên nhân chính dẫn đến bệnh liệt dương là các bệnh về đường hô hấp: tắc nghẽn phổi mãn tính, ngưng thở khi ngủ, ... - Dương vật bị cương sưng, nhiễm trùng có thể làm tổn hại đến các mô ở đầu dương vật, cũng ảnh hưởng đến khả năng cương cứng của dương vật. Chấn thương ở các cùng có dây thần kinh kích thích Những chấn thương ở các khu vực: tủy sống, tuyến tiền liệt, bàng quang, khung xương chậu hoặc trên chính dương vật sẽ làm tổn hại đến các dây thần kinh, làm mềm các cơ, động mạch, ... và do đó gây ra bệnh liệt dương. Phẫu thuật các vùng nhạy cảmPhẫu thuật vùng bụng, tuyến tiền liệt, bàng quang, ... có thể ảnh hưởng đến các dây thần kinh và mạch máu liên quan đến khả năng cương cứng. Sử dụng thuốc Trên thị trường có nhiều loại thuốc điều trị có tác dụng phụ gây ra bệnh liệt dương: - Thuốc trị huyết áp, đặc biệt là thuốc beta-blockers (dược phẩm làm giảm hoạt động của tim sau nhồi máu cơ tim ) - Thuốc chữa bệnh tim - Thuốc dị ứng - Thuốc chống suy nhược - Thuốc an thần - Thuốc trị co giật - Thuốc chống lở loét - Thuốc ngủ benh-liet-duong Tâm sinh lýCác chuyên gia cho rằng nguyên nhân gây ra bệnh liệt dương do tâm sinh lý chiếm khoảng 10 - 20% các trương hợp mắc bệnh liệt dương. Lo lắng, cảm giác tội lỗi là nguyên nhân chính và ngoài ra là các hiện tượng chán chường, căng thẳng, thiếu tự tin, e sợ “thất bại” khi quan hệ cũng làm mất cảm hứng tình dục. Sử dụng chất kích thích - Uống nhiều rượu ảnh hưởng tới khả năng sinh testosterone (hoocmôn động dục nam). - Hút thuốc làm giảm độ lưu thông máu, là tác nhân nguy hiểm gây chứng liệt dương. - Sử dụng các chất kích thích làm ảnh hưởng đến các dây thần kinh và các mạch máu kích thích. Rối loại nội tiết tố Rối loạn hoocmôn chiếm 5% trong các nguyên nhân gây chứng liệt dương. Đó là sự thiếu cân băng lượng hoocmôn trong cơ thể, như là testosterone, hoặc hoóc môn tuyến giáp. Tuổi caoTuổi càng cao thì càng dễ mắc chứng liệt dương nhưng chứng bệnh này vẫn có thể ảnh hưởng tới mọi độ tuổi. Các nguyên nhân về thể chất thì phổ biến hơn với những người lớn tuổi, còn đối với người trẻ hơn, tâm lí mới là vấn đề chính. Các cuộc nghiên cứu ngày càng nhiều về các nguyên nhân gây ra bệnh liệt dương, nhưng chủ yếu đến từ những thói quen, hoặc từ những căn bệnh mà họ mắc phải. Do vậy chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn hiểu rõ về nguyên nhân gây ra bệnh liệt dương. Để hiểu thêm về bệnh của mình, bạn hãy liên hệ với trị yếu sinh lý để biết thêm. - See more at: triyeusinhly.vn/cac-benh-nam-khoa/liet-duong/662-nguyen-nhan-gay-benh-liet-duong-do-dau.html#sthash.dUHWuaoC.dpuf********************** Liệt dương còn gọi là bệnh bất lực, Y Khoa Ðông Phương xếp vào loại dương suy (impotense). Liệt dương là có ước muốn giao hợp nhưng dương vật không cương cứng được, là bệnh nặng nhất trong phạm vi tình dục của nam giới. Theo Y Khoa Ðông Phương, liệt dương do “nguyên dương bất túc” có các triệu chứng: Liệt dương, đau lưng, mỏi gối, ù tai, tứ chi lạnh, thở hụt hơi, chóng mặt, mắt hoa, sắc mặt trắng bệch. Nguyên nhân có thể do tiên thiên bất túc, thận dương suy ngay từ lúc lọt lòng, trường hợp này chữa phải kiên nhân và lâu dài mới mong hồi phục. Còn trường hợp do hậu thiên sinh ra vì dâm dục quá độ, lúc trẻ có thói xấu thủ dâm làm gây hư hoại chức năng thận khí, hay gặp phải những việc xảy đến bất thường và khủng khiếp làm thận suy, chẳng hạn vào những ngày cuối cùng 30 tháng 4 năm 1975, khi chiến tranh khốc liệt, có nhiều trường hợp chết hàng loạt, ngay bên cạnh làm gây sợ hãi quá độ hay những cựu quân nhân bị tù tội, bị hành hạ, đe dọa đến mạng sống, ảnh hưởng thận khí suy yếu dần dần, khi tuổi đời càng cao, thì sự suy yếu đến càng nhanh hơn mà gây ra, tóc bạc sớm, răng rụng, và một số người bị liệt dương trước tuổi. Sau đây là những trường hợp liệt dương thường gập trong lâm sàng: Do tâm tỳ lưỡng hư Trong lâm sàng, liệt dương phần lớn do khí huyết ở tâm tỳ bất túc vì dụng tâm thái quá, phiền não, lo âu lâu ngày làm hại tới tỳ và tâm khí mà gây bệnh. Nguồn khí huyết là do tâm tỳ cung ứng cho đời sống hàng ngày. Tỳ khí suy yếu không ăn được nhiều hay đầy chướng, hoặc ăn bị đầy hơi vì tỳ không đủ khí để giúp bao tử kiện toàn tiêu hóa và gây nghịch khí đi lên làm đầy chướng, một khi ăn không đủ gây ra thiếu máu. Ngoài ra tim cần đủ máu để nuôi dưỡng cơ thể, máu thiếu làm tim hồi hộp, mất ngủ, mệt mỏi. Ðến khi tâm tỳ bất túc thì tiên thiên và hậu thiên khí không được máu huyết cung cấp đầy đủ, làm thận suy yếu dần dần mà gây ra chứng dương suy, hay liệt dương. Triệu chứng: Liệt dương, hồi hộp, thở hụt hơi, đổ mồ hôi suốt ngày, ăn uống kém, không ngon. Rêu lưỡi dầy trắng. Mạch trầm, tế. Nếu quý vị cựu quân nhân bị cầm tù trong trại tù cộng sản vì sợ hãi hại thận hay run rẩy, sợ hãi không có lý do chính đáng, tinh thần sa sút, nằm mê thấy khủng khiếp, bình thường dương vật có thể cương cứng, nhưng chuẩn bị giao hợp lại lo âu, sợ sệt, dẫn đến bất lực. Trong Nội Kinh có viết, “Sợ tổn thương thận” là một trong những nguyên nhân gây ra bất lực. Chủ trị: Bổ thận, tỳ khí và an tâm. Bài thuốc Phục thần 9 grs Bạch truật (sao) 15 grs Sâm hoa kỳ 12 grs Thục địa 25 grs Sơn thù du 12 grs Nhục thung dung 6 grs Nhục quế 9 grs Bá kích thiên 9 grs Dâm dương hoắc 15 grs Cẩu tích 9 grs Toan táo nhân 9 grs Viễn chí 9 grs Thạch xương bồ 9 grs Ðỗ trọng (sao muối) 9 grs Cam thảo 6 grs - Phục thần, sâm hoa kỳ, bạch truật: Bổ tỳ khí. - Thục địa, sơn thù du: Bổ huyết và thanh hỏa. - Nhục quế, nhục thung dung, bá kích thiên, cẩu tích, dâm dương hoắc: Bổ thận khí. - Toan táo nhân, viễn chí, thạch xương bồ: An tâm, ngủ yên. - Ðỗ trọng: Bổ thận, lợi tiểu. - Cam thảo: Bổ thận và tỳ khí và phối hợp các vị thuốc. Do thấp nhiệt hạ trú Những người mập phì vốn nhiều thấp khí, thêm ăn uống nhiều chất bổ, béo, hoặc nghiện rượu, nghiện hút ma túy làm cho dương khí suy, gây liệt dương, gây bộ phận sinh dục bị ẩm thấp, ngứa ngáy, chân không có lực, nặng nề, đau ngứa ngọc hành, tiểu tiện ít và đỏ. Rêu lưỡi hơi vàng dầy. Mạch huyền. Bài thuốc Thục địa 15 grs Mộc thông 12 grs Trạch tả 12 grs Tri mẫu 12 grs Mẫu đơn bì 12 grs Hoạt thạch phấn 12 grs Hoàng bá 12 grs Khiếm thực 12grs Kim ngân Hoa 15 grs Long nhãn 15 grs Ðương quy 15 grs Phục linh 12 grs Sơn thù du 9 grs Hoài sơn 9 grs Quế bì 9 grs Nữ trinh tử 12 grs Cam thảo 12 grs - Mộc thông, trạch tả, hoạt thạch phấn, tri mẫu. mẫu đơn bỉ, hoàng bá: Tiêu thấp và lợi tiểu, thanh hư hỏa. - Thục địa, đương quy: Bổ huyết và thông huyết. - Kim ngân hoa: Trị ngứa - Phục linh, hoài sơn, nữ trinh tử: Bổ thận và thông điều thủy đạo. - Sơn thù du, khiếm thực: Bổ thận, gan âm, liễm mồ hôi. - Quế bì: Bổ thận khí, dẫn hỏa quy nguyên. - Cam thảo: Bổ tỳ khí và phối hợp các vị thuốc.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 14, 2013 10:07:06 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Điều Trị Sau Tai Biến Não
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Sau khi bị Đột quỵ, bệnh nhân rơi vào tình trạng:
- liệt, yếu, mất cảm giác nửa người. mất thăng bằng cơ thể đi đứng không vững;
- không diễn tả được ý nghĩ, lời nói, không hiểu chữ viết và lời nói người khác;
- ăn nuốt khó khăn;
- giảm thị lực, không nhìn được phía nửa người bị liệt;
- không kiểm soát được đại tiểu tiện;
- trí nhớ và sự suy nghĩ giảm,
- không tự chăm sóc được.
Theo thống kê, hậu quả đột quỵ có thể là như sau:
- 10% bệnh nhân thoát hiểm bình phục hoàn toàn
- 25% phục hồi với tổn thương tối thiểu
- 40% chịu đựng tổn thương từ trung bình tới trầm trọng, cần sự chăm sóc đặc biệt
- 10% cần được chăm sóc tại dưỡng lão viện hoặc các cơ sở chăm sóc lâu dài khác
- 15 tử vong một thời gian ngắn sau tại biến.
Điều trị phục hồi
Điều trị Phục Hồi Sau Tai Biến (RehabilitationTherapy After Stroke) có mục đích giúp não bộ tự tái tổ chức cấu trúc bị tổn thương, từ đó giúp bệnh nhân tìm lại toàn phần hoặc một phần các chức năng đã bị stroke lấy đi, đồng thời cũng để tránh sự tái phát của stroke.
Điều trị này cần đựoc thực hiện ngay sau khi bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, từ khi còn ở bệnh viện, 24- 48 giờ sau khi stroke đã ổn định và tiếp tục tại gia một thời gian lâu dài.
Phục hồi sẽ giúp bệnh nhân sồng tương đối độc lập hơn, tự chăm sóc và hòa mình với gia đình,xã hội. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phối hợp với các nhà chuyên môn y khoa học khác để lập một team trị liệu cho bệnh nhân, thường thì gồm có:
- Một nhà chuyên môn về Vật lý Trị liệu (Physical Therapist) hướng dẫn bệnh nhân cách tập luyện để phục hồi khả năng đi đứng, lấy lại sự thăng bằng cơ thể, sử dụng tay chân trong các công việc thường nhật, lấy lại sức mạnh cho cơ bắp đã bị suy yếu, giúp khớp không bị đóng băng (frozen), đau cứng.
- Một điều trị viên sinh hoạt chân tay (occupational therapist) để giúp bệnh nhân thích nghi với hoàn cảnh mới, tiếp tục các sinh hoạt hàng ngày cho sự sống như ăn mặc, vệ sinh cá nhân…càng ít phụ thuộc vào người khác càng tốt; sử dụng vài dụng cụ y khoa để tăng sức mạnh cơ bắp, giảm đau nhức khớp xương; giúp đỡ phương tiện di chuyển, mua sắm, nấu nướng…
- Chuyên gia tư vấn tâm lý (Psychologist) để giúp bệnh nhân đối phó, giải quyết với cảm giác thất vọng vì đột nhiên trở thành vô dụng, ăn bám rồi buông suôi, trầm cảm, không có động lực cũng như nghị lực để vươn lên. Tâm trạng này là nguyên nhân chính đưa bệnh nhân vào tình trạng suy sụp cả thế xác lẫn tinh thần.
- Chuyên viên phục hồi khuyết tật ngôn ngữ (Speech -LanguageTherapist) giúp người bệnh học lại cách phát âm ngõ hầu có thể diễn tả ý nghĩ, lời nói rõ ràng rành mạch hơn.
- Chuyên viên xã hội (Social Worker) góp ý lập kế họach điều trị sau khi bệnh nhân xuất viện; tư vấn cho gia đình và bệnh nhân đối phó với hậu quả xã hội của bệnh; giúp bệnh nhân tìm kiếm các dịch vụ mà xã hội cung cấp để người bệnh có đời sống thoải mái hơn và sớm trở lại sinh hoạt bình thường.
- Chuyên viên dinh dưỡng (Dietitian) giúp bệnh nhân trong vấn đề dinh dưỡng sao cho thích hợp với tình trạng bệnh.
Và bác sĩ gia đình cũng như chuyên khoa các ngành tim mạch, thần kinh luôn luôn theo dõi, điều trị các bệnh mà bệnh nhân đang chịu đựng.
Vài điều thưa với bệnh nhân
Điều trị phục hồi là việc làm phức tạp, khó khăn nhiều khi bực bội, khiến cho bệnh nhân luôn luôn rơi vào tâm trạng buồn chán buông suôi. Vì khả năng cơ thể mất đi thì mau mà lấy lại thường thì chậm trễ. Cho nên, có những lúc tình hình tưởng như khá hơn rồi thấy như đâu lại vẫn hoàn đó.
Nhưng xin ghi nhớ, "có công mài sắt, có ngày nên kim". Các chuyên viên y tế và người thân luôn luôn sát cánh, tiếp tay.
Cũng nhắc lại là tế bào não có một khả năng phục hoạt một phần đã bị tổn thương, đồng thời các tế bào não lành mạnh xung quanh cũng gia tăng lao động để "chị ngã, em nâng", bù đắp phần vụ của các tế bào bị hư hao. Cái khó là làm sao "động viên" được sự bù đắp này.
Xin hãy tận tâm, bền chí và có thái độ tích cưc. Nói hết ước muốn, bực bội, khó khăn của mình cho toán chuyên viên y tế, cho thân nhân để họ giúp đỡ.
Ngoài ra, cũng còn nhiều tổ chức trong cộng đồng như Hội Stroke tại địa phương, nhóm thân hữu bệnh nhân stroke…đều sẵn sàng tiếp tay nếu mình yêu cầu.
Đôi điều với thân nhân chăm sóc,
Trong trách nhiệm khó khăn, nặng nhọc, đôi khi bực mình nản chí vì thay đổi tính tình, trở nên khó tính của người thân bệnh hoạn, e ngại tai biến tái phát, e ngại người thân khó thích ứng với tình trạng kém phần sáng sủa, thêm vào đó không hiểu đời sống của mình sẽ ra sao, liệu còn cáng đáng chăm sóc được bao lâu, chăm sóc có chu đáo không hay là cũng kiệt quệ theo người bệnh…
Nhưng nghĩ lại ngày nào mấy chục năm trước đây, ngón tay lồng ngón tay trao nhẫn cưới, quỳ gối trước Thánh Giá, Phật Đài, thề thốt cùng nhau đi trọn cuộc đời vui buồn có nhau… Mà bây giờ thì có lẽ buồn hơi nhiều hơn vui…
Hoặc nghĩ tới các đấng sinh thành đã từng chín tháng mang nặng đẻ đau, bôn chải vật lộn với đời sống nuôi dưỡng con cái, mong sao con sớm trưởng thành, nên người.
Để mà làm tròn nghĩa vụ làm vợ, làm chồng, làm con.
Một đồng nghiệp đàn anh ở Houston miền nắng ấm, niên tuế ngoài tám chục, đã dành gần 1/2 cuộc đời để chăm sóc rất chu đáo người bạn đường bị stroke, đồng thời nuôi nấng bầy con nên người. Mà đàn anh vẫn lạc quan, yêu đời, lại còn có thì giờ nghiên cứu soạn ra nhiều tự điển văn học giá trị.
Một thân hữu ở San Jose sau tai biến phải dùng xe lăn nhưng nhờ có nhiều niềm tin tôn giáo, nghiêm minh dùng thuốc, một thân hữu khác ở Los Angeles vẫn bước thấp bước cao hải hành tập luyện, chạy bộ mỗi ngày nhờ nhiều nghị lực vươn lên. Họ đều đã vựơt khỏi tàn phế để viết phổ biến các điều ích lợi và đang sống gần như bình thường, với sự hỗ trợ của người vợ hiền và các con, cháu.
Còn nước còn tát mà.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 14, 2014 6:10:27 GMT 9
Đau tim: Kinh nghiêm cần chia sẻJames Nguyen Các bác có chim cánh thép, tui ... tim ánh thép. Hôm Chúa Nhật rồi đau ngực Bà Xã (BX) chở vô ER, họ phát hiện tui bị STEMI (An ST section of the tracing higher than the baseline is called an ST elevation MI = STEMI), lập tức họ đẩy vô cath lab, trong vòng 30 phút gắn cho tui một cái stent, ra nằm 24 tiếng để họ theo dỏi xong về nhà. Khỏe ru. Tui hay nói các bác có đau tim rồi biết triệu chứng còn tui thì không biết gì hết. Giờ thì tui biết rồi. Để tui kể các bác nghe.Sáng hôm đó tui ra dời xe cho BX. Vừa chun vô xe, trời lạnh, tui ho 3 cái thì phần trên của ngực,gần vai, như có một thanh gổ nóng đè ngang, thở không nổi, đau ngầm chứ không đau buốt, lan tỏa ngang vùng ngực. Ho thêm mấy cái thì thấy cũng vậy. Thấy kỳ tui lật đật chạy vô nhà đo máu. Huyết áp bình thường của tui là 130/80, nhịp tim 70, vậy mà lúc đó chỉ còn có 90/50, nhịp tim chậm lại chỉ còn 40. Mồ hôi bắt đầu rịnh ra. Mắt bắt đầu tối từ ngoài từ từ gom vô chính giửa. Ai có chụp hình thì hiểu nó cũng giống y như vignet vậy. Tui có cảm tưởng cái ba sườn tui chắc nó muốn thành BBQ rib hay sao mà nó nóng và không chịu thở. Tui lập tức lấy một viên aspirin 325mg nhai, nhưng vẫn chưa tin là mình bị heart attack nên thay vì kêu 911 tui lại kêu BX chở vô bệnh viện. Khoảng nữa đường tui thấy tim như muốn ngưng đập, hối BX chạy lẹ. BX cũng lanh, nhắc tui ho. Ho mấy cái, với lại aspirin bắt đầu thấm nên thấy đở. Tới ER tui đi lơn tơn vô nói với y tá trực mình nghĩ mình bị heart attack. Cũng hên ER không có ai hết nên nó làm EKG liền, STEMI hiện lên rỏ ràng, nó lập tức kêu ambulance tới để chở tui tới chổ thông tim ở một bệnh viện khác. Trong lúc chờ đợi nó cho tui ngậm một viên nitroglycerin. Cơn đau dịu xuống, mắt sáng dần ra. 5 phút sau nó cho tui ngậm một viên nữa thì ambulance tới. Lần đầu tiên trong đời được đi ambulance hụ còi, có cảnh sát hộ tống thấy mình như VIP. Thằng paramedic trưởng la tui :tại sao mày không kêu 911 ? Tui phân trần : tao đâu có ngờ. Tao chạy marathon 2 chục năm nay có sao đâu. Hai tuần trước tao chạy Long Beach Half Marathon. Rồi mới hôm qua tao còn chạy 14 miles mà. Thằng paramedic trẻ cắt lời hỏi: mày chạy LB bao lâu? Tui nói :1 tiếng 56 phút. Nó nói : mày hơn tao, tao chạy 2:06, vậy tại sao mày nằm đây? Tui nói: ask God! Tới nơi nó đẩy tui vô cath lab, gắn nước biển có thuốc nhuộm mạch máu, chích cho một mủi Versed cho tui mê mê một chút để không cảm thấy đau nhưng vẫn tỉnh để biết hết mọi chuyện. Y tá cạo hết lông thằng nhỏ, thoa thuốc sát trùng, rồi bác sĩ đâm cái catheter vô tỉnh mạch háng luồn lên tim. Cảm giác chỉ nhói lên một chút giống như khi đâm kim lấy máu, 30 phút sau đó bác sĩ luồn lách đặt stent tui không cảm thấy cái gì trong mình hết. Chỉ biết là khi bác sĩ đặt stent thông chổ nghẹt thì cơn đau tim biến mất lập tức, mắt sáng ra, khúc cây đè trên ngực không còn nữa, thở ngon lành. Sau đó nó đẩy tui ra ICU nằm 24 tiếng cho nó vô thuốc chống đông máu integrilin, và 2 lít nước biển để thận thải hết thuốc nhuộm ra, cũng như theo dõi coi vết chích có bị chảy máu không. Sau đó nó cho tui về. Bây giờ thấy khỏe hơn trước. Có thể tháng 3 tới tui chạy LA marathon nhanh hơn. Vụ việc chỉ có vậy thôi, muốn được chia sẻ kinh nghiệm cùng các bác để các bác đề phòng.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 28, 2018 17:14:37 GMT 9
Chứng hôi miệng
BS Nguyễn Thị Nhuận
Ai trong chúng ta cũng từng gặp và nói chuyện với một người bị chứng hôi miệng, hoặc chính chúng ta cũng có lúc cảm thấy hơi thở mình không được thơm tho cho lắm, nhất là sau khi ăn hay ngay lúc ngủ dậy. Không biết thì thôi nhưng khi ý thức được rằng mình bị chứng hơi thở hôi, người bị có thể cảm thấy lúng túng và trong một số trường hợp, có thể cảm thấy lo lắng. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ta thấy trên các kệ bán hàng tràn ngập kẹo cao su, bạc hà, nước súc miệng và các sản phẩm khác được tạo ra để chống lại bệnh hơi thở hôi. Nhưng đa số những sản phẩm này chỉ là những biện pháp tạm thời vì chúng không giải quyết được nguyên nhân của bệnh.
Triệu chứng
Mùi hôi miệng có thể khác nhau, tùy thuộc vào nguồn gây ra bệnh hoặc nguyên nhân. Một số người lo lắng quá nhiều về hơi thở của họ mặc dù họ bị ít hoặc không có mùi hôi miệng, trong khi những người khác có hơi thở hôi mà lại không tự biết vì rất khó để tự đánh giá hơi thở của mình. Nếu nghi ngờ mình bị chứng hôi miệng, nên yêu cầu một người bạn thân hoặc người thân xác nhận các câu hỏi về hơi thở của bạn. Nếu bị xác định là có hơi thở hôi, bạn hãy kiểm soát thói quen vệ sinh răng miệng của mình. Hãy thử thay đổi lối sống, chẳng hạn như luôn đánh răng và lưỡi sau khi ăn, sử dụng chỉ nha khoa và uống nhiều nước. Nếu hơi thở hôi vẫn còn sau khi thực hiện những thay đổi như trên, hãy đến gặp nha sĩ của bạn. Nếu nha sĩ nghi ngờ là có một tình trạng nghiêm trọng hơn gây ra hôi miệng cho bạn, nha sĩ có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ để tìm ra nguyên nhân gây ra mùi hôi.
Nguyên nhân
Hầu hết hơi thở hôi bắt đầu từ trong miệng của bạn, và có nhiều nguyên nhân. Chúng bao gồm: Vệ sinh răng miệng kém. Nếu bạn không đánh răng và dùng chỉ răng (floss) hàng ngày, các mảnh thức ăn còn lại trong miệng sẽ gây ra hơi thở hôi. Một màng bám dính không màu từ vi trùng (plaque) sẽ được tạo thành trên răng của bạn. Nếu không được chải đi, mảng bám này có thể gây kích ứng nướu và cuối cùng sẽ tạo thành các túi chứa mảng bám giữa răng và lợi (viêm nha chu). Lưỡi của bạn cũng có thể chứa vi trùng gây ra mùi hôi. Răng giả không được làm sạch thường xuyên hoặc không vừa vặn có thể chứa các vi trùng và các mảnh thức ăn gây mùi hôi.
Khô miệng. Nước bọt giúp làm sạch miệng, loại bỏ những mảnh thức ăn dư gây ra mùi hôi. Một tình trạng gọi là chứng khô miệng (xerostomia) có thể gây ra hơi thở hôi vì việc sản xuất nước bọt bị giảm. Khô miệng tự nhiên xảy ra trong thời gian ngủ, dẫn đến "hơi thở buổi sáng", và nặng hơn nếu bạn ngủ mở miệng. Khô miệng mãn tính có thể là do có vấn đề ở tuyến nước bọt và một số bệnh khác.
Nhiễm trùng trong miệng. Hôi miệng có thể gây ra bởi các vết thương sau khi giải phẫu miệng, chẳng hạn như nhổ răng, hoặc do sâu răng, bệnh nướu răng hoặc vết loét miệng.
Các tình trạng miệng, mũi và cổ họng khác. Hơi thở hôi có thể xuất phát từ các mảnh đá nhỏ có trong hạch cổ (tonsils) và được bao phủ bởi vi trùng gây mùi hôi. Nhiễm trùng hoặc viêm mãn tính ở mũi, xoang hoặc cổ họng, có thể đóng góp vào chảy mũi phía sau (post nasal drips), gây ra hơi thở hôi.
Thức ăn. Sự phân hủy các mảnh thức ăn trong và xung quanh răng có thể làm tăng vi trùng và gây ra mùi hôi. Ăn vài loại thực phẩm như hành, tỏi và gia vị cũng có thể gây ra hơi thở hôi. Sau khi bạn tiêu hóa các loại thực phẩm này, chúng sẽ nhập vào mạch máu của bạn, được mang vào phổi và ảnh hưởng đến hơi thở của bạn.
Những sản phẩm thuốc lá. Hút thuốc gây ra mùi hôi miệng khó chịu. Người hút thuốc lá và người nhai thuốc lá cũng có nhiều nguy cơ bị bệnh nướu răng, một nguồn gây ra hơi thở hôi khác. Thuốc. Một số loại thuốc có thể gián tiếp tạo ra hơi thở hôi bằng cách gây ra khô miệng. Những thuốc khác có thể được tiêu hóa trong cơ thể và phóng ra các hóa chất mang trong hơi thở của bạn khiến có mùi hôi. Nguyên nhân khác. Bệnh tật, như một số bệnh ung thư, và các tình trạng như rối loạn chuyển hoá (metabolic), có thể gây ra mùi hôi đặc biệt do các hóa chất mà chúng tạo ra. Trào ngược dạ dày mãn tính (GERD) có thể có liên quan đến hơi thở hôi. Hơi thở hôi ở trẻ nhỏ có thể do một vật lạ, như một mẩu thức ăn, kẹt trong lỗ mũi.
Chẩn đoán
Nha sĩ của bạn có thể ngửi hơi thở từ miệng và từ mũi để đánh giá mức độ mùi hôi. Vì phần sau của lưỡi thường là nguồn gốc của mùi, nha sĩ của bạn cũng có thể cạo ra và đánh giá mùi của nó. Có những máy dò tinh vi có thể xác định được các chất gây ra hơi thở hôi, nhưng không phải nơi nào cũng có được máy này.
Điều trị
Để giảm hơi thở hôi, hãy giữ cho đừng bị sâu răng và tránh nguy cơ bệnh nướu. Nên luôn giữ vệ sinh răng miệng tốt. Các điều trị khác có thể thay đổi tùy thuộc vào nguyên nhân. Nếu hơi thở hôi của bạn được cho là do tình trạng sức khoẻ nào đó, nha sỹ sẽ giới thiệu bạn với bác sĩ chính của bạn.
Đối với các nguyên nhân liên quan đến sức khoẻ răng miệng, nha sĩ của bạn sẽ làm việc với bạn để giúp bạn kiểm soát tình trạng đó tốt hơn. Các biện pháp nha khoa có thể bao gồm:
Điều trị bệnh răng. Nếu bạn bị bệnh nướu răng, bạn có thể được giới thiệu đến chuyên gia về nướu răng (periodontist). Bệnh nướu răng có thể làm nướu răng bị kéo khỏi răng, tạo nên những túi chứa đầy vi trùng tạo mùi hôi. Đôi khi cần làm sạch răng một cách chuyên nghiệp mới loại được những vi trùng này. Nha sĩ của bạn cũng có thể khuyên bạn nên thay thế các thủ thuật phục hồi răng không đúng cách khiến tạo ra một vùng sinh sản cho vi trùng.
Thuốc rửa miệng và kem đánh răng. Nếu hơi thở hôi của bạn là do sự tích tụ của vi trùng (mảng bám) trên răng, nha sĩ của bạn có thể đề nghị dùng thuốc rửa miệng giết vi trùng. Nha sĩ của bạn cũng có thể đề nghị một kem đánh răng có chứa chất kháng sinh để diệt vi trùng gây ra mảng bám.
Tự chữa
Để giảm hoặc ngăn ngừa hơi thở hôi: Đánh răng sau khi ăn. Giữ bàn chải đánh răng ở chỗ làm để sử dụng sau khi ăn. Chải bằng kem đánh răng có chứa chất fluoride ít nhất hai lần một ngày, nhất là sau bữa ăn. Kem đánh răng có chất kháng sinh đã được chứng minh là làm giảm mùi hơi thở hôi.
Dùng chỉ nha khoa ít nhất mỗi ngày một lần. Sử dụng chỉ nha khoa loại bỏ các mảnh thực phẩm và mảng bám khỏi răng, giúp kiểm soát hơi thở hôi.
Đánh lưỡi của bạn. Lưỡi của bạn chứa nhiều vi trùng, vì vậy đánh lưỡi có thể làm giảm mùi hôi. Những người có lưỡi phủ lớp trắng do vi trùng phát triển quá mức (do hút thuốc lá hoặc khô miệng) có thể nên dùng bàn nạo lưỡi hoặc sử dụng bàn chải đánh răng có kèm bộ phận nạo lưỡi. Rửa sạch răng giả hoặc dụng cụ răng. Nếu bạn có cầu răng hay răng giả, hãy rửa sạch chúng ít nhất một lần mỗi ngày hoặc theo chỉ dẫn của nha sĩ. Nếu bạn có một miếng giữ răng hoặc miếng bảo vệ miệng, hãy làm sạch nó trước khi đưa nó vào miệng. Nha sĩ của bạn có thể giới thiệu sản phẩm làm sạch tốt nhất. Tránh miệng khô. Để giữ ẩm miệng, tránh hút thuốc lá, và uống nhiều nước - không phải là cà phê, nước ngọt hoặc rượu, là những thứ có thể dẫn đến khô miệng hơn. Nhai kẹo cao su hoặc nút kẹo (không có đường) để kích thích ra nước bọt. Đối với chứng khô miệng mãn tính, nha sĩ hoặc bác sĩ của bạn có thể kê toa mua nước bọt nhân tạo hoặc một loại thuốc uống kích thích nước bọt. Điều chỉnh cách ăn uống của bạn. Tránh các thực phẩm như củ hành và tỏi có thể gây hôi miệng. Ăn nhiều chất ngọt cũng có liên quan đến hơi thở hôi. Thường xuyên thay bàn chải đánh răng mới. Nên thay bàn chải đánh răng của bạn khi nó bị sờn, khoảng ba đến bốn tháng một lần, và chọn bàn chải đánh răng có lông mềm. Khám răng miệng định kỳ. Thường xuyên gặp nha sĩ của bạn - thường là hai lần một năm - để kiểm tra và làm sạch răng hoặc răng giả của bạn.
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2022 2:00:32 GMT 9
Công dụng chữa bệnh của hoa dâm bụttinbaihay.net/s/d%C3%A2m+b%E1%BB%A5t.htmHoa dâm bụt được trồng ở nhiều nước trên thế giới, người ta trồng dâm bụt để làm cảnh vì hoa của cây này rất đẹp. Tuy nhiên, dâm bụt không chỉ đơn thuần để làm cảnh mà loại cây này còn có thể chữa được nhiều bệnh. 9.9996 Công dụng chữa bệnh của hoa dâm bụt mà bạn không ngờ tới Tác dụng chữa bệnh của cây dâm bụt Công dụng chữa bệnh của cây dâm dương hoắc Dâm bụt ( còn gọi là cây Bông bụp - tiếng miền Nam) là loại cây nhỡ, cao từ 1 đến 2m, lá đơn, mọc cách, phiến lá khía răng cưa. Hoa dâm bụt là một loại thảo dược có nhiều công dụng, thường mọc ở vùng nhiệt đới. Công dụng của loại thảo dược này được phát hiện lần đầu tiên tại Angola, cùng với hương vị dễ chịu, nó đã trở nên rất phổ biến ở các nước Bắc Phi, Trung Đông và thậm chí ở cả châu Âu. Đây cũng là một loại thảo dược rất phổ biến ở nước ta. Hoa râm bụt to, màu đỏ hồng, cũng có loại màu trắng hồng, màu vàng, hoa thường mọc ở nách lá hay đầu cành. Cây Dâm bụt mọc hoang ở nhiều vùng nước ta và được trồng làm cây cảnh. Cây Dâm bụt còn cho lá, hoa, rễ làm thuốc. Theo Đông y, lá dâm bụt vị nhạt, nhớt, tính bình, có tác dụng làm dịu, an thần, tẩy nhẹ, nhuận tràng, chữa viêm niêm mạc dạ dày, ruột, đại tiện ra máu, kiết lỵ, mụn nhọt, ghẻ lở, mộng tinh, đới hạ. Hoa dâm bụt vị ngọt, tính bình có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng, sát trùng, chữa kinh nguyệt không đều, khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ. Vỏ rễ dâm bụt vị ngọt, tính bình, có tác dụng điều kinh, chống ho tiêu viêm, chữa viêm tuyến mang tai, viêm kết mạc, viêm khí quản, viêm đường tiết niệu, viêm cổ tử cung, bạch đới, kinh nguyệt không đều, mất kinh (Cây cảnh đẹp cho vị thuốc hay chữa bệnh). Kiểm soát huyết ápTạp chí Dinh dưỡng (Mỹ) năm 2010 đã báo cáo một nghiên cứu về tính năng kiểm soát huyết áp đối với những người có huyết áp cao hoặc tăng huyết áp nhẹ ở độ tuổi từ 30-70 tuổi. Kết quả cho thấy những người uống 3 tách trà dâm bụt/ ngày đã có kết quả tốt hơn so với những người không uống loại trà này. Những người có huyết áp cao lúc bắt đầu nghiên cứu, sau khi uống trà đã giảm được huyết áp đáng kể. Ngăn ngừa bệnh timNhững hợp chất hoá học được chiết xuất từ cây Dâm bụt sẽ giúp kiểm soát lượng cholesterol trong máu, do đó ngăn ngừa được bệnh tim. Các nhà khoa học Trung Quốc tuyên bố cây Dâm bụt có tác dụng tốt cho tim người giống như Rượu vang đỏ và Trà. Nó chứa các chất chống oxy hoá có tác dụng kiểm soát lượng cholesterol và giảm nguy cơ bị bệnh tim. Trà hoa dâm bụt chữa được nhiều bệnh Uống trà hoa dâm bụt thường xuyên giúp huyết áp và cholesterol. Kết quả nghiên cứu này được thực hiện vào năm 2009 của trường ĐH Tufts, Massachusetts, Mỹ. Trà hoa dâm bụt cũng giúp ngăn ngừa nhiễm trùng bàng quang và táo bón nếu bạn uống thường xuyên. - Hoa dâm bụt giàu vitamin C và chất chống ôxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, chống lại các triệu chứng của bệnh cảm lạnh, ho, sốt và bệnh nhiễm trùng. - Hoa dâm bụt chứa axít hydroxycitric và amylase có tác dụng phân hủy tinh bột. Nếu bạn uống một tách trà hoa dâm bụt sau bữa ăn sẽ làm giảm hấp thu carbohydrate vào cơ thể, từ đó giúp giảm cân. - Các dưỡng chất trong hoa dâm bụt có khả năng kích thích mọc tóc nhanh và phòng ngừa sự lão hóa sớm cho cơ thể. Hoa dâm bụt cũng có tác dụng làm sạch gàu hiệu quả. Chân đau nhức, tê mỏiVới những người hay nhức chân thì lá râm bụt cũng có tác dụng chữa bệnh: Lá râm bụt, lá si, lá đào, lá mận, lá thài lài tía, mỗi thứ 30g phơi khô, thái nhỏ, sao qua, ngâm với ít rượu, dùng xoa bóp hằng ngày. Chữa mụn nhọtHoa râm bụt, lá trầu không, lá thồm lồm mỗi thứ 50g, giã nát, đắp lên chỗ mụn nhọt. Mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Hoặc dùng lá và hoa một nắm, rửa sạch, giã với một ít muối hạt, đắp lên chỗ nhọt đang sưng mưng mủ sẽ đỡ đau nhức, đỡ sưng nóng và chóng vỡ mủ. Chữa chứng máu xấu cho phụ nữ sau khi sinh đẻ gây chóng mặt, nhức đầu Hoa râm bụt khô 8g, gỗ vang (tô mộc) 10-12g, gừng tươi 5-7 lát sắc nước uống trong ngày sẽ giúp bà bầu sau sinh giảm thiểu tình trạng đau đầu chóng mặt. Quai bị, đau mắtLá dâm bụt và lá dành dành, mỗi thứ 1 nắm giã nhỏ, vắt lấy nước uống, bã thì đắp. Theo Hương Lan T.H (Theo Người đưa tin)
|
|